Hồi 39: Nơi cất giấu binh thư bí kíp

Trương Vô Kỵ cầm tay Tạ Tốn, đang định sánh vai bước ra, Tạ Tốn bỗng nói:

– Hãy khoan!

Ông chỉ về phía một lão già đứng trong đám tăng chúng Thiếu Lâm, nói:

– Thành Côn, ngươi mau ra đây, trước mặt anh hùng thiên hạ hãy nói rõ toàn bộ tiền nhân hậu quả xem nào!

Quần hùng kinh ngạc, chỉ thấy đó là một lão tăng lưng còng, diện mạo ti tiện, chẳng giống Thành Côn chút nào. Trương Vô Kỵ đang định nói: “Người kia không phải là Thành Côn!” Chỉ nghe Tạ Tốn lại nói:

– Thành Côn, ngươi có thể thay đổi diện mạo, chứ thanh âm thì không. Ngươi chỉ cần đằng hắng một tiếng, ta đã biết ngay là ai.

Lão tăng kia cười nham hiểm, nói:

– Ai đi nghe lời lẽ xằng bậy của một thằng mù kia chứ!

Lão ta vừa mở miệng, Trương Vô Kỵ nhận ra liền. Lần ở trên đỉnh Quang Minh, chàng nằm trong túi vải, từng nghe Thành Côn nói một thôi một hồi, giọng hắn thế nào, chàng nhớ quá rõ. Lúc này Thành Côn cố ý đổi giọng, diện mạo cũng cải trang cực kỳ khôn khéo, song thanh âm rốt cuộc rất khó che giấu. Trương Vô Kỵ liền nhảy tới chặn đường lui của lão tăng kia, nói:

– Viên Chân đại sư, Thành Côn tiền bối, đại trượng phu quang minh lỗi lạc, sao không cho mọi người thấy bản lai diện mục của mình?

Thành Côn cải trang náu mình trong tăng chúng Thiếu Lâm, thủy chung không lộ chút sơ hở nào, mãi đến lúc hoàng y mỹ nữ chế ngự Chu Chỉ Nhược, thật bất ngờ đối với hắn, hắn lại đằng hắng, ho khẽ vài tiếng. Tạ Tốn sau khi bị mù thì tai trở nên cực thính, tiếng đằng hắng của kẻ thù khắc cốt ghi xương không khác gì tiếng sấm giữa ban ngày, nên ông nhận ra hắn ngay.

Thành Côn thấy sự việc đã bại lộ, bèn thẳng lưng lên, quát to:

– Tăng chúng Thiếu Lâm nghe đây: Ma giáo quấy phá đất Phật, coi thường bổn phái, tăng chúng hãy nhất tề ra tay giết sạch chúng đi, không cần nói năng nhiều lời.

Bọn đồng đảng tay chân của hắn nhao nhao hưởng ứng, rút binh khí tiến lên toan động thủ.

Không Trí chỉ vì sư huynh Không Văn đang bị bọn phản đồ trong chùa khống chế, phải nín nhịn đã lâu, lúc này nghe Viên Chân ra lệnh đánh nhau với Minh giáo, nếu đôi bên hỗn chiến, tăng chúng Thiếu Lâm tự không biết sẽ bị tổn hại như thế nào. Cân nhắc nặng nhẹ, thì tính mạng của tăng chúng là chuyện lớn, bèn quát to:

– Không Văn phương trượng đã rơi vào tay tên phản đồ Viên Chân này, các đệ tử hãy bắt giữ hắn trước, rồi cứu phương trượng sau.

Phút chốc trên đỉnh núi náo loạn cả lên.

Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược nằm gục dưới đất, vẻ mặt ủ rũ, trong lòng không nỡ, liền bước tới giải huyệt cho nàng, đỡ nàng đứng dậy. Chu Chỉ Nhược hất tay chàng ra, đi về với đám đệ tử phái Nga Mi.

Chỉ nghe Tạ Tốn dõng dạc nói:

– Việc hôm nay hoàn toàn do Thành Côn và tại hạ gây nên, bao nhiêu ân oán trói buộc, xin hãy để hai người chúng tôi kết liễu lấy. Sư phụ, toàn bộ võ công của ta đều do sư phụ truyền thụ. Thành Côn, cả gia đình ta bị ngươi giết hại. Đại ân cũng như đại cừu, hôm nay hai ta phải thanh toán cho xong.

Thành Côn thấy Không Trí không ngại gì nữa, đã lên tiếng ra lệnh, dẫu gì thì trong số tăng chúng, chính phái vẫn đông hơn hẳn, đồng đảng của hắn chỉ chiếm một phần nhỏ, xem chừng cái mộng lên làm phương trượng chưởng môn phái Thiếu Lâm đã tan thành mây khói, nghĩ bụng: “Tạ Tốn gây vô số tội ác; nếu mình hạ được hắn, thì mọi tội trạng cứ trút xuống đầu hắn; võ công của hắn đều do mình truyền thụ, hắn lại mù cả hai mắt, chẳng lẽ mình không đối phó nổi hay sao?” Bèn nói:

– Tạ Tốn, bao nhiêu anh hùng hảo hán trên giang hồ đã bỏ mạng dưới tay mi, hôm nay mi còn chiêu dẫn hàng loạt tên ma đầu Ma giáo đến quấy phá đất lành của nhà Phật, đối địch với anh hùng thiên hạ. Ta hối hận ngày trước đã truyền võ công cho mi, bây giờ ta phải thanh lý môn hộ, trừng trị tên nghịch đồ khi sư diệt tổ mới xong.

Nói đoạn hắn nghênh ngang bước đến trước mặt Tạ Tốn.

Tạ Tốn cao giọng nói:

– Quý vị anh hùng bốn phương nghe đây, võ công của Tạ Tốn này, vốn là do vị sư phụ Thành Côn truyền thụ; nhưng y đã bức gian vợ ta không được, lại giết hại cha mẹ vợ con ta. Thầy trò tuy thân, cũng không thân bằng cha sinh mẹ đẻ của mình. Tạ Tốn tìm Thành Côn để báo thù, như thế có đáng hay không đáng?

Quần hùng tứ phía hò reo vang động:

– Đáng lắm! Đáng trả thù lắm!

Thành Côn không nói một lời, “vù” một cái, đánh một chưởng vào đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn nghiêng đầu, giữ chỗ yếu hại trên đỉnh đầu, nghe “bộp” một tiếng, chưởng đó trúng vai ông. Tạ Tốn không trả đòn, nói:

– Hừ, Thành Côn, năm xưa ngươi truyền cho ta chiêu “Trường hồng kinh thiên”, có dặn là khi đánh trúng địch thủ, thì phải vận “Hỗn nguyên nhất khí công” để đả thương kẻ địch, vì sao ngươi lại không vận công? Hay là tuổi đã già, không còn công để vận nữa?

Nguyên chiêu đầu tiên của Thành Côn chỉ là hư chiêu, không ngờ đối phương lại chẳng né tránh, đánh là trúng ngay. Nhưng chiêu này hắn chẳng dồn chút lực nào, nên Tạ Tốn không hề bị thương.

Thành Côn tay trái đánh nhứ, tay phải tung ra một chưởng nữa. Tạ Tốn nghiêng người tránh, vẫn chưa trả đòn. Thành Côn hai chân liên tiếp đá tới, “bộp bộp” hai tiếng, hông Tạ Tốn trúng luôn hai cước. Hai cú đá này kình lực cực mạnh, Tạ Tốn tuy thân thể cao lớn, cũng chịu không nổi, ộc ra một ngụm máu lớn.

Trương Vô Kỵ vội kêu lên:

– Nghĩa phụ, trả đòn đi! Sao cha chỉ chịu đòn mà không đánh trả?

Tạ Tốn loạng choạng mấy bước, gượng cười, nói:

– Y là sư phụ ta, có chịu một chưởng hai cước cũng đáng.

Nói xong ông hú lên một tiếng, múa chưởng đánh ra.

Thành Côn thầm tiếc rẻ: “Hoài của, hoài của! Mình cứ ngỡ hắn với mình thù sâu như biển, vừa gặp là đánh trí mạng ngay, nếu biết hắn nhường mình ba chiêu, thì đã hạ sát thủ ngay từ đầu, đâu bỏ lỡ cơ hội thế này?” Thấy chưởng thế của Tạ Tốn rất lợi hại, bèn tay trái đưa xéo ra, gạt chưởng lực của đối phương, thân hình xoay nửa vòng, đã luồn ra sau lưng Tạ Tốn, khinh thường Tạ Tốn bị mù không nhìn thấy, lẳng lặng vô thanh vô tức đánh vào lưng ông một chưởng. Nhưng Tạ Tốn tựa hồ có mắt, giơ chân đá ngược ra sau. Thành Côn nhảy vọt lên cao, từ trên không bổ xuống như chim ưng. Thành Côn đã ở tuổi cổ lai hi, song thân pháp vẫn lẹ làng như người còn trẻ. Tạ Tốn song chưởng chống đỡ, thế đánh từ trên xuống của Thành Côn bị chặn lại, hắn bật trở lên, nhẹ nhàng xoay một vòng trên không trung, lại đánh xuống.

Hai người vừa ra tay, lấy nhanh đánh nhanh, chốc lát đã qua lại bảy, tám chục chiêu. Tạ Tốn tuy không nhìn thấy gì, nhưng võ công của ông toàn do Thành Côn truyền thụ, quyền cước, chiêu số của Thành Côn thế nào, ông đã thuộc lòng. Sau mấy chục năm, việc tu luyện nội công của hai người đều đại tiến triển, riêng chiêu thuật quyền cước thì vẫn là bài bản cũ; Tạ Tốn dẫu không nhìn thấy, cũng biết chưởng này của ông đối phương hóa giải thế nào, tiếp sau chiêu này sẽ biến hóa đại để ra sao. Đã thế, ông lại trẻ hơn Thành Côn mười mấy tuổi, khí huyết còn mạnh hơn, khí hậu khắc nghiệt ở Băng Hỏa đảo giúp ông tu luyện nội lực rất thuận lợi, nhờ thế hơn một trăm chiêu vẫn không bị lép vế chút nào.

Tạ Tốn căm hận Thành Côn khôn tả, ông canh cánh đợi chờ mấy chục năm rồi, bây giờ mới có dịp giao đấu. Trương Vô Kỵ cứ tưởng nghĩa phụ sẽ đánh thí mạng ngay, sẵn sàng cả hai cùng chết; nào ngờ từng chiêu từng thức đều trầm ổn lạ thường, bảo vệ môn hộ cực kỳ nghiêm mật. Thoạt tiên Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, nhưng sau khi xem mấy chục chiêu, liền hiểu ra, võ công của Thành Côn chẳng thua gì ba vị cao tăng Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp; nếu Tạ Tốn ngay từ đầu nóng máu hung hăng, chỉ e không chịu nổi ba trăm chiêu. Hiển nhiên mối thù trong lòng Tạ Tốn càng sâu, thì ông ra tay càng thận trọng, lo rằng nếu mình bại trận, thì không trả được món nợ máu cho cha mẹ vợ con.

Thấm thoắt đôi bên đã qua lại hơn hai trăm chiêu. Tạ Tốn quát lên một tiếng, đánh ra một quyền. Quan Năng của phái Không Động thốt lên:

– Thất thương quyền!

Chỉ thấy Tạ Tốn tả hữu song quyền liên tiếp đánh ra, vô cùng uy mãnh, chư lão phái Không Động ai nấy kinh hãi, bất giác hổ thẹn thấy mình không bì kịp. Thành Côn tránh liền ba quyền, chờ lúc quyền thứ tư đánh tới, hữu chưởng bèn đẩy ngang ra, “bộp” một tiếng, quyền chưởng đụng nhau, Tạ Tốn râu tóc dựng đứng, uy phong lẫm liệt đứng bất động; còn Thành Côn phải lật đật lùi ba bước.

Quần hùng đứng xem, nhiều người lớn tiếng reo hò. Diễn biến và nguyên do mối thù hằn của Tạ Tốn với Thành Côn thế nào, cả giang hồ đều biết. Người ta tuy giận Tạ Tốn ra tay quá tàn ác, lạm sát người vô tội, song cũng cảm thông với tình cảnh bi thảm cùng cực mà ông phải gánh chịu; trong khi Thành Côn quá ư gian hiểm, trừ thân nhân và bằng hữu của những người bị Tạ Tốn sát hại, còn quá nửa đều mong Tạ Tốn đắc thắng.

Tạ Tốn tiến lên ba bước, lại đánh ra vù vù hai quyền, Thành Côn trả lại hai chưởng, lại phải lùi ba bước. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hỏng rồi! Thành Côn sử dụng ‘Thiếu Lâm Cửu dương công’, là công phu hắn học được sau khi bái Không Kiến thần tăng làm thầy, mà nghĩa phụ thì chưa được truyền thụ”.

Tạ Tốn khi luyện “Thất thương quyền”, vì nôn nóng mà năm xưa từng bị nội thương; môn này vốn có khuyết điểm, Thành Côn thừa biết chỗ cốt yếu đó, hắn cố ý tỏ ra kém thế, đem “Thiếu Lâm Cửu dương công” ra đối phó. Mỗi quyền Tạ Tốn đánh ra, Thành Côn chịu bảy thành kình lực, dùng “Cửu dương công” hóa giải; còn ba thành thì phản kích trở lại. Tạ Tốn vù vù đánh ra mười hai quyền, Thành Côn liên tiếp thoái lui mấy chục bước, nhìn bề ngoài tưởng là Tạ Tốn đại chiếm thượng phong, kỳ thực nội thương càng lúc càng nặng.

Trương Vô Kỵ ruột như lửa đốt, đây là cơ hội phục thù mà nghĩa phụ ngày đêm mong đợi suốt đời, chàng không có cách gì xen vào trợ giúp; nhưng cứ đà này đấu thêm vài chục chiêu, Tạ Tốn sẽ hộc máu mà chết.

Không Trí đột nhiên lạnh lùng nói:

– Viên Chân, sư huynh ta năm xưa truyền cho ngươi “Thiếu Lâm Cửu dương công”, để bây giờ ngươi đem ra hại người ư?

Thành Côn cười khẩy, đáp:

– Ân sư ta bỏ mạng vì “Thất thương quyền”, hôm nay ta báo thù rửa hận cho lão nhân gia.

Triệu Mẫn bỗng nói to:

– “Cửu dương công” của Không Kiến thần tăng cao siêu hơn hẳn ngươi, sao Không Kiến thần tăng không chống đỡ nổi “Thất thương quyền”? Không Kiến thần tăng bị chết chính vì sự gian tặc của ngươi. Ngươi đánh lừa lão nhân gia đứng ra hóa giải oan nghiệt, để lão nhân gia chịu đòn chứ không đánh trả. Ô kìa, hãy nhìn xem ai đang đứng sau lưng ngươi? Một người mặt đầy máu, đang hầm hầm chỉ vào lưng ngươi, chẳng phải Không Kiến thần tăng thì còn ai?

Thành Côn thừa biết là lời dọa suông, nhưng sau khi hắn phạm tội, không khỏi bị lương tâm cắn rứt, bất giác cũng thấy rờn rợn. Đúng lúc ấy Tạ Tốn lại đánh ra một quyền, Thành Côn giơ chưởng đỡ, thân hình hơi lảo đảo, nhưng không lùi về sau, vì đã phân tâm nên chân khí tán loạn. Hắn bị trúng một quyền vào ngực, khí huyết nhộn nhạo, vội thi triển khinh công chạy quanh Tạ Tốn một hồi, mới lấy lại sự quân bình.

Triệu Mẫn lại gọi:

– Không Kiến thần tăng, đại sư hãy bám sát hắn, đúng rồi, cứ như thế, đại sư hãy phả hơi lạnh vào gáy hắn. Đại sư chết bởi tay đồ đệ, hắn cũng sẽ chết bởi tay đồ đệ; như thế gọi là ông trời có mắt, quả báo nhãn tiền.

Thành Côn bị nàng dọa cho nổi da gà, thần hồn nát thần tính, cảm thấy hình như có từng đợt gió lạnh thổi tới mình, trong lúc hoảng loạn quên mất rằng trên đỉnh núi cao thế này, gió núi thổi quanh năm không ngừng, hơn nữa hai người đang nhảy nhót giao đấu, sau lưng có gió là chuyện đương nhiên.

Triệu Mẫn thấy hắn hơi chần chừ, lại gọi:

– Ối chao, Thành Côn, ngươi thử ngoảnh lại xem ai ở sau lưng kìa? Ngươi không dám ngoảnh lại hả? Thế thì hãy ngó xuống nhìn mấy bóng đen dưới đất, vì sao hai người giao đấu mà lại có những ba cái bóng?

Thành Côn bất giác nhìn xuống đất, quả nhiên giữa hai bóng người có một vệt thẫm đen, trong bụng hơi hoảng, quyền của Tạ Tốn đã đánh tới. Thành Côn không kịp hóa giải, cũng tống một quyền ra chọi lại, “bộp” một tiếng, hai người lấy chân lực đấu nhau, đều lảo đảo lùi lại một bước. Thành Côn lúc đó mới nhìn kỹ, cái bóng sẫm kia chẳng qua là bóng cây tùng gãy mà thôi.

Thành Côn đánh lâu chưa thắng, nóng ruột nghĩ thầm: “Hắn là đệ tử, hai mắt lại mù; mình lại không hạ nổi hắn, những kẻ tâm phúc đứng xem bên ngoài sẽ không phục mình nữa. “Huyễn Âm Chỉ” thần công của mình lần trước bị tên tiểu tặc ác ôn Trương Vô Kỵ dùng nội lực thuần dương phá mất rồi, nếu không hôm nay đâu phải đấu dây dưa mãi với Tạ Tốn thế này? Tình hình hiện tại rất nguy hiểm, chỉ có cách duy nhất là nhanh chóng chế ngự tên nghịch đồ này mới khống chế được Minh giáo, rồi thừa cơ kêu gọi các kẻ thù của Tạ Tốn cùng xông lên; như vậy chí ít mình cũng có thể thoát thân”. Nghĩ vậy, hắn liền len lén di chuyển hai bước về phía một cây tùng gãy.

Tạ Tốn đánh ra liên tiếp ba quyền, tiến lên hai bước; Thành Côn lùi thêm hai bước nữa, định dụ Tạ Tốn tới chỗ cây tùng gãy đổ. Tạ Tốn đang đuổi theo, thì Trương Vô Kỵ kêu lên:

– Nghĩa phụ, cẩn thận dưới chân!

Tạ Tốn giật mình, lạng sang một bên, do vậy chậm lại, Thành Côn đã tìm được chỗ sơ hở, một chưởng vô thanh vô tức đánh ra, tới ngực Tạ Tốn thì dồn sức vào đó, khiến Tạ Tốn ngã ngửa ra sau.

Thành Côn giơ chân lên đạp mạnh một cái xuống đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn vội lăn một vòng, đứng bật dậy, khóe miệng máu tươi chảy thành dòng. Thành Côn đứng im, tay phải chậm rãi giơ ra. Tạ Tốn đấu với hắn toàn là nhờ chiêu số quen thuộc, cộng với nghe tiếng gió mà nhận định tình hình, bây giờ Thành Côn ra chiêu không theo chưởng pháp thông thường nữa, hắn nhẹ nhàng thong thả đưa tới trước mặt Tạ Tốn rồi đột ngột đánh trúng vai địch thủ. Tạ Tốn loạng choạng mấy cái, cố đứng vững lại.

Quần hùng đa số không phục, nhao nhao la ó:

– Mắt sáng đấu với người mù, sao lại dùng thủ đoạn hèn hạ như thế?

Thành Côn bất chấp, lại chậm rãi đánh ra một chưởng. Tạ Tốn chăm chú lắng nghe, vừa cảm thấy chưởng của địch ập tới, thì lập tức đưa tay gạt ra.

Trương Vô Kỵ thấy mái tóc vàng của nghĩa phụ bay tung, khóe miệng ri rỉ máu tươi, trong lòng vừa phẫn nộ vừa bối rối, biết nếu cứ đà này đấu thêm, nghĩa phụ hẳn sẽ mất mạng dưới tay Thành Côn; nhưng nếu chàng nhảy ra trợ giúp, dù có hạ sát được Thành Côn, thì nghĩa phụ cũng sẽ ôm hận suốt đời. Chàng nắm lấy tay Triệu Mẫn, hỏi dồn:

– Mau nghĩ kế hộ ta đi!

Triệu Mẫn nói:

– Chàng lén bắn ám khí, làm mù hai mắt hắn đi có được chăng?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

– Nghĩa phụ thà chết, không chịu cho ta làm thế đâu.

Lại thấy Thành Côn chậm rãi đánh ra một chưởng. Triệu Mẫn kêu lên:

– Trên ngực kìa!

Tạ Tốn liền đấm thẳng một quyền ra trước ngực, chưởng của Thành Côn chưa đến vội thu về. Hắn đánh liền mấy chưởng thật chậm, đều bị Triệu Mẫn báo động cho Tạ Tốn, thấy cách đó không ổn, bèn tương kế tựu kế, đánh một chưởng thật chậm vào vai bên phải của Tạ Tốn. Triệu Mẫn kêu:

– Vai phải!

Trương Vô Kỵ thấy vai trái của Thành Côn hơi động, chàng hiểu ngay ý đồ của hắn, vội kêu to:

– Sau lưng!

Tạ Tốn nghe tiếng nhắc của Triệu Mẫn, bèn giơ tay chống đỡ đòn đánh vào vai bên phải, đâu biết đó chỉ là hư chiêu, Thành Côn thừa cơ Tạ Tốn vừa giơ tay chống đỡ hữu chưởng, thì tay trái liền giáng một chưởng thật nặng vào sau lưng Tạ Tốn. Trương Vô Kỵ tuy kịp thời nhắc ông, nhưng đòn này của Thành Côn cực nhanh, Tạ Tốn nghe tiếng kêu của Trương Vô Kỵ thì không kịp biến chiêu nữa rồi.

Mọi người kinh hãi kêu ồ lên, thấy Tạ Tốn phun ra một ngụm máu to, trúng ngay mặt Thành Côn. Thành Côn kêu Ối”, giơ tay lên lau mặt; còn Tạ Tốn thì ngã lăn ra đất. Bỗng nghe cả hai người cùng thét lên, rồi không thấy họ đâu nữa.

Nguyên Tạ Tốn ngã xuống, lập tức ôm lấy hai chân Thành Côn, gắng sức xô hắn ngã, thế là cả hai cùng rơi xuống địa lao.

Trong địa lao nước ngập đến cổ, tối như hũ nút, Thành Côn tức thời chẳng khác gì người mù. Hắn vội nhảy lùi về phía sau, cốt càng xa đối thủ càng tốt. Nhưng địa lao quá chật hẹp, nhảy lùi thì lưng đụng vào vách đá, vừa nhảy lên thì bụng dưới trúng một chiêu Thất thương quyền, đau thấu tâm can. Thành Côn biết quyền này khiến hắn bị thương không nhẹ, nếu còn nhảy lên, sẽ tiếp tục bị đòn quyền, vội biến chiêu, dùng “Tiểu cầm nã thủ” để đối phó. “Tiểu cầm nã thủ” vốn dùng để đánh gần trong bóng tối, phải ứng biến cực nhanh, mắt tuy không nhìn thấy, song ngón tay, bàn tay, cánh tay, khuỷu tay, bất cứ chỗ nào đụng phải cơ thể kẻ địch, đều lập tức nắm, bắt, chộp, bẻ, vặn, thúc, cấu ngay. Tạ Tốn quát to một tiếng, cũng dùng “Tiểu cầm nã thủ” đối phó.

Mọi người chỉ nghe thấy dưới địa lao tiếng quát tháo, tiếng quyền chưởng đánh vào cơ thể, nước bắn văng tung tóe, hẳn là hai người đang dốc sức tấn công nhau. Trương Vô Kỵ trống ngực đập thình thịch, nghĩ bụng lúc này nghĩa phụ có gặp hung hiểm, chàng cũng không cứu nổi; chàng không thể nhảy xuống địa lao trợ giúp, nên lo toát cả mồ hôi.

Tạ Tốn bị mù đã hơn hai mươi năm, công phu nghe âm thanh để định hình đã luyện thành thạo, lấy tai thay mắt đã quá quen rồi. Thành Côn ở trong địa lao ngập nước, đánh đấm loạn xạ chỉ là hú họa cầu may, ưu thế đôi bên bây giờ đã thay đổi hẳn. Thành Côn thầm kinh hãi, không biết tính sao, đành hai tay sử dụng “Tiểu cầm nã thủ”, thi triển liền liền như gió táp mưa sa hết độc chiêu này đến độc chiêu khác, bụng nghĩ: “Không để cho hắn đánh trúng một đòn nào nữa, phải tìm cách ra khỏi địa lao mới được”.

Quần hùng nhích dần từng bước tới gần miệng hầm, lòng bàn tay nhơm nhớp mồ hôi lạnh, nghe tiếng quát tháo của Thành Côn và Tạ Tốn từ địa lao không ngớt vọng lên, xem chừng chưa phân thắng bại. Bỗng nghe có tiếng rú thảm thiết của Thành Côn, kế đó hai bóng người từ dưới địa lao phóng vọt lên.

Dưới ánh nắng, chỉ thấy hai mắt của cả Thành Côn lẫn Tạ Tốn đều chảy máu, hai người đứng đối diện nhau bất động.

Nguyên trong lúc ác đấu, hai tay của Tạ Tốn đột nhiên tách ra để chém vào hai mạng sườn Thành Côn. Thành Côn cả mừng, kêu:

– Trúng này!

Hai ngón trỏ và giữa của tay phải tức thời chọc nhanh vào hai mắt Tạ Tốn. Chiêu “Song long sang châu” này vốn dĩ tầm thường, nhưng khi dùng xen vào với “Tiểu cầm nã thủ” thì lại có uy lực cực lớn, đối phương thể nào cũng phải quay đầu né tránh; tay trái ta sẽ lập tức quét qua, thể nào cũng sẽ trúng huyệt Thái Dương của địch. Ngờ đâu Tạ Tốn chẳng tránh né gì hết, cũng quát to:

– Trúng này!

Cũng sử dụng đúng chiêu “Song long sang châu”, hai ngón trỏ và giữa tức thời chọc nhanh vào hai mắt Thành Côn.

Hai ngón tay Thành Côn chọc trúng mắt Tạ Tốn, trong óc một ý nghĩ lóe lên như tia chớp: “Chết rồi!” thì mắt đã đau nhói vì hai ngón tay Tạ Tốn chọc vào. Hai người bị thương y như nhau, nhưng Tạ Tốn đã mù sẵn, chỉ là tổn thương da thịt, còn Thành Côn thì từ nay biến thành kẻ mù.

Tạ Tốn cười khẩy, hỏi:

– Làm thằng mù thích chứ?

“Vù” một tiếng, đấm luôn ra một quyền. Thành Côn không còn nhìn thấy gì, chẳng biết đường né tránh, bị trúng ngay chiêu “Thất thương quyền” ấy vào giữa ngực.

Tay trái của Tạ Tốn lại tung tiếp một quyền, Thành Côn lảo đảo lùi mấy bước, vấp cây tùng đổ, ngã xuống, máu mồm trào ra như suối. Độ Ách lên tiếng:

– Thiện tai, thiện tai!

Tạ Tốn ngây ra, quyền thứ ba đánh ra chợt ngừng lại giữa chừng, nói:

– Ta vốn định đánh ngươi đủ mười ba đòn “Thất thương quyền”. Nhưng bây giờ ngươi đã mất hết võ công, lại mù cả hai mắt, từ nay trở thành tàn phế, không còn làm ác trên thế gian được nữa. Mười một quyền còn lại, khỏi cần đánh tiếp.

Bọn Trương Vô Kỵ thấy Tạ Tốn toàn thắng, đều hoan hô vang dậy. Tạ Tốn đột nhiên ngồi xuống đất, xương cốt toàn thân kêu lách cách. Trương Vô Kỵ cả kinh, biết nghĩa phụ vận ngược nội tức để tự hủy bỏ toàn bộ võ công, vội kêu lên:

– Nghĩa phụ, đâu cần làm thế!

Chàng vọt tới, toan lấy tay áp vào lưng ông, dùng “Cửu dương thần công” ngăn lại.

Tạ Tốn đột nhiên đứng dậy, vung tay đấm mạnh vào ngực mình một cái, máu tươi phun ra đằng miệng. Trương Vô Kỵ vội đưa tay đỡ, chỉ thấy tay ông lẩy bẩy yếu ớt, quả nhiên võ công đã mất hết, khó lòng phục hồi được nữa.

Tạ Tốn chỉ Thành Côn, nói:

– Thành Côn, ngươi giết cả nhà ta, hôm nay ta hủy đôi mắt ngươi, phế bỏ võ công của ngươi, gọi là để báo thù. Sư phụ, toàn bộ võ công của đệ tử là do sư phụ truyền thụ, vừa rồi đệ tử cũng đã tự hủy hết, trả lại cho sư phụ. Từ nay trở đi, hai ta vô ân vô oán, vĩnh viễn không còn thấy mặt nhau nữa.

Thành Côn hai tay ôm mắt, rên một tiếng đau đớn, không trả lời.

Quần hùng nhìn nhau, không ngờ cuộc đấu giữa hai thầy trò cuối cùng kết thúc như thế này.

Tạ Tốn dõng dạc nói:

– Tạ Tốn này tác ác đa đoan, vốn không mong sống được tới ngày hôm nay. Trong chư vị anh hùng thiên hạ, vị nào có thân nhân, sư hữu bị Tạ mỗ giết hại, xin mời ra lấy mạng Tạ mỗ cho xong. Vô Kỵ, con không được ngăn cản, càng không được phục thù sau này, để khỏi tăng thêm nghiệp chướng cho nghĩa phụ.

Trương Vô Kỵ nuốt lệ vâng lời.

Trong quần hùng tuy không ít người có thù oán sâu xa với Tạ Tốn, song thấy ông trả mối thù cả nhà bị giết cũng chỉ phế bỏ võ công của Thành Côn, sau đó võ công của mình cũng tự hủy đi, nếu bây giờ mình bước ra đâm một kiếm, đấm một quyền, thì chẳng đáng mặt anh hùng hảo hán chút nào.

Từ đám đông, một hán tử bước ra, nói:

– Tạ Tốn, phụ thân ta Nhạn Linh Phi Thiên Đao Khưu lão anh hùng chết dưới tay ngươi, ta ra đây báo thù cho tiên phụ!

Nói xong bước tới trước mặt Tạ Tốn. Tạ Tốn buồn rầu nói:

– Đúng thế, lệnh tôn quả thật bị tại hạ sát hại. Xin Khưu huynh cứ ra tay.

Gã họ Khưu rút đao ra, tiến lên hai bước.

Trương Vô Kỵ trong lòng rối loạn, nếu không ra tay ngăn cản, nghĩa phụ sẽ mất mạng dưới đao của người này; nhưng nếu đánh đuổi gã đi, e rằng nghĩa phụ còn sống ngày nào sẽ phiền não ngày đó, huống hồ ông hai mắt đã mù, võ công mất hết, sống trên đời còn gì vui thú; chàng thực là khó nghĩ, bất giác tiến lên hai bước.

Tạ Tốn quát:

– Vô Kỵ, nếu con ngăn cản người ta báo thù, tức là đại đại bất hiếu đối với ta. Sau khi ta chết, con xuống địa lao xem kỹ, sẽ biết mọi việc.

Gã họ Khưu giơ đao ngang ngực, bỗng ứa nước mắt, nhổ một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn, nghẹn ngào nói:

– Tiên phụ một đời anh hùng, nếu lão nhân gia ở trên trời linh thiêng, thấy ta cầm đao giết một người mù không còn chút võ công, chắc sẽ thất vọng về ta…

Keng một tiếng, gã đã ném đao xuống đất, ôm mặt chạy trở vào đám đông.

Một trung niên nữ nhân bước ra, nói:

– Tạ Tốn, ta báo thù cho chồng ta là Âm Dương Phán Quan Tần Đại Bằng.

Nói rồi cũng nhổ một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn, khóc òa lên, bỏ đi.

Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ liên tiếp chịu nhục, thủy chung vẫn đứng yên, thì trong lòng đau như dao cắt.

Hào sĩ võ lâm coi cái chết nhẹ như lông hồng, song lại quyết không chịu nhục, cho nên mới có câu “Sĩ khả sát nhi bất khả nhục”. Hai người vừa rồi nhổ nước bọt vào mặt ông, quả là đại nhục, mà Tạ Tốn vẫn thản nhiên chịu đựng, đủ biết ông đã hối hận cực điểm về mọi tội lỗi trong quá khứ. Từ trong đám đông một số người lần lượt tiến ra, kẻ tát hai cái, kẻ đá một cái, cũng có kẻ chửi bới nặng nề, song Tạ Tốn trước sau vẫn nín nhịn, không tránh né, cũng không nói lại nửa lời.

Cứ thế hơn ba chục người ra làm nhục Tạ Tốn một phen. Cuối cùng một đạo sĩ râu dài bước ra, cúi đầu nói:

– Bần đạo là Thái Hư Tử, có hai vị sư huynh bị chết dưới tay Tạ đại hiệp. Hôm nay bần đạo nhìn thấy phong phạm của Tạ đại hiệp, trong lòng cảm thấy rất hổ thẹn, bần đạo cũng từng giết vô số hào kiệt hắc đạo, bạch đạo. Nếu bần đạo tìm Tạ đại hiệp báo thù, thì kẻ khác cũng có thể tìm bần đạo để báo thù.

Nói xong rút trường kiếm, giơ ngón tay trái búng một cái, nghe “keng” một tiếng, thanh kiếm gãy đôi. Y ném kiếm gãy xuống đất, hành lễ với Tạ Tốn rồi lui về.

Quần hùng xôn xao bàn tán, cái gã Thái Hư Tử này danh tiếng chưa nổi lắm trên giang hồ, võ công cao siêu đã đành, không ngờ lại có tấm lòng khoan dung lớn và biết tự trách mình, xem ra chẳng còn ai làm khó với Tạ Tốn nữa.

Giữa lúc ấy, một nữ ni trung niên từ đám đệ tử phái Nga Mi bước đến trước mặt Tạ Tốn, nói:

– Mối thù giết chồng ta, ta cũng nhổ một bãi nước bọt để kết thúc.

Nói xong há mồm, nhổ một bãi nước bọt vào trán Tạ Tốn. Không ngờ bãi nước bọt này kình phong rất mạnh, bên trong lại có một cái đinh sắt hình hạt táo.

Tạ Tốn nghe tiếng gió có điều khác lạ, gượng cười buồn bã nhưng không tránh né, nghĩ thầm: “Ta bây giờ mới chết, đã là quá muộn”.

Bỗng dưng một bóng vàng lướt qua, Hoàng y mỹ nữ bất ngờ vọt tới, phất tay áo cuốn lấy cái đinh sắt, quát:

– Vị sư thái này pháp danh là gì?

Nữ ni kia đột kích không trúng, hơi kinh hoảng, đáp:

– Ta là Tĩnh Chiếu.

Hoàng y mỹ nữ nói:

– Hừ, Tĩnh Chiếu, Tĩnh Chiếu. Trước khi bà xuất gia, chồng bà tên gì? Tại sao ông ta lại bị Tạ đại hiệp giết?

Tĩnh Chiếu giận dữ nói:

– Chuyện đó liên can gì tới cô nương, việc gì cô nương đi lo chuyện bao đồng?

Hoàng y mỹ nữ nói:

– Tạ đại hiệp sám hối tội lỗi ngày trước, nếu có ai muốn báo thù cho cha mẹ, anh em, thầy bạn, dù có dùng đao kiếm băm vằm ông, Tạ đại hiệp cũng cam chịu, người ngoài không thể can thiệp. Thế nhưng, nếu có kẻ bất lương, định thừa cơ đục nước béo cò, toan giết người diệt khẩu, thì mọi người đều có quyền can thiệp.

Tĩnh Chiếu nói:

– Ta với Tạ Tốn không thù không oán, hà tất phải giết người diệt…

Chữ “khẩu” chưa kịp thốt ra, bà ta biết mình lỡ lời, vội nín bặt, mặt trắng bệch, bất giác liếc Chu Chỉ Nhược một cái.

Hoàng y mỹ nữ nói:

– Đúng thế, bà với Tạ đại hiệp không thù không oán, hà tất phải giết người diệt khẩu? Hừ, mười hai nữ ni hàng chữ “Tĩnh” của phái Nga Mi, Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư, Tĩnh Không, Tĩnh Tuệ, Tĩnh Già, Tĩnh Chiếu… đều là khuê nữ xuất gia, chồng ở đâu mà có?

Tĩnh Chiếu không nói gì, cắm đầu chạy về.

Hoàng y mỹ nữ quát:

– Ai cho bỏ đi dễ dàng như thế?

Nàng tiến lên hai bước, giơ tay chộp đầu vai Tĩnh Chiếu. Tĩnh Chiếu nghiêng người tránh được cái trảo đó. Hoàng y mỹ nữ liền giơ ngón trỏ tay phải chọc vào mạng sườn, tiếp đó tung cước đá trúng huyệt Hoàn Khiêu ở đùi Tĩnh Chiếu. Tĩnh Chiếu ngã huỵch xuống đất. Hoàng y mỹ nữ cười khẩy, nói:

– Chu cô nương, cái kế giết người diệt khẩu của cô nương độc địa thật.

Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:

– Tĩnh Chiếu sư tỷ muốn báo thù Tạ Tốn, có gì mà bảo là giết người diệt khẩu?

Rồi phất tay trái, nói:

– Ở đây có vô số đệ tử danh môn chính phái, thế mà chẳng ai phân biệt được chính tà, cam tâm nhập bọn với bàng môn yêu ma. Phái Nga Mi không thể a dua với chúng, thôi bọn ta đi về.

Các đệ tử phái Nga Mi đáp ứng, đứng cả dậy. Hai nữ đệ tử ra dìu Tĩnh Chiếu đi, Hoàng y mỹ nữ không ngăn cản nữa. Chu Chỉ Nhược dẫn các đồng môn xuống núi.

Trương Vô Kỵ tới trước mặt Hoàng y mỹ nữ, vái dài, nói:

– May được tỷ tỷ mấy phen trợ giúp, đại ân đại đức, không dám cảm tạ bằng lời. Chỉ mong được biết phương danh, để Trương Vô Kỵ này ngày đêm ghi nhớ trong lòng.

Hoàng y mỹ nữ mỉm cười, nói:

– Chung Nam sơn hậu, hoạt tử nhân mộ, Thần Điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ.

Nói xong nâng một chút vạt áo lên thi lễ, vẫy tay một cái, dẫn tám bạch y, hắc y thiếu nữ khoan thai mà đi.

Trương Vô Kỵ bước theo, gọi:

– Xin tỷ tỷ hãy dừng bước.

Hoàng y mỹ nữ không ngoảnh lại, tiếp tục đi xuống núi.

Cô bé Sử Hồng Thạch, bang chủ Cái Bang, gọi to:

– Dương tỷ tỷ! Dương tỷ tỷ!

Chỉ nghe từ lưng núi vọng lên giọng nói của hoàng y mỹ nữ:

– Đại sự của Cái Bang, mong Trương giáo chủ tận lực trợ giúp.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng đáp lời:

– Vô Kỵ tuân lệnh.

Hoàng y mỹ nữ nói:

– Đa tạ!

Hai tiếng “Đa tạ!” văng vẳng vọng lên, đôi bên đã cách nhau rất xa, nhưng giọng nói trong trẻo, nghe vẫn rõ lạ thường. Trương Vô Kỵ trong dạ không khỏi bồi hồi.

*

*     *

Không Trí tới trước mặt Thành Côn, quát hỏi:

– Viên Chân, mau ra lệnh thả phương trượng ngay. Lão phương trượng mà có mệnh hệ gì, thì tội trạng của ngươi càng lớn đó.

Thành Côn gượng cười:

– Đã đến nước này, tất cả phải cùng chết một lượt. Bây giờ dù ta có muốn thả Không Văn, thì cũng chẳng kịp. Ngươi không mù, sao không nhìn thấy lửa đã bốc cao?

Không Trí giật mình, quay đầu nhìn xuống bên dưới, quả nhiên thấy dưới chùa khói đen bốc lên, lưỡi lửa lem lém, vội kêu to:

– Đạt Ma đường cháy rồi! Mau mau xuống cứu hỏa!

Tăng chúng náo loạn một trận, chạy tứ tán xuống núi.

Bỗng thấy bốn phía xung quanh Đạt Ma đường đều có các vòi nước phun vào trông như các con rồng trắng, chẳng mấy chốc ngọn lửa đã bị dập tắt.

Không Trí chắp tay niệm Phật, nói:

– A Di Đà Phật, ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính thoát được kiếp nạn.

Lát sau có hai tăng nhân chạy lên bẩm báo:

– Khải bẩm sư thúc tổ, bọn phản nghịch thủ hạ của Viên Chân phóng hỏa đốt Đạt Ma đường, may nhờ các anh hùng trong Hồng Thủy kỳ của Minh giáo trượng nghĩa, đã dập tắt được rồi.

Không Trí tới trước mặt Trương Vô Kỵ, chắp tay vái, nói:

– Ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính ngàn năm thoát được hỏa kiếp, hoàn toàn là nhờ đại ân đại đức của Trương giáo chủ, tăng chúng bổn tự dù tan xương nát thịt cũng khó báo đền.

Trương Vô Kỵ hoàn lễ, nói:

– Việc đó đương nhiên phải làm, đại sư khỏi cần đa lễ.

Không Trí nói:

– Không Văn phương trượng bị bọn phản đồ nhốt trong Đạt Ma viện. Lửa dập tắt rồi, nhưng không biết sự an nguy của sư huynh ra sao. Trương giáo chủ và chư vị anh hùng chờ cho một chút, lão nạp phải xuống xem thế nào.

Thành Côn cười hô hố, nói:

– Trên người Không Văn bôi đầy dầu mỡ, lửa vừa cháy lên, thì y cháy trước. Hồng Thủy kỳ chỉ cứu được Đạt Ma viện, cứu sao nổi lão phương trượng.

Bỗng từ lưng chừng núi có tiếng nói vọng lên:

– Hồng Thủy kỳ cứu không nổi, thì còn có Hậu Thổ kỳ.

Chính là tiếng nói của Phạm Dao. Vừa nói xong đã thấy Phạm Dao cùng với chưởng kỳ sứ của Hậu Thổ kỳ là Nhan Viên chạy lên núi, hai người dìu một lão tăng, chính là phương trượng Không Văn của chùa Thiếu Lâm. Chỉ thấy cả ba người quần áo tả tơi, râu tóc bơ phờ, có chỗ bị lửa sém, trông lem luốc.

Không Trí chạy lại ôm chầm lấy Không Văn, nói:

– Sư huynh có sao không? Sư đệ bất tài, tội thật đáng chết vạn lần!

Không Văn mỉm cười, nói:

– Hoàn toàn nhờ có hai vị Phạm thí chủ và Nhan thí chủ từ dưới lòng đất chui lên cứu, nếu không ta và sư đệ chắc chẳng còn được gặp mặt nhau.

Không Trí kinh ngạc nói:

– Tài độn thổ của Hậu Thổ kỳ Minh giáo quả là thần diệu!

Ông quay sang thi lễ tạ ơn Phạm Dao và Nhan Viên, rồi nói:

– Phạm thí chủ, lão tăng trước đây vô lễ mạo phạm, xin thí chủ lượng thứ cho. Lời hẹn tới chùa Vạn An ở Đại Đô, lão nạp xin hủy bỏ.

Nhân sĩ võ lâm đã ước hẹn tỷ võ, nếu nuốt lời không đến, so với muối mặt chịu thua thì còn đáng hổ thẹn gấp bội. Không Trí vô cùng cảm kích đại ân của Phạm Dao mạo hiểm cứu sống sư huynh, nên mới tự nguyện hủy bỏ ước hẹn. Hai người vốn đã phục nhau, trải qua việc này, càng thấy tâm đầu ý hợp, từ đó thành bạn tâm giao.

Nguyên Thành Côn đã sắp đặt mọi sự đâu ra đấy từ trước. Đêm trước ngày khai mạc đại hội anh hùng, hắn xuất kỳ bất ý ra tay điểm huyệt Không Văn, đem ông nhốt vào Đạt Ma viện, trong viện chất đủ thứ lưu hoàng, củi cỏ dễ cháy, sai bọn tâm phúc canh giữ, ép Không Trí phải làm theo ý hắn trong mọi việc, nếu không hắn sẽ ra lệnh phóng hỏa thiêu chết Không Văn. Nhưng rồi sự việc không như hắn toan tính, khi tất cả đã thất bại, hắn còn nước cờ cuối cùng, truyền hiệu lệnh phóng hỏa. Hắn tính rằng quần hùng và tăng chúng sẽ hốt hoảng lo cứu hỏa, bọn thủ hạ tâm phúc sẽ thừa cơ cứu hắn xuống núi. Không ngờ đại đội nhân mã của Dương Tiêu kéo đến núi Thiếu Thất từ mấy hôm trước, đã sai Hậu Thổ kỳ đào một đường hầm thông vào bên trong chùa Thiếu Lâm, vốn định để cứu Tạ Tốn, nào hay Tạ Tốn lại không được nhốt ở trong chùa. Người của Hậu Thổ kỳ tìm mãi không ra, nhân dịp đó đã xóa hết dấu tích mười sáu chữ sau lưng các pho tượng La Hán.

Sau khi Trương Vô Kỵ liên thủ với Chu Chỉ Nhược phá vỡ “Kim cương phục ma khuyên”, đến lúc Thành Côn lộ mặt ra, trở mặt với Không Trí, thì Triệu Mẫn và Dương Tiêu liền nhìn ra manh mối. Hai người bàn bạc, nhờ Phạm Dao chỉ huy Hồng Thủy, Hậu Thổ hai kỳ theo địa đạo mà chui vào chùa cứu Không Văn. Có điều là Thành Côn bố trí cực kỳ bí mật, độc địa, trong ngoài Đạt Ma viện chất nhiều lưu hoàng, dầu củi, chỉ một mồi lửa sẽ cháy bùng lên, khiến cho năm giáo đồ của Hậu Thổ kỳ bị chết thiêu. Phạm Dao và Nhan Viên hai người cố xông vào cứu Không Văn ra, song ba người cũng bị cháy sém cả râu tóc, nếu không có đường hầm thoát hiểm, chắc đã thành tro cả rồi. Đạt Ma viện và vài gian tăng xá lân cận bị cháy, may chưa lan sang mấy nơi yếu địa như Đại Hùng bảo điện, Tàng kinh các, La Hán đường.

Không Văn, Không Trí bàn nhau một lát, truyền pháp chỉ bắt tất cả đồng đảng của Thành Côn đem nhốt vào hậu điện chờ lệnh sau. Thành Côn ở chùa Thiếu Lâm đã lâu, kết nạp đồ đảng thật không phải ít, nhưng tên đầu sỏ đã bị bắt và trở nên một kẻ vô dụng, phương trượng thì thoát hiểm; bọn đồng đảng của Thành Côn thấy đại thế đã mất, không một tên nào dám kháng cự. Thủ tọa La Hán đường chỉ huy tăng chúng áp giải bọn đó, tên nào tên nấy đầu cúi gầm, ủ rũ đi xuống núi.

Trương Vô Kỵ tới bên cạnh Tạ Tốn, chỉ gọi được hai tiếng “Nghĩa phụ!” nước mắt đã ròng ròng. Tạ Tốn cười, nói:

– Hài nhi ngốc nghếch của ta, nghĩa phụ của con may được ba vị cao tăng điểm hóa, đại triệt đại ngộ, bao nhiêu tội lỗi một đời đã được hóa giải hết, con phải mừng cho ta chứ, sao lại khổ sở như thế? Ta phế bỏ võ công thì có gì đáng tiếc, chẳng lẽ còn giữ để làm điều xằng bậy hay sao?

Trương Vô Kỵ không biết nói gì, trong lòng vẫn đau đớn, lại thốt lên:

– Nghĩa phụ!

Tạ Tốn tới trước mặt Không Văn, quỳ xuống, nói:

– Đệ tử tội nghiệt thâm trọng, mong phương trượng cho ở lại đây, xuống tóc tu hành.

Không Văn chưa kịp trả lời, Độ Ách nói:

– Ngươi hãy lại đây, lão tăng nhận ngươi làm đồ đệ.

Tạ Tốn nói:

– Đệ tử không dám mong được phúc duyên như thế.

Tạ Tốn bái Không Văn làm thầy, sẽ là đệ tử hàng chữ “Viên”, còn bái Độ Ách làm thầy, thì sẽ ở vào hàng chữ “Không”, được xưng hô huynh đệ với Không Văn, Không Trí.

Độ Ách nói:

– Không cố nhiên là không, Viên cũng là không, ngã tướng với nhân tướng, nào có gì khác nhau!

Tạ Tốn ngẩn ra, lập tức hiểu ngay, sư phụ đệ tử, hàng trên hàng dưới, pháp danh thứ tự đối với nhà Phật đều là hư ảo, bèn đọc luôn câu kệ:

– “Sư phụ là không, đệ tử là không, vô tội vô nghiệp, vô đức vô công!”

Độ Ách cười ha hả, nói:

– Thiện tai, thiện tai! Ngươi trở thành môn hạ của ta, tên ngươi vẫn là Tạ Tốn, ngươi hiểu chưa?

Tạ Tốn đáp:

– Đệ tử hiểu rồi. Tạ Tốn hay cục phân, cũng đều là hư ảnh, cái thân còn là không, huống hồ cái danh?

Tạ Tốn văn võ toàn tài, bách gia chư tử đều đã học, vừa được Độ Ách điểm hóa, lập tức ngộ ra tinh nghĩa Phật gia, từ đó đi vào cửa Phật, cuối cùng sẽ trở thành một cao tăng đại đức.

Độ Ách nói:

– Đi thôi, đi thôi! Mới ngộ được đạo, đừng nhập vào ma chướng!

Lão tăng dắt tay Tạ Tốn, cùng Độ Nạn, Độ Kiếp thong thả đi xuống núi. Không Văn, Không Trí, Trương Vô Kỵ cùng mọi người đứng lên cúi mình tiễn biệt. Kim Mao Sư Vương ba mươi năm trước lừng danh giang hồ, gây ra bao nhiêu chuyện kinh thế hãi tục, hôm nay thân nhập cửa thiền, quần hùng không khỏi cảm thán. Trương Vô Kỵ vừa hoan hỉ, vừa bi thương.

Không Văn nói:

– Chư vị anh hùng quang lâm tệ tự, nói ra thật hổ thẹn, tệ tự có nội biến, thật đáng trách, việc tiếp đãi không được chu đáo. Chư vị ở bốn phương, hôm nay tụ hội nơi đây, chưa biết bao giờ mới có dịp tái ngộ, xin mời vào chùa tạm nghỉ.

Quần hùng cùng xuống núi, vào chùa. Chùa Thiếu Lâm bày tiệc chay thết đãi, lập đàn cầu kinh siêu độ cho những người không may bỏ mạng trong kỳ đại hội này. Quần hùng lần lượt tới bàn thờ thắp nhang ai điếu.

Đại sự xong xuôi, Trương Vô Kỵ trong lòng còn nhiều điều chưa rõ; Tạ Tốn rời bỏ đột ngột như thế, nhiều chuyện chàng chưa hỏi cho tường tận, nhưng nghĩ rằng những điều đó đều có liên quan đến Chu Chỉ Nhược. Nghĩ đến tình xưa, thôi thì cũng chẳng nên làm sáng tỏ mọi nghi vấn, để khỏi tổn hại thanh danh của nàng. Dùng bữa xong, chàng cùng cô bé Sử Hồng Thạch và các vị trưởng lão Cái Bang bàn thảo đại sự của Cái Bang ở sương phòng phía tây, chợt có giáo đồ tới báo:

– Giáo chủ, Trương tứ hiệp phái Võ Đang đến, có việc cần thương nghị.

Trương Vô Kỵ cả kinh, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ có chuyện gì xảy ra với thái sư phụ chăng?” Chàng rảo bước tới đại điện, vái chào Trương Tòng Khê, thấy ông thần sắc không khác lạ, mới yên tâm, hỏi:

– Thái sư phụ vẫn mạnh khỏe chứ ạ?

Trương Tòng Khê nói:

– Sư phụ lão nhân gia người vẫn khỏe. Ta ở núi Võ Đang nghe được tin hai vạn quân thiết kỵ Thát tử đang tiến về hướng chùa Thiếu Lâm, thấy tình hình rõ ràng sắp bất lợi cho đại hội anh hùng, bởi vậy ta gấp rút đi suốt ngày đêm tới đây báo tin.

Trương Vô Kỵ nói:

– Vậy mình cần cho lão phương trượng biết ngay.

Hai người tức thời đến hậu viện, bẩm với Không Văn. Không Văn trầm ngâm, nói:

– Việc này quá lớn, cần cộng nghị với quần hùng.

Bèn lệnh cho kéo chuông, tụ tập tất cả mọi người ở Đại Hùng bảo điện.

Quần hùng nghe tin, lập tức xôn xao bàn tán. Những người hăng hái nói:

– Nhân lúc quần hùng thiên hạ tề tựu ở đây, mình hãy xuống núi đánh cho chúng trở tay không kịp.

Những người lão thành trầm tĩnh thì nói:

– Quân Nguyên điều động binh mã đây đó là chuyện rất thường, chưa chắc đã đến đây đánh ta.

Trương Tòng Khê nói:

– Tại hạ biết tiếng Mông Cổ, chính tai nghe quan quân Thát tử ra lệnh, đúng là đem quân tới vây đánh chùa Thiếu Lâm.

Thời đó Mông Cổ chiếm cứ Trung nguyên đã hơn trăm năm, số người Hán biết tiếng Mông Cổ không phải là ít. Trương Tòng Khê thông minh đa trí, nghe hiểu nhiều thổ ngữ, nói tiếng Mông Cổ rất lưu loát.

Không Văn nói:

– Chư vị anh hùng, xem ra triều đình biết chúng ta tụ tập ở đây, đoán chừng gây khó dễ cho triều đình, nên điều binh đến trấn áp. Chúng ta ai ai cũng biết võ công, không sợ gì Thát tử, tục ngữ có câu “binh đến tướng ngăn, nước dâng đất chặn”, có gì đáng ngại…

Ông chưa dứt lời, nhiều người đã đứng dậy hoan hô, song Không Văn nói tiếp:

– Có điều chúng ta là hào sĩ giang hồ, chỉ quen đơn đả độc đấu, tỷ thí không phải chỉ dùng binh khí quyền cước, mà còn sử dụng cả nội công ám khí. Việc giao chiến bằng trường thương đại kích, lên ngựa xuống ngựa, hoàn toàn không phải là sở trường của chúng ta. Theo ý lão nạp, chư vị anh hùng nên giải tán ngay có hơn chăng?

Mọi người nhìn nhau, im lặng.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nếu chúng ta giải tán đi, một là bọn Thát tử sẽ tưởng chúng ta sợ chúng, khiến chúng hung hăng thêm; hai là các sư phụ trong chùa Thiếu Lâm sẽ ra sao?

Không Văn mỉm cười, nói:

– Quân Nguyên vào chùa, thấy toàn tăng nhân, chẳng có hào sĩ giang hồ nào cả, chắc sẽ chẳng làm gì được. Cái đó gọi là đến thì hăm hăm hở hở, đi thì như chó cụp đuôi.

Quần hùng biết sở dĩ Không Văn nói thế chỉ vì hảo ý với mọi người. Đại hội anh hùng kỳ này là do chùa Thiếu Lâm triệu tập, không muốn vì thế mà gây họa, khiến quần hùng phải đổ máu trên núi Thiếu Thất này. Nhưng quần hùng đều là những người có nhiệt huyết, gặp địch lẽ nào chịu rút lui? Huống hồ triều đình đã cử đại quân đến, hẳn sẽ không vì bắt hụt mà yên ổn rút về, thế nào cũng quấy phá chùa Thiếu Lâm, không chừng còn giết sạch, bắt hết tăng nhân, phóng hỏa đốt chùa. Quân Nguyên vốn bạo ngược, giết người đốt nhà đã thành chuyện cơm bữa.

Dương Tiêu nói:

– Quân Mông Cổ bạo ngược, phàm người Hán chúng ta đều phải có trách nhiệm chống địch. Theo ý tại hạ, chúng ta nên tìm cách dụ cho bọn Thát tử đi đường khác, tìm chỗ khác đánh cho chúng một trận, để ngôi chùa cổ kính này khỏi bị họa binh lửa.

Quần hùng ồn ào tán thành:

– Đúng là như thế!

Còn đang nghị luận, bỗng ngoài cổng chùa có tiếng vó ngựa dồn dập, hai hán tử phóng ngựa tới. Họ được tri khách tăng dẫn vào trong điện. Quần hùng nhìn trang phục của họ, biết ngay là giáo đồ Minh giáo. Hai người tới trước mặt Trương Vô Kỵ cúi mình hành lễ, một người nói:

– Khải bẩm giáo chủ, đội tiên phong của Thát tử năm ngàn quân đang tiến tới chùa Thiếu Lâm, nói là chư vị sư phụ trong chùa tụ tập làm phản, nên sẽ san bằng Thiếu Lâm tự. Hễ ai trọc… trọc… Không Văn mỉm cười:

– Ngươi định nói là hòa thượng trọc đầu phải không? Thì cứ nói, đừng ngại.

Người kia nói tiếp:

– Dọc đường có nhiều vị đại hòa thượng đã bị Thát tử giết hại. Bọn Thát tử bảo rằng “Bọn hòa thượng trọc đầu đều xấu xa, bọn để tóc cũng không tốt, thấy kẻ nào mang binh khí cứ việc giết luôn”.

Nhiều người nhao nhao lên, nói:

– Không sống mái một phen với bọn Thát tử thì không đáng là con cháu Hoàng Đế.

Bấy giờ nhà Tống đã mất ngôi gần trăm năm, nhưng anh hùng lục lâm trước sau vẫn coi quan binh Mông Cổ là bọn thiểu số mọi rợ, không chịu sự quản thúc của chúng. Lúc này nghe tin quân Mông Cổ kéo đến chém giết, thì ai nấy nhiệt huyết bừng bừng, đều muốn vùng lên đánh giặc.

Trương Vô Kỵ dõng dạc nói:

– Chư vị anh hùng, hôm nay chính là lúc giết giặc đền nợ nước của nam tử hán. Đại hội anh hùng Thiếu Lâm tự từ nay nổi danh thiên thu!

Trong đại điện tiếng hoan hô vang động hồi lâu.

Trương Vô Kỵ nói tiếp:

– Chúng ta có muốn rút lui cho yên lành cũng không được nữa rồi, vậy xin Không Văn phương trượng đứng ra chỉ huy, Minh giáo chúng tôi trên dưới xin được vâng lệnh.

Không Văn nói:

– Sao Trương giáo chủ lại nói như vậy? Tăng chúng tệ phái tuy từng học quyền cước, nhưng hành quân đánh trận thì chẳng biết gì. Mấy năm qua Minh giáo gây dựng đại sự nghiệp, người trên giang hồ ai mà không biết? Chỉ giáo chúng Minh giáo mới đủ sức kháng cự bọn Thát tử. Chúng tôi xin đề cử Trương giáo chủ đứng ra chỉ huy hào kiệt thiên hạ chống lại bọn Thát tử.

Trương Vô Kỵ định từ chối, thì quần hùng đã hò reo ủng hộ. Trương Vô Kỵ tuy tuổi còn trẻ, chưa đủ để người ta tuân phục; song võ công cao cường, mới rồi đấu với Thiếu Lâm tam tăng, người người đều thấy; hơn nữa, các lộ nhân mã của Minh giáo, như Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, Chu Nguyên Chương… nổi lên tại khắp vùng Hoài Tứ, Dự Ngạc, đánh thành chiếm đất, thanh thế lên mạnh. Hôm qua Ngũ Hành kỳ đại hiển tài nghệ ở sân bãi, xem ra khả năng chiến đấu đông người của họ không môn phái nào sánh nổi. Hào sĩ các môn phái, bang hội đều nghĩ rằng trừ Minh giáo ra, quả thật không ai đủ tài năng đảm nhiệm việc lớn này.

Trương Vô Kỵ nói:

– Việc điều binh khiển tướng không phải là sở trường của tại hạ, xin chư vị tiến cử người hiền năng khác thì hơn.

Chàng đang khiêm nhường, bỗng nghe dưới chân núi nhiều tiếng la hét nổi lên. Hai nhà sư Thiếu Lâm chạy vào đại điện báo tin:

– Khải bẩm phương trượng, quân Mông Cổ đang đánh lên chùa.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nhuệ Kim kỳ, Hồng Thủy kỳ, hai kỳ ra chặn địch trước. Chu Điên tiên sinh, Thiết Quan đạo trưởng, mỗi vị giúp cho một kỳ.

Chu Điên và Thiết Quan đạo nhân vâng lệnh chạy ra. Lúc này tình thế khẩn cấp, không cho phép Trương Vô Kỵ khước từ, chàng chỉ còn cách tiếp tục ra lệnh:

– Thuyết Bất Đắc đại sư, đại sư hãy mang thánh hỏa lệnh đi các vùng lân cận điều động lực lượng bản giáo đến đây cứu viện.

Thuyết Bất Đắc nhận lệnh đi liền.

Quần hùng trong đại điện nghe tin quân Nguyên đang đánh lên chùa, ai nấy rút binh khí, ào ào xông ra.

Dương Tiêu nói nhỏ:

– Giáo chủ, nếu giáo chủ không ra lệnh, mọi người sẽ loạn cả lên, như thế thì bại trận mất.

Trương Vô Kỵ gật đầu, ra khỏi điện, tới sơn đình ở lưng núi quan sát, thấy hơn một ngàn quân tiên phong của Mông Cổ đánh lên lưng núi đã bị Nhuệ Kim kỳ dùng nỏ cứng giáo dài đánh bật xuống. Nhìn xa xa, từng tốp từng tốp quân Nguyên đang bò lên như rắn rất có hàng lối. Hiện giờ đã xa hẳn cái thời Thành Cát Tư Hãn và Bạt Đô uy chấn thiên hạ, song quân thiết kỵ Mông Cổ được huấn luyện đúng cách, vẫn là đội quân tinh nhuệ có một không hai trên thế gian.

Bỗng nghe phía bên trái nhiều tiếng kêu la ầm ỹ, khá đông ni cô và một số nam nhân chạy lên núi, chính là người của phái Nga Mi, chắc hẳn khi xuống núi đã gặp quân Mông Cổ đánh đuổi nên phải chạy ngược trở lại. Chừng mười mấy hán tử khiêng một cái cáng, bị quân Mông Cổ vây chặt; Chu Chỉ Nhược chỉ huy bọn Tĩnh Huyền, Tĩnh Chiếu mấy phen cố xông vào, tuy giết được vài chục quan binh Mông Cổ, song vẫn không cứu được đồng môn đang bị vây hãm.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hỏng rồi! Người nằm trên cáng chắc là Tống sư ca!” Bèn gọi to:

– Hồng Thủy kỳ, Liệt Hỏa kỳ yểm hộ, Dương Phạm nhị sứ, Vi huynh, hãy theo ta cứu người!

Rồi phóng xuống trước. Hai tên lính Mông Cổ cầm mâu xông tới. Trương Vô Kỵ chộp một cây mâu, vận kình hất một cái, cả hai tên lính lăn xuống núi. Trương Vô Kỵ sử dụng hai cây mâu, xông vào quân địch như rồng ra biển. Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc chạy theo sau, quân Mông Cổ chạy tán loạn, bỏ tốp người của phái Nga Mi ở lại phía sau. Phạm Dao đấm một quyền vỡ mặt một tên thập phu trưởng của quân Nguyên, cướp lấy người bị thương nằm trên cáng, quay đầu chạy lên núi.

Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược người vấy máu, lại xông vào trận địa quân Nguyên, bèn gọi:

– Chỉ Nhược, Chỉ Nhược, Tống sư ca đã cứu được rồi.

Chu Chỉ Nhược như không nghe thấy, vẫn múa trường tiên đánh về phía trước, nhưng vì sơn đạo nhỏ hẹp, lại đông người, nên nhất thời chưa vượt tới được.

Trương Vô Kỵ thấy còn hai đệ tử phái Nga Mi khiêng một cái cáng khác, ở trong vòng vây quân Nguyên, đang cố vung đao tử chiến, thì nghĩ thầm: “Xem chừng trên cái cáng kia mới là Tống sư ca”. Chàng nhún mình nhảy tới, hai thanh trường mâu chống lên vách núi, dùng tay thay chân, lướt nhanh tới như đi bằng cà kheo. Còn cách hơn một trượng, thì hai đệ tử phái Nga Mi kẻ trúng đao, người trúng tên, đều ngã lăn xuống núi.

Trương Vô Kỵ phi thân tới, tay trái giơ trường mâu ra đỡ không để cái cáng rơi xuống, thấy người nằm trên cáng quấn đầy vải trắng, chỉ lộ khuôn mặt, chính là Tống Thanh Thư. Trương Vô Kỵ quẳng cây mâu, ôm hắn lên tay, thấy thân thể y sao nặng dị thường, bên trong lớp vải thấy cứng ngắc, tựa hồ bọc theo vật gì khác. Chàng không kịp nghĩ, chỉ sợ làm xê dịch những chỗ xương gãy, vội lạng trái né phải, tránh đao kiếm của quân Nguyên, ôm Tống Thanh Thư chạy lên núi.

Lúc đó, Đường Văn Lượng và Tông Duy Hiệp phái Không Động cùng xông tới, cầm kiếm yểm hộ hai bên cho chàng. Quân Nguyên bị kiếm đâm chém giạt ra. Trương Vô Kỵ bế Tống Thanh Thư lên núi bình an.

Vài trăm quân Nguyên dàn đội hình xông lên. Bành Oánh Ngọc hô to:

– Liệt Hỏa kỳ ra tay!

Giáo chúng Liệt Hỏa kỳ dùng ống phun dầu thô rồi bắn hỏa tiễn, lửa bốc cháy đùng đùng, hơn hai trăm tên địch đi trước biến thành những quả cầu lửa lăn xuống núi. Ở mé bên kia, Hồng Thủy kỳ cũng phun nước độc xuống, hàng trăm quân Nguyên bị trúng, chết thật thảm khốc. Tên vạn phu trưởng quân Nguyên hạ lệnh thu binh, đội tiên phong của địch đổi thành đội chặn hậu, giơ cung bắn chặn, chậm rãi rút xuống núi. Bành Oánh Ngọc than:

– Quân Mông Cổ bại trận mà không loạn, đúng là tinh binh trong thiên hạ.

Quân địch rút xuống chân núi thì tản ra thành hình nan quạt, xem chừng nhất thời chưa dám tái chiến.

Trương Vô Kỵ hạ lệnh:

– Nhuệ Kim, Hồng Thủy, Liệt Hỏa ba kỳ trấn giữ các nơi hiểm yếu. Cự Mộc, Hậu Thổ hai kỳ mau chặt cây, đào đất, dựng rào đắp lũy đề phòng quân địch đánh lên.

Các chưởng kỳ sứ của Ngũ Hành kỳ nhất tề tuân lệnh, chỉ huy thuộc hạ bố phòng.

Quần hùng thoạt đầu cứ tưởng nếu không giết sạch quân Nguyên, chỉ tự bảo vệ thân mình, thì chẳng có gì khó. Nhưng sau một trận giao phong, mới biết việc bày binh bố trận khác hẳn chuyện tỷ thí võ nghệ một chọi một. Khi hàng ngàn hàng vạn người ào lên tấn công như nước vỡ bờ, người võ công có cao cường như Chu Chỉ Nhược, lúc ấy cũng chẳng có cách gì thi thố tài năng. Bốn phía chỗ nào cũng tua tủa đao thương kiếm kích, đâm chém loạn xạ, bao nhiêu phép tắc hóa giải chiêu số, nội công ngoại kình từng học đều không thể vận dụng. Nếu không nhờ Ngũ Hành kỳ của Minh giáo dùng trận pháp ngăn chặn trận pháp của địch, thì lúc này núi Thiếu Thất chắc đã thê thảm hết chỗ nói, chùa Thiếu Lâm chắc đã bị đốt cháy thành tro rồi.

Mặc dù tăng chúng Thiếu Lâm có kỷ luật, từng đội tăng nhân trẻ tuổi cầm giới đao, thiền trượng, dưới quyền chỉ huy của các tăng nhân đứng tuổi, chia nhau trấn giữ các nơi hiểm yếu, song quả bất địch chúng, làm sao chống đỡ nổi đòn tấn công của hai vạn tinh binh Mông Cổ? Đến khi quân Nguyên lui binh, quần hùng mới nhao nhao bàn luận, hiểu vì sao tiền triều có rất nhiều anh hùng hào kiệt võ công cao cường, nhưng lại để giang sơn gấm vóc rơi vào tay bọn Thát tử.

*

*      *

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng đặt Tống Thanh Thư xuống đất, thăm mũi, thấy vẫn thở, quay đầu định gọi Chu Chỉ Nhược, song không thấy nàng đâu, bèn hỏi:

– Tống phu nhân đâu rồi?

Mọi người vừa rồi lo đánh trả quân Nguyên, không ai để ý xem Chu Chỉ Nhược đi đâu. Các đệ tử phái Nga Mi lúc này cũng bớt mấy phần căm hận đối với Minh giáo, đều nói họ không thấy vị chưởng môn đâu cả. Trương Vô Kỵ sợ Tống Thanh Thư trong cơn hỗn loạn có thể bị thương, bèn cởi các băng vải quấn người hắn ra xem sao.

Trên người hắn quấn ba lớp vải trắng, lúc cởi đến lớp thứ ba, thì loảng xoảng rơi ra bốn đoạn binh khí gãy.

Trương Vô Kỵ cả kinh, kêu lên:

– Đao Đồ Long, kiếm Ỷ Thiên!

Mọi người cùng ùa tới, thấy hai món binh khí cực kỳ lợi hại kia đều đã gãy đôi.

Trương Vô Kỵ cầm một nửa thanh đao Đồ Long lên xem, thấy nó rất nặng, thì trong lòng trào dâng bao cảm xúc lẫn lộn. Cha mẹ chàng vì thanh đao này mà bỏ mạng, ngót hai mươi năm sóng gió liên miên trên giang hồ cũng là vì nó cả. Quần hùng tụ tập ở chùa Thiếu Lâm lần này, cũng là vì thanh bảo đao. Đến lúc bảo đao xuất hiện, thì nó đã gãy, hóa thành vô dụng. Chàng cầm cây đao gãy, thấy chỗ gãy có lỗ hổng, có thể giấu vật gì đó bên trong. Kiếm Ỷ Thiên cũng y như thế. Cả đao lẫn kiếm đều có chỗ rỗng, nếu bên trong giấu vật gì, thì vật đó đã bị người ta lấy mất rồi.

Dương Tiêu thở dài, nói:

– Võ công kinh người của Chu cô nương thì ra là từ trong đao kiếm này mà nên.

Trương Vô Kỵ thấy đao kiếm gãy như thế, thì hiểu ngay: cái đêm trên hòn đảo nhỏ, đao kiếm cùng bị mất, chính là bị Chu Chỉ Nhược lấy trộm. Không biết nàng dùng thủ đoạn gì mà đuổi được Triệu Mẫn, rạch mặt Ân Ly, rồi đem đao kiếm chém vào nhau, khiến cả hai thứ binh khí sắc bén nhất thiên hạ đều bị hủy, nàng ta đã lấy bí kíp võ công giấu trong đao kiếm ra mà bí mật tu luyện.

Chàng càng nghĩ càng hiểu rõ: “Phải rồi, hồi ấy trên hòn đảo nhỏ ta dùng “Cửu dương thần công” trừ độc cho nàng, trong cơ thể nàng cứ có một luồng nội lực quái dị ngầm chống lại ta, càng về sau luồng nội lực ấy càng mạnh, chứng tỏ nội công của nàng được tu luyện ngày càng tăng tiến. Ôi, nàng muốn luyện gấp cho xong, không chịu tập luyện nội công một cách căn cơ, chỉ luyện toàn công phu âm độc, nên cuối cùng không thể đạt tới cảnh giới thượng thừa của võ học. Nàng tuy đánh bại được Du nhị bá và Ân lục thúc, song chỉ là nhờ chiêu số võ công quái dị mà thắng, giống như ba sứ giả Ba Tư thắng ta lần đầu vậy. Võ công chân chính của Chu Chỉ Nhược so với hai vị Du, Ân thì còn thua xa, mai sau còn giao đấu ắt sẽ bỏ mạng dưới tay Võ Đang nhị hiệp”.

Chàng còn đang ngẫm nghĩ, thì chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ là Ngô Kình Thảo bước tới, nói:

– Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ vốn xuất thân thợ rèn, từng học qua phép rèn đao kiếm; để thuộc hạ làm thử, không chừng có thể nối lại bảo đao bảo kiếm như cũ.

Dương Tiêu vui mừng nói:

– Thuật rèn kiếm của Ngô kỳ sứ thiên hạ vô song, xin giáo chủ cứ để y thử xem sao.

Trương Vô Kỵ gật đầu, nói:

– Hai thứ vũ khí sắc bén này bị gãy, quả thật đáng tiếc. Ngô kỳ sứ nối lại được thì hay lắm.

Ngô Kình Thảo quay sang nói với chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa kỳ Tân Nhiên:

– Rèn đao đúc kiếm, cốt yếu là ở sức lửa, vậy phải nhờ Tân huynh giúp cho một tay. Tình hình này, xem ra bọn Thát tử chưa đánh lên núi đâu, chúng ta bắt tay làm luôn được chứ?

Tân Nhiên cười đáp:

– Gì chứ nhóm củi đốt lửa là sở trường của đệ mà.

Thế là hai người chỉ huy thuộc hạ đắp một cái lò cao, đường kính miệng lò chưa đầy một thước. Ngô Kình Thảo lấy nửa thanh đao Đồ Long đặt vào trong lò, chỗ gãy ở gần miệng lò. Nhiên liệu của Liệt Hỏa kỳ đã chuẩn bị sẵn, chẳng mấy chốc lửa cháy đùng đùng. Ngô Kình Thảo đã mất cánh tay phải, chỉ còn cánh tay trái. Y đặt bên cạnh mười mấy loại binh khí khác nhau, mắt chăm chú theo dõi lửa trong lò, mỗi khi thấy lửa biến màu, lại ném một thứ binh khí vào lò để thử sức nóng. Đến lúc lửa từ màu xanh biến thành màu trắng, y tay trái cầm kìm, kẹp nửa thanh đao Đồ Long còn lại mà chắp nối với đầu bên kia để nung chảy. Nửa thân trên y để trần, tàn lửa bắn văng tung tóe, song y như không cảm thấy, chỉ chăm chú vào công việc. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Rèn đao kiếm tuy là nhỏ, song phải có nhiều kiến thức, có tài nghệ lớn mới làm nổi. Loại thợ rèn tầm thường, thì chỉ chịu nóng không thôi cũng chẳng nổi”.

Bỗng nghe “hịch hịch” hai tiếng, hai người kéo bễ của Liệt Hỏa kỳ ngã lăn ra bất tỉnh. Tân Nhiên và phó kỳ sứ liền chạy lại thay thế, tự tay kéo bễ. Hai người có nội công khá, sử kình quạt gió vào lò đều và mạnh, lửa bốc lên cao cả trượng, trông rất đẹp mắt.

Chừng tàn nửa nén nhang, Ngô Kình Thảo bỗng kêu lên:

– Ái chà!

Rồi nhảy về phía sau, mặt đầy vẻ thất vọng. Mọi người kinh ngạc nhìn kỹ, thấy cây kìm trong tay y đã méo mó biến dạng vì sức nóng, trong khi thanh đao Đồ Long vẫn nguyên xi. Ngô Kình Thảo lập tức, nói:

– Thuộc hạ bất tài. Thanh đao Đồ Long này quả danh bất hư truyền.

Tân Nhiên và viên phó kỳ sứ tạm ngưng kéo bễ, lùi sang một bên. Hai người áo quần ướt sũng mồ hôi, tưởng như từ dưới nước leo lên không bằng.

Triệu Mẫn bỗng nói:

– Vô Kỵ ca ca, thanh đao Đồ Long chặt không đứt thánh hỏa lệnh, phải vậy không?

Trương Vô Kỵ nói:

– Đúng rồi!

Có sáu tấm thánh hỏa lệnh, chàng đã giao một tấm cho Thuyết Bất Đắc mang đi điều binh, chỉ còn năm, bèn lấy ra, đưa cho Ngô Kình Thảo, nói:

– Đao kiếm không hàn lại được thì cũng chẳng sao. Thánh hỏa lệnh là bảo vật của bổn giáo, đừng để bị hủy hoại.

Ngô Kình Thảo cúi mình tiếp nhận, nói:

– Xin vâng lệnh!

Y thấy năm tấm thánh hỏa lệnh không phải bằng vàng hoặc bằng sắt, cứng rắn vô cùng, nặng chình chịch, nên cúi đầu ngẫm nghĩ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nếu thấy không ăn chắc, thì đừng mạo hiểm.

Ngô Kình Thảo không trả lời, hồi lâu mới như bừng tỉnh, nói:

– Thuộc hạ có gì kém cỏi, thì xin giáo chủ lượng thứ. Thánh hỏa lệnh này là bạch kim huyền thiết trộn với bột kim cương đúc nên, sức lửa cực nóng cũng không nung chảy được. Thuộc hạ chỉ hồ nghi, không biết khi xưa làm sao họ đúc được, nên nhất thời chưa nghĩ ra thôi.

Triệu Mẫn liếc Trương Vô Kỵ, mỉm cười:

– Sau này giáo chủ có dịp sang Ba Tư gặp một nhân vật quan trọng, lúc ấy Ngô huynh hãy tháp tùng sang đó mà hỏi các tay thợ đúc tài giỏi của họ.

Trương Vô Kỵ ngượng ngùng nói:

– Ta sang Ba Tư để làm gì?

Triệu Mẫn mỉm cười:

– Để làm gì thì tự biết.

Rồi nàng quay sang nói với Ngô Kình Thảo:

– Ngô huynh xem, trên thánh hỏa lệnh còn có khắc hoa văn và chữ nữa. Sắc bén như thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên mà không làm cho tấm thánh hỏa lệnh suy suyển chút nào, thế thì họ làm cách gì để khắc được các đường nét văn tự ấy cơ chứ?

Ngô Kình Thảo nói:

– Muốn khắc các đường nét văn tự thì không khó. Chỉ cần dùng sáp trắng phủ lên trên thánh hỏa lệnh, khắc hoa văn và các chữ lên trên sáp, đổ nước cường toan vào để vài tháng sẽ ăn mòn. Sau đó cạo sáp đi, hình và chữ sẽ hiện ra. Tiểu nhân chỉ không hiểu cách nung đúc của họ mà thôi.

Tân Nhiên nói:

– Này, có định làm không đây?

Ngô Kình Thảo nói với Trương Vô Kỵ:

– Giáo chủ đừng lo. Liệt hỏa của Tân huynh tuy ghê gớm, nhưng không làm suy suyển nổi thánh hỏa lệnh đâu.

Tân Nhiên cảm thấy lo lo, nói:

– Đệ chỉ lo hết sức quạt lửa, còn chuyện làm hỏng thánh vật của bản giáo, thì đệ không chịu tội đâu đấy.

Ngô Kình Thảo mỉm cười, nói:

– Chỉ sợ huynh không đủ sức quạt lửa, còn mọi việc có gì đệ chịu hết.

Rồi lấy hai tấm thánh hỏa lệnh kẹp nửa thanh đao Đồ Long, sau đó dùng cây kim mới kẹp hai tấm thánh hỏa lệnh mà đưa bảo đao vào trong lò nung lần nữa.

Lửa bốc càng lúc càng cao, nung đến hơn nửa canh giờ, chỉ thấy Ngô Kình Thảo, Tân Nhiên và phó kỳ sứ của Liệt Hỏa kỳ bị sức nóng của lò lửa táp lại, trông thần sắc đã rất mệt mỏi, uể oải, xem chừng không thể chịu đựng thêm.

Thiết Quan đạo nhân Trương Trung đưa mắt ra hiệu cho Chu Điên, phất tay trái một cái, cả hai cùng chạy vào kéo bễ thay cho Tân Nhiên và phó kỳ sứ của Liệt Hỏa kỳ. Trương, Chu hai người nội lực so với hai người kia cao hơn hẳn, cho nên lửa trong lò bốc thẳng lên thành luồng màu trắng.

Ngô Kình Thảo bỗng quát to:

– Cố huynh, ra tay!

Phó kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ tay cầm một con dao nhọn, chạy tới bên lò, loáng một vệt trắng, dùng con dao ấy đâm luôn vào ngực Ngô Kình Thảo. Quần hùng đứng chung quanh không khỏi thất sắc, cùng kêu lên. Máu từ bộ ngực trần của Ngô Kình Thảo phun tung tóe vào thanh đao Đồ Long trong lò, gặp nóng lập tức hóa thành khói xanh khét lẹt. Ngô Kình Thảo reo to:

– Thành rồi!

Y lùi mấy bước, ngồi bệt xuống đất, tay phải cầm một thanh đại đao đen nặng. Quả nhiên hai đoạn của thanh đao Đồ Long đã liền lại với nhau.

Mọi người bây giờ mới biết, thợ giỏi luyện đao kiếm mà không thành, thường thường phải nhỏ máu vào. Thời cổ vợ chồng Can Tương, Mạc Tà thậm chí phải nhảy vào lò, mới đúc nên bảo kiếm vô song. Ngô Kình Thảo làm thế, chính là bắt chước các nghệ nhân lớn thời cổ.

Trương Vô Kỵ vội đỡ Ngô Kình Thảo lên, xem xét vết thương, thấy dao đâm không sâu, không đáng ngại; bèn lấy thuốc rịt vào, băng lại, nói:

– Ngô huynh hà tất phải làm như thế? Đao này hàn được hay không chẳng quan trọng, đâu đáng để Ngô huynh chịu khổ như vậy?

Ngô Kình Thảo nói:

– Vết thương nhỏ ngoài da thịt, đâu có đáng để giáo chủ phải bận tâm.

Y đứng dậy, cầm thanh đao Đồ Long lên ngắm, thấy liền lại không một dấu vết, chỉ lờ mờ lằn máu nhỏ, thì vô cùng đắc ý.

Trương Vô Kỵ xem lại hai tấm thánh hỏa lệnh bị nung trong lò lửa, thấy quả nhiên không suy tổn mảy may. Chàng cầm lấy thanh đao Đồ Long chém một cái vào hai cây trường mâu cướp được của quân Nguyên, “xoẹt” một tiếng nhỏ, trường mâu bị chặt đứt liền, đúng là chém sắt như bùn.

Quần hùng reo hò tán thưởng:

– Đao thế mới là đao!

Ngô Kình Thảo cầm hai nửa thanh kiếm Ỷ Thiên lên, nghĩ đến chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ Trang Tranh cùng mấy chục huynh đệ đã bỏ mạng bởi lưỡi kiếm này, thì không nhịn nổi, ứa nước mắt, nói:

– Bẩm giáo chủ, thanh kiếm này đã sát hại Trang đại ca, giết hại không ít huynh đệ của bản giáo, Ngô Kình Thảo này hận nó tận xương tủy, đành để giáo chủ trị tội chứ không muốn nối nó lại.

Nói đoạn khóc òa lên.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đó là nghĩa khí của Ngô huynh, đâu có tội gì?

Chàng cầm hai khúc kiếm gãy, đến trước mặt Tĩnh Huyền phái Nga Mi, nói:

– Kiếm này vốn là của quý phái, vậy xin gửi sư thái để chuyển giao lại cho Chu… cho Tống phu nhân.

Tĩnh Huyền lẳng lặng cầm hai khúc kiếm gãy.

Trương Vô Kỵ cầm thanh đao Đồ Long, nghĩ một chút, rồi nói với Không Văn:

– Phương trượng, thanh đao này là do nghĩa phụ tại hạ lấy được, hiện giờ ông đã quy y tam bảo, thuộc về phái Thiếu Lâm, vậy đao này để phái Thiếu Lâm chấp chưởng.

Không Văn xua tay lia lịa:

– Thanh đao này đã mấy lần đổi chủ, cuối cùng chính Trương giáo chủ cướp được từ đám thiên binh vạn mã, ai ai cũng chứng kiến, lại do Ngô đại ca của quý giáo phục nguyên như cũ. Huống hồ hôm nay anh hùng thiên hạ đều suy cử Trương giáo chủ làm võ lâm chí tôn, luận tài luận đức, luận cả cội nguồn, danh vị, thanh đao này phải do Trương giáo chủ chưởng quản thì mới hợp với thiên kinh địa nghĩa.

Quần hùng nhất tề phụ họa, nói:

– Mọi người đều mong thế, Trương giáo chủ xin đừng từ chối.

Trương Vô Kỵ đành giữ thanh đao, nghĩ thầm: “Nếu như nhờ có thanh đao này mà hiệu lệnh được hào kiệt võ lâm thiên hạ, chung sức đánh đuổi bọn Thát tử, thì đấy chính là đại sự trước nhất phải làm”. Chỉ nghe mọi người nhao nhao nói:

– Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng!

Tiếp theo còn hai câu nữa là Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?” thì không ai nhắc đến, vì thấy thanh kiếm đã gãy, không thể nối lại được nữa.

Người trong Nhuệ Kim kỳ của Minh giáo căm hận kiếm Ỷ Thiên, giờ thấy thanh đao Đồ Long đã được phục hồi như xưa, còn kiếm Ỷ Thiên chỉ là hai khúc kiếm gãy, thì ai nấy đều hả dạ.

*

*      *

Mọi người bận rộn cả nửa ngày, đều đã đói bụng. Ngũ Hành kỳ của Minh giáo cùng một nửa tăng chúng Thiếu Lâm chia nhau trấn giữ các nơi hiểm yếu, số còn lại lên chùa dùng cơm chay.

Trời sắp tối, Trương Vô Kỵ leo lên một cây cao, nhìn xuống chân núi, thấy quân Nguyên tụm lại thành từng đám, nổi lửa nấu ăn. Chàng nhảy xuống đất, nói với Vi Nhất Tiếu:

– Vi huynh, sau khi trời tối hẳn, nhờ Vi huynh đi do thám một chuyến, xem đêm nay địch có tấn công hay không?

Vi Nhất Tiếu nhận lệnh ra đi.

Dương Tiêu nói:

– Giáo chủ, thuộc hạ thấy bọn Thát tử ở mặt trước đã thua một trận, đêm nay chắc chúng không tấn công lần nữa, có phòng bị là đề phòng địch tập kích ở mặt sau.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đúng thế. Nhờ Dương tả sứ và Phạm hữu sứ ở đây trấn thủ, bản nhân ra sau núi xem thế nào.

Triệu Mẫn nói:

– Cho muội theo với.

Hai người tới ngọn núi từng nhốt Tạ Tốn, nhìn xuống đằng sau núi Thiếu Thất, không thấy động tĩnh gì. Trương Vô Kỵ xoa xoa ba cây tùng đổ, nhìn xuống cửa địa lao đen ngòm, nhớ lại trận kịch chiến hôm nay, thực là muôn phần hung hiểm. Đột nhiên chàng nhớ ra một chuyện, nghĩ thầm: “Nghĩa phụ bảo ta nhìn vách địa lao, chút nữa thì quên mất”, bèn nói:

– Muội ở trên này canh chừng, ta xuống dưới địa lao xem thế nào.

Chàng nhảy xuống địa lao, lấy đồ đánh lửa lên, lúc này trong hầm đá, nước đã rút, chỉ còn lõm bõm dưới chân. Cả bốn bức vách đều khắc hình vẽ bằng cách dùng đá nhọn mà vạch, đường nét rất đơn giản, song thần thái rất sinh động. Bức vẽ thứ nhất trên vách phía đông, vẽ ba thiếu nữ, một nàng nằm dưới đất, một nàng quỳ bên cạnh săn sóc, còn nàng thứ ba thò tay vào bọc của người đang quỳ, bên cạnh đề hai chữ “Trộm thuốc”.

Bức vẽ thứ hai trên vách phía nam, vẽ một chiếc thuyền, một thiếu nữ quẳng một thiếu nữ khác lên thuyền, bên cạnh đề hai chữ “Đuổi đi”. Trương Vô Kỵ vã mồ hôi, nghĩ thầm: “Hóa ra đúng như thế thật. Chỉ Nhược thừa lúc Mẫn muội đang săn sóc cho biểu muội, đã lấy trộm ‘Thập hương nhuyễn cân tán” trong bọc của nàng, bỏ vào đồ ăn thức uống, sau đó ném Triệu Mẫn lên hải thuyền Ba Tư, buộc họ phải chạy đi. Tại sao Chu Chỉ Nhược lại không giết Triệu Mẫn nhỉ? Ồ, nếu giết Triệu Mẫn, không hủy được thi thể của Triệu Mẫn, thì làm sao có thể giá họa cho nàng, như vậy, biểu muội bị hại cũng chính là bởi tay Chu Chỉ Nhược”.

Ở góc trái bên dưới còn vẽ thêm hai nam nhân, một ngủ rất say, một người tóc dài dỏng tai nghe ngóng. Trương Vô Kỵ thầm kinh ngạc: “Thì ra Chu Chỉ Nhược làm những việc thương thiên hại lý ấy, nghĩa phụ đều nghe biết cả. Lão nhân gia công phu hàm dưỡng thật cao siêu, hồi ở trên đảo không để lộ ra một tí gì. Đúng rồi, bấy giờ mình và nghĩa phụ bị trúng “Thập hương nhuyễn cân tán”, tính mạng ở trong tay Chu Chỉ Nhược, thảo nào nghĩa phụ cứ đổ riệt cho Triệu Mẫn, thật là khôn ngoan vô cùng. Ông biết ta ngờ nghệch thật thà, nếu cho ta biết chân tướng sự việc, thể nào ta cũng sẽ để lộ bí mật trong lời lẽ cử chỉ”.

Bức vẽ này vương vãi máu me, chính là nơi Tạ Tốn và Thành Côn giao đấu, vết máu bắn vào khiến cảnh tượng thêm phần thê lương đáng sợ.

Bức vẽ thứ ba trên vách phía tây, vẽ Tạ Tốn đang ngồi, Chu Chỉ Nhược đứng sau lưng ông giơ tay đánh lén, từ bên ngoài có một đám đệ tử Cái Bang xông vào. Tình cảnh này y hệt như tuồng tích mà Triệu Mẫn đã sai người trình diễn trong đám rước ở Đại Đô hồi trước.

Đang xem thì cây đuốc trên tay cháy hết, chàng gọi:

– Mẫn muội, mang cho ta cây đuốc xuống đây!

Triệu Mẫn châm một cây đuốc, nhảy xuống địa lao, vừa nhìn thấy mấy bức vẽ thì hiểu liền.

Bức vẽ thứ tư vẽ mấy hán tử bắt Tạ Tốn dẫn đi, xa xa có một thiếu nữ nấp sau gốc cây nhìn trộm. Bốn bức vẽ bút pháp tài tình, nhưng trừ chính Tạ Tốn ra, diện mạo của những người khác đều rất mơ hồ, không thể nhận biết thiếu nữ là ai. Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ một chút, hiểu vì sao: “Khi nghĩa phụ bị hỏng mắt, ngay cả ta còn chưa ra đời, ông nhận biết ta, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược chỉ toàn nhờ giọng nói, chứ đâu biết diện mạo thế nào mà vẽ được”. Chàng chỉ vào thiếu nữ nấp sau cây, hỏi:

– Đây là muội, hay là Chu cô nương?

Triệu Mẫn đáp:

– Là muội đấy. Khi Thành Côn đến tổng đàn Cái Bang cướp Tạ đại hiệp đi, sai người mang về nhốt ở chùa Thiếu Lâm, thì chính hắn đã vẽ các ký hiệu Minh giáo dọc đường, khiến chàng chạy loanh quanh một vòng dài; mấy phen muội tính cướp lại Tạ đại hiệp mà không được, rốt cuộc khiến cho chàng làm chú rể hụt, muội thật ngượng quá đi mất.

Trương Vô Kỵ lúc này mới cảm thấy hết sức ngượng ngùng, chàng nhìn Triệu Mẫn, thấy nàng dung nhan tiều tụy, hai má hóp vào, biết rằng mấy tháng qua nàng phải chịu đựng bao nhiêu là khổ sở oan ức, thật đáng thương, bèn vòng tay ôm nàng vào lòng, ấp úng nói:

– Mẫn muội, ta thật… có lỗi với muội.

Chàng vừa ôm nàng, thì cây đuốc cháy hết, tắt ngúm, trong địa lao tối như mực. Trương Vô Kỵ nói:

– Nếu không nhờ muội thông minh lanh lợi, thì cái gã Trương Vô Kỵ hồ đồ ngớ ngẩn này đã giết muội mất rồi, bây giờ không biết làm sao đây?

Triệu Mẫn cười, nói:

– Liệu chàng có nỡ ra tay giết muội chăng? Hồi ấy chàng tưởng muội là hung thủ, tại sao gặp muội lại không giết?

Trương Vô Kỵ ngẩn ra, thở dài, nói:

– Mẫn muội, trong lòng ta thực tình chỉ có một mình muội thôi, không thể thiếu muội. Giả dụ muội có giết biểu muội của ta thật đi nữa, ta cũng không biết phải làm thế nào. Mấy ngày nay sự việc dần dần sáng tỏ, ta tuy có tình quyến luyến Chu Chỉ Nhược, song phải nói là trong bụng mừng thầm.

Triệu Mẫn nghe chàng thổ lộ chân tình như thế, bèn ngả người vào lòng chàng. Một hồi lâu cả hai không nói gì, ngẩng đầu lên, chỉ thấy trăng treo lơ lửng ở phía đông, bốn bề vô cùng yên tĩnh.

Triệu Mẫn nói nhỏ:

– Vô Kỵ ca ca, muội với chàng gặp nhau lần đầu ở Lục Liễu sơn trang, sau đó cùng rơi xuống hầm tối, tình cảnh cũng gần giống như hôm nay đấy nhỉ?

Trương Vô Kỵ bật cười, giơ tay cầm lấy bàn chân trái của nàng, cởi chiếc hài ra. Triệu Mẫn cười khúc khích:

– Đại nam nhi lại đi ăn hiếp một thiếu nữ yếu đuối.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nàng mà yếu đuối ư? Nàng ngụy kế đa đoan, còn lợi hại gấp mười đại nam nhi.

Triệu Mẫn cười nói:

– Đa tạ Trương giáo chủ quá khen, tiểu nữ không dám nhận đâu ạ.

Hai người nói đến đây thì cùng cười như nắc nẻ. Mấy câu đối đáp vừa rồi gần như những câu họ từng nói trong địa lao ở Lục Liễu sơn trang, chỉ khác là năm trước khi nói mấy câu đó họ đang thù ghét nhau, còn bây giờ thì tình ý dạt dào.

Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Nàng có sợ ta cù lòng bàn chân nữa không?

Triệu Mẫn cười, đáp:

– Không sợ nữa!

Trương Vô Kỵ vừa toan cù bàn chân nàng, bỗng nghe từ phía tây bắc hình như có tiếng người quát, dỏng tai lắng nghe, xa xa có kình phong phần phật, đúng là có người đánh nhau, bèn nói:

– Chúng mình lên coi xem sao!

Chàng nắm tay Triệu Mẫn, nhảy khỏi địa lao, đi về phía phát ra âm thanh, thấy có ba bóng người chạy về phía tây, thân pháp nhanh nhẹn dị thường, đều là cao thủ hạng nhất.

*

*      *

Trương Vô Kỵ giơ tay đỡ ngang lưng Triệu Mẫn, thi triển khinh công đuổi theo, thấy phía xa một người chạy trước, hai người đuổi theo đằng sau. Chàng nhanh chân hơn, đuổi hơn một dặm, thì đã nhận ra dưới ánh trăng hai người đuổi theo đằng sau kia chính là Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông. Hạc Bút Ông vung tay trái, ném cây bút mỏ hạc về phía kẻ chạy trước. Kẻ chạy trước vung kiếm lại gạt đi, keng một tiếng, cây bút mỏ hạc văng lên không trung, vì thế mà chậm lại một bước, Lộc Trượng Khách đã phóng tới ngang bên cạnh, đâm cây trượng sừng hươu ra.

Kẻ kia nghiêng người tránh, đánh ra một chưởng, ánh trăng chiếu vào khuôn mặt trắng bệch, tóc dài xõa ra, chính là Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ cả kinh, vội kéo Triệu Mẫn theo mình nấp sau một gốc cây.

Hạc Bút Ông đón cây bút mỏ hạc từ trên không rơi xuống, tấn công phía bên trái Chu Chỉ Nhược, cùng với Lộc Trượng Khách tạo thành thế tả hữu giáp công.

Chu Chỉ Nhược nghiến răng, nói:

– Hai lão quỷ già cứ bám theo ta là để làm gì?

Lộc Trượng Khách nói:

– Hôm nay Trương Vô Kỵ Minh giáo đoạt được thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên, chính hai ta trông thấy, bí kíp võ công giấu trong đao kiếm đã không còn nữa, tức thị đang ở trong người Tống phu nhân.

Trương Vô Kỵ giật mình: “Khi ta đoạt đao cứu người, thì ra hai lão già kia nấp ở bên cạnh, thế mà ta không phát giác được họ”.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Bí kíp võ công có thật, nhưng ta luyện xong, đã hủy đi rồi.

Lộc Trượng Khách cười khẩy, nói:

– “Luyện xong”, hai chữ đó nói nghe dễ thế? Thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên được gọi là võ lâm chí tôn, bí kíp giấu bên trong lẽ nào lại tầm thường? Tống phu nhân võ công tuy cao siêu hơn người, nhưng chưa đến mức đăng phong tạo cực, nếu không thì chỉ cần vung tay là giết được huynh đệ lão phu, đâu cần phải bỏ chạy?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Ta bảo hủy là hủy rồi, chẳng ai rỗi hơi lằng nhằng với các người! Ta đi đây.

Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách cùng quát:

– Đứng lại!

Lộc trượng và Hạc bút cùng đánh vào hai bên sườn Chu Chỉ Nhược.

Chu Chỉ Nhược múa kiếm vù vù, dưới ánh trăng kiếm cứ loang loáng như một con rắn bạc. Huyền Minh nhị lão một trượng, hai bút liên thủ tấn công.

Trương Vô Kỵ lúc trước mới chỉ thấy Chu Chỉ Nhược sử dụng trường tiên, bây giờ được ngắm kiếm chiêu thần quang ly hợp của nàng đấu với hai đại cao thủ, có thủ có công, biến ảo hư hư thực thực, quả là tài tình.

Đấu tiếp mấy chục hiệp, kiếm chiêu của Chu Chỉ Nhược càng lúc càng kỳ lạ, trong mười chiêu thì đến bảy chiêu là là thế công vô cùng lợi hại. Trương Vô Kỵ biết nàng nôn nóng thoát thân, nhưng đánh kiểu này thì phải tốn rất nhiều nội lực, chỉ cần sơ ý một chút là gặp ngay hung hiểm. Lòng đầy quan hoài, chàng rón rén từ sau gốc cây tiến gần lại mấy bước.

Bỗng Chu Chỉ Nhược thét một tiếng, đâm liền ba kiếm về phía Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách tránh gấp. Ngay lúc ấy hai cây bút của Hạc Bút Ông rời tay ném tới sau lưng nàng, giữa đường chạm nhau keng một tiếng, chia ra đánh vào gáy và lưng nàng.

Chu Chỉ Nhược nghe phía sau có binh khí ném tới, vội rùn người xuống tránh, không ngờ hai cây bút đụng nhau xong lại đổi hướng, nên tránh được cây bút đánh vào gáy chứ không tránh được cây bút đánh vào lưng.

Trương Vô Kỵ phi thân tới, chộp cây bút mỏ hạc đó, tung chưởng gạt chưởng của Hạc Bút Ông đánh tới.

Chu Chỉ Nhược còn đang kinh hoàng bối rối, thì Lộc Trượng Khách đã nhẹ nhàng đánh ra một chưởng trúng vào bụng dưới của nàng. Đó chính là “Huyền Minh thần chưởng” kinh hồn, Chu Chỉ Nhược trúng đòn, tức thì ngộp thở, ngất đi.

Trương Vô Kỵ cả kinh, quẳng cây hạc bút đang cầm xuống đất, giơ tay đỡ Chu Chỉ Nhược, nhảy xéo ra hơn một trượng, quát:

– Huyền Minh nhị lão thật là mặt dày mày dạn!

Lộc Trượng Khách cười hô hố, nói:

– Tưởng kẻ nào to gan dám nhúng tay vào, hóa ra là Trương đại giáo chủ. Quận chúa nương nương đâu? Giáo chủ bắt cóc quận chúa mang đi đâu rồi?

Triệu Mẫn từ sau gốc cây bước ra, đỡ lấy Chu Chỉ Nhược, cười hì hì, nói:

– Lộc tiên sinh, tiên sinh vẫn cứ thần hồn điên đảo, ngày ngày nhớ nhung ta, không sợ cha ta nổi giận ư?

Lộc Trượng Khách tức giận nói:

– Cô nương là tiểu yêu nữ, muốn ly gián hai sư huynh sư đệ lão phu. Huynh đệ lão phu với Nhữ Dương Vương đã ân đoạn nghĩa tuyệt lâu rồi, ông ta giận hay không chẳng liên quan gì đến lão phu.

Trương Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách hạ độc thủ đả thương Chu Chỉ Nhược, lại nói năng vô lễ với Triệu Mẫn, chàng nhớ lại hồi nhỏ từng bị trúng “Huyền Minh thần chưởng” của hai lão già này, phải chịu không biết bao nhiêu khổ sở, hận cũ thù mới lập tức bừng bừng bốc lên, chàng nói:

– Mẫn muội tạm lui ra, hai lão tặc này ta vừa gặp đã lộn ruột, hôm nay phải cho chúng một trận mới xong.

Hai lão thấy chàng tay không thì bỏ binh khí xuống, chăm chú đứng đợi.

Trương Vô Kỵ quát:

– Nhìn đây!

Một chiêu “Lãm tước vĩ”, song chưởng đánh ra. Chiêu này ở trong “Thái cực quyền pháp”, đánh ra rất chậm, song chưởng lực thì lại ngầm chứa “Cửu dương thần công”. “Thái cực quyền” đối với hậu thế là tầm thường, nhưng bấy giờ Trương Tam Phong mới sáng tạo ra, trong võ lâm còn ít người biết đến. Lộc Trượng Khách chưa từng gặp loại chưởng thế mềm mại vô lực kiểu này bao giờ, không biết bên trong có ngụy kế gì, vốn rất ngán ngại Trương Vô Kỵ, nên lão không dám chống đỡ, vội lách tránh. Trương Vô Kỵ xoay mình, sử chiêu “Bạch xà thổ ngôn”, tả chưởng đánh Hạc Bút Ông, hữu chưởng hơi rung động, nhứ nhứ bất định. Hạc Bút Ông điểm hờ ngón trỏ tay trái vào lòng bàn tay của chàng, hữu chưởng đánh xéo xuống bụng dưới Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ đã mấy độ giao đấu với Huyền Minh nhị lão, biết hai lão vốn không phải là đối thủ của chàng, vừa rồi chàng lại giao đấu ba lần với Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp, võ công cao thêm một bậc, thừa sức đánh bại hai lão. Có điều là hai lão già này tài nghệ chẳng tầm thường, chẳng thể xem nhẹ, bèn triển khai “Thái cực quyền pháp”, tạo nên các vòng tròn liên tục, “Cửu dương thần công” từ các vòng tròn ấy lúc thẳng lúc xéo cuồn cuộn tung ra.

Huyền Minh nhị lão thấy khí dương mỗi lúc một thịnh, khí âm hàn của Huyền Minh thần chưởng càng lúc càng bị đối phương đẩy trở lại.

Đấu đến hơn một trăm hiệp, lúc Trương Vô Kỵ xoay người, bỗng thấy dưới đất có hai bóng người hơi run rẩy, chính là bóng của Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược dưới ánh trăng, chàng giật mình, liếc sang, thấy Triệu Mẫn cứ không ngừng lảo đảo, tựa hồ không thể ôm Chu Chỉ Nhược được nữa, chàng nghĩ thầm: “Hỏng rồi, Chu Chỉ Nhược bị trúng Huyền Minh thần chưởng của Lộc Trượng Khách, chỉ e hết chịu nổi. Nàng vốn đã luyện công phu âm hàn, bây giờ cộng với hàn khí tối âm độc của Huyền Minh thần chưởng, sẽ càng thêm lạnh, ngay cả Triệu Mẫn chỉ ôm nàng cũng không chịu nổi”. Chàng bèn gia tăng kình lực đánh mạnh về phía Lộc Trượng Khách.

Lộc Trượng Khách thấy chàng thay đổi quyền pháp, đoán ngay ra tâm ý của chàng, nghiêng người tránh qua, nói:

– Sư đệ, cố đấu cầm chừng. Con bé họ Chu kia đang bị hàn độc phát tác, đừng để cho gã giáo chủ rảnh tay giải cứu.

Hạc Bút Ông nói:

– Đúng thế!

Lão nhảy ra ngoài vòng, nhặt hai cây bút mỏ hạc, sử chiêu “Thông thiên triệt địa” đánh cả hai mặt trên dưới.

Trương Vô Kỵ khinh khỉnh nói:

– Có sử dụng binh khí hay không thì cũng thế thôi!

Nói rồi chàng đánh một chưởng, kình phong ép tới khiến Hạc Bút Ông ngộp thở. Lộc Trượng Khách cũng ngoặt tay rút trượng sừng hươu ra, tấn công vào bên sườn Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ thay đổi liền mấy lộ quyền pháp, sử dụng ba mươi sáu thức “Long trảo cầm nã thủ” mà chàng học lóm được của Không Tính thần tăng phái Thiếu Lâm, như các thức Phủ cầm, Cổ sắt, Bổ phong, Bão tàn, thế công cực kỳ lợi hại.

Lộc Trượng Khách nói:

– Môn “Long trảo công” ngươi luyện giỏi đó, để lát nữa đào hố thì rất tiện.

Hạc Bút Ông hỏi:

– Sư ca, đào hố để làm gì vậy?

Lộc Trượng Khách cười, nói:

– Chu cô nương chết rồi, thì phải đào hố để chôn chứ làm gì nữa.

Lão mở miệng nói, tâm thần hơi phân tán, Trương Vô Kỵ tung một cước đá trúng đùi trái của lão. Lão lảo đảo, nhưng đứng vững lại ngay, múa cây gậy khiến gió mưa không lọt.

Trương Vô Kỵ quay lại nhìn Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược một cái, thấy hai nàng run lập cập, vội hỏi:

– Mẫn muội, thế nào?

Triệu Mẫn đáp:

– Ối chao, lạnh quá chừng!

Trương Vô Kỵ kinh hãi, nghĩ một chút liền hiểu ra tại sao, Chu Chỉ Nhược trúng Huyền Minh thần chưởng, âm hàn dù lợi hại mấy, cũng một mình nàng bị thôi, đằng này cả Triệu Mẫn cũng bị lạnh theo; như vậy là Triệu Mẫn tốt bụng, giơ chưởng giúp Chu Chỉ Nhược vận công đề kháng. Công lực của hai nàng chênh lệch quá xa, nội công của Chu Chỉ Nhược lại thập phần quái dị, thành thử Triệu Mẫn đã cứu người chẳng xong, còn bị liên lụy.

Trương Vô Kỵ song quyền tấn công lia lịa, chỉ mong mau chóng đánh bại hai lão. Nhưng hai lão cứ tránh xa xa, chợt tiến chợt lùi, cố kéo dài thời gian, không dám đấu trực diện với chàng.

Trương Vô Kỵ nóng ruột, kêu lên:

– Mẫn muội, mau đặt Chu cô nương xuống đất, đừng ôm nàng ta nữa.

Triệu Mẫn nói:

– Muội… muội không đặt xuống được.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ:

– Tại sao?

Triệu Mẫn nói:

– Lưng… lưng nàng ta cứ… dính chặt vào tay muội.

Triệu Mẫn vừa nói, răng cứ đánh vào nhau cầm cập, thân hình loạng choạng chực ngã. Trương Vô Kỵ càng kinh hãi.

Lại nghe Lộc Trượng Khách nói:

– Trương giáo chủ, Chu cô nương kia tâm địa thật độc ác, đang đẩy hàn độc từ cơ thể mình sang người quận chúa nương nương, chẳng mấy chốc quận chúa sẽ bỏ mạng. Vậy chúng ta hãy giao hẹn với nhau có hơn không?

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Giao hẹn cái gì?

Lộc Trượng Khách nói:

– Chúng ta ngừng đấu, bọn ta lấy hai quyển sách trong người Chu cô nương, giáo chủ thì cứu quận chúa.

Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Huyền Minh nhị lão võ công đã cao cường thế này, nếu lại luyện thêm thứ võ công âm độc của Chu Chỉ Nhược, sau này làm ác thì còn ai chế ngự nổi kia chứ”. Chàng hoang mang ngó lại, thấy khuôn mặt trắng như ngọc của Triệu Mẫn đã chuyển sang màu xanh, đầy vẻ đau đớn khó chịu. Chàng lùi lại hai bước, tay trái nắm lấy tay phải của nàng, chân khí Cửu dương trong cơ thể lập tức qua lòng bàn tay truyền sang cuồn cuộn.

Lộc Trượng Khách quát:

– Tiến lên tấn công gấp!

Huyền Minh nhị lão một trượng hai bút xông tới tấn công như gió táp mưa sa.

Trương Vô Kỵ sử dụng quá nửa chân lực để cứu hai nàng Triệu, Chu. Thân hình đã không thể di chuyển, lại chỉ còn một tay nghênh địch, lập tức lâm vào thế vạn phần hung hiểm. Soạt một cái, ống quần chân trái bị cây bút của Hạc Bút Ông xé rách một đường dài, máu chảy dầm dề.

Triệu Mẫn vốn bị khí âm hàn của Chu Chỉ Nhược truyền sang, sắp sửa chết cứng, tựa hồ huyết dịch trong người đã đóng thành băng, giờ được tiếp cho chân khí Cửu dương liền thấy ấm áp trở lại. Thế nhưng Trương Vô Kỵ phải chống đỡ với Huyền Minh nhị lão, đơn chưởng cứ liên tiếp gạt trái quét phải, nên chân khí Cửu dương truyền sang cho nàng yếu dần. Toàn thân Triệu Mẫn lại run lập cập.

Lộc Trượng Khách vù vù vù đánh ra ba trượng, cái sừng hươu trên đầu gậy chọc thẳng vào mắt Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ chưởng vận lực gạt ra được. Nhưng Hạc Bút Ông nằm xuống đất mà lăn vào, cây bút trong tay trái lão sử chiêu “Tòng tam sở dục” chọc vào hông chàng. Trương Vô Kỵ không thể né tránh, đành thi triển tâm pháp “Càn khôn đại na di”, cốt đẩy cây bút của lão chệch đi; song lực mà lão dồn vào đòn này quá nặng, không chắc có đẩy nổi chăng. Bỗng nghe keng một tiếng, bên hông chấn động mà không hề thấy đau, thì ra cây bút đã đâm trúng vào thanh đao Đồ Long chàng đeo bên hông.

Trương Vô Kỵ lâm địch thường không sử dụng binh khí. Khi đấu với ba sư huynh sư đệ Độ Ách, chàng cũng chỉ dùng thánh hỏa lệnh như một cái tay thước, chứ không dùng đao kiếm, thành thử thanh đao Đồ Long đeo kè kè bên hông mà chẳng nhớ tới rút ra chống địch.

Cây bút của Hạc Bút Ông đâm trúng đao liền nhắc nhở chàng; chàng quát một tiếng, chân trái đá ra, buộc Hạc Bút Ông thoái lui ba bước. Chàng rút đao ra, vừa lúc cây trượng sừng hươu của Lộc Trượng Khách đánh tới. Trương Vô Kỵ vung đao lên, nghe xoẹt một tiếng nhẹ, cái đầu hươu trên cây trượng gãy, rơi xuống đất liền. Lộc Trượng Khách cả kinh, kêu lên:

– Ối chao!

Hạc Bút Ông song bút cuốn tới. Trương Vô Kỵ giơ bảo đao lên, xoẹt xoẹt hai tiếng, hai cây bút đã gãy thành bốn khúc. Thanh đao Đồ Long múa thành một đạo bạch quang.

Huyền Minh nhị lão không dám lại gần nữa. Chân khí Cửu dương từ cơ thể Trương Vô Kỵ lại cuồn cuộn truyền sang người Triệu Mẫn, lần này phát huy toàn lực, nên hàn độc mà Chu Chỉ Nhược bị trúng đã được loại trừ hết sạch. Nhưng hai khí âm dương trong cơ thể giao cảm, bên này mạnh thì bên kia yếu, bên này yếu thì bên kia mạnh, hàn độc Huyền Minh vừa hết, thì chân khí Cửu dương cũng làm tiêu tan luôn cả “Cửu âm nội lực” mà nàng đã luyện được.

Chu Chỉ Nhược sau khi lấy được pho “Cửu âm chân kinh” giấu trong kiếm Ỷ Thiên, ở trên đảo sợ Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ phát giác, chỉ ban đêm mới lén luyện tập. Do thời gian gấp gáp, không cách gì tuần tự tiến dần từ căn bản, cho nên nội lực không thâm hậu, chỉ tập toàn là công phu hạ thừa trong pho kinh đó mà thôi. Khi trúng “Huyền Minh thần chưởng”, nàng đem khí hàn độc đẩy cơ thể Triệu Mẫn, đến lúc Trương Vô Kỵ ra tay trợ cứu, nàng cảm thấy toàn thân ấm áp vô cùng khoan khoái, khí lực tăng dần, đang định rời khỏi bàn tay Triệu Mẫn, vừa gắng sức bứt ra liền bị hút chặt vào, giằng không ra, mới biết lúc nãy bàn tay của Triệu Mẫn bị lưng nàng hút chặt; còn bây giờ chính lưng nàng lại bị bàn tay Triệu Mẫn hút ngược lại, tất cả chỉ vì nội lực đôi bên mạnh yếu khác nhau mà ra, thì không khỏi cả kinh.

Trương Vô Kỵ khu trừ hàn độc, thấy chân khí Cửu dương của mình truyền sang cứ gặp một luồng hàn khí từ bàn tay Triệu Mẫn chống lại, chàng cứ nghĩ chất hàn độc của “Huyền Minh thần chưởng” chưa được trừ hết, nên càng dồn sức truyền sang; đâu ngờ rằng mỗi phần chân khí Cửu dương của chàng truyền sang thì lại tiêu trừ một phần chân khí Cửu âm mà Chu Chỉ Nhược khổ công luyện được. Chu Chỉ Nhược thầm kêu khổ, biết mà không dám nói, vì chỉ cần mở miệng nói, sẽ lập tức hộc máu, mất hết chân khí mà chết.

Triệu Mẫn thấy cơ thể ấm áp dễ chịu, cười nói:

– Vô Kỵ ca ca, muội khỏe rồi. Chàng hãy chuyên tâm mà đối phó với Huyền Minh nhị lão.

Trương Vô Kỵ nói:

– Hay lắm!

Liền thu nội lực về.

Chu Chỉ Nhược như được đại xá, thoát khỏi lực hút, biết hàn độc của “Huyền Minh thần chưởng” đã được trừ hết, song Cửu âm nội lực của mình cũng bị hao tổn nghiêm trọng, thấy Trương Vô Kỵ vung đao Đồ Long chuyên tâm nghênh địch, nàng liền giơ năm ngón tay vồ thẳng xuống đỉnh đầu Triệu Mẫn.

Triệu Mẫn kêu thét lên:

– Ối chao!

Chỉ thấy đỉnh đầu đau nhoi nhói, những tưởng phen này chắc là rồi đời, không ngờ nghe “rắc rắc” mấy tiếng, Chu Chỉ Nhược rên lên đau đớn, vội vã bỏ chạy.

Trương Vô Kỵ cả kinh, vội ngoảnh lại hỏi:

– Có chuyện gì vậy?

Triệu Mẫn đưa tay sờ đầu, sợ hết hồn, không nói nên lời. Trương Vô Kỵ ngỡ nàng bị thương bởi “Cửu âm bạch cốt trảo”, cũng hết cả hồn, tay phải múa đao ngăn chặn Huyền Minh nhị lão, tay trái sờ đầu Triệu Mẫn, thấy ướt dính nhèm nhẹp, tuy chảy máu song không bị vỡ xương, thủng lỗ, thì như trút được gánh nặng, an ủi nàng:

– Chỉ bị thương ngoài da thịt thôi, không đáng ngại!

Trong bụng nghĩ thầm: “Lạ thật! Lạ thật!” Chàng không biết rằng khi Chu Chỉ Nhược ra tay tập kích, chân khí Cửu dương trong cơ thể Triệu Mẫn chưa rút đi hết, còn chân khí Cửu âm của Chu Chỉ Nhược thì đã đại hao tổn, nàng ta lấy yếu đánh mạnh, chẳng những không đả thương được đối phương, mà chính nàng ta bị chấn động gãy mấy ngón tay.

Trương Vô Kỵ vừa phân tâm, Huyền Minh nhị lão lại tấn công tới. Lúc này cầm trong tay món binh khí sắc bén nhất thiên hạ, tự thấy nếu chỉ dựa vào vũ khí lợi hại mà thắng đối phương thì không phải con nhà võ, bèn trao thanh đao Đồ Long cho Triệu Mẫn, điều chuyển nội tức một vòng cực nhanh, ngưng thần chuyên tâm, sử dụng tâm pháp “Càn khôn đại na di”, tay trái làm chuyển hướng kình lực đòn chưởng của Hạc Bút Ông đánh tới. Thủ pháp vừa kéo vừa đẩy này của chàng chứa đựng “Cửu dương thần công” kết hợp với công phu cấp thứ bảy cao nhất của tâm pháp “Càn khôn đại na di”. Việc sử dụng công phu cấp cao nhất này rất hao tổn nội lực tâm huyết, hoàn toàn không được sơ sảy chút nào, vì chỉ vận dụng sai một chút, chính mình sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, bởi vậy, ban nãy trong lúc phân tâm giúp hai nàng Triệu, Chu khu trừ hàn độc, tuy tình thế rất nguy cấp, chàng vẫn không dám đem ra sử dụng.

Huyền Minh nhị lão thuộc hạng đệ nhất cao thủ, nếu chàng sử dụng công phu cấp năm cấp sáu đối phó với họ, chắc không làm gì nổi họ.

Trương Vô Kỵ gạt một cái, hữu chưởng của Hạc Bút Ông đánh tới nghe bộp một tiếng, trúng ngay đầu vai Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách cả kinh, tức giận hỏi:

– Sư đệ, làm cái trò gì vậy?

Hạc Bút Ông võ công tinh diệu, nhưng đầu óc chậm hiểu, việc gì cũng phải suy nghĩ hồi lâu mới hiểu ra lý lẽ, lúc này đang ngẩn ngơ chưa hiểu tại sao, không trả lời được, chỉ biết là do Trương Vô Kỵ giở trò quỷ, định tấn công dồn dập đối phương để tạ lỗi với sư huynh, bèn vận kình xuống chân phải, tung ra một cú đá. Trương Vô Kỵ phất tay trái, vừa bắt vừa kéo, cú đá ấy lập tức chuyển hướng tới đan điền của Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách vừa ngạc nhiên, vừa tức giận, quát sư đệ:

– Ngươi điên rồi hả?

Triệu Mẫn nói:

– Đúng thế, Hạc tiên sinh mau bắt gã sư huynh phạm thượng làm loạn, hiếu sắc tham dâm ấy cho ta, cha ta sẽ trọng thưởng.

Trương Vô Kỵ cười thầm trong bụng: “Cái kế khích bác ly gián ấy quả thật rất hay!” Chàng vốn định sử dụng tâm pháp “Càn khôn đại na di” để cho Hạc Bút Ông đánh Lộc Trượng Khách, rồi lại làm cho đòn của Lộc Trượng Khách đánh vào Hạc Bút Ông; bây giờ nghe Triệu Mẫn nói thế, thì chàng chỉ dẫn kéo quyền cước của Hạc Bút Ông, còn đối phó với Lộc Trượng Khách thì chàng dùng chiêu số trong Thái cực quyền. Chàng nói to:

– Hạc tiên sinh, tiên sinh đừng lo, tại hạ hợp sức với tiên sinh, thể nào cũng đánh gục được lão họ Lộc dâm đãng. Nhữ Dương Vương đã phong cho tiên sinh làm… phong cho tiên sinh chức…

Chàng nhất thời chưa nghĩ ra quan chức gì cho thích hợp, thì Triệu Mẫn liền nói:

– Hạc tiên sinh, tờ bố cáo phong chức cho tiên sinh ta đang giữ đây.

Nói xong rút trong bọc ra một tờ giấy, đọc:

– Ồ, là chức Đại Nguyên hộ quốc dương uy đại tướng quân, tiên sinh hãy mau gắng sức!

Trương Vô Kỵ hữu chưởng đánh ra, buộc Lộc Trượng Khách lùi sang bên trái, đúng lúc tả chưởng của Hạc Bút Ông bị chàng lái từ bên trái qua bên phải, thành thế tả hữu giáp công.

Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông mấy chục năm nay thân nhau còn hơn cả ruột thịt, vốn không thể nào tin sư đệ lại bán rẻ mình; nhưng lúc này thấy Hạc Bút Ông năm chiêu liền đều nhắm đánh những chỗ yếu hại của mình, đường quyền ngọn cước xem ra toàn dồn hết sức, tựa hồ muốn lấy mạng mình thì còn nghi ngờ gì nữa? Lộc Trượng Khách cả giận, quát:

– Ngươi tham đồ phú quý, quên hết cả nghĩa khí rồi hả?

Hạc Bút Ông vội nói:

– Đệ… đệ chẳng…

Triệu Mẫn liền xen vào:

– Phải rồi, tiên sinh chẳng qua là bất đắc dĩ, vì chức Đại Nguyên hộ quốc dương uy đại tướng quân mà đắc tội với sư huynh, cũng chẳng cần phải nói làm gì.

Trương Vô Kỵ dồn mười thành lực vào tay phải, ngưng thần dẫn chưởng của Hạc Bút Ông giáng vào đầu vai của Lộc Trượng Khách, nghe “bốp” một tiếng thật mạnh. Lộc Trượng Khách cả giận, đánh ngược lại một chưởng, làm gãy luôn mấy chiếc răng hàm bên trái của Hạc Bút Ông. Hạc Bút Ông tuổi đã già, miệng chỉ còn mấy cái răng ấy nên quý lắm, giờ bị đánh gãy thì cả giận, quát:

– Sư ca, huynh chẳng biết phải trái gì cả, đâu phải là đệ cố ý đánh huynh.

Lộc Trượng Khách tức giận quát lại:

– Thế ai đánh trước?

Lão kiến văn uyên bác, nhưng không ngờ rằng trên thế gian lại có thần công “Càn khôn đại na di” cấp thứ bảy uy lực dường ấy, một người võ công cao cường như Hạc Bút Ông, cái gã Trương Vô Kỵ có thể thắng y giết y, chứ quyết không thể mượn sức y, mượn đòn y đánh lão, thành thử lão không hề nghi ngờ Trương Vô Kỵ ra tay.

Hạc Bút Ông vội cố biểu lộ tấm lòng của mình, liền cất tiếng chửi:

– Thằng lỏi con giở trò quỷ!

Triệu Mẫn nói:

– Phải rồi, đừng gọi lão là sư ca, cứ chửi lão là “thằng lỏi con” đi!

Trương Vô Kỵ tả chưởng ép chưởng lực của Lộc Trượng Khách, tay phải kéo chưởng của Hạc Bút Ông đánh trúng má bên phải của Lộc Trượng Khách, khiến nó sưng vù lên. Trương Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách giận điên lên, hai mắt đỏ ngầu, chưởng lực cuồn cuộn đẩy ra, biết là kế ly gián đã thành công, quát lên:

– Hạc tiên sinh, gã họ Lộc dâm đãng này, ta giao cho người xử đó.

Chàng nhún chân trái vọt ra ngoài, nắm tay Triệu Mẫn bỏ đi. Chỉ thấy Huyền Minh nhị lão đánh nhau ác liệt dị thường. Triệu Mẫn nói:

– Hạc tiên sinh, sau khi tiên sinh bắt được sư ca, bí kíp võ công trong thanh đao Đồ Long sẽ cho tiên sinh mượn đọc một tháng. Mau lập đại công, đừng để lỡ dịp may!

Lộc Trượng Khách nổi cơn lôi đình, ra đòn không chút nương tay. Hai người võ công cùng môn phái, tài nghệ kẻ tám lạng người nửa cân, trận ác đấu này chưa biết bao giờ mới chấm dứt.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn về chùa Thiếu Lâm, chàng xem lại vết thương trên đầu nàng, thấy không có gì đáng ngại, chợt nhớ ra một chuyện, hỏi:

– Mẫn muội, may sao muội lại mang theo người một tờ giấy, khiến cho Lộc Trượng Khách không thể không tin.

Triệu Mẫn tủm tỉm cười, thò tay vào bọc lấy ra hai cuộn giấy mỏng, giơ trước mặt chàng, nói:

– Chàng thử đoán xem cái gì đây?

Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Muội bảo ta đoán thử, có mà đoán cả đời chẳng ra, chỉ phí công.

Triệu Mẫn đặt hai cuộn giấy mỏng vào tay Trương Vô Kỵ. Chàng đưa ra cạnh cây nến, thấy đó không phải là giấy, mà là lụa mỏng như cánh ve, chi chít các hàng chữ khải nhỏ bằng đầu ruồi. Cuộn thứ nhất có tựa đề bốn chữ “Vũ Mục di thư”, bên trong chép toàn yếu quyết tinh nghĩa hành quân giao chiến, bày binh bố trận. Cuộn thứ hai có tựa đề bốn chữ “Cửu âm chân kinh”, bên trong chép các loại võ công thần kỳ quái dị, “Cửu âm bạch cốt trảo” và “Thôi tâm chưởng” cũng chép trong đó. Trương Vô Kỵ run giọng, hỏi:

– Muội… muội lấy từ trong người Chu cô nương đấy ư?

Triệu Mẫn cười, nói:

– Trong lúc nàng ta không cựa quậy được, tội gì muội không tiện tay dắt dê? Cái thứ võ công âm độc này muội chả thiết học, nhưng phải lấy để hủy đi, hơn là để trong tay nàng ta hại người.

Trương Vô Kỵ tiện tay giở xem “Cửu âm chân kinh”, đọc vài mục, thấy lời văn thâm thúy, nhất thời chưa hiểu rõ, nhưng đó quyết không phải là thứ võ công âm độc hạ lưu, bèn nói:

– Võ công trong cuốn kinh này kỳ thực vô cùng tinh thâm, cứ theo đó mà tu luyện, sau một hai chục năm thành tựu sẽ cao siêu lắm; còn nếu chỉ mong tốc thành, học sơ sơ cái vỏ bên ngoài, thì sẽ hại người và hại cả mình.

Ngừng một chút, lại nói:

– Như vị hoàng y tỷ tỷ kia, võ công rõ ràng là cùng một lộ với Chu cô nương, nhưng chiêu số quang minh chính đại, chín chắn, tựa hồ học từ “Cửu âm chân kinh” này vậy.

Triệu Mẫn nói:

– Hoàng y mỹ nữ nói bốn câu “Chung Nam sơn hậu, hoạt tử nhân mộ, Thần Điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ” có nghĩa là gì?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

– Sau này gặp thái sư phụ, sẽ thỉnh giáo lão nhân gia, may ra hiểu được duyên do mấy câu nói đó chăng.

Hai người chuyện trò thêm vài lời, thấy dưới núi không có động tĩnh gì, nên chia tay đi nghỉ.

Hồi 40: Là chàng Trương đó mà không phải chàng

Sáng hôm sau Trương Vô Kỵ dậy sớm, trèo lên một cây cao nhìn xuống chân núi, thấy quân địch cờ quạt phất phới, người ngựa chạy qua chạy lại, tiếng tù và nổi lên đây đó trong doanh trại, rõ ràng đang điều binh khiển tướng hết sức gấp rút. Trương Vô Kỵ gọi:

– Mẫn muội!

Triệu Mẫn thưa:

– Muội đây, có gì vậy?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, nói:

– Không có gì, ta quen miệng gọi muội đó thôi.

Chàng vốn định bàn với nàng cách đánh lui quân Nguyên, nàng túc trí đa mưu, chắc sẽ có diệu kế; nhưng lại nghĩ thầm: “Nàng vốn là quận chúa trong triều đình, bỏ cha bỏ anh đi theo ta, ta còn đòi nàng bày kế giết đồng bào Mông Cổ của nàng, chẳng hóa ra ép buộc nàng quá lắm sao?” thành thử gọi rồi, nhưng không hỏi nữa. Triệu Mẫn nhìn mặt chàng, biết ngay chàng nghĩ gì, thở dài nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng hiểu được nỗi khổ tâm của muội, muội cũng không phải nói nhiều.

Trương Vô Kỵ trở vào nhà, bối rối chưa biết tính sao, tiện tay giở hai món bí kíp Triệu Mẫn lấy được tối qua, giở xem vài mục trong “Cửu âm chân kinh”, rồi đọc mấy chương trong “Vũ Mục di thư”, tình cờ thấy năm chữ tiểu đề mục “Binh khốn Ngưu Đầu sơn”, liền đọc kỹ, ở đó Nhạc Phi thuật lại chuyện bị quân Kim bao vây ra sao, làm thế nào thoát cảnh nguy khốn, bất ngờ xuất kỳ binh, nội ngoại giáp công giành toàn thắng bằng cách gì, mọi phương lược đều nói rõ.

Trương Vô Kỵ vỗ bàn thốt lên:

– Đúng là trời giúp mình!

Chàng gấp binh thư, ngồi suy tính. Tình thế trên núi Thiếu Thất hôm nay tuy khác hẳn tình cảnh Nhạc Phi bị vây khốn ở núi Ngưu Đầu, nhưng có thể dùng cái ý của người xưa truyền lại để xuất kỳ chế thắng. Chàng càng nghĩ càng khâm phục Nhạc Vũ Mục quả là bậc kỳ tài, nghĩ ra những cách đánh địch rất nguy hiểm mà thường nhân không thể nghĩ ra. Chàng nghĩ phép dụng binh cũng giống như võ công, nếu chưa được cao nhân chỉ vẽ cho những chỗ cao thấp khéo vụng, thì không thể vỡ lẽ, hiểu ra được mưu này kế nọ. Chàng chấm ngón tay vào nước trà, vẽ đồ hình lên mặt bàn, tuy cảm thấy lối đánh chàng vừa nghĩ ra rất mạo hiểm, có phần cầu may, song muốn lấy ít địch nhiều, thì không thể thủ thắng theo kiểu đường đường chính chính.

Lòng đã quyết, chàng liền tới Đại Hùng bảo điện, nhờ Không Văn phương trượng triệu tập quần hùng.

Lát sau các lộ anh hùng đã tề tựu trong điện. Trương Vô Kỵ đứng giữa sảnh nói:

– Hiện tại binh mã Thát tử đang tập trung dưới chân núi, chẳng mấy chốc sẽ tấn công lên đây. Chúng ta hôm qua tuy thắng một trận nhỏ, làm nhụt nhuệ khí của quân Nguyên, song nếu bọn Thát tử cứ liều chết đánh ùa lên, thì chúng ta rất khó chống đỡ. Tại hạ bất tài, được chư vị anh hùng cử tạm giữ chức chủ soái, để chung sức thắng địch, mong các vị nghe theo hiệu lệnh của tại hạ.

Quần hùng cùng nói to:

– Xin cứ ban lệnh, mọi người nhất nhất tuân theo!

Trương Vô Kỵ nói:

– Tốt lắm! Ngô kỳ sứ nghe lệnh!

Chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ Ngô Kình Thảo hiên ngang bước ra, cúi mình nói:

– Thuộc hạ chờ lệnh!

Y nghĩ thầm trong bụng: “Giáo chủ ban lệnh, người đầu tiên giao ngay cho ta, thật vinh hạnh biết bao cho ta. Bất kể sai ta làm việc nguy nan đến đâu, ta cũng quyết xả thân thực hiện”.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ngô huynh thống lĩnh huynh đệ trong kỳ, chấp chưởng quân pháp, bất kể vị anh hùng hảo hán nào không tuân theo hiệu lệnh, Nhuệ Kim kỳ được quyền giết ngay tại chỗ. Dẫu người vi phạm là bậc trưởng lão trong bản giáo, trưởng bối trong võ lâm, cũng không ngoại lệ.

Ngô Kình Thảo đáp to:

– Tuân lệnh!

Y rút ra một lá cờ trắng nhỏ, cầm sẵn trong tay. Danh vọng, võ công của Ngô Kình Thảo tuy chưa vào loại cao siêu trong giang hồ, người ngoài chưa kính trọng y, nhưng từ hôm Ngũ Hành kỳ đại hiển thần uy trên sân bãi, quần hùng đều biết, lá cờ trắng trong tay y ném tới đâu, lập tức sẽ có năm trăm mũi tên, năm trăm chiếc giáo, năm trăm cây rìu đồng loạt phóng tới, dẫu có bản lĩnh ngang trời cũng sẽ biến thành đống thịt bầy nhầy trong chớp mắt, thành thử nhìn lá cờ trắng đó, ai cũng bất giác rùng mình.

Nguyên Trương Vô Kỵ đọc trong “Vũ Mục di thư”, thấy ở chương thứ nhất có chép: “Đạo trị quân, nghiêm lệnh trước tiên”. Chàng biết một số hào sĩ giang hồ vốn dĩ đều tự phụ, không ai chịu ai, tuy người người võ công cao cường, nhưng tập hợp lại cũng chỉ là một đám người ô hợp, nếu không có quân lệnh ước thúc, buộc ai nấy phải tuân theo, thì không thể chống lại tinh binh Mông Cổ, cho nên việc trước tiên là phải sai Nhuệ Kim kỳ giám lệnh chấp pháp.

Trương Vô Kỵ chỉ bức tường ngang ở trước điện, nói:

– Chư vị anh hùng, tất cả những ai khinh công cao cường, nhảy một cái lên được bờ tường kia, xin thực hiện cho.

Không ít người trong đám quần hùng liền tỏ vẻ bất mãn, họ nghĩ bụng: “Giữa lúc tình thế khẩn cấp này, mà lại bảo bọn ta nhảy lên hụp xuống là cái quái gì?” Một số cao thủ tiền bối lại cho rằng chàng coi thường mọi người, nên càng khó chịu.

Trương Tòng Khê rẽ đám đông bước ra, nói:

– Tại hạ có thể nhảy được.

Rồi ông nhảy vọt lên qua tường, nhẹ nhàng đáp xuống bên kia. Công phu “Thê vân túng” của phái Võ Đang lừng danh thiên hạ, nhảy qua bức tường kia dễ như trở bàn tay, song ông không hề coi như trò đùa, mà thực hiện theo lệnh một cách hết sức nghiêm chỉnh.

Kế đó các đại cao thủ như Du Liên Châu, Ân Lê Đình, Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương cũng tuân lệnh thực hiện. Chỉ thấy quần hùng cứ như bướm vờn hoa, hết người này đến người kia nhảy qua tường, có người còn thi triển khinh công, trên lưng chừng biểu diễn vài động tác ngoạn mục. Hơn bốn trăm người vượt qua, sau đó không ai nhảy nữa.

