Kim Dung được xem là tác giả tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng và thành công nhất tới thời điểm hiện tại. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể nhiều lần thành phim truyền hình và phim điện ảnh.
Lão già này tên gọi Thái Uy, địa vị rất cao trong Hoa Quyền Môn. Lão thấy Hồ Phỉ đã bỏ tấm khăn vàng che mặt hiển nhiên là một bộ mặt có râu quai nón. Lão nhìn kỹ chàng rồi chắp tay đáp:
– Khải bẩm chưởng môn! Phúc đại soái có văn thư đưa đến.
Hồ Phỉ run lên nghĩ thầm:
– Vụ này khó lòng bịp nữa rồi. Thử xem lão nói gì?
Chàng vẫn giữ nét mặt thản nhiên, chỉ “ủa” một tiếng.
Thái Uy lại nói:
– Văn thư này giao cho tiểu lão để hỏi bản môn đã lựa xong chưởng môn nhân chưa? Còn phụ thêm bốn tấm thiếp mời chưởng môn nhân đúng ngày rằm trung thu cùng ba đệ tử bản môn đến dự đại hội chưởng môn…
Hồ Phỉ nghe tới đây thở phào một cái, tự nhủ:
– Té ra là vậy, làm ta phải một phen hú vía. Chỉ cần một ngày một đêm Mã cô nương không di động là được. Nếu tờ văn thư này mà Phúc Khang An hạ lệnh bắt người thì tính mạng của cô lại trao vào tay hắn.
Chàng sợ Phúc Khang An còn giở trò gì, liền tiếp lấy văn thư đọc kỹ lại một lượt, rồi nói:
– Thái sư bá! Cơ sư đệ! Xin hai vị cùng đi với tại hạ, thêm tệ muội nữa. Bốn người chúng ta đi dự cuộc đại hội chưởng môn.
Thái Uy cùng Cơ Hiểu Phong cả mừng, tạ ơn không ngớt miệng.
Tên bộc thị liền vào bẩm:
– Xin mời Trình gia, Thái gia, Cơ gia ba vị ra ngoài dùng cơm.
Hồ Phỉ gật đầu, toan đi gọi Trình Linh Tố, thì đột nhiên nghe thấy trong phòng gọi:
– Đại ca! Đại ca hãy vào đây!
Hồ Phỉ nói:
– Mời hai vị ra trước, tại hạ sẽ đến ngay.
Chàng nghe thanh âm Trình Linh Tố ra chiều cấp bách, liền rảo bước vào phòng. Chàng vừa vén rèm cửa, đã nghe tiếng Mã Xuân Hoa khẽ gọi:
– Con ta đâu? Bảo hai anh em chúng vào đây… ta muốn nhìn thấy chúng. Hai anh em chúng đâu rồi?
Trình Linh Tố chau đôi mày thanh tú, khẽ nói:
– Y nhất định đòi thấy mặt con. Vụ này không ổn rồi đây.
Hồ Phỉ đáp:
– Hai con y lọt vào tay mụ già thâm độc kia rồi. Chúng ta phải tìm cách cứu ra mới được.
Trình Linh Tố nói:
– Mã cô nương rất nóng nảy muốn gặp con ngay, cô không gặp được là kêu gào la khóc rất nguy cho bệnh thể.
Hồ Phỉ trầm ngâm đáp:
– Để tiểu huynh vào khuyên giải xem sao.
Trình Linh Tố lắc đầu, nói:
– Thần trí y không được tỉnh táo khuyên can chẳng ăn thua gì. Trừ phi bồng con y vào đây, không thì trong người uất kết, máu độc cố nhiên chưa trừ được hết, dược lực cũng chẳng có cách nào vào thấu tới phủ tạng.
Hồ Phỉ rất đỗi bàng hoàng, trong lúc nhất thời không nghĩ ra diệu kế gì.
Chàng nói:
– Đành phải mạo hiểm vào phủ Phúc đại soái một lần nữa để đoạt lại hai thằng nhỏ đem về. Nhưng mau lắm cũng phải chờ tới đêm mới hành động được.
Trình Linh Tố giật nảy người, hỏi:
– Lại vào Phúc phủ ư? Đại ca định đi tống tử chăng?
Hồ Phỉ cười gượng không biết nói sao. Dĩ nhiên chàng cũng biết đêm qua đã đại náo thành chuyện long trời lở đất, tất nhiên bữa nay trong phủ Phúc Khang An đề phòng nghiêm mật. Bước đi một bước còn muôn vàn khó khăn, thì làm sao đoạt nổi hai đứa nhỏ kia? Nếu như có mấy chục tay võ nghệ cao cường đồng thời hạ thủ thì may ra mới thành công. Còn một mình chàng đơn thương độc mã, cùng lắm thêm vào Trình Linh Tố và Cơ Hiểu Phong, chẳng lẽ ba người có đủ bản lãnh nghiêng trời để mà hành động?
Sau một lúc lại nghe tiếng Mã Xuân Hoa không ngớt la gọi:
– Hài tử! Mau vào đây! Má má trong mình khó ở, hai đứa con còn đi đâu?
Hồ Phỉ chau mày hỏi:
– Nhị muội! Nhị muội tính sao đây?
Trình Linh Tố lắc đầu đáp:
– Y nhớ thương con không ngớt la gọi, như thế thì không tới ba ngày là chất độc sẽ phát tác. Chúng ta đã làm hết sức mình mà không cứu nổi thị đó là số trời.
Hồ Phỉ nói:
– Chúng ta hãy đi ăn cơm rồi sẽ tính.
Ăn cơm xong, Trình Linh Tố cho Mã Xuân Hoa uống thuốc một lần nữa. Lúc này nàng lại gọi Phúc Khang An:
– Khang ca! Khang ca! Sao Khang ca không ngó ngàng gì đến thiếp? Khang ca hãy đưa hai đứa con ngoan lại đây cho tiện thiếp bồng một lúc.
Hồ Phỉ càng nghe lại càng thêm phẫn nộ, trong bụng lại càng bồn chồn.
Trình Linh Tố kéo áo chàng vào trong căn nhà nhỏ ở bên ngoài, vẻ mặt trịnh trọng nói:
– Đại cạ! Tiểu muội đã nói rồi, đại ca có đếm xỉa đến hay không?
Hồ Phỉ rất lấy làm lạ, tự hỏi:
– Sao cô lại hỏi câu này?
Chàng lắc dầu đáp:
– Tiểu huynh không nhớ rồi.
Trình Linh Tố nói:
– Hay lắm! Tiểu muội nhắc lại cho đại ca nghe. Nếu đại ca vào phủ Phúc Khang An để cứu con Mã cô nương, thì đại ca đi mời danh y khác đến trị độc cho y, tiểu muội về phương nam ngay bây giờ.
Hồ Phỉ kinh ngạc chưa kịp trả lời, thì Trình Linh Tố đã trở gót vào phòng. Chàng biết cô nói câu đó toàn là vì mình. Cứ tình thế trước mắt mà mạo hiểm vào phủ Phúc Khang An thì chỉ uổng mạng chứ chẳng ích gì. Chàng cũng nghĩ đến điều đó nhưng vụ này lại xúc động đến lòng nghĩa hiệp. Chàng nhớ lại ngày mình bị treo đánh ở Thương Gia Bảo, Mã Xuân Hoa đã không ngớt năn nỉ cho chàng. Chịu ơn mà không báo đáp thì đâu đáng mặt trượng phu? Chàng đã quyết ý, nhưng Trình Linh Tố bỗng nhiên thốt ra câu này, mà chàng cứ liều mạng đi cứu hai đứa nhỏ, cô tức giận bỏ đi thì cũng hỏng bét.
Trong lúc thảng thốt, Hồ Phỉ cứ do dự không nghĩ ra được kế gì. Chàng thả bước trên đường phố, không hay đã gần tới phủ Phúc Khang An. Cứ cách năm, mười bước lại có hai tên vệ sĩ đứng gác, tên nào cũng gươm tuốt trần, phòng vệ cực kỳ nghiêm mật. Đừng nói chuyện tiến vào phủ, chỉ đi thêm mấy bước là bọn vệ sĩ đã giữ lại tra hỏi rồi. Hồ Phỉ trong lòng buồn bã không vui. Chàng không dám chần chừ, liền chuyển qua hai đường phố, bỗng thấy một tòa tửu lâu bèn lên lầu ngồi uống rượu một mình.
Chàng vừa uống được hai chung, bỗng nghe trong phòng bên cạnh có người lên tiếng:
– Uông đại ca! Bữa nay chúng ta uống rượu ít thôi. Lát nữa đến phiên trực, mặt đỏ bừng thì khó coi lắm.
– Việc thiên hạ sao khéo trùng hợp, mình lại chạm trán hắn ở đây.
Nhưng chàng nghĩ lại cái đó cũng chẳng có chi là lạ. Theo lời họ nói thì lát nữa họ sẽ đến phủ Phúc Khang An để đổi phiên gác. Tửu lâu này gần Phúc phủ hơn hết, nên bọn thị vệ trước khi đi gác, đến đây uống vài ba chung rượu là chuyện thường. Nếu bọn Uông Thiết Ngạc đến phiên canh mà không lại đây uống mới là chuyện lạ.
Lại nghe người khác nói:
– Uông đại ca! Đại ca bảo quen biết Hồ Phỉ, vậy hình thù gã thế nào?
Hồ Phỉ nghe hắn hỏi đến mình không khỏi run lên, liền chú ý lắng tai nghe.
Chỉ nghe Uông Thiết Ngạc thở dài, đáp:
– Hồ Phỉ nhỏ tuổi, chẳng những võ nghệ cao cường mà còn thích kết giao bằng hữu, đúng là một trang hảo hán. Chỉ đáng tiếc gã lại đối nghịch với Phúc đại soái. Đêm qua đã xông vào phủ hành thích đại soái. Thật chẳng biết vụ này phải nói sao đây?
Người kia cười nói:
– Uông đại ca! Tuy đại ca quen biết Hồ Phỉ mà chẳng được thăng quan phát tài thì chúng ta hãy uống rượu xong đi đã. Nếu ra đường mà ngẫu nhiên gặp gã, hai anh em ta cứ tóm lấy, há chẳng lập nên công lớn?
Uông Thiết Ngạc cười đáp:
– Ha ha! Ông bạn nói coi bộ dễ dàng quá! Xét về bản lĩnh như ông bạn Trương Cửu thì dù hai chục tên cũng đừng hòng bắt được gã.
– Còn lão thì sao? Phải mấy tên Uông Thiết Ngạc mới bắt được gã?
Uông Thiết Ngạc đáp:
– Ta lại càng tệ nữa. Đến bốn chục cái bị thịt như ta cũng chẳng làm được tích sự gì.
Trương Cửu cười lạt hỏi:
– Bộ gã có ba đầu sáu tay hay sao mà ghê gớm đến thế?
Hồ Phỉ nghe hai người nói chuyện chẳng ăn nhập gì với nhau, bất giác động tâm. Nhớ câu thời cơ chỉ trong nháy mắt là vụt qua, chàng không nghĩ ngợi gì nữa bèn mở rèm, cất bước chạy sang phòng bên, nói:
– Uông đại ca! Đại ca ngồi đây uống rượu ư? Này! Trương đại ca đây mà! Tiểu nhị, người dọn đồ trên bàn của ta qua dây.
Uống Thiết Ngạc và Trương Cửu thấy Hồ Phỉ đến sửng sốt tự hỏi:
– Gã này là ai? Bọn mình có quen biết gã đâu?
Uông Thiết Ngạc thoạt nghe thanh âm cũng hơi quen quen, nhưng thấy mặt chàng tua tủa râu quai nón thì làm sao có thể nghĩ đó lại là Hồ Phỉ được?
Hồ Phỉ lại nói:
– Đêm qua tiểu đệ gặp Chu Thiết Tiêu đại ca và Tăng Thiết Âu nhị ca ngồi ở Tụ Anh Lâu uống mấy chung, còn nhắc tới Uông đại ca.
Uông Thiết Ngạc chỉ ậm ừ cho xuôi chuyện, hắn vắt óc suy nghĩ xem người ngồi trước mặt mình là ai. Theo như lời nói thì người này đã quen cả Chu sư ca và Tăng sư ca, thì hiển nhiên chẳng phải người xa lạ, nhưng trong lúc nhất thời không sao nhớ được. Hắn không khỏi tự mắng thầm mình là con người hồ đồ.
Tiểu nhị bày rượu lên bàn. Hồ Phỉ nói:
– Bữa nay tiểu đệ làm chủ. Đã lâu lắm chưa được uống cùng Uông đại ca và Trương đại ca một chung nào.
Chàng móc mười lạng bạc ném cho tiểu nhị, nói:
– Còn dư cho chưởng quỹ. Phải lấy rượu ngon, thức nhắm tốt đem lên đây.
Tiểu nhị thấy chàng hào phóng liền tỏ vẻ kính cẩn, vâng dạ luôn miệng. Chẳng mấy chốc rượu và thức ăn lục tục bưng lên. Hồ Phỉ cười nói vui tươi, lại nhắc tới bọn Tần Nại Chi, Ân Trọng Tường, anh em Vương Kiếm Anh, Vương Kiếm Kiệt đều là người quen biết, khi thì bàn luận võ công, lúc lại gầy sòng đánh bạc, dường như bọn họ đều là bạn hữu tri giao của chàng.
Uông Thiết Ngạc rất áy náy, vì người ta thân thiết với mình như vậy mà còn mở miệng hỏi họ tên thì thật quá ư thất lễ. Nhưng hắn nghĩ vỡ cả óc vẫn không nhận ra người ngồi trước mặt là ai? Trương Cửu cũng cho Hồ Phỉ là bạn thân của Uông Thiết Ngạc, lại thấy chàng cư xử hào sảng liền đoán lai lịch không nhỏ, nên cũng vui lòng quấy quả một bữa.
Uống rượu một lúc, rồi đồ nhắm đưa lên hết. Uông Thiết Ngạc không nhịn được, nói:
– Xin đại ca tha thứ cho tại hạ vô lễ. Tại hạ càng sống càng hồ đồ.
Gã giơ tay lên cốc mạnh vào trán một cái, rồi nói tiếp:
– Trong lúc thảng thốt, tại hạ không nhớ được tên họ của lão ca. Thật là đáng chết!
Hồ Phỉ cười đáp:
– Uông đại ca quả là quý nhân nên hay quên mọi việc. Tối hôm qua đại ca còn ngồi ăn cơm ở nhà tiểu đệ mà cũng quên rồi ư? Chỉ đáng tiếc là gầy sòng để đánh bài cẩu mà không thành rồi đưa đến chỗ Chu đại ca cùng người ta động thủ quá chiêu, làm tổn thương hòa khí.
Uông Thiết Ngạc sửng sốt, miệng ấp úng:
– Đại ca… đại ca là…
Hồ Phỉ cười đáp:
– Tiểu đệ là Hồ Phỉ đây mà!
Chàng vừa nói câu này khiến cho Uông Thiết Ngạc và Trương Cửu giật nảy mình lên như cái lò xo, hai người kinh hãi không bút nào tả xiết.
Hồ Phỉ cười hỏi:
– Sao? Tiểu đệ chỉ đeo bộ râu giả mà Uông đại ca không nhận ra được ư?
Uông Thiết Ngạc khẽ nói:
– Nói khẽ chứ Hồ đại ca! Trong thành, khắp nơi đang truy lùng đại ca, sao đại ca lớn mật đến thế? Còn dám ngang nhiên đến đây uống rượu ư?
Hồ Phỉ cười đáp:
– Sợ cái gì? Đến Uông đại ca còn không nhận ra được tiểu đệ thì người ngoài làm sao nhận biết nổi?
Uông Thiết Ngạc hỏi:
– Đại ca không được nấn ná ở thành Bắc Kinh nữa, nên chuồn ra khỏi thành cho lẹ. Có đủ tiền lộ phí không?
Hồ Phỉ đáp:
– Đa tạ Uông đại ca đầy lòng nhiệt huyết, tiểu đệ có đủ tiền tiêu dùng rồi.
Chàng nghĩ bụng:
– Lão này tính nết thô lỗ nhưng lại là người rất trung hậu.
Trương Cửu biến sắc cúi xuống, không nói nửa lời.
Uông Thiết Ngạc lại nói:
– Bữa nay cổng thành đều tra xét rất nghiêm mật. Lúc đại ca rời thành chớ để lộ sơ hở. Hay là để Uông mỗ cùng Trương đại ca đưa Hồ đại ca ra khỏi thành thì chắc chắn hơn. Trình cô nương đâu rồi?
Hồ Phỉ lắc đầu đáp:
– Tạm thời tiểu đệ chưa đi được vì còn một món nợ chưa thanh toán với Phúc đại soái.
Trương Cửu nghe tới đây sắc mặt ra chiều khác lạ.
Uông Thiết Ngạc nói:
– Hồ đại ca! Bản lãnh Uông mỗ thua xa đại ca, nhưng có một câu nói khuyên can. Phúc đại soái quyền thế nghiêng trời. Đại ca muốn đối nghịch với lão nhân gia thì làm sao chống chọi nổi? Uông mỗ ăn chén cơm của lão nhân gia thì phải làm việc dưới trướng, cũng chẳng thể che chở cho đại ca được. Bữa nay Uông mỗ mạo hiểm đưa đại ca ra ngoài thành. Đại ca nên đi mau.
Hồ Phỉ đáp:
– Không được! Uông đại ca! Đại ca có biết vì sao tiểu đệ đắc tội với Phúc đại soái không?
Uông Thiết Ngạc đáp:
– Uông mỗ chưa rõ, đang muốn hỏi Hồ đại ca đây.
Hồ Phỉ liền thuật chuyện Phúc Khang An đến Thương gia bảo quen biết Mã Xuân Hoa, rồi nàng sanh hai đứa con ra sao, đêm qua nàng bị trúng độc thế nào nhất nhất thuật lại. Chàng lại nói cả đến việc giải cứu Mã Xuân Hoa như thế nào, và nàng vì thương nhớ hài nhi mà tính mệnh rất nguy cấp ra sao, nên dù gặp muôn ngàn nguy hiểm cũng phải đi cứu hai đứa nhỏ về cho Mã Xuân Hoa.
– Té ra lòng dạ hắn lại độc ác đến thế! Hồ đại ca! Đại ca là đấng anh hùng nghĩa hiệp khiến người ta phải kính phục. Nhưng cuộc phòng thủ trong phủ Phúc đại soái rất nghiêm mật, có không biết bao nhiêu cao thủ canh giữ khắp nơi. Việc cứu hai đứa nhỏ hãy khoan nghĩ tới. Đành phải chờ vụ này lắng xuống sẽ thong thả tìm cách khác.
Hồ Phỉ đáp:
– Tiểu đệ có kế này hãy dùng thử coi. Chúng ta mượn y phục của Trương đại ca giả làm vệ sĩ, chờ đến đêm Uông đại ca dẫn vào phủ động thủ.
Hồ Phỉ tay trái cầm chung rượu nâng lên uống một hớp, tay mặt đưa ra gắp thức ăn. Đột nhiên chàng hắt nửa chén rượu vào mắt Trương Cửu. Trương Cửu kinh hãi “ối” lên một tiếng, giơ tay vuốt mặt. Hồ Phỉ cầm đũa đâm vào huyệt “Thần tàng” và huyệt “Trung đình” ở trước ngực hắn. Trương Cửu người rũ ra, té ngay xuống ghế.
Điếm tiểu nhị nghe tiếng động chạy ra. Hồ Phỉ liền bảo gã:
– Quan gia đây say rượu, cần tìm cho y một phòng để nghỉ.
Tiểu nhị đáp:
– Cách đây năm nhà là An Viễn lão điếm. Để tiểu nhân đỡ quan gia qua đó
Hồ Phỉ nói:
– Hay lắm
Chàng lại thưởng cho gã năm đồng bạc.
Điếm tiểu nhị mừng quá đỡ ngay Trương Cửu qua khách điếm. Hồ Phỉ lấy một phòng trên gác rồi đóng cửa lại. Chàng lại điểm thêm ba huyệt đạo trên người Trương Cửu để trong vòng mười hai giờ hắn phải nằm bất động.
Uống Thiết Ngạc trong lòng bồn chồn hồi hộp, nhưng thấy Hồ Phỉ hành hiệp trượng nghĩa, cử động mau lẹ sáng suốt nên cũng không khỏi bội phục. Có điều lão thấy vụ này cực kỳ nguy hiểm, nên trong bụng cứ thấp thỏm lo âu.
Hồ Phỉ cởi áo ra, mặc y phục võ quan của Trương Cửu vào. May ở chỗ thân hình hai người tầm vóc ngang nhau nên chàng mặc rất vừa vặn.
Uông Thiết Ngạc nói:
– Uông mỗ đi nhận phiên canh, lát nữa sẽ trở lại.
Hồ Phỉ đáp:
– Uông đại ca xin cho Trương Cửu được nghỉ, nói là y bị bệnh không thể canh gác được. Tiểu đệ chờ ở đây, chừng canh hai đại ca đến dẫn đi.
Uông Thiết Ngạc ngẩn người ra một lát toan kiếm lời giải thích để từ chối, nhưng lại nghĩ nếu muốn trở thành hảo hán thì phải bỏ hết vinh hoa phú quý. Còn nếu nhất tâm nhất ý vì Phúc đại soái mà ra sức thì hóa ra chẳng biết phân biệt phải trái, trong lòng cũng thấy không ổn.
Hồ Phỉ thấy gã do dự liền nói:
– Uông đại ca! Vụ này không thể quyết định mau lẹ được. Đại ca không cần phải trả lời ngay bây giờ.
Uông Thiết Ngạc gật đầu ra khỏi điếm. Hồ Phỉ nằm xuống giường là ngủ liền. Chàng biết công việc trước mắt là một canh bạc lớn, mà người chơi lại đặt cược bằng tánh mạng.
Đến canh hai có thể Uông Thiết Ngạc sẽ lén lút đến một mình, dắt chàng trà trộn vào phủ Phúc Khang An, nhưng hành động này khiến cho cái mạng của họ Uông mười phần có đến chín là đi đứt. Giữa lão và Hồ Phỉ chưa có mối giao tình đáng kể, đối với Mã Xuân Hoa lại hoàn toàn không can hệ. Vì hai người chẳng liên can gì mà liều mình mạo hiểm, liệu Uông Thiết Ngạc có chịu làm không? Từ thuở nhỏ hắn từng được nghe Chu Thiết Tiêu dạy bảo, nên kính trọng vị đại sư huynh này như thần minh. Huống chi hắn đã làm thủ hạ Phúc Khang An lâu năm thì bốn chữ “Công danh lợi lộc” đối với hắn không phải chuyện nhỏ.
Nếu như Uông Thiết Ngạc là một tay hảo hán giang hồ tâm đầu ý hợp thì Hồ Phỉ quyết chẳng hoài nghi gì nữa, nhưng hắn chỉ là tên võ quan chất phác, bản lãnh bình thường. Bằng hắn quyết định muốn thăng quan phát tài thì chẳng những canh hai không trở lại, mà bốn mặt khách điếm sẽ có hàng trăm cao thủ bao vây, dù chàng có ra sức tử chiến cũng khó lòng thoát được.
Vụ này tựu trung không có lối thoát nào khả dĩ. Nếu Uông Thiết Ngạc không giúp được hai người, cũng chẳng tố giác Hồ Phỉ thì sau này Trương Cửu há chẳng tố cáo y hay sao? Hiện giờ trong tay Hồ Phỉ khác nào đã cầm quân bài mà chưa lật lên. Nếu chàng thua là mất mạng. Ván bài thắng hay bại hoàn toàn trông vào lương tâm của Uông Thiết Ngạc.
Chàng cũng biết Uông Thiết Ngạc chẳng phải hạng người tồi bại nhưng muốn hắn mạo hiểm thái qua là sự thỉnh cầu vượt mức mà chàng chẳng có chỗ nào hay để đền đáp cho gã. Uông Thiết Ngạc là hạng người nửa thiện nửa ác, không ai liệu trước được đem tính mạng trao vào tay người thật là nguy hiểm, nhưng ngoại trừ cách này thì chẳng còn biện pháp nào khác. Phúc Khang An đã phòng bị đến thế, nếu không có người giúp đỡ dẫn đường thì quyết chẳng thể nào vào phủ được.
Hồ Phỉ vừa ngủ đã ngáy pho pho. Lần này chàng không mơ mộng gì cả, cơ bản là chàng chẳng cần đếm xỉa đến canh bạc lớn này kết quả sẽ ra sao. Bài chưa lật lên, thì ai đã biết là quân bài nào? Có lo lắng cũng chẳng ích chi.
Hồ Phỉ ngủ chừng hơn một giờ. Đang lúc mơ màng, trong điếm có người lớn tiếng nói chuyện khiến chàng tỉnh giấc, ngồi bật dậy.
Bỗng nghe một người hỏi:
– Phải rồi! Ta muốn gặp vị quan gia tự hiệu chữ Huyền. Y say rượu ư? Ta có công việc cần tìm y. Ngươi để ta vào coi xem sao.
Hồ Phỉ nghe thanh âm người này không phải là Uông Thiết Ngạc thì trong lòng kinh hãi lẩm bẩm:
– Chà chà! Canh bạc lớn này rốt cuộc mình đã thua rồi.
Chàng cầm đơn đao khẽ đẩy cửa nhìn ra, chỉ thấy bốn bề lặng lẽ tối om. Chàng liền tung mình nhảy lên nóc nhà, nằm phục xuống chú ý lắng nghe.
Lúc Uông Thiết Ngạc ra đi, Hồ Phỉ nghĩ ngay hắn chỉ có hai đường hành động. Nếu hắn lấy điều nghĩa hiệp làm trọng, thì lúc này một mình tới đây để dẫn lén chàng vào Phúc phủ. Bằng hắn còn tiếc thân cầu lợi, thì nhất định, dẫn bọn võ sĩ ở Phúc phủ đến vây bắt. Bây giờ mà hắn không đến là cơ sự đã hỏng rồi. Nhưng bốn mặt khách điếm lại không thấy có người mai phục, điều đó nằm ngoài dự kiến của Hồ Phỉ.
Nên biết bọn võ sĩ đã không đến vây bắt Hồ Phỉ thì thôi, còn đã đến thì nhất định phải đông người. Nếu chỉ vài tay cao thủ thì có thể ẩn thân không lộ tông tích, còn nếu đông người thì có thể nghe hơi thở cũng phát hiện ra được. Hồ Phỉ thấy địch nhân không nhiều mới hơi yên dạ.
– Quan gia! Đây có một vị quan gia muốn gặp lão nhân gia.
Hồ Phỉ xoay mình chuồn qua cửa sổ vào phòng, nhảy xuống đất không một tiếng động, đáp:
– Mời y vào đây!
Điếm tiểu nhị đẩy cửa phòng bước vào, đặt cây nến xuống bàn, cười cầu tài, hỏi:
– Vị quan gia kia đã tỉnh rượu chưa? Nếu chưa thì nên mời lão nhân gia uống một bát tỉnh tửu thang.
Hồ Phỉ thuận miệng đáp:
– Không cần!
Nhãn quang chàng nhìn chằm chặp vào mặt vệ sĩ sau lưng điếm tiểu nhị. Tên vệ sĩ này lối ngoài bốn chục tuổi, khuôn mặt hơi tròn, nước da tái tái. Mặt gã vẫn điềm nhiên không lộ vẻ gì.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Tay này đáo để đây! Một mình hắn vào phòng ta mà không lộ vẻ sợ hãi chút nào. Chẳng lẽ hắn quả có bản lãnh hơn người chẳng coi ta vào đâu?
Bỗng nghe tên vệ sĩ kia hỏi:
– Phải chăng vị này là Trương đại ca? Bọn tiểu đệ chưa từng gặp mặt nhau. Tiểu đệ là Nhâm Thông Võ làm đương sai ở tả doanh.
Hồ Phỉ đáp:
– Té ra là Nhâm đại ca! Hân hạnh! Hân hạnh! Bọn mình đông người quá thành ra tiểu đệ ít khi được dịp gần gũi với Nhâm đại ca.
Nhâm Thông Võ nói:
– Phải rồi! Thượng cấp có công văn truyền xuống, bảo tiểu đệ đưa tới cho Trương đại ca.
Hắn nói rồi lấy đạo công văn trong mình ra. Hồ Phỉ đón lấy coi thấy góc bên trái công văn có in lồ lộ con dấu “Bình Võ Chính Đường” bằng chữ đỏ. Ngoài phong bì đề “Lập tức đến An Viễn khách điếm giao cho tuần bổ ở tả doanh là Trương Cửu, không được chậm trễ”. Hồ Phỉ lần trước đã mắc bẫy ở Phúc phủ, hai tay chàng bị thương vì cái hộp sắt. Lần này chàng khôn hơn không mở công văn ra ngay, mà cẩn thận bóp nắn phong thơ không thấy có gì khả nghi, lại nhớ vụ Miêu Nhân Phụng vì mở hộp thư mà bị chất độc làm mù mắt, chàng hạ tờ công văn xuống dưới bụng mới mở phong bì, rút ra một tờ giấy trắng. Chàng đưa gần cây nến để coi, trong lòng không khỏi vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc.
Nguyên trên mặt giấy không có chữ nào. Đó là tấm họa đồ, nét bút thô sơ, trong đồ vẽ một con quỷ chết treo đang trỏ tay ra hiệu, để nài nỉ một người treo cổ lên xà nhà. Theo mê tín dân gian lúc bấy giờ, người treo cổ tự tử, khi chết rồi sẽ biến thành quỷ. Con quỷ này sẽ tìm trăm phương ngàn kế để dẫn dụ người khác biến thành quỷ thế chân cho nó. Có thế nó mới có thể đầu thai kiếp khác được. Kẻ chết sau gọi là “Thế tử quỷ!”. Thuyết này tuy hoang đường vô căn cứ, nhưng người đương thời đều tin cả.
Hồ Phỉ ngưng thần ngẫm nghĩ, chợt động tâm, hỏi:
– Nhâm đại ca! Bữa nay đại ca có phiên canh ở trong phủ Phúc đại soái không?
Nhâm Thông Võ đáp:
– Có! Tiểu đệ phải đi đây.
Hắn nói rồi trở gót toan đi.
Hồ Phỉ gọi giựt lại:
– Khoan đã! Đạo công văn này của ai đưa cho Nhâm đại ca?
Nhâm Thông Võ đáp:
– Là Lâm tham tướng sai tiểu đệ đưa tới.
Bây giờ Hồ Phỉ mới hiểu rõ: Nguyên Uông Thiết Ngạc tự mình không quyết định được, nên phải tìm tới đại sư ca Chu Thiết Tiêu thương lượng. Chu Thiết Tiêu còn nhớ tới ơn Hồ Phỉ đã nối xương chân và trả thẻ bài, liền nghĩ ra kế này. Lão không muốn để Uông Thiết Ngạc mạo hiểm, liền xoay sở cho một tên “Thế tử quỷ” đi giùm. Người này sẽ dẫn Hồ Phỉ tiến vào Phúc phủ, bất luận thành công hay thất bại cũng không can thiệp gì đến sư huynh sư đệ bọn lão. Do đó trên phong thơ không thụ danh cũng chẳng lưu một bút tích gì, để phòng ngừa vạn nhất cơ sự đổ bể lại dính líu đến bọn họ.
Đạo công văn này Chu Thiết Tiêu đã kẹp vào tập công văn của Lâm tham tướng ở tả doanh. Công văn chuyển qua mấy tay, khiến không ai hiểu tự đâu phát ra.
Lâm tham tướng thấy công văn của “Binh Bộ Chính Đường” không dám chậm trễ, lập tức sai người đưa đi ngay.
Chu Thiết Tiêu đã biết toàn thể bọn vệ sĩ ở tả doanh đêm nay phải canh phòng ở Phúc phủ thì bất luận Lâm tham tướng phái ai đến đưa thư, Hồ Phỉ đều có thể theo y tiến vào.
Tuy Hồ Phỉ không biết rõ mọi chi tiết này bên trong nhưng cũng đoán được tám, chín phần. Chàng cười thầm Chu Thiết Tiêu là tay lão gian cự hoạt. Lão đã ở kinh sư mấy chục năm, quả nhiên hành động khác người thường.
– Cấp trên có thượng lệnh phái tiểu đệ theo Nhâm đại ca vào phủ canh gác.
Rồi chàng lại nói tiếp:
– Con mẹ nó! Hôm nay đến lượt mình nghỉ, ai ngờ nửa đêm còn kêu đi.
Nhâm Thông Võ cười nói:
– Trong phủ đại soái xẩy vụ thích khách, hết thẩy chúng ta ai mà chẳng thêm phần cực nhọc. Hay ở chỗ được ban thưởng cũng khá.
Hồ Phỉ cười bảo:
– Lúc quay về lãnh tiền xong, tiểu đệ xin làm chủ mời đại ca đến Tụ Anh Lâu vui chơi một trận. Nhâm đại ca! Đại ca thích uống rượu, đánh bạc hay đàn bà?
Nhâm Thông Võ cười ha hả, đáp:
– Cả bốn món tửu, sắc, tài, khí, tiểu đệ đều khoái cả.
Hồ Phỉ vỗ vai hắn ra chiều thân thiết, cười nói:
– Nếu vậy chúng ta ý hợp tâm đầu, chỉ đáng tiếc gặp nhau muộn quá. Tiểu nhị! Tiểu nhị! mau lấy rượu lại đây!
Nhâm Thông Võ ngần ngừ nói:
– Đêm nay phải đi gác, nếu tham tướng mà biết chúng ta uống rượu, e có điều bất tiện.
Hồ Phỉ khẽ đáp:
– Bọn mình uống mấy chung chơi. Tham tướng biết cóc gì!
Điếm tiểu nhị đem rượu vào. Đêm khuya chẳng có gì nhắm, gã đành thái đĩa thịt bò khô. Hồ Phỉ cùng Nhâm Thông Võ mỗi người uống ba chung. Chàng liệng hai lạng bạc xuống bàn nói:
– Còn thừa ta thưởng cho ngươi!
Điếm tiểu nhị cả mừng, toan tạ ơn lượm lấy thì Nhâm Thông Võ đã cướp trước. Hắn cười nói:
– Trương đại ca! Vụ này bất tất phải rộng rãi quá. Chúng ta làm đương sai ở phủ Phúc đại soái uống mấy chung rượu thì làm gì phải trả tiền? Đi thôi! Gần đến giờ rồi!
Tay trái hắn nắm Hồ Phỉ kéo đi, tay mặt cầm đồng bạc nhét vào túi. Điếm tiểu nhị ngó thấy tức đầy ruột mà không dám nói. Nên biết bọn vệ sĩ ở phủ Phúc Khang An mặc sức hoành hành tại Bắc Kinh. Chúng coi hát cọp, uống rượu quịt là chuyện bình thường. Dù tiện tay chúng có lấy vật gì ở trong tiệm thì bọn tiểu bách tính cũng chàng dám lên tiếng.
Hồ Phỉ cười hề hề bụng bảo dạ:
– Thằng cha này đã tham tiền hám rượu thì dễ đối phó lắm.
Hai người dắt nhau ra khỏi điếm. Bỗng nghe trên nóc nhà có tiếng động khe khẽ. Thanh âm tuy rất nhỏ nhưng cũng lọt vào tai Hồ Phỉ. Chàng là có chuyện lạ, liền hạ thấp giọng nói:
– Nhâm đại ca! Tiểu đệ còn quên cái này. Xin đại ca chờ một chút.
Chàng xoay người đi về phòng mình. Trong đêm tối, chàng thấy bóng người nhỏ bé gầy nhom vượt cửa sổ ra ngoài, thân pháp cực kỳ thần tốc, hình dạng phảng phất như Chu Thiết Tiêu.
Hồ Phỉ rất lấy làm lạ tự hỏi:
– Lão vào phòng mình làm chi?
Chàng trầm ngâm một chút rồi mở mùng, đặt tay vào mũi Trương Cửu quả nhiên hắn đã ngừng thở. Chu Thiết Tiêu điểm huyệt cho hắn chết rồi.
Chàng nghe lạnh cả người:
– Người này tâm tư quả là chu đáo mà hạ thủ lại rất tàn độc. Nếu lão không trừ khử Trương Cửu thì mưu mô của bọn sư huynh sư đệ nhà lão tất bị bại lộ. Không ngờ mình vừa bước chân ra khỏi cửa là lão lập tức hạ thủ ngay.
Việc này càng khiến chàng yên tâm hơn vì hiểu rõ Chu Thiết Tiêu đối với mình một lòng thành thực, quyết không phải dẫn dụ mình tiến vào Phúc phủ rồi sai người vây đánh.
Chàng liền xoay Trương Cửu quay mặt vào trong, đắp chăn lên tử tế rồi mới ra khỏi phòng nói:
– Nhâm đại ca! Làm phiền đại ca phải chờ đợi. Chúng ta đi thôi.
Nhâm Thông Võ đáp:
– Cùng là anh em cả, khách khí làm gì?
Hai người sóng vai đi một cách đường hoàng, tiến về phủ Phúc Khang An.
Trước cửa Phúc phủ có hơn hai chục tên vệ sĩ đứng gác. Quả nhiên cách phòng vệ nghiêm mật hơn bữa trước.
Hồ Phỉ theo chân Nhâm Thông Võ vừa tới cổng phủ thì một tên đội trưởng hô khẽ:
– Uy chấn….
Nhâm Thông Võ hô theo:
– Tứ hải!
Tên đội trưởng gật đầu, nói:
– Đêm nay anh em phải thận trọng hơn.
Nhâm Thông Võ đáp:
– Cái đó sao quên được?
Hồ Phỉ hỏi:
– Đội trưởng thử nói xem đêm nay liệu có thích khách vào phủ không?
Tên đội trưởng cười đáp:
– Trừ phi chúng nuốt gan báo, ăn tim hổ thì mới dám vào.
Hồ Phỉ cười ha hả tiến vào cổng lớn.
Lúc đến cổng giữa lại chạm trán một tiểu đội vệ sĩ đứng gác. Tên đội trưởng khẽ hô khẩu lệnh:
– Uy chấn…
Nhâm Thông Võ hô theo:
– Huyệt thành!
Tên đội trưởng lại hỏi:
– Nhâm Thông Võ! Người này lạ mặt quá, hắn là ai?
Nhâm Thông Võ đáp:
– Đây là Trương đại ca ở tả doanh. Huynh đệ chưa gặp qua ư?
Tên đội trưởng “ồ” một tiếng rồi nói:
– Bộ râu của y coi có vẻ oai phong lắm!
Hai người rẽ qua mé trái, xuyên qua hai tầng cửa biên vào đến một vườn hoa.
Trong vườn lại có một tiểu đội vệ sĩ. Khẩu hiệu ở đây biến thành “Uy chấn… thiên thu”.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Nếu mình không đi theo Nhâm Thông Võ, thì dù có vào được cổng lớn rồi cũng không thể qua được hai cửa này. Hoặc giả ta dò la được khẩu lệch “Uy chấn tứ hải” cũng không ngờ ở mỗi tầng cửa khẩu lệnh lại biến đổi khác nhau.
Tiến vào vườn hoa, Hồ Phỉ đã thuộc đường lối. Chàng e đêm dài sinh lắm mộng, cần sớm hạ thủ là hơn, để cho Mã Xuân Hoa sớm được yên tâm.
Rồi chàng lẩm bẩm:
– Nhị muội thấy ta đi lâu không về chắc cũng đoán biết ta vào Phúc phủ và đang lo lắng lắm đây.
Chàng liền bước mau đi về phía phòng ở của mẫu thân Phúc Khang An. Nhâm Thông Võ lấy làm lạ hỏi:
– Trương đại ca! Đại ca đi đâu đấy?
Hồ Phỉ đáp:
– Lệnh trên phái tiểu đệ đến bảo vệ Thái phu nhân và dặn kỹ không được để thái phu nhân kinh sợ. Nhâm đại ca chưa biết ư?
Nhâm Thông Võ nói:
– Té ra là thế!
Giữa lúc ấy, hai tên vệ sĩ tuần tra lặng lẽ đi tới. Gã ở bên trái quát khẽ:
– Báo danh đi!
Nhâm Thông Võ đáp:
– Nhâm Thông Võ ở tả doanh.
Hồ Phỉ nói theo:
– Trương Cửu ở tả doanh.
Người kia “ủa” lên một tiếng, tay cầm chuôi đao, quát hỏi:
– Sao? Ngươi là ai?
Hồ Phỉ trong lòng hồi hộp, chàng biết gã này đã quen Trương Cửu, như vậy sự tình đã bại lộ rồi. Chàng liền ghé vào tai gã, khẽ nói:
– Tại hạ là Hồ Phỉ đây.
Người kia khiếp sợ đến thộn mặt ra, chân tay luống cuống không biết làm gì. Hồ phỉ liền phóng chỉ điểm vào huyệt đạo gã, lại thuận đà huých khuỷu tay trải đánh trúng vào huyệt đạo tên vệ sĩ kia.
Nhâm Thông Võ kinh hoàng, lắp bắp hỏi:
– Đại ca… đại ca… làm gì vậy?
Hồ Phỉ lạnh lùng đáp:
– Bậc đại trượng phu đi không đổi họ, ngồi chẳng đổi tên. Tại hạ là Hồ Phỉ đây.
Chàng vừa nói vừa ném hai tên vệ sĩ bị điểm huyệt vào bụi hoa. Nhâm Thông Võ hít một hơi chân khí rút yêu đao đánh soạt một tiếng.
Hồ Phỉ cười hỏi:
– Ai cũng trông thấy đại ca dẫn tiểu đệ vào phủ. Đại ca có la lên cũng được ích gì? Chi bằng cứ ngoan ngoãn và im lặng là hơn.
Nhâm Thông Võ vừa kinh hãi, vừa khiếp sợ không biết nói sao.
Hồ Phỉ lại nói:
– Đại ca muốn bình yên thì đi theo tại hạ.
Lúc này Nhâm Thông Võ lục thần vô chủ, đành riu ríu theo sau Hồ Phỉ. Hắn nhìn thấy chàng chỉ cất tay, thúc khuỷu một cái đã đánh ngã được hai tên vệ sĩ võ công cao thâm hơn mình. Nếu hắn động thủ thì nhất định không toàn tánh mạng. Hắn chỉ cầu mong chàng đừng gây chuyện náo loạn để khỏi liên lụy đến hắn. Nhưng Hồ Phỉ đã vào phủ, có lý nào lại không gây cuộc náo loạn? Nhâm Thông Võ suy nghĩ ngây ngô như vậy, bởi lẽ gã không còn cách nào khác nên đành tự an ủi mình mà thôi.
Hồ Phỉ bước nhanh tới bên ngoài nhà tướng quốc phu nhân, lại thấy bảy, tám tên vệ sĩ đứng canh cả. Nếu chàng sấn lại chưa chắc đã hạ ngay được bọn chúng. Chàng động tâm đi quanh đến mé bên tòa nhà, rồi lớn tiếng quát:
– Nhâm Thông Võ! Ngươi làm gì vậy? Người sấn vào nhà Thái phu nhân định tạo phản chăng?
Chàng quát câu này khiến Nhâm Thông Võ càng ngơ ngác, miệng gã ấp úng:
Bọn vệ sĩ nghe chàng quát tháo giật mình kinh hãi, hối hả chạy tới.
Hồ Phỉ đưa bàn tay đặt vào lưng Nhâm Thông Võ, vung chưởng đẩy mạnh một cái. Hình thân to lớn của hắn bay đi đập vào cửa sổ đánh “binh” một tiếng. Lập tức gỗ vụn bay lả tả.
Hồ Phỉ lại hô:
– Bắt lấy nó! Bắt lấy nó! Mau lên!
Bọn vệ sĩ kéo ùa tới tróc nã Nhâm Thông Võ.
Hồ Phỉ lại hô lớn:
– Đừng làm kinh động Thái phu nhân! Tên phản tặc này quả là lớn mật.
Chàng miệng thì hồ, chân thì xông vào phòng.
Thái phu nhân hai tay đang dắt hai đứa nhỏ, kinh hãi hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Hai đứa nhỏ đang gào khóc, la gọi:
– Má má đâu rồi? Má má đâu? Con nhớ má má lắm!
Hồ Phỉ chạy vào nói:
– Có thích khách! Tiểu nhân bảo vệ Thái phu nhân cùng hai vị công tử ra khỏi đây.
Thái phu nhân là người từng trải, dù đang run nhưng trong lòng đã nảy mối nghi ngờ, bèn quát hỏi:
– Ngươi là ai? Thích khách đâu?
Hồ Phỉ không dám chần chờ, trong lòng tức giận mụ lòng dạ tàn ác, đã hạ độc giết Mã Xuân Hoa nên liền xông lại, xoay tay phóng chưởng đánh ra. Thái phu nhân địa vị cao sang, chồng làm tướng quốc, mụ lại là tình nhân của đương kim Hoàng đế, ba con mụ đều làm đến thượng thư, hai con dâu cũng đều là công chúa lá ngọc cành vàng, mà lúc này lại chịu nhục nhã ê chề. Hồ Phỉ tuy biết lòng dạ mụ tàn độc chẳng kém gì quân đại gian ác, nhưng nghĩ mụ cũng chỉ là đàn bà già nua, không muốn giết, nên phát chưởng của chàng chỉ vận có một thành khí lực. Dù đã nhẹ tay như vậy mà má bên phải mụ cũng sưng vù lên, mồm đầy máu me, lại rụng hai cái răng. Mụ vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, cơ hồ ngất xỉu.
Hồ Phỉ cúi xuống bảo hai đứa nhỏ:
– Ta đưa các cháu đi gặp má má. Má má đang nhớ các cháu lắm.
Hai đứa nhỏ mặt mày hớn hở, vươn bốn cánh tay nhỏ bé ra để Hồ Phỉ bồng về với mẹ. Hồ Phỉ vừa đưa tay trái bồng hai đứa nhỏ lên, thì giữa lúc ấy có hai tên vệ sĩ tiến vào nhà. Chàng nghĩ:
– Nếu không nắm giữ tánh mạng của Thái phu nhân thì khó bề thoát thân được.
– Thái phu nhân ở trong tay ta. Các ngươi mà sấn vào thì chúng ta cùng chết cả.
Chàng nói rồi rảo bước xông ra ngoài. Lúc này mấy tên vệ sĩ đã bắt được Nhâm Thông Võ. Chúng giương mắt lên nhìn Hồ Phỉ một tay bồng hai đứa nhỏ, một tay lôi Thái phu nhân chạy thẳng ra ngoài. Bọn vệ sĩ ném chuột sợ vỡ đồ, nào dám tiến lại động thủ? Chúng chỉ hò hét om sòm và bám sát theo Hồ Phỉ, đao kiếm giơ lên chỉ cách lưng chàng mấy tấc. Bọn vệ sĩ thấy Hồ Phỉ không có cách nào rảnh tay để chống cự, nhưng rốt cuộc cũng không dám sấn vào.
Hồ Phỉ trong lòng ngấm ngầm kêu khổ, vì bốn mặt đã có vệ sĩ bao vây đông nghẹt. Chàng đem theo một già hai trẻ, nếu cứ dùng dằng mãi thế này biết bao giờ mới ra khỏi cửa phủ? Địch nhân vẫn úy kỵ không dám tiến vào, nhưng giả tỷ trong bọn chúng có kẻ lớn mật xông tới, thì chàng cũng chẳng thể đánh chết Thái phu nhân được.
Đang lúc vô kế khả thi, Hồ Phỉ chỉ còn cách rảo bước tiến về phía trước. Hai bên thành thế giằng co. Bọn vệ sĩ cố nhiên không dám xông vào động thủ nhưng thủy chung Hồ Phỉ vẫn không thoát khỏi vòng nguy hiểm. Bọn chúng kéo tới mỗi lúc một đông khiến tình thế càng gay go thêm.
Trong lúc nhất thời Hồ Phỉ không có cách nào hay, chỉ biết gạt bỏ tánh mạng qua một bên, tiến được bước nào hay bước đó, nhưng bốn bề vang lên tiếng truyền lệnh cùng tiếng người la ó. Chàng lại một tay ôm hai đứa trẻ, một tay dắt một bà già, nên không đi mau được, đành lẩn vào bóng lối mà chạy.
Giữa lúc ấy bỗng thấy mé trái ánh lửa lập lòe. Có nguời lớn tiếng hô:
– Thích khách định hành thích công chúa! Chúng còn định đốt chết công chúa nữa! Chúng còn định đốt chết công chúa!
Hồ Phỉ sửng sốt, chàng nghe thanh âm đúng là giọng của Chu Thiết Tiêu. Lại thấy khói lửa dày đặc từ dãy nhà mé trái bốc lên không. Công chúa Gia Hòa là ái nữ của đương kim Hoàng đế. Nếu để sơ sót thì toàn bộ vệ sĩ ở phủ Phúc Khang An đều bị trọng tội.
Lại nghe Chu Thiết Tiêu hô:
– Anh em mau đến cứu hỏa. Đừng để tổn thương đến công chúa. Ta đến cứu Thái phu nhân đây.
Chu Thiết Tiêu là một thủ hạ rất có uy tín của Phúc Khang An. Bọn vệ sĩ đang kinh hoàng thất thố, nghe tiếng lão gọi uy nghiêm đều ào ào kéo đến chỗ ở của công chúa như ong vỡ tổ. Hồ Phỉ đã biết đây là kế “điệu hổ ly sơn” để mình thoát nạn, trong lòng xiết bao cảm kích. Lại thấy Chu Thiết Tiêu hăm hở chạy tới vung đao chém liền. Hồ Phỉ nghiêng mình tránh, miệng quát:
– Giỏi lắm!
Rồi đẩy Thái phu nhân về phía lão. Chu Thiết Tiêu đỡ Thái phu nhân dậy cõng lên lưng.
Hồ Phỉ một tay bồng hai đứa nhỏ, chân chạy thật nhanh.
Lại nghe Chu Thiết Tiêu đề khí hô lớn:
– Bọn thích khách rất đông! Các ngươi ở đâu đứng yên đấy để bảo vệ đại soái và hai vị công chúa, chớ có nhốn nháo mà trúng kế “điệu hồ ly sơn” của bọn chúng.
Bọn vệ sĩ nghe đến bốn chữ “điệu hổ ly sơn” đều run lên, không dám rượt theo nữa.
Hồ Phỉ chạy nhanh về phía cổng sau vườn hoa. Chàng vượt tường ra ngoài nhưng vẫn ngấm ngầm kêu khổ vì thấy hai mặt đông tây đều có vệ sĩ đứng đông nghịt. Chàng bồng hai đứa nhỏ vượt qua một khu đất trống chạy vào trong ngõ hẻm.
Bọn vệ sĩ hô hoán:
– Bắt thích khách! Bắt thích khách!
Chúng vừa hô vừa đuổi theo.
Hồ Phỉ chạy hết ngõ hẻm, chuyển tới một đường ngang, bỗng thấy trước mặt có một cỗ xe lừa đứng ngay giữa đường.
Hồ Phỉ nhảy lên xe, lớn tiếng:
– Chạy lẹ đi! Chạy lẹ đi! Ta sẽ trọng thưởng cho!
Trên chỗ xa phu có hai người ngồi sóng vai. Hán tử thân hình ốm nhom ở bên phải nghe tiếng Hồ Phỉ la, liền giật cương vung roi da một cái cho lừa kéo xe chạy.
Hồ Phỉ vừa vững tâm một chút, bỗng ngửi thấy mùi hôi thối xông lên mũi. Chàng định thần nhìn lại, thì trên cỗ xe lừa để đầy những thùng phân. Nguyên đây là xe vệ sinh đi đến từng nhà để đổi thùng phân. Chẳng tự hỏi:
– Sao nửa đêm lại có xe lấy phân đậu ở đây?
Chàng quay đầu nhìn lại thấy bọn vệ sĩ lớn tiếng hò reo đuổi tới phía sau. Chàng chợt nảy ra một ý, xách một thùng phân ném về phía sau. Cú ném đó lực đạo cực mạnh. Hai tên vệ sĩ đi đầu đụng phải thùng phân, toàn thân ướt đẫm ngã lăn ra, nhất thời không bò dậy được. Bọn vệ sĩ thấy vậy nhất tề dừng lại. Bọn này toàn là những võ sĩ khỏe mạnh gan dạ được tuyển chọn kỹ càng, chúng không sợ đao thương, nhưng trước những thùng phân ném tới, chẳng có ai trong bọn chúng dám nếm mùi hôi thối.
Cỗ xe lừa vẫn chạy bon bon về phía trước, nhưng chỉ lát sau đã nghe tiếng người văng vẳng, bọn vệ sĩ lại đuổi tới. Nên biết Phúc Khang An làm Binh Bộ Thượng thư đương triều, chấp chưởng đặc quyền coi giữ binh mã trong cả nước. Đội vệ sĩ trong phủ đều không phải tầm thường mà để Hồ Phỉ hai đêm liền vào đại náo đến trời long đất lở, thì bọn chúng còn chi là mặt mũi. Chúng thấy xe chạy xa rồi, thùng phân không thể ném tới, đành phải lội qua mặt đường đất đầy phân dơ dáy để tiếp tục truy đuổi.
Hồ Phỉ trong lòng phiền não, nghĩ bụng:
– Nếu mình quay về lại nhà thì khác nào tiết lộ chỗ ở? Mã cô nương chưa thoát khỏi cảnh hiểm nghèo thì dẫn quỷ về nhà thế nào được? Nhưng không chạy về nhà thì trốn vào đâu bây giờ?
Chàng còn đang ngẫm nghĩ, bọn vệ sĩ đã đuổi đến gần, song vì chúng sợ những thùng phân nên không dám xông lại, tên nào cũng nghĩ bụng:
– Bọn mình cứ đứng xa xa theo dõi, chẳng lẽ ở trong thành Bắc Kinh này mà gã chắp cánh bay thoát được ư?
Cỗ xe lừa chạy đến ngã tư, lại thấy một cỗ xe lừa chở phân khác đứng ở giữa đường.
Hồ Phỉ bảo xe chạy tới gần, tên xa phu nhìn Hồ Phỉ vẫy tay, hô:
– Qua bên xe kia!
Gã tung mình nhảy sang xe khác. Hồ Phỉ bồng hai đứa nhỏ nhảy theo. Trên cỗ xe trước, một hán tử đón lấy giây cương, không chút chậm trễ vội vung roi cho xe tiếp tục chạy rẽ về hướng tây. Còn cỗ xe chở Hồ Phỉ lúc nãy về hướng đông.
Quân vệ sĩ đuổi tới thấy hai cỗ xe lừa giống hệt nhau, lại mỗi xe đi mỗi ngả. Chúng chẳng hiểu thích khách ở cỗ xe nào, bèn bàn nhau chia làm hai đường đuổi theo cả hai xe. Hồ Phỉ nghe giọng nói, lại thấy hán tử thân hình gầy nhom mà thân pháp nhảy sang xe này rất mau lẹ, biết ngay là Trình Linh Tố đến tiếp ứng. Chàng mừng rỡ kêu lên:
– Nhị muội! Tưởng ai té ra là nhị muội!
Trình Linh Tố chỉ “hứ” một tiếng, chứ không trả lời.
Hồ Phỉ lại hỏi:
– Mã cô nương làm sao? Bệnh thế có biến chuyển gì không?
Trình Linh Tố xẵng giọng:
– Không biết!
Hồ Phỉ biết cô đang tức mình, cất giọng ôn nhu nói:
– Nhị muội! Tiểu huynh không nghe lời nhị muôi là có điều không phải. Xin nhị muội lượng thứ cho!
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội đã bảo không chữa bệnh cho y là không chữa. Chẳng lẽ lời tiểu muội không phải là lời nói của con người?
Giữa lúc đang nói chuyện, hài người lại tới một ngã ba đường. Giữa ngã ba lại có một có xe lừa đứng chờ. Lần này Trình Linh Tố không đổi xe, chỉ huýt sáo, vung tay ra hiệu cho hai cỗ xe lừa chở phân, chia làm hai ngả nam, bắc mà chạy.
Bọn vệ sĩ rượt tới nơi ngây người ra nhìn, rồi la lớn:
– Tà môn! Tà môn!
Rồi chúng lại chia đôi thành hai tốp đuổi theo hai hướng nam, bắc.
Đường phố Bắc Kinh chẳng khác gì bàn cờ, đường thì kéo dài suốt trục nam bắc hoặc kéo ngang suốt trục tây đông. Cứ đi một lúc lại thấy xuất hiện ngã ba đường, mà mọi ngã ba đều có một cỗ xe lừa đậu. Trình Linh Tố thấy bọn vệ sĩ đuổi tới gần, không đổi xe để khỏi phải tung người nhảy qua dễ bị phát giác. Chỉ khi nào thấy bọn vệ sĩ còn ở thật xa mới cùng Hồ Phỉ bồng hai đứa nhỏ nhảy qua xe khác, để con lừa mới sung sức chạy nhanh hơn. Tình trạng này tiếp diễn, bọn vệ sĩ mỗi lúc giảm bớt một nửa, sau cùng chỉ còn năm sáu tên đuổi theo, mà tên nào cùng chạy bở hơi tai, chân đã bước chậm lại nhiều rồi.
Hồ Phỉ khen:
– Nhị muội! Kế sách này của Nhị muội thật là tuyệt điệu. Nếu đêm khuya ta không mướn những cỗ xe phân, lại dùng xe thường đứng ở giữa đường tất khiến bọn quan binh tuần tiễu ban đêm sinh lòng ngờ vực.
Trình Linh Tố cười lạt, hỏi:
– Ngờ vực thì đã làm sao? Đại ca chẳng tiếc thân mình, thì có chết về tay quan binh cũng đáng đời.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Tại hạ có chết thì cũng đáng đời, chỉ tiếc cho cô nương phải đau lòng thành ra lại không chết được!
Trình Linh Tố cười lạt, hỏi:
– Đại ca không nghe lời tiểu muội, đem thân đi nạp mạng thì cũng chẳng có ái thương tiếc làm gì. Trừ phi đó là người đa tình đa nghĩa như Viên cô nương… sao cô không đến giúp đại ca một tay?
Hồ Phỉ nói:
– Y không hiểu tại hạ ngu ngốc đến nỗi dám xông vào phú Phúc đại soái. Trong thiên hạ chỉ có một vị cô nương biết tại hạ là kẻ hồ đồ liều lĩnh man rợ, và chỉ có cô nương đó mới quan tâm dám cứu mạng cho tại hạ.
Mấy câu này khiến Trình Linh Tố được an ủi vô cùng. Cô “hứ” một tiếng rồi đáp:
– Ngày trước người cứu mạng cho đại ca là Mã cô nương nên đại ca không lúc nào quên mà cố báo đáp ân tình.
Hồ Phỉ đáp:
– Ở trong lòng ta, Mã cô nương bì với nhị muội thế nào được?
Trong bóng tối, Trình Linh Tố mỉm cười, nói:
– Đại ca cầu tiểu muội chữa trị cho Mã cô nương nên nói dễ nghe lắm. Còn khi không cần đến người ta thì lại coi người ta như cơn gió thoảng qua tai.
Hồ Phỉ thề:
– Nếu tiểu huynh mà nói dối sẽ chẳng được chết yên lành.
Trình Linh Tố nói:
– Thật là thật, dối là dối, ai bảo đại ca thề thốt làm chi?
Cô nói câu này tỏ ra nỗi hờn giận trong lòng đã giảm đi một nửa. Lại tới chỗ đường rẽ, sau xe chỉ còn sót lại hai tên vệ sĩ.
Hồ Phỉ cười nói:
– Nhị muội hãy dừng xe lại, để tiểu huynh diễn một màn kịch chơi!
Trình Linh Tố ghìm cương cho lừa dừng lại. Hai tên vệ sĩ đuổi thêm mấy bước đã tới gần cỗ xe. Hồ Phỉ xách một cái thùng không ném mạnh tới đánh “bộp” một tiếng, cái thùng chụp trúng đầu một tên vệ sĩ. Tên kia cả kinh “ối” lên một tiếng, xoay mình chạy trốn. Trình Linh Tố thấy tình trạng rất hoạt kê không nhịn được, bật lên cười khúc khích, bao nhiêu lửa giận tiêu tan hết.
Hồ Phỉ cùng cô sánh vai ngồi trên xe, đỡ lấy dây cương. Lúc này cách nhà ở không xa, phía sau lại không có quân sĩ đuổi theo. Hai người cho xe đi một quãng nữa rồi nhảy xuống, trả xe lại cho xa phu, thưởng cho một lạng bạc, rồi bảo gã quay về. Mỗi người ôm một đứa nhỏ đi bộ về nhà trọ, vượt tường vào phòng, đến mức quỷ không hay thần không biết. Có ai ngờ hai người vừa đại náo trong phủ Phúc đại soái trở về?
Mã Xuân Hoa được găp hai con, tinh thần phấn khởi. Cô ôm chặt lấy chúng, dòng châu lã chã. Hai đứa nhỏ cũng vui sướng la lên:
– Má má!
Trình Linh Tố thấy tình cảnh này cũng rơm rớm nước mắt, khẽ nói:
– Đại ca! tiểu muội không trách đại ca nữa. Chúng ta đoạt hai đứa nhỏ về để mẹ con đoàn tụ là phải.
Hồ Phỉ đáp vui vẻ:
– Tiểu huynh không nghe lời Nhị muội dặn dò, trong lòng vẫn áy náy.
Trình Linh Tố nhoẻn miệng cười, nói:
– Ngay ngày đầu chúng ta găp nhau, đại ca đã không nghe lời tiểu muội. Tiểu muội bảo đừng rời xa tiểu muội và không được động thủ, đại ca có nghe đâu?
Mã Xuân Hoa được gặp hai con trong lòng thư thái, bệnh tình thuyên giảm rất mau, nàng lại được Trình Linh Tố châm cứu và cho uống thuốc, nên chất độc trong người giảm trừ dần dần. Nhưng còn tại sao nàng lại đến đây và vì lẽ gì không thấy mặt Phúc Khang An, thì Hồ Phỉ và Trình Linh Tố không nói rõ. Hai thằng nhỏ còn bé quá cũng không sao biết được.
Chớp mắt lại mấy ngày trôi qua, tiết trung thu đã đến. Chiều hôm ấy Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố, Thái Uy, Cơ Hiểu Phong ba người đến phủ Phúc Khang An tham dự đại hội chưởng môn nhân.
Hồ Phỉ lần này lại hóa trang khác trước. Hàm râu quai nón đã được cắt ngắn và nhuộm vàng, da mặt cũng vàng nhạt như người mắc bệnh gan, nhưng cả người áo gấm rực rỡ, miệng ngậm ống thuốc bằng phỉ thúy, nhẫn ngọc đeo tay, tay cầm cây quạt lớn hoa vàng. Cách phục sức vừa hào nhoáng lại vừa thô tục. Trình Linh Tố hóa trang làm một phu nhân đứng tuổi, lưng còng, mặt mũi nhăn nheo. Chẳng ai dám bảo y là một cô nương mới mười bảy, mười tám tuổi. Hồ Phỉ bảo Thái Uy là sư phụ dặn dò không được lộ chân tướng ở đại hội. Thái Uy chỉ vâng dạ chứ không hỏi nhiều.
Mọi người vào cổng lớn phủ Phúc Khang An thì bọn thị vệ đã rút lui hết, chỉ có tám người lễ tân đứng đón khách. Hồ Phỉ đưa văn thư lên. Bọn chúng liền kính cẩn mời bốn người vào ngồi bàn ở phía đông.
Tại bàn này còn mấy người nữa. Chào hỏi nhau mới biết họ là người của “Hầu Quyền Đại Thánh môn”. Trình Linh Tố thấy vị chưởng môn đã già, đầu cao, miệng nhọn, má đỏ tay dài, tướng mạo có phần giống khỉ thì không khỏi cười thầm.
Lúc này trong sảnh đường tân khách đã tới quá nửa, mà ngoài cửa vẫn còn người lục tục tiến vào. Những người tiếp khách trong sảnh đường đều là võ quan thủ hạ của Phúc Khang An. Có người vào hạng quan viên tam tứ phẩm, đi ra ngoài đều là những đại quan hách dịch, nhưng ở phủ đại soái thì chỉ là những tùy viên mời khách, chẳng khác gì tôi tớ hầu hạ.
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn quanh bỗng thấy Chu Thiết Tiêu và Uông Thiết Ngạc sóng vai đi tới. Hai lão mặt mày hớn hở, sắc phục và mũ đội đều đổi khác, hiển nhiên là đã thăng quan. Chu, Uông đi tới trước mặt Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nhưng không nhận ra hai người.
Chợt nghe hai tên võ quan khác nhìn Chu, Uông cười hì hì nói:
– Cung hỷ Chu đại ca và Uông đại ca, đêm qua đã lập công rất lớn.
Uông Thiết Ngạc sướng quá ngoác miệng ra cười, đáp:
– Cái đó chẳng qua là gặp may, chứ bản lãnh có gì đáng kể đâu?
Lại một tên võ quan khác tiến lại, nói:
– Một vị được thăng tổng binh, một vị đã thực sự là phó tướng. Hà hà! Hay quá! Hay quá! Trong những nhân vật may mắn ở phủ Phúc đại soái, hai vị được xem là thăng quan lẹ nhất.
Chu Thiết Tiêu cười mát, đáp:
– Bình đại ca lại nói giỡn rồi. Anh em tại hạ vô công mà hưởng lộc, bì thế nào được với Bình đại ca lập chiến công ngoài trận mạc?
Tên võ quan kia nghiêm mặt nói:
– Chu đại ca dũng cảm cứu tướng quốc phu nhân, Uông đại ca ra sức bảo vệ công nương. Đức vạn tuế gia tự miệng gia phong, tiểu đệ bì sao nổi?
Chu Thiết Tiêu và Uông Thiết Ngạc đi đến đâu bọn võ quan đều xúm nói mấy câu chúc mừng tâng bốc. Bọn chưởng môn nghe thấy cũng động tính hiếu kỳ, hỏi về vụ hai người lập công cứu chủ thế nào. Bọn võ quan bèn thêm dầu thêm mỡ để thuật lại câu chuyện cho tăng thêm phần hấp dẫn.
Hồ Phỉ đứng cách xa chỉ loáng thoáng nghe đại khái câu chuyện: Đêm hôm qua, Hồ Phỉ xông vào Phúc phủ, cướp hai thằng nhỏ. Chu Thiết Tiêu mưu mẹo sâu xa, chẳng những hóa giải được một trường tai họa, mà nghe được phong thanh từ trước nên lập mưu giành lại được tướng quốc phu nhân từ tay Hồ Phỉ, lại kêu sư đệ là Uông Thiết Ngạc đến bảo vệ công chúa.
Tướng quốc phu nhân là tình nhân của vua Càn Long, công chúa là ái nữ của Hoàng đế. Công lao giải cứu này thật dễ dàng, nhưng trong mắt nhà vua lại khó khăn hơn việc xung phong hãm trận ngoài chiến trường cả trăm lần. Vì thế hai lão được triệu vào kim điện bệ kiến, gia thăng liền mấy cấp. Tướng công phu nhân cùng Công chúa và Phúc Khang An cũng ban thưởng rất nhiều vàng bạc châu báu. Trong một đêm Chu, Uông hai người vận đã đỏ lại càng thêm đỏ. Ai cũng bảo mấy trăm tên thích khách nửa đêm xông vào tập kích Phúc phủ. Nếu không được hai vị Chu, Uông lực chiến thì tánh mạng tướng quốc phu nhân và công chúa khó nỗi bảo toàn.
Bọn vệ sĩ, để che giấu sự bất lực, khai ra bọn thích khách mỗi lúc một đông đến nỗi chúng lâm vào tình cảnh lấy ít đánh nhiều, phải liều mạng chống chọi mới bảo vệ được Phúc Khang An vô sự. Kết quả vụ này ai cũng có công. Phúc Khang An tuy mất hai đứa con, trong lòng rất phiền não, nhưng nghĩ tới mười năm trước gặp nguy nan trong tay “Hồng Hoa hội” thì đêm rồi chỉ phải một phen kinh hãi chứ không nguy hiểm, thích khách lại bị đánh lui nên ban thưởng rất nhiều cho bọn vệ sĩ. Lệ quan trường xưa nay vẫn vậy, cứ dối trên lừa dưới thì tất cả đều vui vẻ.
Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố liếc mắt nhìn nhau, không khỏi cười thầm trong bụng. Hai người đều là tay mưu kế sâu xa cũng không thể nghĩ nổi Chu Thiết Tiêu, trong một vụ bình thường như vậy, mà lại khai thác được một trường phú quí.
Hồ Phỉ lẩm bẩm:
– Lão này mưu kế sâu xa, thủ đoạn tàn độc ắt tương lai rộng mở, bước tiến thân trong chốn quan trường là vô hạn.
Nhốn nháo một lúc, bất giác mấy chục bàn đầy đủ khách ngồi. Hồ Phỉ nhẩm tính có cả thảy sáu mươi hai bàn, mỗi bàn tám người chia làm hai phái, như vậy là một trăm hai mươi bốn vị chưởng môn. Chàng nghĩ bụng:
– Những môn phái võ công trong thiên hạ không ngờ nhiều đến thế, ấy là chưa kể số được mời mà không đến cũng chẳng phải là ít.
Có một số bàn chỉ có bốn người, lại có mấy bàn bỏ trống, khiến chàng sực nhớ tới Viên Tử Y, tự hỏi:
– Chẳng hiểu bữa nay nàng có tới đây không?
Trình Linh Tố thấy chàng ra chiều nghĩ ngợi, khóe mắt chàng lộ vẻ ôn nhu, đã đoán ra chàng đang nghĩ tới Viên Tử Y thì không khỏi chua xót trong lòng.
Bỗng cô thấy da bên má chàng động đậy, vẻ mặt biến đổi, hai mắt phừng phừng lửa giận, hướng theo mục quang chàng mà nhìn thì thấy một lão già thân thể to lớn, ngồi ở bàn thứ tư về phía tây. Lão này tay cầm hai trái thiết đảm, cặp mắt lấp loáng láo liêng nhìn mọi chỗ. Hắn chính là Phụng Thiên Nam, chưởng môn phái Ngũ Hổ.
Trình Linh Tố vội kéo tay áo Hồ Phỉ. Lập tức chàng sực tỉnh quay đầu lại, bụng bảo dạ:
– Mi đã tới đây thì đừng hòng thoát khỏi tay ta. Chà! Tên ác tặc Phụng Thiên Nam, mi tưởng ta sau khi đại náo Phúc phủ, quyết chẳng dám tham dự cuộc đại hội chưởng môn, có ngờ đâu ta vẫn tới.
Giờ ngọ bắt đầu. Các bàn đâu đã vào đấy, Hồ Phỉ đảo mắt nhìn quanh thấy chính giữa đại sảnh treo một bức trướng gấm đính tám chữ lớn: “Dĩ võ hội hữu, quần anh tất chí”.
Dưới bức trướng gấm có đặt bốn cái bàn, mỗi bàn chỉ có một ghế dài phủ da hổ mà chưa có ai ngồi. Chàng chắc đây là chỗ ngồi của những bậc vương công quý nhân.
Trình Linh Tố nói:
– Y vẫn chưa tới…
Hồ Phỉ biết là cô nói Viên Tử Y, nhưng cũng thuận miệng hỏi lại:
– Ai chưa tới?
Trình Linh Tố không đáp, tự nói một mình:
– Y đã làm tổng chưởng môn chín phái rưỡi thì không thể không đến được.
Lại qua một lúc, bỗng thấy một vị tướng quân mang hàm nhị phẩm đứng dậy, cất giọng oang oang như chuông đồng, nói:
– Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch.
Bọn vệ sĩ cũng hô truyền theo nhau:
– Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch! Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch!
Quần hào trong sảnh đường đều không hiểu:
– Những nhân vật dự đại hội này, ngoài bọn đệ tử tùy tùng và những nhân viên tiếp khách bên chủ, ai cũng là chưởng môn nhân, sao lại còn phân làm tứ đại, tứ tiểu?
Lúc này trong sảnh đường đều yên lặng. Bỗng thấy hai ba vị võ quan tam phẩm đi trước dẫn bốn người tiến vào sảnh đường, đi thẳng tới bên những ghế bọc da hổ mời họ ngồi xuống.
Người đi đầu là một nhà sư già lông mày bạc trắng, tay cầm thiền trượng bằng gỗ huỳnh dương, mặt mũi hiền lành, nếu chưa đến một trăm thì cũng ngoài chín chục tuổi rồi. Nhân vật thứ hai là một đạo nhân ước chừng bảy mươi tuổi, nước da đen sì, cặp mắt lim dim nửa nhắm nửa mở, coi bộ ốm yếu. Hai người một tăng một đạo mà tướng mạo trông khác hẳn nhau. Nhà sư thì cao lớn uy nghiêm, thoạt nhìn cũng đủ biết là một vị cao tăng đắc đạo. Còn đạo nhân thì giống như một đạo sĩ tầm thường đi thí pháp hóa duyên, vẽ bùa chú bịp người. Không hiểu sao lão cũng đứng vào một trong bốn vị “Tứ đại chưởng môn nhân”?
Người thứ ba là một lão già tinh thần quắc thước, ngoài sáu chục tuổi cả, cặp mắt lấp loáng, huyệt thái dương nhô lên, hiển nhiên là nội công thâm hậu. Lão vừa bước vào đã mỉm cười chắp tay chào hỏi hết người này đến người khác, tưởng chừng trong một trăm vị chưởng môn thì có đến chín chục quen lão. Thật là một nhân vật giao du khắp thiên hạ. Người gọi lão là “Thang đại gia”, kẻ kêu bằng “Thang đại hiệp”, chỉ có mấy vị võ lâm danh túc tuổi cao đức trọng mới gọi bằng “Cam Lâm huynh”.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Vị này chắc ngoại hiệu là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh” tên gọi là Thang Bái. Má má của Viên cô nương đã được lão thu nạp. Tiếng nhân hiệp của lão truyền bá khắp nơi, người trong võ lâm đều bảo lão là bậc nhân nghĩa hơn đời. Không ngờ bữa nay lão cũng bị Phúc Khang An lung lạc.
Lão chưa ngồi vào ghế ngay, còn đi qua các bàn có những người quen biết hàn thuyên đôi lời, nào nắm tay, nào vỗ vai ra chiều cực kỳ thân thiết.
Khi lão đi qua bàn Hồ Phỉ, liền nắm lấy chưởng môn Đại thánh hầu quyền môn, cười nói:
– Lão hầu nhi, lão cũng tới ư? Hà hà! Bàn này sao lại không dự bị trước một mâm đào?
Lão chưởng môn kia cung kính, cười đáp:
– Thang đại hiệp, đã bảy năm rồi không gặp lão nhân gia. Tại hạ chưa kịp lại vấn an, thực đáng đánh đòn. Lão nhân gia càng già càng tráng kiện, thật là hiếm người có được.
Thang Bái vươn tay vỗ vai lão, cười hỏi:
– Những hầu tử hầu tôn, hầu bà hầu nữ của lão ở động Thủy Liêm trên Hoa Quả sơn đều bình yên cả chứ?
Vị chưởng môn kia đáp:
– Nhờ hồng phúc của Thang đại hiệp, cả nhà lão phu đều bình yên.
Thang Bái cười ha hả quay sang nhìn Cơ Hiểu Phong hỏi:
– Cơ lão tam không đến ư?
Cơ Hiểu Phong khom lưng thi lễ thỉnh an, rồi đáp:
– Gia phụ không đến. Thường nhật lão nhân gia vẫn nhắc tới Thang đại hiệp và bảo rằng sau khi uống viên “Nhân sâm dưỡng vinh hoàn” của Thang đại hiệp tặng, tinh thần rất sảng khoái.
Thang Bái hỏi:
– Phải chăng ngươi ở trong phủ của Văn thị lang? Sáng mai ta lại gởi cho ngươi một ít.
Cơ Hiểu Phong khom lưng tạ ơn.
Thang Bái đưa mắt nhìn Hồ Phỉ, Trình Linh Tố và Thái Uy gật đầu mấy cái rồi qua bàn khác.
Vị chưởng môn ở Đại Thánh Hầu Quyền môn nói:
– Thang đại hiệp ngoại hiệu là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh”, thực ra há phải chỉ bảy tỉnh mà thôi đâu. Có một năm lão phu bảo hộ một món tiêu ngân mười tám vạn lạng bị thất lạc trên đường Cao Lương. Cả nhà hốt hoảng còn thiếu nước nhảy xuống giếng tự tử, nếu không được Thang đại hiệp đứng ra can thiệp, dùng biện pháp vừa cứng rắn vừa mềm dẻo thì Tửu Toàn Tam Hổ đời nào trả lại món tiêu ngân đó.
Lão kể lại chuyện năm xưa một cách say sưa, phun cả nước bọt tung tóe. Nguyên lão chịu ơn sâu của Thang Bái suốt đời không quên, nên hễ gặp cơ hội là lão lại tuyên dương công đức của họ Thang.
Thang Bái tiến vào đại sảnh như một vị đại tướng quân lẫm liệt uy phong. Ai cũng chăm chú nhìn lão. Lão làm cho hình ảnh hai vị đại chưởng môn kia lu mờ hẳn đi.
Vị chưởng môn nhân thứ tư ăn mặc như võ quan, mũ mang hàm tứ phẩm. Trong nhà đại soái còn nhiều võ quan hàm cao hơn y, nhưng bộ pháp y vững vàng, khí độ oai nghiêm ra vẻ đại tôn sư một phái. Tuổi y lối năm mươi, mặt vuông tai lớn, hai hàng lông mày dựng lên. Y lẳng lặng tiến vào ngồi trên ghế thứ tư, tư thế mênh mông như biển cả, lại sừng sững như non cao, ngưng thần chuyên chú, tựa hồ như chẳng nghe chẳng thấy những việc xảy ra quanh mình.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Đây cũng là một nhân vật phi thường.
Lúc chàng mới tiến vào đại hội, trong lòng tràn ngập hùng tâm không coi ai vào đâu, nhưng từ lúc nhìn thấy bốn vị đại chưởng môn, không khỏi có phần úy kỵ, nghĩ thầm:
– Thang đại hiệp và vị võ quan kia, bất cứ vị nào ta cũng chưa chắc thủ thắng. Thế mà lão hòa thượng và đạo nhân còn ở trên hai người đó thì dĩ nhiên không phải tầm thường. Bữa nay ta quyết không để lộ thân phận. Đừng nói hàng trăm vị chưởng môn đều là cao thủ tuyệt đỉnh, mà ngay bốn vị “Tăng, Đạo, Hiệp, Quan” kia muốn chế phục ta cũng dư sức.
Hồ Phỉ sinh lòng e ngại, chỉ ngồi bốc hạt dưa cắn, chàng không dám ngang nhìn ngửa, sợ bọn thủ hạ của Phúc Khang An phát giác.
Sau một lúc, Thang Bái chào hỏi mọi người rồi trở về chỗ ngồi của mình. Lại thấy rất nhiều kẻ vãn bối hậu sinh đến trước lão dập đầu vấn an.
Thang Bái là gia tư hào phú, lại trượng nghĩa khinh tài, những môn nhân đệ tử đứng sau lưng lão đều mang sẵn những phong bao đỏ. Hễ cứ có một kẻ vãn bối chưa từng thấy mặt đến sụp lạy là lão lại thưởng cho bốn lạng gọi là lễ ra mắt. Trong phòng nhốn nháo một lúc mới xong cuộc bái kiến.
Bỗng nghe tên võ quan nhị phẩm hô:
– Rót rượu!
Những bộc dịch chầu chực các bàn đều rót rượu đầy vào các chung.
Tên võ quan kia nâng chung rượu lên, dòng dạc hô:
– Các vị chưởng môn cùng các vị tiền bối võ sư ở các bang phái lặn lội đường xa đến dự đại hội ở kinh thành, Phúc đại soái nhiệt liệt hoan nghênh. Bây giờ tại bạ xin kính mừng các vị một chung trước. Lát nữa Phúc đại soái sẽ thân hành đến chúc rượu các vị.
Hắn nói rồi uống một hơi cạn hết. Mọi người cũng cạn chung theo.
Tên võ quan lại nói:
– Bữa nay, những người có mặt đều là những bậc anh hùng hào kiệt võ lâm, thật là một thịnh sự cổ kim chưa từng có. Phúc đại soái càng cao hứng hơn nữa khi mời được bốn vị đại chưởng môn nhất tề quang lâm. Tiểu đệ xin được giới thiệu.
Y trỏ vào nhà sư già mày bạc ở ghế thứ nhất, nói:
– Đây là Đại Trí thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, tỉnh Hà Nam. Cả ngàn năm nay, phái Thiếu Lâm đã là nguồn gốc võ học khắp thiên hạ, vì thế cuộc đại hội chưởng môn này phải suy cử Đại Trí thiền sư ngồi vào ngôi thủ tịch là đúng lẽ.
Quần hào đều vỗ tay như sấm dậy.
Phái Thiếu Lâm có nhiều phân chi rất rộng lớn. Những người đến tham dự cuộc đại hội chưởng môn bữa nay thì đã có đến một phần ba bắt nguồn từ phái Thiếu Lâm, nên quần hào thấy võ quan tôn sùng vị cao tăng chùa Thiếu Lâm ai nấy đều hoan hỉ.
Tên võ quan lại trỏ vào vị đạo nhân ở ghế thứ hai nói:
– Ngoài phái Thiếu Lâm ra, dĩ nhiên phải suy tôn phái Võ Đương. Vị này là Vô Thanh Tử đạo trưởng, quán chủ Thái Hòa cung ở núi Võ Đương.
Uy danh phái Võ Đương cực kỳ hưng thịnh. Phái này là tỵ tổ môn quyền kiếm nội gia, những quần hào thấy đạo nhân vóc người thấp lùn, tướng mạo tầm thường thiếu vẻ uy phong thì trong lòng đều ngấm ngầm lấy làm lạ. Những bậc danh túc kiến văn quảng bác đều nghĩ thầm:
– Từ ngày chưởng môn phái Võ Đương là Mã Ngọc qua đời mười mấy năm trước, kế đó cao thủ là Hỏa Phán Quan Trương Triệu Trọng lại chết ở Hồi Cương, thì không nghe nói tới nhân vật nào làm chưởng môn của phải này. Cái tên Vô Thanh Tử làm quán chủ Thái Hòa cung cũng chưa từng nghe ai nhắc tới.
Vị thứ ba là đại hiệp Thang Bái nổi tiếng ai ai cũng biết, kể ra không cần giới thiệu, nhưng tên võ quan kia vẫn lên tiếng:
– Vị này là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh” Thang đại hiệp, chưởng môn phái Tam Tài kiếm. Thang đại hiệp oai danh chấn động thiên hạ, nghĩa nhân trùm đời, chẳng ai không biết. Tiểu đệ bất tất phải rườm lời.
Gã vừa mới nói mấy câu quần hào đã đồng thanh hoan hô như sấm dậy. Tình trạng này so với lúc giới thiệu Vô Thanh Tử thật khác nhau, cả Đại Trí thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng không bì kịp.
Hồ Phỉ nghe một lão già ở bàn bên cạnh nói khẽ:
– Trong võ lâm có môn phái làm rạng rỡ cho người, lại có người làm rạng rỡ môn phái. Vị Thanh gì gì đạo trưởng đó chỉ nhân làm quán chủ Thái Hòa cung núi Võ Đương mà được kể là một trong bốn vị đại chưởng môn. Lão phu coi chừng chưa chắc đã có chân tài thực học gì. Còn như Tam Tài kiếm mà không sản xuất được nhân tài như Thang đại hiệp, một nhân vật trăm năm khó kiếm, thì làm sao chiếm nổi địa vị này trong võ lâm?
Một tên tráng hán tiếp lời:
– Sư thúc dạy phải lắm.
Hồ Phỉ cũng ngấm ngầm gật đầu.
Quần hào lộn xộn một lúc rồi đưa mục quang nhìn vị võ quan ngồi ở ghế thứ tư.
Tên võ quan giới thiệu nói tiếp:
– Vị này là đấng anh hùng ở Mãn Châu, Hải Lan Bật Hải đại nhân, chưởng môn Hắc Long môn ở Liêu Đông, đồng thời là Tá Lãnh đội Kiêu kỵ doanh thuộc đạo Hoàng kỳ.
Quan chức Hải Lan Bật kể ra cũng còn kém tên võ quan, nên đến lúc tên võ quan nhị phẩm gọi tới, hắn liền đứng dậy nghiêm trang, ra vẻ kính cẩn.
Lão già ngồi gần Hồ Phỉ lại xì xầm với người cùng bàn:
– Vị này lại dùng quan chức để đề cao môn phái. Hắc Long môn ở Liêu Đông, hà hà… chưa từng nghe ai trong võ lâm nhắc tới, mà cũng là một trong Tứ đại chưởng môn ư? Có điều bốn vị đại chưởng môn mà là người Hán cả, không chen một nhân vật Mãn Châu vào thì Phúc đại soái không được đẹp mặt. Hải đại nhân đây nhiều lắm chỉ là có sức mạnh mấy trăm cân của người man di, thì bì với những danh gia cao thủ của chính phái ở võ lâm Trung nguyên thế nào được?
Tên tráng hán ngồi lại nói:
– Lời sư thúc thật chí phải.
Nhưng lần này Hồ Phỉ không cho là lão nói đúng. Chàng nghĩ bụng:
– Lão đừng coi thường vị hảo hán Mãn Châu này. Hắn anh hoa nội liễm, khí phách ngưng trọng, e rằng người như lão còn thua hắn xa.
Bốn vị đại chưởng môn đứng dậy mời rượu quần hào, mỗi người nói mấy câu khiêm tốn. Đại Trí thiền sư khí độ ung dung, quả có phong độ một nhân vật lãnh tụ. Thang Bái nói năng lưu loát, chỉ mới nói có bảy, tám câu đã khiến quần hào phải ba lần nổi lên những tràng cười rộ. Vô Thanh Tử và Hải Lan Bật ăn nói vụng về. Vô Thanh Tử nói khẩu âm Hồ Bắc rất khó nghe, quá nửa số người không hiểu lão nói cái gì.
Chàng ngấm ngầm lấy làm lạ tự hỏi:
– Vị đạo trưởng này phát âm không đủ trung khí mà sao lại làm được chưởng môn một đại môn phái như Võ Đương? Chắc là võ nghệ lão tuy tầm thường, nhưng thân phận cao mà lại có uy tín lớn nên được đệ tử bản phái khâm phục mà suy tôn lên chăng?
Đúng lúc đó nhà bếp lần lượt đưa thức ăn vào. Phúc đại soái thiết yến đãi khách quả nhiên không phải tầm thường. Nguyên những vò rượu “Trạng Nguyên Hồng” đời Thiệu Hưng để lâu trên hai chục năm đã là thứ mỹ tửu rất quý hiếm rồi.
Hồ Phỉ cứ việc rượu đưa đến là uống cạn. Chàng uống một lúc hơn hai chục chung. Trình Linh Tố thấy chàng uống rượu rất hào, chỉ biết nhếch mép mỉm cười. Thỉnh thoảng cô quay đầu nhìn Phụng Thiên Nam, sợ hắn chuồn mất.
Quần hào ăn xong bảy, tám món trên bàn tiệc, bỗng nghe đoàn thị vệ lớn tiếng hô:
– Phúc đại soái tới!
Các võ quan trong đại sảnh đều nhất tề dời chỗ ngồi, ra đứng nghiêm trang. Chỉ trong nháy mắt, ai nấy đều trông như những pho tượng đá không nhúc nhích. Chưởng môn các phái đều là hào khách võ lâm, chưa thấy kỷ luật quân thần nghiêm cẩn như thế bao giờ, đều giật mình kinh hãi bất giác cũng lục tục đứng lên.
Bỗng nghe tiếng giày lẹp kẹp, có mấy người tiến vào đại sảnh. Bọn võ quan đồng thanh hô:
– Tham kiến đại soái!
Chúng nhất tề quỳ nửa chân, khom lưng cúi mình xuống.
Phúc đại soái khoát tay nói:
– Được rồi! Các vị đứng lên đi!
Bọn võ quan đáp:
– Tạ ơn đại soái!
Mấy tiếng lách cách vang lên, bọn võ quan đứng thẳng người dậy.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Phúc Khang An trị quân nghiêm minh, quả không phải hạng tầm thường. Thảo nào hắn xuất chinh mấy lần đều đánh đâu thắng đấy.
Nhưng chàng thấy hắn mặt mày hớn hở, lại nghĩ thầm:
– Hắn thật là người chẳng có lương tâm. Hai đứa con bị cướp đi mà hắn vẫn thản nhiên như không.
Phúc Khang An sai người rót một chung rượu, rồi nói:
– Các vị võ sư tới kinh sư nên bản soái bày tiệc tẩy trần. Xin mời các vị cạn chung.
Hắn nâng chung rượu lên uống cạn, quần hào nhất loạt uống cạn theo. Lần này Hồ Phỉ chỉ để chung rượu lên môi mà không uống, vì trong lòng phẫn hận Phúc Khang An tàn ác, đã biết mẫu thân hạ độc Mã Xuân Hoa mà không giải cứu, nên chàng không muốn cạn chung với hắn.
Phúc Khang An lại nói:
– Cuộc đại hội chưởng môn khắp thiên hạ bữa nay đức Vạn tuế cũng biết rõ. Ngài mới tuyên triệu bản soái vào bái kiến và ban cho hai mươi bốn cái chung để bản soái chuyển cho hai mươi bốn vị chưởng môn nhân.
Hắn vẫy tay một cái, bọn thị vệ bưng ba chiếc hộp gấm đặt lên bàn phủ vải đoạn, rồi mở hộp lấy chung ra. Trong hộp thứ nhất đựng tám cái chung ngọc, hộp thứ nhì đựng tám cái chung vàng, hộp thứ ba đựng tám cái chung bạc, được chia làm ba hàng bày trên bàn. Ngọc khí lóng lánh, kim sắc rực rỡ, ngân quang chói lọi. Trên chung rượu chạm khắc những hoa văn lồi lõm, đứng từ xa mà nhìn chỉ biết đó là những vật cực kỳ tinh xảo. Những chung này đều do thợ khéo ở đại nội chế tạo nên đều có vẻ khác thường.
Lại nghe Phúc Khang An nói tiếp:
– Chung ngọc khắc hình rồng gọi là Ngọc Long bôi, cực kỳ trân quý. Chung vàng khắc hình chim phượng đang bay, gọi là Kim Phụng bôi, chung bạc khắc hình cá chép đang nhảy là Ngân Lý bôi.
Quần hào nhìn hai mươi bốn chung ngự bôi đều tự hỏi:
– Trong cuộc đại hội này cả thảy hơn trăm vị chưởng môn mà chỉ có hai mươi bốn chung ngự bôi thì biết ban cho những ai? Không lẽ lại rút thăm? Ngọc Long bôi quý hơn Ngân Lý bôi rất nhiều, vậy thì ai lãnh ngọc bôi, ai lãnh ngân bôi?
Bỗng thấy Phúc Khang An cầm bốn chung ngọc, tự tay trao cho bốn vị đại chưởng môn và nói:
– Các vị là những thủ lãnh võ lâm, mỗi vị lãnh một chiếc Ngọc Long bôi.
Bọn Đại Trí thiền sư đều khom lưng cảm tạ.
Phúc Khang An lại nói tiếp:
– Ở đây còn lại hai chục chiếc ngự bôi, bản soái xin mời các vị phô trương tuyệt nghệ. Bốn vị võ công cao nhất sẽ được chia nhau bốn chiếc ngọc bôi. Bốn vị này hợp với bốn môn phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Tam Tài Kiếm, Hắc Long môn xưng làm “Ngọc Long bát môn” là những môn phái lớn nhất thiên hạ. Thứ nhì đến tám vị chưởng môn chia nhau tám chung vàng, đó là “Kim Phụng bát môn”. Sau nữa là tám vị chia nhau tám chung bạc hợp thành “Ngân Lý bát môn”. Từ nay các môn phái chia thành đẳng cấp, có thứ bậc trên dưới, do đó trong võ lâm sẽ bớt đi những sự phân tranh. Bốn vị Đại Trí thiền sư, Vô Thanh Tử, Thang đại hiệp, Hải tham lãnh sẽ bình luận võ công cao thấp để định ngôi thứ. Các vị có còn điều chi dị nghị chăng?
Những vị chưởng môn có kiến thức đều nghĩ bụng:
– Làm vậy đâu có thể giảm bớt được những cuộc phân tranh? Các môn phái mà chia đẳng cấp thì trong võ lâm sẽ lập tức xảy ra nhiều họa hoạn vô cùng. Ngay hai mươi bốn chiếc Ngự chung này đã đẩy người ta vào thế tranh chấp rồi. Bọn học võ trong thiên hạ từ đây lại càng đánh nhau vì chữ danh, tự tàn sát nhau gây cảnh máu chảy đầu rơi chẳng còn ngày nào yên tĩnh nữa.
Nhưng vì Phúc đại soái đã nói vậy rồi thì còn ai dám dị nghị nữa? Nhiều người còn lên tiếng phụ họa, hoan hô ầm ĩ.
Phúc Khang An lại nói tiếp:
– Những vị được các chiếc ngự bôi này thì dĩ nhiên phải lo giữ gìn. Nếu cho các môn phái khác đoạt được hoặc lấy trộm thì danh hiệu “Ngọc Long bát môn”, “Kim Phụng bát môn”, “Ngân Lý bát môn” đã được đại hội định sẽ chẳng còn nữa!
Hắn nói lần này ý đồ đã lộ liễu thêm một mức nữa, nhưng vẫn có một ít người reo cười phụ họa.
Hồ Phỉ nghe Phúc Khang An tuyên bố tới đây liền nhớ tới ngày trước Viên Tử Y đã đoán chỗ dụng ý của hắn khi mở về cuộc đại hội chưởng môn, liền nhủ thầm:
– Ban đầu ta tưởng hắn đứng ra mời anh hùng hào Kiệt trong thiên hạ để thu dụng, ngờ đâu chỗ dụng tâm của hắn còn nham hiểm hơn nhiều. Hắn cố ý khêu gợi sự phân tranh giữa các môn phải võ lâm, làm cho những kẻ võ học chỉ vì chút hư danh mà tàn sát lãn nhau, không còn sức đâu mà nghĩ đến cuộc phản kháng nhà Mãn Thanh nữa.
Chàng vừa nghĩ tới đây, bỗng thấy Trình Lình Tố chấm ngón tay vào chung trà viết lên bàn chữ “Nhị” rồi chữ “Đào”. Viết xong có lại dùng ngón tay xóa ngay.
Hồ Phỉ khẽ gật đầu. Câu chuyện “Nhị đào sát tam tử”, chàng đã từng nghe người ta kể, nên nghĩ thầm:
– Ngày trước, Án Anh dùng kỳ kế “Nhị đào sát tam tử”, chỉ dùng hai trái đào mà khiến ba tay dũng sĩ kiệt ngạo phải tự tàn sát nhau mà chết. Bữa nay, Phúc Khang An lại học theo Án Anh, có điều dụng tâm hắn còn lớn hơn nhiều. Hắn chỉ dùng hai mươi bốn chiếc ngự bôi để triệt hạ hết bọn học võ trong thiên hạ.
Chàng đảo mắt nhìn quanh thấy bọn võ nhân tuổi trẻ lộ vẻ hăng hái, nôn nóng muốn phô trương thân thủ. Nhưng cũng có một số ít chưởng môn nhân đứng tuổi và già cả lộ vẻ bất bình. Hiển nhiên họ nghĩ tới việc tranh giành ngự bôi sẽ phát sinh hậu hoạn không ít.
Quần hào trong đại sảnh nghị luận xôn xao khiến không khí trở nên ồn ào.
Bàn bên cạnh chàng có người lên tiếng:
– Vương lão gia! Thần quyền của lão gia bạt tụy xuất chúng, trong thiên hạ ít người địch nổi, nhất định lão gia sẽ đoạt được một chiếc Ngọc Long bôi.
Người kia khiêm nhượng đáp:
– Ngọc Long bôi thì chẳng dám nghĩ tới, nếu như được chiếc Kim Phụng bôi đưa về cũng đã dễ ăn nói với bọn đệ tử.
Một người khác cười lạt, nói khẽ:
– Chỉ e đến Ngân Lý bôi cũng không sờ vào được mới thật là mất mặt.
Lão họ Vương tức giận trừng mắt nhìn, vì người nói mát mẻ vẫn thản nhiên như không, chẳng lý gì đến lão.
Trong lúc nhất thời, bàn nào cũng ghé tai thì thầm về hai mươi bốn chiếc ngự bôi.
Bỗng thấy người tùy tùng đứng bên Phúc Khang An vỗ tay ba cái, cất tiếng hô:
– Xin các vị hãy yên lặng. Phúc đại soái còn có lời muốn nói.
Những tiếng bàn tán ồn ào dần dần yên lại, vì quần hùng trước nay không chịu bó buộc như trong quân ngũ, hễ lệnh ban ra là mọi nguời phải tuân theo. Mãi một lúc sau mới hoàn toàn yên lặng.
Phúc Khang An tuyên bố:
– Xin các vị hãy uống mấy chung rượu nữa. Khi nào cơm no rượu say rồi sẽ phô trương tuyệt nghệ. Còn phương pháp tỷ thí xin các vị hãy nghe An đề đốc trình bày.
An đề đốc đứng bên cạnh Phúc Khang An là một vị tướng quân người Mãn Châu, lưng thô mình lớn, tướng mạo uy võ, cất tiếng:
– Xin các vị hãy cứ ăn uống cho thỏa thích. Yến tiệc xong, tại hạ sẽ giải thích. Nào! Xin kính các vị một chung.
Hắn rót đầy một chung rượu lớn, rồi nâng lên uống một hơi cạn sạch.
Quần hào nguyên là những tay tửu lượng rất cao, nhưng cứ nghĩ rằng sau bữa tiệc sẽ diễn ra một trường kịch đấu nên chẳng ai dám uống nhiều. Trừ một số ít cao thủ quyết định không ra tay tranh đoạt ngự bôi, còn toàn những người đưa chung lên miệng rồi lại đặt xuống.
Bữa tiệc ở Phúc phủ cực kỳ thịnh soạn, nhưng quần hào lòng đầy toan tính, chẳng ai còn lòng dạ nào để thưởng thức những món sơn hào hải vị mà chỉ chờ cơ hội động thủ. Có điều trước khi tỷ đấu cần phải ăn no, nên bao nhiêu võ sư trong đại sảnh mười phần có đến tám chín đều no cơm mà không say rượu.
Bữa tiệc kết thúc, An đề đốc kia vỗ tay ba cái. Những kẻ bộc dịch trong phủ khiêng tám cái ghế Thái sư bày ra chính giữa đại sảnh. Đông sảnh và Tây sảnh cũng đặt tám cái. Nhưng tám cái ghế trong đại sảnh đều trải đoạn thêu chỉ hồng, ghế ở đông sảnh thì đặt đệm bằng đoạn màu lục, ghế ở tây sảnh thì đặt đệm bằng đoạn màu trắng.
Ba tên vệ sĩ bưng những chiếc Ngọc Long bôi, Kim Phụng bôi và Ngân Lý bôi chia ra đặt trên ba cái kỷ trà ở đại sảnh, đông sảnh và tây sảnh.
An đề đốc thấy mọi việc đã bố trí xong xuôi liền dõng dạc hô:
– Chúng ta bữa nay “dĩ võ hội hữu”, cứ điểm tới là thôi, đừng ai oán thù gì nhau, hay hơn hết là đừng để chuyện chảy máu chết người. Có điều là trong lúc động thủ ra chiêu, thì đao thương không có mắt, khó mà tránh cho khỏi lỡ tay. Phúc đại soái đã truyền dạy, kẻ nào bị thương nhẹ sẽ được tặng năm chục lạng bạc để làm tiền thuốc thang. Bị trọng thương thì được ba trăm lạng. Bất hạnh hơn nếu táng mạng, Phúc đại soái gia ơn tặng món tiền phủ tuất một ngàn lạng. Ai lỡ tay đã thương người thì không bị trách phạt.
Quần hào nghe nói đều lạnh người, nghĩ thầm:
– Rõ ràng đây là cuộc đấu trí mạng, chứ còn gì nữa?
An đề đốc ngừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Cuộc tỷ võ sắp bắt đầu. Mời bốn vị đại chưởng môn an tọa.
Bốn tên vệ sĩ dẫn Đại Trí thiền sư, Vô Thanh Tử, Thang Bái và Hải Lan Bật vào ngồi trên bốn ghế Thái sư đặt ở đại sảnh chính giữa. Trong tám ghế, đã có bốn người ngồi, còn bỏ trống mỗi bên hai ghế.
An đề đốc lại mỉm cười nói:
– Bây giờ xin các vị chưởng môn và cao thủ các gia các phái phô trương tuyệt nghệ trước mặt Phúc đại soái. Hãy tự lượng tư cách mình có thể lãnh Ngân Lý bôi thì xin qua ngồi bên tây sảnh. Còn ai có hy vọng lãnh Kim Phụng bôi thì xin sang ngồi phía đông sảnh. Nếu ai tự tin tài nghệ mình áp đảo được đương trường sánh ngang vai với bốn vị đại chưởng môn thì xin mời đến ngồi ở chính giữa tòa đại sảnh. Sau khi hai mươi bốn vị chưởng môn đã nhập tọa rồi, vị nào không phục thì tùy theo sức mình mà khiêu chiến với từng hạng. Người thua phải rút lui cáo thoái, nhường chỗ cho người thắng, bao giờ hết người khiêu chiến mới thôi. Các vị thử nghĩ xem biện pháp này có thích hợp chăng?
Mọi người nghĩ bụng:
– Vụ này có khác gì cuộc đả lôi đài?
Tuy quần hào biết rằng diễn ra cuộc hỗn chiến thì số người thương vong không phải là ít nhưng kẻ mạnh sẽ thắng, điều đó rất công bình. Số đông võ sư đều lớn tiếng đồng ý và không có ai dị nghị.
Phúc Khang An ngồi trên một cái ghế lớn ở đầu mé tả. Hai bên có mười tám tên vệ sĩ cao thủ. Chu Thiết Tiêu và Vương Kiếm Anh cũng ở trong đám này. Cuộc hộ vệ nghiêm mật vì sợ trong đám võ sư rắn, rồng lẫn lộn, có trà trộn thích khách.
Trình Linh Tố khẽ huých khuỷu tay Hồ Phỉ và đưa môi ra phía trước. Hồ Phỉ nhìn theo ánh mắt cô thấy trong góc nhà đầy vệ sĩ sắp hàng và tay cầm binh khí. Cuộc phòng vệ trong phủ Phúc Khang An bữa này còn nghiêm mật hơn cả nội viện ở Hoàng cung. Xung quanh phủ đệ cũng đầy những vệ sĩ tinh nhuệ.
Hồ Phỉ tự nhủ:
– Bữa nay mình tìm được tông tích của tên ác tặc Phụng Thiên Nam là mãn nguyện rồi, nhưng không thể để lộ hành tích, nếu không thì khó lòng bảo toàn được tính mạng. Nếu mình giúp cho Hoa Quyền môn đoạt được một chiếc Ngân lý bôi cũng là tỏ lòng với Cơ huynh. Có điều ta càng chậm xuất thủ càng hay để mọi người khỏi chú ý.
Chàng có biết đâu mình tính vậy thì những người kia cũng cùng một chủ ý, chỉ khác ở chỗ một đằng sợ lộ chân tướng, còn một đằng mong người khác chiến đấu đến sức cùng lực kiệt rồi mình ra tay sau cùng để thủ lợi. Vì thế An đề đốc hô luôn mấy câu “mời các vị vào ngồi!” mà vẫn chẳng thấy một ai lên chiếm hai mươi chiếc ghế bỏ trống, chẳng ai tiến lên ngồi.
Ngạn ngữ đã có câu “Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”. Đã là văn nhân thì không ai dám tự hào văn chương mình đứng đầu thiên hạ, nhưng các võ sĩ, trừ những tay cao thủ dày công tu dưỡng, chẳng một ai cam chịu kém người, huống chi những người dự cuộc đại hội này đều là những người đứng đầu môn phái, xưa nay vẫn luôn quen thói tự cao tự đại. Ngay cả những người coi nhẹ chữ danh nhưng đã chấp chưởng một môn phái thì quyết không để uy danh phải tiêu tan. Nếu lỡ thua trong đại hội này thì các đệ tử của bản môn đi lại trong chốn giang hồ không dám ngẩng đầu lên, mà bản thân mình về lại bản môn cũng chẳng còn mặt mũi mà nhìn người khác.
Ai cũng nghĩ bụng:
– Nếu mình không ra tay, rồi đây còn có cớ biện minh. Bằng đã động thủ rồi thì phải đoạt Ngọc Long bôi, chứ lấy chiếc Kim Phụng bôi hay Ngân Lý bôi thì có chi đáng kể?
Vì thế các võ sư đều chăm chú nhìn vào bốn cái ghế Thái sư còn trống ở nhà đại sảnh chính giữa, chẳng ai để ý tới những chiếc Kim Phụng bôi và Ngân Lý bôi.
An đề đốc thấy tình thế căng trì còn kéo dài liền cười gằn một tiếng rồi nói:
– Các vị đều khiêm tốn hay là chờ người khác mỏi mệt rồi mới ra tay để chiếm phần tiện nghi? Như vậy tưởng không hợp với thân phận của các bậc đại sư võ học.
Hắn nói mấy câu này tựa hồ bỡn cợt, mà thực ra đã đánh vào tâm lý mọi người để khích tướng. Quả nhiên hắn vừa dứt lời, trong đám đông liền có hai người bước ra ngồi vào hai ghế bỏ trống. Một đại hán thân hình cao lớn như hộ pháp chẳng nói năng gì ngồi xuống ghế thái sư bằng gỗ tử đàn làm bật lên tiếng lách cách.
Còn người nữa thân hình tầm thước, dưới cằm có bộ râu vàng, cười hỏi:
– Lão huynh! Anh em mình bất quá chỉ liệng gạch ra để dụ kim ngọc, làm cái bung xung cho những lão võ sư và các đại cao thủ, chẳng lẽ lại hy vọng ôm Ngọc Long bôi đem về nhà được ư? Lão huynh đừng làm gãy ghế, nên lưu lại cho người khác ngồi.
Hắc đại hán kia “hừ” một tiếng, có vẻ không vừa lòng về câu nói đùa hán tử râu vàng.
Một tên võ quan đầu đội mũ tứ phẩm tiến ra, trỏ vào Hắc đại hán dõng dạc giới thiệu:
– Vị này là Hoàng Hy Tiết lão sư, chưởng môn Nhị Lang quyền.
Lại trỏ hán tử râu vàng nói:
– Vị này là Âu Dương Công Chính lão sư, chưởng môn Yến Thanh quyền.
Hồ Phỉ lại nghe lão già bàn bên cạnh nói:
– Hay quá! “Thiên Lý Độc Hành Hiệp Âu Dương Công Chính” mà cũng muốn đoạt Ngọc Long bôi.
Hồ Phỉ lòng hơi chấn động. Nguyên Âu Dương Công Chính lấy ngoại hiệu là “Thiên lý độc hành hiệp”, nhưng thực ra hắn vốn là một tên “Độc cước đại đạo”, chỉ có tiếng hiệp đạo suông mà sự thực không phải. Dù hắn có tên tuổi trong vô lâm, song thanh danh cũng chẳng tốt đẹp gì. Hồ Phỉ đã từng nghe qua tên của hắn.
Tiếp theo hai người, một đạo nhân tiến lên. Lão là Tây Linh Đạo nhân chưởng môn phái Côn Luân đao. Mặt lão tươi cười. Bên mình không đeo binh khí, dường như lão đã nắm chắc phần thắng.
Mọi người lấy làm lạ tự hỏi:
– Đạo sĩ này là chưởng môn phái Côn Luân đao mà sao không mang đơn đao?
Quần hùng chăm chăm nhìn vào một chiếc ghế nữa ở sảnh đường chính bỏ trống không biết ai sẽ là người bước ra để lên ngồi.
An đề đốc hỏi:
– Còn một chiếc Ngọc bôi, không có ai muốn lãnh ư?
Bỗng nghe trong đám đông có tiếng người hô:
– Hay lắm! Để đấy cho con ma men ta đựng rượu uống!
Một hán tử cao gầy loạng choạng bước ra, một tay cầm bầu rượu, tay kia cầm chung đi tới giữa khách sảnh, đột nhiên xoay mình trượt chân té ngã về phía sau, rơi đúng vào cái ghế trống. Thân pháp rất nhẹ nhàng, đúng là một tay võ công rất cao thâm.
Trong đại sảnh không ít người có kiến văn quảng bác, có người cất tiếng hô:
– Chiêu “Trương Quả Lão đảo kỵ lư suất tại cao kiều thượng” thật hay quá!
Nguyên người này là Thiên bôi cư sĩ Văn Túy ông, chưởng môn phái Túy Bát Tiên. Có điều nhìn gã áo quần lam lũ, lại sặc sụa hơi men nên khiến người ta khó lòng đoán được trình độ gã cao thâm đến đâu.
