Hồi 10: Kiếm khí dọc ngang như tường khói

Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần từ biệt vợ con. Ông nghe Đoàn Dự nói đêm hôm qua Mộc Uyển Thanh đã theo mẹ là Tần Hồng Miên đi rồi, thẫn thờ một hồi, thở dài quay sang hỏi hai người Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi thì họ cũng đã lên đường ngược bắc từ sớm. Đoàn Chính Thuần xuất lĩnh Tam công, Tứ hộ vệ vào cung từ biệt Bảo Định Đế, cùng Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi về phía Lục Lương châu, Đoàn Dự tiễn cha ra ngoài cửa đông mười dặm mới quay về.

Xế trưa hôm đó, Bảo Định Đế đang ở trong thiền phòng đọc kinh thì một tên thái giám vào bẩm: “Người trong phủ Hoàng thái đệ đến tâu rằng, Hoàng thái đệ thế tử đột nhiên bị ma ám, đã thỉnh thái y đến chẩn bệnh.” Bảo Định Đế lo quá, nghĩ rằng Đoàn Dự bị trúng độc của thái tử Diên Khánh chưa chắc đã trừ được một cách dễ dàng, lập tức sai hai người đến xem sao. Độ nửa giờ sau, hai tên thái giám quay về báo: “Thế tử bệnh không phải nhẹ, xem ra thần trí thác loạn.”

Bảo Định Đế trong bụng hơi hoảng, vội vàng xuất cung đích thân đến phủ Trấn Nam Vương thăm bệnh tình Đoàn Dự thế nào. Vừa đến bên ngoài phòng ngủ của chàng đã nghe tiếng rầm rầm, loảng xoảng, lách cách liên hồi, toàn là các loại ấm chén bị đổ vỡ. Gã nội thị ở bên ngoài thấy nhà vua liên quì xuống tiếp giá, nét mặt đầy vẻ kinh hoàng.

Bảo Định Đế gật đầu đẩy cửa bước vào, thấy Đoàn Dự đang khoa chân múa tay. Bao nhiêu bàn ghế cùng các loại đồ dùng trần thiết bị chàng vứt tung tóe. Hai quan thái y lẩn tránh chạy cuống cả lên. Bảo Định Đế tiến lại cất tiếng hỏi: “Dự nhi! Cháu làm sao vậy?”

Đoàn Dự vẫn tỉnh táo, chỉ vì chân khí trong người đầy rẫy dường như muốn xé thịt nứt da cho tràn bớt ra ngoài, có tay đấm, chân đá, đập phá đồ đạc mới hơi thư thái một chút. Chàng thấy bá phụ vào liền gọi to: “Bá phụ ơi! Cháu chết mất!” Chàng vừa gọi vừa vung tay loạn xạ.

Đao Bạch Phượng đứng một bên, nước mắt ròng ròng nói: “Đại ca, sáng sớm hôm nay Dự nhi còn khỏe mạnh bình thường, sau khi tiễn cha nó ra khỏi thành, chẳng hiểu vì sao tự nhiên lại nổi cơn điên” Bảo Định Đế an ủi: “Đệ muội chẳng nên hoảng hốt, chắc là cháu nó trúng độc ở Vạn Kiếp Cốc chưa hết hẳn, để chữa cho xong.” Ông quay sang hỏi Đoàn Dự: “Cháu thấy trong người thế nào?”

Đoàn Dự dậm chân thình thịch kêu lên: “Toàn thân điệt nhi chỗ nào cũng căng phồng lên, thật là khó chịu.” Bảo Định Đế nhìn mặt và cánh tay chàng thấy không có gì khác lạ, chẳng sưng chút nào, câu nói đó đúng là thần trí bất thường khiến ông không khỏi nhíu mày.

Thì ra hôm qua nơi Vạn Kiếp Cốc Đoàn Dự bị năm cao thủ trút gần một nửa nội lực của họ vào người, lúc đó thì không thấy gì nhưng sau khi tiễn phụ thân xong, quay về nằm ngủ, trong giấc ngủ chân khí không được dẫn lối nên chạy lung tung. Chàng nhỏm dậy, luyện Lăng Ba Vi Bộ mỗi lúc một nhanh, chân khí liền bùng lên không còn cách nào chế ngự được, bèn kêu toáng lên khiến ai nấy đều nhốn nháo.

Một tên thái y nói: “Khải tấu hoàng thượng, mạch của thế tử nhảy thật mạnh, dường như huyết khí quá vượng, theo ngu kiến của vị thần trích huyết cho ra bớt đi, không biết có được hay không?” Bảo Định Đế nghĩ bụng: “Cứ thử xem sao?” bèn gật đầu nói: “Ngươi thử lấy bớt máu ra!” Thái y vâng mệnh, mở cái hộp sành lấy ra một con đỉa. Đỉa là vật chuyên hút máu, dùng để hút máu ứ rất tiện, người bệnh lại không đau đớn gì. Y cầm chặt tay Đoàn Dự, đặt miệng con đỉa vào đúng chỗ huyết quản. Con đỉa này đặt vào tay Đoàn Dự lập tức cựa quậy không chịu nằm yên, làm thế nào nó cũng không hút máu. Quan thái y rất lấy làm lạ, phải dùng sức đè nó xuống. Nhưng chỉ được một lát, con đỉa giãy lên một cái rồi chết ngay. Quan thái y bẽ mặt trước nhà Vua, vừa thẹn vừa sợ, mồ hôi trán nhỏ xuống tong tong, vội vàng lấy con đỉa khác ra nhưng rồi cũng bị chết như con trước.

Vị thái y thứ hai tỏ vẻ lo lắng, tâu rằng: “Khải tấu Hoàng thượng! Thế tử ngộ độc dữ quá, chất độc phát ra làm chết cả đỉa.” Y có biết đâu Đoàn Dự đã nuốt con Mãng Cổ Chu Cáp vào bụng, bất luận rắn rết hay giống gì độc đến đâu cũng phải xa lánh. Dù loại rắn độc nhất cũng bị nhiếp phục, huống chi con đỉa tầm thường.

Bảo Định Đế lại càng nóng ruột, phán hỏi: “Thuốc độc gì mà ghê gớm đến thế?” Một tên thái y nói: “Theo ngu kiến của thần, mạch của thế tử dường như quá nóng, ắt là trúng phải chất độc cực nhiệt, đó là … đó là … vị thần ngu dốt.” Tên thái y kia cãi lại: “Không phải! Mạch thái tử âm hư thế là trúng hàn. Cần bốc thuốc nhiệt để điều hòa.” Trong cơ thể Đoàn Dự một bên chứa nội lực dương cương của Hoàng Mi tăng, Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu, một bên lại chứa nội lực âm nhu của Diệp Nhị Nương. Hai tên thái y mỗi người một phách không ai nói được thực sự nó là cái gì.

Bảo Định Đế thấy hai danh y giỏi nhất nước Đại Lý tranh luận, quan điểm lại khác hẳn nhau đủ biết tà độc trong người cháu mình thật là quái đản, liền đưa ba ngón trỏ, giữa và vô danh bàn tay phải để nhẹ nhàng lên huyệt Liệt Khuyết. Con cháu nhà họ Đoàn mạch không nhảy ở nơi cổ tay mà lại nhảy nơi huyệt Liệt Khuyết, y gia gọi là phản quan mạch.

Hai tên thái y thấy hoàng thượng vừa ra tay đã chứng tỏ tinh thông y đạo đều cực kỳ bội phục. Một gã nói: “Trong y thư có chép là: người nào có phản quan mạch ở tay trái chủ về quí, có ở tay phải chủ về phú, nếu có cả hai bên thì đại phú đại quí. Bệ hạ, Trấn Nam Vương, thế tử, ba vị đều có phản quan mạch.” Tên thái y kia liền cãi: “Ba vị đại phú đại quí nào phải chỉ vì có phản quan mạch mà nên.” Người kia nói: “Chứ còn gì nữa. Thế tử có mạch tượng đại phú đại quí đủ biết bệnh tuy hung hiểm thật nhưng cũng không sao cả.” Gã kia không phục nghĩ thầm: “Con cháu nhà đại phú đại quí tưởng không chết non à?”. Thế nhưng y làm sao dám nói ra câu đó.

Bảo Định Đế thấy mạch cháu mình vừa nhanh vừa mạnh, nếu cứ nhảy thế này thì tâm tạng làm sao chịu nổi? Ông hơi nhấn tay một chút định xem trong kinh mạch có gì lạ, đột nhiên nội lực trong người tuôn ra ào ào rồi biến mất không thấy gì nữa nên hoảng hồn vội vàng buông tay. Ông có biết đâu Đoàn Dự đã luyện được Thủ Thái Âm Phế Kinh trong Bắc Minh thần công mà huyệt Liệt Khuyết là một trong những huyệt đạo của mạch này. Bảo Định Đế vừa vận nội kình lập tức nội lực đổ vào người Đoàn Dự.

Đoàn Dự rùng mình kêu lên: “Chao ôi!” Người rung động mạnh run rẩy như cầy sấy.

Bảo Định Đế lùi lại hai bước hỏi: “Dự nhi, cháu đã gặp Đinh Xuân Thu ở Tinh Tú Hải chăng?” Đoàn Dự lắp bắp: “Đinh … Đinh Xuân Thu ư? Điệt nhi không biết y là ai cả.” Bảo Định Đế nói: “Nghe nói y là một ông già tiên phong đạo cốt chẳng khác gì người trong tranh vẽ.” Đoàn Dự đáp: “Cháu chưa từng gặp ông ta bao giờ.” Bảo Định Đế nói: “Người này có một môn công phu tà môn, chuyên làm tiêu hủy công lực người khác, gọi là Hóa Công Đại Pháp, có thể phế trừ được nội công cả đời tu luyện của người khác trong một lúc, người trong võ lâm ai cũng ghét cay ghét đắng. Cháu chưa từng gặp y, sao … sao lại học được tà môn đó?” Đoàn Dự vội đáp: “Điệt nhi chưa … chưa từng học bao giờ. Hóa Công Đại Pháp cùng Đinh Xuân Thu, đây là lần đầu tiên cháu được nghe nói tới.”

Bảo Định Đế xem chừng chàng không nói dối nhưng sao lại hóa tán nội lực của mình được, nghĩ một chút chợt hiểu ra: “Đúng rồi! Chắc là Đoàn Diên Khánh học môn công phu này, không biết làm sao mà đưa được tà môn đó vào người Đoàn Dự để cho nó vô ý làm hại ta và Thuần đệ. Người này đã dám xưng là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, quả thật danh bất hư truyền”.

Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay cào cấu khắp người, quần áo rách bươm, trên da đầy vết máu, gắng gượng lắm mới khỏi kêu ầm lên nhưng miệng rên rỉ không ngừng. Đao Bạch Phượng luôn mồm dỗ con: “Dự nhi, con cố chịu một chút, lát nữa sẽ bớt.” Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Thật là một vấn đề cực nan giải, chỉ còn cách lên chùa Thiên Long thỉnh thị”. Ông liền bảo: “Dự nhi, ta đưa con lên bái yết mấy vị tiền bối, thế nào các người cũng có cách chữa cho con hết bệnh.” Đoàn Dự vâng lời. Đao Bạch Phượng vội vàng lấy quần áo cho con thay. Bảo Định Đế dẫn chàng ra khỏi phủ, mỗi người cưỡi một con ngựa đi về hướng núi mờ mờ xa.

Chùa Thiên Long nằm ở ngọn phía bắc dãy núi Điểm Thương bên ngoài thành Đại Lý, tên chính thức của ngôi chùa này là Sùng Thánh Tự nhưng quen gọi là chùa Thiên Long. Chùa quay lưng vào núi cao, đối diện là sông Nhĩ, hình thế thật là uy nghi. Chùa có ba ngọn tháp kiến tạo từ đầu đời Đường, tháp lớn nhất cao hơn hai trăm thước gồm mười sáu tầng, đỉnh tháp đúc bằng sắt có ghi: “Đại Đường Trinh Quan Uất Trì Kính Đức tạo”. Tương truyền chùa Thiên Long có năm báu vật mà ba ngọn tháp đứng đầu trong ngũ bảo.

Từ xưa tới nay các vị vua họ Đoàn bỏ ngôi báu xuất gia đầu Phật đều quy y ở chùa này. Có thể nói chùa Thiên Long là chùa của hoàng gia nước Đại Lý. Kể tất cả các chùa trong nước thì chùa Thiên Long được tôn vinh hơn cả. Một khi nhà vua xuất gia rồi thì đến ngày sinh nhật, con cháu đều lên chùa làm lễ triều bái, lần nào cũng có cúng dường trùng tu. Trong chùa có ba gác, bảy ngôi lầu, chín điện và một trăm gian qui mô thật là to lớn, cấu trúc tinh kỳ; so với danh thắng ở Trung Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi là nơi có chùa chiền lớn cũng không kém gì, có điều ở mãi miền biên giới xa xăm nên không được nổi tiếng bằng.

Trên đường đi Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa, được bá phụ chỉ điểm cách trấn nhiếp nội tức đang xung đột trong cơ thể cũng bớt khó chịu, lẽo đẽo theo được Bảo Định Đế đến chùa Thiên Long. Chùa này là nơi nhà vua thường đến nên liền đi vào yết kiến phương trượng Bản Nhân đại sư.

Theo vai vế ngoài trần tục thì đại sư là thúc phụ nhà vua. Các người xuất gia không câu nệ lễ vua tôi mà cũng không cố chấp thứ bậc trong gia đình, làm lễ tương kiến một cách bình đẳng. Bảo Định Đế kể lại Đoàn Dự bị Diên Khánh thái tử bắt giữ ra sao, rồi trúng tà độc thế nào, nhiễm phải tà công hóa giải nội lực người khác kể lại một lượt.

Bản Nhân phương trượng trầm ngâm một hồi nói: “Theo ta đến Mâu Ni Đường ra mắt ba vị sư huynh, sự đệ.” Bảo Định Đế đáp: “Phiền nhiễu đến sự thanh tu của các vị đại hòa thượng, thực là lỗi lớn.” Bản Nhân phương trượng đáp: “Thế tử con Trấn Nam Vương là người kế vị sau này, thân thế y có quan hệ đến hạnh phúc của trăm họ, Kiến thức và bản lãnh ngươi còn trên ta một bậc mà phải đến đây hỏi, tất là một việc rất khó giải quyết. Một mình ta không thể quyết định, phải cùng với ba vị sư huynh đệ thương lượng mới xong.”

Hai chú tiểu đi trước dẫn đường, đi sau là Bản Nhân phương trượng, kế đến là hai bác cháu Bảo Định Đế theo Thụy Hạc môn ở bên trái tiến vào, đi qua cửa Thiên Môn, gác Thanh Đô, mỏm Ký Ký, cung Đẩu Mẫu và cung Tam Nguyên rồi Đại Sĩ viện, Vũ Hoa viện, Bát Nhã đài, đến một hành lang dài thì hai chú tiểu khom lưng đứng tránh sang hai bên không đi tiếp nữa. Ba người theo hành lang đó đi về hướng tây đến trước mấy căn nhà. Đoàn Dự đã từng đến chùa Thiên Long nhiều lần nhưng nơi đây chưa từng đến, thấy mấy gian nhà đó đều làm bằng những cây thông ghép thành, cửa nẻo cột kèo đều là cây cắt ra chưa lột vỏ thật là tự nhiên, khác hẳn những điện đài tường vàng mái ngói rực rỡ trên đường đi.

Bản Nhân phương trường vẻ mặt trịnh trọng chắp hai tay nói: “A Di Đà Phật! Bản Nhân nay có việc nghi nan khó bề giải quyết, đến quấy nhiễu ba vị sư huynh sư đệ đây.” Trong nhà có tiếng đáp vọng ra: “Xin mời phương trượng vào trong này!” Bản Nhân giơ tay chầm chậm đẩy cửa, cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt, đủ biết ngày thường ít ai lui tới. Đoàn Dự theo sau phương trượng và bá phụ đi vào. Chàng vừa nghe phương trượng bảo đến ra mắt ba vị, mà trong căn nhà lại thấy những bốn vị hòa thượng, mỗi người ngồi trên một cái bồ đoàn riêng. Ba vị ngôi quay mặt ra ngoài thì hai vị gầy đét, một vị tráng kiện khôi ngô. Hòa thượng ở phía đông ngồi quay vào trong tường lặng yên không cử động.

Bảo Đinh Đế nhận ra hai nhà sư gầy gò vàng vọt kia pháp danh Bản Quan, Bản Tướng đều là sư huynh của Bản Nhân phương trượng, còn người cao to kia pháp danh Bản Tham là sư đệ của ông ta. Nhà vua chỉ biết trong Mâu Ni Đường chùa Thiên Long có ba cao tăng Quan, Tướng, Tham, đâu ngờ rằng lại còn một vị khác, lập tức khom lưng hành lễ, ba nhà sư mỉm cười đáp lại. Nhà sư quay vào tường kia không biết đang nhập định hay đang lúc hành công khẩn yếu, không thể phân tâm được nên ai làm gì cũng mặc. Bảo Định Đế biết rằng hai chữ Mâu Ni có nghĩa là trầm lặng vắng vẻ, vậy ngồi trong Mâu Ni Đường ít nói chừng nào hay chừng ấy. Nhà vua tóm tắt bệnh trạng Đoàn Dự rồi kết luận: “Cầu bốn vị đại đức chỉ điểm cho đường sáng!”

Bản Quan trầm ngâm suy nghĩ, lại đưa mắt nhìn Đoàn Dự hồi lâu rồi hỏi: “Nhị vị sư đệ nghĩ sao?” Bản Tham nói: “Nếu bị tổn thất nội lực e rằng phương ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm.” Bảo Định Đế nghe nói đến bốn chữ Lục Mạch Thần Kiếm bất giác giật mình nghĩ thầm: “Hồi mình còn nhỏ, nghe gia gia ngẫu nhiên nói đến tổ tiên họ Đoàn ta có môn Lục Mạch Thần Kiếm uy mãnh vô cùng. Gia gia còn bảo môn này chỉ nghe truyền miệng thế thôi chứ chưa nghe nói vị nào luyện được, môn đó thần kỳ ra sao cũng chưa bậc cao nhân nào hay biết. Bản Tham đại sư đề cập tới, chắc chắn là có môn kỳ công đó rồi.” Ông chợt nghĩ: “Câu nói của Bản Tham đại sư có ý là nếu như dùng nội lực giải độc cho Dự nhi thì sẽ làm trở ngại cho việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm. Thế nhưng Dự nhi trúng phải tà độc, tà công cực kỳ quái lạ nếu không trông vào lực lượng của các vị đây thì làm sao mà trị được?”. Nhà vua nghĩ vậy, tuy trong lòng áy náy nhưng cũng không mở miệng khước từ.

Hòa thượng Bản Tướng không nói một lời, đứng dậy cúi đầu, đôi lông mày rủ xuống, tiến vào phương vị đông bắc. Bản Quan, Bản Tham cũng đứng ra hai vị trí, Bản Nhân phương trượng bước vào vị trí phía tây nói: “Thiện tai! Thiện tai!”

Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự: “Bốn vị trưởng lão không ngại tổn hao công lực trừ tà giải độc cho con. Con mau khấu đầu bái tạ đi!” Đoàn Dự nhìn thần sắc và cử chỉ của bá phụ cùng bốn vị tổ sư biết việc này cực kỳ nghiêm trọng, lập tức phục xuống lạy mỗi vị một lạy. Bốn nhà sư mỉm cười gật đầu. Bảo Định Để nói: “Dự nhi, cháu ngồi xuống xếp bằng, trong lòng đừng suy nghĩ gì cả, toàn thân không dụng lực, nếu như đau đớn hay ngứa ngáy chỉ là hiện tượng bình thường, đừng có hoảng hốt.” Đoàn Dự vâng lời ngồi xuống.

Bản Quan hòa thượng đưa ngón tay cái bên phải ra, ngưng thần một chút rồi đặt lên huyện Phong Phú sau gáy Đoàn Dự, lực đạo Nhất Dương Chỉ cuồn cuộn tuôn ra. Huyệt Phong Phú nằm cách chân tóc chừng một tấc, thuộc về Đốc Mạch. Kế đó Bản Tướng hòa thượng cũng điểm huyệt Tử Cung thuộc về Nhâm Mạch, Bản Tham thì điểm huyệt Đại Hoành thuộc Âm Duy Mạch còn Bản Nhân phương trượng điểm vào huyệt U Môn thuộc Xung Mạch và huyệt Chương Môn thuộc Đới Mạch, Bảo Định Đế điểm vào huyệt Tinh Minh trên Âm Kiều Mạch, Kỳ kinh bát mạch tổng cộng tám đường kinh mạch, năm người để lại Dương Duy, Dương Kiều hai mạch không điểm. Cả năm người đều sử dụng công phu Nhất Dương Chỉ, dùng lực thuần dương để đẩy tà độc, tà công trong người Đoàn Dự theo các huyệt đạo từ hai mạch Dương Duy, Dương Kiều ra ngoài.

Năm đại cao thủ họ Đoàn công lực suýt soát như nhau, chỉ nghe tiếng vù vù, năm nguồn thuần dương nội lực cùng dốc vào cơ thể Đoàn Dự. Toàn thân chàng run lên bần bật rồi tựa như trời rét được phơi ra ánh nắng, trong người ấm áp thư thái vô cùng. Bảo Định Đế cùng bốn nhà sư thấy nội lực của mình tuôn vào người Đoàn Dự rồi biến đâu mất không thể nào thu trở về được. Đoàn Dự chưa luyện Bắc Minh thần công đầy đủ kỳ kinh bát mạch nhưng năm cao thủ đẩy nội lực vào, người chàng không còn cách nào khác, nội lực mỗi khi truyền tới khí hải nơi huyệt Đản Trung thì lập tức tích vào đó. Năm người đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc.

Bất thình lình một tiếng quát ầm ầm vang dội, tại người nào người nấy ù cả đi. Bảo Định Đế biết đó là một công phu thượng thừa trong Phật môn tên là Sư Tử Hống, trong thanh âm chứa một nội lực cực kỳ thâm hậu có tác dụng trấn áp kẻ địch, cảnh tỉnh phe mình. Bỗng nghe nhà sư quay mặt vào vách cất tiếng nói: “Cường địch nội nhật hôm nay sẽ tới, uy danh của chùa Thiên Long mấy trăm năm lung lay muốn đổ. Thằng nhỏ miệng còn hôi sữa trúng tà trúng độc gì gì hãy bỏ đó. Lẽ nào lại vì y mà hao phí công lực ư?” Mấy câu nói đó đầy vẻ uy nghiêm.

Bản Nhân phương trượng bẩm: “Sư thúc dạy rất phải.” Dứt lời vẫy tay trái một cái, năm người đồng thời lùi lại phía sau.

Bảo Định Đế nghe phương trượng gọi ông ta là sự thúc vội vàng cáo lỗi: “Vãn bối không biết Khô Vinh trưởng lão ở đây, chưa kịp kính bái, tội nghiệt thâm trọng.” Thì ra Khô Vinh trưởng lão là vị tiền bối vai vế cao nhất trong chùa Thiên Long, diện bích đã mấy chục năm, tăng chúng trong chùa chẳng ai biết khuôn mặt thật của ông ta như thế nào. Bảo Định Đế cũng chỉ nghe tên chứ trước nay chưa hề bái kiến, nghe nói ông ta tu khô thiền một mình trong Song Thụ Viện, hơn mười năm qua không ai nhắc đến, lại tưởng là đã viên tịch rồi.

Khô Vinh trưởng lão nói: “Việc có khinh trọng, có hoãn cấp, lời ước hẹn với Đại Luân Minh Vương của Đại Tuyết Sơn chớp mắt là đến. Chính Minh, người cũng nên biết việc này.” Bảo Định Đế đáp: “Vâng.” Ông ngạc nhiên nghĩ thầm: “Đại Luân Minh Vương trên Đại Tuyết Sơn là một bậc Phật pháp uyên thâm, nhưng có dây mơ rễ má gì với bọn mình đâu?”

Bản Nhân phương trượng lấy trong bọc ra một phong thơ ánh vàng rực rỡ trao vào tay Bảo Định Đế. Nhà vua đón lấy, cầm tay nhấc thấy khá nặng rất lấy làm kỳ. Thì ra phong bì làm bằng vàng dát mỏng. Trên phong bì dùng bạch kim khảm thành mấy chữ Phạn: “Thư trình Sùng Thánh Tự trụ trì”. Ông mở phong bì vàng ra, bên trong có một lá thư bằng vàng dát cực mỏng. Thư cũng viết bằng chữ Phạn, đại ý viết: “Năm xưa có duyên gặp được Mộ Dung Bác tiên sinh, cùng nhau kết nối thâm giao, đàm luận võ công đương thời. Mộ Dung tiên sinh rất ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm của quí tự nhưng chưa từng được xem qua nên rất lấy làm ao ước. Gần đây nghe tin Mộ Dung tiên sinh đã qui tiên, rất đỗi xót thương. Để báo đáp tình tri kỷ, cầu xin quý tự quyển kinh đó để đốt trước mộ Mộ Dung tiên sinh. Trong ngày hôm nay sẽ đến lấy, xin chớ chối từ. Bần tăng xin đem báu vật đến báo đền, chẳng dám đến tay không.” Dưới thư thụ danh là “Đại Tuyết Sơn Đại Luân Tự Thích tử Cưu Ma Trí chắp tay trăm lạy”. Chữ Phạn trên lá thư cũng nạm bằng bạch kim thật là tinh tế, phải là tay thợ khéo hao phí bao nhiêu tâm huyết và thời gian mới làm được. Chỉ riêng một lá thư, một bao thư cũng đã là bảo vật hiếm có, đủ biết Đại Luân Minh Vương là tay hào phóng xa xỉ đến mức nào.

Bảo Định Đế vốn biết Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí là Hộ Quốc Pháp Vương của nước Thổ Phồn, nhưng chỉ nghe nói ông ta là kẻ đại trí tuệ, tinh thông Phật pháp. Cứ năm năm một lần Đại Luân Minh Vương lại mở đàn giảng kinh, thuyết pháp. Các vị cao tăng đại đức Thiên Trúc, Tây Vực đều đến chùa Đại Luân trên núi Tuyết Sơn hội họp để nghiên cứu kinh điển. Sau kỳ thuyết pháp ra về ai cũng hoan hỉ ca tụng Minh Vương, chính Bảo Định Đế cũng đã tính chuyện thân hành đi nghe giảng kinh. Trong thư có nói y cùng Mộ Dung tiên sinh đàm luận võ công, kết bạn tri kỷ. Vậy thì hiển nhiên Minh Vương cũng là một tay cao thủ võ lâm. Hạng người đại trí tuệ không học võ thì thôi, khi họ đã đi vào đường đó tất nhiên không phải tay vừa.

Bản Nhân phương trượng nói: “Lục Mạch Thần Kiếm Kinh là vật chí bảo của bản tự, lại là pháp yếu môn võ tối cao của họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh! Công phu tột đỉnh của họ Đoàn hiện ở chùa Thiên Long đây. Ngươi là người thế tục thì dù là con cháu trong nhà, cũng không thể tiết lộ cho ngươi biết những điều bí ẩn này được.” Bảo Định Đế đáp: “Thưa vâng! Điều đó vãn bối đã biết rồi.” Bản Quan nói: “Trong bản tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, ngay cả Chính Minh, Chính Thuần các ngươi cũng không biết, không hiểu sao họ Mộ Dung Cô Tô kia lại hay được?”

Đoàn Dự nghe đến đây đột nhiên nghĩ ra trong thạch động núi Vô Lượng, nơi Lang Hoàn Phúc Địa, trên những giá sách trống rỗng kia trên thẻ “Đại Lý Đoàn Thị” có đề “Nhất Dương Chỉ Quyết, thiếu”, “Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, thiếu” bèn nghĩ thầm: “Thần tiên tỉ tỉ thu góp võ phổ quyền kinh các nhà các phái trong thiên hạ nhưng Nhất Dương Chỉ Quyết và Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của nhà ta vẫn không cách nào kiếm ra được”. Chàng trong bụng đắc ý nhưng cũng hơi ái ngại, vì như thế hẳn là thần tiên tỉ tỉ không được vui lòng.

Bản Tham tức giận nói: “Đại Luân Minh Vương đã nổi tiếng khắp thế gian là một vị cao tăng, sao lại không thông tình lý chút nào, dám đến chùa chúng ta xin cuốn kinh đó. Chính Minh cùng phương trượng sư huynh nên biết rằng nếu họ tử tế tất không đến, mà họ đã đến là chẳng tử tế gì. Đây là một việc trong đại, bọn ta không tác chủ được, phải thỉnh Khô Vinh sư thúc đứng ra chủ trì đại cuộc.”

Bản Nhân nói: “Bản tự tuy có cuốn kinh đó thật nhưng nói ra lại thêm xấu hổ. Bọn ta đây không ai đủ tài lực để luyện thành môn võ trong kinh, cả những điều ảo diệu trong kinh cũng chưa hiểu nổi. Khô Vinh sư thúc luyện tập khô thiền, cũng là một thần công của bản tự đang vào thời kỳ sắp sửa thành tựu. Bọn ta chưa luyện thành thần công, người ngoài chưa chắc đã biết. Không lẽ Đại Luân Minh Vương ỷ thế không xem mình vào đâu, chẳng coi tuyệt học Lục Mạch Thần Kiếm ra gì hay sao?”

Khô Vinh lạnh lùng đáp: “Y không dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Theo lời trong thư y rất kính phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh ao ước pho kinh này vô cùng. Đại Luân Minh Vương đã cân nhắc lắm đấy. Y biết trong chùa này không có cao nhân siêu quần xuất chúng, sách quý mà chẳng ai luyện nổi để đó thật là uổng phí.”

Bản Tham lớn tiếng nói: “Nếu y ngưỡng mộ cuốn kinh, muốn mượn về xem qua, chúng ta kính trọng y là một cao tăng cửa Phật, cùng lắm thì cũng chỉ lựa lời từ khước thì có phải tử tế không. Đằng này y lại bảo lấy về đốt đi cho kẻ đã chết rồi, thế mới đáng giận. Có phải y coi thường chùa Thiên Long lắm hay sao?”

Bản Tướng thở dài nói: “Sư đệ không nên vì thế mà đem lòng giận dữ. Ta xem Đại Luân Minh Vương không phải là hạng người càn rỡ đâu, có lẽ y học đòi công tử Quí Trát nước Ngô treo kiếm trên mộ người xưa, đủ biết y cực kỳ khâm phục Mộ Dung tiên sinh, Hỡi ôi! Bạn hiền đã qua đời, không còn bao giờ được thấy mặt cố nhân…” Nói rồi ông chậm rãi lắc đầu. Bảo Định Đế hỏi: “Bản Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh là người thế nào không?” Bản Tướng lại lắc đầu đáp: “Ta không biết, song cứ suy Đại Luân Minh Vương là nhân vật thế nào mà còn khiêm ngưỡng cũng đủ biết Mộ Dung tiên sinh phải là bậc phi thường.” Nói xong ông lặng người đi.

Bản Nhân phương trượng nói: “Cứ lời sư thúc vừa xét đoán thì thế địch lợi hại vô cùng. Chúng ta nếu như không luyện cho xong Lục Mạch Thần Kiếm e rằng không chừng bị người ta đoạt mất bảo kinh, uy danh chùa Thiên Long tan ra mây khói, Khổ một điều là luyện môn thần kiếm này chủ chốt ở nội lực, không thể chỉ trong chốc lát mà nên. Chính Minh, không phải bọn ta thấy Dự nhi bị trúng tà độc mà thõng tay không ngó ngàng gì đến, chỉ e ai nấy nội lực đều bị tổn hại quá nhiều, cường địch lại sắp đến, không còn đủ sức lực để đối phó. Xem ra y tuy bị trúng tà độc nặng thật nhưng trong vòng vài ngày không nguy gì đến tính mạng. Hãy để y tĩnh dưỡng ở đây mấy bữa, nếu bệnh tình có biến chuyển, chúng ta sẽ liệu cách chữa trị. Chờ khi đuổi xong kẻ địch, chúng ta sẽ dùng toàn lực khu trục tà độc cho y. Vậy ngươi nghĩ sao?”.

Bảo Định Đế tuy rất lo cho bệnh tình Đoàn Dự nhưng ông là người rất biết đại thể, hiểu rằng chùa Thiên Long là căn bản của họ Đoàn nước Đại Lý, mỗi khi hoàng gia gặp hoạn nạn là chùa lại dốc hết lực lượng ra cứu viện, chuyển nguy thành yên. Năm xưa gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Thượng Đức Đế soán ngôi, trung thần Cao Trí Thăng nhờ vào chùa Thiên Long hợp sức mới dẹp yên. Họ Đoàn Đại Lý lập quốc từ năm Đinh Dậu đời Ngũ Đại Thạch Tấn Thiên Phúc thứ hai, tới nay đã một trăm năm mươi tám năm, trung gian bao lần phải chịu phong ba mà xã tắc không bị nghiêng đổ phần lớn là nhờ ở chùa Thiên Long giữ vững kinh kỳ. Hôm nay chùa lâm vào tình trạng bất an thì có khác gì hoàng thành gặp cơn nguy biến? Nhà vua nghĩ vậy liền đáp: “Phương trượng thực là nhân đức, vãn bối cảm kích vô cùng. Trong công cuộc đối phó với Đại Luân Minh Vương liệu Chính Minh này có thể góp được chút lực nào chăng?”

Bản Nhân trầm ngâm một lát rồi đáp: “Kể ra thì ngươi là tay cao thủ đệ nhất trong những người họ Đoàn còn ở ngoài đời. Thêm người vào chống địch, lực lượng sẽ tăng lên nhiều. Có điều ngươi là người thế tục mà tham dự vào tranh chấp trong chốn Phật môn thì không khỏi bị Đại Luân Minh Vương cười chùa Thiên Long ta không có người.”

Khô Vinh bỗng nói: “Việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm nếu cứ riêng biệt từng người thì chúng ta đây không ai đủ nội lực làm nổi. Ta đã nghĩ tới một cách học tắt, mỗi người chỉ luyện một mạch, sáu người cùng ra tay. Tuy rằng lấy sáu địch một có thắng cũng không thượng võ, nhưng chúng ta đâu phải tỉ võ tranh hùng mà là bảo kinh hộ tự, dẫu có một trăm người đánh một người thì cũng được như thường. Có điều chùa Thiên Long này tính đi tính lại không tìm đâu ra được sáu tay cao thủ bản lĩnh tương đương nhau. Chính Minh, ngươi đến thế là vừa vặn, nhưng ngươi phải xuống tóc, mặc tăng y vào mới được.” Trưởng lão càng nói càng nhanh, tựa hồ trong lòng người phấn khởi. Tuy nhiên giọng nói vẫn lạnh lùng.

Bảo Định Đế thưa: “Chính Minh này vốn có chí nguyện xuất gia đầu Phật. Có điều thần kiếm bí ảo, Chính Minh chưa từng thấy từng nghe, trong giây lát e rằng …”

Bản Tham nói: “Công phu cơ bản của kiếm pháp này, ngươi vốn đã biết rồi, chỉ cần ghi nhớ kiếm pháp là đủ.” Bảo Định Đế không hiểu hỏi lại: “Mong phương trượng chỉ điểm.” Bản Nhân phương trượng đáp: “Ngươi ngồi xuống đây.” Bảo Định Đế ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn.

Bản Nhân tiếp: “Phép Lục Mạch Thần Kiếm không phải là đánh kiếm thật, mà là dùng chỉ lực Nhất Dương Chỉ biến hóa thành kiếm khí, hữu chất vô hình, có thể gọi là vô hình kiếm khí. Lục mạch tức là sáu mạch trên tay bao gồm Thái Âm Phế Kinh, Quyết Âm Tâm Bao Kinh, Thiếu Âm Tâm Kinh, Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Dương Minh Vị Kinh, Thiếu Âm Tam Tiêu Kinh.” Nói rồi ông lấy từ phía sau bồ đoàn Bản Quan đang ngồi ra một quyển trục.

Bản Tham cầm lấy mở ra treo lên tường, mặt vải vì lâu ngày nên đã vàng ố, trên đó vẽ một người đàn ông khỏa thân ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch vẽ màu đen, đỏ, Bảo Định Đế là một đại hành gia về Nhất Dương Chỉ, pho Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này lại lấy Nhất Dương Chỉ làm căn bản nên ông chỉ xem qua đã hiểu ngay.

Đoàn Dự ngồi dưới đất thấy trên trục gấm vẽ hình người đàn ông lõa thể, nhớ đến cuốn kinh mình làm rách mất, nghĩ thầm: “Kinh mạch huyệt đạo trên con người nam nữ có khác gì nhau, thần tiên tỉ tỉ kể cũng lạ, tại sao lại vẽ hình đàn bà khỏa thân, mà lại vẽ tướng mạo của mình là sao?”. Chàng xem ra có điều gì không ổn, dường như thần tiên tỉ tỉ muốn đem sắc đẹp để dụ dỗ người ta, khiến người ta không thể không luyện thần công ghi trong đó, mình trong lúc thần trí mơ hồ làm hủy hoại cuốn kinh, không chừng lại làm tiêu tan một trường kiếp nạn. Có điều nếu nghĩ như thế thì quả là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ nên chỉ thoáng qua trong đầu rồi thôi, không dám nghĩ ngợi thêm nữa.

Bản Nhân nói: “Chính Minh! Ngươi làm chúa tể nước Đại Lý, việc cải trang chỉ là quyền nghi nhất thời, nếu để đối phương khám phá ra thì thật là tổn hại đến quốc thể. Được bề nọ mất bề kia, nhà ngươi tự quyết định. Đến cửa Phật, đặt cho nhà ngươi pháp hiệu Bản Trần.” Bảo Định Để chắp tay đáp: “Tạ ơn sư phụ đã ban pháp danh cho.” Trong Phật môn không kể đến vai vế ngoài đời. Bản Nhân phương trượng tuy là thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng Bảo Định Đế được Khô Vinh thế độ nên thành sư đệ của Bản Nhân. Kế đó Bảo Định Đế đi thay tăng bào, tăng hài biến ngay thành một vị cao tăng.

Khô Vinh đại sư lại nói: “Không chừng hôm nay Đại Luân Minh Vương sẽ đến. Bản Nhân, ngươi đem những bí ảo trong Lục Mạch Thần Kiếm truyền cho Bản Trần.” Bản Nhẫn đáp: “Vâng!” Ông chỉ vào đồ hình về kinh mạch treo trên tường nói: “Bản Trần sư đệ, trong sáu mạch đây, ngươi chuyên tập Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh Mạch, chân khí từ Đan Điền chạy vào các huyệt nơi cánh tay và vai, từ Thanh Lãnh Uyên đến huyệt Thiên Tỉnh nơi khuỷu tay, sau đó chạy tới Tứ Độc, Tam Dương Lạc, Hội Tông, Ngoại Quan, Dương Trì, Trung Chử, Dịch Môn, ngưng tụ chân khí từ ngón tay vô danh theo huyệt Quan Xung mà phóng ra.”

Bảo Định Đế y theo lời giảng, vận động nội lực từ ngón tay vô danh phát ra những tiếng vù vù, chân khí từ huyệt Quan Xung vọt ra mãnh liệt.

Khô Vinh đại sư vui mừng nói: “Nội lực của ngươi không phải tầm thường. Kiếm pháp này tuy biến ảo khôn lường, song kiếm khí đã thành hình thì có thể tùy ý mà vận dụng.”

Bản Nhân nói: “Cứ theo bản ý của Lục Mạch Thần Kiếm thì phải do một người cùng sự cả sáu mạch kiếm khí. Có điều bây giờ là thời mạt thế, võ học suy vi, không có ai nội lực đủ hùng hậu để làm chuyện đó, chúng ta đành phải sáu người chia ra sử dụng sáu mạch kiếm khí. Sư thúc chuyên luyện Thiếu Thương Kiếm ở ngón cái, ta luyện Thương Dương Kiếm ở ngón trỏ, Bản Quan sư huynh luyện Trung Xung Kiếm ở ngón giữa, Bản Trần sư đệ luyện Quan Xung Kiếm ở ngón vô danh, Bản Tướng sư huynh luyện Thiếu Xung Kiếm ở ngón út, Bản Tham sư đệ luyện Thiếu Trạch Kiếm ở ngón út tay trái. Việc không thể trì hoãn được nữa, chúng ta bắt đầu luyện ngay là vừa.”

Phương trượng nói xong mở hết sáu bức đồ hình treo lên bốn bức tường, hình vẽ Thiếu Thương Kiếm ngay trước mặt Khô Vinh đại sư. Trên đồ hình nào cũng vẽ vô số đường ngang đường dọc cắt nhau, đường vòng tròn, đường cánh cung. Mỗi vị đều theo đồ hình mà chăm chú luyện đường kiếm khí của mình, giơ ngón tay nào điểm nào vạch lên không.

Đoàn Dự len lén ngồi lên, lại thấy chân khí trong người dâng tràn, so với khi trước còn tệ hại hơn nhiều. Thì ra Bảo Định Đế cùng năm nhà sư chùa Thiên Long lại đem một lượng nội lực đáng kể truyền vào người chàng. Nhưng chàng thấy bá phụ và những người khác đang định thần, dụng công luyện kiếm khí nên không dám lên tiếng sợ kinh động mọi người. Chàng ngồi ngơ ngẩn một lúc lâu, thấy trong người càng thêm bứt rứt buồn tẻ, ngẫu nhiên nhìn lên đồ hình vẽ kinh mạch treo trước mặt Khô Vinh đại sư. Chàng coi một hồi bỗng thấy cánh tay phải của mình giật giật liên tiếp, tưởng như có con gì ở trong da thịt muốn chui ra ngoài. Nơi con vật muốn chui ra đó chính là huyệt Khổng Tối ghi trên đồ hình.

Đường kinh mạch Thủ Thái Âm Phế Kinh chàng đã từng luyện qua, những huyệt đạo trên tường giống hệt những huyệt ghi trên hình người đàn bà khỏa thân, nhưng phương hướng thì không giống. Chàng nhìn theo một đường dây đỏ trên bức vẽ, từ huyệt Khổng Tối đến huyệt Đại Uyên nhảy trở về Xích Trạch, rồi chạy xuống dưới tới huyệt Ngư Tế, tuy chạy ngược chạy xuôi nhưng luồng chân khí tả xung hữu đột trong cơ thể vẫn thuận theo tâm ý, chạy ngược lên đến khuỷu tay rồi chạy thẳng lên cánh tay. Chân khí thuận theo kinh mạch mà vận hành, toàn thân chàng đang bứt rứt khó chịu bỗng nhiên trở nên khoan khoái. Chàng chuyên tâm ngưng chí đem luồng chân khí chuyển vào huyệt Đản Trung.

Thế nhưng kinh mạch vận hành không giống như ở người đàn bà khỏa thân trên bức trục gấm nên luồng chân khí này không dễ dàng chạy vào huyệt Đản Trung. Một hồi sau chàng không chịu nối được nữa phải kêu lên mấy tiếng “Ôi chao!”. Bảo Định Đế chợt nghe tiếng la cấp bách vội hỏi: “Dự nhi! Con làm sao vậy?” Đoàn Dự đáp: “Cháu thấy trong người không biết bao nhiêu luồng chân khi đang chạy nhộn lên không thể chịu nổi. Cháu theo các sợi đỏ trên bức hình của thái sự bá để đưa khí về huyệt Đản Trung, nhưng chao ôi… huyệt Đản Trung càng lúc càng đầy ứ, không đưa thêm vào được. Cháu … cháu … huyệt Đản Trung của cháu muốn nổ tung ra.”

Cái cảm giác đó chỉ có tự mình mình biết, chàng thấy ngực căng phồng lên tưởng như sắp vỡ đến nơi, còn người ngoài trông chẳng thấy chi khác thường. Bảo Định Đế biết rằng tu tập nội công ắt sẽ có những cảm giác lạ lùng, nhưng thấy huyệt Đản Trung căng phồng muốn vỡ tung ra thì nội lực phải hùng hậu vô cùng, ít nhất cũng phải tu tập hai chục năm. Còn Đoàn Dự chưa từng học qua nội công, trạng thái này xuất hiện thì hẳn là do tà độc trong người đến lúc phát động. Bảo Định Đế kinh hoảng nghĩ thầm, nếu không dẫn khí vào chỗ chứa tất sinh tai vạ, nhưng lại e đưa tà khí vào sâu nội phủ sau này trục xuất còn khó khăn vạn lần. Nhà vua bình nhật giải quyết mọi vấn đề nghi nan một cách quả quyết mau lẹ, song đứng trước mối họa phúc một đời của Đoàn Dự, chỉ sai một chút là lập tức nguy hiểm đến tính mạng chàng nên không khỏi do dự. Ông thấy Đoàn Dự hai mắt hào quang tán loạn dường như sắp nối cơn điên, không còn đủ thì giờ nghĩ tới nghĩ lui được nữa, bèn quyết định tạm thời cứu nguy trước mắt rồi sẽ liệu. Ông bèn nói: “Dự nhi! Ta dạy con phép dẫn khí về nơi trống rỗng.” Ông liền truyền thụ phương pháp đạo khí qui hư này cho chàng.

Đoàn Dự không đợi ông nói xong, nghe câu nào lập tức áp dụng ngay câu ấy. Bí quyết nội công của họ Đoàn nước Đại Lý quả tinh diệu hơn đời, chàng vừa theo đó mà làm, bốn luồng chân khí đang cuồn cuộn ở bên ngoài liền tích chứa vào trong tạng phủ. Đoàn Dự đầu tiên hút được toàn bộ nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm, sau lại hút một phần nội lực của các cao thủ Đoàn Diên Khánh, Hoàng Mi tăng, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Thôi Bách Tuyền, hôm nay lại được thêm một ít của năm đại cao thủ là Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham, Bản Nhân nên chân khí trong người rất dồi dào, nội lực mạnh mẽ có thể nói trên đời ít ai bì kịp. Bây giờ chàng được bá phụ chỉ điểm, đem các luồng chân khí này tàng trữ nơi tạng phủ, cảm thấy thân thể thư thái nhẹ nhàng tựa hồ như muốn bay bổng lên không.

Bảo Định Đế thấy Đoàn Dự mặt tươi như hoa nở, trong lòng vẫn không khỏi lo ngại, chỉ sợ tà khí từ đây cố kết trong nội tạng khó lòng khu trừ tuyệt diệt mang lụy suốt đời, bất giác thở dài sườn sượt.

Khô Vinh đại sư thấy Bảo Định Đế đã truyền dạy công phu xong liền bảo: “Bản Trần! Việc đời do tiền định, họa phúc bởi lòng người. Ngươi bất tất quá lo cho người khác, mau luyện Thiếu Dương Kiếm đi.” Bảo Định Đế đáp: “Vâng!” Bảo Định Đế cố gắng trấn định tâm thần rồi tiếp tục nghiên cứu kiếm pháp.

Trong thân thể Đoàn Dự chân khí cực kỳ sung mãn, đầy rẫy khắp nơi không thể chốc lát thu về hết ngay được, song chàng đã biết phương pháp, thực hành mỗi lúc một thuần thục, về sau càng thu càng nhanh. Trong thiền phòng bảy người ai cũng lo hành công không để ý phương đông trời đã tờ mờ sáng.

Bỗng nghe tiếng gà gáy vọng lại, Đoàn Dự thấy trong người mình không còn chân khí loạn động, bèn đứng dậy cử động chân tay, vẫn thấy bá phụ cùng năm vị cao tăng chuyên tâm luyện kiếm. Chàng không dám mở cửa ra ngoài, cũng không dám lên tiếng, e làm kinh động mọi người. Không có việc gì cũng buồn, chàng lại trông lên đồ hình của bá phụ xem thử, rồi quay sang nhìn đồ hình Thiếu Dương Kiếm. Tuy chàng đã nghe thái sư bá nói là Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia tử đệ, nhưng nghĩ thầm loại kiếm pháp cao thâm thế này mình làm sao học nổi, có xem cũng chỉ xem chơi cho biết. Chàng coi đến lúc tâm thần chuyên chú, đột nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ đan điền xông đến cánh tay, thuận theo đường chỉ đỏ đến huyệt Quan Xung ở ngón tay vô danh. Chàng không biết cách vận khí phóng ra, chỉ thấy đầu ngón tay vô danh căng phồng thật khó chịu, lại nghĩ thầm: “Thôi ta phải đem luồng khí này trở về mới được”. Chàng vừa nghĩ vậy, lập tức luồng chân khí đi theo kinh mạch chạy trở về đan điền.

Đoàn Dự biết đâu mình vừa vô ý học được một phương pháp hành công thượng thừa, chỉ cảm thấy chân khí chạy tới chạy lui trên cánh tay, muốn sao được vậy, thật là thích thú. Trong ba nhà sư ở Mâu Ni Đường, chàng thấy Bản Tướng vui vẻ dễ thân cận nhất nên quay sang nhìn đồ hình Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh của ông ta. Kinh mạch này chạy từ huyệt Cực Tuyền ở dưới nách đi đến huyệt Thanh Linh ở trên khuỷu tay ba tấc, đến huyệt Thiếu Hải ở chỗ lõm dưới khuỷu, đi qua các huyệt Linh Đạo, Thông Lý, Thần Môn, Thiếu Phủ tận cùng ở huyệt Thiếu Xung nơi ngón tay út. Chàng ngẫm nghĩ, tự nhiên thấy một luồng chân khí theo kinh mạch mà vận hành, có điều nhanh chậm rộng hẹp không như ý, có khi thì được, có lúc lại không, nghĩ tại mình công lực chưa được bao nhiêu nên cũng không để ý tới nữa.

Mất nửa ngày nghiền ngẫm, Đoàn Dự đã thông suốt được hết kinh mạch trên sáu bức đồ hình. Chàng thấy tinh thần sảng khoái, cũng chẳng có việc gì làm nên lại quay qua xem hình vẽ của sáu đường kiếm pháp Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch. Chỉ thấy chỉ đen chỉ đỏ, ngang dọc giao thoa, đầu mối thật khó mà dò, nghĩ thầm: “Những điểm chiêu rắc rối thế này thì làm sao mà nhớ được? Huống chi thái sư bá đã bảo rằng, tục gia tử đệ không được học kia mà”. Chàng bèn không xem nữa, trong bụng thấy đói lại nghĩ: “Sao mãi không thấy mấy chú tiểu mang cơm chay đến? Mình phải ra ngoài tìm chút gì ăn cho đỡ đói.” Ngay lúc đó mũi chàng ngửi thấy mùi gỗ đàn hương thơm ngát, tiếp theo là tiếng tụng niệm văng vắng bằng Phạn ngữ, từ xa truyền tới tiếng được tiếng mất.

Khô Vinh đại sư buồn rầu nói: “Thiện tai! Thiện tai! Đại Luân Minh Vương đã tới. Các ngươi luyện kiếm pháp kết quả ra sao?” Bản Tham đáp: “Tuy chưa thuần thục, nhưng xem chừng cũng đủ để nghinh địch.” Khô Vinh đại sư lại bảo Bản Nhân: “Ta không đi được! Ngươi ra mời Đại Luân Minh Vương vào Mâu Ni Đường nói chuyện.” Bản Nhân vâng lời đi ra.

Bản Quan nhặt năm chiếc bồ đoàn lên xếp thành một hàng ở phía đông, bên phía tây để một cái bồ đoàn khác, rồi chính mình ngồi vào chiếc đầu, Bản Tướng thứ hai, Bản Tham thứ tư, để trống chiếc thứ ba cho Bản Nhân phương trượng. Bảo Định Đế ngồi ở chiếc đệm thứ năm. Đoàn Dự không được ngồi, đứng phía sau Bảo Định Đế. Mọi người ôn lại đổ hình một lần cuối rồi mới cuộn lại, để ở trước mặt Khô Vinh đại sư.

Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự: “Dự nhi! Lát nữa sẽ xảy ra cuộc ác chiến, trong nhà kiếm khí tung hoành khắp nơi rất là nguy hiểm. Ta không thể phân tâm ra bảo vệ con được. Con đi ra ngoài chơi thì hơn.” Đoàn Dự rất đỗi băn khoăn nghĩ bụng: “Nghe lời của mọi người thì gã Đại Luân Minh Vương này võ công cực kỳ lợi hại, mà bá phụ mình bữa nay mới luyện Quan Xung kiếm pháp lần đầu, chưa chắc đã địch được lão, nếu sơ sẩy thì biết làm sao?”. Nghĩ vậy chàng đáp: “Bá bá ơi! Cháu… cháu phải ở luôn bên cạnh bá bá. Mình bá bá ở lại đấu kiếm với họ, cháu chẳng… yên tâm chút nào.” Chàng nói đến mấy tiếng sau cùng, thanh âm nghẹn ngào. Bảo Định Đế cũng động lòng nghĩ thầm: “Thằng bé này quả là có hiếu”.

Khô Vinh đại sư gọi: “Dự nhi! Cháu lại ngồi trước mặt ta đây! Đại Luân Minh Vương có lợi hại đến đâu cũng không động đến chân lông cháu được.” Giọng nói đại sự lạnh như băng, song ngữ khí có vẻ ngạo nghễ.

Đoàn Dự vâng lời, khom lưng đến ngồi trước mặt Khô Vinh nhưng không dám ngoảnh lại nhìn, chỉ quay mặt vào vách. Thân hình Khô Vinh cao hơn chàng nhiều, che lấp hẳn chàng đi. Bảo Định Đế vừa cảm kích lại vừa yên dạ. Nhà vua nghĩ mới rồi Khô Vinh đại sư dùng Khô Thiền Công cạo đầu cho ông, thần công đó có thể nói là trên đời không ai bì kịp, muốn bảo vệ Đoàn Dự thật quả có thừa.

Sau đó Mâu Ni Đường yên lặng như tờ.

Lát sau nghe tiếng Bản Nhân phương trượng mời: “Minh Vương pháp giá đã quang lâm, xin mời quá bộ lại Mâu Ni Đường.” Rồi thấy tiếng người khác đáp: “Xin phương trượng đi trước cho tôi theo gót.” Đoàn Dự nghe giọng nói có vẻ ôn hòa, khiêm nhường đúng lễ, tuyệt không phải là hạng cường hung ác bá. Lại nghe tiếng chân có đến chục người rồi tiếng Bản Nhân phương trượng mở cửa nói: “Xin mời Minh Vương.”

Đại Luân Minh Vương cất bước tiến vào Phật đường, nói: “Xin phép.” Ông ta hướng về phía Khô Vinh chắp tay thi lễ nói: “Kẻ vãn bối bên nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí xin tham kiến tiền bối đại sư. “ Đoạn đọc luôn bốn câu kệ: “Hữu thường vô thường, Cây héo cây không, Nam Bắc Tây Đông, Không có không không.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không biết bốn câu kệ này có ngụ ý gì?” Còn Khô Vinh đại sư không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Đại Luân Minh Vương bác học tinh thâm, quả nhiên danh bất hư truyền. Y vừa mới gặp mặt lần đầu đã nói ngay được lai lịch lối tu khô thiền của ta”.

Năm xưa khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn giữa mấy cây bà la tại thành Câu Thi Na thì bốn phía đông tây nam bắc mỗi hướng có hai cây, một cây tươi, một cây khô cho nên gọi là “tứ khô tứ vinh”. Cứ theo kinh Phật chép: hai cây ở hướng đông tượng trưng cho thường và vô thường, hai cây ở phương nam tượng trưng cho lạc và vô lạc, hai cây ở phương tây tượng trưng cho ngã và vô ngã, còn hai cây ở phương bắc tượng trưng cho tịnh và vô tịnh. Những cây tươi tốt tượng trưng cho bản tướng tức là thường, lạc, ngã, tịnh; những cây khô héo tượng trưng cho thực tướng tức là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Phật Như Lai nhập diệt ở trong tám cảnh giới đó có ý là phi khô, phi vinh, phi giả, phi không.

Khô Vinh đại sư trên mười năm trời tu luyện khô thiền mới được đến cảnh giới “bán khô, bán vinh” chứ chưa được đến cảnh giới cao hơn là “phi khô phi vinh” hay “diệc khô diệc vinh”, nên vừa nghe mấy câu kệ của Đại Luân Minh Vương không khỏi giật mình đáp: “Minh Vương từ xa đến đây, lão tăng không ra đón được, xin mở lượng từ bi.”

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí đáp: “Uy danh chùa Thiên Long tiểu tăng bấy lâu ngưỡng mộ. Hôm nay được diện yết tôn nghiêm hoan hỉ vô cùng.”

Bản Nhân phương trượng nói: “Xin mời Minh Vương ngồi.” Cưu Ma Trí cảm tạ ngồi xuống.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không biết vị Đại Luân Minh Vương này hình dáng thế nào?”. Chàng len lén nghiêng đầu nhìn qua bên hông Khô Vinh đại sư thấy một nhà sự mặc tăng bào màu vàng ngồi trên chiếc bồ đoàn phía tây. Y chưa đến năm mươi tuổi, áo vải giày rơm, vẻ mặt vui tươi dường như minh châu bảo ngọc tự phát hào quang. Chàng mới thấy mặt đã sinh lòng kính cẩn, muốn được thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cửa ra ngoài thấy có tám chín hán tử, mặt mày hung dữ ghê sợ trông không phải người Trung Thổ, chắc là những người tùy tùng mà Minh Vương đem từ Thổ Phồn qua.

Cưu Ma Trí chắp tay nói: “Tuy đức Phật có dạy rằng: không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, song tiểu tăng tư chất ngu muội chưa thông suốt lẽ yêu, ghét, sống, chết. Bình sinh tiểu tăng có một người bạn tri giao, là người đất Cô Tô nhà Đại Tống, họ Mộ Dung, tên đơn là Bác. Năm xưa tiểu tăng có duyên gặp gỡ, hai bên đàm luận chuyện võ nghệ. Vị Mộ Dung tiên sinh kia võ học trong thiên hạ không môn nào không am tường, không chỗ nào không tinh thông. Tiểu tăng được ông ta chỉ điểm mấy ngày, những chỗ nghi ngờ đều được giải đáp, lại được Mộ Dung tiên sinh khảng khái tặng cho bí kíp thượng thừa, cái ơn sâu xa đó không thể nào quên được. Không ngờ bậc đại anh hùng chẳng được sống lâu, vội về cực lạc. Tiểu tăng có điều thỉnh nguyện khó nghe, xin các vị trưởng lão mở lượng từ bi cho.”

Bản Nhân phương trượng nói: “Minh Vương quen biết Mộ Dung tiên sinh cũng là nhân duyên một lúc mà thôi. Nay duyên phận đã hết thì thôi, hà tất phải miễn cưỡng làm gì. Mộ Dung tiên sinh đã về cực lạc, lễ Phật nơi tòa sen, còn để ý đâu đến chuyện võ học chốn nhân gian? Minh Vương làm việc này chẳng hóa ra vẽ rắn thêm chấn?”

Cưu Ma Trí đáp: “Phương trượng chỉ điểm quả thực là chí lý. Có điều tiểu tăng tính tình tham luyến chấp nê, bế quan bốn mươi ngày vẫn không sao quên được người tri kỷ. Năm xưa Mộ Dung tiên sinh có đề cập đến kiếm pháp khắp thiên hạ, xác nhận môn Lục Mạch Thần Kiếm tại chùa Thiên Long đứng vào bậc nhất, tiếc rằng chưa dịp thấy qua khiến phải hối tiếc cả một đời.”

Bản Nhân nói: “Tệ tự ở tận thiên nam hẻo lánh, được Mộ Dung tiên sinh quá yêu quả là vinh hạnh. Thế nhưng sao năm xưa Mộ Dung tiên sinh không thân hành tới đây mượn kiếm kinh về xem qua cho biết?”

Cưu Ma Trí thở dài não ruột, thay đổi sắc mặt, lặng yên hồi lâu rồi lại nói: “Mộ Dung tiên sinh cũng biết kinh này là vật chí bảo trấn tự, dù có đến mượn chắc cũng không được. Người còn nói rằng họ Đoàn Đại Lý tuy phú quí đến cực điểm mà không quên nghĩa khí giang hồ, có lòng yêu thương trăm họ, nhân đức thấm khắp lê dân, tiên sinh không tiện đến trao đổi hay cưỡng đoạt.” Bản Nhân tạ rằng: “Đa tạ thịnh tình Mộ Dung tiên sinh quá khen. Nếu Mộ Dung tiên sinh đã để họ Đoàn nước Đại Lý lọt vào mắt xanh như thế, Minh Vương lại là tri kỷ với tiên sinh tưởng cũng nên nghĩ tới di chí của người đã khuất.”

Cưu Ma Trí đáp: “Chỉ vì năm xưa tiểu tăng đã trót khoe với tiên sinh rằng: Tiểu tăng là quốc sư nước Thổ Phồn chưa từng quen biết họ Đoàn Đại Lý, Thổ Phồn Đại Lý hai nước cũng chưa từng có bang giao. Nếu như Mộ Dung tiên sinh không tiện thân hành đến lấy thì để tiểu tăng thay mặt làm cho. Đại trượng phu một lời nói ra, dẫu chết cũng không hối hận. Tiểu tăng đã hứa nhất quyết không dám sai lời.” Y nói xong giơ tay vỗ nhẹ ba cái. Từ ngoài cửa hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương vào, đặt dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp rương tự nhiên mở ra, bên trong có một cái hộp ánh hoàng kim chói lọi. Y cúi xuống, cầm cái hộp lên tay.

Bản Nhân nghĩ thầm: “Bọn ta đã là người thoát vòng tục lụy không lẽ còn tham lam những đồ kỳ trân, dị bảo. Hơn nữa họ Đoàn làm vua một nước đã hơn trăm rưỡi năm nay, thiếu gì kim ngân châu báu?” Cưu Ma Trị mở nắp hộp ra, chỉ có ba quyển sách cũ, Y tiện tay lật mấy tờ, bọn Bản Nhân liếc mắt nhìn qua thấy trong sách có vẽ hình viết chữ bằng mực, bằng son. Cưu Ma Trí đăm đăm nhìn ba cuốn sách thốt nhiên nước mắt đầm đìa ướt cả bầu áo, nét mặt sầu thảm vô cùng. Bọn Bản Nhân đều lấy làm lạ.

Khô Vinh đại sư nói: “Minh Vương vẫn còn nghĩ đến người bạn thuở xưa, trần duyên chưa sạch, há không thẹn với hai chữ cao tăng?

Đại Luân Minh Vương cúi đầu đáp: “Đại sư là bậc đại trí tuệ, đại thần thông, tiểu tăng bì thế nào được? Ba quyển võ công yếu quyết này do chính tay Mộ Dung tiên sinh soạn ra, ghi rõ cách tập luyện và cách phá giải bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.”

Mọi người nghe nói cả kinh nghĩ thầm: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm lừng danh thiên hạ, nghe nói từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập đến nay, trừ một vị cao tăng đầu đời Tống kiêm được hai mươi ba môn, còn chưa có người thứ hai luyện được trên hai mươi tuyệt kỹ. Nói Mộ Dung tiên sinh thông hiểu toàn bộ bảy mươi hai môn cũng đã khó tin rồi, lại còn biết cả cách phá giải thì không thể nào nghĩ tới.”

Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp: “Được Mộ Dung tiên sinh tặng cho ba cuốn kỳ thư này, tiểu tăng nghiên cứu quả thật ích lợi rất nhiều. Nay xin đưa sang đây đổi lấy Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của quí tự. Các vị đại sư có thể tất cho thì tiểu tăng mới hoàn thành được lời ước hẹn năm xưa, lòng cảm kích nói sao cho xiết!”

Bản Nhân phương trượng không nói gì, nghĩ thầm: “Nếu quả nhiên ba cuốn sách này ghi chép đầy đủ bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì chùa Thiên Long này sau khi học được, võ công không chỉ ngang hàng với phái Thiếu Lâm mà còn có phần cao hơn. Chùa Thiên Long từ nay thông hiểu tất cả tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm nhưng phái Thiếu Lâm làm sao biết được tuyệt kỹ của chùa Thiên Long?”.

Cưu Ma Tí nói tiếp: “Trước khi quí tự ban cho bảo kinh vẫn có thể để lại bản sao không thiệt hại gì, mà tiểu tăng được các đại sư gia ơn, thương xót cả đến nắm xương trắng dưới mồ. Đó là một điều lợi. Tiểu tăng bái lĩnh bảo kinh xin niêm phong lại lập tức, quyết không xem trộm, tự mình đem đến trước mộ Mộ Dung tiên sinh phần hóa. Tuyệt kỹ của quý tự không tiết lộ cho ai biết cả, đó là hai điều lợi. Các vị đại sư trong quá tự võ học uyên thâm, vốn chẳng cần đến những môn của người ngoài, nhưng khốn nỗi đá núi vẫn có thể đem đập vỡ được ngọc, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm cũng có chỗ độc đáo của nó. Trong đó có Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, và Vô Tướng Kiếp Chỉ ba loại chỉ pháp, cùng với Nhất Dương Chỉ của quý tự đây có thể bồi bổ cho nhau. Đó là ba điều lợi.”

Bọn Bản Nhân khi nhận được lá thư viết bằng vàng là của y thoạt nghĩ rằng Cưu Ma Trị mưu toan cưỡng đoạt bảo vật trấn tự của chùa Thiên Long, quả thật ngang ngược, thế nhưng đến lúc này thấy y nói năng rành rọt, xem ra có tình có lý, tựa hồ chùa Thiên Long được lợi rất nhiều mà không thua thiệt gì, lại còn được y tự tay mang đến một món lễ vật hậu hĩ. Bản Tướng đại sư vốn tính dễ dãi nhất, trong bụng đã có ý ưng thuận. Song nói về tôn ti thì trên còn có sư thúc, về địa vị phải nhường phương trượng nên không dám nói ra.

Cưu Ma Trí nói tiếp: “Tiểu tăng hãy còn ít tuổi, kiến thức hẹp hòi, lời nói chưa đủ thủ tín cùng các vị đại sư. Vậy xin đem ba môn chỉ pháp trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm ra mà vụng về phô trương trước mặt quý vị.” Ý nói xong đứng lên rào đón: “Năm xưa tiểu tăng chẳng qua nhân lúc cao hứng nên tập thử, công phu còn thô sơ lắm, mong được các vị chỉ điểm thêm. Lộ chỉ pháp này là Niêm Hoa Chỉ.” Nói xong lão đưa ngón cái và ngón trỏ bên tay phải ra, nhẹ nhàng để gần vào nhau, tựa hồ đang cầm một đóa hoa tươi. Nét mặt mỉm cười lão lại đưa những ngón tay trái ra búng nhẹ qua bên phải.

Trong Mâu Ni Đường trừ Đoàn Dự ra, còn toàn là những tay đại hành gia về chỉ pháp, thấy lối xuất thủ của Cưu Ma Trí cực kỳ nhẹ nhàng êm dịu. Mỗi lần tay trái búng ra tựa hồ gảy những hạt sương đọng trên hoa, lại tỏ vẻ không dám đụng mạnh, sợ cánh hoa rụng xuống, miệng vẫn ung dung mỉm cười thật là từ hòa sảng khoái. Nguyên kinh Phật Thiền tông có chép rằng: Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp trên núi Linh Sơn, tay cầm bông hoa ba la sắc vàng đưa lên, mọi người lặng thinh không nói, chỉ có Ca Diếp cười rạng rỡ. Đức Thích Ca biết Ca Diếp đã lĩnh ngộ được tâm pháp liền nói: “Ta có Chính Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Pháp Môn, Thực Tướng Vô Tướng, Vi Diệu Pháp Môn không chép vào sách, nay truyền cho Ca Diếp.” Tâm truyền đốn ngộ là yếu chỉ của Thiền Tông. Phái Thiếu Lâm thuộc về Thiền Tông nên môn Niêm Hoa Chỉ này lại càng nghiên cứu tinh vi.

Lúc Cưu Ma Trí búng ngón tay chưa thấy gì kỳ lạ. Lão búng liền một lúc mấy chục cái rồi giơ tay áo lên thổi thì thấy những mảnh vải tròn lớn bằng con cờ bay phất phới, tay áo lộ ra đến mấy chục chỗ thủng. Thì ra lúc lão bùng ngón tay là dùng Niêm Hoa Chỉ điểm vào tay áo cho thủng rồi. Kinh lực âm nhu cực độ, thoạt nhìn không ai biết, lúc thổi vào những mảnh áo bay tung, công lực mới lộ ra.

Bọn Bản Nhân và Bảo Định Đế thấy vậy đều lấy làm kinh dị nghĩ thầm: “Ta dùng Nhất Dương Chỉ điểm cho thủng áo thì chẳng có gì là khó. Song đưa ngón tay ra một cách mềm mại, nét mặt vẫn vui vẻ tươi cười mà vận động nội lực mạnh đến thế thì mình không làm được. Môn Niêm Hoa Chỉ này kình lực âm nhu, quả thực có chỗ độc đáo đáng học hỏi.”

Cưu Ma Trí tươi cười nói: “Xấu hổ, xấu hổ! Môn Niệm Hoa Chỉ của tiểu tăng quả vụng về, còn kém Huyền Độ đại sư chùa Thiếu Lâm xa lắm. Đến môn Đa La Diệp Chỉ, chắc lại còn sai lạc hơn nữa.” Dứt lời Cưu Ma Trí chuyển thân đi vòng quanh cái rương gỗ đặt dưới đất, mười đầu ngón tay liên tiếp điểm ra, những miếng gỗ tung lên không ngớt tựa như lá rụng hoa bay. Chớp mắt cái rương đã nát vụn, rơi xuống thành một đống.

Bọn Bảo Định Đế coi việc phá nát cái rương gỗ chẳng có chi kỳ dị, nhưng cả những đai sắt, bản lề đồng mà chỉ lực cũng đánh gãy vụn được thì không khỏi kinh hãi.

Cưu Ma Trí cười nói: “Tiểu tăng trình diễn môn Đa La Diệp Chỉ có hơi bá đạo, công phu luyện tập hãy còn thiển cận.” Y vừa nói vừa thủ tay vào trong áo, thế mà thốt nhiên mấy mảnh gỗ vỡ tự nhiên bay lên, tựa hồ có một cái gậy vô hình khuấy động. Nét mặt Cưu Ma Tí vẫn ôn hòa tươi cười, tăng bào rộng thùng thình vẫn không lay động mảy may. Thần tình chỗ chỉ lực bên trong tay áo phóng ngầm ra, tuyệt không lộ hình tích. Bản Tướng không nhịn được bất giác trầm trồ: “Vô Tướng Kiếp Chỉ quả là danh bất hư truyền. Bội phục! Bội phục!” Cưu Ma Trí lễ phép đáp: “Đại sư quá khen. Mảnh gỗ kia bay tung lên đã là hữu tướng rồi. Nếu muốn cho thực hợp với danh, luyện đến mức vô hình vô tướng thì phải hết đời chưa chắc thành tựu.” Bản Tướng đại sư hỏi: “Trong quyển kỳ thư Mộ Dung tiên sinh để lại, quả có cách phá giải Vô Tướng Kiếp Chỉ ư?” Cưu Ma Trí đáp: “Có chứ! Phép phá giải cũng có tên giống như pháp danh của đại sư.” Bản Tướng trầm ngâm một hồi rồi nói: “Ô, lấy bản tướng phá vô tướng, thực là cao minh.”

Bản Nhân, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham bốn người thấy Cưu Ma Tí thi diễn ba môn chỉ lực, ai nấy đều động lòng, biết rằng ba quyển kỳ thư này quả có chép bảy mươi hai tuyệt kỹ lừng danh thiên hạ của chùa Thiếu Lâm, liệu có nên đem Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đánh đổi hay không quả là khó nghĩ. Ai nấy đều trù trừ.

Bản Nhân nói: “Bạch sư thúc! Minh Vương từ xa tới đây quả có lòng thành. Ý kiến sư thúc thế nào xin chỉ thị cho!”

Khô Vinh đại sư hỏi: “Bản Nhân, chúng ta luyện công tập nghệ là để làm gì?” Bản Nhân phương trượng không ngờ sư thúc lại hỏi như thế, không khỏi ngạc nhiên đáp: “Cốt yếu là để hoằng dương đạo pháp, bảo vệ quốc gia.” Khô Vinh lại hỏi: “Nếu như ngoại ma đến mà đạo pháp mình hãy còn thiển cận không đủ điểm hóa, không thể không ra tay hàng phục thì phải dùng cách gì?” Bản Nhân đáp: “Nếu bất đắc dĩ phải ra tay thì phải dùng Nhất Dương Chỉ.” Khô Vinh đại sư hỏi tiếp: “Ngươi luyện Nhất Dương Chỉ đã đến bậc nào?” Bản Nhân toát mồ hôi trán đáp: “Đệ tử ngu muội lại thiếu chuyên cần nên mới luyện đến bậc thứ tư.” Khô Vinh đại sư lại hỏi: “Theo ngươi thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý so với ba loại chỉ pháp Niêm Hoa Chi, Đa La Diệp Chi, Vô Tướng Kiếp Chỉ của Thiếu Lâm ai hơn ai kém?” Bản Nhân đáp: “Chỉ pháp không có hơn kém, công phu rèn luyện có kẻ cao người thấp.” Khô Vinh đại sư nói: “Đúng lắm. Giả tỉ mà môn Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện được đến tuyệt đỉnh thì sẽ ra sao?” Bản Nhân đáp: “Đến mức đó thì uyên thâm như biển cả khôn lường. Đệ tử không dám nói càn.” Khô Vinh đại sư nói: “Tỷ dụ như ngươi thọ đến trăm tuổi, sẽ luyện được tới bậc thứ mấy?” Bản Nhân mồ hôi trán rơi tong tỏng xuống đất, run run đáp: “Đệ tử không biết.” Khô Vinh đại sự hỏi thêm: “Liệu có đến tuyệt đỉnh chăng?” Bản Nhân đáp: “Quyết không thể được.” Khô Vinh đại sư lặng thinh không nói thêm nữa.

Bản Nhân nói: “Sư thúc dạy chí phải. Môn Nhất Dương Chỉ của mình còn chưa luyện được đến nơi đến chốn thì mong muốn có thêm võ học kỳ kinh của người ngoài làm gì? Minh Vương đường xa cực nhọc đến đây tệ tự xin thết tiệc chay khoản đãi.” Câu nói đó rõ ràng có ý cự tuyệt.

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí thở dài sườn sượt nói: “Chỉ vì năm xưa tiểu tăng trót lỡ miệng một câu, không thì nay Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, việc cầu Lục Mạch Thần Kiếm Kinh có được hay không cũng chẳng quan hệ gì. Hôm nay tiểu tăng hỏi câu này thật là vô lễ: Lục Mạch Thần Kiếm nếu quả thực tinh diệu như Mộ Dung tiên sinh đã nói, e rằng quý tự đây không ai luyện nổi. Giả tỷ có người luyện thành rồi thì chưa chắc gì kiếm pháp đó đã tinh diệu như tiên sinh tưởng tượng”

Khô Vinh đại sư nói: “Lão tăng cũng có một nghi vấn mong Minh Vương chỉ điểm.” Cưu Ma Trí đáp: “Không dám!” Khô Vinh đại sư nói: “Việc tệ tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, đến ngay cả tục gia đệ tử trong họ Đoàn cũng không hay biết. Mộ Dung tiên sinh từ đâu mà nghe được chuyện này?” Cưu Ma Trí đáp: “Về võ học trong thiên hạ Mộ Dung tiên sinh cực kỳ uyên bác. Các bí kỹ võ công của các môn phái nhiều khi chính chưởng môn cũng không hiểu bằng Mộ Dung tiên sinh. Cái thuật gậy ông đập lưng ông chính là từ đó mà ra. Thế nhưng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý ông ta vẫn không thể nào biết được, thành thử cả đời uất ức mang theo mối hận xuống tuyền đài.”

Khô Vinh đại sư “hừ” một tiếng không nói thêm nữa. Bọn Bảo Định Đế đều nghĩ thầm: “Nếu như y biết Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ e y sẽ quay lại dùng chính thuật này để tiêu diệt người trong họ Đoàn”.

Bản Nhân phương trượng nói: “Trên mười năm trời sư thúc bần tăng không gặp người ngoài. Minh Vương là cao tăng đương thế, nên sư thúc chúng tôi mới phá lệ tiếp kiến. Xin mời Minh Vương.” Nói xong đứng dậy tỏ ý tiễn chân.

Cưu Ma Trí không đứng lên, chậm rãi nói: “Nếu Lục Mạch Thần Kiếm chỉ có hư danh không có thực dụng, quý tự hà tất phải coi trọng như thế, để đến nỗi tổn thương hòa khí giữa Thiên Long tự và Đại Luân tự, lại tổn thương cả đến bang giao giữa hai nước Đại Lý cùng Thổ Phồn?”

Bản Nhân sắc mặt hơi đổi, hậm hực hỏi lại: “Lời của Minh Vương phải chăng muốn nói: Chùa Thiên Long nếu không chịu giao kinh ra, hai nước Thổ Phồn, Đại Lý sẽ có chuyện can qua?” Bảo Định Đế trước nay vẫn phải đưa trọng binh đồn trú nơi biên thùy tây bắc để phòng Thổ Phồn đem quân xâm lấn, nghe Cưu Ma Trí nói thế càng hết sức lắng tai nghe.

Cưu Ma Trí đáp: “Quốc vương nước Thổ Phồn chúng tôi vốn ái mộ phong cảnh Đại Lý đã lâu, từng đòi mở cuộc săn bắn với hoàng thượng quý quốc, song tiểu tăng e rằng làm như vậy tổn thương nhân mạng quá nhiều, phạm vào lòng từ bi của Phật môn nên mấy năm nay vẫn phải hết sức ngăn trở.”

Bọn Bản Nhân nghe qua đã biết lời lão có ngụ ý uy hiếp. Nước Thổ Phồn cũng như nước Đại Lý, từ quốc vương trở xuống ai ai cũng sùng tín đạo Phật. Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn, rất được quốc vương tín nhiệm, hòa hay chiến phần lớn là do lão quyết định. Nếu vì một pho kinh mà để nhân dân hai nước phải lầm than thì thật không nên. Nhưng người ngoài mới dọa một câu đã phải hai tay mang bảo kinh trấn tự đem dâng thì còn ra thể thống gì?

Khô Vinh đại sư nói: “Nếu quả như Minh Vương không lấy bộ kinh này không được thì bạn lão nạp không dám tiếc sức. Còn việc Minh Vương muốn đem bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm ra trao đổi, tệ tự không dám nhận. Nếu như Minh Vương đã tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, lại kiêm cả võ công Đại Tuyết Sơn Đại Luân tự thì hẳn là trên đời không ai địch nổi.”

Cưu Ma Trí chắp tay hỏi: “Theo ý đại sư, phải chẳng muốn tiểu tăng phô trương bản lãnh kém cỏi của mình?” Khô Vinh đại sư đáp: “Minh Vương nói rằng Lục Mạch Thần Kiếm của tệ tự chỉ có hư danh không có thực dụng. Bọn lão tăng xin đem môn Lục Mạch Thần Kiếm lãnh giáo mấy cao chiêu của Minh Vương. Nếu quả đúng như lời Minh Vương nói, kiếm pháp này không dùng được vào đâu thì có chi là quí báu? Lúc đó Minh Vương cứ việc đem kiếm kinh đi.”

Cưu Ma Trí không khỏi chột dạ. Năm xưa y đàm luận với Mộ Dung Bác về Lục Mạch Thần Kiếm, biết sơ qua rằng đây là kiếm ý chỉ dùng toàn nội lực sử dụng kiếm khí vô hình, kiếm pháp thần kỳ cao minh, nhưng dùng nội lực của một người sử dụng một lượt sáu mạch kiếm khí thì không ai có thể làm nổi. Bây giờ nghe giọng của Khô Vinh đại sư thì không những ông ta biết sử dụng, mà dường như chư tăng ở đây cũng đã rèn luyện. Chùa Thiên Long nổi danh hơn trăm năm qua, không thể coi thường được. Thần thái Cưu Ma Trí vốn đã cung kính, nay càng nghiêm cẩn hơn, lão nghiêng mình nói: “Nếu chư vị cao tăng hiển thị tuyệt nghệ thần kiếm cho tiểu tăng được mở rộng tầm mắt thì may mắn nào bằng?”

Bản Nhân phương trượng nói: “Minh Vương dùng loại binh khí gì, xin lấy ra.”

Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một hán tử cao lớn từ ngoài cửa bước vào. Y nói mấy câu tiếng Phiên, gã kia liền gật đầu vâng lệnh, ra mở rương lấy một nắm hương đưa lại cho Cưu Ma Trí rồi lại lui ra khỏi cửa.

Ai cũng lấy làm kỳ. Những cây hương kia đụng đến là gãy, chẳng lẽ lại dùng làm khí giới được ? Chỉ thấy Cưu Ma Trí tay trái cầm lên một nén hương, tay phải vun gỗ vụn dưới đất thành một đống nhỏ cắm lên. Cứ như thế y cắm đủ sáu nén hương bày hàng chữ nhất, nén nọ cách nén kia vào khoảng một thước. Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng ở đằng sau mấy cây hương chừng năm sáu thước, đột nhiên xoa tay mấy cái rồi vung ra, đầu những cây hương cháy sáng. Thoạt tiên mọi người kinh hãi, tưởng lão nội lực hùng mạnh đến mức không tưởng tượng được. Thế nhưng lát sau bọn Bản Nhân cùng Bảo Định Đế ngửi thấy mùi lưu hoàng thoang thoảng, đoán chừng đầu những cây hương có trộn hóa dược, Cưu Ma Trí không phải dùng nội lực đốt hương, mà là dùng nội lực ma sát hỏa dược ở đầu hương cho cháy. Việc đó tuy cũng khó khăn nhưng bọn Bảo Định Đế cũng có thể miễn cưỡng làm.

Sáu nén hương cháy, sáu làn khói xanh biếc bốc thắng lên như sáu sợi dây. Song chưởng Cưu Ma Trí ôm thành hình cầu, nội lực vận ra, sáu cụm khói từ từ ngả ra ngoài, nhắm vào Khô Vinh đại sư, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Nhân, Bản Tham và Bảo Định Đế sáu người. Thế chưởng của y gọi là Hỏa Diệm Đao, tuy bay lơ lửng trên không chẳng ai nắm được nhưng có thể giết người một cách vô hình, quả thực thật là ghê gớm. Lần này y chỉ muốn đoạt kinh không cố ý giết người, cho nên mới thắp sáu cây hương để mọi người nhìn rõ đường đi của chưởng lực, trước là tỏ ra cậy tài chẳng sợ hãi gì, hai nữa có ý lấy lòng từ bi làm gốc, chỉ mong phân định võ học hơn thua chứ không phải nhằm sát hại người khác.

Sáu luồng khói biếc bay đến cách bọn Bản Nhân chừng ba thước thì dừng lại không chuyển động nữa. Mọi người thấy thế đều kinh dị. Dùng nội công để thúc đẩy luồng khói đi là việc bình thường, nhưng làm thế nào cho luồng hơi vô định kia ngưng đọng, đứng nguyên một chỗ trên không thì phải nói là khó gấp mười. Bản Tham đưa ngón tay út bên trái ra, một đường kiếm khí từ huyệt Thiếu Xung phóng vào luồng khói trước mặt. Luồng khói đó lập tức bị đẩy hất ngược trở lại, bay vụt đến còn cách Cưu Ma Trí chừng hai thước, lão liền vận thêm nội lực vào thế Hỏa Diệm Đao để chặn đứng. Cưu Ma Trí gật đầu lẩm bẩm: “Người ta bảo Lục Mạch Thần Kiếm có đường Thiếu Xung Kiếm, quả nhiên không sai.” Hai bên thúc đẩy nội lực giằng co vài hiệp nữa, Bản Tham đại sư nhận thấy nếu mình cứ ngồi lì một chỗ thì khó lòng phát huy được uy lực kiếm pháp, liền đứng dậy tiến lên ba bước, đi chênh chếch về phía bên trái. Luồng nội lực đó tức khắc từ phía bên trái tấn công chéo sang mé bên phải. Cưu Ma Trí vung tay trái ra chặn ngay lại.

Ngón tay giữa của Bản Quan đại sư đột nhiên bật lên, Trung Xung Kiếm phóng thẳng về trước. Cưu Ma Trí vung tay đỡ lại, quát lên: “Phải lắm! Quả có Trung Xung kiếm pháp.” Mình lão đánh với hai người mà chưa hề nao núng.

Đoàn Dự ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư, nghé cổ nghiêng đầu, chăm chú theo dõi cuộc đấu kiếm nghìn năm chưa có một lần trong võ lâm. Tuy chàng chưa hiểu võ nghệ, song cũng biết cuộc đấu kiếm bằng nội lực của mấy vị cao tăng đây đem so sánh với những cuộc đấu bằng gươm đao thực sự còn nguy hiểm và khốc liệt hơn nhiều. May nhờ có sáu nén hương của Cưu Ma Trí thắp lên, Đoàn Dự mới căn cứ vào những luồng khói phất phơ bay đi bay lại mà xem được kiếm chiêu đao pháp của ba người. Chàng xem được độ mươi chiêu, trong bụng chợt nghĩ: “Đúng rồi! Trung Xung kiếm pháp của Bản Quan đại sự giống hệt như nét vẽ trong đồ hình.” Đoàn Dự khẽ mở đồ hình Trung Xung Kiếm xem lại, đối chiếu những luồng khói đi quanh quẩn với những đường kiếm trong đồ phổ lập tức hiểu ngay, không còn điểm nào nan giải cả. Chàng quay qua xem Thiếu Trạch Kiếm của Bản Tham đại sư thì cũng vậy, chỉ khác nhau ở chỗ Trung Xung Kiếm thì phóng ra thu về rộng lớn, khí thế hùng mạnh, Thiếu Trạch Kiếm thì chợt qua chợt lại, biến hóa tinh vi.

Bản Nhân phương trượng thấy sư huynh và sư đệ liên thủ mà vẫn chưa chiếm được mảy may ưu thế, nghĩ thầm: “Kiếm pháp bên mình luyện chưa thành thục, kiếm chiếu chẳng mấy chốc sẽ dùng hết. Vậy sáu người phải sớm đồng thời xuất thủ là hơn. Gã Đại Luân Minh Vương này thông minh tuyệt đỉnh, hẳn là y đang quan sát kiếm pháp của Bản Quan, Bản Tham hai người, chưa đưa toàn lực ra công thủ.” Bản Nhân nghĩ vậy liền hô: “Bản Tướng, Bản Trần nhị vị sư đệ, chúng ta nhất tề động thủ.” Ngón tay trỏ búng ra, Thương Dương kiếm pháp huy động. Kế đó Thiếu Xung Kiếm của Bản Tướng đại sư và Quan Xung Kiếm của Bảo Định Đế, ba luồng kiếm khí cùng nhắm vào ba làn khói xanh tấn công.

Đoàn Dự nhìn Thiếu Xung Kiếm một lát rồi lại nhìn Thương Dương Kiếm, xem bên đông một chiêu bên tây một chiêu, đem đối chiếu với đồ hình tuy cũng hiểu, nhưng thấy rối loạn không mạch lạc nên không nhớ được. Chàng còn đang chăm chú xem đồ phổ Thiếu Xung Kiếm, bỗng thấy một ngón tay gầy đét thò ra viết lên trên đồ hình: “Chỉ học một thế kiếm, học xong hãy đổi qua thế khác”. Đoàn Dự hiểu ngay Khô Vinh đại sự chỉ điểm cho mình, quay đầu lại nhìn ông mỉm cười tỏ ý tạ ơn.

Chàng vừa nhìn ông, nụ cười liền tắt ngóm. Khuôn mặt Khô Vinh đặc biệt kỳ dị: nửa mặt bên trái hồng hào tươi nhuận, da thịt đầy đặn mũm mĩm như đứa trẻ, còn nửa mặt bên phải thì ngược lại chỉ có làn da vàng héo bọc ngoài xương, những đầu xương nhô cả ra, trông như nửa cái đầu lâu người chết phơi khô. Chàng kinh hãi vội vàng quay mặt đi, tim đập thình thình, biết rằng vị thái sư bá này tu tập Khổ Vinh thiền công đã thành tựu, có điều khuôn mặt bên héo bên tươi này ghê gớm quá, ai đã nhìn thấy cũng không thể bình tĩnh được.

Khô Vinh đại sư lại đưa ngón tay viết thêm: “Dịp may đừng bỏ lỡ, chú ý xem kiếm pháp. Tự xem, tự học, khỏi vi phạm lời dạy của tổ tiên.”

Đoàn Dự hiểu ngay: “Khô Vinh thái sư bá trước đây đã có nói với bá phụ rằng, Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia đệ tử họ Đoàn, bá phụ xuống tóc đi tu rồi mới chịu truyền thụ. Thái sư bá viết tự quan tự học, bất vi tổ huấn ắt là di huấn của tổ tiên không cấm con cháu tục gia họ Đoàn tự nghiên cứu.” Chàng gật đầu, chú ý xem Quan Xung Kiếm của bá phụ, đến lúc hiểu rõ ràng mới xem qua hai đường kiếm pháp Thiếu Xung, Thương Dương. Trong năm ngón tay của con người, ngón vô danh là vụng về nhất, còn ngón trỏ linh hoạt hơn cả, thành thử Quan Xung Kiếm thủ thắng ở chỗ vụng về chất phác, còn Thương Dương Kiếm thủ thắng ở chỗ xảo diệu, linh hoạt, biến hóa khôn lường. Thiếu Xung kiếm pháp với Thiếu Trạch kiếm pháp đều phóng ra bằng ngón tay út, song một bên tay phải, một bên tay trái nên kiếm pháp cũng khác nhau ở chỗ khéo hoặc vụng, mau hay chậm. Thế nhưng vụng mà vẫn được việc, chậm mà không giảm uy lực, còn phải phân biệt đang đánh bất ngờ hay thẳng thắn.

Đoàn Dự lúc đầu chỉ là do tính hiếu kỳ thúc đẩy, nhìn đường khói trắng bay đi bay lại, đem đối chiếu với những đường vẽ trong đồ hình, chẳng qua cũng coi như một trò chơi xem đèn đoán chữ, nhưng sau khi Khô Vinh đại sư dặn dò, chàng bèn chuyên tâm xem cho thật kỹ. Đến khi Đoàn Dự xem rõ ba lộ kiếm pháp cả rồi thì Bản Tham và Bản Quan lại sử dụng kiếm pháp đến lần thứ hai. Lần này Đoàn Dự không cần xem đồ hình nữa, chỉ để mắt nhìn đường khói mà đem những đường kiếm đã thuộc lòng ra đối chứng. Chàng nhận ra rằng những nét vẽ trong đồ hình chỉ là những đường chết mà những đường khói đi đi lại lại linh động biến hóa vô cùng, có phần phong phú phức tạp gấp bội những hình vẽ.

Chàng coi thêm một hồi nữa, kiếm pháp của Bản Nhân, Bản Tướng và Bảo Định Đế ba người cũng đã sử dụng hết. Bản Tướng đại sư búng ngón tay út, ra chiêu Phân Hoa Phất Liễu quay trở lại từ đầu, tiếp theo Bản Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng hai kiếm chiêu đã dùng. Cưu Ma Trí khẽ gật đầu rồi đột nhiên những tiếng “vu vu” phát ra, uy thế Hỏa Diệm Đao mạnh lên gấp bội, đẩy ngược kiếm chiêu của năm người dồn trở lại.

Thì ra lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ cốt để xem xét hết các chiêu thế trong Lục Mạch Thần Kiếm rồi mới phản kích. Đang thế thủ đổi sang thế công, năm luồng khói bay lượn tung hoành linh hoạt vô song, còn luồng thứ sáu vẫn ngưng lại ở phía sau Khô Vinh đại sư cách chừng ba bốn thước, đứng im không động đậy. Khô Vinh đại sư để ý nhận xét tình hình địch thủ, xem Cưu Ma Trí duy trì tình trạng “năm ngả công một ngả dừng” này được đến bao giờ. Quả nhiên lão không kéo dài được nữa, vì muốn giữ cho luồng khói thứ sáu đứng yên một chỗ như thế hao tốn rất nhiều sức lực, phải di động cho nó tiến dần từng tấc một, thẳng đến sau gáy Khô Vinh đại sư.

Đoàn Dự kinh hãi nói: “Thái sư bá, làn khói tấn công tới rồi.” Khô Vinh đại sư gật đầu mở bản đồ phổ Thiếu Thương Kiếm ra, để trước mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy đồ hình này thật chẳng khác gì một bức tranh vẽ theo lối vẩy mực, nét tung hoành mạnh mẽ tuy chỉ dọc ngang xiên chếch sơ sài nhưng tỏ ra thế kiếm mãnh liệt như phong ba bão táp, đất lở trời long. Chàng tuy mắt xem kiếm phổ nhưng vẫn để ý tới luồng khói trắng tiến lại sau gáy Khô Vinh, vừa quay đầu lại thấy luồng khói trắng chỉ còn cách độ ba bốn tấc là tới nơi, hoảng hốt kêu: “Coi chừng!”

Khô Vinh đại sư phất ngược tay lại, hai ngón tay cái cùng búng ra, tức thời hai luồng kiếm khí vù vù phát ra nhằm đánh vào trước ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Ông không đỡ đòn tấn công của kẻ địch mà lại đưa ra hai luồng kỳ binh tập kích bất ngờ, vì tin chắc rằng Cưu Ma Trí đang kìm hãm lực đạo Hỏa Diệm Đao, có muốn đả thương mình cũng phải mất một thời gian, nếu mình ra tay sau mà tới trước, ắt là đối phương không kịp trở tay.

Cưu Ma Trí cũng không phải tay vừa, tính toán chu đáo đã dự bị sẵn một đường chưởng lực phòng hờ trước ngực. Tuy nhiên lão chỉ đề phòng một thế công ác liệt của Thiếu Thương Kiếm, không ngờ Khô Vinh lại đồng thời xuất phát hai đường kiếm khí đánh vào hai chỗ khác nhau. Bàn tay Cưu Ma Trí giơ lên chặn được đường kiếm tấn công vào ngực, tiếp theo chân phải nhún một cái, nhảy vọt về phía sau. Song dù lão có mau lẹ mấy chăng nữa vẫn không nhanh bằng kiếm khí. Nghe xoẹt một tiếng nhẹ, vai trái tăng bào đã rách một mảnh, máu tươi tươm ra. Song chỉ của Khô Vinh quay tròn một vòng, kiếm khí thu về, sáu nén hương của Cưu Ma Trí đều bị đứt ngang. Bọn Bản Nhân, Bảo Định Đế đều thu kiếm khí về ngừng chiến. Những người đó ra sức đã lâu không nên công cán gì, trong bụng đang lo thầm bây giờ mới thấy yên lòng.