Bức tường chắn không thấp, khinh công không cao thì khó lòng nhảy một cái qua được. Quần hùng tu luyện khác nhau, thường thường nghiêng về quyền cước, binh khí, khinh công chỉ bình bình, các nhân vật thành danh chốn giang hồ thừa biết chẳng dại gì tự bộc lộ cái sở đoản trước mặt mọi người.

Trương Vô Kỵ thấy trong số hơn bốn trăm người kia, tăng chúng Thiếu Lâm đã chiếm tám, chín mươi người, thì nghĩ thầm: “Thiếu Lâm là môn phái số một trong võ lâm, quả nhiên danh bất hư truyền. Chỉ nói riêng về khinh công, số hảo thủ của họ đã vượt xa các môn phái khác”. Chàng bèn truyền lệnh:

– Du nhị bá, Trương tứ bá, Ân lục thúc, xin ba vị dẫn các vị anh hùng giỏi khinh công vừa rồi hư trương thanh thế, giả trang làm người trong chùa rủ nhau đào tẩu, dụ cho quân Nguyên đuổi theo, khi đến núi sau thì cứ như thế, như thế.

Võ Đang tam hiệp cùng lên tiếng vâng lệnh. Trương Vô Kỵ từng nhóm từng nhóm phân phái, ai mai phục, ai chặn hậu, ai tấn công, ai đánh hai bên sườn, bố trí thật tỉ mỉ, cắt đặt đâu ra đó.

Bọn Dương Tiêu thấy chàng sắp đặt khôn khéo, bày binh bố trận xem ra có phép tắc như đã tính toán chu đáo thì không khỏi kinh ngạc, đâu biết rằng chàng chỉ áp dụng di pháp của Nhạc Phi, căn cứ địa hình, bộ thuộc khác nhau mà thay đổi chút ít đó thôi.

Trương Vô Kỵ điều động xong xuôi, mới nói:

– Không Văn phương trượng, Không Trí thần tăng, xin hai vị chỉ huy phái Nga Mi cứu hộ thương binh.

Chu Chỉ Nhược không có mặt ở đây, phái Nga Mi không người cầm đầu, Trương Vô Kỵ tự cảm thấy mình có hiềm khích rất sâu với phái Nga Mi, không tiện chỉ huy, nên mời hai vị Không Văn, Không Trí thần tăng đức cao vọng trọng tất lĩnh, nghĩ rằng phái Nga Mi sẽ không dám chống lệnh. Lệnh của chàng đưa ra, quả nhiên nam nữ đệ tử phái Nga Mi lẳng lặng thi hành, không ai dám nói gì.

Trương Vô Kỵ dõng dạc nói:

– Hôm nay các chí sĩ Trung nguyên đồng tâm hiệp lực, quyết chiến với bọn Thát tử. Các vị sư phụ phái Thiếu Lâm chuyên lo kéo chuông đánh trống, xin hãy gióng chuông đánh trống lên cho.

Quần hùng reo hò vang dậy, rút đao tuốt kiếm, khí thế bừng bừng.

Liệt Hỏa kỳ đem củi cỏ chất đống trước cổng chùa, châm lửa đốt, trong giây lát khói lửa bốc ngút trời. Hậu Thổ kỳ đem bùn, cát phủ lên mái các tòa Phật điện, tiếp đó Liệt Hỏa kỳ mới xếp củi, đổ dầu trên mặt bùn, cát mà đốt, lửa khói bốc lên, các tòa điện không bị hư hại gì, nhưng từ dưới chân núi xa xa nhìn lên, thì chỉ thấy mấy trăm gian tự viện chỗ nào cũng khói lửa ngút trời.

Quân Nguyên dưới chân núi thoạt nghe tiếng chuông tiếng trống vang động thì chuẩn bị đối phó, sau đó thấy khói lửa bốc ngùn ngụt, đều nghĩ: “Không hay rồi, bọn man di kia phóng hỏa đốt chùa, chắc là toan đào tẩu”.

Du Liên Châu dẫn hơn một trăm năm chục người khinh công siêu việt, từ phía bên trái núi Thiếu Thất chạy xuống. Chạy tới lưng núi, thì đã thấy quân Nguyên reo hò, dàn thành từng đội đuổi lên. Mọi người chạy tứ tán, khiến quân Nguyên không thể dùng cung tên mà bắn được họ. Tốp thứ hai do Trương Tòng Khê dẫn đầu, tốp thứ ba do Ân Lê Đình chỉ huy, người nào cũng đeo một cái bọc to sau lưng, trong bọc là mẩu gỗ hoặc quần áo, chăn gối. Quân Nguyên trông thấy, cứ tưởng là họ bỏ chùa chạy thục mạng, bắn tên có trúng bọc thì cũng chẳng ai việc gì. Trong khói lửa mù mịt, quân Nguyên chẳng hiểu đối phương có bao nhiêu người, nên chia ra một vạn đuổi theo, còn một vạn ở nguyên chỗ cũ đề phòng biến cố.

Trương Vô Kỵ nói với Dương Tiêu:

– Dương tả sứ, tướng chỉ huy quân Nguyên có tài dùng binh, không dùng toàn quân đuổi theo, thế mới phiền.

Dương Tiêu nói:

– Vâng, quả là đáng lo!

Chỉ nghe dưới chân núi tiếng tù và vang động, hai ngàn quân Nguyên chia làm hai mũi tả hữu đánh lên; đường núi nhỏ hẹp gập ghềnh, vậy mà loài ngựa nhỏ của Mông Cổ chạy như bay, quân địch mặc áo giáp, cầm trường mâu, khí thế rất mạnh mẽ.

Đợi lúc quân tiên phong Mông Cổ lên tới bên sơn đình ở lưng núi, Trương Vô Kỵ phất tay một cái, người của Liệt Hỏa kỳ từ hai bên liền xông ra, nằm phục trong cỏ. Khi quân Nguyên tiến thêm hơn trăm trượng nữa, chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa kỳ huýt một tiếng còi, dầu thô từ các ống liền phun ra, lửa bùng lên, liếm vào bầy ngựa của địch. Lũ ngựa kinh hoảng, quá nửa lăn xuống núi, trận thế lập tức đại loạn.

Quân Nguyên kỷ luật rất nghiêm, đội tiên phong tuy thua, nhưng hậu đội không nao núng, lệnh ban ra, ba ngàn tên bỏ ngựa chạy bộ, lại tấn công lên. Liệt Hỏa kỳ lại phun lửa đốt cháy mấy trăm tên, nhưng bọn còn lại vẫn dũng cảm xông tới. Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy kỳ là Đường Dương phất lá cờ đen, nước độc phun ra; tiếp đó Hậu Thổ kỳ ném cát độc xuống, đánh cho quân Nguyên thất điên bát đảo; tuy còn vài trăm tên lên được gần đỉnh núi, song đều bị Nhuệ Kim và Cự Mộc hai kỳ diệt nốt.

Bỗng nghe dưới chân núi tiếng trống dồn dập, năm ngàn tên địch giơ lá chắn, dàn hàng ngang như một bức tường sắt thong thả tiến lên. Với kiểu đánh này, lửa cháy, nước độc, cát độc sẽ không làm gì được; Cự Mộc kỳ liền lăn các khúc gỗ lớn xuống, nhưng cũng chỉ phá vỡ được vài mảng, không ăn thua gì.

Không Văn phương trượng thấy tình thế khẩn cấp, bèn nói:

– Trương giáo chủ, xin các vị mau rút đi để bảo toàn nguyên khí võ lâm Trung nguyên. Hôm nay có thua, mai sau còn có cơ phục thù.

Đang lúc bối rối, bỗng nghe dưới chân núi có tiếng chiêng, tiếng thanh la vang dội, một hỏa tiễn bay vọt lên trời, kế đến tiếng hò hét chém giết vang dậy bốn bề. Dương Tiêu cả mừng, nói:

– Giáo chủ, viện binh của ta đến rồi!

Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, không rõ lắm tình hình bên dưới, nhưng thấy khói bụi mịt mù, quân reo ngựa hí, rõ ràng quân tiếp viện kéo tới rất đông.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng ra lệnh:

– Viện quân đã tới, tất cả xông trận!

Quần hùng trên núi ai nấy xông xuống chém giết. Trương Vô Kỵ lại hô to:

– Chư vị anh hùng, giết quan trước, giết lính sau!

Mọi người cùng hô theo:

– Giết quan trước, giết lính sau!

Quân Nguyên cứ mười người là một đội, do thập trưởng chỉ huy, lên trên có đội trăm người, đội ngàn người, đội vạn người, cứ từng đội từng đội răm rắp; khi lâm trận thì như thân thể chỉ huy cánh tay, cánh tay chỉ huy bàn tay, bàn tay chỉ huy ngón tay.

Trương Vô Kỵ truyền lệnh giết bọn chỉ huy trước, nếu là đôi bên đối lũy, dàn trận đánh nhau thì khó thực hiện; đằng này quân Nguyên phân tán rộng trên sườn núi, quân tuy tinh nhuệ, song các viên chỉ huy võ công làm sao bì kịp các anh tài võ lâm Trung nguyên, mấy tên thiên phu trưởng, bách phu trưởng, rất nhanh chóng bị giết chết. Quân Nguyên tức thì rối loạn.

Bọn Trương Vô Kỵ tràn xuống nửa chừng, thấy dưới chân núi cờ xí phấp phới, lá cờ mạn nam thêu chữ “Từ”, lá cờ mạn bắc thêu chữ “Thường”, biết là Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đã tới. Từ, Thường hai người vốn ở vùng Hoài Tứ, lúc này may sao lại ở Dự Nam, nghe Bố Đại Hòa Thượng Thuyết Bất Đắc truyền tin giáo chủ và quần hùng bị vây trên núi Thiếu Thất, liền đem hết bộ thuộc đi suốt đêm tới cứu. Hiện thời suốt một dải Dự Nam Ngạc Bắc, quân của Minh giáo với quân Nguyên quanh năm hỗn chiến, đất đai của đôi bên thành thế cài răng lược, muốn đến thì đến, thậm chí rất nhanh, chưa đến hai ngày mà đã tới kịp. Giáo chúng dưới quyền Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đều dày dạn chiến trận, quân số lại đông hơn, nên buộc quân Nguyên phải rút về hướng tây.

Còn một vạn quân Nguyên đuổi theo đám hào sĩ giả bộ đào tẩu khỏi chùa, thì đuổi đến tận sơn cốc phía tây. Du Liên Châu, Trương Tòng Khê và Ân Lê Đình dẫn hơn bốn trăm hảo hán khinh công trác việt, vừa đánh vừa rút vào hẻm núi. Tên vạn phu trưởng thấy trong hẻm núi ba mặt là vách đá dựng đứng, địa thế hung hiểm, nhưng thấy đối phương nhân số ít ỏi, dù trong hẻm núi có mai phục thì cũng thừa sức đối phó, bèn xua quân xông vào trong hẻm núi.

Bọn Du Liên Châu chạy tới chân vách đá, từ trên cao có sẵn mấy chục sợi dây thòng xuống, mọi người lập tức bám dây leo cả lên. Tên vạn phu trưởng thấy bị trúng kế, vội hạ lệnh tháo lui, nào ngờ lối ra vào hẻm núi đã bị lửa, cát độc, nước độc, vũ tiễn bắn tới như mưa, Cự Mộc kỳ lại lăn các súc gỗ xuống bịt kín mất rồi.

Lúc ấy, cánh quân thứ hai của quân Nguyên thua chạy tới đây, thấy đằng trước đã bị chặn đứng, bèn bỏ chạy tán loạn lên các sườn núi và bãi hoang. Trương Vô Kỵ và Từ Đạt lần lượt đuổi tới, đều thốt lên:

– Tiếc quá!

Giá họ liên lạc trước được với nhau, thì cứ để cho cánh quân thứ hai một vạn tên của địch cùng vào hẻm núi mà diệt gọn luôn thể. Trương Vô Kỵ không ngờ quân Nguyên chỉ cho một nửa đuổi theo, cũng không ngờ lực lượng cứu viện đến nhanh như vậy. Dù sao thì chỉ huy chiến trận cũng không phải là sở trường của chàng, chiến pháp chép trong “Vũ Mục di thư” dẫu rất hay, nhưng vừa học đã vận dụng ngay, cũng chưa thành thục; giả dụ Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân không kịp thời kéo đến, thì chùa Thiếu Lâm cũng khó tránh khỏi kiếp nạn, một vạn quân Nguyên bị chặn trong sơn cốc cũng sẽ được cánh quân thứ hai cứu ra.

Từ Đạt sai quân vác đá chặn thêm cửa sơn cốc, các tốp cung nỏ thì từ trên các mỏm đá cao bắn tên xuống. Quân Nguyên lâm vào tuyệt địa, không cách gì chống trả, chỉ còn nước nấp vào sau các tảng đá.

Không lâu sau Thường Ngộ Xuân cũng dẫn quân đuổi tới, hội kiến với Trương Vô Kỵ; lâu ngày gặp lại, hai người đều hết sức vui mừng. Thường Ngộ Xuân nói oang oang:

– Dọn gỗ đá khỏi cửa sơn cốc, chúng ta xông vào giết sạch bọn Thát tử!

Từ Đạt cười, nói:

– Trong sơn cốc không nước không gạo, chỉ bảy tám ngày bọn Thát tử không chết khát cũng chết đói, việc gì phải tốn công huynh đệ ra tay?

Thường Ngộ Xuân cũng cười, nói:

– Mình tự tay giết chúng vẫn thích hơn.

Thường Ngộ Xuân nhiều tuổi hơn Từ Đạt, nhưng thường ngày vẫn phục Từ Đạt mưu trí, lại thấy Trương Vô Kỵ tán thành lời nói của Từ Đạt, nên không bàn thêm nữa.

Từ, Thường hai người dày dạn chiến trận, mọi hiệu lệnh đều chu đáo, ổn thỏa. Trương Vô Kỵ tự biết chàng không bằng họ, bèn giao cho hai người chỉ huy việc đánh giết số quân Nguyên chạy tán loạn.

Đêm đó tiếng reo hò vang dậy chân núi Thiếu Thất, nghĩa quân Minh giáo cùng các lộ anh hùng ăn mừng chiến thắng. Quần hùng mấy ngày liền ở chùa Thiếu Lâm toàn phải ăn chay, mồm miệng nhạt thếch, nay được một bữa rượu thịt no nê thỏa thích.

Trong bữa tiệc, Trương Vô Kỵ hỏi thăm sức khỏe của Thường Ngộ Xuân hồi này thế nào, có chữa trị theo bài thuốc chàng cho hay không, Thường Ngộ Xuân cười ha hả, nói:

– Giáo chủ khỏi lo, thuộc hạ khỏe như vâm, mỗi bữa ăn ba cân thịt, sáu chén cơm; đi đánh trận ba ngày đêm liền không ngủ cũng chẳng hề hấn gì.

Y nói là không cần thuốc thang gì cả. Trương Vô Kỵ nhớ đến lời Hồ Thanh Ngưu nói năm xưa, tha thiết khuyên anh ta chịu khó uống thuốc, giữ gìn sức khỏe. Thường Ngộ Xuân ậm ừ vâng dạ, trong bụng không coi trọng việc đó.

Từ Đạt rót đầy bát rượu, bưng tới trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:

– Chúc mừng giáo chủ, xin cạn chén này.

Trương Vô Kỵ cầm lấy uống cạn. Từ Đạt nói tiếp:

– Thuộc hạ vẫn khâm phục giáo chủ can đảm hơn người, võ công tuyệt luân; không ngờ giáo chủ còn biết dùng binh thần diệu đến thế, phúc của bản giáo, may cho bách tính.

Trương Vô Kỵ cười vui, nói:

– Từ đại ca đừng khen bản nhân làm gì. Đại thắng hôm nay, trước là nhờ Từ, Thường hai đại ca thần tốc cứu viện; sau là nhờ di giáo của Nhạc Vũ Mục, bản nhân thực chả có chút công lao gì.

Từ Đạt lấy làm lạ, hỏi:

– Di giáo của Nhạc Vũ Mục là sao, mong giáo chủ giảng cho.

Trương Vô Kỵ móc túi lấy ra cuốn lụa mỏng màu vàng, chính là “Vũ Mục di thư” giấu trong thanh đao Đồ Long, giở mục “Binh khốn Ngưu Đầu sơn”, đưa cho Từ Đạt xem, Từ Đạt đỡ lấy bằng hai tay, đọc kỹ một lượt, bất giác vừa kinh ngạc vùa thán phục, thốt lên:

– Vũ Mục dùng binh như thần, người đời sau thật không sánh kịp. Nếu Nhạc Vũ Mục còn sống đến hôm nay, thống lĩnh hào kiệt Trung nguyên, lo gì không đánh đuổi được quân Mông Cổ về sa mạc phương bắc.

Nói đoạn cung kính trao lại di thư.

Trương Vô Kỵ không nhận, nói:

– “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng”, ý nghĩa của mười sáu chữ đó, bản nhân hôm nay mới hiểu. Nói “Võ lâm chí tôn”, không phải bản thân thanh bảo đao, mà là di thư giấu trong đao. Nếu dùng binh pháp này đánh địch, chắc sẽ đánh đâu thắng đó, nên cuối cùng mới nói “hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng”. Nếu chỉ dựa vào thanh đao Đồ Long thì làm sao có thể hiệu lệnh được thiên hạ? Từ đại ca, bộ binh thư này ta tặng cho đại ca đó, mong đại ca nối chí Nhạc Vũ Mục, tiến tới thắng lợi, giành lại giang sơn.

Từ Đạt cả kinh, vội nói:

– Thuộc hạ đâu có tài đức gì mà dám nhận món quà quý giá này của giáo chủ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Từ đại ca đừng từ chối. Ta vì trăm họ mà trao binh thư này cho đại ca đó.

Từ Đạt cầm binh thư mà hai tay run run. Trương Vô Kỵ nói tiếp:

– Trong võ lâm truyền ngôn còn hai câu Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong”. Nay kiếm Ỷ Thiên đã gãy làm hai, nhưng sau này sẽ nối lại được. Bên trong thanh kiếm có giấu một pho bí kíp võ công vô cùng lợi hại. Ta đã hiểu ý hai câu này, binh thư là dùng để đánh đuổi bọn Thát tử; nhưng nếu người nào sau này chấp chưởng đại quyền, lại tác oai tác quái, lấy bạo ngược thay bạo ngược, trăm họ lại phải chịu lầm than; thì cuối cùng sẽ có một vị anh hùng cầm kiếm Ỷ Thiên đến lấy đầu tên bạo chúa. Kẻ thống lĩnh trăm vạn hùng binh quyền khuynh thiên hạ, cũng chưa chắc chịu nổi một nhát chém của kiếm Ỷ Thiên. Từ đại ca, câu đó mong đại ca hãy ghi nhớ.

Từ Đạt mồ hôi ướt lưng, không dám từ chối nữa, nói:

– Thuộc hạ cẩn tuân lệnh chỉ của giáo chủ.

Y đặt “Vũ Mục di thư” trên bàn, cung kính lạy bốn cái, rồi lạy tạ Trương Vô Kỵ đã ban tặng di thư.

Quả nhiên từ đó Từ Đạt dùng binh như thần, liên tiếp đánh bại quân Nguyên, cuối cùng thống lĩnh quân đội đánh lên phương bắc, đuổi quân Mông Cổ ra ngoài biên ải, uy chấn vùng sa mạc phương bắc, lập công tích hiển hách một thời.

Từ đó anh hùng Trung nguyên đều ngả theo Minh giáo, hiệu lệnh của Trương Vô Kỵ tới đâu cũng được tuân phục. Minh giáo mấy trăm năm qua bị người đời căm ghét, bị coi là yêu ma dâm tà, kể từ đại biến cố long trời lở đất này, đã trở thành thủ lĩnh của quần hùng Trung nguyên, phục hưng đại nghiệp của con cháu Hán tộc. Tuy về sau Chu Nguyên Chương thay lòng đổi dạ, thực hiện mưu gian mà lên ngôi hoàng đế, nhưng những người phò tá y đều là người của Minh giáo, cho nên quốc hiệu không thể không xưng là nhà Minh. Minh triều làm chủ thiên hạ từ năm Mậu Thân Hồng Võ nguyên niên đến năm Giáp Thân Sùng Trinh thứ mười bảy, tổng cộng hai trăm bảy mươi bảy năm, đều là nhờ Minh giáo mà có.

*

*      *

Quần hùng vui say đến tận sáng mới thôi. Trưa hôm đó, mọi người lục tục cáo từ Không Văn, Không Trí hai vị thần tăng.

Trương Vô Kỵ thấy đệ tử phái Nga Mi tả tơi, trong lòng thương hại, thấy Tống Thanh Thư vẫn còn nằm trên cáng, không biết sống chết thế nào, bèn tới gần, nói với Tĩnh Tuệ:

– Để tại hạ xem thương thế cho Tống đại ca.

Tĩnh Tuệ lạnh lùng nói:

– Rõ khéo mèo khóc chuột, khỏi cần giả nhân giả nghĩa!

Chu Điên đứng gần đó, không nhịn được, chửi luôn:

– Giáo chủ của ta chỉ vì chút tình cũ với chưởng môn của các người mới trị thương cho gã họ Tống kia, chứ hạng người khi sư phản phụ như hắn, ai cũng chỉ mong giết quách cho xong, mụ ni cô xấu xa này còn lèm bèm cái gì?

Tĩnh Tuệ định đấu khẩu vài câu, nhưng thấy Chu Điên mặt mày dữ tợn, thần sắc hung ác, chỉ sợ lão bất chấp lý lẽ, ra tay với mình thì mình chỉ thiệt thân, bèn cố nén giận, cười khẩy, nói:

– Chưởng môn phái Nga Mi ta đời này truyền đời khác đều là nữ nhi băng thanh ngọc khiết. Chu chưởng môn nếu không phải là hoàng hoa khuê nữ, giữ thân như ngọc, thì sao có thể làm chưởng môn bản phái kia chứ? Hừ, hạng gian tặc như Tống Thanh Thư ở trong bản phái chỉ làm ô danh Chu chưởng môn mà thôi. Lý sư điệt, Long sư điệt, mau đem hắn trả cho phái Võ Đang.

Hai đệ tử phái Nga Mi đáp lời, khiêng cái cáng Tống Thanh Thư đến trước mặt Du Liên Châu bỏ đó mà đi về.

Mọi người hết sức kinh ngạc, Du Liên Châu nói:

– Sao… cái gì? Hắn không phải là chồng của chưởng môn các người hay sao?

Tĩnh Tuệ hậm hực nói:

– Chưởng môn của tệ phái đâu có coi kẻ này ra gì? Chu chưởng môn quá giận tên tiểu tử Trương Vô Kỵ thay lòng đổi dạ, bỏ đi giữa buổi lễ thành hôn, làm nhục bản phái trước anh hùng thiên hạ, nên giả vờ nhận gã tiểu tử này làm chồng. Nếu biết… hừ, nếu sớm biết như thế, Chu chưởng môn hà tất phải gánh cái tiếng xấu ấy? Hiện tại Chu… Chu…

Trương Vô Kỵ đứng nghe mà ngơ ngẩn, không nhịn được, bèn bước lên hỏi:

– Sư thái bảo nàng… nàng kỳ thực không phải là Tống phu nhân ư?

Tĩnh Tuệ quay mặt đi, hầm hầm nói:

– Ta không thèm nói chuyện với ngươi.

Lúc ấy Tống Thanh Thư đang nằm trên cáng, khẽ cựa quậy, vừa rên vừa hỏi:

– Đã giết… giết được Trương Vô Kỵ chưa?

Tĩnh Tuệ cười khinh bỉ:

– Đừng mê sảng nữa! Chết đến nơi còn ham chuyện viển vông.

Ân Lê Đình thấy Tĩnh Tuệ hậm hà hậm hực, nói năng úp úp mở mở, bèn hỏi nhỏ một nữ đệ tử phái Nga Mi là Bối Cẩm Nghi:

– Bối sư muội, đầu đuôi câu chuyện ra sao?

Bối Cẩm Nghi năm xưa rất thân với Kỷ Hiểu Phù, nghe hỏi, ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Tĩnh Tuệ sư tỷ, Ân lục hiệp không phải người ngoài, để muội nói cho Ân lục hiệp nghe có được chăng?

Tĩnh Tuệ nói:

– Cái gì mà người ngoài với chả người trong? Không phải người ngoài cũng nói, là người ngoài lại càng phải nói. Chu chưởng môn của chúng ta hoàn toàn trong trắng, không dính dáng gì với tên gian đồ họ Tống kia. Các người chính mắt nhìn thấy “thủ cung sa”[140] trên cánh tay Chu chưởng môn; việc này cần nói rõ cho đồng đạo võ lâm khắp thiên hạ cùng biết, để khỏi hủy hoại quy củ của phái Nga Mi suốt trăm năm nay…

Ân Lê Đình nghĩ thầm: “Vị Tĩnh Tuệ sư thái này đầu óc xem ra không được sáng sủa lắm, nói chẳng có đầu đuôi gì hết”, bèn hỏi Bối Cẩm Nghi:

– Bối sư muội, đã thế, thì nói toạc ra đi. Tống sư điệt của tiểu huynh vì sao gia nhập quý phái, rốt cuộc có quan hệ thế nào với quý chưởng môn, để tiểu huynh còn về bẩm cáo với sư phụ. Việc này hệ trọng đối với hai phái chúng ta, không nên làm tổn thương hòa khí của hai bên thì hơn.

Bối Cẩm Nghi thở dài, nói:

– Võ công, phẩm chất của vị Tống thiếu hiệp này kể cũng hiếm có trong võ lâm; nhưng chỉ vì si tình mà sa vào nghiệp chướng. Chu chưởng môn hình như có hẹn với y, khi nào giết được Trương Vô Kỵ, rửa được nỗi nhục trong buổi lễ thành hôn, thì sẽ lấy y làm chồng. Vì thế y cam tâm gia nhập bản phái, để được Chu chưởng môn truyền cho võ công kỳ diệu. Trước đại hội quần hùng, Chu chưởng môn đột nhiên tự xưng là Tống phu nhân, là vợ của Tống thiếu hiệp, các đệ tử bản phái ai ai cũng kinh ngạc. Hôm kia Chu chưởng môn uy chấn quần hùng, chế phục các môn phái…

Chu Điên nói:

– Đấy là giáo chủ của bọn ta cố ý nhường cho, chẳng có gì đáng huênh hoang!

Bối Cẩm Nghi không buồn lý tới, nói tiếp:

– Các đệ tử bản phái tuy hết sức vui mừng, nhưng tối về mọi người mới hỏi ba chữ “Tống phu nhân” là thế nào. Chu chưởng môn mới để lộ cánh tay trái ra, nói: “Mọi người hãy nhìn đây!” Tất cả bọn ta đều nhìn rõ, vết “thủ cung sa” trên cánh tay vẫn đỏ chót như xưa, quả nhiên nàng vẫn là một xử nữ hoàn toàn trong trắng. Chu chưởng môn nói rằng: “Ta tự xưng Tống phu nhân là cái kế quyền nghi nhất thời, chẳng qua chỉ cốt chọc tức tiểu tử Trương Vô Kỵ, khiến cho y tâm thần bất định, khi tỷ võ mới thừa cơ đánh thắng được y. Tên tiểu tử đó võ công trác việt, ta quả thật không sánh kịp y. Vì thanh danh của bản phái, thanh danh của bản thân ta nào có đáng gì”.

Mấy câu này Bối Cẩm Nghi cố ý nói to cho mọi người cùng nghe rõ, rồi tiếp:

– Nam nữ đệ tử bản phái, nếu không xuất gia tu đạo, vốn không cấm lấy vợ lấy chồng. Nhưng từ Quách tổ sư sáng phái tới nay, phàm là võ công tối cao thâm, chỉ truyền cho xử nữ. Mỗi nữ đệ tử khi bái sư, sư phụ đều chấm một chấm “thủ cung sa” trên cánh tay trái. Hàng năm vào ngày giỗ Quách tổ sư, sư phụ đều kiểm xét, hồi trước Kỷ sư tỷ… vì chuyện đó…

Nàng nói tới đây thì ấp úng ngừng lại. Bọn Ân Lê Đình hiểu rằng Bối Cẩm Nghi muốn nhắc đến việc Kỷ Hiểu Phù bị thất thân với Dương Tiêu, chấm “thủ cung sa” biến mất, mới bị Diệt Tuyệt sư thái phát giác. Ân Lê Đình giờ đã kết hôn với Dương Bất Hối, ái tình mặn nồng, song lúc này nhớ đến Kỷ Hiểu Phù thì lòng không khỏi bồi hồi, bất giác liếc nhìn Dương Tiêu, thấy ông ta mắt rưng rưng, quay đi chỗ khác.

Bối Cẩm Nghi nói tiếp:

– Ân lục hiệp, Chu chưởng môn có ý chọc tức giáo chủ Minh giáo, vừa hay Tống thiếu hiệp kia lại si mê nàng quá chừng, nên mới sinh ra bao nhiêu chuyện. Đợi khi nào Tống thiếu hiệp lành bệnh, xin Ân lục hiệp lựa lời thưa với Trương chân nhân và Tống đại hiệp, để tránh hiềm khích giữa hai phái chúng ta.

Ân Lê Đình gật đầu, nói:

– Hẳn là phải thế. Gã sư điệt của tiểu huynh phản nghịch phạm thượng, tội đáng chết, thực là xấu hổ cho tệ phái, tiểu huynh chỉ mong nó sớm chết đi cho rảnh nợ.

Ông vốn yếu lòng, nghĩ đến việc Tống Thanh Thư giết hại Mạc Thanh Cốc, trong lòng càng thêm thống hận.

Đang nói chuyện, bỗng nghe từ xa xa vọng lại một tiếng thét kinh hoảng, hình như là tiếng kêu của Chu Chỉ Nhược, chắc nàng gặp một biến cố khủng khiếp nào đó.

Mọi người nghe tiếng thét ấy bất giác cùng rùng mình sởn gai ốc; giữa lúc trời quang mây tạnh, bốn phía đầy người, vậy mà nghe tiếng kêu kia tưởng chừng có ác quỷ hiện hình, ai nấy cùng quay nhìn về phía vọng tới tiếng kêu. Trương Vô Kỵ, Tĩnh Tuệ, Bối Cẩm Nghi đều chạy vội về phía đó.

*

*      *

Trương Vô Kỵ sợ Chu Chỉ Nhược gặp phải kẻ địch lợi hại, nên chàng lao thật nhanh, chỉ nhô lên hụp xuống vài cái đã xuyên qua cánh rừng, thấy một cái bóng xanh đang lao tới như điên, chính là Chu Chỉ Nhược. Chàng chạy tới đón, hỏi:

– Chỉ Nhược, có chuyện gì thế?

Chu Chỉ Nhược mặt đầy vẻ kinh hoàng, kêu lên:

– Ma, ma, có ma đuổi muội!

Nàng ôm chặt lấy Trương Vô Kỵ, người cứ run bần bật.

Trương Vô Kỵ thấy nàng hồn xiêu phách lạc như thế, thì vỗ nhẹ vai nàng, an ủi:

– Đừng sợ, đừng sợ! Làm gì có ma. Muội nhìn thấy cái gì vậy?

Chàng thấy quần áo nàng bị gai cào rách tả tơi, trên mặt có không ít vết xước rớm máu, một nửa ống tay áo bên trái bị rách, để lộ ra cánh tay trắng như ngọc, trên da có một nốt chấm như san hô đỏ, như hồng ngọc, chính là dấu “thủ cung sa” của con gái đồng trinh.

Trương Vô Kỵ tinh thông y dược, biết ra người con gái sau khi chấm nốt “thủ cung sa”, nếu không lấy chồng hoặc không bị thất thân, thì dấu ấy còn lại suốt đời không phai. Lúc nãy chàng nghe Tĩnh Tuệ và Bối Cẩm Nghi nói còn bán tín bán nghi, bây giờ chính mắt nhìn thấy thì không còn ngờ gì nữa, trong giây lát hiện ra bao ý nghĩ: “Chuyện lấy Tống Thanh Thư gì gì đó chỉ toàn là giả, vậy nàng lừa ta để làm gì? Tại sao nàng cần chọc tức ta? Không lẽ quả thật nàng hám cái danh hiệu “đệ nhất võ công thời nay”? Hay là muốn thử xem mình có còn tình ý với nàng hay không?” Chàng lại nghĩ thầm: “Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược là kẻ thù lớn đã giết biểu muội của mi, nàng ta còn là gái đồng trinh hay đã lấy chồng thì cũng thế, đâu có gì khác đối với mi?” Nhưng thấy nàng sợ hết hồn hết vía, chàng cũng không nỡ đẩy nàng ra.

Chu Chỉ Nhược phủ phục trong lòng Trương Vô Kỵ, cảm thấy bộ ngực ấm áp rắn chắc của chàng, ngửi thấy hơi hướng đàn ông nồng nàn, thì dần dần trấn tĩnh, nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng đấy ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Phải, ta đây. Muội đã gặp cái gì thế? Có gì mà sợ đến thế?

Chu Chỉ Nhược đột nhiên lại kinh hãi, òa lên khóc, nước mắt ròng ròng, gục đầu vào vai chàng mà nức nở. Lúc này, Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Lê Đình, Tĩnh Tuệ đều đã chạy tới cả, thấy cảnh đó bèn nhìn nhau, lặng lẽ rút đi. Trong tâm tư người của Minh giáo, phái Võ Đang và phái Nga Mi, ai cũng chỉ mong Chu Chỉ Nhược tái hợp với Trương Vô Kỵ, kết thành vợ chồng. Mối oán thù của họ ngày trước đối với Triệu Mẫn vẫn chưa tan, hơn nữa Triệu Mẫn dù sao cũng là con nhà quyền quý người Mông Cổ, Trương Vô Kỵ lấy Triệu Mẫn làm vợ, chỉ e sẽ gây trở ngại cho sự phục hưng đại nghiệp.

Chu Chỉ Nhược khóc một hồi, rồi đột nhiên hỏi:

– Vô Kỵ ca ca, có ai đuổi theo không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Không có ai đuổi theo cả. Thế ai đuổi theo muội vậy? Có phải Huyền Minh nhị lão hay không?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Không, không phải! Chàng nhìn kỹ chưa? Quả thật không có ai… không, không phải là người, không có cái gì đuổi theo chứ?

Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:

– Giữa thanh thiên bạch nhật thế này, chẳng lẽ còn nhìn không rõ.

Giọng chàng trở nên dịu dàng:

– Chỉ Nhược, mấy ngày liền nàng dùng sức quá độ, bị mệt mỏi, đầu váng mắt hoa, nên nhìn gà hóa cuốc đấy thôi.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Không phải, nhất định không phải thế. Muội thấy nó ba lần, ba lần liền kia mà.

Giọng nàng run run, cơn khiếp sợ vẫn chưa tan hết. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Nàng ba lần nhìn thấy cái gì?

Chu Chỉ Nhược vịn vai chàng, lẩy bẩy đứng lên, quay lại nhìn phía sau một cái, cái nhìn này tựa hồ nàng phải thu hết can đảm, nhìn xong vội quay lại ngay; thấy sắc mặt chàng đầy vẻ quan hoài trìu mến, thì trong lòng chua xót, chân tay bủn rủn, ngồi phệt xuống đất, nói:

– Vô Kỵ ca ca, muội… mọi việc muội đều lừa dối chàng. Kiếm Ỷ Thiên và thanh đao Đồ Long chính muội lấy cắp… Ân… Ân Ly cô nương là do muội… giết hại… Tạ đại hiệp đã bị chính tay muội điểm huyệt. Muội… muội không lấy Tống Thanh Thư. Trong lòng muội chỉ có… quả thật trước sau chỉ có một mình chàng mà thôi.

Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

– Những chuyện đó, ta đều biết cả rồi. Có điều… tại sao nàng lại phải khổ như thế?

Chu Chỉ Nhược khóc, nói:

– Chàng chưa biết, sư phụ của muội ở trên tháp chùa Vạn An đã nói gì với muội đâu. Sư phụ nói cho muội biết bí mật trong thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên, bắt muội phải thề lấy cho được đao kiếm làm rạng rỡ phái Nga Mi, bắt muội phải thề độc, giả vờ yêu chàng, nhất quyết không được thực tình với chàng.

Trương Vô Kỵ vuốt ve cánh tay nàng, nhớ lại năm nào chính mắt nhìn thấy Diệt Tuyệt sư thái giáng chưởng đánh chết Kỷ Hiểu Phù, nghe bà ta ở giữa sa mạc thề tiêu diệt Minh giáo, thấy bà ta cầm kiếm Ỷ Thiên loạn sát giáo chúng Nhuệ Kim kỳ. Sau này ở tháp chùa Vạn An, bà ta thà chết chứ không để cho chàng cứu giúp, đủ biết bà ta thù hận Minh giáo biết chừng nào. Chu Chỉ Nhược kế thừa y bát, nhận di mệnh của bà ta, cho nên mọi hành vi tàn ác độc địa kia đều là do Diệt Tuyệt sư thái trối trăn mà ra. Chàng bản tính rất dễ tha thứ cho lỗi lầm của người khác, xưa nay không nhớ hận thù, nghĩ lại năm xưa trên sông Hán Thủy nàng bón cơm cho mình ăn, rồi trong trận ác đấu trên đỉnh Quang Minh giữa chàng với vợ chồng Hà Thái Xung và Hoa Sơn nhị lão, nếu không có nàng đứng bên cạnh chỉ điểm, không chừng chàng đã bỏ mạng tại trận rồi. Nghĩ cho kỹ, thì mọi hành vi gian trá tàn bạo của nàng cũng đều xuất phát từ mối thâm tình của nàng đối với chàng. Lúc này nàng yếu đuối nằm phục trong lòng chàng, bất giác chàng cảm thấy rất thương nàng, bèn dịu dàng nói:

– Chỉ Nhược, nàng thấy cái gì mà sợ hãi đến thế?

Chu Chỉ Nhược đứng phắt dậy, nói:

– Muội không nói đâu. Chính cái oan hồn đó cứ bám theo muội, muội làm nhiều điều ác, tất nhiên phải bị quả báo thế này. Hôm nay muội sẽ nói rõ tất cả với chàng… chắc muội chẳng còn sống được bao lâu nữa…

Nói xong nàng ôm mặt chạy nhanh xuống núi.

Trương Vô Kỵ không hiểu đầu đuôi thế nào, nghĩ thầm: “Oan hồn nào bám theo nàng? Chả lẽ bang chúng Cái Bang trả thù, giả làm ma quỷ dọa nàng hay sao?” Chàng liền đi theo, chỉ thấy nàng đã lẫn vào trong đám đệ tử phái Nga Mi, Bối Cẩm Nghi khoác lên người nàng một chiếc áo ngoài. Chu Chỉ Nhược nói nhỏ mấy câu gì đó, các đệ tử nhất tề cúi mình vâng lệnh.

Lúc này trên núi Thiếu Thất lại thêm rất nhiều người ra về; Không Văn, Không Trí hai vị bận từ biệt khách. Bọn Phạm Dao, Dương Tiêu đến tề tựu xung quanh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nói:

– Chúng ta cũng chuẩn bị ra về thì vừa.

Chàng thấy Chu Chỉ Nhược đến trước mặt Không Văn nói nhỏ mấy câu, Không Văn sắc mặt đại biến, sững sờ một hồi, lắc đầu, tựa hồ không tin. Chu Chỉ Nhược lại nói thêm mấy câu, rồi đột nhiên quỳ xuống, chắp tay lẩm bẩm khấn khứa. Không Văn thần sắc trang nghiêm, miệng niệm Phật hiệu.

Chu Điên nói:

– Giáo chủ, việc này giáo chủ phải ngăn lại mới được, thể nào cũng phải ngăn lại.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Ngăn cái gì?

Chu Điên nói:

– Chu cô nương định xuất gia làm hòa thượng, nàng ta… nàng ta mà vào cửa Phật rồi, thì giáo chủ nguy tai.

Dương Tiêu cười nói:

– Chu cô nương có xuất gia thì cũng làm ni cô, chứ đâu có làm hòa thượng? Có lý nào bái nhà sư làm thầy?

Chu Điên gõ mạnh một cái lên trán mình, nói:

– Đúng, đúng! Lão phu nhất thời hồ đồ. Thế Chu cô nương cầu khẩn Không Văn việc gì vậy? Một người là chưởng môn phái Thiếu Lâm, một người là chưởng môn phái Nga Mi, hoàn toàn ngang vai nhau, sao nàng ta lại quỳ?

Thấy Chu Chỉ Nhược đã đứng dậy, vẻ mặt đã dịu đi. Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

– Thôi chuyện của người khác, mình chẳng thể bao đồng.

Rồi chàng ngoảnh đầu lại, nói:

– Mẫn muội, chúng ta đi thôi.

Nhưng ngó quanh chẳng thấy Triệu Mẫn đâu cả.

Mấy ngày qua, Triệu Mẫn lúc nào cũng ở bên chàng như hình với bóng kia mà, Trương Vô Kỵ chột dạ, hỏi:

– Triệu cô nương đâu rồi?

Trong bụng than thầm: “Hỏng rồi, chắc là lúc Chu Chỉ Nhược nằm phục trong lòng ta, Triệu Mẫn đã trông thấy, tưởng ta tình cũ không chịu dứt, nên đã bỏ ta mà đi chăng?” Chàng vội chen vào đám đông tìm kiếm. Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa kỳ Tân Nhiên nói:

– Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ nhìn thấy Triệu cô nương xuống núi rồi!

Trương Vô Kỵ cảm thấy không chịu nổi, nghĩ thầm: “Triệu Mẫn vứt bỏ tất cả để theo ta, đã trải qua bao nhiêu hoạn nạn, ta há có thể phụ nàng?” Bèn quay sang nói với Dương Tiêu:

– Dương huynh, việc ở đây nhờ huynh lo liệu, bản nhân phải đi trước một chút!

Rồi chàng cáo biệt Không Văn, Không Trí; chào từ biệt Du Liên Châu, Trương Tòng Khê, Ân Lê Đình; cuối cùng nói với Chu Chỉ Nhược:

– Chỉ Nhược, nàng hãy cố bảo trọng, hậu hội hữu kỳ.

Chu Chỉ Nhược cúi đầu không trả lời, chỉ nhè nhẹ gật đầu, từ khóe mắt mấy giọt lệ ứa ra, rơi xuống.

*

*      *

Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy như bay xuống chân núi. Suốt mấy dặm toàn là các lộ anh hùng từ chùa Thiếu Lâm đang trên đường về, chàng không muốn chào hỏi ai, nên gặp người đều lướt qua thật nhanh, mãi vẫn không thấy hình bóng Triệu Mẫn đâu cả. Chàng đi một mạch hơn ba chục dặm, trời sắp tối, người đi trên đường càng lúc càng thưa, chợt nghĩ: “Triệu Mẫn đa mưu túc trí, nếu định tránh mặt ta, nàng sẽ không đi theo đường lớn. Nếu không, ta đi nhanh như thế, đã phải gặp nàng rồi. Hay là nàng trốn trong núi Thiếu Thất, chờ ta đi rồi, nàng mới đi sau?” Lòng như lửa đốt, chàng không quản đói khát, cứ chạy rẽ vào các cánh rừng, chốc chốc lại leo lên các cây cao, đỉnh dốc mà đưa mắt tìm kiếm tứ phía. Núi rừng tịch mịch, chỉ thấy quạ bay về tổ.

Chàng vòng trở lại núi Thiếu Thất rồi, vẫn không thấy Triệu Mẫn, nghĩ thầm: “Bất kể thế nào ta cũng không thay lòng đổi dạ với nàng, dẫu phải đến chân trời góc biển, ta cũng quyết tìm được nàng mới thôi”. Bụng đã quyết, tâm thấy an hơn. Thấy trong thung lũng góc đông bắc có hai cây hòe lớn mọc cạnh nhau, chàng bèn nhảy lên cây, tìm một cái chạc mọc ngang, nằm ngả lưng xuống đó. Trải qua một ngày bao nhiêu biến cố, người mệt mỏi, nằm một lát liền ngủ thiếp đi.

Chàng ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe có tiếng bước chân cách vài chục trượng, lập tức tỉnh giấc. Lúc này vầng trăng đã chếch sang phía tây, dưới ánh trăng thấy một bóng người trên dốc núi di chuyển cực nhanh xuống phía nam. Người ấy dáng thon thả, thắt đáy lưng ong, là một thiếu nữ mảnh dẻ.

Chàng cả mừng, đã mở miệng định gọi “Mẫn muội!” nhưng biết là mình nhìn lầm, vì thiếu nữ này cao hơn Triệu Mẫn một chút, thân pháp khinh công khác hẳn, bước chân nhẹ nhàng hơn Triệu Mẫn, song chưa uyển chuyển bằng Chu Chỉ Nhược.

Lòng hiếu kỳ trỗi dậy, chàng nghĩ thầm: “Đêm hôm khuya khoắt, cô gái này đi một mình là có chuyện gì?” Việc này chẳng liên can gì tới chàng, chàng cũng không muốn rình mò chuyện riêng tư của con gái nhà người, nhưng lại nghĩ: “Không chừng từ cô gái này, mình sẽ tìm thấy Triệu Mẫn. Nếu nàng ta không dính dáng gì tới Triệu Mẫn, thì mình lặng lẽ tách ra là xong; có chút manh mối nào mình cũng không nên bỏ qua”. Thế là chàng đu vào cành cây nhẹ nhàng nhảy xuống đất.

Chàng sợ bị thiếu nữ kia phát giác, không dám lại gần, nghĩ bụng đêm khuya bám theo một thiếu nữ không quen biết, dễ bị người ta nghi ngờ có dã tâm. Chỉ thấy thiếu nữ kia mặc bộ đồ màu đen, chính đang đi về phía chùa Thiếu Lâm, nghĩ thầm: “Dù nàng ta không liên quan gì tới Triệu Mẫn, thì cũng có mưu đồ gì đây với võ lâm. Nếu nàng ta toan làm điều gì bất lợi cho Thiếu Lâm tự, mình nhất định sẽ phải ra tay can thiệp”. Chàng dừng bước dỏng tai nghe, bốn bề không thấy có ai khác, biết thiếu nữ kia chỉ đi một mình.

Đi chừng thời gian bằng ăn xong một bữa cơm, thiếu nữ không hề ngoảnh lại. Trương Vô Kỵ lờ mờ cảm thấy nhìn từ phía sau nàng rất quen thuộc, dường như đã gặp ở đâu rồi thì phải, nghĩ thầm: “Là Võ Thanh Anh cô nương chăng? Hay là một nữ đệ tử phái Nga Mi?” Đi thêm vài dặm nữa, chùa Thiếu Lâm đã ở trước mặt. Thiếu nữ kia qua một cái đèo, tới cạnh chùa, nàng đi chậm lại, lẩn rất nhanh sau các gốc cây, mỏm đá, rõ ràng là sợ bị người ta nhìn thấy.

Bỗng nghe từ đại điện trong chùa truyền ra tiếng khánh, rồi tiếng tụng kinh bằng Phạn ngữ của hàng trăm nhà sư. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: “Sao quá nửa đêm mà các nhà sư Thiếu Lâm còn tụng kinh, hơn nữa lại đông đến thế, chẳng lẽ có đại pháp sự gì hay sao?”

Thiếu nữ kia di chuyển càng thận trọng hơn, đi thêm vài chục trượng, đã tới bên đại điện. Bỗng có tiếng bước chân nhè nhẹ, thiếu nữ nằm phục xuống cỏ, kế đó có bốn hòa thượng tay cầm thiền trượng, giới đao đi tuần ngang qua. Đợi bốn hòa thượng qua rồi, thiếu nữ nhổm dậy, nhảy một cái đến bên cửa sổ dài của đại điện. Cú nhảy này nhẹ như bay, là khinh công của một cao thủ bậc nhất trong võ lâm.

Trương Vô Kỵ thấy tay nàng không cầm binh khí, chỉ có một thân một mình, không có vẻ đến chùa Thiếu Lâm để gây sự, chàng rất muốn nhìn rõ mặt nàng, xem có phải là người quen biết hay chăng, bèn rón rén cúi mình vòng phía sau nàng tới góc tây bắc của đại điện. Chàng tự biết tình cảnh hiện tại vô cùng khó ăn khó nói, ví thử bị các hòa thượng Thiếu Lâm phát giác, với địa vị như chàng, nửa đêm tới chùa nhòm ngó, đối phương dẫu làm như không hay biết, mình cũng mất cả thể diện; bởi vậy chàng hết sức cẩn thận trong từng cử động, nhẹ nhàng còn hơn cả mèo rình chuột.

Lúc này trong đại điện tiếng tụng kinh lại nổi lên, chàng ghé mắt qua khe cửa nhìn vào, thấy trong đại điện có mấy trăm nhà sư, ngồi từng hàng ngay ngắn trên bồ đoàn, mặc hoàng bào, lại khoác bên ngoài đại hồng cà sa thêu kim tuyến, người thì cầm pháp khí, người thì chắp tay tụng kinh, chính là một buổi lễ cầu siêu. Trương Vô Kỵ chợt hiểu: “Đại hội anh hùng kỳ này có không ít người bỏ mạng, quân Nguyên lại đánh lên, hai bên tử thương lại càng nhiều. Các nhà sư Thiếu Lâm làm lễ cầu siêu cho vong hồn người chết được tiêu diêu cực lạc”. Trương Vô Kỵ thấy Không Văn đại sư đứng ngay trước bàn thờ đích thân chủ tế, bên phải Không Văn đại sư là một thiếu nữ.

Trương Vô Kỵ nhìn mặt thiếu nữ thì hơi kinh ngạc, hóa ra là Chu Chỉ Nhược. Tuy chỉ nhìn nghiêng, song cũng thấy rõ thần sắc nàng bất an, mày liễu cau cau, như có điều gì lo lắng. Chàng nghĩ thầm: “Phải rồi, hồi chiều Chu Chỉ Nhược quỳ trước mặt Không Văn đại sư, thì ra là để xin đại sư làm lễ cầu siêu, hẳn là nàng sám hối những gì đã làm, bởi nàng đã giết quá nhiều người vô tội”. Chàng nhìn kỹ trên bàn thờ, thấy ở chính giữa là một bài vị trên viết bảy chữ rành rành “Nữ hiệp Ân Ly chi linh vị”.

Trương Vô Kỵ đau lòng nhớ đến cuộc đời buồn thảm của biểu muội, tình cảm sâu nặng của nàng đối với chàng, bất giác nước mắt ứa ra.

Trong tiếng khánh tiếng mõ, Chu Chỉ Nhược quỳ xuống vái, miệng lẩm bẩm khấn. Trương Vô Kỵ vận thần công, cố nghe cho được, loáng thoáng có câu “Ân cô nương… ở trên trời linh thiêng… xin hãy yên nghỉ… đừng hiện về phá tôi…”

Chàng tì tay vào tường, trong đầu rộn lên bao ý nghĩ: “Biểu muội chết dưới kiếm của Chu Chỉ Nhược, cố nhiên tội nghiệp thật, nhưng nội tâm của Chu Chỉ Nhược bị ray rứt hành hạ có lẽ còn khổ hơn cả biểu muội”. Trong óc chàng đột nhiên nhớ đến mấy câu hát của giáo chúng Minh giáo trên đỉnh Quang Minh năm trước: “Khi sống đã chẳng vui, Thì chết có gì khổ? Thương thay cho người đời, Sao lo buồn lắm vậy! Thương thay cho người đời, Sao lo buồn lắm vậy!”

Chu Chỉ Nhược từ từ đứng dậy, hơi nghiêng người, mặt hướng sang phía đông, đột nhiên biến sắc, kêu lên:

– Ối… lại hiện về… đấy!…

Tiếng kêu của nàng át cả tiếng khánh tiếng mõ trong đại điện. Trương Vô Kỵ nhìn theo hướng mắt nàng, thấy lớp giấy dán trên khung cửa sổ đã bị rách từ lúc nào, chỗ đó lộ ra một khuôn mặt thiếu nữ đầy vết rạch, khiến chàng run bần bật, không nhịn được phải kêu lên.

Khuôn mặt thiếu nữ đầy vết rạch, tuy không còn nổi u từng cục như năm nào, song hiển nhiên là của nàng Ân Ly đã chết từ lâu.

Chàng toan bước lên gọi, hai chân tự dưng cứng đờ, không xê dịch được. Chỉ thấy khuôn mặt kia đột nhiên biến mất, trong đại điện nghe huỵch một cái, Chu Chỉ Nhược đã ngã ngửa ra.

Trương Vô Kỵ lúc này cũng chẳng còn sợ phái Thiếu Lâm hiềm nghi, lớn tiếng gọi:

– Thù Nhi! Thù Nhi! Là nàng đấy ư?

Không ai trả lời. Chàng hơi định thần, phi thân đuổi theo về đường cũ, chỉ thấy vầng trăng lạnh lẽo lơ lửng, toàn các bóng cây, hắc y thiếu nữ không biết đã đi hướng nào. Chàng vốn không tin có ma quỷ, nhưng gặp cảnh vừa rồi, không khỏi toát mồ hôi lạnh, sởn gai ốc, đứng lại lẩm bẩm: “Đúng là nàng! Đúng là nàng! Hèn chi sau lưng nhìn quen quá, hóa ra là Thù Nhi. Không lẽ linh hồn nàng biết các vị cao tăng Thiếu Lâm tụng kinh siêu độ cho nàng nên tìm đến nghe kinh? Không lẽ nàng chết oan nên âm hồn không siêu thoát được?”

Các hòa thượng Thiếu Lâm nghe tiếng động, đã có mấy vị chạy chạy ra xem xét, thấy Trương Vô Kỵ thì họ không khỏi kinh ngạc. Một vị đứng tuổi bước lên hành lễ, nói:

– Không biết Trương giáo chủ đêm khuya giá lâm, chưa kịp nghênh đón, xin thứ tội cho.

Trương Vô Kỵ chắp tay nói:

– Không dám!

Chàng vào ngay đại điện, thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt nhắm nghiền, mặt cắt không còn hột máu, vẫn chưa hồi tỉnh. Chàng lại bên cạnh, day day nhân trung nàng mấy cái, rồi lại xoa bóp sau lưng nàng. Chu Chỉ Nhược từ từ tỉnh lại, vừa trông thấy Trương Vô Kỵ, liền ôm chặt lấy chàng, kêu lên:

– Có ma, có ma!

Trương Vô Kỵ nói:

– Chuyện này kể cũng quái lạ thật, nàng đừng sợ. Ở đây có rất nhiều vị cao tăng, thể nào cũng hóa giải được mối oan nghiệt này.

Chu Chỉ Nhược lâu nay vốn là người đoan trang ổn trọng, lúc này vì quá kinh hoảng, nên trước mặt bao người mà cứ ôm chặt lấy Trương Vô Kỵ, nghe chàng nói thế mới đỏ mặt, vội buông chàng ra, đứng lên, nhưng vẫn còn run rẩy, nắm chặt tay chàng không chịu rời.

Trương Vô Kỵ thi lễ với Không Văn, kể lại chuyện vừa rồi có kẻ ở bên ngoài nhòm trộm. Không Văn và các nhà sư đều không nhìn thấy, song vết giấy ở cửa sổ vừa bị xé rách kia còn sờ sờ ra đó. Chu Chỉ Nhược nói:

– Vô Kỵ ca… Trương giáo chủ, muội nhìn thấy, đúng là người đó.

Trương Vô Kỵ gật đầu, Chu Chỉ Nhược run run hỏi:

– Thế giáo… chủ nhìn thấy… ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Thấy Ân cô nương, biểu muội của ta.

Chu Chỉ Nhược kêu khẽ một tiếng, lại ngất đi. Lần này Trương Vô Kỵ đang nắm tay nàng, nên nàng không bị ngã, chỉ ngất xỉu một lát là tỉnh ngay. Trương Vô Kỵ nói:

– Ta nhìn thấy biểu muội, nhưng nàng… là người, chứ không phải là ma!

Chu Chỉ Nhược run run hỏi:

– Không phải là ma thật ư?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta đã đi theo biểu muội một quãng đường dài đến tận đây, thấy nàng ta đi đứng bình thường, không thể là ma được!

Mấy câu này chỉ cốt an ủi Chu Chỉ Nhược, chứ trong bụng chàng cũng không dám chắc.

Chu Chỉ Nhược hỏi:

– Quả thật giáo chủ thấy nàng ta đi đứng bình thường, không thể là ma chứ?

Trương Vô Kỵ nhớ lại quãng đường bám theo hắc y thiếu nữ tới đây, thấy nàng nép mình sau cửa sổ nhìn vào, nhất cử nhất động đều đúng là một cô nương giỏi võ công, không có chút gì khác lạ, bèn quay sang hỏi Không Văn đại sư:

– Phương trượng, tại hạ có điều chưa rõ, muốn thỉnh giáo phương trượng. Người chết đi rồi, có thật còn hồn ma hay không?

Không Văn trầm tư một lát, nói:

– Chuyện ở cõi u minh, quả thực khó nói.

Trương Vô Kỵ hỏi tiếp:

– Đã thế, sao phương trượng lại thành kính tụng niệm để siêu độ cho các u hồn?

Không Văn nói:

– Thiện tai, thiện tai! U hồn không cần siêu độ. Người chết nghiệp vẫn còn, thiện có thiện báo, ác có ác báo. Nhà Phật lập đàn tụng niệm là cốt cho người sống yên tâm, siêu độ là siêu độ cho người còn sống đó.

Trương Vô Kỵ bây giờ mới ngộ, chắp tay nói:

– Đa tạ phương trượng chỉ điểm. Tại hạ canh khuya đến quấy nhiễu, quả áy náy trong lòng, mong phương trượng thứ tội cho.

Không Văn mỉm cười, nói:

– Giáo chủ là đại ân nhân của tệ phái, mấy phen cứu giúp phái Thiếu Lâm thoát nạn, hà tất phải khách khí.

Trương Vô Kỵ bèn cáo biệt các nhà sư, nói với Chu Chỉ Nhược:

– Ta đi thôi!

Chu Chỉ Nhược có vẻ lưỡng lự, không dám rời khỏi điện Phật. Trương Vô Kỵ cũng không tiện rủ thêm, chắp tay nói:

– Nếu vậy, chúng ta từ biệt ở đây.

Nói xong chàng quay mình đi ra cửa điện.

Chu Chỉ Nhược nhìn theo chàng, đột nhiên gọi:

– Vô Kỵ ca ca, chàng có còn gặp muội nữa hay không? Thôi… muội đi theo chàng vậy.

Nàng chạy theo chàng, cùng chàng sóng vai ra cổng chùa.

*

*       *

Đã cách chùa Thiếu Lâm một quãng xa, Chu Chỉ Nhược liền nép vào người Trương Vô Kỵ, nắm chặt lấy tay chàng. Trương Vô Kỵ biết là nàng sợ, cũng nắm lấy bàn tay mềm mại, ngửi thấy bên mình mùi thơm ngây ngất của nàng, trong lòng không khỏi rạo rực.

Hai người im lặng hồi lâu, đột nhiên Chu Chỉ Nhược thở dài, nói:

– Vô Kỵ ca ca, ngày nào hai ta lần đầu tiên gặp nhau trên sông Hán Thủy, muội được Trương chân nhân ra tay cứu giúp, nếu biết về sau phải chịu bao nỗi khổ sở thế này, thì bấy giờ muội chết ngay trên sông còn hơn.

Trương Vô Kỵ không trả lời, nhớ đến câu hát của giáo chúng Minh giáo, bèn khe khẽ hát:

“Khi sống đã chẳng vui, Thì chết có gì khổ? Thương thay cho người đời, Sao lo buồn lắm vậy! Thương thay cho người đời, Sao lo buồn lắm vậy!”

Chu Chỉ Nhược nghe lời ca, bàn tay nắm tay chàng hơi run run.

Nàng nói nhỏ:

– Trương chân nhân đưa muội đến núi Nga Mi là để cho muội được tốt lành, thế nhưng giá lão nhân gia giữ muội ở trên núi Võ Đang, cho muội làm môn hạ phái Võ Đang, thì mọi sự hôm nay đã khác hẳn. Ôi, ân sư đối với muội có gì không tốt nhỉ? Nhưng bà ấy đã bắt muội phải thề độc, bắt muội phải hận thù Minh giáo, bắt muội phải thù chàng, hại chàng, song trong lòng muội… quả thực…

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói rất chân thành, thì cảm động, biết nàng có nhiều điều khó xử, bao nhiêu việc ác độc đều là do di mệnh của Diệt Tuyệt sư thái mà làm, giờ thấy nàng hoảng sợ thế này thì càng thương nàng thêm.

Đường núi gió thổi vi vu, đưa tới từng chập hương thơm các loài hoa, lúc này là đầu mùa hạ, đêm thanh mát mẻ, lại nghe thiếu nữ xinh tươi thổ lộ nỗi lòng sâu kín, Trương Vô Kỵ không khỏi bồi hồi man mác; huống hồ hồi ở trên hòn đảo nhỏ, khi chàng giúp nàng đẩy chất độc ra khỏi cơ thể, hai người đã từng nhiều lần đụng chạm da thịt, ban đầu nàng lại từng có ơn với chàng, từng cùng chàng ước hẹn hôn nhân, lòng chàng không khỏi ngất ngây.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Vô Kỵ ca ca, hôm ấy ở thành Hào Châu, chàng đang cùng muội bái đường thành thân, Triệu cô nương vừa tới gọi, chàng liền chạy theo cô ta là vì lẽ gì? Chàng thật sự mê cô ta đến thế kia ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Ta đang định giãi bày chuyện đó với nàng đây. Mình ngồi xuống nói chuyện nhé.

Chàng chỉ một tảng đá lớn bên đường.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Không, lúc này lòng muội đang rối như tơ vò, nghe chưa lọt tai. Đi một quãng nữa cho muội bình tâm, hãy nói.

Trương Vô Kỵ gật đầu, để nàng cầm tay thủng thẳng bước đi. Chu Chỉ Nhược dẫn chàng rẽ vào một con đường nhỏ, đi bốn, năm dặm, tới bên một tảng đá lớn, cạnh một bụi cây rậm rạp, kéo chàng ngồi xuống, nói:

– Bây giờ thì chàng nói cho muội biết đi.

Trương Vô Kỵ liền kể lại việc Triệu Mẫn giơ cho chàng thấy một lọn tóc vàng của Tạ Tốn, khiến chàng không thể không đi theo nàng. Chu Chỉ Nhược nghe xong, thừ người im lặng. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Chỉ Nhược, nàng trách ta lắm phải không?

Chu Chỉ Nhược nghẹn ngào nói:

– Muội đã làm bao nhiêu việc sai trái, chỉ tự trách mình thôi, lẽ nào lại đi trách chàng?

Trương Vô Kỵ vỗ nhẹ vai nàng, dịu dàng nói:

– Những chuyện sai trái trên thế gian nhiều khi do tình thế đưa đẩy, khó mà liệu trước, nàng đừng vì thế mà quá đau lòng.

Chu Chỉ Nhược ngẩng đầu lên nói:

– Vô Kỵ, muội có một câu hỏi chàng, chàng phải trả lời thật lòng, đừng giấu giếm gì hết.

Trương Vô Kỵ nói:

– Được, ta sẽ không giấu nàng.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Muội biết trên đời này có bốn thiếu nữ thực lòng yêu chàng. Một là Tiểu Chiêu đã sang Ba Tư, hai là Triệu cô nương, người thứ ba là… nàng ta…

Chu Chỉ Nhược định nói “Ân cô nương”, song không dám, ngừng một chút, hỏi:

– Nếu cả bốn thiếu nữ đều còn sống và đều ở ngay bên cạnh chàng, thì người mà chàng thực lòng yêu thương là ai?

Trương Vô Kỵ trong lòng mê loạn, ấp úng:

– Cái đó… ồ, cái đó…

Hôm nào Trương Vô Kỵ cùng Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Ân Ly, Tiểu Chiêu bốn nàng cùng ở trên một con thuyền lênh đênh giữa biển, chàng từng mấy lần nghĩ bụng: “Cả bốn cô gái này, ai đối với ta cũng tình sâu nghĩa nặng, ta biết làm sao cho phải đây? Dù ta kết hôn với bất cứ người nào, cũng sẽ làm cho ba nàng kia đau khổ. Rốt cuộc thì từ đáy lòng, ta thật sự yêu nàng nào nhỉ?” Từ bấy đến nay chàng cũng chưa giải đáp nổi câu hỏi đó, đành né tránh, có lúc chàng nghĩ: “Chưa đuổi được bọn Thát tử, chưa khôi phục giang sơn, chưa diệt xong Hung Nô, thì đừng tính chuyện gia thất. Đừng có vương vấn những chuyện nhi nữ riêng tư”. Có lúc chàng nghĩ: “Ta là giáo chủ Minh giáo, nhất cử nhất động đều có liên quan đến sự hưng suy của bản giáo và của võ lâm. Ta tự tin sẽ giữ phẩm hạnh trong sạch suốt đời, lẽ nào rơi vào vòng nữ sắc để anh hùng thiên hạ chê cười, hủy hoại thanh danh bản giáo?” Có khi chàng nghĩ: “Mẹ ta lúc lâm chung từng căn dặn ta, mỹ nữ rất giỏi lừa người, bảo ta phải suốt đời đề phòng, lời mẹ dặn há có thể bỏ ngoài tai?”

Kỳ thực chàng biện giải đủ cách, chẳng qua để tự dối mình, chứ nếu thực tình chuyên tâm yêu một cô gái, thì vị tất cản trở việc phục hưng đại nghiệp, càng không hại gì cho thanh danh của Minh giáo. Chẳng qua chàng thấy nàng này cũng hay, nàng kia cũng tốt, nên không dám mơ tưởng nhiều. Trương Vô Kỵ võ công tuy cao cường thật, song tính cách thì nhu nhược, cả nể, thiếu quyết đoán, việc gì cũng cứ để trôi đi tự nhiên, ít khi dám làm trái ý người khác, thà bỏ ý mình chiều theo ý người. Chàng tập luyện tâm pháp “Càn khôn đại na di” là nể lời thỉnh cầu của Tiểu Chiêu; làm giáo chủ Minh giáo là do tình thế bức bách và cũng vì nể tình Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương; chàng đính hôn với Chu Chỉ Nhược là theo lệnh của Tạ Tốn; còn không bái đường thành thân với Chu Chỉ Nhược thì là do Triệu Mẫn ép phải làm thế. Năm xưa Kim Hoa bà bà và Ân Ly giá như không dùng vũ lực cưỡng bức, mà ngọt ngào rủ chàng ra đảo Linh Xà, chắc hẳn chàng đã đi theo rồi.

Cũng có khi trong cõi lòng sâu kín, chàng nghĩ thầm: “Ước gì ta được chung sống suốt đời với cả bốn cô nương, tất cả thuận hòa thì chẳng sung sướng lắm ư?” Bấy giờ là cuối đời nhà Nguyên, đối với văn sĩ, thương nhân, hào khách giang hồ, chuyện năm thê bảy thiếp là hết sức thường tình, người một vợ một chồng mới là khó kiếm. Có điều là Minh giáo bắt nguồn từ Ba Tư, giáo chúng bên đó sinh hoạt khắc khổ, dè sẻn, ngoài vợ ra ít khi lấy vợ lẽ nàng hầu. Trương Vô Kỵ tính nết khiêm hòa, cảm thấy trong bốn nàng ấy, lấy được ai cũng là phúc lớn cho chàng, nếu còn thêm thiếp này thiếp nọ thì thật là không phải, nên cái ý nghĩ lấy cả bốn nàng chỉ thoáng qua, không dám mơ tưởng tham lam, có chợt nhớ đến, lại tự trách mình: “Làm người phải biết thế nào là đủ, ta còn cái ý đó chẳng hóa ra quá đê tiện hay sao?”

Sau khi Tiểu Chiêu đi Ba Tư, Ân Ly qua đời, lại cho rằng Ân Ly là do Triệu Mẫn sát hại, trong bốn nàng chỉ còn lại Chu Chỉ Nhược, vậy theo lý thì Trương Vô Kỵ sẽ thành hôn với Chu Chỉ Nhược. Ngờ đâu xảy ra bất trắc, hết chuyện này đến chuyện nọ rắc rối, rồi chân tướng lộ ra dần dần, sự thiện ác ban đầu của hai nàng Triệu Chu đã đảo ngược, may sao chàng chưa thành hôn với Chu Chỉ Nhược, đỡ một sự đại lầm lỡ. Triệu Mẫn công khai chống lại cha anh, chẳng còn gì phải khó nghĩ nữa. Ai ngờ Triệu Mẫn bỏ đi không một lời từ biệt, bây giờ Chu Chỉ Nhược lại nêu ra câu hỏi này.

Chu Chỉ Nhược thấy chàng trầm ngâm im lặng, bèn nói:

– Lời muội hỏi chàng chỉ là giả định hư ảo mà thôi. Tiểu Chiêu đã sang làm nữ giáo chủ Minh giáo Ba Tư. Muội thì lại… lại sát hại Ân cô nương. Bốn người bây giờ chỉ còn một mình cô nương họ Triệu. Muội chỉ muốn hỏi chàng, nếu cả bốn người đều bình yên, tử tế ở bên cạnh chàng, thì chàng tính sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Chỉ Nhược, việc đó ta cũng đã nghĩ rất lâu, dường như ta không thể tự quyết định được; nhưng đến hôm nay thì ta biết người mà ta thật sự yêu hơn cả là ai rồi.

Chu Chỉ Nhược hỏi:

– Là ai vậy? Là… là Triệu cô nương phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Đúng thế. Hôm nay ta tìm không thấy Triệu cô nương, thật chẳng thiết sống nữa. Nếu từ nay không còn được gặp Triệu cô nương, chắc ta cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Tiểu Chiêu sang Ba Tư, ta vô cùng đau buồn. Biểu muội của ta qua đời, ta càng đau đớn hơn. Chỉ Nhược hóa ra thế này, lòng ta vừa đau đớn, vừa tiếc nuối. Nhưng Chỉ Nhược này, ta không muốn dối nàng làm gì, nếu kiếp này ta không còn gặp lại Triệu cô nương, thì thà chết còn hơn. Tâm sự này của ta, trước nay ta chưa từng nói với ai bao giờ.

Chàng đối với Chu Chỉ Nhược, Ân Ly, Tiểu Chiêu, Triệu Mẫn bốn nàng, cứ ngỡ là không ai hơn kém, nhưng hôm nay Triệu Mẫn bỏ đi, chàng đột nhiên mới phát hiện ra rằng Triệu Mẫn chiếm vị trí trong lòng chàng hơn hẳn ba nàng còn lại.

Chu Chỉ Nhược nghe chàng nói vậy, nói nhỏ:

– Hôm ở Đại Đô, muội thấy chàng tới quán rượu nhỏ gặp Triệu Mẫn, muội đã biết ai là người chiếm được trái tim chàng. Có điều là muội vẫn si tâm vọng tưởng, nếu thành hôn với chàng, thì có thể làm cho chàng hồi tâm chuyển ý, nào ngờ… nào ngờ… việc đó chẳng xong.

Trương Vô Kỵ buồn bã nói:

– Chỉ Nhược, ta đối với nàng luôn kính trọng, đối với biểu muội họ Ân thì vô cùng cảm kích, đối với Tiểu Chiêu thì tội nghiệp thương xót, còn riêng với Triệu cô nương thì đúng là mối tình khắc cốt minh tâm.

Chu Chỉ Nhược lẩm bẩm:

– Mối tình khắc cốt minh tâm, mối tình khắc cốt minh tâm.

Ngừng một lát, nàng nói nhỏ:

– Vô Kỵ ca ca, muội đối với chàng cũng là mối tình khắc cốt minh tâm đó, chàng… chàng có biết cho chăng?

Trương Vô Kỵ cảm động, nắm tay nàng, dịu dàng nói:

– Chỉ Nhược, ta biết chứ, tấm lòng của nàng đối với ta, đời này kiếp này ta chưa biết cách nào báo đáp. Ta… ta quả thật có lỗi với nàng.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Chàng không có lỗi gì với muội, chàng lúc nào cũng tốt với muội, lẽ nào muội không biết? Muội hỏi chàng: phen này Triệu cô nương bỏ đi không một lời từ biệt, nếu chàng vĩnh viễn không còn gặp lại nàng ta, nếu nàng ta bị kẻ gian giết hại rồi, nếu nàng ta thay lòng đổi dạ đối với chàng, thì chàng… chàng tính sao?

Trương Vô Kỵ cảm thấy khó chịu đựng đã lâu, nghe hỏi vậy thì không nhịn nổi, nước mắt trào ra, nghẹn ngào đáp:

– Ta… ta không biết! Nói tóm lại, trên trời dưới đất, dù thế nào ta cũng phải tìm nàng ta bằng được.

Chu Chỉ Nhược thở dài, nói:

– Nàng ta sẽ chẳng thay lòng đổi dạ đối với chàng đâu, chàng muốn tìm nàng ta, nào có khó gì.

Trương Vô Kỵ vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, đứng ngay dậy, hỏi:

– Nàng ta đang ở đâu? Chỉ Nhược, mau cho ta biết.

Đôi mắt tuyệt đẹp của Chu Chỉ Nhược chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ, thấy vẻ mặt chàng vui mừng như sắp phát cuồng, thì thủng thẳng nói:

– Chàng đối với muội chưa bao giờ có mối quan hoài như thế này. Nếu chàng muốn biết Triệu cô nương đang ở đâu, thì phải bằng lòng làm cho muội một việc, nếu không vĩnh viễn chàng sẽ không còn gặp lại nàng ta.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Nàng muốn ta làm việc gì?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Việc đó bây giờ muội chưa nghĩ ra, khi nào nghĩ ra, sẽ cho chàng biết. Tóm lại là việc đó không trái với đạo hiệp nghĩa, cũng không cản trở đại nghiệp phục hưng đất nước, cũng không làm mất thanh danh của Minh giáo và của chàng; có điều là sẽ không dễ thực hiện đâu.

Trương Vô Kỵ ngẩn người, nghĩ thầm: “Trước đây Triệu Mẫn muốn ta làm ba việc, cũng bảo là không trái với đạo hiệp nghĩa, đến nay nàng ta mới chỉ đòi ta làm hai việc, cả hai việc ấy đều không dễ dàng chút nào. Bây giờ Chu Chỉ Nhược lại học theo cái lối đó”.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Chàng bằng lòng hay không là tùy chàng. Có điều đại trượng phu đã nói thì phải giữ lời, một khi đã nhận lời muội, khi việc đến sẽ không được thoái thác.

Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ, nói:

– Nàng bảo việc đó không trái với đạo hiệp nghĩa, không cản trở đại nghiệp phục hưng đất nước, cũng không làm mất thanh danh của Minh giáo và của ta, phải không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

– Đúng thế!

Trương Vô Kỵ nói:

– Được, nếu không trái với đạo hiệp nghĩa, không cản trở đại nghiệp phục hưng đất nước, thì ta bằng lòng.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Vậy thì mình vỗ tay thay lời thề.

Nàng giơ bàn tay ra, chờ chàng.

Trương Vô Kỵ biết rằng một khi chàng vỗ vào bàn tay nàng, thì trên cổ sẽ quàng một cái gông rất nặng, thiếu nữ họ Chu này bề ngoài hiền thục tao nhã, nhưng mưu kế sâu xa, hành sự tàn nhẫn thì chẳng kém gì Triệu Mẫn, nên đã đưa tay lên rồi mà nhất thời chưa vỗ vào tay nàng.

Chu Chỉ Nhược mỉm cười, nói:

– Chàng chỉ vỗ một cái, là trong chớp mắt sẽ được gặp người trong mộng.

Trương Vô Kỵ lòng rạo rực, chẳng suy tính gì nữa, vỗ luôn ba cái vào tay nàng. Chu Chỉ Nhược cười, nói:

– Chàng xem ai đây.

Nói xong giơ tay vạch bụi cây ở sau lưng, chỉ thấy phía sau cành lá có một thiếu nữ ngồi đó, mặt như cười mà không phải cười, chẳng phải Triệu Mẫn thì còn ai?

Trương Vô Kỵ vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, thốt lên:

– Mẫn muội!

Bỗng nhiên từ xa mấy trượng phía sau lưng, có tiếng con gái kêu Ôi” lên, tựa hồ quá kinh ngạc về sự xuất hiện đột ngột của Triệu Mẫn vậy. Tiếng kêu ấy rất nhỏ, song Trương Vô Kỵ nghe rất rõ ràng.

Chàng ngẩn người, trong đầu hiện ra vô số ý nghĩ, thong thả giơ tay nắm lấy tay Triệu Mẫn, thấy tay nàng cứng đơ, chàng hiểu ngay, hôm nay nàng bỏ đi không nói một lời, chàng tìm khắp nơi không thấy, thì ra đã bị Chu Chỉ Nhược bắt giữ, điểm huyệt, giấu ở đây. Chu Chỉ Nhược cố ý đưa chàng đến tận chỗ này ngồi nói chuyện, cốt để Triệu Mẫn nghe rõ từng câu. Giả dụ chàng không nỡ để Chu Chỉ Nhược phải đau lòng, đi nói những lời tình ý mặn nồng, thậm chí còn ôm ấp Chu Chỉ Nhược, thì đã trúng kế của nàng ta, Triệu Mẫn nhất định sẽ quyết chí bỏ đi mãi mãi. Chàng nghĩ như vậy, thầm kêu “Hú vía!” toát mồ hôi lạnh, chàng tiện tay thăm mạch cho Triệu Mẫn, thấy khí huyết vận hành như thường, không hề bị thương.

Dưới ánh trăng, chỉ thấy nàng đầu mày cuối mắt tươi cười, sung sướng, trông vô cùng duyên dáng khả ái, hẳn là mọi lời chàng nói với Chu Chỉ Nhược vừa rồi, nàng đều nghe rõ cả. Nàng tuy không cử động được, không nói được, nhưng ở sau lưng chàng, nghe chàng thổ lộ tâm sự, rằng chàng có mối tình khắc cốt minh tâm, tình ý nồng nàn với mình, thì không khỏi sung sướng rạng rỡ.

Chu Chỉ Nhược cúi xuống, ghé tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ mấy câu. Trương Vô Kỵ cũng thì thầm đáp lời. Thế rồi nghe tiếng Chu Chỉ Nhược giận dữ quát:

– Trương Vô Kỵ, rốt cuộc ngươi không coi ta ra gì cả. Ngươi nhìn cho kỹ đi, Triệu cô nương trúng độc thế này, liệu còn sống nổi nữa không?

Trương Vô Kỵ thì lắp bắp:

– Nàng… nàng bị trúng độc rồi! Là cô nương hạ độc ư?

Chàng cúi xuống xem xét, vạch mí mắt trái của Triệu Mẫn lên coi, bỗng cảm thấy sau lưng tê đi, đã bị điểm trúng huyệt đạo. Trương Vô Kỵ kêu to “Ối chao”, người loạng choạng, Chu Chỉ Nhược ra tay nhanh như gió, ngón tay thon vận kình điểm liền năm đại huyệt ở vai trái, bên sườn và sau lưng chàng.

Trương Vô Kỵ ngã ngửa, chỉ thấy loáng lên một đạo thanh quang, Chu Chỉ Nhược đã rút trường kiếm chĩa vào ngực chàng, miệng quát:

– Đã trót thì trét, hôm nay ta lấy mạng ngươi cho xong. Nếu không, oan hồn Ân Ly cứ bám theo ta, xem ra ta cũng chẳng thể sống nổi; thế thì cho cả bọn cùng chết một lượt!

Nói xong giơ kiếm đâm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ.

*

*      *

Bỗng nghe có tiếng thiếu nữ vang lên sau lưng:

– Hãy khoan! Chu Chỉ Nhược, Ân Ly đâu đã chết!

Chu Chỉ Nhược ngoảnh lại, thấy một hắc y thiếu nữ từ trong bụi cỏ lao ra, giơ ngón tay điểm tới. Chu Chỉ Nhược nghiêng sang bên tránh được, thiếu nữ kia quay đầu lại, chỉ thấy dưới ánh trăng xiên xiên, một khuôn mặt xinh xắn, mờ mờ mấy vết sẹo ngang dọc. Trương Vô Kỵ nhìn rõ, thiếu nữ kia chính là biểu muội Ân Ly, có điều là các cục u trên mặt đã lặn hết, các vết sẹo ngang dọc không làm mất được vẻ xinh xắn, trông không khác mấy khuôn mặt của cô bé tú lệ đi theo Kim Hoa bà bà tới Hồ Điệp cốc năm nào.

Chu Chỉ Nhược lùi lại hai bước, tay trái che ngực, mũi kiếm trong tay phải vẫn chĩa vào ngực Trương Vô Kỵ, quát:

– Ngươi còn tiến lên một bước, ta sẽ đâm hắn chết trước!

Ân Ly không dám cử động, vội nói:

– Chu… cô nương làm bấy nhiêu chuyện tàn ác còn chưa đủ hay sao?

Chu Chỉ Nhược hỏi:

– Cô nương rốt cuộc là người hay là ma?

Ân Ly nói:

– Dĩ nhiên ta là người.

Trương Vô Kỵ đột nhiên gọi to:

– Thù Nhi!

Chàng bật dậy, ôm chầm lấy Ân Ly, nói:

– Thù Nhi… muội… muội nhớ ta khổ sở lắm phải không?

Sự việc xảy ra bất ngờ khiến Ân Ly cả sợ kêu thét lên, Trương Vô Kỵ liền ôm chặt nàng đến nghẹt thở. Chu Chỉ Nhược cười hì hì, nói:

– Vừa rồi không làm thế, cô nương đâu chịu chui ra.

Nàng quay lại, giải huyệt cho Triệu Mẫn, xoa bóp cơ thể cho khí huyết lưu thông. Triệu Mẫn bị nàng bỏ ở đây đã hơn nửa ngày, trong bụng vô cùng tức giận, nhưng vừa rồi được nghe Trương Vô Kỵ thổ lộ tâm tình thì chuyển giận thành vui. Song bỗng dưng lại xuất hiện thêm nàng Ân Ly, thế là thêm bao nhiêu khúc mắc, hận cũ chưa hết, sầu mới đã sinh.

Ân Ly làm bộ giận, nói:

– Ca ca làm sao cứ ôm chặt người ta như thế? Có Triệu cô nương, Chu cô nương ở đây, còn ra thể thống gì nữa?

Triệu Mẫn nói:

– Hừ, nếu như bổn cô nương và Chu cô nương không có ở đây, thì thành thể thống hay sao?

Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Huynh thấy biểu muội chết rồi còn sống lại, mừng không để đâu cho hết, biểu muội, mọi sự… đầu đuôi thế nào?

Ân Ly nắm cánh tay chàng, xoay mặt chàng về phía có ánh trăng, ngắm một hồi, đột nhiên nắm tai trái của chàng véo mạnh một cái. Trương Vô Kỵ đau quá, kêu:

– Ối đau, biểu muội làm gì vậy?

Ân Ly nói:

– Ca ca đúng là cái gã xú bát quái đáng tùng xẻo! Ca ca… ca ca đem chôn sống muội, khiến muội phải chịu bao nhiêu là khổ sở.

Nói rồi đấm vào ngực chàng bình bịch ba cái liền.

Trương Vô Kỵ không dám vận “Cửu dương thần công” chống đỡ, nhịn đau chịu ba quyền của nàng, cười nói:

– Thù Nhi, huynh cứ tưởng biểu muội… chết thật rồi, làm cho huynh đau đớn khóc lóc mấy phen. Biểu muội còn sống thì thật là hay quá, đúng là trời xanh có mắt.

Ân Ly giận dữ nói:

– Trời xanh có mắt, còn cái gã xú bát quái là ca ca thì mù, người ta sống hay chết cũng không phân biệt nổi. Muội chẳng tin ca ca đâu. Chắc ca ca hiềm muội mặt mày sưng húp xấu xí, chẳng chờ ta tắt thở hẳn, đã đem chôn phắt đi. Ca ca là gã vô lương tâm, là tiểu tử chết tiệt lang tâm đoản mệnh!

Nàng la mắng chàng một hồi, cung cách và lời lẽ y hệt dạo trước. Trương Vô Kỵ chỉ cười hì hì, gãi đầu, nói:

– Biểu muội cứ chửi đi, chửi nhiều nữa vào. Lúc ấy huynh thật là hồ đồ, thấy biểu muội mặt mũi đầy máu, không còn thở gì cả, tim cũng ngừng đập, lại ngỡ là hết cách cứu…

Ân Ly nhảy tới, giơ tay véo tai chàng, chàng cười hì hì tránh vội sang bên, chắp tay vái nàng:

– Thù Nhi ngoan, hãy tha cho huynh!

Ân Ly nói:

– Không tha cho ca ca được! Hôm ấy chẳng hiểu bằng cách nào muội tỉnh lại, thấy bốn bề toàn là đá lạnh ngắt như băng giá, ca ca đã muốn chôn sống muội, sao lại chất lên người muội cành cây với đá cục? Tại sao không lấy đất lấy cát mà vùi để ta hết thở, có phải chết luôn rồi không?

Trương Vô Kỵ nói:

– Tạ trời tạ đất, may sao thoạt tiên huynh chỉ đắp lên người biểu muội cành cây với đá cục.

Chàng không nhịn được, liếc Chu Chỉ Nhược một cái. Ân Ly tức giận nói:

– Nàng ta xấu xa lắm, muội không cho phép ca ca nhìn nàng ta.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Sao lại thế?

Ân Ly nói:

– Nàng ta là hung thủ giết chết muội, ca ca còn để mắt tới nàng ta làm gì?

Triệu Mẫn nói xen vào:

– Cô nương không chết, Chu cô nương đâu còn là hung thủ giết cô nương?

Ân Ly nói:

– Bổn cô nương đã chết một lần, nàng ta đã một lần là hung thủ!

Trương Vô Kỵ khuyên:

– Thù Nhi ngoan, biểu muội thoát hiểm trở về, bọn này hết sức vui mừng. Biểu muội hãy ngồi xuống đây, thong thả kể cho bọn này nghe đầu đuôi câu chuyện biểu muội chết đi sống lại như thế nào.

Ân Ly nói:

– Cái gì mà “bọn này” với chẳng “bọn này”. Muội hỏi ca ca, hai chữ “bọn này” là gồm những ai vậy?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

– Ở đây chỉ có bốn người, dĩ nhiên là gồm có huynh, Chu cô nương và Triệu cô nương.

Ân Ly cười khẩy, nói:

– Hừ, muội không chết, chắc ca ca cũng có vài phần vui mừng thật sự, chứ còn Chu cô nương với Triệu cô nương, thử hỏi xem họ có mừng hay không?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Ân cô nương, hôm đó muội nổi tà tâm, làm hại tỷ tỷ, sau đó muội vô cùng hối hận, ngay trong giấc ngủ cũng chẳng yên ổn; nếu không thế, thì hôm nay đột nhiên gặp tỷ tỷ ở trong rừng, muội đã chẳng sợ hãi tới mức đó. Bây giờ thấy tỷ tỷ bình an không sao, đã miễn được tội nghiệt cho muội, thề có trời chứng giám, muội sung sướng vô ngần.

Ân Ly nghiêng đầu ngẫm nghĩ, rồi gật đầu, nói:

– Kể cũng có lý. Ta vốn định tìm Chu cô nương để hỏi tội, đã thế thì thôi, không chấp nữa.

Chu Chỉ Nhược quỳ xuống, nghẹn ngào nói:

– Muội… muội quả thật có tội với tỷ tỷ.

Ân Ly tính nết vốn cố chấp, giờ thấy Chu Chỉ Nhược chịu nhận tội, thì lập tức mềm lòng, vội đỡ nàng ta dậy, nói:

– Chu cô nương, chuyện đã qua rồi, thôi đừng ai để bụng nữa, dẫu sao thì ta vẫn còn sống.

Ân Ly kéo Chu Chỉ Nhược cùng ngồi xuống, rồi vuốt tóc, kể tiếp:

– Cô nương lấy kiếm rạch mấy nhát lên mặt ta, cũng không phải là không có cái hay. Mặt ta vốn sưng vù, nhờ rạch mấy nhát kiếm mà máu độc chảy ra hết, mặt dần dần khỏi sưng.

Chu Chỉ Nhược nghe thế thì trong lòng vui mừng hết chỗ nói.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Huynh với Chỉ Nhược và nghĩa phụ sau đó còn ở trên đảo rất lâu. Thù Nhi, biểu muội sau khi ở trong mộ chui ra, tại sao không đến gặp bọn ta?

Ân Ly tức giận đáp:

– Muội không muốn gặp huynh. Huynh với Chu cô nương lúc ấy cứ chàng chàng thiếp thiếp, nghe mà lộn cả ruột. Hừ! “Từ nay trở đi ta chỉ có yêu nàng hơn, chiều nàng hơn thôi! Hai vợ chồng mình là một, đời nào ta lại chọc giận nàng?”

Ân Ly bắt chước giọng của Trương Vô Kỵ nói mấy câu ấy, rồi lại bắt chước giọng của Chu Chỉ Nhược nói:

– “Nếu thiếp có lỡ làm sai điều gì, thì chàng có đánh thiếp, có mắng thiếp, có giết thiếp chăng? Thiếp từ nhỏ không có cha mẹ dạy bảo, không khỏi có lúc sai phạm”.

Ân Ly ho một tiếng, lại bắt chước giọng của nam giới, nói:

– “Chỉ Nhược, nàng là ái thê của ta, dù có sai sót gì, ta cũng sẽ không nặng lời với nàng”.

Rồi chỉ tay lên trời, nói:

– “Có vầng trăng kia làm chứng cho đôi ta”.

Thì ra cái đêm Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược đính ước với nhau, nói với nhau những gì, đều bị Ân Ly nghe thấy cả, bây giờ đem kể lại, khiến Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, Trương Vô Kỵ cũng ngượng ngùng lúng túng. Chàng liếc trộm Triệu Mẫn, thấy Triệu Mẫn tức giận tái cả mặt, bèn đưa tay sang nắm cổ tay nàng. Triệu Mẫn lật bàn tay một cái, hai ngón tay để móng dài véo sâu vào tay chàng. Chàng đau điếng, nhưng không dám kêu, cũng không dám động đậy.

Ân Ly thò tay vào bọc, rút ra một thanh gỗ, vứt xuống trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:

– Huynh nhìn cho rõ xem là cái gì?

Trương Vô Kỵ nhìn, thấy trên tấm gỗ có khắc hàng chữ “Ái thê Thù Nhi Ân Ly chi mộ. Trương Vô Kỵ cẩn lập”, chính là tấm bia gỗ chàng đã cắm trên mộ Ân Ly.

Ân Ly hậm hực nói:

– Khi muội từ trong mộ bò ra, thấy thanh gỗ này chẳng hiểu sao cả. Ô hay, cái gã Trương Vô Kỵ lang tâm đoản mệnh đã tới đây ư? Muội nghĩ mãi vẫn không tài nào hiểu nổi. Mãi sau nghe lén hai cô cậu trò chuyện với nhau, thấy Chu cô nương cứ luôn miệng “Vô Kỵ ca ca”, mới đại ngộ, hóa ra Trương Vô Kỵ chính là Tăng A Ngưu, còn Tăng A Ngưu chính là Trương Vô Kỵ. Huynh thật là kẻ không có lương tâm, lừa dối muội đến thế thì thôi!

Nói xong giơ thanh gỗ đánh mạnh xuống đầu

Trương Vô Kỵ, “cộp” một tiếng, thanh gỗ gãy thành mấy mảnh, văng tung tóe. Triệu Mẫn tức giận nói:

– Sao cứ động một tí lại đánh người ta thế?

Ân Ly cười khanh khách, nói:

– Ta đánh hắn thì đã sao nào? Cô nương đau lòng lắm à?

Triệu Mẫn đỏ mặt, nói:

– Đó là chàng nhường nhịn cô nương, cô nương đừng có mà lấn lướt.

Ân Ly cười, nói:

– Cái gì mà lấn lướt? Cô nương cứ yên tâm, ta không thèm tranh giành với cô nương cái gã xú bát quái này đâu. Ta chỉ một lòng một dạ yêu thương một người, là cái cậu Trương Vô Kỵ đã cắn chảy máu tay ta ở Hồ Điệp cốc. Còn cái gã xú bát quái trước mặt ta đây, gọi hắn là Tăng A Ngưu hay Trương Vô Kỵ thì cũng thế cả, ta chả thích hắn chút nào.

Nàng quay sang, nói nhỏ nhẹ với Trương Vô Kỵ:

– A Ngưu ca ca, ca ca đối với muội rất tử tế, muội thật là cảm kích. Nhưng lòng muội sớm đã trao cho cái gã tiểu tử Trương Vô Kỵ lang tâm hung ác nọ mất rồi. Ca ca không phải là người ấy, không, không phải người ấy…

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:

– Chính huynh là Trương Vô Kỵ đây, sao lại… sao lại…

Ân Ly dịu dàng nhìn chàng, ngẩn ngơ một hồi, ánh mắt thay đổi khó hiểu, cuối cùng lập tức, nói:

– A Ngưu ca ca, ca ca không hiểu rồi. Ngày ấy ở sa mạc vùng Tây Vực, ca ca với muội đồng sinh cộng tử, ở hòn đảo nhỏ giữa biển cả, ca ca đối với muội nhân chí nghĩa tận. Ca ca là một người tốt. Nhưng như muội từng nói với ca ca, lòng muội đã sớm trao cho cái gã Trương Vô Kỵ nọ. Muội phải đi tìm y, ca ca bảo liệu y có còn đánh muội, chửi muội, cắn muội nữa hay không?

Nói rồi không đợi Trương Vô Kỵ trả lời, nàng quay mình, chậm rãi bỏ đi.

Trương Vô Kỵ chợt hiểu, người mà Ân Ly thực sự yêu thương là một Trương Vô Kỵ tưởng tượng trong lòng, là cậu bé Trương Vô Kỵ mà Ân Ly đã gặp ở Hồ Điệp cốc, kẻ từng cắn nàng, cái gã Trương Vô Kỵ ngang bướng hung dữ, chứ không phải anh chàng Trương Vô Kỵ đàng hoàng, nhân hậu, khoan dung, đã khôn lớn đang ở ngay trước mắt nàng.

Chàng nhìn theo bóng nàng chìm dần trong bóng đêm, lòng chàng có ba phần thương cảm, ba phần lưu luyến, lại thêm ba phần an ủi. Chàng biết suốt đời Ân Ly sẽ chỉ nhớ thương cậu bé hung dữ ở Hồ Điệp cốc, lúc nào nàng cũng chỉ muốn đi tìm cậu bé ấy. Đương nhiên Ân Ly sẽ không tìm thấy, song cũng có thể nói rằng nàng đã tìm thấy từ lâu, bởi cậu bé đó luôn luôn nằm trong đáy lòng nàng. Người thực việc thực thì làm sao tốt đẹp bằng bóng hình tưởng tượng trong tim?

Chu Chỉ Nhược thở dài, nói:

– Cũng tại lỗi của muội khiến cho Ân cô nương hóa thành dở dở ương ương như thế.

Trương Vô Kỵ thì nghĩ thầm: “Ân Ly quả là có phần dở dở ương ương, nhưng đó chính là lỗi của ta. Vậy mà những người đầu óc tỉnh táo chắc gì đã sung sướng hơn nàng?”

Triệu Mẫn thì nghĩ tới chuyện khác, Ân Ly đến rồi đi, còn Chu Chỉ Nhược thì sao? Ân Ly đã không chết, Tạ Tốn cũng bình an vô sự, võ công giấu trong kiếm Ỷ Thiên, binh thư cất trong thanh đao Đồ Long, luôn cả thanh đao, đều đã được giao cho Trương Vô Kỵ, thì các tội lỗi của Chu Chỉ Nhược xem ra cũng không đáng kể nữa. Dĩ nhiên vì nàng ta mà Tống Thanh Thư đã giết hại Mạc Thanh Cốc, nhưng đó là tội ác của Tống Thanh Thư, trước đó Chu Chỉ Nhược hoàn toàn không hay biết hoặc xúi bẩy gì. Trương Vô Kỵ từng có ước định hôn nhân với Chu Chỉ Nhược, mà chàng thì không phải hạng người bội tín tuyệt nghĩa.

Chu Chỉ Nhược đứng dậy, nói:

– Thôi mình đi chứ?

Triệu Mẫn hỏi:

– Đi đâu?

Chu Chỉ Nhược đáp:

– Vừa rồi ở trong chùa Thiếu Lâm, muội thấy Bành Oánh Ngọc hòa thượng lật đật đi tìm Vô Kỵ ca ca, hình như có việc gì khẩn cấp trong Minh giáo.

Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm: “Ta không thể vì chuyện nhi nữ thường tình mà bỏ lỡ đại sự của Minh giáo”, vội nói:

– Thế thì mình mau đi coi.

Ba người liền rảo bước, không bao lâu đã tới chỗ nghỉ đêm của giáo chúng Minh giáo.

Dương Tiêu, Phạm Dao, Bành Oánh Ngọc… đang sai người đi khắp nơi tìm giáo chủ, thấy chàng về, ai nấy vui mừng; song lại có hai nàng Triệu, Chu cùng đi, thì không khỏi kinh ngạc.

Trương Vô Kỵ nhìn vẻ mặt ủ rũ của mọi người, đoán có chuyện chẳng lành, bèn hỏi:

– Bành đại sư, đại sư tìm bản nhân có việc gì vậy?

Bành Oánh Ngọc chưa trả lời, thì Chu Chỉ Nhược liền khoác tay Triệu Mẫn, nói:

– Mình ra đằng kia ngồi chơi đi.

Triệu Mẫn biết ý nàng ta tránh không nghe chuyện bí mật của Minh giáo, nên hai người cùng sánh vai bước ra ngoài.

Bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc càng lấy làm lạ, nghĩ bụng: “Hôm làm lễ cưới ở thành Hào Châu, hai cô nương này đấu nhau chí chết, lúc này sao lại thân mật với nhau như tỷ muội; không biết giáo chủ làm cách nào giảng hòa hai người, đúng là người tài thì làm gì cũng giỏi. Cái môn xoay chuyển càn khôn này quả là đáng nể phục!”

Bành Oánh Ngọc đợi Triệu, Chu hai nàng ra ngoài rồi, mới nói:

– Khải bẩm giáo chủ, bên mình thua một trận lớn ở Hào Châu, Hàn Sơn Đồng Hàn huynh đã tuẫn nạn.

Trương Vô Kỵ đau đớn thốt lên:

– Trời ơi!

Bành Oánh Ngọc nói tiếp:

– Hiện nay việc quân ở vùng Hoài Tứ do Chu Nguyên Chương huynh đệ chỉ huy. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân hai vị huynh đệ nghe tin đó đã đem quân tới cứu viện, Hàn Lâm Nhi huynh đệ cũng đi theo. Việc khẩn cấp quá nên không kịp đợi lệnh của giáo chủ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Như thế là phải.

Đang bàn bạc việc quân, thì Ân Dã Vương hớt hải chạy vào, nói:

– Khải bẩm giáo chủ, Cái Bang cho người đến báo tin đã tìm ra tung tích của tên Trần Hữu Lượng.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Hắn ở đâu vậy?

Ân Dã Vương đáp:

– Tên khốn kiếp ấy trà trộn vào làm thuộc hạ của Từ Thọ Huy huynh đệ, nghe đâu Từ huynh đệ hết mực tin dùng hắn.

Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ, nói:

– Nếu thế, chúng ta không nên hành sự nóng vội. Thưa cữu cữu, phiền cữu cữu phái người thông tri cho Từ huynh, tên Trần Hữu Lượng là kẻ xảo quyệt nham hiểm, cho ở gần sẽ chuốc họa, nhất quyết đừng thân cận.

Ân Dã Vương vâng lệnh, nhưng lại nói thêm:

– Sao không giết quách hắn đi cho xong, việc ấy cứ giao cho ta là được.

Trương Vô Kỵ còn đang suy nghĩ, bỗng có giáo chúng mang đến một phong thư khẩn của Từ Thọ Huy. Dương Tiêu cau mày, nói:

– Hỏng rồi, hỏng rồi! Hắn đã đi trước một bước rồi.

Trương Vô Kỵ mở thư ra xem, thì ra là tờ bẩm cáo của Từ Thọ Huy, rằng Trần Hữu Lượng trước đây đắc tội với giáo chủ, tự biết tội nặng, hối hận vô cùng, nay thành tâm gia nhập bản giáo, quyết lập công chuộc tội, xin giáo chủ cho y một con đường sống. Trương Vô Kỵ bèn đưa thư cho Dương Tiêu, Ân Dã Vương cả bọn cùng coi. Ân Dã Vương nói:

– Từ huynh đệ bị hắn lừa dối, sau này thể nào cũng có họa.

Dương Tiêu thở dài, nói:

– Trần Hữu Lượng quả là nham hiểm, nhưng nếu chúng ta giết hắn, không khỏi bị người ta cho là hẹp hòi, để bụng thù oán cũ, không có lượng bao dung, khiến anh hùng thiên hạ e ngại.

Trương Vô Kỵ nói:

– Dương tả sứ nói rất đúng. Bành đại sư, đại sư thân với Từ huynh, nhờ đại sư đi khuyên Từ huynh hãy cẩn thận đề phòng, nhất thiết không giao đại quyền binh mã cho Trần Hữu Lượng.

Bành Oánh Ngọc vâng lệnh. Ngờ đâu Từ Thọ Huy không nghe lời khuyên, cứ tin dùng hắn, cuối cùng chết bởi tay hắn. Trần Hữu Lượng thống lĩnh nghĩa quân Tây lộ của Minh giáo, tự xưng Hán vương, tranh đoạt thiên hạ với nghĩa quân Đông lộ, cho đến trận đại chiến hồ Phàn Dương, hắn mới thua trận bỏ mạng. Trong mấy chục năm gây chuyện binh đao, hắn đã gây thương vong nặng nề cho hào kiệt Minh giáo.

Đêm đó, Trương Vô Kỵ cùng bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc bàn tính việc phân phái lực lượng đi tiếp ứng cho các lộ nghĩa quân. Bàn xong thì đã khuya. Sáng hôm sau, Triệu Mẫn nói:

– Chu tỷ tỷ đêm qua đã ra đi, nói không kịp từ biệt chàng.

Trương Vô Kỵ bồi hồi, nghĩ đã lâu chưa về thăm Trương Tam Phong, nhớ thái sư phụ quá chừng, bèn dẫn Triệu Mẫn, Tống Thanh Thư đi cùng Du Liên Châu, Ân Lê Đình… về núi Võ Đang.

*

*      *

Núi Võ Đang không xa núi Thiếu Thất, chỉ vài ngày là đến. Trương Vô Kỵ theo Du Liên Châu, Trương Tòng Khê, Ân Lê Đình vào bái kiến Trương Tam Phong, rồi qua thăm Tống Viễn Kiều và Du Đại Nham.

Tống Viễn Kiều nghe nói con trai đang ở bên ngoài, thì đanh mặt lại, cầm trường kiếm chạy ra. Bọn Trương Vô Kỵ biết có khuyên cũng vô ích, nhưng vẫn phải khuyên, nên cùng theo ra đại điện. Trương Tam Phong cũng ra theo.

Tống Viễn Kiều quát lớn:

– Tên súc sinh bất hiếu phản nghịch đâu rồi?

Ông thấy Tống Thanh Thư nằm trên cáng, đầu quấn băng trắng, che kín cả mắt, liền giơ kiếm đâm luôn vào người hắn, nhưng mũi kiếm chưa đến người hắn thì cánh tay bủn rủn, không đâm nổi. Trong giây lát, nghĩ đến tình phụ tử, nghĩa đồng môn, lòng ngổn ngang trăm mối, ông xoay ngược mũi kiếm đâm vào bụng mình.

Trương Vô Kỵ vội giơ tay giằng lấy thanh kiếm, nói:

– Đại sư bá, xin đừng làm thế. Việc này xử lý ra sao, mong được thái sư phụ chỉ bảo.

Trương Tam Phong thở dài, nói:

– Phái Võ Đang chúng ta chẳng may nảy nòi ra một tên đệ tử không ra gì; Viễn Kiều, đó cũng không phải là nỗi bất hạnh của riêng con; tên nghịch tử này có cũng như không!

Trương lão vung tay phải, nghe bộp một tiếng, đánh ngay vào ngực Tống Thanh Thư.

Tạng phủ của hắn vỡ nát, hắn tắt thở tức thì.

Tống Viễn Kiều quỳ xuống, khóc nói:

– Sư phụ, đệ tử không biết dạy con, để thất đệ phải bỏ mạng dưới tay hắn. Đệ tử thật có lỗi với sư phụ và thất đệ.

Trương Tam Phong đỡ ông dậy, nói:

– Việc này con quả có sai lầm, chức chưởng môn bản phái từ hôm nay sẽ do Liên Châu tiếp nhiệm. Con hãy chuyên tâm nghiên cứu “Thái cực quyền pháp”, còn tục vụ chưởng môn khỏi cần bận tâm.

Tống Viễn Kiều bái tạ phụng mệnh.

Du Liên Châu từ chối không nhận, nhưng Trương Tam Phong cương quyết trao phó, nên đành bái lĩnh.

Mọi người thấy Trương Tam Phong đánh chết Tống Thanh Thư, cách chức Tống Viễn Kiều, môn quy rất nghiêm, thì ai cũng nơm nớp lo sợ. Trương Tam Phong quay sang hỏi về đại hội quần hùng và tình hình nghĩa quân kháng Nguyên, đối với Trương Vô Kỵ tỏ ra hết sức ân cần.

Triệu Mẫn quỳ xuống khấu đầu với Trương Tam Phong, tạ tội năm trước vô lễ. Trương Tam Phong cười khà khà, bảo không để bụng. Du Đại Nham tàn phế, Trương Thúy Sơn bỏ mình, đều là do thủ hạ cũ của nàng là A Đại, A Nhị, nhưng hồi ấy nàng còn chưa ra đời, không phải là tội của nàng. Trương Tam Phong thấy nàng tình nguyện bỏ cha, anh nàng đi theo Trương Vô Kỵ, thì cười nói:

– Hay lắm, hay lắm! Thật khó lắm thay!

*

*      *

Trương Vô Kỵ ở chơi trên núi Võ Đang mấy ngày, rồi cùng Triệu Mẫn đi Hào Châu.

Dọc đường chàng liên tiếp nhận được tin thắng trận của bản giáo, lại nghe đâu đâu cũng nổi lên khởi nghĩa. Cô Tô có Trương Sĩ Thành, Đài Châu có Phương Quốc Trân, tuy không thuộc Minh giáo, nhưng đều là lực lượng kháng Nguyên. Trương Vô Kỵ cả mừng, cùng Triệu Mẫn cưỡi ngựa đi mãi về hướng đông. Nhìn giang sơn sắp được phục hồi, chỉ mong thiên hạ chóng thái bình, trăm họ được an cư lạc nghiệp, không uổng mấy năm nay vào sinh ra tử, lo lắng ngược xuôi.

Chàng không muốn làm kinh động mọi người, nên dọc đường không gặp gỡ các tướng lĩnh nghĩa quân, chỉ lẳng lặng quan sát, thấy quân kỷ của nghĩa quân nghiêm minh, không hề quấy nhiễu trăm họ, đâu đâu cũng nghe ca tụng nguyên soái Chu Nguyên Chương và đại tướng Từ Đạt.

Hôm ấy chàng tới bên ngoài thành Hào Châu. Chu Nguyên Chương hay tin, liền sai Thang Hòa, Đặng Dũ hai tướng dẫn quân ra nghênh đón, mời vào tân quán[141]. Thang Hòa bẩm:

– Chu nguyên soái, Từ đại tướng quân và Thường tướng quân đang thương nghị quân tình khẩn cấp, được tin giáo chủ tới, thật mừng quá đỗi. Ngặt nỗi quân vụ cần kíp, không tự ra đón, xin giáo chủ tha cho tội bất kính.

Trương Vô Kỵ cười nói:

– Chúng ta huynh đệ với nhau cả, hà tất phải lo chuyện đưa đón khách sáo.

Tối hôm ấy ở tân quán bày đại tiệc, hai tướng Thang Hòa, Đặng Dũ ngồi tiếp. Rượu được ba tuần, thấy Chu Nguyên Chương cùng đại tướng Hoa Vân vội vã tới, quỳ xuống trước bàn tiệc. Trương Vô Kỵ vội đỡ dậy. Chu Nguyên Chương tự mình rót rượu, cung kính mời Trương Vô Kỵ uống đủ ba chén, chén nào chàng cũng uống cạn.

Chu Nguyên Chương lại mời Triệu Mẫn, Triệu Mẫn cũng uống cạn.

Trên bàn tiệc, nói chuyện quân tình các nơi, Chu Nguyên Chương bẩm cáo, tô vẽ các chiến tích đánh thành chiếm đất, lời lẽ rất đắc ý. Trương Vô Kỵ hết sức khen ngợi.

Còn đang trò chuyện, thì đại tướng Liêu Vĩnh Trung hiên ngang bước vào sảnh, bái kiến giáo chủ, rồi ghé tai nói nhỏ với Chu Nguyên Chương:

– Bắt được rồi!

Chu Nguyên Chương nói:

– Hay lắm!

Bỗng nghe ngoài cổng có tiếng kêu to:

– Oan ta quá! Oan cho ta quá!

Trương Vô Kỵ nghe tiếng người kêu oan chính là Hàn Lâm Nhi, kinh ngạc hỏi:

– Có phải Hàn huynh đệ chăng? Chuyện gì vậy?

Chu Nguyên Chương nói:

– Khải bẩm giáo chủ, tên Hàn Lâm Nhi câu kết với bọn Thát tử, mưu đồ làm nội ứng, phản lại bản giáo.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc nói:

– Hàn huynh đệ nhân nghĩa trung thành, làm sao có chuyện đó được? Mau dẫn y vào đây, để ta hỏi…

Lời chưa dứt, bỗng hoa mắt, trời đất tối sầm, ngất đi không biết gì nữa.

Khi tỉnh lại, Trương Vô Kỵ thấy chân tay bị dây thừng trói chặt, nhìn quanh tối như mực, kinh hãi không để đâu cho hết. Rất may chàng thấy có một thân hình mềm mại tựa vào ngực mình, thì ra Triệu Mẫn và chàng bị trói vào với nhau, nhưng nàng chưa tỉnh. Ngẫm nghĩ một chút, biết ngay Chu Nguyên Chương có tà tâm, chắc y nghĩ rằng sau này Minh giáo thành công, Trương Vô Kỵ dĩ nhiên sẽ làm hoàng đế; nên hắn đã bỏ thuốc mê cực mạnh vào rượu, toan ám hại chàng. Trương Vô Kỵ thử vận khí, cảm thấy trong cơ thể không có gì lạ, công lực không mất, thì cười thầm: “Mấy sợi dây này trói sao nổi ta kia chứ! Lúc này Triệu Mẫn chưa tỉnh, chả cần đi vội. Đợi đến sáng, ta sẽ nói rõ mưu gian của y cho giáo chúng biết”. Nghĩ vậy, chàng liền lặng lẽ dưỡng thần.

Hơn một canh giờ sau, bỗng nghe có tiếng mấy người đi vào phòng bên cạnh, nói chuyện với nhau. Nghe giọng, là Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân ba người.

Chàng thấy Chu Nguyên Chương nói:

– Người này phản bội bản giáo, đầu hàng Nguyên triều, chứng cứ rành rành, khiến mọi người đau lòng vô cùng. Hai vị huynh đệ nghĩ xem phải làm thế nào?

Không chờ Từ, Thường trả lời, Chu Nguyên Chương nói tiếp:

– Người này tai mắt nhiều lắm, trong quân chỗ nào cũng có kẻ tâm phúc của y, chúng ta chớ nhắc đến tên y.

Từ Đạt nói:

– Chu đại ca, muốn thành đại sự, đừng câu nệ tiểu tiết, phải nhổ cỏ tận rễ, khỏi sinh hậu họa.

Chu Nguyên Chương nói:

– Nhưng tên tiểu tặc này lại là thủ lĩnh của chúng ta, chúng ta không thể vong ân bội nghĩa, cơ nghiệp này suy cho cùng có thể nói là của y.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Đại ca sợ giết y trong quân sinh biến, thì chúng ta cứ lẳng lặng ra tay, khỏi mang tiếng cho đại ca.

Chu Nguyên Chương ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Hai vị huynh đệ đã nói vậy, thì cứ thế mà làm. Có điều là bình thời tên tiểu tặc này có ân đức với giáo chúng bản giáo, hai vị huynh đệ lại vốn thân thiết với y, việc này nhất thiết chớ để lộ ra ngoài. Ôi hôm nay chúng ta phải giết y, trong lòng đau đớn vô cùng.

Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân cùng nói:

– Vì đại nghiệp phục quốc, chuyện giao thiệp bằng hữu riêng tư phải gác bỏ.

Ba người nói xong, đi ra khỏi phòng.

Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận thần công lên làm đứt tung dây trói, ôm Triệu Mẫn lẳng lặng vượt tường bỏ đi. Chàng đứng trên bờ tường, bất giác lòng ngổn ngang trăm mối: “Chu Nguyên Chương vong ân bội nghĩa đã đành. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân hai vị đại ca có giao tình với ta như thế, thế mà chỉ vì một chút phú quý cũng đang tâm phản ta. Ba người ấy đang giữ trọng nhiệm trong nghĩa quân, nếu ta giáng cho vài chưởng giết họ, chỉ e nghĩa quân sẽ tan vỡ. Trương Vô Kỵ ta vốn không ham danh lợi, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, hai vị coi thường ta quá đó”.

Chàng ngẫm nghĩ một lát, rồi ôm Triệu Mẫn lặng lẽ bỏ đi.

Ra khỏi thành rồi, chàng viết một phong thư, nhường chức vị giáo chủ lại cho Dương Tiêu, không đề cập chút gì đến chuyện mình gặp phải trong thành Hào Châu.

*

*      *

Trương Vô Kỵ đâu có biết rằng, “tên tiểu tặc” mà Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân nói đến là chỉ Hàn Lâm Nhi; còn việc Trương Vô Kỵ đến Hào Châu, hai người ấy hoàn toàn không biết; mọi trò đều do Chu Nguyên Chương ngầm sắp đặt, cốt làm cho Trương Vô Kỵ chán chường, thất vọng mà tự bỏ đi. Chu Nguyên Chương một là vốn lo sợ thần dũng của Trương Vô Kỵ, hai nữa chàng là giáo chủ bản giáo, người người kính phục, không dám giết chàng, thành sự thì không sao, vạn nhất vỡ lở, thì hậu quả khôn lường. Y biết Trương Vô Kỵ là người coi trọng đại sự phục quốc, đối với Từ, Thường hai người tình như huynh đệ, chỉ cần để cho chàng nghe thấy câu chuyện kia là chàng sẽ bỏ đi. Quả nhiên mọi việc diễn ra đúng như y dự liệu. Trương Vô Kỵ võ công vô địch thời nay, nhưng mưu kế biến hóa thì thua xa Chu Nguyên Chương, thành thử xuất hiện mắc mưu gian của kẻ đại gian hùng. Trương Vô Kỵ tuy chưa hề mơ tưởng làm hoàng đế, nhưng từ đó mỗi lần nghĩ đến sự vong ân bội nghĩa của Từ, Thường hai người, thì trong lòng lại uất ức khôn nguôi.

Còn chuyện Hàn Lâm Nhi câu kết với bọn Thát tử, mưu đồ phản bội Minh giáo vân vân thì cũng là do Chu Nguyên Chương vu hãm cả. Sau khi Hàn Sơn Đồng tuẫn nạn, trong quân tôn Hàn Lâm Nhi lên làm chủ. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Chu Nguyên Chương cả ba người đều trở thành thuộc hạ của Hàn Lâm Nhi. Chu Nguyên Chương bèn ngụy tạo một lá thư do Hàn Lâm Nhi viết thông đồng với địch, đem tiền bạc mua chuộc người tâm phúc của Hàn Lâm Nhi mang bức thư giả đó bí mật tố cáo với Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân. Từ, Thường hai người tin ngay, chẳng hề nghi ngờ, đòi giết. Chu Nguyên Chương còn giả bộ nhân nghĩa, nhất định không chịu, chờ Từ, Thường hai người đòi giết bằng được, mới chấp nhận.

Y đem Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nhốt ở buồng bên cạnh, thừa biết với võ công như chàng, việc bứt đứt sợi dây trói thật dễ như trở bàn tay; y lại sợ khi chàng thoát ra sẽ tìm y trả thù, nên nói chuyện với Từ, Thường hai người rồi, y lập tức trốn biệt. Trương Vô Kỵ bỏ đi rồi, Chu Nguyên Chương liền sai Liêu Vĩnh Trung đem Hàn Lâm Nhi ra sông dìm chết; cái kế một mũi tên nhắm trúng hai đích ấy không lộ chút sơ hở nào.

Sau đó Dương Tiêu tuy kế nhiệm chức giáo chủ Minh giáo, nhưng Chu Nguyên Chương đã đủ lông đủ cánh, thống lĩnh trăm vạn quân; Dương Tiêu lại tuổi già đức bạc, không sao có thể tranh ngôi hoàng đế với y. Chu Nguyên Chương lên ngôi, lại trở mặt nghiêm cấm Minh giáo, đem giết sạch những huynh đệ trong Minh giáo từng lập đại công. Thường Ngộ Xuân bị bệnh chết sớm, Từ Đạt cuối cùng cũng không thoát nạn.

*

*      *

Triệu Mẫn thấy Trương Vô Kỵ viết thư cho Dương Tiêu xong, cây bút lông trong tay còn chưa đặt xuống, vẻ mặt rất không vui, bèn nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng nhận lời làm cho muội ba việc, một là mượn hộ thanh đao Đồ Long, hai là hôm đó ở thành Hào Châu không thành hôn với Chu tỷ tỷ, hai việc ấy chàng làm xong rồi. Còn việc thứ ba, chàng không thể nói rồi lại nuốt lời đâu đấy. Trương Vô Kỵ kinh ngạc, ấp úng nói:

– Nàng… nàng… nàng lại có cái trò tinh quái gì đòi ta phải làm đây?…

Triệu Mẫn tủm tỉm cười, nói:

– Lông mày của muội nhạt quá, chàng vẽ hộ muội đi nào. Việc này chắc không trái với đạo hiệp nghĩa của võ lâm chứ?

Trương Vô Kỵ cầm bút, cười đáp:

– Từ rày trở đi, ta sẽ ngày ngày vẽ lông mày cho nàng.

Bỗng bên ngoài cửa sổ có tiếng ai đó cười khúc khích, nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng cũng đã nhận lời làm cho muội một việc nữa đấy.

Chính là tiếng nói của Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ chăm chú viết thư, không biết nàng đã tới bên song từ bao giờ.

Cánh cửa từ từ mở ra, khuôn mặt xinh xắn tươi cười của Chu Chỉ Nhược thấp thoáng dưới ánh nến. Trương Vô Kỵ giật mình, nói:

– Muội… muội cũng đòi ta làm việc gì đây?

Chu Chỉ Nhược mỉm cười:

– Hiện thời muội còn chưa nghĩ ra. Không chừng đến hôm chàng bái đường thành thân với Triệu cô nương, muội lại nghĩ ra cũng nên.

Trương Vô Kỵ ngoảnh nhìn Triệu Mẫn, rồi lại quay sang nhìn Chu Chỉ Nhược, lòng ngổn ngang trăm mối, cũng không biết nên mừng hay lo, buông rơi cây bút xuống bàn.

Viết thêm

“Ỷ Thiên Đồ Long ký” là bộ thứ ba trong bộ sách “Xạ điêu”.

Nhân vật nam chủ chốt trong ba bộ sách này có tính cách hoàn toàn khác nhau. Quách Tĩnh thành thực chất phác, Dương Quá phóng đãng sâu sắc, cá tính của Trương Vô Kỵ tương đối phức tạp, cũng khá mềm yếu. Trương Vô Kỵ thiếu chút khí khái anh hùng, trong cá tính cố nhiên có nhiều ưu điểm, song cũng có nhiều khuyết điểm; có lẽ giống với mọi con người bình thường. Dương Quá có tính chủ động tuyệt đối. Quách Tĩnh về chuyện lớn thì rất chủ động, còn trong mọi chuyện nhỏ thì phải chờ Hoàng Dung thúc giục. Còn Trương Vô Kỵ suốt đời chịu ảnh hưởng của người khác, bị hoàn cảnh chi phối, không cách gì thoát khỏi sự ràng buộc. Trong ái tình, Dương Quá vùi đầu say mê Tiểu Long Nữ, bất chấp mọi quy phạm của xã hội; Quách Tĩnh thì dao động ngả nghiêng giữa Hoàng Dung với Hoa Tranh công chúa, đơn thuần xuất phát từ giá trị đạo đức. Trương Vô Kỵ thì trước sau dùng dằng không dứt khoát, đối với bốn cô nương Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Ân Ly và Tiểu Chiêu, dường như chàng yêu Triệu Mẫn sâu sắc hơn cả, cuối cùng cũng nói với Chu Chỉ Nhược như thế, nhưng trong đáy lòng, rốt cuộc chàng yêu cô nào hơn, chỉ e chính chàng cũng không biết. Tác giả cũng không biết; đã miêu tả cá tính của chàng ta như vậy, thì toàn bộ sự phát triển phải do tính cách mà định, chứ tác giả cũng không thể can thiệp.

Người như Trương Vô Kỵ, dù võ công cao đến mấy, cuối cùng cũng không thể trở thành lãnh tụ lớn về chính trị. Đương nhiên, chàng ta căn bản không muốn làm, nếu miễn cưỡng phải làm, thì cuối cùng cũng nhất định thất bại. Lịch sử chính trị ba ngàn năm của Trung Quốc sớm đã đưa ra kết luận minh xác rồi. Một lãnh tụ chính trị thành công ở Trung Quốc, thì điều kiện thứ nhất là “nhẫn nhịn”, bao gồm nhẫn nhịn kiềm chế bản thân, nhẫn nhịn khoan dung người khác, cùng sự tàn nhẫn đối phó chính trị. Điều kiện thứ hai là “quyết đoán rõ ràng”; điều kiện thứ ba là ham muốn quyền lực cực mạnh. Trương Vô Kỵ không hề có các điều kiện ấy. Chu Chỉ Nhược và Triệu Mẫn đều có tài năng chính trị, cho nên hai cô gái ấy tuy xinh đẹp, song không khả ái.

Trong trái tim tôi, tôi thích nhất Tiểu Chiêu. Chỉ tiếc là không thể để cho nàng sống cùng Trương Vô Kỵ, nghĩ thật đáng buồn.

Bởi thế trong bộ sách này, chuyện tình yêu thời trước không được thật đẹp, tuy rằng trong thực tế có thể khá hơn chút ít.

Trương Vô Kỵ không phải là một lãnh tụ giỏi, nhưng có thể là người bạn tốt của chúng ta. Thực ra, trọng điểm tình cảm của bộ sách này không phải là chuyện tình yêu nam nữ, mà là tình nghĩa giữa nam giới với nhau, tình cảm giữa Võ Đang thất hiệp, tình cảm của Trương Tam Phong đối với Trương Thúy Sơn, của Tạ Tốn đối với người con nuôi là Trương Vô Kỵ.

Thế nhưng, nỗi đau đớn của Trương Tam Phong khi thấy Trương Thúy Sơn tự vẫn, của Tạ Tốn khi nghe tin Trương Vô Kỵ bị chết, trong sách được miêu tả quá hời hợt, trong cuộc sống thực tế không phải như vậy.

Đó là vì hồi viết sách, tôi còn chưa hiểu rõ.

KIM DUNG

Tháng 3 năm 1977

Uyên ương đao – Phần 1

Bốn người đàn ông nghênh ngang đứng chắn trên đường.

Nếu là bọn giặc cướp từ một sơn trại nào, không lẽ chỉ có bốn người, ở nơi rừng tùng rậm rạp thế này, không mai phục thêm người khác? Còn nếu là bọn giặc cỏ, thấy tiêu đội thanh thế rầm rộ như thế e rằng chạy còn chưa kịp, đâu lẽ lại chạy ra chặn đường? Hay là võ lâm cao thủ, cậy mạnh mà ra chăng?

Nhìn lại bốn người kia: Tận cùng bên trái là một người bé nhỏ, cằm hơi thỏn, tay cầm một đôi nga mi cương thích. Người thứ hai vừa cao vừa mập, chẳng khác nào một cái tháp đứng sừng sững, trước mặt là một tấm bia đá lớn, trên bia khắc mấy hàng chữ: Tiên Khảo Hoàng phủ quân Thành Bản chi mộ, chính là một tấm mộ bi, không hiểu để trước mặt làm gì? Hoàng Thành Bản? Không nghe trên giang hồ có vị tiền bối cao thủ nào tên như thế? Người thứ ba tầm thước, mặt mũi trắng trẻo, nếu miệng không hô và mũi không tẹt thì có thể bảo là một người đẹp trai, trong tay cầm một đôi lưu tinh chùy. Tận cùng bên phải là một người trung niên trông như người bệnh, quần áo lam lũ, miệng ngậm một tẩu thuốc, mắt lim dim, phì phèo thả khói, dường như chẳng coi tiêu đội bảy mươi người kia vào đâu.

Ba người kia thì không nói làm gì, người bệnh hoạn kia hẳn là một kình địch nội công thâm hậu. Trong khoảnh khắc, bao nhiêu chuyện đã từng nghe thấy trên chốn giang hồ bỗng hiện lên trong óc: Một bà lão tóc bạc tay không giết năm tên tiêu đầu, cướp đi một món tiêu hàng lớn; một gã ăn mày đại náo công đường phủ Thái Nguyên, cắt đầu viên tri phủ rồi đi mất không biết về đâu; một cô gái xinh đẹp đánh ngã Trương đại quyền sư ở phủ Đại Đồng, Tấn Bắc vốn nổi danh hơn hai mươi năm rồi… toàn những người không có gì đặc biệt, cũng chưa từng nổi danh nhưng võ công lại ghê gớm, đúng như trên giang hồ vẫn thường nói: Người tài không lộ tướng, lộ tướng chẳng tài ba.

Thiết Tiên Chấn Bát Phương Chu Uy Tín, tổng tiêu đầu của Uy Tín tiêu cục phủ Tây An, Thiểm Tây thấy gã lim dim hút thuốc kia đâm ra ngại ngùng, tự nhiên đưa tay lên sờ cái bọc đeo sau lưng.

Món bảo tiêu kỳ này cả thảy trị giá đến mười vạn lạng bạc, do nhà buôn Uông Đức Vinh phủ Tây An ủy thác. Mười vạn lạng bạc quả không phải nhỏ, nhưng trước đây Uy Tín tiêu cục đã có lần bảo tiêu đến hai chục vạn lượng, bốn chục vạn lượng rồi, kim ngân tài vật không phải là ít. Từ khi rời phủ Tây An, y chỉ lo là lo hai thanh đao dấu trong cái bọc sau lưng vì câu chuyện đã nghe đêm hôm đó tại phủ tổng đốc Xuyên Thiểm.

Người nói chuyện với y chính là Xuyên Thiểm tổng đốc Lưu Ư Nghĩa Lưu đại nhân. Chu Uy Tín tuy đã nổi danh trên giang hồ, nhưng trong đời viên quan lớn nhất y được gặp chỉ là tri phủ, lần này lại được đến tổng đốc đại nhân tiếp kiến, đâm ra lo sợ bụng dạ thấp thỏm, đứng ngồi không yên.

Mấy câu nói của Lưu đại nhân y đã nghĩ tới nghĩ lui không biết bao nhiêu lần: “Chu tiêu đầu, đôi đao này gọi là Uyên Ương Đao, thực vô cùng quí giá, ngươi thử cầm xem. Đấng kim thượng từ khi còn là Bối Lặc[1] đã từng bí mật phái người thân tín đi tìm khắp nơi. Đến khi lên ngôi rồi, ngài lại hạ mật chỉ, ra lệnh cho tổng đốc, tuần phủ mười tám tỉnh tra xét. Thế nhưng tìm đến chủ nhân của đôi Uyên Ương Đao rồi thì hai đứa gian ngoa này đã dấu biệt, dù cho tra khảo cách nào cũng tìm không ra, khác nào mò kim đáy bể. May mắn thay nhờ tổ tiên bản tổng đốc tích đức, hồng phúc của kim thượng nên đã lọt vào tay ta. Cho nên mới có việc phải khiến Uy Tín tiêu cục phải nhọc lòng, hộ tống đôi Uyên Ương Bảo Đao này tiến kinh, trên đường tuyệt đối chớ tiết lộ phong thanh. Nếu ngươi đem được bảo đao đến Bắc Kinh bình an, trở về thể nào cũng được ta trọng thưởng”.

Đại danh của Uyên Ương Đao y đã từng nghe sư phụ nói đến:

Uyên Ương Đao gồm một thanh dài, một thanh ngắn, bên trong đao có tàng trữ một đại bí mật của võ lâm, kẻ nào có được sẽ vô địch thiên hạ.

“Vô địch thiên hạ” là nguyện vọng mà người học võ nào cũng mơ ước. Chu Uy Tín khi đó nghe rồi, vẫn tưởng đó chỉ là lời đồn, chứ trên đời làm gì có Uyên Ương Đao tàng trữ bí mật vô địch thiên hạ bao giờ? Nào ngờ Xuyên Thiểm tổng đốc Lưu đại nhân lại có được Uyên Ương Đao thực, lại sai y hộ tống tiến kinh, dâng lên hoàng thượng. Đôi đao đó dùng vải vàng gói chặt, có gắn xi mang ấn tín của tổng đốc đại nhân. Y vẫn hết sức mong được xem đôi đao đó hình dáng thế nào, nếu như may mắn biết được bí mật trong đao, Thiết Tiên Chấn Bát Phương sẽ biến thành Thiết Tiên Cái Thiên Hạ, thì thật vinh dự không để đâu cho hết. Thế nhưng dấu khằn của tổng đốc đại nhân ai dám gỡ ra? Chu đại tiêu đầu suy đi tính lại, mình chỉ có một cái đầu mà thôi nên chẳng dại.

Tổng đốc đại nhân có phái bốn tên vệ sĩ thân tín, mặc giả làm tiêu sư ở lẫn trong tiêu đội, nói là để giúp đỡ y, nhưng kỳ thực là để giám thị. Trước hôm tiêu đội khởi hành một ngày, phủ tổng đốc lại phái mấy tên sai nha đến “mời” toàn bộ cả nhà y lớn bé già trẻ mười hai người vào trong quân doanh tạm trú, nói rằng Chu tổng tiêu đầu phó kinh gia quyến sẽ không có ai chăm sóc, sợ tổng tiêu đầu không yên tâm nên đưa vào dinh an trí. Chu Uy Tín hành tẩu giang hồ đã lâu lẽ nào không hiểu sự tình bên trong? Chẳng phải quan tổng đốc lo vì Chu tổng tiêu đầu không yên tâm mà chính vì Lưu đại nhân không yên dạ cho đôi bảo đao cho nên lùa hết toàn gia cao đường lão tiểu, cha mẹ vợ con y vào phủ làm con tin đấy thôi.

Đôi Uyên Ương Đao kia nếu trên đường có gì thất thoát, cái đầu y không còn trên cổ đã đành, mà toàn gia già trẻ cũng không sống được. Y trên đời đã từng chịu biết bao sóng to gió cả, nằm gai nếm mật, anh hùng gặp cũng nhiều mà tiểu nhân cũng lắm, đã từng chém đầu người khác nhưng may chưa bị người khác chặt đầu, có thể coi như một tay giang hồ lão luyện được nhưng chưa từng gặp phải một lần hộ tiêu nào vừa mừng vừa sợ, trong lòng thấp thỏm như chuyến này. Nếu hộ tống được bảo đao bình an đến kinh đô, Lưu đại nhân đã từng chính miệng hứa sẽ trọng thưởng, ắt thể nào cũng “quân tử nhất ngôn”, không chừng hoàng thượng cũng vui lòng, cho tí quan chức, từ nay vinh hiển tổ tông, phi hoàng đằng đạt, Chu đại tiêu đầu sẽ thành Chu đại nhân Chu đại lão gia.

Từ Tây An đến Bắc Kinh, xa thì không xa nhưng bảo gần thì cũng không gần, núi non doanh trại đi qua cũng đến ba bốn chục nơi. Bọn cướp đường tầm thường thì cây Thiết Tiên Chấn Bát Phương của y có coi vào đâu, tám phương còn được thì một phương chẳng lẽ cũng không xong, nhưng mấy chữ “được Uyên Ương Đao, vô địch thiên hạ” khiến biết bao cao thủ võ lâm thèm thuồng nhỏ rãi? Thành thử bên ngoài thì y bảo tiêu hàng hóa, nhưng bên trong kỳ thực là hộ tống bảo đao. Nếu chẳng may tiêu ngân có mất, miễn là bảo đao mang được tới kinh đô thì chẳng lo gì. Một vị quan to, một tòa công đường đồ sộ như Chu đại lão gia thì mười vạn lạng bạc có gì mà đền không nổi? Huống chi đại lão gia chỉ có thò tay lấy tiền người khác chứ có đền tiền ai bao giờ?

Chu Uy Tín tay trái sờ vào thiết tiên để bên hông, giương mắt nhìn bốn gã hán tử, sau cùng tằng hắng một tiếng, vòng tay ôm quyền nói:

– Tại hạ đi qua quí địa, chưa kịp đến thăm hỏi quí vị, quả thật thất lễ, xin các hảo bằng hữu thứ tội cho.

Trong bụng y đã ngầm tính nếu không phải động thủ thì tốt nhất, nếu không gã ho lao kia xem ra không dễ, chuyện đời cứ cẩn thận cho chắc, còn hung hăng e sẽ thêm khó khăn. Chỉ thấy gã bệnh hoạn kia đưa tay ôm ngực ho lên sù sụ.

Gã gầy gò nhỏ bé vẫy nga mi thích một cái, giọng lanh lảnh nói:

– Khấu đầu thăm hỏi thì chẳng cần. Cái vật quí giá ngươi đang bảo vệ để lại cho bọn ta đi thôi.

Chu Uy Tín kinh hãi, nghĩ thầm: “Khi tiêu xa ra đi, đến ngay những tiêu sư thân tín nhất của ta cũng chỉ biết là đang bảo hộ vàng bạc, sao gã này lại biết mình đang hộ tống bảo vật? Ở đời “tốt lành đâu có đến, đã đến chẳng tốt lành gì”, mình phải hết sức cẩn thận”.

Y bèn ôm quyền nói:

– Xin tha cho tại hạ mắt kém, thỉnh giáo đại danh của bốn vị hảo bằng hữu là gì?

Gã gầy gò đáp:

– Ngươi xưng tên trước đi.

Chu Uy Tín đáp:

– Tại hạ họ Chu, tên Uy Tín, bạn bè trên giang hồ tặng cho một ngoại hiệu, gọi là Thiết Tiên Chấn Bát Phương.

Gã bệnh hoạn cười khẩy:

– Hứ, cái ngoại hiệu đó cũng được đấy, có điều nên đổi chữ Chấn thành chữ Bái thì hơn.

Gã gầy gò ngạc nhiên:

– Đổi thành chữ Bái ư? Ồ, họ Chu kia, đại ca ta đổi cái phỉ hiệu cho ngươi thành Thiết Tiên Bái Bát Phương. Đại ca liệu sự như thần, nói ra nghe có lý lắm.

Y nói xong cả bốn tên cùng ôm bụng cười rộ lên.

Chu Uy Tín nghĩ thầm: “Ở đời một sự nhịn là chín sự lành”. Y bèn cố nén giận, nói:

– Các vị chỉ đùa thôi. Bốn vị là hảo hán ở đâu? Ở núi nào đóng trại? Vị nào là tổng đà đương gia?

