Kim Dung được xem là tác giả tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng và thành công nhất tới thời điểm hiện tại. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể nhiều lần thành phim truyền hình và phim điện ảnh.
Không đầy một ngày, chàng đã đến tỉnh Hồ Nam, tính ghé phân cục Trường Sa nhưng chàng nghĩ phân cục Trường Sa chắc cũng bị phái Thanh Thành đốt rụi rồi. Chàng hỏi thăm Phước Oai tiêu cục có xảy ra chuyện gì không, những người đi đường đều nói không có. Lâm Bình Chi vui mừng, hỏi rõ Phước Oai tiêu cục ở đâu rồi cất bước đi nhanh về hướng tiêu cục.
Lâm Bình Chi đến trước cửa, thấy phân cục Hồ Nam tuy không oai phong bằng tổng cục Phúc Châu nhưng cổng lớn cũng sơn đỏ, hai bên cổng dựng hai con sư tử đá, trông rất hùng dũng. Lâm Bình Chi nhìn vào trong cửa không thấy ai, do dự nghĩ thầm: Ta đến phân cục mà ăn mặc lam lũ, dơ bẩn như thế này chắc là bọn tiêu đầu mất dạy trong tiêu cục xem thường.
Chàng ngẩng đầu lên thấy tấm biển đề “Phước Oai tiêu cục – Tương cục” bằng chữ vàng bị treo ngược, bụng lấy làm kỳ, tự hỏi: Bọn tiêu đầu trong phân cục sao lại vô ý đến vậy, ngay cả bảng hiệu cũng treo ngược?
Chàng quay lại nhìn lá cờ cắm trên cột, bất giác lạnh cả người. Bên trái đầu cờ treo một đôi giày cỏ, bên phải đầu cờ treo một cái quần phụ nữ rách nát bay phất phơ trong gió.
Đang lúc kinh ngạc, chàng nghe tiếng chân người. Trong phân cục, có một người chạy ra quát:
– Tiểu ô quy, đứng đây lấp la lấp ló muốn ăn cắp cái gì đây?
Lâm Bình Chi nghe giọng nói củ a hắn giống như giọng của Phương Nhân Trí và Giả Nhân Đạt, cũng là người Tứ Xuyên. Chàng không dám nhìn h ắn, lập tức b ỏ đi. Đột nhiên nghe mông đau nhói, chàng đã bị hắn đá cho một cước. Lâm Bình Chi tức giận quay người toan đánh lại nhưng chàng vội nghĩ: Tiêu cục ở đây đã bị phái Thanh Thành chiếm rồi. Ta đang lần tìm tin tức của gia gia má má, tại sao không dằn được cơn tức giận?
Chàng lập tức giả bộ không biết võ công, nghiêng người té ngã, một hồi lâu không bò dậy nổi. Gã đó cười hô hố, rồi chửi mấy tiếng:
– Tiểu ô quy!
Lâm Bình Chi từ từ bò dậy, đi vào một hẻm nhỏ xin bát cơm nguội ăn. Chàng nghĩ thầm: Kẻ thù ở sát bên cạnh ta, nhất định ta phải cẩn thận mới được.
Chàng liền tìm mấy cục than bôi lên mặt cho đen thêm rồi nằm xuống góc tường ôm đầu ngủ. Đợi đến canh hai, chàng lấy trường kiếm ra đeo sau lưng, rồi đi vòng ra phía cửa sau tiêu cục. Lắng tai nghe không thấy động tĩnh gì, chàng liền nhảy lên đầu tường, thấy bên trong là một vườn cây ăn trái. Chàng nhẹ nhàng nhảy xuống, men theo tường dò dẫm từng bước một.
Bốn bề tối đen mịt mùng, đã không có đèn lại không có tiếng người. Tr ống ngự c Lâm Bình Chi đập thình thịch. Chàng l ần vách mà đi, chỉ sợ chân dẫm phải cành khô, gạch vỡ mà phát ra âm thanh. Chàng đi qua hai tòa nhà, thấy trong cửa sổ sương phòng phía Đông có ánh sáng phát ra, bèn đến gần mấy bước, nghe có tiếng nói chuy ện. Chàng đánh bạo bước tới rồi khom người đến dưới cửa sổ, nín thở, xoạc hai chân ngồi xuống dựa vào tường.
Bỗng nghe tiếng một người nói:
– Sáng sớm ngày mai chúng ta đem lửa thiêu rụi tiêu cục con rùa này để khỏi phải ở lại đây mà canh giữ.
Tiếng một người khác nói:
– Không được! Không thể đốt. Bì sư ca ở Nam Xương đã đốt rụi tiêu cục của bọn rùa, nghe nói làm mười mấy căn nhà lân cận cũng bị liên lụy. Thanh danh nghĩa hiệp của phái Thanh Thành chúng ta bị thương tổn, việc này không khéo lại bị sư phụ phạt.
Lâm Bình Chi chửi thầm: Quả nhiên phái Thanh Thành làm nên việc đê tiện kia, vậy mà còn tự xưng là nghĩa hiệp! Thật không biết hổ thẹn!
Chàng lại nghe người nói trước lên tiếng:
– Đúng, không thể đốt được. Vậy thì cứ để nó sờ sờ ra như vậy sao?
Người kia cười nói:
– Cát sư đệ nghĩ xem. Chúng ta đảo ngược biển hiệu tiêu cục con chó này, lại treo trên cột cờ của chúng một cái quần phụ nữ rách nát là thanh danh của Phước Oai tiêu cục đã bị hủy diệt hoàn toàn trên giang hồ rồi. Cái quần này treo càng lâu càng tốt, chẳng việc gì phải đốt tiêu cục này cả.
Gã họ Cát cười nói:
– Thân sư ca nói chí lí. Hà hà, cái quần rách này đủ làm cho Phước Oai tiêu cục của hắn xui xẻo, ba trăm năm nữa cũng không ngóc đầu dậy nổi.
Hai người cười một tràng dài. Gã họ Cát nói:
– Ngày mai, chúng ta đi Hành Sơn để chúc mừng Lưu Chính Phong. Phải mang theo một ít lễ vật mới được. Lần này, tin tức đến quá đột ngột, nếu lễ vật nhỏ nhoi thì mất mặt phái Thanh Thành lắm!
Gã họ Thân cười nói:
– Ta đã sớm chuẩn bị lễ vật, ngươi cứ yên tâm, không mất mặt phái Thanh Thành đâu. Lưu Chính Phong đãi tiệc ăn mừng rửa tay gác kiếm, lễ vật của chúng ta không chừng có thể to nhất đó.
Gã họ Cát vui vẻ cười nói:
– Lễ vật gì vậy? Có thể cho đệ biết một chút xíu được không? Gã họ Thân cười mấy tiếng, tỏ ý tự đắc rồi nói:
– Chúng ta mượn hoa dâng Phật chứ không phải bỏ tiền túi mình ra mua. Ngươi xem món lễ vật này có vẻ vang không?
Chỉ nghe trong phòng có tiếng sột soạt, dường như đang mở bao. Gã họ Cát la lên:
– Tuyệt diệu! Thân sư ca thần thông quảng đại, ở đâu mà có món quà quý giá như vậy?
Lâm Bình Chi muốn ngóc đầu lên cửa sổ nhìn xem lễ vật gì, nhưng chàng nghĩ nếu thò đầu lên thì trên cửa sổ sẽ có bóng đen, bị kẻ thù nhìn ra lại sinh lớn chuyện. Chàng đành tự kìm chế. Gã họ Thân cười nói:
– Chúng ta chiếm Phước Oai tiêu cục này, lẽ nào là chiếm không? Đôi ngọc mã này, ta vốn nghĩ dành để hiếu kính sư phụ, nhưng trước mắt thì không thể được. Cho nên ta dùng làm lễ vật tặng Lưu Chính Phong.
Lâm Bình Chi tức giận, nghĩ thầm: Rõ là hắn đã cướp ngọc ngà châu báu trong tiêu cục ta, rồi tự đem đi kết giao thân tình với người khác. Đó không phải là hành vi của lũ đạo tặc sao? Phân cục Trường Sa tự nó chẳng có ngọc ngà châu báu gì cả mà do ngườ i cần bảo tiêu đem đến. Đôi ngọc mã này nhất định giá trị không nhỏ, nếu không lấy lại thì gia gia phải bồi thường cho chủ nhân của nó thôi.
Gã họ Thân lại cười nói:
– Ở đây có bốn bao, một bao để hiếu kính các vị sư nương, một bao tặng cho các vị sư huynh sư đệ, một bao cho ngươi, một bao của ta! Ngươi hãy chọn một bao đi!
Gã họ Cát nói:
– Đó là bao gì vậy?
Một lúc sau, bỗng nghe ồ lên một tiếng:
– Đều là vàng bạc châu báu, chúng ta đại phát tài rồi. Phước Oai tiêu cục rùa đen nầy bao nhiêu đời thu lợi không phải ít. Sư ca đào đâu ra vậy? Tiểu đệ tìm cả mười mấy lượt từ trong ra ngoài, bệ cửa, xó xỉnh nào cũng bới ra mà chỉ được hơn một trăm lạng bạc lẻ. Sư ca lầm lì không tìm chẳng kiếm, mà lôi ra được một kho tàng.
Gã họ Thân đắc ý cười nói:
– Vàng bạc châu báu trong tiêu cục sao có thể tùy tiện cất ở những nơi bình thường? Mấy ngày nay ta thấy ngươi lục lạo, bổ rương, khoét vách, bận bịu đến nỗi không kịp nghỉ tay, từ sáng đến tối hoa cả mắt. Còn ta thì không làm như ngươi!
Gã họ Cát nói:
– Bội phục, bội phục! Thân sư ca, sư ca tìm ở chỗ nào ra vậy?
Gã họ Thân nói:
– Ngươi nghĩ xem, trong tiêu cục này có những thứ không bình thường. Đó là cái gì nào?
– Không bình thường ư? Đệ thấy tiêu cục rùa đen này có nhiều cái nghịch lý. Mẹ nó, võ công thì tầm thường mà lá cờ treo trước cổng lại thêu con sư tử lớn trông rất oai phong lẫm liệt.
Gã họ Thân cười nói:
– Con sư tử lớn đã bị đổi thành cái quần rách là hợp đạo lý lắm rồi. Ngươi hãy thử nghĩ xem tiêu cục này còn có chuyện gì ly kỳ cổ quái nữa không?
Gã họ Cát vỗ đùi nói:
– Mấy con lừa Hồ Nam này làm rất nhiều chuyện tà môn. Sư ca nghĩ xem, cái gã tiêu đầu họ Trương kia là chủ tiêu cục ở đây, vậy mà sát bên phòng ngủ của hắn lại đặt một cái quan tài há chẳng phải là điềm xui xẻo sao? Ha ha!
Gã họ Thân cười nói:
– Đệ thử động não chút nữa coi. Tại sao hắn đặt quan tài gần phòng ngủ của mình? Lẽ nào người chết trong quan tài là vợ hắn, hắn không đành xa? E rằng không phải vậy. Có phải là ở trong quan tài cất giấu những thứ quan trọng để che mắt người khác…
Gã họ Cát à lên một tiếng, nhảy cẫng lên, la to:
– Đúng, đúng! Vàng bạc châu báu này cất giữ trong quan tài phải không? Rất tuyệt, rất tuyệt. Mẹ nó, bọn rùa bảo tiêu thật lắm trò bịp bợm.
Gã lại nói:
– Thân sư ca, hai cái bao này đựng bao nhiêu? Đệ làm sao cùng sư ca chia cho công bằng? Sư ca phải được chia nhiều hơn mới đúng.
Chàng chỉ nghe tiếng vàng bạc, châu ngọc kêu loảng xoảng, nghĩ là hắn quơ tay lấy bỏ thêm qua một bao khác.
Gã họ Thân không từ chối, chỉ cười vài tiếng lấy lệ. Gã họ Cát nói:
– Thân sư ca, tiểu đệ đi kiếm chậu nước đến để chúng ta rửa chân rồi hãy đi ngủ.
Gã nói xong, ngáp dài một cái rồi đẩy cửa đi ra.
Lâm Bình Chi ngồi dưới cửa không dám động đậy. Chàng liếc mắt nhìn cái tướng mập mập lùn lùn của gã hán tử họ Cát, nghĩ thầm chắc là người đã đá một cước vào mông chàng hôm nay.
Một lúc sau, gã họ Cát bưng một chậu nước nóng vào phòng rồi nói:
– Thân sư ca, sư phụ phái mười mấy sư huynh sư đệ chúng ta đi phen nầy, xem ra chỉ có hai anh em ta thu lợi được nhiều nhất. Nhờ hồng phúc của sư ca, tiểu đệ cũng thơm lây. Tưởng sư ca và anh em đi đánh phân cục Quảng Châu; Mã sư ca và anh em đi đánh phân cục Hàng Châu, bọn họ thô lỗ thì làm sao tìm được quan tài và cũng không thể ngờ trong đó cất giữ vàng bạc châu báu.
Gã họ Thân cười nói:
– Phương sư ca, Vu sư đệ, Giả Nhân Đạt đi đánh tổng cục Phúc Châu chắc thu hoạch hơn anh em chúng ta rất nhiều. Chỉ có điều cậu con yêu quý của sư nương lại bị mất mạng ở Phúc Châu, nói ra thì tội còn lớn hơn cả công nữa.
Gã họ Cát nói:
– Chính sư phụ ta đích thân chỉ huy đánh vào tổng cục Phước Oai tiêu cục. Phương sư ca, Vu sư đệ chẳng qua chỉ là kẻ thừa hành. Dư sư đệ mất mạng, sư phụ nhiều lắm cũng chỉ khiển trách bọn Phương sư ca không biết lo liệu chu đáo mà thôi. Lần này chúng ta cùng ra tay đánh tổng cục và phân cục các tỉnh, không ngờ võ nghệ nhà họ Lâm chỉ có hư danh, một mình Phương sư ca đã bắt được ba người chúng, ngay cả sư phụ chúng ta cũng nhận xét lầm. Ha ha!
Lâm Bình Chi nghe đến đây thì toát mồ hôi hột. Chàng nghĩ thầm: Thì ra phái Thanh Thành đã có sẵn âm mưu thâm độc từ lâu nên ra tay đánh cùng một lúc tổng cục và các phân cục của nhà ta chứ không phải đánh trả thù vì mình giết gã họ Dư. Ta không giết tên ác đồ họ Dư đó thì bọn chúng cũng ra tay. Dư Thương Hải đích thân đến Phúc Châu, thảo nào Tồi tâm chưởng lợi hại như vậy. Nhưng không biết tiêu cục của ta có chỗ nào đắc tội với phái Thanh Thành mà chúng lại hạ thủ tàn bạo như vậy?
Lúc này sự hối hận của chàng giảm bớt nhưng lòng căm phẫn lại dâng cao, nếu không tự biết rõ võ công chẳng bằng đối phương thì chàng đã phá cửa xông vào, giết chết hai tên mọi rợ này.
Chàng nghe được tiếng nước lỏn tỏn trong phòng, biết hai gã đang rửa chân.
Chàng lại nghe gã họ Thân nói:
– Không phải sư phụ nhận xét lầm. Trước đây, Phước Oai tiêu cục oai danh chấn động vùng Đông Nam, chúng có bản lĩnh thực sự. Tịch tà kiếm pháp nổi danh trong võ lâm, không thể là chuyện bịp người. Chắc do con cháu đời sau lêu lổng, không học được võ nghệ tuyệt chiêu của tổ tông mà thôi.
Lâm Bình Chi nghe vậy, thẹn đến đỏ mặt tía tai. Gã họ Thân nói tiếp:
– Trước khi chúng ta xuống núi, sư phụ đã cùng với chúng ta chiết giải Tịch tà kiếm pháp, tuy nhiên chỉ trong vài tháng khó mà học hết được. Nhưng ta xem tiềm lực của bộ kiếm pháp này không nhỏ, chỉ do không biết phát huy oai lực mà thôi. Cát sư đệ, sư đệ lĩnh hội được mấy thành?
Gã họ Cát cười nói:
– Đệ nghe sư phụ nói ngay cả Lâm Chấn Nam cũng không thể lĩnh hội được kiếm pháp yếu chỉ, nên đệ thấy nản, không để tâm lắm. Thân sư ca, sư phụ truyền lệnh xuống, ra lệnh cho các bản môn đệ tử về núi Hành Sơn đầy đủ, nên có lẽ Phương sư ca và anh em sẽ áp giải hai vợ chồng Lâm Chấn Nam đến Hành Sơn. Không biết Tịch tà kiếm pháp đó có đặc điểm như thế nào?
Lâm Bình Chi nghe cha mẹ vẫn còn sống, bị người áp giải đi Hành Sơn, lòng chàng phấn chấn, vừa vui lại vừa buồn.
Gã họ Thân cười nói:
– Mấy ngày nữa, ngươi sẽ được gặp, không chừng còn có dịp lĩnh giáo công phu Tịch tà kiếm pháp.
Bỗng nhiên nghe cách một tiếng, cánh cửa sổ mở ra. Lâm Bình Chi thất kinh, cho là mình bị chúng phát hiện, muốn bỏ chạy. Chỉ nghe ào một cái, chậu nước nóng đã đổ lên đầu chàng, suýt chút nữa chàng đã la lên kinh hoảng. Trước mắt tối đen, trong phòng đèn đã tắt.
Lâm Bình Chi nghe những dòng nước chảy từ trên mặt xuống thúi hoắc, mới biết gã họ Cát bưng chậu nước rửa chân từ cửa sổ đổ xuống trúng người chàng ướt sũng. Đối phương tuy không cố ý nhưng chàng tự thấy tủ i nhục không ít. Tuy nhiên biết được tin tức của cha mẹ, đừng nói là nước rửa chân, ngay cả nước tiểu nước phân dội xuống chàng cũng không sao! Lúc này, mọi âm thanh đều lắng lại, nếu chàng bỏ đi chỉ sợ hai gã phát giác, đành đợi chúng ngủ say rồi mới tính. Chàng vẫn ngồi dựa vào bức vách dưới cửa sổ không dám nhúc nhích. Trải qua một hồi lâu, chàng nghe trong phòng phát ra tiếng ngáy khò khò mới từ từ đứng dậy.
Lâm Bình Chi ngoảnh đầu lại, bỗng thấy một cái bóng dài dài in trên cửa sổ. Chàng giật mình sợ hãi, vội vàng cúi thấp người xuống, đẩy cánh cửa sổ đóng lại. Nguyên do gã họ Cát sau khi đổ chậu nước rửa chân quên chưa đóng cửa. Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Báo thù tuyết hận chính là lúc này!
Tay phải chàng rút trường kiếm sau lưng ra, tay trái nhẹ nhàng kéo cánh cửa nhón gót bước vào phòng r ồi đóng lại. Qua ánh trăng từ ngoài cửa sổ xuyên vào phòng, chàng th ấy hai người ngủ hai bên giường; một gã n ằm quay mặt vào bên trong, đầu bị hói; một gã n ằm ngửa mặt lên, dưới cằm râu mọc tua tủa như đám cỏ tranh. Trên mặt bàn đặt trước giường để sẵn năm cái bao và hai thanh trường kiếm.
Lâm Bình Chi cầm trường kiếm lên, nghĩ bụng: Bây giờ ta cho mỗi đứa một kiếm thì dễ như lấy đồ trong túi.
Chàng muốn giơ kiếm lên đâm vào cổ gã hán tử nằm ngửa, nhưng trong lòng lại nghĩ: Lúc này mà ta lén lút giết hai gã này thì không phải là hành vi của bậc anh hùng hảo hán. Đợi một ngày kia, ta luyện thành võ công gia truyền, đến tiêu diệt quần tặc Thanh Thành mới là việc làm của đại trượng phu.
Chàng liền từ từ lấy năm cái bao đặt lên bàn cạnh cửa sổ, nhẹ nhàng mở cửa bước ra ngoài. Trường kiếm đeo lại trên lưng. Chàng thò tay lấy mấy cái bao, đeo sau lưng ba bao, hai tay xách hai bao, bước từng bước hướng về hậu viện, chỉ sợ gây ra tiếng động làm hai gã kia tỉnh giấc.
Chàng mở cửa sau, ra khỏi tiêu cục, nhận định phương hướng rồi đi đến cửa thành phía Nam. Nhưng lúc đó cửa thành chưa mở. Chàng bèn tìm đến sau một gò đất bên tường thành tựa lưng vào nghỉ ngơi nhưng vẫn sợ hai gã Thanh Thành truy đuổi nên rất hồi hộp, trống ngực đập thình thịch. Đợi đến lúc trời sáng, cổng mở, chàng liền ra khỏi thành, chạy một mạch đến mười mấy dặm mới an tâm dừng lại. Từ khi rời khỏi thành Phúc Châu đến nay, lúc này chàng mới thấy lòng mình khoan khoái. Chợt thấy phía bên đường trước mặt có quán mì nhỏ, chàng lập tức vào quán gọi một bát mì ăn. Không dám chần chừ lâu, ăn xong bát mì, chàng lập tức thò tay vào trong bao lấy bạc ra trả. Chàng mò ra được một thỏi bạc nhỏ. Chủ quán kiếm tiền lẻ để thối lại nhưng vẫn không đủ. Lâm Bình Chi trên đường lưu lạc đã chịu nhiều nhục nhã, ê chề, chàng khoát tay nói:
– Cứ giữ hết đi, không cần thối lại.
Chàng đã trở lại cách ăn xài phóng túng của một vị thiếu tiêu đầu, đại thiếu gia.
Đi được hơn ba mươi dặm, Lâm Bình Chi đến một thị trấn lớn. Chàng kiếm một khách điếm thuê phòng, vào phòng đóng cử a cài then, mở năm cái bao ra, thấy bốn bao toàn là vàng bạc châu báu, còn bao nhỏ thứ năm là một đôi Dương chi ngọc mã cao đến năm tấc đặt trong hai cái hộp bọc gấm.
Chàng nghĩ bụng: Phân cục Trường Sa của tiêu cục ta có nhiều tài sản quý giá, cũng không trách bọn Thanh Thành tham lam muốn chiếm đoạt.
Chàng lấy ra một ít bạc vụn cất bên mình, rồi dồn năm bao thành một vác trên lưng, đến chợ mua hai con tuấn mã. Chàng dùng hai con ngựa để thay đổi, mỗi ngày chỉ ngủ vài canh giờ, đi cả ngày lẫn đêm cho kịp.
Không bao lâu, chàng đã đến Hành Sơn. Vừa vào đến thành, thấy trên đường có rất nhiều hán tử giang hồ đi đi lại lại. Lâm Bình Chi chỉ sợ chạm mặt bọn Phương Nhân Trí. Chàng cúi mặt đi, tìm một cái quán trong một hẻm nhỏ. Nào ngờ nơi nào cũng đầy chật cả khách. Tiểu nhị nói:
– Qua ba ngày nữa là đến ngày hoàng đạo, ngày rửa tay gác kiếm của Lưu đại gia. Tiểu điếm đã chật ních, không thể nhận thêm khách nữa. Đại gia đến nơi khác hỏi xem.
Lâm Bình Chi đành phải lần tìm ở những ngõ vắng, qua ba khách điếm, mới có được một gian phòng nhỏ. Chàng nghĩ bụng: Mặt ta tuy đã bôi đen, nhưng Phương Nhân Trí là một kẻ ranh mãnh, chỉ sợ bị hắn nhận ra.
Chàng bèn đến một hiệu thuốc mua ba miếng thuốc dán, dán trên mặt cho cặp lông mày rủ xuống như lá liễu, lại dán cho khóe miệng bên trái méo xệch để lộ mấy cái răng. Nhìn vào trong gương, chàng thấy diện mạo mình bỉ ổi không thể tả, tự mình cũng cảm thấy khó ưa. Chàng lại lấy cái bao to đựng đầy vàng bạc châu báu đeo trên lưng rồi mặc thêm cái áo khoác ra bên ngoài.
Chàng nhẹ nhàng khom lưng thì đã biến thành một người gù. Chàng nghĩ bụng: Hình dạng của ta kỳ quái như thế này, ngay cả gia gia má má có thấy cũng không nhận ra. Vậy thì chẳng phải lo gì nữa cả!
Lâm Bình Chi ăn xong một tô mì hầm xương lớn, rồi thong thả d ạo trên đường phố, lòng thầm mong gặp được song thân, nếu không thì thám thính tin tức của phái Thanh Thành cũng có lợi.
Đi được nửa ngày, đột nhiên mưa trút xuống rào rào. Chàng ghé bên đường mua một cái nón dầu to đội lên đầu. Ngoài trời tối đen mịt mùng, mưa vẫn tầm tã không dứt. Chàng băng qua đường, thấy một quán trà đông nghẹt người bèn đi vào góc quán tìm một chỗ. Tiểu nhị đem ra một bình trà, một đĩa hạt bí, một đĩa đậu đặt lên bàn. Chàng uống ly trà, cắn hạt bí cho đỡ buồn. Bỗng nghe tiếng người nói:
– Chú gù kia! Cho anh em ngồi chung với được không?
Người đó không đợi Lâm Bình Chi trả lời, bèn ngồi xuống, tiếp theo lại có hai người nữa cũng ngồi xuống theo.
Lúc đầu, Lâm Bình Chi không biết người đó nói chuyện với mình. Chàng ngây người ra, rồi mới hiểu rằng “chú gù” chính là mình. Chàng vội cười đáp:
– Được! Được! Mời ngồi, mời ngồi!
Ba người này đều mặc đồ đen, lưng đeo đao kiếm. Họ vừa uống trà vừa nói chuyện, không đếm xỉa đến Lâm Bình Chi. Gã hán tử trẻ tuổi nói:
– Lần này, Lưu tam gia mở tiệc ăn mừng “rửa tay gác kiếm”. Buổi tiệc này không nhỏ đâu. Còn ba ngày nữa mới tới đại yến mà thành Hành Sơn đã đầy nhóc các tân khách.
Gã hán tử chột mắt nói:
– Tất nhiên rồi. Phái Hành Sơn đã có oai danh rất lớn, lại liên hợp với Ngũ Nhạc kiếm phái, thanh thế càng lớn hơn, ai mà không muốn kết giao với họ? Vả lại, Lưu Chính Phong tam gia võ công tuyệt luân, với ba mươi sáu đường Hồi phong lạc nhạn kiếm được tôn xưng là đệ nhị cao thủ phái Hành Sơn, chỉ thua kém vị chưởng môn nhân là Mạc Đại tiên sinh một chút. Ngày thường có biết bao nhiêu người muốn cầu thân với y. Nhưng y có ba điều khác người: một là không làm tiệc mừng thọ; hai là không cưới vợ cho con trai; ba là không gả chồng cho con gái, nên chẳng có dịp nào giao tình được. Lần này, y mở tiệc ăn mừng “rửa tay gác kiếm” nên quần hào võ lâm nghe tin mà đến. Ta đoán thế nào đến ngày kia, thành Hành Sơn sẽ náo nhiệt hơn nữa!
Một lão già có chòm râu đốm bạc nói:
– Nếu nói ai cũng đến để cầu thân với Lưu Chính Phong thì chưa chắc. Ba anh em chúng ta không phải vì vậy mà đến, đúng không? Lưu Chính Phong rửa tay gác kiếm tức là từ nay về sau sẽ không xuất quyền động kiếm nữa, quyết không hỏi han đến thị phi ân oán trong võ lâm. Giang hồ coi như không có tên nhân vật này nữa. Y đã lập lời thề quyết không sử dụng đến thanh kiếm thì ba mươi sáu đường Hồi phong lạc nhạn kiếm có cao siêu đến đâu cũng trở thành vô dụng. Một người đã rửa tay gác kiếm thì chẳng khác gì một thường dân; tay cao thủ tuyệt chiêu cũng như phế nhân mà thôi. Người khác kết giao với y liệu có được gì?
Gã trẻ tuổi nói:
– Lưu tam gia từ nay về sau tuy là không xuất quyền động kiếm, nhưng cũng là nhân vật thứ hai của phái Hành Sơn. Kết giao với Lưu tam gia cũng là kết giao với phái Hành Sơn rồi, và cũng là kết giao với cả Ngũ Nhạc kiếm phái nữa.
Gã họ Bành râu bạc cười nhạt nói:
– Ngươi có nằm mơ không mà đòi kết giao với Ngũ Nhạc kiếm phái?
Gã chột mắt nói:
– Bành đại ca không nên nói như vậy. Ai từng bôn ba trên chốn giang hồ đều biết rằng có thêm một người bạn không phải là nhiều, bớt một kẻ thù không phải là ít. Ngũ Nhạc kiếm phái tuy võ nghệ cao cường, thanh thế lớn lao cũng không thể coi thường bạn bè giang hồ được. Nếu như họ thực sự kiêu ngạo tự đại không coi người khác vào đâu thì tại sao trong thành Hành Sơn lại có nhiều tân khách như vậy?
Gã râu đốm bạc hừ lên một tiếng rồi không nói thêm lời nào, một lúc lâu sau mới nhẹ giọng:
– Phần nhiều là những kẻ xu phụ người có quyền thế, lão tử nhìn thấy mà không khỏi bực mình.
Lâm Bình Chi chỉ mong ba người nói chuyện không ngớt, hy vọng có thể nghe được tin tức của phái Thanh Thành. Nào ngờ ba người nói chuyện không ăn ý, sau đó chỉ uống trà và không nói thêm một lời nào nữa. Bỗng nhiên, phía sau lưng có người gọi khẽ:
– Vương nhị thúc, nghe nói Lưu tam gia phái Hành Sơn chỉ mới khoảng năm mươi tuổi trở lại, chính là thời kỳ võ công đang cường thịnh, tại sao bỗng nhiên lại rửa tay gác kiếm? Đó không phải là hành động sai lầm sao? Y không có đủ bản lĩnh sao?
Một lão già đáp:
– Người trong võ lâm rửa tay gác kiếm có rất nhiều nguyên nhân. Nếu là một tên đại tặc trong hắc đạo, một đời gây nên tội nghiệt quá nhiều, thì khi họ rửa tay gác kiếm có nghĩa là kể như từ nay không làm những việc giết người cướp của, phóng hỏa đốt nhà nữa. Một là họ biết cải dữ làm lành để lưu lại thanh danh cho con cháu; hai là ở địa phương nếu có xảy ra đại án thì bản thân mình cũng không bị nghi ngờ. Lưu tam gia tài sản kếch sù, họ Lưu ở Hành Sơn lại đã phát đạt mấy đời, thì đương nhiên y không liên can gì đến điều này.
Một người khác nói:
– Phải đấy, những việc đó hoàn toàn không liên can gì đến y.
Lão Vương nhị thúc nói:
– Người học võ cả đời động đến đao thương, không tránh khỏi chuyện giết người, kết nhiều thù oán. Khi tuổi đã già, người ta nhớ đến kẻ thù trên chốn giang hồ nên lo sợ, ăn ngủ không yên. Lưu tam gia mời nhiều tân khách là có ý nói cho mọi người biết rằng từ nay về sau, y không động đến đao kiếm; những kẻ thù của y khỏi phải lo sợ nữa, y cũng không báo thù ai và cũng mong họ đừng đến làm phiền y.
Gã thanh niên nói:
– Vương nhị thúc, tiểu điệt thấy làm như vậy thì thiệt thòi quá.
Vương nhị thúc hỏi:
– Tại sao lại thiệt thòi?
Gã trẻ tuổi nói:
– Lưu tam gia cố nhiên là không đi tìm họ rồi, nhưng họ lại tùy thời tùy lúc có thể đến tìm lão. Nếu như có người muốn giết lão, Lưu tam gia không động đao kiếm, há không phải là để cho người dễ áp bức sao? Lúc đó, lão không có cách gì chống trả được!
Vương nhị thúc cười nói:
– Ngươi là kẻ hậu sanh nên chẳng có chút kiến thức gì cả. Ví như người ta muốn giết ngươi, vậy ngươi có trả đòn không? Hơn nữa, thanh thế phái Hành Sơn như vậy, Lưu tam gia võ công cao như vậy, y không đi tìm người ta gây chuyện thì người ta đã kính trọng y như một vị thần rồi, kẻ nào muốn vuốt râu hùm mới dám đi tìm y gây chuyện. Lại nữa, Lưu tam gia không tự tay động thủ, chẳng lẽ chúng đệ tử của họ Lưu lại không có một người xông vào sao? Ngươi đúng là người nước Kỷ lo chuyện trời sụp.
Lão râu đốm bạc ngồi đối diện Lâm Bình Chi lẩm bẩm:
– Cường trung canh hữu cường trung thủ, năng nhân chi thượng hữu năng nhân (người mạnh còn có người khác mạnh hơn, mình giỏi còn có kẻ khác giỏi hơn). Ai dám tự xưng mình là thiên hạ vô địch?
Lão lẩm bẩm rất nhỏ, hai người ngồi sau không nghe.
Lão Vương nhị thúc lại nói:
– Còn có những người mở tiêu cục, nếu họ sớm biết đủ rồi mà rút lui, rửa tay gác kiếm, không sống trên lưỡi đao, đem bán sinh mạng để lấy tiền, thì cũng được coi là người thức thời.
Mấy câu này lọt vào tai Lâm Bình Chi làm cho chàng chấn động tinh thần. Chàng nghĩ bụng: Nếu trước đây vài năm, gia gia của ta biết dừng lại, rút lui, rửa tay gác kiếm thì có lẽ không có ngày nay.
Lại nghe gã lão râu đốm bạc lẩm bẩm:
– Ngõa quán bất li tỉnh thượng phá, tướng quân nan miễn trận thượng vong (mái ngói vỡ tan bờ giếng, tướng quân gục ngã sa trường). Những người thịnh thời thường mê muội, bốn chữ “cấp lưu dũng thoái” không dễ nói đâu.
Gã chột mắt nói:
– Đúng vậy, mấy ngày nay ta nghe người ta nói thanh danh của Lưu tam gia đang rạng rỡ như mặt trời mùa xuân, đột nhiên rửa tay gác kiếm, thật là việc làm của người quân tử, khiến cho ai cũng khâm phục.
Bỗng nhiên, đầu bàn bên có một gã hán tử trung niên mặc áo lụa nói:
– Hôm trước, các huynh đệ ở Vũ Hán tam trấn nghe đồng đạo trong võ lâm nói Lưu tam gia rửa tay gác kiếm, rút khỏi võ lâm thật là có nỗi khổ tâm.
Gã chột mắt quay người lại nói:
– Các bằng hữu ở Vũ Hán nói như thế nào? Bằng hữu có thể thuật lại cho nghe được chăng?
Người đó cười cười rồi nói:
– Câu chuyện này ở Vũ Hán nói thì không sao, nhưng đến thành Hành Sơn thì không thể tùy tiện mà nói càn!
Một người khác lùn mập, giọng thô lỗ, nói:
– Chuyện này nhiều người biết lắm rồi, sao ngươi lại làm ra vẻ bí mật cao thâm quá vậy? Mọi người đều nói Lưu tam gia vì võ công quá cao, nhân duyên quá tốt nên không thể không rửa tay gác kiếm!
Giọng gã nói rất lớn. Trong quán trà bao nhiêu người đều nhìn thẳng vào mặt gã. Có mấy người hỏi lại:
– Tại sao võ công quá cao, nhân duyên quá tốt mà lại rút khỏi võ lâm? Há không phải kỳ lạ sao?
Gã hán tử mập lùn giương giương tự đắc nói:
– Không biết nội tình thì ai cũng cảm thấy kỳ lạ, nếu biết rồi thì không còn gì kỳ lạ nữa.
Có người nghe vậy bèn hỏi:
– Vậy nội tình ra sao?
Gã mập lùn chỉ mỉm cười, không nói gì cả. Một người ốm nhom ngồi cách đó mấy bàn lạnh lùng nói:
– Bằng hữu hỏi nhiều làm gì! Chính y cũng không biết mà chỉ là bạ đâu nói đấy!
Gã hán tử mập lùn không chịu được những lời nói khích, lớn tiếng nói:
– Ai nói là ta không biết? Lưu tam gia rửa tay gác kiếm là vì y biết quan tâm đến đại cục, muốn tránh sự tranh chấp bè đảng có thể xảy ra trong phái Hành Sơn!