Cưu Ma Trí rảo bước lại vào trong nhà, mỉm cười nói: “Thần công của Khô Vinh đại sư thật là siêu việt, tiểu tăng lấy làm bội phục. Còn pho Lục Mạch Thần Kiếm quả chỉ có hư danh.” Bản Nhân phương trượng hỏi lại: “Tại sao lại chỉ có hư danh, xin được thỉnh giáo.” Cưu Ma Trí đáp: “Năm xưa Mộ Dung tiên sinh ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm là ngưỡng mộ kiếm pháp chứ không phải ngưỡng mộ kiếm trận. Kiếm trận này của Thiên Long tự quả thực uy lực rất lớn, thế nhưng xem ra cũng chỉ ngang ngửa với La Hán kiếm trận của chùa Thiếu Lâm hay Hỗn Độn kiếm trận của phái Côn Lôn, không thể gọi là thiên hạ vô song được.” Y nói là “kiếm trận” mà không phải là “kiếm pháp” là chỉ trích đối phương lấy sáu người bày ra thành trận thế cùng tấn công, chứ không phải một người sử Lục Mạch Thần Kiếm như y đơn độc sử Hỏa Diệm Đao.

Bản Nhân phương trượng thấy Cưu Ma Trí nói có lý, chưa tìm được câu trả lời thì Bản Tham đã cười nhạt, hỏi lại: “Bất luận kiếm pháp hay kiếm trận, những cuộc tỷ đao luận kiếm vừa đây thì Minh Vương thắng hay chùa Thiên Long chúng tôi thắng?”

Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt trầm tư một lát chừng uống cạn chén trà rồi mở to mắt ra đáp: “Trận đầu quí tự chiếm được thượng phong nhưng trận thứ hai tiểu tăng nắm chắc phần thắng.” Bản Nhân kinh ngạc hỏi: “Minh Vương còn muốn tỉ thí thêm một lần nữa hay sao?” Cưu Ma Trí đáp: “Đại trượng phu nói ra phải giữ lời, tiểu tăng đã hứa với Mộ Dung tiên sinh, đâu có thể ngại khó mà rút lui được?” Bản Nhân hỏi tiếp: “Nhưng sao Minh Vương biết đã nắm chắc phần thắng?”

Cưu Ma Trí song chương từ từ đẩy ra, mỉm cười nói: “Các vị đều là những bậc đại sư võ học uyên thâm, chẳng lẽ lại không suy đoán ra hay sao? Xin tiếp chiêu đây.” Cả sáu người Khô Vinh đại sư, Bản Nhân cùng bọn Bảo Định Đế người nào cũng thấy có hai luồng lực đạo không biết từ đâu tấn công tới. Cả bọn biết rằng không thể dùng Lục Mạch Thần Kiếm ra chống đỡ kịp, ai nấy giương song chưởng đỡ hai luồng lực đạo kia, chỉ riêng Khô Vinh đại sư vẫn búng hai ngón tay cái, dùng Thiếu Thương Kiếm đón tiếp nội kình của đối phương.

Cưu Ma Trí vừa đẩy hai luồng chưởng lực ra lại thu về ngay nói: “Xin lỗi!”.

Bản Nhân và Bản Quan hai người đưa mắt nhìn nhau, đều hiểu: “Một chưởng của y cùng lúc chia ra mấy luồng lực đạo, Thiếu Thương Kiếm của Khô Vinh sư thúc dẫu có phân ra hợp kích y vẫn có thể chống đỡ như thường. Còn bọn mình đành phải bỏ kiếm dùng chưởng, Lục Mạch Thần Kiếm quả là không bằng Hỏa Diệm Đao của y”.

Chợt thấy trước mặt Khô Vinh đại sư khói bốc lên ngùn ngụt, một luồng khói đen tách ra làm bốn nhằm bay về phía Cưu Ma Trí tập kích. Cưu Ma Trí vốn cũng e ngại nhà sư già từ đầu chí cuối quay mặt vào tường không nhìn trở lại này. Bây giờ y thấy khói đen tấn công tới không đoán được đối phương dụng ý ra sao, vẫn dùng Hỏa Diệm Đao chia ra bốn đường chống đỡ. Y không dám phản kích, vừa để phòng bị bọn Bản Nhân đánh ập tới, vừa để bình tĩnh quan sát xem Khô Vinh đại sư còn ngón gì lợi hại tiếp theo.

Chỉ thấy khói đen càng lúc càng dày đặc, thế công càng lúc càng mạnh mẽ. Cưu Ma Trí rất đỗi ngạc nhiên, tự hỏi: “Có câu Gió mạnh không qua buổi sáng, Mưa lớn không đổ trọn đêm. Đối phương dùng toàn lực ra đánh thì phỏng được mấy hơi? Khô Vinh là cao tăng đời nay lẽ nào không nghĩ đến? Lão dùng thủ đoạn gấp rút cương mãnh như thế tất phải có quỷ kế gì đây.” Vì nghĩ thế nên Cưu Ma Trí chỉ thủ thế thật chặt chẽ, trong lòng giữ thật bình tĩnh để tùy cơ ứng biến. Chừng uống cạn tuần trà, thì bốn luồng khói đen đó đột nhiên mỗi luồng chia ra làm hai, hai lại chia ra bốn, cộng lại tất cả mười sáu luồng ập vào tấn công Cưu Ma Trí cả bốn phương tám hướng. Cưu Ma Trí vẫn bình tĩnh cho là cung mạnh đã đến cuối tầm, không còn gì đáng kể nữa. Lão cũng chia Hỏa Diệm Đao ra thành nhiều đạo để ngăn chặn đối phương. Mười sáu luồng khói đen của Khô Vinh thốt nhiên tản ra bốn phía, chỉ trong giây lát khói tỏa ra mờ mịt khắp nhà. Cưu Ma Trí vẫn điềm nhiên không hề nao núng, phát động chân lực tới mức độ tối cao hộ vệ toàn thân.

Khói từ từ nhạt dần, trong làn không khí mông lung thấy năm nhà sư đều quỳ dưới đất coi vẻ rất trang nghiêm. Trong ánh mắt của Bản Quan và Bản Tham đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí còn đang ngạc nhiên, lập tức hiểu ra: “Hỏng rồi! Lão tặc Khô Vinh kia biết không địch nổi nên đem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm đốt đi!”

Y đoán không sai, Khô Vinh đại sư không muốn để Lục Mạch Thần Kiếm lọt vào tay Cưu Ma Trí nên một mặt dùng nội lực Nhất Dương Chỉ đốt cháy hết đồ hình, một mặt thúc đẩy những luồng khói đen đến tập kích cho lão phải ra sức chống đỡ. Tới khi khói tan thì sách đã cháy hết. Cả năm nhà sư đều là những cao thủ tinh thông Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy khói đen đã hiểu rõ nguyên do, nghĩ bụng: Sư thúc ngọc nát còn hơn giữ ngói lành, đem bảo vật trấn tự hủy đi, không chịu để lọt vào tay kẻ địch”. Sáu người chia ra mỗi người nhớ một phần kiếm pháp, đợi khi cường địch đi khỏi rồi, chỉ cần ngồi viết lại là xong, có điều đành phải hủy mất những đồ phổ tổ truyền.

Thế là từ đây giữa Thiên Long tự cùng Đại Luân Minh Vương đã kết nối oán thù, khó mà gỡ ra được nữa.

Cưu Ma Trí vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, lão vốn tự phụ mưu trí hơn người mà hôm nay hai lần liên tiếp bị bại dưới tay Khô Vinh đại sư. Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đã bị thiêu hủy hoàn toàn, thế là chuyến đi này chẳng những không thu hoạch được gì mà còn thêm mối thâm cừu. Y đứng dậy, chắp tay nói: “Khô Vinh đại sư hà tất phải cương cường đến thế. Thà gãy chứ không chịu cong, quả là cao cả. Vì tiểu tăng mà quí tự phải hủy bảo kinh, trong lòng quả thật áy náy. Nhưng xét cho cùng quyển kinh này không phải sức một người luyện được, hủy đi hay không cũng thế mà thôi. Tiểu tăng xin cáo biệt.”

Cưu Ma Trí xoay người đi một chút, không đợi Khô Vinh và bọn Bản Nhân trả lời, đột nhiên giơ tay nắm lấy mạch môn Bảo Định Đế nói: “Quốc vương tôi lâu nay vẫn ngưỡng mộ phong độ hoàng đế, ao ước được gặp một lần, xin mời bệ hạ dời gót sang Thổ Phồn du lịch một phen.”

Sự biến bất ngờ, mọi người đều giật mình. Gã phiên tăng kia tấn công đột ngột, tuy Bảo Định Đế võ công cao cường nhưng cũng không trở tay kịp, bị y nắm phải hai huyệt Liệt Khuyết và Thiên Lịch trên cổ tay, vội vận nội lực chuyển đẩy sáu bảy lần vẫn không gỡ ra được. Bảo Định Đế yếu huyệt bị y chế ngự rồi, có thể bị giết bất cứ lúc nào. Bọn Bản Nhân đều biết Cưu Ma Trí hành động như vậy là quá đê hèn, mất cả thân phận cao thủ tuyệt đỉnh, song chỉ căm phẫn ngấm ngầm chứ không có cách gì cứu gỡ được.

Khô Vinh đại sư cười nói: “Đoàn Chính Minh đã bỏ ngôi xuất gia, trước là Bảo Định Đế, nay là Bản Trần. Bản Trần đệ tử, nếu như quốc vương nước Thổ Phồn muốn gặp ngươi, ngươi cứ đi một chuyến cũng không sao.” Bảo Định Đế không biết cách nào hơn, đành đáp lời: “Vâng!” Ông biết rõ dụng ý của Khô Vinh thiền sư. Bảo Định Đế thấy mình là một vị quốc vương mà lão bắt được mới coi là hóa phẩm trân kỳ. Đằng này mình đã thoái vị đi tu, bất quá là một hòa thượng ở chùa Thiên Long, lão bắt được cũng chẳng có gì kỳ lạ. Chưa biết chừng vì thế mà lão thả ra cũng nên.

Từ khi Cưu Ma Trí vừa bước vào Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế không nói một lời, cũng không để lộ chút gì khác lạ. Nhưng muốn sử dụng dù chỉ là một thế trong Lục Mạch Thần Kiếm cũng phải là tay cao thủ bậc nhất, nội lực tinh thuần mới được. Những tay cao thủ hạng này đều biết nhau cả. Nhất là Cưu Ma Trí phen này ra đi đã chuẩn bị kỹ lưỡng, các danh gia họ Đoàn Đại Lý và các nhà sư chùa Thiên Long hình mạo tuổi tác thế nào đều đã thăm dò chu đáo, ngay cả tính khí cùng bản lãnh từng người mười phần y cũng biết được đến tám chín. Y đã biết trong chùa Thiên Long ngoài Khô Vinh đại sư ra chỉ có bốn vị cao thủ hàng chữ Bản. Bây giờ thốt nhiên xuất hiện thêm một vị Bản Trần mà nội lực võ công cũng tương đương với bốn vị hòa thượng kia, dung mạo oai nghiêm, khí sắc đầy vẻ phú quý vinh hoa thì làm gì mà lão chẳng nhận ra là Bảo Định Đế. Đến khi nghe Khô Vinh đại sư nói ông ta đã bỏ ngôi xuất gia, Cưu Ma Trí bỗng thấy chột dạ: “Ta từng nghe các đời vua họ Đoàn Đại Lý thường hay thoái vị đi tu, Bảo Định Đế xuất gia ở chùa Thiên Long cũng chẳng lấy gì làm lạ. Thế nhưng hoàng đế rời ngôi ra đi ắt có nghi lễ trọng thể toàn quốc, cúng sự lễ Phật, trùng tu tháp miếu cho nổi đình nổi đám mấy hôm, Có lý nào nhà vua lại xuất gia một cách không kèn không trống? Nước Thổ Phồn ta mà nghe được tin này thế nào cũng sai sứ sang chúc mừng tân quân kế vị. Việc này hẳn là có gì man trá.” Y bèn nói: “Bảo Định Đế xuất gia cũng tốt, mà không xuất gia cũng tốt, xin mời sang chơi Thổ Phồn một chuyến, triều kiến quốc vương tệ quốc.” Lão vừa nói vừa dắt Bảo Định Đế ra ngoài.

Bản Nhân lên tiếng: “Hãy khoan!” Ông lắc mình một cái, cùng Bản Quan hai người đứng chắn trước cửa. Cưu Ma Trí nói: “Tiểu tăng quyết không có ý gia hại Bảo Định Đế hoàng gia nhưng nếu các vị bức bách quá thì đành vậy thôi.” Tay phải y đưa hờ ra để ngay hậu tâm Bảo Định Đế. Chưởng lực Hỏa Diệm Đao của y tối bích phá kiên, mà Bảo Định Đế mạch môn đã bị nắm chặt, đành phải để y làm gì thì làm không còn sức phản kháng. Nếu mọi người hợp lực tấn công thì e ném chuột vỡ đồ, mà cũng chưa chắc nắm được phần thắng. Cả bọn Bản Nhân đều bối rối, Bảo Định Đế là vua Đại Lý, làm sao có thể để cho kẻ địch uy hiếp như thế được?

Cưu Ma Trí lớn tiếng nói: “Đã từng nghe đại danh các vị cao tăng chùa Thiên Long, không ngờ một việc nhỏ mọn thế này mà cũng bịn rịn, bắt chước thói đàn bà con nít. Xin nhường đường thôi!”

Đoàn Dự thấy bá phụ bị y bắt giữ, trong bụng rất lấy làm lo lắng, mới đầu còn tưởng bá phụ võ công cao cường đâu có sợ y, chẳng qua tạm thời nhẫn nại đợi thời cơ sẽ có cách thoát thân. Ngờ đâu càng lúc càng cảm thấy không xong, giọng nói và nét mặt Cưu Ma Trí đầy vẻ kiêu ngạo, thần sắc bọn Bản Quan, Bản Nhân đều lộ vẻ buồn phiền phẫn nộ mà không làm gì được. Tới lúc Cưu Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế lôi ra ngoài cửa, Đoàn Dự hoảng hốt không nghĩ ngợi gì nữa, chàng la ầm lên: “Mau buông bá phụ ta ra!” Chàng từ trước mặt Khô Vinh đại sư chạy ra.

Cưu Ma Trí vốn đã thấy trước mặt Khô Vinh đại sư có một người ngồi nhưng không đoán ra được là ai, cũng chẳng hiểu ngồi đó làm chi. Bây giờ y thấy Đoàn Dự đứng dậy đuổi theo, liền động tính hiếu kỳ quay lại hỏi: “Tôn giá là ai?”

Đoàn Dự đáp: “Đừng hỏi ta là ai vội! Buông bá phụ ta ra trước rồi nói chuyện sau!” Chàng giơ tay nắm lấy tay trái Bảo Định Đế. Bảo Định Đế lật bàn tay lại, nắm lấy tay Đoàn Dự nói: “Dự nhi! Cháu không phải bận lòng vì ta nữa! Mau mau về giục phụ thân lên ngôi đại bảo, nắm việc triều chính. Còn ta bây giờ đã thành một vị lão tăng mây ngàn hạc nội, có gì phải quan tâm?”.

Đoàn Dự cố sức nắm lấy tay Bảo Định Đế kêu lên: “Có mau bỏ bá phụ ta ra không nào? Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng chạm vào huyệt đạo trên cổ tay Bảo Định Đế, vừa ra sức Bảo Định Đế toàn thân liền chấn động, cảm thấy nội lực ào ạt tuôn ra.

Cưu Ma Trí cũng đồng thời thấy chân lực trong mình cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài, vẻ mặt liền biến đổi nghĩ thầm: “Sao họ Đoàn Đại Lý lại học được Hóa Công Đại Pháp thế này?”. Y vội vàng ngưng khí vận lực để kháng lại môn tà công âm độc đó.

Bỗng nhiên Bảo Định Đế cảm thấy hai tay đồng thời có mãnh lực giằng co liền dùng ngay phương pháp tá lực đả lực dẫn hai luồng nội lực cho kháng cự lẫn nhau. Ông nhân lúc đó chỉ vùng một cái đã thoát khỏi tay Cưu Ma Trí, rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy vụt về sau, trong bụng kêu thầm: “Kể cũng đáng hổ thẹn, hôm nay mình phải nhờ đến Dự nhi cứu cho mới thoát được”.

Còn Cưu Ma Trí kinh hoàng vô cùng, nghĩ thầm: “Sao trong võ lâm lại có một đại cao thủ mà ta hoàn toàn không hay biết? Người này tuổi còn nhỏ, mới độ hai mươi trở lại mà sao bản lĩnh cao cường đến thế? Y gọi Bảo Định Đế là bá phụ, phải chăng là con em họ Đoàn Đại Lý?” Y chậm rãi gật đầu nói mỉa: “Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn nước Đại Lý xưa nay chỉ chuyên về võ học tổ truyền, không để mắt tới bên ngoài, không ngờ hậu bối hiền tài lại đi kết giao với Tinh Tú lão nhân, nghiên cứu kỳ môn võ học Hóa Công Đại Pháp. Thế thì lạ thật, quả là lạ thật!” Cưu Ma Trí tuy uyên bác nhưng cũng nhầm Bắc Minh thần công của Đoàn Dự là Hóa Công Đại Pháp. Có điều lão còn biết tự trọng không đưa lời thương tổn người khác, thành ra đổi Tinh Tú lão quái thành Tinh Tú lão nhân. Nhân sĩ Võ lâm đều gọi Hóa Công Đại Pháp là yêu công tà thuật, y lại đổi thành kỳ môn võ học. Y vừa rồi đụng chạm với Đoàn Dự thấy chàng nội lực không kém gì Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu không thể nào là đệ tử truyền nhân của ông ta được, thành thử mới dùng hai chữ kết giao.

Bảo Định Đế cũng cười nhạt nói móc: “Lâu nay bọn bần tăng vẫn ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương là bậc đại trí tuệ, kiến thức sâu xa, thế mà sao cũng ăn nói hồ đồ đến thế? Tinh Tú lão quái chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa, con cháu họ Đoàn khi nào lại liên quan với hắ?”

Cưu Ma Trí ngạc nhiên, mặt hơi hổ thẹn, Bảo Định Đế dùng chữ “chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa” chính là chỉ trích hành vi của y mới rồi.

Đoàn Dự nói: “Đại Luân Minh Vương là khách ở xa tới, chùa Thiên Long ta tiếp đãi trọng thể, thế mà cả gan xúc phạm đến bá phụ ta. Chẳng qua chúng ta thấy cũng là đệ tử nhà Phật nên mọi việc đều nhân nhượng, Minh Vương lại càng ngang ngược thêm. Người xuất gia có đâu lại không giữ thanh qui như thế?”

Mọi người nghe Đoàn Dự dùng đại nghĩa trách mắng, trong bụng ai cũng khen thầm nhưng cũng chăm chú đề phòng, chỉ sợ Cưu Ma Trí cáu tiết lên lại đột nhiên gia hại Đoàn Dự. Ngờ đâu Cưu Ma Trí sắc mặt vẫn điềm nhiên, nhã nhặn nói: “Hôm nay được biết thêm một bậc cao hiền, còn hân hạnh nào bằng? Xin đừng tiếc công chỉ giáo cho mấy chiêu, khiến tiểu tăng được thêm phần kiến thức.” Đoàn Dự đáp: “Ta không hiểu võ công, cũng chưa học võ bao giờ.” Cưu Ma Trí cười nói: “Cao minh thật! Thôi tiểu tăng cao từ.” Lão vừa nghiêng người đi một chút đã phất tay áo, bàn tay từ bên trong đánh ra lập tức bốn đường Hỏa Diệm Đao phát xuất nhằm vào Đoàn Dự.

Đoàn Dự nào có hay biết gì, vẫn đứng ì ra. Bảo Định Đế và Bản Tướng cùng tung song chỉ đỡ lấy bốn chiêu Hỏa Diệm Đao của y, đụng phải nội lực cực kỳ hùng mạnh của Cưu Ma Trí hai người đều lảo đảo. Bản Tướng oẹ lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.

Đoàn Dự thấy Bản Tướng thổ huyết mới hay là Cưu Ma Trí đánh lén mình, trong bụng tức quá chỉ ngay mặt y mà chửi: “Gã Phiên tăng kia! Mi thật không biết phải quấy là gì!” Ngón tay trỏ tay phải của chàng vừa vung ra, tâm khí tương thông, tự nhiên sử dụng một chiêu trong Thương Dương kiếm pháp.

Chàng nội lực hùng mạnh trên đời ít có ai bằng, lúc này ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư xem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm và bảy nhà sư dùng vô hình đào kiếm đấu với nhau, ngón tay vừa trỏ ra có ngờ đâu lại trùng hợp với đồ phổ. Chỉ nghe veo véo, một luồng nội hình cực kỳ hùng hậu vọt tới người Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí kinh hãi, vội vung chưởng lên dùng Hỏa Diệm Đao chặn lại.

Đoàn Dự ra tay chẳng những làm cho Cưu Ma Trí phải kinh dị mà ngay đến Khô Vinh cùng bọn Bản Nhân cũng thật ngoài dự liệu. Nhất là Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự lại càng lấy làm quái lạ. Chàng nghĩ thầm: “Việc này quả thực quái đản, ta chỉ tay quát mắng mà sao lão hòa thượng kia phải để hết tâm thần chống đỡ? Đúng rồi! Chắc là ta xuất chỉ đúng cách thức nên lão tưởng mình biết sử Lục Mạch Thần Kiếm. Ha ha! Đã thế ta phải cho lão hoảng vía một phen.” Chàng bèn lớn tiếng nói: “Một chiêu Thương Dương Kiếm đã thấm vào đâu? Để ta ra mấy đường Trung Xung Kiếm cho ngươi thêm phần kiến thức.” Nói xong chàng đưa ngón tay giữa ra điểm. Chỉ pháp tuy đúng nhưng lần này không có kinh lực tiếp theo, thành ra chỉ là điểm hờ không hiệu quả chút nào.

Cưu Ma Trí thấy ngón tay giữa của chàng đâm ra, lập tức thủ thế tiếp chiêu, ngờ đâu phát chỉ của đối phương không có kinh lực, lại tưởng chàng hư hư thực thực, còn ẩn chiếu số tiếp theo. Đến khi y thấy chàng điểm thêm một chi nữa vẫn rỗng tuếch như trước, trong bụng mừng thầm: “Trên đời này làm gì có người nào vừa biết sử dụng Thương Dương Kiếm, lại biết cả Trung Xung Kiếm? Quả nhiên tên tiểu tử này chỉ hư trương thanh thế để dọa người, làm mình sợ hết hồn.”

Lần này y đến chùa Thiên Long bị mấy phen thất thế, nghĩ thầm nếu không tỏ chút tài năng thì đại danh Đại Luân Minh Vương bị tổn thương nhiều lắm, liền giơ tả chưởng chém trái chém phải luôn mấy cái để ngăn chặn Bảo Định Đế và những người kia ra tay cứu viện, kế đó chưởng phải chém thẳng vào vai phải của Đoàn Dự. Chiêu Bạch Hồng Quán Nhật là một chiêu tinh diệu trong Hỏa Diệm đao pháp, dường như Đoàn Dự phải cụt cánh tay phải. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Tham cả bọn đồng loạt phóng chỉ điểm vào Cưu Ma Trí, đồng thời hoảng hốt kêu lên: “Coi chừng!”

Ba người xuất chiêu đều là những đòn thượng thừa, bắt buộc đối phương phải lui về tự cứu. Ngờ đâu Cưu Ma Trí đã vận nội kình phòng giữ những điểm yếu hại toàn thân, đao của y không thu về, vẫn tiếp tục chém xuống. Đoàn Dự nghe tiếng bá phụ biết là nguy đến nơi rồi, chàng vội đưa hai tay đồng thời đánh luôn hai chỉ. Trong bụng kinh hoàng, chân khí tự nhiên phát xuất, tay phải dùng Thiếu Xung Kiếm, tay trái dùng Thiếu Trạch Kiếm, song kiếm cùng đón tiếp Hỏa Diệm Đao. Dư kình vẫn còn phát ra những tiếng “vo vo”, phản kích lại Cưu Ma Trí. Lão hốt hoảng không kịp suy nghĩ gì hết, tay trái vung ra chặn đòn.

Đoàn Dự sau khi phóng mấy thế kiếm, trong lòng đã hơi hiểu bí quyết, muốn ra chiêu phải có ý niệm trước, sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay, chân khí mới vọt ra được. Chàng búng nhẹ ngón tay giữa lập tức Trung Xung Kiếm bắn ra, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu hình vẽ trên đồ phổ hiện ra trong óc, mười ngón tay liên tiếp búng ra, sau đường kiếm khí tung hoành liên miên bất tận.

Cưu Ma Trí lại càng kinh hoảng, hết sức thúc đẩy nội kính chống đỡ. Trong gian phòng kiếm khí dọc ngang xen với đao kình bay lượn, xung kích chen lẫn nhau tựa hồ sấm vang gió rít. Giao đấu được một lúc, Cưu Ma Trí nhận thấy đối phương kình lực mỗi lúc một mạnh, kiếm pháp cũng biến hóa khôn lường, Có khi còn tự sáng tạo thêm khác hẳn với Bản Nhân, Bản Tướng phải chấp nê vào kiếm chiêu, khiến y không biết đâu mà lần. Y có biết đâu Đoàn Dự nhớ không hết những chiêu thức phiền phức trong sáu mạch kiến pháp, có lúc tùy ý vung loạn lên chứ nào có phải là tự chế ra chiêu mới? Cưu Ma Trí mỗi lúc một thêm kinh hoàng hối hận, lão nghĩ thầm: “Không ngờ trong chùa Thiên Long lại có bậc cao thủ trẻ tuổi như thế. Hôm nay Cưu Ma Trí này tự mình chuốc nhục vào thân”. Đột nhiên nghe “vu vu vu”, Cưu Ma Trí đánh liền ba đao kêu lên: “Hãy ngừng tay!”

Đoàn Dự chưa thể tùy ý thu phát chân khí. Vừa nghe đối phương kêu ngừng tay, chàng luýnh quýnh không biết cách thu nội lực về, đành đưa ngón tay chỉ thẳng lên nóc nhà, bụng nghĩ thầm: “Ta khoan đánh tiếp, để xem y nói gì đã.”

Cưu Ma Trí thấy chàng mặt mày ngơ ngác, khi thu kiếm khí về chân tay luống cuống, trông rõ dáng điệu người kém võ công. Lão chợt nảy ra một ý nghĩ, lập tức tung mình nhảy tới múa chưởng đánh thẳng vào mặt chàng.

Đoàn Dự vì có nhiều cơ duyên trùng hợp nên học được môn Lục Mạch Thần Kiếm tối cao thâm, nhưng công phu quyền cước binh khí thông thường thì lại không biết gì. Chưởng của Cưu Ma Trí dù còn ẩn bảy tám chiêu biến hóa cao minh tiếp theo, nhưng so với Hỏa Diệm Đao dùng nội kình đả thương người thì hai bến nông sâu khó dễ không thể so được. Trên đời này không ai biết cái sâu mà không biết cái nông, biết cái khó mà không biết cái dễ, thế nhưng Đoàn Dự là một biệt lệ trong võ học. Chàng thấy Cưu Ma Trí múa chưởng đánh tới với ngượng nghịu đưa tay ra đỡ, Cưu Ma Trí lật bàn tay phải chộp ngay được huyệt Thần Phong trên ngực chàng. Tức khắc người chàng mềm nhũn, chân tay không cử động được nữa.

Thần Phong huyệt thuộc về Túc Thiếu Âm Thận Kinh chàng chưa luyện qua.

Cưu Ma Trí tuy đã khám phá được nhược điểm trong võ công của Đoàn Dự nhưng cũng không ngờ bắt được chàng một cách quá dễ dàng như thế. Lão vẫn còn sợ chàng giả vờ ngớ ngẩn mà dùng quỷ kế gì khác chăng, nên khi nắm được huyệt Thần Phong rồi, lập tức giơ ngón tay điểm các huyệt Cực Tuyền, Đại Truy, Kinh Môn mấy nơi đại huyệt. Rủi thay, các huyệt đạo đó thuộc những kinh mạch Đoàn Dự chưa luyện tới.

Cưu Ma Trí lùi lại ba bước rồi nói: “Vị tiểu thí chủ này trong bụng đã nhớ hết đồ hình Lục Mạch Thần Kiếm. Các đồ phổ đã bị Khô Vinh đại sư đốt đi rồi, tiểu thí chủ này là một bộ kinh sống, đem thiêu sống y trước mộ của Mộ Dung tiên sinh cũng như là đốt đồ hình.” Y giơ tả chưởng ra chém liền năm đao rồi thoáng một cái đã xách Đoàn Dự ra khỏi Mâu Ni Đường.

Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Quan mấy người vừa định rượt theo để cứu người đều bị ngũ đạo liên hoàn vây bọc, ngăn giữ không tiến lên được.

Cưu Ma Trí xách Đoàn Dự quăng ra chỗ chín tên thủ hạ đang đứng ở ngoài cửa, quát lớn: “Mau đi thôi!” Hai tên hán tử cùng giơ tay đón lấy Đoàn Dự, không đi theo đường chính mà lại chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh. Cưu Ma Trí liên tiếp huy động Hỏa Diệm Đao chém vào phía cửa Mâu Ni Đường.

Bọn Bảo Định Đế đều dùng Nhất Dương Chỉ xung kích nhưng vẫn không sao phá vỡ lưới đao vô hình của đối phương.

Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, biết rằng chín tên bộ thuộc đã đem Đoàn Dự chạy về hướng bắc, đắc ý cười một tràng dài nói: “Đốt đồ phổ chết sao bằng đốt đồ phổ sống, Mộ Dung tiên sinh có bạn ở dưới suối vàng cũng dỡ tịch mịch.” Y chém xéo chưởng phải ra, nghe lách cách mấy tiếng, chặt gãy luôn hai cây cột của tòa Mâu Ni Đường. Lão thân hình hơi lắc một cái đã phi thân như một làn khói bay thoảng vào rừng, thoắt đã biệt dạng, không biết đi đằng nào.

Bảo Đinh Đế và Bản Tham hai người cùng chạy ra, thấy Cưu Ma Trí đã đi mất hút. Bảo Định Đế nói: “Đuổi theo mau!”. Gió lộng tăng bào phần phật, ông chưa nói xong đã bay ra ngoài mấy trượng, cùng Bản Tham đại sư hai người đuổi về hướng bắc.

Hồi 11: Hai cô mỹ nữ, một chiếc thuyền con

Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí điểm huyệt không cử động gì được nữa. Mấy gã tùy tòng gác chàng ngang lưng ngựa, mặt cúi sấp xuống, chỉ nhìn thấy mặt đất chạy lùi về phía sau. Vó ngựa tung bay khiến cho mũi miệng chàng đầy cát bụi, tai nghe bọn chúng nói líu lo toàn tiếng Phiên không hiểu gì cả. Chàng đếm chân ngựa tổng cộng có đến mười con.

Chạy được hơn chục dặm đến một ngã ba, Cưu Ma Trí nói líu lo mấy câu rồi năm con ngựa đi về bên trái, còn hắn và tên áp giải chàng cùng ba người nữa đi rẽ về bên phải. Đi thêm mấy dặm nữa lại gặp một ngã ba khác, trong năm người lại có hai người chạy theo ngả kia. Đoàn Dự biết rằng Cưu Ma Trí muốn cho truy binh bối rối không biết đâu mà đuổi. Lại chạy thêm một quãng nữa, Cưu Ma Trí xuống ngựa, lấy một đoạn dây da buộc ngang lưng Đoàn Dự, tay trái lão xách ngang người chàng đi về phía rặng núi, hai gã còn lại giục ngựa chạy về hướng tây. Đoàn Dự trong bụng kêu khổ, nghĩ thầm: “Bá phụ có sai thiết giáp kỵ binh đuổi không ngừng bước, giỏi lắm cũng chỉ bắt hết được chín tên tùy tùng, không thể nào cứu được mình về.”

Cưu Ma Trí tay xách thêm một người nhưng chân vẫn nhẹ như không. Y càng lúc càng lên cao, suốt ba giờ liền toàn chạy xuyên qua rừng qua núi. Mặt trời đã ngả về phía tây, ánh nắng rọi từ bên trái tới, Đoàn Dự biết là Cưu Ma Trí đem mình về hướng bắc.

Đến lúc gần tối, Cưu Ma Trí gác Đoàn Dự lên một cành cây rồi lấy dây da trói vào, mắt cũng không thèm nhìn đến, xoay lưng lại lấy ra mấy miếng bánh khô đưa cho chàng, chỉ giải huyệt một cánh tay trái để chàng cầm được bánh mà ăn. Đoàn Dự duỗi tay trái ra, định vận khí dùng Thiếu Trạch Kiếm đả thương y, ngờ đâu các yếu huyệt trên người bị điểm, chân khí toàn thân bị phong tỏa, ngón tay điểm ra chẳng có chút nội kình nào.

Cứ như thế mấy ngày liền, Cưu Ma Trí xách chàng tiếp tục chạy về hướng bắc. Mấy lần chàng gợi chuyện, hỏi y tại sao lại bắt mình, đưa mình về phương bắc để làm gì, Cưu Ma Trí vẫn làm thinh không trả lời. Đoàn Dự trong lòng phẫn uất, nghĩ đến hôm trước bị cô em Mộc Uyển Thanh bắt giữ, tuy bị hành hạ khổ sở hơn nhiều nhưng không đến nỗi chán ngấy như thế này. Thà bị một cô gái xinh đẹp bắt giữ, hương thơm thoang thoảng, dù lâu lâu bị tát tai còn hơn ở trong tay một gã phiên tăng giả câm giả điếc, sướng khổ gì cũng phải nín chịu không nói cho ai hay được.

Đi hơn mười ngày, áng chừng đã ra khỏi biên giới Đại Lý, Đoàn Dự thấy y chuyển hướng quay qua phía đông, nhưng vẫn tránh đường lớn, vẫn chỉ đi ngoằn ngoèo trong núi non hoang dã. Hồi lâu thấy mặt đất càng lúc càng bằng phẳng, núi đồi càng lúc càng ít dần mà sông nước càng nhiều hơn, trong một ngày phải qua đò đến mấy bận. Sau cùng Cưu Ma Trí mua hai con ngựa, mỗi người cưỡi một con nhưng y vẫn không giải những huyệt đạo trên người chàng.

Có lần Đoàn Dự đi đại tiện đã tính: “Nếu như ta sử dụng Lăng Ba Vi Bộ, gã Phiên tăng này chưa chắc gì đã đuổi kịp.” Thế nhưng chàng chỉ đi được hai bước, chân khí bị chặn lại ở những huyệt bị điểm, lập tức ngã lăn ra. Chàng thở dài một tiếng, lồm cồm ngồi đậy, biết rằng cách này không thể làm được.

Tối hôm đó hai người nghỉ lại một khách điếm nhỏ trong thị trấn. Cưu Ma Trí bảo người hầu phòng mang nghiên bút giấy mực để lên trên bàn, khêu to ngọn đèn, đợi tên đó ra khỏi mới nói: “Đoàn công tử, tiểu tăng mời đại gia lên miền bắc, quả thực đắc tội, trong lòng thật áy náy không yên.” Đoàn Dự đáp: “Không dám, đại sứ quá lời.” Cưu Ma Trí nói tiếp: “Công tử có biết tiểu tăng làm thế này là có ý gì không?”

Đoàn Dự dọc đường chỉ nghĩ đến việc này, thấy trên bàn để bút nghiên giấy mực, mười phần cũng đoán được tám chín bèn nói: “Không được đâu.” Cựu Ma Trí hỏi lại: “Cái gì mà không được?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi ái mộ kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn ta, định ép ta viết ra cho ngươi chứ gì? Cái đó không thể được.” Cưu Ma Trí lắc đầu: “Đoàn Công tử hiểu lầm rồi. Năm xưa tiểu tăng có ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh, định mượn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của quí môn cho ông ta xem một lần. Lời hẹn đó chưa hoàn thành, trong lòng lúc nào cũng canh cánh lo âu. Cũng may Đoàn công tử thuộc lòng đồ hình, tiểu tăng không biết cách nào hơn đành phải đem công tử đến trước mộ ông ta thiêu sống, cho khỏi thất tín với người xưa. Thế nhưng công tử là rồng phượng trong loài người, giữa chúng ta không có oán thù gì nhau, lẽ nào tiểu tăng lại làm hại công tử? Thành ra có một kế vẹn toàn cho cả đôi bên, công tử chỉ cần đem kinh văn đồ phổ chép lại, đừng giấu giếm chút nào, tiểu tăng nhất quyết không ghé mắt qua, lập tức gói chặt đem tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh hỏa hóa để hoàn thành tâm nguyện, sau đó sẽ cung kính tiễn công tử trở về Đại Lý.”

Ý này khi Cưu Ma Trí vừa mới bước chân vào chùa Thiên Long đã nói, lúc đó bọn Bản Nhân cũng đã toan bằng lòng, cả Đoàn Dự cũng thấy xuôi tai. Thế nhưng về sau Cưu Ma Trí đánh lén Bảo Định Đế, rồi lại bắt giữ mình, ra tay chẳng có gì quang minh chính đại, khi trốn tránh truy binh thì đủ các ngụy kế, đối với sự sinh tử an nguy của chín tên bộ thuộc hoàn toàn không coi vào đâu, bao nhiêu tàn ác gian trá đã lộ cả ra rồi, Đoàn Dự làm sao mà tin nổi? Chàng trong bụng đã nghĩ bọn Nam Hải Ngạc Thần kia xưng là Tứ Đại Ác Nhân mà xem ra phẩm cách còn hơn xa gã hòa thượng Thổ Phồn đội lốt “thánh tăng” này. Chàng tuy chưa từng trải việc đời nhưng hơn hai chục ngày qua đã suy nghĩ việc này tới nơi tới chốn, bèn đáp: “Cưu Ma Trí đại sư, lời nói của ông không đánh lừa được ta đâu”

Cưu Ma Trí chắp tay nói: “A Di Đà Phật, việc này là do tiểu tăng muốn thử tín một lời năm xưa đã hứa với Mộ Dung tiên sinh, không lẽ giữ lời hứa này lại bỏ lời hứa kia hay sao?” Đoàn Dự lắc đầu nói: “Ông bảo năm xưa hứa với Mộ Dung tiên sinh, thật hay giả nào ai biết được? Ông được đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm rồi thể nào chả đọc kỹ một lần, có thật đem đốt trước mồ Mộ Dung tiên sinh không ai mà biết? Dẫu có phần hóa thật chăng nữa, người thông minh tài trí như thánh tăng, đọc đi đọc lại vài lần không lẽ không nhớ được hay sao? Có khi còn sợ nhớ sai, đem sao lại một bản rồi mới đốt không chừng.”

Cưu Ma Trí hai mắt lóe lên, hầm hầm nhìn Đoàn Dự; nhưng chỉ trong giây lát, sắc mặt trở lại từ hòa, chậm rãi nói: “Công tử với tiểu tăng đều là đệ tử Phật môn, lẽ nào lại dối trá như thế, tội nghiệt, tội nghiệt! Bất đắc dĩ mà tiểu tăng đành phải ép buộc, âu cũng chỉ vì muốn cứu mạng công tử, xin đừng trách.” Nói xong lão đưa tay trái ra, nhẹ nhàng để lên ngực Đoàn Dự nói: “Khi nào công tử không còn chịu nổi, bằng lòng chép lại kinh này, chỉ cần gật đầu một cái tiểu tăng sẽ buông tay ngay.”

Đoàn Dự gượng cười đáp: “Ta không chép kinh, ngươi sẽ không giết ta. Còn như nếu ta chép kinh cho ngươi, lúc đó đời nào người để cho ta sống nữa? Ta chép kinh có khác gì tự sát? Cưu Ma Trí đại sư, cái chỗ đó mười ba ngày trước ta đã nghĩ đến rồi.”

Cưu Ma Trí thở dài một tiếng, niệm: “Ngã Phật từ bi!” Y nhả kình lực nơi bàn tay, nghĩ thầm luồng lực đạo này truyền vào huyệt Đản Trung thì toàn thân Đoàn Dự như có kiến cắn, khổ sở khổ mà chịu nổi. Gã là công tử quen được nuông chiều, miệng thì nói cứng nhưng nếu bị hành hạ chết đi sống lại tất phải chịu thua. Ngờ đâu kình lực vừa nhả ra, lập tức biến đi đâu mất không thấy tăm hơi. Y kinh hãi lập tức thúc đẩy mạnh thêm, lần này nội lực mất mát còn nhanh hơn, tiếp theo chân khí trong người cuồn cuộn đổ ra. Cưu Ma Trí hết hồn, tay phải đẩy mạnh lên vai Đoàn Dự. Chàng “A” lên một tiếng, ngã lăn ra giường, đầu đụng mạnh vào tường.

Cưu Ma Trí vốn đã nghi Đoàn Dự học Hóa Công Đại Pháp của Tinh Tú lão quái, nhưng dù chính lão quái nếu đã bị phong tỏa yếu huyệt cũng không thể thi triển võ công được. Đằng này y vừa phát kình thì nội lực của mình liền tuôn vào huyệt Đản Trung của đối phương. Hiện tượng này chẳng khác nào hôm trước toàn thân Đoàn Dự không cử động gì được, há hốc mồm để cho con Mãng Cổ Chu Cáp chui tọt vào trong bụng, huyệt đạo trên thân thể bị đóng và Bắc Minh thần công không liên can gì đến nhau.

Đoàn Dự rên rỉ ngồi dậy hậm hực nói: “Uống cho ngươi tự xưng mình là cao tăng, cao tăng gì mà vừa ra tay đã đánh người?” Cưu Ma Trí gằn giọng: “Môn Hóa Công Đại Pháp của người do ai truyền thụ?” Đoàn Dự lắc đầu: “Hóa Công Đại Pháp tàn bạo đối với cả trời lẫn vật, khác nào đem nghìn vàng vứt dưới đất, coi vật quí giá không ra gì, chẳng nực cười ru? Ha ha?”. Mấy câu này là chàng dẫn trong quyển trục lấy được trong thạch động.

Cưu Ma Trí không hiểu ý tứ ra sao nhưng không dám đụng tới người chàng nữa. Trước đây y điểm các huyệt Thần Phong, Đại Chùy, Huyền Khu, Kinh Môn của chàng nào có thấy gì đâu, mà đây điểm huyệt Đản Trung lại phát sinh quái sự. Thằng lỏi này võ công thật là quái dị, không thể nào hiểu nổi, chắc môn công phu này từ Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm biến hóa ra, có điều chỉ mới học được chút vỏ ngoài nên không biết sử dụng. Nếu thực như thế thì võ học họ Đoàn Đại Lý càng đáng thèm thuồng hơn. Y đột nhiên giơ chưởng lên, sử một chiêu Hỏa Diệm Đao cách không, chém đứt một mảnh chiếc khăn thư sinh trên đầu Đoàn Dự, quát lớn: “Ngươi không viết thật chăng? Ngọn đao này ta chỉ cần chém thấp xuống nửa thước thì đầu ngươi có còn không?”

Đoàn Dự sợ lắm, nghĩ bụng nếu như y nổi trận lôi đình thật, lại móc một con mắt hay chặt một cánh tay mình thì biết làm sao đây? Trên đường đi chàng đã suy tính rất nhiều nên mấy câu nghĩ sẵn lập tức bật ra: “Nếu như ta bị bức bách quá đỗi thì sẽ viết bậy viết bạ, không đúng hẳn. Nếu như người làm hại đến thân thể ta, ta sẽ hận ngươi thấu xương, khi viết kiếm phổ sẽ thêm thắt đủ thứ. Nếu kiếm phổ ta chép mà ngươi niêm phong ngay không nhìn đến, đem đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh phần hóa, dù đúng dù sai cũng không liên quan gì đến ngươi. Ta có viết lăng nhăng thì cũng là đánh lừa vong hồn Mộ Dung tiên sinh thôi, y ở cõi âm rủi như luyện trật chắc cũng không đến nỗi tẩu hỏa nhập ma, đâu có trách nhà ngươi được.” Nói xong chàng làm bộ đi đến trước bàn, lấy giấy bút ra định viết.

Cưu Ma Trí giận lắm, mấy câu của Đoàn Dự vạch hết ý đồ đánh lừa để lấy kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm của y, đồng thời cũng nói rõ ràng nếu y bức bách quá, kiếm phổ viết ra sẽ thiếu đầu thiếu đuôi, lại nhiều đoạn láo lếu thì phỏng có ích gì, đọc vào chỉ thêm có hại. Y ở chùa Thiên Long đấu kiếm hai lần, chiêu thức Lục Mạch Thần Kiếm giả thật thế nào y nhìn là biết ngay. Thế nhưng yếu chỉ của lộ kiếm pháp đó là ở nội lực, khó mà phân biệt được. Y thẹn quá hóa giận, nổi điên chém ra một đòn Hỏa Diệm Đao, nghe loẹt một tiếng nhỏ, cây bút Đoàn Dự cầm trong tay bị chặt đứt đôi.

Đoàn Dự còn đang cười sằng sặc, Cưu Ma Trí bèn quát lớn: “Tặc tiểu tử, Phật gia có lòng tốt định tha mạng cho ngươi, ngươi vẫn chấp mê không tỉnh ngộ. Để ta xách ngươi tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh thiêu sống, kiếm phổ ngươi nhớ trong bụng có giả được hay chăng?” Đoàn Dự cười đáp: “Tới khi sắp chết ta sẽ cố ý nhớ sai mấy chiêu kiếm pháp. Đúng, ta cứ thế mà làm, từ giờ trở đi ta quyết nhớ sai, càng nhớ càng sai, đến khi nào chính ta cũng chẳng còn biết mình là ai.”

Cưu Ma Trí hầm hầm trừng mắt nhìn chàng, ánh mắt tóe lửa, hận không thể dùng môn Hỏa Diệm vô hình đao chém đứt cổ tên tiểu tử này cho xong. Từ đó hai người chỉ đi về hướng đông, đến hơn hai chục ngày, Đoàn Dự nghe thấy tiếng người nói trên đường đi bắt đầu thánh thót dịu dàng, gia vị trong các món ăn cũng ít cay hơn.

Hôm đó đến ngoài thành Tô Châu, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Có lẽ sắp đến nơi an nghỉ của Mộ Dung Bác rồi. Phiên tăng không ép ta chép kiếm phổ được, chắc thế nào cũng giết mình. Nhưng biết đâu trước mồ của Mộ Dung Bác, trước khi giết ta y lại chẳng hành hạ một chập khiến cho ta sống dở chết dở, y làm gì mà chẳng được”. Chàng thấy chạnh lòng không dám nghĩ thêm, ngẩng đầu lên ngắm phong cảnh. Tiết trời đang độ tháng ba, ngõ hạnh đầy hoa, ven hồ liễu rủ, gió xuân phơi phới thổi nhẹ bên mình khiến cho người chàng như say sưa ngây ngất, Đoàn Dự bất giác trong lòng sảng khoái, cất tiếng ngâm: “Sóng gợn gợn, Liễu lơ thơ, Hương cỏ xa đưa lại, Chiều xuống hoa bay mờ.” (Ba diểu diểu, Liễu y y, Cô thôn phương thảo viễn, Tủ nhật hạnh hoa phi.)

Cưu Ma Trí cười lạt nói: “Chết đến gáy mà mi vẫn còn ngâm thơ vịnh phú nhàn nhã thế ư?” Đoàn Dự cười đáp: “Sắc thân vốn là vô thường, đã còn là vô thường tức là còn khổ. Thiên hạ có ai mà không chết. Mi sống thêm mấy năm nữa có hơn ta được cái gì không?”

Cưu Ma Trí không thèm nói nữa, quay ra hỏi thăm những người qua đường Tham Hợp trang ở đâu. Thế nhưng y hỏi liên tiếp bảy tám người chẳng một ai biết cả. Hai bên ngôn ngữ bất đồng nên lại càng thêm rắc rối. Mãi sau mới có một ông già bảo: “Trong ngoài thành Tô Châu, chẳng có trang viện nào tên là Tham Hợp Trang cả. Có lẽ hòa thượng nghe lầm chăng?”

Cưu Ma Trí nói: “Lão trượng có biết Mộ Dung đại trang chúa ở đâu không?” Ông già đáp: “Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Thẩm, họ Trương, họ Chu, họ Văn… làm gì có đại trang chúa họ Mộ Dung? Tôi chưa nghe thấy bao giờ.”

Cưu Ma Trí chưa biết tính sao, bỗng nghe từ một con đường nhỏ phía tây có người nói: “Nghe nói họ Mộ Dung ngụ ở ngoài thành, đi về phía tây chừng 30 dặm, chỗ đó gọi là Yến Tử Ổ. Chúng ta tới đó xem sao.” Lại nghe một người khác nói: “Này, sắp đến nơi rồi. Ta phải cẩn thận mới được.”, giọng nói vùng trung châu Hà Nam. Hai người đó nói rất khẽ nhưng Cưu Ma Trí nội công rất cao nên nghe rõ mồn một, trong bụng tính thầm: “Phải chăng hai người này chủ tâm nói cho ta nghe? Nếu không thì sao lại trùng hợp đến thế?”. Y liếc mắt ngó qua, thấy một người khí vũ hiên ngang, vận đồ tang phục, còn một người vừa thấp lủn thủn vừa gầy đét chẳng khác gì bị ho lao.

Cưu Ma Trí vừa liếc qua biết ngay hai người này có võ công, chưa biết có nên bắt chuyện không. Bỗng Đoàn Dự lên tiếng gọi to: “Hoắc tiên sinh, Hoắc tiên sinh, ông cũng ở đây à?” Thì ra người thấp lủn thủn đó chính là Kim toán bàn Thôi Bách Tuyền, còn người kia là sư điệt ông Truy hồn thủ Quá Ngạn Chi.

Hai người đó từ Đại Lý ra đi, quyết tâm báo thù cho Kha Bách Tuế. Mặc dù họ biết rõ khó có thể địch lại nhà Mộ Dung, mối thù không đội trời chung vị tất đã trả được, nhưng cũng nhất quyết tìm đến Tô Châu. Họ dò hỏi biết được họ Mộ Dung ở tại Yến Tử Ổ nhưng Mộ Dung Bác tạ thế đã lâu, làm sao có thể sát hại Kha Bách Tuế được, hẳn là một người nào khác trong nhà Mộ Dung. Hai người thấy việc báo cừu xem ra sáng sủa hơn, đi đến bờ hồ lại gặp Cưu Ma Trí và Đoàn Dự.

Thôi Bách Tuyền chợt nghe tiếng Đoàn Dự gọi rất đỗi ngạc nhiên, vội vàng đi tới, thấy một nhà sư ngồi trên lưng ngựa, tay trái nắm dây cương con ngựa Đoàn Dự đang cưỡi, còn Đoàn Dự thì hai tay thẳng đơ xuôi theo bên mình, hiển nhiên đã bị điểm huyệt, lạ lùng hỏi: “Tiểu vương gia đấy ư? Này, đại hòa thượng, sao ông lại làm khó vị công tử này? Ông có biết đây là ai không?”

Thực ra Cưu Ma Trí chẳng coi hai người vào đâu nhưng lão đã biết khó lòng tìm ra chỗ ở của Mộ Dung tiên sinh từ lúc chưa đến Trung Nguyên. Nay có bọn này dẫn lối cho kể cũng là may, bèn nói: “Ta cũng đến chỗ Mộ Dung tiên sinh đây. Phiền hai vị dẫn đường cho!”

Thôi Bách Tuyền hỏi: “Xin hỏi pháp danh của đại hòa thượng là gì? Sao lại làm khó dễ Đoàn tiểu vương gia? Đến phủ Mộ Dung có việc gì?” Cưu Ma Trí đáp: “Tới đó tự khắc sẽ biết.” Thôi Bách Tuyền lại hỏi: “Phải chăng đại sư là chỗ bạn thân với nhà Mộ Dung?”

Cưu Ma Trí đáp: “Đúng thế, Mộ Dung tiên sinh ở Tham Hợp trang, không biết đi về ngả nào? Hoắc tiên sinh có biết thì chỉ giùm cho!” Cưu Ma Trí thấy Đoàn Dự gọi y là “Hoắc tiên sinh” cũng tưởng y họ Hoắc thật. Thôi Bách Tuyền gãi đầu, quay sang Đoàn Dự hỏi: “Tiểu vương gia, để tôi giải khai huyệt đạo trên tay tiểu vương gia rồi tính sau.” Y tiến lên mấy bước, đưa tay định giải huyệt cho Đoàn Dự.

Đoàn Dự nghĩ thầm “Cưu Ma Trí võ công ghê gớm, trên đời này sợ là không ai địch nổi. Bọn Thôi, Quá tất nhiên so với lão không thấm vào đâu. Nếu hai người này lại lớ ngớ đến cứu mình thì chẳng những không ăn thua gì mà chết uống thêm hai mạng”. Chàng muốn họ biết đường chạy trốn bèn nói: “Khoan đã, vị đại sư đây một thân một mình đánh bại bá phụ ta và năm tay cao thủ nước Đại Lý, bắt ta đem tới đây. Đại sư là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh, nay đưa ta đến hỏa thiêu trước mồ Mộ Dung tiên sinh để tế vong hồn người quá cố. Hai vị không liên quan gì đến Mộ Dung Cô Tô, mau mau tránh ra nơi khác.”

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nghe lão đại sư này đánh bại Bảo Định Đế cùng mấy cao thủ nước Đại Lý quả nhiên chột dạ, khi nghe lão là bạn với nhà Mộ Dung thì lại càng khiếp sợ. Nhưng Thôi Bách Tuyền nghĩ mình ẩn náu trong phủ Trấn Nam Vương hơn một chục năm, hôm nay tiểu vương gia bị nạn lẽ nào làm lơ không ngó ngàng đến? Vả lại đã đến Cô Tô rồi, cái mạng mình coi như đã xong, dẫu chết dưới những quân bàn toán cho đúng kiểu Mộ Dung, hay chết trong tay người khác thì có khác gì nhau. Nghĩ vậy Thôi liền thò tay vào bọc lấy ra một cái bàn tính đúc bằng hoàng kim sáng rực, giơ cao lên, lắc kêu loảng xoảng rồi bảo Cưu Ma Trí: “Đại hòa thượng, nếu Mộ Dung tiên sinh là bạn của ông thì tiểu vương gia đây cũng là bạn của ta, ta khuyên ông nên thả y ra đi.” Quá Ngạn Chi cũng lấy nhuyễn tiên quấn ở quanh bụng ra cầm trên tay, hai người cùng xông vào đầu ngựa của Cưu Ma Trí.

Đoàn Dự kêu lên: “Hai vị chạy mau lên, đánh không lại y đâu.”

Cưu Ma Trí cười nhạt nói: “Muốn động thủ thực chăng?” Thôi Bách Tuyền đáp: “Đánh thế này ta biết là vuốt râu hùm, đánh không lại thực nhưng cũng thử một phen, sinh tử… ối ối….”

Chẳng biết y định nói “sinh tử” cái gì, Cưu Ma Trí đã vươn tay giật được nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi, kế đó nghe vù một tiếng, hất ngược nhuyễn tiên lại cuốn lấy chiếc bàn toàn trong tay Thôi Bách Tuyền, vung tay một cái. Hai món binh khí cùng bay tung ra mặt hồ, tưởng đâu sẽ chìm xuống đáy nước. Không ngờ Cưu Ma Trí sử kình xảo diệu, cán của nhuyễn tiên vòng một vòng, quấn luôn vào một cành liễu rủ trên mặt nước, cả cành cây lẫn nhuyễn tiên run rẩy không ngừng. Chiếc bàn toán nhấp nhô chạm lên mặt nước thành những vòng tròn lan mỗi lúc một rộng.

Cưu Ma Trí chắp tay nói: “Phiền đại giá hai vị dẫn đường cho!” Thôi, Quá hai người ngơ ngác nhìn nhau, không biết làm thế nào. Cưu Ma Trí lại nói tiếp: “Nếu hai vị không dẫn đường thì xin chỉ cho biết Yến Tử Ổ, Tham Hợp Trang đi về ngả nào, đường lối ra sao, để tiểu tăng tự mình tìm tới cũng được.” Thôi Quá thấy võ công y vô cùng lợi hại mà vẻ mặt lại hết sức khiêm hòa, quả thực có muốn nổi giận cũng không xong mà không nổi giận thì lại càng không được.

Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng rạt rào, trên mặt hồ nước biếc một con thuyền nhỏ đang rẽ nước lướt tới. Trên thuyền một thiếu nữ áo xanh cầm đôi mái chèo khuấy nước, miệng hát véo von bài hát hái sen, tiếng hát thánh thót dịu dàng khiến người nghe phải vui lây.

Đoàn Dự khi ở Đại Lý từng đọc văn chương thơ phú của cổ nhân tán tụng phong cảnh nhân vật Giang Nam. Nay chàng được nghe khúc hát này tâm hồn bất giác lâng lâng như lạc vào cõi mộng. Chỉ thấy cô gái kia hai cánh tay nhỏ nhắn trắng muốt như ngọc, phản chiếu xuống hồ nước xanh biếc tưởng chừng như sáng lóe lên. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi tuy đại địch trước mặt mà cũng không khỏi đưa mắt nhìn cô gái mấy lần.

Chỉ có Cưu Ma Trí nhìn mà như không vào mắt, nghe mà như không lọt tai, hỏi tiếp: “Nếu hai vị không chịu chỉ Tham Hợp trang cho thì tiểu tăng đành phải cáo từ.”

Lúc đó thiếu nữ đã chèo thuyền đến gần bờ. Nàng nghe Cưu Ma Trí nói vậy liền cất tiếng: “Chẳng hay đại sư phụ muốn đến Tham Hợp trang có việc gì?” Giọng nàng cực kỳ thanh tao êm ái khiến ai nghe cũng thấy lọt tai. Cô gái đó tuổi chừng mười sáu mười bảy, nét mặt ôn nhu, thân hình thanh tú.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không ngờ con gái Giang Nam lại xinh đẹp văn nhã đến thế”. Thực ra cô gái này không đẹp lắm, so với Mộc Uyển Thanh còn kém một chút, thế nhưng mặt mũi được tám phần còn vẻ ôn nhu đến mười hai phần bù lại, nên so với những mỹ nhân mười phần xinh đẹp cũng không thua kém chút nào.

Cưu Ma Trí hỏi: “Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp Trang, liệu tiểu nương tử có thể chỉ đường cho được chăng?” Thiếu nữ mỉm cười hỏi lại: “Cái tên Tham Hợp trang người ngoài không ai biết đến. Đại sư nghe đâu mà biết?” Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu tăng là bạn phương xa với Mộ Dung tiên sinh. Hôm nay đến tế mộ tiên sinh cho vẹn lời ước năm xưa, lại cũng mong được chiêm ngưỡng Mộ Dung công tử một lần.” Cô gái ngẫm nghĩ rồi đáp: “Thế thì quả là không may. Hôm kia Mộ Dung công tử mới ra đi. Giả tỷ đại sư đến đây trước ba hôm thì gặp được.” Cưu Ma Trí nói: “Tiểu tăng vô duyên cùng công tử, nghĩ cũng đáng buồn. Song tiểu tăng từ Thổ Phồn đường xa muôn dặm lặn lội về đến Trung Nguyên, chỉ mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy hoàn thành tâm nguyện năm xưa.” Thiếu nữ đáp: “Nếu đại sư là bạn của Mộ Dung tiên sinh thì xin mời vào dùng trà, tiểu nữ sẽ vào báo tin, có nên chăng? Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Xưng hô sao cho phải phép?”.

Cô gái cười khúc khích nói: “Ôi chao! Tiểu nữ chỉ là người gảy đàn thổi sáo hầu hạ công tử, tên gọi A Bích. Xin đại sư đừng khách sáo kêu bằng đại nương tử tiểu nương tử chi hết, cứ gọi thẳng tên A Bích là được rồi.” Nàng nói giọng Tô Châu vốn dĩ khó nghe, thế nhưng là thị tì trong một đại thế gia chắc bình thời nghe tiếng quan thoại cũng nhiều, nên có xen nhiều tiếng phổ thông. Cưu Ma Trí và Đoàn Dự cố gắng cũng hiểu được. Cưu Ma Trí cung kính đáp: “Không dám.”

A Bích nói: “Từ đây vào Cầm Vận Tiểu Trúc trong Yến Tử Ổ toàn là đường thủy. Quý vị muốn vào thì xuống thuyền để tiểu nữ chở đi, có nên chăng?” Mỗi câu nói cô gái lại thêm vào “có nên chăng?”, vừa có vẻ ân cần hỏi han, lại như bàn thảo khiến cho người nghe khó mà từ chối.

Cưu Ma Trí đáp: “Thế thì xin phiền cô nương.” Y nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống, chiếc thuyền nhỏ chỉ đằm xuống một chút chứ không tròng trành chút nào. A Bích nhìn Cưu Ma Trí và Đoàn Dự mỉm cười tựa hồ thán phục võ công của hai người.

Quá Ngạn Chi khẽ hỏi Thôi Bách Tuyền: “Sư thúc, mình tính sao đây?” Hai người cốt tìm đến nhà Mộ Dung để báo thù nhưng chưa tới nơi đã xảy ra mấy vụ khó xử, vẫn còn nơm nớp.

A Bích tươi cười nói: “Hai vị đại gia đã đến Tô Châu, nếu không có việc gì gấp xin mời vào tệ xá uống chén trà nhạt, ăn chút điểm tâm. Chiếc thuyền này tuy nhỏ, nhưng thêm vài người nữa cũng không chìm đâu mà sợ.” Nàng vừa nói vừa ghé thuyền vào bên cây liễu, giơ bàn tay xinh xắn ra với lấy cây nhuyễn tiên cùng chiếc bàn toán, tiện tay nàng gẩy bàn tính nghe lách cách,

Đoàn Dự nghe vui tai buột miệng hỏi: “Cô gẩy khúc Hái dâu phải không?” Thì ra cô gái thuận tay gẩy mấy viên bàn toán, nặng nhẹ nhanh chậm cũng thành tiết tấu, nghe ra hai câu linh động trong bài “Hái dâu”. A Bích mỉm cười nói: “Công tử tinh thông âm luật, vậy đàn thử một khúc xem sao?” Đoàn Dự thấy nàng ngây thơ hồn nhiên, vui vẻ dễ thân cận cũng cười đáp: “Tôi không biết gẩy đàn bằng bàn toán.” Rồi chàng quay lại bảo Thôi Bách Tuyền: “Hoắc tiên sinh! Cái bàn toán của tiên sinh mà cô nương đây gẩy nghe cũng vui tai đấy chứ?” Thôi Bách Tuyền cũng bật cười: “Quả đúng thế! Cô nương thực là người tao nhã. Cái món đồ chơi đầy tục khí của ta vào tay cô nương lại thành ra nhạc khí được.” A Bích đáp: “Chao ôi! Quả là không phải chút nào. Cái này của Hoắc đại gia đấy sao? Chắc tiên sinh giàu có lắm, cái bàn toán cũng đúc bằng vàng. Hoắc đại gia, xin trả lại ông đây.” Nàng vừa nói vừa cầm cái bàn toán giơ lên. Thôi Bách Tuyền đứng trên bờ không với tới, y cũng không thể bỏ món vật bất ly thân, bèn nhẹ nhàng nhảy lên đầu thuyền, đưa tay ra với lấy rồi quay đầu lại trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí một cái. Cưu Ma Tri vẻ mặt vẫn đầy vẻ từ hòa, mỉm cười tuyệt không lộ vẻ gì khó chịu.

A Bích tay trái cầm cán cây nhuyễn tiên giơ lên cao, năm ngón tay phải vuốt xuôi xuống, móng tay chạm vào những đốt nổi gồ lên phát ra những tiếng tinh tang khi cao khi thấp chẳng khác gì người gảy đàn tì bà. Món binh khí đã từng ngang dọc đại giang nam bắc, chiến đấu với biết bao anh hùng hắc bạch, nay vào bàn tay trắng trẻo mềm mại của nàng lại biến thành nhạc khí.

Đoàn Dự lại reo lên: “Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Cô nương gảy khúc nữa đi!” A Bích quay sang Quá Ngạn Chi nói: “Cây nhuyễn tiên của đại gia phải không? Tiểu nữ đem ra nghịch thực vô lễ quá. Đại gia cũng xuống thuyền đi, rồi tiểu nữ bóc cho mấy củ hồng lăng tạ lỗi.” Quá Ngạn Chi nóng lòng báo cừu cho sự phụ, căm thù bè lũ nhà Mộ Dung thấu xương nhưng thấy tiểu cô nương này xinh tươi, chất phác, không có vẻ gì là nham hiểm độc ác nên tuy thù hằn đầy ruột mà không thể phát cáu. Ý nghĩ thầm: “Thị dẫn ta về nhà thật hay biết mấy, thể nào mình cũng giết được vài đứa tạm báo thù cho ân sư.” Nghĩ thế bèn gật đầu nhảy xuống thuyền.

A Bích quấn cây nhuyễn tiên lại đưa cho Quá Ngạn Chi, đoạn thả mái chèo xuống nước, quay thuyền bơi về hướng tây. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau mấy lần. Hai người cùng nghĩ bụng: “Hôm nay mình vào hang cọp, không biết sống chết thế nào. Bọn Mộ Dung thủ đoạn ác độc vô cùng. Tiểu cô nương này nhỏ nhẹ dễ thương, xem ra không phải là giả dối, nhưng biết đâu chẳng phải là kế của họ dụ cho mình phóng tâm không đề phòng rồi thừa cơ hạ thủ?”.

Thuyền đi vòng vèo vài khúc quanh thì đến cái hồ lớn rộng bát ngát, mông mênh những nước cùng trời. Quá Ngạn Chi chột dạ nghĩ thầm: “Chắc là Thái Hồ đây. Ta và Thôi sư thúc đều không biết bơi, con bé này chỉ cần lật thuyền một cái là cả hai người mình làm mồi cho cá, còn nói gì đến việc báo cừu cho sự phụ nữa?”. Thôi Bách Tuyền cũng đã nghĩ đến chuyện đó, bèn nảy ra một ý: “Giả tỷ mình cầm mái chèo trong tay thì ả này có muốn lật thuyền cũng không phải dễ”, liền nói: “Cô nương, để ta giúp cô chèo thuyền. Cô cứ chỉ đường cho ta là được. “ A Bích cười nói: “Trời ơi! Tiểu nữ đâu dám thế? Công tử mà biết được thể nào cũng trách phạt là khinh mạn tân khách.” Thôi Bách Tuyền thấy nàng từ chối lại càng ngờ vực, cười nói: “Chẳng giấu gì cô nương, chúng tôi chỉ muốn nghe thêm vài khúc Nhuyễn Tiên Cầm tuyệt kỹ nữa. Chúng tôi là người thô lỗ, không phải như Đoàn công tử đầy tinh thông cả cầm kỳ thư họa.”A Bích nhìn Đoàn Dự cười nói: “Tiểu nữ đàn có ra gì đâu, sao dám gọi là tuyệt kỹ? Đoàn công tử phong nhã như thế, nghe sẽ cười bằng thích, chả đàn đâu.”

Thôi Bách Tuyền lấy cây nhuyễn tiên trong tay Quá Ngạn Chi đưa cho A Bích, miệng bảo nàng gẩy đàn, tay đưa ra đón lấy mái chèo. A Bích cười nói: “Thôi được, tiên sinh cho tôi mượn cả cái bàn tính để đánh nhịp.” Thôi Bách Tuyền ngấm ngầm nghĩ bụng: “Thu cả hai món khí giới của bọn mình, hay là có âm mưu gì đây?”. Nghĩ thì nghĩ vậy chứ đã đến nước này không tiện từ khước, đành cầm kim toán bàn đưa cho nàng. A Bích để chiếc bàn toán lên sàn thuyền trước mặt. Tay trái nàng giữ lấy chuỗi nhuyễn tiên, chân phải dậm lên một đầu cho dựng thẳng lên, năm ngón tay phải vừa bật vừa vê đi vuốt lại, cây nhuyễn tiên phát ra tiếng leng keng, tuy không trong trẻo vang dội bằng tiếng đàn tỳ bà nhưng nghe cũng thành nhạc điệu.

Năm ngón tay của A Bích vừa gẩy nhuyễn tiên vừa thỉnh thoảng khẩy chiếc bàn toán, những hạt toán châu leng keng hòa với tiếng tình tang của nhuyễn tiên, nghe càng thêm thú vị. Giữa lúc đó đôi chim én lượn qua đầu thuyền, bay về hướng tây. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi nhà Mộ Dung ở có tên là Yến Tử Ổ, chắc hẳn chim én nhiều lắm”.

Lại nghe A Bích cất tiếng hát, âm điệu thật là ôn nhu tình tứ. Đoàn Dự nghe giọng hát du dương mà lòng những bâng khuâng như say như tỉnh. Chàng lẩm bẩm một mình: “Nếu mình suốt đời ở tận cõi thiên nam thì làm sao có được những giờ phút thần tiên như thế này? Mộ Dung công tử có người nữ tì như thế này tất không phải hạng tầm thường.”

A Bích hát xong một khúc rồi đưa bàn toàn và nhuyễn tiên trả lại cho Thôi Quá hai người, cười nói: “Hát chẳng ra gì, chỉ tổ làm trò cười cho quý khách. Hoắc đại gia, xin chèo vào con lạch nhỏ phía bên trái. Đúng rồi!”

Thôi Bách Tuyền thấy nàng trả lại binh khí cho mình mới thấy yên bụng, bèn lái mũi thuyền theo tay nàng trỏ, đi vào lạch nước đầy sen mọc. Nếu không có A Bích trỏ nẻo thì không ai ngờ giữa chỗ lá sen chi chít lại là lối thuyền đi. Thôi Bách Tuyền chèo một hồi, A Bích lại chỉ một con đường khác: “Bơi qua phía kia kìa.” Phía đó mặt nước đầy những cây và trái hồng lăng. Lẫn trong sóng biếc chập chờn, lăng đỏ lá xanh quả đẹp không thể tả. A Bích thuận tay hái hồng lăng chia cho mọi người.

Hai tay Đoàn Dự tuy vẫn cử động được nhưng sau khi huyệt đạo bị điểm rồi không có chút hơi sức nào, đến cái vỏ hồng lăng cũng không bóc được. A Bích cười nói: “Công tử không phải là người Giang Nam, không biết bóc vỏ hồng lăng, để tiểu nữ bóc cho.”

Nàng bóc luôn mấy trái đặt vào tay Đoàn Dự. Ruột loại quả này trắng bóng tinh khiết, Đoàn Dự cầm bỏ vào miệng ăn, vừa ngọt vừa thơm, chàng cười bảo A Bích: “Hồng lăng này ăn bùi mà không ngấy, ngọt ngào như khúc hát của cô nương.” A Bích hai má ửng hồng, cười nói: “Đa tạ công tử. Đem điệu hát ví với trái hồng lăng, nay tiểu nữ mới lần đầu nghe đến.”

Thuyền chưa qua khỏi lạch hồng lăng, A Bích lại chỉ đường vào một vùng có lau sậy rậm rạp. Cả đến Cưu Ma Trí cũng phải e dè, lưu tâm nhớ lấy nẻo đi, để đề phòng lúc về biết lối mà ra. Mọi người đưa mắt nhìn quanh thấy mặt hồ toàn là lá sen, lá lăng, lau sậy phất phơ trên mặt nước chỗ nào cũng giống chỗ nào. Hơn nữa chỉ một cơn gió là lá hoa trên mặt nước lại biến đổi đủ chiều, mất hết dấu vết, dù có nhở kỹ đến mấy thì chỉ chốc lát cục diện đã hoàn toàn khác hẳn. Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi ba người đều chăm chăm nhìn A Bích, xem nàng lấy gì làm mốc ghi đường, nhưng chỉ thấy nàng cứ điềm nhiên hái trái hồng lăng mà chẳng cần để ý gì. Thuyền đến chỗ quanh, chỗ rẽ là nàng thuận miệng chỉ bảo, tựa hồ những lối dọc ngang trên mặt hồ nàng rõ như lòng bàn tay, sinh ra đã biết.

Thuyền quay ngang rẽ dọc không biết bao nhiêu chỗ, vào khoảng giờ mùi thì xa xa giữa rặng liễu xanh om lộ ra một góc rèm cửa. A Bích nói: “Đến nơi rồi. Hôm nay làm nhọc sức Hoắc tiên sinh bơi thuyền đến quá nửa ngày.” Thôi Bách Tuyền cười gượng đáp: “Cứ có hồng lăng ăn, lại được nghe hát, dẫu có phải chèo thuyền mười năm tám năm cũng không mệt.” A Bích vỗ tay reo: “Tiên sinh muốn nghe hát, muốn ăn lăng thì có gì là khó? Cứ ở luôn trên hồ này không ra nữa là xong.” Thôi Bách Tuyền nghe cô ta bảo “không ra nữa là xong” bất giác giật mình, giương đôi mắt ti hí nhìn cô ta một hồi, chỉ thấy lúc nào nàng cũng tươi cười dễ dãi, không lộ vẻ tâm cơ xảo trá. Mặc dù vậy, Thôi vẫn không vững dạ chút nào.

A Bích đón lấy mái chèo, gạt thuyền vào dưới bóng liễu, đến chỗ có cành cây tùng rủ xuống mặt nước. Nàng vừa buộc thuyền xong, chợt nghe tiếng một con chim nhỏ hót líu lo, giọng rất trong trẻo và vang dội. A Bích cũng bắt chước giọng chim ríu rít vài tiếng rồi quay lại mỉm cười: “Xin mời quí khách lên bờ.”

Mọi người lên bờ, trông vào thấy lưa thưa có bốn năm gian nhà nhỏ, dựng trên một khu đất chẳng hiểu là một hòn đảo nhỏ hay bán đảo. Các phòng ốc tuy bé nhỏ nhưng rất tinh nhã, trên biển ngạch đề hai chữ “Cầm Vận”, nét bút tiêu sái. Cưu Ma Trí hỏi: “Phải chăng đây là Tham Hợp Trang trong Yến Tử Ổ?” A Bích lắc đầu đáp: “Không phải! Chỗ này công tử dựng lên cho tiểu nữ ở, chật hẹp quê mùa không đáng để tiếp khách. Đại sư bảo muốn đến tế mộ Mộ Dung lão gia, tiểu nữ đâu dám tác chủ, nên thỉnh quý vị vào đây ngồi chờ, để đi hỏi A Châu tỉ tỉ.”

Cưu Ma Trí có vẻ không bằng lòng, nét mặt sầm xuống. Lão là hộ quốc pháp vương nước Thổ Phồn, địa vị cao sang biết chừng nào. Không chỉ quốc vương nước Thổ Phồn đem lòng kính trọng, mà sang đến triều đình Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Tây Hạ, các vị vua chúa cũng phải lấy lễ thượng khách mà tiếp đãi lão. Huống chi lão là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh, vì tình nghĩa mà thân hành đến tế mộ. Mộ Dung công tử đi vắng không biết đã đành, còn những người ở nhà cũng không mời lão vào đại sảnh tiếp đãi long trọng, lại để cho đứa tiểu tỳ đưa vào nhà riêng, thực là khinh bạc. Thế nhưng y thấy A Bích luôn miệng tươi cười, tuyệt không tỏ vẻ khinh mạn nên nghĩ thầm: “Con tiểu a đầu này chẳng biết gì, mình để ý đến nó làm chi?”. Nghĩ vậy lão trở lại nét mặt ôn hòa vui tươi.

Thôi Bách Tuyền hỏi: “A Châu tỉ tỉ là ai thế?” A Bích cười đáp: “A Châu là A Châu, chị ấy lớn hơn tiểu nữ một tháng nên phải gọi bằng tỉ tỉ đấy thôi. Ai bảo chị ấy lớn hơn một tháng làm gì? Như tiên sinh thì cần gì phải gọi A Châu là tỉ tỉ, nhưng nếu cứ gọi bằng tỉ tỉ thì chị ta cùng thích lắm đó.” Cô vừa dẫn mọi người vào nhà vừa nói liến láu một hồi, giọng nói trong trẻo như người tấu nhạc.

Vào đến nội sảnh, A Bích mời mọi người ngồi sau đó có người đầy tớ bưng trà lên. Đoàn Dự vừa cầm chén trà thì một mùi thơm ngát đưa lên mũi, nước trà màu xanh nhạt, cánh trà xanh biếc, nhỏ như hạt châu, trên mặt lá có lông nhỏ li ti. Thứ trà này chàng chưa thấy bao giờ. Chàng vừa nhập thử một hớp, miệng đượm mùi thơm, lưỡi đầy vị ngọt, Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người thấy lá trà kỳ dị không dám uống. Loại trà tròn như hạt châu này là đặc sản trồng trên vùng núi cao phụ cận Thái Hồ, người sau gọi là Bích Loa Xuân. Đời Bắc Tống chưa có cái tên thanh nhã đó, dân vùng này chỉ gọi là “trà thơm phức” để ca tụng mùi hương đặc biệt. Cưu Ma Trí xưa nay chỉ ở Thổ Phồn và Tây Vực, quen uống trà sắc đen vị chát, giờ thấy thứ trà sắc xanh biếc, có lông ngờ là có chất độc.

Bốn món điểm tâm gồm có kẹo Mai Côi, bánh dẻo Phục Linh, bánh ngọt Phí Thúy, bánh bao bột hạt sen, cái nào cái nấy hình dáng tinh nhã tựa hồ như làm để bày cho đẹp chứ không phải để ăn. Đoàn Dự tấm tắc: “Mấy món điểm tâm trông đẹp thế này chắc là ngon lắm, nhưng thật chẳng nỡ lòng nào mà bỏ vào mồm.” A Bích mỉm cười nói: “Mời công tử dùng đi, trong nhà hãy còn nhiều.” Đoàn Dự án đến đâu lại trầm trồ khen ngợi đến đó, còn Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người không dám ăn. Đoàn Dự thấy vậy trong lòng sinh nghi tự hỏi: “Gã Cưu Ma Trí này tự xưng là bạn thân của Mộ Dung Bác, sao lại dè dặt đến thế? Còn người trong nhà Mộ Dung đối đãi với y tựa hồ không có vẻ trịnh trọng là nghĩa gì?”

Cưu Ma Trí thật là người rất nhẫn nại, lão đợi Đoàn Dự uống trà và ăn điểm tâm đủ thứ mất đến nửa ngày, mới cất tiếng nói: “Bây giờ xin cô nương đi mời A Châu tỉ tỉ của cô đến cho!” A Bích cười nói: “Chỗ A Châu tỉ tỉ cách đây bốn quãng chín đường thủy, hôm nay đi không kịp nữa rồi. Bốn vị hãy ở đây một đêm, sáng mai tiểu nữ sẽ đưa các vị đến Thính Hương Thủy Tạ.” Thôi Bách Tuyền hỏi lại: “Bốn quãng chín đường thủy là nghĩa làm sao?” A Bích đáp: “Một quãng chín là chín dặm, hai quãng chín là mười tám dặm, bốn quãng chín là ba mươi sáu dặm. Ông lấy bàn toán ra tính là xong ngay.” Thì ra Giang Nam tỉnh lộ trình từng chín dặm một.

Cưu Ma Trí nói: “Giá biết thế này thì cô nương đưa chúng tôi đến thẳng Thính Hương Thủy Tạ có phải hay hơn không?” A Bích cười nói: “Tiểu nữ ở đây một mình không có ai trò chuyện, buồn chết đi được. Chẳng mấy khi có khách đến chơi, thế nào cũng lưu quý vị ở lại đây một hôm.”

Từ trước tới giờ Quá Ngạn Chi chỉ ngồi lầm lì không nói một câu, đột nhiên đứng phắt dậy, quát hỏi: “Thân nhân nhà Mộ Dung ở nơi nào? Quá Ngạn Chi này đến Tham Hợp Trang không phải để uống trà ăn bánh, cũng chẳng phải đến kể chuyện vui cho người nghe giải buồn, mà là đến giết người báo thù, đổ máu cùng gây án mạng. Họ Quá này đã đến nơi đây, không mong gì sống được mà ra về. Cô nương đi bảo cho chúng hay, ta là đệ tử của Kha Bách Tuế phái Phục Ngưu, hôm nay đến đây đòi món nợ máu của sư phụ.” Nói xong y vung nhuyễn tiên nghe lách cách, đánh vỡ tan một chiếc kỷ trà bằng gỗ đàn hương cùng một cái ghế bằng trúc Tương Phi. A Bích không sợ hãi mà cũng chẳng tức giận, chỉ nói: “Các vị anh hùng hào kiệt đến chơi với Mộ Dung công tử mỗi tháng mấy lần, cũng đã nhiều vị hùng hùng hổ hổ như Quá đại gia đây. Thân phận tiện tì như tiểu nữ có gì phải sợ…” Nàng chưa nói dứt câu, từ hậu đường một ông già đầu tóc bạc phơ chống gậy bước ra hỏi: “A Bích! Ai làm gì mà ầm lên thế?” Người đó nói tiếng quan thoại, ngữ âm thật là đúng giọng.

Thôi Bách Tuyền nhảy vọt ra đứng bên cạnh Quá Ngạn Chi, quát hỏi: “Sư huynh ta là Kha Bách Tuế bị ai sát hại? Nói mau!” Đoàn Dự thấy ông già kia thân hình lọm khọm, mặt mũi nhăn nheo, không đến chín mươi thì cũng phải tám chục tuổi. Ông ta lẩm bẩm: “Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế? Đã thọ đến bách tuế thì chết còn kêu ca gì nữa?”

Quá Ngạn Chi đến Tô Châu chỉ tính chuyện tới nhà Mộ Dung chém giết một phen phi chí báo thù cho ân sư, nào ngờ gặp phải Cưu Ma Trí bị đoạt khí giới mất hết nhuệ khí, đang bực mình thì lại gặp cô gái hiền hòa khả ái A Bích, bao nhiêu thù oán không phát tiết vào đâu được. Bây giờ y vừa nghe lão già ăn nói vô lễ liền vung roi nhằm hậu tâm lão quất xuống. Y sợ Cưu Ma Trí ra tay can thiệp nên thấy Cưu ngôi phía tây liền hất ngọn roi về phía đông.

Nào ngờ Cưu Ma Trí vươn tay ra, bàn tay lão tựa hồ như có sức hút, nhuyễn tiên ở tận đằng xa cũng chộp ngay được, nói: “Quá đại hiệp! Chúng ta là khách phương xa đến, lấy lời lẽ dàn xếp là hơn, hà tất phải dùng đến võ lực?” Đoạn lão cuộn cây nhuyễn tiên lại, trao trả cho Quá Ngạn Chi.

Quá Ngạn Chi mặt đỏ gay, cầm cũng dở mà không cầm thì cũng không được, sau cùng nghĩ bụng: “Hôm nay chuyện báo thù mới là chuyện lớn, phải nén cái nhục nhất thời để có binh khí cầm trong tay”. Ý nghĩ thế bèn đưa tay ra đón lấy cây roi.

Cưu Ma Trí hỏi lão già: “Tôn tính đại danh thí chủ là gì? Là người thân thích hay bạn hữu với Mộ Dung tiên sinh?” Lão già toét miệng ra cười đáp: “Già này là lão bộc của công tử Mộ Dung, làm gì có tôn tánh đại danh? Già nghe nói đại sư là bạn thân với cố chủ nhân, không biết có điều chi dạy bảo?” Cưu Ma Trí đáp: “Bần tăng cần gặp Mộ Dung công tử rồi sẽ trình bày.” Ông già đáp: “Thế thì không may rồi! Công tử tôi mới ra đi hôm kia, không chừng một hai ngày nữa mới về.” Cựu Ma Trí lại hỏi: “Thế công tử đi đâu?” Lão già nghiêng đầu ngoẹo cổ, đưa ngón tay lên gõ trán rồi nói: “Đi đâu ư? Lão tuổi già lẫn lộn, không nhớ được rành mạch. Dường như công tử sang Tây Hạ hay Liêu Quốc gì đó, mà không chừng còn qua Thổ Phồn, Đại Lý cũng nên.”

Cưu Ma Trí hừ một tiếng, trong bụng không vui. Thời đó năm nước chia nhau thiên hạ, lão già này nói cả bốn nước bốn góc trừ Đại Tống không kể. Y biết lão già này giả bộ ngớ ngẩn liền nói tiếp: “Đã vậy thì bần tăng không thể chờ công tử được, nhờ quản gia đưa bần tăng đến mộ phần tiên sinh lạy một lạy cho trọn nghĩa cố nhân.” Ông già kia xua tay rối rít, nói: “Chuyện đó tôi không quyết định được, tôi cũng không phải quản gia đâu.” Cưu Ma Trí lại hỏi: “Vậy ai là quản gia tôn phủ? Xin mời ra đây nói chuyện?” Lão già gật đầu luôn mấy cái nói: “Được chứ, được chứ! Để tôi đi mời quản gia đến.” Lão trở gót đi ra, người run lẩy bẩy, vừa đi vừa càu nhàu: “Ta đã ngần này tuổi đầu, trên đời này chuyện ma mãnh gì ta chẳng biết? Tên này bịp bợm giả làm thầy tu đạo sĩ xin cúng dường. Việc gì lão cũng thấy cả rồi, đừng có mà tính chuyện qua mặt”.

Đoàn Dự nghe lão nói bật lên tiếng cười khanh khách. A Bích vội quay sang nói với Cưu Ma Trí: “Xin đại sư phụ đừng giận, Hoàng lão bá có tính lẩn thẩn lại phải cái tật lúc nào cũng ra vẻ sành sỏi, ai cũng chê bai.”

Thôi Bách Tuyền giật giật tay áo Quá Ngạn Chi kéo qua một bên nói nhỏ: “Cái thằng trọc này tự xưng là bạn với Mộ Dung tiên sinh, nhưng bọn này rõ ràng đâu có coi y là khách quí, hiền điệt chớ có nóng nảy, để ý xem sao rồi sẽ liệu.” Quá Ngạn Chi đáp: “Vâng!” Hai người trở lại chỗ cũ. Nhưng chiếc ghế tre Quá Ngạn Chi ngồi đã bị đập gãy nát rồi, thành ra y phải đứng. A Bích vội bê cái ghế nàng đang ngồi lại, tươi cười nói: “Mời Quá đại gia ngồi đây.” Quá Ngạn Chi gật đầu tự nhủ: “Nếu ta giết sạch được cả nhà Mộ Dung, cũng nên tha cho con tiểu a đầu này”.

Đoàn Dự thấy Hoàng lão bộc đi vào, trong lòng thắc mắc như có điều gì khang khác, nhưng đó là gì thì chàng không thể nói được. Chàng quan sát kỹ càng cái phòng khách nhỏ bé cùng đồ trần thiết trong nhà, lại nhìn mấy bức họa treo trên vách, các khóm hoa ngoài sân rồi lại nhìn A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi mà không sao tìm ra chỗ bất thường, trong bụng càng lúc càng ngờ vực.

Một lát sau có tiếng chân người, rồi từ trong nhà đi ra một gã tuổi trạc ngũ tuần, người ốm o, nước da vàng vọt, dưới cằm có một túm râu ngắn như râu dê, vẻ mặt tinh lanh, cách phục sức rõ ra một tên quản gia trong phủ Mộ Dung. Gã gầy nhom quay mặt về phía Cưu Ma Trí cùng mọi người thi lễ nói: “Tiểu nhân Tôn Tam bái kiến các vị. Đại sư phụ, nay người có thịnh ý đến tế mộ Mộ Dung lão gia chúng tôi cảm kích vô cùng. Song công tử chúng tôi vắng nhà, không ai hoàn lễ, thật không phải đạo kính khách. Vậy chờ công tử về, tiểu nhân sẽ đem thịnh ý của đại sư phụ trình lại công tử là đủ…”

Gã vừa nói đến đây thì mũi Đoàn Dự bỗng thoáng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, trong lòng chợt động: “Lạ thật! Lạ thật!”. Nguyên lúc nãy người lão bộc họ Hoàng đến, Đoàn Dự cũng đã ngửi thấy một mùi hương u nhã. Mùi hương này cũng phảng phất như mùi hương trong người Mộc Uyển Thanh tiết ra, tuy có chỗ khác nhau song vẫn là mùi hương của thiếu nữ. Thoạt tiên thì chàng cho là mùi hương ở mình A Bích tiết ra nên không để ý. Thế rồi sau khi lão bộc ra khỏi nhà khách, mùi hương đó tự nhiên đâu mất. Bây giờ gã gầy nhom tự xưng là Tôn Tam này vừa vào, Đoàn Dự lại ngửi thấy mùi hương kia. Chàng liền hiểu ra, việc mình thắc mắc chính là vì một lão già tám chín mươi lại có mùi con gái mười tám đôi mươi. Chàng nghĩ thầm: “Không lẽ sau nhà có trồng kỳ hoa dị thảo gì, nên ai từ đó bước ra thân thể cũng có mùi hương thoang thoảng? Nếu không thì cả lão bộc già nua kia lẫn quản gia gầy nhom này đều do một thiếu nữ đóng vai.”

Mùi hương đó tuy làm Đoàn Dự sinh nghi nhưng thực ra rất nhẹ, Cưu Ma Trí và hai người kia không nhận ra được. Đoàn Dự sở dĩ ngửi thấy được vì chàng đã bị giam cầm trong thạch thất với Mộc Uyển Thanh một thời gian, mùi hương thiếu nữ kia chàng đã ghi lòng tạc dạ, so với xạ hương, đàn hương, hoa hương còn đậm đà hơn nhiều. Cưu Ma Trí tuy nội công thâm hậu nhưng cả đời nghiêm thủ sắc giới, dưới mắt y má hồng tóc xanh cũng chẳng khác gì khô lâu bạch cốt, phấn dịu son thơm cũng không khác gì máu mủ tanh hôi, không phân biệt mùi con trai với con gái.

Đoàn Dự tuy nghi Tôn Tam là thiếu nữ hóa trang, song chàng ngó lui ngó tới mà không thấy chút sơ hở nào. Gã Tôn Tam này thật thần tình, từ tướng mạo cho đến cử chỉ nói năng hoàn toàn ra vẻ đàn ông, không có kẽ hở mảy may nào để lộ chân tướng. Chàng đột nhiên nghĩ ra: “Đàn bà nếu giả làm đàn ông thì chỗ dưới yết hầu không thể nào giả được”. Chàng chăm chú nhìn vào cổ Tôn Tam, nhưng chòm râu đề của y phủ xuống không nhìn thấy được cổ họng. Chàng liên đứng dậy, giả vờ thưởng ngoạn các bức thiếp và tranh vẽ treo trên tường, đi đến ngang bên Tôn Tam liếc qua nhìn lén một cái, thấy yết hầu y quả không có trái khế gồ lên, lại nhìn xuống thấy bộ ngực đầy đặn. Tuy chưa chắc đã là ngực đàn bà, nhưng gã đàn ông gầy đét quyết nhiên ngực không thể đầy thế được, Đoàn Dự phát hiện ra cái bí mật này lấy làm thú vị, nghĩ thầm: “Bọn họ thật là lắm trò. Để xem cô ả định làm gì nữa đây?”.

Cưu Ma Trí thở dài: “Bần tăng cùng quý chủ nhân năm xưa gặp nhau ở Tứ Xuyên, đàm luận võ công rồi cùng nhau ý hợp tâm đầu, kết bạn tâm giao. Ngờ đâu con tạo ghen kẻ kỳ tài, cái kẻ tầm thường như bần tăng thì trời còn cho sống, còn quý chủ nhân lại sớm về tây phương cực lạc. Bần tăng lặn lội từ Thổ Phồn xuống đến Trung Nguyên chẳng qua vì mối thâm tình với người bạn cũ, cốt sao được lạy trước mộ một lạy, có người đáp lễ hay không phỏng có chi là quan trọng, phiền quản gia dẫn đường cho.” Tôn Tam chau mày ra chiều suy nghĩ, gã ngập ngừng: “Việc này… việc này…” Cưu Ma Trí ngắt lời: “Nếu có điều chi nan giải, xin nói rõ cho biết!”

Tôn Tam nói: “Nếu đại sư phụ quả là chỗ thâm giao với lão gia tiểu nhân, hẳn biết rõ tính người lúc sanh thời. Lão gia ghét nhất là có người đến thăm, Người thường bảo rằng phàm kẻ đến nhà nếu không tầm cừu sinh sự thì cũng xin bái sư học nghệ, hay tệ nữa là đến xin xỏ tiền bạc, không chừng lại thò tay mặt đặt tay trái, nhân lúc lộn xộn cuỗm món gì rồi lỉnh mất. Lão gia nói bọn thầy chùa lại càng đáng đề phòng, ấy chết… xin lỗi…” Y nói đến đó làm bộ biết mình lỡ lời xúc phạm đến Cưu Ma Trí, vội vàng đưa tay bịt miệng.

Cử chỉ đó càng rõ ra vẻ con gái, đôi mắt đen láy như hai hạt châu ranh mãnh giương lên nhìn, tuy lập tức khép ngay mi lại nhưng Đoàn Dự vốn đã lưu tâm, tự nhiên trong lòng thấy thích thú : “Gã Tôn Tam này không những là đàn bà mà lại còn là một cô gái trẻ tuổi.” Chàng liếc qua A Bích thấy mắt nàng ta nở một nụ cười ranh mãnh, trong bụng không còn hoài nghi gì nữa, nghĩ thầm: “Gã Tôn Tam và lão Hoàng kia hai người là một, chưa biết chừng chính là A Châu tỉ tỉ.”

Cưu Ma Trí thở dài than rằng: “Người đời gian trá thì nhiều mà thật thà thì ít, Mộ Dung tiên sinh không muốn giao kết với bọn phàm phu là phải lắm.” Tôn Tam nói tiếp: “Quả vậy! Lão gia tiểu nhân có di ngôn rằng bất luận kẻ nào đến xin tế phần tảo mộ, nhất thiết không cho vào. Thậm chí người còn bảo: mấy tên lừa trọc thường không phải vì hảo tâm mà đến, chúng chỉ muốn quật mả ta lên mà thôi. Trời ơi! Đại sư phụ đừng phiền, lão gia tiểu nhân thóa mạ bọn trọc đầu là thóa mạ người khác kia, không phải có ý nói ngài đâu.”

Đoàn Dự nghe nói phải cười thầm: “Ai đời lại trước mặt nhà sư mà thóa mạ thằng trọc bao giờ? Rồi chàng lại nghĩ: “Lão Cưu Ma Trí này bị thóa mạ đến thế mà vẫn bình tĩnh, tuyệt không lộ vẻ cáu giận chút nào, phải là con người đại gian đại ác bản lãnh phi thường mới giữ được thái độ này.”