Gã gầy gò chỉ người bệnh hoạn kia nói:

– Được, có nói cho ngươi nghe cũng chẳng hề gì, nhưng nghe xong đừng có sợ. Đại ca ta là Yên Hà Thần Long Tiêu Dao Tử, nhị ca là Song Chưởng Khai Bi Thường Trường Phong, tam ca là Lưu Tinh Cản Nguyệt Hoa Kiếm Ảnh, còn tại hạ sờ sờ ra đây là Bát Bộ Cản Thiềm, Trại Chuyên Chư, Đạp Tuyết Vô Ngấn, Độc Cước Thủy Thượng Phi, Song Thích Cái Thất Tỉnh Cái Nhất Minh.

Chu Uy Tín càng nghe càng lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Ngoại hiệu tên này sao dài thoòng như thế?”. Lại nghe gã gầy gò nói tiếp:

– Anh em ta bốn người kết nghĩa kim lan, hành hiệp trượng nghĩa, chuyên môn chống lại kẻ mạnh, giúp đỡ người yếu, cướp người giàu cho người nghèo, trên giang hồ gọi là Thái Nhạc Tứ Hiệp đó.

Chu Uy Tín nghĩ thầm: “Cứ nghe ngoại hiệu của bốn tên này, gã gầy gò chắc khinh công cao siêu, gã to cao chưởng lực hùng mạnh, gã mặt trắng có công phu lưu tinh chùy ghê gớm, còn “Yên Hà Thần Long Tiêu Dao Tử” hẳn là tiền bối cao nhân, hơn hẳn người thường. Thế nhưng cái tên Thái Nhạc Tứ Hiệp này mình chưa từng nghe qua, nhưng đã dám xưng là hiệp, hẳn tài nghệ không phải tầm thường. Ở trên đời thà không biết chữ chứ không thể không biết người”.

Y bèn vòng tay nói:

– Ngưỡng mộ đã lâu. Tệ tiêu cục vốn chưa qua lại với tứ hiệp, xin nhường đường cho đi, ngày sau thể nào cũng thành tâm bái yết.

Cái Nhất Minh gõ hai cây nga mi thích một cái, kêu lên coong coong, nói:

– Ngươi muốn nhường đường cũng chẳng khó gì, bọn ta chẳng cần tiêu ngân của ngươi đâu, chỉ mượn hai món bảo vật để dùng là đủ rồi.

Chu Uy Tín hỏi lại:

– Bảo vật nào thế?

Cái Nhất Minh nói:

– Ha ha, ngươi lại còn hỏi ta thì cũng lạ thật. Chính ngươi không biết, sao ta biết được?

Chu Uy Tín nghe vậy biết chuyện hôm nay chẳng thể yên lành mà xong, bọn Thái Nhạc tứ hiệp chính là vì muốn lấy đôi Uyên Ương Đao mang trên lưng mình, nghĩ thầm: “Ở đời đã đánh thì không nương tay, nương tay thì không đánh, bốn tên này ra tay át sẽ hạ độc thủ”. Y bèn chậm rãi lấy song tiên ra, nói:

– Nếu đã thế, tại hạ xin được lãnh giáo cao chiêu của Thái Nhạc tứ hiệp, không biết vị nào ra tay trước?

Y quay lại vẫy tay, năm tên tiêu sư và bốn vệ sĩ ở phủ tổng đốc cùng chạy lại. Chu Uy Tín hạ giọng nói:

– Đối phó với bọn lục lâm đ*o tặc này, không cần phải theo qui củ giang hồ, tất cả cùng xông lên. Ở đời đông người thì khiêng cổng đá qua sông cũng được.

Thế nhưng trong bụng y đã có chủ ý: “Để bọn họ tiếp chiến với bốn tên này, ta cứ thẳng đường mà chạy, hộ tống Uyên Ương Đao về kinh là hơn cả, chứ đánh nhau tan hoang lúc gặp chuyện còn sức đâu mà đánh”.

Cái Nhất Minh nói:

– Đại tiêu đầu, đôi kiếm của ta đánh khắp bảy tỉnh, xin được đấu với roi sắt lạy tám phương của ngươi, một trận long trời lở đất xem nào.

Nói xong y nhún một cái, nhảy tới trước. Chu Uy Tín không xuống ngựa, giơ thiết tiên lên sử chiêu Đào Viên Đoạt Sóc, gạt nga mi thích của y ra, hai chân kẹp lại, con ngựa liền vọt lên. Cái Nhất Minh kêu lên:

– Giỏi nhỉ, đại tiêu đầu tính chạy ư?

Chu Uy Tín quay lại nói:

– Ta chạy ra khỏi khu rừng, xem có ai mai phục không?

Nói xong giục ngựa chạy thẳng. Lưu tinh chùy của Hoa Kiếm Ảnh liền tung ra, đánh thẳng vào lưng y. Roi bên trái của Chu Uy Tín liền đưa về sau đỡ, sử chiêu Dạ Sấn Tam Trại, nghe keng một tiếng, gạt lưu tinh chùy quay ngược lại.

Y cùng Hoa, Cái hai người binh khí đụng rồi, thấy chiêu số của họ không có gì tinh diệu, nội lực cũng chỉ thường thường, quay lại thấy gã Tiêu Dao Tử kia đứng dựa vào gốc cây, tay vẫn cầm ống điếu, xem bọn tiêu sư vây Thái Nhạc tam hiệp vào giữa, thản nhiên như không. Chu Uy Tín trong bụng hoảng sợ: “Nếu gã này ra tay, mình để chậm một chút ắt không cách gì thoát thân được, lúc tạnh không chạy không lẽ chạy lúc trời mưa”.

Y quay lại dùng thiết tiên đánh vào mông con ngựa một cái, con vật liền chạy lồng lên, nhưng ngay khi đó, tay phải Tiêu Dao Tử liền vung lên, kêu lớn:

– Xem tiêu đây.

Nghe tiếng gió vèo, một vật ám khí đen sì liệng tới. Chu Uy Tín giơ tiên ra đỡ, nghe bạch một tiếng, ám khí đó đã dính chặt vào cương tiên, không rơi xuống. Y trong bụng hoảng thầm: “Gã Tiêu Dao Tử này quả đúng là cao thủ, ngay cả ám khí y sử dụng cũng không giống ai. Quả dúng như thiên hạ thường nói là bậc cao nhân chỉ giơ tay ra cũng biết là lợi hại hay không”.

Con ngựa vẫn không ngừng vó, chạy thẳng ra khỏi khu rừng. Chu Uy Tín thấy ở sau không có ai đuổi theo, định thần lại, nhìn ám khí dính trên cương tiên, hóa ra là một chiếc dép rách dính đầy bùn đất, vì bùn còn ướt nên dính luôn vào cương tiên không rơi xuống.

Y lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: “Cao thủ võ lâm ném bông hoa, liệng cái lá cũng có thể đả thương người ta được, y ném chiếc dép này mà không giết ta, xem ra hạ thủ cũng còn có tình lắm đó”. Y chưa biết tính sao, cứ giục ngựa chạy thật nhanh, chờ xem có gì rồi hãy hay. Bỗng nghe từ trong rừng có tiếng người kêu như heo bị chọc tiết, kế đến hoàn toàn yên lặng, tiếng binh khí chạm nhau hoàn toàn không còn nữa, Chu Uy Tín vừa hoảng vừa ngờ: “Không lẽ chỉ trong khoảnh khắc mà bao nhiêu tiêu sư cùng bốn tên vệ sĩ đã bị độc thủ của Thái nhạc tứ hiệp cả rồi hay sao?”.

Bỗng nghe có tiếng người gọi lớn:

– Tổng tiêu đầu… tổng tiêu đầu.

Nghe giọng đúng là Trương tiêu sư. Chu Uy Tín sờ vào cái bọc đựng hai thanh Uyên Ương Đao ở sau lưng, không trả lời, nghĩ thầm: “Nếu có khôn ra, dù nghe cũng đứng xa xa nhìn cho rõ rồi hãy tính”. Một lát sau, lại nghe tiếng người gọi:

– Tổng tiêu đầu, mau quay lại. Bọn giặc chạy cả rồi, bị bọn tôi đánh đuổi chạy hết rồi.

Chu Uy Tín ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Sao lại dễ dàng quá như thế?”. Y gò cương ngựa, quay đầu lại, thấy trong rừng chạy ra một tên cầm cờ hiệu, vui mừng kêu lên:

– Tổng tiêu đầu, đừng chạy nữa, toàn những đứa bị thịt, chẳng có việc gì hết.

Chu Uy Tín vừa mừng vừa lo nói:

– Thật không?

Tên chạy hiệu đáp:

– Cả bọn tôi cùng xông lên, hết sức nghinh địch. Tên bệnh lao kia bị Trương tiêu sư chém cho một đao ngay vai máu chảy đầm đìa, cả bốn tên đều chạy cả.

Chu Uy Tín xem ra sự tình không phải giả, trong lòng mừng rỡ, giục ngựa quay trở lại khu rừng nói:

– Ngoài rừng có độ một chục tên mai phục, ta đánh cho một trận, cúp đuôi chạy cả rồi.

Y nói láo thế, mặt tự nhiên đỏ lên nhưng lại nghĩ ngay: “Ở đời kẻ nào yếu bóng vía, mới đánh rắm cũng đã thẹn, ta phải trấn tĩnh lại, đừng để đứa nào biết được chuyện vừa rồi”. Trương tiêu sư giơ đơn đao lên, dương dương đắc ý nói:

– Thái Nhạc tứ hiệp cái quái gì đâu, hóa ra chỉ toàn nói phét.

Cả bọn liền chạy ùa tới, lần theo tiếng rên thấy từ trong một bụi gai phát ra, cả chục người liền dàn ra bao vây lại. Chu Uy Tín quát lớn:

– Thằng giặc nào, mau chui ra.

Tiếng rên trong bụi gai càng lớn hơn. Chu Uy Tín giơ tay một cái, một ngọn thủ tiễn liền vung ra. Người kia kêu “A” lên một tiếng thảm thiết, hiển nhiên đã trúng tên. Hai tên chạy hiệu liền lớn tiếng hoan hô:

– Trúng rồi, tiễn pháp của tổng tiêu đầu hay quá.

Y cầm đao xông lên, lôi kẻ đó ra. Mọi người vừa nhìn thấy, ai nấy ngơ ngác, không nói nên lời. Thì ra kẻ đó người mập mạp chính là nhà buôn họ Uông, kẻ đã nhờ áp tải ngân tiêu, quần áo đã bị gai góc cào rách. Những người béo tốt phần lớn giàu có, nhưng mông gã này lại có cắm một mũi thủ tiễn.

Thái Nhạc tứ hiệp náu mình trong rừng, chờ cho bọn Uy Tín tiêu cục đi xa mới đám chui ra. Hoa Kiếm Ảnh xé một mảnh vải áo, buộc vết thương trên vai cho Tiêu Dao Tử. Thường Trường Phong nói:

– Đại ca, không sao chứ?

Tiêu Dao Tử nói:

– Không sao, không sao! Bọn mình hảo hán địch không lại số đông, cũng chẳng có gì là xấu.

Hoa Kiếm Ảnh nói:

– Tôi đã nói địch nhân thanh thế lớn lắm, không dễ ăn đâu, nhị ca nhất định ra tay, khiến cho đại ca phải bị thương.

Cái Nhất Minh nói:

– Bọn này cũng thực là hồ đồ, nghe đến tên tuổi vang lừng của Thái Nhạc tứ hiệp mà không chịu bỏ chạy thì còn làm gì được nữa?

Tiêu Dao Tử nói:

– Cũng không trách nhị đệ được, muốn đi ăn cướp bảo cụ thì đành phải ra tay đánh với tiêu cục chứ sao?

Thường Trường Phong hỏi:

– Thế bây giờ mình làm gì? Bọn mình về tay không còn mặt mũi nào nhìn ai nữa?

Cái Nhất Minh nói:

– Theo ta…

Nói chưa dứt câu, bỗng ngoài rừng có tiếng chân rầm rập, có người chạy từ nam lên phía bắc. Cái Nhất Minh thò đầu ra xem xét, đôi lông mày xụ xuống bây giờ nhướng lên nói:

– Có hai người chạy đến. Lần này mình hai người đánh một người, không để cho hai con dê béo này chạy thoát.

Thường Trường Phong nói:

– Đúng lắm, may ra thì moi được của họ vài chục lượng bạc.

Y nhắc tấm bia đá lên, ôm trên tay. Thì ra y có ngoại hiệu là Song Chưởng Khai Bi, nên dùng tấm bia mộ làm binh khí, ỷ vào sức khỏe, vác tấm bia đá trên tay dọa cho địch nhân sợ hãi bỏ chạy. Còn mộ bia đó là của ai, người thế nào, y chỉ thuận tay cầm lên. Người nằm đó quả là xui xẻo, chết rồi vẫn chưa yên. Bốn người liền dùng tay ra hiệu, chia ra ẩn nấp ở sau các gốc cây.

Hai người kia một trước một sau, chạy vào trong rừng. Chạy trước là một người đàn ông chừng hăm bảy, hăm tám, tay cầm đơn đao, vừa chạy vừa la:

– Con giặc cái, đừng có ngang ngược, mi định giết ta hả?

Thái Nhạc tứ hiệp ngạc nhiên, nhìn xem người đuổi theo thấy là một người đàn bà. Thiếu phụ đó sau lưng cõng một đứa trẻ, tay cầm nỏ bắn đạn, tách tách tách tách bắn liên tiếp về phía người đàn ông. Người đàn ông múa đơn đao gạt ngang gạt dọc, nhưng không dám quay lại đánh.

Tiêu Dao Tử thấy hai người đánh nhau, quát lên:

– Ai chạy đến đó? Sao lại đánh nhau?

Cái Nhất Minh huýt một tiếng còi, cả bốn người từ sau các tùm cây chạy ra, quát:

– Đứng lại ngay.

Người đàn ông chạy lên vừa chạy vừa quay lại chửi:

– Con giặc cái, ngươi hung hăng độc địa thế, ta không nhịn nữa đâu.

Thiếu phụ kia cũng mắng:

– Cẩu tặc, hôm nay ta không giết được ngươi thì Nhiệm Phi Yến này không kể là người.

Ngay khi đó, Thái Nhạc tứ hiệp đã chặn ngay trước mặt người đàn ông. Người đàn bà tên Nhiệm Phi Yến liền kêu lên:

– Lâm Ngọc Long, ngươi còn chưa chịu đứng lại ư?

Lâm Ngọc Long quát Thường Trường Phong đang chặn ngay đằng trước:

– Tránh ra.

Y vừa nói vừa hụp xuống tránh một viên đạn từ phía sau bắn tới, chỉ nghe một tiếng “Oái chao”, viên đạn đã bắn trúng ngay mũi Thường Trường Phong. Thường Trường Phong giận quá, chửi liền:

– Con mụ thối tha, ngươi bắn trúng ta rồi.

Nhiệm Phi Yến nói:

– Trúng ngươi thì đã sao?

Lại soẹt soẹt thêm hai tiếng, hai viên đạn khác nhắm thẳng vào y bắn tới. Thường Trường Phong liền giơ tấm bia đá lên, nhưng đỡ hụt, một viên trúng ngực, một viên trúng cánh tay khiến y tê dại, tấm bia đá rơi xuống đất kêu bình một tiếng. Y nhảy nhổm kêu toáng lên “Ôi chao”, hóa ra tấm bia linh hiển làm sao rơi trúng ngay ngón chân y.

Cái Nhất Minh và Hoa Kiếm Ảnh thấy nhị ca bị nạn, cùng xông vào Nhiệm Phi Yến. Nhiệm Phi Yến lại giương nỏ, bắn liên châu tới tấp, Cái Nhất Minh trúng một viên ngay mi tâm, còn Hoa Kiếm Ảnh thì gãy một chiếc răng cửa. Cái Nhất Minh kêu lớn:

– Gió lớn, gió lớn.

Nhiệm Phi Yến bị bốn người ngăn trở, thấy Lâm Ngọc Long đã cắm đầu chạy ra khỏi khu rừng, trong bụng tức giận, càng cố đuổi theo, vừa chạy vừa quay lại nghe bụp một tiếng, đã bắn chiếc ống vố Tiêu Dao Tử đang ngậm trong mồm rơi xuống đất. Viên đạn đó thủ kình rất mạnh, bắn lại chính xác, chính là thuật bắn đạn có tên là Hồi Mã Đạn. Nhiệm Phi Yến mỉm cười, quay lại chửi:

– Lâm Ngọc Long, tên giặc thối tha kia, còn chưa chịu đứng lại ư?

Chỉ nghe Lâm Ngọc Long hổn hển đáp:

– Có giỏi thì cùng với đại gia dùng đao, dùng thương đánh tay đôi ba trăm hiệp, dùng đạn bắn người thì có gì là hay?

Hai người càng chửi càng xa, cùng chạy về hướng bắc. Hoa Kiếm Ảnh hỏi:

– Đại ca, Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến là nhân vật nào thế?

Tiêu Dao Tử trầm ngâm rồi nói:

– Lâm Ngọc Long là một hảo thủ về đơn đao, còn người đàn bà Nhiệm Phi Yến kia là một danh gia bắn nỏ đạn.

Cái Nhất Minh nói:

– Đại ca liệu sự như thần, nói ra nghe có lý lắm.

Hoa Kiếm Ảnh nói:

– Thiếu phụ đó mặt mày coi cũng được, chắc là gã họ Lâm nhìn thấy toan giở trò phi lễ.

Tiêu Dao Tử nói:

– Chính thế, bọn Thái Nhạc tứ hiệp chúng mình hành hiệp trượng nghĩa, thấy chuyện bất bình là can thiệp, kỳ sau gặp tên dâm tặc Lâm Ngọc Long thể nào cũng cho y một trận cho biết thân.

Thường Trường Phong tiếp lời:

– Không chừng hai kẻ Lâm Nhiệm kia có thù giết cha, không biết ai phải ai trái. Con mẹ nó, chân mỗ đau quá đi mất.

Nói xong lấy tay xoa chân. Tiêu Dao Tử nghiêm mặt nói:

– Tên họ Lâm kia mặt đầy hoành nhục[2], mới nhìn đã biết là kẻ chẳng tốt lành gì. Còn con mụ họ Nhiệm tuy ra tay lỗ mãng, nhưng xem võ công y thị, hẳn là danh môn chính phái.

Cái Nhất Minh nói:

– Đại ca liệu sự như thần, nói ra nghe có lý lắm.

Thường Trường Phong đang toan biện giải thêm, bỗng nghe ngoài bìa rừng có tiếng người ngâm nga:

Trong tay có sẵn vàng kia,

Sướng ơi là sướng có chi cho bằng.

Hôm qua tiền bạc sạch banh,

Hôm nay kiết xác thành anh nhà nghèo.

Nhưng không vì thế mà sầu,

Vẫn cười đem đốt khăn đầu cho vui…

Một thanh niên thư sinh tay cầm quạt phe phẩy vừa ngâm nga vừa lững thững đi vào trong rừng, đằng sao lẽo đẽo một đứa tiểu đồng, vác theo một bịch hành lý. Hoa Kiếm Ảnh cầm trong tay chiếc răng cửa mới bị gãy, trong lòng đang bực bội, thấy gã học trò cò vẻ ung dung thư thái, lại còn ngâm thơ nào là hoàng kim, tiền bạc liền đưa mắt cho Cái Nhất Minh, nhảy ra quát lớn:

– Thằng học trò khốn kiếp, ngươi ở đây ư ử ngâm nga cái gì? Thơ thẩn nhà ngươi làm đại gia nhức đầu chóng mặt, mau mau bồi thường cho ta.

Thư sinh kia thấy bộ dạng bốn người, giật mình kinh hãi, hỏi lại:

– Đền vì đã làm cho bọn ta nhức đầu chóng mặt, mỗi người một trăm lượng bạc, tổng cộng bốn trăm lượng tất cả.

Gã học trò le lưỡi nói:

– Sao nhiều thế? Ngay đến đương kim hoàng đế nhức đầu, cũng chưa tốn đến bấy nhiêu tiền thuốc.

Cái Nhất Minh nói:

– Tên hoàng đế là cái quái gì? Ngươi đem bọn ta so sánh với hoàng đế, thật là lớn mật. Đã thế thêm cái tội ấy, bốn trăm lượng gấp đôi lên, thành tám trăm lượng.

Thư sinh nói:

– Nhân huynh so với hoàng đế còn tôn quí hơn, khiến người ta phải bội phục. Thỉnh vấn nhân huynh tôn tính đại danh, xem lai lịch cỡ nào.

Cái Nhất Minh nói:

– Ha ha, tại hạ họ Cái, tên Nhất Minh, trên giang hồ gọi là Bát Bộ Cản Thiềm, Trại Chuyên Chư, Đạp Tuyết Vô Ngấn, Độc Cước Thủy Thượng Phi, Song Thích Cái Thất Tỉnh, trong Thái Nhạc tứ hiệp thì đứng hàng thứ tư.

Thư sinh kia chắp tay nói:

– Ngưỡng mộ đã lâu, đã lâu.

Y quay sang Hoa Kiếm Ảnh hỏi:

– Còn vị nhân huynh này?

Hoa Kiếm Ảnh nhăn mặt:

– Ai hơi đâu mà anh anh, em em với ngươi?

Y giơ tay ra đẩy tên thư đồng, cầm lấy cái bọc y đang vác, nhắc nhắc thấy nặng, trong bụng mừng thầm liền mở ra coi, không khỏi thất vọng, thấy bên trong chỉ toàn sách cũ. Thường Trường Phong kêu lên:

– Toàn đồ vứt đi.

Thư sinh kia vội nói:

– Lời đó của nhân huynh sai rồi. Sách vở thánh hiền, sao lại nói là đồ vứt đi? Người xưa nói rằng trong sách sẵn có nhà vàng.

Thường Trường Phong nói:

– Trong sách có hoàng kim ư? Sách cũ này một xu một quyển cũng chẳng ai mua.

Lúc đó Cái Nhất Minh đã mở tung bọc hành lý, ngoài vài bộ quần áo, chẳng có tiền bạc gì. Thái Nhạc tứ hiệp ai nấy đều thất vọng. Thư sinh kia nói:

– Tại hạ đi học kiếm mẹ, gặp được bốn vị nhân huynh, thật may mắn xiết bao? Bốn vị được gọi là Thái Nhạc tứ hiệp, ắt hẳn cứu khổn phò nguy, hành hiệp trượng nghĩa, trên chốn giang hồ nổi danh.

Tiêu Dao Tử nói:

– Mấy câu ngươi nói không sai chút nào.

Gã học trò nói tiếp:

– Hôm nay gặp được bốn vị anh tài hiệp sĩ, thật là tam sinh hữu hạnh. Tại hạ trước mắt gặp chuyện khó khăn, mong bốn đại hiệp rút đao tương trợ, giúp cho một tay.

Tiêu Dao Tử hỏi:

– Cái đó cũng dễ, chúng ta đã mang danh hiệp khách, thấy người gặp khó khăn mà chẳng ra tay, thì có khác gì chỉ mang tiếng hiệp nghĩa xuông thôi sao?

Gã thư sinh liên tiếp vái chào cảm tạ. Cái Nhất Minh hỏi:

– Thế kẻ nào đã hiếp đáp ngươi thế?

Thư sinh nói:

– Việc này nói ra thật xấu hổ, chỉ sợ bốn vị huynh đài chê cười thôi.

Hoa Kiếm Ảnh chợt hiểu ra, nói:

– A, hóa ra em gái ngươi xinh đẹp, bị cường hào ác bá bắt mấy chứ gì?

Thư sinh lắc đầu:

– Không phải, tôi không có em gái.

Cái Nhất Minh vỗ tay nói:

– À, chắc là thổ hào, quan lại cưỡng chiếm vợ ngươi?

Gã thư sinh vẫn lắc đầu quầy quậy:

– Cũng không phải. Tôi chưa lấy vợ, làm gì có ai?

Thường Trường Phong nóng ruột, hỏi dồn:

– Thế là chuyện gì? Mau nói huỵch toẹt ra cho bọn ta nghe.

Thư sinh đáp:

– Nói thì nói, bốn vị đại hiệp xin đừng trách.

Thái Nhạc tứ hiệp vẫn tự xưng là “tứ hiệp” nhưng trên giang hồ, chốn võ lâm chưa từng được ai gọi là đại hiệp này đại hiệp nọ cung kính như thế bao giờ, bây giờ nghe gã học trò này tôn trọng mình như thế, ai nấy ưỡn ngực, cùng nói:

– Nói mau, nói mau, có chuyện gì khó khăn, Thái Nhạc tứ hiệp thể nào cũng ra tay lo liệu cho.

Gã thư sinh vái một vái thật sâu, nói:

– Tại hạ phiêu bạt giang hồ, đi ngang qua quí địa, nói ra thật xấu hổ, tiền bạc nay hết sạch, chỉ mong tứ hiệp nhủ lòng ban cho vài chục lượng bạc. Tứ hiệp nghĩa bạc vân thiên, thích làm điều thiện ưa chuyện bố thí, tại hạ xin được cảm tạ trước.

Bấn hiệp sĩ nghe xong, không khỏi nhíu mày, không nói nên lời. Bọn họ vốn toan ăn cướp gã thư sinh này, nào ngờ bị y nói năng ngọt ngào, xin ngược lại. Song Chưởng Khai Bi Thường Trường Phong giơ tay vỗ ngực lớn tiếng nói:

– Đại trượng phu có vì bằng hữu mà chịu hai đao đâm hai bên hông cũng chẳng sá gì, huống chi chỉ vài chục lượng bạc? Đại ca, tam đệ, tứ đệ, lấy tiền ra. Ta đây có…

Y thò tay vào túi khoắng một cái, nhưng không mở tay ra, thì ra trong túi không có đồng nào, ngay một xu teng cũng không. Cũng may Hoa Kiếm Ảnh và Cái Nhất Minh trong người cũng có đôi ba lượng bạc vụn, hai người móc ra đưa cho gã thư sinh. Gã học trò khom lưng vái dài, luôn mồm cảm ơn, nói:

– Cái ơn giúp đỡ tiền bạc này, tại hạ suốt đời không dám quên, nếu mai sau có duyên gặp lại, thể nào cũng báo đáp.

Nói xong dắt gã thư đồng đi ra khỏi rừng. Y ra khỏi khu rừng rồi, cười sằng sặc, nói với đứa đầy tớ:

– Mấy lượng bạc này, thưởng cho ngươi cả đó.

Gã thư đồng sắp xếp lại mớ hành lý bị bốn gã kia lục tung, lấy ra một cuốn sách cũ mở ra. Dưới ánh mặt trời màu vàng chói lọi, trong cuốn sách kẹp đầy những miếng vàng lá mong mỏng, y cười nói:

– Tướng công nói trong sách có hoàng kim, bọn chúng lại không tin.

Thái Nhạc tứ hiệp tuy là bọn ăn cắp gà không xong thì xoay ra ăn trộm gạo, nhưng sau khi làm được một cử chỉ nghĩa hiệp, trong bụng cũng lấy làm sung sướng lắm. Cái Nhất Minh nói:

– Gã thư sinh đó ngao du khắp nơi, thể nào chẳng truyền dương tiếng tăm của bọn Thái Nhạc tứ hiệp chúng ta…

Vừa nói tới đây, bỗng nghe có tiếng nhạc ngựa leng keng, tiếng chân lộp cộp, một người cưỡi ngựa từ phương nam đi tới. Tiêu Dao Tử nói:

– Các vị huynh đệ, nghe tiếng chân ngựa chạy nhanh lắm, hẳn là một con tuấn mã. Không cần biết, mình cứ cướp con ngựa này đi, nếu như không có bảo vật nào khác, đem con ngựa này làm lễ vật cũng xong.

Cái Nhất Minh nói:

– Đại ca liệu sự như thần, nói ra nghe có lý lắm.

Y vội vàng cở giây lưng ra nói với mấy người kia:

– Mau lấy giây lưng buộc lại để giăng chân ngựa.

Nói xong y liền nối bốn cái dây lưng lại thành một sợi, đang toan buộc vào hai gốc cây thì ngưới cưỡi ngựa đã đến trước khu rừng. Người cưỡi ngựa thấy bốn gã này đang loay hoay buộc dây chăng ngang đường, ngạc nhiên gò cương, hỏi:

– Các ngươi làm gì thế?

Cái Nhất Minh nói:

– Đang chăng giây…

Vừa nói ra thấy không ổn, nhưng vừa quay lại đã yên tâm khi thấy người cưỡi ngựa chỉ là một cô gái xinh đẹp,. Thiếu nữ hỏi tiếp:

– Giăng giây để làm gì?

Cái Nhất Minh đứng lên, hai tay vỗ vào nhau để phủi bụi, nói:

– Giăng giây chặn ngựa của ngươi. Ồ, ngươi biết rồi thì chăng giây không còn ăn thua gì nữa. Ngươi mau mau xuống ngựa, để lại cho bọn ta, rồi mau cút đi nơi khác. Thái Nhạc tứ hiệp chúng ta không bao giờ hiếp đáp đàn bà con gái để làm bại hoại tiếng tăm đâu.

Thiếu nữ kia cười, hỏi lại:

– Bọn ngươi muốn ta để con ngựa lại, thế không phải hiếp đáp thì là gì?

Cái Nhất Minh ấp úng nói:

– Cái đó a… là có lý do.

Tiêu Dao Tử nói:

– Bọn ta không hiếp đáp ngươi đâu, chỉ lấy con ngựa ngươi cưỡi thôi. Một con vật đâu có đáng gì?

Y thấy con ngựa thân hình cao lớn, lông bóng mượt, coi rất hùng vĩ, yên vàng nhạc bạc, chỉ bộ yên cương không thôi, cũng đã có giá lắm rồi, khiến y càng nhìn càng ham.

Cái Nhất Minh nói:

– Đúng lắm, bọn ta Thái Nhạc tứ hiệp, là hán tử nghênh ngang trên cõi giang hồ, không thể nào lại đi làm khó dễ đàn bà con trẻ. Ngươi chỉ cần để lại con ngựa, bọn ta sẽ không đụng tới một sợi lông của ngươi. Thử nghĩ ta đây Bát Bộ Cản Thiềm, Trại Chuyên Chư, Đạp Tuyết Vô Ngấn…

Cô gái lấy tay bịt tai lại, nói:

– Thôi thôi, bọn ngươi chẳng biết ta là ai, mà ta cũng chẳng biết các ngươi là ai, có đúng không?

Cái Nhất Minh lạ lùng hỏi:

– Đúng vậy, nhưng mà thế là sao?

Thiếu nữ mỉm cười nói:

– Bọn mình hai bên không biết nhau, nếu có đắc tội, cha ta sẽ không giận ta. Này, bốn tên giặc cỏ lớn mật kia, tất cả cùng xông lên đi.

Bốn người chỉ thấy thoáng một cái, trong tay thiếu nữ đã có thêm một cặp đao, binh khí múa lên thế như gió cuốn, giục ngựa chạy tới trước, đao bên phải cắt đứt dây chăng đường, đao bên trái chém luôn xuống đầu Cái Nhất Minh. Cái Nhất Minh kêu lên:

– Đàn ông con trai không đánh nhau với con gái, chớ nên động thủ…

Trước mắt chỉ một ánh sáng trắng lóe lên, thanh đao đã chém xuống ngay mặt, y vội vàng giơ cương thích lên gạt. Chỉ nghe keng một tiếng, hai món binh khí chạm nhau, lưỡi đao của cô gái có sức hút rất mạnh, một đẩy một kéo, binh khí trong tay y cầm không vững, tuột khỏi tay văng lên cao đến mấy trượng, cắm luôn vào một cành cây.

Hoa Kiếm Ảnh và Thường Trường Phong từ hai bên xông tới, nhưng thiếu nữ đang ngồi trên lưng ngựa, hai tay hai đao liên tiếp từ cao chém xuống, Hoa Thường hai người đỡ gạt không nổi. Thiếu nữ thấy Thường Trường Phong tay cầm tấm bia đá, lấy làm lạ, hỏi:

– Ồ, này ông kia, ông cầm cái đồ chơi gì thế?

Thường Trường Phong đáp:

– Đây là món binh khí độc đáo của Thường nhị hiệp, không có trong mười tám món binh khí, chiêu số kỳ diệu, ối ối… đau quá.

Thì ra thiếu nữ lật ngược thanh đao, dùng sống dao gõ lên cổ tay y một cái. Thường Trường Phong bị đau, món binh khí “độc đáo” rơi ngay xuống, thật khéo làm sao, lại rơi trúng ngay ngón chân cái vốn đã sưng vù.

Tiêu Dao Tử thấy tình thế xem không ổn, liền cầm cái tẩu thuốc xông lên tấn công. Cái tẩu của y đúc bằng thép ròng, sử dụng như phán quan bút, thế nhưng kỹ thuật điểm huyệt, đả huyệt, nhận huyệt chưa tinh tường, điểm sai cả thước, thành ra cũng bằng xa cả dặm. Thiếu nữ thấy vậy tức cười, giả vờ sơ hở để cho y điểm trúng đùi bên trái, chỉ thấy hơi đau, quát lên:

– Con quỉ ho lao kia, ngươi điểm huyệt nào thế?

Tiêu Dao Tử đáp:

– Đó là huyệt Trung Độc, điểm cho đùi bị tê, tứ chi mềm xèo để phải bó tay chịu trói.

Thiếu nữ cười:

– Huyệt Trung Độc đâu có ở đây, phía bên trái hai tấc kia mà.

Tiêu Dao Tử ngạc nhiên hỏi:

– Bên trái ư, không trúng à?

Y lại giơ tẩu thuốc, tới điểm lần nữa. Thiếu nữ vung đao chém xuống, đánh rơi cái quản hút thuốc của y, rồi lập tức đưa cả hai thanh đao qua tay phải, tay trái nắm ngay cổ áo y, hai gót chân đập vào bụng ngựa một cái, con vật liền hí lên một tiếng đài, chạy thẳng ra khỏi khu rừng. Tiêu Dao Tử bị cô ta nắm ngay cổ, toàn thân tê dại, tứ chi mềm nhũn, đành chịu chết. Ba hiệp sĩ còn lại trong Thái Nhạc tứ hiệp liền kêu lên:

– Gió lớn, gió lớn.

Cố hết sức chạy đuổi theo. Thế nhưng con ngựa trong chốc lát đã xa cả dặm. Tiêu Dao Tử bị cô ta kéo lê hai chân dưới đất, máu me đầm đìa, vội nói:

– Ngươi nắm vào huyệt Phong Trì của ta, là chỗ hai mạch Túc Thiếu Dương và Dương Duy giao hội, ta không cách nào cử động được, cũng không có gì là lạ. Không chiến đấu được dù có thua cũng vẫn vinh dự như thường.

Thiếu nữ cười khanh khách, gò cương ngựa ném y xuống đất nói:

– Ngươi nói ra các huyệt đạo đúng lắm.

Đột nhiên cô gái cười khẩy một tiếng, giơ thanh đao nhứ vào cổ y, quát lên:

– Ngươi dám vô lễ với cô nương, không thể không giết.

Tiêu Dao Tử thở dài nói:

– Thôi cũng được. Thế nhưng ngươi có chém thì chém vào huyệt Thiên Trụ, một đao là khí tuyệt, khỏi phải chịu khổ sở lâu.

Thiếu nữ không nhịn cười được, nghĩ thầm gã ho lao này chết đến nơi còn nghiên cứu huyệt đạo, chi bằng mình dọa y một phen để xem thế nào. Nàng lấy lưỡi dao để vào giữa hai huyệt Thiên Trụ và Phong Trì trên cổ nói:

– Phải chỗ này không?

Tiêu Dao Tử kêu lên:

– Không, không, cô nương sai rồi, phải ở trên một tấc hai phân mới đúng…

Bỗng nghe ba người chạy tới thở hổn hển nói:

– Cô nương giết luôn cả ba đứa chúng tôi…

Chính là bọn Thường Trường Phong tam hiệp đã đến. Thiếu nữ nói:

– Việc gì các ngươi lại tới đây chịu chết?

Cái Nhất Minh nói:

– Bọn Thái Nhạc tứ hiệp chúng ta nghĩa kết kim lan, không mong cùng năm cùng tháng sinh ra nhưng nguyện cùng năm cùng tháng cùng ngày chết với nhau. Cô nương giết đại ca, ba người chúng tôi cũng không muốn sống nên xin cô nương giết chết luôn một thể. Nếu ai mà cau mày, người đó không phải là hảo hán.

Y nói xong đi đến đứng bên cạnh Tiêu Dao Tử vươn cổ ra chịu chém. Thiếu nữ giơ đao lên, giả vờ như muốn chém xuống, Cái Nhất Minh mỉm miệng cười, không tránh né. Thiếu nữ nói:

– Được! Bốn người các ngươi võ nghệ bình thường nhưng lại trọng nghĩa khí, có thể coi là hảo hán, ta tha cho các ngươi đó.

Nói xong tra đao vào vỏ. Bốn người mừng quá, thật là cảm kích. Cái Nhất Minh nói:

– Thỉnh vấn tôn tính đại danh cô nương, bọn Thái Nhạc tứ hiệp chúng tôi xin ghi trong lòng, sau này sẽ báo đền ơn tha không giết.

Cô gái thấy bọn họ mở miệng là xưng “Thái Nhạc tứ hiệp”, không thẹn chút nào, nhịn không được cười lên một tiếng, nói:

– Các ngươi đừng hỏi tên ta làm gì. Ta hỏi các ngươi đây, sao lại định cướp ngựa của ta?

Cái Nhất Minh đáp:

– Ngày mồng mười tháng ba năm nay, là sinh nhật năm mươi tuổi của Tấn Dương đại hiệp Tiêu Bán Hòa…

Thiếu nữ nghe thấy tên Tiêu Bán Hòa hơi ngạc nhiên, hỏi:

– Các ngươi quen với Tiêu lão anh hùng ư?

Cái Nhất Minh nói:

– Chúng tôi không quen với Tiêu lão anh hùng, chỉ vì trước nay vẫn ngưỡng mộ anh danh của lão nhân gia, có thể nói là thần giao đã lâu, nên muốn nhân buổi tiệc thọ này đến bái phỏng. Nói ra thật xấu hổ, bốn anh em chúng tôi chưa có lễ mừng, nên không đến được, thành ra… vì thế… cho nên.. mới…

Thiếu nữ cười nói:

– Hóa ra các ngươi định cướp ngựa của ta làm lễ vật. Ồ, cái đó cũng dễ.

Nói xong rút trên đầu xuống chiếc kim thoa, nói:

– Ta cho các ngươi chiếc kim thoa này, viên minh châu nạm trên đó rất có giá trị, các ngươi đem đến làm lễ vật, Tiêu lão anh hùng hẳn sẽ thích lắm.

Nói xong giục cương, con tuấn mã liền chồm tới chạy vọt đi.

Cái Nhất Minh cầm kim thoa trên tay, thấy viên minh châu trên kim thoa vừa tròn vừa to, ánh sáng chói lọi, tứ hiệp tuy không biết coi mặt hàng, nhưng cũng biết đây là một vật quí giá khó kiếm. Bốn người ngơ ngẩn nhìn viên ngọc, trong bụng vui mừng khôn xiết. Tiêu Dao Tử nói:

– Cô nương này khẳng khái hào hiệp, hẳn cũng là người cùng bọn với chúng ta.

Cái Nhất Minh nói:

– Đại ca liệu sự như thần, nói ra nghe có lý lắm.

*

* *

Cô gái ngồi trong một căn phòng nhỏ tại Phần An khách điếm ở trấn Cam Đình, trên bàn để một vò rượu nhỏ, trong vò là Phần tửu nổi danh thiên hạ. Trấn Cam Đình ở phía nam phủ Tấn Nam giữa hai huyện Lâm Phần và Hồng Động, chính là nơi sản xuất ra rượu Phần. Thế nhưng nàng chỉ uống một ngụm, mồm đã thấy cay như xé, không thấy ngon chút nào. Thế nhưng sao cha nàng lại thích uống? Gia gia thường nói: “Con gái không được uống rượu”. Ở nhà nàng thường nghe cha nói đến loại rượu này, hôm nay có dịp lén trốn ra ngoài một mình, không thể không uống một bình Phần tửu. Thế nhưng uống hết một vò kể không phải dễ. Nàng lại uống thêm một ngụm nữa, thấy mặt mày nóng bừng, giơ tay lên chùi, thấy vã mồ hôi.

Nàng nghe các tiêu khách ở phòng bên cạnh, anh một ly tôi một ly, không ngừng cạn chén, không lẽ họ không sợ cay hay sao? Lại nghe một giọng đàn ông ồm ồm kêu:

– Phổ ky, cho thêm ba cân.

Cô gái nghe thấy thế lắc đầu. Một người khác nói:

– Trương huynh đệ, mình đi đường nên cẩn thận là hơn, uống ít đi một chút. Người ta đã bảo là “Giữ mồm giữ cả chân tay” có thế đi đâu mới không lộ hình tích. Bao giờ đến Bắc Kinh rồi, bọn mình sẽ uống một bữa cho thật đã đời.

Người kia cười đáp:

– Tổng tiêu đầu, tôi xem ông dè dặt quá đáng, bốn tên đó mới khoe khoang là Thái Nhạc tứ hiệp, đã khiến cho ông sợ… ha ha…phổ ky, mang rượu ra mau.

Thiếu nữ nghe thấy Thái Nhạc tứ hiệp, nhịn không nổi cười lên thành tiếng, hóa ra bọn tiêu sư này cũng đã đụng trận với Thái Nhạc tứ hiệp rồi. Lại nghe gã tổng tiêu đầu nói:

– Ta sợ đâu mà sợ? Ngươi có biết đâu ta trên mình mang trọng trách nghìn cân. Mười vạn lượng diêm tiêu này, có đáng gì cho họ Chu này. Hừ, bây giờ ta chưa tiện nói cho ngươi hay, bao giờ đến Bắc Kinh rồi, ngươi tự khắc sẽ biết.

Gã Trương tiêu sư cười đáp:

– Phải rồi, phải rồi! Tôi chẳng biết gì hết, tôi chẳng biết gì hết. Ha ha, Uyên Ương Đao ơi là Uyên Ương Đao.

Thiếu nữ nghe đến ba chữ Uyên Ương Đao, tim đập thót một cái, bèn ghé tai sát tường nghe cho rõ, nhưng bên kia không thấy nói thêm gì nữa. Cô gái bỗng nghĩ ra một mẹo, đi ra khỏi phòng, rón rén đến trước của sổ phòng của các tiêu sư. Nàng nghe viên tổng tiêu đầu hỏi:

– Làm sao ngươi biết? Ai là người tiết lộ phong thanh? Trương huynh đệ, chuyện này không phải chuyện đùa đâu nhé.

Tuy y đã đóng kín cửa phòng nhưng giọng nói thật là trịnh trọng. Gã Trương tiêu sư kia lạnh lùng đáp:

– Anh em trong đây có ai mà không biết? Riêng ông thôi cũng đã là một đại bí mật rồi.

Chu tổng tiêu đầu run run hỏi lại:

– Ai nói cho ngươi biết?

Trương tiêu đầu nói:

– Ha ha, còn ai vào đây? Chính ông chứ ai.

Chu tổng tiêu đầu hỏi dồn:

– Ta nói ra hồi nào? Trương huynh đệ, hôm nay nếu ngươi không nói cho rõ ra thì không xong đâu. Họ Chu này bình thời đãi ngươi không bạc…

Lại có tiếng một người khác nói:

– Tổng tiêu đầu đừng có nóng. Trương đại ca nói không sai, chính ông nói ra đó.

Chu tổng tiêu đầu hỏi lại:

– Ta ư? Ta ư? Sao lại ta là thế nào?

Người kia đáp:

– Từ khi tiêu xa rời Tây An, đêm nào nằm ngủ ông cũng nằm mớ, trong giấc mơ, nhắc đi nhắc lại: “Uyên Ương Đao, Uyên Ương Đao, kỳ này ta đưa tới Bắc Kinh, không thể sơ sót được, ai được Uyên Ương Đao sẽ vô địch thiên hạ…”.

Chu Uy Tín vừa sợ vừa thẹn, còn nói năng gì được nữa? Ai ngờ mình chăm chăm giữ cái đại bí mật, nhưng vì ban ngày nghĩ ngợi quá nhiều, trong đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ tới “Uyên Ương Đao” không lúc nào nhãng ra, ngày nghĩ sao, đêm chiêm bao thế, nên trong giấc mơ nói huỵch toẹt cả. Y quay sang các tiêu sư vái một cái, hạ giọng nói:

– Các vị nhất quyết không được nhắc tới ba chữ “Uyên Ương Đao”. Từ tối nay trở đi, ta sẽ dùng vải bịt chặt miệng khi đi ngủ.

Thiếu nữ ở ngoài song nghe thấy mấy câu đó, trong lòng mừng rỡ, nghĩ thầm: “Đi lỏng gót giày không nên chuyện, Được rồi chẳng mất chút công phu”. Hóa ra đôi Uyên Ương Đao lại ở ngay trên người gã tiêu sư này. Ta ăn cắp đem về xem gia gia nói gì đây?

Thì ra cô gái đó họ Tiêu, tên Trung Tuệ, cha nàng chính là Tấn Dương đại hiệp Tiêu Bán Hòa. Uy danh Tiêu Bán Hòa vang dậy, trên giang hồ các lộ hảo hán ai ai cũng quen biết. Tháng trước mọi người nghe tin đôi Uyên Ương Đao thất lạc đã lâu nay tái xuất hiện, do chính tổng đốc Xuyên Thiểm Lưu Ư Nghĩa tìm được. Hai thanh đao đó có liên quan lớn đến Tiêu Bán Hòa, ông ta thể nào cũng phải đoạt lại. Mọi người bàn tính với nhau biết thể nào Lưu Ư Nghĩa cũng đem bảo đao về kinh sư, dâng lên hoàng đế, nếu như đoạt đao ngay tại phủ Tây An ắt có trọng binh trấn giữ, chi bằng chặn đường cướp lấy thì hơn.

Nào ngờ Lưu Ư Nghĩa giảo hoạt đa trí, được bảo đao rồi liền dàn nghi trận, lúc thì sai quan, lúc thì giả đoàn người đi tiến cống, phái hết đoàn này đến đoàn khác, khiến cho những hào sĩ giang hồ thèm muốn bảo đao toan cướp đoạt bị tổn thương không phải ít. Tiêu Bán Hòa nhân ngày sinh nhật năm mươi của mình, mới gửi Anh Hùng thiếp, mời các hảo hán bốn tỉnh Tần Tấn Dực Lỗ lại uống chén thọ tửu, nhưng trên thiếp có viết thêm yêu cầu kiệt tận toàn lực cướp lại đôi bảo đao này. Lẽ dĩ nhiên, chỉ những người nào quen biết thật thân tình, nhiều nhiệt huyết, thiếp mời mới có hàng chữ đó, nếu không phong thanh tiết lậu, bảo đao không cướp được mà còn liên lụy đến tính mạng bạn bè.

Tiêu Trung Tuệ nghe thấy phụ thân nói về đôi bảo đao nên cũng muốn thử xem sao. Tiêu Bán Hòa sai học trò đem thiếp đi các nơi, nàng cũng nhân thế xin đi, Tiêu Bán Hòa sai người mai phục trên đường Thiểm Tây, nàng cũng đòi theo. Thế nhưng Tiêu Bán Hòa nhất quyết lắc đầu nói:

– Không được.

Nàng năn nỉ mãi, Tiêu Bán Hòa mới nói:

– Ngươi thử hỏi đại má và má má ngươi xem có cho đi không?

Tiêu Bán Hòa có hai bà vợ, đại phu nhân họ Viên, nhị phu nhân họ Dương. Trung Tuệ do Dương phu nhân sinh ra, nhưng Viên phu nhân đối với nàng cưng chiều lắm, không khác gì con đẻ. Dương phu nhân không cho đi, Tiêu Trung Tuệ liền dỗi nói nhất định sáng hôm sau sẽ đi. Thế nhưng Viên phu nhân nói không được đi, Trung Tuệ không dám cãi lời. Vị Viên phu nhân đối với nàng rất dịu dàng, nhưng trong dáng dấp có vẻ uy nghiêm, nên từ bé không bao giờ dám cãi lời mẹ cả một tiếng.

Thành thử chuyện đi cướp bảo đao thì vừa hung hiểm, vừa kỳ diệu, thực là thú vị. Tiêu Trung Tuệ vừa nghĩ đến, không thể nào nhịn nổi nên một đêm khuya, viết vài hàng để lại cho cha, mẹ cả và mẹ ruột, lén dắt một con ngựa ra khỏi Tấn Dương. Nàng gặp phải bọn Thái Nhạc tứ hiệp muốn đến chúc thọ cha mình, nghĩ thầm anh hùng hảo hán trên giang hồ, võ công chắc cũng thế mà thôi, bây giờ nghe bọn tiêu sư nói chuyện, thấy chuyện cướp đao Uyên Ương cũng không có gì là khó.

Nàng quay lại, định trở về phòng, từ từ tính xem sẽ động thủ với bọn tiêu sư thế nào, nhưng vừa được hai bước, thì từ phòng đằng trước vọng ra một tiếng keng, chính là tiếng binh khí chạm nhau mà từ bé nàng đã quen thuộc. Cô gái kinh hãi: “Chao ôi, không xong! Người ta nhìn thấy mình rồi!” Bỗng nghe tiếng một người chửi:

– Định đánh thật chăng?

Tiếng một người đàn bà kêu lên:

– Bộ tưởng ta còn nể nang ngươi nữa chắc?

Chỉ nghe thấy tiếng choang choang liên tiếp, hai bên đánh nhau thật kịch liệt, xen lẫn có tiếng trẻ con khóc ré lên. Trong phòng thấy có hai bóng người, một nam một nữ, mỗi người cầm một thanh đơn đao, đánh nhau dữ dội toàn những đòn chí mạng.

Chỉ một lát sau, khách điếm biến thành đại loạn. Bỗng nghe Chu tổng tiêu đầu quát lớn:

– Tất cả các anh em không ai được ra ngoài, mọi người coi chừng, bảo vệ tiêu xa, cẩn thận đừng mắc vào kế điệu hổ ly sơn.

Tiêu Trung Tuệ nghe thế, nghĩ thầm: “Người ta đánh nhau chí mạng thế kia, không lẽ còn đánh giả vờ để điệu hổ ly sơn? Tiếc thay y không chạy ra coi, nếu không thì thật là dịp tốt để lẻn vào ăn trộm đao”. Nhìn lại hai cái bóng đen kia, người đàn bà xem chừng yếu hơn, liên tiếp thối lui, người đàn ông từng bước từng bước ép tới, không chịu lơi ra chút nào. Lòng hiệp nghĩa của cô gái nổi lên, nghĩ thầm: “Tên ác tặc này thật là vô lễ, ban đêm lẻn vào phòng phụ nữ, giở trò cường bạo, chuyện bất bình như thế không lẽ ngồi yên?”. Nàng đang định xông vào giúp người đàn bà, nhưng nghĩ lại: “Không được, nếu ta ra tay thì lộ hết hành tàng, nếu như bọn tiêu sư nhìn thấy, chuyện ra tay ăn trộm đao không còn dễ dàng được nữa”. Tiêu Trung Tuệ bèn cố nén cơn giận, thấy tiếng binh khí chạm nhau giảm đi, hai bên nam nữ mở mồm chửi rủa, nghe giọng miền nam đất Lỗ, nàng nghe không hiểu đến quá nửa.

Nàng nghe một hồi bỗng thấy khó chịu, đang định về phòng, bỗng nghe kẹt một tiếng, cửa một gian phòng ở phía đông mở ra, một thư sinh đi ra. Y lớn tiếng nói:

– Hai vị vì cớ gì lại sinh chuyện? Sao không ngồi xuống nói chuyện phải quấy với nhau, việc gì phải động đao động thương?

Y vừa nói, vừa đi đến cửa sổ phòng hai người kia, dường như muốn khuyên giải. Tiêu Trung Tuệ nghĩ thầm: “Tên ác đồ này hung tợn thế, đời nào nói chuyện phải quấy với ngươi”. Chỉ thấy trong phòng lại có tiếng binh khí chạm nhau, rồi một viên đạn từ trong phòng bắn ra ngoài cửa sổ, nghe bốp một tiếng, đánh rơi luôn cái mũ của chàng thư sinh nọ xuống đất. Gã học trò kêu lên:

– Ôi chao, không xong rồi.

Y lẩm bẩm một mình:

– Thành đã cháy thì đến cá trong ao cũng chịu tai ương. Người quân tử không đứng nơi bức tường sắp đổ, nên minh triết bảo thân là hơn.

Nói xong y chậm rãi đi về phòng. Tiêu Trung Tuệ thấy vậy tức cười quá, lại e người đàn bà đang gặp chuyện khẩn cấp, gã ác đồ kia chẳng còn ngại ngùng gì, người đàn bà thể nào cũng bị thua to. Thế nhưng lúc đó trong phòng không còn nghe tiếng đánh nhau nữa, khách điếm trở lại lặng như tờ. Tiêu Trung Tuệ trong bụng tính toán: “Gia gia thường nói, hành sự phải chia ra nặng nhẹ, hoãn cấp, trước mắt chuyện trộm đao là khẩn cấp, đành để cho gã hung đồ vô pháp vô thiên”.

Nghĩ thế nàng bèn về phòng đóng cửa lại, nằm trên giường suy nghĩ chuyện làm thế nào lấy được bảo đao: “Tiêu đội đó người không phải ít, mình chỉ một người làm sao đối phó đây? Chi bằng đang đêm chạy về Tấn Dương cho cha mình hay, để cho ông điều động thủ hạ. Thế nhưng nếu mình nghĩ được cách nào ăn cắp được hai thanh đao dâng lên cho cha, không hay hơn sao?”. Nghĩ đến lúc đắc ý như thế, núm đồng tiền trên má nàng lõm hẳn xuống. Thế nhưng kế nào đây? Nàng từ bé được cha dạy dỗ, võ công không phải kém nhưng về mưu kế thì nàng chẳng mấy khi dùng, trong bụng không có bao nhiêu, đúng ra chẳng có gì cả.

Nàng nằm trên giường, suy nghĩ đến nhức cả đầu, tuy có nghĩ ra năm sáu cách nhưng suy đi tính lại, thì không thể nào dùng được. Nằm mơ mơ màng màng một hồi, mí mắt trĩu xuống, bỗng trong đêm thanh vắng có tiếc cốc, cốc, cốc… từ xa đến gần, dường như có ai dùng thiết trượng đi trên đường đá tới đây, hẳn là một người mù lòa.

Tiếng cốc cốc đến trước khách điếm thì ngừng lại, kế đến lại có tiếng gậy gõ cộp cộp vào cửa khách điếm, rồi có tiếng điếm tiểu nhị mở cửa, và tiếng một người già nua hỏi mườn phòng. Điếm tiểu nhị bảo người đó đưa tiền trước, người mù đó đưa tiền ra nhưng còn thiếu đâu hai đồng. Rồi người cự tuyệt, kẻ cầu xin, tên nhà trọ chửi mắng bằng những lời thô tục, từng câu từng câu đều lọt vào tai Tiêu Trung Tuệ.

Nàng càng nghe càng thấy ông già mù đáng thương, liền ngồi dậy, lấy trong bọc ra một đĩnh bạc nhỏ, mở cửa đi ra, đã thấy gã thư sinh hoa chân múa tay, mang giọng chi hồ giả dã đang nói phải quấy cho gã điếm tiểu nhị nghe, xem ra y tuy biết đạo minh triết bảo thân nhưng lại hay xía vào chuyện người khác. Gã học trò nói:

– Anh tiểu nhị, kính người già cả, thương người nghèo khổ, là những việc rất nên làm, có thiếu hai xu, thôi cũng bớt cho người ta cũng được rồi.

Điếm tiểu nhị bực dọc nói:

– Tướng công nói nghe hay quá, nếu ông có lòng tốt, thì sao ông không trả giùm cho người ta đi.

Gã thư sinh nói:

– Ngươi nói thế sai rồi. Ta là kẽ lữ hành, tiền bạc mang theo đâu có là bao. Tiền phòng của nhà ngươi lại đắt thấy mà khiếp, nếu ăn tiêu không dè dặt, chỉ sớm tối sẽ không khác gì Phu Tử bị nguy nơi nước Trần, nước Sái. Chính thế mà anh tiểu nhị bớt cho người ta hai đồng mới phải.

Tiêu Trung Tuệ cười rộ lên, gọi lớn:

– Thôi, này anh tiểu nhị, tiền đó để tôi trả cho, cầm lấy.

Điếm tiểu nhị vừa quay đầu, thấy một vật lấp lánh, một đĩnh bạc vụn bay tới, vội đưa tay chộp. Hai tay y cầm tiền đã quen, không bao giờ hụt, thế nhưng lần này đầu tiên trong đời tiền ném tới, chưa tập luyện, nghe bịch một tiếng, khối bạc trúng ngay ngực, đau quá kêu “Ối chà” một tiếng. Gã thư sinh nói:

– Ngươi xem đó, một cô gái tuổi còn nhỏ mà đã có lòng tốt. Tiểu nhị ca, ngươi là đàn ông con trai mà kém xa.

Tiêu Trung Tuệ đưa mắt liếc y một cái, thấy gã mặt dài mắt sáng, lông mày như kiếm xếch lên, mặt đầy anh khí, hơi ngạc nhiên vội cúi đầu xuống. Chỉ nghe ông già mù nói:

– Đa tạ tướng công có lòng tốt, giúp cho lão tiền ăn tiền ở, xin cảm ơn. Không biết ân công cao tính đại danh là gì, lão mù xin ghi nhớ trong lòng, sau này có dịp báo đền ân đức.

Gã học trò đáp:

– Tiểu khả họ Viên, tên Quán Nam, chuyện nhỏ nhặt đó có đáng gì đâu? Lão trượng tôn tính đại danh là gì?

Ông già mù đáp:

– Tiện danh của lão mù này là Trác Thiên Hùng.

Tiêu Trung Tuệ trong bụng cười thầm: “Ông già này đúng là mắt lòa mà lòng cũng mù nốt. Rõ ràng là ta cho ông ấy tiền, lại đi tạ ơn người khác”. Đột nhiên nàng nghe ba chữ Trác Thiên Hùng, trong lòng hoang mang: “Cái tên này ta đã nghe tới rồi. Hôm đó mình đi ngang phòng của mẹ cả, cha và mẹ cả mình đã nói đến tên này, vừa thấy mình liền nín bặt. Không biết chỉ cùng họ, cùng tên hay cùng âm mà khác chữ? Cha ta sao lại biết được ông già mù này?”.

Viên Quán Nam đi chung với Trác Thiên Hùng cùng theo điếm tiểu nhị vào trong nội viện. Khi đi ngang qua Tiêu Trung Tuệ, Viên Quán Nam đột nhiên vái dài nói:

– Cô nương, chắc cô mang nhiều tiền lắm nhỉ?

Tiêu Trung Tuệ không ngờ y lại mở miệng nói chuyện với mình, mặt đỏ lên, không biết phải hoàn lễ hay không, nói:

– Cái gì?

Viên Quán Nam nói:

– Tiểu khả thấy cô nương hào sảng như thế, nên có ý muốn mượn ít tiền tiêu.

Tiêu Trung Tuệ không ngờ y dám mở miệng hỏi mượn tiền, càng thêm rối trí, mặt đỏ bừng, không biết phải trả lời sao, đứng đờ ra một lát rồi quay mặt đi. Thư sinh kia nói:

– Được, nếu cô không cho mượn, cũng chẳng sao. Thôi tiểu khả đi hỏi người khác vậy.

Nói xong lại vái một cái, quay mình đi trở về phòng. Tiêu Trung Tuệ tim đập thình thịch, chưa định thần được, bỗng nhiên phòng bên lại có tiếng binh khí chạm nhau cùng tiếng chửi rủa vang lên, nghe bình một tiếng lớn, cửa sổ tung ra, một hán tử tay cầm đơn đao nhảy ra ngoài, tay trái ôm thêm một đứa bé. Tiếp đó một thiếu phụ cũng nhảy cửa sổ đuổi theo, đầu tóc rối tung, vừa múa đao vừa mắng:

– Trả lại con ta, ngươi ôm nó đi đâu?

Hai người một trước, một sau, chạy thẳng ra khỏi khách điếm. Tiêu Trung Tuệ thấy thiếu phụ mặt mày hoảng hốt, lửa giận trong lòng khó mà ngăn nổi, nghĩ thầm: “Tên hung đồ này cướp đưa con của bà ta, thật là thương thiên hại lý, mình không thể nào không can thiệp”. Nàng vội về phòng lấy song đao, chạy đuổi theo.

Nàng nghe xa xa tiếng thiếu phụ luôn mồm réo gọi:

– Mau bỏ con ta xuống, nửa đêm gà gáy, làm cho nó sợ. Tên ác tặc chết đâm chết chém kia, làm con ta sợ, ta… ta…

Tiêu Trung Tuệ theo tiếng mà đuổi, nào ngờ gã hung đồ và thiếu phụ khinh công rất khá, chạy theo đến hơn một dặm mới thấy hai người đang quần thảo. Tên hung đồ tay ôm đứa trẻ, xem chừng kém thế, nên bỏ đứa trẻ xuống một tảng đá, rồi quay lại múa đao tấn công. Tiêu Trung Tuệ ngừng chân, xem võ công tên đó ra sao đã, thấy y sức lực mạnh mẽ, thế đao ác độc. Thiếu phụ vừa đánh vừa lùi, xem ra chỉ chớp mắt sẽ bị thương vì đao của y ngay. Tiêu Trung Tuệ cầm đao nhảy ra, quát lớn:

Uyên ương đao – Phần 2

– Ác tặc, chưa ngừng tay sao?

Tay phải chém nhứ một đao, tay trái vươn ra đâm vào ngực gã hung đồ. Thiếu phụ thấy Tiêu Trung Tuệ nhảy ra đánh, đứng ngẩn người ra, lo cho đứa con vội chạy lại bế nó lên. Gã kia giơ đao lên đỡ, hỏi lại:

– Ngươi là ai?

Tiêu Trung Tuệ cười khẩy:

– Ta là cô nương chuyên xen vào chuyện bất bình.

Nàng múa đao chém xuống. Ngoại trừ khi cùng cha hay các sư huynh tập luyện ra chiêu, cùng người ngoài động thủ thì Thái Nhạc tứ hiệp là lần đầu tiên, còn gã hung đồ này là lần thứ hai. Gã này võ công cao hơn Thái Nhạc tứ hiệp nhiều, chiêu số huyễn ảo, một thanh đơn đao múa may, tay trái lại thỉnh thoảng đánh ra một chưởng trầm mãnh. Tiêu Trung Tuệ kêu lên:

– Ác tặc giỏi nhỉ, ngang ngược đến thế sao?

Đao bên tay trái tấn công thật sát, sử dụng thế Phân Hoa Phất Diệp. Gã hung đồ giật mình kinh hãi, vội nghiêng người qua tránh né. Tiêu Trung Tuệ kêu lên:

– Ngã này.

Đao ngắn đâm xéo qua, trúng ngay đùi bên trái của tên hung đồ. Y rống lên một tiếng, một chân khuỵu xuống, nhưng vẫn cố vung đao trả đòn. Song đao của Tiêu Trung Tuệ cùng đánh ra, dụ cho y đưa đao ra gạt, chân liền quét ngang, đá y ngã lăn ra đất, đao ngắn lại đâm luôn và đùi bên phải.

Đột nhiên có một luồng gió ùa tới, một thanh đao từ phía sau chém đến, Tiêu Trung Tuệ giật mình kinh hãi, không dám tính chuyện đả thương gã hung đồ, vội vào xoay đao lại đỡ, chiêu Sư Tử Hồi Thủ đó thật vừa đúng lúc, nghe keng một tiếng, hai thanh đao chạm nhau, trong bóng đêm lửa tóe ra. Nàng vừa thoạt nhìn, lại càng ngơ ngẩn, thì ra kẻ ở sau lưng đánh lén kia chẳng ai xa lạ mà chính là thiếu phụ tay đang bồng một đứa trẻ. Đao của thiếu phụ bị nàng gạt ra, lại sấn tới chém một nhát nữa. Tiêu Trung Tuệ biết rằng chiêu Dạ Xoa Thám Hải này là chiêu thí mạng không cần tính tới chuyện an nguy của bản thân cốt để đả thương địch thủ, nên vội vung đao gạt ra, kêu lên:

– Bộ bà điên hay sao?

Người đàn bà đáp:

– Có ngươi điên thì có.

Đơn đao chém xéo ngang, nhắm vào sống thanh đao dài của Tiêu Trung Tuệ, nhưng lại liệng qua sát ngay ngón tay của nàng. Tiêu Trung Tuệ kinh hãi, thấy thiếu phụ lực khí tuy không bằng gã hung đồ, nhưng đao pháp giảo quyệt, xem chừng còn hơn xa.

Lúc này gã kia đã buộc xong vết thương, lại cầm đao xông lên giáp công. Hai người đánh một, chiêu nào chiêu nấy độc ác, Tiêu Trung Tuệ kêu khổ thầm: “Thì ra hai người này lập mưu, cố ý dụ ta vào tròng”.

Tuy đao pháp của nàng tinh diệu, nhưng dẫu sao cũng ít kinh nghiệm đối địch, lúc này canh khuya nơi đồng không mông quạnh thế này, bị hai người giáp công, không biết chung quanh còn bao nhiêu kẻ địch mai phục nữa, trong bụng không khỏi khiếp sợ, vừa đánh vừa mắng:

– Ta cùng các ngươi không thù không oán, tại sao lại bày ra kế độc để hại ta?

Tên hung đồ chửi lại:

– Ai cần quen biết ngươi làm gì? Tiểu tặc kia, sao ngươi vô duyên vô cố đến chém ta một đao?

Thiếu phụ cũng quát lên:

– Ngươi là người của phái nào? Sao không hỏi rõ đầu đuôi đã ra tay đả thương người khác?

Mụ quay lại hỏi gã hung đồ:

– Long ca, vết thương trên đùi ra sao?

Trong giọng nói đầy vẻ lo lắng. Tên hung đồ nói:

– Con mẹ nó, đau lắm.

Tiêu Trung Tuệ lạ lùng:

– Các ngươi không phải chủ tâm hại ta ư?

Thiếu phụ đáp:

– Ngươi thực sự muốn gì? Sao lại hung hăng dữ tợn, ỷ vào võ nghệ cao cường chăng? Ta không hiểu tại sao ngươi lại lì lợm đến thế.

Tiêu Trung Tuệ giận dữ nói:

– Ta thấy ngươi bị gã này hiếp đáp, có lòng tốt cứu cho, ai biết đâu là hai người chỉ giả vờ đánh nhau.

Thiếu phụ đáp:

– Ai nói giả vờ đánh nhau? Vợ chồng ta gây gổ là chuyện bình thường, việc gì đến ngươi mà xía vào?

Tiêu Trung Tuệ nghe thấy “vợ chồng gây gổ”, giật mình kinh hãi, ấp a ấp úng hỏi lại:

– Các ngươi… các ngươi là vợ chồng ư?

Nàng vội vàng nhảy về sau, đầu óc hoang mang. Gã đàn ông nói:

– Thì đã sao? Bọn ta một nam một nữ ở chung một phòng, lại đẻ được một đứa con, không phải vợ chồng thì là gì?

Tiêu Trung Tuệ lạ lùng:

– Đứa bé này là con của hai người ư?

Người đàn bà đáp:

– Y là cha nó, ta là mẹ nó, có gì liên quan đến ngươi? Y tên Lâm Ngọc Long, ta tên Nhiệm Phi Yến, ngươi còn muốn hỏi gì nữa?

Nói xong lại hầm hừ giơ đao lên xông vào chém. Tiêu Trung Tuệ nói:

– Nếu hai người là vợ chồng, sao lại đánh nhau chửi nhau, rút dao chém nhau?

Nhiệm Phi Yến cười khẩy:

– Ha ha, này cô nương ơi, đợi khi nào cô lấy chồng, lúc đó cô biết ngay. Vợ chồng không đánh nhau cãi nhau thì đâu có còn là vợ chồng nữa? Vợ chồng nào chẳng sáng đánh nhau chiều làm hòa, có ai không thế đâu?

Tiêu Trung Tuệ buột miệng cãi liền:

– Cha mẹ tôi đâu có cãi nhau, đánh nhau?

Lâm Ngọc Long ôm vết thương trên đùi chửi:

– Con mẹ nó, thế thì đâu có còn là vợ chồng nữa? Hẳn là không phải đạo vợ chồng, ối, ối…

Nhiệm Phi Yến thấy chồng rên rỉ, vội bỏ con xuống, chạy lại xem vết thương, xem thần tình không phải giả dối, đúng là một đôi vợ chồng thương yêu nhau. Lâm Ngọc Long vẫn lầu bầu chửi:

– Con mẹ nó, không cãi nhau, không đánh nhau thì còn gì là vợ chồng?

Tiêu Trung Tuệ ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Hừ, như thế thì đúng là mắng mỏ cha mẹ ta rồi còn gì?” Nàng cơn giận nổi lên, muốn cho y một bài học nhưng lấy một địch hai, xem ra đánh không lại, thấy đứa bé nằm trên tảng đá, khóc oa oa không ngớt, liền quay lại bồng lên, chạy vụt đi.

Nhiệm Phi Yến băng bó cho chồng xong, quay lại kiếm con hoảng hốt kêu lên:

– Con đâu rồi?

Lâm Ngọc Long cũng kêu “Ối chao” một tiếng, nhảy nhổm lên, nói:

– Con tiện nhân đó bế đi mất rồi.

Nhiệm Phi Yến nói:

– Sao không nói sớm?

Lâm Ngọc Long nói:

– Ngươi đang bế con, sao lại bỏ nó xuống?

Nhiệm Phi Yến nổi cơn lôi đình, nhảy tới nghe bốp một tiếng đã đánh chồng một cái bạt tai, quát lên:

– Thì ta phải băng bó cho ngươi, đồ chết bầm.

Lâm Ngọc Long đấm lại vợ một cái, chửi:

– Có đứa con coi cũng không xong, ai cần ngươi săn sóc?

Nhiệm Phi Yến nói:

– Đồ chó má, để ta đi cướp con về trở lại sẽ cho ngươi biết tay.

Mụ vừa nói vừa ra sức đuổi theo. Lâm Ngọc Long nói:

– Đúng rồi, đoạt lại con cần hơn. Con mụ thối thây, có đứa con rứt ruột đẻ ra cũng không biết giữ, còn được cái tích sự gì nữa?

Nói xong cũng chạy đuổi theo vợ.

Tiêu Trung Tuệ náu mình sau một thân cây to, tay bịt chặt miệng đứa nhỏ để tiếng khóc của nó khỏi vang ra, thấy hai vợ chồng Lâm Nhiệm vừa chửi vừa đuổi, càng lúc càng xa, trong bụng cười thầm, bỗng thấy có gì nóng hổi, cúi xuống nhìn thì thấy áo đã ướt đẫm một mảng lớn, hóa ra thằng bé vừa mới *********. Nàng bực mình, vỗ lên đứa nhỏ một cái, mắng nó:

– Sao ********* không nói trước?

Thằng nhỏ đó chưa đầy tuổi tôi làm gì đã nói được, bị nàng vỗ một cái khóc ré lên. Tiêu Trung Tuệ cảm thấy bất nhẫn, chỉ biết ru “Nín đi, cục cưng” vỗ vỗ nó. Vỗ một hồi, đứa bé nhắm mắt ngủ. Tiêu Trung Tuệ thấy đứa trẻ mập mạp xinh xắn, mặt mũi hồng hào trông thật ngây thơ khả ái, trong lòng thấy vui vẻ nghĩ thầm: “Thôi mình đem trả cho cha mẹ nó, dọa thế cũng đủ rồi”. Nàng thấy cặp vợ chồng kia chạy về hướng bắc nên cũng không trở về nhà trọ, theo hướng bắc đuổi theo.

Chạy đến hơn chục dặm, trời đã mờ mờ sáng, vẫn không thấy hai vợ chồng kia đâu. Đến lúc trời sáng hẳn, nàng lại đến một khu rừng rậm, chim chóc kêu ríu rít, chung quanh đầy hoa đồng cỏ nội thơm phà vào mũi. Tiêu Trung Tuệ thấy cảnh trí khu rừng thanh u, đêm qua không ngủ cũng đã thấy mệt, nên tìm một vùng cỏ mượt, tựa gốc cây dưỡng thần, cúi xuống thấy đứa bé trong lòng đang ngủ ngon, chẳng bao lâu chính nàng cũng ngủ nốt.

Ánh mặt trời nóng dần nhưng dưới gốc cây vẫn mát, mùi hương hoa càng thêm nồng, đang cơn mơ màng nghe thấy tiếng: “Uy Võ – Tín Nghĩa – Uy Võ – Tín Nghĩa” tiếng của tên chạy hiệu tiêu cục rao lên từ xa vọng đến. Tiêu Trung Tuệ ngáp dài một cái, mắt chưa mở hẳn thì tiếng rao đã tới gần bên.

Tiêu đội đang đến chính là Uy Tín tiêu cục.

Thiết Tiên Chấn Bát Phương Chu Uy Tín dẫn đầu đoàn tiêu đội đã đến khu rừng, chỉ qua hết khu rừng là đến Hồng Động huyện, từ đó trở đi sẽ là đường cái quan. Hiện giờ trời mới đứng bóng, xem ra là một ngày nắng ráo, có lẽ không xảy ra chuyện gì nhưng trong bụng y vẫn không hết thắc thỏm. Đằng sau tiêu đội, gậy của lão già mù đập xuống nghe “cốc” một tiếng khiến y không khỏi giật mình.

Sáng hôm nay khi ra đi, lão già mù cũng đi theo tiêu đội, lúc đầu cũng không ai để ý. Thế như ngựa xe đi cũng khá nhanh, mà lạ thay, lão già mù lúc nào cũng lẽo đẽo ở đằng sau. Chu Uy Tín thấy có vẻ lạ lùng đưa mắt cho Trương tiêu đầu và Chiêm tiêu sư, lấy roi đánh con ngựa một cái, chạy vọt lên, chỉ chốc lát đã bỏ xa ông già mù. Y trong bụng hơi yên tâm nhưng tiêu xa nặng nề không thể nào đi nhanh được, chỉ một lát lại phải đi chậm lại. Chẳng bao lâu, tiếng cốc cốc lại vang lên ở đằng sau, ông lão mù cũng đã đến phía sau rồi.

Công phu đó khiến tiêu đội ai nấy đều lo sợ, khinh công của ông già mù quả là đáng nể. Tiêu đội tuy đi chậm nhưng ông già kia vẫn không vượt qua, chỉ đi sau khoảng mươi trượng, gậy sắt vẫn gõ xuống đất nghe cốc cốc.

Trước mắt là khu rừng âm u, Chu Uy Tín hạ giọng nói:

– Trương huynh đệ, các anh em nên cẩn thận, lão mù này xem ra có tà môn. Anh em mình nên nhớ câu:

Canh cánh như ngày đang có địch,

Chăm chăm như thể bước qua cầu.

Trương tiêu sư hôm qua đánh bại được bọn Thái Nhạc tứ hiệp, hiu hiu tự đắc thấy mình thật là anh hùng, nghe Chu Uy Tín nói thế nghĩ thầm: “Dù cho y có giỏi khinh công, một ông già mù thì có gì đáng sợ? Xem ra ông này thần hồn nát thần tính, trông gà hóa cuốc rồi”.

Y cúi xuống nhặt một viên đá, dùng thủ pháp “đả phi hoàng thạch”, cùi chỏ hạ xuống, cổ tay nâng lên bắn viên đá về phía người mù. Chỉ nghe tách một tiếng, viên đá bay vụt đi, thế thật mạnh. Ông già mù không né tránh, chỉ giơ cây gậy lên, nghe keng một tiếng, hất ngược viên sỏi trở lại. Trương tiêu đầu kêu lên “Ối” một tiếng, viên đá đã trúng ngay trán, máu chảy ròng ròng, cả tiêu đội lập tức loạn cả lên.

Trương tiêu sư quát lớn:

– Thằng giặc mù, ta quyết sống chết với ngươi.

Y giục ngựa chạy tới, đơn đao vung lên chém vào vai ông già. Người mù giơ trượng lên gạt, lưỡi đao trong tay Trương tiêu sư liền bị hất lên, chấn động khiến cánh tay ê ẩm, hổ khẩu nhức nhối. Chiêm tiêu sư liền kêu:

– Có địch mạnh, anh em chen vai tiến lên.

Mọi người thấy lão già mù võ công cao cường, nhưng dẫu sao y cũng chỉ một mình, mắt lại lòa, dù giỏi mấy cũng không đánh được số đông, nhất tề đao thương vung ra, bảy tám tên tiêu sư, vệ sĩ vây y vào giữa. Gã mù kia chẳng coi vào đâu, thiết trượng múa lên, đâm bên đông, gõ bên tây chỉ vài hiệp đã đánh ngã một tên vệ sĩ.

Chu Uy Tín đứng xa xa nhìn, thấy gã mù ra tay trầm ổn, vừa kín đáo, vừa nhàn nhã, dường như không coi địch thủ vào đâu, chỉ thấy y trợn mắt lên, đôi con ngươi sáng quắc, hóa ra không phải mù. Y xoay mình một cái, đá Chiêm tiêu sư ngã lăn cù. Chu Uy Tín sợ quá, biết người này không phải tầm thường như Tiêu Dao Tử trong Thái Nhạc tứ hiệp, mà là cao thủ mình mang tuyệt nghệ. Y nghĩ đến trách nhiệm nặng nề mang trên lưng, nghĩ thầm: “Trên đường gặp chuyện nguy nan, Nhanh chân chạy trước an toàn là hơn” vội kêu to:

– Trương huynh đệ, các ngươi mau bắt gã mù này nhưng đừng giết y. Ta đi trước, hẹn gặp lại nơi huyện Hồng Động.

Hai chân kẹp lại, giục ngựa chạy về phía khu rừng. Vừa đến gần, bỗng thấy sau một cây to có ánh đao lấp loáng, y là người giang hồ lão luyện, trong bụng kêu khổ thầm: “Thì ra tên mù này không phải đi một mình, ở đây đã có người mai phục sẵn rồi”. Y lập tức giục ngựa chạy thật nhanh, nhưng chỉ mới chạy được bốn năm trượng, đã thấy một bóng người từ đằng sau gốc cây chạy vụt ra.

Chu Uy Tín thấy người đó tay cầm đơn đao, mặt mày hung dữ, không nói không rằng, vung tay lên một ngọn thủ tiễn liền bắn thẳng vào người kia, đồng thời vẫn giục ngựa phóng tới. Người nọ múa đao gạt mũi tên, chửi mắng:

– Tên nào đó, bắn ám khí lung tung là sao?

Lại thêm một người khác chạy ra, quát lên:

– Ngươi có ám khí, dễ thường ta không có hay sao?

Người đó giơ nỏ đạn lên, vèo vèo bắn ra tám chín viên đạn. Có hai viên trúng mông con ngựa, con vật đau quá, búng hai chân sau, hất Chu Uy Tín ngã lăn xuống đất. Chu Uy Tín vốn đã cầm sẵn thiết tiên trong tay, lăn một vòng, nhảy vọt lên, nghe bộp một tiếng, một viên đạn trúng ngay cổ tay, cầm không vững roi liền rơi xuống.

Hai người một tả một hữu cùng xông lên, hai thanh đao cùng chém xuống, chặn vào cổ y, một người hỏi:

– Ngươi là ai?

Người kia lại hỏi:

– Tại sao lại bắn ám khí loạn cả lên?

Người kia hỏi thêm:

– Ngươi có thấy con ta đâu không?

Người kia lại hỏi:

– Ngươi có thấy một cô gái nhỏ chạy qua đây không?

Người kia tiếp lời:

– Cô gái đó bế một đứa trẻ trong tay?

Chỉ trong giây lát, mỗi người hỏi đến bảy tám câu, Chu Uy Tín dù có mười cái miệng, cũng không trả lời kịp. Thì ra hai người đó chính là vợ chồng Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến.

Lâm Ngọc Long liền quát vợ:

– Ngươi câm đi, để ta hỏi y nào.

Nhiệm Phi Yến cũng quát lại chồng:

– Sao lại bắt ta im mồm là sao? Ngươi im đi, để ta hỏi.

Hai người mỗi người một câu, lại bắt đầu cãi nhau. Chu Uy Tín bị hai thanh đao để hờ ngay cổ, sợ một trong hai người nổi nóng lên, thuận tay cứa một cái, mình sẽ đầu một nơi, mình một nẻo ngay. Y nghĩ thầm: “Trời đánh cũng tránh bữa ăn, mình cười cầu tài chắc họ không nỡ giết” lập tức đổi mặt cười hề hề:

– Hai vị đừng có gấp, để cho tôi đứng lên rồi nói chuyện cũng chưa muộn.

Lâm Ngọc Long quát lớn:

– Tại sao phải tha ngươi?

Nhiệm Phi Yến thấy y giơ tay ra sau lưng giữ lấy cái bao đang đeo, dường như bên trong có vật gì quí giá lắm, cũng hỏi:

– Cái gì đây?

Chu Uy Tín từ khi nhận đôi bảo đao từ tay tổng đốc đại nhân, trong đầu không lúc nào không nghĩ tới ba chữ Uyên Ương Đao, vì thế mà đến đêm nằm mơ cũng nhắc đến, bây giờ dao kề ngay cổ, tình thế nguy cấp, Nhiệm Phi Yến lại hỏi dồn, nên không kịp suy nghĩ gì nữa, buột mồm nói ra:

– Uyên Ương Đao.

Lâm Nhiệm hai người nghe thế giật mình, hai người hai tay liền chộp xuống, vồ luôn cái bao trên lưng y. Chu Uy Tín vừa nói ra thấy hối hận khôn cùng, nghĩ thầm: “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, Thứ nhì sợ kẻ bần cùng liều thân, nếu mình liều mạng, vạn người không đương cự nổi, huống chi họ chỉ có hai người?”. Y không còn biết sợ lưỡi dao lạnh lẽo đang kề ngay cổ tung mình nhảy vọt tới, lập tức lăn ngay xuống. Thế nhưng hai vợ chồng Lâm Nhiệm cùng vận sức kéo cả người lẫn bao đều bị ghìm trở lại. Thì ra Chu Uy Tín đã dùng xích sắt nhỏ buộc chặt đôi bảo đao vào người, tuy Lâm Nhiệm cùng sử lực nhưng cũng không bứt đứt được sợi dây xích.

Ba người co co kéo kéo, Chu Uy Tín đấm lại một quyền, nghe bịch một cái trúng ngay giữa mặt Lâm Ngọc Long. Nhiệm Phi Yến liền quay ngược đao lại, dùng cán đao gõ mạnh một cái ngay sau cổ Chu Uy Tín, mồm hỏi:

– Long ca, có đau không?

Lâm Ngọc Long bực mình quát:

– Còn phải hỏi nữa, dĩ nhiên là đau rồi.

Nhiệm Phi Yến cũng quát lại:

– Hứ, người ta có lòng mới hỏi, bộ sai hay sao?

Hai người một mặt cố giựt cái bao, một mặt lại bắt đầu cãi nhau. Bỗng nhiên từ trong bụi cỏ một người nhảy ra, kêu lên:

– Có muốn lấy lại con không?

Lâm Nhiệm hai người quay lại, thấy chính là Tiêu Trung Tuệ, hai tay cầm đứa trẻ giơ lên, trong bụng mừng quá, lập tức cùng đưa tay đỡ lấy đứa nhỏ. Tiêu Trung Tuệ tay phải đưa đứa bé, tay trái cầm đoản đao rạch một đường, nghe soẹt một tiếng đã cắt đứt chiếc bao trên lưng Chu Uy Tín. Nàng đưa tay vào mò, rút ra một thanh đao, ánh thép xanh lè, khí lạnh phả vào mặt, tiện tay chém một cái đứt ngay sợi xích, quả đúng là bảo vật. Tiêu Trung Tuệ cướp luôn cái bọc, xoay mình nhảy lên lưng con ngựa của Chu Uy Tín, mọi động tác đều nhanh như chim cắt bắt mồi không ai ngờ nổi.

Nàng ra roi quát lên giục ngựa: “Chạy mau”. Nào ngờ bốn chân con vật như đóng đinh xuống đất, hoàn toàn bất động. Tiêu Trung Tuệ giơ chân đá vào bụng nó, bỗng thấy ở khoeo hai chân đồng thời tê đi, kêu thầm: “Hỏng rồi” vừa toan nhảy xuống khỏi ngựa, nhưng không còn kịp nữa, đã bị người ta điểm trúng huyệt đạo, tuy đang ngồi trên mình ngựa nhưng không còn động đậy gì được nữa.

Từ dưới bụng ngựa một người trồi lên, chẳng ai xa lạ mà chính là lão già mù, không biết vượt ra khỏi tiêu đội vây đánh hồi nào, tới đây ẩn thân ngay dưới bụng con ngựa. Y chỉ thò tay ra là đoạt được đôi Uyên Ương Đao trong tay Tiêu Trung Tuệ. Nhiệm Phi Yến bỏ đứa con xuống đất, rút đao xông tới, Lâm Ngọc Long cũng từ bên hông tấn công vào. Ông già mù cầm thanh Uyên đao đỡ một cái, nghe hai tiếng leng keng, hai thanh đao trong tay vợ chồng Lâm Nhiệm cùng gãy cả. Hai người ngơ ngẩn, bỗng huyệt đạo nơi hông tê đi, cũng đã bị điểm rồi, cũng không còn cử động được nữa.

Chu Uy Tín như một con hổ điên, quát lên:

– Lão giặc mù, ngươi sống thì ta chết.

Cầm thiết tiên dưới đất, sử chiêu Hoành Tảo Thiên Quân trong Hô Diên Thập Bát Tiên, đánh vụt ngang lão già mù. Trác Thiên Hùng không thèm né tránh, cũng chẳng thèm đỡ cây roi, giơ đao ra đâm, khéo léo làm sao lọt luôn vào cái bao đao Chu Uy Tín đeo trên lưng, khi rút về lôi luôn cả bao trở về. Y dùng chiếc bao không khác gì thiết tiên, chiêu số cũng y hệt chiêu Hoành Tảo Thiên Quân trong Hô Diên Thập Bát Tiên, vỏ đao gạt thiết tiên ra, cây gậy sắt nặng mười sáu cân của Chu Uy Tín liền bị chặn ngang, không nhúc nhích gì được, cái danh hiệu Thiết Tiên Chấn Bát Phương quả là có chỗ còn chưa đúng hẳn.

Đao tiên chạm nhau nghe vù một tiếng, cây gậy đã bị nội kình của Trác Thiên Hùng hất văng đi, đúng là đã sử dụng chiêu Thiết Tiên Phi Bát Phương, hổ khẩu Chu Uy Tín rách xoạc, tay đầy máu tươi. Lão già mù trợn ngược mắt lên, cười khẩy:

– Chiêu sau cùng của Hô Diên Thập Bát Tiên ngươi chưa được học, phải không?

Nghe y nói thế, Chu Uy Tín sợ hãi không để đâu cho hết. Hô Diên Thập Bát Tiên tuy nói là mười tám đường roi nhưng truyền ở trên đời chỉ có mười bảy đường. Sư phụ y đã nói rằng chiêu cuối cùng là Nhất Tiên Đoạn Thập Thương năm xưa khi đại tướng nhà Bắc Tống là Hô Diên Tán bị địch vây đánh, đã từng dùng một cây roi đánh gãy mười cây trường thương, lộ tiên pháp đó không kể chiêu số đều phải dựa vào nội lực, trên đời này chỉ có sư bá của y mới có thần công đó mà thôi. Chu Uy Tín chưa từng gặp sư bá bao giờ, chỉ biết ông ta là thị vệ trong triều đình nhà Thanh, là người đứng đầu Thất Đại Cao Thủ trong đại nội, trước nay ở trong cung cấm, chưa hề ra ngoài nên chưa từng có dịp bái kiến. Lúc này trong lòng y chợt nghĩ ra, run run hỏi:

– Có phải… có phải lão nhân gia họ Trác đấy không?

Lão già mù đáp:

– Đúng thế.

Chu Uy Tín vừa mừng vừa sợ, quì xuống bái lạy nói:

– Đệ tử Chu Uy Tín, khấu kiến Trác sư bá.

Lão già mù mỉm cười:

– Hóa ra ngươi cũng biết trên đời này còn có Trác Thiên Hùng đấy sao?

Chu Uy Tín đáp:

– Sư phụ ngày ngày thường ca ngợi thần uy của sư bá, tiểu điệt không biết nên vô ý mạo phạm. Quả đúng là “Có duyên nghìn dặm hóa gần, Vô duyên trước mặt cũng thành xa xôi”[3]. Không biết sư bá từ Bắc Kinh xuống từ bao giờ?

Trác Thiên Hùng mỉm cười:

– Hoàng thượng sai ta đi đón ngươi đây.

Chu Uy Tín vừa kinh hoàng, vừa sung sướng nói:

– Nếu không được sư bá ra tay giúp đỡ, đôi Uyên Ương Đao này ắt đã rơi vào tay bọn cướp rồi.

Trác Thiên Hùng đáp:

– Hoàng thượng minh kiến vạn dặm, đã biết rằng đôi đao nào tiến kinh thể nào cũng gặp rắc rối. Ngươi vừa rời Tây An là ta đã đi theo tiêu đội rồi. Đêm ngươi nằm ngủ nói ra những gì có biết không?

Chu Uy Tín mặt đỏ lên, ấp úng không nói ra lời, nghĩ thầm: “Sư bá dọc đường đi theo ta, đến cả ngủ nằm mớ nói gì cũng nghe hết cả, vậy mà ta hoàn toàn không biết gì, nếu không phải là sư bá mà là kẻ gian muốn ăn trộm bảo đao thì cái mạng ta đâu còn. Quả đúng là “Mọi việc chẳng do người sắp xếp, Một đời đều số mệnh an bài”.

Trác Thiên Hùng nói:

– Những kẻ đi theo ngươi đưa nào cũng nhát như thỏ, không biết bây giờ chạy đâu cả rồi. Ngươi mau đi gọi chúng ra, tất cả cùng đi một lượt.

Chu Uy Tín luôn mồm vâng dạ. Trác Thiên Hùng giơ đôi đao lên múa thử thấy một làn khí lạnh tỏa ra xông vào mặt, buột mồm khen:

– Đao tốt thực.

Chu Uy Tín đang định đi ra khỏi khu rừng, bỗng nghe bên trái có người kêu lên:

– Này, họ Trác kia, có giỏi thì giải huyệt cho ta đi, mình đánh nhau một trận.

Lại tiếng người đàn bà nói:

– Ngươi nhân lúc người ta không đề phòng, ra tay điểm huyệt, đâu có phải là anh hùng hảo hán?

Trác Thiên Hùng quay lại thấy Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến hai vợ chồng cầm thanh đao gãy, giơ lên như đang muốn chém, mặt mày hầm hầm đứng như trời trồng toàn thân không cử động được. Trác Thiên Hùng giơ tay búng lên thanh đoản đao, nghe keng một tiếng u u chẳng khác tiếng rồng ngâm, vang mãi không dứt, nói:

– Dù các ngươi có bao nhiêu tên giặc, đến một đứa ta bắt một đứa, đến hai đứa ta bắt hai đứa.

Y quay sang nói với Tiêu Trung Tuệ:

– Này cô bé, đi theo ta lên kinh đô một chuyến, để xem cảnh hoa lệ của thế giới.

Tiêu Trung Tuệ nóng ruột, kêu lên:

– Thả ta ra, không thả ta, sau này ngươi sẽ hối hận lắm đấy.

Trác Thiên Hùng cười ha hả nói:

– Đã thế, ta lại càng không thả ngươi ra, để xem ngươi làm gì mà ta phải hối hận nào?

Tiêu Trung Tuệ ngầm vận nội khí, cố xung khai huyệt đạo trên đùi bị điểm, nhưng chân khí vừa đến hông là đã dội lên, trong lòng càng thêm gấp gáp, chỉ thấy toàn thân tê dại, không thể nào sử dụng khí lực được, khuôn mặt trái xoan đỏ gay, nước mắt hai hàng rưng rưng như muốn trào ra.

Bỗng nghe từ bên ngoài rừng tiếng một người ngâm nga:

Nhà vua quí trọng anh hào,

Văn chương là chỗ người nào cũng nên.

Ở đời muôn sự đều hèn,

Chỉ riêng đọc sách là trên mọi bề.[4]

Theo tiếng ngâm thơ, một người lững thững đi vào. Tiêu Trung Tuệ vừa thấy, hóa ra là gã thư sinh Viên Quán Nam nàng mới gặp đêm trước nơi khách điếm. Cô gái càng thêm bối rối, hai dòng lệ lã chã rơi xuống. Trác Thiên Hùng tay cầm Uyên Ương Đao hầm hừ quát:

– Này gã họ Viên kia, đôi đao đã ở đây rồi, ngươi có giỏi thì lại đây mà cướp. Ngươi đừng có vờ vịt, lừa người khác được, nhưng Trác Thiên Hùng này thì biết hết cả rồi.

Nói xong hai thanh đao đập vào nhau, nghe keng một tiếng vang động cả khu rừng. Viên Quán Nam tay phải cầm một quản bút lông, tay trái cầm một hộp mực, nói:

– Tại hạ ý tứ dạt dào, đang muốn đề một bài thơ trên cây, các hạ hô hoán ầm ỹ, không khỏi làm cụt hứng của người khác đi.

Nói xong nhìn ngang nhìn dọc đi tìm chỗ đề thơ. Trác Thiên Hùng đã thấy y thân mang võ công, thấy vẫn giả như nhàn tản, lại càng không dám khinh địch, lập tức cho song đao vào vỏ, đưa lại cho Chu Uy Tín, đập cây gậy sắt một cái, quát lớn:

– Nếu ngươi muốn đề thơ, thì cứ đề vào vạt áo gã mù này đi.

Nói xong múa cây gậy, đánh vào sau ót Viên Quán Nam. Tiêu Trung Tuệ không nhịn nổi, buột miệng kêu lên:

– Đừng đánh.

Nàng thấy Viên Quán Nam tay chân thư sinh trói gà không chặt, cây gậy kia đánh tới chẳng khiến y vỡ đầu nát óc hay sao? Nào ngờ Viên Quán Nam hơi cúi đầu, kêu lên:

– Ối chà!

Chui lòn qua dưới cây gậy tránh được nói:

– Cô nương bảo ngươi đừng đánh, sao ngươi không nghe?

Trác Thiên Hùng thu gậy về quật ngang hông. Viên Quán Nam ngã nhào về trước, cây gậy khéo léo làm sao xẹt ngang qua đầu. Trác Thiên Hùng quát lên:

– Quả nhiên không sai.

Tay trái thành chưởng đánh ra, Viên Quán Nam hóp ngực vào, hạ vai xuống, cây bút lông chấm vào hộp mực một cái, điểm luôn vào cổ tay y. Hai người qua lại mấy chiêu, Tiêu Trung Tuệ kinh hãi thầm: “Thì ra anh chàng học trò này thân mang võ công, hóa ra mắt mình nhìn lầm”. Chỉ thấy y thân hình phiêu động, né đông tránh tây, cây gậy của Trác Thiên Hùng vẫn không sao đánh trúng y được. Tiêu Trung Tuệ trong bụng khấn thầm: “Lạy trời có mắt, phù hộ cho chàng thư sinh đắc thắng, để y giúp con được thoát nạn”.

Lâm Ngọc Long cũng gào lên:

– Tướng công tú tài ơi, đâu có ngờ ông võ công cao cường đến thế, mau giết lão già mù đi, giải khai huyệt đạo cho bọn ta.

Nhiệm Phi Yến nói:

– Ngươi đừng có mong hão, ta xem gã học trò này chưa chắc đã đánh lại được lão mù đâu.

Lâm Ngọc Long liền mắng vợ:

– Đồ con mụ thối tha, chỉ ăn nói toàn điều xúi quẩy, biết mẹ gì mà nói?

Nhiệm Phi Yến nói:

– Hứ, ta nhìn thấy hai bên động thủ, ngươi có thấy cóc đâu?

Thì ra nàng nhìn về phía hai người Trác Viên đang đánh nhau, còn Lâm Ngọc Long lại xoay lưng lại. Lâm Ngọc Long nói:

– Nhìn được thì làm gì? Ta nghe cây gậy của lão mù múa lung tung, chỉ thấy vù vù có làm được quái gì đâu.

Nhiệm Phi Yến mỉa mai:

– Chẳng ra quái gì, chẳng ra quái gì mà y điểm cho ngươi không cục cựa gì được.

Lâm Ngọc Long gắt lên:

– Còn ngươi thì sao? Ngươi thử cục cựa ta xem nào?

Hai người mỗi người một câu, càng lúc càng hung hãn, khổ là không ai cử động được, nếu không thì đã đấm đá nhau rồi. Nhiệm Phi Yến giận quá không biết làm sao, nhổ một bãi nước miếng về phía chồng. Lâm Ngọc Long không cử động được, đứng trơ ra nhìn bãi nước bọt bay tới ngay sống mũi, nghe bẹt một tiếng, cũng nhổ lại một bãi. Hai vợ chồng người này một bãi, người kia một bãi mặt mày ai cũng đầy nước dãi.

Tiêu Trung Tuệ thấy hai vợ chồng trong cơn nguy nan nhưng vẫn tiếp tục gây gổ, vừa bực mình, vừa tức cười, liếc qua nhìn Viên Trác không khỏi bụng dạ rối bời. Viên Quán Nam không ngừng lùi lại, xem ra không phải là địch thủ của Trác Thiên Hùng. Nàng nghĩ thầm: “Chỉ mong y giả vờ vậy thôi, cố ý đùa rỡn lão già mù, chứ không phải là thua thực”.

Thế nhưng muốn là một chuyện, võ công Trác Thiên Hùng quả cao hơn Viên Quán Nam nhiều. Lúc đầu Trác Thiên Hùng thấy y dùng bút lông làm võ khí tưởng y ghê gớm lắm mới ỷ y như vậy, nên dè dặt, không dám tấn công dữ dội, nhưng sau vài chiêu, thấy y thân pháp tuy nhanh thật, nhưng võ nghệ không khỏi non nớt, chiêu số của cây bút không có gì đặc biệt. Y liền múa gậy sắt tấn công áp tới, sử dụng những chiêu số tinh diệu trong Hô Diên Thập Bát Tiên. Viên Quán Nam đâu ngờ mình gặp một đối thủ lợi hại như thế, trong tay không có võ khí, chỉ còn nước né ngang tránh dọc cố gắng thoát hiểm, trong bụng kêu khổ thầm: “Ta tự cao tự đại, coi thường gã giả mù này quá, đâu có ngờ võ công y ghê gớm đến thế”. Y vừa thấy chiếc gậy sắt đánh xéo tới, vội vào thu mình tránh qua, Trác Thiên Hùng kêu lên:

– Ngã này.

Gậy sắt lật lên, đánh trúng đùi bên trái Viên Quán Nam. Tiêu Trung Tuệ giật mình kêu lên:

– Ối chà.

Viên Quán Nam cố gắng chịu đựng, chân hơi tập tễnh, lùi lại ba bước nhưng không ngã, biết rằng hôm nay sự việc hung hiểm vô cùng, chân đã bị thương nhưng muốn toàn mạng chạy trốn, cũng không chắc được, trong cơn gấp rút nghĩ ra một kế kêu lên:

– Giỏi nhỉ, tiểu gia vì đức hiếu sinh không muốn dùng “Hủ Cốt Xuyên Tâm Cao”. Nếu ngươi vô lễ thì nói cho ngươi hay, ta sẽ để ngươi nếm mùi cho biết.

Nói xong lấy bút quệt đẫm mực trong cái hộp, giơ lên quệt vào mặt Trác Thiên Hùng. Trác Thiên Hùng nghe thấy “Hủ Cốt Xuyên Tâm Cao” giật mình kinh hãi, kêu lên:

– Ngừng lại, Ngũ Độc Thánh Cô là gì của ngươi?

Thì ra Ngũ Độc Thánh Cô là nữ ma đầu nổi danh ở An Hương, Quí Châu, trong võ lâm ai nghe tên cũng táng đảm kinh hồn, trong số độc dược mụ ta sử dụng thì Hủ Cốt Xuyên Tâm Cao là môn nổi danh hơn cả, nghe nói da thịt chỉ cần chạm vào, mười hai giờ sau thịt sẽ thối đến tận xương, hai mươi bốn giờ thì máu độc chạy vào tim, không có thuốc gì chữa khỏi. Viên Quán Nam mấy năm trước đã từng nghe nói đến, lúc đó cũng không để ý đến, bây giờ bị Trác Thiên Hùng bức bách không còn cách gì khác hơn, nên thuận miệng nói ra, đâu ngờ địch nhân vừa nghe tới mặt liền biến sắc, y trong lòng mừng thầm, nói:

– Ngũ Độc Thánh Cô là dì ruột ta, ngươi hỏi bà ấy có chuyện gì?

Trác Thiên Hùng nửa tin nửa ngờ nói:

– Nếu quả như thế, ta sẽ không làm khó ngươi nữa. Mau mau cút đi.

Viên Quán Nam cười khẩy nói:

– Ngươi đánh ta một gậy, thế là xong hay sao?

Nói xong y tiến tới hai bước. Trác Thiên Hùng nhìn tay trái y cầm hộp mực như gặp rắn rết, nghĩ thầm: “Bút lông, hộp mực xưa nay chẳng ai dùng làm binh khí bao giờ, y lại dùng để đấu với ta, quả nhiên có chuyện quái đản”. Y thấy Viên Quán Nam tiến lên, liền tự nhiên lùi lại hai bước. Y đâu biết Viên Quán Nam cũng mừng thầm, y vốn tự phụ võ công cao siêu toan dùng tay không đối địch, tay cầm bút mực chẳng qua chỉ cho ra vẻ nhàn hạ, hôm nay gặp phải nhân vật ghê gớm như Trác Thiên Hùng, trong bụng kêu khổ chưa xong, không biết bao nhiêu tiếng tự rủa mình đáng chết.

Viên Quán Nam lại tiến lên hai bước nói:

– Cô mẫu ta võ công cũng chẳng bao nhiêu nhưng vì biết phối chế độc dược, ngươi việc gì mà phải sợ đến thế?

Y thấy Trác Thiên Hùng lại ngập ngừng lùi thêm một bước, đột nhiên quay mình lướt qua bên trái, đến bên Chu Uy Tín giơ bút lên quẹt luôn vào mắt Chu Uy Tín. Chu Uy Tín sợ quá vội giơ tay lên gạt ra. Viên Quán Nam khuỷu tay chìm xuống, đưa hộp mực qua tay phải, tay trái thò ra, cướp luôn hai thanh Uyên Ương Đao.

Trác Thiên Hùng giật mình kinh hãi, nghĩ đến hoàng thượng sai y đi đón hai thanh đao về kinh, nếu bị gã tiểu tử này lấy được thì tội để đâu cho hết? Thà như mạo phạm đến Ngũ Độc Thánh Cô có lẽ còn hơn, thành thử y phi thân đến cướp lại, tả chưởng đánh vào đầu vai Viên Quán Nam, tay trái năm ngón thành hình trảo, vồ lấy Uyên Ương Đao.

Viên Quán Nam đã phòng bị trường hợp này, biết rằng nếu giằng co với y thì sẽ chắc chắn là thua, liền giơ bút lên, nhắm ngay tay trái y quệt vào, rồi cười lên ha hả. Trác Thiên Hùng chỉ thấy lưng bàn tay mát rượi, kinh hãi nhìn lại đã thấy tay mình bị quệt một đường mực đen sì, những gì nghe nói về sự thảm khốc của kẻ nào bị hạ độc bởi Ngũ Độc Thánh Cô hiện ra trong óc, không khỏi toàn thân run rẩy. Năm ngón tay y đã đụng vào bao thanh đao Uyên Ương nhưng không dám cầm lấy, đứng đờ ra rồi càng nghĩ càng lo, kêu lên một tiếng chạy ra khỏi rừng. Chu Uy Tín thấy sư bá như thế, làm sao dám ở lại, cũng vội vã chạy theo Trác Thiên Hùng.

Viên Quán Nam kêu thầm: “Xấu hổ quá” lại sợ Trác Thiên Hùng nhận ra sự thực, quay lại đánh đuổi, cũng không dám ở lại trong rừng, vội cầm Uyên Ương song đao, quay mình chạy luôn. Lâm Ngọc Long kêu vói theo:

– Ấy, tiểu tú tài, sao ngươi không giải huyệt cho bọn ta?

Viên Quán Nam nói:

– Sáu giờ sau huyệt đạo tự giải.

Tiêu Trung Tuệ nóng ruột, kêu lên:

– Đợi được sáu giờ thì chắc đã chết rồi.

Viên Quán Nam cười nói:

– Đừng có gấp, không chết đâu.

Tiêu Trung Tuệ giận dữ nói:

– Được, gã thư sinh xấu xa kia, lần tới ngươi lọt vào tay ta sẽ biết.

Viên Quán Nam nhớ lại khi Trác Thiên Hùng dùng bổng đánh mình, cô gái này đã lên tiếng ngăn lại, thật có lương tâm, nhưng ba người này cũng đều vì Uyên Ương Đao mà đến, nếu mình giải huyệt cho họ, e rằng lại thêm rắc rối, hơi chần chừ, nhặt dưới đất hai viên sỏi nhỏ, tay phải vung lên, hai viên sỏi bay ra, bắn vào huyệt của Lâm Nhiệm hai người, tuy cách nhau mấy trượng, nhận huyệt thật chuẩn, không sai một li.

Lâm Nhiệm hai vợ chồng từ nãy giờ ấm ức, huyệt đạo vừa giải lập tức cầm ngay hai thanh đao gãy leng keng đánh nhau liền. Viên Quán Nam lại cầm một viên sỏi khác bắn tới, trúng ngay huyệt Kinh Môn ngang hông Tiêu Trung Tuệ. Tiêu Trung Tuệ “A” lên một tiếng, từ lưng ngựa ngã xuống, nằng chỏng chơ trên mặt đất, hai mắt nhắm nghiền không động đậy gì được. Viên Quán Nam kinh hãi, nghĩ mình không bắn sai huyệt đạo, sao lại giết chết cô ta? Y vội vàng chạy lại, cúi xuống xem, thấy mặt cô ta có vẻ bất thường, dường như không còn thở nữa. Viên Quán Nam lại càng hoảng hốt, đưa tay thăm mũi xem sao. Tiêu Trung Tuệ đột nhiên kêu lên một tiếng, tung mình nhảy lên, giựt luôn thanh đao ngắn Ương đao, quay mình chạy cười khanh khách không dám nghĩ đến chuyện cướp nốt thanh đao dài.

Lâm Ngọc Long kêu lên:

– A, Uyên Ương Đao.

Nhiệm Phi Yến ôm đứa con dưới đất, kêu lên:

– Đuổi theo ngay.

Hai người liền đuổi theo Tiêu Trung Tuệ. Viên Quán Nam chửi theo:

– Con nhãi này giỏi thực, lấy oán báo ơn.

Y đề khí đuổi theo nhưng đùi đã bị Trác Thiên Hùng đánh một gậy, thương thế không nhẹ, tập tễnh cà nhắc, khinh công chỉ sử dụng được độ năm thành, thấy Tiêu, Lâm, Nhiệm ba người chạy về phía hoang sơn tây bắc nên cũng chạy theo hướng đó, nghĩ đến Uyên Ương nay chỉ còn một thanh đao đâu có đủ cặp nên đùi tuy đau cũng phải cố đuổi.

Chạy đến trên hai mươi dặm, địa thế càng lúc càng hoang lương, y chạy lên một cái gò cao, nhìn quanh bốn hướng, thấy phía tây bắc cách chừng bốn, năm dặm trong đám rừng rậm có mộ mảng tường màu vàng, dường như một tòa miếu nhỏ, nghĩ thầm ba người đâu có chỗ nào ẩn náu, phần lớn ở trong miếu này, vội cắt một cành cây làm gậy chống, tập tễnh đi tới.

Đến gần cái miếu thấy trên biển ngạch đề ba chữ Tử Trúc Am, hóa ra là một cái am ni cô. Viên Quán Nam chạy đến am rồi, thấy trước am có một ni cô già đứng đó, y phục sạch sẽ, mặt mày hiền hòa. Viên Quán Nam vái chào, hỏi:

– Xin hỏi sư thái có thấy một cô nương mặc áo màu lam đến viếng bảo am chăng?

Lão ni cô đáp:

– Tiểu am địa thế hoang tịch, không có thí chủ nào đến cả.

Viên Quán Nam không tin nói:

– Sư thái đừng dấu làm gì…

Nói chưa dứt câu, bỗng nghe cửa am có mấy tiếng gậy sắt gõ lên mặt đất cốc, cốc, chính là Trác Thiên Hùng đã đuổi đến nơi. Viên Quán Nam giật mình kinh hãi, vội nói:

– Sư thái, xin sư thái giúp cho một chuyện. Kẻ thù của tôi đã đuổi tới đây, có gì nói tôi không có ở đây.

Không đợi bà ni cô trả lời, y lẻn ngay vào hậu viện, thấy một Phật đường ở phía đông, liền đẩy cửa tiến vào, có một pho tượng bạch y Quan Âm. Y không kịp suy nghĩ nhảy ngay lên tòa sen, vén màn lên, ẩn ngay sau lưng pho tượng. Nào ngờ đằng sau pho tượng đó đã có người ẩn sẵn, định thần nhìn kỹ, chính là Tiêu Trung Tuệ. Nàng nhìn Viên Quán Nam dở khóc dở cười nói:

– Giỏi nhỉ, ngươi quả thật có tài, kiếm được ta ở nơi đây, trả lại thanh đao này cho ngươi vậy.

Nói xong đưa thanh đoản đao cho y. Lại nghe phía đằng sau có tiếng người nói:

– Đừng đưa cho y, nếu phải đánh ba người mình đánh với một mình y.

Thì ra hai vợ chồng Lâm Nhiệm và đứa con cũng trốn nơi đây. Viên Quán Nam lúc này tính mạng mới là cần, có hơi đâu mà đi đòi thanh đao, hạ giọng nói:

– Đừng lên tiếng, lão già mù đuổi tới nơi rồi đó.

Tiêu Trung Tuệ kinh hãi nói:

– Chẳng phải y đã trúng độc dược của ngươi rồi hay sao?

Viên Quán Nam mỉm cười nói:

– Cái đó là giả đấy.

Tiêu Trung Tuệ chưa kịp hỏi thêm đã nghe Trác Thiên Hùng giọng ồm ồm nói:

– Khắp nơi không có ai cả, ở đây không có thì ở đâu?

Bà ni cô đáp:

– Thí chủ ra đằng trước kiếm xem sao, hay là chạy đâu mất rồi?

Trác Thiên Hùng nói:

– Được, bốn bề ta đã mai phục người rồi, dù cho thằng tiểu tử đó chạy đến chân trời góc biển cũng không thoát. Ta mà kiếm được thì lúc quay lại đây sẽ biết, chỉ một mồi lửa là cái am thối tha này thành tro.

Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến nghe thế trong lòng bực bội, muốn chửi lại vài câu nhưng vừa định mở mồm thì Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ cùng vung tay ra, điểm luôn huyệt đạo của hai người. Trác Thiên Hùng chạy đến hậu viện, đứng một lát, có lẽ đang nhìn ngang nhìn ngửa, nghe y lẩm bẩm chửi mắng, gậy sắt gõ lên đất rồi quay mình đi ra.

Thì ra lưng bàn tay Trác Thiên Hùng bị quét dính mực, trong lòng lo sợ vội vàng chạy đi tìm khe nước để rửa. Nét mực vừa rửa là sạch ngay, không còn vết tích gì. Y vẫn chưa yên tâm, cố hết sức kỳ cọ, vừa dùng sức da bong ra, thấy đau rát, y lại càng kinh sợ, đứng ngơ ngẩn hồi lâu nhưng không thấy có gì khác lạ, hiểu ra liền chạy đuổi theo. Tuy khinh công của y giỏi thực, chạy như bay nhưng trong thời gian đó bọn Viên Quán Nam đã trốn vào trong Tử Trúc Am rồi.

Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ đợi y đi xa, lúc ấy mơi giải huyệt cho vợ chồng Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến, từ sau lưng pho tượng nhảy ra. Bốn người nghĩ đến lời của Trác Thiên Hùng ai nấy đều nhíu mày, nghĩ thầm y khinh công cao cường đuổi vài chục dặm không thấy gì, thể nào cũng quay lại, bốn bề không có phòng xá gì chẳng có chỗ nào mà trốn. Đánh thì không lại, chạy cũng không xong, không lẽ bó tay chịu chết?

Viên Tiêu hai người không nói không rằng nhưng cả hai đều nghĩ kế thoát thân. Lâm Ngọc Long chửi:

– Toàn là do con mụ thối tha này mà ra, nếu mình luyện thành “Phu Thê đao pháp”, hai người hợp lực thì đâu có sợ gì lão già mù?

Nhiệm Phi Yến nói:

– Luyện không thành “Phu Thê đao pháp” toàn là do ngươi cả chứ có phải tại ta đâu? Lão hòa thượng đã bảo ngươi phải chỉ cho ta, sao ngươi luyện chỉ biết có mình thôi?

Hai người lại anh nói anh phải, chị nói chị hay, cãi nhau không dứt. Viên Quán Nam nghe nói tới “Phu Thê Đao Pháp” liền nói:

– Bọn mình bốn người, thêm đưa trẻ lại cả bà ni cô già tất cả đều đại họa trước mắt, nếu như lão già mù quay lại thì chẳng một ai sống sót, các ngươi còn cãi nhau cái gì? “Phu Thê đao pháp” là cái chi chi mới được chứ?

Lâm Nhiệm vội người này một câu, người kia một câu một lúc lâu mới nói rõ được. Thì ra ba năm trước, hai người mới lấy nhau, thì đã đánh nhau chửi nhau, may sao gặp được một vị cao tăng thấy hai người hợp nhãn nên truyền cho họ một pho đao pháp. Pho đao pháp này truyền cho Lâm Ngọc Long và cho Nhiệm Phi Yến hoàn toàn khác hẳn, một khi hai người luyện thành thục, hợp lực chống địch, hai bên âm dương khai hạp, phối hợp thành thiên y vô phùng, một bên tiến thì bên kia thoái, một bên công thì bên kia thủ. Lão hòa thượng có nói:

– Nếu luyện được đao pháp này hai người sánh vai hành tẩu giang hồ, dù cho kẻ địch có cao cường cách nào cũng không thắng được vợ chồng ngươi. Thế nhưng nếu chỉ một người sử dụng thì đao pháp này chẳng có ích gì.

Ông ta sợ đôi vợ chồng này bất hòa có thể đi đến chia tay, nên mới muốn họ luyện kỳ môn đao pháp để cho họ có thể ở với nhau lâu dài, không ai đám bỏ ai. Lộ đao pháp này vốn do một đôi vợ chồng ân tình nồng thắm sáng tạo ra, hai người không lúc nào rời nhau, tâm đầu ý hợp, mỗi khi song đao thi triển hai bên bảo vệ lẫn cho nhau. Nào ngờ Lâm Nhiệm hai người tính tình nóng nảy, tuy đều học đao pháp của phần mình, nhưng nếu muốn hai bên tương phụ tương thành phối hợp khít khao thì không thể nào làm được, chỉ luyện độ ba bốn chiêu, đã không bảo hộ cho nhau, mà lại còn người nọ đấu với người kia nữa.

Viên Quán Nam nghe hai người kể xong, chợt nghĩ ra một cách, quay sang nói với Tiêu Trung Tuệ:

– Cô nương, tại hạ có một câu chẳng biết rào trước đón sau, đáng lẽ không nên nói, nhưng sự việc khẩn cấp, bọn mình ai ai cũng tính mạng lâm nguy…

Tiêu Trung Tuệ tiếp lời:

– Ta biết rồi, có phải các hạ muốn hai đứa mình học môn phu thê… phu thê…

Nàng nói tới đây, mặt đỏ bừng. Viên Quán Nam nói:

– Ồ, tiểu khả không có ý dám mạo phạm, thực ra… thực ra…

Tiêu Trung Tuệ không nói thêm với y nữa, quay sang nói với Nhiệm Phi Yến:

– Đại tẩu, xin chị chỉ cho tiểu muội, nếu như cùng y học được… học được… có thể chống với lão già mù thì có thể cứu được tính mạng mọi người chúng ta.

Nhiệm Phi Yến nói:

– Lộ đao pháp này học rất khó, không phải một ngày một buổi mà được.

Tiêu Trung Tuệ đáp:

– Học được chút nào hay chút nấy, còn hơn là bó tay chịu chết.

Nhiệm Phi Yến nói:

– Được rồi, để ta dạy cho ngươi.

Lâm Nhiệm hai người miệng nói tay diễn, từng chiêu từng thức dạy cho hai người. Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ đứng coi cố sức ghi nhớ. Tuy hai người võ công không phải là kém nhưng “Phu Thê đao pháp” này thật là phức tạp, nhất thời chẳng nhớ được bao nhiêu. Lâm Nhiệm hai vợ chồng vừa dạy được vài chiêu đã mỗi người một ý lên tiếng cãi cọ. Hai người dạy, hai người học, mới được mười hai chiêu thì nghe tiếng người quát từ ngoài cửa vọng vào:

– Tặc tiểu tử, ngươi trốn vào đâu?

Một bóng người thấp thoáng, Trác Thiên Hùng tay cầm thiết trượng, đã tiến vào trong điện. Lâm Ngọc Long thấy y tới chẳng những không sợ mà lại nổi cáu, quát lên:

– Đao pháp của ta dạy chưa xong ngươi đã đến rồi, đợi thêm một lát không được sao?

Y muốn biểu diễn thân thủ ngay trước mặt Viên Tiêu hai người, liền múa đao lên, chém vào ngang hông Trác Thiên Hùng. Khi đó Nhiệm Phi Yến đáng lẽ phải sử dụng thức thứ nhất trong “Phu Thê đao pháp”, múa đao bảo vệ cho chồng, nhưng mụ ta lại hiếu thắng, sử ngay chiêu thứ hai cũng xông vào tấn công thành ra cục diện song đao tấn kích. Trác Thiên Hùng vừa thấy đao pháp đối phương để lộ sơ hở liền dùng thiết trượng sử chiêu Thâu Thiên Hoán Nhật, gạt song đao ra, tay trái từ dưới bổng phóng ra, nghe tách tách hai tiếng, hai vợ chồng đã bị điểm trúng huyệt đạo. Nếu hai vợ chồng không sử dụng “Phu Thê đao pháp” thì còn đấu được một lúc, nhưng vì sử dụng lại để thất cơ lỡ vận, vừa một chiêu đã bị chế ngự ngay.

Lâm Ngọc Long giận quá, chửi ngay:

– Con mụ thối tha, mình mới đánh chiêu thứ nhất, ngươi phải múa đao hộ vệ bên hông ta mới phải.

Nhiệm Phi Yến cũng bực tức đáp:

– Sao ngươi không theo ta sử chiêu thứ hai? Cứ phải ta theo ngươi là thế nào?

Hai người đao vẫn còn lơ lửng trên không mà miệng đã cãi vã ỏm tỏi. Viên Quán Nam biết sự thế hôm nay khó mà thoát khỏi tai kiếp, hạ giọng nói với Tiêu Trung Tuệ:

– Tiêu cô nương, cô mau đào tẩu, để tôi cầm cự với y.

Tiêu Trung Tuệ không ngờ y lại có bụng dạ hiệp nghĩa đến thế, ngẩn người ra, thấy nóng ran trong ngực, nói:

– Không, chúng ta hợp lực đấu với y.

Viên Quán Nam nóng ruột nói:

– Cô cứ nghe lời tôi, chạy mau. Nếu như hôm nay tôi không chết, sau này thể nào mình cũng có ngày gặp lại.

Tiêu Trung Tuệ nói:

– Không được đâu…

Nói chưa dứt lời, Trác Thiên Hùng đã múa thiết trượng xông tới. Viên Quán Nam vung đao chém ra, Tiêu Trung Tuệ thấy chiêu đó trên vai y lộ ra chỗ trống, không đợi Trác Thiên Hùng trả đòn, liền xông ra múa đao hộ vệ vai cho y. Hai người chưa từng luyện tập, chỉ vì một người muốn người kia chạy trước, người này lại muồn ở lại cho có bạn, hai người đều động lòng hiệp nghĩa, lúc lâm địch tự nhiên lại bảo vệ lẫn nhau.

Lâm Ngọc Long thấy rõ ràng, kêu lên:

– Hay lắm, chiêu thứ nhất trong “Phu Thê đao pháp” Nữ Mạo Lang Tài Châu Vạn Hộc[5] sử hay lắm, dùng thật kỳ diệu.

Viên Tiêu hai người cùng đỏ mặt lên, không ngờ trong cơn nguy cấp, hai người lại thuận tay sử một chiêu vừa mới học, làm sao lại phối hợp thật là không sai sót mảy may. Trác Thiên Hùng vung ngang thiết trượng, đang định tấn công, Nhiệm Phi Yến kêu lên:

– Chiêu thứ hai Thiên Giáo Diễm Chất Vi Quyến Thuộc[6].

Tiêu Trung Tuệ theo đúng thế mà tấn công, Viên Quán Nam liền giơ ngang đao ra thủ ngự. Trác Thiên Hùng không thể dùng cách lấy công làm thủ, đành phải lùi lại một bước. Lâm Ngọc Long kêu lên:

– Chiêu thứ ba Thanh Phong Dẫn Bội Hạ Dao Đài[7].

Viên Trung Tuệ cà Viên Quán Nam liền cùng múa đao lên, gió nghe vi vút. Nhiệm Phi Yến lại nói:

– Minh Nguyệt Chiếu Trang Thành Kim Ốc[8].

Tiêu Viên hai người nhìn nhau mỉm cười, ánh đao lấp lánh chiếu rọi trên khuôn mặt, Trác Thiên Hùng lại bị dồn phải lùi thêm một bước nữa. Chỉ nghe Lâm Nhiệm hai người liên tiếp đọc các chiêu số:

– Đao Quang Yểm Ánh Khổng Tước Bình

– Hỉ Kết Ti La Tại Kiều Mộc

– Anh Hùng Vô Song Phong Lưu Tế

– Khước Phiến Động Phòng Nhiên Hoa Chúc

– Bích Tiêu Thanh Lý Song Minh Phượng

– Kim Triêu Hữu Nữ Nhan Như Ngọc

– Thiên Kim Nhất Khắc Khánh Lương Tiêu

– Chiếm Đoạn Nhân Gian Thiên Thượng Phúc.

Hai người đọc tới đây, mười hai chiêu trong “Phu Thê đao pháp” đã hết, tuy còn hơn sáu mươi chiêu nữa nhưng Viên Tiêu hai người chưa học được. Viên Quán Nam kêu lên:

– Đi lại từ đầu.

Một đao chém ra, lại chính là chiêu Nữ Mạo Lang Tài Châu Vạn Hộc. Hai người lần đầu sử mười hai chiêu này, phối hợp chưa thuần thục lắm, nhưng Trác Thiên Hùng đã tay chân luống cuống, chống đỡ thật khó khăn. Bây giờ sử lại từ đầu, hai người đã tương thông với nhau, thấy lộ đao pháp này chiêu nào cũng là một câu thơ nghe thật tình tứ, không khỏi vừa mừng vừa lo, phối hợp Uyên Ương Đao càng thêm chặt chẽ, đến chiêu thứ chín Bích Tiêu Thanh Lý Song Minh Phượng, song đao múa ra chẳng khác gì loan bay phượng múa, linh động uyển chuyển Trác Thiên Hùng làm sao chống đỡ nổi?

Chỉ nghe “A” một tiếng, đầu vai y đã trúng đao, máu chảy tung tóe. Y biết không địch nổi, đánh thêm e sẽ bỏ mạng nơi am ni cô này, liền thu thiết trượng về nhảy vọt qua tường chạy mất.

Viên Tiêu hai người nhìn nhau, tình trong như đã, nhất thời không biết phải nói gì. Bỗng nghe Lâm Ngọc Long lớn tiếng quát:

– Hay quá, hay quá, Nữ Mạo Lang Tài Châu Vạn Hộc.

Y bản tâm khen ngợi “Phu Thê đao pháp” của mình nhưng Tiêu Trung Tuệ nghe thế mặt lại đỏ bừng, cúi đầu chạy ra khỏi ni am. Viên Quán Nam đuôi theo đến cửa, thấy bóng sau lưng của Tiêu Trung Tuệ thấp thoáng khuất sau một rặng dương liễu rồi biến mất. Đằng sau có người kêu lên:

– Tướng công.

Viên Quán Nam quay đầu lại, thấy tên thư đồng đang đứng cười, mở giỏ đựng sách ra, một đứa bé đang nằm ngủ, chính là đứa con của Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến. Sách vở bên trong đã ẩm ướt một khoảng lớn, thật đúng là “Thư Trung Tự Hữu Hài Nhi Niệu”.

*

* *

Ngày mồng mười tháng ba chính là ngày tiệc thọ năm mươi của Tấn Dương đại hiệp Tiêu Bán Hòa. Trong Tiêu phủ, người đến mừng đông nghẹt, Tiêu Bán Hòa mặc trường bào ngoài khoác áo ngắn, tại đại sảnh tiếp đón các anh hùng hảo hán bạch đạo, hắc đạo, tiền bối, thanh niên… Rất nhiều người Tiêu Bán Hòa vốn không quen biết, chỉ vì ngưỡng mộ danh tiếng của ông mà đến. Tại hậu đường, Viên phu nhân, Dương phu nhân, Tiêu Trung Tuệ cũng đều vui vẻ ăn mặc quần áo mới. Hai vị phu nhân không ngừng tiếp nhận những món lễ vật đủ loại của khách đem đến. Tiêu Trung Tuệ thì đang giắt hoa trước bàn trang điểm, đột nhiên nghĩ đến một chuyện khiến nàng mặt đỏ lên, cúi đầu ngâm nho nhỏ:

Thanh Phong Dẫn Bội Hạ Dao Đài,

Minh Nguyệt Chiếu Trang Thành Kim Ốc.

Viên phu nhân và Dương phu nhân hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: “Con nhỏ này từ khi đoạt được thanh đao Uyên Ương đem về, chợt vui, chợt buồn, dường như có tâm sự gì. Năm nay nó đã được mười tám tuổi rồi, chắc là ra ngoài gặp được anh chàng nào hợp tình hợp ý”.

Dương phu nhân thấy nàng cài đầu không đâu vào đâu, đột nhiên phát giác thiếu mất một món, vội hỏi:

– Tuệ nhi, cái kim thoa đại má cho con đâu rồi?

Trung Tuệ cười khanh khách nói:

– Con cho người ta rồi.

Viên phu nhân nhìn Dương phu nhân, cả hai đều nghĩ thầm: “Quả nhiên không khỏi như mình nghĩ, con bé này chắc đã cho người ta món quà tình nghĩa ấy rồi”. Dương phu nhân hỏi thêm:

– Cho ai thế?

Trung Tuệ cười đến rung cả những bông hoa trên đầu, nói:

– Y… y ư? Thể nào hôm nay cũng đến bái thọ gia gia, người đó danh tiếng lẫy lừng, không ai tưởng nổi.

Dương phu nhân đang toan hỏi thêm bỗng thấy bà vú họ Trương bưng một cái hộp bằng gấm đoạn vào, nói:

– Món thọ lễ này thật là kỳ quái, ai đời lại đem tặng lão gia một cái kim thoa?

Viên Dương hai phu nhân vội đến xem, thấy vật trong hộp lấp lánh, chính là chiếc kim thoa của Tiêu Trung Tuệ.

Dương phu nhân quay lại, thấy con gái mặt mày tươi rói, cười tít cả mắt vội hỏi:

– Người đem lễ đã đến phải không?

Trương má nói:

– Đang ở ngoài sảnh nói chuyện với lão gia.

Viên Dương hai phu nhân nóng ruột muốn xem người đó là người như thế nào mà làm cho con gái mình thần hồn điên đảo, nhìn nhau khẽ gật đầu, cùng đi ra sau bình phong ngoài đại sảnh ngó ra, thấy một người đang ấp úng:

– Tiểu nhân tên là Cái Nhất Minh, ngoại hiệu là Bát Bộ Cản Thiềm, Trại Chuyên Chư, Đạp Tuyết Vô Ngấn, Độc Cước Thủy Thượng Phi, Song Thích Cái Thất Tỉnh, hôm nay đặc biệt cùng ba người anh em cùng đến chúc thọ Tiêu lão anh hùng.

Hai vị phu nhân vừa thoạt nhìn, thấy gã kia lùn bé ốm o, bên cạnh thêm ba người khác trông thật quái dị. Tiêu Bán Hòa vuốt râu cười đáp:

– Thái Nhạc tứ hiệp đại giá quang lâm, lại còn tặng cho lão phu chiếc kim thoa quả là hậu lễ, thật là có lòng.

Cái Nhất Minh đáp:

– Không dám, không dám.

Viên Dương hai phu nhân lòng đầy ngờ vực, không lẽ con gái mình chọn lại đúng là gã lùn này? Hai người kiến đa thức quảng, biết con người không phải ở tướng mạo, nhưng người này ngoại hiệu vang dội như thế, ắt là võ nghệ cao cường, dám tự xưng một chữ “hiệp”, nhân phẩm chắc cũng phải khá.

Trong tiếng chuông trống đàn hát, ngoài cổng lại tiến vào ba người khác, cùng hướng về Tiêu Bán Hòa hành lễ. Một thư sinh anh tuấn lớn tiếng nói:

– Vãn bối Lâm Ngọc Long, Nhiệm Phi Yến, Viên Quán Nam cung chúc Tiêu lão tiền bối phúc như đông hải, thọ tỉ nam sơn. Một chút bạc lễ, xin lão tiền bối cười mà nhận cho.

Nói xong y đưa lên một cái hộp dài đã mở sẵn. Tiêu Bán Hòa cám ơn, nhận lấy nhìn vào, không khỏi ngơ ngẩn, buột miệng nói ra:

– Uyên Ương Đao.

*

* *

Trong vườn hoa sau Tiêu phủ, Lâm Ngọc Long đang dạy đao pháp cho Viên Quán Nam, còn Nhiệm Phi Yến thì dạy cho Tiêu Trung Tuệ, mất hơn nửa ngày hai người mới truyền hết hơn sáu mươi lộ “Phu Thê đao pháp”.

Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ cố hết sức ghi nhớ, nhưng bảo hai người chuyên tâm nhất trí thực không phải dễ. Sau khi Tiêu Bán Hòa hỏi kỹ việc lấy được đao, bàn bạc với hai vị phu nhân xong mới hứa gả con gái cho Viên Quán Nam, nói rõ tối nay trong buổi tiệc thọ, sẽ tuyên bố cho hai người đính hôn. Hai người lòng như hoa nở, nếu không vì pho đao pháp này uy lực vô cùng, ắt không thể nào có lòng dạ nào mà tu luyện võ nghệ. Hơn nữa nếu như không phải là người học võ không theo lễ tục thói thường, trai gái chưa lấy nhau không thể nào ở chung một nhà được.

“Đao Quang Yểm Ánh Khổng Tước Bình, Hỉ Kết Ti La Tại Kiều Mộc… Bích Tiêu Thanh Lý Song Minh Phượng, Kim Triêu Hữu Nữ Nhan Như Ngọc…” Lâm Ngọc Long và Nhiệm Phi Yến sau khi dạy xong, để cho hai người tự đối luyện đao pháp với nhau, hai vợ chồng thu được một đôi đồ đệ như thế, trong lòng thật là vui mừng.

Thái Nhạc tứ hiệp đứng một bên nhìn hai người tập luyện, Tiêu Dao Tử và Cái Nhất Minh không ngừng chỉ trỏ, nói chiêu này có sơ hở, chiêu kia có chỗ trống. Lâm Ngọc Long trong bụng tức tối, đưa tay chùi mồ hôi trên mặt, nói:

– Cái huynh, vợ chồng tôi có lộ đao pháp này tặng cho vợ chồng Viên huynh là lễ vật mừng tân hôn. Còn Thái Nhạc tứ hiệp thì có đồ mừng gì thế?

Thái Nhạc tứ hiệp nghe thế, trong bụng áy náy, không biết phải trả lời sao. Bảo đem lễ vật đến quả là điều đại kỵ của bọn họ. Nhiệm Phi Yến chủ tâm trêu ghẹo bọn họ, nói:

– Ở trong bùn trong sông có giống Bích Huyết Kim Thiềm, người học võ ai ăn được một con, có thể tăng mười năm công lực, có điều rất là khó bắt. Cái huynh ngoại hiệu Bát Bộ Cản Thiềm, Độc Cước Thủy Thượng Phi sao không đi bắt vài con, tặng cho vợ chồng mới cưới này, chẳng phải là một trọng lễ hay sao?

Cái Nhất Minh mừng quá, nói:

– Thật ư?

Lâm Ngọc Long nói:

– Bọn ta lẽ nào nói láo? Chỉ phải khinh công của vợ chồng ta còn kém, lại không biết bơi, không dám xuống nước bắt.

Cái Nhất Minh nói:

– Nói đến khinh công, thủy tính thì đúng là Cái mỗ coi như trò chơi. Đại ca, nhị ca, tam ca bọn mình đi bắt cóc chứ?

Nhiệm Phi Yến cười:

– Ha ha, Cái huynh, chuyện đó Cái huynh quên sao? Bích Huyết Kim Thiềm phải đúng giờ Tí nửa đêm mới ra ngoài hút tinh hoa của ánh trăng. Ban ngày ban mặt làm sao bắt được?

Cái Nhất Minh nói:

– Đúng rồi, đúng rồi. Ta biết chứ, nhưng bất chợt quên đấy thôi. Nếu ban ngày mà bắt được thì có gì là quí nữa?

*

· *

Trong đại sảnh nến đỏ chiếu sáng, trung đường treo một cẩm trục, trên thêu một chữ Thọ bằng chỉ vàng cao đến năm thước. Khi đó quan khách bái thọ đã xong, Tiêu Bán Hòa vuốt bộ râu dài, cười hỉ hả tuyên bố một hỉ sự: con gái độc nhất của ông ta Tiêu Trung Tuệ hôm nay sẽ cùng thanh niên hiệp sĩ Viên Quán Nam đính ước, xin mời các vị bằng hữu sau chén rượu thọ ở lại uống thêm một chén rượu mừng.

Mọi người reo hò vang dậy, Viên Quán Nam quì xuống tấm thảm đỏ, bái kiến nhạc phụ nhạc mẫu. Tiêu Bán Hòa cười hì hì cầm một chiếc quạt trầm tặng cho chàng làm lễ vật kiến diện, Viên Quán Nam liền tạ ơn nhận lấy. Viên phu nhân cũng cười hoan hỉ tặng cho chàng một chiếc nhẫn ngọc, Viên Quán Nam cũng tạ ơn…

Đột nhiên, nghe keng một tiếng, chiếc nhẫn rơi xuống đất, Viên Quán Nam mặt mày biến sắc, nhìn chăm chăm vào bàn tay phải của Viên phu nhân. Thì ra ngón tay út bàn tay phải của Viên phu nhân có thêm một ngón tay phụ. Y chộp lấy bàn tay trái của Viên phu nhân, thấy cũng còn một ngón tay thêm vào ngón tay út. Viên Quán Nam run run gọi:

– Nhạc… nhạc mẫu đại nhân, bà… bà có nhận ra vật này không?