Có mấy người há miệng hết cỡ, hỏi ngay:
– Quan tâm đến đại cục như thế nào?
– Tranh chấp bè đảng ra sao?
– Lẽ nào sư huynh, sư đệ của họ lại mâu thuẫn nhau?
Gã mập lùn nói:
– Ai cũng nói Lưu tam gia là đệ nhị cao thủ của phái Hành Sơn, nhưng người trong bổn phái từ trên xuống dưới đều biết trình độ ba mươi sáu đường Hồi phong lạc nhạn kiếm của Lưu tam gia đã cao hơn chưởng môn nhân Mạc Đại tiên sinh rất nhiều. Mạc Đại tiên sinh phóng một nhát kiếm có thể đứt đầu ba con nhạn. Lưu tam gia phóng một kiếm hớt đứt đầu năm con. Môn hạ của Lưu tam gia người nào cũng hơn môn hạ của Mạc Đại tiên sinh. Trước mắt, tình hình càng lúc càng căng thẳng, nếu kéo dài thêm vài năm nữa thì thanh thế của Mạc Đại tiên sinh nhất định sẽ bị Lưu tam gia đè bẹp. Nghe nói, hai bên đã xảy ra mấy lần xung đột. Lưu tam gia nhà to nghiệp cả, không muốn cùng với sư huynh tranh giành hư danh, vì vậy phải rửa tay gác kiếm, để sau này yên ổn làm một phú gia.
Mấy người gật đầu nói:
– Thì ra là vậy, Lưu tam gia thâm hiểu đại nghĩa, thật hiếm thấy.
Lại có người nói:
– Mạc Đại tiên sinh làm như vậy là không đúng. Y áp bức Lưu tam gia phải rời khỏi võ lâm, há không phải là tự mình làm suy yếu thanh thế của phái Hành Sơn sao?
Gã hán tử trung niên mặc áo lụa cười nhạt nói:
– Mọi việc trên đời này nào được vuông tròn hết đâu. Ta chỉ cần giữ vững ngôi vị chưởng môn nhân, thanh thế của bổn phái lên cũng được mà suy yếu cũng không sao. Chuyện ai nấy lo mà.
Gã lùn mập uống mấy ngụm trà rồi gõ vào nắp bình leng keng la to:
– Đem trà đến! Đem trà đến!
Rồi gã lại tiếp:
– Buổi lễ nầy rõ ràng là đại sự của phái Hành Sơn. Các môn phái đều có tân khách đến mừng, nhưng phái Hành Sơn thì…
Gã nói đến đây bỗng nhiên ở ngoài cửa có tiếng hồ cầm tình tang rồi có người cất tiếng hát:
– Than ôi, Dương gia tận trung với nước… Đại Tông ý y… bảo trì…
Giọng hát ngân nga kéo dài, âm sắc rất thê lương não nuột. Mọi người đều quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một lão già ốm nhom ngồi ở bàn kế bên, sắc mặt tiều tụy, mặc chiếc áo dài màu xanh, cũ đến nỗi màu xanh đã bạc thành màu trắng. Tướng mạo lão rất thảm hại, đúng là một người hát dạo xin tiền.
Gã lùn mập ngoác miệng quát:
– Hát như quỷ gào ồn ào quá đi, lại làm gián đoạn cuộc nói chuyện của lão tử.
Lập tức lão già hạ thấp giọng xuống, nhưng vẫn hát:
– Bến Kim Sa… ỳ ý song long hội ừ ứ thua một trận…
Có người hỏi:
– Này bằng hữu, hồi nãy bằng hữu vừa nói các môn phái đều có tân khách đến còn phái Hành Sơn thì như thế nào?
Gã lùn mập nói:
– Các đệ tử của Lưu tam gia đương nhiên là ở khắp nơi trong thành Hành Sơn để nghinh đón, chào hỏi khách. Nhưng ngoài những đệ tử Lưu tam gia đích thân truyền dạy ra, các vị có gặp một đệ tử nào khác trong phái Hành Sơn không?
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, rồi đều nói:
– Phải rồi, tại sao một người cũng không thấy! Làm như vậy chẳng phải mất mặt Lưu tam gia lắm sao?
Gã mập lùn nhìn gã mặc áo lụa cười nói:
– Tại hạ nói bằng hữu nhát gan, không dám đem chuyện tranh chấp bè phái trong phái Hành Sơn nói ra. Kỳ thực chuyện ấy có liên can gì đâu? Người phái Hành Sơn có ai nghe thấy đâu?
Bỗng nhiên, tiếng hồ cầm lại vang lên khắp nhà. Lão lớn tuổi quát:
– Đồ tiểu nhân lại đàn hát nữa. Thật là xui xẻo…
Gã trẻ tuổi la to:
– Đừng ở đây sinh chuyện nữa, trả tiền rồi đi đi!
Gã giơ tay lên. Một xâu tiền đồng bay ra, nghe chát một tiếng, rớt xuống trước mặt lão già đánh đàn. Thủ pháp rất chuẩn. Lão già đó tạ ơn rồi nhặt tiền lên.
Gã lùn mập khen ngợi nói:
– Thì ra lão đệ là một danh gia ám khí, thủ thuật thật tuyệt diệu.
Gã trẻ tuổi cười, nói:
– Có đáng gì đâu? Đại ca này, theo lời đại ca nói thì Mạc Đại tiên sinh chắc chắn là không đến rồi!
Gã mập lùn nói:
– Y đến để làm gì? Mạc Đại tiên sinh và Lưu tam gia bây giờ như nước với lửa, hễ gặp nhau là rút kiếm động thủ. Lưu tam gia đã nhường một bước, y cũng đã sướng rơn rồi.
Lão già đàn hát vừa rồi bỗng nhiên đứng dậy, từ từ đi đến trước mặt gã mập lùn, ngoẻo đầu nhìn gã một lúc. Gã mập lùn tức giận nói:
– Lão làm cái gì vậy?
Lão già đó lắc đầu nói:
– Ngươi nói bậy lắm!
Rồi quay người đi. Gã lùn mập tức điên người, vươn tay ra định chụp sau lưng lão. Bỗng nhiên trước mắt lóe sáng lên, thanh trường kiếm nhỏ bé quét một thế trên mặt bàn nghe đinh đinh mấy tiếng. Gã mập lùn cả kinh, vội nhảy lùi về phía sau, sợ thanh trường kiếm đâm trúng mình. Lão già từ từ nhét thanh trường kiếm vào trong đáy hồ cầm, không còn thấy đâu nữa. Thì ra thanh trường kiếm được giấu trong cây hồ cầm, chuôi kiếm thông vào đáy, ở ngoài nhìn vào nào ai biết được trong cây đàn cũ rích này lại có giấu cây kiếm. Lão già lại lắc đầu, nói:
– Ngươi nói bậy lắm!
Rồi từ từ bước ra khỏi quán trà. Mọi người đưa mắt nhìn theo cho đến khi lão mất dạng trong mưa, tiếng hồ cầm thê lương còn văng vẳng vọng lại.
Bỗng có người kêu lên thất thanh một tiếng rồi nói to:
– Các vị xem kìa! Các vị xem kìa!
Mọi người nhìn theo. Tay gã chỉ vào bảy chén trà để trên bàn gã mập lùn. Mỗi chén trà đều bị kiếm cắt ngọt một vòng khoảng nửa tấc. Bảy cái vòng miệng chén trà rớt xuống bên chén mà không một chén trà nào nghiêng đổ.
Mấy mươi người trong quán trà đều bu lại, bàn luận xôn xao. Có người nói:
– Người này là ai mà kiếm pháp lợi hại như vậy?
Có người nói:
– Một kiếm chém đứt bảy miệng chén trà, mà chén trà lại đứng yên không bể, thật là thần kỳ!
Có người nhìn gã lùn mập nói:
– May mà vị lão tiên sinh kia ra tay còn nương tình, nếu không thì cái đầu của lão huynh cũng giống như bảy cái chén trà kia.
Lại có người nói:
– Lão tiên sinh này đương nhiên là một vị cao thủ nổi danh mà tại sao bề ngoài giống như người hát dạo?
Gã mập lùn nhìn bảy chén trà, nét mặt thẫn thờ không còn giọt máu, không thốt ra được một câu nào.
Gã đứng tuổi mặc áo lụa nói:
– Thấy chưa? Ta đã sớm khuyên ngươi nói ít vài câu. Thị phi chỉ vì lắm chuyện, phiền não là do tự kiêu. Hiện giờ, thành Hành Sơn này là nơi ngọa hổ tàng long, không biết còn có bao nhiêu cao nhân đến. Vị lão tiên sinh này nhất định là bạn thân của Mạc Đại tiên sinh. Lão nghe ngươi nói xấu sau lưng Mạc Đại tiên sinh nên mới dạy cho ngươi một bài học.
Gã râu đốm bạc nói một cách lạnh lùng:
– Bạn thân của Mạc Đại tiên sinh cái gì? Y chính là chưởng môn phái Hành Sơn Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh đó!
Mọi người đều kinh hãi, cùng hỏi:
– Cái gì? Y… y là Mạc Đại tiên sinh ư? Sao các hạ lại biết?
Gã râu đốm bạc nói:
– Lão phu biết chứ. Mạc Đại tiên sinh rất thích gảy hồ cầm, hát khúc “Tiêu Tương dạ vũ” thê lương, khiến cho người nghe rơi lệ. Tám chữ “cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm âm” (trong đàn giấu kiếm, kiếm phát tiếng đàn) là lời miêu tả võ công của lão. Các vị đã đến thành Hành Sơn lẽ nào lại không biết? Vị huynh đài này vừa rồi nói cái gì Lưu tam gia một nhát kiếm có thể chém đứt năm đầu con chim nhạn mà Mạc Đại tiên sinh lại chỉ có thể chém đứt đầu ba con. Một thế kiếm của y cắt đứt bảy chén trà cho huynh thấy đấy. Chén trà có thể cắt đứt thì chuyện chém đầu con nhạn có khó gì đâu. Vì vậy mà lão chửi huynh đệ nói bậy.
Mọi người trong quán rượu thấy Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh hiển lộ thần công trên đời có một thì ai cũng sợ hãi, tim như muốn ngừng đập. Vừa rồi gã lùn mập xưng tụng Lưu Chính Phong mà lại phê phán Mạc Đại tiên sinh rồi mình cũng lên tiếng hùa theo, không chừng vì vậy mà rước họa vào thân.
Ai nấy trả tiền xong rồi ra khỏi quán. Chỉ trong khoảnh khắc, quán trà đông nghẹt người ồn ào, huyên náo mà bây gi ờ vắng teo. Ngoài Lâm Bình Chi ra, chỉ còn lại hai người khách khác đang úp mặt xuống bàn ngủ.
Lâm Bình Chi nhìn bảy cái miệng chén trà và bảy cái vòng cắt trên chén trà, nghĩ thầm: Lão này bề ngoài có vẻ hạ tiện, một ngón tay cũng có thể đẩy ngã lão. Nào ngờ thanh trường kiếm của lão mới hoa lên một cái thì đã tiện đứt miệng bảy chén trà. Nếu ta không ra khỏi thành Phúc Châu thì làm sao biết trên đời này lại có những nhân vật như vậy? Ta ở trong Phước Oai tiêu cục cũng như ếch ngồi đáy giếng mà nhìn trời, vẫn nghĩ những tay cao thủ lợi hại trên giang hồ dù giỏi đến đâu bất quá cũng chỉ bằng gia gia của mình mà thôi. Than ôi! Nếu ta có thể bái người này làm sư phụ , dụng tâm luyện công thì may ra mới có thể báo được đại thù, bằng không thì suốt đời không còn hy vọng nữa.
Chàng lại nghĩ: Sao mình không đi tìm Mạc Đại tiên sinh thành khẩn cầu xin lão cứu cha mẹ mình và nhận mình làm đệ tử?
Chàng liền đứng dậy, lại chợt nghĩ: Lão là chưởng môn phái Hành Sơn. Ngũ Nhạc kiếm phái và phái Thanh Thành giao du với nhau. Lão làm sao lại vì một người không quen biết mà đắc tội với bạn bè?
Nghĩ đến đây, chàng lại ngồi thừ người ra, cụt hứng.
– Nhị sư ca, trời mưa mãi không tạnh, quần áo tiểu muội ướt hết cả rồi. Chúng ta vào đây uống trà đi.
Lâm Bình Chi nghe lòng chấn động. Chàng nhận ra đó là giọng nói của cô gái bán rượu xấu xí đã cứu tính mạng mình. Chàng vội vàng cúi mặt xuống. Chợt nghe tiếng một lão già trả lời:
– Phải đấy, uống chén trà nóng cho ấm bụng.
Hai người đi vào quán trà, ngồi xuống cái bàn đối diện Lâm Bình Chi, hơi xéo qua một chút. Lâm Bình Chi liếc mắt khẽ nhìn. Đúng là thiếu nữ bán rượu mặc áo màu xanh ngồi quay lưng về phía chàng. Người kéo ghế ngồi ngang chính là lão Tát, mạo xưng là tổ phụ của thiếu nữ. Chàng nghĩ bụng: Thì ra hai người này là sư huynh sư muội, lại cải trang làm ông cháu, đến thành Phúc Châu có mưu đồ. Không biết tại sao họ lại cứu mình? Không chừng họ biết gia gia má má của mình ở đâu.
Chủ quán trà thu dọn những chén còn sót lại trên bàn và đem trà nóng lên. Lão già nhìn thấy bảy miệng chén trà ở trên bàn bên cạnh, bất giác la lên một tiếng nhỏ ui chao, nói:
– Tiểu sư muội, sư muội nhìn kìa!
Thiếu nữ cũng vô cùng kinh ngạc, bèn hỏi:
– Công phu của người này thật tuyệt diệu. Ai là người chém đứt bảy miệng chén trà này vậy?
Lão già nói khẽ:
– Tiểu sư muội, ta kiểm tra kiến thức của sư muội một phen. Nhất kiếm thất xuất có thể làm bể ngọc tan vàng; tiểu muội có biết ai chém đứt bảy miệng chén nầy không?
Thiếu nữ giả bộ nổi giận, nói:
– Tiểu muội chưa nhìn thấy, làm sao biết là ai chém…
Bỗng nhiên nàng vỗ tay cười nói:
– Tiểu muội biết rồi! Tiểu muội biết rồi! Ba mươi sáu đường Hồi phong lạc nhạn kiếm chiêu thứ mười bảy Nhất kiếm lạc cửu nhạn là kiệt tác của Lưu tam gia, Lưu Chính Phong.
Lão già cười lắc đầu nói:
– Chỉ sợ kiếm pháp của Lưu tam gia chưa tới trình độ này. Sư muội chỉ đoán trúng một nửa.
Thiếu nữ giơ ngón tay trỏ lên, chỉ vào mặt lão cười nói:
– Nhị sư ca đừng nói, tiểu muội biết rồi. Đây… đây là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh!
Bỗng nhiên có bảy tám âm thanh cùng vang lên. Có người vỗ tay, có người cười ha hả, đều nói:
– Sư muội có đôi mắt tinh tường quá.
Lâm Bình Chi kinh hãi, thầm hỏi: Ở đâu đến nhiều người như vậy?
Chàng nhìn trộm thấy hai người ngủ gục trên bàn đã đứng dậy, còn năm người khác từ trong nội đường quán trà đi ra. Có người ăn mặc như phu khuân vác, có người tay cầm bàn tính giống như nhà buôn, lại có người cho con khỉ con ngồi trên vai, giống như muốn dùng con khỉ để làm trò.
Thiếu nữ cười nói:
– Ồ, thì ra các “ông” nấp cả ở đây làm cho tiểu muội giật thót người! Đại sư ca đâu?
Gã có con khỉ cười nói:
– Tại sao hễ gặp mặt thì sư muội gọi chúng tôi là các “ông”?
Thiếu nữ cười nói:
– Bọn sư ca cứ nấp nánh lén lút để dọa nạt người, không khác lục lâm thảo khấu trong chốn giang hồ sao? Đại sư ca sao không cùng đi chung với các sư ca?
Gã có con khỉ cười nói:
– Tại sao sư muội không hỏi ai khác mà chỉ hỏi đại sư ca? Gặp mặt chưa nói được hai ba câu, thì đã hỏi hai ba câu đại sư ca đâu rồi? Sao sư muội không hỏi Lục sư ca?
Thiếu nữ dậm chân nói:
– Không! Sư ca con khỉ này ở đây chưa chết lại cũng không bị thương là tốt rồi, hỏi sư ca nữa để làm gì?
Gã có con khỉ cười nói:
– Đại sư ca cũng không chết, không bị thương, sư muội hỏi y làm gì?
Thiếu nữ làm bộ giận nói:
– Tiểu muội không nói chuyện với sư ca nữa. Tứ sư ca, chỉ có sư ca là người tốt. Vậy sư ca cho tiểu muội hỏi đại sư ca đâu?
Gã ăn mặc như phu khuân vác chưa kịp trả lời thì mấy người kia đã cười nói:
– Chỉ có tứ sư ca là người tốt, còn bọn ta là người xấu. Mà lão tứ lại không nói chuyện với sư muội.
Thiếu nữ nói:
– Không cần đâu. Không nói thì không nói. Các sư ca không nói thì tiểu muội cùng với nhị sư ca đi dọc đường gặp nhiều chuyện cổ quái ly kỳ, đừng có hòng tiểu muội kể cho các sư ca nghe nửa câu.
Người ăn mặc như phu khuân vác nãy giờ cứ vẫn không nói, ngây ra như khúc gỗ, bây giờ mới nói:
– Hôm qua, bọn ta cùng với đại sư ca chia tay nhau ở Hành Dương. Đại sư ca bảo chúng ta đi trước. Chúng ta ở đây đợi hơn nửa ngày, chắc đại sư ca đã tỉnh rượu cũng sắp đến bây giờ.
Thiếu nữ nhíu mày, nói:
– Lại uống rượu nữa ư?
Người ăn mặc giống phu khuân vác nói:
– Phải!
Gã cầm bàn tính nói:
– Đây là lần đại sư ca uống rượu thỏa thích, từ sáng sớm uống cho đến trưa, lại từ trưa uống cho đến tối. Tính ra, đại sư ca uống được hai, ba mươi cân rượu ngon!
Thiếu nữ nói:
– Uống như vậy chẳng cháy ruột cháy gan sao? Sao sư ca không khuyên đại sư ca mấy lời?
Gã cầm bàn tính le lưỡi, nói:
– Đại sư ca mà nghe người khác khuyên thì có mà mặt trời mọc hướng Tây. Trừ phi tiểu sư muội khuyên thì may ra đại sư ca có thể uống ít đi một cân, nửa cân.
Mọi người đều cười ồ. Thiếu nữ nói:
– Tại sao lại uống nhiều như vậy? Có phải đại sư ca gặp chuyện gì cao hứng chăng?
Gã cầm bàn tính nói:
– Việc này phải hỏi đại sư ca. Chắc có lẽ đại sư ca biết đến thành Hành Sơn thì sẽ được gặp mặt tiểu sư muội, nên lòng vui vẻ, đặc biệt uống nhiều thêm một chút.
Thiếu nữ nói:
– Sư ca lại nói vớ vẩn rồi!
Nhưng trong giọng điệu lại tỏ ra vui mừng.
Lâm Bình Chi nghe sư huynh muội họ cười nói, nghĩ thầm: Nghe bọn này nói, thì cô nương này với đại sư ca của nàng dường như có tình ý với nhau. Nhưng mà nhị sư ca đã già như thế này thì chắc đại sư ca đương nhiên phải già khú đế. Cô nương này không quá mười sáu mười bảy tuổi, tại sao lại yêu một ông lão như vậy?
Chàng liền nghĩ lại, lúc đó mới hiểu ra: À! Phải rồi. Cô nương này mặt mày rỗ chằng rỗ chịt, tướng mạo xấu hoắc, ai cũng không thương nổi. Vì vậy cô đành phải yêu một lão già nghiện rượu đã góa vợ.
Chàng nghe thiếu nữ hỏi lại:
– Ngày hôm qua, đại sư ca đã uống rượu từ sáng sớm rồi, phải không?
Gã có con khỉ nói:
– Không nói cho sư muội nghe rõ thì sư muội cũng không buông tha cho chúng ta. Sáng sớm hôm qua, tám người chúng ta định lên đường. Đại sư ca bỗng nhiên ngửi thấy mùi rượu, bèn nhìn xem thì thấy một lão ăn mày tay cầm bầu rượu, đang kê miệng vào bầu uống. Lúc đó cơn nghiện rượu của đại sư ca nổi lên. Đại sư ca liền tiến lại lão ăn mày chuyện trò, khen rượu của lão thơm ngon và hỏi đó là rượu gì. Lão ăn mày đáp: “Đây là Hầu nhi tửu”. Đại sư ca hỏi: “Tại sao gọi là Hầu nhi tửu?” Lão ăn xin nói: “Có bầy khỉ ở trong rừng Tương Tây biết hái trái cây làm rượu. Bầy khỉ hái những quả rất tươi rất ngọt, vì vậy làm ra rượu cực kỳ ngon. Lão gặp được ở trong núi, vừa lúc lũ khỉ không có ở nhà, bèn lấy trộm ba bầu rượu, còn bắt theo một con khỉ con”. Con khỉ ấy tức là chú khỉ này đây.
Gã vừa nói vừa lấy tay chỉ chú khỉ trên vai. Chân sau của chú khỉ bị cột bằng một sợi dây buộc vào cánh tay của gã. Con khỉ không ngừng sờ đầu gãi tai, nhăn mặt chau mày, trông rất buồn cười.
Thiếu nữ nhìn chăm chăm vào con khỉ, cười nói:
– Lục sư ca! Thảo nào ngoại hiệu của Lục sư ca là Lục hầu nhi. Lục sư ca và chú khỉ nhỏ này đúng là một cặp huynh đệ vậy!
Gã Lục hầu nhi vênh mặt lên nói một cách nghiêm chỉnh:
– Chúng tôi không phải là anh em ruột thịt, mà là sư huynh sư đệ. Chú nhỏ này là sư ca của ta, còn ta là lão nhị!
Mọi người nghe vậy đều bật cười ha hả.
Thiếu nữ cười, nói:
– Được rồi! Lục sư ca dám nói vòng vo để chửi xéo đại sư ca. Để tiểu muội đi tố cáo, đại sư ca sẽ đá Lục sư ca lộn nhào mấy vòng coi chơi!
Rồi cô lại hỏi:
– Tại sao “người anh em” đó lại đến với Lục sư ca?
Lục hầu nhi nói:
– Người anh em ta ư? Tiểu muội nói con tiểu súc sinh này phải không? Trời ơi! Nói ra thì dài dòng l ắm, nhức cả đầu!
Thiếu nữ cả cười, nói:
– Lục sư ca không nói thì tiểu muội cũng đoán được. Nhất định là đại sư ca đem con khỉ này về bảo Lục sư ca trông nom, để chú khỉ nhỏ này cất rượu cho đại sư ca uống.
Lục hầu nhi nói:
– Sư muội quả thật là một…
Gã muốn nói tiểu muội là một “cục phân”, nhưng mới nói được mấy chữ, gã lập tức nín lại, rồi đổi giọng:
– Đúng rồi. Đúng rồi. Sư muội đoán rất đúng!
Thiếu nữ mỉm cười nói:
– Đại sư ca thích làm những chuyện kỳ cục lạ đời. Con khỉ ở trong rừng mới biết làm rượu, khi bị người ta bắt về làm sao có thể đi hái trái để cất rượu được? Lục sư ca thả nó đi hái trái đi. Tại sao nó không đi?
Cô dừng lại một chút rồi cười nói:
– Nếu không thì tại sao lại không thấy Lục sư ca cất rượu?
Lục hầu nhi ngẩng mặt lên nói:
– Sư muội! Sư muội không tôn kính sư huynh, nói năng lung tung không có tôn ti gì cả.
Thiếu nữ cười nói:
– Chao ôi! Bây giờ còn bày đặt ra là sư huynh nữa! Lục sư ca, sư ca chưa nói đến chính đề. Tại sao đại sư ca uống rượu từ sáng đến tối không thôi?
Lục hầu nhi nói:
– Phải rồi. Lúc đó đại sư ca không chê dơ bẩn, bèn đến bên lão ăn xin năn nỉ lão cho uống rượu. Chao ôi! Trên người lão ăn xin đó cáu ghét lớp lớp, dày có ba tấc; chấy, rận trên áo rách chui ra chui vào, nước mắt nước mũi đầy cả mặt. Có lẽ trong bầu rượu của lão cũng có không ít đờm dãi…
Thiếu nữ bụm miệng, chau mày nói:
– Đừng nói nữa, ta nghe muốn phát nôn!
Lục hầu nhi nói:
– Sư muội buồn nôn, còn đại sư ca thì không buồn nôn đâu. Lão ăn mày đó nói: “Ba bầu Hầu nhi tửu của lão uống hết chỉ còn lại hơn nửa bầu, quyết không thể cho ai”. Đại sư ca lấy ra một lạng bạc, nói “Ta mua một lạng bạc một hớp rượu”.
Thiếu nữ vừa tức giận vừa buồn cười:
– Tham uống như quỷ!
Lục hầu nhi nói tiếp:
– Lão ăn xin đồng ý, bèn nhận bạc rồi nói: “Chỉ được uống một hớp thôi”. Đại sư ca nói: “Đã nói một hớp, tức nhiên là uống một hớp!” Đại sư ca cầm bầu rượu kề sát trên miệng, há miệng uống. Nào ngờ một hớp của đại sư ca quá dài, chỉ nghe tiếng ừng ực, đại sư ca đã uống một hơi cạn sạch nửa bầu rượu. Thì ra đại sư ca sử dụng khí công sư phụ truyền thụ cho, không cần lấy hơi mà uống như rồng hút nước. Hơn nửa bầu rượu đại sư ca uống sạch không còn một giọt.
Mọi người nghe đến đây, cùng cười lên ha hả.
Gã Lục hầu nhi lại nói:
– Tiểu sư muội, nếu ngày hôm qua sư muội ở Hành Dương, tận mắt thấy công phu uống rượu của đại sư ca thì sư muội không thể không khâm phục mà cúi đầu lạy năm cái sát đất. Đại sư ca thần ngưng tại Đan điền, khí đưa vào Tử phủ, thân bay bổng vượt qua Hoa Nhạc, khí xông cao lên tận mây xanh, làm rung động cả sao Bắc Đẩu. Môn khí công này sử dụng đến độ xuất thần nhập hóa, huyền diệu vô cùng!
Thiếu nữ cười lăn cười lộn, rồi nói móc:
– Miệng Lục sư ca trơn như mỡ, cứ bốc thơm đại sư ca lên tới trời xanh. Hừ, sư ca dám lấy khẩu quyết của chúng ta ra mà chế nhạo, nên cẩn thận đó nghe!
Gã Lục hầu nhi cười nói:
– Ta không ăn ốc nói mò. Ở đây có sáu vị sư huynh sư đệ, ai cũng nhìn thấy cả. Có phải là đại sư ca sử dụng khí công uống sạch bầu Hầu nhi tửu không, quý vị?
Mấy người bên cạnh đều gật đầu nói:
– Sự thật đúng như vậy đó, tiểu sư muội.
Thiếu nữ thở dài rồi nói:
– Công phu này rất khó, mọi người không ai luyện nổi, chỉ có mình đại sư ca học được. Ai ngờ y lại đem ra lường gạt lão ăn mày để uống rượu.
Giọng nói của cô dường như vừa giận dỗi lại vừa có ý ca ngợi.
Gã Lục hầu nhi nói:
– Đại sư ca uống sạch bình rượu, tất nhiên lão ăn xin đó không chịu. Lão nắm vạt áo của đại sư ca mà la: “Rõ ràng là ngươi nói chỉ uống một hớp. Tại sao ngươi nốc sạch nửa bầu rượu của ta?” Đại sư ca cười nói: “Quả thực, ta chỉ uống có một hớp. Lão có thấy ta dừng lại để lấy hơi không? Không lấy hơi tức là chỉ một hớp thôi. Chúng ta chưa bàn bạc là một hớp lớn hay một hớp nhỏ. Kỳ thực ta chỉ mới uống có nửa hớp, nói một hớp thật ra chưa đủ. Một hớp thì một lạng bạc, nửa hớp thì chỉ nửa lạng. Hãy trả lại ta nửa lạng!”
Thiếu nữ cười nói:
– Đã uống rượu của người ta mà còn đòi tiền lại ư?
Lục hầu nhi nói:
– Gã ăn mày tức quá định khóc. Đại sư ca nói: “Lão huynh. Lão huynh nóng nảy như vậy, nhất định là một quân tử hảo rượu! Nào nào, ta làm chủ xị, kính mời lão huynh một bữa thật say!” Đại sư ca bèn kéo lão ăn mày lên một tửu lâu bên đường. Cả hai thi nhau cùng uố ng, chén chú chén anh không ngừng nghỉ. Bọn ta đợi đến giữa trưa, hai người vẫn còn uống. Đại sư ca muốn có con khỉ nên bảo lão đưa con khỉ cho mình chăm sóc. Đợi đến xế chiều, lão ăn mày say lăn ra đất, bò dậy không nổi; đại sư ca vẫn ngồi rót rượu uố ng tỳ tỳ nhưng nói năng vẫn rất tỉnh táo. Đại sư ca bảo chúng ta đến Hành Sơn trước rồi mình sẽ tới sau.
Thiếu nữ nói:
– Thì ra là vậy!
Thiếu nữ trầm ngâm một lúc rồi nói:
– Lão ăn mày đó có phải là người trong Cái bang không?
Người giống phu khuân vác lắc đầu nói:
– Không phải. Lão không biết võ công, trên lưng không đeo túi.
Thiếu nữ nhìn ra ngoài trời một hồi lâu, thấy mưa vẫn tầm tã không ngớt. Nàng lẩm bẩm một mình: Nếu đại sư ca cùng với anh em tới đây ngày hôm qua thì hôm nay khỏi phải dầm mưa dãi gió mà đi!
Lục hầu nhi nói:
– Tiểu sư muội! Sư muội nói sư muội và nhị sư ca trên đường gặp rất nhiều chuyện ly kỳ. Vậy sư muội hãy kể lại cho chúng ta nghe đi.
Thiếu nữ nói:
– Lục sư ca sốt ruột làm gì? Đợi đại sư ca đến rồi kể cũng không muộn, để muội khỏi phải kể nhiều lần. Các vị sư ca hẹn gặp nhau ở đâu?
Lục hầu nhi đáp:
– Không hẹn gì cả. Thành Hành Sơn này không lớn gì mấy, tất nhiên sẽ gặp nhau thôi. Được! Tiểu sư muội gạt ta, bảo ta kể việc đại sư ca uống Hầu nhi tửu mà chuyện của mình lại lờ đi không nói nhé.
Thiếu nữ dường như không tập trung tâm trí, nói:
– Nhị sư ca! Xin nhị sư ca hãy kể lại cho các vị sư ca nghe được không?
Cô nhìn phía sau lưng Lâm Bình Chi một cái, rồi nói:
– Ở đây có nhiều tai mắt, chúng ta đi tìm một khách điếm, rồi hãy nói.
Một gã khác cao nghệu từ nãy giờ không nói gì, bây giờ mới lên tiếng:
– Trong thành Hành Sơn, bao nhiêu khách điếm lớn nhỏ đều chật ních tân khách. Chúng ta lại không muốn đến làm phiền Lưu phủ, hãy chờ đại sư ca thêm một lúc nữa rồi chúng ta đến miếu tự đường ở ngoại thành nghỉ chân. Nhị sư ca tính thế nào?
Lúc này đại sư ca chưa đến, lão già kia trở thành thủ lĩnh của bọn đồng môn. Lão gật đầu:
– Được! Chúng ta ở đây đợi đại sư ca vậy.
Lục hầu nhi sốt ruột, khẽ nói:
– Tên lưng gù này chắc có lẽ là một người điên, ngồi ở đây cả nửa ngày rồi, vẫn không cục cựa. Đếm xỉa đến gã làm chi? Nhị sư ca, sư ca và tiểu sư muội đến Phúc Châu thám thính được gì? Phước Oai tiêu cục đã bị phái Thanh Thành làm cỏ rồi. Nhà họ Lâm không có võ công chân thật gì cả sao?
Lâm Bình Chi nghe bọn họ nói đến tiêu cục của mình càng chú ý hơn. Lão già nói:
– Ta và tiểu sư muội gặp sư phụ ở Trường Sa. Sư phụ bảo chúng ta đến thành Hành Sơn gặp đại sư ca và các vị sư đệ. Chuyện ở Phúc Châu hãy tạm để qua một bên. Tại sao Mạc Đại tiên sinh bỗng nhiên có mặt ở đây, sử chiêu Nhất kiếm lạc cửu nhạn vậy? Các sư đệ đều nhìn thấy cả chứ?
Lục hầu nhi đáp:
– Dạ phải.
Rồi gã đem chuyện mọi người bàn tán Lưu Chính Phong vì sao rửa tay gác kiếm, Mạc Đại tiên sinh bỗng nhiên xuất hiện ra sao, mọi người kinh hãi thế nào lần lượt kể ra.
Lão già hừ lên một tiếng, một lúc sau mới nói:
– Trên giang hồ ai cũng nói Mạc Đại tiên sinh và Lưu tam gia có chuyện bất hòa. Lần này, Lưu tam gia rửa tay gác kiếm mà hành tung của Mạc Đại tiên sinh lại kỳ bí như vậy, càng khiến cho người ta không thấu hiểu được nội tình!
– Nhị sư ca, nghe nói chưởng môn phái Thái Sơn là Thiên Môn chân nhân đã thân hành đến Lưu phủ rồi.
Lão già nói:
– Thiên Môn chân nhân thân hành đến sao? Lưu tam gia hân hạnh lắm! Thiên Môn chân nhân đã nghỉ chân ở Lưu phủ, nếu như hai sư huynh sư đệ Mạc, Lưu của phái Hành Sơn thực sự có chuyện tranh chấp nội bộ mà Thiên Môn chân nhân ủng hộ Lưu tam gia thì Mạc Đại tiên sinh khó có thể làm gì được.
Thiếu nữ nói:
– Nhị sư ca, theo sư ca thì Dư quán chủ phái Thanh Thành sẽ ủng hộ ai?
Lâm Bình Chi nghe được sáu chữ “Dư quán chủ phái Thanh Thành” thì tinh thần chấn động, giống như bị ai đấm mạnh vào ngực một cái.
Bọn Lục hầu nhi nhốn nháo nói:
– Dư quán chủ cũng đến rồi ư?
– Mời được lão xuống núi Thanh Thành thật không phải là chuyện dễ!
– Trong thành Hành Sơn này thật là náo nhiệt, các vị cao thủ tập trung về chỉ sợ xảy ra một cuộc long tranh hổ đấu.
– Tiểu sư muội, sư muội nghe ai nói Dư quán chủ đã đến rồi?
Thiếu nữ nói:
– Cần gì phải nghe ai nói. Chính tiểu muội thấy lão đến!
Lục hầu nhi hỏi:
– Tiểu sư muội thấy Dư quán chủ đến rồi ư? Tại thành Hành Sơn à?
Thiếu nữ đáp:
– Chẳng những tiểu muội đến thành Hành Sơn mới thấy lão mà ngay lúc còn Phúc Kiến đã gặp lão rồi, đến Giang Tây lại gặp lão một lần nữa.
Gã cầm bàn tính nói:
– Dư quán chủ đi Phúc Kiến làm gì? Tiểu sư muội, sư muội không biết ư?
Thiếu nữ đáp:
– Ngũ sư ca, sư ca không cần nói khích tiểu muội. Tiểu muội tính nói rồi nhưng sư ca nói khích thì tiểu muội không thèm nói nữa.
Lục hầu nhi nói:
– Đây là chuyện của phái Thanh Thành, dù có nói cho người khác nghe cũng chẳng sao cả. Nhị sư ca, Dư quán chủ đến Phúc Kiến để làm gì vậy? Sư ca với sư muội gặp lão trong trường hợp nào?