Cưu Ma Trí đáp: “Quý chủ nhân di ngôn lại mấy câu đó rất có lý. Hồi sinh thời uy danh tiên sinh lừng lẫy khắp thiên hạ, thành thử có rất nhiều kẻ thù. Tiên sinh còn sống họ không làm gì được, nên khi chết rồi tất họ cố tình tìm đến động chạm vào di thể để trả thù, đó là một điều dĩ nhiên.” Tôn Tam khẳng định: “Muốn đụng đến di thể của lão gia chúng tôi, ha ha, cái đó thì đừng hòng.” Cưu Ma Trí nói: “Ta và Mộ Dung tiên sinh vốn là chỗ tri giao, chỉ muốn đến trước mộ cố nhân lạy một lạy, ngoài ra không có ý gì khác, quản gia bất tất phải đa nghi.” Tôn Tam đáp: “Nói gần nói xa chẳng qua nói thực, tiểu nhân quả là không dám làm trái với di ngôn của lão gia. Nếu như công tử trở về tra hỏi biết được sẽ đánh tiểu nhân đến què giò. Thôi thì để tiểu nhân hỏi ý kiến lão thái thái xem sao, rồi sẽ trả lời.” Cưu Ma Trí hỏi lại: “Lão thái thái ư? Còn vị lão thái thái nào nữa?” Tôn Tam đáp: “ Mộ Dung lão thái thái là thúc mẫu của lão gia tiểu nhân, các bằng hữu của lão gia mỗi khi đến chơi đều phải khấu đầu hành lễ. Khi công tử vắng nhà thì mọi việc đều phải lĩnh ý lão thái thái.” Cưu Ma Trí đáp: “Như thế càng hay! Nhờ quản gia vào bẩm với lão thái thái là có Cưu Ma Trí ở nước Thổ Phồn tới vấn an.” Tôn Tam nói: “Đại sư phụ khách khí quá, chúng tôi không dám.” Nói xong liền quay vào nội đường.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Vị cô nương này thật là tinh quái. Không hiểu cô ta trêu cợt Cưu Ma Trí với dụng ý gì?”

Qua một lúc nghe có tiếng vòng đeo leng keng, một bà già từ nội đường đi ra, người chưa tới mà mùi hương đã thoang thoảng đưa vào mũi. Đoàn Dự không khỏi mỉm cười, nghĩ thầm: “Lần này cô ả lại biến thành một lão phu nhân”. Chỉ thấy bà lão mặc áo quần bằng đoạn màu cổ đồng, tay đeo vòng ngọc, đầu đầy châu thủy, trông thật là sang trọng, mặt thật nhiều vết nhăn, đôi mắt hấp him dường như nhìn không rõ. Đoàn Dự không khỏi khen thầm: “Cô bé này hóa trang giỏi tuyệt, trá hình ai ra người ấy, khó mà phát hiện được. Tài nhất là chỉ trong khoảnh khắc nàng đã cải trang xong, chân tay mau lẹ đến cực điểm.”

Bà già tay chống gậy, người run lẩy bẩy tiến ra tới nhà ngoài liền hỏi: “A Bích, có bạn của lão gia ngươi đến chơi đấy ư? Sao không thấy khấu đầu bài kiến ta?” Mụ nghiêng đầu nhìn bên đông lại ngoẹo cổ ngó bên tây, hai mắt như bị quáng lòa không nhận ra người nào ở chỗ nào. A Bích quay sang Cưu Ma Trí khoa tay làm hiệu, nói nhỏ: “Mau khấu đầu bái kiến đi, lão thái thái mà vừa lòng thì yêu cầu việc gì cũng được hết.” Bà lão nghiêng đầu, giơ bàn tay khum khum che tai như muốn nghe cho rõ, lớn tiếng hỏi lại: “Con ranh con! Mi nói cái gì vậy? Người ta đã khấu đầu chưa?”.

Cưu Ma Trí bèn lên tiếng: “Lão phu nhân mạnh giỏi chứ? Tiểu tăng xin thi lễ.” Đoạn lão chắp tay xá dài, kình lực từ hai bàn tay phát ra, đập xuống thềm gạch kêu binh binh nghe như là tiếng dập đầu xuống đất. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau kinh hãi: “Lão này nội kình quả là ghê gớm, mình e rằng không chịu nổi một đòn.”

Bà lão gật gù nói: “Tốt lắm, tốt lắm! Thời nay kẻ gian thì nhiều, người ngay thì ít, đến như khấu đầu cũng lắm đứa giở trò ma mãnh, làm bộ đóng kịch, tưởng lão thái thái này thong manh không thấy. Thằng bé này ngoan lắm, dập đầu nghe rõ kêu.”

Đoàn Dự không nhịn được, phì ra một tiếng cười. Bà già từ từ quay đầu lại hỏi: “A Bích, hình như có ai đánh rắm phải không?”, vừa nói vừa đưa tay lên bịt mũi. A Bích cố nhịn cười đáp: “Lão thái thái, không phải đâu. Đó là vị Đoàn công tử này cười đó.” Bà lão hỏi lại: “Đòn à? Sao lại phải đánh đòn?” A Bích đáp: “Không phải đòn, người ta họ Đoàn, công tử họ Đoàn.” Bà lão gật đầu: “Chà! Công tử gì mà lắm thế? Mi nhớ công tử của mi lắm nhỉ!” A Bích thẹn thùng nói: “Lão thái thái nghễnh ngãng, nói năng chuyện nọ xọ chuyện kia chẳng ra chi hết.”

Bà lão quay sang nói với Đoàn Dự: “Thằng bé kia, sao thấy thái thái mà chưa khấu đầu?” Đoàn Dự đáp: “Lão thái thái, tiểu sinh có câu chuyện muốn kể cho thái thái nghe.” Bà lão hỏi lại: “Ngươi muốn kể chuyện gì?” Đoàn Dự đáp: “Tiểu sinh có một đứa cháu gái thật là thông minh lanh lợi nhưng hay nghịch ngợm quậy phá. Con bé đó thích hoá trang thành người này người khác, nay giả dạng đàn ông, mai lại giả dạng đàn bà để trêu chọc thiên hạ. Lão thái thái gặp nó chắc là thích lắm. Tiếc rằng lần này không đem nó đến khấu đầu trước lão nhân gia”

Lão phu nhân đó chính là cô tì nữ A Châu trong phủ Mộ Dung giả trang. Thuật hóa trang của cô ta quả là khéo léo, chẳng những về dung mạo, mà cả ngôn ngữ cử chỉ, giọng nói điệu cười nhất nhất giống như in. Chả thế mà thông minh tuyệt đỉnh như Cưu Ma Trí, lão luyện giang hồ như Thôi Bạch Tuyền cũng không mảy may nghi ngờ. Chẳng dè Đoàn Dự nhờ có mùi hương thoang thoảng trên mình cô ta mà nhận ra.

A Châu nghe nói thế giật mình nhưng vẫn tỉnh bơ như không, giả vờ làm như người già cả lẩm cẩm, mắt mờ tai điếc nói: “Mi ngoan lắm, lại thật thông minh, ta chưa thấy đứa nhỏ nào tinh khôn được đến thế. Mi phải khôn ngoan giữ mồm giữ miệng, lão thái thái sẽ thưởng cho nghe chưa?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ý cô ta muốn mình đừng lật chân tướng ra. Cô ta ra tay đối phó với gã trọc Cưu Ma Trí, là bạn chứ nào phải là thù.” Nghĩ thế nên chàng đáp: “Xin lão thái thái cứ yên tâm! Tại hạ đã tới tôn phủ thì nhất thiết mọi điều đều do lão phu nhân sai bảo.” A Châu nói: “Mi có biết nghe lời ta mới là đứa trẻ ngoan ngoãn. Trước hết hãy cúi đầu lạy ta ba lạy đi đã! Ta thế nào cũng tử tế với ngươi.” Đoàn Dự ngẩn người ra, thầm nghĩ: “Ta đường đường là một vị thế tử con hoàng thái đệ nước Đại Lý, lẽ nào lại lạy một ả nữ tỳ?”. A Châu thấy chàng có vẻ lúng túng, cười khẩy mấy tiếng, nói: “Thằng nhỏ ngoan! Ta bảo mi đó, mi khấu đầu chào bà vài cái xem nào.”

Đoàn Dự quay sang nhìn thấy A Bích đang dẩu môi liếc mắt cười mủm mỉm, da trắng như lăng tươi vừa mới bóc, bên mép lại có một nốt ruồi nho nhỏ càng thêm duyên dáng, trong lòng không khỏi rung động, bèn cất tiếng hỏi: “A Bích tỉ tỉ, nghe nói trong tôn phủ còn một vị A Châu tỉ tỉ, cô ta… cô ta có xinh đẹp được như tỉ tỉ chăng?” A Bích mỉm cười đáp: “Ối chao! Tiểu nữ xấu xí thế này có chi đáng kể. A Châu tỉ tỉ mà nghe thấy công tử hỏi thế tất giận lắm đó. Tiểu nữ có đáng vào đâu, A Châu tỉ tỉ mỹ lệ gấp mười.” Đoàn Dự hỏi lại: “Thật vậy sao?” A Bích cười đáp: “Tiểu nữ nói dối công tử làm chi.” Đoàn Dự nói: “Đẹp gấp mười tỉ tỉ ư? Trên đời này làm gì có người như vậy? Trừ phi là… là nàng tiên ở trong thạch động kia thôi, còn người đẹp xuýt xoát như tỉ tỉ cũng đã là hiếm có lắm rồi.” A Bích hai má ửng hồng có vẻ thẹn thùng, nàng nói: “Lão phu nhân bảo công tử khấu đầu chứ có bảo công tử mồm năm miệng mười khen nịnh tôi đâu.”

Đoàn Dự đáp: “Lão phu nhân chắc vốn cũng là một bậc quốc sắc thiên hương đấy nhỉ? Nói thật với tỉ tỉ, dẫu có cho cái gì tại hạ cũng không màng, nhưng tại hạ đã từng lạy cho ngọc tượng trong động hàng nghìn lạy còn được, nay có lạy người đẹp đất Giang Nam ba lạy đã ăn thua gì?” Thế rồi chàng dập đầu xuống đất kêu “kịch kịch kịch” ba tiếng.

A Châu rất hài lòng nghĩ thầm: “Vị công tử này biết mình chỉ là một đứa a hoàn vậy mà vẫn chịu khấu đầu, quả thực khó biết bao!”. Nàng bèn nói: “Thằng nhỏ ngoan lắm! Tốt lắm! Tiếc rằng ta không mang theo tiền kiến diện để thưởng cho mi.” A Bích vội xen vào: “Lão thái thái đừng quên là được rồi. Lần sau sẽ bù cho người ta cũng được.”

A Châu đưa mắt nguýt cô ta, quay sang Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nói: “Hai vị khách này sao không khấu đầu ra mắt lão bà?” Quá Ngạn Chi hừ một tiếng, xẵng giọng hỏi: “Mụ có biết võ nghệ hay không?” A Châu đáp: “Ngươi nói gì thế?” Quá Ngạn Chi lập lại:“Ta hỏi mụ có biết võ nghệ không? Nếu là người võ công cao cường thì Quá Ngạn Chi này tình nguyện chết dưới tay Mộ Dung lão thái thái, còn nếu mụ không phải là nhân vật võ lâm thì ta bất tất nhiều lời.” A Châu vỡ nhãng tai nghe “Võ công cao cường” ra “ngô công bách cước”, lắc đầu: “Cái gì mà lại ngô công bách cước? Con rết trăm chân thì đâu mà chẳng có, nó cắn người đau lắm đấy.” Nàng lại quay sang hỏi Cưu Ma Trí: “Đại hòa thượng, nghe nói hòa thượng muốn quật mả Mộ Dung tiên sinh lên, định lấy trộm cái gì đấy?”

Cưu Ma Trí tuy không ngờ mụ là một thiếu nữ giả trang, nhưng cũng đoán chừng mụ giả điếc giả ngây, quyết không phải là một bà già đã đến mức lẫn lộn như thế, trong bụng càng thêm đề phòng, nghĩ bụng: “Mộ Dung tiên sinh đã ghê gớm như thế thì bậc trưởng bối trong nhà tất nhiên không phải hạng bản lãnh tầm thường.” Lảo liền vờ như không nghe mấy chữ “quật mả, lấy trộm” bèn đáp: “Tiểu tăng với Mộ Dung tiên sinh vốn là bạn tri giao, nghe tin buồn tiên sinh tạ thế nên từ nước Thố Phồn qua đây, muốn đến trước mộ lay một lạy. Tiểu tăng có một điều ước hẹn với tiên sinh từ lúc sinh tiền là đem kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm nước Đại Lý qua cho tiên sinh xem. Lời ước đó không thực hiện được, tiểu tăng trong lòng thật là hổ thẹn.”

A Châu và A Bích hai người nhìn nhau cùng nghĩ thầm: “Gã hòa thượng này bây giờ mới nói vào chính đề.” A Châu hỏi: “Lấy được kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm thì sao? Mà không lấy được thì sao?” Cưu Ma Trí đáp: “Năm xưa Mộ Dung tiên sinh có ước định với tiểu tăng, nếu tiểu tăng lấy được kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm cho mượn vài hôm thì sẽ cho tiểu tăng vào xem mấy quyển thiên thư ở Hoàn Thi Thủy Các trong tôn phủ.” A Châu giật mình: “Lão sư này biết được bốn chữ Hoàn Thi Thủy Các, có lẽ lão nói thực cũng chưa biết chừng.” Nàng bèn giả như nghe nhầm hỏi lại: “Cái gì mà hi phạn thủy giả? Ngươi muốn ăn cháo gà với bánh trôi ư? Cái đó dễ lắm nhưng ngươi đã xuất gia làm sao ăn được món mặn?”

Cưu Ma Trí quay sang nói với A Bích: “Lão thái thái đây không hiểu là lẫn lộn thực hay giả vờ. Song thái độ thế này là cự tuyệt người từ nghìn dặm xa xôi đến đây, chẳng khiến người ta nguội lạnh tấm lòng lắm hay sao?” A Châu đáp: “Sao, ngươi lạnh bụng à? A Bích, ngươi mau đi múc một tô cháo tiết gà nóng để đại sư ăn cho ấm ruột gan lại.” A Bích nhịn cười đáp: “Đại sư phụ có ăn mặn được đâu?” A Châu gật gù : “Thế thì đừng dùng gà vịt thật mà dùng gà vịt chay vậy!” A Bích nói: “Lão thái thái lẫn rồi, gà vịt chay thì làm gì có tiết?” A Châu phều phào: “Mình lẩn thẩn thực, thế thì biết làm sao bây giờ?”

Hai cô gái đối thoại, kẻ tung người hứng nghe thật là ăn nhịp. Người đất Tô Châu phần đông mồm miệng béo léo, nói năng hoạt bát, đời sau nơi đây kịch nghệ nổi tiếng thiên hạ cũng từ truyền thống này mà ra. Hai cô thị tì này bình thời vẫn hay tinh nghịch đùa cợt với nhau, bây giờ đem ra quấy phá khiến Cưu Ma Trí bực mình mà không làm gì được.

Lần này y tới Cô Tô vốn định khi gặp Mộ Dung công tử sẽ thương lượng một chuyện quan trọng, ngờ đâu không gặp chủ nhà lại gặp những người chẳng đâu ra đâu, cách đón tiếp hư hư thực thực khiến lão không biết đối phó thế nào cho phải. Y ngẫm nghĩ một chút đã biết ngay Mộ Dung lão phu nhân, Tôn Tam, Hoàng lão bộc, A Bích ai nấy đều có ý thoái thác không cho mình viếng mộ, dĩ nhiên không cho mình vào xem sách trong Hoàn Thi Thủy Các. Lão quyết định bất chấp đối phương nói gì thì nói, cứ đem chuyện ra trình bày minh bạch rồi sau đó nếu được thì dùng lễ mà nhân nhượng, không được thì phải cậy võ lực mà cương quyết, đằng nào mình cũng ở tay trên. Nghĩ thế y ôn tồn nói: “Kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm tiểu tăng đã có đem theo đây, vì thế mới nhắc lại lời hẹn năm xưa được vào Hoàn Thi Thủy Các trong quí phủ xem sách vở.”

A Bích nói: “Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, hòa thượng nói sao chúng tôi hay vậy chứ khẩu thuyết vô bằng biết đâu mà tin. Hơn nữa giả tỷ đại sư có mang đồ hình tới đây, chúng tôi xem có ai hiểu được đâu. Thế thì trước kia hai bên có lời giao ước với nhau thế nào, bây giờ cũng không còn thi hành được nữa.” A Châu nói: “Kiếm phổ gì thế? Ở đâu vậy? Đưa ta coi trước xem giả hay thực nào?”

Cưu Ma Trí chỉ vào Đoàn Dự đáp: “Đoàn công tử đây đã thuộc lòng kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu tăng đem y đến đây cũng như mang kiếm phổ đến.” A Bích mỉm cười nói: “Tôi lại tưởng có kiếm phổ thật, té ra đại sư nói đùa.” Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu tăng đâu dám nói đùa? Nguyên bản kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm đã bị Khô Vinh đại sư ở chùa Thiên Long nước Đại Lý đốt mất rồi, cũng may mà Đoàn công tử còn nhớ được rành mạch cả.” A Bích nói: “Đoàn công tử nhớ được là chuyện của Đoàn công tử, người được vào Hoàn Thị Thủy Các coi sách thì cũng phải là Đoàn công tử, có can dự gì đến đại sư?” Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu tăng muốn được thực hiện lời ước ngày trước, đem Đoàn công tử thiêu sống trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh.”.

Mọi người nghe nói đều thất kinh, thấy y thần sắc trấn tĩnh, xem ra nói thực chứ không phải thuận miệng nói đùa, lại càng ghê rợn. A Bích nói: “Đại sư phụ có nói đùa không đấy? Người đang sống hẳn hòi chứ có phải mớ củi đâu mà muốn đốt lúc nào thì tốt?” Cưu Ma Trí thản nhiên nói: “Tiểu tăng mà định đốt thì chắc rằng y không chống cự lại được.” A Bích mỉm cười: “Đại sư phụ bảo, là Đoàn công tử nhớ được toàn bộ kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, cũng chỉ là bịa đặt thôi. Nếu như Lục Mạch Thần Kiếm là một công phu lợi hại, mà Đoàn công tử biết kiếm pháp đó thì khi nào lại chịu khuất phục dưới tay đại sư?” Cưu Ma Trí gật gù: “Cô nương biết một mà không biết hai. Đoàn công tử đã bị tiểu tăng điểm huyệt, không vận kình được.”

A Châu vẫn lắc đầu lia lịa nói: “Ta không thể tin ngươi được. Ngươi giải huyệt cho Đoàn công tử để y thi triển Lục Mạch Thần Kiếm cho ta xem. Xem ra chín phần mười là ngươi nói dối.” Cưu Ma Trí gật đầu nói: “Được rồi! Để tiểu tăng thử cho lão thái thái coi.”

Đoàn Dự ca ngợi A Bích xinh đẹp, mê mẩn tiếng hát tiếng đàn của nàng khiến cho nàng thật đẹp ý; chàng tuy biết được A Châu cải trang vậy mà vẫn dập đầu lạy ba cái khiến cho nàng cũng vui lòng, bây giờ hai cô nghe nói Đoàn Dự bị điểm huyệt nên tìm cách bịp lão để lão chịu giải huyệt đạo cho chàng. Ngờ đâu vừa nói ra là Cưu Ma Trí bằng lòng ngay. Chỉ thấy y giơ tay vỗ hờ trên các chỗ huyệt đạo ở lưng, ngực và đùi Đoàn Dự mấy cái. Lập tức các huyệt đạo bị đóng liền thông, Đoàn Dự chỉ hơi vận khí nội tức liền chuyển động dễ dàng. Chàng lại thử theo phương pháp vận khí của Trung Xung kiếm pháp đưa chân khí vào huyệt Trung Xung, tức khắc cảm thấy ngón tay giữa nóng ran, chàng biết chỉ duỗi ngón tay là kiếm khí liền bắn ra ngay.

Cưu Ma Trí nói: “Đoàn công tử! Mộ Dung lão thái thái không tin công tử đã luyện được Lục Mạch Thần Kiếm. Xin công tử ra tay chặt đứt một cành hoa quế như tiểu tăng đây.” Y vừa nói vừa chém xéo ra, bàn tay súc tích chân lực, xuất một chiều Hỏa Diệm Đao. Bỗng nghe rắc một tiếng, một cành hoa quế trong sân không gió mà gãy ngay xuống đất, chẳng khác gì dùng đao kiếm sắc bén chặt ngang.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng thất thanh kêu lên một tiếng. Hai người tuy biết gã Phiên tăng này vô công hết sức ghê gớm, song chỉ cho là loại tà thuật bàng môn tả đạo mà thôi, bây giờ nhìn thấy lão dùng vô hình đao pháp chặt đứt cành cây mới biết nội lực lão thâm hậu hiếm thấy trên đời. .

Đoàn Dự lắc đầu: “Ta không hiểu võ công, cũng chẳng biết Lục Mạch Thần Kiếm hay Bát Mạch Thần Đao nào cả. Một cành hoa quế đẹp đẽ như thế của người ta, sao người lại chặt đi?” Cưu Ma Trí nói: “Đoàn công tử chẳng nên quá khiêm nhường, võ nghệ công tử vào bậc nhất trong họ Đoàn nước Đại Lý. Hiện nay ngoại trừ Mộ Dung công tử và tại hạ ra thì e rằng không ai địch nổi công tử. Phủ Cô Tô Mộ Dung đây là một kho tàng về võ học, công tử hãy thi thử vài chiêu để lão thái thái chỉ điểm thêm cho! Đó là một điều rất hay chứ sao?” Đoàn Dự đáp: “Suốt dọc đường người đối với ta cực kỳ vô lễ, xách lên vứt xuống, lôi kéo đến Giang Nam. Chính ta không muốn nói gì với người nữa. Nhưng ta đến đất Cô Tô thấy phong cảnh hữu tình, lại gặp mấy cô nương đẹp như tiên, oán hờn chứa chất trong lòng đã tiêu tan hết. Ta và người từ nay một đao cắt đứt quan hệ, đường ai nấy đi.” A Châu và A Bích nghe chàng nói năng như gã đồ gàn, không khỏi tức cười, nhưng chàng lại ca tụng mình hết lời nên trong bụng vẫn thầm sung sướng.

Cưu Ma Trí lại nói: “Công tử không chịu biểu diễn Lục Mạch Thần Kiếm, tức là cố ý bảo bần tăng ăn nói đặt điều hay sao?” Đoàn Dự đáp: “Chính ngươi vẫn quen ăn nói đặt điều. Nếu thực có ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh thì sao ngươi không sớm đến Đại Lý lấy kiếm kinh mà lại đợi Mộ Dung tiên sinh quy tiên rồi, không còn người đối chứng mới đến phủ Mộ Dung nói thiên hô bách sát? Ta xem chừng ngươi hâm mộ Cô Tô Mộ Dung võ công cao cường nên bịa chuyện ra đánh lừa lão thái thái cho ngươi vào tàng thư các, xem trộm quyền kinh kiếm phổ của nhà Mộ Dung, học lấy thuật gậy ông đập lưng ông. Người ta đã là nhân vật lừng danh trong võ lâm chẳng lẽ lại không hiểu cái mánh khóe trẻ con của ngươi hay sao? Nếu chỉ đem cái mồm trơn như mỡ đến nói vài câu là đánh lừa lấy cắp được bí quyết võ công của nhà Mộ Dung thì trên đời này vô khối những tên bịp bợm, đứa nào chẳng đến đây lẻo mép, còn đâu đến lượt ngươi?”

Cưu Ma Trí lắc đầu nói: “Đoàn công tử suy đoán sai rồi. Tiểu tăng và Mộ Dung tiên sinh tuy đính ước với nhau đã lâu, song tiểu tăng còn phải đóng cửa luyện chín năm không ra khỏi ngõ, vì thế mà chưa đến nước Đại Lý. Giả tỷ tiểu tăng chưa thấu đáo được môn Hỏa Diệm Đao thì lần này đâu có yên thân mà ra khỏi chùa Thiên Long?” Đoàn Dự đáp: “Đại hòa thượng ơi, ngươi tiếng tăm đã vang dội, võ công lại cao cường như thế, sao không ung dung ở yên nước Thổ Phồn làm Hộ Quốc Pháp Vương có tốt hay không? Việc gì còn phải đến tận Giang Nam đánh lừa người ta? Ta khuyên người nên quay về sớm đi là hơn!”

Cưu Ma Trí đáp: “Nếu công tử không chịu thi triển Lục Mạch Thần Kiếm thì đừng trách tiểu tăng vô lễ.” Đoàn Dự nói: “Ngươi đã vô lễ lắm rồi, chẳng lẽ lại còn cách nào vô lễ hơn thế nữa? Cùng lắm người chém ta một đao giết đi là cùng chứ gì?” Cưu Ma Trí nói: “Được lắm, coi đao đây.” Y dựng bàn tay trái lên, một luồng kình phong liền ùa tới mặt Đoàn Dự.

Đoàn Dự đã có chủ ý từ trước, biết võ công mình kém xa y, có giao đấu hay không giao đấu kết quả cũng như nhau mà thôi. Lão đã muốn chàng phải chứng minh là có biết Lục Mạch Thần Kiếm, đã thế chàng làm ngược hẳn lại. Chàng thấy đao của lão chém tới, cứ để mặc, chẳng tránh né mà cũng không đỡ gạt. Cưu Ma Trí kinh hoảng, kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm chưa nắm thì bộ sách sống này không thể giết được, tay liền nghiêng qua, một luồng gió lạnh vèo qua, xén đứt hẳn một mớ tóc trên đầu Đoàn Dự.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nhìn nhau hoảng vía, A Châu A Bích hai cô cũng đều tái mặt. Cưu Ma Trí lầm lì hỏi lại: “Đoàn công tử đành chịu chết chứ không chịu ra tay sao?” Đoàn Dự vốn đã sớm không coi chết sống vào đâu, bèn khanh khách cười đáp: “Đại hòa thượng đủ cả: tham, sân, ái, dục, si mà còn dám khoe mình là cao tăng cửa Phật, quả là chỉ có hư danh.”

Cưu Ma Trí đột nhiên vung tay chém xéo qua A Bích, miệng nói: “Dùng lời tử tế không xong thì trước hết ta phải ra oai giết một con tiểu a đầu trong phủ Mộ Dung trước đã.” Chiêu đó y đánh ra thật đột ngột, A Bích kinh hãi vội nghiêng người tránh, nghe chát một tiếng, chiếc ghế dựa sau lưng cô bị chém đứt đôi. Tay phải Cưu Ma Trí liền chém tiếp một đạo nữa khiến A Bích phải nằm phục xuống lăn dưới đất, thân pháp tuy mau lẹ nhưng thật là luống cuống. Cưu Ma Trí quát to lên một tiếng đánh luôn chiêu thứ ba ra. A Bích sợ tái mặt, không biết phải đối phó với những chiêu số vô hình vô ảnh này cách nào cho đúng. A Châu không suy nghĩ gì nữa, liền vung gậy điểm vào sau lưng Cưu Ma Trí. Lúc nàng đứng nói chuyện, hay là lúc lụm cụm bước đi trông giống như một bà già bảy tám mươi không sai một mảy, nhưng lúc nguy cấp liều mạng thì thân pháp lại cực kỳ mau lẹ.

Cưu Ma Trí thoáng nhìn đã khám phá ra chỗ giả trá, lão mỉm cười nói: “Thiên hạ lại có bà già mười bảy mười tám tuổi, ngươi định lừa bịp hòa thượng này đến bao giờ?” Nói xong lão quay lại đánh luôn một chưởng, chấn cây gậy trúc của A Châu gãy làm ba đoạn, kế đó lại phóng một đao chém bổ vào A Bích. A Bích hoảng hốt quờ tay vớ một cái bàn, nghiêng mặt bàn ra đỡ. Bỗng nghe “chát chát” mấy tiếng, chiếc bàn bằng gỗ tử đàn gãy vụn, chỉ còn trơ lại hai chân trong tay A Bích.

Đoàn Dự thấy A Bích lưng tựa vào vách, không còn đất lùi mà Cưu Ma Trí lại vung tay đánh tiếp. Lúc đó chàng chỉ nghĩ đến việc cứu người là khẩn cấp, quên rằng mình không phải là địch thủ của gã Phiên tăng, liền búng ngón tay giữa ra, kình lực từ huyệt Trung Xung bắn vụt ra kèm những tiếng kêu “vo vo”. Đó chính là Trung Xung kiếm pháp. Thực ra Cưu Ma Trí đâu có định giết A Bích, lão chỉ muốn bức bách Đoàn Dự xuất thủ, nếu không A Bích làm sao có thể tránh được những chiêu số thần diệu của Hỏa Diệm Đao? Y thấy Đoàn Dự cuối cùng phải ra tay, lại trở tay đánh luôn A Châu một chưởng. Chưởng phong vút qua làm cho A Châu lảo đảo cả người, vai áo rách toạc, nàng kinh hoàng rú lên. Thiếu Trạch Kiếm từ tay trái Đoàn Dự liền phóng ra, chặn ngay Hỏa Diệm Đao của y lại.

Hai đao của Cưu Ma Trí đều bị Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự chặn đón, chàng đã bảo vệ cho hai nàng A Châu, A Bích cùng thoát hiểm. Cưu Ma Trí chỉ cốt cho mọi người thấy Đoàn Dự biết Lục Mạch Thần Kiếm thật, cố ý để nội kình hai người chạm vào nhau, nghe vu vu không ngớt. Đoàn Dự nhờ có công lực của mấy cao thủ trong người, xem ra còn mạnh hơn cả Cưu Ma Trí. Chỉ có điều chàng không có căn bản võ công, tuy ở chùa Thiên Long nhớ hết các đường kiếm pháp nhưng không biết cách biến hóa sử dụng.

Cưu Ma Trí dẫn luồng nội lực hùng hậu của chàng chạy đông chạy tây khiến cửa sổ và vách tường bị đâm thủng lỗ chỗ khắp nơi, miệng liên tiếp khen ngợi: “Lục Mạch Thần Kiếm quả nhiên lợi hại, trách nào năm xưa Mộ Dung tiên sinh đem lòng hâm mộ.”

Thôi Bách Tuyền cũng rất lấy làm kinh ngạc, lẩm bẩm: “Ta vẫn tưởng Đoàn công tử chẳng biết võ công, nào ngờ lại có bản lĩnh đến thế. Họ Đoàn Đại Lý đúng là danh bất hư truyền. Cũng may mà mình khi ở phủ Trấn Nam vương chưa làm việc gì xằng bậy, nếu không thì cái mạng già này đâu còn được đến hôm nay.” Y càng nghĩ càng rùng mình, mồ hôi toát ra lạnh cả người.

Hai người giao đấu một hồi lâu, kỳ thực thì chiêu nào Cưu Ma Trí cũng có thể đẩy Đoàn Dự vào tử địa được. Có điều lão cố ý kéo dài cuộc đấu để đùa giỡn và phô trương tài năng. Ngờ đâu đùa giỡn càng lâu thì càng không dám coi thường, xem ra chàng nội kình cực kỳ hùng hậu không kém gì mình, nhưng không hiểu vì sao lại không biết phát huy ra, chẳng khác gì đứa trẻ lên ba trong tay có hàng vạn quan tiền mà không biết tiêu xài. Cưu Ma Trí chiết giải thêm mấy chiêu nữa bỗng dưng nghĩ khác: “Nếu lỡ ra lát nữa y phúc chí tâm linh, lãnh ngộ được võ công yếu quyết, với nội công đó và kiếm pháp đó, e rằng sẽ là một kình địch cực kỳ lợi hại”.

Đoàn Dự cũng biết là chàng sống hay chết hoàn toàn do tay Cưu Ma Trí, kêu lên: “A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ mau mau đào tẩu. Không thì không kịp đâu.” A Châu hỏi: “Đoàn công tử! Tại sao công tử lại cứu chúng tôi?” Đoàn Dự đáp: “Vì tôi ghét tên hòa thượng này ỷ mình võ công cao cường, hoành hành bá đạo, khinh khi người khác. Đáng tiếc tôi không hiểu võ công, khó lòng địch lại lão. Các cô chạy mau đi thôi!”

Cưu Ma Trí mỉm cười nói: “Không kịp nữa rồi.” Y tiến lên một bước, ngón tay trái đâm ra, điểm vào đùi Đoàn Dự. Đoàn Dự kêu lên một tiếng toan né tránh, nhưng tránh làm sao được? Ba yếu huyệt của chàng đã bị Cưu Ma Trí điểm trúng, tức thời hai chân bị tê bại, té nhào xuống đất. Chàng gọi ầm lên: “A Châu, A Bích! Chạy mau đi! Chạy mau đi!”

Cưu Ma Trí bật cười nói: “Chết đến cổ họng, thân không giữ nổi lại còn thương hoa tiếc ngọc.” Đoạn lão ung dung quay lại chỗ ngồi, nói với A Châu: “Cô nương cũng bất tất phải giở trò quỷ quái làm gì nữa. Ai là người quyết định mọi việc trong phủ này? Đoàn công tử đã thuộc lòng kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, có điều y không hiểu võ công nên không biết sử dụng đó thôi. Ngày mai ta sẽ đem hắn ra thiêu sống trước mồ Mộ Dung tiên sinh, nếu tiên sinh dưới suối vàng có linh thiêng, chắc cũng rõ người bạn cũ không lỗi lời hẹn ước năm xưa.”.

A Châu cũng hiểu rằng hiện tình trong Cầm Vận Tiểu Trúc này không có ai địch lại Cưu Ma Trí. Nàng chau đôi mày liễu, gượng cười nói: “Được rồi! Đại hòa thượng nói sao chúng tôi tin vậy. Phần mộ của lão gia cách đây chừng một ngày đường thủy. Hôm nay thì trời đã tối rồi, sáng sớm mai tỉ muội chúng tôi xin thân hành dẫn hòa thượng cùng Đoàn công tử đi tảo mộ. Xin các vị hãy nghỉ ngơi một chút để đợi dùng cơm chiều.” Nói dứt lời A Châu đứng dậy kéo tay A Bích cùng đi vào trong nhà.

Sau độ nửa giờ thì thấy một tên tớ trai ra nói: “Hai cô nương có lời mời bốn vị đến Thính Vũ Cư dùng cơm chiều.” Cưu Ma Trí cám ơn rồi nắm tay Đoàn Dự, dẫn đi theo tên đầy tớ. Đường đi trải đá trứng ngỗng quanh co độ mấy chục trượng, vòng qua mấy tòa giả sơn cùng mấy khu vườn thì đến bên bờ hồ. Dưới một gốc liễu có buộc chiếc thuyền nhỏ. Tên đầy tớ chỉ một căn nhà nho nhỏ ở giữa hồ, bốn mặt đều có cửa sổ, nói: “Ở bên kia.” Cưu Ma Trí, Đoàn Dự, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi bốn người xuống thuyền để cho tên đầy tớ chèo qua, chỉ giây lát đã tới.

Đoàn Dự theo cầu thang đóng trên cây tùng trèo lên Thính Vũ Cư, thấy A Bích đã đứng sẵn chờ khách. Toàn thân nàng mặc áo dài màu xanh nhạt, bên cạnh là một nữ lang mặc áo lụa hồng xinh tươi mơn mởn, tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhìn Đoàn Dự tựa như cười mà không phải cười, nét mặt đầy vẻ khôn ngoan lanh lợi. Mặt A Bích thì thanh nhã tú lệ, còn người con gái kia khuôn mặt trái xoan, đôi mắt linh động dễ làm người ta quyến luyến.

Đoàn Dự tới gần liền ngửi thấy mùi hương phảng phất quen thuộc, chàng mỉm cười hỏi: “A Châu tỉ tỉ! Cô là một vị tiểu cô nương xinh đẹp như thế này mà sao cải trang thành một bà lão lại giống đến thế?” Nữ lang này chính là A Châu. Nàng liếc mắt mỉm cười hỏi Đoàn Dự: “Công tử phải khấu đầu lạy tôi ba cái chắc bực mình lắm phải không?” Đoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói: “Ba lạy đó rất có ý nghĩa. Có điều tôi đoán không được trúng lắm thôi.” A Châu hỏi: “Công tử đoán thế nào mà không trúng?” Đoàn Dự đáp: “Trước tôi đã đoán cô nương và A Bích cũng như nhau, đều là mỹ nhân hiếm có ở đời. Tôi đinh ninh là hai cô chẳng khác nhau mấy, nào ngờ tới khi gặp mặt mới hay… mới hay…” A Châu cướp lời: “Phải chăng tôi còn kém A Bích xa?” Đồng thời A Bích cũng chen vào: “Công tử thấy chị ấy đẹp gấp mười tôi, nhìn thấy phải giật mình chứ gì?”

Đoàn Dự lắc đầu: “Trật hết. Tôi bấy giờ mới hay trời xanh kia quả thật tài tình, khiến cho người ta phục sát đất. Ông đã dốc tâm trí ra tạo nên một trang tuyệt sắc giai nhân là A Bích tỉ tỉ, tưởng rằng bao nhiêu linh tú ở Giang Nam đã dùng hết nhẵn rồi, nào ngờ ông lại còn tạo thêm được một vị A Châu tỉ tỉ nữa. Hai dung mạo khác nhau nhưng mỗi người đều có một vẻ ưa nhìn riêng, tôi nghĩ mãi mà chưa tìm được câu nào để diễn tả được cái vẻ diễm lệ của hai cô.” A Châu cười khúc khích: “Gớm, công tử thật là mồm mép trơn như mỡ, đã tán dương một tràng dài lại còn bảo là không tìm được câu nào.”

A Bích mỉm cười quay sang nói với Cưu Ma Trí và hai người Thôi, Quá: “Bốn vị giá lâm tệ xứ, chúng tôi đơn bạc chẳng có gì để thết, xin các vị tạm dùng ly rượu nhạt và mấy thứ món ăn ở địa phương Giang Nam có sẵn trong nhà thôi.” Nói rồi mời bốn người vào bàn, còn nàng và A Châu ngồi bên dưới tiếp khách.

Đoàn Dự thấy Thính Vũ Cư bốn mặt đều là nước, từ cửa sổ nhìn ra chung quanh mặt hồ khói sóng mờ mờ tới tận chân trời, quay đầu nhìn lại thấy chén bát trên bàn đều là đồ sứ tinh xảo, trong bụng tấm tắc khen thầm.

Một lát sau đầy tớ đem lên mấy món điểm tâm, riêng Cưu Ma Trí có bốn đĩa đồ chay, kế đó mấy món nóng sốt như lăng xào tôm, lá sen nấu măng, thịt quay nấu anh đào, thịt gà hấp trà Long Tỉnh… món nào cũng thật là đặc biệt. Các món cá tôm đều nhồi cánh hoa, trái cây càng thêm màu mè nhưng vẫn đượm mùi hương thiên nhiên. Món nào Đoàn Dự cũng gắp thử vài đũa, món nào cũng tươi ngon hợp khẩu, chàng tán dương luôn miệng: “Non sông gấm vóc thì phải có tuyệt thế giai nhân, không những thông minh lanh lợi mà còn thanh nhã khôn cùng để chế tạo những món ăn mỹ vị thanh cao.”

A Châu hỏi: “Công tử thử đoán xem các món ăn đây do tiểu nữ làm hay do A Bích làm?” Đoàn Dự đáp: “Món thịt quay anh đào, vịt ướp hoa mai, bánh dẻo bảy màu hẳn là do tỉ tỉ làm. Còn món canh măng nấu ngó sen, cá viên phỉ thúy thanh tân mượt mà kia chắc phải do tay A Bích tỉ tỉ?”

A Châu vỗ tay cười nói: “Không ngờ thầy đồ gàn đoán đúng thế. A Bích, người xem mình phải thưởng cho thầy cái gì đây.” A Bích tủm tỉm cười đáp: “Đoàn công tử sai bảo điều gì chúng ta sẽ hết sức tuân theo, chứ bọn kẻ ăn người ở như mình có gì mà thưởng?” A Châu đáp: “Chao ôi, ngươi quả là lanh mồm lanh miệng khéo nói cho vừa lòng người, thảo nào ai ai cũng bảo ngươi tốt, còn ta chẳng ra gì.” Đoàn Dự cười: “Một bên thùy mị ôn hòa, một bên hoạt bát lanh lợi, mỗi cô một vẻ riêng. A Bích tỉ tỉ, lúc ngồi thuyền tại hạ có được nghe tỉ tỉ gấy một khúc đàn bằng cây nhuyễn tiên, dư âm hãy còn văng vẳng bên tai. Vậy dám cả gan xin tỉ tỉ cho nghe một khúc bằng nhạc khí thực. Được thế thì dù ngày mai có bị vị hòa thượng này đốt thành tro cũng không uổng một đời.”

A Bích nhẹ nhàng đứng dậy nói: “Nếu như công tử không hiềm bẩn tai, tiểu nữ xin phô chút tài mọn để vui lòng quý khách.” Nói xong nàng đi ra đằng sau bức bình phong lấy một chiếc dao cầm. A Bích ngồi ngay ngắn trên chiếc cẩm đôn, để cây đàn lên chiếc bàn nhỏ trước mặt, giơ tay vẫy Đoàn Dự cười nói: “Đoàn công tử thử lại đây xem cây đàn của tôi là loại đàn gì?”

Đoàn Dự đi đến trước mặt nàng, thấy chiếc đàn đó so với thất huyền cầm thông thường thì ngắn hơn chừng một thước nhưng lại có đến chín dây, mỗi dây một màu, liền ngẫm nghĩ rồi đáp: “Loại cửu huyền cầm này tại hạ mới nhìn thấy lần đầu.” A Châu đi đến giơ ngón tay bật vào một sợi dây, nghe tưng một tiếng thật to, thì ra dây này làm bằng kim loại. Đoàn Dự ấp úng: “Tỉ tỉ, đàn này…”

Mới nói đến đó, bỗng dưng chàng thấy dưới chân hụt hẫng, nhịn không nổi kêu “Ối” một tiếng, thân hình rơi tọt ngay xuống, rớt vào vật gì mềm nhũn như bông, đồng thời tai nghe tiếng kêu “Ối chết!”, “Hỏng rồi!” liên tiếp, tiếng người rơi xuống nước lõm bõm, rồi thấy thân hình bị ai đó kéo lên. Biến cố đó đã kỳ quái lại đột ngột, chàng gượng ngồi dậy thấy mình ở trong một con thuyền nhỏ, A Châu, A Bích ngồi hai đầu, tay cầm mái giầm đang ra sức chèo. Chàng quay đầu nhìn lại thấy Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi ba người đang chơi với cố ngoi lên mặt nước. A Châu, A Bích chỉ chèo mấy cái chiếc thuyền đã cách Thính Vũ Cư mấy trượng.

Bỗng từ dưới nước một người ướt sũng vọt lên, chính là Cưu Ma Trí. Y vừa lên được Thính Vũ Cư, lập tức giơ tay chặt đứt một cây cột gỗ, nghe vù một tiếng đã cầm ném thẳng vào A Bích ngồi phía sau con thuyền, A Bích kêu lên: “Đoàn Công tử, hụp xuống mau.” Đoàn Dự cùng hai cô gái cùng nằm mọp xuống, nửa cây cột gỗ vụt qua đầu, gió mạnh đến nỗi nghe rất cả cổ.

A Châu khom người chèo mạnh mấy cái, chiếc thuyền lại vọt lên thêm cả trượng. Bỗng dưng nghe tiếng ầm ầm, bình bình vang dội, con thuyền chao đảo nhấp nhô, nước tạt vào làm cho cả ba người đều ướt sũng. Đoàn Dự quay đầu lại thấy Cưu Ma Trí đã đánh vỡ một bên vách Thính Vũ Cư, tay cầm đôn đá, đỉnh hương liên tiếp ném ra. A Bích nhắm chừng những vật nặng đó mà lách thuyền tránh né, còn A Châu vẫn cắm cúi chèo tới trước, mỗi lần vung tay, chiếc thuyền con lại vọt xa thêm mấy thước. Tuy Cưu Ma Trí vẫn liên tiếp ném theo nhưng cự ly mỗi lúc một xa, xem ra y kình lực mạnh mẽ đến đâu cũng ném không tới. Hai cô gái liên tiếp chèo chống, Đoàn Dự quay đầu lại nhìn quanh, thấy Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cũng đã bám được thang trèo trở lại lên Thính Vũ Cư. Chàng trong bụng mừng thầm nhưng lại kêu “Chao ôi” một tiếng, thấy Cưu Ma Trí vừa nhảy xuống một chiếc thuyền khác.

A Châu kêu lên: “Ác hòa thượng đuổi theo kìa!” Nàng gắng sức chèo luôn mấy cái, quay đầu nhìn lại bỗng dưng bật cười ha hả khiến Đoàn Dự cũng tò mò quay lại, thấy chiếc thuyền của Cưu Ma Trí chạy vòng tròn trên mặt nước. Thì ra tuy y võ công cao cường nhưng lại chưa biết lái thuyền.

Ba người thở phào một cái nhưng chẳng bao lâu thấy Cưu Ma Tú đã hơi biết điều khiển, cố gắng chèo thuyền đuổi theo. A Bích thở dài: “Nhà sư này quả là thông minh, việc gì cũng để ý một lát là làm được ngay.” A Châu nói: “Mình phải để y không mò ra được lối đi.” Nàng chèo mấy cái đưa con thuyền vào trong đám lá lăng um tùm. Trong Thái Hồ có hàng ngàn hàng vạn lối mòn, chiếc thuyền nhỏ chỉ cần vòng qua mấy khúc là đã chui tọt vào trong một con lạch nhỏ, Cưu Ma Trí không thể nào đuổi theo được.

Đoàn Dự nói: “Tiếc rằng huyệt đạo trên thân thể tôi chưa được giải, thành thử không thể chèo thuyền giúp hai vị tỉ tỉ được.” A Bích an ủi: “Đoàn công tử chở có lo, nhà sư kia không đuổi kịp đâu.”

Đoàn Dự nói: “Cơ quan trong Thính Vũ Cư kể cũng hay thật. Có ai mà ngờ được chiếc thuyền lại nằm ngay dưới cái ghế tỉ tỉ đánh đàn.” A Bích mỉm cười: “Đúng vậy, khi tôi mời công tử lại xem đàn, A Châu tỉ tỉ búng vào sợi dây một tiếng làm hiệu, người bên ngoài nghe thấy mở cửa hầm ra, tất cả đều rơi xuống hết.” Ba người cùng cười ha hả, A Bích vội bịt miệng lại nói: “Đừng để lão ác tăng nghe thấy.”

Bỗng nghe từ xa có tiếng văng vẳng vọng tới: “A Châu cô nương, A Bích cô nương, hai cô bơi thuyền trở lại mau! Bần tăng đã là bạn với công tủ Mộ Dung có lý đâu lại làm khó dễ các cô?” Chính là tiếng của Cưu Ma Trí, giọng điệu dịu dàng thân thiết khiến người ta bất giác không tự chủ được nữa, muốn làm theo ý lão.

A Châu bần thần nói: “Đại hòa thượng gọi chúng ta trở lại, tất không gia hại đâu.” Đoạn nàng dừng chèo không bơi nữa, trong lòng dường như có vẻ xao xuyến. A Bích cũng nói: “Vậy chúng ta quay lại thôi.” Đoàn Dự nội công vô cùng hùng mạnh nên không bị thanh âm của Cưu Ma Trí mê hoặc, vội nói: “Lão bịp đấy! Tin thế nào được?” Lại nghe giọng ôn hòa trìu mến của Cưu Ma Trí chậm rãi lọt vào tai: “Hai vị tiểu cô nương ơi! Công tử nhà các cô đã về tới, cần gặp các cô ngay, các cô mau mau bơi thuyền trở lại.” A Châu đáp: “Vâng!” rồi lái thuyền quay đầu lại.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu quả công tử Mộ Dung trở về thì chính y lên tiếng gọi A Châu A Bích, hà tất phải mượn lão gọi hộ? Đúng là lão giở phép thu hồn phách cực kỳ lợi hại ra đây.” Chàng chợt nghĩ ra, giơ tay ra ngoài thuyền, hái nấy lá lăng trên mặt nước, vo lại thành một cục nhét vào tai A Bích, sau đó lại bịt vào tai A Châu.

A Châu vừa định thần, thất thanh kêu lên: “Chao ôi! Nguy hiểm thực!” A Bích cũng kinh hoàng nói: “Gã hòa thượng đó biết phép nhiếp hồn. Ta bị lão lung lạc mất rồi.” A Châu quay đầu thuyền lại hết sức chèo, kêu lên: “A Bích, chèo mau lên, mau lên!”

Hai người ra sức chèo chiếc thuyền con đi sâu vào bãi lăng. Một hồi sau, tiếng gọi của Cưu Ma Trí nhỏ dần, sau cùng không còn nghe thấy nữa. Đoàn Dự ra hiệu cho hai cô gái bỏ lá lăng đang bịt lỗ tai ra.

A Bích xoa ngực, thở hắt ra nói: “Sợ quá mất thôi. A Châu tỉ tỉ, mình phải làm sao bây giờ?” A Châu đáp:”Mình cứ lênh đênh trên mặt hồ này, đói thì bóc hồng lăng hoặc móc ngó sen lên mà ăn, dù có ở đây mười ngày hoặc nửa tháng cũng chẳng hề gì.” A Bích mỉm cười nói: “Phương cách đó kể cũng hay, không biết ý Đoàn công tử ra sao?” Đoàn Dự vỗ tay cười đáp: “Phong cảnh trên hồ tại hạ hận không có bốn mắt mà ngắm, huống chi có hai cô làm bạn, ở đây ngao du mươi ngày, thật sướng hơn tiên.” A Bích dẩu môi cười: “Mình đi về hướng đông nam thì dưới đó sông lạch thật nhiều, trừ bọn chài lưới địa phương ra, không ai tìm được đường lối. Nếu như mình vào tới Bách Khúc Hồ, quyết nhiên gã hòa thượng kia không thể đuổi tới nơi được.

Hai cô gái thư thả chèo thuyền, Đoàn Dự nằm nhìn lên những vì sao lấp lánh trên cao, ngoài tiếng mái chèo khuấy nước và tiếng lá lăng chạm vào thành thuyền kêu loạt soạt thì bốn bề tĩnh mịch không một tiếng động, gió mát trên mặt hồ như ướp mùi hoa thơm dìu dịu, nghĩ thầm: “Nếu cứ được thế này mãi thì thật sướng biết bao”. Chàng lại nghĩ “A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ tốt bụng như thế, xem ra Mộ Dung công tử cũng không phải là hạng người hung ác. Huyền Bi đại sư chùa Thiếu Lâm và sư huynh của Hoắc tiên sinh không biết đã bị ai giết? Ôi, trong nhà ta biết bao nhiêu tì nữ phục dịch nhưng có ai sánh được với A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ?”.

Một lúc lâu sau, chàng đang nhắm mắt sắp thiu thiu ngủ bỗng nghe A Bích cười khúc khích nói: “A Châu tỉ tỉ, chị lại đây.” A Châu cũng hạ giọng hỏi nhỏ: “Gì thế?” A Bích giục: “Chị cứ lại đây rồi em nói cho nghe.” A Châu gác mái giầm, đi đến cuối thuyền ngồi xuống. A Bích ôm lấy vai nàng, ghé tai mỉm cười nói nhỏ: “Hai chị em mình làm cách nào cho khỏi mắc cỡ đây.” A Châu cười hỏi: “Chuyện gì vậy?” A Bích nói: “Nói nhỏ thôi. Đoàn công tử đã ngủ chưa?” A Châu đáp: “Không biết nữa, ngươi hỏi thử xem.” A Bích nói: “Hỏi không được. A Châu tỉ tỉ, em… em… em muốn tiểu tiện.”

Hai người nói nhỏ như muỗi kêu nhưng Đoàn Dự nội công cực kỳ hùng hậu nên nghe rõ mồn một, nhưng chàng không dám động đậy, giả vờ ngáy nhè nhẹ để hai nàng khỏi thẹn.

Chỉ nghe A Châu hạ giọng cười nói: “Đoàn công tử ngủ rồi. Ngươi cứ việc đi tiểu đi.” A Bích ngượng nghịu đáp: “Em không dám đâu, lỡ nửa chừng Đoàn công tử tỉnh dậy thì biết làm thế nào?” A Châu nhịn không nổi cười rúc rích, vội vàng đưa tay bịt miệng nói nhỏ: “Có gì mà ngượng? Ai chẳng phải đại tiểu tiện, có gì lạ đâu?” A Bích cầm tay A Châu lắc lắc, năn nỉ: “Chị ơi, nghĩ giùm em xem làm cách nào đây?” A Châu đáp: “Để ta che cho ngươi, nếu như Đoàn công tử tỉnh dậy cũng không nhìn thấy được.” A Bích nói: “Thế nhưng có tiếng động, nghe chảy xuống nước, em… em…” A Châu cười đáp: “Thế thì làm cách nào được bây giờ? Ngươi cứ đi đi, Đoàn công tử không nghe thấy đâu.” A Bích nói: “Không được đâu, có người bên cạnh, em không đi được.” A Châu đáp: “Không đi được thì càng tốt.” A Bích bí quá dường như muốn khóc, chỉ rên rỉ: “Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?”

A Châu lại cười khúc khích nói: “Cũng tại ngươi hết, ngươi không nói ra, ta cũng quên khuấy đi, bây giờ ngươi nói tới nói lui, làm ta cũng mắc đi đại tiện. Thôi đành tới phủ nhà mợ Vương chỉ cách chừng nửa quãng chín, mình chèo tới đó đi ngoài luôn cũng được.” A Bích nói: “Vương thái thái không cho chúng mình léo hánh đến đâu, Bà ấy dữ như chằn, không chừng vừa gặp đã cho mỗi đứa mấy cái tát tai.” A Châu đáp: “Có chi đâu mà sợ. Vương thái thái với lão thái thái hay cãi nhau, nhưng bà lão nay đã mất rồi. Ta với ngươi bất quá chỉ là kẻ ăn người ở, mình có làm gì đâu mà bị tát tai? Mình len lén lên bờ, đi xong lại xuống thuyền, thái thái làm sao biết được?” A Bích đáp: “Vậy cũng được.” Nàng hơi trầm ngâm bỗng nói: “Hay mình kêu Đoàn công tử lên bờ đi ngoài luôn, nếu không… nếu không anh ta tỉnh dây cười mình thì thẹn chết.”

A Châu cười khẩy nói: “Sao người chăm sóc chàng kỹ quá vậy? Không sợ công tử biết mà ghen hay sao?” A Bích thở dài nói: “Những chuyện nhỏ nhặt công tử đâu có để tâm đến làm chi. Mình chỉ là hai con tiểu a đầu, công tử có bao giờ nghĩ tới.” A Châu nói: “Nhưng ta cứ nghĩ đến thì sao? A Bích muội tử, ngươi tối ngày sáng đêm nghĩ đến công tử, việc gì phải giấu.” A Bích thở hắt ra, không trả lời. A Châu vỗ nhẹ lên vai nàng, nói nhỏ: “Ngươi vừa mắc tiểu tiện lại vừa nhớ đến công tử, hai chuyện nói chung thật tức cười quá.” A Bích cũng cười khúc khích nói: “Chị cứ nói giỡn chẳng đâu vào đâu.”

A Châu quay trở lại đầu thuyền cầm mái chèo bơi tiếp. Hai cô gái bơi một hồi thì trời bắt đầu hửng sáng.

Đoàn Dự nội công thâm hậu, huyệt đạo không bị bế lâu, trước đây cứ độ vài giờ Cưu Ma Trí phải điểm thêm mấy cái. Đến lúc này chàng cảm thấy nội tức bắt đầu thông, các huyệt bị điểm từ từ mở ra. Chàng vươn vai ngồi dậy nói: “Tại hạ ngủ được một giấc dài, còn hai vị tỉ tỉ thật là mệt nhọc. Có một việc không tiện nói, xin hai vị đừng trách, ta… ta muốn đi tiểu tiện.” Chàng nghĩ thầm mình tự ý nói ra cho hai cô gái khỏi ngượng ngập.

A Châu, A Bích hai cô cùng bật cười. A Châu nói: “Cũng chẳng còn xa, chúng ta sẽ đến nhà một người họ Vương, lúc đó công tử lên bờ cho thoải mái.” Đoàn Dự đáp: “Thế thì tiện quá.” A Châu bỗng dưng nghiêm mặt nói: “Có điều Vương thái thái tính tình rất là khó chịu, không cho đàn ông lạ lên nhà. Công tử lên bờ rồi lập tức quay trở lại thuyền ngay, đừng ở lại lâu cho khỏi phiền phức.” Đoàn Dự đáp: “Được, tại hạ hiểu rồi”.

Hồi 12: Người đâu gặp gỡ làm chi…

Chiếc thuyền đi tới một rặng liễu, xa xa nhìn thấy trên bờ hồ hoa trà rực rỡ, phản chiếu xuống nước đỏ rực một vùng. Đoàn Dự buột miệng khẽ reo lên một tiếng: “Ô kìa”, A Châu hỏi: “Cái gì thế?” Đoàn Dự chỉ vào bụi hoa nói: “Đây là cây sơn trà ở nước Đại Lý chúng tôi. Làm sao ở Thái Hồ cũng trồng được thứ Điền trà này nhỉ?” Nên biết rằng thứ sơn trà ở Vân Nam có danh tiếng hơn cả nên người ta gọi là Điền trà, Điền là tên thường gọi của Vân Nam. A Châu nói: “Đúng thế! Gia trang này có tên là Mạn Đà Sơn Trang, trồng toàn là hoa sơn trà.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sơn trà còn có tên là hoa Mạn Đà La. Trong việc này lấy tên là Mạn Đà, để xem có những loại danh chủng nào”.

A Châu khua mái chèo đưa con thuyền tới bên bờ nước dưới mấy cây sơn trà. Chàng đưa mắt nhìn qua thấy trên bờ toàn những hoa trà đỏ trắng xen nhau, không có nhà cửa chi hết. Đoàn Dự sinh trưởng ở Đại Lý, hoa trà đối với chàng chẳng có chi là lạ, nghĩ thầm: “Nơi đây sơn trà tuy nhiều nhưng xem chừng chẳng có giai phẩm, có lẽ những loại quí trồng bên trong trang viện”.

A Châu ghé thuyền vào sát bờ, mỉm cười nói: “Đoàn công tử, mình lên một lát rồi xuống ngay” Nàng nắm tay A Bích toan nhảy lên bờ, bỗng nghe tiếng chân bước sột soạt trong rừng hoa rồi một ả tiểu hoàn áo xanh đi ra, trong tay cầm một bó hoa.

Ả này nhìn thấy A Châu, A Bích vội chạy ra bờ hồ, tươi cười nói: “A Châu, A Bích! Các ngươi thật là lớn mật, dám lẻn tới đây. Phu nhân xuống lệnh: Lấy dao rạch ngang rạch dọc mặt hai đứa a đầu cho chúng nó hết còn đẹp như hoa như ngọc nữa.” A Châu cười đáp: “U Thảo tỉ tỉ này, thái thái đi vắng phải không?” U Thảo liếc nhìn Đoàn Dự rồi quay sang nhìn A Châu, A Bích cười nói: “Phu nhân còn bảo: Hai con nhãi đó còn đem cả đàn ông đến Mạn Đà Sơn Trang, phải chặt luôn hai chân gã.” Nàng chưa dứt lời đã cười khúc khích.

A Bích vuốt ngực nói: “U Thảo tỉ tỉ đừng có dọa, chị nói thật hay nói chơi đó?” A Châu cũng cười nói: “Ngươi đừng sợ, nếu như thái thái có nhà thì đời nào cô ả dám cười cợt như vậy? U Thảo muội tử ơi, thái thái đi đâu vậy?” U Thảo cười nói: “Ối giời, ngươi mấy tuổi mà đòi làm chị ta? Sao người đoán được là phu nhân không có nhà?” Rồi ả lại thở dài nói tiếp: “Hai em A Châu, A Bích ơi, mấy khi qua tới đây, ta muốn hai đứa ở chơi vài ngày, có điều…” Nói rồi nàng ta lắc đầu. A Bích nói: “Bộ ta không muốn ở lại đây chơi với ngươi ít lâu hay sao? U Thảo nè, chừng nào ngươi sang chơi bên ta, ta sẽ tiếp chuyện ngươi ba ngày ba đêm, chịu không?”. Hai cô gái vừa nói vừa nhảy lên bờ, A Bích ghé tai U Thảo nói mấy câu, U Thảo cười rộ lên, liếc nhìn Đoàn Dự, A Bích mặt bỗng đỏ bừng. U Thảo một tay nắm A Châu, một tay nắm A Bích nói: “Thôi mình vào nhà chứ?” A Bích quay lại nói: “Đoàn công tử, xin công tử ở nơi đây chờ một lát, bọn muội vào rồi ra ngay.” Đoàn Dự đáp: “Được rồi!” Chàng nhìn theo ba cô a hoàn dắt tay nhau cười cười nói nói đi vào rừng hoa.

Đoàn Dự lên bờ, nhìn quanh quất không thấy ai liền đi ra sau một cây to tiểu tiện. Chàng xuống thuyền ngồi một hồi, không biết làm gì lại đứng lên nghĩ thầm: “Mình thử xem nơi đây hoa Mạn Đà La có giống nào hiếm lạ không.” Thuận chân vừa đi vừa xem hoa, chàng thấy ngoài sơn trà ra không còn một giống gì khác, ngay cả những loại hoa dại thông thường như Khiến Ngưu, Nguyệt Nguyệt Hồng, Tường Vi cũng không thấy. Sơn trà thì nhiều thật nhưng toàn những thứ bình thường, không có giống nào quý cả. Chàng đi được độ mươi trượng mới thấy nhiều loại khá hơn, thỉnh thoảng cũng có một vài bụi xem ra không phải thứ xoàng, có điều vun trồng không đúng cách nên nghĩ bụng: “Trang viện này không đáng gọi là Mạn Đà Sơn Trang, bao nhiêu giống quý bị trồng hỏng kiểu cả.”

Đến đây chàng chợt nghĩ: “Thôi mình quay lại đi thôi, kẻo A Châu và A Bích trở ra không thấy lại nóng ruột.” Đoàn Dự trở gót đi được mấy bước, bỗng kêu lên: “Thôi hỏng rồi”. Thì ra chàng tản bộ trong rừng, chỉ mải xem hoa trà mà quên để ý đường đi nước bước, bây giờ mới giật mình thấy đông một nẻo, tây một lối không biết đâu là đường về, quay trở lại chỗ buộc thuyền không phải dễ, đành nghĩ thầm: “Thôi mình cứ lần ra bờ hồ sẽ hay, bất luận là chỗ nào.”

Thế nhưng chàng càng đi càng lạc lối, chung quanh toàn những cảnh chưa từng qua, trong bụng hoảng thầm. Bất thình lình Đoàn Dự nghe thấy văng vẳng tiếng người nói chuyện, đúng là giọng A Châu. Chàng mừng quá nghĩ thầm: “Thôi mình ở đây chờ nàng ta, đợi nói chuyện xong rồi cùng về một lượt.”

Giọng A Châu nói: “Công tử vẫn mạnh khỏe, ăn uống cũng bình thường. Hai tháng nay công tử luyện môn Đả Cẩu Bổng, chắc là định tỷ thí với các nhân vật Cái Bang.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “A Châu đang nói về Mộ Dung công tử. Mình chẳng nên nghe lỏm chuyện của người khác, nên đi xa xa một chút là hơn. Thế nhưng cũng chẳng nên đi xa quá, nếu không họ nói chuyện xong mình cũng không biết được”. Giữa lúc đó bỗng nghe tiếng một cô gái thở dài.

Tiếng thở dài này lọt vào tai Đoàn Dự làm cho chàng bất giác toàn thân run bần bật, trái tim nhảy loạn lên, hai má nóng bừng bừng. Chàng tự hỏi thầm: “Sao trên đời này lại có người mới thở dài đã nghe êm tai đến thế?”. Rồi một giọng u buồn cất tiếng hỏi: “Chuyến này chàng đi đâu?” Đoàn Dự mới nghe tiếng thở dài đã thấy choáng váng, giờ lại nghe nàng ta nói một câu, toàn thân chàng máu như sôi lên sùng sục. Trong lòng vừa cay đắng vừa đau khổ, phần vì ngưỡng mộ, phần vì ghen tuông nói sao cho hết. Chàng lẩm bẩm: “Rõ ràng nàng hỏi chuyện Mộ Dung công tử. Nàng đối với gã thân thiết là thế, nhớ mong là thế, Mộ Dung công tử ơi, nhà ngươi sao mà may mắn đến vậy?

Lại nghe A Châu đáp: “Lúc công tử ra đi có nói là đến Lạc Dương, có cả Đặng đại ca đi theo. Xin cô nướng cứ yên lòng.”

Người con gái kia chậm rãi nói: “Hai đại thần kỹ Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang là bí mật của họ không truyền ra ngoài. Tàng phổ của bổng pháp và chưởng pháp ghi trong Hoàn Thi Thủy Các bên đó và Lang Hoàn Ngọc Động ở đây đều khiếm khuyết không đầy đủ. Phương pháp vận công hoàn toàn không có, công tử nhà mi làm sao mà luyện được?” A Châu đáp: “Công tử bảo rằng: Tâm pháp của Đả Cẩu Bổng Pháp cũng do con người sáng tạo nên, tại sao ta lại không nghĩ ra được? Có được bổng pháp rồi, mình suy nghĩ để thêm tâm pháp vào hẳn là không khó.”.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lời của Mộ Dung Công tử quả là hữu lý, xem ra y không những thông minh mà còn đầy chí khí.” Thế nhưng lại nghe người con gái kia thở dài một tiếng rồi nói: “Dẫu có sáng tác được đi chăng nữa, cũng phải mười năm tám năm, chứ ngày một ngày hai làm sao xong được? Các ngươi có xem công tử luyện bổng pháp không? Có thấy chỗ nào khó khăn trì trệ không?” A Châu đáp: “Bổng pháp này công tử đã luyện thành thục lắm rồi, từ đầu chí cuối tựa hồ nước chảy mây trôi…” Cô gái kia thất thanh kêu lên một tiếng nói: “Thế là hỏng rồi! Có thực…chàng sử bổng mau lẹ lắm không?” A Châu đáp: “Vâng! Có gì chưa được hay sao?” Người con gái kia nói: “Dĩ nhiên là sai rồi. Tuy ta không biết tâm pháp của Đả Cẩu Bổng Pháp nhưng từ bổng pháp mà suy, có một số đường phải càng chậm càng hay, có đường thì phải lúc nhanh lúc chậm, trong chậm có nhanh, trong nhanh có chậm, không còn nghi ngờ gì nữa. Chàng… chàng chỉ cố cho nhanh, đến khi động thủ với người của Cái Bang, e rằng… e rằng.., các ngươi… có cách gì đưa tin được đến chỗ công tử không?”

A Châu “Ồ” lên một tiếng nói: “Bọn tiểu tỳ không biết công tử lúc này đang ở đâu, cũng không biết đã gặp các trưởng lão của Cái Bang chưa. Khi ra đi công tử có nói là Cái Bang nghi oan cho chúng ta giết Mã phó bang chủ của họ, công tử đến Lạc Dương sẽ phân trần một phen, chưa chắc đã phải động thủ. Nếu không thì công tử với Đặng đại ca hai người làm sao địch được số đông? Chỉ ngại hai bên ngôn ngữ bất đồng… nói năng chưa kịp rõ ràng…”

A Bích hỏi lại: “Cô nương, môn Đả Cẩu Bổng Pháp nếu đánh nhanh thì thực là không ổn hay sao?” Thiếu nữ đáp: “Dĩ nhiên là không ổn, còn thực giả gì nữa? Sao lúc chàng… chàng ra đi, không đến đây gặp ta?” Nàng ta vừa nói vừa dậm chân nhè nhẹ, tỏ ra bực bội, lại có vẻ lo lắng, tiếng dậm chân quả là dịu dàng dễ nghe.

Đoàn Dự rất lấy làm kỳ, nghĩ thầm: “Ta ở Đại Lý nghe người ta nói đến Cô Tô Mộ Dung là vừa sợ hãi vừa kính trọng. Thế nhưng nghe cô nương này nói, dường như võ nghệ của Mộ Dung công tử còn phải nhờ nàng chỉ điểm. Không lẽ một cô thiếu nữ nhỏ tuổi như vậy lại có bản lãnh ghê gớm đến thế ư?” Chàng còn đang nghĩ ngợi xuất thần, đầu đụng ngay vào một cành cây đưa ngang, buột miệng kêu lên một tiếng, vội đưa tay lên bịt miệng thì đã không kịp nữa rồi.

Cô gái kia hỏi: “Ai đó?” Đoàn Dự biết không còn trốn tránh được nữa, liền tằng hắng một tiếng, từ sau bụi cây nói: “Tại hạ Đoàn Dự, mải mê thưởng ngoạn kỳ hoa dị thảo trong quí trang vô tình lỡ bước tới đây, xin được thứ tội.” Cô gái kia hỏi nhỏ: “A Châu! Phải chăng đây là vị tướng công cùng tới đây với các ngươi?” A Châu vội đáp: “Thưa phải! Xin cô nương đừng để tâm, chúng tôi đi ngay bây giờ.” Thiếu nữ kia đáp: “Hãy khoan! Ta muốn viết một phong thư cho chàng, dặn là nếu như bất đắc dĩ phải động thủ với người của Cái Bang thì nhất quyết chớ có dùng Đả Cẩu Bổng Pháp, chỉ nên dùng võ công của mình thôi. Không thể nào gậy ông đập lưng ông được đâu! Các ngươi liệu cách mà đưa đến cho công tử.” A Châu tỏ vẻ ngần ngại đáp: “Cái đó… thái thái từng dặn là…” Thiếu nữ hỏi: “Sao? Bọn mi chỉ nghe lời phu nhân, không nghe lời ta chăng?” Trong giọng nàng dường như có vẻ hơi giận. A Châu vội đáp: “Chỉ cần cô nương không để cho thái thái hay, tì tử dĩ nhiên là tuân lệnh, huống chi đây là vì công tử.” Cô gái nói: “Hai đứa theo ta đến thư phòng để lấy thư.” A Châu dường như hơi miễn cưỡng, một hồi sau mới đáp: “Vâng!”

Đoàn Dự từ khi nghe cô gái thở dài, về sau càng nghe nàng nói càng thấy mê man. Giờ thấy nàng toan trở gót về phòng, chàng nghĩ bụng: “Nàng đi rồi, e rằng không còn dịp nào được gặp mặt nữa thì thật là thắc mắc suốt đời. Ta đành mạo phạm nhìn cho thấy mặt rồi bị trách mắng gì cũng chịu”. Chàng thu hết cản đảm nói: “A Bích tỉ tỉ, cô ở lại đây với tôi được không?” Chàng vừa gọi vừa bước tới. Thiếu nữ nghe thấy chàng đi tới vội la lên một tiếng “Ô hay” rồi quay đi.

Đoàn Dự ở trong bụi cây bước ra, chỉ thấy một nữ lang mặc áo tơ màu cánh sen đang nhìn lên những bông hoa, thân hình mảnh dẻ, tóc dài buông xõa xuống lưng, chỉ buộc hở bằng một dải lụa màu bạc, Đoàn Dự mới trông thấy bóng dáng sau lưng nàng, bên mình như có khói mây vương tỏa, cốt cách ra vẻ thần tiên, dường như không phải người trần tục. Chàng liền vái dài nói: “Tại hạ Đoàn Dự xin bái kiến cô nương.”

Cô gái dậm chân nhè nhẹ, phụng phịu nói: “A Châu, A Bích! Các ngươi thật là rắc rối! Ta có gặp mặt nam giới bên ngoài bao giờ đâu?” Nói rồi, nàng đi thẳng về phía trước, qua mấy khúc quanh đã khuất vào trong bụi hoa mất rồi.

A Bích nhìn Đoàn Dự mỉm cười nói: “Đoàn công tử, vị cô nương đây rất khó tính khó nết. Thôi mình mau mau đi ra.” A Châu cũng mỉm cười nói: “May nhờ có Đoàn công tử đến giải vây, không thì thế nào cũng bị Vương cô nương bắt đưa thư rất là phiền phức. Hai cái mạng nhỏ xíu của chị em chúng tôi e rằng nguy mất.”

Đoàn Dự lật đật chạy ra bị nữ lang nói mấy câu làm cụt hứng, tưởng còn bị A Châu, A Bích oán ghét nữa là khác, nào ngờ lại được cảm ơn thật là ngoài dự tính. Chàng nhìn người con gái tuy đã đi xa nhưng hình bóng vẫn còn vấn vương trước mắt, cảm thấy bâng khuâng, lại ngẩn ngơ nhìn theo bóng nàng lẫn sau những lùm hoa.

A Bích giật nhẹ tay áo chàng, Đoàn Dự cũng không hay biết. A Châu cười nói: “Đoàn công tử, thôi mình đi.” Đoàn Dự chân như đóng đinh xuống đất, phải mất một chốc mới như choàng tỉnh hỏi lại: “Mình phải đi ngay hay sao?” Chàng thấy A Châu, A Bích đã cất bước đi trước nên đành lẽo đẽo theo sau, đi một bước lại ngoái đầu, quyến luyến mãi không thôi.

Ba người về đến thuyền, A Châu và A Bích liền cầm mái giầm chèo ngay. Đoàn Dự vẫn ngẩn ngơ nhìn những đóa hoa trà trên bờ, nghĩ bụng: “Đoàn Dự ta nếu như vô phúc, sao lại được nghe cô nương đó thở dài một tiếng thỏ thẻ mấy câu, rồi lại được thấy phong thái thần tiên kia? Mà nếu như có phúc, sao đến mặt nàng cũng chưa được ngó qua?” Chàng thấy những bụi hoa trà xa dần, trong lòng dâng lên một nỗi u hoài man mác. Bỗng ngay lúc đó, A Châu kêu lên một tiếng kinh hoàng, lắp bắp: “Thái thái… thái thái về kìa.”

Đoàn Dự quay đầu nhìn thấy trên mặt hồ một chiếc thuyền đang lướt tới như bay, trong chớp mắt đã đến gần. Trên đầu thuyền vẽ đầy các loại hoa sặc sỡ, đến gần mới thấy toàn là hoa trà. A Châu, A Bích vội đứng dậy khép nép cúi đầu, vẻ mặt cực kỳ nghiêm cẩn. A Bích luôn tay ra hiệu cho Đoàn Dự, bảo chàng cũng đứng lên. Đoàn Dự mỉm cười lắc đầu nói: “Bao giờ phu nhân bước ra đầu thuyền lên tiếng, ta sẽ đứng lên để tỏ lòng kính cẩn. Nam tử hán đại trượng phu không thể quá khúm núm hạ mình như thế.”

Bỗng từ trong khoái thuyền có tiếng đàn bà quát vọng ra: “Tên đàn ông nào dám to gan bén mảng đến Mạn Đà Sơn Trang đó? Mi không biết bất luận gã đàn ông nào đã vào đây đều bị chặt chân hay sao?” Giọng nói trong trẻo dễ nghe nhưng cực kỳ oai nghiêm. Đoàn Dự đáp: “Tại hạ Đoàn Dự trên đường lánh nạn đi ngang qua quí trang, thực không có ý đường đột chút nào, xin nghiêng mình tạ lỗi.” Người đàn bà kia hỏi: “Ngươi họ Đoàn ư?” Trong âm thanh có chiều ngạc nhiên, Đoàn Dự đáp: “Chính thế.”

Người kia lại nói tiếp: “A Châu, A Bích hai con nhãi kia đi quàng đi xiên phải chăng? Thằng lỏi Mộ Dung Phục điều hay không học, chỉ chuyên giở chuyện tầm phào.” A Châu đáp: “Khải bẩm thái thái, tiểu tì bị địch nhân đuổi gắt quá nên phải chạy tới Mạn Đà Sơn Trang. Công tử tiểu tì ra đi rồi. Việc tiểu tì đến đây, công tử quả không biết tí gì.” Người đàn bà trên thuyền cười khẩy: “Hứ, các ngươi chỉ được dẻo mồm cãi lý là hay. Không được đi đâu hết, mau theo ta.” A Châu, A Bích cùng đáp: “Dạ.” Hai nàng liền chèo chiếc thuyền con đi theo đằng sau, lúc này cách Mạn Đà Sơn Trang không xa mấy nên chỉ chốc lát đã nhìn thấy bờ.

Tiếng ngọc đeo loảng xoảng vang lên, trong thuyền thị nữ áo xanh xếp hàng đôi cầm trường kiếm đi ra, lưỡi kiếm sáng loáng, ánh kiếm lập lòe tựa hoa bay. Mười tám người xếp thành hai hàng, kiếm giữ ngang hông, lưỡi chĩa lên trời. Sau khi họ đã an vị, từ trong khoang lại bước ra một vị nữ lang. Đoàn Dự vừa nhìn thấy tướng mạo nữ lang, nhịn không nổi kêu lên một tiếng thất thanh, mồm há hốc tưởng như đang nằm mộng. Thì ra người đàn bà đó mặc áo dài màu vàng nhạt, từ y phục cho đến đồ trang sức hệt như pho ngọc tượng trong thạch động bên nước Đại Lý. Có điều nữ lang này tuy xinh đẹp nhưng đã đứng tuổi, trạc độ tứ tuần, còn pho tượng kia là một thiếu nữ chừng mười tám mười chín tuổi. Đoàn Dự sau cơn kinh hoàng nhìn kỹ lại tướng mạo mỹ phụ kia mới nhận ra là so với pho tượng ngọc thì mắt mũi miệng đều không bằng mà cũng nhiều tuổi hơn nên vẻ mặt dầy dạn phong trần, nhưng cũng giống đến năm sau phần mười, A Châu, A Bích thấy Đoàn Dự cứ giương mắt nhìn phu nhân trừng trừng có vẻ cực kỳ vô lễ, trong bụng kêu khổ liên hồi, liên tiếp ra hiệu bảo chàng quay đi nơi khác nhưng đôi mắt Đoàn Dự vẫn dán chặt vào mặt bà ta. Vương phu nhân liếc mắt nhìn Đoàn Dự nói: “Gã này vô lễ. Trước hết chặt chân gã rồi mới móc mắt và cắt lưỡi.” Một ả thị nữ khom lưng đáp: “Xin vâng!” .

Đoàn Dự thót cả ruột, nghĩ thầm: “Giá như họ giết mình đi còn hơn. Đằng này họ chặt chân, móc mắt, cắt lưỡi, sống không sống được, chết chẳng chết cho, tội gì đâu mà to thế?” Đến bây giờ chàng mới thấy trong lòng sợ hãi, quay đầu lại nhìn A Châu, A Bích thì thấy hai cô mặt xám như gà cắt tiết, người đứng đờ ra như tượng gỗ.

Vương phu nhân lên bờ rồi, trên thuyền lại đi ra thêm hai tên thị nữ áo xanh nữa, kéo theo sau hai người đàn ông mặt mày ủ rũ tay bị xích sắt khóa chặt. Một người mi thanh mục tú, trông ra dáng con nhà giàu có, còn một người Đoàn Dự nhận ra được là một đệ tử phái Vô Lượng tên là Đường Quang Hùng. Đoàn Dự lạ quá: “Tên này ở tận Đại Lý sao lại bị Vương phu nhân bắt đem tới Giang Nam làm gì?”

Bỗng nghe Vương phu nhân quay sang hỏi Đường Quang Hùng: “Rõ ràng mi là người nước Đại Lý, sao không chịu nhận đi?” Đường Quang Hùng đáp: “Tại hạ ở Vân Nam, quê quán không thuộc về nước Đại Lý.” Vương phu nhân lại hỏi: “Thế quê mi cách Đại Lý bao xa?” Đường Quang Hùng đáp: “Hơn bốn trăm dặm.” Vương phu nhân nói: “Chưa tới năm trăm dặm thì cũng coi như người Đại Lý rồi. Đem y chôn sống dưới gốc Mạn Đà La để bón cho cây.” Đường Quang Hùng hoảng hốt kêu lên: “Nhưng tại hạ phạm tội gì mới được chứ? Nếu không rõ thì chết cũng không nhắm mắt.” Vương phu nhân cười khẩy: “Cứ là người Đại Lý hoặc người họ Đoàn mà gặp ta là bị chôn sống, chỉ có thế thôi. Mi đến Tô Châu làm chi? Đã dám đến Tô Châu lại dám mở mồm nói giọng Đại Lý, ba la bộ lô nơi quán rượu là sao? Tuy mi không phải ở Đại Lý, nhưng là người lân cận nước Đại Lý thì cũng thi hành một luật.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ối trời, phải chăng mụ ta tính nói xỏ mình? Ta chẳng cần chờ mụ hỏi, cứ nhận trước đi cho rồi.” Chàng bèn lớn tiếng nói: “Ta là người nước Đại Lý, lại chính trong họ Đoàn. Ngươi muốn chôn sống ta thì hạ thủ ngay đi!” Vương phu nhân lạnh lùng đáp: “Ngươi đã báo danh rồi. Tên là Đoàn Dự chứ gì? Được lắm! Người họ Đoàn nước Đại Lý đâu có được chết dễ dàng như thế?”

Phu nhân vẫy tay một cái, tên thị nữ lôi ngay Đường Quang Hùng đi. Không biết y bị điểm huyệt hay bị trọng thương mà không thấy kháng cự chút nào, chỉ kêu ầm lên: “Thế gian sao lại có cái luật lệ kỳ dị như vậy? Mấy trăm vạn người nước Đại Lý liệu mụ có giết hết được không?” Thế nhưng y bị kéo vào trong rừng hoa mỗi lúc một xa, tiếng kêu cũng nhỏ dần.

Vương phu nhân nghiêng đầu đi một chút nhìn chàng thanh niên này thanh mắt sáng hỏi: “Mi có điều chi muốn nói nữa chăng?” Chàng thanh niên vội quỳ rạp xuống đất, dập đầu lạy luôn mấy cái nói: “Gia phụ làm quan tại triều, dưới gối chỉ có mình tiểu nhân là con. Xin phu nhân tha mạng cho. Dù phu nhân muốn điều chi, gia phụ cũng nhất định vâng theo.” Vương phu nhân lạnh lùng đáp: “Cha mi làm quan lớn trong triều, lẽ nào ta không biết? Ngươi muốn sống cũng chẳng khó gì, hôm nay về nhà giết vợ đi, rồi sáng mai làm cho đủ lễ nghi mà cưới Miêu thị, kẻ tư tình với mi. Mi có bằng lòng không?” Chàng thanh niên ấp úng: “Về việc đang tay… giết vợ, tiểu nhân không dám làm. Còn việc mối lái cưới xin đàng hoàng để lấy Miêu thị thì song thân tiểu nhân nhất định không chịu. Không phải là tiểu nhân…”. Y chưa dứt lời phu nhân đã ra lệnh: “Đem chôn sống đi!” Tên thị nữ đang dắt y chỉ “vâng” một tiếng rồi lôi xệch đi. Chàng thanh niên sợ run bắn người, vội nói: “Tiểu nhân xin… xin tuân mệnh.” Vương phủ nhận nói: “Tiểu Thúy! Mi áp giải gã về thành Cô Tô, phải chính mắt nhìn thấy gã ra tay giết vợ, cùng Miêu cô nương thành thân rồi hãy về đây phục mệnh.” Tiểu Thúy đáp lời: “Dạ!” Ả lôi gã công tử kia lên bờ đi về phía bến đò, xuống một con thuyền nhỏ.

Gã kia miệng vẫn năn nỉ: “Xin phu nhân mở lượng từ bi, vợ chồng tiểu nhân không thù không oán, phu nhân lại không quen biết Miêu cô nương. Tiểu nhân cũng chưa từng quen biết phu nhân, hà tất phu nhân bắt tiểu nhân giết vợ để lấy người khác làm chi? Từ nay tiểu nhân quyết không dám làm điều gì đắc tội nữa.” Vương phu nhân nói: “Mi đã có vợ rồi, sao còn đi dùng lời ngon ngọt để tán tỉnh các cô gái khác? Ta không biết thì thôi, một khi đã biết ra đều xử theo đường lối này. Vả lại mi có phải mới phạm lần đầu đâu, còn oán trách nỗi gì? Tiểu Thúy, vụ này là vụ thứ mấy rồi?” Tiểu Thúy đáp: “Những chỗ tiểu tì nghe Thường Thục, Đan Dương, Vô Tích, Gia Hưng cả thảy bảy vụ. Còn những vụ ở chỗ khác thì phu nhân hỏi Tiểu Lan, Tiểu Thi sẽ rõ.” Gã công tử kia nghe cô ta liệt kê ra như thế, bủn rủn cả người, luôn miệng kêu than, Tiểu Thúy quạt mái chèo, bơi thuyền đi luôn.

Đoàn Dự thấy Vương phu nhân hành động cực kỳ ngang ngược, không đếm xỉa đến lý lẽ thì miệng há hốc ra đứng chết trân, trong bụng chỉ nghĩ được bốn chữ: “Lý nào lại thế?”, tự nhiên buột miệng: “Lý nào lại thế? Lý nào lại thế?” Vương phu nhân hừ một tiếng rồi nói: “Trên đời chẳng có việc chi ta phải đợi có lý mới làm.”

Đoàn Dự vừa thất vọng lại vừa khó chịu. Chàng nhớ lại bữa trước vào thạch động núi Vô Lượng, được thấy pho tượng thần tiên liền xiết bao ngưỡng mộ. Bây giờ con người trước mắt tuy hình dáng tương tự nhưng lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành vi lại chẳng khác gì yêu ma quỉ quái.

Chàng còn đang cúi đầu ngơ ngẩn thì thấy bốn đứa nữ tì quay vào khoang thuyền bưng ra bốn chậu hoa. Chàng vừa trông thấy, tự nhiên tinh thần lại thấy phấn khởi. Nguyên bốn chậu hoa này đều là những giống sơn trà rất hiếm. Trong thiên hạ nói về sơn trà thì Đại Lý đứng đầu, mà phủ Trấn Nam vương thì phải nói là số một trong nước Đại Lý. Đoàn Dự từ bé đã quen ngắm hoa trà, mỗi khi nhàn rỗi vẫn thường ngồi cùng bọn trồng hoa bàn bạc phê bình, nên dở hay xấu tốt chàng thuộc nằm lòng chẳng cần học cũng biết, chẳng khác nào con nhà nông phân biệt lúa má hay con cháu ngư ông sành sỏi các loại cá tôm. Chàng đi lang thang từ sáng chưa thấy gốc hoa nào được gọi là giai phẩm, không khỏi thấy bốn chữ Mạn Đà Sơn Trang danh cao hơn thực, bây giờ nhìn thấy bốn chậu hoa này liền tấm tắc: “Quả nhiên cũng có được ít nhiều”.

Bỗng nghe Vương phu nhân gọi: “Tiểu Trà! Bốn chậu Mãn Nguyệt này khó kiếm lắm đấy! Mi phải trông nom chăm chút nghe!” Ả thị nữ tên gọi Tiểu Trà đáp: “Vâng!” Đoàn Dự nghe bà ta nói sai bét liền bật ra một tiếng cười khẩy. Vương phu nhân lại tiếp: “Đi trên mặt hồ gió to, bốn chậu trà để luôn trong thuyền mấy ngày, thiếu ánh mặt trời chiếu vào, mi phải đem ra phơi nắng rồi bón thêm phân cho nó.” Tiểu Trà lại “vâng” một tiếng. Đoàn Dự không còn nhịn thêm được nữa, lớn tiếng cười ha hả.

Vương phu nhân nghe tiếng cười có vẻ khác lạ, bèn hỏi: “Mi cười gì?” Đoàn Dự đáp: “Ta buồn cười cho bà đã chẳng biết tí gì về sơn trà mà lại học đòi trồng trà. Những loại giai phẩm như thế này vào tay bà thật có khác gì hồng cho chuột vọc, ngọc để ngâu vầy, đem đàn chụm lửa, bắt hạc nấu canh, thật là uổng phí. Tiếc thay, tiếc thay! Đau lòng, đau lòng!”

Vương phu nhân nổi giận nói: “Mi bảo ta không hiểu sơn trà, dễ thường cái ngữ mi hiểu được chăng?” Đột nhiên bà ta chợt nghĩ “Ừ, gã này là con cháu họ Đoàn nước Đại Lý, không chừng gã hiểu sơn trà cũng nên.” Nghĩ vậy thì nghĩ nhưng phu nhân vẫn khinh khỉnh nói: “Bản trang đặt tên là Mạn Đà Sơn Trang, trong nhà ngoài ngõ chỗ nào cũng toàn là hoa Mạn Đà La mọc tốt như rừng, sao lại bảo là ta không biết trồng sơn trà?” Đoàn Dự mỉm cười: “Cái thứ hoa hạng bét kia vứt đâu mà chẳng mọc, chẳng khác con gái nhà quê vai u thịt bắp chỉ ăn khoai cũng béo tốt. Còn bốn chậu trà này là bậc quốc sắc thiên hương, nếu bà trồng được nó tươi tốt thì ta quyết không phải người họ Đoàn.”

Vương phu nhân rất thích hoa trà, không kể tốn phí đi các nơi lùng tìm giai phẩm, thế nhưng cứ đem về Mạn Đà Sơn Trang thì các thứ trà hiếm có chỉ được một năm hay dăm bảy tháng rồi sinh bệnh mà chết, bà ta thường cũng vì thế mà buồn phiền. Giờ thấy Đoàn Dự nói vậy, phu nhân không giận mà lại mừng thầm, tiến lại hai bước hỏi: “Bốn chậu trà này có gì đặc biệt? Muốn trồng cho đúng cách phải làm thế nào?” Đoàn Dự nói: “Nếu bà muốn học hỏi thì phải có cái lễ phép của người muốn học. Còn bà muốn làm oai làm phước thì chặt chân cắt lưỡi ta trước rồi mới hỏi cũng chưa muộn mà.”

Vương phu nhân tức mình nói: “Mi muốn chặt chân phỏng có khó gì? Tiểu Thi đâu! Mi chặt chân trái gã trước!” Ả nữ tỳ tên gọi Tiểu Thi “vâng” một tiếng rồi xách kiếm bước ra. A Bích vội la lên: “Thưa phu nhân! Không nên chặt chân Đoàn công tử vội. Công tử là người rất quật cường, thà chết chứ không chịu nói đâu.” Thực ra Vương phu nhân cũng chỉ hăm dọa chàng mà thôi, liền giơ tay trái lên, Tiểu Thi dừng bước. Đoàn Dự cười nói: “Sao bà không chặt hai chân ta để bón bốn khóm bạch trà này cho tốt? Bốn cây trà quý này không chừng sẽ ra hoa lớn bằng miệng tô. Ha ha, hay thật!”

Vương phu nhân vốn cũng có ý đó, nay nghe chàng nói có vẻ như mỉa mai, không biết nói sao, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo: “Mi chỉ toàn ba hoa. Ta hỏi mi: bốn chậu bạch trà của ta quý thì quý ở chỗ nào, nói cho ta nghe thử? Nếu mi nói nghe được, ta sẽ theo lễ đối đãi cũng chưa muộn.” Đoàn Dự đáp: “Vương phu nhân, bà bảo bốn chậu hoa trà này tên là Mãn Nguyệt, sai bét. Đến như tên hoa bà còn chưa rành, làm sao dám gọi là kẻ biết chơi hoa? Trong số này một chậu tên là Hồng Trang Tố Lý, một chậu tên là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm (vuốt cào mặt mỹ nhân).” Vương phu nhân lạ lùng: “Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm? Tên hoa gì mà kỳ thế? Đó là cây nào?” Đoàn Dự nói: “Bà muốn thỉnh giáo tại hạ thì phải nói cho lễ phép.”

Vương phu nhân bị chàng ép cho không biết phải làm sao, nhưng nghe nói bốn chậu trà này có những cái tên đặc biệt, trong lòng hớn hở liền mỉm cười nói: “Hay lắm! Tiểu Thi đâu! Mi bảo nhà bếp thiết yến tại Vân Cẩm Lâu để ta khoản đãi Đoàn công tử.” Tiểu Thi vâng dạ đi ngay.

A Châu, A Bích nhìn nhau, hai nàng thấy Đoàn Dự chẳng những không chết lại còn được Vương phu nhân tiếp đãi vào hạng thượng tân, thật hoan hỉ không để đâu cho hết.

Đứa tì nữ áp giải Đường Quang Hùng bây giờ đã quay lại bẩm bảo: “Gã họ Đường người Đại Lý kia đã đem chôn dưới gốc hoa màu đỏ nơi Hồng Hà Lâu rồi.” Đoàn Dự trong bụng xót xa. Vương phu nhân dường như không mảy may động tâm, quay lại nói: “Xin mời Đoàn công tử.” Đoàn Dự đáp: “Vãn sinh mạo muội, xin hiền chủ nhân thứ lỗi.” Vương phu nhân đáp: “Đại hiền giá lâm, Mạn Đà Sơn Trang đến cỏ cây cũng thêm phần rạng rỡ.” Hai người vừa đối đáp những câu khách sáo vừa đi rất ung dung, khác hẳn lúc nãy sinh mệnh Đoàn công tử dường như ngàn cân treo đầu sợi tóc.

Vương phu nhân đưa Đoàn Dự qua một chiếc cầu đá, theo một con đường mòn đến trước một tòa tiểu lâu. Đoàn Dự nhìn thấy dưới mái hiên có một tấm biển viết ba chữ Vân Cẩm Lâu màu xanh theo lối chữ triện, dưới lầu trước sau trái phải chỗ nào cũng trồng toàn hoa trà. Có điều những giống trà ở đây mà ở Đại Lý chỉ đáng đứng vào hàng thứ ba, thứ tư trở xuống. Đình tạ, lầu các cực kỳ lịch sự mà cỏ hoa lại tầm thường nên mất cả vẻ tương xứng.

Vương phu nhân lộ vẻ đắc ý nói:”Đoàn công tử! Bên quý quốc nhiều trà thật nhưng có lẽ không bì kịp đây.” Đoàn Dự gật đầu đáp: “Vâng! bên Đại Lý quả không trông những thứ trà này.” Vương phu nhân lại càng tự đắc hỏi: “Thật ư?” Đoàn Dự nói: “Bên nước tôi từ kẻ dân dã, ngu phu tục tử cũng biết các loại hoa này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang gì.” Gương mặt Vương phu nhân tức thời biến sắc, hỏi: “Công tử nói sao? Hoa trà của ta đây là những thứ không ra gì? Thế thì công tử khinh người quá!” Đoàn Dự nói: “Phu nhân không tin tôi thì đó là quyền của phu nhân.” Chàng vừa nói vừa chỉ một khóm hoa trà có vân ngũ sắc trước lầu, nói tiếp: “Tỷ như khóm trà này phu nhân cho là quý lắm ư? Đẹp thật, cái lan can bên cạnh đẹp thật!” Chàng tấm tắc khen cái lan can đẹp mà hoa thì không đếm xỉa gì đến, chẳng khác nào người xem chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen giấy tốt.