An đề đốc nói lớn:
– Bốn vị lão sư đây đều là những bậc kiến thức và đởm lược hơn người, đức cao vọng trọng. Nếu vị lão sư nào tự tin bản lãnh cao hơn bất cứ ai trong bốn vị này thì xin ra khiêu chiến. Bằng không còn ai khiêu chiến thì Nhị Lang quyền, Yến Thanh quyền, Côn Luân đao và Túy Bát Tiên được dự vào hàng “Ngọc Long bát môn”.
Bỗng thấy người ở mé đông bước ra nói:
– Tiểu nhân là Chu Long muốn gặp Thiên lý độc hành Âu Dương lão sư một trận.
Người này khắp mình cơ bắp nổi lên cuồn cuộn, thân hình thấp lùn mà kiêu dũng, dáng vẻ như con bò mộng. Hồ Phỉ không quen biết những nhân vật võ lâm này, nên hoàn toàn phải dựa vào những lời giải thích của lão già bên cạnh. May ở chỗ lão biết nhiều hiểu rộng, mà lão biết điều gì là nói ra ngay.
Bỗng nghe lão nói:
– Chu lão sư đây là chường môn Kim Cương quyền, mà lại là Tổng tiêu đầu Hưng Long tiêu cục ở Phủ Đại Đồng tỉnh Sơn Tây. Nghe nói Âu Dương Công Chính cướp tiêu của y, thành ra hai bên có chuyện xích mích. Lão phu xem chừng Chu lão sư ra tay lần này chủ ý không phải vì chiếc ngọc long bôi.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Những mối ân oán trong võ lâm cực kỳ phức tạp. Chẳng hạn như mình đây đến tham dự đại hội chỉ vì tên ác tặc Phụng Thiên Nam, thì giữa các môn phái kết thành cừu hận chồng chất với nhau đã mấy trăm năm cũng không phải ít. Không lẽ chỉ trong một ngày đại hội hôm này mà giải quyết hết được ư?
Nghĩ tới đây chàng không khỏi liếc mắt nhìn Phụng Thiên Nam, thấy tay hắn không ngớt chuyển động trái thiết đảm, còn thần sắc tỏ ra rất bình tĩnh.
Hồ Phỉ đại náo Phúc phủ hai đêm liền, Phụng Thiên Nam mười phần chắc chín chàng đã trốn khỏi Bắc Kinh mà cao chạy xa bay. Hắn có ngờ đâu chàng là người anh hùng gan dạ vẫn trà trộn trong cuộc đại hội chưởng môn, là nơi đầm rồng hang cọp?
Chu Long ra khiêu chiến, Âu Dương Công Chính cười hề hề, bước ra khỏi ghế hỏi:
– Chu tổng tiêu đầu, gần đây làm ăn phát tài, buôn bán thịnh vượng chứ?
Năm trước Chu Long bảo vệ món tiêu ngân trên năm vạn lạng bạc bị lão cướp mất, phải bồi thường đến khuynh gia bại sản. Tiền của gom góp mấy chục năm hết sạch trong một sớm một chiều thì trách sao gã chẳng căm hận thấu xương? Gã không nói không rằng ra ngay chiêu “Song phách song tràng” đánh liền. Âu Dương Công Chính đáp lại bằng chiêu “Thoát ngoa chuyện thản” trong Yến Thanh quyền. Hai người mở đầu trận kịch đấu. Chu Long hơn về sức mạnh, chiêu thức trầm trọng, hạ bàn vững chãi, còn Âu Dương Công Chính sở trường về quyền chiêu linh động, thân pháp nhẹ nhàng.
Chu Long chuyên khổ luyện ngoại công, thấy địch nhân vung chiêu đá tới cũng không né tránh. Đầu vai và trước ngực gã liên tiếp trúng ba quyền. Gã đằng hắng một tiếng, đột nhiên vung quyền đánh vụt ra. Đó là chiêu “Nghinh phong đả” trong Kim Cương quyền. Âu Dương Công Chính bật cười né tránh, đồng thời phóng cước đá vào đùi đối phương. Chu Long sử thân pháp “Sang bối đại tam phách” lăn mình dưới đất rồi lại đứng lên.
Hai người qua lại bốn năm chục chiêu, Chu Long đã bị trúng hơn chục chiêu quyền cước. Bây giờ gã không kịp đề phòng, mũi trúng tiếp một quyền, máu tươi đỏ ròng ròng ướt cả vạt áo.
Âu Dương Công Chính cười nói:
– Chu lão sư! Bất quá ta chỉ cướp tiêu ngân của lào sư chứ không đoạt vợ. Ta tưởng trừ mối thù giết cha cướp vợ ra thì mọi chuyện khác đều là thường không đáng kể.
Chu Long chẳng nói nửa lời nhảy xổ lại đánh nữa. Âu Dương Công Chính nhờ khinh công trác tuyệt, liền nghiêng người né tránh. Miệng lão không ngớt thốt ra những lời khinh bạc, cố ý chọc giận đối phương.
Cuộc chiến đang hăng, Chu Long lại bị trúng một cước vào giữa bụng. Tay trái hắn ôm bụng, vẻ mặt cực kỳ đau đớn. Đột nhiên tay mặt hắn ra chiêu “Kim câu quải ngọc” tiến thêm một bước phóng đòn “Một già la” đánh trúng ngực địch nhân một cú như chùy giáng. Bỗng nghe một tiếng rắc vang lên Âu Dương Công Chính bị gãy mấy rẽ xương sườn. Người lão lảo đảo, miệng phun máu tươi.
Lão biết Chu Long căm hận thấu xương, bây giờ thắng được một chiêu, tất hạ độc thủ nữa mà lúc này lão không còn sức kháng cự. Lão đành gắng gượng nhịn đau lạng người lùi lại, nhăn nhó cười gượng nói:
– Lão sư thắng rồi…
Chu Long muốn tiến đánh nữa, nhưng Thang Bái lên tiếng:
– Chu lão sư! Phân thắng bại rồi, không được động thủ nữa. Mời lão sư ngồi đây.
Chu Long nghe Thang Bái tuyên bố, không dám phản kháng, liền chắp tay đáp:
– Tiểu nhân không dám tranh đoạt Ngọc Long bôi!
Rồi hắn trở về chỗ ngồi. Phần đông bọn võ sư đều không thích tư cách của Âu Dương Công Chính nên khi thấy Chu Long khổ chiến thắng trận, liền tới tấp đến hỏi han.
Âu Dương Công Chính đầy vẻ thẹn thùng mà không dám bỏ về. Lão tự biết mình rất nhiều cừu nhân mà lúc này lão đang bị trọng thương, nếu ra khỏi Phúc phủ là lập tức bị người theo sau hạ thủ, trong đó Chu Long là người bám theo trước tiên. Lão liền lấy thuốc trị thương hòa với rượu uống, gắng gượng nhịn đau ngồi không nhúc nhích. Đối với những lời châm chọc của khách bàng quan, lão lờ đi như không nghe thấy.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Chu Long coi bộ lù đù mà thật ra rất thông minh, xét về bản lĩnh thì gã quyết chẳng thể đoạt được Ngọc Long bôi. Gã chiến thắng rồi rút lui ngay để bảo toàn danh dự. Kim Cương quyền tuy không được liệt vào hàng “Ngọc Long bát môn”, nhưng trên chốn giang hồ chẳng ai dám coi thường.
Thang Bái cất tiếng hỏi:
– Chu lão sư chí không ở chén ngọc, vậy mời vị lão sư nào lên đây ngồi.
Chiếc ghế trống này không đánh mà được đỡ phải tốn một phen khí lực. Có hai hán tử muốn chiếm tiện nghi bèn từ hai bên tả hữu chạy xông tới. Khoảng cách của hai gã đến ghế Thái Sư đều tương tự nhau, ai nhanh chân là được. Không ngờ cả hai người đều hấp tấp chạy đến trước ghế, hai vai đụng nhau mỗi người lùi lại hai bước. Giữa lúc ấy nghe vù một tiếng, một người trong đám đông bước ra, vung giang hai tay nhảy vọt tới như con chim khổng lồ, rồi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế. Y vọt ra sau mà đến trước hai hán tử kia. Khinh công quả nhiên tuyệt diệu. Mọi người cất tiếng reo hò như sấm.
Hai hán tử vừa đụng nhau, thấy có người đoạt mất ghế liền ngửa mặt lên nhìn, đều bật tiếng la:
– Ủa! Lão đấy ư?
Hai người không hẹn mà cùng xông tới đánh. Người ngồi trên ghế không đứng dậy, vung chân trái đá “binh” một cái khiến hán tử bên trái lăn long lóc. Lão vươn tay phải ra chụp cổ áo hán tử bên phải xoay một vòng rồi ném ra. Người lão vẫn ngồi yên trên ghế mà thuận tay hạ luôn hai địch nhân.
Quần hào đều kinh hãi lẩm bẩm:
– Bản lãnh người này quả nhiên lợi hại.
An đề đốc không hiểu tên họ, liền tiến lại hỏi:
– Tôn tính đại danh các hạ là gì, làm chưởng môn nhân của phái nào?
Người kia chưa kịp trả lời đã thấy hai hán tử vừa rồi lồm cồm đứng dậy miệng rống be be, buông lời thóa mạ rồi vung quyền đánh tới. Theo những lời quát tháo, thóa mạ của hai hán tử thì dường như người kia chỉ muốn trêu cợt hai gã thôi, mà đã đủ khiến chúng nếm mùi đau khổ.
Người này dùng cách tá lực dẫn lực, tay trái vung chưởng đấm vào lưng hán tử bên trái, chân phải vung ra đá “bốp” một cái vào đít hán tứ trước mặt. Hai gã không tự chủ được bèn chúi người về phía trước. May mà chúng biến thế mau lẹ, không chờ đụng đầu vào nhau đã vội giơ hai tay đón đỡ, nhưng thế đẩy mạnh quá, cả hai không đứng vững đều ngã lăn ra.
Hán tử bên trái la lên:
– Tề lão nhị! Món nợ này giữa chúng ta ngày sau sẽ tính. Bữa nay hãy chung lưng giải quyết tên kia rồi sẽ liệu.
Hán tử bên phải đáp:
– Phải lắm!
Chúng nhảy vọt lên, rút thanh chủy thủ ở bên hông ra.
Hồ Phỉ lại nghe lão già bên cạnh lẩm bẩm một mình:
– Phiên Giang Kiêu ở Áp Hình môn chết đi để lại hai gã đệ tử chẳng ra gì.
Rồi lão buông tiếng thở dài không nói thêm gì nữa. Hồ Phỉ thấy hai gã hán tử thân pháp cổ quái bất giác động tính hiếu kỳ, liền chấp tay hỏi:
– Xin hỏi tiền bối, hai vị đó ở Áp Hình môn ư?
Lão già cười hỏi lại:
– Sắc mặt các hạ sao có vẻ căng thẳng quá. Xin hỏi tôn tính đại danh?
Hồ Phỉ chưa kịp đáp thì Thái Uy đã đứng dậy nói:
– Để tại hạ giới thiệu hai vị. Vị này là chưởng môn mới nhậm chức ở tệ môn, húy danh là Trình Linh Hồ lão sư. Vị này là Quách Ngọc Đường lão sư, chưởng môn Tiên Thiên quyền. Xin hai vị làm quen nhau đi.
Quách Ngọc Đường đã quen Thái Uy. Lão biết là ở Hoa Quyền môn không hiếm nhân tải, Hoa Quyền môn là một đại môn phái ở Bắc phương về quyền thuật, nên lão nảy lòng cung kính Hồ Phỉ. Lão vội đứng dậy mời ngồi, miệng nói:
– Trình lão sư! Bàn của tại hạ chỉ có bốn người, xin mời các vị qua bên này ngồi được chăng?
Hồ Phỉ đáp:
– Hay lắm!
Chàng chắp tay xin lỗi chưởng môn giống như con khỉ của Đại Thánh môn, rồi cùng Trình Linh Tố, Cơ Hiểu Phong và Thái Uy cầm chung rượu, đưa chén sang ngồi cùng bàn với Quách Ngọc Đường.
Lai lịch Tiên Thiên quyền rất lâu đời. Phái này sáng lập từ thời nhà Đường, nhưng các vị quyền sư bao nhiêu đời truyền thụ võ thuật đều lưu lại chiêu số. Trải hơn ngàn năm không nẩy ra bậc anh tài bạt tụy, vì thế mà đến đời nhà Thanh đi dần vào chỗ suy vi.
Quách Ngọc Đường tự biết bản lãnh mình không đủ tranh thắng với những cao thủ danh gia của các môn phái khác, mà lão cũng không có ý tranh đoạt ngự bôi, nên cứ ung dung bình thản ngồi một bên uống rượu, xem cuộc tỷ đấu. Lúc này Hồ Phỉ hỏi tới, lão đáp:
– Áp Hình Quyền bộ dạng coi không đẹp mắt, nhưng mã bộ thấp vững, công phu trên mặt nước lại càng tuyệt diệu. Ngày trước Phiên Giang Phù còn tại thế đã xưng bá cả một vùng Hà Sóc. Lão chết rồi để lại hai tên đại đệ tử. Gã cầm chủy thủ tên gọi Tề Bá Đào. Gã cầm phá giáp chùy tên gọi Trần Cao Ba. Hai gã tranh nhau chức chưởng môn đã mười năm nay, chẳng ai chịu ai. Lần này Phúc đại soái mời chưởng môn các phái đến phó hội, hừ, thật đẹp mặt hai anh em tên mặt dày cùng tới cả!
Bỗng thấy Tề Bá Đào và Trần Cao Ba đều cầm khí giới ngắn chia thành hai mũi giáp công. Người kia ngồi trên ghế vẫn không đứng dậy, cất tiếng thóa mạ:
– Lũ vô dụng kia! Ở Lan Châu ta đã nói những gì? Ta đã bảo các ngươi đừng có đến Bắc Kinh, vậy mà sao các ngươi vẫn vác mặt tới?
Mọi người thấy lão đầu nhọn, gò má nhỏ cao, tay cầm cái điếu nhỏ rít thuốc sòng sọc, trên môi để hai chóp râu chuột màu vàng, ước chừng ngoài năm chục tuổi.
An đề đốc hỏi tên họ cùng môn phái mấy lần, lão vẫn chẳng lý gì đến. Hồ Phỉ thấy chân tay lão rất dài, tùy tiện đánh bên này đá bên kia, hóa giải dễ dàng những chiêu số của hai gã Tề, Trần. Bản lãnh lão dường như không cao thâm lắm, có điều chiêu thức cực kỳ quái đị. Hồ Phỉ liền hỏi Quách Ngọc Đường:
– Quách lão sư! Vị tiền bối này là ai?
Quách Ngọc Đường chau mày ấp úng:
– Cái đó… cái đó…
Có lẽ lão không biết nên không khỏi lộ vẻ bẽn lẽn. Người khác xấu hổ vì võ công không bằng người, còn lão lại xấu hổ vì không biết lai lịch của người ta.
Bỗng nghe lão kia ngồi hút thuốc, cất tiếng thóa mạ:
– Quân hạ lưu tiểu tử kia! Nếu ta không nể mặt người anh em đã quá cố Phiên Giang Phù, thì đã chẳng thèm đếm xỉa gì đến các ngươi. Phiên Giang Phù một đời nổi tiếng anh hùng mà đồ đệ lại ham chỗ nước đục này. Các ngươi có về hay không?
Trần Cao Bá phóng chùy đâm tới, quát lên:
– Sư phụ ta làm gì có hạng bằng hữu thối tha như lão? Ta làm môn hạ sư phụ đã năm sáu năm, chưa từng thấy lão khốn kiếp ngươi lần nào.
Lão già lại quát mắng:
– Phiên Giang Phù là bạn vọc bùn, bắt sâu với ta từ thuở nhỏ, ranh con như ngươi biết gì mà dám nói?
Đột nhiên lão vung tay trái đánh gã một bạt tai.
Lúc này Tề Bá Đào tấn công bên phải, lão già lại vung chân đá trúng mặt gã, quát mắng:
– Sư phụ mi chết rồi, ta phải thay y giáo huấn bọn ngươi mới được.
Quần hùng trong đại sảnh thấy ba người tỷ đấu một cách hoạt kê đều không khỏi phì cười. Nhưng Tề Bá Đào và Trần Cao Ba bản tính ngu độn, ai cũng thấy chúng không phải là đối thủ của lão già mà chúng vẫn giằng co hoài.
Lão già lại nói:
– Phúc đại soái kêu bọn ngươi đến, chẳng lẽ là vì hảo tâm ư? Y muốn khiêu khích cho bọn ngươi tàn sát lẫn nhau vì mấy cái chung rượu nhỏ không đủ để đựng nước tiểu, vậy mà cứ hùng hục đánh nhau kẻ sống người chết!
Lão nói câu này hiển nhiên để giáo huấn hai gã Tề, Trần nhưng thanh âm vang dội khiến những người trong đại sảnh ai cũng nghe rõ.
Hồ Phỉ thầm gật đầu, nghĩ bụng:
– Vị tiền bối này quả là người có kiến thức, xem ra lão phải lớn mật lắm mới dám nói vậy.
Quả nhiên An đề đốc nghe lão nói mấy câu không nhịn được, liền quát hỏi:
– Ngươi là ai mà dám đến đây hồ ngôn loạn ngữ để phá quấy?
Đó là hắn còn nể mặt quần hùng, coi lão là một tân khách được mời đến, không thì đã đánh lão một cái bạt tai rồi.
Lão già nhếch miệng cười, hỏi:
– Lão phu giáo huấn hai tên hậu bối, có liên can gì đến đại quan?
Lão vung cái tẩu hút thuốc bật ra hai tiếng choang choang đánh rớt thanh chủy thủ và cây phá giáp chùy trong tay hai gã Tề, Trần. Lão lại cài cái tẩu vào thắt lưng, tay mặt kéo tai trái của Tề Bá Đào, tay trái kéo tai mặt của Trần Cao Ba lôi đi.
Điều lạ là hai gã lại riu ríu tuân theo một phép không dám nói gì, chỉ mím môi, nhắm mắt chịu đau, vẻ mặt trông rất tức cười. Nguyên lão già kia đã dùng ngón cái và ngón trỏ nắm trái tai, còn ba ngón chĩa ra điểm vào hai huyệt “Cường giang” và “Phong phủ”, khiến chân tay chúng mềm nhũn không thể kháng cự được nữa.
Hồ Phỉ định bụng:
– Vị tiền bối này trông rõ sự việc, võ công lại cao cường. Mai sau gặp nhau trên chốn giang hồ, ta phải kết giao với lão mới được. Hai gã Tề, Trần mà được lão dạy dỗ trong mười năm, tương lai cũng không đến nỗi vô dụng như bây giờ.
An đề đốc thóa mạ:
– Quân đá cá lăn đưa đến phủ đại soái gây rối, chắc là hắn không muốn sống nữa…
Đột nhiên nghe đánh “bốp” một tiếng, một miếng thịt từ trong đám đông bay ra tống vào miệng hắn. Hắn khiếp sợ nuốt ực vào bụng, trợn mắt há miệng ngẩn cả người ra, không nói được nữa. Tuy rằng lưỡi hắn đã chạm vào mà không rõ mình vừa nuốt vật gì, cùng chẳng hiểu vật đó có chất độc không. Không ai hiểu miếng thịt đó do nhân vật nào ném ra. Việc này ai cũng thấy rõ An đề đốc há hốc miệng lộ vẻ kinh hoàng, rồi không dám thóa mạ nữa.
Thang Bái ngồi sau lưng An đề đốc nên cũng không nhìn thấy miếng thịt bay vào miệng hắn. Lão nói:
– Trên giang hồ chẳng thiếu gì kẻ sĩ ẩn dật chốn sơn lâm. Điều đó cũng chẳng có chi là lạ. Vị tiền bối này khí phách thanh cao, không muốn đi vào hàng ngũ phàm tục như chúng ta, thôi thì cũng được. Cỗ ghế còn bỏ trống này có vị lão sư nào khác muốn ngồi vào chăng?
Trong đám đông có người hô:
– Để đấy cho tại hạ!
Quần hào chỉ nghe tiếng chứ không thấy người. Sau một lúc, một người lùn từ giữa đám đông đi ra. Người này cao không tới ba thước, mặt đầy râu đâm tua tủa, tướng mạo cực kỳ hung dữ. Bọn võ sư trẻ tuổi thấy hắn lùn tịt, thân hình cổ quái, không nhịn được phải bật cười. Người lùn quay lại trợn mắt lên nhìn, nhãn quang của hắn lấp loáng trông rất oai nghiêm, mọi người không dám cười nữa.
Gã lùn đi đến trước mặt chưởng môn Nhị Lang Quyền là Hoàng Hy Tiết, ngắm nghía lão từ đầu xuống chân. Hoàng Ty Tiết ngồi sừng sững trên ghế như một tòa tháp sắt. Lão ngồi mà so với gã lùn đứng vẫn còn cao hơn nửa cái đầu. Gã lùn ngắm đối phương từ trên xuống dưới, rồi lại từ đưới lên trên, nhưng không nói gì.
Hoàng Hy Tiết hỏi:
– Nhìn gì vậy? Muốn tỷ thí với ta chăng?
Gã lùn ““hừ” một tiếng, rồi đi quanh ra sau lưng dãy ghế để ngắm gáy lão họ Hoàng. Hoàng Hy Tiết sợ gã lùn ám toán thình lình liền quay đầu lại. Gã lùn lại quanh ra phía trước và vẫn ngoẹo đầu ngoẹo cổ nhìn không chớp mắt.
Vị võ quan tứ phẩm lên tiếng:
– Vị này là Tôn Hùng lão sư, chưởng môn Địa Đường quyền ở Thiểm Tây!
Hoàng Hy Tiết bị lão dòm ngó hoài, tức mình đứng phắt dậy hỏi:
– Tôn lão sư! Tại hạ muốn lãnh giáo mấy tuyệt chiêu Địa Đường quyền của lão sư.
Ngờ đâu Tôn Hùng dí hai chân xuống, tung mình lên ngồi vào cái ghế bỏ trống bên cạnh.
Hoàng Hy Tiết cười ha hả nói:
– Lão sư không muốn quá chiêu với tại hạ càng hay.
Rồi lão lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôn Hùng lại nhảy vọt ra khỏi ghế, đến trước Hoàng Hy Tiết ngoẹo cái đầu như trái dưa nhòm vào mặt Hoàng Hy Tiết, hết đứng bên trái lại chuyển bên phải.
Hoàng Ty Tiết tức giận hỏi:
– Ngươi nhìn gì vậy?
Tôn Hùng hỏi lại:
– Vừa rồi lúc uống rượu sao ngươi ngó ta một cái rồi nổi lên cười? Phải chăng lão cười ta thân hình bé nhỏ thấp lùn?
Hoàng Hy Tiết vừa cười vừa hỏi lại:
– Thân hình ngươi thấp lùn bé nhỏ thì có can hệ gì đến ta?
Tôn Hùng cả giận quát:
– Ngươi lại muốn chiếm phần tiện nghi của ta rồi!
Hoàng Hy Tiết ngạc nhiên hỏi:
– Ô hay! Ta làm gì mà chiếm phần tiện nghi của ngươi?
Tôn Hùng đáp:
– Ngươi bảo ta thân hình bé nhỏ thấp lùn không liên can gì đến ngươi ư? Ha ha! Trời sinh ra lão gia thấp lùn bé nhỏ thì chỉ có liên can đến cha của lão gia thôi, ngươi muốn làm cha của lão gia ư? Ngươi có phải là cha của lão gia đâu mà rắc rối?
Câu này vừa nói ra, lập tức cả đại sảnh phá lên cười rộ. Phúc Khang An đang uống một ngụm nước trà không nhịn được cười làm phun cả nước ra.
Trình Linh Tố phục xuống bàn ôm bụng mà cười nắc nẻ. Hồ Phỉ sợ cười lớn khiến hàm râu giả rơi ra nên phải ráng nhịn.
Hoàng Hy Tiết cười đáp:
– Không dám! Không dám! Con lão phu so với Tôn lão sư còn tuấn tú hơn nhiều.
Tôn Hùng không nói không rằng, vung quyền đánh vào bụng dưới Hoàng Hy Tiết. Hoàng Hy Tiết đã đề phòng trước, tuy người lão to lớn mà hành động lại mau lẹ phi thường. Lão nhảy vọt sang một bên để tránh.
Nghe “rắc” một tiếng, thoi quyền của Tôn Hùng đánh xuống làm chiếc ghế bằng gỗ tử đàn gãy thành từng mảnh vụn. Thoi quyền đánh ra rồi, tiếng cười trong đại sảnh lập tức ngưng bặt. Mọi người thấy lão tuy hình thù xấu xí, ăn nói tức cười nhưng thần lực kinh người, không ai dám coi thường lão nữa.
Tôn Hùng giáng thoi quyền không trúng đối phương, liền xoay người về phía sau phóng chân đá Hoàng Hy Tiết. Hoàng Hy Tiết co chân trái đứng thành thế “Anh hùng độc lập”, trả lại một chiêu “Đả bát thức đóa tử cước”. Tôn Hùng lăn mình tới sử dụng “Địa đường quyền”, quyền cước nhất tề phóng ra, đánh vào hạ bàn đối phương.
Hoàng Hy Tiết sử mấy chiêu “Tảo đường thối”, “Thoái độ khóa hổ thế”, “Khiêu tiễn bộ”, gồm cả thế công lẫn thế thủ. Nhưng Nhị Lang quyền của lão sở trường về quyền chứ không phải về cước pháp. Nếu đấu quyền với người thường, lão sử những tuyệt kỹ “Nhị Lang đảm sơn quyền”, “Cái mã tam quyền” thì quyền nhanh mà lực mạnh, địch nhân khó lòng chống trả nổi. Còn về cước pháp, lão cũng luyện những công phu “Oa tâm thối”, “Liêu âm thối”, chỉ dùng để đá vào thượng bàn hoặc trung bàn của đối phương. Hiện giờ gặp phải Tôn Hùng cứ lăn qua lăn lại dưới đất thành ra bao nhiêu công phu rèn luyện suốt bao nhiêu năm đều biến thành vô dụng. Chẳng những quyền chưởng không đánh tới mà chân đá cũng không có chỗ thi thố. Lão chỉ còn cách nhảy nhót để né tránh. Chẳng mấy chốc lão bị Tôn Hùng liên tiếp đá trúng mấy cước vào khuỷu chân. Lão vừa đau vừa tê chồn thì hai chân Tôn Hùng đã xoắn lại, khiến lão đứng không vững, té nhào xuống đất.
Tôn Hùng tung mình nhảy tới. Ngờ dâu Hoàng Hy Tiết ngã lăn ra rồi vẫn còn phóng được quyền ra đánh trúng vào vai đối phương, hất Tôn Hùng văng ra xa hơn một trượng. Tôn Hùng lại lăn người tới tấn công. Hoàng Hy Tiết quỳ chân dưới đất, tả chưởng hữu quyền đồng thời đánh ra, khiến Tôn Hùng phải nghiêng mình lăn đi để tránh. Hai người cứ sàn người sát mặt đất mà tỷ đấu, những tiếng “binh, binh” vang lên không ngớt, người nào cũng liên tiếp bị trúng đòn. Nhưng hai nhân vật này đều thuộc loại vai u thịt bắp, đủ sức chịu đựng. Kẻ trúng quyền người trúng cước, trong lúc nhất thời khó phân thắng bại.
Tỷ đấu cách này Tôn Hùng không chiếm được phần ưu thế. Đột nhiên Hoàng Hy Tiết giả vờ sơ hở, Tôn Hùng lăn mình vào định đánh một quyền thật nặng vào trước ngực địch nhân. Hoàng Hy Tiết liền vung hai tay chộp trúng cổ Tôn Hùng, rồi xoay người đè xuống.
Tôn Hùng liền vung quyền đánh thật mạnh hông Hoàng Hy Tiết, nhưng lão này phải vất vả lắm mới nắm được chỗ yếu hại của địch nhân thì đời nào lại chịu buông ra? Tôn Hùng bị nghẹt thở, gương mặt phồng lên bầm tím, những thoi quyền đánh ra dần dần vô lực.
Quần hùng thấy hai người tỷ đấu một cách thô lỗ như hạng đầu đường xó chợ, chẳng còn chi là thân phận của chưởng môn nhân, đều lắc đầu cười thầm. Tôn Hùng dần dần chống không nổi, thì bỗng trong đám đông vọt ra một đại hán vung quyền đấm xuống lưng Hoàng Hy Tiết.
An đề đốc vội hét:
– Lui lại ngay! Không thể hai người đánh một!
Nhưng thoi quyền của người kia đã đánh trúng lưng Hoàng Hy Tiết, lão đau điếng người phải buông tay ra. Tôn Hùng liền xoay mình nhảy lên. Trong đám đông lại có một người nữa vọt tới, vung quyền đánh bừa vào hán tử lớn. Nguyên hai người này một là đại đệ tử của Tôn Hùng, còn một là con Hoàng Hy Tiết nhảy ra để trợ quyền. Lúc này trong đại sảnh biến thành hai cặp đánh nhau.
Những người bàng quan reo hò trợ oai, vỗ tay hoan hô. Thế là cuộc tỷ võ giữa các chưởng môn nhân trong võ lâm biến thành sân khấu diễn kịch chẳng còn vẻ chi là trang nghiêm nữa.
Tôn Hùng đã bị một vố, không dám cầu may thủ thắng, thận trọng thủ kín môn hộ, cùng Hoàng Hy Tiết tỷ đấu giữ thế quân bình. Nhưng con Hoàng Hy Tiết chưa đủ kinh nghiệm lâm địch, liên tiếp bị đối phương đá mấy lần lăn long lóc. Gã tức giận rút đoản đao trong giày ra đâm địch nhân. Đệ tử của Tôn Hùng giật mình kinh hãi. Gã không đem binh khí bên mình liền chụp lấy cỗ ghế thái sư còn bỏ trống bên cạnh Thang Bái vung múa đỡ đòn.
Cuộc tỷ võ này chẳng còn ra thể thống gì nữa.
An đề đốc quát:
– Các ngươi làm trò gì vậy? Cả bốn người lùi lại đi!
Nhưng bọn Tôn Hùng đang hăng máu đánh nhau, chẳng ai để ý nghe lời hắn.
Hải Lan Bật đứng dậy hỏi:
– An đề đốc nói gì các vị có nghe thấy không?
Con Hoàng Hy Tiết phóng đao đâm không trúng, Hải Lan Bật vươn tay ra chụp lấy ngực gã, tiện đà ném ra ngoài. Tiếp theo lão co tay về chụp tên đệ tử của Tôn Hùng, ném tiếp ra ngoài sân.
Quần hùng đang ngơ ngác, lại thấy Hải Lan Bật một tay xách Hoàng Hy Tiết, một tay nắm Tôn Hùng đồng thời ném ra. Bốn người ngã chồng lên nhau thành một đống. Cả bọn đều mắt hoa đầu váng ôm lấy nhau, đấm đá loạn xạ. Sau mấy tên vệ sĩ chạy lại gỡ ra, họ mới ngừng lại. Bốn người mặt mũi sưng vù, tím bầm, vẫn còn ngoác miệng chửi bới nhau không ngớt.
Hải Lan Bạt phô trương thân thủ khiến quần hùng đều kinh hãi, nghĩ thầm:
– Lão này liệt vào hàng tứ đại chưởng môn quả nhiên bản lãnh cực cao. Lão ra tay nào chụp nào ném là hai gã Tôn, Hoàng văng đi như hai bó cỏ.
Nên biết Tôn Hùng và Hoàng Hy Tiết tuy đấu như bọn vô lại, nhưng đều có bản lãnh chân thực. Trên chốn giang hồ, cả hai đều có tên tuổi, kẻ tầm thường không sánh kịp.
Hải Lan Bật sau khi ném bốn người xong liền quay về ngồi chỗ cũ.
Thang Bái lên tiếng ca ngợi:
– Hải đại nhân thân thủ phi thường, thật khiến người phải bội phục.
Hải Lan Bật cười đáp:
– Không bõ làm trò cười cho Thang đại hiệp. Bọn họ làm vậy chẳng còn ra thể thống gì.
Lúc này bọn bộc dịch đã thay cái ghế gãy rồi.
Chưởng môn Côn Luân Đao là Tây Linh đạo nhân từ nãy đến giờ chỉ mỉm cười. Nhưng khi thấy Hải Lan Bật thi triển công phu, tự biết không thể ngang hàng với lão, vậy mà dự vào hàng chưởng môn của Ngọc Long bát môn thì không khỏi thấp thỏm trong bụng.
Bên kia chưởng môn Túy Bát tiên là Thiên bôi cư sĩ Văn Túy Ông vẫn tự rót rượu uống một mình. Cặp mắt y lờ đờ tựa hồ chẳng nhìn thấy những gì xảy ra trước mắt.
An đề đốc nói:
– Phúc đại soái mời các vị đến đây là để tỷ giảo võ công, phân định cao thấp. Xin các vị ngàn vạn lần đừng đánh nhau loạn xạ như mấy vị mới đây để khỏi làm trò cười cho thiên hạ.
Bỗng nghe Tôn Hùng ngồi dưới mái hiên, quát hỏi:
– Cái gì mà làm trò cười cho thiên hạ? Ngươi có hiểu võ công hay không? Chúng ta cứ tỷ đấu một trận coi.
An đề đốc lờ đi như không nghe tiếng, lại hỏi:
– Đây còn hai cái ghế nữa. Có vị anh hùng hảo hán chân chính nào lên ngồi không?
Tôn Hùng đổ quạu, quát lớn:
– Ngươi nói vậy là chửi ta không phải chân anh hùng ư? Chàng lẽ ta lại là cẩu hùng?
Gã chẳng kể gì vừa bị Hải Lan Bật ném té nhào, cứ xăm xăm chạy về phía An đề đốc. Đột nhiên chân bước loạng choạng rồi té lăn xuống đất. Té ra có một tên vệ sĩ đưa chân ra gạt, khiến hắn té nhào. Tôn Hùng nổi nóng, quay lại nhìn xem ai đã ám toán mình, nhưng tên vệ sĩ kia đã ẩn lánh mất rồi. Hắn không tìm ra được người nào chơi khăm, đành cất tiếng chửi đổng.
Lúc này bao nhiêu con mắt đổ dồn vào hai chiếc ghế thái sư còn trống, chứ chẳng ai thèm nhòm ngó gì đến Tôn Hùng. Nguyên một nhà sư mặc tăng bào màu nguyệt bạch đã ngồi vào một chiếc ghế. Người này được tên võ quan xướng danh là Cáp Xích đại sư ở Mông Cổ. Còn một ghế trống có hai người ngồi chung. Hai người này tướng mạo giống hệt nhau. Cặp lông mày chênh chếch rủ xuống, mắt như gà chọi, hai tròng mắt như tựa vào hai bên sống mũi. Tuổi hai người ước chừng chưa qua bốn mươi, cách phục trang giống y hệt nhau, hiển nhiên là hai anh em sinh đôi. Tướng mạo của hai người này cũng chẳng có chi là khác thường, chỉ có cặp mắt như gà chọi nổi bật lên khiến gương mặt trở nên kỳ quái.
An đề đốc tủm tỉm cười nói:
– Hai vị này là chưởng môn Song Tử môn tên gọi Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu, biệt danh “Nghê thị song hùng”.
Mọi người nghe danh tự hai tên đó đều cười thầm. Họ nhìn lại thân hình cùng dung mạo hai người, giống nhau như hai giọt nước, cũng chẳng hiểu Nghê Bất Đại là anh hay Nghê Bất Tiểu là anh. Giả sử một người là “Nghê Đại”, một người là “Nghê Tiểu” thì lập tức phân biệt được ai lớn ai nhỏ ngay.
Nhưng “Bất Đại” dường như là nhỏ, mà “Bất Tiểu” lại tựa hồ là lớn. Thế cũng chưa hết: tay hai người này đều thủ trong áo, làm như trời rét quá chịu không nổi.
Quần hào chỉ trỏ bàn tán. Có người đánh cuộc với nhau Nghê Bất Đại là lớn, có người bảo Nghê Bất Tiểu là nhỏ, nhưng cũng chẳng người nào phân biệt được ai là Nghề Bất Đại, ai là Nghê Bất Tiểu. Thần sắc hai anh em cứ trơ như gỗ, bốn mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Cả hai đều không phải là người gầy, nhưng ngồi chung một ghế mà chẳng thấy khó chịu chút nào, tựa hồ như đã quen ngồi như vậy từ lúc nhỏ.
Phúc Khang An chăm chú nhìn hai gã này, nhoẻn miệng cười ra chiều hứng thú.
Quần hào còn đang nghị luận thì đột nhiên trước mặt như rực sáng. Một thiếu nữ từ trong đám đông tiến ra. Thiếu nữ mình mặc áo vàng lợt, quần xanh, chừng hai mươi mốt, hai mươi hai tuổi, nước da trắng nõn, ra chiều phong vận.
Viên võ quan báo danh hô lớn:
– Đây là Tang Phi Hồng cô nương, chưởng môn phái Ngũ Hồ ở phủ Phụng Dương.
Bọn võ sư đột nhiên thấy một vị cô nương xinh đẹp xuất hiện thì đều phấn khởi tinh thần.
Quách Ngọc Đường nhìn Hồ Phỉ nói:
– Đệ tử phái Ngũ Hồ đều làm nghề buôn bán để sinh nhai. Chưởng môn truyền đời của phái nhất định phải là nữ nhân. Còn nam đệ tử dù bản lãnh cao thâm đến đâu cũng không được làm chưởng môn. Tang Phi Hồng cô nương đây tuổi còn nhỏ quá, chưa rõ có công phu chân thực gì không?
Tang Phi Hồng đến trước mặt anh em họ Nghê, hai tay chống nạnh cười hỏi:
– Xin hỏi nhị vị Nghê gia, vị nào là lão đại?
Hai người đều lắc đầu không đáp.
Tang Phi Hồng lại cười hỏi:
– Dù là huynh đệ song sinh thì cũng có người ra trước ra sau để phân lão đại cùng lão nhị chứ?
Anh em họ Nghê vẫn lắc đầu quầy quậy như cũ.
Tang Phi Hồng nói:
– Chà, vụ này lạ đây!
Cô trỏ vào người bên trái, hỏi:
– Các hạ có phải là lão đại không?
Gã này vẫn cứ lắc đầu.
Tang Phi Hồng lại quay sang chỉ người ngồi bên phải, hỏi:
– Vậy thì các hạ chắc là lão đại?
Gã này cũng chỉ lắc đầu.
Tang Phi Hồng chau mày, nói:
– Chúng ta đều là người trong vỗ lâm, không được ăn nói dối trá.
Người ngồi bên phải mở miệng nói:
– Ai nói dối gì cô? Ta chẳng phải là ca ca của y, mà y cũng không phải là ca ca của ta.
Tang Phi Hồng hỏi lại:
– Hai vị phải chăng là anh em sinh đôi?
Hai người lại lắc đầu.
Quần hào trong sảnh đường thấy chúng lắc đầu hoài thì đều sửng sốt, hai người tướng mạo giống hệt nhau thì chẳng thể không phải là anh em sinh đôi.
Tang Phi Hồng đằng hắng một tiếng hô:
– Thế mà còn bảo không dối ư? Nếu hai vị chẳng phải huynh đệ song sinh thì cứ đem đầu ta ra mà chặt. Vậy vị nào là Nghê Bất Đại?
Gã ngồi bên trái đáp:
– Tại hạ là Nghê Bất Đại.
Tang Phi Hồng lại hỏi:
– Hay lắm! Vậy các hạ ra trước hay là y ra trước?
Nghề Bất Đại chau mày hỏi lại:
– Cô này rắc rối quá. Cô đã chẳng cầu thân với anh em ta thì hỏi cái đó làm gì?
Tang Phi Hồng đã quen bôn tẩu giang hồ, nên đối với những lời nói khinh bạc cũng không để ý, cô vỗ tay cười đáp:
– Hay lắm! Các vị đã tự thú nhận là anh em rồi đó nhé!
Nghê Bất Đại cãi:
– Chúng ta là anh em thật, nhưng không phải là huynh đệ song sinh.
Tang Phi Hồng giơ ngón tay trỏ chống vào bên má, lắc đầu nói:
– Ta không tin
Nghê Bất Đại đáp:
– Cô không tin thì mặc kệ cô. Ai cần cô tin?
Tang Phi Hồng là người cố chấp, lại hỏi nữa:
– Các vị là huynh đệ song sinh thì có gì là xấu mà lại không chịu thừa nhận?
Nghê Bất Tiểu đáp:
– Cô nhất định đòi biết rõ nguyên nhân bên trong, bọn ta nói cho hay cũng chẳng hề chi. Nhưng anh em ta đã có một quy củ, kẻ nào muốn biết điều bí mật về chỗ xuất thân của chúng ta thì phải để anh em ta đánh mỗi người ba chưởng. Nếu thấy không chịu nổi thì cứ đập đầu lạy ba cái cũng được.
Tang Phi Hồng càng động tính hiếu kỳ, nghĩ thầm:
– Bọn họ muốn đánh mình ba chưởng nhưng chưa chắc gì đánh trúng. Mình cứ nghe cho được điều bí mật này rồi hẵng hay.
Cô liền gật đầu đáp:
– Được rồi! Các vị nói đi!
Anh em họ Nghê đột nhiên đứng phắt dậy, tuyệt không có kẻ trước người sau, mà hành động đồng thời giống như một người.
Tang Phi Hồng nhơn nhơn đắc ý, nói:
– Thế mà còn bảo là không phải huynh đệ song sinh? Cái trò lừa này ai mà tin nổi!
Bỗng thấy hai người thò tay ra khỏi áo, ánh kim quang liền lấp lánh trước mắt. Nguyên mười ngón tay của hai người này đều được bọc bằng bao tay vàng vừa nhọn vừa dài. Nếu chúng dùng để chụp vào người thì đó là khí giới lợi hại khó lòng chống đỡ.
Nghê thị huynh đệ thân hình thấp thoáng, vươn tay ra nhắm Tang Phi Hồng chụp tới. Tang Phi Hồng cả kinh, tung mình nhảy lùi lại, quát hỏi:
– Các vị làm gì vậy?
Nghê Bất Đại đứng ở góc đông nam, Nghê Bất Tiểu đứng ở góc tây bắc. Cả hai người đều vươn tay ra, dùng những ngón tay bọc bao vàng nhọn hoắt dài đến sáu bảy tấc vây Tang Phi Hồng vào giữa.
An đề đốc vội can thiệp:
– Theo quy củ của đại hội, bữa nay chỉ được đơn đả độc đấu, không cho ỷ đông để thủ thắng.
Nghê Bất Tiểu giương cặp mắt gà chọi, nguyên trước ở hai bên sống mũi, đột nhiên phân ra hai bên lườm An đề đốc, lạnh lùng hỏi:
– An đại nhân! Đại nhân có biết anh em tại hạ ở môn phái nào không?
An đề đốc đáp:
– Hai vị ở Song Tử Môn tại Quý Châu.
Nghê Bất Đại hai tròng mắt cũng phân ra hai bên, nói:
– Song Tử môn của tại hạ trước nay chỉ thu đồ đệ nếu không là huynh đệ song sinh thì cũng là tỷ muội song sinh. Khi cùng người động thủ, chẳng bao giờ phải đơn đả độc đấu.
An đề đốc chưa kịp đáp, Tang Phi Hồng đã cướp lời:
– Rõ rồi! Các vị vừa nói không phải huynh đệ song sinh, bây giờ mới chịu thừa nhận.
Nghê Bất Đại không chịu, đáp:
– Chúng ta không phải là huynh đệ song sinh!
Quần hào nghe hai gã nói lằng nhằng mãi, mới biết đôi anh em quý hóa này là hạng si ngốc.
Tang Phi Hồng cười khanh khách, nói:
– Thôi đừng nói quẩn quanh nữa. Bản thân ta cũng không mong đoạt chiếc Ngọc Long bôi đâu!
Cô nói rồi toan lùi lại.
Nghê Bất Tiểu giang hai tay cản lại, nói:
– Cô đã hỏi rõ thân thế chúng ta rồi, thì muốn chịu ba phát chưởng của ta hay phải dập đầu lạy ba lạy?
Tang Phi Hồng chau mày đáp:
– Thủy chung các người vẫn không nói rõ. Lúc thì nhận là huynh đệ rồi lúc thì lại không nhận là huynh đệ song sinh. Xin mời các vị anh hùng trong thiên hạ ở đây thử bình luận lý lẽ này coi.
Nghê Bất Đại nói:
– Được rồi! Người nhất định đòi nghe thì ta nói cho hay.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Chúng ta là huynh đệ cùng một mẹ.
Nghê Bất Đại nói tiếp:
– Mẹ chúng ta sinh ra ba người!
Nghê Bất Tiểu nói tiếp:
– Chúng ta là hai người trong ba cái bào thai sinh ba đó.
Nghê Bất Đại lại nói:
– Vì thế mà chúng ta tuy là huynh đệ, nhưng không phải huynh đệ song sinh.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Đại ca ta vừa lọt lòng mẹ đã chết ngay.
Nghê Bất Đại tiếp:
– Hai chúng ta sinh cùng một lúc, không ai trước ai sau.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Cả đầu, vai và thân hình chúng ta dính liền với nhau.
Nghê Bất Đại nói:
– Một vị danh y đã dùng thần thuật tuyệt xảo tách hai huynh đệ ta ra.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Vì thế mà hai người chúng ta chẳng thể phân biệt, ai là ca ca, ai là đệ đệ.
Nghê Bất Đại nói:
– Ta mà là Bất Đại thì y cũng là Bất Tiểu.
Hai gã mỗi người nói một câu liền thành một tràng, liên tục chẳng ngừng. Giọng nói đã tương tự mà cách nói cũng giống nhau. Giả tỷ có người cách một bức vách nghe tiếng, thì quyết không thể tin được là do hai người nói.
Quần hùng trong đại sảnh nghe xong vừa kinh ngạc, lại vừa buồn cười. Ai cũng cho là vụ này cực kỳ lạ lùng, nhưng cũng chẳng phải là hoàn toàn vô lý nên tự dưng ai nấy cũng đều cảm thấy thích thú.
Tang Phi Hồng cười nói:
– Té ra là vậy. Vụ kỳ lạ trong thiên hạ này, tại hạ mới được nghe lần đầu.
Nghê Bất Tiểu hỏi:
– Ngươi có chịu dập đầu lạy không?
Tang Phi Hồng đáp:
– Dập đầu dĩ nhiên là không rồi. Các ngươi muốn đánh thì cứ việc động thủ đi. Ta không hứa lời là không trả đòn đâu đấy.
Nghê thị huynh đệ không cần hô hoán cũng hiểu ý nhau. Đột nhiên ánh vàng lấp loáng, hai chục ngón tay đeo bao vàng nhọn hoắt cùng chụp lẹ tới. Tang Phi Hồng thân pháp rất linh diệu, chuyển động thân hình tránh khỏi hai mươi ngón tay dài khoằm. Nghê thị huynh đệ từ khi lọt lòng mẹ đến nay chưa từng rời nhau phút nào. Võ công của chúng thuần theo thuật phân tiến mà hợp kích. Hai người động thủ mà chẳng khác gì một người có bốn chân, bốn tay và hai mươi ngón tay. Hai người phối hợp với nhau rất đồng bộ, nhịp nhàng. Hễ tay trái của Nghê Bất Đại vươn ra chụp thì tay phải của Nghê Bất Tiểu đã từ một bên đánh tới. Tang Phi Hồng thân pháp cực kỳ linh hoạt, nhưng hơn chục chiêu vẫn chưa phản kích được chiêu nào. Cô thấy tình thế rất đỗi nguy cấp. Cục diện này không thể kéo dài, chỉ sơ tâm một chút là cô bị thương dưới tay Nghê thị huynh đệ ngay.
Quần hùng trong đại sảnh ngồi xem, nhiều người không nhịn được, lên tiếng quát tháo:
– Hai người đánh một là anh hùng hay là cẩu hùng?
– Hai đại nam nhân hợp lực đánh một cô gái nhỏ tuổi thật là quân mặt dày
– Người ta là gái lại tay không, mà hai gã ngón tay đều đeo binh khí nữa chứ.
– Tiểu huynh đệ! Ngươi ra giúp cô một tay, không chừng cô sẽ này cảm tình với ngươi đó. Ha ha!
Đang lúc huyên náo, Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu bỗng hô “ủa” một tiếng, rồi sóng vai nhảy qua mé trái. Chúng chăm chăm nhìn Phúc Khang An, mặt lộ vẻ vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Quần hào nhìn theo ánh mắt của chúng thì thấy Phúc Khang An ngồi trên ghế đang cười hì hì. Tay hắn dắt hai đứa nhỏ, miệng đang thì thầm nói khẽ với chúng. Hai đứa nhỏ này trắng trẻo và kháu khỉnh, tướng mạo lại giống nhau như đúc. Hiển nhiên là huynh đệ song sinh. Có điều đem chúng so với Nghê thị huynh đệ thì vẻ xinh đẹp của chúng càng nổi bật thêm lên. Mọi người nhìn đều cảm thấy hứng thú.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều chấn động tâm thần. Nguyên hai đứa nhỏ này chính là con Mã Xuân Hoa, không hiểu sao chúng lại bị Phúc Khang An đoạt trở về.
Hai người đều tự nhủ:
– Hắn đã đoạt lại hai thằng nhỏ thì hành tung của mình đã bị bại lộ rồi.
Trình Linh Tố đưa mắt ra hiệu cho Hồ Phỉ tìm cơ hội chuồn sớm ra ngoài.
Hồ Phỉ gật đầu, nghĩ bụng:
– Nếu đối phương khám phá ra thì chúng đã ngầm bố trí cả rồi, có bỏ trốn cũng không thoát được, đành cứ tùy cơ ứng biến, rồi sẽ liệu.
Nghê thị huynh đệ cứ nhìn sững hai đứa nhỏ như ngây như dại.
Tang Phi Hồng cười hỏi:
– Hai đứa nhỏ này hay lắm! Các người muốn thu chúng làm đồ đệ chăng?
Câu này nói trúng vào tâm sự của Nghê thị huynh đệ. Nên biết trong võ lâm, môn đồ tầm sư là chuyện đã đành, mà thầy cũng phải đi tìm môn đồ nữa. Gặp được một bậc minh sư bản lĩnh cao thâm không phải là điều dễ dàng, nhưng thu nạp được một môn đồ thông minh đĩnh ngộ để tiếp thu được hết chân truyền sở học của thầy cũng là điều khó khăn không kém.
Võ công của Song Tử môn rất cần hai người đồng thời rèn luyện và sử dụng, thì thu nạp hai đồ đệ có tuổi tác, vóc đáng cùng tính tình tư chất suýt soát nhau để truyền nghệ là điều cần, nhưng nếu có được hai môn đệ sinh đôi là hay nhất. Vì hai anh em sinh đôi không những thần trí và vóc dáng giống nhau mà tâm ý cũng tương thông. Khi lâm địch tự nhiên phát huy được uy lực, ngoài sự tiên liệu của đối phương. Do vậy võ sư của Song Tử môn mà thu nạp được môn đồ đắc ý càng khó hơn phái khác gấp trăm lần.
Nghê thị huynh đệ vừa thấy hai đứa nhỏ song sinh trong tay Phúc Khang An mà tư chất căn cơ của chúng đều vào hàng thượng phẩm, nên trong lòng rạo rực, nói hoan hỷ không bút nào tả xiết.
Phúc Khang An cười hì hì, khẽ nói:
– Các con nhìn hai vị sư phụ kia cũng là huynh đệ song sinh đó. Tướng mạo hai vị giống hệt nhau, phải không nào? Các con thử đoán xem vị nào là ca ca?
Nguyên Phúc Khang An đoạt được hai con về, trong lòng cao hứng vô cùng. Hắn thấy Nghê thị huynh đệ hình thù quái dị, liền sai người đem hai đứa nhỏ ra xem chơi.
Hai đứa nhỏ chăm chăm nhìn Nghê thị huynh đệ. Chúng là huynh đệ song sinh nên có những cảm giác mà người ngoài không hiểu được, do đó có thể phân biệt dễ dàng ai là anh ai là em. Nhưng Nghê thị huynh đệ cùng sinh một lúc, thân thế liển nhau sau mới tách ra nên hai đứa nhỏ cũng không sao phân biệt được.
Quần hùng hết nhìn Nghê thị huynh đệ lại ngó hai đứa nhỏ, không ngớt cười khi rồi thì thầm bàn tán.
Đột nhiên Nghê thị huynh đệ đồng quát lên một tiếng, rồi chia ra bên tả hữu chạy tới trước mặt Phúc Khang An. Phúc Khang An giật mình kinh hãi, chưa kịp nghĩ tới chuyện né tránh thì hai vệ sĩ đứng bên đã xông ra nghinh địch. Ngờ đâu thân pháp Nghê thị huynh đệ cực kỳ quái dị. Đang nhảy tới nửa chừng thì Nghê Bất Đại đang ở bên trái đột nhiên chuyển qua bên phải, Nghê Bất Tiểu ở bên phải lại chuyển qua bên trái, chỉ trong chớp mắt đã bỏ hai tên vệ sĩ lại phía sau. Hai gã tập kích Phúc Khang An chỉ là hư chiêu. Một người vung chân trái, một người vung chân phải, hai chân đều đá tới đánh “binh” mội tiếng, trúng vào cái ghế ngồi của Phúc Khang An.
Phúc Khang An té nhào xuống. Bọn vệ sĩ kinh hãi la rầm lên. người thì chạy ra cản đối phương, người thì đứng bảo vệ trước mắt Phúc Khang An, kẻ thì lo đỡ Phúc Khang An dậy. Nghê thị huynh đệ mỗi người cắp một đứa nhỏ dưới nách, xoay mình nhảy ra ngoài.
Quần hùng trong đại sảnh lập tức rối loạn cả lên, chỉ nghe những tiếng binh binh và tiếng la oai oái. Bốn tên vệ sĩ chặn đường bị Nghê thị huynh đệ đá ngã nhào.
Nghê thị huynh đệ cắp hai đứa nhỏ toan chạy ra khỏi sảnh đường, bỗng bóng người thấp thoáng, hai người vọt lẹ tới, vung tay đánh vào hậu tâm Nghê thị huynh đệ. Hai người này xuất chiêu khác nhau. Hải Lan Bật chụp sau gáy Nghê Bất Tiểu vừa mau vừa chuẩn đích. Thang Bái lại phóng chưởng đánh vào hông Nghê Bất Đại. Hai chiêu cương nhu khác nhau, nhưng đều là những chiêu số cực kỳ lợi hại, khiến địch nhân chẳng thể không tự cứu.
Nghê thị huynh đệ nghe tiếng gió sau lưng rít lên, vội vàng xoay chưởng đón đỡ. Hai tiếng “bốp bốp” vang lên. Nghê Bất Đại thân hình lảo đảo. Nghê Bất Tiểu chân tay loạng choạng, miệng phun ra một búng máu tươi.
Cả hai đồng thời buông hai đứa nhỏ xuống. Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu không dám chần chừ một khắc, cùng song song nhảy lại bế hai đứa nhỏ.
Phúc Khang An vừa mới hoàn hồn đã quát lớn:
– Bọn cuồng đồ lớn mật, bắt lại cho ta!
Hải Lan Bật và Thang Bái bước tới hai bước. Một người dùng “Cầm nã thủ”, một người dùng “Tỏa cốt pháp” vung ra bắt hai anh em Nghê thị. Hai gã vừa tiếp một chưởng đã bị thương, nên lúc này không còn cách gì kháng cự được nữa.
Hải, Thang bắt xong hai địch thủ, vừa toan xoay người để đem vào trong sảnh đường, bỗng trên mái nhà có bóng người thấp thoáng rồi có hai người nhẹ nhàng phi thân xuống. Đèn đuốc trong đại sảnh sáng rực như ban ngày, quần hào vừa nhìn thấy hai người này ai nấy đều sởn gáy, giống như đêm khuya đang đi giữa vùng núi vắng bỗng gặp ma quỷ.
Hai người mới đến thân hình cao lêu khêu, cặp lông mi nhìn chếch xuống, đôi gò má vừa ốm vừa dài, giống như loại quỷ vô thường chuyến đi bắt hồn người theo truyền thuyết dân gian. Càng kỳ lạ hơn nữa là tướng mạo hai người này giống hệt nhau như là huynh đệ song sinh. Hai người thân pháp nhanh như điện, vung chưởng tấn công Hải Lan Bật và Thang Bái ngay. Hải, Thang hai người vội vung chưởng nghinh địch. Bốn chưởng vừa chạm nhau bỗng nghe xương cốt toàn thân Hải Lan Bật kêu rắc rắc, còn Thang Bái thì thân hình dao động liền mấy cái.
***
Quần hào còn đang kinh ngạc thì Túy Bát Tiên chưởng môn là Văn Túy Ông từ nãy tới giờ vẫn ngồi trên ghế thái sư, nhảy vọt ra la thất thanh:
– Hắc Vô Thường! Bạch Vô Thường!
Hai người cao gầy vừa vung tay tiếp chưởng cùng hai lão Hải, Thang, vừa đưa mắt sáng như điện nhìn vào mặt Văn Túy Ông. Người đứng bên phải lạnh lùng hỏi:
– Ngươi làm ác đã nhiều, bữa nay còn nghĩ đến chuyện trốn thoát ư?
Đột nhiên hai người kia nhả chưởng lực ra, hai lão Hải, Thang lùi lại một bước. Khi hai lão vung chưởng phản kích thì hai người kia đã cướp được Nghê thị huynh đệ rồi.
Người cao gầy bên phải nói:
– Hai gã này đối với hai anh em ta vốn vô thân vô cố, song cũng là huynh đệ song sinh nên phải cứu mạng cho chúng!
Người đứng bên trái chắp tay xoay một vòng, dõng dạc nói:
– Anh em Thường Hách Chí và Thường Bá Chí ở Hồng Hoa hội xin chào các vị anh hùng thiên hạ!
Hai lão Thang, Hải vừa đối chưởng xong đều thấy khí huyết nhộn nhạo, trong lòng đã ngấm ngầm kinh dị, vội vàng điều tức. Đúng vào lúc hai lão toan tiến lên tái đấu thì nghe đối phương xưng danh là “Thường Hách Chí” và “Thường Bá Chí”, cả hai không tự chủ được, cùng “ủa” một tiếng rồi dừng bước lại.
Thường thị huynh đệ gật đầu chào rồi cắp Nghê thị huynh đệ nhảy lên mái nhà, bỗng nghe những tiếng “bốp”, “hự”, cùng những tiếng rú “ối, ái” vang lên mỗi lúc một xa, rồi không thấy gì nữa. Đó là những vệ sĩ canh gác trên nóc nhà bị Thường thị huynh đệ đánh dạt ra hoặc hất ngã xuống.
Hải Lan Bật và Thang Bái cảm thấy bàn tay tê chồn, giơ lên nhìn lại không nhịn được khẽ “ối” lên một tiếng ra chiều kinh hãi. Nguyên hai lão thấy bàn tay mình biến thành tím đen, sực nghĩ tới “Hắc Sa chưởng” khét tiếng thiên hạ của Tây Xuyên Song Hiệp Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường. Hai lão nghe tiếng tuyệt kỹ này đã lâu, mãi đến bữa nay mới được lĩnh giáo, quả nhiên không phải tầm thường.
Phúc Khang An mở cuộc đại hội chưởng môn này, dụng ý đầu tiên là để đối phó lại quần hùng ở Hồng Hoa hội. Không ngờ dưới bao nhiêu con mắt thao láo, Thường thị huynh đệ chợt đến chợt đi như vào chỗ không người. Trong lòng hắn cực kỳ phẫn nộ, nét mặt sa sầm, chẳng nói nửa lời.
Phúc Khang An lại liếc nhìn mấy ghế thái sư thấy Đại Trí Thiền Sư chùa Thiếu Lâm cặp lông mày rủ thấp, sắc mặt vẫn điềm nhiên. Vô Thanh Tử phái Võ Đương lộ vẻ hoang mang, tựa hồ sợ sệt. Văn Túy Ông đứng sững không nhúc nhích, hai mắt trợn lên nhìn ra phía trước. Thường thị huynh đệ đi đã xa rồi mà dường như lão vẫn chưa hết kinh hãi.
Hồ Phỉ đã nhìn rõ màn kịch này, lại nghe ba chữ “Hồng Hoa hội” trống ngực chàng đập thình thình. Chàng thấy Thường thị huynh đệ nói đến là đến, muốn đi là đi, coi anh hùng thiên hạ trong đại sảnh không vào đâu, tâm thần chàng như say sưa ngây ngất, miệng lẩm bẩm:
– Có thế mới là bậc anh hùng hào kiệt.
Tang Phi Hồng vẫn đứng một bên coi náo nhiệt. Cô thấy Văn Túy Ông nói mấy câu khiến toàn thể hội trường sửng sốt, cô còn nhỏ tuổi lại hiểu sự, liền vươn tay khẽ đẩy vai lão một cái, cười nói:
– Ngồi xuống đi! Đôi Vô Thường Quỷ đi rồi!
Ngờ đầu có vừa đẩy một cái, Văn Túy Ông đã ngã quay ra không dậy được nữa. Tang Phi Hồng cả kinh. Cô giật mình kinh hãi, cúi đầu xuống thấy mặt lão xanh xám, thì ra lão sợ quá nên vỡ mật chết từ lâu rồi.
Cô liền la hoảng:
– Chết rồi! Chết rồi! Lão sợ chết khiếp rồi!
Quần hùng trong đại sảnh nhốn nháo một hồi. Lúc trước Văn Túy Ông ngồi trên ghế thái sư rót ruợu uống khề khà, chẳng coi ai vào đâu, tựa hồ mình là kẻ đệ nhất thiên hạ, chẳng ngờ Thường thị huynh đệ vừa tới, chỉ nói có một câu mà lão đã sợ chết khiếp rồi.
Quách Ngọc Đường thở dài, nói:
– Chết cũng chưa hết tội! Chết cũng chưa hết tội!
Hồ Phỉ hỏi:
– Quách tiền bối, Văn Túy Ông bình sinh phẩm hạnh không tốt ư?
Quách Ngọc Đường lắc đầu đáp:
– Há phải chỉ phẩm hạnh không tốt mà thôi đâu, lão còn gian dâm, cướp bóc, chẳng từ điều gì. Đáng lẽ lão phu không muốn nói xấu người chết, nhưng sự thực đã bày ra đó nên lão phu tiên liệu lão chẳng được chết yên lành. Có điều vì lão sợ hai anh em “Hắc Bạch Vô Thường” đến nỗi vỡ cả mật mà chết là một điều không ai nghĩ tới!
Một người khác xen vào:
– Chắc là Thường thị huynh đệ kiếm hắn đã lâu rồi, bữa nay oan gia lại chạm trán trên quãng đường hẹp.
Quách Ngọc Đường đáp:
– Chắc trước kia lão Văn đã bị Thường thị huynh đệ tóm được, không chừng lão còn phát điều trọng thệ gì đó.
Người kia lắc đầu nói:
– Tự mình làm nên tội nghiệt thì không thể sống được
Quách Ngọc Đường đáp:
– Cái đó gọi là: “Thị phi chỉ vị đa khai khẩu, phiền não giai nhân cưỡng xuất đầu”. Nếu lão tự biết mình một chút, không ham Ngọc Long ngự bôi, cứ ẩn trong đám đông thì Tây Xuyên song hiệp cũng không tìm thấy được.
Mấy người đang nói chuyện, bỗng một lão già từ trong đám đông chạy ra, sau lưng cài tẩu thuốc đen nhánh. Lão đến bên thi thể Văn Túy Ông, vừa khóc vừa nói:
– Văn nhị đệ! Không ngờ bữa nay nhị đệ lại chết về tay phường chuột nhắt.
Hồ Phỉ nghe lão thóa mạ “Tây Xuyên Song Hiệp” là lũ chuột nhắt thì trong lòng tức giận, khẽ hỏi:
– Quách tiền bối! Lão này là ai vậy?
Quách Ngọc Đường đáp:
– Lão là Thượng Quan Thiết Sinh, chưởng môn Huyền Chỉ môn ở phủ Khai Phong. Lão tự phong cho mình ngoại hiệu là “Yên Hà tản nhân” gì đó. Lão cùng Văn Túy Ông cùng một giuộc, hợp xưng là “Yên tửu nhị tiên”.
Hồ Phỉ thấy Thượng Quan Thiết Sinh mặc áo bóng loáng đầy vết khói bám, mà cây dọc tẩu cài sau lưng cũng có vẻ đặc biệt. Cái bầu để nhồi thuốc lớn bằng nắm tay, chắc là lão nghiện nặng. Chàng hừ một tiếng rồi nói:
– Loại quỷ nghiện thuốc cũng tự xưng là “tiên” được ư?
Thượng Quan Thiết Sinh ôm thi thể Văn Túy Ông khóc mấy tiếng rồi đứng đấy, quắc mắt nhìn Tang Phi Hồng hỏi:
– Ngươi làm gì mà đẩy chết Văn nhị đệ của ta?
Tang Phi Hồng ngạc nhiên đáp:
– Rõ ràng lão sợ quá mà chết, sao lại bảo do ta đẩy?
Thượng Quan Thiết Sinh nói:
– Hà hà! Một người đang mạnh khỏe sao lại sợ quá mà chết được? Nhất định ngươi đã ngấm ngầm hạ độc thủ sát hại Văn nhị đệ của ta.
Nguyên lão thấy Văn Túy Ông sợ quá chết, nếu vụ này đồn đại ra ngoài giang hồ thì mất hết thanh danh, từ nay phái Túy Bát Tiên không sao ngóc đầu lên được nữa, nên lão gán bừa cho Tang Phi Hồng đã ngấm ngầm hạ độc thủ. Nên biết những nhân vật võ lâm bị người sát hại là chuyện thường, không tổn hại gì đến thanh danh.
Tang Phi Hồng còn nhỏ tuổi, không hiểu dụng ý của Thượng Quan Thiết Sinh giá họa cho mình. Cô tức giận phân bua:
– Giữa ta với lão vốn không quen biết, thì việc gì ta lại sát hại lão? Ở đây có cả hàng trăm hàng ngàn con mắt đều thấy rõ vì lão sợ quá mà chết.
Cáp Xích đại sư người Mông Cổ từ nãy tới giờ cứ ngồi ngẩn người trên ghế thái sư bây giờ bỗng xen vào:
– Vị cô nương này không hạ độc thủ. Chính mắt lão phu cũng thấy rõ là hai tên ác quỷ vừa tới đã làm cho Văn lão gia sợ quá mà chết. Lão phụ cũng nghe tiếng Văn lão gia hô “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường”.
Giọng nói của Cáp Xích đại sư rất lớn, khi nói đến sáu chữ “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường” lão cố bắt chước cho giống giọng của Văn Túy Ông khiến âm thanh càng thêm cổ quái. Quần hùng trong đại sảnh cười rộ cả lên:
Cáp Xích đại sư không hiểu mọi người cười vì lẽ gì, liền lớn tiếng hỏi:
– Chẳng lẽ lão phu nói sai ư? Hai con quỷ vô thường đó mặt mũi hung ác xấu xa, hình thù quái dị làm cho người ta sợ chết là thường. Các hạ không nên trách cô đây.
Tang Phi Hồng hỏi theo:
– Được chưa? Đại sư đây cũng công nhận là y sợ quá mà chết, chứ có liên quan gì đến ta?
Thượng Quan Thiết Sinh rút cây dọc tẩu bên hông ra, nhét đầy sợi thuốc vào, quẹt lửa lên hút hai hơi rồi đột nhiên nhả khói trắng vào mặt Tang Phi Hồng, quát hỏi:
– Con tiện tỳ kia! Rõ ràng ngươi là hung thủ giết người, sao còn chối cãi?
Tang Phi Hồng thấy khói trắng phun tới, vội né tránh nhưng không kịp, mũi hít phải liền thấy đầu óc hơi choáng váng, lại nghe lão mở miệng mắng người, thì không nhẫn nại được liền mắng lại:
– Lão quỷ hồ đồ kia! Chẳng lẽ ta sợ ngươi ư? Ngươi bảo ta giết hắn, thì ta giết cả ngươi nữa đã sao?
Tay trái cô đánh dứ ra một chưởng, chân phải đá vào hông của lão.
Cáp Xích đại sư lớn tiếng la:
– Lão kia! Đừng đổ oan cho người ngay. Chính mắt ta trông thấy Văn lão gia rõ ràng bị hai tên ác quỷ đó làm cho sợ quá mà chết!
Hồ Phỉ thấy nhà sư tuy ngớ ngẩn nhưng tính tình ngay thẳng, có điều lão mở miệng là nói đến “ác quỷ” nghe không thuận tai chút nào. Chàng tức mình muốn tìm cách khiến lão nếm mùi đau khổ một chút.
Bỗng thấy một thư sinh trẻ tuổi từ mé tây tòa sảnh đi thẳng về hướng Cáp Xích đại sư. Thư sinh này ước chừng hai mươi lăm, hai mười sáu tuổi, thân hình bé nhỏ gầy gò, cách ăn mặc tuấn nhã, tay mặt phe phẩy cây quạt. Gã đến trước mặt Cáp Xích nói:
– Đại hòa thượng Hòa thượng nói một câu sai trật cần phải sửa lại.
Cáp Xích trợn mắt lên hỏi:
– Câu nào sai trật?
Thư sinh đáp:
– Hai vị đó không phải là “ác quỷ” mà là “Tây Xuyên song hiệp” Thường thị huynh đệ tiếng tăm lừng lẫy. Tướng mạo hai vị tuy có khác thường, nhưng võ công cao cường, chuyên hành hiệp trượng nghĩa nên trên khắp giang hồ ai ai cũng khâm phục.
Gã nói mấy câu này rất vừa lòng Hồ Phỉ. Chàng nghĩ thầm:
– Chàng thư sinh kia biết nói mấy câu này thì nhân phẩm không phải tầm thường. Ta phải giao kết với y mới được.
Cáp Xích hỏi:
– Văn lão gia đã chẳng gọi chúng là “Hắc Võ Thường, Bạch Vô Thường” đó sao? “Hắc Vô Thường” và “Bạch Vô Thường” mà không phải là ác quỷ ư?
Thư sinh đáp:
– Hai vị đó họ Thường. Còn tên một vị có chữ “Hách”, một vị có chữ “Bá”. Vì thế mà các bậc bằng hữu tiền bối gọi đùa là “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường”. Cái ngoại hiệu đó nếu chẳng phải là bậc tiền bối nổi danh thì không thể tùy tiện mà xưng hô được.
Một người trợn mắt la lối, một người dùng lời văn nhã giải thích. Bên kia Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng đã động thủ với nhau.
Đừng xem Tang Phi Hồng vừa rồi bị Nghê thị huynh đệ bức bách mà cho rằng cô chỉ có đón đỡ né tránh chứ không phản kích được. Thực ra võ công hai người hợp kích của Song Tử môn rất quái dị. Bây giờ cô trao đổi chiêu số với Thượng Quan Thiết Sinh chẳng hề rơi vào thế hạ phong chút nào. Thượng Quan Thiết Sinh coi bề ngoài tựa hồ tay không, nhưng thực ra trong tay lão cầm cây dọc tẩu bằng thép đúc, trở thành vũ khí dùng để điểm huyệt. Huyền chỉ môn sở trường về đánh vào ba mươi sáu đại huyệt, nhưng thân pháp của Tang Phi Hồng linh hoạt, thủy chung Thượng Quan Thiết Sinh vẫn không điểm trúng được. Mấy lần lão để lộ sơ hở bị cô vung chân đá trúng.
Lại nghe lão rít một hơi thuốc sòng sọc, rối nhả khói mịt mù, ống dọc tẩu bị lão rít một hơi dài, dần dần biến thành màu đỏ. Té ra trong ống có giấu than tinh chất, khi lão hít hơi vào rồi phun ra khiến ống dọc tẩu từ từ nóng đỏ lên. Sau một lúc như vậy, cái dọc tẩu bình thường biến thành một thứ khí giới cực kỳ lợi hại. Lão mới đánh tới bên người cô, Tang Phi Hồng đã cảm thấy tay và mặt mày nóng ran, gấu quần cô bị cháy xém rồi. Trong lúc cô đang hoang mang, thủ cước rối loạn thì đột nhiên bị Thượng Quan Thiết Sinh phun một làn khói trắng vào mặt. Tang Phi Hồng cảm thấy đầu óc choáng váng, người cô lảo đảo rồi ngã lăn ra.
Nguyên trong thuốc của Thượng Quan Thiết Sinh có hòa một loại thuốc mê cực mạnh. Một là lão hút quen rồi, hai là trong mũi đã có thuốc giải, nên không sao.
Gã thư sinh đối thoại với Cáp Xích hòa thượng chẳng lý gì đến chuyện đánh nhau bên cạnh, nhưng đột nhiên gã ngửi thấy mùi khác lạ, biết là một thứ mê hương của phe hắc đạo, bất giác nổi cơn thịnh nộ. Gã liếc mắt nhìn thấy Thượng Quan Thiết Sinh dùng cây dọc tẩu đỏ hồng để điểm huyệt vào gối Tang Phi Hồng. Xèo một tiếng! Khói đen bốc lên mùi khét lẹt. Quần của cô đã bị cháy thủng một lỗ. Tang Phi Hồng bị thương rú lên một tiếng. Thượng Quan Thiết Sinh lại toan đánh xuống hông cô một đòn nữa.
Thư sinh giận dữ quát lớn:
– Dừng tay!
Thượng Quan Thiết Sinh sửng sốt. Thư sinh vừa cong lưng một cái đã lột được đôi giày của Cáp Xích hòa thương, rồi xoay lại kẹp lấy cây dọc tẩu đỏ hồng của Thượng Quan Thiết Sinh. Thân thủ của thư sinh nhanh như điện chớp.
Cáp Xích hòa thượng hoảng kinh, la lên:
– Ngươi… ngươi tụt giày ta làm chi?
Lão la chưa dứt tiếng thì thư sinh đã dùng đế giày kẹp được cái dọc tẩu bằng sắt đỏ hồng. Gã xoay mình lại phía sau Thượng Quan Thiết Sinh. Tiếp theo mấy tiếng xèo xèo, tay áo Thượng Quan Thiết Sinh đã bị cháy. Tay mặt hắn đau quá phải buông ra.
Thư sinh vất cả đôi giày và dọc tẩu ra ngoài, vọt tới chỗ Tang Phi Hồng, thấy cô hai mắt nhắm nghiền, hôn mê bất tỉnh.
Hai tiếng chát chát vang lên, đôi giày của Cáp Xích rớt xuống bàn tiệc. Nước canh bắn tung tóe. Dọc tẩu bay về phía Quách Ngọc Đường, kình lực vẫn còn rất mãnh liệt. Quách Ngọc Đường rú lên một tiếng:
– Úi chao!
Lão muốn tránh nhưng dọc tẩu bay tới rất nhanh, lại quá đỗi đột ngột nên nhất thời không sao né kíp, đành trợn mắt nhìn ống tẩu đỏ hồng bay đập vào trước mặt. Hồ Phỉ đưa đôi đũa lên, vận kình lực ra đầu đũa kẹp lấy. Những diễn biến cao thâm khôn lường khiến quân hào trong đại sảnh đều ngơ ngác một lúc rồi hoan hô vang dậy.
Vị thư sinh nhìn Hồ Phỉ gặt đầu mỉm cười để tạ ơn chàng đã giúp mình tránh khỏi việc vô ý đả thương người. Gã quay lại chau mày nhìn Tang Phi Hồng không biết giải cứu bằng cách nào liền quay sang Thượng Quan Thiết Sinh quát:
– Nơi đây quần hào tỷ thí võ nghệ mà lão lại dùng thuốc mê là cớ làm sao? Mau lấy thuốc giải ra đây!
Thượng Quan Thiết Sinh vừa bị thư sinh đoạt dọc tẩu, biết gã xuất thủ cực kỳ thần tốc, trong tay lão lại không có bình khí nên không dám ương bướng, chỉ cất giọng ầm trầm hỏi:
– Ai dùng thuốc mê? Con nha đầu này định lực kém quá, xoay chuyển mấy vòng rồi ngất xỉu còn trách ai được?
Mọi người bàng quan không rõ chân tướng, nên chẳng biết ai phải ai trái. Bỗng thấy một phụ nhân đứng tuổi lưng còng từ mé tây tiến ra, tay cầm một chung rượu, mụ hớp một hớp rồi phun vào mặt Tang Phi Hồng.
Thư sinh hỏi:
– Ủa! Cái này… cái này là thuốc giải ư?
Phu nhân kia không đáp, lại phun thêm một búng rượu nữa, mụ phun đến lần thứ ba thì Tang Phi Hồng dần dần hồi tỉnh. Trong lúc nhất thời cô chưa hiểu đầu đuôi ra sao.
Thượng Quan Thiết Sinh hỏi:
– Ha ha! Con nha đầu chẳng đã tỉnh lại rồi ư? Sao ngươi dám nói càn là ta dùng thuốc mê? Ở trong phủ Phúc đại soái nghiêm trang thế này, nói năng phải cẩn thận.
Thư sinh xoay tay lại tát hắn một cái rồi quát:
– Trước hết hãy đánh tên gian đồ này một phát đã.
Thượng Quan Thiết Sinh cúi đầu thấp xuống, phát chưởng đánh không trúng.
Thư sinh ra tay rất xảo diệu, mà Yên Hà tản nhân né tránh cũng rất linh động.
Tang Phi Hồng vừa tỉnh, đưa tay lên dụi mắt, ngay lập tức nhảy xổ tới vung tay trái đánh vào ngực Thượng Quan Thiết Sinh, miệng quát mắng:
– Ngươi đã phun khói độc vào mặt ta!
Thượng Quan Thiết Sinh nghiêng mình tránh khỏi, trợn mắt nhìn phụ nhân trung niên, hắn vừa kinh hãi vừa tức giận, tự hỏi:
– Sao mụ này giải được thuốc mê độc môn của ta? Giữa ta với mụ vốn không thù oán, sao mụ lại rỗi hơi can thiệp vào việc của người khác vậy?
Tang Phi Hồng nhìn thư sinh, gật đầu nói:
– Đã tạ tướng công đã ra tay tương trợ.
Thư sinh trỏ vào phụ nhân, nói:
– Chính nữ hiệp đây đã cứu tỉnh cô đó.
Phụ nhân lạnh lùng nói:
– Không phải ta cứu cô đâu.
Mụ xoay tay đón lấy đôi đũa trong tay Hồ Phỉ, kẹp ống dọc tẩu bằng thép trao vào tay Thượng Quan Thiết Sinh, cất tiếng khàn khàn, nói:
– Lần này thì nhớ giữ cho chắc.
Gã thư sinh, Tang Phi Hồng, Thượng Quan Thiết Sinh đếu hồ đồ chẳng hiểu phụ nhân đứng về phe nào. Mụ đã cứu tỉnh Tang Phi Hồng, lại giao trả dọc tẩu lại cho Thượng Quan Thiết Sinh. Chẳng lẽ mụ là hảo nhân ba phải chỉ biết làm việc tốt mà không phân biệt phải trái?
Mọi người thấy mụ mái tóc hoa râm, da mặt vàng ủng, thể chất suy nhược, không có gì ra vẻ là người biết võ công. Sau một lúc, mụ xoay mình về lại chỗ ngồi. Phụ nhân này chính là Trình Linh Tố đã cải trang. Nên biết nếu không phải là cao đồ của Độc Thủ Dược Vương thì chỉ trong khoảnh khắc quyết chẳng thể giải được thuốc mê độc môn của Thượng Quan Thiết Sinh.
Cáp Xích lại luôn miệng la lối:
– Trả lại giày ta! Trả lại giày ta!
Nhưng mọi người trong lòng đều có những ý nghĩ riêng, chẳng ai lý gì đến lão. Cáp Xích tức quá đưa tay ra nắm lấy sau lưng thư sinh, quát hỏi:
– Có trả giày ta không thì bảo?
Thư sinh xoay mình né tránh, cười đáp:
– Đại hòa thượng! Giày của đại hòa thượng cháy mất rồi!
Cáp Xích chân không, rất đỗi ngượng ngùng, chạy lại bàn tiệc để tìm thì thấy đôi giày đã ướt đẫm, cả trong lẫn ngoài đều dính đầy dầu mỡ. Nhưng không đi giày cũng không xong, nên lão miễn cưỡng xỏ giày vào chân rồi quay lại tìm gã thư sinh để trút giận. Không ngờ chẳng thấy bóng gã đâu nữa, chỉ thấy Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng đang tỷ đấu.
Lão chạy quanh mấy vòng không tìm thấy thư sinh đâu đành quay về ngồi lại trên cỗ ghế thái sư, miệng lẩm nhẩm thóa mạ:
– Con bà nó! Bữa nay thật là xui quá. Đã gặp một cặp quỷ vô thường lại chạm trán một tên quỷ tú tài.
Lão chửi bới một hồi không ngớt miệng. Lão nhìn thấy Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng càng đánh càng hăng, khó phân thắng bại trong chốc lát, thì muốn im tiếng, nhưng cảm thấy đôi giày dưới chân dầu mỡ rất khó chịu nên không nhịn được, lại ngoác miệng ra chửi tiếp.
Đột nhiên lão nghe mọi người nổi lên cười ha hả, liền trừng mắt nhìn, không hiểu họ cười gì. Lão lại thấy mục quang mọi người ngó vào mình chằm chặp liền sờ mặt mũi rồi cúi xuống y phục thì thấy ngoài đôi giày dơ dáy, không còn chỗ nào khác lạ. Lão tức giận quát hỏi:
– Cười cái gì? Có gì mà cười?
Mọi người lại càng cười lớn hơn.
Cáp Xích bụng bảo dạ:
– Giỏi lắm! Lũ con rùa! Các ngươi cười thì mặc thây các ngươi, lão gia không thèm lý đến nữa.
Lão ngồi ngay ngắn trên ghế, nghĩ bụng mình chẳng có gì đáng để cười thì mọi người có cười một lúc rồi tự nhiên sẽ hết cười. Nào ngờ tiếng cười trong đại sảnh mỗi lúc càng vang dội. Cả Tang Phi Hồng đang chiến đấu kịch liệt, thỉnh thoảng cũng quay đầu lại toét miệng ra cười.
Cáp Xích trợn mắt há miệng, lòng dạ rối bời chẳng hiểu mọi người cười cái gì. Lão nhìn ngang nhìn ngửa, tình trạng trông rất hoạt kê.
Cuối cùng Tang Phi Hồng không nhịn được, cười ồ lên và gọi:
– Đại hòa thượng! Sau lưng lão có cái gì vậy?
Cáp Xích nhảy ra khỏi ghế, rồi quay lại nhìn thì thấy thư sinh đang ngồi chễm chệ ngay sau lưng, vung chân múa tay, biểu diễn kịch câm để chọc mọi người cười.
Nguyên gã ngồi trên lưng ghế của Cáp Xích lẳng lặng làm đủ mọi trò hề.
Cáp Xích nổi giận đùng dùng, la lớn:
– Con quỷ tú tài kia! Ngươi sao lại phá ta?
Gã thư sinh so vai, đưa tay làm hiệu, ý nói:
– Tại hạ có làm gì đại sư đâu?
Cáp Xích lại quát hỏi:
– Ngươi ngồi chỗ này để làm gì?
Gã thư sinh ngón tay chỉ vào tám chiếc phế Ngọc Long bôi trên kỷ trà, ý nói:
– Tại hạ muốn đoạt một chiếc Ngọc Long bôi.
Cáp Xích lại hỏi:
– Ngươi định tranh đoạt ngự bôi ư?
Thư sinh gật đầu.
Cáp Xích hỏi:
– Đây còn ghế bỏ trống sao ngươi không ngồi?
Thư sinh trỏ quần hào trong sảnh đường, tay trái huơ lên liên tục, tay mặt nắm thành quyền đấm dứ vào đầu mình rồi so vai rụt cổ, ra chiều khiếp sợ.
Quần hào lại ầm lên cười.
Cáp Xích hỏi:
– Ngươi sợ người ta đánh không dám ngồi, sao lại ngồi trên lưng ghế của ta?
Thư sinh vung chân đá hờ một phát, lại phóng song chưởng đánh dứ một đòn rồi tụt xuống ngồi vào ghế, ý tứ của gã hiển nhiên là muốn nói:
– Tại hạ sẽ đá văng lão đi, để chiếm lấy cái ghế của lão.
Gã vừa tụt người ngồi xuống ghế, cả sảnh đường lập tức cười ồ cả lên. Phúc Khang An, An đề đốc thấy tỷ võ trường biến thành một nơi diễn trò, mất hết ý nghĩa ban đầu thì trong lòng đều rất khó chịu, nhưng lại thấy gã thư sinh điêu ngoa cổ quái, mà Cáp Xích lại ngây ngô thật thà, hai người tựa hồ như đang diễn một vở kịch hài rất ăn khớp nhau, cũng không nhịn được phải mỉm cười.
Lúc này hai đứa nhỏ song sinh đã được Vương kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt đưa vào hậu viện, nếu không thì chúng cũng phải vỗ tay cười ha hả.
Trình Linh Tố nhìn Hồ Phỉ khẽ nói:
– Gã kia khinh công cực kỳ xảo diệu.
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng thế! Thân pháp gã đặc biệt linh hoạt tạo thành một phái riêng, suốt đời đại ca chưa từng thấy ai được như thế!
Trình Linh Tố nói:
– Dường như gã cố ý đến đây quấy phá!
Hồ Phỉ thong thả gật đầu rồi không nói nữa.
Lúc này những người có kiến thức trong đại hội đã nhận ra gã thư sinh muốn chọc phá Cáp Xích, mà thực ra là để phá rối cuộc đại hội chưởng môn của Phúc Khang An, biến cuộc đại hội anh hùng đầy vẻ trang nghiêm thành nơi diễn trò hề.
Bỗng thấy thư sinh lấy ra một cây quạt, trỏ vào Cáp Xích nói:
– Cáp Xích hòa thượng! Hòa thượng không được vô lễ với ta! Trong cái quạt này có ẩn giấu tổ tông của hòa thượng đó!
Cáp Xích nghiêng đầu dòm ngó cây quạt, chẳng thấy có gì khác lạ, liền lắc đầu đáp:
– Không thể tin lời ngươi được!
Thư sinh đột nhiên mở quạt giơ lên cho lão thấy, vẻ mặt nghiêm nghị hỏi:
– Ngươi không tin ư? Vậy ngươi thử nhìn xem!
Mọi người trông cây quạt đều lăn ra mà cười. Nguyên trên mặt cây quạt giấy vẽ một con rùa cực lớn. Con rùa này nằm ngửa bụng hướng lên trời, đang thò cổ ra cố gắng lật mình lại mà lật không được, hình dáng trông rất hoạt kê.
Hồ Phỉ không nhịn được, vừa cười vừa nhìn Trình Linh Tố. Hai người xác định chắc chắn thư sinh đã chuẩn bị để đến đây quấy phá, bất giác ngấm ngầm sinh lòng bội phục.
Nên biết ở giữa chốn long đầm hổ huyệt, lại trước mặt anh hùng thiên hạ mà dám quậy phá như vậy, tất phải là một nhân vật đởm lược hơn người.
Cáp Xích nổi giận, gầm lên như sấm:
– Ngươi thóa mạ ta là con rùa ư? Tên tú tài thối tha này không muốn sống nữa rồi!
Thư sinh thản nhiên hỏi lại:
– Làm con rùa có chi là không hay? Rùa và hạc sống rất thọ, ta muốn nói lão sống lâu trăm tuổi đó mà.
Cáp Xích nói:
– Nói bậy! Con rùa là tiếng để thóa mạ người ta. Vợ đi ngủ trộm với trai tức là làm con rùa.
Thư sinh nói:
– Thất kính! Thất kính! Té ra đại hòa thương đã có vợ! Không hiểu hòa thượng đã lấy vợ mấy lần rồi?
Thang Bái thấy nét mặt Phúc Khang An mỗi lúc một thêm vẻ bực dọc muốn ra can thiệp thì đột nhiên Cáp Xích gầm lên một tiếng, vươn tay chụp vào lưng thư sinh.
Thư sinh không né tránh kịp bị lão xách bổng người lên ném mạnh xuống đất.
Nguyên Cáp Xích đại sư vốn là một tay cao thủ về đô vật ở Mông Cổ. Kỹ thuật đánh vật của người Mông Cổ gồm đủ ba môn tuyệt kỹ: đại trảo, trung trảo, tiểu trảo, mỗi thứ đều có một tuyệt kỹ lợi hại riêng.
Cáp Xích là chưởng môn Trung Trảo môn, sở trường về sử kình ở hông và bắp đùi. Lão mà chụp vào trước ngực hay sau lưng đối phương, thì trăm phát trúng cả trăm.
Thư sinh bị lão chụp ném ra, xem chừng dập cả mặt mày. Ngờ đâu sống lưng gã hướng xuống, vậy mà lúc chạm đất thì gã lại đứng hai chân xuống trước.
Chân gã như đặt lò xo, vừa chấm đất lập tức nảy lên. Gã cười hề hề nói:
– Lão vật ta không ngã đâu.
Cáp Xích nói:
– Lại đây!
Thư sinh đáp:
– Hay lắm! Lại thì lại!
Gã đi lại gần, đột nhiên vươn hai tay chụp lấy trước ngực lão.
Quần hào đều rất lấy làm lạ vì thân hình Cáp Xích cao lớn quá cỡ, còn thư sinh lại nhỏ bé gầy nhom, huống chi Cáp Xích lại chuyên nghề đô vật. Ai cũng nhìn thấy thư sinh tỷ đấu với lão, chẳng thi triển khinh công thì cũng dùng quyền chiêu xảo diệu để thủ thắng, mà sao lúc này gã lại đem sở đoản của mình đọ với sở trường của địch?
Cáp Xích liền vươn tay chụp đầu vai thư sinh, vung chân quét ngang khiến thư sinh ngã chúi người về phía trước. Gã ôm lấy cái cổ to bè của Cáp Xích, vung hai chân cùng lúc đá vào đầu gối lão. Hai chân Cáp Xích nhũn ra, người ngã quỵ tới trước.
Cáp Xích tuy thua mà chưa loạn, xoay tay chụp lấy sau lưng thư sinh, rồi đè lên người gã.
Thư sinh la lớn:
– Không được! Không được!
Gã luồn đầu xuống dưới nách lão thò ra, lè lưỡi làm trò quỷ.
Lúc này bọn cao thủ như Hồ Phỉ, Thang Bái, Hải Lan Bật đều hiểu rõ gã thư sinh giỏi về điểm huyệt, Cáp Xích tuyệt nhiên không phải là đối thủ của gã. Còn về môn đô vật, thư sinh cũng rất thuần thục. Tuy tý lực gã không bằng Cáp Xích, nhưng chân tay linh hoạt, mỗi khi lâm vào tuyệt cảnh vẫn có thể thoát ra được. Gã không muốn đánh té Cáp Xích vì đối với lão không có ý thù địch, mà chỉ muốn mượn lão để làm trò vui khiến cho Phúc Khang An và bốn đại chưởng môn phải mất mặt.
Bên kia Tang Phi Hồng thi triển công phu tiểu xảo cùng Thượng Quan Thiết Sinh tỷ đấu không ngừng. Ngũ Hồ Môn của cô ở phủ Phụng Dương chuyên về môn “Thiết liên công”. Mũi giày bọc sắt nhọn nếu đá trúng yếu huyệt ai là có thể lấy mạng ngay.
Thượng Quan Thiết Sinh phiêu bạt giang hồ đã mấy chục năm, làm gì không biết đến sự lợi hại của cô? Mỗi khi mũi giày cô đá tới, hắn vội nghiêng mình né tránh.
Thượng Quan Thiết Sinh là nhân vật thành danh trên chốn giang hồ, đấu với cô gái nhỏ tuổi gần trăm chiêu mà vẫn không chiếm được thế thượng phong chút nào. Lão thấy cô không ngớt tung ra các thế đá nào là “Uyên ương thối”, “Quải tử thối”, “Khuyến đàn thối”, “Câu đảo thối”, nào là “Xuyên tâm thối”, “Tràng tâm thối”, “Đơn phi thối”, “Song phi thối” mỗi lúc một mau lẹ thì thấy bồn chồn trong dạ. Lão xem ra muốn thủ thắng thì chỉ còn cách dùng lại mánh khóe cũ.
Lão nghĩ vậy bèn cười ha hả, nói:
– Đá ngang đá dọc thì làm được gì?
Lão ra vẻ không cần, lại cầm dọc tẩu rít một hơi. Tang Phi Hồng thấy lão hút thuốc vội tránh ngay đầu gió, để phòng lão thở hơi ra.
Sau khi Thượng Quan Thiết Sinh rít một hơi thuốc rồi qua lại mấy chiêu. Hai mắt lão từ từ trợn trừng lên, chiếu ra những tỉa hung quang như con chó điên. Đột nhiên lão gầm lên những tiếng “ô ô” rồi về nhảy phía Tang Phi Hồng.
Tang Phi Hồng thấy bộ dạng lão như vậy trong lòng đã khiếp hãi, không dám tỷ đấu trực diện mà vội lạng mình né sang một bên.
Thượng Quan Thiết Sinh chân không dừng bước, vẫn tiếp tục xông thẳng về phía trước, miệng vẫn gầm “ô ô”, nhưng lại nhảy về phía Phúc Khang An.
Vệ sĩ đứng bên cạnh Phúc Khang An là Tăng Thiết Âu ở Ưng Trảo Nhạn Hành môn chợt thấy Thượng Quan Thiết Sinh phạm thượng làm loạn, vội nhảy tới nắm cổ tay lão hất mạnh ra ngoài.
Thượng Quan Thiết Sinh loạng choạng suýt ngã. Lão trợn ngược hai mắt lên, xông tới bàn tiệc ở mé đông, nào chộp nào đánh loạn xạ cả lên như một kẻ điên khùng.
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn Trình Linh Tố, thấy cô tựa như cười mà không phải cười, chàng liền hiểu ngay vừa rồi cô cầm dọc tẩu đưa lại cho Thượng Quan Thiết Sinh là có dụng ý. Chỉ trong khoảnh khắc, cô đã bỏ một loại thuốc mê rất lợi hại vào dọc tẩu, dùng cách gậy ông đập lưng ông, khiến cho kẻ một đời dùng mê dược hại người là Thượng Quan Thiết Sinh trúng lại phải chính mê dược đó. Khi gã hít phải mê dược này vào phổi, thần trí lập tức mê loạn, như điên như khùng, cả viên thuốc giải gã ngậm trong miệng cũng vô tác dụng.
Những cao thủ ở bàn tiệc phía Đông thấy lão xông tới cũng ra tay đối phó. Thượng Quan Thiết Sinh đang lăn mình dưới đất, đột nhiên ôm lấy chân bàn, cắn lấy cắn để.
Quần hào thấy tình trạng này đều ngấm ngầm kinh hãi, không cười ra tiếng được. Chẳng ai hiểu vì lẽ gì mà gã đột nhiên biến thành kẻ điên khùng như vậy.
Trong lúc nhất thời mọi người đều yên lặng, không ai nói gì. Trong nhà đại sảnh chỉ nghe tiếng Cáp Xích thóa mạ “Tiểu súc sinh, tặc tú tài” không ngớt.
Thư sinh kia nói:
– Ta khuyên lão không nên chửi bới nữa!
Cáp Xích giận dữ quát:
– Ta thóa mạ ngươi thì đã sao? Tặc tú tài!
Thư sinh nói:
– Chắc lão không dám thóa mạ Phúc đại soái. Lão có giỏi thì thử mắng một tiếng Tặc đại soái nghe coi.
Câu mắng chửi vừa ra khỏi miệng, lão đã biết là không ổn, vội đổi giọng:
– Không… không phải là ta thóa mạ y… mà là… thóa mạ ngươi!
Thư sinh cười hỏi:
– Ta không làm đại soái, lão lại thóa mạ ta là “Tặc đại soái” để làm chi?
Cáp Xích mắc bẫy, sợ Phúc Khang An quở trách, trán nổi gân xanh nét mặt đỏ bừng, nhảy xổ lại. Thư sinh nhân lúc tâm thần lão hoang mang, nghiêng mình né tránh, nắm lấy bả vai phải của lão mượn sức đẩy một cái, cả thân hình to lớn của Cáp Xích bị bắn tung đi.
Thượng Quan Thiết Sinh đang điên cuồng ôm chiếc bàn ngoạm lấy ngoạm để thì người Cáp Xích rơi đánh bình một tiếng, đè lên lưng gã. Thượng Quan Thiết Sinh miệng cứ gào “ô ô”, ôm chặt lấy hai vai Cáp Xích, đưa miệng ngoạm vào cái đầu trọc của lão.
Cáp Xích bị đau vung tay muốn hất ra, không ngờ Thượng Quan Thiết Sinh đang lúc thần trí hồ đồ nên sức lực rất ghê gớm. Tý lực của Cáp Xích tuy mạnh hơn hắn nhiều mà không sao thoát ra được. Lão bị hắn cắn, máu tươi đầm đìa cả đầu. Lão đau quá thét lên ầm ĩ.
Thư sinh cười hô hố reo lên:
– Hay quá! Hay quá!
Gã vừa vỗ tay vừa lùi dần về phía tám chiếc Ngọc Long bôi đặt trên kỷ trà.
Tang Phi Hồng sửng sốt. Cô vốn không quen biết thư sinh, nhưng thấy gã đối với mình rất đỗi thân thiết nên không tự chủ được, liền gật đầu rồi theo gã vọt ra ngoài.
Sáu bảy tên vệ sĩ đứng bên Phúc Khang An lớn tiếng hô:
– Bắt gian tế! Bắt gian tế!
– Chặn lại ngay!
– Phải bắt bọn giặc ăn cắp ngự bôi!
Rồi chúng ùn ùn đuổi theo như ong vỡ tổ.
Quần hùng thấy gã thư sinh trước mặt đám đông mà dám lớn mật lấy ngự bôi đem đi đều không khỏi kinh hãi.
Có người chạy theo bọn vệ sĩ quát tháo:
– Để ngự bôi lại!
– Tên nào dám náo loạn vậy?
– Hắn ở môn phái nào?
Vừa rồi Thường Hách Chí và Thường Bá Chí từ trên nóc nhà nhảy xuống xông vào giải cứu Nghê thị huynh đệ ở Song Tử môn nên bây giờ trong phủ Phúc Khang An tăng cường thêm nhiều vệ sĩ đến canh gác. Bọn chúng nghe trong đại sảnh có tiếng quát tháo ầm ĩ, mấy gã vệ sĩ cạnh cửa liền đóng cửa lại.
An đề đốc hạ lệnh cho mấy chục tên vệ sĩ bao vây gã thư sinh và Tang Phi Hồng.
Gã thư sinh cười nói:
– Kẻ nào dám xông tới là ta đập chén ngọc, coi nó có bể không?
Bọn vệ sĩ không dám mạo muội xông vào, vì sợ gã liều mạng làm càn đập bể ngự bôi, nên chúng chỉ lăm le binh khí vây kín hai người vào giữa tưởng chừng gió cũng không qua lọt.
Tang Phi Hồng đến tham dự đại hội chưởng môn chỉ vì mục đích muốn coi náo nhiệt chứ chẳng có ý gì khác. Đột nhiên cô bị tai bay vạ gió, sắc mặt lợt lạt, tim đập thình thình cơ hồ nhảy ra khỏi lồng ngực.
Hồ Phỉ nhìn Trình Linh Tố thấy cô từ từ lắc đầu. Hai người tuy có hảo cảm với thư sinh, nhưng lúc này gã bị hãm trong trùng vây, nếu mình ra tay tương trợ thì chỉ uổng thêm hai mạng nữa chứ chẳng ích gì. Cục diện này không có cách nào chống chọi được nữa.
Hải Lan Bật rảo bước tiến lại. Lão mà ra tay thì thư sinh và Tang Phi Hồng đều không chống nổi.
Gã thư sinh nâng cao chén ngọc, cười hì hì, nói:
– Tang cô nương! Lần này chúng ta phải thay đổi chủ ý. Nếu cô ném ngọc bôi đi thì không chừng chén chưa chạm đất đã có người nhanh tay lẹ chân đón lấy. Chi bằng thế này, cô hãy nghe tại hạ hô: Một hai ba. Hễ hô đến ba thì bóp bể chén ngọc trong tay nhé.
Tang Phi Hồng không tự chủ được, khẽ gật đầu, nhưng trong bụng tự mắng thầm:
– Tại sao mình không quen biết gã mà việc gì cũng để gã sai khiến?
Hải Lan Bật tiến thêm một bước. Lão chờ sẵn, hễ chén ngọc liệng ra là nhanh tay đoạt lấy. Nhưng bây giờ nghe thư sinh nói câu này lão lập tức dừng bước lại.
Thang Bái cười khanh khách, tiến đến trước mặt thư sinh hỏi:
– Tiểu huynh đệ! Quý tính đại danh là gì? Cuộc đại hội anh hùng thiên hạ bữa nay, tiểu huynh đệ mới lộ diện có một lần mà đã làm chấn động võ lâm, nếu không lưu tên họ thì còn ra thế nào nữa?
Thư sinh cười đáp:
– Tại hạ một là đã chẳng vì danh, hai là cũng không vì lợi, nhưng thấy chiếc chén này đẹp mắt muốn đem về nhà thưởng thức chơi. Xem chán rồi lại đem đến trả.
Tháng Bái cười nói:
– Tiểu huynh đệ! Võ công của tiểu huynh đệ thật là đặc dị, lão ca ca đã cố tâm quan sát cả nửa ngày trời mà vẫn không nhận ra được là võ công môn phái nào. Tôn sư là vị nào vậy? Không chừng hai bên đã có mối giao tình với nhau… Con người trẻ tuổi giở trò đùa giỡn thì có gì đâu mà làm to chuyện. Phúc đại soái có khi nể mặt ca ca, không trách tội tiểu huynh đệ cũng nên. Vậy chúng ta lại nhập tiệc uống rượu quách.
Dứt lời lão quay về bọn vệ sĩ nói:
– Anh em lùi cả lại! Huynh đệ đây là vị hảo bằng hữu muốn đùa chơi một chút. Cứ lao sư động chúng thế này, chẳng phải để mọi người cười chúng ta quá đỗi hẹp hòi ư?
Bọn vệ sĩ nghe lão nói vậy liền lùi lại hai bước.
Thư sinh cười đáp:
– Lão Thang kia! Ta không mắc vào cạm bẫy của kẻ “nam mô một bồ dao găm” như lão đâu. Lão mà tiến lại thêm một bước nữa thì ta bóp nát chén ngọc ngay lập tức. Nếu lão quả thực đại lượng thì ta mượn chén ngọc đem về nhà ngắm nghía ba bữa, rồi ta đưa đến hoàn trả.
Mọi người đều nghĩ thầm:
– Ngươi mà đem chén ngọc ra khỏi cửa, còn biết đi đâu kiếm ngươi?
– Ngươi hẹn ba ngày đem trả ai mà tin được?
Mọi người đưa mục quang nhìn Thang Bái xem lão trả lời ra sao.
Thang Bái cười khanh khách hỏi:
– Cái đó có chi quan hệ? Tiểu huynh đệ! Có điều chiếc chén ngọc trong tay tiểu huynh đệ chưa định rõ danh phận về ai. Lão ca ca nhờ ân điển của Phúc đại soái, được ban thưởng trước một chén ngọc. Cái chén này lão ca ca sẽ cho tiểu huynh đệ mượn. Tiểu huynh đệ muốn thưởng ngoạn đến bao giờ cũng được. Khi nào tiểu huynh đệ chơi chán rồi thì cứ báo tin cho lão ca ca đến lấy về.
Lão nói rồi đến trước kỷ, trước hết lấy một mảnh gấm đoạn phủ lên tay trái, sau đó mới cầm ngọc bôi đặt trên mảnh gấm, trịnh trọng đi tới trước mặt thư sinh nói:
– Tiểu huynh đệ hãy cầm lấy!
Hành động này của lão hoàn toàn nằm ngoài sự tiên liệu của mọi người. Ai cũng tưởng lão nói ngon nói ngọt để thừa cơ đoạt lại ngọc bôi trong tay thư sinh, không ngờ lão lấy ngọc bôi cho mượn thật.
Thư sinh cũng rất đỗi ngạc nhiên, cười đáp:
– Ngoại hiệu của đại hiệp là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh”, quả nhiên khảng khái hơn người. Hai chén ngọc giống hệt nhau, hà tất phải đổi nữa. Ngọc bôi của Tang cô nương đây xem ra cũng là của Hải đại nhân cho mượn. Thang đại hiệp! Nhờ đại hiệp bảo lãnh cho vụ này. Này Hải đại nhân! Xin Hải đại nhân yên tâm. Sau ba bữa mà Tang cô nương không hoàn lại chén ngọc, xin đại nhân cứ hỏi Thang đại hiệp là ra.
Thang Bái cười đáp:
– Được lắm! Cứ đem trách nhiệm đổ lên đầu Thang mỗ, Thang mỗ sẽ hết sức đảm đương. Tang cô nương! Cô nương đừng bảo Thang mỗ làm khó dễ nhé!
Lão nói rồi tiến gần đến Tang Phi Hồng thêm một bước.
Tang Phi Hồng ấp úng:
– Ta… ta…
Cô nghếch mắt nhìn thư sinh không biết đáp thế nào cho phải.
Thang Bái đột nhiên động khuỷu tay đánh vào cổ tay phải của Tang Phi Hồng. Tang Phi Hồng kinh hãi ối lên một biếng, chiếc ngọc bội tuột ra bay tung lên. Giữa lúc ấy Thang Bái tay mặt chụp lại chiếc ngọc bôi để trên tấm gấm đoạn, thì tay trái vung mảnh gấm ra chụp được thiếu niên thư sinh. Ngón tay trỏ bên phải lão cách một mảnh gấm đoạn vẫn điểm trúng ba huyệt “Vân môn”, “Khúc trì” và “Hợp cốc” trên người gã.
Tiếp theo lão vươn tay đón lấy chung ngọc trên không rớt xuống, lại vung chân trái đá ngã Tang Phi Hồng. Tiện đà lão vung đầu ngón chân điểm vào đầu gối cô.
Huyệt “Vân môn” ở bả vai, Khúc trì ở khuỷu tay, “Hợp cốc” ở ngón cái, gã thư sinh bị điểm ba huyệt đạo từ vai đến đầu ngón tay đều tê bại không còn sức, muốn bóp vỡ chén ngọc cũng không được nữa.
Mấy cử động này mau lẹ dị thường như trò ảo thuật. Quần hùng chưa ai kịp nhìn rõ mà Thang Bái đã đánh ngã hai người, tay phải cầm ba chén ngọc bôi đặt lại trên kỷ trà. Đợi đến khi lão cười hì hì ngồi vào ghế thái sư, quần hào mới cất tiếng hoan hô vang dội.
Quách Ngọc Đường sờ hàm râu, ca ngợi không ngớt lời:
– Chỉ trong chớp mắt đã đánh ngã hai người là một việc cực khó. Khó hơn nữa là ba chiếc ngọc bôi lại ở trong tay ba người, chỉ xuất thủ sai một ly thì bất kỳ là ai cũng làm hỏng các chiếc ngọc bôi, khiến cho đại hội kém phần hoàn mỹ. Võ công Thang đại hiệp cao thâm khỏi cần phải nói, về đởm lược của lão nhân gia lại càng đáng phục. Trình lão đệ! Lão đệ nghĩ có đúng không?
Hồ Phỉ gật đầu đáp:
– Thật là hiếm có!
Màn kịch vừa rồi diễn ra chớp nhoáng như sét đánh khiến chàng bất giác phấn khởi hùng tâm, tự nhủ:
– Lão họ Thang quả nhiên tài nghệ bất phàm. Nếu có cơ duyên ta phải cùng lão tỷ đấu một phen.
Chàng lại tự nhủ:
– Gã thiếu niên thư sinh kia và Tang cô nương lỡ tay bị bắt, dù có bảo toàn được tính mạng cũng phải chịu hành hạ khổ sở. Ta phải tìm cách gì cứu họ mới được.
Lúc này bọn vệ sĩ đã lấy dây thừng cột thư sinh và Tang Phi Hồng đẩy đến trước mặt Phúc Khang An để chờ hắn phát lạc.
Phúc Khang An vẫy tay truyền lệnh:
– Hãy để chúng sang một bên rồi từ từ sẽ tra hỏi sau để khỏi cản trở hứng thú của các vị anh hùng. An đề đốc! Đề đốc mời các vị tiếp tục tỉ đấu đi.
An đề đốc dạ một tiếng rồi truyền lệnh cho quần hào tiếp tục tỉ thí.