Lão già đáp:
– Đại sư ca còn chưa đến, mà mưa vẫn không ngớt, các vị lại nhàn rỗi, để ta kể lại đầu đuôi cho mà nghe. Mọi người biết nguyên nhân và hậu quả rồi đấy. Sau ngày gặp người phái Thanh Thành, ta mới rõ ngọn ngành. Tháng chạp năm ngoái, đại sư ca ở Hán Trung đã đá Hầu Nhân Anh, Hồng Nhân Hùng của phái Thanh Thành.
Lục hầu nhi bỗng nhiên cười hề hề. Thiếu nữ nguýt anh ta một cái, nói:
– Cười cái gì vậy?
Lục hầu nhi vừa cười vừa nói:
– Ta cười hai gã đó quá tự cao tự đại, cái gì Nhân Anh với Nhân Hùng, làm cho bạn hữu giang hồ nhầm lẫn gọi là “Anh, Hùng, Hào, Kiệt; Thanh Thành tứ tú”. Cũng chẳng khác gì tên gọi của ta là Lục Đại Hữu mà ta chẳng có cái gì ráo!
Thiếu nữ nói:
– Sao lại nói cái gì cũng không có? Nếu sư ca không phải họ Lục, không gọi là Lục Đại Hữu, thì trong đồng môn sao lại xứng đáng đứng hàng thứ sáu, ngoại hiệu sao lại gọi là Lục hầu nhi?
Lục Đại Hữu cười đáp:
– Được, từ nay về sau, ta sẽ đổi danh là “Lục Đại Vô”.
Một người khác nói:
– Sư đệ đừng làm gián đoạn câu chuyện đang nói dở của nhị sư ca!
Lục Đại Hữu đáp:
– Không gián đoạn thì không gián đoạn chứ sao.
Gã lại tiếp tục cười hề hề.
Thiếu nữ chau mày nói:
– Còn cười cái gì nữa? Sư ca lộn xộn quá!
Lục Đại Hữu cười nói:
– Ta nhớ đến hai gã Hầu Nhân Anh và Hồng Nhân Hùng bị đại sư ca đá cho lộn nhào bảy tám vòng mà không biết bị ai đá, lại càng không biết tại sao bị đá. Thì ra, đại sư ca chỉ nghe đến cái tên của chúng đã phát giận, vừa uống rượu vừa chửi to: “Cẩu, Hùng, Dã, Trư; Thanh Thành tứ thú” (Chó, Gấu, Khỉ, Heo; Thanh Thành tứ thú)”. Hai gã Hầu, Hồng cả giận, tiến lên động thủ, liền bị đại sư ca đá từ trên lầu rớt xuống đất. Ha ha!
Lâm Bình Chi nghe vậy, cảm thấy lòng được an ủi, đâm ra có thiện cảm với gã đại sư ca này. Tuy chàng chưa hề gặp Hầu Nhân Anh và Hồng Nhân Hùng nhưng hai tên này là sư huynh sư đệ của Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào. Chúng bị vị đại sư ca kia đá rớt xuống lầu quả là mất mặt.
Lão già nói:
– Đại sư ca đá hai gã Hầu, Hồng nhưng chúng không biết đại sư ca là ai. Sau đó chúng mới hiểu cớ sự, về bẩm lại sư phụ. Dư quán chủ viết thư gửi cho sư phụ chúng ta. Lão dùng lời lẽ rất khách khí, nói rằng lão quản giáo đệ tử không nghiêm, đã để đệ tử đắc tội với các vị cao đồ của quý phái nên mau viết thư xin lỗi!
Lục Đại Hữu nói:
– Lão họ Dư này thật xảo quyệt. Lão viết thư đến xin lỗi nhưng kỳ thực là đưa cáo trạng cho sư phụ, báo hại đại sư ca phải bị phạt quỳ ở ngoài cổng một ngày một đêm; các vị sư huynh sư đệ đến gặp sư phụ cầu xin mãi sư phụ mới tha cho.
Thiếu nữ nói:
– Tha đâu mà tha? Đại sư ca còn bị đánh thêm ba mươi roi nữa!
Lục Đại Hữu đáp:
– Ta hoan hô đại sư ca cũng bị ăn theo mười roi. Ha ha. Nhưng nhìn hai gã tiểu tử Hầu Nhân Anh, Hồng Nhân Hùng lăn lông lốc từ trên lầu xuống, bộ dạng thảm hại, thì ta bị đánh mười roi cũng đáng. Ha ha!
Gã cao người nói:
– Sau đó ngươi vẫn chứng nào tật ấy. Mười roi này kể như bị uổng phí rồi.
Lục Đại Hữu nói:
– Tiểu đệ làm sao mà hối cải được? Đại sư ca muốn đá người ta rớt xuống lầu, tiểu đệ làm sao có đủ bản lĩnh để ngăn cản được đại sư ca?
Gã cao người nói:
– Nhưng sư đệ đến bên cạnh khuyên đại sư ca mấy câu có tốt hơn không? Sư phụ nói không sai tí nào: “Lục Đại Hữu chẳng bao giờ chịu khuyên giải ai, chỉ chờ lửa cháy để đổ thêm dầu. Đánh mười roi!”
Nói xong gã cười ha hả. Mọi người cũng cười ầm cả lên.
Lục Đại Hữu nói:
– Tiểu đệ bị sư phụ phạt thật là oan uổng. Sư ca nghĩ xem, đại sư ca xuất cước nhanh đến cỡ nào, hai vị “đại anh hùng” từ hai bên xồng xộc chạy tới, đại sư ca vẫn đưa bát rượu lên uống ừng ực. Tiểu đệ la lên: “Đại sư ca, cẩn thận!” Liền nghe bốp bốp hai tiếng tiếp theo là hai tiếng bụp bụp! Hai vị “đại anh hùng” đã từ cầu thang trên lầu lăn một mạch xuống đất. Đệ nhìn chăm chú để học đường Báo vĩ cước tuyệt chiêu của đại sư ca, nhưng tiểu đệ xem còn không kịp, thì làm sao mà nói đến chuyện học cho được? Nói tiểu đệ chuyên môn đổ dầu vào lửa, thiệt là oan cho tiểu đệ!
Gã cao người nói:
– Lục hầu nhi, ta hỏi sư đệ: lúc đại sư ca quát “Cẩu, Hùng, Dã, Trư; Thanh Thành tứ thú”, sư đệ có quát đệm theo không? Hãy nói thật ta nghe xem.
Lục Đại Hữu cười hì hì đáp:
– Đại sư ca đã quát như vậy, chúng ta là sư đệ có lý do gì mà không phụ họa để trợ thêm oai phong? Chẳng lẽ sư ca bảo tiểu đệ giúp mấy gã phái Thanh Thành chửi lại đại sư ca ư?
Gã cao người cười nói:
– Xem ra sư phụ chẳng phạt oan sư đệ chút nào.
Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Gã Lục hầu nhi này tóm lại cũng là người tốt. Không biết họ là người phái nào?
Lão già nói:
– Lời của sư phụ giáo huấn đại sư ca đáng để mọi người ghi nhớ trong lòng. Sư phụ nói: “Người học võ trên giang hồ ngoại hiệu rất nhiều, mà ngoại hiệu nào cũng đều thậm xưng quá đáng. Nào là Oai chấn giang hồ, nào là Truy phong hiệp, Thảo thượng phi… Ngươi can dự làm chi cho lắm vậy? Người ta muốn xưng “Anh, Hùng, Hào, Kiệt” thì ngươi cứ gọi như vậy. Hành vi của họ nếu đúng là hành vi của anh hùng hào kiệt thì chúng ta khâm phục, kết giao với họ còn không được, tại sao lại đem lòng thù ghét? Nhưng nếu họ không phải là anh hùng hào kiệt thì sẽ có công luận võ lâm, mọi người sẽ chê cười. Chúng ta hà tất phải bận tâm?
Mọi người nghe nhị sư ca nói xong đều gật đầu khen ngợi.
Lục Đại Hữu nói khẽ:
– Ngoại hiệu nổi danh của ta là Lục hầu nhi, không ai nghe xong mà không nổi nóng.
Lão già mỉm cười nói:
– Việc đại sư ca đá hai gã Hầu Nhân Anh, Hồng Nhân Hùng từ trên lầu rớt xuống là điều đại sỉ nhục cho phái Thanh Thành. Tất nhiên chúng phải giấu kín, ngay cả đệ tử bổn phái cũng ít ai biết. Sư phụ đã dặn đi dặn lại cấm chúng ta không được đem chuyện đó nói ra bên ngoài để khỏi gây mối bất hòa. Từ nay về sau, chúng ta không bàn đến chuyện này nữa, đề phòng có kẻ nghe được mà truyền rộng ra.
Lục Đại Hữu nói:
– Kỳ thực võ công của phái Thanh Thành chẳng qua chỉ là hư danh. Ta đắc tội với họ thì cũng chẳng làm gì được nhau…
Gã chưa dứt lời thì lão già quát lên:
– Lục sư đệ, sư đệ đừng nói năng xằng bậy! Liệu hồn đấy, nếu không khi về ta bẩm sư phụ, sư đệ lại bị thêm mười roi nữa. Đại sư ca sử Báo vĩ cước đá người ta rớt xuống lầu, một là vì đại sư ca nhân lúc chúng không kịp phòng bị mà xuất chiêu, hai là đại sư ca là một người xuất chúng trong môn phái ta, người khác không thể bì kịp. Liệu sư đệ có bản lãnh đá người ta rớt xuống lầu không?
Lục Đại Hữu lè lưỡi, xua tay nói:
– Nhị sư ca đừng đem tiểu đệ so với đại sư ca!
Lão già nghiêm nghị nói:
– Dư quán chủ, chưởng môn phái Thanh Thành thực sự là kỳ tài quái kiệt trong võ lâm ngày nay. Ai dám coi thường lão thì người đó thật là xui xẻo. Tiểu sư muội, sư muội gặp Dư quán chủ rồi ư? Sư muội cảm thấy lão thế nào?
Thiếu nữ đáp:
– Dư quán chủ ư? Lão ra tay rất nham hiểm. Tiểu… Tiểu muội thấy lão rất đáng sợ, từ đây về sau tiểu… tiểu muội không muốn gặp lão nữa.
Giọng nói của cô run run, dường như chưa hết sợ.
Lục Đại Hữu nói:
– Dư quán chủ ra tay nham hiểm ư? Tiểu sư muội có thấy lão giết người không?
Thiếu nữ sợ đến nỗi người nàng co rúm lại, không trả lời được.
Lão già nói:
– Hôm nhận được thư của Dư quán chủ, sư phụ tức giận đùng đùng, trách phạt đại sư ca và Lục sư đệ. Ngày hôm sau, người viết một phong thư sai ta đến núi Thanh Thành…
Mấy người sư đệ cùng la lên:
– Thì ra hôm ấy nhị sư ca vội vàng xuống núi, để đi Thanh Thành ư?
Lão già trả lời:
– Đúng vậy! Hôm đó, sư phụ dặn ta không được nói với các vị sư huynh sư đệ để khỏi sinh thêm rắc rối.
Lục Đại Hữu hỏi:
– Sao lại có thể sinh thêm rắc rối? Sư phụ chỉ xem chuyện này là chuyện vặt mà thôi. Việc sư phụ dặn dò, tất nhiên là có đạo lý, không ai có thể cãi lệnh được.
Gã cao nghệu nói:
– Sư đệ thì biết cái gì? Nếu như nhị sư ca nói cho sư đệ nghe, sư đệ nhất định sẽ đi mách lẻo với đại sư ca. Tuy đại sư ca không dám kháng lệnh sư phụ nhưng đại sư ca cũng sẽ nghĩ ra một vài chuyện kỳ quặc để gây sự với phái Thanh Thành. Có thể lắm chứ!
Lão già nói:
– Tam đệ nói phải đấy. Bạn bè giang hồ của đại sư ca rất nhiều, đại sư ca muốn làm chuyện gì thì nhất định không chịu một mình ra tay. Sư phụ nói với ta rằng trong thư đều là những lời xin lỗi Dư quán chủ, rằng là đệ tử càn quấy, người rất tức giận muốn trục xuất ra khỏi sư môn nhưng sợ làm như vậy thì giang hồ sẽ cho rằng hai phái chúng ta phát sinh chuyện hiềm khích không hay nên bây giờ đã đem hai tên càn quấy…
Nói đến đây, lão đưa mắt nhìn Lục Đại Hữu một cái.
Lục Đại Hữu vẻ mặt hầm hầm, giận dữ nói:
– Đệ cũng là kẻ càn quấy ư?
Thiếu nữ nói:
– Sư phụ đưa Lục sư ca lên ngang hàng với đại sư ca mà sư ca lấy làm nhục lắm sao?
Lục Đại Hữu nghe vậy khoái chí bèn kêu to:
– Phải! Phải! Đem rượu lại! Đem rượu lại!
Nhưng quán chỉ bán trà chứ không bán rượu. Chủ quán vội chạy đến nói:
– Ha lão gia, tiểu điếm chỉ có những loại trà Động Đình Xuân, Thủy Tiên, Long Tĩnh, Kỳ Môn, Phổ Nhị, Thiết Quan Âm. Ha lão gia, không có bán rượu. Ha lão gia!
Người ở Hành Dương, Hành Sơn đầu câu nói thường đệm chữ “ha”. Lão chủ quán rõ ràng là người vùng này.
Lục Đại Hữu nói:
– Ha lão gia, ha quý điếm của lão không bán rượu, ha ta uống trà thay cho uống rượu vậy, ha lão gia!
Chủ quán trà nói:
– Dạ, dạ! Ha lão gia!
Nói xong lão chủ quán rót nước sôi vào bình trà.
Lão già lại nói:
– Trong thư sư phụ nói bây giờ đã đem hai tên càn quấy đánh đòn, đáng lẽ bảo chúng đích thân đến núi Thanh Thành để ăn năn tạ tội nhưng sau khi ăn đòn, hai tên đã bị thương tích nặng, không thể đi được nên phái nhị đệ tử Lao Đức Nặc đến để lãnh trách nhiệm. Chuyện này hoàn toàn do hai tên càn quấy mà ra, mong rằng Dư quán chủ nghĩ đến sự giao hảo của hai phái Thanh Thành và Hoa Sơn trước nay mà bỏ qua cho. Sau này gặp nhau, sư phụ sẽ đích thân tạ tội với Dư quán chủ!
Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Thì ra người này là Lao Đức Nặc. Bọn các người là phái Hoa Sơn, một trong Ngũ Nhạc kiếm phái. Chàng biết rõ nội dung bức thư, nghĩ bụng: Thì ra hai phái này có mối giao hảo sâu xa. Bất giác chàng run sợ thầm nghĩ: Lao Đức Nặc và cô nương xấu xí này đã gặp ta hai lần, không thể để bọn họ nhận ra mình!
Lao Đức Nặc lại nói:
– Khi ta đến phái Thanh Thành, gã Hầu Nhân Anh không thèm nói gì nhưng gã Hồng Nhân Hùng thì còn căm tức, đã buông lời chế giễu, lại còn muốn cùng ta động thủ.
Lục Đại Hữu chửi:
– Mẹ nó! Cái đồ điếc không sợ súng! Nhị sư ca, giao đấu thì giao đấu, sợ gì gã? Cái gã họ Hồng này không xứng đáng là đối thủ của sư ca.
Lao Đức Nặc nói:
– Sư phụ bảo ta đến núi Thanh Thành tạ tội để khỏi sinh thêm chuyện. Ta phải nhẫn nại lưu lại núi Thanh Thành sáu ngày, đến ngày thứ bảy mới được Dư quán chủ tiếp kiến.
Lục Đại Hữu nói:
– Hừ, bày đặt làm bộ làm tịch dữ! Nhị sư ca, trong sáu ngày sáu đêm đó, e rằng sư ca bực bội lắm?
Lao Đức Nặc đáp:
– Bọn đệ tử phái Thanh Thành chế giễu ta rất sâu cay, tất nhiên ta phải ráng chịu. Ta biết rằng sở dĩ sư phụ phái ta đi làm việc này không phải vì võ công của ta hơn người mà vì tuổi ta đã cao nên trầm tĩnh, nhẫn nại hơn các vị sư huynh sư đệ. Ta càng có thể nhẫn nại bao nhiêu thì càng hoàn thành sứ mệnh tốt hơn bấy nhiêu. Chúng không thể ngờ lưu ta lại trong Tùng Phong quán núi Thanh Thành hơn sáu ngày, cuối cùng cũng chẳng ích gì cho chúng. Ở Tùng Phong quán, ta vẫn chưa gặp được Dư quán chủ, vô cùng buồn chán. Đến sáng thứ ba, ta dậy sớm đi tản bộ, ngấm ngầm luyện công điều tức để khỏi xao lãng công phu. Đi đến luyện võ sảnh phía sau Tùng Phong quán, ta chợt thấy mười mấy gã đệ tử phái Thanh Thành đang luyện võ. Trong võ lâm, chuyện xem người ta luyện công là điều đại kỵ. Ta không dám đứng lâu, liền lập tức quay về phòng. Nhưng việc nhìn thấy đó đã gây cho ta mối hoài nghi. Mười mấy tên đệ tử đều sử một loại kiếm pháp, nhìn thoáng qua kiếm pháp chúng luyện đều giống nhau, và chúng đều là những người mới học nên xuất chiêu rất vụng về. Còn đó là kiếm pháp gì thì trong lúc vội vàng, ta nhìn không rõ. Sau khi ta về phòng, càng nghĩ càng thấy kỳ quặc. Phái Thanh Thành nổi danh đã lâu, rất nhiều đệ tử đã nhập môn một hai chục năm, huống hồ bọn đệ tử nhập môn có kẻ trước người sau mà sao mười mấy gã lại học một loại kiếm pháp cùng một lúc? Đặc biệt trong số mười mấy người này có cả Hầu Nhân Anh, Hồng Nhân Hùng, Vu Nhân Hào và La Nhân Kiệt, bốn người trong “Thanh Thành tứ tú”. Các vị sư đệ, các vị gặp tình huống như vậy thì suy đoán thế nào?
Gã cầm bàn tính nói:
– Theo tiểu đệ, phái Thanh Thành hoặc giả mới có được một bí cấp, hoặc giả Dư quán chủ mới sáng chế một đường kiếm pháp đem truyền thụ cho các đệ tử.
Lao Đức Nặc nói:
– Lúc đó ta cũng nghĩ như vậy nhưng ngẫm kỹ, lại cảm thấy không phải vậy. Dư quán chủ là một tay lão luyện về kiếm pháp, nếu lão sáng chế ra kiếm pháp mới thì kiếm pháp này không thể tầm thường. Nếu là bí cấp kiếm pháp do người xưa để lại, thì kiếm pháp được truyền dạy nhất định phải rất cao thâm, nếu không thì lão đâu để mắt đến và muốn đệ tử tập luyện làm gì. Còn kiếm pháp của bổn phái sao không luyện tập? Còn nếu là chiêu thức cao siêu thì mấy gã đệ tử tầm thường không thể lĩnh hội được. Lão chỉ cần chọn ba bốn tên đệ tử võ công giỏi nhất để truyền thụ, không lý nào lại cùng lúc truyền thụ cho hơn bốn mươi người. Đây khác nào một vị võ sư mở trường dạy quyền để kiếm tiền, vậy thì hành vi đại tôn sư của danh môn chính phái ở đâu? Sáng sớm hôm sau, ta lại đi từ trước chùa vòng ra sau, khi đi qua bên luyện võ sảnh, thấy chúng vẫn đang luyện kiếm. Ta không dám dừng lại, chỉ liếc mắt nhìn qua, nhớ được hai chiêu, thầm nghĩ khi về sẽ xin sư phụ chỉ điểm cho. Lúc đó, Dư quán chủ vẫn chưa tiếp kiến ta, ta không dám dự đoán phái Thanh Thành đối với phái Hoa Sơn chúng ta có lòng thù oán hay không. Nhưng chúng luyện kiếm pháp mới không chừng là để đối phó với phái chúng ta, vậy thì không thể không đề phòng.
Gã cao nghệu nói:
– Nhị sư ca, hay là họ đang luyện một kiếm trận nào đó?
Lao Đức Nặc nói:
– Đương nhiên cũng có thể như vậy. Lúc đó, ta thấy chúng chia ra từng đôi chiết giải chiêu thức, nào công nào thủ, chỉ toàn sử một số chiêu thức chứ không giống luyện kiếm trận. Đến sáng sớm ngày thứ tư, khi ta tản bộ qua luyện võ sảnh thì trên sân vắng lặng, không có ai cả. Ta biết chúng có ý tránh ta, lòng càng thêm hoài nghi. Ta cứ như thế mà đi qua, chốc chốc lại đưa mắt nhìn. Xem ra chúng quả có ý muốn đối phó với bổn phái mà luyện tập môn kiếm pháp lợi hại, nếu không thì hà tất chúng phải e dè như vậy? Tối hôm đó, ta nằm trên giường suy đi nghĩ lại không cách nào ngủ được, bỗng nghe tiếng đao kiếm chạm nhau vọng lại. Ta giật mình kinh sợ, lẽ nào trong chùa lại có cường địch đến? Ta nghĩ trong đầu: “Phải chăng đại sư ca vì bị sư phụ trách phạt nên tức giận xông vào Tùng Phong quán mà đánh nhau?” Đại sư ca chỉ có một mình không địch nổi chúng, ta không biết làm sao để tương trợ. Lần này đến núi Thanh Thành, ta không đem theo kiếm, trong lúc vội vàng không tìm được kiếm, chỉ đành đi ra tay không.
Lục Đại Hữu lên tiếng khen ngợi:
– Tuyệt diệu. Nhị sư ca, sư ca gan dạ lắm! Nếu là đệ thì đệ không dám đi tay không ra nghênh chiến với chưởng môn phái Thanh Thành Dư Thương Hải, quán chủ Tùng Phong quán!
Lao Đức Nặc cả giận, nói:
– Lục hầu nhi, ngươi nói bậy bạ gì đó? Ta đâu có nói là đi tay không ra nghênh chiến với Dư quán chủ. Chỉ vì sợ đại sư ca gặp nguy hiểm, ta biết là gay go nhưng cũng phải đi ra. Lẽ nào sư đệ bảo ta cứ trốn trong chăn làm quân rùa đen?
Các sư đệ nghe vậy cười ồ lên. Lục Đại Hữu mặt méo xẹo nhưng cũng cười nói:
– Tiểu đệ khâm phục, tán dương nhị sư ca. Nhị sư ca hà tất phải nổi nóng?
Lao Đức Nặc nói:
– Cảm ơn! Những lời tán dương của hiền đệ, ta nuốt không trôi đâu.
Mấy tên sư đệ cùng nói:
– Nhị sư ca kể tiếp đi, đừng tốn lời với Lục hầu nhi nữa.
Lao Đức Nặc kể tiếp:
– Lúc đó, ta lặng lẽ ngồi dậy, theo hướng tiếng đao kiếm mà tới. Tiếng đao kiếm va chạm nhau càng lúc càng dữ dội. Trống ngực đập thình thịch, ta thầm nghĩ: “Hai chúng ta đang ở nơi đầm rồng hang cọp, đại sư ca võ công cao siêu may ra có thể thoát thân được chứ ta thì chắc tiêu!” Tiếng đao kiếm va chạm nhau phát ra từ phía hậu điện, trong hậu điện đèn đuốc sáng trưng. Ta khom người xuống rón rén đến gần, nhìn qua song cửa sổ mới thở phào nhẹ nhõm, suýt bật cười. Thì ra ta đa nghi quá đáng. Mấy ngày nay, Dư quán chủ vẫn chưa tiếp kiến ta, ta suy quanh tính quẩn, mà toàn là những chuyện tào lao. Đại sư ca đâu có tìm đến đây sinh sự. Ta chỉ thấy trong điện có hai cặp đang tỉ kiếm, một cặp là Hầu Nhân Anh và Hồng Nhân Hùng, cặp kia là Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào.
Lục Đại Hữu nói:
– Ấy chà, bọn đệ tử phái Thanh Thành dụng công quá cỡ, ban đêm cũng không nghỉ ngơi. Đây mới gọi là đụng trận mới mài thương, khi bình thường chẳng chịu thắp hương, lúc cần kíp ôm chân Đức Phật!
Lao Đức Nặc nguýt gã một cái, tủm tỉm cười rồi nói tiếp:
– Ta thấy chính giữa hậu điện có một đạo nhân vừa nhỏ con vừa lùn tịt, mình mặc đạo bào màu xanh đang ngồi. Lão ước chừng khoảng năm mươi tuổi, mặt gầy đét. Coi bộ dạng lão như vậy, nặng lắm cũng khoảng bảy tám chục cân là cùng. Võ lâm thường nói chưởng môn của phái Thanh Thành là một đạo nhân lùn beo. Nhưng nếu chưa tận mắt nhìn thấy thì làm sao có thể tưởng tượng nổi lão nhỏ bé nầy lại là Dư quán chủ nổi danh khắp thiên hạ? Xung quanh lão có mấy chục đệ tử đứng theo dõi không chớp mắt bốn tên đệ tử đang chiết kiếm. Ta mới xem mấy chiêu thì biết ngay là bốn tên đệ tử này đang chiết giải mấy chiêu mới mà chúng vừa học được từ mấy hôm trước. Ta biết lúc đó rất nguy hiểm, nếu bị phái Thanh Thành phát hiện, không những thân ta phải chịu nhục nhã mà chuyện vỡ lở ra ngoài thì thanh danh của bổn phái cũng bị liên lụy. Đại sư ca chỉ đá có một cước mà làm cho hai tên đứng đầu “Thanh Thành tứ tú” Hầu Nhân Anh và Hồng Nhân Hùng rơi xuống lầu; sư phụ tuy trách phạt, rầy la đại sư ca không biết giữ môn quy, đi gây gổ cho sinh chuyện đắc tội với bằng hữu nhưng thực ra, biết đâu sư phụ cũng lấy đó làm hoan hỷ. Xét cho cùng, đại sư ca đã làm rạng danh bổn phái. Thanh Thành tứ tú con mẹ gì mà không tránh khỏi một cước của đại đệ tử bổn phái. Còn bây giờ ta lén lút nhìn trộm chuyện bí mật của họ, họ cho người bắt giữ thì so với chuyện trộm tiền còn tệ hại hơn nhiều, lúc trở về núi sư phụ sẽ nổi giận mà đuổi cổ ta ra khỏi môn tường. Nhưng ta thấy chúng luyện đấu nhộn nhịp như vậy thì không chừng chuyện này có quan hệ đến phái ta, ta không thể quay lưng bỏ mặc được. Lúc đó ta nghĩ mình chỉ xem vài chiêu rồi lập tức đi liền. Nhưng xem xong mấy chiêu đó, ta lại xem thêm mấy chiêu nữa. Cách sử kiếm của bốn gã thật là cổ quái, bình sinh ta chưa bao giờ thấy qua, nhưng chiêu kiếm này chẳng có oai lực gì cả khiến ta không hình dung nổi. Ta lấy làm lạ là kiếm pháp này chẳng có gì để người ta kính phục, tại sao phái Thanh Thành phải ngày đêm tập luyện? Lẽ nào kiếm pháp này lại là khắc tinh của Hoa Sơn kiếm pháp nhà ta? Xem ra cũng chưa chắc vậy. Ta lại xem thêm mấy chiêu nữa, rồi không dám đứng lâu, nhân lúc bốn gã đấu với nhau đến chỗ gay cấn, lập tức ta rón rén về phòng vì chờ xem bốn gã đấu xong thì e rằng ta khó bề thoát thân. Dư quán chủ võ công cao cường; ta ở ngoài điện chỉ cần bước một bước thôi cũng có thể bị lão phát hiện ngay.
Hai hôm sau cũng vào nửa đêm, ta lại nghe tiếng kiếm va chạm nhau nhưng không dám đi xem nữa. Kỳ thực nếu như ta sớm biết chúng đang luyện kiếm trước mặt Dư quán chủ thì ta không dám đi xem trộm. Có lẽ do số trời nên ta mới nhìn được một lần mà thôi. Lục sư đệ còn thơm thảo khen ta gan dạ khiến cho ta thêm hổ thẹn. Tối hôm đó, nếu lục sư đệ thấy ta mặt cắt không còn chút máu mà không chửi nhị sư ca là bậc đệ nhất nhát gan trong thiên hạ thì ta đã đa tạ sư đệ rồi.
Lục Đại Hữu nói:
– Không dám, không dám! Nhị sư ca giỏi lắm cũng chỉ là đệ nhị trong thiên hạ. Nhưng nếu là tiểu đệ, tiểu đệ cũng không sợ bị Dư quán chủ phát hiện vì lúc đó đệ đã toàn thân lạnh cứng, hơi thở không thông, chẳng bước được một bước, khác nào thây ma. Bản lĩnh của Dư quán chủ có cao thâm đến đâu cũng không thể biết bên ngoài cửa sổ có Lục Đại Hữu này là một “anh hùng bậc nhất”.
Mọi người cười bò cả ra.
Lao Đức Nặc kể tiếp:
– Cuối cùng, Dư quán chủ cũng tiếp kiến ta. Lão nói rất khách khí rằng sư phụ phạt nặng đại sư ca như vậy là hơi quá đáng. Hai phái Hoa Sơn và Thanh Thành vốn có mối giao hảo từ lâu; các đệ tử nhất thời nóng nảy nên mới xảy ra đánh nhau thì cũng coi như trẻ con đánh lộn, người lớn hà tất phải quá bận tâm. Tối hôm đó, lão còn mời ta ăn tiệc. Sáng sớm hôm sau, khi ta cáo từ, Dư quán chủ còn tiễn ta ra tận cổng Tùng Phong quán. Ta nghĩ mình là tiểu bối, lúc từ biệt cũng nên quỳ xuống dập đầu. Ta mới co đầu gối trái thì tay phải của Dư quán chủ đã nhẹ nhàng đỡ ta dậy. Luồng kình lực của lão thật đáng sợ; ta cảm thấy toàn thân như bị bốc lên khỏi mặt đất, một chút khí lực cũng không vận dụng được. Nếu lão muốn ném ta ra xa mươi trượng hay làm cho ta lộn nhào bảy tám vòng thì ta cũng không chống cự được chút nào. Lão tủm tỉm cười hỏi: “Đại sư ca của ngươi nhập môn trước ngươi mấy năm? Ngươi có tài nghệ rồi mới đầu sư phái Hoa Sơn phải không?” Ta bị lão nhấc lên không thở nổi, một hồi lâu mới trả lời: “Dạ, đệ tử có tài nghệ rồi mới bái sư, lúc đệ tử bái tổ thì đại sư ca đã là môn hạ phái Hoa Sơn mười hai năm rồi”. Dư quán chủ vừa cười vừa nói: “Hơn mười hai năm, hừ, hơn mười hai năm”.
Thiếu nữ hỏi:
– Lão nói “hơn mười hai năm” là có ý gì?
Lao Đức Nặc đáp:
– Lúc đó thần sắc của lão rất kỳ quặc. Theo ta đoán, lão nghĩ võ công của ta bình thường, đại sư ca tập luyện hơn ta mười hai năm, võ công cũng chưa chắc đã giỏi hơn bao nhiêu.
Lao Đức Nặc kể tiếp:
– Ta về đến núi, trình sư phụ bức thư của Dư quán chủ. Bức thư đó viết với lời lẽ rất nhã nhặn chu đáo, lại vô cùng khiêm nhường. Xem thư xong, sư phụ rất vui mừng, hỏi ta tình hình trong Tùng Phong quán. Ta liền đem chuyện bọn đệ tử phái Thanh Thành ngày đêm luyện kiếm, sư phụ bảo ta diễn lại. Ta chỉ nhớ được bảy, tám chiêu liền lập tức diễn lại. Sư phụ xem xong nói: “Đây là Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm ở Phước Oai tiêu cục!”
Lâm Bình Chi nghe đến đây không kìm nén được nữa, run lên bần bật.
– Ta lại hỏi sư phụ: “Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm có oai lực rất lớn phải không? Tại sao phái Thanh Thành ngày đêm dụng tâm tập luyện như vậy?” Sư phụ không trả lời, nhắm mắt suy nghĩ một lúc rồi mới nói: “Đức Nặc, trước khi nhập môn, ngươi đã phiêu bạt giang hồ nhiều năm. Trong võ lâm, ngươi có nghe ai bình luận về võ công của Lâm Chấn Nam, tổng tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục ra sao không?” Ta liền đáp: “Các bằng hữu trong võ lâm đều khen rằng Lâm Chấn Nam là một người rộng rãi, giao tình với bạn bè rất có nghĩa khí, mọi người đều chịu ơn nên không đụng đến công việc bảo tiêu của lão. Còn các thủ hạ của lão võ công thực sự ra sao đệ tử cũng không rõ!” Sư phụ nói: “Đúng vậy! Mấy năm gần đây Phước Oai tiêu cục làm ăn thịnh vượng là nhờ bằng hữu trên giang hồ nể mặt. Ngươi có từng nghe nói sư phụ của Dư quán chủ là Trường Thanh Tử lúc còn thiếu niên đã bị Tịch tà kiếm pháp của Lâm Viễn Đồ hạ không?” Ta đáp: “Lâm… Lâm Viễn Đồ ư? Là phụ thân của Lâm Chấn Nam phải không?” Sư phụ nói “Không, Lâm Viễn Đồ là tổ phụ của Lâm Chấn Nam; Phước Oai tiêu cục là do một tay lão gầy dựng nên. Năm đó, Lâm Viễn Đồ dùng bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm pháp để gây dựng nên tiêu cục, trở thành một cao thủ vô địch trong phe hắc đạo. Thuở đó, anh hùng của bạch đạo thấy lão oai phong quá mức, bèn đi tìm lão để tỉ thí võ nghệ. Trường Thanh Tử vì thế mà bị thua mấy chiêu Tịch tà kiếm pháp của lão. Ta đáp: “Nếu nói như vậy, Tịch tà kiếm pháp quả nhiên vô cùng lợi hại?” Sư phụ nói: “Hai bên đều giữ kín việc Trường Thanh Tử bị thua mấy chiêu, vì thế không ai trong võ lâm biết cả. Tiền bối Trường Thanh Tử và sư tổ của ngươi là bạn thân với nhau nên đã kể lại cho sư tổ của ngươi biết. Lão còn tự nhận đây là sự nhục nhã lớn nhất trong đời lão, nhưng lão biết mình không địch nổi Lâm Viễn Đồ, mối thù này khó mà báo được. Sư tổ ngươi và lão cùng chiết giải Tịch tà kiếm pháp để giúp lão tìm ra chỗ sơ hở trong kiếm pháp này. Bảy mươi hai đường kiếm pháp này bề ngoài thì thấy bình thường nhưng bên trong lại chứa đựng nhiều sự biến hóa huyền diệu mà người ngoài không hiểu nổi. Thời gian trôi qua, hai vị tiền bối nghiên cứu kiếm pháp đã mấy tháng mà vẫn không tìm được chỗ sơ hở để phá giải. Lúc đó ta mới nhập môn, còn là một thiếu niên chưa quá mười tuổi, đứng một bên hầu trà nên được xem rất tỉ mỉ. Ngươi chỉ cần diễn một chiêu thức thì ta biết ngay đây là Tịch tà kiếm pháp. Than ôi, tháng năm trôi như nước chảy, chuyện mới đây mà đã thành chuyện mấy chục năm rồi!”
Lâm Bình Chi từ khi bị đệ tử phái Thanh Thành đánh đến nỗi không còn khí lực để chống đỡ, đã hoàn toàn mất lòng tin về võ công gia truy ền của nhà họ Lâm mình, chỉ muốn tìm một vị minh sư khác thụ giáo để trả mối thù này. Lúc này, chàng nghe Lao Đức Nặc nói về oai phong của tằng tổ Lâm Viễn Đồ, bất giác tinh thần phấn chấn. Chàng nghĩ: Thì ra Tịch tà kiếm pháp của nhà mình quả nhiên không phải tầm thường, đến nỗi nhân vật đầu não của phái Hoa Sơn và phái Thanh Thành cũng không tìm ra được chỗ sơ hở. Nếu vậy thì tại sao gia gia lại địch không nổi mấy gã hậu sinh tiểu tử của phái Thanh Thành? Chắc có lẽ gia gia chưa học đến chỗ tinh vi huyền diệu của kiếm pháp.