Nói xong chàng đưa tay lên cổ lôi ra một sợi dây chuyền vàng đeo một con sư tử bằng phí thúy. Viên phu nhân cũng cầm lấy con sư tử, toàn thân như bị sét đánh, kêu lên:

– Ngươi… ngươi là Sư Quan đấy ư?

Viên Quán Nam kêu lên:

– Mẹ, chính là con đây, chắc mẹ nhớ con lắm.

Hai người ôm chặt lấy nhau, cùng khóc òa lên. Trong thọ đường ai nấy đều im lặng, nhìn cảnh mẹ con gặp nhau, ai ai cũng thấy khó xử, lại vừa vui mừng, lại thêm vài phần lạ lùng. Chỉ nghe Viên phu nhân khóc nói:

– Sư Quan, Sư Quan, mười tám năm nay, con ở đâu? Mẹ không lúc nào không tưởng nhớ tới con.

Viên Quán Nam nói:

– Mẹ ơi, con cũng đi khắp mười tám tỉnh, đi nghe ngón tin tức của mẹ. Con chỉ sợ kiếp này không gặp lại mẹ thôi.

Tiêu Trung Tuệ nghe Viên Quán Nam kêu một tiếng “mẹ”, thân hình run rẩy như muốn ngã, trong đầu vang lên một ý niệm: “Thì ra chàng chính là anh ruột ta, thì ra chàng là anh ruột ta… chàng là anh ruột ta…”.

Lâm Ngọc Long hỏi khẽ vợ:

– Cái gì? Viên tướng công là con của Tiêu thái thái ư? Ta chẳng hiểu gì cả.

Nhiệm Phi Yến đáp:

– Thì Viên tướng công đã chẳng nói đang đi tìm mẫu thân đấy ư? Anh ta còn nhờ mình đi kiếm giùm nữa, nói mẹ anh ta hai ngón tay út có hai ngón dư. Tiêu thái thái chẳng đã nhận ra anh chàng là gì?

Lâm Ngọc Long lắc đầu:

– Thế sao y lại họ Viên, còn cha anh ta lại họ Tiêu?

Nhiệm Phi Yến gắt:

– Ngu lắm, Viên tướng công lạc mẹ từ khi mới lên ba, con nít ba tuổi làm sao biết mình họ gì, lấy đại một cái họ chẳng được hay sao?

Lâm Ngọc Long nói:

– Nếu nói thế, Tiêu cô nương là em gái anh ta. Anh em ruột sao lấy nhau được?

Nhiệm Phi Yến đáp:

– Nếu là anh em rồi thì còn làm sao lấy nhau được nữa? Anh nói thế chẳng hóa ra là thừa hay sao?

Lâm Ngọc Long bực mình nói:

– Hừ, có em nói thừa thì có.

Hai vợ chồng càng nói càng lớn tiếng. Tiêu Trung Tuệ cũng không nhịn nổi, “A” một tiếng, ôm mặt chạy ra ngoài.

Tiêu Trung Tuệ trong lòng hoang mang, chỉ thấy trước mặt một màu tối đen, không còn gì sinh thú nữa. Nàng chạy vù ra cửa, co giò chạy thật nhanh, đột nhiên nghe bình một tiếng, đầu vai đã đụng phải người nào đó. Nàng kêu lên “Chao ôi!” một tiếng, nghĩ thầm: “Hỏng rồi, ta một thân võ công, e rằng đụng người bị thương mất thôi”. Vội vàng giơ tay lên đỡ người nọ, bỗng dưng cổ tay bị nắm chặt, cánh tay tái tê đi, hóa ra đã bị người ta nắm trúng mạch môn. Nàng kinh hãi vội ngửng đầu lên, chưởng phải lập tức đánh ra. Người kia vung tay khua một cái bắt luôn mạch môn tay phải của nàng. Lúc này nàng đã nhìn rõ, chẳng ai xa lạ chính là Trác Thiên Hùng.

Trác Thiên Hùng cười ha hả, kêu lên:

– Uy Tín, lấy được một thanh rồi.

Chu Uy Tín đáp lời tiến lên, cởi thanh Ương đao Tiêu Trung Tuệ đeo ngang hông. Trác Thiên Hùng nói:

– Tiêu Bán Hòa danh mãn giang hồ, hôm nay là ngày tiệc thọ năm mươi của y, trong phủ cao thủ đông như kiến. Uy Tín, ngươi có gan vào lấy thanh đao dài Uyên đao chăng?

Chu Uy Tín đáp:

– Đệ tử có sư bá đỡ đầu, dù cho đầm rồng hang hổ cũng dám xông vào. Ở đời đường xa đã có ngựa khỏe, cây cả thì bóng rợp nhiều.

Trác Thiên Hùng hừ một tiếng:

– Đừng có tự hào, ỷ vào sư bá.

Y bình sinh tự phụ, ít khi gặp người bản lãnh ngang tay nhưng bị Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ dùng “Phu Thê đao pháp” liên thủ đánh bại rồi, không khỏi khiếp sợ, lúc này vô tình gặp Tiêu Trung Tuệ, nghĩ thầm hai người một nam một nữ đao pháp tuy lợi hại thật nhưng đã bắt được một người, chỉ còn tiểu tử Viên Quán Nam một thân một mình không còn gì đáng sợ nữa. Huống chi Tiêu Trung Tuệ vào tay y rồi, tuy Tiêu phủ đông người thật, nhưng lo gì Tiêu Bán Hòa không ngoan ngoãn nghe lời đưa thanh Uyên đao ra.

Trác Thiên Hùng liền áp tải Tiêu Trung Tuệ, cùng mấy sai nha của huyện, bọn tiêu sư Chu Uy Tín, đi vào Tiêu phủ. Ba chữ Trác Thiên Hùng vừa đưa vào, Tiêu Bán Hòa không khỏi giật mình, kêu lên:

– Mời vào mau.

Chẳng bao lâu, bọn Trác Thiên Hùng ngang nhiên hùng dũng đi vào trong sảnh. Tiêu Bán Hòa vội tiến lên nghênh đón, chỉ thoạt nhìn đã thấy con gái bị nắm giật ngược tay, một đại hán tay cầm Ương đao, để ngay sau lưng nàng. Tiêu Bán Hòa trong lòng kinh nghi bất định, nhưng bên ngoài vẫn thản nhiên như không, mỉm cười nói:

– Bữa tiệc xoàng của kẻ thôn phu, đâu dám mệt nhọc đến gót ngọc của thị vệ đại nhân?

Trác Thiên Hùng ở kinh sư đã từng nghe đến đại danh của Tiêu Bán Hòa, thấy ông ta thân hình cao to, mặt đầy râu, quả nhiên thật là uy võ, liền giơ tay phải ra nói:

– Ngày vui hiếm có của Tiêu đại hiệp, kẻ này đến mừng hơi trễ, xin thứ tội cho.

Tiêu Bán Hòa cười đáp:

– Không dám, không dám.

Giơ tay nắm lấy bàn tay y. Hai người vừa vận kình, đều thấy nửa thân người tê dại. Chỉ mới thử tài nhau một tí, hai người biết công lực bên kia cũng ngang ngửa, không ai dám coi thường ai, lập tức nắm tay đi vào thọ đường.

Trong hai người, Trác Thiên Hùng càng thêm kinh dị. Y có môn “Chấn Thiên tam thập chưởng” và “Hô Diên Thập Bát Tiên” xưng hùng võ lâm. Môn Chấn Thiên tam thập chưởng của y chỉ có Hỗn Nguyên Khí là có thể đương cự được thôi, bây giờ Tiêu Bán Hòa sử dụng chính là Hỗn Nguyên Khí công phu. Thế nhưng Hỗn Nguyên Khí ắt phải do đồng tử[9] mới có thể tập luyện được, không kể nam hay nữ, đã thành hôn rồi là sẽ mất hết, thành thử luyện thì gian khổ mà mất thì thật dễ dàng, từ xưa đến nay trong võ lâm ít ai tập môn này. Y trước khi đến Tiêu phủ đã từng nghe ngóng rõ ràng, biết được Tiêu Bán Hòa một thê, một thiếp, con gái cũng đã đến tuổi cập kê, làm sao còn có thể bảo tồn được thân đồng tử để luyện Hỗn Nguyên Khí công phu? Chẳng hóa ra là một đại kỳ sự trong võ lâm ư?

Viên Quán Nam thấy Tiêu Trung Tuệ bị người ta chế ngự, lòng quan hoài cấp bách, liền lẻn ra sau đám tiêu sư đợi cơ hội cứu nàng. Thế nhưng Trác Thiên Hùng nhãn lực lợi hại biết chừng nào, đã sớm nhìn thấy, quát lên:

– Họ Viên kia, ngươi có đứng lại không?

Lại quay sang nói với Chu Uy Tín:

– Nếu có ai động thủ, ngươi lập tức một đao đâm chết con bé đó cho ta.

Chu Uy Tín đáp:

– Vâng. Ở trên đời này “Vỏ quít dày có móng tay nhọn, Bà già kẻ…”

Y định nói “kẻ cắp gặp nhau” nhưng câu đó xem ra không ổn nên lập tức nín bặt. Viên Quán Nam sợ Tiêu Trung Tuệ bị hại, nào dám tiến lên nữa?

Trác Thiên Hùng nói:

– Tiêu đại hiệp, hai đứa mình nói toạc móng heo tất cả ra, người anh em này hôm nay đến quí phủ, trước là để khấu đầu bái thọ, sau là đem một món bảo vật vô giá đến đánh đổi lấy một món hữu giá của Tiêu đại hiệp.

Tiêu Bán Hòa đáp:

– Tiểu nhân ngu si, không hiểu ý của Trác đại nhân trong đó thế nào?

Trác Thiên Hùng trừng mắt, cười đáp:

– Cái bảo vật vô giá kia, chính là lệnh ái thiên kim, còn vật hữu giá chính là thanh trường đao Uyên đao. Người anh em này với Tiêu đại hiệp không thù không oán, chỉ mong vì bảo tồn cho tính mạng của thân quyến biết bao nhiêu người để hoàn thành được việc hoàng thượng sai bảo nên mong Tiêu đại hiệp cất tay, cứu người anh em này một phen.

Nói xong liền chắp tay vái chào. Lời của y nghe tưởng như cầu cạnh xin xỏ, nhưng thần sắc lại cực kỳ ngạo nghễ. Tiêu Bán Hòa giơ tay ấn xuống lưng ghế một cái, chỉ nghe lách cách, lưng ghế liền nát vụn, cười nói:

– Trác đại nhân vọng trọng võ lâm, sao hôm nay lại hồ đồ đến thế? Uyên Ương Đao đã không ở trong tay tiểu nhân, mà cô gái này cũng không phải là con gái của Tiêu mỗ. Không lẽ người luyện môn Đồng Tử Công Hỗn Nguyên Khí lại có thể sinh con đẻ cái được sao?

Nói xong phất tay một cái, một luồng gió ào ra. Trác Thiên Hùng nghiêng người né tránh, nghĩ thầm: “Hoàn toàn đúng vậy, quả nhiên y sử dụng Đồng Tử Công Hỗn Nguyên Khí”.

Tiêu Trung Tuệ từ khi nghe nói Viên Quán Nam là anh em cùng bọc với mình, trong lòng đau như dao cắt, lúc này nghe thấy phụ thân vì muốn cứu mình, cũng khăng khăng không nhận mình là con, nhịn không nổi kêu lên:

– Gia gia.

Ngay lúc đó, bên ngoài có tiếng quát lớn:

– Phản tặc Tiêu Nghĩa chớ có chạy.

Chỉ thấy tiếng lao xao ngựa hí không biết bên ngoài có bao nhiêu người. Mấy tên gia đinh trong Tiêu phủ hốt hoảng chạy vào, kêu lên:

– Lão gia… không xong rồi! Vô số quan binh… quan binh vây chặt phủ môn.

Trác Thiên Hùng nghe thấy câu: “Phản tặc Tiêu Nghĩa chớ có chạy” trong bụng chợt nghĩ ra, quát lớn:

– Giỏi nhỉ! Vậy mà Tiêu Bán Hòa ư? Thì ra ngươi là phản tặc Tiêu Nghĩa, kẻ hoàng thượng truy lùng mười sáu năm qua.

Chỉ thấy ngoài cửa thấp thoáng bóng người, bốn tên thị vệ Thanh đình tiến vào, người đi đầu kêu:

– Trác đại ca, đây là phản tặc Tiêu Nghĩa, sao chưa động thủ?

Tiêu Bán Hòa cười ha hả, nói:

– Cải trang thay đổi mười sáu năm qua, hôm nay Tiêu Nghĩa phải lộ bộ mặt thật rồi.

Y giơ tay xoa lên mặt một cái, mọi người nhìn ra, ai nấy kinh ngạc đến xuất thần. Trong đại sảnh đang loạn cả lên, nhưng khi nhìn vào Tiêu Bán Hòa ai nấy đều yên lặng không nói một lời. Thì ra chỉ trong giây lát, Tiêu Bán Hòa đã hoàn toàn biết đổi dung mạo, một người mặt mũi râu ria xồm xoàm nhưng chỉ xoa một cái, cằm đã nhẵn thín, một sợi râu cũng không còn, tưởng như có nhổ sạch thì cũng không nhẵn được đến thế.

Ngay lúc đó, tên thư đồng của Viên Quán Nam cầm hai giỏ sách chạy từ trong nội đường ra nói:

– Công tử gia, chạy mau.

Viên Quán Nam cũng nghĩ ra, lấy ngay một cuốn sách trong giỏ, vung lên một cái, bên trong vô số những lá vàng mong mỏng bay ra. Bọn tiêu sư và quan binh thấy vàng lấp lánh trước mắt, có ai chẳng động tâm? Huống chi những lá vàng đó lại bay tới mình người nào cũng giơ tay ra chộp. Viên Quán Nam luôn tay xé sách ném về phía Chu Uy Tín, đại sảnh tưởng như một đàn bướm, chỗ nào cũng bay đầy vàng lá.

Chu Uy Tín sợ mất Uyên Ương Đao, vốn nghĩ “tham thì thâm” nên dù thấy vàng bay tới cũng không dám đưa tay vồ. Viên Quán Nam vận kình, nghe bịch một cái, cuốn sách nặng đầy vàng lá bay vụt ra, trúng ngay mặt y.

Chu Uy Tín kêu lên:

– Ối chao.

Thân hình lắc lư. Viên Quán Nam hai chân nhún một cái, xông ngay tới. Trác Thiên Hùng giang tay ra chặn lại, bỗng thấy dưới hông gió ùa tới, Tiêu Bán Hòa đã sử dụng Hỗn Nguyên Khí đánh vào. Trác Thiên Hùng biết là ghê gớm, chỉ còn nước lật tay chống đỡ, chân lực đấu với chân lực, nghe bình một tiếng, cả hai đều phải lùi lại hai bước. Ngay khi đó, tay trái Viên Quán Nam vung đao chém tới, ép cho Chu Uy Tín quay đầu qua một bên, tay phải thuận thế giải luôn huyệt đạo cho Tiêu Trung Tuệ.

Trong số tân khách, gần một nửa sợ mang họa vào thân nên vội né tránh cho xa, còn nửa kia là tri giao hảo hữu của Tiêu Bán Hòa, kẻ múa binh khí, kẻ vung quyền cước giao đấu cùng đám thị vệ Thanh đình, tiêu sư, quan binh. Tiêu Trung Tuệ bực tức đã lâu, liền tiến đến bên Chu Uy Tín, tay trái đánh xéo ra, tay phải móc ngược lại, nghe bốp một tiếng, đánh một bạt tai thật kêu vào mặt y, thuận thế nắm luôn cổ tay y, cướp luôn thanh Ương đao lại. Viên Quán Nam mừng lắm, kêu lên:

– Tuệ muội, Thanh Phong Dẫn Bội Hạ Dao Đài.

Tiêu Trung Tuệ mắt đỏ hoe, nghĩ thầm: “Ta làm sao còn cùng chàng sử dụng cái môn “Phu Thê đao pháp” kia được nữa?”. Đưa mắt nhìn quanh thấy gia gia cùng Trác Thiên Hùng hai bên đang vù vù giao đấu, còn lại mỗi người chọn một tên giao đấu, hai tên thị vệ ép Viên Dương hai phu nhân liên tiếp lùi lại, cực kỳ nguy hiểm. Viên Quán Nam kêu lên:

– Tuệ muội, mau cứu má má.

Hai người song đao liên thủ, dùng chiêu “Bích Tiêu Thanh Lý Song Minh Phượng”, một tên thị vệ vai trúng đao, ngã xuống, tiếp theo chiêu “Kim Triêu Hữu Nữ Nhan Như Ngọc”, một tên nữa bị cán đao của Tiêu Trung Tuệ đánh trúng gò má, kêu lên một tiếng lăn ra bất tỉnh.

Uyên Ương song đao liên thủ, khi sử dụng “Phu Thê đao pháp” uy lực quả nhiên không gì đương cự nổi, hai người đánh tới đâu, chỗ đó có thị vệ hay tiêu sư bị thương, bảy mươi hai lộ đao pháp chưa dùng đến một nửa, những kẻ địch đã chạy tứ tán. Thế nhưng lộ đao pháp này có chỗ đặc biệt là làm địch bị thương thì dễ nhưng giết người lại khó, những kẻ trúng đao toàn vào nơi không yếu hại, hẳn là hai vợ chồng sáng chế ra lộ đao pháp này tâm địa nhân hiệp, không muốn sát hại người khác nên trong mỗi chiêu tuy ghê gớm nhưng vẫn để lại một chút dư tình.

Sau cùng chỉ còn một mình Trác Thiên Hùng bướng bỉnh không chịu thua. Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ song đao tiến đến, một người tấn công vai trái, một người chém vào đùi phải. Trác Thiên Hùng liền rút cương tiên bên hông ra đỡ, nghe keng một tiếng, gạt thanh Ương đao trong tay Tiêu Trung Tuệ ra ngoài.

Chiêu Hỉ Kết Ti La Tại Kiều Mộc trong Phu Thê đao pháp thần diệu làm sao, trường đao trong tay Viên Quán Nam hoa lên, nghe soẹt một tiếng đùi Trác Thiên Hùng đã trúng thương sâu đến tận xương, máu chảy ròng ròng. Vết thương đó không phải nhẹ, Trác Thiên Hùng không dám chiến đấu thêm, nhắm Tiêu Trung Tuệ đánh tới một chưởng, đợi nàng vừa né qua, hai chân nhún một cái nhảy luôn ra ngoài sân, tiếp theo nhảy luôn lên mái nhà. Tiêu Viên hai người song đao hợp bích nếu dùng chiêu Anh Hùng Vô Song Phong Lưu Tế sẽ có thể ngăn Trác Thiên Hùng lại được thế nhưng đao của Tiêu Trung Tuệ đã chém trúng rồi nên chiêu đó không kịp sử dụng nữa.

Tiêu Bán Hòa thấy những người trong sảnh đánh nhau một trận tơi bời nhưng may sao phe mình chỉ có bảy tám người bị thương, không ai bỏ mạng, nên lớn tiếng nói:

– Các vị hảo bằng hữu, quan binh tuy đã tạm thời tháo chạy nhưng chẳng mấy chốc sẽ quay trở lại, nơi này không còn có thể an thân được nữa. Bọn mình nên lui gấp về Trung Điều Sơn, sẽ tính kế sau.

Mọi người ai cũng nói như thế là phải. Tiêu Bán Hòa liền tất lãnh gia nhân thu thập đồ tế nhuyễn, rồi phóng hỏa đốt phủ. Đến khi ngọn lửa bốc lên ngất trời, trong thành loạn cả lên mọi người liền nhân đó chạy ra cửa đông theo đường tắt đến núi Trung Điều.

*

* *

Trước một gò loạn thạch là một cái động lớn, nơi đó Tiêu Bán Hòa, Viên Dương hai phu nhân, Viên Quán Nam, Tiêu Trung Tuệ, vợ chồng Lâm Ngọc Long, hai chục gia đinh đệ tử và hơn ba trăm tân khách bằng hữu, tất cả ngồi quanh một đống lửa lớn. Trên đống lửa đang thui một con nai mùi thơm bốc lên mũi mọi người.

Tiêu Bán Hòa tằng hắng một tiếng, giơ tay vuốt râu. Ông có thói quen đó đã nhiều năm qua mỗi khi gặp một chuyện quan trọng cần phải nói, bao giờ cũng vuốt râu trước. Thế nhưng lần này ông vuốt vào chỗ không, dưới cằm nhẵn thín không còn một sợi râu nào. Ông mỉm cười, nói:

– Nhờ được anh em giang hồ bằng hữu nể nang, Tiêu Nghĩa này trong võ lâm cũng có chút danh phận. Thế nhưng chẳng ai biết rằng, Tiêu Nghĩa vốn là một thái giám.

Mọi người ai nấy kinh ngạc, câu “Tiêu Nghĩa vốn là một thái giám” lọt vào tai ai cũng tưởng mình nghe nhầm, nhưng thấy Tiêu Bán Hòa mặt mày trịnh trọng, không phải nói đùa. Viên Dương hai phu nhân liếc nhau, cùng cúi đầu. Tiêu Bán Hòa nói tiếp:

– Đúng thế, ta Tiêu Nghĩa là một hoạn quan, năm mười sáu tuổi tĩnh thân[10], tiến cung hầu hạ hoàng đế, cốt để ám sát giết vua Mãn Thanh, báo thù cho tiên phụ. Cha ta khi sinh tiền không đội trời chung với bọn Thát tử Mãn Thanh, nên bị chúng giết chết. Bảy người anh em cắt máu ăn thề với tiên phụ, quết vì cha ta báo thù nhưng Mãn thanh thế lớn, nên cả bảy vị bá phụ thúc phụ không ai sống sót, hoặc khi giao đấu bị thị vệ Thanh cung giết, hoặc bị bắt rồi lăng trì tùng xẻo, mối oan cừu càng kết càng sâu. Ta suy nghĩ thật kỹ, muốn công phu luyện cho bằng phụ thân hay các vị sư bá sư thúc, thì dù hết sức một đời chưa chắc đã xong, mà dù có luyện được thì cũng chắc gì báo được mối huyết hải thâm cừu này. Vì thế ta cam tâm tự nguyện tĩnh thân, làm một kẻ thái giám tôi đòi hạ lưu ai ai cũng khinh rẻ.

Mọi người nghe đến đây, nghĩ đến tấm lòng khổ sở cô đơn y cam chịu, không ai không kính phục. Tiêu Bán Hòa nói tiếp:

– Thế nhưng ở trong cung cấm, canh gác sâm nghiêm biết bao nhiêu, không như lúc đầu ta tưởng tượng. Đừng nói chi đến trước mặt hoàng đế, mà chỉ cần nhìn thấy hoàng đế một lần, cũng đã không phải dễ. Trong hơn mười năm, tuy ngày đêm ta cố chờ cơ hội, nhưng không cách nào hạ thủ. Một đêm kia mười sáu năm trước, ta lén nghe được hai tên thị vệ bàn rằng hoàng đế biết được trên đời này có một đôi Uyên Ương Bảo Đao, ai mà có được sẽ vô địch trong thiên hạ, đôi đao đó chia ra nằm trong tay hai vị anh hùng, một người họ Viên, một người họ Dương. Vì thế nhà vua sai bắt toàn gia hai nhà Viên Dương để ép hai người phải hiến bảo đao cho y. Hai vị đại anh hùng bất khuất chịu chết, còn hai vị phu nhân thì bị nhốt vào thiên lao.

Ông ta nói đến đây, Viên Dương hai phu nhân lệ rơi lã chã, đột nhiên ôm nhau khóc òa lên. Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ hai người nhìn nhau, trong lòng nửa buồn nửa vui. Lại nghe Tiêu Bán Hòa nói tiếp:

– Khi đó trong lòng ta tính toán, vì người chết báo thù sao bằng cứu người sống thoát nạn. Vì thế ta lẻn vào nhà ngục, giết hai tên ngục tốt, cứu hai vị phu nhân ra khỏi thiên lao. Ngục quan nghĩ hai vị phu nhân là phận nữ lưu cho nên canh gác cũng không chặt chẽ cho lắm, lại càng không nghĩ rằng một thái giám lại vào cứu khâm phạm nên ta ra tay là xong ngay. Có điều địch nhân thế lớn, trong khi trốn chạy hoảng hốt, công tử của Viên phu nhân bị thất lạc trên đường. Việc đó trong lòng ta lúc nào cũng canh cánh, đâu ngờ Viên công tử không những đã trưởng thành lại học được một thân võ nghệ cao cường, quả đúng là một việc vui hết sức to lớn.

Còn Trung Tuệ ư, khi ta mới gặp con, con chỉ mới hai tuổi. Cha con chính là người tên tuổi chấn động một thời Tam Tương đại hiệp Dương Bá Xung Dương đại hiệp.

Viên Quán Nam và Tiêu Trung Tuệ (từ đây gọi là Dương Trung Tuệ) liền chia ra ôm lấy mẹ mình, nghĩ đến thù cha không khỏi buồn rầu phẫn nộ, còn Tiêu Bán Hòa nghĩa bạc vân thiên lại càng cảm kích không cùng.

Tiêu Bán Hòa nói tiếp:

– Bọn ta chạy khỏi Bắc Kinh, tay chân của hoàng đế liền phân ra khắp nơi cố công ruồng bắt. Để che dấu tai mắt của Thanh đình, họ Tiêu này liền đeo một bộ râu, lại đành phải để hai vị phu nhân cam chịu giả làm vợ ta. Cũng may lão Tiêu vốn là thái giám, cái kế quyền nghi kia cũng không làm tổn thương đến anh danh Viên Dương nhị hiệp.

Viên Quán Nam và Dương Trung Tuệ nhìn nhau mỉm cười, nghĩ thầm: “Ai dám bảo hai chúng ta là anh em nữa đâu?”. Tiêu Bán Hòa vỗ đùi một cái nói:

– Lão Tiêu này là thái giám, vì ngưỡng mộ Tam Bảo thái giám nhà Đại Minh viễn chinh các nơi, tuyên dương uy đức nước Trung Hoa, nên vì thế mới đổi tên thành “Bán Hòa”[11], mong được anh hùng bằng một nửa Trịnh Hòa, ha ha, cái đó lão Tiêu quả thực si tâm vọng tưởng. Trong bao nhiêu năm qua mọi việc thái bình vô sự, ai hay Uyên Ương Đao lại tái xuất hiện. Lão Tiêu nhất định đoạt lại bảo đao để cho vong hồn hai vị Viên Dương đại hiệp được ngậm cười, ngờ đâu không khéo che đậy hành tàng, nên đã để cho Thanh đình nhìn ra chân tướng. Sự đã như thế thôi cũng chẳng còn gì phải che dấu nữa. Có điều chỉ mới được một thanh Uyên đao, còn thanh Ương đao Tuệ nhi đeo kia là đồ giả, nếu không làm sao gãy được? Tiếc rằng đã để cho gian tặc Trác Thiên Hùng chạy thoát, không ai trong bọn mình ngăn chặn được y.

Khi đó mùi thơm của con cheo càng lúc càng nồng, Nhiệm Phi Yến liền rút dao cắt ra từng miếng. Lâm Ngọc Long bỗng nhìn Dương Trung Tuệ lớn tiếng nói:

– Ta nói có sai đâu? Ngươi bảo cha mẹ ngươi không bao giờ gây gỗ, ta đã bảo không gây gỗ thì không phải thực là vợ chồng, hẳn có cái gì trục trặc, Lâm đại ca này đúng là liệu sự như thần, nói ra thật có lý.

Nhiệm Phi Yến đang cầm dao xiên một miếng thịt liền nhét ngay vào mồm y, quát lên:

– Ăn thịt nai đi, còn nói lăng nhăng cái gì nữa?

Lâm Ngọc Long muốn cãi lại nhưng miệng bị vướng miếng thịt không nói nên lời. Mọi người thấy thật hoạt kê, bỗng nghe một tên đệ tử canh gác ngoài bìa rừng quát lên:

– Ai đó?

Lại nghe một người trả lời:

– Thái Nhạc tứ hiệp.

Dương Trung Tuệ bật cười, thấy bốn đại hiệp Thái Nhạc người dính đầy bùn đất, dùng một cây gậy dài khiêng một cái lưới cá, trong lưới có vật lớn đen sì, không biết là gì. Dương Trung Tuệ cười hỏi:

– Thái Nhạc tứ hiệp, các ông chăng lưới được cái gì thế?

Cái Nhất Minh dương dương đắc ý nói:

– Viên công tử, Tiêu cô nương anh em chúng tôi xuống sông bắt Bích Huyết Kim Thiềm định làm quà cho hai vị. Nào ngờ chẳng bắt được kim thiềm, lại có một người xông vào, trên đùi bị thương, miệng suýt xoa, chân khập khễnh. Thái Nhạc tứ hiệp nhìn lại hóa ra là Trác Thiên Hùng. Chúng tôi liền tung lưới bắt trói lão đem về đây.

Mọi người ai nấy vừa mừng vừa lo. Viên Quán Nam đưa tay vào hông Trác Thiên Hùng mò thử, quả nhiên lôi ra một thanh đoản đao, ánh sáng lóe mắt, bùn dơ không dính chính là thanh Ương đao thật.

Viên phu nhân cầm hai thanh Uyên Ương trong tay, thở dài:

– Hoàng đế Mãn Thanh nghe nói trong hai thanh đao này, có một bí mật vô địch thiên hạ, điều đó quả không sai, thế nhưng dẫu cho y có biết cái bí mật đó, có chắc gì làm được hay không? Xin các vị nhìn thử.

Mọi người xúm lại nhìn cho rõ, chỉ thấy Uyên đao trên lưỡi khắc hai chữ “Nhân giả”, thanh Ương đao có khắc hai chữ “Vô địch”. “Nhân giả vô địch[12]” đó là bí mật của hai thanh đao.

LỜI BẠT CỦA NGƯỜI DỊCH

Uyên Ương Đao của Kim Dung là một truyện ngắn – chỉ dài hơn Việt Nữ Kiếm –, và cũng là truyện ít nổi tiếng hơn cả. Chỉ một cuốn Kim Dung tác phẩm tập số 13[13]đã bao gồm ba truyện Tuyết Sơn Phi Hồ, Uyên Ương Đao và Bạch Mã Khiếu Tây Phong đủ hiểu cả ba truyện đều ngắn so với những bộ truyện dài của ông. Truyện ngắn này kết cấu rời rạc, không có gì đặc sắc và có lẽ vì thế mà ít ai biết. Mặc dầu Uyên Ương Đao được chính Kim Dung xếp vào một trong mười bốn bộ truyện của ông nhưng tầm vóc và nội dung đều kém xa những truyện khác. Có lẽ đây là một trong những tác phẩm đầu đời trong quá trình viết truyện kiếm hiệp của ông nên ông coi trọng nó hơn là vì giá trị thực sự.

Uyên Ương Đao được dịch do yêu cầu của một số bằng hữu muốn biết nó như thế nào và có lẽ không ít người thất vọng sau khi đọc truyện này.

– ——————————————————————————-

[1] Tước hiệu đời Thanh Đa La Bối Lặc gọi tắt là Bối Lặc (phong cho tông thất và ngoại phiên, dưới Quận Vương một bậc)

[2] theo tướng pháp Trung Hoa, ai mặt nổi thịt bè bè thì tính tình hung dữ (diện nhục hoành sinh tính tất hung)

[3] Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng

[4] Thiên tử trọng anh hào, Văn chương giáo nhĩ tào. Vạn ban giai hạ phẩm, Duy hữu độc thư cao… (thơ ngũ ngôn dạy cho trẻ con mới đi học)

[5] Trai tài gái sắc đáng giá như vạn hộc châu báu

[6] Trời se duyên kẻ tốt đẹp thành thân quyến với nhau

[7] Gió thổi tiếng ngọc chốn Dao Đài

[8] Trăng sáng chiếu vào quần áo trông như nhà vàng

[9] trai chưa lấy vợ

[10] cắt bộ phận sinh dục để làm hoạn quan, tiếng văn vẻ

[11] Trịnh Hòa là một hoạn quan đời Minh Thành Tổ (Vĩnh Lạc) từng nhiều lần giương thuyền đi các nước, được phong làm Tam Bảo Công (xem thêm Chiến Lược Mặt Biển của Trung Quốc của dịch giả)

[12] Người nhân đức thì không ai địch nổi

[13] Viễn Lưu, Đài Loan 1990

Chương 01: Mưa lớn Thương Gia Bảo

Hồ Nhất Đao! Khúc trì! Thiên Khu!

Miêu Nhân Phụng! Địa nương! Hợp cốc!

Một thanh âm khàn khàn, trầm trầm khẽ hô lên. Tiếng hô đầy vẻ oán độc và phẫn nộ. Tiếng nói rít lên từ kẽ răng tựa hồ tiếng nguyền rủa đời đời, hàng ngàn hàng vạn năm. Âm thanh mỗi chữ là máu hòa cùng lòng cừu hận.

Độp! Độp! Độp!

Bốn tiếng vang lên. Bốn đạo kim quang lấp loáng, bốn mũi kim tiêu liên tiếp phóng ra, bắn vào hai tấm mộc bài. Mặt trước và mặt sau mỗi tấm mộc bài đều vẽ toàn thân một hình người. Một tấm vẽ đại hán rậm râu đầy vẻ thô hào, bên cạnh ghi ba chữ “ Hồ Nhất Đao”. Còn tấm biển kia vẽ một hán tử cao gầy, bên cạnh ghi ba chữ “ Miêu Nhân Phụng”.

Trên hình người ghi rõ những huyệt đạo ở khắp thân thể. Phía dưới mộc bài là một cái chuôi để cầm. Hai tên hán tử to lớn thân thủ mau lẹ, mỗi tên cầm một tấm mộc bài chạy quanh trong luyện võ sảnh .

Ở góc đông bắc tòa đại sảnh, một bà già tóc bạc ngoài năm chục tuổi ngồi trên ghế, miệng hô tên huyệt đạo ở trên hình người Hồ Nhất Đao hoặc Miêu Nhân Phụng. Một thiếu niên anh tuấn trạc ngoại đôi mươi vận kình trang gọn ghẽ, đeo túi da cắm mấy chục mũi kim tiêu, cứ nghe bà già hô tên huyệt đạo lại vung tay một cái, một đạo kim quang bắn ra cắm vào tấm mộc bài .

Hai tên hán tử to lớn cầm mộc bài, đầu bịt lưỡi thép, mình mặc áo bông dày, trước ngực lại lót thêm một tấm da bò để phòng khi thiếu niên phóng trệch đích, mũi kim tiêu bắn trệch vào người hắn. Hai người này lúc nhô lên cao, lúc hụp xuống thấp, xoay chuyển mộc bài để thiếu niên khó lòng bắn trúng .

Phía ngoài cửa sổ tòa đại sảnh, một cô gái và một thanh niên đứng nấp ở đó. Hai người này chọc thủng giấy dán trên cửa sổ thành hai lỗ nhỏ, mỗi người dùng mắt trái để nhìn trộm vào bên trong. Họ nhận ra thân thủ chàng thanh niên trong luyện võ sảnh không phải tầm thường, phóng tiêu rất chuẩn xác, bất giác hai người đưa mắt nhìn nhau, nét mặt lộ vẻ kinh dị.

Trên trời mây kéo đen nghịt. Mưa đổ xuống ào ào như trút nước. Thỉnh thoảng lại có tia sét đánh và tiếng sấm vang khiến người ta phải kinh hãi.

Những giọt mưa lớn bằng hạt đậu trút xuống đất bắn tung đến ngoài cửa sổ, văng vào mình của cặp nam nữ thiếu niên. Cả hai đều mặc áo mưa. Cảnh tượng trong luyện võ sảnh khiến họ động tính hiếu kỳ, lại dán mắt dòm vào.

Bỗng nghe bà già lên tiếng:

–  Về phần chuẩn xác thì đã tạm được nhưng kình lực chưa đủ. Bữa nay hãy luyện tới đây thôi.

Mụ nói rồi từ từ đứng dậy.

Cô gái kéo tay hán tử một cái rồi vội xoay mình đi ra ngoài.

Hán tử khẽ hỏi:

– Coi có thích không?

Cô gái đáp:

– Có gì mà thích? Chỉ là trò luyện tiêu thôi mà. Gã đó bắn khá đấy chứ.

Hán tử kia hỏi:

– Ai lại chả biết người ta luyện tiêu. Nhưng trên mộc bài sao lại viết những gì Hồ Nhất Đao, Miêu Nhân Phụng?

Cô gái đáp:

– Cái này có vẻ tà môn, sư ca còn không hiểu thì tiểu muội biết thế nào được. Chúng ta về hỏi gia gia sẽ rõ.

Cô gái chừng mười tám, mười chín tuổi, gương mặt bầu bĩnh, cặp mắt đen lay láy, hai má ửng hồng. Toàn thân cô toát ra một vẻ thanh xuân phơi phới. Hán tử mắt to mày rậm, lớn hơn cô gái sáu bảy tuổi, dáng điệu thô hào, trên mặt đầy những vết sẹo nhỏ màu tím. Tướng mạo gã tuy xấu xí nhưng bộ pháp nhẹ nhàng, tinh thần sung mãn, hùng khí bồng bột.

Hai người băng qua ngoài viện. Trời mưa mỗi lúc một nặng hạt khiến mặt họ hai người sũng nước. Cô gái lấy khăn tay lau mặt. Lau xong, gương mặt cô trắng hồng càng lộ vẻ xinh đẹp ngời ngời. Hán tử nhìn cô gái, bất giác ngẩn người ra. Cô gái nghiêng đầu, cố ý cho nước mưa trên nón chảy vào cổ áo hán tử. Gã đang ngơ ngẩn xuất thần nên không hay biết. Cô gái cười khanh khách, khẽ gọi:

– Chàng ngốc ơi!

Rồi cô đi vào hoa sảnh.

Đầu đằng đông trong sảnh đường có đốt một đống lửa lớn, hơn hai chục người ngồi vây quanh để hơ quần áo ướt đẫm nước mưa.

Bọn người này đều mặc áo ngắn màu đen hay màu lam. Có người dắt binh khí bên mình. Đây là đám tiêu khách gồm bọn chạy cờ và cước phu.

Trong sảnh đường còn ba hán tử ăn mặc theo kiểu võ quan. Mấy người này cũng chạy vào trú mưa, đang cởi áo ướt ra. Đột nhiên chúng nhìn thấy cô gái xinh đẹp hơ hớ, bất giác mắt sáng rỡ cả lên.

Cô gái đi đến bên bọn người đang hơ quần áo, kéo một lão già gầy nhom ra một chỗ, kể lại chuyện vừa nhìn trộm thấy ở nhà hậu sảnh cho lão nghe. Lão này lối ngoài năm chục tuổi, tinh thần tráng kiện, mái tóc đốm bạc, người cao không đầy năm thước nhưng mục quang lấp loáng, oai phong lẫm liệt. Lão nghe cô gái kể chuyện liền chau mày, khẽ trách:

– Ngươi lại đi gây chuyện thị phi rồi. Người ta mà biết được, chẳng phải là ngươi tự chuốc khổ vào mình hay sao?

Cô gái thè lưỡi cười đáp:

– Gia gia! Lão nhân gia đi bảo tiêu chuyến này, mắng hài nhi lần này là lần thứ mười tám rồi đấy.

Lão già hỏi:

– Tỷ dụ ta đang dạy ngươi luyện võ mà có người đến nhìn trộm thì thế nào?

Cô gái đang nhoẻn miệng cười, nghe phụ thân nói mấy câu này, bắt giác lòng chùng hẳn xuống. Cô nhớ lại năm ngoái có người lén đến ngoài cửa coi trộm phụ thân diễn võ. Lão biết rồi nhưng không nói ra. Đến khi thử phóng tụ tiễn, lão đột nhiên bắn ra một phát tên làm mù một con mắt người đó. Đây là lão mới nhẹ đòn cảnh cáo, nên chưa vận hết kình lực, nếu không thì mũi tụ tiễn xuyên vào óc rồi, còn sống làm sao được? Sau đó phụ thân cô nói cho nghe: lén học bí quyết võ công là một điều đại kỵ trong võ lâm khiến người ta căm giận gấp trăm lần kẻ ăn cắp tài vật.

Cô gái nhớ lại chuyện này, không khỏi hối hận vì vừa xem trộm người khác luyện võ. Nhưng bản tính quật cường, hiếu thắng, cô chẳng chịu thua bèn đáp:

– Gia gia! Tiêu pháp của gã đó cũng bình thường thôi, ai thèm học lén làm chi.

Lão già sa sầm nét mặt, mắng:

– Con nha đầu này! Hễ ngươi mở miếng ra lại nói người khác chẳng ra gì.

Cô gái mỉm cười hỏi:

– Ai bảo tiểu nữ là con gái của Bách Thắng Thần Quyền Mã lão tiêu đầu làm chi?

Ba tên võ quan đang ngồi quanh đống lửa thỉnh thoảng liếc mắt nhìn cô gái xinh đẹp nhưng hai cha con cô nói khẽ quá nên nghe không rõ chuyện gì. Chỉ có câu sau cùng cô lớn tiếng khiến cho một tên võ quan nghe thấy mấy chữ “con gái của Bách Thắng Thần Quyền Mã lão tiêu đầu” liền đưa mắt ngó lão lão già thấp lùn, bé nhỏ, gầy nhom. Hắn lại đưa mắt nhìn là tiêu kỳ cắm ở ngoài cửa sảnh đường. Lá cờ này nền vàng thêu chỉ đen hình con ngựa đang bay. Hắn khịt mũi một cái tự hỏi:

“Bách Thắng Thần Quyền ư? Đúng là đồ khoác lác.”

Nguyên lão già họ Mã kia tên gọi Hành Không, người giang hồ tặng cho ngoại hiệu là “Bách Thắng Thần Quyền”. Cô gái tên gọi Mã Xuân Hoa, con gái yêu độc nhất của lão. Danh tự này tuy có vẻ thô tục, nhưng đối với con nhà võ bôn tẩu giang hồ, hoa mùa xuân đã là đẹp rồi. Hán tử cùng cô đi coi trộm người luyện tiêu họ Từ, tên chỉ có một chữ Tranh, là đồ đệ của Mã Hành Không. Từ Tranh ngồi bên đống lửa, thấy tên võ quan cứ nhìn vị sư muội mình đăm đăm, bèn nổi giận, liền trợn mắt nhìn hắn.

Tên võ quan kia quay đầu, chạm mục quang của Từ Tranh, liền trừng mắt nhìn y một cái, bụng nghĩ tên tiểu tử này sao lại hùng hùng hổ hổ như vậy. Từ Tranh vốn nóng tính, thấy đối phương vô lễ, vẻ mặt thách thức, trợn mắt nhìn trừng trừng vào tên võ quan kia.

Tên võ quan lối ngoài ba mươi tuổi, mình cao lưng rộng, vẻ mặt kiêu hãnh. Hắn nổi lên tràng cười ha hả, nhìn đồng bọn ở mé tả hỏi:

– Ngươi xem, gã tiểu tử kia giống như con gà chọi. Nếu ngươi mà vụng trộm với mẹ gã thì không biết còn đến thế nào nữa?

Thế rồi hai tên võ quan kia cùng nhìn Từ Tranh mà cười hô hố.

Từ Tranh tức quá đứng phắt dậy, quát hỏi:

– Ngươi nói gì?

Tên võ quan cười hì hì đáp:

– Chú nhỏ kia! Ta nói có điều chi lầm lẫn thì ta xin lỗi chú.

Từ Tranh bản tính thẳng thắn, thấy người ta xin lỗi rồi cũng bỏ qua. Gã toan ngồi xuống thì người kia lại cười nói:

– Ta biết có kẻ không phải vụng trộm với mẹ gã mà chỉ muốn vụng trộm với em gái gã.

Từ Tranh nhảy vọt lên toan lại động thủ.

Mã Hành Không vội quát:

– Tranh nhi! Ngồi xuống!

Từ Tranh ngạc nhiên, mặt đỏ gay, hỏi:

– Sư phụ! Sư phụ… có nghe thấy không?

Mã Hành Không thản nhiên đáp:

– Người ta làm quan ở nha môn có nói mấy câu thì đã sao?

Từ Tranh trước nay không bao giờ dám kháng cự sư phụ nửa lời nên đành hậm hực nhìn tên võ quan kia rồi từ từ ngồi xuống. Ba tên võ quan lại cười rộ nhìn Mã Xuân Hoa không còn úy kỵ gì nữa, trong ánh mắt đầy vẻ dâm tà.

Mã Xuân Hoa thấy ba người vô lễ đã toan nổi nóng, nhưng cô biết xưa nay gia gia không muốn đắc tội với lũ quan phủ. Cô liền nghĩ cách đánh ba tên võ quan thối tha kia một trận cho bõ ghét.

Đột nhiên một tia chớp lóe lên chiếu sáng vào gian sảnh đường. Tiếp theo là tiếng sét nổ làm chấn động màng tai mọi người, tưởng chừng như đánh trúng vào tòa đại sảnh.

Trên trời như có lỗ vỡ, mưa cứ từng cơn từng cơn đổ xuống như trút nước. Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng người nói trong mưa:

– Trận mưa dữ quá, xin cho vào nấp mưa trong bảo trang một lúc.

Một tên nam bộc trong trang đáp vọng ra:

– Trong nhà đã đốt lửa. Mời các vị vào đây sưởi ấm.

Một nam một nữ đẩy cổng tiến vào. Người đàn ông thân hình cao lớn đẹp đẽ, khí vũ hiên ngang, trên lưng đeo một cái bọc, trông y độ trên dưới ba mươi. Nữ lang ước chừng hăm hai, hăm ba tuổi, da trắng như tuyết, mày xinh như vẽ. Thật là một giai nhân tuyệt sắc.

Mã Xuân Hoa đã kể vào hàng mỹ nữ, nhưng nữ lang kia vừa tới hình ảnh cô liền bị lu mờ.

Cả hai đều không mặc áo mưa. Thiếu phụ mình khoác áo ngoài của đàn ông, toàn thân ướt đẫm. Người đàn ông dắt tay thiếu phụ. Thái độ hai người rất thân mật, giống như đôi vợ chồng trong buổi tân hôn. Người đàn ông kiếm một bó rơm trải xuống đất rồi đỡ thiếu phụ ngồi xuống tỏ ra cực kỳ âu yếm. Y phục của hai người rất sang trọng. Trên đầu thiếu phụ cài cành thoa hình con chim phượng bằng vàng. Nhìn chuỗi minh châu hạt nào cũng tròn trĩnh tinh vi, hiển nhiên là vật trân quý.

Mã Hành Không nhủ thầm trong bụng:

“Giải đất này không được bình yên, cường đồ ẩn hiện thất thường. Cặp vợ chồng này phi phú tắc quí sao không đem theo người hầu hộ vệ, mà chỉ có trơ trọi hai người trên bước đường xa thế này?”

Tuy lão đã suốt đời len lỏi trên chốn giang hồ mà cũng không đoán ra được lai lịch hai nhân vật này.

Mã Xuân Hoa thấy thiếu phụ ra chiều mỏi mệt, cặp mắt đỏ hoe, dường như nàng đi đường gặp trận mưa rào làm khổ. Nếu nàng mặc áo ướt sưởi lửa, khí lạnh thấm vào thân thể, tất bị cảm nặng. Cô liền mở rương quần áo lấy một bộ y phục của mình đi tới bên nàng nói khẽ:

– Nương tử! Nương tử hãy thay tạm lấy bộ quần áo vải thô này của tiểu muội, chờ quần áo khô rồi sẽ thay trở lại.

Thiếu phụ lấy làm cảm kích nhìn cô mỉm cười. Nàng đứng lên đưa mắt nhìn trượng phu để hỏi ý. Chàng trai gật đầu rồi nhìn Mã Xuân Hoa nở nụ cười tạ ơn.

Thiếu phụ dắt tay Mã Xuân Hoa đi vào hậu sảnh để thay quần áo. Ba tên võ quan đưa mắt nhìn nhau, trên mặt lộ vẻ khác lạ. Trong lòng chúng đang tưởng tượng lúc thiếu phụ thay áo, ắt hẳn đẹp không bút nào tả xiết.

Tên võ quan lớn mật nhất, vừa rồi đã đấu khẩu với Từ Tranh, khẽ nói:

– Ta phải vào coi một cái mới được.

Một tên khác cười, đáp:

– Này lão Hà! Đừng có làm nhộn!

Tên võ quan họ Hà hấp háy cặp mắt, đứng lên khoa chân đi được vài bước, không hiểu nghĩ sao, hắn quay lại lượm thanh yêu đao dưới đất cài vào bên mình.

Từ Tranh bị hắn làm nhục trong lòng vẫn còn phẫn nộ. Bây giờ gã thấy tên võ quan đi vào hậu viện liền quay lại nhìn sư phụ. Gã thấy Mã Hành Không đang nhắm mắt dưỡng thần. Còn hai vị tiêu đầu họ Thích, họ Dương, năm tên chạy hiệu và mười mấy tên cước phu đang canh giữ ở bên xe tiêu. Cách phòng vệ rất nghiêm mật, quyết chẳng đến nỗi xảy chuyện bất trắc, gã liền theo sau tên võ quan kia.

Tên võ quan nghe tiếng bước chân ở sau lưng, quay đầu lại ngó thấy Từ Tranh liền toét miệng cười hỏi:

– Tiểu tử! Ngươi mạnh giỏi chứ?

Từ Tranh đáp:

– Tên võ quan thối tha kia! Ngươi cũng mạnh giỏi a?

Tên võ quan lại cười hỏi:

– Mi muốn đánh nhau chăng?

Từ Tranh đáp:

– Đúng thế? Gia sư không cho ta đánh ngươi. Chúng ta lén đi đánh nhau một trận, ngươi thấy được không?

Tên võ quan ỷ mình võ công cao cường, chẳng coi gã tiểu tử này vào đâu, nhưng thấy bọn bảo tiêu đông người mà bên hắn chỉ có ba tên, nếu xảy ra cuộc quần ẩu nhất định là bên mình phải chịu thiệt thòi. Bây giờ hắn thấy gã lén đi một mình đòi tỷ đấu là một cơ hội rất tốt, liền gật đầu cười, nói:

– Được lắm! Chúng ta đi xa một chút. Nếu sư phụ ngươi nghe thấy tiếng động thì cuộc tỷ thí không thể thành được.

Hai người đi qua cái sân rộng, định tìm nơi vắng vẻ để động thủ. Bỗng thấy trên hành lang một người đi tới. Người này mặc áo gấm, lối mười bảy, mười tám tuổi, mi thanh mục tú, chính là thiếu niên vừa luyện tiêu.

Từ Tranh động tâm tự nhủ:

“Ta mượn luyện võ sảnh của anh chàng này để tỷ đấu là hay hơn hết.”

Gã liền tiến lại chắp tay nói:

– Chào huynh trưởng!

Thiếu niên xá một cái rồi hỏi:

– Quan lớn có điều chi dạy bảo?

Từ Tranh trỏ tên võ quan đáp:

– Tại hạ cùng vị quan gia đây có điều xích mích, mong huynh trưởng cho mượn luyện võ sảnh một lúc.

Thiếu niên lấy làm quái lạ, tự hỏi:

“Sao gã này biết nhà mình có luyện võ sảnh?”

Nhưng con nhà võ, nghe người ta muốn tỷ đấu đều lấy làm thích thú, liền đáp:

– Hay lắm! Hay lắm!

Y liền dẫn hai người vào luyện võ sảnh.

Lúc này bà già và bọn tráng đinh đều giải tán hết rồi. Trong luyện võ sảnh chẳng còn một ai. Tên võ quan thấy bốn mặt tường vách đều treo võ khí, đao, thương, kiếm, kích chẳng thiếu thứ gì. Ngoài ra còn bao cát, túi đựng tên, thạch hóa, thạch cổ bỏ đầy mặt đất. Mé tây trồng sẵn bảy mươi hai cây mai hoa thung.

Hắn lẩm nhẩm gật đầu nghĩ bụng:

“Té ra đây là một nhà luyện võ, chắc bản lãnh của họ không phải tầm thường.”

Hắn liên nhìn thiếu niên chắp tay nói:

– Tại hạ đến quí trang nấp mưa mà chưa kịp thỉnh giáo cao tính đại danh của chủ nhân.

Chàng thiếu niên vội đáp lễ, hỏi:

– Tiểu nhân họ Thương, tên họ Bảo Chấn. Cao tính đại danh hai vị là gì?

Từ Tranh vội đáp:

– Tại hạ là Từ Tranh. Gia sư làm tổng tiêu đầu ở Phi Mã tiêu cục tên gọi Bách Thắng Thần Quyền Mã Hành Không.

Gã nói rồi trợn mắt nhìn võ quan, tự nhủ:

“Ngươi nghe thấy oai danh của sư phụ ta rồi, đã biết lợi hại chưa?”

Thương Bảo Chấn chắp tay nói:

– Tại hạ được nghe tiếng đã lâu. Xin vị này cho biết cao danh.

Tên võ quan đáp:

– Tại hạ là Ngự tiền thị vệ Hà Tư Hào.

Thương Bảo Chấn hỏi:

– Té ra các hạ là một vị thị vệ đại nhân. Tiểu tử thường nghe nói ở kinh sư có mười tám cao nhân trong đại nội. Chắc Hà đại nhân đều biết cả.

Hà Tư Hào đáp:

– Tại hạ chỉ biết quá nửa.

Thực ra thị vệ của Hoàng đế chia làm các loại: Thị vệ ban lĩnh, thập trưởng, nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng cho đến bọn thị vệ áo lam đều do con cháu trong ba dòng tôn thất Chính Hoàng, Nhương Hoàng, Chính Bạch đảm nhiệm. Thị vệ người Hán thuộc hàng tứ đẳng. Gã Hà Tư Hào chỉ thuộc vào đám thị vệ lam linh người Hán, cho nên cái gọi là “Đại nội thập bát cao thủ” thì gã chỉ biết họ chứ họ tuyệt không biết gã là ai.

Từ Tranh lớn tiếng:

– Thương công tử! Xin công tử làm trọng tài cho cuộc tỷ đấu giữa tại hạ và ông bạn họ Hà được công bằng. Bất luận ai thắng ai bại xin đừng nói với người ngoài.

Gã chỉ sợ sư phụ biết chuyện sẽ trách mắng.

Hà Tư Hào cười khanh khách nói:

– Thắng được tên tiểu tử như mi thì lấy gì làm hay ho mà còn đi khoác lác với người ngoài? Ngốc tiểu tử! tiến lên đi!

Hắn vén trường bào dắt vào đai lưng.

Từ Tranh cởi trường bào, quấn bím tóc trên đỉnh đầu. Hai chân xoạc ra hai tay nắm lại thành quyền đối nhau. Thái độ rất trấn tĩnh, ung dung.

Hà Tư Hào ngó thấy tư thức đúng là chiêu khởi động của môn “Tra Quyền” thì vững tâm nghĩ thầm:

“Tưởng Bách Thắng Thần Quyền ghê gớm lắm, té ra là “Tra Quyền” thì đứa trẻ lên ba cũng biết rồi, có chi là lạ?”

Nguyên Đầm, Tra, Hoa, Hồng tự xưng là “Bắc Quyền Tứ Đại Gia” thuật của bốn môn phái “Đầm thoái”, “Tra quyền”, “Hạ Quyền”, “Hình quyền” được lưu truyền rất rộng rãi ở phương Bắc. Bất cứ ai là người đã luyện quyền pháp cũng hiểu được một đôi phần, vì những môn này thuộc về công phu nhập môn trong quyền thuật.

Hà Tư Hào thấy quyền pháp của đối thủ tầm thường, liền nhìn Thương Bảo Chấn, cười nói:

– Đồ tài mọn!

Hắn ra chiêu “Thương bộ dã mã phân mấn” nhắm đánh tới Từ Tranh. Hắn đã sử Thái Cực quyền. Hiện thời võ công của Thái Cực môn thanh thế rất thịnh. Ai ai cũng biết đây là quyền pháp nội gia rất lợi hại.

Từ Tranh không dám chần chờ, đưa chân trái đạp về phía sau, nửa người trên chuyển thành thế tọa bàn, tay phải chống xuống. tay trái móc lên thành chiêu “Hậu xoa bộ liệu chưởng”. Gã ra tay cực kỳ mau lẹ.

Hà Tư Hào thấy chiêu thức này luồng kình đạo không đến nỗi kém cỏi, hắn vội sử chiêu “Chuyển thần bão hổ quy sơn” tránh khỏi cú móc.

Từ Tranh liền ra chiêu “Cung bộ giá đả”. Quyền bên phải đánh vù đến trước mặt đối phương. Hà Tư Hào không kịp né tránh, liên sử chiêu “Như phong tự bế”, đưa hai tay lên chống đỡ. Quyền chưởng hai người đụng nhau, Hà Tư Hào cảm thấy cổ tay ngâm ngẩm đau, liền nghĩ thầm:

“Nội lực thằng lỏi này quả mạnh thiệt!”

Chỉ trong khoảnh khắc, hai người đã trao đổi mười mấy chiêu.

Thương Bảo Chấn đứng bên theo đõi cuộc đấu thấy Từ Tranh cước bộ trầm ổn, quyền phóng ra mãnh liệt. Còn Hà Tư Hào thân hình phiêu hốt. Hiển nhiên khinh công của hắn rất có căn bản.

Cuộc đấu đang hăng. Hà Tư Hào bỗng nổi lên tràng cười ha hả, phóng chưởng đánh trúng vào mí mắt Từ Tranh. Từ Tranh phóng cước đá lại. Hà Tư Hào nghiêng mình né tránh, ra chiêu “Ngọc nữ xuyên thoa”. Nghe “chát” một tiếng, hắn lại đánh trúng cánh tay Từ Tranh.

Từ Tranh vẫn thản nhiên múa quyền đánh gấp. Đột nhiên gã đánh thẳng một chiêu “Cung bộ phách đả”. “Binh” một tiếng vang lên, gã đánh trúng một quyền vào trước ngực đối phương. Thoi quyền này luồng lực đạo rất trầm trọng.

Hà Tư Hào chân bước loạng choạng, lùi lại mấy bước rồi ngồi phệt xuống đất.

Bỗng nghe thanh âm cô gái trong trẻo cất lên:

– Hay quá!

Thương Bảo Chấn quay đầu nhìn lại thấy hai nữ nhân đứng trước cửa sảnh đường. Một thiếu phụ và một khuê nữ.

Lúc trước y ngưng thần theo dõi trận đấu không biết sau lưng mình có người đến từ lúc nào. Nguyên Mã Xuân Hoa và thiếu phụ thay áo rồi qua đây, nghe tiếng tỷ võ quát tháo liền lần vào cửa sảnh để coi. Thì ra là vị sư huynh đang tỷ đấu với tên võ quan mà gã lại đắc thắng, bất giác cô bật tiếng hoan hô.

Hà Tư Hào đã bị một quyền đánh trúng đau điếng người, lại mất mặt trước đàn bà. Hắn thẹn quá hóa giận liền nhảy xổ lại, thừa thế rút yêu đao chém tới.

Từ Tranh không mảy may sợ hãi. Gã vẫn tay không thi triển “Tra quyền” để đấu với võ quan. Có điều gã úy kỵ binh khí của đối phương sắc bén nên né tránh thì nhiều mà tấn công thì ít.

Mã Xuân Hoa thấy tên võ quan mặt mũi hung ác có ý đánh liều mạng chứ không phải cuộc tỷ đấu tầm thường nên trong lòng không khỏi hồi hộp. Thiếu phụ kéo tay áo cô nói:

– Chúng ta đi thôi. Ta rất hận những kẻ động đao múa quyền.

Trước tình thế này, Mã Xuân Hoa khó có thể bỏ đi. Cô chỉ đáp:

– Chúng ta hãy coi một lúc nữa đã.

Thiếu phụ cau mày rồi bỏ đi một mình. Thương Bảo Chấn ngưng thần theo dõi thế đao của võ quan, lại chú ý đến Từ Tranh vừa né tránh vừa tấn công. Y ngầm cầm mũi kim tiêu trong tay để chờ xem hễ thấy tên võ quan vung đao giết người là ra tay giải cứu. Chỉ thấy Từ Tranh hai mắt nhìn chằm chặp vào mũi đao. Mũi đao huơ qua phía đông, gã đưa mắt ngó về phía đông, mũi đao liệng sang mé tây, mắt gã cùng nhìn theo mé tây. Hễ đao chém tới trước mặt, gã liền lùi lại tránh né đồng thời vung cước đá vào cổ tay địch nhân. Hà Tư Hào xoay đao quét xuống dưới chân, Từ Tranh liền vươn tay ra. Nghe “binh” một tiếng, quyền của gã đánh trúng sống mũi của đối phương. Hà Tư Hào trúng quyền đau điếng, chân tay chậm lại, Từ Tranh liền vung tay trái chụp được cổ tay mặt hắn, rồi vặn một cái đoạt lấy thanh yêu đao.

Hà Tư Hào sợ gã thuận đà chém tới bèn vội nhảy lùi lại. Hắn giơ tay lên vuốt mặt thấy đầy máu tươi. Từ Tranh liệng thanh yêu đao xuống đất, nói:

– Ngươi còn làm kẻ mù mắt để thóa mạ người ta nữa hay thôi?

Hà Tư Hào thẹn quá, không dám lên tiếng.

Thương Bảo Chấn đưa tay nắm lấy vạt áo đằng sau Từ Tranh kéo gã lùi lại và đưa mắt ra hiệu. Từ Tranh chưa hiểu ý. Y liền lớn tiếng hô:

– Hai bên tỷ đấu bất phân thắng bại. Hay lắm! Võ công hai vị đều cao minh. Tiểu đệ khâm phục vô cùng.

Từ Tranh vội hỏi:

– Sao… sao lại bảo là chưa phân thắng bại?

Thương Bảo Chấn nói:

– Võ công của hai vị đều có chỗ độc đáo, “Tra quyền” của Từ huynh cực kỳ thuần thục, còn Thái Cực quyền và Thái Cực đao của Hà đại nhân lại càng lợi hại. Từ huynh may mắn không việc gì, nhưng về công phu chân thực mới suýt soát ngang bằng Hà đại nhân.

Y vừa nói vừa lấy khăn lau máu cho Hà Tư Hào. Từ Tranh toan cãi lại thì Mã Xuân Hoa cất tiếng gọi:

– Sư ca! Đừng dây dưa với y nữa. Chúng ta đi thôi.

Từ Tranh đánh Hà Tư Hào được hai quyền trong lòng cũng đã nguôi giận, nhưng gã thấy Thương Bảo Chấn ăn nói hàm hồ ra chiều bênh vực đối phương và tựa hồ coi gã võ công còn kém Hà Tư Hào thì trong lòng bực bội lắm. Đi đến chỗ khoảng sân trống, trên không bỗng nổi sấm ầm ầm. Tiếng sấm át đi tiếng cười của Thương Bảo Chấn và Hà Tư Hào. Hiển nhiên họ đang cười sau lưng gã.

Tuy Từ Tranh đánh thắng nhưng gã càng nghĩ lại càng thấy bất nhẫn. Gã đến ngồi bên đống lửa, chỉ thấy sư phụ lim dim đôi mắt, ra chiều buồn ngủ. Qua một lúc, Hà Tư Hào đi ra. Không hiểu gã nói gì với hai tên võ quan kia mà cả ba nổi lên cười ha hả, thỉnh thoáng lại đưa mắt nhìn thiếu phụ xinh đẹp.

Mã Hành Không từ từ đứng lên, vươn vai ưỡn người, đi đến bên tiêu xa để kiểm tra. Đột nhiên, lão gọi:

– Từ nhi! Lại đây, ngươi xem thử cái gì đây?

Mã Hành Không nghiêng người, mắt nhìn vào bức tường, đưa tay sửa lại tiêu xa, khẽ giọng nói:

– Ngươi không tiến bộ được chút nào. Chiêu “Chấp bộ soại thối” của ngươi sao lại đạp lệch một bên? Không thì việc gì phải đấu lâu như thế?

Từ Tranh hoảng kinh, run giọng hỏi:

– Lão… lão nhân gia đã thấy cả rồi ư?

Mã Hành Không đáp:

–  Hừ, ngươi đừng tưởng giở được trò quỷ trước mắt sư phụ. Lúc gã sử chiêu “Đê bộ cao thám mã”, sao mi không sử chiêu “Cung bộ song thôi chưởng” đánh thẳng vào mặt, có phải đã thắng sớm rồi không? Mi vẫn còn nhát gan sợ chết lắm.

Từ Tranh nhớ lại trận đấu vừa rồi, ban đầu chưa biết đối phương hư thực ra sao, quả nhiên có phần khiếp sợ, có nhiều chiêu đánh quá ư trầm trọng. Y tưởng sư phụ không biết, kỳ thực ông nấp bên ngoài cửa nhìn thấy cả. Mã Hành Không lại nói:

– Ngươi mau đi cảm tạ vị công tử họ Thương kia đi. Người ta tuổi nhỏ hơn mi nhưng lại thông minh tài trí.

Từ Tranh lấy làm lạ, bèn hỏi:

– Sư phụ, cảm tạ việc gì mới được chứ? Gã họ Thương kia lòng dạ hẹp hòi, chẳng phải là hạng người tốt đâu.

Mã Hành Không bèn cười nhạt nói:

– Phải rồi, gã là người hẹp hòi, cho nên chỉ che chở cho một Từ đại gia nhà ngươi thôi.

Từ Tranh trong bụng hoang mang, sợ sệt nhìn sư phụ. Mã Hành Không bèn thấp giọng nói:

– Mi đánh với ai? Người ta là ngự tiền thị vệ, còn chúng ta chẳng qua là bọn bảo tiêu cho thiên hạ để kiếm miếng cơm. Vị quan gia muốn gây khó dễ cho ngươi, thử hỏi chúng ta còn miếng ăn không? Vị công tử kia đã giữ giùm thể diện cho người ta, gọi mi là thằng nhãi ngốc đó.

Từ Tranh chợt hiểu ra, luôn miệng nói:

– Dạ phải! Dạ phải!

Gã liền chạy đến luyện võ sảnh sau trang viện, chỉ thấy Thương Bảo Chấn tay đấm chân đá, đang luyện lại chiêu “Cung bôi tý đả” của môn “Tra quyền” mà vừa rồi Từ Tranh dùng để đối phó với Hà Tư Hào. Thương Bảo Chân thấy Từ Tranh đi tới, mặt đỏ lên, vội thu quyền lại. Từ Tranh chấp tay chào, nói:

– Thương công tử, sư phụ tại hạ bảo tại hạ đến đây cảm tạ công tử. Lúc nãy tại hạ không hiểu được ý tốt của công tử trong bụng lấy làm áy náy.

Thương Bảo Chấn nói:

– Từ đại ca! Võ công của đại ca còn cao thâm hơn gấp mười viên thị vệ kia. Tiểu đệ thán phục vô cùng!

Từ Tranh nghe chàng khen mình, trong bụng rất hể hả liền gạ chuyện, hỏi:

– Công tử rèn luyện công phu thuộc môn phái nào?

Thương Bảo Chấn đáp:

– Tiểu đệ mới học nghệ chưa hiểu gì hết, không đáng kể là công phu của môn phái nào. Vừa rồi, Từ đại ca dùng chiêu quyền hạ đối phương. Có phải thế này không?

Y nói rồi đưa chân phải ra, vung quyền bên tay mặt đánh tới, lòng bàn tay trái đưa lên đỡ cánh tay mặt. Từ Tranh vừa rồi nhờ chiêu đó mà thủ thắng. Gã thấy chàng hỏi tới chiêu đắc ý của mình dĩ nhiên cao hứng phi thường, liền đáp:

– Chiêu này có hai câu khẩu quyết “Lục hải nghinh môn tam bất cố, phách quyền khiêu đả bất dung khoan”.

Gã vừa thuận miệng đọc hai câu đó ra, chợt nhớ đây là tâm pháp bí truyền của sư môn sao lại tiết lộ cho người ngoài biết? Gã liền đổi giọng:

– Công tử làm rất đúng. Chính là chiêu đó.

Thương Bảo Chấn hỏi:

– “Lục hải nghinh môn tam bất cố” là thế nào?

Từ Tranh ấp úng đáp:

– Cái đó… tại hạ cũng quên mất rồi.

Gã không quen nói dối, nên sau khi nói câu này mặt cứ đỏ bừng lên. Thương Bảo Chấn biết gã không chịu giải thích cũng không hỏi nữa. Y chỉ đón ý mà nói khiến cho gã cao hứng phi thường, tưởng chừng như bay bổng, lên tận chín từng mây.

Từ Tranh nói:

– Thương lão đệ! Chúng ta đừng khách sáo nữa. Lão đệ thử đi một đường quyền cước cho tại hạ coi. Nếu còn chỗ nào chưa đạt, tại hạ sẽ giải thích. Có thế mới khỏi uổng phí cuộc giao kết bữa nay.

Thương Bảo Chấn cả mừng đáp:

– Nếu vậy còn gì hay bằng?

Chàng liền đi một đường quyền trong sảnh đường, sử mười hai chiêu Đàm thoái “Đầu thang thằng quải nhất điều tuyến, Nhị thang thập tự nhiễu tam tiên”. Những đường quyền nào y sử dụng cũng đều thuần thục, nhưng quyền đánh không nhanh, bộ pháp hời hợt. Dù áo bào phất phới, tư thế rất ngoạn mục song lúc lâm sự cùng người động thủ thì chẳng ăn thua gì. Từ Tranh ngấm ngầm lắc đầu chờ Thương Bảo Chấn đi xong chiêu “Thập nhị thang tê ngưu vọng nguyệt chuyển hồi hoàn”, gã không nhịn được, bèn thở dài nói:

– Huynh đệ! Ta nói thẳng huynh đệ đừng buồn. Lệnh sư đã làm hỏng huynh đệ rồi.

Gã toan giải thích bỗng thấy Mã Xuân Hoa đứng ngoài cánh cửa sảnh đường thò đầu vào gọi:

– Sư ca! Gia gia gọi sư ca đó.

Từ Tranh vội cáo biệt Thương Bảo Chấn rồi chạy về sảnh đường. Gã thấy bên đống lửa có thêm hai người mới vào trú mưa. Một người cụt tay phải, trên mặt có vết sẹo rất dài từ lông mày bên phải đi qua sống mũi xuống tới khóe miệng bên trái. Dưới ánh lửa bập bùng, mặt mũi người này coi càng khủng khiếp. Còn người nữa là chú nhỏ mới mười ba, mười bốn tuổi, người gầy nhom, nước da vàng ủng. Cả hai quần áo đều lam lũ. Từ Tranh nhìn hai người một cái rồi không để ý nữa, đi thẳng tới trước mặt Mã Hành Không cất tiếng:

– Sư phụ!

Mã Hành Không sa sầm nét mặt, khẽ hỏi:

– Ngươi vào nhà trong làm gì lâu thế? Lại phô trương võ nghệ phải không?

Từ Tranh đáp:

– Đệ tử không dám. Chủ nhân họ Thương ở đây tiêu pháp rất hay, không ngờ về đường quyền cước chẳng thành tựu một tý gì.

Mã Hành Không nói:

– Thằng lỏi ngu ngốc này! Ngươi bị người ta lừa gạt đó. Một chút công phu kém cỏi của ngươi thì chấp cả hai tên như ngươi cũng không địch nổi người ta đâu.

Từ Tranh cười đáp:

– Cái đó e rằng chưa chắc. Sư phụ y dạy mười hai đường “Đàm thoái chỉ” phô trương cho ngoạn mục chứ chẳng dùng được việc gì.

Mã Hành Không hỏi:

– Ngươi có biết sư phụ y là ai không?

Từ Tranh rất lấy làm lạ, nghĩ bụng:

“Sư phụ mình chưa gặp mặt anh chàng họ Thương lần nào, cũng không coi y luyện quyền pháp mà sao lại biết cả sư phụ y là ai?”

Gã liền đáp:

– Đệ tử không rõ, chắc cũng là hạng xoàng thôi.

Mã Hành Không cười lạt, hạ giọng trầm trầm nói:

– Hạng xoàng ư? Hừ! Mười lăm năm về trước, sư phụ ngươi bị lão chém một đao, đánh một chưởng phải dưỡng thương ba năm mới lành. Nhân vật đó là ai?

Từ Tranh kinh ngạc hỏi:

– Bát quái đao Thương Kiếm Minh.

Mã Hành Không đáp:

– Không sai chút nào. Thương Kiếm Minh là người huyện Võ Định, tỉnh Sơn Đông. Nơi đây thuộc huyện Võ Định, chủ nhân lại họ Thương. Chúng ta chạy bừa vào trú mưa, lúc ban đầu không để ý. Ngươi thử coi xem trên tường nhà vẽ cái gì kia?

Từ Tranh ngẩng đầu lên nhìn thấy đồ hình bát quái thếp vàng vẽ trên tường nhà. Bất giác gã giật mình kinh hãi, vội nói:

– Sư phụ! Chúng ta chạm phải cừu gia trong nhà này rồi.

Mã Hành Không lạnh lùng đáp:

– Ngươi bất tất phải hoang mang. Thương Kiếm Minh đã bị người ta hạ sát.

Từ Tranh nghe sư phụ nói tới ngày trước lão đã bị đại bại về tay Bát quái đao Thương Kiếm Minh, một hào trưởng ở Sơn Đông. Đó là một điều vô cùng nhục nhã của sư môn. Sau sư phụ không nhắc tới, gã cũng không dám hỏi nhiều. Không ngờ Thương Kiếm Minh đã chết rồi.

Gã khẽ hỏi:

– Phải chăng lão nhân gia đã trả thù?

Mã Hành Không hừ một tiếng, nói:

– So với bản lãnh Thương Kiếm Minh, ta có luyện võ công bao lâu nữa cũng không bằng y, thì giết y thế nào được ?

Từ Tranh rất lấy làm lạ, lại hỏi:

– Vậy ai đã giết lão?

Mã Hành Không đáp

– Chính là hai hình người vẽ trên mộc bài làm đích cho thiếu niên đó phóng tiêu đã hạ sát Thương Kiếm Minh.

Từ Tranh trố mắt hỏi:

– Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng ư?

Mã Hành Không gật đầu. Vẻ mặt lão ủ rũ cũng như đời chiều ảm đạm ở bên ngoài.

Bình nhật Từ Tranh khâm phục sư phụ sát đất. Gã cho là trên đời hiện nay hiếm có người bản lãnh cao hơn Bách thắng thần quyền Mã lão tiêu đầu. Nay theo lời sư phụ gã nói thì không phải chỉ có Thương Kiếm Minh võ công cao hơn sư phụ mà Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng võ công còn cao thâm hơn cả Thương Kiếm Minh. Gã không khỏi kinh ngạc, khẽ hỏi:

– Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng la những nhân vật nào?

Mã Hành Không đáp:

– Võ công của Hồ Nhất Đao mạnh hơn ta gấp mười lần. Đáng tiếc y chết mười mấy năm trước đây rồi.

Từ Tranh thở phào một cái, hỏi:

– Chắc y chết vì mắc bệnh phải không?

Mã Hành Không đáp:

– Y bị người ta hạ sát.

Từ Tranh giương cập mắt tròn xoe hỏi:

– Hồ Nhất Đao đã ghê gớm như vậy thì còn ai hạ sát được y?

Mã Hành Không đáp:

– Đả biến thiên hạ vô địch thủ Kim diện Phật Miêu Nhân Phụng.

Mười ba chữ “Đả biến thiên hạ vô địch thủ Kim diện Phật Miêu Nhân Phụng” đọc lên bằng thanh âm nhỏ bé mà nghe rất oai nghiêm. Từ Tranh tưởng chừng như đứng tim. Gã toan hỏi nữa thì đột nhiên có tiếng vó ngựa vang lên ngoài cửa. Mười mấy con ngựa dưới cơn mưa lớn đang ầm ầm lao tới.

Chàng thanh niên anh tuấn và thiếu phụ xinh đẹp nghe tiếng vó ngựa liền đưa mắt nhìn nhau. Dường như hai người gắng gượng trấn tĩnh, nhưng nỗi kinh hoàng vẫn lộ ra ngoài mặt. Người thanh niên kéo tay thiếu phụ di chuyển chỗ ngồi tựa hồ sợ lửa nóng quá phải lui ra xa thêm một chút.

Mười mấy con ngựa chạy tới trước cửa trang viên thì dừng lại. Bỗng nghe mấy tiếng huýt còi. Bảy, tám con ngựa liền quanh ra phía sau trang viện. Mã Hành Không nghe tiếng còi thì đột nhiên biến sắc khẽ nói:

– Chuẩn bị đi.

Từ Tranh phấn khởi tinh thần, giọng hơi run hỏi:

– Những ai đến đó?

Mã Hành Không không trả lời, lớn tiếng hô:

– Các anh em bảo vệ tiêu xa.

Tiếng hô vừa đứt, bọn người bảo tiêu rối loạn cả lên. Chúng biết là có bọn hắc đạo đến cướp tiêu xa, lập tức đứng bật cả lên. Hai vị tiêu đầu Thích, Dương và năm tên chạy cờ hiệu chỉ huy bọn xa phu kéo sát mười mấy cỗ xe tiêu liền vào một chỗ. Mã Xuân Hoa lại lộ vẻ hoan hỷ rút thành liễu diệp đao ra hỏi:

– Gia gia! Bọn này ở đâu tới?

Mã Hành Không chau may đáp:

– Chưa biết.

Rồi lão tự nói một mình:

“Đám bằng hữu này lạ quá. Nói đến là đến.”

Lão vừa dứt lời đã nghe liên tiếp những tiếng “bình bình” trên bức tường vây. Tám đại hán mình mặc áo đen, tay cầm khí giới nhảy lên đầu tường đứng thành hàng chữ “nhất”, Mã Xuân Hoa giơ tay lên muốn phóng tụ tiễn, Mã Hành Không vẻ mặt nghiêm trọng khẽ quát:

– Không được hồ đồ! Phải theo lệnh mắt ta mà hành động.

Tám đại hán áo đen đảo mắt nhìn mọi người trong sảnh đường chẳng nói năng.

“Binh” một tiếng! Cánh cổng bị đẩy ra, một hán tử tiến vào. Người này mình mặc trường bào màu lam, y phục cực kỳ hoa lệ, những mặt mũi vô cùng xấu xí. Vẻ người không tương xứng với y phục chút nào. Hắn ngẩng đầu trông trời thấy mưa như trút nước, bất giác lại cất tiếng cười khanh khách. Hắn dí đầu ngón chân xuống, vọt qua sân vào tới cửa sảnh đường. Thân pháp cực kỳ mau lẹ. Mưa to là thế mà chỉ thấy mấy giọt mưa đọng trên đám lông mày.

Từ Tranh và Mã Xuân Hoa ban đầu vẫn không để ý đến người này, đột nhiên thấy hắn thi triển khinh công mới đem lòng úy kỵ, liếc mắt nhìn Mã Hành Không. Mã Hành Không tay cầm dọc tẩu, chắp tay hỏi:

– Xin thứ lỗi cho lão hán mất kém chưa kịp bái kiến. Xin cho hỏi tôn tính đại danh của bằng hữu? Quý trại ở đâu?

Thiếu chủ nhân Thương gia bảo Thương Bảo Chấn lúc nghe tiếng vó ngựa vang lên đã ngầm giấu kim tiêu, lưng đeo lợi đao, chạy ra trước sảnh đường. Y thấy tên tướng cướp tay đeo nhẫn bích ngọc, mình mặc áo trường những khuy bằng vàng lóng lánh. Tay trái hắn cầm ống thuốc bằng ngọc phỉ thúy bên mình không đeo binh khí, ra vẻ vênh vang. Lão ăn mặc như một nhà phú thương mới phất. Hắn đáp:

– Tại hạ họ Diêm tên Cơ. Phải chăng lão anh hùng là Bách thắng thần Quyền Mã Hành Không?

Mã Hành Không chắp tay nói:

– Lão hán không dám. Cái ngoại hiệu này là do bạn hữu giang hồ tô điểm thêm cho chút thể diện, chỉ là hư danh, chẳng có chi đáng kể.

Lão tự hỏi:

“Diêm Cơ là ai? Sao ta chưa từng nghe nói tới nhân vật mang tên hiệu này trên chốn giang hồ?”

Diêm Cơ cười ha hả trỏ vào những hán tử áo đen đứng trên đầu tường, nói:

– Anh em tại hạ nhịn đói đã mấy ngày, mong được Mã lão anh hùng cho một bữa.

Mã Hành Không đáp:

– Diêm trại chủ dạy quá lời. Tranh nhi! Ngươi lấy năm chục lạng bạc để Diêm trại chủ thưởng cho anh em.

Lão hành động theo quy củ giang hồ, nhưng xem chừng thái độ và thanh thế đối phương quyết không thể thu xếp cho ổn bằng năm chục lạng bạc. Quả nhiên Diêm Cơ ngẩng mặt lên trời cười ha hả, nói:

– Mã lão anh hùng làm nghề bảo tiêu mỗi chuyến hàng được ba chục vạn lạng. Nhãn giới của họ Diêm này tuy bé nhỏ nhưng cũng coi năm chục lạng bạc không vào đâu.

Mã Hành Không bụng bảo dạ:

“Thằng cha này lấy tin tức ở đâu mà nhạy như thế? Sao hắn biết rõ mỗi chuyến bảo tiêu mình kiếm được ba chục vạn lạng?”

Lão chau mày, nhưng vẫn nói theo giọng lề luật giang hồ:

– Thiết tưởng Mã mỗ cũng chẳng có bản lãnh gì, chỉ trông vào bạn hữu giang hồ nể mặt mà thôi. Bữa nay mới được bái kiến Diêm trại chủ, nhưng chúng ta chẳng gặp nhau nơi đây thì sẽ gặp nhau nơi khác. Mã mỗ lấy làm hân hạnh được kết giao cùng người bạn mới. Không hiểu Diêm huynh muốn dạy bảo thế nào?

Diêm Cơ đáp:

– Dạy bảo thì không dám, nhưng bản tính tại hạ hễ thấy tiền là sáng mắt ra. Ba chục vạn lạng bảo tiêu đã ngửi thấy rồi, không dám làm tổn thương đến âm đức. Có điều Mã lão tiêu đầu cứ mở miệng ra là một điều kêu bằng hữu, hai điều kêu bằng hữu, vậy tại hạ chỉ lấy một nửa tức là mượn đỡ mười lăm vạn bạc.

Rồi không chờ Mã Hành Không trả lời, hắn đưa tay trái vẫy tay một cái.

Những gã đại hán đứng trên tường nhất tề nhảy xuống, chạy đến cửa sảnh đường. Một tên hỏi:

– Lấy hết hay sao?

Diêm Cơ đáp:

– Không! Lấy một nửa thôi, còn lưu lại một nửa. Bọn ta đồng cam cộng khổ, có cứt thì cùng ỉa, có cơm thì cùng ăn.

Bọn đại hán dạ ran rồi chạy lại bên xe tiêu. Mã Hành Không nổi giận đùng đùng. Lão thấy bọn đại hán ở trên tường nhảy xuống thân thủ tầm thường, chẳng có ai là cao thủ cả. Lão không lo gì nữa, liền lạnh lùng hỏi:

– Diêm trại chủ đối xử như thế này chẳng là cạn tàu ráo máng lắm ư?

Diêm Cơ ngạc nhiên hỏi lại:

– Sao lại cạn tàu ráo máng? Diêm mỗ đã bảo lấy một nửa còn để lại một nửa kia mà? Anh em ta đã có thương lượng. Cuộc giao dịch như vậy là rất công bằng.

Từ Tranh không nhịn được, tiến lên hai bước trỏ vào mặt Diêm Cơ quát hỏi:

– Các ngươi là bọn hắc đạo từng qua lại giang hồ chẳng lẽ chưa từng nghe thấy oai danh của Phi Mã tiêu Cục ư?

Diêm Cơ đáp:

– Bọn đàn bà con nít nhà ta có nghe qua, còn lão gia đây thì mới nghe lần đầu.

Hắn lắc người một cái là đã vọt tới phía phải sảnh đường. Hắn nhổ cây cờ của Phi Mã tiêu cục cắm trên xe, bẻ cán cờ gãy làm hai đoạn, ném xuống đất rồi giẫm chân lên lá cờ. Hành động này là phạm đến điều đại kỵ trên chốn giang hồ. Chuyện cướp tiêu thường xảy ra nhưng ít khi có hành động như vậy.

Chỉ khi nào hai bên có mối tử thù thì mới quyết tâm liều mạng kiểu đó.

Bọn người bảo tiêu thấy vậy la ó vang trời. Từ Tranh không nói nữa, xông lại ra chiêu “Đạp bộ kích chưởng”. Tay phải gã phóng chưởng đánh mạnh vào ngực đối phương. Diêm Cơ nghiêng mình tránh khỏi rồi quát hỏi:

– Tiểu tử! Ngươi muốn đánh nhau ư?

Hắn hạ thấp bàn tay trái chụp lẹ vào cổ tay đối phương. Từ Tranh liền biến chiêu thành “Hậu sáp bộ bãi chưởng”. Tay trái gã móc về phía sau, lòng tay mặt vung lên đấm ngược vào hàm dưới địch nhân. Diêm Cơ nghiêng đầu đi, tay mặt vung quyền đánh xuống. Thoi quyền này rất lẹ. Từ Tranh vội nghiêng đầu né tránh. “Bình” một tiếng. Vai gã đã trúng một đòn. Quyền lực trầm trọng làm gã chấn động đau nhói cả trước ngực. Chân gã bước loạng choạng chực ngã. May gã thân tráng lực cường mà hạ bộ lại vững vàng, liền lập tức biến chiêu thành “Phúc thoái xuyên chưởng”. Gã lún thấp người xuống, co chân lại ngồi chồm hổm, tay trái phóng chưởng đánh ra. Đó là phép ngự lực phản công, một chiêu số rất cao minh của “Tra quyền”.

Diêm Cơ không lý gì đến, tủm tỉm cười, móc chân trái một cái, đá ngược về phía sau. Chiêu móc này lại càng cổ quái. Từ Tranh cực kỳ kinh hãi, vội nhào về phía trước để tránh. Diêm Cơ phóng quyền tay mặt đánh thẳng ra, miệng quát:

– Cung hỷ phát tài!

“Bình” một tiếng. Thoi quyền của Diêm Cơ đã đánh trúng ngực Từ Tranh. Thoi quyền này cực kỳ lợi hại, gã té xuống đất còn lăn đi mấy vòng. Gã ọe một tiếng, thổ ngay một búng máu tươi. Một hán tử kiêu dũng như Từ Tranh mà mới trúng một quyền đã không ngồi dậy được. Bọn cường đạo bật tiếng reo hò vang dội, miệng hô:

– Công phu tuyệt diệu!

Bọn người bảo tiêu thấy Diêm Cơ ra tay tàn độc đều kinh hãi và tức giận. Mã Xuân Hoa đưa tay ra nâng đỡ sư ca. Cô nóng lòng muốn phát khóc, miệng hỏi:

– Sư ca có sao không?

Mã Hành Không suốt đời bôn tẩu giang hồ, trải qua không biết bao nhiêu sóng to gió lớn mà không sao nhận ra được quyền cước của tên tướng cướp thuộc môn phái nào. Ba tên thị vệ cũng thầm thì bàn tán hỏi nhau:

– Không hiểu thằng cha này thuộc môn phái nào?

– Nhìn không ra, nhưng quyền pháp có điểm na ná như Ngũ Hành quyền

– Không phải! Ngũ Hành quyền làm gì có vẻ tà môn như vậy?

Mã Hành Không tiến ra hai bước chắp tay nói:

– Diêm trại chủ quả nhiên võ nghệ cao cường. Đa tạ Diêm huynh đã giáo huấn cho gã tiểu đồ. Có thế gã mới biết trên chốn giang hồ còn lắm cao nhân.

Diêm Cơ cười đáp:

– Mấy chiêu mèo què đó bất quá là trò chơi chỉ đáng xách giày cho Mã lão anh hùng, ngoài ra tại hạ chẳng biết gì nữa. Bây giờ muốn thỉnh giáo Bách Thắng Thần quyền của Mã lão anh hùng.

Mã Hành Không thấy hắn mặt mày bóng loáng, miệng lưỡi nói năng toàn giọng vô lại mà không hiểu sao lại luyện được những công phu quái dị như vậy, quả là điều kỳ quái. Lão liền quyết định chủ ý tạm thời chỉ thủ chứ không công, chờ sau khi nhận rõ nguồn gốc quyền cước của hắn rồi sẽ liệu. Lão liền ngưng thần đứng nghiêng người, hai tay cứ nắm hờ.

Ba tên thị vệ và Thương Bảo Chấn cùng mọi người trong tiêu cục đều ngưng thần theo dõi cuộc đấu. Ai cũng hiểu cuộc đấu này chẳng những liên quan đến sự an nguy của ba chục vạn lạng bạc bảo tiêu, mà còn hệ trong đến tánh mạng cùng oai phong một đời của Mã Hành Không.

Trong đại sảnh yên lặng như tờ, chỉ nghe tiếng than lửa nổ lách tách. Bên ngoài vẫn mưa tầm tã, chưa có dấu hiệu gì trời sắp tạnh. Chàng công tử trẻ tuổi và thiếu phụ xinh đẹp vẫn ngồi kề vai nói chuyện thầm thì, không để ý đến cuộc đấu tranh của Diêm Cơ và Mã Hành Không,

Diêm Cơ thò tay vào bọc lấy ra cái dọc tẩu ánh vàng rực rỡ, rít một khói thuốc. Hắn cũng biết Mã Hành Không là tay kình địch, liền quấn bím tóc lên đỉnh đầu, miệng quát:

– Tổ tiên kẻ lưu manh này chẳng biết tu nhân tích đức khiến con cháu phải liều mạng để kiếm cơm. Con bà nó, đánh nhau đi thôi.

Rồi hắn nhảy vội lại phóng quyền tả nhắm Mã Hành Không đánh mạnh tới. Mã Hành Không chờ cho quyền còn cách trước ngực chừng nửa thước, liền ra chiêu “bạch hạc lượng xí” đưa mình qua mé tả chuyển thành “Cung tiễn bộ”. Hai cánh tay đưa về đằng sau thành hình móc câu, miệng hô nhỏ một tiếng, rồi vung ngược tay ra để phản kích. Lão cũng chỉ cần phát huy môn “Tra quyền” rất thông thường của phái Thiếu Lâm nhưng tư thức trầm ổn, phóng tay đẩy chân cực kỳ mãnh liệt.

Chàng thanh niên từ nãy tới giờ vẫn không để ý đến cuộc tranh đấu giữa tiêu đầu và cường nhân, bây giờ ngẫu nhiên liếc mắc nhìn ra đúng vào lúc Diêm Cơ cung chân đá ngược, chiêu thức rất kỳ dị. Bất giác chàng lưu ý theo dõi.

Thiếu phụ xinh đẹp cất tiếng gọi:

– Quy Nông! Quy Nông!

Chàng thanh niên thuận miệng đáp lại, nhưng mắt vẫn đăm đăm nhìn về phía hai người đang tỷ đấu. Thiếu phụ vươn tay ra vịn vào vai chàng lay mấy cái rồi nói:

– Anh chàng ngớ ngẩn này, cuộc hỗn chiến giữa mấy tay côn đồ có gì mà coi?

Thanh niên nghe giọng nói của nàng có vẻ không bằng lòng, vội quay lại cười đáp:

– Quyền cước của tên cướp kia rất cổ quái.

Thiếu phụ thở dài nói:

– Ôi! Bọn nam nhân các người đều coi việc đánh giết người là chuyện quan trọng nhất trong thiên hạ.

Thanh niên cười đáp:

– Nàng không cho ta coi thì ta không coi nữa. Vậy nàng quay mặt lại cho ta ngắm khuôn mặt xinh đẹp của nàng cũng đủ no rồi.

Mỹ phụ khẽ cười một tiếng, vẻ mặt lại càng kiều mỵ. Quả nhiên nàng ngửng mặt lên. Bốn mắt nhìn nhau, trên mặt đấy nét nhu tình âu yếm.

Lúc này Mã Hành Không và tướng cướp đang chiến đấu đến giai đoạn kịch liệt. Mã Hành Không đã phát huy hết một đường “Tra quyền” mà vẫn không chiếm được một chút thượng phong nào. Diêm Cơ vẫn chỉ sử tới sử lui mười mấy chiêu quyền cước đó, hoặc quyền đánh thẳng hoặc co chân đá ngược lại, hoặc hạ thấp tay xuống ra chiêu cầm nã, hoặc vung chưởng đánh giữa hai bắp đùi. Ba tên võ quan coi một lúc rồi nhận ra chiêu số của Diêm Cơ chỉ có hạn mà Mã Hành Không chẳng thể hạ nổi hẳn, đều không khỏi bật cười. Bỗng thấy Mã Hành Không sử chiêu “Mã đương thôi quyền”, xoạc chân ra thành thế cưỡi ngựa, tay phải rụt về, tay trái đánh vút ra phía trước.

Hà Tư Hào la lên:

– Trầm trửu cầm nã thủ!

Quả nhiên đúng như lời tiên liệu của tên võ quan, Diêm Cơ hạ thấp khuỷu tay xuống để thi triển chiêu cầm nã, chộp vào cổ tay Mã Hành Không, Mã Hành Không vội biến chiêu rụt cánh tay về và khẽ chuyển mình đi. Hà Từ Hào lại vừa cười vừa nói:

– Câu thối phản thích!

Quả nhiên Diêm Cơ co chân phải lại, đá ngược về phía sau. Võ công của Mã Hành Không cao thâm hơn Hà Tư Hào không biết bao nhiêu mà kể, Hà Tư Hào còn biết trước chiêu thức của Diêm Cơ phát ra thì lẽ nào lão lại không hay? Nhưng lạ ở chỗ, lão biết rõ đối phương co chân đá ngược mà không có cách nào để phá giải. Mã Hành Không ngoại hiệu là Bách thắng thần quân, đã thuộc hết các lộ quyền pháp của phái Thiếu Lâm. Lão thấy “Tra quyền” không hạ được đối phương liền biến đổi chiêu số, đột nhiên quyền thế nhanh như gió khiến những người bàng quan nhìn thấy phải lóa mắt. Lão đã thi triển Yến Thanh quyền.

Yến Thanh là một hảo hán ở Lương Sơn Bạc đời Tống, quyền thuật của y ngày ấy vô địch thiên hạ. Đường quyền này truyền đến đời sau, còn chú trọng cả cách nhảy nhót, nhô lên hụp xuống hay nhô người đến đánh, toàn là các chiêu số tấn công. Mã Hành Không tuy tuổi đã già mà thân thủ vẫn mau lẹ dị thường. Lúc vọt lên cao, lúc rùn thấp xuống chẳng khác gì con mèo. Diêm Cơ thấy đối phương thấy đổi chiêu thức, hắn vẫn không để ý gì đến, tiếp tục sử dụng quanh đi quẩn lại mười mấy chiêu vụng về khó coi như trước.

Bọn Thương Bảo Chấn, Từ  Tranh, Mã Xuân Hoa cùng Thích tiêu đầu và Dương tiêu đầu thấy tên tướng cướp này võ công cổ quái như vậy đều lấy làm kinh dị. Người nào cũng liệu trước được chiêu thức của hắn sắp đánh ra như vung tay đánh thẳng tới hay là vung chưởng đánh giữa hai bắp đùi, bất giác cũng theo Hà Tư Hào mà hô ra trước. Nhưng Mã Hành Không thủy chung vẫn không làm gì được đối phương.

Bỗng thấy Mã lão tiêu đầu liên tục phóng ra những chiêu “Thượng bộ tiến trửu quắc thần quyền”, “Nghịch diện thương khoái đả tam quyền”, “Tả hữu khóa đả”, “Phản thân tài trùy”, “Thích thối liệu âm thập tự quyền”, Chiêu này nối tiếp chiêu khác, quyền cước tung bay ào ạt như trận mưa lớn bên ngoài. Diêm Cơ chỉ một chiêu vươn tay ra đánh thẳng là phá giải được hết những chiêu thức xảo diệu của đối phương.

Người cụt tay và thằng nhỏ gầy ốm vẫn ngồi co ro trong góc nhà coi Mã Hành Không và Diêm Cơ tỷ võ. Người cụt tay khẽ nói:

– Thiếu gia! Thiếu gia nhìn cho kỹ tên tướng cướp kia, đừng bao giờ quên tướng mạo hắn.

Thằng nhỏ hỏi:

– Để làm gì? Sao phải nhớ mặt hắn?

Người cụt tay nhắc lại:

– Thiếu gia nhớ kỹ lấy, vĩnh viễn đừng quên hắn là được.

Thằng nhỏ hỏi:

– Hắn là người tệ hại lắm hay sao?

Người cụt tay nghiến răng đáp:

– Ma đưa lối quỷ dẫn đường khiến chúng ta lại chạm trán hắn ở đây. Thiếu gia nhìn cho kỹ rồi nhớ lấy, nhưng đừng để hắn phát giác.

Sau một lúc, người cụt tay lại nói:

– Những công phu mà thiếu gia luyện không nổi, thì bây giờ cứ coi kỹ cách đánh của hắn, ắt rồi ngày sau có thể luyện được.

Thằng nhỏ hỏi:

– Tại sao vậy?

Người cụt tay khóe mắt long lanh ngấn lệ, khẽ đáp:

– Hiện tại bây giờ chưa thể nói được. Sau này thiếu gia lớn lên luyện thành võ nghệ, lão sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nghe.

Thằng nhỏ nhìn Diêm Cơ tay đấm chân đá, tư thức rất khó coi nhưng dường như gã chợt ngộ ra điều gì, bèn la lên một tiếng:

– Tứ thúc!

Người cụt tay vội nói:

– Thiếu gia đừng lớn tiếng.

Thằng nhỏ vâng lời, khẽ nói:

– Quyền cước của người này, tiểu tử đã hiểu được đôi chút

Người cụt tay đáp:

– Không sai! Thiếu gia nhìn kỹ đi. Pho “Quyền kinh đao phổ” của thiếu gia bị khuyết hai trang đầu nên thiếu gia chưa hiểu ra. Hai trang thiếu kia bây giờ hiện lên trên mình Diêm Cơ đó.

Thằng nhỏ giật mình kinh hãi. Trên gương mặt gầy gò, vàng ủng của gã hiện lên một chút màu hồng. Gã nhìn Diêm Cơ không chớp mắt rồi hỏi:

– Sao lại ở trên mình hắn?

Người cụt tay đáp:

– Sau này lão sẽ nói cho thiếu gia nghe. Nguyên Diêm Cơ chẳng biết võ công chi hết, nhưng y lấy được hai trang “Quyền kinh” học thành mười mấy chiêu pháp dở dang mà vẫn tỷ đấu ngang ngửa với một tay quyền sư hạng nhất. Thiếu gia nghĩ mà coi. Cuốn “Quyền kinh đao phổ” đó cả thảy hơn ba trăm trang. Khi thiếu gia học hết rồi thì bản lãnh sẽ lên tới đâu?

Thằng nhỏ nghe lão nói rất xúc động. Mắt gã chiếu ra những tia sáng phấn khởi.

Trong trường có hai người tỷ võ mà chỉ có một người đáng coi. Diêm Cơ vẫn quanh đi quẩn lại có mười mấy chiêu. Mọi người coi đã chán rồi. Quyền pháp của Mã Hành Không thì biến ảo trăm đường.

Lão sử hết “Yến Thanh quyền” mà vẫn không làm gì được đối phương. Đột nhiên lão lại biến chiêu, thi triển bài quyền “Lỗ Trí Thâm túy tích”, cứ như người phát điên phát khùng, lại giống kế say sưa cuồng dại, chợt nằm lăn ra chợt đứng phắt dậy với những chiêu “La Hán tà ngọa”, “Tiên nhân khát truân”. Đường quyền cước này tựa hồ đánh bừa đánh ẩu mà thực ra tinh thâm khôn lường. Bây giờ mười mấy chiêu của Diêm Cơ dần dần không còn ăn nhập nữa. Hắn nhìn không rõ lai lộ quyền cước của đối phương, bất giác trong lòng hoang mang. Bỗng nghe Mã Hành Không quát lên một tiếng:

– Này!

Lão phóng cước ra chiêu “Lý ngư phiên thân lãm ty thoái” đá trúng vào lưng Diêm Cơ. Hắn đau quá phải cong người lại.

Mã Hành Không biết đối phương bản lãnh lợi hại. Đòn cước của lão tuy đá trúng yếu huyệt mà vẫn sợ hắn không bị trọng thương. Nếu là cuộc tỷ võ bình thường để so hơn kém thì chỉ thắng một đòn là ngưng lại. Nhưng cuộc tranh đấu này liên quan đến ba chục vạn lạng bạc thì làm sao có thể để cho kẻ địch nghỉ ngơi lấy sức? Nếu tái đấu thì lão vị tất đã thắng, nên Mã Hành Không không thể nhượng bộ đối thủ được. Lão liền tung người nhảy lại, ra chiêu “Quải tử cước”, vung cước đá thêm một phát vào sau lưng hắn.

Bọn cướp la ó rầm trời. Diêm Cơ đột nhiên cong chân đá ngược lại, chiêu thức biến ảo vô cùng. Mã Hành Không tuy lịch duyệt nhưng trong lúc nhất thời hoảng hốt không tránh kịp, bị ngọn cước đá trúng ngực ngã ngửa xuống đất.

Mã Xuân Hoa và Từ Tranh chạy lại đỡ lão dậy thấy lão sắc mặt tái nhợt, miệng ho sù sụ bảo hai người:

– Phải liều chết mà bảo vệ tiêu xa.

Từ Tranh cùng Mã Xuân Hoa tay cầm đơn đao hộ vệ hai bên Mã Hành Không. Diêm Cơ cũng bị thương nặng. Hắn đưa tay phải lên vẫy mấy cái. Hai gã đại hán áo đen chạy lại. Diêm Cơ quát:

– Cướp tiêu xa đi còn chờ gì nữa?

Bọn cướp đều lấy binh khí ra nhất tề xông vào bọn tiêu khách. Mã Xuân Hoa, Từ Tranh, Thích tiêu đầu và Dương tiêu đầu đều lớn tiếng hô:

– Nghinh địch!

Bọn cướp đông người, trừ Diêm Cơ ra thì đều không có tay cao thủ, nhưng Mã Xuân Hoa và Từ Tranh phải phân tâm chiếu cố cho phụ thân lại bị bọn chúng hai người đánh một, tình thế rất nguy cấp. Thương Bảo Chấn rút đơn đao ra hô:

– Ba vị thị vệ đại nhân! Chúng ta động thủ đi!

Hà Tư Hào đáp:

– Phải lắm! Hãy đuổi bọn cường đạo đi rồi sẽ tính.

Bốn người liền ra nhập chiến cuộc. Thương Bảo Chấn thấy Mã Xuân Hoa bị hai tên cướp dùng binh khí ngăn chặn, dần dần không thi triển thủ cước được nữa, liền xông lại quát:

– Bọn nam tử hán đi khinh nhờn một cô nương, lại hai người đánh một mà không biết nhục ư?

Thanh đao rút ra đánh “soạt” một tiếng nhằm một đầu tên cướp cao lớn chém xuống. Tên này xoay roi lại đón đỡ. Thương Bảo Chấn dùng cả đao lẫn chưởng. Tay trái y phóng chưởng đánh trúng ngực, làm gã văng ra ngoài.

Mã Xuân Hoa vừa thở vừa nói:

– Được rồi! Còn một tên nữa để tiểu muội thu thập cho.

Thương Bảo Chấn vừa cười vừa lùi ra, quay lại giúp Từ Tranh. Y chỉ phóng mấy đao mấy chưởng là đẩy lui được một tên cướp. Từ Tranh đem lòng cảm kích và khâm phục nhãn quang của sư phụ. Bây giờ gà mới biết võ công Thương Bảo Chấn quả cao thâm hơn mình nhiều.

Diễn biến này khiến cho tình thế trong sảnh đường thay đổi hẳn. Bọn cướp tán loạn rút lui, toan xông ra cửa tháo chạy. Bỗng nghe thanh âm hô lớn:

– Các vị hãy dừng tay. Tại hạ có điều muốn nói.

Nhưng mọi người đánh nhau đang hăng nên không ai quan tâm. Thương Bảo Chấn đột nhiên thấy bóng người thấp thoáng. Một người đưa tay ra trước mặt vẫy một cái. Y liền giơ đao lên chém tới. Người kia co tay phải lại rồi vươn ra một cái là đã đoạt được đơn đao ném xuống đất. Thương Bảo Chấn cực kỳ kinh hãi vội nhảy lùi lại. Y nhìn lại người kia thì chính là vị tướng công ăn mặc sang trọng.

Vị tướng công này bước vào đám đông vung hai tay đập mấy cái. Những tiếng loảng xoảng vang lên không ngớt, bao nhiêu binh khí rớt xuống đất hết. Nguyên y đã thi triển tiểu cầm nã thủ đoạt hết binh khí ném xuống.

Bọn cường đạo cùng tiêu khách kinh hãi vô cùng, đều nhảy lùi lại, ngơ ngác nhìn người mới sấn vào. Diêm Cơ càng kinh ngạc. Hắn chợt nhớ tới một việc từ mười mấy năm trước, cất tiếng hô:

– Điền tướng công! Tướng công đấy ư?

Hán tử kia không nghĩ ra hắn là ai, liền hỏi:

– Ngươi nhận được ta ư?

Diêm Cơ cười đáp:

– Mười ba năm trước, ở Thương phủ tiểu nhân đã phục thị lão nhân gia.

Hán tử cúi đầu ngẫm nghĩ, chợt nhớ ra liền nói:

– Phải rồi! Ngươi là một thầy lang. Sao bây giờ đã luyện thành võ nghệ cao cường làm nên trại chủ?

Diêm Cơ bước lên một bước thỉnh an:

– Đó là nhờ công tài bồi của lão nhân gia.

Nguyên nhân vật ăn mặc như một vị tướng công này là Điền Quy Nông, chưởng môn phe Bắc Tông phái Thiên Long Môn. Bọn người bảo tiêu tưởng đã đánh đuổi được quân cướp, ngờ đâu vị Điền tướng công này chẳng những võ công cao cường mà lại là bạn cũ của tên cướp, ai nấy đều lo lắng vô cùng.

Mã Hành Không khẽ dặn thủ hạ bảo vệ xe tiêu và trông ánh mắt lão ra hiệu mà hành động. Điền Quy Nông quét mắt từ trái sang phải nhìn mọi người một lượt, lại đảo mắt từ phải sang trái nhìn một lượt nữa, rồi ngó ra ngoài sân nhìn trời mưa. Sau cùng nhãn quang y nhìn chằm chặp vào đống xe tiêu nói:

– Diêm Cơ huynh! Cuộc ăn hàng bữa nay của Diêm huynh tất được bồi thường.

Diêm Cơ cười cầu tài, đáp:

– Xin lão nhân gia miễn trách cho. Vì anh em đói rách không biết chạy vào đâu, nên mới phải làm nghề buôn không vốn này. Bọn tiểu đệ nhất định sửa đổi lỗi lắm, không dám quên ơn đức của Điền tướng công bữa nay.

Điền Quy Nông cười ha hả nói:

– Sao Diêm huynh còn dùng những lời sáo rỗng với Điền mỗ? Lão Diêm! Lão thử tính xem lấy năm vạn lạng đã đủ xài chưa?

Diêm Cơ sửng sốt liền cười giả lả, đáp:

– Lão nhân gia lại giỡn chơi rồi.

Điền Quy Nông nói:

– Sao lại giỡn chơi? Chỗ này được ba chục vạn tiêu ngân. Ta lấy một nửa là mười lăm vạn, Diêm huynh lấy năm vạn. Còn mười vạn nữa Diêm huynh định chia thế nào?

Diêm Cơ mừng rơn, vội đáp:

– Lão nhân gia lấy hết cả đi, còn chia chác làm gì nữa?

Điền Quy Nông lắc đầu nói:

– Như thế sao phải đạo nghĩa giang hồ. Vừa rồi chúng ta chạy vào ẩn mưa. Nương… nương… nương tử của ta quần áo ướt hết…

Thiếu phụ xinh đẹp nghe nói đến “nương tử của ta” mặt đỏ bừng cả lên ra chiều e thẹn. Nàng quay nhìn Điền Quy Nông mỉm cười đáp lại. Y tiếp tục nói:

– Vị cô nương đây ở trong tiêu cục đã cho nàng mượn quần áo. Món ân tình này chẳng thể không báo đáp. Chúng ta tặng cô năm vạn lạng. Lại còn ba vị thị vệ đại nhân ở đây nữa. Người ta thường nói “Hễ có mặt là được chia phần”. Mỗi vị lấy một vạn lạng. Còn dư hai vạn để biếu chủ nhân. Diêm huynh bảo ta phân chia có công bằng không?

Diêm Cơ vỗ tay không ngớt reo lên:

– Công bằng lắm! Tiểu nhân vẫn nói Điền tướng công là một vị anh hùng khẳng khái bậc nhất trong thiên hạ.

Mã Hành Không, Từ Tranh và Mã Xuân Hoa nghe Điền Quy Nông đàm luận tự nhiên như chỗ không người, tựa hồ ba chục vạn lạng tiêu ngân đã là vật ở trong túi y rồi. Mã Hành Không đã bị trọng thương lại tức trào máu, cơ hồ ngất đi. Từ Tranh nhìn sư phụ hỏi:

– Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào bây giờ?

Mã Xuân Hoa tức giận gắt lên:

– Còn làm sao được nữa.

Cô cúi xuống lượm thanh đơn đao dưới đất lên quát:

– Họ Điền kia! Ngươi coi bọn ta là người chết rồi hay còn sống?

Cô vung đơn đao lên toan chém Điền Quy Nông, Điền Quy Nông cười đáp:

– Cô nương đừng bức bách tại hạ phải động thủ. Nương tử của tại hạ dễ ăn phải giấm chua lắm đấy.

Thiếu phụ xinh đẹp bĩu môi cười, mắng:

– Đừng nói nhăng nữa.

Nhưng những lời khinh bạc của Điền Quy Nông dường như làm cho nàng vô cùng thích thú Mã Xuân Hoa nghe y nói năng vô lễ, phẫn nộ không chịu được xông lại vung đao chém ngang một nhát. Điền Quy Nông cười nói:

– Ái chà! Nguy rồi! Nương tử của tại hạ không cho phép tại hạ đánh nhau với nữ nhân.

Y đưa ngón tay đập vào sống đao của Mã Xuân Hoa. Cô cầm đao không vững, tuột tay rớt xuống. Thủ pháp của Điền Quy Nông cực kỳ mau lẹ. Tay mặt y cướp được chuôi đao, tay trái nắm lấy cổ tay cô và giơ đao lên như muốn chém xuống cổ cô. Miệng y không ngớt xuýt xoa:

– Con người nguyệt thẹn hoa nhường thế này thì tại hạ không thương hương tiếc ngọc làm sao được?

Thương Bảo Chấn và Từ Tranh thấy gã đùa cợt Mã Xuân Hoa liền cùng nhảy xổ lại. Thương Bảo Chấn vung tay phải lên phóng một mũi tiêu vào mắt bên trái y. Từ Tranh vội vàng quá không kịp lượm bính khí dưới đất, phóng cước đá vào sau lưng đối phương. Điền Quy Nông xoay mình lại, bỏ đao ra chiêu cầm nã, túm được gót chân Từ Tranh nắm lấy nhấc bổng y lên.

Từ Tranh như bị treo ngược, chỉ cảm thấy bắp đùi đau buốt, bật tiếng kêu thất thanh. Nguyên một mũi tiêu phóng trúng đùi phải gã.

Điền Quy Nông vung tay một cái, người Từ Tranh khác nào cây chổi quét ngang đụng vào bắp chân Mã Xuân Hoa khiến hai người cùng té xuống, đè lên nhau. Mọi người thấy y đùa cợt hai người như hai đứa con nít thì làm sao còn dám sấn vào?

Điền Quy Nông nói:

– Diêm huynh! Huynh đệ hãy lấy số tiêu ngân mà chia ra từng phần như ta vừa nói rồi xếp lên xe lớn để chỗ nương tử cùng ta ngồi. Chúng ta có việc gấp, cần phải đội mưa mà đi.

Diêm Cơ hớn hở, vâng dạ luôn miệng. Bọn cướp khuân những túi bạc trên xe tiêu xuống, xếp năm vạn lạng vào một đống, ba vạn, hai vạn lạng thành hai đống để dưới đất rồi nhìn bọn xa phu quát:

– Mau mau chuẩn bị cho chúng ta lên đường

Tại miền bắc đã có quy củ. Những hào khách lục lâm đánh cướp tiêu ngân không đả thương bọn xa phu đã đành mà còn trả tiền ăn tiền rượu cho chúng nữa theo như thông lệ. Nhưng nếu bọn xa phu không nghe theo lệnh thì dĩ nhiên là chuyện khác. Bọn xa phu đứng trước tình thế này chẳng còn dám chống cự, phải đội mưa lớn để đẩy xe đi.

Mã Hành Không thấy các xe tiêu chứa bạc bị đẩy đi, trong lòng đau đớn vô cùng. Chỉ còn một cái xe đẩy đến trước sân. Điền Quy Nông đỡ thiếu phụ lên ngồi. Chỉ cần cỗ xe này đi khỏi là Mã Hành Không phải thân bại danh liệt, công lao suốt đời cực khổ đành trôi theo dòng nước. Người lão run lẩy bẩy đột nhiên lão đứng phắt dậy thét lên:

– Ta quyết liều mạng với ngươi.

Hai tay lão như lưỡi câu sắt nhằm chụp vào mắt Điền Quy Nông. Thiếu phụ sợ quá rú lên một tiếng. Điền Quy Nông nghiêng mình phóng chưởng nhằm đánh vào vai Mã Hành Không. Giả tỷ lão chưa trọng thương thì phát chưởng này dĩ nhiên không thể đánh trúng được. Nhưng hiện giờ toàn thân gân cốt đều không linh hoạt, mắt nhìn thấy phát chưởng đánh tới mà hông sao né được. Bình một tiếng! Người lão tung đi rồi rớt xuống sân.

Bỗng nghe ba tiếng cười ha hả. Giọng cười khàn đục vọng vào trước cửa sảnh đường. Điền Quy Nông và thiếu phụ tưởng chừng phải nghe một thứ thanh âm đáng sợ nhất trên đời. Cả hai cùng sắc mặt trắng bệch như tờ giấy, người run bần bật. Điền Quy Nông đẩy mạnh thiếu phụ vào trong xe rồi nhảy lên lưng lừa, hai bắp chân kẹp chặt lại, vung roi quất lẹ cho lừa chạy. Ngờ đâu y quất luôn mấy roi, con lừa chỉ bước đi hai bước rồi đột nhiên dừng lại không chạy được nữa.

Mọi người đứng ở cửa sảnh đường nhìn qua làn nước mưa, thấy một đại hán vừa cao vừa gầy, tay trái ôm cái bọc, tay phải nắm lấy càng xe. Con lừa bị Điền Quy Nông thúc gấp quá, nó cúi đầu xuống cong lưng lại, bốn chân đều ráng sức nhích đi, nhưng đại hán ấn mạnh càng xe. Cỗ xe tựa hồ bị đóng đinh xuống đất, không xê xích được chút nào. Thần lực của người này thật là khủng khiếp.

Đại hán trầm giọng cười nhạt một tiếng. Điền Quy Nông còn ngần ngừ thì thiếu phụ trong xe đã chạy ra xuống xe lướt qua đại hán, nhưng không nhìn y, băng băng đi thẳng vào sảnh đường. Điền Quy Nông cũng từ từ nhảy xuống theo vào trong nhà. Toàn thân hắn ướt đẫm nước mưa mà tựa hồ chẳng biết gì. Ánh mắt thẫn thờ như người mất hồn. Thiếu phụ vẫy tay kêu hắn đến ngồi bên cạnh nàng.

Đại hán cao gầy sải bước tiến vào đại sảnh, ngồi xuống bên đống lửa, không nhìn ai. Y mở bọc, thì ra bên trong có đứa con gái chừng hai tuổi. Y sợ đứa nhỏ lạnh nên bồng nó sưởi ấm. Đứa nhỏ đang ngủ say. Bên khóe mắt còn đọng hai giọt lệ.

Mã Xuân Hoa, Từ Tranh và Thương Bảo Chấn đỡ Mã Hành Không dậy. Họ thấy Điền Quy Nông khiếp sợ đại hán cao gầy đều lấy làm kinh ngạc và mừng thầm. Mã Xuân Hoa hỏi:

– Gia gia ơi! Thương thế gia gia đã bớt chưa? Người… người này là ai vậy?

Mã Hành Không lắp bắp:

– Y… y là Đả biến thiên hạ vô địch thủ Kim diện Phật Miêu Nhân Phụng…

Lão ráng nói hết câu rồi đau quá lại ngất đi. Trong đại sảnh, bọn tiêu đầu và chạy cờ tập trung ở mé đông. Còn Diêm Cơ cùng bọn cướp xúm nhau lại ở góc nhà mé tây. Ba tên ngự tiền thị vệ cùng Thương Bảo Chấn đứng đằng sau ghế. Mọi người hướng mục quang hết nhìn Miêu Nhân Phụng lại ngó Điền Quy Nông và thiếu phụ.

Miêu Nhân Phụng nhìn đứa con gái nhỏ trong lòng, nét mặt đầy vẻ thương xót và trìu mến. Nếu mọi người chưa nhìn thấy y một tay nắm giữ càng xe, dùng thần lực kinh người khiến xe không nhúc nhích lên được chút nào thì chẳng ai tin nổi nhân vật này lại mang trong mình võ công tuyệt thế như vậy.

Thái độ của thiếu phụ vẫn thản nhiên, nàng ngồi nhìn đống lửa ngơ ngẩn xuất thần, khóe môi hé nụ cười lạt. Chỉ có ai cực kỳ tinh tế mới nhìn thấy miệng nàng rung động. Hiển nhiên lòng nàng đang vô cùng bồn chồn hồi hộp.

Điền Quy Nông mặt tái nhợt, đưa mắt nhìn ra ngoài trời mưa. Mục quang ba nhân vật này mỗi người một hướng, chẳng ai nhìn ai lần nào và đều lặng lẽ ngồi yên không nói một lời. Nhưng kỳ thực tâm trạng ba người đang xao động như những cơn sóng lớn dồn dập. Người thì hoan hỷ, người thì buồn rầu, người thì phẫn nộ lại vừa khiếp sợ.

Chương 02: Bảo đao với nhu tình

Miêu Nhân Phụng nhìn khuôn mặt xinh xắn của đứa bé, trong đầu lại hiện lên những việc đã xảy ra ba năm trước. Tuy đã ba năm mà vẫn còn rõ rệt như mới ba ngày. Hiện giờ, trời mưa như trút nước nhưng ngày này năm trước, tuyết rơi trắng trời trắng đất.

Đó là quang cảnh trên đường Thương Châu thuộc tỉnh Hà Bắc. Vào buổi chiều cuối năm, trên đường ít người qua lại, Miêu Nhân Phụng cưỡi con ngựa vàng chân dài đầu cao, lỏng buông tay khấu đi về phía Bắc.

Vào tháng chạp cách đây mười ba năm trước, Miêu Nhân Phụng đã tỷ võ với Liêu Đông đại hiệp là Hồ Nhất Đao ở Thương Châu. Y đã dùng lưỡi đao tẩm độc vô tình giết chết Hồ Nhất Đao. Hồ phu nhân cũng tuẫn tiết theo chồng. Miêu Nhân Phụng và Hồ Nhất Đao võ công và hào khí ngang nhau, cả hai đổi thù thành bạn, hết sức kính trọng nhau. Ngờ đâu chỉ vì một nhát đao lầm lỡ mà làm chết người bạn tri kỷ duy nhất.

Ngoại hiệu Miêu Nhân Phụng là: “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”, y tung hoành khắp thiên hạ mà không có đối thủ. Chỉ đến khi gặp Liêu Đông đại hiệp, hai người tỷ võ với nhau năm ngày, lại ngủ chung giường để bàn luận thâu đêm, cả hai mới gặp được địch thủ chân chính, hiểu rõ lòng nhau, coi nhau như tri kỷ. Từ ngày xảy ra việc bất hạnh này, hơn mười năm trời Miêu Nhân Phụng lúc nào cũng canh cánh trong lòng, u sầu buồn bã. Vợ chồng Hồ Nhất Đao qua đời đã đến kỳ hẹn mười năm. Miêu Nhân Phụng vượt ngàn dặm xa xôi từ tỉnh Triết Nam đến cúng tế trước mộ vong hữu.

Trời cuối năm đầy gió tuyết, Miêu Nhân Phụng cưỡi ngựa trong cảnh hoàng hôn, càng gần Thương Châu lòng càng buồn bã. Y cho ngựa đi thong thả, trong bụng nhủ thầm:

“Giả tỷ ngày đó mình không đánh lỡ một chiêu thì bữa nay đã được cùng vợ chồng Hồ thị, ba người cưỡi ngựa ngao du thiên hạ, đồng thời khiến bọn quan lại tham ô, thổ hào cường khấu đều phải kinh tâm động phách, thì vui sướng biết chừng nào?”

Đúng lúc y đang ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên phía sau có cỗ xe đội tuyết đi tới, tên phu xe hô lớn:

– Đi nào!

Đồng thời gã vung cây roi kêu “lách cách” để thúc con lừa. Một cỗ xe lớn xuyên qua vùng tuyết trắng mờ mịt chạy nhanh tới. Con lừa kéo xe miệng phì phò hơi trắng mà chạy rất nhanh dưới bầu trời gió tuyết. Cỗ xe lớn lướt qua bên mình Miêu Nhân Phụng. Đột nhiên trong xe có thanh âm phụ nữ rất dịu dàng cất lên:

– Gia gia! Khi đến kinh thành gia gia đưa hài nhi đi mua những cành cung hoa đeo chơi…

Nửa câu dưới không nghe rõ nữa. Đúng là thanh âm của một vị cô nương miền Giang nam nên mới dịu dàng ôn nhu như vậy. Ở vùng bình nguyên mạn bắc mịt mù gió tuyết này, tự nhiên giọng nói nổi bật hẳn lên.

Bỗng chân trái con lừa đạp trúng vào cái hố sâu, lập tức nó té quỵ xuống ngã nhào về phía trước. Tên phu xe nghiêng người tới trước, tiện tay kéo lên. Con lừa nương theo sức đó mà rút được chân khỏi hố rồi tiếp tục chạy về phía trước. Miêu Nhân Phụng thầm lấy làm lạ, tự hỏi:

“Người phu xe này chỉ nghiêng người kéo tay một cái, thân thủ đã mau lẹ, tý lực lại mạnh mẽ, có vẻ là một kỳ sỹ trong chốn phong trần, sao lại đi làm người đánh xe?”

Y còn đang ngẫm nghĩ bỗng nghe có tiếng bước chân. Phía sau là một cước phu gánh hành lý rảo bước đi tới. Gánh hàng làm cho cái đòn gánh bằng gỗ phải cong đi, hiển nhiên rất nặng. Tên cước phu vẫn thản nhiên gánh như không, bước nhanh trên tuyết một cách nhẹ nhàng. Miêu Nhân Phụng lại một phen kinh ngạc nghĩ thầm:

“Tên cước phu này chẳng những khỏe mạnh mà khinh công cũng vào hạng khá.”

Y đồ chừng trong vụ này có điều uẩn khúc, bụng bảo dạ:

“Dường như tên cước phu này đang theo dõi tên xa phu kia. Không chừng đây là một việc tầm cừu đánh giết nhau.”

Y liền ghìm cương cho ngựa chạy vừa phải theo cỗ xe để xem rốt cuộc sự việc diễn biến ra sao. Đi chừng vài dặm, Miêu Nhân Phụng ngó lại thấy tên cước phu tuy gánh nặng mà vẫn chạy nhanh như bay. Đột nhiên lại nghe phía sau có tiếng loảng xoảng. Một hán tử gánh đồ hàn nồi đang chạy tới. Người này cũng chân bước rất nhẹ nhàng, tuy chưa đến trình độ “đạp tuyết vô ngân” nhưng khinh công đã vào hạng hiếm có trong võ lâm.

Miêu Nhân Phụng thầm nghĩ:

“Lại thêm một người nữa. Không hiểu bọn họ thuộc môn phái nào?”

Y ngó thấy nón và áo tơi gã tuyết phủ trắng xóa. Bước chân gã liêu xiêu trong gió. Miêu Nhân Phụng liền tỉnh ngộ tự nhủ:

“Đây là công phu Nhạn hành công của Chung gia ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạn Bắc.”

Lại đi thêm bảy, tám dặm thì đến một tiểu thị trấn vào lúc gần tối. Miêu Nhân Phụng thấy cỗ xe lớn dừng lại trước một khách điếm, y cũng vào đấy tá túc. Khách điếm này rất nhỏ và duy nhất trong thị trấn. Những khách thương ngồi chật trong sảnh đường đang sưởi lửa. Tên xa phu, tên cước phu và gã thợ hàn nồi cũng ngồi trong đám này.

Miêu Nhân Phụng tuy nổi tiếng khắp thiên hạ, nhưng gần mười năm nay ẩn cư ở đất Triết Nam nên trong võ lâm ít ai biết đến. Ba tên cước phu, xa phu và gã thợ hàn nồi tựa hồ cũng quen nhau. Miêu Nhân Phụng lẳng lặng ngồi xuống bên cái bàn nhỏ, gọi lấy cơm rượu. Y thấy ba người kia cũng ngồi ăn cơm uống rượu riêng, xem chừng không phải một phe. Bỗng nghe một người từ nội viện đi ra, nói:

– Thưa Nam đại nhân cùng tiểu thư, tiểu điếm nhỏ hẹp nên đành ủy khuất hai vị một chút, xin mời ra ngoài sảnh đường dùng cơm.

Rèm vừa vén lên, điếm tiểu nhị dẫn một viên quan và một tiểu thư vào sảnh đường. Những khách thương đang ngồi thấy vị khách quan này tới liền lục tục đứng dậy. Miêu Nhân Phụng chẳng quan tâm, cứ ngồi uống rượu.

Viên quan mặc áo đoạn vàng nhạt, gương mặt béo phị trắng trẻo, đầy vẻ phúc tướng. Còn vị tiểu thư dung nhan rất xinh đẹp, nước da trắng nõn, đừng nói ở phương bắc ít có một người đẹp như vậy, mà ngay cả Giang nam cũng rất hiếm hoi. Nàng mặc áo gấm màu lục càng nổi bật lên, nhưng vì nàng quá đẹp nên so với dung nhan tuyệt sắc của nàng, gấm đoạn dù rực rỡ đến đâu cũng biến thành vô nghĩa.

Mọi người mắt sáng rực cả lên, bất giác không khỏi tự thẹn thân mình thấp hèn. Thậm chí mấy người len lén rút lui ra ngoài hiên, để lại trong sảnh đường một khoảng trống.

Chủ quán một điều đại nhân, hai điều tiểu thư, bưng cơm rót rượu ra vẻ rất ân cần. Miêu Nhân Phụng nghe tiếng hắn hô hoán gọi cơm rượu, trung khí đầy rẫy thì không khỏi để ý. Y thấy chủ quán hai lưỡng quyền nhô lên, hiển nhiên là một tay nội công thâm hậu, bất giác lại càng thấy làm kỳ quái, tự hỏi:

“Bọn này tất có mưu đồ trọng đại. Ta cứ ung dung ngồi xem trận náo nhiệt này, coi thử bọn họ làm những việc tốt lành hay tệ hại? Không hiểu việc đó có liên quan gì đến viên quan kia không?”

Vì y chú ý đến chuyện âm mưu của bọn này nên không khỏi dòm ngó viên quan và tiều thư mấy lần. Vị quan kia đột nhiên đập bàn chỉ tay vào mặt Miêu Nhân Phụng lớn tiếng mắng:

– Mi là cái thá gì mà thấy quan lại đã chẳng tránh đi thì chớ, lại còn giương mắt nhìn trân trân như vậy? Ta xem mi tay thô chân lớn, đúng là phường ăn cướp. Mi mà còn nhìn lần nữa, ta sẽ bắt giải ngươi về huyện đánh cho một trận tan xương nát thịt cho biết tay.

Miêu Nhân Phụng lại cúi đầu xuống uống rượu, chẳng lý gì đến. Viên quan kia càng tức giận, quát:

– Ngươi không biết thỉnh an tạ tội ư? Sao còn dám ngồi lỳ ra đó?

Vị tiểu thư nhỏ nhẹ khuyên can:

– Gia gia! Gia gia chớ nên nóng giận làm gì. Họ là người ở hương thôn không hiểu lễ nghi quy củ là chuyện thường tình.Gia gia hà tất phải chấp trách với kẻ dân dã cục mịch. Này! Gia gia hãy uống chung rượu này đi!

Cô nói rồi cầm chung rượu kề vào miệng vị quan. Vị này uống ừng ực một hơi cạn sạch, tựa hồ nuốt cả khí tức vào bụng, rồi lườm Miêu Nhân Phụng một cái. Lão vẫn thấy y cúi đầu không nói gì cho là y đã sợ, liền tiếp tục ăn uống cười nói với con gái. Lão nói toàn chuyện sau khi đến Bắc Kinh sẽ được bổ làm quan ra sao. Đúng là thái độ của người lai kinh vận động chức quan hậu bổ.

Trong khi đang nói chuyện, cửa lớn bị đẩy ra, gió tuyết thổi vào một mảng. Tiếp theo một viên quan nữa bước vào. Người này ốm o, nước da vàng ủng, không ra dáng vẻ quan nha. Hắn lớn tiếng cười nói:

– Nhân sinh hà xứ bất tương phùng? Lại gặp Nhân Thông ở đây. Thật là tuyệt hảo.

Hắn nói rồi tiến lại trước mặt quan viên họ Nam, làm lễ tương kiến. Cha con họ Nam đứng cả dậy chắp tay đáp:

– Điều Hầu huynh! Hạnh hội! Mời huynh ngồi.

Gã được gọi là “Điều Hầu huynh” cảm ơn rồi ngồi xuống. Gọi chủ quán lấy thêm đũa chén và rượu thịt. Miêu Nhân Phụng nghĩ thầm:

“Cả tên Điều Hầu huynh này nữa là năm tay cao thủ. Cha con họ Nam trông không có vẻ gì là biết võ công. Chẳng lẽ họ là hạng đại trí nhược ngu, ta trông lầm chăng?”

Y nghĩ tới đây bất giác ngấm ngầm cảnh giới, không dám dòm ngó bọn họ lần nào nữa. Nên biết cái ngoại hiệu: “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” của y đã phạm vào điều đại kỵ trong võ lâm. Thử hỏi bao nhiêu anh hùng hảo hán trong thiên hạ có ai không muốn hạ bệ uy thế ngoại hiệu này? Miêu Nhân Phụng một đời trải qua nhiều phen hung hiểm gấp trăm người thường cũng chỉ vì ngoại hiệu đó. Y tự nhủ:

“Không chừng mấy người kia cũng chỉ vì tìm ta nên mới tới đây. Chỉ việc bọn chúng kết bè kết đảng xông vào cũng đủ phiền cho mình rồi, không chừng phía trước còn có cao thủ mai phục nữa.”

Y lắng tai nghe Điều Hầu huynh cùng Nam Nhân Thông cao đàm khoát luận. Họ nói toàn về việc thăng quan tiến chức trong đám quan trường. Ngoài hành lang, tên cước phu và tên thợ hàn cũng cãi vã om sòm. Chúng tranh luận về chuyện trên đời có thanh bảo đao chặt sắt như cắt bùn hay không? Tên cước phu nói:

– Cái gì mà chặt sắt như cắt bùn? Toàn là nói khoác. Thanh bảo đao kia bất quá chỉ là sắc bén hơn đao thường một chút rồi người ta khoác lác thêm lên.

Tên thợ hàn đáp:

– Ngươi thì biết gì mà nói? Bảo đao là bảo đao. Nếu ta không sợ làm cho người bở vía thì ta lấy cho ngươi coi một thanh để ngươi mở rộng tấm mắt.

Tên cước phu la lên:

– Ngươi mà có bảo đao ư? Hừ! Thôi đừng có mà mơ mộng hão huyền. Ngươi có bảo đao thì đã chẳng làm nghề hàn nồi. Ta e rằng “bảo đao” của ngươi chẳng qua chỉ là cái rựa cùn chặt củi không đứt, hay con dao thái rau gì đó mà thôi.

Mọi người nghe nói đều cười ồ cả lên. Tên thợ hàn tức giận hầm hầm chạy ra gánh lấy một thanh đao đem vào. Túi đao bằng da màu lục, miệng túi thêu chỉ vàng có vẻ khác thường. Gã rút đao ra khỏi vỏ đánh soạt một tiếng, ánh hàn quang lấp loáng lạnh người. Quả nhiên là một thanh lợi đao.

Mọi người đều trầm trồ:

– Thanh đao này tốt thật!

Tên thợ hàn giơ đao lên ra thế như muốn chém xuống đầu tên cước phu. Tên cước phu ôm đầu la hoảng:

– Ối mẹ ơi!

Rồi hốt hoảng né tránh. Mọi người lại phá lên cười. Miêu Nhân Phụng nhìn vẻ mặt hai người bụng bảo dạ:

“Hai tên này đúng là một phe nhưng chúng giả vờ diễn kịch, chắc không phải để ta coi.”

Tên thợ hàn hỏi tiểu nhị:

– Ngươi có đao chẻ củi hay thái rau cho ta mượn một con.

Điếm tiểu nhị dạ một tiếng chạy xuống bếp lấy một con dao thái rau. Tên thợ hàn bảo:

– Ngươi cầm cho chắc nhé!

Gã điếm tiểu nhị cầm dao đưa cao ngang tầm. Tên thợ hàn liền vung đao chém đánh choang một tiếng. Con dao thái rau liền bị chặt đứt làm hai đoạn. Mọi người đồng thanh hoan hô:

– Quả là một thanh bảo đao!

Gã thợ hàn nồi nhơn nhơn đắc ý, lại càng khoác lác, phô trương lưỡi đao này lợi hại thế nào, quý giá làm sao khiến mọi người ngồi dưới hành lang đều ra chiều ngưỡng mộ, chú ý lắng nghe. Nam Nhân Thông nghe hắn nói một hồi không nhịn được nữa, hừ một tiếng lộ vẻ bực mình. Điều Hầu huynh nói:

– Nam Thông huynh! Thanh đao kia tốt quá, quả xứng với chức “bảo”. Không hiểu bọn tiểu tốt kia làm sao có được thanh đao phú quý như vậy!

Nam Nhân Thông đáp:

– Thanh đao đó sắc thật, nhưng gọi là bảo đao thì chưa chắc.

Vị Điều Hầu huynh nói:

– Nam huynh nói thế là sai. Thanh đao này chặt sắt như cắt bùn. Trên đời làm gì còn thứ đao nào hơn nó nữa?

Nam Nhân Thông cười đáp:

– Ngô huynh vì hiểu biết ít, cái gì cũng cho là hay. Huynh đệ…

Hắn toan nói nữa thì Nam tiểu thư đột nhiên ngắt lười:

– Gia gia ơi! Gia gia hãy uống rượu và ăn cơm nhanh đi rồi còn đi ngủ.

Nam Nhân Thông cười đáp:

– Ha Ha! Con nha đầu chỉ muốn xen vào việc của gia gia.