Khóm hoa trà này có bông hồng, bông trắng, bông tía, bông vàng quả là rực rỡ, từ trước tới nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay nghe Đoàn Dự có ý mỉa mai, lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Đoàn Dự nói: “Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?” Vương phu nhân hậm hực đáp: “Ở đây không có tên gì đặc biệt, chỉ gọi là Ngũ Sắc Trà Hoa.” Đoàn Dự mỉm cười: “Bên Đại Lý chúng tôi gọi nó là Lạc Đệ Tú Tài.” Vương phu nhân bĩu môi nói: “Tên gì mà khó nghe thế, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Khóm hoa này đủ màu mỹ lệ đường hoàng, sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?” Đoàn Dự nói: “Phu nhân thử đếm coi! Khóm trà đó có cả thảy mấy màu?” Vương phu nhân đáp: “Ta đã đếm qua, cũng phải có đến mười lăm, mười sáu màu khác nhau.” Đoàn Dự nói: “Cả thảy là mười bảy màu. Bên Đại Lý tôi có thứ trà kêu bằng Thập Bát Học Sĩ. Đó là thứ quý nhất thiên hạ. Cả khóm có mười tám đóa mà mầu sắc không đóa nào giống đóa nào: hồng thì toàn hồng, tía cũng toàn tía, chứ không hỗn tạp. Về hình dạng cũng khác nhau, mỗi đóa có một vẻ đẹp riêng. Cả mười tám đóa nở cùng một lúc, tàn tạ cũng trong một giờ. Phu nhân đã được xem chưa?” Vương phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu đáp: “Thiên hạ có thứ trà quý thế kia ư? Ta chưa được nghe thấy bao giờ.”

Đoàn Dự nói: “Kém Thập Bát Học Sĩ một mức là Thập Tam Thái Bảo, một cây có mười ba đóa hoa khác nhau. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là tám đóa khác nhau trên một cây, Thất Tiên Nữ là bảy đóa, Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa, Nhị Kiều là một trắng một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như hoa đỏ có pha mầu trắng, hoặc hoa trắng có pha sắc tía đều là hạng kém.” Vương phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, mắt nhìn xa xăm lẩm bẩm một mình: “Sao y không nói cho ta biết nhỉ?”

Đoàn Dự nói tiếp: “Trong Bát Tiên Quá Hải phải có hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đỏ, dù đủ tám màu cũng không được gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng dưới Bát Tiên Quá Hải một bậc.” Vương phu nhân nói: “Thế ư?” .

Đoàn Dự lại tiếp: “Riêng về Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm, trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất tượng trưng cho Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng nhỏ hơn tượng trưng cho Lý Tĩnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất tượng trưng cho Hồng Phất Nữ. Nếu như đóa màu hồng lại to hơn hai đóa kia thì là phó phẩm, hai đằng một trời một vực.” Người ta thường ví quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Đoàn Dự có tất cả những loại này nên chàng nói vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân ngồi nghe và chiều thú vị, than rằng: “Ngay phó phẩm ta cũng chưa được thấy qua chứ đừng nói đến chính phẩm.”

Đoàn Dự lại trỏ vào cây hoa trà ngũ sắc phê bình: “Luận về tư cách loại này so với Thập Bát Học Sĩ thì còn thiếu một màu, ngoài ra màu sắc lại bác tạp không thuần, nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong, chẳng khác gì Đông Thi giả nhăn mặt. Tỷ như sĩ tử văn bài kém cỏi, lẽ tất nhiên thi rớt nên mới có cái tên Lạc Đệ Tú Tài.” Vương phu nhân nghe thích quá, bật cười nói: “Kể ra đúng đấy. Nhưng cái tên sao vừa chanh chua, vừa khắc bạc, hẳn là do đám nho sinh đặt ra.”

Đến lúc này, Vương phu nhân đã mười phần tin tưởng Đoàn Dự sành sỏi trà hoa, bèn dẫn chàng lên trên Vân Cẩm Lâu. Đoàn Dự thấy trên lầu trần thiết sang trọng đẹp đẽ, giữa là một bức trung đường vẽ cảnh khổng tước khai bình, hai bên là hai câu đối: “Lá rậm mây không sánh kịp, Hoa tươi tuyết phải ghen thầm” (Tất diệp vân sai mật, Trà hoa tuyết đố nghiên). Chẳng mấy chốc đã thấy gia phân bày tiệc rượu, Vương phu nhân mời Đoàn Dự ngồi bên trên, còn mình ngồi bên dưới để bồi tiếp.

Những món ăn trong tiệc hôm nay thật khác xa bữa tiệc A Châu, A Bích khoản đãi. Các món ăn hai cô a hoàn mời chàng thì lấy thanh nhã là chính, trong những món thật tầm thường có ẩn những nét tinh xảo công phu. Bữa tiệc ở Vân Cẩm Lâu hôm nay thì lại chủ về sang trọng phô trương, tay gấu, vây cá đều toàn những món cực kỳ quý hiếm. Thế nhưng Đoàn Dự sinh trưởng nơi chốn đế vương, những món quí báu đến mấy chàng cũng coi là thường, nên lại thấy bữa tiệc ở Mạn Đà Sơn Trang kém xa ở Cầm Vận Tiểu Trúc.

Rượu được ba tuần, Vương phu nhân hỏi: “Họ Đoàn Đại Lý là thế gia trong võ lâm, cớ sao công tử không tập võ?” Đoàn Dự đáp: “Người họ Đoàn ở Đại Lý đông lắm, con cháu hoàng tộc tôn thất thì đều có tập, còn như vãn sinh là dân dã tầm thường thì làm gì biết võ công.” Chàng nghĩ mình sống chết ở trong tay người thật là bệ rạc, không nên thổ lộ gia thế làm gì để khỏi làm giảm uy danh của bá phụ và gia gia. Vương phu nhân hỏi tiếp: “Công tử con nhà bách tính tầm thường hay sao?” Đoàn Dự đáp: “Vâng!” Vương phu nhân hỏi tiếp: “Thế công tử có quen biết người nào họ Đoàn trong hoàng thất hay không?” Đoàn Dự một mực chối phăng: “Tuyệt nhiên không biết.”

Vương phu nhân ngơ ngẩn hồi lâu rồi xoay qua đề tài khác, nói: “Vừa rồi công tử phẩm bình xác đáng về các thứ hoa trà khiến cho ta như được vén đám mây mù, nhìn thấy trời cao. Bốn chậu bạch trà lần này ta kiếm được, kẻ trồng hoa trong thành Tô Châu bảo là Mãn Nguyệt, công tử lại bảo một chậu là Hồng Trang Tố Lý, còn một chậu là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm. Vậy có những điểm nào phân biệt, xin công tử nói rõ cho biết?” Đoàn Dự đáp: “Chậu hoa có đóa lớn màu trắng lại lấm tấm chấm đen kia thì gọi là Mãn Nguyệt. Những vệt đen đó tượng trưng các cành quế nơi cung trăng. Cây hoa cánh trắng có hai đốm hình quả trám màu đen kia tên gọi là Nhãn Nhị Mị (đôi mắt đưa tình).” Vương phu nhân mừng quá nói: “Cái tên hay thật!”

Đoàn Dự nói tiếp: “Chậu hoa cánh trắng mà có vân hồng gọi là Hồng Trang Tố Lý. Còn cánh trắng nhưng có quầng mầu xanh, thêm vạch mờ mờ màu đỏ thì gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm. Thế nhưng nếu cánh có nhiều tia đỏ thì lại không còn là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm nữa mà là Ỷ Lan Kiều. Phu nhân thử nghĩ coi, đã là mỹ nhân thì phải thuần nhã ôn nhu, trên mặt thỉnh thoảng bị sướt một đường hẳn là khi chải đầu soi gương vô tình cào phải mặt. Hoặc giả không phải do mình thì do chơi đùa với con anh vũ, bị vuốt chim cào trúng, thành thử quầng mầu xanh trên cánh hoa kia chính là lông chim vương phải. Còn như khắp mặt sây sát, tỏ ra có tiền án tiền sự cùng người gây sự đánh nhau thì còn đâu là vẻ mỹ nhân?”

Vương phu nhân từ trước đến giờ nghe chàng nói luôn luôn gật đầu, thật là vui sướng, thốt nhiên sa sẩm nét mặt quát lên: “Quân này to gan thật! Mi mạt sát ta đấy chăng?” Đoàn Dự cả kinh, vội nói: “Không dám! Tiểu sinh có mạo phạm phu nhân ở chỗ nào đâu?” Vương phu nhân hầm hầm nói: “Người nghe ai sai khiến đến đây nói hươu nói vượn để nhục mạ ta? Ai bảo mi đàn bà học võ công là mất vẻ mỹ miều? Nhuần nhã ôn nhu thì đã hơn ai?” Đoàn Dự chưng hửng, vội nói: “Vãn sinh nói đây chỉ là theo lẽ thông thường. Thiếu gì nữ nhân giỏi võ mà vẫn kiều diễm đoan trang?” Không ngờ câu nói này lại làm chối tai Vương phu nhân hơn. Bà hỏi vặn: “Ta có đoan trang hay không?” Đoàn Dự đáp: “Đoan trang hay không thì phu nhân tự biết, vãn sinh đâu dám nói càn. Đại khái những việc như bắt người ta giết vợ cả để cưới vợ bé, người đoan trang không làm.” Chàng nổi cơn bực tức nên mấy câu sau không kiêng nể gì nữa.

Vương phu nhân vỗ tay một cái, bốn ả thị nữ vội chạy lên lầu, đứng thõng tay chờ lệnh. Vương phu nhân nói:”Giải tên này đi tưới hoa!” Bọn thị nữ khom lưng tuân lệnh. Phu nhân quay lại bảo Đoàn Dự: “Ngươi ở nước Đại Lý, lại là họ Đoàn, hai lần đáng chết. Nhưng ta hãy tạm để tội chết lại, phạt người chăm bón cho hoa trà trong trang, nhất là bốn chậu bạch trà mới lấy về lại càng phải trông nom cẩn thận. Ta bảo cho ngươi biết trước, bốn khóm đó mà người để chết một khóm sẽ bị chặt một tay, chết hai khóm sẽ bị chặt hai tay, chết hết bốn khóm thì chân tay người cụt hết.” Đoàn Dự hỏi lại: “Thế cả bốn khóm đều sống thì sao?” Vương phu nhân đáp: “Nếu bốn khóm trồng được tươi tốt cả thì ngươi phải kiếm những giai phẩm như Thập Bát Học Sĩ, Thập Tam Thái Bảo, Bát Tiên Quá Hải, Thất Tiên Nữ, Phong Trần Tam Hiệp, Nhị Kiều trồng mỗi thứ mấy cây, không xong thì ta móc mắt người ra.”

Đoàn Dự lớn tiếng cãi: “Những danh chủng đó, ngay ở Đại Lý đã khó kiếm rồi, ở Giang Nam dễ gì mà có? Nếu mỗi loại trồng được tới vài ba cây thì còn gì là quý hiếm? Thôi bà giết quách ta đi còn hơn. Hôm nay chặt tay, ngày mai mốc mắt, ta chịu sao nổi?” Vương phu nhân quát mắng: “Tên này gớm thật, trước mặt ta mà dám buông lời càn rỡ! Chúng bay lôi cổ nó đi!”.

Bốn ả thị nữ liền xông tới, hai ả nắm hai tay, một ả kéo đằng trước, một ả đẩy đằng sau, năm người co kéo nhau xuống lầu. Bốn đứa tớ gái đó đều biết võ công, Đoàn Dự không thể kháng cự lại được, trong bụng chỉ biết kêu thầm: “Ngược ngạo thật! Ngược ngạo thật!”

Bốn đứa tì nữ vừa kéo vừa đẩy đưa chàng đến một vườn hoa. Một ả đưa cho chàng cái xẻng xới đất, một ả lấy cho chàng cái bình tưới rồi bảo: “Ngươi đã nghe rõ lời phu nhân dặn bảo. Thôi chịu khó ở đây trồng cây tưới hoa để bảo toàn sinh mạng. Bằng như ngang bướng cãi lại lệnh phu nhân, bọn ta lập tức đem đi chôn sống, xem ngươi làm được trò gì?” Một ả nữa nói: “Ngươi chỉ được ở đây trồng tỉa sơn trà, không được đi lung tung trong trang viên, nếu người vào chỗ cấm địa là tự tìm cái chết, chẳng ai cứu được đâu.” Bốn ả thị nữ dặn dò cẩn thận rồi mới bỏ đi. Đoàn Dự đứng thừ người ra, thật là khóc dở mếu dở.

Tại nước Đại Lý chàng ở vào địa vị thế tử, phụ thân chàng là Trấn Nam vương, một ngày kia sẽ lên kế vị Bảo Định Đế, thì chàng nghiễm nhiên trở thành hoàng thái tử, có ngờ đâu bị bắt đem xuống Giang Nam, người định đốt định giết, kẻ đòi chặt chân móc mắt, rồi bây giờ lại bị bắt ép trồng cây tưới hoa. Tuy nhiên tính tình chàng vốn bình dị hiền hòa, lúc ở Đại Lý tại hoàng cung cũng như ở vương phủ vẫn thường hay ra xem bọn thợ trồng hoa cắt lá tỉa cành, cuốc đất bón phân, cười cười nói nói, mặc dầu trong bụng một kẻ con vua cháu chúa vẫn chỉ coi họ như kẻ ăn người ở, vị trí thấp kém.

Cũng may trời sinh chàng sảng khoái vui vẻ, gặp phải nghịch cảnh trớ trêu, cũng chỉ âu sầu một lúc rồi lại cao hứng như thường, trong bụng nghĩ thầm: “Lúc ta vào thạch động núi Vô Lượng đã từng bái thần tiên tỉ tỉ làm thầy. Nay Vương phu nhân tướng mạo giống thần tiên tỉ tỉ, bất quá nhiều tuổi hơn mà thôi, ta coi bà ấy cũng như sư bá thì có gì mà không được? Sư trưởng đã ra mệnh lệnh, đạo làm đệ tử phải xuất lực vì thầy phỏng có chi quá đáng? Huống chi chăm bón hoa cỏ vốn là việc thanh nhã của kẻ văn nhân, so với bọn học võ múa đao động kiếm còn cao nhã hơn nhiều. Còn như so sánh với việc bị Cưu Ma Trí đem đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh thiêu sống thì thế này sướng gấp nghìn gấp vạn. Chỉ đáng tiếc một điều là các loại hoa trà kém cỏi này mà phải đến vương tử nước Đại Lý tự tay trồng tỉa kể cũng hơi phí, không khỏi đại tài tiểu dụng, giết gà dùng dao mổ trâu. Ha ha! Ngươi là dao mổ trâu ư?”

Chàng nghĩ tiếp: “Mình ở lại Mạn Đà Sơn Trang thêm một thời gian, biết đâu chẳng có cơ duyên gặp lại thiếu nữ mặc áo màu cánh sen kia một lần, cái đó gọi là họa trung hữu phúc.”

Nghĩ đến họa phúc, chàng bèn nhổ một nắm cỏ trong bụng khấn thầm: “Để bói xem chừng nào ta mới gặp được vị cô nương kia”. Chàng cầm nắm cỏ tay phải trao qua tay trái, tay trái trao qua tay phải để bói, được quẻ Cấn trên Cấn dưới tức là thuần Cấn, nghĩ thầm: Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân, vô cữu. (Ngừng ở lưng không thấy được thân, đi ở sân không thấy có người, không lỗi). Quẻ này thật linh quá, tuy thấy lưng chưa thấy mặt nhưng cũng không sao.” Chàng lại bói thêm một quẻ nữa, được quẻ Đoài trên Khảm dưới, tức là quẻ Khốn, trong bụng kêu thầm: “Khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất địch” (Khốn nơi cây cối, lạc vào hang tối, ba năm chẳng gặp). Ba năm mà không gặp được thì đúng là khốn khổ rồi.” Chàng chợt nghĩ lại: “Ba năm không gặp thì năm thứ tư ắt sẽ gặp. Ngày rộng tháng dài thì có gì gọi là khốn đâu?”.

Chàng xủ quẻ thấy không được tốt nên không dám bói thêm, miệng ư ử hát, vác xẻng đi lang thang nghĩ thầm: “Vương phu nhân giao cho ta cái trọng trách phải trồng cho sống bốn chậu bạch trà này. Trà này cũng vào hạng có tên tuổi rồi đây, phải tìm cho ra chỗ nào u nhã mà trồng, không thì hỏng bét.” Chàng vừa đi vừa nhìn quanh quất chung quanh để tìm nơi thích hợp, đột nhiên cười ra tiếng, nghĩ thầm: “Vương phu nhân kể ra cũng kỳ, chẳng hiểu gì về sơn trà mà lại ưa trà hoa, chỗ nào cũng trồng trà, rồi lại đặt tên cho trang trại của mình là Mạn Đà Sơn Trang, nghe có vẻ hay ho lắm. Bà có biết đâu hoa trà ưa khí âm chứ không hợp với khí dương, trồng nơi nhiều nắng nếu không chết thì cũng chột, lại không được bón phân nhiều. Bao nhiêu thứ trà quý để phu nhân làm hỏng hết, tiếc quá, tiếc quá!”.

Chàng tránh những lối nắng chang chang, đi sâu vào những nơi rậm rạp âm u, vòng qua một ngọn núi nhỏ bỗng nghe tiếng suối khe róc rách, bên trái là một hàng trúc xanh rì, bốn bề tịch mịch. Nơi đây là bóng núi, ánh mặt trời không rọi đến, Vương phu nhân cho rằng không thể trồng hoa được, thành thử không thấy một gốc trà nào. Đoàn Dự cả mừng lẩm bẩm: “Chỗ này trồng trà tuyệt diệu”.

Chàng quay lại chỗ cũ khuân bốn chậu hoa trà đến rồi khoét lỗ bên cạnh khóm trúc, ghè vỡ chậu sành xong đặt cả bầu xuống. Tuy chàng chưa từng làm vườn bao giờ nhưng xem đã nhiều, cứ người ta làm sao mình làm vậy. Chưa tới nửa giờ, chàng đã trồng xong bốn cây bạch trà ngay cạnh rặng trúc, bên trái là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm, bên phải là Hồng Trang Tố Lý và Mãn Nguyệt, còn Nhãn Nhi Mị thì trồng chênh chếch mé sau khối đá lớn bên bờ suối. Chàng tự nói với mình: “Thế này đúng là: Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ, Tay ôm đàn che nửa mặt hoa. (Thiên hô bạn hoàn thủy xuất Lai, Do bão tì bà bán già diện). Phải chỗ nửa kín nửa hở thế này thì mới hợp cảnh mà tăng thêm vẻ đẹp.” Người Trung Quốc thường đem hoa ví với mỹ nhân, phép trồng hoa cũng chẳng khác gì săn sóc người đẹp. Đoàn Dự xuất thân tại chốn hoàng cung, đọc thi thư từ thuở nhỏ, cách thức trồng hoa cũng có hơn người.

Xong việc chàng xuống suối rửa sạch chân tay, ngồi sau phiến đá lớn ngắm nghía khóm Nhãn Nhi Mị, nhìn thẳng, nhìn nghiêng lấy làm khoái chí. Bỗng nghe có tiếng chân bước sột soạt, hai thiếu nữ đi tới, một cô nói: “Chỗ này tịch mịch, không có ai qua lại…”

Giọng nói đó vào tai, Đoàn Dự tim nhảy thốt lên một cái, rõ ràng là giọng của vị nữ lang mặc áo lụa màu cánh sen chàng đã gặp. Chàng vội nín thở không dám để phát ra chút âm thanh nào, nghĩ bụng: “Nàng đã bảo không nhìn mặt chàng trai nào không có liên quan gì tới nàng. Ta nào có liên hệ gì đâu, chỉ cần nghe mấy tiếng du dương như tiên nhạc cũng đã phúc lắm rồi. Nhất quyết ta đừng để nàng hay biết.” Đầu chàng vốn dĩ nghiêng nghiêng ngó ra, lúc này không dám quay lại, dường như sợ mình chuyển động thì cổ sẽ có thể phát xuất âm thanh kinh động đến mỹ nhân.

Lại nghe thiếu nữ nói tiếp: “Tiểu Mính, người nghe thấy chuyện gì… chuyện gì về chàng thế?” Đoàn Dự nghe hỏi bất giác chua xót trong lòng, biết rằng tiếng “chàng” mà nữ làng gọi đó là chỉ Mộ Dung công tử, chắc là Mộ Dung Phục mà Vương phu nhân nói tới. Giọng nữ lang vặn hỏi thị tỳ nghe đầy vẻ thiết tha mong nhớ. Đoàn Dự không khỏi vừa ngưỡng mộ lại vừa tự thương thân. Chỉ thấy Tiểu Mính ấp úng hồi lâu, dường như sợ không dám nói thẳng.

Nữ lang giục: “Ngươi cứ nói cho ta nghe! Ta không quên lòng tốt của ngươi đâu!” Tiểu Mính ngần ngừ đáp: “Tiểu tì sợ… chỉ sợ phu nhân trách phạt.” Nữ lang tức mình nói: “Ngươi đúng là ngốc nghếch. Ngươi cứ nói cho ta hay, ta không kể với phu nhân đâu.” Tiểu Mính nói: “Nếu như phu nhân hỏi tiểu thư thì sao?” Thiếu nữ đáp: “Dĩ nhiên là ta sẽ không nói.”

Tiểu Mính lại ngập ngừng một hồi mới nói: “Biểu thiếu gia đi lên chùa Thiếu Lâm.” Thiếu nữ ngạc nhiên: “Lên chùa Thiếu Lâm ư? Thế sao A Châu, A Bích hai đứa kia lại nói chàng đến Cái Bang ở Lạc Dương?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao lại biểu thiếu gia nhỉ? Ồ, thì ra Mộ Dung công tử là anh họ của nàng, hai người thân thiết từ nhỏ, có tình thanh mai trúc mã, thành thử… thành thử…”.

Tiểu Mính nói: “Hôm vừa rồi, phu nhân giữa đường gặp Công Dã nhị gia, hỏi ra mới biết bọn đầu não Cái Bang đều đến Hà Nam cả, định gặp biểu thiếu gia để hỏi cái chi chi đó, Công Dã nhị gia lại nói là có nhận được thư của biểu thiếu gia nói khi đến Lạc Dương kiếm không ra tên thủ lãnh ăn mày nào, nên đã lên Tung Sơn Thiếu Lâm Tự rồi.” Nữ lang hỏi: “Chàng lên chùa Thiếu Lâm để làm chi?” Tiểu Mính đáp: “Công Dã nhị gia kể rằng biểu thiếu gia có viết khi ở Lạc Dương nghe tin một lão hòa thượng chùa Thiếu Lâm chết ở Đại Lý, họ lại đổ oan cho Cô Tô Mộ Dung giết. Biểu thiếu gia giận lắm, chùa Thiếu Lâm lại không xa Lạc Dương bao nhiêu nên tiện đường đi lên trình bày với các hòa thượng trong chùa cho tỏ tường mọi việc.”

Cô gái lại nói: “Nếu như nói không tỏ tường thì không lẽ động thủ hay sao? Phu nhân đã được tin như vậy sao lại quay về, không đi giúp biểu thiếu gia một tay?” Tiểu Mính nói: “Cái đó… cái đó… tiện tì cũng không hiểu. Dường như phu nhân không ưa biểu thiếu gia.” Thiếu nữ hậm hực nói: “Hừ! Ưa hay không ưa thì thiếu gia cũng là người trong nhà. Để nhà Mộ Dung mất mặt với người ngoài thì nhà họ Vương này lại vẻ vang lắm hay sao?” Tiểu Mính không dám tiếp lời.

Thiếu nữ đi qua đi lại bên rặng trúc, bỗng thấy ba khóm bạch trà Đoàn Dự mới trồng, mảnh chậu đập ra còn bỏ đó, thất thanh kêu lên một tiếng hỏi: “Ai trồng trà ở đây thế này?” Đoàn Dự không còn cách nào tránh mặt, từ sau tảng đá bước ra vái dài sát đất nói: “Tiểu sinh vâng mệnh phu nhân đang trồng trà tại đây, không ngờ lại gặp tiểu thư.” Chàng tuy cung kính vái dài nhưng mắt vẫn nhìn lên, sợ rằng tiểu thư sẽ buông một câu: “Ta không thích gặp đàn ông lạ” rồi quay mình đi mất, lỡ mất cơ hội thấy mặt nàng.

Đoàn Dự vừa nhìn thấy mặt nữ lang bông tai ù mắt hoa, hai đầu gối nhũn ra không tự chủ được quỳ mọp xuống đất, nếu không cố gượng thì đến cái đầu cũng đập xuống đất mà lạy. Miệng chàng lắp bắp: “Thần tiên tỉ tỉ! Ta… ta nhớ tỉ tỉ kể sao cho xiết! Đệ tử Đoàn Dự bái kiến sư phụ.”

Nguyên tướng mạo nữ lang này giống hệt pho tượng ngọc trong thạch động bên nước Đại Lý, Vương phu nhân cũng đã giống pho tượng này nhưng cao tuổi hơn lại không đẹp bằng, còn nữ lang có khác là chỉ ở bộ áo mặc ngoài mà thôi. Từ mặt mũi, tai mắt, mồm miệng cho chí tầm vóc, chân tay cùng màu da không chỗ nào không giống, thực là pho tượng ngọc tái sinh. Đoàn Dự như người đang lạc vào cõi mộng. Chàng đã trải không biết bao nhiêu nghìn vạn lần tưởng nhớ người ngọc, lúc này thấy ngay trước mắt, không còn biết mình đang ở trần gian hay thượng giới. Nữ lang thấy cử động cùng cách xưng hô của Đoàn Dự cho là chàng mắc bệnh điên cuồng, kêu lên một tiếng, lùi lại hai bước, sợ hãi nói: “Ngươi… ngươi…”

Đoàn Dự đứng thẳng lên, mắt như dán chặt vào cô gái, lúc này nhìn càng rõ hơn. Bấy giờ chàng mới biết, thiếu nữ so với pho tượng ngọc cũng có đôi phần khác biệt: pho tượng diễm lệ theo kiểu thu hồn nhiếp phách người ta, còn cô gái trước mặt đây có vẻ đoan trang xen lẫn nét thơ ngây, Chàng bèn nói: “Từ ngày được bái kiến thần tiên tỉ tỉ trong thạch động, tiểu sinh đã mừng cho mình phúc duyên rất lớn, ngờ đâu hôm nay lại được tận mắt chiêm ngưỡng dung nhan. Thế gian quả có tiên thật, không phải là chuyện hoang đường”

Thiếu nữ quay sang nói với Tiểu Mính: “Gã nói chi đó? Gã là ai vậy?” Tiểu Mính đáp: “Gã là một anh đồ gàn đến với A Châu, A Bích. Gã nói nhăng nói cuội thế nào mà phu nhân tin gã biết trồng hoa trà mới nực cười.” Nữ lang quay ra hỏi Đoàn Dự: “Anh đồ gàn kia, hồi nãy bọn ta nói chuyện với nhau, người có nghe thấy không?” Đoàn Dự cười đáp: “Tiểu sinh họ Đoàn, tên Dự, người Đại Lý, không phải là đồ gàn đâu. Thần tiên tỉ tỉ và Tiểu Mính tỉ tỉ đây nói chuyện, vô tình tiểu sinh đã nghe rõ cả. Thế nhưng hai vị cứ yên tâm, tiểu sinh nhất định không tiết lộ một câu nửa chữ, bảo đảm không để Tiểu Mính tỉ tỉ bị phu nhân trách phạt.”

Nữ lang sa sầm nét mặt hỏi: “Ngươi xưng hô tỉ tỉ muội muội lăng nhăng như vậy còn cãi không phải đồ gàn. Ngươi đã gặp ta bao giờ?” Đoàn Dự hỏi lại: “Nếu như tiểu sinh không gọi là thần tiên tỉ tỉ thì gọi thế nào cho phải?” Nữ lang đáp: “Ta họ Vương, ngươi cứ gọi ta bằng Vương cô nương là được rồi.” Đoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói: “Không được! Không được! Khắp thiên hạ kể có hàng ngàn hàng vạn cô nương họ Vương, bậc thần tiên mà cũng chỉ gọi bằng Vương cô nương như người thường thế nào được? Thế thì phải gọi là gì nhỉ? Thật khó quá! Gọi vắn tắt là Vương tiên tử chăng? Xem ra có vẻ quê mùa! Hay là Mạn Đà công chúa? Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Thổ Phồn, Tây Hạ nước nào chẳng có công chúa nhưng bì với cô nương thế nào được?”

Nữ lang nghe Đoàn Dự nói tràng giang đại hải, càng nghe càng thấy gàn dở. Có điều nghe người ta thần hồn điên đảo ca tụng sắc đẹp mình thì ai mà không thấy sung sướng? Nàng mỉm cười nói: “Ngươi cũng còn may là chưa bị mẫu thân ta chặt chân.” Đoàn Dự đáp: “Thần tiên tỉ tỉ cùng lệnh đường phu nhân tướng mạo giống nhau nhưng tính tình thực khác xa nhau. Phu nhân động một tý là giết người, có điều không xứng với dáng dấp thần tiên…”

Nữ lang nhíu mày ngắt lời: “Thôi ngươi tiếp tục trồng hoa đi, đừng đứng đây bẻn mép nữa. Bọn ta có việc phải bàn.” Lối nói của nàng quả xem Đoàn Dự như một tên thợ trồng hoa không hơn không kém.

Đoàn Dự vẫn chẳng chịu thôi, chỉ mong được nghe nàng nói câu nào hay câu ấy, nhìn phút nào hay phút ấy. Chàng nghĩ bụng: “Muốn cho nàng bắt chuyện thì không gì bằng việc đề cập đến Mộ Dung công tử. Bụng dạ nàng để cả vào gã, ngoài ra không thiết gì hết”. Chàng bèn nói: “Thiếu Lâm Tự là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, trong chùa cao tăng hảo thủ không một nghìn thì cũng tám trăm, phần lớn đều tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ. Lần này Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm bị người ta hạ độc thủ giết chết ở chùa Thân Giới, châu Lục Lương, nước Đại Lý, các hòa thượng cho rằng do tay Cô Tô Mộ Dung. Mộ Dung công tử cô thân vào nơi hiểm địa, thật là đáng lo ngại.”

Quả nhiên nữ lang giật mình. Đoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, trong bụng nghĩ thầm: “Nàng vì cái tên tiểu tử Mộ Dung Phục mà phải băn khoăn trong dạ. Nếu như nhìn vào mặt nàng, không chừng ta ghen tức đến chảy nước mắt mất”. Tà áo màu cánh sen của nàng hơi lay động, rồi giọng nói thánh thót như tiếng tiêu lại hỏi: “Tại sao các hòa thượng chùa Thiếu Lâm lại đổ oan cho Cô Tô Mộ Dung? Ngươi có biết không? Ngươi… ngươi cho ta biết.”

Đoàn Dự nghe nàng nhỏ nhẹ cầu khẩn, cầm lòng không đậu muốn đem hết những điều mình hay biết nói cho nàng nghe. Song chàng nghĩ lại: “Mình biết chẳng có bao nhiêu, Huyền Bi đại sư bị trúng phải Vi Đà Chử mà chết, ai ai cũng bảo đó là thuật gậy ông đập lưng ông, trong thiên hạ chỉ có họ Mộ Dung ở Cô Tô là sở trường. Bao nhiêu tình tiết đó chỉ vài câu là hết, nàng nghe xong rồi lại giục mình đi trồng trà, kiếm được đề tài khác nói chuyện với nàng thật không phải dễ. Chi bằng mình phải tìm cách kéo dài câu chuyện, mỗi ngày cho ra một mẩu để ngày ngày nàng phải đến tìm mình hỏi chuyện, tìm không thấy là bồn chồn khó chịu”. Chàng đằng hắng một tiếng rồi bắt đầu vào chuyện: “Về võ công tôi chẳng biết tí gì cả. Cả những thế võ tầm thường như Kim Kê Độc Lập, Hắc Hổ Thâu Tâm gì gì đi nữa tôi cũng không hay, nhưng trong nhà tôi có anh bạn họ Chu, tên gọi Chu Đan Thần, ngoại hiệu là Bút Nghiễn Sinh. Trông bề ngoài anh ta cũng chỉ văn nhược nho nhã như tôi thôi, hay gọi là tín đồ gàn cũng được. Hà hà, thế mà võ công anh ta đáo để lắm. Một hôm nọ tôi thấy anh ta gấp cái quạt quay ngược đầu lại đánh “chát” một tiếng, cán quạt trúng vào bả vai một gã đại hán, gã này có rúm ngay lại, chẳng khác gì một đống đất lù lù, không sao nhúc nhích được nữa.”

Nữ lang nói: “Ồ, đó là chiêu đả huyệt thứ ba mươi tám trong Thanh Lương Phiến, tên là Thấu Cốt Phiến, đảo ngược cán quạt đánh xéo vào huyệt Kiên Trinh. Vậy thì vị Chu tiên sinh đó thuộc bàng chi của phái Côn Lôn, đệ tử Tam Nhân Quan. Võ công phái này dùng phán quan bút còn lợi hại hơn dùng quạt. Ngươi nói vào chuyện chính đi, đừng nói chuyện võ công với ta nữa.

Giả tỷ mà Chu Đan Thần được nghe nàng nói tất phải phục sát đất. Thiếu nữ không những nói được tên thủ pháp y dùng, lại cả sư thừa lai lịch, võ học gia số cũng kể đâu ra đấy. Nếu một nhà võ học danh gia như bá phụ Đoàn Dự là Đoàn Chính Minh hay phụ thân là Đoàn Chính Thuần chẳng hạn nghe thấy, cũng phải giật mình tự hỏi: “Cô nương nhỏ tuổi thế này mà sao kiến thức về võ học đã uyên bác đến thế?” Thế nhưng Đoàn Dự chẳng biết tí võ công nào, mấy lời cô gái kia thuận mồm nói ra chỉ thoáng qua tai chàng mà thôi. Chàng cũng không cần biết cô gái nói đúng hay sai, chỉ dán mắt vào đôi mày tha thướt cùng đôi môi đỏ thắm của nàng chứ không để ý gì đến võ nghệ.

Nữ lang hỏi: “Vị Chu tiên sinh đó là người thế nào?” Đoàn Dự chỉ vào một phiến đá bên cạnh bụi trúc, nói: “Chuyện dài lắm, xin tiểu thư dời gót ngọc ngồi xuống kia để tiểu sinh từ từ nói rõ.” Nữ lang nói: “Ngươi cứ ba hoa chích chòe mãi, nói mau đi cho xong. Ta chẳng có hơi đâu mà ngồi nghe ngươi mãi.” Đoàn Dự đáp: “Hôm nay tiểu thư không rảnh thì sáng mai lại đây tìm tôi cũng được. Còn như ngày mai cũng bận, để vài ngày nữa cũng không sao. Miễn là phu nhân chưa cắt lưỡi tôi, tiểu thư hỏi đâu tôi xin nói đấy, nói hết không sốt mảy may.”

Nữ lang khẽ dậm chân một cái, quay đầu đi không nhìn đến chàng nữa, hỏi Tiểu Mính: “Phu nhân có nói gì nữa không?” Tiểu Mính đáp: “Phu nhân nói: Tên ngỗ nghịch kia càng lúc càng loạn, đã gây thù chuốc oán với Cái Bang, lại đối đầu với cả chùa Thiếu Lâm, chỉ sợ rồi đây Cô Tô Mộ Dung nhà ngươi chết không có đất mà chôn.” Nữ lang vội nói: “Mẹ ta biết rõ biểu thiếu gia đang rơi vào cảnh ngộ hung hiểm, sao lại làm lơ không hỏi tới là sao?” Tiểu Mính đáp: “Dạ phải. Tiểu thư, chỉ sợ phu nhân cho kiếm, tiểu tì xin kiếu thôi. Chuyện mới rồi, xin tiểu thư chớ nói với ai thì tì tử mới còn được hầu hạ tiểu thư vài năm nữa.”

Nữ lang nói: “Ngươi cứ yên tâm đừng lo, chẳng lẽ ta lại hại ngươi hay sao?” Tiểu Mính cáo biệt ra đi, trên mặt lộ vẻ khiếp sợ, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Vương phu nhân giết người như ngóe nên ai ai cũng kinh hãi.”.

Nữ lang từ từ bước lại phiến đá nhẹ nhàng ngồi xuống. Nàng không mời Đoàn Dự mà chàng cũng không dám mạo muội đến gần. Chàng đứng nhìn thấy gần chỗ nàng ngồi có một khóm bạch trà, còn hai khỏm nữa xa hơn một chút. Người đẹp ngồi gần danh hoa, phong cảnh lại càng tuyệt mỹ. Đoàn Dự thở dài một tiếng rồi đọc: “Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan… Không được, không được! Năm xưa Lý Thái Bạch lấy hoa mẫu đơn để so sánh với sắc đẹp của Dương Quý Phi, nếu như ông ta có diễm phúc được gặp tiểu thư thì mới biết rằng hoa kia tuy có rực rỡ nhưng làm sao biết giận hờn, biết nũng nịu, biết cười đùa, biết ưu tư, thực không thể nào bì kịp.”

Thiếu nữ buồn bã nói: “Ngươi không ngớt khen ta đẹp, chẳng biết có thật không?” Đoàn Dự sửng sốt la lên: “Trời ơi! Ai không thấy vẻ đẹp của Tử Đô đã là người không có mắt. Đó mới là một chàng trai mà người ta còn bình phẩm như vậy, huống chi người diễm lệ tuyệt trần như tiểu thư? Chắc là tiểu thư nghe nhiều người ca tụng quá rồi nên chán ngấy phải không?”

Nữ lang từ từ lắc đầu, khóe mắt hơi lộ vẻ bâng khuâng nói: “Trước nay ta chưa thấy ai nói ta đẹp hay không. Ở Mạn Đà Sơn Trang này trừ mẫu thân ta còn toàn kẻ hầu người hạ. Bọn chúng chỉ biết ta là tiểu thư của chúng, còn ai dám nói đến ta đẹp hay xấu?” Đoàn Dự hỏi lại: “Thế còn người ngoài cũng không ai nói gì sao?” Nữ lang hỏi: “Ngươi bảo người ngoài nào?” Đoàn Dự đáp: “Thế khi tiểu thư ra ngoài, người ta thấy tiểu thư đẹp như tiên giáng trần chẳng lẽ họ cũng im mồm sao? Nữ lang nói: “Ta chưa từng ra khỏi nhà, mà ra ngoài làm gì? Mẹ ta không cho ra ngoài. Ta chỉ sang Hoàn Thi Thủy Các bên nhà cữu mẫu đọc sách thôi, chẳng gặp ai là người ngoài cả. Bất quá chỉ có vài người bạn của biểu ca như Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Bao tam ca, Phong tứ ca, nhưng họ… nhưng họ đâu có gàn dở như anh.” Nàng nói tới độ bất giác mỉm cười.

Đoàn Dự hỏi: “Không lẽ Mộ Dung công tử… y cũng chẳng bàn đến vẻ đẹp của tiểu thư ư?” Nữ lang từ từ cúi đầu xuống, rồi một tiếng nấc rất êm nhẹ, như tiếng đàn sắt thoảng lọt vào tai chàng. Tiếp theo tiếng nấc là mấy giọt lệ rơi trên ngọn cỏ, trong trẻo lấp lánh, chẳng khác gì những giọt sương buổi sớm. Đoàn Dự thấy vậy không dám hỏi thêm, cũng không biết nói thế nào để an ủi nàng.

Hồi lâu nàng mới nghẹn ngào nói: “Chàng… chàng bận lắm, quanh năm không lúc nào nhàn rỗi. Họa hoằn chàng mới gặp ta, nếu không bàn luận võ công thì cũng nói chuyện quốc gia đại sự. Ta… ta chán võ công lắm rồi.” Đoàn Dự vỗ đùi reo lên: “Tiểu thư nói đúng lắm! Tôi cũng ngán ngẩm vô cùng. Chả thế mà bá phụ và gia gia tôi bắt tôi học võ, tôi nhất định không chịu rồi bỏ nhà trốn đi.”

Nữ lang thở dài nói: “Ta vì muốn thỉnh thoảng được gặp chàng nên dù có chán ngán võ công, cũng phải xem quyền kinh đao phố, cố gắng nhớ trong lòng, phòng khi có chỗ chàng chưa thấu đáo thì ta phải giảng cho chàng nghe. Thế nhưng chính ta thì lại không học, làm thân con gái mà múa đao đánh gậy, xem ra bất nhã.” Đoàn Dự khen một câu tự đáy lòng: “Đúng vậy! Đúng vậy! Người đẹp thiên hạ vô song như cô, lẽ nào lại cùng người ta động thủ động cước, thật chẳng đâu vào đâu. Ối chà…” Chàng đột nhiên nghĩ ra, câu nói đó xúc phạm tới mẹ ruột mình. Thiếu nữ không để ý đến chàng, nói tiếp: “Từ nghìn xưa đến nay bất luận triều đại nào, vua quan nào cũng toàn chuyện hôm nay giết người, ngày mai người giết, ta thật không muốn biết đến làm gì. Thế nhưng đó là những chuyện chàng ưa thích nhất, thành thử ta phải đọc sách để nói cho chàng nghe.”

Đoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi lại: “Sao tiểu thư lại phải xem sách hộ chàng? Tự chàng không đọc lấy được hay sao?” Nữ lang nguýt Đoàn Dự một cái rồi giận dỗi hỏi: “Thế ngươi tưởng chàng dốt chữ hay đui mù?” Đoàn Dự vội đáp: “Không, không đâu! Tôi bảo anh ta là người tốt nhất trên đời, thế có được không nào?”

Thiếu nữ mỉm cười nói: “Chàng là biểu huynh ta, chị của mẹ ta làm dâu trong nhà họ Mộ Dung. Trong trang này trừ cữu phụ, cữu mẫu và biểu huynh thì không còn ai lui tới. Về sau khi cữu phụ qua đời, cữu mẫu cùng mẫu thân xảy ra xích mích, từ đó cấm cửa luôn cả biểu huynh ta không cho đến nữa. Ta chẳng hiểu chàng có phải là người tốt nhất trần đời không, mà cũng chưa gặp người tốt người xấu bao giờ.” Đoàn Dự hỏi lại: “Thế sao tiểu thư không hỏi phụ thân?” Cô gái đáp: “Phụ thân ta mất sớm, từ lúc ta chưa ra đời. Ta.., ta không biết cả mặt phụ thân.”

Đoàn Dự ồ lên một tiếng: “Thế cữu mẫu tiểu thư là chị dâu của dì tiểu thư, còn cữu phụ là chồng của cữu mẫu chứ gì? Anh ta… anh ta… là con của hai người đó phải không?” Nữ lang bất giác phì cười đáp: “Ngươi ăn nói lẩn thẩn làm sao ấy. Ta là con gái mẫu thân ta thì chàng là biểu huynh ta chứ gì?” Đoàn Dự thấy mình làm cho nàng phải phì cười bèn lấy làm cao hứng nói: “À, tôi hiểu rồi. Chắc là biểu huynh tiểu thư bận quá, không có thì giờ đọc sách nên tiểu thư phải đọc giùm.” Nữ lang cười nói: “Kể ra nói thế cũng phải, nhưng ở trong còn có nguyên nhân khác. Thôi bây giờ ta hỏi ngươi: những hòa thượng chùa Thiếu Lâm vì cớ gì lại đổ oan cho biểu huynh ta giết người của họ?”

Đoàn Dự thấy trên đầu mi nàng còn đọng một hạt nước mắt, nghĩ thầm: “Người xưa có nói: Lê hoa nhất chi xuân đái vũ (cành hoa lê lóng lánh mưa xuân) để ví với người đẹp đang khóc. Hoa lê tuy đẹp thật nhưng cành lê lại xù xì, mà sau trận mưa đóa hoa nào cũng đẫm nước, có phải quá đau lòng không? Phải ví Vương cô nương giống như đóa hoa trà điểm thêm giọt sương buổi sáng, thế mới thật là đẹp”.

Nữ lang chờ hồi lâu thấy Đoàn Dự không đáp, bèn lay bàn tay chàng một cái nói: “Ngươi nghĩ gì vậy?” Đoàn Dự giật nẩy mình la lên: “Ôi chao!” Nữ lang cũng giật mình hỏi: “Sao thế?” Đoàn Dự đỏ bừng mặt đáp: “Tiểu thư đưa ngón tay chỉ lên lưng bàn tay tôi, tôi lại tưởng tiểu thư điểm huyệt.”

Nữ lang không biết là Đoàn Dự nói đùa, giường tròn đôi mắt nhìn chàng nói: “Trên lưng bàn tay làm gì có huyệt đạo? Dịch Môn, Trung Chữ, Dương Trì ba huyệt đều ở cườm tay, hai huyệt Tiền Khoát, Dưỡng Lão ở gần cổ tay lại càng xa hơn nữa.” Nàng vừa nói vừa đưa tay mình ra chỉ cho chàng xem. Đoàn Dự thấy ngón trỏ bên tay trái nàng tròn trĩnh như ngó hành, điếm trên mu bàn tay trắng nõn, bất giác cảm thấy cổ họng khô ráo, đầu óc quay cuồng, ấp úng hỏi: “Cô nương tên họ là gì?” Thiếu nữ mỉm cười đáp: “Ngươi quả là lạ lùng. Được rồi, ta cho ngươi biết tên cũng chẳng hại gì. Nếu ta không nói, A Châu, A Bích hai đứa a đầu kia cũng nói.” Đoạn nàng lấy ngón tay vạch lên lưng bàn tay mình ba chữ: Vương Ngữ Yên.

Đoàn Dự kêu lên: “Hay thật! Hay thật! Ngữ tiếu yên nhiên, hòa ái khả thân (nói cười duyên dáng, hòa nhã dễ thương).” Chàng nghĩ thầm: “Mình phải nói chặn trước chứ nếu như nàng giống tính mẹ, đang nói cười vui vẻ tự nhiên nổi nóng bắt mình đi trồng hoa thì tên với người chẳng ăn khớp nhau tí nào.” Vương Ngữ Yên mỉm cười: “Tên thì ai mà chẳng hay. Trong sử sách có biết bao nhiêu người đại gian đại ác, tên lại cực hay cực đẹp. Tỷ như Tào Tháo mà chẳng có tiết tháo chút nào, Chu Toàn Trung lại là một gã đại bất trung. Như ngươi tên là Đoàn Dự thì danh dự ngươi có lừng lẫy không? Hay lại chỉ là kẻ cô danh…” Đoàn Dự nói xen vào: “… điếu dự.” Cô danh điếu dự có nghĩa là cố tìm tiếng tăm bằng cách không chính đáng. Hai người cùng cười khanh khách.

Bộ mặt diễm lệ của Vương Ngữ Yên vốn dĩ nhuốm chút u sầu, bây giờ rạng rỡ lại càng tăng thêm vẻ xinh tươi. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu như ta ngày ngày được làm cho nàng mở miệng tươi cười thì cuộc đời này cũng thỏa mãn lắm rồi, còn mong gì hơn nữa?”. Ngờ đâu cô gái chỉ cao hứng được giây lát rồi đôi mắt lại thoáng hiện nỗi sầu man mác. Nàng cất giọng u buồn nói: “Chàng… chàng lúc nào cũng nghiêm trang, chẳng bao giờ chàng nói với ta một câu chuyện bâng quơ. Ôi! Yên quốc, Yên quốc quan trọng đến thế hay sao?”

Mấy chữ Yên quốc vừa lọt vào tai, Đoàn Dự vụt nảy ra một ý nghĩ, bao nhiêu điều rời rạc chợt liền lại thành một chuỗi: nào là họ Mộ Dung, Yến Tử Ổ, Tham Hợp Trang, Yên quốc… Chàng liền buột miệng hỏi: “Phải chăng công tử Mộ Dung vốn dòng họ Tiên Ti thời loạn Ngũ Hồ chứ không phải người Trung Quốc?” Vương Ngữ Yên gật đầu: “Đúng vậy, chàng là vương tôn họ Mộ Dung nước Yên nhưng đã mấy trăm năm rồi, sao còn giữ quan niệm cũ kỹ của ông cha làm chi nữa? Chàng không muốn làm người Trung Quốc, đến chữ Trung Quốc cũng không thèm học, sách Trung Quốc cũng không thèm đọc. Sách Trung Quốc có gì là không hay đâu? Có lần ta bảo chàng đọc sách chữ Tiên Ti cho nghe, chàng lại nổi giận đùng đùng. Hóa ra người Tiên Ti không có sách vở gì cả.”.

Nàng từ từ ngẩng đầu lên, nhìn mây trắng lơ lửng xa xa, nhỏ nhẹ nói: “Chàng… chàng lớn hơn ta mười tuổi, chỉ coi ta như một cô em gái nhỏ. Ngoài việc đọc sách, ghi nhớ võ công ra ta chẳng biết việc gì nữa. Chàng có hiểu đâu rằng ta đọc sách là đọc cho chàng, nhớ võ công cũng vì chàng. Nếu không thà ta nuôi mấy con gà nhỏ cho nó nhảy nhót, hoặc gảy đàn viết chữ mà chơi còn thú hơn.”

Đoàn Dự cất tiếng run run hỏi: “Tiểu thư tận tâm như vậy… mà chàng không biết ư?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta tận tâm với chàng, chàng biết chứ. Chàng cũng rất tốt với ta, có điều,.. có điều… đối với nhau chỉ như anh em ruột, ngoài những chuyện nghiêm trang ra không bao giờ nói chuyện gì khác. Chàng chẳng bao giờ thổ lộ tâm tư, cũng chẳng bao giờ hỏi đến tâm sự của ta.” Nói tới đây, đôi má Vương Ngữ Yên ửng đỏ ra chiều e lệ, trong ánh mắt dường như có vẻ thẹn thùng.

Đoàn Dự toan cất lời hỏi đùa nàng: “Thế tiểu thư có tâm sự gì nào?” nhưng thấy nàng bẽn lẽn nên không dám đường đột, liền chuyển hướng: “Chẳng lẽ tiểu thư chỉ nói chuyện về võ học với anh ta, không nói tới những khúc thơ văn lãng mạn như Tí Dạ Ca hay Hội Chân Ký hay sao?” Câu nói vừa ra khỏi cửa miệng, chàng lại hối hận trong lòng: “Cứ để nàng thầm yêu trộm nhớ, tới đâu hay đó chẳng hơn sao? Lẽ nào ta lại về đường cho hươu chạy, đúng là một thằng ngốc”. Vương Ngữ Yên cả thẹn vội gạt đi: “Sao lại thế được? Ta phải giữ nền nếp con nhà khuê các, lẽ nào nói tới những chuyện thơ văn đó để biểu huynh khinh thường mình sao?” Đoàn Dự thở phào nói: “Vâng, như thế mới phải!”. Trong bụng tự trách thầm mình: “Đoàn Dự ơi, ngươi thật chẳng chính nhân quân tử chút nào”.

Tâm sự Vương Ngữ Yên đã lâu chôn tận đáy lòng chưa từng nói với ai, chỉ một mình mình biết một mình mình hay. Nay gặp Đoàn Dự là người dễ tính phóng lãng, không hiểu sao nàng lại tin chàng đến thế, đem hết chuyện tâm tình ra thổ lộ. Thực ra chuyện nàng thầm yêu Mộ Dung biểu huynh thì A Châu, A Bích cùng lũ a hoàn Tiểu Trà, Tiểu Mính, U Thảo đều biết hết, có điều không dám nói ra mà thôi. Vương Ngữ Yên sau khi dốc bầu tâm sự, trong lòng cảm thấy hơi nhẹ nhõm bèn nói tiếp: “Ta nói với ngươi toàn chuyện vớ vẩn, chưa vào chính đề. Tại chùa Thiếu Lâm hiện có những ai tụ họp? Sao bọn họ lại muốn làm khó biểu huynh ta?”

Đoàn Dự thấy không nói năng cù nhầy thêm được nữa đành kể: “Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư có một vị sư đệ là Huyền Bi đại sư, sở trường về Vi Đà Chử.” Vương Ngữ Yên gật đầu: “Đó là môn thứ bốn mươi tám trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, tất cả có mười chín chiêu chử pháp, khi thi triển cực kỳ hung mãnh.” Đoàn Dự nói tiếp: “Huyền Bi đại sư đi đến Đại Lý chúng tôi, tại chùa Thân Giới ở Lục Lương Châu không biết vì sao bị người đánh chết, mà kẻ địch lại hạ thủ bằng chính cái môn Vi Đà Chử sở trường của ông ta. Họ cho rằng cái lối giết người đó chỉ có nhà Mộ Dung làm được, gọi là gậy ông đập lưng ông.” Vương Ngữ Yên gật đầu: “Ngươi nói rất có lý.”

Đoàn Dự nói tiếp: “Ngoài phái Thiếu Lâm ra cũng còn nhiều người khác muốn tìm họ Mộ Dung báo thù.” Vương Ngữ Yên hỏi: “Còn những ai nữa?” Đoàn Dự đáp: “Phái Phục Ngưu có một người tên là Kha Bách Tuế, môn võ công tuyệt nghệ của ông ta là Thiên Linh Thiên Liệt.” Vương Ngữ Yên nói: “Hừ, phái Phục Ngưu có hai mươi chín chiêu Bách Thắng Nhuyễn Tiên, đó là chiêu thứ tư biến ra, tuy lối đánh kỳ dị nhưng không được liệt vào hạng võ học thượng thừa, chỉ được cái lực đạo cực kỳ cương mãnh thôi.” Đoàn Dự nói: “Kha Bách Tuế chết về thế Thiên Linh Thiên Liệt, thành ra sư đệ và đồ đệ ông ta đang kiếm nhà Mộ Dung để trả thù.”.

Vương Ngữ Yên trầm ngâm rồi đáp: “Kha Bách Tuế rất có thể do biểu huynh ta giết, còn Huyền Bi đại sư thì không phải đâu. Biểu huynh ta không biết sử dụng Vi Đà Chử, môn võ công đó luyện rất khó. Thế nhưng nếu ngươi có gặp biểu huynh ta thì đừng nói là anh ấy không biết môn này, cũng đừng nói là ta bảo thế, anh ấy mà nghe được thì giận lắm đó…” Nói tới đây bỗng có hai ả nha hoàn Tiểu Mính và U Thảo chạy đến.

U Thảo mặt sợ tái xanh, lắp bắp nói: “Tiểu thư ơi! nguy… nguy đến nơi rồi. Phu nhân hạ lệnh đem hai chị A Châu, A Bích…” U Thảo như bị nghẹn họng không sao thốt ra lời nữa. Tiểu Mính phải nói tiếp: “Đem hai chị ấy ra chặt cánh tay phải, phạt về tội tự tiện đến Mạn Đà Sơn Trang. Phu nhân lại bảo nếu gặp lần nữa thì sẽ chặt đầu. Biết làm… thế nào bây giờ?”

Đoàn Dự vội nói: “Vương cô nương… cô nương… mau tìm cách cứu bọn họ mới được.” Vương Ngữ Yên cũng bối rối, nhíu mày nói: “A Châu, A Bích là hai đứa thị tỳ tâm phúc của biểu huynh ta. Nếu để chúng thành phế nhân thì ta còn mặt mũi nào với biểu huynh nữa? U Thảo! Hiện giờ chúng ở đâu? U Thảo vốn là bạn thân với A Châu A Bích, nghe tiểu thư có ý giải cứu cho, thấy có một tia hy vọng vội đáp: “Phu nhân truyền đưa hai chị ấy xuống Hoa Phì Phòng. Tiểu tì đã xin Nghiêm bà bà hoãn lại một chút đừng động thủ vội. Bây giờ tiểu thư đến cầu khẩn phu nhân, may ra còn kịp.” Vương Ngữ Yên nghĩ bụng: “Năn nỉ mẫu thân chưa chắc đã ăn thua, nhưng cũng không còn cách nào khác”. Nàng gật đầu rồi cùng U Thảo, Tiểu Mính đi ngay.

Đoàn Dự nhìn theo tấm lưng uyển chuyển của nàng, muốn chạy theo nói thêm vài câu. Nhưng vừa cất bước lại thấy mình chẳng biết nói gì, liền tần ngần đứng lại. Chàng nghĩ lại câu chuyện mình cùng nàng vừa trao đổi bỗng dưng ngơ ngẩn.

Vương Ngữ Yên hấp tấp đi lên nhà trên, thấy mẹ đang ngồi nghiêng nghiêng, ngắm một bức tranh hoa sơn trà trên tường đến xuất thần, vội gọi khẽ một tiếng: “Mẫu thân!” Vương phu nhân chậm rãi quay đầu, vẻ mặt cực kỳ nghiêm nghị nói: “Con muốn nói chuyện chi? Việc gì có liên quan đến nhà Mộ Dung là ta không nghe đâu đấy!” Vương Ngữ Yên nói: “Thưa mẫu thân! A Châu, A Bích chuyến này không phải có chủ ý đến đây. Xin mẫu thân tha cho chúng một phen.” Vương phu nhân hỏi lại: “Sao con biết chúng không có chủ ý đến đây? Con sợ ta chặt tay chúng thì biểu huynh không nhìn đến con nữa, phải không?” Vương Ngữ Yên mắt đẫm lệ nói: “Biểu huynh con cũng là cháu mẫu thân, Sao mẫu thân… lại oán hận chàng? Dù mẫu thân có điều xích mích với cữu mẫu, thì cũng chẳng nên giận lây đến biểu huynh con.” Nàng đánh bạo nói mấy câu mà trống ngực đánh thình thình, lại tự hỏi: “Sao ta dám cả gan mở miệng lý sự cả với mẫu thân?”.

Vương phu nhân đôi mắt sáng như luồng điện lướt qua mặt con gái mấy lần, không nói năng gì rồi nhắm mắt lại. Vương Ngữ Yên không dám thở mạnh, không hiểu trong lòng mẫu thân đang nghĩ gì, ý định thế nào. Hồi lâu phu nhân mới mở mắt ra hỏi: “Sao con biết ta có chuyện xích mích với cữu mẫu? Xích mích ở chỗ nào?” Vương Ngữ Yên nghe giọng nói mẫu thân lạnh như băng giá lại càng sợ hãi, không nói nên lời. Vương phu nhân tiếp: “Con giỏi lắm! Bây giờ con lớn rồi, bất tất phải nghe lời ta nữa phải không?” Vương Ngữ Yên vừa bực mình vừa sợ, nước mắt tuôn rơi, nói: “Mẫu thân hờn giận cữu mẫu thì dĩ nhiên là cữu mẫu có điều không phải với mẫu thân. Thế nhưng không phải thế nào, mẫu thân có nói cho con nghe đâu. Bây giờ cữu mẫu qua đời rồi, mẫu thân đừng… đừng nhớ chuyện cũ làm gì nữa.” Vương phu nhân lớn tiếng hỏi: “Con nghe ai nói vậy?” Vương Ngữ Yên lắc đầu đáp: “Mẫu thân chưa hề nói với con, cũng chẳng cho người ngoài nào tới đây, còn ai kể cho con nghe nữa?”.

Vương phu nhân thở phào một cái nhẹ nhõm, giọng nói đã có vẻ hòa hoãn: “Ta làm thế cũng chỉ vì con thôi. Trên đời hạng lưu manh nhiều quá giết sao cho hết được? Con còn nhỏ, chỉ là một đứa trẻ ngây thơ, tốt hơn hết không nên gặp kẻ xấu.” Nói tới đây là vụt nhớ ra một chuyện, bèn nói: “Còn tên thợ trồng hoa họ Đoàn, mồm mép như tép nhảy, không phải là người tốt. Gã chỉ nói với con một câu là phải sai thị tì giết ngay, không để cho gã nói đến câu thứ hai. Con nghe chưa?” Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Một câu với chả hai câu, y nói chuyện với mình có đến một trăm câu, hai trăm câu rồi”.

Vương phu nhân lại nói: “Sao? Xem chừng bộ mặt hiền lành, trái tim mềm nhũn như con suốt đời sẽ bị không biết bao nhiêu lần khổ sở.” Phu nhân vỗ tay hai cái, Tiểu Mính liền chạy vào. Vương phu nhân nói: “Mi truyền cho mọi người hay là ta ra lệnh: bất cứ ai còn nói với tên thợ trồng hoa họ Đoàn một câu nào là ta lập tức cho cắt lưỡi cả hai đứa.” Tiểu Mính nghe sợ xám mặt, tưởng chừng như phu nhân nói chuyện cắt lưỡi con gà con chó gì đó chứ không phải con người, dạ một tiếng rồi lập tức lui ra. Vương phu nhân lại xua tay bảo: “Con cũng đi ra.”

Vương Ngữ Yên đáp: “Dạ!” Nàng đi đến cửa, dừng bước quay đầu lại nhắc: “Xin mẫu thân tha cho A Châu, A Bích, rồi dặn chúng nó không được bén mảng tới đây nữa.” Vương phu nhân lạnh lùng đáp: “Ta đã nói rồi! Có bao giờ ta nói hai lời đâu? Con đừng nhiều lời vô ích.”

Vương Ngữ Yên cắn răng nói khẽ: “Con biết vì sao mà mẫu thân giận cữu mẫu, ghét biểu huynh rồi.” Dứt lời nàng dậm chân nhè nhẹ một cái, đoạn ra khỏi phòng.

Phu nhân gọi: “Quay lại!” Hai tiếng đó không có gì lớn nhưng đầy vẻ uy nghiêm, Vương Ngữ Yên lại bước vào phòng cúi đầu không nói gì. Vương phu nhân vừa nhìn làn khói hương xanh ngắt bay quanh quẩn, vừa hỏi: “Yên nhi, con biết những gì? Đừng cố giấu ta! Nói hết đầu đuôi đi!” Vương Ngữ Yên mím môi nói: “Cữu mẫu trách mẫu thân giết người bừa bãi, đắc tội với quan nha, lại kết oán gây thù với võ lâm.”

Vương phu nhân đáp: “Đúng đó! Chuyện này là chuyện riêng của nhà họ Vương, có liên can gì đến nhà Mộ Dung đâu? Bà ấy có quyền hành gì mà ước thúc ta? Hừ, họ Mộ Dung mấy trăm năm nay, lúc nào cũng mơ chuyện phục Yên, tính chuyện liên lạc anh hùng hào kiệt mà sai khiến. Liên lạc chưa xong lại gây gổ với người ta, đắc tội với cả Cái Bang lẫn phái Thiếu Lâm.”

Vương Ngữ Yên nói: “Thưa mẫu thân, Huyền Bi hòa thượng của phái Thiếu Lâm nhất định không phải do biểu huynh giết. Anh ấy đâu có biết…” Nàng sắp nói ba tiếng Vi Đà Chử vội vàng nín bặt, nếu như mẫu thân hỏi gặng thì Đoàn Dự khó mà thoát khỏi cái họa sát thân, bèn nói trở ra: “Võ công chưa tới được mức đó.”

Vương phu nhân nói: “Phải đó! Lần này y lên chùa Thiếu Lâm. Chắc là mấy tên thị tỳ hớt lẻo sang đây mách con chứ gì? Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong, gớm, tên tuổi lẫy lừng quá nhỉ? Thế nhưng một thằng lỏi Mộ Dung Phục, thêm một gã Đặng Bách Xuyên lên chùa Thiếu Lâm thì làm được chuyện gì? Thật là không biết lượng sức mình.”

Vương Ngữ Yên tiến lại gần, khẩn khoản nói: “Mẫu thân! Xin mẫu thân nghĩ cách nào cứu biểu huynh một phen, sai người tới tiếp ứng được không? Họ Mộ Dung chỉ còn mình biểu huynh nối dõi, nếu anh ấy có mệnh hệ nào thì nhà Mộ Dung ở Cô Tô phải đoạn tôn, diệt tộc.” Vương phu nhân cười lạt đáp: “Hừ! Cô Tô Mộ Dung! Nhà Mộ Dung có liên can gì đến ta đâu? Con mụ cữu mẫu nói Hoàn Thị Thủy Các tàng trữ sách vở còn nhiều hơn Lang Hoàng Ngọc Động của nhà này nữa cơ mà, để thằng con cưng Mộ Dung Phục của mụ đến chùa Thiếu Lâm đại hiển uy phong càng tốt chứ sao.”

Vương Ngữ Yên nuốt lệ cúi đầu đi ra, cõi lòng trống rỗng không có định hướng, chẳng biết làm thế nào. Nàng đi tới dãy hành lang phía tây, thoảng nghe có tiếng người khẽ gọi: “Cô nương! Công việc ra sao?” Vương Ngữ Yên ngửng đầu nhìn lên, hóa ra Đoàn Dự, hoảng hốt nói: “Ngươi… ngươi đừng nói gì với ta nữa.”

Thì ra Đoàn Dự thấy Vương Ngữ Yên đi rồi, chàng tần ngần đi theo sau rồi đứng chờ ngoài xa. Ngữ Yên ở trong phòng phu nhân đi ra, chàng cũng không tự chủ được lại lẽo đẽo theo sau, mới nhìn nét mặt sầu thảm của nàng đã biết ngay Vương phu nhân không ưng thuận, liền nói: “Phu nhân không dung cho thì ta tính cách khác chứ sao?” Vương Ngữ Yên đáp: “Mẫu thân ta không nghe thì còn cách nào nữa? Bà ấy… bà ấy còn nhất định thõng tay đứng nhìn biểu huynh gặp nguy nan.” Nàng càng nối càng đau lòng, không cầm được nước mắt.

Đoàn Dự nói: “Ồ, nếu như Mộ Dung công tử cũng lâm nguy…” Rồi chàng sực nhở ra điều gì nói tiếp: “Cô nương hiểu võ công nhiều như thế, sao không đích thân đi giúp biểu huynh?” Vương Ngữ Yên mắt đẫm lệ ngước lên nhìn Đoàn Dự chăm chăm, tựa hồ như câu chàng nói rất là kỳ dị. Hồi lâu nàng mới đáp: “Ta… ta chỉ hiểu võ công nhưng lại không biết sử dụng. Ta đi thế nào được? Việc này mẫu thân còn khe khắt hơn.” Đoàn Dự mỉm cười nói: “Dĩ nhiên là phu nhân không cho rồi. Thế nhưng cô nương không tự mình lén đi được hay sao? Chính tôi đây cũng từng bỏ nhà trốn đi rồi sau trở về, cả gia gia lẫn má mà có trách phạt gì đâu?”

Vương Ngữ Yên nghe chàng nói thế, xem ra hết bế tắc, đôi mắt sáng lên, nghĩ thầm: “Phải lắm! Ta lén đi cứu biểu huynh.” Nàng nghĩ đến chuyện vì đi cứu biểu huynh mà chịu gian nan vất vả thì trong lòng vừa chua xót lại vừa phấn khởi, lại nghĩ: “Gã này đã trốn nhà ra đi, ồ, mà sao trước nay ta không nghĩ đến chuyện này nhỉ?”.

Đoàn Dự nhìn thần sắc cô gái biết nàng đã xiêu lòng nên càng ra sức cổ võ: “Cô nương cứ chui rúc ở Mạn Đà Sơn Trang này mãi, sao không ra ngoài mà xem phong cảnh hùng vĩ, thế giới bao la?”

Vương Ngữ Yên lắc đầu: “Ta nghĩ cũng chẳng có gì đáng xem, chỉ cần đi tiếp ứng biểu huynh. Có điều trước này ta chưa từng luyện võ, nếu như anh ấy gặp nguy hiểm, ta cũng không giúp được gì.” Đoàn Dự nói: “Sao cô nương lại bảo là không giúp được gì? Giúp được nhiều lắm chứ. Khi biểu huynh có động thủ với người ngoài, cô nương chỉ cần đứng ngoài nói vài câu, cái đó gọi là đứng ngoài sáng nước. Mới đây tôi xem đánh cờ, người ta đã tưởng thua, tôi đứng ngoài chỉ cho vài nước liền lật ngược tình thế.” Vương Ngữ Yên nghe thấy có lý nhưng vẫn chưa đủ can đảm, ngần ngừ đáp: “Ta chưa từng ra khỏi cửa, chẳng biết Thiếu Lâm tự ở phương nào.”

Đoàn Dự lập tức vớ ngay cơ , nói: “Tôi xin đi với cô nương, dọc đường có chuyện gì tôi sẽ ứng phó giùm cho.” Chàng vốn dĩ chẳng có bao hội nhiêu kinh nghiệm giang hồ, nhưng dại gì mà nói ra. Vương Ngữ Yên nhíu đôi mày xinh xắn, nghiêng đầu trầm ngâm không biết tính sao cho phải. Đoàn Dự lại hỏi: “Còn A Châu, A Bích ra sao rồi?” Vương Ngữ Yên đáp: “Mẫu thân ta không chịu dung tha.” Đoàn Dự tiếp lời: “Thôi thì đâm lao phải theo lao, nếu hai cô này bị chặt tay thì biểu huynh cô nương tất sẽ trách cứ. Sao bằng cứu cả hai người đó rồi cả bốn người cùng đi một lượt.” Vương Ngữ Yên lắc đầu lè lưỡi nói: “Đại nghịch bất đạo như thế khi nào mẫu thân ta chịu để yên? Ngươi thật là lớn mật.”

Đoàn Dự biết rằng việc gì phải có liên quan đến biểu huynh mới lay chuyển được nàng, bèn lấy lùi làm tiến, nói: “Đã thế thì chúng ta ra đi tức khắc, để mặc hai cô A Châu, A Bích bị chặt tay. Sau này biểu huynh cô nương có hỏi đến thì cứ nói không biết là xong. Tôi nhất định giữ bí mật chuyện này.” Vương Ngữ Yên vội nói: “ Không được! Không được! Thế thì ta dối trá cả biểu huynh hay sao?” Nàng ngần ngừ một lúc rồi than: “Trời ơi! A Châu, A Bích là hai tên thị nữ tâm phúc, phục thị chàng từ thuở nhỏ. Nếu để chúng bị chặt cụt chân tay thì họ Mộ Dung với họ Vương lại kết thêm một mối thâm cừu.” Nàng dậm chân xuống đất nói: “Ngươi đi theo ta!”

Đoàn Dự nghe bốn chữ “Ngươi đi theo ta” thật mừng không để đâu cho hết, trong đời chưa bao giờ nghe câu nào ngọt ngào đến thế. Chàng thấy nàng đi về hướng tây bắc liền lẽo đẽo theo sau. Chỉ một lát, Vương Ngữ Yên đã đưa chàng đến một căn nhà đá lớn, cất tiếng gọi: “Nghiêm má má! Mụ ra đây ta bảo!”

Bỗng từ trong thạch ốc vẳng ra một chuỗi cười thật là quái đản, một giọng nói khàn khàn vọng ra: “Cô nương đến coi mụ chế phân bón hoa đó phải không?” Lúc nãy Đoàn Dự đã nghe thấy U Thảo cùng Tiểu Mính bảo A Châu, A Bích đã bị tống vào trong Hoa Phì Phòng gì đó nhưng không để ý. Lúc này nghe giọng nói lạnh lẽo đầy âm khí nhắc tới “phân bón” chàng mới thấy giật mình: “Trời ơi! Họ làm phân bón hoa! Chao ôi! Vương phu nhân thật là tàn nhẫn đến cùng cực, đem người chôn sống, chặt ra để bón hoa trà. Không biết mình có đến trễ không, lỡ hai nàng A Châu A Bích bị chặt tay rồi thì biết làm thế nào đây?”. Trống ngực chàng đánh thình thình, mặt mày tái mét tưởng chừng cắt không chảy máu.

Vương Ngữ Yên nói: “Nghiêm má má, mẫu thân ta có việc cần, mụ ra đây ngay.” Người đàn bà trong thạch thất nói: “Ta đang bận. Phu nhân có việc chi cần kíp mà phải sai cô nương thân hành đến đây?” Vương Ngữ Yên đáp: “Mẫu thân ta bảo… chà… Đã đem bọn chúng đến đây chưa?”

Nàng vừa nói vừa bước vào trong nhà đá, nhìn thấy A Châu, A Bích bị trói vào hai cây cột sắt, miệng bị nhét hạt đào, Hai nàng mắt đẫm lệ mà miệng không sao nói được. Đoàn Dự cũng ghé đầu vào coi, thấy chưa việc gì mới hơi yên tâm, nhưng nhìn qua bên kia thì tim lại đập rộn lên, Một mụ già lưng còng đầu tóc bạc phơ, tay cầm một lưỡi dao dài sáng loáng, bên cạnh là một vạc nước sôi sùng sục.

Vương Ngữ Yên nói: “Nghiêm má má, mẫu thân ta bảo mụ tạm tha hai đứa này ra để ta dẫn chúng lên tra hỏi một việc khẩn cấp.”

Bấy giờ Nghiêm má má mới quay đầu lại, Đoàn Dự thấy mụ mặt mày gớm ghiếc, ánh mắt đầy sát khí, cặp răng nanh nhọn hoắt chìa ra ngoài miệng dường như để cắn người, chỉ nhìn cũng đủ biết bụng dạ tàn nhẫn đến chừng nào. Bỗng thấy mụ gật đầu nói: “Được, hỏi xong rồi lại đem xuống đây để chặt tay.” Mụ lẩm bẩm nói một mình: “Nghiêm má má này bình sinh ghét nhất mấy đứa con gái xinh đẹp. Hai con lỏi này có chặt tay rồi vẫn còn đẹp, ta phải nói với phu nhân chặt cả hai chân làm phân, lâu nay hoa không được tốt”. Đoàn Dự nghe mẹ nói giận quá nghĩ bụng: “Mụ la sát độc ác này không biết đã giết chết bao nhiêu người rồi. Tiếc rằng sức mình trói gà không chặt, không thì tát cho mụ gãy mấy cái răng rồi hãy cứu A Châu, A Bích.”

Nghiêm má má tuy già nhưng tai còn thính lắm, Đoàn Dự đứng bên ngoài thở mạnh bị mụ ta phát giác ngay, hỏi liền: “Đứa nào đứng ngoài đấy?” Rồi mụ thò đầu ra ngoài trông thấy Đoàn Dự, trong lòng sinh nghi hỏi ngay: “Mi là ai?” Đoàn Dự cười nói: “Tôi là thợ trồng hoa, vâng lệnh Vương phu nhân trồng mấy khóm bạch trà, đến đây hỏi má má xem có đồ bón chưa?” Nghiêm má má đáp: “Mi chờ một lúc nữa sẽ có!” Mụ quay sang hỏi Vương Ngữ Yên: “Tiểu thư Mộ Dung thiếu gia cưng hai con nha hoàn này lắm phải không?”

Vương Ngữ Yên đáp: “Đúng rồi! Mụ đừng giết chúng hay hơn.” Nghiêm má mà gật đầu: “Tiểu thư, phu nhân có dặn đem hai đứa a đầu này chặt cánh tay hữu tống ra khỏi trang. Phu nhân còn nói thêm: Từ nay nếu hai đứa mi còn để cho ta thấy mặt là bị chém đầu tức khắc, có phải không nào?” Vương Ngữ Yên đáp: “Phải rồi!” Nàng vừa buột miệng đã biết lỡ lời, giơ tay lên bịt miệng lại. Đoàn Dự ngấm ngầm than rằng: “Chết rồi! Cô này không biết nói dối.”

Nghiêm má má giả vờ tuổi già lẫn lộn, không để ý đến chỗ vô tình bại lộ, mụ nói: “Dây trói chặt quá, tiểu thư lại đây giúp tôi một tay tháo ra.” Vương Ngữ Yên đáp: “Được rồi!” Nàng vừa bước tới cạnh A Châu để cởi dây trói thì đột nhiên đánh tách một tiếng, một cái đai sắt hình cánh cung từ trong cột sắt bật ra, quàng lấy chiếc lưng thon rồi thít chặt vào. Vương Ngữ Yên rú lên một tiếng. Cái vòng sắt ôm lấy lưng nàng chỉ còn hở có vài tấc, nàng cựa thế nào cũng không thoát ra được.

Đoàn Dự cả kinh chạy lại quát hỏi: “Mi làm trò gì thế này? Mau buông tiểu thư ra!” Nghiêm má mà lại buông mấy tiếng cười khanh khách, nói: “Phu nhân đã bảo còn gặp hai đứa a đầu này sẽ chặt đầu ngay, sao lại còn gọi chúng lên tra hỏi? Hơn nữa thiếu chi thị nữ, nha hoàn mà tiểu thư phải thân hành đến đây? Trong việc này tất còn có điều gì khác lạ. Tiểu thư hãy chờ đây một lát để mụ lên bẩm lại phu nhân rồi sẽ xuống nói chuyện.”

Vương Ngữ Yên tức giận nói: “Sao mụ dám hỗn láo thế? Thả ta ra ngay!” Nghiêm má má đáp: “Tiểu thư xét lại cho, ta lúc nào cũng giữ tấc dạ trung thành với phu nhân, không dám làm điều gì mảy may lầm lẫn. Thái thái nhà Mộ Dung đối với phu nhân chẳng phải chút nào, nói xấu phu nhân nhiều điều, phỉ báng tiếng tăm thanh bạch của phu nhân, phu nhân lộn ruột đã đành mà bọn người dưới chúng ta cũng hận tới xương tủy. Ngày đó nếu như phu nhân chỉ gật đầu một cái, bọn ta lập tức, quật mồ thái thái lên, lấy xương đem vào Hoa Phì Phòng để làm phân bón hoa. Tiểu thư, ta nói cho cô nghe, họ Mộ Dung chẳng tốt lành gì đâu, phu nhân không thể nào tha hai con a đầu này được. Thế nhưng tiểu thư đã nói vậy thì xin chờ ta lên hỏi lại phu nhân, nếu quả đúng là như thế ta sẽ khấu đầu tạ tội, có đem roi đập vào lưng ta cũng được.” Vương Ngữ Yên rất đỗi hoang mang, gọi giật lại: “Này này! Mụ đừng lên hỏi mẫu thân ta nữa! Người làm ầm lên bây giờ!”

Nghiêm má má không còn hoài nghi gì nữa, rõ ràng tiểu thư phản bội phu nhân, giả truyền hiệu lệnh để thả hai đứa thị tì của biểu huynh. Mụ muốn nhân cơ hội lập công bèn nói: “Không sao? Tiểu thư chờ đây một lát, ta trở lại ngay mà!” Vương Ngữ Yên vẫn cố ngăn lại nói: “Mụ đừng đi! Thả ta rồi hãy nói chuyện.” Nghiêm má má khi nào chịu nghe nàng, mụ trở gót đi ngay ra cửa.

Đoàn Dự thấy sự tình nguy cấp, vội giơ tay ra cản đường, cười nói: “Mụ thả tiểu thư ra trước rồi hãy lên hỏi phu nhân, có hay hơn không? Mụ là người dưới, đắc tội với tiểu thư thì không yên thân được đâu.”

Nghiêm má má liếc đôi mắt ti hí nhìn Đoàn Dự, rồi ngoẹo đầu nói: “Thằng lỏi này xem ra cũng có điều xảo trá đây.” Mụ vừa nói vừa giơ tay chụp lấy cổ tay Đoàn Dự, lôi chàng xềnh xệch tới cái cột sắt, bấm nút cơ quan. Nghe “cách” một tiếng, cái vòng thép đã bật ra chụp ngang lưng chàng. Đoàn Dự hoảng quá vội vàng trở tay nắm chặt cổ tay mụ nhất định không buông.

Nghiêm má má vừa bị chàng nắm được lập tức thấy nội lực trong mình cuồn cuộn tuôn ra, khó chịu không biết đến đâu mà kể. Mụ cả giận quát lên: “Buông tay ra!” Càng mở miệng quát, chân khí trong người càng tiết ra mau. Nghiêm má má cố sức cựa quậy mà không sao gỡ thoát được tay Đoàn Dự, kinh hãi la lên: “Xú tiểu tử, mi làm gì thế? Có bỏ ta ra không nào?”

Mặt Đoàn Dự đối diện với bộ mặt quỷ dạ xoa của mụ già, chỉ cách nhau vài tấc. Lưng chàng đã bị vòng thép xiết chặt, không thể nào quay mặt ra chỗ khác được, nhìn bộ răng vàng khè nhọn hoắt của mụ tưởng như muốn đớp vào cổ họng mình, trong bụng vừa kinh hãi vừa ghê tởm, nhưng chàng biết tình trạng đang nguy ngập khác nào ngàn cân treo đầu sợi tóc. Giả tỷ mình buông tha mụ ra thì Vương Ngữ Yên tất nhiên sẽ bị trọng phạt mà tính mạng mình cùng A Châu, A Bích cũng không bảo toàn được. Chàng đành nhắm mắt không dám nhìn mụ ta nữa.

Nghiêm má má yếu ớt kêu: “Mi… mi có buông tha ta không?” Đoàn Dự lúc trước hút nội lực của bảy tên đệ tử phái Vô Lượng mất một thời gian lâu, về sau lại được thềm của nhiều cao thủ mỗi người một ít nên nội lực chàng càng lúc càng mạnh, sức hút của Bắc Minh thần công càng lúc càng lớn, bây giờ hút nội lực của mụ già này chỉ một loáng là xong. Nghiêm má má tuy là người hung hãn nhưng nội lực làm gì có nhiều nên chỉ trong thời gian uống cạn tuần tra là đã tinh thần bạc nhược, hơi thở yếu ớt, rền rĩ: “Bỏ… bỏ ta ra, bỏ… bỏ… tay…”

Đoàn Dự nói: “Mụ phải mở cơ quan thả ta trước đã.” Nghiêm má má đáp: “Xin vâng! Xin vâng!” Mụ ngồi thụp xuống thò tay vào gầm bàn bấm nút cơ quan, nghe cách một tiếng chiếc ngàm đang choàng quanh người Đoàn Dự thụt về. Chàng lại chỉ vào Vương Ngữ Yên và Châu Bích hai người ra lệnh cho mụ ta thả ra. Nghiêm má má giơ tay bấm cơ quan để mở cho Vương Ngữ Yên, loay hoay một hồi vẫn không thấy nhúc nhích gì cả. Đoàn Dự cả giận hỏi: “Mụ không chịu thả tiểu thư phải không?” Nghiêm má má mếu máo đáp: “Ta… ta kiệt lực mất rồi.”

Đoàn Dự tự mình thò tay vào gầm bàn sẽ thấy nút bấm, ấn nghe “cách” một tiếng, chiếc vòng đang giữ lưng Vương Ngữ Yên từ từ tụt vào trong cột sắt. Chàng cả mừng nhưng tay vẫn nắm chặt Nghiêm má má, cúi xuống nhặt thanh đao cắt đứt dây trói tay A Bích.

A Bích rảnh tay lại đón lấy thanh đao cắt đứt dây trói cho A Châu, hai người lại móc hạt đào nhét trong miệng ra rồi vừa mừng vừa sợ, hồi lâu không nói nên lời.

Vương Ngữ Yên giương mắt nhìn Đoàn Dự, nét mặt nàng lộ vẻ kỳ dị lại có vẻ khinh khi, hỏi: “Sao ngươi lại biết Hóa Công Đại Pháp? Môn công phu dơ bẩn đó học làm chi?” Đoàn Dự lắc đầu đáp: “Đó không phải là Hóa Công Đại Pháp.” Rồi chàng toan thuật hết đầu đuôi cho Vương Ngữ Yên nghe, nhưng một là câu chuyện quá dài, hai là vị tất cô nàng đã tin, thuận miệng đặt ra một cái tên thì hơn, bèn nói: “Đây là một công phu gia truyền của họ Đoàn nước Đại Lý chúng tôi tên là Lục Dương Dung Tuyết Công, do Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm biến hóa mà thành. So với Hóa Công Đại Pháp thì một đằng chính một đằng tà, một đằng thiện một đằng ác, không thể coi là một được.”

Vương Ngữ Yên tin ngay, mỉm cười nói: “Quả là ta kiến thức hẹp hòi, có điều không phải với người. Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn nước Đại Lý ta ngưỡng mộ đã lâu. Lục Dương Dung Tuyết Công thì hôm nay mới nghe nói tới lần đầu, ngày sau thế nào cũng có lúc xin dạy bảo.” Đoàn Dự nghe mỹ nhân hỏi tôi đã cho là mình có phước lắm rồi, vội vàng đáp ngay: “Nếu tiểu thư hỏi đến, tôi nguyện nói hết cho nghe không dám giấu giếm gì.”

A Châu, A Bích thật không ngờ đến phút khẩn cấp cuối cùng Đoàn Dự tới giải cứu, lại thấy chàng cùng tiểu thư trò chuyện thân mật đều lấy làm kỳ dị. A Châu nói: “Thưa cô nương cùng Đoàn công tử, xin cảm tạ cái ơn cứu mạng! Bây giờ ta phải bắt Nghiêm má má dẫn theo để mụ ta khỏi tiết lộ bí mật.”

Nghiêm má má hoảng hốt, nghĩ thầm nếu bị hai đứa a đầu này bắt đi tất mười phần chết chín, kêu lên: “Tiểu thư, tiểu thư, thái thái nhà Mộ Dung nói là phu nhân đi cướp chồng người, còn nói…” Mụ chưa dứt lời, A Châu một tay giữ đầu, tay kia cầm ngay hột đào mình vừa nhả ra nhét luôn vào mồm mụ. Đoàn Dự cười nói: “Phải lắm! Đúng là tuyệt kỹ gây ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung.”

Vương Ngữ Yên nói: “Ta đi với bọn ngươi một chuyến xem…” Nàng nói tới đây, vẻ mặt thẹn thùng xuống giọng: “xem… tình hình chàng ra sao.” Nàng vốn dĩ do dự nhưng sau biến cố này cảm thấy quyết tâm hơn. A Châu cả mừng nói: “Được cô nương đi viện trợ cho công tử thì còn gì hay bằng? Vậy thì mình chẳng cần đưa Nghiêm má mà theo làm gì.” Hai cô gái lôi Nghiệm má má đến cạnh cột sắt rồi bấm nút cơ quan đưa vòng thép ra giữ chặt lấy mụ. Bốn người lẳng lặng đi ra khỏi cửa, rảo bước về phía bờ hồ.

Cũng may trên đường chẳng gặp một ai, họ cùng nhau bước xuống thuyền nhỏ, rồi A Châu, A Bích hạ mái chèo, quay mũi thuyền chèo đi. A Châu, A Bích và cả Đoàn Dự, cả ba đều cố sức chèo cho nhanh, đến lúc quay lại không còn thấy bóng cây cối của Mạn Đà Sơn Trang nữa mới yên tâm. Tuy nhiên họ vẫn sợ Vương phu nhân cho khoái thuyền ra đuổi theo nên vẫn không dám ngừng tay.

Chèo đến lúc trời xế bóng, trên mặt hồ sương chiều mỗi lúc một dày, A Châu nói: “Cô nương, nơi đây cách chỗ tiểu tì ở không xa, mời cô nương ghé nghỉ tạm một đêm để thương nghị việc đi tìm công tử, nên chăng?” Vương Ngữ Yên đáp: “Thế cũng được.” Nàng càng xa Mạn Đà Sơn Trang càng thêm trầm mặc.

Đoàn Dự thấy gió trên hồ thổi làm tà áo nàng phất phơ, khi hoàng hôn xuống hơi lành lạnh, trong đầu bỗng nhiên cảm thấy thê lương, nỗi vui mừng lúc mới ra đi càng lúc càng vơi dần.

Lại chèo thêm một hồi, nhìn vào mặt những bạn đồng hành thấy đã mông lung, chợt phía đông nhìn thấy ánh đèn le lói, A Bích nói: “Chỉ có ánh đèn kia là Thính Hương Thủy Tạ, nơi ở của A Châu tỉ tỉ.” Thuyền liền nhắm thẳng phía đó bơi tới. Đoàn Dự lẩm bẩm: “Đời ta khó lòng lại có được một buổi như hôm nay. Ước gì con thuyền cứ lênh đênh mãi trên mặt hồ, vĩnh viễn dừng đến chỗ đèn lửa kia thì có phải sung sướng hơn không?” Bất thình lình trước mặt một tia sáng lóe ra, trên trời có một vì sao đổi ngôi xẹt qua, vạch thành một cái đuôi rất dài.

Vương Ngữ Yên miệng rì rầm nói điều gì, Đoàn Dự nghe không rõ. Lúc đó trời đã tối mịt, không nhìn rõ mặt, chỉ nghe thấy nàng buồn bã thở dài. A Bích dịu dàng nói: “Cô nương hãy yên lòng. Công tử thường gặp dữ hóa lành, trước nay biết bao nhiêu lần gặp nguy hiểm đều qua khỏi hết.” Vương Ngữ Yên đáp: “Chùa Thiếu Lâm nổi tiếng đã mấy trăm năm ắt tài nghệ ghê gớm không thể nào lường được. Chỉ mong các vị cao tăng thông hiểu tình lý, chịu nghe biểu huynh giãi bày mọi chuyện. Ta chỉ ngại rằng… ngại rằng biểu huynh tính khí cao ngạo, lời qua tiếng lại rồi xung đột với chư tăng, ôi…” Nàng ngừng lại một chút, nhỏ nhẹ tiếp: “lần nào gặp sao đổi ngôi ta đều ước nguyện, nhưng chưa thành tựu lần nào.”

Người đất Giang Nam thuở nay vẫn tin rằng mỗi khi có sao đổi ngôi, người nào cầu nguyện khấn khứa được trọn lời thì việc khi đến đâu cũng toại nguyện.

Nếu lời cầu còn dang dở mà sao đã biến mất rồi thì việc không thành. Thế nhưng ánh sao thường chỉ xẹt ngang rồi tắt ngay, chỉ kịp nói mấy chữ, thành thử muôn ngàn năm nay, không biết bao nhiêu cô gái Giang Nam ôm mộng trong lòng đã vì đó mà sinh thất vọng. Vương Ngữ Yên tuy là người rất hiểu biết lại cực kỳ tinh thông võ học, nhưng về tính tình nhi nữ cũng có khác gì cô gái quê mùa?

Đoàn Dự nghe nàng than vãn bỗng chạnh mối thương tâm, chàng biết rõ điều ước nguyện của nàng nhất định có liên quan đến Mộ Dung công tử và hơn là cầu cho gã bình an, vạn sự như ý. Chàng chợt tự hỏi: “Trên đời này có người con gái nào vì mình mà thầm ước nguyện gì chăng? Mộc Uyển Thanh trước đây yêu ta sâu đậm thật, nhưng sau khi nàng biết ta là huynh trưởng dĩ nhiên sẽ có mối tình cùng người khác, không biết hiện giờ ở đâu? Và đã gặp được như ý lang quân chưa? Còn Chung Linh ư? Liệu nàng có biết ta cũng là huynh trưởng hay không? Dẫu cho không biết, có lúc nàng ngẫu nhiên tưởng tới ta thì cũng chẳng qua là rộn ràng trong chốc lát rồi chuyện đâu bỏ đó, quyết không bằng Vương cô nương tha thiết với ý trung nhân, mối tình dường như đã khắc cốt ghi xương.”

Hồi 13: Cô nương chỉ điểm, quần hào ngẩn ngơ

Con thuyền chèo tới mỗi lúc một gần, A Châu đột nhiên khẽ bảo: “A Bích, xem kìa! Dường như có sự gì lạ lắm!” A Bích gật đầu nói: “Sao đèn đuốc nhiều thế kia?” Nàng cười khúc khích nói: “A Châu tỉ tỉ ơi! Trong nhà làm gì náo nhiệt như đêm Nguyên Tiêu vậy? Đèn đuốc sáng trưng, không chừng họ làm tiệc sinh nhật cho tỉ tỉ đó.” A Châu lẳng lặng không nói gì, chỉ chăm chăm nhìn ánh đèn lửa chiếu xuống mặt hồ.

Đoàn Dự nhìn từ xa xa, thấy tám chín gian nhà dựng trên một cái cù lao nhỏ, trong đó có hai căn nhà lầu, từ trong cửa sổ ánh đèn chiếu ra. Chàng nghĩ thầm: “Thính Hương Thủy Tạ chỗ A Châu ở chắc so với Cầm Vận Tiểu Trúc của A Bích không khác bao nhiêu. Trong Thính Hương Thủy Tạ chỗ nào cũng đèn lửa huy hoàng, chắc tại A Châu thích náo nhiệt vui chơi”.

Thuyền còn cách Thính Hương Thủy Tạ chừng một dặm, A Châu ngừng chèo nói: “Vương cô nương, trong nhà tiểu tì có địch.” Vương Ngữ Yên giật mình hỏi: “Địch tới rồi ư? Ai thế?” A Châu đáp: “Chưa biết bọn nào, nhưng cô nương thử ngửi xem, mùi rượu xông lên nồng nặc thì đúng là hạng khách bất nhân đến phá quấy rồi.” Vương Ngữ Yên và A Bích cố gắng hít mấy hơi nhưng không ai ngửi thấy gì. Còn Đoàn Dự chỉ “chuyên trị” mùi hương thiếu nữ, những mùi khác thì chàng cũng như người thường mà thôi.

Riêng A Châu có cái mũi thính đặc biệt, nói: “Hỏng bét! Thật là hỏng bét! Bọn chúng lấy cả Mạt Lị Lộ cùng Mai Quế Lộ ra uống. Trời ơi! khổ rồi! Cả vò Hàn Mai Lộ chúng cũng đem ra uống vung uống vãi…” Mấy câu sau nàng nói như muốn khóc.

Đoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi: “Sao mắt cô tinh thế, nhìn được cả những chuyện đó hay sao?” A Châu nghẹn ngào đáp: “Không phải, ngửi thấy đấy chứ. Tiểu nữ mất bao nhiêu công lao mới làm được mấy vò rượu đó, bọn gian ác này đem ra uống mất rồi.” A Bích hỏi: “A Châu tỉ tỉ, phải làm sao đây? Ta tránh đi hay lên bờ động thủ?” A Châu đáp: “Chưa rõ địch nhân có lợi hại lắm không?” Đoàn Dự cũng xen vào: “Phải đó! Nếu chúng lợi hại quá thì ta tránh đi là hơn. Bằng chúng chỉ là hạng tầm thường thì mình sẽ dạy cho chúng một bài học, để cho những đồ trân quý của A Châu tỉ tỉ khỏi bị hư hao thêm nữa.” A Châu đang bực mình, nghe chàng cà khịa nước đôi như thế liền nói: “Tránh kẻ mạnh, dằn mặt kẻ yếu thì ai mà chẳng biết? Thế nhưng công tử làm sao biết kẻ địch ghê gớm hay tầm thường?” Đoàn Dự cứng họng không sao trả lời được.

A Châu nói: “Bọn mình cứ tới xem sao đã, nhưng trước hết phải tìm quần áo cải trang thành dân đánh cá mới được.” Nàng chỉ về hướng đông nói: “Mấy nhà chài lưới kia tôi quen lắm.” Đoàn Dự vỗ tay cả cười nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” A Châu bèn trở chèo quay sang phía đông, nghĩ đến hóa trang trong bụng phấn chấn, việc đang xảy ra trong nhà không còn làm cho nàng tức tối nữa.

Trước hết nàng đến xóm chài mượn quần áo cùng Vương Ngữ Yên, A Bích ba người thay ra. Bản thân nàng giả làm một bà lão đánh cá còn Vương Ngữ Yên và A Bích thành hai mụ dân chài trung niên. Sau đó mới gọi Đoàn Dự qua, hóa trang chàng thành một ngư nhân chừng bốn mươi tuổi. Thuật hóa trang của A Châu thật tính diệu tuyệt luân. Nàng trát phấn, trát bột cho cả bốn người một loáng đã xong cả, người nào người ấy không còn ai nhận ra được bộ mặt cũ nữa. Nàng lại mượn nào thuyền, nào lưới, nào cần câu, nào cá sống rồi mới chèo về phía Thính Hương Thủy Tạ.

Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên tuy tướng mạo có đổi nhưng giọng nói, bộ điệu đầy những sơ hở, học đòi A Châu thế nào được? Vương Ngữ Yên cười nói: “A Châu! Mọi việc đều do ngươi ứng phó, bọn ta chỉ có tài giả câm thôi.” A Châu cười đáp: “Phải lắm, cô nương cứ thế là xong.” .

Chiếc thuyền đánh cá từ từ chèo đến phía sau thủy tạ, Đoàn Dự thấy bốn bề đều trồng dương liễu. Từ trong nhà tiếng nói cười thô lỗ cùng tiếng gọi nhau í ới ầm ĩ từng chập vang ra, thật không xứng với khung cảnh hoa cỏ u nhã, tinh xảo chút nào.

A Châu thở dài ngao ngán, A Bích ghé vào tai nàng nói nhỏ: “A Châu tỉ tỉ! Để tống cổ bọn địch đi rồi, em sẽ giúp chị một tay sắp xếp lại.” A Châu đưa tay nắm tay nàng tỏ vẻ biết ơn.

Nàng dẫn bọn Đoàn Dự ba người lên bờ, đi quanh vào nhà bếp, thấy lão nấu ăn họ Cố đang bận tíu tít, mồ hôi đầm đìa, luôn mồm khạc nhổ vào trong chảo, rồi khuấy trộn đờm dãi vào thức ăn. A Châu trông thấy vừa buồn nôn vừa buồn cười bảo: “Lão Cố! Ngươi làm gì đó?” Lão Cố giật mình đánh thót một cái, quay ra hỏi: “Mụ… mụ…” A Châu cười nói: “Ta là A Châu cô nương đây.” Lão Cố mừng quá nói: “A Châu cô nương, bọn khốn kiếp ở đâu kéo đến, bắt lão phải nấu cho chúng ăn. Cô nương xem này…” Lão vừa nói vừa xì mũi vào chảo thức ăn, rồi toét miệng ra cười hềnh hệch, A Châu chau mày hỏi: “Sao ngươi làm đồ ăn dơ bẩn thế?” Lão Cố vội nói: “Món ăn của cô nương thì trước khi nấu tôi đều rửa tay thật kỹ. Còn cho bạn xấu xa kia ăn thì càng bẩn càng tốt.” A Châu nói: “Lần sau ta thấy đồ ăn lão làm chắc cũng ghê tởm chẳng dám ăn đâu.” Lão Cố vội phân trần: “Không, không phải, hoàn toàn không phải.” A Châu tuy là thị nữ của Mộ Dung công tử nhưng ở Thính Hương Thủy Tạ nàng là chủ, cũng có tì nữ, đầu bếp, thuyền phu, người trồng hoa hầu hạ.

A Châu hỏi thêm: “Bọn địch có đông không?” Lão Cố đáp: “Bọn tới trước chừng mười tám, mười chín người, còn bọn đến sau phải trên hai chục người.” A Châu hỏi: “Những hai bọn kia à? Chúng thuộc về hạng nào? Coi cách ăn mặc và giọng nói có biết chúng ở đâu không?” Lão Cố hậm hực: “Mẹ chúng nó…” Câu chửi tục vừa ra khỏi cửa miệng, lão tự biết là vô lễ, vội đưa tay bịt miệng, sợ hãi tiếp: “Xin lỗi cô nương, lão Cố thật đáng chết, giận quá mất khôn. Hai bọn này thì một là man mọi phương bắc, có vẻ toàn là cường đạo, còn bọn kia là ma quỉ Tứ Xuyên, tên nào cũng mặc áo bào trắng, chẳng biết làm cái giống gì.” A Châu hỏi thêm: “Bọn chúng đến kiếm ai? Có chém giết ai không?” Lão Cố đáp: “Bọn cường đạo đến trước thì kiếm lão gia, bọn quái nhân đến sau thì kiếm công tử. Tôi nói lão gia đã qui tiên rồi, còn công tử vắng nhà, nhưng chúng không tin, lùng khắp nơi tìm kiếm một hồi. Các nha hoàn trong nhà chạy trốn hết, còn mình tôi, tức quá, mẹ…” Lão toan chửi câu nữa nhưng kịp nuốt lời lại, chưa tuôn ra hết câu. A Châu thấy mắt bên trái lão tím bầm, còn một nửa mặt sưng vù lên chắc là bị chúng đánh đau, trách nào lão chẳng nhổ đờm dãi vào các món ăn cho hả giận.

A Châu trầm ngâm một lát rồi nói: “Thôi được, lão nói chưa rõ ràng, để chúng ta lên coi.” Nàng dẫn Ngữ Yên, Đoàn Dự, A Bích ba người theo cửa ngách ra khỏi nhà bếp, đi ngang một dãy hoa nhài, qua hai chiếc cổng tò vò đến bên ngoài hoa sảnh, còn cách vài trượng đã nghe tiếng người huyên náo rất phức tạp.

A Châu rón rén đến gần, giơ ngón tay chọc thủng giấy dán cửa sổ, ghé mắt nhìn vào bên trong. Chỉ thấy phía đông đại sảnh đèn đuốc sáng rực, độ mười tám mười chín đại hán to lớn lực lưỡng đang nhậu nhẹt đầy khí thế. Trên bàn chén bát bừa bãi, dưới đất ghế đổ ngả nghiêng, gã thì ngồi chồm hổm trên bàn, có gã không dùng đũa, tay cầm đùi gà cắn nhai nhồm nhoàm. Có gã lại lấy trường đao cắt thịt bò rồi dùng mũi dao xiên đưa lên mồm.

A Châu lại sang phía tây quan sát, lúc đầu cũng không lưu ý nhưng nhìn lâu một hồi, bất giác sởn gai ốc, sau lưng lạnh toát như bị dội nước lạnh. Hơn hai chục người ở đó đều mặc áo bào trắng, ngồi nghiêm chỉnh, trên bàn thắp một cây nến nhỏ, ánh sáng yếu ớt chiếu ra bất quá độ vài thước vuông. Sáu bảy người ngồi gần ngọn nến nên trông rõ, người nào cũng khô đét, thân hình gầy khẳng kheo, mặt trơ như gỗ, không ra vui cũng không ra giận, nếu không thỉnh thoảng nháy mắt thì ai cũng bảo đó là xác chết.

A Bích đến gần A Châu, cầm lấy tay nàng thì thấy bàn tay lạnh ngắt mà hơi run. A Bích tò mò cũng chọc thủng cửa sổ để ngó trộm. Nàng vừa nhìn vào thì thấy ngay một tên mặt vàng như nghệ đang trừng trừng nhìn mình. A Bích hoảng hốt, khẽ kêu lên một tiếng “trời ơi!”. Bình bình hai tiếng, cửa sổ vỡ tung, bốn người cùng nhảy ra. Hai tên cường đạo phương bắc cùng hai quái khách Tứ Xuyên cùng quát lên: “Ai đó?”

A Châu đáp: “Chúng tôi vừa bắt được mấy con cá, đến hỏi xem lão Cố có mua không. Hôm nay có cả tôm tươi nữa.” Nàng bắt chước giọng Tô Châu, bọn kia nghe không hiểu nhưng thấy bốn người ăn mặc theo kiểu dân chài, tay cầm cá tôm đang giãy tanh tách thì hiểu ngay. Một gã đại hán giật lấy con cá ở trong tay A Châu rồi gọi rối rít: “Nhà bếp! Nhà bếp! Đem mấy con cá này xuống nấu cháo ăn cho giã rượu.” Một gã khác cũng cầm ngay con cá trong tay Đoàn Dự.

Hai tên Tứ Xuyên thấy chỉ là bọn bán cá nên chẳng để ý gì, quay người trở vào trong sảnh. Khi chúng đi qua mặt A Bích, một mùi hôi thối như cá đơn đã mười ngày xông vào mũi nàng. A Bích không nhịn được, giơ tay áo lên bịt mũi, tay áo nàng tụt xuống để lộ cánh tay nhỏ nhắn, trắng như tuyết. Một gã người Tứ Xuyên nhanh mắt trông thấy, sinh nghi: “Một mụ dân chài trung niên da dẻ sao lại trắng trẻo đến thế?”. Gã liền quờ tay ra nắm lấy A Bích hỏi: “Mụ già này bao nhiêu tuổi?” A Bích giật mình hất tay gã ra nói: “Ngươi làm gì thế? Tính đánh nhau chăng?” Giọng nàng êm ái dịu dàng, cái vung tay lại cực kỳ nhanh nhẹn, gã Tứ Xuyên kia thấy cánh tay tê dại hẳn đi.

Bốn gã thấy vậy kêu vang lên, thế là lập tức cả bọn bị lộ tẩy. Hơn mười người từ trong nhà nhảy ra, vây lấy bọn Đoàn Dự. Một gã đại hán thò tay ra giật bộ râu giả của Đoàn Dự, bộ râu rớt xuống đất. Một gã vung tay chụp xuống A Bích, nàng có người đẩy mạnh một cái cho ngã lăn ra. Cả bọn liền lên tiếng quát tháo: “Có gian tế: Có gian tế! Bọn chúng cải trang lọt vào đây. Phải bắt đem ra tra khảo.” Lập tức có bốn tên chạy vào trong nhà bẩm với một lão già ngồi ở phía đông: “Diêu trại chủ! Đã bắt được mấy tên gian tế hóa trang làm dân chài.”

Lão già này tướng mạo khôi ngô hùng vĩ, một chòm râu bạc chùng xuống trước ngực. Lão quát hỏi bọn Ngữ Yên: “Bọn mi làm gian tế ở đâu đến đó? Lấp ló thậm thụt tính làm trò gì đây?” Vương Ngữ Yên nói: “Hóa trang làm một bà già chẳng thú gì cả. Ta không hóa trang nữa đâu.” Nói xong nàng giơ tay lên xoa mặt một cái, những phấn bột nhồi thành vết nhăn rơi xuống lả tả. Bọn hán tử thấy mụ dân chài đứng tuổi đột nhiên biến thành một vị nữ lang nhan sắc tuyệt trần đều há hốc miệng, giương mắt ra mà nhìn. Trong đại sảnh bỗng trở nên im phăng phắc. Bọn quái khách Tứ Xuyên ngồi ở phía tây cũng trố mắt ra nhìn nàng.

Vương Ngữ Yên bảo: “Các ngươi cũng bỏ hết đồ hóa trang đi.” Rồi nàng quay lại nhìn A Bích cười nói: “Chỉ tại ngươi làm tiết lộ.” A Châu, A Bích, Đoàn Dự ba người đều xoa hết những thứ bôi mặt đi. Mọi người đã thấy Ngữ Yên tuyệt đẹp, lại thấy A Châu, A Bích cũng là những vị ‘cô nương hoa nhường nguyệt thẹn đều sửng sốt, không ngờ trên thế gian lại có những người kiều diễm đến thế.

Một lúc sau, lão già to cao kia lại cất tiếng hỏi: “Các ngươi là ai, đến đây có chuyện gì?” A Châu cười nói: “Ta là chủ nhân nơi đây, lại có người ở đâu đến hỏi ta là ai mới kỳ chứ? Bây giờ ta hỏi lại: Các ngươi là ai? Đến đây làm gì?” Lão già kia gật gù : “Thế à? Nếu ngươi là chủ nhân nơi đây càng hay. Phải chăng ngươi là tiểu thư nhà Mộ Dung? Mộ Dung Bác có phải là gia gia ngươi không?” A Châu mỉm cười đáp: “Ta chỉ là một đứa a đầu, làm gì có phúc được làm con gái của lão gia? Các hạ là ai? Đến đây có chuyện gì?” Lão già thấy A Châu tự xưng là một nha hoàn có ý không tin, trầm ngâm giây lát rồi mới nói: “Vậy ngươi đi mời chủ nhân ra đây, ta sẽ nói cho hay đến đây làm gì.” A Châu đáp: “Lão chủ nhân chúng tôi đã qua đời rồi, còn tiểu chủ nhân đi vắng. Các hạ có điều chi cứ nói với tôi cũng được. Tôn tính đại danh các hạ chẳng lẽ cũng không cho tôi biết được hay sao?” Lão già đáp: “Ta là Diêu trại chủ Tần Gia Trại ở Vân Châu. Diêu Bá Đương chính thị là ta.” A Châu nói: “Hâm mộ đại danh đã lâu.” Diêu Bá Đương cười nói: “Ngươi còn là cô bé nhỏ xíu, biết gì mà hâm mộ ta đã lâu?”

Vương Ngữ Yên nói: “Tần Gia Trại ở Vân Châu nổi tiếng về môn Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao. Năm xưa Diêu Công Vọng tiền bối sáng chế ra tất cả sáu mươi tư chiêu. Người sau quên mất năm chiêu, tôi nghe nói ngày nay chỉ còn truyền lại năm mươi chín chiêu. Diêu trại chủ! Trại chủ học được bao nhiêu chiêu rồi?”

Diêu Bá Đương cả kinh buột miệng hỏi ngay: “Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần Gia Trại chúng ta nguyên thủy có sáu mươi tư chiêu, sao ngươi lại biết được?” Vương Ngữ Yên đáp: “Trong sách có chép như vậy, chẳng biết có đúng không. Năm chiêu bị mất là Bạch Hổ Khiêu Giản, Nhất Khiếu Phong Sinh, Tiễn Phác Tự Như, Hùng Bá Quần Sơn, còn chiêu thứ năm là gì nhỉ? Ồ, là Phục Tượng Thắng Sư, có đúng không nào?”.

Diêu Bá Đương vuốt râu ngẫm nghĩ. Lào biết rằng đao pháp của phái mình có khiếm khuyết mất năm chiêu rất quan trọng, nhưng đến bây giờ chẳng ai hiểu những chiêu nào bị thất truyền. Bây giờ lão nghe Vương Ngữ Yên đọc ra vanh vách thì trong bụng vừa kinh ngạc vừa hoài nghi, không biết đáp lại ra sao.

Trong đám quái khách bào trắng ngồi ở mé tây có một gã hán tử tuổi ngoại tứ tuần cất tiếng lạnh lùng hỏi Ngữ Yên: “Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần gia trại bị thiếu mất năm chiêu, Diêu trại chủ nhất thời không nhớ ra. Xin hỏi cô nương gọi Mộ Dung Bác bằng gì?” Vương Ngữ Yên đáp: “Mộ Dung lão gia là cữu phụ tôi. Còn tôn tính đại danh các hạ là gì?” Gã hán tử cười lạt đáp: “Cô nương học vấn uyên thâm, mới trong qua đã hiểu thấu đáo võ công của Diêu trại chủ. Vậy lai lịch tại hạ thế nào cô nương thử đoán coi!” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Các hạ thử phô trương một chút thân thủ may ra tôi đoán được chăng? Chỉ nói suông vài câu thì chịu.”

Gã hán tử gật đầu đáp: “Đúng thế!” Đoạn gã đút tay trái vào tay áo bên phải, tay phải vào tay áo bên trái, tựa như trời rét phủ tay cho ấm nhưng lúc rút tay ra, mỗi tay đã cầm một loại binh khí hình dạng lạ lùng. Tay trái là một cái dùi sắt dài chừng sáu bảy tấc, mũi dùi lại cong cong, còn tay phải cầm một cái búa dài chừng một thước, đầu cây búa này hình bát giác còn nhỏ hơn nắm tay người. Hai thứ binh khí này nhỏ bé xinh xắn, tựa như đồ chơi của trẻ nít. Cứ trông bề ngoài thì những thứ này dùng để đánh nhau không tiện chút nào. Những đại hán phương bắc ngồi bên phía đông nhìn thấy món binh khí cổ quái đó có mấy người phải phì cười. Một gã nói: “Bọn trẻ nít ở đất Xuyên đem đồ chơi cho mọi người coi đó.” Những người phía tây nghe nói thế ai nấy trừng mắt hầm hầm nhìn y.

Vương Ngữ Yên nói: “Ồ, đây là Lôi Công Oanh. Chắc các hạ sở trường về khinh công và ám khí. Trong sách có viết Lôi Công Oanh là binh khí độc đáo của phái Thanh Thành ở Thanh Thành Sơn đất Tứ Xuyên. Chữ Thanh có chín phép đánh, còn chữ Thành có mười tám phép phá thật là kỳ lạ biến trá không biết đâu mà lường. Phải chăng các hạ ở họ Tư Mã?”.

Gã đó vốn mặt lầm lì, nghe nàng nói mấy câu mặt liền biến sắc, luôn cả ba người ngồi bên cạnh y cũng lấm lét nhìn nhau. Một lúc sau gã mới nói: “Võ học nhà Mộ Dung ở Cô Tô quả là uyên thâm không ai bì kịp, tiếng đồn thật chẳng sai. Tại hạ là Tư Mã Lâm xin hỏi lại cô nương: có phải quả thực chữ Thanh có chín phép đánh, chữ Thành có mười tám phép phá hay không?” Vương Ngữ Yên đáp: “Các hạ hỏi vậy là phải. Theo tôi thì chữ Thanh phải nói là có mười phép đánh mới đúng, Thiết Bồ Đề và Thiết Liên Tử bề ngoài tuy giống nhau nhưng cách ứng dụng lại khác nhau xa không thể hợp vào một được. Còn như chữ Thành tuy nói là có mười tám phép phá nhưng Phá Giáp, Phá Thuẫn, Phá Bài chẳng có gì là kỳ dị đặc biệt, có vẻ như cố ý đặt ra cho đủ số mười tám, thực sự thì nếu gom lại thành mười lăm hay mười sáu phép phá lại có vẻ hay hơn.”.

Tư Mã Lâm nghe nói mà há hốc mồm, về chữ Thanh y chỉ mới học được có bảy phép đánh, việc phân biệt Thiết Liên Tử và Thiết Bồ Đề nào có biết gì đâu. Còn Phá Giáp, Phá Thuẫn, Phá Bài là ba môn võ công y đắc ý nhất và tự cho là những tuyệt kỹ trấn sơn của phái Thanh Thành thì không ngờ lại bị thiếu nữ bảo bỏ đi vì không ích gì. Y lúc đầu thì kinh hãi thực nhưng sau đó chuyển qua tức tối nghĩ thầm: “Nhà Mộ Dung biết võ công cũng như tên tuổi của ta từ lâu rồi, họ định làm bẽ mặt mình nên thêu dệt ra những chuyện quái quỷ rồi cho một cô gái nhỏ tuổi ra khoác lác.” Y vẫn giữ thái độ bình tĩnh đáp: “Đa tạ cô nương chỉ giáo khiến tại hạ như ở chỗ tối tăm được nhìn thấy ánh sáng.”Y trầm ngâm một lát rồi quay sang gã ngồi bên tả nói: “Chư sư đệ! Sư đệ ra lĩnh giáo cô nương đi!”

Chư Bảo Côn mặt đầy sứt sẹo trông thật xấu xa, xem chừng còn lớn hơn Tư Mã Lâm vài ba tuổi. Y đã mặc áo bào trắng, đầu còn quấn khăn trắng, chẳng khác chi người vận hiếu phục, dưới ánh nến mơ hồ thật đầy âm khí. Y đứng lên thò tay vào tay áo rút ra một cái đùi và một cái búa, giống hệt Lôi Công Oanh của Tư Mã Lâm, nói: “Xin cô nương chỉ điểm cho!”

Những người xung quanh đều mắng thầm: “Binh khí của mi chẳng khác gì của Tư Mã Lâm, cô gái này đã hiểu rõ Tư Mã Lâm chẳng lẽ lại không biết mi hay sao?”. Quả nhiên Vương Ngữ Yên cũng đáp: “Các hạ đã sử dụng Lôi Công Danh thì dĩ nhiên cũng trong phái Thanh Thành chứ gì?” Tư Mã Lâm nói: “Chư sư đệ đây đã biết võ nghệ rồi mới đến Thanh Thành nhập môn. Gốc tích y ở môn phái nào, mong được tuệ nhãn của cô nương xem xét,”, nghĩ bụng: “Chư sư đệ vốn ở môn phái nào đến chính ta cũng không biết rõ, nếu như ngươi đoán ra được thì quả là kỳ lạ.” Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Vấn đề này nan giải đây”.

Nàng chưa kịp đáp thì Tần trại chủ Diêu Bá Đương ngồi bên kia đã cướp lời: “Tư Mã chưởng môn! Chưởng môn yêu cầu cô nương vạch rõ bộ mặt thật của lệnh sư đệ là có ý gì vậy? Làm như thế có phải bẽ mặt nhau không?” Tư Mã Lâm ngạc nhiên hỏi: “Có gì mà bảo là bẽ mặt nhau?” Diêu Bá Đương cười châm chọc: “Diện mạo lệnh sư đệ nay đã chạm trổ tinh vi, bộ mặt thật của y bây giờ đố ai suy đoán cho nổi.” Bọn đại hán ngồi bên phía đông đều phá lên cười sằng sặc.

Bình nhật Chư Bảo Côn ghét cay ghét đắng kẻ nào cười y mặt rỗ sứt sẹo, nay nghe Diêu Bá Đương công nhiên chế giễu mình trước mặt mọi người thì nhịn sao được? Y chẳng nể mặt Diêu Bá Đương là một tay có thế lực ở phương bắc, lại làm chủ một trại, chiếc dùi bên tay trái liền đâm ra nhắm thẳng vào ngực, chiếc búa tay phải gõ vào chuôi dài một cái, chỉ nghe rít lên, một món ám khí xé bầu không khí bắn đến trước ngực Diêu Bá Đương.

Tần Gia Trại và phái Thanh Thành từ khi mới đến Thính Hương Thủy Tạ đã chẳng bên nào giữ lễ với bên nào, bên này lườm qua thì bên kia cũng nguýt lại, nếu bọn Vương Ngữ Yên không đến hai bên ắt đã choảng nhau. Diêu Bá Đương mở lời châm chọc, bản ý vốn chỉ muốn khích bác đối phương, ngờ đâu người ta chẳng nói chẳng rằng đã hạ độc thủ ngay. Ám khí đó thật là thần tốc, trong cơn nguy cấp y không kịp rút đao ra gạt, vội đưa tay chộp ngay cái chân nến trên bàn nhắm thẳng vào đập một cái, nghe “keng” một tiếng vang dội, ám khí bắn lên xà nhà. Nhìn lại thì ra một mũi cương châm, tuy chỉ dài hơn ba tấc nhưng sức mạnh vô cùng. Hổ khẩu Diêu Bá Đương tê dại đi, cái chân nến rơi luôn xuống đất kêu loảng xoảng.

Bọn Tần gia trại vừa rút đao ra vừa la hét vang dội: “Dùng ám khí hại người, thật là đồ hèn nhát.” “Bắn lén đả thương người thì còn chó gì là anh hùng hảo hán?” “Con bà thằng mặt dầy, thật là vô liêm sỉ!” Một gã béo ị mồm miệng lại càng thô tục, lôi mười tám đời tổ tông đối phương ra mà chửi bới. Cả bọn phái Thanh Thành trước sau vẫn lặng yên không nói một lời. Quần hào Tần gia trại chửi mắng thế nào họ cũng lờ đi như không nghe tiếng.

Diêu Bá Đương trong cơn hoảng hốt chụp vội cái chân nến nên cầm không chắc, nhưng đối với một người đã tu tập mấy chục năm mà để chiếc kim nhỏ xíu đánh rơi vật đang ở trong tay, theo qui củ võ lâm thế là thua một đòn rồi. Lão nghĩ bụng: “Võ công đối phương có vẻ tà môn, nghe tiểu cô nương này nói, phái Thanh Thành có chín phép đánh trong chữ Thanh, chắc toàn là công phu lén lút, ám toán bất ngờ.” Y liền khoát tay ra hiệu cho thuộc hạ yên lặng, cười nói: “Vừa rồi Chư huynh đệ xuất thủ quả là lợi hại, mà cũng thật là âm độc. Chiêu đó tên là gì thế?” Chư Bảo Côn chỉ cười khành khạch chứ không trả lời.

Gã đại hán béo ị bên Tần gia trại nói móc: “Chắc là chiêu Mặt Dày Ám Toán.” Một tên trung niên cười nói: “Nếu mặt hắn không dày thì làm sao lắm hố rãnh sâu thế kia, chiêu đó quả là tên sao người vậy, hợp lý quá, hợp lý quá!” Ngôn ngữ cứ nhắm vào cái mặt rỗ của đối phương mà chọc ghẹo.

Vương Ngữ Yên lắc đầu, nhỏ nhẹ nói: “Diêu trại chủ: Trại chủ có điều lầm lỗi rồi.” Diêu Bá Đương ngạc nhiên: “Cô nương bảo sao?” Vương Ngữ Yên đáp: “Bất luận là ai cũng khó lòng giữ cho thân thể khỏi bị tàn tật. Khi còn nhỏ đi đứng sơ ý té một cái cũng có thể bị què chân. Giao chiến với người khác, không địch nổi cũng có thể bị đui mắt, cụt tay là thường. Bằng hữu trong võ lâm, thân thể bị tổn thương phỏng có chi là lạ? Có phải thế không?” Diêu Bá Đương nghe vậy chỉ đáp gọn một tiếng: “Vâng.” Vương Ngữ Yên nói tiếp: “Vị Chư gia này thuở bé chẳng may bị bệnh, trên người có tì vết, sứt sẹo thì có gì đáng cười? Nam tử hán đại trượng phu, phải luận đến thứ nhất là bụng dạ nhân phẩm, thứ hai là tài cán sự nghiệp, thứ ba là văn học võ công. Dung mạo có tuấn tú hay không cũng chẳng can hệ gì.”

Diêu Bá Đương không cãi vào đâu được dành cười khà khà đáp: “Tiểu cô nương nói thật đúng lý. Đã thế thì xin lỗi Chư huynh đệ về câu giễu cợt vừa rồi.” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Lão gia thản nhiên nhận lỗi, quả thực quang minh lỗi lạc.” Nàng quay sang Chư Bảo Côn lắc đầu nói: “Đừng hành động nữa! Cái đó vô dụng!” Nàng nói mấy câu đó nét mặt ôn nhu, lại có vẻ khuyến khích, tựa như cô chị nhìn thấy cậu em mồ hôi nhễ nhại ráng làm chuyện gì ngoài sức của mình nên ra lời khuyên nhủ, giọng nói cực kỳ thân thiết.

Chư Bảo Côn nghe nàng nói trong võ lâm nếu như thân thể có thương tổn gì thì cũng là chuyện thường như cơm bữa, nam tử hán đại trượng phu phải lấy phẩm cách sự nghiệp làm đầu, trong lòng hết sức hả hê. Trong đời y từ trước tới giờ, trong lòng lúc nào cũng buồn bực về cái bộ mặt rỗ chằng rỗ chịt mà chưa từng được ai vì mình mà phân giải một cách thành khẩn và hữu lý như thế! Khi nghe nàng nói đến câu: “Đừng hành động nữa, cái đó vô dụng”, y không hiểu ra sao liền hỏi lại: “Cô nương nói sao?” Y nghĩ bụng: “Chắc nàng cho rằng môn Thiên Vương Bổ Tâm Châm của ta không dùng được chăng? Nàng có biết đâu trong cái đùi này có đến mười hai mũi cương châm. Nếu ta phát ra liên tiếp, thì tính mạng lão già đã đi đứt từ lâu rồi. Có điều trước mặt Tư Mã Lâm ta không muốn tiết lộ âm mưu mà thôi.”

Lại nghe Vương Ngữ Yên nói tiếp: “Thiên Vương Bổ Tâm Châm của Chư gia quả là một thứ ám khí cực kỳ bá đạo…” Chư Bảo Côn giật mình đánh thót, kêu “A” lên một tiếng, Tư Mã Lâm và hai cao thủ khác của phái Thanh Thành cũng ngạc nhiên kêu lên: “Cái gì?” Chư Bảo Côn biến sắc, đánh trống lảng: “Cô nương nói sai rồi. Đây không phải là Thiên Vương Bổ Tâm Châm mà là ám khí của phái Thanh Thành chúng tôi, tên là Thanh Phong Đinh, phép đánh thứ tư trong chữ Thanh.”

Vương Ngữ Yên tủm tỉm cười đáp: “Thanh Phong Đinh bề ngoài coi cũng giống thế. Chư gia bắn Thiên Vương Bổ Tâm Châm dùng khí cụ, thủ pháp y hệt như Thanh Phong Đinh. Thế nhưng ám khí bản chất không căn cứ vào hình thức bên ngoài hay tư thế phát xạ mà là ở kình lực và khí thế. Mỗi khi bắn một mũi cương tiêu, phái Thiếu Lâm có thủ kình của phái Thiếu Lâm, phái Côn Lôn có thủ kình của phái Côn Lôn, không thể miễn cưỡng làm cho giống nhau được. Môn này của Chư gia là…”

Đôi mắt Chư Bảo Côn bỗng dưng lộ hung quang, sát khí đằng đằng, chiếc dùi liền đưa lên ngang ngực, chỉ cần lấy búa gõ vào cán một cái thì cương châm ở trong sẽ bắn thẳng vào Ngữ Yên. Trong số người chung quanh có quá nửa kêu toáng lên, mới đây thấy y bắn Diêu Bá Đương, thế đi rất mau, kình lực rất mạnh, trong các loại ám khí hiếm thấy loại nào sánh kịp. Hiển nhiên trong chiếc dùi rỗng đó có đặt máy móc chứ sức người thì không thể nào mạnh đến thế. Huống chi mũi dùi lại cong cong, không ai ngờ rằng lại dùng để bắn ám khí, có biết đâu cái nòng nằm trong dùi lại thẳng tắp. Cũng may Diêu Bá Đương mặt tinh tay lẹ mới thoát được kiếp nạn, còn như bắn vào Vương Ngữ Yên thì một cô gái xinh đẹp liễu yếu đào tơ thế kia làm sao tránh kịp? Thế nhưng Chư Bảo Côn thấy nàng kiều diễm như thế không nỡ ra tay, lại thêm mới đây nàng biện giải cho mình trong lòng cảm kích bèn chỉ quát lên: “Cô nương! Đừng có nhiều lời nữa mà tự mang lấy họa vào thân”.

Ngay lúc đó một người đã vọt lên chặn trước mặt Vương Ngữ Yên, chính là Đoàn Dự.

Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Đa tạ Đoàn công tử. Chư đại gia, ông không ra tay giết tôi, tôi cũng cảm ơn. Thế nhưng dẫu ông có hạ thủ thì cũng vô ích. Hai phái Thanh Thành, Bồng Lai đời đời cừu thù nhau, cái việc ông âm mưu đồ hơn tám mươi năm trước, chưởng môn đời thứ bảy của quí phái là Hải Phong Tử đạo trưởng đã từng thử qua. Tài năng cũng như võ công ông ta chắc không kém gì Chư gia đâu.” Những cao thủ trong phái Thanh Thành, người nào cũng chằm chặp nhìn vào Chư Bảo Côn, đầy vẻ nghi hoặc, tự hỏi: “Không lẽ y là môn hạ của phái Bồng Lai, kẻ tử thù đối đầu phái Thanh Thành chúng ta, trà trộn được vào trong môn phái mình? Sao giọng y rặt Tứ Xuyên, không để lộ chút khẩu âm Sơn Đông nào?”.

Nguyên phái Bồng Lai ở bán đảo Sơn Đông, hùng cứ cả miền Đông Hải, Phái Thanh Thành thì ở Tứ Xuyên. Tuy một phái ở phía Đông, một phái ở phía Tây. Tuy  xa cách riêng biệt nhau, nhưng hơn một trăm năm trước cao thủ hai phái đã gây thù kết oán, từ đó báo thù qua lại, gây nên thảm họa chém giết, không gỡ ra được nữa. Cả hai phái đều có những võ công tuyệt diệu để cùng khắc chế lẫn nhau. Ngày xưa đệ tử trong hai phái hiềm khích ban đầu cũng chỉ vì đàm luận võ công mà nên nỗi. Trước sau mấy chục lần đại chiến, chém giết thê thảm, phái Bồng Lai không thắng được phái Thanh Thành mà phái Thanh Thành cũng không thể nào thắng được phái Bồng Lai. Lần nào tranh chấp cũng mãnh liệt, để rồi cao thủ hai bên đi đến chỗ lưỡng bại câu thương, đồng qui ư tận.

Hải Phong Tử, người mà Vương Ngữ Yên vừa nhắc đến là một nhân tài kiệt xuất của phái Bồng Lai. Ông ta tham khảo, nghiên cứu kỹ càng các chỗ ưu khuyết điểm và sở trường sở đoản của cả hai môn phái, biết rằng với công phu tu luyện của mình, đời này lấn được phái Thanh Thành không phải là chuyện khó.

Thế nhưng sau khi mình qua đời rồi, nếu phái Thanh Thành có được một nhân vật thông minh tài trí thì lại lấn được phái mình. Thành thử muốn mất công một lần mà nhàn hạ muôn đời, thì chỉ có cách gửi tên đồ đệ xuất sắc nhất trà trộn vào phái Thanh Thành để học lén võ công, sau này phái Bồng Lai tất biết mình biết người, trăm trận trăm thắng. Nhưng tên đồ đệ đó chưa học được thành tài đã bại lộ hành tung, rồi bị phái Thanh Thành đem ra xử tử tức khắc. Từ đó trở đi, hai bên cừu oán càng sâu, vấn đề phòng bị đối phương học lén võ công càng thêm cẩn mật.

Mấy chục năm từ đó, phái Thanh Thành qui định không thu học trò là người phương Bắc, chẳng cứ gì là người Sơn Đông, mà dù cho là Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây chỉ pha giọng miền Bắc một chút cũng không nhận. Gần đây, quy luật lại còn nghiêm ngặt hơn, tức là không thu nhận bất cứ một ai ở các nơi khác ngoài địa hạt Tứ Xuyên.

Thanh Phong Đinh là ám khí độc môn của phái Thanh Thành, còn Thiên Vương Bổ Tâm Châm là của phái Bồng Lai, Chư Bảo Côn rõ ràng bắn Thanh Phong Đinh mà Vương Ngữ Yên lại bảo là Thiên Vương Bổ Tâm Châm khiến cho tất cả những nhân vật phái Thanh Thành ở đây đều kinh sợ vô cùng. Phái Bồng Lai cũng có qui luật nghiêm ngặt không kém phái Thanh Thành, chỉ thu nhận đồ đệ người tỉnh Sơn Đông, mà trong tỉnh này, họ lại chỉ ưu tiên người Lỗ Đông thôi. Người Lỗ Tây và Lỗ Nam muốn vào làm môn hạ phái Bồng Lai thì thiên nan vạn nan. Một người dù giả trang giỏi đến đâu cũng có lúc để lộ sở hở, nói chuyện một nghìn câu thể nào chẳng lọt vào vài tiếng khẩu âm quê mình. Chư Bảo Côn là người họ Chư đất Quán Huyện, là một thế gia đại tộc của đất Tây Xuyên, sao lại có thể là môn hạ của phái Bồng Lai được? Đó là một sự kỳ quặc không ai ngờ đến. Tư Mã Lâm thoạt tiên muốn Vương Ngữ Yên đoán thử lai lịch của Chư Bảo Côn chẳng qua là do bản tính hiếu kỳ muốn thử cô gái, chứ chẳng phải có bụng hoài nghi sư đệ. Ngờ đâu y lại được một câu trả lời kinh tâm động phách đến vậy.

Người kinh hoàng nhất trong bọn lại chính là Chư Bảo Côn. Thì ra sư phụ của y là Đô Linh đạo nhân, lúc còn nhỏ tuổi bị phái Thanh Thành chơi cho một vố đau nên trong bụng chăm chăm chuyện báo thù, đến vùng Tứ Xuyên dò la ngõ ngách để tìm chỗ sơ hở của đối phương. Năm đó ông ta đi đến Quán Huyện trông thấy Chư Bảo Côn, khi đó chỉ mới là một đứa trẻ nhưng căn cốt thật tốt, đúng là một lương tài học võ nên nghĩ ra một kế. Ông sai người giả dạng làm kẻ cướp, lẻn vào trong nhà họ Chư, bắt trói gia chủ, cướp bóc xong rồi toan giết cả nhà để bịt miệng, lại còn định cưỡng hiếp cả hai cô con gái. Đô Linh Tử đợi sẵn bên ngoài, tới lúc nguy cấp như ngàn cân treo sợi tóc mới nhảy vào đánh đuổi hết bọn cướp giả mạo, đoạt lại toàn bộ tài vật, bảo tồn được thanh bạch cho hai nữ lang nhà họ Chư khiến gia chủ thật cảm kích không để đâu cho hết.

Lúc đó Đô Linh Tử mới khuyên nhủ: “Nếu không có võ nghệ cao cường, dù có gia tài trăm vạn cũng khó mà tránh được bọn gian tà hiếp đáp. Bọn đạo tặc kia võ công không phải tầm thường, lần này tuy thất bại nhưng thể nào rồi cũng quay trở lại.” Nhà họ Chư là một thế gia rất tiếng tăm ở địa phương, thấy những võ sư bảo vệ bị bọn cướp đấm đá mấy cái đã ngã lăn quay, lại nghe nói quân cướp còn tới nữa, hồn vía lên mây, hết sức năn nỉ Đô Linh Tử lưu lại. Đô Linh Tử cũng từ chối lấy lệ rồi mới miễn cưỡng nhận lời, chẳng bao lâu đã chính thức nhận Chư Bảo Côn làm đồ đệ.

Ngoại trừ việc dụng ý thâm hiểm để báo thù phái Thanh Thành, Đô Linh Tử cũng không phải là người xấu, về võ công lại rất cao cường. Ông ta dặn nhà họ Chư giữ thật kín, chỉ ngầm luyện võ cho Chư Bảo Côn. Mười năm sau, Chư Bảo Côn đã thành nhân vật đệ nhất đệ nhị trong phái Bồng Lai. Đô Linh Tử là người cực kỳ nhẫn nại. Từ ngày lưu trú ở Chư phủ, ông giả làm người câm thủy chung không nói với ai lấy nửa lời. Trong lúc dạy võ, ông chỉ toàn viết chữ vẽ đồ hình cùng làm điệu bộ, tuyệt nhiên không nói một câu thổ âm Sơn Đông nào cả. Thành thử Chư Bảo Côn tuy cùng ông ta mười năm sớm tối ở cạnh nhau, nhưng không hề nghe một câu nào giọng Sơn Đông.

Đến khi Chư Bảo Côn thành tài rồi, Đô Linh Tử mới kể rõ nguyên ủy những tiền nhân hậu quả giữa phái Thanh Thành và phái Bồng Lai, dĩ nhiên việc sai người giả dạng làm quân cướp thì ông giấu kín không nhắc tới, để tùy đồ đệ tự quyết. Trong lòng Chư Bảo Côn, sư phụ không những là người cứu mạng toàn thể gia đình mình, mà trong hơn mười năm qua ân trạch thâm hậu, dốc túi truyền thụ võ công nên thật là cảm kích. Khi y rõ được ước nguyện của thầy rồi liền không chút do dự, xin gia nhập vào làm môn hạ Tư Mã Vệ ở phái Thanh Thành, Tư Mã Vệ chính là phụ thân của Tư Mã Lâm.

Lúc đó, Chư Bảo Côn đã lớn tuổi, hơn nữa y lại tự giới thiệu là đã học qua mấy đường quyền cước do võ sư ở trong nhà dạy, nên Tư Mã Vệ có ý không muốn thu nhận. Thế nhưng họ Chư là một nhà đại tài chủ đất Xuyên Tây, nhiều tiền lại có thế lực. Thanh Thành tuy là một phái võ nhưng gốc rễ vẫn là ở đây, không muốn mất hòa khí với một hào môn địa phương. Ông ta lại nghĩ nếu thu một đồ đệ người họ Chư thì chỉ có thêm thanh thế cho bản phái, nên sau cùng chấp thuận. Đến khi truyền dạy võ nghệ, ông ta thấy võ công Chư Bảo Côn không phải là kém, căn vặn mấy lần, y cũng chỉ tìm lời chống chế cho xuôi chuyện. Tư Mã Vệ vẫn nể mặt phụ thân y nên không bức bách quá, ông cũng cho là hạng công tử nhà giàu mà học được võ công như thế cũng không phải là chuyện dễ.

Chư Bảo Côn gia nhập phái Thanh Thành rồi lại được Đô Linh Tử dặn bảo kỹ càng là phải gia tâm nghiên cứu võ công phái Thanh Thành. Mỗi năm gặp kỳ tốt nhất, y đem biếu xén sư phụ, sư huynh và các anh em đồng môn lễ vật thật hậu hĩ. Sư phụ cần dùng gì, y đều chiều theo tức khắc, trong nhà lại lắm tiền sẵn bạc thành thử chuyện gì cũng dễ dàng. Tư Mã Vệ yêu quí y vô cùng, đem hết võ công truyền thụ cho không giấu giếm tí gì, vì thế mà Chư Bảo Côn không kém gì Tư Mã Lâm, học được hết tuyệt kỹ phái Thanh Thành.

Mấy năm trước Đô Linh Tử đã từng gọi y du ngoạn đến núi Bồng Lai vùng Sơn Đông, biểu diễn lại võ công của phái Thanh Thành để nghiên cứu những điều bí diệu, hầu sau này đánh một trận là phá tan được đối phương. Song Chư Bảo Côn mấy năm làm môn hạ phái Thanh Thành, cảm thấy Tư Mã Vệ đối với y quả thật chí tình, truyền thụ võ công so với các đệ tử thân tín khác không có gì khác biệt. Bây giờ y nghĩ tới việc mình ra tay tiêu diệt phái Thanh Thành, giết toàn gia Tư Mã Vệ, trong lòng rất là bất nhẫn. Y mới ngấm ngầm quyết định, đợi sau khi Tư Mã Vệ qua đời rồi mới ra tay. Còn Tư Mã Lâm sư huynh đối với y cũng bình thường, giết đi cũng chẳng có gì đáng kể. Vì thế nên y trùng trình thêm mấy năm nữa. Đô Linh Tử đã mấy lần thôi thúc, Chư Bảo Côn đều tìm cách thoái thác rằng: “Chín thế đánh của chữ Thanh hình như chưa đủ, mà mười tám thế phá của chữ Thành tựa hồ còn có bí quyết nào chưa biết.” Đô Linh Tử đã tốn bao nhiêu tâm huyết, khi nào lại không theo đuổi đến cùng, nên cố đợi cho y học hết mới ra tay.

Thế nhưng mùa đông năm ngoái, Tư Mã Vệ bị người ta dùng công phu Phá Nguyệt Trùy giết chết ở gần Bạch Đế Thành, Xuyên Đông. Môn Phá Nguyệt Trùy là một trong mười hai thế phá trong chữ Thành, tuy có chữ Trùy nhưng lại không phải sử dụng dùi sắt mà là chụm đầu ngón tay lại thành hình cái dùi nhọn phóng tới, dùng nội lực hùng hậu đánh thủng màng tai, vào sâu tới óc đối phương.

Tư Mã Lâm và Chư Bảo Côn ở Thành Đô nghe được tin đó liền đi suốt ngày đêm tới nơi, tra xét minh bạch thương thế của Tư Mã Vệ. Hai người vừa kinh hãi, vừa đau lòng, nghĩ thầm trong bản phái ngoài Tư Mã Vệ, chỉ có Tư Mã Lâm, Chư Bảo Côn và hai vị cao thủ kỳ cựu nữa là biết sử dụng công phu Phá Nguyệt Trùy. Nhưng trong lúc biến cố xảy ra thì cả bốn người cùng ở với nhau một chỗ tại Thành Đô, nên họ không hiềm nghi gì nhau cả. Thành ra kẻ giết Tư Mã Vệ ngoài Cô Tô Mộ Dung hay dùng lối gậy ông đập lưng ông ra, không thể nào có người khác được. Thế là phái Thanh Thành chiêu tập tất cả những nhân vật cao thủ kéo tới Cô Tô tìm Mộ Dung để đòi nợ máu.

Trước khi đi, Chư Bảo Côn đã ngầm hỏi Đô Linh Tử về vụ này xem có phải người phái Bồng Lai đã nhúng tay vào không. Đô Linh Tử viết thư trả lời: “Võ công Tư Mã Vệ với ta cũng ngang nhau thôi, một mình ta ra tay ám toán thì chỉ có cách dùng Thiên Vương Bổ Tâm Châm mới lấy mạng y được. Còn nếu nhiều người vây đánh thì phải dùng Thiết Quái Trận của bản phái.” Chư Bảo Côn cho là rất đúng, y đã biết rõ bản lĩnh của hai sư phụ không ai hạ nổi ai. Nếu nói là dùng Phá Nguyệt Trùy để giết Tư Mã Vệ, thì đừng nói là Đô Linh Tử không biết môn công phu này, mà dù có biết chăng nữa cũng không thể thắng được Tư Mã Vệ. Thế là Chư Bảo Côn không còn hoài nghi gì nữa, đi theo Tư Mã Lâm đến Giang Nam để báo thù. Đô Linh Tử cũng không ngăn cản, dặn y việc gì cũng nên cẩn thận, chỉ cần thêm lịch duyệt, rộng kiến văn, chứ đừng vì phái Thanh Thành mà bỏ mạng.

Khi đến Tô Châu, cả bọn chia nhau dò hỏi tin tức mò tới được Thính Hương Thủy Tạ, không ngờ bọn Tần gia trại ở Vân Châu đã đến đó trước. Phái Thanh Thành môn qui rất nghiêm, nếu không có hiệu lệnh của chưởng môn thì không ai dám nói bừa làm ẩu. Chúng thấy bọn đạo tặc bên Tần gia trại quậy phá loạn lên thì không khỏi khinh rẻ, hai bên nói năng chẳng còn nể nang gì nữa. Người bên phái Thanh Thành dốc chí vào việc báo cừu cho nên cây cỏ cũng không đụng đến, tự mang lương khô đi để dùng. Làm như thế cũng có cái lợi là không phải thưởng thức bao nhiêu đờm rãi cùng những chất ô uế ở chân tay của lão Cố.

Không ngờ Vương Ngữ Yên và bọn A Châu đột nhiên về tới nơi, khiến cho sự tình biến diễn một cách kỳ dị ngoài sức tưởng tượng. Chư Bảo Côn dùng thủ pháp của phái Thanh Thành phát xạ Thanh Phong Đinh, ngay cả Tư Mã Vệ nếu còn sống cũng không nghi ngờ gì. Thế mà một cô gái trẻ tuổi như Vương Ngữ Yên lại bất ngờ nhìn ra được. Chư Bảo Côn không kịp phòng bị, toan giết nàng để diệt khấu nhưng vì lòng bất nhẫn không nỡ hạ thủ nên chậm tay một chút, thành ra không kịp nữa rồi. Huống chi năm chữ Thiên Vương Bổ Tâm Châm đã lọt vào tai bọn Tư Mã Lâm, có giết Vương Ngữ Yên cũng vô ích, lại càng tỏ ra là có tật giật mình.

Chư Bảo Côn toàn thân toát mồ hôi lạnh, đầu óc hỗn loạn, quay lại thấy Tư Mã Lâm và mọi người đã thủ hai tay vào trong tay áo, mắt đều trừng trừng nhìn mình. Tư Mã Lâm lạnh lùng nói: “Chư gia, thì ra người là người của phái Bồng Lai đấy ư?” Y không gọi Chư Bảo Côn là sư đệ, đổi thành Chư gia, hiển nhiên không còn coi y là đồng môn nữa.

Chư Bảo Côn thừa nhận cũng không được mà phủ nhận cũng không xong, cảm thấy bối rối, ngượng ngập. Tư Mã Lâm hai mắt trợn tròn, quát:” Ngươi chui vào tận tổ phái Thanh Thành, học được tuyệt chiêu Phá Nguyệt Trùy, thế là dùng ngay để giết cha ta. Ngươi là đứa lòng lang dạ thú, quả thực tàn nhẫn.” Hai tay y vung ra một cái đã cầm hai món Lôi Công Oanh. Tư Mã Lâm cho là bao nhiêu tuyệt kỹ của bản phái bị Chư Bảo Côn học trộm hết, rồi trở về truyền thụ lại cho những tay cao thủ phái Bồng Lai. Khi phụ thân y bị chết, mặc dầu Chư Bảo Côn quả là đang ở Thành Đô, nhưng phải Bồng Lai đã học được thủ pháp rồi nên ai cũng có thể dùng để giết cha y được.

Chư Bảo Côn xám mặt lại. Y tự nghĩ sư phụ Đô Linh Tử sở dĩ cho y trà trộn vào phái Thanh Thành quả là có dụng ý như thế thực. Song mãi tới nay, y chưa hề tiết lộ với ai một chút võ công nào của phái Thanh Thành. Nay sự tình đã xảy ra thế này, dẫu có trăm miệng cũng không biện bạch được nữa. Xem ra chỉ còn một trường ác đấu, đối phương người nhiều thế mạnh, võ công của Tư Mã Lâm và hai vị cao thủ khác nữa đều ngang sức với mình, hôm nay khó mà thoát chết, tự nhủ: “Ta tuy chưa làm việc đó, nhưng lòng phản thầy đã có từ lâu, dù bị phái Thanh Thành giết cũng là đáng tội.” Y nghĩ thế trong lòng lại bình thản, chỉ nói: “Tư Mã sư phụ nhất quyết không phải do ta sát hại…” .

Tư Mã Lâm quát lớn: “Dĩ nhiên không phải chính tay ngươi giết, nhưng ngươi truyền võ công cho kẻ khác giết. Thế thì phỏng khác gì chính tay người hạ sát?” Y quay sang nói với hai lão già gầy gầy cao cao đứng bên cạnh: “Khương sư thúc, Mạnh sư thúc! Đối với tên phản đồ này bất tất phải theo quy luật võ lâm. Chúng ta hợp lực lại để giết y.” Hai ông già kia gật đầu, hai tay từ trong tay áo rút ra, người nào cũng tay trái cầm dùi, tay phải cầm búa, chia ra hai bên vây Chư Bảo Côn lại.

Chư Bảo Côn lùi lại mấy bước, dựa lưng vào một cái cột lớn trong sảnh để tránh khỏi cái thế trước sau đều bị uy hiếp. Tư Mã Lâm hô lớn: “Ta giết đứa phản đồ để báo thù cho cha!” Y xông lên, giơ búa lên đánh xuống đầu Chư Bảo Côn. Chư Bảo Côn nghiêng qua tránh đòn, tay trái đánh trả lại một dùi. Lão già họ Khương quát lớn: “Đứa phản đồ kia! Mi còn mặt mũi nào mà sử dụng võ công của bản phái?” Dùi bên trái liền đâm vào yết hầu y, búa bên phải đập luôn ba cái theo thế Phượng Điểm Đầu.

Bọn Diêu Bá Đương của Tần Gia Trại thấy Khương lão sử dụng cái búa rất thuần thục mà chiêu thế lại quái dị, ai nấy nổi dạ hiếu kỳ, ngầm gật gù khen thầm: “Phái Thanh Thành tiếng tăm lừng lẫy Xuyên Tây, thực xứng đáng lắm.”

Tư Mã Lâm nóng lòng báo thù cho cha, chiêu số cực kỳ hoảng loạn nên Chư Bảo Côn có thể đối phó được. Thế nhưng hai ông già Khương Mạnh vận dụng bốn đại yếu quyết của phái Thanh Thành là Ổn, Ngận, Âm, Độc, dùi đâm búa đánh, mỗi lần ra tay đều nhằm vào những chỗ yếu hại của đối phương khiến cho Chư Bảo Côn đỡ bên trái thì hở bên phải, trong khoảnh khắc đã thấy rõ nguy cơ.

Thế nhưng những chiêu số và binh khí của ba người sử dụng, Chư Bảo Côn đều thuộc lòng cả. Vừa đỡ đòn này, y có thể suy biết ba bốn đòn kế tiếp và biến hóa ra sao rồi, nhờ thế nên một người chống ba mà vẫn còn gắng gượng chịu được. Hai bên chiết giải thêm mươi chiêu nữa, trong lòng Chư Bảo Côn cảm thấy bứt rứt nghĩ thầm: “Tư Mã sư phụ quả thực không bạc đãi mình. Những chiêu thức của Tư Mã Lâm sư huynh và hai vị Khương Mạnh sư thúc ta cũng đều biết cả. Luyện công chiết chiêu còn có thể cố ý giấu giếm chứ lúc giao đấu sinh tử như thế này, ai cũng đem hết sức mình ra, công phu của phái Thanh Thành quả thực chỉ có thế, đúng là sư phụ đã dạy hết cho mình.” Y nghĩ tới đó lại thấy cảm kích ân nghĩa của sư phụ, nhịn không nổi kêu lên: “Tư Mã sư phụ, quyết không phải là tôi sát hại đâu…”

Chư Bảo Côn vừa phân tâm, thì Tư Mã Lâm đã nhảy phắt tới chỉ còn cách có hơn một thước. Binh khí của phái Thanh Thành cực kỳ nhỏ bé, ngắn ngủi, lợi hại là ở chỗ đánh xáp lá cà. Tư Mã Lâm nhập nội được gần như thế, nếu đối thủ là người khác phái, thì hắn đã nắm chắc phần thắng tới tám phần mười rồi. Khốn nỗi võ công của Chư Bảo Côn cùng với hắn hai bên giống nhau, nên hạ nhau rất khó. Dưới ánh nến mọi người thấy hoa cả mắt, Tư Mã Lâm và Chư Bảo Côn thân hình nhanh như điện chớp, hai tay vung múa tít thò lò, chỉ trong chớp mắt đã qua lại bảy tám chiêu. Dùi đâm trên thọc dưới, búa đập dọc đánh ngang, hai người hung hăng quyết liệt như phát điên. Cả hai cùng học một thầy, cùng luyện tập đã quá tinh thục, chiêu số hoàn toàn như một, đánh đỡ không cần suy nghĩ. Tư Mã Lâm tuổi trẻ tráng kiện nhưng Chư Bảo Côn lại nhiều kinh nghiệm hơn. Trong khoảng khắc đã mấy chục chiêu, người ngoài chỉ nghe thấy những tiếng binh khí và chạm loảng xoảng, còn những thế công thủ ra sao thì không ai nhìn rõ được.

Mạnh Khương nhị lão thấy Tư Mã Lâm đánh mãi không hạ được đối phương, đột nhiên cùng hú lên một tiếng, rồi hai người đều lăn xả xuống đất, tấn công vào hạ bàn Chư Bảo Côn.

Phàm những người sử dụng binh khí ngắn đều học địa đường công phu, nằm sát đất lăn qua lăn lại, nhảy vọt lên, khiến cho kẻ địch trở tay không kịp. Công phu Lôi Công Trước Địa Oanh này Chư Bảo Côn vốn cũng thành thục lắm, nhưng hai tay còn bận đối phó với một dùi một búa của Tư Mã Lâm không rảnh chút nào để chống đỡ nhị lão, chỉ còn nước nhảy nhót tránh né. Ông già họ Khương đánh một búa từ trái sang phải, ông già họ Mạnh lại đâm một dùi từ phải sang trái. Chư Bảo Côn giơ chân đá vào cằm Mạnh lão, ông ta cất tiếng chửi: “Quân chó má này! Muốn liều mạng chăng?” Ông ta vừa mắng vừa lùi tránh qua một bên, Khương lão thấy sơ hở xông luôn vào, vung búa đánh tạt ngang, cùng lúc đó Tư Mã Lâm cũng bổ vào giữa hai lông mày Chư Bảo Côn, Chư Bảo Côn trong một nháy mắt phải tính toán cái nào nặng, cái nào nhẹ liền giơ búa lên gạt binh khí của Tư Mã Lâm còn chân trái đành chịu cho ông già họ Khương đánh trúng.

Cái búa đó tuy bé nhỏ nhưng hình lực thật là lợi hại, Chư Bảo Côn đau điếng người, buốt đến tận xương, nhất thời không biết xương đùi có bị gãy chưa. Khương lão đắc thế đâu có chịu nhường, liền đánh tiếp luôn búa thứ hai, Chư Bảo Côn đưa búa ra đỡ, nghe choang một, đốm lửa văng tung tóe. Y lại “A” lên một tiếng, đùi bên trái đã bị ông già họ Mạnh đâm thêm một nhát.

Nhát dùi này đúng ra thì Chư Bảo Côn vẫn có thể tránh được, song y biết rõ nếu tránh qua thì Lôi Công Trước Địa Oanh của Khương Mạnh nhị lão sẽ kết thành Địa Mẫu Lôi Võng không thể nào đối phó nổi. Huống hồ y cũng liệu chừng chân trái đã bị gãy rồi nên có chịu đâm một nhát cũng đành. Chỉ thêm vài chiêu, máu trên đùi y văng tung tóe, lấm tấm khắp bốn bức tường.

Vương Ngữ Yên thấy A Châu chau đôi mày liễu bĩu môi ra, biết rằng nàng chán ghét bọn này đánh nhau lộn ẩu, làm nhơ bẩn căn phòng thanh nhã tinh khiết, nên mỉm cười kêu lên: “Thôi, các người đừng đánh nhau nữa, có gì cứ nói cho ra lẽ, sao lại phải hung hăng vô lý như thế?” Tư Mã Lâm và hai ông già thì quyết tâm giết cho bằng được đứa phản đồ ngay tại đường trường, Chư Bảo Côn dẫu có muốn ngừng tay cũng đâu có làm gì được? Vương Ngữ Yên thấy bốn người vẫn đánh nhau chí mạng không lý gì đến lời nói của mình, mà chủ ý không chịu ngừng tay là ở bọn ba người Tư Mã Lâm, bèn nói tiếp: “Tại tội buột miệng nói một câu Thiên Vương Bổ Tâm Châm nên mới ra cớ sự, tiết lộ bí mật trong môn hộ của Chư gia. Tư Mã chưởng môn, các người mau ngừng lại.” Tư Mã Lâm quát lên: “Thù cha không đội trời chung, lẽ nào không báo? Ngươi léo nhéo cái gì?” Vương Ngữ Yên nói: “Các người không chịu dừng tay, ta sẽ giúp y đó!”

Tư Mã Lâm chột dạ nghĩ thầm: “Nhãn quang của cô gái xinh đẹp này cực kỳ lợi hại, võ công chắc cũng cao cường, nếu như cô ta giúp cho đối phương e rằng bất lợi.” Thế nhưng y lại nghĩ ngay: “Bao nhiêu hảo thủ của phái Thanh Thành hiện ở đây cả, cùng lắm thì tất cả xông lên, không lẽ lại sợ một cô gái yểu điệu như thế?”. Y lại gia thêm hình lực lên tay, múa tít búa với dùi chẳng khác gì gió táp mưa sa.

Vương Ngữ Yên nói: “Chư gia, ông dùng chiêu Lý Tồn Hiếu Đá Hổ rồi đến Trương Quả Lão Đảo Kỵ Lư.” Chư Bảo Côn ngạc nhiên nghĩ thầm: “Chiêu trước là võ công phái Thanh Thành, chiêu sau lại là võ công phái Bồng Lai, hai đằng chiêu số khác nhau làm sao lại có thể sử dụng liên tiếp được?”. Có điều đang lúc tình thế cấp bách, làm gì còn kịp suy nghĩ kỹ càng, nên y cũng theo lời Ngữ Yên xuất ngay chiêu Lý Tồn Hiếu Đả Hổ, nghe keng keng hai tiếng đánh bạt được hai cái búa của Tư Mã Lâm và Khương lão ra. Y lại xiêu vẹo người, đi nghiêng ngả lùi lại ba bước, chính lại vừa tầm tránh khỏi ba đòn phục kích của Mạnh lão. Đòn phục kích này rất là âm độc, hiểm ác, dùng cả dùi lẫn búa đánh luôn ba thế liên hoàn. Ba bước của Chư Bảo Côn bước nào cũng loạng choạng như anh chàng say rượu, chẳng ra đường lối gì nhưng chính nhờ thế mà thoát được độc thủ của đối phương trong đường tơ kẽ tóc, tựa hồ hai bên trước khi giao đấu đã cùng nhau luyện tập rất thuần thục, rồi đem ra biểu diễn trên sân khấu vậy.

Ba đòn phục kích vốn đã cực kỳ tinh xảo, né tránh được lại càng bội phần khéo léo. Những người của Tần Gia Trại ngồi xem sướng mắt, mỗi lần Chư Bảo Côn tránh được lại vỗ tay reo, ba lần thoát hiểm là ba lần hoan hô vang dội. Người bên phái Thanh Thành thì mặt vốn đã hầm hầm, lúc này trông lại càng khó coi hơn.

Đoàn Dự kêu lên: “Hay lắm! Hay lắm! Chư huynh, Vương cô nương bảo sao cứ nghe vậy thì không thể nào thua được.”

Lúc Chư Bảo Côn bước ba bước Trương Quả Lão Đảo Kỵ Lư hoàn toàn không nghĩ tới hậu quả, đầu óc mê man chẳng quan tâm gì tới chuyện sống chết nữa. Y có ngờ đâu võ công hai phái Thanh Thành, Bồng Lai khác nhau như nước với lửa lại có thể sử dụng liền nhau để tránh được ba chiêu tối hiểm độc, Y trong lòng hết sức kinh ngạc, kinh ngạc hơn cả bọn Tần Gia Trại và phái Thanh Thành đứng bên ngoài.

Lại nghe Vương Ngữ Yên hô tiếp: “Chư gia mau xuất chiêu Hàn Tương Tử Tuyết Ủng Lam Quan, kế đó là Khúc Kình Thông U.” Lần này lại sử dụng chiêu của phái Bồng Lai trước rồi tiếp đến chiêu của phái Thanh Thành. Chư Bảo Côn không kịp suy nghĩ, chiếc búa nhỏ và chiếc dùi liền chặn ngay trước ngực, ngay lúc đó hai chiếc dùi của Tư Mã Lâm và ông già họ Mạnh cùng đâm tới. Ba người đồng loạt ra tay nhưng người bên ngoài đứng coi thì tưởng như Chư Bảo Côn đã đoán trước nên bảo vệ trước mặt, Tư Mã Lâm và Mạnh lão thấy đối phương đã phong bế môn hộ không còn sơ hở chút nào, bao nhiêu tính toán đều hóa ra vô ích, hai chiếc dùi đâm luôn vào đầu búa, nghe keng một tiếng bị bật ra. Chư Bảo Côn cũng không nghĩ ngợi gì thêm, lún thấp người xuống, mũi dùi trong tay đâm xéo ra sau.

Khương lão đang xông tới đánh phía sau lưng đối phương, không ngờ mũi dùi bất thình lình đâm ra vừa nhằm đúng chỗ. Khúc Kình Thông U là võ công phái Thanh Thành, Khương lão thuộc nằm lòng nhưng lối đâm như thế hoàn toàn không hợp với qui củ của bản phái, nếu phải lúc bình thời luyện tập thể nào ông già cũng cười ha hả. Thế nhưng cũng vì mũi dùi đâm vô lý như thế, Khương lão lại đang xông tới thành ra đưa người vào mũi dùi như tự sát, lúc biết là nguy thì không tránh kịp nữa. “Phập” một cái, mũi dùi đã đâm trúng vào ngang thắt lưng, Khương lão không gượng được, lảo đảo phục ngay xuống đất. Trong phái Thanh Thành liền có hai người xông ra vực ông ta về.

Tư Mã Lâm cất tiếng chửi: “Chư Bảo Côn! Mi thật là quân chó má. Chính tự tay mi đâm sư thúc thì còn cãi được nữa không?” Ngữ Yên cướp lời: “Khương tiên sinh bị thương là do ta bảo y đâm đó. Các người phải dừng tay ngay!” Tư Mã Lâm giận dữ đáp: “Ngươi có bản lãnh thì bảo y giết ta đi xem nào?” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Phỏng có khó gì. Chư gia hãy dùng chiêu Lý Thiết Quài Nguyệt Hạ Quá Động Đình, kế đó là chiêu Lý Thiết Quài Ngọc Động Luận Đạo.”

Chư Bảo Côn đáp lời: “Vâng!” Y nghĩ thầm: “Trong võ công của phái Bồng Lai chỉ có chiêu Là Thuẫn Dương Nguyệt Hạ Quá Động Đình và Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo, sao cô nương này lại gọi thành Lý Thiết Quài là sao? Có lẽ nàng nghiên cứu võ công bản phái chưa đến nơi đến chốn, buột miệng nói sai đó thôi”. Song trước tình thế cấp bách, Tư Mã Lâm và Mạnh lão đời nào để y có thì giờ hỏi lại cho chắc, đành cứ đem sở học lúc bình thời xuất chiêu Lã Thuần Dương Nguyệt Hạ Quá Động Đình.

Chiêu này vốn dĩ là phải bước những bước hiên ngang, dáng điệu phiêu hốt như Lã Thuần Dương bay lượn trên không trung. Thế nhưng chân trái Chư Bảo Côn bị hai vết thương nên bước đi khập khiễng, đâu có ra vẻ Lã Thuần Dương mà lại trông giống ông tiên một giò Lý Thiết Quài. Bước chân cà nhắc đó lại có chỗ lợi, Tư Mã Lâm liên tiếp đâm hai dùi đều hụt ra ngoài. Đến chiêu Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo thì vì chân trái y đau nên người nghiêng hẳn qua phía trái, chiếc dùi nơi bàn tay phải dùng thay chiếc quạt lá bồ vung vòng ra, Mạnh lão đang lúc húc đầu vào, nghe đốp một cái, cái dùi đó đánh trúng ngay miệng ông ta, gãy luôn mười mấy cái răng rơi xuống đất. Đau quá, Mạnh lão vừa nhảy chồm chồm vừa kêu la ầm ĩ, quẳng binh khí xuống đất, hai tay bịt chặt lấy mồm.

Tư Mã Lâm hoảng vía, không giữ được chủ ý, phân vân chưa biết nên tiếp tục giao đấu hay hãy tạm ngừng tay rồi sẽ tìm cách báo thù sau. Hai thế mà Vương Ngữ Yên vừa chỉ điểm cho Chư Bảo Côn quả thực là xảo diệu tuyệt luân, dự tính rõ ràng sự kiện sẽ diễn biến ra sao. Mạnh lão sau khi đánh luôn ba đường liên hoàn nhất định sẽ nhảy tới hông bên phải Chư Bảo Côn, mà lúc đó Chư Bảo Côn đưa ngang chiếc chùy ra nhất định là đánh trúng vào mồm Mạnh lão. Vì Chư Bảo Côn chân trái tập tễnh, chiêu Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo đã biến thành Lý Thiết Quài Ngọc Động Luyện Đạo nên chiếc búa mới đánh xéo ra, chứ nếu như đánh thẳng thì lại hụt mất vài tấc không đánh trúng được. Tính toán chu đáo kỹ càng, liệu địch chuẩn xác như thế quả thực thần diệu tuyệt vời, không chê vào đâu được.

Tư Mã Lâm nghĩ thầm: “Nếu như muốn giết tên khốn kiếp Chư Bảo Côn thì trước hết phải ngăn con nhãi kia chỉ điểm võ công cho y.” Y còn đang nghĩ cách sát hại Vương Ngữ Yên, bỗng nghe nàng nói: “Chư tướng công, ông là đệ tử phái Bồng Lai, trà trộn vào phái Thanh Thành học lén võ công, quả là không phải chút nào. Ta nghĩ lão sư phụ Tư Mã Vệ không phải do ông sát hại. Với sở học như ông, dẫu có đi dạy được cho một hảo thủ nào khác cũng không thể nào dùng chiêu Phá Nguyệt Trùy để giết Tư Mã lão sư phụ được. Thế nhưng đi học trộm võ công của người ta thì cũng là không ra gì, ông phải tạ tội với Tư Mã chưởng môn mới đúng.”

Chư Bảo Côn lấy làm phải, huống chi nàng đối với mình còn có cái ơn cứu mạng, nàng có mách cho mấy đường mới thoát thân được. Bây giờ nàng bảo điều gì, mình chẳng nên trái ý. Nghĩ vậy y bèn xá dài Tư Mã Lâm nói: “Chưởng môn sư huynh! Tiểu đệ thật là đắc tội!” Tư Mã Lâm tránh qua một bên, mặt hầm hầm, hậm hực quát: “Thằng khốn nạn kia, mi còn dám trơ mặt gọi ta là chưởng môn sư huynh ư?”.

Vương Ngữ Yên bỗng thét lên: “Mau, Ngao Du Đông Hải!” Chư Bảo Côn hoảng hốt, nhún người nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng, chợt nghe thấy tiếng “vo vo…” không ngớt, có đến hơn chục mũi Thanh Phong Đinh bay sát dưới gót chân y, thật chỉ thoát trong đường tơ kẽ tóc. Giả tỷ Vương Ngữ Yên không thét lên Ngao Du Đông Hải mà chỉ bảo đề phòng ám khí, thì y ắt còn chăm chăm nhìn vào địch nhân, tụ tiễn Tư Mã Lâm bắn từ tay áo ra hẳn không thể nào né tránh kịp.

Công phu Tụ Lý Càn Khôn để phóng ám khí của Tư Mã Lâm là tuyệt kỹ của họ Tư Mã phái Thanh Thành chỉ truyền cho con cháu, không truyền cho đồ đệ. Ngay cả hai lão Mạnh Khương cũng không biết đến. Tư Mã Vệ không dạy cho Chư Bảo Côn chẳng qua là vì tuân theo lời di huấn của tổ tiên, chứ không phải có ý giấu riêng cho mình. Có ai ngờ đâu Tư Mã Lâm nét mặt vẫn thản nhiên, chỉ ngấm ngầm rung động trong tay áo, vận chuyển cơ quan bắn Thanh Phong Đinh mà lại bị Vương Ngữ Yên phát giác, mách nước cho họ Chư sử chiêu Ngao Du Đông Hải của phái Bồng Lai phá được công phu này.

Tư Mã Lâm dùng hết sở học bình sinh phóng ám khí chắc trúng mười mươi mà lại sểnh mất, y thật chẳng khác gì gặp phải ma quỉ, giơ tay chỉ vào Vương Ngữ Yên kêu lớn: “Ngươi chẳng phải là người, ngươi là quỉ, ngươi là quỉ!” .

Ông già họ Mạnh trong mồm còn mười mấy cái răng bị búa đánh gãy hết, trong cơn hoảng hốt ba cái răng tuột luôn vào bụng. Ông ta tuổi đã cao nhưng mắt sáng tóc đen, răng còn chắc, xưa nay vẫn lấy làm tự hào, bây giờ mất cái nào là tiêu cái ấy, làm gì có răng giả thay vào, vừa đau vừa tiếc, miệng phều phào kêu lên: “Bắt lấy con nhãi kia! Bắt lấy con nhãi kia!”

Phái Thanh Thành môn qui rất nghiêm, Mạnh lão tuy đứng vào hàng tiền bối nhưng không phải là chưởng môn nhân. Các đệ tử ai nấy đưa mắt nhìn Tư Mã Lâm, đợi y ra lệnh một tiếng là sẽ cùng xông vào bắt giữ Vương Ngữ Yên. Tư Mã Lâm lạnh lùng nói: “Vương cô nương! Sao cô lại thuộc làu võ công của bản phái?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta chỉ xem sách mà biết. Phái Thanh Thành lấy trá ngụy làm chủ trương, sở trường về âm hiểm, còn về phần biến hóa không có gì phức tạp lắm nên cũng dễ nhớ.” Tư Mã Lâm lại hỏi: “Có nương xem sách gì vậy?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ồ, cũng chẳng phải là sách gì khó kiếm. Viết về võ công phái Thanh Thành có hai bộ, một bộ là Thanh Tự Cửu Đả, còn bộ kia là Thành Tự Thập Bát Phá, ông là chưởng môn phái Thanh Thành thì còn lạ gì sách đó?”

Tư Mã Lâm lẩm bẩm: “Thật là bẽ mặt!” Gã nhớ lại hồi nhỏ phụ thân truyền dạy có bảo cho biết: chữ Thanh nguyên trước có chín thế đánh, chữ Thành có mười tám thế phá, nhưng rất tiếc vì khiếm khuyết mất mấy thế thành ra võ công kém sút, phải chịu giằng co bất phân thắng bại với phái Bồng Lai. Giả tỷ có ai tìm lại được cho đầy đủ thì võ công bản phái không những chỉ ăn đứt phái Bồng Lai mà còn có thể xưng hùng thiên hạ một cách dễ dàng. Đến bây giờ nghe Vương Ngữ Yên nói đã đọc qua hai cuốn sách đó, ngực y không khỏi nóng ran lên, nói: “Cô nương cho tại hạ mượn sách liếc qua một chút xem có gì bất đồng với sở học của bản phái, được chăng?”

Vương Ngữ Yên chưa kịp trả lời, Diêu Bá Đương đã cười ha hả nói: “Cô nương chớ để cho gã tiểu tử đó lừa bịp. Võ công phái Thanh Thành nhà y còn nông cạn lắm, chữ Thanh còn độ ba bốn miếng, chữ Thành cũng chỉ mười một, mười hai cách phá thôi. Gã toan lừa lấy bộ kỳ thư của cô nương để về học thêm. Cô nương nhất định đừng cho gã mượn.”

Tư Mã Lâm bị Diêu Bá Đương thọc gậy bánh xe, khuôn mặt xanh xao của y lập tức tím bầm lại, hỏi: “Ta mượn sách của Vương cô nương có liên quan gì đến Tần gia trại nhà các ngươi? “ Diêu Bá Đương cười hà hà đáp: “Sao lại không? Việc này quan hệ đến Tần gia trại ta lắm chứ. Bụng dạ Vương cô nương đây thuộc lòng biết bao nhiêu võ công kỳ diệu. Ai rước được cô nương thì người đó sẽ trở thành thiên hạ vô địch. Họ Diêu này thấy bạc vàng châu báu hay trai thanh gái lịch, là muốn thò tay lấy ngay, của báu nghìn năm một thuở như Vương cô nương thế này, lẽ nào lại để sểnh mất? Tư Mã huynh đệ, phái Thanh Thành các ngươi muốn mượn sách thì phải hỏi ta đây xem ta có chịu không đã. Ha ha! Ha ha! Ngươi thử đoán xem liệu Diêu mỗ có bằng lòng chăng?”

Diêu Bá Đương nói mấy câu vô lý này cực kỳ ngạo mạn, thế nhưng Tư Mã Lâm và Khương Mạnh nhị lão nghe xong không khỏi thấp thỏm trong lòng: “Kiến thức võ học của cô bé này uyên thâm không biết đến đâu mà lường. Điệu bộ nàng ẻo lả như gió thổi bay, tự mình đánh ai thì chắc không thắng nổi, nhưng đã đọc qua đủ các loại võ học kỳ thư rồi, đã thuộc nằm lòng lại có thể vận dụng thành một chuỗi. Nếu như mình mời được cô ta đem về phái Thanh Thành thì sẽ học được hết Thanh Thành cửu đả, Thanh Thành thập bát phá. Nhưng bọn Tần gia trại đã có dạ bất lương, hôm nay chỉ còn cách đánh nhau một trận.”

Lại nghe Diêu Bá Đương nói: “Vương cô nương, bọn chúng ta vốn đến đây tìm nhà Mộ Dung để đòi nợ, xem chừng cô cũng là người họ Mộ Dung…” Vương Ngữ Yên nghe y bảo “cô cũng là người họ Mộ Dung” thì nửa mừng nửa thẹn, hai má ửng hồng. Nàng chép miệng hỏi lại: “Mộ Dung công tử là biểu huynh tôi, trại chủ tìm có việc gì? Biểu huynh tôi có điều chủ đắc tội với trại chủ?” Diêu Bá Đương cười hà hà nói: “Cô nương là biểu muội của Mộ Dung Phục thì thật tốt quá. Ông cố tổ nhà Mộ Dung có thiếu nhà họ Diêu ta một trăm vạn lạng vàng, một nghìn vạn lạng bạc, tới nay đã mấy trăm năm. Cả vốn lẫn lãi tính sao đây?” Vương Ngữ Yên ngạc nhiên hỏi: “Sao lại có chuyện lạ thế được? Cữu phụ tôi vốn là một nhà hào phú, sao lại thiếu nợ trại chủ?” Diêu Bá Đương đáp: “Thiếu hay không thiếu, cô nương còn nhỏ nên chưa hiểu rõ. Ta đi kiếm Mộ Dung Bác để đòi nợ, y bằng lòng trả rồi, thế nhưng chưa lấy được xu nào y đã lăn đùng ra chết. Bố chết thì đòi con, ai ngờ Mộ Dung Phục thấy chủ nợ đến lại chuồn đi mất. Ta chẳng biết làm thế nào, đành kiếm cái gì đem về trừ bớt.” Vương Ngữ Yên nói: “Biểu huynh tôi là người khẳng khái hào sảng, nếu quả có nợ trại chủ thì thế nào biểu huynh tôi cũng trả. Giả tỷ không nợ, mà trại chủ cần chút ít tiền tiêu xài đến hỏi, biểu huynh tôi cũng chả cự tuyệt đâu. Có lý nào sợ ông đòi nợ mà lẩn tránh bao giờ?”

Diêu Bá Đường chau mày nói: “Việc này không thể một lúc mà nói rành mạch được. Bây giờ cô nương hãy tạm theo ta về bắc, ở chơi Tần gia trại một năm hay dăm bảy tháng, người Tần gia trại quyết không động đến chân lông cô nương đâu. Mụ vợ Diêu mỗ ghen tuông nổi tiếng là con hổ cái dữ nhất vùng Hà Sóc nên đối với nữ sắc Diêu mô rất giữ gìn, cô nương cứ yên chí đừng lo ngại gì. Cô nương cũng chẳng cần thu xếp hành trang gì thêm nữa, chúng ta chỉ vỗ tay một cái là đi ngay. Bao giờ biểu huynh cô nương kiếm đủ tiền, đem lên thanh toán hết món nợ cũ, tự nhiên ta sẽ hộ tống cô nương về Cô Tô để vẹn mối lương duyên cùng biểu huynh. Ngoài ra Tần gia trại còn đưa hậu lễ để Diêu mỗ đi uống mừng hai họ.” Y nói xong ngoác miệng cười ha hả.

Lời y nói rặt giọng đểu cáng, mấy câu sau cùng thuận mồm bịa ra, thế nhưng Vương Ngữ Yên nghe đến đâu lọt tai mát ruột đến đó, mỉm cười nói: “Ông này chỉ nói ngang thôi. Tôi đến Tần gia trại làm chi? Nếu cữu phụ tôi quả có thiếu ông tiền, thì cũng đã lâu lắm rồi, biểu huynh tôi làm sao biết được? Ông tìm chứng cớ rõ ràng rồi biểu huynh tôi sẽ trả cho ông.”

Bản ý Diêu Bá Đương chỉ muốn cướp Vương Ngữ Yên đi để ép nàng phải thổ lộ võ công chứ một trăm vạn lạng vàng, một ngàn vạn lạng bạc chỉ là chuyện tầm phào, bây giờ nghe nàng nói năng thơ ngây dường như lại tin là chuyện thật, y bèn nói: “Cô nương cứ đi với ta nhé, Tần gia trại đẹp lắm. Bọn ta nuôi nào là báo đen, diều hâu, mai hoa lộc, đủ thứ, cô có ở cả năm cũng không chán. Biểu huynh có được tin lập tức sẽ tìm đến nơi hội diện. Thế rồi có tiền trả hay không cũng được, ta vẫn để cô nương cùng chàng về Cô Tô thành hôn. Cô nương nghe có được chăng?” Mấy câu nối đó quả thực khiến Vương Ngữ Yên phải xao xuyến trong lòng.

Thấy nàng khóe mắt long lanh, vẻ mặt e ấp, Tư Mã Lâm nghĩ thầm: “Nếu không sớm can ngăn, để nàng mở miệng bằng lòng đi đến Tần gia trại ở Vân Châu thì hết phương cứu vãn. Phải chặn trước đi là hơn.” Y không đợi Vương Ngữ Yên trả lời đã nói ngay: “Vân Châu ở tận ngoài ải bắc là đất khỉ ho cò gáy, rét lạnh thấu xương. Vương cô nương là một tiểu thư cành vàng lá ngọc sinh trưởng ở Giang Nam, ai lại ra đó chịu khổ bao giờ? Đất Thành Đô của ta được gọi là Cấm Quan Thành, gấm vóc đẹp nhất thiên hạ, phong cảnh tốt tươi, danh lam thắng cảnh nhiều gấp mười Vân Châu. Một người xinh đẹp như Vương cô nương đến Thành Đô mua gấm vóc mặc vào càng nổi bật lên, quả đúng là lúa tốt thêm phân, đã đẹp lại càng thêm đẹp. Mộ Dung công tử tài mạo song toàn dĩ nhiên ưa người đẹp mặc đồ gấm vóc.” Y cho rằng phụ thân đã bị phái Bồng Lai gia hại nên không còn thù hận gì Mộ Dung Cô Tô nữa.

Diêu Bá Đương quát lên: “Thối lắm! Cô Tô đây thiếu gì gấm đoạn, lượt là? Mi mở to mắt chó ra mà nhìn ba vị cô nương trước mắt, ai dám bảo là không biết cách ăn diện?” Tư Mã Lâm lạnh lùng nói: “Thối thật! Quả là thối thật!” Diêu Bá Đương cả giận hỏi “Có phải mi nói ta đó không?” Tư Mã Lâm đáp: “Không dám! Ta nói là rắm thối quá!”

Soạt một tiếng, Diêu Bá Đương rút đao ở sau lưng ra quát hỏi: “Tư Mã Lâm! Tần gia trại ta với phái Thanh Thành nhà mi, đại khái một bên tám lạng, một đằng nửa cân. Thế nhưng Tần gia trại mà liên thủ với phái Bồng Lai liệu có diệt nổi phái Thanh Thành không?”.

Tư Mã Lâm mặt biến sắc, nghĩ thầm: “Lời lão nói quả đúng sự thực. Phụ thân ta qua đời rồi, lực lượng phái Thanh Thành đã kém trước, lại bị tên gian tặc Chư Bảo Côn đến học trộm võ công. Nếu như Tần gia trại lại đối đầu với mình thì thật đáng lo. Người đời có nói: Tiên hạ thủ vi cường. Việc đã đến thế này chỉ còn cách nhân khi chúng chưa chuẩn bị mà giết bớt một tên.” Gã nghĩ vậy rồi lạnh lùng buông thõng một câu: “Chưa chắc!”

Diêu Bá Đương thấy Tư Mã Lâm hai tay thủ vào trong áo, biết lúc nào y cũng có thể bắn ám khí ra giết mình nên hết sức cảnh giác nói: “Ta mời Vương cô nương lên Vân Châu chơi mấy hôm, đợi Mộ Dung công tử đến đón về. Mi muốn chõ mồm vào ngăn trở chăng?”. Tư Mã Lâm đáp: “Đất Vân Châu nhà ngươi không xứng đáng chút nào, không thể khuất giá Vương cô nương được. Ta muốn mời Vương cô nương qua Thành Đô một chuyến” Diêu Bá Đương đáp: “Hay lắm! Bây giờ hai bên lấy binh khí ra so tài cao thấp một phen đã. Ai thắng sẽ được làm chủ nhân mời Vương cô nương.” Tư Mã Lâm nói: “Phải đó! Người nào thua mà muốn mời Vương cô nương thì chỉ có nước mời xuống chơi âm cung thôi.” Nói như thế là đã rõ ràng, đây không phải là cuộc tỷ thí để phân thắng bại, mà là chiến đấu sinh tử, kẻ bại tất phải vong mạng. Diêu Bá Đương cười ha hả nói: “Diêu mỗ suốt đời sống bằng nghề nhuộm máu lưỡi đao. Tư Mã chưởng môn muốn đem cái chết hăm dọa ta đó chăng? Ta đâu có sợ!” Tư Mã Lâm hỏi: “Thế thì đấu cách nào đây? Ta với người một chọi một hay tất cả cùng xông lên? “Diêu Bá Đương đáp: “Cứ để lão phu tiếp Tư Mã chưởng môn chơi ít hiệp…” Y mới nói đến đây, Tư Mã Lâm đột nhiên quay sang bên trái, mặt mày kinh hoàng, dường như phát sinh biến cố gì vô cùng kỳ lạ. Diêu Bá Đương mắt vốn không rời gã đề phòng ám toán bất ngờ, lúc này không nhịn được cũng nhìn sang bên trái. Chỉ nghe “veo veo veo” ba tiếng nhỏ, y giật mình thì ám khí đã bay tới trước ngực chỉ còn cách chừng ba thước, y thất vọng tự biết không thể thoát chết được.

Giữa lúc tính mạng Diêu Bá Đương lâm vào tình trạng ngàn cân treo sợi tóc, đột nhiên có vật gì vọt ra chắn ngang ngực y. Mấy tiếng “keng keng” bật lên, mấy mùi độc châm đụng vào rồi rớt xuống đất. Những mũi độc châm này nhanh vun vút, Diêu Bá Đương tuy là người lâm địch đã nhiều cũng đành chịu thúc thủ không tránh kịp nữa, thế thì cái vật kia phải nhanh gấp mấy lần mới có thể phóng ra sau mà tới đích trước để đón độc châm. Vật đó là cái gì thì cả Diêu Bá Đương lẫn Tư Mã Lâm đều chưa trông thấy.

Vương Ngữ Yên vui mừng kêu lên: “Bao thúc thúc đến đấy ư?” Bỗng nghe một giọng cổ quái đáp lại: “Sai bét, sai bét, không phải Bao thúc thúc đâu !” Vương Ngữ Yên cười nói: “Lại còn chẳng phải Bao thúc thúc ư? Người chưa thấy đã nghe lè nhè cái câu sai bét, sai bét.” Vẫn cái giọng lè nhè đáp lại: “Sai bét, sai bét! Không phải Bao thúc thúc đâu.” Vương Ngữ Yên hỏi lại: “Sai bét, sai bét? Thế thì ai đó?” Giọng kia lại đáp: “Mộ Dung huynh đệ gọi ta là tam ca, ngươi lại gọi ta là thúc thúc. Sai bét, sai bét! Ngươi gọi thế là sai bét.” Vương Ngữ Yên mặt nóng bừng lên hỏi: “Sao tam ca không xuất đầu lộ diện?” Hồi lâu không nghe tiếng đáp, Vương Ngữ Yên lại gọi: “Này này! Tam ca ra đi, giúp tiểu muội ngăn chặn những kẻ đến đây phá rối.” Bốn bề vẫn lặng ngắt như tờ, hiển nhiên gã họ Bao đã đi xa rồi. Vương Ngữ Yên hơi thất vọng hỏi A Châu: “Y đi đâu rồi?” A Châu mỉm cười đáp: “Bao tam ca tỉnh vốn vẫn thế, ông ta đang định ra mặt, nghe cô nương gọi, ông ấy lại nhất định không ra nữa. E rằng hôm nay không ra nữa đâu.”

Tính mạng Diêu Bá Đương mười phần chết chín, được người họ Bao kia ra tay cứu độ, trong lòng thật là cảm kích, Y với phái Thanh Thành vốn không thù không oán, nhưng bây giờ lại quyết giết Tư Mã Lâm, vung đao lên nói: “Quân vô liêm sỉ bắn trộm hại người, mi tưởng giết được lão phu sao?” Y múa đao nhắm ngay đầu Tư Mã Lâm chém xuống. Tư Mã Lâm hai tay vung ra, tay trái cầm dùi sắt, tay phải cầm búa, xông lên tiếp chiến.

Diêu Bá Đương sức lực hung mãnh ra tay tàn nhẫn, còn Tư Mã Lâm thì lấy nhẹ nhàng khéo léo làm chính. Phái Thanh Thành và Tần gia trại hôm nay đánh nhau lần đầu, hai vị thủ lĩnh thân ra ứng chiến. Cuộc thắng bại sẽ đưa đến sự tồn vong cùng vinh nhục cho bổn phái, thành thử cả hai không ai dám sơ sểnh chút nào.

Hai bên trao đổi đến hơn bảy mươi chiêu rồi, Vương Ngữ Yên bỗng quay sang nói Với A Châu: “Ngươi xem kìa, Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần gia trại xem ra không phải chỉ mất có năm chiêu. Hai chiêu Phụ Tử Độ Hà và Trọng Tiết Thủ Nghĩa sao không thấy Diêu lão gia dùng đến?” A Châu nào có biết võ công gia số của Tần gia trại thế nào nên chỉ ậm ừ.

Diêu Bá Đương đánh nhau đang hăng, chợt nghe lời Vương Ngữ Yên cả kinh nghĩ thầm: “Nhãn quang cô bé này ghê gớm thật. Sáu mươi tư chiêu của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao mất đi năm chiêu từ mấy chục năm nay, chỉ còn có năm mươi chín chiêu. Đến đời sư phụ ta, tư chất kém cỏi, ngộ tính tầm thường nên không học đúng hai chiêu Phụ Tử Độ Hà và Trọng Tiết Thủ Nghĩa, từ đó hai thế này lại bị thất truyền. Vì muốn bảo toàn thể diện, ta đã phải biến cải vài thế bổ sung vào để cho đủ số năm mươi chín chiêu, ngờ đâu cô ta vẫn nhìn ra được.”

Hầu hết lục lâm sơn trại đều là bọn ô hợp, bao nhiêu môn phái võ công cũng tụ lại một chỗ rủ nhau đi ăn cướp, riêng có Tần gia trại thì các đầu lĩnh đều là đệ tử của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao. Chẳng có môn phái nào coi Tần gia trại bằng vai phải lứa, cũng chẳng ai đến gia nhập với chúng. Sư phụ của Diêu Bá Đương họ Tần, là thủ lĩnh Tần gia trại cũng là chưởng môn Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao, có đứa con ruột là Tần Bá Khởi võ công tài cán thật tầm thường nên mới truyền ngôi vị đó cho đại đệ tử Diêu Bá Đương. Mấy tháng trước, Tần Bá Khởi ở Thiểm Tây bị người ta chém chết bằng chiêu Tam Hoành Nhất Trực, tức là ba nhát ngang một nhát dọc chém vào mặt thành hình chữ vương. Đó chính là tuyệt chiêu tối cương mãnh của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao nên ai ai cũng nghi rằng chắc do Cô Tô Mộ Dung hạ thủ. Diêu Bá Đương nghĩ đến ân tình của sự phụ bèn dắt hết hảo thủ của bản trại đến Tô Châu báo thù cho sư đệ. Ngờ đâu chưa gặp chủ nhân đã suýt táng mạng vì Thanh Phong Đinh của phái Thanh Thành, may được bằng hữu của Mộ Dung Phục cứu cho thoát chết.

Y hận Tư Mã Lâm ám toán âm độc, lại nghe thấy Vương Ngữ Yên vạch ra chỗ khiếm khuyết của võ công mình nên cũng hơi hổ thẹn, càng muốn đánh bại ngay Tư Mã Lâm để gỡ lại uy thế với bản trại. Lão nóng ruột thành ra liên tiếp sử dụng những đòn hiểm hóc một cách hời hợt, khiến cho Tư Mã Lâm tránh được dễ dàng. Diêu Bá Đương tức mình quát lên một tiếng, khoa đao chém xéo xuống, chờ cho Tư Mã Lâm nhảy tránh sang mé tả, bất thình lình lão co chân hữu đá phốc ra. Tư Mã Lâm người còn lơ lửng chưa chấm đất không có cách gì tránh né, nhưng gã ứng biến cực lẹ, hạ mũi dùi xuống thấp, để Diêu Bá Đương đá vào sẽ bị thủng chân. Ngọn cước của Diêu Bá Đương quả nhiên phải rút về, chân trái liền sử Uyên Ương Liên Hoàn, đá vào cạnh sườn bên phải Tư Mã Lâm.

Tư Mã Lâm vung búa đánh xéo lại, nghe chát một tiếng, đúng sống mũi Diêu Bá Đương, lập tức máu chảy ra lênh láng. Lúc đó chân trái lão cũng đá trúng lưng Tư Mã Lâm. Nhưng vì mặt lão bị đánh trước một chút, trong lòng hoảng sợ, lực đạo ngọn cước so ra chỉ được độ hai thành lúc bình thường. Tư Mã Lâm tuy bị đá nhưng chỉ hơi đau, chưa đến nỗi bị thương. Hai bên trúng đòn nhau trước sau khoảnh khắc nhưng thắng bại coi như đã xong. Diêu Bá Đương gầm lên một tiếng, cầm đao toan xông lên chém tiếp, nhưng đầu nhức như búa bổ, chân bước loạng choạng không đứng vững được.

Tư Mã Lâm may mà thắng được một đòn, biết rằng nếu để cho đối phương sống sót tất hậu hoạn khôn lường. Y quyết tâm tiêu diệt đối phương, búa nhỏ bên tay phải vung lên đợi cho Diêu Bá Đương vung đao lên gạt, lập tức mũi dùi bên tay trái đâm luôn vào giữa ngực. Phó trại chủ của Tần gia trại thấy tình thế nguy ngập, hú lên một tiếng, thanh đơn đao đột nhiên lìa khỏi tay, nhằm Tư Mã Lâm ném tới. Chớp mắt trong đại sảnh gió rít vù vù, hơn mười lưỡi đơn đao vun vút nhất tề nhằm vào Tư Mã Lâm.

Thì ra trong võ công của Tần gia trại có tuyệt kỹ ném đơn đao. Mỗi thanh đao đều nặng từ bảy tám cân đến ngoài mười cân, dùng sức ném ra, thế mạnh ghê gớm. Huống chi hơn mười lưỡi đơn đao phóng ra một lượt, Tư Mã Lâm đã không đỡ được, tránh cũng hết đường. Ai cũng thấy y sắp bị loạn đao phân thây, đột nhiên ánh đuốc lập lòe, một người nhảy vọt tới bên cạnh Tư Mã Lâm, đưa tay chộp bên đông đón bên tây, bắt hết hơn chục thanh đơn đao. Đoạn một chuỗi cười ha hả vang lên, trên ghế giữa sảnh đường, đã thêm một người ngồi trông rất oai nghiêm. Tiếp đó loảng xoảng loảng xoảng liên tiếp, người đó vứt bó đao trên tay xuống đất.

Mọi người kinh hãi nhìn, thấy đó là một hán tử trung niên mặc trường bào sắc tro, thân hình ốm o lại cao lêu nghêu, thần sắc có vẻ ngang bướng gàn dở. Ai thấy thủ đoạn chụp đao của y cũng đều bội phục, không dám nói câu gì. Chỉ có mình Đoàn Dự mỉm cười lên tiếng hỏi: “Huynh đài xuất thủ cực kỳ mau lẹ, võ công hẳn cao cường tuyệt đỉnh. Tôn tính đại danh là gì, có thể cho biết được chăng?”.

Hán tử cao gầy kia chưa kịp trả lời thì Vương Ngữ Yên đã tiến lên cười nói: “Bao tam ca, tiểu muội tưởng tam ca không trở lại, cứ khắc khoải trong lòng, ngờ đâu tạm ca lại đến. Hay quá! Tuyệt quá!” Đoàn Dự nói: “Ồ, thì ra là Bao tam tiên sinh.” Gã Bao tam tiên sinh kia đưa mắt liếc chàng một cái, khinh khỉnh nói: “Gã tiểu tử này là ai mà dám liến thoắng trước mặt ta?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ họ Đoàn tên Dự, không biết quyền cước võ công chi hết, ngờ đâu lạc vào chốn giang hồ mà đến nay chưa chết, kể cũng là một việc lạ trên đời.” Bao tam tiên sinh trợn mắt nhìn chàng một hồi, nhất thời không biết phải trả lời sao.