Lao Đức Nặc kể tiếp:
– Ta hỏi sư phụ: “Về sau tiền bối Trường Thanh Tử có trả được mối thù này không?” Sư phụ đáp: “Tỉ thí mấy chiêu thực ra cũng không có thể gọi là oán thù. Huống hồ lúc đó Lâm Viễn Đồ đã thành danh nhiều năm rồi, người trong võ lâm đều khâm phục lão như một vị tiền bối anh hùng còn Trường Thanh Tử chỉ là một tiểu đạo sĩ vừa xuất đạo. Kẻ hậu sinh tiểu tử thua dưới tay bậc tiền bối là chuyện bình thường. Sư tổ của ngươi khuyên giải lão một phen, rồi việc này cũng không đề cập đến nữa. Về sau, Trường Thanh Tử sống được ba mươi sáu tuổi thì qua đời, không chừng vì lão bực tức chuyện này mà chết. Chuyện xảy ra cách đây đã mấy chục năm, nay Dư Thương Hải đột nhiên hướng dẫn b ọn đệ tử luyện Tịch tà kiếm pháp là vì cớ gì? Đức Nặc, ngươi thử nghĩ xem?” Ta nói: “Đệ tử thấy tình hình mọi người luyện kiếm trong Tùng Phong quán, thần sắc ai cũng trịnh trọng. Lẽ nào Dư quán chủ muốn kéo bè kéo đảng đến đánh Phước Oai tiêu cục để báo thù cho người đời trước?” Sư phụ gật đầu, nói: “Ta cũng nghĩ như vậy. Trường Thanh Tử bụng dạ hẹp hòi, tự cao tự đại nên chuyện bị thua dưới kiếm Lâm Viễn Đồ nhất định canh cánh bên lòng, chắc có lẽ trước lúc lâm chung đã di lệnh cho Dư Thương Hải điều đó. Lâm Viễn Đồ chết trước Trường Thanh Tử. Dư Thương Hải nếu muốn báo thù cho sư phụ chỉ còn tìm con trai của Lâm Viễn Đồ là Lâm Trọng Hùng nhưng không hiểu tại sao đợi cho đến ngày hôm nay mới ra tay hành động. Dư Thương Hải thâm trầm kín đáo, lập mưu rồi mới hành động sau, lần này phái Thanh Thành và Phước Oai tiêu cục có thể xảy ra một trận đại chiến!” Ta hỏi sư phụ: “Sư phụ đoán xem cuộc tranh đấu này ai thắng ai bại?” Sư phụ cười nói: “Võ công của Dư Thương Hải cũng như màu xanh từ màu lam mà ra nhưng lại xanh hơn màu lam; nên đẳng cấp cao hơn Trường Thanh Tử. Võ công của Lâm Chấn Nam thì ta khó biết được cặn kẽ nhưng có lẽ không bằng tổ phụ y. Một bên thì hơn, một bên thì kém; hơn nữa phái Thanh Thành ở trong bóng tối mà Phước Oai tiêu cục ở ngoài ánh sáng. Khi chưa động thủ, Phước Oai tiêu cục đã thấy thua đến bảy thành rồi. Nếu Lâm Chấn Nam biết trước được chuyện này, mời được Kim đao Vương Nguyên Bá ở Lạc Dương tương trợ, thì mới có thể địch lại. Đức Nặc, ngươi muốn đi xem cuộc náo nhiệt này không?” Ta liền vui mừng phụng mệnh ngay. Sư phụ bèn dạy cho ta mấy chiêu kiếm pháp đắc ý của phái Thanh Thành để phòng thân.
Lục Đại Hữu nói:
– Úi chao, sư phụ cũng biết sử kiếm pháp của phái Thanh Thành ư? A! Đúng rồi, năm đó Trường Thanh Tử cùng với gia gia của sư tổ chúng ta chiết giải, phải dùng Thanh Thành kiếm pháp để đối phó với Tịch tà kiếm pháp. Sư phụ đứng bên cạnh nên thấy hết!
Lao Đức Nặc nói:
– Lục sư đệ, về lai lịch võ công của sư phụ, chúng ta là đệ tử không nên suy đoán. Sư phụ lại ra lệnh cho ta không nên nói cho các vị đồng môn nghe, để khỏi tiết lộ ra ngoài. Nhưng tiểu sư muội tinh ranh quá trời, biết hết mọi chuyện, cứ quanh quẩn bên sư phụ để xin cùng đi với ta. Ta và sư muội cải trang làm người bán rượu ở ngoại thành Phúc Châu, mỗi ngày đến Phước Oai tiêu cục xem thử có động tĩnh gì không. Nhưng không thấy gì cả, chỉ thấy Lâm Chấn Nam dạy con trai là Lâm Bình Chi luyện kiếm. Tiểu sư muội nhìn thấy lắc đầu nói với ta: “Đó không phải là Tịch tà kiếm pháp. Bọn Thanh Thành mới là Tịch tà kiếm pháp, tà ma đến nơi, vị Lâm công tử này càng tránh xa càng tốt!”
Bọn đệ tử phái Hoa Sơn cười rần cả lên. Mặt Lâm Bình Chi đỏ như gấc, chàng hổ thẹn không biết núp vào đâu, nghĩ bụng: Thì ra hai người đã đến dòm ngó tiêu cục mình nhiều lần. Nhà mình không hề hay biết gì, quả thật là vô dụng.
Lao Đức Nặc kể tiếp:
– Hai sư huynh sư muội ta ở ngoại thành Phúc Châu chưa được mấy ngày thì bọn đệ tử phái Thanh Thành lục tục kéo đến. Trước hết là hai gã Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào. Hai gã này mỗi ngày đều đến tiêu cục để thám thính, ta và tiểu sư muội sợ gặp phải họ, bèn không đi nữa. Ngày hôm đó cũng vừa đúng dịp vị Lâm công tử chiếu cố đại bảo hiệu của ta và sư muội mới mở ra. Tiểu sư muội đành phải đem rượu cho gã uống. Lúc đó, chúng ta chỉ lo bị gã phát hiện, nhưng khi nghe gã nói mấy câu thì mới biết gã hoàn toàn chẳng biết gì cả. Con em nhà quyền quý mà cái gì cũng không hiểu, một chút xíu hoài nghi cũng không có. Ngay lúc đó, phái Thanh Thành có hai gã đệ tử vô lại là Dư Nhân Ngạn và Giả Nhân Đạt cũng đến chiếu cố đại bảo hiệu của chúng ta…
Lục Đại Hữu vỗ tay nói:
– Nhị sư ca, sư ca và tiểu sư muội khai trương đại bảo hiệu thực đúng là sinh ý thông ra bốn biển, tài nguyên thịnh suốt ba sông. Hai vị ở Phúc Kiến đại phát tài rồi.
Thiếu nữ cười đáp:
– Còn phải nói nữa. Nhị sư ca đã sớm thành vị chủ quán phát tài; tiểu muội cũng nhờ dư phước của đại chủ nhân mà “kiếm chác” được không ít dầu mỡ!
Mọi người cười phá lên.
Lao Đức Nặc nói:
– Đừng có xem nhẹ võ công tầm thường của Lâm thiếu tiêu đầu. Gã không đáng làm đồ đệ của tiểu sư muội chúng ta nhưng có khí phách. Tiểu nhi tử vô dụng của Dư Thương Hải là Dư Nhân Ngạn càng đui mù hơn nữa, dám động tay động chân với tiểu sư muội, buông ra những lời sàm sỡ. Lâm công tử thấy vậy ôm mối bất bình, liền ra tay đánh hắn.
Lâm Bình Chi vừa hổ thẹn vừa phẫn nộ, chàng nghĩ bụng: Thì ra phái Thanh Thành đã có dụng tâm từ lâu, nên động thủ với tiêu cục mình là để báo thù rửa nhục cho người bại kiếm đời trước. Kỳ thực, bọn chúng đến Phúc Châu không chỉ có bọn Phương Nhân Trí bốn người. Việc ta giết hay không giết Dư Nhân Ngạn cũng không liên can gì cả.
Chàng càng nghĩ càng phiền não. Lao Đức Nặc thuật lại chuyện chàng giết chết Dư Nhân Ngạn ra sao, chàng cũng không để lọt vào tai. Nhưng nghe Lao Đức Nặc nói, bọn người kia cười rộ, rõ ràng là chúng chế giễu võ công thấp kém của chàng, cho rằng những chiêu thức của chàng hoàn toàn là chiêu thức mèo què.
Lao Đức Nặc kể tiếp:
– Đêm hôm đó, ta và tiểu sư muội lại đến Phước Oai tiêu cục để quan sát, chỉ thấy Dư quán chủ thống lãnh bọn Hầu Nhân Anh, Hồng Nhân Hùng và hơn mười đại đệ tử đã đến đó rồi. Chúng ta sợ bị người phái Thanh Thành phát giác nên đứng xa xa mà nhìn cuộc náo nhiệt. Trước tiên, chúng giết từng tiêu đầu và tên cầm cờ trong tiêu cục. Tiêu cục phái mấy tiêu đầu đi ra ngoài cầu viện cũng đều bị chúng giết chết cả, bao nhiêu xác chết đều được đưa trả về tiêu cục. Chúng hạ thủ thật tàn bạo. Lúc đó ta nghĩ đời trước Trường Thanh Tử của phái Thanh Thành tỉ kiếm với Lâm Viễn Đồ mà thất bại, Dư quán chủ muốn trả mối thù này chỉ nên tỉ kiếm với hai cha con Lâm Chấn Nam, thắng họ là được rồi, sao lại phải hạ thủ tàn bạo như thế? Nhất định là chúng báo thù cho Dư Nhân Ngạn. Nhưng chúng lại tha không giết hai vợ chồng Lâm Chấn Nam và Lâm Bình Chi, chỉ làm mọi cách để buộc họ rời khỏi tiêu cục. Ba người nhà họ Lâm và mọi người trong tiêu cục ra khỏi tiêu cục xong, Dư quán chủ mới tiến vào, ngang nhiên đi thẳng đến đại sảnh ngồi vào chiếc ghế thái sư. Phước Oai tiêu cục coi như đã bị phái Thanh Thành của lão chiếm giữ!
Lục Đại Hữu nói:
– Phái Thanh Thành của lão tiếp tục tiêu diệt những phân cục khác. Dư Thương Hải muốn làm tổng tiêu đầu!
Lao Đức Nặc nói tiếp:
– Phái Thanh Thành đã sớm biết ba người nhà họ Lâm cải trang trốn khỏi tiêu cục. Ba tên Phương Nhân Trí, Vu Nhân Hào, Giả Nhân Đạt phụng mệnh sư phụ đuổi theo bắt lại. Tiểu sư muội nhất định đòi xem cuộc náo nhiệt này, vì thế hai người chúng ta lại đi theo sau bọn Phương Nhân Trí. Đến một quán cơm nhỏ dưới chân núi phía Nam thành Phúc Châu, Phương Nhân Trí, Vu Nhân Hào, Giả Nhân Đạt đưa bộ mặt thật ra, bắt giữ ba người nhà họ Lâm. Tiểu sư muội nói: “Sở dĩ Lâm công tử giết Dư Nhân Ngạn là vì tiểu muội mà ra, chúng ta không thể thấy chết mà không cứu!” Ta hết sức ngăn cản, nói lỡ chúng ta ra tay nhất định sẽ làm mất hòa khí giữa hai phái Thanh Thành và Hoa Sơn, huống chi Dư quán chủ đang ở Phúc Châu, hai chúng ta không nên xuất đầu lộ diện.
Lục Đại Hữu nói:
– Nhị sư ca lớn tuổi hơn nên làm việc gì cũng thận trọng, há không làm cụt hứng của tiểu sư muội sao?
Lao Đức Nặc cười nói:
– Tiểu sư muội cực kỳ cao hứng, nhị sư ca có muốn làm cụt hứng cũng không được. Lúc đó, tiểu sư muội vào nhà bếp trước, đánh Giả Nhân Đạt lỗ đầu phun máu la oai oái. Hai gã Phương, Vu chạy vào; tiểu sư muội lại vòng ra phía trước để cứu Lâm công tử, đưa hắn ta lên ngựa chạy trốn.
Lục Đại Hữu vỗ tay nói:
– Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Ta biết rồi, tiểu sư muội cứu tiểu tử họ Lâm kia chẳng qua là có dụng ý khác. Hay lắm, hay lắm!
Thiếu nữ nói:
– Tiểu muội có dụng ý gì nào? Sư ca lại nói bậy bạ nữa rồi.
Lục Đại Hữu nói:
– Ta vì phái Thanh Thành mà bị sư phụ đánh đòn, tiểu sư muội không khỏi tức giận muốn đánh người phái Thanh Thành để trả hận cho ta. Đa tạ.
Gã vừa nói vừa đứng lên hướng về thiếu nữ xá một cái thật dài.
Thiếu nữ cười khúc khích xá lại gã một cái, rồi cười nói:
– Lục hầu nhi, sư ca không cần đa lễ!
Gã cầm bàn tính cười nói:
– Tiểu sư muội đánh đệ tử phái Thanh Thành có phải là vì Lục sư ca hay không thì phải xét lại, vì lúc sư phụ đánh đòn Lục Đại Hữu ta không thấy tiểu sư muội tức giận chút nào.
Lao Đức Nặc cười nói:
– Lần này Lục sư đệ nói đúng rồi. Tiểu sư muội đánh gã Giả Nhân Đạt đích thực là để trả mối tức giận cho Lục sư đệ. Sau này sư phụ có hỏi, tiểu sư muội cũng trả lời thật như vậy.
Lục Đại Hữu xua tay lia lịa nói:
– Món nhân tình này ta không dám nhận đâu. Đừng để ta bị đòn thêm nữa!
Gã cao người hỏi:
– Vậy hai gã Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào không truy đuổi sao?
Thiếu nữ nói:
– Sao không đuổi. Nhưng nhị sư ca đã học qua Thanh Thành kiếm pháp, một chiêu Hồng phi minh minh phát ra thì trường kiếm của hai gã đã bay tuốt lên trời. Chỉ đáng tiếc là lúc đó Nhị sư ca dùng tấm vải đen che mặt nên hai gã Phương, Vu không biết đã bị môn hạ của phái Hoa Sơn đánh bại.
Lao Đức Nặc nói:
– Không biết thì tốt hơn, vì biết thì đã có thể xảy ra một trận đại phong ba. Nếu chỉ dựa vào công phu thực sự thì ta cũng chưa chắc đấu lại hai gã Phương, Vu; chỉ vì ta bỗng nhiên sử kiếm pháp phái Thanh Thành tấn công vào chỗ sơ hở của chúng khiến sư huynh, sư đệ chúng phải một phen kinh hoàng, nên mới chiếm được thượng phong.
Bọn đệ tử phái Hoa Sơn xôn xao bàn tán, cho rằng nếu đại sư ca biết được chuyện này thì nhất định sẽ mười phần cao hứng.
Ngoài trời, mưa càng lúc càng to. Một lão già gánh hoành thánh từ ngoài chạy vào quán trà trú mưa. Lão gõ hai thanh tre kêu lóc cóc; nước sôi trong nồi bốc lên nghi ngút.
Bọn đệ tử phái Hoa Sơn đã đói bụng cả rồi, thấy gánh hoành thánh đến thì hết sức vui mừng.
Lục Đại Hữu gọi:
– Lão già, làm cho chúng ta bảy bát hoành thánh, cho thêm trứng gà vào!
Lão già đáp:
– Dạ dạ!
Lão mở nắp bỏ hoành thánh vào nồi nước lèo đang sôi, chẳng mấy chốc đã nấu xong năm bát nóng hổi bưng lên.
Lục Đại Hữu rất biết khuôn phép. Bát thứ nhất bưng cho nhị sư ca Lao Đức Nặc; bát thứ hai bưng cho tam sư huynh Lương Phát; rồi cứ theo thứ tự bưng cho tứ sư huynh Thi Đới Tử, ngũ sư huynh Cao Căn Minh. Bát thứ năm đáng lẽ là bát của gã nhưng gã lại bưng đặt trước mặt thiếu nữ rồi nói:
– Tiểu sư muội, sư muội ăn trước đi.
Thiếu nữ vẫn hay nói đùa với gã, kêu gã là Lục hầu nhi nhưng khi thấy gã bưng bát hoành thánh đến liền đứng dậy nói:
– Đa tạ sư ca!
Từ bàn bên cạnh, Lâm Bình Chi liếc trộm qua, nghĩ bụng: Có lẽ khuôn phép sư môn của bọn này rất nghiêm. Bình thường tuy họ cười nói giỡn cợt với nhau nhưng vẫn không quên vai vế lớn nhỏ.
Thiếu nữ đợi cho Lục Đại Hữu và các sư huynh đều có hoành thánh, cô mới cùng ăn.
Lương Phát hỏi:
– Nhị sư ca, hồi nãy sư ca nói Dư quán chủ đã chiếm được Phước Oai tiêu cục rồi. Sau đó thì sao?
Lao Đức Nặc đáp:
– Tiểu sư muội cứu Lâm thiếu tiêu đầu xong, còn định âm thầm theo dõi bọn Phương Nhân Trí để tìm cơ hội cứu vợ chồng Lâm Chấn Nam. Ta khuyên tiểu sư muội rằng: “Dư Nhân Ngạn ngày đó vô lễ với sư muội, Lâm thiếu tiêu đầu đã trượng nghĩa ra tay, tiểu muội cảm kích cái tình của gã mà cứu mạng là đã đủ báo đáp rồi. Phái Thanh Thành và Phước Oai tiêu cục đã có thù oán từ đời trước, chúng ta nhúng tay vào làm gì?” Tiểu sư muội nghe lời. Sau đó, hai chúng ta quay về thành Phúc Châu, thấy mười mấy tên đệ tử phái Thanh Thành canh gác nghiêm mật từ trước ra sau Phước Oai tiêu cục. Chúng ta rất lấy làm kỳ. Mọi người trong tiêu cục đã đi tứ tán, ngay cả vợ chồng Lâm Chấn Nam cũng bỏ đi, phái Thanh Thành còn kiêng dè gì nữa? Ta và tiểu sư muội đoán không ra nguyên do sâu kín bên trong nên tò mò muốn đi quan sát. Chúng ta nghĩ bọn đệ tử phái Thanh Thành canh giữ nghiêm mật như vậy, ban đêm đột nhập cũng không dễ nên thừa lúc bọn chúng thay người để ăn cơm tối, hai chúng ta đột nhập vườn rau và núp trong đó. Vừa nhảy vào tiêu cục, chúng ta đã thấy rất nhiều đệ tử phái Thanh Thành đang lục soát khắp nơi. Chúng cạy hòm, đục tường, khoét vách, mở bồ, khiến cho cả Phước Oai tiêu cục từ trước ra sau đều bị đảo lộn cả lên. Trong tiêu cục có rất nhiều vàng bạc châu báu chưa mang đi kịp, nhưng bọn chúng vẫn bỏ sang một bên, không thèm đoái hoài đến. Ta nghĩ: “Chúng đang lục tìm một thứ gì đó vô cùng quan trọng. Vậy đó là vật gì?”
Ba bốn tên đệ tử phái Hoa Sơn cùng nói:
– Đó là Tịch tà kiếm phổ!
Lao Đức Nặc nói:
– Đúng vậy. Ta và tiểu sư muội cũng nghĩ như vậy. Rõ ràng, sau khi chiếm được Phước Oai tiêu cục thì chúng lập tức sục sạo tứ tung. Chúng ra sức đào bới đến độ mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng cũng vô ích.
Lục Đại Hữu hỏi:
– Sau đó, chúng có sục sạo nữa không?
Lao Đức Nặc nói:
– Ta và tiểu sư muội đều muốn xem cho tận tường. Mấy gã đệ tử phái Thanh Thành sục sạo khắp nơi, đến cái hố xí cũng không chừa. Ta và tiểu sư muội không còn chỗ ẩn núp, đành phải rút lui.
Ngũ đệ tử Cao Căn Minh hỏi:
– Nhị sư ca, lần này Dư Thương Hải đích thân xuất mã, có phải là lão nhân chuyện nhỏ mà làm to ra không?
Lao Đức Nặc nói:
– Sư phụ của Dư quán chủ đã bị thua dưới Tịch tà kiếm pháp của Lâm Viễn Đồ. Xét cho cùng, Lâm Chấn Nam là con cháu dù có sút kém nhưng còn dựa vào oai danh của cha ông, người ngoài không biết thực hư. Nếu Dư quán chủ chỉ phái mấy tên đệ tử đến tìm vật gì đó thì phải nói là quá ư cao ngạo. Lão đích thân xuất mã, trước tiên là đôn đốc đệ tử luyện kiếm, chuẩn bị kỹ rồi mới ra tay lật đổ tiêu cục cũng không thể xem là chuyện nhỏ mà làm to được. Theo ta thấy, lão đến Phúc Châu để báo thù là vấn đề phụ, chủ yếu là lão đi tìm bộ Tịch tà kiếm phổ.
Tứ đệ tử là Thi Đới Tử nói:
– Nhị sư ca! Sư ca ở Tùng Phong quán thấy được chúng luyện Tịch tà kiếm pháp; đường kiếm này đã biết sử rồi thì hà tất chúng phải đi tìm kiếm phổ? Không chừng chúng muốn đi tìm thứ gì khác.
Lao Đức Nặc lắc đầu đáp:
– Chưa chắc, vì Dư quán chủ là một cao nhân, ngoài bí quyết võ công ra, trên đời này còn có vật gì đáng để lão quan tâm nữa? Sau đó, ở Ngọc Sơn tỉnh Giang Tây, ta và tiểu sư muội lại gặp bọn chúng. Ta nghe Dư quán chủ tra hỏi các đệ tử ở Triết Giang, Quảng Đông có tìm thấy vật đó không. Thần sắc cả bọn đầy lo âu, xem ra không ai tìm thấy được.
Thi Đới Tử vẫn chưa hiểu, lại hỏi:
– Rõ ràng là chúng biết sử dụng kiếm pháp rồi, sao lại đi tìm kiếm phổ để làm gì nữa. Thật là kỳ quái.
Lao Đức Nặc nói:
– Tứ đệ thử nghĩ xem, ngày trước Lâm Viễn Đồ có thể đánh bại Trường Thanh Tử, kiếm pháp của lão chắc chắn phải cao minh vô cùng. Nhưng lúc Trường Thanh Tử ghi nhớ trong lòng để truyền lại cho đệ tử thì tất nhiên chiêu thức Tịch tà kiếm pháp là thứ tầm thường. Bây giờ, Dư quán chủ tận mắt trông thấy võ công của cha con họ Lâm càng chẳng ra gì cả. Vậy trong vấn đề này nhất định có cái gì đó không bình thường.
Thi Đới Tử hỏi:
– Sao lại không bình thường?
Lao Đức Nặc đáp:
– Ta nghĩ rằng trong Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm còn có bí quyết nào đó; chiêu thức kiếm pháp tuy như vậy nhưng oai lực lại cực kỳ dũng mãnh, và Lâm Chấn Nam chưa học được bí quyết này.
Thi Đới Tử suy nghĩ một lúc rồi gật đầu nói:
– Thì ra là vậy. Nhưng khẩu quyết kiếm pháp đều do chính sư phụ khẩu truyền. Lâm Viễn Đồ đã chết mấy chục năm rồi, giờ có tìm ra quan tài của lão, lôi tử thi ra thì cũng chẳng ích gì.
Lao Đức Nặc nói:
– Kiếm quyết của bổn phái là do sư phụ khẩu truyền, không thể lạc mất văn tự nhưng võ công các nhà, các phái khác chưa chắc đã như vậy.
Thi Đới Tử nói:
– Nhị sư ca, đệ vẫn chưa hiểu rõ. Nếu trước đây chúng muốn đi tìm bí quyết của Tịch tà kiếm pháp thì còn có lý. Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng, muốn thắng được Tịch tà kiếm pháp thì cần phải hiểu bí quyết. Nhưng trước mắt, phái Thanh Thành đã bắt vợ chồng Lâm Chấn Nam đi rồi; tổng cục Phước Oai tiêu cục cùng các phân cục khác đều bị chúng phá sạch sành sanh rồi, còn gì nữa mà đòi báo thù? Cứ coi như trong Tịch tà kiếm pháp thực sự có bí quyết thì chúng tìm để làm gì nữa?
Lao Đức Nặc hỏi:
– Tứ đệ, võ công phái Thanh Thành so với Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta như thế nào?
Thi Đới Tử đáp:
– Tiểu đệ không biết.
Một lúc sau gã lại nói:
– E rằng không bằng.
Lao Đức Nặc nói:
– Đúng vậy. Sư đệ thử nghĩ xem Dư quán chủ là người tâm cao khí ngạo, tại sao không muốn nở mày nở mặt, hơn hẳn người khác trong võ lâm? Nếu chính xác có bí quyết nằm trong nhà họ Lâm thì những chiêu bình thường của Tịch tà kiếm pháp có thể sẽ biến thành những chiêu thức có oai lực kỳ lạ. Nếu đem bí quyết này dùng vào trong kiếm pháp của phái Thanh Thành thì sẽ ra sao?
Thi Đới Tử ngẩn người ra một lúc rồi bỗng nhiên vỗ mạnh xuống bàn, nói lớn:
– Ta hiểu rồi. Thì ra Dư Thương Hải muốn không một ai trong võ lâm có thể địch lại kiếm pháp của phái Thanh Thành.
Bỗng nghe tiếng bước chân trên đường vọng lại. Có một đám người chạy đến, cước bộ rất nhẹ nhàng, rõ ràng là người trong võ lâm. Mọi người quay đầu nhìn ra đường, ch ỉ thấy qua làn mưa, có hơn mươi người đang tới. Thì ra là một đoàn ni cô. Lão ni cô đi đầu dáng người tầm thước, đứng trước quán trà quát lớn:
– Lệnh Hồ Xung, mau chường mặt ra đây!
Bọn Lao Đức Nặc nhìn thấy người này đều nhận ra đây là Định Dật, am chủ Bạch Vân am phái Hằng Sơn. Chưởng môn phái Hằng Sơn là sư tỷ của Định Dật, đạo hiệu là Định Nhàn sư thái.
Không những phái Hằng Sơn oai danh rất lớn mà trong võ lâm ai cũng kiêng sợ mụ ba phần. Bọn Lao Đức Nặc lập tức đứng dậy cúi mình cung kính hành lễ.
Lao Đức Nặc dõng dạc nói:
– Xin tham kiến sư thúc.
Định Dật sư thái quét mắt nhìn hết mọi người rồi lớn tiếng quát:
– Lệnh Hồ Xung trốn ở đâu? Mau chường mặt ra đây cho ta bảo!
Tiếng mụ nghe thô kệch hơn cả tiếng đàn ông. Lao Đức Nặc nói:
– Khải bẩm sư thúc, Lệnh Hồ sư huynh không có ở đây. Bọn đệ tử cũng đang chờ đại sư ca. Đại sư ca vẫn chưa đến.
Lâm Bình Chi nghĩ thầm: Thì ra chúng nói cả nửa ngày mới hay tên của người đại sư ca là Lệnh Hồ Xung. Người này cũng thật đa sự, không biết tại sao lại đắc tội với lão ni cô này?
Định Dật quét mắt khắp quán trà một lượt, khi mụ liếc mắt nhìn đến mặt thiếu nữ, bèn hỏi:
– Ngươi là Linh nhi phải không? Tại sao ngươi phải cải trang thành người có bộ mặt xấu xí vậy?
Thiếu nữ đáp:
– Có kẻ ác muốn làm khó tiểu điệt nhi nên tiểu điệt nhi đành phải cải trang để lánh mặt hắn.
Định Dật hừ một tiếng rồi đáp:
– Môn quy của phái Hoa Sơn càng ngày càng lỏng lẻo; gia gia của ngươi đã dễ dãi để cho các đệ tử ra ngoài quậy phá, gây nên những việc hồ đồ. Việc ở đây xong rồi, ta sẽ đích thân đến núi Hoa Sơn để hỏi cho ra lẽ.
Linh nhi lo lắng nói:
– Sư thúc, xin sư thúc đừng đi. Mới đây, đại sư ca vừa bị gia gia đánh ba mươi côn đến nỗi đi không được. Sư thúc đến nói với gia gia, sư ca lại bị đánh thêm sáu mươi côn nữa thì làm sao sống nổi?
Định Dật nói:
– Cái đồ súc sinh ấy đánh chết càng sớm càng tốt. Linh nhi, ngươi đừng nói dối ta. Tại sao Lệnh Hồ Xung đi không nổi? Hắn đi không nổi thì tại sao lại bắt tiểu đồ đệ của ta đi?
Lão ni vừa nói ra, bọn đệ tử phái Hoa Sơn đều thất sắc. Linh nhi lo lắng cơ hồ muốn bật khóc, vội nói:
– Sư thúc, không phải vậy đâu. Đại sư ca dù to gan đến đâu cũng quyết không dám mạo phạm đến sư tỉ của quý phái. Nhất định là có người bịa đặt nhảm nhí để chọc giận sư thúc đó.
Định Dật lớn tiếng nói:
– Ngươi còn dám cãi chày cãi cối ư? Nghi Quang đâu, người phái Thái Sơn đã nói với ngươi cái gì?
Một ni cô trung niên bước lên một bước nói:
– Các sư huynh ở phái Thái Sơn nói: Thiên Tùng đạo trưởng ở trong thành Hành Dương tận mắt nhìn thấy Lệnh Hồ Xung sư huynh và Nghi Lâm sư muội cùng uống rượu trên một tửu lâu. Tửu lâu này gọi là Hồi Nhạn lâu. Nghi Lâm sư muội rõ ràng là đã bị Lệnh Hồ Xung sư huynh dọa dẫm, không dám không uống, tinh thần… tinh thần rất là khổ não. Cùng uống rượu với hai người còn có… một gã… một gã… không có việc gì ác độc mà không dám làm. Đó là Điền… Điền Bá Quang!
Định Dật đã biết chuyện này, nhưng lúc mụ nghe kể lại vẫn còn tức giận, giơ tay đập xuống bàn một cái thật mạnh. Hai bát hoành thánh văng tưng lên, rơi xuống đất vỡ tan tành, phát ra mấy tiếng loảng xoảng.
Bọn đệ tử phái Hoa Sơn vô cùng bối rối. Linh nhi đau lòng đến nỗi nước mắt ứa ra rơi từng giọt, run run nói:
– Nhất định là họ nói dối. Không phải vậy… không phải vậy. Thiên Tùng sư thúc nhìn lầm người rồi.
Định Dật lớn tiếng nói:
– Thiên Tùng đạo nhân là người trong phái Thái Sơn làm sao mà nhìn lầm, cũng không thể nói thêm nói bớt được. Tên súc sinh Lệnh Hồ Xung rõ ràng là đã đi với tên ác đồ Điền Bá Quang ăn chơi trụy lạc, còn ra thể thống gì nữa? Sư phụ của ngươi cưng chiều gã quá đáng; ta gặp gã nhất quyết không tha. Trên giang hồ, Vạn lý độc hành Điền Bá Quang rất ác độc, lão ni quyết vì thiên hạ mà trừ đi đại họa này. Lúc ta được tin Điền Bá Quang và Lệnh Hồ Xung bắt cóc Nghi Lâm đi rồi, ta… ta… đến khắp nơi tìm chúng nhưng không thấy…
Lão ni nói đến câu cuối thì giọng khàn đi, liên tục dậm chân bịch bịch, than trời trách đất:
– Chao ôi! Nghi Lâm hài tử! Nghi Lâm hài tử!
Bọn đệ tử phái Hoa Sơn tim đập thình thịch, nghĩ thầm: Đại sư ca dẫn ni cô môn hạ phái Hằng Sơn đến tửu lâu uống rượu là làm bại hoại thanh danh của người xuất gia, đã vi phạm môn quy; lại còn kết giao với tên hạ lưu Điền Bá Quang thì càng bại hoại hơn nữa.
Một lúc lâu, Lao Đức Nặc mới lên tiếng:
– Sư thúc, có thể Lệnh Hồ Xung sư huynh và Điền Bá Quang ngẫu nhiên gặp nhau thôi chứ không phải là kết giao. Mấy ngày nay, Lệnh Hồ sư huynh uống rượu đến độ say khướt, thần trí mê muội; người say mà làm chuyện gì thì không khỏi có chỗ sai lầm.
Định Dật tức giận nói:
– Hễ say thì cũng phải có mấy phần tỉnh. Ngay cả phải trái, tốt xấu cũng không phân biệt được sao?
Lao Đức Nặc nói:
– Dạ, dạ! Không biết Lệnh Hồ sư huynh đang ở nơi nào, bọn sư điệt đợi sốt cả ruột. Khi sư ca đến, sư điệt sẽ lấy đại nghĩa mà phiền trách, nhưng trước tiên, sư điệt xin dập đầu tạ tội với sư thúc rồi sẽ bẩm báo lại sư phụ để phạt nặng đại sư ca.
Định Dật tức giận nói:
– Ta đến đây để canh chừng sư huynh của các ngươi sao?
Mụ đột nhiên đưa tay nắm lấy cổ tay của Linh nhi. Cổ tay của Linh nhi tưởng chừng như bị một cái đai sắt kẹp vào. Nàng á lên một tiếng, hoảng sợ lắp bắp:
– Sư… sư thúc!
Định Dật quát:
– Phái Hoa Sơn của các ngươi đã bắt Nghi Lâm của ta đi; ta cũng bắt một tên nữ đệ tử của phái Hoa Sơn các ngươi làm con tin. Các ngươi thả Nghi Lâm của ta ra thì ta cũng sẽ thả Linh nhi của các ngươi về.
Nói xong, lão ni quay người lôi Linh nhi đi. Linh nhi cảm thấy nửa người đau ê ẩm, không tự chủ được, loạng choạng đi theo.
Lao Đức Nặc và Lương Phát cùng tiến lên đứng chặn trước mặt Định Dật sư thái. Lao Đức Nặc khom người nói:
– Sư thúc, đại sư ca của tiểu điệt đắc tội với sư thúc, chẳng trách sư thúc nổi giận. Chỉ có điều tiểu sư muội hoàn toàn không có liên can gì đến chuyện này, xin sư thúc giơ cao đánh khẽ.
Định Dật quát:
– Được, ta “giơ cao đánh khẽ” đây!
Lão ni giơ tay phải lên phát ra một chưởng. Lao Đức Nặc và Lương Phát cảm thấy một luồng kình phong cực kỳ mãnh liệt ập tới như muốn ngộp thở; thân không tự chủ được bị hất về phía sau. Sống lưng Lao Đức Nặc đụng mạnh vào cánh cửa đối diện với quán trà nghe rầm một cái, cánh cửa đã bị gãy làm đôi. Lương Phát lại bị bay dạt về phía gánh hoành thánh. Trong nháy mắt, nồi nước sôi sẽ bắn ra tung tóe khắp người, gã khó tránh khỏi bị trọng thương. Lão già bán hoành thánh vội giơ tay trái ra đỡ lưng Lương Phát; giúp gã đứng xuống đất một cách an toàn.
Định Dật sư thái quay đầu lại trừng mắt nhìn lão bán hoành thánh một cái rồi nói:
– Thì ra là ngươi!
Lão già cười nói:
– Đúng vậy. Chính là tại hạ. Sư thái nóng tính quá!
Định Dật nói:
– Việc gì đến ngươi mà ngươi xen vào?
Giữa lúc đó có hai người che dù, tay cầm đèn lồng, bước nhanh đến lớn tiếng hỏi:
– Xin hỏi có phải vị này là thần ni của phái Hằng Sơn không?
Định Dật đáp:
– Không dám! Định Dật ở Hằng Sơn đây. Tôn giá là ai?