Tuy lão nói vậy nhưng cũng ăn cơm, thôi không uống rượu nữa. Vị Điều hầu huynh lại nói:

– Bữa nay tiểu đệ mới được mở rộng tầm mắt. Bình sinh trong đời, đây lần đầu tiểu đệ được thấy một thanh bảo đao.

Nam Nhân Thông cười lạt nói:

– Tiểu đệ đã từng thấy những thanh bảo đao còn sắc bén gấp mười.

Vị Điều Hầu huynh cười khanh khách nói:

– Thật nực cười! Thật nực cười! Huynh đài là một vị quan văn thì làm sao mà biết được bảo đao?

Tên thợ hàn nghe hai người đối đáp liền lớn tiếng:

– Nếu trên đời còn thanh bảo đao nào hơn được thanh đao này thì ta nguyện cắt đầu đưa cho họ. Nói khoác thì ai mà không nói được? Hà hà! Nếu ta bảo con ta làm đến chức quan ngũ phẩm các vị có tin được không?

Mọi người vội quát:

– Câm miệng đi! Đừng nói càn nữa.

Nam Nhân Thông tức quá sắc mặt tái nhợt. Lão đứng phắt dậy rảo bước đi vào trong phòng. Nam tiểu thư liền gọi giật lại:

– Gia gia!

Nam Nhân Thông cứ thây kệ, lát sau y tay cầm thanh trường đao dài ba thước trở ra. Túi đao đen sì chẳng có chi khác lạ. Y lớn tiếng nói:

– Này, tên thợ hàn nồi kia! Ta có thanh đao này đem tỷ thí với ngươi. Nếu ngươi thua thì cắt đầu đưa cho ta.

Tên thợ hàn đáp:

– Nếu lão gia thua thì sao?

Nam Nhân Thông tức mình đáp:

– Nếu ta thua thì ta cũng cắt đầu đưa cho ngươi.

Nam tiểu thư lại khuyên nhủ:

– Gia gia! Gia gia uống nhiều quá rồi, sinh chuyện với họ làm chi? Thôi gia gia về phòng mà nghỉ đi.

Nam Nhân Thông dường như tỉnh ngộ, đằng hắng một tiếng rồi trở gót đi vào. Tên thợ hàn thấy Nam Nhân Thông trở gót liền nói khích một câu:

– Dù lão gia có thua, tiểu nhân cũng chẳng khi nào dám lấy đầu lão gia. Chi bằng lão gia cho tiểu nhân làm nữ tế thì hay hơn.

Mọi người nghe nói có kẻ phì cười, có người trách gã ăn nói bừa bãi. Nam tiểu thư vừa tức vừa thẹn, mặt đỏ bừng lên, không nói gì nữa, hậm hực đi về phòng. Nam Nhân Thông từ từ rút đao ra chừng nửa thước, mọi người đã thấy một luồng sáng xanh tỏa khí lạnh ghê người. Lúc y rút hết đao ra khỏi vỏ, ánh hàn quang lấp loáng khiến mọi người hoa mắt. Nam Nhân Thông nói:

– Thanh đao của ta tên gọi “Lãnh nguyệt bảo đao”, ngươi nhìn rõ rồi chứ?

Tên thợ hàn liền đến gần để xem. Gã thấy trên chuôi đao khảm hình vành trăng lưỡi liềm bằng kim ty và ngân ty, liền nói:

– Thanh đao của lão gia quả tốt quá, bất tất phải tỷ thí nữa.

Miêu Nhân Phụng thấy bọn chúng dùng lời nói khích để Nam Nhân Thông lấy bảo đao ra liền nhủ thầm:

“Té ra bọn chúng vì thanh đao này mà đến đây. Kẻ sĩ học võ coi bảo kiếm lợi đao quý như tính mạng. Người có binh khí sắc bén cũng bằng như võ công tăng lên mấy phần. Nam Nhân Thông mang thanh đao này, trách sao bọn họ không them thuồng. Có điều họ Nam là một văn quan thì y lấy được thanh đao này ở đâu? Vì lẽ gì bọn kia biết rõ?

Ban đầu Miêu Nhân Nhụng chỉ đề phòng những người này có âm mưu gì với mình, nên y ngấm ngầm cảnh giác. Bây giờ y biết mục đích của họ là đoạt thanh đao này, lòng y bình thản trở lại, biến thành kẻ bàng quan. Y thấy khi thanh bảo đao ấy rút ra khỏi vỏ, thì vị Điều Hầu huynh, chủ quán, cước phu, xa phu và tên thợ hàn đều xúm lại. Miêu Nhân Phụng biết cả năm người cùng muốn cướp thanh đao, nhưng tên nọ e dè tên kia bản lãnh ghê gớm hơn nên chưa ai dám hạ thủ, không thì Nam Nhân Thông chẳng đủ sức trói gà làm gì giữ được bảo đao cho đến bây giờ?

Nam Nhân Thông căm hận tên thợ hàn thốt ra những lời khinh bạc, lăm le muốn tý tỉ thí song thấy thanh đao của gã cũng cực kỳ sắc bén, cũng là bảo vật phi thường, nếu lâm vào tình trạng lưỡng bại câu thương thì há chẳng tổn hại đến vật chí bảo?

Y nghĩ vậy, bèn bảo tên thợ hàn:

– Người biết thế là hay. Từ nay người còn dám ăn nói hồ đồ nữa không?

Nam Nhân Thông toan tra đao vào vỏ thì vị Điền Hầu huynh đột nhiên vươn tay ra đoạt lấy bảo đao. Y vung tay chém vào thanh đao trong tay tên thợ hàn, nghe “choang” một tiếng nhỏ, thanh đao tên thợ hàn bị đứt làm hai đoạn. Tiếp theo nghe “keng” một tiếng, mũi đao gãy rớt xuống đất.

Tên thợ hàn, tên cước phu, tên xa phu và chủ quán liền bao vây vị Điều Hầu huynh muốn động thủ liền. Vị Điều Hầu huynh tuy cầm bảo đao trong tay nhưng biết không địch lại số đông, liền đưa đao trả lại Nam Nhân Thông. Hắn chìa ngón tay cái lên nói:

– Quả là bảo đao!

Nam Nhân Thông mặt mày biến sắc, lên giọng trách móc:

– Hừ! Điều Hầu huynh thật lỗ mãng quá.

Y nhìn lại thấy bảo đao không việc gì mới hể hả tra đao vào vỏ, quay gót vào phòng ngủ.

Miêu Nhân Phụng biết rõ vừa rồi năm người kia nói khích khiến cho Nam Nhân Thông lấy đao ra tỷ thí để kiểm chứng sự thật. Tất một ngày gần đây năm gã này sẽ đấu một trận thịt rơi máu chảy. Miêu Nhân Phụng tuy có tấm lòng nghĩa hiệp nhưng thấy Nam Nhân Thông cũng là loại người ngang ngược chứ chẳng phải hạng tử tế gì. Y còn e thanh bảo đao kia lão đã cưỡng đoạt của người ta. Y đã định bụng đến Liêu Đông tế mộ nên không quan tâm gì đến chuyện này nữa.

Sáng sớm hôm sau, Nam Nhân Thông đã lên đường. Dĩ nhiên bọn thợ hàn không ở lại trong điếm, cả chủ quán cũng bỏ đi. Miêu Nhân Phụng hỏi ra thì quả nhiên một tên khách hung ác mới đến chiều hôm qua đã cho nhà quán mười lạng bạc để hóa trang làm chủ quán. Miêu Nhân Phụng than thầm:

“Người ta thường bảo: “Chứa của gian tức là mời bọn trộm tới”, quả không ngoa chút nào!”

Y trả tiền nhà quán xong, bèn cưỡi ngựa lên đường. Đi được hợn hai chục dặm, Miêu Nhân Phụng bỗng nghe trong hang núi mé Tây có tiếng đàn bà kêu cứu rất thảm thiết. Chính là thanh âm của Nam tiểu thư. Miêu Nhân Phụng bụng bảo dạ:

“Bọn ác tặc này đã đoạt đao còn muốn giết người, ta chẳng thể không can thiệp.”

Y liền nhảy xuống ngựa, thi triền khinh công lao về phía phát ra tiếng kêu cứu. Y vừa đi qua hai khúc quanh đã thấy máu đào lai láng trên đất tuyết. Nam Nhân Thông đầu một nơi, mình một nẻo, chết ngay tại đương trường. Thanh “Lãnh nguyệt bảo đao” để nằm ngang lên mình lão. Năm tên ác nhân không một ai dám vươn tay ra lấy trước. Nam tiểu thư bị tên thợ hàn nắm chặt lấy hai tay không cử động được. Miêu Nhân Phụng nấp phía sau tảng đá lớn để quan sát động tĩnh. Bỗng nghe vị Điều Hầu huynh cất tiếng hỏi:

– Bảo đao chỉ có một mà cả năm người đều muốn lấy, biết làm thế nào?

Tên cước phu đáp:

– Bây giờ chỉ dựa vào võ công để phân cao thấp, ai thắng được thì lấy đao. Vậy là công bằng.

Vị Điều Hầu Huynh liếc mắt nhìn Nam tiểu thư, nói:

– Bảo đao cùng mỹ nhân đều là vật khó kiếm.

Tên thợ hàn nói:

– Tại hạ không tranh đoạt bảo đao, chỉ lấy cô nương này mà thôi.

Tên chủ quán giả cười lạt, đáp:

– Làm gì có chuyện dễ dàng như thế được. Người nào võ công cao nhất sẽ lấy bảo đao, người võ công thứ nhì sẽ lấy mỹ nhân.

Tên cước phu và tên xa phu đồng thanh:

– Phải rồi! Như thế mới phải.

Tên chủ quán giả liển nhìn tên thợ hàn, nói:

– Lão huynh, phiền lão huynh buông tay ra. Không chừng tại hạ bản lãnh vào hàng thứ hai thì nàng sẽ làm vợ tại hạ.

Vị Điều Hầu huynh cười nói:

– Đúng thế!

Rồi hắn quay lại nhìn Nam tiểu thư lớn tiếng:

– Ngươi mà còn kêu la một tiếng là ta chém chết ngay.

Tên thợ hàn buông tay ra. Nam tiểu thư phục xuống thi thể phụ thân mà khóc thút thít. Tên xa phu cười nói:

– Tiểu thư! Đừng khóc nữa! Tiểu thư hãy chờ một lúc sẽ có người cho tiểu thư nếm mùi khoái lạc.

Gã đưa tay sờ vào lưng nàng, vẻ mặt ra chiều cực kỳ khinh bạc. Miêu Nhân Phụng không nhịn được nữa, liền từ sau phiến đá nhảy ra trầm giọng quát:

– Quân đê tiện kia! Các ngươi cút hết đi!

Cả năm người giật mình kinh hãi, đồng thanh quát bảo:

– Ngươi là ai?

Miêu Nhân Phụng bản tính ít nói chỉ xua tay đáp:

– Cút hết đi!

Tên thợ hàn tính rất nóng nảy, tung mình nhảy xô lại phóng song chưởng đánh tới, miệng gã quát:

– Ngươi cút đi!

Miêu Nhân Phụng vung tả chưởng lên, dùng ngạnh lực tiếp ngạnh lực của gã, vung tay đánh mạnh ra. Tên thợ hàn bị hất lên không bay đi hơn một trượng rồi té xuống, hồi lâu không bò dậy được. Cả bốn tên còn lại thấy y thần dũng như vậy đều bở vía, đứng ngẩn ra hồi lâu rồi đồng thanh hỏi:

– Ngươi là ai?

Miêu Nhân Phụng lại xua tay, lần này chỉ đáp một tiếng nhanh gọn:

– Cút!

Tên xa phu rút cây nhuyễn tiên ở sau lưng ra. Tên cước phu cũng rút đòn gánh cùng nhảy xổ vào. Miêu Nhân Phụng biết năm tên này là kình địch, nếu để chúng liên thủ tấn công thì nhất thời khó bề thủ thắng. Y liền ra tay bằng một chiêu cực kỳ lợi hại, lập tức né mình tránh khỏi cây nhuyễn tiên rồi vươn tay phải chộp lẹ lấy một đầu đòn gánh, vận nội lực rung một cái cho bật lên tiếng lách cách. Cái đòn gánh gỗ táo liền đứt thành hai đoạn. Đột nhiên y tung chân trái ra đá tên phu xa lộn đi mấy vòng. Tên cước phu toan lùi lại nhưng Miêu Nhân Phụng vươn tay ra chụp lấy sau gáy gã, quát một tiếng lớn rồi nhấc bổng gã lên, liệng mạnh một cái. Tên cước phu khác nào diều đứt dây tung ra ngoài mấy trượng té huỵch xuống đất đầy tuyết phủ.

Điều Hầu huynh biết mình không địch nổi liền nói:

– Bội phục! Bội phục! Thanh bảo đao này thuộc về các hạ.

Hắn vừa nói vừa cúi xưống lượm thanh bảo đao hai tay đưa lại. Miêu Nhân Phụng đáp:

– Ta không lấy. Ngươi đưa cho chủ cũ.

Vị Điều Hầu huynh sửng sốt, nghĩ bụng:

“Trên đời này sao có người tốt như vậy?”

Hắn ngửng đầu lên nhìn thấy đối phương mặt vàng như nghệ, thần oai lẫm liệt, chợt nhớ ra điều gì liền nói:

– Té ra các hạ là Kim diện Phật Miêu đại hiệp.

Miêu Nhân Phụng gật đầu. Gã Điều Hầu huynh lại nói:

– Bọn ta có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn. Nay đã thất bại dưới tay Miêu đại hiệp còn nói sao được nữa?

Hắn cầm đao dâng lên nói tiếp:

– Tiểu nhân là Tưởng Điều Hầu, được gặp bậc đại hiệp đương thời thật là tam sinh hữu hạnh. Thanh bảo đao này xin để Miêu đại hiệp xử trí.

Miêu Nhân Phụng không muốn người ta nói nhiều, toan cầm lấy để giao lại cho Nam tiểu thư. Y liền vươn tay ra cầm chuôi đao. Đột nhiên hai tiếng veo véo vang lên. Miêu Nhân Phụng thấy bắp đùi ngâm ngẩm đau. Tưởng Điều Hầu nhảy vọt ra xa hơn một trượng, y chạy về phía trước. Miệng hắn la:

– Y trúng phải “Tuyệt môn độc châm” của ta rồi. Mau mau giữ lấy y.

Miêu Nhân Phụng nghe thấy bốn chữ “Tuyệt môn độc châm”, bất giác “ủa” một tiếng nghĩ thầm:

“Độc châm của họ Tưởng ở Vân Nam nổi danh thiên hạ. Chuyến này ta: trúng phải ngụy kế của chúng rồi.”

Y biết thứ ám khí này kịch độc phi thường, liền hít một hơi chân khí lao về phía trước. Chỉ trong khoảnh khác đã túm được Tưởng Điều Hầu. Y thọc ngón tay vào dưới nách hắn để điểm huyệt rồi liệng xuống đất. Tên xa phu và tên cước phu thua chạy liểng xiểng, bỗng nghe địch nhân trúng độc châm, bất giác hớn hở vô cùng. Nhưng chúng chỉ nhìn từ xa chứ không dám lại gần, chờ cho Miêu Nhân Phụng bị chất độc phát tác.

Miêu Nhân Phụng không dám hô hấp, y liền thi triển khinh công tuyệt đỉnh rượt liền tên cước phu. Tên cước phu chẳng còn hồn vía nào nữa, vắt giò lên cổ mà chạy. Miêu Nhân Phụng đuổi đến sau lưng, không chậm trễ một giây, vung hữu chưởng đánh ra làm cho gã ngũ tạng tan nát cả. Miêu Nhân Phụng hạ tên cước phu rồi quay đuổi tên xa phu, chớp mắt đã tới trước mặt gã. Tên xa phu huy động nhuyễn tiên bảo vệ thân mình. Gã chỉ mong chống được bảy, tám chiêu là chất độc trong mình đối phương sẽ phát tác. Nhưng Miêu Nhân Phụng làm gì phải chiết chiêu với gã. Y vươn bàn tay to tướng nắm đầu cây nhuyễn tiên đoạt lấy, vung tay một cái đập đầu gã vỡ nát.

Miều Nhân Phụng đánh chết luôn hai tên thì cảm thấy bắp chân đã tê chồn. Gặp lúc nguy cấp đến nơi, không có được một giây để thở, nhìn lại thì tên thợ hàn và tên chủ quán giả đã chạy xa mấy chục trượng. Hai tên này cùng chung một ý nghĩ là cố chạy trốn cho xa để chờ địch nhân ngã gục.

Miêu Nhân Phụng bản tâm không muốn giết hại người, nhưng lúc này mà để một tên sống sót, mình bị chất độc phát tác ngã ra tức là giao tính mạng vào tay chúng. Y liền rít chặt lại hai hàm răng, tay cầm nhuyễn tiên rượt theo tên chủ quán giả. Tên này vô cùng xảo quyệt, tìm chỗ có bùn lầy và hang hố mà chạy. Nhưng Miêu Nhân Phụng khinh công trác tuyệt, chớp mắt đã đuổi kịp. Tên chủ quán giả thấy mình khó thoát liền cầm chủy thủ nhảy xổ lại. Miều Nhân Phụng lập tức xoay mình rất lẹ phóng chân đá về phía sau mà không thèm ngó lại, rồi lập tức đề khí vọt đi rượt theo tên thợ hàn. Ngọn cước vừa rồi quả nhiên đã trúng vào trước ngực tên chủ quán giả. Miệng hắn phun máu tươi không ngớt, ngã ngửa chết ngay. Tên thợ hàn tuy võ công tầm thường, nhưng khinh công của Chung gia ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạc Bắc truyền thụ thuộc vào hàng đệ nhất của võ lâm.

Miêu Nhân Phụng càng ráng sức rượt theo, chất độc càng phát tác mau lẹ. Chân bước đã loạng choạng, rốt cuộc không thể đuổi kịp được. Tên thợ hàn thấy vậy khấp khởi mừng thầm, tự nhủ:

“Như vậy là hoàng thiên phù hộ, ta không cần ra tay mà lấy được cả bảo đao lẫn mỹ nhân.”

Gã còn đang ngẫm nghĩ thì đột nhiên có tiếng véo véo vang lên. Một vật đen sì trên không bay vút tới. Gã toan né tránh thì đã không kịp nữa. Nguyên Miêu Nhân Phụng biết là đuổi gã không kịp, liền chấn khởi thần lực liệng cây nhuyễn tiên ra. Cây nhuyễn tiên được đúc bằng thép đánh thẳng vào bụng tên thợ hàn, hắn ngã lăn trên tuyết, chết ngay lập tức. Lúc này, Miêu Nhân Phụng không thể chống chọi được nữa, ngã lăn xuống đất. Nam tiểu thư đang quỳ phục bên thi thể phụ thân, liếc mắt nhìn thấy cuộc ác chiến kinh tâm động phách. Nàng khiếp sợ quá đến ngây người ra. Sau nàng thấy Miêu Nhân Phụng té xuống, vội chạy đến đỡ lấy, nhưng người y vừa cao vừa lớn, nàng thì lại yếu đuối làm sao đỡ cho nổi?

Miêu Nhân Phụng thần trí hãy còn tỉnh táo nhưng nửa người dưới cứng đơ như gỗ. Y trỏ vào mình Tưởng Điều Hầu nói:

– Cô tìm trong người y lấy thuốc giải cho tại hạ uống.

Nam tiểu thư theo lời quả nhiên mò được một bình thuốc nhỏ, liền hỏi lại Miêu Nhân Phụng:

– Có phải cái này không?

Miêu Nhân Phụng đã mơ mơ màng màng nên không thể phân biệt được đó là thuốc gì, miệng đáp:

– Bất luận có phải hay không, cứ uống… uống rồi sẽ liệu.

Nam tiểu thư mở nút, đổ nửa bình thuốc vàng ra tay rồi trút vào miệng Miêu Nhân Phụng. Miêu Nhân Phụng cố sức nuốt thuốc vào rồi nói:

– Giết hắn ngay đi.

Nam tiểu thư kinh hãi, ấp úng đáp:

– Tiểu nữ… không dám giết… giết người…

Miêu Nhân Phụng lớn tiếng:

– Y là cừu nhân đã sát hại lệnh tôn.

Nam tiểu thư nhắc lại:

– Tiểu nữ… tiểu nữ không dám…

Miêu Nhân Phụng gắt lên:

– Lát nữa… hắn tự giải khai được huyệt đạo… tại hạ lại bị thương rất nặng… cả hai chúng ta sẽ không có đất mà chôn thây đâu.

Nam tiểu thư hai tay cầm bảo đao, rút đao ra khỏi vỏ nhưng thấy trong khóe mắt của Tưởng Điền Hầu lộ vẻ van lơn mà nàng từ thuở nhỏ đến giết con gà, con cá cũng không dám thì làm sao giết người được? Miêu Nhân Phụng trong lòng nóng nảy, lớn tiếng quát:

– Cô không giết hắn thì giết ta đi!

Nam tiểu thư giật mình kinh hãi, người nàng run bắn lên, buông thanh đao rơi xuống. Thanh đao này có thể chém tan bia vỡ đá. Lưỡi đao rớt trúng đầu Tưởng Điều Hầu. Bỗng nghe Nam tiểu thư cùng Tưởng Điều Hầu cùng rú lên một tiếng. Nam Tiểu thư té xỉu, đè lên mình Miêu Nhân Phụng. Còn đầu Tưởng Điều Hầu bị bảo đao chém vỡ đôi.

Miêu Nhân Phụng ôn chuyện cũ tới đây thì đứa nhỏ trong lòng tỉnh lại, vừa khóc vừa hỏi:

– Gia gia! Má má đâu rồi? Con muốn gặp má má.

Miêu Nhân Phụng chưa kịp trả lời, đứa nhỏ quay đầu nhìn ra thấy thiếu phụ xinh đẹp ngồi bên đống lửa. Nó dang hai tay gọi rối rít:

– Má má! Má má Lan Lan kiếm má má hoài!

Nó mừng quá nhảy lên, muốn chạy lại ôm lấy thiếu phụ. Mọi người trong nhà thấy đứa nhỏ xưng Miêu Nhân Phụng là “gia gia”, lại gọi thiếu phụ là má má” đều lấy làm kinh ngạc, tự hỏi:

“Thiếu phụ kia rõ ràng là vợ Điền Quy Nông mà sao lại là mẫu thân của con gái Miêu Nhân Phụng được?”

Đứa nhỏ vẫn kêu hai tiếng “má má” khiến cho bầu không khí ở trong đại sảnh càng thêm ngột ngạt. Mấy chục người lớn đều lộ vẻ ngơ ngác. Chỉ một đứa là nhảy nhót mừng rỡ. Thiếu phụ đứng lên đi đến bên Miêu Nhân Phụng, bồng lấy đứa nhỏ. Đứa nhỏ cười nói:

– Má má ơi! Lan Lan kiếm má má hoài. Má má về nhà đi nhé!

Thiếu phụ ôm chặt lấy đứa con nhỏ, áp khuôn mặt xinh đẹp vào má nó. Lúc nãy khi ngủ, khóe mắt đứa nhỏ hãy còn ngấn lệ chưa khô, bây giờ lại thêm nước mắt của mẫu thân nhỏ xuống nữa.

Quái hán cụt tay, mặt có vết sẹo vẫn ngồi co ro trong góc nhà, lẳng lặng nhìn mọi người, bây giờ mới sè sẹ đứng dậy đi tới trước mặt Diêm Cơ. Lão ghé miệng vào tai gã thì thầm mấy câu. Diêm Cơ biến sắc đột nhiên đứng dậy. Gã liếc nhìn Miêu Nhân Phụng ra chiều khiếp sợ. Gã từ từ thò tay vào bọc lấy ra cái túi nhỏ bằng giấy dầu. Người cụt tay cướp lấy mở coi thì bên trong có hai mảnh giấy đen. Lão lẩm nhẩm gật đầu, gói lại bỏ vào trong bụng, xong quay về góc nhà ngồi xuống.

Thiếu phụ đưa tay áo lên lau nước mắt. Đột nhiên nàng hôn vào má đứa nhỏ một cái thật lâu. Khóe mắt đỏ hoe, nàng lại sa lệ. Sau nàng ráng nhẫn nại đứng lên, đưa trả đứa nhỏ cho Miêu Nhân Phụng. Đứa nhỏ gọi thét lên:

– Má má! Má má! Bồng Lan Lan đi!

Thiếu phụ quay lưng về phía đứa nhỏ. Người nàng cứng đơ như xác chết, thủy chung không quay lại nữa. Miêu Nhân Phụng nhẫn nại chờ đợi… chờ đợi thiếu phụ lên tiếng đáp lại… chờ đợi nàng quay lại nhìn con gái một lần nữa. Trong lòng Miêu Nhân Phụng muốn kéo thị lại, đạp xuống dưới chân rồi phóng chưởng đánh chết thị nhưng y biết trong đám người này sẽ có kẻ liều chết cản trở. Bản lãnh y quán tuyệt thiên hạ không ai địch nổi, nhưng lòng dạ y lại mềm yếu, chỉ vì y yêu tha thiết thiếu phụ đang đứng trước mặt kia.

Y nghe đứa nhỏ gào khóc:

– Má Má! Má má! Bồng Lan Lan đi!

Đứa bé trong lòng y vẫn giẫy giụa đòi đến với mẹ. Y nhẫn nại chờ đợi thiếu phụ trả lời một tiếng, quay lại nhìn con một lần, nhưng thị vẫn làm như câm điếc tưởng chừng trái tim thị cứng như sắt đá. Mặc cho đứa nhỏ kêu gào luôn miệng “Má Má! Bồng Lan Lan đi!”, thiếu phụ vẫn đứng trơ trơ, hai vai không nhúc nhích, đến cả tà áo cũng không lay động. Máu trong người Miêu Nhân Phụng như muốn sôi lên. Trái tim y tưởng chừng tan nát bởi tiếng kêu gào của đứa nhỏ. Thế rồi những chuyện xảy ra trước đây ba năm trên đống tuyết ở Thương Châu lại tiếp tục hiện ra trong đầu óc y.

Trên mặt đất đầy tuyết phủ, sáu xác chết nằm ngổn ngang. Hai đùi Miêu Nhân Phụng bị trúng hai mũi độc châm của Tưởng Điều Hầu, nửa người dưới của y tê cứng, không cử động được. Nam tiểu thư từ từ tỉnh lại. Nàng thấy mình nằm phủ phục trên người Miêu Nhân Phụng, nên hoảng hồn đứng vội dậy, nhưng hai chân mềm nhũn, nàng lại ngã nhào trên mặt tuyết. Nam tiểu thư sợ quá đến nỗi muốn khóc mà không ra tiếng. Miêu Nhân Phụng nói:

– Cô dắt con ngựa kia lại đây.

Thanh âm của y rất nghiêm khắc khiến Nam tiểu thư sợ quá mà phải tuân theo. Nàng đi dắt ngựa đến bên Miêu Nhân Phụng. Nàng lại đưa bàn tay nhỏ nhắn nắm lấy bàn tay to bè của y để kéo y lên. Miêu Nhân Phụng nói:

– Cô tránh ra!

Y nghĩ bụng:

“Cô hơi sức đâu mà kéo nổi ta dậy?”

Lúc này hai chân y không cử động được nhưng y cố cất mình lên, vươn tay nắm lấy bàn đạp, vận kình lực ra cánh tay rồi tung mình ngồi lên ngựa. Y lại bảo Nam tiểu thư:

– Lượm thanh đao kia lên!

Nam tiểu thư như người mất hồn lượm thanh bảo đao lên. Miêu Nhân Phụng thò tay trái ra, ôm lấy eo nàng, nhấc bổng nàng đặt lên lưng ngựa. Hai người cùng cưỡi chung một ngựa từ từ trở về tiểu khách điếm. Miêu Nhân Phụng phải vận hết kình lực mới khỏi ngất xỉu trên lưng ngựa. Đến trước cửa điếm y không thể chống chọi được nữa liền ngã lăn trên mặt tuyết. Hai gã điếm tiểu nhị vội chạy ra đỡ y vào trong nhà. Y vén quần lên, nhổ hai mũi độc châm ra, rồi nhờ tên tiểu nhị hút hộ máu độc ở bắp đùi, hứa trả nhiều tiền mà bọn tiểu nhị vẫn kinh hãi ngần ngừ.

Nam tiểu thư liền đưa miệng vào vết thương, hút từng búng máu độc rồi nhổ ra. Nàng biết rằng khi hai người đụng chạm da thịt thì nàng đã thành của y, dù y có là đạo tặc đi nữa thì cũng phải chấp nhận. Hơn nữa nàng không còn con đường nào khác. Nàng đã quyết tâm đi theo y. Miêu Nhân Phụng cũng biết nàng đã hút máu độc cho mình thì cuộc đời phóng khoáng ngang dọc giang hồ của y đến đây là kết thúc. Trọn đời y phải bảo vệ cho người con gái này. Nỗi vui buồn của một vị thiên kim tiểu thư từ đây cũng là nỗi buồn vui của chính y.

Miêu Nhân Phụng kịp thời uống thuốc giải của Tưởng Điều Hầu là đã có thể bảo toàn được tính mạng. Nhưng những mũi châm tuyệt độc cực kỳ lợi hại, y cần phải điều trị mười ngày hay nửa tháng mới có thể cử động hai chân được. Y lấy bạc đưa cho điếm tiểu nhị làm phí tổn mai táng phụ thân của Nam tiểu thư và năm tên hào khách mưu đồ tranh đoạt bảo đao. Nam tiểu thư cùng Miêu Nhân Phụng trọ trong một gian phòng để chăm sóc và bầu bạn với y.

Sau cơn biến cố kinh tâm động phách, Nam tiểu thư cứ mỗi lần nhắm mắt lại nghĩ đến tấn thảm kịch diễn ra trên đất tuyết. Nàng thấy phụ thân bị bọn cướp hãm hại, lại thấy mình đánh rớt bảo đao giết chết một người nên trong lúc ngủ mơ nàng vẫn thường sợ hãi khóc lóc. Miêu Nhân Phụng ăn nói vụng về, không biết mở miệng nói một câu khuyên nhủ vỗ về, nhưng nàng thấy y nét mặt trầm tĩnh và ánh mắt lộ vẻ đồng tình nên cũng bớt phần sợ hãi.

Nam tiểu thư kể cho y hay phụ thân nàng là Nam Nhân Thông khi làm quan ở Giang Nam, bắt một tên cướp biển và lấy được thanh Lãnh nguyệt bảo đao. Chẳng bao lâu Nam Nhân Thông được điều động lai kinh. Lão định đem thanh bảo đao này dâng cho quan trên và trong lòng tràn trề hy vọng. Không ngờ vì nó mà lão uổng mạng. Miêu Nhân Phụng hỏi danh tính tên cướp biển nhưng Nam tiểu thư không biết. Nàng chỉ biết tên tướng cướp đó bị giam trong ngục rồi mắc bệnh mà chết.

Miêu Nhân Phụng nghĩ thầm:

“Không hiểu tay hảo hán kia là ai mà phải chết một cách mờ ám trong ngục thất? Chắc năm tên hào khách mưu đồ đoạt đao biết rõ tướng cướp đó là ai và có thanh bảo đao nên mới quyết tâm theo dõi.”

Đến ngày thứ năm, Nam tiểu thư bưng chén thuốc vào cho Miêu Nhân Phụng uống. Y đưa tay toan đón lấy bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng lách cách nhưng vẫn thản nhiên. Y cầm chén thuốc từ từ uống xong đặt xuống. Y biết người đứng ngoài đang nhìn trộm nhưng sợ oai danh mình nên không dám mạo muội động thủ.

Y tính thầm trong bụng:

“Đây chắc là bọn tương trợ cho năm tên cướp đao. Nếu qua năm sáu ngày nữa thì chẳng sợ gì. Khốn nỗi mấy bữa nay hai chân mềm nhũn bất lực, nếu cường địch tới thì chuyện đối phó không phải dễ dàng.”

Bỗng nghe đánh chát một tiếng, ánh bạch quang lấp loáng. Một lưỡi chủy thủ từ bên ngoài cửa sổ ném vào cắm phập xuống mặt bàn, rung rinh không ngớt. Chuôi dao chủy thủ cắm một mảnh giấy trắng. Nam tiểu thư giật mình kinh hãi “ối” lên một tiếng, chạy lại đứng bên Miêu Nhân Phụng.

Miêu Nhân Phụng đang nằm trên giường, vươn tay ra không tới lưỡi chủy thủ. Y cười nhạt một tiếng, rồi đập tay xuống cạnh bàn. Lưỡi chủy thủ cắm sâu xuống mặt bàn mấy tấc liền bật lên bắn lại gần hơn một thước, rớt xuống bên tay y.

Người ngoài cửa sổ lên tiếng:

– Kim diện Phật giỏi thật! Quả nhiên danh bất hư truyền!

Tiếng bước chân khẽ vang lên. Hai người đã vượt tường ra ngoài. Tiếp theo là tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một xa.

Miêu Nhân Phụng cầm tờ giấy trắng thấy viết một hàng chữ: “Chung Triệu Văn, Chung Triệu Anh, Chung Triệu Năng ở Ngạn Bắc cúi đầu bái kiến.” Nam tiểu thư thấy vẻ mặt y vẫn trơ như gỗ, chẳng hiểu là y lo lắng hay tức giận, liền hỏi:

– Có phải địch nhân đã tìm đến không?

Miêu Nhân Phụng gật đầu. Nam tiểu thư lại hỏi:

– Tướng công đập bàn một cái, bọn chúng đã bở vía bỏ đi rồi phải không?

Miêu Nhân Phụng lắc đầu đáp:

– Không phải. Bọn chúng đến đưa thư.

Nam tiểu thư nói:

– Bản lãnh của tướng công ghê gớm như vậy, nhất định đã làm cho bọn chúng phải kinh hãi.

Miêu Nhân Phụng không nói gì, chỉ nghĩ thầm trong bụng:

“Ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu tại Ngạn Bắc đã kiếm được ta rồi, có nghĩa là chúng không sợ ta.”

Nam tiểu thư tuy miệng nói vậy nhưng trong dạ vẫn thấp thỏm lo âu. Hồi lâu nàng mới nhẹ nhàng nói:

– Đại ca! Bây giờ chúng ta lên ngựa bỏ đi thì chúng không tìm thấy nữa.

Miêu Nhân Phụng lắc đầu không nói gì. “Đả biến thiên hạ vô địch thủ Kim diện Phật” Miêu Nhân Phụng khi nào lại trốn tránh địch nhân? Dù có vì Nam tiểu thư mà tạm thời nhẫn nhục ẩn lánh, thì ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu chắc gì đã chịu buông tha? Chuyện này Nam tiểu thư không thể hiểu được. Nhưng Miêu Nhân Phụng vốn ít lời, vả lại câu chuyện này có nói với nàng cũng vô ích.

Đêm hôm ấy, Nam tiểu thư trằn trọc không sao ngủ được. Nàng đã toàn tâm toàn ý lo lắng đến con người quê mùa, chân tay thô kệch này, nhưng Miêu Nhân Phụng lại ngủ rất say. Y lại mơ thấy một vị tân nương tử đầu đội khăn hồng. Đó là những cảnh tượng y được coi rất lâu rồi từ hồi còn nhỏ, và y đã quên hết, bỗng nhiên lại thấy hiện ra trong giấc mộng.

Lúc tỉnh lại tưởng chừng bên tai còn văng vẳng những tiếng trống tiếng nhạc trong mơ. Ánh sáng chập chờn của ngọn đuốc chiếu vào bộ mặt hiền hòa đẹp như hoa phù dung của Nam tiểu thư nằm trên giường bên cạnh. Mặt nàng tuy cực kỳ xinh đẹp, nhưng đóa hoa này tuyệt không lộ nụ cười. Trong giấc ngủ, nàng vẫn có vẻ lo âu sợ hãi. Nàng còn nỗi khổ trong lòng nên ánh đuốc soi vào khiến gương mặt càng thêm phần ảm đạm.

Sáng sớm hôm sau, Miêu Nhân Phụng sai điếm tiểu nhị làm cho một bát mì. Y ngồi dựa vào ghế ngay ngắn ở giữa sảnh đường để ăn sáng. Thanh Lãnh nguyệt bảo đao đặt ở bên mình. Bình sinh y không thích nghĩ trước kế hoạch mà hành động, vì những điều y tiên liệu thường không chuẩn đích, nên đợi lúc việc đến mới tùy cơ ứng biến. Nam tiểu thư nhìn thấy thái độ lầm lỳ của Miêu Nhân Phụng, trong lòng rất sợ hãi. Nàng có hỏi y mấy câu, y cũng không trả lời, rồi nàng không dám hỏi nữa.

Vào quãng giờ thìn, tiếng vó ngựa vang lên. Ba người kỵ mã dừng ngựa trước cửa điếm rồi tiến vào. Những khách hàng trong điếm nhìn thấy cách ăn mặc của ba người đều giật nảy mình. Nguyên ba người này đều mặc áo vải thô màu trắng, đội mũ trắng, đi giày trắng. Trên mũ còn cài dấu hiệu đại tang chứng tỏ cha mẹ qua đời. Những bộ thiếu phục của họ nửa cũ nửa mới, giống như người thọ tang đã lâu.

Miêu Nhân Phụng biết nhà họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạc Bắc hùng cứ đất Kinh Tương, võ công thật có chỗ độc đáo. Tên thợ hàn là môn đồ của họ Chung, mà võ nghệ đã vào hạng khá. Bây giờ Chung thị huynh đệ thân hành đến đây tất xảy ra chuyện tàn khốc. Y thấy sắc mặt ba người đều lợt lạt, mũi lớn tai tẹt, lỗ mũi hếch lên. Chỉ căn cứ vào chòm râu để phân biệt tuổi tác. Y đoán người chòm râu đốm bạc là đại ca tức là Chung Triệu Văn, người râu đen là nhị ca tức là Chung Triệu Anh, còn người không râu là tam đệ tức Chung Triệu Năng. Lúc ba người tiến vào cước bộ nhẹ nhàng tựa hồ chân không chấm đất. Quả nhiên là những tay kình địch.

Miêu Nhân Phụng bình sinh thấy địch nhân càng mạnh, tinh thần càng phấn chấn. Y thấy ba nhân vật này thanh thế không phải tầm thường bất giác khiến xương cốt trong người y bật lên những tiếng lắc rắc.

Ba anh em họ Chung tiến tới trước mặt Miêu Nhân Phụng xá dài rồi đồng thanh hô:

– Xin chào Miêu đại hiệp!

Miêu Nhân Phụng chắp tay đáp lễ, rồi nói:

– Không dám! Tại hạ bị thương ở đùi không thể đứng dậy được, xin ba vị lượng thứ cho.

Chung Triệu Văn nói:

– Miêu đại hiệp! Đại hiệp cử động bất tiện, lẽ ra bọn ta không nên quấy nhiễu, nhưng mối thù giết đồ đệ không thể không trả. Xin đại hiệp thứ tội.

Hắn nói khẩu âm Hồ Bắc. Miêu Nhân Phụng gật đầu không trả lời.

Chung Triệu Văn lên tiếng:

– Miêu đại hiệp uy chấn thiên hạ. Nếu bọn tại hạ đơn đả độc đấu thì không phải là địch thủ của đại hiệp. Lão nhị! Lão tam! Chúng ta cùng xông vào đi.

Chung Triệu Anh và Chung Triệu Năng đồng thanh dạ một tiếng, rồi hô lớn:

– Lão ca! Chúng ta xông vào đi.

Ba anh em nhà này là những nhân vật thành danh trong chốn võ lâm, tuy giọng nói quái dị khó nghe và mặt mũi xấu xí nhưng có địa vị rất cao trên chốn giang hồ. Bản lãnh bọn họ cao thâm, hành động lại thận trọng vì thế mà lập nên đại nghiệp ở suốt một dải Lưỡng Hồ.

Ba người hô lên những âm thanh quái dị rồi những tiếng loảng xoảng vang lên không ngớt. Chúng lấy phán quan bút của mình ra. Những khách trọ từ khi thấy ba người bước vào đã biết là có chuyện không ổn. Bây giờ lại thấy ba người rút binh khí ra khiến ai nấy đều tránh xa. Trong đại sảnh vắng ngắt.

Nam tiểu thư vẫn đứng nép vào trong góc nhà nhưng rất quan tâm đến nỗi an nguy của Miêu Nhân Phụng. Miêu Nhân Phụng thấy dù nàng là một cô gái khiếp nhược, nhưng cũng có lòng can đảm, trong lòng lấy làm an ủi. Chỉ một việc Nam tiểu thư đứng nép vào góc nhà, Miêu Nhân Phụng đã cảm thấy giữa y và cô đã có một sợi dây tử sinh ràng buộc, bất giác trong lòng khởi lên một mối nhu tình. Y nhìn cô mỉm cười, rồi rút thanh Lãnh nguyệt bảo đao ra.

Chung thị huynh đệ thấy thanh quang lấp loáng, khí lạnh ghê người, đồng thanh khen ngợi:

– Quả là bảo đao!

Tiếng hô của ba người nghe rất quái dị. Chung Triệu Văn phóng song bút vào trước ngực Miêu Nhân Phụng. Chung Triệu Anh tấn công mé tả, Chung Triệu Năng tấn công mé hữu. Miêu Nhân Phụng vẫn ngồi ngay trên ghế, thanh đao cầm ngang bất động. Y chờ cho đầu mũi sáu cây bút phóng tới bên mình, đột nhiên vung đao, tiếng gió rít vù vù nhằm ba người chém tới. Chung thị huynh đệ quả là những tay mình mang tuyệt nghệ. Chúng thấy thế đao kỳ tuyệt mà vẫn lạng người tránh được. Chúng chỉ biết kiếm pháp của Miêu gia độc bộ thiên hạ, không ngờ đao pháp của y cũng tinh kỳ không kém.

Đao pháp mà Miêu Nhân Phụng sử dụng chính là Hồ gia đao pháp do Hồ Nhất Đao truyền thụ cho. Đao pháp này biến hóa ảo diệu lại linh động tuyệt luân, nhưng vì người Miêu Nhân Phụng không di động được, nên phóng đao ra rồi mà chẳng thể liên tục truy kích.

Bốn người đã khai diễn cuộc tỷ đấu. Trong đại sảnh, đao quang bút ảnh quần nhau hung hiểm dị thường. Ba anh em họ Chung khinh công đều vào hạng trác tuyệt, họ chia ba ngả để hợp kích. Hễ kẻ này tiến thì kẻ kia lui. Sáu cây phán quan bút vung lên bổ xuống tựa hồ như mười hai cây.

Miêu Nhân Phụng thi triển đao pháp, công thủ đâm chém, chẳng chịu kém thế chút nào. Y nghĩ trận này cần phải hạ sát thủ, đánh gục một người trong bọn chúng. Nếu không thì không chỉ riêng y mà cả đến Nam tiểu thư cũng khó bảo toàn tính mạng. Nhưng y nghĩ ba anh em họ Chung xưa nay vẫn yên phận thủ thường, không làm điều gì ác, trên chốn giang hồ có nhiều tiếng tốt nên thấy không cần thiết phải giết họ.

Lúc này ba anh em họ Chung càng đánh ráo riết, chiêu nào cũng nhằm điểm vào đại huyệt trong người Miêu Nhân Phụng. Y chỉ sơ ý một chút là thanh danh một đời trôi theo dòng nước. Cả con người ôn nhu kiều diễm là Nam tiểu thư cũng lọt vào tay địch thủ mà chịu đọa đày. Y nghĩ đến đó liền phóng ra những độc chiêu chém tới. Ba anh em họ Chung sợ y mạnh mẽ lại có đao bén, không dám để binh khí đụng vào bảo đao, vòng vây dần dần giãn ra.

Chung Triệu Anh nhận thấy khó bề thủ thắng, đột nhiên gầm lên một tiếng quái gở, nghiêng mình chênh chếch nhào tới, rồi lăn đến tấn công hạ bàn Miêu Nhân Phụng. Cách đánh này thật hiểm độc. Hắn tính rằng Miêu Nhân Phụng ngồi trên ghế không thể xoay chuyển. Nếu đánh vào chân ghế đằng sau thì y hết đường bảo vệ. Chung Triệu Anh đánh liền mấy chiêu, cây phán quan bút quét ngang đánh “rắc” một tiếng. Một chân ghế phía sau bị gãy. Cả cái ghế xiêu đi. Người Miêu Nhân Phụng nghiêng sang một bên. Nam tiểu thư “ối” lên một tiếng thất thanh. Miêu Nhân Phụng đột nhiên thò tay trái chụp vào mặt Chung Triệu Anh. Chung Triệu Anh sợ quá vội lăn người tránh.

Bỗng nghe hai tiếng “choang choang” vang lên. Chung Triệu Năng và Chung Triệu Anh mỗi người đều bị thanh Lãnh nguyệt bảo đao chém gãy phán quan bút. Chung Triệu Văn bả vai đau nhói vì bị đao quét trúng một chiêu. Miêu Nhân Phụng ra một chiêu đồng thời tấn công ba địch nhân, chiêu này gọi là “Vân long tam hiện”, một chiêu số tinh diệu trong Hồ gia đao pháp.

Ba anh em họ Chung thi triển khinh công nhảy lùi ra, đưa mắt nhìn nhau đều lộ vẻ kinh hãi. Chung Triệu Anh nói:

– Lão đại! Bây giờ chúng ta tính sao đây?

Chung Triệu Văn đáp:

– Không sao cả.

Hắn thấy Miêu Nhân Phụng ngồi trên ghế ba chân lảo đảo muốn té liền cho đây là một cơ hội hiếm có. Hắn chỉ sợ thanh bảo đao sắc bén và đao pháp tinh kỳ của đối phương, liền chắp tay nói:

– Về binh khí thì ba anh em tại hạ không phải là đối thủ của đại hiệp. Bây giờ bọn tại hạ xin lãnh giáo mấy chiêu quyền pháp.

Hắn nói mấy cây này thật đường hoàng mà dụng ý  lại thâm hiểm, khiến cho địch nhân phải bỏ cái sở trường. Bọn chúng muốn nhân cơ hội địch thủ bị lâm nguy mà ra tay, vì đây là một cuộc đánh liều mạng để báo thù chứ chẳng phải chuyện tỷ võ thông thường. Lẽ ra Miêu Nhân Phụng không thèm quan tâm cũng được nhưng y nghệ cao mật lớn, chỉ cười lạt một tiếng rồi tra đao vào vỏ, gật đầu đáp:

– Được!

Ba anh em họ Chung liền quẳng phán quan bút đi rồi nhảy lại tấn công. Cả ba người đều nhảy tới chứ không bước. Chưởng pháp của Miêu Nhân Phụng uy mãnh phi thường. Y đã thi triển là ba người kia không đến gần được trong vòng tám thước. May là võ công của nhà họ Chung đã nổi tiếng, nếu không thì chưởng lực của y cũng đủ làm cho chúng bị trọng thương.

Chung Triệu Anh là người vô cùng xảo quyệt, thấy Miêu Nhân Phụng ngồi ghế ba chân khó bề vững chãi. Gã chợt nghĩ nếu đánh gãy thêm một chân ghế nữa ắt địch nhân phải ngã xuống. Gã liền sử dụng “Địa đường quyền pháp” lăn đến phía sau ghế Miêu Nhân Phụng ngồi, đột nhiên vung chân phải quét ngang nghe “rắc” một tiếng. Quả nhiên lại một chân ghế nữa bị gãy rời. Cái ghế lúc trước đã xiêu, bây giờ đổ ngửa về phía sau.

Miêu Nhân Phụng đưa tay ra chống vào sau lưng ghế, người bỗng nhảy vọt lên cao. Y căm hận Chung Triệu Anh xảo trá, liền từ trên không như con chim khổng lồ sà xuống tấn công. Chung Triệu Anh bở vía lớn tiếng la:

– Lão đại! Lão tam!

Chung Triệu Văn và Chung Triệu Năng cùng chạy lại cứu viện. Miêu Nhân Phụng vung song chưởng đánh ra. Tả chưởng đánh vào bả vai Chung Triệu Văn, hữu chưởng đánh trúng ngực Chung Triệu Năng. Hai người không chịu nổi đều bị văng ra. Chung Triệu Anh thừa cơ lộn người trốn ra cửa sảnh. Lúc hắn nhìn lại Miêu Nhân Phụng, thấy y cũng té nhào. Ba anh em họ Chung thấy Miêu Nhân Phụng thần dũng phi thường, đâu còn dám tiến vào tái đấu?

Chung Triệu Anh liếc thấy bên cửa điếm có đống cỏ ngựa liền nảy ra một ý nghĩ, liền đánh lửa lên châm vào đống cỏ. Đống cỏ rơm này đã khô, gặp lửa bốc cháy liền, thuận chiều gió tràn vào khách điếm. Những khách thương trong điếm thấy phát hỏa nhốn nháo cả lên, tới tấp chạy ra ngoài. Ba anh em họ Chung lượm lấy phán quan bút đứng giám thị ở cửa, quát lớn:

– Ai mà cứu tên què chân này thì bọn lão gia đánh cho vỡ óc.

Mọi người trốn chạy thục mạng chưa xong còn ai dám cứu y nữa? Miêu Nhân Phụng thấy chỉ trong nháy mắt lửa đã theo gió mạnh, lùa vào sảnh đường mà chân mình không cất bước được, địch nhân lại canh giữ ngoài cửa, bất giác nhủ thầm:

“Chẳng lẽ ta một đời nổi tiếng anh hùng mà nay bị chết cháy trong đống lửa này ư?”

Y đảo mắt nhìn Nam tiểu thư thấy nàng đã theo mọi người trốn ra ngoài cũng yên tâm được một chút. Dưới ánh lửa, y nhìn thấy trong góc nhà có bỏ một đống dây thừng thì trong bụng mừng thầm, miệng lẩm bẩm:

– Trời còn thương ta!

Y liền bò lại, lấy dây quấn vào tay mười mấy vòng. Anh em họ Chung thấy khói lửa dày đặc, bít kín cả cửa điếm thì đều cho là kẻ vô địch thiên hạ Miêu Nhân Phụng nhất định phải chết cháy. Bọn chúng trong lòng hớn hở, nhìn nhau mỉm cười.

Nam tiểu thư gặp lúc nguy cấp phải chạy ra cửa. Bây giờ nàng nghĩ Miêu Nhân Phụng vì cứu mình mà bị trọng thương giờ phải bỏ mạng nên không ngăn được dòng lệ tuôn trào.

Đột nhiên nghe trong nhà có tiếng quát lớn. Một sợi dây xuyên qua khói lửa tung lên quấn vào cành cây ngân hạnh ở ngoài cửa. Tiếp đó sợi dây rung lên, thân hình vừa cao vừa gầy của Miêu Nhân Phụng đã bay ra ngoài. Mọi người thấy y đột nhiên bay tới như một vị tướng quân từ trên trời giáng thế thì đều kinh hãi. Miêu Nhân Phụng tay trái níu sợi dây để đu người thẳng tới chỗ ba anh em họ Chung. Ba tên này chẳng còn hồn vía nào nữa, mất cả ý chí chiến đấu, liền lập tức co giò trốn chạy.

Tuy khinh công ba người rất cao thâm cũng không thể lẹ bằng Miêu Nhân Phụng đu dây lướt tới, liền bị y vươn bàn tay như cái quạt lá bồ chụp từng tên một ném vào trong đống lửa. May võ công ba người đều cao cường, nên vừa bị ném vào đống lửa, chúng liền nhảy ra được, có điều râu mày đều bị cháy trụi, trông thật thảm não. Đã đến nông nỗi này, ba anh em họ Chung không dám chần chờ, bỏ cả ngựa, hoảng hốt chạy về phía Nam. Sau lưng còn nghe tiếng cười sang sảng của Miêu Nhân Phụng vang lên không ngớt. Miêu Nhân Phụng nhớ tới tình cảnh chiến đấu cùng ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu, bất giác nở một nụ cười, nhưng là nụ cười buồn. Y lại hồi tưởng sau khi thương thế ở đùi khỏi hẳn rồi cùng Nam tiểu thư kết thành phu phụ. Người vợ mà y đem lòng yêu tha thiết bằng mối thâm tình khắc cốt minh tâm chính là thiếu phụ xinh đẹp ở trước mặt. Thị ngồi cách y không đầy năm thước, tuy gần trong gang tấc mà tưởng chừng cách trở quan san. Miêu Nhân Phụng nghĩ tiếp đến những ngày hoan lạc sau buổi tân hôn. Y dẫn Nam Lan cùng đi tế mộ vợ chồng Hồ Nhất Đao. Miêu Nhân Phụng đặt thanh Lãnh Nguyệt Bảo Đao vào trong phần mộ, tự nhủ:

“Trên cõi đời này, ngoài Hồ Nhất Đao, không còn ai đáng sử dụng thanh bảo đao này. Y đã không còn sống trên thế gian thì ta để thanh bảo đao bầu bạn với y.”

Trước mộ Hồ Nhất Đao, Miêu Nhân Phụng đem chuyện tỷ võ ngày trước, y lỡ tay làm tử thương người bạn tri kỷ độc nhất ra sao kể hết cho vợ nghe. Trước nay y vẫn ít nói mà lúc này miệng lại thao thao bất tuyệt. Mối u uất trong lòng chứa chất mười năm bây giờ mới phát tiết trước mặt người thân.

Miêu Nhân Phụng sắp nhiều rượu thịt ra mâm để cúng tế giống như ngày trước y đã cùng vợ chồng họ Hồ ăn uống trong cuộc tỷ võ. Miêu Nhân Phụng uống rất nhiều, tưởng chừng người bạn tri kỷ duy nhất trong đời sống lại cùng y cười đùa thù tạc. Y càng uống càng nói nhiều, càng tỏ ra khâm phục sung bái vị đại hiệp đất Liêu Đông. Y nói đến chuyện con tạo khéo trêu ngươi, chuyện nhân thế vô thường.

Lúc Miêu Nhân Phụng nói đến mối tình ái giữa Hồ phu nhân và trượng phu, y bảo:

– Người vợ như thế thì chồng ở trong lửa, nàng cũng nhảy vào lửa. Chồng ở dưới nước, nàng cũng nhảy xuống nước…

Đột nhiên y thấy tân nương của mình biến sắc, rồi bưng mặt chạy đi. Y rượt theo để giải thích, nhưng vì say quá không biết nói gì. Huống chi trong lòng y nhớ lại màn kịch Chung thị tam hung đánh hỏa công ở khách điếm, y ở trong đống lửa mà Nam tiểu thư lại chạy trốn ra ngoài trước. Miêu Nhân Phụng vốn là người khẳng khái hào hiệp, xưa nay chẳng bao giờ để bụng chuyện nhỏ nhặt nhưng Nam Lan là người yêu sống chết với y…

Về lý, y nhận thấy nàng chạy trốn ra ngoài là phải. Nàng là cô gái chẳng biết chút võ công, thấy lửa cháy tất nhiên phải hoảng sợ. Khi ấy, nàng lại chưa là vợ y thì chết theo y phỏng được ích gì? Nhưng trong thâm tâm, Miêu Nhân Phụng lại hy vọng lúc gặp nguy hiểm, sẽ có người yêu mình tha thiết ở bên cạnh chứ không muốn người ấy bỏ mình để chạy thoát thân. Y ca tụng Hồ Nhất Đao đồng thời nghĩ đến họ Hồ có người thương yêu bằng cả tấm chân tình mà mình lại không. Hồ Nhất Đao tuy chết sớm nhưng so với y còn sung sướng hơn.

Nhân còn say rượu, Miêu Nhân Phụng vô tình buột miệng nói lỡ một câu trước mộ Hồ Nhất Đao, đồng thời lộ chân tâm của mình. Câu nói đó gây nên sự rạn nứt giữa hai vợ chồng, vĩnh viễn không hàn gắn được. Tuy nhiên Miêu Nhân Phụng thủy chung vẫn yêu vợ một cách tha thiết. Vĩnh viễn y không nhắc lại chuyện đó, thậm chí không nhắc tới tên Hồ Nhất Đao và dĩ nhiên Nam Lan cũng không nói đến.

Sau Nam Lan sinh con gái là Nhược Lan cũng xinh đẹp như mẫu thân, mối tình giữa hai vợ chồng càng thêm sâu đậm. Nhưng y xuất thân là một hiệp khách nghèo trên giang hồ, còn vợ y là một vị thiên kim tiểu thư con nhà quan. Bản tính y trầm lặng ít nói, suốt ngày nét mặt lâm lỳ, nhưng vợ y cần được những lời lẽ ôn nhu mơn trớn, thủ thỉ vỗ về. Nàng muốn người đàn ông phải hào hoa phong nhã, hiểu được tâm ý của nữ nhân, biết nói cười âu yếm.

Miêu Nhân Phụng ngoài võ công vô địch thiên hạ ra thì mọi tâm tình của vợ, y không hiểu tí gì. Giả tỷ Nam tiểu thư cũng là con nhà võ hoặc giả đem lòng khâm phục bản lãnh của trượng phu thì nàng đã hân hạnh có người chồng là kỳ nam tử đội trời đạp đất. Nhưng nàng vốn không hiểu võ công, trong lòng lại chán ghét nghề võ, vì phụ thân nàng bị bọn người học võ sát hại mà nguyên nhân phát khởi từ thanh bảo đao. Sở dĩ nàng lấy một người đàn ông chẳng hiểu gì đến tâm lý mình chỉ vì người này đã cứu nàng.

Kể ra trong đời nàng cũng có một thời gian ngắn cảm thấy hứng thú về võ công. Đó là hồi chồng nàng có người bạn đến chơi. Hắn là một chàng trai phong lưu tiêu sái tên gọi Điền Quy Nông. Điền Quy Nông chẳng có câu nói nào lại không khiến người nghe hoan hỷ, chẳng có cái liếc mắt nào lại không khiến người ta tim đập loạn lên. Nhưng lạ ở chỗ trượng phu của nàng đối với vị Điền tướng công này chẳng mặn mà chút nào, vì thế nàng phải lo việc tiếp đãi khách.

Ngay từ buổi đầu gặp gỡ, đêm đến nàng nằm trên giường, giương mắt lên nhìn ra bóng tối phía ngoài cửa sổ, không nén nổi mối thương tâm tự hỏi:

“Tại sao người cứu ta ngày ấy lại không phải vị Điền tướng công phong lưu anh tuấn này, khiến cho đời ta phải ngủ bên một ông chồng trơ như khúc gỗ?”

Sau mấy bữa, Điền Quy Nông đàm luận võ công với nàng liền phát giác ra nàng chẳng hiểu chi hết, hắn liền dạy nàng mấy đường quyền cước. Nàng học võ công ham lắm nhưng sự thực nàng không thích võ công, chỉ vì được Điền Quy Nông dạy dỗ nên nàng đâm ra thích học.

Một hôm nàng bảo hắn:

– Tướng công và trượng phu của tiểu muội nên đổi tên cho nhau mới đúng. Y thì đáng về làng cày ruộng làm nông, còn tướng công chính là con phượng hoàng trong loài người.

Không hiểu nàng đã để ý từ trước hay vì một câu nói tỷ dụ mà trong một đêm đã xảy ra chuyện tân khách vũ nhục chủ nhân, vợ vũ nhục chồng, mẹ vũ nhục con gái. Lúc ấy Miêu Nhân Phụng đang luyện kiếm dưới ánh trăng con gái Miêu Nhược Lan đang thiêm thiếp giấc nồng. Cành trâm hình chim phụng bằng vàng nạm ngọc cài trên đầu Nam Lan rơi xuống trước giường, Điền Quy Nông nhặt cài lên tóc nàng bằng một cử chỉ rất ôn nhu. Cành phụng thoa rung rinh trên đầu nàng…

Thế là nàng hạ quyết tâm bỏ hết chồng con, gia đình, thanh danh để nghe theo tiếng gọi của trái tim.

Nam Lan bỏ nhà trốn đi theo chàng trai tuấn tú Điền Quy Nông. Trượng phu nàng là Miêu Nhân Phụng bồng con gái lặn lội mưa to gió lớn đuổi theo. Đứa con gái gào khóc, gọi “má má”, nhưng nàng quyết tâm đi theo Điền Quy Nông. Dù chỉ là sống với hắn thời gian ngắn ngủi mấy ngày cũng được. Nàng có bị trượng phu hành hạ cũng chẳng sao, thậm chí bị giết cũng cam lòng.

Nàng rất yêu con gái, nhưng nó lại là con của Miêu Nhân Phụng chứ không phải con của Điền Quy Nông. Nàng nghe con gái khóc, nhưng trong khóe mắt lại nhìn thấy nụ cười làm mê man hồn người của Điền Quy Nông, vì thế nàng không quay đầu lại. Miêu Nhân Phụng tự nhủ:

“Ta chỉ mong nàng theo ta trở về nhà. Chuyện này nhất định ta không bao giờ nhắc tới. Chỉ cần nàng hồi tâm chuyển ý. Ta cần nàng. Con ta cũng cần nàng.”

Miêu phu nhân tự hỏi:

“Không hiểu Miêu Nhân Phụng có đánh chết Điền Quy Nông không? Y rất yêu thương mình, không biết có đánh mình không?”

Con nhỏ Miêu Nhược Lan còn ngây thơ, nó nghĩ thầm:

“Tại sao má má lại không đoái hoài gì đến mình, không đến bồng mình? Hay là vì mình không ngoan?”

Điền Quy Nông lại theo đuổi những ý nghĩ riêng. Hắn nghĩ tới Sấm Vương để lại kho tài bảo vô cùng vô tận. Miêu phu nhân là cái chìa khóa để mở kho tàng này. Nàng rất xinh đẹp, kiều lệ tuyệt luân, cái đó bất tất phải nói, nhưng điều trọng yếu hơn nữa là kho tàng của Sấm Vương. Liệu Miêu Nhân Phụng có giết hắn không?

Miêu Nhân Phụng chờ đợi. Những tiêu khách, bọn cường đạo, bọn thị vệ, chủ nhân Thương gia bảo, người cụt tay và thằng nhỏ, hết thảy đều ở trong tình trạng chờ đợi. Trong sảnh đường rất đông người nhưng chẳng một ai nói năng gì. Chỉ nghe tiếng đứa bé gái vừa khóc vừa gào:

– Má má! Má má! Lại bồng Lan Lan đi!

Dù người lòng dạ sắt đá đến đâu cũng mong cho Miêu phu nhân quay lại bồng con. Từ lúc bước vào đại sảnh trong Thương gia bảo, Miêu Nhân Phụng thủy chung không nói nửa lời, chỉ giương mắt lên nhìn vợ.

Bên ngoài trời vẫn mưa như trút nước, thỉnh thoảng những tia chớp giật lóe lên, tiếp theo là tiếng sấm sét nổ long trời. Miêu phu nhân hơi nghiêng đầu. Miêu Nhân Phụng rùng mình. Y nhìn thấy thê tử mình mỉm cười. Ánh mắt nàng đang nhìn Điền Quy Nông, chan chứa mối thâm tình ôn nhu đằm thắm. Cái nhìn thâm tình này nàng chưa từng dành cho y lấy một lần, ngay cả trong đêm tân hôn. Đây là lần đầu tiên trong đời y nhìn thấy ánh mắt nàng như thế.

Miêu Nhân Phụng bình tĩnh trở lại, y không nhìn nàng đăm đăm nữa, từ từ đứng dậy. Y dùng tấm vải dầu bọc đứa nhỏ cẩn thận rồi đeo lên trước ngực. Y chu đáo ân cần, biểu lộ tấm lòng từ ái hiếm có trên thế gian của người cha đang chịu cảnh đau lòng. Y sải chân bước ra khỏi sảnh đường, thủy chung vẫn không mở miệng mà cũng không quay đầu lại lần nào vì y đã nhận ra ánh mắt thâm tình ấy của vợ.

Mưa lớn trút xuống thân hình khôi vĩ của Miêu Nhân Phụng. Sấm sét cũng vang rền trên đầu y. Tiếng khóc của đứa nhỏ vẫn văng vẳng bên tai, nhưng Miêu Nhân Phụng vẫn rảo bước. Y bồng đứa nhỏ đi giữa đêm trời mưa to gió lớn.

Y không về nhà. Căn nhà từ đó trở thành hoang vắng.

Chương 03: Anh hùng tuổi thiếu niên

Miêu Nhân Phụng bồng đứa nhỏ dời khỏi Thương gia bảo giữa lúc trời mưa gió bão bùng. Người hiệp sĩ ra đi nhưng dư oai vẫn còn để lại. Lúc vào sảnh đường cũng như lúc đi ra, y chẳng nói nửa lời mà quần hào đều khiếp hãi. Cả người quen biết lẫn kẻ lạ ai cũng lo nơm nớp. Người thì kinh hãi, kẻ thì kính sợ. Hồi lâu vẫn không ai lên tiếng, chỉ đăm chiêu suy nghĩ.

Miêu phu nhân từ từ đứng dậy. Khóe miệng nàng gượng điểm một nụ cười, nhưng mắt nàng nhỏ mấy giọt lệ trong như hai viên bạch ngọc lăn xuống bên má. Điền Quy Nông cũng đứng bật dậy. Tay trái nắm đốc kiếm ở sau lưng kéo ra năm tấc rồi lại tra vào vỏ đánh “cách” một tiếng. Tư thế này coi rất ung dung oai vệ. Hắn khẽ bảo thiếu phụ:

– Lan muội! Chúng ta đi thôi!

Hắn đưa mắt nhìn đống kim ngân, thần thái tuy không mất vẻ phong lưu tuấn nhã, nhưng giọng nói hơi run, chứng tỏ trong lòng hắn vẫn chưa hết kinh hãi.

Mã Hành Không tưởng Điền Quy Nông sắp cướp kim ngân bèn gắng gượng đứng dậy la lên:

– Xuân Nhi! Lấy binh khí cho ta!

Mã Xuân Hoa thấy phụ thân bị thương không nhẹ, nàng rưng rung nước mắt nói:

– Gia gia!

Mã Hành Không cất giọng oai nghiêm giục:

– Lấy binh khí lẹ lên!

Mã Xuân Hoa rút cả kim ty nhuyễn tiên mà phụ thân nàng vẫn sử dụng mấy chục năm trong nghề bảo tiên toan đưa lại, thì đột nhiên một tiếng đằng hắng từ hậu đường vọng ra, rồi một bà già xuất hiện. Bà già này mình mặc áo bông vải xanh, quần đen. Lưng mụ hơi còng. Hai món tóc mai đã bạc, tóc trên đầu hãy còn đen nhánh.

Thương Bảo Chấn tuy bị Điền Quy Nông đánh ngã nhưng chỉ bị thương xoàng. Gã vội chạy lại la lên:

– Má Má! Má má bất tất phải can thiệp vào việc ở đây, hãy về nghỉ đi thôi.

Bà già này chính là Thương lão thái, mẫu thân của Thương Bảo Chấn. Thương lão thái gật đầu, vẻ mặt thản nhiên hỏi lại:

– Ngươi bị bại về tay người ta rồi sao?

Giọng nói khàn khàn rất khó nghe. Thương Bảo Chấn vẻ mặt bẽn lẽn, cúi đầu đáp:

– Hài nhi thật là vô dụng, không phải đối thủ của họ Điền kia.

Gã vừa nói vừa trỏ về phía Điền Quy Nông trong lòng vừa bẽ bàng vừa phẫn nộ. Thương lão thái hé mở cặp mắt ảm đạm đứng ngẩn người ra hết nhìn Điền Quy Nông lại ngó Miêu phu nhân, miệng lẩm bẩm:

– Thật là một người đẹp!

Đột nhiên thằng nhỏ người ốm nhách, nước da vàng ủng từ trong đám đông bước ra, trỏ tay vào Miêu phu nhân la lên:

– Con gái bà đòi bà bồng sao bà không đoái hoài gì đến nó? Bà làm má má sao chẳng có một chút lương tâm vậy?

Câu hỏi này trong thâm tâm mọi người đều nghĩ tới, nhưng lại do miệng một thằng nhỏ ốm nhom như đứa ăn mày thốt ra khiến ai cũng sửng sốt. Giữa lúc ấy ngoài trời sấm sét ầm ầm! Thằng nhỏ lại lớn tiếng:

– Bà không còn chút lương tâm nào nữa! Lôi công đánh chết bà đi cho rồi!

Một đứa trẻ nít áo quần lam lũ mà nổi giận trỏ tay thóa mạ, xem cũng có uy thế. Điền Quy Nông sửng sốt. Hắn rút trường kiếm ra khỏi vỏ đánh “soạt” một cái, lớn tiếng quát:

– Thằng nhỏ ăn xin kia! Ngươi nói nhăng nói càn gì thế?

Tên cường đạo Diêm Cơ sấn lại, vươn tay chụp lấy ngực thẳng nhỏ quát bảo:

– Mau lại dập đầu xin lỗi Điền tướng công và phu… phu nhân đi!

Thằng nhỏ không thèm đề ý đến y, mặt nó đầy vẻ chính khí oai nghiêm. Nó vẫn trỏ vào Miêu phu nhân lớn tiếng:

– Bà… bà không còn chút lương tâm nào nữa!

Điền Quy Nông giơ thanh trường kiếm lên toan đâm vào ngực thằng nhỏ, thì đột nhiên Miêu phu nhân “ọe” một tiếng rồi bưng mặt khóc òa, bỏ chạy đi dưới trời mưa tầm tã. Điền Quy Nông thấy không giết được thằng nhỏ, bèn cầm kiếm rượt theo. Y chỉ tung mình một cái đã nhảy vọt đến bên Miêu phu nhân, mở lời an ủi:

– Lan muội! Thằng nhãi ăn xin đó nói nhăng nói càn. Lan muội quan tâm làm chi?

Miêu phu nhân nghẹn ngào đáp:

– Tiểu muội quả đúng là con người vô lương tâm.

Nàng vừa khóc vừa nói, mà chân vẫn không dừng bước. Điền Quy Nông  đưa tay cầm lấy cánh tay nàng, nàng đẩy mạnh ra mà không thoát được, Điền Quy Nông mà muốn nắm giữ thì dù Miêu phu nhân có học võ thêm mười năm nữa cũng chưa chắc thoát được, nhưng hắn không dám dùng cường lực nên đành buông tay và dịu dàng khuyên giải.

Hai người dầm mưa ra đi mỗi lúc một xa, chuyển qua khúc quanh đường lớn, rồi mất dạng sau hàng liễu. Họ không quay lại nữa.

Ai cũng thở phào nhẹ nhõm, liếc mắt nhìn thằng nhỏ ốm nhách. Nghĩ thầm:

– Gã này tuổi nhỏ mà mật lớn thực! Gã không sợ mất mạng ư?

Diêm Cơ cười nhạt một tiếng rồi quát:

– Thế thì hay quá! Diêm đại gia một mình xơi hết món canh béo bở này thì còn gì hay bằng? Các vị huynh đệ, mau dọn tiêu ngân đi!

Quần đạo dạ ran rồi phân tán ra toan động thủ. Diêm Cơ phóng chân trái đá thằng nhỏ một cái lăn nhào, rồi tiện tay nắm lấy hán tử cụt tay, miệng quát:

– Sao còn chưa cút đi?

Thương lão thái cất tiếng khàn khàn hỏi:

– Diêm lão đại! Ở đây có phải là Thương gia bảo hay không?

Diêm Cơ đáp:

– Phải rồi! Ở Thương gia bảo thì sao?

Thương lão thái lại hỏi:

– Lão thái ta có phải chủ nhân Thương gia bảo không?

Diêm Cơ một tay vẫn nắm trước ngực hán tử cụt tay, ngửa mặt lên trời cười rộ hỏi lại:

– Thương lão bà! Mụ nói lòng vòng gì lắm thế? Thương gia bảo của mụ tưởng cao cửa rộng chắc lắm tiền nhiều của. Phải chăng có ý muốn cho anh em ta chút dầu mỡ xài hộ?

Quần đạo liền phụ họa la hét ầm cả lên. Thương Bảo Chấn tức giận, sắc mặt trắng bệch lên tiếng:

– Má má! Đừng dài dòng với gã nữa. Để hài nhi liều mạng một phen.

Gã đoạt lấy thanh đơn đao trong tay một tiêu khách, trỏ vào mặt Diêm Cơ gầm lên khiêu chiến. Diêm Cơ đẩy hán tử cụt tay một cái, vẻ mặt hầm hầm quát:

– Thằng lỏi kia đừng chạy! Lão gia chờ dịp tính sổ với mi đây.

Hắn vỗ hai tay một cái, liếc mắt ngó Thương Bảo Chấn, nét mặt cực kỳ ngạo nghễ, tỏ ra không coi gã ra gì. Thương lão thái nói:

– Diêm lão đại! Lão đại vào đây, lão thân có chuyện muốn nói với ngươi.

Diêm Cơ sửng sốt một lúc, rồi giở giọng đểu cáng ra hỏi:

– Đi đâu? Diêm mỗ không đến phòng đàn bà.

Thương lão thái lờ đi như không nghe, lại nói:

– Lão thân có việc khẩn yếu muốn nói với Diêm lão đại.

Diêm Cơ tự hỏi:

“Mụ già có mấy phần cổ quái, không hiểu mụ kêu mình đi đâu?”

Hắn toan đáp:

“Diêm đại gia không rảnh để lằng nhằng với mụ.”

Nhưng gã chưa kịp đáp thì Thương lão thái đã xoay mình đi vào nội đường. Mụ vừa đi vừa cất giọng khàn khàn nói:

– Ngươi có giỏi thì vào đây.

Diêm Cơ ngửa mặt lên trời cười ha hả đáp:

– Diêm mỗ mà nhát gan ư?

Rồi hắn cất bước đi theo. Nhị trại chủ là người cẩn thận, hắn đưa thanh quỷ đầu đao cho Diêm Cơ. Diêm Cơ liền đón lấy. Thương Bảo Chấn không hiểu mẫu thân kêu Diêm Cơ vào nội thất với dụng ý gì, gã cũng đi theo. Thương lão thái tuy không quay đầu lại, nhưng nhận được tiếng bước chân của con mình, liền bảo:

– Chấn nhi ở lại đó.

Rồi mụ nói với Diêm Cơ:

– Diêm lão đại! Lão hãy bảo anh em tạm thời chớ có động thủ.

Mấy câu này mụ vừa nói với Thương Bảo Chấn vừa nói với Diêm Cơ, mắt không nhìn họ, nhưng thanh âm mụ đầy vẻ oai nghiêm, tựa như ra lệnh.

Diêm Cơ đáp:

– Mụ nói thế là phải.

Rồi hắn bảo đồng bọn:

– Anh em đừng hành động gì vội. Hãy chờ ta trở ra phát lạc.

Quần đạo đều dạ ran. Nhị trại chủ dùng tiếng lóng phát lệnh cho đồng đảng giám thị bọn tiêu khách, đề phòng họ nhân cơ hội này mà gây chuyện.

Nguyên Thương Bảo Chấn và ba tên thị vệ trợ lực bảo vệ tiêu xa đã khiến bọn cường đạo lâm vào thế hạ phong, nhưng Thương Bảo Chấn và Từ Tranh bị Điền Quy Nông đả thương, Mã Hành Không bị Diêm Cơ đá một cước lại bị Điền Quy Nông đánh một chưởng, thương thế rất nặng thành ra cục diện đảo ngược. Quần đạo chưa cướp tiêu được mà bọn tiêu khách cũng lặng lẽ chờ đợi diễn biến.

Diêm Cơ đi theo sau Thương lão thái thấy lưng mụ cong như cánh cung, chân bước xiêu vẹo nên lúc trước còn đề phòng mấy phần, bây giờ hắn chẳng còn lo gì nữa, liền cười hỏi:

– Thương lão bà! Lão bà gọi ta vào để dâng bảo vật chăng?

Thương lão thái đáp:

– Đúng vậy! Để dâng bảo vật.

Diêm Cơ động tâm. Hắn bình sinh vốn là người tham tiền, thấy Thương gia bảo có vẻ nhà giàu mà mụ chủ lại rất ân cần, không chừng mụ vì thấy cường địch đến đâm hoảng sợ, nên tự ý dâng châu báu để chuộc mạng sống. Hắn vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, sải bước đi theo mụ. Hai người xuyên qua ba trà đạo viện đến một gian nhà tận phía sau. Cánh cửa kêu “kẹt” một cái. Thương lão thái tiến vào rồi nói:

– Xin mời vào!

Diêm Cơ thò đầu nhìn vào phòng thì thấy đây là một gian nhà gạch, rộng chừng hai trượng vuông. Trong phòng trống rỗng, chỉ có một cái bàn, ngoài ra không còn vật gì khác. Hắn cảm thấy có điều khác lạ, nhưng cũng bước vào rồi lớn tiếng giục:

– Có chuyện gì nói mau đi! Đừng có giở trò hý lộng quỷ thần nữa.

Thương lão thái không đáp, xoay tay khép cửa rồi cài then lại. Diêm Cơ lấy làm lạ. Hắn đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy trên bàn đặt một tấm bài vị, viết hàng chữ “Tiên phu Thương Kiếm Minh chi linh vị”

Diêm Cơ lẩm bẩm:

– Thương Kiếm Minh! Thương Kiếm Minh! Cái tên này nghe quen quá, không hiểu là ai?

Trong nhất thời hắn không nghĩ ra.

Thương lão thái thong thả nói:

– Ngươi đã dám đến Thương gia bảo dở thói ngang tàng thì thật là lớn mật. Nếu tiên phu ta còn sống ở thế gian thì cả mười tên Diêm Cơ cũng phải tan thây. Hiện nay Thương gia bảo tuy chỉ còn lại mẹ góa con côi, nhưng cũng chẳng để cho những phường trộm cướp súc sinh các ngươi đến đây khi dễ.

Mụ vừa dứt lời, đột nhiên đứng thẳng người lên, cặp mắt lấp loáng hào quang đầy vẻ oai nghiêm. Dáng vẻ lụ khụ của mụ giả lúc nãy chớp mắt đã trở nên oai phong lẫm liệt.

Diêm Cơ trong lòng cũng hơi kinh hãi, nghĩ thầm:

“Té ra mụ này cố ý giả dạng già nua.”

Nhưng hắn lại nghĩ đến mụ bất quá là người đàn bà thì có gì đáng sợ? Hắn liền cười đáp:

– Đến nhà thì đã đến rồi, khinh người cũng đã khinh rồi. Mụ có cắn ta một miếng thì cắn.

Thương lão thái liền tiến lại bên cạnh bàn, đi ra sau linh bài và ôm ra một cái bọc màu vàng tro bụi bám đầy. Mụ cũng không phủi bụi, cởi bọc ra thì thấy ánh tử quang lấp lánh, khí lạnh mịt mờ. Té ra là thanh Tử kim bát quái đao, lưỡi mỏng sống dày.

Diêm Cơ đột nhiên nhớ lại một việc xảy ra từ mười mấy năm trước, hắn kinh hãi bất giác lùi lại hai bước. Thanh Quỷ đầu đao đang cầm ở tay trái đưa sang tay phải rồi la lên:

– Bát Quái đao Thương Kiếm Minh!

Thương lão thái sa sầm nét mặt hô:

– Hào kiệt đi rồi nhưng bảo đao còn lại. Lão thân cũng dùng thanh Bát Quái đao này của tiên phu để lãnh giáo mấy cao chiêu của Diêm lão đại.

Đột nhiên mụ nắm lấy chuôi đao ra chiêu “Đồng tử bái Phật” hướng về phía linh vị để hành lễ rồi quay lại biến thành chiêu “Thượng thế tả thủ bảo đao” trong Bát quái đao pháp. Mụ trầm vai xuống, khí liễm thần tụ, chẳng có vẻ già nua lụ khụ chút nào.

Diêm Cơ tuy trong lòng cũng hơi cảnh giới nhưng nghĩ đến Bách thắng thần quyền Mã Hành Không anh hùng như vậy mà còn bị thất bại về tay mình, thì chỉ có Thương Kiếm Minh phục sinh họa chăng hắn mới sợ mấy phần, chứ còn Thương lão thái dĩ nhiên bản lãnh chỉ có hạn. Hắn vung thanh quỷ đầu đao lên chém hờ trên không một nhát, rồi cười nói:

– Mụ muốn tỷ thí đao pháp sao không ra ngoài đại sảnh? Mụ bảo ta vào đây phải chăng vì ở trước mặt linh vị trượng phu mới hiển lộ được hết bản lĩnh chăng?

Thương lão thái nghiêm nghị đáp:

– Đúng vậy! Uy linh của tiên phu đủ trấn áp được lũ chuột nhắt.

Diêm Cơ không tự chủ được, liếc mắt ngó lên linh đài, bất giác trong lòng phát rợn. Hắn muốn kết liễu cho lẹ để ra khỏi nhà linh đường lạnh lẽo âm u này, liền giục:

– Thương lão thái! Lão thái hãy ra chiêu trước đi.

Thương lão thái đáp:

– Diêm trại chủ là khách, xin mời ra chiêu trước.

Mụ nghe hắn đổi sang cách xưng hô đầy vẻ khách khí nên cũng đổi cách xưng hô, kêu hắn bằng “trại chủ”.

Diêm Cơ nói:

– Tại hạ với Thương gia bảo vốn không thù không oán. Lần này cướp tiêu, vì đánh Mã tiêu đầu mà tới đây khiến Thương lão thái phải xuất đầu lộ diện. Chúng ta đánh nhau chỉ cần điểm tới là ngừng, bất tất phải chém giết thực sự?

Thương lão thái đưa mất nhìn, cất giọng trầm trầm khàn đục nói:

– Làm gì có chuyện dễ dàng như thế. Thương Kiếm Minh một đời anh hùng. Thương gia bảo của tiên phu có phải là nơi ai muốn tới thì tới, muốn đi thì đi đâu?

Diêm Cơ nổi nóng nói:

– Theo lời lão thái thì phải làm sao?

Thương lão thái nói:

– Nếu Diêm trại chủ thắng được thanh đao trong tay ta thì cứ chặt đầu ta rồi giết luôn con trai ta đi…

Diêm Cơ kinh hãi nhảy dựng lên, bụng bảo dạ:

“Ta với mụ vốn không có thâm oán đại cừu, lại bất quá là vô ý mạo phạm hà tất phải liều mạng như vậy?”

Bỗng nghe Thương lão thái nói tiếp:

– Chỉ cần lão thân thắng được một chiêu nửa thức thì Diêm trại chủ phải cắt đầu để lại.

Vừa nói dứt câu, mụ liền quát lớn:

– Ra chiêu đi!

Diêm Cơ khí nóng đã xông lên đầu, lớn tiếng nói:

– Ta cần tính mạng của mẹ con mụ làm chỉ? Ta chỉ cần ruộng vườn nhà cửa của Thương gia bảo mà thôi.

Hắn vừa nói vừa vung đao lên thì Thương lão thái đã ra chiêu “Triêu dương đao” chém tới. Chiêu đao này vừa nhanh vừa mạnh, Diêm Cơ vội vàng nghiêng đầu né tránh, nghe “vù” một tiếng, lỗ tai phải của hắn bị chấn động lùng bùng. Nhát đao từ má phải chém xuống mà khoảng cách giữa hai người không đầy gang tấc, chỉ chậm trễ một giây thì cái đầu hắn đã bị chẻ làm đôi.

Chiêu đao thứ nhất đã có uy thế kinh người. Diêm Cơ vừa kinh hãi sửng sốt, hắn biết chiêu thứ hai của mụ sẽ quay đao sang chém vào lưng nên vung thanh quỷ đầu đao ra đỡ. Nghe “choang” một tiếng, hai thanh đao đụng nhau, ánh lửa xẹt ra tứ phía. Diêm Cơ thấy tý lực của mụ cũng bình thường, còn kém xa mình nên cảm thấy yên tâm. Hắn ra chiêu “Thôi đao cát hầu” chém tới. Thương lão thái “hừ” một tiếng nói:

– Tứ môn đao pháp có chi là lạ!

Diêm Cơ cười đáp:

– Lạ thì không lạ nhưng đủ để thắng mụ.

Chưa dứt lời, hắn đã sấn tới tung ra chiêu “Thôi thủ liên hoàn đao”. Thương lão thái cũng không chịu kém, ra chiêu “Tước nhĩ lạo tai”, hai thanh đao  nghiêng nghiêng chém tới.

Diêm Cơ hoảng kinh tự nhủ:

“Mụ tính đánh liều mạng hay sao đây?”

Nguyên trong võ thuật có những chiêu số không cần tự vệ mà cứ phản kích địch nhân, đó là cách đánh liều mạng để đưa đến tình trạng lưỡng bại câu thương. Cách đánh này vô cùng mạo hiểm, nếu không nắm rõ chiêu số của kẻ địch thì vạn bất đắc dĩ mới dùng tới.

Lúc này Thương lão thái cứ nâng đao chém tới chẳng thèm quan tâm đến chiêu đao của địch thủ, đủ biết mụ quyết liều mạng đối công. Mụ không quan tâm đến mạng sống thì mặc mụ, nhưng Diêm Cơ không thể không quan tâm đến mạng mình. Giữa lúc nguy cấp hắn vội lăn người rồi vung chân đá ngược lại. Cú đá này thật kỳ diệu, trúng vào cổ tay và má của Thương lão thái. Thanh Bát Quái đao lướt qua, hắn liền co chân rồi lăn người đi.

Nguyên Diêm Cơ luyện được mười mấy chiêu quyền cước quái dị. Mấy năm gần đây hắn sử dụng những chiêu này trên chốn giang hồ mà lần nào cũng thắng, còn đao pháp hắn chỉ tầm thường. Điều kỳ lạ là hắn đưa mười mấy chiêu quyền cước này vào đao pháp mà đánh bại không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán. Cứ mỗi lần đao pháp lâm vào thế hạ phong, hắn liền giở mấy ngón quyền cước ra thì lập tức vãn hồi được tình thế.

Chỉ trong khoảnh khắc, một lão bà và một tên tướng cướp đã vung đao đánh nhau kịch liệt. Trong căn phòng gạch, cát bụi bay mù mịt. Diêm Cơ thấy Thương lão thái đao pháp tinh diệu, nếu y không giở những ngón quyền cước quái dị đó ra thì khó lòng bảo toàn tính mạng dưới thanh Bát Quái đao.

Hắn nhủ thầm:

“Cứ đánh mãi thế này, chỉ cần sơ sẩy một chút là mất nửa cái đầu của Diêm mỗ. Cái đó chẳng có chi là hay ho.”

Hắn liền dùng cái sở trường để che đi chỗ vụng về, lập tức tay đấm chân đá, ngẫu nhiên phá được thế đao. Phương pháp này quả nhiên hiệu nghiệm, Thương lão thái không chống đỡ được phải lùi lại. Diêm Cơ cười hà hà nói:

– Thương Kiếm Minh có gì mà anh hùng. Bát Quái đao bất quá cũng chỉ vậy thôi.

Thương lão thái vốn kính trọng chồng như thần thánh, nên những lời ngày đã phạm vào điều đại kỵ của mụ. Đột nhiên ánh mắt mụ lộ ra những tia sang  ung dữ, đao pháp biến đổi, cả bốn phía đều có ánh đao tấn công tới tấp. Lúc này mỗi chiêu đao của mụ đều là chiêu đánh liều mạng, toàn là các chiêu tấn công, rõ ràng mụ không còn quan tâm chi đến chuyện sống chết nữa. Diêm Cơ quát lớn:

– Mụ điên rồi hay sao? Này Thương lão thái, chồng mụ không phải do ta giết, mụ liều mạng với ta làm gì? Này, này… mụ nghe nói vài câu có được không?

Hắn vừa la vừa co giò chạy trốn.

Diêm Cơ đã mất hết ý chí chiến đấu còn Thương lão thái càng đánh càng hăng, ra chiêu mỗi lúc mỗi mau lẹ. Hiện giờ Diêm Cơ không còn kịp sử dụng những đường quyền chưởng quái dị nữa mà chỉ mong mở được then cửa chạy ra khỏi gian phòng. Hắn lâm vào tình trạng đứng trước một con cọp dữ điên khùng, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến sư vinh nhục hay thắng bại nữa. Ý niệm duy nhất của hắn là làm sao thoát chết.

Mấy lần Diêm Cơ toan rút then cửa nhưng hắn bị Thương lão thái dồn vào cục diện nguy bách, chẳng được giây phút nào rảnh tay. Hắn thấy đối phương phóng ra những chiêu “Dạ xoa thám hải”, “Thượng bộ liêu đao”, “Tiên nhân chỉ lộ”. Chiêu nào cũng vô cùng mãnh liệt. Diêm Cơ đâm liều vung chân đá ngược một cước, miệng hô:

– Xin được bồi tiếp!

Hắn dồn lực vào chân trái, tung mình vọt qua cửa sổ ra ngoài. Ngờ đâu Thương lão thái chịu đựng phát đá chứ không né tránh, cứ bám theo như  bóng với hình, xông tới phóng đao chém một nhát. Bỗng nghe hai người cùng bật tiếng la:

– Úi chao!

Rồi cùng té xuống dưới cửa sổ. Thương lão thái lập tức nhảy lên. Tuy mụ bị đá trúng vai nhưng thương thế không nặng. Còn Diêm Cơ bị chiêu đao chém trúng đùi không đứng dậy được ngay. Diêm Cơ hồn vía lên mây. Hắn thấy Thương lão thái cập mắt long lên sòng sọc, vung tay lên toan chém xuống, vội đưa hai tay ra ôm lấy đùi mụ, miệng la lên:

– Xin tha mạng!

Thương lão thái thuở nhỏ đã theo phụ thân, sau khi kết hôn lại tùy tòng trượng phu bôn tẩu giang hồ, suốt đời mụ gặp vô số hào kiệt võ lâm mà chưa thấy ai hèn hạ như tên này. Mụ còn đang sửng sốt, nhát đao chưa bổ xuống thì Diêm Cơ đã bò dưới đất hướng về phía mụ đập đầu binh binh ba cái, miệng năn nỉ:

– Đại nhân không chấp trách lỗi kẻ tiểu nhân. Tại hạ là một tên chó má khốn khiếp! Xin lão thái thái đừng giết.

Thương lão thái thở dài đáp:

– Hay lắm! Ta tha mạng cho ngươi nhưng ngươi nhớ kỹ không được hé răng tiết lộ cuộc tỷ võ hôm nay cho người khác biết.

Diêm Cơ chỉ mong có thế, hắn vâng dạ luôn mồm. Thương lão thái giục:

– Ngươi đi đi!

Diêm Cơ gượng cười, dập đầu binh binh hai cái rồi lồm cồm đứng dậy. Hắn chống đao xuống đất tập tễnh bước đi. Thương lão thái lại quát:

– Đứng lại! Trước khi chúng ta giao đấu đã nói ai thua cũng phải để cái đầu ở Thương gia bảo. Lời nói của ngươi không đáng kể, chẳng lẽ lời nói của ta cũng giống như tên đốn mạt nhà người?

Diêm Cơ giật bắn người lên, quay đầu nhìn kỹ thấy nét mặt Thương lão thái tựa hồ bao phủ một làn sương lạnh lẽo, hiển nhiên chẳng phải mụ nói chơi. Hắn lên giọng van lơn:

– Lão… lão thái thái đã tha mạng cho tiểu nhân rồi kia mà?

Thương lão thái đáp:

– Tha mạng ngươi thì được nhưng không tha cho cái đầu.

Mụ vung thanh Bát Quái đao lên lớn tiếng:

– Bát Quái đao của Thương Kiếm Minh ra tay chẳng bao giờ chịu trở về không. Ngươi lại đây!

Diêm Cơ quỳ ngay hai chân xuống đánh “cộp” một cái. Thủ pháp của Thương lão thái rất mau lẹ. Tay trái mụ nắm lấy búi tóc của hắn, tay mặt vung Bát Quái đao hớt một cái. Búi tóc của Diêm Cơ liền bị cắt đứt. Mụ quát:

– Búi tóc này để lại Thương gia bảo. Từ nay ngươi phải cạo trọc đầu làm sư không được dấn thân vào con đường hắc đạo nữa.

Diêm Cơ vâng dạ luôn miệng. Thương lão thái nói:

– Ngươi hãy buộc vết thương đùi, đội mũ vào, rồi ra sảnh đường gọi bọn thủ hạ cút khỏi Thương gia bảo.

Ngoài sảnh đường, mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu Thương lão thái gọi Diêm Cơ vào nội đường nói chuyện gì? Sau một lúc mới thấy Thương lão thái lom khom đi ra. Diêm Cơ đi theo sau mụ, vẻ mặt thẫn thờ cất tiếng hô:

– Chúng vị huynh đệ! Không lấy tiêu ngân nữa. Chúng ta hãy về trại thôi.

Hắn nói câu này khiến mọi người đều kinh ngạc. Gã nhị trại chủ ngơ ngác hỏi:

– Đại ca…

Diêm Cơ gạt đi:

– Hãy về trại rồi sẽ nói chuyện.

Hắn vung tay một cái, dời khỏi sảnh đường. Diêm Cơ không dám để lộ vết thương ở đùi, gắng gượng cất bước, nghiến răng chịu đau mà đi. Bọn cướp không dám trái lời, chỉ liếc mắt ngó những túi bạc rồi trở gót lên đường. Trong khoảnh khắc, bọn cướp bỏ đi hết.

Mã Hành Không tuy là người biết nhiều hiểu rộng cũng không đoán được chỗ ẩn diệu bên trong. Lão ngó thấy chỗ Diêm Cơ đi qua, trên mặt đất còn lưu lại những vệt máu thì đoán chừng hắn bị thương ở nội đường và chắc trong Thương gia bảo có cao nhân mai phục. Lão không tài nào đoán được mụ già lụ khụ trước mắt vừa có một trận quyết đấu sinh tử với Diêm Cơ. Lão vịn vai con gái đứng lên toan cảm tạ thì Thương lão thái gọi con:

– Bảo Chấn! Ngươi hãy theo ta vào đây.

Mã Hành Không còn đang ngơ ngác đã thấy hai mẹ con mụ đi vào. Các tiêu khách và bọn thị vệ đều thì thào bàn tán. Có người cho là Thương lão thái quen biết tên tướng cướp từ trước và đã có ơn với hắn. Có kẻ lại bảo Thương lão thái đã khuyến dụ Diêm Cơ, phân tích lợi hại để hắn thấy rằng đối địch với các ngự tiền thị vệ không phải chuyện đùa nên phải đình chỉ việc cướp tiêu. Quần hào còn đang đoán mò thì Thường Bảo Chấn trở ra nói:

– Gia mẫu mời Mã lão tiêu đầu vào nội đường dùng trà.

Trong nội đường. Thương lão thái khuyên Mã Hành Không hãy lưu lại Thương gia bảo để dưỡng thương, một mặt phái người đến những tiêu cục lân cận mời đồng bạn tương trợ để bảo tiêu ngân đi Kim Lăng trước. Những sự việc xảy ra khiến Mã Hành Không tiêu tán hùng tâm. Ngoại hiệu “Bách thắng thần quyền” vang dội mấy chục năm không ngờ bị tỏa chiết trong tay một tên đạo tặc lưu manh ở chốn quê mùa. Lão cảm thấy chán ngán nghề bảo tiêu. Không còn muốn tiếp tục hành nghề nữa. Thương lão thái đã cứu viện để tiêu ngân khỏi bị cướp, tạo nên mối ân tình thâm trọng, dĩ nhiên lão không dám trái ý mụ. Đồng thời mong muốn tìm hiểu tay cao thủ võ lâm nào đã đả bại Diêm Cơ. Lão liền tạ ơn Thương lão thái rồi vâng lời làm theo ý mụ.

Chiều hôm ấy, trời hết mưa. Ba tên ngự tiền thị vệ ngỏ lời cáo biệt. Thương Bảo Chân tiễn chân họ đến tận ngoài cổng lớn. Người cụt tay dắt thằng nhỏ lại để cáo biệt ra đi. Thương lão thái liếc mắt nhìn thằng nhỏ, mụ nhớ tới lúc thằng bé nổi giận quở trách Miêu phu nhân, tỏ ra chính khí lẫm liệt, nên nhủ thầm:

“Thằng bé này còn nhỏ mà đã đảm lược hơn người, thật hiếm có.”

Mụ liền hỏi:

– Hai vị định đi đâu? Trong mình có đủ tiền lộ phí không?

Người cụt tay đáp:

– Bọn thúc điệt tiểu nhân lưu lạc giang hồ. Bốn biển là nhà, không nhất định ở đâu.

Thương Lão Thái ngắm nghía thằng nhỏ, trầm ngầm một lúc rồi nói:

– Nếu hai vị không chê thì ở lại đây mà sinh sống. Trang trại của lão thân khá lớn lại nhiều người, thêm một vài miệng ăn chẳng có chi đáng kể.

Người cụt tay trong bụng còn tính chuyện khác, nghe mụ nói vậy cả mừng liền tiến lại bái tạ. Thương lão thái hỏi đến họ tên thì người cụt tay xưng danh là Bình Tứ, thằng nhỏ cháu lão tên gọi Bình Phỉ. Tối hôm ấy chú cháu Bình Tứ được quản gia đưa vào ở trong căn phòng nhỏ tại tòa nhà phía Tây. Sau khi đóng cửa, bộ mặt xấu xí của Bình A Tứ lộ vẻ vui mừng, khẽ nói:

– Thiếu gia! Nhờ vong linh của gia nương thiếu gia phù hộ khiến cho hai trang trong pho quyền kinh lại trở về tay thiếu gia. Thật là trời cao có mắt.

Bình Phỉ đáp:

– Bình Tứ thúc! Tứ thúc chớ gọi tiểu điệt là thiếu gia, lỡ người ngoài nghe thấy sẽ sinh lòng ngờ vực.

Bình A Tứ khen phải. Lão móc trong bọc ra một cái gói nhỏ bằng giấy dầu, cầm hai tay kính cẩn đưa cho Bình Phỉ. Chẳng phải lão tỏ ra cung kính với đứa nhỏ mà vì lão nghĩ tới vị ân nhân kia đã để lại hai trang sách, Bình Phỉ hỏi:

– Bình Tứ thúc! Tứ thúc nói thế nào mà Diêm Cơ cam tâm tình nguyện giao trả hai trang Quyền kinh?

Bình Tứ đáp:

– Lão nô bảo hắn “Trại chủ đã xé lấy hai trang Quyền kinh đó phải không, Miêu đại hiệp bảo trại chủ phải trả lại”. Lão nô nói hai câu này lúc Miêu đại hiệp ở trước mặt hắn. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Dù Diêm Cơ lớn mật đến đâu cũng chẳng dám trái lời.

Bình Phỉ trầm ngâm hỏi:

– Tại sao hai trang pho Quyền kinh lại lọt vào tay hắn? Vì lẽ gì Tứ thúc bảo tiểu điệt ghi nhớ tướng mạo hắn? Tại sao hắn sợ Miêu đại hiệp đến thế?

Bình Tứ không đáp. Da mặt lão co rúm lại càng khó coi, đôi mắt ngần ngận nước, lão ráng chịu đựng cho lệ khỏi trào ra. Bình Phỉ liền nói tiếp:

– Tứ thúc! Tiểu điệt không hỏi nữa. Tứ thúc đã bảo tiểu điệt khôn lớn, học thành võ công sẽ kể rõ ngọn nguồn cho tiểu điệt nghe. Vậy tiểu điệt ra sức luyện võ đã.

Thế rồi hai chú cháu định cư ở Thương gia bảo, Bình Tứ lo việc bón phân tưới rau, còn Bình Phỉ thì lo quét dọn luyện võ sảnh.

Mã Hành Không ở lại Thương gia bảo để dưỡng thương. Những lúc nhàn rỗi lào cùng con gái, đồ đệ và Thương Bảo Chấn đàm luận quyền cước. Khi bọn họ bàn võ luyện quyền, Bình Phỉ ngẫu nhiên liếc mắt nhìn qua nhưng tuyệt đối không lộ vẻ quan tâm, Mọi người chỉ biết gã là thằng nhỏ gầy nhom, vàng ủng mà lớn mật, nhưng không ngờ gã lại biết võ công. Vì thế nên những khi ngẫu nhiên gã có tới đứng coi một chút, đừng nói con người mấy chục năm kinh nghiệm giang hồ là Mã Hành Không, ngay cả chàng thiếu niên thông minh lanh lợi như Thương Bảo Chấn cũng chẳng bao giờ hoài nghi việc gã lưu ý đến chỗ ảo diệu trong quyền pháp.

Bình Phỉ cũng chẳng phải là hạng người học lén võ nghệ. Trong lòng gã nghĩ gì, bọn Mã Hành Không càng chẳng bao giờ để ý đến. Mỗi khi Bình Phỉ nghe mọi người bàn tới những kỳ chiêu diệu thức, gã lại lẩm bẩm:

– Cái đó có chi là hay? Những chiêu số này chỉ đối phó được với kẻ tầm thường, chứ không thể đối địch được anh hùng hảo hán.

Thực ra gã không phải họ Bình mà là họ Hồ. Tên gã không phải là Bình Phỉ mà là Hồ Phỉ, con trai của Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao, người đã từng đấu với Miêu Nhân Phụng suốt năm ngày bất phân thắng bại. Hồ Phỉ được phụ thân để lại cho một cuốn “Quyền kinh đao phổ”, vốn là tuyệt học của võ lâm. Đó là cuốn bí kíp nói về tinh nghĩa của quyền pháp và đao pháp của Hồ gia. Bộ “Quyền kinh đao phổ” mất hai trang đầu, nên thiếu hẳn căn bản của công phu nhập môn lại thiếu cả yếu quyết về quyền pháp và đao pháp bởi vậy dù gã có thông minh và cố gắng đến đâu cũng chẳng thể tìm được lối vào. May nhờ cơ duyên xảo hợp, hai trang sách bị Diêm Cơ đánh cắp nay lấy lại được nên gã thông suốt vấn đề, võ công tiến bộ cực kỳ mau lẹ.

Diêm Cơ chỉ nhờ hai trang Quyền kinh này học thành mười mấy chiêu cổ quái mà đã có thể xưng hùng võ lâm. “Bách thắng thần quyền” Mã lão tiêu đầu cũng bị bại về tay hắn. Còn Hồ Phỉ có đủ toàn bộ từ đầu đến cuối. Dĩ nhiên Hồ Phỉ còn nhỏ tuổi quá, công lực còn nông cạn nên nhiều chỗ tinh vi khó mà hiểu được. Nhưng gã có “Quyền kinh đao phổ” trong tay thì luyện một ngày cũng bằng bọn Từ Tranh luyện cả tháng. Huống gì dù gã luyện đến mười năm hay hai mươi năm cũng không học thành được những môn thiên hạ tuyệt nghệ như Hồ gia quyền và Hồ gia đao.

Hàng ngày cứ nửa đêm, Hồ Phỉ lại lén ra khỏi trang viện đến nơi hoang dã luyện quyền, đao. Gã dùng một cành cây đẽo thành đao để luyện tập. Mỗi lần gã phóng đao đánh tới lại tưởng tượng đang chém đầu của kẻ thù giết cha. Tuy nhiên, rốt cuộc gã cũng chẳng hiểu cừu nhân là ai. Gã phải chờ Bình Tứ kể rõ đầu đuôi sau khi gã đã trưởng thành và luyện thành võ nghệ. Gã say sưa rèn luyện võ công, lại càng suy ngẫm đến chỗ sâu xa, vì những môn võ công tối thượng phải luyện bằng đầu óc nhiều hơn bằng tay chân.

Bảy tám tháng trôi qua, thương thế của Mã Hành Không đã hoàn toàn khỏi hẳn, nhưng Thương lão thái và Thương Bảo Chấn vẫn nhiệt thành lưu khách. Tiêu cục của Mã Hành Không cũng đã tan rã nên khi thấy chủ nhân ân cần, lão cũng chiều lòng ở lại. Thương Bảo Chấn không bái lão làm thầy vì Thương lão thái bản tính cao ngạo, mụ cho là Bát Quái đao của Thương Kiếm Minh đã thành môn tuyệt nghệ gia truyền hà tất phải đi nhận người khác làm sư phụ?

Mã Hành Không cảm kích mối ân tình về vụ nhà này đã bảo vệ tiêu ngân nên coi Thương Bảo Chấn chẳng khác gì đệ tử, biết được môn nào gã thích học liền truyền thụ ngay. Lão đem chỗ tinh yếu về quyền kỹ dạy cho kỳ hết. Cái ngoại hiệu “Bách thắng thần quyền” của lão chẳng phải may mắn mà được. Quyền thuật của lão quả có chỗ độc đáo. Trong bảy tám tháng này Thương Bảo Chấn được ích lợi rất nhiều.

Mã Hành Không đã nhận ra Thương gia bảo chẳng phải là nơi tàng long ngọa hổ, cũng không có cao nhân ẩn náu. Nhưng hôm ấy Diêm Cơ sao lại lật đật bỏ đi thì lão nghĩ mãi vẫn không hiểu được vì sao. Một lần ngẫu nhiên lão hỏi tới chuyện này, nhưng Thương lão thái chỉ mỉm cười và đánh trống lảng. Mã Hành Không biết chủ nhân không chịu tiết lộ, từ đó lão tuyệt không nhắc tới nữa.

Mã Hành Không tuổi đã già, khí huyết suy kém, đêm không ngủ say được. Một hôm vào khoảng canh ba, bỗng nghe ngoài tường có tiếng rắc rắc, tựa hồ có người vô ý đạp vào một cành cây khô gãy. Mã lão tiêu đầu một đời phiêu đãng giang hồ, thoáng nghe đã biết có người dạ hành đang lướt qua ở bên ngoài. Nhưng chỉ một tiếng đó rồi sau chẳng thấy động tĩnh chi nữa, nên lão cũng không hiểu người đó đi về phía đông hay phía tây hoặc ẩn nấp trên đầu tường nhìn trộm. Lão tuy làm khách tại Thương gia bảo, nhưng đã chịu ơn của chủ nhân, và ngày thường chủ khách đối đãi với nhau tình ý rất nồng nàn thắm thiết, nên lão coi sự an nguy của Thương gia bảo còn quan trọng hơn sự an nguy của chính mình. Lão liền nhẹ nhàng ngồi dậy, rút cây nhuyễn tiên dưới gối quấn vào lưng, khẽ mở cửa phòng rồi nhảy lên đầu tường. Bỗng thấy bóng đen thấp thoáng chạy về phía sau trang viện. Mã Hành Không đã nhận ra khinh công người này rất cao minh, tự hỏi:

“Phải chăng Diêm Cơ chưa chịu bỏ qua nên quay lại sinh sự? Vụ này do ta gây nên thì họ Mã này tụ thủ bàng quan thế nào được?”

Lão liền nhảy ra ngoài tường, tăng gia cước lực rượt theo rất gấp. Chạy được mấy chục trượng thì lão chẳng thấy tông tích bóng đen đâu nữa cả. Lão động tâm lẩm bẩm:

– Không xong! Không chừng ta trúng kế “Điệu hổ ly sơn” của địch nhân.

Lão liền giở khinh công quay về Thương gia bảo. Đến bên ngoài bờ tường, lão chú ý lắng nghe, bốn bề vẫn yên lặng như tờ. Lão hơi yên dạ nhưng lại càng thêm nghi hoặc, tự hỏi:

“Thân thủ người này không phải tầm thường. Đúng là một tay kình địch nhưng tầm vóc gã nhỏ bé, khác hẳn với tên tướng cướp Diêm Cơ. Chẳng hiểu tay hảo thủ nào trên chốn giang hồ đã tới đây?”

Lão nắm cây nhuyễn tiên xoay chuyển mấy lần, rồi quay mình tiến về phía sau trang viện để quan sát xem thử rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Lão lén đi được mười mấy trượng gần hết trang viện, thì đột nhiên phía tây văng vẳng có tiếng kim đao rít lên. Mã Hành Không la thầm:

– Thật xấu hổ! Quả nhiên có người đến tập kích, nhưng không hiểu họ đang động thủ với ai?

Lão điểm hai chân xuống đất tung mình nhảy vọt tới. “Bách thắng thần quyền” tuy tuổi già mà thân thủ vẫn cực kỳ mau lẹ. Tay trái lão bám vào đầu tường, lộn người ngược đi rồi nhẹ nhàng hạ xuống bên trong, lần về phía phát ra thanh âm. Lão nghe rõ tiếng động từ trong căn nhà gạch ở hậu viện phát ra. Lão lấy làm lạ là hai người lặng lẽ chiến đấu, đã không một tiếng quát tháo, lại cũng không thấy tiếng binh khí chạm nhau. Lão cho là trong vụ này có điều ngoắt ngoéo nên không xông vào tương trợ, ghé mắt nhìn qua khe cửa sổ, suýt nữa phải phì cười.

Căn phòng này trống rỗng. Trên bàn đặt một ngọn đèn nhỏ như hạt đậu.

Hai người cầm cương đao đang ra tay kịch đấu, một người là Thương Bảo Chấn, người nữa là Thương lão thái. Té ra hai mẹ con bà đang tập luyện đao pháp. Mã Hành Không coi một lúc, bất giác hít một hơi khí lạnh vì thấy Thương lão thái ra tay tàn độc, đao pháp tinh diệu hoàn toàn khác hẳn một mụ già lụ khụ như lúc ban ngày. Còn Thương Bảo Chấn sử những đường Bát Quái đao ào ạt như gió cuốn mây bay. Té ra ngày thường chẳng những Thương lão thái là người kín đáo mà Thương Bảo Chấn cũng cố ý giấu diếm võ công. Bình nhật, lão chỉ truyền thụ quyền cước cho Thương Bảo Chấn còn về đao pháp gã tỏ ra rất tầm thường, không ngờ công phu về binh khí gã thiếu niên này thật sự đã vào hạng khá.

Mã Hành Không lén coi hồi lâu, nhớ lại chuyện mười lăm năm trước đã cùng phụ thân Thương Bảo Chấn là Thương Kiếm Minh động thủ trên đường Cam Lương. Lão bị đối phương chém một đao, đánh một chưởng phải dưỡng thương ba năm mới bình phục. Lão tự biết bản lãnh mình còn kém xa đối phương nên khó lòng mà trả được mối thù đó. Từ ngày ấy lão không lần nào trở lại đường Cam Lương.

Hiện nay, Thương Kiếm Minh đã chết rồi, Thương lão thái lại có ơn nên mối hiềm khích nhỏ ngày trước lão cùng không để tâm. Dè đâu đêm nay lại thấy vợ góa con côi của cừu nhân đang dùng Bát Quái đao để đối chiêu. Mã Hành Không trong lòng ngổn ngang trăm mối, nghĩ thầm:

“Võ công của Thương lão thái thật chẳng kém ta, sao mụ không lộ ra chút vết tích gì? Mụ lưu cha con ta ở lại trang viện có dụng ý khác chăng?”

Lão ngẫm nghĩ một lúc, rồi lại ghé mắt dòm vào thấy hai mẹ con đã biến đổi đao pháp. Cả hai người sử dụng công phu “Bát quái du thân đao pháp” chạy khắp gian nhà, vừa vung đao vừa phóng chưởng, càng đánh càng lẹ. Hai người đánh đến chiêu sáu tư là chiêu “Thu thế” rồi nhảy lùi lại. Cả hai mẹ con cũng theo đúng quy củ giơ đao lên rất mực trang trọng, xong mới hạ xuống. Thương lão thái vẫn thản nhiên. Dưới ánh đèn xanh, mặt mụ thoáng hiện màu lục. Còn Thương Bảo Chấn mặt đỏ bừng bừng, hơi thở hồng hộc.

Thương lão thái bỗng sa sầm nét mặt hỏi:

– Đường hô hấp của ngươi vẫn khó giữ cho điều hòa, thế là tiến bộ chậm lắm. Biết đến năm nào tháng nào mới trả được mối đại thù cho gia gia?

Mã Hành Không nghe nói, giật thót cả người. Lại thấy Thương Bảo Chấn cúi đầu ra chiều xấu hổ.

Bỗng nghe Thương lão thái nói tiếp:

– Tuy ngươi chưa thấy võ công của Miêu Nhân Phụng nhưng đã nhìn rõ thần lực của hắn với cỗ xe ngựa. Còn Hồ Nhất Đao võ công cũng chẳng kém gì Miêu Nhân Phụng. Bản lĩnh của Miêu, Hồ nhị tặc như vậy mà bây giờ ngươi còn thua kém một trời một vực, cần phải khổ công rèn luyện võ thuật mỗi ngày. Võ thuật của ngươi tiến được một phần, mặt khác nhị tặc già yếu đi một phần. Rồi cũng có ngày ngươi phân thây nhị tặc thành muôn đoạn dưới lưỡi Bát Quái đao.

Mã Hành Không nghĩ thầm:

“Hai mẹ con nhà này đóng cửa luyện võ chưa biết chuyện Hồ Nhất Đao đã chết trước đây mười mấy năm rồi.”

Lại nghe Thương lão thái thở dài nói:

– Hỡi ơi! Mấy bữa nay ta thấy ngươi điên đảo thần hồn vì con nha đầu nhà họ Mã, đến nỗi luyện võ không hăng say nữa.

Mã Hành Không kinh hãi tự hỏi:

“Chẳng lẽ Xuân nhi đã có chuyện gì với gã này rồi ư?”

Lại thấy Thương Bảo Chấn mặt đỏ bừng, cất tiếng đáp:

– Má má! Hài nhi thấy Mã cô nương vẫn giữ gìn mực thước. Hài nhi cũng chưa nói với cô được mấy câu.

Thương lão thái hừ một tiếng rồi hỏi:

– Ngươi uống sữa của ai mà lớn lên? Trong lòng ngươi nghĩ gì chẳng lẽ ta lại không rõ?

Rồi mụ nói tiếp:

– Ngươi vừa lòng Mã cô nương kể ra cũng không lầm. Nhân phẩm và võ nghệ của thị rất hợp ý ta.

Thương Bảo Chấn cao hứng cất tiếng gọi:

– Má má!

Thương lão thái xua tay trầm giọng nói:

– Ngươi có biết gia gia thị là ai không?

Thương Bảo Chấn ngạc nhiên hỏi lại:

– Chẳng lẽ lại không phải là Mã lão tiêu đầu?

Thương lão thái đáp:

– Ai bảo không phải? Nhưng ngươi có biết giữa Mã lão tiêu đầu và nhà ta có mối oan khiên gì không?

Thương Bảo Chấn lắc đầu. Thương lão thái nói:

– Hài tử! Lão là đại cừu nhân của gia gia ngươi đó.

Thương Bảo Chấn nghe nói quả nhiên bất ngờ, “ối” lên một tiếng. Mã Hành Không bất giác phát run. Lão nghe Thương lão thái nói tiếp:

– Mười năm trước, gia gia ngươi động thủ với Mã Hành Không trên đường Cam Lương. Gia gia ngươi anh hùng cái thế thì gã họ Mã đó làm sao là đối thủ của lão nhân gia được? Gia gia ngươi chém hắn một đao, đánh hắn một chưởng thành trọng thương. Nhưng họ Mã cũng không phải tay vừa. Gia gia ngươi cũng bị nội thương trong cuộc tỷ võ đó. Lão nhân gia vẻ đến nhà thương thế chưa bình phục thì kẻ đối đầu với chúng ta là Hồ Nhất Đao đêm khuya vào nhà sát hại gia gia ngươi. Giả tỷ gia gia ngươi không có chuyện động thủ với gã họ Mã thì… hà hà, môn Bát Quái đao uy danh lừng lẫy giang hồ, liệu Hồ Nhất Đao có hại nổi lão nhân gia không?

Mụ nói mấy câu sau cùng thanh âm biến thành thê thảm, giọng nói khàn đục nghe lại càng ghê rợn. Mã Hành Không một đời từng trải sóng to gió lớn mà bây giờ nghe mụ nói mấy câu này cũng phải không rét mà run. Lão nghĩ thầm:

– Với bãn lãnh của Hồ Nhất Đao thì dù Thương Kiếm Minh nhà mụ chưa bị nội thương cũng khó lòng chống nổi. Mụ này thấy chồng bị thảm tử giận lây cả đến ta.

Lại nghe Thương lão thái nói:

– Không hiểu ma đưa lối quỷ dẫn đường thế nào mà lão này lại đẩy xe tiêu vào nhà ta. Thương gia bảo do tay gia gia ngươi dựng lên thì khi nào để lũ chuột nhắt lần đến ngang ngược cướp tiêu? Nhưng ngươi có biết ta lưu cha con họ Mã ở lại đây để tính chuyện gì không?

Thương Bảo Chấn cất giọng run run đáp:

– Má… má… Má má định báo thù cho gia gia hay sao?

Thương lão thái lớn tiếng:

– Ngươi không chịu có phải không? Ngươi đã đem lòng yêu con nha đầu họ Mã rồi phải không?

Thương Bảo Chấn thấy mắt mẫu thân cơ hồ tóe lửa, y liền lùi lại hai bước không dám nói gì. Thương lão thái cười lạt nói:

– Hay lắm! Mấy bữa nữa ta sẽ bàn chuyện hôn sự với họ Mã. So thân thế và phẩm mạo của ngươi chắc lão quyết không từ chối.

Mụ nói mấy câu này thật ra ngoài sự tiên liệu của Mã Hành Không và Thương Bảo Chấn. Mã Hành Không dòm qua khe cửa thấy Thương lão thái nghiến răng, thần thái đây vẻ căm hận, khiến lão nghe lạnh cả xương sống, toàn thân râu tóc dựng đứng cả lên. Lão nghĩ thầm:

“Mụ già này dụng tâm thật là hiểm độc. Mụ giết ta không đủ để tiết hận, lại còn muốn bắt đứa con gái duy nhất xinh đẹp như hoa của ta làm con dâu để hành hạ cho sống không được mà chết cũng chẳng xong. May trời còn thương để đêm nay ta nghe lỏm được câu chuyện giữa hai mẹ con mụ. Không thì… không thì… ta làm khổ một đời Xuân nhi rồi!”

Thương Bảo Chấn còn nhỏ tuổi, kiến thức nông cạn, hoàn toàn không hiểu thâm ý của mẫu thân. Gã chỉ cảm thấy vừa vui vừa mừng lại vừa kinh ngạc, yên trí mẫu thân sẽ đứng ra chủ trì hôn sự cho mình. Trong lòng gã chín phần hoan hỉ và chỉ một phần kinh ngạc.

Mã Hành Không sợ mình còn đứng nghe nữa sẽ bị Thương lão thái phát giác. Lão ngưng thân đề khí, rón rén bước đi. Lão trở về phòng lau mồ hôi chợt sực nhớ lại, lão tự hỏi:

“Cái bóng đen bé nhỏ gầy nhom chạy ra sau núi là ai?”

Chiều hôm sau nữa, Mã Hành Không mặc trường bào, khoác áo choàng sai Thương Bảo Chấn mời mẫu thân ra để thương lượng. Thương Bảo Chấn vừa mừng vừa sợ, tự hỏi:

“Chẳng lẽ mẫu thân đã nhắc tới hôn sự của ta với Mã lão sư? Coi cách ăn mặc và thái độ của lão dường như không phải chuyện tầm thường.”

Gã liền ra mời mẫu thân vào hậu sảnh. Chủ khách yên vị rồi gã ngồi xuống phía dưới hầu chuyện. Thương Bảo Chấn hết ngó mẫu thân lại nhìn Mã Hành Không, trống ngực đập thình thịch. Bỗng nghe Mã lão tiêu đầu cất tiếng cảm tạ việc bảo vệ tiêu ngân và sự tiếp đãi chủ nhà trong thời gian qua. Thương lão thái đáp lại bằng lời khiêm nhượng và mong lão đi vào chính đề nhưng hai bên nói qua nói lại toàn những lời khách sáo.

Sau một lúc chuyện phiếm, Mã Hành Không mới nói:

– Tiểu nữ là Xuân Hoa tuổi cũng đã lớn, tại hạ muốn thương lượng cùng Thương lão thái một việc.

Trái tìm Thương Bảo Chấn càng đập mạnh. Thương lão thái lấy làm lạ nghĩ bụng:

– Xưa nay chưa bao giờ có chuyện nhà gái lại mở miệng cầu thân trước.

Mụ liền hỏi:

– Mã lão cứ nói tự nhiên. Chúng ta đã là chỗ người nhà thì hà tất phải câu nệ lễ nghi?

Mã Hành Không đáp:

– Ngoài con nha đầu đó, bình sinh tại hạ còn thu nhận một tên đồ đệ thiên tư ngu muội, tính tình lỗ mãng. Nhưng tại hạ thu nạp gã từ thuở nhỏ nên coi gã như con. Thằng nhỏ này lại hợp Xuân Nhi, nên tại hạ muốn xin lão thái thái cho đôi trẻ đính ước thân sự tại quý trang.

Thương Bảo Chấn càng nghe nói càng phật ý, đến khi nghe tới câu sau cùng, y không nhịn được nữa liền đứng bật dậy. Thương lão thái trong bụng đã giận, tự nhủ:

“Lão này thật lợi hại! Chắc là thằng con bất hiếu của ta đã để lộ ra điều gì rồi”

Nhưng ngoài mặt mụ lại tỏ ra rất hân hoan, luôn miệng nói “Chúc mừng!”

Mụ lại giục Thương Bảo Chấn:

– Chấn nhi! Mau chúc mừng Mã lão bá đi!

Thương Bảo Chấn đầu óc hoang mang, vẻ mặt ngơ ngác, bỏ đi thẳng ra ngoài. Mã Hành Không lại nói chuyện khách sáo một hồi nữa với Thương lão thái mới về phòng. Lão gọi con gái và tên đồ đệ vào nói cho biết việc đính hôn của hai người sẽ tổ chức trong ngày hôm nay. Từ Tranh mừng rỡ không biết để đâu cho hết. Hắn há miệng ra cười không ngậm lại được nữa. Mã Xuân Hoa hai má đỏ bừng quay đầu đi không lên tiếng. Mã Hành Không nói:

– Chúng ta ở đây làm lễ đính hôn trước. Còn việc kết hôn thì để về nhà sẽ tính.

Lão biết con gái và đồ đệ chưa hiểu điều ngoắt ngoéo, nên những gì tai nghe mất thấy đêm qua lão hoàn toàn không nhắc tới.

Mã Xuân Hoa tính tình hoạt bát lại xinh đẹp hơn người. Nàng ở Thương gia bảo bảy tám tháng, cùng Thương Bảo Chấn hàng ngày gặp nhau, khiến gã buộc dây tơ tình vào vị cô nương này. Gã vừa được mẫu thân ưng thuận hôn sự cho mình, tưởng chừng mọi việc đều trôi chảy, ngờ đâu đúng vào lúc gã đang khấp khởi mừng thầm thì đột nhiên nghe Mã Hành Không nói mấy câu khác nào sét đánh bên tai. Thương Bảo Chấn ngồi một mình trong phòng nhìn qua cửa sổ, bần thần nhìn cây ngân hạnh trong sân, tựa hồ không tin những lời vừa nghe được từ miệng Mã Hành Không nói ra.

Thương Bảo Chấn như người mất hồn, chẳng hiểu thời gian trôi qua đã bao lâu. Sau một tên gia đinh vào phòng gọi:

– Thiếu gia! Đến giờ luyện võ rồi! Lão thái thái ngồi chờ thiếu gia cả nửa ngày rồi.

Thương Bảo Chấn kinh hãi la lên:

– Hỏng bét ta u mê quên cả giờ luyện võ. Chắc phải bị quở trách đây.

Gã tháo túi tiêu trên vách xuống, rảo bước chạy vội ra luyện võ sảnh. Gã thấy Thương lão thái ngồi trên ghế. Vẻ mặt vẫn thản nhiên, mụ nói:

– Bữa nay luyện các huyệt của mạch “Nhâm, Đốc” ở sau lưng.

Mụ quay lại, lớn tiếng bảo tên gia đinh:

– Cầm tấm mộc bài cho chắc! Nào chạy đi!

Thương Bảo Chấn trong lòng buồn bã nghĩ thầm:

– Mã lão sư nói vậy mà sao má má không hề xúc động, mảy may?

Ngày thường Thương lão thái dạy con rất nghiêm, lúc luyện võ lại càng khắt khe. Hễ gã bất cẩn một chút liền bị đánh mắng ngay. Thương Bảo Chấn rút kim tiêu cầm tay, không dám nghĩ vơ nghĩ vẩn gì nữa, chú ý lắng nghe mẫu thân hô huyệt. Bỗng nghe Thương lão thái hô:

– Miêu Nhân Phụng! Mệnh môn! Đào đạo!

Thương Bảo Chấn tay phải cầm hai mũi phi tiêu phóng ra, trúng vào hai huyệt đạo sau lưng hình người trên tấm mộc bài, Thương lão thái lại hô:

– Hồ Nhất Đao! Đại truy! Dương quan!

Thương Bảo Chấn giơ tay trái lên, nhận rõ huyệt đạo. Hai tiếng “chát chát” vang lên. Gã bắn trúng huyệt “Đại truy”, còn huyệt “Dương quan” thì hơi trệch một chút. Đột nhiên gã nhìn thấy tấm mộc bài có Điều khác thường, liền “ủa” một tiếng rồi tròn mắt lên mà nhìn. Gã phát hiện ra ba chứ “Hồ Nhất Đao” màu đen trên tấm mộc bài không còn nữa. Gã gọi tên gia đinh lại cầm tấm mộc bài lên xem thì rõ ràng ba chữ “Hồ Nhất Đao” đã bị người nào đó dùng vật nhọn khoét mất, rồi dùng mũi đao nguệch ngoạc khắc ba chữ “Thương Kiếm Minh” thay vào. Như vậy, hai mũi tên vừa rồi của gã không phải phóng vào cừu nhân mà lại phóng vào phụ thân mình.

Thương Bảo Chấn vừa nóng nảy vừa tức giận, xoay tay tát tên gia đinh một cái làm rụng hai cái răng của hắn. Gã lại phóng chân đá một cước khiến tên gia đinh ngã lăn ra đất. Thương lão thái quát lên:

– Dừng tay!

Mụ biết tên tráng đinh này ở trong bảo từ thuở nhỏ đến khi khôn lớn, dĩ nhiên hắn chẳng dám to gan như vậy. Đây nhất định là hành động của người ngoài. Mụ động tâm nghĩ ngay tới ba người trong bọn thầy trò Mã Hành Không, liền báo:

– Mời Mã lão sư tới đây nói chuyện.

Thương Bảo Chấn vốn là người tinh tế nhưng bữa nay vì hôn sự bất thành, nên trong cơn thất ý, gã ra tay rất thô bạo. Đến khi nghe mẫu thân bảo đi mời Mã Hành Không, gã liền biết ngay mình đánh lầm người nhà bèn vội đỡ tên trang đinh dậy, an ủi hắn:

– Ta lỡ tay! Xin ngươi đừng buồn.

Gã toan nhổ hai mũi kim tiêu trên biển gỗ ra nhưng Thương lão thái đã đưa tay cản lại, nói:

– Hãy khoan! Cứ để cho bọn chúng đắc ý một chút cũng không sao.

Mụ quay lại sai trang đinh vào linh đường lấy thanh Tử kim Bát Quái đao. Thầy trò Mã Hành Không ba người tới nơi thấy mọi người trong luyện võ sảnh đều vẻ mặt khác thường thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Lão tự nhủ:

“Mụ già này ghế gớm quá! Mới hơn một giờ mụ đã trở mặt rồi.”

Lão chắp tay hỏi:

– Lão thái thái cho gọi bọn tại hạ, không biết có điều chi dạy bảo?

Thương lão thái cười lạt nói:

– Tiên phu đã qua đời. Dù ngày trước Mã lão sư có điều xích mích, tưởng cũng không nên trút hận lên người đã chết.

Mã Hành Không ngơ ngác hỏi:

– Tại hạ ngu muội không hiểu, xin Thương lão thái nói rõ cho.

Thương lão thái trỏ vào tấm mộc bài đáp:

– Mã lão sư là một hán tử tiếng tăm lừng lẫy giang hồ, chắc không thèm làm những hành động đê hèn. Xin hỏi đây là nét chữ của lệnh ái hay của hiền đồ?

Mụ vừa nói vừa giương ánh mắt lấp loáng nhìn vào mặt mấy người ở Mã gia. Mã Xuân Hoa chưa từng thấy mụ oai phong lẫm liệt như bữa nay nên nàng lấy làm khiếp hãi. Mã Hành Không thấy trên tấm mộc bài đã thay đổi người, trong lòng cực kỳ kinh dị, ngoài miệng dõng dạc đáp:

– Tiểu nữ và tiểu đồ tuy ngu dốt nhưng quyết chẳng dám làm chuyện bừa bãi này.

Thương lão thái lớn tiếng hỏi:

– Theo nhận xét của Mã lão sư thì đây là hành động của người trong Thương gia bảo hay sao?

Mã Hành Không chợt nhớ tới bóng người bé gầy gò đêm qua liền đáp:

– E rằng có người lẻn vào trang. Đêm qua tại hạ…

Thương lão thái bèn ngắt lời, lớn tiếng nói:

– Chẳng lẽ chính tên cẩu tặc Hồ Nhất Đao lại đến đây để giở trò ma quỷ?

Mụ vừa nói dứt lời, đột nhiên một người đứng vòng ngoài lên tiếng:

– Không dám kiếm người thật để động thủ, mà viết tên họ vào tấm mộc bài để phóng tiêu thì đó mới đúng một hành động đê hèn, giở trò ma quỷ!

Thương lão thái ngồi trên phế chưa nhìn thấy người nói câu này là ai, nhưng nghe thanh âm lành lạnh, quát hỏi:

– Ai nói đó? Vào đây coi.

Bỗng thấy hai tên trang đinh bị đẩy dạt ra hai bên. Một gã thiếu nên ốm o vàng bủng tiến vào, gã chính là Hồ Phỉ. Việc này quả là một diễn biến bất ngờ, khiến ai nấy đều rất đỗi ngạc nhiên. Thương lão thái nhẹ nhàng hạ thấp giọng xuống hỏi:

– A Phỉ! Té ra là ngươi.

Hồ Phỉ đáp:

– Không sai! Chính là vãn bối. Mấy vị nhà Mã lão sư tuyệt không hay biết việc này đâu.

Thương lão thái lại hỏi:

– Ngươi hành động thế này có ý gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối coi không thuận mắt. Đã là anh hùng hảo hán thì chẳng nên làm như thế.

Thương lão thái gật đầu nói:

– Ngươi nói đúng lắm! Hảo hài tử! Ngươi quả là người có khí phách. Lại đây cho ta coi kỹ xem nào.

Mụ nói rồi từ từ vươn tay ra. Hồ Phỉ không ngờ mụ chẳng hề nổi giận liền tiến gần lại. Thương lão thái nhẹ nhàng cầm hai tay gã khẽ nói:

– Hảo hài tử! Quả là hảo hài tử!

Đột nhiên mụ xoay tay lại. Một tay nắm lấy huyệt “Hội tông” bên cổ tay trái, một tay nắm lấy huyệt “Ngoại quan” bên cổ tay phải gã. Cử động của Thương lão thái thật nhanh như điện chớp. Hồ Phỉ chưa kịp phòng bị, lập tức toàn thân tê dại, không nhúc nhích được. Nếu kể về võ công của Hồ Phỉ hiện nay thì Thương lão thái làm gì mà bắt được gã? Nhưng gã tuyệt không có một chút kinh nghiệm lâm địch, chẳng hiểu lòng người hiểm trá. Hai cổ tay gã bị người ta nắm rồi, bản lãnh không sao phát huy được.

Thương lão thái sợ gã giẫy dụa liền đá vào huyệt “Lương môn”, đoạn sai trang đinh lấy dây thừng tới trói gô gã lại rồi treo lên giữa luyện võ sảnh.

Thương Bảo Chấn rút cây roi da quất liên hồi vào đầu Hồ Phỉ. Hồ Phỉ cắn răng chịu đựng, tuyệt chẳng rên la cũng không năn nỉ. Thương Bảo Chấn quát hỏi:

– Ai phái ngươi tới đây làm gian tế?

Gã cứ hỏi mỗi câu lại đánh một roi. Một mặt gã sai trang đinh đi coi giữ Bình A Tứ không để lão chạy thoát. Trong lòng Thương Bảo Chấn vừa căm hận lại vừa thất vọng nhiều nỗi, bao nhiêu phẫn uất gã đều trút hết lên người Hồ Phỉ.

Mã Xuân Hoa và Từ Tranh thấy Hồ Phỉ toàn thân đẫm máu tươi trong lòng không nỡ, đã mấy lần toan mở miệng khuyên can nhưng Mã Hành Không đưa mắt ra hiệu, vẻ mặt rất nghiêm nghị nên hai người không dám nói nữa.

Thương Bảo Chấn đánh hơn ba trăm roi, mà vẫn không hỏi được ai đã sai khiến. Gã nhận thấy nếu còn đánh nữa tất phải chết người mới quẳng roi đi, quát mắng:

– Tên tiểu tặc kia! Có phải tên gian tặc Hồ Nhất Đao phái ngươi tới đây?

Hồ Phỉ đột nhiên mở miệng cười ha hả. Người gã đầm đìa máu tươi mà vẫn còn bụng dạ để cười được, lại cười một cách rất khoan khoái chứ không gượng gạo, quả là điều vượt ngoài sự tiên liệu của mọi người. Thương Bảo Chấn lại lượm roi toan đánh nữa. Mã Xuân Hoa không nhịn được, lớn tiếng la:

– Thôi đừng đánh nữa!

Thương Bảo Chấn đã giơ roi da lên, nhưng nhìn thấy ánh mắt Mã Xuân Hoa nên từ từ buông roi xuống. Hồ Phỉ mỗi lần bị roi quất xuống là tự hận mình ngu xuẩn không biết đề phòng đề lọt vào tay địch thủ. Hiện toàn thân gã thịt nát máu rơi, đau đớn cơ hồ ngất xỉu. Bỗng gã nghe tiếng Mã Xuân Hoa thốt lên bốn chữ “Thôi đừng đánh nữa” liền mở mắt ra nhìn thấy nét mặt của nàng đầy vẻ đồng tình thương xót, bất giác gã thấy vô cùng cảm kích. Thương lão thái thấy con trai mình bị nữ sắc làm cho mê muội, vì câu nói của một vị cô nương nhà người ta mà phải ngưng roi thì trong lòng tức giận vô cùng. Mụ chỉ khẽ “khịt” mũi một tiếng chứ không nói gì.

Mã Hành Không lên tiếng:

– Thương lão thái! Xin lão thái tra khảo cho ra đầu đuôi ngọn ngành. Xuân nhi, Từ nhi, chúng ta hãy lui ra.

Lão nhìn Thương lão thái chắp tay thi lễ rồi đưa con gái và đồ đệ ra khỏi luyện võ sảnh. Khi ra khỏi rồi, trong lòng Mã Xuân Hoa cảm thấy rất oán giận phụ thân nên hỏi:

– Gia gia! Gã bị đánh thê thảm như vậy mà sao gia gia thấy chết không cứu còn dặn người ta tra khảo nữa?

Mã Hành Không đáp:

– Người trên giang hồ tâm địa hiểm ác khôn lường. Ngươi còn nhỏ tuổi làm sao hiểu được?

Mã Xuân Hoa thực chưa hiểu được những câu nói của phụ thân. Tối hôm ấy, nàng nghĩ tới thảm trạng của Hồ Phỉ với thân thể máu me đầm đìa không sao cầm lòng được. Đến canh tư, nàng thức giấc rồi trằn trọc, không ngủ được nữa, liền rón rén bò dậy, lấy gói thuốc giấu trong túi bách bửu tiến về phía luyện võ sảnh. Lúc đi tới hành lang, nàng bỗng thấy một bóng người cứ bước lui bước tới, phát ra những tiếng thở dài não ruột. Đó chính là Thương Bảo Chấn. Gã nhìn thấy Mã Xuân Hoa liền dừng bước lại khẽ hỏi:

– Mã cô nương! Cô nương đấy ư?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Phải rồi! Sao thiếu gia còn chưa đi ngủ?