Tư Mã Lâm tiến lên vái một cái thật sâu nói: “Tư Mã Lâm này ở phái Thanh Thành được tiên sinh bắt đao cứu mạng, ơn đức ấy không bao giờ dám quên. Xin Bao tiên sinh cho biết đại danh để ghi vào tâm khảm.” Bao tam tiên sinh đảo mắt một cái, tung chân ra, nghe bình một tiếng đá y lộn đi mấy vòng, quát lớn: “Mặt ngươi mà dám hỏi đến tên ta sao? Không phải ta định cứu ngươi đâu, chỉ vì đây là trang viện của A Châu muội tử. Nếu để cái thân thể hôi thối của ngươi bị loạn đao phân thây há chẳng ô uế cái Thính Hương Thủy Tạ này ư? Thôi cút đi cho mau!”

Tư Mã Lâm thấy Bao tam tiên sinh phòng cước ra, toan né tránh thì đã không kịp. Y bị ngã khá đau, lại nghe đối phương ăn nói khinh bạc như thế, cứ theo qui củ giang hồ nếu không lập tức ra tay liều mạng thì cũng phải ước hẹn ngày sau gặp lại, không thể cam tâm chịu nhục trước mặt mọi người mà nín đi cho xong được. Y ra vẻ cứng cỏi nói: “Bao tam tiên sinh! Tư Mã Lâm này hôm nay bị người ta vây đánh, quả bất địch chúng tưởng chừng táng mạng nơi đây, may được tiên sinh cứu cho thoát chết. Tư Mã Lâm này ân oán phân minh, có ơn trả ơn, có oán báo oán, xin mời!” Y tự biết mình dù có luyện tập thêm mấy chục năm nữa cũng không thể nào đạt tới mức của Bao tam tiên sinh, mấy tiếng “có ơn trả ơn, có oán báo oán” chẳng qua là câu nói hàm hồ để gỡ lại chút thể diện mà thôi.

Bao tam tiên sinh cứ mặc y muốn nói thế nào thì nói, không thèm để vào tai, quay sang nói với Vương Ngữ Yên: “Vương cô nương, thái thái vì cớ gì mà lại để cho cô qua tận đây?” Vương Ngữ Yên cười nói: “Tam ca thử đoán xem là vì duyên cớ gì?” Bao tam tiên sinh trầm ngâm rồi nói: “Cái này quả là khó nghĩ cho ra.”

Tư Mã Lâm thấy Bao tam tiên sinh mải mê nói chuyện cùng Vương Ngữ Yên không thèm đếm xỉa đến mình, lại nghĩ đến y đá mình một cái ngã chỏng gọng nên sinh lòng ghét cay ghét đắng, quên luôn cả cái ơn cứu mạng vừa rồi, liền vẫy tay một cái dẫn đám đệ tử phái Thanh Thành đi ra. Bao tam tiên sinh gọi theo: “Khoan đã, ta có điều muốn nói cho ngươi hay.” Tư Mã Lâm quay đầu lại hỏi: “Sao?” Bao tam tiên sinh nói: “Nghe nói người đến Cô Tô để báo thù cho phụ thân ngươi. Người lầm rồi, phụ thân người không phải do Mộ Dung công tử hạ sát đâu!” Tư Mã Lâm hỏi: “Sao lại thế? Làm sao tiên sinh biết được?” Bao tam tiên sinh tức mình nói: “Ta đã bảo không phải Mộ Dung công tử giết, thì nhất định là không phải y giết. Mà dẫu có thực là y giết, ta đã bảo không, thì cũng phải coi là không. Người dám coi lời của ta chẳng ra gì hay sao?”

Tư Mã Lâm nghĩ thầm: “Thằng cha này ăn nói ngang ngược thật”, liền đáp: “Thù cha không đội trời chung. Tư Mã Lâm này tuy võ công kém cỏi, nhưng dẫu có tan xương nát thịt cũng phải trả mối thâm cừu. Tiên phụ bị ai sát hại, xin tiên sinh chỉ bảo cho.” Bao tam tiên sinh cười khanh khách nói: “Phụ thân ngươi có phải là con ta đâu, hắn bị ai giết có liên quan đếch gì đến ta? Ta chỉ nói không phải Mộ Dung công tử ra tay giết hắn, ngươi còn ra vẻ không tin. Thế thì chính ta giết y đấy. Ngươi muốn báo thù thì cứ xông vào!” Tư Mã Lâm mặt giận xám xanh, nói: “Cái thù giết cha há phải trò đùa? Bao tam tiên sinh, ta tự biết sức mình không địch nổi người. Ngươi muốn giết ta thì giết, chứ làm nhục ta thế này không được.” Bao tam tiên sinh cười nói: “Ta không muốn giết mà chỉ muốn làm nhục ngươi thôi. Ngươi làm gì được ta nào?”

Tư Mã Lâm tức khí xông lên tận cổ, muốn liều thân thí mạng với y nhưng lại không dám, đành đứng chết sững tại chỗ như trời trồng, tiến thoái lưỡng nan. Bao tam tiên sinh cười nói: “Võ công kém cỏi như Tư Mã Vệ cha ngươi, cần gì phải đến Mộ Dung công tử nhọc lòng? Mộ Dung công tử võ công gấp mười ta, ngươi thử nghĩ mà xem, Tư Mã Vệ liệu có xứng để y phải ra tay hay không?”

Tư Mã Lâm chưa kịp trả lời, Chư Bảo Côn đã rút phăng khí giới, lớn tiếng nói: “Bao tam tiên sinh! Tư Mã Vệ lão tiên sinh là ân sư truyền nghề cho ta. Ta cấm ngươi không được nhục mạ thanh danh người đã khuất.” Bao tam tiên sinh cười nói: “Ngươi là đứa gian tế trà trộn vào phái Thanh Thành lừa thầy học trộm võ công, còn rỗi hơi chen vào chuyện người khác làm gì?” Chư Bảo Côn lớn tiếng đáp: “Tư Mã sư phụ đãi ta ân thâm nghĩa trọng, Chư Bảo Côn này thẹn chưa bảo đáp được gì, hôm nay mong được vì bảo tồn thanh danh cho tiên sư mà chết, để chuộc lại phần nào cái lỗi lừa thầy. Bao tam tiên sinh, ngươi mau xin lỗi Tư Mã chưởng môn đi.”

Bao tam tiên sinh cười nói: “Bao tam tiên sinh này xưa nay chưa bao giờ nhận lỗi, cũng chẳng xin lỗi ai, dẫu có biết mình sai cũng cãi cho bằng được. Tư Mã Vệ lúc sống cũng có thanh danh cái quái gì đâu, hắn chết rồi thì thanh danh lại càng nát ra như cám. Những người như thế đáng giết lắm, giết sớm đi càng tốt!” Chư Bảo Côn quát lên: “Mau lấy binh khí ra!” Bao tam tiên sinh lại cười: “Bọn con cái học trò Tư Mã Vệ toàn là phường bị thịt, trừ việc bắn trộm hại người còn biết cái quái gì nữa đâu!”

Chư Bảo Côn kêu lớn: “Coi đây!” Y sử chiêu Thượng Thiên Hạ Địa, tay trái dùi sắt, tay phải cầm búa cùng tấn công. Bao tam tiên sinh không thèm đứng dậy, phất tay áo bên trái ra một luồng kình phong quật thẳng vào mặt địch thủ, Chư Bảo Côn dường như bị nghẹt thở, nghiêng người né tránh. Bao tam liền đưa chân phải ra móc một cái ngã lăn xuống đất, tiện đà đá luôn vào mông y, bắn ra ngoài cửa sảnh đường. Chư Bảo Côn ở trên không xoay mình một cái, vai vừa đụng đất liền uốn mình đứng dậy, khập khiễng quay vào, lại vung dùi xông tới. Bao tam tiên sinh chộp luôn cổ tay y, không hiểu hất thế nào mà khiến cho người y tung lên cao, đụng mạnh vào xà nhà đánh rầm một tiếng, đau ê ẩm cả người. Y vừa rơi xuống lại trở mình đứng dậy xông vào lần thứ ba. Bao tam tiên sinh chau mày nói: “Mi thật là đứa không biết gì. Mi tưởng ta không giết được mi chăng?” Chư Bảo Côn kêu lên: “Ngươi giết ta quách đi cho xong.”

Bao tam tiên sinh vung hai tay ra, nắm tay y tung mạnh một cái, nghe kêu lách cách, xương hai cánh tay Chư Bảo Côn đã gãy lìa, dùi liền đâm vào vai trái, còn búa cũng đập vào vai phải, hai vai máu chảy ròng ròng. Lần này y bị thương rất nặng, tuy vẫn muốn tiếp tục liều mạng, nhưng kiệt lực mất rồi. Người của phái Thanh Thành ngơ ngác nhìn nhau, phân vân không biết có nên vào giúp Chư Bảo Côn hay không. Thế nhưng thấy y vì bảo tồn thanh danh cho tiên sư mà không kể gì sống chết, quả không có gì là giả dối, thù hận trong lòng đã giảm đi quá nửa.

A Châu từ nãy vẫn đứng một bên không nói lời nào, đột nhiên xen vào: “Tư Mã đại gia, nhà Mộ Dung Cô Tô nếu như đã giết Tư Mã lão tiên sinh thì lẽ nào bây giờ để cho các ông sống sót? Nếu như Bao tam ca muốn giết hết tất cả, e rằng cũng chẳng khó lắm đâu, ít nhất cũng không cứu tính mạng Tư Mã đại gia mà Vương cô nương cũng chẳng cứu Chư đại gia làm gì. Thực sự là ai ra tay hại Tư Mã lão tiên sinh, các vị nên trở về tìm hiểu cho minh bạch.”

Tư Mã Lâm nghĩ lời nàng quả thực có lý, toan mở miệng nói vài câu đãi bôi. Bao tam tiên sinh giận dữ quát: “Đây là trang viện của A Châu muội tử, chủ nhân đã lên tiếng đuổi khách rồi, sao người còn lần khân chưa chịu đi?” Tư Mã Lâm đáp: “Được rồi, sau này gặp lại.” Y hơi gật đầu, đi ra ngoài. Bọn Chư Bảo Côn cũng lục tục đi theo.

Diêu Bá Đương thấy Bao tam tiên sinh võ công cao cường, hành sự quái dị, có ý muốn làm quen vị giang hồ kỳ nhân này, huống chi thấy Vương Ngữ Yên trong bụng chứa biết bao nhiêu là võ học, lòng tham nổi lên muốn chiếm đoạt cho bằng được, liền đứng lên định mở lời. Bao tam tiên sinh lớn tiếng nói: “Diêu Bá Đương, ta nói cho nghe, tên sư đệ ăn hại Tần Bá Khởi của ngươi dù có luyện thêm ba chục năm cũng chẳng đáng cho Mộ Dung Công tử chém một đao, muốn được Mộ Dung công tử chém bốn đao thì phải luyện thêm hơn một trăm hai chục năm. Ta không thèm nói chuyện với ngươi, mau mau lăn ra khỏi nơi đây.” Diêu Bá Đương sửng sốt nhưng lập tức mặt tím lại, giơ tay cầm lấy chuôi đao. Bao tam tiên sinh nói: “Võ công hạng bét như người mà cũng toan múa rìu qua mắt thợ hay sao? Ta bảo người mau lăn ra, không lẽ còn phải nói đến lần thứ hai chăng?”

Bọn Tần gia trại hồi nãy bao nhiêu đao ném vào Tư Mã Lâm, rồi bị Bao tam tiên sinh bắt hết được vứt dưới chân, thấy y làm nhục Diêu Bá Đương như thế người nào cũng sôi gan, nhưng có điều ai nấy tay không chẳng khác gì hổ mất hết nanh vuốt. Bao tam tiên sinh cười ha hả, chân phải liên tiếp đá ra, hơn chục thanh đao vùn vụt tung lên, bay thẳng vào bọn Tần gia trại. Những thanh đạo đó đi thật chậm, ai nấy đều thuận tay bắt được. Nắm được binh khí trong tay rồi, chúng mới thấy kinh hãi. Rõ ràng nếu Bao tam tiên sinh muốn phóng đao giết hết bọn chúng e còn dễ hơn nhiều. Mọi người trong tay đã có đao mà vẫn luống cuống không biết làm sao cho phải. Bao tam tiên sinh nói: “Diêu Bá Đương, người có chịu lăn ra không?” Diêu Bá Đương cười gượng: “Tiên sinh đối với họ Diêu này có ơn cứu mạng, cái thân này do các hạ ban cho. Các hạ đã ra lệnh dĩ nhiên phải tuân theo, xin cáo biệt.” Nói xong khom lưng hành lễ, tay phất một cái nói: “Thôi, tất cả đi ra!”.

Bao tam tiên sinh nói: “Ta bảo ngươi lăn ra chứ có bảo ngươi đi ra đâu?” Diêu Bá Đương ngạc nhiên nói: “Tại hạ chưa hiểu.” Bao tam tiên sinh nói: “Muốn lăn thì phải nằm xuống đất, ngươi có lăn không thì bảo?” Diêu Bá Đương nghĩ thầm người này tính tình thật điên khùng cổ quái, không muốn dây dưa liền rảo bước đi ra cửa sảnh. Bao tam tiên sinh quát lên: “Sai bét, sai bét. Đó là đi, là bước, là cúp đuôi chạy trốn chứ nào có phải là lăn đâu?” Y thân hình rung động đã vọt tới sau lưng Diêu Bá Đượng, tay trái thò ra nắm ngay ót, Diêu Bá Đương thúc cùi chỏ ngược về sau, Bao tam tiên sinh nhấc tay lên, người của Diêu Bá Đương như bơi giữa khoảng không khiến cho khuỷu tay của y thúc vào chỗ trống.

Bao tam tiên sinh tay phải liền nằm ngay mông y, lớn tiếng quát: “Trang viện của A Châu muội tử đâu phải ngươi muốn đến là đến, muốn đi là đi dễ như thế? Con mẹ ngươi, có lăn ra không nào?” Y thuận tay phong bế huyệt đạo rồi hất tay một cái. Thân hình to béo của Diêu Bá Đương chẳng khác gì một khúc gỗ lục cục lăn đến cửa, cũng may cửa sảnh rộng rãi nên y không bị va vào đâu, lăn thẳng ra ngoài. Bọn Tần Gia Trại hoảng hốt vội túa ra đỡ y dậy, Diêu Bá Đương thần trí hồ đồ, lại tưởng mình đang đi ăn cướp bị đuổi bắt, liền dùng tiếng lóng ra lệnh: “Gió lớn! Gió lớn!” Cả bọn như bầy ong vỡ tổ chen nhau chạy mất.

Bao tam tiên sinh nhìn Đoàn Dự mấy cái, không đoán nổi chàng là hạng người nào, hỏi Vương Ngữ Yên: “Gã này thuộc bọn nào? Tống cổ nốt y đi chăng?” Vương Ngữ Yên đáp: “Tiểu muội và A Châu, A Bích đều bị Nghiêm má má bắt giữ, tình thế cực kỳ nguy hiểm, may được Đoàn công tử đây ra tay cứu. Hơn nữa, anh ta biết chuyện Huyền Bi hòa thượng bị người ta dùng Vi Đà Chử đánh chết, mình còn phải hỏi lại cho rõ ràng.” Bao tam tiên sinh nói: “Cô nói thế là muốn giữ y lại chứ gì?” Vương Ngữ Yên đáp: “Đúng vậy!” Bao tam tiên sinh mỉm cười: “Cô không sợ Mộ Dung huynh đệ ghen hay sao?” Vương Ngữ Yên mở tròn đôi mắt: “Ghen cái gì?” Bao tam tiên sinh chỉ Đoàn Dự nói: “Gã này mặt trơ tràn bóng, mồm miệng trơn tuột như bôi mỡ, cô đừng bị dụ dỗ!” Vương Ngữ Yên không hiểu, hỏi lại: “Tiểu muội có gì mà y dụ dỗ? Tam ca bảo y đặt điều nói láo tin tức về chùa Thiếu Lâm ư? Tiểu muội không sao hiểu nổi.”

Bao tam tiên sinh nghe nàng nói chuyện thơ ngây, không tiện hỏi thêm, quay sang Đoàn Dự cười khẩy mấy tiếng nói: “Nghe nói Huyền Bi hòa thượng của chùa Thiếu Lâm bị người ta dùng công phu Vi Đà Chử đánh chết ở Đại Lý, lại có một bọn hồ đồ đổ tội cho nhà Mộ Dung chúng ta. Chuyện đó như thế nào, ngươi kể lại đầu đuôi ta nghe.”

Đoàn Dự bực mình, cười nhạt nói: “Ngươi thẩm vấn tù phạm đó chăng? Nếu như ta không nói ngươi sẽ tra khảo hay sao?” Bao tam tiên sinh ngạc nhiên, không nổi giận mà lại bật cười lẩm bẩm: “Tiểu tử lớn mật! Tiểu tử lớn mật!” Đột nhiên y tiến lên nắm lấy cánh tay chàng, hơi dùng sức, Đoàn Dự đau đến thấu xương kêu lên: “Ối, ngươi làm gì thế?” Bao tam tiên sinh đáp: “Ta dùng nghiêm hình tra khảo, hỏi cung tù phạm đó.” Đoàn Dự bèn mặc kệ coi như không phải tay mình, mỉm cười nói: “Ngươi càng khảo đả ta, ta càng không thèm nhìn tới ngươi.” Bao tam tiên sinh tăng gia kình lực đến nỗi xương tay Đoàn Dự kêu lên lách cách dường như muốn gãy. Đoàn Dự cố nhịn đau, không để ý gì tới. A Bích vội nói: “Vị Đoàn công tử đây tính khí cao ngạo lắm, lại là ân nhân cứu mạng của bọn tiểu muội, tam ca đừng làm chàng bị thương.” Bao tam tiên sinh gật đầu nói: “Được lắm, được lắm! Tính khí cao ngạo thật hợp với ta.” Nói xong y từ từ thả tay Đoàn Dự ra.

A Châu cười nói: “Chắc bọn mình ai cũng đói rồi. Lão Cố ơi! Lão Cố!” Nàng cao giọng gọi lớn mấy tiếng. Lão Cố từ cửa hông thò đầu vào thấy bọn đạo tặc cùng ma quái không còn ai ở đó, mừng rỡ lật đật chạy vào. A Châu nói: “Lão đi súc miệng hai lần, rửa mặt hai lần, rửa tay ba lần sau đó hãy đi làm cho chúng ta mấy món thật tinh khiết. Nếu có chỗ nào không sạch sẽ, Bao tam gia sẽ không tha cho lão đâu.” Lão Cô mỉm cười gật đầu, luôn mồm nói: “Sạch sẽ lắm, sạch sẽ lắm chứ!”

Các tì bộc trong Thính Hương Thủy Tạ liền dọn tiệc tại một hoa sảnh. A Châu mời Bao tam tiên sinh ngồi đầu tiệc, Đoàn Dự ngồi thứ hai, Vương Ngữ Yên ngôi thứ ba còn nàng và A Bích ngồi phía dưới tiếp khách. Vương Ngữ Yên chưa cầm đũa đã nóng ruột hỏi: “Tam ca, biểu huynh… biểu huynh…”

Bao tam tiên sinh trừng mắt nhìn Đoàn Dự nói: “Vương cô nương, nơi đây có người ngoài, mọi chuyện không nên nói ra. Huống chi cái thứ mặt trơ trán bóng, ta chẳng đời nào tin nổi…” Đoàn Dự nghe thế tức khí đùng đùng, đứng phắt dậy, định bỏ bàn tiệc đi ra ngoài.

A Bích vội nói: “Đoàn công tử đừng nổi giận, Bao tam ca chúng tôi trước nay vẫn ăn nói không cần giữ miệng. Đại hiệu của ông ta là Bao Bất Đồng, gặp ai cũng phải gây gổ mấy câu mới ăn được cơm. Họa chăng chỉ có khi nào mặt trời mọc ở phương tây thì tam ca mới không mích lòng ai. Xin công tử ngồi nán lại một chút đã.”.

Đoàn Dự nhìn Vương Ngữ Yên, thấy mặt nàng dường như cũng muốn mình ở lại, tuy không chắc lắm nhưng không đành bỏ qua cơ hội ngồi bên cạnh nàng, nên lại ngồi xuống nói: “Bao tam tiên sinh bảo tôi mặt trơ trán bóng quả thực không sao chịu nổi. Tướng mạo Mộ Dùng công tử của các cô có tương tự Bao tam tiên sinh không?”

Bao Bất Đồng cười ha hả nói: “Hỏi hay lắm. Công tử của bọn ta so với Đoàn công tử còn anh tuấn hơn nhiều…” Vương Ngữ Yên nghe nói mặt mày rạng rỡ. Bao Bất Đồng nói tiếp: “Công tử chúng ta hiên ngang anh tuấn, tuy đẹp trai thực, nhưng so với cái đẹp kiểu giá áo túi cơm như Đoàn công tử thì hoàn toàn khác hẳn, khác hẳn. Còn như tại hạ thì có anh mà không tuấn, tuy cũng hiên ngang nhưng mặt mũi xấu xí, phải gọi là anh xú.” Cả bọn cười ồ.

Bao Bất Đồng cạn chén rượu nói: “Công tử sai ta đến Phúc Kiến làm một việc, cốt để ngầm giúp chùa Thiếu Lâm một tay, còn như làm việc gì thì đợi bao giờ vị Đoàn công tử này đi khỏi rồi ta sẽ nói. Bọn ta đang muốn kết giao với phái Thiếu Lâm thì không thể nào tự nhiên lại giết hòa thượng, huống chi công tử đã tới Đại Lý bao giờ đâu. Cô Tô Mộ Dung võ công tuy cao thật nhưng e rằng chưa tới mức có thể dùng Vi Đà Chử để giết người ngoài vạn dặm.”

Đoàn Dự gật đầu: “Bao huynh nói vậy cũng có lý.”

Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét, sai bét!” Đoàn Dự ngạc nhiên nghĩ thầm: “Ta bảo người nói có lý, sao ngươi lại bảo ta nói sai?”. Lại nghe Bao Bất Đồng nói: “Không phải là ta nói có lý, mà là sự thực rành rành. Đoàn công tử cho rằng ta nói có lý, phải hiểu ngầm rằng sự thực không phải vậy, chỉ vì ta mồm miệng khéo léo, biện luận cho có lý đấy thôi. Lời của ngươi thật là sai bét, sai bét.” Đoàn Dự mỉm cười không trả lời, nghĩ bụng chớ nên cãi lẫy với y làm gì. Bao Bất Đồng nói: “Hôm qua ta quay trở lại Tô Châu gặp Phong tứ đệ, hai anh em trao đổi mới hay có bọn chó má nào đó ngầm gây chuyện hại người để cho thiên hạ đổ tội lên đầu Cô Tô Mộ Dung. Chuyện đó đáng lẽ là hảo sự, ai kiếm chuyện là mình đánh, còn gì thú vị cho bằng?” A Châu cười nói: “Tứ ca hẳn là mở cờ trong bụng, chuyện đó y cầu còn chưa được.” Bao Bất Đồng lắc đầu: “Sai bét, sai bét. Tứ đệ muốn đánh nhau thì không cầu mà vẫn được, đi khắp thiên hạ thể nào cũng có lúc đánh nhau.” Đoàn Dự thấy y bắt bẻ cả A Châu mới hay lời của A Bích không sai, lão này chỉ thích cãi lộn làm vui.

Vương Ngữ Yên nói: “Thế tam ca với tứ ca bàn bạc những gì?” Bao Bất Đồng đáp: “Thứ nhất là hung thủ không phải ở phái Thiếu Lâm. Thứ hai, cũng không phải ở Cái Bang vì phó bang chủ của họ là Mã Đại Nguyên bị người ta dùng Tỏa Hầu Công giết. Tỏa Hầu Công là tuyệt kỹ thành danh của Mã Đại Nguyên, y có bị giết cũng chẳng có gì là lớn chuyện, nhưng dùng Tỏa Hầu Công giết Mã Đại Nguyên thì đúng là giá họa cho Cô Tô Mộ Dung rồi.” Đoàn Dự gật đầu. Bao Bất Đồng nói: “Đoàn công tử gật đầu liên tiếp, hẳn là trong bụng nghĩ mấy câu nói của ta có lý chứ gì?” Đoàn Dự đáp: “Sai bét, sai bét: Thứ nhất, ta chỉ gật đầu có một cái chớ không phải gật đầu liên tiếp. Thứ hai, ta thực tình thấy là đúng, chứ không phải chỉ vì Bao huynh nói có lý”.

Bao Bất Động cười ha hả nói: “Nhà người học cái thuật gậy ông đập lưng ông, định gia nhập dưới trướng Cô Tô Mộ Dung chăng? Có ý gì đây? Hay là phải lòng A Bích muội tử rồi?” A Bích e thẹn mặt đỏ bừng, phụng phịu nói: “Tam ca lại ăn nói lung tung rồi. Tiểu muội có đắc tội gì với tam ca đâu?” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Ngươi vừa dịu dàng, vừa dễ thương rất vừa mắt ta. Ta nói như thế chính vì ngươi không có lỗi lầm gì, còn như nếu ngươi đắc tội với ta thì ta sẽ nói là người phải lòng tên mặt trắng chứ tên mặt trắng đó chẳng có tư tưởng gì ngươi đâu.” A Bích càng thêm luống cuống. A Châu nói: “Tam ca đừng có bắt nạt A Bích muội tử. Nếu tam ca còn ăn hiếp cô ấy là tiểu muội sẽ ăn hiếp bé Tịnh Tịnh cho mà xem.”

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói: “Con gái ta khuê danh là Bao Bất Tịnh, người gọi nó là Tịnh Tịnh thì quả là tâng bốc nó chứ có phải là ăn hiếp nó đâu. Mà này A Bích tiểu muội, ta có bắt nạt ngươi gì đâu?” Nghe y đấu dịu, dường như nghe người ta dọa hiếp đáp con gái mình liền có phần kiêng nể.

Y quay sang nói với Vương Ngữ Yên: “Đám khốn kiếp kia có mưu toan gì thì bọn mình từ từ rồi cũng tìm ra. Phong tứ đệ vừa ở Giang Tây về điều tra chưa được rõ ràng, bọn mình phải đi Thanh Vân Trang mới được. Đặng đại tẩu được tin các hảo thủ Cái Bang cùng kéo xuống Giang Nam, xem chừng muốn kiếm chuyện. Tứ đệ nghe thế liền muốn đi đánh nhau ngay, may nhờ đại tẩu khuyên nhủ mới chịu thôi.” A Châu mỉm cười nói: “Đại tẩu quả nhiên có uy thật, khuyên được cả tứ ca đừng đi đánh nhau.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Chẳng phải đại tẩu có uy mà là nói nghe có lý. Đại tẩu bảo là: phải lấy lại đại sự của công tử là trọng, không nên gây thù chuốc oán thêm.”

Y nói mấy câu đó, Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người nhìn nhau, vẻ mặt ai nấy đều có vẻ nghiêm trang. Đoàn Dự giả vờ như không để ý, giơ đũa gắp một miếng thịt gà quay bỏ vào mồm, nói: “Lão Cố nấu ăn không tệ, thế nhưng so với A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ thì vẫn còn kém xa.” A Bích mỉm cười đáp: “Tài nấu ăn của lão Cố so với chị A Châu thì kém thật nhưng so với muội đây thì lại hơn nhiều.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét. Hai người các ngươi mỗi người một vẻ, ai cũng có chỗ hay riêng.” A Châu cười: “Tam ca, bữa nay tiểu muột không vào bếp tự tay làm mấy món cho tam ca ăn, lần sau sẽ bù lại…” Nàng vừa nói tới đây bỗng nghe có tiếng lục lạc leng keng từ trên cao vọng xuống.

Bao Bất Đồng và A Châu, A Bích cùng reo lên: “Nhị ca đưa tin đến kìa.” Ba người rời chỗ ngồi chạy ra trước nhà, ngẩng đầu lên thấy một con bồ câu trắng bay lượn trên không rồi đáp xuống đậu vào tay A Châu. A Bích đưa tay tháo chiếc ống trúc nhỏ buộc nơi chân con chim, lấy ra một tờ giấy mỏng. Bao Bất Đồng cầm lấy đọc qua rồi nói: “Thế này thì mình phải đi ngay!” Y quay sang nói với Vương Ngữ Yên: “Này, cô có đi theo không?” Vương Ngữ Yên hỏi lại: “Đi đâu? Có chuyện gì thế?” Bao Bất Đồng xòe tay giơ tờ giấy ra nói: “Nhị ca đưa tin một đám hảo thủ của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ đến Giang Nam, không hiểu có ý gì, sai ta và hai cô A Châu, A Bích đi tra xét xem sao.” Vương Ngữ Yên đáp: “Dĩ nhiên tiểu muội phải đi theo rồi. Người của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ cũng muốn gây sự với mình ư? Xem ra kẻ đối đầu mỗi lúc một nhiều.” Nàng nói tới đây lại chau mày. Bao Bất Đồng nói: “Chưa chắc đã là đối đầu, nhưng hẳn họ tới Giang Nam chẳng phải để du sơn ngoạn thủy hay viếng chùa lễ Phật đâu. Đã lâu mình chưa gặp cao thủ, nay lại có Cái Bang, rồi Nhất Phẩm Đường. Ha ha! Lần này chắc là nhộn nhịp lắm.” Y mặt mày phấn khởi, xem ra hứng chỉ sắp được đánh nhau.

Vương Ngữ Yên đi tới gần, có vẻ muốn xem thư viết gì. Bao Bất Đồng liền đưa cho nàng tờ giấy, thấy trên đó viết bảy tám hàng, nét bút thanh nhã lại có kình lực, tuy chữ nào nàng cũng biết nhưng đọc lên chẳng ra câu cú gì. Nàng đọc sách đã nhiều nhưng viết kiểu này thì mới thấy lần đầu, nên nhíu mày hỏi: “Cái này nghĩa là gì?” A Châu mỉm cười: “Đây là trò nghịch ngợm của Công Dã nhị ca, dùng thi vận và thiết âm biến ra, bình thanh đọc thành nhập thanh, nhập thanh đọc thành thượng thanh, nhất giản đọc thành tam giang, đảo qua đảo lại. Bọn tiểu muội đọc quen rồi hiểu ngay, người ngoài nhìn vào thì mù tịt.”

Vương Ngữ Yên nghe hai tiếng “người ngoài” vẻ mặt hơi xìu xuống, A Bích thấy vậy vội dỗ: “Vương cô nương không phải người ngoài. Nếu như cô muốn biết tiểu tì sẽ nói hết cho cô nghe.” Vương Ngữ Yên nghe thế mặt mới tươi trở lại.

Bao Bất Đồng nói: “Ta từng nghe Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ hảo thủ rất đông, có đủ cả các môn phái ở Trung Nguyên, Tây Vực. Có Vương cô nương đi cùng thì chỉ nhìn qua là biết ngay họ gốc gác ra sao. Để xong việc này rồi mình sẽ cùng đi Hà Nam gặp công tử gia.” Vương Ngữ Yên cả mừng, vỗ tay reo lên: “Hay lắm! Hay lắm! Thế ta cũng đi.”.

A Bích nói: “Mình phải làm việc này cho sớm để đến Hà Nam cho kịp, kẻo công tử lại quay về, trên đường có khi lỡ dịp gặp nhau. Lại còn nhà sư Thổ Phồn không biết còn quấy phá gì bên nhà muội nữa không.” Bao Bất Đồng đáp: “Công Dã nhị tẩu đã sai người qua xem, gã hòa thượng đó đi rồi. Ngươi yên tâm, lần sau tam ca sẽ giúp người đánh gã trọc đó.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Tam ca đánh sao lại gã trọc, gã trọc không đánh tam ca đã là phúc cho tam ca lắm rồi”.

Bao Bất Đồng lại nói: “Chỉ ngại Vương cô nương mà đi theo chúng ta, lần sau Vương phu nhân gặp mình thế nào cũng mắng mỏ một chập..” Đột nhiên y quay lại nói với Đoàn Dự: “Ngươi cứ ngồi đây nghe chuyện của bọn ta, chán chết đi được. Họ Đoàn kia biến đâu thì biến đi, bọn ta nói chuyện riêng, ngươi đừng có vểnh tai chõ mồm vào làm gì. Bọn ta đi tỉ võ với người khác, cũng chẳng cần đến người đứng xem reo hò đâu.”

Đoàn Dự biết mình còn ngồi tiếp không khỏi bị coi rẻ, lúc này Bao Bất Đồng công nhiên xua đuổi, ăn nói cực kỳ xấc xược. Tuy chàng thật chẳng muốn rời xa Vương Ngữ Yên nhưng không mặt mũi nào ở lại, bèn nghiến răng đứng phắt dậy nói: “Vương cô nương, A Châu, A Bích hai vị cô nương, tại hạ xin cáo từ, sau này có dịp sẽ gặp lại.”

Vương Ngữ Yên nói: “Đêm hôm khuya khoắt, công tử đi đâu bây giờ? Thủy đạo trên Thái Hồ công tử lại không quen, chi bằng nghỉ lại qua đêm, sáng mai đi cũng không muộn.” Lời nàng thì lưu khách mà vẻ mặt lại lạnh tanh, hiển nhiên tâm hồn đã bay bổng đến bên Mộ Dung công tử, Đoàn Dự không khỏi bực dọc, càng thêm chán chường. Chàng là con vua cháu chúa, từ bé vốn được nuông chiều, gần đây tuy có chịu nhiều đau khổ giày vò nhưng chưa bao giờ bị ai đối xử lạnh nhạt đến thế, liền đáp ngay: “Hôm nay đi hay ngày mai đi thì cũng chẳng khác bao nhiêu, xin cáo từ.” A Châu nói: “Nếu đã thế, để tiểu tì cho người đưa công tử ra khỏi hồ.”

Đoàn Dự thấy A Châu cũng chẳng chèo kéo, càng thêm mất vui, nghĩ bụng: “Gã Mộ Dung công tử kia có cái gì ghê gớm mà sao ai cũng coi y như con phượng hoàng. Họ chẳng coi Thiếu Lâm Tự, Cái Bang, Tây Hạ Nhất Phẩm Đường vào đâu, chỉ mong sớm gặp được Mộ Dung công tử”. Chàng bèn đáp: “Chẳng cần phải thế, cô nương chỉ cần cho mượn một chiếc thuyền, một mái chèo, tại hạ tự kiếm đường ra.” A Bích trầm ngâm nói: “Công tử không quen đường thủy trong này, e rằng sẽ gặp rắc rối. Nhớ cẩn thận đừng để đụng đầu gã hòa thượng kia.” Đoàn Dự nổi khùng nói: “Các người cứ lo chuyện đi gặp Mộ Dung công tử đi. Ta mà đụng phải nhà sư kia, quá lắm thì cũng để cho y thiêu sống. Ta nào có phải biểu huynh biểu đệ, công tử thiếu gia gì của các người, hơi đâu mà lo?” Chàng nói xong hầm hầm đi ra ngoài cửa, còn nghe Bao Bất Đồng nói: “Nhà sư Thổ Phồn kia không biết lai lịch ra sao, cần phải tìm hiểu cho rõ ràng.” Vương Ngữ Yên đáp: “Chắc biểu huynh biết, chỉ cần gặp được y…”

A Châu và A Bích tiễn Đoàn Dự đi ra. A Bích nói: “Đoàn công tử, sau này công tử và công tử gia chúng tôi gặp nhau, không chừng sẽ thành đôi bạn tốt. Công tử chúng tôi thích kết bạn lắm.” Đoàn Dự cười nhạt nói: “Tại hạ không dám với cao đến thế.” A Bích nghe giọng chàng bực bội, liền lạ lùng hỏi lại: “Đoàn công tử, sao công tử có vẻ không vui? Hay là tại chúng tôi tiếp đãi quá sơ sài?” A Châu nói: “Bao tam ca chúng tôi tính vốn thế, xin công tử đừng để tâm làm chi. Tiểu nữ và A Bích muội tử xin lỗi vậy.” Nói xong cười hì hì cúi xuống hành lễ, A Bích cũng làm theo.

Đoàn Dự tạ lễ rồi đứng lên, rảo bước đến bờ nước, nhảy xuống chiếc thuyền con chèo thẳng ra giữa hồ. Chàng thấy nghèn nghẹn trong cổ, nhưng vì nguyên do gì thì chính mình cũng chưa hiểu, chỉ biết nếu còn trên bờ thêm một chốc nữa sẽ mất bình tĩnh, nước mắt tuôn rơi không chừng. Loáng thoáng có tiếng A Bích nói: “A Châu tỉ tỉ, quần áo lót của công tử đã đủ chưa? Đêm nay chị em mình mỗi người khâu thêm một cái, liệu có nên chăng?” A Châu đáp: “Nên lắm! Nhà ngươi quả là chu đáo”.

Hồi 14: Mỹ tửu chảy theo lục mạch – Đệ huynh uống đủ thiên bôi

Đoàn Dự đã từng bị phái Vô Lượng và bang Thần Nông hiếp đáp, bị Nam Hải Ngạc Thần cưỡng bách làm đồ đệ, bị thái tử Diên Khánh bỏ tù thực thi độc kế, bị Cưu Ma Trí bắt đi dọa thiêu sống, đến Mạn Đà Sơn Trang phải làm anh thợ trồng hoa, trải qua bao nhiêu giày vò lăng nhục. Nhưng từ trước đến nay chàng chưa có tâm trạng oán hận bực bội như vậy.

Nói đúng ra thì ở Thính Hương Thủy Tạ chẳng có một ai quá quắt. Bao Bất Đồng tuy đuổi chàng ra mặt, nhưng cũng không đến nỗi cạn tàu ráo máng như đánh Chư Bảo Côn gãy tay nát vai, hay như quảng Diêu Bá Đương lăn ra cửa. Vương Ngữ Yên mở lời bảo chàng ở lại thêm một đêm, còn A Châu, A Bích ân cần lễ độ tiễn chân. Vậy mà trong lòng chàng vẫn nặng trĩu nỗi thương thân.

Trên mặt hồ khuya, từng làn gió đưa mùi hương thoang thoảng của lá lăng lên mũi. Đoàn Dự ra sức chèo thuyền, không biết bực bội ai mới phải, cũng không biết vì sao mình bực bội. Trước kia Mộc Uyển Thanh, Nam Hải Ngạc Thần, thái tử Diên Khánh, Cưu Ma Trí, Vương phu nhân ai ai cũng làm cho chàng nhục nhã, khổ sở, điêu đứng mà chàng vẫn thản nhiên chịu đựng, chưa hề có những trận bão lòng như hôm nay. Trong thâm tâm chàng lờ mờ hiểu rằng chẳng qua vì mình đem lòng quyến luyến Vương Ngữ Yên, mà nàng lại không thèm đếm xỉa, đến cả A Châu A Bích cũng không để ý đến mình. Chàng từ bé đã được mọi người yêu quý nâng niu coi như vàng ngọc, từ hoàng đế, hoàng hậu nước Đại Lý trở xuống, chẳng ai dám coi thường. Kẻ địch ghê gớm hung ác như Nam Hải Ngạc Thần còn quyết tâm thu chàng làm đồ đệ. Cưu Ma Trí không ngại gian lao đem chàng từ Đại Lý đến Giang Nam, đối xử với chàng cũng có đôi phần kính trọng. Những thiếu nữ như Chung Linh, Mộc Uyển Thanh chỉ gặp chàng một vài lần là xiêu lòng.

Suốt đời, chàng chưa từng bị ai lạnh nhạt, khinh rẻ như thế, tuy người ta vẫn giữ lễ nhưng chẳng qua cũng chỉ bề ngoài. Trong bụng họ hẳn là coi Mộ Dung công tử trọng hơn chàng nhiều, trong mấy hôm vừa qua hễ có ai hơi nhắc đến hắn là những người chung quanh tíu tít cả lên, không ai không chú ý. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích, Bao Bất Đồng cho chí những người như Đặng đại gia, Công Dã nhị gia, Phong tứ gia chi chi đó, ai nấy dường như sống chỉ vì Mộ Dung Công tử mà thôi.

Đoàn Dự xưa nay chưa từng có cái tâm đố kỵ, ghen tức với ai. Lúc này một mình lênh đênh trên mặt hồ, chàng cứ tưởng như thấy bóng Mộ Dung công tử ở trên trời nhìn chàng cười nhạt, buông lời nhạo báng: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi chẳng bằng một sợi lông chân của ta! Ngươi tơ tưởng đến biểu muội ta có khác gì thân phận cóc nhái mà đòi ăn thịt ngỗng trời? Tự mi, mi có thấy thẹn không?”

Càng bực bội trong lòng, chàng khua mái chèo càng mạnh. Chèo thuyền hồi lâu, nội lực sung mãn dần dần phát ra hai cánh tay, lúc sau đã thấy thoải mái, bao nhiêu buồn phiền dần dần tiêu giảm. Lại chèo thêm chừng một giờ nữa, trời bắt đầu hừng sáng, Đoàn Dự ngẩng đầu nhìn về phương bắc, một ngọn núi cao chót vót nhô lên trong đám sương mù mờ mịt. Chàng liệu chừng Thịnh Hương Thủy Tạ và Cầm Vận Tiểu Trúc đều ở phía đông, nếu cứ nhắm hướng bắc mà bơi thì sẽ không quay về chỗ cũ. Có điều mỗi cái khua chèo là chàng cảm thấy tơ lòng thêm vướng vít. Thuyền tiến về phía bắc bao nhiêu thì lại xa người ngọc bấy nhiêu.

Đến giờ ngọ chàng đã chèo đến chân núi, lên bờ hỏi thăm thổ dân mới hay ngọn núi đó tên là Mã Tích, cách Vô Tích chẳng bao xa. Trong sách có nói đến Vô Tích từ thời Xuân Thu đã là một thành lớn nổi tiếng. Chàng bèn trở xuống thuyền, chèo tiếp lên hướng bắc, tới khoảng giờ thân thì đã đến Vô Tích.

Đoàn Dự vào thành, thấy người đi lại tấp nập, thật là một nơi phồn hoa đô hội, ở Đại Lý không nơi nào sánh bằng. Chàng đang thuận chân mà đi, chợt ngửi thấy mùi xào nấu thơm phức bay vào mũi. Chàng đã lâu không ăn uống gì, chèo thuyền mấy giờ liền bụng đã đói meo nên ngửi thấy mùi thức ăn mừng quá, liền rảo bước tìm đến, vừa tới ngã ba đường phố đã thấy một tòa tửu lầu cao ngất đứng sững ngay trước mặt. Cái biển ba chữ “Tùng Hạc Lâu” lâu ngày bị khỏi ám đen kịt nhưng chữ vàng vẫn còn lóng lánh. Mùi rượu thịt từ bên trong tiệm đưa ra, tiếng dao thớt rộn ràng lẫn tiếng tửu bảo gọi nhau huyên náo cả lên.

Chàng đi lên lầu, vừa ngồi xuống đã có hầu bàn chạy lại chào hỏi. Đoàn Dự gọi một hồ rượu, thêm bốn món nhắm, tựa lưng vào lan can uống một mình, lòng tràn đầy nỗi thê lương cô quạnh, bất giác buông một tiếng thở dài não ruột. Tiếng thở dài chưa dứt, một đại hán ngồi đầu mé tây, đôi mắt sáng như điện, quay lại nhìn chàng hai lần. Đoàn Dự cũng nhìn lại, thấy người đó thân thể thật là cao lớn, tuổi chừng trên dưới ba mươi, mặc áo vải màu tro cũ kỹ đã sờn rách, khuôn mặt vuông vức hình chữ quốc, tướng mạo tuy không tuấn tú nhưng oai phong lẫm liệt,

Đoàn Dự trong bụng tấm tắc khen thầm: “Quả là một đại hán hiên ngang, có lẽ là một tráng sĩ đất Yên Triệu nơi miền bắc, chứ Giang Nam hay Đại Lý quyết không có nhân vật thế này. Bao Bất Đồng tự mình huênh hoang anh khí ngất trời nhưng phải người như thế này mới xứng đáng bốn chữ đó.” Trên bàn đại hán đó để một bát thịt bò, một bát canh và hai hồ rượu lớn, ngoài ra không còn gì khác. Thấy thế đủ biết y ăn uống cũng cực kỳ sảng khoái không câu nệ.

Đại hán đó nhìn Đoàn Dự mấy bận rồi quay đầu đi, tiếp tục ăn uống. Đoàn Dự đang thấy tịch mịch nên có ý muốn làm quen, liền gọi tửu bảo tới, trỏ vào lưng người kia nói: “Tiền ăn uống của quý khách đây tính luôn vào cho ta.”

Đại hán nghe chàng nói thế quay lại mỉm cười gật đầu nhưng không nói gì. Đoàn Dự muốn nói chuyện đôi câu cho khuây khỏa, nhưng thấy không tiện nên lại thôi.

Chàng uống thêm ba chén nữa, bỗng nghe thấy tiếng bước chân ở cầu thang, có hai người đi lên. Một người khập khiễng, phải chống gậy nhưng đi đứng nhanh nhẹn, còn người thứ hai là một ông già mặt mày thiểu não. Hai người đó đi đến bàn của đại hán nọ kính cẩn cúi chào, y chỉ gật đầu chứ không đứng lên hoàn lễ.

Người què chân nói khẽ: “Bẩm đại ca, đối phương hẹn sáng sớm ngày mai gặp mình tại lương đình trên núi Huệ Sơn.” Đại hán gật đầu, hỏi: “Như thế có gấp quá chăng?” Lão già đáp: “Huynh đệ đã nói với bọn chúng để sau ba ngày nữa. Song dường như đối phương biết bọn ta chưa đông đủ, ra điều chế nhạo nói là nếu không dám phó hội thì đêm nay không đến cũng chẳng sao.” Đại hán nói: “Được rồi. Người truyền ra cho tất cả anh em canh ba hôm nay tề tựu tại Huệ Sơn. Chúng ta đến trước để đợi đối phương.” Hai người cung kính vâng lời, trở gót xuống lầu.

Ba người nói chuyện với nhau rất khẽ, những khách ngồi ăn trên lầu không ai nghe tiếng. Nhưng Đoàn Dự nội lực sung mãn, mắt tinh tai thính, không cố ý nghe lỏm chuyện người mà câu nào câu nấy vào tai rõ mồn một.

Đại hán kia không hiểu cố ý hay vô tình lại liếc mắt nhìn Đoàn Dự, giữa lúc chàng cúi đầu trầm tư hiển nhiên có nghe câu chuyện của mình, đột nhiên đôi mắt sáng lóe lên, hừ một tiếng. Đoàn Dự thất kinh, tay run bần bật đánh rớt ly rượu xuống đất vỡ tan tành. Đại hán mỉm cười, hỏi: “Huynh đài có việc gì mà kinh hoảng thế? Xin mời lại đây đồng ẩm cho vui.”

Đoàn Dự cười nói: “Hay lắm! Hay lắm!” Chàng sai hầu bàn dọn chén bát qua bàn của người kia rồi hỏi tính danh. Đại hán kia mỉm cười: “Đã biết rồi mà còn hỏi làm chi? Chúng ta không câu nệ hình thức, cứ việc cùng nhau ăn uống no say, há chẳng hào hứng hơn không? Đến khi chia ra thành ta và địch đâm ra mất thú đi.” Đoàn Dự đáp: “Chắc huynh đài nhận lầm người nên tưởng tại hạ là kẻ địch. Thế nhưng mấy chữ Không Câu Nệ Hình Thức làm cho tiểu đệ thích thú vô cùng. Xin mời, xin mời!” Chàng cầm chén lên nốc một hơi cạn sạch.

Đại hán mỉm cười nói: “Huynh đài quả là sảng khoái, có điều cái chén đó bé quá.” Y cất tiếng gọi: “Tửu bảo, lấy ra đây hai cái bát lớn, thêm mười cân rượu hảo hạng.” Tin tửu bảo và Đoàn Dự nghe gọi đều giật nảy mình. Tửu bảo cười hỏi lại: “Đại gia! Những mười cân rượu thì làm sao uống hết?” Đại hán chỉ vào Đoàn Dự nói: “Vị công tử này mời khách, ngươi việc gì phải tiết kiệm giùm y? Mười cân chưa chắc đã đủ, lấy hai chục cân.” Tửu bảo cười đáp: “Vâng! Vâng!” Chẳng mấy chốc y mang ra hai cái tô và một hũ rượu để lên bàn.

Đại hán bảo: “Rót đầy hai tô cho ta.” Tửu bảo vâng lời rót ra. Đoàn Dự nghe hơi rượu nồng nặc xông lên mũi, chàng có vẻ khó chịu. Khi chàng ở Đại Lý thỉnh thoảng mới uống vài ly để trợ thi hứng, bây giờ thấy uống rượu bằng tô bất giác chau mày. Đại hán vừa cười vừa hỏi: “Chúng ta hãy đối ẩm mười bát rồi có gì tính sau, được chăng?”

Đoàn Dự nhìn thấy đôi mắt đại hán đầy vẻ giễu cợt khinh nhờn. Giá như vào lúc bình thường, chàng ắt hẳn sẽ cung kính từ chối, thú thực là tửu lượng không bằng ai, thế nhưng tối hôm qua ở Thính Hương Thủy Tạ bị người ta rẻ rúng đã nhiều, liền nghĩ thầm: “Gã này hẳn cùng một bọn với Mộ Dung công tử, không là Đặng đại gia, Công Dã nhị gia thì cũng là Phong tứ gia chi chi đó. Bọn chúng đã ước hẹn đấu võ tại Huệ Sơn, kẻ địch nếu không là Cái Bang thì cũng là Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ. Hừ, Mộ Dung công tử thì đã là gì? Ta quyết không để cho thủ hạ y khinh miệt, quá lắm say chết là cùng, có gì là ghê gớm đâu?” Chàng nghĩ thế nên ngồi thẳng người lên, đáp: “Tại hạ đành liều mạng để bồi tiếp quân tử, nếu vì quá say mà khiếm lễ mong huynh đài đừng trách.” Nói xong bưng tô rượu lên, uống ừng ực một hơi cạn sạch. Chàng uống tô rượu này chẳng qua chỉ vì tức khí, tuy không có Vương Ngữ Yên ngồi bên cạnh nhưng chẳng khác nào uống để tỏ cho nàng biết nếu mình có cạnh tranh với Mộ Dung Phục cũng không chịu thua đâu. Đừng nói đây chỉ là một tô rượu mạnh, mà nếu là một tô thuốc độc chắc chàng cũng uống không thèm nghĩ.

Đại hán kia thấy chàng uống một cách hào sảng như vậy thật không ngờ, liền cười ha hả khen rằng: “Thật là sảng khoái!” Y cũng bưng tô của mình lên ngửa cổ uống cạn rồi lại trót đầy hai tô khác. Đoàn Dự cười nói: “Rượu ngon lắm!” Chàng hít một hơi rồi lại bưng tô lên uống hết. Đại hán uống hết ngay tô thứ hai, lại rót hai tô nữa. Mỗi tô đó phải đến nửa cân, Đoàn Dự uống một cân rượu mạnh vào bụng rồi, trong bụng tưởng như có lửa đốt bừng bừng, đầu óc choáng váng quay cuồng nhưng vẫn nghĩ bụng: “Mộ Dung Phục thì đã là gì? Chắc gì hơn được ai? Ta lẽ nào lại thua thủ hạ của hắn?”. Chàng lại uống một hơi hết sạch tô thứ ba. Đại hán kia thấy chàng uống hai tô đã có vẻ say, thì cười thầm trong bụng, biết tên đồ gàn này uống tô thứ ba vào là phải ngã quay xuống đất.

Đoàn Dự chưa uống tô thứ ba đã thấy trong người nôn nao khó chịu muốn nôn ra, đến lúc thêm nửa cân rượu trắng nữa vào bụng, ngũ tạng lục phủ tựa hồ như đảo lộn cả lên. Chàng cố gắng mím môi, không để cho rượu trong bụng ọc ra. Đột nhiên chàng cảm thấy huyệt Đan Điền rung động, một luồng chân khí xông lên, chạy lung tung khắp nơi trong người y như cái ngày mà chàng chưa biết thu nạp chân khí vào chỗ chứa. Chàng vội chiếu theo phương pháp của bá phụ truyền thụ cho, quy nạp chân khí vào huyệt Đại Truy. Hơi rượu trong cơ thể bốc lên, trộn với chân khí, rượu vốn là vật hữu hình hữu chất nên không chịu nằm yên trong khí hải, chàng đành để nó chảy tự nhiên từ huyệt Thiên Tông sang huyệt Kiên Trinh rồi theo các huyệt Tiểu Hải, Chi Chính, Dưỡng Lão nơi cánh tay trái xuống đến các huyệt Dương Cốc, Hậu Khoát, Tiền Cốc nơi bàn tay rồi theo huyệt Thiếu Trạch ở ngón tay út tiết ra ngoài. Lúc này chân khí đi theo đường lối giống như Thiếu Trạch Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm. Thiếu Trạch Kiếm vốn là một luồng kiếm khí vô hình, nhưng lúc này nơi ngón tay út của chàng lại có rượu chảy ri rỉ ra ngoài.

Lúc đầu Đoàn Dự chưa nhận ra nhưng chẳng bao lâu, đầu óc thấy tỉnh táo trở lại, khám phá ra rượu theo ngón tay út mà ra ngoài liền kêu thầm: “Tuyệt diệu!” Chàng để thõng tay trái, đại hán kia nào có để ý, chỉ thấy Đoàn Dự vừa sắp say mèm, chỉ một loáng lại tỉnh táo, không khỏi lạ lùng cười nói: “Tửu lượng của huynh đài quả không phải kém!” Y lại rót thêm hai tô nữa.

Đoàn Dự cười nói: “Tửu lượng của tiểu đệ cũng tùy theo bạn đồng ẩm mà thay đổi. Người ta thường nói rằng: Tửu phòng tri kỷ thiên bôi thiểu. Cái tô này chắc cũng độ hai chục chén, một nghìn ly thì phải năm chục tô mới đủ, tiểu đệ xem ra uống không nổi năm chục tô đâu.” Chàng nói xong lại bưng bát nữa lên uống. Tay trái chàng gác lên lan can, rượu từ ngón út tiết ra theo bờ lan can chảy xuống dưới chân tường, thế thì còn trời nào biết được, nên không bị lộ tẩy. Chẳng mấy chốc, bốn tô rượu lớn uống vào đều theo kinh mạch chảy ra hết, trong người chàng không còn chút hơi men nào.

Đại hán kia thấy Đoàn Dự uống hết bốn tô rượu mà người vẫn như không, rất là vui vẻ nói: “Phải lắm! Phải lắm! Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, tại hạ cạn trước để kính huynh đài.” Gã tự rót hai tô rượu, uống luôn một lúc. Đoạn, y lại rót cho Đoàn Dự hai tô. Đoàn Dự thản nhiên bưng hai tô rượu lên uống cạn, thái độ tiêu sái chẳng khác gì người ta uống trà.

Chuyện hai người đấu rượu đã làm kinh động tất cả tửu khách lầu trên lầu dưới của Tùng Hạc Lâu, ngay cả đầu bếp, phụ bếp cũng chạy lên lầu xúm quanh mà xem.

Đại hán kia lại gọi: “Tửu bảo! Lấy thêm hai mươi cân rượu nữa ra đây!” Tên tửu bảo lắc đầu lè lưỡi nhưng động tính hiếu kỳ không ngăn trở gì nữa, chạy vào lấy hũ rượu. Hai người không ai chịu kém ai, chỉ chừng một bữa cơm, mỗi người đã uống ba chục tô rượu lớn rồi.

Đoàn Dự biết rằng mình dùng ngón tay làm trò ma mãnh tiết được rượu ra ngoài, tửu lượng có thể nói là vô cùng vô tận, còn đại hán kia mới là bản lãnh chân thực, thấy y uống liên tiếp hơn ba mươi bát mà mặt không đổi sắc cũng không có vẻ gì say sưa, trong lòng hết sức bội phục. Lúc đầu chàng nghĩ y là bè lũ Mộ Dung công tử nên có ý đối địch, đến lúc này thấy y đầy vẻ hào sảng, anh phong nên nổi lòng yêu mến nghĩ bụng: “Nếu cứ như thế này mà uống thì phần thắng chắc chắn về mình. Nhưng để gã uống nhiều quá không khỏi tổn hại đến thân thể”. Đến khi uống tới bát thứ bốn mươi, chàng bèn nói: “Nhân huynh! Mỗi người chúng ta đã uống đến bốn chục bát rồi.”

Đại hán kia cười nói: “Huynh đài đầu óc còn tỉnh táo lắm, nhớ được số mục đâu ra đấy.” Đoàn Dự cũng cười: “Hai ta kỳ phùng địch thủ, gặp gỡ nơi đây quả là có duyên, nếu uống đến phân thắng bại e rằng không phải dễ. Thôi mình uống đến đây thôi, chẳng giấu gì nhân huynh, trong người tiểu đệ cũng không có nhiều tiền.” Nói xong bèn móc trong bọc ra một cái túi gấm quẳng lên bàn, chỉ nghe đánh “xạch” một tiếng nho nhỏ, đủ tỏ hầu bao của chàng thật vô cùng khiêm tốn. Nguyên lúc Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí bắt từ Đại Lý đến đây không đem tiền bạc theo nhiều. Cái túi gấm kết bằng tơ vàng chỉ bạc, thoáng trông cũng biết là vật quí, nhưng tiếc rằng lép kẹp. Đại hán thấy vậy cười ha hả, y móc trong người ra một đĩnh bạc vứt lên bàn, nắm tay Đoàn Dự nói: “Chúng ta đi thôi!”

Đoàn Dự cả mừng. Khi chàng còn ở Đại Lý đứng vào địa vị hoàng tử cao sang, khó mà tìm được người bạn chân thành. Nay đã không lấy văn tài, lại không dùng võ nghệ, chỉ lấy tửu lượng kết giao với một tráng sĩ hào sảng, kể ra cũng là một chuyện ly kỳ.

Hai người xuống dưới lầu, đại hán kia đi mỗi lúc một nhanh, ra khỏi thành liền rảo bước, cứ vùn vụt theo đường lớn thẳng tiến. Đoàn Dự nín thở đi bên cạnh gã. Tuy chàng không biết võ công nhưng nội lực có thừa, đi nhanh như vậy mà không thở mạnh chút nào. Đại hán đưa mắt nhìn chàng rồi mỉm cười, nói: “Được lắm, mình tỉ thí cước lực xem sao.” Nói rồi y liền ra sức chạy thật nhanh.

Đoàn Dự theo được ba bước đã lảo đảo suýt ngã. Chàng nghiêng người đi nửa bước gượng lại được, bước chân ngẫu nhiên đúng pháp Lăng Ba Vi Bộ. Đoàn Dự vì vô ý đặt chân đúng bộ pháp mà vọt lên được mấy thước, trong bụng mừng thầm, cứ thế áp dụng Lăng Ba Vi Bộ đuổi kịp đại hán kia. Hai người lại cùng nhau chạy, chỉ thấy gió thổi vù vù, cây cối hai bên đường vùn vụt chạy về phía sau.

Khi Đoàn Dự học Lăng Ba Vi Bộ, chàng tuyệt nhiên không nghĩ đến chuyện cùng người chạy thi. Lúc này chân chàng chẳng khác chi mũi tên đặt trên cung, không thể không bắn ra được, cứ thế mà bước, tuyệt không nghĩ đến chuyện thắng thua. Trong mình lại có nội lực cực kỳ hùng hậu, chàng chỉ chuyên tâm chú ý mà chạy cho đúng bộ pháp đã học trong sơn động, còn đại hán đang ở trước mặt hay sau lưng cũng không để ý nữa.

Đại hán kia sải những bước thật dài, càng lúc càng mau, trong khoảnh khắc đã bỏ xa Đoàn Dự. Thế nhưng y chỉ chậm lại một chút để lấy hơi thì Đoàn Dự đã đuổi tới sau lưng rồi. Đại hán liếc mắt nhìn chàng, thấy thân hình nhẹ nhõm chân bước ung dung, tựa như người đi dạo trong sân, không hề hấp tấp. Y càng xem càng lấy làm kỳ dị, trong lòng thầm phục, ra sức chạy nhanh thêm mấy bước thì lại bỏ chàng tụt lại phía sau. Thử như thế mấy lần, đại hán kia biết Đoàn Dự cực kỳ dai sức, xem ra còn hơn cả mình. Giả tỷ mà chỉ chạy vài dặm thì gã thắng chàng một cách dễ dàng, nhưng nếu chạy đến vài chục dặm thì chuyện hơn thua chưa biết về ai, nếu chạy đến ngoài trăm dặm thì bại là cái chắc. Y cười ha hả đứng lại nói: “Mộ Dung công tử, hôm nay Kiều Phong này chịu phục công tử rồi. Cô Tô Mộ Dung quả nhiên danh bất hư truyền.”

Đoàn Dự đang đà chạy vọt lên, nghe thế vội vàng quay lại, thấy y gọi mình là Mộ Dung công tử vội nói: “Tiểu đệ họ Đoàn tên Dự, nhân huynh nhận lầm rồi.” Đại hán kia thần sắc kinh ngạc hỏi lại: “Sao? Huynh đài… không phải Mộ Dung Phục công tử ư?” Đoàn Dự mỉm cười, đáp: “Tiểu đệ đến Giang Nam, ngày nào cũng được nghe đại danh Mộ Dung công tử, trong lòng rất là ngưỡng mộ nhưng tới nay vẫn chưa có duyên bái kiến.” Chàng trong bụng nghĩ thầm: “Hán tử này nhận lầm ta là Mộ Dung Phục, thì ra y không phải bè lũ nhà Mộ Dung”. Nghĩ vậy, chàng đối với đại hán càng thêm phần thiện cảm, bèn hỏi: “Dường như vừa rồi nhân huynh tự giới thiệu họ Kiều tên Phong phải không?”

Người kia vẫn chưa hết vẻ kinh ngạc, nói: “Chính thế, tại hạ là Kiều Phong.” Đoàn Dự nói: “Tiểu đệ là người Đại Lý, mới đến Giang Nam lần đầu đã được biết đến một nhân vật anh hùng như Kiều huynh thực là đại hạnh.” Kiều Phong trầm ngâm nói: “Ồ thì ra huynh đài là con cháu họ Đoàn Đại Lý, thảo nào, thảo nào! Đoàn huynh đến Giang Nam có chuyện gì vậy?” Đoàn Dự đáp: “Nói ra thật là hổ thẹn, tiểu đệ bị người ta bắt đến đây.” Chàng đem chuyện vì sao bị Cưu Ma Trí bắt được, rồi gặp hai cô a hoàn của Mộ Dung Phục thế nào sơ lược kể qua. Tuy chàng kể tóm tắt một câu chuyện dài nhưng không giấu diếm nào, dù là những tật xấu của mình cũng không che đậy.

Kiều Phong nghe xong, vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói: “Đoàn huynh quả là người sảng khoái chính trực, bình sinh trong đời mỗ chưa từng gặp qua. Ta với huynh đài một lần gặp gỡ như quen đã lâu, mình kết thành huynh đệ kim lan có được không?” Đoàn Dự cả mừng nói: “Tiểu đệ chỉ cầu được vậy thôi.” Hai người so tuổi tác, Kiều Phong lớn hơn Đoàn Dự mười một tuổi dĩ nhiên làm anh. Sau đó hai người nặn đất thành hương, lạy trời tám lạy kêu đệ gọi huynh vui mừng khôn xiết.

Đoàn Dự nói: “Tiểu đệ nơi Tùng Hạc Lâu, trộm nghe đại ca tối nay có ước hẹn với kẻ địch. Tiểu đệ tuy không biết võ công nhưng cũng muốn đến xem trò náo nhiệt, đại ca có cho phép không?”

Kiều Phong tra hỏi chàng mấy câu mới hay quả nhiên Đoàn Dự không biết võ công, lại càng rất lấy làm kỳ, nói: “Hiền đệ có nội lực hùng hậu như thế mà muốn học võ công thượng thừa thật dễ như lấy đồ trong túi, chẳng khó khăn gì cả. Hiền đệ muốn đi xem cuộc đấu đêm nay cũng được, chỉ e rằng địch nhân ra tay tàn độc âm hiểm, tuyệt nhiên chớ nên ra mặt.” Đoàn Dự vui mừng nói: “Tiểu đệ xin tuân lời đại ca.” Kiều Phong cười nói: “Bay giờ hãy còn sớm, anh em ta lại trở về thành Vô Tích uống rượu lúc nữa đã rồi hãy lên Huệ Sơn cũng vừa.”

Đoàn Dự nghe y đòi uống rượu nữa, không khỏi hoảng hồn, nghĩ thầm: “Mới uống bốn chục bát rồi, mới một chốc đã đòi uống thêm sao?”. Chàng bèn thú thật: “Đại ca, lúc tiểu đệ cùng đại ca uống thi, thực ra có giở trò bịp bợm, xin đại ca miễn trách.” Chàng nói rõ mình đã dùng nội lực dồn rượu chảy ra huyệt Thiếu Trạch ở ngón tay út như thế nào, Kiều Phong kinh hoảng nói: “Phải chăng đó là… đó là kỳ công Lục Mạch Thần Kiếm?” Đoàn Dự đáp: “Chính thị, tiểu đệ mới học chưa lâu, còn sơ sài lắm.”

Kiều Phong ngẩn người ra một hồi, thở dài nói: “Ta từng nghe gia sư nói qua, võ lâm tương truyền họ Đoàn Đại Lý có môn công phu Lục Mạch Thần Kiếm có thể dùng kiếm khí vô hình giết người, không biết thực hay hư. Thì ra quả có môn thần công đó.” Đoàn Dự nói: “Thực ra môn công phu đó của tiểu đệ ngoài việc dùng để bịp đại ca khi uống rượu ra chẳng được tích sự gì. Khi tiểu đệ bị nhà sư Cưu Ma Trí bắt giữ, không cách nào chống trả. Người đời ca tụng môn Lục Mạch Thần Kiếm này quá đáng, thực ra chẳng được như vậy đâu. Đại ca ơi! Rượu rất hại người, nên uống ít đi là hơn. Hôm nay uống nhiều quá rồi, xin miễn đi thôi.”

Kiều Phong cười ha hả nói: “Hiền đệ khuyên như vậy là phải lắm. Có điều ngu huynh khỏe như voi, từ bé đã thích uống rượu, càng uống tinh thần càng sáng khoái. Đêm nay gặp đại địch, lại càng cần uống nhiều rượu đánh nhau mới hứng.” Hai người vừa nói vừa quay lại thành Vô Tích, nhưng lần này đi thong thả chứ không chạy đua nữa.

Đoàn Dự vui mừng có được một người bạn tốt, trong lòng cực kỳ sung sướng, thế nhưng vẫn không quên được chuyện Mộ Dung Phục và Vương Ngữ Yên. Chàng nói chuyện gẫu mấy câu lại nhịn không nổi hỏi: “Đại ca ơi! Lúc đầu đại ca trông nhầm tiểu đệ ra Mộ Dung Công tử, phải chăng tiểu đệ có điểm nào giống hắn ta ư?” Kiều Phong đáp: “Ta đã từng nghe đại danh của nhà Mộ Dung đất Cô Tô, lần này đến Giang Nam cũng là vì y mà đến. Nghe nói Mộ Dung Phục nho nhã anh tuấn, tuổi chừng hăm tám hăm chín, số ra còn lớn hơn hiền đệ vài tuổi. Nhưng ta cứ tưởng ở Giang Nam ngoài Mộ Dung Phục chẳng còn thanh niên công tử nào dung mạo tuấn nhã, võ công cao cường như thế nên mới nhận lầm, quả là đáng hổ thẹn.”

Đoàn Dự nghe Kiều Phong nói Mộ Dung Phục võ nghệ cao cường, dung mạo tuấn nhã thì chua xót trong lòng, lại hỏi thêm: “Đại ca từ xa đến kiếm y cốt để kết giao bằng hữu chăng?”. Kiều Phong thở dài một tiếng, vẻ mặt buồn bã lắc đầu: “Ta vẫn hằng mong được kết giao với một người bạn như thế nhưng khó lòng được như nguyện.” Đoàn Dự hỏi thêm: “Sao vậy?” Kiều Phong đáp: “Ta có một người bạn chí thân, hai tháng trước đây bị giết, ai cũng bảo là Mộ Dung Phục hạ độc thủ.” Đoàn Dự thảng thốt kêu lên: “Gậy ông đập lưng ông ư?” Kiều Phong đáp: “Đúng thế. Người bạn đó bị một vết tử thương, chính là do tuyệt kỹ thành danh của y.” Tới đây Kiều Phong nghẹn ngào, sắc mặt cực kỳ đau xót, ngừng lại một chút nói tiếp: “Nhưng trên chốn giang hồ có biết bao điều bí ẩn khôn lường, không thể căn cứ vào tin đồn mà khăng khăng coi y là có tội. Ngu huynh đến Giang Nam chính là để điều tra cho rõ.” Đoàn Dự hỏi: “Thế sự thực ra sao?” Kiều Phong lắc đầu nói: “Cái đó cũng thật là khó nói. Bạn ta thành danh đã lâu, là người ngay thẳng khiêm hòa, xưa nay hành sự cực kỳ cẩn trọng, không lẽ tự nhiên vô cớ xúc phạm Mộ Dung công tử. Chẳng biết vì sao y lại bị ám toán, thực khó hiểu quá.”

Đoàn Dự gật đầu nghĩ thầm: “Đại ca bề ngoài thô hào nhưng trong lòng thực là tinh tế, không phải như bọn Hoắc tiên sinh, Quá Ngạn Chi, Tư Mã Lâm chưa điều tra rõ đã nhất mực cho rằng Mộ Dung công tử là hung thủ.” Chàng lại hỏi thêm: “Đêm nay đại ca ước hội với bọn cường địch nào?” Kiều Phong đáp: “Đó là…” Mới nói được hai tiếng, đã thấy trên đường lớn có hai người áo quần rách rưới như kẻ ăn mày chạy tới. Kiều Phong vội vàng ngừng lại, hai người đó thi triển khinh công chỉ nháy mắt đã tới trước mặt, cùng khom lưng, một người nói: “Bẩm bang chủ, có bốn người xông vào Đại Nghĩa phân đà, thân thủ có vẻ khá lắm, Tưởng đà chủ thấy bọn họ xem chừng bất thiện, ngại rằng chống đỡ không nổi nên sai thuộc hạ đi mời Đại nhân phân đà đến tiếp viện.”

Đoàn Dự nghe hai người kia gọi Kiều Phong là “bang chủ”, thần thái cực kỳ cung kính, nghĩ thầm: “Thì ra đại ca ta là chủ một bang hội gì đó”.

Kiều Phong gật đầu hỏi: “Bọn kia là người như thế nào?” Một người đáp: “Trong đám này có ba thiếu nữ và một gã đứng tuổi cao nghều, gầy nhom, cực kỳ ngang tàng vô lễ.” Kiều Phong hừ một tiếng nói: “Đối phương chỉ có một người, không lẽ Tưởng đà chủ không đối phó nổi ư?” Hán tử đáp: “Bẩm bang chủ, ba thiếu nữ kia xem chừng cũng biết võ công.” Kiều Phong bật cười nói: “Hay nhỉ, để ta đến xem sao”. Hai người kia lộ vẻ vui mừng, cùng đáp “Vâng” rồi thõng tay lui ra sau lưng Kiều Phong. Kiều Phong quay sang nói với Đoàn Dự: “Hiền đệ có đi với ta không?” Đoàn Dự đáp: “Dĩ nhiên là tiểu đệ đi với đại ca.”

Hai người kia đi trước dẫn đường, chừng hơn dặm thì rẽ sang mé tả, đường bờ ruộng khúc khuỷu quanh co, chỗ này là miền ruộng đất phì nhiêu, trên bến dưới thuyền. Đi được mấy dặm nữa qua một khu rừng hạnh, nghe từ trong vọng ra một giọng nói cổ quái: “Mộ Dung huynh đệ của ta đi lên Lạc Dương để gặp bang chủ các ngươi. Vậy mà bọn Cái Bang các ngươi lại xuống cả Vô Tích này, phải chăng cố ý lánh mặt? Bọn ngươi hèn nhát chẳng kể làm chi, nhưng để Mộ Dung công tử phải phí một chuyến đi thì các ngươi nghĩ sao? Không được, thế là không được!” .

Đoàn Dự vừa nghe giọng nói tim đã đập thình thình, đó chính là cái gã Bao tam tiên sinh lúc nào cũng lèm bèm “Sai bét, sai bét” nên nghĩ thầm: “Vương cô nương có đi cùng với y chăng? Chẳng phải có ba thiếu nữ là gì?”.Chàng lại nghĩ: “Cái Bang là đại bang số một trong thiên hạ, không lẽ hôm nay mình đã bái kết cùng bang chủ của họ hay sao?”.

Chỉ nghe một người nói giọng phương bắc lớn tiếng đáp: “Mộ Dung công tử có hẹn trước với Kiều bang chủ của tệ bang không?” Bao tam tiên sinh nói: “Hẹn hay không hẹn thì cũng thế. Mộ Dung công tử đã đến Lạc Dương thì bang chủ Cái Bang không được tự tiện đi đâu cả, để công tử khỏi mất công. Không được, thế là không được!” Người kia lại hỏi: “Mộ Dung công tử không ước hẹn, thế có đưa thiếp sang trước không?” Bao tam tiên sinh đáp: “Làm sao ta biết? Ta có phải là Mộ Dung công tử đâu, cũng có phải là bang chủ Cái Bang đâu, làm sao biết được? Ngươi hỏi câu ấy thật là ngu quá, không được, thế là không được!”

Kiều Phong nghe vậy sầm mặt xuống, tiến vào trong rừng. Đoàn Dự đi theo sau, thấy trong rừng hạnh hai bên đang đối diện nhau, đằng sau Bao tam tiên sinh có ba cô gái, Đoàn Dự vừa nhìn thấy một nàng mắt liền dán chặt vào không sao rời ra được nữa.

Người con gái đó dĩ nhiên là Vương Ngữ Yên, nàng cũng ngạc nhiên, khẽ hỏi: “Ngươi cũng đến đây à ?” Đoàn Dự đáp: “Tôi cũng đến.” Rồi cứ ngây người ra mà nhìn nàng. Vương Ngữ Yên hai má ửng hồng, ngoảnh mặt đi nơi khác, nghĩ bụng: “Gã này cứ trân trân nhìn mình, thực là vô lễ”. Nhưng nàng đã biết Đoàn Dự ngưỡng mộ nhan sắc mình, trong lòng lại thấy sung sướng chứ không bực bội.

Đối diện với Bao Bất Đồng là một đám ăn mày quần áo lam lũ, người đứng trước thấy Kiều Phong đến lập tức vui mừng chạy ra nghênh tiếp, bang chúng Cái Bang đứng ở sau y cùng khom lưng hành lễ, lớn tiếng nói: “Thuộc hạ tham kiến bang chủ.” Kiều Phong ôm quyền đáp: “Các anh em khỏe chứ?” Bao tam tiên sinh thấy thế lập tức sắc mặt khẩn trương, hỏi: “Vị này có phải Kiều bang chúa ở Cái Bang không? Chắc đã biết Bao Bất Đồng này rồi chứ?” Kiều Phong đáp: “Thì ra là Bao tam tiên sinh. Tại hạ bấy lâu vẫn hâm mộ anh danh, bữa nay được gặp mặt thật là hân hạnh.” Bao Bất Đồng đáp: “Sai bét, sai bét! Trên giang hồ ta làm gì có anh danh, xú danh thì chắc có. Ai mà chẳng biết Bao Bất Đồng đi đâu cũng gây gổ với người ta, mở mồm là thành chuyện. Ha ha! Kiều bang chủ, ngươi tự tiện tới Giang Nam, thế là có lỗi đấy nhé.”

Cái Bang là bang hội lớn nhất thiên hạ, địa vị bang chủ cực kỳ tôn qúi, bang chúng kính ngưỡng như thần minh. Mọi người thấy Bao Bất Đồng vô lễ với bang chủ như thế, vừa mở mồm đã trách móc, không ai là không phẫn nộ. Sáu bảy người đứng sau lưng Đại Nghĩa phân đà Tưởng đà chủ, kẻ nắm chuôi đao, người cung tay lấy thế như toan bước ra động thủ ngay.

Kiều Phong chỉ thản nhiên hỏi lại: “Tại hạ có lỗi chỗ nào, xin Bao tam tiên sinh chỉ giáo.” Bao Bất Đồng đáp: “Mộ Dung công tử nhà ta biết Kiều bang chủ là một nhân vật đáng kể, biết Cái Bang có ít nhiều nhân tài, vì thế mà đi Lạc Dương phó hội cùng các hạ. Sao bang chủ lại tự ý xuống Giang Nam tìm lạc thú? Ha ha, không được, thế là không được!”

Kiều Phong cười nửa miệng, nói: “Mộ Dung công tử đến tệ bang ở Lạc Dương, nếu tại hạ biết tin trước nhất định phải ở nhà nghênh tiếp. Vì không biết trước nên thất nghinh, xin có lời tạ lỗi.” Nói xong ôm quyền với chào.

Đoàn Dự trong bụng khen thầm: “Mấy câu đó của đại ca thật là lễ độ, quả nhiên xứng đáng làm chúa tể một bang, chứ nếu như nổi giận với Bao Bất Đồng thì thật mất thân phận.”

Nào ngờ Bao Bất Đồng lại gật đầu, đáp: “Cái tội thất nghinh đành là phải có lời tạ lỗi. Tuy người ta thường nói rằng không biết là không có tội, nhưng muốn phạt muốn đánh hay không là quyền của người ta.” Y đang dương dương tự đắc, bỗng nghe từ trong rừng hạnh có mấy người cười ồ lên vang động cả không gian. Có người vừa cười vừa nói: “Thường nghe Bao Bất Đồng đất Giang Nam hay đánh rắm chó, quả nhiên danh bất hư truyền.” Bao Bất Đồng đáp lại:“Ta vẫn thường nghe rắm kêu thì không thối, rắm thối thì không kêu, thế nhưng loại rắm chó vừa thối vừa kêu như của Cái Bang lục lão quả nhiên danh bất hư truyền.”

Trong rừng hạnh có người đáp: “Bao Bất Đồng đã nghe danh Cái Bang lục lão, sao còn dám đứng đây nói nhăng nói cuội?” Lời vừa dứt, từ trong rừng hạnh bước ra bốn ông già, người thì râu tóc trắng xóa, người thì mặt mũi hồng hào. Trong tay bốn người đều cầm binh khí, chia ra bốn góc vây bọn Bao Bất Đồng, Vương Ngữ Yên lại.

Lẽ dĩ nhiên Bao Bất Đồng đã biết Cái Bang là đệ nhất bang hội trong thiên hạ, trong bang cao thủ nhiều vô số kể, Cái Bang lục lão danh cao trọng vọng. Dù y tính khí cao ngạo, từ bé đã không sợ trời sợ đất, mà bây giờ thấy bốn trong sáu người của Cái Bang lục lão ra mặt vây quanh cũng kêu khổ thầm: “Nát bét ôi là nát bét! Phen này thì tiếng tăm Bao tam tiên sinh tất phải đi đời!”. Thế nhưng mặt y không lộ vẻ gì sợ hãi, chỉ nói: “Bốn lão già kia muốn gì, tính cùng Bao tam tiên sinh này đánh nhau một trận hay sao? Sao bốn lão không xông lên một lượt, thập thò lén lút ở một bên, toan ám toán hả? Hay lắm, hay lắm, thật là hay! Bao tam tiên sinh thích nhất là đánh nhau.”

Bỗng từ trên không có tiếng người vọng xuống: “Trên đời này ai là người khoái đánh nhau nhất? Là Bao tam tiên sinh chăng? Sai rồi, sai rồi, đó phải là Giang Nam nhất trận phong Phong Ba Ác.”

Đoàn Dự ngẩng đầu lên thấy một người đứng trên một cành hạnh, cành cây rung động không ngớt, người đó cũng nhấp nhô theo. Y thân hình vừa nhỏ bé vừa gầy guộc, tuổi chừng ba mươi hai ba mươi ba, mặt đã choắt lại để hai chòm râu đuôi chuột, lông mày rủ thấp, dung mạo thật là xấu xí. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Xem ra đây là người A Châu, A Bích gọi là Phong tứ ca đây.” Quả nhiên Bích cả mừng kêu lên: “Phong tứ ca đấy ư? Tứ ca có được tin tức gì về công tử không?” Phong Ba Ác nói lớn: “Hay lắm, hôm nay kiếm được đối thủ rồi. A Châu, A Bích, chuyện của công tử từ từ rồi nói cũng không sao.” Đoạn y từ trên không lộn một vòng lao thẳng xuống, xông luôn vào tấn công ông già béo mập, thấp lủn thủn ở phía bắc.

Lão này cầm cây cương trượng vụt phóng ra nhằm trước ngực Phong Ba Ác điểm vào. Cây trượng đó phải to bằng quả trứng ngỗng, lúc vung ra kình phong thật là uy mãnh. Phong Ba Ác liền sấn tới, giơ tay định đoạt cương trượng, ông già liền rung tay một cái, chiếc gậy hất lên, điểm luôn vào ngực y. Phong Ba Ác kêu lên: “Hay lắm!” Y đột nhiên lún người xuống, giơ tay chộp vào mạng sườn đối phương. Cây trượng của ông già lùn mập kia đang đánh ra ngoài, thấy địch nhập nội muốn rút về chống đỡ cũng không kịp, lão bèn giơ chân lên đá vào bụng dưới y. Phong Ba Ác nghiêng qua tránh được, lại xông ngay lên trước mặt ông già mặt mũi hồng hào ở phía đông. Bỗng thấy một luồng bạch quang sáng lóe, tay gã cầm thêm một thanh đơn đao, chém phạt ngang vào lão mặt đỏ. Lão mặt đỏ cầm thanh quỷ đầu đao, sống dày lưỡi mỏng, thân đao rất dài, vừa thấy Phong Ba Ác chém tới liền giơ quỷ đầu đao lên gạt, ắt hẳn lưỡi dao của lão ta phải rất cứng. Phong Ba Ác kêu lên: “Khí giới của ngươi ghê quá, ta không chạm vào đâu.” Y nhảy ra ngoài hơn một trượng, nhắm ngay ông già râu bạc ở phía nam chém ngược lại một đao.

Ông già đó tay cầm thiết giản, trên thân giản đầy răng cắm ngược như móc câu, chuyên dùng để khóa binh khí của đối phương. Ông ta thấy đơn đao của Phong Ba Ác chém vào mà quỉ đầu đao của ông già mặt đỏ còn chưa thu về, nếu mình xông lên sẽ thành thế tiền hậu giáp công hai người đánh một nên tự trọng thân phận, nhẹ nhàng tránh ra nhường y một chiêu.

Chẳng ngờ Phong Ba Ác bản tính hiếu chiến, càng đánh càng hăng, càng hùng hổ. Gã chẳng kể gì được thua mà cũng chẳng thèm giữ đúng quy củ. Ông già râu bạc né lùi lại ai cũng biết là có ý nhường nhịn, nhưng y không kể gì đến lề lối võ lâm, thấy có chỗ sơ hở liền vung đao chém luôn bốn nhát, thế như gió lốc mau lẹ dị thường. Ông già râu bạc đâu ngờ y lại thừa cơ tấn công, thực là vô lý hết sức, vội vàng vung giản lên chống đỡ, phải lùi liên tiếp bốn bước mới đứng vững được. Lúc này lưng ông ta đã tựa vào một cây hạnh, không còn đường nào lùi thêm, vội tạt ngang cây giản nghe vù một tiếng, đánh ra đòn thứ nhất trong Sát Thủ Giản chuyển thủ thành công. Ngờ đâu Phong Ba Ác quát lên: “Còn lão này nữa.” Y không đỡ mà lùi lại, đơn đao múa lên thành một vòng tròn, xông vào người thứ tư trong Cái Bang tứ lão. Lão râu bạc phóng ra một giản thì thấy đối phương đã lùi ra xa. Lão bực mình thở phù phù khiến chòm râu bạc bay tung lên.

Vị trưởng lão thứ tư kia có hai cánh tay thật dài, tay trái cầm một món binh khí mềm mại, thấy Phong Ba Ác xông tới, vung tay trái lên quăng binh khí ra, hóa ra là một cái túi đựng gạo bằng vải gai. Chiếc túi gặp gió liền phồng lên, chụp xuống đầu Phong Ba Ác. Y vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, kêu lên: “Thú lắm! Ta đánh với ngươi.”Y bình sinh thích nhất là đánh nhau, đối thủ võ công càng kỳ lạ, binh khí càng kỳ dị là y càng khoái, chẳng khác nào kẻ ưa du ngoạn trông thấy núi cả sông dài, người ham ăn gặp được của ngon vật lạ. Kẻ địch dùng bao tải làm vũ khí, Phong Ba Ác chẳng những trước nay chưa hề đọ sức với loại võ khí đó bao giờ mà cũng chưa từng nghe đến nên y mừng rỡ lắm, càng thêm dè dặt, cẩn thận dùng mũi dao đâm thẳng vào thử xem có thủng không. Lão già tay dài liền đổi chiếc bao qua tay phải, tay trái co lại, múa chưởng đánh thẳng vào mặt y.

Phong Ba Ác nghiêng đầu qua tránh, đang định xoay đao chém vào hạ bàn đối phương, ngờ đâu ông già tay dài luyện được môn Thông Tí Quyền cực kỳ cao siêu. Thế quyền này tựa hồ đi hết đà, nhưng khi cánh tay vừa duỗi ra hết lại sinh ra một luồng kình lực mới, đầu quyền bỗng dưng vươn ra thêm nửa thước nữa. Cũng may Phong Ba Ác bản tính hiếu chiến, từng đại chiến tiểu chiến kể cả hàng nghìn trận nên kinh nghiệm ứng biến phong phú, trên đời này khó có người thứ hai. Y trong cơn nguy cấp liền há mồm ngoạm luôn một cái vào nắm tay kẻ địch. Ông già tay dài những tưởng cú đấm của mình sẽ đánh gãy vài cái răng của y, ngờ đâu lại bị cắn một miếng, vội rụt tay về nhưng đã trễ, kêu lên một tiếng, mấy ngón tay đã bật máu tươi. Người đứng xem chung quanh kẻ thì lớn tiếng thóa mạ, kẻ lại cười sằng sặc.

Bao Bất Đồng nghiêm trang nói: “Phong tứ đệ, chiêu Lã Động Tân Giảo Cẩu của ngươi danh bất hư truyền, quả nhiên đã luyện đến mức xuất thần nhập hóa, không uổng công lao mười năm khổ luyện bất kể nắng mưa, cắn chết một nghìn tám trăm con đủ loại chó trắng, chó đen, chó đốm nên mới đạt đến mức như ngày nay.”

Vương Ngữ Yên và A Châu, A Bích cùng bật cười. Đoàn Dự nói: “Vương cô nương võ học uyên bác, trong thiên hạ môn nào cô cũng biết, cũng thông. Thế cái tuyệt kỹ kia là thuộc môn phái nào thế?” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Đó là tuyệt nghệ độc đáo của Phong tứ ca sáng chế, trong sách chưa thấy ghi.” Bao Bất Đồng nói: “Cô không biết ư? Ha ha, thế thì kém quá. Lã Động Tân Giảo Cẩu Đại Cửu Thức chia làm chín thức, mỗi thức lại có tám lối biến hóa, vị chi là bảy mươi hai thế biến cực kỳ cao thâm.” Đoàn Dự thấy Vương Ngữ Yên vui vẻ, lại nghe Bao Bất Đồng ba hoa, cũng định diễu góp vài câu nhưng chợt nghĩ ra: “Ông già tay dài này là thuộc hạ của Kiều đại ca, lẽ nào ta lại nhạo báng y?” nên đành ngậm miệng.

Trong lúc đó ngoài trường đấu tiếng gió vù vù, ông già tay dài vung tít túi vải, đứng ngoài chỉ thấy một vùng bóng vàng lấp loáng, tựa hồ như đã chụp vào đầu Phong Ba Ác rồi. Nhưng họ Phong đao pháp tinh kỳ, che đón đánh đỡ tuyệt hay, không có vẻ gì thua sút. Chiêu số của chiếc bao tải chưa biết đến đâu nhưng Thông Tí Quyền lợi hại thế nào thì Phong Ba Ác đã nếm qua. Tuyệt kỹ Lã Động Tân Giảo Cẩu may mắn tránh được nguy cơ nhưng gã cũng không hi vọng gì đớp trúng lần nữa, thành thử hết sức dè dặt không dám coi thường chút nào.

Kiều Phong thấy Phong Ba Ác ác đấu với một trong Cái Bang tứ lão đến hơn trăm chiêu mà chưa kém sút, trong bụng cũng ngạc nhiên, lại coi trọng Mộ Dung Công tử thêm một chút. Ba vị trưởng lão Cái Bang còn lại lui ra một bên chăm chú xem hai người giao đấu.

A Bích thấy Phong Ba Ác đánh mãi không thắng, trong bụng cũng đâm lo, quay sang hỏi Vương Ngữ Yên: “Vương cô nương, lão tiên sinh tay dài kia dùng chiếc bao bố là môn võ công chi vậy?” Vương Ngữ Yên nhíu mày đáp: “Môn võ này trong sách ta chưa xem qua. Quyền cước của y là Thông Tí Quyền, thủ pháp sử dụng bao bố là mười ba đường Hồi Đả Nhuyễn Tiên của Đại Biệt Sơn, lại pha với tám mươi mốt đường Tam Tiết Côn của họ Nguyễn ở Hồ Bắc. Xem ra cái bao tải là do y tự mình sáng chế.”

Mấy câu đó nàng nói không có gì lớn tiếng, thế nhưng hai cái tên “Đại Biệt Sơn Hồi Đả Nhuyễn Tiên Thập Tam Thức” và “Hồ Bắc Nguyễn Gia Bát Thập Nhất Lộ Tam Tiết Côn” lọt vào tai ông già thật chẳng khác gì sấm động bên tai. Ông ta nguyên là con cháu nhà họ Nguyễn ở Hồ Bắc, Tam Tiết Côn chính là công phu gia truyền, về sau y lỡ tay giết trưởng bối trong nhà, phạm vào đại tội phải thay họ đổi tên, bỏ Tam Tiết Côn không dùng đến nữa. Ngờ đâu sở học hồi trẻ đã giấu kín, mà hôm nay lâm vào tình thế cấp bách không giữ gìn được, để lộ chân tướng Lão trong lòng kinh hãi nghĩ thầm: “Con nhãi này sao lại biết được gốc tích của ta nhỉ?”. Y sợ bại lộ hình tích đã giấu giếm mấy chục năm nên hơi phân tâm, bị Phong Ba Ác liên tiếp tấn công mấy đao, lâm vào tình thế không chống đỡ được, phải lùi lại ba bước.

Lão vờ dợm chân bỏ chạy, thấy Phong Ba Ác múa đao chém tới, lập tức phóng chân trái lên đá vào cổ tay y. Phong Ba Ác liền nghiêng đao qua chém xuống chân trái đối thủ, Lão lại vọt lên không đá luôn chân bên phải ra theo thế Uyên Ương Liên Hoàn. Phong Ba Ác thấy lão tuổi già mà thân thủ mau lẹ chả kém gì người còn trẻ, bất giác bật lên tiếng khen: “Hay tuyệt!” Rồi vung quyền đấm vào đầu gối lão nghe vù một tiếng. Y thấy đối phương đang lơ lửng trên không khó bề xoay chuyển, chắc mẩm lão không vỡ xương bánh chè thì cũng gãy đùi.

Phong Ba Ác thấy phát quyền đánh gần tới đầu gối mà đối phương vẫn chưa xoay trở được thì trong bụng mừng thầm. Bỗng nghe hơi gió ập tới, chiếc túi trong tay lão già đã mở ra chụp xuống đầu Phong Ba Ác. Y biết mình có thể đánh trúng xương đùi của ông già tay dài thật, nhưng nếu để đầu bị chụp vào trong cái bao thì e rằng nguy hiểm, lập tức vung tay gạt. Chiếc túi đó đang từ trên chụp xuống đột nhiên biến thành quét ngang, miệng túi lệch sang chộp luôn vào đầu quyền của Phong Ba Ác.

Miệng bao lớn hơn nắm tay Phong Ba Ác nhiều nên chụp được thì dễ mà giữ được thì khó, y chỉ co tay lại là đã rút ra khỏi cái bao ngay. Đột nhiên tay y nhói lên một cái như bị kim đâm phải, y nhìn xuống bỗng giật nảy người, có một con bò cạp trên mu bàn tay. Con bò cạp đó nhỏ hơn loại bình thường, nhưng đầy vằn vện ngũ sắc trông thật ghê rợn. Phong Ba Ác biết không xong, vẩy mạnh tay một cái nhưng đuôi con bò cạp vẫn cắm chặt, lắc cách nào cũng không nhả. Y vội lật bàn tay lại đập vào sống đao, con bò cạp lập tức nát bét. Thế nhưng con vật này mới nhìn đã thấy ghê gớm, lại của bọn Cái Bang lục lão ắt không phải tầm thường. Y lập tức nhảy ra khỏi vòng chiến, móc ngay một viên thuốc giải độc bỏ vào miệng nuốt. Lão già tay dài cũng không đánh nữa mà thu bao về, đứng nhìn Vương Ngữ Yên, tự hỏi: “Sao con nhãi này lại biết ta thuộc Nguyễn gia ở Hồ Bắc?”.

Bao Bất Đồng hết sức quan tâm vội hỏi:”Tứ đệ thấy thế nào?” Phong Ba Ác vẫy tay hai cái, không thấy khác lạ cũng không hiểu ra sao, nghĩ bụng: “Trong túi gai có giấu bò cạp ngũ sắc, ắt phải có chỗ kỳ quái” bèn đáp: “Chưa thấy gì…”Y mới nói tới đây, đột nhiên nghe bịch một cái ngã nhào ra trước. Bao Bất Đồng vội đỡ y lên, hỏi dồn: “Sao vậy? Sao vậy?” Chỉ thấy Phong Ba Ác mặt mũi đã cứng đơ, miệng đang nở một nụ cười thật gượng gạo.

Bao Bất Đồng cả kinh vội vàng giơ tay điểm các huyệt đạo trên cổ tay, khuỷu tay và trên vai ba nơi khớp xương để cho chất độc khởi chạy ngược về tim, ngờ đâu chất độc của con bò cạp ngũ sắc kia uy lực dũng mãnh hiệu quả tức thời, tuy chẳng phải là “kiến huyết phong hầu” nhưng còn nhanh hơn nọc rắn nhiều. Phong Ba Ác há mồm toan nói gì đó, nhưng chỉ ú ở được mấy tiếng khó nghe. Bao Bất Động thấy độc tính lợi hại như vậy sợ rằng không còn cách nào chạy chữa, trong cơn bi phẫn, gầm lên một tiếng, xông luôn vào lão tay dài.