Hai người đó cầm đèn lồng, trên đèn viết hai chữ đỏ “Lưu phủ”. Gã đi trước nói:
– Vãn bối phụng mệnh nghiệp sư, mời Định Dật sư bá và các vị sư tỷ đến tệ phủ thọ trai. Vãn bối chưa hay các vị đã đến Hành Sơn nên không kịp ra cổng thành nghênh đón. Xin tha lỗi, tha lỗi!
Nói xong, liền cúi mình hành lễ.
Định Dật nói:
– Không nên đa lễ. Hai vị là đệ tử của Lưu tam gia phải không?
Gã kia đáp:
– Dạ, vãn bối là Hướng Đại Niên, còn đây là sư đệ Mễ Vi Nghĩa. Xin thỉnh an sư bá.
Hướng Đại Niên nói xong cùng Mễ Vi Nghĩa cung kính hành lễ. Định Dật thấy hai gã rất chu đáo, trong bụng cả mừng, nói:
– Được. Chúng ta đang định đến phủ bái yết Lưu tam gia đây.
Hướng Đại Niên nhìn bọn Lương Phát hỏi:
– Các vị là…
Lương Phát đáp:
– Tại hạ là Lương Phát ở phái Hoa Sơn.
Hướng Đại Niên vui mừng nói:
– Thì ra là Lương tam ca phái Hoa Sơn. Tại hạ hâm mộ tiếng tăm đã lâu, xin mời các vị cùng đến tệ xá. Sư phụ đã dặn bọn tiểu đệ đi khắp nơi trên các đường phố để nghênh tiếp các vị anh hùng hảo hán nhưng vì người đến quá đông nên tiếp đãi không được chu đáo, để đắc tội với các bằng hữu. Nào, xin mời các vị!
Lao Đức Nặc nói:
– Bọn tiểu đệ định đợi đại sư ca rồi cùng đi đến vấn an Lưu tam sư thúc.
Hướng Đại Niên nói:
– Vị này chắc là Lao nhị sư ca. Sư phụ vẫn thường khen ngợi các vị sư huynh anh hùng dưới trướng Nhạc sư bá của phái Hoa Sơn, nhất là Lệnh Hồ sư huynh càng xứng đáng là anh tài kiệt xuất. Bây giờ, Lệnh Hồ sư huynh chưa đến, các vị đi trước cũng được.
Lao Đức Nặc nghĩ bụng: Tiểu sư muội bị Định Dật sư thúc kéo đi rồi, xem ra lão ni chẳng chịu buông tha. Chúng ta chỉ còn cách đi theo bọn họ. Hắn bèn nói:
– Xin cảm phiền các sư huynh vậy.
Hướng Đại Niên nói:
– Các vị nhọc công đến Hành Sơn là niềm hân hạnh cho bọn tiểu đệ, sao còn nói những lời khách khí như vậy? Xin mời, xin mời!
Định Dật chỉ tay vào lão bán hoành thánh hỏi:
– Vị này có mời không?
Hướng Đại Niên nhìn lão già một lúc, bỗng nhiên nhớ ra, khom người nói:
– Thì ra là Hà sư bá ở núi Nhạn Đãng, thật là thất lễ. Xin mời Hà sư bá giá lâm tệ xá.
Gã đoán được lão già bán hoành thánh là cao thủ Hà Tam Thất thuộc núi Nhạn Đãng tỉnh Triết Giang. Lão này từ thuở nhỏ sống bằng nghề bán hoành thánh, sau khi học xong võ công, lão vẫn gánh hoành thánh đi khắp giang hồ . Cái gánh hoành thánh này có thể nói là tiêu ký của lão. Lão tuy là người có võ công nhưng cam chịu sống thanh đạm, lấy gánh hàng rong làm kế sinh nhai, người trong võ lâm ai cũng quý trọng. Từ hang cùng, ngõ hẻm cho đến các thị trấn, có đến hàng vạn người bán hoành thánh nhưng đã bán hoành thánh mà lại là người trong võ lâm thì chỉ có Hà Tam Thất mà thôi.
Hà Tam Thất cười ha hả nói:
– Chính Hà mỗ cũng định đến quấy nhiễu quý phái đây.
Nói xong lão thu dọn mấy cái bát trên bàn. Lao Đức Nặc nói:
– Vãn bối có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn. Xin Hà tiền bối đừng trách.
Hà Tam Thất cười nói:
– Không trách đâu, không trách đâu. Các vị đã chiếu cố gánh hoành thánh của ta là đem lại cơm áo cho ta rồi, sao mà trách được? Bảy bát hoành thánh, mười quan tiền một bát, tổng cộng bảy mươi quan tiền.
Nói xong lão xòe tay ra.
Lao Đức Nặc vô cùng bối rối, không biết Hà Tam Thất nói đùa hay nói thật. Định Dật nói:
– Ăn hoành thánh thì phải trả tiền. Hà Tam Thất đâu có bao giờ đãi khách.
Hà Tam Thất cười nói:
– Phải đấy, ta buôn bán nhỏ, vốn liếng ít ỏi nên rất cần tiền để làm vốn. Dù bạn bè thân thiết cũng phải trả tiền.
Lao Đức Nặc nói:
– Dạ, dạ.
Hắn không dám trả nhiều, chỉ lấy đủ bảy mươi quan tiền, hai tay kính cẩn đưa lên.
Hà Tam Thất nhận tiền xong, quay về phía Định Dật xòe tay ra nói:
– Lão ni đánh bể hai cái bát và hai chiếc muỗng của tại hạ, tất cả là mười bốn quan. Xin đền cho.
Định Dật bật cười nói:
– Đồ quỷ, ngay cả người xuất gia mà ngươi cũng giễu cợt. Nghi Quang đâu, bồi thường cho lão đi!
Nghi Quang đếm đủ mười bốn quan, hai tay kính cẩn đưa trả. Hà Tam Thất nhận tiền bỏ vào trong ống trúc treo bên gánh hoành thánh, quảy gánh lên rồi nói:
– Đi thôi!
Hướng Đại Niên nhìn chủ quán trà nói:
– Tiền trà ở đây sẽ tính sau. Cứ ghi vào sổ cho Lưu tam gia.
Chủ quán cười nói:
– Ha, khách quý của Lưu tam gia. Ha, tiểu quán muốn còn không được, sao dám tính tiền trà?
Hướng Đại Niên đưa dù cho khách rồi đi trước dẫn đường. Định Dật dắt Linh nhi phái Hoa Sơn cùng với Hà Tam Thất sánh vai ra đi, bọn đệ tử phái Hằng Sơn và phái Hoa Sơn theo sau.
Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Ta phải bám theo bọn này để xem có thể trà trộn vào trong nhà Lưu Chính Phong chăng.
Mọi người đi đến góc đường, chàng lập tức đứng dậy chạy theo, thấy mọi người đi về hướng Bắc. Trời vẫn mưa rất to, chàng men theo mái hiên nhà mà đi. Đi qua ba con đường, thấy đầu mé trái có một tòa nhà rất lớn, ngoài cổng treo bốn chiếc đèn lồng; mười mấy người cầm đuốc, trương dù vội vã nghênh đón khách. Bọn Định Dật, Hà Tam Thất đi vào cổng, cùng lúc có rất nhiều tân khách từ hai đầu đường đi đến.
Lâm Bình Chi đánh bạo đi tới trước cổng. Lúc đó đang có hai hào khách giang hồ do đệ tử của Lưu môn tiếp đón tiến vào cổng; Lâm Bình Chi không nói lời nào, lặng lẽ đi theo sau. Người tiếp khách tưởng chàng là tân khách nên niềm nở đón chào, nói:
– Xin mời vào uống trà.
Chàng đi vào đại sảnh, nghe tiếng người ồn ào. Trong sảnh lúc này đã có hơn hai trăm người, ai nấy đều tự nhiên nói cười. Lâm Bình Chi định thần lại, nghĩ bụng: Ở đây có nhiều người quá, chẳng ai thèm để ý đến mình. Ta nên lân la đến chỗ các tên ác đồ phái Thanh Thành mới có thể dò tìm tung tích của gia gia má má.
Chàng liền ngồi vào một chiếc bàn nhỏ đặt trong góc tối của đại sảnh; chẳng mấy chốc đã có gia đinh đem trà xanh, đồ điểm tâm, khăn nóng đặt lên bàn. Chàng đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quần ni phái Hằng Sơn ngồi ở chiếc bàn bên mé trái; bọn đệ tử phái Hoa Sơn ngồi ở một bàn khác đặt kế bên; thiếu nữ tên Linh nhi cùng ngồi với các huynh đệ. Xem ra, Định Dật đã buông tha cho cô rồi. Bọn Định Dật và Hà Tam Thất cũng ngồi trong đám này. Lâm Bình Chi liếc nhìn từng bàn một, bỗng nhiên lòng chàng chấn động, máu trong người như sôi lên khi thấy hai gã Phương Nhân Trí, Vu Nhân Hào và một đám người đang ngồi quanh hai chiếc bàn đặt gần đó. Hiển nhiên, chúng đều là đệ tử của phái Thanh Thành, nhưng phụ thân và mẫu thân chàng lại không có ở đó, không biết bị chúng giam giữ ở nơi nào. Lâm Bình Chi vừa đau lòng, vừa tức giận lại vừa lo lắng. Chàng chỉ sợ cha mẹ đã bị chúng hạ độc thủ. Chàng muốn đến ngồi gần để lén nghe chúng nói chuyện, nhưng nghĩ lại: Mình trà trộn vào đây không phải d ễ, nếu có mộ t chút manh động, bị bọn Phương Nhân Trí nhận ra thì hỏng hết, không những tất cả công sức bỏ ra đều vô ích mà còn có thể bị họa sát thân.
Giữa lúc đó đột nhiên trước cổng nhốn nháo cả lên. Mấy tên hán tử mặc áo xanh khiêng hai cánh cửa vội vàng tiến vào. Hai xác người nằm trên hai cánh cửa, trên mình phủ vải trắng thấm đầy máu. Mọi người trong đại sảnh vừa nhìn thấy đều chạy ra xem. Có người nói:
– Đúng là người của phái Thái Sơn.
– Thiên Tùng đạo nhân của phái Thái Sơn bị trọng thương. Còn người kia là ai vậy?
– Là đệ tử của Thiên Môn chân nhân, chưởng môn phái Thái Sơn. Gã họ Trì, không rõ chết chưa?
– Gã chết rồi. Ngươi xem, một nhát dao đâm từ trước ngực xuyên thấu ra sau lưng thì không chết sao được?
Mọi người bàn tán xôn xao. Một người chết, một người bị trọng thương; cả hai đều được khiêng vào phía hậu sảnh. Nhiều người cùng đi theo.
Mọi người trong đại sảnh bàn tán xôn xao:
– Thiên Tùng đạo nhân là cao thủ trong phái Thái Sơn, kẻ nào to gan dám đánh lão đến trọng thương?
– Người đánh Thiên Tùng đạo nhân trọng thương dĩ nhiên võ công phải cao cường hơn lão. Người có võ công cao cường thì to gan, không có gì là kỳ lạ cả.
Trong lúc mọi người đang bàn bạc ngoài đại sảnh thì Hướng Đại Niên vội vã đi ra. Gã đến bàn của bọn đệ tử phái Hoa Sơn, nhìn vào Lao Đức Nặc nói:
Hắn liền đứng dậy đi theo gã vào trong nội đường, xuyên qua một dãy hành lang tới một tòa hoa sảnh. Trong hoa sảnh chỉ thấy ở thượng vị bày năm cái ghế thái sư; bốn cái còn trống, chỉ có một cái ở phía Đông đã có một người ngồi đó. Người này là một đạo nhân mặt đỏ, dáng vóc cao to.
Lao Đức Nặc biết năm cái ghế này dành cho năm vị chưởng môn của Ngũ Nhạc kiếm phái là Tung Sơn, Hằng Sơn, Hoa Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn. Chưởng môn nhân của bốn phái kia chưa tới; vậy đạo nhân mặt đỏ đó là Thiên Môn đạo nhân, chưởng môn phái Thái Sơn. Ngồi hai bên có đến mười tám, mười chín nhân vật đều vào hàng tiền bối võ lâm. Định Dật sư thái phái Hằng Sơn, Dư Thương Hải phái Thanh Thành, Hà Tam Thất núi Nhạn Đãng tỉnh Triết Giang đều ở trong số này. Phía dưới, ngồi ở ghế chủ vị là một hán tử trung niên, người mập lùn, mình mặc áo lụa màu nâu vàng giống như một nhà giàu. Người đó chính là chủ nhân Lưu Chính Phong. Trước tiên, Lao Đức Nặc hướng về Lưu Chính Phong hành lễ, sau đó bái Thiên Môn đạo nhân rồi nói:
– Đệ tử là Lao Đức Nặc phái Hoa Sơn xin khấu kiến Thiên Môn sư bá.
Thiên Môn đạo nhân mặt đầy sát khí, dường như lão vô cùng phẫn nộ. Tay trái lão đập xuống ghế thái sư một cái rầm rồi quát:
– Lệnh Hồ Xung đâu?
Giọng lão quát thật to, nghe như tiếng sấm nổ. Những người ngồi rất xa trong đại sảnh nghe rõ tiếng lão quát đều rúng động, tái mặt.
Thiếu nữ tên Linh nhi kinh hãi nói:
– Tam sư ca, họ lại muốn tìm đại sư ca nữa kìa!
Lương Phát gật đầu không nói lời nào, một lúc sau gã mới khẽ nhắc:
– Mọi người im đi. Trên đại sảnh các lộ anh hùng đều đang tụ tập, đừng để người ta coi thường phái Hoa Sơn mình.
Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Chúng lại tìm kiếm gã Lệnh Hồ Xung. Cái gã Lệnh Hồ Xung này gây ra thật lắm chuyện rắc rối.
Lao Đức Nặc bị Thiên Môn đạo nhân giận dữ quát to đến nỗi hai tai hắn lùng bùng, ù cả màng nhĩ.
Hắn quỳ dưới đất một lúc mới đứng dậy nói:
– Khải bẩm sư bá, Lệnh Hồ sư huynh và vãn bối chia tay ở Hành Dương, có hẹn gặp lại ở thành Hành Sơn để cùng đến phủ Lưu sư thúc chúc mừng. Hôm nay nếu đại sư ca không đến, có lẽ ngày mai sẽ đến.
Thiên Môn đạo nhân tức giận quát:
– Hắn còn dám vác mặt đến à? Lệnh Hồ Xung là đại đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn, cũng có thể coi như một nhân vật danh môn chính phái. Tại sao hắn lại cùng đi với tên Điền Bá Quang, một tên thái hoa dâm tặc, giết người cướp của, không việc gì ác mà không làm?
Lao Đức Nặc nói:
– Theo như đệ tử biết thì đại sư ca với Điền Bá Quang vốn không hề quen biết. Đại sư ca ngày thường thích uống dăm ba chén rượu, có lẽ không biết tên đó là Điền Bá Quang, vô tình gặp hắn rồi tụm lại uống rượu mà thôi.
Thiên Môn đạo nhân dậm chân đứng phắt dậy, giận dữ quát:
– Ngươi còn cãi bướng để bênh vực cho tên cẩu tặc tử Lệnh Hồ Xung sao? Thiên Tùng sư đệ, sư đệ… sư đệ nói cho hắn nghe sư đệ vì sao mà bị thương? Lệnh Hồ Xung có quen biết Điền Bá Quang hay không?
Trên hai tấm cửa để ở dưới đất mé Tây, một tấm đặt một tử thi, còn tấm trên kia là một đạo nhân râu dài, sắc mặt nhợt nhạt, râu nhuộm đầy máu tươi. Lão thều thào:
– Sáng sớm hôm nay… sư đệ… sư đệ và đám sư điệt đang ở Hành Dương. Sư đệ và bọn chúng vừa vào Hồi Nhạn lâu, thấy Lệnh Hồ Xung, Điền Bá Quang và một tiểu ni cô…
Nói đến đây, lão thở phì phò, không còn khí lực nữa.
Lưu Chính Phong nói:
– Lao hiền điệt! Hiền điệt, Lệnh Hồ hiền điệt và các vị đồng môn từ xa đến đây chúc mừng ta, ta rất cảm kích thịnh tình của Nhạc sư huynh và các hiền điệt. Nhưng ta không biết Lệnh Hồ hiền điệt cùng Điền Bá Quang quen biết kết giao như thế nào. Chúng ta nên tìm hiểu cho rõ ràng, nếu đúng là Lệnh Hồ hiền điệt không phải như vậy thì Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta vốn là một nhà, nên khuyên hắn một phen mới là…
Thiên Môn đạo nhân nổi giận, nói:
– Còn khuyên cái cóc gì nữa! Thanh lý môn hộ, cắt mẹ cái đầu hắn đi!
Lưu Chính Phong nói:
– Trước nay, môn quy của Nhạc sư huynh cực nghiêm. Danh dự của phái Hoa Sơn trên giang hồ là đệ nhất. Nhưng lần này Lệnh Hồ hiền điệt quá trớn lắm rồi!
Thiên Môn đạo nhân giận dữ nói:
– Sư đệ còn gọi hắn là “hiền điệt” ư? Hiền! Hiền! Hiền cái cục cứt!
Lão vừa nói câu này ra khỏi miệng thì cảm thấy trước mặt Định Dật sư thái, một lão ni, mà ăn nói thô lỗ bất nhã kiểu đó thì không khỏi tổn hại oai danh của một tôn sư đại phái. Nhưng lời nói đã lỡ phun ra rồi, không thể rút lại được nữa. Lão giả bộ hừ một tiếng tỏ vẻ tức giận, thở hồng hộc rồi ngồi phịch xuống ghế.
Lao Đức Nặc nói:
– Lưu sư thúc, việc này là thế nào, xin sư thúc nói cho tiểu điệt rõ?
Lưu Chính Phong nói:
– Vừa rồi, Thiên Tùng đạo huynh nói: Sáng sớm hôm nay, đạo huynh cùng đệ tử lên Hồi Nhạn lâu ở Hành Dương uống rượu thì đã thấy ba người ngồi sẵn ở đó vừa ăn vừa uống rượu. Ba người đó là dâm tặc Điền Bá Quang, Lệnh Hồ sư điệt cùng với cao đồ của Định Dật sư thái là Nghi Lâm tiểu sư điệt. Thiên Tùng đạo huynh vừa nhìn qua đã cảm thấy vô cùng chướng mắt, tuy không nhận ra nhưng chỉ coi sắc phục là đã biết được một người là đệ tử phái Hoa Sơn, một người là đệ tử phái Hằng Sơn. Xin Định Dật sư thái chớ phiền não, rõ ràng là Nghi Lâm sư điệt bị người ta cưỡng ép không tự chủ được mình, đó là điều mà ai cũng hiểu. Thiên Tùng đạo huynh tả lại rằng gã Điền Bá Quang là một tên trai tráng khoảng dưới ba mươi tuổi. Đạo huynh không biết người này là ai, sau đó nghe Lệnh Hồ hiền điệt nói: “Điền huynh, huynh tuy khinh công độc bộ thiên hạ, nhưng tửu lượng còn thua kém đệ mấy phần. Khinh công có thể luyện cao hơn nữa nhưng uống rượu thì không được đâu”. Hắn đã là họ Điền, lại được khen là khinh công độc bộ thiên hạ, tất nhiên là gã Vạn lý độc hành Điền Bá Quang rồi. Thiên Tùng đạo huynh là người vốn coi kẻ ác như kẻ thù, nay sư huynh lại thấy ba người cùng ngồi uống rượu thì giận như muốn bốc lửa.
Lao Đức Nặc đáp:
– Dạ!
Hắn nghĩ bụng: Trên Hồi Nhạn lâu, ba người cùng uống rượu. Một người là tên dâm tặc ác độc khét tiếng, một người là tiểu ni cô đã xuất gia, còn một người là đại đệ tử phái Hoa Sơn mình, thiệt chẳng ra cái thể thống gì cả.
Lưu Chính Phong nói:
– Đạo huynh nghe gã Điền Bá Quang nói: “Điền Bá Quang này qua lại một mình, ngang dọc giang hồ, chẳng biết sợ ai. Dù sao chúng ta cũng đã gặp tiểu ni cô này rồi, tạm để cho cô ta ở đây bồi rượu”.
Lưu Chính Phong nói đến đây, Lao Đức Nặc liếc nhìn lão một cái rồi lại nhìn Thiên Tùng đạo nhân, nét mặt lão lộ vẻ hoài nghi. Lưu Chính Phong hiểu ý, bèn nói:
– Thiên Tùng đạo huynh đang bị trọng thương, không kể lại được rõ ràng nên Lưu mỗ phải nói giúp, nhưng đại ý đúng như vậy. Thiên Tùng đạo huynh, có phải vậy không?
Thiên Tùng thều thào:
– Đúng… đúng vậy. Không… không sai!
Lưu Chính Phong nói:
– Lúc đó, Trì Bách Thành hiền điệt không còn nhẫn nại được nữa, đập bàn quát: “Ngươi là dâm tặc Điền Bá Quang phải không? Mọi người trong võ lâm đều muốn giết ngươi mới hả dạ mà ngươi lại còn dám ở đây vỗ ngực xưng danh, không sợ toi cái mạng chó của ngươi ư?” Hiền điệt nói xong liền rút đao ra độ ng thủ, không may bị Điền Bá Quang giết chết. Bậc thiếu niên anh hùng lại chết dưới tay gian tặc, thật là đáng tiếc. Thiên Tùng đạo huynh lập tức tiến lên, nổi lòng hiệp nghĩa muốn giết chết tên dâm tặc. Sau khi đấu được mấy trăm hiệp, vì sơ ý một chút, đạo huynh bị Điền Bá Quang dùng thủ đoạn hèn hạ đâm trúng ngực một đao. Lệnh Hồ sư điệt vẫn cùng ngồi uống rượu với tên dâm tặc Điền Bá Quang không khỏi làm mất đi nghĩa khí liên minh của Ngũ Nhạc kiếm phái.
Thiên Môn đạo nhân tức giận nói:
– Cái gì mà nghĩa khí của liên minh Ngũ Nhạc kiếm phái? Hừ, người học võ chúng ta phải phân biệt rõ ràng việc trắng đen, phải trái. Hắn đi với tên dâm tặc… đi với tên dâm tặc như vậy…
Lão tức giận mặt đỏ như máu, dường như chòm râu dài của lão sợi nào cũng muốn dựng đứng cả lên. Bỗng nghe ngoài cửa có người nói:
– Sư phụ, đệ tử có việc khải bẩm.
Thiên Môn đạo nhân nghe tiếng của đồ nhi liền nói:
– Vào đây. Chuyện gì vậy?
Một gã hán tử khoảng ba mươi tuổi tràn đầy hào khí bước vào, trước tiên hướng về chủ nhân Lưu Chính Phong hành lễ rồi sau đó quay về các vị tiền bối hành lễ. Gã thưa với Thiên Môn đạo nhân:
– Sư phụ, Thiên Bách sư thúc đã truyền tin đến, bảo rằng sư thúc đang dẫn đệ tử bản môn ở Hành Dương truy tìm hai tên dâm tặc Điền Bá Quang và Lệnh Hồ Xung nhưng chưa tìm được tung tích…
Lao Đức Nặc nghe gã liệt đại sư ca của mình vào hàng dâm tặc thì xấu hổ vô cùng. Nhưng đại sư ca của hắn đúng là hòa mình với Điền Bá Quang thì còn biết làm thế nào nữa?
Chỉ nghe gã đệ tử phái Thái Sơn nói tiếp:
– Nhưng ở ngoại thành Hành Dương lại phát hiện một thi thể; bụng dưới bị đâm bằng… cây trường kiếm của dâm tặc Lệnh Hồ Xung…
Thiên Môn đạo nhân vội hỏi:
– Người chết đó là ai?
Gã đệ tử nhìn về phía Dư Thương Hải nói:
– Đó là một vị sư huynh, môn hạ của Dư sư thúc. Lúc đó, bọn đệ tử cũng không nhận ra, sau khi đem thi thể về đến thành Hành Dương mới có người nhận ra là La Nhân Kiệt sư huynh…
Dư Thương Hải “ủa” lên một tiếng, lập tức đứng phắt dậy nói:
– La Nhân Kiệt ư? Thi thể ở đâu rồi?
Bỗng nghe ngoài cổng có người tiếp lời:
– Ở đây này!
Dư Thương Hải rất trầm tĩnh; tuy nghe tin sét đánh bên tai, người chết là La Nhân Kiệt, một trong bốn đại đệ tử Anh, Hùng, Hào, Kiệt của bổn môn nhưng lão vẫn không thay đổi sắc mặt, nói:
– Cảm phiền hiền điệt khiêng thi thể vào đây.
Ngoài cửa có người đáp:
– Dạ!
Hai người khiêng một cánh cửa tiến vào. Đó là một đệ tử của phái Hành Sơn và một đệ tử của phái Thanh Thành.
Bụng dưới của người chết nằm trên cánh cửa cắm một cây trường kiếm. Kiếm đâm từ bụng dưới xuyên lên. Cây trường kiếm dài ba thước mà lưỡi kiếm cắm vào thi thể còn chừa không quá một thước. Chiêu thức tàn nhẫn từ dưới đâm lên trên như thế này thật hiếm thấy trong võ lâm. Dư Thương Hải lẩm bẩm:
– Lệnh Hồ Xung, ngươi… ngươi thật là độc ác.
Gã đệ tử phái Thái Sơn nói:
– Thiên Bách sư thúc phái người đưa tin đến, nói sư thúc còn đang truy tìm hai tên dâm tặc, cần thêm một hai vị sư bá, sư thúc ở đây tương trợ.
Định Dật và Dư Thương Hải cùng nói:
– Ta đi!
Bỗng nhiên, ngoài cửa có một giọng trong trẻo cất lên:
– Sư phụ, đệ tử đã về đây!
Định Dật tái mặt, quát:
– Nghi Lâm hả? Mau vào đây!
Mọi người đều chăm chú nhìn ra ngoài cửa để nhìn xem tiểu ni cô đã ngang nhiên cùng với hai tên dâm tặc uống rượu trên tửu lâu là nhân vật như thế nào.
Rèm cửa vừa vén lên, trước mặt mọi người sáng lòa. Một tiểu ni cô nhẹ nhàng bước vào hoa sảnh, dáng đi thanh tú thoát tục, khuôn mặt sáng bừng, đúng là một mỹ nhân tuyệt thế. Cô mới khoảng mười sáu mười bảy tuổi, thân hình yểu điệu, tuy mặc chiếc áo nâu rộng thùng thình nhưng vẫn không giấu được vẻ thướt tha duyên dáng. Cô ta đến trước mặt Định Dật, lạy phục xuống rồi thưa:
– Sư phụ…
Cô vừa nói được hai tiếng thì nghẹn ngào khóc òa lên.
Định Dật xám mặt nói:
– Ngươi làm… ngươi làm chuyện hay quá! Sao còn quay về đây làm gì?
Nghi Lâm vừa khóc vừa nói:
– Sư phụ, lần này đệ tử tưởng không còn có thể gặp lại lão nhân gia nữa.
Giọng nói của cô uyển chuyển ngọt ngào; hai bàn tay thon thả trắng hồng nắm lấy tay áo Định Dật. Trong lòng mọi người đều nghĩ:
– Một cô gái đẹp như vậy sao lại đi làm ni cô?
Dư Thương Hải chỉ liếc cô ta một cái rồi vẫn chăm chú nhìn thanh kiếm cắm trên thi thể của La Nhân Kiệt, thấy trên chuôi kiếm có tua thao xanh; chuôi kiếm khắc năm chữ nhỏ “Hoa Sơn Lệnh Hồ Xung”. Lão đảo mắt nhìn thanh kiếm sau lưng Lao Đức Nặc cũng thấy có tua thao xanh giống như vậy. Đột nhiên lão bước nhanh về phía trước, tay trái phóng song chỉ bất ngờ đâm thẳng vào hai mắt Lao Đức Nặc. Trong nháy mắt đầu ngón tay nhọn của lão đã chạm vào đến mi mắt Lao Đức Nặc rồi.
Lao Đức Nặc thất kinh vội sử chiêu Cử hỏa liêu thiên, giơ hai tay lên cao gạt đi. Dư Thương Hải cười nhạt, tay trái quay một vòng tròn nhỏ nắm chặt hai tay Lao Đức Nặc; tay phải vươn tới nghe soạt một tiếng, lão đã rút được trường kiếm sau lưng Lao Đức Nặc ra. Lao Đức Nặc bị nắm chặt hai tay, cố giật mạnh nhưng đối phương vẫn không nhúc nhích; mũi kiếm đã chĩa ngay vào ngực hắn. Hắn kinh hãi la lên:
– Không… việc này không liên quan đến tiểu điệt!
Dư Thương Hải nhìn thanh kiếm, thấy trên chuôi kiếm có khắc năm chữ nhỏ “Hoa Sơn Lao Đức Nặc” giống như chuôi kiếm của Lệnh Hồ Xung. Lão hạ thấp cổ tay xuống, chĩa mũi kiếm vào bụng dưới của Lao Đức Nặc rồi gằn giọng hỏi:
– Thế kiếm đâm từ dưới xiên lên là chiêu thức gì trong Hoa Sơn kiếm pháp của quý phái?
Lao Đức Nặc toát mồ hôi hột, run run nói:
– Tiểu điệt… kiếm pháp của phái Hoa Sơn tiểu điệt không… không có chiêu thức này.
Dư Thương Hải nghĩ bụng: Chiêu kiếm giết La Nhân Kiệt đâm vào bụng dưới, lưỡi kiếm xiên thẳng đến yết hầu. Lẽ nào Lệnh Hồ Xung cúi thấp người xuống mà đâm ngược lên trên? Sau khi giết người, tại sao hắn không rút trường kiếm ra mà cố ý để lại vật chứng? Phải chăng hắn có ý khiêu khích phái Thanh Thành của ta?
Bỗng nghe Nghi Lâm nói:
– Dư sư bá, chiêu này của Lệnh Hồ đại ca không phải là kiếm pháp của phái Hoa Sơn đâu.
Dư Thương Hải quay người lại, khuôn mặt lạnh như băng, nhìn Định Dật sư thái nói:
– Sư thái, sư thái có nghe lệnh cao đồ gọi tên ác tặc kia là gì không?
Định Dật tức giận nói:
– Ta không có lỗ tai sao mà lão phải nhắc lại?
Định Dật nghe Nghi Lâm gọi Lệnh Hồ Xung là “Lệnh Hồ đại ca” thì lòng đã tức giận rồi. Nếu Dư Thương Hải chưa hỏi câu này thì lão ni cũng sẽ mắng Nghi Lâm, nhưng bị Dư Thương Hải hỏi móc họng, lời lẽ lại rất vô lễ, lão ni liền quay lại vỗ về đồ nhi, nói:
– Đồ nhi ta chỉ thuận miệng gọi vậy, đâu có chi đáng nói. Ngũ Nhạc kiếm phái kết nghĩa liên minh, môn hạ của năm phái đều là sư huynh, sư đệ, sư muội, sư tỉ; có gì kỳ lạ đâu?
Dư Thương Hải cười nói:
– Hay lắm, hay lắm!
Lão vận chân khí từ huyệt Đan điền lên, tay trái phóng nội lực ra, hất Lao Đức Nặc đi. Chỉ nghe bịch một tiếng, Lao Đức Nặc va mạnh vào tường; bụi bặm trên nóc nhà rơi xuống mù mịt. Lão quát:
– Đồ khốn nạn! Trên đường đi các ngươi đã ngấm ngầm rình rập ta là có ý gì?
Lao Đức Nặc bị lão hất mạnh, lục phủ ngũ tạng dường như đảo lộn cả lên; hai tay cố chống đỡ cho khỏi ngã, hai đầu gối đau buốt như muốn long ra, chỉ muốn ngồi phịch xuống đất. Hắn gắng sức gượng dậy, chợt nghe Dư Thương Hải nói như vậy, ngấm ngầm than khổ:
– Hóa ra ta và tiểu sư muội theo dõi hành động của bọn chúng đã sớm bị lão đạo sĩ lùn xảo quyệt này phát hiện.
Định Dật nói:
– Nghi Lâm, lại đây với ta. Ngươi làm sao bị chúng cầm giữ, nói rõ cho sư phụ nghe đi.
Lão ni kéo tay Nghi Lâm đi ra khỏi sảnh. Mọi người đều nghĩ một tiểu ni cô mỹ miều như vậy mà rơi vào tay tên thái hoa dâm tặc Điền Bá Quang thì đâu còn giữ được sự trong trắng nữa. Đó là nguyên do không tiện nói ra trước mặt mọi người nên Định Dật sư thái muốn dẫn Nghi Lâm đến một chỗ vắng người để hỏi cho cặn kẽ.
Bỗng một bóng xanh thoáng qua. Dư Thương Hải lạng người ra trước cửa, chặn đường nói:
– Việc này có liên can đến hai nhân mạng thì xin Nghi Lâm tiểu sư điệt cứ ở đây mà nói.
Lão ngừng một lát rồi tiếp:
– Trì Bách Thành hiền điệt là người trong Ngũ Nhạc kiếm phái. Môn hạ của ngũ phái đều là sư huynh, sư đệ của nhau. Trì Bách Thành đã bị Lệnh Hồ Xung giết rồi, có khi phái Thái Sơn không cần nói tới. Nhưng đồ nhi La Nhân Kiệt của tại hạ thì không có hô huynh gọi đệ gì với Lệnh Hồ Xung hết.
Nghe xong câu này, cặp chân mày lá liễu nhợt nhạt của Định Dật lập tức dựng đứng lên.
Lưu Chính Phong biết Định Dật sư thái tính khí rất nóng nảy, đôi chân mày của lão ni lại dựng đứng lên; lão lo đôi bên sẽ xảy ra chuyện động thủ. Lão ni và Dư Thương Hải đều là hai cao thủ bậc nhất trong võ lâm hiện nay, hễ hai người ra tay thì mọi việc sẽ náo động cả lên. Lão vội vàng bước ra phía trước, vái dài xuống đất, nói:
– Hai vị đã đại giá quang lâm đến tệ xá của Lưu mỗ thì đều là khách quý của tại hạ, xin hãy nể mặt tại hạ mà đừng để xảy ra xung đột làm mất hòa khí. Tất cả đều do Lưu mỗ tiếp đãi không được chu đáo. Xin hai vị miễn thứ cho.
– Lưu tam gia nói nghe tức cười quá. Chuyện nổi nóng của bần ni không liên quan gì tới tam gia cả. Lão không cho ta đi thì ta lại càng muốn đi. Nếu lão cản đường ta, có muốn ta ở lại cũng không được.
Dư Thương Hải đối với Định Dật sư thái cũng có mấy phần kiêng nể, nếu lão cùng với lão ni giao đấu thì chưa chắc đã nắm phần thắng. Vả lại lão ni còn có sư tỷ Định Nhàn tuy là người hiền hòa dễ thân cận nhưng võ công cao cường; cho dù hôm nay có thắng được Định Dật, thì chưởng môn sư tỷ quyết sẽ không bỏ qua. Như vậy là đắc tội với phái Hằng Sơn, tất nhiên không tránh khỏi hậu hoạn. Lão lập tức cười ha ha, nói:
– Bần đạo chỉ mong Nghi Lâm tiểu sư điệt nói rõ sự thật cho mọi người nghe. Dư Thương Hải là người gì mà dám cản đường am chủ Bạch Vân am của phái Hằng Sơn?
Lão nói xong liền nép qua một bên rồi quay về chỗ ngồi.
Định Dật sư thái nói:
– Tôn giá biết vậy thì tốt.
Lão ni nói xong, kéo tay Nghi Lâm quay về chỗ ngồi, hỏi:
– Hôm đó sau khi thất tán, đã xảy ra chuyện gì?
Lão ni sợ Nghi Lâm còn nhỏ tuổi không hiểu việc đời, sẽ đem những chuyện xấu của sư môn nói huỵch toẹt ra, bèn nói thêm:
– Ngươi chỉ nói những điểm cần thiết, những gì không cần thiết thì không nên nói ra.