Hồ Phỉ thấy bọn người này đấu lui đấu tới mà chưa thấy ai là người kiệt xuất.
Chàng mải nghĩ tới hai đứa con của Mã Xuân Hoa không hiểu sao chúng lại bị đoạt về, không rõ Mã Xuân Hoa có gặp nguy nan gì không, nên chẳng còn tâm trí đâu mà xem người ta tỷ thí nữa.
Đã có hơn mười người tỷ đấu qua lại. Bỗng nhiên ngoài cửa có vệ sĩ lớn tiếng hô:
Quần hào nghe nói đều ngạc nhiên. Còn mọi người ở phủ Phúc Khang An thì từ trên xuống dưới đã nghe quen rồi, biết Hoàng thượng chăm lo việc triều chính, dù nửa đêm thánh chỉ cũng ban ra, chẳng có chi là kỳ lạ.
Phúc Khang An sai bày hương án. Hắn quỳ xuống trước thềm đang nhỏ mưa tí tách để tiếp thánh chỉ. Từ An đề đốc trở xuống ai cũng quỳ mọp. Hồ Phỉ trước tình trạng này cũng phải quỳ, nhưng chửi thầm trong bụng.
Bỗng nghe tiếng giày lẹp kẹp, năm người từ ngoài cửa lớn đi vào. Đi trước là một thái giám già. Phúc Khang An nhận ra lão là Lưu Chi Dư, thái giám ở cung Càn Thanh, đi sau là bốn tên túc vệ trong nội cung.
Lưu Chi Dư đến trước cửa sảnh đường chứ không tiến vào. Lão mở thánh chỉ ra tuyên đọc:
– Binh bộ thượng thư Phúc Khang An nghe chỉ! Vừa rồi bắt được đôi gian tặc một nam một nữ. Vậy lập tức đưa vào cung. Khâm thử!
Phúc Khang An liền ngơ ngác tự hỏi:
– Tin tức của Hoàng thượng sao lại mau lẹ đến thế? Ngài đòi đưa hai tên gian tặc vào cung làm gì?
Hắn ngửng đầu ngó thấy đầu mắt lão thái giám có chiều khác lạ liền nghĩ ngay tới ngày thường bọn thái giám truyền chỉ nhất định vào đứng chính giữa đại sảnh, quay mặt ra ngoài về hướng nam để tuyên đọc, đó là thủ tục tuyên chỉ trong triều. Gã Lưu Chi Dư này là một thái giám già đời trong cung quyết không thể vi phạm quy củ này được, như vậy bên trong tất có duyên cớ.
Hắn liền đứng dậy nói:
– Lưu công công! Mời công công vào ngồi dùng trà và coi các vị anh hùng hảo hán phô trương thân thủ.
Lưu Chi Dư vui vẻ đáp:
– Hay lắm! Hay lắm!
Đột nhiên lão chau mày, nói tiếp:
– Đa tạ Phúc đại soái. Lão phu không uống trà được. Hoàng thượng đang chờ hồi báo.
Phúc Khang An nhìn tình cảnh này liền tỉnh ngộ ngay. Hắn biết lão bị bốn tên thị vệ ở phía sau uy hiếp để giả truyền thánh chỉ. Bốn tên vệ sĩ kia nếu không phải bạn đồ thì cũng là người ngoài giả trá.
Hắn thản nhiên như không, mỉm cười hỏi:
– Mấy vị đại ca đi theo công công là ai vậy? Sao trông mặt có vẻ khẩn trương thế?
Lưu Chi Dư cười khổ, ấp úng:
– Cái đó… Cái đó… hà hà! … Họ ở tỉnh ngoài mới đến mà.
Phúc Khang An liền hiểu rõ ngay. Hắn biết bọn túc vệ trong nội cung ngày đêm cận kề hoàng thượng, nếu không phải là người thân quyền quý thì cũng là con em của các vị quan đã nhiều đời lập được công huân chứ bọn học võ từ tỉnh ngoài đến làm sao đảm đương được.
Hắn tự nhủ:
– Bây giờ phải ly khai bốn tên kia ra thì Lưu Thái giám mới khỏi bị chúng uy hiếp.
Hắn liền nói:
– Đã vậy thì bốn vị thị vệ đại ca dẫn tặc nhân đi cho!
Hắn vừa nói vừa trỏ vào thư sinh và Tang Phi Hồng bị trói để một bên.
Một trong bốn thị vệ tiến lại toan dắt tay thư sinh, Phúc Khang An hỏi:
– Hãy khoan! Quý tính của vị thị vệ đại ca này là gì?
Theo thường tình, Phúc Khang An vẫn giữ khách khí với bọn thị vệ, gọi chúng là “Thị vệ đại ca”, nhưng quân hàm thị vệ so với hắn rất thấp kém, tất nhiên phải bước tới thỉnh an.
Tên thị vệ này vẫn không lý gì đến hắn, chỉ đáp:
-Thuộc hạ họ Trương.
Phúc Khang An lại hỏi:
– Trương đại ca vào cung đã bao lâu rồi, sao ta không gặp bao giờ?
Tên thị về kia chưa kịp đáp, thì một tên thị vệ khác dáng người to béo đứng sau Lưu Chi Dư đột nhiên vung tay phải lên, ánh ngân quang lấp loáng, một mũi ám khí bắn tới các chiếc Ngọc Long bôi đặt trên kỷ trà. Món ám khí này bắn đi rất mạnh, tưởng chừng như sắp đánh bể một loạt tám chiếc ngọc bôi đến nơi.
Bọn vệ sĩ quát tháo om sòm. Những tay hảo thủ về ám khí đều đồng loạt phóng ra, nào tụ tiễn, phi tiêu, nào thiết liên tử, thiết lê tật, bảy tám thứ bay nhắm phía chiếc ngân thoa bắn tới. Tên thị vệ to béo lại vung hai tay bắn liền một lúc ra bảy tám món ám khí.
Chỉ nghe những tiếng “keng keng” vang lên không ngớt, đánh rớt tất cả những ám khí của bọn thị vệ xuống đất. Cây ngân thoa phóng ra trước bay tới kỷ trà liền móc lấy một chiếc Ngọc Long bôi. Lạ thay, chiếc ngân thoa đang ở trên không bỗng tự động chuyển hướng, móc được chiếc Ngọc Long bôi rồi lại chênh chếch bay vòng trở về đến tay tên thị vệ to béo.
Quần hào đứng trước tình trạng quái dị này đều sửng sốt.
Hồ Phỉ thấy thần kỹ bắn ám khí của tên thị vệ to béo quá tuyệt diệu cũng không nhịn được, reo lên:
– Triệu tam ca!
Nguyên tên thị vệ to béo đó chính là Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn hóa trang. Còn tên thị vệ đi cứu thư sinh cũng là người trong Hồng hoa hội tên là Thạch Song Anh ở Quỉ Kiến Sầu. Những người này đã chờ ở bên ngoài phủ Phúc Khang An để tiếp ứng.
Họ thấy thư sinh lỡ tay bị bắt, thì gặp lúc thái giám Lưu Chi Dư qua, liền bắt lấy để giả truyền thánh chỉ. Nhưng các hào sĩ giang hồ này không hiểu quy củ ở chốn cung đình, nên vừa vào phủ Phúc Khang An đã bị lòi đuôi.
Triệu Bán Sơn thấy vẻ mặt và lời nói của Phúc Khung An ra chiêu ngờ vực, thì không chờ hắn hạ lệnh bắt người đã hạ thủ trước. Lão ném một mũi “Phi yến ngân thoa” đoạt một chiếc Ngọc Long bôi. Mũi “Phi yến ngân thoa” này lão đã dày công chế tạo theo hình cánh cung, khi ném ra rồi có thể bay quanh trở lại.
Triệu Bán Sơn vừa đoạt được chén ngọc đột nhiên nghe người hô “Triệu tam ca” bằng thanh âm lộ vẻ chân tình chẳng khác người thân. Lão liền giương mắt lên nhìn về phía phát ra thanh âm mà chẳng thấy ai quen thuộc.
Nên biết lão chia tay Hồ Phỉ lâu năm, thân hình diện mạo chàng đã biến đổi rất nhiều. Đừng nói chàng đã hóa trang, dù có để nguyên chân tướng, khi gặp nhau chưa chắc lão đã nhận ra được.
Triệu Bán Sơn đang ở nơi đầm rồng hang cọp, liếc nhìn không thấy người quen, chẳng dám chần chờ nhìn đến lần thứ hai. Lão lại giơ hai tay lên, bỗng nghe những tiếng veo véo không ngớt. Cứ mỗi tiếng véo là một ngọn đèn tắt ngóm. Chỉ trong khoảnh khắc cả đại sảnh tối om như mực.
Bỗng nghe tiếng người hô:
– Phúc Khang An! Coi tiêu đây!
Tiếp theo là hai người rú lên thê thảm, hiển nhiên là đã trúng ám khí.
Lại nghe những tiếng binh khí đụng chạm nhau chan chát. Thì ra có hai tên vệ sĩ chặn bắt Thạch Song Anh.
Triệu Bán Sơn hô lớn:
– Đi thôi! Chớ có ham đánh!
Lão biết mình ở nơi hiểm địa, mà xung quanh cao thủ lại đông như kiến, bắn không trúng đích liền rút đi ngay. Còn việc cứu người rồi sẽ tính sau. Bây giờ nhân lúc đêm tối hỗn loạn dễ thoát thân, để lỡ thời cơ thì chính mình cũng sẽ bị hãm vào vòng nguy hiểm.
Hiện giờ Thạch Song Anh đã bị cao thủ võ sĩ bắt trói, phía sau lại có hai người tấn công đến thì đến mình cũng chưa chắc đã tẩu thoát được, nói chi đến chuyện cứu người?
Ngay từ lúc gã thư sinh bị Thang Bái bắt, Hồ Phỉ đã tính cách giải cứu, nhưng trong đại sảnh cường địch đông quá. Ngay mỗi người trong bốn đại chưởng môn ngồi trên ghế thái sư chàng cũng chưa nắm chắc được phần thắng, nên khi đột nhiên thấy Triệu Bán Sơn phóng ám khí tắt đèn đuốc, chàng không chần chờ gì nữa vọt đến bên thư sinh.
Lúc Thang Bái điểm huyệt gã. Hồ Phỉ đã nhìn rõ lão điểm vào ba huyệt “Vân môn”, “Khúc trì”, “Hợp cốc”. Chàng liền cúi xuống vỗ vào huyệt “Thiên tông” ở sau vai gã, lập tức giải khai được huyệt “Vân môn”. Chàng toan nắm huyệt “Thiên trì” thì đột nhiên cảm thấy một luồng chưởng phong tập kích trên đầu. Chàng liền xoay tay trái lên đánh trả một chưởng. Chàng thấy chưởng phong của đối phương xô tới rất gấp.
Bỗng nghe đánh chát một tiếng khe khẽ, hai chưởng đụng nhau, Hồ Phỉ bị chấn động không tự chủ được, phải lùi lại nửa bước. Chàng kinh hãi nghĩ thầm:
– Chưởng lực người này thật là hùng hậu!
Chàng phải vận toàn lực để chống cự, chỉ cảm thấy nội lực đối phương ào tới liên miên không ngớt. Hồ Phỉ ngấm ngầm kêu khổ:
– Cuộc tỉ thí chưởng lực này không thể trong khoảnh khắc mà phân thắng bại. Lát nữa đèn thắp lên thì mình không dễ gì mà thoát thân được.
Hai tay đấu chưởng, trong lòng xoay chuyển ý nghĩ đều là việc xảy ra trong chớp mắt.
Bỗng nghe thư sinh khẽ nói:
– Đa tạ các hạ đã tương trợ!
Rồi gã nhảy vọt lên. Gã vừa tung người lên, Hồ Phỉ lập tức tỉnh ngộ:
– Ta mới giải huyệt “Vân môn” cho gã, còn hai huyệt “Khúc trì” và “Hợp cốc” té ra được người đối chưởng với ta giải khai. Vậy y là bạn chứ không phải là thù.
Y nghĩ tới điểm này thì đồng thời đối phương cũng nghĩ:
– Ta mới giải huyệt “Khúc trì” và “Hợp cốc”, còn huyệt “Vân môn” chưa giải. Té ra đã được người đối chưởng với ta giải khai rồi. Vậy y là bạn chứ không phải là thù.
Hai bên tâm niệm tương đồng liền thu chưởng lực lại.
Thiếu niên thư sinh cúi xuống cắp Tang Phi Hồng vừa rảo bước chạy đi vừa hô lớn:
– Phúc Khang An bị ta giết rồi! Xin các vị hảo hán phái Thiếu Lâm đánh mặt đông, hảo hán Võ Đương đánh mặt tây! Chúng ta hãy ra tay hạ sát, hạ sát!
Trong bóng tối, chỉ nghe tiếng khí giới vang lên. Hỗn loạn khiến trong lòng ai nấy cũng hoang mang. Bọn thị vệ nghe Phúc Khang An bị hại đều sợ toát mồ hôi.
Lại nghe người hô “Hảo hản Thiếu Lâm đánh mặt đông, hảo hán Võ Đương đánh mặt tây” thì càng kinh hãi hơn, nghĩ rằng hai phái lớn này người đông, chẳng lẽ họ phản loạn cả rồi?
Bỗng nghe thanh âm của Chu Thiết Tiêu hô lớn:
– Phúc đại soái vẫn bình yên, đừng mắc lừa bọn tặc tử.
Khi bọn vệ sĩ thắp đèn lửa lên thì bọn Triệu Bán Sơn, Thạch Song Anh, thiếu niên thư sinh và Tang Phi Hồng đều không thấy đâu nữa.
Phúc Khang An vẫn ngồi trên ghế. Thang Bái và Hải Lan Bật đứng chắn ở phía trước hắn. Có hơn sáu chục tên vệ sĩ đứng dày đặc chung quanh như một bức tường người để bảo vệ hắn. Với cách phòng vệ nghiêm mật như thế này thì dù có hàng trăm hàng ngàn cao thủ đồng thời tập kích cũng chưa chắc đụng tới nửa sợi chân lông của hắn trong khoảnh khắc, chứ nói chi tới dăm ba tên thích khách lẻ tẻ? Cũng nhờ tất cả bọn vệ sĩ thủ hạ của hắn chỉ lo bảo vệ đại soái nên bọn Triệu Bán Sơn mới nhân đêm tối mà tẩu thoát. Nếu không thì bọn họ dù có võ công cao cường đến mấy cũng không dễ gì rút lui một cách bình yên được.
Mọi người thấy Phúc Khang An mỉm cười, thần sắc trấn tĩnh, cảnh ồn ào trong sảnh lập tức lắng dịu trở lại. Họ lại thấy chưởng môn phái Thiếu Lâm là Đại Trí Thiền sư và chưởng môn phái Võ Đương là Vô Thanh Tử vẫn ngồi yên trên ghế, mới biết gã thư sinh hô hoán chẳng qua là để rối loạn nhân tâm.
Phúc Khang An cười nói:
– Bọn tặc tử hô ngôn loạn ngữ, thiền sư và đạo trưởng bất tất phải để lòng.
An đề đốc tiến lại trước mặt Phúc Khang An nói:
– Ty chức bất tài để tặc tử trốn mất, xin đại soái giáng tội.
Phúc Khang An xua tay, cười đáp:
– Vụ này đều do ta mà ra, chứ nào phải vì các vị kém bản lĩnh. Ai nấy đều hết sức bảo vệ ta mà không lý gì đến bọn tiểu tặc.
Trong lòng hắn hết sức thỏa mãn, vì bọn vệ sĩ đều làm tròn trách nhiệm, ai nấy đều coi hắn làm trọng mà ra sức bảo vệ.
Phúc Khang An lại nói:
– Mấy tên tiểu mao tặc quấy rối một phen thì phỏng có chi đáng kể. Còn hai chiếc Ngọc Long bôi bị cướp đi thì, hừm, cứ để vị chưởng môn của phái nào đó sau này sẽ đoạt lại, đồng thời bắt cả hai tên tiểu tặc kia, chiếc Ngọc Long bôi sẽ thuộc quyền sở hữu của vị đó. Vụ này vừa đấu lực vừa đấu trí, so với cuộc tỷ võ ở đây, chẳng thú vị hơn ư?
Quần hào đều lớn tiếng hoan hô, ca ngợi cách an bài tuyệt diệu của Phúc đại soái.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nhau, trong lòng không khỏi bội phục Phúc Khang An giỏi tài ứng biến, đã chế lấp được cái xấu về việc để mất ngự bôi, mà còn gây mối họa tâm phúc cho Hồng Hoa hội. Trong võ lâm thiếu gì người háo danh sẽ nghĩ ra trăm phương nghìn kế để đoạt lại Ngọc long bôi. Bất luận thành công hay không, vụ này cũng gây thêm cho Hồng Hoa hội không ít cường địch.
Phúc Khang An nhìn An đề đốc nói:
– Mời các vị tiếp tục tỷ thí đi!
An đề đốc khom lưng “dạ” một tiếng, rồi quay ra dõng dạc tuyên bố:
– Phúc đại soái có lệnh, mời các vị anh hùng thiên hạ tiếp tục cuộc tỉ thí tài nghệ để xem ba chiếc ngự bôi còn lại thuộc về tay ai?
Lão đã nói “Phúc đại soái có lệnh” nhưng lại dùng thêm chữ “mời” để tỏ vẻ tôn trọng quần hào, dùng lễ chủ khách mà tiếp đãi
Phúc Khang An dặn dò:
– Dẹp bớt một chiếc ghế đi.
Một tên vệ sĩ tiến lên dẹp một cái ghế thái sư để trống. Giữa đại sảnh bây giờ còn lại ba cái ghế trống. Đến lúc này mọi người mới phát giác chưởng môn phái Côn Luân đao là Tây Linh đạo trưởng đã bỏ ghế ngồi không biết đi từ lúc nào. Ai cũng nghĩ lão thấy võ công của các nhà các phái đều cao hơn mình quá nhiều. Để bị đẩy xuống khỏi ghế, sao bằng nhường chỗ trước bỏ đi để khỏi phải phơi bày cái kém cỏi của mình ra.
Lúc này Hồ Phỉ trăm mối ngổn ngang, trong lòng ngờ vực tự hỏi: Hai đứa con song sinh của Phúc Khang An sao lại bị hắn đoạt trở lại? Mình mạo xưng chưởng môn Hoa Quyền môn đã bị hắn phát giác chưa? Đối phương cứ từ từ chưa phanh phui ra, phải chăng là đã ngấm ngầm bố trí cạm bẫy cực kỳ lợi hại? Ta vừa giải huyệt cho thư sinh đã chạm chưởng lực của một người trong bóng tối. Nội lực của người đó hùng hậu không phải tầm thường mà cũng trợ giúp thư sinh, dĩ nhiên là một trong đám quần hào tại đại sảnh, nhưng không hiểu y là ai?
Chàng biết rõ mình còn ở trong Phúc phủ lúc nào là tăng thêm phần hung hiểm lúc ấy, nhưng một là trong lòng còn nhiều mối hoài nghi chưa giải thích được, hai là Phụng Thiên Nam cũng ở đây, khó khăn lắm mới tìm dược hắn, không lẽ lại để hắn đào tẩu? Ba là chàng muốn coi ba chiếc Ngọc Long bôi còn lại sẽ về tay chưởng môn phái nào.
Thực ra đây chỉ là những nguyên nhân nghĩ trong đầu, còn nguyên nhân chính chàng chỉ ngấm ngầm nhắc nhở trong lòng: đó là Viên Tử Y thế nào cũng đến dự hội. Chàng biết nàng sẽ tới nên không chịu bỏ đi. Dẫu có nguy hiểm tày trời cũng không làm chàng sợ hãi.
Lúc này trong đại sảnh có hai cặp tỷ võ. Bốn người đều sử binh khí. Hồ Phỉ vừa liếc qua đã biết bốn người này bản lãnh cao hơn những người đấu trước.
Chẳng bao lâu người sử Tam tiết côn bị thua lui xuống, lại có người khác sử Lưu tinh chùy bước ra. Tên võ quan báo danh lão là Lưu tinh hãn nguyệt Đồng Hoài Đạo ở phủ Thái Nguyên.
Hồ Phỉ nghĩ tới mấy tháng trước cùng Chung thị Tam hùng giao đấu đã nghe bọn họ nhắc tới tên của Lưu tinh hãn nguyệt Đồng lão sư. Bản lĩnh song chùy của Đồng Hoài Đạo quả nhiên cực kỳ thâm hậu. Chỉ hơn mười hiệp, lão đã đánh bại đối thủ. Tiếp theo hai người nữa tiến ra cũng không phải đối thủ của lão.
Các bậc cao thủ so tài, nếu không tỷ đấu bằng nội lực, chỉ cần chiết giải vài chiêu thì đã phân thắng bại. Tỷ đấu bằng binh khí thì việc thương vong so với tỷ đấu bằng quyền cước còn hung hiểm hơn nhiều.
Hai bên tỷ thí đã không có thâm cừu đại oán gì, phần lớn chỉ được nghe danh chứ không quen biết, nên ai thấy bản lãnh mình đã phân cao thấp hay kém một chút là rút lui ngay, chứ chẳng ai mạo hiểm đem tính mệnh ra để quyết sống mái ăn thua.
Trong mắt của Phúc Khang An, những tay võ học mèo quào cứ sợ bị tổn thương nên chỉ đánh mấy hiệp đã rút lui, xem không hứng thú bằng những tay đánh ác liệt như bọn Hoàng Hy Tiết, Tang Phi Hồng, Âu Dương Công Chính, Cáp Xích hòa thượng.
Những người võ công cao minh thấy rõ ràng các kẻ tỷ đấu càng về sau bản lĩnh càng cao cường, muốn thủ thắng không phải là chuyện dễ dàng. Không ít những vị chưởng môn ban đầu cũng muốn nhảy ra tỷ đấu, đến lúc này đều thay đổi chủ ý, quyết định tụ thủ bàng quan.
Lắm lúc hai người tỷ đấu xem ra quá tầm thường, chẳng có chi hay ho nhưng những tay cao thủ như Thang Bái, Hải Lan Bật cũng hoan hô, khiến bọn hậu bối không hiểu lý lẽ nếu chẳng trợn mắt há miệng thì cũng đứng ngây người như khúc gỗ, rồi hùa theo lên tiếng phụ họa, ra điều ta đây biết thưởng thức.
Tuy những người ra tỷ đấu đã hết sức cẩn thận, nhưng vào đấu trường rồi thì ai cũng mong thủ thắng mà khí giới lại không có mắt, cho nên có ba vị chưởng môn chết ngay đương trường, bảy người bị trọng thương.
Chỉ vì Phúc Khang An uy thế khiếp người, nên bọn đệ tử của những người bị tử thương nhất thời chưa dám phát tác. Nhưng những mối oan oan tương báo gây ra bao cuộc gió tanh mưa máu trong võ lâm về sau đều bắt nguồn từ bữa hôm nay.
Ba triều đại Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính đời nhà Thanh liên tiếp nổ ra những cuộc khởi nghĩa phản Thanh, hơn trăm năm không thể bình định hết được. Nhưng đến trung diệp đời Càn Long về sau mới rộ lên phong trào nhân sĩ võ lâm tự tàn sát lẫn nhau, không nghĩ đến chuyện phản Thanh nữa, Thanh triều mới khỏi mối lo này. Vụ này tuy có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính nảy mầm từ đại hội các chưởng môn nhân này.
Về sau trong võ lâm cũng có kẻ sĩ giàu kiến thức ra sức điều giải những mối hiềm khích, mà cũng không sao dập tắt hết được những mối thù oán giữa các môn phái. Những người không hiểu âm mưu sâu xa của Phục Khang An đều cho rằng vận khí nhà Mãn Thanh đang thịnh, khiến anh hùng thảo mãng tàn sát lẫn nhau, đó là ý trời muốn vậy.
Lưu tinh hãn nguyệt Đồng Hoài Đạo sử cặp lưu tinh chùy không đầy nửa giờ đã đả bại liên tiếp cao thủ chưởng môn của năm phái. Những chưởng môn của phái khác đâm sợ cặp chùy tấn công linh hoạt của lão nên không ai dám khiêu chiến nữa.
Giữa lúc ấy ngoài sảnh đường có một tên võ quan ngũ phẩm hấp tấp chạy vào, đến trước mặt Phúc Khang An khẽ bẩm báo mấy câu.
Phúc Khang An gật đầu. Tên võ quan kia liền ra cửa đại sảnh, hô lớn:
– Phúc đại soái mời Điền lão sư, chưởng môn phái Bắc Tông ở Thiên Long môn vào yết kiến.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nhau, lòng hơi chấn động, thầm nhủ:
– Hắn cũng đến rồi!
Lát sau Điền Quy Nông mình khoác trường bào, miệng mỉm cười thong thả tiến vào. Theo sau hắn có tám người cao có, lùn có. Hắn tới trước mặt Phúc Khang An khom lưng thỉnh an.
– Võ công Thiên Long môn lừng danh thiên hạ hằng trăm năm. Từ cuối đời nhà Minh đến giờ, bốn nhà Hồ, Miêu, Phạm, Điền cùng nổi tiếng ngang nhau, thời nào cũng đều có những tay cao thủ. Tên họ Điền này khí phách không phải tầm thường. Phúc đại soái đối với hắn có phần trân trọng khác hẳn những môn phái khác. Không hiểu hắn thực có tài kinh nhân hay không?
Mỗi phái đều chỉ có bốn người tham gia đại hội mà Điền Quy Nông lại đem theo tám tên tùy tùng, huống chi hắn còn khệnh khạng đến muộn.
Quần hào tuy bị chấn động bởi oai danh của hắn, nhưng trong lòng đều có ý bất bình.
Điền Quy Nông nhìn chưởng môn hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương gật đầu thi lễ, xem chừng không quen thuộc lắm, nhưng đối với Cam Lâm Huệ thất tỉnh Thang Bái, hắn tỏ vẻ cực kỳ thân thiện.
Thang Bái vỗ vai hắn, cười nói:
– Hiền đệ! Ca ca đây vẫn nhớ hiền đệ, nghĩ mãi không hiểu vì lẽ gì mãi đến giờ vẫn chưa thấy tới? Giả tỷ hiền đệ đến chậm không lấy được Ngọc Long bôi, thì một mình ta đem Ngọc Long bôi về sao tiện? Thiên Long môn của hiền đệ mà không được Ngọc bôi tất có một ngày kia, hiền đệ cao hứng tìm đến ta để tỷ đấu. Khi ấy ta chỉ còn nước hai tay dâng chén ngọc chứ còn nói gì được nữa, há chẳng hỏng việc ư?
Lão nói rồi thuật lại chuyện Phúc đại soái tổ chức tỷ võ để lấy ngự bôi cho hắn hay.
Điền Quy Nông cười nói:
– Tiểu đệ sao dám tỷ thí với đại ca? Thiên Long môn của tiểu đệ nếu được Phúc đại soái gia ân, lại thêm đại ca chiếu cố cho, để phô phang cái mặt xấu xa trước anh hùng trong thiên hạ là cũng đã quá lòng mong ước rồi.
Hắn nói rồi cả hai cùng cười rộ lên. Tuy lời nói có vẻ khiêm nhượng, nhưng xem thái độ thì hắn hiển nhiên xem Ngọc Long bôi đã là vật trong túi của mình rồi.
Thang Bái tỏ ra rất thân thiện với mọi người, nhưng thái độ đối với Điền Quy Nông khác hẳn. Nghe cách hai người xưng hô thì tựa hồ như họ đã kết nghĩa đệ huynh.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Tên họ Điền kia đã giao thủ với ta. Võ công hắn tuy cao hơn bọn người ở đây, nhưng chưa chắc đã bằng Thang Bái và Hải Lan Bật. Nếu bảo hắn nhất định đoạt được Ngọc Long bôi thì không khỏi xem thường anh hùng trong thiên hạ.
Chàng nhớ tới hành động đê hèn ám toán Miêu Nhân Phụng của hắn liền định bụng:
– Hắn không đoạt được Ngọc Long bôi thì chẳng nói làm chi, bằng chẳng may hắn đoạt được thì ta phải làm cho hắn mất mặt trước quần hùng.
Chàng đã giao thủ với Điền Quy Nông ở nhà Miêu Nhân Phụng, dùng đao pháp tổ truyền đánh hắn miệng hộc máu tươi phải chịu thua mà chạy, chưa kể ngày ấy chàng chưa được Miêu Nhân Phùng chỉ điểm, chưa lĩnh hội được những yếu quyết tinh diệu trong “Hồ gia đao pháp”, giờ đây nếu chỉ luận về đao pháp thì thiên hạ cơ hồ không ai thắng được chàng. Ngày đến hạng nhất lưu cao thủ như Miêu Nhân Phụng hay Triệu Bán Sơn cũng chẳng hơn chàng được, dĩ nhiên Điền Quy Nông khó lòng địch nổi.
Lúc Điền Quy Nông bước vào, cuộc tỷ thí trong sảnh đường dừng lại một lúc, bây giờ tiếng khí giới lại chạm nhau chan chát.
Điền Quy Nông ngồi trên ghế, tay cầm chung rượu, vẻ mặt rất ung dung nhàn nhã. Mắt hắn nhìn kẻ thắng, người bại chỉ mỉm cười, chẳng để vào lòng. Có lúc hắn trò chuyện phiếm mấy câu với Thang Bái.
Quần hùng đã nhận ra thái độ của hắn làm ra vẻ như mình là cao nhân bậc nhất không thèm tranh thắng với mọi người, những thực ra hắn muốn “dĩ dật, đãi lao”, dùng nhàn đánh mệt. Hắn định chờ đến lúc tối hậu, quần hào sức cùng lực kiệt, mới thi triển toàn lực đánh một đòn.
Lưu tinh hãn nguyệt Đồng Hoài Đạo ngồi trên ghế thái sư chờ lâu không thấy ai đến khiêu chiến, đột nhiên đứng dậy đi tới trước mặt Điền Quy Nông nói:
– Điền lão sư! Đồng mỗ muốn lãnh giáo những cao chiêu của lão sư!
Mọi người đều ngạc nhiên, vì từ lúc khai diễn cuộc đấu thì toàn những nhân vật thắng trận ngồi trên ghế để người khác đến khiêu chiến, ai ngờ Đồng Hoài Đạo lại bỏ chỗ ngồi để thách đấu với Điền Quy Nông.
Điền Quy Nông cười đáp:
– Sao mà vội thế?
Tay hắn vẫn cầm chung rượu.
Đồng Hoài Đạo hỏi:
– Chẳng sớm thì muộn chúng ta cũng tỷ đấu một phen. Đồng mỗ muốn thừa lúc còn có khí lực để lãnh giáo Điền lão sư, chứ không muốn lão sư dưỡng tinh súc nhuệ để đến lúc sau cùng mới ra tay chiếm tiện nghi.
Nguyên Đồng Hoài Đạo là một người thẳng thắn mau miệng, nghĩ sao nói vậy chẳng úy kỵ gì. Trong quần hào có hơn hai mươi người lớn tiếng hoan hô. Bọn này thấy họ Điền làm bộ làm tịch đã cảm thấy bực mình.
Điền Quy Nông thấy khó lòng chối từ chối liền cười khanh khách, nhìn Thang Bái nói:
– Đại ca! Tiểu đệ xin phô trương cái dở ra vậy.
Thang Bái đáp:
– Chúc mừng hiền đệ mã đáo thành công!
Đồng Hoài Đạo quay lại tròn mắt nhìn Thang Bái, cất giọng ồm ồm nói:
– Thang lão sư! Phúc đại soái đặt lão sư vào địa vị một người trong bốn đại chưởng môn. Xin lão sư giữ gìn công đạo cho. Chỉ một chữ “công” thôi e rằng cũng không khỏi có chỗ sai lệch.
Thang Bái bị lão đập thẳng một câu, không khỏi ngượng ngùng, Lão cười gượng, hỏi lại:
– Tại hạ bất công ở chỗ nào, xin Đồng lão sư chỉ giáo.
Đồng Hoài Đạo đáp:
– Đồng mỗ chưa tỷ đấu với Điền lão sư mà lại có lòng thiên vị nói nào là “Chúc mừng hiền đệ mã đáo thành công”. Các anh hùng thiên hạ ở đây đều nghe rõ cả.
Thang Bái trong lòng phẫn nộ. Hai ba chục năm gần đây, bất kỳ ai gặp lão cũng một điều “Thang đại hiệp”, hai điều “Thang đại hiệp”, chưa một ai dám ăn nói bốp chát như vậy. Huống chi ở giữa đám đông quần hào, Đồng Hoài Đạo lại ngang nhiên chỉ trích lão. Nhưng lão là người dày công hàm dưỡng, nên vẫn mỉm cười đáp:
– Thang mỗ cũng xin chúc cho Đồng lão sư kỳ khai đắc thắng!
Đồng Hoài Đạo sửng sốt nghĩ bụng:
– Hai người tỷ đấu, lão chúc một người “kỳ khai đắc thắng”, một kẻ “mã đáo thành công”, trong thiên hạ làm gì có cái lý ấy?
Nhưng lão cũng không biện bác gì nữa, chỉ nói một câu:
– Đại ca cứ yên tâm, loại người lỗ mãng vô lễ thế này tiểu đệ nhất định sẽ cho hắn một bài học.
Hắn từ từ bước vào giữa sảnh đường, nói:
– Mời Đồng lão sư tiến lên!
Đồng Hoài Đạo thấy hắn chưa cởi trường bào, trong tay lại không có khí giới gì lại càng thêm tức tối, đáp:
– Điền lão sư muốn dùng tay không để đón tiếp cặp Lưu tinh chùy của Đồng mỗ chăng?
Điền Quy Nông tâm kế sâu xa, hành động thận trọng. Hắn tính thầm nếu trong vòng đôi ba chiêu mà đánh ngã được Đồng Hoài Đạo, đại hiển oai phong trước mặt quần hùng thì điều đó quả là tuyệt diệu. Nhưng hắn thấy Đồng Hoài Đạo thân thể to lớn, da thịt rắn như sắt, chẳng phải hạng người dễ ăn, liền cười nói:
– Đồng lão sư nổi danh khắp vùng Thiểm Tây, hảo hán trên giang hồ ai mà không biết tuyệt kỹ “Lưu tinh hãn nguyệt”. Tại hạ có sử dụng binh khí đi nữa cũng vị tất là đối thủ của lão sư.
Điền Quy Nông đưa tay phải lên vẫy một cái, đại đệ tử của hắn là Tào Vân Kỳ hai tay cầm thanh bảo kiếm dâng lên.
Đồng Hoài Đạo thấy hắn chưa rút kiếm ra khỏi vỏ, bụng bảo dạ:
– Ngươi đã cầm binh khí trong tay thì muốn lúc nào rút kiếm là việc của ngươi.
Tay lão cầm quãng giữa sợi dây xích sắt giật mạnh xuống, cặp lưu tinh chùy lập tức tung thẳng lên như hai cây thiết bổng.
Quần hào đồng thanh khen ngợi:
– Hảo công phu!
Tiếng reo chưa dứt, chùy bên trái của lão vẫn dựng lên không mà chùy bên phải đã đánh vào trước ngực đối phương. Nhưng quả chùy này còn cách ngực Điền Quy Nông nửa thước thì đột nhiên dừng lại. Quả chùy bên trái từ phía sau đánh thẳng vào bụng Điền Quy Nông mau lẹ dị thường.
Quả chùy trước chỉ là hư chiêu để dụ địch. Quả chùy sau mới dùng toàn lực để đánh. Vừa mới xuất thủ mà lão đã dùng ngay tuyệt kỹ “Lưu tinh hãn nguyệt” để tấn công.
Điền Quy Nông trong lòng cũng hơi kinh hãi lùi lại một bước, vung trường kiếm để nguyên cả vỏ đâm tới.
Đồng Hoài Đạo cả giận, nghĩ thầm:
– Hắn không rút kiếm ra, rõ ràng không coi ta vào đâu.
Lão liền tăng gia kình lực, vung cặp thiết chùy thành một vòng hắc quang. Song chùy của lão một nhanh, một chậm, một hư một thực, nhưng nhanh mà không hẳn nhanh, chậm cũng không hẳn chậm, cứ hư hư thực thực biến hóa vô cùng.
Điền Quy Nông thủy chung vẫn không rút kiếm ra khỏi vỏ, sử dụng toàn “Thiên Long kiếm pháp” để đối phó.
Hai người chiết giải ngoài ba chục chiêu, Điền Quy Nông đã hiểu rõ lộ số của đối phương. Đột nhiên hắn hươi trường kiếm điểm lẹ vào huyệt “Khúc tuyền” trên đầu gối bên trái của Đồng Hoài Đạo. Chiêu này không phải là chiêu số về kiếm pháp. Hắn đã biến trường kiếm lẫn vỏ thành phán quan bút. Đồng Hoài Đạo cả kinh, lùi lại hai bước.
Điền Quy Nông quét ngang trường kiếm đánh vào đùi lão. Chiêu này hắn lại biến vỏ kiếm thành thiết giản để ra chiêu “Liễu lâm hoán giản” trong giản pháp. Trong vòng hai chiêu hắn biến từ kiếm pháp qua bút pháp, lại từ bút pháp qua giản pháp.
Đồng Hoài Đạo trong lòng hoang mang, lão cuốn Lưu tinh chùy bên tay trái lại rồi đẩy mạnh ra. Trái thiết chùy nhắm vào huyệt “Mi tâm” của Điền Quy Nông bắn tới.
Lão sử chiêu này là phép đánh “lưỡng bại câu thương”. Lão để đùi bên trái hứng chịu vỏ kiếm đâm vào và mong thiết chùy cũng đập trúng hắn.
Điền Quy Nông chẳng ngờ đối phương không né tránh mà lại tấn công. Vỏ kiếm của hắn còn cách đùi đối thủ chỉ mấy tấc, mà hắn đã nghe kình phong quạt vào mặt do trái thiết chùy bay tới. Nếu cả hai cùng bị trúng đòn thì đối phương cùng lắm chỉ phế bỏ một chân, con hắn sẽ gặp cái họa bị chùy đập nát đầu. Trong lúc hoang mang, hắn xoay chuyển trường kiếm gạt dây chùy, chuyển công thành thủ và rơi vào thế hạ phong.
Đồng Hoài Đạo thu lưu tinh chùy về, dây xích đã cuốn lấy thanh trường kiếm giật mạnh một cái, đồng thời chùy bên phải quét ngang đánh tới. Trước mắt, Điền Quy Nông bị kiếm chế binh khí, dẫu có thoát chết thì cũng tuột mất trường kiếm.
Bỗng nghe đánh “soạt” một tiếng, ánh thanh quang lấp loáng. Trường kiếm đã rút ra khỏi vỏ. Mũi kiếm rung lên đâm trúng vào cổ tay phải của Đồng Hoài Đạo.
Thì ra sợi dây xích buộc chùy của lão quấn được trường kiếm kéo mạnh một cái làm tuột vỏ kiếm ra. Điền Quy Nông thừa cơ phóng kiếm đả thương địch thủ. Tiếp theo hắn sấn tới hai bước, phóng tay cái điểm liền vào ba huyệt đạo trước ngực đối phương.
Đồng Hoài Đạo toàn thân tê dại. Hai trái lưu tinh chùy rơi xuống đánh bể gạch dưới đất, làm bay mảnh tứ tung.
Điền Qui Nông tra kiếm vào vỏ, cười hì hì, nói:
– Cảm ơn các hạ đã nhân nhượng!
Rồi bước đến ngồi vào cỗ ghế thái sư mà Đồng Hoài Đạo vừa ngồi.
Tuy hắn đắc thắng nhưng quần hào đều cảm thấy hắn gặp may, lại có thêm chút trá ngụy chứ không phải thủ thắng bằng bản lĩnh chân thực. Vì thế trừ bọn Thang Bái mấy người nổi tiếng hoan hô, còn ngoài ra không ai khen ngợi gì.
Đồng Hoài Đạo bị điểm huyệt rồi toàn thân bất động, vẫn đứng yên theo tư thế vung chùy đánh người, mắt trừng giận giữ, bộ dạng trông rất tức cười.
Điền Quy Nông không giải huyệt cho lão, cứ ngồi trên ghế thái sư cười đùa với Thang Bái, để mặc Đồng Hoài Đạo giữ nguyên bộ dạng khó coi. Hắn lờ đi làm như không thấy.
Trong đại sảnh chẳng thiếu gì những đại hành gia chuyên nghề điểm huyệt, trong lòng đều có ý bất nhẫn, những ai cũng hiểu nếu đến giải huyệt Đồng Hoài Đạo tất làm mất lòng Thang Bái và Điền Quy Nông. Điền Quy Nông thì cũng chẳng có gì đáng kể, song Cam Lâm Huệ thất tỉnh Thang Bái oai danh lại quá lớn, mà các danh gia điểm huyệt thì mười phần hết chín đều là những bậc lão thành thận trọng, nên không muốn đắc tội với Thang Bái.
Có điều ai nấy ngó thấy Đồng Hoài Đạo dương cặp mắt tức giận đứng ngây người ra đó cũng lấy làm khó chịu.
Đột nhiên một đại hán ở bàn tiệc phía tây, tay kéo loạt soạt một cây côn sắt thô vừa dài, rảo bước đến trước mặt Điền Quy Nông, lớn tiếng quát:
– Họ Điền kia! Sao không giải khai huyệt đạo cho người ta đi, còn để lão đứng trơ ra đó làm chi?
Điền Quy Nông mỉm cười hỏi:
– Các hạ là ai?
Đại hán đáp:
– Ta là Lý Đình Báo. Người đã nghe tiếng bao giờ chưa?
Đại hán báo danh mà tiếng như tiếng sấm, làm tai mọi người đều chấn động kêu o o.
Quần hào nghe tiếng Lý Đình Báo đều không khỏi ngạc nhiên. Nguyên Lý Đình Báo là đại đệ tử của chưởng môn phái Ngũ Đài, đã mở tiêu cục ở phủ Diên An tỉnh Thiểm Tây. Y nổi tiếng thiên hạ về “Ngũ Long côn pháp”. Ngũ Long tiêu cục của y oai danh khá lớn tại bảy tỉnh miền bắc. Quần hào tưởng y đã xuất thân từ tiêu cục thì dĩ nhiên là người tinh minh mẫn cán, từng trải sự đời, không ngờ y lại hành động chẳng khác một kẻ mãng phu.
Điền Quy Nông vẫn ngồi trên ghế thái sư không đứng đậy, cũng chẳng nghiêng mình. Danh tự Lý Đình Báo ở phái Ngũ Đài dĩ nhiên hắn đã nghe qua, nhưng hắn lại giả bộ ngạc nhiên, lắc đầu đáp:
– Tại hạ chưa từng nghe nói đến. Các hạ ở môn phái nào?
Lý Đình Báo cả giận quát:
– Phái Ngũ Đài, ngươi đã nghe tới chưa?
Điền Quy Nông vẫn lắc đầu. Vẻ mặt hắn vừa ra chiều ân hận lại tỏ vẻ hoảng sợ, cất tiếng hỏi:
– Phái “Ngũ Đài” ư? Chứ không phải “Thất Đài”, “Bát Đài” à?
Hắn nói đến chữ “Bát Đài” là có ý dựa theo âm “Bát đản” trong “Vương bát đản”. Người ta thường dùng thành ngữ “Vương bát đản” để thóa mạ như “Quân khốn kiếp!”, “Đồ chó đẻ!”. Bọn tuổi trẻ trong sảnh đường không nhịn được đều phá lên cười.
May mà Lý Đình Báo không phát giác. Y nói:
– Là phái Ngũ Đài! Người ta cũng là một môn phái trong võ lâm, ngươi giải huyệt cho Đồng lão sư mau đi!
Điền Quy Nông hỏi:
– Các hạ là hảo bằng hữu với Đồng lão sư sao?
Lý Đình Báo đáp:
– Không phải! Ta với lão chưa từng quen biết, nhưng ngươi hý lộng người ta như thế thật chẳng ra thể thống gì. Ta thấy chẳng thuận mắt chút nào.
Điền Quy Nông chau mày nói:
– Tại hạ chỉ biết điểm huyệt. Ngày trước sư phụ Điền mỗ không dạy cách giải huyệt.
Lý Đình Báo đáp:
– Ta không tin!
Bọn Phúc Khang An, đề đốc nghe hai người đối đáp rất lấy làm thú vị. Chúng biết Điền Quy Nông muốn trêu cợt con người chất phác này. Những viên đại quan này coi cuộc tỷ võ làm vui cũng như coi tuồng hát hay làm xiếc. Chúng thấy sau một loạt các cuộc tỷ đấu kịch liệt lại có vai hề phụ xen vào làm trò lại càng tăng thêm hứng thú.
Điền Quy Nông liếc mắt thấy Phúc Khang An cười hì hì, vẻ mặt ra chiều thích thú liền nói:
– Bây giờ làm thế này! Các hạ cứ đá mạnh một cước vào khuỷu chân y là giải khai được huyệt đạo.
Lý Đình Báo hỏi:
– Có thật không?
Điền Quy Nông đáp:
– Ngày trước sư phụ dạy tại hạ như vậy, có điều tại hạ chưa từng thử qua
Lý Đình Báo liền giơ chân phải lên đá vào khuỷu chân Đồng Hoài Đạo. Phát đá này, lực đạo không mạnh nhưng Đồng Hoài Đạo cũng ngã lăn đi mấy vòng mà tư thế chân tay vẫn không mảy may biến đổi, chỉ chuyển từ tư thế thẳng đứng sang tư thế nằm kềnh trên mặt đất. Thế là Lý Đình Báo mắc bẫy, muốn cứu người lại thành đá ngã người.
Phúc Khang An nổi lên cười ha hả, bọn quý quan cũng cười rộ theo. Trong quần hào có mấy người muốn chỉ trích Điền Quy Nông, nhưng thấy Phúc Khang An vui cười nên không dám lên tiếng.
Tiếng cười chưa dứt, bỗng vèo vèo ba tiếng vang lên, ba chung rượu bay lên không. Mọi người nhất tề ngửng đầu lên nhìn, thấy ba chung rượu chạm vào nhau “bốp bốp” hai tiếng liền vỡ tan tành.
Mục quang mọi người nhìn theo những mảnh chung rớt xuống thì thấy Đồng Hoài Đạo đã đứng dậy rồi. Tay cầm một cái chung, lão nói:
– Vị anh hùng nào ngầm tương trợ, Đồng mỗ suốt đời không quên ơn đức.
Lão nói rồi bỏ chung rượu vào bọc, hằn học nhìn Điền Quy Nông rồi chạy thẳng ra khỏi sảnh đường.
Thì ra có người nào đó ném chung rượu lên không cho chạm nhau là để quần hào tập trung chú ý. Khi mọi người đang chăm chú nhìn ba chung rượu đụng nhau trên không, y lại ném một chung nữa ra đánh vào huyệt “Cân Xúc” sau lưng Đồng Hoài Đạo để giải huyệt cho lão.
Diễn biến che mắt được hết mọi cao thủ trong sảnh đường. Mọi người đều biết đó là công phu cực kỳ cao minh, nhưng không biết ai là người xuất thủ.
Thang Bái liền lấy hai chung rót đầy rượu, cầm đến trước bàn Hồ Phỉ, nói:
– Huynh đài đây lạ mặt quá nhỉ. Xin cho biết tôn tính đại đanh! Công phu ném chung giải huyệt của các hạ khiến tại hạ vô cùng khâm phục.
Hồ Phỉ vừa rồi nghĩ tới Đồng Hoài Đạo là bạn hữu của Chung thị tam hùng, lại thấy Điền Quy Nông làm nhục người thái quá bèn động lòng nghĩa hiệp nên dù biết mình đang ở nơi hiểm địa cũng không nhịn được, phải ra tay giải khai huyệt đạo cho lão. Nào ngờ Thang Bái mục quang vô cùng sắc bén nên nhận ra ngay.
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ họ Trình, thảo tự Linh Hồ, ở Hoa Quyền môn. Thang đại hiệp vừa nói việc ném chung giải huyệt gì đó tại hạ không hiểu.
Thang Bái cười ha hả, nói:
– Các hạ hà tất phải giấu giếm làm chi? Chẳng phải trên bàn này mất bốn cái chung rượu đấy ư?
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Xem ra chưa chắc lão đã nhìn thấy ta ném chung, chẳng qua vì thấy trên bàn thiếu bốn cái nên suy diễn mà thôi.
Chàng liền quay lại nhìn Quách Ngọc Đường nói:
– Quách lão sư! Té ra lão sư mình mang tuyệt nghệ, ném chung giải huyệt cho lão họ Đồng. Bội phục! Bội phục!
Quách Ngọc Đường vốn gan thỏ đế, lão sợ vô cớ bị liên lụy vội đáp:
– Lão phu đâu có ném chung! Lão phu đâu có ném chung!
Thang Bái quen lão đã lâu nên biết lão không đủ tài như vậy, lại nhìn hết mọi người trên bàn có Thái Uy ở Hoa Quyền môn là người nổi danh đã lâu, nhưng xưa nay công phu phóng ám khí của lão cũng rất tầm thường.
Lão nghĩ vậy liền đưa chung rượu trong tay phải cho Hồ Phỉ, cười nói:
– Trình huynh! Bữa nay may được gặp nhau, huynh đệ kính mời Trình huynh một chén!
Lão nói rồi giơ chung rượu lên cụng kẽ vào chung rượu kia. Bỗng nghe “bốp” một tiếng, chung rượu trong tay Hồ Phỉ lập tức vỡ tan. Nước rượu nóng cùng mảnh chung vỡ bắn tứ tung đập cả vào ngực chàng.
Nguyên lúc cụng chung, Thang Bái đã ngầm vận nội lực, võ công Hồ Phỉ ra sao, chỉ cần cụng chung là lão phát hiện ra ngay. Không ngờ hai chung rượu đụng nhau, chưởng môn Trình Linh Hồ của Hoa Quyền môn tựa hồ chẳng có chút nội công nào, nên để cho chung bể vụn và rượu đổ hắt vào mình. Chung rượu trên tay Thang Bái cố nhiên hãy còn nguyên vẹn, cả áo lão cũng không có một giọt rượu nào bắn vào.
Lão mỉm cười nói:
– Xin lỗi nhé!
Rồi lão trở về bàn ngồi, tự hỏi:
– Bản lãnh của tiểu lão nhị kia tầm thường lắm, không hiểu người ném chung giải huyệt là ai?
Lúc này Điền Quy Nông và Lý Đình Báo đã khai diễn cuộc đấu ở giữa sảnh đường. Điền Quy Nông tay cầm trường kiếm, thanh quang lấp loáng. Hắn rút kiếm ra, không dám coi thường như trước, Lý Đình Báo triển khai “Ngũ Lang côn pháp”, sử dụng những chiêu “Hối song vọng nguyệt”, “Bối côn tràng chung”, “Bạch viên vấn lộ”, “Hoành lạn thiên môn”. Những động tác của y nào điểm nào khuyên, nào chém, nào lướt, nào hất, nào đập, nào tát, nào sát, chiêu số cực kỳ mãnh liệt.
Quần hào đứng xem đều ngấm ngầm tâm phục và biết Ngũ Lang tiêu cục mười mấy năm gần đây uy danh vang dội, Lý tổng tiêu đầu quả nhiên tài nghệ có chỗ hơn người. “Thiên Long kiếm pháp” của Điền Quy Nông cũng là một tuyệt nghệ trong võ lâm. Sau một lần kịch đấu, hắn dần dần chiếm được thượng phong, nhưng muốn thủ thắng trong thời gian ngắn xem ra không phải là chuyện dễ.
Cuộc chiến đương hăng, Điền Quy Nông đột nhiên lật vạt áo ra. Một tiếng “soạt” vang lên, hắn đã rút một thanh đoản đao từ trường bào ra. Dưới ánh đèn lửa, ánh đao quang lấp lánh bất định, đứng xa coi như bảo thạch lại giống pha lê, như nước trong lại giống băng lạnh.
Lý Đình Báo sử chiêu “Đảo phản càn khôn” xoay tay bửa xuống. Điền Quy Nông vung tay hất vung trường kiếm lên. Lý Đình Báo phóng thẳng thiết côn về phía trước. Đó là chiêu “Thanh long xuất động” biến hóa từ “Tỏa hầu thương pháp”, cực kỳ nguy hiểm. Y sử chiêu này rất thuần thục. Điền Quy Nông không lùi lại né tránh, tay trái hắn cầm đơn đao hất ngược lên đánh choang một tiếng. Cây thiết côn bị gãy làm hai đoạn. Điền Quy Nông nhân lúc đối phương đang lòng rối loạn, tay mặt hắn vung kiếm đâm lẹ tơi, vạch một đường trên cổ tay Lý Đình Báo cứa đứt gân mạch.
Lý Đình Báo rú lên một tiếng buông cây côn xuống. Gân tay đứt rồi là cánh tay mặt thành tàn phế. Suốt đời y chỉ luyện “Ngũ Lang côn”, mà công phu về côn bổng cần cả hai tay mới sử dụng được. Tay mặt bị phế bỏ là xem như mất hết toàn bộ võ công. Trong khoảnh khắc, y nghĩ đến công phu khổ luyện một đời đã trôi theo dòng nước, tiêu cục chỉ còn cách đóng cửa. Y kiếm tiền dễ dàng nên xưa nay không dành dụm. Cả nhà già trẻ lớn bé lập tức sẽ lâm vào cảnh đói rét. Y lại nghĩ tới mình bình sinh bản tính nóng nảy, kết oán với không ít người. Đừng nói đến việc cừu nhân tìm đến trả thù đã vô phương đối phó, mà hàng ngày, ngay những tiếng mỉa mai trào lộng của bọn hậu bối tiểu nhân cũng làm sao chịu nổi? Y là người lòng dạ ngay thẳng, nhận thấy sống thêm khắc nào là nhục thêm khắc ấy. Tay trái y lượm nửa khúc côn sắt tự đập vào đầu đánh “bộp”, vỡ óc chết ngay.
Quần hào trong sảnh đường bật tiếng la hoảng, đứng phắt cả dậy. Ai cũng tưởng y lượm khúc côn gãy để liều mạng với Điền Quy Nông, không ngờ y đập đầu tự tử. Biến cố này diễn ra đột ngột khiến mọi người kinh hãi nói không ra lời.
An đề đốc hô:
– Cụt hứng! Cụt hứng!
Hắn sai người đem thi thể Lý Đình Báo ra ngoài.
Giá như Lý Đình Báo bị Điền Quy Nông đâm chết trong lúc kịch đấu, thì cái đó còn được. Nhưng hắn lại bức bách Lý Đình Báo phải tự sát, khiến cho mọi người đều phẫn uất.
Bỗng nghe trong góc tây nam một người đứng lên lớn tiếng chất vấn:
– Điền lão sư! Lão sư dùng bảo đao chặt đứt thiết côn là đã thắng rồi, sao còn cắt gân tay y?
Điền Quy Nông đáp:
– Binh khí không có mắt. Giả tỷ tại hạ học nghệ không tinh bị thiết côn của y quét trúng thì cũng uổng mạng rồi.
Người kia cười lạt, hỏi móc:
– Lão sư nói vậy thì ra học nghệ đã tinh lắm phải không?
Điền Quy Nông đáp:
– Không dám! Nếu lão huynh không phục thì xin được chỉ giáo!
Người kia đáp:
– Được lắm
Y cũng sử trường kiếm. Bước ra đấu trường, chưa thông tên họ đã phóng kiếm veo véo hai nhát đâm thẳng vào ngực Điền Quy Nông.
Điền Quy Nông vẫn tả đao hữu kiếm tiếp chiêu. Hai bên đánh nhau chưa được bảy tám hiệp, bỗng nghe đánh “choang” một tiếng, bảo đao của Điền Quy Nông đã chém gãy trường kiếm của người kia. Tiếp theo hắn phóng kiếm đâm vào ngực trái đối phương.
Quần hào thấy Điền Quy Nông hạ thủ hiểm độc, liên tiếp có mấy người khiêu chiến.
Quá nửa số này không ham đoạt Ngọc Long bôi, chỉ vì thấy Lý Đình Báo chết quá thê thảm, nên muốn làm giảm bớt uy phong của Điền Quy Nông. Nhưng bảo đao trong tay trái hắn cực kỳ lợi hại, bất luận binh khí gì chạm vào cũng đều bị chém gãy.
Rồi sau cả những khí giới quái dị như Ngũ hành luân, Độc cước đồng nhân cũng không chống lại được cây bảo đao quá bén.
Bỗng nghe người nói khích:
– Điền lão sư! Võ công của lão cũng bình thường, phải ỷ vào sức của bảo đao để thủ thắng, thì có chi đáng mặt anh hùng? Nếu lão có tài giỏi thì hãy cùng tại hạ dùng quyền cước để phân cao thấp!
Điền Quy Nông cười đáp:
– Thanh bảo đao này là bảo vật trấn môn truyền đời của Thiên Long môn. Bữa nay Phúc đại soái mời các môn phái so tài cao thấp, Điền mỗ là chưởng môn Thiên Long môn mà không dùng bảo vật trấn môn nhà mình thì dùng thứ gì?
Lúc hắn ra tay chẳng chút lưu tình, dùng bảo đao chém gãy binh khí người ta, còn thanh trường kiếm ở tay trái chém chân tay đối thủ. Hắn liên tiếp đả bại trước sau mười mấy người. Quần hào thấy ai đấu với hắn nếu không bị đứt tay gãy chân, thì cũng mình mang trọng thương. Tuy có người cậy mình bản lãnh cao thâm hơn hắn, những không nghĩ được cách gì để chống lại cây bảo đao, nên đành chịu bó tay.
Tháng Bái thấy không còn ai ra khiêu chiến nữa, liền cười ha hả, nói:
– Hiền đệ! Cuộc chiến bữa nay khiến cho Thiên Long môn uy chấn thiên hạ, tiểu huynh cũng được vẻ vang lây. Nào, lại đây! Tiểu ca mừng hiền đệ một chung!
Hồ Phỉ nhìn Trình Linh Tố thấy cô khẽ lắc đầu. Chàng tuy phẫn nộ trước hành động ngang ngược của Điền Quy Nông, nhưng một là chàng không dám để lộ thân phân, vừa rồi mới ném chung giải huyệt cho Đồng Hoài Đạo mà cơ hồ đã bị Thang Bái phát giác, hai là thanh bảo đao của hắn quá ư lợi hại, bình sinh chàng chưa từng thấy. Nếu cùng hắn tỷ đấu thì mười hết bảy đã nắm phần thua.
Hồ Phỉ lại nghĩ:
– Bữa trước hắn dẫn bọn thuộc hạ đến nhà Miêu Nhân Phụng, sao không đem theo thanh bảo đao này? Giả tỷ hôm ấy hắn cũng dùng bảo đao đó thì e rằng mình chưa chắc đã sống được đến bữa nay.
Hồ Phỉ không biết rằng thanh bảo đao đó được hai phe Bắc Tông và Nam Tông của Thiên Long môn luân phiên chấp chưởng. Hôm nay đến lượt chưởng môn nhân của phe Nam Tông nắm giữ.
Điền Quy Nông vẻ mặt nhơn nhơn đắc ý, cầm chung rượu kề vào môi. Đột nhiên nghe đánh “vù” một tiếng, một hạt thiết bồ đề bay tới. Chắc là có người ném ám khí định đánh bể chung rượu của hắn.
Điền Quy Nông làm như không trông thấy, vẫn tiếp tục uống rượu.
Tào Vân Kỳ la lên:
– Sư phụ! Coi chừng!
Điền Quy Nông chờ cho hạt thiết bồ đề bay tới trước mặt mới giơ ngón tay khẽ điểm một cái, khiến hạt thiết bồ đề văng ra cửa sảnh đường.
Quần hùng thấy Điền Quy Nông phô trương thân thủ này, tuy chẳng ưa gì tư cách của hắn, nhưng cũng không kiềm được phải reo lên:
– Hay quá!
Hạt thiết bồ đề đang bay vút ra trước cửa sảnh đường thì vừa vặn gặp người đi vào. Người này thấy hạt thiết bồ đề bay tới trước ngực liền giơ ngón tay lên búng một cái, miệng cất tiếng hỏi:
– Tiếp khách kiểu này ư?
Hạt thiết bồ đề bị búng phải, liền rít lên veo véo như xé bầu không khí, bay ngược về phía Điền Quy Nông. Chỉ cần nghe thanh âm cũng đủ biết sức đàn chỉ rất khủng khiếp, so với Điền Quy Nông còn lợi hại hơn nhiều.
Điền Quy Nông cả kinh, không dám đưa tay đón tiếp, mà vội nghiêng về bên phải để tránh.
Một tên vệ sĩ của Phúc Khang An đứng sau lưng hắn vừa nghe tiếng gió rít lên đã thấy hạt thiết bồ đề bay tới trước mặt không kịp né tránh, vội giơ tay lên đỡ. Bỗng nghe đánh rắc một tiếng, xương ngón tay gã bị gãy rời. Gã đau quá rú lên một tiếng:
– Úi chao!
Quần hào thấy hạt thiết bồ đề nhỏ tí mà đánh gãy được xương ngón tay của tên thị vệ thì quả là điều hiếm có. Ai nấy đều ngửng đầu nhìn ra thì thấy người này thân hình cao lêu khêu mà ốm tong teo, tay trái cầm một cái nhạc, trên vai đeo túi thuốc. Mình lão mặc tấm trường bào vải xanh bạc thếch, chân lê đôi giày rách nát dính đầy bùn. Cách ăn mặc chẳng khác gì thầy lang đạo ở chốn hương thôn. Chỉ có cặp mắt là lấp loáng thần quang, liếc nhanh như chớp.
Ngũ quan lão rất thô kệch: mày thô, mắt to, mũi lớn, miệng rộng, tai vểnh, lưỡng quyền nhô cao. Tướng mạo này bất cứ là ai nhìn thấy một lần sẽ vĩnh viễn không sao quên được. Mái tóc lão đã hoa râm, ít ra đã ngoài năm chục tuổi, da mặt lốm đốm tàn nhang. Hai người theo sau lão chắc là đệ tử hay tùy bộc, thái độ rất mực kính cẩn.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố thấy lão đi trước chưa hiểu là ai, nhưng vừa ngó hai người đi sau liền giật mình kinh hãi. Nguyên một người dáng vẻ thư sinh chính là đại sư huynh của Trình Linh Tố tên gọi Mộ Dung Cảnh Nhạc, còn người đàn bà chân què kia là tam sư tỷ của cô tên gọi Tiết Thước.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nhau, trong lòng rất lấy làm lạ, tự hỏi:
– Hai người này là tử thù với nhau, mà sao bữa nay lại cùng đi tới đây? Trượng phu của Tiết Thước là Khương Thiết Sơn sao không thấy?
Trình Linh Tố thấy khóe mắt Hồ Phỉ lộ vẻ hoài nghi, biết là chàng muốn hỏi thầy lang đạo kia là ai. Cô từ từ lắc đầu tỏ ý không nhận ra.
Bỗng tiếng rú thê thảm “úi chao” vang lên, tên vệ sĩ gãy xương ngón tay vừa rồi ngã xuống lăn lộn mấy vòng. Gã giơ cao bàn tay bị gãy xương lên.
Lúc đầu quần hùng lấy làm lạ, tự hỏi:
– Đã là vệ sĩ của Phúc đại soái thì ít ra phải có bản lãnh tương đối, mà sao gã mới bị gãy mấy đốt xương đã chịu không nổi?
Đến khi thấy rõ bàn tay gãy biến thành màu đen như mực mới biết gã trúng phải chất kịch độc.
Cuộc đại hội chưởng môn các phái lần này, bọn vệ sĩ trong Phúc phủ ban đầu hùng tâm bồng bột, lăm le cùng cao thủ các phái tranh đua hơn kém để mọi người biết rằng những kẻ anh hùng trong chốn quan trường ở kinh sư cũng có chân tài thực học, quyết chẳng chịu thua bọn hào kiệt thảo mãng trong thiên hạ. Nhưng những diễn biến này làm chúng không khỏi tiêu tán hùng tâm.
Tên vệ sĩ bị gãy ngón tay này thuộc quyền cai quản của Chu Thiết Tiêu. Lão thấy gã khiếp nhược như vậy, chau mày tiến lại quát:
– Đứng lên! Đứng lên! Đau một chút mà không chịu nổi, thật chẳng ra thể thống gì!
Tên vệ sĩ tỏ ra khiếp sợ Chu Thiết Tiêu, vội đáp:
– Dạ, dạ!
Gã lồm cồm gắng gượng đứng lên, nhưng người gã loạng choạng rồi lại ngã xuống ngất đi. Chu Thiết Tiêu cầm đôi đũa trên bàn gắp hạt thiết bồ đề lên coi thấy khắc chữ “Kha” liền biến sắc, lớn giọng nói:
– Kha Tử Dung tam gia ở Lan Châu! Tam gia mỗi ngày một tiến bộ. Chất độc bôi trên hạt thiết bồ đề này cực kỳ lợi hại.
Bỗng thấy một đại hán mặt rỗ đứng dậy đáp:
– Chu lão gia đừng có ngậm máu phun người. Hạt thiết bồ đề này là của Kha mỗ phát ra, điều đó không sai. Kha mỗ chỉ vì thấy người ta cuồng vọng tự đại, định đánh bể chung rượu trong tay y. Ám khí của nhà họ Kha tối kỵ là bôi chất độc vào, đời đời tương truyền đã thành lệ cấm. Kha Tử Dung này dù là kẻ bất tiếu cũng không dám phá hoại gia quy của tổ tông.
Chu Thiết Tiêu là người biết nhiều hiểu rộng. Lão đã rõ Kha gia chuyên dùng bảy loại ám khí nhưng trước nay nghiêm cấm việc dùng chất độc. Lão trầm ngâm không nói nữa tự nhủ:
– Thế này thì lạ thật!
Kha Tử Dung nói:
– Hãy để Kha mỗ coi thử!
Gã chạy vào giữa sảnh đường cầm hạt thiết bồ đề lên coi rồi nói:
– Đúng là Thiết bồ đề của tại hạ, nhưng sao lại có chất độc? …Úi chao!
Đột nhiên gã rú lên một tiếng, ném vội hạt thiết bồ đề xuống đất. Tay mặt vẩy lia lịa tựa hồ dường như sờ phải lửa bỏng. Sắc mặt gã tái nhợt như tờ giấy, gã toan đưa ngón tay vào miệng mút thì Chu Thiết Tiêu liền phóng ra một chưởng đánh trúng đầu vai gã, miệng hô lớn:
– Không mút được!
Lão ngăn cản không để Kha Tử Dung đưa ngón tay vào miệng, Khi ngó tới thì ngón trỏ và ngón cái y đã sưng vù lên, sắc da đen xạm. Kha Tử Dung toàn thân run bần bật. Trán toát những giọt mồ hôi lớn bằng hạt đậu.
Lão thầy lang dạo kia nhìn Mộ Dung Cảnh Nhạc, nói:
– Hãy chữa trị cho hai người này?
Mộ Dung Cảnh Nhạc “dạ” một tiếng rồi lấy trong bọc ra một hộp thuốc cao bôi vào tay tên vệ sĩ và Kha Tử Dung. Kha Tử Dung liền bớt run và tên vệ sĩ cũng dần dần tỉnh lại.
Quần hào bấy giờ mới tỉnh ngộ. Nguyên Kha Tử Dung dùng thiết bồ đề định đánh bể chung rượu của Điền Quy Nông, Điền Quy Nông thuận tay đẩy ra rồi lại bị thầy lang búng ngược trở lại. Nhưng khi búng hạt thiết bồ đề, lão thầy lang đã bôi vào hạt ám khí đó một chất độc cực kỳ lợi hại. Bản lãnh hạ độc này trên giang hồ e rằng chỉ biết có nổi một người. Quần hào trong sảnh đường không thiếu người len lén thì thầm:
– Độc Thủ Dược Vương! Phải chăng lão là Độc Thủ Dược Vương?
Chu Thiết Tiêu tiến đến gần nhìn thầy lang chắp tay hỏi:
– Xin các hạ cho biết tôn tính đại danh?
Người kia mỉm cười không đáp.
Mô Dụng Cảnh Nhạc tự giới thiệu:
– Tại hạ là Mộ Dung Cảnh Nhạc. Còn đây là chuyết kinh tên gọi là Tiết Thước.
Hắn dừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Vị này là Thạch tiên sinh, sư phụ của vợ chồng tại hạ. Người giang hồ tặng lão nhân gia ngoại hiệu Độc Thủ Dược Vương.
Bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” vừa thốt ra, quần hào ai nấy đều chấn động. Nên biết những nhân vật đến tham dự đại hội bữa nay nếu không phải chưởng môn một phái thì cũng là trưởng lão kỳ cựu trong một bang hội. Ai cũng biết Độc Thủ Dược Vương là hảo thủ dùng độc đệ nhất đương thời. Dù Mộ Dung Cảnh Nhạc không nói ra, mọi người cũng sớm nhận ra lão là ai rồi.
Thế nhưng bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” lọt vào tại Trình Linh Tố cùng Hồ Phỉ càng khiến hai người càng lấy làm quái dị. Trình Linh Tố căm tức vì người kia không những mạo nhận danh hiệu của tiên sư, mà tại do miệng đại sư huynh thốt ra, càng khiến cho cô không dằn nổi mối bi phẫn. Một điểm nữa khiến cô càng lấy làm kỳ quái là tam sư tỷ Tiết Thước nguyên là vợ của nhị sư ca Khương Thiết Sơn. Hai người này đã sanh con trưởng thành, sao bây giờ đại sư huynh lại gọi mụ là “chuyết kinh”? Trình Linh Tố biết trong vụ này tất đã xảy ra một biến cố cực kỳ quan trọng, khó lòng tra cứu ngay được nên vẫn lẳng lặng để coi diễn biến.
Chu Thiết Tiêu tuy là tay kiêu dũng, nhưng nghe đến bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” phải biến sắc, lão chắp tay nói:
– Tại hạ ngưỡng mộ đại danh từ lâu!
Thạch tiên sinh xòe tay ra cười nói:
– Các hạ cũng cho biết tôn tính đại danh để chúng ta cùng làm quen!
Chu Thiết Tiêu bỗng lùi lại một bước, chắp tay đáp:
– Tại hạ là Chu Thiết Tiêu, xin chúc Thạch tiền bối bình an mạnh khỏe.
Lão dù lớn mật đến đâu cùng không dám chạm vào tay Độc Thủ Dược Vương.
Thạch tiên sinh cười khà khà, tiến lại trước mặt Phúc Khung An vái chào, khom lưng nói:
– Kẻ thảo dân vùng sơn dã xin tham kiến đại soái!
Lúc này tên thị vệ đứng bên đã cho Phúc Khang An biết lai lịch của Độc Thủ Dược Vương. Hắn lại mắt thấy lão chỉ khẽ đưa móng tay búng hạt thiết bồ đề đã đả thương người, nên biết đây là tay cực kỳ lợi hại, bèn nghiêng mình đáp:
– Xin mời tiên sinh an tọa!
Thạch tiên sinh cùng vợ chồng Mộ Dụng Cảnh Nhạc ngồi xuống một bên. Quần hào đứng gần đó đều tới tấp tránh xa, chẳng ai dám đứng gần ba người này. Chỉ trong chớp mắt, bên cạnh ba thầy trò Thạch tiên sinh đã lộ ra một khoảng trống lớn.
Một tên võ quan bước tới, còn cách Thạch Tiên Sinh năm thước thì lập tức dừng lại để nói cho lão biết quy củ tranh đoạt ngự bôi giữa các chưởng môn nhân các phái. Gã vừa nói xong là lập tức lùi xa như sợ bị nhiễm độc khí trên người lão.
Thạch tiên sinh mỉm cười hỏi:
– Quý tính tôn giá là gì?
Võ quan đáp:
– Tại hạ họ Ba!
Thạch tiên sinh hỏi:
– Ba lão gia! Hà tất lão gia phải sợ lão phu như vậy. Ngoại hiệu của lão phu tuy là “Độc Thủ Dược Vương”, nhưng ngoài việc hạ độc, lão phu còn dùng độc dược để chữa bệnh nữa. Ba lão gia trên mặt có ẩn khí xanh, dường như trong bụng có rết độc. Nếu không điều trị gấp thì chỉ trong vòng mười ngày, tính mạng e khó bảo toàn.
Tên võ quan giật mình kinh hãi, trong lòng bán tín bán nghi hỏi:
– Trong bụng tại hạ sao lại có rết độc được?
Thạch trên sinh hỏi lại:
– Gần đây Ba lão gia có gây lộn với ai không?
Trong thành Bắc Kinh chuyện võ quan gây lộn với người là điều xảy ra như cơm bữa, nên dĩ nhiên điều lão hỏi là có. Võ quan họ Ba kinh hãi vội hỏi:
– Có! Chăng lẽ… chẳng lẻ tên cẩu tặc đó đã hạ độc thủ tại hạ ư?
Thạch tiên sinh lấy trong bọc ra hai viên thuốc màu xanh, nói:
– Nếu Ba lão gia tin lão phu thì cứ dùng rượu uống ba viên thuốc này, đừng ngại.
Tên võ quan nghe lão nói sởn cả da gà và cảm thấy trong bụng tựa hồ có rắn rết đang bò. Hắn không nghĩ ngợi gì nữa, cầm thuốc đổ vào miệng rồi cầm chung rượu uống ừng ực. Chẳng bao lâu hắn thấy bụng đau, trong dạ buôn nôn, liền ọe một tiếng, mửa ra rất nhiều thức ăn.
Thạch tiên sinh tiến lại ba bước, lấy tay vuốt ngực võ quan, hô lớn:
– Mửa ra hết đừng để độc vật lại trong bụng!
Tên võ quan cố sức mửa ra. Hắn cúi đầu xuống thấy trong số uế vật quả có ba con sâu dài hai tấc, đầu đỏ mình đen đang ngọ nguậy, đúng là ba con rết.
Tên võ quan lắp bắp la hoảng:
– Ba con… ba con rết độc!
Đang lúc kinh hãi, đầu óc choáng váng, gã vội quỳ xuống sụp lạy Thạch Tiên Sinh ra tay cứu mạng. Bọn bộc dịch ra lau dọn sạch sẽ, còn đám quần hùng chẳng ai là không xuýt xoa khen ngợi.
Hồ Phỉ không tin rằng trong bụng người ta lại có rết độc, nhưng chàng lại tận mắt trông thấy nên không tin cũng không được.
Trình Linh Tố kề vai Hồ Phỉ, khẽ nói:
– Đừng nói là ba con rết, chứ đến ba con thanh xà tiểu muội cũng khiến gã nôn ra như thường.
Hồ Phỉ hỏi:
– Bằng cách nào?
Trình Linh Tố đáp:
– Khi đưa cho gã uống hai viên thuốc nôn thì trong tay áo tiểu muội đã giấu sắn độc trùng rồi.
Hồ Phỉ khẽ nói:
– Phải rồi, nhân lúc độc dược phát tán, giữa lúc gã đang đau quặn ruột thì bỏ độc trùng vào đám uế vật, đố ai mà biết được?
Trình Linh Tố mỉm cười, bảo:
– Lão sấn tới vuốt ngực tên võ quan, nếu để nhìn thấy thì màn kịch hết linh ngay.
Hồ Phỉ bèn hạ thấp giạng, nói:
– Kể ra võ công của lão cũng cao minh, cần gì phải giở những trò hý lộng huyền hư như vậy.
Trình Linh Tố rỉ nhỏ vào tai Hồ Phỉ:
– Đại ca, trong tất cả những người ở trong sảnh đường này, tiểu muội chỉ khiếp sợ một mình lão mà thôi. Đại ca phải ngàn vạn lần cẩn thận mới được.
Từ ngày Hồ Phỉ quen biết Trình Linh Tố đến nay, thấy bất cứ việc gì cô cũng sắp sẵn kế sách để đối phó, chưa từng nghe cô nói đến hai chữ “khiếp sợ” bao giờ. Giờ đây cô nói đều này một cách trịnh trọng thì chàng biết ngay Thạch tiên sinh là tay lợi hại không nên dây vào. Nhưng nghĩ hắn đã mạo xưng danh hiệu của sư phụ cô, làm bại hoại thanh danh của Độc Thủ Dược Vương khiến chàng chẳng thể tụ thủ bàng quan.
Lại nghe Thạch tiên sinh cười nói:
– Lão phu tuy đã thu nạp mấy tên đệ tử những chưa lập môn phái chi cả. Bữa nay muốn học đòi theo các vị tiền bối để khai tông, lập phái, gọi là “Dược Vương môn”. Nếu may mà đoạt được chiếc Ngân Lý bôi về nhà thì cũng thêm phần vẻ vang cho bọn đệ tử.
Dứt lời, lão từ từ bước tới chiếc ghế thái sư bên cạnh Điền Quy Nông rồi khệnh khạng ngồi xuống. Dù miệng lão nói khách khí chỉ cần một chiếc Ngân Lý bôi là đủ, nhưng hiển nhiên lão muốn chiếm địa vị một trong tám đại môn phái.
Lão đã ngồi vào ghế. Dựa vào danh tiếng lừng lẫy mấy chục năm của Độc Thủ Dược Vương, lại thêm công lực búng hạt thiết bồ đề và thủ pháp hạ độc đả thương người trong nháy mắt, xem như lão đã nắm chắc một chiếc Ngọc Long bôi rồi. Chẳng còn ai nghĩ tới chuyện khiêu chiến, mà cũng không ai dám dị nghị gì lão nữa.
Trong một lúc, cả sảnh đường yên lặng như tờ, chưởng môn phái Thiếu Lâm là Đại Trí thiền sư bỗng cất tiếng hỏi:
– Thạch tiên sinh! Tiên sinh xưng hô thế nào với Vô Sân đại sư?
Thạch tiên sinh đáp với vẻ mặt rất thản nhiên:
– Vô Sân ư? Lão phu không biết!
Đại Trí thiền sư chắp tay niệm:
– A Di Đà Phật!
Thạch tiên sinh hỏi:
– Vậy là sao?
Đại Trí thiên sư lại tuyên Phật hiệu:
– A Di Đà Phật!
Thạch tiên sinh không hỏi nữa.
Từ lúc ba thầy trò lão vào đại sảnh, mục quang của Trình Linh Tố không lúc nào rời khỏi ba người. Bỗng thấy Thạch tiên sinh từ từ quay đầu nhìn Điền Quy Nông. Hai người vẻ mặt trơ như gỗ, tuyệt không lộ vẻ gì. Nhưng Trình Linh Tố lại động tâm tỉnh ngộ:
– Hai người này đã quen nhau từ trước. Điền Quy Nông đã biết danh tự sư phụ ta, biết Vô Sân đại sư mới đúng là Độc Thủ Dược Vương. Cả vị cao tăng chùa Thiếu Lâm kia cũng biết thế.
Bỗng cô lại nghĩ:
– Cỏ độc Đoạn trường thảo mà Điền Quy Nông dùng để hạ độc Miêu Nhân Phụng, té ra là do lão này đưa cho.
Điền Quy Nông thì có bảo đao sắc bén, Thạch Tiên sinh thì có độc dược lợi hại, xem ra đã ngồi yên trong hai ghế thái sư. Trong tám chiếc Ngọc Long bôi chỉ còn một chiếc chưa có chủ. Quần hào đều tự nhủ:
– Được dự vào tám đại môn phái hay không là ở nơi chiếc Ngọc Long bôi tối hậu này.
Nhiều người nghĩ vậy nên trong chớp mắt đã bảy tám người nhảy lên định ngồi vào chỗ ghế thái sư còn để trống. Họ nói với nhau một vài câu rồi chia thành bốn đôi khai cuộc tỷ đấu.
Người thua phải lui xuống, người thắng lại tiếp tục tỷ đấu với nhau hoặc ứng chiến với người mới đến. Kịch đấu một hồi lâu, bỗng nghe từ ngoài cửa tiếng trống đã điểm canh tư. Trong bốn người tỷ đấu đã có hai người phải rút lui, chỉ còn lại hai người thắng đấu với nhau.
Hai người này đều dùng chưởng lực hùng hậu để tỷ thí nội công, một hồi lâu vẫn ở vào thế giằng co. Tuy là cuộc tỷ đấu bằng võ công cao thâm nhưng bề ngoài lại có vẻ tầm thường chẳng có chi kỳ lạ. Phúc Khang An lại chán kiểu này, ngáp dài mấy cái rồi nói:
– Coi chán chết!
Tuy hắn nói rất khẽ, nhưng hai người tỷ nội công đều nghe rõ mồn một. Cả hai cùng biến sắc rút tay về, thối lui ba bước.
Một người nói:
– Chúng ta có phải làm khỉ diễn trò đâu mà vung múa chân tay để quan lão gia các người reo hò?
Người kia đáp:
– Đúng vậy! Về nhà bồng con còn hơn.
Nói xong hai người cùng cười ha hả rồi dắt tay nhau ra khỏi đại sảnh.
Hồ Phỉ thầm gật đầu nghĩ bụng:
– Hai người võ công rất cao thâm, quả nhiên kiến thức cũng cao hơn người một bậc. Đáng tiếc là trong cuộc tỷ đấu nhốn nháo, không biết được danh tính của họ.
Chàng quay hỏi Quách Ngọc Đường thì lão cùng không biết hai người có dáng vẻ quê mùa đó. Lão nói:
– Lúc họ lên tỷ đấu, An đề đốc có hỏi danh tính cùng môn phái thì họ chỉ cười chứ không đáp.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Hai vị này như con thần long, thấy đầu mà chẳng thấy đuôi. Đến cả tên tuổi cũng không lưu lại.
Đang lúc chàng thì thầm trò chuyện với Quách Ngọc Đường thì đột nhiên Trình Linh Tố khẽ đụng vào khuỷu tay một cái. Chàng ngửng đầu lên nhìn, bỗng nghe võ quan hô:
– Vị này là Phụng Thiên Nam lão sư, chưởng môn phái Ngũ Hổ!
Bỗng thấy Phụng Thiên Nam cầm cây thục đồng côn lên ngồi ghế thái sư còn để trống, cất tiếng hỏi:
– Xin mời vị nào lên chỉ giáo cho.
Hồ Phỉ cả mừng tự nhủ:
– Võ công thằng cha này chưa được đến trình độ nhất lưu cao thủ mà cũng dám mơ tưởng đến Ngọc Long bôi. Cứ để hắn phô cái kém cỏi ra trước đã, rồi ta thu thập hắn sau. Cái đó mới tuyệt diệu.
Chàng thấy Phụng Thiên Nam liên tiếp đánh bại hai người, đang nhơn nhơn đắc chí thì có một hán tử cầm đơn đao tiến lên khiêu chiến. Người này võ nghệ rất cao thâm. Y mới đánh ba chiêu, Hồ Phỉ đã nói thầm:
– Tên ác tặc kia quyết không phải là đối thủ của y!
Quả nhiên Phụng Thiên Nam gầm thét luôn miệng vì gặp hiểm chiêu. Người sử đơn đao dường như không muốn làm khó dễ hắn, chỉ mong hắn tự ý rút lui. Y định không cố ý hạ sát thủ, vì thế có mấy cơ hội để thủ thắng mà y đều ra chiêu thong thả.
Song Phụng Thiên Nam kém thế cũng chỉ lùi lại chứ không chịu thua. Đột nhiên hắn quét ngang cây đồng côn. Người sử đơn đao lún mình thấp xuống, cây đồng côn lướt qua đỉnh đầu. Y muốn thừa thế tiến chiêu, bỗng rú lên “Úi chao!” rồi ngã lăn dưới đất. Y lại nhảy tung người lên, nhưng khi vừa chạm thì chân bước loạng choạng, lại té xuống. Y tức giận quát:
– Ngươi dùng ám khí? Thực là quân mặt dày!
Phụng Thiên Nam chống cây côn, mỉm cười đáp:
– Phúc đại soái không có quy định cấm dùng ám khí. Ai lên tỷ đấu thì sử binh khí quyền cước hay dùng độc dược, ám khí đều được cả.
Người sử đơn đao vén quần lên, quả nhiên một mũi ngân châm hai tấc cắm vào huyệt “Độc tỵ” nơi đầu gối. Huyệt “Độc tỵ” nằm ở dưới đầu gối, tục gọi là “Tất nhãn” hình dạng như lỗ mũi trâu, do đó mà thành tên. Đây chính là huyệt đạo nằm ở chỗ giáp đùi và cẳng chân, nếu trúng châm thì cái chân trở thành vô dụng. Quần hào đều lấy làm lạ vì thấy hai người đang tỷ đấu rất ráo riết, Phụng Thiên Nam tuyệt không lúc nào rảnh tay để phóng ám khí, lại không thấy hắn giơ tay lên thì chưa hiểu mũi ngân châm kia từ đâu phóng tới?
Người sử đơn đao rút mũi ngân châm ra, hằn học lùi lại, thì một người sử tiên nhảy vọt ra. Tiên pháp của người này ào ạt như cuồng phong sậu vũ. Hai bên trao đổi ngoài hai chục chiêu, tiên pháp người kia đánh mỗi lúc một ráo riết hơn, khiến cho Phụng Thiên Nam không còn cơ hội để thở nữa.
Người sử tiên đã biết côn pháp của Phụng Thiên Nam chẳng lấy gì làm cao thâm lắm. Nhưng hắn sử ngân châm vô ảnh vô tung khó nỗi đề phòng, nên y tung ra những sát chiêu liên miên bất tuyệt, quyết chẳng để hắn rảnh tay phóng ám khí. Không ngờ tỷ đấu đến chiêu thứ ba mươi, Phụng Thiên Nam côn pháp đã có dấu hiệu rối loạn thì người sử tiên bỗng rú lên một tiếng “úi chao” rồi vội nhảy lùi lại, rút ở bụng ra một mũi ngân châm. Máu tươi ở miệng vết thương chảy ra như suối, thương thế cực kỳ trầm trọng.
Quần hào trong sảnh đuờng đều kinh dị cho là bản lĩnh phát xạ ám khí của Phụng Thiên Nam quả là điều bình sinh chưa từng nghe thấy. Nếu nói rằng có người ngoài ngấm ngầm tương trợ, thì trước bao nhiêu con mắt theo dõi tất phải có người phát giác.
Cả hai phen kịch đấu, Phụng Thiên Nam đang lâm vào tình thế nguy cấp đột nhiên đối thủ trúng phải ám khí. Chẳng lẽ Phụng Thiên Nam biết sử dụng tà pháp, hễ động tâm là tự nhiên có ngân châm từ trên trời rơi xuống?
Mấy người không phục, bước ra tỷ đấu với hắn. Một người để hết tinh thần phòng bị ngân châm liền bị cây đồng côn của Phụng Thiên Nam đánh trúng đầu vai, thương thế rất trầm trọng. Còn ba người khác đều bị thương về mũi vô ảnh ngân châm. Trong lúc nhất thời, quần hùng trong sảnh đường bàn tán xôn xao.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố thấy Phụng Thiên Nam dùng vô ảnh ngân châm đả thương người liền ngưng thần theo dõi, nhưng vẫn không phát giác ra được mảy may sơ hở nào.
Hồ Phỉ đã định nhân lúc Phụng Thiên Nam đang cao hứng, đột ngột xông ra hạ sát thủ, một là để trả thù cho toàn gia Chung A Tứ ở Trấn Phật Sơn, hai là làm rạng rỡ danh tiếng cho Hoa Quyền Môn, nhưng chàng không nhận ra được ám khí từ đâu phóng tới, nên đành phải tạm thời tụ thủ bàng quan. Nếu mạo muội xông ra tranh phong mà trở tay không kịp thì chẳng những tự rước nhục vào mình, mà không chừng còn mất mạng nữa.
Trình Linh Tố đoán được tâm ý chàng, bèn từ từ lắc đầu nói:
– Chiếc Ngọc Long bôi bên kia, chúng ta không cần tới có được không?
Hồ Phỉ nhìn Thái Uy và Cơ Hiểu Phong nói:
– Bản lãnh Phụng lão sư kia không đáng kể, có điều…
Cơ Hiểu Phong gật đầu đáp:
– Phải rồi! Hắn phóng ngân châm đúng là tà môn, đã vô thanh vô tức lại vô ảnh vô tung, cũng chẳng có dấu hiệu gì báo trước, chỉ nghe đối phương rú lên một tiếng thê thảm mới biết là bị trúng ám khí của hắn.
Thái Uy nói:
– Trừ phi đầu đội mũ trụ, mình mặc giáp sắt thì mới đấu với hắn được.
Thái Uy nói câu này tưởng là chuyện đùa, không ngờ trong đám võ quan ở nhà đại sảnh quả có người không chịu, sai thuộc hạ đi lấy khôi giáp đánh trận để mặc vào mình, tay cầm Khai sơn đại phủ, bước ra khiếu chiến.
Vị võ quan này tên gọi là Mộc Văn Sát. Ngày trước y đã theo Phúc Khang An viễn chinh miền Thanh Hải, đoạt cờ chém tướng, lập nhiều công lao hãn mã. Y là một viên dũng tướng nổi tiếng trong quân đội Mãn Thanh.
Mộc Văn Sát nai nịt gọn gàng, tay cầm đại phủ ra đứng giữa sảnh đường trông oai phong lẫm liệt, sát khí đằng đằng. Bạn đồng liêu đều cất tiếng hoan hô. Phúc Khang An cũng ban cho một chung rượu để úy lạo trước.
Hai người giao đấu, côn phủ đụng nhau choang choảng làm chấn động, điếc cả tai quần hào. Hai loại binh khí này đều nặng nề, khi công thủ cầm cự đều rít lên tiếng gió ào ào khiến ánh lửa chập chờn, khi tỏ khi mờ. Mộc Văn Sát mình mang giáp trụ thành ra chuyển động kém bề linh hoạt, nhưng nhờ tý lực cực mạnh nên gã vung múa cây Khai sơn đại phủ uy mãnh khôn lường.
Bọn Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu, Vương Kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt đứng trước Phúc Khang An, tay cầm bính khí, chỉ sợ cây đại phủ lớn hoặc đồng côn tuột ra khỏi tay làm tổn thương đến đại soái. Hai bên chiến đấu hơn hai chục hiệp, Phụng Thiên Nam cầm côn quét ngang một cái. Mộc Văn Sát cúi đầu xuống, thuận đà vung búa chém vào chân phải đối phương.
Bỗng nghe đánh “cách” một tiếng khe khẽ, quần hào đứng xem đồng thanh kêu “ối” lên một tiếng. Hai bên đều nhảy lùi lại mấy bước, bỗng thấy một trái nhung cầu màu đỏ rớt dưới đất, chính là cái gù ở trên chóp mũ của Mộc Văn Sát. Trên trái cầu còn cắm một mũi ngân châm sáng lấp loáng.
Đây chắc là lúc Mộc Văn Sát cúi đầu xuống vung búa chém chân đối phương, Phụng Thiên Nam đã phóng vô ảnh ngân châm ra. Vì hắn hiềm Mộc Văn Sát là ái tướng của Phúc Khang An, nên không dám đả thương đến thân thể của gã.
Trái nhung cầu được buộc vào chóp mũ bằng dây chì, phải bắn đứt dây chì, trái cầu mới rớt xuống được. Dù hai người đứng gần nhau nhưng trong lúc thảng thốt mà bắn chuẩn đích không sai một ly như vậy, thực là công phu phóng ám khí cùng cực cao minh.
Mộc Văn Sát đứng ngẩn người ra. Y biết đối phương đã thủ hạ lưu tình, nếu để mũi châm lệch xuống dưới mấy tấc thì nó đâm qua khoảng giữa hai chân mày mà xuyên vào óc thì còn gì là tính mạng. Toàn thân mũ giáp sắt phỏng có ích gì?
Y khâm phục vô cùng, liền chắp tay nói:
– Cảm ơn Phụng lão sư đã thủ hạ lưu tình.
Phụng Thiên Nam kính cẩn thỉnh an rồi đáp:
– Bản lãnh tiểu nhân còn kém đại nhân xa lắm. Chút công phu nhỏ nhặt phóng ám khí đó ở chốn sa trường cũng chỉ là vô dụng. Giả sử chúng ta đều cỡi ngựa tỷ thí thì tiểu nhân đã bị chém cho một búa ngã ngựa rồi.
Mộc Văn Sát cười nói:
– Nói hay lắm! Nói hay lắm!
Phúc Khang An nghe Phụng Thiên Nam ăn nói khiêm tốn, không dám ỷ mình tài cao mà kiêu ngạo với bộ thuộc mình, nên trong lòng rất vui, liền lên tiếng:
– Phụng lão sư này là người chơi được đây!
Phúc Khang An nói rồi cầm cái dọc tẩu bằng ngọc bích trên tay cho Chu Thiết Tiêu và bảo:
– Thưởng cái này cho y!
Phụng Thiên Nam liền tới trước mặt Phúc Khang An tạ ơn ban thưởng.
Mộc Văn Sát toàn thân giáp trụ vác búa đi ra, áo giáp của y bật lên những tiếng leng keng. Còn quần hào thì nhao nhao nghị luận. Trong đám đông bỗng có người đứng dậy dõng dạc lên tiếng:
– Công phu phóng ám khí của Phụng lão sư quả nhiên rất cao minh Tại hạ xin đến lãnh giáo.
Quần hào quay đầu nhìn lại thì chính là Kha Tử Dung mặt rỗ chằng rỗ chịt. Lúc nãy lão đã ném hạt thiết bồ đề và trúng độc bị thương. Tay gã đã bó thuốc cao, hiện giờ độc tính đã giải trừ.
Nhà họ Kha ở Lan Châu nhờ vào bảy món ám khí mà khai tông lập phái gọi là “Kha thị thất thanh môn”. Bảy loại ám khí đó là: tụ tiễn, phi hoành thạch, thiết bồ đề, thiết lê tật, phì đao, cương tiêu, táng môn đinh, gọi là “Tiễn, hoàng, đề, lê, đao, tiêu, đinh thất tuyệt”. Bảy món ám khí này đều là những vật thông thường, nhưng thủ pháp phát xạ của họ Kha không giống mọi người. Trong đao kèm thạch, trong đinh kèm tiêu, mà mấy thứ ám khí có thể chạm nhau trên không, lúc bắn ra có thể đi thẳng hoặc đi chênh chếch khiến người ta khó biết đường chống đỡ hay né tránh. Nếu tỷ đâu ở những nơi rộng rãi thông thoáng thì còn có thể tránh ra vài trượng để xác định đường đi của ám khí mà đánh rớt hoặc né tránh, chứ ở trong đại sảnh chật hẹp thì khó lòng đối phó.
Phụng Thiên Nam cầm dọc tẩu trịnh trọng gói lại đút vào bọc, tỏ lòng cực kỳ tôn kính với Phúc Khang An. Đoạn hắn dõng dạc lên tiếng:
– Kha lão sư muốn tỷ thí ám khí với tại hạ, nhưng ở trong sảnh mà ném ám khí qua lại, nếu lỡ làm tổn thương đến các vị đại nhân thì chịu tội sao cho nổi?
Chu Thiết Tiêu cười nói:
– Phụng lão sư bất tất phải quan tâm, cứ việc tận lực thi triển. Chẳng lẽ bọn vệ sĩ của tại hạ đã ăn hết cơm chủ mà lại vô tích sự ư?
Phụng Thiên Nam mỉm cười vòng tay xin lỗi:
– Tại hạ cam bề đắc tội!
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Thảo nào tên ác tặc này độc bá nhất phương, lâu nay chẳng chịu thua ai. Hắn kết giao với bọn quan phủ, quả là tâm tư chu mật, thủ đoạn rất đỗi cao minh.
Lúc này Kha Tử Dung đã cởi áo trường bào để lộ toàn thân mặc áo chẽn màu đen. Bộ quần áo của gã rất kỳ lạ. Chỗ nào cũng có miệng túi, dây đai. Túi này đựng một bao kim tiêu, đai kia cài ba mũi phi đao. Từ đầu xuống đến chân chẳng có chỗ nào lại không trang bị ám khí. Trước ngực cố nhiên có túi, mà sau lưng cũng rất nhiều túi nhỏ.
Phúc Khamg An cười ha hả, nói:
– Nhìn gã mặc thứ áo cổ quái này toàn thân giống như con nhím.
Bỗng thấy Kha Tử Dung xoay tay trái một cái, móc bên hông ra một thứ binh khí giống như cái gáo múc nước, nhưng miệng gáo sắc bén như lưỡi đao. Đây là thứ binh khí độc môn gia truyền của gã tên gọi rất là lạ “Thạch Trầm đại hải”. Món “Thạch trầm đại hải” có hai công dụng. Bản thân nó có ba mươi sáu lộ chiêu số, cách sử dụng tựa hồ đơn đao, lại giống bản phủ. Nó còn có chỗ diệu dụng khác nữa là có thể dùng để đón ám khí. Bất luận địch nhân dùng ám khí gì phóng ra, gã vung chày gáo lên là đón được như đá chìm vào biển lớn, không thấy tăm tích đâu nữa. Ngược lại, lão có thể lấy ám khí của địch nhân trong gáo ra để phản kích. “Thạch trầm đại hải” không được xếp vào hàng thập bát ban binh khí nên được xem là binh khí của bàng môn. Người giang hồ gọi là “Tá tiễn thược”, ý nói mượn tên của địch nhân mà sử dụng
Kha Tử Dung lấy cây binh khí này ra, phân nửa quần hào trong sảnh đường chưa biết được nó là vật gì.
Phụng Thiên Nam cười nói:
– Bữa nay Kha lão sư khiến bọn tại hạ được mở rộng tầm mắt.
Hồ Phỉ thầm nghĩ:
– Cùng là danh gia ám khí mà Triệu tam ca tỏ ra rất ung dung đường bệ, trên người chẳng thấy một mũi ám khí nào, nhưng lúc cần dùng, y vẫn lấy ra sử dụng liên miên bất tuyệt. Gã Kha Tử Dung này hiển nhiên khí độ tầm thường.
Bỗng thấy Kha Tử Dung xoay cái gáo sắt đập chênh chếch vào bả vai Phụng Thiên Nam. Phụng Thiên Nam nghiêng mình tránh khỏi, đánh trả một côn. Hai người khai diễn cuộc tỷ đấu. Kha Tử Dung tuy miệng nói là tỷ thí ám khí với Phụng Thiên Nam, nhưng thược pháp của lão rất tinh diệu, uy hiếp địch nhân từng bước một, chứ không phát ám khí.
Giao đấu được một lúc rồi, Kha Tử Dung bỗng hô to:
– Coi tiêu đây!
Vèo một tiếng, một mũi cương tiêu bắn ra. Phụng Thiên Nam tuy tuổi đã khá cao, nhiều năm ăn sung mặc sướng, thân lão mập ú, song công phu vẫn còn linh hoạt như thời tuổi trẻ. Hắn khẽ nghiêng mình một chút đã tránh khỏi mũi cương tiêu.
Kha Tử Dung lại hô:
– Phi hoàng thạch! Tụ tiễn!
Lần này hai thứ ám khí bắn ra cùng một lúc. Phụng Thiên Nam cúi đầu tránh khỏi một mũi, rồi dùng đồng côn gạt được mũi kia.
Kha Tử Dung lại hô lớn:
– Thiết lê tật bắn vai trái! Phi đao cắt chân phải!
Quả nhiên một mũi thiết lê tật nhằm vai trái Phụng Thiên Nam bắn tới còn một lưỡi phi đao nhằm đâm vào chân phải hắn. Phụng Thiên Nam được đối phương hô cho biết trước, nên đều lẹ làng tránh khỏi.
Quần hào tự hỏi:
– Gã Kha Tử Dung sao lại quá đỗi thật thà. Sao gã lại hô cho hắn biết trước chủng loại và đường phóng ám khí làm chi?
Ngờ đâu sau khi ném ra tám, chín thứ ám khí liền, miệng gã hô mỗi lúc một mau, còn ám khí phóng ra mỗi lúc một nhiều. Tiếng hô không phải lúc nào cũng trúng. Có lúc miệng gã hô phóng tụ tiễn vào mắt bên trái, mà lại ném phi hoàng thạch đánh vào ngực phải. Bây giờ mọi người mới hiểu lão hô hoán cốt để nhiễu loạn tâm thần địch. Gã hô đúng bảy tám lần liền, rồi đột nhiên gạt người một lần, đối phương chỉ sơ ý một chút là lập tức bị mắc bẫy. Nếu hô lần nào cũng sai trật thì đối phương sẽ không lý gì đến. Ác một nỗi là đúng nhiều mà trật ít, cứ bẩy tám lần đúng, thỉnh thoảng mới có một lần giả trá, khiến địch nhân không biết đường nào mà lần.
Quách Ngọc Đường nói:
– Công phu phóng ám Khí của “Kha thị thất thanh môn” quả nhiên có chỗ khác người. Cả tiếng hô của gã cũng rèn luyện từ nhỏ, lợi hại chẳng kém gì cương tiêu hay phi đao. “Thất thanh môn” của y nên đổi thành “Bát thanh môn” mới đúng.
Thái Uy nói:
– Lão dùng ngụy kế đa đoan như vậy, đâu phải là bản lĩnh của danh môn chính phải.
Trình Linh Tố mân mê cái dọc tẩu của Yên Hà Tản Nhân mà lúc nãy cô đoạt được nhân lúc khói mù nhốn nháo, miệng hỏi:
– Sao Phụng lão sư chưa phóng ngân châm ra? Nếu cứ tiếp diễn thế này, hắn tất mắc bẫy họ Kha mất.
Cơ Hiểu Phong đáp:
– Tại hạ xem chừng dường như họ Phụng đã sắp sẵn kế hoạch, hắn phóng ám khí chỉ cần tinh diệu chứ không phóng nhiều. Chỉ bắn ra một mũi mà trúng địch là đủ thắng rồi.
Trình Linh Tố “ồ” một tiếng rồi nói:
– Tỷ ám khí thì cứ tỷ ám khí, việc gì Kha Tử Dung phải toe toe cái miệng?
Lúc này trên đại sảnh, mười mấy thứ ám khí cứ bay qua bắn lại nguy hiểm ghê người. Bọn Chu Thiết Tiêu gia tăng phòng bị thêm phần nghiêm mật để bảo vệ đại soái. Bọn quan lớn như An đề đốc cũng có những cao thủ phòng vệ bên mình. Bọn vệ sĩ chẳng những đề phòng tụ tiễn, phi tiêu do Kha Tử Dung phát xạ lạc đường làm tổn thương, mà còn sợ thích khách trà trộn vào đám quần hào thừa cơ phóng ám khí loạn xạ để hạ thủ Phúc Khang An.
Bỗng nhiên Trình Linh Tố khẽ nói:
– Gã họ Kha làm cho mình chán ngấy, phải đùa gã một phen để làm trò cười mới được.
Bỗng nghe Kha Tử Dung hô:
– Thiết lê tật đánh vai trái!
Trình Linh Tố bắt chước giọng nói của gã, hô lớn:
– Nhân bánh bao đánh vào miệng!
Tay mặt cô cầm dọc tẩu rút một hơi, rồi thuận đà vung tay lên, quả nhiên có một món ám khí nho nhỏ nhằm miệng Kha Tử Dung bắn tới. Món ám khí này phân lạng rất nhẹ bay lướt đi không gây tiếng động, nhưng trên đầu có một tia hỏa tinh. Tục ngữ có câu: “Nhân bánh bao đánh chó, có đi không về”.
Quần hào nghe câu: “Nhân bánh bao đánh vào miệng” đã tức cười, huống hồ cô lại bắt chước y hệt giọng nói của Kha Tử Dung, khiến mấy chục người bật cười ồ lên ra tiếng.
Kha Tử Dung thấy ám khí lạ vội giơ Tá tiễn thược lên đón cho chui vào gáo. Tay trái lão thò vào lượm lên toan phóng trả, đột nhiên nghe nổ đánh “đùng” một tiếng. Quản hào cả kinh thất sắc, còn Kha Tử Dung thì nhảy vọt người lên, bỗng thấy những mẩu giấy vụn bay tứ tung, mũi ngửi mùi tiêu hoàng khét lẹt. Món ám khí đó chính là viên pháo chuột của trẻ con đốt chơi ngày tết. Quần hào ngẩn người ra một chút rồi cả sảnh đường phá lên cười.
Kha Tử Dung để hết tinh thần vào Phụng Thiên Nam vì sợ hắn lén phóng vô ảnh ngân châm. Tuy bị chơi khăm vố này, lão cũng không dám nhìn ngang nhìn ngửa để tìm kẻ ném pháo, mà chỉ cất tiếng thóa mạ:
– Có giỏi thì ra mặt tỷ đấu, ai hoài công mà chơi trò trẻ nít với ngươi?
Trình Linh Tố đứng lên cười hì hì, chạy qua phía đông lấy một cây pháo châm ngòi, miệng hô:
– Đại thạch đầu, đả nễ đích thất thốn.
Người ta có câu “đả xà đả thất thốn”. Nguyên đối với loại rắn thì cách đầu bảy tấc là chỗ trí mạng, cô nói câu này có ý so sánh gã với loài rắn độc.
Mọi người đang cười lên hô hố thì thêm một viên pháo lại được ném ra. Nhưng lần này Kha Tử Dung không mắc bẫy nữa, mà Trình Linh Tố lại ném hơi sớm một chút, Kha Tử Dung búng một mũi táng môn đinh ra, đẩy cây pháo ngược lại cho nó “đùng” khoảng giữa không.
Trình Linh Tố lại ném một viên pháo nữa, miệng hô:
– Thách thanh bản, đả nễ đích ngạnh xác.
Cô có ý bảo gã là con rùa.
Kha Tử Dung nghĩ thầm:
– Ngươi muốn chọc giận ta để lão họ Phụng thừa cơ hạ thủ, nhưng đời nào ta lại mắc lừa ngươi?
Lão lại búng ra một cây táng môn đinh đẩy ngược viên pháo trở lại, để cho nó nổ ở giữa khoảng không.
An đề đốc vừa cười vừa la lên:
– Hai bên tỷ đấu, người ngoài không được phá rối.
Hắn thấy Kha Tử Dung phóng hai cây táng môn đinh, rớt sát vào cái kỷ trà đặt Ngọc Long bôi, liền bảo tên vệ sĩ đứng cạnh:
– Ngươi lại canh giữ ngự bôi, đừng để ám khí đánh bể.
Hai tên vệ sĩ “dạ” một tiếng rồi chạy lại đứng trước kỷ trà để giữ ngự bôi.
Trình Linh Tố cười hì hì quay về chỗ ngồi. Cô nói:
– Lão này rất cơ cảnh, mắc bẫy một lần rồi, lần thứ hai lão không chịu giơ tay đón pháo nữa.
Hồ Phỉ ngấm ngầm lấy làm lạ tự hỏi:
– Nhị muội đã biết rõ Phụng Thiên Nam là đối đầu với ta, sao còn đùa bỡn họ Kha, chẳng hiểu có dụng ý gì?
Kha Tử Dung thấy vẻ mặt mọi người đều đang cười thầm, nóng lòng vãn hồi thể diện, nên ném ám khí ra mỗi lúc một nhiều. Phụng Thiên Nam chân tay luống cuống thấy khó bề chống chọi, đột nhiên hắn vươn tay kéo mạnh đầu côn một cái. Kha Tử Dung tưởng hắn sắp phát ám khí liền tung người nhảy tránh. Chỉ thấy hắn kéo ra một vật gì đó, rồi thuận đà vung một cái. Vật kia bung ra như một cái dù, biến thành tấm thuẫn. Tấm thuẫn đó cực nhẹ lại cực mỏng, tựa hồ như tấm giấy. Mặt thuẫn đen sì, không hiểu dùng tóc người hay chất liệu gì khác để kết thành. Trên mặt thuẫn vẽ năm cái đầu hổ nhe nanh, dáng vẻ rất uy mãnh.
Quần hào nhìn thấy tấm thuẫn đều nghĩ:
– Y là chưởng môn nhân của Ngũ Hổ môn. Té ra tên gọi Ngũ Hổ môn là do tấm thuẫn bài này mà ra.
Phụng Thiên Nam một tay vung côn, một tay cầm lá thuẫn khiến cho bao nhiêu ám khí của Kha Tử Dung bắn tới đều bị ngăn lại. Những mũi cương tiêu, tụ tiễn, phi đao hay phi hoàng thạch tuy thế ném rất mạnh mà không sao đâm xuyên được tấm thuẫn mềm và nhẹ kia. Xem ra lá thuẫn được chế bằng một chất liệu rất kiên cố.
Hồ Phỉ thấy Phụng Thiên Nam rút lá thuẫn nhẹ nhàng ở trong cây côn ra liền tỉnh ngộ, tự mắng mình:
– Hắn ngầm giấu cơ quan trong cây đồng côn, việc đó rất rõ ràng mà sao lúc trước mình không đoán ra được? Những mũi ngân châm dĩ nhiên hắn để trong cây đồng côn. Lúc kịch đấu, hắn chỉ cần bấm nút cơ quan, ngân châm tự động bắn thì còn ai tránh kịp? Mọi người đều cho rằng muốn phát xạ ám khí nhất định phải động vai hoặc giơ tay lên, nhưng hắn chỉ cần bấm vào một vị trí nhất định ở cây côn là ngâm châm bắn ra, nên thần không hay, quỷ không biết.