Lão lùn mập cầm cương trượng quát lên: “Định xa luân chiến hay sao? Để thằng lùn này tỉ thí với anh hào nhà Mộ Dung.” Cương trượng liền nhắm thẳng vào Bao Bất Đồng phóng ra. Món binh khí đó vốn thật nặng nề nhưng lão cầm coi nhẹ như không, xuất chiêu linh động chẳng khác gì một thanh trường kiếm. Bao Bất Đồng tuy đau thương phẫn uất nhưng gặp phải đại kình địch nên không dám sơ hở. Y chỉ mong bắt được lão lùn mập này để ép lão tay dài đưa thuốc giải cứu Phong tứ đệ, lập tức thi triển cầm nã thủ, theo những khe hở của cương trượng mà tấn công vào.

A Châu, A Bích đứng hai bên Phong Ba Ác, nước mắt chạy quanh, luôn miệng gọi: “Tứ ca! Tứ ca!” Vương Ngữ Yên không biết tí gì về cách sử dụng cùng điều trị chất độc, trong bụng hối hận vô cùng: “Ta đọc sách võ học thấy phương pháp trị độc nhiều vô số kể, nhưng tưởng không bao giờ dùng tới nên chẳng thèm liếc qua. Giá như mình chịu khó đọc, nhớ được chút nào hay chút ấy thì bây giờ đâu đến nỗi chịu bó tay nhìn Phong tứ ca chết bất đắc kỳ tử.”

Kiều Phong thấy Bao Bất Đồng và trưởng lão lùn đánh nhau ngang ngửa, không thể trong chốc lát mà phân thắng bại, liền quay sang nói với ông già tay dài: “Trần trưởng lão! Xin trưởng lão lấy thuốc cho vị Phong tứ gia kia giải độc.” Trần trưởng lão ngạc nhiên: “Bẩm bang chủ, tên này vô lễ, võ công cũng không phải vừa, cứu sống cho y tức là di họa về sau.” Kiều Phong gật đầu nói: “Trưởng lão nói đúng lắm. Nhưng bọn ta chưa gặp chủ nhân đã giết chết thuộc hạ, không khỏi mang tiếng cậy mạnh hiếp yếu. Mình nên phân định rõ ràng hãy có biện pháp.” Lão tay dài hậm hực đáp: “Mã phó bang chúa rõ ràng bị gã tiểu tử họ Mộ Dung sát hại. Đã gọi là báo thù rửa hận thì còn nói đến chuyện nhân nghĩa tình lý làm gì?” Kiều Phong thoáng lộ vẻ không bằng lòng, nói: “Trưởng lão cứ giải độc cho y trước, chuyện khác nói sau cũng chưa muộn.”

Trần trưởng lão tuy trong lòng không muốn chút nào nhưng lệnh của bang chủ không thể cãi được, bèn đáp:”Vâng!” Y móc trong bọc ra một cái bình nhỏ, tiến lên mấy bước nói với A Châu và A Bích: “Bang chủ chúng ta lấy nhân nghĩa làm đầu. Bọn ngươi mau cầm lấy thuốc giải.”

A Bích cả mừng chạy đến trước mặt Kiều Phong cung kính thi lễ, rồi quay sang chắp tay nói với Trần trưởng lão: “Đa tạ Kiều bang chủ, đa tạ Trần trưởng lão.” Nàng đón lấy cái bình nhỏ rồi hỏi: “Xin trưởng lão chỉ bảo cho cách dùng giải dược.” Trần trưởng lão đáp: “Hút hết chất độc ở vết thương ra, lấy thuốc giải bôi lên.” Y ngừng lại một chút nói tiếp: “Độc dịch chưa hút hết thì bôi thuốc giải lên cũng bằng thừa, nên biết như thế.” A Bích vâng lời chạy lại nắm tay Phong Ba Ác, há miệng toan hút máu độc ở vết thương trên lưng bàn tay cho y.

Lão tay dài lớn tiếng quát: “Khoan đã!” A Bích ngạc nhiên nói: “Sao thế?” Trần trưởng lão nói: “Đàn bà con gái hút không được.” A Bích mặt hơi đỏ lên hỏi lại: “Sao con gái lại không hút được?” Trần trưởng lão đáp: “Con bò cạp này thuộc về âm hàn. Con gái cũng là âm, âm độc mà lại thêm khí âm vào thì độc tính lại tăng thêm.” A Châu, A Bích, Vương Ngữ Yên ba người bán tín bán nghi, tuy lời đó có vẻ quái lạ nhưng không phải là hoàn toàn vô lý, nếu như chất độc lại tăng thêm thì e không xong. Khốn nỗi bên mình chỉ có Bao Bất Đồng là đàn ông nhưng y đang cùng ông già lùn kịch đấu, chỉ thấy trượng ảnh thấp thoáng, chưởng thế vù vù, nhất thời không thể ngừng tay được. A Châu cất tiếng gọi to: “Tam ca! Tạm ngừng tay, quay lại cứu tứ ca đã.”

Thế nhưng Bao Bất Đồng với ông già lùn kia võ công suýt soát nhau, muốn bãi chiến thoát ra không phải chỉ vài chiêu là xong. Cao thủ tỉ võ, chiêu nào cũng là sinh tử, sơ hở một chút sẽ bị đối phương lấy mạng ngay chứ đâu phải muốn ra là ra, muốn vào là vào? Bao Bất Đồng nghe tiếng A Châu gọi, tưởng rằng thương thế Phong Ba Ác biến chuyển, trong lòng nôn nao cố gắng tấn công gấp rút mong thoát ra được vòng vây của ông già lùn.

Hai người kịch đấu đã trên trăm chiêu, tuy thắng bại chưa phân, nhưng ông già lùn tay cầm binh khí vừa dài vừa nặng, đối phương lại tay không, ai yếu ai mạnh đã rõ rệt. Lão múa cây cương trượng liên hoàn tiến kích đều bị Bao Bất Đồng hóa giải cả, biết rằng đánh thêm thì chỉ có thua chứ không mong thắng, thấy bên địch tấn công gấp rút lại tưởng y muốn đánh bại mình ngay nên dốc toàn lực ra chống đỡ. Cái Bang tứ lão người nào võ công cũng có chỗ độc đáo. Bọn Chư Bảo Côn, Tư Mã Lâm phái Thanh Thành, Diêu Bá Đương của Tần gia trại thì Bao Bất Đồng chỉ nói nói cười cười mà đánh như đánh trẻ con, nhưng lão già lùn này quả không dễ đối phó. Bao Bất Đồng tuy chiếm thượng phong nhưng nếu muốn thực sự thắng được một chiêu nửa thức thì còn phải chờ cho công lực của đối phương sút kém, mà lão lùn lại dai sức vô cùng, đánh lâu chưa có vẻ gì mệt mỏi.

Kiều Phong thấy Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba cô gái mặt mày kinh hoảng, biết rằng con bò cạp của Trần trưởng lão nuôi cực kỳ lợi hại, cũng chẳng biết cái câu “đàn bà không được hút chất độc” kia thực hay giả. Nếu như ông ra lệnh cho thuộc hạ tấn công kẻ địch, dù cho tình thế hung hiểm bội phần cũng không ai dám buông lòng oán hận, nhưng sai người liều mạng cứu chữa cho địch nhân thì quả không thể mở miệng. Nghĩ như thế Kiều Phong bèn nói: “Để ta hút chất độc cho Phong tứ gia.” Nói xong ông đi đến bên cạnh Phong Ba Ác.

Đoàn Dự trông thấy Vương Ngữ Yên mặt mày râu rĩ, từ nãy đã muốn ra hút độc dịch cho Phong Ba Ác, có điều Kiều Phong đã cùng mình kết nghĩa anh em, nếu lại ra tay giúp cho kẻ địch của nghĩa huynh thì không phải lẽ. Tuy Kiều Phong đã bảo Trần trưởng lão lấy giải được nhưng chàng cũng chưa biết rõ là ông thực lòng hay chỉ giả vờ. Đến khi thấy Kiều Phong đi đến bên cạnh Phong Ba Ác quả thực chân tâm muốn cứu y, chàng vội nói: “Xin đại ca để tiểu đệ làm thay cho.” Chàng bước ra, tự nhiên sử dụng ngay Lăng Ba Vi Bộ, thân hình lạng qua đã chen lên trước Kiều Phong, cầm tay Phong Ba Ác, ghé miệng vào vết thương trên tay y hút luôn.

Lúc này một bên tay Phong Ba Ác đã đen sì, hai mắt mở trừng trừng, đến mi mắt cũng đã cứng đời không còn nhắm lại được. Đoàn Dự hút ra một ngụm máu độc, nhổ xuống đất thấy máu đó đen như mực, mọi người trông thấy đều kinh hãi. Đoàn Dự đang định hút tiếp lại thấy trên vết thương máu đen từng giọt nhỏ ra, chàng ngạc nhiên nghĩ thầm: “Để máu đen này ra hết rồi mình hãy hút tiếp.” Có ngờ đâu chàng đã ăn phải con Mãng Cổ Chu Cáp là vua của các loại độc nên có thể khắc chế mọi độc tính, nọc độc của con bò cạp hoa kia còn kém xa nên vừa gặp phải nước dãi của Đoàn Dự đã lập tức chảy ra. Đột nhiên Phong Ba Ác cựa mình một cái rồi nói: “Đa tạ!”

Bọn A Châu ai nấy cực kỳ mừng rỡ, A Bích la lên: “Tứ ca, anh nói được rồi!” Chỉ thấy máu độc càng lúc càng nhạt, từ từ biến thành màu tím, chảy thêm một lát nữa, màu tím trở thành đỏ sậm. A Bích vội vàng thoa thuốc giải lên vết thương. Chỉ trong giây lát, lưng bàn tay sưng húp của Phong Ba Ác dần dần xẹp xuống, hành động nói năng lại trở lại bình thường.

Phong Ba Ác quay sang vái Đoàn Dự một cái thật sâu nói: “Đa tạ công tử cứu mạng.” Đoàn Dự vội vàng hoàn lễ đáp: “Cái chuyện nhỏ ấy có gì đáng nói đâu.” Phong Ba Ác cười nói: “Tính mệnh của ta đối với công tử là chuyện nhỏ, đối với ta lại là chuyện lớn.” Y cầm lấy chiếc bình ném tới trước mặt Trần trưởng lão, nói: “Ta trả thuốc giải độc cho mi!” Y lại quay sang Kiều Phong ôm quyền nói: “Kiều bang chủ nhân nghĩa hơn người, không hổ là thủ lĩnh của đại bang lớn nhất trong võ lâm, Phong Ba Ác mười phần bội phục.” Kiều Phong cũng vòng tay đáp lễ đáp: “Không dám!”

Phong Ba Ác nhặt đơn đao lên, giơ tay trỏ vào Trần trưởng lão nói: “Bữa nay ta chịu thua ngươi, để lần khác sẽ đánh lại. Hôm nay không đấu nữa.” Trần trưởng lão mỉm cười, đáp: “Thế nào cũng xả thân hầu tiếp.” Phong Ba Ác xoay qua trưởng lão tay cầm giản, kêu lên: “Để ta lãnh giáo cao chiêu của các hạ.” A Châu, A Bích đều hoảng hồn cất tiếng can; “Không được! Tứ ca chưa hoàn toàn hồi phục đâu.” Phong Ba Ác kêu lên: “Có người để đánh mà không được đánh thì uổng cả đời.” Y múa tít đơn đao, cả đao lẫn người xông vào trưởng lão cầm giản.

Ông già cầm giản râu tóc bạc phơ thành danh đã mấy chục năm nay, trên giang hồ đã gặp đủ loại nhân vật. Thế mà lão thấy Phong Ba Ác vừa mới mười phần chết chín, chỉ chớp mắt đã hung hăng như rồng như cọp xông lên quả là hiếm có, trong bụng không khỏi sợ thầm. Thiết giản của ông ta vốn biến hóa phức tạp, ngoại trừ đâm quật đánh quét ra, lại còn thủ pháp kỳ dị để khóa binh khí địch nhân, lúc này vì chột dạ nên công phu giảm đi mấy thành, chỉ đỡ gạt mà không tấn công, chẳng có cách nào đánh trả.

Kiều Phong hơi nhíu mày nghĩ thầm: “Vị Phong bằng hữu này thật không biết điều chút nào. Đoàn huynh đệ vừa có hảo ý cứu mạng cho y, thế mà y lại xông lên đánh nữa!”. Chàng thấy Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đều có vẻ thắng thế, nhưng không phải trong giây lát đã phân thắng bại. Những tay cao thủ tỷ thí với nhau biến ảo vô cùng. Chỉ một chiêu khéo léo hay một chút sơ hở là có thể biến đổi cục diện. Dĩ nhiên bốn người đang đấu không ai dám sơ suất còn người đứng ngoài thì chăm chú xem.

Đoàn Dự bỗng nghe thấy từ phía đông có vô số người rảo bước đi tới, rồi kế đó phương bắc cũng có tiếng chân, nhân số quả là rất đông. Chàng quay sang nói nhỏ với Kiều Phong: “Đại ca, có người tới.” Kiều Phong cũng đã nghe thấy nên gật đầu nghĩ thầm: “Hẳn là Mộ Dung công tử mai phục người ở đây. Thì ra hai tên họ Bao và họ Phong kia tới đây trước giữ chân, sau đó đại bộ phận mới kéo đến tấn công.” Kiều bang chủ đang định truyền lệnh cho bang chúng ở phía tây phía nam triệt thoái trước, chính mình cùng bốn trưởng lão và Tưởng đà chủ đoạn hậu, bỗng thấy phương tây và phương nam cũng có tiếng chân người lao xao, hóa ra bốn phương tám hướng đều có kẻ địch cả. Kiều Phong hạ giọng nói: “Tưởng đà chủ! Mặt nam nhẹ hơn cả, thấy ta ra hiệu thì lập tức suất lĩnh anh em chạy về phía nam.” Tưởng là chủ đáp: “Vâng!”

Ngay lúc đó phía sau những cây hạnh ở phía đông tiến ra năm sáu chục người, ai nấy đầu bù tóc rối, ăn mặc rách rưới, kẻ cầm binh khí, người cầm mảnh bát, gây tre, toàn là bang chúng Cái Bang cả. Kế đó phía bắc cũng có tám chín chục đệ tử Cái Bang bước ra, ai nấy thần sắc nghiêm trọng, trông thấy Kiều Phong đã không thi lễ mà còn có vẻ thù hằn.

Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác thấy bỗng nhiên có nhiều người trong Cái Bang như thế, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Làm sao cứu được Vương cô nương, A Châu, A Bích ba người đây?” Thế nhưng lúc đó người kinh ngạc nhất lại là Kiều Phong, bọn người này đều là bang chúng trong bản bang, bình thời đối với mình cực kỳ kính trọng, thấy mình từ xa đã vội vàng chạy tới hành lễ, hôm nay sao lại đột nhiên tới đây, ngay đến hai tiếng “bang chủ” cũng không chào. Chàng còn đang nghi hoặc, lại thấy phương tây và phương nam cũng tiến ra mấy chục bang chúng khác, chẳng mấy chốc đã đứng chật tất cả khoảng đất trống trong khu rừng hạnh. Thế nhưng không thấy các thủ lãnh trong bang, ngoại trừ bốn vị trưởng lão và Tưởng đà chủ ra. Kiều Phong lại càng lo sợ, tay đẫm mồ hôi mà không biết. So với những lúc gặp cường địch hung hãn, ông cũng không đến nỗi sợ hãi như bữa nay, tự hỏi: “Không lẽ Cái Bang phát sinh nội loạn, Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão cùng các đà chủ phân đà đều bị hạ độc thủ rồi?”. Thế nhưng Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cùng hai trưởng lão còn đang kịch chiến, lại thêm bọn Vương Ngữ Yên là người ngoài ở bên cạnh nên không tiện mở lời hỏi rõ.

Trần trưởng lão đột nhiên cao giọng nói: “Kết Đả Cấu trận!” Tất cả các bang chúng bốn mặt đông tây nam bắc cùng tiến ra, nơi thì mươi người, nơi thì hai chục người, ai nấy đều cần binh khí, vây bốn người đang đánh nhau lại.

Bao Bất Đồng thấy Cái Bang trong khoảnh khắc đã lập thành trận thế, nếu thành đại chiến thì mình có thể miễn cưỡng thoát thân, Phong Ba Ác sau khi trúng độc nguyên khí hao tổn thể nào cũng bị trọng thương, còn muốn cứu bọn Vương Ngữ Yên thì lại khó hơn một tầng. Trong tình thế đó, nếu như quần cái xông lên tấn công, bên y chỉ có hai người quả bất địch chúng, cho dù ngừng đấu chịu thua thì thanh danh cũng không có gì sứt mẻ. Thế nhưng Bao Bất Đồng tính tình cố chấp, những chuyện người thường coi là lý đương nhiên thì y lại muốn làm ngược lại, còn Phong Ba Ác lại coi trọng việc đánh nhau hơn là tính mạng, gã chỉ cần đánh cho sướng tay, bất luận thua, được, phải, trái cũng chẳng quan tâm. Thế yếu mạnh hai bên đã rõ ràng, vậy mà Bao Phong hai người vẫn hò hét đánh đấm không chịu kém thế chút nào.

Vương Ngữ Yên kêu lên: “Bao tam ca, Phong tứ ca, không xong rồi. Hai người không phá nổi Đả Cẩu trận của Cái Bang đâu, ngừng tay đi là hơn.” Phong Ba Ác đáp: “Để ta đánh thêm một chập nữa, đến lúc quả thật không xong, khi đó ngừng tay cũng vừa.” Y nói chuyện nên phân tâm, nghe bộp một cái đầu vai đã bị trưởng lão râu bạc đánh trúng một giản, những móc trên cây giản lôi bật cả máu thịt ra. Phong Ba Ác chửi liền: “Con bà ngươi, chiêu đó quả là ghê gớm thật!” Chát! Chát! Chát: Gã chém luôn ba nhát chẳng khác gì muốn hai bên cùng chết. Lão già râu bạc nghĩ thầm: “Ta với ngươi đâu có thù bất công đái thiên, sao lại phải thí mạng như vậy?”, rồi thủ chặt môn hộ, không tấn công nữa.

Trần trưởng lão lại dài giọng ra hát lên: “Anh em phía nam đi xin cơm thừa canh cặn, lạy ông lạy bà…”

Y hát điệu xin cơm, thực ra là hiệu lệnh tấn công. Mấy chục người ăn mày ở phía nam cùng giơ binh khí lên, chỉ còn chờ Trần trưởng lão dứt câu ca là xông vào.

Kiều Phong biết rằng Đả Cẩu trận của bản bang một khi phát động rồi không ngăn cản được nữa, bang chúng bốn phía sẽ kẻ lên người xuống, giết cho kỳ được đối phương mới thôi. Chàng không muốn trước khi tra xét rõ ràng đã kết mối thâm cừu với nhà Mộ Dung, liền vẫy tay quát lên: “Khoan đã!”, nói xong lắc người vọt tới bên cạnh Phong Ba Ác, giơ tay trái chộp vào mặt y. Phong Ba Ác né qua bên phải, Kiều Phong thuận thế vòng xuống chụp lấy cổ tay, cướp lấy thanh đơn đao.

Vương Ngữ Yên kêu lên: “Sang Châu Tam Thức trong Long Trảo Thủ hay tuyệt! Bao tam ca! Đối phương sẽ huých khuỷu tay trái vào trước ngực, bàn tay phải chém xuống sau lưng rồi tay trái chụp vào huyệt Khí Hộ, đó là chiêu Bái Nhiên Hữu Vũ trong Long Trảo Thủ.” Miệng nàng nói tới đâu thì Kiều Phong động thủ tới đó, một người nói, một người làm, thật là ăn nhịp với nhau. Đến khi Vương Ngữ Yên nói dứt câu, năm ngón tay của Kiều Phong đã biến thành móc, khum khum chộp trúng huyệt Khí Hộ của Bao Bất Đồng.

Bao Bất Đồng cảm thấy toàn thân đau buốt không nhúc nhích được. Y hậm hực nói: “Chiêu Bái Nhiên Hữu Vũ quả là hay! Muội tử, cô nói không sớm mà cũng không muộn thì còn làm quái gì được nữa? Giả tỷ nói sớm hơn một chút có phải ta kịp phòng bị không?” Ngữ Yên xịu mặt, đáp: “Võ công ông ta ghê quá, ra tay không có triệu chứng gì trước nên tiểu muội nhìn không ra, thật là có lỗi.” Bao Bất Đồng nói: “Cái gì mà có lỗi với không có lỗi? Hôm nay bọn mình đánh thua rồi, Yến Tử Ổ thật là mất mặt.” Y quay lại nhìn Phong Ba Ác, thấy gã cũng đứng đực người ra. Nguyên lúc Kiều Phong cướp đơn đao tiện tay điểm huyệt luôn, không thì y đâu có chịu ngừng tay.

Trần trưởng lão thấy bang chúa đã kiềm chế hai gã Bao Phong, không cần phải hát tiếp nên bỏ dở câu ca ra lệnh. Tứ lão Cái Bang cùng các tay cao thủ trong bang thấy thủ pháp Kiều Phong tuyệt diệu không thể tưởng tượng được, không ai là không bội phục.

Kiều Phong buông huyệt Khí Hộ của Bao Bất Đồng ra, lật tay vỗ nhẹ lên vai Phong Ba Ác mấy cái, giải các huyệt đạo bị đóng cho y nói: “Xin hai vị cứ tự nhiên.”

Bao Bất Đồng tính tình quái đản, nhưng biết võ công mình so với Kiều Phong hơn kém quá xa, chẳng cần gì phải Đả Cẩu trận, cũng không cần tứ lão hiệp công, chỉ mình ông ta đã thắng dễ như chơi. Y biết rằng còn nói nữa chỉ tổ thêm bực mình, liền lẳng lặng lùi lại đến bên Vương Ngữ Yên. Phong Ba Ác vẫn nói: “Kiều bang chủ: Võ công ta không bằng bang chủ thật, nhưng vừa rồi bang chủ đánh bất thình lình không kịp đề phòng, ta không tâm phục.” Kiều Phong đáp: “Đúng thế! Ta quả là xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị. Vậy mình thử thêm lần nữa, để ta tiếp vài chiêu đơn đao của các hạ.” Nói chưa dứt, Kiều Phong vẫy tay trên không, một luồng kình lực phóng vào thanh đao đang nằm dưới đất, thanh đao liền tự lật lại rồi vọt lên tay ông ta. Ngón tay Kiều Phong đảo một cái, cán đao quay ngược lại phóng tới trước mặt Phong Ba Ác.

Phong Ba Ác lắp bắp kêu lên: “Cái… cái đó có phải Cầm Long Công chăng? Trên đời này quả… quả thực có người biết môn võ công thần kỳ này ư?” Kiều Phong mỉm cười đáp: “Tại hạ cũng mới học, không bị làm trò cười.” Chàng vừa nói vừa đưa mắt liếc Vương Ngữ Yên. Khi nãy Vương Ngữ Yên nói ra được chiêu Bái Nhiên Hữu Vũ chẳng khác gì có tài tiên tri, khiến chàng vô cùng ngạc nhiên, lúc này muốn xem vì cô nương tinh thông võ học này sẽ bình phẩm ra sao về môn công phu của mình.

Ngờ đâu Vương Ngữ Yên không nói một lời, đối với tuyệt kỹ của Kiều Phong tưởng như trông mà không thấy, thì ra nàng đang xuất thần:“Võ công của vị Kiều bang chủ này thật cao cường, vậy mà giang hồ vẫn xếp cùng hàng bắc Kiều Phong nam Mộ Dung. Thế nhưng… thế nhưng võ công biểu ca, làm sao… làm sao…”

Phong Ba Ác lắc đầu: “Ta đánh không lại bang chủ, mạnh yếu cách nhau một trời một vực, giao đấu chẳng thú vị gì. Kiều bang chủ, hẹn gặp lại.” Y thua trận nhưng không mảy may sa sút tinh thần. Đúng là được cũng vui mà thua cũng vui, chỉ mong có người đánh nhau với mình là mãn nguyện, dường như đã đạt tới đỉnh cao của “đấu đạo”. Y giơ tay chào từ biệt Kiều Phong, quay sang Bao Bất Đồng: “Tam ca, nghe nói công tử gia đến chùa Thiếu Lâm, ở đó đông người lắm, chắc thế nào cũng được một phen đánh nhau thỏa thích. Đề tiểu đệ đến xem thế nào, các người thủng thẳng đi sau.” Y chỉ sợ lỡ mất cuộc đấu, không đợi Bao Bất Đồng trả lời vội vàng chạy đi. Bao Bất Đồng cao giọng ngâm nga: “Đi thôi đi thôi, hề, đánh chẳng bằng người. Luyện mười năm nữa, hề, cũng chỉ vậy thôi, Chi bằng bỏ cuộc, hề, chịu thua cho rồi.” Y vừa ngâm vừa hiên ngang đi thẳng, xem ra thua trận mà vẫn không hề bận tâm, đầy vẻ tiêu sái.

Vương Ngữ Yên quay sang nói với A Châu, A Bích: “Tam ca, tứ ca đều đi cả rồi, mình cũng đến đó kiếm… kiếm anh ta chứ?” A Châu cúi đầu đáp: “Người trong Cái Bang ở đây còn thương lượng chuyện hệ trọng, bọn mình về thành Vô Tích rồi tính sau.” Nàng quay sang Kiều Phong nói: “Kiều bang chủ, ba người chúng tôi xin cáo từ.” Kiều Phong gật đầu, đáp: “Xin ba vị cứ tự nhiên.”

Đột nhiên mé đông có một thành viên Cái Bang tướng mạo thanh nhã bước ra hỏi Kiều Phong:“Kiều bang chủ! Mã phó bang chủ chết thảm, đại thù chưa báo, sao bang chủ tùy tiện thả kẻ địch đi?” Giọng nói y lễ độ nhưng ý tứ chất vấn, không phải là lời của thuộc hạ nói với cấp trên. Kiều Phong đáp: “Bọn ta đến Giang Nam chính là vì muốn báo thù cho Mã nhị ca. Thế nhưng mấy ngày qua ta đã cố gắng tra xét, biết được hung thủ giết hại Mã nhị ca chưa chắc đã là Mộ Dung công tử.”

Người ăn mày kia tên Toàn Quan Thanh, ngoại hiệu Thập Phương Tú Tài, là kẻ túc trí đa mưu, võ công cao cường. Y là đệ tử tám túi hiện đang chưởng quản Đại Trí phân đà, địa vị trong bang chỉ kém lục đại trưởng lão. Toàn Quan Thanh hỏi: “Bang chủ nhận xét thế nào mà bảo vậy?”

Vương Ngữ Yên và A Châu, A Bích đáng toan ra đi, bỗng thấy trong Cái Bang có người đề cập đến Mộ Dung Phục, cả ba đều rất quan tâm nên đứng nép sang một bên lắng tai. Chỉ nghe Kiều Phong đáp: “Ta suy đoán vậy thôi, chưa tìm được bằng cớ chắc chắn.” Toàn Quan Thanh nói: “Không biết bang chủ suy đoán thế nào, xin cho bạn thuộc hạ chúng tôi được biết.” Kiều Phong đáp: “Khi ta ở Lạc Dương, nghe thấy Mã nhị ca bị chết vì công phu Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ, lập tức nghĩ ngay đến nhà Cô Tô Mộ Dung hay dùng thủ đoạn gậy ông đập lưng ông. Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ của Mã nhị ca thật là thiên hạ không ai sánh kịp, trừ nhà Mộ Dung ra, không ai có thể dùng chính tuyệt kỹ của Mã nhị ca giết y được.” Toàn Quan Thanh nói: “Đúng thế!” Kiều Phong nói tiếp: “Thế nhưng mấy ngày gần đây, ta nhận ra rằng cách suy luận ấy chưa chắc đã đúng, bên trong dường như có nhiều điều uẩn khúc.” Toàn Quan Thanh nói: “Huynh đệ chúng tôi ai nấy đều mong được nghe, cho rõ ràng, xin bang chủ nói tiếp.”

Kiều Phong nghe thấy giọng y có chiều bất thiện, lại thấy số đông bang chúng vẻ mặt khác thường, trong bang hẳn đã phát sinh biến cố trọng đại, bèn hỏi lại: “Truyền Công, Chấp Pháp hai vị trưởng lão đâu?” Toàn Quan Thanh đáp: “Thuộc hạ hôm nay chưa gặp hai vị” Kiều Phong hỏi tiếp: “Thế Đại Nhân, Đại Tín, Đại Dũng, Đại Lễ bốn đà chủ đâu cả rồi?” Toàn Quang Thanh ngoảnh đầu về phía tây bắc, hỏi một tên đệ tử: “Trương Toàn Tường! Đà chúa bọn ngươi sao không tới đây?” Gã đệ tử bảy túi kia ấp úng: “Dạ… dạ… thuộc hạ không biết.”

Kiều Phong biết Đại Trí phân đà đà chủ Toàn Quan Thanh là người lắm mưa nhiều kế, hành động rất kín đáo, nguyên là một tay thuộc hạ rất đắc lực của mình, bây giờ tính chuyện biến loạn tất sẽ thành kẻ địch thật lợi hại. Chàng thấy Trương Toàn Tường lộ vẻ hổ thẹn, nói năng ấp úng, mắt không dám nhìn thẳng vào mình, liền quát hỏi: “Trương Toàn Tường! Có phải ngươi đã hạ sát đà chủ ở phân đà ngươi rồi không?” Trương Toàn Tường hoảng hốt chối: “Không! Không! Đà chúa rõ ràng chưa chết, chưa chết! Chuyện đó không liên quan gì đến thuộc hạ, không phải thuộc hạ làm.” Kiều Phong dằn giọng hỏi: “Vậy thì ai làm?” Câu nói đó âm lượng tuy không lớn nhưng đầy vẻ uy nghiêm. Trương Toàn Tường run như cầy sấy, đưa mắt nhìn Toàn Quan Thanh.

Kiều Phong biết là đã có biến loạn, Truyền Công, Chấp Pháp các trưởng lão nếu như chưa chết thì cũng đang bị nguy hiểm, thời cơ nếu không nắm lấy sẽ mất ngay, bèn thở dài một tiếng quay sang hỏi tứ đại trưởng lão: “Bốn vị trưởng lão, chẳng hay có chuyện gì thế?” Tứ lão người nọ nhìn người kia, không ai chịu lên tiếng trước. Kiều Phong biết ngay rằng họ đều có tham dự vào việc này, liền mỉm cười nói: “Trong bản bang từ ta trở xuống, ai ai cũng lấy nghĩa khí làm trọng…” Chàng nói tới đây, đột nhiên đạp chân vọt ngược về sau luôn hai bước, mỗi bước phải hơn một trượng. Người khác dẫu có nhảy về phía trước cũng không nhanh bằng, bước chân cũng không xa được đến thế. Kiều Phong giật lùi hai bước chỉ còn cách Toàn Quan Thanh chừng ba thước, cũng không quay người, tay trái quờ phía sau, tay phải dùng cầm nã chộp ngay được hai huyệt Trung Đình và Cưu Vĩ trên ngực y.

Toàn Quan Thanh võ công cao cường không kém gì bốn vị trưởng lão, ngờ đâu chưa kịp trở tay đã bị bắt rồi. Kiều Phong vận khí lên bàn tay, tống nội lực vào hai huyệt, theo kinh mạch chạy thẳng xuống huyệt Trung Ủy, Dương Đài ở đầu gối. Toàn Quang Thanh hai chân tê buốt, không tự chủ được nữa phải quỳ ngay xuống đất. Bang chúng ai nấy thất sắc, kinh hoàng không biết làm thế nào cho phải.

Thì ra Kiều Phong trông mặt mà bắt hình dong, xem chừng cuộc biến loạn này là do Toàn Quang Thanh chủ mưu. Nếu không chế ngự y ngay, họa hoạn không phải là nhỏ, dẫu có dẹp được bạn đồ thì không tránh khỏi một cuộc tàn sát. Cường địch đang ở trước mặt làm sao có thể tự làm tổn thương nguyên khí? Nhìn bang chúng chung quanh, trừ người thuộc về Đại Nghĩa phân đà ra, còn bao nhiêu xem ra đều bị Toàn Quan Thanh dụ dỗ cả, nếu họ nổi lên chống đối thì khó lòng thu phục lại được. Thành ra chàng giả vờ tiến lên hỏi bốn vị trưởng lão, thừa cơ Toàn Quan Thanh không phòng bị, nhảy lùi lại nắm kinh mạch y. Mấy động tác đó nhanh như cắt, tưởng như đơn giản nhưng thật ra chàng đã thi triển toàn bộ sở học trong đời.

Nếu như vung tay ngược về sau chỉ sai bộ vị nửa tấc, tuy vẫn chế ngự được Toàn Quan Thanh nhưng không thể nào dùng nội lực xung kích huyệt đạo nơi đầu gối, những kẻ đồng mưu có thể xông vào cứu viện thì không sao tránh được một cuộc xung sát. Thế nhưng ép được y quỳ xuống rồi, người ngoài ai cũng tưởng Toàn Quan Thanh tự ý đầu hàng, chẳng dám ho he gì nữa.

Kiều Phong quay người lại, tay trái khẽ vỗ vào vai y, nói: “Nếu người đã biết là sai quấy rồi thì cũng chẳng phải quì làm gì. Tội làm phản phạm thượng không thể bỏ qua, nhưng để từ từ rồi giải quyết.” Chàng vừa nói vừa huých nhẹ khuỷu tay phải trúng ngay á huyệt của y.

Kiều Phong biết Toàn Quan Thanh là kẻ nói năng hùng biện, nếu có cơ hội mở lời ắt sẽ kích động bang chúng làm loạn. Không thể nói là chàng hành động man trá, hiện giờ bốn bề đều có nguy cơ, bắt buộc phải dùng thủ đoạn để xử trí. Chế ngự Toàn Quan Thanh rồi, Kiều Phong để mặc y gục đầu quì đó, lớn tiếng quát Trương Toàn Tường: “Ngươi mau dẫn đường cho Đại Nghĩa phân đà Tưởng đà chủ đi mời Truyền Công, Chấp Pháp trưởng lão các vị về đây, nếu nghe lệnh ta mà làm thì được giảm tội. Còn những người khác hãy ngồi xuống đất, không ai được tự tiện đứng lên.” Trương Toàn Tường vừa mừng vừa sợ, vâng dạ luôn mồm.

Đại Nghĩa phân đà Tưởng là chủ không tham dự mật mưu của đám phản loạn, thấy bọn Toàn Quan Thanh dám gây rối phạm thượng vốn đã tức giận lắm, mặt đỏ bừng, thở hồng hộc, đến khi nghe Kiều Phong sai đi cùng Trương Toàn Tường để cứu người, lúc ấy mới hơi trấn tĩnh, quay sang nói với hơn hai chục tên bang chúng thuộc bản đà: “Bản bang không may xảy ra biến loạn, đây là lúc toàn thể bọn ngươi phải nỗ lực liều chết để báo đáp ân đức của bang chủ. Tất cả phải xuất lực tuân theo hiệu lệnh của bang chủ, không được vi phạm.” Y sợ bốn vị trưởng lão cùng xông lên gây khó dễ, bang chúa chỉ có một mình, một tay khó vỗ cho kêu. Tuy phân đà Đại Nghĩa ít người, so với bọn phản loạn vẫn là thiểu số, nhưng thanh thế đã khá hơn nhiều.

Kiều Phong liền nói: “Không cần! Tưởng huynh đệ phải đem hết anh em bản đà đi, cứu người mới là việc lớn, chớ để sơ suất.” Tưởng đà chúa không dám trái lệnh, đáp: “Vâng !” Y lại tiếp: “Xin bang chủ thận trọng giữ mình, thuộc hạ sẽ quay về ngay.” Kiều Phong mỉm cười nói: “Nơi đây phần nhiều là anh em đã từng đồng sinh cộng tử, chẳng qua nhất thời có chuyện hiểu lầm, chả có gì nghiêm trọng đâu, ngươi cứ yên tâm.” Chàng lại nói tiếp: “Ngươi sai người đến gặp Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ nói rằng ước hẹn nơi Huệ Sơn xin hoãn lại bảy ngày.” Tưởng đà chủ khom lưng chấp lệnh, dẫn bang chúng trong bản đà lên đường ngay.

Kiều Phong tuy miệng nói ung dung nhưng trong lòng hết sức lo ngại, thấy hơn hai chục bang chúng trong Đại Nghĩa phân đà đi rồi, trong khu rừng hạnh ngoài Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ra, còn lại hơn hai trăm người đều tham dự âm mưu. Giả tỷ có người hô một tiếng thì tất cả sẽ cùng xông lên, quả thực thật khó đối phó. Chàng nhìn quanh quần hào thấy ai nấy vẻ mặt ngượng ngập, có người cố ra vẻ trấn tĩnh, có kẻ lại hốt hoảng, một số ít thì nhấp nhổm như muốn bỏ chạy thoát thân. Chung quanh hơn hai trăm người, không ai nói lời nào, thế nhưng nếu có người chủ xướng lập tức biến loạn sẽ bùng lên ngay.

Lúc đó trời đã sâm sẩm tối, hình bóng chỉ còn thấy mờ mờ, bên bìa rừng sương mù đã bắt đầu tỏa xuống. Kiều Phong nghĩ thầm: “Lúc này chỉ còn cách bình tĩnh mà đợi, tốt hơn hết là ta chuyển tâm ý mọi người sang hướng khác, đợi cho bọn Truyền Công trưởng lão trở về thì đại sự mới ổn được”, Chàng chợt nhìn thấy Đoàn Dự, bèn nói: “Các vị huynh đệ! Bữa nay ta rất vui mừng vì mới kết giao được một vị hảo bằng hữu. Người huynh đệ mới kết nghĩa của ta là Đoàn Dự công tử đây.”

Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người nghe nói anh chàng đồ gàn kia đã cùng với Kiều bang chủ của Cái Bang bái kết đều rất lấy làm ngạc nhiên.

Lại nghe Kiều Phong nói tiếp: “Đoàn huynh đệ, để ta đưa ngươi đi chào các nhân vật thủ lĩnh Cái Bang.” Chàng cầm tay Đoàn Dự dẫn đến lão râu bạc sử cây giản có ngạnh, nói: “Vị này là Tống trưởng lão, là nguyên lão mà bản bang ai nấy đều kính trọng. Cây thiết giản rằng ngược của trưởng lão đã vùng vẫy giang hồ từ thuở hiền đề chưa ra đời.” Đoàn Dự đáp: “Ngưỡng mộ đã lâu. Hôm nay được gặp cao hiền, thật là may mắn vô cùng.” Nói xong ôm quyền hành lễ, Tống trưởng lão miễn cưỡng vái trả lại.

Kiều Phong lại đưa chàng đến gặp ông già lùn mập cầm cương trượng nói: “Vị này là Hề trưởng lão, một cao thủ có tiếng về ngoại công của bản bang. Mười năm trước đây, ca ca vẫn thường đến nhờ trưởng lão dạy võ công cho. Có thể nói Hề trưởng lão đối với ta là nửa thầy nửa bạn, tình nghĩa rất là thâm trọng.” Đoàn Dự đáp: “Mới rồi tại hạ được coi Hề trưởng lão động thủ cùng vị huynh đài kia, võ công quả là ghê gớm, bội phục, bội phục!” Hề trưởng lão bản tính bộc trực, thấy Kiều Phong không quên tình xưa nghĩa cũ, đặc biệt nhấn mạnh đến việc ngày xưa mình chỉ điểm võ công cho y, vậy mà mình lại hồ đồ nghe lời Toàn Quan Thanh, không khỏi hổ thẹn tự trách.

Kiều Phong đưa Đoàn Dự đến chào người dùng chiếc bao bố làm vũ khí là Trần trưởng lão xong, đang định đưa chàng đến chào người mặt đỏ sử Quỉ đầu đao là Ngô trưởng lão, bỗng phía đông bắc có tiếng chân rầm rập, tiếng người lao xao, nghe có ai đó hỏi dồn: “Bang chủ ra sao rồi? Phản đồ ở nơi nào?” Lại có tiếng người nói: “Mắc phải gian kế, bị bắt giữ quả là bực mình.”

Kiều Phong nghe thấy cả mừng nhưng vẫn không khiếm khuyết lễ nghi. Chàng tiếp tục đưa Đoàn Dự đến chào, nói rõ danh vọng và thân phận Ngô trưởng lão, lúc đó mới quay lại. Chỉ thấy Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão cùng Đại Nhân, Đại Dũng, Đại Lễ, Đại Tín các đà chủ dẫn theo một đoàn bang chúng cùng chạy đến. Mọi người đều có nhiều điều muốn nói, song trước mặt bang chủ ai cũng không dám tự ý lên tiếng.

Kiều Phong nói: “Các anh em chia nhau ngồi xuống, ta có chuyện muốn trình bày.” Mọi người vâng lệnh, kẻ bên đông, người bên tây, kẻ đằng trước, người đằng sau, tùy theo chức phận mà ngồi. Trong mắt Đoàn Dự, Cái Bang tưởng chừng ngồi lung tung, thực ra ai trước, ai sau địa vị đều rất rõ ràng minh bạch.

Kiều Phong thấy mọi người đều giữ qui củ đã hơi yên lòng, mỉm cười, nói: “Cái Bang chúng ta được bằng hữu giang hồ nể mặt, trong hơn trăm năm qua coi là đệ nhất đại bang trong võ lâm. Thế nhưng bọn ta người nhiều thế mạnh, suy nghĩ có chỗ khác nhau là chuyện không thể tránh được. Có gì thì nên trình bày đầu đuôi rõ ràng, bàn luận cho kỹ, tất cả mọi người là anh em tương thân tương ái, chớ coi những khác biệt nhất thời là quá quan trọng.” Chàng nói mấy câu đó thần sắc thật là hòa ái hiền từ, trong bụng đã quyết tâm xử sự bình tĩnh để tiêu giải một trường đại họa, không để Cái Bang lâm vào cảnh tự tàn sát lẫn nhau.

Tâm trạng mọi người vốn đang căng thẳng như sắp quyết một trận sống mái, nay nghe bang chủ nói vậy bỗng cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Một ông già mặt vàng ngồi mé hữu Kiều Phong đứng lên hỏi: “Xin hỏi Tống Hề Trần Ngô bốn vị trưởng lão, các ông sai người bắt giữ chúng tôi giam trên một chiếc thuyền nhỏ ở giữa Thái Hồ là có ý gì? “ Đó là Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính, xưa nay thiết diện vô tư, hết thảy mọi người lớn nhỏ trong bang, dù không phạm tội gì mà thấy mặt ông cũng e sợ ba phần.

Trong tứ lão thì Tống trưởng lão cao tuổi hơn cả, đương nhiên coi như thủ lãnh. Ông mặt hơi đỏ lên, đằng hắng một tiếng đáp: “Chúng… chúng ta là anh em, hoạn nạn có nhau đã lâu, dĩ nhiên là không ai có ác ý gì cả. Bạch… Bạch chấp pháp? Nên nể mặt lão huynh mà bỏ qua đi.”

Mọi người nghe thấy đều nghĩ Tống trưởng lão ăn nói hồ đồ. Trong bang xảy ra việc biến loạn phạm thượng động trời, thế mà lão chỉ nói “xin nể mặt lão huynh mà bỏ qua đi”, không lẽ chỉ một câu mà có thể bỏ qua?

Bạch Thế Kính đáp: “Tống trưởng lão bảo là không có ác ý, nhưng sự thực không phải thế. Ta và Truyền Công trưởng lão hai người, không những chỉ bị nhốt ở trên thuyền bỏ ngoài hồ, mà trên thuyền còn chất đầy củi rơm lưu huỳnh, bảo là nếu bọn ta có ý đào tẩu thì lập tức phóng hỏa đốt thuyền ngay. Thế mà Tống trưởng lão bảo là không có ác ý sao?” Tống trưởng lão đáp: “Cái đó… cái đó thật là quá tệ. Người cùng một nhà sao lại cạn tàu ráo máng đến thế, còn mặt mũi nào mà nhìn nhau?” Mấy câu nói sau cùng là ông ta nói với Trần trưởng lão,

Bạch Thế Kính lại chỉ vào một hán tử, lạnh lùng hỏi: “Ngươi đánh lừa ta lên thuyền, bảo là bang chủ gọi đến. Giả truyền hiệu lệnh bang chủ thì là tội gì?” Gã đó sợ đến nỗi người run như cầy sấy, lập cập đáp: “Đệ tử… thân phận hèn mọn, làm sao dám có chuyện phạm thượng khi chủ như thế? Đó là… đó là…” Y vừa nói vừa đưa mắt nhìn Toàn Quang Thanh, tỏ ra là Toàn đà chúa sai y lừa lão lên thuyền, nhưng y là thuộc hạ nên không dám nói toạc ra. Bạch Thế Kính lại hỏi: “Có phải mi vâng lệnh Toàn đà chúa không?”

Gã kia cúi đầu im lặng, không nói rằng phải cũng chẳng bảo là không. Bạch Thế Kính lại hỏi: “Toàn đà chủ bảo ngươi giả truyền hiệu lệnh bang chủ lừa ta lên thuyền, ngươi có biết là hiệu lệnh giả hay không?” Hán tử mặt cắt không còn một giọt máu, đứng đờ người ra.

Bạch Thế Kính cười lạt, hỏi: “Lý Xuân Lai, ngươi xưa nay vẫn là người cương trực thẳng thắn. Đại trượng phu có gan ăn cướp, lẽ nào lại chẳng có gan chịu đòn?” Lý Xuân Lai mặt bỗng lộ vẻ cứng cỏi, vỗ ngực một cái lớn tiếng đáp: “Bạch trưởng lão nói phải lắm. Lý Xuân Lai này đã làm nên tội, trưởng lão muốn chém giết, mổ xẻ thế nào cũng đành chịu, nếu Lý mỗ nhăn mặt cau mày thì không phải là hảo hán. Lúc Lý mỗ tống đạt mệnh lệnh bang chủ, đã biết rõ đó là lệnh giả.”

Bạch Thế Kính hỏi lại: “Thế thì vì bang chủ đối với ngươi có điều bất công hay vì ta đối với ngươi có điều lầm lỗi? Lý Xuân Lai đáp: “Không phải thế. Bang chủ đối với thuộc hạ nghĩa trọng như non, Bạch trưởng lão công minh chính trực, không ai dám dị nghị.” Bạch Thế Kính nghiêm giọng nói: “Thể thì vì cớ gì mà ngươi hành sự như vậy?” Lý Xuân Lai nhìn Toàn Quan Thanh đang quì dưới đất, lại nhìn Kiều Phong, lớn tiếng đáp: “Thuộc hạ vi phạm bang qui, có chết cũng đáng, cái nguyên nhân bên trong, thuộc hạ không dám nói ra”. Bàn tay y lật một cái, bạch quang thấp thoáng, nghe phập một tiếng, một lưỡi dao đã đâm vào trước ngực. Y ra tay vừa nhanh vừa chuẩn xác, đao đâm thẳng qua tim tắt thở chết ngay lập tức.

Các bang chúng đều “A” lên một tiếng kinh hoàng nhưng đâu vẫn ngồi đấy, không ai nhúc nhích.

Bạch Thế Kính vẫn mặt lạnh như tiền, nói: “Ngươi biết rõ hiệu lệnh là giả đã không bẩm báo cho bang chủ, lại đi lừa ta, chết là phải lắm.” Ông ta quay sang nói với Truyền Công trưởng lão: “Hạng huynh! Ai đã đánh lừa Hạng huynh lên thuyền để cầm tù?”

Đột nhiên giữa đám đông có một kẻ nhỏm lên, chạy vụt vào trong rừng.

Hồi 15: Dù người phụ ta, ta chẳng phụ người

Người này trên lưng đeo năm chiếc túi vải, Cái Bang gọi là ngũ đại đệ tử. Y hốt hoảng bỏ chạy, không cần hỏi cũng biết chính y đã đem hiệu lệnh giả để đánh lừa Hạng trưởng lão lên thuyền. Truyền Công, Chấp Pháp hai người nhìn nhau thở dài, không nói gì. Bỗng thấy một bóng người loáng qua, thân pháp rất mau lẹ phóng ra chặn gã đệ tử năm túi kia lại. Người đó mặt mũi hồng hào, tay cầm Quỉ đầu đao, chính là Ngô trưởng lão trong tứ đại trưởng lão. Lão hậm hực quát: “Lưu Trúc Trang, sao ngươi lại bỏ chạy?” Gã đệ tử ngũ đại kia hai chân bủn rủn, đáp: “Tôi… tôi… tôi…” Gã ấp úng nhắc lại tiếng “tôi” đến năm bảy lượt rồi không nói thêm được gì nữa.

Ngô trưởng lão nói: “Chúng ta đã là đệ tử Cái Bang thì phải biết tuân thủ di pháp của tổ tông. Đại trượng phu hành sự, đúng thì nói đúng, sai thì nói sai, dám làm dám chịu.” Ông ta quay lại nói với Kiều Phong: “Kiều bang chủ, bọn chúng tôi có âm mưu muốn phế bỏ bang chủ. Chuyện này Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão đều có tham dự, vì sợ hai vị trưởng lão Truyền Công, Chấp Pháp không đồng ý nên tính kế giam hai người lại. Chuyện đó cũng vì đại nghiệp của bản bang nên đành phải mạo hiểm mà làm. Hôm nay công việc chưa thành đã bị bang chủ chiếm được thượng phong, xin cứ tùy ý xử trí. Ngô Trường Phong này ở trong Cái Bang đã ba mươi năm, ai cũng biết không phải là kẻ tiểu nhân tham sống sợ chết.” Nói đến đây lão ném thanh Quỉ đầu đao ra xa nghe choang một tiếng, hai tay khoanh trước ngực ra vẻ hiên ngang không hề tỏ vẻ sợ sệt.

Ngô lão thẳng thắn đem việc âm mưu phế bỏ bang chủ ra kể, bang chúng ai nấy đều chấn động. Chuyện đó những người tham dự đều biết cả, nhưng chẳng một ai dám nói thẳng ra, Ngô Trường Phong là người đầu tiên tiết lộ.

Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính lớn tiếng nói: “Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão phản bội bang chủ, vi phạm điều thứ nhất của bang qui. Chấp pháp đệ tử, trói bốn vị đó lại.” Các đệ tử chấp pháp thủ hạ của ông ta vâng lời, liền lấy dây gân bò trói Ngô Trường Phong trước. Ngô Trường Phong mỉm cười đứng yên không chống cự gì cả. Kế đó Tống Hề hai trưởng lão cũng vứt binh khí đi, giơ hai tay chịu trói.

Trần trưởng lão bộ mặt thật là khó coi, càu nhàu: “Hèn nhát! Thật là hèn nhát! Giả tỷ hợp sức lại đánh một trận vị tất đã thua, có điều ai cũng sợ Kiều Phong.”

Y nói quả không sai, ngay khi Toàn Quan Thanh vừa bị chế ngự, những người tham dự mật mưu nếu cùng xông lên thì Kiều Phong không khỏi quả bất địch chúng. Ngay cả khi Chấp Pháp, Truyền Công hai trưởng lão cùng Đại Nhân, Đại Nghĩa, Đại Tín, Đại Dũng, Đại Lễ năm đà chủ đã đến nơi thì bên phản loạn vẫn đông hơn. Thế nhưng Kiều Phong hiên ngang đứng trước mặt mọi người, tự nhiên mà uy phong lẫm lẫm, không ai dám động thủ để cho cơ hội qua mất, đến nỗi đều phải bó tay. Đến khi Tống Hề Ngô ba trưởng lão đã bị trói rồi, Trần trưởng lão dù có quyết tâm chiến đấu thì cũng vào thế một bàn tay vỗ không kêu. Y thở dài quẳng chiếc bao bố đi, để cho hai tên đệ tử chấp pháp lấy dây gân bò trói gô lại.

Lúc đó trời đã tối đen, Bạch Thế Kính sai đệ tử đốt củi lên, ánh lửa bập bùng chiếu vào mặt những người bị trói, ai nấy ủ rũ đầy vẻ chán chường. Bạch Thế Kính chăm chăm nhìn Lưu Trúc Trang nói: “Lưu Trúc Trang! Ngươi thử nghĩ xem hành động của ngươi có còn xứng đáng là đệ tử Cái Bang nữa thôi? Ngươi có tự xử được không, hay phải người ngoài động thủ?” Lưu Trúc Trang lắp bắp: “Tôi… tôi…” Y không nói nên lời, rút đơn đao ở bên mình ra toan tự vẫn nhưng tay run bần bật, không sao đưa lên cắt cổ được. Một tên đệ tử chấp pháp quát lớn: “Thật là đồ vô dụng! Sao ngươi ở trong Cái Bang được lâu đến thế?” Y nắm tay Lưu Trúc Trang, dùng sức cứa mạnh một cái cắt đứt yết hầu. Lưu Trúc Trang gượng nói: “Tôi… cám… cám ơn.” Rồi tắt thở.

Theo lề luật Cái Bang, người nào phạm tội tử hình nếu biết tự xử lấy thì trong bang vẫn coi là anh em, chỉ một cái chết là đủ rửa sạch tội lỗi. Còn như để cho chấp pháp đệ tử phải ra tay thì bao nhiêu tội lỗi vĩnh viễn không bao giờ hết. Mới rồi gã đệ tử chấp pháp thấy Lưu Trúc Trang quả có ý định tự vẫn nhưng không đủ sức, bèn tới giúp y một tay.

Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích bốn người vô tình chứng kiến một trường đại biến trong nội bộ Cái Bang, đều biết mình là người ngoài xem trộm chuyện riêng của người ta thật không phải chút nào. Nhưng giả tỷ lúc ấy mà họ bỏ đi thì e gây ra nghi kỵ cùng Cái Bang, đành phải ngồi xa xa làm như không quan tâm đến. Trước mắt đã thấy Lý Xuân Lai và Lưu Trúc Trang liên tiếp máu đổ thây phơi, bốn vị trưởng lão Tống Hề Trần Ngô vừa mới oai phong lẫm liệt mà giờ nhất nhất đều chịu trói, e rằng sẽ còn nhiều biến cố kinh tâm động phách khác nữa. Bốn người nhìn nhau thấy mình ở vào hoàn cảnh thật khó xử. Đoàn Dự đã thành anh em kết nghĩa với Kiều Phong, rồi khi Phong Ba Ác trúng độc, Kiều Phong lại đòi lấy thuốc giải khiến cho Vương Ngữ Yên và hai nàng Châu Bích đều có lòng cảm kích. Lúc này thấy chàng bình định được nội loạn, ai nấy đều hoan hỉ.

Kiều Phong ngồi chết lặng ở một bên, thắng lợi mà không thấy vui mừng. Chàng nghĩ lại mình từng chịu ơn sâu của Uông bang chủ truyền chức vị, tám năm chấp chưởng Cái Bang trải không biết bao nhiêu phong ba bão táp, trong thì hòa giải phân tranh, ngoài thì đánh lui cường địch, thủy chung lúc nào cũng hết lòng hết sức, không một chút tư tâm, chỉnh đốn Cái Bang trở nên thịnh vượng, tiếng tăm lừng lẫy trong chốn giang hồ. Nghĩ lại mình chỉ có công chứ không có tội, thế nhưng vì sao ngần ấy người trong bang lại cấu kết nhau mưu phản? Nếu bảo là Toàn Quan Thanh mang dã tâm tính chuyện khuynh loát bản bang, thì sao những nguyên lão như Tống trưởng lão, Hề trưởng lão, cả người tính tình thẳng thắn như Ngô trưởng lão cũng vào hùa? Chẳng lẽ mình vô ý làm chuyện gì không phải với anh em mà không tự biết?

Bạch Thế Kính dõng dạc nói: “Các vị huynh đệ! Kiều bang chủ kế nhiệm Uông bang chủ làm thủ lĩnh bản bang, chẳng phải dùng mưu chước hay thủ đoạn bất chính để chiếm đoạt địa vị. Năm xưa Uông bang chủ đã thử ông ta ba vấn đề nan giải, sai lập bảy đại công lao lúc đó mới truyền thụ Đả Cẩu Bổng. Kỳ đại hội ở Thái Sơn, bản bang bị người ta bao vây dồn vào chỗ chết, nhờ Kiều bang chủ đánh bại chín tên cường địch mới chuyển nguy thành an, chuyện đó nhiều anh em đã chính mắt thấy. Trong tám năm qua, bản bang ngày càng thêm hưng thịnh, ai mà chẳng biết đó là nhờ công Kiều bang chủ chủ trì. Kiều bang chủ là người nhân nghĩa, xử sự công minh, thiết tưởng bọn ta hết lòng yêu kính cũng chưa đủ đền ơn, vậy mà sao lại có kẻ đem lòng phản trắc? Toàn Quan Thanh, ngươi nói cho mọi người cùng nghe đi!”

Toàn Quan Thanh đã bị Kiều Phong vỗ vào á huyệt, tuy y nghe rõ lời Bạch Thế Kính mà không sao mở miệng đáp lại được. Kiều Phong bước lên vỗ nhẹ lên lưng y hai cái để giải huyệt rồi nói: “Toàn đà chủ! Kiều Phong này có điều chi không phải với anh em, xin cứ thẳng thắn nói ra, đừng e ngại úy kỵ làm gì.”

Toàn Quan Thanh đứng nhỏm lên nhưng đùi vẫn còn tê dại, một bên gối lại khuỵu xuống, lớn tiếng đáp: “Hiện nay thì bang chủ chưa làm điều gì càn rỡ đối với anh em nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ làm.” Y nói xong câu đó mới gượng đứng lên được.

Bạch Thế Kính lớn tiếng mắng: “Ngươi không được nói càn! Kiều bang chủ xử sự quang minh lỗi lạc, từ trước tới giờ chưa có một điều gì lầm lẫn thì sau này làm sao có sự gì đáng trách. Ngươi ăn nói tuyệt vô chứng cớ, xách động nhân tâm bội phản bang chủ. Ta nói thẳng, cái tiếng đồn đó cũng đã đến tai ta rồi nhưng lão gia đây nghe chuyện bậy bạ tức mình, đánh cho cái đứa nói nhăng kia một quyền gãy ba cái xương sườn. Chỉ có bọn mê muội hồ đồ mới nghe lời đồn nhảm. Ngươi nói qua nói lại cũng chỉ có mấy câu đó, thôi mau tự xử đi cho xong.”

Kiều Phong nghĩ thầm: “Thì ra ở sau lưng ta đã có lời đồn đãi. Bạch trưởng lão đã nghe rồi, lại không tiện nói cho ta hay, thế thì hẳn là chuyện khó nghe lắm. Đã là đại trượng phu thì có gì phải giấu giếm bưng bít”. Chàng bèn từ tốn nói: “Bạch trưởng lão đừng nóng, cứ để Toàn đà chúa nói rõ ràng minh bạch xem sao. Ngay cả Tống trưởng lão, Hề trưởng lão cũng chống lại ta, nhất định Kiều Phong này phải có chỗ lầm lỗi.”

Hề trưởng lão kêu lên: “Ta chống lại bang chủ quả là sai trái, không cần phải nói thêm. Khi nào tuyên án, ta sẽ tự cắt cái cổ lùn tịt này, hai tay bưng đầu đưa lên bang chủ là xong.” Lời lão nói tuy có vẻ hoạt kê nhưng mọi người đều cảm thấy thương tâm vô hạn, không ai nỡ cất tiếng cười.

Bạch Thế Kính nói: “Bang chủ dạy phải lắm. Toàn Quan Thanh, người nói đi!” Toàn Quan Thanh thấy bốn vị trưởng lão Tống Hề Trần Ngô đồng mưu với mình đều đã bị trói, thật thua không còn đường gỡ nhưng cũng cãi chày cãi cối: “Mã phó bang chủ bị người ta sát hại, ta tin là do Kiều Phong sắp xếp.” Kiều Phong giật nảy người, cả kinh hỏi lại: “Cái gì?” Toàn Quan Thanh đáp: “Trong lòng người chán ghét Mã phó bang chủ, chỉ muốn mau nhổ phứt cái gai trong mắt để ngôi bang chủ được vững vàng.” Kiều Phong chậm rãi lắc đầu: “Không phải thế. Ta với Mã phó bang chủ tuy giao tình không thân thiết, nói năng không hợp tính nhưng xưa nay chưa từng có ác ý với ông ta. Hoàng thiên chứng giám, Kiều Phong này nếu có ý gia hại Mã Đại Nguyên thì thân bại danh liệt, chịu ngàn vạn mũi dao, anh hùng thiên hạ đều phỉ nhổ.” Mấy câu đó nghe thật thành khẩn, đầy vẻ anh hùng khí khái, không một ai dám tỏ vẻ hoài nghi.

Toàn Quan Thanh lại tiếp: “Thế thì sao bọn ta đến Cô Tô tìm nhà Mộ Dung để báo thù, ngươi lại đi cấu kết với địch hết lần này đến lần khác?” Y chỉ vào bọn ba người Vương Ngữ Yên nói: “Ba ả này là gia nhân quyền thuộc của Mộ Dung Phục, ngươi chăm chăm bảo vệ.” Lại chỉ vào Đoàn Dự nói: “Còn tên này là bằng hữu của Mộ Dung Phục, người lại cùng y kết nghĩa chi lan.”

Đoàn Dự xua tay liên tiếp ngắt lời: “Sai bét, sai bét! Tại hạ không có bạn bè gì với Mộ Dung Phục, mặt mũi hắn thế nào tại hạ cũng chưa biết. Còn ba vị cô nương này, nói là gia nhân thân thích của Mộ Dung công tử thì còn có lý, chứ nói là quyến thuộc thì sai. Chàng nghĩ bụng: “Vương Ngữ Yên chỉ là thân thích của Mộ Dung Phục chứ đâu đã là quyến thuộc, hai đằng khác xa không thể không đính chính.”

Toàn Quan Thanh đáp: “Tên Bao Bất Đồng luôn mồm sai bét sai bét hiện là trang chủ Kim Phong Trang, Nhất trận phong Phong Ba Ác là trang chủ Huyền Sương Trang đều là thuộc hạ của Mộ Dung Phục. Hai gã đó nếu không được Kiều Phong giải vây thì một gã trúng độc tán mạng, một gã bị loạn đao phân thây. Chuyện đó ai ai cũng chính mắt trông thấy, ngươi còn cãi được nữa chăng?”.

Kiều Phong thủng thỉnh đáp: “Cái Bang chúng ta lập đã mấy trăm năm, được tôn kính trên chốn giang hồ chẳng phải vì người đông thế mạnh võ công cao cường, mà vì chúng ta hành động nghĩa hiệp giữ gìn công đạo. Toàn đà chủ, ngươi nói ta bảo vệ cho ba cô gái này? Đúng lắm, ta quả có bảo vệ cho họ, cũng là bảo vệ thanh danh của bản bang mấy trăm năm qua, chẳng nỡ để cho anh hùng thiên hạ bảo là các trưởng lão Cái Bang xúm nhau hiếp đáp ba cô gái yếu ớt. Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão, có ai không là tiền bối nổi tiếng võ lâm? Thanh danh của Cái Bang và bốn trưởng lão, tuy ngươi coi là nhẹ, nhưng anh em trong bang có ai mà không coi trọng.”

Mọi người nghe mấy câu đó, ai nấy liếc nhìn bọn Vương Ngữ Yên ba cô gái liễu yếu đào tơ đều cho là cực kỳ hữu lý. Nếu việc mình làm khó dễ mấy người này mà truyền ra ngoài thì thanh danh của Cái Bang ắt bị tổn thương rất lớn.

Bạch Thế Kính hỏi: “Toàn Quan Thanh, người còn gì để nói nữa chăng?” Rồi quay sang nói với Kiều Phong: “Bang chủ, cái thứ bạn đồ không biết đại thể này, không việc gì phải phí lời, cứ chiếu theo tội phản nghịch phạm thượng trong bang qui mà trừng trị.”

Kiều Phong nghĩ thầm: “Bạch trưởng lão nhất quyết xử tử Toàn Quan Thanh càng sớm càng tốt để y khỏi thổ lộ chuyện bất lợi cho ta.” Ông dõng dạc nói: “Toàn đà chủ lôi kéo được nhiều người âm mưu nổi loạn, hẳn phải có nguyên nhân trọng đại. Đại trượng phu hành sự, đúng thì bảo đúng, sai thì bảo sai. Các vị huynh đệ, Kiều mỗ có việc gì lầm lỗi, xin nói rõ ra.”

Ngô trưởng lão chép miệng thở dài nói: “Bang chủ, ngươi là đại gian hàng giả ngây giả điếc, hoặc là hảo hán tử lòng dạ thẳng ngay, Ngô Trường Phong này không đủ tài xét đoán. Thôi, ngươi cứ hạ sát ta đi!” Kiều Phong trong lòng càng thêm nghi hoặc, hỏi lại: “Ngô trưởng lão, sao trưởng lão bảo ta là kẻ gian hùng? Vậy trưởng lão… trưởng lão nghi ta ở chỗ nào?” Ngô Trường Phong lắc đầu nói: “Chuyện này nói ra liên quan quá nhiều, nếu như truyền ra ngoài thì Cái Bang không ngóc đầu lên được, người ta sẽ coi bản bang chẳng ra gì nữa. Bọn ta vốn đã định một đao giết ngươi đi là xong.”

Kiều Phong như rơi vào năm dặm mây mù, không hiểu đầu đuôi ra sao, lẩm bẩm: “Sao vậy? Ta… ta có điều chi?” Chàng lại ngửng đầu lên, hỏi: “Ta cứu hai thủ hạ đắc lực của Mộ Dung Phục, các người nghi ta cấu kết với họ, phải không nào? Thế nhưng các người đã mưu tính phản loạn trước rồi, chuyện cứu người là về sau, có liên can gì đâu? Hơn nữa, chuyện này phải hay quấy chưa nói được, ta biết Mã phó bang chủ không phải do Mộ Dung Phục làm hại.”

Toàn Quan Thanh hỏi lại: “Làm sao ngươi biết?” Câu này trước đã hỏi rồi, nhưng giữa chừng lại phát sinh biến cố nên chưa có câu trả lời, lúc này y lại nêu ra. Kiều Phong đáp: “Ta nghĩ Mộ Dung Phục là đại anh hùng, hảo hán tử, có lý đâu lại hạ thủ giết Mã nhị ca.”

Vương Ngữ Yên nghe Kiều Phong khen biểu ca mình là “đại anh hùng, hảo hán tử” thì khoan khoái vô cùng. Nàng nghĩ thầm: “Vị Kiều bang chủ này quả thực là đại anh hùng, hảo hán tử.” Còn Đoàn Dự bất giác chau mày, nghĩ bụng: “Chưa chắc, chưa chắc! Mộ Dung Phục đã thấy gì là đại anh hùng, hảo hán tử đâu?”

Toàn Quan Thanh lại lên tiếng: “Trong hai tháng qua, cao thủ trên giang hồ bị hại quá nhiều, ai cũng chết về môn tuyệt kỹ của chính mình. Nếu không phải là độc thủ của Cô Tô Mộ Dung thì còn ai vào đây? Hành vi tàn ác ra tay giết bằng hữu võ lâm như thế, có chỗ nào mà bảo là anh hùng hảo hán?”

Kiều Phong thủng thẳng đi đi lại lại, nói: “Các vị huynh đệ! Chiều hôm qua, ta đang ngồi uống rượu trên Vọng Giang Lầu ở đất Giang Âm, thượng lưu sông Trường Giang, có gặp một vị nho sinh trung niên, uống một hơi mười bát rượu lớn, mặt không đổi sắc, quả là tửu lượng cao, hảo hán tử.”

Đoàn Dự nghe đến đây, không khỏi mỉm cười nghĩ thầm: “Thì ra hôm qua đại ca đã cùng với người ta uống rượu thi rồi. Hễ ai tửu lượng cao, uống rượu sảng khoái, đại ca bèn thích thú khen ngay là hảo hán, chỉ sợ lầm thôi”.

Lại nghe Kiều Phong kế tiếp: “Ta cùng y đối ẩm ba bát, có đề cập đến nhân vật võ lâm Giang Nam, y tự cho rằng mình chưởng pháp đứng thứ nhì, còn thứ nhất là Mộ Dung Phục công tử. Ta cùng y đối ba chưởng, chưởng đầu và chưởng thứ hai y đỡ được, đến chương thứ ba bát rượu y đang cầm bị chấn động rơi vỡ, mảnh văng lên mặt máu chảy đầm đìa. Y thần sắc vẫn như thường, nói: Tiếc quá! Tiếc quá! Uổng mất một bát rượu. Thấy gã hào sảng như vậy, ta sinh lòng yêu mến, không đánh ra chưởng thứ tư nữa mà nói: Các hạ chưởng pháp tinh diệu, quả không hổ bốn chữ Giang Nam Đệ Nhị. Y bèn đáp: Ở Giang Nam thì thứ hai nhưng trong thiên hạ thì thứ bét. Ta nói: Huynh đài bất tất quá khiêm nhường, cứ chưởng pháp mà luận, huynh đài đúng là cao thủ hạng nhất. Y nói: Thì ra Kiều bang chủ của Cái Bang đến đây, ta thua mà mười phần bội phục, cũng may các hạ ra tay nhẹ đòn không để ta bị thương. Ta xin mời các hạ một bát rượu nữa. Thế rồi hai chúng ta mỗi người uống luôn ba bát nữa. Đến khi chia tay, ta hỏi họ tên thì gã bảo họ Công Dã, tên Càn, là thuộc hạ của Mộ Dung công tử, trang chủ Xích Hà Trang. Gã còn mời ta về trang viên uống rượu ba ngày. Hỡi các huynh đệ, người như thế huynh đệ nghĩ sao? Có đáng kết bạn không?”

Ngô Trường Phong hăng hái đáp: “Gã Công Dã Càn đó quả là hảo hán tử, hảo bằng hữu. Bang chủ, bao giờ có dịp cho lão gặp mặt y.” Ngô lão quên mất mình là kẻ phản nghịch phạm thượng đang bị tù tội, lát nữa sẽ đưa ra xử tử, vừa nghe đến anh hùng hảo hán bất giác sinh lòng yêu mến muốn kết bạn ngay. Kiều Phong mỉm cười, trong bụng than thầm: “Ngô Trường Phong thật là người hào sảng, không ngờ lại liên can vào âm mưu phản nghịch.” Tống trưởng lão lại hỏi: “Bang chủ, rồi sau ra sao?” Kiều Phong đáp: “Ta cáo biệt Công Dã Càn rồi, liền thẳng đường đi Vô Tích. Đi tới canh hai chợt gặp hai người đứng ở hai đầu một chiếc cầu nhỏ cãi nhau ỏm tỏi. Khi đó trời đã tối mịt, sao lại còn người tranh biện gì đây? Ta thấy lạ mới tới gần xem, thì ra chiếc cầu đó là một thân cây bắc ngang, một đầu là một hán tử mặc áo đen, đầu kia là một tên nông phu gánh một gánh phân, hai người đang tranh nhau sang trước. Hán tử áo len bảo tên nông phu lui trở lại, vì gã tới đầu cầu trước phải được quyền ưu tiên. Tên nông phu thì lấy lẽ mình gánh nặng không trở gót được, bảo gã hán tử lùi lại để nhường mình sang trước. Gã áo đen nói: Đã thi gan từ canh một sang canh hai rồi, đứng đến sáng thì đứng chứ ta nhất định không nhượng bộ. Tên nông phu nói: Ngươi không sợ ngửi phân thối thì cứ đứng đây. Gã áo đen đáp: Ngươi không sợ đòn gánh đè đau vai thì cứ đứng chịu cho tới sáng.” Ta thấy tình hình như thế thật tức cười, nghĩ bụng: Anh chàng áo đen này tính tình thật cổ quái, lùi lại nhường bước cho người thì đã sao, đứng đối diện với người gánh phân thì có gì là thú? Nghe câu chuyện thì họ đã đứng đây một canh rồi. Ta nổi tính hiếu kỳ cũng muốn xem kết quả ra sao, để xem cuối cùng gã áo đen sợ thối phải bỏ cuộc, hay tên nông phu mệt quá phải đầu hàng. Nhưng đứng gần hôi quá không chịu nổi, ta phải đứng xa xa trên đầu gió, vẫn nghe hai người tiếp tục cãi nhau. Vì không quen thổ ngữ Giang Nam nên họ nói gì ta cũng không rõ lắm, đại khái là ai cũng nói mình có lý. Tên nông phu kia cứng cổ không vừa, gánh phân từ vai trái đổi sang vai phải, lại từ vai phải đổi qua vai trái nhưng nhất định không chịu lùi một bước.”

Đoàn Dự hết nhìn Vương Ngữ Yên lại nhìn hai nàng A Châu, A Bích, thấy ba cô gái tủm tỉm cười, lắng tai nghe xem chừng vô cùng thú vị, nghĩ thầm: “Hiện nay trong bang đang đại biến, tình thế cực kỳ khẩn cấp, vậy mà đại ca vẫn bình tĩnh kể câu chuyện tầm thường. Kiều đại ca anh hùng như thế, sao vẫn còn tính trẻ con?”. Ngờ đâu tất cả mấy trăm bang chúng Cái Bang cũng đều chăm chú theo dõi, chẳng ai xem câu chuyện Kiều Phong đang kể là nhàm chán.

Kiều Phong lại tiếp tục: “Ta đứng coi một hồi mới thấy kinh ngạc, phát giác gã áo đen kia đứng trên cầu khỉ mà thân hình vững chãi như núi, chính là một người mang võ công thượng thừa. Còn tên nhà quê gánh phân kia thì chỉ là một người bình thường, tuy vạm vỡ rắn rỏi nhưng không biết chút võ công nào. Ta nghĩ thầm: Lấy võ công mà nói thì gã hán tử kia chỉ giơ ngón tay ra đẩy nhẹ một cái là tên nông phu cả người lẫn phân rơi tòm xuống rạch. Còn nếu như y không muốn giở võ, lại không chịu nhường đối phương thì chỉ cần nhảy nhẹ một cái là vọt qua đầu tên nông phu thật dễ dàng. Vậy mà y lại nhất định ăn thua đủ với người gánh phân, mới thật tức cười. Lại nghe người áo đen cao giọng quát: Này, ngươi mà không chịu nhường đường thì ta chửi cho mà xem. Tên nông phu cũng chẳng vừa: Chửi thì chửi, ngươi biết chửi chẳng lẽ ta không biết chửi hay sao? Thế là y mồm năm miệng mười cất tiếng chửi trước. Người áo đen cũng chẳng kém, hai bên điều qua tiếng lại, bao nhiêu tiếng tục tĩu bẩn thỉu lôi ra hết. Hai người chửi nhau bằng thổ ngữ Giang Nam, ta nghe mười câu chẳng hiểu được một. Rủa xả chửi bới độ nửa giờ, tên nông phu đã mỏi lắm, còn hán tử áo đen nội lực sung mãn nên vẫn thần khí đầy đủ. Tên gánh phân đứng đã lảo đảo, xem chừng chỉ độ thời gian uống một chén trà là sẽ ngã nhào xuống rạch. Đột nhiên tên nông phu thò tay vào thùng phân, bốc ra một nắm ném luôn vào mặt người áo đen. Người áo đen đâu có ngờ y lại giở trò bẩn thỉu như thế, chỉ kịp kêu lên một tiếng thì mồm miệng mặt mũi đã dính đầy phân. Ta kêu thầm: Chao ôi, gã này tự tìm cái chết, còn trách ai được nữa? Hán tử nổi giận hầm hầm, vung tay lên toan đánh một chưởng vào đầu tên nông phu.”

Đoàn Dự tuy tai nghe Kiều Phong kể chuyện, nhưng mắt chỉ nhìn Vương Ngữ Yên hé đôi môi anh đào, hết sức chăm chú lắng tai. Chàng lại thấy A Châu, A Bích hai người nhìn nhau mỉm cười, dường như đã biết cả rồi.

Lại nghe Kiều Phong kế tiếp: “Biến cố xảy ra rất mau lẹ, ta vì sợ phải ngửi mùi hôi nên đứng xa hơn mười trượng, muốn cứu tên nông phu cũng không thể nào kịp được. Ngờ đâu người áo đen kia vung chưởng sắp đánh xuống đầu tên gánh phân, đột nhiên ngừng tay giữa chừng cười ha hả nói: Lão huynh! Ngươi thi gan với ta đã chịu thua chưa? Tên công phu kia quả là cứng đầu, y thua rõ ràng nhưng nhất định không nhận, vẫn lý sự: Ta phải gánh phân nên ngươi mới được lợi thế. Có giỏi thì ngươi gánh phân cho ta, xem ai thua ai được? Người áo đen đáp: Ngươi nói phải lắm! Y giơ tay nhắc gánh phân trên vai người kia, duỗi thẳng tay ra cầm vào giữa đòn gánh mà nhấc lên. Tên nông phu thấy y một tay cầm gánh phân mà không trĩu xuống, không khỏi ngẩn người lắp bắp: Ngươi… ngươi… Người áo đen mỉm cười nói: Ta chỉ cầm thế này nhất định không đổi tay, hai ta cứ đứng đây. Ai thua phải húp hết gánh phần này. Tên nông phu kia thấy y sức khỏe như thần, hết dám tranh giành hơn thua, vội vàng lùi lại, ngờ đâu luống cuống bước hụt một cái rơi tòm ngay xuống rạch. Người áo đen thò tay nắm cổ áo y nhắc lên giơ thẳng ra. Thế là y một tay cầm gánh phân, một tay cầm người nhà quê, cười ha hả nói: Thú quá! Thú quá! Y tung người một cái nhẹ nhàng nhảy qua bờ bên kia, để cả người nhà quê lẫn gánh phân xuống, thi triển khinh công biến mất hút vào rừng cây.”

Kiều Phong tiếp tục dẫn dắt câu chuyện: “Các vị huynh đệ nghĩ xem, hán tử áo đen kia bị ném phân vào mồm, nếu muốn giết tên nông phu thật chỉ cần giơ tay một cái là xong, không ai trách y vô cớ hành hung. Hoặc giả y không muốn vô cớ giết người, đánh cho mấy quyền thì cũng là chuyện bình thường. Thế nhưng y không hề nổi nóng, không cậy mạnh hiếp đáp người yếu mới là đặc biệt, ở trong võ lâm ít người được như thế. Các vị huynh đệ, việc này chính mắt ta trông thấy, ta với y cách nhau quá xa, chưa chắc y đã phát hiện tung tích của ta để mà phải giữ ý tứ. Một người như thế, liệu có phải là hảo bằng hữu, hảo hán tử chăng?”

Cả bọn Ngô trưởng lão, Trần trưởng lão, Bạch trưởng lão ai nấy cùng reo lên: “Đúng lắm! Quả là hảo hán!” Trần trưởng lão lại nói: “Tiếc rằng bang chủ không hỏi họ tên y để cho bọn ta cùng biết trong võ lâm Giang Nam có nhân vật như thế.” Kiều Phong chậm rãi đáp: “Vị bằng hữu đó chẳng phải ai xa lạ, vừa cùng Trần trưởng lão động thủ, lưng bàn tay bị bò cạp độc cắn cho bị thương.” Trần trưởng lão kinh ngạc hỏi: “Là Nhất trận phong Phong Ba Ác đấy ư?” Kiều Phong gật đầu đáp: “Chính thị.”

Bấy giờ Đoàn Dự mới hiểu Kiều Phong kể tỉ mỉ câu chuyện vừa rồi chú ý để trần thuật tính cách Phong Ba Ác. Chàng lại nghĩ thầm: “Người này mặt mũi khó coi, thích đánh nhau, ưa hoạt náo nhưng thiên tính cực kỳ lương thiện, đúng là xét người không nên xét bề ngoài.” Hóa ra Vương Ngữ Yên chăm chú đứng nghe còn A Châu Á Bích chỉ nhìn nhau mà cười cũng vì hai nàng đã biết rõ tính tình Phong Ba Ác, hiểu ngay người làm chuyện ngược đời thế này đúng là y, nhất định không giết người vô tội.

Lại nghe Kiều Phong nói tiếp: “Trần trưởng lão! Cái Bang chúng ta vẫn được coi là đệ nhất đại bang trên giang hồ, ông lại là nhân vật trọng yếu trong bản bang, cả thân phận lẫn tên tuổi so với Phong Ba Ác của Giang Nam thật không kém chút nào. Phong Ba Ác kia chịu nhục mà không giết hại người vô cớ, lẽ nào cao thủ của Cái Bang lại thua sút người ta hay sao?” Trần trưởng lão mặt mày bẽn lẽn nói: “Bang chủ dạy chí phải. Bang chủ bảo tôi đưa thuốc giải cho y là muốn duy trì danh phận tiếng tăm của tôi, vậy mà tôi lại đem lòng oán trách, thật quả là ngu như bò.” Kiều Phong tiếp: “Việc duy trì danh tiếng của bản bang và thân phận của Trần trưởng lão cũng còn là thứ yếu. Chúng ta là người học võ, việc đầu tiên là không giết hại người vô tội. Dẫu cho Trần trưởng lão không phải là nhân vật đầu não bản bang, không phải là người danh tiếng lẫy lừng trong võ lâm, cũng không thể chưa điều tra cho rõ đen trắng đã đi giết người.” Trần trưởng lão cúi đầu đáp: “Trần Cô Nhạn này biết lỗi rồi.”

Kiều Phong thấy câu chuyện của mình đã thuyết phục được cả người ngang ngạnh nhất trong tứ đại trưởng lão là Trần Cô Nhạn, trong bụng thật mừng, chậm rãi nói tiếp: “Công Dã Càn hào khí hơn người, Phong Ba Ác đen trắng phân minh, Bao Bất Đồng hồn nhiên phóng khoáng, còn ba vị cô nương này ôn nhu lương thiện. Những người đó nếu chẳng phải là thuộc hạ Mộ Dung công tử thì cũng là thân thích bằng hữu. Người đời thường nói: Chọn bạn mà chơi. Các huynh đệ cứ bình tâm nghĩ lại xem, Mộ Dung công tử quen biết giao thiệp với những người như thế, không lẽ bản thân y lại là người đại gian đại ác, hèn hạ vô liêm sỉ?”

Các cao thủ trong Cái Bang ai nấy đều trọng nghĩa khí quí bạn bè, nghe Kiều Phong nói quả có lý nên không ít người lên tiếng phụ họa.

Toàn Quan Thanh lại nói: “Bang chủ, theo ý bang chủ thì kẻ sát hại Mã phó bang chủ không phải là Mộ Dung Phục hay sao?” Kiều Phong đáp: “Ta chưa dám nói Mộ Dung Phục đã giết Mã phó bang chủ mà cũng chưa dám nói y không phải là hung thủ. Việc báo cừu không phải chỉ một ngày một buổi, mình cần phải tra xét cho rõ ràng, nếu quả là Mộ Dung Phục thì nhất định sẽ bắt y đền mạng, còn như không phải là y thì phải bắt cho bằng được hung thủ thực sự mới thôi. Nếu ta hấp tấp giết nhầm người vô tội, chính thủ phạm lại đứng ngoài vỗ đít cười thầm Cái Bang ta hồ đồ ngu dốt, chúng ta không những có lỗi với người bị chết oan, có lỗi với Mã phó bang chủ mà còn làm bại hoại thanh danh của Cái Bang nữa. Lúc đó các anh em đi lại trên giang hồ bị người ta chê cười thì có gì thú vị không?”

Quần hùng Cái Bang nghe vậy ai nấy chạnh lòng. Truyền Công trưởng lão nãy giờ chưa nói gì, lúc này giơ tay vuốt chòm râu lưa thưa dưới cằm lên tiếng: “Bang chủ nói phải lắm! Phải lắm! Trước đây ta đã giết lầm một người vô tội, đến nay vẫn còn áy náy chưa yên.”

Ngô Trường Phong lớn tiếng nói: “Bang chủ, chúng tôi sở dĩ phản ông cũng vì tin lầm kẻ khác, tưởng là bang chủ cùng Mã phó bang chủ có sự bất hòa, đi cấu kết với nhà Mộ Dung hạ thủ ông ta. Bao nhiêu chuyện cũng từ đó mà ra, đến giờ nghĩ lại thấy mình quả là hồ đồ. Bạch trưởng lão, xin ông đem pháp đao ra, chiếu theo bang qui mà cho chúng tôi tự xử.”

Bạch Thế Kính mặt lạnh như tiền, trầm giọng nói: “Chấp pháp đệ tử, đem pháp đạo của bản bang ra. Chín tên thuộc hạ đồng thanh nói: “Tuân lệnh!” Mỗi người lấy trong túi đeo sau lưng ra một cái bao màu vàng, mở bao lấy ra một thanh đoản đao. Chín thanh đao vàng sáng chói xếp ngay ngắn, giống hệt nhau, lưỡi dao chiếu ra màu xanh biếc dưới ánh lửa bập bùng. Một tên chấp pháp đệ tử đem tới một cây gỗ, chín người đồng thời cầm dao đâm phập lút vào thân cây, đủ biết lưỡi đao sắc bén dị thường. Cả chín người cùng dõng dạc kêu lên: “Pháp đao đã đủ, không có gì sơ sót.”

Bạch Thế Kính thở dài một tiếng, tuyên án: “Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão nghe người nói càn, âm mưu phản loạn, làm nguy hại đến cơ nghiệp bản bang, tội đáng một đao xử tử. Đại Trí phân đà đà chủ Toàn Quan Thanh phao ngôn để đánh lừa người, xúi giục nổi loạn, tội chịu chín đao xử tử. Còn các đệ tử tham gia nổi loạn, chờ điều tra xong sẽ tùy tội định án.”

Khi ông tuyên phạt, mọi người ai nấy yên lặng không nói một lời. Ta nên biết rằng bất cứ bang hội nào trên giang hồ, tội bội phản bản bang, mưu hại bang chủ thì đương nhiên bị xử tử, không một ai dị nghị. Ngay lúc họ tham gia mưu phản cũng đã tự biết hậu quả thế nào rồi.

Ngô trưởng lão hiên ngang bước lên khom lưng cúi chào Kiều Phong nói: “Bang chủ, Ngô Trường Phong có lỗi với ông, xin tự xử lấy mình. Sau khi Ngô mỗ chết rồi, xin bang chủ tha thứ cho cái tội hồ đồ.” Lão nói xong đi đến chỗ đặt pháp đao, lớn tiếng nói: “Ngô Trường Phong tự xử đây! Xin đệ tử chấp pháp cởi trói cho.” Một tên chấp pháp đệ tử đáp: “Vâng!” Y tiến lên toan cởi dây trói. Kiều Phong bỗng quát lên: “Hãy khoan!” Ngô Trường Phong mặt mày xám ngắt, run run hỏi: “Bang chủ, tội nghiệt của lão lớn đến mức không được tự xử hay sao?

Theo qui củ Cái Bang, người phạm bang qui nếu tự sát thì sau khi chết rồi thanh danh vẫn còn, tội trạng không truyền ra ngoài. Trên giang hồ nếu ai nhắc nhở đến hành vi của y thì Cái Bang sẽ ra mặt can thiệp. Hảo hán trong võ lâm ai cũng lấy thanh danh làm trọng, không chịu để sau khi chết rồi còn có người nhiếc móc. Ngô Trường Phong thấy Kiều Phong ngăn không cho mình tự xử, bất giác cả kinh.

Kiều Phong không trả lời, đi đến bên đống pháp đao, dõng dạc nói: “Mười lăm năm trước, người Khất Đan xâm nhập Nhạn Môn Quan, Tống trưởng lão được tin chạy về cấp báo, ba ngày không ăn, bốn đêm không ngủ, dọc đường phi chết chín con tuấn mã, chính mình kiệt lực mà nội thương thổ huyết. Nhờ thế mà quân Đại Tống ta phòng bị kịp, kỵ binh người Hồ phải tháo lui. Đó là một đại công đối với quốc gia, tuy anh hùng trên giang hồ không được biết rõ ràng nhưng Cái Bang ta phải biết. Chấp Pháp trưởng lão! Tống trưởng lão công lao thật lớn, ông thử xét lại xem có thể đem công chuộc tội được không?”

Bạch Thế Kính đáp: “Bang chủ xin tha cho Tống trưởng lão, lời lẽ quả thật hữu lý. Thế nhưng bang qui đã viết rõ: Đại tội phản bang quyết không thể nào tha thứ, dẫu có đại công cũng không chuộc được, cốt để tránh cậy công lộng quyền, hành động bất pháp làm nguy hại đến cơ nghiệp lâu dài của bản bang. Bang chủ, ý kiến của ông không hợp bang qui, chúng ta không thể phá lề luật của bao nhiêu đời truyền lại.”

Tống trưởng lão nở một nụ cười buồn bã, tiến lên mấy bước nói: “Chấp Pháp trưởng lão nói rất đúng. Chúng tôi đã lên tới chức trưởng lão, thử hỏi ai là người chưa dày công hãn mã? Nhưng chẳng lẽ người nào cũng kể lể công lao ngày trước rồi muốn phạm tội gì cũng được hay sao? Tôi xin Bang chủ rộng thương cho được tự xử lấy mình.” Bỗng nghe mấy tiếng lách cách, sợi dây gân bò đang trói cổ tay ông ta đã bị bắt đứt.

Quần cái ai nấy đều biến sắc, sợi dây gân bò đó vừa dai vừa chắc, dù có dùng dao sắc bén cũng chưa chắc đã cắt được mau lẹ. Vậy mà Tống trưởng lão vùng tay ra là đứt ngay, quả thật xứng đáng đứng đầu Tứ lão Cái Bang. Tống trưởng lão vừa bứt được đây, liền đưa tay cầm pháp đao lên toan tự xử. Ngờ đâu có một luồng nội lực nhu hòa ở đâu ập tới, bàn tay còn cách pháp đao chừng một thước thì không tiến thêm được nữa, chính là Kiều Phong không để cho ông ta lấy được con dao.

Tống trưởng lão mặt biến sắc kêu lên: “Bang chủ, ông…” Kiều Phong giơ tay ra, chộp lấy một thanh pháp đao, Tống trưởng lão kêu lên: “Thôi đành vậy! Ta đã có ý giết bang chủ, thế này quả là báo ứng, mau hạ thủ đi.” Lưỡi pháp đao lóe lên, Kiều Phong đã đâm vào vai bên tả mình nghe soẹt một tiếng.

Cả bọn ăn mày kêu lên thất thanh, không ai bảo ai cùng đứng bật dậy. Đoàn Dự hốt hoảng kêu lên: “Đại ca! Đại ca!” Ngay cả Vương Ngữ Yên là người ngoài cuộc, thầy biến cố bất ngờ cũng mặt hoa nhợt nhạt, buột miệng gọi: “Kiều bang chủ, chớ nên…”

Kiều Phong nói: “Bạch trưởng lão, trong bang qui có một điều: Đệ tử bản bang phạm qui không thể tha thứ được, bang chủ nếu muốn khoan dung thì phải tự mình chảy máu mới rửa được tội cho người đó. Có đúng thế không?”

Bạch Thế Kính nét mặt vẫn rắn như đá, chậm rãi nói: “Bang qui quả có điều này. Thế nhưng bang chủ muốn tự đổ máu để cứu tội cho người cũng phải xét xem có đáng hay không.”

Kiều Phong đáp: “Chỉ cần không trái với lề luật của tổ tông là được rồi!” Ông quay lại nói với Hề trưởng lão: “Hề trưởng lão năm xưa chỉ điểm võ công cho ta, tuy không mang danh sự phụ mà thực sự đã là thầy, nhưng chuyện đó chỉ là ân đức riêng. Lại nghĩ đến việc năm trước Uông bang chủ bị năm cao thủ Khất Đan lập kế cầm tù trong động Hắc Phong ở núi Kỳ Liên để uy hiếp Cái Bang ta phải hàng phục. Uông bang chủ thân hình lùn mập, Hề trưởng lão vóc dáng cũng giống đôi phần nên giả làm Uông bang chủ, nguyện xin chết thay để bang chủ được thoát hiểm. Đó là đại công cả với quốc gia lẫn với bản bang, ta không thể không lấy máu rửa tội cho Hề lão.” Nói xong rút thanh đao thứ hai, vung lên nhẹ nhàng cắt đứt dây gân bò trói tay Hề trưởng lão, quay ngược đao lại đâm vào vai mình.

Mục quang Kiều Phong chầm chậm quay sang Trần trưởng lão. Trần trưởng lão vốn là người tâm địa hẹp hòi, năm xưa lỡ giết tôn trưởng phải thay họ đổi tên trốn đi. Trong lòng lão lúc nào cũng nơm nớp sợ người ta bới móc vết tích mình, thường có ý lẩn tránh Kiều Phong, hai người không thân mật với nhau bao giờ. Lão vừa thấy Kiều Phong nhìn mình liền lớn tiếng nói: “Kiều bang chủ, ta với ông không có giao tình gì, bình thời đắc tội đã nhiều, không dám mong ông lưu huyết xá tội.” Lão lật tay một cái, cánh tay từ đằng sau chuyển ra đằng trước nhưng cổ tay vẫn còn bị trói bằng gân bò. Thì ra môn Thông Tí Quyền của ông ta đã luyện đến mức xuất thần nhập hóa, hai cánh tay thông nhau dài ngắn tùy ý, hụp người xuống vươn tay ra đã cầm được một thành pháp đao.

Kiều Phong xoay tay lại, dùng thủ pháp tuyệt diệu giật lại đao một cách nhẹ nhàng rồi dõng dạc nói: “Trần trưởng lão! Kiều Phong này là một gã thô lỗ, không thích kết giao với những người hành sự cẩn thận tính nết tỉ mỉ, lại cũng không ưa những người không biết uống rượu không thích cười đùa. Đó là thiên tính của con người, chẳng biết thế là hay hay dở, Trưởng lão cùng ta tính tình không hợp, bình thời ít khi trò chuyện. Ta cũng không ưa Mã phó bang chủ, hễ thấy mặt ông ta là kiếm cớ chạy đi chỗ khác, thà rằng đi uống rượu ăn thịt chó với mấy đệ tử một túi, hai túi còn thú hơn. Cái tính khí đó ai cũng biết cả. Nhưng nếu vì thế mà ai tưởng ta muốn trừ khử Mã phó bang chủ cùng trưởng lão là cực kỳ sai lầm. Hai vị lão thành trì trọng, chưa từng say sưa, là điểm rất hay, Kiều mỗ này thật không bằng.” Nói đến đây, ông lại cầm thanh pháp đao đâm vào vai mình rồi tiếp: “Đại công đâm chết Tả Lộ Phó Nguyên Soái nước Khất Đan là Gia Luật Bất Lỗ, người ngoài không biết, không lẽ ta cũng không biết hay sao?”