Nghi Lâm đáp ngay:
– Dạ! Đệ tử không dám làm chuyện gì trái với sư huấn. Chỉ tại tên ác tặc Điền Bá Quang, hắn… hắn… hắn…
Định Dật gật đầu nói:
– Ngươi không cần nói nữa, ta biết rồi. Ta định giết hai tên ác tặc Điền Bá Quang và Lệnh Hồ Xung để ngươi vừa lòng.
Đôi mắt sáng đẹp của Nghi Lâm tròn xoe, mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nói:
– Lệnh Hồ đại ca ư? Đại ca… đại ca…
Đột nhiên cô rơi lệ, nghẹn ngào nói:
– Đại ca… đại ca đã chết rồi!
Mọi người nghe vậy đều kinh hãi. Thiên Môn đạo nhân nghe nói Lệnh Hồ Xung đã chết, lòng tức giận nguội hẳn đi. Lão lớn tiếng hỏi:
– Hắn làm sao mà chết? Ai giết hắn?
Nghi Lâm đáp:
– Chính là… chính là tên ác tặc này của phái Thanh Thành.
Nói xong cô giơ tay chỉ vào thi thể La Nhân Kiệt.
Dư Thương Hải cũng không khỏi cảm thấy đắc ý, lão nghĩ: Thì ra, ác tặc Lệnh Hồ Xung đã bị Nhân Kiệt giết. Có thể nói, cả hai cùng đến ngày tận số. Được, Nhân Kiệt hài tử, ta đã biết ngươi thuộc hạng không vừa, quả nhiên không để mất oai danh của phái Thanh Thành.
Lão trừng mắt nhìn Nghi Lâm cười nhạt nói:
– Ngũ Nhạc kiếm phái của ngươi gồm toàn người tốt, còn phái Thanh Thành của ta gồm toàn người xấu.
Nghi Lâm rơi lệ nói:
– Tiểu điệt… tiểu điệt không biết. Tiểu điệt không dám nói đến Dư sư bá mà chỉ nói đến hắn. Nói xong cô lại chỉ vào thi thể La Nhân Kiệt.
Định Dật nhìn Dư Thương Hải hỏi:
– Lão làm gì mà hầm hầm dọa nạt con nít? Nghi Lâm không sợ, tên này bại hoại như thế nào, cứ nói ra. Có sư phụ ở đây, ai dám làm khó dễ gì ngươi?
Lão ni nói xong lườm Dư Thương Hải một cái.
Dư Thương Hải nói:
– Người xuất gia không nói dối. Tiểu sư điệt, tiểu sư điệt có dám thề trước Đức Quan Âm Bồ Tát không?
Lão sợ Nghi Lâm bị sư phụ giật dây, đem những hành vi tồi bại của La Nhân Kiệt mà nói toạc ra. Đệ tử của lão và Lệnh Hồ Xung đều chết hết rồi, không còn ai để đối chất, chỉ còn tin vào lời nói một chiều của Nghi Lâm mà thôi.
Nghi Lâm nói:
– Tiểu điệt không bao giờ dám nói dối với sư phụ.
Cô liền quỳ xuống hướng ra ngoài, hai tay chắp lại, mắt rủ xuống nói:
– Đệ tử là Nghi Lâm bẩm báo sư phụ và các vị sư bá, sư thúc. Đệ tử quyết không dám nói sai nửa lời. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thần thông quảng đại, xin mở lòng từ bi chứng giám cho đệ tử.
Mọi người nghe cô nói thành khẩn, dáng vẻ đau thương, nên ai cũng có thiện cảm với cô. Một lão râu đen có vẻ nho nhã từ nãy giờ đứng bên cạnh cô, chưa nói lời nào, bây giờ mới lên tiếng:
– Tiểu sư điệt đã thề như vậy thì ai cũng tin lắm rồi.
Định Dật nói:
– Lão mũi trâu kia nghe rõ chưa? Văn tiên sinh nói như vậy, còn có gì giả trá nữa không?
Lão ni biết lão râu đen này họ Văn, mọi người đều gọi là Văn tiên sinh. Lão ni cũng không biết lão tên gì, chỉ biết lão người ở Thiểm Nam, sử đôi phán quan bút xuất thần nhập hóa, là một tay cao thủ điểm huyệt và đả huyệt.
Mọi người đều chăm chú nhìn vào mặt Nghi Lâm, thấy cô tươi đẹp như hạt minh châu, tinh khiết không một chút tỳ vết. Ngay cả Dư Thương Hải cũng nghĩ thầm: Xem ra tiểu ni cô này không biết nói dối.
Trên hoa sảnh yên tĩnh không có tiếng động, mọi người chỉ chờ nghe Nghi Lâm kể chuyện.
Cô nói:
– Chiều hôm qua, tiểu ni theo sư phụ và các sư tỷ đi Hành Dương, được nửa đường thì trời đổ mưa. Lúc xuống núi, tiểu ni bị trượt chân, nên đưa tay vịn vào vách núi, tay lấm đầy bùn và rêu xanh, khi xuống đến chân núi, tiểu ni đến khe suối để rửa tay. Bỗng nhiên tiểu ni nhìn xuống mặt nước, thấy bên cạnh hình dáng của mình lại có thêm một hình dáng của một nam tử. Tiểu ni giật mình sợ hãi, vội vàng đứng dậy, bỗng nghe sau lưng đau buốt, thì ra đã bị hắn điểm đúng huyệt đạo. Tiểu ni vô cùng sợ hãi, muốn la lên để sư phụ đến cứu nhưng la không thành tiếng. Hắn bồng tiểu ni đi mấy trượng vào trong một sơn động. Một lúc sau tiểu ni nghe ba vị sư tỷ ở ba nơi gọi: “Nghi Lâm, Nghi Lâm, sư muội ở đâu vậy?” Tên đó cười nói khẽ: “Nếu bọn họ tìm đến đây, thì ta sẽ bắt ráo!” Ba vị sư tỷ đi khắp nơi tìm kiếm tiểu ni, rồi lại quay về. Một lúc sau, hắn biết ba sư tỷ đã đi xa rồi, mới giải huyệt đạo cho tiểu ni. Tiểu ni lập tức hướng ra ngoài cửa động để chạy trốn, nào ngờ thân pháp hắn nhanh hơn tiểu ni rất nhiều. Tiểu ni vừa xông ra ngoài, không ngờ hắn đã chặn ngay cửa động, đầu của tiểu ni va vào ngực hắn. Hắn cười ha hả rồi nói: “Tiểu ni cô chạy trốn được sao?” Tiểu ni vội vàng lùi lại, rút thanh trường kiếm muốn đâm hắn một nhát nhưng lại nghĩ người này cũng chưa làm hại mình; người xuất gia lấy từ bi làm gốc, sao lại làm tổn thương sinh mạng của hắn? Trong Phật môn của tiểu ni, sát sinh là giới cấm thứ nhất. Vì vậy tiểu ni không đâm nữa mà hỏi: “Ngươi chặn ta lại để làm gì? Nếu ngươi không tránh ra, thì lưỡi kiếm của ta sẽ… sẽ đâm chết ngươi đó”. Hắn chỉ cười rồi nói: “Tiểu sư phụ, tiểu sư phụ là người có lương tâm, tiểu sư phụ sẽ không nỡ giết ta phải không?” Tiểu ni nói: “Ta với ngươi không thù không oán, sao lại phải giết ngươi?” Hắn nói: “Rất tốt, chúng ta hãy ngồi xuống nói chuyện”. Tiểu ni nói: “Sư phụ và các sư tỷ đang tìm kiếm ta, vả lại sư phụ không cho phép ta tùy tiện nói chuyện với đàn ông”. Hắn nói: “Dù sao thì tiểu sư phụ cũng đã nói rồi, nói thêm hay bớt vài câu thì có khác biệt gì đâu?” Tiểu ni nói: “Mau tránh đường ra, ngươi có biết sư phụ của ta lợi hại lắm không? Sư phụ lão nhân gia thấy ngươi vô lễ như vậy, không chừng đánh gãy hai chân của ngươi đó”. Hắn nói: “Tiểu sư phụ muốn đánh gãy hai chân của ta thì ta để cho tiểu sư phụ đánh. Còn sư phụ của tiểu sư phụ già khú đế rồi, ta không khoái chút nào”.
Định Dật quát:
– Ăn nói lung tung. Những lời điên khùng như vậy mà ngươi cũng nhớ được ư?
Mọi người không nhịn được cười, chỉ vì kiêng dè Định Dật sư thái nên không ai dám để lộ ra trên mặt mà cố nén lại.
Nghi Lâm nói:
– Hắn nói như vậy thật đó.
Định Dật nói:
– Thôi được rồi, những lời điên khùng đó không cần đề cập đến. Ngươi chỉ nói ngươi gặp Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn thế nào thôi.
Nghi Lâm đáp:
– Dạ, hắn nói rất nhiều. Hắn không cho tiểu ni đi, hắn nói tiểu ni… tiểu ni xinh đẹp, muốn tiểu ni ngủ chung với hắn.
Định Dật quát:
– Im đi! Tiểu hài tử không biết giữ mồm giữ miệng, những lời như vậy cũng nói được sao?
Nghi Lâm nói:
– Hắn nói vậy đó. Đệ tử không thèm trả lời, cũng không ngủ với hắn đâu.
Định Dật càng quát to hơn:
– Im đi!
Một tên đệ tử phái Thanh Thành khiêng xác La Nhân Kiệt vào không nhịn được nữa, bật cười ha hả. Định Dật cả giận, chụp lấy chén trà, vung tay hất chén trà nóng về phía gã. Mụ đã sử dụng nội lực đích truyền của phái Hằng Sơn, vừa nhanh vừa chuẩn xác. Gã đệ tử không kịp né tránh, bị chén trà nóng hất thẳng vào mặt, đau quá thét lên oai oái.
Dư Thương Hải nổi giận nói:
– Đệ tử của lão ni nói như vậy nên đệ tử của tại hạ mới tức cười. Tại sao lão ni lại ngang ngược quá vậy?
Định Dật sư thái liếc xéo Dư Thương Hải, nói:
– Định Dật phái Hằng Sơn đã ngang ngược mấy chục năm rồi, hôm nay ngươi mới biết sao?
Nói xong, lão ni quơ lấy hai chén trà không, muốn ném vào Dư Thương Hải. Dư Thương Hải nhìn qua hướng khác chứ không nhìn thẳng vào lão ni. Định Dật sư thái thấy lão có vẻ ỷ mình chứ không tỏ ra kiêng dè sợ hãi. Lão ni biết võ công của chưởng môn phái Thanh Thành rất cao siêu nên không dám lỗ mãng. Lão ni để chén trà xuống, nhìn Nghi Lâm bảo:
– Ngươi kể tiếp đi! Những lời nào không cần thiết thì đừng kể lại.
Nghi Lâm đáp:
– Dạ, thưa sư phụ, đệ tử muốn chạy ra khỏi sơn động nhưng hắn nhất định chặn lại, không cho đệ tử đi. Thấy trời đã gần tối rồi, đệ tử sốt ruột quá bèn chĩa kiếm muốn đâm vào hắn. Thưa sư phụ, đệ tử không dám phạm sát giới, không phải là đệ tử muốn giết hắn thật đâu mà chỉ hăm dọa thôi. Đệ tử sử chiêu Kim châm độ kiếp, không ngờ tay trái hắn đưa qua túm lấy… túm lấy người đệ tử. Đệ tử giật mình kinh hãi, tránh qua một bên, trường kiếm trong tay đã bị hắn đoạt lấy rồi. Võ công của hắn thật lợi hại; tay phải cầm chuôi kiếm, ngón cái và ngón trỏ của tay trái kẹp chặt mũi kiếm, chỉ bẻ nhẹ nghe cắc một tiếng, mũi kiếm của đệ tử bị gãy khoảng một tấc.
Định Dật hỏi:
– Mũi kiếm bị bẻ gãy khoảng một tấc ư?
Nghi Lâm đáp:
– Dạ!
Định Dật và Thiên Môn đạo nhân nhìn nhau rồi nghĩ thầm: Nếu như trường kiếm bị tên Điền Bá Quang bẻ gãy ở giữa thì chẳng lấy chi làm lạ, nhưng dùng chỉ lực mà bẻ gãy mũi kiếm bằng thép khoảng một tấc thì thật không phải tầm thường.
Thiên Môn đạo nhân giơ tay ra rút thanh trường kiếm ở sau lưng của một tên đệ tử, ngón cái và ngón trỏ tay trái kẹp chặt mũi kiếm, nhẹ bẻ cắc một tiếng. Mũi kiếm bị bẻ gãy dài hơn một tấc.
Lão hỏi:
– Có phải như vậy không?
Nghi Lâm đáp:
– Dạ phải. Thì ra sư bá cũng biết làm như vậy.
Thiên Môn đạo nhân đằng hắng một tiếng rồi tra thanh kiếm vào vỏ kiếm của đệ tử. Tay trái lão đập một cái chát lên ghế; đầu đoạn kiếm gãy dài hơn một tấc đã ngập sâu bằng bặn vào mặt ghế.
Nghi Lâm hào hứng nói:
– Công phu này của sư bá thật tuyệt, đệ tử đoán chắc là gã ác tặc Điền Bá Quang nhất định không thể làm được.
– Chao ôi! Đáng tiếc sư bá không có ở đó, nếu không thì Lệnh Hồ đại ca đã không bị trọng thương.
Thiên Môn đạo nhân hỏi:
– Sao, hắn bị trọng thương à? Không phải ngươi nói hắn đã chết rồi sao?
Nghi Lâm đáp:
– Dạ phải, bởi vì Lệnh Hồ đại ca bị trọng thương nên mới bị gã ác nhân La Nhân Kiệt phái Thanh Thành đâm chết.
Dư Thương Hải nghe cô gọi Điền Bá Quang là “ác nhân” lại gọi đệ tử của mình cũng là “ác nhân”. Thì ra môn hạ của phái Thanh Thành và tên dâm tặc xấu xa bị xếp chung một duộc. Lão hừ một tiếng tỏ vẻ khó chịu.
Mọi người th ấy đôi mắt đẹp của Nghi Lâm ứa lệ dường như cô muốn khóc, nên không ai hỏi gì thêm. Thiên Môn đạo nhân, Lưu Chính Phong, Văn tiên sinh, Hà Tam Thất và tất cả nhữ ng vị trưởng bối đều đem lòng thương mến cô. Nếu cô không phải là người xuất gia thì họ đã đưa tay vuốt lưng hay xoa đầu để an ủi cô rồi.
Nghi Lâm đưa tay áo lên lau nước mắt, nghẹn ngào nói:
– Tên ác nhân Điền Bá Quang o ép đệ tử, đưa tay kéo áo kéo quần đệ tử. Đệ tử phát chưởng đánh gã nhưng bị gã túm hai tay. Ngay lúc đó, ngoài động bỗng nhiên có tiếng người cười ha ha ha! Người ấy cười ba tiếng liên tục, ngưng một chút, lại cười thêm ba tiếng nữa. Điền Bá Quang hỏi lớn: “Ai đó?” Người bên ngoài lại cười ha ha ha liên tục ba tràng như vậy. Điền Bá Quang lớn tiếng chửi: “Biết điều thì tránh xa ta ra, nếu để Điền đại gia nổi nóng thì cái mạng chó của ngươi không còn đấy!” Người bên ngoài lại cười thêm ba tiếng ha ha ha nữa. Điền Bá Quang không thèm để ý đến người ngoài cửa động, lại định kéo quần áo đệ tử thì người ở ngoài sơn động lại cười lên. Người ấy cười để chọc giận Điền Bá Quang; còn đệ tử chỉ mong người ấy mau đến cứu đệ tử. Nhưng vì người ấy biết võ công Điền Bá Quang rất lợi hại nên không dám tiến vào động, chỉ ở ngoài sơn động cười không ngớt.
Điền Bá Quang tức giận chửi bới người ấy. Hắn điểm huyệt đệ tử, hô lên một tiếng rồi xông ra ngoài. Nhưng người ấy đã ẩn núp rồi. Điền Bá Quang tìm kiếm một lúc rồi quay về động, vừa mới đi đến bên cạnh đệ tử thì người ở ngoài sơn động lại cười ha ha ha. Đệ tử cảm thấy thích thú, không nhịn được cũng bật cười.
Định Dật sư thái nguýt cô một cái rồi hỏi:
– Ngươi đang ở bên bờ vực sống chết mà còn cười được ư?
Má Nghi Lâm ửng hồng. Cô đáp:
– Dạ, đệ tử cũng nghĩ không nên cười, nhưng lúc đó không hiểu tại sao lại bật cười. Điền Bá Quang cúi thấp người xuống nhè nhẹ đi ra cửa động, chỉ chờ người kia cười lên thì xông ra.
Nhưng người ngoài cửa động nhanh trí vô cùng, không để phát ra nửa tiếng động. Điền Bá Quang nhè nhẹ bước từng bước đi ra ngoài; đệ tử nghĩ bụng nếu như người ấy bị hắn bắt giữ thì tiêu đời, nên đệ tử la lên: “Cẩn thận, hắn ra đó!” Người ấy lại cười ha ha ha rồi nói: “Đa tạ tiểu sư muội. Hắn đuổi không kịp ta đâu, công phu khinh công của hắn còn kém cỏi lắm”.
Mọi người nghĩ thầm: Ngoại hiệu của Điền Bá Quang là Vạn lý độc hành; công phu khinh công siêu việt nổi tiếng trên giang hồ. Người ấy nói là “công phu khinh công của hắn còn kém cỏi lắm” là cố ý khiêu khích, chọc giận hắn.
Nghi Lâm kể tiếp:
– Ác nhân Điền Bá Quang bỗng nhiên quay lại, bẹo má đệ tử, đệ tử đau quá la lên. Hắn bước ra ngoài quát to: “Đồ cẩu tặc, ngươi có ngon thì ra đây tỉ thí khinh công với ta!” Nào ngờ khi hắn vừa bước ra, người ấy lẻn vào ngay. Thì ra người ấy đã sớm núp bên sườn sơn động. Người ấy nói khẽ: “Đừng sợ, tại hạ đến cứu đây, hắn đã điểm những huyệt đạo nào?” Đệ tử nói: “Ở vai phải và sau lưng, hình như là huyệt Kiên trinh và huyệt Đại thôi, tôn giá là…?” Người ấy nói: “Giải huyệt đạo rồi hãy nói”. Người ấy bèn đưa tay giải hai huyệt Kiên trinh và Đại thôi cho huyết mạch lưu thông. Nhưng có lẽ đệ tử nói vị trí huyệt đạo không đúng nên tuy người đó dùng hết công lực để giải huyệt, cuối cùng vẫn giải không được, bên tai lại nghe tiếng Điền Bá Quang không ngớt chửi bới. Hắn lại quay vào. Đệ tử nói: “Tôn giá mau trốn đi, hắn mà trở về có thể giết chết luôn tôn giá đó”. Người đó nói: “Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi. Sư muội gặp hoạn nạn, ta không cứu làm sao được!”
Định Dật hỏi:
– Hắn cũng là người trong Ngũ Nhạc kiếm phái ư?
Nghi Lâm đáp:
– Dạ. Sư phụ, người đó là Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ đại ca.
Định Dật và Thiên Môn đạo nhân, Dư Thương Hải, Hà Tam Thất, Văn tiên sinh, Lưu Chính Phong đều ủa lên một tiếng. Lao Đức Nặc thở phào nhẹ nhõm.
Trong số bọn họ , có mấy người đã đoán được người ấy là Lệnh Hồ Xung, nhưng đợi chính miệng Nghi Lâm nói ra họ mới tin chắc.
Nghi Lâm kể tiếp:
– Đệ tử nghe tiếng Điền Bá Quang gào thét biết hắn về gần tới. Lệnh Hồ đại ca nói “Xin lỗi” rồi ẵm đệ tử chạy ra khỏi sơn động, núp trong bụi cỏ. Mới vừa ngồi xuống thì Điền Bá Quang đã chạy vào sơn động. Hắn tìm không thấy đệ tử thì vô cùng tức giận, chửi bới luôn mồm, toàn là những lời rất khó nghe, đệ tử cũng không hiểu ý tứ ra sao. Hắn nhặt thanh kiếm gãy của đệ tử, phát loạn xạ trong đám cỏ. May sao tối hôm đó trời mưa, trăng sao mờ mịt, hắn không nhìn thấy bọn đệ tử. Nhưng hắn đoán chắc bọn đệ tử chạy không xa, nhất định ẩn núp gần đây, cho nên hắn không ngừng tay phát cỏ tìm kiếm. Có một lần thật nguy hiểm, lưỡi kiếm phát ngang qua đỉnh đầu đệ tử chỉ cách vài tấc. Hắn phát cỏ một hồi, miệng liên tục chửi bới, cứ thế tiến về trước để tìm kiếm. Bỗng nhiên, có vài giọt nước nóng hổi rơi lên má đệ tử. Đệ tử nghe được mùi máu tanh, vô cùng sợ hãi, hỏi khẽ: “Đại ca bị trọng thương hả?” Lệnh Hồ đại ca đưa tay bịt miệng đệ tử lại, chờ cho tiếng phát cỏ của Điền Bá Quang càng lúc càng xa, mới nói khẽ: “Không có gì đáng ngại” rồi buông tay. Máu rơi lên má đệ tử càng lúc càng nhiều. Đệ tử nói: “Đại ca bị thương rất nặng, nên cầm máu mới được, tiểu ni có đem Thiên hương đoạn tục giao đây”. Đại ca nói: “Đừng lên tiếng kẻo bị hắn phát hiện” rồi đưa tay ra bịt vết thương lại. Một lúc sau, Điền Bá Quang lại quay về. Hắn la to: “Ha ha! Thì ra các ngươi ở đây! Ta nhìn thấy các ngươi rồi, mau đứng dậy đi!” Đệ tử nghe Điền Bá Quang nói đã thấy bọn đệ tử, lòng thầm than khổ, bèn muốn đứng dậy nhưng chân không cử động được.
Định Dật sư thái nói:
– Vậy là ngươi mắc mưu của hắn rồi. Điền Bá Quang lừa bọn ngươi đó, hắn chưa nhìn thấy ngươi đâu.
Nghi Lâm nói:
– Đúng rồi, sư phụ. Lúc đó sư phụ không có ở đó, làm sao sư phụ biết vậy?
Định Dật nói:
– Có gì khó đoán đâu? Nếu như hắn thực sự nhìn thấy bọn ngươi thì đã hớt một kiếm chém chết Lệnh Hồ Xung rồi, hà tất phải la to lên như vậy? Lệnh Hồ Xung cũng không có kiến thức gì.
Nghi Lâm lắc đầu nói:
– Không phải, Lệnh Hồ đại ca cũng đoán được. Đại ca giơ tay bụm miệng đệ tử lại, sợ đệ tử sợ hãi mà la lên. Điền Bá Quang kêu la một hồi lâu, không nghe có tiếng trả lời liền tiếp tục phát cỏ, tìm kiếm nữa. Lệnh Hồ đại ca đợi hắn đi xa rồi mới khẽ nói: “Sư muội, nếu chúng ta có thể ở đây thêm nửa canh giờ nữa thì huyệt đạo của sư muội sẽ được giải khai, khí huyết sẽ lưu thông. Ta có thể chờ huyệt đạo sư muội được giải khai nhưng Điền Bá Quang nhất định sẽ quay trở lại, thì e rằng khó bề trốn thoát. Chúng ta liều mạng, tìm vào sơn động để ẩn tránh đi!”
Nghi Lâm kể đến đây, Văn tiên sinh, Hà Tam Thất, Lưu Chính Phong không hẹn mà cùng vỗ tay.
Văn tiên sinh nói:
– Giỏi, có đởm lược, có kiến thức lắm!
Nghi Lâm kể tiếp:
– Đệ tử nghe nói đi vào trong sơn động lần nữa thì vô cùng sợ hãi, nhưng lúc đó đệ tử rất khâm phục Lệnh Hồ đại ca, đại ca đã nói như vậy thì chắc là không sai nên đệ tử nói “Được”. Đại ca liền bồng đệ tử đi vào sơn động, đặt đệ tử xuống đất, đệ tử nói: “Trong áo của tiểu muội có Thiên hương đoạn tục giao là linh dược trị thương, xin đại ca… xin đại ca lấy ra bôi lên vết thương đi!” Đại ca nói: “Bây giờ ta lấy thì không tiện, đợi sau khi tay chân sư muội cử động được thì hãy lấy đưa cho ta”. Đại ca rút lưỡi kiếm cắt đứt một mảnh vải tay áo, buộc vào vai trái. Lúc này đệ tử mới hiểu rõ, thì ra đại ca vì bảo vệ đệ tử, lúc núp trong bụi cỏ bị một nhát kiếm của Điền Bá Quang chém trúng đầu vai trái. Đại ca vẫn không nhúc nhích, không một tiếng kêu đau, nên Điền Bá Quang không phát hiện được. Lòng đệ tử rất xót xa, không hiểu lấy thuốc có cái gì mà không tiện…
Định Dật hừ lên một tiếng rồi nói:
– Nói như vậy thì Lệnh Hồ Xung là một chính nhân quân tử.
Đôi mắt đẹp của Nghi Lâm mở to sáng ngời, thần sắc lộ vẻ ngạc nhiên hỏi:
– Lệnh Hồ đại ca tất nhiên là người tốt bậc nhất, đại ca chưa bao giờ quen biết đệ tử, mà lại không kể gì đến sự an nguy tính mạng mình để cứu đệ tử.
Dư Thương Hải lạnh lùng nói:
– Ngươi với hắn tuy chưa từng quen biết nhưng có lẽ hắn đã gặp qua ngươi rồi, nếu không thì tại sao hắn lại tốt như vậy?
Ý lão muốn nói là Lệnh Hồ Xung vì sắc đẹp mỹ miều tha thướt của cô mới quên mình như thế. Nghi Lâm nói:
– Không phải, đại ca nói từ trước đến giờ chưa gặp qua đệ tử. Lệnh Hồ đại ca quyết không nói dối với đệ tử, nhất định đại ca không biết.
Cô nói rất quả quyết, giọng nói tuy dịu dàng nhưng ý rất kiên định. Mọi người thấy cô nói đoan chắc như vậy nên cũng tin vào lời nói của cô.
Dư Thương Hải nghĩ bụng: Lệnh Hồ Xung to gan lớn mật làm những chuyện không sợ trời không sợ đất nhưng mà không phải vì sắc đẹp. Chắc chắn, hắn muốn khiêu chiến với Điền Bá Quang là để được nổi danh trong võ lâm.
– Khi buộc vết thương xong, Lệnh Hồ đại ca giải khai huyệt đạo bên vai và sau lưng để đả thông huyết mạch cho đệ tử. Không bao lâu, nghe tiếng sột soạt ở ngoài động càng lúc càng gần. Điền Bá Quang lại vung kiếm phát cỏ; hắn tiến gần đến cửa sơn động. Trống ngực của đệ tử đập thình thịch. Hắn đi vào trong động rồi ngồi xuống đất, không nói gì cả. Đệ tử nín thở, không dám phà hơi ra miệng. Bỗng nhiên lúc đó, đầu vai của đệ tử đau nhói, đệ tử vô ý khẽ rên lên. Trời ơi, thôi rồi! Điền Bá Quang cười ha hả, bước về phía đệ tử; Lệnh Hồ đại ca ngồi bên cạnh vẫn không nhúc nhích. Điền Bá Quang cười, nói: “Thì ra con cừu non còn núp ở trong động này”.
Hắn đưa tay định chụp vào người đệ tử, thì đánh véo một tiếng, hắn đã bị Lệnh Hồ đại ca đâm trúng một kiếm. Điền Bá Quang sợ hãi, thanh kiếm gãy cầm trong tay rơi xuống đất. Đáng tiếc là nhát kiếm của Lệnh Hồ đại ca không đâm trúng chỗ hiểm của hắn. Điền Bá Quang vội nhảy lùi về phía sau, hắn rút thanh đao sau lưng ra, vung đao chém Lệnh Hồ đại ca. Choang một tiếng, đao kiếm giao nhau, hai người đã động thủ rồi. Cả hai người đều không ai thấy ai, tiếng đao kiếm chiết chiêu xoang xoảng, rồi cả hai cùng lùi ra phía sau. Đệ tử chỉ nghe được tiếng thở của họ, lòng đã muốn chết điếng.
Thiên Môn đạo nhân hỏi xen vào:
– Lệnh Hồ Xung và hắn đấu với nhau bao nhiêu hiệp?
Nghi Lâm đáp:
– Lúc đó đệ tử hoang mang, thực sự không biết hai người đấu đến bao lâu. Nhưng đệ tử nghe Điền Bá Quang cười nói: “A ha, ngươi là người phái Hoa Sơn! Kiếm pháp của phái Hoa Sơn không địch lại đao pháp của ta đâu. Ngươi tên là gì?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi. Phái Hoa Sơn cũng vậy, phái Hằng Sơn cũng thế đều muốn tiêu diệt tên dâm tặc như ngươi…” Đại ca chưa nói xong, Điền Bá Quang đã tấn công tới tấp. Thì ra hắn dụ Lệnh Hồ đại ca nói ra để hắn biết đại ca ở chỗ nào. Hai người giao đấu với nhau mấy hiệp nữa. Lệnh Hồ đại ca kêu á lên một tiếng vì đã bị thương. Điền Bá Quang cười nói: “Ta đã nói rồi, Hoa Sơn kiếm pháp không phải là đối thủ của ta, cho dù sư phụ của ngươi là Nhạc lão nhi đến đây cũng đánh không lại ta đâu”. Lệnh Hồ đại ca không nói gì với hắn. Lúc nãy đầu vai của đệ tử đau nhói, thì ra huyệt đạo trên vai được giải rồi. Lúc này, huyệt đạo ở lưng lại đau buốt, đệ tử gắng gượng từ từ bò dậy, đưa tay mò thanh kiếm gãy dưới đất. Lệnh Hồ đại ca nghe có tiếng động, vui mừng nói: “Huyệt đạo của sư muội đã được giải rồi. Mau chạy đi! Mau chạy đi!” Đệ tử nói: “Sư huynh phái Hoa Sơn, sư muội và sư huynh cùng đánh tên ác nhân này”. Đại ca nói: “Sư muội mau chạy đi! Hai người chúng ta có hợp lực cũng không địch lại hắn đâu”. Điền Bá Quang cười nói: “Ngươi biết vậy thì tốt, hà tất phải chiến đấu cho uổng tính mạng? Này, ta khâm phục ngươi là một anh hùng hảo hán. Ngươi tên là gì?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Ngươi hỏi tôn tính đại danh của ta à? Ta nói cho ngươi biết cũng chẳng hề gì, nhưng ngươi hỏi ta vô lễ như vậy thì lão tử không thèm nói cho ngươi biết”. Sư phụ, sư phụ coi có tức cười không? Lệnh Hồ đại ca không phải là gia gia của hắn nhưng lại tự xưng là “lão tử”.
Định Dật hừ một tiếng rồi đáp:
– Đây là lời nói thô tục để chửi nhau chứ không phải là “lão tử” thật đâu.
Nghi Lâm đáp:
– Dạ, thì ra là như vậy. Lệnh Hồ đại ca nói: “Sư muội, sư muội mau chạy đến thành Hành Sơn đi. Bằng hữu của chúng ta đều đang ở đó, chắc tên ác tặc này không dám đến Hành Sơn kiếm sư muội đâu!” Đệ tử nói: “Tiểu muội đi, hắn giết đại ca thì tiểu muội biết làm sao?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Hắn giết ta không được đâu! Ta đang cầm chân hắn, sao sư muội còn không mau chạy đi. Úi chao!” Hai tiếng choang choang vang lên, hai người đã tái đấu. Lệnh Hồ đại ca lại bị thêm một vết thương, vội la to: “Sư muội không đi, ta sẽ chửi sư muội đó!” Lúc đó, đệ tử đã mò được thanh kiếm gãy ở dưới đất, nói to: “Hai người chúng ta đánh một mình hắn”. Điền Bá Quang cười nói: “Lại càng hay! Điền Bá Quang này một đao cùng đấu với cả hai phái Hoa Sơn và Hằng Sơn”. Lệnh Hồ đại ca chửi đệ tử thật. Đại ca chửi: “Tiểu ni cô này thật là ngu dốt, lại rất lộn xộn, còn không chạy mau đi ư? Ngươi không chịu đi, lần sau gặp ngươi, ta sẽ xẻo tai ngươi đó”. Điền Bá Quang cười nói: “Tiểu ni cô này không nỡ xa ta nên không muốn đi”. Lệnh Hồ đại ca sốt ruột quát:“Ngươi có chịu đi không?” Đệ tử nói: “Không đi!” Lệnh Hồ đại ca nói: “Ngươi mà không đi ta sẽ chửi sư phụ của ngươi đó! Lão ni cô Định Nhàn là một bà lão hồ đồ, dạy ngươi cũng hồ đồ luôn!” Đệ tử nói: “Định Nhàn sư bá không phải là sư phụ của tiểu muội”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Được, thế thì ta chửi Định Tĩnh sư thái”. Đệ tử nói: “Định Tĩnh sư bá cũng không phải là sư phụ của tiểu muội”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Trời ơi! Ngươi vẫn không đi, ta chửi Định Dật là mụ già hồ đồ…”
Gương mặt Định Dật cau lại trông thật khó coi.
Nghi Lâm vội nói:
– Sư phụ, xin sư phụ đừng giận. Lệnh Hồ đại ca vì muốn cứu đệ tử, không phải muốn chửi sư phụ thật đâu. Đệ tử nói: “Chính tiểu muội hồ đồ chứ không phải là do sư phụ dạy đâu!” Bỗng nhiên, Điền Bá Quang lạng người đi một cái, đưa tay định điểm huyệt đệ tử. Trong bóng tối, đệ tử vung kiếm chém loạn xạ mới khiến cho hắn phải lùi lại.
Lệnh Hồ đại ca quát: “Ta còn có rất nhiều lời khó nghe muốn chửi sư phụ của ngươi, ngươi có sợ hay không?” Đệ tử nói: “Đại ca đừng chửi! Chúng ta cùng trốn đi”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Ngươi còn đứng cạnh ta khiến ta vướng tay vướng chân lắm. Hoa Sơn kiếm pháp của ta cực kỳ lợi hại; ngươi còn đứng đây thì ta không phát huy được. Ngươi đi đi cho ta giết tên ác ôn này”. Điền Bá Quang cười ha hả, nói: “Ngươi đối với tiểu ni cô này cũng quá đa tình đa nghĩa, chỉ đáng tiếc ngay cả tên của ngươi cô ta cũng không biết”. Đệ tử nghĩ tên ác ôn này nói không sai. Đệ tử bèn nói: “Thưa sư huynh phái Hoa Sơn, đại danh của sư huynh là gì vậy? Tiểu muội đến Hành Sơn sẽ trình với sư phụ là sư huynh đã cứu tính mạng của tiểu muội”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Đi nhanh đi! Đi nhanh đi! Sao mà lẩn thẩn quá vậy. Ta họ Lao, tên Đức Nặc!”
Lao Đức Nặc nghe đến đó, không khỏi sợ hãi, thầm nghĩ: Tại sao đại sư ca lại mạo xưng tên mình?
Văn tiên sinh gật đầu nói:
– Lệnh Hồ Xung làm việc thiện mà không cầu danh, vốn là bản sắc của đạo hiệp nghĩa chúng ta vậy.
Định Dật sư thái liếc nhìn Lao Đức Nặc lẩm bẩm:
– Tên Lệnh Hồ Xung này thật vô lễ, dám cả gan chửi cả đến ta. Hừ, chắc là hắn sợ sau chuyến này bị ta truy cứu nên đem tội lỗi đổ hết lên đầu người khác.
Nói xong lão ni nhìn Lao Đức Nặc nói:
– Hừm, có phải ngươi là người trong sơn động đã chửi ta hồ đồ không?
Lao Đức Nặc vội khom người đáp:
– Không, không phải! Đệ tử không dám!