Chàng hiểu rõ điểm này liền phần khởi tính thần, không còn úy kỵ nữa. Phụng Thiên Nam vừa đánh vừa lùi dần đến một cỗ ghế thái sư, bỗng nhiên Kha Tử Dung rú lên một tiếng thê thảm, còn Phụng Thiên Nam liền nổi tràng cười rộ. Kha Tử Dung lùi lại mấy bước đưa tay ôm bụng từ từ ngồi xuống không đứng lên được nữa. Phụng Thiên Nam cười hà hà, bước lại ngồi vào cỗ ghế thái sư.
Hai tên vệ sĩ tiến lại đỡ Kha Tử Dung, thấy lão nghiến răng rút mũi ngân châm ở bụng ra. Đầu châm nhuộm đầy máu tươi. Mũi ngân châm này tuy nhỏ, nhưng đâm trúng vào yếu huyệt làm cho lão bị thương khá nặng. Lão không đi được, phải do hai tên vệ sĩ nâng đỡ, lão lảo đảo người lui xuống.
Thang Bái đột nhiên khịt mũi cười lạt, nói:
– Dùng ám tiễn hại người, đâu phải là hảo hán!
Phụng Thiên Nam quay lại hỏi:
– Phải chăng Thang đại hiệp nói tại hạ?
Thang Bái đáp:
– Lão phu bảo những ai dùng ám tiễn hại người đều không phải hảo hán. Bậc đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc, sao lại dở trò giăng bẫy?
Phụng Thiên Nam đứng phắt dậy, lớn tiếng nói:
– Bọn tại hạ đã nói rõ là tỷ đấu ám khí. Đã gọi là ám khí mà còn quang minh nữa ư?
Thang Bái hỏi:
– Phải chăng Phụng lão sư muốn tỷ đấu với lão phu?
Phụng Thiên Nam đáp:
– Thang đại hiệp uy danh chấn động khắp thiên hạ, đời nào tiểu nhân lại dám mạo phạm. Phải chăng họ Kha là chỗ thâm giao với Thang đại hiệp?
Thang Bái sa sầm nét mặt nói:
– Đúng vậy! Kha gia ở Lan Châu quả có chút giao tình với lão phu.
Phụng Thiên Nam nói:
– Đã vậy tiểu nhân đành xả thân bồi tiếp bậc quân tử. Xin đại hiệp vạch đường cho.
Hai người càng nói càng găng, xem chừng sắp động thủ đến nơi.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Thang Bái tuy giao kết với bọn quan phủ nhưng còn biết lẽ thiện ác, đúng sai.
An đề đốc liền cười nói:
– Thang đại hiệp đang duy trì công đạo cho cuộc tỷ thí, bữa nay không nên phô trương thân thủ. Vài hôm nữa, tiểu đệ làm chủ sẽ mời Thang đại hiệp biểu diễn thần công cho anh em được đại khai nhãn giới.
Thang Bái cười đáp:
– Thang mỗ xin đa tạ rượu thưởng của đề đốc đại nhân trước.
Lão quay lại lườm Phụng Thiên Nam một cái, xách chiếc ghế của mình lên đập xuống đất rồi lùi cách xa Phụng Thiên Nam hơn, tựa hồ không muốn ngồi gần hắn. Mấy chỗ ghế dời đi để lộ ra bốn lỗ sâu hoắm in trên nền gạch xanh. Dưới ánh đèn sáng như ban ngày, những người đứng gần đều trông thấy rõ. Công phu này tựa hồ như không khó lắm, nhưng thực ra đó là nội công uẩn súc của mấy mươi năm tu vi. Trong nháy mắt, cả sảnh đường nổi lên tiếng hoan hô vang đội. Những người đứng phía sau không thấy, liền hỏi cơ sự rồi chen lên trước để xem.
Phụng Thiên Nam lạnh lùng nói:
– Công phu của Thang đại hiệp quả là ghê gớm, tại hạ có luyện hai chục năm cũng không bằng. Nhưng ngoài vòm trời này còn có vòm trời khác, trên người này còn có người khác. Đối với những tay cao thủ võ học chân chính thì cái đó cũng tầm thường, chẳng có chi kỳ lạ.
Thang Bái cười nhạt:
– Phụng lão sư nói không sai. Những bậc cao thủ võ học coi cái đó không đáng một xu. Có điều lão phu chỉ cần thắng được Phụng lão sư cũng là mãn nguyện lắm rồi.
An đề đốc cười nói:
– Hai vị còn đấu khẩu nhau làm chi? Trời sắp sáng rồi. Trong bảy chiếc ngự bôi thì sáu chiếc đã có chủ. Đêm nay chúng ta nhất quyết phân định danh phận cho những chiếc Ngọc Long bôi, còn Kim Phụng bôi và Ngân Lý bôi đành để đến tối mai. Bây giờ có vị anh hùng nào muốn lên tỷ thí với Phụng lão sư không?
Hắn hô liên ba lần mà trong đại sảnh vẫn yên lặng, không có ai trả lời.
An đề đốc quay lại nhìn Phụng Thiên Nam nói:
– Cung hỷ Phụng lão sư! Chiếc Ngọc Long bôi này thuộc về lão sư!
– Hãy khoan! Tại hạ còn muốn tỷ đấu với Phụng Thiên Nam!
Rồi một trung niên mặt đầy râu vàng tua tủa, tay không cầm vũ khí, nhảy ra.
Tên võ quan xướng danh hô:
– Đây là Trình Linh Hồ lão sư, chưởng môn Hoa Quyền môn ở Tây Nhạc.
Phụng Thiên Nam đứng lên hỏi:
– Trình lão sư dùng khí giới gì?
Hồ Phỉ sa sầm nét mặt, nói:
– Cái đó khó nói lắm.
Đột nhiên chàng uốn mình vọt lại trước mặt Điền Quy Nông đang ngồi trong chiếc ghế thái sư, hai ngón tay trái dùng chiêu “Song long thương châu” đâm thẳng vào mắt Điền Quy Nông. Diễn biến này vượt ngoài sự tiên liệu của mọi người. Điền Quy Nông giật mình kinh hãi, ứng biến rất thần tốc, vung hai tay lên phong tỏa chiêu số của đối phương. Không ngờ hắn đã mau lẹ, mà Hồ Phỉ lai càng mau lẹ hơn. Hai tay chàng khoanh một vòng biến thành thế “Hoài trung bão nguyệt”, chia ra đánh vào hai bên huyệt thái dương của hắn. Điền Quy Nông không kịp đứng dậy nghinh địch, phải đưa hai tay chống đỡ hai bên.
Hồ Phỉ thừa lúc hắn đưa hai tay chống đỡ hai bên để hở dưới nách, liền xoay tay chụp thanh bảo đao bên hông hắn đánh “soạt” một tiếng. Ánh thanh quang lấp loáng, bảo đao vào tay chàng rồi, Hồ Phỉ thuận tay xoay mình, chém cây đồng côn trong tay Phụng Thiên Nam. Thanh bảo đao đã sắc bén, chàng ra chiêu lại nhanh, chỉ nghe “chát, chát, chát” ba tiếng tiếp theo là hai tiếng “loảng xoảng”, cây thục đồng côn của Phụng Thiên Nam bị đứt hai đoạn ở quãng giữa, rơi xuống đất.
Nguyên chỉ trong nháy mắt, Hồ Phỉ đã chém ba đao mà Phụng Thiên Nam chưa kịp biến chiêu, cây côn trong tay hắn gãy làm bốn đoạn. Mỗi tay hắn còn nắm một đoạn đồng côn ngắn, tiên chẳng ra tiên, giản chẳng ra giản, thực bẽ bàng hết chỗ nói.
Phụng Thiên Nam bở vía, vội tránh sang bên ba bước.
Giữa lúc ấy Uông Thiết Ngạc đứng ngoài cửa sảnh đương hô:
– Tổng chưởng môn của chín môn phái rưỡi tới!
Hồ Phỉ giật mình ngoảnh đầu nhìn ra cửa sảnh lại càng kinh hãi đến ngẩn người. Chàng thấy một vị ni cô đang tiến vào, mình mặc áo đen, chân đi giày vải, tay cầm phất trần. Chính là Viên Tử Y! Đầu nàng không còn một sợi tóc nào, lại in giới ấn. Hồ Phỉ hai mắt hoa lên, e mình nhận lầm người, liến tiến lên một bước nhìn cho rõ. Chẳng phải là Viên Tử Y thì còn ai vào đó nữa?
Viên Tử Y hai tay chắp để trước ngực, buồn rầu nói:
– Tiểu ni là Viên Tính!
Hồ Phỉ ngớ cả người! Đột nhiên huyệt “Huyền khu” và huyệt “Mệnh môn” ở sau lưng đau thấu xương. Chân chàng bước lảo đảo, rồi ngã lăn ra. Thanh bảo đao trong tay thả rơi xuống đất.
Viên Tử Y tức giận quát:
– Dừng tay!
Cô vọt người lên đến phía sau Hồ Phỉ.
Từ lúc Hồ Phỉ đoạt đao, chặt côn, rồi tổng chưởng môn của chín nhà rưỡi xuất hiện, đến lúc chàng bị thương té xuống chỉ là diễn biến trong khoảnh khắc. Quần hào trong sảnh đường còn đang ngơ ngác thì bao nhiêu biến cố kỳ dị xảy ra.
Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ bị thương, trong lòng rất nóng nảy, vội nhảy xổ tới. Viên Tử Y cúi xuống toan ôm Hồ Phỉ lên thì thấy Trình Linh Tố đã nhảy vọt tới, nàng liền rụt tay về khẽ bảo cô:
– Trình muội mau bồng y qua một bên.
Tay mặt nàng cầm cây phất trần vung lại phía sau tựa hồ để ngăn chặn ám khí, che chở phía sau cho Hồ, Trình hai người.
Trình Linh Tố nửa ôm nửa đỡ Hồ Phỉ bước vội về chỗ ngồi, nước mắt đoanh tròng, cuống quít hỏi:
– Đại ca! Đại ca có làm sao không?
Hồ Phỉ nhăn nhó cười, đáp:
– Huyệt “Huyền khu” và huyệt “Mệnh môn” ở sau lưng trúng phải ám khí.
Lúc này Trình Linh Tố không còn tị hiềm nam nữ gì nữa, vội cởi áo trường bào và áo trong, quả thấy trên huyệt “Huyền Khu” và “Mệnh môn” đều thủng một lỗ nhỏ, máu tươi ứa ra. Ám khí đã đâm vào thấu xương.
Viên Tử Y nói:
– Đó là ngân châm, không có chất độc, đại ca cứ yên tâm.
Nàng giơ cây phất trần lên, rút ra một mũi ngân châm. Rồi nàng đặt cây phất trần vào huyệt “Huyền khu” của Hồ Phỉ khẽ nhấc lên, kéo theo một mũi ngân châm. Tiếp theo nàng lại rút nốt mũi ngân châm ở huyệt “Mệnh môn”. Nguyên trong đám sợi tơ ở phất trần có một khối đá nam châm rất lớn.
Hồ Phỉ ấp úng:
– Viên cô nương! Cô nương…Cô nương…
Viên Tử Y khẽ đáp:
– Tiểu muội đã lừa đại ca, là tại tiểu muội không tốt.
Nàng dừng lại một chút rồi tiếp:
– Tiểu muội xuất gia từ nhỏ, pháp danh là Viên Tính. Tiểu muội lấy họ Viên là họ của gia mẫu. Còn “Tử Y” tức là “truy y” (Áo nâu sòng).
Hồ Phỉ ngơ ngác nhìn nàng, Chàng không muốn tin nhưng thấy Viên Tử Y trước mặt mình rõ ràng là một vị ni cô. Lát sau chàng mới ngập ngừng hỏi:
– Sao…sao cô nương lại gạt tại hạ?
Viên Tính cúi đầu, hai mắt nhìn xuống đất khẽ đáp:
– Tiểu muội vâng lệnh sư phụ từ Hồi Cường xuống đến Trung Nguyên mà đi một mình, nếu ăn mặc theo kiểu ni cô thì dọc đường chỗ ăn chỗ ngủ có điều bất tiện, nên phải hóa trang làm người phàm tục. Mái tóc trên đầu tiểu muội cũng là tóc giả, ăn uống vẫn cữ đồ tanh, chắc đại ca không nhận ra được.
Hồ Phỉ chẳng biết phải nói sao, chỉ khẽ buông tiếng thở dài.
Lại nghe An đề đốc lớn tiếng hỏi:
– Còn vị nào muốn tỉ thí với Phụng lão sư ở Ngũ Hổ môn nữa không?
Lúc này Hồ Phỉ tầm thần hoảng loạn, những tiếng hô của An đề đốc bọt vào tai, mà chẳng nghe thấy. An đề đốc hô liền ba lần vẫn không thấy ai lên tiếng khiêu chiến với Phụng Thiên Nam, liền nhìn Phúc Khang An nói:
– Bẩm đại soái! Bảy chiếc Ngọc long ngự bôi thưởng cho bảy vị lão sư này?
Phúc Khang An nói:
– Hay lắm! Hay lắm!
Lúc này trời đã bình mình, ngoài cửa sổ ảnh sáng ban mài đã lờ mờ. Qua một đêm kịch đấu, bảy chiếc Ngọc Long bôi đã được quyết định xong.
Quần hào trong đại sảnh xôn xao nghị luận, mỗi người nói một câu:
– Còn chiếc Ngọc Long bôi bị Hồng Hoa hội cướp đi, chẳng hiểu có vị chưởng môn phái nào đủ bản lãnh đoạt lại chăng?
– Hừ! Dù bản lãnh cao cường đến đâu cũng chẳng thể đấu với Hồng Hoa hội được.
– Trần tổng đà chủ ở Hồng Hoa hội võ công tuyệt đỉnh, lại thêm Vô Trần đại nhân, Triệu Bán Sơn, Văn Thái Lai, Thường thị huynh đệ, đều là những nhân vật phi thường. Kẻ nào muốn đến đoạt lại ngọc bôi là không muốn sống nữa rồi.
Lại có người nhìn Viên Tính bàn tán riêng với nhau:
– Sao vị ni cô xinh đẹp kia lại làm tổng chuởng môn chín nhà rưỡi được? Nhất định y có tà môn.
– Cái gì mà chín nhà rưỡi? Không lẽ lạ có nửa vị là chưởng môn nhân ư?
– Nếu cô ta bản lãnh cao cường, sao lại không đến đoạt một chiếc Ngọc Long bôi?
– Hừ! Khi nào cô dám dây vào ngân châm của Phụng lão sư? Dù cây đồng côn của lão gãy làm bốn đoạn, vẫn có thể phóng ngân châm chuyển bại thành thắng mới thực là tài.
Mọi người không phục nói:
– Cái đó chưa chắc! Vị lão sư râu vàng của Hoa Quyền môn nghe tin tổng chưởng môn mười ba nhà tới, giật mình kinh hãi, vì y phân tâm nên mới bị đả bại bởi tay họ Phụng không thì chưa biết ai thắng ai.
Lại có người khác nói:
– Xem chừng Điền Quy Nông còn kém lắm. Vật báu trấn môn của Thiên Long môn mà hắn để người ta tay không đoạt mất, vậy mà vẫn mặt dày lượm đao về.
– Đúng quá! Hoa Quyền môn đương nhiên đánh thắng Thiên Long Môn.
An đề đốc đến bên trường kỷ, bưng một cái khay đi ra giữa sảnh đường dõng dạc hô:
– Vạn tuế gia ân điển, khâm thưởng Ngọc Long ngự bôi cho Đại Trí thiền sư chưởng môn phái Thiếu Lâm, Vô Thanh đạo nhân chưởng môn phái Võ Đang, Thang Bái chưởng môn Tam tài kiếm, Hải Lan Bật chưởng môn Hắc long môn, Điền Quy Nông chưởng môn Thiên Long Môn.
Lão nói tới đây dừng lại một chút nhìn Thạch tiên sinh hỏi:
– Thạch lão sư, đại danh của quý phái của lão sư là gì?
Thạch tiên sinh mỉm cười đáp:
– Thảo tự của lão phu là Vạn Sân, còn môn phái thì gọi là Dược Vương môn.
Hai chữ “Tạ ơn!” vừa nói ra, bọn Phúc Khang An và các quan viên đều đứng dậy.
Trong quần hào võ lâm người nào hiểu lễ mới đứng lên, còn phần đông vẫn ngồi yên, chờ đến khi một tên vệ sĩ hô lớn:
– Hãy đứng cả dậy!
Bấy giờ quần hào mới hấp tấp đứng lên. Đại Trí Thiền sư và Vô Thanh Tử theo quy củ của tăng, đạo mà hành lễ. Còn bọn Thang Bái, Hải Lan Bật đều quỳ xuống dập đầu.
An đề đốc chờ mọi người quỳ lạy xong nói:
– Cung hỷ! Cung hỷ!
Lão bưng khay đưa tới mọi người. Bọn Đại Trí Thiền sư bảy vị mỗi người thò tay ra lấy một chiếc Ngọc Long bôi. Đột nhiên bảy người cảm thấy tay mình chẳng khác gì chạm phải mảnh sắt nung đỏ, không thể nào cầm được đành phải nhất tè buông ra. Ngọc Long bôi loảng choảng rớt xuống gạch vỡ tan tành tạo nên một loạt âm thanh trong trẻo, giòn tan.
Biến cố này chẳng những bảy người cả kinh, thất sắc, mà từ Phúc Khang An trở xuống đều không khỏi bàng hoàng, tự hỏi:
– Cớ sao vậy?
Bàn tay bảy người vừa cầm ngọc bôi đều vừa nóng bỏng vừa sưng vù, đau rát cực kỳ khó chịu. Họ không ngớt chùi tay vào áo. Hải Lan Bật đưa ngón tay vào miệng mút cho đỡ đau. Đột nhiên lão rú lên một tiếng vì đầu lưỡi đau đớn kịch liệt.
Hồ Phỉ đưa mắt nhìn Trình Linh Tố khẽ gật đầu, bây giờ chàng mới hiểu rõ sự việc. Thì ra, trong trái pháo thứ hai ném vào Kha Tử Dung, cô đã ngầm nhét các loại độc được như Xích yết phấn. Pháo nổ ở trên bảy chiếc Ngọc Long bôi, độc phấn liền tan ra rớt vào các chung rượu. Cách bố trí của cô rất sâu xa, không hề để lộ chút dấu vết nào, bây giờ mới thấy công hiệu.
Lại thấy Trình Linh Tố cứ ngồi hút thuốc và nhả khói liên tục. Trên mặt cô chẳng lộ vẻ đắc ý chút nào. Tay trái cô ngầm giấu thuốc đưa cho Hồ Phỉ và Viên Tính mỗi người hai viên, nói khẽ:
– Nuốt đi!
Hai người biết cô hành động như vậy tất có thâm ý liền nuốt thuốc xuống.
Quần hào nhìn vào đống chén bể và bảy người kia, rất đỗi kinh ngạc, trong đại sảnh im phăng phắc.
Viên Tính đột nhiên đi vào giữa sảnh đường, tay cầm phất trần trỏ Thang Bái dõng dạc nói:
– Thang Bái! Đây là Ngọc Long bôi do đức Hoàng thượng ngự ban mà lão dám lớn mật làm càn, ngầm thi hành ngụy kế cho bể tan tành hết cả. Lão còn mưu việc bất đạo ngấm ngầm câu kết với bọn Hồng Hoa hội phá hoại cuộc đại hội chưởng môn trong thiên hạ của Phúc đại soái. Lão đã làm điều đại nghịch bất đạo, mục vô quân thượng thì anh hùng thiên hạ còn dung thứ thế nào được?
Mỗi câu mỗi chữ của nàng đều ngân vang lanh lảnh. Lần này giọng nói của nàng đã oai nghiêm chứa đầy đạo lý, lại bảo lão cấu kết với Hồng Hoa hội. Tất cả mọi người đang còn hoang mang ngơ ngác, nhưng nghe lời nàng chắc chắn như chém đinh chặt sắt, đúng là “tiên nhập vi chủ”, ai vào trước là giành thế chủ động, không lời nào là không nhắm vào Thang Bái.
Phúc Khang An căm giận vô cùng, vẫy tay một cái. Bọn Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu cùng các cao thủ vệ sĩ kéo đến bao vây Thang Bái.
Thang Bái tuy suốt đời trải qua chẳng thiếu gì cảnh sóng to gió lớn mà lúc này cũng sợ tái mặt. Lão vừa kinh hãi vừa tức giận, người run bần bật quát lớn:
– Con tiểu ni quỷ quái kia, sao ngươi dám mở miệng ăn nói càn rỡ để vu khống người khác?
Viên Tính cười lạt hỏi:
– Bần ni lại là người ăn nói càn rỡ ư?
Nàng quay lại nhìn Vương Kiếm Anh, nói:
– Bát Quái chưởng môn Vương lão sư!
Lại quay sang Chu Thiết Tiêu, hô:
– Ưng Trảo Nhạn Hành môn chưởng môn Chu lão sư! Các vị đều nhận ra tiểu ni là ai. Chức tổng chưởng môn của chín môn phái rưỡi thì tiểu ni không dám làm, nhưng tiểu ni là kẻ ăn nói càn rỡ hay là người có thân phận? Xin hai vị hãy nói cho một lời.
Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu từ lúc thấy Viên Tính tiến vào đại sảnh, trong lòng đã hồi hộp không yên. Chúng chỉ sợ nàng đem việc đoạt ngôi chưởng môn của mình nói huỵch toẹt ra. Chúng là hai vị thủ lãnh đội thị vệ kề cận Phúc Khang An có uy tín nhất, lại là những nhân vật tuyệt đỉnh của bọn võ sư trong thành Bắc Kinh. Nếu quần hùng biết rõ ngôi chưởng môn của chúng đã bị đoạt mất, thì còn mặt mũi nào?
Bây giờ nghe Viên Tính vặn hỏi mình là chưởng môn, lại nói “chức tổng chưởng môn của chín môn phái rưỡi thì tiểu ni không dám làm” là tỏ rõ đã đem những chức chưởng môn đoạt được trả về chủ cũ, họ chẳng khác gì bọn khâm phạm bị đem ra hành hình lại được hoàng thượng ban chỉ ân xá, nỗi mừng kể sao cho xiết? Viên Tính đã hỏi vậy, hai người nào dám trả lời trái ý cô. Huống hồ hai người sau khi nghe Viên Tính chỉ trích Thang Bái, cũng biết lão ngấm ngầm làm trò quỷ, không thì làm sao đột nhiên mọi người nhất tề ném bảy chiếc ngự bôi xuống đất vỡ tan?
Vương Kiếm Anh liền kính cẩn đáp:
– Lão nhân gia võ nghệ siêu quần, tại hạ rất lấy làm kính phục. Lão nhân gia còn khoan hồng đại lượng, đúng là nhân vật kiệt xuất trong võ lâm.
Chu Thiết Tiêu ngày trước bị nàng đả bại, tuy còn ôm lòng thù hận, nhưng bây giờ sợ nàng tiết lộ chuyện xấu của mình, cũng nói theo:
– Tại hạ tin rằng mọi lời nói lão nhân gia đều tin cậy, chỉ vì đại cuộc mà tôn trọng thể diện cho đồng đạo võ lâm. Trừ trường hợp bất đắc dĩ thì quyết chẳng đem tiết lộ những chuyện riêng tư của các nhân vật đã thành danh.
Lão nói mãy câu này sự thật là cầu xin nàng che giấu cho mình, nếu người ngoài nghe lại tưởng nói về Thang Bái.
Quần hùng thấy hai vị thủ lĩnh đội vệ sĩ thân tín nhất của Phúc Khang An nói vậy, thấy họ đối với vị ni cô trẻ tuổi này rất mực kính nể, một điều “lão nhân gia”, hai điều “lão nhân gia” thì còn hoài nghi gì nữa?
Phúc Khang An quát lớn:
– Bắt lấy hắn!
Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu và Hải Lan Bật đều nhất tề ra tay toan bắt Thang Bái, Thang Bái sử chiêu “Đại khuyến thủ” vận nội kình đẩy ba người ra, miệng hô lớn:
– Hãy khoan!
Rồi nhìn Phúc Khang An, nói:
– Phúc đại soái, tiểu nhân xin được cùng thị đối chất vài câu. Nếu thị đưa ra được bằng chứng chân thực, tiểu nhân cam tâm chịu tội, chết không oán hận. Bắng không thì chỉ là những lời ngậm máu phun người, tiểu nhân quyết không chịu phục.
Phúc Khang An biết Thang Bái là người có danh vọng, liền đáp:
– Được rồi! Ngươi cứ việc cùng y đối chất đi.
Thang Bái trợn mất nhìn Viên Tính, hỏi:
– Giữa ta và ngươi vốn không quen biết, sao ngươi lại cản trở vu hại ta? Thực ra, ngươi là ai?
Viên Tính đáp:
– Đúng! Ta với lão không quen biết cũng không thù oán, thì có lý nào tự nhiên vô cớ ta đổ oan cho lão? Nhưng ta có mối thâm cừu đại hận với Hồng Hoa hội. Lão đã uống máu ăn thề để gia nhập Hồng Hoa hội, lại còn trà trộn vào đại hội chưởng môn để quấy phá. Ta không vạch trần âm mưu ngụy kế của lão ra không được. Lão giao du rộng rãi kết bạn khắp thiên hạ, nhưng kết bạn với ai thì mặc, chẳng liên quan gì đến ta, còn giao kết với bọn phỉ đồ ở Hồng Hoa hội thì ta không thể dung thứ được.
Hồ Phỉ đứng một bên lắng nghe, trong lòng rất đỗi hoài nghi. Chàng đã biết Viên Tính cùng chúng anh hùng ở Hồng Hoa hội có mối quan hệ rất sâu xa, chàng lại biết rõ vụ bể ngọc bôi là do Trình Linh Tố ra tay, nhưng không hiểu tại sao Viên Tính lại vu hãm Thang Bái?
Trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, đột nhiên chàng nghĩ tới Viên Tính từng kể chuyện sau khi mẫu thân nàng bị Phụng Thiên Nam bức bách phải xa nhà ở Quảng Đông, sống nhờ ở nhà Thang Bái. Chẳng lẽ cái chết của mẫu thân nàng có liên quan đến Thang Bái?
Từ lúc con người mà Hồ Phỉ lúc nào cũng tâm niệm là Viên Tử Y biến thành Viên Tính ni cô, thì chàng thần hồn bất định, lòng dạ trăm mối ngổn ngang không sao trấn tĩnh được, cả hai vết thương đau nhói trên lưng cũng không còn nhớ tới.
Phúc Khang An mười năm trước đã từng bị quần hào ở Hồng Hoa hội bắt giữ, chịu đủ điều nhục nhã, trong lòng hắn vô cùng căm hận. Cuộc đại hội chưởng môn được tổ chức lần này cũng chính vì mục đích đối phó với Hồng Hoa hội. Hắn nghe Viên Tính nói vậy liền nghĩ ngay tới lão họ Thang thích giao kết với hào khách giang hồ, những nhân vật đầu não của Hồng Hoa hội lại là những kẻ kiệt hiệt trong võ lâm, nếu lão có kết giao với họ thì ta chẳng có chi là lạ, chứ lão không giao kết mới thật là kỳ.
Lại nghe Thang Bái bảo:
– Ngươi bảo ta giao kết với bọn phỉ đồ Hồng Hoa hội, thị có ai thấy không? Lấy gì làm bằng chứng?
Viên Tính nhìn An đề đốc, hỏi:
– Đề đốc đại nhân! Tên giặc Thang Bái kia có thư từ qua lại với bọn cầm đầu Hồng Hoa hội. Đại nhân có thể thiết pháp để điều tra xác định được bút tích chân giả chăng?
An đề đốc đáp ngay:
– Được! Được!
Hắn quay đầu dặn tên võ quan đứng bên mấy câu. Tên võ quan này chạy đến cái bàn vuông lật cuốn sách ra lấy ra một phong thư. Đây là thư của Thang Bái viết cho An đề đốc nhận lời tiến kinh phó hội và làm công chứng trong những cuộc tỷ võ ở đại hội.
Thang Bái chẳng sợ hãi gì, nghĩ thầm:
– Tuy ta kết giao rất rộng, nhưng hành động cẩn thận, cũng chẳng biết nhân vật nào ở Hồng Hoa hội. Cho dù tiểu ni cô này có giả tạo thư tín, thì bút tích chân ngụy chỉ cần đối chiếu là biết được ngay.
Hắn nghĩ vậy nên chỉ tủm tỉm cười lạt.
Viên Tính lạnh lùng hỏi:
– Cam Lâm Huệ thất tỉnh Thang đại hiệp! Trong cái mũ của đại hiệp có giấu vật gì không?
Thang Bái ngạc nhiên nói:
– Có gì à? Cái mũ là cái mũ.
Lão lấy cái mũ xuống, xem cả bên trong lẫn bên ngoài chẳng thấy có chi khác lạ. Muốn tỏ ra mình trong sạch, lão đưa mũ cho Hải Lan Bật. Hải Lan Bật coi xong lại chuyển cho An đề đốc.
An đề đốc coi kỹ rồi nói:
– Chẳng có gì cả.
Viên Tính nói:
– Xin đề đốc cắt mũ ra coi.
Theo phong tục người Mãn Châu, khi đi dự tiệc lớn, thì người ta thường mang theo dao, để gặp những miếng thịt lớn thì tự cắt lấy mà ăn. Bởi vậy An đề đốc cũng mang theo dao trong người. An đề đốc nghe nói vậy liền lấy dao ra cắt đường chỉ khâu, quả nhiên thấy trong mớ bông có giấu một lá thư. Lão “ủa” một tiếng rồi rút thơ ra.
Thang Bái tái mặt ấp úng:
– Cái này… cái này…
Lão không nhịn được muốn lại coi, nhưng Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu đã vung đao ra ngăn lại.
An đề đốc mở lá thư ra lớn tiếng đọc:
“Tại hạ là Thang Bái kính lạy dưới cờ Trần tổng đà chủ… việc được ủy thác dĩ nhiên tại hạ phải tận tâm kiệt lực, chết cũng cam lòng, nếu không thì lấy gì để báo đền ơn tri ngộ. Có điều kẻ kia mở đại hội mời chưởng môn nhân trong thiên hạ tập trung về một nơi, công cuộc phòng bị dĩ nhiên cực kỳ nghiêm mật. Nếu không may tại hạ phụ lòng ủy thác thì đành máu đổ đất kinh hoa, đem lá thư và cái mũ này để bái kiến minh công. Thuộc hạ ở kinh thành do thám được…”
Lão đọc tới đây vẻ mặt biến sắc, cầm thư đưa trình lên Phúc Khang An, Phúc Khang An đón lấy thơ coi thấy viết:
“… thân thế kẻ kia có nhiều điều bí ẩn. Khi nào tương kiến sẽ trình bày cặn kẽ đầu đuôi. Ngẩng đầu nhìn phía tây, mong chờ ngày rạng rỡ. Ngày nào bắt được y cầm tù lần nữa trên ngọn tháp Lục Hòa, lại giam kẻ kia vào Tử Cấm thành, há chẳng khoái ư!”
Phúc Khang An càng đọc càng cảm thấy tức lộn ruột. Nguyên mười mấy năm trước, Càn Long hoàng đế vi hành đến đất Hàng Châu bị quần hùng Hồng Hoa hội lập mưu bắt được, cầm tù trên ngọn tháp Lục Hòa. Sau lại bắt Phúc Khang An, giam trong Tử Cấm thành.
Hai vụ này là cái nhục lớn cho vua Càn Long và Phúc Khang An. Những quan viên cùng thị vệ ngày ấy biết vụ này đều bị nhà vua mượn cớ tru lục để diệt khẩu. Hai việc đó có quan hệ đến những điều bí mật giữa vua Càn Long và Tổng đà chủ Hồng Hoa hội là Trần Gia Lạc, nên hội này cũng giữ rất bí mật người giang hồ ít ai biết rõ hơn mười năm trời, vết thương lòng của Phúc Khang An đã nhạt dần, không ngờ trong lá thư này Thang Bái lại khui ra.
Phúc Khang An tự hỏi:
– Trong thơ hắn nói là do thám được thân thế bí ẩn của kẻ kia, không hiểu là những chuyện xấu xa gì?
Phúc Khang An là con tư sinh của vua Càn Long. Chỉ một chuyện này mà nhắc tới một câu là đủ phải mang họa sát thân diệt tộc rồi. Phúc Khang An tuy hết sức trấn tĩnh mà lúc này hắn quá tức mặt xám lại, tay run lẩy bẩy.
An đề đốc dâng lên bức thư kia của Thang Bái. Phúc Khang An tiện tay đón lấy coi lại thì nét chữ giống hệt nhau, đúng là một người viết.
Thang Bái thấy trong mũ mình giấu một lá thơ, sau một thoáng kinh hoàng liền tỉnh ngộ, biết là Viên Tính đã ngấm ngầm nhúng tay vào việc này. Chắc nàng mua một cái mũ giống hệt, nguy tạo một bức thư khâu vào trong rồi nhân lúc lão đi ngủ hoặc đi tắm rửa liền hoán đổi.
Lão nghe An đề đốc đọc nửa lá thư, sau lưng đã toát mồ hôi lạnh, biết ngay hôm nay đại họa lâm đầu. Lão lại thấy An đề đốc không dám đọc nửa sau mà đưa lại cho Phúc Khang An coi, thì không cần hỏi cũng biết là toàn những lời đại nghịch vô đạo. Lão nghĩ thầm:
– Muốn biện minh nỗi oan này chỉ có cách điều tra lai lịch của con tiểu ni cô kia.
Lão nhìn kỹ Viên Tính, bất giác cả kinh lẩm bẩm:
– Con nhỏ này coi rất quen mặt, trước nay mình đã từng gặp qua rồi.
Đột nhiên lão sực nhớ ra điều gì, ấp úng hỏi:
– Ngươi… ngươi là… con gái của Ngân Cô!
Viên Tính cười lạt đáp:
– Thế ra lão nhận được ta rồi!
Thang Bái hô lớn:
– Phúc đại soái! Cô này là cừu gia của tiểu nhân! Thị đặt cạm bẫy hãm hại tiểu nhân. Xin đại soái đừng tin thị.
Viên Tính nói:
– Không sai! Ta là cừu gia của lão. Mẫu thân ta cùng đường đến nương nhờ nhà lão. Không ngờ Thang đại hiệp mặt người dạ thú, thấy mẫu thân ta xinh đẹp liền dùng bạo lực xâm phạm tiết hạnh, khiến mẫu thân ta treo cổ lên xà nhà tự tử. Vụ này có đúng không?
Thang Bái biết mình thừa nhận việc xấu xa đó trước mặt anh hùng thiên hạ là mất hết thanh danh, không còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ. Nhưng sau khi cân nhắc, lão thấy nếu không nhận thì Phúc Khang An sẽ tin lời vu hãm của Viên Tính, nên đành gật đầu đáp:
– Đúng! Vụ đó quả có thực.
Quần hào trong đại sảnh xưa nay rất kính trọng Thang Bái, tưởng lão là tay đại hiệp cứu khốn phò nguy, giúp đỡ người trong cơn hoạn nạn. Họ nghe nói lão cấu kết với Hồng Hoa hội, nhưng quần hào trong Hồng Hoa hội đều là những bậc anh hùng mà bạn hữu võ lâm đều ngưỡng mộ, nên dù Thang Bái có gia nhập hội này cũng chẳng tổn thương gì đến hai chữ “đại hiệp”. Bây giờ nghe chính miệng lão thú nhận đã cưỡng gian nạn nữ khiến người ta phải tự tử, thì huyên náo cả lên. Không ít kẻ trực tính lập tức lên tiếng mắng nhiếc. Kẻ thì bảo lão là “ngụy quân tử”, kẻ thì bảo lão là “y quan cầm thú”! có kẻ lại bảo lão mang hai tiếng “đại hiệp” mà không biết xấu hổ.
Viên Tính chờ sự ồn ào lắng xuống, mới lạnh lùng nói tiếp:
– Ta muốn giết ngay tên cầm thú để trả thù cho vong mẫu, nhưng võ công lão mạnh quá không địch nổi, phải ngày đêm dòm qua cửa sổ hoặc ẩn trên nóc nhà dò xét hành động của lão. Ha ha! Trời cũng chiều lòng người, ta nghe được lão vẫn ngấm ngầm bàn bạc với bọn lãnh tụ phỉ đồ ở Hồng Hoa hội là Triệu Bán Sơn, Thường thị huynh đệ, Thạch Song Anh. Vừa rồi gã thiếu niên thư sinh đoạt chiếc Ngọc Long bôi là tên thư đồng Tâm Nghiễn của Tổng đà chủ Trần Gia Lạc, có đúng thế không?
Quần hùng nghe nói lại xôn xao một lúc.
Phúc Khang An lẩm bẩm:
– Gã đó đúng là Tâm Nghiễn. Gã lớn mật thật, không sợ ta nhận được!
Thang Bái hỏi lại:
– Ta nhận biết gã thế nào được? Nếu ta cấu kết với Hồng Hoa hội thì sao lại ra tay bắt gã?
Viên Tính cười khẩy đáp:
– Lão dàn xếp khôn ngoan lắm! Nếu ta không nghe được lão bí mật bàn bạc từ trước thì chẳng thể nào nghĩ tới lão mưu này. Ta thử hỏi: Thủ pháp điểm huyệt của Thang đại hiệp là môn công phu độc đáo. Mỗi khi lão ra tay điểm huyệt ai thì người ngoài không sao giải khai được. Vừa rồi lão điểm huyệt tên phỉ đồ ở Hồng Hoa hội, cớ sao đèn lửa nhà đại sảnh lại tắt sạch? Vì lẽ gì tên phỉ đồ kia được giải khai huyệt đạo rồi trốn đi?
Thang Bái há miệng quíu lưỡi, ấp úng đáp:
– Cái đó… cái đó là có người ngấm ngầm giải cứu.
Viên Tính lớn tiếng nói:
– Người ngấm ngầm giải cứu, ngoài Thang Bái đại hiệp, trong thiên hạ quyết không còn kẻ thứ hai nào. Lúc đó ngoài lão ra, có còn ai đứng bên cạnh gã thư sinh kia không?
Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh dị, bụng bảo dạ:
– Lời lẽ nàng rất sắc bén. Thang Bái có trăm miệng cũng khôn bề giải thích. Rõ ràng ta đã giải khai huyệt đạo cho gã thư sinh, nhưng ta chỉ giải khai một nửa, còn không hiểu ai đã ra tay, nhưng quyết không phải là Thang Bái.
Lại nghe Viên Tính nói tiếp:
– Phúc đại soái! Thang Bái đã ngấm ngầm bày mưu lập kế với bọn phỉ đồ Hồng Hoa hội, giả vờ bắt tên phỉ đồ Tâm Nghiễn để bên cạnh đại soái. Kế đó lại cho bọn khác quạt tắt đèn lửa để gã thư sinh thừa cơ nhốn nháo, tiến đến gần để hành thích đại soái. Chúng tiên liệu bọn vệ sĩ thấy thư sinh bị điểm huyệt không nhúc nhích được, dĩ nhiên không đề phòng gã hành thích. Không ngờ đại soái hồng phúc tầy trời, gặp hung hóa cát, bọn thị vệ lại dốc dạ trung thành, phòng vệ cực kỳ nghiêm mật. Đèn lửa tắt rồi, lập tức họ chạy đến bảo vệ đại soái thành ra gian tặc không thể thi hành gian kế được.
Thang Bái nạt lớn:
– Mi nói nhăng nói càn, làm gì có chuyện đó?
Phúc Khang An nghĩ lại tình trạng vừa qua rồi đối chiếu với những lời của Viên Tính mười phần đã tin cả mười. Hắn la thầm:
– Nguy hiểm quá!
Hắn lại nhìn Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu nói:
– Các ngươi giỏi lắm! Ta sẽ thăng quan cho!
Viên Tính thừa cơ hỏi:
– Vương đại nhân! Chu đại nhân! Có đúng gian kế của tặc tử như vậy không?
Vương kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu đều thầm nghĩ:
– Ta không thể đắc tội với vị ni cô này. Huống chi càng nói sự việc nguy hiểm thì công bảo vệ đại soái càng lớn, mình được phong thưởng càng nhiều.
Nghĩ vậy, một người liền đáp:
– Quả thực gã thư sinh muốn nhảy xổ về phía đại soái rất may là gã không thành công.
Còn người kia nói theo:
– Trong bóng tối, quả có người nhảy vọt lại, võ công rất lợi hại, bọn tiểu nhân phải liều mạng chống chọi… Không ngờ lại chính là Thang Bái, quả thật nguy hiểm phi thường.
Thang Bái không sao giải thích được, đành nhìn Viên Tính hỏi:
– Mi… mi toàn ăn nói hồ đồ! Vừa rồi mi không có mặt ở sảnh đường làm sao biết được?
Viên Tính không trả lời, quay lại nhìn Phụng Thiên Nam từ đầu đến chân. Phụng Thiên Nam là thân phụ nàng, có điều lão đã bức bách mẫu thân nàng phải điên đảo lưu ly, chịu trăm cay nghìn đắng, đến lúc chết cũng chẳng được yên lành. Nàng đã phát thệ cứu lão ba lần để trọn tình phụ tử rồi sẽ giết hắn báo thù cho vong mẫu. Nàng toan lôi cả Phụng Thiên Nam vào vụ này nhưng khi nhìn hắn thì trong lòng lại không nỡ, đâm ra do dự.
Thang Bái là một tên giảo quyệt, nhìn thấy mặt nàng lộ vẻ ngần ngại, là không ngớt nhìn Phụng Thiên Nam, liền động tâm tưởng đây là mưu của hắn.
Lão liền la lớn:
– Phụng Thiên Nam! Té ra người đã bày trò quỷ. Ngươi yêu cầu ta ngấm ngầm tương trợ lấy được Ngọc Long bôi, bây giờ lại bảo con gái ngươi đứng ra hãm hại ta.
Phụng Thiên Nam kinh ngạc hỏi:
– Con gái tại hạ ư? Thị… thị là con gái của tại hạ ư?
Quần hào nghe hai người đối đáp đều không khỏi kinh dị.
Thang Bái cưới lạt nói:
– Lão cứ giả ngây giả dại, làm như không biết đi! Lão hãy hỏi lại coi tiểu ni cô này có khác gì Ngân Cô ngày trước không?
Phụng Thiên Nam tròn mắt nhìn Viên Tính, sửng sốt không nói nên lời.
Hắn thấy Viên Tính tuy ăn mặc theo kiểu ni cô, nhưng mày thanh mắt sáng giống hệt Ngân Cô, con gái lão chài ngày trước.
Nguyên ngày trước Ngân Cô đem con gái từ trấn Phật Sơn trốn lên Hồ Bắc, vào nhà Thang Bái để làm tôi tớ. Thang Bái bề ngoài coi đạo mạo, ra dáng vẻ một bậc nhân nghĩa mà thực ra hành vi bất chính. Lão thấy Ngân Cô xinh đẹp liền cưỡng hiếp khiến nàng phẫn uất, phải treo cổ tự tử. Viên Tính được một vị ni cô có địa vị cực cao ở phái Nga Mi cứu, đưa về Thiên Sơn xuống tóc và dạy võ nghệ. Chỗ ở của vị ni cô này xa Thiên Trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu và quần hùng ở Hồng Hoa hội. Ngày ngày nàng chăm chú luyện tập võ nghệ. Thời gian cứ thấm thoát trôi qua. Viên Tính tư chất rất tốt, nguyên võ công của sư phụ truyền cho đã rất cao thâm, phức tạp, song nàng vẫn chưa lấy làm đủ. Cho nên mỗi lần gặp Viên Sĩ Tiêu, nàng cứ xoắn xít lấy vị quái hiệp này để xin học thêm một vài chiêu thức. Cả Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng cho đến Tâm Nghiễn ở Hồng Hoa hội đều truyền thụ võ công cho nàng chẳng nhiều thì ít.
Thiên Trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu tuổi già cảm thấy tịch mịch nên truyền thụ cho nàng rất nhiều. Viên Sĩ Tiêu đối với võ học trong thiên hạ có thể nói không có gì là không biết, huống gì còn có thêm gần chục vị minh sư dạy bảo, nên Viên Tính nắm rõ sở trường của các môn phái. Nàng lại là người thông mình cơ cảnh, biết dùng cái trí xảo để bù vào chỗ thiếu sót về công lực. Nếu không vì tuổi còn nhỏ, công lực tu vi còn nông cạn, thì nàng đã đạt đến trình độ của hạng nhất lưu cao thủ rồi.
Năm nay Viên Tính xin sư phụ xuống Trung Thổ để trả thù cho vong mẫu. Uyên ương đao Lạc Băng liền gửi nàng con tuấn mã để gặp Hồ Phỉ thì tặng cho chàng. Chỉ vì Triệu Bán Sơn ca ngợi Hồ Phỉ quá mức, mà Viên Tính còn đang tính thiếu niên nên không chịu phục, cho nên mới có chuyện hai người tỷ đấu mấy lần ở dọc đường. Không ngờ hai người gặp nhau rồi sinh lòng thương mến nhau, mối tình ngấm ngầm nảy nở. Viên Tính hiểu được điều này nên đâm ra kinh hãi, lòng đã rối như tơ vò, mà chẳng biết làm sao để nguôi khuây. Nàng phải tự ước thúc không dám gặp mặt chàng nhiều nữa mà chỉ ngấm ngầm theo dõi.
Sau này thấy Hồ Phỉ giao kết với Trình Linh Tố, nàng cảm thấy tự thương thân và cũng tự an ủi, vì mình đã là người ngoài vòng trần tục, suốt đời làm bạn với thanh đăng cổ Phật rồi. Ngày bái sư nàng đã lập lời trọng thệ làm người kế thừa y bát cho sư phụ. Ơn đức sư phụ sâu nặng, nàng quyết chẳng dám trái lời thề. Nàng thấy Trình Linh Tố thông minh, trí tuệ còn cao hơn cả mình, lại có mối thâm tình với Hồ Phỉ. Hồ Phỉ có cô làm bạn là điều rất tốt đẹp. Vì thế nàng lưu ngọc phụng tặng cô để thay lời nhắn nhủ xa xôi. Có điều lúc vắng người, nàng không khỏi âm thầm sa lệ.
Chuyến này nàng đông du để báo thù, mà kẻ thù chính là Can Lâm Huệ thất tỉnh Thang Bái. Nếu nàng ngấm ngầm hành thích hạ độc, thì chẳng khó gì, nhưng nàng thấy lão là người giả nhân giả nghĩa lại ham danh ham lợi, nên muốn lột mặt nạ lão trước thiên hạ anh hùng, rồi sau đó hạ sát mới hả dạ.
May gặp lúc Phúc Khang An triệu tập cuộc đại hội chưởng môn sai phái người đi khắp nơi để mời các vị chưởng môn nhân về dự hội, Viên Tính dò biết dụng ý của Phúc Khang An, một là muốn thu nạp những tay tuấn kiệt trên chốn giang hồ rồi dùng công danh, lợi lộc thao túng để đem họ đối phó với quần hùng Hồng Hoa hội, hai là tạo ra sự ly gián giữa các môn phái để họ tranh đấu lẫn nhau, không còn nghĩ đến việc phản kháng Mãn Thanh nữa.
Viên Tính trù tính kế hoạch rất chu đáo. Trước tiên là vạch trần chân tướng của Thang Bái trong đại hội chưởng môn, rồi sau đó mới giết hắn để báo thù cho mẫu thân. Nếu như trong đại hội chưởng môn mà làm náo loạn được một phen, khiến gian kế của Phúc Khang An bất thành, thì không chỉ giúp cho các vị thúc bá trong Hồng Hoa hội rảnh rỗi chân tay, báo đáp phần nào công ơn dạy dỗ, mà còn tạo phúc cho võ lâm trong thiên hạ nữa.
Tại nhà của Thang Bái ở Hồ Bắc thì môn nhân đệ tử đã đông, mà bọn hào khách vãng lai cũng không phải là ít, muốn trà trộn vào trong phủ không phải là chuyện dễ. Nhưng khi đến Bắc Kinh, Thang Bái một mình trú ở căn phòng hạng sang trong khách điếm, Viên Tính liền cải dạng nam trang ra vào, không ai để ý. Viên Tính ngấm ngầm nghe trộm, biết Thang Bái rất ham công danh, muốn thừa cơ xu phụ Phúc Khang An để mở rộng tiền đồ, nên nàng lập mưu ngụy tạo thư tín, đánh tráo cái mũ của lão.
Thêm vào Trình Linh Tố hạ thủ ngấm ngầm đưa đến vụ làm tan vỡ Ngự bôi, và Hồ Phỉ giải huyệt cho Tâm Nghiễn, khiến Thang Bái dù có miệng lưỡi của Tô Tần, Trương Nghi cũng chẳng có cách nào biện minh được.
Viên Tính toan kéo cả Phụng Thiên Nam vào vụ này để gây liên lụy cho hắn. Nhưng dẫu sao giữa hắn và nàng cũng có tình phụ tử, dù hắn là hạng người vô ác bất tác, đối với nàng chưa hề có một mảy may tình cảm, nhưng lời nói đến khóe miệng vẫn không sao thốt ra được.
Thang Bái lúc này lâm vào tình trạng kẻ sắp chết đuối, dù có vớ được nắm cỏ cũng phải giữ chẳng buông ra. Lão lớn tiếng quát hỏi:
– Phụng Thiên Nam! Ngươi hãy nói đi. Ngươi có công nhận thị là con gái không?
Phụng Thiên Nam từ từ gật đầu.
Thang Bái lại lớn tiếng:
– Phúc đại soái! Cha con y đã đặt cạm bẫy để hãm hại tiểu nhân.
Phụng Thiên Nam tức giận hỏi:
– Ta hãm hại lão để làm gì?
Thang Bái đáp:
– Vì ta bức tử vợ ngươi!
Phụng Thiên Nam cười lạt nói:
– Hà hà! Đứa con gái mà lão bức tử ai bảo là vợ ta? Phụng mỗ qua tay rồi bỏ. Hạng đàn bà như vậy…
Hắn nói tới đây, bỗng chạm phải mục quang lạnh lẽo của Viên Tính đang chăm chú nhìn, bất giác run lên không dám nói nữa.
Thang Bái hỏi:
– Được rồi! Cơ sự đã đến thế này, ta bất tất phải giấu giếm làm gì. Mũi vô ảnh ngân châm đó ngươi phóng hay ta phóng? Nếu ngươi phóng thì thử bắn ta một mũi coi.
Lão nói câu này, quần hào trong sảnh lại nhốn nháo cả lên.
Hồ Phỉ bị trúng châm sau lưng, sau khi định thần lại đã biết người phóng quyết chẳng phải Phụng Thiên Nam, vì lúc vung đao chặt đồng côn, chàng đứng đối diện với hắn, từ lúc Viên Tính tiến vào, chàng tâm thần hoảng hốt rồi sau lưng trúng phải châm, vậy nhất định là có người ở phía sau chàng bắn lén. Vừa rồi chàng nghe Thang Bái gây lộn với Phụng Thiên Nam đã nói “dùng ám tiễn hại người không phải là hảo hán” nên thủy chung không nghi ngờ lão. Chàng cho đó là hành vi của Hải Lan Bật hoặc của chưởng môn phái Võ Đương là Vô Thanh Tử. Ngờ đâu Thang Bái cùng Phụng Thiên Nam cố ý bày ra nghi trận để che tai mắt quần hùng.
Nguyên Phụng Thiên Nam từ trấn Phật Sơn chạy trốn mạn bắc. Khi qua Hồ Bắc, hắn có ở nhà Thang Bái mấy ngày. Tình cờ hắn nghe hai tên gia nhân trong nhà trò chuyện về phong thổ và tình hình ở trấn Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, bất giác khiến hắn để ý. Hắn liền thưởng chúng năm chục lạng bạc để hỏi căn do và thám thính chuyện Ngân Cô. Phụng Thiên Nam xem Ngân Cô khác nào đám mây qua mặt, xong việc rồi thôi chẳng hề để tâm đến và cũng không nói với Thang Bái.
Trên đường đến Bắc Kinh, hắn đã sắp xếp kế hoạch để lấy lòng Hồ Phỉ. Ruộng đất nhà cửa ở trấn Nghĩa Đường là của hắn tặng cho. Sau khi đến Bắc Kinh, hắn đã bỏ ra không ít tiền bạc để nhờ Chu Thiết Tiêu ra mặt hóa giải vụ này.
Nhưng Hồ Phỉ kiên trì giữ lòng nghĩa hiệp. Dù chẳng có thân thích hay quen biết gì với Chung A Tứ, chàng cũng theo dõi đến cùng không chịu bỏ dở. Phụng Thiên Nam nghĩ rằng nếu không trừ được Hồ Phỉ thì ăn ngủ không yên. Hắn liền bàn bạc với Thang Bái. Hắn sợ lão không chịu, liền thổi phồng câu chuyện, nói mục đích Hồ Phỉ đến Bắc Kinh là để quấy rối đại hội chưởng môn nhân. Ban đầu Thang Bái không chịu giúp, Phụng Thiên Nam liền nhắc lại câu chuyện Ngân Cô. Hắn nói bóng gió rằng nếu lão không chịu giúp, hắn sẽ tiết lộ vụ cưỡng bức Ngân Cô. Bằng lão chịu giúp hắn trừ khử Hồ Phỉ để hắn trở về trấn Phật Sơn chỉnh đốn lại cơ nghiệp, thì hàng năm hắn sẽ đưa tặng lão một vạn lạng bạc.
Thang Bái kết bạn rất nhiều, tiêu tiền cũng lắm. Lão muốn truyền bá tiếng nhân nghĩa, lại không thể làm tiền bằng cách mở sòng bạc hay công nhiên sang đoạt tiền tài của người khác như Phụng Thiên Nam được. Lão nghĩ Phụng Thiên Nam nói mỗi năm tặng một vạn lạng bạc thì không khỏi động tâm, lại sợ câu chuyện Ngân Cô bị lộ, liền ưng thuận giúp hắn.
Thang Bái là tay mưu kế sâu xa. Trong đế giày, lão đặt một cơ quan phóng ám khí cực kỳ tinh xảo để ngắm bắn ngân châm. Khi lão đi đường, đầu ngón chân không chấm đất, hễ đụng xuống là ngân châm phát xạ, đúng là vô ảnh vô tung không một ai hay biết.
Lão nghĩ rằng mình đã giúp Phụng Thiên Nam thì phen này giúp hắn đoạt lấy một chiếc Ngọc Long bôi đem về Phật Sơn, uy danh lừng lẫy thiên hạ, tất hàng năm hắn còn thù lao nhiều hơn chứ không phải chỉ có một vạn lạng.
Phụng Thiên Nam liên tiếp đánh bại được bao nhiêu cao thủ trong đại hội toàn là nhờ Thang Bái ngầm phóng ngân châm vào đối thủ. Mũi châm đã nhỏ, kỹ thuật phát châm bằng chân của lão xảo diệu phi thường, nên trước bao cặp mắt của quần hùng vẫn không một ai phát giác. Ngay cả Trình Linh Tố là người rất tinh tế mà cũng không sao lần ra manh mối.
Dè đâu lại xảy ra biến cố bất ngờ, bỗng dưng có một vị tiểu ni cô tiến vào đại hội. Nàng buộc chặt lão vào tội trạng không đường chối cãi. Trong lúc nguy cấp, tự nhiên lão phát giác ni cô là con gái Phụng Thiên Nam thì không suy nghĩ gì nữa, liền nói huỵch toẹt ra. Lão cho rằng việc bức tử một người đàn bà yếu ớt và ám trợ cho Phụng Thiên Nam trong lúc tỷ đấu còn là tội nhẹ, nhưng câu kết với Hồng Hoa hội, mưu đồ phản nghịch là tội cực lớn. Lão cân nhắc nặng nhẹ, liền phản kích cha con Phụng Thiên Nam.
Phụng Thiên Nam vừa nghe Thang Bái tố cáo đã biết ngay chỗ dụng tâm của lão. Hắn lớn tiếng:
– Ta biết lão cấu kết với Hồng Hoa hội, mưu đồ phản nghịch. Lão tưởng ngấm ngầm phóng ngân châm tương trợ để lấy lòng là mong ta không tiết lộ cho đại soái. Hà hà! Nhưng Phụng Thiên Nam này tấc dạ sắt son, tận trung báo quốc, có lý đâu để cho bọn gian tặc như lão mua chuộc.
Thang Bái nghe hắn quay đầu lại cắn mình, nếu còn để hắn nói nhiều thì mình càng nặng tội. Trong cơn phẫn nộ, lão dí hai chân xuống. Bốn mũi ngân châm đồng loạt bắn vào bụng Phụng Thiên Nam.
Phụng Thiên Nam rú lên một tiếng, đưa tay ôm bụng, cong gập người lại rồi té huỵch xuống.
Viên Tính vội chạy lại nâng hắn dậy, miệng la:
– Gia gia! Gia gia… có sao không?
Bọn Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu thấy lúc này mà Thang Bái còn hành hung, liền nhất tề xông lại bắt lão.
Thang Bái không phản kháng, chỉ la lớn:
– Oan uổng! Oan uổng! Oan nghiệt! Oan nghiệt!
Lão biết Khang An tính rất đa nghi. Dù có đem việc này phân rõ đầu đuôi hắn cũng không bỏ qua cho lão. Huống chi án nặng như non, có biện minh cách nào cũng không ổn. Chẳng qua đời lão làm ác đã nhiều, đến lúc này phải gặp quả báo.
Viên Tính đỡ Phụng Thiên Nam dậy, nhưng hắn nhắm nghiền hai mắt và đã tắt thở rồi. Trong sảnh đường rối loạn cả lên, chẳng ai nói ai nghe gì nữa.
Phúc Khang An nghĩ bụng:
– Thang Bái tất còn người đồng mưu. Tiểu ni cô kia biết rõ những lời trong thơ của hắn. Tuy thị đã tiết lộ gian mưu, nhưng không thể để thị sống cho tin này đồn đãi ra ngoài được.
Hắn nghĩ vậy liền khẽ bảo An đề đốc:
– Đóng hết cửa lớn lại, không cho một ai ra, để chúng ta mở cuộc điểm vấn từng người.
Hồ Phỉ thấy tình thế nguy cấp, vọt đến bên Viên Tính, khẽ bảo nàng:
– Chuồn đi cho lẹ! Nếu còn chậm trễ là hết đường thoát thân.
Viên Tính gật đầu. Hai người chạy đến bên Trình Linh Tố. Viên Tính đột nhiên đưa tay ra điểm vào dưới hông Thái Uy, rồi lại điểm hai huyệt đạo trọng yếu trên vai và sau lưng hắn. Thái Uy lập tức ngã lăn ra.
Cơ Hiểu Phong sửng sốt hỏi:
– Ngươi…
Viên Tính nói:
– Hồ đại ca! Gã này tiết lộ cơ mật, hắn ngấm ngầm đưa hai đứa con của Phúc Khang An về trả lại.
Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng, tức giận hỏi:
– Hắn khả ố đến thế ư?
Chàng giơ gót chân nện xuống lưng Thái Uy. Phát cước này tuy chưa làm hắn chết ngay nhưng bị tổn thương can mạch, không khác gì phế nhân. Đang lúc rối loạn, hai người đối phó với Thái Uy mà không ai hay.
Hồ Phỉ quay sang Cơ Hiểu Phong, nói:
– Cơ huynh mau chạy đi. Xin chân thành cảm tạ. Bọn ta sau này có ngày gặp lại.
Cơ Hiểu Phong thấy tình thế rối loạn, liền chắp tay bái biệt rồi cướp đường chạy ra phía cửa sảnh.
Bỗng nghe An đề đốc lớn tiếng nói:
– Các vị ở đâu về ngồi chỗ đó, không được náo loạn!
Trình Linh Tố cầm ống thuốc hút thở ra mấy hơi. Cô lại chạy qua mé hữu, mé tả, vừa hút vừa thở khói. Cô vừa nhả khói, lại vừa nhón chân xem cảnh náo nhiệt.
Bỗng có tiếng la:
– Trời ơi! Đau bụng quá!
Tiếng la vừa dứt thì bốn phía đều có tiếng người la theo:
Cả Thạch Vạn Sân tuy xưng là “Độc Thủ Dược Vương” cũng nổi cơn đau bụng, vội lấy một bó dược thảo đốt lên. Nguyên đây là dược thảo để giải độc. Trình Linh Tố đã tiên liệu chuyện này sẽ xảy ra. Có liền lẩn vào đám đông miệng hô:
– Độc Thủ Dược Vương phóng độc! Độc Thủ Dược Vương phóng độc!
Hồ Phỉ cũng la theo:
– Mau mau kiềm chế hắn đi! Độc Thủ Dược Vương định hạ độc giết Phúc đại soái!
Trong lúc rối ren, bọn vệ sĩ còn biết chất độc ở đâu ra? Chúng đã bị uy danh của Độc Thủ Dược Vương làm chấn động, liền cho là hắn hạ độc thật. Huống chi bọn chúng đã đau bụng không chịu nổi, lại nhìn thầy bó dược thảo trong tay lão tỏa khói nghi ngút nên cho rằng khói đó độc hại vô tỷ, hít nhầm phải chết nên không ai dám đến gần.
Những tiếng vèo vèo vang lên không ngớt. Từ tứ diện bát phương ám khí bắn vào Thạch Vạn Sân không ngớt. Bản lãnh Thạch Vạn Sân tuy rất cao thâm, nhưng chỉ trong chớp mất đã thành cái đích cho bao nhiêu mũi tên bắn vào. Trong lúc lâm nguy vẫn không rối loạn, lão lún thấp người xuống lật một cái bàn dài để ngang trước mặt. Ám khí bắn đồm độp vào mặt bàn nghe rào rào như một trận mưa đá. Lão lớn tiếng hô hô:
– Có kẻ bỏ chất độc vào trà rượu, chứ có liên quan gì đến lão phu đâu?
Trong bọn hào khách giang hồ đến phó hội, nhiều người e ngại Phúc Khang An nhân cuộc đại hội này bày ra âm mưu độc kế, quăng một mẻ lưới để quét sạch các cao thủ võ lâm. Nên biết “Nho dĩ văn loạn pháp, hiệp dĩ võ phạm cấm”, đạo quân thần xưa nay nếu không tung ra mẻ lưới quét hết nhân tài văn võ để sử dụng, thì phải dùng búa rìu mà giết sạch, để họ khỏi lưu hậu loạn trong nhân gian và làm thiên hạ phải rúng động. Nên khi Thạch Vạn Sân nói “có kẻ bỏ chất độc vào trà rượu”, thì tất cả đều sợ hãi rụng rời. Còn chính Phúc Khang An và bọn vệ sĩ có trúng độc thật không, thì người ngoài làm sao mà biết được?
Trong đại sảnh đã rối loạn càng thêm rối loạn. Nhiều người khẽ gọi:
– Chạy cho mau! Chạy cho mau! Phúc đại soái muốn hạ độc giết hết bọn ta!
– Muốn toàn mạng phải trốn ngay!
– Mau về chỗ ở tìm thuốc giải!
Trình Linh Tố hút thuốc vào thở khói độc ra, mọi người trong đại sảnh này chẳng một ai thoát khỏi. Khói độc này không đến nỗi làm chết người, nhưng hít vào là nhức đầu đau bụng đến quá nửa giờ mới hết.
Đòn này của cô thật là lợi hại. Chẳng những làm cho bọn vệ sĩ nghi Thạch Vạn Sân hạ độc, mà còn khiến quần hào tưởng là Phúc Khang An ám hại. Trong lúc đại loạn, cô cùng Hồ Phỉ và Viên Tính mới có thể thừa dịp thoát thân.
Quần hào tới tấp chạy ra cửa. Nhưng Viên Tính cùng Thang Bái lại khai diễn một cuộc trận kịch đấu.
Nguyên Thang Bái nhân lúc hỗn loạn liền đánh ngã các tên vệ sĩ giữ lão để toan đào tẩu, nhưng Viên Tính đã xông ra chặn đường. Thang Bái là người gian ác, song võ công tu vi cực cao. Lão căm hận Viên Tính đã âm mưu vu hãm mình nên vung cây thanh cương kiếm ra chiêu rất lợi hại, nhằm những yếu huyệt của Viên Tính đâm tới. Viên Tính tay trái cầm phất trần, tay mặt vung nhuyễn tiên, muốn đánh chết lão để báo thù cho mẫu thân.
Nói về võ công thì Viên Tính thắng thế nhờ tiên pháp tinh diệu nhưng nội lực của Thang Bái lại thâm hậu hơn nhiều. Trong vòng một vài trăm chiêu khó phân thắng bại, nhưng nếu trận đấu kéo dài thì Thang bái lại chiếm thế thượng phong, song Thang Bái cũng hít phải khói độc, bụng đau kịch liệt.
Lão cho là mình trúng chất độc lợi hại nên không dám kiệt lực phấn đấu, sợ độc tính phát tác mau lẹ. Huống chi lão còn bị bọn thị vệ gằm ghè, nếu chúng không đau bụng thì đã xông vào cả rồi.
Lão thấy tiên pháp của Viên Tính tinh điệu phi thường, trong lúc nhất thời không thể giết chết nàng được, trong lòng càng hoảng loạn, liền ngóng tìm đường thoát thân. Nhưng Viên Tính đời nào để lão chạy trốn?
Nàng đã được Trình Linh Tố cho uống thuốc giải trước nên không sợ khói độc. Có điều nàng vẫn sợ vô ảnh ngân chăm ở chân lão phóng ra, nên cũng có đôi phần úy kỵ. Dù trước khi đến đây nàng đã chuẩn bị. Trong cây phất trần có một viên đá nam châm rất lớn chuyên phá các loại châm bằng kim loại, nhưng ngân châm nhỏ quá mà lại phóng ra vô ảnh vô hình nên nàng không dám xáp vào gần, chỉ vung nhuyễn tiên từ xa đánh tới.
Lúc này bọn Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu đã hộ vệ Phúc Khang An vào hậu đường. Phúc Khang An hạ lệnh đóng chặt cổng phủ không cho ai ra khỏi. Một mặt hắn sai người triệu thái y tới giải độc.
Quần hào thấy bọn vệ sĩ muốn đóng cổng phủ lại càng tin là Phúc Khang An cố ý gia hại. Lúc này lâm vào cảnh sinh tử quan đầu, sống chết gần kề nhau, mọi người chẳng ai lo đến tội “phạm thượng tác loạn” nữa, mà cứ ùn ùn xông ra như ong vỡ tổ. Bọn vệ sĩ giơ binh khí lên cản lại, nhưng quần hào cũng phản kích để xông ra cửa.
Từ nhà đại sảnh đến cổng phủ phải qua ba lần cửa, mỗi lần cửa đều vang lên những tiếng động chát chúa của hai bên đánh nhau kịch liệt. Lần đại hội này tụ tập toàn những cao thủ của các môn phái, dù các bậc cao sĩ hạng nhất không phó hội, nhưng những kẻ đến dự đều không phải hạng tầm thường. Bọn họ đồng tâm hiệp lực xông ra thì bọn vệ sĩ làm sao ngăn cản nổi?
An đề đốc vừa ôm bụng vừa nhìn bọn Đại Trí Thiền sư, Vô Thanh Tử, Hải Lan Bật, Điền Quy Nông nói:
– Bọn gian nhân phá rối. Xin các vị cứ ngồi yên. Phúc đại soái quý trọng người tài, cầu hiền như khát nước. Ngài đối với các vị một lòng kính nể. Các vị chớ có hoài nghi.
Hải Lan Bật đáp:
– Lão họ Thang là kẻ đầu sỏ. Hãy bắt hắn rồi sẽ tính sau.
Lão rút cặp Hắc Long trượng ở bên mình ra bước đến giữa tòa sảnh, muốn tấn công Thang Bái.
Hồ Phỉ thấy Viên Tính đánh mãi không hạ được Tháng Bái, mà chần chờ ở trong phủ khắc nào là nguy hiểm khắc ấy. Dù trong mình bị thương, chàng chẳng nghĩ gì đến thương thế, rút đơn đao sấn lại giáp công.
Thang Bái lớn tiếng quát:
– Hãy coi ngân châm của ta đây!
Hồ Phỉ, Viên Tính, Hải Lan Bật đều kinh hãi, ngưng thần đề phòng.
Thang Bái đột nhiên nhảy lên, phá tung cửa sổ chuồn ra ngoài. Viên Tính và Hồ Phỉ tung mình vọt theo. Bỗng thấy ngân quang lấp loáng, một đám ngân châm bắn tới. Hồ Phỉ lăn mình đi tránh khỏi. Viên Tính múa cây phất trần để đón các mũi ngân châm bắn tới mình. Chỉ chậm lại có một chút mà Thang Bái đã trốn đi không biết đằng nào.
Bỗng nghe những tiếng la oai oái cùng tiếng “binh, binh”. Ba tên vệ sĩ trên nóc nhà rớt xuống. Chúng định cản trở Thang Bái nhưng bị lão đâm kiếm té nhào.
Trình Linh Tố la:
– Y là hung thủ hạ độc giết Phúc đại soái, sao các ngươi không bắt lấy?
Bọn vệ sĩ thất kinh tự hỏi:
– Phúc đại soái bị hạ độc chết rồi ư?
Trình Linh Tố kéo tay áo Viên Tính và Hồ Phỉ, khẽ nói:
– Chạy mau!
Ba người liền xông ra cửa sảnh đường.
Lúc qua cửa, Hồ Phỉ và Viên Tính bất giác quay đầu lại nhìn, thấy thi thể của Phụng Thiên Nam bị người ta dày xéo lên, Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Hắn một đời làm ác, bữa nay gặp quả báo đây.
Viên Tính trong lòng rối loạn, la thầm:
– Y làm khổ má má tội nghiệp của ta, nhưng y… y lại là… gia gia ta.
Ba người chạy đến cửa, mấy tên vệ sĩ lại cản trở. Viên Tính vung nhuyễn tiên đánh ngã một tên, Hồ Phỉ vung tay trái đánh vào vai tên kia khiến gã bay ra xa mấy trượng. Tiếp theo chàng tung chân phải đá văng nốt một tên nữa.
Lúc này trời đã sáng tỏ. Ngoài cổng phủ viện binh ùn ùn kéo đến. Ba người liền ẩn vào trong ngõ hẻm.
Hồ Phỉ hỏi:
– Mã cô nương bị cướp mất con, không biết bây giờ ra sao?
Viên Tính đáp:
– Lão họ Thái sai người đem Mã cô nương và hai đứa nhỏ giao trả Phúc Khang An. Tiểu muội gặp ở dọc đường cản lại, nhưng chỉ cứu được Mã cô nương.
Hồ Phỉ nói:
– Thế cũng là tốt lắm rồi. Đa tạ tiểu muội!
Viên Tính nói:
– Vì tiểu muội còn đem Mã cô nương đến ẩn náu ở tòa phá miếu phía Tây thành, vừa đi vừa về nên đến chậm.
Hồ Phỉ trầm ngâm, hỏi:
– Làm sao gã Thái Uy đó biết được chân tướng của Mã cô nương, chẳng lẽ chúng ta để lộ sơ hở ư?
Trình Linh Tố nói:
– Nhất định lão đã lén lút tra hỏi Mã cô nương. Mã cô nương đang lúc nửa mê nửa tỉnh nên nói cả ra.
Hồ Phỉ nói:
– Chắc là vậy. Sao Phúc Khang An không hạ lệnh bắt tiểu huynh trong đại hội?
Viên Tính nói:
– Nếu Trình gia muội tử không thi hành xảo kế thì e rằng chúng ta khó lòng bình an thoát ra cửa phủ.
Hồ Phỉ gật gù đáp:
– Bữa nay chúng ta phá rối cuộc đại hội của Phúc Khang An, khiến ý đồ của hắn tan tành mây khói, chỉ tiếc một điều là để Thang Bái chạy thoát.
Chàng quay sang Viên Tính nói tiếp:
– Tên ác tặc đó đã thân bại danh liệt, cô… cô nương đã báo thù được một nửa rồi. Chúng ta cần hợp lực truy tầm hắn đến tận chân trời góc biển.
Viên Tính vẻ mặt buồn rầu không nói gì nữa. Nàng tự nhủ:
– Ta là người xuất gia, bây giờ thân phận đã rõ ràng rồi thì làm sao cùng ở lâu với y được.
Trình Linh Tố nói:
– Lát nữa cổng thành sẽ đóng để quan quân tra xét, rất khó thoát. Chúng ta phải gấp rút đi ngay mới được.
Ba người chạy về chỗ ở, lấy đồ tùy thân và dắt con bạch mã của Lạc Băng tặng cho chạy đi.
Trình Linh Tố cười nói:
– Hồ đại gia! Đại gia được tòa nhà lớn, bây giờ đành bỏ lại cho Chu đại nhân!
Hồ Phỉ cười đáp:
– Hắn đã giúp chúng ta không ít. Để hắn thăng quan rồi phát tài luôn thể.
Tuy chàng nói cười, song thủy chung ánh mắt vẫn không dám nhìn vào Viên Tính.
Ba người biết rõ truy binh sắp kéo đến nên không dám nấn ná trong nhà nữa mà kéo nhau chạy ra cổng thành. May mà lệnh đóng cổng thành chưa truyền tới đây. Ra khỏi thành rồi, Viên Tính liền dẫn đường đến tòa phá miếu đón Mã Xuân Hoa.
Tòa phá miếu này nằm cách xa đường lớn, tường xiêu ngói bể, trông rất tồi tàn. Thần tượng trong đại điện mặt xanh đầu lõm, sau lưng đầy lá cây, tay cầm nắm cỏ xanh đút vào miệng. Nguyên đây là tượng Thần Nông nếm bách thảo.
Viên Tính nói:
– Trình gia muội tử! Đã về quê cũ của muội rồi đó. Đây là tòa Dược Vương miếu.
Ba người tiến vào sương phòng thấy Mã Xuân Hoa nằm trong đống rơm, thoi thóp thở.
Nàng nhìn ba người mà không nhận ra, miệng không ngớt gọi khẽ:
– Con ta đâu! Con ta đâu rồi?
Trình Linh Tố chẩn mạch rồi vạch mắt nàng ra xem. Đoạn ba người len lén ra khỏi sương phòng, quay lại điện thờ.
Trình Linh Tố khẽ nói:
– Không xong rồi! Y đã dao động thần trí, lại trải qua một phen kinh hãi, giờ phải chịu thêm cảnh mất con, không thể sống được đến ngày mai. E rằng gia sư có sống lại cũng không cứu được.
Hồ Phỉ nhìn Mã Xuân Hoa, dù Trình Linh Tố không nói chàng cũng biết tánh mạng nàng nguy khốn trong khoảnh khắc. Nhớ tới mối thâm tình ngày trước ở Thương gia bảo, chàng không khỏi rưng rưng nước mắt. Từ lúc thấy Viên Tử Y biến thành ni cô Viên Tính trong phủ Phúc Khang An, chàng đã uất ức nghẹn ngào. Bây giờ nước mắt trào ra, lại càng xúc động, chàng không nhịn được, bật lên tiếng khóc nghẹn ngào.
Trình Linh Tố và Viên Tính làm gì chẳng hiểu rõ mối thương tâm của chàng.
Trình Linh Tố nói:
– Tiểu muội lại vào xem Mã cô nương xem sao.
Cô từ từ cất bước đi vào.
Viên Tính nghe tiếng khóc vành mắt cũng đỏ hoe. Cô cất giọng run run nói:
– Hồ Đại ca! Đa tạ đại ca đã đối đãi với tiểu muội bằng một tấm… một tấm…lòng…
Nàng nói đến đó rồi không biết phải nói tiếp sao nữa.
Hồ Phỉ hai mắt đẫm lệ ngửng đầu lên, ấp úng hỏi:
– Cô nương…cô nương không thể… không thể hoàn tục được sao? Chờ sau khi giết lão họ Thang rồi, mối đại cừu của cha mẹ trả xong, thì chẳng cần phải làm ni cô nữa?
Viên Tính lắc đầu đáp:
– Đại ca chớ thốt ra những lời tiết mạn đức Phật. Ngày trước tiểu muội đã lập lời trọng thệ trước mặt sư phụ, quy y Phật tổ, đã gửi mình vào chốn cửa thiền mà còn nghĩ đến chuyện khác là đã phạm giới. Huống chi…
Nói tới đây, nàng buông một tiếng thở dài.
Hai người ngơ ngác nhìn nhau hồi lâu, trong lòng muốn nói hàng vạn ngàn lời nhưng không biết mở đầu ra sao. Viên Tính khẽ nói:
– Trình cô nương là người rất tốt, đại ca nên đối xử tử tế với y. Từ nay đại ca đừng nghĩ đến tiểu muội nữa. Tiểu muội cũng vĩnh viễn không nhớ tới đại ca.
Hồ Phỉ lòng đau như cắt, đáp:
– Không, tiểu huynh vĩnh viễn không quên được Viên muội.
Viên Tính nói:
– Tự rước đau khổ, nào có ích gì?
Nàng nghiến răng quay gót trở ra cửa điện.
Hồ Phỉ chạy theo, giọng run run hỏi:
– Viên… Viên muội đi đâu vậy?
Viên Tính đáp:
– Đại ca hà tất phải bận tâm đến tiểu muội. Hãy trở lại thời kỳ trước đây một năm. Đại ca không biết trên đời này có tiểu muội, tiểu muội cũng không biết trên đời này có đại ca. Như thế há chẳng hay hơn sao?
Hồ Phỉ sững sờ nhìn nàng phiêu nhiên cất bước mỗi lúc một xa dần. Thủy chung nàng không quay đầu nhìn lại. Hồ Phỉ thân hình loạng choạng không đứng vững, phải ngồi xuống phiến đá lớn ngoài miếu, chăm chăm nhìn theo hướng Viên Tính đã đi qua; chỉ thấy một con đường nhỏ um tùm cỏ dại, trên bụi vàng còn lưu thấp thoáng dấu chân nàng. Đầu óc chàng trống rỗng, tựa hồ đang nghĩ đến hàng trăm ngàn việc, mà rút cục chẳng nghĩ được việc gì.
Không hiểu thời gian trôi qua đã bao lâu, đột nhiên trên đường nhỏ phía trước văng vẳng có tiếng ngựa vọng lại. Hồ Phỉ liền đứng phắt dậy. Trong lòng chàng chợt lóe lên một ý nghĩ:
– Nàng đã quay trở lại!
Nhưng lập tức chàng nhận ra mình nghĩ vớ vẩn, vì lúc Viên Tính bỏ đi không cưỡi ngựa. Huống chi bọn kỵ mã đang tới chẳng phải chỉ một người. Tiếng vó ngựa không ra chiều cấp bách, dường như chẳng phải là truy binh.
Sau một lúc, chín kỵ mã từ phía tây đi tới. Hồ Phỉ ngưng thần nhìn ra thấy một người trong đám này tướng mạo rất tuấn tú, chưa đầy bốn mươi tuổi. Nếu không phải là Phúc Khang An thì còn ai nữa?
Hồ Phỉ vừa nhìn thấy Phúc Khang An, không kìm chế được nỗi cuồng nộ trong lòng, tự nhủ:
– Gã này nắm đại quyền binh mã trong nước. Bọn Mãn Thanh khinh khi áp bức người Hán. Trừ đương kim hoàng đế là Càn Long ra thì gã này chính là đầu sỏ của mọi tội ác. Hắn lại vô tình bạc nghĩa với Mã Xuân Hoa, đẩy nàng lại vào thảm cảnh gia phá nhân vong, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Đột nhiên hắn ra ngoài thành, bọn tùy tùng đi theo ắt toàn là cao thủ hạng nhất. Dù ta chỉ có nhị muội tương trợ cũng cần làm hắn nhụt bớt uy phong. Nếu không giết được hắn thì nhân tiện dọa hắn một phen cũng được.
Chàng liền đứng ra giữa đường, hai tay chống nạnh, trừng mắt lên nhìn Phúc Khang An. Bọn kỵ mã chín người thấy chàng đứng chặn đường liền dừng ngựa cả lại.
Nhưng Phúc Khang An vẻ mặt vẫn thản nhiên, có lẽ hắn cậy có vệ sĩ theo bảo vệ. Hắn chỉ buông thõng một câu:
– Xin cảm phiền nhường lối!
Hồ Phỉ trỏ tay vào mặt Phúc Khang An, thóa mạ:
– Ngươi làm nên những việc tử tế quá nhỉ! Ngươi còn nhớ Mã Xuân Hoa không?
Phúc Khang An trong lòng như có nhiều tâm sự, mắt đầy vẻ buồn bã lo âu, hững hờ hỏi lại:
– Mã Xuân Hoa ư? Ta không nhớ là ai!
Hồ Phỉ càng tức giận, cười khẩy hỏi:
– Hà hà, ngươi cùng Mã Xuân Hoa đã sinh hai đứa con mà không nhớ ư? Ngươi phái người sát hại trượng phu của y là Từ Tranh, cũng quên rồi chăng? Hai mẹ con ngươi đã thông đồng hạ độc để giết y mới đây, ngươi có nhớ không?
Phúc Khang An từ từ lắc đầu, đáp:
– Tiểu huynh đệ nhận lầm người rồi!
Một đạo nhân cụt tay cười khanh khách nói:
– Đây là một kẻ điên khùng nói nhăng nói càn. Cái gì mà Mã Xuân Hoa với Ngưu Thu Hoa…
Hồ Phỉ không nói nữa, tung mình nhảy vọt lên, vung tả quyền đấm ra trước mặt Phúc Khang An. Thực ra thoi quyền này chỉ là hư thế. Chàng không chờ Phúc Khang An đưa tay ra gạt, năm ngón tay mặt biến thành hổ trảo chụp vào trước ngực hắn. Chàng biết lần này mà đánh không trúng thì lập tức bọn thị vệ của hắn sẽ ra tay, nên thoi quyền vừa mau vừa mạnh như sao băng điện chớp. Chàng cả đời học võ nên tiên liệu bọn vệ sĩ của hắn dù bản lĩnh cao đến đâu đi nữa cũng quyết không thể xông tới hóa giải kịp thời chiêu “Hổ trảo cầm nã thủ” chụp tới như sét đánh không kịp bưng tai thế này.
Phúc Khang An chợt kêu “Ô hay!”. Hắn không lý gì đến thoi quyền của chàng, đột nhiên đưa ngón trỏ và ngón giữa tay phải duỗi thẳng ra điểm vào huyệt “Hội tông” và huyệt “Dương trì” ở cổ tay mặt chàng. Hắn ra tay đã cực kỳ thần tốc, mà chỉ pháp lại rất tinh kỳ. Hồ Phỉ bình sinh chưa từng thấy.
Chỉ trong khoảng thời gian chớp nhoáng, Hồ Phỉ đã chấn động tâm thần lập tức biến chiêu, năm ngón tay biến thành hình như móc câu chụp lấy ngón tay địch nhân, toan vận một cái để bẻ gãy các đốt xương. Dè đâu Phúc Khang An võ công cao siêu dị thường, hắn không rụt tay về mà duỗi cả ba ngón kia biến thành chưởng, cánh tay hắn chưa động đậy mà đã nhả chưởng lực ra rồi.
Theo lẽ thường, muốn tung quyền phát chưởng thì trước tiên phải thu tay về mới xuất kích được. Đằng này Phúc Khang An cứ để duỗi cánh tay ra chứ không cong xuống, mà vẫn nhả chưởng lực ra được. Chiêu số kỳ ảo tuyệt luân mà nội lực lại hùng hậu vô tỷ.
Hồ Phỉ cả kinh, người chàng đang lơ lửng trên không, không có cách nào mượn sức, vội phóng tả chưởng đánh gấp ra. Hai chưởng đụng nhau đánh “bình” một tiếng. Trong chớp mắt, Hồ Phỉ cảm thấy khí huyết trước ngực nhộn nhạo, liền mượn thế lùi lại hơn hai trượng. Hồ Phỉ hít mạnh rồi thở ra một hơi chân khí, ngay lúc còn lơ lửng trên không chàng đã kịp điều hòa hơi thở, rồi nhẹ nhàng hạ người xuống đứng vững trên mặt đất, thần thái ung dung, khí lực sung mãn.
Bỗng nghe tám, chín người kia đều cất tiếng hoan hô:
– Hay quá!
Phúc Khang An chỉ rung người một chút rồi ngồi vững lại trên yên ngựa. Nét mặt hắn chỉ thoáng lộ vẻ kinh ngạc, rồi lại ra chiều buồn bã như trước. Hồ Phỉ từ lúc tung người tới đánh cho đến lúc hạ người xuống đất, chỉ trong thời gian chớp choáng đó đã thi triển nào là hư chiêu, cầm nã, điểm huyệt, vặn tay, nhả chưởng, nhảy lùi, điều tức đều là những biến hóa tinh thâm trong võ học. Sau khi tiếp nhau một chưởng, tuy chưa phân thắng bại, nhưng một người đã vận toàn lực ra chiêu, còn một người tùy tiện đối phó một cách rất ung dung, hiển nhiên Hồ Phỉ còn kém đối phương một bậc.
Hồ Phỉ không ngờ võ công của Phúc Khang An lại cao siêu đến thế. Chàng đứng ngẩn người, trong lòng vừa kinh dị lại vừa khâm phục, nhưng không giấu được nỗi phẫn nộ lộ ra ngoài mặt.
Lại nghe Độc tý đạo nhân cười hỏi:
– Ngốc tiểu tử! Ngươi biết nhận lầm người rồi chứ? Sao không dập đầu tạ tội đi!
Hồ Phỉ ngoẹo đầu nhìn kỹ thì hiển nhiên người này là Phúc Khang An. Có điều mặt hắn đầy vẻ phong trần, quần áo cũ mèm nhưng khí tượng tôn quý hào hùng, chuyên ban mệnh lệnh, thủy chung vẫn không giấu được. Nếu người này tướng mạo giống hệt Phúc Khang An, thì không lẽ khí độ phong hoa của vị đại nguyên soái mà hắn cũng học được một cách thần tình như vậy?
Chàng ngẩn người một lúc rồi tự nhủ:
– Nếy giả dạng tất có âm mưu gì đó, ta không thể mắc bẫy được.
Chàng liền hỏi:
– Phúc Khang An! Bản lãnh ngươi hay lắm, ta không thể bì kịp. Nhưng ngươi làm quá nhiều việc thương thiên bại lý thì dù ta không địch nổi cũng không buông tha cho ngươi, ngươi hãy nhớ lấy.
Phúc Khang An hờ hững đáp:
– Tiểu huynh đệ! Bản lãnh của huynh đệ cũng rất cao thâm. Có điều ta không phải là Phúc Khang An. Tôn tính đại danh của tiểu huynh đệ là gì?
Hồ Phỉ tức giận hỏi lại:
– Ngươi đừng giả vờ giả vịt nữa! Chẳng lẽ ngươi lại không biết tên họ ta?
Một hán tử cao lớn ước chừng bốn mươi tuổi đứng sau Phúc Khang An dõng dạc lên tiếng:
– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ là người có khí phách, đang mặt thiếu niên anh hùng! Bội phục, bội phục!
Hồ Phỉ ngửng đầu thấy y cặp mắt lấp loáng ánh thần quang, thái độ oai phong lẫm liệt, hiển nhiên là một hảo thủ võ công cao cường. Bất giác chàng sinh lòng kính phục, liền hỏi:
– Các hạ là một nhân tài như vậy, sao lại chịu khổ vì quyền quý mà đi làm ưng khuyển cho bọn Mãn Châu?
Đại hán kia tủm tỉm cười, đáp:
– Bên thành Bắc Kinh dưới chân thiên tử mà tiểu huynh đệ dám buông lời phản nghịch, không sợ mất đầu ư?
Hồ Phỉ ngang nhiên đáp:
– Cơ sự đã đến thế này, mất đầu thì mất phỏng sợ gì!
Nên biết Hồ Phỉ là người rất cẩn thận, không phải là hạng hồ đồ sốc nổi, nhưng dù sao chàng cũng còn tuổi trẻ, khí huyết đang hăng, thấy Mã Xuân Hoa bị Phúc Khang An đẩy vào cảnh ngộ thê thảm, khiến chàng bị kích động lòng nghĩa hiệp gạt mọi thứ qua một bên, không nghĩ gì nữa.
Biết đâu do vì cô nương xinh đẹp mà chàng ngày đêm tưởng nhớ kia bỗng nhiên biến thành ni cô khiến chàng thấy cõi đời chẳng còn sinh thú, nên muốn đại náo một phen, bất quá thì chết là cùng, chứ có điều gì trọng đại hơn nữa?
Tay nắm chặt đốc đao, chàng giương cặp mắt tức giận nhìn bọn chín người ngồi trên lưng ngựa. Bỗng Độc tý đạo nhân tung mình xuống ngựa. Không thấy lão cử động cánh tay mà đã thấy ánh thanh quang lấp loáng trước mắt, tay lão đã cầm trường kiếm. Thủ pháp rút kiếm của lão thần tốc tuyệt luân, Hồ Phỉ bình sinh chưa từng thấy bao giờ.
Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh hãi thầm nghĩ:
– Sao Phúc Khang An lại thu dụng được nhiều nhân vật bãn lãnh cao cường như thế? Trong cuộc đại hội chưởng môn hôm qua, nếu có những nhân vật này tại hội trường thì khó lòng mà làm náo loạn được.
Chàng sợ Độc tý đạo nhân phóng kiếm đâm tới, liền nghiêng người rút đao ra cầm tay. Đạo nhân cười nói:
– Xem kiếm đây!
Bỗng thấy thanh quang lấp loáng, trong nháy mắt đạo nhân đã đâm tới tám chiêu liền. Thế kiếm đâm tới mau lẹ vô tỷ. Hồ Phỉ nhìn rõ được lai lộ của kiếm thế, bèn thuận thế vung đao lên gạt. “Hồ gia đao pháp” gia truyền của chàng há phải tầm thường. Tám chiêu kiếm của đạo nhân tuy mau lẹ nhưng đều bị chàng đỡ được hết. Tám chiêu kiếm đâm tới, tám nhát đao vung lên đón đỡ. Liên tiếp tám tiếng “choang” ngân vang gọn ghẽ.
Ban đầu Hồ Phỉ cảm thấy tay chân hơi rối loạn, nhưng đến chiêu thứ chín thì chàng từ thế thủ chuyển sang phản kích, xung đao chênh chếch chém ra. Độc tý đạo nhân lướt trường kiếm tới. Đao kiếm dính liền nhau không phát ra một tiếng động.
Những người ngồi trên ngựa đều lớn tiếng hoan hô:
– Hảo kiếm pháp! Hảo đao pháp!
Phúc Khang An nói:
– Đạo trưởng! Chúng ta đi thôi, không nên sinh sự nữa.
Đạo nhân không dám trái lời, liền đáp:
– Tuân lệnh!
Nhưng lão thấy đao pháp của Hồ Phỉ rất tinh kỳ lại đang cao hứng muốn tỷ đấu, nên có ý tiếc rẻ. Lão tung mình lên ngựa, miệng ca ngợi:
– Hảo tiểu tử! Đao pháp của ngươi khá lắm!
Hồ Phỉ trong lòng rất khâm phục, liền nói:
– Hảo đạo nhân! Kiếm pháp của đạo trưởng thật là tinh diệu!
Đoạn chàng cười lạt, nói tiếp:
– Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!
Đạo nhân trợn mắt lên hỏi:
– Đáng tiếc cái gì? Kiếm pháp của bản đạo có chỗ nào sơ hở?
Hồ Phỉ đáp:
– Kiếm pháp của đạo trưởng chẳng có chỗ nào sơ hở, nhưng tại hạ tiếc cho con người đạo trưởng lại có sơ hở quá lớn. Một tay cao thủ võ lâm mà cam tâm làm nô tài cho bọn quan lại ở Mãn Châu.
Đạo nhân ngửa mặt lên trời cả cười hỏi:
– Mắng hay lắm! Mắng hay lắm! Tiểu huynh đệ, ngươi có dám đấu kiếm với ta nữa không?
Hồ Phỉ đáp:
– Sao lại không dám? Nếu đấu không lại đạo trưởng thì bất quá chỉ chết là cùng.
Đạo nhân nói:
– Hay lắm! Canh ba đêm nay bần đạo chờ ngươi ở bên Đào Nhiên đình. Nếu ngươi sợ thì không đến cũng được.
Hồ Phỉ hiên ngang đáp:
– Đại trượng phu chỉ sợ bậc chính nhân quân tử, há lại đi sợ phường ưng khuyển nô tài!
Bọn người kia đều giơ ngón tay lên hô:
– Ngươi nói hay lắm!
Rồi tung ngựa đi ngay. Có người còn ngoáy đầu lại nhìn.
Lúc Hồ Phỉ cùng đạo nhân so kiếm thì Trình Linh Tố đã từ trong miếu đi ra. Nàng thấy bọn Phúc Khang An thì không khỏi giật mình, hỏi:
– Đại ca! Sao Phúc Khang An lại tới đây? Đêm nay đại ca có đến Đào Nhiên đình phó ước không?
Hồ Phỉ trầm ngâm nghĩ bụng:
– Chẳng lẽ hắn lại không phải là Phúc Khang An thật? Không thể thế được. Ta thóa mạ bọn vệ sĩ tùy tùng của hắn là phường ưng khuyển nô tài, sao chúng không nổi giận mà còn khen là ta nói đúng?
Trình Linh Tố lại hỏi:
– Đêm nay đại ca đi phó ước không?
Hồ Phỉ đáp:
– Dĩ nhiên là phải đi rồi! Nhị muội! Nhị muội ở lại đây chiếu cố cho Mã cô nương.
Trình Linh Tố lắc đầu nói:
– Mã cô nương chẳng còn gì mà chiếu cố nữa! Cô mất hết thần trí rồi, không thể nào kéo nổi mạng sống đến sáng mai. Nhưng đại ca đã hẹn đi tỷ đấu với cường địch, tiểu muội không đi theo sao được?
Hồ Phỉ nói:
– Nhị muội phá hỏng cuộc đại hội chưởng môn nhân mà Phúc Khang An đã hao tổn tâm lực để thiết kế. Chắc hiện giờ hắn đã điều tra được rõ nguyên ủy. Nhị muội đi với tiểu huynh há chẳng hung hiểm lắm ư?
Trình Linh Tố đáp:
– Đại ca một mình đi gặp kẻ địch, làm sao tiểu muội yên tâm cho được? Có tiểu muội đi theo, cũng xem như có thêm một tay trợ thủ.
Hồ Phỉ biết rõ cô đã quyết định chuyện gì thì không thể nào ngăn trở được. Chàng hiểu vị nghĩa muội tuy còn nhỏ tuổi nhưng tài trí còn vượt xa mình nên cứ để cô tùy ý.
Trình Linh Tố nhẹ nhàng hỏi:
– Viên… Viên cô nương đã đi rồi?
Hồ Phỉ gật đầu nghe trong lòng chua xót. Chàng xoay người đi vào trong miếu. Đến sương phòng, Hồ Phỉ nghe Mã Xuân Hoa cất tiếng thều thào gọi luôn miệng:
– Hài tử! Hài tử.. Phúc công tử! Tiện thiếp sắp chết rồi… muốn gặp công tử một lần nữa…
Hồ Phỉ lại nghe trong lòng thêm chua xót nhủ thầm:
– Tình ái quả là điều khó hiểu. Phúc Khang An đối xử với Mã cô nương thế đó, mà lúc lâm chung y vẫn luôn tưởng nhớ đến.
Chàng cùng Trình Linh Tố ra đi được mấy dặm tìm vào một nhà nông mua cơm canh đạm bạc ăn no một bữa, rồi quay lại Thần Nông miếu ngồi bên Mã Xuân Hoa, chờ đến canh một mới ra đi.
Hồ Phỉ bàn bạc cùng Trình Linh Tố, cho rằng bọn vệ sĩ của Phúc Khang An đã ước hẹn tỷ thí thì nhất định chẳng có ý tử tế gì, chi bằng đi sớm hơn giờ hẹn để ngấm ngầm xem đối phương bày đặt âm mưu gì không?
Đào Nhiên đình ở một nơi hoang tịch. Tuy tên gọi là Đào Nhiên, nhưng thực ra nó là một ni am, tên gọi là Từ Bi am. Trong am thờ Quan Âm đại sĩ.
Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố tới nơi, chỉ thấy bốn bề rừng lau mênh mông trắng xóa, vi vút ngọn gió tây. Bông lau nhảy múa như trời xuống tuyết. Trước mắt bày ra cảnh tượng rất thê lương. Bỗng nghe tiếng réo quang quác, một con hồng nhạn bay lướt trên trời cao.
Trình Linh Tố nói:
– Đây là con nhạn lẻ lạc đàn bay tìm đồng bọn không thấy, đã nửa đêm mà hãy còn hốt hoảng bay đi.
Lại nghe trong bụi lau có người lên tiếng:
– Không sai!
Địa tạp vạn lô xuy nhứ loạn,
Thiên không nhất nhạn tỷ nhân khinh.
(Ngàn lau phất phới gió tây,
Trên không nhạn lẻ lạc bầy kêu thương!)
Hai vị quả là người thủ tín, đến phó ước sớm quá!
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố giật mình kinh hãi nghĩ thầm:
– Mình định đến sớm để quan sát đối phương bố trí âm mưu gì, dè đâu họ đã mai phục từ trước. Người này xuất khẩu thành thi, xem chừng không phải hạng tầm thường.
Hồ Phỉ dõng dạc đáp:
– Đã nhận lời phó ước, đâu dám không đến sớm!
Bỗng thấy từ trong bụi lau có một người đứng lên.
– Hạnh hội, hạnh hội! Xin hai vị hãy chờ một chút. Tệ chủ nhân cùng các anh em đang tế lễ!
Hồ Phỉ cũng thuận miệng đáp lễ, nhưng trong lòng lấy làm lạ tự hỏi:
– Đêm hôm khuya khoắt mà Phúc Khang An còn đến nơi hoang dã này để tế lễ ai?
Lại nghe tiếng người ngâm:
Hạo hạo sầu
Mang mang kiếp
Đoản ca chung
Minh nguyệt khuyết
Uất uất giai thành
Trung hữu bích huyết
Bích diệc hữu thời tận
Huyết diệc hữu thời diệt
Nhất lũ hương hồn vô đoạn tuyệt
Thị da? Phi da?
Hóa vi hồ điệp
(Sầu dằng dặc kiếp hoang mang
Lời ca đã dứt, trăng tàn buồn tênh
Niềm u uất, tỏ khôn thành
Bao nhiêu huyết lệ kết thành ngọc châu
Ngọc kia còn thuở phai màu
Huyết lệ cũng sẽ ngày nào tàn phai
Mộng hồn vương vấn bao ngày
Tìm nhau chỉ khói hương bay ngậm ngùi
Hóa làm cành bướm bên người
Mộng trùng lai hẹn cuối trời chiêm bao)
Tiếng ngâm biến thành tiếng nức nở. Cả mười mấy người, người thì buông tiếng thở dài, người thì cất tiếng khóc nghẹn ngào, trong đó có chen lẫn tiếng khóc của phụ nữ.
Hồ Phỉ nghe bài từ ngắn ngủi mà tình ý thắm thiết triền miên. Hiển nhiên người nằm dưới mộ là một phụ nữ. Trong bài từ có chữ “huyết lệ” thì chắc người nằm dưới mộ tuẫn nạn mà chết. Mộng hồn vương vấn không nguôi nên muốn biến thành cánh bướm để tìm nhau trong cõi mộng. Thanh âm thê thiết cất lên giữa đêm khuya thanh vắng khiến người nghe đều xúc động tâm can, nên chỉ một lúc sau, không ai kiềm lòng được nữa, đều cùng òa lên tiếng khóc.
Sau một lúc thanh âm bi thiết dừng lại. Mười mấy người lục tục kéo nhau đi lên một gò đất.
Hán tử mặc áo nho sinh đứng bên Hồ Phỉ cất tiếng gọi:
– Đạo trưởng! Ông bạn của đạo trưởng đã tới rồi!
Độc tý đạo nhân đáp:
– Hay lắm! Hay lắm! Tiểu huynh đệ! Chúng ta hãy tỷ đấu ba trăm hiệp!
Dứt lời lão từ trên gò đất chạy xuống. Hồ Phỉ cũng chạy ngược lên để đón.
Đạo nhân còn cách Hồ Phỉ mấy trượng bỗng tung mình nhảy vọt lên không, rút kiếm ra mượn đà đâm tới. Nhát kiếm đâm đã thần tóc, thế lao tới lại nhanh, vô cùng uy mãnh, thật khó lòng chống đỡ.
Hồ Phỉ thấy đối phương hung hãn như vậy bất giác hào khí trỗi dậy, liền nhảy vọt lên cao rút đao ra. Hai người còn đang lơ lửng trên không đã nghe “choang choảng” bốn tiếng, đao kiếm chiết chiêu bốn lần, rồi cả hai mới hạ xuống.
Đạo nhân tấn công hai kiếm, Hồ Phỉ trả lại hai đao. Bốn chân hai người vừa chạm đất, lập tức nghe tiếng đao kiếm đụng nhau “choang choảng”. Những người đứng trên gò đất hoan hô ầm ĩ.
Kiếm pháp của Độc tý đạo nhân vừa lợi hại vừa thần tốc tuyệt luân. Trong khoảng thời gian một tay kiếm bình thường đâm một chiêu kiếm thì lão phóng ra bốn, năm chiêu.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Lão đánh mau, chẳng lẽ ta không biết đánh mau ư?
Chàng cũng thi triển “Hồ gia khoái đao” đối địch. Kiếm pháp của đạo nhân cực kỳ thần tốc, hơn được Hồ Phỉ về phần linh hoạt. Nhưng kiếm chiêu linh hoạt thì đao thế lại trầm mãnh. Đao lực của Hồ Phỉ lại hơn được lão về phần trầm trọng.
Hai người dùng khoái kiếm tỷ đấu với khoái đao, bao tuyệt kỹ công thủ biến hóa không thể tả được nữa. Dù có giương tròn mắt lên nhìn trận kịch đấu thì cũng chỉ nghe tiếng đao kiếm chạm nhau “choang choảng”, giống như tiếng nước cuồn cuộn chảy hoặc tiếng vó ngựa dập dồn, lại nghe như nhiều chiếc trống đang thúc liên hồi, âm thanh nối tiếp liên miên không dứt, mau lẹ không bút nào tả xiết.
Độc tý đạo nhân vừa đánh vừa hô:
– Đã quá, đã quá!
Kiếm chiêu mỗi lúc một khủng khiếp hơn. Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh hãi, lúc này gặp phải cường địch, bao nhiêu sở học bình sinh đều đem ra thi triển đến chỗ đắc tâm ứng thủ, thật là điều chưa từng có trong đời chàng. Những khi chàng tập luyện chẳng bao giờ đánh mau đến thế được.
Nguyên “Hồ gia đao pháp” có nhiều chỗ tinh diệu kỳ ảo, nếu không gặp phải cường địch thì chiêu số chỉ biến hóa vừa đủ để thủ thắng, nên không thấy được chỗ tinh diệu. Hiện giờ Độc tý đạo nhân đẩy chàng vào thế cấp bách thì mới phát huy được chỗ tinh xảo kín đáo trong đao pháp.
Độc tý đạo nhân bình sinh đã trải qua rất nhiều trận đánh lớn. Trong lúc kịch đấu, lão vẫn hết sức tìm ra chỗ sơ hở trong đao pháp của gã thiếu niên này, nhưng chỉ thấy các chiêu thức đều kiêm cả công lẫn thủ; không cần thủ mà cũng tự thủ, không cần công mà vẫn tấn công mãnh liệt. Sau mỗi chiêu lại có phục sẵn các chiêu tinh diệu khác, thì còn biết tìm đâu ra chỗ sơ hở?
Thực ra công lực của Độc tý đạo nhân còn thâm hậu hơn Hồ Phỉ nhiều. Nếu đây không phải là trận khoái đấu, mà hai bên cùng nhau chiết chiêu để tìm ra chỗ biến hóa, thì đến lúc này dĩ nhiên Độc tý đạo nhân đã thắng rồi. Nhưng về sau tỷ đấu mỗi lúc một nhanh. Hồ Phỉ không còn kịp suy nghĩ gì nữa, cứ đem môn khoái đao đã rèn luyện cực kỳ tinh thục ra ứng phó.
Môn “khoái đao” này do đại hiệp Phi Thiên Hồ Ly đời Minh mạt sáng tạo truyền đời đến phụ thân của Hồ Nhất Đao thì lại biến hóa tinh diệu thêm nhiều. Lúc này Hồ Phỉ dùng khoái đao tỷ đấu, so với chính Hồ Nhất Đao tự mình xuất trận cũng không khác nhau là bao. Có sai biệt là do hỏa hầu chưa đủ mà thôi.
Sau khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà mà hai bên đã chiết giải hơn năm trăm chiêu thì đủ biết xuất thủ lẹ đến mức nào. Chẳng mấy chốc Độc tý đạo nhân trán đã vã mồ hôi, còn Hồ Phỉ thì ướt đẫm lưng áo. Cả hai bên đều nghe thấy tiếng thở nặng nề của đối phương.
Lúc này cuộc đấu đang hăng, cả hai người cùng có ý mến tài nhau, nhưng đao chém kiếm đâm vẫn liên miên bất tuyệt, không ai chịu dừng tay trước.
Giữa lúc đao kiếm đang chạm nhau “choang choảng”, bỗng có người thổi lên một hồi còi dài, tiếp theo đó là tiếng binh khí chạm nhau và tiếng người quát tháo từ xa vọng lại.
Độc tý đạo nhân nổi lên tràng cười, nhảy ra ngoài vòng chiến hô lớn:
– Hãy khoan! Tiểu huynh đệ! Đao pháp của tiểu huynh đệ rất cao thâm. Nhưng ngoài cửa có địch nhân đang kéo đến.
Hồ Phỉ sửng sốt nhìn ra thấy góc đông bắc và góc đông nam thấy thấp thoáng có sáu, bảy người đang chạy tới. Trong bóng tối, ánh đao quang lấp loáng. Những người này đều tay cầm binh khí.
Chàng lại nghe sau lưng có tiếng quát tháo mỗi lúc một gần. Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thì góc tây bắc và góc tây nam cũng đều có người kéo đến, ít ra cũng tới hai chục tên.
Độc tý đạo nhân lớn tiếng:
– Thập tứ đệ quay về đi, để cho nhị ca phát lạc.
Hán tử mặc áo nho sinh vừa dẫn đường Hồ Phi lúc nãy tới, tay cầm binh khí tựa như cây đoản côn, đang cản địch ở mặt Tây Bắc, nghe Độc tý đạo nhân bảo vậy liền đáp:
– Được rồi!
Hắn vung binh khí vù vù, rồi chạy lên gò đất nhỏ, đứng sóng vai với mọi người.
Dưới ánh trăng, Hồ Phỉ trông thấy rõ Phúc Khang An đang đứng trên gò đất. Bên cạnh hắn có mười mấy người hộ vệ, trong đó ba bốn người là phụ nữ.
Hồ Phỉ cả mừng tự hỏi:
– Tứ diện bát phương đều có người đối nghịch Phúc Khang An kéo đến, không hiểu họ là những anh hùng hảo hán phương nào? Cứ coi công phu khinh thân của họ cũng đủ biết bản lãnh không phải tầm thường. Ta sẽ cùng họ đồng tâm hiệp lực bắt được tên gian tặc Phúc Khang An thì hay biết mấy.
Rồi chàng lại nghĩ:
– Nhưng tên gian tặc Phúc Khang An không ngờ võ công lại quá cao thâm, còn bọn thủ hạ của hắn cũng toàn là những tay cứng cỏi, coi bộ chúng chẳng có vẻ gì là sợ hãi cả. Hay là bọn chúng đã sắp đặt âm mưu từ trước?
Hồ Phỉ đang nghi hoặc trong lòng, thì những người từ bốn mặt đã kéo tới gần. Chàng nhìn thấy họ lại càng hoang mang không hiểu. Hơn hai chục người này, phần nửa là những nhà sư ở Tây Tạng mặc tăng bào màu đỏ. Phần còn lại đều mặc sắc phục vệ sĩ ở Thanh cung.
Hồ Phỉ tung người lại gần Trình Linh Tố, khẽ nói:
– Nhị muội! Quả là chúng ta bị hãm vào bẫy của ác tặc. Địch nhân nội ngoại giáp công, không cách gì chống trả nổi. Chúng ta phải nhằm hướng tây mà xông ra!
Trình Linh Tố chưa kịp trả lời đã thấy một tên đại hán râu đen vượt đám đông tiến đến, lớn tiếng hỏi:
– Phải chăng đạo trưởng là Vô Trần đạo nhân? Từ lâu tại hạ đã ngưỡng mộ mười hai lộ “Truy hồn đoạt mệnh kiếm” vô song thiên hạ của đạo trưởng.