Thương Bảo Chấn hỏi lại:

– Bữa nay tại hạ gặp nhiều chuyện quá, làm sao mà ngủ nổi? Còn cô nương, sao cô cũng không ngủ?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Tiểu muội cũng như thiếu gia vì bận tâm về câu chuyện bữa nay không sao cầm lòng được.

Nàng nói câu chuyện bữa nay là muốn ám chỉ việc Hồ Phỉ bị đánh, nhưng Thương Bảo Chấn lại cho là việc chung thân của nàng hứa gả cho người khác. Khi gã nghe nàng nói “không sao cầm lòng được”, bất giác người gã run lên, tự nhủ:

“Quả nhiên nàng rất có tình ý với ta, nay lại bị hứa gả cho tên ngu xuẩn họ Từ, thì ra nàng bị phụ thân bức bách nên không biết phải làm sao.”

Gã liền đánh bạo tiến lại gần một bước, cất giọng ôn nhu gọi:

– Mã cô nương!

Mã Xuân Hoa nói:

– Này Thương thiếu gia! Tiện thiếp muốn cầu xin thiếu gia một việc.

Thương Bảo Chấn đáp:

– Hà tất cô nương phải cầu với cạnh? Cô nương muốn tại hạ làm bất cứ việc gì, tại hạ cũng làm ngay. Dù cô nương muốn tại hạ phải chết ngay đương trường để móc tim ra cho cô nương coi cũng được.

Mấy câu này chứng tỏ mối tình rất tha thiết. Thực ra gã muốn nói từ lâu mà chưa dám mở miệng. Bữa nay gã thấy hảo sự đã thành ảo mộng, lại gặp Mã Xuân Hoa vào lúc nửa đêm tự tìm đến để thổ lộ tâm tình, nên gã không nhẫn nại được nữa mới thốt lên những lời đó. Mã Xuân Hoa nghe gã nói vậy không khỏi ngạc nhiên. Ngày thường nàng thấy gã ôn nhu văn nhã, chỉ cho gã là một đại gia công tử, vốn dĩ tính tình như vậy, nàng thực không hay gã lại ôm ấp mối tình sâu đậm đến thế.

Nàng ngơ ngác một chút rồi cười hỏi:

– Tiện thiếp muốn thiếu gia chết làm chi?

Thương Bảo Chấn nhớn nhác nhìn quanh, chỉ sợ đứng đây lâu có người ngó thấy, liền hạ thấp giọng nói:

– Nơi đây không tiện trò chuyện. Chúng ta ra ngoài kia đi.

Mã Xuân Hoa gật đầu. Hai người vượt tường ra ngoài. Thương Bảo Chấn cầm tay Mã Xuân Hoa chạy đến ngồi dưới góc cây hòe lớn, rồi cùng ngồi xuống. Mã Xuân Hoa khẽ rút tay về hỏi:

– Thương thiếu gia! Phải chăng thiếu gia nhận lời tiện thiếp rồi?

Thương Bảo Chấn lại đưa tay ra nắm lấy tay nàng đáp:

– Cô nương muốn nói gì thì cứ nói, hà tất phải hỏi tại hạ.

Mã Xuân Hoa lại rụt tay về nói:

– Tiện thiếp xin thiếu gia thả A Phỉ ra, đừng làm khó dễ gã nữa.

Lúc này trên ngọn cây khẽ lay động nhưng cả hai người đều không để ý.

Trước khi Mã Xuân Hoa nói rõ câu này, Thương Bảo Chấn nghĩ tới mối tình giữa Điền Quy Nông và Miêu phu nhân nên gã tràn trề hy vọng. Gã chỉ mong nàng cầu xin mình cùng nàng bỏ trốn, ngờ đầu nàng lại yêu cầu buông tha tên tiểu tặc kia. Gã không khỏi thất vọng, mặt buồn rười rượi không nói năng gì nữa. Mã Xuân Hoa hỏi:

– Thế nào? Thiếu gia không nhận lời ư?

Thương Bảo Chấn đáp:

– Cô nương đã thích như vậy rồi thì tại hạ cũng phải chiều lòng theo. Dẫu có bị má má mắng chửi cũng không sao.

Mã Xuân Hoa cả mừng nói:

– Xin cảm ơn thiếu gia! Xin cảm ơn thiếu gia!

Rồi nàng nhớm người toan đứng dậy, nói:

– Bây giờ chúng ta đi thả gã ra đi.

Thương Bảo Chấn nói:

– Cô nương hãy ráng ngồi lại một chút nữa đã.

Mã Xuân Hoa biết gã đã chịu tha cho Hồ Phỉ, nên cũng không muốn làm phật ý gã liền ngồi xuống lại. Thương Bảo Chấn bảo:

– Xin cô nương hãy để tại hạ cầm tay một lúc.

Mã Xuân Hoa nghĩ tới mối tình si của Thương Bảo Chấn thực cũng đáng thương liền mỉm cười rồi chìa tay cho gã cầm lấy. Thương Bảo Chấn nhẹ nhàng nấm lấy bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của nàng, trong lòng cảm khái muôn vàn, cơ hồ muốn sa lệ. Sau một lúc Mã Xuân Hoa hỏi:

– A Phỉ bị thiếu gia cột chân tay treo lên thật là đáng thương. Thiếu gia hãy đi thả gã, rồi tiểu muội lại cho thiếu gia cầm tay lúc nữa, có được không?

Nàng nói rồi rụt tay về. Thương Bảo Chấn nhẹ buông tiếng thở dài, từ từ đứng đậy. Đột nhiên trên ngọn cây có tiếng sột soạt. Một bóng đen nhảy xuống đứng lù lù trước mặt hai người, cười nói:

– Bất tất ngươi phải buông tha, tại hạ đã tới đây.

Mã Xuân Hoa và Thương Bảo Chấn giật mình, nhìn kỹ lại thấy con người trước mặt bé nhỏ gầy nhom chính là Hồ Phỉ. Hai người trong lòng đang kinh hãi, bỗng biến thành kỳ quái, đồng thanh hỏi:

– Ai đã thả nguơi?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Hà tất phải có người thả! Tại hạ muốn ra là ra.

Nguyên gã bị Thương lão thái điểm huyệt nhưng chỉ sau bốn giờ, huyệt đạo tự động giải khai. Sợi dây lòi tói không giữ gã được, gã dùng phép thu cơ xúc cốt nhẹ nhàng rút chân tay ra khỏi vòng dây trói. May là gã bị đánh đòn rất đau nhưng chỉ gây thương tích ngoài da, chứ chưa tổn hại gì tới gân cốt. Hồ Phỉ hoạt động chân tay một lúc, toan đi cứu Bình A Tứ nhưng nghe tiếng Mã, Thương hai người nói chuyện rồi vượt tường ra ngoài, gã liền vọt lên trước ẩn trên ngọn cây để nghe lén. Khinh công gã rất cao siêu mà hai người lại mải nói chuyện nên chưa phát giác.

Thương Bảo Chấn nghe Hồ Phỉ nói tự mình thoát ra được, làm sao có thể tin là thật. Hắn đâm ra nghi ngờ trong bụng, tự nhủ:

“Hay là đã có gian tế trà trộn vào Thương gia bảo rồi?”

Hắn liền bước tới đưa tay chụp vào ngực Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đã bị hắn đánh mấy trăm roi đòn hãy còn oán hận đầy ruột. Gã lạng người đi một cái, hai tay vòng lại như cánh cung tát liên tiếp “bốp, bốp” bốn cái nảy lửa vào mặt Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn vội đưa tay lên đỡ gạt. Hồ Phỉ vung tay trái dụ đối phương đưa tay ra, lập tức vung quyền bên phải đánh “binh” một cái vào sống mũi địch nhân, làm cho máu tươi chảy ra lênh láng. Thương Bảo Chấn “ối” lên một tiếng. Hồ Phỉ lại vung chân đá móc một cái. Thương Bảo Chấn vội nhảy ra xa hai trượng. Ngờ đâu Hồ Phỉ thi triển liên hoàn cước, thừa cơ đối phương còn đang lơ lửng trên không, hạ bàn chưa có điểm tựa liền phóng cước đá một cái. Hồ Phỉ thi triển quyền cước cực kỳ thần tốc. Mã Xuân Hoa chưa kịp nhìn rõ thì Thương Bảo Chấn đã trúng mấy đòn ngã lăn ra đất.

Hồ Phỉ vẫn chưa nguôi giận nhưng thấy có Mã Xuân Hoa ở bên cạnh, gã biết là nếu mình đánh nữa tất nàng ra mặt can thiệp mà nàng lại đối với mình rất tốt. Bậc đại trượng phu phải giữ những điều ân oán cho phân minh. Chỉ cần nàng nói một câu, làm sao gã có thể không nghe theo được?

Gã vỗ tay hô:

– Tên cẩu tặc họ Thương kia! Ngươi có dám đuổi theo ta không?

Gã nói rồi xoay mình chạy trốn. Thương Bảo Chấn bị một loạt quyền cước đánh cho tơi tả vì đối phương ra tay quá đỗi mau lẹ. Nhưng hắn cho là vì mình sơ ý mà bị đòn chứ không tin một thằng con nít lại có thể thắng nổi công phu thần diệu của môn Bát Quái gia truyền nhà hắn được. Nhất là có ý trung nhân đứng bên, làm sao hắn chịu nổi vụ mất thể diện này? Hắn liền phát cước rượt theo. Khinh công của Hồ Phỉ cao hơn Thương Bảo Chấn nhiều. Gã chạy một lúc lại phải dừng để chờ đối phương tới gần mới tiếp tục chạy nữa. Chỉ trong khoảnh khắc Hồ Phỉ đã chạy xa bảy tám dặm. Gã thấy Mã Xuân Hoa cũng chạy theo nhưng còn cách xa ở phía sau, liền dừng chân, nói:

– Gã họ Thương kia! Bữa nay thiếu gia trúng phải gian kế của mẫu thân mi mà bị nhục. Bây giờ cho mi nếm mùi lợi hại của thiếu gia.

Dứt lời gã tung mình như con chim khổng lồ vọt tới. Thương Bảo Chấn chưa từng thấy cách đánh này bao giờ, hắn sợ quá vội né tránh. Hồ Phỉ khẽ điểm chân trái xuống đất, người gã đã chuyển hướng để tiến đánh. Lúc này Thương Bảo Chấn muốn tránh cũng không kịp nữa. Hắn quát lên một tiếng “Đánh hay lắm!” rồi vung song chưởng đánh ra. Chính là môn “Bát Quái chưởng” gia truyền cực kỳ lợi hại. Tay trái Hồ Phỉ chụp lấy bàn tay Thương Bảo Chấn, vừa kéo vừa xoay một cái làm cho cổ tay hắn đau nhói. Nếu hắn không rụt lẹ tay về thì cổ tay đã bị vặn gãy rời.

Hồ Phỉ vung ngang tả quyền lên đấm “bình” một cái vào trước ngực bên phải của Thương Bảo Chấn. Gã lại vung chân đá vào bụng dưới địch nhân. Gã luyện tập võ công trong quyền kinh của phụ thân để lại, bữa nay có dịp để thí nghiệm thân thủ, quả nhiên toàn thắng. Thương Bảo Chấn toàn thân co lại. Hai tay bảo vệ đầu và mặt, chỉ chịu đòn chứ không phản kích được. Hắn đã khổ luyện mười năm mà đối với thằng nhỏ này không thi triển được một chút công phu nào.

Hồ Phỉ vung chân trái đá lên, chờ Thương Bảo Chấn tránh qua bên phải, liền phóng chân phải đá trúng vào huyệt Kinh môn. Thương Bảo Chấn đứng không vững phải té nhào xuống đất. Hồ Phỉ lột áo dài hắn ra xé thành từng mảnh, cột chân tay hắn lại định treo lên cành liễu bên đường. Nhưng gã người nhỏ không đủ sức để cắp hắn nhảy lên cây. Gã liền nhằm vào chỗ chạc ba, quát lớn:

– Lên này!

Gã vận nội lực vào hai cánh tay ném Thương Bảo Chấn lọt vào chỗ chạc ba của cây liễu, Hồ Phỉ bẻ bảy, tám cành liễu làm roi quất vào đầu Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn vừa tức vừa sợ. Hắn biết gã đánh để trả thù trận đòn ban ngày, nên đành nghiến răng chịu đựng. Hồ Phỉ đánh được ba bốn chục roi thì Mã Xuân Hoa chạy tới. Nàng thấy tình trạng này kinh hãi quá. Trong lúc nhất thời không thốt nên lời. Hồ Phỉ cười hỏi:

– Mã cô nương! Tiểu đệ không chờ cô cầu xin cũng đã tha cho gã rồi!

Gã nói đoạn nổi lên một tràng cười ha hả. Tuy gã là thằng nhỏ mới mười mấy tuổi mà ngôn ngữ cử chỉ đều hào khí ngất trời. Gã ném cành liễu, cất bước đi thẳng. Mã Xuân Hoa la lên:

-Tiểu bằng hữu! Tiểu bằng hữu là ai?

Hồ Phỉ quay lại, dõng dạc đáp:

– Cô nương đã hỏi, tiểu đệ chẳng thể không nói. Tiểu đệ là con trai của Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao, tên là Hồ Phỉ.

Dứt lời gã cười một tràng dài. Chớp mắt đã khuất bóng sau rặng liễu. Người gã đi xa rồi mà thanh âm vẫn còn vang vọng “tiểu đệ là con trai của Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao, tên là Hồ Phỉ”. Thương Bảo Chấn ở trên cây, Mã Xuân Hoa ở dưới đất, cả hai người đều kinh ngạc không thôi. Sau một lúc, Mã Xuân Hoa cất tiếng hỏi:

– Thương thiếu gia! Thiếu gia có xuống được không?

Thương Bảo Chấn hết sức cựa quậy mà không sao thoát ra được, hắn mắc cỡ vô cùng. Hiển nhiên hắn không xuống được nhưng làm sao có thể mở miệng nói ra điều này? Bởi vậy hắn đành xấu hổ nằm im. Mã Xuân Hoa nói tiếp:

– Thiếu gia đừng có cử động, coi chừng té ngã. Để tiện thiếp lên giúp sức cho.

Nàng tung mình toan nắm lấy cành cây trèo lên. Nhưng cành cây cao quá, nàng nhảy một cái không với tới, đành dùng cả chân lẫn tay để leo. Mã Xuân Hoa đang leo lên chợt nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp. Một đoàn kỵ mã chạy nhanh tới. Lúc này phương Đông đã tờ mờ sáng, trời sắp bình mình. Mã Xuân Hoa tự hỏi:

“Người ngựa này đi đâu sớm thế này?”

Chớp mắt đoàn kỵ mã chạy tới gốc cây, cả thảy có chín người. Đoàn kỵ mã thấy một vị cô nương đang trèo lên cây cao đều lấy làm lạ dừng ngựa lại coi. Mã Xuân Hoa tức mình hỏi:

– Có gì hay ho mà coi? Các vị đi đi cho.

Chín người cứ phớt lờ đi, họ nhìn lên ngọn cây thấy một gã thanh niên nam tử bị cột trên đó, càng lấy làm quái lạ. Mã Xuân Hoa chưa trèo tới ngọn cây liền đề khí nhảy lên. Nàng tay trái vươn ra nắm lấy cành cây mượn đà vọt đến bên Thương Bảo Chấn. Hai người đàn ông dưới gốc cây reo hò khen ngợi:

– Công phu khinh thân hay quá!

Mã Xuân Hoa vội cởi trói chân tay cho Thương Bảo Chấn, khẽ hỏi:

– Thiếu gia có bị thương không?

Nàng hỏi câu này bằng một giọng ôn nhu nhẹ nhàng khiến Thương Bảo Chấn cảm thấy được an ủi rất nhiều. Hắn đáp:

– Không sao.

Hắn níu lấy cành cây, nhẹ nhàng tung mình nhảy từ trên cao mấy trượng xuống đất. Mã Xuân Hoa cũng nhảy xuống theo. Nàng thấy chín người ngồi trên ngựa chỉ trỏ chẳng úy kỵ gì, tỏ ra rất vô lễ. Nàng tức giận quá liền trợn mắt nhìn bọn họ. Chỉ thấy bọn chín người này có già, có trẻ, ăn mặc lịch sự. Người nào cũng lưng cao thẳng, ra dáng khỏe mạnh. Đứng giữa bọn người một thanh niên công tử mặt đẹp như ngọc, tướng mạo tuấn tú, lối ba chục tuổi. Chàng công tử mình mặc áo trường bào sang trọng màu lam, đầu đội mũ da cáo, trên chóp đính hai hạt minh châu lớn bằng đầu ngón tay.

Mã Xuân Hoa thường đi theo xe tiêu từ thuở nhỏ nên rất sành về châu báu. Nàng đứng cách xa mấy trượng mà đã nhìn rõ hai hạt minh châu ánh lên rực rỡ, liền biết là bảo vật đáng giá liên thành. Thế mà vị công tử này lại tùy tiện đính lên chóp mũ không sợ thất lạc. Nàng động tính hiếu kỳ, bất giác liếc nhìn hắn mấy lần. Chàng công tử kia thấy nàng xinh đẹp lại chân tay mau lẹ cũng động tâm, liền quay lại khẽ nói mấy câu với hán tử trung niên bên cạnh. Hán tử này gật đầu rồi đột nhiên cười rộ lên, cất cao giọng hỏi:

– Tên tiểu tặc tử này chắc đã trộm cắp cái gì của người ta nên mới bị trói lại treo lên ngọn cây thế này đây.

Một lão già cười hỏi:

– Ngươi bảo gã trộm cắp gì? Sao em gái gã lại lần mò đến cứu gã?

Giọng nói của lão ra chiều khinh bạc, nét mặt lại càng lộ vẻ khả ố. Thương Bảo Chấn đầy lòng phẫn nộ, không nơi phát tiết. Hắn nghe lão nói câu này liền tung người nhảy lại tát bốp vào mặt lão già. Lão già cưỡi trên lưng ngựa lại đứng cách xa Thương Bảo Chấn hơn một trượng mà gã nhảy vọt tới nơi đánh một cái bạt tai nổ đom đóm, khiến mọi người kinh ngạc, bất giác giật cương ngựa lùi lại nhìn nhau ngơ ngác.

Lão già do không kịp đề phòng mà phải chịu nhục, thì làm sao có thể nhịn nổi cái tức này? Lão lập tức nhảy xuống ngựa, vươn tay túm lấy vạt áo Thương Bảo Chấn, Thương Bảo Chấn ngoặc tay lại nắm lấy cổ tay lão. Lão già cũng là người có võ công liền biến trảo thành chưởng, biến chưởng thành quyền. Hai người khai diễn cuộc đấu dưới gốc cây bên đường.

Thương Bảo Chấn tuy bị Hồ Phỉ đánh một trận nhưng không tổn thương đến gân cốt. Một là có ý trung nhân đứng bên cạnh theo dõi cuộc đấu, hai là lửa giận không nơi phát tiết, hắn thi triển tuyệt nghệ gia truyền là Bát Quái chưởng càng đánh càng hăng. Lão già kia sơ ý một chút, bà vai bị trúng một chưởng, chân bước loạng choạng lùi lại mấy bước. Lão định thần toan xông tới thì một người trên lưng ngựa lên tiếng:

– Lão Trương hãy lùi lại. Thằng này có vẻ tà môn.

Tiếng nói vừa dứt, một bóng người trên lưng ngựa nhẹ nhàng nhảy xuống. Lão già kia tránh sang một bên. Thương Bảo Chấn và Mã Xuân Hoa thấy người này thân thủ mau lẹ, đều chú ý theo dõi cử động, thấy mặt hắn đỏ tía, thần thái uy mãnh. Thân thể hắn khôi vĩ, cao hơn Thương Bảo Chấn cả nửa cái đầu. Hán chắp hai tay sau lưng, nhìn Thương Bảo Chấn hỏi:

– Phải chăng ngươi ở Bát Quái môn? Sư phụ ngươi họ Chữ hay họ Thương?

Thái độ rất ngạo mạn, không coi đối phương vào đâu. Thương Bảo Chấn tức giận liền xẵng giọng hỏi lại:

– Ngươi hỏi được ta ư?

Người kia tủm tỉm cười đáp:

– Trong thiên hạ, hễ là người Bát Quái môn là ta cần hỏi…

Thương Bảo Chấn vốn là người tinh tế, nhưng mấy ngày liền, gã vừa thất vọng vừa chịu nhục đâm ra nóng nảy. Trong cơn thịnh nộ, gã không nghĩ đến câu nói của hán tử còn có ngụ ý khác, liền ra chiêu “Phách lôi trụy địa” đánh vào đầu gối đối phương, thế đánh nhanh như chớp. Người kia mỉm cười khẽ vẫy tay phải một cái, khoa chân bước sang bên trái một bước, lập tức hóa giải được ngay.

Thương Bảo Chấn liền thi triển môn “Du thân Bát Quái chưởng” tấn công không ngừng. Mỗi bước chân gã đều theo Tiên thiên bát quái đồ thức. Thương Bảo Chấn chạy quanh đối phương thật lẹ, phóng chưởng càng lúc càng mau. Đại hán kia hai tay ra chiêu rất ngắn, chỉ vừa đủ để chống đỡ, thủy chung không đụng chạm vào quyền chưởng Thương Bảo Chấn, nhưng chiêu nào cũng là khắc tinh với chưởng pháp của đối phương. Thường thường hắn làm cho những chiêu thức của Thương Bảo Chấn chưa sử xong đã bắt buộc phải biến thế.

Mới trong khoảnh khắc, Thương Bảo Chấn đã đánh hơn bốn chục chưởng mà chẳng chưởng nào đụng được vào tà áo của đối phương. Những người đứng xem thấy bản lãnh đại hán rất cao thâm đều ngấm ngầm bội phục. Thương Bảo Chấn nổi nóng, chân chạy càng nhanh, chưởng pháp càng đánh ráo riết. Đại hán vẫn cứ ung dung chống đỡ, miệng tủm tỉm cười. Hai bàn tay vung ra nắm lại, giống như y đang luyện quyền một mình.

Bây giờ Thương Bảo Chấn mới nhận ra tuy đối phương ra chiêu cực ngắn nhưng chân bước theo Tiên thiên bát quái đồ thức, phương vị tuyệt đối không rối loạn chút nào. Gã từng nghe mẫu thân nhắc tới trong Bát Quái môn có Nội Bát Quái công phu rất cao thâm. Luyện môn này đến chỗ đăng phong tháo cực thật khó khăn vô cùng, nhưng ai luyện thành là có thể đem cái “tĩnh” để khắc chế cái “động” và trở nên vô địch trong thiên hạ. Người đứng trước mắt gã có ý nhường nhịn. Hắn mà ra tay thực sự thì chỉ chiêu đầu đã đủ để đánh ngã gã rồi. Thương Bảo Chấn càng nghĩ càng sợ, đột nhiên nhảy lùi lại chắp tay nói:

– Vãn bối có mắt mà không thấy núi Thái Sơn. Té ra đây là một bậc tiền bối của bản phái.

Người kia tủm tỉm cười, nhắc lại câu hỏi:

– Sư phụ ngươi họ Chữ hay họ Thương?

Thương Bảo Chấn thường nghe mẫu thân căn dặn: trước mặt người lạ chớ có thổ lộ thân thế để phòng ngừa kẻ đối đầu hay biết làm khó cho công cuộc trả thù, nên gã ngần ngừ. Người kia lại cười hỏi:

– Chưởng pháp của ngươi môn hộ mở rộng hiển nhiên cùng một phái với Thương Kiếm Minh sư huynh. Đại ca, có đúng thế không?

Câu sau cùng hắn nói với một lão già ngồi trên ngựa. Lão này tuổi ngót năm nươi, tung mình nhảy xuống ngựa, nhìn Thương Bảo Chấn hỏi:

– Sư phụ ngươi đâu? Hãy đưa bọn ta đến gặp. Ta là Vương sư bá ngươi đây. Còn vị này là huynh đệ của ta. Ngươi lại chào sư thúc đi.

Lão nói rồi cười ha hả. Thương Bảo Chấn biết sư phụ của phụ thân mình oai danh lừng lẫy vùng Hà Sóc tên gọi là Vương Duy Dương. Lão làm tổng tiêu đầu Trấn Viễn tiêu cục ở Bắc Kinh. Người đứng trước mặt tự xưng họ Vương mà lại là cao thủ Bát Quái môn thì đúng là sư bá, sư thúc không thể giả trá được. Nhưng gã vốn tính cẩn thận, hỏi lại một câu:

– Hai vị xưng hô Vương lão tiền bối oai danh lừng lẫy đất Hà Sóc là gì?

Vương thị huynh đệ nhìn nhau mỉm cười. Lão già đáp:

– Đó là tiên phụ của anh em ta. Ngươi còn chưa tin ư? Thương sư đệ đâu?

Thương Bảo Chấn không ngần ngừ nữa, phục xuống đất dập đầu mấy lạy, miệng hô sư bá sư thúc, rồi nói:

– Tiên phụ đã qua đời. Ngày ấy sư bá cùng sư thúc không tiếp được tin cáo phó ư?

Vị võ sư tuổi già tên gọi Vương Kiếm Anh, người em là Vương Kiếm Kiệt. Hai nhân vật này là con Vương Duy Dương. Ngày trước Vương Duy Dương nhờ cặp “Bát Quái chưởng” và thanh Bát Quái đao mà uy danh lừng lẫy chốn lục lâm. Phe hắc đạo đã có câu “Thà gặp Diêm Vương còn hơn chạm trán Lão Vương” đủ biết lão khét tiếng thiên hạ. Hiện nay lão qua đời đã lâu rồi.

Thương Kiếm Minh tuy là môn hạ Vương gia nhưng tình thầy trò rất bình thường. Sau khi rời khỏi sư môn, Thương Kiếm Minh ít khi nhận được tin tức. Vương thị huynh đệ lại làm đương sai ở nha môn, đường mây gặp bước. Hai người không để tâm đến vị huynh đệ đồng môn nơi thảo dã nữa. Vì thế mà Sơn Đông dù cách Bắc Kinh chẳng xa là mấy, nhưng tin Thương Kiếm Minh qua đời, Vương thị huynh đệ cũng chẳng hề hay biết.

Vương Kiếm Anh buông tiếng thở dài rồi quay lại nói nhỏ mấy câu với chàng thanh niên công tử kia. Chàng công tử kia liếc mắt nhìn Mã Xuân Hoa hớn hở gật đầu. Vương Kiếm Anh nhìn Thương Bảo Chấn nói:

– Nhà ngươi cách đây chắc không xa? Hãy dẫn bọn ta về để tế trước linh vị phụ thân ngươi một chuyến. Anh em chia tay đã hơn hai chục năm, không ngờ chẳng còn cơ hội nào gặp mặt nhau nữa.

Hắn dừng lại một chút rồi trỏ vào chàng công tử nói:

– Ngươi bái kiến Phúc công tử đi. Chúng ta đều làm đương sai dưới trướng công tử.

Thương Bảo Chấn thấy chàng công tử có vẻ cao sang, gã chắc là dòng quý phái ở trong kinh, mới thu dụng được những tay hào kiệt như Vương thị huynh đệ về làm đương sai. Gã liền khom lưng lạy. Phúc công tử khoát tay nói:

– Ngươi đứng dậy đi!

Nhưng hắn không đáp lễ. Thương Bảo Chấn thấy hơi tức giận, thầm nhủ:

“Thằng cha này phách lối quá! Hắn làm như mình là Hoàng đế không bằng.”

Đoàn người về đến Thương gia bảo. Trong bảo đã phát giác vụ Hồ Phỉ trốn đi nên gia nhân đang sục sạo tìm kiếm. Thương Bảo Chấn vào nội đường báo tin. Thương lão thái nghe nói huynh đệ đồng môn của tiên phu đến chơi, mụ vừa sợ vừa mừng thầm, lật đặt chạy ra nghênh tiếp, gác vụ Hồ Phỉ lại một bên.

Vương Kiếm Anh giới thiệu quần hào với Thương lão thái thì trong chín người đã có tới năm người thuộc hạng nhất lưu cao thủ trong võ lâm. Ngoài Vương thị huynh đệ còn Trần Vũ ở Thái Cực môn, Cổ Bất Nhã ở phái Thiếu Lâm, Ân Trọng Tường thuộc phe Nam Tông ở Thiên Long môn. Trần Vũ và Ân Trọng Tường đã nổi tiếng giang hồ. Cổ Bất Nhã còn ít tuổi hơn, cập mắt thần quang lấp loáng, tay khô như que củi, ngón tay cứng nhắc. Đúng là hảo thủ ngoại gia. Con ba người nữa là những nô bộc thân cận theo hầu Phúc công tử, còn lão già họ Trương vừa bị Thương Bảo Chấn đánh té, mọi người gọi lão là Trương tổng quản, dĩ nhiên cũng là một nhân vật có quyền thế trong phủ Phúc công tử.

Còn thân thế công tử ra sao, Vương Kiếm Anh tuyệt không đả động tới, chỉ giới thiệu là “Phúc công tử”. Hai anh em họ Vương nhắc tới nguyên nhân cái chết của Thương Kiếm Minh, nhưng Thương lão thái là người cao ngạo không chịu nói thật y bị Hồ Nhất Đao giết chết mà bảo là mắc bệnh mà mất. Mụ đã quyết chí để con trả thù, chứ không mượn tay người ngoài.

Mã Xuân Hoa thấy Thương lão thái và Thương Bảo Chấn cùng những người đồng môn nói chuyện với nhau liền trở về phòng, đem những chuyện vừa mắt thấy tai nghe kể cho phụ thân hay. Mã Hành Không nghe con nói Hồ Phỉ là con của Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao thì lấy làm kinh dị. Lão biết thằng nhỏ này bản lãnh cao hơn Thương Bảo Chấn, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi. Từ Tranh đứng bên lẳng lặng nghe chuyện. Mặt gã lúc xanh lè lúc đỏ bừng, nhưng chẳng hé môi. Hai cha con nói chuyện một lúc rồi Mã Xuân Hoa về phòng riêng, Từ Tranh theo sau gọi:

– Sư muội!

Mã Xuân Hoa đỏ mặt lên hỏi:

– Chuyện gì?

Từ Tranh thấy mặt nàng đỏ như ráng ban mai, bất giác động tâm rồi nén lòng không hỏi nữa. Gã đưa tay nắm lấy tay nàng. Mã Xuân Hoa giựt tay ra chiều tức giận, hỏi:

– Để người ta nhìn thấy thì còn ra thể thống gì nữa? Sao lại thiếu ý tứ thế?

Từ Tranh không nhịn được, hằn học hỏi:

– Hừ! Thiếu ý tứ! Nửa đêm sư muội đi theo gã tiểu tử họ Thương ra ngoài lén lút làm chuyện gì?

Mã Xuân Hoa sửng sốt một chút. Nàng thấy giọng nói của Từ Tranh tỏ ra thiếu thân thiện liền xẵng giọng giận dữ hỏi lại:

– Sư huynh hỏi câu đó là có dụng ý gì?

Từ Tranh đáp:

– Sư muội cùng với tên tiểu tử kia ra ngoài là có dụng ý gì?

Từ trước đến nay, gã vẫn rất thân thiết với sư muội, nhưng sáng sớm đã thấy nàng cùng Thương Bảo Chấn từ bên ngoài trở về, lại nghe nàng thuật chuyện gặp Hồ Phỉ vào lúc nửa đêm nên nổi lòng ghen tức. Gã có biết đâu nàng sợ phụ thân trách mắng mới giấu nhẹm chuyện xin Thương Bảo Chấn tha cho Hồ Phỉ.

Mã Hành Không đêm trước đã được nghe chuyện đối đáp giữa hai mẹ con Thương Lão Thái, lão biết Thương Bảo Chấn say mê con gái mình, tưởng hai người quả có tư tình mới gặp nhau lúc đêm khuya. Nhưng thấy đồ đệ đứng bên, nên lão không tiện hỏi.

Từ Tranh nghe chuyện trong lòng cực kỳ ghen tức. Bản tính gã lỗ mãng mà lần này sư muội đã thành vị hôn thê nên gã không nhịn được mới lớn tiếng vặn hỏi. Mã Xuân Hoa vấn tâm không có điều gì đáng thẹn, anh chàng sư ca trước nay vẫn thuận hòa nhân nhượng, không ngờ phụ thân vừa mới đem việc chung thân của mình hứa hẹn với gã, mà gã đã giở giọng ngang tàng bá đạo, nếu sau này thành vợ chồng rồi chắc là suốt ngày bị gã khinh rẻ.

Nếu Mã Xuân Hoa cứ nói thẳng cho Từ Tranh hiểu rõ thì chẳng có chuyện gì nhưng nàng đang tức giận nên không chịu nói mà còn hỏi lại:

– Tiểu muội lén đi với ai là đi, sư huynh can thiệp được à?

Người ta khi đã ghen tức thì còn suy nghĩ được gì nữa? Từ Tranh mặt đỏ đến tận mang tai, gã lớn tiếng quát:

– Trước kia ta không can thiệp được nhưng từ nay ta có thể quản cố.

Mã Xuân Hoa tức giận đến chảy nước mắt, hỏi lại:

– Bây giờ sư huynh đã thế thì còn mong gì sau này đối đãi tử tế với tiểu muội được nữa?

Từ Tranh thấy nàng sa lệ, lòng dạ cũng nhũn ra, nhưng gã nghĩ tới cuộc gặp gỡ lén lút giữa nàng và Thương Bảo Chấn giữa đêm khuya thì cảm thấy tức đến nghẹn thở, lớn giọng quát:

– Cô đi đâu? Làm gì? Nói mau! Nói mau!

Mã Xuân Hoa nhủ thầm:

“Ngươi càng ngang ngược, ta càng không nói.”

Giữa lúc ấy Thương Bảo Chấn vâng lệnh mẫu thân đến mời Mã Hành Không vào chơi với Vương thị huynh đệ. Gã thấy Từ Tranh đang to tiếng cùng Mã Xuân Hoa ở hành lang bất giác dừng lại. Từ Tranh trong bụng đã bừng bừng lửa grận, muốn tát cho vị hôn thê một cái nhưng chưa dám, gã thấy Thương Bảo Chấn đi tới, quả là hợp tâm ý liền thóa mạ:

– Ta đánh thằng tiểu tử chó đẻ này.

Gã liền xông tới đánh một quyền. Thương Bảo Chấn ngạc nhiên hỏi:

– Từ huynh làm gì vậy?

Từ Tranh lại vung quyền đánh tới. Lần này Thương Bảo Chấn có ý nhân nhượng, không chịu tránh, bị thoi quyền đánh trúng ngực. Từ Tranh vung thoi quyền thứ ba đánh tới, Thương Bảo Chấn xoay tay phản kích. Thế là hai người khai diễn cuộc động thủ ngay trên hành lang. Mã Xuân Hoa trong lòng buồn bực, bỏ mặc hai người đánh nhau, cắm đầu đi luôn. Nàng về phòng ngồi khóc một mình. Người hầu gọi ra ăn cơm, nàng cũng mặc kệ. Một lúc sau nàng thấy mơ mơ hồ hồ rồi ngủ thiếp đi. Khi nàng tỉnh đậy thì trời đã xế chiều. Nàng thong thả đi vào vườn hoa phía sau, ngồi trên ghế đá ngơ ngẩn xuất thần, lòng tự hỏi lòng:

“Chẳng lẽ việc chung thân của ta lại trao vào tay người sư ca ngang ngược như vậy? Gia gia ở bên mình đó mà y đã hung dữ đến thế. Không hiểu sau này y đối với mình còn tệ hại đến đâu?”

Bất giác nàng tủi phận nên trào nước mắt. Không hiểu nàng ngồi đã bao lâu, bỗng nghe tiếng tiêu ai oán từ trong bụi hoa vọng lại. Mã Xuân Hoa đang lúc buồn bực trong lòng nghe tiếng tiêu tưởng chừng như có người cất giọng ôn nhu an ủi, thủ thỉ bên tai. Nàng cảm thấy vừa thương tâm lại vừa hoan hỷ, khác nào được uống một chung rượu mạnh khiến cho thần trí mơ màng ngây ngất. Tiếng tiêu êm đềm như ngọn gió xuân bao quanh lấy nàng, bất giác nàng đứng dậy đi về phía bụi hoa thì thấy một nam tử áo lam ngồi bên cạnh gốc hải đường, tay cầm cây ngọc tiêu mà thổi. Tay chàng trắng như ngọc, khó lòng mà phân biệt với màu trắng của ngọc tiêu. Người đó chính là Phúc công tử mà nàng đã gặp lúc sáng sớm nay.

Phúc công tử mỉm cười gật đầu tỏ ý mong nàng đi tới. Tiếng tiêu vẫn tiếp tục réo rắt. Thái độ Phúc Công tử vừa có vẻ uy nghiêm, vừa có sức hấp dẫn, khiến người ta khó lòng mà kháng cự được. Mã Xuân Hoa mặt đỏ lên, từ từ tiến lại. Tiếng tiêu uyển chuyển du dương lại rất tình tứ khiến tâm thần nàng không khỏi bâng khuâng, ngây ngất. Mã Xuân Hoa tiện tay ngắt một bông mai côi đưa lên mũi ngửi. Tiếng tiêu thánh thót, mùi hoa thơm ngát giữa cảnh hoàng hôn. Chàng trai tuấn tú trước mắt lộ vẻ vừa ôn nhu vừa cao quý. Nàng đột nhiên nhớ tới Từ Tranh, con người thô lỗ lại hung hãn ghen tuông, đem so với chàng công từ tử cao quý trước mắt thật khác nhau một trời một vực.

Mã Xuân Hoa cũng nhìn Phúc công tử bằng khóe mắt ôn nhu. Nàng không muốn hỏi y là ai mà cũng không muốn biết y kêu nàng tới làm gì? Nàng chỉ nhận thức được một điều là khi đứng trước mặt y, nàng cảm nhận được một niềm hoan lạc mơ hồ, nên càng muốn gần gũi với y một lát. Vị công tử quý phái này tựa hồ như không có ý quyến rũ nàng, mà chỉ vì nàng là cô thiếu nữ ngây thơ với những ước mơ lãng mạn, nên trong một buổi chiều xuân mới phát khởi những mối tình cảm nồng nhiệt đến thế.

Sự thực không phải vậy. Nếu như Phúc công tử không thấy nàng xinh đẹp thì nhất định y đã không tới Thương gia bảo và nấn ná ở lại. Chẳng khi nào y vì người sư huynh đã quá cố của một tên võ sư dưới trướng mà chịu khuất thân như vậy. Nếu như y không được thuộc hạ cho biết nàng đang ngồi buồn một mình trong vườn hoa thì y quyết chẳng đến ngồi trong bụi hoa mà thổi tiêu. Nên biết tiếng tiêu của Phúc công tử đã vào hàng tuyệt đỉnh chốn kinh sư. Dù là bậc vương thân quý cũng khó lòng được nghe y thổi một khúc.

Nét mặt ôn nhu của Phúc công tử ra chiều quyến luyến, ánh mắt biểu lộ những tình ý dạt dào. Y không cần nói một câu, mà còn da diết hơn cả muôn vàn lời tỏ tình cùng những lời thề non hẹn biển. Phúc công tử hạ ống tiêu xuống, đưa tay ra ôm lấy tấm lưng thon của Mã Xuân Hoa. Mã Xuân Hoa thẹn thùng né tránh. Đến lần thứ hai thì nàng đã chịu. Đến lần thứ ba, y vừa đưa tay ra, nàng đã ngã vào lòng y và say sưa trong hơi thở hồi hộp của chàng trai.

Ánh tịch dương chiếu vào lá mai côi biến thành những bóng dài lê thê trên mặt đất. Bên cạnh bóng hoa là bóng một đôi nam nữ thanh niên đang từ từ quấn lấy nhau rồi không nhận rõ đâu là bóng chàng, đâu là bóng nàng. Mặt trời đã lặn sau núi, bóng cảnh vật đổ dài thêm trên mặt đất. Ôi! Tình cảm bồng bột của các đôi nam nữ có chắc đâu là điều tốt đẹp? Mã Xuân Hoa đã vào giấc mê ly, không nghĩ đến chuyện gì khác nữa. Nàng không còn nghĩ đến hậu quả ra sao, cũng chẳng bận tâm còn ai ở vườn hoa nữa hay không?

Phúc công tử trước khi vào vườn hoa đã nghĩ đến điều này nên y phái Trần Vũ ở Thái Cực môn bồi tiếp Mã Hành Không. Vương Thị huynh đệ trò chuyện với mẹ con Thương lão thái, Cổ Bát Nhã phái Thiếu Lâm đến an ủi Từ Tranh, Ân Trọng Tường ở Thiên Long môn giữ cửa vườn hoa không cho ai vào. Con gái của “Bách thắng thần quyền” Mã Hành Không hôm trước được phụ thân hứa hôn cho sư ca mà bữa nay đã trở thành người tình của kẻ khác.

Tối hôm ấy tại Thương gia bảo mở yến tiệc linh đình để thết đãi Phúc công tử. Trên tiệc toàn là những nhân sĩ võ lâm, không cần phân biệt nam nữ nên Thương lão thái và Mã Xuân Hoa ngồi cùng với mọi người. Mã Hành Không ngày trước có quen biết Vương Duy Dương, phụ thân của Vương thị huynh đệ. Từ ngày Vương Duy Dương qua đời, Vương Thị huynh đệ đầu thân vào chốn quan nha. Trấn Viễn tiêu cục giải tán nên hai bên không có sự liên lạc gì nữa. Nhưng Vương thị huynh đệ đã từng nghe danh Mã Hành Không nên đối với họ cũng có mấy phần kính trọng.

Mã Xuân Hoa hai má ửng hồng, tràn đầy xuân sắc, ngồi cúi đầu không nhìn ai. Mọi người chỉ cho nàng là một thiếu nữ e thẹn, mà thực ra trong lòng nàng đầy rẫy những tình cảm ngọt ngào đằm thắm. Có lúc nàng không né tránh ánh mắt của Từ Tranh, cũng chẳng tránh né ánh mắt của Thương Bảo Chấn. Những ánh mắt hai gã này có tiếp xúc với ánh mắt nàng cũng chẳng nhìn rõ được tâm sự nàng. Hai gã cùng tự hỏi:

“Lòng nàng đối với ta như thế nào?”

Khóe môi nàng mỉm cười, nhưng nụ cười đó lại không dành cho hai người. Mắt nàng để vào họ mà không nhìn thấy họ. Nàng chỉ nghĩ tới hạnh phúc ngọt ngào vừa rồi. Phúc công tử thỉnh thoảng liếc trộm nàng vài lần nhưng nàng không dám nhìn y vì nàng biết rõ, chỉ nhìn y một lần để bốn mắt chạm nhau là khó lòng rời nhau được. Đột nhiên một tên gia đinh lật đật chạy ghé tai nói nhỏ với Thương lão thái:

– Tên tặc tử họ Bình đã có người cứu đem đi rồi.

Thương lão thái giật mình một cái rồi trở lại bình tĩnh, nâng chung mời mọi người. Mụ không muốn để cho khách biết chuyện. Bất thình lình đánh “bình” một tiếng. Hai cánh cửa sảnh đường văng ra khỏi khung, rớt xuống đất đánh rầm cái. Một thân hình bé nhỏ gầy nhom đứng trước cửa sảnh đường.

Bọn Vương thị huynh đệ tuy đang dự tiệc vẫn không quên trách nhiệm trọng đại là bảo vệ cho Phúc công tử, nên lúc nào cũng dắt binh khí bên mình. Biến cố vừa xảy ra thì lập tức có mấy người dời khỏi chỗ ngồi đến đứng chung quanh Phúc công tử. Quần hào nhìn kỹ lại thì thấy chỉ có một thằng nhỏ mà sau gã không còn ai khác, nên hết thảy đều kinh ngạc tự hỏi:

“Chẳng lẽ thằng nhỏ này lại đánh bật tung được cánh cửa sảnh đường?”

Thằng nhỏ đó chính là Hồ Phỉ. Sau khi cứu Bình A Tứ ra khỏi Thương gia bảo rồi, gã nghĩ tới mối thù bị Thương Bảo Chấn đánh đòn tuy đã trả xong nhưng còn mối hận bị Thương lão thái ám toán chưa rửa, liền sấn đến sảnh đường lớn tiếng hỏi:

– Thương lão thái! Mụ có giỏi thì ra đây bắt ta thử coi?

Gã nói câu này với thái độ rất hào hùng song vẫn là thanh âm của trẻ nít, tựa hồ như gã đang đùa với Thương lão thái. Thương lão thái thấy ánh mắt của con trai kẻ thù cơ hồ tóe lửa liền khẽ bảo con trai mình:

– Ngươi chặn mặt sau, đừng để tên tiểu tặc này trốn thoát.

Mụ quay lại bọn gia đinh đứng phía sau, bảo:

– Mau lấy đao cho ta!

Mụ nói xong từ từ đứng lên, quát hỏi:

– Ai đã buông tha gã? Có phải Mã lão quyền sư không?

Mụ không thể tin một thằng nhỏ bị cột bằng dây lòi tói lại thoát được, nhất định phải có gian tế trong bảo giải cứu. Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Không phải.

Thương lão thái trỏ vào Từ Tranh hỏi:

– Có phải y không?

Hồ Phỉ vẫn lắc đầu. Thương lão thái lại trỏ Mã Xuân Hoa hỏi:

– Chẳng lẽ là vị… vị cô nương này?

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Cô nương này bản tâm muốn cứu ta, tuy cô không ra tay giải cứu nhưng ta cũng cảm kích mối ân tình của cô.”

Gã liền gật đầu mỉm cười, lớn tiếng đáp:

– Không sai vị cô nương đó là ân nhân cứu mạng ta.

Gã nói câu này cốt để Mã Xuân Hoa nghe thấy. Đó là tấm lòng cảm kích của đứa nhỏ muốn bày tỏ lòng biết ơn, nhưng gã không nghĩ câu nói đó đem lại tai vạ lớn cho nàng. Thuơng lão thái sa sầm nét mặt nhìn Mã Xuân Hoa. Lúc này trang đinh đã đưa đao tới. Thương lão thái đưa tay trái cầm đao, tay phải trỏ vào Hồ Phỉ hỏi:

– Gia gia ngươi là Hồ Nhất Đao sao lại không đến?

Bọn Vương thị huynh đệ nghe nói thằng nhỏ trước mặt là con trai Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao, trong lòng không khỏi rúng động. Hồ Phỉ đáp:

– Gia gia ta qua đời từ lâu rồi. Mụ muốn trả thù thì cứ kiếm ta là được.

Thương lão thái mặt xám như tàn tro, quát hỏi:

– Ngươi nói thật chăng?

Hồ Phỉ đáp:

– Gia gia mà còn sống ở thế gian thì liệu mụ có đám đánh ta một roi không?

Thương lão thái giơ cao thanh Tử Kim Bát Quái đao lên, đột nhiên có tiếng khóc ròng. Mụ vừa khóc vừa la:

– Hồ Nhất Đao hỡi Hồ Nhất Đao! Sao ngươi chết sớm thế? Lẽ ra ngươi đừng có chết sớm.

Hồ Phỉ ngạc nhiên không hiểu tại sao mụ này lại lấy lòng tốt khóc thương gia gia mình? Thương lão thái kêu khóc ba tiếng rồi dừng lại, nâng vạt áo lên lau mặt. Mụ đạp chân trái xuống, đột nhiên quét ngang thanh Tử Kim đao và xoay mình thật nhanh. Mụ quát một tiếng, vung lưỡi đao chém vào cổ Hồ Phỉ. Cử động của Thương lão thái nằm ngoài sự tiên liệu của quần hào. Phúc công tử, Mã Xuân Hoa, Từ Tranh đều bật tiếng la hoảng.

Thương lão thái ra chiêu “Hồi thân phách sơn đao” là một tuyệt kỹ trong Bát Quái đao, lại động thủ bất ngờ. Đừng nói một thằng nhỏ mà ngay cả những tay hảo thủ giang hồ chưa chắc đã tránh kịp. Dè đâu thân pháp Hồ Phỉ mau lẹ tuyệt luân. Gã nghiêng người tránh khỏi mũi đao đồng thời vươn tay chụp vào cổ tay Thương lão thái. Ngay chiêu đầu gã đã phản kích khiến quần hào đều kinh ngạc. Thương lão thái ra chiêu đầu không trúng liền tung ngay chiêu đao thứ hai chém tới. Thương lão thái bình thời già lụ khụ mà lúc ra tay lại cực kỳ tàn độc. Mụ nghĩ tới cừu nhân chết rồi, kiếp này không trả thù được chỉ còn cách giết chết thằng nhỏ. Sau khi trượng phu qua đời, sở dĩ mụ không tự vẫn chết theo chồng là vì trong lòng còn nuôi chí báo thù. Bây giờ mụ chẳng luyến tiếc gì đến mạng sống nữa nên phóng ra toàn những chiêu liều mạng để cùng đối phương đồng quy ư tận.

Hồ Phỉ gặp cường địch lần đầu, tinh thần phấn khởi, gã đưa quyền tấn công vào những khe đao chứ không nhượng bộ chút nào. Địch nhân vung đao tấn công tới tấp, gã thi triển môn “Đại cầm nã thủ long hình trảo” cũng ghế gớm không vừa để phản kích dữ dội. Dưới ánh đuốc, một mụ già tóc bạc và một thằng nhỏ miệng còn hơi sữa chiến đấu mãnh liệt dị thường.

Thoạt đầu, Vương thì huynh đệ thấy Thương lão thái vừa khai diễn cuộc đấu đã hạ sát thủ, trong bụng không khỏi ngấm ngầm trách mụ lạm dụng công phu của Bát Quái môn. Đối phó với một thẳng nhỏ mà đã sử dụng tuyệt chiêu, vậy gặp cao thủ hạng nhất thì làm thế nào? Nhưng càng theo dõi cuộc đấu, họ càng kinh ngạc. Những đường Bát Quái đao cực kỳ tàn độc của Thương lão thái liên miên không dứt và tuyệt không có một chút sơ hở nào. Tuy đao pháp của mụ chưa đạt đến cảnh giới lô hỏa thuần thanh, nhưng mụ đã quyết tâm đánh liều mạng nên đao pháp rất ghê gớm. Đối thủ dù là tay lợi hại đến đâu cũng khó lòng chống nổi. Chẳng ngờ thằng nhỏ mười mấy tuổi đầu dùng tay không để chiến đấu với mụ, mà dần dần gã chiếm được thượng phong.

Hai bên chiết chiêu thêm mấy hiệp, toàn thân Thương lão thái bị luồng chưởng phong của Hồ Phỉ vây hãm. Đột nhiên nghe “bốp” một tiếng, má bên trái Thương lão thái bị trúng một cái bạt tai. Tiếp theo má bên phải lại trúng một phát nữa, Vương Kiếm Kiệt nói:

– Thương gia tẩu hãy lùi lại. Để tiểu đệ đối phó với thằng nhỏ này.

Tay hắn cầm đại đao, chân cất bước tiến ra. Lại nghe một tiếng “úi chao” vang lên Thương lão thái đã ngã lăn ra một bên. Vương Kiếm Kiệt đột nhiên thấy ánh sáng xanh lấp loáng. Một thanh đao nhằm trước mặt hắn chém tới. Hắn vội giơ đao lên đỡ. Thanh đao kia liền biến chiêu vuốt lên một cái. Khi bị đón đỡ thành đao lại đổi thành thế móc mau lẹ tuyệt luân.

Nguyên Hồ Phỉ đánh Thương lão thái hai cái bạt tai, tâm nguyện đã thỏa mãn. Gã còn ra chiêu cầm nã nắm lấy cổ tay mụ rồi vung chân đá mụ lăn lông lốc, tiện tay đoạt luôn thanh Tử Kim đao. Gã không chờ Vương Kiếm Kiệt tới gần đã chém veo véo ba đao liên hoàn làm cho hắn chân tay luống cuống. Vương Kiếm Kiệt là tay cao thủ hạng nhất ở Bát Quái môn. Ngày trước bản lãnh hắn đã chẳng kém gì Thương Kiếm Minh. Chỉ vì hắn thấy Hồ Phỉ nhỏ bé nên trong lòng khinh địch, do đó bị gã đoạt mất tiên cơ. Sau khi trao đổi ba chiêu, hắn mới biết thằng nhỏ trước mặt là tay kình địch, vội thu hết tâm tính cuồng ngạo lại, thận trọng ứng chiến, giữ môn hộ cực kỳ nghiêm mật. Hắn muốn coi cho rõ xem đao pháp của thẳng nhỏ thuộc gia phái nào. Dưới ngọn đuốc chập chờn, bóng đao quang lấp loáng. Quần hào tay nắm binh khí theo dõi cuộc đấu kinh tâm động phách.

Phúc công tử thấy một thằng nhỏ nước da vàng ủng, thân thể gầy nhom, áo quần lam lũ mà võ nghệ lại ngang ngửa với tay cao thủ hạng nhất của mình thì trong lòng vừa kinh dị lại vừa hứng thú. Y chắp tay để sau lưng, ngưng thần theo dõi cuộc đấu. Đột nhiên y ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng của son phấn tỏa ra. Y liếc mắt nhìn thấy Mã Xuân Hoa đã đến bên mình, liền tiến lại gần một bước đưa tay ra nắm tay nàng. Lúc này quần hào để hết tinh thần chú ý vào cuộc kịch đấu trong sảnh đường, chẳng ai lưu tâm đến hai người. Nhưng ở giữa nơi đông người mà y dám phóng tứ như vậy thì thật là lớn mật. Phúc công tử chẳng coi ai vào đâu, Mã Xuân Hoa lại là một thiếu nữ mới bắt đầu luyến ái, gặp lúc mối tình dào dạt, nàng cũng không tự chủ được.

Vương Kiếm Kiệt chém luôn mấy đao đều bị Hồ Phỉ dùng thân pháp xảo diệu tránh khỏi. Vương Kiếm Kiệt cố nhận xét võ công và môn phái của đối phương mà không sao mò ra được. Hắn nghĩ bụng:

“Gã này tự xưng là con Hồ Nhất Đao, tuy mình đã được nghe phụ thân nhắc tới nhân vật này nhưng cuối cùng thì Hồ gia đao pháp thế nào, là cương hay nhu, thuộc ngoại môn hay nội gia, mình đều không hiểu một tí gì. Có điều chiêu số của thằng nhỏ này lúc thì ngưng trọng như non, lúc thì lưu chuyển như nước, hoàn toàn không giống các loại đao pháp khác.”

Hai bên lại đấu mấy hiệp nữa. Vương Kiếm Kiệt nóng ruột vì hắn là một nhân vật địa vị khá cao trong phủ Phúc công tử mà bữa nay đã trao đổi mấy chục chiêu với một thằng nhỏ vẫn chưa hạ được. Nếu còn giằng co hồi lâu thì dù có giết được gã cũng chẳng vinh dự gì. Hắn liền biến đổi thế đánh, cất bước chạy thật nhanh quanh Hồ Phỉ. Nên biết Vương thị ở Bát Quái môn nổi tiếng về công phu “Bát Quái du thân”. Đó là một tuyệt kỹ võ lâm. Ngày trước Vương Duy Dương đã dùng môn này để chiến đấu với Hỏa Thủ Phán Quan Trương Triệu Trọng.

Một khi đã cất bước chạy quanh thì chợt ở phía trước, hốt nhiên lại ở phía sau, biến ảo khôn lường. Địch nhân xoay được mình lại thì hắn đã chuyển tới sau lưng, chân bước theo phương vị bát quái, hoặc trước hoặc sau, chợt tả chợt hữu, không cần nghĩ ngợi gì mà địch nhân phải đầu nhức mắt hoa. Nếu địch nhân không chuyển động theo thì lập tức bị hắn đánh sau lưng. Thật là phép đánh vô cùng lợi hại.

Vương Kiếm Kiệt được phụ thân rèn luyện cho từ thuở nhỏ. Sáng sớm hôm nào cũng phải chạy ba lần, mỗi lần chạy quanh năm trăm mười hai vòng không dừng lại chút nào. Trước khi đi ngủ cũng vậy. Công phu này luyện tập không gián đoạn. Kể cả vòng lớn và vòng nhỏ tất cả hơn ba ngàn lần xoay chuyển, mà y lại luyện tập ráo riết hơn hai chục năm. Chân bước đã thành tự nhiên, chỉ cần ra tay phát chiêu là được.

Khi rèn luyện chạy vòng quanh, Vương Kiếm Kiệt ra tay phát chưởng, còn bây giờ y dùng đao thay cho chưởng. Chỉ thấy bóng người y xoay chuyển không ngừng, đao quang lấp loáng. Chỉ nháy mắt đã vây Hồ Phỉ vào giữa. Hồ Phỉ bỗng gặp phải tay kình địch vội thi triển khinh công né tránh. Thân hình gã đã linh xảo, khinh công lại cao thâm. Gã ngang nhiên tung hoành qua lại trong làn đao phong, tránh khỏi mấy chục chiêu đâm chém của đối phương. Mã Hành Không theo dõi rất lấy làm kinh dị. Lão ta nghĩ thầm trong bụng:

“Thật là mắc cỡ! Té ra cái bóng người nhỏ bé gầy nhom mà mình thấy trong đêm hôm trước lại chính là gã. Nếu mình không rượt theo thiếu niên này thì làm sao phát giác được tấm lòng độc địa của Thương lão thái? Ở Thương gia bảo chẳng có rồng ẩn cọp nấp nào khác mà lại là thằng nhỏ gầy nhom này. Thật uổng cho mình suốt đời bôn tẩu giang hồ mà đến lúc già vẫn không biết nhìn người.”

Lão liếc mắt nhìn quanh không thấy con gái đâu cả, cả Từ Tranh cũng chẳng có ở sảnh đường. Lão tức giận lẩm bẩm:

– Cuộc tỷ võ giữa những tay cao thủ như bữa nay, trong đời người phỏng xem được mấy lần? Bọn thiếu niên thật là ngu dốt chỉ mải mê tình ái, mai mốt nên vợ nên chồng hãy chuyện trò cho phỉ không được sao?

Lão có biết đâu con gái mình tuy có ra ngoài nói chuyện tình ái thật, nhưng lại không phải trò chuyện với chàng rể chưa cưới.

Bỗng một tiếng “choảng” thật lớn vang lên. Tia lửa bắn tung tóe. Song đao của Hồ Phỉ và Vương Kiếm Kiệt đụng nhau. Tiếng “choảng” bật lên rồi, thanh âm còn ngân rền hồi lâu không dứt. Nguyên Vương Kiếm Kiệt chạy quanh mỗi lúc một nhanh, càng đánh càng mãnh liệt. Hồ Phỉ nhỏ tuổi kiến thức thiển cận, không hiểu lộ số đao pháp của đối phương. Sau gã né tránh không kịp, phải vung đao lên đỡ thành ra song đao dụng nhau. Vương Kiếm Kiệt mừng thầm nghĩ bụng:

“Thằng nhỏ này võ công tuy cao nhưng khí lực còn kém. Chỉ đánh mấy đao nữa là khí giới của gã phải tuột khỏi tay.”

Hắn liền đánh rất rát, Hồ Phỉ lâm vào tình trạng buộc phải đỡ gạt. Sau năm sáu đao, cánh tay gã bị chấn động dần dần cảm thấy tê chồn. Thanh Tử Kim đao của Thương Kiếm Minh vốn rất nặng, Hồ Phỉ ít sức, sử đao không thuận lợi, bây giờ cảm thấy đuối sức. Vương Kiếm Kiệt thân hình cao lớn. Đầu Hồ Phỉ chưa tới cổ hắn. Một người ở trên cao đánh xuống, một kẻ ngửa mặt tiếp chiêu. Thế cường nhược đã rõ ràng. Hồ Phỉ thấy mình không địch nổi, chợt động tâm cơ, đưa đao lên gạt rồi nhảy ra ngoài vòng, la lên:

– Hãy khoan!

Vương Kiếm Kiệt đã chẳng có thù oán gì với gã, lại thấy gã nhỏ tuổi mà đón đỡ được bấy nhiêu chiêu số, cũng nẩy dạ mến tài, liền đáp:

– Được rồi! Ngươi nhận thua là xong. Ta tha mạng cho ngươi.

Hồ Phỉ cười hỏi:

– Ai chịu thua chứ? Chẳng qua lão nhờ cao lớn hơn ta nên chiếm được phần tiện nghi chứ bản lãnh chẳng có chi đáng kể. Lão hãy chờ một chút.

Gã nói rồi vác cái ghế dài đặt vào giữa sảnh đường. Gã tung mình nhảy lên ghế hô:

– Chúng ta lại đây tỷ đấu nữa.

Vương Kiếm Kiệt vừa tức mình lại vừa buồn cười hỏi:

– Ngươi định làm cái gì vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Ta xin nói rõ trước là lão không được đụng vào cái ghế này. Nếu đụng vào là xem như lão đã thua đó.

Vương Kiếm Kiệt phì một tiếng rồi hỏi:

– Trong thiên hạ làm gì có chuyện tỷ võ cách này?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Chân ta chưa dài, dĩ nhiên là thấp hơn lão. Nếu lão không muốn đấu nữa thì hãy chờ năm năm sau ta lớn lên cao bằng lão, lúc đó sẽ tới đây quyết một trận sống mái.

Ngày thường Hồ Phỉ thường nghe Bình A Tứ kể chuyện phụ thân gã là Hồ Nhất Đao oai phong như thế nào và bảo gã sau khi học thành võ công trong di thư của phụ thân để lại, thì cũng thành thiên hạ vô địch. Ngờ đâu vừa mới ra tay thì gã liền bị Thương lão thái nắm giữ huyệt mạch môn rồi bị ăn đòn một trận. Cái đó còn có thể bảo là trong lúc nhất thời không kịp đề phòng, nhưng lần này động thủ với Vương Kiếm Kiệt, gã biết đao pháp mình tuy hơn hẳn đối phương nhưng công lực hãy còn kém xa. Gã liền giao hẹn mấy câu để thoát thân. Không ngờ Vương Kiếm Kiệt một là sợ mất thể diện, hai là cầm chắc mình sẽ thắng, liền thóa mạ:

– Thằng oắt con kia! Ta không đá vào ghế của ngươi thì đã sao? Chẳng lẽ lão gia không chém chết được ngươi?

Hắn nói rồi vung đao chém vào hông Hồ Phỉ. Hồ Phỉ quét ngang thanh đao gạt ra. Hai người bắt đầu động thủ. Lúc này Hồ Phỉ cao hơn đối phương. Gã đứng trên chiếc ghế xoay bên trái nghiêng bên phải, vung đao chiến đấu.

Cái ghế này dài hơn năm thước. Nếu Vương Kiếm Kiệt chuyển động xung quanh thì vòng rộng quá không thu lại được. Hắn đã rèn luyện hơn hai chục năm chạy lại theo vòng tròn lớn nhỏ không đều. Môn công phu này hắn luyện rất tinh thục mà bây giờ đột nhiên phải biến đổi, hắn liền thay đổi cách đánh đao xen với chưởng, trong chưởng có đao. Hắn thi triển đao phong cùng chưởng lực cương mãnh, để hất đối phương té xuống. Hồ Phỉ hiểu tâm ý địch nhân, gã không ngớt nhảy lên hạ xuống, chuồn qua chuồn lại chứ không dùng sức mạnh để tiếp chiêu.

Vương Kiếm Kiệt chuyên luyện võ công của Bát Quái môn mà võ công Bát Quái môn lại cực kỳ phức tạp. Chỉ riêng đao pháp đã chia làm Đại giá, Tiểu giá, Nội giá, Ngoại giá. Hắn biến đổi đao pháp huơ tả chém hữu chuyên đánh vào hạ bàn địch thủ. Hồ Phỉ vẫn nhảy lên né tránh.Vương Kiếm Kiệt chém được mấy đao, thấy Hồ Phỉ tiếp tục nhảy lên, hắn không chờ gã hạ xuống đã lia đao trên mặt ghế để quét ngang. Lúc thu đao hắn lại hớt từ tả sang hữu. Hồ Phỉ mà hạ chân xuống tất bị chặt đứt, còn muốn tránh khỏi hai nhát đao lia qua lia lại thì chỉ còn cách nhảy xuống đất.

Nhưng Hồ Phỉ quả là tay mưu trí phi thường. Gã thấy thế nguy, đột nhiên đưa đầu ngón chân dùng hết sức điểm xuống đầu ghế bên trái, mượn đà nhảy lên. Cái ghế dài đột nhiên đứng dựng. Vương Kiếm Kiệt trước diễn biến bất ngờ không kịp đề phòng bị đầu bên phải ghế dài đập vào hàm dưới đánh “binh” một cái. Luồng lực đạo không nhẹ chút nào. Hồ Phỉ đã đứng trên đầu cái ghế dựng. Gã ở trên cao vung đao đánh xuống. Tình trạng này coi rất hoạt kê khiến mọi người đứng xem không nhịn được cười.

Vương Kiếm Kiệt cả giận vung đao chém mấy chiêu, nhưng Hồ Phỉ ở trên cao mà hắn ở dưới thấp là bị kém thế. Hắn không thèm giữ lời hứa nữa, vung chân trái đá vào ghế cho đổ xuống rồi lại vung đao ra chiêu “Thượng bộ phách sơn” chém vào ngực đối thủ. Hồ Phỉ người chưa hạ xuống đất đã quét ngang thanh đao một cái để rồi mượn đà vọt ra xa nửa trượng. Gã cúi người xuống, tay trái cầm ghế giơ lên làm lá mộc hình dài để đón đỡ lưỡi đao đối phương. Tay mặt gã dùng Tử Kim đao liên tiếp chém ra.

Vương Kiếm Anh thấy người huynh đệ đánh lâu mà vẫn không hạ được đối thủ đã sớm phải cau mày. Trong đám quần hào đứng xem như Ân Trọng Tường, Huỳnh Bát Nhã, Mã Hành Không đều là những tay hảo thủ giang hồ, nên họ nhận ra cuộc chiến biến ảo khôn lường. Hiển nhiên Hồ Phỉ sắp thất bại đến nơi rồi mà Vương Kiếm Kiệt vẫn không sao hạ được gã, nên họ đều ngấm ngầm kinh dị.

Lúc này Hồ Phỉ tay trái cầm ghế, tay mặt sử đao. Về binh khí gã chiếm phần tiện nghi. Cái ghế làm bằng hồng mộc rất rắn, bị Vương Kiếm Kiệt chém liền mấy đao mà vẫn chưa gãy. Hồ Phỉ ẩn ở phía sau ghế, không ngớt tấn công. Vương Kiếm Kiệt tức giận quát mắng:

– Thằng oắt con kia, lão gia cho ngươi nếm mùi lợi hại!

Đột nhiên hắn ra chiêu “Thượng oải môn”, vung đao chênh chếch chém tới. Nghe “chát” một tiếng, nhát đao đã chém trúng giữa ghế. Nhưng hắn dùng sức mạnh quá, lưỡi đao ngập sâu vào thân ghế. Hắn co tay về để rút đao ra, nhưng chưa rút được thì đột nhiên ánh tử quang lấp loáng. Mũi đao của đối thủ đã đâm tới trước ngực hắn. Chiêu này phóng ra như nước chảy mây trôi, cực kỳ mau lẹ. Vương Kiếm Kiệt kinh hãi đành buông đao rụt tay về. Hiển nhiên hắn đã thắng thế mà bị thằng nhỏ đoạt mất binh khí một cách hồ đồ thì trong lòng khi nào chịu phục? Hắn liền tấn công bằng tay không. Thế là một nhân vật nổi danh về Bát Quái đao đã phải dùng hai tay để vãn hồi thể diện. Vương Kiếm Kiệt nào quyền, nào điểm, nào chưởng xô ra tấn công. Song chưởng của hắn luồn vào khe đao để đánh. Uy thế chẳng kém gì lúc hắn có đao trong tay.

Hồ Phỉ nội lực yếu kém, tay chân lại cầm cái ghế khá nặng thì làm sao xoay trở nhẹ nhàng mau lẹ bằng người tay không được? Chỉ trong chớp mất, gã liên tiếp gặp những chiêu rất nguy hiểm. Chát một tiếng! Đầu vai gã bị trúng chưởng người lảo đảo muốn té. Mọi người đứng xem đều bật tiếng la. Hồ Phỉ cố chịu đau, tay trái cầm ghế dài phóng ra. Tiện tay gã chụp lấy chuôi thanh đơn đạo trên mặt ghế. Chân phải đá mạnh một cái cho ghế văng ra khỏi đao bay về phía Vương Kiếm Kiệt.

Vương Kiếm Kiệt thấy Hồ Phỉ chiến đấu không theo cách thức thông thường mà chỉ làm nhộn để cố ý hạ nhục mình thì trong lòng rất tức giận. Hắn vung hai tay đánh mạnh vào ghế. Cái ghế trước đã bị đao chém thành vết. Bây giờ chưởng lực làm cho chấn động. Một tiếng rắc vang lên. Cái ghế bị gãy làm hai đoạn. Hồ Phỉ tay cầm song đao vung lên chém tới tấp. Vương Kiếm Kiệt tay không chống đối với song đao mà không mảy may sợ hãi. Hắn ra thế cầm nã, tay phải hình móc câu để tấn công. Đột nhiên Hồ Phỉ la lên một tiếng. Đao ở tay trái của gã bị đối phương đoạt mất. Vương Kiếm Kiệt quăng đao xuống đất, vẫn dùng tay không chiến đấu. Chưởng pháp của hắn đã rèn luyện trên hai chục năm quả nhiên lợi hại phi thường.

Thương Bảo Chấn đứng ngoài coi vừa chán nản vừa vui mừng. Gã chán nản vì thấy mình khổ công học nghệ từ thuở nhỏ, tưởng đã vào hạng khá, nhưng nếu đem so với vị sư thúc này thì chẳng biết bao lâu nữa mới luyện được công phu như vậy. Gã hoan hỷ vì võ công của bản môn thần diệu phi thường, chỉ cần cố sức rèn luyện thì tiền đồ sẽ không biết đến đâu mà lường. Đột nhiên nghe Vương Kiếm Kiệt lớn tiếng quát:

– Đi!

Thanh Tử Kim đao trong tay Hồ Phỉ đã tuột tay bay đi. Gã vội nhảy lui về sau. Vương Kiếm Kiệt vung song chưởng đánh tới, thế mạnh như lay non dốc biển. Hồ Phỉ thấy mình không chống đỡ nổi, nhưng lúc tình hình cấp bách lại nảy sinh mưu mẹo, y liền trỏ vào Vương Kiếm Kiệt mà cất lên một tràng cười ha hả. Vương Kiếm Kiệt thấy gã cười rộ chẳng hiểu ra làm sao, bất giác thu chưởng về, ngơ ngác một chút rồi mắng hỏi:

– Thằng nhãi kia! Ngươi cười gì vậy?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Trợ thủ cho ta đã tới, không còn sợ các vị ỷ đông người toan bắt nạt một đứa nhỏ như ta nữa.

Vương Kiếm Kiệt chột dạ nghĩ thầm:

“Ta là một nhân vật thành danh trên giang hồ mà chấp nhặt với thằng quỷ nhỏ này quả là điều không nên.”

Hồ Phỉ vừa cười vừa nói tiếp:

– Ta đi đón trợ thủ, các vị cứ chờ ở đây, đừng sợ ta bỏ trốn.

Gã thừa cơ Vương Kiếm Kiệt còn ngần ngừ, liền rảo bước tiến ra cửa để đánh bài chuồn. Thương lão thái đã lượm thanh Tử Kim Bát Quái đao, vọt người lên trước chặn lại quát hỏi:

– Tiểu tạp chủng, mi muốn trốn ư?

Nhưng mụ biết võ công thằng nhỏ này còn cao thâm hơn mình nên không dám tiến lại gần. Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng vó ngựa từ xa đang ruổi mau tới. Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng vó ngựa nghe càng rõ rệt. Xưa nay khi ngựa phi nhanh thì vó ngựa dồn dập là chuyện bình thường, nhưng lạ ở chỗ con ngựa này đập chân xuống nổ như mưa rào. Lộp độp! Lộp độp! Lộp độp! Lộp độp! Nghe chẳng khác gì hai con ngựa đang đồng thời phi nước đại.

Những nhân vật trong sảnh đường quá nửa là những tay đại hành gia trên chốn giang hồ. Cương đao, khoái mã họ đều xem như bình thường, thế nhưng vừa nghe tiếng vó ngựa có điều khác lạ thì trên mặt không khỏi lộ vẻ kinh dị. Chỉ trong khoảnh khắc, con ngưa kia đã phi tới trước trang bảo. Tiếng trang đinh la ó lẫn với tiếng cánh cổng kẹt mở, rồi tiếng trang đinh té xuống huỳnh huỵch, tiếng khí giới rớt xuống đất loảng xoảng, náo loạn cả lên. Mọi người còn đang ngơ ngác nhìn nhau thì trước cửa sảnh đường đã thêm một người xuất hiện.

Tiếng vó ngựa lúc đầu nghe còn ở ngoài xa mấy dặm mà trong chớp mắt người này đã sấn vào trang bảo, thật thần tốc phi thường, khác nào sét đánh không kịp bưng tai. Quả là một chuyện hiếm có trên chốn giang hồ. Trong bảo nghe tin cảnh báo, dẫu có muốn chuẩn bị cự địch cũng không kịp chứ đừng nói gì đến chuyện bố trí nhân thủ. Quần hào sửng sốt, mục quang đều chú ý nhìn người mới đến.

Người này chừng năm chục tuổi, mình mặc áo bào vải rộng thùng thình. Môi trên hơi hếch. Mái tóc đã hoa râm. Khổ người vừa phải, hơi mập một chút. Miệng lão cười hề hề, mặt mũi hiền hòa. Tay mặt lão dắt đứa con gái lối mười hai, mười ba tuổi. Coi bộ dạng tựa hồ lão là một tài chủ ở nơi thôn dã hay là một nhà buôn trong tiểu thị trấn. Lão cũng buột miệng nói câu đầu lưỡi “Cung hỷ phát tài”. Giọng nói tuy quê mùa một chút nhưng thái độ dễ thân cận, khác hẳn với uy thế hung hãn lúc mới tiến vào.

Hồ Phỉ vừa nói có trợ thủ tới nơi chỉ là câu nói ẩu, hy vọng quần hào không kịp đề phong để chuồn đi cho lẹ, ngờ đâu lại xảy ra chuyện trùng hợp, quả có người tiến vào bảo thật. Gã nhân lúc mọi người đang chú ý nhìn lão béo mập bèn đi vòng ra phía sau quần hào, từ từ lén đến cửa sảnh đường. Trong lúc nhất thời, mọi người quên mất Hồ Phỉ còn Thương lão thái vẫn nhớ tới gã. Mụ chỉ nhìn lão mập một lần lúc lão mới vừa mới đến rồi mục quang thủy chung vẫn không dời khỏi Hồ Phỉ.

Mụ thấy gã toan trốn đi liền quát lớn một tiếng, rồi tung mình vung chưởng đánh tới sau lưng gã. Phát chưởng này là “Bối tâm đình”, một tuyệt chiêu trong “Bát Quái chưởng”. Nếu bị đánh trúng, Hồ Phỉ phải gãy xương đứt ruột, hộc máu ra mà chết ngay tại đương trường. Lão mập thấy mụ thi triển thủ pháp tàn độc để đối phó với một thằng nhỏ, bất giác “ối” lên một tiếng. Lão toan ra tay cứu viện thì thấy Hồ Phỉ chuyển động thân hình, tay trái gã khoằm xuống như móc câu đưa lên hất thủ chưởng của mụ sang một bên. Thế là gã hóa giải được tuyệt chiêu của Thương lão thái. Người mụ lảo đảo, xiêu đi ba bước mới đứng vững.

Lão mập thấy Hồ Phỉ là một đứa nhỏ gầy nhom mà đã có bản lãnh như vậy thì lấy làm lạ, bất giác liếc mắt nhìn gã luôn mấy lẫn. Vương Kiếm Anh thấy lão mập phảng phất như người quen nhưng nhất thời chưa nghĩ ra là ai, liền chắp tay hỏi:

– Cao tính đại danh tôn giá là gì? Đêm hôm khuya khoắt giá lâm có điều chi dạy bảo?

Lão già chắp tay trả lễ, đáp:

– Không dám. Tại hạ họ Triệu.

Vương Kiếm Anh chợt tỉnh ngộ, la lên:

– Ủa! Té ra là Triệu tam gia ở Hồng Hoa hội quang lâm. Xin tha thứ cho tiểu đệ mắt kém.

Quần hào nghe nói người trước mắt là đại đầu lĩnh Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn ở Hồng Hoa hội đều giật mình kinh hãi. Sáu, bảy năm trước đây, những anh hùng ở Hồng Hoa hội phóng hỏa đốt Ung Hòa cung, đại náo Tử Cấm Thành, đều là những vụ làm chấn động võ lâm. Sau đó Hồng hoa hội ra sao, không ai nghe tin nữa. Bạn hữu giang hồ đồn đại quần hùng quy ẩn ở Hồi Cương. Không ngờ bữa nay Triệu Bán Sơn đột nhiên xuất hiện ở đây.

Vương Kiếm Anh hồi còn thanh niên đã gặp mặt Triệu Bán Sơn ở tiêu cục một lần. Nhưng sự việc này cách đây ngoài hai chục năm, dung mạo Triệu Bán Sơn khác trước nhiều rồi, vì thế ban đầu hắn chưa nhớ ra được. Bây giờ hắn càng chú ý, vẻ mặt niềm nở hỏi:

– Triệu tam gia một mình tới Sơn Đông hay cùng các vị anh hùng nhất tề hạ sơn? Hồi sinh thời, gia phụ thường nhắc tới chúng anh hùng ở Hồng Hoa hội, tỏ ra rất quyến luyến.

Triệu Bán Sơn bản tính hiền hòa, bụng không định kiến nên hòa hợp với cả mọi người. Lão đáp ngay:

– Tiểu đệ có chút việc riêng mà phải một mình đến Sơn Đông. Xin hỏi lệnh tôn…

Vương Kiếm Anh nghe lão nói đi một mình đã yên tâm được phân nửa, bụng bảo dạ:

“Nếu lão kéo hết cả anh em trong hội hạ sơn thì công việc ở đây thật là khó lòng mà dàn xếp cho ổn thỏa được.”

Hắn liền đáp:

– Tiên phụ là Trấn Viễn tiêu cục…

Triệu Bán Sơn tiếp lời:

– Ủa! Té ra đây là hiền lang của Vương lão tiêu đầu. Lão tiêu đầu đã qua đời ra sao?

Vẻ mặt lão lộ vẻ buồn rầu, thực sự có lòng thương tiếc. Vương Kiếm Anh đáp:

– Tiên phụ qua đời đã năm năm. Còn đây là xá đệ Vương Kiếm Kiệt.

Hắn quay lại nhìn Vương Kiếm Kiệt nói tiếp:

– Triệu tam gia đây về Thái Cực quyền, Thái Cực kiếm và công phu ám khí là ba tuyệt kỹ thiên hạ vô song. Bữa nay chúng ta được gặp mặt thật là may mắn.

Vương Kiếm Anh toan giới thiệu tiếp mọi người thì Vương Kiếm Kiệt lòng dạ ngay thẳng miệng nhanh nhẩu, đã đỡ lời:

– Vị đây là Trần huynh cũng ở Thái Cực môn. Chắc hai vị quen biết nhau.

Hắn vừa nói vừa trỏ vào Thái Cực thủ Trần Vũ. Triệu Bán Sơn “ồ” một tiếng, nét mặt lão đang hiền hòa bỗng dưng nổi sát khí. Lão nhìn Trần Vũ từ đầu đến chân rồi lại từ chân ngược lên đầu. Trần Vũ thấy lão đột nhiên biến đổi sắc mặt thì thấy tình hình đã có điều không ổn, lại bị lão nhìn dữ quá càng thêm bỡ ngỡ. Con nhỏ do Triệu Bán Sơn dắt đến đột nhiên trỏ vào Trần Vũ, lớn tiếng:

– Triệu thúc thúc! Hắn đây rồi! Hắn đây rồi!

Thanh âm lanh lảnh, giọng nói đầy vẻ phẫn nộ. Trần Vũ thấy con nhỏ nước da hơi đen, trên mặt đầy vẻ thống hận mà hắn chưa gặp bao giờ. Hắn liền quay sang nhìn Vương Kiếm Kiệt nói:

– Triệu tam gia thuộc Nam phái trong Thái Cực môn ở Ôn Châu. Tiểu đệ cũng ở Thái Cực môn thuộc phủ Quảng Bình, tỉnh Trực Lệ. Bọn tại hạ ở một phái nhưng khác tông. Triệu tam gia vào hàng tiền bối, tiểu đệ trước nay vẫn đem lòng ngưỡng mộ.

Hắn nói rồi tiến lại chắp tay thi lễ, cực kỳ cung kính. Ngờ đâu Triệu Bán Sơn lờ đi như chẳng thấy gì, hai tay chắp để sau lưng, không thèm nhìn Trần Vũ. Lão quay lại bảo Vương Kiếm Anh:

– Vương huynh! Bữa nay tại hạ tới đây một cách đột ngột, xin có lời tạ lỗi cùng các vị.

Lão vừa nói vừa chắp tay xá một vòng. Quần hào vội đáp lễ, đồng thanh đáp:

– Không dám, không dám! Triệu tam gia khách sáo quá.

Trần Vũ tức đến lạnh người, tay chắp lại rồi không bỏ xuống nữa, hắn đứng trơ ra bụng bảo dạ:

– Ta có đắc tội với hắn bao giờ đâu? Tuy hắn oai danh lừng lẫy nhưng việc gì ta lại phải sợ hắn?

Vương Kiếm Anh trỏ vào Hồ Phỉ hỏi:

– Vị tiểu huynh đệ đây có điều xích mích với sư muội, do mối hiềm thù từ đời trước gây nên. Hiện giờ sư đệ của tại hạ đã qua đời, bọn tại hạ xin nể mặt Triệu tam gia mà bỏ qua vụ này không nhắc tới nữa. Chúng ta đình thủ nên chăng?

Hắn nói rồi nổi lên tràng cười ha hả. Nguyên hắn có bất hòa với Thương Kiếm Minh nhưng đã vô tình báo thù cho y, bây giờ hắn lại muốn lấy lòng Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn đang ngạc nhiên chẳng hiểu gì, thì Thương lão thái đã la lên:

– Cho dù là Triệu Bán Sơn hay Triệu Nhất Sơn gì đi nữa, đã đến Thương gia bảo cũng đừng hòng giở thói ngang tàng.

Triệu Bán Sơn hỏi lại:

– Vương huynh nói chuyện gì tiểu đệ chưa hiểu?

Vương Kiếm Anh đáp:

– Vị này là chuyết kinh của tệ sư đệ. Triệu tam gia đừng chấp với mụ. Nào Tam gia hãy lại đây! Tiểu đệ mượn hoa kính Phật, mời Triệu tam gia một chung.

Hắn nói rồi cầm hồ rót rượu. Hồ Phỉ biết mình mà nói nữa là lập tức thò đuôi dối trá, liền lớn tiếng:

-Triệu tam gia! Bọn bị thịt này nói khoác lắm. Họ bảo bọn Hồng Hoa hội chỉ là phường giá áo túi cơm, lại còn khoe “Bát Quái chưởng” là công phu vô địch thiên hạ. Họ bảo một vị lão anh hùng trong bọn họ chỉ cần một thanh Bát Quái đao là có thể thu thập hết mọi nhân vật trong Hồng Hoa hội. Vãn bối nghe nói tức quá, bèn cãi lại. Nhưng bọn họ không chịu phục nên phải xảy ra cuộc động thủ. Triệu Tam gia! Tam gia nghĩ thử có tức không? Vụ này xin để cho Triệu tam gia bình luận.

Triệu Bán Sơn chưa hiểu họ tranh chấp việc gì. Nhưng ngày trước, Vương Duy Dương đã từng đối địch với Hồng Hoa hội là điều có thật. Hồng Hoa hội không thắng lão bằng võ lực mà chỉ dùng kế bức bách lão chịu thua, nên anh em Vương Kiếm Anh, Vương Kiếm Kiệt có nói vậy thì chỉ là để khoa trương bản lãnh anh hùng của phụ thân. Chuyện này cũng là thường tình. Lão nghĩ vậy liền cười đáp:

– Vương lão tiêu đầu võ công cao cường. Bọn tiểu đệ ai nấy đều mười phần bội phục.

Đột nhiên lão giương cặp mắt sáng như điện nhìn Trần Vũ nói:

– Trần sư phó! Mời sư phó ra ngoài kia để chúng ta nói chuyện với nhau.

Trần Vũ trong lòng run sợ hỏi:

– Giữa tại hạ và Triệu tam gia vốn không quen biết, chẳng hiểu tam gia có điều chi dạy bảo? Các vị bằng hữu đây đều là những hán tử quang minh lỗi lạc, tam gia có điều gì xin cứ nói ở đây cũng không sao.

Triệu Bán Sơn cười lạt rồi hỏi lại:

– Đây là cái nhục của Thái Cực môn chúng ta, sao lại để cho người ngoài biết?

Trần Vũ biến sắc lùi lại một bước, lớn tiếng đáp:

– Tam gia thuộc phái Thái Cực ở Ôn Châu, còn tại hạ thuộc phái Thái Cực ở Quảng Bình. Chúng ta đồng phái bất đồng tông. Tại hạ không can dự đến tam gia, tam gia cũng không can dự đến tại hạ.

Triệu Bán Sơn nói:

– Chỉ vì thủ đoạn của Trần huynh quá ư lợi hại nên Thái Cực môn ở phủ Quảng Bình không một ai dám ra mặt. Tại hạ từ đất Hồi Cương xa xôi muôn dặm tới đây, vừa tới Bắc Kinh nghe nói Trần huynh đã đến Sơn Đông liền lật đật chạy theo tìm kiếm. Quả thật là lưới trời lồng lộng.

Quần hào nghe nói bốn chữ “lưới trời lồng lộng” thì đều giật bắn cả người, không hiểu Trần Vũ đã làm việc gì sai quấy trong môn hộ khiến cho Triệu Bắc Sơn phải lặn lội đường xa muôn dặm để truy tầm hắn. Trần Vũ rất tài giỏi và lão luyện, nổi tiếng giang hồ đã lâu. Oai danh hắn tuy không vang dội bằng Triệu Bán Sơn nhưng cũng là nhân vật cự phách trong Thái Cực môn, huống chi ngoài Phúc công tử, hắn còn có hậu thuẫn khác rất lớn nên chẳng sợ gì Triệu Bán Sơn. Hắn liền xẵng giọng:

– Trước ta kính trọng ngươi, kêu ngươi là Triệu tiền bối là vì nể tuổi tác của ngươi. Hai phe Nam Bắc của Thái Cực môn đều có chỗ sở trường, chẳng lẽ ngươi uy hiếp được ta?

Vừa dứt lời hắn đã ra chiêu “Ngọc nữ xuyên thoa” nhằm đánh vào bả vai Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn bôn ba mấy tháng, muôn dặm tân khổ cũng vì chiêu trước mắt này. Lão thấy Trần Vũ động thủ ra chiêu “Ngọc nữ xuyên thoa” liền hiểu ngay võ công của hắn đến trình độ nào. Lão liền cúi thấp xuống một chút ra chiêu “Vân Thủ” đẩy cổ tay mặt hắn ra bên phải. Trần Vũ chân đứng không vững, lập tức toàn thân bị kiềm chế. Nên biết các phái trong Thái Cực môn, về quyền chưởng đều đại đồng tiểu dị. Chỗ sai biệt mạnh hay yếu là do ngộ tính và công lực của từng người.

Ân Trọng Tường, một hảo thủ võ học ở Thiên Long môn, là chỗ bạn thân với Trần Vũ. Lúc hắn thấy Triệu, Trần hai người lời qua tiếng lại, hắn đã rút kiếm cầm tay, lăm le muốn động thủ. Bây giờ lại thấy Trần Vũ mới ra một chiêu đã thất bại, hắn liền cầm kiếm đâm tới sau lưng Triệu Bán Sơn, miệng quát:

– Buông tay ra!

Triệu Bán Sơn không quay đầu lại, tiện tay rút lấy thanh bội kiếm sau lưng Trần Vũ, vung ngược lại đón đỡ. Thủ pháp của lão rất chuẩn đích. Song kiếm dụng nhau đánh “choang” một tiếng. Thanh trường kiếm của Ân Trọng Tường bị gãy làm hai đoạn.

Triệu Bán Sơn lại đưa tay mặt đẩy một cái, thanh bội kiếm đã lọt vào bao trên lưng Trấn Vũ. Quần hào thấy lão chỉ một chiêu đã kiềm chế được hảo thủ Trần Vũ ở Thái Cực môn, chỉ một nhát kiếm đã chặt gãy trường kiếm của hảo thủ Ân Trọng Tường ở Thiên Long môn, quyền pháp kiềm chế địch thủ thì ảo diệu, thủ pháp đoạt lấy kiếm thì thần tốc, công phu đánh gãy kiếm thì tinh thuần, nhãn lực trả lại kiếm thì chuẩn xác, đều là những điều mà bình sinh họ khó gặp nên ai nấy đều cả kinh thất sắc.

Triệu Bán Sơn lạnh lùng hỏi Trần Vũ:

– Sao! Trần huynh có chịu đi ra hay không?

Trần Vũ nét mặt hết xanh lét lại đỏ bừng, trong lòng hoảng hốt không biết làm thế nào. Đột nhiên ánh kim quang lấp loáng. Bảy mũi kim tiêu chia ra thượng hạ tả hữu bắn tới Hồ Phỉ. Nguyên Thương lão thái nhận thấy hy vọng báo thù sắp tan thành mây khói, mụ liền nhân cơ hội quần hào đang chú ý nhìn vào Triệu Bán Sơn và Trần Vũ, bắn ra bảy mũi kim tiêu một cách đột ngột. Mụ chỉ cách Hồ Phỉ chừng hơn trượng lại phóng tiêu bất ngờ, đối phương muốn tránh khỏi cả bảy mũi tiêu thì thật là điều thiên nan vạn nan.

Mười mấy năm mụ ôm chí trả thù cho trượng phu, lại biết rõ võ công Miêu Nhân Phụng và Hồ Nhất Đao đã đến trình độ trác tuyệt, nên nếu động thủ một cách quang minh chính đại thì tuyệt không hy vọng thủ thắng mụ đã bôi chất kịch độc Huyết phong hầu vào mũi kim tiêu. Diễn biến xảy ra đột ngột. Hồ Phỉ la lên:

– Úi chao!

Gã vội nằm sấp xuống. Ba mũi tiêu bắn trên gã có thể tránh khỏi nhưng còn bốn mũi nhằm vào bụng dưới và hạ bàn thì chẳng còn cách nào tránh được. Triệu Bán Sơn tiến ra một bước, vươn cánh tay dài khoa một cái nắm lại. Bảy mũi kim tiêu mới bắn ra được nửa đường thì đã nằm gọn trong lòng tay của Triệu Bán Sơn. Ngoại hiệu của lão là “Thiên thủ Như Lai”. “Như Lai là để nói lòng dạ lão hiền từ. Còn “Thiên thủ” là nói về tài phóng ám khí và tiếp nhận ám khí chẳng khác gì một người có ngàn bàn tay. Môn chụp ám khí đúng là một tuyệt kỹ sở trường của Triệu Bán Sơn.

Mọi người chỉ thấy mắt hoa lên một cái, chưa kịp nhìn thấy rõ Triệu Bán Sơn ra tay như thế nào thì cả bảy mũi kim tiêu đã nằm gọn trong lòng tay lão. Đừng nói chỉ có bảy mà bảy lần bảy là bốn mươi chín mũi lão cũng chẳng coi vào đâu. Dưới ánh đuốc đầu mũi tên ánh lên màu hồng thẫm. Lão cầm đưa lên mũi ngửi quả thấy mùi thơm liền biết ngay đầu mũi tiêu có bôi chất kịch độc. Triệu Bán Sơn là một cao thủ về phóng ám khí nhưng lão rất căm hận kẻ nào dùng ám khí bôi chất độc. Người ta thường nói: Ám khí nguyên là một thứ khí giới của chính phái. Nó nhỏ mà đi được xa nên cùng với quyền cước, khí giới cũng là một trong tam đại môn về võ học. Chỉ kẻ nào đê hèn vô sỉ bôi chất độc vào ám khí thì mới bị người ta khinh bỉ.

Lão quay lại nhìn Thương lão thái, vẻ mặt hầm hầm, lên tiếng hỏi:

– Vương Duy Dương lão gia tử là bậc anh hùng, lão nhân gia có dạy người bôi chất độc vào ám khí không? Chẳng lẽ lão nhân gia lại dạy người đánh lén một cách hèn hạ như vậy? Huống chi lại dùng thủ đoạn đánh lén bằng ám khí bôi độc đối với một đứa nhỏ.

Lão nói mấy câu này đại nghĩa lẫm liệt khiến Vương thị huynh đệ không khỏi ngấm ngầm hổ thẹn.

Thương lão thái thấy Vương thị huynh đệ lẳng lặng cúi đầu, liền lớn tiếng hỏi lại:

– Ngươi là cái thá gì mà đến Thương gia bảo khinh người? Chỉ tiếc tiên phu ta là Thương Kiếm Minh chết rồi, trong Bát Quái môn không còn anh hung hảo hán nữa. Con ta còn nhỏ tuổi, còn ta là phận đàn bà nên đành chịu để ngươi khi vũ.

Đột nhiên mụ khóc rống lên nói tiếp:

– Kiếm Minh hỡi! Lão nhân gia chết đi rồi, Bát Quái môn chỉ còn lại một lũ chó má đi bợ đỡ người ngoài, không còn một kẻ nào khí phách hào hùng để giữ được cái danh cho môn hộ nữa. Kiếm Minh hỡi! Mai đây tiện thiếp cho thằng con của lão nhân gia quy đầu Thái Cực môn để gã khỏi chịu cảnh bị bôi tro trát trấu trên chốn giang hồ. Cả một lũ chúng để người ta khinh rẻ. Kiếm Minh hỡi! Nhớ lại thuở xưa lão nhân gia là bậc anh hùng lỗi lạc. Nếu sớm biết ngày nay cơ sự lại đến nông nỗi này thì thà bỏ quách thanh Bát Quái đao này vào quan tài để nó khỏi bị nhơ nhuốc.

Mụ khóc một tiếng lại thóa mạ mấy câu, rồi quẳng thanh Bát Quái đao xuống đất, dẫm chân lên, nhổ nước bọt vào. Anh em họ Vương giận run người nhưng không tiện để cảnh đồng môn gây lộn diễn ra trước mặt người ngoài. Triệu Bán Sơn nóng lòng đem Trần Vũ đi nhưng lão thấy Thương lão thái dùng thủ đoạn tàn độc đối phó với Hồ Phỉ, nên lão nghĩ rằng nếu mình mà bỏ đi thì thằng nhỏ kia tất gặp độc thủ. Tuy lão chẳng có quan hệ dây mơ rễ má gì với Hồ Phỉ, nhưng giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng thể nhắm mắt làm ngơ. Lão liền nhìn Vương thị huynh đệ chắp tay nói:

– Thằng nhỏ này để tại hạ đưa đi. Ngày sau sẽ có dịp tạ lại tấm thịnh tình của hai vị.

Vương Kiếm Anh chưa kịp trả lời, Thương lão thái lại vừa khóc vừa la:

– Kiếm Minh hỡi! Lão nhân gia chết sớm là xong chuyện, khỏi phải thấy những chuyện mất mặt này. Sư đệ của chàng mang tiếng là một tay hảo thủ ở Bát Quái môn nhưng bản lãnh không bằng một thằng nhỏ mười mấy tuổi đầu. Cả thanh đao cũng bị người đoạt mất. Sư huynh của lão nhân gia càng sợ thằng nhỏ, chỉ mong gã mau chóng đi cho xa.

Vương Kiếm Anh bị mụ chửi móc không nhẫn nại được lớn tiếng quát:

– Câm miệng!

Hắn quay sang nhìn Triệu Bán Sơn nói:

– Triệu tam gia! Vừa rồi sư muội của tại hạ nói gì tam gia đã nghe rõ. Chẳng phải tại hạ không nể mặt Triệu tam gia, nhưng nếu để thằng nhỏ này ra đi như vậy thì Bát Quái môn khó còn đất đứng trên chốn giang hồ, mà tại hạ cũng chẳng còn mặt mũi nào làm người được nữa.

Triệu Bán Sơn nghĩ thầm:

“Hắn nói câu này là tình thật.”

Lão quay sang bảo Hồ Phỉ:

– Hài tử, ngươi đắc tội với hai vị Vương sư phó ra sao? Mau dập đầu xin lỗi rồi hãy đi theo ta!

Triệu Bán Sơn là tay già dặn nhưng lần này lão lại lầm lẫn. Vừa rồi lão thấy Hồ Phỉ đánh nhau với Thương lão thái, thân thủ gã tuy không kém cỏi nhưng dù sao cũng chỉ là một đứa nhỏ. Ngờ đâu Hồ Phỉ bản tính cao ngạo không chịu cúi đầu trước người khác một cách dễ dàng. Gã cười hỏi:

– Triệu Tam gia! Tam gia bảo họ dập đầu trước vãn bối ư? Vãn bối không dám đâu.

Triệu Bán Sơn ngạc nhiên, bụng bảo dạ:

“Sao thằng nhỏ này lại tranh hơn đến thế?”

Vương Kiếm Anh cũng tưởng Hồ Phỉ xin lỗi thì mọi việc xem như xong, không ngờ lại nghe gã trả lời như vậy, trong lòng hắn phẫn nộ đến cực điểm. Có điều trước mặt Triệu Bán Sơn, hắn không muốn để lộ ra mình là người thiếu công phu hàm dưỡng, nên hắn ráng giữ vẻ thản nhiên nói:

– Tiểu đệ! Võ công của tiểu huynh đệ khá lắm, trách nào tiểu huynh đệ chẳng có tính cuồng ngạo. Nào! Vương mỗ muốn lãnh giáo mấy chiêu.

Hồ Phỉ nhảy vào giữa sảnh đường, vung quyền nhằm vào mũi Vương Kiếm Anh đánh véo một cái. Vương Kiếm Anh tủm tỉm cười, tiện tay vung chưởng ra. Phát chưởng này lúc vừa đánh ra thì nhẹ nhàng nhưng tới nửa chừng thì gió rít lên vù vù xô vào mặt Hồ Phỉ. Triệu Bán Sơn lẩm bẩm:

– Gã họ Vương hưởng được gia học uyên nguyên. Chưởng kình của y quả nhiên không phải tầm thường.

Lão sợ phát chưởng đó đánh trọng thương Hồ Phỉ liền nghiêng người về phía trước một chút, đề phòng gặp lúc nguy cấp là phóng chưởng đánh vào hậu tâm họ Vương để làm tiêu giảm chưởng lực của hắn. Ngờ đâu thân pháp Hồ Phỉ mau lẹ dị thường. Gã nghiêng người đi khiến phát chưởng của Vương Kiếm Anh đánh trệch sang một bên. Nhưng Vương Kiếm Anh là đệ nhất cao thủ trong Bát Quái môn hiện nay, tả chưởng đánh chênh chếch tới, hữu chưởng không chậm một giây từ bên phải phía trên đánh xéo xuống dưới bên trái phía trên. Hồ Phỉ giơ song quyền lên! “Bốp” một tiếng, phát chưởng kia đánh trúng vào thoi quyền của gã. Hồ Phỉ la lên:

– Úi chà! Đau quá!

Đột nhiên gã ra chiêu “Trầm trưu cầm nã”, vươn tay chụp vào huyệt Khúc Trì bên tay trái Vương Kiếm Anh. Chiêu này cực kỳ quái dị. Vương Kiếm Anh sửng sốt lùi lại một bước. Thương lão thái và Mã Hành Không đưa mắt nhìn nhau, ai cũng tự hỏi:

– Tại sao thằng nhỏ này lại biết sử quái chiêu đó?

Nguyên bữa trước Diêm Cơ cướp tiêu, khi động thủ cùng Mã Hành Không, hắn đã thi triển mười mấy quái chiêu. Trong đó có chiêu “Trầm trưu cầm nã”.

Vương Kiếm Anh lùi lại một bước rồi sử chiêu “Mãnh hổ phục thung”, phóng chưởng đánh vào cánh tay trái Hồ Phỉ. Hồ Phỉ xoay nửa mình, móc chân đá ngược lại thành quái chiêu “Câu thối phản thích”. Diễn biến này dĩ nhiên khiến cho bọn Mã Hành Không phải kinh ngạc, mà ngay cả nhân vật biết nhiều hiểu rộng là Triệu Bán Sơn cũng lấy làm lạ. Vương Kiếm Anh thấy chiêu pháp của Hồ Phỉ có ẩn ý muốn làm nhục mình, liền tự nhủ:

“Nếu không cho thằng lỏi này nếm mùi đau khổ, tất khiến ngươi coi thường Bát Quái môn.”

Tuy hắn động thủ với Hồ Phỉ mà thực ra hắn không coi thằng nhỏ là đối thủ của hắn chỉ nhằm để cho đại hành gia đứng bên là Triệu Bán Sơn theo dõi. Do đó, hắn ra tay ngưng trọng, di chuyển ung dung, không dám để mất thân phận của một danh gia võ học. Vì trong lòng có ý nghĩ như vậy nên hắn không ngại chiêu số kém bề tàn độc, mà chỉ sợ Triệu Bán Sơn coi thường mà nói “Cao đệ của danh môn mà sao bản lĩnh lại hời hợt đến vậy?”. Lúc này chưởng pháp của Vương Kiếm Anh rất kín đáo, chẳng lộ chỗ nào sơ hở, nhưng muốn kiềm chế đối phương trong vòng mấy chiêu lại không thể được.

Thương Bảo Chấn khổ công rèn luyện “Bát Quái chưởng” từ thuở nhỏ, nay gã thấy vị đại sư bá này ra tay bình thường chẳng có gì chi kỳ dị, lại sử dụng toàn những chiêu số sơ đẳng nhất trong “Bát Quái chưởng”, thì cho là sư bá úy kỵ Triệu Bán Sơn, chỉ kéo dài cuộc đấu chứ không có ý trả thù cho phụ thân, nên trong lòng gã ngấm ngầm oán hận. Gã có biết đâu chưởng pháp của Vương Kiếm Anh trong cái bình thường đã ẩn giấu công phu hơn mười năm rèn luyện.

Ban đầu Hồ Phỉ còn nhảy nhót tung ra những quái chiêu nhưng về sau gã hoàn toàn bị chưởng phong của đối phương vây hãm. Vương Kiếm Anh huy động chưởng lực dần dần kiềm chế được Hồ Phỉ, khiến gã mỗi khi phóng ra một quyền hay đá một cước thì lập tức bị chưởng lực của “Bát Quái chưởng” đánh bật trở lại.

Nếu như lúc này Vương Kiếm Anh muốn phát huy kình lực đả thương Hồ Phỉ thật chẳng khó gì, nhưng hắn muốn phô trương thân thủ trước mặt Triệu Bán Sơn, quần cho Hồ Phỉ sức cùng lực kiệt đến mức phải quỳ xuống xin tha mới thôi. Bản thân hắn thì thủy chung vẫn ung dung nhàn nhã.

Nên biết cảnh giới khó đạt nhất của võ thuật là luyện đến trình độ cất vật nặng cũng như vật nhẹ, dùng sức không phải phí sức, phát kình mà không thấy dụng kình. Mọi danh gia võ học rèn luyện võ công tới chỗ tối hậu đều nhắm đến cảnh giới này. Còn lúc tỷ đấu mà quát tháo hùng hổ, nhễ nhại mồ hôi, hơi thở hồng hộc, dĩ nhiên là cách kém nhất.

Triệu Bán Sơn hiểu chỗ dụng ý của Vương Kiếm Anh, tự nhủ:

“Đã vậy thì thằng nhỏ này tạm thời chưa lo gì đến tính mạng, ta hãy coi xem gã còn chống chọi được bao lâu?”

Lão thấy Hồ Phỉ không tự chủ được để chưởng lực của đối phương kéo đi. Chân gã bước loạng choạng, đột nhiên người gã ngã lăn ra, tay phải chống xuống đất, hai chân đồng thời quét ngang. Đây lại là một quái chiêu. Vương Kiếm Anh nhảy lên tránh khỏi. Hồ Phỉ ngồi dậy, hai chân đá lên theo kiểu liên hoàn. Chỉ trong chớp mắt gã đã phóng ra bảy tám cước vừa quái dị vừa mau lẹ.

Trong quyền pháp vốn có chiêu số “Liên hoàn uyên ương thối” nhưng sau khi chân trái đá ra rồi, chân phải liền đá tiếp theo, nhưng chung quy vẫn phải có một chân tựa trên mặt đất, cho nên dù mau lẹ đến đâu cũng có mức độ.

Đằng này Hồ Phỉ ngồi dưới đất, hai chân tung lên đá, phóng cước nhanh như điện. Diễn biến này khiến cho Vương Kiếm Anh tay chân luống cuống. Mã Hành Không và Thương lão thái lại đưa mắt nhìn nhau nghĩ bụng:

“Quái chiêu này Diêm Cơ chưa hiểu. Xem chừng sở học về võ công của thằng nhỏ này còn nhiều hơn cả hắn.”

Quả nhiên không ngoài điều hai người dự liệu, Hồ Phỉ xoay mình một cái lập tức hai khuỷu tay thúc về đằng sau. Hiện thời gã và Vương Kiếm Anh đấu lưng vào nhau. Người Hồ Phỉ đã thấp, ra chiêu lại mau, hai khuỷu tay gã thúc trúng mông Vương Kiếm Anh. Mông đít bắp thịt dày, còn Hồ Phỉ người nhỏ sức yếu, lại ra chiêu bằng khuỷu tay nên chẳng thể đả thương được đối phương, khiến cho mọi người đứng xem không nhịn được cười.

Vương Kiếm Anh nổi nóng, xoay mình phóng chưởng đánh véo vào trước ngực Hồ Phỉ. Lúc này mặt hắn trở nên hung đữ, chẳng còn chi là phong độ ung dung tiêu sái nữa. Triệu Bán Sơn thở dài nghĩ bụng:

“Con của Vương Duy Dương đất Hà Sóc không thể bì dược với phụ thân rồi!”

Lão một mặt theo dõi cuộc đấu, mà ánh mắt thủy chung vẫn không rời Trần Vũ một giây, quyết chẳng để cho hắn thừa cơ tẩu thoát.

Hồ Phỉ thấy song chưởng của đối phương đánh rát như gió táp mưa sa, trong lòng không khỏi kinh hãi. Vương Kiếm Anh là tay cao thủ hạng nhất võ lâm, Hồ Phỉ chỉ ỷ vào những quái chiêu gia truyền trong quyền phổ khiến đối thủ có điều úy kỵ, nhờ vậy mà gã mới miễn cưỡng chống chọi được một lúc rồi lâm vào tình trạng nguy ngập.

Thực ra trong “Hồ gia quyền phổ” ghi những quái chiêu này chỉ dùng để luyện công, mục đích là rèn luyện thân thủ chứ không mong khắc địch chế thắng. Còn những chiêu số chân chính cùng người động thủ thì được chép vào các trang sau cùng của quyền phổ. Hồ Phỉ công lực chưa đủ, khó bề lĩnh hội, chỉ thi triển được mấy chiêu thức dùng làm căn bản cho việc luyện công. Nếu những bậc đại hiệp nổi tiếng một thời như Phi Thiên Hồ Ly, hay Hồ Nhất Đao mà lúc động thủ với người lại giở những chiêu quái dị chẳng ra thể thống như thế, chẳng hóa ra tự đánh mất thân phận mình?

Lại đấu thêm mười mấy chiêu, Hồ Phỉ né tả tránh hữu cực kỳ khổ sở. Đột nhiên Vương Kiếm Anh tả chưởng đưa ra ngoài, Hồ Phỉ né mình qua bên phải tránh khỏi, thì Vương Kiếm Anh tay mặt ra chiêu Du không thám trảo đánh xéo xuống. Chiêu này vừa nhanh vừa mạnh. Hồ Phỉ vội hạ thấp vai xuống, tuy chưởng lực của đối phương đã bị lực đá của gã làm giảm đi bảy thành mà vẫn xô gã té nhào. Quần hào bật tiếng la hoảng. Vương Kiếm Anh lại vung chưởng đánh xuống. Triệu Bán Sơn cả giận nghĩ thầm:

“Ngươi là một nhân vật đã thành danh, thằng nhỏ đã bị đánh ngã sao còn hạ độc thủ?”

Công phu Thái Cực quyền của lão tuyệt ở chỗ tung ra chậm mà lại đến trước, phát động sau mà chế ngự được người. Chiêu số của địch nhân càng mạnh bao nhiêu thì bên mình càng thu hiệu quả lớn bấy nhiêu. Lão chỉ chờ chưởng của Vương Kiếm Anh gần tới thân hình Hồ Phỉ là lập tức phát chiêu giải cứu.

Đột nhiên ánh thanh quang lấp loáng. Vương Kiếm Anh vội thu tả chưởng về, nghiêng mình đi, đưa chân lên. Nguyên Hồ Phỉ lúc té xuống nhìn thấy nửa thanh kiếm bên mình. Đó là khúc kiếm gãy của Ân Trọng Tường còn bỏ đó. Trong lúc nguy cấp Hồ Phỉ vươn tay lượm lấy đâm vào chưởng tâm của địch thủ. Gặp diễn biến kỳ ảo này, nếu Vương Kiếm Anh không né tránh mau lẹ thì bàn tay bị đâm thủng cũng không có chi là lạ. Hồ Phỉ ra một chiêu đắc thủ, liền lập tức lăn người tới. Tay trái gã bám xuống đất, tay phải dùng thanh kiếm gãy cắt một mảnh vạt áo để bọc lấy khúc kiếm rồi cười nói:

– Vương đại gia! Cánh tay tại hạ ngắn quá mà cánh tay đại gia lại dài, hai người chúng ta tỉ võ không được công bằng. Bây giờ tại hạ tiếp tay phải dài hơn một chút, nếu đại gia thấy sợ thì lấy Bát Quái đao ra chiến đấu.

Từ đời Phi Thiên Hồ Ly trở xuống, Hồ gia trải mấy đời đều thông minh mưu trí. Hồ Phỉ biết mình tay không chẳng thể địch lại liền thừa cơ lượm thanh kiếm gãy làm bình khí. Nhưng gã sợ đối phương cũng sử dụng đao kiếm liền đưa lời nói khích trước.

Vương Kiếm Anh địa vị cao cả, dù biết mình thua thiệt cũng đành, khi nào chịu dùng đao đối phó với gã. Hắn cho là dù gã có cầm một thanh kiếm gãy cũng chẳng làm gì nổi, liền đằng hắng một tiếng rồi dùng cầm nã thủ trong “Bát Quái chưởng” toan bắt lấy cổ tay cầm kiếm của Hồ Phỉ, còn tay trái hắn phát huy kình lực nhắm đánh vào mặt gã. Hồ Phỉ xoay mũi kiếm lại dùng làm cây nga mi thích để ra chiêu. Đột nhiên gã đưa tay trái lên lột cái mũ da trên đầu xuống cầm lấy, cười nói:

– Tay phải tại hạ có mũi kiếm, tay trái có lá chắn, thử coi các hạ còn làm gì được nữa không?

Gã giơ cái mũ ra làm tấm chắn để chặn tả chưởng của đối phương. Vương Kiếm Anh mắng thầm:

“Thằng lỏi thối tha này, mi đỡ đòn như vậy thì tay trái tất nhiên phải gãy.”

Hắn liền vận thêm ba phần kình lực đánh vào cái mũ rách. Đột nhiên vương Kiếm Anh “ối” lên một tiếng, rồi nhảy lùi lại hơn một trượng. Tiếng rú của hắn rất thê thảm tựa hồ bị trọng thương. Quần hào nhìn lại thấy lòng tay hắn máu chảy đầm đìa, chẳng hiểu vì sao mà bị thương. Vương Kiếm Anh phẫn nộ đến cùng cực, trỏ tay vào mặt Hồ Phỉ quát mắng:

– Ngươi… ngươi giấu vật gì trong cái mũ rách kia?

Hồ Phỉ đặt mũ đội lên đầu, tay trái rút ra một mũi kim tiêu. Gã cười đáp:

– Đây chính là ám khí của Bát Quái môn chứ đâu phải của tại hạ đem đến. Tại hạ vừa tiện tay lượm được một mũi định giấu để đem về chơi, nhưng các hạ nhất định đòi phanh phui cho ra sự thật. Được rồi! Mũi kim tiêu nhỏ bé này tại hạ cũng chẳng cần gì.

Gã nói rồi giơ tay lên nhằm trước ngực đối phương bắn tới. Vương Kiếm Anh nghiêng mình, chộp một cái, tay vươn ra ý định là bắt mũi kim tiêu. Hắn nghiêng mình trước rồi mới vươn tay đủ tỏ hắn vẫn có lòng úy kỵ Hồ Phỉ, hắn sợ thủ pháp phóng tiêu của gã vô cùng quái dị, nếu bắt sểnh thì mũi tiêu sẽ bay vào trúng ngực. Ngờ đâu hắn vươn tay ra chụp vào quãng không, Hồ Phỉ tay làm ra thế phóng tiêu về phía trước mà thực ra gã đã vận kình vào ngón tay bắn mũi kim tiêu ra đằng sau.

Đứng sau lưng Hồ Phỉ lúc này là Thương lão thái. Mụ bỗng thấy ánh vàng lấp loáng, mũi kim tiêu đã bay tới trước mặt, vội rụt đầu xuống. “Bụp” một tiếng, mũi kim tiêu xuyên vào làm cho búi tóc mụ rung rinh. Thương Bảo Chấn kinh hãi rụng rời, vội nhảy xổ lại trước mặt mẫu thân, hỏi:

– Má má! Má má có bị thương không?

Từ lúc Hồ Phỉ động thủ, cơ hồ mỗi chiêu mỗi thức đều quái dị khiến người ta khó lòng đề phòng. Cách phát tiêu quái dị này càng khiến mọi người thêm hoang mang. Quần hào thấy Thương lão thái chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc lại càng kinh hãi. Triệu Bán Sơn vuốt râu mỉm cười. Lão tự nhủ:

“Cách giơ tay lên phía trước mà phóng tiêu về phía sau nguyên là món sở trưởng của ta. Nếu ta mà động thủ thì đến mười mụ Thương lão thái cũng phải chết hết. Có điều cái vẻ mặt tỉnh khô như thật của gã, chắc ta không theo kịp.”

Lão vội nói ngay:

– Vương sư huynh! Hãy mau giữ lấy huyệt “Mạch môn”. Đầu mũi tiêu có chất độc.

Thương Bảo Chấn run lên nói:

– Để tiểu điệt đi lấy thuốc giải.

Gã nói rồi chạy vào nhà trong. Vương Kiếm Anh tính tình cũng ương bướng cố chấp chẳng kém gì tiên phụ hắn, nhưng lòng bàn tay hắn bị mũi kim tiêu đả thương ngứa ngáy tê nhức, nên khi nghe Triệu Bán Sơn nói vậy, hắn liền dùng tay phải xé mảnh vạt áo buộc chặt cổ tay trái lại. Mặt hắn xám xanh. Vương Kiếm Kiệt rất quan tâm đến huynh trưởng vội chạy lại buộc giúp. Vương Kiếm Anh hất tay trái lên quát:

– Lui ra!

Vương Kiếm Kiệt không đề phòng bị hắn bất tay, phải lùi lại hai bước. Hắn sửng sốt la lên:

– Đại ca!

Vương Kiếm Anh giơ bàn tay bị thương lên đánh vù xuống đầu Hồ Phỉ, chân hắn chạy như bay. Hắn đã thi triển tuyệt chiêu “Du thân bát quái chưởng”.

Bây giờ hắn quyết chẳng dung tình, muốn giết cho bằng được thằng nhỏ khả ố và xảo quyệt kia.

Hồ Phỉ từ khi học thành võ nghệ, lần đầu tiên gã đối địch với Thương Bảo Chấn. Kế đó đối chiến với Thương lão thái và Vương Kiếm Kiệt. Bây giờ lại đấu chưởng với Vương Kiếm Anh là đối thủ thứ tư. Gã càng đánh lâu trong lòng lại càng sáng suốt, không còn sợ sệt gì nữa. Gã hết sức dùng cái khéo để bổ sung vào chỗ công phụ chưa đủ. Gã đã lãnh giáo chiêu số “Du thân bát quái chưởng” ở nơi Vương Kiếm Kiệt. Lúc đó gã chân tay luống cuống, suýt nữa mất mạng dưới lưỡi đao đối phương. Hiện giờ gã đã hiểu rõ chỗ ảo diệu bên trong, biết rằng nếu mình cũng xoay chuyển loạn lên theo địch nhân tất đi vào chỗ đầu nhức mắt hoa.

Chỉ trong chớp mắt, Vương Kiếm Anh đã xoay đến phía sau Hồ Phỉ. Hồ Phỉ chợt nhớ trong “Hồ gia quyền phổ” có môn “Tứ tượng bộ”. Bộ pháp tuy đơn giản nhưng tựa hồ có thể dùng được. Gã không kịp suy nghĩ nhiều, vừa thấy địch nhân chuyển tới sau lưng, lập tức khoa chân tiến về phía trước một bước. Lúc này, Vương Kiếm Anh đã đánh vù ra một chưởng vào hậu tâm của Hồ Phỉ.

Quần hào thấy môn hộ sau lưng Hồ Phỉ sơ hở rất lớn, chẳng phòng bị gì không khỏi lo thay cho gã. Dè đâu gã nhẹ nhàng tiến về phía trước khiến cho phát chưởng của Vương Kiếm Anh đánh vào quãng không. Môn “Du thân Bát quái chưởng” một khi đã chuyển động là không dừng lại. Bất luận phát chưởng đánh ra có đánh trúng hay không, chân vẫn cất bước đều, tay vẫn phát chưởng liên miên không dứt. Hồ Phỉ mặt hướng về cửa sảnh đường nhìn thấy Vương Kiếm Anh bước lẹ qua bên phải, lập tức khoa chân bước qua bên trái. Đúng vào lúc Vương Kiếm Anh phóng chưởng khiến phát chưởng đó lại đánh vào quãng không.

Nên biết Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lương Nghi sinh Tứ tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái. Do vậy pho Tứ Tượng bộ cùng “Bát Quái Chưởng” theo nguyên lý có chỗ tương đồng. Tứ Tượng bộ trong “Hồ Gia quyền phổ” là bộ pháp nhập môn để luyện tập quyền cước khí giới, chứ không dùng để đả thương địch. Hồ Phỉ đã sớm luyện công phu này rất thuần thục.

Lát sau gã chống mạnh hai tay, ngưng thần chăm chú nhìn đối thủ, không lý gì đến việc Vương Kiếm Anh có ra chiêu hay không, chỉ thấy hắn chuyển qua bên trái là gã bước sang bên phải. Hắn chạy về phía trước thì gã lại lùi lại phía sau. Như vậy, bất luận đối phương chợt trước chợt sau, chợt đông chợt tây, gã chỉ cần quanh đi quẩn lại với bốn bước: tới, lui, qua trái, qua phải. Điều kỳ diệu ở chỗ các bước chân gã lại phù hợp sít sao với phương vị Bái quái của bộ pháp “Bát Quái chưởng”. Mỗi lần gã khoa chân bước đều hợp với hành động của đối thủ, tựa hồ như gã và Vương Kiếm Anh đã cùng nhạu luyện tập lâu ngày.

Phép “Du thân bát quái chưởng” hễ đã động thủ là phải liên tục đánh ra bốn lần tám thành ba mươi hai chiêu. Vương Kiếm Anh càng đánh không trúng càng nóng nảy, cả đầu ngón tay cũng không đụng được người Hồ Phỉ. Triệu Bán Sơn thấy thế cuộc đấu không khỏi than thầm:

“Gã này học được tuyệt nghệ của phụ thân nhưng chỉ khư khư theo khuôn phép, lúc lâm địch chẳng biết tùy cơ ứng biến. Xem chừng Vương Duy Dương không còn ai kế tục được nữa rồi.”

Lão thấy Vương Kiếm Anh đã sử xong ba mươi hai chiêu “Bát Quái chưởng” trong đệ nhị tiết thì Thương Bảo Chấn đã lấy thuốc giải ra, miệng hô:

– Đại sư bá! Đại sư bá uống thuốc rồi hãy thu thập thằng nhỏ đó.

Lúc này Vương Kiếm Anh cảm thấy tay trái dần dần tê dại, không sử dụng theo ý muốn được nữa thì biết là chất độc đã chạy ngược lên. Hắn liền nhảy ra ngoài vòng đấu, đón lấy thuốc giải uống. Triệu Bán Sơn nói:

– Vương sư huynh! Tại hạ xem chừng…

Vương Kiếm Anh biết lão sắp đưa ra lời khuyên giải. Nếu để lão nói ra rồi mà không nghe theo là không nể mặt lão, nên hắn liền xua tay gạt đi rồi nhảy vào vung chưởng lên đánh Hồ Phỉ. Bộ pháp của hắn cực ngắn mà mà phát chưởng rất trầm trọng. Thì ra hắn đã sử dụng đến tuyệt kỹ lợi hại nhất của Bát Quái môn là “Nội Bát Quái chường”. Trước đây Vương Kiếm Kiệt chỉ mới đánh nhứ một đòn “Nội Bát Quái” mà đã khiến cho Thương Bảo Chấn phải bó tay. Công phu của Vương Kiếm Anh còn tinh thâm hơn Vương Kiếm Kiệt nhiều. Môn “Nội Bát Quái chưởng pháp” ra tay tuy ngắn mà cực kỳ tàn độc. Hồ Phỉ mới tiếp ba chiêu đã cảm thấy không chống nổi. Gã la thầm:

– Hỏng bét!

Gã thấy đối phương bước qua bên trái vội cất chân dẫm lên mu bàn chân của đối phương. Vương Kiếm Anh quát mắng:

– Ngươi muốn chết chăng?

Chân trái hắn co lại, lúc đưa chân phải ra liền trật khỏi phương vị bát quái. Vương Duy Dương khi dạy con luyện võ nghệ thì quy định rất nghiêm khắc, không cho phép sai trật mảy may. Người con lớn của lão bản tính lại cố chấp, lúc lâm địch, chân có đạp đúng phương vị mới chịu ra chiêu. Hồ Phỉ chờ lúc Vương Kiếm Anh xê dịch lại hai chân cho đúng phương vị liền nhằm mu bàn chân hắn đạp vào. Cách đánh ẩu này thì những bậc anh hùng thành danh không đời nào thèm làm nhưng Hồ Phỉ lại bướng bỉnh lỳ lợm, gã phóng chân đạp liền mấy cái, khiến Vương Kiếm Anh tâm thần hơi rối loạn.

Vương Kiếm Anh bị gã dẫm lên chân mấy lần, đã thấy hoảng hốt. Hồ Phỉ tận dụng cơ hội, đột nhiên phóng chưởng đánh vào bụng dưới đối phương. Vương Kiếm Anh quái:

– Giỏi lắm!

Hắn đưa cả song chưởng tiếp chưởng đối phương. Lúc này đã thành thế hai bên đối chưởng thực sự, không còn chỗ nào để đưa cái khôn khéo vào được. Hồ Phỉ toàn thân chấn động, tay trái gã đẩy chưởng ra nhưng cảm thấy áp lực của đối phương trầm trọng vô tỷ. Lúc này gã mà thoái nhượng thì lập tức nội tạng gã sẽ bị chưởng lực đối phương làm cho bị thương nên đánh ra sức chống chọi. Triệu Bán Sơn thấy Hồ Phỉ sắp thất bại đến nơi liền cười nói:

– Hài tử! Ngươi thua rồi. Còn liều mạng làm chi?

Lão đưa tay ra khẽ vỗ vào lưng Hồ Phỉ, một luồng nội lực truyền qua người gã. Vương Kiếm Anh liền cảm thấy hai tay tê chồn, trước ngực nóng lên. Hắn vội thả tay lùi lại. Triệu Bán Sơn nói:

– Vương huynh! Công lực của Vương huynh cao thâm hơn thằng nhỏ này nhiều, còn tỷ thí làm chi nữa?

Lão lại khẽ vỗ vai Hồ Phỉ khen ngợi:

– Giỏi lắm! Giỏi lắm! Chỉ năm sáu năm nữa thì cả ta cũng không phải địch thủ của ngươi.

Lão nói câu này dĩ nhiên bảo họ Vương không ăn thua gì đâu. Vương Kiếm Anh mặt nóng lên, hắn tự biết công phu mình còn kém Triệu Bán Sơn xa. Hắn muốn đáp lại mấy câu để gỡ thể diện, nhưng với một đứa nhỏ thì không biết phải nói sao, bất giác đứng ngây người ra. Vương Kiếm Kiệt thấy bàn tay trái của huynh trưởng tím đen, hiển nhiên trúng độc rất nặng liền nhìn Thương lão thái hỏi:

– Có thuốc giải độc rịt ngoài da không?

Thương lão thái lắc đầu. Triệu Bán Sơn lấy trong áo ra một cái bình nhỏ màu hồng, mở nút ra nói:

– Tại hạ có tự chế một ít giải độc tán khá công hiệu.

Vương Kiếm Kiệt biết lão là một đại hành gia về môn ám khí, lão không mang thuốc giải thì chẳng nói làm chi, mà đã mang theo tất nhiên công hiệu như thần. Hắn rất lo âu về an nguy của huynh trưởng, liền đưa tay ra. Triệu Bán Sơn đổ vào bàn tay hắn một chút thuốc tán, cười nói:

– Bấy nhiêu là đủ rồi.

Hành động này khiến cho Vương thị huynh đệ chẳng thể nào làm khó dễ Hồ Phỉ nữa.

Chương 04: Lửa dữ thiêu thiết sảnh

Triệu Bán Sơn tay chắp sau lưng, bước lui bước tới trong sảnh đường, miệng dõng dạc nói:

– Chúng ta học võ nghệ, công phu dĩ nhiên người hơn người kém, chỉ cần tâm địa quang minh lỗi lạc, hành động không hổ thẹn với trời đất là quý. Còn công phu cao thâm dĩ nhiên là hay, song võ nghệ có kém một chút cũng vẫn được người kính trọng. Triệu mỗ bình sinh rất căm giận những kẻ tiểu nhân đê hèn vô liêm sỉ làm những việc độc ác.

Lão nói mỗi lúc một nghiêm khắc, hai mắt trừng trừng nhìn Trần Vũ. Trần Vũ cúi đầu xuống không dám nhìn thẳng vào mắt lão. Đột nhiên hắn liếc mắt, người giật bắn lên.

Nguyên Thương lão thái phát ra bảy mũi kim tiêu đều bị Triệu Bán Sơn bắt lấy liệng rơi xuống đất. Hồ Phỉ dùng một mũi đâm Vương Kiếm Anh rồi để đó hai bên đối chưởng, những mũi tiêu vẫn còn bỏ dưới đất. Lúc này Triệu Bán Sơn bước lui bước tới trong sảnh đường, chân lão ngầm vận kình lực dẫm lên bảy mũi kim tiêu cho ngập xuống nền gạch. Mũi tiêu và mặt gạch phẳng lỳ lại rất ngay ngắn. Mọi người thấy Trần Vũ biến sắc liền ngó theo nhãn quang hắn, đều lấy làm kinh dị. Ai cũng hiểu lão để lộ chút công phu này một là để cảnh cáo Thương lão thái đừng dùng ám khi có bôi chất độc nữa, hai là bức bách Trần Vũ phải đi ra ngoài để tính sổ, khiến người ngoài không ai dám cản trở.

Trần Vũ đảo mắt nhìn quanh, thấy anh em Vương Kiếm Anh đang lăng xăng buộc vết thương, Thương lão thái và Thương Bảo Chấn nghiến răng kèn kẹt ra chiều phẫn nộ đến cực điểm, Mã Hành Không thì nhè nhẹ gật đầu, còn Ân Trọng Tường mặt xám như tro. Hắn biết là chẳng một ai dám ra tay viện trợ mình bèn đâm liều, lớn tiếng hỏi:

– Hay lắm! Ngày thường chúng ta hô huynh gọi đệ, là chỗ hảo bằng hữu nhưng bữa nay Trần mỗ bị cường địch uy hiếp, tình bằng hữu đi đâu mất cả rồi? Họ Triệu kia! Chẳng cần phải đi đâu cả, cứ động thủ ngay ở đây quách.

Triệu Bán Sơn buông gọn một tiếng:

– Được!

Bỗng lão nghe sau lưng có tiếng gió rít liền biết có kẻ phóng ám khí tập kích, tiếp theo lại nghe tiếng người quát:

– Hảo bằng hữu đến đây rồi!

Triệu Bán Sơn không quay đầu lại, mà đưa hai ngón tay ngược ra phía sau kẹp ngay lưỡi phi đao rất bé. Lão biết có người dùng kình lực dương cương để phóng ngọn phi đao rất mạnh, lưỡi đao nằm trong hai ngón tay lão mà thế đao hãy còn rung nhè nhẹ. Lão thấy thủ pháp phóng phi đao không giống phái Thiếu Lâm ở Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, liền cười hỏi:

– Té ra vị bằng hữu này là đồ đệ chùa Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn. Phải  chăng ông bạn là cao đồ của Bất Nghi đại sư?

Người phóng ám khí chính là Cổ Bát Nhã, một hảo thủ trẻ tuổi trong phái Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn. Bọn Vương thị huynh đệ, Ân Trọng Tường, Trần Vũ đều giật mình vì Triệu Bán Sơn chưa quay người lại hình dáng Cổ Bát Nhã chưa thấy đâu mà lão đã đoán ra sư thừa cùng môn phái không sai chút nào.

Triệu Bán Sơn nghĩ thầm trong bụng:

“Hồng Hoa hội ta chỉ dời ra Hồi Cương mới cách đây mấy năm, rời Trung Nguyên chưa bao lâu mà xem chừng thanh danh không còn vang dội như trước nữa. Ta cần bảo vệ đứa nhỏ, muốn gọi một người ra ngoài mà không ngớt bị họ cản trở chân tay. Nếu bữa nay mình không lập oai thì bọn hậu sinh sẽ chẳng coi Hồng Hoa hội vào đâu nữa.”

Lão bèn dõng dạc nói:

– Vị hảo bằng hữu nào đó hãy đứng yên đừng có nhúc nhích.

Lão không chờ Cổ Bát Nhã trả lời, hai tay đã đưa về phía sau giơ lên mấy cái rồi mới xoay mình lại, hai vẫy liên hồi khiến mọi người hoa mắt ra. Bỗng thấy phi đao kim tiêu, tụ tiễn, bối hỗ, thiết bồ đề, phi hoàng thạch, thiết liên tử, kim tiền tiêu, vang lên những tiếng loảng xoảng không ngớt đều nhắm bắn tới Cổ Bát Nhã.

Vương Kiếm Anh kinh hãi vô cùng, lớn tiếng la:

– Xin Triệu huynh đệ thủ hạ lưu tình!

Triệu Bán Sơn cười đáp:

– Đúng thế! Dĩ nhiên Triệu mỗ phải lưu tình.

Lúc mọi người ngó thấy Cổ Bát Nhã, ai nấy không khỏi trợn mắt há miệng vì trên bức tường y dựa lưng vào, chung quanh mình cắm đầy ám khí mà không mũi nào làm thương tổn đến người y. Cổ Bát Nhã kinh hãi cơ hồ ngất xỉu. Sau một lúc lâu y mới rời được khỏi bức tượng, quay đầu nhìn lại thì thấy hơn một trăm món ám khí cắm vào tường tạo thành một hình người phảng phất giống mình. Y buồn rầu không nói gì, nhìn Triệu Bán Sơn xá dài sát đất, rồi tiến thẳng ra cửa đi luôn, cũng không ngỏ lời từ biệt Phúc công tử nữa. Triệu Bán Sơn phô trương thân thủ này tức là lời tuyên án tử hình cho Trần Vũ, hỏi ai dám can thiệp?

Trần Vũ sắp chết đến nơi, vẫn còn già mồm, nói:

– Trước nay quan nha và giặc cướp chẳng đội trời chung. Tại hạ chết đi để báo đáp Phúc công tử là xong.

Triệu Bán Sơn cả giận, nhìn bọn Vương Kiếm Anh nói:

– Xưa nay trong Thái Cực môn mà có hạng khốn kiếp này là cái nhục lớn cho môn hộ của tại hạ. Triệu mỗ tưởng sẽ kết án hắn ở nơi khác nhưng hắn không chịu. Triệu mỗ không nói huỵch toẹt ra thì không xong.

Chính Trần Vũ thực tình cũng không hiểu hắn đã đắc tội gì với vị tam đương gia này ở Hồng Hoa hội, vì hắn là người rất khôn ngoan, ít khi kết oán với ai. Hắn liền đáp:

– Không sai! Việc thiên hạ không qua được chứ lý. Lão hãy nói ra để quần hào bình nghị về vụ này.

Triệu Bán Sơn đằng hắng một tiếng trỏ vào cô gái nước da đem nhẻm, cặp mắt thao láo, nói:

– Ngươi có nhận ra cô gái này không?

Trần Vũ lắc đầu, nói:

– Không, ta chưa từng gặp thị bao giờ.

Triệu Bán Sơn nói:

– Nhưng đáng tiếc là ngươi lại nhận ra gia gia của y. Y chính là con gái của Lữ Hy Hiền ở phủ Quảng Bình.

Lão vừa nói ra lời này, gương mặt vốn đã nhợt nhạt của Trần Vũ liền biến thành trắng bệch. Tất cả mọi người đều “ủa” một tiếng rồi đồng loạt đưa mắt nhìn cô bé.

Cô bé khoảng mười hai, mười ba tuổi, gương mặt đầy vẻ phong sương chứng tỏ mới tí tuổi đầu mà đã gặp nhiều nỗi đắng cay gian khổ. Cô bé đưa tay trỏ Trần Vũ, lớn tiếng nói:

– Mi chưa gặp ta, nhưng ta đã gặp mi rồi. Đêm hôm đó mi giết em trai ta và gia gia. Ta đứng ở cửa sổ nhìn thấy rõ rãng. Không có đêm nào ta lại không nằm mơ thấy mi.

Cô nói mấy lời nay chắc như đinh đóng cột, càng chứng tỏ Trần Vũ quả đã có làm việc kia. Hắn chỉ biết há miệng ra “à, à” mấy tiếng chứ chẳng nói được một lời để thanh minh phân trần. Triệu Bán Sơn chắp hai tay về phía quần hào nói:

– Tên họ Trần kia đã bảo mọi việc trong đời đều không qua được chữ lý, bởi vậy tại hạ xin đem câu chuyện kể rõ ngọn ngành. Các vị đều biết trong ba vị huynh đệ của Thái cực môn ở phủ Quảng Bình thì võ công của vị tiểu sư đệ Lữ Hy Hiền là cao nhất. Tên họ Trần kia, ngươi gọi Lữ Hy Hiền bằng gì?

Trần Vũ cúi đầu đáp:

– Y là sư thúc của tại hạ.

Gã nghĩ bụng Triệu Bán Sơn đã đem chuyện cũ kể ra thì không cần phải phân bua cùng lão, mà chỉ ngầm tính chuyện thoát thân.