Lưu Chính Phong mỉm cười nói:
– Định Dật sư thái, Lệnh Hồ Xung mạo xưng tên của sư đệ Lao Đức Nặc là có đạo lý riêng. Lao hiền điệt biết võ nghệ rồi mới bái sư, vai vế tuy thấp, nhưng tuổi tác lại cao, râu dài như vậy, Lao hiền điệt tính ra đáng làm tổ phụ của Nghi Lâm sư điệt.
Lúc này Định Dật mới chợt hiểu ra Lệnh Hồ Xung muốn bảo vệ thanh danh cho Nghi Lâm. Trong hang động tối đen không rõ mặt nhau, sau khi Nghi Lâm thoát thân, cô sẽ nói là Lao Đức Nặc phái Hoa Sơn đã cứu cô ta. Người này là một lão già khô đét, người ngoài sẽ không hơi đâu mà đồn đãi này nọ. Cách mạo xưng đó không những bảo toàn được thanh danh trong trắng cho Nghi Lâm mà còn bảo toàn được oai danh của phái Hằng Sơn nữa. Lão ni nghĩ đến đây, không thể giấu được niềm vui trên gương mặt, gật đầu nói:
– Tiểu tử này nghĩ thật chu đáo. Nghi Lâm, sau đó thì sao?
Nghi Lâm đáp:
– Lúc đó đệ tử vẫn không chịu đi. Đệ tử nói: “Lao đại ca, đại ca vì cứu tiểu muội mà sa vào chỗ nguy hiểm, tiểu muội sao có thể gặp lúc khó khăn mà bỏ trốn? Nếu sư phụ mà biết tiểu muội không có nghĩa khí với đồng đạo nhất định sẽ giết tiểu muội ngay. Ngày thường sư phụ giáo huấn rằng phái Hằng Sơn của chúng ta tuy đều là hạng nữ lưu nhưng tinh thần hiệp nghĩa thì không thể thua hạng nam tử hán”.
Định Dật vỗ tay nói lớn:
– Hay! Ngươi nói phải đó! Chúng ta là người học võ, nếu bất chấp nghĩa khí giang hồ thì sống không bằng chết, bất luận nam hay nữ đều như nhau cả.
Mọi người nghe lão ni nói mấy câu đầy hào khí, nghĩ bụng: Khí khái của lão ni cô này không thua gì đấng mày râu.
Nghi Lâm kể tiếp:
– Lệnh Hồ đại ca lại tiếp tục chửi to hơn nữa: “Tiểu ni cô khốn nạn du thủ du thực cứ đứng đây lôi thôi rắc rối khiến cho ta không phát triển được kiếm pháp thiên hạ vô địch của phái Hoa Sơn. Cái mạng già này thế nào cũng lọt vào tay của Điền Bá Quang rồi. Thì ra ngươi và Điền Bá Quang thông đồng với nhau, cố ý hãm hại ta. Lao Đức Nặc này thật là xui xẻo, vừa ra cửa đã gặp ni cô, mà là một tiểu ni cô khốn nạn, tuyệt tử tuyệt tôn, tuyệt đến mười tám đời con cháu đã hại lão tử. Lão tử là một người không có gì không phá nổi mà hôm nay không phát huy được oai lực kiếm pháp tuyệt diệu, lại sợ kiếm pháp lợi hại này làm tổn thương tính mạng cô ta nên không thể đem ra sử dụng được. Trời ơi! Điền Bá Quang! Ngươi cho ta một đao để ta chết cho rồi, lão tử hôm nay đã tới số rồi!”
Mọi người nghe Nghi Lâm nói năng lưu loát, giọng điệu mềm mại trong trẻo. Cô thuật lại những lời chửi bới thô tục của Lệnh Hồ Xung mà ai nấy nghe rất dễ lọt tai.
Nghi Lâm lại kể tiếp:
– Đệ tử nghe đại ca nói như vậy, tuy biết đại ca chửi đệ tử là giả, nhưng lại nghĩ võ nghệ của đệ tử còn thấp không thể giúp gì được cho đại ca, ở lại trong sơn động chỉ làm vướng tay vướng chân đại ca, khiến đại ca không phát triển được sự tinh xảo trong Hoa Sơn kiếm pháp…
Định Dật hừ một tiếng rồi nói:
– Tiểu tử này khoác lác quá! Hoa Sơn kiếm pháp của hắn chẳng qua cũng chỉ vậy thôi, làm sao có thể nói là thiên hạ vô địch?
Nghi Lâm nói:
– Sư phụ, đại ca nói khoác để dọa Điền Bá Quang, làm cho hắn biết khó mà rút lui. Đệ tử nghe đại ca càng chửi càng hăng, mới nói: “Lao đại ca, tiểu muội đi đây! Sau này có ngày gặp lại”. Đại ca chửi: “Cút đi đồ thối tha, tránh ta ra càng xa càng tốt! Hễ ta gặp ni cô thì đánh bạc thua sạch túi. Trước giờ, ta chưa gặp ngươi, sau này vĩnh viễn ta cũng không muốn gặp ngươi. Lão tử bình sinh thích nhất là đánh bạc, gặp ngươi nữa để làm gì?”
Định Dật đột nhiên nổi nóng, đập bàn quát:
– Tiểu tử thật là khốn nạn! Lúc đó ngươi còn chưa đi sao?
Nghi Lâm đáp:
– Đệ tử sợ đại ca giận nên đành phải đi. Vừa ra khỏi sơn động thì đã nghe trong động tiếng đao kiếm giao đấu chạm nhau loảng choảng. Nhưng đệ tử sợ đại ca xui xẻo, đánh bạc sẽ thua, vậy là đệ tử mím miệng lấy hơi chạy thật nhanh, bụng nghĩ sẽ đuổi kịp sư phụ lão nhân gia để xin sư phụ giúp đỡ đại ca bắt tên ác tặc Điền Bá Quang.
Định Dật ừ một tiếng, gật đầu.
Nghi Lâm đột nhiên hỏi:
– Sư phụ, Lệnh Hồ đại ca sau đó không may chết đi có phải là vì… là vì… đã gặp đệ tử, nên thời vận mới xui xẻo như vậy?
Định Dật tức giận nói:
– Cái gì “Hễ gặp ni cô thì đánh bạc thua”. Toàn là những lời bậy bạ mà ngươi cũng tin được ư? Ở đây có nhiều người đều đã gặp thầy trò ta, lẽ nào bọn họ ai cũng thời vận xui xẻo?
Mọi người nghe đều mỉm cười, nhưng không ai dám cười ra tiếng.
Nghi Lâm nói:
– Dạ, đệ tử chạy cho đến khi trời sáng thì đã thấy thành Hành Dương mới yên tâm một chút, nghĩ bụng chắc có thể gặp được sư phụ ở Hành Dương, nào ngờ tên Điền Bá Quang lại đuổi đến. Đệ tử vừa thấy hắn chân đã mềm nhũn ra, chạy được mấy bước liền bị hắn túm lấy. Đệ tử nghĩ hắn đã đuổi đến nơi đây thì đại ca Lao Đức Nặc của phái Hoa Sơn nhất định đã bị hắn giết trong sơn động rồi, lòng đau đớn không sao tả được. Điền Bá Quang thấy người đi đường rất đông nên không dám vô lễ với đệ tử. Hắn nói: “Tiểu ni cô đi cùng ta, ta sẽ không động tay động chân với cô. Nếu cô ngoan cố không nghe, ta lập tức lột hết quần áo cô ra để làm trò cười cho mọi người đi đường”. Đệ tử sợ quá không dám phản kháng, đành đi theo hắn vào thành.
Đến trước quán rượu Hồi Nhạn lâu, hắn nói: “Tiểu sư phụ, cô là nàng tiên… nhan sắc chim sa cá lặn. Hồi Nhạn lâu vì cô mà mở ra. Vậy chúng ta lên đó uống một bữa cho thật say để chúc mừng ngày gặp gỡ này”. Đệ tử nói: “Người xuất gia không ăn mặn, không uống rượu. Đây là giới luật của Bạch Vân am ta”. Hắn nói: “Giới luật của Bạch Vân am nhà cô sao lắm chuyện vậy, thực sự có giữ được nổi không? Tý nữa ta sẽ giúp ngươi phá giới. Những gì được gọi là thanh quy giới luật đều chỉ đặt ra để dối gạt người. Sư phụ ngươi… sư phụ ngươi…”
Cô nói đến đây liếc trộm Định Dật một cái rồi không dám nói tiếp nữa.
Định Dật nói:
– Tên ác nhân ăn nói càn bậy, không cần đề cập đến hắn. Ngươi chỉ nói sau đó thì ngươi nói thế nào thôi.
Nghi Lâm nói:
– Dạ! Sau đó đệ tử nói: “Ngươi đừng nói tầm bậy tầm bạ! Sư phụ ta từ trước đến giờ không bao giờ lén lút uống rượu và ăn thịt chó đâu”.
Mọi người nghe cô nói nhịn không nổi, cười ồ cả lên. Nghi Lâm tuy không thuật hết những lời nói của Điền Bá Quang nhưng từ câu trả lời của cô, ai cũng biết Điền Bá Quang đã bảo Định Dật thường lén lút uống rượu và ăn thịt chó!
Định Dật sa sầm nét mặt, nghĩ bụng:
– Hài tử thật là ngây thơ, nói năng không biết giữ mồm giữ miệng chút nào.
Nghi Lâm kể tiếp:
– Tên ác nhân giơ tay chụp lấy vạt áo của đệ tử rồi nói: “Ngươi không lên lầu bồi rượu cho ta thì ta sẽ xé toạc áo quần của ngươi đó”. Đệ tử không còn cách nào khác đành theo hắn lên lầu. Tên ác nhân gọi đem rượu ra. Hắn thật tồi tệ, đệ tử đã nói là đệ tử ăn chay nhưng hắn cứ kêu toàn là đồ ăn mặn như thịt bò, thịt heo, thịt gà, cá, tôm. Hắn bảo nếu đệ tử không ăn thì hắn sẽ xé rách quần áo của đệ tử. Sư phụ, đệ tử nhất định không ăn, quyết không phạm giới cấm của nhà Phật. Gã xấu xa này muốn xé quần áo của đệ tử nhưng không được nữa. Ngay lúc đó có một người đi lên tửu lâu, lưng đeo trường kiếm, sắc mặt nhợt nhạt, áo quần dính đầy máu. Người ấy đến bên cạnh đệ tử ngồi xuống, không nói một lời, bưng lấy bát rượu trước mặt đệ tử uống cạn. Người ấy tự rót thêm một bát nữa, nâng lên nhìn Điền Bá Quang nói “Xin mời!” rồi nhìn đệ tử nói “Xin mời!” rồi lại uống cạn. Đệ tử vừa nghe giọng nói của người ấy bất giác vừa sợ hãi vừa vui mừng. Thì ra, đó là Lao đại ca, người đã cứu đệ tử trong sơn động. Cám ơn Trời Phật, đại ca không bị Điền Bá Quang giết chết. Nhưng trên người đầy vết chém, đại ca vì cứu đệ tử mà bị thương tích khắp mình mẩy.
Điền Bá Quang nhìn đại ca chăm chú từ trên xuống dưới rồi nói: “Là ngươi à?” Đại ca nói: “Là ta!”
Điền Bá Quang nhìn đại ca rồi giơ ngón tay cái lên, khen rằng: “Hảo hán tử!” Đại ca cũng nhìn Điền Bá Quang rồi đưa ngón tay cái lên khen ngợi: “Hảo đao pháp!” Cả hai đều cười ha hả, rồi cùng uống bát rượu. Đệ tử lấy làm kỳ. Tối hôm qua, hai người choảng nhau kịch liệt như vậy, tại sao bây giờ bỗng nhiên biến thành bằng hữu? Đại ca không chết, đệ tử rất vui mừng; nhưng thấy đại ca lại là bằng hữu của tên ác nhân Điền Bá Quang, đệ tử không an lòng chút nào.
Điền Bá Quang nói: “Ngươi không phải là Lao Đức Nặc! Lao Đức Nặc là một lão già xấu xí, đâu có phong lưu tráng kiện như ngươi?” Đệ tử trộm nhìn đại ca, ước đoán đại ca không quá hai mươi tuổi. Thì ra tối hôm qua, đại ca nói cái gì là “lão gia sống đã mấy chục năm rồi” đều là để gạt Điền Bá Quang. Đại ca cười nói: “Ta không phải là Lao Đức Nặc”. Điền Bá Quang vỗ bàn nói: “Đúng rồi, ngươi là Lệnh Hồ Xung, nhân vật số một trong hàng đệ tử của phái Hoa Sơn, cao thủ giang hồ”. Lệnh Hồ đại ca thừa nhận, cười nói: “Các hạ quá lời! Lệnh Hồ Xung đã thất bại dưới tay các hạ, thật hổ thẹn!” Điền Bá Quang nói: “Không đánh thì không biết nhau. Chúng ta kết giao bằng hữu, được chăng? Lệnh Hồ huynh đã thích tiểu ni cô xinh đẹp mỹ miều này, tại hạ nhường cho huynh đó. Trọng sắc đẹp mà khinh tình bằng hữu thì đâu phải là hành vi của tại hạ?”
Định Dật tái mặt, nói:
– Tên ác tặc đáng chết, thật đáng chết!
Nghi Lâm nước mắt lưng tròng nói:
– Sư phụ, Lệnh Hồ đại ca bỗng nhiên chửi đệ tử. Đại ca nói: “Tiểu ni cô này mặt mày không còn chút máu, suốt ngày chỉ ăn rau cải và đậu hũ, tướng mạo có gì tươi tốt đâu. Điền huynh, bình sinh tại hạ hễ thấy ni cô thì phát bực, chỉ hận là không giết hết ni cô trong thiên hạ!” Điền Bá Quang cười hỏi: “Tại sao lại như vậy?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Không giấu gì Điền huynh, bình sinh tiểu đệ có một sở thích là đánh bạc, coi trọng việc đánh bạc hơn cả sinh mạng mình, chỉ nhìn thấy con xúc xắc thôi thì ngay cả đến họ tên mình cũng không nhớ. Nhưng nếu xui xẻo gặp ni cô thì ngày hôm đó không dám đánh bạc nữa vì đánh đâu thua đó, đã thử nhiều lần nhưng lần nào cũng vậy. Không chỉ riêng tại hạ đâu, các sư huynh sư đệ của phái Hoa Sơn người nào cũng gặp như vậy. Vì thế đệ tử phái Hoa Sơn hễ thấy sư bá, sư thúc, sư muội, sư tỷ của phái Hằng Sơn ngoài mặt tuy giả bộ cung kính nhưng trong lòng than thầm xui xẻo!”
Định Dật tức giận, quay lại đánh một chưởng. Chỉ nghe bốp một tiếng, Lao Đức Nặc đã bị tát một cái tóe lửa. Lão ni xuất thủ vừa nhanh vừa mạnh, Lao Đức Nặc không kịp né tránh, chỉ cảm thấy đầu váng mắt hoa, suýt chút nữa thì té nhào.
– Có gì đâu mà sư thái phải nổi giận như vậy? Lệnh Hồ hiền điệt vì muốn cứu lệnh cao túc nên mới nói càn bậy với Điền Bá Quang; lời nói điêu ngoa xảo trá mà sư thái cũng cho là thật ư?
Định Dật ngẩn ngơ, hỏi lại:
– Tam gia nói là vì hắn muốn cứu Nghi Lâm sao?
Lưu Chính Phong nói:
– Tại hạ đoan chắc là như vậy. Nghi Lâm sư điệt, có phải vậy không?
Nghi Lâm cúi đầu đáp:
– Lệnh Hồ đại ca là người tốt, chỉ vì… chỉ vì ăn nói hơi vô lễ và thô tục nên sư phụ giận. Đệ tử không dám kể tiếp nữa.
Định Dật quát:
– Ngươi kể tiếp, nói rõ từng chi tiết đi. Ta muốn biết hắn có ý tốt hay là muốn xiên xỏ. Nếu thằng ranh con vô lại xấu xa đó chết rồi, ta cũng sẽ tính chuyện với Nhạc lão nhi nữa.
Nghi Lâm ấp a ấp úng, không dám kể tiếp. Định Dật quát:
– Nói đi, không phải úy kỵ gì nữa. Dù tốt hay xấu, lẽ nào chúng ta không phân biệt được sao?
Nghi Lâm đáp:
– Dạ! Lệnh Hồ đại ca lại nói: “Điền huynh, chúng ta là người học võ, cả đời sống trên lưỡi kiếm lưỡi đao, tuy người có võ nghệ cao cường luôn chiếm ưu thế, nhưng chung quy vẫn là ở vận số. Điền huynh nghĩ xem có đúng vậy không? Khi gặp đối thủ võ công tương đương thì sự sinh tử, tồn vong đều do vận số quyết định. Đừng nói tiểu ni cô này ốm nhom như con mắm, nhấc lên không được ba lạng, mà ngay đến tốt tươi như tiên nữ hạ phàm, Lệnh Hồ Xung này cũng không thèm nhìn mặt. Con người ta ai cũng coi trọng tính mạng. Trọng sắc đẹp mà khinh bằng hữu tất nhiên là đã trật rồi; còn trọng sắc đẹp mà xem thường tính mạng của mình thì người đó là đại ngu ngốc. Tiểu ni cô vạn lần muốn gặp ta cũng không được”. Điền Bá Quang cười nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ biết huynh là một hảo hán tử không sợ trời sợ đất, tại sao đối với ni cô mà huynh kiêng kỵ nhiều điều như vậy?” Lệnh Hồ Xung đáp: “Đúng, cả cuộc đời tiểu đệ sau khi vướng phải ni cô thì gặp rất nhiều chuyện xui xẻo không sao tưởng tượng nổi. Huynh nghĩ coi, tối hôm qua tiểu đệ còn lành lặn đầy đủ, ngay cả khuôn mặt của tiểu ni cô cũng không trông thấy nhưng mới chỉ nghe giọng nói của cô ta thôi thì đã bị huynh chém lên người ba nhát, xém chút nữa là toi mạng. Đó không là xui xẻo thì thế nào mới là xui xẻo?” Điền Bá Quang cười ha hả, rồi nói: “Như vậy thì quả là xui xẻo thật!” Lệnh Hồ đại ca nói: “Điền huynh, tiểu đệ không muốn nói chuyện với ni cô này nữa. Chúng ta là nam tử hán đại trượng phu cứ uống rượu cho thỏa thích. Huynh bảo tiểu ni cô này cút xéo đi! Tiểu đệ chân thành khuyên huynh chớ đụng vào cô ta, nếu không thì lập tức vận xui sẽ bao trùm cuộc đời ngay. Sau này khắp chốn giang hồ, đâu đâu huynh cũng gặp xui xẻo, trừ khi huynh xuất gia cạo đầu làm hòa thượng thì mới hết. Ni cô là một món trong Thiên hạ tam độc, sao Điền huynh không tránh xa cô ta ra?” Điền Bá Quang hỏi: “Cái gì mà Thiên hạ tam độc?” Lệnh Hồ đại ca giả bộ sửng sốt đáp: “Điền huynh đã ngang dọc giang hồ nhiều năm, kiến thức rộng rãi, mà sao ngay cả “Thiên hạ tam độc” cũng không biết? Người ta thường nói: Ni cô, Tỳ sương, Kim tuyến xà, dù lớn gan hay nhỏ mật cũng xin chớ đụng vào! Ni cô là món độc thứ nhất, Tỳ sương là món độc thứ hai, Kim tuyến xà là món độc thứ ba. Trong thiên hạ tam độc, ni cô đứng đầu tiên; bọn nam đệ tử trong Ngũ Nhạc kiếm phái thường nhắc nhở với nhau như vậy”.
Định Dật nổi giận giơ tay đập mạnh xuống bàn trà rồi chửi to:
– Mẹ nó! Đồ chó…
Lão ni định chửi “đồ chó ỉa” nhưng may mắn ghìm lại được. Lao Đức Nặc đã bị lão ni làm cho đau khổ mấy lần nên hắn cố đứng xa xa và tránh qua một bên. Hắn thấy lão ni mặt đỏ bừng bừng thì lại thụt lùi về sau thêm vài bước nữa.
Lưu Chính Phong thở dài nói:
– Lệnh Hồ sư điệt tuy là có ý tốt nhưng buột miệng thốt ra những lời như vậy thì phải nói là quá đáng. Nhưng có thể hiểu là khi nói chuyện với hạng người đại ác như Điền Bá Quang mà không thiên hô bách sát như vậy thì không dễ gạt cho hắn tin được.
Nghi Lâm hỏi:
– Lưu sư thúc, sư thúc nói những lời như vậy là do Lệnh Hồ đại ca cố ý bịa ra để dối gạt gã họ Điền ư?
Lưu Chính Phong đáp:
– Tất nhiên là như vậy. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái, đâu có những câu vừa nhạt nhẽo vừa vô lễ như vậy? Còn một hôm nữa là tới ngày đại lễ rửa tay gác kiếm của Lưu mỗ, tại hạ muốn tất cả mọi người đều được tốt đẹp vui vẻ. Nếu đối với quý phái có điều cấm kỵ kiêng dè thì Lưu mỗ làm sao dám cung kính thỉnh mời Định Dật sư thái và các vị hiền điệt quang lâm tệ xá?
Định Dật nghe lão nói mấy câu, sắc mặt dịu bớt, lại hừ lên một tiếng rồi chửi tiếp:
– Tiểu tử Lệnh Hồ Xung thối mồm thối miệng, không biết là do tên thất đức nào đã dạy hắn phun ra những lời như vậy?
Lão ni nói vậy là có ý ám chỉ sư phụ của Lệnh Hồ Xung. Xem ra, mụ chửi luôn cả chưởng môn phái Hoa Sơn. Lưu Chính Phong nói:
– Sư thái không nên phiền trách, võ công của Điền Bá Quang rất lợi hại. Lệnh Hồ sư điệt đấu không lại hắn, thấy Nghi Lâm hiền điệt đang ở trong hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm, đành phải bịa chuyện nói bậy nói bạ mới có thể lừa gạt được tên ác tặc để hắn buông tha cho Nghi Lâm. Thử nghĩ xem, Điền Bá Quang qua lại khắp nơi trên giang hồ, hiểu biết rộng rãi, sao lại có thể dễ bị lừa gạt được? Người phàm tục không biết các sư thái là người xuất gia sống như thế nào nên dễ có cách nhìn sai lệch. Đó cũng là chuyện bình thường và Lệnh Hồ sư điệt đã nhân cơ hội mà nói ra những lời như vậy. Chúng ta là người trên giang hồ, lời nói hay việc làm cũng có lúc phải tùy cơ ứng biến. Nếu Lệnh Hồ sư điệt thực sự không xem trọng phái Hằng Sơn thì mới quy lỗi là do Nhạc tiên sinh của phái Hoa Sơn mà ra. Còn nếu không có lòng kính trọng khâm phục ba vị lão sư thái thì tại sao Lệnh Hồ sư điệt lại phải tận tâm tận lực cứu đệ tử của quý phái như vậy?
Định Dật gật đầu nói:
– Lưu tam gia nói hơi quá lời rồi.
Rồi quay qua nhìn Nghi Lâm hỏi:
– Có phải vì vậy mà Điền Bá Quang thả ngươi ra?
Nghi Lâm lắc đầu nói:
– Không phải. Lệnh Hồ đại ca nói: “Huynh tuy khinh công độc bộ thiên hạ nhưng nếu gặp lúc vận khí xui xẻo thì dù khinh công có giỏi đến đâu cũng không thể nào phát huy được”.
Điền Bá Quang nhất thời chưa hiểu hết chủ ý, hắn nhìn đệ tử rồi lắc đầu nói: “Điền Bá Quang tự đến tự đi, ngang dọc giang hồ nào biết kiêng dè ai? Dù sao chúng ta cũng lỡ gặp tiểu ni cô rồi, cứ để cô ta ở lại bồi rượu”. Ngay lúc đó, bàn bên cạnh có một hán tử còn trẻ rút trường kiếm ra, xông đến trước mặt Điền Bá Quang, quát: “Ngươi… ngươi chính là Điền Bá Quang phải không?” Điền Bá Quang nói: “Thế nào?” Hán tử nói: “Ta phải giết ngươi, đồ dâm tặc! Ai ai trong võ lâm cũng đều muốn giết ngươi mới hả dạ. Ngươi lại còn ở đây mà ti toe cái lỗ miệng. Ngươi không sợ chết sao?”. Hán tử nói xong liền phóng kiếm đâm Điền Bá Quang, nhìn chiêu thức thì biết ngay là kiếm pháp của phái Thái Sơn. Chính là vị sư huynh này đây.
Nói xong, cô chỉ tay vào cái xác được đặt nằm trên cánh cửa.
Thiên Môn đạo nhân gật đầu nói:
– Trì Bách Thành hài tử được lắm!
Nghi Lâm kể tiếp:
– Điền Bá Quang né người tránh khỏi, tay đã cầm thanh đơn đao, cười nói: “Mời ngồi, mời ngồi! Uống rượu, uống rượu!” Khi hắn đút đao vào trong vỏ thì vị sư huynh phái Thái Sơn đã bị trúng một đao trước ngực từ lúc nào không rõ, máu tươi phun ra. Sư huynh trừng mắt nhìn Điền Bá Quang, loạng choạng mấy cái rồi té xuống sàn gác.
Nghi Lâm đưa mắt nhìn Thiên Tùng đạo nhân rồi nói:
– Vị sư bá phái Thái Sơn này liền nhảy đến trước mặt Điền Bá Quang, quát lớn rồi phóng kiếm ra chiêu. Chiêu thức của sư bá vô cùng lợi hại nhưng Điền Bá Quang vẫn không đứng dậy. Hắn ngồi yên trên ghế rút đao chống đỡ. Sư bá tấn công hai, ba chục chiêu kiếm nhưng hắn vẫn ngồi chứ không hề đứng dậy.
Thiên Môn đạo nhân sầm mặt đưa mắt nhìn sư đệ đang nằm trên cánh cửa rồi hỏi:
– Sư đệ, võ công của ác tặc đó lợi hại đến như vậy sao?
Thiên Tùng đạo nhân thở dài, từ từ quay đầu đi.
Nghi Lâm kể tiếp:
– Lệnh Hồ đại ca phóng kiếm đâm Điền Bá Quang. Điền Bá Quang quay đao đứng dậy đỡ chiêu kiếm.
Định Dật nói:
– Ngươi nói không đúng rồi. Thiên Tùng đạo trưởng liên tiếp đánh hắn hai ba chục chiêu mà hắn không đứng dậy; Lệnh Hồ Xung chỉ phóng một kiếm thì hắn đứng dậy ngay. Võ công của Lệnh Hồ Xung làm sao có thể cao bằng Thiên Tùng đạo trưởng được?
Nghi Lâm nói:
– Điền Bá Quang hành động như vậy là có lý do. Hắn nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ với Lệnh Hồ huynh là bằng hữu, huynh phóng kiếm tấn công tiểu đệ, nếu tiểu đệ vẫn ngồi bất động là coi thường huynh rồi. Võ công của tiểu đệ tuy cao hơn huynh nhưng lòng tiểu đệ vẫn kính trọng huynh, vì vậy bất luận thắng hay bại đều phải đứng dậy tiếp chiêu. Còn đối với lão mũi… mũi trâu kia… thì không cần phải đứng dậy làm gì”. Lệnh Hồ đại ca hừ một tiếng rồi nói: “Được huynh để mắt tới thì Lệnh Hồ Xung này vô cùng hân hạnh”. Véo, véo, véo; Lệnh Hồ đại ca liên tiếp tấn công hắn liền ba chiêu. Sư phụ, ba chiêu kiếm này rất lợi hại, xung quanh Điền Bá Quang bao phủ một làn kiếm quang dày đặc.
Định Dật gật đầu nói:
– Đây là kiệt tác đắc ý của Nhạc lão nhi, gọi cái gì là Thái nhạc tam thanh phong; chiêu thứ hai mãnh liệt hơn chiêu thứ nhất, chiêu thứ ba mãnh liệt hơn chiêu thứ hai. Điền Bá Quang chiết giải ra sao?
Nghi Lâm nói:
– Điền Bá Quang tiếp một chiêu, lui một bước rồi lui liên tiếp ba bước, reo lên “hảo kiếm pháp”. Rồi quay qua nhìn Thiên Tùng sư bá, hắn nói: “Lão mũi trâu, tại sao ngươi không tiếp tục tấn công ta?”
Lệnh Hồ đại ca vừa phóng kiếm, Thiên Tùng sư bá thụt lùi rồi đứng sang một bên. Sư bá lạnh lùng nói: “Ta là chính nhân quân tử của phái Thái Sơn, tại sao có thể liên thủ với hạng tà dâm?” Đệ tử không nhịn được nữa bèn nói: “Sư bá đừng nói oan cho Lệnh Hồ sư huynh, sư huynh là người tốt!” Thiên Tùng sư bá cười nhạt nói: “Hắn là người tốt ư? Hà hà! Hắn kéo bè cùng gã Điền Bá Quang hoang dâm ô trọc như vậy mà cũng gọi là người tốt được sao?” Bỗng nhiên Thiên Tùng sư bá thét to một tiếng, hai tay ôm ngực, thần sắc trông thật khó coi. Điền Bá Quang tra đao vào vỏ rồi nói: “Ngồi xuống, ngồi xuống! Uống rượu! Uống rượu đi!”
Đệ tử thấy máu từ các kẽ tay của Thiên Tùng sư bá ứa ra. Không biết Điền Bá Quang sử đao pháp gì, phóng đao nhanh như chớp, đệ tử hoàn toàn không thấy hắn động thủ mà ngực của Thiên Tùng sư bá đã bị trúng đao rồi. Đệ tử sợ quá la lên: “Đừng… đừng giết sư bá!” Điền Bá Quang cười nói: “Tiểu mỹ nhân bảo không giết thì ta không giết”. Thiên Tùng sư bá ôm vết thương loạng choạng chạy xuống cầu thang.
Lệnh Hồ đại ca đứng dậy định chạy theo để giúp đỡ sư bá nhưng Điền Bá Quang giữ lại và nói:“Lệnh Hồ huynh, lão mũi trâu này kiêu ngạo quá đáng, để cho lão chết, huynh không cần giúp đỡ. Tại sao huynh cứ mang cái khổ vào thân, chẳng thú vị tý nào cả”.
Lệnh Hồ đại ca lắc đầu cười nhăn nhó, uống một hơi hai bát rượu. Thưa sư phụ, lúc đó đệ tử nghĩ: trong giới cấm lớn của Phật môn chúng ta, giới thứ năm là cấm uống rượu. Lệnh Hồ đại ca tuy không phải là đệ tử Phật môn, nhưng uống rượu không ngừng nghỉ thì không hay chút nào cả. Nhưng đệ tử không dám đem chuyện ấy ra nói với đại ca, sợ đại ca lại chửi đệ tử cái gì “Hễ thấy ni cô…”.
Định Dật nói:
– Lệnh Hồ Xung ăn nói điên khùng như vậy, sau này không nên nhắc đến các lời ấy nữa.
Nghi Lâm đáp:
– Dạ!
Định Dật nói:
– Sau đó thì thế nào?
Nghi Lâm kể tiếp:
– Điền Bá Quang nói: “Lão mũi trâu này võ công không phải tầm thường. Nhát đao của tiểu đệ phóng nhanh như vậy mà lão lại có thể kịp thời co mình lại ba tấc, nên không đủ làm cho lão chết được. Võ nghệ của phái Thái Sơn rốt cuộc còn được hai người. Lệnh Hồ huynh, lão mũi trâu này không chết thì từ nay về sau huynh còn gặp lắm điều phiền phức. Vừa rồi tiểu đệ có ý muốn giết lão để tránh hậu hoạn cho huynh nhưng đáng tiếc một đao của đệ không giết được lão”.
Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Trong cuộc đời của tiểu đệ, chuyện phiền phức ngày nào cũng có. Mặc kệ lão, mặc kệ ni cô này. Uống rượu, uống rượu đi! Điền huynh, nếu một đao của huynh đâm trúng ngực tiểu đệ, võ công của đệ không bằng Thiên Tùng sư bá, thì ắt là đệ tránh không kịp rồi”.
Điền Bá Quang cười nói: “Lúc tiểu đệ phóng đao, thực sự tiểu đệ đã nương tình. Đó là nhằm báo đáp tình nghĩa của Lệnh Hồ huynh tối hôm qua ở trong động đã không nỡ giết tiểu đệ”. Đệ tử nghe xong rất lấy làm kỳ . Nếu nói vậy thì tối hôm qua, hai người đấu với nhau trong sơn động, Lệnh Hồ đại ca đã chiếm được thượng phong và đã tha mạng cho hắn.
Mọi người nghe đến đây đều tỏ vẻ không hài lòng, cho rằng Lệnh Hồ Xung không nên giao tình với tên vạn ác dâm tặc này như vậy.
Nghi Lâm kể tiếp:
– Lệnh Hồ đại ca nói: “Tối qua trong sơn động, tiểu đệ đã dùng hết sức mà võ nghệ cũng không bằng huynh, đâu dám nói đến chuyện kiếm hạ lưu tình như vậy”. Điền Bá Quang cười ha hả, nói: “Lúc huynh và tiểu ni cô trốn ở trong sơn động; tiểu ni cô gây ra tiếng động nên bị tiểu đệ phát hiện, nhưng huynh lại nín thở. Tiểu đệ có đoán đến vạn lần cũng không ngờ được có người khác ở bên cạnh ni cô. Tiểu đệ kéo tiểu ni cô định phá thanh quy giới luật của cô ta. Huynh chỉ cần chờ một chút nữa đợi lúc tiểu đệ tâm thần mê mẩn không để ý đến, thì chỉ một nhát kiếm, huynh đã có thể lấy được cái mạng của tiểu đệ rồi. Lệnh Hồ huynh, huynh không phải là con nít thì điều tất yếu đó sao lại không biết? Tiểu đệ biết huynh đường đường là một bậc trượng phu không muốn đánh lén hại người, vì vậy mà mũi kiếm đó, ha ha, chỉ đâm lướt qua bả vai của tiểu đệ”.
Lệnh Hồ đại ca nói: “Nếu tiểu đệ đợi thêm một chút nữa thì tiểu ni cô này làm sao tránh khỏi chuyện bị huynh làm nhục! Tiểu đệ nói Điền huynh hay: đệ thấy cái bộ mặt ni cô này là tức giận ngay nhưng phái Hằng Sơn cũng là một trong Ngũ Nhạc kiếm phái, huynh lại ức hiếp cô ta thì làm sao tiểu đệ có thể dung thứ?” Điền Bá Quang cười nói: “Nói là như vậy, nhưng nếu lưỡi kiếm của huynh đâm sâu thêm ba bốn tấc thì cánh tay của tiểu đệ sẽ bị tàn phế. Tại sao sau khi huynh phóng kiếm đâm đệ rồi, huynh lại rút kiếm về?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Tiểu đệ là đệ tử phái Hoa Sơn, sao có thể bắn lén tên để hại người? Huynh đã chém một đao vào vai tiểu đệ trước; tiểu đệ liền trả một kiếm vào vai của huynh, xem như huề. Nếu giao đấu một cách đường đường chính chính thì không ai chiếm lợi thế của ai cả”. Điền Bá Quang cười ha hả đáp: “Hay lắm huynh đệ! Ta kết tình bằng hữu. Nào, nào, nào! Uống một bát đi!”
Lệnh Hồ đại ca nói: “Võ công của đệ không bằng huynh, nhưng tửu lượng thì huynh không bằng đệ”. Điền Bá Quang nói: “Tửu lượng của đệ không bằng huynh sao? Chưa chắc đâu, chúng ta uống thi đi. Nào, mỗi bên uống mười bát to rồi hãy nói”. Lệnh Hồ đại ca chau mày nói: “Điền huynh, đệ biết huynh là một bậc hảo hán không chiếm phần tiện nghi nên mới cùng huynh uống rượu thi. Nào ngờ, huynh không phải là người như vậy làm cho tiểu đệ quá thất vọng”.