Đạo nhân cười lạt một tiếng rồi nói:
– Đã biết danh của Vô Trần mà còn ra khiêu chiến thì thật là lớn mật. Các hạ là ai?
Hồ Phỉ nghe tên vệ sĩ râu đen nói vậy, bất giác buột miệng hỏi:
– Vô Trần đạo trưởng đấy ư?
Vô Trần cười đáp:
– Chính thị! Triệu tam đệ khoe tiểu huynh đệ là bậc anh hùng, quả nhiên không sai.
Hồ Phỉ cả mừng hỏi:
– Nhưng… nhưmg… Phúc Khang An… Triệu tam ca hiện ở đâu?
Đại hán râu đen trả lời Vô Trần:
– Tại hạ là Đức Bố!
Vô Trần hỏi:
– Ủa! Các hạ là Đức Bố ư? Ở Hồi Cương ta từng nghe người ta nói: Mới đây Hoàng đế kiếm được một tên ưng khuyển nanh nhọn móng sắc gọi là Đức Bố gì gì đó, hiệu xưng là Đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu gì gì đó, dùng làm Ngự tiền thị vệ gì gì đó, có phải là các hạ không?
Đạo nhân nói luôn ba tiếng “gì gì đó” khiến Đức Bố nổi giận, quát:
– Phải rồi! Ngươi đã biết tên ta sao còn dám càn rỡ dưới chân thiên tử? Quả là ngươi không muốn sống nữa rồi…
Hắn nói chưa dứt lời đã thấy hàn quang lấp loáng, mũi kiếm Vô Trần đã phóng vào ngực hắn. Đức Bố để ngang thanh kiếm gạt ra đánh choang một tiếng. Hai thanh kiếm chạm nhau tiếng o o ngân lên bất tuyệt. Hiển nhiên kình lực của hai người đều hùng hậu như nhau.
Vô Trần cất tiếng khen ngợi:
– Khá lắm!
Kiếm chiêu của Vô Trần tung ra liên miên không dứt. Kiếm chiêu của Đức Bố tuy không mau lẹ bằng, nhưng giữ môn hộ vô cùng nghiêm mật. Thỉnh thoáng hắn mới đâm trả lại một miếng nhưng cực kỳ tàn độc. Cái danh hiệu “Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ” thực không phải ngẫu nhiên mà được.
Hồ Phỉ đã nghe Viên Tính nói đến đệ nhị đương gia của Hồng Hoa hội là Vô Trần đạo nhân kiếm thuật tinh thông, thiên hạ không ai bì kịp. Không ngờ chàng đấu với lão đã ngoài trăm chiêu mà vẫn bất phân thắng bại không khỏi mừng thầm, nhưng chàng lại nghĩ: “May mà ta chưa biết lão chính là Vô Trần đạo trưởng, nếu không sẽ bị oai danh của lão trấn áp làm cho khiếp đảm thì e rằng không tới một trăm chiêu đã thất bại rồi”.
Hồ Phỉ đang chăm chú nhìn trận tỷ đấu của Đức Bố và Vô Trần thì hai tên vệ sĩ ở Thanh Cung đã tiến lại quát:
– Hạ khí giới xuống!
Hồ Phỉ hỏi:
– Để làm gì?
Một tên thị vệ hỏi lại:
– Ngươi dám chống cự chăng?
Hồ Phỉ hỏi:
– Chống cự thì sao?
Thị vệ quát:
– Tên tiểu tặc này ngang ngược lắm!
Gã vung đao chém tới. Hồ Phỉ lạng người né tránh, chém trả lại một đao. Không ngờ tên thị vệ kia tay cầm một cây thiết chùy chênh chếch đánh tới trúng vào lưỡi đao của Hồ Phỉ. Tỷ lực gã này rất mạnh mà binh khí lại cực kỳ trầm trọng. Sau khi gắng sức chiến đấu với Vô Trần, cánh tay Hồ Phỉ đã ngâm ngẩm tê chồn. Chàng cầm thanh đơn đao không chắc tuột khỏi tay bay đi. Gã kia xoay ngang ngọn chùy quét vào lưng Hồ Phỉ. Hồ Phỉ tuy mất binh khí song vẫn không bối rối. Chàng lạng người tránh rồi thuận đà huých luôn khuỷu tay vào sau lưng đối phương.
Tên thị vệ lớn tiếng la:
– Úi chao! Tiểu tử giỏi lắm!
Gã đau quá suýt buông cây thiết chùy xuống. Tiếp đó có thêm hai tên thị vệ sấn lại giáp công. Một tên cầm tiên, một tên chống cây đoản thương.
Trình Linh Tố lên tiếng:
– Đại ca! Tiểu muội lại giúp đại ca.
Cô rút thanh liễu diệp đao toan xông vào trợ chiến.
Hồ Phỉ nói:
– Không cần đâu! Hãy coi thủ đoạn “Không thủ nhập bạch nhận” của đại ca đây!
Trình Linh Tố thấy chàng xuyên qua xuyên lại giữa bốn địch nhân, tuy bề ngoài coi có vẻ nguy hiểm, nhưng thấy chàng rất ung dung tự tại. Trình Linh Tố cũng biết bản lĩnh của nghĩa huynh rất cao minh liền dừng lại, đứng một bên để canh chừng.
Hồ Phỉ thi triển “Tứ tượng bộ pháp” đã học từ nhỏ, bước qua phía đông một bước, lui lại mé tây nửa bước. Bộ pháp Tứ tượng này căn cứ vị trí bốn chòm sao mà biến hóa là Thanh Long ở hướng đông, Bạch Hổ ở hướng tây, Huyền Vũ ở hướng bắc và Chu Tước ở hướng nam. Mỗi chòm sao lại có tám vì sao, thành ra hai mươi tám vì sao gọi là nhị thập bát tú, bộ pháp căn cứ vào đó mà biến hóa thêm. Bốn kẻ địch dùng bốn thứ binh khí nặng có nhẹ có, tả công hữu kích, nhưng bộ pháp của Hồ Phỉ rất kỳ diệu, chàng né tránh mọi binh khí đánh tới chỉ trong đường tơ kẽ tóc, Trình Linh Tố ban đầu lo thấp thỏm, nhưng càng xem cô càng yên tâm, đến lúc thấy bộ pháp của chàng linh diệu tuyệt luân cô mới thở phào nhẹ nhõm.
Bốn tên thị vệ này đều là người Mãn Châu. Trước khi vào làm thị vệ ở Thanh cung, chúng đã nổi tiếng là “Liêu Đông tứ kiệt” và bản lãnh đáng liệt vào hàng nhất lưu cao thủ. Hồ Phỉ trông cậy vào “Tứ tượng bộ pháp” để bảo vệ. Thỉnh thoảng chàng vẫn thừa cơ phản công nhưng chưa lần nào đắc thủ ngược lại cứ mỗi lần phản kích là chàng đều gặp nguy hiểm nên mới ngẫm ra được lý do. Nguyên vừa rồi chàng kịch chiến với Vô Trần đạo nhân đã mất sức lực quá nhiều. Hiện giờ nguyên khí chưa phục hồi mà gặp những lúc khẩn yếu phải vận dụng chân lực nên không thể phát huy được quyền chiêu đến chỗ tinh diệu. Hiểu được điều đó, Hồ Phỉ liền bình tâm tĩnh trí trở lại, chỉ né tránh chứ không phản kích, cứ thong thả điều tức giữa vòng hợp công của bốn tên vệ sĩ.
Bên kia Vô Trần đánh ráo riết mấy chục chiêu, nhưng đều bị Đức Bố gạt đi. Lão không dằn được lòng nóng nảy, nghĩ thầm:
– Đã mười năm ta không đến Trung nguyên, bữa nay mới ra tay lần đầu đã không còn sắc bén nữa. Hay là ta đã già rồi và thành đồ vô dụng?
Thực ra bản lãnh của Đức Bố quả có chỗ hơn người, huống chi Vô Trần lại đang nóng nảy. Đức Bố lưng cũng toát mồ hôi đầm đìa. Càng đánh hắn càng sợ hãi vì nhận ra kiếm thuật của đối thủ đã đến trình độ xuất quỷ nhập thần, kiếm chiêu thần tốc đến mức tưởng chừng không phải do sức người làm nổi. Hắn nghĩ mình đã tung hoành thiên hạ, mà chưa hề gặp phải một kình địch như thế này, toan lên tiếng chịu thua. Nhưng hôm nay nếu hắn thất bại thì bao nhiêu danh tiếng nào là “Tứ Xuyên hoàng mã quải”, “Thủ lĩnh Ngự tiền thị vệ”, nào là “Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ”, “Thống lãnh đại nội thập bát cao thủ” đều tiêu tan hết. Hán nghĩ vậy liền phấn khởi tinh thần, không kể gì đến tính mạng nữa mà ra sức chống đỡ.
Vô Trần thấy Hồ Phỉ tay không mà một mình chống chọi với bốn người, còn lão chỉ có một địch nhân cũng không hạ nổi. Tính lão bình sinh vốn rất hiếu thắng, càng về già lại càng hiếu thắng hơn. Lão liền tấn công ráo riết, mỗi chiêu đều giành đoạt tiên cơ.
Đức Bố thấy địch nhân tấn công gắt gao, vội múa kiếm thành một màn kiếm quang bảo vệ quanh những yếu huyệt trên người. Hắn tự biết mình không địch nổi, đã mấy lần toan gọi thuộc hạ xông vào trợ chiến, nhưng lại nghĩ nếu năm chữ “các ngươi cùng xông lên” mà thoát ra khỏi miệng thì thanh danh cả đời trôi theo dòng nước, nên cố sức chịu đựng. Hắn nghĩ mình tuổi đang lúc tráng niên còn Độc tý đạo nhân thì niên kỷ đã cao, dù lão xuất chiêu vô cùng mãnh liệt, nhưng nếu hắn cứ cố gắng kéo dài trận đấu thì thế nào đối phương cũng sức cùng lực kiệt, đến lúc đó hắn sẽ có cơ thủ thắng.
Nào ngờ Vô Trần càng đánh càng hăng, tinh thần càng mạnh mẽ. Bọn thị vệ nhìn thấy đều sinh lòng kinh hãi. Kiếm quang của hai người cứ vọt lên như cầu vồng, không còn nhìn rõ chiêu số của ai nữa. Quần hào đứng trên gò cao yên lặng theo dõi cuộc đấu. Họ thấy Vô Trần dần dần chiếm được thượng phong, đều nghĩ thầm:
– Đạo trưởng vẫn còn uy phong như cũ, thần oai chẳng kém năm xưa, thật đáng mừng.
Đột nhiên Vô Trần quát to lên một tiếng:
– Xem đây!
Nghe “choang” một tiếng, Vô Trần phóng kiếm đâm vào trước ngực Đức Bố. Tiếp theo là những tiếng lách cách, thanh kiếm trong tay lão bị gãy rời. Nguyên Đức Bố đã mặc cương giáp hộ thân bên trong, nên tuy bị kiếm đâm trúng đã chẳng mảy may bị thương mà còn làm gãy trường kiếm của đối phương. Vô Trần đang sửng sốt thì Đức Bố phóng kiếm đâm tới trúng vai bên phải lão.
Mọi người đứng trên gò giật mình kinh hãi. Hai hán tử lao xuống cứu viện, nhưng bỗng nghe Vô Trần quát:
– Ngưu đầu trịch xoa!
Thanh kiếm gãy trong tay lão bay ra đâm vào yết hầu Đức Bố. Đức Bố la lên một tiếng, ngã người về phía sau.
Vô Trần cười ha hả nói:
– Ngươi thắng hay là ta thắng?
Đức Bố trúng kiếm ở cổ, tuy chưa đến nỗi trí mạng nhưng mất hết ý chí chiến đấu. Hắn run run đáp:
– Đạo trưởng thắng rồi!
Vô Trần cười nói:
– Ngươi đón tiếp được ngần ấy kiếm chiêu của ta, lại đâm thương ta ở bả vai quả không phải chuyện dễ dàng. Được lắm, ta tha mạng cho ngươi!
Hai tên thị vệ đỡ Đức Bố lùi sang một bên.
Vô Trần dương dương đắc ý. Tuy lão bị thương ở vai khá nặng mà chẳng quan tâm, cứ từ từ đi lên gò đất để mọi người buộc vết thương cho. Lão không ngớt chỉ trỏ, bình luận bộ pháp của Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ điều tức một lúc nhận thấy tinh lực đã phục hồi, chàng liền hít một hơi thật sâu rồi đột nhiên tấn công, tay đấm chân đá chớp nhoáng. Chỉ nghe những tiếng “úi chao”, “trời ơi!” không ngớt vang lên. Nào đơn đao, thiết chùy, cương tiễn, hoa thương, bốn món binh khí đã nối tiếp nhau mà bay ra xa. Hồ Phỉ phóng cước đá ngã hai tên, vung quyền đánh một tên ngất xỉu. Tiếp đó, tay trái chàng nhả chưởng lực đánh tên thị vệ cuối cùng miệng hộc máu tươi, ngã lăn lông lốc. Quần hào trên gò đất cất tiếng hoan hô ầm ĩ.
Thanh âm Vô Trần càng vang dội:
– Tiểu Hồ Phỉ! Ngươi đánh hay quá!
Tiếng hoan hô chưa dứt, đã có năm sáu tên thị vệ xông tới bên Hồ Phỉ, trên tay đều không cầm binh khí.
Tên thị vệ bên trái nói:
– Bây giờ chúng ta tỷ đấu tay không!
Hồ Phỉ đáp:
– Hay lắm!
Chàng vừa dứt lời, đột nhiên hai chân bị người ôm chặt. Tiếp theo một người nhảy lên lưng. Cánh tay hắn như sắt siết chặt lấy cổ chàng. Lại thêm hai người kéo hai tay chàng. Nguyên lần này “Đại nội thập bát đại cao thủ” do Đức Bố thống lãnh đều kéo đến. Mười tám tên này gồm bốn tên người Mãn Châu, năm tên người Mông và chín nhà sư ở Tây Tang, gọi là “Tứ Mãn, Ngũ Mông, Cửu Tạng tăng”. Vua Càn Long từ khi xảy chuyện với Hồng Hoa hội, không tin người Hán nữa mà lựa chọn những dũng sĩ Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng bổ sung vào đội thị vệ. Bọn “Tứ Mãn, Ngũ Mông, Cửu Tạng tăng” được lựa chọn rất kỹ càng từ những thị vệ trong đại nội.
Năm tên thị vệ người Mông Cổ chuyên nghề đô vật. Hồ Phỉ không kịp đề phòng liền bị chúng hạ thủ bất ngờ. Chàng giật mình kinh hãi, nhưng rồi lại mừng thầm, tự nhủ:
– Cầm nã thủ pháp chính là môn võ công gia truyền sở trường của nhà ta rồi.
Chằng thấy hai tay bị địch nhân nắm giữ, liền ngã ngửa người ra, thuận đà vận kình lực vào hai tay đập mạnh vào nhau đánh “binh” một tiếng, khiến hai tên thị vệ đụng đầu vào nhau, cùng ngất xỉu tức thời. Hai tay chàng tự do rồi, liền vặn tay tên thị vệ đang ghì siết cổ mình thật mạnh nghe “rắc” một tiếng, xương cổ tay gã đã bị gãy rồi. Tiếp theo chàng lại bẻ gãy xương tay hai tên đang ôm lưng mình.
Năm tên thị vệ Mông Cổ này rất tinh thông nghề đô vật. Những dũng sĩ trong năm chủng tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng rất ít người địch nổi bọn chúng. Nhưng điều quan trọng trong đô vật là quật được từng đối thủ xuống đất, đằng này Hồ Phỉ lại dùng tiểu xảo thi triển cầm nã thủ bẻ gãy xương là không đúng quy củ đô vật
Hai tên thị vệ bị gãy xương rất tức giận, tuy không còn sức tái đấu vẫn hậm hực quát lớn:
– Phạm quy! Phạm quy!
Lời lẽ nghe rất hợp lý mà điệu bộ lại hùng hổ.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Đánh nhau mà cũng có quy củ ư? Bọn người năm tên đánh một mình ta thì có phạm quy hay không?
Hai tên thị vệ Mông Cổ nghĩ lại thấy chàng nói cũng đúng. Bọn chúng năm người đánh một là đã phạm quy trước, nên cũng không la lối nữa. Còn một tên cố chết ôm ghì hai chân Hồ Phỉ, vận hết kình lực định vật chàng té xuống.
Hồ Phỉ quát hỏi:
– Ngươi có buông tay không?
Gã kia đáp:
– Dĩ nhiên không buông.
Hồ Phỉ vươn tay trái dùng cầm nã thủ chụp vào huyệt “Đại truy” ở sau lưng gã. Lập tức toàn thân gã tê chồn mềm nhũn phải buông tay ra. Hồ Phỉ nhấc bổng gã lên ném ra ngoài xa mấy trượng, đánh “huỵch” một tiếng, nước bắn tung tóe. Hắn bị ném trúng ao bùn giữa đám lau sậy. Tên thị vệ này toàn thân ngập trong bùn, đầu óc choáng váng, miệng thét be be.
Hồ Phỉ đã chiến đấu hồi lâu với bốn tên thị vệ Mãn Châu, lại hạ năm tên Mông Cổ một cách mau lẹ gọn gàng. Những người đứng xem chỉ thấy năm tên thị vệ Mông Cổ nhất tề tiến lên ôm Hồ Phỉ vật xuống, rồi lại nghe những tiếng “binh binh”, “ối oái”, tiếng xương gãy “lắc rắc” rồi tiếng quát tháo “phạm quy” cùng tiếng thét be be nối tiếp nhau không dứt. Sau đó lại thấy bốn tên nằm trên mặt đất, còn một tên bị ném xuống ao bùn. Quần hào đứng trên gò đất không hoan hô nữa mà lại nổi lên tràng cười ha hả.
Tiếng cười chưa dứt thì chín nhà Sư Tây Tạng, như đám mây hồng di động, chống binh khí lại bao vây Hồ Phỉ. Binh khí của chín người này không giống nhau. Giới đao có, tích trượng có, lại có nhiều thứ hình thù quái dị mà Hồ Phỉ chưa từng thấy qua và không hiểu tên gọi là gì. Chín nhà sư Tây Tạng thái độ ngưng trọng, không ai nói nửa lời, đứng bao vây Hồ Phỉ. Bộ pháp chúng vừa nhẹ nhàng vừa vững chãi, đúng là những tay kình dịch. Chín nhà sư đứng rải rác mỗi người một nơi, tựa hồ đang bày thành thế trận.
Hồ Phỉ tay không binh khí, trong lòng ngấm ngầm kinh hãi. Chàng tự hỏi:
– Ta lấy đao của nhị muội, hay đoạt giới đao của địch nhân?
Bỗng nghe trên gò đất có tiếng hô:
– Tiểu huynh đệ! Tiếp đao!
Rồi một thanh cương đao từ gò đất ném xuống. Tiếng đao xé gió rít lên veo véo, đủ thấy kình lực của người ném đao quả thực ghê người. Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Những bạn hữu của Triệu tam ca quả nhiên đều là những tay võ nghệ tinh thâm. Cách ném đao này ta không làm được.
Thanh đao bay tới. Hai nhà sư Tây Tạng đứng gần nhất không dám dùng binh khí đưa lên cản lại mà phải tránh né sang hai bên. Hồ Phỉ trong lòng xoay chuyển ý nghĩ rất mau:
– Trận pháp này không biết phá bằng cách nào? Hai tên kia tránh phi đao chính là lúc thừa cơ nhiễu loạn.
Hồ Phỉ xoay chuyển ý nghĩ cực kỳ mau lẹ mà thanh đơn đao bay đến cũng rất nhanh. Tâm niệm vừa chuyển đã thấy ánh bạch quang lấp loáng, một thanh đao sống dày lưỡi mỏng xé gió bay tới, thần tốc dị thường. Hồ Phỉ không đón lấy thanh đao mà đưa ngón tay khẽ đẩy chuôi đao. Thanh đao lao tới rất mạnh gặp phải luồng lực đao mãnh liệt ngăn lại một cách đột ngột, liền chuyển hướng bay vọt lên không.
Chín nhà sư Tây Tạng lấy làm lạ, bất giác ngửng đầu lên nhìn. Hồ Phỉ liền chớp lấy thời cơ, xông lại nhà sư cầm giới đao đứng bên cạnh. Chàng chỉ vươn tay ra là cướp được giới đao và trong nháy mắt thi triển “Hồ gia khoái đao” chém một trận chớp nhoáng nhanh như gió. Lúc này chàng hạ thủ quyết chẳng dung tình. Chín nhà sư kẻ bị đứt tay người bị gãy chân, không một ai tránh thoát. Thế là chín vị Lạt Ma mình mang tuyệt nghệ chỉ vì hớ hênh một chút mà trúng kế dụ địch của Hồ Phỉ đến nỗi bị trọng thương, rú lên thê thảm rồi ngã lăn cả ra.
Cuộc thắng của Hồ Phỉ vô cùng tuyệt xảo mà cũng cực kỳ nguy hiểm. Hồ Phỉ vừa thi triển xong môn khoái đao thì thanh đao trên đỉnh đầu vừa rớt xuống. Chàng liền ném thanh giới đao đi, vươn tay đón lấy. Thanh đao nặng gấp hai, ba lần thanh đao thường, đủ thấy tý lực của chủ nhân thanh đao mạnh đến chừng nào. Dưới ánh trăng chàng nhìn thấy rõ trên chuôi đao khắc ba chữ: “Bôn lôi thủ”.
Hồ Phỉ cả mừng lớn tiếng hô:
– Đa tạ Văn tứ gia đã ném đao tương trợ!
Đột nhiên thanh âm một lão già ở phía sau la lên:
– Coi kiếm đây!
Tiếng hô chưa dứt, tiếng gió đã ập tới sau lưng.
Hồ Phỉ kinh hãi lẩm bẩm:
– Kiếm pháp người này ghê gớm quá!
Chàng vội xoay đao lại đỡ gạt. Dè đâu địch nhân đã thu chiêu về, tiếp theo lại phóng kiếm đâm tới. Hồ Phỉ lại xoay tay gạt lần thứ hai cũng đánh vào khoảng không. Chàng toan quay lại nghinh chiến, nhưng kiếm chiêu của đối phương đâm tới sau lưng dù không nhanh lắm cũng bức bách chàng không có cơ hội để xoay mình.
Hồ Phỉ kinh hãi vô cùng, liền vọt về phía trước ra xa nửa trượng. Chân trái vừa chấm đất, chàng toan xoay mình lại, không ngờ địch nhân như bóng với hình lại phóng kiếm đâm tới. Y đâm liên tiếp năm nhát, Hồ Phỉ đều gạt sểnh năm lần, mà thủy chung vẫn không thể xoay mình lại để nhìn mặt mũi địch nhân ra sao.
Chàng kịch đấu lúc nửa đêm. Ban đầu giữ được thế quân bình với khoái kiếm tuyệt luân của Vô Trần đạo trưởng. Tiếp theo đả thương được “Tứ Mãn, Ngũ Mông, Cửu Tạng tăng”, không ngờ lúc này lại bị tập kích dồn dập ở phía sau, không xoay người lại được. Ở vào thế tất bại, đang lúc khẩn cấp, chàng đành mạo hiểm cầu may. Vừa nghe chiêu kiếm bên địch phóng tới sau lưng, lần này chàng không đỡ gạt, mà nhảy xổ về phía trước nằm xuống rồi xoay mình ngửa mặt lên trời, mới hoành đao gạt thanh kiếm bên địch.
Bỗng nghe địch nhân cát tiếng khen ngợi:
– Hay lắm!
Y phóng chưởng đánh tới trước ngực. Hồ Phỉ cũng phóng chưởng đánh ra. Hai chưởng đụng nhau, chàng cảm thấy chưởng lực của đối phương nhu hòa mà hùng hậu, trong nhu hòa có ẩn giấu sát khí, liền sực nhớ ra một người, buột miệng la:
– Té ra là ngươi!
Địch nhân cũng la lên:
– Té ra là ngươi!
Nguyên hai người này thủ chưởng chạm nhau, phát giác đối phương chính là người đã đối chưởng với mình ở trong phủ Phúc Khang An để giải cứu thiếu niên thư sinh Tâm Nghiễn.
Cả hai người cùng lùi lại mấy bước. Hồ Phỉ ngưng thần nhìn kỹ thấy người này râu tóc bạc phơ, tướng mạo cổ nhã, chính là Vô Thanh Tử, chưởng môn phái Võ Đương, thì không khỏi ngẩn người, chẳng hiểu đây là bạn hay là thù.
Lại nghe Vô Trần đạo nhân cười nói:
– Phỉ Thanh huynh! Võ công của tiểu lão đệ này ra sao?
Vô Thanh Tử cười đáp:
– Y đã đấu được với Vô Trần đạo nhân năm trăm chiêu, thì thử hỏi trong thiên hạ có được mấy người? Lão đạo đúng là kẻ cô lậu quả văn mới không biết trong võ làm đã nảy ra trang thiếu niên anh hùng này.
Lão tra kiếm vào vỏ, bước lại dắt tay Hồ Phỉ ra chiều thân mật. Hồ Phỉ thấy lão lúc này tráng khí bồng bột, so với thái độ lờ đờ ngái ngủ lúc ở đại hội chưởng môn thật khác nhau xa, trong lòng rất lấy làm lạ.
Vô Trần từ trên gò đất đi xuống, cười nói:
– Tiểu lão đệ! Lão mũi trâu này trước khi xuất gia có ngoại hiệu là Miên lý tàng châm Lục Phỉ Thanh. Lão đệ gọi y một tiếng đại ca xem nào!
Hồ Phỉ giật mình kinh hãi, nghĩ bụng: “Miên lý tàng châm Lục Phỉ Thanh ngày trước uy danh chấn động thiên hạ, nổi tiếng đã mấy chục năm, không ngờ hôm nay mình được giao thủ với lão”.
Chàng vội lạy phục xuống đất, miệng hô:
– Vãn bối là Hồ Phỉ, bái kiến đạo trưởng.
Bỗng nghe phía sau có thanh âm cất lên:
– Xét về lý thì ngươi là vãn bối, nhưng Hồ huynh đệ ơi, lão là lão ca kết nghĩa của ta đó.
Hồ Phỉ đứng phắt dậy, thấy người đứng sau lưng mình mặc trường bào, thân hình mập ú. Chính là Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn. Hồ Phỉ đối với vị nghĩa huynh này ngày mong đêm nhớ, liền ôm choàng lấy mà reo lên:
– Tam ca! Tam ca làm tiểu đệ nhớ đến chết.
Triệu Bán Sơn xoay mình lại nhìn thẳng vào mặt chàng dưới ánh trăng hồi lâu rồi hớn hở nói:
– Huynh đệ! Huynh đệ thành người lớn rồi. Ca ca bữa nay lại trông thấy huynh đệ đả bại liền một lúc mười tám cao thủ đại nội, trong lòng rất hoan hỷ.
Hồ Phỉ dắt tay Trình Linh Tố lại giới thiệu với Vô Trần và Triệu Bán Sơn.
Triệu Bán Sơn nói:
– Hồ huynh đệ! Trình Ba muội tử! Ta dẫn các vị đến tham kiến Trần tổng đà chủ của ta.
Hồ Phỉ giật mình kinh hãi hỏi:
– Trần tổng đà chủ! … Lão nhân gia cũng đến đây ư?
Vô Trần cười đáp:
– Lão nhân gia vừa bị huynh đệ thóa mạ một trận, nào là thương thiên bại lý, nào là phụ tâm bạc hạnh gì gì đó. Ngươi mắng như tát nước vào mặt! Ha ha! E rằng tổng đà chủ chúng ta bình sinh chưa bao giờ bị ai thóa mạ tàn tệ đến thế!
Hồ Phỉ hoảng kinh, run giọng nói:
– Đó là… là Phúc Khang An…
Lục Phỉ Thanh cười đáp:
– Trần tổng đà chủ tướng mạo giống hệt Phúc Khang An. Đừng nói tiểu huynh đệ với y là hai người chưa từng quen biết mà cả những người giáp mặt hàng ngày cũng còn nhận lầm.
Vô Trần cười nói:
– Nhớ tới năm trước ở ngoài thành Hàng Châu, Tổng đà chủ giả làm Phúc Khang An bắt được Uy Chấn Hà Sóc Vương Duy Dương gì gì đó…
Hồ Phỉ bàng hoàng một lúc rồi nói:
– Tam ca! Tam ca mau đưa tiểu đệ đến đập đầu tạ tội với tổng đà chủ.
Triệu Bán Sơn nói:
– Không biết là không có tội. Tổng đà chủ đã tiếp tiểu đệ một chưởng, khen tiểu đệ võ công cao thâm, có khí phách anh hùng!
Hai người chưa kịp đi lên gò đất, Trần Gia Lạc đã dẫn quần hùng đi xuống.
Hồ Phỉ lạy phục xuống đất nói:
– Tiểu nhân mắt mù mạo phạm đến tổng đà chủ, thật đáng tội…
Trần Gia Lạc không chờ chàng nói hết lời đã đỡ chàng dậy nói:
– “Đại trượng phu chỉ sợ bậc chính nhân quân tử chứ không sợ phường ưng khuyển nô tài”. Bữa này ta đến Bắc Kinh được nghe hai câu thống khoái lâm ly. Tiểu huynh đệ! Nguyên hai câu này cũng đủ khiến chúng ta không uổng một phen bôn tẩu vạn dặm đường xa.
Triệu Bán Sơn giới thiệu Hồ Phỉ với tất cả quần hùng. Hồ Phỉ đã ngưỡng mộ những nhân vật này từ lâu, nay được gặp mặt lấy làm vui sướng. Chàng cung kính cầm thanh cương đao trả lại cho Văn Thái Lai đã ném đao tương trợ, tạ ơn Lạc Băng tặng bảo mã. Chàng cung kính cầm thanh cương đao trả lại cho Văn Thái Lai, rồi nhặt thanh đao của tên thị vệ bỏ lại tra vào vỏ đao của mình. Cây đơn đao của chàng đã bị thiết chùy đập oằn lưỡi, trở thành vô dụng. Tâm Nghiễn cũng tạ lại ơn chàng đã giải huyệt cho gã lúc ở phủ Phúc Khang An. Vô Trần vô cùng cao hứng vạch chân trỏ tay kể lại cuộc đấu kiếm với Hồ Phỉ và Đức Bố. Lão lấy làm sung sướng vì ít khi gặp được hai cuộc tỷ đấu như bữa nay.
Lục Phỉ Thanh cười nói:
– Đạo trưởng! Luận về võ công thì tiểu huynh đệ đây đã rất mực cao thâm. Nhưng còn một vị thiếu niên anh hùng so với y còn lợi hại hơn nhiều. Chắc đạo trưởng không địch nổi người này đâu.
Vô Trần vừa cao hứng vừa bất phục, vội hỏi:
– Người ấy là ai? Hiện giờ ở đâu?
Lục Phỉ Thanh lắc đầu, đáp:
– Nhất quyết đạo trưởng không địch nổi y, tiểu đệ khuyên đạo trưởng đừng kiếm y là hơn.
Vô Trần nói:
– Hừ! Lão ca lâu nay không gặp, bây giờ mới thấy mặt là đã nói khoác rồi. Tiểu đệ không tin có nhân vật nào lợi hại đến thế!
Lục Phỉ Thanh đáp:
– Hôm qua ở trong phủ Phúc Khang An khai diễn cuộc đại hội chưởng môn các phái. Cao thủ ùn ùn như mây, mỗi nhân vật đều có tuyệt kỹ độc đáo riêng. Có đúng thế không?
Vô Trần hỏi lại:
– Đúng thì làm sao?
Lục Phỉ Thanh đáp:
– Tâm Nghiễn lão đệ đến quấy phá đại hội, lỡ tay bị bắt. Triệu tam đệ bản lãnh là vậy mà cũng chỉ đoạt được một chiếc Ngọc Long bôi. Tây Xuyên song hiệp là Thường thị huynh đệ giá lâm cũng chỉ cứu được hai người ra. Nhưng vị thiếu niên anh hùng kia trong nháy mắt đã cướp được cả bảy chiếc Ngọc Long bôi trong tay bảy vị cao thủ, rồi ném xuống đất cho vỡ ra. Y chỉ thở mấy hơi đã khiến cho đại hội chưởng môn của Phúc Khang An tan thành mây khói. Vô Trần đạo trưởng! Đạo trưởng liệu xem có đấu nổi với vị thiếu niên anh hùng đó không?
Trình Linh Tố biết lão nói mình, mặt đỏ bừng lên, đứng nép vào sau lưng Hồ Phỉ. Nhưng trong đêm tối, quần hào mải lắng nghe Lục Phỉ Thanh nói, không ai chú ý đến cô.
Một thiếu phụ xinh đẹp lên tiếng:
– Sư phụ! Bọn đệ tử chỉ nghe cuộc đại hội chưởng môn của Phúc Khang An bị người phá vỡ, nhưng không hiểu đầu đuôi vụ này ra làm sao?
Nàng là Lý Nguyên Chỉ, vợ Kim địch tú tài Dư Ngư Đồng.
Lục Phỉ Thanh liền đem vụ “Thiếu niên anh hùng” kia dùng xảo kế làm vỡ bảy chiếc Ngọc Long bôi như thế nào, thổi khói độc làm mọi người đau bụng ra sao, do đó sinh lòng ngờ vực Phúc Khang An bày mưu hãm hại anh hùng trong thiên hạ, rồi đại náo thành cuộc hỗn loạn, nhất nhất đều thuật lại cả. Quần hào nghe nói đều tấm tắc ca ngợi.
Vô Trần hỏi:
– Lục huynh nói hàng nửa ngày trời mà vị thiếu niên anh hùng đó là ai thì vẫn chưa thốt ra lời nào.
Lục Phỉ Thanh cười đáp:
– Xa thì ở chân trời, mà gần thì ở ngày trước mắt. Vị đó chính là Trình cô nương đây:
Dứt lời, lão kéo Hồ Phỉ sang một bên để lộ Trình Linh Tố ra. Quần hung “ồ” lên một tiếng, bao nhiêu con mắt đổ dồn vào Trình Linh Tố. Nhưng chẳng một ai tin cô bé gầy ốm, văn nhã là thế lại trong khoảnh khắc quấy phá được đại hội đã được chuẩn bị cả năm của Phúc Khang An. Nhưng Lục Phỉ Thanh là một người đức cao vọng trọng trong võ lâm, khi nào lại ăn nói hồ đồ? Họ không tin cũng phải tin.
Nguyên Lục Phỉ Thanh mười năm trước gặp tai họa đồng môn. Sư huynh lão là Mã Ngọc, sư đệ là Trương Triệu Trọng đã bị thảm tử. Phái Võ Đương đi vào chỗ suy vi. Lục Phỉ Thanh lên tiếp nhận chưởng môn, có ý chỉnh đốn lại môn phái. Vì sợ triều đình nhà Thanh nghi kỵ nên lão đành phải xuất gia, lấy đạo hiệu là Vô Thanh Tử. Hơn mười năm trời lão vẫn ẩn cư, triều đình cũng không chú ý tới. Lần này Phúc Khang An mời lão dự đại hội chưởng môn, một là phái Võ Đương nổi danh ngang hàng với phái Thiếu Lâm, hai là nghĩ đến Trương Triệu Trọng ngày trước đã vì triều đình xuất lực lập nên công lớn. Họ lại không biết lai lịch của Lục Phỉ Thanh ra sao liền mời chưởng môn phái Võ Đương hạ sơn.
Lục Phỉ Thanh tuy đã già mà hùng tâm vẫn còn. Lão biết hành động lần này của Phúc Khang An đem lại điều bất lợi cho đồng đạo giang hồ. Nếu lão khước từ là rước lấy nhiều sự phiền não, nên một mình đến tham dư đại hội nhằm tìm hiểu chân tướng, rồi tùy cơ mà hành động. Đến lúc Tâm Nghiễn bị Thang Bái bắt giữ thì lão mới ngấm ngầm ra tay giải cứu.
Bọn Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng cùng quần hùng ở Hồng Hoa hội từ đất Hồi Cương xuống đến Bắc Kinh vì hôm nay là ngày giỗ Hương Hương công chúa qua đời đã mười năm. Quần hùng đến trước mộ nàng để tế lễ. Phúc Khang An thấy đại hội chưởng môn bị người ta quậy phá tan tành, lại còn kết oán với các môn phái võ lâm nữa nên phẫn nộ dị thường. Hắn phái Đức Bố thống lãnh “Đại nội thập bát cao thủ” ra ngoại thành điều tra khắp nơi, hễ thấy người khả nghi là bắt hoặc giết ngay. Không ngờ cuộc chiến bên cạnh Đào Nhiên đình, bọn Văn Thái Lai, Triệu Bán Sơn chưa ra tay mà mười tám cao thủ trong đại nội đã xếp cánh chạy dài.
Bọn Trần Gia Lạc biết rõ tập quán của đám quan trường ở Thanh đình. Bọn Đức Bố bị thua tan tác như vậy, mà những nhân vật Hồng Hoa hội chưa hề kinh động đến Hoàng thân đại quan thì nhất định bọn chúng giấu nhẹm, không ai nói tới chuyện gặp địch ở Đào Nhiên đình và quyết chẳng có chuyện điều động binh mã đến phục thù. Vậy nơi đây tuy cách kinh thành không xa nhưng vẫn có thể yên tâm nán lại.
Quần hào cùng Lục Phỉ Thanh là chỗ cố hữu trùng phùng, lại gặp bạn mới là Hồ Phỉ và Trình Linh Tố, nên mọi người còn nhiều chuyện muốn nói. Đang lúc chuyện trò, bỗng nghe hai tiếng vỗ tay từ đằng xa vọng tới, ngưng một chút lại nghe thêm ba tiếng vỗ nữa. Hán tử cải trang thư sinh là Kim địch tú tài Dư Ngư Đồng vỗ tay ba tiếng để đáp lại, ngưng một lúc rồi vỗ tiếp hai cái nữa.
Vô Trần nói:
– Ngũ đệ, lục đệ đến rồi!
Bỗng thấy hai người vọt tới nhanh như bay. Hai người này thân hình cao lều nghều. Hồ Phỉ đã gặp họ ở phủ Phúc Khang An nên biết đó là Tây Xuyên song hiệp Thương Bá Chí và Thường Hách Chí. Theo sau anh em họ còn có hai nhân vật đều bồng đứa nhỏ trong tay. Hai nhân vật này chạy tới gần mới nhận ra là Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu ở Song Tử môn. Hai đứa nhỏ dĩ nhiên là hai đứa con song sinh của Mã Xuân Hoa.
Nguyên Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu thấy hai đứa nhỏ hợp nhãn đã quyết liều mạng cướp cho bằng được. Thường thị huynh đệ cũng là huynh đệ song sinh, nghe anh em họ Nghê nói trong lòng xúc động, liền nhân lúc đại hội hỗn loạn bèn trà trọn vào nội viện Phúc phủ. Lúc này Phúc Khang An và bọn thị vệ đang đau bụng dữ dội, đều tưởng mình trúng phải chất kịch độc, nên ai nấy hốt hoảng lo uống thuốc giải. Thường thị huynh đệ là những cao thủ bậc nhất, đánh ngã bảy tám tên vệ sĩ chẳng tốn chút hơi sức, rồi đoạt lấy hai đứa nhỏ chạy đi.
Hồ Phỉ nhìn thấy hai đứa nhỏ liền nghĩ tới Mã Xuân Hoa tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, không nén được vừa mừng vừa buồn. Đột nhiên chàng như sực nghĩ ra điều gì, liền nhìn Trần Gia Lạc nói:
– Trần tổng đà chủ! Vãn bối có một ý nghĩ rất đỗi hoang đường, xin thỉnh cầu Tổng đà chủ một việc.
Trần Giá Lạc đáp:
– Hồ huynh đệ cứ nói ra đừng ngại. Chúng ta tuy mới gặp nhau lần đầu, nhưng thần giao đã lâu. Bản nhân mà làm được thì nhất quyết y theo.
Hồ Phỉ biết việc này mà mở miệng ra cũng chẳng hay ho gì, nên bất giác đâm ra bẽn lẽn, nói:
– Ý nghĩ của vãn bối rất là kỳ quặc, nói ra chỉ sợ các vị cười cho.
Trần Gia Lạc mỉm cười hỏi:
– Những hành động của chúng ta, người ngoài mà coi vào thì việc gì là chẳng hoang đường, việc gì là chẳng kỳ quặc?
Hồ Phỉ đáp:
– Tổng đà chủ đã miễn trách, vậy vãn bối xin nói!
Chàng chỉ vào hai đứa nhỏ nói:
– Hai đứa nhỏ này là con của Phúc Khang An. Mẫu thân chúng trong tình trạng hấp hối.
Đoạn chàng đem chuyện gặp Mã Xuân Hoa ở Thương gia bảo cho đến vụ Mã Xuân Hoa bị hạ độc vô phương cứu chữa lược thuật từ đầu đến cuối. Quần hùng nghe kể, huyết mạch đều căng thẳng, nổi lòng phẫn nộ đến cực điểm. Vô Trần đưa ra ý kiến là lập tức quay lại thành Bắc Kinh, cho tên vô tình bạc nghĩa Phúc Khang An một nhát kiếm xong đời.
Vị đương gia thứ bảy trong Hồng Hoa hội là Từ Thiên Hoằng, biệt hiệu là Võ Giá Cát, nói:
– Đêm qua trong thành đã xảy cuộc náo loạn động trời, mà bây giờ chúng ta mạo hiểm tiến vào Phúc phủ thì đã chẳng đâm chết được Phúc Khang An, mà chỉ e chẳng còn toàn thây mà về.
Trần Gia Lạc gật đầu đáp:
– Bây giờ cổng trước sau Phúc phủ dĩ nhiên có không biết bao nhiêu là quân mã canh giữ thì làm sao mà hạ thủ? Nội một việc trà trộn vào thành cũng đã khó khăn lắm rồi. Chuyến này ta cùng các vị huynh đệ cùng đến đây là để tế công chúa, không nên vì một chút nóng giận nhất thời mà làm tổn thương đến các huynh đệ. Hồ huynh đệ! Huynh đệ yêu cầu ta chuyện gì?
Hồ Phỉ đáp:
– Vãn bối thấy Tổng đà chủ từ Hồi Cương xuống Bắc Kinh chẳng quản đường xa vạn dặm để tế mộ một vị cô nương. Tình thâm nghĩa trọng như thế thật là hiếm có. Ngày trước tại hạ cũng chịu ơn một lời nói của Mã cô nương mà không sao báo đền được, nên trong lòng rất áy náy. Bây giờ thấy y đang lúc lâm chung, chỉ còn canh cánh hai chuyện, nếu không làm được thì thật không sao nhắm mắt. Chuyện thứ nhất là y tưởng nhớ hai đứa con yêu, may mà hai vị tiền bối Thường thị song hiệp đã mang về lại được. Lại còn chuyện nữa là y mong muốn gặp lại tên gian tặc Phúc Khang An một lần cuối cùng. Tuy y đến chết vẫn chưa tỉnh ngộ, tình trạng đáng nực cười mà cũng rất đáng thương, mối chung tình…
Chàng nói tới đây vẻ mặt buồn thiu, không biết phải nói sao nữa.
Trần Gia Lạc nói:
– Bản nhân hiểu rồi! Có phải Hồ huynh đệ muốn bản nhân đóng giả làm tên gian tặc thương thiên bại lý, vong tình bội nghĩa Phúc Khang An đến an ủi Mã cô nương đa tình đa nghĩa kia chăng?
Hồ Phỉ khẽ đáp:
– Chính thế!
Quần hùng nghe Hồ Phỉ nói ra ý nghĩ hoang đường kỳ quái đó, ai nấy đều không khỏi cười thầm.
Trần Gia Lạc đưa mắt nhìn phía xa xa, mặt buồn rười rượi, nói:
– Vị công nương ở trong mộ này mà lúc lâm tử được gặp ta thì nàng sung sướng biết chừng nào? Đáng tiếc không được như sở nguyện…
Ông quay lại nhìn Hồ Phỉ nói:
– Được rồi! Bản nhân sẽ đến gặp Mã cô nương!
Hồ Phỉ trong lòng xiết bao cảm kích nghĩ thầm:
– Trần tổng đã chủ gầm mây thét gió, anh hùng hào kiệt trong thiên hạ đều kính phục suy tôn. Mình chỉ là kẻ vãn bối vô danh, hôm nay mới gặp nhau lần đầu, mà mình đi thỉnh cầu y làm điều hoang đường hư đản, vừa nói ra đã thấy hối hận, vậy mà y lại đáp ứng ngay. Sau này Trần tổng đà chủ có bảo ta nhảy vào dầu sôi lửa bóng, ta quyết chẳng từ nan.
Quần hùng lên ngựa, để Hồ Phỉ đi trước dẫn đường. Khi về đến Dược Vương miếu thì trời đã hửng sáng. Hồ Phỉ hai tay dắt hai đứa nhỏ, dẫn Trần Gia Lạc vào miếu. Trong căn phòng nhỏ âm u lạnh lẽo, cây đèn đã khô dầu, ngọn lửa còn bằng hạt đậu le lói mà chưa tắt hẳn. Mã Xuân Hoa nằm trên bệ đất, còn thoi thóp.
Hai đứa nhỏ nhảy lên sập đất, lớn tiếng gọi:
– Má má! Má má!
Mã Xuân Hoa giương mắt lên nhìn thấy con liền phấn khởi tinh thần. Không hiểu một luồng khí lực từ đâu đưa tới khiến nàng ôm choàng hai đứa nhỏ vào lòng, miệng nói:
– Hài tử! Hài tử! Má má nhớ hai con muốn chết!
Ba người ôm nhau hồi lâu, Mã Xuân Hoa đảo mắt nhìn thấy Hồ Phỉ, liền bảo chúng:
– Từ này các ngươi đi theo Hồ thúc thúc… nghe lời thúc thúc dạy bảo… Các ngươi hãy lạy thúc thúc làm nghĩa… nghĩa…
Hồ Phỉ hiểu tâm ý nàng, liền đáp:
– Được rồi! Tiểu đệ sẽ thu chúng làm nghĩa tử! Mã cô nương cứ yên lòng.
Mã Xuân Hoa lộ vẻ vui mừng, nói:
– Mau… mau dập đầu… lạy nghĩa phụ, má má… mới… yên dạ…
Hai đứa nhỏ liền quỳ lạy trước mặt Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ để bọn chúng lạy bốn lạy rồi bồng hai đứa nhỏ lên, khẽ nói:
– Mã cô nương! Cô nương còn trăn trối điều gì nữa không?
Mã Xuân Hoa thều thào đáp:
– Sau khi tiện thiếp chết rồi… xin Hồ huynh đệ… đem thi thể ta… táng bên phần mộ Từ sư ca… Y thật đáng thương… từ thủa nhỏ y rất thương yêu tiện thiếp… mà tiện thiếp lại không thương yêu y.
Hồ Phỉ sực nhớ lại tình cảnh ngày trước ở trong thạch thất cự địch, Thương Bảo Chấn đâm chết Từ Tranh ngoài rừng thì trong lòng lại cảm thấy chua xót, liền nói:
– Được rồi! Tại hạ nhất định làm theo lời cô nương.
Chàng không ngờ lúc lâm tử nàng lại nghĩ đến trượng phu, nên trong mối thương tâm còn có một chút vui mừng. Chàng thầm hận Phúc Khang An, nên nghe Mã Xuân Hoa nhắc đến chồng chứ không nhắc đến tình lang thì thấy không còn gì hay bằng.
Không ngờ Mã Xuân Hoa thở dài thườn thượt, rồi thều thào:
– Phúc công tử! Tiện thiếp muốn gặp công tử một lần nữa!
Trần Gia Lạc từ lúc vào phòng vẫn đứng bên cửa, Mã Xuân Hoa chưa nhìn thấy ông. Hồ Phỉ lắc đầu rồi bồng hai đứa nhỏ len lén ra khỏi phòng. Trần Gia Lạc từ từ bước đến trước giường. Hồ Phỉ lúc bước chân ra ngoài, còn nghe Mã Xuân Hoa “ủa” lên một tiếng. Tiếng gọi đó dạt dào hạnh phúc, đầy vẻ vui mừng, lại chan chứa mối tình luyến ái tha thiết vô ngần. Rốt cuộc trước giờ chết nàng cũng gặp lại được người tình ấp ủ trong tim.
Hồ Phỉ bâng khuâng đi ra cổng miếu, bỗng nghe tiếng địch buồn trỗi lên. Đó là Kim địch tú tài Dư Ngư Đồng đang thổi sáo dưới gốc cây.
Hồ Phỉ trong lòng chấn động. Ngày trước ở Thương gia bảo, chàng đã loáng thoáng nghe người khác thổi khúc nhạc êm đềm réo rắt này. Đây chính là khúc nhạc mà Phúc Khang An đã thổi năm xưa, làm khơi dậy tình hoài của Mã Xuân Hoa, rốt cuộc gây ra một trường oan nghiệt. Trong tiếng sáo của Kim địch tú tài dường như đang kể lể một câu chuyện tình diễm lệ mà trong đó vừa có sự ray rức quyến luyến cùng nỗi thương tâm, lại vừa có niềm bất hạnh.
Bên ngoài miếu, ai nấy đều ngẩn người ra mà nghe, lặng im không nói, tựa hồ như tưởng nhớ lại những chuyện ngọt ngào, cùng những cảnh thê lương trong đời mình. Hồ Phr nhớ đến vị cô nương áo tía cưỡi bạch mã, hận không được nằm lăn trên đất mà khóc một trận cho thỏa lòng. Đến cả kẻ hào khí ngất trời là Vô Trần đạo trưởng cũng phải nhớ đến một việc đã lâu lắm ở một nơi xa xôi. Đó là một vị tiểu thư nhà quan người xinh đẹp nhưng lòng dạ tàn độc đã lừa lão tự chặt một cánh tay.
Tiếng địch thê lương réo rắt một hồi.
Trần Gia Lạc ở trong cửa miều từ từ cất bước đi ra nhìn Hồ Phỉ gật đầu. Hồ Phỉ biết Mã Xuân Hoa đã qua đời. Trước khi lâm tử nàng được thấy con yêu, lại được gặp mặt “tình lang”. Nhưng chàng không hiểu nàng đã nói gì với Trần Gia Lạc. Nàng thống trách con người bạc hạnh vô tình, hay nàng kể lể mối tình say đắm trọn đời? Ngoài Trần Gia Lạc, trên đời chẳng một ai hay.
Hồ Phỉ ủy thác Thường thị song hiệp và Nghê thị huynh đệ đưa hai đứa con của Mã Xuân Hoa đến Hồi Cương trước, chàng lo tang sự cho Mã Xuân Hoa xong sẽ đến Hồi Cương tụ hội. Trần Gia Lạc thống lãnh quần hùng, vòng tay cáo biệt Hồ Phỉ cùng Trình Lình Tố rồi lên ngựa đi về phía tây.
Thủy chung Hồ Phỉ không nhắc tới Viên Tính với bọn họ. Lạ hơn nữa là cả Triệu Bán Sơn, Lạc Băng cũng đều không nói đến nàng. Chàng không hiểu có phải Viên Tính đã gặp bọn họ và yêu cầu vĩnh viễn không nhắc tới tên nàng với chàng hay chăng?
Sau một lúc thẫn thờ, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đến con suối cách ngôi miếu cổ độ vài chục trượng để rửa mặt mũi chân tay. Trình Linh Tố lấy từ cái túi đeo sau lưng ra mấy cái bánh nướng. Hai người vừa ăn vừa nhìn dòng suối trong xanh. Hồ Phỉ vừa trải mấy phen kịch đấu, trong lòng buồn vui lẫn lộn. Đến lúc này chàng cảm thấy chân tay rã rời, tinh thần mỏi mệt, liền nằm dài bên suối mà ngủ một giấc cho sảng khoái rồi mới quay lại Dược Vương miếu.
Hai người bước vào tăng xá, khẽ đẩy cửa phòng, thấy Mã Xuân Hoa nằm chết trên giường, khóe miệng vẫn mỉm cười, vẻ mặt vô cùng mãn nguyện
Hồ Phỉ sa lệ, nói:
– Nhị muội! Y yêu cầu ta đem thi thể an táng bên cạnh phần mộ trượng phu, nhưng hiện giờ chúng ta đang bị truy nã gắt gao, làm sao đem quan tài đi được? Chi bằng dùng lửa thiêu hóa rồi đem tro cốt y đi an táng.
Trình Linh Tố khen phải.
Hồ Phỉ cúi xuống toan ôm thi thể Mã Xuân Hoa lên.
Trình Linh Tố đột nhiên giữ lấy tay chàng, quát:
– Hãy khoan!
Hồ Phỉ nghe thanh âm có vẻ nghiêm trọng và cấp bách vội rụt tay hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Trình Linh Tố chưa kịp trả lời, Hồ Phỉ đã nghe tiếng thở rất khẽ từ phía sau. Chàng quay đầu nhìn lại thì thấy phía sau cánh cửa tăng xá có hai người đang nấp. Đó là đại sư huynh của Trình Linh Tố là Mộ Dung Cảnh Nhạc và tam sư tỷ của cô là Tiết Thước. Giữa lúc ấy, Trình Linh Tố đưa tay lên, ném Xích yết phấn vào dưới gầm giường Mã Xuân Hoa.
Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:
– Chắc địch nhân dưới gầm giường lợi hại lắm.
Lại thấy Tiết Thước giơ tay đẩy cửa phòng toan vọt ra. Hồ Phỉ hành động chớp nhoáng, tay trái vòng ôm ngang lưng Trình Linh Tố nhảy vọt ra ngoài. Lúc phi thân qua cửa, chàng co chân đá vào cánh cửa đánh “rầm” một tiếng, kẹp chặt Mộ Dung Cảnh Nhạc và Tiết Thước vào giữa cánh cửa và bức tường. Mộ Dung Cảnh Nhạc ráng chịu đau, nhưng Tiết Thước vì lưng còng mà bị đè ép vào tường đau không chịu nổi cất tiếng la oai oái.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố vừa đứng ngoài cửa đã thấy dưới gầm giường có khói đỏ mờ. Làn “Xích Yết phấn” bị người dùng chưởng lực quạt bay lên. Tiếp theo là bóng người chuyển động, một kẻ từ gầm giường chui ra. Mấy tiếng leng keng vang lên, trong tay người ấy cầm chiếc hổ sanh chém xuống Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ nhìn rõ diện mạo liền nhận ra là Thạch Vạn Sân, mạo xưng Độc Thủ Dược Vương.
Trình Linh Tố la lên:
– Đừng đụng vào binh khí và người hắn.
Hồ Phỉ đối với hai gã sư huynh sư tỷ của Trình Lình Tố vốn đã cực kỳ cảnh giác, nên biết ngay khắp mình người kia chỗ nào cũng có chất độc, chỉ để dính vào mình một chút là hậu hoạn vô cùng.
Chàng liền bước qua mé tả ba bước để tránh đòn. “Soạt” một tiếng, chàng rút đơn đao ra chiêu “Giãn quả hồi cam” quay lại phản kích. Chiêu đao chém tới cực kỳ mau lẹ. Thạch Vạn Sân không tránh kịp đành vung hổ sanh lên đỡ đánh choang một tiếng. Cả hai đều dang ra. Những hạt sắt trong hổ sanh bị chấn động rung lên liên hồi.
Lúc này Mộ Dung Cảnh Nhạc và Tiết Thước đã chạy đến phía sau Thạch Vạn Sân.
Thạch Vạn Sân vừa tiếp một chiêu, thấy đao pháp của Hồ Phỉ đã tinh diệu mà tý lực lại cực kỳ mãnh liệt làm cho cánh tay lão tê chồn, lão không tiến đánh nữa.
Hồ Phỉ cũng lấy làm lạ, thầm nghĩ:
– Lão này chuyên dùng độc mà võ công cũng ghê gớm thật! Chiêu “Giãn quả hồi cam” ta phản đòn bất ngờ, vậy mà hắn vẫn đỡ được.
Bỗng nghe Mộ Dung Cảnh Nhạc lên tiếng;
– Trình sư muội! Đã thấy sư thúc, sao không dập đầu bái kiến?
Trình Linh Tố hỏi:
– Vị sư thúc này ở đâu chui ra? Trước nay tiểu muội chưa từng nghe ai nói đến?
Thạch Vạn Sân lạnh lùng hỏi lại:
– Ngươi đã nghe danh “Độc thủ thần kiêu” bao giờ chưa? Chẳng lẽ sư phụ ngươi trước nay không dám nhắc đến tên ta?
Trình Linh Tố đáp:
– “Độc thủ thần kiêu” ư? Danh tự này dường như vãn bối đã từng được nghe rồi. Tiên sư cũng nói trước kia người quả có một vị sư đệ, nhưng y lạm dụng độc dược hại người, gây nên rất nhiều tội ác, nên bị sư tổ đuổi ra khỏi môn tường. Thạch tiền bối! Té ra là tiền bối đấy ư?
Thạch Vạn Sân mỉm cười, lạnh lùng hỏi:
– Bọn ta đều nghiên cứu việc dùng độc dược. Đã mang chữ “độc” rồi, sao còn giả vờ làm hảo nhân nữa? Thạch mỗ chẳng thà làm chân tiểu nhân, chứ chẳng thèm bất chước sư phụ ngươi làm ngụy quân tử.
Trình Linh Tố tức giận hỏi:
– Gia sư đã giết người vô tội bao giờ chưa?
Thạch Vạn Sân đáp:
– Chẳng lẽ sư phụ ngươi giết người còn ít lắm ư? Lão nói những người bị lão hạ độc chết đều phạm tội đại ác, chết là đáng kiếp, nhưng người ngoài đều bảo vị tất đã đúng. Nhất là những nhà có người bị hại lại càng không phục.
Hồ Phỉ trong lòng run lên, nghĩ thầm:
– Lời nói của lão này xem ra cũng có đôi phần hợp đạo lý.
Trình Linh Tố nói:
– Phải rồi! Gia sư cũng hối hận là đã hại người quá nhiều, nên về sau lão nhân gia xuất gia làm hòa thượng, lễ Phật sám hối. Lão nhân gia thường răn dạy bọn sư huynh sư muội vãn bối trừ phi gặp trường hợp bất đắc dĩ thì quyết không được hại người. Suốt đời vãn bối chưa từng hại tính mạng một ai.
Thạch Vạn Sân cười lạt đáp:
– Giả nhân giả nghĩa thì được ích gì? Ta coi ngươi thông minh lanh lợi, đúng là một nhân tài kiệt xuất trong sư môn. Mấy chiêu của ngươi trong cuộc đại hội chưởng môn thật hay quá! Cả sư thúc ngươi suýt nữa cũng chết oan.
Trình Linh Tố hỏi:
– Tiền bối đã tự xưng là sư thúc của vãn bối, lại mạo danh gia sư Độc Thủ Dược Vương. Nếu Độc Thủ Dược Vương chân chính còn sống trên đời, thì khi thò tay ra lấy Ngọc Long bôi làm gì lại không nhìn ra trên chén có dính “Xích Yết phấn”? Vãn bối phun khói “Tam ngô ngũ mô yên” trong nhà đại sảnh, làm sao gia sư cũng không biết được?
Cô hỏi hai câu này làm Thạch Vạn Sân đỏ mặt không biết nói sao. Nên biết Thạch Vạn Sân hồi còn nhỏ cùng Vô Sân đại sư học nghệ với nhau. Vì hắn lạm dụng độc dược làm hại người lành nên bị sư phụ đuổi khỏi môn tường. Trong mấy chục năm sau hắn đã tranh đấu với Vô Sân mấy lần. Cả hai người đều là đại hành gia về sử độc, nên việc sử dụng độc dược và độc vật cực kỳ ghê gớm, chỉ cần hình dung cũng đủ rõ.
Nhưng mấy lần tỷ đấu Thạch Vạn Sân vẫn luôn lâm vào thế hạ phong. Nếu Vô Sân đại sư không vì nghĩ đến tình đồng môn mà hạ thủ nương tình, thì đã kết liễu tính mạng lão từ lâu rồi. Lần tỷ đấu sau cùng. Thạch Vạn Sân bị “Đoạn trường thảo” làm cho mù mắt. Lão trốn qua núi Dã Nhân ở Miến Điện, dùng tơ nhện bạc giải trừ độc tính của “Đoạn trường thảo”, hai mắt mới sáng trở lại, nhưng nhãn lực bị kém trước rất nhiều. Vì thế mà Ngọc Long bôi dính Xích Yết phấn và Trình Linh Tổ hút thuốc nhả hơi có chất độc, lão cũng không phân biệt được.
Huống chi, Trình Linh Tố đã trồng thành công “Thất tâm hải đường” là ông vua của các chất độc. Xích Yết phấn trộn với bột lá “Thất tâm hải đường”, còn “Tam ngô ngũ mô yên” trộn với nhụy hoa “Thất tâm hải đường” khiến cho mùi vị khác lạ của các độc dược đều mất hết, mà độc tính càng tăng thêm phần lợi hại.
Thạch Vạn Sân ở núi Dã Nhân mười năm mới chữa khỏi đôi mắt trở về Trung nguyên, được tin Vô Sân đại sư đã chết, tin chắc mình đã có thể xưng hùng thiên hạ. Dè đâu sư huynh lão lại có một đệ tử còn nhỏ tuổi mà công phu lại vô cùng lợi hại như Trình Linh Tố.
Trình Linh Tố lúc ấy hóa trang làm mụ già lọm khọm, khiến một cao thủ chuyên dùng độc như Thạch Vạn Sân có nằm mơ cũng không ngờ được rằng mụ già lọm khom đó có thể thở khói thuốc làm cho lão phải ngã lăn ra.
Trình Linh Tố đưa ra hai câu hỏi khiến Thạch Vạn Sân phải cứng miệng, không biết trả lời ra sao.
Mộ Dung Cảnh Nhạc liền lên tiếng:
– Sư muội! Ngươi đắc tội với sư thúc mà không dập đầu tạ tội thì quả là ngông cuồng lớn mật. Lão nhân gia mà nổi giận là ngươi lập tức chết không có đất chôn thây. Ta cùng Tiết sư muội đã quy đầu làm môn hạ lão nhân gia rồi. Ngươi hãy ngoan ngoãn dâng cuốn “Dược Vương thần biên” ra, không chừng lão nhân gia sẽ hoan hỷ thu ngươi làm đệ tử, há chẳng hay hơn ư?
Trình Linh Tố trong lòng tức giận, nghĩ thầm:
– Sư huynh sư tỷ phản sư môn, quy đầu dưới trướng một tên khí đồ trong bản phái là phạm vào trọng tội khi sư diệt tổ trong võ lâm. Bất luận môn phái nào cũng đều xử tử không tha.
Những cô vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên, đáp:
– Té ra hai vị đã quy đầu làm môn hạ Thạch tiền bối! Vậy thì tiểu muội không thể xưng hô các vị là sư huynh, sư tỷ được nữa. Còn Khương sư ca đâu? Y có quy đầu dưới trướng Thạch tiền bối không?
Mộ Dung Cảnh Nhạc nói:
– Khương sư đệ không hiểu thời cuộc, chẳng nghe lời giáo huấn, đã bị gia sư xử tử rồi.
Trình Linh Tố trong lòng chua xót, vì Khương Thiết Sơn tuy tính tình ngang ngạnh, hành sự ngỗ ngược, nhưng là người thẳng thắn nhất trong ba vị sư huynh sư tỷ của cô. Không ngờ y lại chết về tay Thạch Vạn Sân.
Cô lại hỏi:
– Tiết tam tỷ! Con trai của tam tỷ là Tiểu Thiết hiện đang ở đâu? Y vẫn mạnh giỏi chứ?
Tiết Thước lạnh lùng đáp:
– Y chết rồi!
Trình Linh Tố hỏi:
– Y chết về bệnh gì?
Tiết Thước nói:
– Y là con ta, ngươi hỏi làm chi?
Trình Linh Tố nói:
– Phải rồi! Tiểu muội không nên can thiệp vào việc của kẻ khác, lại chưa kịp chúc mừng hai vị. Mộ Dung đại ca cùng Tiết tam tỷ thành thân đã bao lâu rồi? Chúng ta là chỗ đồng môn, vậy mà hai vị cũng không mời được tiểu muội một chung rượu mừng.
Giữa ba người Mộ Dung Cảnh Nhạc, Khương Thiết Sơn, Tiết Thước dây dưa ân oán cực kỳ thê thảm. Ban đầu Tiết Thước luyến ái Mộ Dung Cảnh Nhạc. Mộ Dung Cảnh Nhạc lại đi lấy người khác, Tiết Thước tức giận liền dùng thuốc độc giết vợ hắn. Mộ Dung Cảnh Nhạc bèn dùng thuốc độc phá hủy dung mạo Tiết Thước, lại khiến mụ gù lưng để trả thù cho vợ. Khương Thiết Sơn từ lâu đã thương yêu người sư muội này, nên dù mụ biến thành xấu xí, hắn vẫn không rẻ rúng mà lấy làm vợ. Ngờ đâu sau khi hai người thành thân sinh con rồi, Mộ Dung Cảnh Nhạc lại nghĩ tới những chỗ tử tế của sư muội, đem lòng luyến ái. Rốt cuộc hắn cùng Khương Thiết Sơn trở mặt thành thù. Hai vợ chồng Khương, Tiết phải làm một tòa thiết thất để ngăn cản không cho vị đại sư huynh xâm phạm. Không ngờ kết cục Khương Thiết Sơn bị Thạch Vạn Sân giết chết. Mộ Dung Cảnh Nhạc cùng Tiết Thước kết thành vợ chồng.
Trình Lình Tố biết trong vụ này có nhiều uẩn khúc, cô tự nhủ:
– Nhị sư ca mà chết về tay Thạch Vạn Sân chắc chỉ vì y không chịu bội phản sư môn, cúi đầu làm môn hạ của lão. Nhưng đầu đuôi chắc đều do đại sư ca xúi giục. Tam sư tỷ chịu cải giá lấy đại sư ca, không chừng cũng dự phần vào tội mưu sát thân phu.
Cô liền thở dài nói:
– Ngày Tiểu Thiết trúng độc, tiểu muội đã tìm cách cứu chữa, tưởng không uổng phí một phen tâm huyết không ngờ y lại chết vì “Đào hoa chướng”. Âu đó cũng là số mệnh.
Mộ Dung Cảnh Nhạc biến sắc hỏi:
– Làm sao ngươi biết…
Hắn mới nói bốn chữ “làm sao ngươi biết” thì đột nhiên ngừng lại, liếc mắt nhìn Tiết Thước.
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội chỉ đoán mò vậy thôi!
Nguyên Mộ Dung Cảnh Nhạc có công phu hạ độc độc môn. Hắn đến chỗ giáp giới hai tỉnh Vân, Quý thu lấy chướng độc của “Đào hoa chướng” để chế thành một thứ độc đạn. Khương Thiết Sơn và Tiết Thước cùng hắn giao thủ nhiều năm, về sau cũng nghĩ ra được cách giải độc.
Trình Linh Tố chỉ nói một câu thăm dò, không ngờ Mộ Dung Cảnh Nhạc một là vì vụ này có thật, hai là do quá đột ngột nên hắn vô tình buột miệng thừa nhận.
Cô càng thêm tức giận, lại hỏi:
– Tam sư tỷ! Sao sư tỷ tàn độc đến thế? Nhi sư ca đối đãi với sư tỷ hết lòng mà sao sư tỷ lại nỡ cùng đại sư ca mưu sát thân phu cùng con ruột?
Nên biết Khương Tiểu Thiết trúng phải độc đạn “Đào hoa chướng” của Mộ Dung Cảnh Nhạc. Tiết Thước có thuốc giải mà mụ nhẫn tâm bỏ mặc không cứu, dù cái chết của cha con Khương Thiết Sơn không phải do mụ chính tay hạ thủ thì cũng là kẻ đồng mưu. Trình Linh Tố chỉ từ một câu nói bỏ lửng của Mộ Dung Cảnh Nhạc mà đoán ra được nội tình của một trướng biến cố nhân luân thảm khốc.
Tiết Thước vội vàng lảng sang chuyện khác, hỏi:
– Tiểu muội! Sư phụ ta đã có lòng chiếu cố, đó thật là vận may cho ngươi. Sao ngươi còn chưa dập đầu làm lễ bái sư đi?
Trình Linh Tố hỏi lại:
– Nếu tiểu muội không bái sư thì sẽ cùng chung số phận với nhị sư ca, có phải không?
Mộ Dung Cảnh Nhạc đáp:
– Cũng không hẳn thế! Ngươi được phúc mà không biết hưởng thì người khác việc gì phải cưỡng ép ngươi? Có điều cuốn “Dược Vương thần biên” thì ngươi nên đưa ra. Gia sư vốn có lòng quảng đại sẽ không truy cứu chuyện ngươi xúc phạm đến lão nhân gia trong đại hội chưởng môn vừa rồi.
Trình Linh Tố gật đầu nói:
– Đại sư ca nói đúng. Nhưng cuốn “Dược Vương thần biên” là do chính tay gia sư Vô Sân đại sư soạn ra. Sư huynh sư muội ba người chúng ta đã cải đầu vào làm môn hạ của Thạch tiền bối thì nên phế bỏ sạch bao nhiêu công phu của tiên sư truyền thụ để học lại từ đầu. Thạch tiền bối và tiên sư môn hộ chẳng đồng. Tài nghệ của Thạch tiền bối chưa hẳn đã giỏi hơn tiên sư, nhưng nhất định có sở trường, nếu không thì tội gì hai vị phải bái làm minh sư, lại còn bảo tiểu muội nào là “có phúc mà không biết hưởng”, nào là “đây là vận may của tiểu muội”. Cuốn “Dược Vương thần biên” đã thành vô dụng, để tiểu muội đốt quách đi.
Cô nói rồi lấy cuốn sách viết tay trên giấy vàng trong áo ra, đánh hỏa tập lên châm vào đốt.
Thạch Vạn Sân ban đầu nghe cô nói đốt cuốn “Dược Vương thần biên” đã cười thầm nghĩ bụng:
– Tên giặc Vô Sân đã hao tổn tâm huyết một đời viết ra cuốn “Dược Vương thần biên” mà mi đốt bỏ được ư?
Khi lão thấy cô cầm cuốn sách và hỏa tập liền tự nhủ:
– Con nha đầu này thật là giảo quyệt! Thị đã biết sư huynh sư tỷ muốn đoạt pho “Dược Vương thần biên” thì khi nào lại không giả tạo một cuốn khác để bịp người. Nhưng thị hý lộng trước mặt ta thì có khác gì đánh trống qua cửa nhà sấm.
Vì thế lão thấy Trình Linh Tố bật lửa đốt cuốn sách cũng chỉ mỉm cưới chứ chẳng đoái hoài gì đến.
Đến khi cuốn sách bị khí nóng làm mở tung ra, rõ ràng chất giấy cũ mèm, lão nhìn tự tích đúng là thủ bút của Vô Sân đại sư thì không khỏi giật mình kinh hãi, la thầm:
– Ôi chà! Không xong rồi! Con nha đầu này chắc đã học thuộc lòng cả cuốn sách rồi, nên đối với y, nó đã trở thành vô dụng. Ngàn vạn lần cũng không thể để y đốt cháy được.
Lão vội la lên:
– Dừng tay!
Đồng thời vung chưởng ra nhanh như gió, đánh mồi lửa tắt liền.
Trình Linh Tố lấy làm lạ, hỏi:
– Ô hay! Vụ này vãn bối không sao hiểu được. Nếu y thuật của Thạch tiền bối đã cao thâm hơn tiên sư thì còn cần gì đến cuốn sách này? Còn nếu như tiền bối chưa bằng tiên sư thì thu vãn bối làm đệ tử thế nào được?
Mộ Dung Cảnh Nhạc nói:
– Nghề dùng độc của sư phụ ta so với tiên sư còn cao minh hơn nhiều lắm. Nhưng biển cả không chê dòng nhỏ, trong đá ở núi khác vẫn có thể tìm ra được ngọc. Cuốn “Dược Vương thần biên” này đã là tâm huyết mốt đời của tiên sư, thì gia sư mở coi có thể chỉ ra được những chỗ sai lầm hay chưa đầy đủ.
Hắn là tú tài xuất thân nên dù là những lời cưỡng từ đoạt lý mà nói nghe cũng rất văn vẻ.
Trình Linh Tố gật đầu nói:
– Học vấn của đại sư ca ngày càng tiến triển. Hai người nấp ở khe cửa. Một người chui dưới gầm giường định ám toán Hồ đại ca cùng tiểu muội. Thạch tiền bối! Vãn bối có một điều muốn thỉnh giáo. Nếu tiền bối chỉ rõ bến mê thì vãn bối xin hai tay dâng cuốn “Dược Vương Thần biên” này và cầu mong tiền bối khai ân thu nạp vãn bối làm đồ đệ.
Thạch Vạn Sân biết vấn đề cô đưa ra sẽ rất cổ quái điêu ngoa, vị tất lão có thể giải đáp được. Nhưng cuốn “Dược Vương thân biên” đang nằm trong tay Trình Linh Tố. Cô chỉ cất tay một cái là hủy nó được ngay, nên lão phải kiêng dè đôi chút. Lão liền hỏi lại:
– Ngươi muốn hỏi ta điều chi?
Trình Linh Tố đáp:
– Người rợ Miêu ở Quỳ Châu có thứ “Bích tàm độc cổ”…
Thạch Vạn Sân vừa nghe nói đến bốn chữ “Bích tàm độc cổ” liền biến đổi sắc mặt.
Lại nghe cô nói tiếp:
– Lấy trứng thứ côn trùng này nghiền ra làm phấn bột rắc lên áo quần cũng như đồ dùng, người ngoài không biết lỡ chạm vào là trúng độc. Cái này là một trong các đại cổ độc của người Miêu, có đúng thế không?
Thạch Vạn Sân gật đầu, đáp:
– Đúng vậy! Con tiểu nha đầu ngươi biết nhiều chuyện lắm!
Lão từ núi Dã Nhân về lại Trung nguyên, được tin Vô Sân đại sư chết rồi liền trút hận lên đầu bọn đệ tử, những muốn giết hết cho hả dạ. Dè đâu Mộ Dung Cảnh Nhạc là con người chẳng có khí phách chút nào, vừa bị Thạch Vạn Sân kiềm chế đã van xin tha mạng. Hắn còn nói sư phụ có để lại pho “Dược Vương thần biên”, hiện lọt vào tay tiểu sư muội. Hắn nguyện bái lão làm thầy và dẫn đường cho lão đi đoạt lại pho sách kia.
Thạch Vạn Sân tuy căm hận Vô Sân đại sư thấu xương, nhưng trong lòng lại rất kính húy đại sư ca. Lão nghe nói Vô Sân đại sư để lại sách thì nghĩ rằng những sở học về công phu sử độc ghi chép trong đó ắt có vô số pháp môn cực kỳ trân quý, nên thu Mộ Dung Cảnh Nhạc làm đồ đệ. Lão lại nghe hắn xúi giục giết chết cha con Khương Thiết Sơn và thu nạp Tiết Thước.
Thạch Vạn Sân đã động thủ với cả ba người và nhận thấy võ công của họ kém sư phụ một trời một vực, nên khi nghe nói Trình Linh Tố bất quá là cô gái mười tám mười chín tuổi, thì lão chẳng quan tâm chút nào, chắc mẩm hễ gặp cô là thò tay ra bắt được ngay.
Khi ở trong đại hội, lão mắc bẫy cô nhưng chưa chịu phục mà chỉ trách mình vì cặp mắt bị “Đoạn trường thảo” làm cho tổn thương nên không nhìn ra “Xích Yết phấn” và “Tam ngô ngũ mô yên”. Có điều Hồ Phỉ phô trương thân thủ trong đại hội khiến lão phải sinh lòng úy kỵ.
Lão ngấm ngầm theo sau, chờ khi Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố đến Đào Nhiên đình phó ước, thầy trò ba người liền lén vào hậu viện miếu Thần Nông, chủ tâm đoạt cuốn “Dược Vương thần biên”. Lão thấy quần hùng Hồng Hoa hội người đông thế mạnh phải ẩn nấp trong hậu viện không dám ló ra. Mãi đến lúc Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố ra ngoài miếu để tiễn chân quần hùng, rồi xuống suối ăn uống nghỉ ngơi, ba người mới lén vào phòng Mã Xuân Hoa để chờ hai người trở vè. Chúng chuẩn bị đánh một đòn là thành công, không ngờ Trình Linh Tố rất tinh quái, cảnh giác kịp thời trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc.
Lão nghe Trình Linh Tố nhắc tới “Bích tàm độc cổ” bất giác giật mình kinh hãi, nghĩ thầm:
– Không ngờ con tiểu nha đầu này lại ghê gớm đến thế. Sư huynh sư tỷ đồng môn của y còn kém quá xa.
Lão bèn để hết tâm thần đề phòng, chẳng dám khinh địch chút nào.
Trình Linh Tố lại nói:
– Phấn bột “Bích tàm độc cổ” khi chưa rắc vào quần áo hay đồ dùng thì không có màu sắc cũng chẳng có mùi vị, nên người ngoài khó lòng phát hiện. Có điều chất độc không thấm vào huyết nhục thì độc tính không mạnh lắm, có thể giải trừ được, chỉ khi nào thấm vào máu mới bỏ mạng. Có điều sự đời khó lòng hoàn hảo, độc phấn đó khi rắc vào thân người thì ẩn hiện sắc xanh biếc. Thạch tiền bối bỏ chất độc vào thi thể Mã cô nương, nếu chỉ rắc vào quần áo thì khó lòng nhìn ra được. Thạch tiền bối lại muốn được tận thiện tận mỹ nên đã cẩn thận rắc cả chất độc lên tay, lên mặt cô nữa.
Hồ Phỉ nghe tới đây mới hiểu rõ là thầy lang lần này dụng tâm vô cùng âm độc. Lão rắc chất kịch độc vào người Mã Xuân Hoa để khi chàng cùng Trình Linh Tố khiêng thi thể nàng tất phải trúng độc. Chàng không nhịn được cất tiếng thóa mạ:
– Tên ác tặc kia! Ngươi định hại người, e rằng lại tự hại mình!
– Con tiểu nha đầu này nhãn lực khá lắm mới nhận ra chất “Bích tàm độc cổ” của ta. Trong bọn người Hán, ngoài ta ra chẳng có nhân vật thứ hai nào biết sử dụng chất độc này. Hay lắm, quả là có nhãn lực, có bản lĩnh. Sư huynh, sư tỷ làm gì bì được kịp ngươi?
Trình Linh Tố đáp:
– Tiền bối quá khen mà thôi. Vãn bối bì với sư huynh sư tỷ thế nào được? Có điều vãn bối chưa hiểu là trong cuốn “Dược Vương thần biên” của tiên sư đã nói đến việc rắc chất độc “Bích tàm độc cổ” lên người không muốn lộ màu xanh biếc cũng không khó lắm, mà sao Thạch tiền bối lại không dùng cách đó.
Thạch Vạn Sân giương cặp lông mày lên hỏi lại:
– Ngươi lại nói nhăng nói càn rồi. Người rợ Miêu là tổ sư dùng cổ độc cũng không biết cách này. Sư phụ ngươi chưa từng đến Miêu Cương bao giờ thì biết cái gì?
Trình Linh Tố đáp:
– Tiền bối nói vậy vãn bối chẳng thể không tin. Nhưng trong cuốn di thư của tiên sư có dạy cách này. Chẳng hiểu tiền bối nói đúng hay tiên sư nói đúng?
Thạch Vạn Sân hỏi:
– Cách đó thế nào? Ngươi nói thử nghe!
Trình Linh Tố đáp:
– Văn bối nói ra nhất định tiền bối không tin. Trúng hay trật phải thử coi mới biết.
Thạch Vạn Sân hỏi:
– Thử bằng cách nào?
Trình Linh Tố đáp:
– Tiên bối lấy “Bích tàm độc cổ” rắc vào tay người rồi, vãn bối dùng thuốc của tiên sư phủ lên xem có màu sắc gì không?
Thạch Vạn Sân suốt đời nghiên cứu độc dược, nghe cô nói có diệu pháp, trong lòng bán tín bán nghi, rất muốn thử xem chân giả, liền hỏi:
– Rắc thuốc vào tay ai để thử?
Trình Linh Tố đáp:
– Cái đó do tiền bối chỉ định.
Thạch Vạn Sân nghĩ thầm:
– Nếu mình đề nghị rắc thuốc vào tay thị thì chắc là thị không chịu. Còn rắc lên tay gã thiếu niên hùng hổ kia thì bất tất phải nói đến!
– Vụ này, vụ này… sư phụ đừng mắc bẫy con tiểu nha đầu.
Thạch Vạn Sân sa sầm nét mặt lại giục:
– Đưa tay trái ra đây!
Mộ Dung Cảnh Nhạc thấy sư phụ sắc mặt nghiêm trọng, vốn không dám kháng cự, nhưng nghĩ tới “Bích tàm độc cổ” cực kỳ lợi hại, một khi nó bám vào người rồi thì dù sư phụ có cho thuốc giải chữa được khỏi chết nhưng cũng phải một phen đau đớn khôn cùng.
Hắn giơ tay trái ra hơn thước, nhưng lại run bần bật vội rụt trở về.
Thạch Vạn Sân cười lạt nói:
– Giỏi lắm! Ngươi không chịu tuân theo sư mạng, đó là tự ngươi.
Mộ Dung Cảnh Nhạc nghe nói sáu chữ “không chịu tuân theo sư mạng” thì sắc mặt tái xanh, vì khi bái sư ai cũng lập lời trọng thệ hễ vi bội sư mạng là cam chịu trừng trị. Bọn chúng là loại người ngày nào cũng cận kề với độc vật, hai chữ “trừng trị” nghe rất hời hợt, thực ra lại bao hàm những điều cực kỳ tàn khốc, khiến người ta nghĩ đến đều sởn gáy.
Hắn lại toan đưa tay ra thì Tiết Thước bỗng nói:
– Sư phụ! Xin thử vào tay đệ tử.
Rồi mụ thản nhiên đưa tay trái ra.
Thạch Vạn Sân nói:
– Không cần đến ngươi. Hắn là nam tử hán đại trượng phu mà chẳng ra cái giống gì!
Mộ Dung Cảnh Nhạc đáp:
– Chẳng phải là đệ tử sợ chất độc, nhưng nghĩ tới tên tiểu sư muội kia ngụy kế đa đoan nên không muốn mắc bẫy thị.
Trình Linh Tố gật đầu:
– Đại sư ca quả nhiên lợi hại phi thường. Ngày trước đối với tiên sư, đại ca đã bao phen chọc tức lão nhân gia. Ngày nay đại sư ca cải bái tân sư phụ vẫn tỏ ra trò cứng rắn hơn thầy.
Thạch Vạn Sân biết rõ cô nói vậy cốt để ly gián hai người, nhưng cũng lườm Mộ Dung Cảnh Nhạc một cái. Mộ Dung Cảnh Nhạc nhìn khóe mắt lão mà sởn gai ốc, không tự chủ được, đành chịu đưa tay trái ra.
Thạch Vạn Sân móc trong túi lấy một cái hộp nhỏ sắc vàng. Lão nhẹ nhàng mở nắp hộp, trong hộp đựng ba con tằm nhỏ suốt mình toàn một màu xanh biếc, đang ngọ ngoạy. Lão dùng chiếc thìa nhỏ khều một chút phấn xanh lục rắc vào lòng bàn tay Mộ Dung Cảnh Nhạc.
Mộ Dung Cảnh Nhạc cánh tay run bản bật. Hắn vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, da mặt co rúm lại, mắt lộ hung quang như dã thú đang muốn cắn người.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Nhị muội đi nước cờ này chưa biết ra sao, nhưng cũng gieo cho thầy trò hắn một mối thâm cừu đại hận. Sau này Mộ Dung Cảnh Nhạc mà gặp cơ hội nhất định là trả thù sư phụ để rửa mối hận hôm nay.
Chút phấn xanh lục đặt trên lòng bàn tay Mộ Dung Cảnh Nhạc chỉ trong nháy mắt đã thấm vào da thịt không thấy gì nữa, nhưng lòng bàn tay ẩn hiện màu xanh tựa hồ vừa bóp nát lá cây.
Thạch Vạn Sân nói:
– Tiểu nhi! Ngươi dùng cách gì để lòng bàn tay hắn biến mất màu xanh biếc.
Trình Linh Tố chẳng lý gì đến lão. Cô quay lại nhìn Hồ Phỉ hỏi:
– Đại ca! Ngày trước ở Bạch Mã Tự bên hồ Động Đình, tiểu muội lúc vừa gặp đại ca đã có ước pháp tam chương. Đại ca còn nhớ không?
Hồ Phỉ đáp:
– Còn nhớ!
Chàng nghĩ bụng:
– Ngày đó y bảo ta không được nói, không được cùng người động võ, không được rời xa y ba bước, nhưng cả ba điều ta chẳng theo được điều nào.
Trình Linh Tố nói:
– Đại ca còn nhớ là hay lắm. Bữa nay vẫn làm theo ba điều đó, nhất thiết không được quên.
Hồ Phỉ gật đầu.
Trình Linh Tố liền nói:
– Thạch tiền bối! Bên mình tiền bối chắc có “Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đảm”. Hai dược vật này hòa với “Bích tàm độc cổ” vừa tương khắc lại vừa tương hỗ. Tiền bối không tin thì cứ coi trong di trước của tiên sư.
Cô nói rồi cầm cuốn sách nhỏ giấy vàng đưa ra trước mắt Thạch Vạn Sân.
“Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đàm” hòa với “Bích tàm độc cổ” biến thành không màu sắc, không mùi vị, nhưng hiệu nghiệm chậm hơn.
Lão muốn coi xuống dưới nhưng Trình Linh Tố đã gấp sách lại rồi.
Thạch Vạn Sân bụng bảo dạ:
– Lão trọc Vô Sân quả là học rộng. Ta hãy thử xem chân giả. Nếu đúng như lời thì cuốn “Dược Vương thần biên” này không phải là ngụy tạo.
Lão đã nghiên cứu độc dược gần hai chục năm, quên ăn bỏ ngủ đến độ gần như cuồng điên, để mong thắng được sư huynh. Bây giờ lão thấy cuốn sách giấy vàng cũ mèm này, tưởng chừng như trong đó chứa một kho tàng vô cùng trân quý có một không hai trong thiên hạ. Bản tính lão tàn nhẫn khắc bạc. Lão và Mộ Dung Cảnh Nhạc lợi dụng lẫn nhau chứ chẳng có tình thầy trò gì cả.
Lão còn nghĩ đã rắc chất độc vào tay hắn thì ngày sau nếu gặp cơ hội tất hắn trả đũa. Lão nghĩ thế nên chẳng kể gì đến việc dùng một lần ba thứ kịch độc, cũng không cần nghĩ tới cách hóa giải về sau.
Lão liền búng nhẹ móng tay trỏ tạo thành lớp bụi mỏng màu hồng rớt xuống lòng bàn tay Mộ Dung Cảnh Nhạc. Tiếp theo lão lại búng nhẹ móng tay giữa tạo thành lớp bụi mỏng màu xanh rớt xuống lòng bàn tay hắn.
Trình Linh Tố thấy lão không móc bình thuốc trong bọc ra, mà chỉ thuận tay bắn độc dược, thủ cước còn linh hoạt hơn cả tiên sư lẫn bản thân mình thì trong lòng không khỏi ngấm ngầm bội phục.
Cô ngưng thần nhìn lão, chợt động tâm vì đã thấy rõ chỗ huyền diệu bên trong.
Nguyên đai lưng lão đã khâu thành bảy tám chục ngăn, ngăn nào cũng đựng thuốc bột. Lão chỉ thò tay vào là khều được thuốc bột cần dùng vào móng tay. Thủ pháp của lão đã luyện rất thành thục, chỉ cần đưa cánh tay là móng tay đã móc được thuốc ra rồi, công phu đạt đến độ quỷ không hay, thần không biết. Lão chỉ cất tay một cái là đã bắn được độc phấn để đối phương không biết đường nào đề phòng hay tránh né.
Phấn độc “Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đảm” bắn vào lòng bàn tay Mộ Dung Cảnh Nhạc nhanh như sét đánh không kịp bưng tai, khiến hắn không rụt tay về kịp.
Mộ Dung Cảnh Nhạc đã quyết tâm không để cho hai chất kịch độc kia thấm vào da thịt. Hắn thấy Thạch Vạn Sân đối với mình tàn độc như vậy, chẳng thà hắn chịu khuất phục tiểu sư muội để ba người liên thủ chống lại lão, còn hơn là phải chịu bao cảnh giày vò đau khổ.
Ngờ đâu thủ pháp của Thạch Vạn Sân nhanh như điện chớp, Mộ Dung Cảnh Nhạc xoay chuyển ý nghĩ chưa xong thì hai chất độc đã dính vào lòng bàn tay hắn rồi.
Sau khi hai làn bụi mỏng màu hồng và màu xanh bắn vào lòng bàn tay hắn, màu biếc lục ẩn hiện lúc này lập tức biến mất, màu da trở lại bình thường không có chi khác lạ.
Thạch Vạn Sân bật tiếng hoan hô:
– Hay quá!
Lão vươn tay ra chụp lấy cuốn “Dược Vương thần biên” trong tay Trình Linh Tố.
Trình Linh Tố chỉ mỉm cười chứ không rụt tay về.
Năm ngón tay Thạch Vạn Sân sắp đụng vào bìa sách, đột nhiên hắn tự hỏi:
– Con nha đầu này là đệ tử giữ cửa của lão trọc, trên cuốn sách này làm gì chẳng đặt cơ quan?
Lão vội rụt tay lại, tự mắng thầm:
– Lão Thạch ơi là lão Thạch! Ngươi dám coi thường con tiểu nha đầu kia thì dù có mười mạng cũng trao hết vào tay thị.
Gang bàn tay Mộ Dung Cảnh Nhạc hết tê chồn lại ngứa ngáy từng cơn đau thấu tâm can, đường như có ngàn vạn con kiến đang đồng thời cắn rỉa trong tâm tạng. Hắn sợ run, bật tiếng la:
– Tiểu sư muội! Mau lấy thuốc giải cho ta!
Trình Linh Tố hỏi:
– Ô hay! Đại sư ca quên lời dặn của tiên sư rồi ư? Người bản môn không được phóng cổ độc, lại thêm chín thứ độc dược không thuốc giải cũng không được dùng.
– “Hạc đỉnh hồng”… “Khổng tước đảm”… đã thuộc vào cửu đại cấm dược. Sao sư muội… lại hạ vào người ta? Như vậy chẳng hóa ra ngươi phản bội lời giáo huấn của tiên sư ư?
Trình Linh Tố lạnh lùng đáp:
– Đại sư ca còn nhớ tới tiên sư, lại còn nhớ không được làm trái lời giáo huấn của lão nhân gia, thật là ra ngoài sự tiên liệu của tiểu muội. Chất “Bích tàm độc cổ” kia có phải tiểu muội đưa vào tay đại sư ca đâu? Cả “Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đảm” cũng có phải tiểu muội phóng vào người đại ca không? Tiên sư đã ân cần căn dặn, trừ phi gặp lúc sinh tử quan đầu thì quyết không được dùng loại độc dược không có thuốc giải. Đó là giới cấm thứ nhất của bản môn. Thạch tiền bối, đại sư ca và tam sư tỷ đã thoát ly bản môn thì giới cấm đó không cần phải tuân thủ, nhưng tiểu muội thì không thể quên được.
Mộ Dung Cảnh Nhạc dùng tay phải nắm lấy huyệt mạch môn ở tay trái để ngăn chặn hơi độc đi lên. Trán hắn toát mồ hôi hột, nói không nên lời nữa.
Tiết Thước xoay tay mặt dùng đoản đao khía vào gang bàn tay Mộ Dung Cảnh Nhạc hai đường thành hình chữ thập để chất độc theo máu chảy ra ngoài. Mụ đã biết cách này không thể cứu được, nhưng ít ra độc tính cũng giảm bớt được vài phần.
Một mặt mụ nói với Trình Linh Tố:
– Tiểu sư muội! Trong di thư của sư phụ nói thế nào? Lão nhân gia đã truyền lại phép hòa hợp chất độc kia lại để sử dụng, thì nhất định cũng có đường giải cứu.
Trình Linh Tố hỏi vặn:
– Chữ “sư phụ” mà tam sư tỷ mới gọi đó trỏ vào vị nào? Là Vô Sân đại sư, sư phụ của tiểu muội, hay Thạch tiền bối, sư phụ của hiền phu phụ?
Tiết Thước nghe giọng lưỡi châm chọc của cô đã tức lộn ruột, muốn thóa mạ cho hả giận, nhưng vì tính mạng của trượng phu nguy ngập trong khoảnh khắc, nên mụ đành chịu khuất phục, lại xuống giọng năn nỉ:
– Ngu huynh ngu tỷ quả đáng chết lắm! Mong tiểu sư muội nghĩ đến tình đồng môn ngày trước và nghĩ đến vong linh của tiên sư Vô Sân đại sư mà cứu mạng cho y.
Trình Linh Tố lật cuốn “Dược Vương thần biên” trỏ vào hai dòng chữ nói:
– Xin Tam sư tỷ coi đây, vụ này không trách tiểu muội được.
Tiết Thước nhìn theo tay trỏ của cô thấy trong sách viết:
“Bích Tàm độc cổ” dùng chung với “Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đảm”, để chất kịch độc đó nhập tâm thì chẳng có cách nào chữa được. Phải lấy đó mà răn mình!”
Tiết Thước cả giận quay lại nhìn Thạch Vạn Sân nói:
– Sư phụ! Trong sách đã nói rõ ba chất độc dược này trộn lẫn vào nhau thì chẳng còn thuốc nào chữa được, mà sao sư phụ lại thử vào mình Cảnh Nhạc?
Tuy miệng mụ kêu lão bằng sư phụ, nhưng giọng nói cùng vẻ mặt vô cùng gay gắt.
Thạch Vạn Sân thực tình chưa nhìn thấy hai hàng chữ này trong cuốn “Dược Vương thần biên”. Nhưng dù lão có nhìn thấy rồi cũng chẳng vì thế mà đem lòng úy kỵ. Bây giờ nghe Tiết Thước xẵng giọng chất vấn, đời nào lão chịu thừa nhận là mình không biết để cho mất mặt.
Lão chỉ đáp:
– Ngươi đưa cuốn sách đó cho ta coi, xem bên trong còn điều gì cổ quái nữa không?
Tiết Thước tức giận đến cực điểm, biết rằng nếu còn do dự thì tính mạng trượng phu chẳng thể bảo toàn. Mụ vung đoản đao lên chém đứt cánh tay Mộ Dung Cảnh Nhạc đến tận bả vai.
Nên biết ba chất độc kia lợi hại vô tỷ. Dù chỉ rắc vào lòng bàn tay, nhưng lúc này chất độc đã đi vào nội tạng, nên có chặt tay đi cũng vô ích. May ở chỗ ba chất độc kia hòa hợp với nhau phát tác chậm hơn, đồng thời lòng bàn tay hắn không có vết thương, độc tính không thể truyền ngay vào mạch máu, nên chặt một cánh tay thì tạm thời bảo toàn được tính mạng, không thì độc tính phát tác làm chết người ngay.
Tiết Thước là đồ đệ của Vô Sân đại sư, dĩ nhiên biết cách cầm huyết trị thương. Chỉ trong khoảnh khắc mụ đã buộc xong vết thương cho Mộ Dung Cảnh Nhạc bằng một thủ pháp gọn gàng mau lẹ.
Trình Linh Tố nói:
– Đại sư ca! Tam sư tỷ! Chẳng phải tiểu muội có ý hãm hại các vị. Nhưng hai vị bội phản sư môn, bái kẻ thù của sư phụ làm thầy, nguyên việc đó đã đáng tội chết rồi. Hai vị lại còn gia hại cha con nhị sư ca khiến cả người lẫn trời đều phẫn nộ. Hiện giờ bản môn chỉ còn mình tiểu muội là truyền nhân. Hai vị phạm tội phản bội sư môn mà tiểu muội không ra tay trừng giới thì không lẽ để thanh danh một đời của sư phụ bị cừu nhân và đồ đệ của hắn làm cho tan biến? Cha con nhị sư ca bị thảm tử mà tiểu muội không ra mặt chủ trì công đạo thì không lẽ để hai người đó vĩnh viễn phải hàm oan dưới cửu tuyền?
Cô thân hình bé nhỏ gầy nhom, lại còn ít tuổi, nhưng giọng nói đanh thép, tự nhiên phát sinh oai khí.
Hồ Phỉ nghe xong, ngấm ngầm gật đầu, nghĩ bụng:
– Hai người này đê hèn tàn độc, giết đi là phải.
Lại nghe Trình Linh Tố nói tiếp:
– Đại sư ca tuy đã chặt tay, nhưng độc khí công tâm rồi, chỉ trong vòng một tháng là chất độc phát tác hết đường cứu chữa. Hai vị đã ra khỏi sư môn, bị người hạ độc thủ thì lẽ ra chẳng có liên can gì đến tiểu muội, nhưng vì nghĩ đến vong linh tiên sư, ở đây có ba viên “Sinh sinh tạo hóa đan” do sư phụ tốn mấy năm tâm huyết mới chế luyện được. Tiểu muội thay mặt tiên sư ban cho đại ca. Mỗi viên có thể kéo dài mạng sống thêm ba năm. Sư huynh uống thuốc rồi nghĩ lại ơn đức của tiên sư và tự vấn tâm xem: sư phụ trước đối đãi với đại sư huynh tử tế hay là vị tân sư phụ này đối xử tử tế?
Cô nói rồi lấy trong bọc ra ba viên thuốc màu hồng đặt trong lòng bàn tay.
– Tay đã chặt rồi còn sợ gì độc khí công tâm? Ba viên thuốc “Tử tử đoạt mệnh đan” này uống vào bụng thì độc khí mới công tâm đó.
Trình Linh Tố nói:
– Hai vị tin lời tân sư phụ thì không cần dùng đến ba viên thuốc này nữa.
Cô nói rồi toan cất thuốc vào bọc.
Mộ Dung Cảnh Nhạc vội nói:
– Không! Xin tiểu sư muội hãy cho ta!
Tiết Thước nói:
– Đa tạ tiểu sư muội! Từ nay trở đi hai người chúng ta ăn năn hối lối trở lại làm người lương thiện.
Mụ cúi đầu xuống trước mặt Trình Linh Tố để lấy ba viên thuốc.
Đột nhiên mụ lảo đảo người, giận dữ quát:
– Thạch Vạn Sân! Ngươi thật là tàn độc…
Chưa dứt lời, người mụ đã ngã chúi xuống.
Trình Linh Tố và Hồ Phỉ đều giật mình kinh hãi. Hai người không thấy Thạch Vạn Sân hành động mà sao hạ độc lẹ thế?
Trình Linh Tố cúi xuống lật người Tiết Thước lên để coi mụ bị hại thế nào, coi còn cơ cứu chữa được nữa không. Cô vừa lật người mụ lên thì đột nhiên cổ tay bên phải bị xiết chặt vì bị Tiết Thước nắm giữ rồi.
Trình Linh Tố biết đã bị lừa, toan vung tay trái đánh xuống đầu mụ, nhưng huyệt “Mạch môn” ở tay phải đã bị kìm chế, toàn thân tê bại, không nhúc nhích được nữa.
Tiết Thước tay cầm đoản đao dí vào người Trình Linh Tố, miệng quát lớn:
– Buông ngay cuốn “Dược Vương thần biên” ra.
Trình Linh Tố vì lòng dạ nhân từ mà bị kìm chế, đành vất cuốn “Dược Vương thần biên” xuống đất.
Hồ Phỉ muốn xông tới giải cứu, nhưng thấy Tiết Thước dí sát mũi đao vào ngực Trình Linh Tố. Mụ chỉ cần đẩy nhẹ mũi đao về phía trước một chút là cô phải uổng mạng, nên chàng trong dạ bồn chồn mà không dám động thủ.
Tiết Thước nắm chặt cổ tay Trình Linh Tố nói:
– Sư phụ! Đệ tử đã giúp sư phụ đoạt được “Dược Vương thần biên”. Xin sư phụ phóng ba thứ “Bích tàm độc cổ”, “Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đảm” vào lòng bàn tay con tiểu tiện nhân này, thử xem thị có cứu được tính mạng cho mình không?
Thạch Vạn Sân cười đáp:
– Hảo đồ nhi! Hảo đồ nhi! Biện pháp này thật là cao minh!
Lão lấy cái hộp vàng mở ra, dùng cái thìa xúc “Bích tàm độc cổ”, lại dùng móng tay xúc khếu độc phấn “Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đảm” chuẩn bị bắn vào lòng bàn tay của Trình Linh Tố. Mộ Dung Cảnh Nhạc sau khi bị thương, tuy người hắn lảo đảo muốn té, nhưng ráng chờ sư phụ bắn chất độc sang lòng bàn tay Trình Linh Tố. Hắn biết đây là cơ hội ngàn năm có một. Nếu cô lấy thuốc giải tự cứu mình, hắn sẽ đoạt lấy để dùng trước. Còn nếu đúng là không có thuốc giải thì mối thù vừa rồi cũng trả xong. Hắn nghĩ vậy liền cố gắng chặn trước mặt Hồ Phỉ để đề phòng chàng ngăn cản Thạch Vạn Sân hạ độc.
Hồ Phỉ đang lúc vô kế khả thi, bỗng thấy Mộ Dung Cảnh Nhạc đến chặn trước mặt liền vung tả quyền đấm vù vào mặt hắn.
Mộ Dung Cảnh Nhạc vung tay mặt ra đỡ. Lúc này Hồ Phỉ nóng lòng liều mạng, đời nào để hắn kịp đón đỡ. Thoi quyền tay trái chưa đánh tới, phát chưởng tay mặt đã xô đến trước mặt hắn nhanh như gió, không một tiếng động. Phát chưởng này tuy không gây tiếng động, nhưng luồng lực đạo lại rất mãnh liệt xô Mộ Dung Cảnh Nhạc đụng vào Tiết Thước.
Tiết Thước bị hắn đụng mạnh lập tức ngã lăn ra, nhưng tay trái của mụ vẫn nắm chặt cổ tay Trình Linh Tố không chịu buông.
Hồ Phỉ xông lại tung chân đá mạnh vào chỗ lưng gù của Tiết Thước. Mụ đau quá phải buông Trình Linh Tố ra. Nhưng Tiết Thước vừa buông tay, chỉ trong chớp mắt móng tay Thạch Vạn Sân đã chụp tới. Hồ Phỉ sợ tay lão có độc dược đụng vào người Trình Linh Tố, chàng vội vươn tay mặt đẩy bả vai lão.
Thạch Vạn Sân xoay tay biến thành thế cầm nã chụp vào tay mặt chàng.
Trình Linh Tố vội la lên:
– Lùi mau!
Nếu Hồ Phỉ thi triển chiêu “Cửu khúc chiết cốt pháp” trong phép “Tiểu cầm nã thủ” thì vặn gãy năm ngón tay lão chẳng khó gì, nhưng tay lão lại có chất kịch độc nên chàng không dám đụng vào vội nhảy lùi lại né tránh.
Thạch Vạn Sân chụp không trúng, tiện tay ném cái thìa vàng ra, tiếp theo gảy móng tay mấy cái. Luồng độc phấn như khói mù phun vào mu bàn tay Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ không biết mình đã trúng độc, chàng nghĩ tới ba người này nham hiểm độc ác vô tỷ, nên lập tâm giết chết ngay tại đương trường. Chàng vung đơn đao lên, ánh đao quang lấp loàng, toàn là các chiêu số tấn công.
Thạch Vạn Sân chưa kịp đưa hổ sanh lên đỡ, bỗng thấy bàn tay trái mát rượi. Ba ngón tay trái lão đã bị chặt đứt rồi.
Lão cực kỳ kinh hãi, lại gẩy móng tay mặt mấy cái làm bay ra một trận khói mù.
Trình Lình Tố la hoảng:
– Đại ca! Lùi mau!
Hồ Phỉ dừng chân trước mặt Trình Linh Tố, nhìn thấy bọn Thạch Vạn Sân, Mộ Dung Cảnh Nhạc, Tiết Thước bỏ chạy ra ngoài miếu mà không dám đuổi theo.
Trình Linh Tố nắm tay Hồ Phỉ, lòng đau như cắt. Tuy cô thoát đại nạn, nhưng Hồ Phỉ vì cứu cô mà mu bàn tay dính phải ba chất kịch độc là “Bích tàm độc cổ”, “Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đảm”. Trong “Dược Vương thần biên” đã ghi rõ: “Độc khí nhập tâm, không thuốc nào chữa được”.
Không lẽ dùng đao chặt ngay cánh tay của Hồ Phỉ rồi cho chàng uống “Sinh sinh tạo hóa đan” kéo dài mạng sống thêm chín năm nữa. Còn nếu để chất độc nhập vào tạng phủ rồi thì dù có uống “Sinh sinh tạo hóa đan” cũng vô dụng. Chàng là người thân ái duy nhất trên cõi đời này. Cô ở với chàng bấy nhiêu ngày, tự trong thâm tâm, cô coi chàng quan trọng hơn cả bản thân mình. Người tốt như vậy, không lẽ chỉ sống được có chín năm nữa thôi sao?
Trình Linh Tố xoay chuyển ý nghĩ rất mau. Cô không nghĩ ngợi gì nữa, mà quyết định chủ ý. Cô lấy một viên thuốc màu trắng bỏ vào miệng Hồ Phỉ, cất tiếng run run nói:
– Nuốt lẹ đi!
Hồ Phỉ theo lời nuốt xuống. Chàng vừa định thần, nhớ đến chuyện hung hiểm vừa rồi hãy còn khiếp sợ.
Chàng nói:
– Thật một phen hú vía!
Chàng thấy cuốn “Dược Vương thần biên” rớt xuống đất. Một trận gió thu thổi tới lật những trang sách ra không ngớt. Chàng lại nói:
– Đáng tiếc là chưa giết được ba tên ác tặc. May mà bọn chúng chưa đoạt được cuốn sách. Nhị muội! Nếu tay nhị muội dính phải chất độc thì làm thế nào?
Trình Linh Tố ruột đứt từng khúc, muốn khóc òa lên mà khóc không ra.
Hồ Phỉ thấy cô sắc mặt tái nhợt, liền cất giọng nhẹ nhàng nói:
Trình Linh Tố nghe giọng nói ôn nhu lại càng xót xa, không thể nói hết nỗi thương tâm, mà chỉ biết nghẹn ngào nói:
– Tiểu muội… tiểu muội…
Hồ Phỉ cảm thấy mu bàn tay phải tê ngứa toan đưa tay trái lên gãi.
Trình Linh Tố vội nắm chặt cổ tay chàng, cất tiếng run run:
– Chớ có cử động.
Hồ Phỉ thấy tay cô lạnh toát thì lấy làm lạ, hỏi:
– Nhị muội làm sao vậy?
Đột nhiên mắt chàng tối sầm lại, miệng ú ớ mấy tiếng rồi té nằm ngửa xuống đất.
Chàng ngã xuống rồi không nhúc nhích được nữa, nhưng thần trí vẫn tỉnh táo, chỉ thấy mu bàn tay mặt cứ hết tê nhức lại ngứa ngáy từng hồi, mỗi lúc một thêm khó chịu. Chàng kinh hãi hỏi:
– Tiểu huynh cũng trúng phải ba chất đại kịch độc rồi chăng?
Trình Linh Tố lệ hoen đầy má, nước mắt nhỏ cả xuống áo chàng, Cô thẫn thờ gật đầu.
Hồ Phỉ thấy tình cảnh như vậy thì không khỏi cảm thấy thê lương. Chàng thầm nghĩ:
– Nhị muội đau lòng đến thế là vì ta trúng phải chất kịch độc, chắc không còn cách nào cứu trị được nữa.
Trong khoảnh khắc, bao nhiêu sự việc bỗng cuồn cuộn hiện lên trong đầu óc chàng.
Nào chuyện kết bái đệ huynh với Triệu Bán Sơn ở Thương gia bảo, nào thảm kịch trong miếu Bắc Đế ở trấn Phật Sơn, nào vụ quen biết Viên Tử Y trên đường Tiêu tượng, nào vụ gặp gỡ Trình Linh Tố bên hồ Động Đình, cho đến đại hội chưởng môn ở Phúc phủ, nào cuộc hội ngộ quần hùng Hồng Hoa hội, nào vụ Thạch Vạn Sân… tất cả mọi chuyện đều đã trôi qua, đều đã đi vào quá khứ.