Triệu Bán Sơn nói:

– Không sai, Lữ Hy Hiền chính là sư thúc của hắn. Tại hạ và Lữ Hy Hiền chẳng hề quen biết. Y là võ sư trong Vương phủ ở Bắc Kinh, và bọn tại hạ là phường dân dã ở thôn quê thì làm gì đám với cao!

Lão nói những lời này, nghe giọng vô cùng bất mãn. Chỉ vì tính lão đôn hậu, lại ngại sợ làm buồn lòng con bé nên lão chỉ nói đến đó thì ngưng. Lão nói tiếp:

– Tại hạ ẩn cư ở Hồi Cương, những chuyện ân oán của võ lâm Trung Nguyên tịnh không nghe không hỏi nữa. Chỉ vì vị tiểu cô nương này tìm đến tận nơi, khóc lạy ở dưới đất thỉnh cầu tại hạ đứng ra chủ trì công đạo.

Đoạn lão bảo cô bé:

– Tiểu cô nương, cô hãy lấy cái đó ra để các vị thúc bá coi.

Cô bé liền cởi cái bị sau lưng xuống, kính cẩn lấy cái túi vài mở ra. Dưới ánh đuốc, mọi người trông rõ là đôi bàn tay người đã khô đét, bên cạnh còn mảnh vải trắng viết đầy chữ máu. Triệu Bán Sơn lại bảo cô:

– Tiểu điệt hãy nói hết chuyện cho các vị nghe đi!

Cô bé cầm hai bàn tay người, nước mắt chan hòa, nghẹn ngào nói:

– Gia phụ của tiểu nữ bị bệnh nằm liệt giường đã lâu. Một hôm tên họ Trần này đột nhiên dẫn ba tên ác nhân đến nhà tiểu nữ lúc nửa đêm.  Chúng nói vâng lệnh Vương gia yêu cầu gia phụ nói chỗ bí ảo của khẩu quyết “Thái Cực quyền” gì đó. Không hiểu hai bên xảy ra cuộc tranh chấp. Gia đệ sợ quá òa khóc. Tên họ Trần liền chụp lấy áo, giơ bảo kiếm lên uy hiếp gia gia và hăm người nếu không nói ra là hắn giết chết đứa trẻ. Gia phụ nói mấy câu, tiểu nữ chẳng hiểu gì, hắn…hắn liền giết chết gia đệ.

Cô nói tới đây nước mắt tuôn trào giàn giụa.

Hồ Phỉ la lên:

– Hạng ác nhân như vậy sao không mau giết đi?

Cô bé đưa tay áo lén lau nước mắt kể tiếp:

– Sau đó, gia phu động thủ với chúng. Bọn chúng đông người mà gia phụ lại mắc bệnh nên bị bọn xấu kia sát hại. Về sau Tôn bá bá tới nhà, tiểu nữ kể lại với bá bá…

Cô bé không hiểu những chi tiết ân oán trong võ lâm nên cô nói có chỗ không được rõ ràng.

Triệu Bán Sơn bèn giải thích:

– Tôn bá bá mà cô nói đây là Tôn Cương Phong, chưởng môn phái Thái Cực môn ở phủ Quảng Bình.

Quần hào nghe tôn tự nhân vật này đều gật đầu.

Cô bé lại nói:

– Tôn bá bá ngẫm nghĩ mấy ngày, đột nhiên kêu tiểu nữ tới. Bá Bá cầm đao chặt tay trái mình, lấy máu viết một bức huyết thư rồi đặt dao xuống bàn, đoạn dùng sức đập cánh tay phải vào lưỡi đao để chặt đứt bàn tay. Bá bá lại bảo tiểu nữ… bảo tiểu nữ… đưa tới Hồi Cương trao cho Triệu bá bá. Tôn bá bá còn nói: “Trong môn hộ, ngoại trừ Triệu bá bá ra, không ai trả được huyết thù cho gia phụ”…

Quần hào nghe cô thuật chuyện đều ngơ ngác nhìn nhau, đều nhận thấy đây là một chuyện cũng cực thê thảm ở nhân gian, nhưng cô này còn nhỏ nói không được rõ ràng, vì chính cô không hiểu.

Triệu Bán Sơn nói:

– Tại hạ có biết Tôn Cương Phong, Ngày trước y vẫn coi thường Triệu mỗ, từng đến Ôn Châu đánh nhau với Triệu mỗ một trận. Không ngờ qua trận đó mà hình ảnh Triệu mỗ in vào trong tâm y.

Mọi người nghĩ thầm:

“Nhất định là Tôn Cương Phong đã thất bại trong cuộc đấu này.”

Triệu Bán Sơn lại nói:

– Trong lá huyết thư, Tôn Cương Phong nói mình là chưởng môn phái Thái Cực ở Quảng Bình nhưng xấu hổ vì bất tài không thể thu thập được tên phản đồ họ Trần . Do đó y chặt hai tay gởi đến cho Triệu mỗ, trong thư y còn nói những gì ngưỡng vọng Triệu gia nghĩa át mây xanh, gấp cứu người trong cơn hoạn nạn. Hà hà! Y tặng cho Triệu mỗ đôi tay, lại còn “đội mũ” lên đầu cho nữa chứ. Triệu mỗ với y tuy chưa có một chút giao tình, nhưng không thể không vì y mà can thiệp vào vụ này được.

Trần Vũ sắc mặt lợt lạt nói:

– Bức huyết thư đó chưa chắc đã là thủ bút của sư thúc tại hạ, hãy đưa tại hạ xem.

Hắn nói rồi từ từ đến bên cô bé lấy tờ huyết thư. Đột nhiên hắn xoay tay một cái, ánh kim quang lấp lánh. Tay trái hắn cầm lưỡi chủy thủ kể sát vào lưng cô bé, la lên:

– Hay lắm! Chết thì cùng chết cả.

Biến diễn đột ngột xảy ra ngoài sự tiên liệu của quần hào. Triệu Bán Sơn tiến lại hai bước định đoạt người, nhưng thấy Trần Vũ tay trái giữ chặt cổ Lữ tiểu muội. Hắn trầm giọng quát:

– Lão mà tiến thêm một bước thì chính là lão làm hại tính mạng con nhỏ này.

Triệu Bán Sơn kinh hãi, tự nhiên phải lùi lại một bước, nhất thời lão hoang mang, chẳng có kế gì, tự hỏi:

“Làm thế nào bây giờ? Nếu có Thất đệ ở đây thì nhất định y tìm ra được kế sách.”

Nên biết Triệu Bán Sơn thực thà trung hậu, không sở trường về việc đối phó với bọn tiểu nhân gian trá. Gặp cảnh khốn quẫn, bất giác lão nhớ tới vị thất đệ đa mưu túc trí là Võ Gia Cát Từ Thiên Hoằng.

Trần Vũ tay mặt cầm chủy thủ đâm rách áo sau lưng của Lữ tiểu muội mũi đao dí vào da thịt. Hắn muốn cho Triệu Bán Sơn chẳng có cách nào dùng ám khí đánh rớt chủy thủ. Hắn trừng hai mắt nhìn Triệu Bán Sơn, nói:

– Triệu tam gia! Giữa tam gia và tại hạ xưa nay vốn chẳng có thù oán gì nếu Triệu Tam gia mà phát ám khí bắn mù mắt của tại hạ thì Trần mỗ quyết chẳng đánh trả.

Triệu Bán Sơn tay cầm hai mũi kim tiêu định bắn vào mắt Trần Vũ, chỉ cần hắn cúi xuống hoặc né tránh, hoặc giơ tay lên che mắt là có thể thừa cơ cứu người. Không ngờ hắn thấy việc rất nhanh nên đã nói huỵch toẹt ý đồ của lão ra trước.

Trong khoảnh khắc, cả đại sảnh lặng ngắt như tờ. Trần Vũ mắt vẫn không rời khỏi Triệu Bán Sơn, đề phòng lão có cử động gì khác rồi nói với Vương thị huynh đệ:

– Vương đại ca! Vương nhị ca! Bữa nay Triệu tam gia có điều xích mích với tiểu đệ. Nhị vị có biết nguyên nhân vì đâu không?

Vương thị huynh đệ cũng là đương sai trong phủ với Trần Vũ, tuy chẳng thâm giao gì với hắn nhưng hắn là người khôn khéo, ngày thường đối với ai cũng được lòng. Giả tỷ Vương thị huynh đệ mà không úy kỵ võ công của Triệu Bán Sơn thì họ đã tìm lời khuyên giải rồi.

Vương Kiếm Anh đáp:

– Theo lời Triệu tam gia thì tam gia chịu sự ủy thác của người nhưng vị tất đã hiểu rõ chân tướng. Chỉ e bên trong còn có chỗ hiểu lầm.

Trần Vũ cười lạt hỏi:

– Hiểu lầm thì không có đâu, Vương đại ca, trước khi tiểu đệ vào phủ Phúc công tử đã làm đương sai ở phủ Định Thân Vương. Cái đó Vương đại ca đã biết chưa?

Vương Kiếm Anh đáp:

– Phải rồi Trần huynh do Định vương gia tiến cử cho Phúc công tử. Vương gia đại nhân khen Trần huynh giỏi giang, mẫn cán lắm.

Trần Vũ hỏi:

– Vừa rồi Triệu tam gia bảo tiểu đệ gia hại phụ thân cô bé này. Việc đó quả là có thực nhưng tiểu đệ vâng lệnh vương gia. Nhị vị đã ăn cơm nhà quan như tiểu đệ, vậy chủ nhân sai làm việc gì có dám trái lệnh không?

Vương Kiếm Anh bây giờ mới hiểu Trần Vũ mượn cuộc đối đáp với mình để giải thích đầu đuôi câu chuyện cho Triệu Bán Sơn nghe. Hắn liền đỡ lời:

– Đã vâng lệnh sai khiến là không còn theo mình nữa việc này chẳng thể trách Trần huynh đệ được.

Triệu Bán Sơn ở Hồi Cương tiếp được huyết thư của Tôn Cương Phong lập tức đưa Lữ tiểu muội đến phủ Quảng Bình nhưng không tìm được Tôn Cương Phong, liền tới Bắc Kinh để kiếm người. Lão điều tra biết Trần Vũ đã theo Phúc công tử xuôi về phương Nam. Lão liền cưỡi con Ngân Sương Trục Diện Câu của vị tứ muội là Lạc Băng đuổi theo, mới hai ngày đã từ Bắc Kinh đuổi đến Thương gia bảo.

Trần Vũ sát hại cha con Lữ Hy Hiền thế nào quả Triệu Bán Sơn không hay. Lữ tiểu muội nhỏ tuổi nói không được rõ ràng. Nếu có hỏi thêm mấy câu là mắt cô đỏ hoe, miệng có méo xệch rồi khóc nức nở. Bảy giờ lão cũng muốn nghe Trần Vũ kể hết căn do, liền đáp:

– Hay lắm! Ngươi đã bảo việc trong thiên hạ không qua được chữ lý. Vậy ngươi thử nói nghe. Lữ Hy Hiền là sư thúc ngươi thì dù lão có phạm tội tày đình người cũng không thể hạ thủ để đẩy y vào chỗ chết được.

Trần Vũ lúc này đã có chỗ dựa không sợ gì nữa. Hắn tính toán bữa nay thoát chết cũng chẳng khó khăn gì nhưng Triệu Bán Sơn không chịu bỏ qua, tất sau lại tiếp tục truy tầm thì khó lòng mà chống đỡ được.

Hắn nghĩ cách để Triệu Bán Sơn bỏ vụ này đi mới khỏi lo về sau, liền đáp:

– Triệu tam gia! Tam gia là bậc anh hùng hảo hán quang minh lỗi lạc. Người ta thường nói “Đặt điều đúng cách có thể lừa được cả người quân tử”. Phen này tam gia mắc bẫy Tôn Cương Phong rồi.

Triệu Bán Sơn ngạc nhiên hỏi:

– Cái gì? Sao lại mắc bẫy?

Trần Vũ đáp:

– Lữ sư thúc là một cao thủ tiếng tăm lừng lẫy ở Bắc Tông phái Thái Cực, tại hạ xưa nay rất kính ngưỡng lão nhân gia. Lão nhân gia là giáo sư trong Định vương phủ, nhưng chỗ bí ảo về “Thái Cực quyền” lại không chịu truyền thụ cho Vương gia. Định Vương gia bản tính hiếu võ thấy lão nhân gia có ý giấu giếm dĩ nhiên trong lòng không thích. Vương gia đã hỏi mấy lần, Lữ sư thúc bị bức bách quá phải từ chức. Vì thế Định vương gia cho gọi tại hạ để giải thích về “Âm dương quyết”, “loạn hoàn quyết” gì đó trong “Thái cực quyền”. Nhưng tiên phụ võ công vốn bình thường lại qua đời sớm, chưa truyền thụ công phu đó thì tại hạ hiểu làm sao được? Định vương gia liền bắt tại hạ đi hỏi Lữ sư thúc cho rõ ràng.

Triệu Bán Sơn nghĩ thầm:

“Hai phe Nam tông và Bắc tông phái Thái Cực môn đều có môn quy chỗ bí ảo trong võ công bản môn không được truyền ra ngoài. Lữ Hy Hiền không chịu truyền thụ bí quyết có thể là sự thực.”

Nghĩ tới đó, lão khẽ gật đầu. Trần Vũ vẻ mặt tỏ ra rất thành khẩn nói tiếp:

– Tại hạ vâng lệnh Vương gia cùng ba vị huynh đệ đương sai đến nhà Lữ sư thúc. Khi ấy Lữ sư thúc mắc bênh, can hỏa vượng quá, mới chỉ nói hai, ba câu đã hạ độc thủ với tại hạ. Triệu Tam gia thử nghĩ coi. Võ công tầm thường của tại hạ có thể sát hại một tay hảo thủ đệ nhất ở môn phái Thái Cực ở Quảng Bình được không?

Triệu Bán Sơn hỏi:

– Thế thì y làm sao mà chết?

Trần Vũ đáp:

– Sư thúc vốn đã mang bệnh, tại hạ nói năng có điều nặng lời một chút. Lúc sau sư thúc đàm trào lên cổ, trượt chân é xuống, tại hạ vội cấp cứu thì không còn kịp nữa.

Nhưng câu này để lộ rất nhiều sơ hở. Triệu Bán Sơn toan mở miệng bài bác thì Lữ tiểu muội đã la lên:

– Chính hắn đánh chết gia gia! Chính hắn đánh chết…

Cô bé chưa kịp dứt câu thứ hai, Trần Vũ đã bóp cổ chặt hơn khiến nó phải ngừng lại. Triệu Bán Sơn tức giận quát hỏi:

– Ngươi bảo Lữ sư thúc mang bệnh nặng, sao không đánh lại y? Hơn nữa thằng nhỏ con của Lữ lão gia không thù oán gì với ngươi sao ngươi cũng giết kẻ vô tội? Buông tay ra mau!

Trần Vũ đáp:

– Triệu Tam gia! Tam gia ở ngoài muôn dặm làm sao biết được việc trong môn hộ tại hạ? Tại hạ khuyên tam gia hãy lo quét cho sạch tuyết trước cửa nhà mình là hơn.

Hắn vừa nói vừa từ từ tiến ra cửa. Triệu Bán Sơn mắt dường tóe lửa nhưng thấy Trần Vũ thủ đoạn tàn độc, nếu xông lại cản trở y sẽ gây nguy hại đến tính mạng Lữ tiểu muội. Con nhỏ này tuy còn bé nhưng tính cách rất kiên nghị. Nó đã một mình lủi thủi vượt đường xa muôn đặm, chịu hết mọi sự cay đắng để tìm đến Hồi Cương. Cuộc lữ hành gian lao đó, đừng nói là đối với đứa nhỏ côi cút mà ngay cả một hán tử tráng niên cũng không phải là chuyện dễ dàng.

Triệu Bán Sơn quyết định nhúng tay can thiệp vào vụ này cố nhiên vì Tôn Cương Phong chặt tay ủy thác, nhưng một phần cũng vì tấm lòng hiếu thảo của cô bé mồ côi. Lão cùng Lữ tiểu muội trẩy ngựa về đông, ở với nhau lâu ngày nên coi cô bé chẳng khác gì con ruột.

Trần Vũ chỉ lùi thêm mấy bước là ra khỏi cửa sảnh đường. Triệu Bán Sơn có tài phóng ám khí mà không dám sử dụng. Lao tính thầm trong bụng:

“Nếu mình dùng cây xà đầu trùy thật nặng thì chỉ cần một đòn vào đầu là hắn toi mạng, nhưng trước khi chết hắn đẩy mạnh tay một chút, tính mạng của cô bé cũng khó được bảo toàn.

Lại thấy Trần Vũ lùi thêm một bước. Giữa lúc ấy ngọn đuốc hồng đặt trên bàn kết thành hoa đèn bỗng nổ tách một tiếng. Ngọn đuốc tối đi rồi lại sáng bừng, sau lưng Trần Vũ đột nhiên xuất hiện thêm một lão già. Lão già giơ hai tay lên trước ngực nhưng chỉ có hai cái xương cụt ngủn. Bàn tay đã bị chặt cụt đến cổ tay. Lão hình dung hốc hác, đôi mắt sâu hoắm, xương đỉnh đầu nhô cao lên, mình mặc trường bào màu xanh. Gương mặt xám xịt trông thật đáng sợ.

Trần Vũ thấy quần hào nhất tề chăm chú nhìn phía sau hắn, vẻ mặt đều ra chiều quái dị, bất giác hắn quay đầu nhìn lại. Đột nhiên người kia giơ hai khúc xương cụt đến trước mặt hắn. Trần Vũ giật mình, lùi lại một bước, la lên:

– Tôn sư bá! Sư bá đấy ư?

Người kia không lý gì đến hắn, vén áo trường bào, tiến lên một bước nhìn Triệu Bán Sơn, quỳ xuống lạy, nói:

– Triệu tam gia! Ân tình của tam gia Tôn Cương Phong này đành chờ kiếp sau hãy xin báo đáp.

Triệu Bán Sơn vội đáp lễ, nhưng hai mắt vẫn không rời khỏi Trần Vũ. Hắn vội lùi lại hai bước, toan cắp Lữ tiểu muội bước qua ngưỡng cửa, nhưng Tôn Cương Phong lạng mình một cái, chặn bít lối đi, miệng quát:

– Vào đi!

Trần Vũ hỏi:

– Sư bá có nhường lối hay không?

Tôn Cương Phong đáp:

– Ngươi đã giết hại hai mạng người ở Lữ gia, Tôn mỗ cũng không muốn sống nữa.

Lão quay lại nhìn Triệu Bán Sơn nói:

– Triệu tam gia! Trần gia đây nói gì tại hạ đứng ngoài đã nghe rõ hết, toàn là lời bịa đặt. Lữ sư đệ vì “Loạn hoàn quyết” và “Âm dương quyết” mà chết về tay tên gian tặc này.

Triệu Bán Sơn nghếch mắt ngó Trần Vũ đằng hắng một tiếng rồi nói:

– Té ra Trần gia đã nghiên cứu tinh thâm hai môn đại bí quyết của bọn ta. Bây giờ tại hạ muốn lĩnh giáo.

Tôn Cương Phong đáp:

– Không phải thế. Trần gia biết “Thái Cực quyền” của chúng ta có chín đại bí quyết mà “Loạn hoàn quyết và “Âm dương quyết” là mấu chốt về quyền pháp. Đáng tiếc phụ thân hắn qua đời sớm quá, chưa kịp truyền thụ cho hắn. Hắn tìm trăm phương ngàn kế yêu cầu tại hạ cùng Lữ sư đệ thổ lộ, nhưng anh em tại hạ biết hắn tâm thuật bất chính nên không chịu nói. Thế rồi hắn dùng thế lực của Định vương gia để áp bức. Về sau, hắn nhân lúc sư đệ mang bệnh, đang đêm sấn đến trước giường bệnh nắm lấy thằng con độc nhất của Lữ sư đệ bảo lão nếu không chịu thổ lộ “Loạn hoàn quyết” “Âm dương quyết” là hắn chém chết đứa nhỏ… Tên họ Trần kia, ta nói vậy là đúng hay sai?

Trần Vũ sắc mặt xám xanh, không nói nửa lời. Trong lòng hắn vừa tức vừa sợ vì đã sắp thoát thân thì lão họ Tôn lại đến phá đám. Tôn Cương Phong nghẹn ngào nói tiếp:

– Thế là thằng nhỏ thông minh, lanh lợi chết dưới thanh kiếm của hắn. Lữ sư đệ đang bệnh cũng cố liều mạng rồi bị hắn sử dụng công phu “Vân Thủ” kéo dài cuộc đấu, cho đến khi sức cùng lực kiệt mà chết. Triệu tam gia! Tôn Cương Phong này xấu hổ là mình làm chưởng môn mà tuổi già lại bất tài. Phái Bắc Tông lâm vào tình trạng nhân tài điêu linh, hiện giờ chỉ còn gã họ Trần đây là bản lãnh cao cường hơn hết. Tôn mỗ đành mặt dày xin phái Nam Tông chủ trì công đạo.

Lão quay lại ngó Trần Vũ nói tiếp:

– Trần đại gia! Những lời Tôn mỗ nói đây có nửa câu nào vu oan cho Trần gia không?

Triệu Bán Sơn đầy lòng nghĩa phẫn, ráo bước tiến lại nói:

– Muốn học bí quyết về quyền thuật thì từ cổ chí kim phải cầu thầy hỏi bạn, chẳng ai lại hành động cầm thú như ngươi.

Trần Vũ quát

– Biết điều thì đứng yên đó.

Hắn nói rồi riết tay thêm một chút, Lữ tiểu muội ọc lên một tiếng. Triệu Bán Sơn quả nhiên phải dừng bước không đám cử động nữa.

Trần Vũ dõng dạc:

– Họ Triệu kia! Lão muốn tìm ta thì đến phủ Phúc công tử ở Bắc Kinh mà tìm. Bữa nay xin lão bảo giùm họ Tôn hãy nhường lối.

Triệu Bán Sơn không biết làm sao, đành nhìn Tôn Cương Phong hỏi:

– Tôn sư huynh! Bữa nay chúng ta đành tha hắn một phen sao?

Tôn Cương Phong bồn chồn ấp úng hỏi lại:

– Triệu tam gia bảo bữa nay… bữa nay tha.. tha hắn ư?

Triệu Bán Sơn đáp:

– Tôn gia! Sư huynh cứ yên lòng, Triệu mỗ đã dính vào vụ này nhất định làm cho đến đầu đến đũa.

Tôn Cương Phong nóng nảy không nói nên lời, miệng lắp bắp:

– Tam gia… Tam gia…

Triệu Bán Sơn nói:

– Cứ nhường lối cho hắn đi. Triệu mỗ mà không lo liệu xong vụ này sẽ chặt hai tay để trả lại Tôn huynh.

Lão nói mấy câu này nghe chắc như đinh đóng cột. Tôn Cương Phong đành tránh sang một bên, mắt hầm hầm nhìn Trần Vũ đầy vẻ oán hận.

Trần Vũ bụng bảo dạ:

“Bữa nay mà ta thoát nạn thì lập tức xa chạy cao bay. Thiên hạ bao la làm gì chẳng có chỗ dung thân? Ta tìm chốn mai danh ẩn tích thì ngươi có bỏ hàng trăm năm cũng không tìm ra lão tử.”

Nét mặt lộ vẻ đắc ý, hắn bảo Triệu Bán Sơn:

– Triệu tam gia! Sau này chúng ta còn có ngày tái ngộ. Tôn sư bá nói không sai. Tại hạ thực tình muốn học “Loạn hoàn quyết”và “Âm dương quyết” của Thái Cực môn. Tam gia đến Bắc Kinh, tiểu đệ xin Tam gia chỉ điểm cho.

Triệu Bán Sơn đằng hắng một tiếng rồi không để ý gì đến hắn nữa. Trần Vũ không dám xoay mình, cắp Lữ tiểu muội đi giật lùi từng bước, lúc qua Tôn Cương Phong hắn mỉm cười rồi đưa chân bước qua ngưỡng cửa. Hồ Phỉ sau khi đấu chưởng cùng Vương Kiếm Anh vẫn đứng đo chủ ý lắng nghe câu chuyện giữa ba người là Triệu Bán Sơn, Trần Vũ và Tôn Cương Phong, bây giờ gã thấy Trần Vũ nhờ xảo kế sắp thoát thân liền nghĩ bụng:

“Triệu tam gia đã giúp đỡ ta. Bây giờ lão ta gặp việc nan giải thì sao ta lại bỏ mặc lão được?”

Đầu óc gã rất minh mẫn mà tính lại gan lỳ. Gã vừa động tâm đã nghĩ ngay được một kế. Gã vận khí cho bọng nước tiểu chuyển vào niệu đạo rồi cởi quần ra. Gã thấy Trần Vũ sắp bước qua ngưỡng cửa, đột nhiên gã cầm ghế dựng lên, nói:

– Trần Vũ tại hạ có điều muốn thỉnh giáo.

Trần Vũ ngẩn người ra, những chẳng coi thằng nhỏ vào đâu nên không thèm để ý đến. Hồ Phỉ đặt ghế xuống trước mặt hắn, nhảy lên ghế xong phóng nước tiểu bắn vào mặt hắn. Trần Vũ cả giận, vội giơ tay trái lên che trước mặt để nước tiểu khỏi bắn vào tay phải hắn cầm chủy thủ đâm tới trước ngực Hồ Phỉ, Hồ Phỉ trước khi cởi quần đã chuẩn bị sẵn. Gã thấy chủy thủ phóng tới, hai tay vịn lấy thành ghế nhảy vọt lên. Khi người gã còn lơ lửng trên không, cái ghế đã nhằm đầu hắn đè xuống. Trần Vũ giơ tay lên gạt, miệng quát mắng:

– Quân tiểu tặc này!

Hồ Phỉ người chưa chạm đất đã lao về phía trước ôm lấy Lữ tiểu muội lăn ra xa nửa trượng. Trần Vũ cả kinh vọt tới cướp lại. Hồ  Phỉ vung chân đá ngược một cái rồi đứng dậy thi triển công phu “Không thủ đoạt bạch nhẫn”, cướp lấy đao chủy thủ trong tay đối phương. Trần Vũ biết tình hình không ổn, không dám ham đánh, liền đâm mạnh một đao, rồi lập tức xoay mình ra khỏi sảnh đường, nhưng gặp Triệu Bán Sơn hai tay chống nạnh, thần oai lầm liệt đứng ở ngay cửa sảnh.

Hồ Phỉ cười ha hả nói:

– Tại hạ chưa phóng hết bọng nước tiểu.

Diễn biến này, dĩ nhiên Triệu Bán Sơn không ngờ mà còn nằm ngoài sự tiên liệu của mọi người trong sảnh đường. Khi quần hùng hiểu rõ chỗ dụng ý của gã thì Lữ tiểu muội đã được giải cứu, Trần Vũ bị hãm vào trùng vi. Thương lão thái nhìn diễn biến càng thêm căm hận. Vương thị huynh đệ cũng ghen ghét. Mã Hành Không ngấm ngầm bẽn lẽn. Ân Trọng Tường cũng tức giận mắng thầm. Nhưng bất luận là ai dù hận hay ghen, dù bẽ bang hay thóa mạ cũng đều khâm phục Hồ Phỉ, miệng lẩm bẩm:

– Nếu không có thằng nhỏ này dùng quái chiêu thì làm sao ngăn chặn được Trần Vũ?

Triệu Bán Sơn trong lòng vô vùng cảm kích Hồ Phỉ, nhưng ngoài mặt không lộ vẻ gì. Lão nhìn Trần Vũ lạnh lùng nói:

– Trần gia! Các hạ muốn học “Loạn hoàn quyết”, “Âm dương quyết” mà sát hại hai nhân mạng thực là không đáng. Hai thiên bí quyết đó ở trong Thái Cực môn chẳng có chi là ghê gớm. Triệu mỗ bất tài cũng còn nhớ cả, Trần gia đã nói muốn thỉnh giáo Triệu mỗ thì bữa nay Triệu mỗ truyền cho cũng chẳng hề gì.

Quần hào ngẩn người ra nghĩ bụng:

– Trần Vũ đã khó lòng thoát khỏi tay lão, mà sao lão còn đưa ra kiểu nói trái ngược này?

Triệu Bán Sơn lại nói tiếp:

– Trước tiên, Triệu mỗ nói “Loạn hoàn quyết” cho Trần gia nghe, Xin hãy ghi nhớ lấy.

Rồi lão lớn tiếng đọc:

Loạn hoàn thuật pháp tối nan thông

Thượng hạ tùy hợp diệu vô cùng

Hãm địch thâm nhập Loạn hoàn nội

Từ lạng năng bát thiên cân động

Thủ cước tề tiến đăng hoa hoành

Chưởng trong loạn hoàn lạc bất không

Dục trì hoàn trung pháp hà tại

Phát lạc điểm đối tức thành công

Lão đọc tám câu này ra, Tôn Cương Phong và Trần Vũ ngơ ngác nhìn nhau không thốt nên lời. Nguyên tám câu trên thơ chẳng ra thơ, nhạc chẳng ra nhạc, nhưng chính là “Loạn hoàn quyết” trong Thái Cực môn. Trần Vũ hồi còn nhỏ phảng phất đã nghe phụ thân đọc tới nhưng không hiểu chỗ ảo diệu bên trong. Hắn không ngờ Triệu Bán Sơn lại có thể đọc ra đầy đủ cho hắn nghe. Hắn đánh bạo gác chuyện sống chết ra ngoài, nói:

– Nhưng ý nghĩa hàm ẩn bên trong “Loạn hoàn quyết” thế nào? Xin tam gia chỉ điểm.

Triệu Bán Sơn đáp:

– Theo công phu của Thái Cực môn thì mỗi lúc ra chiêu đều thành vòng tròn nên gọi là “Loạn hoàn”. Quyền chiêu tuy có hình thế nhất định, nhưng biến hóa linh động là ở nơi người. Thủ pháp tuy đều thành vòng tròn nhưng cao thấp, tiến thoái, ra vào, công thủ khác nhau. Vòng có vòng nhỏ, vòng to, vòng ngang, vòng dọc, vòng ngay, vòng chếch, vòng hữu hình, vòng vô hình. Khi lâm địch cần lấy lớn khắc chế nhỏ, lấy tà khắc chế chính, lấy vô hình khắc chế hữu hình. Mỗi chiêu phát ra đều phải ngầm vận kình lực vào các vòng tròn.

Lão vừa nói vừa vạch những hình tròn của các loại vòng. Triệu Bán Sơn nói tiếp:

– Ta lấy lực của hình vòng để đẩy địch nhân vào vòng vô hình. Khi ấy muốn tả thì tả, muốn hữu thì hữu. Sau đó, lại lấy sức nhỏ bốn lạng đẩy bạt sức nặng ngàn cân của địch, dùng thụ lực đánh xuống hoành lực của đối phương. Mấu chốt thắng thua của “Thái Cực quyền” là ở chỗ tìm ra điểm xuất phát để đánh đúng vào điểm rơi của đối phương.

Lão nói quyền lý một cách minh bạch đơn giản, ai cũng hiểu được mà thực ra rất chí lý. Quần hùng trong sảnh đường đều là những tay hảo thủ về võ học, họ nghe lão nói một cách chăm chú. Ai cũng biết nghe được một vị võ học danh gia giải thích tinh nghĩa về quyền lý là một cơ hội may mắn mà gặp chứ không phải cầu mà được.

Ban đầu bọn Vương thị huynh đệ, Thương lão thái, Mã Hành Không, Ân Trọng Tường nghe Triệu Bán Sơn giảng bí quyết về “Thái Cực quyền” chưa lộ vẻ tha thiết, nhưng sau càng nghe giảng lại càng thấu triệt. Nhiều vấn đề nghi nan chứa trong lòng từ thuở nhỏ, sư phụ giải không vỡ lẽ, tự mình suy nghĩ không ra, thì nay Triệu Bán Sơn chỉ nói một vài câu là đã thông suốt rõ ràng.Triệu Bán Sơn giảng xong “Loạn hoàn quyết” rồi nói:

– Khẩu quyết chỉ có mấy câu nhưng vòng chếch, vòng vô hình sử đúng hay trật, điểm xuất phát và điểm rơi có chuẩn đích hay không lại là công phu rèn luyện cả một đời. Trần gia có hiểu không?

Trần Vũ suốt đời ao ước “Loạn hoàn quyết” thì bữa nay được nghe và thông hiểu thấu suốt. Hắn biết chỉ cần cố công khổ luyện mười mấy năm nữa là có thể thành võ học đại sư. Bất giác lòng mừng khấp khởi, hắn lại hỏi:

– Còn “Âm dương quyết” thì thế nào?

Triệu Bán Sơn đáp:

– “Âm dương quyết” cũng là tám câu ca. Trần gia ráng ghi nhớ lấy.

Trần Vũ nhưng thần lắng nghe chẳng khác gì ngày trước được sư phụ thân truyền thụ võ công. Hắn buột miệng đáp:

– Dạ! Hài nhi xin dụng tâm ghi nhớ.

Câu nói ra khỏi cửa miệng, hắn chợt giật mình nhớ lại, bất giác mặt mũi đỏ bừng lên. Nhưng quần hùng đều chú ý vào việc Triệu Bán Sơn giảng võ, chẳng ai để tâm đến lời nói của hắn, nên chẳng ai cười. Triệu Bán Sơn lại dõng dạc đọc:

Thái cực âm dương thiểu nhân tu

Thôn thổ khai hợp vấn cương nhu

Chính ngưng thu phóng nhiệm quân tẩu

Động tĩnh biến lý hà tu sầu?

Sinh khắc nhị pháp tùy trước dụng

Thiệm tiến toàn tại động trung cầu

Khinh trọng hư thực xạ đích thị?

Trọng lý hiện khinh vật sao lưu.

Khẩu quyết này Trần Vũ chưa từng được nghe qua nhưng lúc này hắn hoàn toàn không chút nghi ngờ, mà chỉ dụng tâm ghi nhớ. Triệu Bán Sơn vừa ra chiêu thức vừa nói:

– Vạn vật đều chia thành âm dương. Âm dương trong quyền pháp gồm có chính phản, nhuyễn ngạch, cương nhu, thân triển, thương hạ, tả hữu, tiền hậu, vân vân. Duỗi ra là dương, co lại là âm. Thượng là dương hạ là âm… Xòe tay ra lấy thôn pháp (phép nuốt) làm đầu, dùng cương kình tiến đánh như rắn nuốt đồ ăn. Nắm tay lại lấy thổ pháp (phép nhả) làm đầu, dùng phu kình hãm người như trâu nhả cỏ, cần phải lạnh lùng cấp bách, mau lẹ. Còn về chính thì có chính diện và bốn góc. Lúc lâm địch cần lấy chính của ta để xông vào chỗ góc của địch. Nếu như dùng chính đối chính cứ xông vào đánh, tức là dùng ngạnh lực đánh thí mạng với ngạnh lực. Mình tuổi nhỏ sức yếu, công lực không bằng đối thủ tất phải thất bại.

Hồ Phỉ từ nãy tới giờ cũng ngưng thần nghe lão giảng giải quyền lý. Gã nghe tới đây, trong lòng run lên, tự hỏi:

“Chẳng lẽ lão nói những câu này để ta nghe? Phải chăng lão bảo ta dùng sức để đấu với Vương Kiếm Anh là lầm lẫn?

Nhưng gã thấy lão không nhìn mình, chân tay không ngừng ra chiêu, miệng thao thao giảng giải:

– Bằng lấy góc xông vào góc thì trong quyền pháp gọi là “Khinh đối khinh, toàn lạc không” (nhẹ đối nhẹ, rơi hẳn vào chỗ trống không). Cần dùng chỗ Trọng của mình đánh vào chỗ Khinh của địch, dùng chỗ Khinh của mình để tránh chỗ Trọng của địch. Còn về hai chữ “Thiểm Tiến” là lúc né tránh bên địch tiến đánh mà vẫn ra chiêu phản, công phu đó gọi là trong thủ có công. Lúc mình công kích cũng đồng thời nên né tránh chiêu đánh trả của địch, đó gọi là trong công có thủ. Cái đó gọi là “Phùng thiểm tắc tiến, phùng tiến tắc thiểm”. Trong quyền quyết có câu: “Sao gọi là đánh? Sao gọi là nhìn? Đánh tức là nhìn, nhìn tức là đánh, ra tay là đúng. Sao gọi là tránh? Sao gọi là tiến? Tiến tức là tránh, tránh tức là tiến, đâu cần cầu xa”. Nếu cứ cho rằng công và thủ là hai phần khác nhau thì đó không phải là công phu thượng thừa.

Hồ Phỉ nghe lão nói khác nào như người đang ngủ mơ choàng tỉnh giấc, bụng bảo dạ:

– Nếu ta biết lý lẽ này từ trước thì vừa rồi tỷ võ với Vương thị huynh đệ chưa chắc đã bị thất bại.

Gã đem lòng kính trọng Triệu Bán Sơn hết mình. Triệu Bán Sơn giảng giải tiếp:

– Kình lực trong võ công vốn thiên biến vạn hóa, nhưng đại khái được chia làm ba loại tức là “Khinh”, “Trọng”, “Không”. Dùng “Trọng” không bằng dùng “Khinh”, dùng “Khinh” không bằng dùng “Không”. Trong quyền quyết có câu “Song trọng hành bất thông, đơn trọng đảo thành công”. Song trọng là lấy sức tranh giành với sức. Mình muốn đi, người muốn tới, kết quả là sức mạnh kiềm chế được sức yếu. Đơn trọng là mình dùng tiểu lực để đánh vào chỗ vô lực của đối phương thì chỉ một chiêu là thành công. Ta làm cho đại lực của địch rơi cả vào chỗ không thì nội lực của ta dù ít cũng thắng. Như vậy mới kể là cao thủ về võ học.

Lão vừa nói vừa giơ tay chỉ chỏ, vạch ngang vạch dọc. Nhiều chỗ quyền pháp giống như chiêu thức Hồ Phỉ vừa sử dụng để đối chưởng với Vương Kiếm Anh. Lão lại giải thích tường tận làm cách nào khiến cho chiêu thức đối phương rơi vào quãng không, chiêu thức đánh thế nào cho có công hiệu. Hồ Phỉ nghe tới đây thì thốt nhiên tỉnh ngộ, miệng lẩm bẩm:

– Té ra Triệu tam gia phí bao nhiêu hơi sức là có ý chỉ điểm võ công cho ta.

Nên biết Trần Vũ là tên gian đồ phản bạn, mạo phạm người trên thì Triệu Bán Sơn dạy bí pháp “Thái Cực quyền” cho hắn làm chi? Lão thấy quyền chiêu của Hồ Phỉ rất kỳ diệu nhưng khi lâm địch thì gã chỉ ỷ vào sự thông minh của mình để biến thế mà chưa hiểu về căn bản của quyền lý, lão cho là gã chưa gặp được minh sư chỉ điểm.

Quy củ của võ lâm rất nhiều. Nếu là đệ tử phái khác muốn cầu xin mình chỉ bảo thì cũng không nên chỉ điểm một cách khinh suất, để tránh khỏi làm mếch lòng vị sư trưởng bản môn. Đã nhiều họa hoạn đều do chuyện này mà ra.

Thực tình Triệu Bán Sơn không biết Hồ Phỉ đã tự luyện chưa có thầy dạy. Gã nhờ cuốn quyền kinh tổ truyền để tự rèn luyện mà nên. Lão thấy gã lại là một người lương tài mỹ chất mà chưa được gọt dũa, rất lấy làm tiếc. Lão đoán sư trưởng của gã chưa thấu hiểu đạo lý về võ học, nên nhân dịp Trần Vũ hỏi về “Loạn hoàn quyết” và “Âm dương quyết”, lão liền đem những đạo lý cơ bản của võ học giảng giải cho gã nghe. Câu nói nào của lão cùng nhằm vạch những chỗ kém cỏi trong quyền pháp của Hồ Phỉ, có thể nói lão đã dốc hết gan ruột ra để truyền thụ.

Lão còn biết Hồ Phỉ thông minh hơn người, đủ khả năng lĩnh hội được. Còn bọn Vương Kiếm Anh, Mã Hành Không cũng nghe đấy, nhưng những người này lớn tuổi thì dù có hiểu đạo lý cũng chưa chắc đã trở lại gắng công rèn luyện cho đến trình độ này, Hồ Phỉ trải qua một phen được chỉ điểm rồi ngày sau trở thành một tay đệ nhất cao thủ về võ học. Cách truyền thụ khẩu quyết về võ công như thế có thể nói là chuyện chưa từng xảy ra trong võ lâm

Triệu Bán Sơn giảng giải xong, nhìn Trần Vũ hỏi:

– Triệu mỗ nói vậy có đúng không?

Trần Vũ đáp:

– Nhờ ơn Triệu tam gia chỉ điểm, tại hạ khác nào vén mây thấy được mặt trời. Nếu biết sớm thế này, tại hạ chẳng cần phải nài nỉ hai vị Tôn, Lữ.

Triệu Bán Sơn lạnh lùng nói:

– Đúng thế! Trần huynh cũng bất tất phải giết chết hai mạng người.

Trần Vũ kinh hãi, nghe lạnh toát cả xương sống, nghĩ bụng:

“Lão đã truyền thụ quyền pháp cho ta hẳn hoi mà sao còn nhắc tới vụ này?”

Hắn ngước mắt nhìn bọn Vương thị huynh đệ và Ân Trọng Tường thì thấy mọi người đều lộ vẻ hoang mang.

Triệu Bán Sơn lại nói:

– Trần gia! Hai môn quyền quyết này Triệu mỗ đã truyền cho Trần gia, nhưng về cách sử dụng thì e rằng Trần gia chưa lĩnh hội được thấu đáo. Nào, chúng ta hãy động thủ xem sao.

Lão nói xong liền ra một chiêu rất tầm thường trong “Thái Cực quyền”. Trần Vũ tuy trong lòng vừa ngờ vừa sợ nhưng không tiện cự tuyệt, liền đáp:

– Triệu tam gia! Tài năng của tại hạ hãy còn tầm thường, mong Triệu tam gia nhẹ đòn cho.

Triệu Bán Sơn biến sắc hỏi:

– Tay cao thủ đệ nhất phe Bắc Tông của Thái Cực môn là Lữ Hy Hiền còn chết về tay các hạ, sao lại bảo tài năng tầm thường. Coi chiều đây!

Lão ra chiêu “Thủ Huy Tỳ Bà” đánh tới. Trần Vũ kinh hãi, vội vàng phát chiêu “Như Phong Tự Bế” để phòng thủ ngay ở giữa. Mới trao đổi mấy chiêu, đường quyền của Trần Vũ đã lâm vào tình trạng hoàn toàn bị địch nhân kiềm chế.

Hai người cùng sử “Thái Cực quyền”, tuy chia làm hai phe Nam Bắc, tuy quyền lộ đại đồng tiểu dị, nhưng công lực thì nông sâu khác nhau. Hai bên lại chiết chiêu một lúc nữa thì song chưởng của Trần Vũ tựa hồ bị Triệu Bán Sơn giữ chặt.

Cho tới lúc này, Tôn Cương Phong mới yên tâm, khác nào trút bỏ được khối đá đè nặng giữa ngực. Lão lại nghe Triệu Bán Sơn hỏi:

– Tôn huynh! Có phải Tôn huynh bảo Lữ Hy Hiền bị y dùng phép “Vân thủ” làm cho kiệt lực mà chết?

Tôn Cương Phong vội đáp:

– Đúng thế! Tôn mỗ thấy thi thể Lữ sư đệ gân cốt thoát hết lực.

Trần Vũ càng tỷ đấu lâu càng kinh hãi, liền lên tiếng:

– Triệu tam! Tại hạ không phải đối thủ của Tam gia! Chúng ta ngừng tay thôi.

Triệu Bán Sơn đáp:

– Được rồi! Trần gia hãy tiếp thêm một chiêu nữa của Triệu mỗ

Tay trái lão nắm lấy tay phải Trần Vũ vạch một đường vòng lớn, một luồng kình lực mãnh liệt bao quanh lấy cánh tay trái hắn. Đó chính là môn “Vân thủ” trong “Thái Cực quyền”. Môn “Vân Thủ” phát huy các vòng tròn liên miên bất tuyệt, vòng này vừa qua thì vòng khác tiếp theo ngay.

Ngày trước Trần Vũ sát hại Lữ Hy Hiền đã dùng thủ pháp này. Bây giờ hắn nhớ lại tiếng kêu la bi thảm của Lữ Hy Hiền khi hắn liên tục huy động kình lực để thúc đẩy phần lực khí cuối cùng của Lữ Hy Hiền ra ngoài. Nghĩ đến đó bất giác hắn kinh hãi, mô hồi toát ra như tắm.

Triêu Bán Son thấy Trần Vũ lộ vẻ khiếp sợ đến cực điểm thì nhũn lòng không nỡ nặng tay, kình lực lập tức giảm đi, niêm lực dừng lại. Lão cất giọng ôn nhu nói:

– Bậc đại trượng phu mình làm mình chịu. Đã gây nên việc tàn ác tất gặp ác báo. Ngươi thử nghĩ kỹ mà coi.

Bản tính lão nhân hậu, tuy biết Trần Vũ chết là đáng lắm nhưng lão không muốn hành hạ hắn chết thê thảm như Lữ Hy Hiền.

Lão xoay mình lại, hai tay chắp để sau lưng, ngửa mặt lên trời thở dài nói:

– Con người học võ, nếu chẳng thể bảo vệ đất nước, đề phòng cảnh bị lăng nhục thì cũng nên hành hiệp trượng nghĩa cứu khốn phò nguy. Còn hạng dùng võ nghệ để làm việc tàn ác thì chi bằng làm một kẻ nông phu tầm thường cày ruộng nuôi thân.

Thực ra mấy câu này lão muốn nói cho Hồ Phỉ nghe. Lão sợ ngày sau gã bị bản tính thông minh làm cho lầm lạc, đi vào tà đạo.

Suốt đời Triệu Bán Sơn chưa gặp được người nào có được tư chất hoàn mỹ như Hồ Phỉ nên đối với gã, lão cảm thấy cực kỳ thương mến. Lão nghĩ đến sau khi xong việc, trở về Hồi Cương chưa chắc còn cơ hội nào gặp lại, nên sau khi truyền thụ võ học thượng thừa xong, lão lại ngỏ lời cảnh tỉnh để nhắc nhở gã gắng sức học hỏi những điều tốt đẹp.

Hồ Phỉ làm gì chẳng hiểu ý tứ của triệu Bán Sơn, gã liền lớn tiếng quát:

– Họ Trần kia! Con người đã làm việc tàn ác thì dù người ngoài không hỏi tới cũng nên tự tử mà chết đi để khỏi làm hoen ố thanh danh của tổ tông.

Triệu Bán Sơn rất đỗi hoan hỷ quay lại nhìn gã bằng ánh mắt ra chiều tán thưởng. Ánh mắt Hồ Phỉ cũng đầy vẻ cảm kích.

Trong lúc một già một trẻ cảm thấy tâm ý tương thông, vì quý mến tài năng nhau mà đâm ra quyến luyến, Trần Vũ chợt thấy sau lưng Triệu Bán Sơn lộ sơ hở rất lớn, tuyệt không phòng bị mà hắn chỉ cách lão chưa đây hai thước, hắn chợt nghĩ:

“Lão mà không chết thì ta tiêu đời!”

Hắn vận kình lực ra tay mặt, dùng sức mạnh toàn thân ra chiêu “Tiến bộ ban lan trùy” đánh tới sau lưng Triệu Bán Sơn. Thoi quyền này Trần Vũ đã đề tụ hết công lực bình sinh. Hắn tự biết nếu đòn này không đánh chết được đối phương thì hắn không còn cơ hội sống sót, nên thoi quyền đi nhanh như gió, thế như sét đánh.

Trong khoảng thời gian chớp nhoáng, Triệu Bán Sơn cong người như cánh cung. Đó chính là phần đầu của chiêu “Bạch Hạc Lượng Xí” trong “Thái Cực quyền”. Thoi quyền của Trần Vũ lập tức đánh vào quãng không. Triệu Bán Sơn vặn lưng một cái đánh ra nửa chiêu “Lãm tước vì” rồi xoay mình lại, song chưởng từ từ đẩy ra, dùng bí quyết chữ “Án” trong “Thái Cực quyền”. Lão dùng nửa chiêu trước để hóa giải thế đánh của bên địch, nửa chiêu sau lập tức phản công. Chỉ cần hai nửa chiêu này cũng đủ để khiến toàn thân Trần Vũ bị bao trùm trong phạm vi chưởng lực của lão.

“Thái Cực quyền” là một quyền thuật rất thông thường, bất kỳ ai học võ đều biết cả. Mọi người thấy Triệu Bán Sơn vừa thủ vừa công đều chỉ sử dụng nửa chiêu theo như ý muốn, quả là thủ đoạn của danh gia khác hẳn thói thường, khiến ai nấy đều vô cùng thán phục.

Lúc này Trần Vũ rít chặt hai hàm răng, vận dụng toàn bộ sở học bình sinh để chống lại Triệu Bán Sơn. Lúc mới tiếp chiêu, hắn cảm thấy lực đạo đối phương chẳng lấy gì làm mạnh lắm, liền gia tăng kình lực ra bàn tay. Nhưng hễ hắn tăng thêm kình lực chừng nào thì lực đạo phản kích của đối phương cũng tăng theo chừng ấy. Hắn kinh hãi vội nhả bớt kình lực thì sức phản kích của đối phương cũng nới ra, nhưng hắn muốn thoát khỏi sức kéo dẫn thì không thể được.

Hồ Phỉ ngưng thần theo dõi cuộc đấu, lẳng lặng ngẫm nghĩ về những yếu quyết “Loạn hoàn quyết và “Âm dương quyết” mà Triệu Bán Sơn vừa truyền thụ để ấn chứng những yếu nghĩa về quyền quyết. Gã nhận thấy Trần Vũ phóng quyền, phát chưởng tuy kình lực mãnh liệt nhưng đều bị Triệu Bán Sơn khoa tay một cái đẩy cho chưởng thế biến đổi phương vị. Cái đó chính là phép “hãm địch nhân vào sâu trong Loạn hoàn, dùng bốn lạng để chống sức nặng ngàn cân” trong “Loạn hoàn quyết”.

Gã coi một lúc rồi cười, nói:

– Trần lão huynh! Lão huynh đã bị hãm sâu trong “Loạn hoàn quyết” của Triệu tam gia rồi đó. Tại hạ xem chừng bữa nay lão huynh đến ngày tận số.

Trần Vũ tập trung hết tâm trí vào việc đối phó với Triệu Bán Sơn, nên Hồ Phỉ nói mấy câu này hắn hoàn toàn chẳng nghe thấy chi hết.

Lại chiết thêm mấy chiêu, Hồ Phỉ nhận thấy trong quyền chiêu của Trấn Vũ đã lộ sơ hở, liền hỏi:

– Triệu bá bá cạnh sườn bên trái hắn trống trải, sao bá bá không đánh vào?

Triệu Bán Sơn cười đáp:

– Đúng thế!

Lão chưa dứt lời đã phóng quyền đánh vào cạnh sườn mé tả đối phương. Trần Vũ hốt hoảng né tránh, Hồ Phỉ lại hô:

– Đánh vào vai bên phải hắn.

Triệu Bán Sơn đáp:

– Hay lắm!

Lão phóng chưởng đánh vào vai bên phải Trần Vũ. Hắn hạ thấp vai xuống vung chưởng lên gạt.

Triệu Bán Sơn vừa cười vừa hỏi:

– Bây giờ đánh vào đâu?

Hồ Phỉ đáp:

– Đá vào eo hắn.

Triệu Bán Sơn xoay tả chưởng đi, Trần Vũ vận kình vừa đứng vững lại, quả nhiên Triệu Bán Sơn phóng cước đá vào eo hắn. Hồ Phỉ hô liền mấy lần mà chiêu nào cũng đúng. Triệu Bán Sơn tán dương gã:

– Tiểu huynh đệ! Tiểu huynh đệ nói rất có đạo lý.

Hồ Phỉ đột nhiên hô:

– Đánh vào sau lưng hắn.

Lúc này Triệu Bán Sơn đang đứng đối diện với Trần Vũ, lão sửng sốt tự hỏi:

– Chiêu này gã hô không đúng rồi. Ta đang đứng đối diện với địch nhân thì đánh vào sau lưng hắn thế nào được?

Nhưng lão chỉ ngần ngừ một chút rồi tỉnh ngộ ngay, nghĩ bụng:

– Té ra thằng nhỏ muốn đưa một vấn đề nan giải cho ta làm.

Lão liền nghiêng người đi, hữu chưởng kéo ra ngoài. Trần Vũ cũng nghiêng mình theo để ứng chiêu. Triệu Bán Sơn liền đưa tả chưởng xoay về mé phải. Người Trần Vũ lại nghiêng đi mấy phen, để lộ sống lưng ra.

Triệu Bán Sơn khẽ đập tay một cái đánh trúng xương sống hắn. Nếu phát chưởng này đi nhanh hơn một chút và luồng lực đạo mạnh thêm thì Trần Vũ đã chết rồi. Hắn sợ quá vội xoay người đi, mặt cắt không còn hột máu.

Triệu Bán Sơn quay lại cười hỏi:

– Có đúng thế không?

Hồ Phỉ chĩa ngón tay cái lên tán dương:

– Hay tuyệt!

Trần Vũ thoát chết. Nhưng dù sao hắn cũng là một đệ tử danh gia, nên tuy bị một phen kinh hãi, hắn vẫn nhìn thấy ngay cơ hội để lợi dụng. Hắn thấy Triệu Bán Sơn đang quay người đối đáp với Hồ Phỉ, hạ bàn trống rỗng liền nghĩ bụng:

“Ta đánh gấp hai đòn, xem chừng có thể trốn thoát.”

Hắn ra chiêu “Chuyển thân thẳng cước” phóng chân đá mạnh tới. Hắn thấy đối phương nghiêng mình lùi lại, liền quát to một tiếng ra chiêu “Thủ huy tỳ bà” đánh xéo vào vai trái địch nhân.

Hai chiêu liên hoàn đánh ra thế mạnh như cuồng phong sậu vũ, dụng ý không mong đả thương địch thủ mà chỉ cần Triệu Bán Sơn lùi lại một bước để hắn có cơ hội vọt qua cửa cướp đường chạy trốn. Hắn nghĩ mình tuổi trẻ sức mạnh, chân dài chạy lẹ, còn Triệu Bán Sơn thân người mập ú, quyền thuật tuy cao nhưng về môn chạy chắc là kém hắn.

Triệu Bán Sơn vừa thấy Trần Vũ cất chân đã đoán ra được dụng ý của hắn. Lão chờ cho chiêu “Thủ huy tỳ bà” của hắn đánh tới, đã không lùi mà còn tiến lên một bước, cũng ra chiêu “Thủ huy tỳ bà”. Chiêu này lấy sức chọi sức chiêu số giống nhau nhưng ở vào thế đối nghịch. Đây là một điều đại kỵ trong “Thái Cực quyền”. Đối với quyền lý lão vừa nói “Song trọng hành bất thông” thì điều này hoàn toàn tương phản, dù cao thủ gặp đối thủ tầm thường cũng phải thất bại.

Hơn một nửa số người đứng xem khẽ “ối” một tiếng. Trần Vũ xoay tay lại đã chụp được ngay cổ tay Triệu Bán Sơn, tiện đà xoay một cái, nhắc bổng thân hình to lớn của lão hất mạnh ra.

Tôn Cương Phong và Lữ tiểu muội đồng thanh la hoảng:

– Úi chà!

Nhưng Hồ Phỉ vừa cười vừa reo:

– Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Triệu Bán Sơn người còn đang lơ lửng trên không đã than thầm:

“Chẳng trách phe Bắc Tông Thái Cực môn đang cường thịnh lại đi vào chỗ suy vong. Tôn Cương Phong làm chưởng môn một phái thật uổng, kiến thức của y không bằng một đứa nhỏ. Y không nhìn ra chỗ diệu dụng trong chiêu thức của ta.”

Lão hoan hỷ lẩm bẩm:

– Ta mới chỉ điểm tinh nghĩa của quyền lý mà thằng nhỏ này lĩnh hội được ngay lẽ biến thông, quả thật là hiếm có.

Trần Vũ chụp được địch nhân, trong lòng vừa sợ vừa mừng. Hắn không ngờ mình có thể thành công dễ như vậy. Hắn chắc mẫm dùng sức hất lão đi dù chẳng làm cho lão bị thương thì ít ra hắn cũng giữ được toàn thân rời khỏi Thương gia bảo. Ngờ đâu hắn vừa đẩy tay ra thì Triệu Bán Sơn đã xoay tay lại nắm trúng cổ tay hắn nên hắn không hất lão đi được.

Trần Vũ kinh hãi. Hắn vội vung tay trái đánh ngược lên. Triệu Bán Sơn ở trên cao vung tả chưởng đánh xuống. Bốp một tiếng! Song chưởng đụng nhau rồi dính chặt vào nhau như dùng keo mà dán lại. Trần Vũ vung tả chưởng về phía trước. Triệu Bán Sơn lại rút hữu chưởng về phía sau. Nếu Trần Vũ thu về thì lão lại đưa tay tới. Tấm thân mập ú của Triệu Bán Sơn vẫn bị Trần Vũ đẩy lơ lửng trên không, hai chân rời khỏi mặt đất.

Theo lẽ thông thường thì một người bị đối thủ đẩy cho lơ lửng như thế là ở vào thế hạ phong. Nhưng Triệu Bán Sơn đã liệu trước được công lực của đối phương còn kém mình xa, nên lão cố ý mạo hiểm nhằm mục đích đem chỗ tinh diệu về cách tá lực đả lực trong quyền lý, mà bình sinh lão đã triệt ngộ, để chỉ điểm cho Hồ Phỉ thấu hiểu. Hai chân lão rời khỏi mặt đất, thân hình lơ lửng trên không, mà hành động của lão lại cực kỳ nhàn nhã, kình lực phát huy ra chiêu số đều thuận theo đối thủ, hoàn toàn ung dung tự tại, có thể gọi đó là cảnh giới tối cao trong võ học. Điều mà Hồ Phỉ chưa thấu hiểu được cũng chỉ ở một điểm này.

Tay trái Triệu Bán Sơn dính vào tay mặt Trần Vũ, còn tay mặt lão dính vào tay trái hắn, bất luận hắn muốn hất mạnh thế nào cũng không thể buộc lão đặt một chân xuống đất được. Triệu Bán Sơn mập mạp, thân hình khoảng hai trăm cân đè nặng lên hai cánh tay của đối thủ. Ban đầu Trần Vũ chưa hiểu ra chuyện gì, được một lúc hắn mới cảm nhận được sức ép đè xuống hai cánh tay mỗi lúc một nặng nề, giống như đang nâng một tảng đá hai trăm cân để luyện công. Nếu là khối đá nặng thực sự cũng còn được đi, đằng này Triệu Bán Sơn người ở trên không mà hai chân lão không ngớt tìm những chỗ sơ hở ở trên đầu và ở mặt của hắn để đá vào.

Trần Vũ cầm cự một lúc đã toát mồ hôi trán. Đột nhiên hắn tiến thêm một bước về phía cây cột, vận lực vào tay toan đập người đối phương vào cây cột. Nhưng đời nào Triệu Bán Sơn lại để hắn làm việc đó, lão liền đưa chân phải đạp vào cây cột. Lúc trước người lão lơ lửng trên không thì sức nặng hai cánh tay Trần Vũ chỉ là sức nặng của thân thể lão, tưởng chừng chỉ cần thêm một phân lượng thì hắn cũng không chịu nổi, mà lúc này Triệu Bán Sơn lại mượn đà cây cột để lấy sức đè xuống thì khác nào cả ngọn Thái Sơn đè nặng xuống. Hai cánh tay Trần Vũ bật lên những tiếng rắc rắc tựa hồ sắp gãy nát. Hắn la thầm:

– Nguy rồi!

Hắn vội nhảy lùi ra.

Lúc này toàn thân Trần Vũ mồ hôi đầm đìa, dần dần làm ướt sũng cả quần áo. Bất luận hắn sử “Địa đường quyền” hay nhảy nhót qua lại thì Triệu Bán Sơn vẫn lơ lửng trên không, đem sức mạnh của thân thể đè xuống người hắn.

Hồ Phỉ thấy võ công của Triệu Bán Sơn thần diệu như vậy thì vừa lấy làm kinh dị lại vừa hoan hỷ. Gã thấy lão không cần sử dụng một chút hơi sức nào mà hoàn toàn chế ngự được đối thủ, nên dần dần thể hội được tinh nghĩa của võ học trong đạo lý ảo diệu đó. Chỉ thấy Trần Vũ mồ hôi tuôn ra đầm đìa, nhỏ giọt trên mặt đất, tựa hồ như chỗ gã đứng đã có một trận mưa rào đổ xuống. Chẳng mấy chốc, nước đã chảy lai láng khắp cả nền nhà.

Hổ Phỉ thấy y đã xuất toàn lực đến lúc gần như kiệt quệ. Bọn Mã Hành Không, Vương Kiếm Anh đều là những hành gia võ học, họ hiểu rằng mỗi khi Trần Vũ chảy thêm một giọt mồ hôi là mất đi một phần tinh lực, đến khi mồ hôi không còn chảy nữa thì hắn chẳng khác gì ngọn đèn khô dầu chỉ còn đường chết.

Dĩ nhiên Trần Vũ cũng hiểu thế. Hắn cảm thấy toàn thân mềm nhũn, trong ngực trống rỗng cực kỳ khó thở. Chợt hắn nghĩ thầm:

“Ta dùng phép “Vân Thủ” hành hạ khiến cho Lữ Hy Hiền phải kiệt sức chết. Thân thể gã chịu khổ thế nào, trong lòng cảm nhận thế nào thì bây giờ ta cũng lâm vào tình trạng giống hệt như vậy, Cái đó gọi là mình làm mình chịu, quả báo nhãn tiền.”

Hắn nghĩ mình không thể thoát chết, bất giác hồn vía lên mây, không còn nửa phần lực đạo để kháng cự với đối thủ, hai đầu gối đột nhiên khuỵu xuống, hắn mở miệng van lơn:

– Xin Triệu tam gia tha mạng!

Triệu Bán Sơn người lơ lửng trên không, hoàn toàn trông vào lực khí của địch nhân để chống chọi. Bây giờ thấy Trần Vũ đột nhiên kiệt lực khuỵu xuống, lão liền nhẹ nhàng tung người nhảy vọt về phía sau, xòe tả chưởng ra quát:

– Hạng gian đồ như ngươi để sống mà làm gì?

Lão toan vung chưởng đập xuống thiên linh cái Trần Vũ thì ngó thấy hắn ngước mắt van xin, nét mặt đầy vẻ khiếp sợ.

Triệu Bán Sơn vốn lòng dạ nhân từ. Dù gặp kẻ cùng hung cực ác nhưng nếu không tận mắt thấy hành động tàn ác của họ thì lão thường sinh lòng lân mẫn, chỉ giáo huấn một hồi rồi buông tha cho đi, để họ ăn năn hối lỗi.

Hiện giờ Trần Vũ gân cốt đã tán đoạn, võ công toàn thân mất hết, chẳng khác gì phế nhân. Dù hắn không chịu sửa đổi lỗi lẫm ngày cũ thì cũng chẳng thể làm ác được nữa. Lão thấy vẻ mặt đáng thương của Trần Vũ thì cánh tay đang đánh xuống nửa chừng liền dừng lại. Lão quay lại nhìn Tôn Cương Phong nói:

– Tôn huynh! Gã này đã mất hết võ công xin tùy Tôn huynh xử trí. Tiểu đệ chỉ xin Tôn huynh chừa cho hắn một con đường sống.

Tôn Cương Phong ngó Triệu Bán Sơn rồi lại nhìn Trần Vũ, trong lòng lấy làm khó nghĩ, tự hỏi:

“Tên gian tặc này tội ác tày trời, ta đã phải chặt hai tay mới cầu được lão đến báo thù thì có lý nào lại buông tha hắn được? Nhưng tên gian tặc này đã chính lão chế phục, mà lão lại mở lời xin tha mạng hắn thì ta cự tuyệt thế nào được.”

Y quay lại ngó Lữ tiểu muội thì thấy mắt cô tựa hồ tóe lửa, nhìn Trần Vũ đầy vẻ căm hờn. Bỗng y nảy ra một chủ ý, liền xoay mình đến trước mặt Triệu Bá Sơn lạy xuống nói:

– Triệu tam gia! Bữa nay Tam gia đã vì phái Bắc Tông mà thanh lý môn hộ Tôn mỗ vĩnh viễn ghi nhớ đại đức.

Y nói rồi dập đầu binh binh.

Triệu Bán Sơn vội quỳ xuống đáp lễ, nói:

– Tôn huynh bất tất phải đa lễ. Giữa đường thấy chuyện bất bình, ra tay can thiệp vốn là bổn phận hiệp nghĩa của bọn ta. Huống chỉ Tôn huynh với tại hạ lại cùng một môn phái, cùng có mối tương quan, việc gì phải nhọc lòng nói lời cảm tạ?

Tôn Cương Phong đứng dậy, miệng cắn ngang thanh tiêm đao sáng loáng.

Triệu Bán Sơn đứng thẳng người lên chợt nhìn thấy thanh đơn đao lão không khỏi giật mình lùi lại một bước.

Nguyên thanh chủy thủ này là của Trần Vũ. Hắn vừa dùng nó để dí vào người Lữ tiểu muội. Sau đó, Hồ Phỉ dùng xảo kế cứu người, trong lúc đánh nhau gã đoạt được thanh chủy thủ này liệng xuống đất. Tiếp theo, Triệu Bán Sơn chỉ điểm quyền quyết, rồi chuyện nọ xẩy tiếp chuyện kia khiến Trần Vũ thủy chung không lúc nào rảnh để lượm đao.

Tôn Cương Phong cụt cả hai tay. Y nhân lúc dập đầu, dùng miệng ngậm lấy. Tôn Cương Phong tiến lên hai bước đến trước mặt Lữ tiểu muội cúi xuống để đưa chủy thủ cho thị. Lữ tiểu muội chìa tay ra nắm lấy chuôi đao đưa mắt hỏi ý.

Tôn Cương Phong mở miệng ra đáp:

– Triệu tam gia! Tam gia bảo sảo, tiểu đệ cũng không dám nửa lời phản đối, nhưng phụ thân của Lữ tiểu muội bị tên gian tặc này sát hại, cả đứa em trai của y cũng bị tên này tự tay giết chết. Vậy tha hay không thì trừ Lữ tiểu muội ra, trong thiên hạ không còn người thứ hai nào có quyền quyết định được. Tam gia thấy có đúng không?

Triệu Bán Sơn buông tiếng thở dài. Khẽ gật đầu.

Tôn Cương Phong nhìn Lữ tiểu muội lớn tiếng:

– Tiểu muội! Có muốn báo thù và có gan thì giết tên gian tặc này đi. Bằng cô sợ hãi thì hãy tha cho hắn quách!

Quần hào đều đưa mắt nhìn Lữ tiểu muội. Có người nghĩ rằng cô có đủ nghị lực để đến tận Hồi Cương cầu viện, tỏ rõ quyết tâm phục thù thì dĩ nhiền cô đủ can đảm để giết người. Có kẻ thấy cô người bé nhỏ yếu ớt, tay cầm thanh tiêm đao sáng loáng đã run rồi, e rằng không dám giết một hán tử cao lớn như Trần Vũ.

Lữ tiểu muội người run lẩy bẩy, nhưng trong lòng lại không chút ngần ngại. Cô cầm thanh tiêm đao rảo bước thằng về phía Trần Vũ. Cô đứng chưa tới ngực hắn, nên mũi tiêm đao đâm tới trúng vào phần bụng dưới.

Lúc này Trần Vũ tứ chi bải hoải, đứng cho khỏi té đã là gắng gượng lắm rồi. Hắn thấy Lữ tiểu muội phóng đao đâm tới liền rú lên một tiếng rồi quay đầu bỏ chạy. Lữ tiểu muội tuy đã luyện được một chút quyền cước nhưng võ công còn quá kém coi, nên khi đối phương co mình lại thì thanh đao đâm vào quãng không. Cô liền cầm thanh tiêm đao rượt theo.

Trần Vũ chân bước loạng choạng chạy ngay về phía cửa sảnh đường, nhưng không hiểu cánh cửa đã bị đóng từ lúc nào. Hắn vội đưa tay đẩy cửa ra, ngờ đâu lúc này cánh cửa nóng bỏng. Nghe “xèo xèo” mấy tiếng, khói trắng bốc lên, hai bàn tay Trần Vũ bị dính chặt vào cửa lớn. Hắn kinh hãi vội ra sức giật tay về, nhưng kình lực toàn thân đã mất hết. Hắn lảo đảo người đi một cái rồi cả thân mình hắn cũng dính vào cửa. Hắn rú lên một tiếng thê thảm rồi im bặt.

Biến cố xảy ra bất giờ ngoài sự tiên liệu của mọi người. Mọi người ngơ ngác một chút rồi cùng xông tới cửa sảnh, thì mũi đã ngửi thấy mùi khét lẹt. Nguyên cửa sảnh đường là một tấm sắt dày, không hiểu người nào ở bên ngoài đã nung lên nóng rực. Trần Vũ bị dính vào cửa chỉ trong khoảnh khắc đã chết cháy.

Mọi người thấy rõ hiện trạng đều kinh ngạc phi thường.

Vương Kiếm Anh lớn tiếng hỏi:

– Đệ muội! Vụ này là thế nào đây!

Nhưng không thấy Thương lão thái trả lời. Hắn xoay mình tìm kiếm thì chẳng những không thấy mẹ con Thương lão thái đâu, mà cả gia nhân đưa rượu thịt vào sảnh đường cũng trốn tránh đi hết chẳng còn một ai.

Vương Kiếm Anh đột nhiên biến sắc, vội chạy vào nội đường nhưng cánh cửa thông vào trong cũng đã đóng chặt. Chính giữa cửa vẽ hình bát quái đen sì như bằng gang thép đúc nên. Hắn không dám đưa tay ra đẩy, chỉ tiến lại gần hai bước đã cảm thấy hơi nóng quạt vào mặt. Té ra cửa sau cũng bị nung nóng lên rồi.

Vương Kiếm Kiệt lớn tiếng hô:

– Thương tẩu tẩu! Tẩu tẩu làm trò quỷ gì vậy. Ra đây mau.

Thanh âm hắn đã vang dội mà bốn vách đóng kín nên càng vang dội hơn. Quần hào bất giác đứng cả dậy nhìn quanh thì chẳng thấy một khung cửa sổ nào. Cửa lớn trước mặt và mặt sau đều đóng chặt, đến con ruồi cũng không bay ra được. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, bây giờ mới tỉnh ngộ.

Nguyên tòa nhà đại sảnh này trong Thương gia bảo lúc kiến tạo đã có chỗ dụng tâm. Họ không đặt cửa sổ, còn cửa ra vào đều bằng sắt đúc. Tường vách cũng cực kỳ kiên cố, nếu không bằng sắt thì cũng bằng đá. Mã hành Không vận kình vào hai cánh tay cầm chiếc ghế dài giơ lên đập vào tường đánh chát một tiếng, cái ghế dài lập tức gãy đôi. Bụi trắng trên tường rào rào rớt xuống để lộ bên phần đá hoa cương xây bên trong.

Vương Kiếm Anh đứng theo mã bộ, vận kình ra bàn tay phóng song chưởng đánh vào tường. Chưởng lực của hắn mãnh liệt phi thường. Nếu là tường vách thường thì dù không xuyên thủng cũng bị nứt ra. Nhưng vách ở đây xây bằng đá vừa dày vừa kiên cố, chưởng lực của Vương Kiếm Anh đánh vào vẫn không suy chuyển mảy may. Vương Kiếm Kiệt trong lòng rối loạn không ngớt kêu gọi:

– Thương tẩu tẩu! Tẩu tẩu làm gì vậy? Mở cửa mau! Mở cửa mau!

Triệu Bán Sơn trầm tĩnh tìm kiếm đường ra. Lão nghĩ thầm:

“Nhà đại sảnh đã kiến tạo cách này là cố ý hại người. Trên nóc nhà chắc bố trí nghiêm ngặt không thể xông lên được.”

Vương Kiếm Kiệt hô hoán mấy câu trong lòng đã khiếp sợ, liền thôi không kêu nữa. Hắn đưa mắt nhìn huynh trưởng nhưng lão cũng chẳng có chủ ý gì. Lúc này trong đại sảnh có Triệu Bán Sơn, Hồ Phỉ, Tôn Cương Phong, Lữ tiểu muội, Vương thị huynh đệ, Mã Hành Không, Từ Tranh, Ân Trọng Tường, tổng cộng chín người. Ngoài ra còn thi thể của Trần Vũ. Trừ Lữ tiểu muội, tám người kia đều là những tay hảo thủ võ lâm nhưng bị khốn trong sảnh đường kiên cố này, có võ công cũng không thi triển được. Trong lúc nhất thời người nọ nhìn người kia không biết phải làm sao? Bỗng nghe thanh âm the thé vọng lên:

– Các vị tự xưng anh hung hảo hán, nhưng bữa nay muốn trốn ra khỏi tòa thiết sảnh ở Thương gia bảo cũng muôn vàn khó khăn. Tòa thiết sảnh này do chính tay tiên phu Thương Kiếm Minh kiến tạo. Tuy lão nhân gia chết đã lâu năm, nhưng vẫn có thể hãm các vị vào đất chết. Các vị anh hùng đã chịu phục chưa?

Mụ nói rồi nổi lên một tràng cưới khanh khách khiến mọi người nghe lông tóc dựng đứng cả lên, không rét mà run. Quần hào nhìn về phía âm thanh phát ra thì thấy tiếng nói của Thương lão thái do lỗ chó chui mà lọt vào trong phòng. Vương Kiếm Anh cúi đầu xuống cho miệng vào lỗ chó chui la gọi:

– Đệ muội! Anh em ta đồng môn cùng thầy với Kiếm Minh, chỉ có ân tình chứ không thù oán. Đệ muội lại giam hãm huynh đệ ta ở chốn này là nghĩa lý gì?

Vương Kiếm Anh đáp:

– Bữa nay bọn ta mới biết tin Kiếm Minh sư đệ qua đời, lại không hiểu y bị hại về tay Hồ Nhất Đao. Nếu mà biết sớm thì dĩ nhiên đã báo thù cho y rồi.

Thương lão thái cười lạt nói:

– Ngươi là người vô lương tâm, toàn nói chuyện lừa gạt.

Vương Kiếm Anh nói:

– Tay ta vừa mới bị trúng độc, nếu không thì…thì…

Gã nói chưa dứt lời bỗng nghe vút một tiếng. Một mũi tên bay qua lỗ chó chui bắn vào. Vương Kiếm Kiệt tinh mắt bước tới ngăn lại, nếu không Vương Kiếm Anh nằm phục dưới đất đã bị thương rồi. Ân Trọng Tường từ lúc bị Triệu Bán Sơn chặt gãy kiếm, lẳng lặng không nói nửa lời. Hắn nghĩ mình chẳng dính líu gì vào vụ này mà bỏ mạng ở đây thì thật là oan uổng, liền cất tiếng nói:

– Thương Kiếm Minh dựng tòa thiết sảnh này định để gia hại ai?

Vương Kiếm Minh tức giận đáp:

– Thằng cha này khi học nghệ nơi tiên phụ đã tỏ ra không phải là người chính phái. Hắn âm thầm dựng lên nhà cửa kiểu này thì còn có hảo tâm gì nữa?

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Thương Kiếm Minh không đánh lại gia gia ta mà dựng lên tòa thiết sảnh này dĩ nhiên là muốn gia hại lão nhân gia, ai ngờ tên bị thịt đó lại chết về tay gia gia ta.”

Lòng gã nghĩ như vậy nhưng không nói gì, chỉ quan sát bốn phía để tìm kế thoát thân. Hồ Phỉ đoán thế là sai. Thương Kiếm Minh cùng Hồ Nhất Đao vốn không quen biết. Hắn kết mối thâm thù với Miêu Nhân Phụng và biết nhân vật mang ngoại hiệu “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” không nên dây vào. Nếu một ngày kia Miêu Nhân Phụng tìm đến nhà mà tỷ võ không thắng được thì dùng tòa thiết sảnh này để kiềm chế y. Không ngờ người tìm đến Thương gia bảo lại chẳng phải Miêu Nhân Phụng mà là Hồ Nhất Đao. Thương Kiếm Minh vốn tính tự phụ, chẳng coi Hồ Nhất Đao vào đâu. Lúc giao chiến, hắn chưa kịp dùng đến tòa thiết sảnh thì đã bị chặt đầu.

Mối thù này Thương lão thái lúc nào cũng ghi khắc trong lòng. Mụ biết Hồ Nhất Đao chết rồi mà con y là Hồ Phỉ võ công cực kỳ lợi hại. Mụ thấy đại thù khó trả liển nhân cơ hội Triệu Bán Sơn đấu với Trần Vũ, mọi người chú ý theo dõi cuộc chiến, mụ cùng con trai lén ra khỏi sảnh đường, đóng chắt cửa sắt cả ngả trước ngả sau lại, rồi chỉ huy gia đinh khuân củi chất đống đốt lên.

Tòa thiết sảnh tường vách và cửa sắt rất dày, bên ngoài đã phóng hỏa mà mọi người bên trong vẫn chưa hay biết. Mãi đến lúc Trần Vũ bị tấm cửa sắt đốt chết, mọi người mới biết mình lâm vào cảnh chim lồng, có mọc cánh cũng khó lòng bay ra.

Mọi người cứ đi quanh sảnh đường. May tòa nhà này rất lớn, cửa sắt đã cháy đỏ hồng mà mọi người còn chịu đựng được. Triệu Bán Sơn lên tiếng:

– Chẳng lẽ chúng ta chịu chết ở đây? Hãy đồng tâm hiệp lực đào một đường hầm để ra ngoài.

Ân Trọng Tường chau mày đáp:

– Ở đây không có thuổng đuốc, đợi đến khi đào được đường hầm thì người đã bị nướng chín rồi.

Từ Tranh chỉ lo cho vị hôn thê Mã Xuân Hoa ở bên ngoài sảnh đường chẳng hiểu có gặp nguy hiểm gì không. Gã là một tên lỗ mãng nóng nảy, chẳng tìm ra được biện pháp gì. Bây giờ gã nghe Triệu Bán Sơn nói tới chuyện đào đường hầm liền lớn tiếng phụ họa:

– Triệu Tam gia nói đúng. Dù sao cũng còn hơn bó tay chịu chết.

Gã rút đơn đao nạy viên gạch xanh lớn để đào hầm thì bỗng thấy một luồng khí nóng. Bỗng nghe đánh choang một tiếng. Đúng là tiếng sắt thép chạm nhau. Mọi người đều kinh ngạc. Vương Kiếm Kiệt hỏi:

– Dưới nền cũng bằng sắt đúc sao?

Hắn liên tiếp dùng đao đào thêm mấy phiến gạch xanh thì quả nhiên phía dưới nối liền thành một phiến. Nền nhà sảnh đường là một phiến sắt rất lớn. Như vậy việc đào đường hầm dĩ nhiên không thể thực hiện được, khiến mọi người càng kinh hãi vì sức nóng ở mặt đất mỗi lúc một tăng. Từ Tranh thóa mạ:

– Con mẹ nó! Mụ hồ lang kia đốt lửa ở phía dưới thì tòa sảnh đường này biến hành cái chảo sắt khổng lồ.

Hồ Phỉ cười nói:

– Không sai! Mụ muốn nấu chín bọn ta để ăn thịt.

Quần hào thấy khí nóng bốc lên cuồn cuộn thì không ai là không kinh hãi. Sau một lúc trên đỉnh đầu cũng thấy hơi nóng. Nguyên nóc nhà cũng được làm bằng sắt tấm và hiển nhiên mặt trên cũng đang có củi chất đốt.  Vương Kiếm Anh đột nhiên nằm phục xuống trước lỗ chó chui la lên:

– Thương gia đệ muội! Đệ muội tha cho bọn ta ra. Anh em ta sẽ giết chết tên tiểu tạp chủng họ Hồ cho.

Hồ Phỉ nghe hắn nói vô lễ liền vung cước đá vào mông hắn. Triệu Bán Sơn cầm cánh tay gã kéo lại khiến chân gã đá vào quãng không. Triệu Bán Sơn khẽ bảo gã:

– Hiện chúng ta đang lâm vào tình cảnh cùng hội cùng thuyền. Mình đừng gây nhau, hãy nghĩ cách ra khỏi nơi đây đã.

Lão nghĩ thầm:

“Chỉ cần Thương lão thái chịu tha anh em họ Vương là có cơ hội thoát thân.”

Bỗng nghe Thương lão thái đáp:

– Tính mạng tên tiểu tạp chủng đã ở trong tay lão thân, cần gì đến các vị giúp đỡ? Chỉ trong vòng nửa giờ hết thảy các ngươi đều biến thành cục than. Ha ha! Trong đó không có một hảo nhân nào. Thằng lỏi họ Hồ kia! Mã lão đầu tử! Trong sảnh đường có mát không?

Mã Hành Không chau mày chẳng nói năng gì. Thương lão thái lại bật tiếng cười như tiếng cú kêu. Mụ la lên:

– Mã lão đầu tử! Con gái lão ta đã chiếu cố cẩn thận rồi. Lão cứ yên tâm đi. Ta kiếm cho thị hàng ngàn hàng vạn thằng chồng tử tế.

Mã Hành Không lòng đau như cắt. Lão đã tuổi già, mình sống hay chết chẳng đáng tiếc gì mấy, nhưng đứa con gái yêu độc nhất lạc lõng bên ngoài tất bị mụ già độc ác hành hạ, cảnh đau khổ kể sao cho xiết?

Vương Kiếm Anh đứng dậy ghé vào tai em thì thầm mấy câu. Vương Kiếm Kiệt lẩm nhẩm gật đầu. Vương Kiếm Anh lại nhìn Tôn Cương Phong, Triệu Bán Sơn chắp tay nói:

– Triệu tam gia! Chúng ta cùng ở trong cơn hoạn nạn, tiểu đệ có lời khó nghe muốn nói.

Triệu Bán Sơn dắt tay Hồ Phỉ đáp:

– Nhất nhất đều y theo lời Vương đại ca dạy bảo, nhưng gia hại chú nhỏ này thì không được.

Nguyên Triệu Bán Sơn thấy Vương thị huynh đệ châu đầu thì thầm đã biết hai người vì muốn sống mà định giết Hồ Phỉ để năn nỉ Thương lão thái. Vương Kiếm Anh bị lão nói huỵch toẹt tâm sự ra, mặt nổi sát khí, miệng lớn tiếng:

– Triệu tam gia! Kẻ đối đầu với Thương lão thái chỉ có một mình thằng nhỏ đó. Oan có đầu, nợ có chủ. Bao nhiêu người ở đây không lẽ phải làm quỷ để chết theo gã?

Hắn đưa mắt nhìn mọi người nói tiếp:

– Các vị huynh đệ nói xem như vậy có oan uổng hay không?

Ân Trọng Tường liền nói theo:

– Ngoài thằng này chẳng ai dính líu gì đến chuyện ở đây.

Vương Kiếm Anh hỏi:

– Mã lão tiêu đầu! Lão gia tính sao?

Mã Hành Không tự nghĩ:

“Thương lão thái đã có thù với mình chưa chắc mụ đã chịu buông tha thầy trò mình, nhưng tình thế trước mặt nguy cấp dị thường, phải tìm cách thoát thân đã.”

Hồ Phỉ sống hay chết lão cũng chẳng quan tâm. Lão liền đáp:

– Vương đại gia nói đúng. Chuyện này không dính líu gì đến người ngoài.

Vương Kiếm Anh lại nói:

– Tôn đại ca! Đại ca đưa mình vào chỗ nước đục này thật oan uổng. Gã họ Trần kia chết cháy rồi, thế là mối thù của đại ca cùng Lữ tiểu muội đã trả xong.

Tôn Cương Phong nhận thấy hắn nói có lý nhưng trong lòng rất cảm kích ơn đức của Triệu Bán Sơn, nên không tiện công nhiên đối địch, liền nói:

– Triệu tam gia! Chẳng phải tiểu đệ không nghĩ đến nghĩa khí nhưng Triệu tam gia…

Triệu Bán Sơn dõng dạc quát lớn:

– Các vị sáu người mà bọn ta chỉ có hai. Chúng ta hãy coi xem họ Hồ, họ Triệu chết trước hay họ Vương, họ Ân các vị chết trước.

Lão nói rồi đứng chắn trước mặt Hồ Phỉ thần oai lẫm liệt. Bình thời diện mục Triệu Bán Sơn rất hiền từ, nói năng hòa nhã, lại hay mủi lòng, nhưng đến lúc cận kề sống chết thì hai chữ “nhân hiệp” lão lại rất coi trọng. Lão nói mấy câu như chém đinh chặt sắt chẳng nể nang gì nữa.

Bon Vương thị huynh đệ một là sợ bản lãnh Triệu Bán Sơn cao, hai là thấy mình ham sống sợ chết tỏ ra con người bất nghĩa nên không dám xông vào động thủ. Nhưng con người gặp lúc nguy nan sinh tử thì chân tướng tất lộ ra, không còn che giấu được nữa. Ai nấy liền kéo ghế dài ghế ngắn để đứng lên. Vương Kiếm Kiệt giơ thanh Bát Quái đao hô lên:

– Triệu tam gia! Bữa nay tiểu đệ cam bề đắc tội.

Hắn đưa tay trái vẫy Ân Trọng Tường, Mã Hành Không, Từ Tranh rồi hô lớn:

– Chúng ta cùng tiến lên.

Hắn biết Tôn Cương Phong quyết chẳng thể nào giúp mình đối nghịch với Triệu Bán Sơn nhưng thấy bên mình năm người chọi với một già một trẻ thì cũng có cơ may thắng. Mọi người tới tấp lấy binh khí ra, chỉ còn chờ Triệu Bán Sơn chuyển động thân hình là năm người nhất tề vung đao kiếm đánh tới. Cuộc động thủ này xẩy ra tất ai cũng phải liều mạng vì thấy trong sảnh đường mỗi lúc một nóng thêm. Chần chờ một khắc là thêm một phần nguy hiểm. Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

“Vì một mình ta mà mấy người phải chết theo. Bon Vương thị huynh đệ chết chẳng có gì đáng tiếc. Nhưng Triệu tam gia là một bậc đại anh hùng, đại hảo hán thì không thể để lão bá vì ta mà uổng mạng. Bây giờ khai diễn cuộc đấu thì dù Triệu tam gia cùng ta có giết được bọn họ rồi, mình vẫn khó lòng thoát nạn. Xem chừng chỉ mình ta chịu chết về tay Thương lão thái mới cứu được tính mạng của Triệu tam gia.”

Gã thấy anh em Vương thị lăm le chỉ chực động thủ nhưng chưa ai dám ra tay trước, trong lòng liền quyết định, rồi dõng dạc hô:

– Các vị hãy khoan động thủ.

Gã cúi xuống thò đầu qua lỗ chó chui lớn tiếng gọi:

– Thương lão thái! Tại hạ ở đây không nhúc nhích. Lão thái phóng tiêu bắn chết tại hạ đi! Rồi mau mở cửa thả Triệu tam gia ra.

Thương lão thái ngửa mặt lên trời cười rộ. Mụ móc kim tiêu trong bọc ra, miệng hô:

– Kiếm Minh! Kiếm Minh! Bữa nay tiện thiếp tự tay báo thù cho chàng đây!

Mụ đưa tay phải lên. Một mũi kim tiêu bôi thuốc kịch độc bắn tới trước mặt Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thấy ánh kim quang lấp lánh. Mũi kim tiêu bắn tới huyệt “Mi tâm”. Gã nhắm mắt lại nghĩ thầm:

“Thương lão thái bắn chết ta rồi là thỏa mãn tâm nguyện. Mụ chẳng có thù oán gì với Triệu bá bá, tất buông tha lão.”

Giữa lúc ấy chân gã bị kéo mạnh một cái. Người gã lùi lại rồi bật lên cao. Gã mở mắt ra nhìn thấy mình đang chơi vơi trên không, liền vươn tay bám vào cột nhà, nhẹ nhàng hạ xuống. Gã thấy Triệu Bán Sơn tay cầm mũi tiêu, thì ra lão cứu mạng gã. Vương Kiếm Anh thấy Hồ Phỉ xả thân cứu người lại bị Triệu Bán Sơn cản trở, hắn không khỏi tức giận, nói:

– Họ Triệu kia! Bậc đại trượng phu phải biết đường ân cần phân minh. Vụ này không liên quan gì đến chúng ta. Gã tự nguyện chịu chết sao lão còn nhúng tay vào làm chi?

Triệu Bán Sơn mỉm cười không đáp. Lão quay lại hỏi Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Vừa rồi chú đưa được đầu ra ngoài lỗ chó chui phải không?

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế!

Gã thấy vẻ mặt lão rất bình tĩnh, miệng lại cười, tựa hồ đã tìm ra được kế thoát thân, liền nói:

– Triệu bá bá, xin bá bá chỉ bảo.

Triệu Bán Sơn đáp:

– Đầu là vật rắn không thể co lại được, còn bả vai và mình đều mềm.

Hồ Phỉ lập tức lĩnh hội. Gã kêu lên:

– Phải rồi! Đầu đã chui ra được thì mình cũng chui ra được.

Gã liền cởi áo cuốn thành một bó đội lên đỉnh đẩu, một là để chui ra cho dễ, hai là để đề phòng mũi kim tiêu tẩm chất độc của Thương lão thái. Triệu Bán Sơn lại nói:

– Tiểu huynh đệ hãy lùi lại sau để Triệu mỗ mở đường cho.

Từ Tranh la lên:

– Không xong! Lão mập ú như vậy thì chui làm sao được.

Triệu Bán Sơn nổi lên tràng cười ha hả, không lý gì đến gã. Lão cúi xuống vung tay phải một cái. Một mũi tụ tiễn theo lỗ chó chui phóng ra ngoài. Bỗng nghe một tên trang đinh kêu thét lên:

– Chân…chân…chân ta!

Hiển nhiên chân gã bị trúng tiêu. Triệu Bán Sơn khẽ rung tay trái. Lão lại phóng mũi kim tiêu của Thương lão thái ra ngoài. Nhưng lần này không thấy động tĩnh gì, chắc mọi người đều đã tránh ra. Bỗng có người la:

– Mau mau lấp chỗ chó chui lại.

Thương lão thái quát:

– Không được cử động! Để ta nghe tiếng bọn chúng kêu la lúc bị đốt chết. Các ngươi cứ tránh ra một bên là được. Ám khí có đi đường vong được đâu mà sợ?

Triệu Bán Sơn giơ hai tay lên luôn mấy cái. Hơn chục mũi ám khí liên tiếp bắn ra mạnh mẽ mau lẹ dị thường. Mũi nào cũng bắn xa đến ngoài mười trượng. Lão phóng gần hai chục mũi tên rồi dùng tay trái khẽ đẩy vào sau lưng Hồ Phỉ, xô về phía trước. Gã cầm bọc áo đưa ra ngoài.

Thương lão thái đã đề phòng. Dưới ánh lửa mụ thấy một vật đen sì chuồn qua lỗ chó chui liền vung thanh Tử Kim Đao chém vèo một cái, trúng vào đống vải. Mụ cảm thấy chỗ đao chém xuống mềm nhũn, biết là không trúng địch bội nhấc đao lên. Hồ Phỉ đã đưa được tay phải ra ngoài, xoay đi một cái chụp được cổ tay mụ gã liền chui đầu qua lỗ chó chui ra ngoài.

Thương lão thái la lên một tiếng. Thương Bảo Chấn nhảy vọt tới vung đao nhằm chém xuống đầu Hồ Phỉ. Lúc này cả vai Hồ Phỉ cũng thoát ra ngoài rồi nhưng lỗ chó chui hẹp quá, nên ngực gã cùng cánh tay trái trong lúc nhất thời còn bị kẹt chưa chui ra được. Gã đành mượn cổ tay Thương lão thái để hất lên. Choang một tiếng! Hai thanh đao của hai mẹ con đụng nhau. Thủ pháp này là công phu “Tá lực đả lực” mà Hồ Phỉ vừa mới học được từ Triệu Bán Sơn. Gã là người thông tuệ hơn đời, vừa hiểu đã sử dụng được ngay, nếu không tất đã mất mạng dưới lưỡi đao của Thương Bảo Chấn rồi.

Triệu Bán Sơn nghe tiếng song đao đụng nhau lại thấy mình Hồ Phỉ chưa ra ngoài được, lão liền vận Thái Cực nhu kình đẩy đùi gã một cái. Hồ Phỉ không tự chủ được, người vọt lên không, vừa gặp lúc thanh đao của Thương Bảo Chấn chém xuống. Nhát đao này kình lực rất mạnh chém vào tường xây bằng đá hoa cương. Tia lửa bắn tung tóe, lưỡi đao quằn lại, Hồ Phỉ ở trên không lộn đi một vòng. Trong ánh lửa, gã nhìn thấy Thương lão thái quét ngang thanh đao để chém chân mình, nên vội dùng phép “Thiên cân trụy” hạ xuống thật mau. Bỗng nghe vèo một tiếng. Thanh Bát Quái đao lướt qua trên đỉnh đầu gã. Hồ Phỉ chân chưa chấm đất đã xoay tay trái lại thi triển công phu “Không thủ nhập bạch nhận” đoạt thanh đao trong tay Thương lão thái.

Thương lão thái thấy cừu nhân thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, mắt mụ đỏ song sọc, liền điên cuồng vung Bát Quái đao chém lên chém xuống, đâm ngang đâm dọc. Hồ Phỉ tay không tấn công mấy chiêu mà chẳng chiếm được chút tiện nghi nào. Lại nghe bọn trang đinh lớn tiếng hô hoán. Trong cảnh khói lửa, Thương Bảo Chấn cầm đao xông lại.

Hồ Phỉ nghĩ tới lúc này trong sảnh đường lửa nóng dị thường. Nếu cuộc chiến kéo dài là bọn Triệu Bán Sơn khó lòng bảo toàn tính mạng. Gã biết rằng tám nhân mạng trong sảnh đường hoàn toàn trông cậy việc gã có đả bại mẹ con Thương lão thái trong khoảnh khắc và đánh tan bọn trang đinh để mở cửa sảnh đường hay không?

Trong lòng nóng nảy, gã đưa hai bàn tay xuyên qua xuyên lại giữa hai thanh đao, liều mạng chiến đấu. Mẹ con Thương lão thái cũng biết cuộc chiến đấu này can hệ đến sự tồn vong sinh tử của mình nên đánh rất rát. Song đao rít lên veo véo nghe như hai con rắn lớn vây đánh Hồ Phỉ.

Trong đại sảnh, Triệu Bán Sơn cùng bọn Vương thị huynh đệ đều xúm xít bên cạnh lỗ chó chui mà lắng tai nghe cuộc đấu giữa Hồ Phỉ và mẹ con Thương lão thái xem ai thắng ai bại. Vương thị huynh đệ tuy ghét cay ghét đắng Hồ Phỉ nhưng lúc này lại càng cùng một ý nghĩ với Triệu Bán Sơn là mong gã giết được mẹ con Thương lão thái cho lẹ. Khí nóng trong đại sảnh mỗi lúc một thêm khủng khiếp, cơ hồ chịu không nổi. Bàn ghế bị sức nóng làm cho nứt toác, nến sáp nóng quá chảy hết cả ra, khiến cả sảnh đường tối om om.

Đột nhiên ánh sáng bùng lóe lên, nhưng bức thư họa treo trên tường bị sức nóng làm cháy rực, chỉ trong khoảnh khắc đã bị tàn lụi. Kế đó lại tối om, giơ bàn tay không trông rõ ngón. Chẳng bao lâu mọi người lại sợ cháy đến cả bàn ghế.

Mọi người lòng nóng như lửa đốt mà chẳng một ai lên tiếng, chỉ ngưng thần lắng nghe thanh âm cuộc chiến giữa ba người bên ngoài. Vương Kiếm Anh chõ miệng la lên:

– Hồ gia tiểu huynh đệ! Đánh lẹ vào bàn hạ của Thương lão thái. Đường đao pháp này của mụ có ba chỗ không ổn.

Hắn đã rèn luyện môn “Bát Quái đao” mấy chục năm nên chỉ nghe đao phong là biết mụ sử đao như thế nào. Hồ Phỉ đang khổ vì nhất thời khó bề thủ thắng. Gã nghe Vương Kiếm Anh hô hoán như vậy bất giác trong lòng hớn hở, cong người như cánh cung, vung quyền đấm vào đùi Thương lão thái. Thương lão thái không né tránh, lại giơ đao lên chém thẳng xuống sống lưng gã. Mụ chỉ mong đả thương địch chứ chẳng lo gì đến thân mình. Hồ Phỉ vặn lưng nghiêng mình tránh khỏi nhát đao này thì chiêu thứ hai của Thương lão thái lại chém tới liền. Mụ nghe rõ tiếng Vương Kiếm Anh hô địch nhân đánh vào hạ bàn mình mà vẫn không phòng ngự.

Vương Kiếm Anh lại hô:

– Mụ nóng lòng liều mạng. Tiểu huynh đệ không đoạt được kim đao của mụ đâu. Hãy mau nghĩ cách khác đi.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Cái đó ta cũng biết rồi, hà tất ngươi phải nhắc nhở? Gặp mụ khùng này thì còn biện pháp nào nữa?

Cuộc chiến đấu ngoài lỗ chó chui đang lúc kịch liệt. Hồ Phỉ một mình chọi hai, dần dần chiếm được thượng phong, nhưng muốn thắng e rằng còn phải đánh đến hơn trăm hiệp nữa. Thương lão thái thấy tình thế bất lợi, lại nghe Vương Kiếm Anh không ngớt hô hoán chỉ điểm cho địch nhân, đem những yếu quyết phá giả Bát Quái đao nói ra từng điểm một khiến mụ căm hận dị thường. Mụ ngấm ngầm thóa mạ:

“Mi chẳng báo thù cho đồng môn đã là vạn lần không nên, lại còn quay ra giúp giặc. Đúng là một tên gian tặc lòng lang dạ sói.”

Mụ không nghĩ tới Vương Kiếm Anh ở vào tuyệt địa. Nếu hắn không quay ra giúp đỡ hồ Phỉ thì tính mạng không toàn trong khoảnh khắc. Đang cơn cuồng nộ, mụ tự nhủ:

“Quân tiểu tạp chủng này võ nghệ cao cường. Gã đã trốn ra rồi e rằng khó lòng giết được gã. Nhưng thiêu chết bọn gian nhân trong sảnh đường thì ta cũng hả giận được phần nào.”

Mụ liền la gọi gia đinh chất thêm củi để đốt. Ân Trọng Tường không ngớt dậm chân, thầm oán trách hồ Phỉ vô dụng. Vương Kiếm Kiệt nói:

– Triệu tam gia! Mau phóng ám khí giúp gã.

Triệu Bán Sơn trong tay đã cầm sắn mười mấy mũi ám khí nhưng bọn Thương lão thái ba người lại ác đấu ở mé bên lỗ chó chui ra, ám khí không đi đường cong được. Kể ra lão còn mấy mũi “Phi yến ngân thoa” là loại ám khí độc môn có thể đi quanh theo đường cánh cung đả thương người. Nhưng Hồ Phỉ đánh nhau với mẹ con Thương lão thái binh khí sát vào nhau, đứng gần nhau mà đánh, lão không nhìn được chuẩn đích mà cứ phát xạ, ai dám chắc sẽ không trúng phải Hồ Phỉ?

Hồ Phỉ tuy còn nhỏ nhưng tâm cơ linh mẫn. Gã đã nghĩ tới điểm này, mấy lần muốn dụ Thương lão thái ra phía trước lỗ chó chui, nhưng mụ rất úy kỵ tài phóng ám khí của Triệu Bán Sơn nên thủy chung vẫn không chịu mắc lừa. Lúc này trong sảnh đường mùi khói khét lẹt đã ngập tràn. Ban đầu mọi người cháy râu tóc, tiếp theo tà áo cũng dần dần quăn lên. Mọi người dần dần thấy hô hấp khó khăn. Lữ tiểu muội không chịu nổi sức nóng đã sắp ngất đi. Từ Tranh trong lúc nóng nảy, thò đầu vào lỗ chó chui định liều mạng chui ra nhưng lỗ nhỏ mà đầu lớn làm sao chui lọt được? Bốn mặt lỗ chó đều xây bằng đá hoa cương rất dày. Hắn đưa hai tay hết sức lay chuyển mà không di động được chút nào. Vương Kiếm Kiệt chợt nghĩ ra điều gì lẩm bẩm:

– Nếu thằng nhỏ Hồ Phỉ mà có binh khí thì Thương lão thái địch nổi gã thế nào được? Sao ta không sớm nghĩ ra điểm này nhỉ?

Hắn liền đưa tay ra lượm thanh Bát Quái đao của mình ở dưới đất. Không ngờ lưỡi đao tiếp xúc với tấm sắt nền nhà đã bị nung lên nóng rực. Hắn vừa chụp lấy tay đau rát không chịu nổi, rú lên một tiếng. Nhưng lúc này không thể chần chờ một giây ở trong sảnh đường được nữa, hắn cố chịu vết bỏng rát trên tay, xé một mảnh áo quấn lấy chuôi đao. Tay trái hắn đẩy Từ Tranh ra miệng la gọi:

– Tiểu Hồ Phỉ! Binh khí đây này. Đón lấy cho mau.

Hắn rung tay một cái liệng thanh đao qua lỗ chó chui. Hồ Phỉ quay lại đón tiếp đao. Thương Bảo Chấn cũng nghe tiếng hô hoán, nhảy xô lại tới tranh cướp. Bỗng hai người đồng thanh bật tiếng la hoảng. Một tiếng “choảng” vang lên. Cả hai thanh đao đều rớt xuống.

Nguyên thanh đơn đao của Vương Kiếm Kiệt liệng ra, Hồ Phỉ chụp được trước nhưng đao nóng quá, gã phải buông tay. Thương Bảo Chấn nhảy tới trước chỗ chó chui liền bị Triệu Bán Sơn  phóng mũi kim tiền tiêu đánh trúng vào cổ tay. Cả hai thanh đao đều rớt xuống.

Hồ Phỉ chụp không trúng, Thương lão thái đã vung Bát Quái đao chém tới sau lưng. Gã nghiêng người đi, lạng đến bên Thương Bảo Chấn, đột nhiên sử chiêu “Hiên ngưu khát thủy” đưa tay lên chộp lấy gáy Thương Bảo Chấn. Hắn bị Hồ Phỉ vận kình đè xuống khiến má áp sát đất, lại đụng phải thanh đao nóng rực của Vương Kiếm Kiệt. Mấy tiếng xèo xèo vang lên, tiếp theo là tiếng rú thê thảm. Nửa bộ mặt xinh đẹp của Thương Bảo Chấn bị cháy sém một vệt dài.

Tiếng rú này khiến mọi người trong sảnh đều vui mừng. Ai cũng cho là Thương Bảo Chấn bị Hồ Phỉ đả thương. Thương lão thái vừa nóng lòng phục thù, lại xót tình mẫu tử nhưng mụ không chiếu cố cho con, mà giơ đao lên chém mạnh xuống bả vai Hồ Phỉ. “Choang” một tiếng! Hồ Phỉ không né tránh, xoay tay vung ngang thanh đao chống đỡ. Nguyên gã thừa cơ Thương Bảo Chấn bị ngã mà đoạt lấy thanh Bát Quái đao trong tay hắn.

Mọi người trong sảnh vừa nóng vừa tối om chẳng nhìn thấy gì, nhưng nghe bên ngoài song đao chạm nhau choang choảng thì biết là Hồ Phỉ đã đoạt được binh khí và đang chiến đấu mãnh liệt, trong lòng lại thêm một tia hy vọng. Vương Kiếm Anh lớn tiếng hô:

– Chém vào vai bên phải mụ! Chém vào vai bên phải mụ!

Mã Hành Không cũng la lên:

– Hãy đánh đuổi bọn gia đinh đang khuân củi chất thêm vào đống lửa.

Tôn Cương Phong quát lớn:

– Không cần giằng co với mụ già đó nữa, hãy tìm cách mở gấp cửa sảnh đường.

Từ Tranh gầm lên:

– Nóng chết người rồi! Nóng chết người rồi!

Mọi người la hét loạn xạ cả lên. Hồ Phỉ cũng biết mở cửa sảnh đường là việc khẩn yếu nhất nhưng Thương lão thái cứ liều mạng bám riết, thủy chung gã chẳng có lúc nào rảnh tay. Đao pháp của Hồ Phỉ cao thâm hơn Thương lão thái nhiều nhưng cục diện này rối ren vô cùng. Gã còn nhỏ tuổi khó bề trấn tĩnh để ứng phó nên mấy phen đã có cơ hội hạ được đối phương nhưng đều bị đối phương liều mạng phóng ra những cuồng chiêu mà giải khai được.

Hai người chiến đấu ráo riết đã bảy tám hiệp, Thương lão thái không ngớt lùi lại phía sau. Thương Bảo Chấn rút lấy thanh đơn đao trong tay một tên gia đinh rồi tiến lại giáp công. Bọn trang đinh ban đầu thấy chủ mẫu cùng thiếu chủ nhân tay cầm binh khí đối phó với một thằng nhỏ tay không, đã tưởng thế nào cũng thắng. Bây giờ chúng thấy chủ mẫu đầu tóc rối tung không ngớt lùi lại hiển nhiên không chống nổi. Bọn chúng liến cầm đao tới tấp nhảy vào trợ chiến. Bọn trang đinh võ nghệ thấp kém bị Hồ Phỉ đao đâm chân đá, chớp mắt đã mấy tên bị thương. Nhưng tên nào cũng khỏe mạnh gan dạ, chúng bị thương mà vẫn ở lại cự chiến không bỏ chạy.

Tiếng người hô hoán quát tháo, tiếng binh khí chạm nhau chan chát, tiêng chửi bới om sòm, tiếng củi nổ lắc rắc hòa với nhau thành một âm thanh hỗn loạn. Mọi người trong sảnh đường thấy bên ngoài mỗi lúc một náo loạn đều nghĩ thầm:

“Hồ Phỉ tuy võ công cao cường nhưng gã chỉ là một thằng nhỏ lại phải đối phó với cả đoàn người trong Thương gia bảo thì làm sao mà thủ thắng được?”

Kẻ thì thóa mạ, người thì thở dài, người thì kêu gào bi thảm, khiến cảnh náo loạn càng thêm náo loạn. Bỗng có tiếng người hô:

– Tiểu Hồ Phỉ hãy nghe đây. Dùng “Âm dương quyết” để đối phó với kẻ đầu não, dùng “Loạn hoàn quyết” xua đuổi bọn lâu la.

Thanh âm này trung khí đầy rẫy lấn át nhưng tạp âm, nghe rõ từng chữ. Chính là giọng nói của Triệu Bán Sơn.

Hồ Phỉ thấy địch nhân mỗi lúc một nhiều, trong lòng gã đang phiền não chưa biết làm thế nào, bỗng nghe Triệu Bán Sơn nói mấy câu liền nghĩ ngay lão là một bậc anh hùng cái thế, lời nói tất nhiên không lầm. Bất giác gã phấn khởi tinh thần, vung thanh cương đao chém liền vù vù ba nhát vào trung bàn Thương lão thái.

Thanh đao này gã lấy của Thương Bảo Chấn, tuy lưỡi đao đã quằn lên, nhưng chỉ cần chém trúng vẫn có thể giết người được. Thương lão thái thấy thế đánh của gã cực kỳ mạnh liệt phải quét ngang thanh đao đón đỡ. Hai thanh đao đụng nhau bật lên nhưng tiếng “choang choảng” hai lần. Đến lần thứ ba Hồ Phỉ đang từ cương kình đột nhiên đổi sang nhu kình, từ dương biến sang âm, thu về một chiêu rồi phóng ra một chiêu. Cổ tay gã đột nhiên xoay chuyển ba vòng. Hồ Phỉ xoay chuyển theo thế thuận khiến cánh tay Thương lão thái phải xoay chuyển theo thế nghịch. Đến vòng thứ hai thì Thương lão thái không xoay chuyển được nữa vì cảm thấy xương khuỷu tay đau nhói lên, mụ đành phải buông đao. Thanh Bát Quái tử kim đao bay vọt lên không. Hồ Phỉ lần đầu dùng “Âm dương quyết” đã thành công, liền vung đao chém xuống vai Thương lão thái. Lưỡi đao còn cách vai mụ chừng nửa thước, bỗng thấy mái tóc bạc phơ của mụ xõa xuống vai, nửa bên mặt đầy vết máu lem luốc, gã chợt nghĩ:

“Mụ già này kể cũng đáng thương, sao ta lại chém chết mụ?”

Gã vội xoay chuyển thanh đao, định đập sống đao xuống vai mụ khiến mụ không còn sức tái đấu rồi đi mở cửa cứu người. Không ngờ Thương lão thái tuột tay mất thanh kim đao rồi, trong lòng nghĩ ngay đến kế cùng chết với kẻ thù. Mụ thấy rõ Hồ Phỉ vung đao chém xuống vẫn không thèm né tránh, mà lại tiến lên một bước nhảy xổ vào bụng gã. Tay phải mụ nắm huyệt “Thần phong” ở trước ngực, tay trái nắm huyệt “Trung chú” ở bụng dưới đối phương rồi níu chặt lấy. Hồ Phỉ cả kinh đánh mạnh sống đao xuống. Thương lão thái rú lên một tiếng. Xương vai mụ gãy nát nhưng mụ chẳng nghĩ gì nữa cứ nắm chặt lấy huyệt đạo Hồ Phỉ chết cũng không buông. Đồng thời  mụ đưa chân phải móc mạnh một cái. Cả hai người lăn đến bên đống lửa lớn. Hồ Phỉ la lớn:

– Buông ra mau! Mụ không sợ lửa thiêu chết ư?

Trong lúc tâm thần hỗn loạn gã quên cả sử chiêu cầm nã thủ để thoát khỏi cuộc níu kéo này mà chỉ hết sức vùng vẫy. Hai người lăn hai vòng nữa, cuối cùng lăn đến đống lửa. Thương Bảo Chấn la lớn:

– Má má!

Hắn nhảy vọt lại cứu mẹ. Hắn cầm đơn đao nhắm trúng ngay thiên linh cái của Hồ Phỉ chém xuống Hồ Phỉ nghiêng đầu tránh khỏi nhưng bị chuôi đao đập trúng vào trán, đau quá cơ hồ muốn ngất đi. Thương Bảo Chấn sợ mẫu thân bị thương liền vươn tay nhấc cả hai người ra đống lửa. Hắn lại nhằm sau lưng Hồ Phỉ vung đao chém xuống.

Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, thần trí Hồ Phỉ đột nhiên tỉnh ra, gã xoay chân đá một cước trúng vào cổ tay Thương Bảo Chấn. Gã vận toàn lực đá phát thứ hai, hất đối phương ra ngoài năm, sáu trượng khiến Thương Bảo Chấn nhất thời không bò dậy được.

Quần áo Hồ Phỉ đã bị lửa cháy, trán lại đau như muốn vỡ đầu. Gã quát một tiếng thật to, hai tay vung mạnh một cái. Mấy tiếng lách cách vang lên. Gã thoát khỏi bàn tay níu cứng của Thương lão thái. Gã liền lăn dưới đất để dập tắt lửa trên áo.

Thương lão thái tuổi già bị khói lửa nung nóng một hồi làm ngất đi. Mấy tên trang đinh vội dập tắt lửa cháy trên người mụ. Hồ Phỉ tay không chạy vào giữa đám trang đinh. Trong lòng gã rất giận dữ, tự trách:

“Đã gặp lúc thập tử nhất sinh, chiến đấu khốc liệt đến cùng cực mà ta còn nảy dạ thương xót kẻ thù để suýt phải mất mạng thì đúng là vô lý.”

Bây giờ gã không dung tình nữa, đoạt lấy một thanh đơn đao rồi quyền đấm chân đá, đao chém túi bụi khác nào con hổ xông vào đàn dê. Chỉ trong khoảnh khắc, bọn trang đinh bỏ chạy tán loạn. Hồ Phỉ vọt đến trước cửa sảnh đường, đoạt một cây cời lửa trong tay một trang đinh, gạt đống củi lửa trước cửa sảnh văng tứ tung. Gã thấy cánh cửa sắt đã đỏ rực không khỏi kinh hãi nghĩ thầm:

“Nếu then khóa cửa mà cháy liền với cánh cửa này thì đành chịu không sao mở được.”

Trong lúc nguy cấp, gã không kịp nghĩ nhiều, giờ đơn đao lên vận toàn bộ kình vào tay phải, chém mạnh xuống. Chát một tiếng. Khóa cửa rớt xuống liền. Gã dùng sức mạnh quá khiến thanh đơn dao cong lên như cây cung. Hồ Phỉ liệng đơn đao xuống, cầm cây cời lửa móc vào trong vòng cửa kéo mạnh một cái mà cánh cửa vẫn không nhúc nhích. Hố Phỉ trống ngực đánh thình thịch, tự nhủ:

“Chẳng lẽ sắp thành công mà còn hỏng? Cánh cửa này không mở ra được thì làm thế nào?”

Gã lại dùng hết sức giật mạnh một cái. Mấy tiếng kẽo kẹt vang lên , cánh cửa từ từ mở rộng, khói đen lửa đỏ từ phía trong cửa tuôn ra ngoài. Hồ Phỉ không ngờ trong sảnh đường lại cháy dữ thế, vội cất tiếng gọi:

– Triệu bá bá! Ra lẹ đi!

Bỗng thấy trong đám khói mù dày đặc, một người nhảy vọt ra trước, chính là Vương Kiếm Anh. Kế đến bọn Ân Trọng Tương, Từ Tranh, Mã Hành Không, Tôn Cương Phong lục tục chạy theo. Sau cùng là Triệu Bán Sơn ôm Lữ tiểu muội chạy ra. Mọi người quần áo cháy khét lẹt coi rất thảm hại. Lúc này những đồ gỗ trong sảnh đường đều bị lửa sém, bàn ghế đã cháy rồi. Cả rường cột cũng bốc lửa bừng bừng. Thật là thời cơ chỉ cách nhau trong gang tấc. Nếu sau khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà Hồ Phỉ mới phá được cửa thì ắt sẽ có người chết.

Hồ Phỉ thấy Triệu Bán Sơn vẫn bình yên không việc gì, liền nhảy xổ lại gọi luôn mấy tiếng:

– Triệu bá bá! Triệu bá bá!

Triệu Bán Sơn bị cháy hết râu tóc mà vẫn bình tĩnh như thường. Lão tủm tỉm cười, khen ngợi:

– Hảo hài tử!

Bỗng nghe Vương Kiếm Anh la gọi:

– Kiếm Kiệt! Kiếm Kiệt! Ngươi ở đâu?

Triệu Bán Sơn đảo mắt ngó quanh quả nhiên chẳng thấy Vương Kiếm Kiệt đâu. Lão kinh hãi hỏi:

– Chẳng lẽ y còn chưa ra?

Vương Kiếm Anh lại gào lên:

– Người anh em của ta chưa ra được, y chưa ra được.

Lúc này trong sảnh đường cột cháy rồi đổ xuống ngổn ngang. Trong nhà biến thành cái lò lửa. Vương Kiếm Anh tuy thủ túc thâm tình cũng không dám tiến vào cứu viện, chỉ lớn tiếng hô hoán:

– Kiếm Kiệt! Ra lẹ đi! Ra lẹ đi!

Triệu Bán Sơn và Hồ Phỉ cùng nghĩ thầm:

“Nếu hắn có thể ra được thì có lý nào lại không chịu chạy ra?”

Cả hai người bản tính đều có tấm lòng nghĩa hiệp, không nghĩ ngợi nhiều nữa, một già một trẻ không hẹn mà đồng thời xông vào lò lửa để tìm Vương Kiếm Kiệt giữa khói lửa mịt mù. Hồ Phỉ dẫm chân trên gạch nóng bỏng không ngớt nhảy loạn lên. Triệu Bán Sơn giục:

– Hài tử! Người ra đi thôi!

Hồ Phỉ đáp:

– Không! Triệu bá bá ra lẹ đi!

Gã vừa nói mấy câu bỗng nhiên la lớn lên:

– Đây rồi.

Gã cúi xuống lôi Vương Kiếm Kiệt dậy chạy vội ra ngoài. Nguyên Vương Kiếm Kiệt không chịu nổi sức nóng, thò mũi qua lỗ để hít không khí chẳng ngờ một luồng khí đen từ ngoài vòng xông vào khiến hắn ngất đi. Hồ Phỉ bị luồng khói xông phát ho một lúc. Vương Kiếm Kiệt thân hình to lớn khó lòng ôm ngang, chỉ có cách kéo hắn đi mà thôi. Gã kéo Vương Kiếm Kiệt ra đến cửa thì đột nhiên người bên ngoài bật tiếng la hoảng vì thấy cây rường trên nóc nhà cháy rớt thẳng xuống ngay Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ bước lẹ muốn xông ra khỏi cửa nhưng cây rường dài quá, dĩ nhiên không thể nào tránh kịp. Triệu Bán Sơn đằng hắng một tiếng, tiến lên nửa bước ra chiêu “Phiến thông bối”, tay phải đỡ lấy cây rường đang cháy. Cây rường này nặng không dưới bốn, năm trăm cân lại từ trên cao rớt xuống, sức rơi càng khủng khiếp. Triệu Bán Sơn soạc hai chân đứng vững vàng bất động theo thế mã bộ, tay phải đưa ra hứng lấy. Cây rường lửa lại bật lên. Nửa chiêu dưới của “Phiến thông bối” tung nốt ra, tay trái đẩy mạnh cây rường một cái ra ngoài. Bỗng thấy một con rồng lửa từ trong sảnh đường bay vút qua cửa ra ngoài, hơn sáu, bảy trượng mới rơi xuống.

Mọi người ở cửa sảnh đường thấy Triệu Bán Sơn thi triển công phu đó đều ngẩn người ra một lúc mới hò reo vang dội. Cả bọn trang đinh ở Thương gia bảo đứng ở đằng xa thấy thế cũng bật tiếng hoan hô. Vương Kiếm Anh đỡ lấy Vương Kiếm Kiệt vội vàng dập tắt lửa trên quần áo hắn. Trong lòng ngấm ngầm hổ thẹn, tự nhủ:

“Người anh em ruột thịt của mình bị nạn mà mình phải nhờ tay người khác cứu cho.”

Mã Hành Không cùng Từ Tranh ra khỏi thiết sảnh lập tức đi tìm Mã Xuân Hoa nhưng nhìn ngang nhìn ngửa chẳng thấy bóng nàng đâu. Từ Tranh sinh dạ hoài nghi nghĩ bụng:

“Nhất định thị cùng thằng lỏi họ Thương đã đưa nhau tới chỗ kín để làm trò khỉ rồi.”

Gã vừa thoát cảnh chết cháy, lửa hờn ghen trong lòng lại bùng lên. Gã nói:

– Sư phụ! Đệ tử đi kiếm sư muội.

Rồi co giò chạy ngay. Mã Hành Không tuổi đã già, không mau lẹ như bọn trẻ. Lão còn bị lửa khói làm cho đầu nhức mắt hoa, chỉ muốn tìm nơi nằm nghỉ thì đột nhiên sau lưng có một luồng chướng phong ập tới. Cú tập kích đột ngột này hoàn toàn nằm ngoài sự tiên liệu của lão. Phát chưởng đánh tới vừa mạnh vừa mau. Mã Hành Không muốn đỡ cũng không kịp đành phải hít một hơi chân khí để đón lấy. Bình một tiếng. Người lão lảo đảo muốn té, trước mặt bỗng tối sầm lại, toàn thân mềm nhũn ra. Tiếp theo lại bị đá một cước vào mông. Người lão không tự chủ được bị hất vào lò lửa, trong tòa thiết sảnh. Trong lúc mê man, lão nghe Thương lão thái nổi lên tràng cười rộ, miệng nói:

– Kiếm Minh! Kiếm Minh! Rút cục tiện thiếp đã báo thủ cho chàng được một phần.

Một làn hơi nóng trùm kín toàn thân khiến lão ngất đi không biết gì nữa. Triệu Bán Sơn vừa mới cứu tỉnh Lữ tiểu muội bỗng thấy Thương lão thái đột nhiên từ trong đám khói lửa chui ra xuất chiêu hất Mã Hành Không văng vào lò lửa khiến lão không khỏi ngẩn người. Lão thấy Thương lão thái khom người đi vào cửa sảnh đường. Lửa cháy ầm ầm mà tựa hồ mụ không trông thấy. Lão liền lớn tiếng la:

– Ra lẹ đi! Mụ muốn chết hay sao?

Lão vừa dứt lời, lại một cây rường nhà rất lớn lửa cháy rừng rực rớt xuống. “Uỳnh” một tiếng vang dội. Khói lửa bay tung bốn mặt, bít kín lấy cửa sảnh đường. Thương lão thái ôm thanh Tử kim Bát Quái đao, mặt lộ vẻ tươi cười, ngồi ngay ngắn giữa đống lửa. Toàn thân mụ quần áo đầu tóc đã bén lửa mà tựa hồ mụ không biết đau đớn gì cả. Trong bụng mụ nghĩ thầm:

“Tâm nguyện trả thù của ta dù chưa trọn nhưng ta cũng nên sớm đi gặp Kiếm Minh.”

Triệu Bán Sơn buông tiếng thở dài, lấy lòng cảm khái nghĩ thầm:

“Lão thái thái này tuy là nữ lưu mà tính tình cương liệt hơn cả bọn mày râu.”

Lão lại nghĩ tới cuộc đông du phen này ngẫu nhiên được quen biết một chàng thiếu niên anh hùng kể ra cũng không uổng. Lão thấy bọn Tôn Cương Phong, Vương Kiếm Anh đang tíu tít, liền quay lại bảo Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta đi thôi. Cùng đi một đường có được không?

Hồ Phỉ đáp:

– Hay lắm! Hay lắm!

Trong tâm hồn trẻ thơ của gã, gã đã nhìn thấy cõi đời thật lắm chuyện biến ảo khôn lường. Cuộc trả thù của Lữ tiểu muội là vậy, cuộc trả thù của Thương lão thái lại là thế. Gã cùng Triệu Bán Sơn dắt tay nhau đi. Hai người cùng yên lặng với nhiều tâm sự.

Hai người đi được chừng một dặm, quay đầu nhìn lại thấy Thương gia bảo lửa cháy rực trời. Triệu Bán Sơn nói:

– Tiểu huynh đệ! Những việc bữa nay thật là thê thảm. Có phải thế không? Tính tình Thương lão thái, hỡi ôi!

Lão nói xong lại lắc đầu. Hồ Phỉ nói:

– Triệu bá bá!…

Triệu Bán Sơn quay đầu lại, ngắt lời:

– Tiểu huynh đệ! Bữa nay ta cùng tiểu huynh đệ bèo nước gặp nhau, ý hợp tâm đầu. Tuy ta lớn tuổi hơn nhưng thấy tiểu huynh đệ là người nghĩa hiệp nhân hậu nên thật lòng kính phục. Sau này tiểu huynh đệ tất lừng danh thiên hạ, khi nào ta dám tự coi mình vào hàng trưởng bối?

Lúc này trời vừa hửng sáng. Dưới ánh triều dương, gương mặt Triệu Bán Sơn vừa lộ về trang nghiêm lại vừa thành khẩn. Hồ Phỉ mặt đầy tro bụi cùng vết máu, nghe lão nói mấy câu, bất giác mặt đỏ đến tận mang tai, lại hô:

– Triệu bá bá!

Triệu Bán Sơn xoa tay ngắt lời:

– Từ nay ba chữ “Triệu bá bá” tiểu huynh đệ đừng thốt ra nữa. Ta cùng cùng tiểu huynh đệ kết nghĩa anh em khác họ được chăng?

Thử nghĩ Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn thân phận và oai danh trên chốn giang hồ lừng lẫy thế nào, bữa nay muốn kết nghĩa kim bằng với một người nhỏ tuổi hơn nhiều thì thật là một chuyện phi thường. Không phải lão nhằm vào võ công của Hồ Phỉ mà là kính trọng lòng nhân hiệp xả thân cứu người của gã. Lão nhận thấy gã tuy còn nhỏ tuổi mà hành vi giống hệt những anh em ở Hồng Hoa hội. Hồ Phỉ nghe Triệu Bán Sơn nói vậy, trong lòng xiết bao cảm kích, bất giác hai hàng nước mắt tuôn rơi. Gã nhảy xổ lại sụp lạy, miệng hô:

– Triệu… Triệu…

Triệu Bán Sơn cũng quỳ xuống đáp lễ nói:

– Hiền đệ! Từ nay hiền đệ kêu ta bằng tam ca là được.

Thế rồi một già một trẻ, cả hai vị anh hùng lấy đất làm hương cùng lạy nhau tám lạy giữa cảnh đồng không. Triệu Bán Sơn trong lòng rất hoan hỷ. Lão chúm môi huýt lên một tiếng dài. Bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp từ phía tây chạy đến. Con bạch mã này tung vó lao nhanh như bay, chỉ trong chớp mắt đã đến trước mặt. Hồ Phỉ cất tiếng khen:

– Thật là thần mã!

Triệu Bán Sơn nghĩ bụng:

“Đáng tiếc con ngựa này của Tứ đệ muội, mà cô lại quý nó như tính mạng, nếu không thì chỉ một câu khen đó dĩ nhiên ta đã tặng cho y rồi.”

Rồi lão mỉm cười chứ không giải thích, hỏi lại:

– Hiền đệ! Nơi đây hiền đệ còn việc gì nữa không?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu đệ đến nói với Bình tứ thúc một tiếng rồi đưa chân tam ca một đoạn đường.

Triệu Bán Sơn cũng quyến luyến không nỡ chia tay với gã ngay, liền nói:

– Thế thì hay lắm.

Lão dắt ngựa sóng vai cùng đi với Hồ Phỉ. Vừa qua sườn núi bỗng thấy một người đứng sau gốc cây lớn đang thập thò dường như nhìn trộm chuyện gì. Hồ Phỉ ngó sau lưng hắn đã nhận ra là ai liền nói khẽ:

– Đó là Từ Tranh.

Rồi gã nghĩ bụng:

“Sư phụ hắn bị chết thảm trong lửa mà chẳng hiểu hắn lại lén lút định làm chuyện gì ở đây?”

Đoạn gã liền nói khẽ:

– Để tiểu đệ lại coi xem

Gã lẳng lặng tiến về phía trước đi tới sau lưng Từ Tranh. Hắn đang ngơ ngẩn xuất thần, không biết phía sau có người đến. Chỉ thấy dưới gốc cây phía trước cách đó mười trượng, một đôi nam nữ đang gồi tựa vai kề, thái độ cực kỳ thân mật.

Hồ Phỉ ngưng thần nhìn kỹ, thì ra người đàn ông là Phúc công tử, tân khách của Thương gia bảo, còn thiếu nữ chính là Mã Xuân Hoa. Phúc công tử một tay ôm lưng nàng, không ngớt hôn vào mặt. Mã Xuân Hoa người bủn rủn tựa vào lòng chàng trai, thì thầm không hiểu nói chuyện gì. Hồ Phỉ còn nhỏ tuổi chưa hiểu mấy về chuyện nam nữ, gã đứng coi thấy cũng thú vị nên bất giác cười thầm, nghĩ bụng:

“Mã cô nương kia quen biết chàng công tử này mới có một ngày mà đã thân mật với nhau quá.”

Bỗng nghe mấy tiếng “Hừ hừ” quái dị từ miệng Từ Tranh phát ra. Nguyên hắn đang nghiến răng nghiến lợi, lại đưa quyền lên không ngớt đấm vào ngực mình, ra chiều phẫn nộ đến cực điểm. Hồ Phỉ cười hỏi:

– Từ đại ca! Đại ca ra đây làm chi?

Từ Tranh đang để hết tính thần vào Mã Xuân Hoa nên Hồ Phỉ nói gì hắn cũng không nghe thấy. Đột nhiên Từ Tranh quát lớn:

– Ta liều mạng với ngươi đây!

Rồi rút lưỡi đao ở sau lưng xông về phía Phúc công tử. Hồ Phỉ tuy là người  thông minh lanh lợi nhưng tuyệt không hiểu gì về chuyện tư tình rắc rối này. Gã chỉ mơ hồ hiểu rằng Mã Xuân Hoa là người xinh đẹp, nên đêm trước Thương Bảo Chấn đã trò chuyện với nàng, rồi bữa nay Phúc công tử cũng cùng Từ Tranh lại vì nàng mà đánh nhau.

Nguyên Phúc Công tử cùng Mã Xuân Hoa lén trốn ra khỏi nhà đại sảnh rồi, sợ bị người nhìn thấy nên đưa nhau tới dưới gốc cây dương lớn này ôm ấp nhau, thủ thỉ những lời thân mật. Đôi trai gái mải miết trong cuộc hoan lạc, không hay biết phương đông trời đã sáng rồi. Tại Thương gia bảo xảy ra cuộc náo loạn trời long đất lở, hai người cũng chẳng hay biết gì. Đột nhiên thấy Từ Tranh toàn thân cháy xem tóc tai rồi bời cầm đao xông tới, hai người giật mình đứng phắt dậy. Từ Tranh cặp mắt cơ hồ tóe lửa, vung đao chém tới, lực đạo cực kỳ mãnh liệt. Phúc công tử võ nghệ tầm thường, thấy thanh cương đao bổ xuống đầu hốt hoảng lùi lại. Nhát đao của Từ Tranh chém mạnh quá. Bỗng nghe chát một tiếng. Lưỡi đao ngập sâu vào thân một cây dương lớn không rút ra ngay được. Mã Xuân Hoa vội hỏi:

– Sư huynh làm gì vậy? Sư huynh làm gì vậy?

Từ Tranh tức giận đáp:

– Làm gì ư? Ta phải giết tên tiểu tử này.

Hắn vận nội lực giật mạnh một cái. Thanh đao dời khỏi thân cây dương bắn ngược lại đánh “binh” một tiếng. Sống đao đụng vào trán hắn. Mã Xuân Hoa giật mình kinh hãi la lên:

– Coi chừng! Sư huynh có đau không?

Từ Tranh vận kình đẩy nàng ra quát:

– Ngươi đừng có giả vờ làm hảo nhân nữa.

Hắn sấn lại giơ đao chém Phúc công tử. Mã Xuân Hoa thấy anh chàng sư ca từ trước đến giờ đối với mình không dám trái ý nửa lời mà lúc này đột nhiên như kẻ phát khùng, nàng biết lửa ghen đốt cháy tâm can nên hắn không kiềm chế được. Nàng vừa hổ thẹn lại vừa nóng nảy, liền bước tới đứng trước mặt hắn hai tay chống nạnh, nói:

– Sư ca! Sư ca muốn giết người thì giết tiểu muội trước.

Từ Tranh thấy nàng vẫn có ý che chở cho Phúc công tử thì càng tức giận như điên, lớn tiếng quát:

– Ta giết gã trước rồi giết ngươi sau.

Tay trái hắn đẩy vai Mã Xuân Hoa một cái. Mã Xuân Hoa loạng choạng suýt té nhào. Nàng tiện tay lượm một cành khô dưới đất vừa đỡ gạt đơn đao vừa nhìn Phúc công tử la lên:

– Công tử chạy mau đi! Chạy mau đi!

Phúc công tử không hiểu nàng và Từ Tranh là đôi vợ chồng sắp cưới, liền lớn tiếng đáp:

– Thằng cha này phát điên rồi. Nàng phải coi chừng.

Đồng thời gã tránh xa ra. Từ Tranh múa tít đơn đao. Chỉ mấy chiêu đã chém gãy cành cây khô của Mã Xuân Hoa. Hắn quát lớn:

– Ngươi mà không tránh ra thì đừng trách ta vô tình.

Mã Xuân Hoa bỏ khúc cây khô bị chém gãy xuống đất, quay đầu lại đưa vào lưỡi đao của Từ Tranh đáp:

– Sư ca! Kiếp này tiểu muội không thể làm vợ của sư ca được. Sư ca chém một đao giết tiểu muội đi.

Từ Tranh giận tím mặt lại quát:

– Ta… ta…

Tay trái hắn chụp lấy trước ngực Mã Xuân Hoa miệng không nói nên lời. Hồ Phỉ thấy gã một tay cầm đơn đao múa lên, vẻ mặt cuồng nộ, chỉ sợ hắn không dằn lòng được, thuận tay chém chết Mã Xuân Hoa. Gã lạng mình một cái đứng ngăn giữa hai người. Gã lại đưa tay trái ra nắm ngực Từ Tranh đẩy nhẹ một cái khiến hắn lùi ra ba bước rồi nói:

– Từ đại ca! Người nào trong thiên hạ mà muốn đụng đến một sợi tóc của Mã cô nương thì hãy giết Hồ Phỉ này đi đã.

Từ Tranh sửng sốt, quát lớn:

– Ngươi… ngươi… Cả thằng lỏi miệng còn hơi sữa này mà cũng rủ rê thị nữa ư?

Bỗng nghe đánh “bốp” một tiếng. Mã Xuân Hoa đã vọt tới tát Từ Tranh một cái nhớ đời. Từ Tranh một là đang nổi cơn thịnh nộ, thần trí hồ đồ, hai là Hồ Phỉ đứng giữa che mất tầm nhìn của hắn nên không kịp tránh, bị một cái tát, mặt sưng vù lên.

Hồ Phỉ không hiểu ý tứ câu nói của Từ Tranh, cũng không hay tại sao Mã Xuân Hoa nổi cơn tức giận. Trong lòng gã chỉ nghĩ tới lúc mình bị Thương lão thái trói lại tra khảo, Mã Xuân Hoa đã năn nỉ Thương Bảo Chấn, sau lại yêu cầu y tha cho mình. Tuy gã đã thoát khỏi dây trói từ trước nhưng gã vẫn ghi lòng tạc dạ ơn che chở của nàng. Bây giờ thấy Mã Xuân Hoa tranh chấp với sư ca, gã liền hết sức bảo vệ cho nàng.

Từ Tranh đã chứng kiến cuộc động thủ giữa Hồ Phỉ và Vương thị huynh đệ tự biết võ công của mình còn kém gã xa, nhưng trong lòng đã bị kích động đến cực điểm, tính mạng hắn còn chẳng kể, còn đâu nghĩ tới chuyện thắng bại? Từ Tranh cầm đơn đao chém xuống liên tục ba nhát vào đầu, cổ và vai của Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không tiến cũng không thoái, vẫn đứng nguyên một chỗ, nghiêng mình vào khe đao để né tránh. Đột nhiên gã vung tay trái đấm một quyền vào sống mũi Từ Tranh. Từ Tranh vội giơ đao lên quét ngang một cái để chém cánh tay đối phương, Hồ Phỉ mới đánh thoi quyền ra được nửa chừng đột nhiên xoay lại nắm lấy cổ tay Từ Tranh thuận đà vặn đi một cái, đoạt được đơn đao.

Hồ Phỉ quay lại đưa đao cho Mã Xuân Hoa, xoay lưng về phía Từ Tranh. Gã ỷ mình nghề cao mật lớn, nên đối với Từ Tranh không thèm đề phòng gì cả. Từ Tranh biết rằng có đấu nữa cũng bằng vô dụng. Hắn liền buông tiếng thở đài rồi không nhịn được nữa, đột nhiên cất tiếng bi thương:

– Sư phụ hỡi sư phụ! Lão nhân gia chết thật là thê thảm!