Điền Bá Quang ngó nghiêng Lệnh Hồ đại ca rồi hỏi: “Tiểu đệ chiếm phần tiện nghi chỗ nào?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Huynh đã biết tiểu đệ rất kiêng cữ ni cô, vừa thấy ni cô thì lòng đã khó chịu, ăn uống không ngon thì đấu rượu với huynh sao được?” Điền Bá Quang lại cười to lên, nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ biết huynh tìm trăm phương ngàn kế để cứu tiểu ni cô này. Nhưng Điền Bá Quang yêu sắc đẹp như tính mạng mình, đã gặp tiểu ni cô thiên kiều bá mỵ như vậy thì dù huynh có nói gì đi nữa, Điền mỗ cũng không buông tha cho cô ta đi đâu. Nếu huynh muốn tiểu đệ thả cô ta ra thì phải chịu một điều kiện”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Được, Điền huynh nói ra đi. Trên có núi đao nhọn, dưới có vạc dầu sôi, L ệnh Hồ Xung này cũng xin chấp thuận, nếu tiểu đệ chau mày thì không phải là bậc hảo hán”.
Điền Bá Quang cười hi hi, rót đầy hai bát rượu rồi nói: “Huynh uống bát rượu này, rồi tiểu đệ sẽ nói với huynh”. Lệnh Hồ đại ca bưng bát rượu lên u ống cạn một hơi, nói: “Cạn rồi!” Điền Bá Quang cũng uống cạn bát rượu, cười nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ đã là bạn của huynh thì tất nhiên tuân theo quy luật giang hồ. Vợ của bạn thì không được trêu ghẹo. Nếu như huynh chịu lấy ni cô… tiểu ni cô…”
Nghi Lâm nói đến đây, hai má đỏ ửng lên, mắt rủ xuống, giọng nói càng lúc càng nhỏ đi, đến lúc sau thì không ai còn nghe được.
Định Dật đập tay lên bàn, quát:
– Nói năng xằng bậy, càng nói càng tệ hại. Sau đó thì sao?
Nghi Lâm đáp khẽ:
– Điền Bá Quang vẫn nói tầm bậy tầm bạ. Hắn cười hi hi nói: “Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Nếu huynh chịu lấy… lấy cô ta làm vợ, tiểu đệ lập tức thả cô, còn vái lạy đền tội với cô ta nữa. Ngoài điều kiện này ra thì hàng vạn cách khác cũng đều không được”.
Lệnh Hồ đại ca hừ một tiếng, nói: “Huynh muốn tiểu đệ suốt đời xui xẻo sao? Việc này đừng nhắc đến nữa”. Điền Bá Quang lại càng nói bậy bạ hơn, nào là để tóc trên đầu thì không còn là ni cô nữa, rồi còn nói thêm rất nhiều lời điên khùng; đệ tử bịt tai lại không dám nghe hắn nói. Lệnh Hồ đại ca nói: “Im đi, huynh còn nói thêm những lời bỡn cợt như vậy thì Lệnh Hồ Xung đã bị huynh làm cho tức đến chết; còn đâu tính mạng mà ngồi đấu rượu với huynh? Huynh không thả cô ta, chúng ta lại phải quyết một phen tử chiến”. Điền Bá Quang cười nói: “Xin mời. Nhưng huynh đánh không lại tiểu đệ đâu”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Đứng đánh thì tiểu đệ không phải là đối thủ của huynh, còn ngồi đánh thì huynh không phải là đối thủ của đệ”.
Trước đó mọi người đã nghe Nghi Lâm thuật chuyện Điền Bá Quang ngồi trên ghế, không thèm đứng dậy mà vẫn chống đỡ hai ba chục chiêu kiếm lợi hại của Thiên Tùng đạo nhân, cao thủ của phái Thái Sơn. Như vậy, hắn rất giỏi về phép tọa đấu. Bây giờ, Lệnh Hồ Xung lại nói “Đứng đánh thì tiểu đệ không phải là đối thủ của huynh, còn ngồi đánh thì huynh không phải là đối thủ của đệ”, câu nói này là cố ý khiêu khích hắn.
Hà Tam Thất gật đầu nói:
– Gặp phải hạng ác đồ dâm tặc này, trước tiên phải khiêu khích để hắn nổi giận đùng đùng, sau đó mới tùy cơ hạ thủ. Đó là diệu kế.
Nghi Lâm kể tiếp:
– Điền Bá Quang nghe xong không tức giận, chỉ cười nói: “Lệnh Hồ huynh, Điền Bá Quang này khâm phục huynh ở chỗ có kiến thức, có hào khí chứ không phải là ở võ công”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Còn Lệnh Hồ Xung này khâm phục huynh ở chỗ đứng đánh phép khoái đao chứ không phải ở chỗ ngồi mà đánh”. Điền Bá Quang nói: “Được. Lệnh Hồ huynh không biết lúc còn nhỏ, hai đùi của tiểu đệ bị bại liệt, suốt hai năm trời tiểu đệ ngồi để luyện đao pháp. Ngồi đánh chính là trò chơi của tiểu đệ. Vừa rồi tiểu đệ và lão mũi… mũi… trâu đạo nhân kia chiết chiêu, tiểu đệ không đứng không phải là coi thường lão mà chỉ vì tiểu đệ ngồi sử đao đã quen nên không cần phải đứng dậy. Lệnh Hồ huynh, môn công phu này huynh không bằng đệ đâu”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Điền huynh, lúc còn niên thiếu bất quá Điền huynh chỉ bị bại liệt nên mới ngồi luyện đao pháp hai năm. Thời gian nhiều lắm cũng chỉ hai năm mà thôi. Công phu của tiểu đệ khác hẳn của huynh, thời gian ngồi sử kiếm pháp còn hơn huynh nhiều. Ngày nào tiểu đệ cũng ngồi để luyện kiếm pháp”.
Mọi người nghe đến đây đều đưa mắt nhìn Lao Đức Nặc nghĩ thầm: Không biết trong võ công của phái Hoa Sơn, có môn nào ngồi luyện kiếm như thế này không?
Lao Đức Nặc lắc đầu nói:
– Đại sư ca lừa bịp hắn đấy. Trong tệ phái không hề có môn công phu kỳ cục này.
Nghi Lâm nói:
– Điền Bá Quang lộ vẻ ngạc nhiên, nói: “Chuyện đó có thật không? Tiểu đệ không phải là người cô lậu quả văn, kiến thức không hẹp lắm nhưng sao lại chưa từng nghe loại kiếm pháp gì mà ngồi… ngồi đánh của phái Hoa Sơn?” Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Đây không phải là kiếm pháp của ân sư truyền thụ cho mà do tự tiểu đệ sáng chế ra”. Điền Bá Quang vừa nghe xong, mặt biến sắc, nói: “Thì ra là như vậy. Lệnh Hồ huynh đại tài khiến cho tiểu đệ vô cùng khâm phục”.
Mọi người biết Điền Bá Quang đổi sắc mặt là vì trong võ học, muốn sáng chế ra một đường quyền pháp hay kiếm pháp mới không phải là dễ. Nếu không phải võ công cao, lại có sở học tài trí hơn người thì khó tìm ra được con đường đi riêng cho mình để sáng chế ra chiêu thức mới. Phái Hoa Sơn đã được lập ra mấy trăm năm nay rồi, các chiêu thức võ công phải kinh qua hàng trăm ngàn lần rèn luyện; muốn cải biến một chiêu, một thức cũng cực kỳ khó khăn huống chi sáng chế ra một đường kiếm pháp.
Lao Đức Nặc nghĩ bụng: Thì ra đại sư ca đã âm thầm sáng chế ra một loại kiếm pháp, tại sao không trình lên cho sư phụ biết?
Nghi Lâm kể tiếp:
– Lúc đó Lệnh Hồ đại ca cười hi hi rồi nói: “Đường kiếm pháp này thúi đến tận trời xanh, có gì đâu mà Điền huynh khâm phục”. Điền Bá Quang càng kinh ngạc hơn nữa, hỏi: “Sao lại thúi đến tận trời xanh?”
Đệ tử cũng cảm thấy kỳ cục. Kiếm pháp có cao minh hay không thôi chứ làm gì có mùi khó ngửi? Lệnh Hồ đại ca nói: “Không giấu gì Điền huynh, mỗi buổi sáng sớm, tiểu đệ thường vào ngồi trong cầu tiêu. Ruồi nhặng bay qua lại lung tung. Đệ tức muốn chết, bèn phóng kiếm đâm mấy con, lúc đầu đâm không trúng con nào nhưng càng lâu ngày càng chính xác, xuất kiếm ra là đâm trúng ruồi nhặng ngay. Dần dần tinh thần lĩnh hội, từ trong các chiêu kiếm dùng đâm ruồi nhặng, tiểu đệ ngộ được một đường kiếm pháp. Lúc sử kiếm pháp này, đệ vẫn ngồi trên bàn cầu, há không phải là hôi thúi đến khó ngửi ư?”
Đại ca nói đến đây khiến đệ tử nhịn không được phải bật cười. Lệnh Hồ đại ca quả thật khôi hài, trong thiên hạ đâu có kiểu luyện kiếm như vậy. Điền Bá Quang nghe xong xanh mặt, tức giận nói:“Lệnh Hồ huynh, đệ xem huynh như bằng hữu mà huynh lại nói lăng nhăng như vậy là coi thường đệ quá đáng. Huynh coi Điền Bá Quang này như ruồi nhặng trong cầu tiêu phải không? Được, đệ xin lĩnh giáo huynh đường kiếm pháp này”.
Mọi người nghe kể đến đây đều lặng lẽ gật đầu. Ai cũng biết khi các cao thủ thi đấu võ nghệ, nếu tâm ý bộp chộp thì có thể nói đã sút kém ba phần. Lệnh Hồ Xung nói mấy lời như vậy là rõ ràng có ý trêu tức đối phương, khiến Điền Bá Quang nổi giận, tức là hắn đã bị trúng kế rồi.
Định Dật nói:
– Tuyệt diệu! Sau đó ra sao?
Nghi Lâm đáp:
– Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Tại hạ luyện đường kiếm pháp này chỉ xem là trò giải trí, không hề có ý đem ra để cùng người khác tranh đấu hơn thua. Vạn lần xin Điền huynh đừng hiểu lầm, tiểu đệ quyết không dám ví huynh như ruồi nhặng trong cầu tiêu đâu”. Đệ tử nghe Lệnh Hồ đại ca nói vậy nên không nhịn được bèn bật cười một tiếng nữa. Điền Bá Quang càng thêm bực tức, rút đơn đao ra đặt lên bàn, rồi nói: “Được. Trước mặt mọi người ngồi đây, chúng ta thử giao đấu một phen”. Đệ tử thấy mắt hắn phát ra những tia nộ khí thì rất sợ hãi, hiển nhiên hắn đã nổi khùng, có ý định giết người. Chắc hắn sẽ giết Lệnh Hồ đại ca mất.
Lệnh Hồ đại ca đáp: “Ngồi mà sử dụng đao kiếm, công phu của huynh không cao bằng đệ nên không địch lại đệ đâu. Lệnh Hồ Xung hôm nay vừa mới kết giao bằng hữu với Điền huynh, sao nỡ gây tổn thương hòa khí giữa hai ta được? Vả lại Lệnh Hồ Xung đường đường là đấng trượng phu, không thể lấy cái công phu trội nhất của mình để làm tiện nghi mà thắng bạn bè”. Điền Bá Quang nói: “Đây là do Điền Bá Quang cam tâm tình nguyện, không thể nói là huynh chiếm phần tiện nghi của đệ được”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Nói như thế thì Điền huynh nhất định muốn tỉ thí ư?” Điền Bá Quang đáp: “Nhất định muốn tỉ thí!” Lệnh Hồ đại ca nói: “Nhất định muốn ngồi để tỉ thí ư?” Điền Bá Quang đáp: “Phải đấy, nhất định muốn ngồi để tỉ thí!” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Được, đã vậy thì chúng ta phải quy ước với nhau một điều: lúc chưa phân thắng bại, nếu ai đứng dậy trước thì coi như thua”. Điền Bá Quang nói: “Đúng vậy! Lúc chưa phân quyết thắng bại, nếu ai đứng dậy trước thì coi như thua”.
Lệnh Hồ đại ca lại hỏi: “Thua rồi thì phải làm sao?” Điền Bá Quang đáp: “Theo ý huynh thì phải thế nào?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Đợi tiểu đệ nghĩ xem. Có rồi, thứ nhất là người nào thua, từ nay về sau hễ thấy tiểu ni cô này thì không được nói năng hay hành động vô lễ; khi gặp cô ta thì phải đến trước mặt cung kính cúi mình hành lễ và nói: “Tiểu sư phụ, đệ tử Điền Bá Quang xin bái kiến”. Điền Bá Quang nói: “Úi chao! Huynh sao lại khẳng định là đệ thua? Nếu huynh thua thì sao?” Lệnh Hồ Xung nói: “Tiểu đệ cũng phải làm như vậy. Hễ ai thua thì người đó phải vào làm môn hạ của phái Hằng Sơn, làm đồ tôn của Định Dật lão sư thái và đồ đệ của tiểu ni cô này”. Sư phụ, sư phụ nghĩ xem Lệnh Hồ đại ca nói vậy có tức cười không? Hai người họ tỉ võ, nếu ai thua thì phải thay đổi môn phái, vào làm môn hạ phái Hằng Sơn. Làm sao đệ tử có thể thu nhận họ làm đồ đệ được?
Cô nói đến đây, nụ cười hé lộ trên môi. Trước đó, lúc nào cô cũng u sầu, giờ đây nụ cười hé nở càng tăng thêm nét yêu kiều.
Định Dật nói:
– Bọn hán tử thô lỗ trên giang hồ lời nào cũng nói được, sao ngươi cho đó là thật? Lệnh Hồ Xung cố tình chọc giận Điền Bá Quang đó.
Lão ni nói đến đây, ngẩng đầu lên lim dim hai mắt, suy nghĩ xem Lệnh Hồ Xung sẽ dùng cách gì để có thể giành phần thắng. Nếu hắn tỉ võ thua thì làm sao rút lời lại được? Ngẫm nghĩ một lúc, lão ni biết trí lực của mình so với bọn vô lại lưu manh còn thua xa, hà tất phải nghĩ nhiều cho mệt óc, liền hỏi:
– Rồi Điền Bá Quang trả lời thế nào?
Nghi Lâm đáp:
– Điền Bá Quang thấy Lệnh Hồ đại ca nói có vẻ chắc ăn, mặt hắn lộ vẻ chần chừ. Đệ tử đoán có lẽ hắn đang tự nhủ đại khái là phải chăng Lệnh Hồ Xung đúng là có sở trường ngồi sử kiếm hơn người chăng? Lệnh Hồ đại ca lại nói khích hắn: “Nếu huynh quyết chí vào làm môn hạ của phái Hằng Sơn thì chúng ta không cần phải tỉ đấu nữa”. Điền Bá Quang cả giận, nói: “Nói bậy! Được, cứ như vậy mà làm, ai thua thì bái tiểu ni cô này làm sư phụ”. Đệ tử nói: “Tiểu ni không thể thu nhận hai vị làm đồ đệ được vì công phu của tiểu ni còn non nớt, hơn nữa sư phụ của tiểu ni cũng không cho phép làm như vậy đâu. Phái Hằng Sơn của tiểu ni bất luận là người xuất gia hay người tục gia đều là giới nữ, làm sao có thể… làm sao có thể…”
Lệnh Hồ đại ca xua tay nói: “Ta và Điền huynh đã thương lượng và quyết định rồi, sư muội không muốn cũng phải nhận, đừng có lôi thôi. Sư muội nhất định phải làm sư phụ”. Đại ca quay qua Điền Bá Quang nói: “Điều thứ hai là người bị thua phải vung đao cắt một cái, tự biến mình thành thái giám”. Sư phụ, đệ tử không hiểu thế nào là “vung đao cắt một cái tự biến mình thành thái giám”?
Nghi Lâm hỏi như vậy khiến mọi người cười ồ cả lên. Nét mặt nghiêm khắc của Định Dật rốt cuộc cũng lộ vẻ nhu hòa. Lão ni không nhịn được, bật cười thành tiếng rồi nói:
– Đó chỉ là lời nói thô tục của bọn lưu manh. Hài tử, ngươi không hiểu thì đừng thắc mắc, chẳng có gì hay ho đâu.
Nghi Lâm nói:
– Trời ơi! Thì ra chỉ là lời thô tục, vậy mà đệ tử cứ tưởng chỉ có hoàng đế mới có thái giám. Điền Bá Quang đưa mắt lườm Lệnh Hồ đại ca rồi hỏi: “Lệnh Hồ huynh, huynh có nắm chắc phần thắng không?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Tất nhiên rồi! Đánh đứng thì trong võ lâm thiên hạ Lệnh Hồ Xung này được xếp vào hạng thứ tám mươi chín; còn đánh ngồi thì được xếp vào hạng thứ nhì”. Điền Bá Quang rất lấy làm ngạc nhiên, hỏi lại: “Lệnh Hồ huynh đứng hạng nhì vậy hạng nhất là ai?”. Lệnh Hồ đại ca đáp: “Người đó là Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại!”
Mọi người nghe cô nói đến tám chữ “Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại” thì đều tái mặt.
Nghi Lâm quan sát thấy sắc mặt mọi người bỗng nhiên thay đổi, vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi, tưởng mình nói có gì nhầm lẫn, bèn hỏi:
– Sư phụ, lời nói đó không đúng phải không?
Định Dật đáp:
– Ngươi đừng đề cập tên người này nữa. Rồi Điền Bá Quang nói như thế nào?
Nghi Lâm nói:
– Điền Bá Quang gật đầu nói: “Huynh nói Đông Phương giáo chủ thuộc hạng nhất, tiểu đệ không có gì để nói nhưng Lệnh Hồ huynh lại tự cho mình thuộc hạng nhì thì e rằng hơi khoác lác. Lẽ nào huynh lại giỏi hơn cả tôn sư Nhạc tiên sinh?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Tiểu đệ nói đây là đánh ngồi. Còn đánh đứng thì sư phụ của tiểu đệ được xếp vào hạng thứ tám, tiểu đệ thuộc hạng thứ tám mươi chín, so với sư phụ lão nhân gia còn kém rất xa”. Điền Bá Quang gật đầu nói: “Thì ra là vậy! Thế đứng đánh thì tiểu đệ được xếp vào hạng thứ mấy? Ai là người đứng ra xếp hạng?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Đây là điều rất bí mật. Điền huynh, tiểu đệ với huynh nói chuyện với nhau rất hợp ý; đệ nói cho huynh nghe nhưng huynh không được tiết lộ chuyện này ra ngoài, nếu không thì nhất định sẽ xảy ra một trận phong ba bão táp trong võ lâm. Cách đây ba tháng, năm vị chưởng môn tôn sư của Ngũ Nhạc kiếm phái hội tụ ở Hoa Sơn, bàn bạc về những danh thủ trong võ lâm ngày nay. Năm vị tôn sư nhất thời cao hứng, bèn đem các cao thủ trong thiên hạ mà sắp đặt thứ bậc. Điền huynh, tiểu đệ không giấu gì huynh, năm vị tôn sư xét nhân phẩm của huynh thì thóa mạ cho rằng không đáng một xu, còn xét đến võ công của huynh thì năm vị thật sự khâm phục cho rằng nếu đánh đứng thì Điền huynh được xếp vào hạng thứ mười bốn.
Thiên Môn đạo nhân và Định Dật sư thái cùng nói:
– Lệnh Hồ Xung nói tầm bậy, làm gì có chuyện đó?
Nghi Lâm đáp:
– Nguyên là Lệnh Hồ đại ca muốn gạt hắn. Điền Bá Quang bán tín bán nghi, nói: “Chưởng môn nhân Ngũ Nhạc kiếm phái đều là cao nhân trong võ lâm, lại xếp Điền Bá Quang này hạng thứ mười bốn là đã quá khen rồi đó. Lệnh Hồ huynh, huynh đã thi triển bộ kiếm pháp khó ngửi của huynh trước mặt năm vị chưởng môn chưa? Nếu không thì sao các vị đó biết mà xếp huynh vào hạng thứ nhì đánh ngồi trong thiên hạ?”
Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Bộ kiếm pháp thúi tha này ư? Nếu đem ra thi triển trước mặt mọi người thì quá bất nhã, làm sao mà tiểu đệ dám biểu diễn trước năm vị tôn sư? Tư thế kiếm pháp này hơi khó xem nhưng rất lợi hại. Tiểu đệ đã đem vấn đề này ra thảo luận với các vị cao thủ trong tả đạo, ai cũng cho rằng ngoài Đông Phương giáo chủ ra, thì trong thiên hạ không ai có thể địch nổi. Nhưng thưa Điền huynh, hễ nói đi thì cũng phải nói lại, đường kiếm pháp của tiểu đệ tuy là tuyệt diệu, nhưng ngoài lúc ngồi cầu tiêu đâm mấy con ruồi con nhặng ra thì không còn giá trị thực tế gì nữa. Điền huynh nghĩ coi, đương lúc người ta động thủ tỉ võ công thì có ai dám ngồi yên bất động bao giờ? Cứ xem như đến lúc huynh thua rồi, tất nhiên huynh sẽ xấu hổ quá mà hóa giận, bèn đứng dậy động thủ. Huynh đánh đứng thuộc hạng thứ mười bốn trong thiên hạ thì chỉ cần một đao là hạ được tiểu đệ đánh ngồi đệ nhị thiên hạ mộ t cách dễ dàng. Vì vậy, Điền huynh đánh đứng vào hạng thứ mười bốn trong thiên hạ là thực chất, còn tiểu đệ xếp hạng đệ nhị đánh ngồi trong thiên hạ thì chỉ là hư danh mà thôi, không có gì đáng nói”.
Điền Bá Quang hừ lên một tiếng, nói: “Lệnh Hồ huynh, cái miệng của huynh thật là lắm chuyện. Sao huynh biết đệ đánh ngồi nhất định sẽ thua? Sao huynh biết được tiểu đệ xấu hổ quá mà hóa giận rồi đứng dậy để giết huynh?”
Lệnh Hồ đại ca nói: “Nếu huynh đáp ứng yêu cầu là sau khi thua không được giết tiểu đệ và làm đúng giao kèo là làm thái… thái giám thì huynh sẽ tuyệt tử tuyệt tôn, không có người nối dõi. Thôi đi! Không cần nói nhiều nữa, huynh động thủ đi!” Nói xong Lệnh Hồ đại ca hất tay một cái, các hũ rượu, bát đĩa và chiếc bàn cũng bay luôn. Hai người ngồi đối diện nhau, người cầm đao, người cầm kiếm.
Lệnh Hồ đại ca nói: “Xuất chiêu đi! Ai đứng dậy trước để mông rời khỏi ghế thì người đó thua”.
Điền Bá Quang nói: “Được, để xem coi ai đứng dậy trước!” Hai người sắp động thủ, Điền Bá Quang liếc đệ tử một cái rồi đột nhiên cười lên ha hả, nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ khâm phục huynh rồi. Thì ra huynh đã ngấm ngầm mai phục kế mưu, cố ý đến đây gây khó dễ cho Điền Bá Quang này. Tiểu đệ và huynh ngồi đấu với nhau, không ai được rời mông khỏi ghế, chưa nói những tay giúp đỡ huynh kéo vào mà ngay cả tiểu ni cô này đứng ở sau lưng tiểu đệ động tay động chân thì không chừng sẽ bức ép tiểu đệ đứng dậy mất”.
Lệnh Hồ đại ca cũng cười ha hả rồi nói: “Chỉ cần có người ra tay giúp đỡ thì coi như Lệnh Hồ Xung này thua vậy. Tiểu ni cô, sư muội muốn ta thắng hay bại?” Đệ tử đáp: “Tất nhiên là muốn đại ca đánh thắng. Đại ca là đệ nhị đánh ngồi trong thiên hạ, quyết không thể thua hắn được”.
Lệnh Hồ đại ca nói: “Được, thế thì ta xin mời tiểu muội hãy ra đi, càng nhanh càng tốt, càng xa càng hay! Tiểu ni cô đầu trọc lóc đứng trước mặt ta thì Lệnh Hồ Xung này không cần đánh cũng đã thua rồi!” Lệnh Hồ đại ca không đợi Điền Bá Quang lên tiếng ngăn cản liền phóng kiếm đâm hắn.
Điền Bá Quang giơ đao đỡ gạt ra, cười nói: “Khâm phục, khâm phục! Đây là một diệu kế rất tuyệt để cứu ni cô thoát thân. Lệnh Hồ huynh, huynh cũng thật là… một người đa… thật là một người thuộc giống đa tình. Nhưng đây là một trận chiến đấu hung hiểm, hậu quả không thể lường được”. Lúc đó đệ tử mới hiểu ra Lệnh Hồ đại ca giao kết chuyện ai đứng lên trước là người đó thua là muốn đệ tử có cơ hội trốn thoát. Cái thân của Điền Bá Quang không thể rời khỏi ghế, tất nhiên không có cách nào bắt được đệ tử.
Mọi người nghe đến đây mới hiểu thấu chỗ dụng tâm sâu xa của Lệnh Hồ Xung, không khỏi ca ngợi cảm phục. Võ công của Lệnh Hồ Xung tuy không bằng Điền Bá Quang nên ngoài điều kiện này ra, thực sự không còn kế sách nào để cứu Nghi Lâm thoát thân.
Định Dật nói:
– Cái gì là “giống đa tình”, đều là những lời thô tục. Sau này cái miệng của ngươi đừng nên đề cập đến, ngay cả lòng ngươi cũng không được nghĩ tới nữa.
Nghi Lâm rủ mày, đáp:
– Dạ, thì ra đó cũng là lời thô tục. Đệ tử hiểu rồi.
Định Dật nói:
– Vậy là ngươi nên lập tức chạy đi, nếu không Điền Bá Quang giết Lệnh Hồ Xung xong thì ngươi khó mà thoát khỏi tên độc thủ này.
Nghi Lâm đáp:
– Dạ, Lệnh Hồ đại ca lại thúc giục, đệ tử đành bái đại ca một bái rồi nói: “Đa tạ ơn cứu mạng của Lệnh Hồ đại ca” rồi quay người đi xuống lầu. Mới đi đến đầu cầu thang, bỗng nghe tiếng Điền Bá Quang quát: “Trúng rồi!”, đệ tử liền quay đầu lại. Hai giọt máu tươi văng đến dính trên vạt áo của đệ tử. Thì ra Lệnh Hồ đại ca bị trúng một đao trên bả vai.
Điền Bá Quang cười nói: “Thế nào? Tiểu đệ thấy kiếm pháp đánh ngồi đệ nhị thiên hạ của Lệnh Hồ huynh cũng tầm thường thôi!” Lệnh Hồ đại ca nói: “Tiểu ni cô này còn chưa đi, tiểu đệ làm sao mà đánh thắng Điền huynh? Cái mạng của tiểu đệ xui xẻo thật rồi”. Đệ tử tưởng Lệnh Hồ đại ca kiêng kỵ ni cô, nếu đệ tử chần chừ không đi thì sợ làm hại tính mạng của đại ca thật, nên vội vàng chạy xuống lầu. Khi xuống dưới đất, đệ tử lại nghe tiếng đao kiếm giao đấu kịch liệt ở trên lầu rồi Điền Bá Quang lại la to: “Trúng rồi!”
Đệ tử kinh hãi quá, đoán rằng Lệnh Hồ đại ca lại bị hắn chém trúng một đao nữa nhưng không dám lên lầu để xem. Đệ tử bèn chạy ra bên ngoài vịn tường leo lên nóc tửu lâu, nằm áp sát mặt vào mái ngói, từ lỗ hổng nhìn vào trong, thấy Lệnh Hồ đại ca vẫn cầm kiếm đấu điên cuồng, khắp người đầy máu; còn Điền Bá Quang không bị thương một chút nào cả.
Đấu thêm một hiệp thì Điền Bá Quang lại la lên: “Trúng rồi!” một đao nữa chém trúng vai trái Lệnh Hồ đại ca. Điền Bá Quang thu đao cười nói: “Lệnh Hồ huynh, chiêu này là tiểu đệ đao hạ lưu tình đấy!” Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Tất nhiên là tiểu đệ biết chứ, Điền huynh xuống tay mạnh một chút nữa thì cánh tay này của tiểu đệ đã bị huynh chặt rớt rồi”. Sư phụ, đã ra nông nỗi này mà đại ca còn cười được. Điền Bá Quang nói: “Lệnh Hồ huynh còn muốn đánh nữa không?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Đương nhiên là đánh nữa, tiểu đệ còn chưa đứng mà”. Điền Bá Quang nói: “Tiểu đệ khuyên Lệnh Hồ huynh nên chịu thua mà đứng dậy đi thôi. Những lời giao ước của chúng ta coi như xí xóa, Lệnh Hồ huynh không cần bái tiểu ni cô làm sư phụ”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Lời đã nói ra sao có thể xí xóa được?” Điền Bá Quang nói: “Tiểu đệ đã thấy qua rất nhiều hán tử kiên cường trong thiên hạ nhưng người như Lệnh Hồ huynh thì hôm nay Điền Bá Quang mới thấy lần đầu. Được, chúng ta sẽ không phân thắng bại, cả hai dừng tay thôi, được chứ?”
Lệnh Hồ đại ca nhìn hắn cười ha ha, không nói lời nào, máu tươi từ những vết thương trên người không ngừng rơi xuống sàn nhà tạo thành những tiếng tí tách. Điền Bá Quang liệng đơn đao xuống, muốn đứng dậy, bỗng nhiên nghĩ đến giao ước hễ đứng dậy là thua nên người hắn chỉ lạng một cái nhưng vẫn ngồi trên ghế, coi như chưa rời khỏi ghế. Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Điền huynh, huynh nhanh trí thật”.
Mọi người nghe đến đây đều thốt lên úi chà, hối tiếc giùm cho Lệnh Hồ Xung.
Nghi Lâm tiếp tục kể:
– Điền Bá Quang nhặt đơn đao lên rồi nói: “Tiểu đệ muốn sử đao thật nhanh, nếu chậm một chút nữa thì tiểu ni cô đó chạy trốn mất, có đuổi theo tìm cũng không kịp”. Nghe hắn nói còn muốn đuổi theo, đệ tử sợ đến nỗi toàn thân phát run, lại lo cho Lệnh Hồ đại ca đã bị hắn hạ độc thủ, không biết phải làm sao. Bỗng nhiên đệ tử lại nghĩ ra, sở dĩ Lệnh Hồ đại ca liều mạng quyết đấu với hắn chỉ vì để cứu đệ tử. Vậy chỉ còn cách đệ tử tự vẫn trước mặt hắn thì mới có thể làm cho Lệnh Hồ đại ca thoát chết. Đệ tử liền rút thanh kiếm gãy sau lưng ra, định nhảy xuống tửu lâu. Bỗng nhiên, đệ tử thấy Lệnh Hồ đại ca chao người, cả người và ghế đổ xuống sàn nhà, lại thấy hai tay của đại ca chống xuống đất, rồi lồm cồm bò dậy, cái ghế vẫn đè lên người đại ca. Đại ca bị thương rất nặng, nhất thời không đứng dậy được nữa.
Điền Bá Quang lấy làm đắc ý cười nói: “Ngồi đánh thì đệ nhị thiên hạ, còn nằm đánh thì đứng hạng mấy đây?” Vừa nói hắn vừa đứng dậy.
Lệnh Hồ đại ca cười ha hả rồi nói: “Điền huynh thua rồi!” Điền Bá Quang cười nói: “Lệnh Hồ huynh thua te tua như vậy mà còn bảo tiểu đệ thua ư?” Lệnh Hồ đại ca nằm sát xuống đất rồi hỏi: “Trước khi đánh nhau chúng ta đã giao ước như thế nào?” Điền Bá Quang nói: “Chúng ta giao ước là ngồi đánh, ai đứng lên trước, mông rời khỏi ghế thì… thì… thì…” Hắn nói liền ba chữ “thì” một lúc thì không nói được nữa, giơ tay trái chỉ vào Lệnh Hồ đại ca. Thì ra lúc này hắn mới biết là đã bị lừa. Hắn đã đứng dậy còn Lệnh Hồ đại ca vẫn chưa đứng, mông cũng chưa rời khỏi ghế, tuy bộ dạng rất thê thảm, nhưng theo lời giao ước thì coi như đã thắng.
Mọi người nghe đến đây không nhịn được, vỗ tay cười lớn reo lên:
– Thật là bậc thiếu niên anh hùng!
Dư Thương Hải hừ lên một tiếng rồi nói:
– Tiểu tử vô lại này dùng thủ đoạn lưu manh để lừa gạt dâm tặc Điền Bá Quang, há không làm mất đi thể diện của danh môn chính phái ư?
Định Dật tức giận nói:
– Cái gì là thủ đoạn lưu manh? Đại trượng phu đấu trí chứ không đấu sức. Bần ni chưa hề thấy trong phái Thanh Thành của các hạ có một thanh niên nào có nghĩa khí như vậy.
Lão ni nghe Nghi Lâm thuật lại chuyện Lệnh Hồ Xung quên mình giao đấu để bảo vệ thanh danh cho phái Hằng Sơn, lòng thật sự cảm kích. Trước đây, lão ni có ý oán giận Lệnh Hồ Xung, giờ thì nỗi oán giận đó đã tan hết rồi. Dư Thương Hải lại hừ lên một tiếng rồi nói:
– Gã thiếu niên anh hùng bò dưới đất thật là tuyệt diệu!
Định Dật lớn tiếng nói:
– Phái Thanh Thành ngươi…
Lưu Chính Phong sợ hai người lại xảy ra xung đột, vội vàng cắt ngang lời nói của Định Dật, hỏi Nghi Lâm:
– Hiền điệt, Điền Bá Quang có chịu thua hay không?
Nghi Lâm đáp:
– Điền Bá Quang đứng ngây người ra, nhất thời không biết nói gì. Lệnh Hồ đại ca gọi: “Tiểu sư muội phái Hằng Sơn, sư muội mau xuống đi, đại ca mừng cho tiểu muội mới thu nhận một vị cao túc”. Thì ra đại ca đã sớm biết tiểu đồ núp trên nóc nhà. Gã Điền Bá Quang này tuy độc ác, nhưng không đến nỗi là kẻ nói rồi nuốt lời. Nếu lúc đó hắn tiến một bước cầm đao giết Lệnh Hồ đại ca rồi quay lại đối phó với đệ tử thì xong ngay. Nhưng hắn lại gọi to: “Tiểu ni cô, ta cho ngươi biết, ngươi mà còn dám gặp mặt ta thì ta sẽ chém một đao là toi mạng”. Đệ tử vốn không muốn thu nhận tên ác nhân này làm đồ đệ, hắn nói như vậy chính là điều đệ tử có muốn cũng không được. Điền Bá Quang nói câu này xong, tra đao vào vỏ rồi sải bước xuống khỏi tửu lâu. Đệ tử nhảy xuống sàn nhà, đỡ Lệnh Hồ đại ca dậy, lấy Thiên hương đoạn tục giao ra bôi lên vết thương cho đại ca. Đệ tử đếm các vết thương lớn nhỏ trên người đại ca thì có đến hơn mười ba vết…
Dư Thương Hải bỗng nhiên xen vào:
– Định Dật sư thái! Xin chúc mừng, chúc mừng!
Định Dật sư thái trừng mắt nhìn lão nói:
– Chúc mừng cái gì?
Dư Thương Hải nói:
– Chúc mừng sư thái mới thu được một tên hảo đồ tôn võ công trác tuyệt, danh tiếng lẫy lừng thiên hạ!
Định Dật cả giận, đập bàn một cái rầm, đứng dậy.
Thiên Môn đạo nhân nói:
– Dư quán chủ, quán chủ nói không đúng rồi. Chúng ta là những người tu hành trong Huyền môn, sao có thể nói với nhau những lời xiên xỏ buồn cười như vậy?
Dư Thương Hải một là biết mình đuối lý, hai là đối với Thiên Môn đạo nhân lão mười phần kiêng kỵ. Lão liền quay đầu đi giả bộ như chẳng nghe thấy gì.