Chàng cảm thấy toàn thân dần dần cứng ngắc, đầu ngón tay ngón chân lạnh thấu xương, liền nói:
– Nhị muội ơi! Sống chết là do số mạng! Nhị muội chẳng nên quá đỗi bi ai. Chỉ đáng thương cho nhị muội một mình trơ trọi lênh đênh, đại ca chẳng thể chiếu cố cho nhị muội được nữa rồi. Kim Diện Phật Miêu Nhân Phụng tuy có mối thù giết cha của tiểu huynh, nhưng y là người khẳng khái hào hiệp, là tay hảo hán cương trực. Sau khi tiểu… tiểu… huynh chết rồi nhị muội đến quy đầu nơi y. Nếu không thế…
Chàng nói tới đây, đầu lưỡi sưng lên, tiếng nói không nghe rõ nữa.
Trình Linh Tố quỳ bên chàng khẽ nói:
– Đại ca ơi! Đại ca đừng sợ. Tuy đại ca trúng phải ba chất kịch độc, nhưng tiểu muội còn có cách giải cứu. Đại ca đừng nhúc nhích cũng đừng nói gì. Vì vừa rồi đại ca uống thuốc tê nên ra thế này.
Hồ Phỉ nghe nói cả mừng, mắt chàng sáng rỡ lên.
Trình Linh Tố lấy ra một mũi kim vàng, châm vào huyết quản trên mũ bàn tay chàng rồi thò miệng vào hút thật mạnh.
Hồ Phỉ cả kinh, thầm nhủ:
– Y hút máu độc vào miệng, chẳng phải chính y cũng nhiễm độc luôn hay sao?
Chàng cảm thấy khí lạnh ở tứ chi dần dần đi ngược lên, toàn thân tê cứng không cựa quậy được nữa.
Trình Linh Tố cứ hút một búng máu độc lại nhổ xuống dất. Nếu là độc tầm thường thì cô chỉ cần dùng kim châm rỗng ruột để dẫn máu ra ngoài, giống như khi chữa bệnh cho Miêu Nhân Phụng. Còn đây là ba chất kịch độc “Bích tàm độc cổ”, “Hạc đỉnh hồng” và “Khổng tước đảm” cùng phối hợp với nhau, nên không thể dùng cách đó được.
Cô hút hơn bốn chục lần cho đến lúc thấy toàn máu tươi mới yên tâm. Cô thở phào một cái, ngập ngừng cất giọng ôn nhu nói:
– Đại ca ơi! Cả đại ca lẫn tiểu muội đều là người đáng thương. Đại ca ưa thích Viên cô nương thì cô lại xuất gia làm ni cô… trong lòng tiểu muội…
Cô từ từ ngồi ngay người lên, nhìn Hồ Phỉ bằng cặp mắt chứa chan nhu tình vô hạn. Cô lấy trong túi ra hai thứ thuốc bột rắc lên mu bàn tay chàng, lại lấy một viên thuốc vàng rất lớn nhét vô miệng chàng, rồi khẽ nói:
– Gia sư nói ba thứ chất kịch độc này không có thuốc nào chữa được, vì trên đời chẳng có thầy thuốc nào chịu vì bệnh nhân mà hy sinh tính mạng. Đại ca ơi! Lão nhân gia không biết có tiểu muội… tiểu muội đối với đại ca…
Hồ Phỉ muốn mở miệng la:
– Ta không muốn nhị muội làm thế! Ta không muốn nhị muội làm thế!
Nhưng chàng chỉ lộ vẻ phản đối bằng ánh mắt chứ không thốt ra lời được.
Trình Linh Tố lại mở bọc lấy con ngọc phụng mà Viên Tính đã tặng cho, buồn rầu ngắm nghía một hồi, rồi dùng khăn tay gói lại, bỏ vào bọc Hồ Phỉ. Cô lại lấy ra một cây nến cắm vào đế đèn trước tượng thần. Bỗng nhiên cô lại đổi ý, lấy trong bọc ra một cây nến nhỏ. Cô bẻ đôi, đánh hỏa tập thắp lên, đem ra ngoài sân hậu viện một lúc rồi lại đem vào đặt bên cạnh đế đèn. Còn cây nến mới cô đem cắm vào đế đèn.
Hồ Phỉ theo dõi cách bố trí tỉ mỉ của cô, chẳng hiểu có dụng ý gì. Bỗng nghe cô nói:
– Đại ca! Tiểu muội có một việc không muốn nói để đại ca khỏi phải thương tâm. Nhưng bây giờ chúng ta sắp chia tay, không nói không được. Trong cuộc đại hội chưởng môn, lúc vị sư thúc tàn ác của tiểu muội và Điền Quy Nông gặp nhau, đại ca có nhận ra điều gì khác lạ không? Hai người này đã quen biết nhau từ trước rồi. Chất “Đoạn trường thảo” mà Điền Quy Nông đã dùng làm mù mắt Miêu đại hiệp chắc là lấy ở nơi Thạch Vạn Sân. Thậm chí chất độc mà gia gia và má má của đại ca bị trúng phải tưởng chừng cũng do Thạch Vạn Sân phối chế.
Hồ Phỉ run lên muốn quát một tiếng thật to:
– Đúng thế!
Trình Linh Tố nói tiếp:
– Lúc song thân của đại ca tạ thế, tiểu muội chưa ra đời mà cả mấy vị sư huynh sư tỷ cũng còn nhỏ tuổi chưa đầu sư học nghệ. Hồi ấy chỉ có hai người chuyên dụng độc là tiên sư và Thạch Vạn Sân. Miêu đại hiệp nghi ngờ độc dược là của tiên sư trao cho, nên động thủ cùng lão nhân gia. Tiên sư đã bảo không phải là lão nhân gia thì dĩ nhiên đúng thế. Tiểu muội nghi ngờ là lão sư thúc này, nhưng chưa đủ chứng cớ. Tiểu muội nghĩ rằng cứ từ từ điều tra cho rõ, nếu quả là lão thì sẽ tìm cách báo thù giúp đại ca. Nay sự việc đã đến thế này thì bất luận thế nào cũng phải giết lão.
Cô nói tới đây thì độc tính trong mình phát tác, người lảo đảo một cái rồi ngã xuống bên cạnh Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ thấy cô từ từ nhắm mắt lại, khóe miệng ứa ra một dòng máu, lòng chàng đau đớn chẳng khác nào muôn ngàn mũi kim đâm vào trái tim.
Chàng muốn mở miệng gào lên:
– Nhị muội! Nhị muội!
Nhưng muốn kêu gào thế nào thì vẫn như quỷ mị giữa đêm trường, không sao thành tiếng. Trong lòng chàng tuy hiểu rõ hết mọi sự mà muốn cử động một ngón tay cũng không nổi. Hồ Phỉ nằm sóng sượt bên canh thi thể Trình Linh Tố từ sáng đến chiều, lại từ chiều cho đến lúc hoàng hôn.
Nên biết ba chất đại kịch độc “Bích tàm độc cổ”, “Hạc đỉnh hồng”, “Khổng tước đảm” lợi hại khôn cùng. Hồ Phỉ tuy đã được Trình Linh Tố hút hết độc ra rồi, nhưng chất độc đã thấm vào thân thể làm cho da thị cứng đơ, phải qua một ngày một đêm mới cử động được. Trong mấy giờ này nỗi đau khổ của Hồ Phỉ không ai tưởng tượng cho xiết được.
Trời dần tối, thân thể Hồ Phỉ vẫn cứng đơ. Chàng biết mình nằm bên Trình Linh Tố mà muốn nhìn cô một cái cũng không thể được.
Lại mấy giờ nữa trôi qua, bỗng nghe những tiếng cú kêu từ trong rừng cây ở xa vọng lại.
Đột nhiên có tiếng bước chân rón rén đi tới ngoài miếu, rồi nghe tiếng người nói khẽ:
– Tiết Thước! Ngươi vào trước xem thử đi.
Đúng là thanh âm Thạch Vạn Sân.
Hồ Phỉ la thầm:
– Thôi hỏng rồi! Hỏng rồi! Ta không cử động được, đành để chúng tùng xẻo, muốn làm thế nào thì làm. Nhị muội ơi, nhị muội! Nhị muội vì muốn cứu mạng ta đã cho uống thuốc tê, nhưng chất thuốc mạnh quá, biết đến lúc nào mới tiêu giải đây? Bây giờ kẻ địch đã quay đầu lại, ta đành theo nhị muội xuống hoàng tuyền. Chết cũng chẳng có gì đáng tiếc, nhưng mối đại cừu này thế là không trả được rồi.
Thực ra chất thuốc mê đã lui rồi, sở dĩ da thịt chàng còn cứng đơ như xác chết hoàn toàn là do ba thứ đại kịch độc.
Lại nghe trếng bước chân nhẹ nhàng của Tiết Thước lẻn vào ẩn ở sau cửa, đưa mắt nhìn vào trong.
Mụ không dám bật lửa mà trong bóng tối chẳng thấy gì, mụ lắng tai cũng không nghe thấy một tiếng động, liền quay ra ngoài báo cho Thạch Vạn Sân hay.
Thạch Vạn Sân gật đầu nói:
– Thằng lỏi bị ta bắn ba thứ đại kịch độc vào mu bàn tay, chắc bây giờ hồn đã xuống âm tào rồi, bằng không phải chặt bỏ một cánh tay. Chỉ còn lại con tiểu nha đầu cũng chẳng có chi đáng sợ. Chỉ e hai đứa tiểu quỷ đó đã sớm bỏ trốn rồi.
Tuy lão nói vậy, nhưng vẫn không đám coi thường. Tay lão cầm hổ sanh hộ vệ trước ngực, từ từ tiến vào cửa miếu.
Khi đến trên điện, trong bóng tối chỉ thấy hai người nằm dưới đất. Lão không dám lại gần, lượm một viên đá ném vào xác hai người vẫn không thấy nhúc nhích. Lão liền đánh hỏa tập lên coi thì thấy hai người nằm dưới đất chính là Hồ Phỉ và Trình Linh Tố. Cả hai người toàn thân cứng đơ, hiển nhiên là chết đã lâu rồi.
Thạch Vạn Sân cả mừng, đặt tay lên mũi Trình Tinh Tố thấy mặt lạnh như băng, đã tắt thở rồi. Lão lại thò tay sờ mũi Hồ Phỉ. Hai mắt chàng nhắm nghiền, hô hấp cũng đã ngừng rồi.
Thạch Vạn Sân vốn là người thận trọng. Lão thấy da mặt Hồ Phỉ còn âm ấm, chưa phải là chết hẳn, bèn lấy một mũi kim vàng châm vào lòng bàn tay hai người. Nếu hai người giả vờ chết ắt bàn tay phải rung động. Nhưng Trình Linh Tố đã chết thật, còn Hồ Phỉ da thị cứng đơ, kim đâm vào lòng bàn tay là chỗ nhạy cảm giác mà tuyệt nhiên chẳng thấy phản ứng gì.
Mộ Dung Cảnh Nhạc hằn học nói:
– Con nha đầu này hút chất độc nơi bàn tay tình lang, ai ngờ đã không cứu sống được gã mà chính thị cũng tiêu đời.
Thạch Vạn Sân nóng lòng tìm kiếm cuốn “Dược Vương thần biên”, mà mồi lửa đã cháy hết, liền châm vào ngọn nến trên đế đèn.
Lúc ngọn lửa sắp chạm vào bấc nến, lão chợt động tâm tự nhủ:
– Cây nến này chưa thắp, biết đâu bên trong có điều chi cổ quái
Lão ngó thấy bên đế đèn có đặt khúc nến cháy dở, liền nghĩ bụng:
– Khúc nến này đã thắp dở, nhất định là vô hại.
Lão liền nhổ cây nến ở để đèn ra, cầm khúc nến đã cháy phân nửa vào đánh hỏa tập thắp đèn lên.
Đèn vừa thắp sáng, ba người cùng ngó thấy cuốn “Dược Vương thần biên”, liền nhất tề hô lên một tiếng. Thạch Vạn Sân xé mảnh áo lót tay rồi mới nhặt cuốn sách lên. Lão lật ra coi thấy những hàng chữ viết theo lối tiểu khải nhỏ như đầu ruồi. Quả nhiên là sách chép y thuật cùng dược tính. Lão lướt qua một lượt thấy y đạo về việc cứu thương chiếm hết chín phần mười. Phần độc dược thì chỉ chép sơ lược cách cứu trị, giải độc. Về phép luyện độc, thi độc cùng cách trồng độc thảo, nuôi dưỡng độc trùng lại càng sơ lược hơn nữa.
Nguyên Vô Sân đại sư hồi về già tự biết bình sinh dụng độc quá nhiều, khiến người giang hồ tặng cho ngoại hiệu là “Độc Thủ Dược Vương”, nên viết để lại pho “Dược Vương thần biên” truyền lại cho đệ tử, dạy về cách chữa bệnh cứu người.
Thạch Vạn Sân, Mộ Dung Cảnh Nhạc, Tiết Thước cứ đau đáu muốn chiếm đoạt pho sách này, vì cho rằng đây là bộ “Độc kinh” bao la vạn hữu, ảo diệu thần kỳ, không ngờ đây chỉ là cuốn y thư thì dù trong đó có chép y thuật tinh thâm đến đâu, họ cũng coi là vô dụng.
– Ngươi hãy lục tìm trong người con nha đầu xem còn cuốn sách nào khác không, chứ cuốn y thư này chẳng có tác dụng gì.
Nói xong, lão thuận tay ném luôn cuốn y thư lên bệ thờ.
Tiết Thước sục tìm trong bọc Trình Linh Tố một hồi, rồi đáp:
– Không còn sách gì nữa.
Mộ Dung Cảnh Nhạc sực nhớ ra điều gì, liền nói:
– Sư phụ của đệ tử chuyên viết chữ ẩn hình, hay là…
Hắn vừa buột miệng nói ra câu này liền hối hận, tự mắng thầm:
– Thật đáng chết! Nói ra làm gì? Cứ để lão coi cuốn sách này là vô dụng, mình sẽ thu lấy nghiên cứu kỹ lại có phải hay hơn không?
Thạch Vạn Sân là người rất cơ linh, lão lập tức tỉnh ngộ, đáp:
– Phải rồi!
Lão lại cầm bộ “Dược Vương thần biên” lên.
Lão vừa xoay người lại đã thấy Mộ Dung Cảnh Nhạc và Tiết Thước từ từ hai chân co lại, người nhũn ra nằm xuống, nét mặt tựa như cười mà không phải cười, thần sắc cực kỳ quái dị.
Thạch Vạn Sân giật mình kinh hãi, la lên:
– Gì thế này? “Thất tâm hải đường”, “Thất tâm hải đường”? Chẳng lẽ con nha đầu kia trồng được “Thất tâm hải đường”? Ngọn nến… ngọn nến này…
Trong đầu óc lão dường như lướt qua một tia sáng. Lão nhớ lại tình cảnh hồi còn nhỏ cùng Vô Sân đại sư đồng môn học nghệ. Một hôm sư phụ lão nói về ông vua trong những độc dược khắp thiên hạ. Sư phụ lão bảo “Hạc đỉnh hồng”, “Khổng tước đảm”, “Hắc thù trấp”. “Hủ nhục cao”, “Thái công khuẩn”, “Bích cổ noãn”, “Phục xà diên”, “Phiên mộc quy”, “Bạch thự manh” v.v. đều không phải chất độc lợi hại nhất, mà “Thất tâm hải đường” mới là vật đáng sợ hơn hết. Chất độc này không hình sắc lại không mùi vị, dù là người thận trọng đến đâu cũng khó nỗi đề phòng. Người trúng độc chết rồi mà vẫn không hề hay biết, nét mặt vẫn mim cười tựa hồ rất bình an, hoan hỷ. Sư phụ lão đã lấy được hạt giống “Thất tâm hải đường” từ hải ngoại đem về, nhưng dùng phương pháp bất kỳ nào cũng không thể trồng cho nó sống được.
Hôm ấy sư huynh và lão xin được của sư phụ chín hạt “Thất tâm hải đường” đem về trồng, nhưng sư phụ lão mỉm cười nói:
– May mà “thất tâm hải đường” kia trồng không được, không thì trên đời chẳng còn một ai được bình yên.
Thạch Vạn Sân nhìn thấy Mộ Dung Cảnh Nhạc và Tiết Thước đúng là trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường” liền lập tức phong bế hô hấp, đưa tay lên bịt miệng và mũi lại. Lão định thần nhìn kỹ xem chất độc từ phía nào đưa tới thì đột nhiên hai mắt tối sầm không thấy gì nữa. Thoạt đầu lão còn tưởng vì nến tắt, nhưng rồi lão phát hiện ra cặp mắt mình đã bị mù.
Thất tâm hải đường! Thất tâm hải đường?
Lão biết mình thoát chết được là vì trước khi vào miếu đã ngậm thuốc hóa giải bách độc nên chất độc “Thất tâm hải đường” nhất thời không thấm vào phủ tạng, nhưng cặp mắt không chịu nổi nên đã bị mù.
Hồ Phỉ đã được Trình Linh Tố tiên liệu cho uống thuốc giải độc “Thất tâm hải đường” nên cặp mắt không việc gì. Chàng nhìn rõ hết mọi diễn biến xảy ra. Mộ Dung Cảnh Nhạc và Tiết Thuớc từ từ nhũn người ra ngã xuống. Còn Thạch Vạn Sân giơ tay sờ soạng trên không, miệng gào lên:
– Thất tâm hải đường! Thất tâm hải đường!
Lão lao ra khỏi miếu rồi, tiếng gào thê thảm mỗi lúc một xa tựa hồ dã thú phát điên. Bên cạnh chàng nằm sóng sượt ba cái tử thi, một là tiểu muội tử Trình Linh Tố, người đã cùng chàng kết nghĩa chi lan, và hai xác kia là sư huynh, sư tỷ của cô đã phản bội sư môn, lại đối đầu với cô.
Trong tòa phá miếu ngọn nến ảm đạm bị gió thổi đưa đi đưa lại, cứ chập chờn khi mờ khi tỏ. Người chàng đã giá lạnh, trong lòng lại càng thê lương lạnh lẽo khôn xiết.
Ngọn nến cháy đến hết, đột nhiên lóe lên một cái rồi tắt phụt. Trong tòa phá miếu tối đen như mực.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Nhị muội của ta chẳng khác gì ngọn nến kia, khi đã cháy hết rồi là không sáng được nữa. Nàng đã trù tính mọi sự rất chu đáo. Nàng đã tiên liệu bọn Thạch Vạn Sân nhất định còn quay lại, nàng còn tiên liệu hắn là người cẩn thận không dám thắp cây nên mới, mà chỉ thắp cây nên cháy dở có pha “Thất tâm hải đường” mới dụ được hắn vào bẫy. Nàng chết rồi mà còn giết được hai kẻ thù. Dù là đệ tử của Độc Thủ Dược Vương, nhưng bình sinh nàng chưa giết một ai. Sau khi chết đi, nàng mới giết hai tên sư huynh, sư tỷ mặt người dạ thú để thanh lý môn hộ. Nàng chưa từng cho ta biết thân thế mình cùng song thân là ai. Ta cũng chẳng hiểu do đâu mà nàng lại làm đệ tử của Độc Thủ Dược Vương để học được bản lĩnh kinh người đến thế. Ta thường nói chuyện với nàng về việc của mình, nàng luôn lắng tai nghe ra vẻ rất quan tâm.
Ta muốn biết thân thế của nàng, lại lịch của nhị muội, nhưng từ nay trở đi không còn được nghe thấy thanh âm của nàng nữa rồi. Nhị muội tại bất kỳ lúc nào và ở bất kỳ nơi đâu cũng đều luôn nghĩ đến ta. Ta có điều gì hay ho mà đáng để cho nàng đối xử với ta như vậy? Thậm chí nhị muội phải hy sinh tính mạng của mình để cứu sống ta. Thật ra nàng đâu cần phải làm thế này. Sao không cứ chặt cụt cánh tay rồi dùng đan dược của sư phụ nàng, để cho ta sống thêm chín năm nữa. Quãng thời gian chín năm cũng đủ lắm rồi. Hai người sống với nhau một cách vui vẻ chín năm rồi nàng cùng chết theo ta, há chẳng hay hơn ư?
Bỗng chàng nghĩ lại:
– Ta bảo sống vui vẻ với nhau trong chín năm, nhưng thử hỏi có thực vui vẻ được không? Nhị muội biết ta vẫn luyến ái Viên cô nương, dù ta đã biết nàng là ni cô mà lòng thương nhớ vẫn khôn nguôi. Hôm nay nhị muội xả thân cứu ta phải chăng vì điều này?
Trong khoảng tối tăm mênh mông vô bờ bến, Hồ Phỉ cảm thấy sóng lòng dào dạt, trăm mối ngổn ngang. Chàng chợt hồi tưởng lại biết bao nhiêu là sự tình. Mỗi lời nói, mỗi nét chau mày, mỗi nụ cười của Trình Linh Tố mà lúc trước chàng chẳng hề để ý, lúc này bỗng hiện rõ trong tâm trí, trong đó chứa chan biết bao nhiêu là nhu tình mật ý, biết bao nhiêu là tình cảm say đắm thiết tha.
Tiểu muội tử đãi tình lang
Ân tình thâm
Nễ mạc phụ liễu muội tử
Nhất ban tình
Nễ kiến liễu tha diện thời
Yếu đãi tha hảo
Nễ bất kiến tha diện thời
Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải tại tâm!
(Tiểu muội tử chờ tình lang
Tấm lòng chờ đợi chứa chan ân tình
Chàng ơi, chớ phụ cô mình
Gặp nhau hãy giữ ân tình cho nhau
Rủi mai nước chảy xuôi cầu
Tấc lòng canh cánh, nỗi sầu khôn khuây)
Bản tình ca của Vương thợ rèn tựa hồ như văng vẳng bên tai, Chàng tự nhủ:
– Ta cần phải đối đãi tốt với nhị muội… phải rồi… phải rồi… nhưng mà nhị muội đã chết. Khi nhị muội còn sống, ta đã chẳng đối đãi tốt với nàng, trong lòng ta lúc nào cũng mãi vương vấn hình bóng một cô nương khác.
Trời sáng rồi, ánh thái dương xuyên qua cửa sổ chiếu lên thân người mà, Hồ Phỉ vẫn cảm thấy lạnh giá như băng. Lát sau, chàng cảm thấy da thịt dần dần mềm mại trở lại, tay chân nhích lên được một chút, chân cũng có thể cử động. Chàng hai tay chống xuống đất, từ từ ngồi thẳng người lên nhìn Trình Linh Tố bằng cặp mắt thâm tình vô hạn.
Đột nhiên chàng cảm thấy bầu máu nóng có sôi lên sùng sục, chàng tự hỏi:
– Ta sống trên cõi đời này còn có ý nghĩa gì nữa? Nhị muôi đối với ta bằng cả mối thâm tình như thế mà ta lại bạc hạnh với nàng! Chi bằng ta chết theo nàng cho rồi.
Khi liếc nhìn xác của Mộ Dung Cảnh Nhạc và Tiết Thước, chàng liền chợt động tâm tự hỏi:
– Mối thù của song thân chưa trả, kẻ sát hại nhị muội là Thạch Vạn Sân còn sống trên đời. Ta cứ coi thường tính mạng, buông xuôi tay cho xong chuyện, há phải là hành động của bậc đại trượng phu?
Nguyên Trình Linh Tố lúc lâm tử đã tiên liệu đến điều này. Cô đã giảm bớt độc tính của chất “Thất tâm hải đường” trong cây nến. Cô không muốn cho Thạch Vạn Sân chết ngay đương trường, để Hồ Phỉ sau này sẽ kiếm lão báo thù. Nhưng cô biết Thạch Vạn Sân mù mắt rồi. Hồ Phỉ vĩnh viễn sẽ không bị kém thế khi đấu với lão.
Lúc lâm tử cô còn nói độc dược sát hại song thân chàng chắc là do Thạch Vạn Sân phối chế, có khi đúng sự thực, cũng có khi chỉ là phỏng đoán. Nhưng mục đích của cô là nhắc nhở chàng nhớ đến mối thù song thân, khiến chàng không bị cơn xúc động nhất thời mà tự vẫn tuẫn tình.
Trình Linh Tố tiên liệu mọi việc đều thấu đáo, duy chỉ có một điều sai trật. Đó là việc Hồ Phỉ không tuân theo ba điều qui ước của cô. Lúc có nguy cấp, chàng cùng địch nhân động thủ để mình trúng chất kịch độc. Cũng có khi, điều đó nằm trong sự tiên liệu của cô. Cô còn biết Hồ Phỉ không yêu mình như cô yêu chàng tha thiết, nên có ý kết liễu đời mình. Cô dùng máu độc của tình lang để tự vẫn, đồng thời cứu tình lang toàn mạng.
Thật là bi thảm! Thật là đau lòng? Chết là hết, nhưng cô không hổ là đệ tử của Độc Thủ Dược Vương, không hổ là chủ nhân của “Thất tâm hải đường”, đệ nhất độc vật trong thiên hạ.
Tâm sự người thiếu nữ thật khó lòng đoán được. Đến như Trình Linh Tố lại càng vĩnh viễn không ai hiểu thấu được.
Hồ Phỉ chợt nhớ lại tối hôm trước, bên Đào Nhiên đình, Trần Tổng đà chủ khi tế mộ cho một cô nương cớ sao lại khóc lóc thảm thiết đến vậy? Bây giờ chàng mới biết đến lúc vĩnh viễn không còn được gặp người chí thân, thì chẳng thể nào cầm nổi những giọt nước mắt thương tâm.
Hồ Phỉ ôm thi thể Trình Linh Tố và Mã Xuân Hoa ra khu vườn sau tòa phá miếu. Chàng thầm nghĩ:
– Trên thân thể của hai người đều có chất kịch độc, ta phải cẩn thận đừng để dính vào. Ta chưa báo thù xong thì không thể chết một cách khinh suất được!
Chàng chất hai đống củi, châm lửa để siêu hóa hai người.
Lúc này lòng chàng trống rỗng, tựa hồ tấm thân mình cũng theo ngọn lửa bay lên mà biến thành tro, thành khói.
Chàng lại khoét một cái huyệt lớn chôn thi thể vợ chồng Mộ Dung Cảnh Nhạc và Tiết Thước.
Mặt trời đã xế về tây, thân thể Trình Linh Tố và Mã Xuân Hoa đã hóa thành tro.
Hồ Phỉ kiếm hai cái bình sành trong miếu đựng cốt của hai người.
Chàng tự nhủ:
– Ta đem cốt của nhị muội táng bên phần mộ của gia nương. Tuy nàng không phải là em gái ruột của ta, nhưng nàng đối đãi với ta có khác gì tình cốt nhục? Phần tro cốt của Mã cô nương ta phải đem đến huyện Quảng Thủy tỉnh Hồ Bắc táng bên phần mộ của Từ đại ca.
Hồ Phỉ vào sương phòng, nhìn thấy đống quần áo và cái bọc của Trình Linh Tố bỏ lại trên bàn. Chàng đăm đăm nhìn một hồi, rồi không nhịn được, nước mắt cứ trào ra.
Hồi lâu chàng mới đưa tay ra thu dọn, thấy trong bọc có mấy thứ đồ dùng để hóa trang như râu giả, keo dán, liền nghĩ bụng:
– Nếu ta để nguyên chân tướng thì chỉ đi trong một ngày là đã gặp bọn ưng trảo của Phúc Khang An. Tuy ta chẳng sợ gì, nhưng nếu dọc đường cứ đánh nhau hoài thì biết bao giờ cho xong việc?
Chàng liền bôi thuốc dịch dung, dán râu vào, bỏ hai bình tro cốt vào bọc rồi đi ra khỏi tòa phá miếu.
Hồ Phỉ đi về hướng nam để truy trìm Thạch Vạn Sân.
Một hôm vào giữa trưa, chàng ghé vào một phạn điếm ở trấn Quan Đồn để ăn cơm. Chàng vừa ngồi xuống, bỗng nghe tiếng giày lẹt xẹt. Bốn tên võ quan triều đình đi vào. Người đi đầu thân thể cao nghệu, gầy nhom, chính là Tăng Thiết Âu ở Ưng Trảo Nhạn Hành môn.
Hồ Phỉ trong lòng hơi kinh ngạc, ngảnh mặt nhìn ra chỗ khác, bụng bảo dạ:
– Tuy ta đã cải trang, nhưng Tăng Thiết Âu là con người rất tinh minh, không khéo hắn khám phá ra chỗ sơ hở của mình.
– Bốn người này rời kinh thành xuống phía nam chắc quá nửa là vì việc có liên quan đến ta. Ta muốn nghe xem bọn chúng nói gì.
Nhưng bọn Tăng Thiết Âu bốn người toàn phường phong hoa tuyết nguyệt, nói toàn chuyện đâu đâu khiến chàng chán tai.
Giữa lúc ấy, ngoài cửa điếm, trên đường lát đá xanh, có một người mù chống gậy lọc cọc lần dò đi tới.
Người này vừa bước vào phạn điếm, Hồ Phỉ trong ngực đã đánh thình thịch. Mấy bữa nay chàng để ý dò la tông tích Thạch Vạn Sân mà thủy chung chẳng có manh mối gì. Chàng biết lão bị mù thì chưa thể đi xa được. Không ngờ bữa nay lại chạm trán lão trong phạn điếm ở tòa tiểu thị trấn này. Chàng thấy lão quần áo lam lũ, mặt mày tiều tụy. Tay trái vẫn lắc cái nhạc của thầy lang dạo.
Thạch Vạn Sân mò mẫm vào ngồi xuống cái ghế bên cái bàn vuông và cất tiếng gọi:
– Điếm gia! Hãy lấy một hồ rượu ra đây.
Điếm tiểu nhị thấy hình dáng lão như kẻ ăn xin cất tiếng khinh mạn hỏi:
– Lão cũng đòi uống rượu? Có tiền không đó?
Thạch Vạn Sân móc trong bọc ra một đĩnh bạc bỏ xuống bàn.
Điếm tiểu nhị cười nói:
– Vậy thì được? Ta đi lấy rượu cho lão.
Thạch Vạn Sân vừa vào phạn điếm, Tăng Thiết Âu liền nhìn ba đồng bọn giơ tay ra hiệu tiến lại bắt.
Nguyên hôm trước trong đại hội chưởng môn, Trình Linh Tố hút thuốc nhả khỏi độc, khiến mọi người bị đau bụng. Quần hào nghi ngờ Phúc Khang An hạ độc trong rượu, còn bọn Phúc Khang An lại cho đó là thủ đoạn của Độc Thủ Dược Vương. Phúc Khang An liền phái một số đông quan võ cùng vệ sĩ xuống phía nam giao cho ba việc khẩn yếu: Việc thứ nhất là truy nã bọn Trình Linh Tố, Hồ Phỉ, Mã Xuân Hoa cùng quần hào Hồng Hoa hội, đồng thời tìm hai đứa con của Phúc Khang An đem về. Việc thứ hai là tróc nã tên đầu sỏ Thạch Vạn Sân về tội đã làm tan vỡ đại hội. Việc thứ ba là tróc nã Thang Bái cùng ni cô Viên Tính vì hai nhân vật này biết rõ điều bí ẩn trọng đại của Phúc Khang An.
Lúc này, Tăng Thiết Âu thấy Thạch Vạn Sân đã mù mắt thì trong bụng mừng thầm, nhưng vẫn sợ lão giả vờ.
Hắn từ từ đứng dậy hỏi:
– Điếm gia! Sao trong điếm của ngươi thiếu nhiều bàn ghế vậy? Ta muốn tìm chỗ ngồi cũng không có!
Hắn vừa nói vừa ra hiệu cho điếm tiểu nhị đừng lên tiếng.
Một tên võ quan khác hỏi tiếp:
– Trương chưởng quỹ! Bữa nay buôn bán gì mà đến trấn Quan Đồn?
Tăng Thiết Âu lại hỏi:
– Có phải tải gạo đến không? Lý chưởng quỹ! Ông bạn làm ăn khá đấy chứ!
Tên võ quan khác đáp:
– Có gì mà khá! Cũng chỉ nhì nhằng giật gấu vá vai mà thôi.
Hai người nói thêm mấy câu vu vơ nữa, rồi Tăng Thiết Âu nói:
– Không có chỗ ngồi, chúng ta đành ngồi cùng bàn với vị đại phu đây vậy.
Hắn nói rồi ngồi ngang bên bàn Thạch Vạn Sân.
Thực ra trong điếm còn rất nhiều bàn trống, nhưng Thạch Vạn Sân không nghi ngờ gì, cứ để mặc cho họ ngồi vào.
Bây giờ Tăng Thiết Âu mới biết lão mù mắt thật, liền mạnh dạn lên nhiều.
Hắn nhìn hai tên võ quan ngồi ngoài, vẫy tay nói:
– Triệu chưởng quỹ! Vương chưởng quỹ! Sang ngồi cả đây uống vài chén rượu! Bữa nay để tiểu đệ làm chủ nhân cho.
Hai tên võ quan đáp:
– Vậy thì xin quấy quả đại ca một bữa.
Rồi chúng ngồi xuống bên Thạch Vạn Sân. Thạch Vạn Sân tuy mù mắt nhưng tai nghe rõ hết. Lão nhận ra bốn người đều nói giọng Bắc Kinh, chứ không phải khẩu âm địa phương này. Họ mới nói mấy câu về làm ăn buôn bán là đã lòi đuôi rồi.
Lão chỉ cần suy nghĩ một chút là đã đoán ra mấy phần, liền đứng dậy nói:
– Điếm gia! Bữa nay ta đây bụng không muốn ăn uống gì, vậy xin tạm biệt.
Tăng Thiết Âu ấn vai lão ngồi xuống, cười nói:
– Đại phu cần gì phải vội vàng! Hãy uống vài chung hẵng đi.
Thạch Vạn Sân biết là khó thoát thân, đành cười lạt ngồi xuống.
Tiểu nhị bưng rượu thịt vào.
Tăng Thiết Âu rót rượu ra chung nói:
– Đại phu! Tại hạ xin mời đại phu một chung.
Thạch Vạn Sân đáp:
– Hay lắm! Hay lắm!
Lão nâng chung lên uống cạn sạch rồi nói:
– Lão phu cũng xin mời lại các vị một chung!
Tay mặt lão cầm hồ rượu, tay trái sờ soạng tìm chung của bốn người, rồi rót cho mỗi người một chung. Lúc rót rượu, lão đã gẩy móng tay để bắn thuốc độc vào chung rượu của họ. Thủ pháp rất nhanh nhẹn chẳng một ai nhìn thấy.
Nhưng lão đã tự xưng là Độc Thủ Dược Vương, Tăng Thiết Âu tuy không nhìn thấy lão hạ độc, song làm sao hắn dám uống ly rượu do lão rót ra? Hắn nhẹ tay đổi chung rượu của mình với chung rượu trước mặt Thạch Vạn Sân.
Cử động của hắn ai cũng trông rõ. Chỉ có Thạch Vạn Sân mù mắt là chẳng thấy gì.
Hồ Phỉ than thầm:
– Lão đã mù mắt mà còn muốn hạ độc hại người. Đó là lão tự tác nghiệt, chết cũng đáng đời. Ta bất tất phải hạ thủ nữa.
Chàng đứng dậy tính tiền.
Bỗng nghe Thiết Âu cười nói:
– Nào, xin mời các vị. Chúng ta cùng cạn chung!
Bốn tên võ quan khóe miệng lộ ra nụ cười gian xảo, trong tay chúng chẳng có gì nhưng miệng cùng hô:
– Nào, cạn chung!
Thạch Vạn Sân bưng chung rượu đã bị hạ độc lên, khóe miệng lão mỉm cười giảo quyệt. Hồ Phỉ biết lão cho rằng chỉ trong nháy mắt bốn tên võ quan kia sẽ bị chất độc phát tác mà chết, nên không khỏi lộ vẻ đắc ý. Hồ Phỉ thấy tình cảnh Thạch Vạn Sân như vậy đột nhiên nảy sinh lòng lân mẫn, bèn rảo bước ra khỏi phạn điếm.
Mấy hôm sau Hồ Phỉ về đến phần mộ của song thân ở Thương Châu. Từ ngày còn nhỏ, cứ cách mấy năm Bình tứ thúc lại dẫn chàng đến tảo mộ. Cách đây ba năm chàng còn đến một lần. Mỗi chuyến về địa phương này, Hồ Phỉ lại ngồi ngẩn ngơ trước mộ song thân hằng mấy ngày, lòng suy nghĩ vẩn vơ đủ thứ. Giá như gia gia cùng má má lúc này còn sống… giá như hai vị lão nhân gia thấy ta đã trưởng thành như thế này… giá như gia gia thấy ta sử đao thì không biết lão nhân gia sẽ nói gì…
Hôm nay, lúc Hồ Phỉ tới mộ địa thì trời đã xế chiều. Từ xa chàng đã nhin thấy một nữ nhân mặc áo màu lam đứng yên bên mộ song thân. Gần khu mộ này chẳng có mồ mả nào khác.
Chàng tự hỏi:
– Chẳng lẽ nữ nhân này quen biết song thân ta?
Trong lòng rất lấy làm lạ, chàng từ từ cất buớc lại gần thì thấy người đó là một thiếu phụ trung niên, diện mạo vô cùng xinh đẹp. Có điều sắc mặt bà lợt lạt, không còn chút huyết sắc. Thiếu phụ thấy Hồ Phỉ đi tới cũng hơi kinh ngạc, ngửng đầu lên nhìn chàng.
Lúc này Hồ Phỉ cách thành Bắc Kinh đã xa rồi, dọc đường không gặp truy binh, nên cởi bỏ đồ hóa trang, để trở lại khuôn mặt thật. Có điều chàng dày dạn phong trần, mình đầy bùn đất.
Thiếu phụ thấy chàng là thiếu niên lạ mặt cũng không để ý, xoay đầu nhìn ra chỗ khác.
Lúc bà xoay mình, Hồ Phỉ liền nhận ra bà là vợ Miêu Nhân Phụng, người đã tư bôn với Điền Quy Nông năm xưa.
Ngày trước ở Thương gia bảo, con gái Miêu Nhân Phụng la gọi “má má”, và đưa hai tay đòi bế, nhưng bà ngoảnh đầu đi. Tướng mạo bà thì Hồ Phỉ không còn nhớ rõ, nhưng cái ngoảnh đầu tàn nhẫn đó thì Hồ Phỉ vĩnh viễn không quên.
Chàng lạnh lùng cất tiếng hỏi:
– Miêu phu nhân! Một mình phu nhân tới đây làm chi?
Thiếu phụ nghe đến ba chữ “Miêu phu nhân” thì toàn thân chấn động, từ từ quay đầu lại, sắc mặt càng lợt lạt hơn. Bà cất tiếng run run hỏi:
– Sao… tướng công lại biết ta?
Bà hỏi rồi cúi đầu xuống, không nói thêm nữa.
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ ra đời được ba ngày thì song thân đã ngủ yên dưới lòng đất, thành ra suốt đời không biết đến lòng từ ái của cha mẹ. Nhưng so với cô con gái của phu nhân thì còn dễ chịu hơn nhiều. Ngày ở Thương gia bảo, phu nhân lòng dạ sắt đá không chịu bồng con gái, cứ để mặc cho nó gào khóc. Đúng thế thật! Tại hạ còn sung sướng hơn lệnh ái nhiều.
Miêu phu nhân tên gọi Nam Lan nghe nói, người lảo đảo muốn té, bà ngập ngừng hỏi:
– Tướng công… tướng công là ai?
Hồ Phỉ trỏ phần mộ đáp:
– Tại hạ đến trước ngôi mộ này để kêu những tiếng “gia gia” và “má má”, nhưng vì hai vị đã chết cả rồi, nên mới không trả lời và không bồng tại hạ được.
Nam Lan hỏi:
– Phải chăng tướng công là… lệnh lang của Hồ Nhất Đao?
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng vậy! Tại hạ họ Hồ tên Phỉ. Tại hạ đã được gặp Kim Diện Phật Miêu đại hiệp và thấy cả con gái của lão nhân gia.
Nam Lan khẽ hỏi:
– Họ… họ mạnh giỏi cả chứ ?
Hồ Phỉ dõng dạc đáp:
– Không mạnh giỏi gì đâu!
Nam Lan tiến lên một bước, giọng cầu khẩn:
– Họ làm sao? Hồ tướng công! Ta cầu xin tướng công nói cho ta hay.
Hồ Phỉ đáp:
– Miêu đại hiệp bị gian nhân hãm hại mù cả hai mắt, Miêu cô nương lênh đênh cơ khổ lại chẳng có má má chiếu cố.
Nam Lan thất kinh ngập ngừng hỏi:
– Y… y có võ công cái thế, sao lại…
Hồ Phỉ cả giận lớn tiếng:
– Trước mặt tại hạ mà phu nhân còn giỏ trò giả gà giả vịt được nữa ư? Điền Quy Nông thi hành độc kế, chẳng lẽ không do gian mưu của phu nhân? Nếu nơi đây không phải là mộ an táng song thân thì tại hạ đã chém cho phu nhân một đao chết rồi. Thôi đi đi!
Nam Lan cất tiếng run run hỏi:
– Ta… ta quả tình không biết gì. Hồ tướng công, bây giờ y đã khỏi chưa?
Hồ Phỉ thấy mặt bà đầy vẻ thành khẩn khẻ không ra tuồng trá ngụy, nhưng nghĩ rằng người đàn bà này vốn tính lẳng lơ giảo hoạt, xảo trá đủ mọi đường, nên chàng không muốn nói nhiều nữa mà chỉ “hừ” một tiếng.
Chàng đằng hắng một tiếng rồi trở gót bước đi.
Nam Lan lẩm bẩm:
– Y bị mù mắt rồi! Lan nhi ơi! Lan nhi khốn khổ ơi!
Đột nhiên bà thấy trước mặt tối sầm rồi ngã lăn ra ngất đi.
Hồ Phỉ nghe đánh “huỵch” một tiếng, quay đầu nhìn lại, không khỏi giật mình kinh hãi. Chàng ngần ngừ một chút rồi đặt tay lên mũi bà, thấy hơi thở chỉ còn thoi thóp, mạch đập yếu ớt, mỗi lúc một chậm dần. Nếu không giải cứu tất bà bỏ mạng đến nơi. Chàng không ngờ con người vô tình bạc nghĩa này lại cảm xúc đến thế. Chàng vội ấn huyệt “Nhân trung”, nắn bóp dưới nách bà.
Hồi lâu Nam Lan dần dần hồi tỉnh. Bà thều thào hỏi:
– Hồ tướng công! Ta có chết cũng chẳng có gì tiếc nuối, chỉ cầu xin tướng công nói rõ thực tình. Y cùng Lan nhi hiện trạng ra sao?
Hồ Phỉ hỏi lại:
– Chẳng lẽ phụ nhân còn quan tâm đến họ nữa ư?
Nam Lan đáp:
– Ta có nói tướng công cũng chẳng tin nào. Mấy năm nay ta ngày đêm luôn tưởng nhớ tới hai người này. Ta tự biết chẳng còn sống được bao lâu nữa, chỉ mong thấy mặt họ một lần, nhưng ta còn mặt mũi nào nhìn lại cha con họ nữa? Hôm nay ta đến đây vì Miêu đại ca sau khi thành hôn với ta không lâu, có đưa ta tới đây để tế lệnh tôn và lệnh đường. Miêu đại ca bảo trong đời y chỉ khâm phục có hai người là vợ chồng Hồ đại hiệp. Ngày ấy ở trước ngôi mộ này, y nói chuyện với ta rất nhiều.
Hồ Phỉ thấy lời lẽ bà tha thiết, tình cảm lại rất chân thành, liền đáp:
– Thôi được! Tại hạ cho phu nhân hay hiện trạng của cha con Miêu đại hiệp!
Rồi chàng lược thuật vụ Miêu Nhân Phụng trúng độc mù mắt, còn chàng ở bên cạnh tương trợ thì chỉ thuật phớt qua.
Nam Lan còn hỏi han về việc ăn ở của Miêu Nhân Phụng và Miêu Nhược Lan, nhưng Hồ Phỉ đến Miêu gia vào lúc bất chợt, khi ra đi cũng hốt hoảng, nên chẳng biết mấy về tình trạng của tiểu cô nương kia.
Chàng nói đến lúc mặt trời đã lặn về tây, Nam Lan vẫn thấy chưa đủ, cứ hỏi không thôi. Hồ Phỉ nói đến khi không còn gì để trả lời nữa mà Nam Lan vẫn cứ hỏi chàng con gái bà ăn mặc ra sao, quần áo bằng lụa hay bằng vải, do phụ thân đến tiệm mua hay nhờ người khác may hộ, mặc vào xem có hợp không…
Hồ Phỉ thở dài nói:
– Tại hạ chẳng biết gì hơn nữa. Phu nhân… đã quan tâm như vậy thì sao ngày trước lại…
Chàng đứng lên nói tiếp:
– Tại hạ phải đi tìm chỗ trọ đây. Hôm nay định đến đây mai táng tro cốt của nghĩa muội, nhưng bây giờ đã muộn quá rồi, đành để đến ngày mai vậy.
Nam Lan đáp:
– Hay lắm! Ngày mai ta cũng đến nữa.
Hồ Phỉ nói:
– Không! Tại hạ chẳng còn điều chi để kể với phu nhân đâu.
Chàng dừng lại một chút rồi hỏi:
– Miêu phu nhân! Phải chăng gia gia và má má tại hạ chết về tay Miêu Nhân Phụng?
Nam Lan từ từ gật đầu đáp:
– Y có nói chuyện này với ta… chỉ vì…
Bà nói tới đây, bỗng nghe có tiếng người hô từ phía xa:
– A Lan! A Lan! … A Lan! Nàng ở đâu?
Hồ Phỉ và Nam Lan nghe tiếng gọi đều biến sắc. Thì ra đó là thanh âm của Điền Quy Nông.
Nam Lan nói:
– Hắn đã đến kiếm ta. Sáng sớm mai mời tướng công lại tới đây. Ta sẽ nói chuyện về lệnh tôn cùng lệnh đường.
Hồ Phỉ đáp:
– Được rồi! Sáng sớm mai chúng ta sẽ gặp nhau ở đây.
Chàng không muốn gặp Điền Quy Nông, liền ẩn vào phía sau phần mộ, bụng bảo dạ:
– Ngày mai ta sẽ hỏi cho rõ về cái chết của gia ga và má má. Nếu vụ này có liên quan đến tên gian tặc Điền Quy Nông thì không thể tha hắn được. Chắc Miêu phu nhân sẽ che giấu cho hắn, nhưng ta cứ điều tra cẩn thận cho ra manh mối. Có điều ta chưa hiểu Điền Quy Nông đến Thương Châu vì việc gì?
Nam Lan từ khu mộ địa bước chạy đi, nhưng không phải về phía phát ra tiếng gọi của Điền Quy Nông. Bà đi chừng mấy chục trượng, vẫn còn nghe tiếng Điền Quy Nông không ngớt hô hoán.
Nam Lan bỗng lên tiếng:
– Tiểu muội ở đây!
Điền Quy Nông “ủa” một tiếng rồi lần theo tiếng nói chạy tới.
Lại nghe Nam Lan nói:
– Tiểu muội đi đâu thì mặc tiểu muội, Điền ca đã hứa không được can thiệp rồi kia mà.
Bỗng nghe tiếng cười và tiếng nói của Điền Quy Nông văng vẳng vang lên:
– Ai mà dám can thiệp? Chỉ tại ta nhớ nàng lắm! Nơi đây rất hoang vu lạnh lẽo, nàng hãy cẩn thận, đừng có sợ nghe…
Rồi hai người sóng vai nhau đi mỗi lúc một xa, nói gì cũng không nghe được nữa.
Hồ Phỉ tự nhủ:
– Trời sắp tối rồi. Chi bằng ta ở đây với gia gia và má má một đêm.
Chàng lấy lương khô ra ăn, rồi ôm gối ngồi bên phần mộ mà trầm tư mặc tưởng một hồi lâu. Ngọn gió thu thổi tới, chàng cảm thấy giá lạnh. Lá vàng rơi lác đác trên mộ địa, rơi cả trên người Hồ Phỉ. Mãi đến lúc trăng lên đầu núi, chàng mới ngủ được. Hồ Phỉ thiu thiu ngủ đến khoảng nửa đêm, bỗng nghe tiếng vó ngựa từ phía xa vọng lại.
Hồ Phỉ giật mình thức giấc, nghĩ bụng:
– Đêm hôm khuya khoắc, sao còn có người chạy ngựa tới chốn hoang dã này?
Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần và chạy rất nhanh. Khi còn cách phần mộ chừng ba dặm, ngựa chậm lại, đi thong thả từng bước một. Dường như kỵ mã đã xuống ngựa dắt nó đi để tìm kiếm vật gì.
Hồ Phỉ nghe tiếng con ngựa kia đang đi về phía mình liền nhoài người trên đống cỏ để xem ai đến.
Dưới ánh trăng thượng tuần, một bóng người nhỏ nhắn dắt ngựa đi tới. Lúc còn cách phần mộ chừng mười trượng, Hồ Phỉ mới nhìn rõ người này mình mặc áo đen, đầu đội mũ tròn, chính là Viên Tính.
Hồ Phỉ trống ngực đánh thình thình, cảm thấy lưỡi khô môi ráo, muốn cất tiếng hô hoán nhưng chẳng hiểu tại sao không lên tiếng được. Trong khoảnh khắc, trong đầu chàng bao luồng tư tưởng cuộn lên như sóng trào, chàng tự hỏi:
– Nàng tới đây làm gì? Sao nàng biết ta ở đây? Nàng vô tình mà tới hay đến đây tìm ta?
Bỗng nghe Viên Tính lẩm nhẩm đọc hàng chữ trên bia mộ:
– Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao phu phụ chi mộ.
Nàng buông tiếng thở dài u uẩn, miệng lẩm bẩm:
– Ở đây rồi!
Nàng cẩn thận nhìn bia mộ rồi tự nói như để cho chính mình nghe:
– Trước mộ chưa thấy tro giấy tiền. Vậy là y chưa đến tảo mộ.
Đột nhiên nàng nổi lên cơn ho kịch liệt, mỗi lúc một dữ dội không ngừng lại được.
Hồ Phỉ nghe tiếng nàng ho, kinh hãi nghĩ thầm:
– Nàng nhiễm bệnh rồi, mà dường như bệnh thế không phải là nhẹ.
Viên Tính ho một hồi lâu mới dần dần ngừng lại, buồn rầu nói:
– Giá như ngày trước ta không lập lời trọng thệ trước mặt sư phụ, thì có thể trọn đời theo y đến tận chân trời, hành hiệp trượng nghĩa, há chẳng hay ư? Hỡi ơi Hồ đại ca! Đại ca đau khổ, nhưng có biết chăng tiểu muội còn thương tâm gấp mười?
Hồ Phỉ gặp nàng nhiều lần, nhưng nàng như hữu tình mà tựa vô tình, chẳng bao giờ thực sự thổ lộ chân tâm tình ý. Nếu đây chẳng phải là nơi hoang vu không một bóng người thì nàng quyết chẳng để lộ niềm u uẩn trong lòng. Viên Tính nói mấy câu này rồi tâm thần dao động, ngồi tựa vào bia mộ, lại nổi một cơn ho nữa.
Hồ Phỉ không nhẫn nại được nữa, tung mình nhảy vọt ra cất giọng ôn nhủ nói:
– Cô nương bị phong hàn rồi chăng? Phải bảo trọng lấy thân mới được.
Viên Tính cả kinh, đứng lên lùi lại một bước, hai tay giao chéo nhau đưa lên bảo vệ trước ngực. Khi nàng nhìn rõ là Hồ Phỉ, bất giác mặt đỏ bừng lên. Một lúc sau, nàng mới ấp úng:
– Đại ca… đại ca là phường trẻ nít khinh bạc, sao lại ẩn núp ở đây để nghe lén câu chuyện của người ta?
Hồ Phỉ tâm tình xúc động, trong lòng tình cảm dạt dào, chẳng úy kỵ gì nữa, lớn tiếng nói:
– Viên cô nương! Tại hạ đối với có nương một dạ chân thành, cô nương quyết không phải là không biết. Cô nương hà tất phải tự làm khổ mình một cách oan uổng? Tại hạ cùng cô nương đến bẩm báo với tôn sư xin cho cô nương hoàn tục, chẳng làm ni cô nữa. Chúng ta vĩnh viễn bên nhau, há chẳng hay hơn ư?
Viên Tính vịn lấy bia mộ, gập người xuống ho rũ rượi, không đứng ngay lên được.
Hồ Phỉ trong lòng thương xót, tiến gần lại gần hai bước, cất giọng ôn nhu nói:
– Cô nương đâu cần phải phiền não…
Đột nhiên nàng ho một tiếng, rồi thổ ra một búng máu tươi.
Hồ Phỉ kinh hãi hỏi:
– Cô nương thụ thương ra sao?
Viên Tính đáp:
– Tiểu muội bị tên gian tặc Thang Bái đả thương.
Hồ Phỉ tức giận hỏi:
– Hắn ở đâu? Để tại hạ đi kiếm hắn!
Viên Tính đáp:
– Tiểu muội giết hắn rồi!
Hồ Phỉ cả mừng, nói:
– Cung hỷ cô nương đã tự tay giết chết kẻ đại thù.
Rồi chàng hỏi:
– Cô nương bị thương ở đâu? Hãy mau ngồi nghỉ đi.
Chàng đỡ cho nàng từ từ ngồi xuống, rồi nói tiếp:
– Cô nương đã bị thương, cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, không nên ngồi trên lưng ngựa mà bôn ba suốt đêm trường.
Viên Tính quay lại nhìn chàng nghĩ bụng:
– Làm gì ta chẳng biết mình cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng? Nếu không phải vì chàng thì việc gì ta phải bôn ba suốt đêm trên lưng ngựa?
Rồi nàng hỏi:
– Trình gia muội tử đâu? Sao không thấy y?
Hồ Phỉ nước mắt chảy quanh, cất tiếng run run đáp:
– Cô ấy… cô ấy… qua đời rồi!
Viên Tính thất kinh đứng nhỏm dậy, hỏi:
– Sao… sao lại… qua đời?
Hồ Phỉ đáp:
– Cô nương hãy ngồi xuống để tại hạ thong thả nói cho nghe.
Đoạn chàng đem chuyện mình bị trúng chất kịch độc của Thạch Vạn Sân, rồi Trình Linh Tố xả thân cứu mạng mình ra sao, kể hết lại đầu đuôi. Viên Tính buôn rầu sa lệ. Hai người nhìn nhau hồi lâu không nói gì và cũng tưởng nhớ đến Trình Linh Tố cốt cách nghĩa hiệp, lòng dạ hiền hòa, mình khó lòng sánh kịp.
Một trận gió thu thổi tới, khí lạnh thấm vào, Viên Tính khẽ run lên.
Hồ Phỉ cởi áo trường bào khoác cho nàng, khẽ nói:
– Cô nương… hãy ngủ đi một lát.
Viên Tính đáp:
– Không, tiểu muội không ngủ. Tiểu muội đến nói với đại ca một câu rồi… lại đi ngay.
Hồ Phỉ kinh hãi hỏi:
– Cô nương còn đi đâu?
Viên Tính đưa mắt đăm đăm nhìn chàng, khẽ đáp:
– Tá như sinh tử biệt, an đắc khổ trường bi!
Hồ Phỉ nghe hai câu này bất giác ngẩn người ra, lẩm nhẩm đọc lại:
– Tá như sinh tử biệt, an đắc khổ trường bi?
Viên Tính nói:
– Hồ đại ca! Chỗ này không thể ở lâu được, đại ca nên đi ngay. Dọc đường tiểu muội đã nghe tin nên chạy theo cho đại ca hay.
Hồ Phỉ hỏi:
– Tin tức gì?
Viên Tính đáp:
– Từ hôm chia tay với đại ca, tiểu muội vẫn theo dõi Thang Bái. Phải nói tên tặc tử đó giảo quyệt phi thường, không biết trốn biệt đi đâu. Tiểu muội tưởng gia quyến của hắn ở Hồ Bắc mà hắn đắc tội với Phúc Khang An, tất liên lụy tới toàn gia, nên chắc chắn hắn tìm cách báo cho trẻ già trong nhà hay để cấp tốc đào tẩu.
Hồ Phỉ gật gù:
– Cô nương tiên liệu rất đúng.
Viên Tính đáp:
– Tuy hắn mang ngoại hiệu “Cam Lâm Huệ thất tỉnh”, giao du rất rộng trên chốn giang hồ, nhưng tiểu muội nghĩ hạng người giảo quyệt như hắn tất đã kết giao được người bạn tốt nào. Bây giờ đại họa lâm đầu, chỉ có đưởng về nhà mà thôi. Tiểu muội liền theo hướng đông nam mà đuổi theo. Sau ba ngày, tiểu muội đuổi đến điếm Thanh Phong mới kịp hắn. Cuộc ác chiến xảy ra ở Cao Lương. Cuối cùng tiểu muội đánh chết tên tặc tử đó rồi. Nhưng mình cũng bị trọng thương.
Hồ Phỉ nghe nói, buông tiếng thở dài.
Viên Tính lại nói:
– Tiểu muội ở khách điếm dưỡng thương mấy ngày thấy liên tiếp hai bọn võ sĩ của Phúc Khang An đi qua, trong đó có cả Chu Thiết Tiêu ở Ưng Trảo Nhạn Hành môn. Tiểu muội liền gọi lại nói chuyện với hắn.
Hồ Phỉ cả kinh, hỏi:
– Cô nương đã bị trong thương mà không sợ hắn trả thù ư?
Viên Tính mỉm cười đáp:
– Tiểu muội cho hắn một dịp lập nên đại công, thì dù có thù hận gì với tiểu muội, hắn cũng đều bỏ qua. Tiểu muội chỉ cho hắn biết chỗ chôn Thang Bài để hắn cắt đầu lão đem về Bắc Kinh. Có phải là một kỳ công không nào? Quả nhiên hắn rất cảm kích tiểu muội.
Tiểu muội bảo hắn:
– Chu đại gia! Nếu đại gia bắt bần ni thì dĩ nhiên cũng là một đại công có điều Hồ Phỉ đại ca không buông tha đại gia đâu, do đo bao nhiêu chuyện giấu giếm từ trước đến giờ sẽ bị lộ tẩy hết!
Chu Thiết Tiêu quả là tay xảo quyết. Hắn đáp:
– Con người của đại ca, tại hạ rất khâm phục, quyết không dám đắc tội với bạn hữu của y. Xin sư thái chuyến lời cho Hồ đại ca hay là Điền Quy Nông đã thống lãnh nhiều tay hảo thủ đến Thương Châu mai phục bên mộ phần gia nương Hồ đại ca để tróc nã y đó.
Hồ Phỉ giật mình kinh hãi hỏi:
– Bọn chúng mai phục ở đây ư?
Viên Tính đáp:
– Đúng thế! Tiểu muội nghe Chu Thiết Tiêu nói vậy, biết là đúng sư thật, nên trong lòng rất bồn chồn lo lắng, chỉ sợ đến chậm một bước. Chà! Tạ ơn Trời Phật, bọn loạn tử đó chưa thấy xuất hiện.
Hồ Phỉ thấy nàng dung nhan tiều tụy, bụng bảo dạ:
– Nàng chỉ vì cứu ta, chỉ e đã nhiều đêm không ngủ rồi.
Viên Tính lại nói:
– Tại sao Điền Quy Nông biết mộ phần lệnh tôn và lệnh đường táng ở đây? Tại sao hắn nhất định là đại ca sẽ về tảo mộ? … Hồ đại ca ơi! Hảo hán không thể địch lại nhiều người. Trước mắt chúng ta hãy lánh đi một bước rồi sẽ nói chuyện.
Hồ Phỉ đáp:
– Bữa nay tại hạ đã gặp Miêu phu nhân và ước hẹn ngày mai sẽ gặp nhau ở đây.
Viên Tính hỏi:
– Miêu phu nhân là ai?
Hồ Phỉ liền kể lại những chuyện đã qua.
Viên Tính vội nói:
– Người đàn bà đó đến cả chồng con cũng chẳng còn nghĩ đến thì làm gì giữ được tín nghĩa? Đại ca hãy nghe lời tiểu muội đi sớm đi!
Hồ Phỉ thấy thái độ Miêu phu nhân rất thành thực, vẻ mặt tựa hồ như thông có gì trá ngụy, hơn nữa chàng cũng mong mỏi biết rõ chân tướng việc song thân qua đời, nên rất muốn chờ gặp bà.
Viên Tính liền hỏi:
– Điền Quy Nông đã đến đây, khi nào Miêu phu nhân lại không nói cho hắn biết? Hồ đại ca, tại sao đại ca không nghe lời tiểu muội? Tiểu muội chạy suốt ngày suốt đêm đến báo tin cho đại ca lánh nạn, chẳng lẽ đại ca không để vào lòng một chút nào ư?
Hồ Phỉ trong lòng run lên, đáp:
– Cô nương nói phải lắm. Đúng là tại hạ sai lầm.
Viên Tính nói:
– Đâu cần đại ca phải nhận sai.
Hồ Phỉ cầm cương ngựa, nói tiếp:
– Được rồi! Cô nương hãy lên ngựa đi.
Viên Tính vừa toan lên ngựa, bỗng nghe tiếng còi từ bốn phương tám hướng nổi lên lanh lảnh. Địch nhân đã kéo đến bao vây phần mộ.
Hồ Phỉ nghiến răng nói:
– Mụ đàn bà kia quả nhiên đã lừa gạt tại hạ. Chúng ta hãy xông về phía tây.
Hồ Phỉ nghe tiếng còi, trong lòng không khỏi kinh hãi vì biết bên địch rất đông. Giá như Viên Tính chưa bị thương thì hai người đột phá trùng vây không phải là chuyện khó, nhưng cứ tình trạng như hiện nay thì chẳng dễ dàng gì.
Viên Tính nói:
– Chỉ cần Hồ đại ca nhắm phía tây mà xông ra, không cần phải lo cho tiểu muội. Tiểu muội tự có cách thoát thân.
Hồ Phỉ nghe bầu nhiệt huyết sôi trào lên ngực, lớn tiếng quát:
– Nếu vậy chúng ta cùng chết một chỗ. Cô nương nói vậy mà nghe được ư? Hãy đi theo tại hạ!
Viên Tính bị chàng nổi nóng lớn tiếng quát mắng, nhưng trong lòng lại thấy rất êm ái, ngọt ngào. Nàng tự biết mình bị trọng thương, chẳng thể sử dụng được cây nhuyễn tiên, liền quất roi cho ngựa chạy theo sau Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ rút đao cầm tay, đi được mấy trượng thấy bóng năm người sánh vai đứng cản đường. Chàng nghĩ bụng:
– Bữa nay mà muốn thoát khỏi trùng vậy thì mỗi đao đều phải hạ sát thủ, chẳng thể nương tay được.
Chàng liền rảo bước xông thẳng. Dù phải ít người địch với số đông, nhưng chàng vẫn dùng yếu quyết “hậu phát chế nhân”, đưa vai bên trái đi trước, chưởng trái chênh chếch giơ ra, tay mặt cầm đao để rũ xuống bên đùi.
Hai võ sĩ của Phúc Khang An một tên tay cầm thiết tiên, một tên vung quỷ đầu đao đồng thanh hò hét, chia ra hai bên đánh vào đầu Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ vừa thấy hai gã ra chiêu đã biết ngay võ công của chúng không phải tầm thường. Có điều trong khoảnh khắc mà không thắng nổi chúng thì bên địch tới vây càng đông, muốn thoát thân được quả là điều thiên nan vạn nan. Chàng vừa vọt người chênh chếch lên cao, nhằm tên đứng ở sát mé trái chém xuống một đao. Tên này vội đưa trường kiếm lên gạt. Hồ Phỉ người còn đang lơ lửng trên không đã vận nội kình vào thanh đao, hai chân vung ra đá trúng ngực tên vệ sĩ thứ nhất nhanh như điện chớp. Tên này bị hất tung đi, miệng hộc máu tươi.
Võ sĩ sử kiếm cảm thấy luồng kình lực trên binh khí truyền đến cánh tay, lại đè lên trước ngực, tưởng chừng như mấy rẽ xương sườn đều bị gãy hết. Gã chưa kịp kêu thì đã lăn ra chết giấc.
Bọn võ sĩ thấy đối phương mới ra hai chiêu đã đả thương hai đồng bạn thì đều chấn động tâm thần.
Tên võ sĩ sử quỷ đầu đao quát lớn:
– Hồ đại gia quả nhiên là hảo công phu. Tại hạ là Tư Đồ Lôi xin lãnh giáo.
Gã sử thiết tiên cũng hô:
– Tại hạ là Tạ Bất Đáng, xin lãnh giáo mấy cao chiêu.
Hồ Phỉ quát lớn:
– Được!
Chàng vung thanh đơn đao xoay quanh mình, đao phong rít lên veo véo trong ánh đao quang lấp lánh, đánh ra ba chiêu. Cả người chàng cũng xô tới.
Tư Đồ Lôi và Tạ Bất Đáng vội lùi lại hai bước.
Tên võ sĩ thứ ba la lên:
– Tại hạ là Đông Phương…
Gã mới nói được mấy tiếng thì sống đao của Hồ Phỉ đã chém xuống đầu, vỡ óc chết tươi, chưa kịp hiểu gã tên là Đông Phương gì nữa.
Tư Đồ Lôi và Tạ Bất Đáng phòng thủ môn hộ kín đáo, lùi lại hai bước, nhưng không để Hồ Phỉ xông qua. Chúng huýt lên một tiếng còi, thêm bốn tên vệ sĩ liền chạy đến, đứng sánh vai nhau phía sau Tư Đồ Lôi và Tạ Bất Đáng.
Tuy trong chớp mắt Hồ Phỉ đã liên tiếp đánh chết ba địch nhân, nhưng Tư Đồ Lôi và Tạ Bất Đáng khôn ngoan hơn, chúng không tiến lên tiếp chiến, mà lùi lại hai lần để cản đường rút lui của Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ ngấm ngầm kêu khổ. Chàng sử chiêu “Dạ chiến bát phương tàng đao thức” đánh về phía trước, đặt chân trái xuống xoay một vòng là đã đếm xong số địch nhân: mặt tây có sáu người, mặt đông có tám người, hai mặt nam bắc đều có năm người. Không kể ba tên đã chết thì đối phương vẫn còn mười chín tên.
Bỗng có tiếng cười rộ, thanh âm nghe sang sảng, tiếp theo có tiếng người nói:
– Hồ huynh đệ! Hạnh hội! Hạnh hội! Mỗi lần gặp huynh đệ lại thấy bản lãnh tiến thêm một bậc. Xin lỗi nhé! Xin lỗi nhé!
Chính là thanh âm Điền Quy Nông từ phía nam vọng tới.
Hồ Phỉ không lý gì đến hắn, chăm chú nhìn sáu tên địch ở mé tây. Chàng nghe bốn tên xưng danh:
– Tại hạ là Trương Ninh!
– Tại hạ là Đinh Văn Hổ xin lãnh giáo!
– Tại hạ là Đinh Văn Thâm tham kiến Hồ đại gia!
– Hà hà! Lão phu là Trần Kính Phu!
Hồ Phỉ xông lên phía trước rồi đột nhiên chuyển qua hướng bắc. Chàng đưa ngón tay trái điểm vào trước ngực tên võ sĩ thứ hai. Tên này tay cầm cặp phán quan bút, chính là một tay hảo thủ về môn điểm huyệt.
Gã thấy đối phương vươn tay ra điểm tới, liền phóng cây phán quan bút ở tay phải ra điểm vào huyệt “Khuyết bồn” ở vai bên phải Hồ Phỉ. Chiêu chuyển từ thế thủ sang thế công này cực kỳ lợi hại. Hồ Phỉ tuy ra tay trước, nhưng phán quan bút của gã dài hơn hai thước hai tấc, thành ra ngón tay chàng chưa đụng vào huyệt đạo đối phương mà huyệt “Khuyết bồn” của mình đã bị điểm tới.
Không dè Hồ Phỉ tay trái lướt ngang chụp vào cây phán quan bút, rồi vận lực đẩy mạnh về phía trước. Người kia vừa “hự” lên một tiếng thì cán bút đã đâm sâu vào yết hầu.
Giữa lúc ấy lại nghe phía sau có tiếng hai người hô:
– Tại hạ là Hoàng Tiều!
– Tại hạ là Ngũ Công Quyền!
Tiếng hô chưa dứt, đao phong đã lướt tới lưng, Hồ Phỉ vội nhảy xổ về phía trước khiến hai thanh đơn đao đâm vào khoảng không. Hồ Phỉ thuận thế xoay đao lại, từ trên cao chém xuống cổ tay Hoàng Tiều.
Đây là một chiêu rất tinh diệu trong “Hồ gia đao pháp”, phải là người có võ công cao cường mới luyện nổi. Không ngờ Hoàng Tiều tinh thông cả mười tám đường đại cầm nã thủ, nên ứng biến rất thần tốc. Hắn thấy mũi đao chém tới cổ tay thế rất nguy cấp liền ném đơn đao đi, xoay tay lại chụp xuống sống đao của Hồ Phỉ.
Đừng thấy hắn râu chuột, mắt nhỏ ti hí, tướng mạo xấu xí mà coi thường. Hắn biến chiêu còn lẹ hơn cả Hồ Phỉ. Năm ngón tay hắn như năm móng chân gà, vừa vung ra đã chụp được sống đao của Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ ỷ mình sức mạnh, vung đao phóng luôn về phía trước. Ngờ đâu tý lực của Hoàng Tiều cũng không phải tầm thường. Năm ngón tay hắn đã nắm được sống đao rồi, Hồ Phỉ không thể xoay trở đao để chém tới được nữa.
Hồ Phỉ vừa ngẩn người một chút thì phía sau lại có ba người đồng thời đánh tới.
Chàng liền tính toán tình thế, chờ cho ba người đánh tới, nhưng trong chớp mắt vẫn còn đủ thời giờ liệu lý Hoàng Tiều. Lúc này chàng đã hãm trong trùng vây, trước mắt lại là một tay kình địch, nếu đả thương được hắn là giảm bớt đi một phần uy hiếp. Hồ Phỉ đột nhiên buông đao, vung song chưởng đánh vào ngực Hoàng Tiều, nghe “binh” một tiếng. Hoàng Tiều sững sờ, tuy chưa té hẳn, nhưng phải buông năm ngón tay cho thanh đao rơi xuống.
Hồ Phỉ lại đưa tay nắm lấy chuôi đao, xoay mình lại gạt ba thứ binh khí.
Ba tên võ sĩ một là Ngũ Công Quyền, một là lão già Trần Kính Phu, còn một tên nữa thân hình khôi vĩ, cao hơn Hồ Phỉ đến nửa cái đầu. Tay hắn cầm cây đồng côn cực kỳ trầm trọng, ước chừng bốn mươi cân.
Hồ Phỉ đón đỡ xong một chiêu, nghe trước ngực chấn động. Chàng toan nhảy tạt ngang né tránh thì hai người ở hai bên đã đánh tới.
Viên Tính cưỡi ngựa theo sau, bọn võ sĩ mải vây đánh Hồ Phỉ nên nhất thời chưa để ý gì đến nàng. Viên Tính tuy bị trọng thương yếu sức, nhưng đã nhìn rõ Hồ Phỉ đả thương được năm tên qua từng chiêu từng thức. Nàng rất quan tâm đến sự an nguy của Hồ Phỉ, nên khi mắt thấy chàng bị năm người vây đánh rất cấp bách, liền giật cương phóng ngựa xông tới.
Nàng vung roi ngựa dùng làm nhuyễn tiên, ra chiêu “Dương quan chiết liễu” quấn lấy cổ gã đại hán to lớn. Hắn đang hô lớn báo danh “Tại hạ là Cao Nhất Lực, xin lãnh giáo…” thì đột nhiên cổ họng bị siết chặt không nói được nữa.
Tuy khí lực hắn mãnh liệt, nhưng một là đột nhiên bị nghẹt thở, hai là không địch nổi con ngựa đang chồm tới, khiến hắn chân đứng không vững bị ngựa kéo ngang ra, đụng vào Trương Ninh bên cạnh làm tên này cũng té theo.
Hồ Phỉ thấy đã bớt được hai địch nhân liền vung hai nhát đao chém Đinh Văn Hổ và Đinh Văn Thâm té xuống đất.
Đột nhiên Hồ Phỉ cảm thấy có tiếng gió rít lên sau lưng, có người đang chém tới. Chàng không kịp xoay mình, chỉ xoay tay ra chiêu “Đảo ngọa hổ quái mãng phiên thân” chém lại. Bỗng nghe đánh “choang” một tiếng, trên tay bỗng nhiên nhẹ bẫng. Thanh đao của chàng đã bị thành lợi đao của địch nhân chém cụt.
Địch nhân thừa thế phóng binh khí tới, Hồ Phỉ cả kinh, bèn dí chân trái xuống đất, vọt về phía trước ra xa hơn một trượng, nhưng cũng bị chậm mất một chút. Vai trái chàng bị đao quét trúng đau nhói lên. Chàng biết kẻ vừa đánh lén là Điền Quy Nông thì không khỏi thầm kinh hãi, vì võ công của Điền Quy Nông tuy chẳng có chi đáng kể, nhưng thanh lợi đao của hắn sắc bén tuyệt luân, thật khó lòng chống trả.
Hồ Phỉ vừa đứng chân phải xuống đất, tay trái liền phóng chưởng, tay mặt biến thành móc câu đoạt ngay thanh đơn đao của một tên võ sĩ, rồi xoay tay chém ngược lại. Chiêu “Không thủ đoạt bạch nhận” này cực kỳ linh hoạt, mà đòn phản công lại lợi hại vô tỷ.
Nên biết Điền Quy Nông tay cầm lợi đao bám theo sát gót, hễ chậm một chút hoặc chỉ né tránh sai lệch trong đường tơ kẽ tóc là chết dưới bảo đao của hắn ngay.
Hồ Phỉ không dám dùng đơn đao đối phó với đối phương, mà phải dùng khinh công nhảy nhót để tỷ đấu. Hồ Phỉ tránh được bảy tám chiêu thì mười mấy tên địch lại đến bao vây. Ngoài ra còn ba tên công kích Viên Tính.
Chàng chỉ mới phân tâm một chút vì Viên Tính, thì bỗng nghe “choang” một tiếng. Thanh đơn đao trong tay chàng lại bị bảo đao của Điền Quy Nông chém gãy. Thanh bảo đao của hắn quả cực kỳ lợi hại, chém sắt như chém bùn.
Điền Quy Nông quyết tâm dồn Hồ Phỉ vào chỗ chết. Ánh hào quang lấp loáng, thanh bảo đao trong tay hắn ra chiêu mỗi lúc một thêm ráo riết. Lúc bình thường thì hắn sử kiếm, dùng đao không thuận tay, có điều thanh đao này sắc bén tuyệt luân, nên chỉ cần vung đao múa tít là Hồ Phỉ quyết không dám đưa binh khí chạm vào. Hắn vung bảo đao xông thẳng tới.
Hồ Phỉ lại muốn cướp lấy một thứ khí giới để đỡ gạt nhưng chàng chẳng có lúc nào rảnh rỗi để xuất thủ. Bỗng “soạt” một tiếng, tay trái chàng bị trường kiếm của một võ sĩ vạch thành một vệt dài.
Bọn võ sĩ la ó ầm ĩ:
– Gã họ Hồ kia! Hãy đầu hàng đi!
– Ngươi là một trang hảo hán, sao lại để chết uổng ở nơi đây?
– Chúng ta đông người, ngươi quả bất địch chúng, dù chịu thua cũng không mất thể diện.
Điền Quy Nông chẳng nói năng gì, cứ lầm lì vung đao tấn công dữ dội. Vết thương sau vai Hồ Phỉ bỗng nổi lên đau đớn kịch liệt, cơ hồ mất mạng đến nơi.
Bỗng nghe thanh âm một phụ nữ la lên:
– Đại ca! Đừng hại mạng chàng thiếu niên đó.
Hồ Phỉ đang nghiến răng đánh vùi, chợt nghe rõ thanh âm của Miêu phu nhân, liền lớn tiếng quát:
– Ai mượn mụ giả nhân giả nghĩa?
Trong lúc hoang mang, chàng lại bị một cước đá trúng vào lưng.
Hồ Phỉ phẫn nộ đến cực điểm, tay phải vươn lẹ ra chụp được gót chân kẻ vừa đá. Chàng liền xách hắn lên quét chung quanh mình. Bọn võ sĩ sợ chém thương đồng bọn, nhất thời không dám đến gần.
Kẻ bị Hồ Phỉ chụp được chính là Trương Ninh. Hắn đánh vuột mất binh khí, lại bị Hồ Phỉ xoay quanh, đầu váng mắt hoa, cựa quậy cũng không sao thoát được.
Hồ Phỉ thấy Viên Tính ngồi trên ngựa né đông tránh tây mà con ngựa đã bị trúng mấy nhát đao, không ngớt hý lên những tiếng thê thảm. Chàng liền nhấc bổng Trương Ninh lên xông tới trước mặt Viên Tính miệng hô:
– Đi theo tại hạ!
Viên Tính nhảy xuống ngựa. Hai người chạy đến bên cạnh phần mộ Hồ Nhất Đao.
Bên mộ có một cây bách lớn. Hai người liền tựa vào vách cây cự địch, đối phương khó vây đánh hơn.
Hồ Phỉ nhấc Trương Ninh giơ lên quát:
– Các ngươi có muốn cho người anh em này sống nữa hay không?
Điền Quy Nông la lên:
– Cứ giết được tên phản tặc Hồ Phỉ là Phúc đại soái sẽ trọng thưởng.
Câu nói của hắn có ý nhắc nhở bọn thủ hạ: “Trương Ninh có sống hay chết cũng không quan trọng”. Hắn thấy mọi người ngần ngừ liền múa đao xông tới.
Hồ Phỉ cũng biết tuy mình bắt được Trương Ninh, nhưng không thể uy hiếp cho kẻ địch lùi lại. Chàng nghĩ Điền Quy Nông trong tay có bảo đao mà võ công lại cao cường, muốn bắt hắn không phải là việc dễ đàng. Hay hơn hết là bắt lấy Miêu phu nhân làm con tin, có điều bà đứng ở đằng xa ngoài mười trượng, bất luận thế nào cũng không thể xông tới được.
Chàng thấy Điền Quy Nông đang từng bước gần tới, liền sờ lưng Trương Ninh xem có đoản đao hay chủy thủ không, để còn chống cự được một lúc.
Bỗng chàng sờ đụng một túi cương tiêu rất nặng. Chàng liền dùng tay trái điểm huyệt hắn, tay mặt thò vào túi lấy một mũi cương tiêu. Hồ Phỉ nhấc thử lên thấy mũi cương tiêu khá nặng, liền vận kình lực ném thẳng vào bụng Điền Quy Nông.
Mũi cương tiêu thì nặng, kình lực phóng đi lại cực kỳ mãnh liệt. Điền Quy Nông cả kinh, thấy mũi tiêu chỉ còn cách bụng dưới không quá nửa thước, vội vung đao lên gạt. Tuy cây cương tiêu bị chặt đứt làm hai khúc nhưng đà đi của mũi tiêu chưa suy giảm, đâm vào cánh tay hắn thủng tới da thịt.
Giữa lúc ấy lại nghe tiếng rú “ối” thê thảm, một tên võ sĩ trúng tiêu vào cổ họng ngã ngửa về phía sau.
Điền Quy Nông tức giận thóa mạ:
– Tên tiểu tặc kia! Thử coi bữa nay ngươi còn trốn được nữa không?
Nhưng hắn không dám mạo hiểm xông vào, mà đứng chỉ huy bọn vệ sĩ vây kín hai người. Lần này bọn vệ sĩ trong phủ Phúc Khang An kéo đến đây, kể cả Điền Quy Nông là hai mươi bảy tên. Hồ Phỉ tuy giết chết chín tên, nhưng cũng bị thương không nhẹ. Mười tám tên còn lại bao quanh bốn phía.
Lúc này bọn chúng đã nắm chắc phần thắng. Có mấy người tiếc tài Hồ Phỉ liền gọi chàng đầu hàng.
Hồ Phỉ khẽ bảo Viên Tính:
– Tại hạ sẽ xông ra phía đông để kéo dãn vòng vây. Còn cô nương hãy mau chạy về phía tây. Con bạch mã đang cột dưới gốc tùng.
Viên Tính đáp:
– Con bạch mã đó là của đại ca, chứ có phải của tiểu muội đâu?
Hồ Phỉ gắt:
– Lúc này là lúc nào mà cô nương còn “của đại ca, của tiểu muội” nữa? Tại hạ không thể chiếu cố cho cô nương được nữa, cô nương chỉ cần đột phá trùng vây mà chạy thoát.
Viên Tính nói:
– Tiểu muội đâu cần đại ca chiếu cố. Đại ca cứ chạy theo hướng đó đi.
Theo kế hoạch của Hồ Phỉ thì Viên Tính sẽ cưỡi con bạch mã lao đi thật nhanh, còn chàng dùng dũng lực đối phó. Cách này may ra có thể thoát thân được. Nhưng Viên Tính không chịu, mà trong thâm tâm Hồ Phỉ cũng không muốn. Hai người quyết không chịu rời nhau trong giây phút quyết định tử sinh. Cũng có thể cả hai đều cảm thấy cảnh ngộ đời mình quá trớ trêu đau khổ nên chỉ muốn chết cho xong.
Hồ Phỉ nắm tay Viên Tính nói:
– Thôi được! Viên cô nương! Chúng ta đành cùng chết ở đây. Tại… tại hạ thấy trong lòng rất đỗi hoan hỷ.
Viên Tính khẽ hất tay chàng ra, vừa thở vừa nói:
– Tiểu muội …đã là người xuất gia. Đại ca dừng kêu bằng Viên cô nương nữa. Tiểu muội cũng không phải họ Viên.
Hồ Phỉ thấy trong lòng rất đỗi thê lương, nghĩ thầm:
– Hai người sắp chết đến nơi mà nàng vẫn kiên cường, chẳng mềm lòng chút nào.
Bỗng thấy một tên võ sĩ múa đao thành một vùng bạch quang, đang từng bước tiến lại gần. Hồ Phỉ lượm một viên đá ném vào giữa vùng bạch quang. Tên võ sĩ vung đao lên gạt rơi xuống. Hồ Phỉ liền nhân chỗ sơ hở phóng cương tiêu trúng vào trước ngực hắn. Tên vệ sĩ ngã ra tắt thở chết ngay.
Điền Quy Nông hô lớn:
– Tên tiểu tặc này hung hăng quá mức! Chúng ta cùng xông cả vào chẳng lẽ gã có ba đầu sáu tay hay sao?
Hồ Phỉ ngẩng đầu nhìn lên các vì sao đang lấp lánh, thầm nghĩ:
– Lát nữa thôi sẽ diễn một trường kịch đấu. Ta giết thêm được vài tên địch nữa, rồi thì nào trăng sao, nào hoa cỏ, nào điền dã mênh mông xin ngàn đời vĩnh biệt.
Điền Quy Nông hò hét chỉ huy, không còn úy kỵ gì nữa. Hắn ra lệnh cho tất cả bọn vệ sĩ đồng thời bốn mặt giáp công để dùng loạn đao phanh thây kẻ địch. Bọn vệ sĩ dạ ran.
Điền Quy Nông lại quát to:
– Hắn không có binh khí. Lần này mà không băm hắn thành một khối thịt không xong!
Miêu phu nhân đột nhiên chạy lại gần thêm mấy bước, nói:
– Điền đại ca! Hãy khoan! Tiểu muội có mấy câu muốn nói với thiếu niên này.
Điền Quy Nông chau mày đáp:
– A Lan! Chớ lại gần đấy. Coi chừng tên tiểu tặc phát điên rồi làm thương tổn đến nàng đó.
Miêu phu nhân vẫn khư khư nói:
– Y sắp chết rồi. Tiểu muội nói với y một câu thì có can gì?
Điền Quy Nông không biết làm sao, đành giục:
– Thôi được! Nàng nói lẹ đi.
Miêu phu nhân hỏi:
– Hồ tướng công! Tướng công chưa chôn bình tro cốt, nếu chết đi thì sao?
Hồ Phỉ ngang nhiên đáp:
– Cái đó không quan hệ gì đến bà! Tại hạ không muốn nhục mạ nữ nhân. Bà nên tránh xa ra là hơn.
Miêu phu nhân hỏi:
– Ta đã hứa lời cho tướng công hay về lệnh tôn. Tướng Công sắp chết đến nơi rồi mà cũng không muốn nghe ư?
Điền Quy Nông quát:
– A Lan! Sao nàng lại rắc rối ghê thế? Chính nàng cũng không hiểu chuyện đó kia mà!
Miêu phu nhân không lý gì đến hắn, mà nhìn Hồ Phỉ nói:
– Ta chỉ nói với tướng công ba câu có liên quan đến lệnh tôn. Tướng công có muốn nghe không?
Hồ Phỉ đáp:
– Phải rồi! Tại hạ chẳng thể ôm mối nghi ngờ trong lòng mà chết. Vậy phu nhân nói đi!
Miêu phu nhân nói:
– Câu chuyện này ta chỉ có thể nói với một mình tướng công nghe thôi. Nhưng tướng công không được bắt ta làm con tin. Nếu tướng công chẳng ưng thuận thì ta không nói nữa.
Hồ Phỉ đáp:
– Trước khi tại hạ chết mà cởi bỏ được mối nghi ngờ trong lòng, lẽ dĩ nhiên phải đa tạ phu nhân, khi nào lại hãm hại? Trong thiên hạ, nam tử hán, đại trượng phu nhiều lắm. Phu nhân tưởng ai cũng đê hèn ty bỉ như Điền Quy Nông chăng?
Điền Quy Nông sa sầm nét mặt lại. Hắn chẳng hiểu Miêu phu nhân muốn nói gì với Hồ Phỉ, nhưng xưa nay hắn chưa hề làm nàng phật ý, biết rằng muốn cản cũng không được, đành tự nhủ:
– Bất luận nàng nói gì cũng không có lợi đến thanh danh ta. Chi bằng đừng để người khác nghe thấy thì hơn.
Miêu phu nhân từ từ bước tới, ghé miệng vào tai Hồ Phỉ khẽ nói:
– Tướng công ra phía sau bia mộ ba thước, đào sâu xuống để chôn bình tro cốt là được một thanh bảo đao.
Nàng nói mấy câu này xong, liền lảng ra xa, lớn tiếng nói:
– Việc đó có liên quan đến Kim Diện Phật Miêu Nhân Phụng. Tướng công đã khám phá ra vụ bí mật này thì chết cũng không còn chi đáng tiếc nữa. Vậy tướng công mau đào lỗ mà chôn bình tro cốt đi, để người quá cố được yên tâm nằm dưới lòng đất. Tướng công đã giải tỏa được tâm sự, có chết cũng yên lòng.
Hồ Phỉ rất đỗi hoang mang, không hiểu ba câu của Miêu phu nhân có ngụ ý gì mà xem chừng không phải bà cố ý trêu chọc mình. Chàng tự nhủ:
– Dù sao đi nữa, cũng nên an táng xong tro cốt của nhị muội rồi sẽ tính.
Chàng liền nhằm đúng phía sau tấm bia mộ xa chừng ba thước, vận kình lực vào ngón tay để móc đất.
Điền Quy Nông thấy vậy thầm nghĩ:
– Té ra A Lan cho gã hay là phụ thân gã chết về tay Miêu Nhân Phụng.
Trong lòng hắn cảm thấy được an ủi, liền quay lại nhìn A Lan mỉm cười. Hắn nghe A Lan bảo Hồ Phỉ đào đất chôn bình tro cốt, cũng không huy động bọn vệ sĩ ngăn trở. Hắn nghĩ Hồ Phỉ đằng nào cũng chết, chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
Mười sáu tên võ sĩ lăm lăm binh khí trong tay, đứng cách Hồ Phỉ chừng hơn một trượng, nhưng mắt vẫn giám thị chàng không chớp.
Viên Tính thấy Hồ Phỉ khoét lỗ chôn tro cốt Trình Linh Tố, nàng nghĩ tới chính mình cùng Hồ Phỉ cũng sắp đi vào lòng đất, liền rón rén quỳ xuống, chắp hai tay trước ngực để làm lễ, miệng lâm râm niệm kinh.
Sau lưng và bả vai Hồ Phỉ mỗi lúc càng thêm đau đớn kịch liệt. Hai tay chàng vẫn tiếp tục đào sâu xuống. Chàng nhìn thấy Viên Tính chắp tay quỳ, thần sắc trang nghiêm, thì trong lòng như được an ủi, tự nhủ:
– Nàng đã toàn tâm quy Phật, sao ta cứ miễn cưỡng bắt nàng hoàn tục? May mà nàng chẳng chịu, nếu không thì đến lúc lâm tử, lòng nàng cũng chẳng được bình yên.
Đột nhiên cả hai tay chàng cùng chạm vào một vật cứng rắn, lạnh toát. Trong đầu Hồ Phỉ thoáng hiện lên câu nói của Miêu phu nhân về thanh bảo đao. Chàng lẩm bẩm:
– Quả có thanh bảo đao thật!
Song Hồ Phỉ vẫn giữ nét mặt thản nhiên, đưa hai tay sờ hai bên. Quả nhiên là một thanh đơn đao còn cả vỏ. Chàng đưa tay nắm chuôi đao khẽ rút ra chừng hơn một tấc, thanh đao vẫn còn nguyên chưa han rỉ.
Hồ Phỉ tự hỏi:
– Miêu phu nhân vừa nói: “Vụ này liên quan đến Kim Diện Phật Miêu Nhân Phụng”, chẳng lẽ thanh đao này do Miêu đại hiệp chôn xuống đây? Hay là Miêu đại hiệp vì kỷ niệm với tiên phụ mà chôn thanh đao này trong mộ?
Chàng chỉ phỏng đoán thôi nhưng lại đúng. Có điều chàng không hay sở dĩ Miêu Nhân Phụng quen biết Miêu phu nhân rồi thành thân cũng nhờ thanh “Lãnh nguyệt bảo đao” này, mà lương duyên tan vỡ cũng vì nó. Bởi vậy Miêu Nhân Phụng mới đem thanh bảo đao này chôn theo Hồ Nhất Đao.
Trên cõi đời này, ngoài Miêu Nhân Phụng và Miêu phu nhân ra chẳng một ai hay chuyện đó.
Hồ Phỉ thấy đao rồi ngửng đầu nhìn về phía Miêu phu nhân, bỗng nghe bà buồn rầu nói:
– Muốn hiểu lòng người khác, sao mà khó vậy!
Bà buông tiếng thở dài, từ từ cất bước lảng ra xa.
Điền Quy Nông quát lớn:
– A Lan, nàng hãy về khách điếm chờ ta. Đợi ta giết xong tên tiểu tặc này, chúng ta sẽ uống rượu ăn mừng.
Miêu phu nhân không đáp, cứ lầm lũi đi giữa cánh đồng hoang mỗi lúc một xa.
Điền Quy Nông quay lại giuc:
– Tên tiểu tặc kia! Chôn mau đi! Chúng ta không chờ nữa
Hồ Phỉ đáp:
– Được lắm! Cũng không cần phải chờ nữa!
Chàng rút thanh đao ra, ánh thanh quang lấp lánh, khí lạnh ghê người. Ánh sáng từ thanh đao trong tay chàng cứ lung linh như nước chảy, dưới ánh trăng lạnh lại càng lưu chuyển bất định.
Điền Quy Nông cùng bọn võ sĩ đều kinh hoảng, Hồ Phỉ thừa cơ bọn chúng chưa kịp định thần, vung đao nhảy tới chém liền. Những tiếng choang choảng vang lên không ngớt, ba cây binh khí trong tay ba tên võ sĩ bị chặt gãy. Hai tên bị cụt tay.
Điền Quy Nông hoành đao chém tới. Hồ Phỉ giơ đao lên gạt đánh “choang” một tiếng, âm hưởng ngân nga hồi lâu không dứt.
Hai người cùng nhảy lùi ra xa ba bước, dười ánh trăng sáng nhìn lại thanh đao vẫn còn nguyên vẹn. Hai thanh bảo đao này quả là kỳ phùng địch thủ.
Hồ Phỉ thấy thanh đao của mình lợi hại chắng kém gì bảo đao của Điền Quy Nông thì chẳng khác nào như hổ thêm cánh. Chàng thi triển “Hồ gia đao pháp” chỉ trong chớp mắt lại đả thương thêm ba tên võ sĩ nữa.
Bảo đao của Điền Quy Nông tuy chẳng kém gì bảo đao trong tay Hồ Phỉ, nhưng đao pháp thì hắn còn thua chàng xa. Hắn sử trường kiếm đấu với Hồ Phỉ còn không nổi, huống chi bây giờ lại dùng cái sở đoản của mình để đối phó với sở trường của địch?
Mới trao đổi được ba bốn chiêu Điền Quy Nông đã tiến tiếp trúng đao vào cánh tay và bắp chân. Nếu hắn không được bốn vệ sĩ giải cứu thì đã táng mạng dưới lưỡi đao của Hồ Phỉ rồi. Lúc này bọn vệ sĩ chưa bị thương thì chỉ còn lèo tèo vài tên, mà bất kỳ binh khí gì đụng vào đao của Hồ Phỉ đều lập tức bị chặt gãy.
Hồ Phỉ cũng không muốn truy tận sát tuyệt, liền la lên:
– Ta thấy các vị cũng đều là hảo hán, hà tất phải liều mạng làm chi?
Điền Quy Nông thấy tình thế nguy ngập liền co giò chạy trốn. Bọn võ sĩ đỡ đồng bọn bị thương hoặc thu nhặt xác người chết, chịu đại bại mà bỏ đi.
Mãi mấy năm sau, mọi người suy nghĩ đến nát óc, bàn luận đủ điều mà vẫn không thể lần ra manh mối thanh bảo đao từ đâu lại lọt vào tay Hồ Phỉ. Vì chàng hành động xuất quỷ nhập thần, không ai lường được, nên ngoại hiệu “Phi Hồ” cũng từ đó mà truyền đi.
Hồ Phỉ cầm đao, cất lên tiếng hú lanh lảnh, trong lòng cảm khái muôn vàn.
Chàng tra đao vào vỏ, đặt xuống huyệt mộ để nó vĩnh viễn làm bạn với phụ thân dưới lòng đất lạnh.
Chàng lại đặt bình tro cốt của Trình Linh Tố xuống huyệt mộ, rồi lấp lại.
Viên Tính chắp tay niệm Phật kệ:
Nhất thiết ân oán hội
Vô thường nan đắc cửu.
Sinh thế đa ưu sự
Mệnh nguy ư thần lộ.
Do ái cố sinh bố
Do ái cố sinh bố.
Nhược ly ư ái giả
Vô ưu hựu vô bố
(Mọi ân oán đời này
Đều vô thường chóng phai
Cõi thế nhiều khổ não
Đời người như sương mai
Do ái sinh sợ hãi
Do ái sinh ưu phiền
Kẻ nào lìa chữ ái
Tâm mới được an nhiên)
Niệm xong, nàng lẳng lặng lên ngựa thong thả đi về phía tây.
Hồ Phỉ dắt con bạch mã của Lạc Băng tặng, chạy theo nói:
– Cô nương hãy cưỡi con ngựa này. Cô nương người đang bị thương, hay là… hay là….
Viên Tính lắc dầu, cứ thúc ngựa đi. Hồ Phỉ nhìn theo bóng nàng, tám câu Phật kệ vẫn còn văng vẳng bên tai.
Con bạch mã đứng bên cạnh chàng nhìn theo bóng Viên Tính đi mỗi lúc một xa, bỗng nhiên hý lên một tiếng bi thương. Nó không hiểu vì sao vị chủ nhân cũ của nó lại lặng lẽ bỏ đi mà không hề ngoảnh đầu nhìn lại.
Phi Hồ Ngoại Truyện được viết vào các năm 1960 – 1961, ban đầu được đăng tải trong tạp chí tiểu thuyết “Võ hiệp dữ lịch sử”. Mỗi kỳ đăng 8000 chữ.
Tiểu thuyết đăng trên báo, mỗi đoạn ước chừng từ 1.000 đến 1.400 chữ. Phi Hồ Ngoại Truyện cứ 8.000 chữ là gộp thành một đoạn, cho nên cách các phương thức mô tả cũng khác nhau. Tôi cứ mười ngày là viết xong một đoạn, toàn viết về đêm. Cứ 12 giờ đêm là bắt đầu viết, đến 7 giờ sáng hôm sau thì ngưng. Viết một bộ trường thiên tiểu thuyết mà cứ 8.000 chữ phân thành một đoạn thì rõ ràng tiết tấu tuyệt đối không ổn. Lần sửa đổi này chủ yếu là điều chỉnh tiết tấu cho trôi chảy, loại bỏ hết những đoạn không cần thiết.
Phi Hồ Ngoại Truyện là “tiền truyện” của Tuyết Sơn Phi Hồ, tả lại sự tích của Hồ Phỉ thời quá khứ. Tuy vậy, những mối tương quan của hai bộ tiểu thuyết này không phải hoàn toàn thống nhất nhau. Trong Phi Hồ Ngoại Truyện, khi chưa gặp Miêu Nhân Phụng thì Hồ Phỉ đã có ý trung nhân. Khi hiệu đính Tuyết Sơn Phi Hồ, tình tiết này không cưỡng cầu cho hợp điệu.
Văn tự và phong cách của bộ tiểu thuyết này, so với tiểu thuyết Trung Quốc truyền thống, có sự khác biệt rất lớn, nhưng có hai điểm phải sửa:
Thứ nhất: trong câu đối thoại, loại bỏ bớt những quan niệm cùng câu chữ mang dáng vẻ hiện đại.
Thứ hai: viết theo văn phong đổi mới. Cách sắp câu giống như văn chương nước ngoài.
Nhân vật chính trong Phi Hồ Ngoại Truyện thật ra là Hồ Nhất Đao. Tính cách của Hồ Phỉ trong Tuyết Sơn Phi Hồ quá sức đơn bạc, đến bộ này mới dần dần thành hình.
Ý đồ của tôi trong bộ sách này là tả một hiệp sĩ hành hiệp trượng nghĩa, cứu khốn phò nguy. Tiểu thuyết võ hiệp tả hiệp sĩ chân chính thực ra không nhiều. Phần lớn hành vi của nhân vật chính chủ yếu thiên về yếu tố “võ” chứ không thiên về yếu tố “hiệp”.
Mạnh Tử nói: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu” nghĩa là “Kẻ không mê đắm vì phú quý, không đổi thay vì hoàn cảnh nghèo hèn, không khuất phục trước uy vũ thì đó là đại trượng phu”.
Các nhân vật võ hiệp đối với phú quý thì chẳng hề để tâm, lại không chịu khuất phục trước uy vũ, cả ba điều kiện của một bậc đại trượng phu, bọn họ đều làm được không khó. Trong cuốn sách này, tôi muốn đặt ra cho Hồ Phỉ một yêu cầu, đó là “Bất vị mỹ sắc sở động, bất vị ai khẩn sở động, bất vị diện tử sở động”. (*)
Anh hùng xưa nay thường khó qua cửa ải mỹ nhân. Một cô nương xinh đẹp như Viên Tử Y dường như lại vì Hồ Phỉ mà xiêu lòng, giữa lúc hai người đang tình cảm dạt dào, nàng lại dùng lời nhỏ nhẹ thỏ thẻ cầu xin, thật khó lòng mà từ chối.
Anh hùng hảo hán xưa nay đều ưa nói ngọt, chứ không thể dùng sức mạnh. Phụng Thiên Nam tặng cho Hồ Phỉ nào là vàng bạc, nào là cửa nhà tráng lệ nhưng chàng đều không thèm để mắt, vậy mà khi hắn thành tâm thành ý chịu khuất phục để cầu xin thì lại thấy khó lòng mà không tha hắn được. Giang hồ rất chú trọng đến thể diện và nghĩa khí. Bọn Chu Thiết Tiêu đã xuống nước nhỏ giọng để năn nỉ Hồ Phỉ bỏ qua lỗi lầm của Phụng Thiên Nam, vậy mà Hồ Phỉ vẫn không ưng thuận, không vì nể mặt họ mà bỏ qua chuyện, e rằng đó là việc khó làm nhất của anh hùng hảo hán.
Hồ Phỉ sở dĩ làm vậy cũng chỉ vì bốn mạng người của gia đình Chung A Tứ, mà chàng với Chung A Tứ hoàn toàn không quen biết, lại không có một chút giao tình.
Mục đích là nhằm tả tính cách, chẳng qua là vì không tả đạt được chiều sâu. Tuy vậy, trong các nhân vật chính giàu nam tính của tôi thì Hồ Phỉ, Tiêu Phong, Dương Quá, Quách Tĩnh, Lệnh Hồ Xung là những nhân vật tôi rất thích.
Trong tiểu thuyết võ hiệp, khi nhân vật phản diện bị nhân vật phản diện giết chết thì phương thức xử lý thông thường là “đáng chết”, và không cần phải quan tâm thêm. Nhân vật Thương lão thái được tả trong sách dùng để biểu đạt ý đồ: nhân vật phản diện bị giết thì thân nhân của họ không chịu thừa nhận là họ đáng chết, mà vẫn sùng bái, vô cùng yêu quý họ, đến già vẫn không giảm, đến chết vẫn không đổi; đối với cái chết của họ vẫn mãi mãi đau lòng, đối với người đã giết họ vẫn vĩnh viễn hờn căm.
Trên sa mạc mênh mông của đất Hồi Cương, cát bụi mịt mù bốc lên cao đến hai trượng, hai con ngựa một trước một sau đang phi nước đại. Đằng trước là một con bạch mã cao lớn chân dài, trên yên là một thiếu phụ, ôm trong lòng một cô bé chừng bảy tám tuổi. Phía sau là một con hồng mã, trên lưng nằm phục một hán tử cao gầy.
Trên lưng phía trái của hán tử có cắm một mũi tên dài, máu chảy ròng ròng từ lưng xuống yên ngựa, rơi xuống đất, thấm vào cát vàng. Y không dám đưa tay nhổ mũi tên ra, chỉ sợ rút ra rồi sẽ không chịu nổi ngã xuống chết ngay. Ai mà chẳng chết? Điều đó cũng không sao, có điều từ nay lấy ai chăm lo cho vợ yếu con thơ? Ở phía sau, kẻ địch hung hăng độc ác đang đuổi theo ráo riết.
Con ngựa hồng chạy đã mấy chục dặm, gân cốt rã rời, chỉ vì chủ nhân không ngừng roi, vung chân thúc, nên phải chạy đến nỗi không kịp thở, hai bên mép sùi bọt trắng xóa. Đột nhiên, hai chân trước nó khuỵu xuống, ngã lăn ra. Hán tử kéo mạnh dây cương, con ngựa hí lên một tiếng bi thảm, giãy giụa mấy cái, thở hắt ra chết luôn. Thiếu phụ nghe tiếng động ở phía sau, quay đầu lại thấy con ngựa đã chết, kinh hãi kêu lên;
– Đại ca… sao… có sao không?
Hán tử nhíu mày, lắc đầu. Y nhìn thấy phía sau mấy dặm cát bụi tung bay, đại đội nhân mã kẻ địch đã kéo đến. Người đàn bà quay ngựa lại, chạy đến bên chồng, thấy mũi tên dài cắm trên lưng y, áo ướt đẫm máu, không khỏi kinh hoàng thất sắc, dường như muốn ngất đi. Đứa bé cũng thất thanh kêu lên:
– Gia gia, gia gia, trên lưng gia gia có mũi tên kìa!
Hán tử cười gượng nói:
– Không sao đâu!
Y nhảy lên, nhẹ nhàng rơi xuống yên ngựa ngay sau lưng người vợ thật khéo léo. Y tuy bị trọng thương nhưng thân pháp vẫn linh hoạt, gọn gàng. Người thiếu phụ quay đầu lại nhìn chồng, đầy vẻ lo lắng quan hoài, khẽ hỏi:
– Đại ca, chàng…
Hán tử kẹp hai chân thúc một cái, tay giật giây cương, con ngựa trắng liền tung bốn vó lao về phía trước. Con bạch mã tuy là loại thần tuấn, nhưng đã chạy một quãng dài không nghỉ cũng phải mệt lử, huống chi lúc này trên lưng lại có đến ba người. Tuy nhiên con vật dường như cũng biết lúc này là lúc sinh tử quan đầu của chủ nhân nên không cần thúc giục vẫn hết sức chạy bất kể sống chết.
Nhưng nó chỉ chạy thêm được vài dặm nữa, sau cũng chậm dần. Địch nhân đuổi theo sau mỗi lúc một gần thêm. Tất cả bọn chúng gồm sau mươi ba người nhưng laị đem theo hơn một trăm chín mươi con ngựa khỏe, mỗi khi ngựa hơi yếu là đổi con khác ngay. Chúng nhất định đuổi bắt cho bằng được.
Hán tử quay lại nhìn, trong đám bụi vàng mù mịt, đã nhìn thấy thân hình kẻ địch, một lát sau đến mặt mũi cũng đã rõ dần. Hán tử nghiến răng nói:
– Hồng muội, ta xin nàng một điều, nàng có bằng lòng không?
Người thiếu phụ quay đầu lại, nụ cười ôn nhu, nói:
– Trong cả cuộc đời đã bao giờ tuổi muội trái lời đại ca chưa?
Hán tử nói:
– Tốt lắm, nàng hãy mang Tú nhi chạy trốn, bảo toàn chút máu thịt của chúng ta, bảo toàn bức địa đồ Cao Xương mê cung.
Lời nối y cực kỳ kiên quyết, chẳng khác gì ra lệnh. Thiếu phụ giọng run run, nói:
– Đại ca, hãy giao bản đồ cho chúng đi, chúng mình chịu thua là xong. Thân… thân chàng mới là quan trọng.
Hán tử cúi xuống hôn lên má vợ, giọng đột nhiên đổi thành cực kỳ trìu mến, nói:
– Hai chúng ta đã trải qua biết bao lần nguy nan trong đời, lần này nếu như chạy được thì hay. Lã Lương tam kiệt không phải chỉ muộn địa đồ đâu, bọn chúng… bọn chúng còn muốn cả Hồng muội nữa kìa.
Thiếu phụ nói:
– Chúng … chúng dẫu sao cũng còn chút tình đồng môn. Không biết chừng tiểu muội có thể xin bọn chúng…
Hán tử sẵn giọng: – Không lẽ vợ chồng ta phải van xin người khác ư? Con ngựa này không mang nổi cả ba người đâu. Đi mau!
Y tung mình nhảy lên, kêu lớn một tiếng rồi nhảy xuống khỏi ngựa. Thiếu phụ gò cương đứng lại, định đưa tay kéo lấy chồng nhưng thấy trượng phu hầm hầm giận dữ, lại nghe y quát lớn:
– Đi mau!
Nàng từ trước tới nay vẫn luôn phục tùng chồng, đành giật cương quất ngựa, chạy về phía trước, cảm thấy trong lòng giá băng tê tái, không phải chỉ trong lòng mà cả đến máu thịt cũng như đông cứng lại
Những người đuổi theo thấy hán tử rơi xuống khỏi ngựa, cùng reo hò:
– Bạch mã Lý Tam ngã rồi! Bạch mã Lý Tam ngã rồi!
Hơn một chục người liền giục ngựa đến vây quanh, còn hơn bốn chục người kia tiếp tục đuổi theo thiếu phụ. Người đàn ông nằm co dưới đất, không cục cựa gì nữa, dường như đã chết rồi. Một người giơ trường thương, nghe soẹt một tiếng đâm luôn vào đầu vai bên phải của y. Khi rút ngọn giáo ra, máu tươi vọt ra nhưng Bạch Mã Lý Tam vẫn không động đậy. Gã chỉ huy mặt đầy râu ria nói:
– Chết chắc rồi, còn sợ gì nữa? Mau tra xét trong người y xem sao.
Hai người trong bọn nhảy xuống ngựa, đi lại lật Lý Tam lên. Đột nhiên một ánh sáng trắng lóe lên, Bạch Mã Lý Tam trường đao vung một vòng, chát chát hai tiếng, chém hai người ngã lăn ra đất.
Bọn người không ngờ y giả chết, đến ngọn giáo đâm vào cũng làm như không biết rồi bỗng dưng phản kích lại, sáu bảy người kinh hãi giục ngựa thối lui. Gã râu xồm liền múa thanh nhạn linh đao[1] trong tay, quát lớn:
– Lý Tam, ngươi quả thật cứng đầu.
Vù một tiếng y vung đao chém xuống đầu Lý Tam. Lý Tam giơ đao lên đỡ nhưng cả hai vai đều bị thương nặng, cánh tay không có sức, lịch kịch lùi lại ba bước, oa một tiếng hộc ra một ngụm máu tươi. Hơn chục người giục ngựa tiến lên vây quanh, đao thương cùng đâm chém xuống người y.