Rồi hắn bưng mặt xoay mình bỏ đi. Mã Xuân Hoa giật mình kinh hãi bảo:

– Sư ca bảo sao?

Nàng cầm đao rượt theo. Từ Tranh không đáp, cứ cắm đầu rảo bước. Mã Xuân Hoa hỏi liền mấy câu:

– Gia gia làm sao? Gia gia làm sao? Sư huynh bảo gia gia chết thảm là sao?

Nàng tiếp tục rượt theo. Phúc công tử đứng đằng xa không nghe rõ câu chuyện đối đáp giữa hai người, chỉ thấy Mã Xuân Hoa rượt theo Từ Tranh, hắn nóng lòng lớn tiếng gọi:

– Xuân muội! Xuân muội! Trở lại đây. Đừng lý gì đến hắn.

Mã Xuân Hoa lo lắng chuyện phụ thân, cứ mặc Phúc công tử hô hoán, vẫn chạy theo hỏi Từ Tranh. Phúc công tử thấy thanh cương đao đã nằm trong tay Mã Xuân Hoa, nên không còn sợ Từ Tranh nữa, cũng cất bước chạy theo. Hắn đuổi được mười mấy bước, bỗng thấy một người từ sau gốc cây bước ra.

Người này lối ngoài năm chục tuổi, thân thể to béo, để ria mép, chính là Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn. Phúc công tử vừa thấy lão mặt đã tái mét, sợ quá không nói nên lời. Triệu Bán Sơn cười hỏi:

– Phúc công tử mạnh giỏi chứ?

Phúc công tử chắp hai tay gượng gạo đáp:

– Triệu tam đương gia, tam gia khỏe chứ?

Y không đám nhìn xem Mã Xuân Hoa như thế nào, mà xoay mình đi ngay, lảng ra xa mấy chục trượng, còn quay đầu nhìn lại Triệu Bán Sơn một lần nữa rồi tăng gia cước bộ chạy nhanh hơn. Trong khoảnh khắc, Phúc Công tử chạy vẻ hướng bác. Từ Tranh và Mã Xuân Hoa chạy về phía nam đều mất hút cả rồi. Chỉ còn Triệu Bán Sơn khóe miệng vẫn mỉm cười và Hồ Phỉ thần sắc bâng khuâng. Hai người đứng nhìn nhau trên chỗ sườn núi cao. Hồ Phỉ hỏi:

– Tam ca! Dường như Phúc công tử có quen biết tam ca và y có vẻ sợ tam ca lắm?

Triệu Bán Sơn mỉm cười đáp:

– Không sai! Y đã lọt vào tay bọn ta và nếm mùi đau khổ rồi.

Nguyên Phúc công tử tên gọi Phúc Khang An được đương kim hoàng đế Càn Long cực kỳ sủng ái. Y là con tư sinh của nhà vua nên Càn Long sủng ái hơn mọi quần thần.

Phúc Khang An từng bị quần hùng ở Hồng Hoa hội bắt được rồi yêu sách nhà vua phải trùng tu chùa Thiếu Lâm và từ đó triều đình không dám làm khó dễ gì tổ chức này. Vụ này xảy ra cách đây đã mấy năm, nay đột nhiên Phúc Khang An lại gặp Triệu Bán Sơn ở đây thì cho là quần hùng trong Hồng Hoa hội đã từ Hồi Cương tiến vào phía đông. Dù bên mình y có bao nhiêu hảo thủ võ lâm hộ vệ cũng chẳng thể địch nổi quần hùng nên y sợ đến hồn xiêu phách lạc, khi nào còn dám đuổi theo Mã Xuân Hoa nữa? Phúc công tử liền cùng bọn Vương Kiếm Anh hội họp rồi hối hả trở về Bắc Kinh không dám chần chờ.

Hồ Phỉ thấy Phúc Khang An không hiểu võ nghệ, gã không chú ý gì đến y nên cũng không hỏi lai lịch nữa, Triệu Bán Sơn cầm tay Hồ Phỉ đi chừng hơn dặm thì đến một quán trà bên đường. Triệu Bán Sơn nói:

– Hiền đệ tiễn đưa ngàn dặm rồi cũng đến lúc phải phân ly. Chúng  ta chia tay chỗ này thôi.

Hồ Phỉ tuy quyến luyến không nỡ chia tay, nhưng gã là người khoát đạt, mau lẹ, liền nói:

– Phải, tam ca, mấy năm nữa tiểu đệ lớn thêm vài tuổi sẽ đến Hồi Cương tìm gặp tam ca.

Triệu Bán Sơn gật đầu đáp:

– Ta về Hồi Cương chờ hiền đệ.

Dứt lời lão móc trong bọc ra một bông hồng lớn bằng nhung đỏ nói:

– Hiền đệ! Anh hùng hảo hán trong thiên hạ nhìn thấy bông hoa này liền biết là tín vật của tam ca. Gặp trường hợp hiền đệ cần người hay cần tiền cứ cầm bông hoa này mà hỏi bạn hữu ở các nơi là được.

Hồ Phỉ đón lấy bông hoa cất vào bọc, nghĩ thầm trong bụng:

“Ngày sau ta muốn học thành bản lãnh như tam ca chưa chắc đã phải chuyện khó, nhưng học được mối giao tình với bạn hữu khắp thiên hạ như vậy thì thật không phải là chuyện dễ dàng.”

Triệu Bán Sơn vào quán trà rót hai chung lớn, đưa cho Hồ Phỉ một chung nói:

– Dùng trà thay rượu. Hiền đệ hãy uống hết chung này.

Hai người cầm chung trà lên, ngửa cổ uống cạn ngay. Triệu Bán Sơn đặt chung xuống, tay cầm dây cương nói:

– Hiền đệ! Lúc lâm biệt tam ca muốn hỏi hiền đệ một câu.

Hồ Phỉ đáp:

– Xin tam ca cứ hỏi.

Triệu Bán Sơn hỏi:

– Ngoài Thương gia bảo, hiền đệ còn cừu nhân nào lợi hại nữa không?

Hồ Phỉ run lên nghĩ thầm:

“Không biết kẻ nào hại gia gia mình? Hắn đã giết được gia gia, dĩ nhiên võ công không phải tầm thường. Nhưng nếu tam ca mà biết ta chưa trả được mối đại thù, tất điều tra ra họ tên cừu nhân. Tam ca lại coi trọng nghĩa khí, nhất định đi tìm hắn để quyết đấu. Một là ta không thể mượn người trả mối đại thù giết cha, hai là việc gì phải để tam ca dấn thân vào chỗ hiểm nguy?”

Tuy gã còn nhỏ tuổi nhưng trong lòng đầy ngạo khí, ngẩng đầu lên đáp:

– Không phiền tam ca phải quan hoài. Dù cho kẻ cừu địch là ai đi nữa, tiểu đệ tự mình lo liệu được.

Triệu Bán Sơn cười ha hả, chìa ngón tay cái lên nói:

– Hay lắm!

Rồi lão tung mình nhảy lên ngựa cho chạy về hướng tây, còn nghe tiếng lão từ đằng xa vọng lại:

– Cái gói nhỏ trên phiến đá là của ca ca tặng cho hiền đệ.

Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thấy một cái bọc để trên phiến đá. Bọc này lúc trước Triệu Bán Sơn đeo ở yên ngựa. Gã nhấc lên thấy năng trĩu vội cởi ra xem thì toàn là hoàng kim sáng lóa cả mắt. Cả thảy đến hai chục đĩnh vàng, mỗi đĩnh nặng tới hai mươi lạng, cộng là bốn trăm lạng hoàng kim. Hồ Phỉ cười ha hả, nghĩ bụng:

“Ta nghèo mà tam ca giàu. Tam ca tặng hoàng kim dĩ nhiên ta không thể chối từ. Tam ca sợ ta không nhận nên sau khi tặng vàng rồi liền chạy đi. Thì vẫn còn coi Hồ Phỉ này là đồ con nít.”

Gã quay lại thấy vó ngựa chạy nhanh, bụi cát tung lên mịt mờ cả mấy dặm. Gã nghĩ tới bữa nay kết giao được một người bạn tâm can bất giác mừng rỡ khôn xiết. Gã xách bọc vàng, miệng nghêu ngao hát một khúc sơn ca, chân rảo bước.

Hồ Phỉ đến kiếm Bình A Tứ chia cho lão hai trăm lạng hoàng kim, bảo lão trở về Thương Châu trước. Còn gã tự mình ngao du thiên hạ, hàng ngày tập quyền luyện đao, rèn luyện khí lực. Gã tham chiếu yếu quyết võ học mà Triệu Bán Sơn đã truyền thụ để nghiên cứu võ công gia truyền trong cuốn “Quyền kinh đao phổ”.

Chương 05: Máu loang mặt đá

Mấy năm sau, Hồ Phỉ thân hình đã cao lớn, khí lực cũng mạnh mẽ, kiến thức cùng võ công ngày một tăng tiến. Bốn bể là nhà, chàng ung dung tự tại, đi đâu cũng làm điều nghĩa hiệp, cứu khốn phò nguy, không biết đã làm nên bao nhiêu chiến tích. Chàng tính tình hào sảng, Triệu Bán Sơn tặng cho hai trăm lạng vàng, chàng đã tiêu hết sạch sành sanh.

Đến một ngày kia, Hồ Phỉ nghe nói Quảng Đông là nơi trù phú náo nhiệt lại nhiều hào khách hiệp sĩ. Gặp lúc ung dung nhàn rỗi, chàng cưỡi con ngựa gầy xuyên qua Lĩnh Nam tiến tới.

Một hôm chàng đến trấn Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông. Phật Sơn cùng với Chu Tiên, Cảnh Đức, Hán Khẩu là bốn đại trấn trong thiên hạ. Cư dân nơi đây đều giàu có, sản vật lại phong phú nên thị trấn càng tấp nập. Hồ Phỉ tới thị trấn vào lúc giữa trưa, trong bụng đói ngấu, bỗng ngó thấy mé nam có tòa đại tửu lâu rộng ba gian, treo biển đề ba chữ “Anh hùng lâu” nên đỏ chữ vàng. Phía trong cửa sổ, tiếng đũa chén đụng nhau vang lên rổn rảng. Mùi rượu thơm thịt béo tỏa ra sực nức. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Tấm biển tòa tửu lâu này thật là lạ.”

Chàng thò tay sờ trong mình chỉ còn được hơn trăm đồng tiền, bụng bảo dạ:

“Bữa nay không uống rượu được rồi, hãy ăn tạm một bát mì cho no bụng rồi tính”

Chàng liền buộc ngựa vào cọc trước tửu lâu toan đi thẳng lên lầu. Tiểu nhị thấy chàng quần áo cũ mèm liền lộ vẻ không thích, đưa tay ra chặn lại hỏi:

– Khách quan, trên lâu toàn chỗ khách sang. Khách quan không ngại đắt tiền ư?

Hồ Phỉ nghe nói, khí tức xông lên, bụng bảo dạ:

“Cái chiêu bài của các ngươi bảo đây là “Anh hùng lâu” mà lại đối với bằng hữu nghèo bằng thái độ chó má thế này. Ta không làm cho chúng một phen thất điên bát đảo thì Hồ Phỉ này uổng danh là đấng anh hùng.”

Chàng cười khanh khách đáp:

– Chỉ cần rượu ngon nhắm tốt, còn giá tiền không ngại.

Tửu bảo nửa tin nửa ngờ, đưa mắt nhìn chàng lên lầu. Bàn ghế trên lầu rất sạch sẽ. Thực khách toàn người ăn mặc sang trọng, mười người có đến chín là đại phú thương. Bọn tiểu nhị coi bộ dạng Hồ Phỉ biết chàng chẳng làm gì có tiền thưởng bọn chúng nên để chàng ngồi trơ hồi lâu vẫn không lại chào mời. Hồ Phỉ ngấm ngầm tìm cách gì thú vị để ăn không một bữa.

Đột nhiên ngoài đường phố nổi lên trận náo loạn. Một nữ nhân vừa cười hố hố vừa vỗ tay đi tới. Hồ Phỉ ngồi bên cửa sổ, đưa mắt nhìn ra đường thì thấy một phụ nhân đầu bù tóc rối, mặt mũi áo quần, tay chân dính đầy vết máu. Tay mặt mụ cầm con dao thái rau. Mụ khóc một trận, lại cười một hồi dậm chân trỏ tay. Thì ra đó là một người điên.

Khách qua đường dừng lại coi chỉ đứng xa mà nhìn, trên mặt họ lộ vẻ sợ hãi, nhiều người lại ra chiều thương xót, nhưng không ai dám đến gần người điên kia. Người đàn bà đó trỏ vào tấm chiêu bài “Anh hùng lâu” vỗ tay cười rộ, nói:

– Phụng lão gia! Lão gia sống lâu trăm tuổi, phú quý song toàn. Mụ già này bái lạy, cầu Hoàng thiên có mắt bảo vệ cho lão gia.

Mụ nói rồi quỳ xuống đất đập đâu binh binh, trán đầy máu tươi mà mụ chẳng lộ vẻ đau đớn chút nào. Mụ vừa dập đầu vừa nói tiếp:

– Phụng lão gia! Lão gia ngày được một đấu vàng, đêm được một đấu bạc, được đại phú đại phú, trăm con ngàn cháu.

Trong tửu lâu, có bóng người thấp thoáng bước ra, tay cầm cái dọc tẩu rất dài, ra dáng là một chưởng quỹ. Hắn chỉ vào người đàn bà, thóa mạ:

– Chung Tứ tẩu! Mụ nổi cơn điên rồi! Về nhà đi thôi, đừng ở đây làm quý khách mất cả nhã hứng ăn uống.

Người đàn bà được gọi là Chung Tứ tẩu kia không lý gì đến lão chưởng quỹ vẫn lúc khóc lúc cười hướng về phía tửu lâu mà dập đầu. Lão chưởng quỹ vẫy tay một cái. Hai tên hán tử to lớn trong tửu lâu đi ra. Một tên đoạt lấy con dao thái rau của mụ, còn một tên đẩy mạnh một cái khiến người mụ lăn ra giữa đường phố. Chung Tứ tẩu lồm cồm bò dậy, vẻ mặt ngơ ngác, hồi lâu không nói gì. Đột nhiên mụ đấm ngực khóc rống lên, gào liên hồi:

– Thằng con Tiểu Tam bảo bối kia! Ngươi chết thật là khổ sở. Lão thiên gia có mắt, ngươi đừng có trộm ngỗng nhà người ta mà ăn.

Hán tử đoạt con dao thái rau của mụ, giơ lên nạt:

– Mụ còn nói nhăng nói cuội là ta chém một dao bây giờ.

Chung Tứ tẩu chẳng mảy may sợ hãi, vẫn kêu gào khóc lóc. Chưởng quỹ thấy những người hàng phố đều lộ vẻ đồng tình với mụ, lão liền rít một hơi thuốc sòng sọc, nhả ra một luồng khói trắng rồi vẫy tay ra hiệu cho hai hán tử kia trở vào tửu lâu.

Hồ Phỉ thấy chưởng quỹ khinh khi một người đàn bà đã muốn nổi nóng, nhưng nghĩ đây là người điên, không thể nói phải trái cho nghe được. Bỗng nghe ở bàn phía sau, hai tửu khách đang thì thầm bàn chuyện. Một người nói:

– Vụ này Phụng lão gia nóng nảy quá. Lão gia bức tử một mạng người e rằng sẽ gặp báo ứng.

Hồ Phỉ nghe “bức tử một mạng người” thì trong lòng run lên. Lại nghe người kia nói:

– Cái đó cũng không phải lỗi ở Phụng lão gia. Trong nhà mất cắp người ta có tra hỏi cũng là chuyện thường. Ai bảo mụ điên khùng này mổ bụng moi ruột đứa con thân sinh của mình?

Hồ Phỉ nghe nói mấy câu sau cũng không nhẫn nại được nữa, xoay mình lại ngay. Chàng thấy hai người vừa nói đều vào trạc bốn mươi tuổi. Một người mập ú, một người gầy nhom. Cả hai cùng mặc áo trường bào bằng gấm đoạn. Coi cách ăn mặc đều ra vẻ là chủ tiệm buôn giàu có. Hai người thấy Hồ Phỉ quay lại, đưa mắt nhìn nhau, không nói gì nữa Hồ Phỉ biết loại người này rất nhát gan, sợ phiền lụy, nếu chàng có hỏi thế nào họ cũng chối phắt là không biết chứ chẳng khi nào kể rõ đầu đuôi. Chàng liền đứng dậy chắp tay vẻ mặt niềm nở hỏi:

– Hai vị lão bản! Từ buổi chia tay ở Quảng Châu đến nay, thấm thoát đã mấy năm chưa được gặp mặt. Hai vị mạnh giỏi a?

Hai người này vốn không quen biết chàng, nghe khẩu âm lại là người tỉnh khác nên rất lấy làm lạ. Nhưng người buôn bán lấy chuyện hòa khí sinh tài nên vội chắp tay đáp lễ:

– Ông bạn mạnh giỏi a?

Hồ Phỉ cười nói:

– Chuyến này tiểu đệ đến trấn Phật Sơn đem đi một vạn lạng bạc, tưởng mua một chuyến hàng nhưng đất lạ người đông còn đang ngần ngại. Bữa nay may mắn gặp được hai vị, xin nhờ hai vị giúp cho. Khách hàng của tiểu đệ tuy ra vẻ người có tiền nhưng một vạn lạng bạc chẳng phải tầm thường mà không đưa vào chỗ chắc chắn thì thật là phiền. Mong hai vị giúp cho.

Hai người kia nghe nói đến bốn chữ “một vạn lạng bạc” đã khấp khởi mừng thẩm, đồng thanh đáp:

– Vậy mời lão huynh đệ qua đây uống với nhau một chung rồi thủng thẳng nói chuyện được chăng?

Hồ Phỉ chỉ mong hai người nói ra câu đó, chẳng còn làm vẻ khách sáo, liền bước qua ngay. Vừa ngồi xuống, chàng chộp hỏi ngay:

– Vừa rồi nghe hai vị nói tới vụ bức tử nhân mạng gì đó, tiểu đệ muốn thỉnh giáo.

Hai người biến sắc toan chối từ thì Hồ Phỉ đã luồn tay xuống gầm bàn, đưa từ tả qua hữu chộp lấy cổ tay từng người bóp mạnh một chút. Hai người “ối” một tiếng, sắc mặt lập tức trắng bệch. Tiểu nhị đứng ở đầu cầu thang và các thực khách nghe tiếng la đều quay đầu nhìn lại. Hồ Phỉ khẽ quát:

– Không được lên tiếng!

Hai người làm sao dám chống lại đành gượng cười. Mọi người thấy chẳng có chuyện gì cũng không chú ý đến nữa. Cổ tay hai người bị Hồ Phỉ nắm giữ khác nào vành đai sắt, không nhúc nhích được. Hồ Phỉ khẽ nói:

– Tại hạ vốn là một tên đại đạo giết người không nháy mắt, nhưng hiện nay đã cải tà quy chính, học nghề buôn bán làm ăn, cần một vạn lạng bạc mua hàng mà không có tiền, xin mượn mỗi vị năm ngàn lạng.

Hai người giật mình kinh hãi, đồng thanh ấp úng đáp:

-Tiểu nhân… tiểu nhân… không có…

Hồ Phỉ nói:

– Được rồi! Các vị đem vụ Phụng lão gia bức tử nhân mạng nói cho tại hạ hay. Vị nào nói được rành mạch rõ ràng, tại hạ không cần mượn tiền nữa. Vạn lạng bạc này sẽ lấy ở nơi khác.

Hai người tranh nhau đáp:

– Tiểu nhân xin nói! Tiểu nhân xin nói!

Lúc trước chẳng ai chịu nói, bây giờ sợ một mình phải gánh một vạn lạng bạc, nên giành nhau nói, chỉ sợ mình nói sau. Hồ Phỉ thấy mình chơi kiểu này thu được kết quả, liền tủm tỉm cười. Chàng nghe tiếng nói của gã phương bắc rõ ràng hơn liền trỏ vào hắn bảo:

– Ông bạn mập nói trước đi! Lát nữa sẽ tới lượt ông bạn ốm. Vị nào nói không được rõ ràng tức là trái chủ ý của lão gia.

Dứt lời chàng buông cổ tay hai người, cởi bọc đeo trên lưng xuống, mở ra ly thanh cương đao sáng loáng. Chàng cầm lấy đôi đũa bằng ngà voi ở trên bàn khẽ chạm vào lưỡi đao. Đôi đũa lập tức gãy thành bốn đoạn. Hai người khác kinh hãi nhìn nhau, miệng há hốc ra không ngậm lại được, trống ngực đập thình thịch không ngớt. Hồ Phỉ đưa hai tay lên đầu hai người sờ, tựa hồ để tìm bộ vị xuống đao. Hai người sợ quá, mặt cắt không còn hạt máu. Hồ Phỉ gật đầu, tự nói để mình nghe:

– Hay lắm! Hay lắm!

Rồi chàng cất đao vào bọc. Nhà buôn mập vội nói:

– Thiếu gia! Tiểu nhân xin nói, bảo… bảo đảm nói rành mạch hơn y.

Nhà buôn ốm cũng lên tiếng:

– Cái đó chưa chắc. Hãy để tiểu nhân nói trước cho.

Hồ Phỉ sa sầm nét mặt, dằn giọng:

– Ta đã bảo để y nói trước. Làm gì mà ngươi quýnh quáng lên thế?

Nhà buôn ốm vội nói:

– Dạ phải! Dạ phải!

Hồ Phỉ hỏi:

– Ngươi không nghe lời ta dặn, phải phạt mới được.

Nhà buôn ốm chẳng còn hồn vía nào nữa, nhưng nhà buôn mập lại lộ vẻ tươi lên. Hồ Phỉ nói tiếp:

– Rượu nhắm sơ sài thế này sao phải đạo thết khách? Mau kêu lấy một mâm rượu hạng nhất đem ra đây.

Nhà buôn ốm thấy phạt nhẹ khác nào được lệnh đại xá, liền kêu tiểu nhị lại bảo dọn một mâm rượu thịnh soạn đáng giá năm lạng bạc. Tiểu nhị thấy Hồ Phỉ ngồi chung với bọn này lấy làm kinh ngạc. Gã nghe nói dọn một mâm cơm rượu đến năm lạng bạc liền hớn hở mặt mày, vâng dạ liên thanh.

Hồ Phỉ thò đầu ra ngoài cửa sổ nhìn xuống đường thấy mụ Chung Tứ tẩu đầu tóc rũ rượi ngồi dưới đường phố đối diện. Mụ ngửng đầu trông trời, miệng cứ lảm nhảm mà không hiểu nói gì. Nhà buôn mập nói:

– Thiếu gia! Tiểu nhân thuật lại vụ này, nhưng thiếu gia đừng cho ai hay là tiểu nhân nói.

Hồ Phỉ chau mày đáp:

– Ngươi không nói thì thôi, để cho y nói vậy.

Nói xong, chàng quay qua nhà buôn ốm. Nhà buôn mập vội nói:

– Tiểu nhân xin nói! Bẩm thiếu gia! Phụng lão gia đây tên gọi Phụng Thiên Nam là một tay đại tài chủ ở trấn Phật Sơn. Y mang tước hiệu là…

Nhà buôn ốm đỡ lời:

– Là Nam Bá Thiên.

Hồ Phỉ khẽ quát:

– Ai bảo ngươi nói xen vào?

Nhà buôn ốm cúi đầu xuống không dám nói nữa. Nhà buôn mập kể tiếp:

– Phụng lão gia mở một tiệm cầm đồ lớn ở trấn Phật Sơn gọi là “Anh hùng đường phố” và một tòa tửu lâu, tức là “Anh hùng lâu” này. Phụng lão gia còn mở một sòng bạc gọi là “Anh hùng hội quán”. Phụng lão gia tiền nhiều thế mạnh, giao du rất rộng. Võ nghệ của lão gia vào hạng đệ nhất ở Quảng Đông. Người ở thị trấn còn thầm bàn tán: Cứ mỗi tháng từ ba nơi Việt Đông, Việt Tây, Việt Bắc vẫn có người đưa tiền về kính biếu. Nghe nói Phụng lão gia lại làm chưởng môn phái Ngũ Hổ gì gì đó. Phàm là anh em phái Ngũ Hổ ở các nơi mà phát tài thì cũng trích một phần đưa về cho lão gia. Đó là công việc trên chốn giang hồ, tiểu nhân không được biết rõ.

Hồ Phỉ gật đầu đáp:

– Phải rồi! Hắn là một đại tài chủ mà cũng là một tên đại cường đạo, ngồi một nơi để mà chia của ăn cướp.

Hai nhà buôn đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm:

“Chính mi cũng là quân ăn cướp như Nam Bá Thiên chứ có khác gì?”

Hồ Phỉ đã hiểu rõ tâm ý hai người, liền cười nói:

– Người ta có câu “Cùng một đạo mà đi cùng đường tức là oan gia”. Giữa ta và Phụng lão gia chẳng phải là bạn bè chi cả. Vậy hắn làm sao thì các ngươi cứ nói đúng làm vậy, bất tất phải giấu giếm.

Nhà buôn mập kể tiếp:

– Nhà Phụng lão gia này gồm năm tòa liền, kể ra đã lớn lắm. Nhưng lão gia mới đây lấy thêm cô vợ thứ bảy nên muốn xây thêm một tòa gọi là “Thất Phụng lâu” gì gì đó để cho cô vợ kia ở. Phụng lão gia đi coi đất thấy khu vườn rau của Chung Tứ tẩu rất vừa ý. Mảnh đất này chỉ rộng hai mẫu mấy sào, do Chung A Tứ trồng rau làm kế sinh nhai. Một nhà năm miệng ăn đều trông vào vườn rau đó. Phụng lão gia liền gọi cho Chung A Tứ tới đòi mua khu đất với giá năm lạng bạc. Dĩ nhiên Chung A Tứ không chịu. Phụng lão gia trả thêm mười lạng. Chung A Tứ vẫn không chịu, nói dù một trăm lạng cũng không bán, vì có một trăm lạng bạc rồi ăn cũng hết. Nhưng còn mảnh vườn thì hàng ngày xới đất tưới nước, chỉ cần bỏ sức ra là một nhà mấy người không bao giờ chết đói. Phụng lão gia tức giận đuổi Chung A Tứ ra, rồi hôm qua xảy chuyện mất ngỗng.

Nguyên trong hậu viện của Phụng lão gia có nuôi mười con ngỗng béo. Hôm qua đột nhiên mất một con. Gia đinh bảo Tiểu Nhị và Tiểu Tam nhà họ Chung bắt trộm. Khi tìm đến vườn rau quả nhiên thấy có nhiều lông ngỗng. Chung Tứ tẩu kêu oan. Mụ nói là hai đứa con mụ trước nay vẫn giữ khuôn phép, quyết chẳng lấy trộm gì của ai. Đám lông ngỗng đó là do người ngoài vứt vào trong vườn. Bọn gia đinh kiếm Tiểu Nhị, Tiểu Tam tra hỏi thì hai đứa cũng bảo không ăn cắp. Phụng lão gia hỏi:

– Sáng sớm hôm nay các ngươi ăn gì?

Tiểu Tam đáp:

– Ăn ỗng!

Phụng lão gia vỗ bàn quát mắng:

– Tiểu Tam đã thú nhận rồi mà còn cãi là không ăn cắp ư?

Lão liền kêu người nhà cầm cáo trạng lên kiện ở nha môn. Bọn sai dịch liền đến bắt Chung A Tứ trói lại đưa đi. Chung Tứ tẩu biết nhà mình tuy nghèo nhưng hai đứa con rất ngoan ngoãn mà ngày thường lại khiếp sợ Phụng gia quyết chẳng khi nào dám bắt trộm ngỗng ăn thịt. Mụ đến Phụng gia phân trần cho ra lẽ liền bị Phụng lão gia đánh đuổi ra ngoài. Chung Tứ tẩu lên nha môn kêu oan cũng bị sai dịch đuổi ra. Tri huyện lão gia đã được lời ủy thác của Phụng lão gia liền sai đánh đập Chung A Tứ nào là hèo nào là côn, khiến y chỉ còn hơi thở thoi thóp. Chung Tứ tẩu vào thăm thấy chồng khắp mình máu thịt bầy nhầy không nói lên nên lời, miệng chỉ ú ớ mấy câu không rõ:

– Đừng bán đất! Đừng bán đất! Không ăn cắp! Không ăn cắp!

Chung Tứ tẩu lòng đau dạ xót, đâm liều. Mụ chạy về nhà một tay dắt Tiểu Tam, một tay cầm dao thái rau, kêu hàng xóm láng giềng đến để cùng ra tổ miếu. Những người hàng xóm tưởng mụ đến phát thệ trước thần linh nên đi theo để chứng kiến. Tiểu nhân ở gần nhà mụ nên cũng theo mụ đi coi trận nhiệt náo này. Chung Tứ Tẩu quỳ lạy trước tượng thần Bắc Đế và dập đầu binh binh mấy cái rồi nói:

– Bắc Đế gia gia. Thằng nhỏ con của tiểu phụ quyết chẳng thể vào nhà người ta ăn cắp ngỗng được. Năm nay nó mới lên bốn tuổi, chưa nói sõi. Nó nói trước mặt tài chủ gia ăn thịt gì đó, mà cả nhà tiểu phụ phải chịu mối oan khiên khó bề biện bạch. Tham quan lại ăn của đút, xử sự bất minh. Chỉ còn trông vào Bắc Đế gia gia thanh oan cho.

Mụ nói rồi cầm đao mổ bụng Tiểu Tam…

Hồ Phỉ từ nãy giờ chỉ chú ý lắng tai nghe, mắt trừng đã muốn rách khóe, khi nghe tới đây thì không nhịn được nữa, chàng quát to một tiếng, rồi đứng phắt lên, vung chân đánh “binh” một cái khiến bát chén cùng thức ăn trên bàn đổ tung tóe. Chàng gầm lên:

– Có chuyện đó ư?

Hai nhà buôn thấy chàng thần oai lẫm liệt đều cất giọng run run đáp:

– Đúng là sự thật không sai chút nào.

Hồ Phỉ đạp chân lên ghế dài, tay rút đơn đao trong bọc cắm xuống mặt bàn, giục:

– Nói mau lên!

Nhà buôn mập liền đáp:

– Vụ… vụ này không liên quan gì đến tiểu nhân.

Tửu khách cùng tiểu nhị trên tửu lâu thấy Hồ Phỉ dữ như hung thần, chẳng ai là không kinh hãi. Những tửu khách nhát gan chưa ăn xong lén chuồn xuống đất. Bọn tiểu nhị đứng đằng xa ngó lại không dám tới gần.

Hồ Phỉ quát hỏi:

– Nói mau! Trong bụng Tiểu Tam có thịt ngỗng không?

Thương gia mập đáp:

– Không có thịt ngỗng! Không có thịt ngỗng! Trong bụng toàn là thịt ốc. Nguyên nhà họ Chung nghèo nàn, chẳng có gì ăn, anh em Tiểu Tam Tiểu Nhị phải xuống ruộng mò ốc về ăn. Thịt ốc lại cứng. Tiểu Tam không nhai được phải nuốt trọn cả con, đến nửa ngày vẫn chưa tiêu hóa. Thì ra nó nói “Ngật ngã! Ngật ngã” chính là “Ngật oa”. Một đứa nhỏ chẳng tội trạng gì mà bị chết thảm như vậy trong tổ miếu. Từ đó Chung Tứ tẩu mắc chứng điên khùng.

Hồ Phỉ rút đơn đao giơ lên, quát lớn:

– Tên họ Phụng kia ở dâu?

Thương gia mập chưa kịp trả lời, bỗng nghe văng vẳng có tiếng chó sủa từ đằng xa vọng lại. Thương gia ốm thở dài nói:

– Tạo thêm nghiệp chướng! Tạo thêm nghiệp chướng!

Hồ Phỉ hỏi:

– Còn chuyện gì nữa không?

Thương gia ốm đáp:

– Đó là bọn gia đinh của Phụng lão gia đem chó dữ đi lùng bắt Chung Tiểu Nhị.

Hồ Phỉ tức giận hỏi:

– Nỗi oan uổng của người ta đã rõ rồi, còn bắt Tiểu Nhị làm gì?

Thương gia ốm đáp:

– Phụng lão gia bảo Tiểu Tam không ăn thịt ngỗng thì nhất định là Tiểu Nhị đã ăn rồi. Vì vậy lão gia muốn bắt nó về truy vấn. Những nhà hàng xóm biết là Phụng lão gia thẹn quá hóa giận, muốn bắt Tiểu Nhị để đổ mối oan lên đầu nó, nên họ ngầm xúi Tiểu Nhị bỏ trốn. Bọn gia đinh nhà Phụng lão gia đi khắp nơi tìm kiếm đã nửa ngày trời rồi.

Bây giờ Hồ Phỉ lại cố nén giận cười nói:

– Hay lắm! Hay lắm! Cả hai vị cùng nói rõ ràng. Vậy một vạn lạng bạc này ta sẽ mượn ở nơi Phụng lão gia.

Dứ lời chàng nâng chung rượu lên uống cạn. Chàng uống hết cả ba hồ không còn một giọt và quát tửu bảo lấy rượu thêm. Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần, một lúc đã tới đầu đường. Hồ Phỉ thò đầu ra cửa sổ nhìn thấy thằng nhỏ chừng mười ba, mười bốn tuổi đang chạy thục mạng quanh góc đường. Nó chạy hai chân không, quần áo gã bị chó cắn rách tả tơi. Phía sau nó máu nhỏ gọt in đường. Không hiểu làm cách nào gã cầm cự được với lũ chó dữ mà chạy trốn đến đây. Phía sau thằng nhỏ cách xa chừng bảy, tám trượng, mười mấy con chó dữ như sài lang đang sủa điên cuồng rượt theo. Xem chừng bầy chó chỉ trong chớp mắt là nhảy xổ tới Chung Tiểu Nhị. Lúc này Chung Tiểu Nhị đã kiệt sức. Đột nhiên nó nhìn thấy mẹ, liền gọi:

– Má má!

Hai chân nó nhũn ra té nhào xuống đất không bò dậy được nữa. Chung Tứ tẩu tuy thần trí hồ đồ nhưng cũng nhận ra con mình. Mụ đứng phắt dậy xông tới đứng chắn trước mặt bầy chó dữ bảo vệ cho con.

Bầy chó dữ liền đứng lại, nhe hai hàm răng trắng nhởn ra sủa gâu gâu để thị uy. Bầy chó này con nào cũng hùng mãnh phi thường. Ngày thường chúng chỉ theo Phụng lão gia đi săn, dám đánh nhau với cả mãnh hổ, gấu lớn. Nhưng thấy Chung Tứ tẩu tỏ thái độ liều chết bảo vệ cho con, nên nhất thời chưa dám sấn đến gần. Bọn gia đinh lớn tiếng quát tháo thúc giục bầy chó dữ. Bầy chó gầm gừ mấy tiếng rồi hai con dữ như sài lang chồm lại toan cắn Chung Tiểu Nhị đang nằm lăn dưới đất.

Chung Tứ tẩu nằm phủ lên mình thằng nhỏ. Con chó đưa đầu nhe răng cắn vào vai mụ. Con thứ hai cắn chân bên trái thằng nhỏ. Cả hai con cùng vừa cắn vừa lôi, tựa hồ săn bắt được hươu hay thỏ. Bọn gia đinh reo hò trợ oai. Chung Tứ tẩu chẳng kể gì đến sự đau đớn thân mình, vẫn hết sức bảo vệ cho con, không để bầy chó xông vào cắn nó. Chung Tiểu Nhị lồm cồm bò dậy vừa kêu gào khóc lóc, vừa đánh nhau với con chó dữ để cứu nguy cho mẹ. Chỉ trong chớp mắt mười mấy con ác khuyển từ bốn mặt tám phương bao vây hai mẹ con mụ để tấn công.

Ngoài đầu đường tuy đông người đến coi cảnh nhiệt náo nhưng ai cũng sợ uy thế Phụng lão gia, trong lòng căm hận mà ngoài miệng không dám nói ra.

Có người không nỡ nhìn tấn thảm kịch này, bưng mặt lánh đi. Bọn gia đinh cao hứng reo hò ầm ĩ, tựa hồ săn bắt được con vật rất lớn.

Hồ Phỉ ngồi trên tửu lâu nhìn rõ mọi sự. Chàng chần chừ chưa ra tay cứu người là còn muốn chính mắt mình trông thấy Phụng Thiên Nam có tàn độc đúng như lời hai thương gia kia nói hay không, để tránh khỏi chuyện tin lầm người mà nghi oan cho kẻ vô tội. Ban đầu chàng đã nghe thương gia mập thuật lại câu chuyện thảm khốc, trong lòng đã cực kỳ phẫn nộ. Sau chàng nghe nói Phụng Thiên Nam vô cớ bức tử một mạng người, lại sai chó dữ rượt theo một thằng nhỏ, chàng nghĩ nếu có người tàn ác nhất đời cũng không thể hành động dã man như vậy, nên chàng còn bán tín bán nghi. Lúc này chính mắt chàng nhìn thấy bầy chó dữ xông vào cắn mẹ con Chung thị lôi đi thì không ngờ vực gì nữa. Đầu đường máu thịt tả tơi, nếu chàng còn chần chừ thì cả mẹ lẫn con tất phải chết tại chỗ. Chàng liền chụp lấy ba đôi đũa trên bàn, vận kình lực vào cánh tay phóng xuống.

Bỗng nghe những tiếng “gâu, gâu” rồi những tiếng rú thê thảm “ư ử” vang lên. Sáu con chó dữ bị đũa đánh trúng giữa đầu lăn ra chết liền. Những con khác đứng ngẩn ra, không biết nên tiếp tục cắn nữa hay nên bỏ chạy. Hồ Phỉ lại lượm những chung rượu trên bàn ném xuống đường. Thủ pháp ném rất chuẩn đích, kình lực lại mãnh liệt. Đáy chung rượu nào cũng trúng vào mũi lũ chó. Lại ba con nữa, không kịp kêu lên một tiếng, đều ngã lăn ra chết. Những con còn lại sợ quá cúp đuôi, chỉ trong nháy mắt chúng đã biến mất.

Bọn gia đinh dẫn dắt đàn chó cả thảy có sáu tên. Chúng ỷ vào oai thế của Phụng Thiên Nam làm mưa làm gió ở trấn Phật Sơn này. Bây giờ chúng thấy Hồ Phỉ thi triển tuyệt nghệ giết chó, dù chưa biết sống chết ra sao, bọn chúng đều tức giận lớn tiếng quát hỏi:

– Kẻ nào đến trấn Phật Sơn ngang tàng như vậy? Đã đánh chết chó của Phụng lão gia thì ngươi phải đền mạng.

Bọn này mang theo đơn đao xích sắt bên mình, chúng tới tấp lấy ra rồi kéo ùa lên lầu như bầy ong. Các tửu khách thấy xảy ra chuyện rắc rối liền náo loạn cả lên. “Anh hùng lâu” là sản nghiệp của Phụng Thiên Nam. Từ lão chưởng quỷ đến tiểu nhị cùng những người làm trong bếp lớn, bếp nhỏ nhìn thấy gia đinh của Phụng lão gia ùa lên lầu bắt người, liền cùng nhau cầm nào que cời lửa, nào dao thái rau, nào đũa sắt xúm lại trợ oai. Hồ Phỉ vẫn ngồi nhìn mà cười lạt. Sáu tên gia đinh hùng hổ đến trước mặt chàng, một tên cầm dây xích loảng xoảng lớn tiếng quát:

– Thằng lỏi thối tha này! Hãy đi theo lão gia!

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Gia đinh của một tên hương thân mà dám cầm dây xích cột người thì cái nhà của tên họ Phụng này cũng thành nha môn ở trấn Phật Sơn ư?”

Chàng không đứng dậy, lật tay phóng chưởng đánh trúng vào má bên trái gã. Lúc chàng rụt tay về thì đã điểm trúng huyệt “Tử cung” ở cổ và huyệt “Phong phủ” ở sau gáy gã. Đây là hai đại huyệt trong người. Tên gia đinh kia lập tức đứng trơ ra không nhúc nhích được nữa. Những tên gia đinh thứ hai, thứ ba chưa nhìn rõ đều cầm đơn đao xông vào tập kích hai bên. Hồ Phỉ thấy hai tên này cầm song đao đâm chém khá mạnh. Hiển nhiên chúng đã luyện võ mấy năm chứ không phải hạng ác nô tầm thường kiểu cáo mượn oai hùm. Chính nhờ thế, chàng càng biết rõ Phụng Thiên Nam hung tàn ngang ngược đến thế nào. “Bốp bốp” hai tiếng! Hồ Phỉ theo kiểu pháo nổ liên thanh đánh liền hai tên hai cái bạt tai khiến chúng đứng thộn mặt ra.

Còn ba tên gia đinh nữa thấy tình thế không ổn, một tên trở gót toan đi thì tên khác la gọi:

– Phụng Thất gia! Thất gia lại coi xem gã đã dùng tà môn gì?

Phụng Thất đây là em họ xa của Phụng Thiên Nam và làm chưởng quĩ ở tòa Anh hùng tửu lâu này. Võ công của hắn chẳng ra gì nhưng rất cơ mưu. Lúc này, hắn đứng ở đầu cầu thang đã nhận ra Hồ Phỉ không phải hạng tầm thường, liền tiến lại hai bước chắp tay nói:

– Té ra bữa nay có anh hùng giá đáo, xin tha lỗi cho Phụng mỗ có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn…

Hồ Phỉ thấy ba tên gia đinh từ từ đi về phía cầu thang tưởng chúng thừa cơ bỏ trốn. Chàng liên rút xích sắt trong tay tên gia đinh đã bị điểm huyệt không nhúc nhích vung ra một cái quấn lấy cả sáu chân của ba tên. Bỗng nghe mấy tiếng “úi chao”, cả ba tên ngã lăn xuống đất thành một đống. Hồ Phỉ kéo chúng vào gần xiết chặt hai đầu dây xích lại. Chàng không quan tâm gì đến Phụng Thất nữa, mà cứ ngồi tự rót rượu uống một mình.

Bọn gia nhân ở “Anh hùng lâu” thấy Hồ Phỉ tuy ra tay lợi hại nhưng vẫn nghĩ dù là hảo hán cũng không địch nổi số đông, nên chúng cầm mọi dụng cụ trong nhà bày thành trận thế, chỉ còn chờ Phụng Thất hô một tiếng là xông vào. Hồ Phỉ uống cạn chung rượu rồi hỏi:

– Phụng Thiên Nam là gì của ngươi?

Phụng Thất cười đáp:

– Phụng lão gia là tộc huynh của tại hạ. Tôn giá có quen biết lão gia không?

Hồ Phỉ nói:

– Không quen biết. Ngươi hãy kêu y đến gặp ta.

Phụng Thất trong lòng bực tức mắng thầm:

“Một thằng lỏi như mi mà dám mời Phụng lão gia tư? Dù ngươi đến cửa dập đầu, chưa chắc lão gia đã thèm tiếp kiến.”

Ngoài miệng hắn cười hề hề hỏi:

– Xin tôn giá cho biết cao tính đại danh để tại hạ vào thông báo.

Hồ Phỉ đáp:

– Ta họ Bạt. Chữ Bạt có nghĩa là nhổ lông, như giết gà nhổ lông.

Phụng Thất lẩm bẩm:

– Làm gì có cái họ kỳ cục vậy?

Hắn cười vuốt đuôi:

– Té ra đây là Bạt gia. Vật có hiếm mới quý. Họ của Bạt gia ở phương nam rất hiếm.

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế! Tục ngữ có câu vật có hiếm mới quý, ví dụ như “Phụng mao, lân giác”. Tại hạ tên gọi là Phụng Mao.

Phụng Thất cười hỏi:

– Cao nhã! Thật cao nhã!

Đột nhiên hắn xoay chuyển ý nghĩ tự hỏi:

“Không phải! Cả ba chữ “Bạt Phụng Mao” há chẳng phải là gã có ý đến đây gây hấn?”

Hắn mặt biến sắc lớn tiếng hỏi:

– Thực ra tôn giá là ai? Đến trấn Phật Sơn có việc gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ nghe nói ở trấn Phật Sơn có con phụng hoàng dữ lắm mà tại hạ lại tên là Bạt Phụng Mao, nên tới đây để nhổ mấy cái lông của nó chơi.

Phụng Thất lùi lại một bước. Những tiếng loảng xoảng vang lên, hắn nút cây nhuyễn tiên ở sau lưng ra, vung tay trái một cái, bảo bọn thủ hạ coi chừng. Hắn rung động tay mặt, cây nhuyễn tiên xé gió nhằm đầu Hồ Phỉ đánh xuống.

Hồ Phỉ thầm nghĩ trong bụng:

“Một tên Phụng Thiên Nam không thể tàn ác đến như vậy. Bọn thủ hạ là một lũ giúp hắn gây thêm tội nghiệt. Tên nào cũng đáng chết cả. Hôm nay ta thẳng tay hạ thủ, không cần phải dung tình.”

Chàng trông thấy nhuyễn tiên vụt xuống liền xoay tay chụp lấy đầu nhuyễn tiên, giật nhẹ một cái. Phụng Thất đứng không vững, liền ngã chúi về phía trước. Hồ Phỉ đập tay trái vào vai hắn. Phụng Thất cảm thấy một luồng kình lực rất lớn đè nặng xuống, hắn không tự đứng được, hai đầu gối nhũn ra quỳ khuỵu ngay xuống. Hồ Phỉ cười nói:

– Không dám!

Chàng thuận tay vung cây nhuyễn tiên mười ba đốt quấn vào người hắn, tựa hồ trói hắn vào chân bàn bát tiên vậy. Bọn tiểu nhị toan xông tới động thủ. Đột nhiên chúng thấy biến cố này nên đâm hoảng phải dừng cả lại. Hồ Phỉ trỏ vào một tên đầu bếp béo mập cất tiếng gọi:

– Này! Cầm con dao thái thịt lại đây!

Tên đâu bếp há hốc miệng ra không dám trái lệnh, cầm dao đưa tới. Hồ Phỉ hỏi:

– Món thịt rán làm bằng gì?

Đầu bếp đáp:

– Dùng thịt thăn ở hai bên xương sống con heo. Tôn giá còn muốn ăn thịt xào ngọt, xào chua gì nữa không?

Hồ Phỉ thò tay kéo roạc một cái. Vạt áo sau lưng Phụng Thất bị rạch một vệt dài, để hở cả sống lưng trắng trẻo ra. Tay chàng nắn vào sống lưng Phụng Thất, miệng hỏi:

– Có phải hạ dao chỗ này không?

Tên đầu bếp béo mập há hốc miệng, sao dám trả lời? Phụng Thất dập đầu binh bính, la oai oái:

– Xin anh hùng tha mạng!

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Tha mạng ngươi cũng được, nhưng nếu không cho ngươi nếm mùi đau khổ thì hóa ra làm ác tất lại không bị báo ứng?”

Chàng cầm con dao thái rau vạch xuống xương sống hắn một vạch dài rồi hỏi:

– Nửa cân đã đủ chưa?

Tên đầu bếp ngơ ngác đáp:

– Một người ăn là đủ.

Phụng Thất hồn vía lên mây, lại thấy sau lưng đau buốt thì cho rằng địch nhân đã cắt nửa cân thịt ở sống lưng rồi. Bỗng nghe Hồ Phỉ lại nói:

– Xào gan heo lấy gì làm vật liệu? Chưng óc heo thì lấy gì làm vật liệu?

Phụng Thất lại la thầm:

“Gã lóc thịt sau lưng còn được, lại còn làm món gan heo xào, óc heo chưng thì còn chi là cái mạng già này?”

Hắn dập đầu binh binh trên tấm ván lầu, miệng la:

– Anh hùng có chuyện gì xin cứ truyền dạy, chỉ cầu tha mạng cho tiểu nhân.

Hồ Phỉ thấy hăm dọa như thế là đủ, liền quát hỏi:

– Ngươi còn dám giúp đỡ Phụng Thiên Nam làm điều tàn ác nữa hay thôi?

Phụng Thất vội đáp:

-Tiểu nhân không dám!

Hồ Phỉ nói:

– Hay lắm! Bây giờ mời tân khách trên lầu ra hết. Còn tân khách trong đại sảnh và dưới lầu phải ở lại không một ai bỏ đi.

Phụng Thất hô lớn:

– Điếm tiểu nhị, các ngươi hãy mau thi hành mệnh lệnh của hảo hán gia. Mau! Mau!

Những tửu khách trên lầu nếu không phải tài chủ thì cũng là phú thương, đều nhát gan sợ lụy. Họ thấy xảy cuộc đánh nhau đã muốn chuồn đi, khổ nỗi ở đầu cầu thang có bọn gia đinh cầm binh khí đứng đó, không xuống được.

Bây giờ chẳng cần xua đuổi, tự họ lật đật đi ngay. Thực khách trong đại sảnh nhà dưới đều là hạng người nghèo. Trong mười người có đến bảy, tám đều bị Phụng Thất hà hiếp. Bữa nay họ thấy có người đến gây chuyện, trong lòng khoan khoái vô cùng, đều muốn ở lại để coi náo nhiệt.

Hồ Phỉ hô lớn:

– Bữa nay ta mời khách, vậy tiền cơm rượu của các bằng hữu đều do ta trả hết, ngươi không được thu của ai một đồng nào. Mau đi khiêng mấy hũ rượu ra đây và có những món gì tốt cũng bưng hết lên mời tân khách. Đem chín con chó dữ ở ngoài đường vào mổ làm thịt để mọi người cùng ăn chơi.

Chàng sai một điều, Phụng Thất lại dạ một tiếng. Bọn tiểu nhị hành động chậm chạp một chút, Hồ Phỉ liền giơ con dao thái rau lên hỏi đầu bếp mập ú:

– Muốn làm món “Hồng thiêu đại trường” phải dùng vật liệu gì? Món “Sao yêu hoa” dùng những thứ gì?

Tên đầu bếp kia cứ thực thà bảo là phải dùng một khúc ruột già và hai trái cật. Phụng Thất mặt cắt không còn giọt máu không ngớt thôi thúc gia nhân đi làm cho mau. Sáu tên gia đinh thấy Hồ Phỉ hung dữ ghê quá, chưa hiểu chàng đối phó với mình thế nào, trong lòng cực kỳ hồi hộp, tưởng chừng bị dội mười lăm thùng nước lạnh lên đầu. Chúng lấm lét nhìn trộm Hồ Phỉ rồi lại nhìn nhau tự hỏi:

“Sao Phụng lão gia chưa đến giải cứu? Nếu chậm trong khoảnh khắc thì tên hung thần này chắc xử trí tới bọn mình.

Hồ Phỉ thấy bọn tiểu nhị nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của mình liền rảo bước xuống lầu rót một bát rượu lớn rồi nói:

– Bữa nay tiểu đệ mời khách. Xin các vị cứ ăn uống thả cửa. Muốn ăn món gì thì cứ kêu món đó. Nếu bọn gia đinh trong tửu lâu mà rề rà chậm trễ thì tiểu đệ sẽ cho một mớ lửa đốt sạch trong nháy mắt.

Các tửu khách hoan hỷ ăn uống. Có điều ai nấy vẫn sợ oai Phụng Thiên Nam nên không dám tiếp lời Hồ Phỉ. Chàng trở lại lên lầu giải khai huyệt đạo cho ba tên gia đinh, dùng xích sắt khóa cổ chúng lại cùng với ba tên kia rồi kéo hết cả sáu tên xuống lầu. Hồ Phỉ hỏi:

– Phụng Thiên Nam mở tiệm cầm đồ ở đâu? Tại hạ muốn cầm cố sáu con chó dữ này.

Một tửu khách trỏ đường nói:

– Đi về phía đông qua ba đường phố nằm ngang, tới một ngôi nhà tường cao là đến.

Hồ Phỉ cảm ơn rồi dắt sáu người đi. Bọn người ưa coi náo nhiệt đi theo xa xa ở phía sau để xem vụ cầm người ra sao. Hồ Phỉ tay nắm sáu sợi dây xích đi tới trước tòa “Anh hùng điển đương”, lớn tiếng nói:

– Anh hùng đem chó tới cầm đây!

Chàng dắt sáu tên gia đinh đến trước quầy thu tiền nói:

– Triều phụng! Tại hạ cầm sáu con chó dữ, mỗi con một ngàn lạng bạc.

Tên triều phụng bên quầy thu tiền giật mình kinh hãi. Những người ở trấn Phật Sơn đều biết tòa “Anh hùng điển dương” này do Phụng Thiên Nam mở ra, đã mười mấy năm chẳng ai dám đến quấy phá mà sao bữa nay lại có hán tử điên khùng đến cầm người? Triều phụng chú ý nhìn, nhận ra sáu người bị kéo tới đây là gia đinh ở Phụng phủ lại càng kinh hãi hơn:

Hắn ấp úng hỏi:

– Các hạ… các hạ cầm món gì?

Hồ Phỉ quát:

– Ngươi không có tai ư? Ta cầm sáu con chó dữ, mỗi con một ngàn lạng bạc tổng cộng sáu ngàn lạng. Cầm như vậy là rẻ quá rồi.

Tên triều phụng kia biết chàng có ý quấy phá liền ghé tai một tên triều phụng khác nói nhỏ, bảo hắn đi kêu gấp bọn võ sư bảo vệ tiệm đến xử lý tên điên khùng này. Một mặt hắn nhìn Hồ Phỉ lễ phép đáp:

– Theo luật lệ cầm đồ, những vật sống không thể đem cầm được. Xin tôn giá lượng thứ cho.

Hồ Phỉ đáp:

– Được! Các ngươi không cầm chó sống thì ta cầm chó chết vậy.

Sáu tên gia đinh kinh hãi đồng thanh la lên:

– Du sư gia! Sư gia thu nhận lẹ đi để gấp cứu mạng bọn tiểu nhân.

Nhưng bọn triều phụng ở tiệm cầm đồ làm việc rất rạch ròi cẩn thận, sao có thể chịu bỏ ra sáu ngàn lạng bạc một cách tùy tiện? Hắn liền cười cầu tài, đáp:

– Mời lão gia hãy ngồi chơi dùng trà.

Hồ Phỉ nói:

– Để ta biến sáu con chó sống này thành chó chết rồi hãy uống trà.

Chàng đảo mắt nhìn quanh, trong lòng đã nẩy kế hoạch, liền bước tới bên cửa hông, tháo một cánh cửa lớn sơn đen xuống. Du triều phụng thấy sự tình mỗi lúc một thêm nghiêm trọng liền hỏi:

– Này, này! Vị khách nhân này làm gì vậy?

Hồ Phỉ không lý gì đến hắn, vung chân đá sáu tên gia đinh té xuống rồi nhấc ngang tấm cánh cửa đè lên mình chúng. Du triều phụng la lên:

– Trời ơi! Tôn giá đừng gây náo loạn nữa. Đây là địa phương nào, sản nghiệp này của ai, tôn giá có biết không?

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

“Coi bộ thẳng cha này cũng cay nghiệt lắm. Nhất định rất nhiều người cùng khổ ở trấn Phật Sơn này phải nếm mùi khổ của hắn rồi.”

Chàng bước lại trước quầy, vươn tay nắm lấy búi tóc hắn, nhấc bổng qua quầy hàng rồi đem cánh cửa đè lên. Tiếp theo, chàng bước đến cửa bê một cái trống đá vừa cao vừa lớn quẳng trên mặt cánh cửa đánh rầm một tiếng. Cái trống đá này nặng hơn năm trăm cân lại thêm sức ném xuống, khiến cả bảy người nằm phía dưới đều kêu rú lên. Có người đau đến té đái vãi phân. Những người ở ngoài cửa và bọn triều phụng trong nhà đều bật tiếng la hoảng. Hồ Phỉ lại bê một cái trống đá nữa, miệng nói:

– Bọn chó dữ chưa chết, phải đè thêm cái trống này lên nữa!

Dứt lời chàng tung cái trống đá lên không. Bọn người nằm dưới cánh cửa ngó thấy cái trống đá sắp rớt xuống lại kêu thét lên. Hồ Phỉ vòng hai cánh tay lại đón lấy cái trống đá rồi đặt xuống cánh cửa. Lúc này trên cánh cửa đã bị một sức nặng trên một ngàn cân đè xuống. Bảy người bên dưới chia nhau chịu đựng, tưởng chừng gân cốt gẫy nát đến nơi.

Du triều phụng la lên:

– Xin hảo hán tha mạng. Mau lấy bạc ra đi!

Hồ Phỉ hỏi:

– Cái gì? Ngươi còn đòi ta đưa tiền ra nữa ư?

Du triều phụng thân thể gầy yếu, bị đè nặng xuống không thở được lắp bắp:

– Không… không phải. Tiểu nhân kêu người trong tiệm lấy bạc ra…

Bọn cầm đồ trong tiệm thấy tình thế nguy hiểm, đành lấy từng gói bạc đưa ra. Mỗi gói là một trăm lạng. Cả thẩy sáu mươi gói. Hồ Phỉ lại xếp những gói bạc lên cánh cửa rồi hỏi:

– Sáu con chó dữ sáu ngàn lạng, còn tên triều phụng thì sao? Chẳng lẽ đường đường là một vị đại triều phụng ở “Anh hùng điển đương” lại không bằng một con chó? Ít ra phải cầm lấy ba ngàn lạng.

Sáu ngàn lạng bạc nặng tới hơn ba trăm bảy chục cân lại đè lên khiến bảy người phía dưới chịu không nổi nữa.

Giữa lúc náo loạn, đột ngoài cửa có tiếng người quát hỏi:

– Tên tiểu tạp chủng nào ăn gan hùm hay sao mà dám đến cửa tiệm Phụng lão gia gây sự?

Đám người đứng xem liền rẽ ra hai bên. Hai hán tử sấn vào. Hai người này đều thân hình khôi vĩ, mặc quần áo đen, nai nịt đai lưng trắng, ăn vận theo kiểu võ sư.

Hồ Phỉ lạng mình đi một cái chuồn tới phía sau hai người, mỗi tay túm lấy gáy một người. Hai người này chính là võ sư bảo vệ ở “Anh hùng điển đương”, đang lúc rảnh việc, ngồi chơi ở sòng bạc, nghe tiệm có người quấy phá mới vội vã chạy về. Ngờ đâu chúng chưa nhìn rõ mặt mũi đối thủ thì đã bị nắm cổ xách lên. Hồ Phỉ rung hai cánh tay một cái, một người rớt ra tám chín quân bài cẩu, còn người kia làm rơi hai hai quân xúc xắc xuống. Hồ Phỉ cười nói:

– Hay quá! Té ra là hai con quỷ cờ bạc.

Chàng cụng đầu hai người vào nhau côm cốp rồi đặt chúng ngồi lên trên cánh cửa. Hai tên võ sư bảo vệ viện tuy võ công tầm thường nhưng thân thể khá nặng. Thế là hơn bốn trăm cân nữa đè lên cánh cửa. Bảy người nằm dưới muốn rên lên một tiếng cũng không còn sức.

Đại chưởng quỹ trong tiệm cầm đồ sợ xảy ra án mạng, vội sai người nhà lấy ra ba ngàn lạng bạc nữa và không ngớt khom lưng lạy lục. Ngoài miệng hắn niềm nở tươi cười mà trong bụng lại cứ thắc mắc:

“Sao mãi không thấy Phụng lão gia thân hành đến đây giải quyết việc này?”

Hồ Phỉ ở tửu lâu sai người mổ chó, lại đến tiệm cầm đồ cầm người là cố ý khiêu khích cho Phụng Thiên Nam chường mặt. Từ ngày còn nhỏ tuổi, sau khi ngộ hiểm ở Thương gia bảo, Hồ Phỉ hành động rất thận trọng. Chàng nghĩ thầm:

“Phụng Thiên Nam đã mang ngoại hiệu là “Nam bá thiên” thì e rằng cách bố trí trong nhà hắn còn ghê gớm hơn cả thiết sảnh ở Thương gia bảo nữa.

Chàng nghĩ tới câu “Cường long bất đấu địa đầu xà”, nếu gây sự ở nhà hắn sẽ trúng phải độc kế nên trước tiên chàng đại náo tửu lâu, tiếp theo đại náo tiệm cầm đồ mà thủy chung hắn vẫn không lộ diện là một điều ngoài sự tiên liệu của chàng.

Hồ Phỉ thấy người nhà lại đem ra ba ngàn lạng bạc liền gật đầu bảo:

– Đặt cả lên tấm cánh cửa này.

Bọn người nhà biết rằng đặt gần một trăm chín chục cân lên nữa là nặng quá nhưng không dám trái lệnh, đành khuân từng gói một đặt nhè nhẹ lên

Hồ Phỉ lại nạt:

– Tiệm cầm đồ của các ngươi đây do Hoàng đế mở ra phải không? Sao lại làm việc ngang ngược thế?

Gã chưởng quỹ cười cầu tài, đáp:

– Không dám! Không dám! Hảo hán gia còn có điều chi dạy bảo?

Hồ Phỉ hỏi:

– Cầm đồ sao lại không làm biên lai?

Gã đại chưởng quỹ nghĩ bụng:

“Sáu tên gia đinh khỏe mạnh có để một lúc cũng chưa việc gì, nhưng Du triều phụng không khéo lại ô hô mất mạng.”

Hắn liền gọi rối rít:

– Mau viết biên lai đi!

Tên triều phụng ở tại quầy không biết phải hạ bút viết thế nào, mà gã đại chưởng quỹ thôi thúc, liền cấm bút viết:

“Nay cầm sáu tên gia đinh và một tên Du triều phụng ở Phụng phủ da rách thịt nát, chân tay tàn khuyết, lấy số bạc chín ngàn lạng. Tiền lãi hàng năm là hai phân. Khi đến chuộc phải căn cứ theo biên lai. Nếu bị sâu kiến chuột bọ đục khoét hay gặp nạn binh hỏa mà đồ vật bị tổn thất thì đó là mệnh trời”

Nguyên theo lệ cầm đồ khắp thiên hạ thì dù đồ vật còn hoàn toàn nguyên vẹn và mới tính cũng viết là đã “sứt mẻ, hư hỏng” để lúc chuộc khỏi có sự tranh chấp. Nhưng tiệm cầm đồ xưa nay chưa có chuyện cầm người, nên tên triều phụng phải thêm tám chữ “da rách thịt nát, chân tay tàn khuyết”.

Đại chưởng quỹ cầm hóa đơn cung kính đưa lại. Hồ Phỉ mỉm cười thu lấy rồi nhấc bổng hai tên võ sư lên bảo chúng:

– Khuân những trống đá kia xuống,

Hai tên võ sư mắt đã nảy đom đóm, tự biết một người không bê nổi cái trống đá, đành hai người hợp lực khiêng từng cái một xuống.

Hồ Phỉ lại nói:

– Được rồi! Chúng ta cứ thong thả đi tới sòng bạc. Hai tên đại hán nhà người khiêng tiền đi cho ta.

Hai tên võ sư nem nép vâng lời, một tên đi trước, một tên đi sau khiêng cánh cửa chứa chín ngàn lạng bạc đi theo sau Hồ Phỉ. Những người tới coi cảnh náo nhiệt thấy chàng tay không mà dám đến uy hiếp tiệm cầm đồ lớn nhất ở trấn Phật Sơn đều khoan khoái vô cùng, nhưng họ vẫn sợ Phụng Thiên Nam thù hằn nên không dám đến gần chàng trò chuyện. Mọi người nghe chàng nói đến đại náo sòng bạc càng phấn khởi tinh thần, kéo đi coi mỗi lúc một đông.

Sòng bạc đặt trong một tòa miếu cũ đổ nát ở tận đầu trấn Phật Sơn. Trên cổng lớn viết bốn chữ đại tự “Anh hùng hội quán”. Hồ Phỉ rảo bước qua cửa tiến vào thì thấy trên đại điện, một đám đông lố nhố vây quanh một bàn tài xỉu. Chủ sòng bạc là một gã mày rậm mắt to, trên người mặc áo lụa nổi tiếng của trấn Phật Sơn. Hắn để hở bộ ngực đây lông lá. Chủ sòng thấy Hồ Phỉ tiến vào, đằng sau lại có hai tên võ sư khiêng tấm cửa lớn trên đặt gần trăm gói bạc thì trong lòng không khỏi sửng sốt la lên:

– Xà bì Trương! Ông bạn làm trò gì vậy?

Gã võ sư họ Trương bĩu môi ra dáng bực bội, đáp:

– Hảo hán đây muốn đến chơi một canh bạc.

Chủ sòng nghe Xà bì Trương nói bằng một giọng cung kính, lại biết Phụng lão gia giao du rất rộng. Hắn đoán anh chàng này tuy trẻ tuổi nhưng chắc là bạn của lão nhân gia, bèn nghĩ thầm:

“Hay lắm! Ngươi khiêng bạc đến để biếu đổ trường chúng ta thì còn gì bằng? Mở tiệm cơm còn chẳng sợ kẻ bụng lớn thì mở sòng bạc khi nào lại sợ bọn tài chủ lắm tiền? Dù các ngươi có khiêng mấy cánh cửa bạc nữa đến đây cũng chẳng chê nhiều.”

Hắn toét miệng cười nói:

– Quý tính bằng hữu đây là gì? Mời ngồi chơi.

Hồ Phỉ bệ vệ ngồi xuống nói:

– Ta họ Bạt, tên gọi Phụng Mao.

Tên chủ sòng ngẩn người, bụng bảo dạ:

“À, mi cố ý đến đây khiêu khích bọn ta!”

Hắn cầm hộp xúc xắc lắc mấy cái rồi đặt xuống bàn. Mấy chục con bạc xung quanh lục tục đặt tiền. Có người đặt bên “Tài”, người thì đặt bên “Xỉu”.

Hồ Phỉ muốn kéo dài thời gian để chờ Phụng Thiên Nam thân hành tới nơi mới ra tay chiến đấu với hắn. Chàng ngồi cười hì hì chứ không đặt cuộc.

Bỗng thấy chủ sòng mở hộp ra. Ba con xúc xắc cộng được mười một điểm. Những con bạc bên “Tài” nổi tiếng hoan hô còn bên “Xỉu” mặt buồn rười rượi.

Chủ sòng mở bát ba lần, bên “Tài” đều thắng cả.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Mười sòng bạc thì đã có đến chín sòng gian lận. Phụng Thiên Nam đã là tay hoành hành ngang ngược mà mở sòng bạc tất nhiên ít nhiều cũng phải giở trò quỷ. Đợi ta điều tra cho ra đầu mối rồi đại náo một phen mới được”.

Chàng liền chú ý nhìn bát xúc xắc, lại lắng tai nghe thanh âm xem con xúc xắc có đổ chì hay không. Chàng nghe một lúc không thấy gì khác lạ. Chàng đã luyện qua thuật nghe tiếng gió, thính lực cực tinh. Dù là trong tối có ám khí tập kích, chỉ cần nghe thanh âm thì lập tức biết ngay phương vị cùng ám khí loại gì, thủ kình ra sao. Tỷ như Triệu Bán Sơn là một đại hành gia, hôm ấy ở Thương gia bảo nghe ám khí tứ phía bắn tới liên đoàn được đối phương là đệ tử của Bất Nghi đại sư ở chùa Thiếu Lâm. Thuật nghe ám khí đạt đến mức tinh vi như thế đó.

Thính lực của Hồ Phỉ tuy còn kém Triệu Bán Sơn, nhưng nghe một lúc lâu cũng nhận ra được ba con xúc xắc hướng lên trời có điểm số cộng là bao nhiêu. Nên biết con xúc xắc có sáu mặt, điểm số mỗi mặt đều khác nhau. Lúc mặt “Nhất” hoặc mặt “Lục” rơi xuống có thanh âm khác nhau chút đỉnh, dù sự khác biệt vô cùng nhỏ nhặt, nhưng người nội lực tinh thâm đã luyện công phu nghe ám khí cực tốt đều có thể phân biệt được một cách rõ ràng.

Hồ Phỉ để chủ sòng mở bát thêm mấy lần, chàng nghe không lầm nữa, liền cười hỏi:

– Nhà cái có hạn định đặt cửa bao nhiêu không?

Chủ sòng lớn tiếng đáp:

– Khắp tỉnh Quảng Đông đều biết sòng bạc của Nam bá thiên đặt cửa bao nhiêu cũng được. Nếu không sao còn gọi là “Anh hùng hội quán” nữa?

Hồ Phỉ mỉm cười chìa ngón tay cái lên nói:

– Phải rồi! Nếu còn hạn định chẳng hóa ra là “Cẩu hùng hội quán” ư?

Chàng lắng nghe tiếng xúc xắc hạ xuống thành mười hai điểm, liền quay lại hỏi:

– Xà bì Trương! Đặt một ngàn lạng xuống bên “Tài”,

Chủ sòng tuy lặn lội ở sòng bác mấy chục năm cũng phải mở bát mới biết “Tài” hay “Xỉu”. Hắn thấy chàng đặt cuộc một ngàn lạng thì không khỏi sửng sốt. Hắn mở bát đĩa ra thấy cả ba con xúc xắc thì hai con hướng mặt “Lục”, còn một con hướng mặt “Tứ” lên, bất giác sắc mặt tái mét, đành phải giao đủ một ngàn lạng.

Tiếp theo hắn lắc hộp xúc xắc thanh âm lẫn lộn. Hồ Phỉ nghe không rõ, ngồi yên không đặt cuộc. Lúc mở bát thành tám điểm. Tiếng bạc sau Hồ Phỉ đặt hai ngàn lượng bên “Xỉu”. Mở bát ra quả nhiên sáu điểm là bên “Xỉu”. Hồ Phỉ tiếp tục đánh năm, sáu ván và đã ăn được một vạn một ngàn lạng. Nhà cái hai tay ướt đẫm mồ hôi, cầm hộp xúc xắc lắc thật mạnh. Hồ Phỉ nghe rõ tiếng bạc này mười bốn điểm liền hô:

– Xà bì Trương! Đặt hai vạn lạng xuống bên “Tài”.

Hai tên võ sư khuân những gói bạc trên cánh cửa đặt xuống bàn.

Nhà cái hé một góc bát lên coi thấy ba con xúc xắc cộng mười bốn điểm. Chân tay hắn rất linh lợi. Hắn thò ngón tay út vào bên hộp khẽ đẩy một cái thì mặt “Lục” lật ngược lại thành mặt “Nhất”. Thế là mười bốn điểm biến thành chín điểm. Bạc đang “Tài” mà hóa “Xỉu”. Thủ pháp này nếu không luyện mấy chục năm thì không thể thành tựu được. So với học võ công cũng chẳng kém gì một tuyệt chiêu cực kỳ lợi hại.

Nhà cái thấy Hồ Phỉ không hay biết, đã chắc mẩm ăn bàn này rồi. Hắn nhơn nhơn đắc ý hô:

– Đại gia đặt tiền xong chưa?

Hồ Phỉ đẩy đống bạc giữa bàn đáp:

– Hai vạn lạng đây. Nếu “Xỉu” thì nhà cái ăn hết đi.

Nhà cái hô:

– Tốt! Tốt! Ăn này!

Hắn mở bát ra, bất giác miệng há hốc không ngậm lại được vì ba con xúc xắc cộng thành mười hai điểm. Các con bạc đã dừng tay không đánh từ lâu rồi. Ai nấy nhìn thấy mấy chục gói bạc trên bàn đều cũng kinh tâm động phách. Họ thấy mở bạc thành “Tài” đều bật tiếng la hoảng:

– Úi chà!

Tiếng la vừa đầy vẻ kinh dị lại có ý khen ngợi. Nên biết bọn chúng suốt đời chưa từng gặp qua canh bạc lớn thế này. Hồ Phỉ cười hà hà, đứng một chân trên ghế hô:

– Hai vạn lạng bạc! Mau chung vào đi!

Nguyên lúc nhà cái giở trò, ngón nghề tuy mau lẹ nhưng che mắt Hồ Phỉ thế nào được. Chàng không hiểu nhà cái giở trò gì, song cũng đoán chắc ba con xúc xắc bị hắn lật đi rồi, để chuyển từ “Tài” sang “Xỉu”. Khi Hồ Phỉ dùng tay trái đẩy các gói bạc thì tay phải luồn dưới gầm bàn khẽ búng một cái. Nguyên ba con xúc xắc này, một con mặt “Nhất”, một con mặt “Ngũ” và một con mặt “Tam”. Cộng là thành chín điểm. Lực đạo của ngón tay búng Hồ Phỉ lại được việc. Ba con xúc xắc bị lật lại, biến thành mặt “Tứ”, mặt Lục và mặt “Nhị”, cộng lại thành mười hai điểm, rốt cuộc vẫn là “Tài”. Nhà cái mặt xám như tro tàn, đập tay xuống đánh bình một cái, miệng quát:

– Xà bì Trương! Gã này lai lịch thế nào mà đến quấy rối sòng bạc của lão gia?

Xà bì Trương giơ mặt đưa đám ra đáp:

– Tại… tại… hạ cũng chẳng biết.

Hồ Phỉ giục:

– Chung tiền lẹ đi! Chung tiền lẹ đi! Chung đủ hai vạn lạng bạc. Lão gia được bấy nhiêu là đủ rồi, thôi không đánh nữa.

Tên chủ sòng lại vỗ bàn đánh bình một tiếng, quát mắng:

– Gã kia! Ngươi giở trò ma mãnh tưởng lão tử không biết ư?

Hồ Phỉ tuy không hiểu gã chửi gì, nhưng cũng đoán được không phải là những lời hay ho, nên cười đáp:

– Hay lắm! Ngươi thích vỗ bàn thì chúng ta cùng vỗ bàn chơi.

Chàng vung tay phải lên đập xuống góc bàn. Lập tức góc bàn gãy rời. Chàng lại giơ tay trái đập vào góc khác, góc này cũng gãy rớt ngay xuống đất.

Tên chủ sòng đã thấy võ công kinh người của chàng thị làm sao hắn còn dám ngang ngược? Đột nhiên hắn phóng cước toan đá đổ bàn để nhân lúc nhốn nháo mà chạy đi. Các con bạc reo lên như sấm:

– Cướp bạc anh em ơi!

Hồ Phỉ vươn tay mặt ra chụp lấy chân tên chủ sòng xách ngược lên, đạp đầu hắn xuống mặt bàn. Luồng lực đạo quá mạnh khiến mặt bàn thủng một lỗ, đầu hắn chui xuống dưới. Từ vai đến chân chìa lên mặt bàn. Chân tay hắn khua loạn xạ lên trông rất nực cười.

Các con bạc bật tiếng la hoảng, tới tấp lùi lại . Đột nhiên thanh niên khoảng hai chục tuổi từ cửa lớn tiến vào. Thanh niên này mình mặc áo trường bào màu lam, tay phải phe phẩy cây quạt giấy, miệng gã hô:

– Có vị hảo bằng hữu quang lâm mà tiểu đệ chưa kịp nghênh tiếp. Xin miễn trách cho!

Hồ Phỉ thấy người này chân bước nhẹ nhàng, vẻ mặt anh khí bồng bột, tỏ ra võ công không phải tầm thường, bất giác chàng hơi sửng sốt. Thiếu niên chắp quạt lại nhìn Hồ Phỉ, chắp tay xá dài hỏi:

– Xin hỏi quý tính đại danh tôn huynh là gì?

Hồ Phỉ thấy gã cử chỉ lễ độ, cũng vái chào đáp:

– Tai hạ chưa kịp thỉnh giáo tôn tính các hạ.

Thiếu niên nói:

– Tiểu đệ họ Phụng.

Hồ Phỉ dựng cặp lông mày lên cười ha hả nói:

– Nếu vậy thì họ tên của tại hạ không khỏi có điều thất kính. Tại hạ họ Bạt tên gọi Phụng Mao. Lão huynh cùng Phụng Thiên Nam xưng hô thế nào?

Thiếu niên đáp:

– Đó là gia phụ. Gia phụ nghe nói tôn giá quang lâm đáng lẽ thân hành đến đây đón tiếp, không ngờ có việc cần kíp nên sai tiểu đệ đến mời tôn giá tới tệ xá uống chung rượu nhạt.

Gã quay lại ngó hai tên võ sư bảo vệ ở “Anh hùng điển đương” quát hỏi:

– Nhất định là các ngươi vô lễ với lão nhân gia khiến lão nhân gia bực mình. Sao còn chưa tạ tội?

Hai tên võ sư hộ vệ vâng dạ luôn miệng rồi khom lưng thỉnh an nói:

– Bọn tiểu nhân có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn.

Hồ Phỉ cười lạt nghĩ bụng:

“Ta thử coi bọn bay còn giở trò quỷ gì!”

Gã chủ sòng đầu vẫn bị cắm vào mặt bàn, hai chân khua loạn xạ, miệng la oai oái. Gã thiếu niên nắm lấy lưng hắn nhẹ nhàng nhấc ngược lên rồi đặt xuống. Cổ hắn vẫn dính với mặt bàn, thành ra cái bàn chổng ngược chân lên trời, coi chẳng khác gì cổ bị đeo gông. Chủ sòng hai tay nâng đỡ mặt bàn coi rất hoạt kê và thảm hại. Hắn nhìn thiếu niên nói:

– Đại gia! Đại gia đến vừa may. Hắn… hắn…

Hắn đưa mắt nhìn Hồ Phỉ rồi không dám nói nữa.

Hồ Phỉ hỏi:

– Ngươi không đám đánh nữa chứ gì? Thế cũng được. Vậy tiền chung cho ta đâu? Chẳng lẽ “Anh hùng hội quán” định quịt nợ?

Thiếu niên mắng chủ sòng:

– Bạt gia được bao nhiêu tiền mau lấy ra trả đi, còn ấp a ấp úng gì nữa?

Gã nói rồi cầm hai góc bàn kéo mạnh ra. Rắc một tiếng! Mặt bàn bị tách làm hai mảnh. Công phu này rất ngoạn mục và mau lẹ khiến mọi người trong sòng bạc đều cất tiếng hoan hô. Chủ sòng bây giờ được thiếu chủ đỡ đòn, mật lớn lên một ít, ngó Hồ Phỉ bằng cặp mắt hằn học nói:

– Gã này là “Xuất lão thiên”.

Thiếu niên lớn tiếng quát:

– Nói bậy! Ngươi ta là đấng anh hùng hảo hán, sao lại bảo là “xuất lão thiên”? Nếu ở đây không đủ tiền thì mau sai người lại tiệm cầm đồ mà lấy.

Hồ Phỉ không hiểu ba chữ “xuất lão thiên” nghĩa là gì, nhưng cũng đoán ý hắn bảo mình là phường bịp bợm. Chàng lẩm bẩm:

– Gã thiếu niên này võ công không tồi, mà hành động cũng dứt khoát, ta chẳng thể lơ là được.

Lại nghe thiếu niên nói:

– Tiền bạc của Bạt gia quyết chẳng dám thiếu nửa đồng. Bọn tiểu nhân quê mùa này mắt nhỏ như hai hạt đậu, trước nay chưa nhìn thấy những bậc hảo hán, anh hùng chân chính bao giờ. Bạt gia bất tất chấp nhặt với chúng làm chi. Bây giờ xin mời Bạt gia dời gót ngọc qua tệ xá chơi được chăng?

Gã biết rõ ba chữ “Bạt Phụng Mao” quyết chẳng phải tên thật và chàng tìm tới Phụng gia là có ý gây chuyện thị phi, nhưng gã vẫn một điều Bạt gia, hai điều Bạt gia, tuyệt không lộ vẻ gì khó chịu.

Hồ Phỉ nói:

– Ở đây các vị rất nhiều phụng hoàng, tại hạ chưa hiểu tôn hiệu của đại gia là gì?

Thiếu niên nghe giọng hỏi của Hồ Phỉ có ý châm chọc liền đáp:

– Không dám! Không dám! Tiểu đệ tên gọi Nhất Minh.

Hồ Phỉ nói:

– Tại hạ đang có hứng đánh bạc muốn lại đây chơi một lúc nữa. Chi bằng mời lệnh tôn đến đây hội diện.

Chủ sòng nghe chàng nói muốn đánh bạc nữa, mặt xanh như chàm, lên tiếng.

– Không… không…

Phụng Nhất Minh sa sầm nét mặt quát:

– Chúng ta đang nói chuyện, sao ngươi được chõ miệng vào?

Gã quay lại nhìn Hồ Phỉ cười cầu tài, nói:

– Gia phụ đối với bạn bè trước nay chưa dám thất lễ với ai, được tin Bạt gia quang lâm Phật Sơn trong lòng mừng rỡ khôn xiết, hận mình chẳng được lập tức cùng nhau tương kiến. Vì bữa nay có hai vị Ngự tiền thị vệ ở trong kinh ra, gia phụ phải ở nhà bồi tiếp chẳng thể phân thân ra mà nghinh đón Bạt gia, mong Bạt gia miễn thứ cho.

Hồ Phỉ cười lạt đáp:

– Ngự tiền thị vệ là các quan lớn. Nhất Minh huynh! Tiểu đệ ở ngoài giang hồ có cái ngoại hiệu, chắc huynh đài đã biết rồi.

Phụng Nhất Minh nghe chàng nói tới ngoại hiệu liền tự hỏi:

“Không hiểu tên thật thằng cha này là gì? Nếu tìm hiểu đôi phần thì việc đối phó cũng chẳng khó khăn gì.”

Gã vội nói:

– Tiểu đệ là kẻ cô lậu ít hiểu biết, xin Bạt gia cho biết.

Hồ Phỉ đằng hắng một tiếng rồi đáp:

– Lạ ở chỗ Nhất Minh huynh cũng là người võ lâm mà sao cái tên “Sát quan ẩu lại Bạt Phụng Mao” lừng lẫy trên chốn giang hồ cũng không biết?

Phụng Nhất Minh sửng sốt nói:

– Bạt gia nói giỡn rồi.

Hồ Phỉ đột nhiên vươn tay trái chụp lấy vạt áo gã, quát hỏi:

– Hừ! Tên này lớn mật thật. Sao ngươi dám lấy vụng miếng thịt phụng hoàng của ta nuốt vào bụng?

Phụng Nhất Minh không thể nhẫn nại được nữa, tay phải gã đánh hờ một chưởng, tay trái ra chiêu cầm nã định chụp lấy cổ tay Hồ Phỉ. Hồ Phỉ xoay tay một cái nhanh như điện chớp khiến đối phương không kịp đề phòng. Bốp một tiếng. Phụng Nhất Minh bị đánh một bạt tai vào má trái. Hồ Phỉ thuận tay chụp luôn tay mặt gã, miệng quát:

– Trả lại miếng thịt phụng hoàng cho ta.

Phụng Nhất Minh cũng là tay gia học nhà nòi, võ công không đến nỗi kém mà cảm thấy cổ tay phải mình tựa hồ bị kìm sắt riết chặt, gân cốt cơ hồ gãy nát cả. Gã vội phóng cước nhằm đá vào bụng dưới đối thủ. Hồ Phỉ giơ chân lên, từ trên không đạp trúng mu bàn chân của Phụng Nhất Minh. Bàn chân Phụng Nhất Minh khác nào trúng một đòn thiết chùy, gã không nhịn được rú lên một tiếng. Hồ Phỉ xoay tay trái đánh một chưởng trúng vào má bên phải Phụng Nhất Minh. Thế là cả hai má gã vừa đỏ vừa sưng giống như gan heo.

Hồ Phỉ lớn tiếng hô:

– Các vị hảo bằng hữu hãy nghe đây. Tại hạ đường xa ngàn dặm từ phương Bắc đến trấn Phật Sơn mua cho Chung A Tứ lão huynh một miếng thịt phụng hoàng mà bị gã này ăn vụng mất. Các vị bảo có nên đánh hay không?

Mọi người trong sòng bạc ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám lên tiếng nhưng trong lòng đều biết chàng đến trả thù cho cái chết của Chung Tiểu Tam. Phụng Nhất Minh bị Hồ Phỉ dẫm lên chân, chịt cổ tay, toàn thân vô phương cử động.

Bỗng thấy một lão già từ trong đám đông đi ra, tay cầm một cái tẩu thuốc lào ngắn. Chính là đại chưởng quỹ ở tiệm cầm đồ “Anh hùng điển đương”. Lão bị Hồ Phỉ uy hiếp lấy chín ngàn lạng khi nào chịu bỏ qua? Một mặt lão sai người đến cấp báo với Phụng Thiên Nam, mặt khác ngầm tới “Anh hùng hội quán” để dò la động tĩnh. Bây giờ lão thấy thiếu chủ nhân bị bắt liền tiến ra, cười vuốt râu, miệng nói:

– Hảo hán gia, đây là người con duy nhất của Phụng lão gia. Phụng lão gia coi y quý như tính mạng mình. Hảo hán gia cần dùng tiền bạc thế nào xin cứ cho hay và xin tha thiếu chủ nhân của bọn tại hạ ra.

Hồ Phỉ bảo:

– Ai bảo gã ăn vụng thịt phụng hoàng của ta? Hễ là con cưng của Phụng lão gia thì muốn ăn vụng cái gì của người khác cũng được hay sao?

Đại chưởng quỹ cười nói:

– Hảo hán gia khéo nói giỡn. Trong thiên hạ làm gì có thịt phụng hoàng? Dù có đi chăng nữa thì thiếu chủ nhân của bọn tại hạ cũng không ăn vụng.

Hồ Phỉ lại quát:

– Thịt phụng hoàng bổ lắm. Thực là món ăn quý vô giá. Hễ nuốt vào bụng là nét mặt hồng hào béo mập lên ngay. Các vị hãy coi đó, có phải mặt gã vừa đỏ vừa mập hơn không? Vậy mà còn cãi là không ăn vụng thịt phụng hoàng của ta ư?

Đám người ở sòng bạc thì một nửa là thủ hạ của Phụng Thiên Nam, một nửa nếu chẳng phải bọn lưu manh thì cũng là hạng phá gia chỉ tử. Ai nấy đều sợ uy thế Phụng Thiên Nam, nên nghe Hồ Phỉ hỏi vậy đều mồm năm miệng mười đáp:

– Bọn tại hạ có thấy thịt phụng hoàng của hảo hán gia đâu?

– Phụng thiếu gia quyết không ăn cắp bất cứ cái gì của hảo hán cả.

– Ở phủ Phụng lão gia còn thiếu thứ gì mà phải ăn vụng ăn cắp?

– Thật buồn cười! Thật buồn cười!

– Hảo hán tha ngay y ra để khỏi xẩy chuyện lớn.

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi! Các vị bảo gã không ăn vụng chẳng lẽ ta cãi được ư? Bây giờ chúng ta đưa nhau đến miếu Bắc Đế để ngài phán xét.

Mọi người sửng sốt, lập tức nghĩ ngay đến vụ Chung Tứ tẩu mổ bụng con ở miều Bắc Đế. Đại chưởng quỹ ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng: một khi đã đến Bắc Đế miếu thì câu chuyện khó mà vãn hồi được. Hắn không ngớt khom lưng xá dài nói:

– Hảo hán dạy thế là chí phải. Bọn tại hạ đều lầm rồi. Thiếu chủ nhân đúng là đã ăn vụng thịt phụng hoàng của hảo hán. Hảo hán đòi bồi thường thế nào xin hoàn lại đúng như vậy là xong.

Hồ Phỉ cười lạt:

– Ông bạn nói nghe dễ dàng quá. Bao nhiêu người ở đây đều bất phục mà không tới Bắc Đế miếu làm cho minh bạch thì ta còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa?

Dứt lời chàng cắp nách Phụng Nhất Minh rảo bước ra khỏi đổ trường, bỏ cả tiền bạc lại không lấy nữa. Chàng hỏi thăm khách bộ hành rồi đi thẳng về phía miếu Bắc Đế.

Bắc Đế miếu có kiến trúc rất hùng vĩ với bệ thờ thật lớn. Qua cổng tới một cái ao lớn. Trong ao toàn là rùa đá, rắn đá. Hồ Phỉ kéo Phụng Nhất Minh vào đại điện, thấy vết máu vẫn còn đỏ trên phiến đá trước tượng thần, nghĩ đến thảm cảnh của Chung Tứ tẩu bị ép buộc phải mổ bụng con, bầu máu nóng trong ngực sôi lên, chàng đẩy Phụng Nhất Minh té xuống rồi ngửng đầu nhìn tượng thần Bắc Đế dõng dạc hô:

– Bắc Đế gia, Bắc Đế gia! Ngài uy linh, hiển hách, xin giúp cho tiểu dân được thân oan trả mối oán hờn. Tên giặc này ăn vụng thịt phụng hoàng của tiểu dân mà mọi người bảo gã không ăn…

Chàng chưa dứt lời đột nhiên thấy sau lưng rít lên tiếng gió, biết là gần đó có người tập kích hai bên. Chàng cúi đầu xuống co mình lại. Hai người kia đánh vào quãng không. Hồ Phỉ hai tay giang ra đẩy sau lưng hai người đánh “binh” một tiếng. Hai người đụng đầu vào nhau lập tức ngất đi. Lại nghe một người tức giận gầm lên nhẩy xổ vào. Hồ Phỉ thấy tiếng bước chân trầm trọng, thế đánh rất uy mãnh, bụng bảo dạ:

– Người này công phu không phải tầm thường.

Chàng nghiêng mình né tránh. Bỗng thấy đao quang lấp loáng. Một đại hán lớn như con trâu mộng đã lướt qua bên mình. Thanh đao chém xuống đầu Phụng Nhất Minh. Nhưng người này võ công cao cường, trong lúc cấp bách gã liền đưa cánh tay trệch đi một chút. Nhát đao chém xuống viên gạch xanh, mảnh gạch bay tứ tung. Hồ Phỉ la lên:

– Tuyệt diệu!

Chàng đưa chân trái đè lên khuỷu tay đối phương. Đại hán rú lên một tiếng buông tay bỏ đao ra. Hồ Phỉ khoèo chân phải một cái, thanh đơn đao bay lên. Tiện tay chàng đón lấy rồi cười nói:

– Tại hạ đang bực vì chuyện không có đao mổ bụng gã này mà các hạ lại đem đến cho. Xin cảm ơn các hạ.

Đại hán tức giận đến cực điểm, hết sức giãy giụa. Hồ Phỉ nhấc chân trái lên một chút hắn liền xoay mình nhảy vọt lên được ngay đủ biết cường lực của hắn hơn người. Hắn đẩy chân phải một cái mười đầu ngón tay như móc câu từ trên không chụp xuống Hồ Phỉ. Hồ Phỉ xoay mình một cái đã vòng ra phía sau đối phương. Tay trái chàng đẩy mạnh vào đôi vai phì nộn của hắn, miệng quát:

– Lên trời đi!

Phát đẩy này mười phần có đến tám là mượn đà nhảy lên của đại hán. Đại hán không tự chủ được bay vút lên không. Những người đứng xem bật tiếng la hoảng, chỉ e người hắn sẽ xuyên thủng nóc miếu bay ra ngoài. Đại hán vội đưa hai tay ôm lấy cây rường ở giữa đại điện. Dù hắn không bị đụng bể đầu nhưng cứ phải đeo tòng teng trên không, nhìn xuống thấy cách mắt đất mấy trượng.

Hắn không luyện môn khinh công, thân thể lại nặng nề, tuy công phu ngạnh công ngoại gia vào hạng khá mà không dám nhảy xuống. Đại hán này là nhân vật thứ ba trong Ngũ Hổ môn, một tay trợ thủ rất đắc lực của Phụng Thiên Nam. Những người ở trấn Phật Sơn đều sợ hắn một phép. Bây giờ hắn như người bị treo trên rường nhà, lên không được xuống cũng không xong coi rất thảm hại. Hồ Phỉ kéo vạt áo Phụng Nhất Minh đánh roạc một miếng để hở bụng ra. Chàng cầm ngang thanh đao, nhìn mọi người ở trong điện hô lớn:

– Gã có ăn thịt phụng hoàng hay không, các vị cứ mở mắt ra mà coi cho rõ, đừng bảo ta đổ oan cho người ngay.

Bốn năm người ăn mặc như kiểu hương thân đứng bên đều bước tới khuyên giải, nói:

– Xin hảo hán gia hãy nương tay, nếu mổ bụng ra thì người chết không thể sống lại được, điều đó thật không nên.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Bọn người này úp úp mở mở, chắc cũng cùng một giuộc với Phụng Thiên Nam.

Chàng tức giận quay đầu lại, quát hỏi:

– Chung Tứ tẩu mổ bụng thằng nhỏ sao các vị không khuyên can? Chỉ con em nhà giàu mới đáng tiền, còn con kẻ nghèo không phải là mạng người hay sao? Các vị mau về nhà đi. Mỗi vị bắt một đứa con đưa đến đây. Nếu ai không chịu đưa đến, ta sẽ thân hành tới nơi để tìm. Thịt phụng hoàng của ta nếu không phải gã ăn vụng thì là con các vị ăn rồi. Ta sẽ mổ bụng từng đứa một để điều tra cho ra vụ này.

Hồ Phỉ nói mấy câu này khiến bọn hương thân hồn vía lên mây, không nói gì nữa. Giữa lúc nhốn nháo, ngoài cửa miếu có tiếng ồn ào huyên náo. Một lũ người chạy vào. Người đi trước thân thể cao lớn, mình mặc áo đoạn màu đồng cổ. Hắn đưa hai bàn tay gạt một cái. Bảy, tám người trên điện liền bị té xuống lăn ra xa mấy thước. Hồ Phỉ thấy người này khí thế uy mãnh lại thái độ ngang tàng, liền lẩm bẩm:

– Ha ha! Rốt cuộc hắn phải đến rồi!

Chàng đưa mục quang nhìn đại hán từ đầu xuống chân, lại từ gót chân lên đến đầu. Đại hán là một lão già để ria mép đốm bạc, tuổi ngoài năm chục, cổ tay mặt đeo một đôi vòng ngọc, tay trái cầm cây tẩu màu phỉ thúy, nghiễm nhiên là một tay đại hương thân, không giống một tên ác bá trong võ lâm ngồi nhà để chia tang vật. Có điều chân lão cước bộ trầm ổn, cặp mắt rất oai nghiêm, quá nửa là tay võ nghệ cao cường. Đại hán này chính là Nam bá thiên Phụng Thiên Nam, chưởng môn phái Ngũ Hổ.

Phụng Thiên Nam đang dự tiệc bồi tiếp hai thị vệ từ kinh đô đến, nghe gia nhân liên tiếp về báo cáo là có người đại náo tửu lâu, tiệm cầm đồ và sòng bạc. Lão không muốn để mất uy danh trước mắt bọn Ngự tiền thị vệ, toan bỏ mặc không lý gì đến. Lão cho là chuyện nhỏ nhặt này bọn thủ hạ cũng đủ sức đối phó rồi. Sau lão nghe nói con bị bắt đưa đến miếu Bắc Đế để mổ bụng mới hối hả chạy tới. Lão tưởng một tay đối đầu ghê gớm nào đến tầm cừu, ngờ đâu lão vừa ngó thấy Hồ Phỉ thì chỉ là một gã thiếu niên quê mùa chưa từng quen biết. Lão chưa nói gì đã cúi xuống toan ôm con dậy

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

“Lão này có vẻ cuồng ngạo lắm. Hắn coi ta không ra gì”.

Chàng chờ Phụng Thiên Nam cúi xuống rồi phóng chưởng đánh vào lưng lão. Phụng Thiên Nam không quay đầu lại chỉ xoay tay sau bên trái gạt bàn tay đối phương. Chát một tiếng. Hai chưởng đụng nhau. Người Phụng Thiên Nam lảo đảo, suýt nữa té xuống đè lên mình Phụng Nhất Minh. Bây giờ lão mới biết chàng thiếu niên quê mùa này quả là tay kình địch. Lão đành bỏ tay đó giơ tay phải lên, vung quyền đánh vào eo Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thấy lão biến chiêu rất thần tốc, quyền đánh như gió. Quả là thân thủ của một danh gia. Chàng vung đao chém xuống nắm tay lão. Nhát đao này tuy mãnh liệt, Phụng Thiên Nam chỉ cần rút tay một cái là tránh được ngay, nhưng Nhất Minh nằm ngang dưới đất, nếu lão rụt tay về thì đứa con sẽ hứng lấy nhát đao. Trước tình trạng nguy cấp này Phụng Thiên Nam ứng biến cực kỳ mau lẹ. Lão kéo tấm phủ bàn trước bệ thờ hất lên đón đỡ chiêu đao. Hồ Phỉ là:

– Giỏi lắm!

Chàng vươn tay trái lên chụp lấy một đầu tấm phủ bàn. Cả hai người cùng kéo mạnh. Bỗng nghe đánh “soạt” một tiếng. Tấm phủ bàn đứt ngay khúc giữa thành hai đoạn. Bây giờ Phụng Thiên Nam đâu dám coi thường nữa? Lão vội nhảy lùi lại nửa trượng. Một tên đệ tử đưa cây Hoàng kim côn vào tay lão. Cây côn dài đến bảy thước, đường kính một tấc rưỡi. Toàn thân đúc bằng vàng pha với đồng. Có thể nói là một thứ binh khí nặng nhất và sang trọng nhất của một nhà hào phú trong võ lâm.

Phụng Thiên Nam vung cây kim côn lên trỏ vào Hồ Phỉ nói:

– Các hạ là môn phái của ai? Phụng mỗ có chỗ nào đắc tội với các hạ, xin được thỉnh giáo.

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ có miếng thịt phụng hoàng bị lệnh lang ăn vụng mất. Không mổ bụng gã ra để coi cho rõ thì không xong.

Phụng Thiên Nam nhờ cây Thục đồng côn mà khắp tỉnh Lĩnh Nam không ai địch nổi. Lão mới sáng lập ra phái Ngũ Hổ và định cư ở trấn Phật Sơn. Sau lão đại phát tài mới cho đúc cây Hoàng kim côn để thay cho cây thục đồng côn. Những cây côn mà con nhà võ sử dụng thưởng chỉ cao ngang bằng lông mày để xoay xở cho vừa với chiều cao thân thể gọi là “Tề mi côn”. Cây ngắn không tới năm thước, cây dài cũng chỉ hơn sáu thước là cùng. Cây côn của Phụng Thiên Nam dài đến bẩy thước mà vàng ròng lại mềm quá, nên pha thêm đồng, với cây côn bằng thép thì nặng hơn nhiều.

Nhờ Phụng Thiên Nam có tý lực hơn người, côn vung ra trong phạm vi hai trượng là ánh vàng rực rỡ. Quả là vô cùng lợi hại. Lão nghe lời Hồ Phỉ nói thì biết rằng cục diện bữa nay khó lòng mà dàn xếp cho ổn thỏa. Lão vung vây kim côn lên, vung cổ tay hai cái, đầu côn đã quạt gió làm cho hai ngọn đèn trước bệ thờ tắt ngóm.

Phụng Thiên Nam quát lớn:

– Tại hạ xưa nay rất thích kết giao với bằng hữu, cùng với tôn giá chưa hề quen biết, cớ gì phải vì một thằng nhỏ nhà nghèo mà làm tổn thương đến nghĩa khí giang hồ? Là bạn hay là thù đều do một lời của tôn giá mà quyết định.

Kim côn là binh khí rất nặng, lão chỉ vung một đường mà đã làm tắt hai ngọn đèn, tuyệt diệu ở chỗ đầu côn không làm suy suyển gì tới ngọn đèn. Thủ pháp chuẩn xác như thế quả là công phu hiếm thấy. Lời lão nói tuy mềm mỏng mà bên trong lại cứng rắn, chỉ mong Hồ Phỉ thấy khó khăn mà lui bước, bất tất phải can thiệp vào chuyện không đâu.

Hồ Phỉ cười nói:

– Phải rồi! Lời Phụng gia nói không sai. Chỉ cần Phụng gia cắt một miếng thịt phụng hoàng đền cho tại hạ, thì tại hạ lập tức phủi áo đi ngay. Phụng gia thấy vậy được không?

Phụng Thiên Nam sa sầm nét mặt, quát lớn:

– Đã vậy thì chúng ta chỉ còn cách dùng binh khí để phân cao thấp mà thôi.

Lão nói xong liền chống cây côn nhảy vào trong miếu. Hồ Phỉ ném Phụng Nhất Minh xuống đất, cầm đơn đao cắm bên mình gã, miệng quát lớn:

– Nếu mi bỏ trốn thì cha mi phải đền mạng!

Chàng đưa tay không ra, dõng dạc nói:

– Lão gia đây đi không đổi họ, về chẳng đổi tên tiếng tăm lừng lẫy, đó là “Sát quan ẩu lại Bạt Phụng Mao”. Lông phụng không nhổ được thì lông phao câu của gà thối, vịt thối cứ nhổ tạm cũng tốt. Xin mọi người hãy xem cho rõ.

Chàng vừa dứt lời, tay trái đột nhiên vung ra chộp lấy đầu côn của đối phương. Phụng Thiên Nam biết chàng võ công lợi hại, bụng nghĩ thầm:

“Mi đã phách lối tự đại, không dùng binh khí thì chớ trách ta.”

Lúc thấy chàng đưa tay ra chộp lấy cây côn, tỏ ra quá xem thường đối thủ, liền vung đuôi côn một cái, ra chiêu “Khu vân tảo nguyệt”, quét ngang cổ Hồ Phỉ. Tuy chiêu này chủ yếu là quét ngang nhưng lại có điểm, có đánh, có quấn, có nảy. Cái đó gọi là “Đơn đầu, song đầu, triển đầu, đầu đầu thị đạo, chính diện, trắc diện, bối diện, diện diện giai linh”, đúng là côn pháp thượng thừa trong võ học. Hồ Phỉ thân hình di chuyển theo đường côn, phát chưởng đối công.

Mọi người ngưng thần nín thở, chăm chú xem hai người kịch đấu. Bọn thuộc hạ của Phụng Thiên Nam tuy đông người, nhưng chưa được lệnh của lão nên không dám xông vào trợ chiến. Vả lại hai người tung nhảy như gió bọn ở ngoài võ công kém xa, có muốn trợ chiến cũng chăng biết ra tay thế nào.

Cuộc ác đấu đang lúc khủng khiếp thì ba người từ cửa miếu tiến vào. Người đi đầu là một phụ nhân tóc tai rũ rượi, mình đầy máu me. Chính là Chung Tứ tẩu. Mụ vừa dập đầu vừa bò vào. Hai người theo sau là Chung A Tứ, chồng mụ và Chung Tiểu Nhị, con mụ. Chúng Tứ tẩu vẫn quỳ dưới đất nhìn Phụng Thiên Nam dập đầu không ngớt. Mụ cười ha hả rồi la lên:

– Phụng lão gia! Lão gia là người đại nhân đại nghĩa. Bắc Đế phù hộ cho lão gia đa phước đa lộc, phù hộ cho lão gia kim ngọc mãn đường quanh năm phát tài. Gã Tiểu Tam, con của tiểu phụ đã làm cáo trạng kiện tới Diêm Vương nhưng Diêm Vương gia bảo lão gia đại phúc đại quý, hậu vận hưởng phúc vô cùng.

Mụ điên điên khùng khùng, vừa quỳ vừa lạy, chợt khóc chợt cười. Chung A Tứ nét mặt tái xanh không nói một lời. Phụng Thiên Nam mới cùng Hồ Phỉ chiết hơn mười chiêu thì đã rơi vào thế hạ phong. Cây kim côn vung lên thành vòng tròn mỗi lúc một nhỏ. Lão lại thấy Chung Tứ tẩu dở khôn dở dại quỳ trước mặt mình thành ra tâm thần bối rối. Lão biết còn chiến đấu nữa tất bị thất bại khó bề cứu vãn, liền vận kình lực vào hai bàn tay sử chiêu “Dương mi thổ khí” đánh vào hàm ếch của Hồ Phỉ. Nhát côn này kình phong rít lên, kim quang lóa mắt. Hồ Phỉ không né tránh cũng không lùi lại, vươn tay đoạt lấy kim côn. Phụng Thiên Nam vừa sợ vừa mừng, nghĩ bụng:

“Cánh tay ngươi dù có đúc bằng sắt đi nữa cũng phải gãy tan.”

Lão liền vận kình dồn hết sức ra cổ tay. Bàn tay Hồ Phỉ vừa bám đầu côn liền co nhẹ lại về phía sau, nương theo sức đập cây côn, các ngón tay uốn quanh nắm lấy đầu côn. Tính ra Phụng Thiên Nam sử chiêu đó đã phát huy công lực khổ luyện trên ba chục năm, lão vội sử chiêu “Thương hoạt hạ kiếp”, rồi tiếp theo là chiêu “Phiên triệt địa” dùng công phu ngạnh công cực kỳ cương mãnh để giật lại.

Hồ Phỉ là lên:

– Nhổ lông con gà thối tha đây!

Hai tay chàng từ ngoài đưa vào trong bóp lấy yết hầu. Không hiểu chàng di động thân hình thế nào mà vừa giật, vừa chụp lại thuận đà tiến đánh luôn. Cây kim côn của Phụng Thiên Nam vung ra ngoài dĩ nhiên không đánh được chàng. Phụng Thiên Nam sợ quá vội cúi đầu xuống đồng thời đưa tay ra giữ lấy cổ.

Hồ Phỉ dùng tay trái khẽ đập vào thiên linh cái đối phương rồi lột mũ lão ra, tay phải chụp lấy búi tóc lão la lên:

– Phát chưởng này tạm thời chưa kết liễu các hạ!

Tay trái chàng nắm búi tóc của lão rồi hai tay giựt mạnh ra hai bên một cái. Nghe “Phựt” một tiếng, búi tóc của lão bị đứt thành hai đoạn. Phụng Thiên Nam sợ tái mặt, vội nhảy lùi lại. Hồ Phỉ giơ tay mặt lên. Cái mũ của Phụng Thiên Nam bay ra chụp trúng vào đầu con rắn đá. Chàng lại tiến lên hai bước phóng chưởng đánh vào đầu con rùa đá nghển cổ lên. “Binh” một tiếng. Tia nước bắn tung tóe. Đầu con rùa đá bị gãy cổ rớt xuống ao nước. Hồ Phỉ nổi lên tràng cười ha hả. Chàng cầm mớ tóc dài của Phụng Thiên Nam quấn vào cổ con rùa đó. Hai tay chang phủi bụi trên mình cười hỏi:

– Còn đánh nữa hay thôi?

Bọn người đứng xem thấy Hồ Phỉ phô trương thân thủ như vậy đều cả kinh thất sắc. Phụng Thiên Nam biết phát cưởng vừa rồi quả chàng đã lưu tình, không thì chưởng lực đánh gãy đầu con rùa đá mà đánh vào đầu lão thì còn chi là tính mạng? Nhưng lão nghĩ tới chuyện Hồ Phỉ lấy búi tóc mình quấn lên cổ rùa, lấy mũ mình đội lên đầu rắn thì quả là một điều đại sỉ nhục, còn nhịn làm sao được? Lão liền múa kim côn ra chiêu “Thanh long quyển vĩ” quét mạnh một cái. Lúc này lão đánh liều mạng chứ không giữ thân phận chưởng môn tỷ võ cùng người.

Hồ Phỉ thầm nghĩ:

“Thằng cha này lâu nay hoành hành bá đạo, bữa nay mà ta không làm cho hắn mất hết thể diện thì không giải được oan khí cho người ở trấn Phật Sơn này.”

Chàng thấy uy lực cây kim côn có gia tăng, nhưng côn pháp đã không còn linh động như lúc nãy. Chàng dùng tay không đỡ gạt mấy chiêu rồi thấy lão sử chiêu “Thiết ngưu canh địa” đánh tới, bèn chờ đầu côn quét xuống đất liền dẫm chân phải lên. Phụng Thiên Nam vội vận kình giựt lại. Hồ Phỉ vung chân rất mau lẹ, vừa thấy chân phải rung động liền đạp mạnh chân trái lên thân côn một cái. Phụng Thiên Nam không nắm chắc được nới hai tay ra, cán côn rớt xuống đập trúng mu bàn chân phải lão, hai cái xương nhỏ gãy lập tức. Lão đau quá, mặt vàng như nghệ, nhưng chỉ nghiến răng chịu đựng chứ chẳng rên la một tiếng. Lão đưa hai tay chắp sau lưng dõng dạc lên tiếng:

– Phụng mỗ học nghệ chưa tinh thông không còn gì để nói nữa, các hạ muốn giết muốn mổ thế nào xin cứ tùy ý.

Chung Tứ tẩu hướng về lão vẫn dập đầu không ngừng. Mụ vừa khóc vừa la:

– Đa tạ Phụng lão gia đã thành toàn cho thằng Tiểu Tam của nhà tiểu phụ. Nó quả có ăn vụng thịt ngỗng của lão gia không?

Hồ Phỉ thấy Phụng Thiên Nam bị thảm như vậy, không muốn làm nhục lão nữa, nhưng lại thấy thảm trạng điên khùng của Chung Tứ tẩu, cùng những vết máu trên bệ đá trước ban thờ, chàng nghĩ Phụng Thiên Nam ngoài vụ này nhất định còn gây không ít điều tàn ác, đã rơi vào tay mình thì há có thể buông tha một cách khinh xuất? Chàng liền sấn bước tới chụp lấy lưng Phụng Nhất Minh giơ lên, nhổ thanh đao cắm dưới đất rồi quay lại Phụng Thiên Nam:

– Phụng lão gia! Giữa tại hạ và lão gia vốn vô oán vô cừu, nhưng lệnh lang ăn vụng miếng thịt phụng hoàng của tại hạ thật là vô lý. Những người ở trấn Phật Sơn đều bênh vực gã. Nỗi oan khuất của tại hạ khó mà biện minh được, đành phải mổ bụng lệnh lang để liệt vị coi cho rõ.

Dứt lời chàng đưa mũi đao vào bụng Phụng Nhất Minh, rạch nhẹ một đường. Trên làm da trắng như tuyết lập tức ứa máu. Phụng Thiên Nam dĩ nhiên làm lắm điều tàn ác nhưng cũng có khí phách của một hán tử giang hồ. Lão bị bại dưới tay Hồ Phỉ rồi mà vẫn mười phần cứng cỏi, không để mất thân phận một vị chưởng môn. Nhưng bây giờ thằng con yêu độc nhất sắp bị thảm họa mổ bụng, bất giác bao nhiêu oai phong ngạo khí đều tiêu tán. Lão la lên:

– Hãy khoan!

Rồi lão đoạt lấy một thanh đơn đao của một tên hạ thủ đứng bên. Hồ Phỉ cười hỏi:

– Lão gia còn chưa chịu phục, muốn đánh một trận nữa chăng?

Phụng Thiên Nam vẻ mặt sầu thảm đáp:

– Mình làm mình chịu, Phụng mỗ đã hành động không xứng đáng, để tôn giá phải ôm mối bất bình. Cái đó không liên quan gì đến tiểu nhi. Phụng mỗ không dám sống nữa, chỉ cầu tôn giá tha mạng cho thằng con.

Lão nói rồi vung đơn đao toan đâm cổ tự vẫn. Bỗng nghe người trên rường nhà hô lớn:

– Phụng đại ca! Làm thế không được.

Nguyên là gã đại hán to lớn hai bàn tay bám lấy rường nhà người đeo tòng teng trên không. Phụng Thiên Nam cười khổ một tiếng rồi vung đao cứa cổ liền. Mọi người giật mình kinh hãi nhưng chẳng ai dám ngăn cản. Thanh đơn đao nếu lướt qua cổ thì lập tức máu chảy đương trường, thây nằm lăn trong tổ miếu.

Đột nhiên mấy tiếng veo véo rít lên. Một mảnh ám khí từ ngoài cửa điện ở trên cao chênh chếch bắn vào. “Keng” một tiếng. Ám khí đụng vào đơn đao. Phụng Thiên Nam bị rung tay làm cho thanh đơn đao trệch đi nhưng cũng vạch một vết thương trên vai bên trái của lão khiến máu chảy đầm đìa.

Hồ Phỉ định thần nhìn lại ám khí thì chính là một cành thoa cài trên đầu phụ nữ. Tý lực của Phụng Thiên Nam rất mạnh mà cành thoa nhỏ bé phóng trệch được đơn đao của lão thì người phát ám khí võ công không kém gì chàng. Hồ Phỉ trong lòng thấy kinh ngạc vội chạy ra sân, nhảy vọt lên nóc nhà. Chàng thấy góc tây nam có bóng người thấp thoáng chỉ trong chớp mắt đã mất hút. Hồ Phỉ điểm chân phải xuống nhảy vọt đi. Trong ánh hoàng hôn lờ mờ, chàng đảo mắt nhìn quanh không thấy bóng người, miệng lẩm bẩm:

– Coi bóng sau lưng người này thân hình mảnh dẻ tựa hồ một thiếu nữ. Chẳng lẽ trong đám nữ nhân trên đời này lại có một tay cao thủ đến thế?

Chàng sợ cha con Phụng Thiên Nam trốn mất không dám đứng lâu trên nóc nhà, liền xoay mình nhảy xuống trở vào đại điện thì thấy cha con Phụng Thiên Nam đang ôm nhau. Mặt lão nước mắt đầm đìa không hiểu là vì yêu thương nuối tiếc hay hối hận khổ đau? Hồ Phỉ lòng dạ nhân từ, thấy tình cảnh đó có ý muốn tha thứ cho cha con lão.

Phụng Thiên Nam buông con ra, quỳ xuống trước mặt Hồ Phỉ nói:

– Cái mạng già của lão phu xin trao vào tay các hạ, chỉ hy vọng các hạ nương tay tha mạng cho nhi tử.

Phụng Nhất Minh xông lại cướp lời:

– Không được! Không được! Các hạ giết tiểu nhân đi để báo thù cho họ Chung. Xin cứ mổ bụng tiểu nhân đi.

Trong lúc nhất thời, Hồ Phỉ không biết phát lạc bằng cách nào. Nếu giết cả hai người thì chàng không nỡ, nhưng nếu thấy cha con lão quỳ gối khóc lóc mà buông tha tất thì phước cho họ quá.

Đang lúc ngần ngừ đột nhiên Chung A Tứ tiến lại nhìn Hồ Phỉ nói:

– Hảo hán gia đã cứu mạng cho vợ con tiểu nhân, lại giúp cho cả nhà tiểu nhân rửa sạch được nỗi oan khuất. Đại ân đại đức tiểu nhân tan xương nát thịt cũng khôn bề báo đáp.

Y vừa nói vừa dập đầu lạy binh binh. Hồ Phỉ vội đỡ y dậy. Chung A Tứ quay lại, nét mặt xám xanh nhìn Phụng Thiên Nam nói:

– Phụng lão gia! Bữa nay ở trước thần tượng Bắc Đế, lão gia có chịu nói theo lương tâm một câu là thằng con Tiểu Tam của nhà tiểu nhân không ăn vụng thịt ngỗng chăng?

Phụng Thiên Nam bị uy thế Hồ Phỉ trấn áp, cúi đầu đáp:

– Không có! Đó… đó là lầm lỗi của Phụng mỗ.

Chung A Tứ lại nói:

– Phụng lão gia! Lão gia theo lương tâm mà nói thực lần nữa đi. Có phải lão gia xui quan phủ hành hạ tiểu nhân, bức tử nhi tử chỉ vì muốn chiếm mảnh vườn rau của tiểu nhân không?

Phụng Thiên Nam đưa mắt nhìn thì thấy bộ mặt thường ngày vốn chất phác thật thà của con người quê mùa hiện giờ đang nghiến răng nghiến lợi, mắt dường tóe lửa, rất đáng sợ, bất giác lão cúi đầu xuống không dám trả lời. Chung A Tứ lại giục:

– Lão gia mau nói đi. Có đúng thế không?

Phụng Thiên Nam ngửng đầu lên đáp:

– Đúng vậy! Giết người thì phải thường mạng. Ngươi giết ta đi.

Bỗng nghe ngoài cửa miếu có tiếng người hô:

– Tên tiểu tặc tự xưng là Bạt Phụng Mao kia! Ngươi có dám ra đây đấu với ta ba trăm hiệp không? Ngươi chỉ rụt đầu rụt cổ trong miếu Bắc Đế không dám ra ngoài sao?

Mấy câu này thanh âm rất vang dội. Bao nhiêu người trong đại điện đều nhau kinh ngạc, họ nghe rõ thanh âm nặng trịch và thô lỗ, đầy vẻ vô lại lưu manh. Hồ Phỉ sửng sốt chạy ra cửa miếu thấy ba người cưỡi ngựa đang chạy vội về phía Tây. Một tên cưỡi ngựa quay đầu lại nói lớn:

– Con rùa rụt đầu kia! Chắc ngươi không dám động thủ cùng lão tử.

Hồ Phỉ tức giận vô cùng. Chàng thấy dưới gốc cây lớn bên cổng miếu có cột hai con ngựa, liền nhảy lên lưng một con, bứt dứt dây cột, hai chân kẹp lại thúc vào bụng ngựa, rượt theo ba kẻ kia. Ba con ngựa chạy trước men theo bờ sông lao về phía tây. Hồ Phỉ thấy ba người cưỡi ngựa tư thế rất vụng về, thuật cưỡi ngựa cũng kém cỏi. Chàng không hiểu tư thế của ba kẻ kia là thật hay giả, nhưng mấy con ngựa họ đang cưỡi đúng là giống lương câu. Hồ Phỉ đuổi chừng hơn một dặm, thủy chung vẫn không tài nào đuổi kịp. Thỉnh thoảng lại nghe ba người lớn tiếng thóa mạ chẳng úy kỵ gì hết. Chàng thấy chúng chẳng mảy may sợ hãi, tựa hồ như có một kẻ cực kỳ lợi hại nâng đỡ.

Trong lòng nóng nảy, chàng cúi xuống lượm mấy viên đá rồi tung cổ tay một cái. Năm sáu viên đá bay ra. Bỗng nghe những tiếng “Ối chao!”, “Ối, mẹ ơi!” vang lên không ngớt. Cả ba hán tử đều bị đánh trúng ngã ngựa. Hai tên bò lồm cồm dưới đất, kêu la ầm ĩ. Người thứ ba chân móc vào bàn đạp bị ngựa lôi đi, trong chớp mắt đã khuất vào rặng liễu âm u. Hồ Phỉ nhảy xuống ngựa thấy hai tên kia vẫn nắm lưng, miệng rên hừ hừ kêu đau. Chàng đá một tên, quát:

– Ngươi bảo muốn đấu cùng ta ba trăm hiệp sao còn chưa đứng lên?

Người kia lồm cồm đứng dậy đáp:

– Thua bạc chưa trả mà còn ngang ngược vậy ư? Một ngày kia Phụng lão gia sẽ thân hành thu thập ngươi.

Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:

– Ai thiếu tiền cờ bạc không trả?

Một người khác nhảy xổ lại vung quyền đánh vào mặt Hồ Phỉ. Thoi quyền này tuy sức mạnh mấy cân nhưng chẳng theo chưởng pháp nào hết. Hiển nhiên hắn chưa học võ công. Hồ Phỉ tủm tỉm cười, đưa tay khẽ gạt cho thoi quyền của hắn trệch đi. “Binh” một tiếng. Thoi quyền đánh trúng sống mũi của tên đồng bọn khiến máu tươi chảy ròng ròng. Người phóng quyền sợ giật nảy mình không hiểu tại sao thoi quyền của mình đánh ra lại không chuẩn đích. Hắn chỉ biết ôm quyền đứng thộn mặt ra.

Người bị đòn tức giận nói:

– Quân chó đẻ! Sao lại đánh lão tử?

Hắn vung chân đá vào eo gã đồng bọn. Người kia xoay tay lại đánh. “Binh binh bốp bốp!” Thế là hai người đánh nhau kịch liệt không lý gì đến Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thấy hai gã này thực tình không hiểu võ công mà dám kêu mình ra thách đấu thì bên trong ắt có điều gì ngoắt ngoéo. Hai tay chàng nắm lấy cổ tay hai gã lôi về phía sau để tách hai gã ra. Nhưng hai người đỏ mặt tía tai, miệng không ngớt tuôn ra những lời thô tục để nhục mạ nhau. Một tên chửi đối phương chuyên môn ăn cắp rau cỏ nhà người ta, một tên chửi đối phương chuyên trộm gà vịt ở trấn Phật Sơn.

Hồ Phỉ xem chừng hai người này đều là hạng vô lại quê mùa, càng sinh lòng ngờ vực, liền lớn tiếng quát hỏi:

– Ai sai bọn ngươi đến chửi mắng ta?

Dứt lời hai tay chàng thúc lại. Nghe “cốp” một tiếng trán hai gã đụng vào nhau. Lập tức cả hai trán đều sưng vù lên như mọc sừng, mắt long lên song sọc nhìn nhau. Hán tử trộm gà rất nhát gan. Gã vừa bị một cú ở đầu đã lạy lục rối rít:

– Gia gia! Công công! Tiểu chỉ là đứa con cháu khốn nạn của lão nhân gia.

Hồ Phỉ lại quát:

– Hừ, ta mà có hạng con cháu đê tiện như ngươi ư? Nói mau!

Tên ăn cắp gà nói:

– Chủ sòng ở “Anh hùng hội quán” nói là lão gia thiếu nợ cờ bạc không trả, bảo bọn tiểu nhân ba tên dẫn dụ lão gia ra ngoài để đánh cho một trận. Lão cho bọn tiểu nhân mỗi tên năm lạng bạc. Những con ngựa này cũng của lão cho mượn. Lão gia thiếu nợ có trả hay không cũng chẳng liên quan gì đến bọn tiểu nhân…

Hồ Phỉ nghe tới đây “ủa” lên một tiếng, chàng lẩm bẩm:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi! Sao ta lại hồ đồ đến nổi nỗi trúng phải kế “Điệu hổ ly sơn” của địch nhân.

Chàng đẩy hai tay một cái khiến hai tên vô lại ngã chúi xuống như chó ăn phân, rồi tung mình lên ngựa hấp tấp quay về đường cũ. Chàng thầm nghĩ:

“Bây giờ chắc cha con Phụng Thiên Nam lẩn trốn cả rồi. Tòa Phật Sơn trấn rộng lớn thế này biết đi đâu kiếm họ? May mà hắn chiếm sản nghiệp của người ta rất nhiều. Ta lại đến mọi nơi của hắn đại náo một trận long trời đất lở, thử xem hắn lẩn tránh đến bao giờ?”

Không bao lâu, Hồ Phỉ trở về đến miếu Bắc Đế. Lúc trước bên ngoài cửa miếu, người ta bu coi đông nghịt nhưng bây giờ lại vắng tanh, đến một thằng nhỏ cũng không còn: Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

“Quả nhiên Phụng Thiên Nam đi mất rồi.”

Chàng tung mình xuống ngựa chạy thẳng vào trong miếu. Chàng vừa khoa chân bước lên đại điện, bất giác như hít phải một hơi khí lạnh, hơi thở tựa hồ ngưng trệ. Người chàng lảo đảo muốn ngồi phệt xuống đất. Trước đại điện miếu Bắc Đế máu tươi lênh láng khắp mặt đất, trong vũng máu có ba thây người chính là Chung A Tứ, Chung Tứ tẩu và Chung Tiểu Nhị. Người nào cũng bị loạn đao chém nát, máu thịt bầy nhầy, cảnh tượng cực kỳ thê thảm khiến người ta không nỡ nhìn. Hồ Phỉ đứng thộn mặt ra hồi lâu. Bầu nhiệt huyết sôi sùng sục. Chàng không nhịn được nữa, quỳ phục xuống đất khóc òa lên. Chàng vừa khóc vừa la:

– Chung Tứ ca! Chung Tứ tẩu! Chung gia huynh đệ! Bởi Hồ Phỉ này bất tài mà làm lụy đến tính mạng của các vị.

Chàng thấy ba người chết rồi, mà mắt vẫn mở trừng trừng, nét mặt đầy vẻ phẫn nộ. Chàng đứng lên trỏ vào thần tượng Bắc Đế gia mà phát thệ:

– Bắc Đế gia gia! Bữa nay xin Bắc Đế gia gia làm chứng cho. Nếu Hồ Phỉ này chẳng giết được cha con Phụng Thiên Nam để báo thù cho cả nhà họ Chung thì sẽ trở về tự tử trước mặt gia gia.

Chàng đập tay đánh “binh”một cái khiên một góc bàn thờ vỡ vụn. Bao nhiêu đồ thờ, lò hương cùng cây đèn trên án đều rớt ngổn ngang xuống đất. Chàng định thần lại ra ngoài cửa miếu dắt ngựa vào đặt ba xác người lên lưng ngựa, trong lòng hối hận không thôi:

“Ta nhỏ tuổi ngu ngốc không hiểu những trò ma quỷ trên chốn giang hồ mà lại đưa đầu vào đòi can thiệp chuyện bất bình, làm hại ba mạng người phải chết oan. Trong nhà họ Phụng kia dù đầy xuống núi đao vạc dầu, bữa nay ta cũng phải sấn vào giết bọn chúng một trận tả tơi mới hả dạ”.

Chàng liền dắt ngựa ra đường lớn mà đi. Chàng thấy nhà nào nhà nấy đều cửa đóng then cài, đường sá vắng ngắt không một bóng người. Chỉ nghe tiếng chân ngựa của mình lộp cộp bước trên đường lát đá.

Hồ Phỉ đến “Anh hùng đương phố” và “Anh hùng tửu lâu”, đạp tung cửa lớn, cũng thấy vắng ngắt như tờ, tưởng chừng mới trong khoảnh khắc mà mấy vạn người ở trấn Phật Sơn đột nhiên biến sạch. Chàng chỉ thấy ở tiệm cầm đồ và tửu lâu chỗ nào cũng chất đầy củi khô và rơm không hiểu để làm gì?

Hồ Phỉ lại tới sòng bạc cũng chẳng thấy bóng người. Hàng vạn lạng bạc đặt trên cánh cửa còn y nguyên không ai đả động đến. Hồ Phỉ tiện tay cầm lấy mấy trăm lạng bỏ vào bọc, trong lòng ngấm ngầm kinh ngạc tự nghĩ:

“Chắc Phụng Thiên Nam bày ra quỷ kế gì đó để đối phó với ta. Bọn chúng đông mà ta chỉ có một mình, khó lòng đương nổi.”

Hồ Phỉ vừa đi vừa chú ý nhìn quanh. Sau khi chuyển qua mấy góc phố, chàng ngó thấy một tòa phủ đệ to lớn tường trắng ngói đen. Trên cổng treo tấm biển đề bốn chữ đại tự “Nam Hải Phụng đệ”’. Tòa phủ đệ này gồm năm gian liền nhau, khí thế rất hùng vĩ. Cổng ngoài cổng trong đều mở toang. Trong nhà trống trải, tựa hồ không một bóng người. Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Dù hắn có bố trí ngàn vạn cơ quan đi nữa, ta cũng cho một mớ lửa đốt động rùa của hắn, thử xem hắn có chường mặt ra không?

Chàng toan đi tìm củi đuốc và cỏ khô để phóng hỏa thì đột nhiên dẫy nhà phía sau và ở hai bên đều có khói lửa bốc lên. Chàng ngẩn người một chút rồi hiểu ngay:

“Phụng Thiên Nam đã là tay đầy thủ đoạn lợi hại, có lý nào chịu vứt bỏ sản nghiệp mà không tiếc rẻ. Nay hắn tự mình châm lửa đốt sạch gia sản là đã nhất định xa chạy cao bay. Ta không rượt theo ngay thì e rằng hắn trốn biệt không còn thấy tông tích đâu nữa.”

Chàng liền dắt ngựa đến vườn rau của nhà họ Chung bên cạnh tòa nhà họ Phụng, tìm thuổng cuốc đào huyệt mai tang ba người. Chàng nhìn thấy vườn rau rất xanh tốt. Bên luống rau còn bỏ lại một cái mũ trẻ con và một món đồ chơi. Hồ Phỉ càng nhìn càng thấy thương tâm và phẫn nộ, chàng phục xuống đất lạy mấy lạy, miệng lầm rầm khấn vái:

– Chung gia huynh tẩu! Huynh tẩu có khôn thiêng thì giúp cho tiểu đệ bắt được hung thủ, đừng để chúng chạy thoát.

Bỗng nghe tiếng bước chân vang lên. Mấy chục người hô hoán ồn ào:

– Phải bất cho được hung thủ đã giết người phóng hỏa.

– Đừng để tên giang dương đại đạo vô pháp vô thiên tẩu thoát.

– Tên tiểu cường đạo đó hiện còn lẩn quất gần đây.

Hồ Phỉ đi quanh đến sau một gốc cây lớn, nhìn ra ngoài thấy bốn năm chuc tên nha dịch binh đinh tay cầm cung nỏ đao thương, thiết xích, lòi tói ở ngoài tòa nhà họ Phụng la ó ầm ĩ để hư trương thanh thế. Chàng ngưng thần chăm chú nhìn trong đám người này không thấy cha con Phụng Thiên Nam liền nghĩ thầm:

“Phụng Thiên Nam làm kinh động đến quan phủ, nhưng lão cũng biết rõ không bắt nổi ta mà chỉ muốn ngăn trở ta một lúc mà thôi.”

Chàng liền nhảy lên ngựa nhằm về phía vùng đất hẻo lánh mà chạy. Ra khỏi thị trấn, Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thấy khói lửa ở tòa nhà họ Phụng đã bốc lên cao. Đồng thời mấy nơi khác như tiệm cầm đồ, tửu lâu, sòng bạc cũng có lửa cháy. Xem ra Phụng Thiên Nam quyết ý phá hủy sạch cơ nghiệp ở trấn Phật Sơn, vĩnh viễn không quay trở lại. Chàng trong lòng vừa buồn vừa hận, nhưng không thể không phục một người tâm địa độc ác và quyết đoán, dùng một mồi lửa để thiêu sạch gia sản hơn mười mấy năm kinh doanh mà không hề hối tiếc. Chàng thầm nghĩ:

“Con người tâm sâu kế xa như vậy thì nhất định đã có diệu kế lánh họa. Ta làm thế nào để tìm cho thấy hắn đây?”

Trong lúc nhất thời chàng ngựa lại ở ngoài trấn Phật Sơn trong dạ bồi hồi không biết quyết định ra. Chàng vẫn nghe thấy những tiếng nhốn nháo từ phía xa xa vẳng lại cùng tiếng xe chữa lửa chạy ầm ầm trên đường lát đá. Chàng tự hỏi:

“Ta vừa đi rượt ba tên vô lại, cả đi lẫn về không đầy nửa giờ. Cơ nghiệp của Phụng Thiên Nam đồ sộ như vậy thì làm sao thu xếp đâu vào đấy trong khoảnh khắc được? Đêm nay nếu hắn không tự mình trở về giải quyết mọi việc tất cũng phải có kẻ tâm phúc đến chỗ hắn ẩn náu để xin vài chỉ thị. Ta chỉ giữ ở đầu đường là được”.

Chàng chắc ban ngày họ không lộ diện liền trèo lên một cây cao ở nơi vắng vẻ, nhắm mắt dưỡng thần. Hồ Phỉ nghĩ tới thảm trạng bốn người Chung gia bị sát hại, trong lòng bi phẫn, cứ thề đi thề lại trong lòng:

– Nếu không giết được toàn gia Phụng tặc thì Hồ Phỉ ta sống trong trời đất cũng uổng mà thôi.

Hồ Phỉ chờ đến lúc chập choạng tối mới tiến ra ven đường lớn ẩn mình trong bụi có rậm để chờ. Chàng dương mắt nhìn quanh bốn phía. Mấy giờ trôi qua chẳng thấy động tĩnh gì. Mãi đến khi trời sáng rõ ngoài mấy người hương nông gánh phân, gánh rau đi bán, chẳng một ai tiến vào trấn Phật Sơn. Hồ Phỉ đang buồn rầu chán nản bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Hai kẻ cưỡi khoái mã từ trong thị trấn chạy ra ngoài. Những người cưỡi ngựa đều vận sắc phục võ quan theo kiểu thị vệ trong kinh. Hồ Phỉ chợt động tâm sực nhớ tới Phụng Nhất Minh đã nói phụ thân gã bận tiếp mấy vị thị vệ đại nhân không thể phân thân đến gặp chàng. Chàng chắc hai tên thị vệ này có liên quan đến Phụng Thiên Nam.

Vừa nghĩ tới đây thì hai con ngựa lướt qua chỗ chàng ẩn nấp. Chàng liền lượm một viên đá nhỏ búng ra đánh “vút” một cái, trúng vào khớp chân sau của một con ngựa. Con ngựa đang chạy lẹ đột nhiên chân sau khuỵu xuống, ngã ngửa về phía sau. Chân nó đã bị gãy rồi. Trình dộ cưỡi ngựa của tên thị vệ rất tinh thâm. Biến cố xảy ra đột ngột mà hắn cũng kịp tung mình nhảy vọt đi nhẹ nhàng đứng xuống bên đường. Hắn thấy con ngựa bị gãy chân, miệng không ngớt hí thật thê thảm, không khỏi chau mày lẩm bẩm:

– Hỏng bét! Hỏng bét!

Chỗ Hồ Phỉ ngồi cách đó chừng tám trượng. Chàng nghe tên thị vệ kia dừng cương quay đầu lại hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Tên thị vệ này đáp:

– Con súc sinh này đột nhiên trượt chân gẫy giò, chỉ e thành vô dụng mất rồi.

Hồ Phỉ nghe thanh âm hắn quen thuộc chợt nhớ ra hắn là tên thị vệ họ Hà mà chàng đã gặp mấy năm trước ở Thương gia bảo. Tên thị vệ kia nói:

– Chúng ta đành trở lại Phật Sơn kiếm con khác vậy.

Tên thị vệ họ Hà chính là Hà Tư Hào ngày trước đã từng đánh nhau với Từ Tranh. Hắn đáp:

– Không biết Phụng Thiên Nam đi đâu rồi? Tình hình trong trấn Phật Sơn hiện đang rối tung chẳng ai lý gì đến mình đâu. Ta qua huyện Nam Hải tìm ngựa quách.

Hắn nói rồi rút đao chủy thủ đâm vào đầu ngựa cho chết đi, để nó khỏi phải chịu đau đớn.

Tên thị vệ kia hỏi:

– Chúng ta cưỡi chung một con đến huyện Nam Hải. Này Hà đại ca nói xem Phụng Thiên Nam có trở về Phật Sơn nữa hay không?

Hà Tư Hào đáp:

– Y đã hủy nhà lánh nạn thì còn về thế nào được nữa?

Tên thị vệ kia nói:

– Chuyến đi này bọn mình xuôi nam chẳng những uổng một phen tân khổ, mà còn làm hại chết ngựa tốt của đại ca nữa.

Hà Tư Hào trèo lên lưng ngựa rồi đáp:

– Chưa chắc đã uổng công. Đại hội các chưởng môn trong thiên hạ mở tại phủ của Phúc đại soái là một thịnh sự hiếm có. Phụng Thiên Nam làm chưởng môn phái Ngũ Hổ ắt cũng phải đến.

Hắn nói rồi vỗ vào mông ngựa một cái. Con ngựa bị hai người cưỡi trên lưng không chạy nhanh được phải cất bước chậm chạp. Hồ Phỉ nghe nói trong phủ Phúc đại soái có mở cuộc đại hội các chưởng môn trong thiên hạ, trong bụng mừng thầm tự nghĩ:

“Các chưởng môn khắp thiên hạ cùng tụ hội về dĩ nhiên là náo nhiệt. Phụng Thiên Nam dù không đi nhưng hắn lánh mình ở đâu, từ trong hội này ta cũng có thể dò la tin tức. Nhưng không hiểu Phúc đại soái mở đại hội các chưởng môn để làm gì?”.