Bạch Mã Lý Tam một đời anh hùng, cho đến chết cũng không chịu khuất phục, khi sắp lìa đời cũng còn giết được hai tên cường địch.
Thiếu phụ ở đằng xa nghe tiếng chồng uất hận rống lên, trong lòng chẳng khác gì dao cắt: “Chàng chết rồi, ta còn sống làm gì?”. Nàng lấy từ trong bọc ra một tấm khăn tay dệt bằng lông cừu, nhét vào bọc đứa bé, nói:
– Tú nhi, con cố tự lo cho mình.
Nàng giơ roi quất vào mông con ngựa, hai chân đạp một cái, thân hình đã rời yên. Nàng thấy con ngựa trắng lưng nhẹ đi liền mang con bé chạy như bay, trong lòng thấy hơi an ủi:
– Con ngựa này cước lực thiên hạ vô song, Tú nhi người lại nhẹ, như thế bọn chúng không thể nào đuổi kịp được.
Ở phía trước, tiếng cô bé con khóc “Mẹ ơi, mẹ ơi” mỗi lúc một xa, còn tiếng chân ngựa đuổi theo phía sau thì càng lúc càng gần, trong bụng ngầm khấn nguyện:
– Xin trời phù hộ cho Tú nhi được như con, lấy được một người chồng tốt, dù một đời trôi nổi thăng trầm, nhưng cũng một đời sung sướng.
Nàng sửa lại áo quần, vén lại đầu tóc, chỉ chớp mắt mấy chục người đã trước sau cưỡi ngựa chạy đến. Người đi đầu là lão nhị trong Lã Lương tam kiệt Sử Trọng Tuấn.
Lã Lương tam kiệt là anh em kết nghĩa. Lão đại Thần Đao Chấn Quan Tây Hoắc Nguyên Long, chính là gã râu xồm giết Bạch Mã Lý Tam, lão nhị Mai Hoa Thương Sử Trọng Tuấn là gã gầy gầy cao cao, còn lão tam Thanh Mãng Kiếm Trần Đạt Hải người lùn nhỏ nhưng tinh ranh, vốn là kẻ chuyên chặn đường cướp của đất Liêu Đông, về sau lạc bước nơi Sơn Tây, cùng Hoắc Sử hai người tâm đầu ý hợp, ba người liền mở một tiêu cuộc nơi huyện Thái Cốc tên là Tấn Uy tiêu cuộc.
Sử Trọng Tuấn và vợ của Bạch Mã Lý Tam Thượng Quan Hồng vốn là sư huynh sư muội đồng môn, hai người học nghệ chung với nhau từ khi còn nhỏ. Sử Trọng Tuấn đem lòng yêu thương cô sư muội dịu dàng, kiều diễm, chính sư phụ của họ cũng có lòng tác hợp cho hai người cho nên ai ai trong môn phái cũng coi họ như vợ chồng chưa cưới. Nào ngờ Thượng Quan Hồng ngẫu nhiên gặp được Bạch Mã Lý Tam, vừa thấy đã đem lòng quyến luyến, tuy gia đình không bằng lòng cho hai người lấy nhau, Thượng Quan Hồng liền bỏ nhà theo y ra đi. Sử Trọng Tuấn vì đau lòng nên đau nặng, khi khỏi rồi tính tình cũng đổi hẳn. Y đối với sư muội tình yêu vẫn không dứt, về sau cũng chẳng lấy ai.
Cách biệt mười năm qua, nào ngờ Lã Lương tam kiệt gặp lại vợ chồng Lý Tam trên đường Cam Lương, vì chuyện tranh đoạt một bản địa đồ mà hai bên động thủ. Bọn họ hơn sáu chục người vây đánh hai người, từ Cam Lương đuổi theo đến tận Hồi Cương. Sử Trọng Tuấn vừa ghen tức, vừa thù hận nên ra tay càng thêm tàn nhẫn, mũi tên trên lưng Lý Tam chính là do y bắn lén.
Bây giờ Lý Tam đã bỏ mình nơi sa mạc, Sử Trọng Tuấn cưỡi ngựa chạy đến thấy Thượng Quan Hồng một mình đứng nơi đồng không mông quạnh, trong lòng không khỏi bồi hồi:
– Bọn mình đã giết được chồng nàng rồi. Từ nay trở đi, ta phải đối với nàng thật tử tế mới được.
Ngọn gió tây phơ phất thổi trên quần áo nàng, so với mười năm trước khi hai người con cùng chung luyện võ một trường không khác một mảy.
Binh khí của Thượng Quan Hồng là một đôi chủy thủ, một thanh cán vàng, một thanh cán bạc, trên giang hồ có một ngoại hiệu là “Kim ngân tiểu kiếm Tam Nương Tử”. Lúc này trong tay nàng không cầm binh khí, trên mặt lại dường như đang mỉm cười.
Trong lòng Sử Trọng Tuấn lóe lên một tia hi vọng, ngực nóng ran, khuôn mặt xanh xao của y chợt đỏ lên. Y cài cây Mai hoa thương vào yên ngựa, nhảy xuống, kêu lên:
– Sư muội.
Thượng Quan Hồng hỏi:
– Lý Tam chết rồi ư?
Sử Trọng Tuấn gật đầu, nói:
– Sư muội, hai đưa mình xa nhau đã mười năm, ta… ta lúc nào cũng nhớ đến sư muội.
Thượng Quan Hồng mỉm cười hỏi lại:
– Thực thế ư? Sư ca lại lừa gạt người ta rồi.
Sử Trọng Tuấn tim đập thình thình. Nụ cười kia, dáng điệu hờn dỗi kia, nào có khác gì cô tiểu sư muội của mười năm trước đâu? Y dịu dàng nói:-
Sư muội, từ nay em đi theo tiểu huynh, ta vĩnh viễn không để sư muội phải phiền lòng.
Đôi mắt Thượng Quan Hồng bỗng lóe lên một tia sáng lạ lùng, kêu lên:
– Sư ca, sư ca đối với tiểu muội thật tử tế.
Nàng giơ hai tay, sà vào lòng y. Sử Trọng Tuấn mừng quá, giang tay ôm chặt lấy nàng. Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải nhìn nhau mỉm cười, nghĩ thầm:
– Lão nhị mười năm mang bệnh tương tư, rốt cuộc hôm nay đã được thỏa nguyện.
Sử Trọng Tuấn ngửi thấy một làn u hương thoang thoảng, thần thái mơ mơ hồ hồ, lại thấy đôi tay Thượng Quan Hồng ôm xiết lấy mình, không dám tin đây là sự thật. Đột nhiên bụng dưới y thấy đau nhói, dường như có vật gì nhọn đâm vào. Y rú lên một tiếng, vận kình vào hai cánh tay đẩy Thượng Quan Hồng ra, nào ngờ nàng vẫn ghì chặt lấy y không chịu buông, sau cùng cả hai người đều ngã lăn xuống đất.
Biến cố đó xảy ra thật nhanh, Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải kinh hãi, vội vàng nhảy xuống ngựa, tiến lên cứu giúp. Khi lật Thượng Quan Hồng ra, ngực nàng đã cắm một thanh chủy thủ cán vàng, máu tào ra như suối, còn thanh chủy thủ cán bạc thì cắm vào bụng dưới Sử Trọng Tuấn. Thì ra Kim Ngân Tiểu Kiếm Tam Nương Tử quyết tâm chết theo chồng, đã ngầm để hai thanh kiếm dưới áo, một thanh hướng ra ngoài, một thanh hướng vào mình. Khi Sử Trọng Tuấn ôm lấy nàng, cả hai cùng trúng kiếm.
Thượng Quan Hồng chết ngay còn Sử Trọng Tuấn thoi thóp. Y nghĩ đến mình chết trong tay sư muội, nỗi bi thống thống trong lòng so với vết thương trên người còn đau đớn hơn, kêu lên:
– Tam đệ mau giúp ta chết đi, cho ta khỏi phải chịu dày vò thêm nữa.
Trần Đạt Hải thấy vết thương của y không cách gì cứu chữa, đưa mắt nhìn đại ca. Hoắc Nguyên Long gật đầu, Trần Đạt Hải liền nghiến răng giơ kiếm nhắm đúng tim Sử Trọng Tuấn đâm vào. Hoắc Nguyên Long thở dài:
– Đâu có ngờ Kim Ngân Tiểu Kiếm Tam Nương Tử lại cứng cỏi đến thế.
Khi đó một tên thủ hạ tiêu đầu phi ngựa đến báo:
– Đã tra xét toàn thân Bạch Mã Lý Tam nhưng không thấy bức địa đồ
Hoắc Nguyên Long chỉ vào Thượng Quan Hồng nói:
– Nếu thế thì chắc ở trên người nàng ta.
Lại một phen tra xét kỹ càng, trong người Thượng Quan Hồng, ngoài vài lạng bạc vụn và vài bộ quần áo thay đổi thì \ không còn gì khác. Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải ngơ ngẩn nhìn nhau, vừa thất vọng, vừa kỳ quái. Bọn họ từ Cam Lương đuổi đến Hồi Cương, trước sau bám sát vợ chồng Lý Tam, địa đồ nếu như giữa đường giao cho người khác, quyết không thể nào thoát khỏi mấy chục cặp mắt, huống chi hai vợ chồng y xả mệnh bảo vệ bản đồ, làm sao có thể tùy tiện giao cho người khác. Trần Đạt Hải xem xét kỹ mọi vật trong bao của Thượng Quan Hồng một lần nữa, đến lúc thấy bộ quần áo trẻ con, liền chợt nghĩ ra, nói:
– Đại ca, mau đuổi theo con bé kia.
Hoắc Nguyên Long “ồ” lên một tiếng, nói:
– Không có gì phải lo, con nhãi đó ở trên sa mạc mênh mông thế này chạy đâu cho thoát?
Hắn vung tay một cái, hô lớn:
– Để lại hai người an táng Sử nhị gia, còn bao nhiêu theo ta!
Hắn giật cương phi ngựa chạy trước. Tiếng vó ngựa cộp cộp, tiếng hò hét liên miên, hơn trăm con ngựa cùng đuổi theo.
Đứa bé gái chạy trước đã lâu, lúc này đã ngoài hai chục dặm. Thế nhưng giữa sa mạc mênh mông, không gò đồi thế này, chỉ cần đảo mắt nhìn xa cả chục dặm, nên đứa bé tuy đã chạy xa nhưng càng lâu thì bọn kia càng gần. Quả nhiên đến xế chiều, Trần Đạt Hải đột nhiên hô lớn:
– Ở trước mặt kìa!
Chỉ thấy tít mù xa một điểm đen đang di động ngay tại đường chân trời. Con ngựa trắng tuy là thần tuấn nhưng từ sáng đến chiều chạy không dừng bước, cũng chịu không nổi. Còn bọn Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải liên tiếp đổi ngựa mới nên dần dần đuổi đến nơi.
Con bé con Lý Văn Tú nằm gục trên lưng con ngựa trắng, vì quá mệt mỏi nên đã mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi. Cả ngày hôm nay nó không ăn không uống gì, dưới ánh nắng gay gắt của sa mạc, cả môi cả miệng đều đã khô cả môi. Con ngựa dường như có linh tính, biết kẻ đang đuổi theo tính hại tiểu chủ nhân, nên cứ nhắm hướng mặt trời đỏ ửng kia mà chạy tới. Đột nhiên con ngựa chồm hai chân trước lên, hí một tiếng dài, nó đã ngửi thấy mùi vị gì đặc biệt, trong tiếng hí có ẩn một niềm kinh hãi.
Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải đều là người võ công tinh thâm, dù chạy đường dài cũng không coi vào đâu, nhưng lúc này bỗng cảm thấy lồng ngực bế tắc khó thở, ngột ngạt không chịu nổi. Hoắc Nguyên Long nói:
– Tam đệ, xem chừng có chuyện gì không ổn.
Trần Đạt Hải đưa mắt nhìn bốn bề, xem xét tình hình, thấy phía tây bắc bên cạnh ánh chiều tà đỏ rực, bốc lên một đám mây vàng mù mù, trong đám mây có ẩn ánh sáng màu tím đỏ lấp lánh, cảnh sắc thật là đẹp đẽ kỳ lạ, trong đời chưa từng thấy bao giờ. Đám mây vàng đó bành trướng thật nhanh, chưa đến một bữa ăn đã phủ kín một nửa bầu trời. Lúc này mấy chục người trong mã đội đều đổ mồ hôi hột, ho khạc luôn mồm. Trần Đạt Hải nói:
– Đại ca, hình như là có bão cát.
Hoắc Nguyên Long đáp:
– Đúng thế, chạy nhanh lên, bắt lấy con nhỏ kia trước, rồi sẽ tìm cách tránh…
Y nói chưa dứt câu, đột nhiên một cơn gió giật ùa tới, mang theo một khối cát lớn, khiến đầu cổ mặt mũi y đầy cát vàng, không sao nói tiếp được. Bão cát trên sa mạc muốn đến là đến,chỉ trong chớp mắt những trận gió lớm mạnh đã cuốn tới. Bảy tám người thân hình lảo đảo bị gió thổi ngã xuống ngựa. Hoắc Nguyên Long kêu lên:
– Tất cả xuống ngựa, tụ lại một chỗ!
Mọi người cố sức chống lại cơn bão cát, kéo hơn một trăm con ngựa lại thành một vòng tròn lớn, người cũng như vật đều nằm phục xuống. Mọi người ai nấy tay nắm tay, nằm mọp xuống cạnh bụng ngựa, chỉ thấy gió giật từng hồi thổi cát bay qua mặt chẳng khác gì dao cắt, mặt mũi chân tay đều bị cào xước thành từng vệt rướm máu.
Tuy nhóm đó người có đông thật nhưng ở nơi sa mạc mênh mông không bờ bến này, bị cơn bão cát bao trời phủ đất như thế, nào có khác gì một chiếc thuyền con trong bể cả, chỉ đành phó mặc cho số mệnh đẩy đưa, không còn gì quyết định được. Gió mỗi lúc một mạnh, lớp cát phủ trên thân người, vật mỗi lúc một dày…
Tuy Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải là những kẻ không biết sợ là gì, lúc này trước uy lực của trời đất cũng đành bó tay. Trong lòng hai người đều chợt nghĩ:
– Cũng chỉ vì muốn tìm được Cao Xương mê cung gì đó mà mình từ Sơn Tây lần mò đến tận chốn sa mạc hoang vu này, chịu chết nơi đây.
Gió vẫn ù ù rít lên chẳng khác hàng nghìn hàng vạn con quỉ dữ cùng ra uy một lượt.
Cơn bão cát tiếp tục thổi qua đêm, đến sáng hôm sau thì giảm dần. Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải lóp ngóp từ trong đống cát chui ra, kiểm điểm nhân mã, nhưng tổn thất cũng không nhiều, chỉ chết mất hai tên chạy cờ và năm con ngựa. Thế nhưng ai nấy đều mỏi mệt, gân cốt mềm nhũn. Điều đáng nói là con ngựa trắng và đứa bé kia không biết đã đi đâu mất, mười phần thì chín chắc chết trong cơn bão vừa rồi. Những người đàn ông cường tráng biết võ cũng còn chịu không nổi, huống chi một đứa bé yếu đuối mảnh mai.
Mọi người ở trên sa mạc nhóm lửa nấu cơm, nghỉ ngơi nửa ngày. Hoắc Nguyên Long truyền lệnh xuống:
– Ai phát hiện được tung tích đứa bé và con ngựa trắng sẽ được thưởng năm chụclạng vàng!
Những người theo y đến đất Hồi Cương đều là dân giang hồ tứ chiếng đất Tấn Thiểm Cam Lương, đi hàng nghìn dặm chẳng qua cũng vì tiền, năm chục lượng vàng không phải ít. Mọi người reo hò vang dậy, hơn năm chục người liền túa ra khắp mọi hướng, chẳng khác gì một chiếc quạt lớn xòe ra. “Bạch mã, con bé con, năm chục lạng vàng” trong đầu người nào cũng chỉ còn lởn vởn ba món ấy. Có người chạy qua hướng tây, có người chạy qua hướng nam, hẹn với nhau khi trời sẩm tối sẽ gặp nhau sáu mươi dặm hướng chính tây.
Lưỡng đầu xà Đinh Đồng nhảy lên một con ngựa khỏe, giục ngựa chạy về hướng tây bắc. Y là tiêu sư của Tấn Uy tiêu cuộc đã mười bảy năm, võ công tuy không giỏi lắm nhưng tinh minh tháo vát, là một thủ hạ đắc lực của Lã Lương tam kiệt.
Y chạy một mạch hơn hai chục dặm, chẳng thấy bóng một đồng bọn nào, trong sa mạc mênh mông đột nhiên trong lòng nổi lên một mối cô tịch kinh sợ. Y thúc ngựa chạy lên một đồi cát nhìn ra phía trước thấy nơi tây bắc có một mảng màu xanh, có bảy tám cây liễu cao vọt lên. Trên sa mạc không cây cỏ gì mọc được như thế này, bỗng nhìn thấy một ốc đảo xanh tươi, y vui mừng không biết chừng nào. Y lẩm bẩm:
– Trong ốc đảo này ắt có suối nước, mà nếu không có đi nữa thì tất cả bọn mình cũng có nơi nghỉ ngơi.
Con ngựa dường như cũng đã nhìn thấy có cỏ có nước, tinh thần cao hứng không đợi Đinh Đồng vung roi thúc giục, đã tung bốn vó phi thẳng tới đó.
Đoạn đường mươi dặm chỉ một lát tới ngay, từ xa nhìn lại chỉ thấy một vùng thảo nguyên không bờ bến, trên đồng đầy bò cừu. Phía cực tây là những lều vải, từng hàng từng hàng đến sáu bảy trăm căn. Đinh Đồng nhìn thấy thế, không khỏi kinh hãi. Từ khi y vào đến đất Hồi Cương đến giờ, nếu có thấy lều vải thì một nơi cùng lắm chỉ ba bốn chục chiếc là cùng, còn một bộ tộc lớn như thế này đây là lần đầu y trông thấy. Xem hình dáng các lều vải, đây hẳn là bộ tộc Cáp Tát Khắc
Người Cáp Tát Khắc là dân tộc hiếu võ nhất, không kể nam nữ, sáu bảy tuổi trở lên đã sống trên lưng ngựa. Đàn ông con trai luôn luôn mang dao, tài cưỡi ngựa, bắn tên, và đánh đao nổi tiếng vùng biên thùy phía tây. Người ta đã nói rằng: “Một người Cáp Tát Khắc có thể đánh với một trăm người thường, còn một trăm người Cáp Tát Khắc thì có thể hoành hành đất Hồi Cương”. Đinh Đồng đã từng nghe câu đó, nghĩ thầm:
– Ở trong bộ tộc Cáp Tát Khắc thì phải hết sức cẩn thận mới được.
Lại thấy nơi đông bắc, dưới chân một quả núi nhỏ, chơ vơ một túp lều tranh. Cái lều đó mái tranh vách đất, trông chẳng khác gì nhà của người Hán trong nội địa, có điều rất sơ sài. Đinh Đồng nghĩ thầm: “Mình đến căn nhà đó xem thử đã”. Y bèn giục ngựa chạy đến túp lều tranh. Con ngựa y cỡi đã qua một ngày một đêm chưa ăn gì, nay thấy cỏ non khắp nơi, bước một bước lại ngoạm một miếng, đi thật chậm chạp.
Đinh Đồng giơ chân đá mạnh vào bụng con vật, con vật bị đau, vội chạy một mạch đến căn nhà nhỏ. Đinh Đồng vừa ghé mắt thấy ngay sau nhà buộc một con ngựa trắng cao lớn, chân khỏe bờm dài, chính là con ngựa Lý Tam cưỡi. Y nhịn không nổi kêu lên:
– Bạch mã, bạch mã ở đây rồi!
Y chợt động tâm, vội xuống ngựa rút trong giày ra một thanh đoản đao sắc bén, dấn vào trong tay áo, rón rén đi tới phía sau nhà, đang toan thò đầu vào cửa sổ thăm dò, nào ngờ con ngựa trắng lại hí lên một tràng dài, dường như đã phát giác được y.
Đinh Đồng trong bụng chửi thầm: “Đồ súc sinh!”. Y trấn tĩnh lại, lại thò đầu vào- ửa sổ lần nữa, nào ngờ bên trong cũng lại có người thò đầu ra. Mũi của Đinh Đồng suýt nữa đụng phải mũi của người kia, chỉ thấy người nọ mặt đầy vết nhăn, đôi mắt trừng trừng. Đinh Đồng giật mình kinh hãi, hai chân điểm một cái, lật đật lùi lại, quát lên:
– Ai đó?
Người kia lạnh lùng hỏi lại:
– Ngươi là ai? Đến đây làm gì?
Người đó nói tiếng Hán. Đinh Đồng hơi định thần, ngoạc mồm cười nói:
– Tại hạ họ Đinh, tên Đồng, vô tình đến nơi đây làm kinh động đến lão trượng. Xin hỏi lão trượng cao tính đại danh là gì?
Ông già kia đáp:
– Lão họ Kế.
Đinh Đồng cười cầu tài:
– Hóa ra là Kế lão trượng. Nơi sa mạc gặp được người đồng hương thật chẳng khác gì gặp được người nhà. Tại hạ mạo muội vào xin một chén trà uống.
Kế lão nhân nói:
– Ngươi đi bao nhiêu người thế?
Đinh Đồng đáp:
– Chỉ có một mình tại hạ đến đây thôi.
Ông già hừ một tiếng, dường như không tin, lạnh lùng nhìn vào mặt y như dò xét. Đinh Đồng bị ông ta soi mói, tâm thần bất định chỉ cố gượng cười. Một người lạnh lùng khinh khỉnh, một người sượng sùng toét miệng, hai bên nhìn nhau giây lát. Kế lão nhân nói:
– Muốn xin trà sao không vào cửa chính lại thò đầu vào cửa sổ là sao?
Đinh Đồng cười đáp:
– Phải lắm, phải lắm.
Y quay vòng qua cửa chính đi vào nhà. Căn lều đồ đạc đơn sơ nhưng bàn ghế sạch sẽ, quát dọn tươm tất. Đinh Đồng ngồi xuống đưa mắt nhìn quanh, thấy đằng sau đi ra một đứa bé gái, trong tay cầm một chén trà. Hai người mắt chạm nhau, đưa bé giật mình hoảng sợ, nghe choang một tiếng, chén trà tuột tay rơi xuống đất vỡ tan tành.
Đinh Đồng trong lòng như mở cờ trong bụng. Con bé này chính là người Hoắc Nguyên Long treo giải thưởng truy tầm, y nhìn thấy con ngựa trắng, mười phần đến tám tin chắc nó ở trong nhà này, thế nhưng bây giờ gặp mặt lòng vui sướng không dấu nổi lộ ra nét mặt.
Đêm hôm qua khi có trận bão cát, Lý Văn Tú nằm thiếp đi trên lưng ngựa bất tỉnh. Con ngựa ngửi thấy mùi cỏ, mùi nước cố vượt gió cát chạy đến thảo nguyên này. Kế lão nhân thấy đứa bé ăn mặc lối người Hán, vội vàng đem nó vào nhà. Nửa đêm đứa nhỏ tỉnh lại, không thấy cha mẹ đâu, khóc lóc không ngừng. Kế lão nhân thấy nó trắng trẻo xinh xắn, không khỏi nhủ lòng thương xót, hỏi nó tại sao lại lạc vào đại mạc, cha mẹ là ai. Lý Văn Tú nói cha nó tên là Bạch Mã Lý Tam, còn mẹ nó thì chỉ biết là “Má Má”, nhưng nghe bọn ác nhân đuổi theo gọi là “Tam Nương Tử”, còn đi đến Hồi Cương làm gì thì nó không biết.
Kế lão lẩm bẩm: “Bạch Mã Lý Tam, Bạch Mã Lý Tam. Y là hiệp đạo hoành hành Giang Nam, sao lại đến đất Hồi Cương?”.
Lão cho Lý Văn Tú một bát sữa lớn rồi cho nó ngủ. Trong lòng ông lão trăn trở những chuyện mười năm qua, tâm tình dạt dào như sóng biển nên không ngủ được.
Lý Văn Tú ngủ một mạch đến tận giờ thìn hôm sau mới dậy, lại xin Kế gia gia đưa nó đi kiếm cha mẹ. Ngay khi đó Lưỡng Đầu Xà Đinh Đồng lấm lấm lét lét mò đến, thò đầu vào cửa sổ thăm dò, mọi việc đều không qua khỏi mắt Kế lão.
Lý Văn Tú đánh rơi chén trà, Kế lão nhân nghe tiếng vội chạy lại. Lý Văn Tú sà vào lòng ông, kêu lên:
– Gia gia, y… y là ác nhân đang đuổi theo cháu đó.
Kế lão vuốt tóc đứa nhỏ, nhỏ nhẹ nói:
– Đừng sợ, đừng sợ. Y không phải ác nhân đâu.
Lý Văn Tú đáp:
– Phải mà! phải mà! Bọn họ mấy chục người đuổi theo đánh cha mẹ cháu đó.
Kế lão nghĩ thầm:
– Bạch Mã Lý Tam với ta vô thân vô cố, không hiểu gây thù chuốc oán với bọn này như thế nào, việc gì ta phải dây dưa vào.
Đinh Đồng liếc mắt thăm chừng ông già, chỉ thấy ông ta râu tóc bạc phơ, không còn sợi nào đen, thân thể to cao, nhưng lưng còng run rẩy thật là yếu đuối, nghĩ thầm:
– Lão này chẳng một trăm thì cũng phải chín chục, nơi đây lại chẳng có ai, đánh cho lão gục xuống bắt con bé và con ngựa trắng rồi đi ngay để khỏi đêm dài lắm mộng, để lâu sinh chuyện.
Gã đột nhiên khum tay đưa lên tai phải làm như lắng nghe, nói:
– Có người đến.
Nói xong rảo bước đi tới bên cửa sổ. Kế lão không nghe tiếng chân người nhưng thấy Đinh Đồng làm như thế lại tưởng thực, cũng đến cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy trên cánh đồng bò cừu đang cắm cúi ăn cỏ, bốn bề tĩnh mịch, không thấy bóng dáng ai bèn hỏi:
– Có thấy ai đâu?
Thì đột nhiên nghe Đinh Đồng cất giọng cười phá lên, trên đầu thấy có gió ập xuống một bàn tay từ cao đã đập lên đầu ông già. Nào ngờ Kế lão tuy già yếu lụm cụm, nhưng thân thủ lại hết sức nhanh nhẹn, chưởng của Đinh Đồng còn cách đầu ông vài tấc, ông lão liền nghiêng qua một bên, tiếp theo bàn tay móc một cái, thi triển đại cầm nã thủ, chộp ngay được cổ tay phải y. Đinh Đồng biến chiêu cũng thật mau lẹ, tay phải giựt về không được liên tống tay trái, con dao dấu trong tay áo liền đâm ra, chỉ thấy lấp loáng, nghe soẹt một tiếng, lưỡi dao đã trúng ngay lưng bên trái của Kế lão.
Lý Văn Tú kinh hoảng kêu lên:
– Ối chao!
Nó có được cha mẹ dạy cho hai năm võ công, nay thấy Kế lão trúng dao liền nhảy tới, hai bàn tay đấm thùm thụp vào lưng Đinh Đồng. Ngay lúc đó, Kế lão đã co tay trái, thúc cùi chỏ vào ngay ngực Đinh Đồng, lực đạo thật là mãnh liệt, Đinh Đồng chỉ hự lên được một tiếng, thân thể nhũn xuống, nằm gục trên mặt đất, máu miệng trào ra, chết ngay lập tức.
Lý Văn Tú lắp bắp:
– Gia gia, ông… lưng ông trúng dao…
Kế lão thấy đứa bé nước mắt doanh tròng, nghĩ thầm: “Con bé này tâm địa thật là tốt”. Lý Văn Tú lại nói:
– Gia gia, vết thương của ông… để cháu rút dao ra cho ông nhé?
Nói xong nó giơ tay cầm chuôi dao. Mặt Kế lão bỗng sầm xuống, giận dữ nói:
– Ngươi đừng lo cho ta.
Ông lão vịn vào bàn, thân hình lảo đảo, lẩy bẩy đi vào trong phòng, nghe cạch một tiếng đã đóng cửa lại. Lý Văn Tú thấy ông ta đột nhiên nổi nóng sợ lắm, lại thấy Đinh Đồng nằm chèo queo dưới đất, sợ y chồm dậy giết mình, càng nghĩ càng lo, chỉ muốn co giò bỏ chạy ra ngoài nhưng nghĩ đến Kế lão đang bị thương chẳng ai chăm sóc không nỡ bỏ đi.
Nó suy nghĩ rồi đi đến bên cửa phòng, nhè nhẹ gõ mấy tiếng, không thấy bên trong động tĩnh gì nên kêu lên:
– Gia gia, gia gia, ông có đau không?
Chỉ nghe Kế lão gắt lên:
– Cút đi, cút đi. Đừng đến quấy rầy ta.
Giọng đó khác hẳn bình thường ôn tồn hiền dịu khiến Lý Văn Tú sợ quá không dám nói thêm, ngơ ngẩn ngồi bệt xuống đất, ôm đầu tấm tức khóc. Bỗng nghe kẹt một tiếng, cửa phòng mở ra, một bàn tay nhẹ nhàng xoa đầu nó, có tiếng ông già nhỏ nhẹ:
– Đừng khóc, đừng khóc, vết thương của gia gia không sao cả.
Lý Văn Tú ngửng đầu lên thấy Kế lão đang mủm mỉm, trong bụng vui mừng liền phá ra cười. Ông lão cũng cười theo:
– Vừa khóc lại cười, không biết xấu ư?
Lý Văn Tú rúc đầu vào lòng ông, nó cảm thấy một tấm thân tình ấm áp của ông già cho nó. Kế lão nhíu mày, nhìn xác Đinh Đồng nghĩ thầm: “Y với ta không thù không oán sao bỗng dưng hạ độc thủ nhỉ?”. Lý Văn Tú vẫn lo cho ông nên hỏi:
– Gia gia, lưng ông vết thương có sao không?
Lúc này ông già đã thay một bộ trường bào thành thử nó không biết thương thế ra sao. Nào ngờ vừa nghe con bé nhắc lại chuyện cũ, dường như nhắc lại một chuyện cực kỳ xấu hổ nhục nhã, mặt ông lão liền hiện vẻ bực bội, gắt:
– Sao ngươi cứ léo nhéo gì thế?
Bỗng nghe con ngựa trắng từ bên ngoài hí lên một tiếng dài, ông già suy nghĩ một chập rồi đi vào phòng chứa củi lấy ra một thùng chất nhuộm màu vàng. Đây là loại vật liệu người ta dùng để đánh dấu lên trên đàn cừu bò để cho khỏi lẫn với cừu bò của người khác, dù có mưa gió cũng không phai. Ông lão xách thùng tới bên con ngựa bôi nó từ đầu tới chân, sau đó sang bên lều người Cáp Tát Khắc xin một bộ quần áo con trai cũ, bảo Lý Văn Tú thay ra. Lý Văn Tú rất thông minh nói:
– Gia gia, ông làm thế để cho bọn ác nhân không nhận ra cháu phải chăng?
Kế lão gật đầu, thở dài nói:
– Gia gia già mất rồi. Ôi, lúc nãy để y đâm trúng một dao.
Lần này chính ông ta nhắc đến nhưng Lý Văn Tú không dám tiếp lời.
Kế lão đem thi thể Đinh Đồng chôn đi, lại đem con ngựa y cưỡi đến giết thịt, không để lại chút dấu vết gì, sau đó mới ra cửa lấy một thanh đao dài ngồi mài.
Công phu ông bỏ ra quả nhiên không phí, ngay buổi chiều hôm đó, Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải đã dẫn bọn lâu la tiến vào vùng đồng cỏ cướp bóc một trận. Vùng này xưa nay vốn không có cướp bóc, người Cáp Tát Khắc tuy hiếu võ thiện chiến nhưng không phòng bị trước, đàn ông con trai đi lên vùng tây bắc săn thú chăn nuôi, chỉ còn toàn đàn bà trẻ con ở lại nên khi bọn lục lâm Trung Nguyên đến tấn công trở tay không kịp. Bảy người đàn ông bị chúng giết chết, năm người đàn bà bị chúng bắt đi. Bọn giặc đó cũng xông vào nhà của Kế lão nhưng không ai nghi ngờ gì một ông già với một đứa trẻ Cáp Tát Khắc. Lý Văn Tú mặt mày lem luốc, nép trong một góc nhà, không ai để ý mắt nó bừng lên đầy thù hận. Nó đã nhìn thấy rõ ràng, thanh bội kiếm của cha nó lủng lẳng nơi hông Hoắc Nguyên Long còn đôi kim ngân tiểu kiếm của mẹ nó thì cài nơi thắt lưng Trần Đạt Hải. Đây là binh khí bất ly thân của cha mẹ nó, con bé tuy còn nhỏ nhưng cũng đoán ra rằng cha mẹ nó đã gặp chuyện chẳng lành.
Đến ngày thứ tư, đàn ông con trai Cáp Tát Khắc từ phương bắc quay về, lập tức tổ chức thành đoàn ngũ đi kiếm bọn cường đạo người Hán báo thù. Thế nhưng sa mạc mênh mông không thấy tung tích họ đâu cả, chỉ thấy năm người đàn bà bị chúng bắt đi. Cả năm người đều đã chết, quần áo bị lột sạch, chết thật thê thảm. Họ cũng tìm thấy xác của Bạch Mã Lý Tam và Kim Ngân Tiểu Kiếm Tam Nương Tử cùng kéo cả về.
Lý Văn Tú thấy xác cha mẹ liền nhào tới ôm khóc nức nở. Một tên Cáp Tát Khắc chân mang giày da, giơ lên đá vào con bé một cái, cất tiếng chửi:
– Xin đấng Allah trừng phạt bọn người Hán ăn cướp chúng mày!
Kế lão ôm Lý Văn Tú về nhà, không thèm tranh cãi với gã Cáp Tát Khắc. Trong lòng con bé chỉ nghĩ đến: “Sao trên đời này lắm kẻ ác đến thế? Ai ai cũng đều hiếp đáp ta thế này?”
Đến nửa đêm, Lý Văn Tú lại nằm mơ khóc thút thít, vừa mở mắt ra, thấy ngay bên giường một người ngồi đó. Đứa trẻ kinh hãi kêu thất thanh, ngồi nhỏm dậy, chỉ thấy Kế lão đang nhìn nó chăm chăm, mắt đầy vẻ thương xót, giơ tay xoa đầu con bé nói:
– Không sợ, không sợ, gia gia đây.
Nước mắt Lý Văn Tú như những hạt trân châu chảy dài hai bên má, nằm gục vào trong lòng ông già, khóc ướt đẫm cả vạt áo Kế lão. Kế lão nói:
– Hài tử, con không còn cha mẹ, vậy cứ coi ta như ông nội, sống ở đây với ta. Gia gia sẽ đối đãi với con tử tế.
Lý Văn Tú vừa khóc vừa gật đầu, nghĩ đến bọn ác nhân giết hại cha mẹ mình, lại nhớ đến gã Cáp Tát Khắc hung hăng đá nó lúc nãy. Cú đá đó thật mạnh khiến hông nó bị sưng một mảng lớn, nó không nhịn nổi hỏi ông già:
– Gia gia ơi, sao ai cũng hiếp đáp cháu vậy? Cháu có làm gì xấu xa đâu?
Kế lão thở dài nói:
– Những người bị hà hiếp trên đời này đều là những người không làm gì xấu cả.
Lão đổ trong bình ra một bát sữa, bưng cho đứa bé uống, lấy chăn đắp lên người cho nó nói:
– Tú nhi kè đắnh con ban chiều tên là Tô Lỗ Y là một người chính trực tốt bụng đấy.
Lý Văn Tú trợn tròn đôi mắt, thật lạ lùng hỏi:
– Y… y là người tốt sao?
Kế lão gật đầu:
Đúng vậy, y tốt bụng lắm. Y cũng chẳng khác gì con đâu, trong một ngày chết mất hai người thân yêu nhất, một người là vợ y, một người là con lớn của y, cả hai đều bị bọn ác nhân kia giết chết. Thành ra y thấy người Hán đều xấu xa, y chửi con bằng tiếng Cáp Tát Khắc là “Xin đấng Allah trừng phạt bọn người Hán ăn cướp chúng mày”. Con đừng giận y, y trong lòng đau khổ, cũng chẳng khác gì con đâu. Ồ không, y lớn rồi, ắt thấy đau buồn nhiều hơn con gấp bội, thấm thía hơn con gấp bội.
Lý Văn Tú ngơ người nghe, nó vốn không thù ghét gì gã Cáp Tát Khắc mặt đầy râu ria kia, chỉ có điều thấy bộ dạng y hung ác quá nên sợ hãi, bây giờ nghĩ lại, gã râu ria ấy mắt ướt nhòe, có điều không rơi xuống thôi. Nó không hiểu Kế lão nói gì, tại sao người lớn lại đau khổ hơn trẻ con, nhưng đối với gã râu xồm kia không khỏi nổi lên một mối đồng tình.
Từ ngoài cửa vọng vào một tiếng chim kêu thật lảnh lót, thanh âm vang ra xa nhưng nghe vẫn rõ ràng, thật là ngọt ngào, lại cũng thật thê lương, chẳng khác nào tiếng hát trong trẻo thánh thót của một thiếu nữ.
Lý Văn Tú lắng tai nghe, tiếng hót xa dần, sau cùng không còn nghe thấy nữa. Cơn đau buồn của cô gái dường như có chiều an ủi, lặng người hồi lâu rồi nói nhỏ:
– Gia gia, con chim đó hót nghe thật là hay.
Kế lão nói:
– Đúng thế, nó hót hay thật. Đây là con chim thiên linh, tiếng hót của nó chẳng khác nào tiếng nhạc trời. Chim này chỉ đến tối mới hót thôi, ban ngày nó ngủ. Có người bảo đây là vì sao trên trời giáng trần. Người Cáp Tát Khắc thì bảo rằng con chim này là một cô gái rất xinh đẹp, hát rất hay chết hóa thành. Tình lang của nàng không yêu nàng nên cô ta đau lòng mà chết.
Lý Văn Tú ngơ ngẩn hỏi lại:
– Sao cô ấy rất xinh đẹp, hát rất hay mà người ấy lại không yêu là sao?
Kế lão lặng người, thở dài một tiếng đáp:
– Trên đời này có biết bao nhiêu chuyện, cháu còn bé không hiểu được?
Ngay lúc đó từ thảo nguyên lại vọng về tiếng hót của con chim thiên linh, nghe vừa ngọt ngào, vừa chua xót.
Cứ như thế, Lý Văn Tú ở nhà ông già họ Kế, giúp ông chăn cừu nấu cơm, hai người chẳng khác gì ông cháu ruột. Ban đêm, mỗi khi Lý Văn Tú nằm mơ tỉnh dậy, nghe tiếng hót của chim thiên linh, rồi từ tiếng chim kêu lại thiếp đi. Trong giấc mộng, con bé mơ thấy phong cảnh Giang Nam, có liễu xanh, có đào hồng, cha nó ôm nó trên lòng và nụ cười của mẹ nó…
Qua mùa thu, rồi lại hết mùa đông, ngày tháng trôi dần. Lý Văn Tú học tiếng Cáp Tát Khắc, và biết bao nhiêu chuyện của vùng thảo nguyên.
Ông già biết cất những loại rượu vừa nồng, vừa thơm mà đàn ông Cáp Tát Khắc thì thích uống rượu mạnh. Ông già cũng biết chữa bệnh tật cho bò cừu ngựa, nhiều con người Cáp Tát Khắc không chữa được đem đến ông đều chữa khỏi. Bò cừu ngựa chẳng khác nào tính mệnh của người Cáp Tát Khắc, tuy họ không thích người Hán nhưng không có ông không được, nên đành đem bò cừu đến đổi lấy rượu vừa thơm vừa nồng của ông, hay nhờ ông chữa bệnh cho súc vật.
Những căn lều của người Cáp Tát Khắc di chuyển khắp bốn hướng đông tây nam bắc trên thảo nguyên. Kế lão có khi di chuyển theo họ, có khi thì ở lại túp lều tranh, đợi họ quay lại.
Một buổi tối, Lý Văn Tú lại nghe thấy tiếng chim thiên linh hót, thấy tiếng hót mỗi lúc một xa, lúc có lúc không, mỗi lần gió đưa tới thì nghe được, rồi lại không thấy gì. Lý Văn Tú ngồi dậy khoác áo, ra đằng sau dắt con ngựa trắng, sợ làm ông lão tỉnh dậy, dẫn con ngựa đi ra xa lúc ấy mới lên yên, lần theo tiếng chim hót đi tới.
Trên thảo nguyên ban đêm, bầu trời thật cao thật xanh, các vì sao lấp lánh, mùi cỏ và mùi hoa thơm ngát. Tiếng chim hót thật rộn ràng, thật uyển chuyển, lại thật tình tứ. Lý Văn Tú nghe tiếng chim mừng rỡ, xuống ngựa để cho con vật tự do ăn cỏ. Cô bé nằm ngửa mặt lên trời, đắm mình theo tiếng chim hót.
Con chim thiên linh hót một hồi lại bay xa vài trượng. Lý Văn Tú ở dưới đi lần theo, nghe thấy cả tiếng chim vỗ cánh, nhìn thấy cả thân hình nho nhỏ màu vàng nhạt của nó, thấy nó mổ dưới đất kiếm ăn. Con chim mổ mấy nhát lại bay tới một đoạn, lại cắm cúi mổ thức ăn.
Con chim kiếm mồi thật mải mê, đột nhiên nghe sạch một tiếng, dưới cỏ nhảy lên một vật gì đen xì, chụp luôn con chim thiên linh lại. Lý Văn Tú thất thanh kêu lên, lẫn trong tiếng kêu của nó có tiếng một đứa trẻ khác hò reo, từ trong đám cỏ cao nhảy ra một đứa bé trai Cáp Tát Khắc, đắc ý kêu lên:
– Bắt được rồi, bắt được rồi.
Nó lấy áo ngoài bao con chim thiên linh lại, con chim kinh hoảng kêu chiêm chiếp, nghe tiếng vang ra thật thảm thiết. Lý Văn Tú vừa kinh hãi vừa tức tối, kêu lên:
– Ngươi làm gì thế?
Đứa con trai đáp:
– Ta bắt chim thiên linh, ngươi cũng bắt nó à?
Lý Văn Tú hỏi lại:
– Bắt nó làm gì? Sao không để cho nó vui vẻ hót cho mình nghe?
Đứa con trai đáp:
– Bắt về chơi.
Nó đưa tay vào trong chiếc áo khoác, khi lôi ra trong tay đã có một con chim màu vàng nhạt nằm gọn trong đó. Con chim cố sức vùng vẫy nhưng làm sao thoát ra khỏi tay thằng bé được?
Lý Văn Tú nói:
– Tha nó ra đi, ngươi không thấy nó đáng thương sao?
Thằng bé đáp:
– Tao rắc gạo thành một đường dài dụ cho con chim theo vào. Ai bảo nó tham ăn gạo của tao? Ha ha.
Lý Văn Tú ngơ ngẩn, ở trên đời đây là lần đầu nó hiểu thế nào là “cạm bẫy”. Người ta biết chim thích ăn thóc gạo nên rắc ra để dụ nó đi vào tử lộ. Tuy nó còn nhỏ có biết đâu bao nhiêu nghìn năm qua, con người đã biết rằng “Chim tham ăn sa vào vòng lưới, Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu”. Nó chỉ mang máng biết rằng cơ mưu con người thật gớm ghê, hiểu rằng “dẫn dụ” là một cách mà người ta khó mà thoát ra được. Dĩ nhiên nó chỉ hiểu rất mù mờ, không hiểu được bên trong còn những ý nghĩa gì.
Thằng bé nghịch con chim thiên linh khiến con vật bé bỏng kêu lên những tiếng thật thống khổ. Lý Văn Tú nói:
– Ngươi cho ta con chim đi, có được không?
Thằng bé hỏi lại:
– Thế ngươi trả cho ta cái gì?
Lý Văn Tú thò tay vào túi sờ thử, nó chẳng có gì hết, không khỏi bối rối, nghĩ ra một chuyện bèn nói:
– Để ngày mai ta may cho ngươi một cái túi thật đẹp ngươi đeo, được không?
Thằng nhỏ kia cười:
– Ta đâu có ngu thế, ngày mai ngươi trây ra không đưa thì sao?
Lý Văn Tú mặt đỏ lên nói:
– Ta đã nói là cho ngươi thể nào cũng đưa, sao lại trây ra bao giờ.
Đứa con trai lắc đầu:
– Ta không tin.
Dưới ánh trăng, nó thấy cổ tay Lý Văn Tú đeo một cái vòng ngọc sáng lấp lánh, buột miệng hỏi:
– Trừ khi ngươi cho ta cái vòng kia.
Cái vòng đó là mẹ nó cho nó, ngoài cái vòng ra không còn một kỷ niệm nào khác của mẹ cả. Nó không muốn cho nhưng thấy con chim thật đáng thương, nên đành tháo chiếc vòng đưa cho thằng bé nói:
– Cho mày đó.
Thằng nhỏ không ngờ con bé bằng lòng, cầm chiếc vòng, hỏi lại:
– Ngươi không đòi lại đấy chứ?
Lý Văn Tú đáp:
– Không.
Đứa con trai nói:
– Được.
Nói xong đưa con chim thiên linh cho Lý Văn Tú. Lý Văn Tú hai tay ôm con chim, lòng bàn tay thấy con vật thật mềm mại, cả tiếng trái tim con chim giật giật. Nó lấy ba ngón tay phải vuốt ve nhè nhẹ lên bộ lông, rồi mở tay ra nói:
– Chim ơi, chim bay đi chim. Lần sao thì cẩn thận đừng để cho người ta bắt nữa nhé.
Con thiên linh xòe đôi cánh, bay vụt vào trong đám cỏ. Thằng bé thật lạ lùng, hỏi:
– Sao ngươi lại thả con chim ra? Ngươi đã chẳng đổi cái vòng ngọc đấy ư?
Y nắm chặt chiếc vòng, sợ Lý Văn Tú đòi lại. Lý Văn Tú đáp:
– Thả chim thiên linh bay đi cho nó hót nghe chẳng sướng hơn sao?
Thằng bé nghiêng đầu nhìn con bé một hồi hỏi thêm:
– Ngươi là ai?
Lý Văn Tú đáp:
– Ta tên Lý Văn Tú, còn ngươi?
Thằng bé đáp:
– Ta tên Tô Phổ.
Nói xong y nhảy lên há mồm kêu lên một tiếng thật lớn. Tô Phổ lớn hơn con bé hai tuổi, cao hơn nhiều, đứng nơi thảo nguyên trông cũng hiên ngang lắm. Lý Văn Tú nói:
– Ngươi khỏe lắm, có phải không?
Tô Phổ cực kỳ hứng chí, con bé này nói ra chính là điều y hãnh diện hơn cả. Y rút từ trong lưng ra một thanh đoản đao nói:
– Tháng trước ta dùng con dao này đâm chết một con chó sói, còn một con nữa chỉ tí xíu nữa là giết được nó, nhưng tiếc thay để nó chạy mất.
Lý Văn Tú cực kỳ kinh ngạc, hỏi:
– Ngươi giỏi thế ư?
Tô Phổ càng thêm đắc ý nói:
– Có hai con chó sói nửa đêm vào bắt cừu nhà ta, cha ta đi vắng, ta liền rút dao ra đuổi cho sói. Con sói lớn thấy ánh lửa chạy mất, ta dùng dao chém chết một con.
Lý Văn Tú hỏi lại:
– Ngươi giết chết con nhỏ ư?
Tô Phổ không hiểu ý, gật đầu, lại thêm một câu:
– Con sói lớn mà không chạy kịp, ta cũng sẽ đâm nó chết luôn.
Y tuy nói thế nhưng cũng biết mình không dễ gì làm nổi. Thế nhưng Lý Văn Tú thì tin ngay nói:
– Sói dữ đến cắn cừu, ngươi giết là phải. Kỳ sau ngươi giết được chó sói, đến gọi ta cho ta coi, có được không?
Tô Phổ mừng lắm nói:
– Được chứ! Để khi nào ta giết được chó sói, ta sẽ lột da tặng cho ngươi.
Lý Văn Tú nói:
– Cám ơn ngươi nhiều lắm, ta sẽ làm cho gia gia một chiếc nệm bằng da chó sói. Cái nệm của ông, ông cho ta rồi.
Tô Phổ đáp:
– Không được! Ta cho ngươi thì để ngươi dùng. Ngươi đem trả lại cái nệm ông ngươi cho ngươi.
Lý Văn Tú gật đầu:
– Thế cũng được.
Trong lòng hai đứa trẻ, những việc trong tương lai tuy chưa xảy ra nhưng cũng chẳng khác gì đã có rồi. Hai đứa mới nói tới việc giết chó sói nhưng đã tưởng như đã giết được con ác lang rồi.
Từ đó hai đứa trẻ làm bạn với nhau. Đứa con trai Cáp Tát Khắc tính tình khoáng đạt, cùng với đứa con gái người Hán ôn nhu hiền hậu thật là hòa hài. Mấy hôm sau, Lý Văn Tú may một cái bao nhỏ, để đầy bỏng rang đem cho Tô Phổ. Món quà đó quả thật thằng bé không ngờ đến, y đem con chim đổi được cái vòng đã thấy được lợi biết bao nhiêu. Người Cáp Tát Khắc tính tình chính trực, thấy vậy có điều không công bằng nên sau một đêm không ngủ, y rình ngoài thảo nguyên bắt được hai con chim thiên linh, sáng hôm sau hí hửng đem cho Lý Văn Tú. Hành vi khẳng khái đó thật không phải, Lý Văn Tú phải nói mãi thằng nhỏ mới hiểu được rằng cô bé chỉ muốn chim thiên linh tự do tự tại, chứ không muốn bắt nó để chơi. Sau cùng Tô Phổ hiểu ra nhưng vẫn thấy dường như cái thiện tâm của nàng có điều hơi ngốc nghếch, thật là tức cười.
Ngày lại ngày trôi qua, hình bóng cha mẹ hiện ra trong giấc mơ của Lý Văn Tú, mỗi lúc một thưa dần. Nước mắt cũng không còn đầm đìa trên gối như trước nữa. Trên khuôn mặt đã thêm nét tươi vui, khóe miệng cũng hay véo von ca hát. Mỗi khi cô gái đi chăn cừu cùng Tô Phổ, trên thảo nguyên hai đứa thường nghe thanh niên nam nữ hát những bản tình ca đối đáp với nhau. Lý Văn Tú thấy những bài hát này ý tứ triền miên thật dễ nghe, nghe mãi cũng nhập tâm thuận miệng cũng hát theo. Dĩ nhiên nó chưa hiểu những bài ca đó ra thế nào, tại sao một người con trai lại mê say một người con gái? Làm sao một người con gái lại đắm đuối xiêu lòng vì một người con trai? Làm sao tiếng chân người tình lại khiến cho trái tim đập thình thịch? Làm sao một tấm thân yểu điệu lại khiến người khác không ngủ được? Nàng cứ thấy người khác hát sao thì hát theo như vậy, rồi lại nghe người ta xì xầm: “Con bé đó hát hay quá, có khác gì con chim thiên linh trên vùng thảo nguyên đâu?”.
Đến mùa đông khí trời lạnh lẽo, chim thiên linh bay về phương nam ấm áp nhưng trên đồng cỏ vùng sa mạc, tiếng hát của Lý Văn Tú vẫn tiếp tục vang lên:
Hỡi nàng mục nữ yêu kiều,
Đến nay nàng đã bao nhiêu tuổi rồi?
Nửa đêm lẻ bóng xa xôi,
Sao em không để cho tôi đi cùng?
Hỡi nàng nàng ơi!
Tiếng ca tới đây ngừng lại, ai ai nghe xong cũng phải nhủ thầm: “Nghe tiếng hát véo von thế này, có ai không muốn làm bạn cùng nàng đâu?”. Một lát sau tiếng nàng lại vang lên:
Ai kia chớ có bẽ bàng,
Người hay kẻ dở biết chàng là ai?
Bao giờ rẫy cỏ trồng hoa,
Lều tranh một mái đôi ta chung tình.
Hỡi chàng chàng ơi!
Người nào nghe tiếng hát lòng cũng đều nở hoa, dù cho trái tim giá lạnh, hoang lương đến mấy cũng không khỏi dậy lên một nỗi ấm áp: “Nếu quả như một đôi tình nhân yêu nhau ở chung một mái nhà, biến đồng cỏ thành vườn hoa thì còn ai giận ai cho nổi?”. Người già thấy mình trẻ lại đến hai chục tuổi, còn người trẻ trong lòng bừng lên một niềm vui nhưng người hát những bản tình ca kia là Lý Văn Tú thì lại chẳng hiểu gì.
Người nghe nàng hát nhiều hơn cả dĩ nhiên là Tô Phổ. Y cũng không hiểu hết ý tứ trong những bản tình ca đồng nội cho đến một hôm trên đồng tuyết hai đứa gặp một con sói dữ.
Con chó sói đến thật bất ngờ. Lý Văn Tú và Tô Phổ hai đứa đang ngồi cạnh nhau trên một cái đồi nhỏ, chăm chăm canh bầy cừu đang rải rác trên thảo nguyên. Nếu như lúc bình thường, Lý Văn Tú đã kể truyện cổ tích cho y nghe. Những truyện đó có truyện thì mẹ nàng kể cho nghe, có truyện thì Kế lão kể cho nghe, cũng có truyện thì nàng tự đặt ra.. Tô Phổ thích nghe nhất là những truyện vào sinh ra tử của ông già họ Kế, còn chán nhất là nghe những truyện trẻ con do Lý Văn Tú bịa ra, nhưng những truyện hung hiểm kia đã kể đi kể lại mấy lần rồi, chẳng còn thấy gì ly kỳ nữa, nó chỉ đành lẳng lặng ngồi nghe Lý Văn Tú kể những chuyện đại loại như con thỏ trắng đi tìm mẹ được con chó con giúp đỡ ra sao. Ngay lúc đó, Lý Văn Tú “A” lên một tiếng, nhảy vọt về sau, một con chó sói to lớn màu xám đang xông tới nhe răng ngoạm vào cổ nó.
Con chó sói từ phía sau lẳng lặng tới tấn công, hai đứa trẻ không đứa nào phát giác kịp. Lý Văn Tú đã được mẹ dạy cho chút ít võ công nên tự nhiên né đầu qua, tránh được hàm răng con chó sói cắn vào cổ. Tô Phổ thấy con chó sói đó to lớn, sợ đến chân nhũn ra, nhưng lập tức nghĩ ngay: “Thể nào mình cũng phải cứu nó”. Y rút ngay con dao đeo nơi lưng, xông tới đâm một nhát vào lưng con dã thú.
Con sói xám đó thật là cứng cáp, con dao đâm vào lưng nó chỉ làm nó bị thương bên ngoài da. Thế nhưng con chó sói cũng thấy được nguy cơ, bỏ Lý Văn Tú, há chiếc mồm đỏ như máu, bất thần nhảy lên, hai chân chồm vào vai Tô Phổ, rồi ngoạm vào mặt thằng bé.
Tô Phổ kinh hãi, ngã ngửa về phía sau. Con chó sói nhanh như điện, hai chân liền nhào vào đè nó xuống, hàm răng trắng nhởn táp luôn vào mặt. Lý Văn Tú cực kỳ hoảng sợ nhưng cố thu hết dũng khí, nắm đuôi con vật kéo ra. Con sói xám bị nàng giật ngược phải chùn lại một bước nhưng nó đói đã lâu, hai chân sau liền ghì xuống đất, khiến Lý Văn Tú không sao kéo thêm được nữa, rồi nó lại há mồm ngoạm tới.
Tô Phổ kêu lên một tiếng thất thanh, con sói dữ đã cắn trúng vai nó. Lý Văn Tú sợ hãi đến muốn bật khóc, đem hết sức bình sinh kéo mạnh. Con vật bị đau rú lên, những chiếc răng nhọn đang ngoạm vào vai Tô Phổ lập tức nhả ra. Tô Phổ mơ mơ hồ hồ đâm mạnh một dao, may sao trúng ngay chỗ da thịt mềm nơi bụng con sói, sâu lút tận cán. Y đang định rút dao đâm thêm, con sài lang đã nhảy vọt lên, lăn lộn mấy cái trên mặt tuyết, chổng chân lên trời nằm chết.
Con sói dãy giụa khiến cho Lý Văn Tú cũng lộn tùng phèo vì nó vẫn nắm đuôi con vật không chịu bỏ ra. Tô Phổ gượng đứng lên, thấy con dã thú to lớn kia nằm chết trên mặt tuyết, không khỏi lặng người, một lát sau mới mừng rỡ kêu lên:
– Ta giết được con chó sói rồi, ta giết được con chó sói rồi.
Y cực kỳ đắc ý, tuy đầu vai máu vẫn chảy ròng ròng nhưng ngay lúc đó chưa thấy đau. Lý Văn Tú thấy chiếc áo lông cừu của y một bên ướt đẫm máu, vội vàng cởi ra, lấy trong túi ra chiếc khăn tay, rịt vào vết thương đang máu tuôn xối xả, hỏi:
– Có đau lắm không?
Tô Phổ vẫn còn tính trẻ con, đau muốn mở mồm khóc được nhưng lúc này cảm thấy mình anh hùng quá, bặm môi lắc đầu:
– Ta không sợ đau.
Ngay khi đó từ phía sau có tiếng người hỏi:
– A Phổ, ngươi đang làm gì thế?
Hai đứa trẻ quay đầu lại thấy một người đàn ông mặt đầy râu ria đang ngồi trên mình ngựa. Tô Phổ kêu lên:
– Cha, cha xem này, con giết được một con sói lớn.
Người đàn ông mừng lắm, xoay mình nhảy xuống thấy con mình mặt đầy những máu, lại đưa mắt nhìn sang Lý Văn Tú, hỏi Tô Phổ:
– Ngươi bị chó sói cắn ư?
Tô Phổ đáp:
– Con đang ngồi đây nghe A Tú kể truyện cổ, bỗng con chó sói này tới cắn nó…
Đột nhiên người đàn ông kia mặt bỗng sầm xuống, nhìn Lý Văn Tú khinh khỉnh hỏi:
– Có phải ngươi là đứa con gái người Hán bị Chúa phạt đó không?
Lúc này Lý Văn Tú cũng đã nhận ra y, chính là gã Tô Lỗ Khắc đá nó một cái khi trước. Con bé nhớ tới lời của Kế lão từng nói: “Vợ y, con trai lớn của y trong một đêm bị cường đạo người Hán giết hại, cho nên y thù ghét người Hán đấy thôi”.
Lý Văn Tú gật đầu, đang định nói: “Cha tôi, mẹ tôi cũng bị bọn giặc kia giết đó”. Nàng chưa kịp nói, nghe một tiếng vút, má Tô Phổ bị cha dùng roi vụt một cái, hiện lên một lằn dàu, sưng tấy lên ngay. Tô Lỗ Khắc quát lớn:
– Ta bảo ngươi truyền đời này kiếp khác, lúc nào cũng phải thù ghét người Hán, ngươi quên lời ta đi chơi với con bé người Hán, lại còn xả mệnh đổ máu vì nó nữa.
Vụt một tiếng nữa, y lại quất thêm một roi lên đầu con. Tô Phổ không tránh né chỉ đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn Lý Văn Tú, hỏi lại:
– Nó là người Hán bị Chúa phạt đấy ư?
Tô Lỗ Khắc rống lên:
– Không lẽ không phải sao?
Y giơ roi quay lại vụt một cái ngay mặt Lý Văn Tú. Lý Văn Tú lùi lại hai bước, giơ tay ôm mặt. Tô Phổ vốn đã bị chó sói cắn bị thương khá nặng, lại bị đánh thêm hai roi không còn chịu nổi nữa, lảo đảo rồi ngã lăn ra.
Tô Lỗ Khắc thấy nó hai mắt nhắm nghiền, nằm ngất đi, kinh hãi quá vội vàng nhảy xuống ngựa, ôm con lên, rồi nhảy vọt lên rơi xuống đúng ngay lưng ngựa, vung cái thòng lọng ra buộc ngay vào cổ con chó sói chết, hai chân thúc một cái, giục ngựa chạy đi. Con chó sói bị kéo theo sau ngựa thành một vệt dài trên mặt tuyết, giữa hai hàng vết chân, còn thêm một giòng máu đỏ chảy dài. Tô Lỗ Khắc chạy được mươi trượng, quay lại hầm hầm nhìn Lý Văn Tú, đôi mắt đầy oán thù dường như muốn nói: “Kỳ sau mà mày còn gặp ta thì ta sẽ cho mày biết tay”.
Lý Văn Tú không sợ đôi mắt kia nhưng sao trong lòng trống trải, biết rằng từ nay về sau Tô Phổ không còn có thể làm bạn với nó, cũng chẳng còn bao giờ nghe nó hát, nghe nó kể truyện nữa. Con bé thấy gió bấc càng thêm lạnh không chịu nổi, vết roi trên mặt giật giật liên hồi, mỗi lúc một thêm đau rát.
Con bé lặng lẽ lùa cừu quay về. Kế lão thấy quần áo đứa nhỏ đầy những máu, trên mặt lại sưng vù vết roi, không khỏi kinh sợ, hỏi chuyện đầu đuôi. Lý Văn Tú chỉ thản nhiên trả lời:
– Tại cháu vô ý bị ngã.
Kế lão dĩ nhiên không tin, gặng hỏi thêm, nhưng Lý Văn Tú chỉ một mực trả lời như thế. Mãi về sau con bé mới khóc òa lên, nhưng một câu cũng không nói.
Buổi tối hôm đó, Lý Văn Tú lên cơn sốt, khuôn mặt trái xoan đỏ bừng, nói mê sảng lung tung, nào là “con sói xám” rồi kêu lên:” Tô Phổ, Tô Phổ, mau cứu ta”, lúc thì “người Hán bị Chúa phạt”. Kế lão cũng đoán ra được vài phần, trong bụng thật là lo lắng. Cũng may đến sáng thì cơn sốt lui dần, Lý Văn Tú nằm ngủ thiếp đi.
Cơn bệnh đó kéo dài đến hơn một tháng, đến lúc nó dậy được thì mùa đông đã qua, trên dãy Thiên Sơn tuyết đã bắt đầu tan, từng giòng từng giòng nước chảy xuống thành những con suối nhỏ tràn xuống đồng cỏ. Trên cánh đồng đã xuất hiện những mầm cỏ li ti. Sáng hôm đó, Lý Văn Tú dậy sớm, mở cửa bước ra định lùa bầy cừu ra chăn trên đồng cỏ, thấy ngay trước cửa để một bộ da sói thật lớn, đã cắt thành một chiếc mền. Lý Văn Tú giật mình sửng sốt, nhìn lại màu da, chính là da con sói xám cắn nó hôm trước trên bãi tuyết. Cô gái lật bộ da lên xem, quả nhiên dưới da bụng có vết dao đâm. Tim cô gái đập thình thình, biết rằng Tô Phổ không quên nó, cũng không quên lời đã hứa khi xưa, nửa đêm đem bộ da sói để ngay trước ngạch cửa. Con bé đem bộ da sói vào phòng, không nói gì cho Kế lão hay cả, lại lùa bầy cừu ra, đến nơi vẫn thường ngồi với Tô Phổ chờ bạn.
Thế nhưng nó đợi đến chiều tối, vẫn không thấy Tô Phổ ra. Cô bé cũng nhận ra bầy cừu của nhà Tô Phổ, hôm nay do một thanh niên mười bảy, mười tám đi chăn. Lý Văn Tú tự hỏi: “Hay là vết thương của Tô Phổ chưa lành? Thế nhưng sao y lại đem được bộ da sói đến nhà mình?”. Nó định đi tới khu lều da thăm y, nhưng lại sợ chiếc roi của Tô Lỗ Khắc.
Nửa đêm hôm đó, con bé thu hết dũng khí, đi đến đằng sau căn lều của Tô Phổ. Nó cũng không hiểu tại sao nó lại làm thế, hay là chỉ để nói một câu: “Cám ơn ngươi đã cho ta bộ da sói” chăng? Hay là để xem thằng bạn thương thế đã khỏi chưa? Chính nó cũng không nói lên được. Con bé nép vào sau căn lều. Đàn chó chăn cừu nhà Tô Phổ nhận ra nó, chỉ chạy đến đánh hơi rồi bỏ đi, không sủa tiếng nào. Trong lều vẫn còn ánh đèn mỡ bò, và tiếng ồm ồm quát tháo của Tô Lỗ Khắc vọng ra.
– Bộ da sói ngươi lấy cho đứa nào rồi? Mày giỏi thật, mới tí tuổi đầu đã biết đem cho đứa con gái mình yêu thương món quà săn đầu đời.
Mỗi lần y gầm thét, tim Lý Văn Tú lại nhói lên. Nó đã từng nghe Tô Phổ nói chuyện xưa có nói về tập tục của người Cáp Tát Khắc, thanh niên nào cũng bảo trọng món mình săn được lần đầu tiên, để đem đi tặng cho người con gái nào mình thương yêu biểu thị tình ý. Bây giờ nó nghe Tô Lỗ Khắc tra hỏi con trai, khuôn mặt nhỏ nhắn của nó đỏ bừng lên, trong lòng không khỏi đôi chút tự hào. Hai đứa tuổi còn nhỏ, không hiểu tình ái chân chính như thế nào, thế nhưng đều ngầm hiểu là cả hai đứa đều đã được hưởng niềm vui và nỗi đau của mối tình đầu.
– Có phải mày định đem đi tặng cho cái con tiện chủng người Hán bị Chúa phạt tên là Lý quái gì ấy phải không? Giỏi lắm, mày không nói, để xem mày có cứng đầu bằng cái roi của bố mày không?
Chỉ nghe vút vút vút liên hồi, tiếng roi quất lên da thịt người vọng ra. Tô Lỗ Khắc là hạng người Cáp Tát Khắc trước nay tin rằng “yêu cho roi cho vọt, con trẻ cần chịu đòn cho quen” dạy con không cần biện pháp ôn hòa. Ông nội y dùng roi dạy bố y, bố y dùng roi dạy y và nay y cũng roi vọt con y, yêu thương con nhưng không thể để chúng lờn. Đàn ông con trai với nhau, người thân thì cú đấm, ngọn roi còn kẻ địch thì đoản đao, trường kiếm. Thế nhưng với Lý Văn Tú, cha mẹ y không bao giờ nói nặng một câu, chỉ cần trên mặt thiếu một nụ cười, thiếu một câu vỗ về cũng đã là trách phạt rồi. Bây giờ mỗi roi cũng chẳng khác gì một lần đánh vào người nó: “Cha của Tô Phổ chắc là căm hận mình lắm nên mới hung ác đánh con như thế, không biết có đánh chết y không?”.
– Giỏi, mày không trả lời. Mày có trả lời hay không? Tao đoán mày định đem cho con bé người Hán chứ gì?
Tiếng roi vẫn liên tiếp đánh, Tô Phổ lúc đầu nghiến răng cố chịu đau, sau cùng khóc òa lên nói:
– Cha ơi, đừng đánh con, đừng đánh con nữa, con đau lắm, con đau lắm.
Tô Lỗ Khắc nói:
– À bây giờ mày chịu nói rồi. Có phải mày đem bộ da sói cho con bé người Hán rồi phải không? Mẹ mày chết vì tay bọn cướp người Hán, anh mày bị người Hán giết, mày có biết không? Mọi người gọi ta là Cáp Tát Khắc đệ nhất dũng sĩ, vậy mà vợ ta, con ta đều bị người Hán giết, mày có biết không? Sao hôm đó ta không có ở nhà? Sao ta không tìm được bọn ăn cướp, để ta báo thù cho mẹ mày anh mày?
Ngọn roi của Tô Lỗ Khắc lúc này không còn để dạy con nữa mà là để phát tiết cơn cuồng nộ. Mỗi lằn roi y đánh ra chẳng khác nào đánh vào kẻ địch – Sao bọn ăn cướp chó má kia không đến mặt đối mặt đánh với ta một trận mất còn? Ngươi có nói không? Không lẽ ta là đệ nhất dũng sĩ của Cáp Tát Khắc mà đánh không lại mấy tên giặc cỏ hay sao?…
Con y bị bọn Hoắc Nguyên Long, Trần Đạt Hải giết chết, là đứa con trai lớn y thương yêu nhất, người vợ bị chúng hối nhục mà chết là người bạn đời từ bé đến lớn sống với nhau. Còn y hai mươi năm qua, ai ai cũng bảo y là dũng sĩ số một của người Cáp Tát Khắc, dù đẩy cây, đấu quyền, đấu lực, cưỡi ngựa mọi thứ y chưa hề thua ai.
Lý Văn Tú thấy Tô Phổ bị cha đánh thật là tội nghiệp, mà tiếng thét căm hờn nghẹn ngào của Tô Lỗ Khắc cũng thật là thảm thiết: “Y đánh con hung ác thế, từ nay chắc không còn yêu thương gì Tô Phổ nữa. Y không còn đứa con, mà Tô Phổ cũng chẳng còn người cha. Cũng chỉ tại ta chẳng ra gì, hẳn là ta đúng là con bé người Hán bị Chúa phạt kia chẳng ra gì”. Đến lúc này nó thấy chính mình cũng thật đáng thương làm sao.
Con bé không còn dám nghe thêm tiếng khóc của Tô Phổ, chạy về đến nhà Kế lão, từ dưới tấm nệm lôi bộ da sói ra nhìn thật lâu, thật lâu. Nhà nó và căn lều của Tô Phổ cách nhau đến hơn hai dặm, nhưng sao dường như vẫn nghe văng vẳng tiếng khóc của thằng bạn lẫn tiếng roi của Tô Lỗ Khắc. Tuy nó rất thích bộ da sói nhưng bây giờ nó không còn muốn nữa. “Nếu như ta giữ tấm da sói này, Tô Phổ chắc bị cha đánh đến chết mất. Chỉ có con gái Cáp Tát Khắc hay con gái Y Tư Lan[3] mới được giữ tấm da này thôi. Con gái Cáp Tát Khắc có biết bao nhiêu người, cô nào là cô đẹp nhất? Ta thích tấm da này lắm, là con chó sói Tô Phổ giết được, chỉ vì cứu ta mà y liều mạng giết được sài lang. Tô Phổ tặng cho ta, có điều… có điều cha y đánh y chết mất…”.
Sáng sớm hôm sau, Tô Lỗ Khắc đôi mắt đỏ ngầu bước ra khỏi lều, bỗng nghe Xa Nhĩ Khố hát một bài sơn ca xí xa xí xố. Y nghiêng đầu nhìn Tô Lỗ Khắc, khuôn mặt gã đầy vẻ lạ kỳ, cười mủm mỉm, ánh mắt toát ra một vẻ thân thiện. Xa Nhĩ Khố là một dũng sĩ nổi danh của dân Cáp Tát Khắc, hàng nghìn dặm chung quanh còn nghe đến tài huấn phục ngựa hoang của y. Y chạy rất nhanh, có người nói rằng nội trong một dặm, dù ngựa tốt cách nào cũng không đuổi kịp được y, nếu hơn một dặm thì tuy ngựa có thắng cũng chỉ hơn y một cái mõm thôi. Mỗi khi những mục tử đốt lửa ngồi tán gẫu với nhau, nhiều người bảo rằng nếu như Xa Nhĩ Khố có cái mũi cao hơn một chút thì y đã thắng rồi.
Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố xưa nay vốn chẳng mấy ưa nhau. Tên tuổi của Tô Lỗ Khắc quá lớn, đánh đao, đánh quyền hai môn đều không ai địch nổi, Xa Nhĩ Khố trong lòng vẫn ngầm ghen ghét. Y nhỏ hơn Tô Lỗ Khắc sáu tuổi, có lần hai người đánh đao, Xa Nhĩ Khố thua, vai bị cắt một đường dài. Y nói:
– Hôm nay ta thua, nhưng năm năm nữa, mười năm nữa, mình đánh lại xem nào.
Tô Lỗ Khắc đáp:
– Để hai chục năm nữa mình tỉ thí lần nữa, lúc ấy ta không có nhẹ tay như thế này đâu.-
Hôm nay, Xa Nhĩ Khố vẻ mặt tươi cười, không có gì ra chiều thù nghịch cả, Tô Lỗ Khắc vẫn còn chưa hết cơn giận, hầm hầm nhìn y. Xa Nhĩ Khố cười nói:
– Lão Tô, con trai ngươi quả có mắt tinh đời.
Tô Lỗ Khắc hỏi lại:
– Ngươi nói Tô Phổ chăng?
Y giơ tay nắm chuôi dao, mắt lóe lên một vẻ hung bạo, nghĩ thầm: “Ngươi chế riễu con ta đem tấm da sói tặng cho con bé người Hán chứ gì?”. Xa Nhĩ Khố toan trả lời: “Nếu chẳng phải Tô Phổ thì ngươi còn đứa nào khác nữa sao?”. Nhưng câu đó không ra khỏi miệng, y chỉ mỉm cười nói:
– Dĩ nhiên là Tô Phổ. Thằng nhỏ đó mặt mũi dễ coi, lại nhanh nhẹn khéo léo, ta chịu nó lắm.
Làm cha có ai không thích người khác khen con mình, nhưng lúc này Tô Lỗ Khắc chỉ mỉa mai:
– Ngươi sành đời lắm nhỉ? Tiếc thay ngươi lại không có con trai.
Xa Nhĩ Khố không nổi nóng, chỉ cười:
– Con gái ta A Mạn cũng được lắm, nếu không sao con trai ngươi lại thích nó?
Tô Lỗ Khắc “Ồ” lên một tiếng, nói:
– Ngươi đừng có vơ vào, ai bảo con ta thích con A Mạn?
Xa Nhĩ Khố nắm tay Tô Lỗ Khắc, cười:
– Ngươi đi theo ta, ta cho ngươi xem cái này.
Tô Lỗ Khắc trong bụng ngạc nhiên, liền cùng đi. Xa Nhĩ Khố hỏi:
– Con trai ngươi hôm trước giết được một con chó sói xám lớn. Còn nhỏ như thế, quả thực là giỏi, mai này lớn lên, chắc cũng chẳng kém gì cha nó đâu? Cha anh hùng, con hảo hán.
Tô Lỗ Khắc không trả lời, cho rằng y đang định cho mình vào tròng nên thổi mình lên, nghĩ thầm: “Mình phải thật cẩn thận mới được”.
Hai người đi đến ba dặm trên thảo nguyên thì đến được lều của Xa Nhĩ Khố. Tô Lỗ Khắc từ xa đã thấy một tấm da sói treo ở bên ngoài căn lều. Y đi lại gần hơn, ồ, chẳng phải là da con sói xám Tô Phổ giết được thì là gì? Đây là con dã thú đầu đời của thằng con mình, y thoạt nhìn là nhận ra ngay. Y trong bụng hoang mang, nhưng lại vừa sung sướng, vừa bàng hoàng: “Ta trách A Phổ sai rồi, tối hôm qua ta đánh nó một trận thật đau, thì ra nó đem tấm da sói tặng cho A Mạn chứ không phải đem cho con bé người Hán. Thật đáng chết, sao nó lại không nói ra? Trẻ con hay thẹn nên không dám nói đấy mà. Nếu như mẹ nó còn sống, mẹ nó đã can ta ra rồi. Hừ, con có chuyện gì thể nào chả nói với mẹ…”
Xa Nhĩ Khố giơ bàn tay to lớn vỗ lên vai y một cái, nói:
– Uống vài bát rượu nhé.
Trong lều của Xa Nhĩ Khố vun vén thật là sạch sẽ, chung quanh treo đầy những tấm thảm bằng lông cừu dệt cảnh vật, hoa cỏ. Một cô gái thân hình yểu điệu mảnh mai bưng rượu lên. Xa Nhĩ Khố mỉm cười nói:
– A Mạn, đây là cha của Tô Phổ. Ngươi có sợ ông ấy không? Ông râu xồm này dữ tợn lắm đó.
A Mạn thẹn thùng mặt đỏ bừng trông càng xinh xắn, đôi mắt lóe lên một vẻ vui tươi, dường như định nói: “Con không sợ”. Tô Lỗ Khắc cười ha hả nói:
– Lão Xa, ta có nghe người ta nói là ngươi có cô con gái là đóa hoa hội tẩu lộ của thảo nguyên. Đúng thật, một đóa hoa hội tẩu lộ, người ta nói quả là hay.
Hai Hán tử mười năm nay gầm ghè nhau, bỗng dưng trở thành thân thiết, cùng nâng rượu mời nhau.
Tô lỗ Khắc uống đến say mèm, nằm gục lên yên ngựa về nhà
Một tấm thảm thêu một đại hán, tay cầm trường đao, chém một con báo, ở xa xa một con khác cúp đuôi bỏ chạy. Còn một tấm thêu hình một cậu trai, đâm chết một con chó sói xám lớn. Hai người một lớn một nhỏ, cả hai đều uy phong lẫm lẫm, trông thật hào hùng. Tô Lỗ Khắc vừa xem đã thật vui, tấm tắc luôn mồm:
– Dệt khéo quá, dệt khéo quá!
Thì ra đất Hồi Cương rất hiếm khi có báo, một năm nọ không biết từ đâu lạc đến một đôi tàn hại gia súc. Tô Lỗ Khắc đuổi theo chúng vào tận trong núi, chém chết một con báo lớn, còn một con bị thương chạy mất. Bây giờ y trông thấy A Mạn thêu trên tấm thảm sự kiện anh hùng nhất đời y, y làm gì mà không cao hứng.
Kỳ đó hai người lại uống một bữa thỏa thuê, người nằm mọp trên lưng ngựa quay về lần này là Xa Nhĩ Khố. Tô Lỗ Khắc sai con trai đưa y về tận nhà. Trong lều của Xa Nhĩ Khố, Tô Phổ thấy tấm da sói của mình. Y chưa hiểu vì sao tấm da đó lại ở đây thì A Mạn đã thẹn thùng đến cám ơn y. Tô Phổ ậm ừ vài câu, không biết nói sao cho phải, cũng không tiện truy vấn tại sao tấm da sói lại vào tay A Mạn. Ngày hôm sau, sáng sớm y đã lên cái gò nơi giết được con chó sói, mong gặp được Lý Văn Tú để hỏi cho ra. Thế nhưng hôm đó Lý Văn Tú không tới. Y đợi hai ngày liền đều chẳng được gì. Đến ngày thứ ba, y thu hết can đảm đến nhà Kế lão. Lý Văn Tú ra mở cửa, vừa gặp y đã nói:
– Từ rày trở đi, ta không muốn gặp ngươi nữa.
Rầm một tiếng, nàng đã đóng sập cửa, cài chặt then lại. Tô Phổ đứng ngơ ngẩn một hồi, lủi thủi quay về, trong lòng cảm thấy hết sức hoang mang: “Ôi, con gái người Hán thật lạ lùng, chẳng hiểu sao cả?”. Lẽ dĩ nhiên làm sao y biết được là Lý Văn Tú gục đầu sau cánh cửa khóc nức nở. Con bé khóc một hồi thật lâu. Cô gái vẫn muốn được cùng Tô Phổ chơi đùa, kể truyện cổ cho nhau nghe nhưng cũng biết rằng nếu như cha Tô Phổ biết được, y sẽ lại bị một trận đòn thật đau, có khi cha y đánh y chết không chừng.
Ngày lại ngày qua đi, gió của thảo nguyên, nước băng tuyết Thiên Sơn thổi ba đứa trẻ cao vọt lên biến chúng thành người lớn. Bông hoa hội tẩu lộ càng thêm lộng lẫy, còn đứa trẻ giết chó sói hôm nào nay đã thành một thanh niên anh tuấn. Còn con chim thiên linh của đồng cỏ ư, tiếng hát của nàng càng thêm dìu dặt ngọt ngào. Có điều bây giờ nàng ít hát hơn trước, chỉ những đêm khuya không có ai, ngồi một mình trên chiếc gò nhỏ nơi Tô Phổ giết con chó sói năm nào nàng mới cất tiếng lên. Nàng chẳng bao giờ quên được người bạn năm xưa, vẫn thường thấy chàng cùng A Mạn hai người cùng cưỡi ngựa đi chơi, có khi còn nghe hai người đối đáp, hát chung với nhau những khúc tình ca ý tứ triền miên.
Ý nghĩ của những bài hát đó bây giờ Lý Văn Tú đã hiểu cả rồi, bây giờ lại hiềm hiểu quá nhiều là khác. Nếu nàng cứ chưa hiểu như xưa có lẽ cũng bớt đau lòng, cũng bớt đi những đêm dài trằn trọc. Thế nhưng những gì trước kia chưa biết, một khi biết rồi, không bao giờ còn thể quay trở lại những ngày thơ ngây cũ.
Một buổi chiều mùa xuân, Lý Văn Tú cưỡi con ngựa trắng, một mình lên ngọn núi nhỏ nơi con sói bị giết. Màu vàng nhuộm trên con ngựa nay thôi hết, nay đã trở lại một màu trắng xóa chẳng khác gì tuyết trên đỉnh Thiên Sơn.
Nàng đứng trên gò cao, đăm đăm nhìn về hướng những túp lều của người Cáp Tát Khắc, nơi họ đang đốt một đống lửa lớn, tiếng âm nhạc và tiếng huyên náo lúc cao, lúc trầm vọng đến. Thì ra hôm nay là một ngày lễ của người Cáp Tát Khắc, thanh niên nam nữ vây quanh đống lửa, múa hát xướng ca, thật là vui vẻ.
Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Chàng và cô ta hôm nay hẳn là vui lắm, thật là náo nhiệt, thật là hoan hỉ”. Trong lòng nàng chữ “chàng” không có người thứ hai, dĩ nhiên là Tô Phổ rồi, còn “cô ta” dĩ nhiên phải là bông hoa hội tẩu lộ kia, nàng A Mạn.
Thế nhưng hôm nay Lý Văn Tú đã đoán sai, Tô Phổ và A Mạn lúc này không hẳn đã hoan lạc mà lại cực kỳ căng thẳng. Bên cạnh đống lửa, Tô Phổ đang cùng một gã cao gầy đánh vật. Đây là một tiết mục cực kỳ quan trọng trong ngày lễ, người nào thắng giải sẽ được ba giải thưởng: một con ngựa tốt, một con cừu to và một tấm thảm thật đẹp.
Tô Phổ đã liên tiếp thắng bốn người, còn gã thanh niên cao gầy kia tên là Tang Tư Nhi. Y cũng là bạn của Tô Phổ nhưng vẫn muốn hai bên kẻ được người thua, huống chi, trong lòng y cũng ngầm yêu đóa hoa hội tẩu lộ. Khuôn mặt xinh đẹp kia, thân hình yểu điệu kia, bàn tay khéo léo kia, ai mà chẳng muốn? Tang Tư Nhi biết rằng Tô Phổ và A Mạn đã thân nhau từ nhỏ nhưng y vốn là một thanh niên bất khuất, ương ngạnh. Ở thảo nguyên ngựa ai chạy nhanh, dao ai dài người đó sẽ chiếm thượng phong. Y trong lòng cũng đã nghĩ đến: “Nếu như ta công khai đánh bại được Tô Phổ, A Mạn thể nào cũng thích ta”. Y đã cố công luyện tập ba năm đánh vật và đánh dao. Sư phụ của y chẳng ai xa lạ mà chính là cha của A Mạn Xa Nhĩ Khố.
Còn võ công của Tô Phổ dĩ nhiên là cha y đích thân truyền cho.
Hai người thanh niên quấn quít lại một khối. Đột nhiên đầu vai Tang Tư Nhi trúng một cú đấm mạnh, chân y trượt đi ngã ngữa về sau. Thế nhưng trong khi ngã, y cũng kịp khoèo chân Tô Phổ khiến y cũng ngã theo. Hai người cùng nhỏm dậy, hai cặp mắt gườm gườm nhìn nhau, đảo qua đảo lại để tìm sơ hở của đối phương nhưng không ai dám ra tay trước.
Tô Lỗ Khắc ngồi ở một bên xem, lòng bàn tay đẫm mồ hôi, kêu luôn mồm:
– Uổng quá, uổng quá.
Còn Xa Nhĩ Khố thì bụng dạ ra sao khó mà đoán biết. Y biết tâm ý con gái mình, nếu như Tang Tư Nhi thua, thì A Mạn đã yêu Tô Phổ sẽ lại càng yêu hơn. Thế nhưng Tang Tư Nhi là đồ đệ của y, trận đấu này cũng chẳng khác gì chính y đấu với Cáp Tát Khắc đệ nhất dũng sĩ Tô Lỗ Khắc. Nếu đồ đệ của Xa Nhĩ Khố đánh bại con trai Tô Lỗ Khắc thì thật là vẻ vang hơn, chiến thắng này sẽ truyền ra đến mấy nghìn dặm chung quanh thảo nguyên. Dĩ nhiên A Mạn sẽ đau khổ lắm, nhưng đành kệ nó. Y vẫn mong Tang Tư Nhi thắng trận. Nhưng Tô Phổ là đứa ngoan, y vẫn thương nó như thường.
Những người ngồi quanh đống lửa hò hét cổ võ cho hai chàng thanh niên. Đây là một trận đấu hai bên ngang ngửa, Tô Phổ thân thể tráng kiện có sức, còn Tang Tư Nhi thì lại nhanh nhẹn hơn, ai sẽ thắng thật khó mà biết trước được.
Chỉ thấy Tang Tư Nhi né bên đông, tránh bên tây, Tô Phổ mấy lần đưa tay chộp y nhưng y đều tránh được. Tiếng người bên ngoài hò hét trợ uy mỗi lúc một to: “Tô Phổ, nhanh lên, nhanh lên” “Tang Tư Nhi, phản công đi, đừng tránh né qua lại nữa” “Ối chao, Tô Phổ vật được rồi” “Không sao đâu, dùng sức lật y lại”.
Thanh âm truyền ra thật xa, Lý Văn Tú nghe loáng thoáng có người hò reo: “Tô Phổ, Tô Phổ”. Nàng lấy làm lạ: “Sao mọi người lại kêu lên Tô Phổ, Tô Phổ là sao?”. Nàng bèn giục ngựa, chạy về phía có tiếng hò reo. Đứng sau một cây to, nàng thấy Tô Phổ đang vật nhau với Tang Tư Nhi, những người chung quanh đang hào hứng kêu la. Đột nhiên, nàng thấy bên ánh lửa khuôn mặt của A Mạn, đầy vẻ quan thiết và phấn khởi, nước mắt rưng rưng, lúc lo, lúc mừng. Lý Văn Tú từ trước tới nay chưa hề nhìn kỹ A Mạn bao giờ, nghĩ thầm: “Thì ra nàng ta yêu Tô Phổ đến thế”.
Mọi người bỗng lớn tiếng hò reo, cả Tô Phổ lẫn Tang Tư Nhi đều cùng ngã lăn ra đất. Đứng cách vòng người, Lý Văn Tú không nhìn được hai người dưới đất tình hình ra sao. Thế nhưng nghe tiếng người kêu la, nàng biết rằng Tô Phổ đang đè Tang Tư Nhi xuống. Lòng bàn tay Lý Văn Tú cũng ướt mồ hôi, chính vì không nhìn rõ hai người nên nàng lại càng hồi hộp. Đột nhiên tiếng reo hò mọi người ngưng bặt, Lý Văn Tú nghe được cả tiếng thở hổn hển của hai dũng sĩ. Chỉ thấy một người lảo đảo đứng lên, mọi người lớn tiếng hoan hô: “Tô Phổ, Tô Phổ”.
A Mạn chen qua vòng người chạy vào trong nắm tay Tô Phổ.
Lý Văn Tú thấy trong lòng cũng thật cao hứng, nhưng cũng thật thê lương.
Nàng quay đầu ngựa, chầm chậm bước đi. Mọi người bận vây quanh Tô Phổ, chẳng ai để ý đến nàng.
Nàng không điều cương, để mặc cho con bạch mã muốn đi đâu thì đi trong sa mạc. Không biết bao lâu nàng mới thấy rằng con ngựa trắng đã đi tới tận bên bờ thảo nguyên, xa hơn nữa sẽ tiến vào sa mạc Qua Bích[4]. Nàng nhỏ nhẹ mắng nó:
– Mi đưa ta tới đây làm gì?
Ngay khi đó, trên sa mạc xuất hiện hai con ngựa, sau đó lại thêm hai con nữa. Dưới ánh trăng thấp thoáng, những người trên lưng ngựa đều mặc y phục Hán nhân, tay người nào cũng cầm trường đao.
Lý Văn Tú kinh hoảng: “Chẳng lẽ đây là bọn cướp người Hán?”. Còn đang ngập ngừng, một người đã kêu lên:
– Bạch mã, bạch mã.
Y giục ngựa xông tới, miệng quát tháo:
– Đứng lại, đứng lại.
Lý Văn Tú kêu lên:
– Chạy mau.
Nàng giục ngựa chạy ngược trở về, chỉ thấy tiếng chân ngựa thật gấp, đằng trước cũng có hai con ngựa chạy ra chặn lại. Lúc đó ba mặt đông nam bắc đều có địch nhân, nàng không còn kịp suy nghĩ chỉ giục ngựa theo hướng tây chạy gấp. Thế nhưng hướng tây chính là hướng đại sa mạc vô tận.
Khi còn nhỏ nàng đã từng nghe Tô Phổ nói tới, trong sa mạc Qua Bích có quỉ, ai đã vào trong sa mạc này thì khó mà sống sót trở về. Không, dù có thành quỉ cũng không ra được. Ai đã vào trong sa mạc Qua Bích rồi, sẽ đi thành một vòng tròn lớn, trong sa mạc cứ đi mãi không ngừng, đến khi đột nhiên thấy trên sa mạc có dấu chân. Người ta sẽ vui mừng tưởng mình cứ theo dấu chân đó tìm được đường ra, nhưng chạy một lúc rồi mới phát giác, dấu chân đó chính mình để lại. Người ta sẽ đi qua đi lại loanh quanh trong cái vòng đó. Thành ra những ai chết trong sa mạc Qua Bích biến thành quỉ cũng không xong, không lên được thiên đàng mà cứ luẩn quẩn nơi đây, nghìn năm vạn năm, suốt ngày suốt đêm chạy loanh quanh không ngừng.
Lý Văn Tú cũng đã hỏi Kế lão, sa mạc Qua Bích có thực sự ghê gớm đến thế chăng, có thật là đi vào rồi sẽ không bao giờ có thể ra được. Kế lão nghe nàng hỏi thế, đột nhiên bắp thịt trên mặt giật giật liên hồi, lộ vẻ sợ hãi phi thường, mắt lấm lét nhìn ra cửa sổ, tưởng như nhìn thấy quỉ hiện ra trước mặt. Lý Văn Tú trước nay chưa từng thấy ông già sợ hãi đến thế, không dám hỏi thêm, trong bụng chắc mẩm chuyện đó không phải giả, không chừng Kế gia gia đã gặp quỉ rồi.
Nàng cưỡi con ngựa trắng chạy như bay, trước mặt chỉ thấy cát vàng bát ngát, sa mạc kéo dài vô cùng vô tận, nghĩ đến những con quỉ lang thang nơi đây, càng lúc càng sợ thêm. Thế nhưng phía sau cường đạo đang đuổi tới, nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến mẹ và anh Tô Phổ, biết rằng nếu như bọn giặc cướp bắt được, thì chỉ còn nước chết mà thôi, thậm chí còn ghê gớm hơn cái chết. Thế nhưng đi vào sa mạc Qua Bích rồi, thành quỉ cũng nào đã yên
Nàng đã toan gò cương ngựa không chạy nữa, nhưng quay đầu lại thì những chiếc lều của người Cáp Tát Khắc và hàng cây xanh không còn thấy đâu, hai tên cường đạo đã bị bỏ rơi nhưng năm tên kia vẫn còn đang đuổi tới. Lý Văn Tú nghe tiếng bọn kia sung sướng kêu lên:
– Đúng là con ngựa trắng rồi, không sai vào đâu được. Bắt lấy nó, bắt lấy nó!
Mối thù chôn kín trong lòng bao nhiêu năm nay bây giờ có dịp phát tiết, Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Gia gia và má má bị bọn ngươi giết chết. Ta dẫn chúng bay đi vào sa mạc Qua Bích, để cùng chết một lượt. Môt mạng ta đổi năm mạng giặc cướp, còn như… còn như… sống ở trên đời có gì lạc thú nữa đâu”.
Mắt nàng rưng rưng, trong bụng không còn chần chừ gì nữa, giục ngựa nhắm hướng tây chạy thật nhanh.
Bọn người đó chính là người trong tiêu cuộc của Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải đã đuổi theo vợ chồng Bạch Mã Lý Tam đến đất Hồi Cương, tuy đã giết được hai người rồi, nhưng vẫn không biết được đứa bé lưu lạc nơi đâu. Bọn họ cũng biết chắc Lý Tam có được bức địa đồ Cao Xương mê cung, nhưng tìm không thấy trên người hai vợ chồng, thì nhất định phải ở trong tay đứa nhỏ. Cao Xương mê cung có chứa không biết bao nhiêu châu báu, cho nên bọn Tấn Uy tiêu cục vẫn chưa bỏ cuộc, đi lang thang khắp nơi tìm xem đứa con gái đó ở nơi nao. Thấm thoát thế mà đã mười năm, bọn họ chẳng làm ăn gì chỉ nhờ vào võ nghệ, sẵn bò cừu ngựa lạc đà của dân chúng trong vùng mà sống. Họ chỉ cần rút dao, giết người, đốt nhà, cướp của, gian dâm…
Trong mười năm đó, cả bọn không ngừng tìm kiếm đứa trẻ nhưng thảo nguyên rộng hàng nghìn dặm biết tìm nơi đâu? Chỉ sợ đứa bé đó đã chết rồi, xương cốt cũng đã mục nát nhưng ở nơi thảo nguyên này làm ăn cướp tự do tự tại, so với nghề bảo tiêu nơi trung nguyên thật sướng hơn nhiều cho nên ai về làm gì?
Thỉnh thoảng họ cũng nói chuyện về bảo tàng trong Cao Xương mê cung, về đứa con gái của Bạch Mã Lý Tam. Con bé đó nếu không chết thì cũng đã lớn nhận không ra nữa, chỉ có con ngựa trắng là không thay đổi thôi. Giống ngựa to cao toàn thân trắng như tuyết ấy không phải dễ có, từ xa cũng đã thấy ngay. Thế nhưng nếu con ngựa cũng đã chết rồi thì sao? Đời con ngựa so với người ngắn hơn nhiều. Mỗi một ngày qua đi, chẳng ai còn chút hi vọng gì nữa.
Nào ngờ thật bất ngờ lại thấy một con ngựa trắng. Không sai, chính là con bạch mã họ vẫn đi tìm.
Con ngựa lúc này tuổi cũng đã cao, cước lực không bằng khi còn trẻ, nhưng so với ngựa thường cũng vẫn nhanh hơn, đến khi trời tờ mờ sáng, đã bỏ bọn năm tên ăn cướp kia không còn thấy hình bóng đâu, tiếng chân đuổi theo cũng không còn nghe nữa. Thế nhưng Lý Văn Tú biết rằng trên sa mạc để lại dấu chân, năm tên giặc tuy nhất thời đuổi không kịp, nhưng cứ theo vết chân sẽ tới nên nàng vẫn không dám ngừng lại giây nào.
Lại chạy thêm hơn mười dặm nữa thì trời đã sáng hẳn. Qua mấy cái đồi cát, đột nhiên nơi tây bắc thấy một triền núi, trên núi cây cối xanh rì, nơi giữa sa mạc nhìn thấy thật chẳng khác nào tiên cảnh ngoài trần thế. Những đồi cát nhấp nhô trong sa mạc đã che khuất triền núi kia, thành thử ở xa không nhìn thấy được. Lý Văn Tú trong lòng bàng hoàng: “Không lẽ đây là quỷ sơn chăng? Sao giữa sa mạc lại nhiều núi thế, trước nay chưa nghe ai nói bao giờ?”. Nàng nghĩ lại tự nhủ: “Dù có là quỷ sơn thì càng tốt, ta sẽ dẫn dụ mấy tên ác tặc vào đây”.
Vó chân bạch mã nhanh nhẹn nên chẳng mấy chốc đã đến trước ngọn núi, rồi chạy thẳng vào sơn cốc. Ngay giữa hai quả núi là một dòng suối. Con ngựa trắng hí lên một tiếng vui mừng, chạy ngay đến bên bờ nước. Lý Văn Tú nhảy xuống ngựa, vốc nước rửa sạch đất cát bám trên mặt, uống thêm mấy ngụm, thấy nước suối có vị hơi ngòn ngọt, thật là mát mẻ ruột gan.
Đột nhiên nàng bị một vật gì cứng đè vào sau gáy, rồi nghe một giọng khàn khàn hỏi:
– Ngươi là ai? Đến đây làm gì?
Lý Văn Tú giật mình kinh hãi, định xoay người lại thì người kia lại nói tiếp:
– Cây gậy của ta để ngay vào ót nhà ngươi, chỉ cần vận kình, ngươi sẽ bị trọng thương mà chết.
Lý Văn Tú cảm thấy vật cứng kia hơi nhấn xuống gáy mình, quả nhiên đầu óc choáng váng, nên không dám cử động, nghĩ thầm:
– Người này nói năng được, chắc không phải là quỷ quái. Y lại còn hỏi ta đến đây làm gì, ắt là người dân xứ này, không phải giặc cướp.
Lại có tiếng nói:
– Ta hỏi ngươi, sao không trả lời?
Lý Văn Tú đáp:
– Đó là bọn cướp đông lắm.
Người kia nói:
– Bọn cướp nào? Tên chúng là gì?
Lý Văn Tú đáp:
– Tôi cũng không biết nữa. Bọn họ trước kia làm nghề bảo tiêu, đến đất Hồi Cương thành ăn cướp.
Người kia hỏi:
– Thế tên ngươi là gì? Cha ngươi là ai? Sư phụ là ai?
Lý Văn Tú đáp:
– Tôi tên Lý Văn Tú, cha tôi tên Bạch Mã Lý Tam, mẹ tôi là Kim Ngân tiểu kiếm Tam Nương Tử. Tôi không có sư phụ.
Người kia “À” lên một tiếng, nói:
– Ồ, thì ra là Kin Ngân tiểu kiếm Tam Nương Tử và Bạch Mã Lý Tam. Thế cha mẹ ngươi đâu?
Lý Văn Tú đáp:
– Đều bị bọn giặc cướp đó giết cả rồi. Bọn họ còn muốn giết cả tôi nữa.
Người kia “Ôi” một tiếng nói:
– Đứng dậy đi.
Lý Văn Tú đứng lên. Người kia bảo:
– Quay lại đây.
Nàng từ từ quay lại, cái gậy đầu bịt sắt của người kia vừa rút ra khỏi ót đã đâm luôn vào cổ họng. Tuy nhiên đầu trượng không sử kình, chỉ nhứ tới. Lý Văn Tú nhìn ông ta, trong lòng thật là lạ lùng, nghe giọng khàn khàn lạnh lẽo nàng nghĩ chắc hẳn y diện mạo hung ác lắm, nào ngờ trước mặt chỉ là một ông già, thân hình gầy yếu, hình dung khô héo, mặt mày buồn so, mặc quần áo theo lối người Hán, đều đã rách bươm. Thế nhưng tóc ông ta lại quăn, trông không giống người Hán chút nào.
Lý Văn Tú nói:
– Lão bá bá, ông tên là gì? Địa phương này là đâu?
Ông già kia thấy Lý Văn Tú mặt mày xinh xắn, quả thực ngoài dự liệu, hơi ngạc nhiên, lạnh lùng đáp:
– Ta không có tên, cũng chẳng biết đây là đâu nữa.
Vừa lúc đó, từ xa có tiếng chân ngựa vọng tới. Lý Văn Tú thất kinh kêu lên:
– Bọn ăn cướp đến rồi, lão bá bá mau đi trốn đi.
Người kia đáp:
– Việc gì phải trốn?
Lý Văn Tú nói:
– Bọn cường đạo này hung ác lắm, sẽ giết ông đó.
Người kia cười khẩy nói:
– Ngươi với ta không quen, không biết sao lại lo chuyện chết sống của ta là sao?
Khi đó tiếng chân ngựa lại càng gần hơn. Lý Văn Tú không lý đến cây trượng đang để ngay cổ họng mình, thò tay ra nắm lấy tay ông già, nói:
– Lão bá bá, hai người mình cùng cưỡi con ngựa, để nữa không kịp mất.
Người kia vùng vẫy muốn giựt tay ra, nhưng không ngờ ông ta yếu quá nên không sao thoát khỏi tay của Lý Văn Tú. Lý Văn Tú lạ lùng hỏi:
– Ông bệnh ư? Để tôi đỡ ông lên ngựa.
Nói xong hai tay đỡ ngang lưng, đẩy ông già lên lưng ngựa. Người đó gầy gò nhỏ thó, tuy là đàn ông mà nhẹ hơn đứa con gái da thịt rắn chắc nhiều, ngồi trên ngựa lảo đảo lắc lư, tưởng chừng như muốn ngã. Lý Văn Tú cũng nhảy lên ngựa, ngồi ở sau lưng ông ta, giật cương chạy vụt vào trong núi.
Hai người vừa chạy đi thì nghe có tiếng năm con ngựa đã tiến vào sơn cốc, tiếng hô hoán của năm tên cướp cũng đã nghe văng vẳng. Người kia bỗng quay lại quát lớn:
– Ngươi với chúng cùng một bọn phải không? Các ngươi sắp đặt mưu kế, định lừa ta chăng?
Lý Văn Tú thấy khuôn mặt bệnh hoạn của ông ta đột nhiên trở thành hung dữ đáng sợ, mắt lộ hung quang, không khỏi rùng mình, nói:
– Không đâu, không đâu, tôi chưa hề gặp ông bao giờ, lừa ông làm chi?
Người kia gay gắt nói:
– Ngươi định đánh lừa ta dẫn ngươi đến Cao Xương mê cung…
Nói chưa dứt câu, đột nhiên im bặt.
Bốn chữ “Cao Xương mê cung” hồi nhỏ khi được cha mẹ dẫn chạy đến Hồi Cương đã từng nghe hai ông bà bàn đến mấy lần, nhưng khi đó không biết gì cũng không để ý đến. Bây giờ đã mười năm, tự nhiên lại nghe ông lão này đề cập đến, nàng nhất thời không nghĩ ra là đã từng nghe qua rồi, thản nhiên hỏi lại:
– Cao Xương mê cung? Cái đó là cái gì?
Ông lão thấy nàng thần sắc chân thành, không có vẻ gì dối trá, thanh âm liền trở lại ôn hòa nói:
– Ngươi quả thực không biết đến Cao Xương mê cung sao?
Lý Văn Tú lắc đầu nói:
– Không biết, a, có điều…
Ông già hỏi dồn:
– Có điều gì?
Lý Văn Tú nói:
– Khi tôi còn nhỏ đi theo cha mẹ chạy đến Hồi Cương, từng nghe ông bà nói đến Cao Xương mê cung. Chỗ đó vui lắm phải không?
Ông già nét mặt hầm hầm hỏi thêm:
– Cha mẹ ngươi còn nói gì thêm nữa không? Không được giấu ta.
Lý Văn Tú buồn bã nói:
– Chỉ mong tôi nhớ thêm được một lời nào cha mẹ tôi nói thì thật hay biết bao nhiêu. Chỉ tiếc là tôi không còn được nghe giọng nói của hai người nữa. Lão bá bá, tôi vẫn thường ngốc nghếch nghĩ rằng, chỉ mong cha tôi mẹ tôi được sống lại, để tôi được nhìn thấy một lần nữa thôi. Ôi, chỉ mong cha mẹ tôi sống lại, dù có ngày ngày đánh mắng tôi, cũng vẫn còn sung sướng biết bao nhiêu. Dĩ nhiên, hai người chẳng bao giờ còn có thể đánh mắng tôi được nữa.
Đột nhiên nàng nghe văng vẳng có tiếng roi của Tô Lỗ Khắc đánh Tô Phổ, cùng tiếng giận dữ chửi rủa của y. Ông già đổi vẻ mặt nhu hòa, “Ôi” lên một tiếng, bất ngờ lớn tiếng hỏi:
– Ngươi có chồng chưa?
Lý Văn Tú đỏ mặt lắc đầu. Ông lão nói tiếp:
– Thế lâu nay ngươi ở với ai?
Lý Văn Tú đáp:
– Ở với Kế gia gia.
Ông lão hỏi:
– Kế gia gia ư? Y bao nhiêu tuổi rồi? Tướng mạo ra sao?
Lý Văn Tú nói với con ngựa trắng:
– Ngựa yêu quí ơi, cường đạo đang đuổi theo, chạy cho mau nhé.
Nàng nghĩ thầm: “Việc đang khẩn cấp thế này, ông già sao còn hỏi những chuyện đâu đâu, chẳng liên quan chi cả”. Thế nhưng thấy dáng điệu ông đầy ngờ vực, nàng bèn nói:
– Kế gia gia phải đến tám chục tuổi rồi, tóc bạc trắng cả, mặt mũi nhăn nheo, đối với tôi tốt lắm.
Ông già hỏi:
– Thế ngươi ở Hồi Cương biết được những người Hán nào? Trong nhà Kế gia gia còn những ai?
Lý Văn Tú nói:
– Trong nhà Kế gia gia chẳng còn ai khác. Đến người Cáp Tát Khắc tôi còn chẳng quen ai, nữa là người Hán.
Hai câu sau cùng nàng vì phẫn uất mà nói, nàng nghĩ đến Tô Phổ và A Mạn, tuy có biết họ nhưng cũng như không.
Con ngựa chở hai người trên lưng, chạy không thể nhanh được, năm tên cường đạo đuổi theo sau mỗi lúc một gần, nghe có tiếng vèo vèo, ba mũi tên bắn xoẹt ngang qua người. Bọn ăn cướp kia muốn bắt sống thành thử không muốn bắn chết nàng, nên chỉ bắn dọa để nàng ngừng lại mà thôi.
Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Ta nhất định cùng bọn chúng mày chết chung một lượt, thôi để lão bá bá này chạy một mình vậy”. Nghĩ vậy nàng nhảy xuống ngựa, vỗ vào mông con vật một cái, kêu lên:
– Bạch mã, bạch mã, mang bá bá chạy cho mau.
Ông lão ngạc nhiên, không ngờ nàng bụng dạ nhân đức đến thế, nhưng chẳng lẽ ông chạy tìm đường sống một mình, nên hơi do dự, hạ giọng nói:
– Cầm lấy cái kim trong tay ta, cẩn thận đừng để đâm vào mình.
Lý Văn Tú cúi xuống xem, thấy kẹp trong hai ngón tay ông một cây kim nhỏ, liền đưa tay cầm lấy, nhưng chưa rõ lý do tại sao. Ông lão nói:
– Cái kim này có tẩm thuốc cực độc, nếu cường đạo bắt được ngươi, chỉ cần đâm nhẹ vào người chúng nó, bọn cướp sẽ chết ngay.
Lý Văn Tú giật mình kinh hãi, bây giờ mới nghĩ đến ông lão đã cầm sẵn cái kim, lúc trước không để ý, xem ra nếu mình trả lời không vừa bụng ông ta, thì ông sẽ dùng kim đâm vào mình. Ông lão lúc ấy mới giục ngựa chạy thẳng.
Năm tên ăn cướp chạy đến gần, vây Lý Văn Tú vào giữa. Năm tên đó thấy cô gái tuổi trẻ xinh đẹp, không ai còn nghĩ đến việc đuổi theo ông già nữa. Năm tên liền nhảy xuống ngựa, mặt đứa nào cũng tươi rói. Lý Văn Tú tim đập thình thình, nghĩ thầm ông già nói là độc châm có thể giết người được nhưng cái kim nhỏ bé, làm sao chống nổi với năm gã đàn ông khỏe mạnh, hung ác đáng sợ thế này. Nếu có giết được một tên, còn lại bốn tên thì làm sao? Chi bằng dùng kim đâm mình chết để khỏi bị bọn này lăng nhục. Chỉ nghe một tên nói:
– Con bé này kháu quá.
Lập tức hai tên xông tới bên nàng. Gã bên trái liền đấm một cái, đánh gã kia ngã lăn ra, hầm hè quát:
– Mày dám tranh với ông hả?
Nói xong liền ôm ngang hông Lý Văn Tú. Lý Văn Tú trong cơn hoảng hốt, dùng kim chích vào cánh tay y một cái, kêu lên:
– Ác cường đạo, mau bỏ ta ra.
Gã kia ngơ ngẩn nhìn nàng đột nhiên cứng đơ không còn động đậy gì nữa. Gã ngã dưới đất nhỏm dậy giang hai tay ôm lấy bắp chân Lý Văn Tú, giựt mạnh một cái, kéo nàng ngã xuống. Lý Văn Tú giơ tay trái ra đẩy y ra, tay phải tống một cái, mũi kim đâm ngay vào ngực y. Tên kia đang cười ha hả, đột nhiên im bặt, há hốc mồm, thân hình cũng đờ ra không còn cử động.
Lý Văn Tú vùng dậy nhảy lên lưng một con ngựa, giục ngựa chạy vào trong núi. Ba tên còn lại thấy hai tên kia bỗng dưng cứng đờ, tưởng như trúng gió, đều nghĩ đã bị Lý Văn Tú điểm huyệt, nghĩ thầm cô gái này võ công thật cao siêu, không dám đuổi theo. Ba tên này không biết phép điểm huyệt, giải huyệt, chỉ còn nước đem hai tên đồng bọn về cho thủ lãnh. Nào hay khi sờ vào người hai tên này, thấy lạnh dần, đưa tay lên mũi, mới hay đã ngừng thở chết từ bao giờ.
Ba gã kinh hãi quá, một lúc lâu không nói nên lời. Một gã họ Tống hiểu biết đôi chút, lột áo hai người ra xem, thấy một gã tay có vết đen bằng đồng tiền, giữa vết bầm có một nốt kim châm nhỏ, còn một gã thì trên ngực có vết chàm đen. Bọn này liền hiểu ra: “Con nhãi đó dùng kim đâm người, trên kim có tẩm chất độc”. Một gã họ Toàn nói:
– Thế thì không sợ, mình đứng xa xe bắn tên, không cho nó đến gần là được.
Một tên ăn cướp họ Vân thì nói:
– Đã biết được quỉ kế của nó rồi thì còn sợ quái gì nữa.
Tuy nói thế nhưng ba đứa vẫn không dám đuổi theo, một mặt bàn tán một mặt thu hết can đảm đuổi vào sơn cốc. Lý Văn Tú hai lần thành công, vừa mừng vừa sợ, biết bọn chúng ba đứa thể nào cũng tìm ra, những chúng ắt sẽ cố đề phòng, không để nàng dùng kim đâm nữa. Nàng đang giục ngựa chạy cho nhanh, bỗng nghe phía bên trái có tiếng người nói:
– Vào đây này.
Chính là tiếng của ông già. Lý Văn Tú vội vàng xuống ngựa, thấy tiếng nói từ một cái hang truyền ra, lập tức chạy tới. Ông lão đứng ngay cửa động, hỏi:
– Thế nào?
Lý Văn Tú nói:
– Tôi… tôi đâm được hai tên… hai tên cướp, chạy được tới đây.
Ông lão nói:
– Tốt lắm, thôi mình đi vào.
Vào trong động thấy cái hang đó thật sâu, Lý Văn Tú đi theo ông lão, cái hang càng lúc càng nhỏ lại. Đi được vài chục trượng, sơn động bỗng dưng mở ra, có thể chứa được đến một hai trăm người. Ông già nói:
– Mình giữ ngay chỗ đường hẹp đi vào, ba tên giặc đó chẳng vào nổi đâu. Cái đó gọi là “Nhất phu đương quan, vạn phu mạc khai ” đó.
Lý Văn Tú buồn rầu đáp:
– Thế nhưng mình cũng chẳng ra được. Cái hang này có thông đi đâu không?
Ông lão đáp:
– Thông đạo thì có nhưng không thông đến bên ngoài núi được.
Lý Văn Tú nghĩ đến chuyện vừa rồi, trong lòng vẫn còn kinh hãi, hỏi thêm:
– Bá bá, mới rồi tôi đâm hai tên giặc cướp, đột nhiên chúng không còn cử động gì nữa, không lẽ chết thật sao?
Ông lão ngạo nghễ đáp:
– Bị trúng độc châm của ta, ai mà còn sống nổi?
Lý Văn Tú đưa tay ra, trả lại chiếc kim cho ông ta. Ông già toan cầm lấy nhưng lại rụt ngay về nói:
– Bỏ xuống đất.
Lý Văn Tú y lời, ông lão nói:
– Ngươi lùi lại ba bước đi.
Lý Văn Tú thấy lạ lùng, liền lùi ba bước, lúc ấy ông già mới cúi xuống lấy chiếc kim độc lên, bỏ vào một cái ống. Lý Văn Tú bây giờ đã rõ, thì ra ông ta nghi ngại sợ mình bất ngờ dùng kim hại ông ta.
Ông già lại nói:
– Ta với ngươi không quen biết gì, hà cớ ngươi lại nhường ngựa cho ta chạy trốn là sao?
Lý Văn Tú đáp:
– Tôi cũng không biết nữa. Tôi thấy ông bệnh tật sợ bọn giặc giết hại ông.
Ông lão bỗng lảo đảo, hầm hừ nói:
– Làm sao ngươi biết trên người ta… trên người ta…
Nói tới đây, đột nhiên các bắp thịt trên mặt giựt giựt liên hồi, thần tình thật là đau đớn, trên trán nhỏ xuống liên tiếp những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu, một lát sau kêu lên một tiếng, lăn lộn dưới đất, miệng rên rỉ.
Lý Văn Tú sợ đến chân tay bủn rủn, thấy ông lão nằm co quắp, chân tay quằn quại, nhỏ nhẹ nói:
– Trên lưng ông đau lắm phải không?
Nói xong giơ tay đấm nhè nhẹ lên lưng ông ta, lại nắn bóp các khuỷu tay, khoeo chân. Con đau của ông lão giảm dần, gật đầu cảm ơn, khoảng chừng tàn một nén hương lúc ấy mới hết liền đứng lên, hỏi:
– Ngươi có biết ta là ai không?
Lý Văn Tú nói:
– Không biết.
Ông lão nói:
– Ta là người Hán, họ Hoa tên Huy, người đất Giang Nam, trên giang hồ gọi tên “Nhất Chỉ Chấn Giang Nam” chính là ta đó.
Lý Văn Tú nói:
– Ồ, thì ra là Hoa lão bá bá.
Hoa Huy nói:
– Ngươi chưa nghe đến ta hay sao?
Trong giọng có chiều hơi thất vọng, nghĩ thầm tên mình Nhất Chỉ Chấn Giang Nam Hoa Huy vang dậy Giang Nam Giang Bắc, trong võ lâm ai mà không biết, nhưng xem thần sắc Lý Văn Tú dường như không có gì kinh ngạc.
Lý Văn Tú nói:
– Cha tôi mẹ tôi hẳn đã từng nghe tên của lão bá bá, còn tôi khi đến Hồi Cương mới có tám tuổi, chẳng biết gì cả.
Hoa Huy mặt dịu xuống, nói:
– Chắc là như thế, ngươi…
Câu nói chưa dứt, bỗng nghe ngoài cửa động tại sơn đạo có tiếng người nói:
– Chắc nó trốn ở đây, cẩn thận coi chừng độc châm của nó.
Nói xong có tiếng chân, đi một bước lại ngừng một bước dè dặt tiến vào. Hoa Huy lấy chiếc kim ra cắm đuôi kim vào đầu trượng, giao lại cho cô cái, chỉ vào phía cửa hang, nói nhỏ:
– Đợi nó vào đâm ngay lưng, tuyệt đối đừng có nóng nảy mà đâm trước ngực.
Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Đường vào hang nhỏ như thế, đợi y vào đâm ngay ngực chẳng dễ hơn nhiều hay sao?”.
Hoa Huy thấy nàng có vẻ ngờ vực bèn nói:
– Sống chết mất còn là ở giờ phút này, ngươi không nghe lời ta ư?
Tiếng tuy nhỏ nhưng giọng nói cực kỳ nghiêm khắc. Ngay lúc đó, từ phía cửa hang một thanh đao sáng choang, múa lên vùn vụt, bảo vệ trước mặt để phòng địch nhân đánh lén, sau đó một bóng đen từ từ tiến vào, chính là tên cướp họ Vân.
Lý Văn Tú nhớ lời dặn của Hoa Huy, nép vào một bên, không dám động đậy. Hoa Huy lạnh lùng nói:
– Ngươi xem trong tay ta có cái gì đây?
Giả vờ giơ ra, gã họ Vân vội vàng né tránh, vung đao ra trước để đỡ, chăm chú nhìn ông ta, sợ ông ta ném ám khí. Hoa Huy quát lên:
– Đâm nó.
Lý Văn Tú giơ gậy lên, đầu gậy điểm ngay vào lưng ly một cái, độc châm đã đâm vào. Gã họ Vân chỉ thấy lưng đau nhói một cái như bị ong đốt, kêu lên một tiếng đã ngã ra chết. Gã họ Toàn lẽo đẽo theo sau, thấy y trúng kim chết rồi, tưởng là Hoa Huy đã ném ám khí, sợ đến mất vía, không kịp quay lại chạy trốn, vừa lùi vừa giơ cả hai tay ra đỡ. Hoa Huy thở dài:
– Nếu như võ công ta không mất, năm tên giặc cỏ thế này có đáng gì đâu!
Lý Văn Tú nghĩ đến ngoại hiệu ông ta là Nhất Chỉ Chấn Giang Nam, hẳn là võ công ghê gớm lắm thế sao thấy năm tên giặc mà không làm gì được cả, nói:
– Hoa bá bá, vì ông bị bệnh nên không thi triển võ công được, phải vậy không?
Hoa Huy đáp:
– Không phải đâu, không phải đâu. Ta… ta có lời thề, nếu không phải lúc sinh tử quan đầu thì không được thi triển võ công một cách bừa bãi.
Lý Văn Tú kêu “Ồ” một tiếng, thấy ông ta nói có vẻ không ăn khớp với nhau, vừa mới bảo “võ công bị mất”, bây giờ lại cố gắng che đậy, thế nhưng nếu như ông ta không muốn nói, nàng cũng chẳng hỏi thêm làm gì.
Hoa Huy cũng thấy mình ăn nói có vẻ sơ hở, bèn lảng qua chuyện khác nói:
– Ta bảo ngươi đâm vào sau lưng, ngươi có hiểu lý do tại sao không? Y tấn công vào trong hang, chỉ chăm chăm phòng bị đằng trước, ngươi không biết võ công, tập kích phía trước mặt không có thể thắng được. Ta dụ cho y tập trung đề phòng ta, ngươi ở phía sau đâm một cái là trúng ngay.
Lý Văn Tú gật đầu:
– Kế của bá bá hay thật.
Cũng biết Hoa Huy giang hồ duyệt lịch rất nhiều, đối phó với mấy tên giặc cỏ thật chẳng có gì là khó. Hoa Huy lấy trong bọc ra một miếng dưa đã phơi khô đưa cho Lý Văn Tú nói:
– Thôi ăn trước đã. Hai tên giặc kia chưa dám tiến vào đâu, nhưng mình cũng không ra được. Để ta nghĩ kế nào giết luôn cả hai tên, chứ nếu chỉ giết được một đứa, tên kia thể nào cũng chạy đi báo tin, cả bọn chúng kéo tới thì thật là khó mà đối phó.
Lý Văn Tú thấy ông ta suy nghĩ chu đáo, trí mưu phong phú, biết mình không thể nào có được kế nào cao minh hơn, nên không cần tính toán thêm, ăn no dưa khô rồi ngồi dựa vào vách đá nghỉ ngơi.
Độ nửa giờ sau, Lý Văn Tú bỗng ngửi thấy một mùi khét lẹt, rồi bắt đầu ho lên sù sụ. Hoa Huy nói:
– Không xong rồi! Bọn giặc này dùng khói hun mình đây. Mau bít cửa hang lại.
Lý Văn Tú lấy đất cát sỏi đá dưới chân đem chặn cửa hang. Cũng may cái cửa hang rất nhỏ nên sau khi chặn lại rồi khói tuôn vào hang rất ít. Bên trong hang lại rất lớn nên khói vào rồi cũng theo mấy lỗ đằng sau tản đi cả. Cứ như thế hai bên cầm cự một hồi lâu, ánh nắng chiếu từ đằng sau động vào mỗi lúc một sáng, dường như đã chính ngọ. Đột nhiên Hoa Huy lại kêu lên một tiếng “A” rồi lăn xuống đất giãy giụa nữa. Lần này so với lần trước có vẻ đau đớn hơn, tay múa chân đạp lung tung, có vẻ như không chế ngự nổi. Lý Văn Tú kinh hãi, lại chạy tới đấm bóp cho ông ta. Hoa Huy vừa bớt đau, hổn hển nói:
– Cô… cô nương, lần này ta xem không còn chịu nổi nữa rồi.
Lý Văn Tú an ủi:
– Đừng nghĩ thế, hôm nay gặp phải địch nhân nên quá lo lắng, nghỉ một lát là khỏi ngay.
Hoa Huy lắc đầu:
– Không được đâu, không được đâu. Ta sắp chết rồi, nói thật với ngươi… đằng sau lưng ta bị trúng… trúng một cái kim độc.
Lý Văn Tú “A” lên một tiếng nói:
– Ông trúng kim độc từ bao giờ? Hôm nay ư?
Hoa Huy nói:
– Không phải đâu, trúng đã mười hai năm rồi.
Lý Văn Tú ngạc nhiên nói:
– Có phải cũng cái kim độc ghê gớm ấy không?
Hoa Huy đáp:
– Cũng một thứ. Có điều ta vận công đề ngự nên độc tính phát tác rất chậm, về sau lại uống thêm thuốc giải, cho nên mới chịu được mười hai năm, tới ngày hôm nay xem chừng không còn chịu thêm được nữa. Ôi, trên mình mang cái kim quái quỉ đó, mười hai năm trời, mỗi ngày đau đớn ba bận, nếu biết như thế, hồi đó ta đừng uống thuốc giải cho xong, đau đớn thêm mười hai năm, rồi sau cùng cũng chẳng đi đến đâu.
Lý Văn Tú trong lòng nhói một cái, câu đó cũng không khác gì tâm sự nàng. Mười năm trước nếu như nàng cùng với cha mẹ chết luôn một thể trong tay bọn cướp, về sau đã khỏi phải chịu bao nhiêu khổ sở. Thế nhưng mười năm qua có thật là khổ sở hay không? Không, cũng có thời kỳ sung sướng. Một thiếu nữ mười bảy mười tám tuổi, dù có thương tâm tịch mịch chăng nữa, trong cuộc đời thể nào chẳng có những lúc sung sướng ngọt ngào.
Chỉ thấy Hoa Huy nghiến chặt hai hàm răng, cố gắng chịu đựng cơn đau, Lý Văn Tú nói:
– Bá bá, ông nghĩ cách rút cái kim độc ra, có lẽ sẽ khỏe hơn đó.
Hoa Huy gắt lên:
– Nói nhăng, cái đó ai chẳng biết? Ta sống một mình nơi hoang sơn này, lấy ai mà nhổ kim ra cho ta? Còn vào trong đây có người nào là người tử tế, ối ối…
Lý Văn Tú trong lòng đầy nghi hoặc: “Sao ông ta không ra ngoài tìm thầy chữa thuốc, một thân một mình ở trong núi hoang này mười hai năm là tại sao?”. Hiển nhiên ông ta đối với mình còn đầy đề phòng nghi ngại nhưng trước mắt nàng thấy ông lão đau đớn thật đáng thương nên nói:
– Bá bá, để tôi thử xem. Bác đừng ngại, tôi quyết không hại bác đâu.
Hoa Huy chăm chú nhìn nàng, hai hàng lông mày nhíu lại, trong lòng chuyển qua bao nhiêu ý niệm, dường như vẫn không có được chủ định gì. Lý Văn Tú rút chiếc kim nơi đầu trượng ra, đưa cho ông ta nói:
– Bác để cho tôi xem vết thương trên lưng ra sao. Nếu bác thấy tôi có lòng bất lương, bác dùng độc châm đâm tôi.
Hoa Huy đáp:
– Được.
Y cởi áo ra để lộ lưng trần. Lý Văn Tú vừa nhìn thấy, không nhịn nổi phải kêu khẽ một tiếng, thấy lưng ông ta chỗ trắng chỗ đen, không biết bao nhiêu là vết sẹo. Hoa Huy nói:
– Ta trăm phương nghìn kế tím cách đào cái kim ra nhưng vẫn không lấy ra được.
Có vết sẹo dường như lấy lưng đập vào đá, có vết thì tựa như lấy ngón tay moi vào. Lý Văn Tú nhìn những vết thương đó biết rằng mười hai năm qua ông ta chịu không biết bao nhiêu dày vò, trong lòng không khỏi ái ngại hỏi:
– Cái kim độc đó cắm vào chỗ nào?
Hoa Huy đáp:
– Tổng cộng có ba cái, một tại huyệt Phách Hộ, một tại huyệt Chí Thất, và một tại huyệt Chí Dương.
Ông ta vừa nói vừa chỉ cho Lý Văn Tú những nơi độc châm ở, có điều thời gian đã lâu, lại thêm lưng đầy sẹo, không cách nào nhìn thấy được vết kim đâm vào. Lý Văn Tú kinh hãi nói:
– Cả thảy ba cái ư? Sao bác nói là trúng một cái?
Hoa Huy giận đữ đáp:
– Lúc đầu ngươi đâu có nói là sẽ giúp ta nhổ kim ra, việc gì ta phải nói thực cho ngươi biết?
Lý Văn Tú biết rằng ông ta rất đa nghi, nên khi trúng độc châm rồi mất hết võ công, sợ mình gia hại ông ta nên nói là vì đã lập một lời thề, không thể sử dụng võ công bừa bãi, cả đến số kim bị trúng, cũng bớt đi hai cái để cho nếu như mình có ý hại ông ta thì cũng thêm phần e ngại. Nàng quả không thích cái tính cơ trá của ông già, nhưng nghĩ đã cứu thì cứu đến cùng, ông lão này thật là đáng thương, nên không thể nghĩ thêm nữa chỉ trầm ngâm tìm cách nào rút mấy cái kim nằm sâu trong thịt ra thôi.
Hoa Huy hỏi:
– Ngươi có thấy rõ không?
Lý Văn Tú đáp:
– Tôi không thấy đuôi kim đâu cả, bác thử nghĩ cách nào hay nhất lấy ra được?
Hoa Huy đáp:
– Nên dùng vật sắc bén mổ thịt ra mới thấy được. Độc châm ngập vào mấy tấc thật khó mà tìm.
Nói tới đây âm thanh dường như run run. Lý Văn Tú đáp:
– Được, tiếc thay tôi lại không mang dao nhỏ.
Hoa Huy đáp:
– Ta cũng không có dao.
Đột nhiên chỉ thanh đao dài nằm dưới đất nói:
– Dùng cái dao kia cũng được rồi.
Thanh đao đó xanh lè lấp loáng, thật là sắc bén, nằm ngang người gã họ Vân, lúc này người chết đao còn, không khỏi khiến người ta kinh sợ. Lý Văn Tú thấy như nếu dùng con dao đó mà mổ lưng ông ta thật là bất tiện, còn đang chần chừ, Hoa Huy hiểu rõ ý nàng, chuyển sang giọng ôn hòa nói:
– Lý cô nương, nếu cô giúp tôi rút độc châm ra, tôi sẽ tạ ơn cô rất nhiều vàng bạc châu báu. Ta không lừa cô đâu, nói thật rất nhiều vàng bạc châu báu.
Lý Văn Tú nói:
– Tôi chẳng mong vàng bạc châu báu làm gì, cũng chẳng cần ông phải tạ ơn. Chỉ muốn ông khỏi đau thế là tốt rồi.
Hoa Huy nói:
– Hay lắm, thế cô mau mau ra tay đi.
Lý Văn Tú bấy giờ mới nhặt thanh đao lên, cắt trong áo gã họ Vân kia độ mươi mảnh vải để cầm máu và băng bó, nói:
– Bá bá, tôi chỉ cố làm hết sức, bác chịu đau một tí.
Nàng nghiến răng, dùng mũi dao để cách chỗ huyệt Phách Hộ ông ta chỉ chừng vài phân nhẹ nhàng cắt xuống. Dao đi vào thịt, máu tươi vọt ra, Hoa Huy chẳng thèm xuýt xoa một tiếng, hỏi:
– Có thấy không?
Mười hai năm qua y đã chịu bao nhiêu là đau khổ, đối với chuyện dao cắt chẳng coi vào đâu. Lý Văn Tú lấy chiếc trâm trên đầu đưa vào trong vết cắt mò thử, quả nhiên thấy một cây kim nhỏ, cắm vào trong xương. Nàng vạch vết thương ra, hai ngón tay cầm đuôi kim giựt mạnh một cái, nhưng trơn quá, phải đến lần thứ tư mới lấy ra được. Hoa Huy kêu lên một tiếng, đau đến ngất đi. Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Ông ta bất tỉnh rồi cũng đỡ đau”. Nàng tiếp tục mổ các nơi khác rút ra hai cây kim nữa rồi dùng vải dịt vết thương cho ông ta.
Một lúc sau, Hoa Huy tỉnh lại, vừa mở mắt ra thấy trước mặt ba chiếc kim đen sì, hậm hực nói:
– Quỉ châm, tặc châm, chúng bay ở trong thịt ta mười hai năm, hôm nay mới chịu ra.
Ông ta quay sang Lý Văn Tú nói:
– Lý cô nương, cô cứu mạng cho ta, lão phu không biết lấy gì báo đáp, chỉ biết tặng cô ba chiếc kim này. Tuy ba chiếc kim nằm trong da thịt ta mười hai năm nhưng độc tính vẫn còn nguyên không mất.
Lý Văn Tú lắc đầu:
– Tôi không lấy.
Hoa Huy lạ lùng hỏi:
– Uy lực của độc châm chính mắt cô đã thấy rồi. Cô có những chiếc kim này trong tay, ai cũng phải sợ cô ba phần.
Lý Văn Tú nói nhỏ:
– Tôi không muốn người khác phải sợ tôi.
Nàng trong bụng chỉ muốn nói: “Tôi chỉ muốn người khác yêu thích tôi, những kim độc này chẳng thể làm được chuyện đó đâu”. Độc châm lấy ra rồi, Hoa Huy tuy chảy máu nhiều, mười phần suy nhược nhưng trong bụng vui vẻ, tinh thần cao hứng, nhắm mắt ngủ đến hơn một giờ. Trong giấc mơ bỗng nghe tiếng người chửi rủa, y giật mình tỉnh giấc, nghe gã ăn cướp họ Tống ở bên ngoài hang ăn nói tục tằn, nhục mạ lời lẽ thật là độc ác. Y không dám tiến vào nên định dụ cho kẻ địch phải đi ra. Hoa Huy càng nghe càng tức, đứng dậy nói:
– Độc châm trong người ta hết rồi, Nhất Chỉ Chấn Giang Nam không lẽ lại sợ hai tên giặc cỏ?
Thế nhưng vừa vận khí, kình lực không vận lên được, thở dài:
– Kim độc nằm trong người ta quá lâu, xem ra ba bốn tháng nữa mới hồi phục nội công.
Tai nghe tên cướp leo lẻo “thằng giặc già, thằng khốn nạn”, y giận dữ nói:
– Chẳng lẽ ta phải chịu nghe ngươi chửi ngày này tháng khác rồi mới giết ngươi hay sao?
Y nghĩ thầm: “Bọn ngươi không vào động được, thể nào cũng về gọi cả bầy đến đây thì thật ôi thôi. Bây giờ biết làm thế nào đây?”.
Đột nhiên y nghĩ ra một cách bèn nói:
– Lý cô nương, để ta dạy cô một lộ võ công, để cô ra thanh toán hai tên giặc cướp này.
Lý Văn Tú hỏi:
– Phải mất bao lâu mới học xong? Không có cách gì nhanh hơn sao.
Hoa Huy trầm ngâm đáp:
– Nếu dạy ngươi điểm huyệt, đao pháp, quyền pháp, ít ra cũng phải nửa năm mới biết chút đỉnh, việc trước mắt không tốc thành không xong. Đành luyện một món binh khí bàng môn cực nhanh, trong một hai chiêu là thắng rồi. Thế nhưng trong cái hang này lấy đâu ra binh khí?
Y ngửng đầu lên đột nhiên vui mừng nói:
– Được rồi, mau ra hái hai trái bầu khô ở trên kia xuống, nhớ lấy luôn cả dây leo, mình luyện lưu tinh chùy.
Lý Văn Tú thấy nơi ánh sáng chiếu xuống, lủng lẳng mươi trái bầu khô đã lâu, không biết mọc hồi nào, liền dùng sức cắt hai trái cả bầu lẫn dây xuống. Hoa Huy nói:
– Tốt lắm. Ngươi đục một cái lỗ trên trái bầu, đổ cát vào, rồi lấy dây đóng chặt lại.
Lý Văn Tú y lời làm như thế. Hai trái bầu đổ đầy cát, mỗi trái phải nặng đến bảy tám cân, quả nhiên là môt đôi lưu tinh chùy. Hoa Huy cầm trên tay, nói:
– Ta dậy ngươi một chiêu “Tinh Nguyệt Tranh Huy”.
Nói xong cầm đôi hồ lô lưu tinh chùy chầm chậm diễn một tư thế ra. Chiêu Tinh Nguyệt Tranh Huy này bên trái đánh vào huyệt Thương Khúc nơi giữa bụng và ngực kẻ địch, bên phải lập tức đi theo, đi vòng ra đánh vào huyệt Linh Đài sau lưng, tuy chỉ một chiêu nhưng bên trong bao hàm thủ kình, nhãn lực, tung chùy nhận huyệt nhiều pháp môn khác nhau, lại phải đề phòng địch nhân né trái tránh phải, mượn lực đánh trả. Thành thử Lý Văn Tú học đến hơn một giờ mới biết tung chùy cho đúng cách.
Nàng lau mồ hôi trên mặt, sượng sùng nói:
– Tôi ngu quá, học mãi mới biết.
Hoa Huy nói:
– Ngươi không ngu đâu, mà phải nói là rất thông minh. Ngươi đừng coi thường chiêu Tinh Nguyệt Tranh Huy này, tuy chỉ là công phu vỡ lòng, nhưng biến hóa kỳ ảo, uy lực vô cùng, người thường phải mất mười ngày, tám ngày cũng chưa chắc đã xong. Nếu dùng đối phó với hảo thủ võ lâm, chỉ một chiêu thì không ăn thua gì, nhưng để đánh bại hai tên giặc cỏ, thì thật là quá đủ. Ngươi ngồi nghỉ giây lát rồi ra làm thịt chúng nó.
Lý Văn Tú hoảng hốt nói:
– Chỉ một chiêu đó mà xong ư?
Hoa Huy cười đáp:
– Ta tuy chỉ dạy ngươi một chiêu thôi, nhưng ngươi cũng đã là đệ tử của ta rồi, học trò của Nhất Chỉ Chấn Giang Nam đối phó với hai tên ăn cướp, chẳng lẽ phải dùng đến hai chiêu sao? Ngươi không sợ làm tổn uy danh của sư phụ ư?
Lý Văn Tú quả thực không muốn bái ai làm thầy, không khỏi chần chừ không trả lời, nhưng thấy vẻ mặt ông ta cực kỳ thất vọng, về sau lại dường như có chiều đau lòng, không nỡ từ chối bèn quì xuống lạy mấy lạy, kêu lên:
– Sư phụ.
Hoa Huy thật là hoan hỉ, lại có vẻ ngại ngùng, u buồn nói:
– Đâu có ngờ ta chết đi sống lại, lại còn thu được một đứa học trò thông minh lanh lợi như thế này.
Lý Văn Tú cũng mỉm cười, nghĩ thầm: “Ta ở trên đời này ngoài Kế gia gia, chẳng còn ai thân thiết. Học hay không học võ công cũng chẳng làm gì. Chẳng qua thêm một sư phụ thì bớt đi một người muốn hại ta, thêm một người chăm sóc cho ta”. Hoa Huy nói:
– Trời sắp tối rồi, người dùng lưu tinh chùy mở đường, xông ra đi. Đến chỗ nào rộng rãi thì lấy mạng hai tên giặc đó.
Lý Văn Tú quả thật sợ hãi, Hoa Huy giận dữ nói:
– Ngươi không tin tưởng vào võ công của ta, sao lại còn lạy ta làm thầy? Năm xưa Mân Bắc song hùng hai đứa bỏ mạng cũng vì chiêu Tinh Nguyệt Tranh Huy này đó. Tài nghệ hai thằng giặc cỏ kia, so với Mân Bắc song hùng thì thế nào?
Lý Văn Tú nào có biết Mân Bắc song hùng võ công đến đâu, nhưng thấy ông ta nổi cáu, đành phải thu hết can đảm đẩy những tảng đá chắn lối hang ra, tay phải xách đôi hồ lô lưu tinh chùy, tay trái nhặt một mũi kim độc dưới đất lên, quát lớn:
– Bọn ác tặc chết tiệt kia, xem độc châm đây.
Hai tên giặc họ Tống và họ Toàn đang canh ngoài cửa hang, nghe thấy “xem độc châm đây”, sợ đến mất hết hồn vía, vội vàng lùi lại. Tên họ Tống vốn đã nghĩ đến chuyện nếu quả thực nàng ném kim độc thì đời nào lại báo động trước như thế, còn như nàng hô hoán ắt chẳng phóng độc châm đâu, thế nhưng trước mắt chứng kiến ba tên đồng bọn chết làm sao y dám thản nhiên không lý đến?
Lý Văn Tú chầm chậm duổi theo, trong bụng cũng sợ không kém gì hai tên cường đạo. Cả ba người đều nơm nớp lo cùng chạy ra khỏi hơn mười trượng hang núi chật hẹp. Tên họ Toàn vừa quay đầu lại, Lý Văn Tú liền vung tay trái lên, tên cướp hoảng quá, chân vấp một cái ngã lăn cù. Tên họ Tống lại tưởng y trúng độc châm, càng cố chạy cho nhanh, vọt ra khỏi động. Tên họ Toàn cũng lóp ngóp chạy theo. Hai đứa múa đao hộ thân, một tên nói:
– Mình đứng đây đối phó với con nhãi đó.
Một tên trả lời:
– Đúng thế, nếu nó có ném độc châm mình cũng nhìn thấy rõ.
Lúc đó mặt trời đã xuống dưới núi, ánh sáng buổi chiều chiếu lên mặt hai tên Tống Toàn, hai đứa hơi nghiêng đầu né cho khỏi mặt trời rọi thẳng vào mắt, bỗng nghe từ trong hang một tiếng lảnh lót:
– Coi độc châm đây!
Hai đứa vội lách qua một bên, thấy từ trong hang bay ra hai trái hồ lô, Lý Văn Tú đã nhảy ra. Hai người lúc đầu kinh hãi, đến khi thấy nàng tay cầm hai trái bầu khô, không khỏi cười rộ lên, không còn đề phòng gì nữa. Lý Văn Tú tim đập thình thình, nàng chỉ học được một chiêu võ công, chẳng biết có dùng được không, tuy khi bé có học cha mẹ ít nhiều, nhưng cha mẹ chết rồi nàng cũng không tập luyện thành thử cũng quên hết cả.
Nàng quả thực sợ hãi hai tên ăn cướp diện mạo hung ác này lắm, nếu như không cần chiến đấu mà dọa bọn chúng bỏ chạy được thì hay biết bao nhiêu, nên gằn giọng quát lớn:
– Các ngươi nếu không chạy cho nhanh, sư phụ ta Nhất Chỉ Chấn Giang Nam sẽ bước ra, độc châm của lão nhân gia giết người thật không khác gì lấy đồ trong túi, các ngươi dám trêu đếu thầy ta thật là lớn mật.
Hai tên ăn cướp này đều là bọn tầm thường, cái tên Nhất Chỉ Chấn Giang Nam cũng đã nghe qua nhưng đâu có liên hệ gì nên chẳng thèm để bụng. Hai đứa đưa mắt cho nhau, cùng nghĩ thầm: “Mình cứ tóm con bé này đem về cho Hoắc đại gia, Trần nhị gia là lập được đại công, cần quái gì đến Chấn Giang Nam, Chấn Giang Bắc?”. Hai gã bèn cùng hô hoán chia hai bên xông vào.
Lý Văn Tú giật mình kinh hãi: “Nếu hai đứa cùng xông vào, làm sao dùng được chiêu Tinh Nguyệt Tranh Huy?”. Quả thật Hoa Huy hết sức dạy cho nàng ra chiêu làm sao đả huyệt, nhưng quên hẳn dạy cho nàng làm sao đối phó với hai tên một lần. Nên biết đối địch ra chiêu, thiên biến vạn hóa, chỉ trong một hai giờ học được bao nhiêu?
Lý Văn Tú chân tay luống cuống, nhảy vội qua bên phải ba thước. Tên họ Toàn đang ở bên phải, liền xông lên tấn công, Lý Văn Tú bất kể trời đất, vung luôn hai trái hồ lô, trong cơn nguy cấp chiêu Tinh Nguyệt Tranh Huy chỉ sử dụng được có một nửa, chùy bên trái đánh trúng huyệt Thương Khúc trên ngực y, còn chùy bên phải trúng ngay thanh đao, nghe bốp một tiếng, trái bầu bị chặt vỡ, cát bay ra tung tóe.
Tên họ Tống vừa đang xông lên, đâu ngờ trong trái bầu lại văng ra nhiều cát đến thế, bị cả chục hạt lọt vào mắt, vội đưa tay dụi. Lý Văn Tú liền tung chùy ra, vì chùy bên trái vỡ mất rồi, không có thế để mượn, chỉ đánh trúng sau lưng y, nhưng lại không trúng huyệt Linh Đài. Thế nhưng trái bầu nặng đến bảy tám cân đánh vào người, tên họ Tống cũng đứng không vững, ngã sấp mặt xuống, mắt cũng không mở được, vồ trúng ngay đầu vai Lý Văn Tú. Lý Văn Tú kêu lên:
– Ôi chao.
Tay trái nàng đẩy y ra, trong cơn hoảng hốt quên là mình tay cầm mũi kim độc nên đâm luôn vào bụng y. Tên họ Tống hai tay ríu lại, chết ngay lập tức. Tuy gã chết rồi nhưng tay vẫn ôm chặt, Lý Văn Tú cố sức vùng ra nhưng vẫn không thoát. Hoa Huy thở dài:
– Con bé này ngốc thật, lúc học thì cái gì cũng thông, đến lúc làm thì làm lung tung hết cả.
Y giơ chân đá vào xương cùng tên họ Tống một cái, hai tay y liền lỏng ra, ngã ngửa về sau. Lý Văn Tú kinh hồn chưa hết, nhìn lại tên họ Toàn thấy y đứng sừng sững, hai mắt trợn tròn, không cử động gì được, đã bị cái hồ lô đánh trúng yếu huyệt chết từ bao giờ. Lý Văn Tú một ngày đánh chết năm tên cường đạo, tuy chỉ là báo thù cho cha mẹ, lại để chống cự với bọn gian ác nhưng trong lòng cũng thấy không an, đứng ngơ ngẩn nhìn hai xác chết, nhịn không nổi khóc òa lên.
Hoa Huy mỉm cười:
– Việc gì mà khóc? Sư phụ dạy ngươi chiêu Tinh Nguyệt Tranh Huy đó có hay không?
Lý Văn Tú nghẹn ngào:
– Con… con đã giết người.
Hoa Huy nói:
– Giết mấy tên giặc cỏ thì có sá gì? Sau khi võ công ta hồi phục rồi, sẽ đem một thân công phu truyền cho ngươi, sau khi việc lớn thành rồi, thầy trò mình về Trung Nguyên tung hoành thiên hạ, có gì mà không được? Đi đi đi, lại nhà ta nghỉ ngơi, uống vài chén trà.
Nói rồi đưa Lý Văn Tú đi qua một khu rừng rậm ở phía bên trái, đi độ một dặm tới một cây có hoa trắng đến một căn nhà tranh. Lý Văn Tú theo ông ta đi vào căn nhà, thấy bên trong trần thiết giản phác nhưng rất sạch sẽ phong nhã, có treo một đôi câu đối, mỗi câu bảy chữ, một câu là:
“Bạch thủ tương tri do án kiếm”
Câu bên kia là:
“Chu môn tảo đạt tiếu đàn quan”
Từ khi đến đất Hồi Cương nàng chưa nhìn thấy câu đối bao giờ, cũng chẳng ai dạy nàng học nhưng cũng may mười bốn chữ này không mấy khó, hồi còn bé mẹ nàng cũng đã dạy qua rồi, tuy nghĩa văn hoàn toàn không hiểu gì cả, nên chỉ lẩm nhẩm đọc:
– Bạch thủ tương tri do án kiếm…
Hoa Huy hỏi:
– Ngươi đã đọc bài thơ này bao giờ chưa?
Lý Văn Tú đáp:
– Chưa đọc. Mười bốn chữ này nói gì thế?
Hoa Huy văn võ toàn tài, nói:
– Đây là hai câu thơ của Vương Duy. Câu trên nói là nếu như ngươi có được người bằng hữu tri kỷ, chơi với nhau cả đời, đến khi cả hai đều đầu bạc nhưng ngươi vẫn không vì thế mà tin được người đó, có khi y vẫn ngầm làm hại ngươi đó. Ngươi đến trước mặt y, cũng vẫn nên tay để vào đốc kiếm. Câu trên của đôi câu đối này có nghĩ là “tình người đổi trắng thay đen, lên xuống như sóng nước”. Còn câu “Chu môn tảo đạt tiếu đàn quan” thì nói là bạn ngươi đến khi đắc ý rồi, đường mây rong ruổi, đừng có mong y đề bạt mình, giúp đỡ mình mà y cười cho đấy.
Lý Văn Tú từ khi gặp được ông già, thấy ông ta dối với mình cái gì cũng ngần ngại đề phòng, mãi đến khi mình giúp ông ta nhổ kim độc ra rồi mới tin là mình không có ý hại ông ta, đến khi nhìn thấy hai câu đối này nghĩ rằng trong đời hẳn ông ta đã bị người ta hãm hại rất lớn, mà người đó chính là người bạn lâu năm, thành thử mới hận đời, dè dặt đến thế.
Lúc này nàng không tiện hỏi thêm chỉ lặng lẽ đi xuống nấu nước pha trà. Hai người mỗi người uống hai chén rồi, tinh thần cao hứng, Lý Văn Tú nói:
– Sư phụ, con phải đi về đây.
Hoa Huy ngạc nhiên, trên mặt mười phần thất vọng nói:
– Ngươi đi ư? Ngươi không theo ta học võ à?
Lý Văn Tú đáp:
– Không, đêm qua con không về, Kế gia gia hẳn là lo lắng lắm. Đợi con nói cho ông ta nghe rồi sẽ quay lại học võ nghệ.
Hoa Huy đột nhiên nổi giận, mặt đỏ lên, lớn tiếng:
– Nếu ngươi nói cho y nghe thì từ rày đừng có lại đây gặp ta nữa.
Lý Văn Tú giật mình nhảy dựng lên, nói nhỏ:
– Không nói cho Kế gia gia nghe ư? Ông ấy… ông ấy thương con lắm mà.
Hoa Huy nói:
– Nói với ai cũng không được cả. Ngươi phải lập lời thề độc, việc ngày hôm nay, dù ai cũng không nói cho biết, nếu không thì ta không cho ngươi ra khỏi núi này đâu…
Ông ta nổi giận, vết thương trên lưng lại đau kịch liệt, “A” lên một tiếng ngất xỉu. Lý Văn Tú vội đỡ ông ta lên, lấy nước lạnh đắp lên trán ông ta. Một lúc sau, Hoa Huy từ từ tỉnh lại, lạ lùng hỏi:
– Sao ngươi chưa đi?
Lý Văn Tú hỏi lại:
– Lưng thầy còn đau lắm không?
Hoa Huy đáp:
– Đỡ nhiều rồi. Ngươi bảo ngươi muốn đi về, sao còn chưa đi?
Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Kế gia gia cùng lắm cũng chỉ trông ngóng mình thôi, còn sư phụ bị trọng thương thế này, nếu mình không ở lại chăm sóc cho ông ấy, sẽ chết không chừng”. Liền nói:
– Sư phụ không khỏe lắm, để đồ nhi ở lại hầu hạ thầy vài ngày.
Hoa Huy nghe thế mừng lắm. Đêm hôm đó hai người nghỉ ngơi trong túp lều tranh, Lý Văn Tú đi nhặt cỏ khô, nằm ngay trên nền nhà, trong giấc ngủ nằm mơ tỉnh lại mấy lần, khi thì mơ thấy mình bị giặc bắt đi, lúc thì mơ thấy ác quỉ máu me đầy người đến đòi mạng. Sáng hôm sau tỉnh dậy, thấy Hoa Huy nghỉ thêm một ngày nữa tinh thần đã thoải mái lắm rồi. Ăn sáng xong, Hoa Huy liền dạy nàng võ công lại từ căn cơ nội công, nói:
– Con tuổi đã lớn rồi, bây giờ mới luyện thượng thừa võ công, quả cũng đã muộn. Thế nhưng một là con tư chất thông minh, hai nữa sư phụ cũng chẳng phải loại tầm thường. Minh sư thu cao đồ, còn sợ gì nữa? Chỉ năm năm nữa, trong võ lâm ít có người địch lại con.
Cứ như thế luyện bảy tám ngày, Lý Văn Tú tiến bộ rất nhanh, vết thương trên lưng Hoa Huy cùng từ từ bình phục, lúc ấy nàng mới bái biệt sư phụ cưỡi con ngựa trắng quay về. Hoa Huy không bắt nàng lập lại lời thề nữa. Nàng về nhà rồi nhưng cũn không nói cho Kế lão nghe chỉ nói nàng bị lạc đường trên sa mạc, mỗi lúc một xa, mau gặp được một đoàn lái buôn đi lạc đà mới khỏi chết khát trên bãi cát.
Từ đó cứ mười ngày nửa tháng, Lý Văn Tú lại đến nơi ở của Hoa Huy vài ngày. Nàng sợ gặp lại bọn cướp, khi ra đi luôn luôn mặc đồ đàn ông Cáp Tát Khắc. Trong mấy ngày đó, Hoa Huy tận lực dạy nàng võ công, Lý Văn Tú trong lòng cũng không có gì phải nghĩ ngợi thành thử một lòng một dạ học võ, quả nhiên cao đồ gặp được minh sư, tiến bộ rất nhanh.
Cứ thế hai năm trời, Hoa Huy vẫn thường than thở:
– Với tài nghệ con bây giờ, trên giang hồ đã vào hạng cao thủ đệ nhất, nếu như về đến Trung Nguyên, chỉ ra tay là đã nổi tiếng rồi.
Thế nhưng Lý Văn Tú đâu có nghĩ đến chuyện quay về Trung Nguyên, được “nổi tiếng” trên chốn giang hồ, thế nhưng muốn báo thù cho cha mẹ, khi gặp bọn cướp không bị chúng gia hại thì không thể không luyện võ công. Trong nơi sâu kín nhất của lòng nàng còn một ý niệm là: “Nếu như ta học võ giỏi rồi, ta có thể cướp Tô Phổ lại”. Thế nhưng ý nghĩ đó nàng không mấy khi nghĩ đến, mỗi khi dấy lên mặt nàng lại đỏ bừng. Nàng tuy không dám nghĩ đến nhiều, nhưng ý nghĩ đó nằm sâu trong tim, và càng ngày nàng ở với Kế gia gia càng ít, ở lại với sư phụ mỗi lúc một nhiều.
Kế lão hỏi nàng đôi lần nàng không chịu nói, biết từ bé tính tình cô gái cứng đầu, đã định làm gì là không thay đổi nên cũng không hỏi thêm nữa.
Một hôm, Lý Văn Tú cưỡi con ngựa trắng, từ nơi sư phụ quay về nhà. Đi được nửa đường, bỗng thấy ráng đỏ nổi đầy trời, khí hậu sa mạc thay đổi thất thường, gió bấc mỗi lúc một mạnh, xem ra một cơn bão tuyết đang kéo đến. Nàng giục ngựa phóng nhanh, thấy những người chăn cừu đang lùa gia súc về chuồng, trên trời chim chóc không còn thấy con nào nữa. Nàng vừa về đến nơi, bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, một người cưỡi ngựa chạy tới. Lý Văn Tú hơi kinh ngạc: “Hiện nay bão tuyết đến nơi, sao lại còn ai ra khỏi nhà đây?”. Tiếng vó ngựa đến gần, thấy trên lưng là một người khoác một tấm áo khoác bằng len đỏ, chính là một người đàn bà Cáp Tát Khắc.
Nhãn lực Lý Văn Tú bây giờ khác hai năm trước xa, từ xa đã nhìn rõ người đàn bà đó thân hình mảnh dẻ, mặt mũi xinh xắn, chính là A Mạn. Lý Văn Tú không muốn hai người gặp nhau, xoay đầu ngựa, chạy đến phía nam một ngọn đồi nhỏ, náu mình sau tàn cây. Nàng thấy con ngựa của A Mạn cũng chạy về hướng ngọn đồi, vừa đến bên chân núi bỗng huýt một tiếng còi, trên đám cây trên đồi cũng có tiếng đáp lại. A Mạn nhảy xuống ngựa, một người đàn ông chạy đến bên nàng, hai người ôm chặt lấy nhau, vọng ra tiếng cười ròn rã. Người thanh niên kia nói:
– Sắp có bão tuyết đến nơi rồi, sao em còn ra đây?
Chính là tiếng của Tô Phổ. A Mạn cười đáp:
– Anh ngốc này, sao anh biết sắp có bão tuyết, vậy mà vẫn còn liều mình đứng đây đợi em?
Tô Phổ cười đáp:
– Hai đứa mình ngày nào cũng gặp nhau nơi đây, so với ăn cơm còn quan trọng hơn. Dù phải xông vào đao kiếm, anh cũng vẫn đến đây chờ em.
Hai người sánh vai ngồi trên ngọn đồi nói chuyện yêu thương, Lý Văn Tú chỉ cách mấy gốc cây, nghe mà ngơ ngẩn. Tiếng hai người có lúc rất lớn, nghe thật rõ ràng, có lúc lại chỉ rì rầm, không nghe thấy gì cả. Cũng có khi hai người không biết nói chuyện gì vui mà cùng cười rộ cả lên.
Thế nhưng dù hai người có nói lớn, Lý Văn Tú cũng chỉ vào tai này, ra tai kia, nàng chẳng muốn nghe lén hai người nói chuyện tình. Trước mắt nàng chỉ thấy hai đứa trẻ, một nam một nữ ngồi nói chuyện trên triền cỏ. Đứa trẻ con trai là Tô Phổ, còn đứa bé gái chính là nàng, hai người đang kể chuyện xưa, những chuyện gì thì nàng cũng quên rồi, nhưng hình ảnh mười năm trước, vẫn rõ ràng hiện ra trước mắt…
Tuyết từng mảng như lông ngỗng rơi xuống, phủ lên trên mình ba con ngựa, trên ba người. Tô Phổ và A Mạn nói chuyện đang vui, chẳng để ý đến, còn Lý Văn Tú cũng không cảm thấy gì. Bông tuyết bắt đầu tụ lại trên đầu ba người, cả ba đầu tóc trắng xóa.
Mấy chục năm sau, tóc cả ba người cũng đều sẽ bạc, thế nhưng Tô Phổ và A Mạn vẫn còn cười nói vui vầy, còn Lý Văn Tú hẳn vẫn cô đơn tịch mịch? Nàng vẫn còn nhớ đến người xưa, liệu người xưa có còn chút nào hình bóng của nàng không?
Đột nhiên trên cành có những tiếng kêu lộp bộp, A Mạn và Tô Phổ hai người cùng nhỏm dậy, kêu lên:
– Mưa đá, mau về thôi.
Hai người liền nhảy lên ngựa. Lý Văn Tú nghe hai người kêu lên cũng giật mình tỉnh mộng, những mảnh băng bằng ngón tay đã rơi trên đầu, trên mặt, trên tay, thật là đau đớn, vội vàng cởi chiếc mũ lông trên yên đội lên đầu phi ngựa chạy về.
Khi nàng về đến nhà thấy trong ngõ buộc hai con ngựa, một con chính là ngựa A Mạn cỡi. Lý Văn Tú ngạc nhiên: “Hai người đến nhà ta làm gì thế này?”.
Khi đó mưa đá mỗi lúc một lớn, nàng liền dắt ngựa đi theo cửa sau mà vào, nghe tiếng oang oang của Tô Phổ:
– Lão bá bá, mưa đá lớn quá, chúng tôi chắc phải đợi thêm một lúc nữa.
Kế lão đáp:
– Bình thời mời các vị cũng không đến, để tôi xuống đun một ấm trà.
Từ khi bọn Tấn Uy tiêu cuộc đến thảo nguyên cướp bóc, người Cáp Tát Khắc cực kỳ thù hận người Hán, tuy Kế lão ở đây đã lâu, người Cáp Tát Khắc lại hiếu khách, không đến nỗi tống cổ ông ra khỏi khu vực của họ, nhưng tất cả đều rất ít lai vãng. Chỉ khi nào có chuyện đại hỉ, người ta mới đến mua rượu của ông, chỉ khi nào gia súc bị bệnh không cách nào trị được, người ta mới đến mời ông chữa giùm. Lều của A Mạn và Tô Phổ lúc ấy lại ở xa, nếu không phải vì trốn bão tuyết, thì có đến mười năm nữa chưa chắc họ đã đến nhà ông một lần.
Kế lão xuống bếp, thấy Lý Văn Tú mặt mày đỏ gay, đang ngơ ngẩn xuất thần, nói:
– A… ngươi về…
Lý Văn Tú vội vàng nhảy tới, giơ tay bịt miệng ông lại, ghé tai ông nói thầm:
– Đừng để họ biết cháu đang ở đây.
Kế lão thấy thật là lạ lùng nhưng cũng gật đầu. Một lúc sau, Kế lão đem rượu sữa dê, nhũ lạc, hồng trà ra để tiếp khách. Lý Văn Tú ngồi bên bếp lửa, văng vẳng nghe thấy tiếng cười nói của Tô Phổ và A Mạn từ nhà trên vọng xuống, khiến một ý nghĩ nàng không sao chế ngự nổi: “Ta muốn ra gặp chàng, nói với chàng vài câu”. Thế nhưng khi nghĩ đến những lời chửi rủa của cha Tô Phổ và cái roi của ông ta, tuy đã mười năm qua nhưng không lúc nào tiếng roi của Tô Lỗ Khắc không vang vang trong đầu nàng.
Kế lão quay lại bếp, đưa cho nàng một bát trà nóng trộn váng sữa đưa cho nàng, trong ánh mắt đầy vẻ từ ái. Hai người sống chung đã mười năm, thật chẳng khác nào ông nội với cháu gái, hai bên lo lắng cho nhau, người kia suy nghĩ gì trong lòng, người này cũng hiểu được. Tuy nhiên hai người vì không phải là ruột thịt nên không có được cái cảm ứng tương liên như tình ông cháu thực.
Lý Văn Tú đột nhiên hạ giọng nói:
– Cháu không thay quần áo, giả làm một thanh niên Cáp Tát Khắc đến nhà xin tránh bão tuyết, ông đừng để lộ ra nhé.
Không đợi Kế lão trả lời, lẻn qua cửa sau dắt con ngựa trắng, xông vào trong trận bão đang mịt mù trời đất, lặng lẽ đi thật xa. Nàng đi một mạch đến hơn một dặm, mới nhảy lên lưng ngựa chạy một vòng rồi tiến về phía cửa trước. Trong cơn bão, tưởng như mây đen trên trời như sắp ép xuống đầu. Nàng sống nơi Hồi Cương mười hai năm, chưa bao giờ thấy trời đất lại quái lạ đến thế, trong lòng không khỏi sợ hãi, vội giục ngựa chạy thẳng đến cửa nhà giơ tay gõ, nói tiếng Cáp Tát Khắc:
– Làm ơn cho vào! Làm ơn cho vào!
Kế lão mở cửa, cũng dùng tiếng Cáp Tát Khắc hỏi lại:
– Huynh đệ, cái gì thế?
Lý Văn Tú nói:
– Trận bão tuyết này không thể đi được, lão trượng, làm ơn cho tôi tránh gió tuyết ở tôn xứ một lát.
Kế lão đáp:
– Được chứ, được chứ! Có ai đi ra ngoài mà mang theo nhà mình được đâu. Đã có hai người bạn khác cũng đang tránh tuyết trong này rồi. Mời bạn vào đây.
Nói xong nhường cho Lý Văn Tú tiến vào, lại hỏi:
– Bạn đi đâu đây?
Lý Văn Tú nói:
– Tôi định đi lên vùng Hắc Thạch, không biết còn bao xa?
Trong bụng nghĩ thầm: “Kế gia gia đóng kịch giỏi lắm, không có chút sơ hở nào”. Kế lão giả vờ kinh ngạc nói:
– Ối chao, nếu muốn đi Hắc Thạch ư? Thời tiết xấu thế này, hôm nay không thể nào đến được đâu, chi bằng nghỉ lại đây một đêm, sáng mai hãy đi. Chứ không nếu lạc đường thì thật khổ.
Lý Văn Tú đáp:
– Thế cũng được.
Nàng đi vào trong nhà, phủi sạch tuyết bám trên người. Tô Phổ và A Mạn hai người ngồi sánh vai bên một lò sưởi. Tô Phổ cười nói:
– Huynh đệ, chúng tôi cũng đang tránh tuyết đây, mời lại sưởi chút cho ấm.
Lý Văn Tú đáp:
– Vâng, cám ơn bạn.
Nàng đi đến ngồi xuống bên cạnh y. A Mạn mỉm cười chào khách. Tô Phổ không gặp Lý Văn Tú bảy tám năm nay, nàng từ một cô gái nhỏ đã thành một thiếu nữ, lại mặc giả trai, làm sao y còn nhận ra được? Kế lão đem đồ ăn thức uống lên, Lý Văn Tú vừa ăn vừa hỏi tên tuổi ba người, nói mình tên là A Tư Thác, là một mục nhân ở một bộ lạc Cáp Tát Khắc cách đây hai trăm dặm.
Tô Phổ không ngừng đến bên cửa sổ nhìn ra xem xét bầu trời, thực ra, chỉ cần nghe tiếng gió thổi vào tường, chẳng phải nhìn mây cũng biết được rằng chưa thể lên đường được. A Mạn lo lắng nói:
– Anh nghĩ gió có thổi bay cái nhà này đi được không?
Tô Phổ nói:
– Ta lo là lo tuyết rơi xuống quá nhiều, nóc nhà chịu không nổi. Để ta leo lên mái nhà xúc bớt tuyết đi.
A Mạn nói:
– Đừng để gió thổi anh bay xuống đấy nhé.
Tô Phổ cười đáp:
– Dưới đất tuyết đóng dày thế này, dẫu có bị ngã xuống cũng không chết đâu.
Lý Văn Tú tay run run cầm bát trà, trong đầu bao nhiêu tạp niệm, không biết thế nào cho phải. Người bạn hồi thơ ấu nay ngồi ngay bên cạnh mình, y có thực là không nhận ra mình không? Hay là biết đó mà giả vờ như không biết? Y đã hoàn toàn quên hẳn mình, hay trong lòng vẫn còn nhớ nhung, nhưng không muốn cho A Mạn biết đấy thôi?
Trời tối dần, Lý Văn Tú ngồi xa một bên. Tô Phổ và A Mạn tay cầm tay, nho nhỏ truyện trò những câu người ngoài thấy hoàn toàn không ý nghĩa, nhưng đối với một cặp tình nhân thì là những lời dịu dàng ngọt ngào biết bao nhiêu. Ánh lửa bập bùng chiếu lên mặt hai người khi sáng khi tối.
Đột nhiên, Lý Văn Tú nghe thấy tiếng ngựa đạp trên tuyết, một người đang cưỡi ngựa chạy về hướng căn nhà. Thảo nguyên tuyết đóng đã nhiều, mỗi bước chân ngựa mất rất nhiều hơi sức nên chạy không thể nào nhanh được. Tiếng chân ngựa càng lúc càng gần, Kế lão cũng đã nghe thấy, lẩm bẩm nói:
– Lại có một người đến tránh bão nữa đây.
Tô Phổ và A Mạn hoặc chưa nghe thấy, hoặc nghe thấy mà không để ý, hai người vẫn nắm tay nhau, nói chuyện rù rì. Một lúc sau, người cưỡi ngựa đã đến trước cửa, tiếp đến là tiếng đập cửa bình bình bình. Tiếng đập thật là thô bạo, không lễ độ như kẻ đến xin trú ẩn. Kế lão nhíu mày, đi ra mở cửa. Chỉ thấy một gã cao to mặc áo da cừu, mặt đầy râu ria, bên hông đeo một thanh trường kiếm, lớn tiếng nói:
– Bên ngoài gió tuyết lớn quá, ngựa chạy không nổi.
Giọng nói tiếng Cáp Tát Khắc chưa sõi, mắt gườm gườm, nhìn những người trong nhà như dò xét. Kế lão đáp:
– Mời vào trong uống một chén rượu.
Nói xong bưng một chén rượu đưa cho y. Người kia uống một hơi cạn sạch, ngồi xuống bên cạnh đống lửa, cởi áo ngoài ra, thấy hai bên hông đeo hai thanh đoản kiếm sáng lấp loáng. Một thanh kiếm cán màu vàng, một thanh kiếm cán màu bạc.
Lý Văn Tú vừa nhìn thấy hai thanh tiểu kiếm trong lòng chấn động, cổ họng dường như có vật gì chặn lại, mắt hoa lên, nghĩ thầm: “Đây là song kiếm của mẹ ta”. Khi Kim Ngân tiểu kiếm Tam Nương Tử chết đi, Lý Văn Tú tuy còn nhỏ, nhưng đôi kiếm này nhận biết ngay, không thể nào lầm được. Nàng đưa mắt liếc nhìn gã kia, nhận ra ngay, gã chính là một trong ba người thủ lãnh năm xưa chỉ huy cả bọn đuổi theo truy sát cha mẹ nàng. Tuy đã mười hai năm qua, tướng mạo nàng đã hoàn toàn đổi hẳn nhưng một gã hơn ba mươi tuổi có thêm mười hai năm cũng chẳng thay đổi bao nhiêu. Nàng sợ y nhận ra mình, không dám nhìn y lâu, nghĩ thầm: “Nếu không phải vì cơn bão tuyết này thì ta đâu có gặp lại Tô Phổ, cũng đâu có gặp lại gã ác tặc này”.
Kế lão nói:
– Khách nhân từ đâu đến đây? Có đi đến nơi nào xa không?
Gã kia ậm ừ, tự mình rót uống một chén rượu nữa. Khi đó bên đống lửa ngồi năm người, Tô Phổ không còn có thể nói chuyện riêng với A Mạn được, y nhìn Kế lão chăm chăm rồi nói:
– Lão bá bá, tôi muốn hỏi thăm một người.
Kế lão hỏi lại:
– Ai thế?
Tô Phổ đáp:
– Là người hồi bé hay cùng tôi chơi đùa, là một cô bé người Hán…
Y nói đến đây, tim Lý Văn Tú bỗng thót lên, vội quay đầu nhìn sang chỗ khác, không dám nhìn thẳng vào y. Tô Phổ nói tiếp:
– Cô ta tên là A Tú, về sau qua bảy tám năm, không còn gặp cô ta nữa. Cô ta ở chung với một ông già người Hán, chắc là ông phải không?
Kế lão tằng hắng vài cái, nhìn mặt Lý Văn Tú để hỏi xem ý thế nào. Nhưng Lý Văn Tú quay đầu sang chỗ khác, ông ta không biết phải trả lời sao cho phải, chỉ ậm ừ.
Tô Phổ lại nói:
– Cô ta hát thật là hay, người ta bảo rằng cô ta hát còn hay hơn tiếng chim thiên linh hót nữa. Thế nhưng mấy năm qua, tôi không còn được nghe nàng hát nữa. Cô ta có còn ở đây nữa không?
Kế lão ngập ngừng, ấp úng nói:
– Không, không, cô ta không… không có ở đây…
Lý Văn Tú xen vào:
– Ngươi hỏi cô gái người Hán, ta biết rồi. Cô ta chết đã mấy năm nay.
Tô Phổ giật mình kinh hãi hỏi:
– A, cô ta chết rồi ư, sao mà chết thế?
Kế lão nhìn Lý Văn Tú, nói:
– Bị bệnh… bệnh…
Tô Phổ mắt hơi hoen lệ, nói:
– Tôi khi còn bé thường hay cùng cô ta đi chăn cừu, cô ta hát cho tôi nghe nhiều bài lắm, cũng kể cho tôi nghe nhiều chuyện cổ. Mấy năm không gặp, nào ngờ cô ta… cô ta đã chết rồi.
– Nàng nói cha mẹ đều bị bọn ăn cướp giết chết, lênh đênh cô khổ lạc loài đến đây…
A Mạn hỏi:
– Thế cô đó có xinh đẹp không?
Tô Phổ đáp:
– Khi đó ta còn nhỏ, không nhớ nữa. Chỉ còn nhớ cô ta hát thật hay mà kể chuyện cũng thật hay…
Gã đàn ông lưng đeo hai thanh tiểu kiếm đột nhiên nói:
– Ngươi nói là một cô gái người Hán? Cha mẹ cô ta bị hại, chỉ có một mình đến đây?
Tô Phổ đáp:
– Đúng đó, ông có biết cô ta không?
Gã kia không đáp, lại hỏi tiếp:
– Có phải cô ta cưỡi một con ngựa trắng, đúng không?
Tô Phổ đáp:
– Đúng rồi, ông có gặp cô ta rồi sao?
Gã đàn ông đột nhiên đứng dậy, hầm hầm nhìn Kế lão gằn giọng hỏi:
– Nàng ta chết nơi đâu?
Kế lão nói ấm ớ mấy câu, gã kia liền hỏi:
– Cô ta có để lại cái gì không? Mọi thứ ngươi giữ hết phải không?
Kế lão liếc y một cái, lạ lùng hỏi:
– Cái đó có can hệ gì đến ngươi đâu?
Gã kia đáp:
– Ta có một vật rất quan trọng bị con bé đó ăn cắp mất. Ta đi kiếm mãi mà không ra, đâu có ngờ nó đã chết rồi…
Tô Phổ đứng vùng dậy, lớn tiếng nói:
– Ngươi đừng có nói năng láo lếu, A Tú đời nào đi ăn cắp đồ gì của ngươi?
Gã kia đáp:
– Ngươi biết gì mà nói?
Tô Phổ đáp:
– A Tú từ bé chơi với ta, nàng là một cô gái rất lương thiện, quyết không bao giờ lấy của ai cái gì.
Gã kia bĩu môi lộ vẻ khinh miệt, nói:
– Vậy mà nó ăn cắp đồ của ta đó.
Tô Phổ đưa tay cầm cán đao đang đeo nơi hông, quát lớn:
– Ngươi tên là gì? Ta xem ngươi không phải người Cáp Tát Khắc, không chừng là bọn cướp người Hán.
Gã kia đi đến bên cửa, mở rộng cửa nhìn ra ngoài. Cửa vừa mở ra, một trận gió thổi ùa vào cuốn theo bao nhiêu bông tuyết. Chỉ thấy một đồng tuyết trắng xóa, bão thổi ào ào, người ngựa không cách gì đi được. Gã kia nghĩ thầm: “Bên ngoài không có ai, trong nhà chỉ có một đứa con gái, một ông già, một thanh niên ốm o gầy guộc, chỉ giơ tay là đánh ngã. Chỉ có thanh niên to khỏe này, cho y vài cú đấm cú đá là xong”.
Nghĩ thế nên y không coi vào đâu, nói:
– Là người Hán thì đã sao? Ta họ Trần, tên Đạt Hải[6] trên giang hồ có ngoại hiệu là Thanh Mãng Kiếm, ngươi có nghe đến bao giờ chưa?
Tô Phổ đâu có biết qui củ giang hồ của người Hán ra sao, lắc đầu nói:
– Ta chẳng nghe tới. Ngươi có phải cường đạo người Hán chăng?
Trần Đạt Hải nói:
– Ta là tiêu sư, chuyên đánh ăn cướp để mưu sinh, sao lại là cường đạo được?
Tô Phổ nghe thấy không phải là ăn cướp, nét mặt liền dịu hẳn xuống, nói:
– Không phải ăn cướp người Hán thì không sao. Ta đã nói trong số người Hán cũng có người tốt, nhưng cha ta nhất định không tin. Từ rày ngươi không được nói A Tú lấy đồ của ngươi nữa.
Trần Đạt Hải cười nhạt:
– Cô gái đó chết rồi, sao ngươi còn nhớ đến là sao?
Tô Phổ đáp:
– Khi cô ta còn sống là bạn của ta, chết đi rồi cũng vẫn là bạn. Ta không để cho ai nói xấu cô ta cả.
Trần Đạt Hải không lòng dạ nào tranh biện với y, quay sang hỏi Kế lão:
– Những gì của cô đó để lại nay ở đâu?
Lý Văn Tú nghe thấy Tô Phổ biện hộ cho mình, trong lòng cực kỳ khích động: “Y không hề quên ta, không hề quên ta! Y đối với ta thật có lòng”.
Thế nhưng nghe Trần Đạt Hải tra vấn những đồ đạc của mình để lại, không khỏi kỳ quái: “Ta làm gì có lấy của y cái gì đâu, y tìm là tìm cái gì đây?”. Chỉ nghe Kế lão hỏi lại:
– Khách quan thất lạc cái gì thế? Tiểu cô nương đó rất là thành thật, lão hán tin chắc là nó nhất quyết không lấy cái gì của ai đâu.
Trần Đạt Hải hơi trầm ngâm, nói:
– Đó là một bức vẽ. Đối với thường nhân thật vô dụng, nhưng vì đó là… đó là của tiên phụ chính tay vẽ, ta vẫn thường đi tìm bức họa đó. Nếu tiểu cô nương đó có ở nơi đây, không biết ngươi đã từng nhìn thấy bức tranh đó chưa?
Kế lão đáp:
– Bức vẽ đó vẽ cái gì, vẽ sơn thủy hay vẽ người?
Trần Đạt Hải ngập ngừng:
– Vẽ… vẽ sơn thủy.
Tô Phổ cười khẩy nói:
– Tranh vẽ cái gì cũng không biết, vậy mà dám vu cho người ta ăn cắp của mình.
Trần Đạt Hải giận quá, soẹt một tiếng rút ngay trường kiếm đeo ở lưng ra, quát lên:
– Tiểu tặc, bộ ngươi không muốn sống hay sao? Lão gia giết người như cơm bữa, chẳng coi ra gì đâu nhé.
Tô Phổ cũng rút ngay đoản đao đeo ở lưng ra, lạnh lùng nói:
– Muốn giết một người Cáp Tát Khắc, e rằng không dễ dàng đâu.
A Mạn nói:
– Tô Phổ, đừng chấp y làm gì.
Tô Phổ nghe thấy A Mạn nói thế, từ từ đút thanh đao trở vào vỏ. Trần Đạt Hải chỉ một lòng muốn lấy bức địa đồ Cao Xương mê cung, bọn chúng lang thang nơi sa mạc mười năm, đi khắp sa mạc thảo nguyên, cũng chỉ để đi tìm Lý Văn Tú, bây giờ nghe được chút manh mối, tuy y tính tình hung ác, nhưng cũng biết việc nhỏ không nhịn ắt hư chuyện lớn, nên hầm hầm trừng mắt nhìn Tô Phổ, quay sang hỏi Kế lão:
– Bức họa đó, có thể nói là một bức địa đồ, vẽ sông núi địa hình trong sa mạc.
Kế lão toàn thân hơi run rẩy, nói:
– Sao ngươi… sao ngươi biết bức địa đồ ở trong tay cô gái đó?
Trần Đạt Hải nói:
– Chuyện đó chắc chắn không sai vào đâu được. Nếu ngươi đem bức địa đồ đó giao lại cho ta, thể nào ta cũng hậu tạ.
Nói xong lấy từ trong bọc ra hai đĩnh bạc vứt lên bàn, dưới ánh lửa lấp loáng, sáng lóe lên. Kế lão trầm ngâm giây lát, chầm chậm lắc đầu nói:
– Ta chưa từng thấy bao giờ.
Trần Đạt Hải nói:
– Ta muốn xem di vật của tiểu cô nương đó.
Kế lão nói:
– Cái đó… cái đó…
Trần Đạt Hải giơ tay trái lên, rút phắt chiếc tiểu kiếm cán bạc, phập một tiếng đâm ngay xuống bàn, nói:
– Không có lôi thôi gì hết. Để ta tự mình đi kiếm.
Nói xong cầm ngay một cây nến bằng mỡ cừu, đẩy cửa đi vào phòng. Phòng y vào chính là phòng ngủ của Kế lão, thoạt nhìn là biết ngay, tiện tay lục tung mấy cái rương, rồi đi qua phòng của Lý Văn Tú.
Y thấy những quần áo Lý Văn Tú thay đổi ra, nói:
– Chà, nó lớn rồi mới chết nhỉ?
Lần này y lục soát thật là kỹ lưỡng, ngay cả quần áo khi còn bé của Lý Văn Tú y cũng lật ra coi. Quần áo khi còn nhỏ của Lý Văn Tú đều là do mẫu thân may cho, khi lớn lên mặc không còn vừa nhưng nàng vẫn cất giữ kỹ lưỡng. Trần Đạt Hải vừa nhìn thấy những áo quần trẻ con thêu thùa sặc sỡ, nhớ lại tình cảnh mười năm xưa đuổi theo vợ chồng Lý Tam trên sa mạc, vui vẻ kêu lên:
– Đúng rồi, đúng rồi, đúng nó rồi.
Y lục tung hết tất cả đồ đạc trong căn phòng, bao nhiêu quần áo đều xé rách ra để xem xét nhưng nào có thấy bức địa đồ ở đâu? Tô Phổ thấy y ngang ngược phá hoại di vật của Lý Văn Tú, mấy lầm nắm đao toan đứng lên, nhưng lần nào cũng bị A Mạn ngăn lại. Kế lão thỉnh thoảng lại liếc Lý Văn Tú, thấy nàng vẫn chăm chăm nhìn ngọn lửa, đối với hành vi hung bạo của Trần Đạt Hải làm như nhìn mà không thấy. Kế lão trong lòng băn khoăn: “Trước lưỡi dao của gã bạo khách này, không biết cô ta tính sao?”.
Lý Văn Tú xem thần tình Tô Phổ, trong lòng vừa thật mênh mang, lại vừa êm ái: “Y vẫn còn nhớ đến ta, chỉ vì muốn bảo hộ di vật của ta, đã toan rút dao thí mạng với người khác”. Thế nhưng trong lòng nàng cũng lạ lùng: “Gã ác tặc này nói ta ăn cắp địa đồ của y, không biết là bức địa đồ nào?’. Khi mẹ nàng sắp chết có nhét một bức địa đồ vào áo nàng, lúc đó nguy cơ khẩn bách nên không kịp nói rõ cho nàng nghe, đến khi mẹ con chia tay không còn có dịp nào nhìn thấy nhau nữa. Bọn ăn cướp Tấn Uy tiêu cuộc mười năm qua đi mòn gót chân khắp các vùng nam bắc Thiên Sơn để tìm tung tích nàng, chính Lý Văn Tú nào có hay biết gì đâu?
Trần Đạt Hải tìm kiếm hồi lâu, không thấy manh mối gì, trong lòng cực kỳ thất vọng, đột nhiên gay gắt hỏi:
– Thế con bé đó chôn ở đâu?
Kế lão ngơ ngẩn nói:
– Chôn ở xa lắm, xa lắm.
Trần Đạt Hải lấy từ trên tường xuống một chiếc mai, nói:
– Ngươi dẫn ta đi.
Tô Phổ đứng lên, quát lớn:
– Ngươi đến đó làm gì?
Trần Đạt Hải nói:
– Ngươi hỏi làm gì? Ta muốn đến đào mả nó lên xem, không chừng bức địa đồ đó chôn theo nó ở trong mộ.
Tô Phổ giơ đao chắn ngang cửa, quát:
– Ta không để cho ngươi động đến phần mộ của cô ta.
Trần Đạt Hải giơ cái xẻng lên, làm như muốn đánh xuống, quát lớn:
– Tránh ra.
Tô Phổ nghiêng qua bên trái, đao trong tay đã đâm tới. Trần Đạt Hải vứt chiếc xẻng, rút trường kiếm nơi hông ra, nghe keng một tiếng, đao kiếm đã chạm nhau, hai người đều nhảy lùi về sau một bước, rồi lại xông lên đấu tiếp.
Cái sảnh đường của căn nhà vốn không lớn gì, khi hai bên múa may, Kế lão và A Mạn đều nép vào một bên, đứng sát bên tường, chỉ một mình Lý Văn Tú đứng ngay trước cửa sổ. A Mạn xông tới rút thanh tiểu kiếm Trần Đạt Hải cắm trên bàn ra, toan vào giúp Tô Phổ một tay, nhưng hai người đang đấu thật gay, nàng không cách gì xen vào được.
Tô Phổ bây giờ đã được phụ thân Tô Lỗ Khắc truyền hết tài nghệ, đao pháp biến huyễn, chiêu số cực kỳ tàn độc, lúc đầu Trần Đạt Hải có hơi núng thế, trong bụng không khỏi lạ lùng: “Không ngờ thằng nhãi Cáp Tát Khắc này, võ công không kém gì hảo thủ Trung Nguyên”. Ngay lúc đó, đằng sau hơi có tiếng gió, một thanh tiểu kiếm ném tới, chính là A Mạn bất ngờ đánh lén. Trần Đạt Hải vội vàng tránh qua bên phải, nghe soẹt một tiếng, cánh tay trái đã bị đao của Tô Phổ rạch một đường. Y giận quá, vụt vụt vụt đâm luôn ba kiếm, sử dụng tuyệt kỹ thành danh là Thanh Mãng kiếm pháp. Tô Phổ chỉ thấy trước mắt mũi kiếm lấp loáng chẳng khác nào mãng xà phun nọc, không biết kiếm của y đâm về hướng nào. Y chưa kịp đỡ thì trường kiếm của kẻ địch đã đâm tới mặt, vội vàng nghiêng đầu né tránh, bên cổ đã bị trúng kiếm, máu chảy dầm dề. Trần Đạt Hải thắng thế đâu có nhường ai, một kiếm nữa lại đâm ngay vào cổ tay Tô Phổ, nghe choang một tiếng, đoản đao đã rơi xuống đất.
Đường kiếm thứ ba tung ra, Tô Phổ không cách gì đề ngự thế ắt chết tươi ngay, Lý Văn Tú vội tiến lên một bước, định chờ khi y đâm ra sẽ thi triển Đại Cầm Nã Thủ chộp lấy tay y, đã thấy A Mạn nhảy tới, chặn ngay trước mặt Tô Phổ, kêu lên:
– Không được giết y.
Trần Đạt Hải thấy A Mạn mặt đẹp như hoa, nhưng khuôn mặt đầy hốt hoảng, trong lòng nghĩ lại không đâm kiếm đó ra, mũi kiếm để ngay vào ngực nàng, cười nói:
– Ngươi quan tâm cho y đến thế, tên nhãi này là tình lang của ngươi phải không?
A Mạn đỏ mặt gật đầu. Trần Đạt Hải nói:
– Được, ngươi muốn ta tha mạng cho y cũng được, ngày mai khi gió ngớt rồi, ngươi phải đi theo ta.
Tô Phổ giận quá, rống lên một tiếng, từ phía sau A Mạn xông ra. Trần Đạt Hải vung thanh trường kiếm xéo qua, lại để ngay yết hầu y, chân trái đá quét ngang đùi, Tô Phổ lại ngã ngay xuống đất, thanh kiếm vẫn bám theo cổ họng. Lý Văn Tú đứng một bên, theo dõi sát Trần Đạt Hải, nếu như y có ý hại Tô Phổ, nàng sẽ ra tay giải cứu ngay. Với tài nghệ nàng bây giờ, đối phó với hạng người như gã quả thật có thừa.
Thế nhưng A Mạn nào hay đại viện ở ngay bên cạnh, trong cơn gấp rút, vội nói:
– Ngươi chớ đâm, ta bằng lòng đó.
Trần Đạt Hải mừng lắm nhưng mũi kiếm không nhích ra, nói:
– Ngươi bằng lòng sáng mai đi theo ta, đừng có trở mặt nhé.
A Mạn nghiến răng nói:
– Ta không trở mặt đâu, ngươi bỏ kiếm ra đi.
Trần Đạt Hải cười ha hả, nói:
– Nếu ngươi trở mặt cũng không chạy được đâu.
Y cho kiếm vào vỏ, rồi nhặt đoản đao của Tô Phổ lên cầm lăm lăm trong tay. Đến lúc này trong nhà chỉ còn mình y là có binh khí, nên không còn sợ ai phản kháng. Y nhìn ra cửa sổ, nói:
– Trời này chắc đi ra ngoài không được, chỉ còn nước chờ cho trời tạnh hãy ra đào mộ.
A Mạn đỡ Tô Phổ ngồi tại một bên, thấy cổ y máu vẫn chảy ròng ròng, trong lòng bối rối, toan xé áo mình cho y buộc vết thương. Tô Phổ lấy trong túi ra một cái khăn tay lớn, nói:
– Dùng cái khăn này buộc được rồi.
A Mạn cầm lấy chiếc khăn, buộc vết thương lại cho y, nghĩ đến mình rồi đây rơi vào tay tên cường đạo này, không biết có cơ hội thoát thân không, tủi thân nước mắt rơi lã chã. Tô Phổ hạ giọng chửi:
– Đồ ăn cướp chó má, đồ khốn nạn.
Lúc này y đã có chủ định, nếu như tên cướp nhất định bắt A Mạn đem đi, dù biết phải chết y cũng nhất định ra tay. Sau trận đánh vừa rồi, năm người ngồi quanh bếp lửa, ai nấy đều cực kỳ căng thẳng. Trần Đạt Hải một tay cầm đao, một tay cầm bát rượu, thỉnh thoảng lại nhìn A Mạn, rồi nhìn Tô Phổ. Bên ngoài gió bấc vẫn vù vù, cuốn theo từng mảng tuyết, đập lên tường, lên mái nhà. Chẳng ai nói một câu.
Lý Văn Tú trong lòng nghĩ thầm: “Cứ để cho tên ác tặc này phách lối một phen, không cần giết y vội”. Đột nhiên trong bếp một thanh củi sáng bừng lên, nghe tách một cái, ngọn lửa bùng lên soi sáng rõ mặt mọi người. Lý Văn Tú thấy chiếc khăn Tô Phổ quấn trên cổ, trong lòng chấn động, chăm chăm nhìn. Kế lão thấy ánh mắt nàng có điều khác lạ, cũng nhìn theo, hỏi:
– Tô Phổ, chiếc khăn đó ở đâu mà ngươi có được đó?
Tô Phổ ngây người, tay vỗ lên cổ nói:
– Ông hỏi cái khăn này ư? Đó là người đã chết A Tú cho tôi đó. Hồi còn nhỏ chúng tôi đi chăn cừu, bị một con sói lớn xông tới cắn tôi chúng tôi, tôi giết chết con sói đó nhưng cũng bị nó cắn phải. A Tú dùng chiếc khăn này buộc vết thương…
Lý Văn Tú nghe những lời đó, nàng thấy mọi vật đều mờ đi, thì ra mắt đã nhòa lệ. Kế lão vào trong phòng lấy ra một vuông vải trắng, đưa cho Tô Phổ nói:
– Ngươi dùng miếng vải này buộc vết thương, cởi cái khăn đó xuống cho ta xem nào.
Tô Phổ hỏi lại:
– Sao thế?
Trong khi Kế lão nói, Trần Đạt Hải cũng chăm chăm nhìn vào chiếc khăn nơi cổ Tô Phổ, bỗng nhiên cầm đao đứng lên, quát lớn:
– Bảo ngươi cởi cái khăn đó đưa đây.
Tô Phổ trừng trừng nhìn y. A Mạn sợ Trần Đạt Hải làm dữ, cởi cái khăn cho Tô Phổ, đưa cho Kế lão rồi lấy miếng vải trắng buộc lại vết thương. Kế lão cầm chiếc khăn vấy máu trải lên bàn, khêu ngọn đèn cao lên rồi xem xét kỹ. Trần Đạt Hải cũng săm soi một hồi, đột nhiên vui mừng kêu lên:
– Đúng rồi, đúng rồi, đây chính là địa đồ Cao Xương mê cung.
Y giơ tay chụp lấy chiếc khăn, cười ha hả, sướng không để đâu cho hết. Kế lão tay phải nhúc nhích dường như muốn đoạt lại chiếc khăn nhưng sau cố nhịn. Ngay lúc đó, bỗng từ xa có tiếng người kêu:
– Tô Phổ, Tô Phổ…
Lại có một người khác kêu lớn:
– A Mạn, A Mạn ơi…
Tô Phổ và A Mạn cùng nhảy nhổm lên, cùng kêu:
– Cha mình đang đi kiếm.
Tô Phổ chạy ra cửa, đang định mở bỗng thấy sau gáy lạnh toát, một thanh trường kiếm đã dí vào cổ. Trần Đạt Hải lạnh lùng nói:
– Ta bảo ngồi xuống, không được động đậy.
Tô Phổ không cách nào khác hơn đành phải ngồi xuống.
Một lúc sau, tiếng bước chân của hai người đã ngay ngoài ngõ. Có tiếng Tô Lỗ Khắc nói:
– Có phải đây là nhà tên giặc người Hán đó không? Ta không vào đâu.
Xa Nhĩ Khố đáp:
– Không vào ư? Thế đi đâu tránh bão tuyết bây giờ? Hai tai ta lạnh muốn rớt ra rồi.
Tô Lỗ Khắc tay cầm một bầu rượu, trên đường đi uống liên tục cho khỏi lạnh, lúc này cũng đã ngà ngà say, lè nhè nói:
– Dù có lạnh đến rơi cả đầu ta cũng không thèm vào nhà của người Hán đâu.
Xa Nhĩ Khố đáp:
– Ngươi không vào, ở ngoài bão tuyết chết cóng cho mà xem, ta cứ vào.
Tô Lỗ Khắc nói:
– Con ta và con ngươi đều kiếm không ra, sao lại đi vào nhà tên Hán tặc để tránh tuyết là sao? Ngươi… ngươi chẳng có anh hùng khí khái chút nào.
Xa Nhĩ Khố đáp:
– Trên đường chẳng thấy hai đứa đâu, chắc là chúng nó vào đây tránh tuyết rồi, đừng lo. Đừng để cho hai đứa nhỏ tìm không thấy, mà hai đứa già lại chết lạnh.
Tô Phổ thấy Trần Đạt Hải đứng nép mình sau cánh cửa tay hờm sẵn kiếm, đợi ai vào là y đâm ngay, tình thế cực kỳ nguy cấp, kêu lên:
– Đừng có vào.
Trần Đạt Hải trừng mắt quát lên:
– Ngươi còn mở miệng là ta giết ngươi liền.
Tô Phổ thấy cha ở vào cảnh nguy hiểm, gượng đứng lên cầm chiếc ghế xông thẳng vào Trần Đạt Hải. Trần Đạt Hải nghiêng qua tránh được, đâm ra trúng ngay đùi Tô Phổ. Tô Phổ kêu lên một tiếng, ngã lăn ra. Y cực kỳ nhanh nhẹn, sợ địch nhân chém thêm một kiếm nữa, liền lăn một vòng ra xa mấy thước.
Trần Đạt Hải không đuổi theo, chỉ giơ kiếm đứng sau cửa, nghĩ bụng thằng nhỏ Cáp Tát Khắc này mình sẽ tính sau, cho nó sống thêm vài khắc cũng không sao, người ở ngoài vào cần phải giết trước.
Chỉ nghe bên ngoài Tô Lỗ Khắc vẫn tiếp tục nói líu cả lưỡi:
– Ngươi mà vào nhà tên người Hán chết tiệt ấy là ta đánh ngươi đó.
Nói xong đấm ngay một quyền trúng ngay ngực Xa Nhĩ Khố. Nếu phải lúc bình thường, Xa Nhĩ Khố thấy y sau túy lúy, dẫu có bị một đấm cũng chẳng thèm chấp, nhưng lúc này hơi rượu cũng đang bốc lên, liền thò chân khoèo một cái. Tô Lỗ Khắc vốn đã đứng không vững, lại bị y móc chân liền ngã ngửa ra ngay, nhưng cũng thuận thế ôm ngay chân đối phương. Thế là hai người ôm nhau vật lộn trong bãi tuyết.
Tô Lỗ Khắc bốc một nắm tuyết, nhét vào mồm Xa Nhĩ Khố, Xa Nhĩ Khố liền giơ tay quờ lung tung khiến Tô Lỗ Khắc bật cười ha hả. Xa Nhĩ Khố nhổ được nắm tuyết ra rồi, bình một tiếng, đấm ngay vào mũi Tô Lỗ Khắc, lập tức máu chảy ròng ròng. Tô Lỗ Khắc không thấy đau, mà vẫn cười như nắc nẻ, hai tay nắm chặt tóc Xa Nhĩ Khố không buông. Cả hai đều là dũng sĩ Cáp Tát Khắc cả nghìn dặm chung quanh ai cũng biết tiếng, lúc này say rượu vật nhau chẳng khác gì hai đứa trẻ đang đùa nghịch.
Tô Phổ và A Mạn trong lòng cực kỳ gấp gáp, chỉ mong Tô Lỗ Khắc thắng, để ngăn được Xa Nhĩ Khố tiến vào. Chỉ thấy bên ngoài bình bành bất tuyệt, tôi đánh anh một quyền, anh trả lại một đấm, vừa chửi rủa, vừa cười cợt, ai cũng lè nhè. Ngay lúc đó, một tiếng ầm thật lớn, cửa mở tung ra, gió lạnh lẫn tuyết ở ngoài ùa vào, Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố hai người ôm nhau cũng lăn theo. Cửa ập vào ép luôn Trần Đạt Hải sau cánh cửa, khiến y không sao chém xuống được. Thế nhưng Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố vẫn không buông nhau ra.
Xa Nhĩ Khố nói:
– Ngươi chẳng vào là gì đây?
Tô Lỗ Khắc giận lắm, hai tay nắm chặt lấy cổ y, quát lớn:
– Ra mau, ra mau.
Hai người vẫn vật nhau dưới đất, một người kéo người kia ra, một người giữ người kia lại không cho cử động. Bỗng nhiên Tô Lỗ Khắc cất tiếng ồm ồm hát:
– Ngươi đánh không lại ta, ta là Cáp Tát Khắc dũng sĩ số một, Tô Phổ là số hai, mai này Tô Phổ sinh con thì là thứ ba… còn ngươi Xa Nhĩ Khố là hàng thứ năm…
Trần Đạt Hải thấy hai gã say sưa, nghĩ thầm không có gì đáng sợ. Lúc đó gió nổi càng mạnh, khiến lửa trong bếp bay tung tóe, Trần Đạt Hải vội dùng sức đóng cửa lại. Tô Phổ và A Mạn thấy cha mình đang lăn vào đống lửa, vội vàng chạy tới đỡ dậy, cùng kêu lên:
– Cha ơi, cha ơi!
Thế nhưng hai người thân thể nặng nề, đỡ đâu có nổi. Tô Phổ kêu lên:
– Cha ơi, cha ơi! Tên cường đạo người Hán đây này.
Tô Lỗ Khắc tuy đang say mèm, nhưng mười năm qua lúc nào cũng canh cánh trong lòng mối thù với bọn cướp người Hán, vừa nghe tới “Hán nhân cường đạo”, liền tỉnh ngay mấy phần, vùng dậy kêu lên:
– Bọn cướp người Hán ở đâu?
Tô Phổ chỉ ngay vào Trần Đạt Hải. Tô Lỗ Khắc liền thò tay vào lưng rút đao, nhưng khi y và Xa Nhĩ Khố hai người vật lộn, con dao đã rơi ở bên ngoài tuyết rồi, chỉ thấy trống không kêu lên:
– Đao đâu, đao đâu! Ta phải giết nó.
Trần Đạt Hải giơ thanh kiếm ra, để ngay vào cổ họng y, quát lên:
– Quì xuống.
Tô Lỗ Khắc giận quá, vùng dậy, nhưng đang say rượu không có chút lực khí nào, chưa đến được chỗ địch nhân thì mình đã té nhào. Trần Đạt Hải cười khẩy, vung kiếm chém xuống, đầu vai Tô Lỗ Khắc máu phun ra ngay. Tô Lỗ Khắc kêu lên thảm thiết, muốn vùng lên thí mạng, nhưng hai đùi mềm nhũn, không sao đứng lên được.
Xa Nhĩ Khố rống lên một tiếng, tung mình nhào vào Trần Đạt Hải. Trần Đạt Hải lại vung kiếm đâm ra, trúng ngay đùi y, Xa Nhĩ Khố cũng ngã lăn ra. Kế lão quay lại nhìn Lý Văn Tú, thấy nàng thần sắc trấn tĩnh, không có vẻ gì sợ hãi.
Trần Đạt Hải cười nhạt:
– Mấy con chó Cáp Tát Khắc kia, hôm nay ông làm thịt từng đứa một.
A Mạn vội xông lên chắn trước mặt cha, run run nói:
– Ta bằng lòng đi theo ngươi, ngươi đừng giết họ.
Xa Nhĩ Khố giận dữ nói:
– Không được, không được đi theo thằng giặc cướp chó má ấy, để nó giết ta đi còn hơn.
Trần Đạt Hải lấy trên tường xuống một chiếc thòng lọng buộc dê, quàng vào cổ A Mạn, cười đểu giả:
– Tốt lắm, ngươi là tù binh của ta, là nô lệ của ta. Ngươi mau mau thề đi, từ nay không bao giờ phản bội ta thì ta sẽ tha cho hai con chó Cáp Tát Khắc kia.
A Mạn nước mắt ròng ròng, nghĩ thầm nếu mình không bằng lòng, cha mình và Tô Lỗ Khắc sẽ bị y giết cả, đánh phải cất tiếng thề:
– Có Chúa Allah ở trên trời, từ nay về sau, tôi là nô lệ của chủ nhân tôi, phải nghe lời sai bảo vĩnh viễn không dám đào tẩu, không dám vi phạm mệnh lệnh của y. Nếu không chết đi sẽ đọa vào hỏa ngục, đời đời kiếp kiếp không được siêu sinh.
Trần Đạt Hải cực kỳ đắc ý cười ha hả, hôm nay đã được bức địa đồ Cao Xương mê cung lại còn thêm một thiếu nữ thật xinh đẹp, thật sướng còn hơn lên tiên. Y ở Hồi Cương đã lâu, biết rằng người Cáp Tát Khắc sùng tín đạo Hồi, nếu đã nhân danh Chúa Allah mà thề, cả đời sẽ không dám vi phạm, bèn kéo cái dây nói:
– Lại đây, lại ngồi dưới chân của chủ nhân coi.
A Mạn trong lòng hết sức đau đớn nhưng đành đi lại ngồi dưới đất. Trần Đạt Hải giơ tay vuốt tóc nàng, A Mạn nhịn không nổi khóc òa lên. Tô Phổ đứng bên không còn nhịn nổi, tung mình nhảy tới, xông vào Trần Đạt Hải. Trần Đạt Hải giơ kiếm ra, chỉ ngay vào ngực y. Tô Phổ chỉ cần tiến lên nửa bước thì ngực y sẽ bị đâm trúng ngay. A Mạn kêu lên:
– Tô Phổ, lùi lại đi.
Hai mắt Tô Phổ như muốn nảy lửa, nghiến răng bậm môi, đứng qua một bên, một lát sau đành từ từ lùi lại, ngồi bệt xuống. Trần Đạt Hải lại rót một bát rượu, uống một ngụm, lấy chiếc khăn tay ra, để lên đầu gối xem kỹ. Kế lão bỗng nói:
– Làm sao ngươi biết đây là địa đồ Cao Xương mê cung?
Ông ta nói bằng tiếng Hán. Trần Đạt Hải nghĩ thầm: “Đằng nào thì tất cả chúng bay cũng không ai sống qua ngày hôm nay, có nói cho nghe cũng chẳng hề gì”. Y đi tìm mười hai năm qua, nay tâm nguyện hoàn thành, trong lòng vui sướng, không nói thì không hả dạ, dù cho Kế lão không hỏi, y cũng tự mình kể ra. Y cầm chiếc khăn lên, nói:
– Bọn ta đã biết chắc chắn không sai vào đâu, vợ chồng Lý Tam lấy được bức địa đồ Cao Xương mê cung. Hai người đó chết rồi khám trong người không thấy, ắt phải là trong tay đứa con gái họ. Tấm khăn tay này vốn của con bé họ Lý, trên lại có thêu sông núi đường đi, thì nhất định không thể nào nhầm được.
Y chỉ cái khăn tay nói tiếp:
– Ngươi xem đây, cái khăn này làm bằng tơ, còn sông núi sa mạc đồ hình, lại bằng len thêu vào giữa. Tơ màu vàng, len cũng màu vàng, bình thời nhìn không thấy, nhưng khi thấm máu rồi, len hút máu nhiều hơn tơ thành mới phân ra rõ rệt.
Lý Văn Tú chăm chú nhìn tấm khăn tay, quả nhiên y nói đúng, thấm máu rồi hiện rõ đồ hình, còn chỗ nào không thấm máu thì vẫn nguyên màu vàng. Năm xưa khi Tô Phổ bị chó sói cắn, máu chảy không nhiều, chiếc khăn chỉ hiện một bên góc, hôm nay bị thương vì kiếm, đồ hình hiện ra đến hơn một nửa. Bấy giờ nàng mới hiểu rằng chiếc khăn này có ẩn tàng một đại bí mật. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố bị thương không lấy gì làm nặng, hai người cùng nghĩ: “Đợi ta tỉnh rượu rồi, sẽ giết tên cường đạo người Hán này”. Xa Nhĩ Khố nói:
– Ông già ơi, cho tôi uống chút nước.
Kế lão nói:
– Được.
Ông đứng lên đi lấy nước. Trần Đạt Hải sẵng giọng quát:
– Tất cả ngồi yên, không ai được động đậy.
Kế lão hừ một tiếng, lại ngồi xuống.
Trần Đạt Hải trong bụng tính toán: “Nếu bấy nhiêu người hợp lực đối phó với ta, cùng xông lên một lượt e rằng nguy mất. Nhân lúc hai tên chó chết Cáp Tát Khắc chưa tỉnh rượu, giết chúng trước là kế vạn toàn”. Y chầm chậm đi đến trước mặt Tô Lỗ Khắc, đột nhiên rút phắt trường kiếm, vung lên chém ngay xuống đầu y. Y rút kiếm chém thật là đột ngột, hành động lại nhanh như chớp, Tô Lỗ Khắc không cách nào tránh được. Tô Phổ kêu lên một tiếng, toan xông lên cứu cha, nhưng còn làm sao cho kịp?
Kiếm của Trần Đạt Hải vừa xuống đỉnh đầu Tô Lỗ Khắc bỗng nghe một tiếng vù, một vật ném ngay vào mặt, thế đi thật nhanh, y hoảng hốt không còn lo giết người mà nhảy vội sang một bên. Nghe choang một tiếng, vật đó đụng thẳng vào tường vỡ tan, thì ra là một cái chén uống trà. Y định thần, nhìn rõ ra kẻ ném chiếc chén chính là Lý Văn Tú.
Trần Đạt Hải giận lắm, thấy gã thanh niên Cáp Tát Khắc này gầy gò ốm yếu, dáng như con gái nên không để ý, nào ngờ đâu lại dám vuốt râu hùm, nên vung kiếm lên chỉ vào y chửi:
– Con chó con Cáp Tát Khắc kia, ngươi không muốn sống hả?
Lý Văn Tú từ từ cởi chiếc áo khoác Cáp Tát Khắc ra, để lộ áo chẽn kiểu người Hán, dùng tiếng Cáp Tát Khắc nói:
– Ta không phải là người Cáp Tát Khắc, ta là người Hán.
Tay nàng chỉ vào Tô Lỗ Khắc nói:
– Vị Cáp Tát Khắc bá bá này, coi tất cả người Hán ai cũng là cường đạo xấu xa. Ta muốn cho ông ta biết, người Hán chúng ta không phải ai cũng đi ăn cướp, mà cũng có người tốt.
Nhát kiếm của Trần Đạt Hải ai ai cũng thấy rõ, nếu như không có Lý Văn Tú ném chiếc chén ra cứu, Tô Lỗ Khắc ắt đã chết rồi, nên khi nghe nàng nói thế, Tô Phổ liền nói:
– Đa tạ ngươi cứu cha ta.
Thế nhưng Tô Lỗ Khắc vẫn hết sức ương ngạnh, kêu lớn:
– Ngươi là người Hán, ta không cần ngươi cứu, cứ để tên cướp kia giết ta đi là hơn.
Trần Đạt Hải tiến lên một bước, hỏi Lý Văn Tú:
– Ngươi là ai? Ngươi là người Hán, đến đây làm gì?
Lý Văn Tú cười khẩy nói:
– Ngươi không nhận ra ta nhưng ta lại nhận ra ngươi. Ăn cướp bộ lạc Cáp Tát Khắc, giết không ít người Cáp Tát Khắc, chính là bọn cường đạo người Hán chúng mày.
Nói đến đây giọng nàng không khỏi bùi ngùi, nghĩ thầm: “Nếu không phải vì bọn ăn cướp chúng mày làm bao nhiêu trò bỉ ổi, Tô Lỗ Khắc đã không hận người Hán chúng ta đến thế”. Trần Đạt Hải lớn tiếng nói:
– Là ông đấy thì mày làm gì nào?
Lý Văn Tú chỉ vào A Mạn nói:
– Nàng ta là nô lệ của ngươi, ta muốn đoạt lại, làm nô lệ cho ta.
Câu đó nói ra, thật quả ngoài dự liệu của mọi người. Trần Đạt Hải ngạc nhiên, cười ha hả nói:
– Giỏi, ngươi có tài thì cứ ra mà lấy lại.
Y vung trường kiếm lên, mũi kiềm rung động nghe u u. Lý Văn Tú quay sang nói với A Mạn:
– Ngươi nhân danh Chúa Allah, lập lời thề, bằng lòng làm nô lệ cho y. Nếu như y đánh không lại ta, ngươi bị ta đoạt lại, ngươi cũng sẽ là nô lệ cho ta, có phải không?
Người Cáp Tát Khắc đánh nhau với bộ tộc khác, kẻ bị bắt trở thành nô lệ, trong kinh Koran của Hồi giáo đã nói rõ ràng. Thân phận kẻ nô lệ không khác gì con vật, toàn do quyền chủ nhân, kể cả mua bán. Nếu như chủ nhân bị người ta chế phục, tất cả gia sản, súc vật, nô lệ cũng đều về tay chủ mới. A Mạn nghe nói thế, nghĩ thầm: “Ta đã thành nô lệ rồi, phải theo tên cường đạo này để y dày vò, chi bằng theo ngươi làm chủ cũng còn hơn”. Nghĩ thế nàng liền gật đầu:
– Đúng vậy.
Lại ngập ngừng nói tiếp:
– Ngươi đánh không lại y đâu, tên giặc cướp này võ công ghê gớm lắm.
Lý Văn Tú nói:
– Cái đó ngươi khỏi lo, ta đánh không lại thì để cho y giết chết.
Nàng vỗ hai tay một cái, nói với Trần Đạt Hải:
– Tiến lên đi.
Trần Đạt Hải lạ lùng hỏi:
– Ngươi tay không đấu với ta ư?
Lý Văn Tú nói:
– Giết những tên cường đạo như ngươi, cần gì phải dùng đến binh khí?
Trần Đạt Hải nghĩ thầm: “Ở đây ai ai đều là địch, dây dưa thêm chút nào, nguy hiểm thêm dường ấy, ngươi phách lối như thế thì càng tốt”. Y quát lên:
– Coi kiếm đây.
Y vung kiếm lên, sử chiêu Độc Xà Xuất Động, đâm luôn vào ngực Lý Văn Tú, thế mạnh lại nhanh. Kế lão kêu lên:
– Mau lui ra.
Ông ta chắc Lý Văn Tú không thể nào chống nổi, đâu ngờ nàng chỉ lắc một cái nhẹ nhàng tránh qua một bên, lướt đến bên Trần Đạt Hải, cúi chỏ trái thúc ngược về sau, đánh vào ngang hông y. Trần Đạt Hải kêu lên:
– Giỏi lắm.
Trường kiếm của y cuộn về, chém vào tay nàng. Lý Văn Tú phóng chân phải ra, đá luôn vào cổ tay y, chiêu Diệp Để Phi Yến đó là một tuyệt kỹ của Hoa Huy, Lý Văn Tú luyện mất bảy tám ngày mới thuần thục, nhẹ nhàng khéo léo thật là đắc ý. Trần Đạt Hải vội rụt tay về nhưng không còn kịp nữa, cổ tay nhói một cái đã bị đá trúng, nhưng cước lực đối phương không mạnh lắm nên kiếm của Trần Đạt Hải không bị tuột tay. Y kinh hãi gầm lên, nhảy lùi về sau một bước, còn Kế lão cũng “Ồ” một tiếng, cực kỳ ngạc nhiên.
Trần Đạt Hải xoa xoa tay, lại vung kiếm xông lên cùng Lý Văn Tú đấu tiếp. Lúc này y không còn dám coi thường chàng thanh niên gầy gò kia nữa, thấy y ra chiêu nào chiêu nấy đều vững vàng, công phu thực không phải dở, Trần Đạt Hải liền giở Thanh Mãng kiếm pháp ra, cực kỳ tàn độc, cốt sao giết được đối phương càng sớm càng tốt. Lý Văn Tú được Hoa Huy truyền thụ, thân pháp linh mẫn, chiêu thức tinh kỳ, chỉ hiềm chưa từng cùng người khác đấu bao giờ, không có chút kinh nghiệm đối địch nào, lúc đầu chỉ nhờ lòng cừu hận muốn giết tên ác tặc báo thù cho cha mẹ. Đấu được một hồi, nàng bắt đầu nhìn thấy đường đi nước bước của đối thủ, trong lòng dần dần trấn tĩnh lại.
Căn lều của Kế lão vốn dĩ đã nhỏ, trong sảnh lại gầy một đống lửa lớn, Trần Lý hai người bên bếp hồng nhảy qua nhảy lại, kiếm quyền thế nào cũng chỉ cách người một hai tấc, tưởng như Trần Đạt Hải sắp sửa giết được Lý Văn Tú đến nơi. Thế nhưng chiêu nào nàng cũng có thể trả đòn, hoặc tránh né chiết giải được cả. Bọn Tô Lỗ Khắc xem mà há hốc mồm, còn Kế lão thì càng coi càng sợ hãi, thân thể không ngừng run rẩy.
Hai người càng đấu càng hăng, Trần Đạt Hải sử dụng chiêu Linh Xà Thổ Tín mũi kiếm đâm vào yết hầu Lý Văn Tú. Lý Văn Tú hụp xuống, lòn dưới kiếm tiến tới, tay trái gạt tay phải của địch, đẩy thanh kiếm hướng ra ngoài, hai tay liền chụp hai thanh kim ngân tiểu kiếm nơi hông Trần Đạt Hải, một kéo một đẩy, nghe bụp một tiếng cùng đâm luôn vào xương vai địch thủ. Trần Đạt Hải “A” lên một tiếng thảm khốc, trường kiếm tuột khỏi tay, loạng choạng lùi về phía sau, đến lúc lưng đụng vào tường đứng thở hổn hển. Hai thanh tiểu kiếm cắm vào hai vai lút đến tận cán, mũi kiếm thấu qua bên lưng, gân cốt đã đứt hết, hai tay không còn chút lực khí nào, làm sao còn lấy tay nọ rút kiếm vai kia cho nổi?
Chỉ nghe mọi người trong nhà đều lớn tiếng hò reo, la lớn:
– Đánh gục được tên cướp rồi, đánh gục được tên cướp rồi.
Đến ngay cả Tô Lỗ Khắc cũng cao giọng la lối. Tô Phổ và A Mạn ôm nhau ở một nơi, sướng không để đâu cho hết. Chỉ có Kế lão không ngừng run rẩy, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách.
Lý Văn Tú biết ông ta vì quan tâm đến mình nên sợ hãi, bước tới cầm bàn tay to lớn thô kệch của ông già, ghé tai nói nhỏ vào tai:
– Kế gia gia, đừng sợ nữa, tên giặc cướp đánh không lại cháu đâu.
Bàn tay ông lạnh ngắt, càng run rẩy hơn trước. Lý Văn Tú quay đầu lại, thấy Tô Phổ đang ôm chặt A Mạn, đang vui sướng vì thắng lợi lòng bỗng chùng hẳn xuống, thấy chính mình cũng run run, bàn tay Kế lão không còn lạnh nữa, thì ra chính tay nàng cũng đã lạnh rồi. Nàng bỏ tay Kế lão ra, đi đến cầm sợi dây vẫn buộc nơi cổ A Mạn, lạnh lùng nói:
– Ngươi là nữ nô lệ của ta, bây giờ đi theo ta.
Tô Phổ và A Mạn hai người lòng cùng lạnh ngắt, bốn cánh tay đang ôm nhau lập tức lỏng ra. Họ biết đây là qui củ đời này truyền đời khác của người Cáp Tát Khắc, không còn cách nào vi phạm mệnh lệnh. Cả hai mặt đều trở nên tái nhợt. Lý Văn Tú thở dài một tiếng, cởi sợi dây nơi cổ A Mạn ra nói:
– Tô Phổ thương yêu ngươi, ta… ta không muốn gã phải đau lòng. Ngươi nay thuộc về Tô Phổ.
Nói xong đẩy A Mạn một cái, cho nàng ngã vào lòng Tô Phổ. Tô Phổ và A Mạn không tin ở tai mình vừa nghe, cùng hỏi lại:
– Có thực không?
Lý Văn Tú cười gượng nói:
– Dĩ nhiên là thật rồi.
Tô Phổ và A Mạn mỗi người cầm một bên tay Lý Văn Tú, lắc lắc liên tiếp nói:
– Cám ơn ngươi, cám ơn ngươi.
Hai người mừng rỡ không để ý đến cánh tay họ có thêm mấy giọt lệ từ mắt Lý Văn Tú rơi xuống. Tô Lỗ Khắc cố gắng đứng lên, bàn tay to lớn vỗ mạnh lên vai Lý Văn Tú, nói:
– Trong số người Hán, quả nhiên cũng có người tốt. Có lẽ… có lẽ chỉ có một mình ngươi thôi.
Xa Nhĩ Khố kêu lên:
– Lấy rượu ra, lấy rượu ra. Ta mời tất cả cùng uống, mời người Cáp Tát Khắc tốt uống rượu mà cũng mời cả người Hán tốt uống rượu, ăn mừng bắt được tên giặc cướp, ủa, tên cường đạo đâu rồi?
Mọi người cùng quay lại, không biết Trần Đạt Hải đã đi đâu mất. Thì ra mọi người đang để ý đến Lý Văn Tú và A Mạn, để cho tên cướp lẻn theo cửa sau chạy mất. Tô Lỗ Khắc giận lắm, kêu lên:
– Cả bọn mau đuổi theo.
Y vừa mở cửa ra, một trận gió ùa vào, chân y bủn rủn, thân hình lảo đảo nằm gục ngay xuống. Gió lạnh lại thêm có tuyết, thật là ác liệt, ai nấy đều cảm thấy mình chịu không nổi. A Mạn nói:
– Trong cơn gió bão này, y cũng chẳng chạy được xa đâu, có cố gắng rồi cũng chết trong gió lạnh. Đợi đến sáng gió bớt rồi, mình đi kiếm xác y trên bãi tuyết cũng không sao.
Tô Phổ gật đầu, đóng cửa lại. Tô Lỗ Khắc trừng mắt nhìn Lý Văn Tú, một hồi sau mới hỏi:
– Này ông bạn, ngươi là người Cáp Tát Khắc, phải không?
Lý Văn Tú lắc đầu:
– Không, tôi là người Hán.
Tô Lỗ Khắc nói:
– Không thể được. Ngươi là người Hán, sao lại đánh tên cướp đó cứu người Cáp Tát Khắc là sao?
Lý Văn Tú nói:
– Người Hán cũng có người xấu, người tốt. Tôi… tôi không phải là người xấu.
Tô Lỗ Khắc lẩm bẩm:
– Người Hán cũng có người tốt sao?
Y chầm chậm lắc đầu. Thế nhưng tính mệnh của y, tính mệnh con y, rõ ràng do thanh niên người Hán này cứu, không tin sao được?
Y bình sinh thù hận người Hán, nhưng đến lúc này niềm tin của y đã lung lay rồi. Y giận mình, tại sao buổi chiều lại uống rượu say, không được đấu với tên giặc cướp người Hán một trận, lại để cho người Hán cứu mạng mình? Cả đời y chuyện gì đến lúc nguy nan thì đều không đâu vào đâu, xui xẻo tận mạng. Thế nhưng hôm nay khi tên cướp vung kiếm chém xuống đầu, may mà được thanh niên này cứu, chẳng lẽ cũng xem đó là chuyện xui xẻo ư?