Trong bang chúng liền có tiếng thì thầm to nhỏ, thanh âm hỗn loạn kinh ngạc, trầm trồ bội phục, Thì ra mấy năm trước quân Khất Đan tấn công, bỗng dưng mấy đại tướng liên tiếp mất mạng, ra quân bất lợi đành phải rút về, nhà Đại Tống thoát được một tai kiếp lớn. Trong số các đại tướng đột tử kia có cả Tả Lộ Phó Nguyên Soái là Gia Luật Bất Lỗ. Đó là đại công của Trần trưởng lão nhưng không mấy người biết.

Trần trưởng lão nghe Kiều Phong tuyên dương công trạng mình, trong lòng lấy làm hoan hỉ, lão khẽ nói: “Trần Cô Nhạn này được dương danh thiên hạ đều là nhờ vào đại ân đại đức của bang chủ.”

Cái Bang xưa nay ám trợ Đại Tống giúp nước cứu dân, nhưng không muốn cho kẻ địch nhòm ngó, nên mọi công cuộc dù thành hay bại cũng giữ kín không tiết lộ ra ngoài, vì thế mà trên giang hồ không ai biết đến, ngay trong bang cũng giữ bí mật. Trần Cô Nhạn xưa nay kiêu ngạo vô lễ, ỷ mình lớn tuổi hơn Kiều Phong, là bậc lão thành trong Cái Bang nên bình thời không chút khiêm cung, quần cái ai ai cũng biết. Bây giờ mọi người thấy bang chủ quên cả cựu hiềm, tự đổ máu rửa tội cho lão, đều cảm động.

Kiều Phong lại đến trước mặt Ngô trưởng lão nói: “Ngô trưởng lão, năm xưa trưởng lão một mình trấn thủ ải Ưng Sầu chống lại các cao thủ trong Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ khiến cho âm mưu hành thích Dương gia tướng không thành. Ngày đó Dương nguyên soái có ban cho trưởng lão một thẻ kim bài để ghi công. Trưởng lão lấy ra đây cho anh em coi sẽ được miễn tội.” Ngô Trường Phong đột nhiên mặt đỏ bừng lên, ra chiều bẽn lẽn ấp úng nói: “Cái đó… cái đó…” Kiều Phong lại nói: “Chúng ta đều là huynh đệ, Ngô trưởng lão có điều chi nan giải cứ nói toạc ra, đừng ngại ngùng gì” Ngô Trường Phong ấp úng: “Cái Kim Bài đó, không dám giấu bang chủ, đã… đã… để đâu mất rồi không thấy nữa.” Kiều Phong lấy làm lạ, hỏi: “Để đâu mà mất?” Ngô Trường Phong đáp: “Cái đó tự mình… hừ…” Lão định thần rồi nói lớn: “Hôm đó ta thèm rượu quá, trong túi không tiền, đem kim bài đi cầm mất rồi.” Kiều Phong cười ha hả nói: “Khoái thật! Khoái thật! Có điều như thế thật đắc tội với Dương nguyên soái.” Nói xong ông rút một thanh pháp đao, cắt đứt dây trói Ngô Trường Phong rồi lại đâm vào vai trái của mình.

Ngô Trường Phong lớn tiếng nói: “Bang chủ đại nhân đại nghĩa, cái mạng Ngô Trường Phong này từ nay giao cho bang chủ. Người ta có bảo bang chủ là gì gì chăng nữa, ta cũng không tin đâu.” Kiều Phong vỗ vai lão, cười nói: “Bọn mình đã là hạng ăn xin, không có cơm ăn rượu uống thì đến xin người ta, ai lại đem kim bài đi cầm bao giờ.” Ngô Trường Phong cười đáp: “Xin cơm thì dễ chứ xin rượu làm sao được. Chưa kịp mở miệng người ta đã từ chối tống cổ đi rồi.” Mọi người nghe y nói thế, ai nấy cười ồ. Chuyện xin rượu uống bị người ta từ chối, anh em ăn mày trải qua đã nhiều. Kiều Phong tha tội cho bốn trưởng lão, ai cũng thấy nhẹ mình như trút được gánh nặng. Mọi người đưa mắt nhìn Toàn Quan Thanh, nghĩ bụng y là người chủ mưu xúi bẩy, Kiều Phong dù có khoan hồng đại lượng đến đâu cũng không thể tha y. Kiều Phong đi đến trước mặt Toàn Quan Thanh nói: “Toàn đà chủ, ngươi còn muốn nói gì nữa không?” Toàn Quan Thanh đáp: “Bang chủ! Sở dĩ ta phản ngươi là vì giang sơn nhà Đại Tống, vì cơ nghiệp của Cái Bang. Nhưng kẻ đã nói cho ta hay chân tướng thân thế của ngươi, nay chắc là sợ bị giết nên không dám ra mặt. Thôi, ngươi chém phứt ta một đao đi là xong.” Kiều Phong trầm ngâm một hồi rồi nói: “Thân thế ta có điều chi không phải, ngươi cứ việc nói ra.” Toàn Quan Thanh lắc đầu: “Bây giờ ta có nói cũng không chứng cớ, chẳng ai thèm tin. Ngươi giết ta đi là hơn.”

Kiều Phong nghi hoặc vô cùng, lớn tiếng nói: “Kẻ đại trượng phu có điều muốn nói là nói, sao còn úp úp mở mở, toan nói rồi lại thôi? Toàn Quan Thanh, đã là hảo hán có chết cũng không sợ, còn việc gì phải sợ nữa?” Toàn Quan Thanh cười khẩy: “Phải đó, chết vẫn chẳng sợ thì còn việc gì phải sợ nữa? Họ Kiều kia, ngươi cứ vung đao giết ta đi, để ta khỏi phải sống trên đời mà nhìn thấy Cái Bang này lọt vào tay quân Hồ Lỗ, giang sơn gấm vóc nhà Đại Tống rơi vào tay Di Địch.” Kiều Phong hỏi lại: “Cái Bang sao lại lọt vào tay Hồ Lỗ? Ngươi nói rõ ra xem nào!” Toàn Quan Thanh đáp: “Ta đã bảo rồi mà! Bây giờ có nói anh em cũng không ai tin, còn bảo là Toàn mỗ ham sống sợ chết, khua môi múa mỏ. Ta đã sớm tìm cái chết, có đâu chết rồi còn để cho người ta chửi rủa.”

Bach Thế Kính lớn tiếng nói: “Bang chủ! Gã này lắm mưa nhiều kế, dẻo miệng nói càn một hồi e rằng bang chủ sẽ tha cho y đó. Chấp pháp đệ tử đâu, lấy pháp đao ra hành hình.”

Một tên đệ tử chấp pháp vâng mệnh rảo bước tiến ra, cầm một lưỡi pháp đao đến bên Toàn Quan Thanh.

Kiều Phong vẫn nhìn chằm chặp vào Toàn Quan Thanh, thấy y đầy vẻ công phẫn nhưng thần sắc không lộ vẻ gian trá điêu ngoa, cũng không ra chiều khiếp sợ thì trong lòng lại càng nghi hoặc, quay sang bảo đệ tử chấp pháp: “Đưa pháp đao cho ta.” Tên đệ tử đó hai tay cầm đao cung kính dâng lên.

Kiều Phong cầm lấy pháp đao, nói: “Toàn bà chủ, ngươi bảo người biết chân tướng thân thế của ta, lại bảo chuyện này có liên quan đến an nguy của bản bang, thực ra chân tướng ta thế nào mà người không dám nói thật?” Nói tới đây ông tra pháp đao vào bao, bỏ vào túi mình rồi nói: “Ngươi xúi giục phản loạn, khó mà miễn tội chết. Hôm nay ta tạm để đó, để khi mọi việc minh bạch rõ ràng, ta sẽ tự tay giết ngươi. Kiều Phong này không phải như đàn bà nhu nhược mà mua chuộc ơn huệ. Khi ta đã muốn giết người thì ngươi có chạy đằng trời cũng không thoát. Ngươi cởi bỏ những túi vải trên lưng xuống rồi đi đi. Từ đây trở đi Cái Bang không còn nhân vật như ngươi nữa.”

Kiều Phong bảo Toàn Quan Thanh cởi bỏ túi vải trên lưng, chính là ra lệnh đuổi y ra khỏi bang. Bọn đệ tử Cái Bang, trừ những kẻ mới vào, mỗi người ai cũng có đeo túi vải trên lưng, nhiều thì chín cái, ít thì một cái. Cứ chiếu số túi vải nhiều hay ít mà định ngôi thứ cao hay thấp. Toàn Quan Thanh nghe Kiều Phong ra lệnh cởi túi trên lưng xuống thì đột nhiên mặt đầy sát khí, bước lại chụp lấy một thanh pháp đao, chĩa mũi ngay ngực mình. Nên biết rằng trên giang hồ, người bị trục xuất khỏi bang hội thì cái nhục nói sao cho xiết, thà bằng đương trường xử tử còn dễ chịu hơn.

Kiều Phong lạnh lùng nhìn xem y có dám đâm vào ngực hay không. Toàn Quan Thanh cầm chặt con dao, tay không run chút nào, cũng quay đầu lại nhìn Kiều Phong. Hai người trừng trừng nhìn nhau, trong giây lát cả khu rừng hạnh im phăng phắc không một tiếng động. Toàn Quan Thanh bỗng hỏi: “Kiều Phong, ngươi giả vờ hay thật! Không lẽ ngươi thực không biết hay sao?”. Kiều Phong hỏi lại: “Ngươi bảo ta không biết cái gì?” Toàn Quan Thanh mấp máy môi nhưng không nói gì, đem pháp đao đặt xuống chỗ cũ, rồi từ từ cởi tám cái túi trên lưng ra, cung kính xếp dưới đất.

Y cởi đến chiếc túi thứ năm, bỗng nghe tiếng vó câu dồn dập, từ phương bắc có người chạy đến, kế đến là hai tiếng còi hiệu. Trong đám ăn mày lập tức có người huýt còi trả lời. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một nhanh, thoáng cái đã gần tới nơi. Ngô Trường Phong lẩm bẩm: “Có biến cố gì khẩn cấp nữa đây?” Người cưỡi ngựa chưa đến nơi thì đột nhiên ở mé đông cũng có tiếng vó ngựa, nhưng còn xa hơn, chưa nghe được rõ rệt là đi về hướng nào.

Chỉ trong giây lát, ngựa từ phương bắc đã đến bên bìa rừng, một người phóng ngựa chạy thẳng vào, xoay mình nhảy xuống. Người đó mặc áo bào rộng thụng tay, phục sức rất là hoa lệ, nhưng lập tức cởi ngay áo ngoài ra để lộ bên trong áo vá chằng vá đụp, chính là người của Cái Bang. Đoàn Dự thoáng nghĩ lập tức hiểu ra: ăn mày mà cưỡi ngựa rất dễ khiến cho người ta chú ý, qua phủ thể nào cũng bị giữ lại tra vấn hạch sách, nhưng đã đưa tin tất phải chạy cho nhanh nên phải ăn mặc như kẻ phú thương, bên trong vẫn mặc áo vá để tỏ mình không vong bản.

Người đó đến trước mặt đà chủ Đại Tín phân đà, cung kính trình lên một cái túi nhỏ nói: “Việc quân khẩn cấp!…” Y chỉ nói được bốn chữ rồi thở lên hồng hộc, đột nhiên con ngựa y cưỡi hí lên một tiếng thảm thiết, lăn ra đất giãy mấy cái chết ngay. Kẻ đưa tin kia cũng loạng choạng, gục luôn xuống. Chẳng nói cũng biết cả người lẫn ngựa rong ruổi đường xa không nghỉ, khí lực kiệt quệ cả rồi.

Đại Tín đà chủ nhận ra người đưa thư là một trong số bang chúng gửi qua Tây Hạ do thám tin tức, Tây Hạ vẫn thường đem binh xâm phạm, chiếm đất quấy nhiễu lương dân, nhưng không tai hại như người Khất Đan, Cái Bang vẫn thường sai gián điệp qua Tây Hạ nghe ngóng tình hình. Đại Tín đà chủ thấy người này bất kể sống chết chạy về thì biết ngay cái tin đưa đến tất là quan trọng và khẩn cấp vô cùng, nên không tự mình mở ra, để nguyên chiếc túi trình cho Kiều Phong nói: “Đây là quân tình khẩn cấp của nước Tây Hạ. Người đưa tin là một huynh đệ đi theo Dịch Đại Hổ huynh đệ sang bên đó.”

Kiều Phong cầm lấy bao thư, mở ra xem thấy bên trong là một viên sáp ong. Ông bóp vỡ viên sáp, lấy ra một tờ giấy đang định mở ra xem, bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, người phía đông cũng đã đến bên mé rừng. Con ngựa vừa thò đầu vào, người ngồi trên yên đã phi thân xuống, quát lớn: “Kiều Phong, viên sáp truyền tin là việc quân đại sự, ngươi không được xem!” Mọi người đều giật mình kinh hãi, nhìn lại thấy người đó là một lão già ăn mày râu tóc bạc phơ, mặc một chiếc áo rách nát. Truyền Công, Chấp Pháp hai vị trưởng lão cùng đứng lên nói: “Từ trưởng lão! Có việc chi mà đại giá tới đây?”

Quần cái thấy Từ trưởng lão đến ai nấy đều kinh động. Vị Từ trưởng lão này ở trong Cái Bang thân phận cực cao, năm nay đã tám mươi bảy tuổi, Uông bang chủ tiền nhiệm vẫn kêu ông là sư bá, trong Cái Bang ai ai cũng đều là hậu bối của ông ta. Lão qui ẩn đã lâu, xưa nay không màng đến thế sự. Kiều Phong và Truyền Công, Chấp Pháp các trưởng lão hàng năm đến thăm hỏi cũng chỉ nói chuyện thông thường trong bang. Dè đâu lúc này lão đột ngột đến đây ngăn Kiều Phong không cho đọc mật thư khiến mọi người ai nấy đều ngạc nhiên.

Kiều Phong lập tức nắm chặt tay giữ tờ giấy lại, khom lưng thi lễ nói: “Từ trưởng lão khỏe chứ?” Nói xong ông mở tay ra đưa tờ giấy đến trước mặt Từ trưởng lão. Kiều Phong là đương kim bang chủ Cái Bang, vai vế tuy có thấp hơn Từ trưởng lão nhưng đại sự trong bang thì vẫn phải do bang chủ ra lệnh. Không nói gì Từ trường lão chỉ là một tiền bối đã thoái ẩn, dẫu có những vị bang chủ đời trước phục sinh vẫn phải nghe lệnh Kiều Phong. Ngờ đâu Từ trưởng lão không cho Kiều Phong xem quân tình nước Tây Hạ, chàng lại không kháng cự chút nào, mọi người đều vô cùng kinh ngạc.

Từ trưởng lão nói: “Xin lỗi nhé.” Lão cầm ngay tờ giấy trong tay Kiều Phong, nắm chặt lại, kế đó đưa mắt nhìn khắp lượt bang chúng, dõng dạc nói: “Quả phụ của Mã Đại Nguyên huynh đệ là Mã phu nhân sẽ tới ngay để có chuyện trần tình, xin mọi người đợi bà ta một lát có được chăng?” Mọi người đưa mắt nhìn Kiều Phong xem ông ta xử trí ra sao.

Kiều Phong bụng đầy nghi hoặc nói: “Nếu là việc trọng đại thì mọi người có đợi một chút cũng không sao.” Từ trưởng lão đáp: “Dĩ nhiên là việc trọng đại.” Lão không giải thích gì thêm, chỉ quay sang Kiều Phong thi lễ tham kiến bang chủ rồi ngồi sang một bên.

Đoàn Dự nhân lúc này tán gẫu với Vương Ngữ Yên mấy câu, ghé tai nàng nói nhỏ: “Vương cô nương! Lúc này Cái Bang đang lắm việc, chúng ta nên lánh đi hay cứ ở đây xem sao?” Vương Ngữ Yên chau mày đáp: “Mình là người ngoài, đúng ra chẳng nên nghe chuyện cơ mật đại sự của người ta. Nhưng… nhưng không biết họ có tranh luận gì liên quan đến biểu ca ta không? Ta cứ thử nghe xem sao” Đoàn Dự liền phụ họa: “Đúng đó. Vị Mã phó bang chủ này cứ như họ nói là bị biểu ca cô giết chết, để lại một người vợ góa không nơi nương tựa, thật là đáng thương.” Vương Ngữ Yên vội đáp: “Không, không đâu! Mã phó bang chủ không phải do biểu ca tôi giết, Kiều bang chủ chẳng bảo thế là gì?”

Ngay lúc đó lại có tiếng vó ngựa, hai kỵ mã chạy đến khu rừng hạnh. Cái Bang tụ hội nơi đây, bên đường hẳn để những ký hiệu, chung quanh cũng có người tiếp dẫn chặn đường phòng địch nhân đến tấn công. Ai cũng tưởng một trong hai người đó phải là quả phụ Mã Đại Nguyên, nào ngờ lại là một ông lão và một bà lão. Ông già thân thể thấp bé còn bà già lại cao to, hai bên chênh lệch trông thật tức cười.

Kiều Phong vội đứng lên nói: “Hiền phu phụ Đàm công, Đàm bà ở Xung Tiêu Động, Thái Hàng Sơn giá lâm. Kiều Phong này không ra xa nghinh đón, xin tạ lỗi.” Từ trưởng lão và Truyền Công, Chấp Pháp các trưởng lão khác nhất tề bước ra thi lễ.

Đoàn Dự thấy vậy biết ngay Đàm Công, Đàm bà phải là những nhân vật có tiếng tăm trong võ lâm. Bỗng thấy Đàm bà hỏi: “Kiều bang chủ, trên vai ông có cái gì thế này?” Nói rồi bà vươn tay ra nhổ bốn lưỡi đao, thủ pháp mau lẹ dị thường. Đàm bà vừa nhổ đao xong, Đàm Công tức khắc lấy trong bọc ra một cái hộp nhỏ, mở nắp thò ngón tay quệt chút thuốc cao, bôi lên vai Kiều Phong. Thuốc vừa bôi lên, vết thương đang ứa máu tươi lập tức ngừng chảy ngay. Thủ pháp rút đao của Đàm bà nhanh nhẹn hiếm có trên đời nhưng cũng chỉ là một môn võ công, còn như Đàm công lấy hộp ra, mở nắp, quệt thuốc, bôi cao, cầm máu, những động tác đó thật nhịp nhàng, thật là nhanh mà ai cũng nhìn thấy rõ ràng, chẳng khác gì người làm ảo thuật. Thuốc bôi đến đâu cầm máu đến đó, hiệu nghiệm như thần, không phải làm đến lần thứ hai.

Kiều Phong thấy Đàm công, Đàm bà chưa hỏi đầu đuôi câu chuyện đã giúp mình nhổ dao trị thương, tuy có vẻ hơi đường đột nhưng trong lòng cảm kích. Giữa lúc ông ngỏ lời cảm tạ, đã thấy vai mình đang tê buốt chuyển sang ngứa ngáy, đỡ đau nhiều. Thuốc cao đó linh nghiệm chưa từng thấy qua mà cũng chưa bao giờ nghe tiếng đến.

Đàm bà lại hỏi: “Kiều bang chủ, trên đời này có kẻ nào lớn mật dám lấy dao đả thương bang chủ?” Kiều Phong cười đáp: “Chính tại hạ tự đâm vào đó!” Đàm bà ngạc nhiên: “Sao lại tự mình đâm mình? Bộ hết chuyện làm rồi hay sao?” Kiều Phong mỉm cười đáp: “Đó là tại hạ thử chơi. Cái vai u thịt bắp này dù có bị thương cũng không vào đến gân cốt.”

Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão thấy Kiều Phong cố ý giấu chuyện cho mình, vừa hổ thẹn lại vừa cảm kích.

Đàm bà cười ha hả nói: “Ngươi lại nói dối chăng? Ta biết rồi, gã này láu lỉnh lắm, nghe nói Đàm công mới tìm được hàn ngọc miền cực bắc lẫn huyền băng thiềm thừ chế tạo được thuốc chữa thương linh nghiệm, nên muốn thử cho biết chứ gì?” Kiều Phong không cãi lại chỉ mỉm cười, nghĩ thầm: “Lão bà này thật khéo nói đùa, trên đời này có ai hơi đâu tự đâm mình mấy dao để xem thuốc có linh nghiệm hay không.”

Lại nghe tiếng lộp cộp, một con lừa chạy vào trong rừng, trên lưng là một người ngồi quay ngược lại, mặt hướng về phía đuôi. Đàm bà thấy y liền toét miệng cười, gọi lớn: “Sư ca! Huynh lại làm trò quái đản gì nữa đây? Tiểu muội phải đét đít huynh mới được.” Người ngồi trên lưng lừa thân hình rút lại thành một cục chẳng khác gì một đứa bé bảy tám tuổi. Đàm bà giơ tay vỗ vào mông y, người đó lăn ngay xuống đất, đột nhiên vươn vai, duỗi chân tay biến thành một người cao lớn khiến ai nấy đều kinh ngạc. Đàm công mặt mày ra vẻ không vui, hừ một tiếng, liếc xéo một cái rồi nói: “Tưởng ai, hóa ra là ngươi.” Nói xong quay lại nhìn Đàm bà.

Người cưỡi lừa ngược kia không xấu cũng chẳng đẹp, không già cũng chẳng trẻ, chỉ có thể đoán khoảng từ ba mươi đến sáu mươi tuổi. Y đờ đẫn nhìn Đàm bà, thần sắc cực kỳ đắm đuối, dịu dàng hỏi: “Tiểu Quyên, gần đây nàng có được khỏe không?”

Đàm bà thân thể to lớn như hộ pháp, tóc trắng như bông, mặt mũi nhăn nheo vậy mà gọi là “Tiểu Quyên” nghe thật yểu điệu thướt tha, người với tên không xứng chút nào, ai nghe thấy cũng phải tức cười. Thế nhưng bà lão nào mà chẳng có thời son trẻ, khi còn là một thiếu nữ thì gọi Tiểu Quyên, đến lúc già có ai đổi thành Lão Quyên bao giờ? Đoàn Dự còn đang ngẫm nghĩ lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, thêm mấy người nữa cưỡi ngựa chạy đến nhưng lần này không có vẻ gì gấp rút.

Kiều Phong còn đang quan sát người khách cưỡi lừa, đoán không ra y thuộc hạng người nào. Y là sư huynh của Đàm bà, biểu diễn công phu Xúc Cốt Công ngồi trên lưng lừa ắt không phải hạng tầm thường. Nhưng đã là cao thủ bậc nhất mà ông chưa được nghe tên tuổi bao giờ, không khỏi ngạc nhiên.

Mấy người vừa cưỡi ngựa vào rừng hạnh, thì đi trước là năm chàng thanh niên mày thô mắt lớn, tướng mạo hao hao giống nhau. Người lớn nhất độ ngoài ba mươi, người nhỏ nhất cũng ngoài hai mươi, rõ ràng là năm anh em cùng cha mẹ sinh ra.

Ngô Trường Phong lớn tiếng nói: “Thái Sơn ngũ hùng đã đến đây, hay lắm, hay lắm! Chẳng hay ngọn gió lành nào thổi năm vị cùng đến một lượt thế này?” Người thứ ba trong Thái Sơn ngũ hùng là Đơn Thúc Sơn rất thân với Ngô Trường Phong, liền trả lời: “Ngô tứ thúc khỏe chứ? Gia gia cũng sắp đến rồi.” Ngô Trường Phong mặt hơi biến sắc ấp úng hỏi: “Thật sao? Gia gia ngươi…” Lão vi phạm bang qui trong bụng còn chưa yên, nghe nói Thiết Diện Phán Quan đất Thái Sơn là Đơn Chính đột nhiên tới đây không khỏi chột dạ. Thiết diện phán quan Đơn Chính bình sinh ghét kẻ ác như kẻ thù, chỉ cần nghe trên giang hồ có chuyện gì bất hợp công đạo là lập tức ra tay can thiệp. Bản thân ông ta võ công đã cao siêu, ngoài năm đứa con ruột ra lại còn rất đông học trò, đồ tử đồ tôn phải đến hơn hai trăm. Cái tiếng Thái Sơn Đơn Gia trong võ lâm ai nghe thấy cũng phải kiêng nể ba phần.

Ngay lúc đó một con ngựa nữa từ ngoài chạy vào rừng, Thái Sơn ngũ hùng cùng tiến lên giữ lấy đầu ngựa, một ông già mặc trường bào bằng gấm nhẹ nhàng nhảy xuống, quay sang Kiều Phong chắp tay nói: “Kiều bang chủ, Đơn Chính này không được mời mà tự tiện đến đây quấy nhiễu!”

Kiều Phong đã từng nghe tiếng Đơn Chính nhưng nay mới được gặp, thấy ông ta mặt mũi phương phi, có thể nói là đồng nhan hạc phát, thần thái khiêm hòa chứ không khắc bạc như giang hồ vẫn đồn đại là ra tay không nể nang ai. Chàng bèn ôm quyền đáp lễ nói: “Nếu Kiều mỗ được biết trước Đơn lão tiền bối đại giá đến đây, đã ra xa nghênh tiếp rồi.”

Người cưỡi lừa ngược đột nhiên cất giọng quái lạ nói: “Ái chà chà, Phán Quan Mặt Sắt đến thì kẻ đón người đưa, còn Phán Quan Mông Sắt đến thì chẳng có ma nào ngó tới.” Mọi người nghe đến ngoại hiệu Thiết Thí Cổ Phán Quan bất giác cười rộ. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba nàng tuy biết rằng cười là bất nhã nhưng không nhịn được đều tủm tỉm. Thái Sơn ngũ hùng nghe gã này nói giọng khích bác phụ thân, đều sầm mặt xuống. Có điều nhà họ Đơn gia giáo nghiên minh, Đơn Chính chưa nói, các con không ai dám mở lời.

Đơn Chính công phu hàm dưỡng rất cao, lại chưa biết rõ lai lịch con người quái dị kia, liền giả vờ như không nghe tiếng. Ông sang sảng nói: “Xin mời Mã phu nhân ra nói chuyện.”

Một chiếc kiệu do hai hán tử khỏe mạnh từ trong rừng cây khiêng ra nhanh như bay, đến giữa khu đất liền hạ xuống, vén rèm lên. Một thiếu phụ toàn thân mặc đồ trắng từ trong kiệu khoan thai bước ra, cúi đầu, quay sang Kiều Phong lạy phục xuống nói: “Vị vong nhân nhà họ Mã là Ôn thị xin tham kiến bang chủ.” Kiều Phong đáp lễ, nói: “Kính chào tẩu tẩu, không dám.” Mã phu nhân nói: “Tiên phu chẳng may tạ thế, được nhờ bang chủ cùng các vị bá bá thúc thúc lo liệu tang ma, ơn ấy kẻ sống thừa này nguyện ghi lòng tạc dạ.” Giọng nói của bà ta thật trong trẻo dễ nghe, xem ra tuổi còn trẻ lắm, có điều trước sau vẫn cúi gằm mặt xuống nên không ai nhìn rõ dung mạo ra sao.

Kiều Phong đoán rằng Mã phu nhân phát giác ra chuyện gì quan trọng liên quan đến cái chết của chồng nên mới đích thân tới đây. Song là việc bản bang mà bà không báo cho bang chủ biết trước, lại đi tìm Từ trưởng lão và Thiết Diện Phán Quan chủ trì thì ắt hẳn bên trong có điều gì hết sức kỳ lạ. Chàng quay lại đưa mắt nhìn Chấp Pháp trưởng lão, cũng vừa lúc Bạch Thế Kính ngước nhìn chàng, hai người ánh mắt đầy vẻ hoang mang.

Kiều Phong nghĩ mình nên tiếp khách trước rồi sẽ bàn đến việc bản bang sau. Chàng quay sang nói với Đơn Chính: “Đơn lão tiền bối, đây là Đàm thị phu phụ của động Xung Tiêu, núi Thái Hàng. Không biết hai bên đã quen biết nhau chưa?” Đơn Chính ôm quyền nói: “Đã từ lâu nghe đến uy danh của hiền phu phụ, nay may mắn được gặp.” Kiều Phong nói: “Đàm lão gia tử, xin ông giới thiệu vị tiền bối này để bọn tại hạ khỏi thất lễ.” Đàm công chưa kịp trả lời, người khách cưỡi lừa đã lên tiếng: “Ta họ Song, tên Oai, ngoại hiệu là Thiết Thí Cổ Phán Quan.”

Chính có nghĩa là thẳng, Oai có nghĩa là cong. Thiết Điện Phán Quan Đơn Chính tuy công phu hàm dưỡng cao thật, đến nước này cơn giận vẫn bùng lên, nghĩ thầm: “Ta họ Đơn tên Chính, ngươi lại xưng họ Song tên Oai, thế có khác gì cố tình gây sự với ta?”. Ông sắp nổi nóng thì đã nghe Đàm bà nói: “Đơn lão gia tử, xin ông đừng nghe Triệu Tiền Tôn nói năng lung tung, sư ca vốn hay nói giỡn chớ có tin là thật.”

Kiều Phong nghĩ thầm: “Người này tên là Triệu Tiền Tôn ư? Xem ra không phải tên thật rồi”. Chàng bèn nói: “Nơi đây không có ghế ngồi, xin quý vị tùy tiện ngồi xuống đất.” Đợi cho mọi người yên chỗ rồi chàng mới nói tiếp: “Chỉ trong một ngày mà Kiều mỗ gặp được mấy vị tiền bối cao nhân, quả thật vinh hạnh xiết bao. Không biết quí vị giá lâm có điều gì dạy bảo?”

Đơn Chính đáp: “Kiều bang chủ, quí phái là đại bang đệ nhất giang hồ, mấy trăm năm qua hiệp danh vang thiên hạ, võ lâm mỗi khi nhắc đến hai chữ Cái Bang ai cũng mười phần kính trọng, Đơn mỗ từ xưa tới nay lúc nào cũng thật tôn vinh.” Kiều Phong đáp: “Không dám.”

Triệu Tiền Tôn tiếp lời: “Kiều bang chủ, quí phái là đại bang đệ nhất giang hồ, mấy trăm năm qua hiệp danh vang thiên hạ, võ lâm mỗi khi nhắc đến hai chữ Cái Bang ai cũng mười phần kính trọng, Song mỗ từ xưa tới nay lúc nào cũng thật tôn vinh” Y nhắc lại lời Đơn Chính từng chữ một, chỉ đổi chữ Đơn thành chữ Song.

Kiều Phong biết những tiền bối cao nhân trong võ lâm nhiều người tính tình cổ quái, gã Triệu Tiền Tôn này không hiểu vì cớ gì cứ châm chọc Đơn Chính mãi, mình chẳng nên đắc tội với bên nào. Thành thử chàng cũng chắp tay nói: “Không dám.”

Đơn Chính mỉm cười, quay sang nói với con trai đầu là Đơn Bá Sơn: “Bá Sơn, những chuyện tới đây con nói cho Kiều bang chủ hay. Người ngoài muốn học con ta thì phải học cho chu đáo.”.

Mọi người nghe qua không khỏi cười phá lên, nghĩ bụng Thiết Diện Phán Quan nói như thế quả thực thâm trầm. Nếu như Triệu Tiền Tôn lại nhại lời Đơn Bá Sơn thì có khác gì làm con ông ta.

Ngờ đâu Triệu Tiền Tôn cũng nói: “Bá Sơn, những chuyện tới đây con nói cho Kiều bang chủ hay. Người ngoài muốn học con ta thì phải học cho chu đáo.” Y lại chơi xỏ Đơn Chính một lần nữa, tự xưng là cha của Đơn Bá Sơn.

Đứa con út của Đơn Chính là Đơn Tiểu Sơn tính tình nóng nảy liền cất tiếng chửi ngay: “Con mẹ ngươi, bộ ngươi hết chuyện làm, không muốn sống nữa hay sao?”

Triệu Tiền Tôn lẩm bẩm nói một mình: “Con mẹ ngươi, cái thứ con chết tiệt này đẻ bốn đứa đã là quá, còn thêm đứa thứ năm làm gì. Ha ha, không chừng nó không phải con ruột mình đâu.” Nghe y công nhiên khiêu khích mình, Đơn Chính hết nhịn nổi, bèn quay sang nói: “Chúng ta là khách của Cái Bang, nếu đấu khẩu ở đây là không nể mặt chủ nhân. Đợi mọi việc xong xuôi tại hạ xin lĩnh giáo các hạ mấy cao chiêu. Bá Sơn! Bây giờ con cứ nói đi!”

Triệu Tiền Tôn nhại lại: “Chúng ta là khách của Cái bang, nếu đấu khẩu ở đây là không nể mặt chủ nhân. Đợi mọi việc xong xuôi tại hạ xin lĩnh giáo các hạ mấy cao chiêu. Bá Sơn! Bây giờ cháu nội cứ nói di!”

Đơn Bá Sơn căm tức những muốn rút đao chém cho mấy nhát mới hả giận, cố nén nộ khí nói với Kiều Phong: “Kiều bang chủ! Công việc của quý bang đáng lý cha con chúng tôi không dám can thiệp vào. Nhưng gia gia tôi đã nói: Quân tử yêu người có đức…” Y nói tới đây, đưa mắt nhìn Triệu Tiền Tôn xem y có lập lại hay không, nếu y nhại lại cả câu thì có khác gì gọi Đơn Chính bằng gia gia.

Ngờ đâu Triệu Tiền Tôn chữa lại: “Kiều bang chủ! Công việc của quý bang đáng lý cha con chúng tôi không dám can thiệp vào. Nhưng con tôi đã nói: Quân tử yêu người có đức…” Y đổi chữ hóa ra lại đòi làm cha Đơn Chính. Mọi người nghe thấy ai cũng chau mày cho là Triệu Tiền Tôn đi quá đà, e rằng không tránh khỏi đổ máu.

Đơn Chính thản nhiên nói: “Xem ra các hạ nhất định phải gây chuyện với Đơn mỗ cho bằng được. Nhưng Đơn mỗ cùng các hạ vốn không quen biết, có điều chi lầm lỗi xin bảo rõ cho, nếu tại hạ quả có điều không phải, lập tức sẽ xin bồi tội.”

Mọi người đều khen thầm Đơn Chính không hổ danh là người nghĩa hiệp bậc nhất Trung Nguyên.

Triệu Tiền Tôn đáp: “Ngươi không đắc tội với ta nhưng đã đắc tội với Tiểu Quyên thì còn tệ hại gấp mười lần đắc tội với ta.” Đơn Chính lấy làm lạ, hỏi lại: “Tiểu Quyên nào? Ta làm gì mà đắc tội với nàng?” Triệu Tiền Tôn chỉ vào Đàm bà nói: “Vị này là Tiểu Quyên đây. Tiểu Quyên là phương danh của nàng, trong thiên hạ ngoài ta ra không ai được gọi như thế, nghe chưa?” Đơn Chính nghe vừa bực mình vừa tức cười, nói: “Thì ra đó là phương danh của Đàm bà bà, tại hạ không biết nên mạo muội xưng hô, mong được thứ lỗi.” Triệu Tiền Tôn làm ra vẻ kể cả đáp: “Không biết thì không có tội, phạm lần đầu tha cho, lần sau không được thế nữa.” Đơn Chính nói: “Tại hạ tuy bấy lâu ngưỡng mộ đại danh Đàm công, Đàm bà ở động Xung Tiêu núi Thái Hàng nhưng chưa có cơ duyên quen biết. Tại hạ tự xét mình chưa bao giờ phê bình người khác sau lưng, thì sao lại có chuyện đắc tội với Đàm bà?”

Triệu Tiền Tôn tức giận trả lời: “Ta vừa mới mở miệng hỏi thăm sức khỏe Tiểu Quyên, nàng chưa trả lời thì năm thằng quý tử của nhà người làm bộ làm tịch nghênh ngang đi vào làm gián đoạn câu chuyện, cho đến bây giờ nàng vẫn chưa trả lời ta được. Đơn lão huynh, ngươi thử nghĩ xem Tiểu Quyên là hạng người nào? Triệu Tiền Tôn Lý Chu Ngô Trịnh Vương này là hạng người nào? Đâu phải ai cũng quấy rầy câu chuyện của bọn ta được?”.

Đơn Chính nghe y nói mấy câu có vẻ kỳ cục, nghĩ thầm người này đầu óc quả là không bình thường, bèn đáp: “Tại hạ có điều chưa rõ, xin được thỉnh giáo.” Triệu Tiền Tôn đáp: “Điều chi? Nếu như ta cao hứng sẽ chỉ cho ngươi rõ.” Đơn Chính nói: “Đa tạ! Các hạ bảo phương danh của Đàm bà khắp thiên hạ chỉ một mình các hạ được gọi đến, có đúng thế không?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Chính thế. Nếu ngươi không tin, thử gọi thêm một tiếng nữa xem cái thằng Triệu Tiền Tôn Lý Chu Ngô Trịnh Vương Phùng Trần Chử Vệ Tưởng Thẩm Hàn Dương này có xông lên đánh cho ngươi một trận không?” Đơn Chính đáp: “Tại hạ dĩ nhiên không dám gọi, nhưng chẳng lẽ Đàm công cũng không dám gọi hay sao?”

Triệu Tiền Tôn mặt mày tái nhợt, lẳng lặng hồi lâu, ai nấy nghĩ rằng câu hỏi ngoắt ngoéo đó khiến y không trả lời được. Ngờ đâu đột nhiên y khóc rống lên, nước mắt giàn giụa cực kỳ bi thảm.

Chuyện xảy ra thật ngoài dự liệu của mọi người, con người không sợ trời sợ đất, dám trêu chọc cả Thiết Diện Phán Quan, không ngờ chỉ vì một câu nói nhẹ nhàng lại khóc như cha mẹ chết.

Đơn Chính thấy y khóc rất thảm thương bèn nổi lòng từ tâm, bao nhiêu lửa giận từ nãy đến giờ đều tắt ngấm, bèn an ủi: “Triệu huynh! Đó là tại hạ có lỗi…” Triệu Tiền Tôn nức nở nói: “Ta không phải họ Triệu.” Đơn Chính lại càng ngạc nhiên hỏi lại: “Thế thì các hạ họ gì?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Ta không có họ, đừng hỏi nữa, đừng hỏi nữa…”

Mọi người đoán chừng Triệu Tiền Tôn phải có chuyện thương tâm, nhưng thực sự thế nào y không nói ra, người ngoài cũng không tiện hỏi thêm, đành để y sụt sùi nức nở khóc cho hả lòng. Đàm bà sầm mặt xuống nói: “Sư ca lại phát khùng rồi. Không sợ mất mặt với các vị bằng hữu hay sao?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Nàng bỏ ta đi lấy cái lão chết tiệt Đàm công kia, ta không thương tâm sao được. Tim ta tan nát rồi, ruột ta đứt đoạn rồi, còn mỗi cái mặt bên ngoài có đáng gì mà mất hay không mất?”

Mọi người nghe đều nhìn nhau mỉm cười. Thì ra Triệu Tiền Tôn cùng Đàm bà có một đoạn tình sử, không biết vì sao Đàm bà lại đi lấy Đàm công khiến cho Triệu Tiên Tôn phải đau lòng, thậm chí đến tên tuổi cũng chẳng cần, như điên như rồ, như ngây như dại. Bây giờ vợ chồng họ Đàm đã trên sáu mươi cả rồi, vậy mà Triệu Tiền Tôn kia vẫn còn ôm ấp mối tình cũ kỹ mấy chục năm trời. Đàm bà mặt đã nhăn nheo, đầu tóc bạc phơ, không hiểu lúc trẻ tuổi nhan sắc bà thế nào mà làm rung động Triệu Tiền Tôn, đến già cũng còn lưu luyến.

Đàm bà có vẻ bẽn lẽn, nói: “Sư ca còn đề cập đến chuyện cũ làm chi? Nay Cái Bang gặp việc trọng đại cần giải quyết, sư ca phải ngoan ngoãn ngồi nghe là hơn.” Mấy câu vừa khuyên bảo vừa giận dỗi kia, Triệu Tiền Tôn nghe rất lọt tai bèn nói: “Vậy sư muội cười với ta một cái, ta mới nghe lời.” Đàm bà chưa kịp cười, chung quanh đã có lắm người cười trước.

Bà lão dường như chẳng coi ai vào đâu, quay lại nhìn y nhoẻn một nụ cười, Triệu Tiền Tôn nhìn bà như ngây như dại, tâm thần mê mẩn. Đàm công ngồi một bên mặt hầm hầm giận dữ nhưng không biết làm sao hơn.

Đoàn Dự trong tình cảnh này bất giác cả kinh, nghĩ thầm: “Ba người này thâm tình như vậy, coi thế nhân chẳng vào đâu, còn ta… ta đối với Vương cô nương mai đây cũng giống như Triệu Tiền Tôn hay sao? Không! Không! Đàm bà kia đối với sư ca hiển nhiên có chút tình ý, còn Vương cô nương thủy chung không quên biểu ca nàng là Mộ Dung công tử. So với Triệu Tiền Tôn thì mình còn bất hạnh hơn!”

Còn Kiều Phong thì lại suy nghĩ theo hướng khác: “Gã Triệu Tiền Tôn này quả nhiên không phải họ Triệu. Trước nay ta vẫn nghe Đàm công, Đàm bà ở Xung Tiêu động, Thái Hàng sơn nổi tiếng nhờ tuyệt kỹ của phái Thái Hàng, thế nhưng khi nghe ba người này nói chuyện, dường như không cùng môn phái. Thế thì Đàm công thuộc phái Thái Hàng hay Đàm bà mới thuộc phải Thái Hàng? Nếu Đàm công là người phái Thái Hàng thì Triệu Tiền Tôn và sư muội Đàm bà là người của phái nào?”.

Lại nghe Triệu Tiền Tôn nói: “Nghe nói Cô Tô Mộ Dung Phục có cái trò gậy ông đập lưng ông lớn mật làm càn, loạn sát người vô tội. Ta cũng muốn gặp y một chuyến xem tên tiểu tử này có bản lĩnh gì mà đập được lưng ông Triệu Tiên Tôn Lý Chu Ngô Trịnh Vương này. Tiểu Quyên, nàng gọi ta đến Giang Nam, ta đĩ nhiên là phải đi rồi, huống hồ…”

Triệu Tiền Tôn còn đang nói dở câu bỗng nghe có tiếng người khóc rống lên, cũng thê thảm nức nở hệt như tiếng y vừa khóc xong. Mọi người đều lấy làm lạ, nghe thấy người kia vừa khóc vừa kể lể: “Sư muội yêu quí của ta ơi, ta có chỗ nào không phải với nàng đâu? Sao lại bỏ ta đi lấy cái lão họ Đàm để cho ta đêm thương ngày nhớ không lúc nào khuây. Tiểu Quyên sư muội ơi! Ta nhớ lại lúc sư phụ hãy còn, coi ta và nàng như con đẻ. Sư muội bỏ ta thì còn mặt mũi nào mà sau này trông thấy sư phụ nữa?”

Thanh âm ngữ điệu giống hệt giọng của Triệu Tiền Tôn không khác chút nào, nếu mọi người không thấy y há hốc mồm đầy vẻ ngạc nhiên thì ai cũng tưởng chính miệng y nói ra. Mọi người quay đầu nhìn lại thì người phát ra tiếng khóc là một thiếu nữ mặc áo dài màu hồng nhạt. Người con gái đó xoay lưng lại, chính là A Châu. Đoàn Dự, A Bích và Vương Ngữ Yên vốn đã biết nàng rất sở trường về bắt chước cử chỉ cùng giọng nói người khác nên không lấy gì làm lạ. Còn ngoài ra ai cũng vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, tưởng rằng Triệu Tiền Tôn nghe xong thể nào cũng nổi giận đùng đùng. Ngờ đâu mấy lời của A Châu chạm vào vết thương trong tâm khảm, y vốn đã ngừng khóc rồi, lúc này lại đỏ hoe mắt, méo xệch miệng, cùng với A Châu kẻ xướng người họa hai bên giọt vắn giọt dài.

Đơn Chính lắc đầu, dõng dạc nói: “Đơn mỗ tuy họ Đơn nhưng lại một vợ, bốn nàng hầu, con cháu đầy nhà. Còn vị Song Oai huynh kia, rõ là một mình một bóng, tịch mịch thê lương. Chuyện lỡ làng từ thuở xa xưa, hôm nay nhắc lại e rằng đến khuya cũng chưa hết. Song huynh, chúng ta được Từ trưởng lão và Mã phu nhân của Cái Bang mời đến Giang Nam để bàn về chuyện hôn nhân đại sự của các hạ chăng?” Triệu Tiền Tôn lắc đầu, đáp: “Không phải.” Đơn Chính nói: “Thế thì chúng ta đến đây để thương nghị đại sự của Cái Bang, đó mới là chuyện quan trọng:” Triệu Tiền Tôn thất nhiên nổi giận, hỏi: “Cái gì? Đại sự của Cái Bang mới là chuyện quan trọng, còn chuyện của ta với Tiểu Quyên không quan trọng hay sao?”

Đàm công nghe tới đây không còn nhịn nổi nữa liền nói: “A Tuệ! Nếu nàng không ngăn những chuyện điên rồ của thằng cha kia lại thì ta không để yên đâu.”

Mọi người nghe thấy hai chữ A Tuệ đều nghĩ thầm: “Thế ra khuê danh của Đàm bà là A Tuệ, còn tên Tiểu Quyên là do Triệu Tiền Tôn đặt ra”.

Đàn bà dậm chân hậm hực nói: “Y có gì đâu mà bảo là điên rồ? Ông hại người ta thân tàn ma dại đến thế còn chưa mãn nguyện sao?” Đàm công ngạc nhiên hỏi lại: “Ta… ta… có làm gì đâu mà bảo là hại y?” Đàn bà đáp: “Ta lấy cái lão già vô tích sự như ông khiến sư ca phải buồn lòng…” Đàm công cãi: “Khi bà lấy tôi, tôi đâu có vô tích sự, cũng đâu đã già.” Đàm bà nổi giận nói: “Nói mà không biết xấu, bộ hồi đó ông đẹp trai lịch sự lắm hả?”

Từ trưởng lão và Đơn Chính nhìn nhau lắc đầu, nghĩ thầm: “Ba người này đều là tiền bối có danh vọng trong võ lâm, vậy mà trước mặt mọi người tranh cãi về chuyện trai gái đời xửa đời xưa, quả thật nực cười.”

Từ trưởng lão đằng hắng một tiếng rồi nói: “Phụ tử Đơn huynh ở Thái Sơn, phu phụ Đàm thị ở Thái Hàng Sơn cùng các vị huynh đài hôm nay giá lâm, tệ bang trên dưới ai nấy đều nở mày nở mặt. Mã phu nhân, xin phu nhân kể lại từ đầu cho mọi người nghe.”

Vị Mã phu nhân kia vốn chỉ đứng thõng tay cúi đầu ở một bên, quay lưng về phía mọi người. Bà nghe Từ trưởng lão nói thế, chậm rãi xoay lại, nhỏ nhẹ nói: “Tiên phu bất hạnh qua đời, tiểu nữ chỉ biết trách mình số mệnh long đong, lại chưa được chút con nào để nối dõi nhà họ Mã…” Giọng bà ta tuy nhỏ nhưng thật thanh tao, từng chữ lọt vào tai khiến người nghe thật mủi lòng. Bà nói tới đây dường như đã xúc động, giọng nói thêm vẻ nghẹn ngào. Bao nhiêu vị anh hào trong rừng hạnh nghe nàng nói bất giác động mối thương tâm. Cũng một tiếng khóc mà Triệu Tiền Tôn làm cho mọi người bật cười, A Châu làm cho người ta kinh ngạc, còn Mã phu nhân khiến mọi người chua xót.

Mã phu nhân lại tiếp: “Sau khi tiểu nữ an táng tiên phu rồi mới kiểm lại các di vật, ở nơi cất giữ quyền kinh tìm thấy một phong thư dùng xi gắn chặt. Trên bao thư có viết: Nếu như ta chết yên lành, phong thư này lập tức đốt ngay, nếu mở ra xem là khiến vong linh ta ở nơi cửu tuyền không yên ổn. Còn nếu ta chết bất đắc kỳ tử, phong thư này phải giao ngay cho các trưởng lão trong bản bang cùng đọc. Việc này trọng đại vô cùng, không được lầm lỡ.”.

Mã phu nhân nói đến đây, khu rừng hạnh im phăng phắc, đến một chiếc kim rơi xuống đất cũng nghe. Bà ta ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Tiểu nữ thấy tiên phu viết trịnh trọng như thế, biết là việc lớn nên lập tức tìm bang chủ để trình di thư lên. Cũng may bang chủ đang cùng các trưởng lão đến Giang Nam về việc báo thù cho tiên phu. Vì lẽ đó tiểu nữ chưa trình được thư.”

Mọi người nghe thấy bà ta nói có vẻ khác lạ, nhấn mạnh “cũng may” rồi “vì lẽ đó”, ai cũng liếc nhìn Kiều Phong.

Kiều Phong từ chiều tối tới giờ thấy xảy ra âm mưu trọng đại nhằm vào mình, tuy đã dẹp yên Toàn Quan Thanh và bốn trưởng lão nổi loạn, nhưng chưa thể gọi là kết thúc. Bây giờ chàng nghe Mã phu nhân nói lại thấy nhẹ nhõm hơn, thần sắc thản nhiên nghĩ thầm: “Bọn họ có âm mưu gì cứ nói ra cho xong. Kiều mỗ bình sinh không làm việc gì ám muội thì còn sợ gì ai vu hãm.”

Lại nghe Mã phu nhân tiếp tục: “Tiểu nữ biết lá thư này có liên hệ trọng đại đến bản bang, bang chủ và các trưởng lão lại không ở Lạc Dương, sợ lỡ việc nên lập tức đến Trịnh Châu cầu kiến Từ trưởng lão để nhờ lão nhân gia lo liệu. Chuyện về sau thế nào xin Từ trưởng lão nói cho các vị đây nghe.”

Từ trưởng lão hắng giọng mấy tiếng rồi mới nói: “Việc này nói ra ân oán rất nhiều. Lão phu thấy quả là khó nghĩ.” Mấy câu đó thanh âm trầm buồn, xem ra có chiều u uất. Lão chậm rãi cởi một chiếc bao vải trên lưng xuống, mở ra lấy một cái bao bằng giấy dầu, lại từ bên trong bao lấy ra một phong thư, nói: “Đây là di thư của Mã Đại Nguyên. Tằng tổ, tổ phụ, rồi phụ thân của Đại Nguyên mấy đời đều là người trong Cái Bang, nếu không phải trưởng lão thì cũng là đệ tử tám túi. Ta biết Đại Nguyên từ bé, rất thuộc bút tích của y. Chữ trên bao thư này đích xác là do Đại Nguyễn viết. Khi Mã phu nhân giao cho ta phong thư, dấu niêm phong vẫn còn nguyên vẹn chưa ai đụng tới. Ta cũng lo rằng lỡ mất đại sự, lập tức mở ra xem mà không đợi tụ tập đủ các trưởng lão. Lúc mở bao thư thì có Thiết Diện Phán Quan đất Thái Sơn cũng đang ở đó, có thể làm chứng việc này.”

Đơn Chính nói: “Đúng như vậy, lúc đó tại hạ đến thăm Từ lão tại nơi ẩn cư, chính mắt nhìn thấy ông ta bóc thư ra xem.”

Từ trưởng lão mở phong bì lấy ra một tờ giấy, nói: “Ta vừa xem lá thư này, thấy nét chữ không phải là của Đại Nguyên đã hơi kinh ngạc, thấy đầu thư đề là Kiếm Nhiêm huynh đệ, lại càng kỳ quái. Các vị cũng đã biết, Kiếm Nhiêm là tên riêng của Uông bang chủ tiền nhiệm bản bang, nếu không phải là người giao tình rất hậu với ông ta thì không dám xưng hô như thế. Hơn nữa Uông bang chủ qua đời đã lâu, sao lại còn có ai viết thư cho ông? Ta chưa xem trong thư viết gì, vội giở đoạn cuối xem người ký tên, vừa đọc đến lại càng kinh ngạc thêm. Lúc đó ta buột miệng kêu lên: Ô! Thì ra là ông ta! Đơn huynh động tính hiếu kỳ, ngoái đầu sang coi rồi cũng bật lên tiếng: Ô! Thì ra là ông ta!”.

Đơn Chính gật đầu, ý nói lúc đó quả là như vậy.

Triệu Tiền Tôn chen vào: “Lão Đơn kia, thế là không được! Đó là mật thư của Cái Bang. Lão không phải là đệ tử một túi, hai túi, đến cả một tên ăn mày hạng bét đi xin cơm ăn cũng chưa phải. Sao lão xem trộm mật thư của người ta?” Ai cũng nghĩ ở điên điên khùng khùng, nhưng câu này quả là hợp lý. Đơn Chính mặt hơi đỏ lên, nói: “Ta… ta chỉ nhìn chỗ ký tên dưới lá thư chứ không nhìn bên trong lá thư viết gì.” Triệu Tiền Tôn nói: “Dù ăn cắp một ngàn lạng vàng hay ăn cắp một đồng tiền cũng là ăn cắp. Tiền nhiều ít khác nhau, nên có ăn cắp lớn ăn cắp nhỏ. Thế nhưng ăn cắp lớn cũng là ăn cắp mà ăn cắp nhỏ thì cũng là ăn cắp. Ngó trộm thư người ta thì không phải là người quân tử. Đã không phải là quân tử thì là tiểu nhân, đã là tiểu nhân thì là hạng đê hèn bỉ ổi. Đã đê hèn bỉ ổi thì nên giết quách đi.”

Đơn Chính giơ tay xua xua năm đứa con, ý nói không được vọng động, cứ để cho y mặc sức nói càn rồi sau sẽ hay. Lão tuy trong bụng hết sức tức tối nhưng cũng cảm thấy có điều gì khác lạ, tự hỏi: “Gã này vừa gặp mình là đã tìm đủ cách để gây chuyện, không lẽ có thù oán gì với mình từ trước chăng? Trên giang hồ cũng chẳng mấy người không nể mặt Thái Sơn Đơn gia. Sao ta nghĩ mãi không ra nhỉ?”

Mọi người đang chờ Từ trưởng lão nói tên người ký dưới lá thư, xem đó là hạng người nào mà khiến cho ông ta và Đơn Chính phải kinh ngạc. Khi họ nghe Triệu Tiền Tôn nói chuyện lôi thôi rắc rối thì nhiều người trừng mắt nhìn y ra chiều tức giận.

Đàm bà thốt nhiên nói: “Các ngươi nhìn gì? Sự ca ta nói câu nào câu nấy đều trúng phóc.” Triệu Tiền Tôn thấy Đàm bà lên tiếng bênh mình, thật như mở cờ trong bụng, nói: “Các ngươi xem đó, đến Tiểu Quyên cũng còn nói thế thì làm sao mà trật được? Tiểu Quyên nói gì, làm gì xưa nay không bao giờ sai.”

Bỗng dưng một giọng nói y hệt cất lên: “Đúng đó, Tiểu Quyên nói gì, làm gì xưa nay không bao giờ sai. Bà ta lấy Đàm công, không chịu lấy ngươi, cũng hoàn toàn là đúng!” Người nói chính là A Châu. Nguyên từ lúc triệu Tiền Tôn buông lời khinh miệt Mộ Dung công tử, nàng vẫn còn bực mình, nên cứ nhè y mà khiêu khích. Triệu Tiền Tôn nghe tới vậy nụ cười bỗng tắt ngấm, quả là trúng phải tuyệt kỹ gây ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung.

Lập tức có hai ánh mắt nhìn A Châu cực kỳ thắm thiết, bên trái là của Đàm công, bên phải là của Đơn Chính.

Bóng người thấp thoáng, Đàm bà đã nhảy đến trước mặt A Châu, giơ tay tát một cái thật mạnh, quát lên: “Ta lấy chồng đúng hay sai thì việc gì đến con tiện tì này?” Bà ra tay cực nhanh, A Châu muốn tránh mà không kịp, người ngoài cũng không cách nào cứu viện. Chỉ nghe bốp một tiếng, khuôn mặt trắng nõn nà của A Châu đã hằn năm vết ngón tay thâm tím.

Triệu tiền Tôn cười ha hả, nói: “Dạy cho con tiện tì này một bài học là phải, ai bảo mi xía miệng vô chuyện người khác.”

A Châu nước mắt chạy quanh sắp òa lên khóc, Đàm công đã bước tới thò tay vào trong bọc lấy ra một cái hộp bằng ngọc nhỏ, mở nắp hộp, bôi cao vào đầu ngón tay xoa lên má nàng. Đàm bà đánh nàng một cái tát, thủ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, nhưng bất qua cũng chỉ vung tay ra rồi rụt tay về, còn Đàm công thoa thuốc lên mặt, bao nhiêu động tác phiền phức mà lại càng mau lẹ hơn. Nàng chưa kịp né tránh, cao đã bôi vào mặt rồi, khuôn mặt đang sưng lên rát bỏng đột nhiên thấy mát rượi khoan khoái. Đồng thời bàn tay trái lại có thêm vật gì, nàng mở ra thấy một cái hộp ngọc bóng loáng, biết là Đàm công tặng cho mình loại diệu dược trị thương linh nghiệm. A Châu chưa kịp khóc đã bật cười.

Từ trưởng lão không lý gì đến việc Đàm bà càu nhàu với Đàm công, hạ thấp giọng nói tiếp: “Các vị huynh đệ! Người viết lá thư đó là ai, lúc này không tiện nói ra. Từ mỗ ở trong Cái Bang hơn bảy mươi năm, thoái ẩn vào chốn sơn lâm đã ba mươi năm, không còn xông pha giang hồ, chẳng tranh chấp với ai, cũng không gây thù chuốc oán. Từ mỗ sống trên đời cũng đã nhiều, đã không con cháu lại không đồ đệ, tự thấy lòng không mảy may tư vị. Ta sắp nói mấy câu, liệu các vị có tin được không?” Quần cái đồng thanh đáp: “Không tin Từ trưởng lão thì còn biết tin ai?” Từ trưởng lão lại quay sang nhìn Kiều Phong, hỏi: “Ý bang chủ thế nào?” Kiều Phong đáp: “Kiều mỗ trước nay đối với Từ trưởng lão vẫn một lòng kính trọng, tiền bối hẳn đã biết rồi.”

Từ trưởng lão nói tiếp: “Ta đọc xong lá thư đó, trong lòng nghi hoặc, vừa đau thương lại vừa phẫn nộ. Từ mỗ e mình có chỗ sai lầm liền trao cho Đơn huynh coi. Các vị nên biết rằng Đơn huynh cùng người viết thư trước nay giao hảo, có thể nhận ra bút tích của y. Việc này quan hệ rất lớn, Từ mỗ phải nhờ Đơn huynh kiểm tra cho rõ bức thư này là chân hay giả.”

Đơn Chính trừng mắt nhìn Triệu Tiền Tôn ý như muốn bảo: “Ngươi còn nói gì nữa thôi?”, Triệu Tiền Tôn nói: “Từ trưởng lão đưa cho ngươi thì dĩ nhiên ngươi có thể coi. Thế nhưng lần đầu ngươi coi là coi lén. Cũng chẳng khác gì một tên đại đạo về sau phát tài không đi ăn cắp nữa, nhưng dẫu y có là tài chủ cũng không rửa được cái tiếng xuất thân đạo tặc.”

Từ trường lão không thèm lý đến Triệu Tiền Tôn phá rối, nói tiếp: “Đơn huynh! Xin Đơn huynh tuyên bố cho mọi người hay bức thư là chân hay giả!”

Đơn Chính đáp: “Tại hạ và người viết thư kết bạn lâu năm, trong nhà còn giữ nhiều thư từ của người đó nên lập tức dẫn Từ trưởng lão và Mã phu nhân về tệ xá lấy những lá thư cũ ra so, bút tích quả nhiên giống hệt, ngay cả giấy hoa tiên và phong bì cũng cùng một kiểu, quả là thư thật không còn ngờ gì nữa.”

Từ trường lão nói: “Lão phu chẳng còn sống được mấy năm nữa nên làm việc gì cũng phải dè dặt. Huống chi việc này có quan hệ đến việc hưng suy của bản bang, cùng thanh danh và tính mệnh của một vị anh hùng hào kiệt, khi nào lại dám mạo muội, cẩu thả.”

Mọi người nghe ông ta nói thế, ai nấy đưa mắt nhìn Kiều Phong, biết ngay người anh hùng hào kiệt mà ông ta ám chỉ chính là Kiều bang chủ. Có điều không ai dám nhìn thẳng, khi chạm vào ánh mắt ông là lập tức cúi đầu xuống.

Từ trưởng lão nói tiếp: “Lão hủ biết Đàm thị phu phụ ở Thái Hàng Sơn cùng người viết thư quen biết nhau từ lâu, bèn đến Xung Tiêu Động thỉnh giáo. Đàm công, Đàm bà đã đem hết các điều ủy khúc nói rõ với lão phu. Lão phu thực không dám nói thẳng, đau thương biết bao, xót xa biết bao.”

Bấy giờ mọi người mới rõ chính Từ trưởng lão mời vợ chồng Đàm công, Đàm bà và Đơn Chính tới Cái Bang để chứng minh việc này cho mình.

Từ trưởng lão lại tiếp: “Lúc đó Đàm bà lại bảo có một vị sư huynh đã được mục kích việc này. Nếu mời được chính vị này lại thì rõ ràng lắm. Vị này chính là Triệu Tiền Tôn tiên sinh. Nhưng tiên sinh này tính khí khác người, không ai mời được, chỉ có Đàm bà là tiên sinh rất kính nể. Bức thư của bà vừa tới nơi, tiên sinh đã nhận lời tới ngay…”

Đàm công đột nhiên nổi giận, nhìn Đàm bà hỏi: “Cái gì? Bà gọi y tới đấy ư? Sao không nói cho ta biết trước mà lại lén lút thậm thụt với nhau?” Đàm bà cũng giận, đáp: “Cái gì mà lén lút thậm thụt? Ta viết thư, nhờ Từ trưởng lão sai người đem đi là việc quang minh chính đại. Lão tính hay ghen bậy, biết được lại ầm cửa ầm nhà nên ta mới không cho lão hay.” Đàm công nói: “Làm việc giấu chồng là không giữ đạo xướng tùy, như thế không được!”.

Đàm bà không thèm cãi, vung tay tát bốp một cái giữa mặt chồng. Đàm công võ công rõ ràng cao hơn vợ nhiều nhưng lại không đỡ gạt cũng chẳng né tránh, cứ để yên cho bà ta đánh một chưởng, rồi thò tay vào túi lấy ra một cái hộp nhỏ, quệt chút cao xoa lên mặt lập tức mặt bớt sưng liền. Người đánh đã nhanh, người chữa lại còn nhanh hơn. Lửa giận hai ông bà nháy mắt đã tiêu tan, người ngoài trông thấy ai cũng nực cười.

Chỉ nghe Triệu Tiền Tôn thở dài một tiếng, thanh âm thật là ai oán bi thương, nói: “Thì ra là thế, thì ra là thế! Hỡi ôi! Nếu sớm biết thế này thì xưa kia ta chịu để cho nàng tát mấy cái, phỏng có khó gì!” Giọng y đầy vẻ hối hận.

Đàm bà cũng buồn rầu nói: “Ai bảo xưa kia sư huynh hễ bị muội đánh một tát là đánh lại ngay, chẳng chịu nhượng bộ bao giờ.”

Triệu Tiền Tôn ngẩn người đứng chết sững, xuất thần nhớ lại năm xưa, cô tiểu sư muội tính tình nóng nảy hay hờn, động tí là xuất thủ ngay. Mỗi khi mình vô duyên vô cớ bị nàng đánh, không nhịn được lại tranh cãi với nhau thành ra mối lương duyên không thể thành toàn. Bây giờ y thấy Đàm công bị tát cứ lẳng lặng chịu đòn không hề oán hận mới chợt hiểu ra, trong lòng đau đớn không chịu nổi. Mấy chục năm qua y trách móc tiểu sư muội bỏ mình đi theo người khác, tưởng phải có nguyên do gì trọng đại, ngờ đâu đối phương chỉ có một tuyệt kỹ gây bà đập lưng tôi mà thôi. Ôi, nếu như khi đó ta bảo nàng đánh thêm mấy cái thì chắc nàng lại không đánh nữa.

Từ trưởng lão nói: “Triệu Tiền Tôn tiên sinh! Xin tiên sinh tuyên bố cho một câu, những việc viết trong lá thư kia là thật hay là giả?”

Triệu Tiền Tôn vẫn lẩm bẩm một mình: “Ta đúng là ngốc tử, sao lúc đó lại không nghĩ ra? Học võ là để đánh kẻ thù, đánh ác nhân, đánh bọn tiểu nhân đê hèn, lẽ đâu lại đi đánh người mình yêu, đánh người trong mộng? Đánh là đánh yêu, chửi là chửi yêu, vài cái tát có gì quan trọng đâu mà ta không chịu nổi.”

Mọi người thấy ông ta si tình cũng đáng thương nhưng cũng thật tức cười. Cái Bang đang có đại sự cần giải quyết, Từ trưởng lão mời người từ xa ngàn dặm đến làm chứng, lại gặp phải một tên si mê ngơ ngẩn, nói ra không biết có thể tin nổi hay không.

Từ trưởng lão lại nhắc: “Triệu Tiền Tôn tiên sinh, chúng tôi mời tiên sinh tới đây là để nói về chuyện trong bức thư.”

Triệu Tiền Tôn đáp: “Đúng rồi! Đúng rồi! Trưởng lão hỏi về việc lá thư chứ gì? Lá thư ấy tuy ngắn nhưng tình ý triền miên: Trước đây bốn mươi năm là bạn đồng học, tình cảnh còn như trước mắt. Mỗi lần muội nhớ đến lại tưởng mới hôm qua, sư huynh bây giờ tuy đầu sắp bạc mà bộ mặt tươi cười chẳng khác năm xưa.” Từ trưởng lão hỏi về lá thư của Mã Đại Nguyên để lại, y lại đọc thuộc lòng lá thư của Đàm bà.

Từ trưởng lão không biết làm thế nào, quay lại nói với Đàn bà: “Đàm phu nhân! Xin phu nhân hỏi tiên sinh giúp cho.”

Ngờ đâu Đàm bà thấy Triệu Tiền Tôn đem một lá thư bình thường của mình ra đọc trơn như cháo chảy, bất giác cũng thả hồn vào cõi hư vô, trong lòng xiết bạo cảm động, dịu dàng nói: “Sư ca! sư ca nói lại khi đó tình cảnh như thế nào?”

Triệu Tiền Tôn đáp: “Tình cảnh còn như trước mắt, mọi chuyện ta cũng nhớ như mới hôm qua, sư muội tết hai bím tóc, mỗi bên buộc một sợi chỉ đỏ, hôm đó sư phụ dạy chúng mình chiêu Thâu Long Chuyển Phượng…” Đàm bà chầm chậm lắc đầu nói: “Sư ca, không phải Từ trưởng lão hỏi chuyện chúng mình thuở trước. Sư ca có tham dự cuộc huyết chiến ở Loạn Thạch Cốc ngoài Nhạn Môn Quan, tình hình lúc đó như thế nào, sư ca kể cho mọi người nghe đi.”

Triệu Tiền Tôn run run nói: “Ngoài Nhạn Môn Quan ư? Nơi Loạn Thạch Cốc… ta… ta…” Mặt y đột nhiên biến sắc, xoay mình một cái về hướng tây nam là chỗ không người, y co giò chạy tuốt, thân pháp cực kỳ mau lẹ. Y đã chạy vào trong rừng thì thật khó mà đuổi kịp, mọi người cùng kêu lên: “Triệu Tiền Tôn tiên sinh! Đừng chạy, mau quay lại!” Triều Tiên Tôn nào có nghe, lại càng ra sức chạy nhanh.

Đột nhiên có tiếng nói dõng dạc: “Sư huynh bây giờ đầu đã bạc, bộ mặt méo mó chẳng giống năm xưa…” Triệu Tiền Tôn lập tức đứng lại, quay đầu hỏi: “Ai nói đó?” Người kia nói tiếp: “Nếu không thế thì sao trông thấy Đàm công lại tự thẹn mình kém cỏi, co giò chạy trốn?” Mọi người nhìn xem ai nói, thì ra Toàn Quan Thanh.

Triệu Tiền Tôn bực tức đáp: “Cái gì mà bảo thẹn vì mình kém cỏi? Y bất quá chỉ có công phu chịu đòn không đánh trả mà thôi, chứ có gì hơn ta đâu?”

Đột nhiên từ bên kia khu rừng hạnh có tiếng một ông già nói: “Biết chịu đòn không đánh trả là công phu khó học nhất trong thiên hạ, há phải chuyện tầm thường”?

Hồi 16: Ân xưa oán cũ, sớm bạn trưa thù

Mọi người quay đầu nhìn lại thì thấy sau cây hạnh có một lão tăng mặt vuông tai lớn, tướng mạo uy nghiêm, mặc áo cà sa màu tro đang bước ra. Từ trưởng lão reo lên: “Trí Quang đại sư ở Thiên Đài Sơn đã đến! Hơn ba mươi năm không gặp, không ngờ đại sư vẫn tráng kiện như xưa.”

Tên tuổi của Trí Quang đại sư không mấy vang dội, đám hậu bối trong Cái Bang không ai biết đến ông ta. Thế nhưng Kiều Phong và lục đại trưởng lão đều cung kính đứng lên, biết đại sư năm xưa từng dong buồm vượt biển đến những vùng hoang đảo xa xăm tìm cỏ cây lạ về chữa bệnh cho vô số dân chúng vùng Triết Mân Lưỡng Quảng. Vì thế mà đại sư mấy phen bị bệnh, võ công mất hết, nhưng ân huệ với bách tính không phải nhỏ. Mọi người tới tấp chạy lại thi lễ.

Trí Quang đại sư quay sang Triệu Tiền Tôn, cười nói: “Võ công không bằng đối phương, chịu đòn không đánh trả đã là khó. Võ công cao hơn đối phương, chịu đòn không đánh trả lại càng khó hơn.” Triệu Tiền Tôn cúi đầu ngẫm nghĩ xem chừng đã hiểu.

Từ trưởng lão nói: “Trí Quang đại sư ân đức tỏa khắp chúng sinh, không ai không kính trọng. Mười năm nay đại sư không còn hỏi đến chuyện chốn giang hồ, hôm nay Phật giá quang lâm quả là phúc lớn của Cái Bang, tại hạ vô cùng cảm kích.” Trí Quang đại sư nói: “Từ trưởng lão của Cái Bang và Đơn phán quan của núi Thái Hàng cùng gọi đến, lão nạp lẽ nào lại không đi? Thiên Đài sơn và Vô Tích chẳng xa xôi gì, hai vị lại nói là việc này liên quan đến phúc họa của lê dân nên đành phụng chiếu.”

Kiều Phong nghĩ thầm: “Thì ra ông ta được Từ trưởng lão và Đơn Chính mời đến”. Chàng nghĩ tiếp: “Trí Quang đại sư đức cao vọng trọng, không thể nào tham dự âm mưu làm hại ta, có lão nhân gia đến đây cũng là chuyện tốt.”

Triệu Tiền Tôn đột nhiên nói: “Trận chiến nơi Loạn Thạch Cốc ngoài Nhạn Môn Quan, Trí Quang đại sư cũng có tham dự, lão nói trước đi.” Trí Quang nghe nhắc tới Loạn Thạch Cốc ngoài Nhạn Môn Quan, lập tức sắc mặt lộ vẻ kỳ lạ, vừa bồn chồn vừa sợ sệt, thoạt tiên giống như thấy cảnh quá thảm khốc không muốn nhìn, sau cùng chuyển sang vẻ từ bi thương xót, thở dài nói: “Sát nghiệt nặng nề, chuyện này nhắc lại quả là xấu hổ. Các vị thí chủ, trận chiến nơi Loạn Thạch Cốc đã ba mươi năm rồi, sao hôm nay còn nhắc lại làm chi?” Từ trưởng lão nói: “Chỉ vì hiện nay tệ bang gặp phải biến cố trọng đại, có liên quan mật thiết đến là thư này.” Nói xong cầm thư đưa ra.

Trí Quang đón lấy thư, xem đi xem lại hai lượt rồi lắc đầu nói: “Oan gia nên cởi không nên buộc, chuyện cũ nhắc lại làm gì? Cứ như ý kiến lão nạp, lá thư này nên hủy đi, không nên để lại vết tích gì là tốt hơn cả.” Từ trưởng lão đáp: “Mã phó bang chủ của bản bang chết thảm, nếu không tra xét rõ ràng thì nỗi oan của Mã phó bang chủ không bao giờ rửa sạch được, mà bản bang lại có nguy cơ tan vỡ.” Trí Quang đại sư gật đầu: “Nói thế là phải!”

Đại sư ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng lưỡi liềm chiếu xuống tàn cây một luồng ánh sáng nhợt nhạt, ngơ ngẩn một lát rồi quay sang nhìn Triệu Tiền Tôn nói: “Thôi được, chuyện lão nạp sai lầm năm xưa không giấu ai nữa, đành có sao nói vậy.” Triều Tiên Tôn nói: “Chúng ta vì nước vì dân, không thể nói là chuyện sai lầm.” Trí Quang lắc đầu: “Sai lầm là sai lầm, đừng dối người dối mình làm chi.” Ông quay sang phía mọi người, bắt đầu kể: “Ba mươi năm trước, hào kiệt Trung Nguyên nhận được tin là một đoàn võ sĩ Khất Đan sắp tấn công chùa Thiếu Lâm để đoạt lấy những đồ phổ võ công đã tàng trữ mấy trăm năm…”

Mọi người ồ lên một tiếng nho nhỏ, nghĩ thầm: “Dã tâm của bọn võ sĩ Khất Đan quả không phải nhỏ”. Võ công tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm là vật chí bảo của Trung Nguyên. Khất Đan và Đại Tống đã chinh chiến lâu năm, nếu chúng lấy được những võ công bí kíp của chùa Thiếu Lâm đem về dạy cho quân lính, quan binh Đại Tống không thể nào địch nổi.

Trí Quang kể tiếp: “Việc đó quả là trọng đại. Nếu như Khất Đan thành công thì Đại Tống sẽ đứng trước cái họa mất nước, bọn con cháu Hoàng Đế chúng ta e rằng bị diệt chủng lưỡi đao dài, giáo nhọn của quân Liêu. Bọn ta thấy sự việc khẩn cấp, không kịp xem xét kỹ càng. Chỉ nghe nói bọn võ sĩ đó sẽ đi bằng lối Nhạn Môn Quan nên ngoài việc thông báo cho chùa Thiếu Lâm biết mà phòng bị, tất cả mọi người lập tức lên đường ra Nhạn Môn Quan nghinh địch, nếu không diệt được hết bọn chúng thì cũng cản trở gian mưu.”

Mọi người nghe kể đến chỗ sắp đánh nhau với bọn Khất Đan đều nhiệt huyết sôi sùng sục. Nhà Đại Tống bao nhiêu năm nay bị quân Khất Đan lăng nhục, đánh trận nào thua trận ấy, chết quân mất đất, nhân dân đồ thán không phải là ít.

Trí Quang đại sư chậm rãi quay đầu lại, chăm chăm nhìn Kiều Phong, hỏi: “Kiều bang chủ, nếu như bang chủ nghe được cái tin khẩn cấp như thế thì sẽ hành động ra sao?” Kiều Phong dõng dạc đáp: “Trí Quang đại sư Kiều mỗ kiến thức hẹp hòi, tài đức không đủ để mọi người kính phục, đến nỗi huynh đệ trong bang còn phải nghi ngờ, nói ra quả là hổ thẹn. Dù cho Kiều mỗ vô năng nhưng cũng là một kẻ nam nhi có cốt cách, những việc nghĩa khí như thế quyết phải biết chỗ nào đúng, chỗ nào sai. Đại Tống chúng ta bị quân Liêu cẩu hiếp đáp, thù nhà nợ nước ai mà chẳng nghĩ đến chuyện báo đền? Nếu như Kiều mỗ nghe thấy tin tức như vậy thể nào cũng suất lãnh huynh đệ bản bang đi suốt ngày đêm đến giúp một tay ngăn chặn.”

Mấy lời của chàng quả là khẳng khái hiên ngang, ai nghe thấy cũng rung động trong lòng, nghĩ thầm: “Nam tử hán đại trượng phu phải như thế mới được.”

Trí Quang gật đầu nói: “Kiều bang chủ nói vậy thì bọn ta ra ngoài Nhạn Môn Quan phục kích người Liêu không có gì sai trái, phải không?” Kiều Phong trong lòng tức tối, nghĩ thầm: “Ông nghĩ ta là hạng người gì? Nói thế chẳng hóa ra coi thường ta lắm sao?” Tuy nhiên chàng không tỏ ra giận dữ, chỉ nói: “Nghĩa khí anh hùng của các vị tiền bối, Kiều mỗ cực kỳ kính phục, chỉ tiếc không sinh ra sớm ba mươi năm để được theo các vị cùng đi giết quân Hồ Lỗ.”

Trí Quang nhìn kỹ chàng một lần nữa, mặt thoáng vẻ lạ lùng, chậm rãi nói: “Khi đó chúng ta chia thành nhiều toán chạy đến Nhạn Môn Quan. Ta và vị huynh đệ này…” Ông chỉ vào Triệu Tiền Tôn rồi tiếp: “… đều ở toán thứ nhất. Toán của bọn ta cả thảy hai mươi mốt người, người đứng đầu cũng còn kém ta vài tuổi. Thế nhưng y võ công trác tuyệt, trong võ lâm địa vị tôn quí nên mọi người cử y lên làm thủ lĩnh đại ca, ai nấy nghe lệnh y mà hành sự. Trong toán chúng ta có Uông bang chủ của Cái Bang, Vạn thắng đao Vương Duy Nghĩa lão anh hùng, Địa tuyệt kiếm Hạc Vân đạo trưởng của phái Hoàng Sơn đều là những cao thủ hạng nhất võ lâm thời đó. Lúc đó lão nạp chưa xuất gia, xếp chung vào với quần hùng thật không xứng chút nào, chỉ có điều vì lòng yêu nước giết giặc không dám lùi lại phía sau, giết địch báo quốc không chịu kém người, có chút sức nào góp chút đó. Chính vị nhân huynh này lúc đó võ công cũng cao hơn lão nạp nhiều, còn bây giờ thì khỏi cần nói cũng biết.”.

Triệu Tiền Tôn nói: “Đúng vậy! Khi đó võ công ta giỏi hơn người nhiều, ít ra cũng chừng này.”Y vừa nói vừa đưa hai tay ra, cao thấp cách nhau đến hơn một thước. Y cho thế còn chưa đủ, lại nhích hai bàn tay ra xa đến thước rưỡi.

Trí Quang kể tiếp: “Bọn ta tới Nhạn Môn Quan thì trời đã về chiều, lại đi ra khỏi ải thêm độ mươi dặm nữa, vừa đi vừa hết sức phòng bị. Đột nhiên từ phía tây bắc vọng lại tiếng vó ngựa đang phi, nghe tiếng chân phải đến chục kỵ sĩ. Thủ lãnh đại ca giơ tay phải lên, tất cả anh em đều dừng lại. Mọi người trong bụng vừa vui mừng vừa lo lắng, không ai nói câu nào. Vui mừng vì tin tức không phải là giả, mình đã đến kịp để ngăn cản địch. Thế nhưng ai cũng biết bọn võ sĩ Khất Đan này mười phần lợi hại, tử tế thì đã không đến, đã đến ắt chẳng tử tế gì, lại toan tấn công vào phái Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ học Trung Quốc thì nhất định phải được tuyển lựa kỹ càng, vạn người lấy một chứ không phải tầm thường. Đại Tống đánh với Khất Đan thua nhiều thắng chẳng bao nhiêu, cuộc chiến hôm nay thắng bại thế nào thực khó mà biết được.”

“Thủ lãnh đại ca giơ tay vẫy một cái, hai mươi mốt người chúng ta chia nhau ra ẩn đằng sau những tảng đá. Hang núi này mé tả là một vực sâu, đá mọc lởm chởm, thăm thẳm nhìn không thấy đáy.”

“Tiếng chân ngựa mỗi lúc một gần, rồi có tiếng bảy tám người cùng hát một bài của người Liêu, điệu dài thườn thượt, lại giọng khô khan quê kệch, không ai hiểu gì cả. Ta nắm chặt cán đao, lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh bèn lau vào ống quần cho khô, nhưng chẳng mấy chốc lại ướt nữa. Thủ lãnh đại ca nằm ngay cạnh ta, y biết ta hồi hộp lắm nên đưa tay vỗ vỗ lên vai, nhìn ta mỉm cười, lại giơ tay lên chém nhứ một cái ý nói giết sạch quân Hồ Lỗ. Ta cũng cười đáp lại, trong lòng thấy trấn tĩnh hơn nhiều.”

“Con ngựa đi đầu của bọn Liêu đến cách bọn ta chừng ngoài năm chục trượng, ta từ sau đám loạn thạch nhìn ra xem thấy đám võ sĩ Khất Đan đều mặc áo lông, người giáo dài, kẻ đao ngắn, có đứa lại cầm cung tên, lại có đứa để con chim ưng thật lớn đậu trên vai. Cả bọn vừa đi vừa hát, không biết đằng trước có mai phục. Chỉ giây lát, ta đã nhìn rõ diện mạo của mấy tên Khất Đan đi đầu, đứa nào cũng tóc ngắn râu rậm, trông thật hung dữ. Bọn chúng tới càng lúc càng gần, tim ta mỗi lúc đập một nhanh hơn tưởng như sắp văng qua miệng ra ngoài…”

Mọi người nghe Trí Quang kể chuyện, tuy biết là chuyện cũ ba mươi năm trước mà ai cũng thấy hồi hộp. Trí Quang quay sang Kiều Phong nói: “Kiều bang chủ, việc này thành hay bại liên quan đến sự yên nguy của nhà Đại Tống cùng sinh mạng của trăm vạn sinh linh, mà bên ta cũng không nắm vững phần thắng, chỉ có một điểm lợi là địch ở ngoài sáng, ta trong bóng tối. Không biết theo ý bang chủ thì phải làm thế nào?”

Kiều Phong đáp: “Xưa nay đã có câu Binh bất yếm trả, việc này là chuyện hai nước giao tranh không thể nào theo nghĩa khí giang hồ, qui củ võ lâm được. Bọn Liêu cẩu khi giết lê dân nhà Đại Tống chúng ta có bao giờ nương tay đâu? Cứ như ý kiến của tại hạ thì nên dùng ám khí, mà ám khí phải tẩm độc cực mạnh.”

Trí Quang giơ tay vỗ đùi đánh đét một cái, nói: “Phải lắm! Ý kiến của Kiều bang chủ cũng y hệt như bọn ta hồi đó. Thủ lãnh đại ca thấy bọn Liêu cẩu đến gần, hú lên một tiếng, mọi người liền phóng ám khí ra, đủ cả cương tiêu, tụ tiễn, phi đao, thiết chùy… loại nào cũng tẩm độc cực mạnh. Bọn Liêu cẩu kia kêu la hò hét, loạn cả lên, ngã ngựa đến quá nửa…”

Trong đám bang chúng Cái Bang lập tức có người vỗ tay, rồi tiếng hoan hô nổi lên.

Trí Quang nói tiếp: “Bấy giờ ta đã đếm được rõ ràng, võ sĩ Khất Đan cả thảy có mười chín tên, chúng ta dùng ám khí đã tiêu diệt được mười hai, chỉ còn lại có bảy tên. Bọn ta liền nhất tề xông ra, khoa đao kiếm lên chém một lúc chết sạch cả, không có mống nào chạy thoát.”

Trong Cái Bang cũng vẫn có người reo hò, nhưng Kiều Phong, Đoàn Dự lại nghĩ: “Đại sư vừa nói bọn võ sĩ Khất Đan này được tuyển lựa rất kỹ, sao lại kém cỏi thế, chỉ giây lát đã bị giết sạch?”

Chỉ nghe Trí Quang thở dài một tiếng nói: “Bọn ta chỉ mới cất tay đã giết sạch mười chín tên võ sĩ Khất Đan, tuy cũng vui sướng thật nhưng trong bụng đã thấy nghi hoặc. Bọn này tầm thường quá, không đứa nào chịu nổi một chiêu, nhất định không phải là hảo thủ. Chẳng lẽ tin tức không chính xác hay sao? Hay là người Liêu bày kế dụ địch để cho bọn ta vào tròng? Mới bàn bạc được vài câu lại nghe tiếng vó ngựa, từ hướng tây bắc có hai người cưỡi ngựa chạy đến.”

“Lần này bọn ta không mai phục nữa, cùng tiến lên nghinh địch, thấy hai kỵ sĩ là một nam, một nữ. Người đàn ông thân thể khôi vĩ, tướng mạo đường đường, phục sức sang trọng hơn mười chín tên kia nhiều. Người đàn bà còn trẻ, trong tay bồng một đứa hài nhi. Hai người lỏng buông tay khấu, sánh vai nhau cười cười nói nói ra chiều thân mật, rõ ràng là một cặp vợ chồng. Họ trông thấy bọn ta liền lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn lại thấy ngay xác mười chín tên võ sĩ nằm dưới đất. Người đàn ông liền lộ vẻ hung dữ, lớn tiếng quát tháo xí xố một tràng bằng tiếng Khất Đan, không hiểu y muốn nói gì.”

“Thiết tháp Phương Đại Hùng tam ca đất Đại Đồng Sơn Tây giơ cây thục đồng côn lên, quát lớn: Tên Liêu cẩu kia, xuống nạp mạng đi! Y vừa gọi vừa vung côn đập xuống gã Khất Đan kia. Thủ lãnh đại ca trong bụng ngờ vực bèn kêu lên: Phương tam ca không được lỗ mãng! Chớ có giết y, phải bắt sống để tra hỏi xem thế nào.”

“Thủ lãnh đại ca chưa nói hết câu, tay gã Khất Đan đã vươn ra chộp luôn thiết côn của Phương Đại Hùng, vặn nghe rắc một tiếng, xương tay Phương Đại Hùng đã gãy. Gã giằng lấy cây côn giơ lên vụt xuống, bọn ta kêu réo ầm lên, thấy không thể nào xông lên cứu kịp nên ai nấy liền phóng ám khí vào y. Gã người Liêu kia chỉ phất tay áo bên trái, một cái, một luồng kình phong hất bảy tám món ám khí dạt cả ra. Tính mạng Phương Đại Hùng xem ra không sao còn được, ngờ đâu y đưa côn ra hất một cái, cả Phương tam ca lẫn cây côn đều văng ra ngoài vệ đường. Miệng y vẫn lý lố chẳng biết nói gì.”

“Mới có một chiêu, bọn ta ai nấy đều chấn động, biết rằng người này võ công cao cường trên đời hiếm có. Quả nhiên tin tức loan truyền không phải là giả, bọn ta e rằng phía sau còn nhiều hảo thủ nên phải lấy đông đánh ít, giết được tên nào hay tên ấy. Lập tức sáu bảy người liền xông lên tấn công hắn, bốn năm người khác cũng xúm lại đánh người đàn bà.”

Ngờ đâu thiếu phụ đó hoàn toàn không biết võ nghệ, vừa bị chém một kiếm đã đứt lìa cánh tay, đứa trẻ trong tay liền rơi xuống đất, một người khác vung đao hớt đứt luôn nửa cái đầu nàng ta. Gã người Liêu kia võ công tuy cao cường thật nhưng đang bị sáu bảy cao thủ vây đánh thì làm sao có thể phân thân chống đỡ cho vợ con? Mấy chiêu đầu y chỉ cố đoạt binh khí của bọn ta, không làm ai bị thương cả, đến khi thấy vợ chết rồi, mắt y đỏ ngầu, vẻ mặt cực kỳ đáng sợ. Khi đó ta vừa chạm phải mục quang y, tự nhiên chân tay bủn rủn không dám tiến lên.”

Triệu Tiền Tôn ngắt lời: “Cái đó không thể trách ngươi được! Cái đó không thể trách ngươi được!” Y trừ khi nói với Đàm bà ra, ăn nói với ai cũng ra chiều kẻ cả ngạo mạn nhưng mấy câu này xem ra vừa có phần đau buồn vừa có phần khiêm tốn.

Trí Quang tiếp: “Trận ác chiến đó diễn ra đã ba mươi năm. Suốt ba chục năm qua không biết bao nhiêu lần ta nằm mơ thấy cái cảnh đó, từng chi tiết rõ ràng in hằn trong tâm khảm. Gã người Liêu vung hai tay ra, không biết y dùng thủ pháp cầm nã nào đoạt luôn được hai món binh khí trong tay hai huynh đệ, vừa chém vừa đâm, giết luôn hai người đó. Y thoắt nhảy xuống đất, thoắt lại vọt lên lưng ngựa, nhanh như chim cắt vồ mồi, biến ảo không khác gì ma quỉ. Đúng thế, y chẳng khác gì ma quỉ hóa thân, xông vào bên đông giết một người, chuyển qua bên tây giết thêm người nữa. Chỉ trong giây lát, trong hai mươi mốt người bọn ta đã có chín người bị y giết chết.”

“Bấy giờ ai nấy đều tức giận, hai mắt đỏ ngầu. Thủ lĩnh đại ca cùng Uông Bang chúa và cả bọn ta đều liều mạng xông vào giao đấu với y. Thế nhưng võ công gã kỳ lạ không thể tưởng tượng được, chiêu thức sắp đánh về phương nào không ai đoán nổi. Khi đó mặt trời hoàng hôn đỏ như máu, bên ngoài Nhạn Môn Quan gió bấc thổi vù vù hòa lẫn tiếng kêu thảm khốc của các anh hùng hảo hán lúc lâm chung, chân tay, đầu lâu, binh khí, máu me tung tóe rơi rụng. Ai bản lĩnh giỏi mấy cũng chỉ lo tự vệ, không ai chi viện cho người khác được.”

“Trước tình thế này, ta quả là vô cùng sợ hãi. Nhưng mắt thấy anh em từng người từng người chết thảm, không khỏi nhiệt huyết dâng lên, ta thu hết can đảm, cưỡi ngựa xông thẳng vào y. Hai tay ta cầm đại đao nhắm ngay đầu y chém xuống, biết rằng nhát này không trúng thì tính mạng coi như giao cho y.

Lưỡi đao còn cách đầu y một thước, gã người Liêu kia đột nhiên chộp ngay một người đưa lên đỡ. Ta hốt hoảng nhìn lại thì ra là lão nhị trong Đỗ thị tam hùng ở Giang Tây, vội gượng giữ đao lại. Cán đao giật về trúng ngay đầu con ngựa ta đang cưỡi nghe đánh chát, con vật đau quá liền hí một tiếng, nhảy chồm lên. Ngay lúc đó gã người Liêu kia phóng chưởng đánh ra, con vật đang lúc nhảy dựng lên vừa đúng lúc để giúp ta một đòn, nếu không ít ta đã xương cốt gãy hết, còn sống sao được tới ngày nay?”

“Chưởng lực của gã thật là khủng khiếp, hất ta cả người lẫn ngựa bật ngửa ra sau. Thân hình ta bay bổng lên, rơi xuống một ngọn cây, lơ lửng giữa trời. Khi đó ta hồn bất phụ thể, chẳng hiểu mình đang ở chỗ nào, đã chết chưa. Lát sau ta mới nhìn xuống, thấy anh em vây đánh gã người Liêu kia mỗi lúc một ít dần, chỉ còn độ năm sáu người. Vừa khi đó ta nhìn thấy vị nhân huynh này…” Nói tới đây ông chỉ vào Triệu Tiền Tôn kể tiếp: “… lạng đi một cái, té lăn xuống vũng máu, lại tưởng y cũng chết rồi.”

Triệu Tiền Tôn lắc đầu nói: “Chuyện đó nói ra thật đáng hổ thẹn, nhưng cũng chẳng giấu giếm làm gì. Có phải ta bị thương đâu, vì sợ quá nên tim ngừng đập, mắt tối sầm, bất tỉnh nhân sự đó thôi. Quả đúng thế, ta là con quỷ nhát gan, thấy gã giết người nhiều quá bèn ngất xỉu.”

Trí Quang nói: “Gã người Liêu kia lợi hại chẳng khác gì ma quỉ sát hại anh em, ai nói không sợ thì thật là nói bậy.” Ông ta nhìn lên vầng trăng non treo lơ lửng trên không rồi lại tiếp: “Lúc đó bên ta chỉ còn  bốn người chiến đấu với tên Liêu cẩu. Thủ lĩnh đại ca biết không xong, thế nào cũng chết cả bèn luôn mồm hỏi: Ngươi là ai? Ngươi là ai? Gã người Liêu kia không trả lời, chỉ trong chốc lát lại giết thêm hai người nữa. Y phóng chân phải lên đá trúng ngay huyệt đạo trên lưng Uông bang chủ, tiếp đó chân trái theo thế Uyên Ương Liên Hoàn, đá trúng huyệt đạo nơi mạng sườn của thủ lĩnh đại ca. Y dùng bàn chân mà đá trúng huyệt đạo, nhận huyện đã chính xác, cước pháp lại lạ lùng thực không thể tưởng tượng được. Nếu như chẳng phải chính mình cũng sắp chết đến nơi, hai người bị đá là hai người ta hằng kính ngưỡng thì chắc ta đã buột miệng hoan hô rồi.”

“Gã người Liêu kia giải quyết hết cường địch liền chạy đến bên tử thi của thiếu phụ, ôm xác vợ khóc rống lên một hồi cực kỳ bi thảm. Ta nghe tiếng khóc của y không khỏi mủi lòng, thấy tên Liêu cẩu hung ác như ma quỉ kia cũng còn có nhân tính, thống khốc bị ai chẳng khác gì người Hán chúng ta.”

Triệu Tiền Tôn lạnh lùng nói: “Thế thì có gì là lạ? Loài dã thú còn có tình vợ chồng cha con, có khác gì con người đâu? Người Liêu cũng là người, có khác gì người Hán?” Trong đám Cái Bang có mấy người la ó: “Quân Liêu cẩu hung tàn bạo ngược, còn hơn độc xà mãnh thú, khác xa người Hán chúng ta.” Triệu Tiền Tôn chỉ cười nhạt không đáp.

Trí Quang kể tiếp: “Gã người Liêu kia ngồi khóc một hồi, ôm xác đứa con nhìn một lát, để hài nhi vào lòng mẹ, bước tới chỗ thủ lĩnh đại ca chửi bới một chập. Thủ lĩnh đại ca cũng không chịu nhịn, giương mắt hầm hầm nhìn y, khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm, không nói được câu nào. Hắn đột nhiên ngẩng đầu lên hú một tiếng dài, nhặt một thanh đoản đao dưới đất, vạch chữ lên sườn núi. Lúc đó trời đã tối mịt, ta lại ở cách y khá xa nên không rõ gã viết những gì.”

Triệu Tiền Tôn nói: “Y khắc bằng chữ Khất Đan, ngươi có thấy cũng chẳng hiểu được.” Trí Quang đáp: “Đúng thế, ta có thấy cũng chẳng hiểu được. Khi đó bốn bề vắng lặng không một tiếng động, chỉ có tiếng dao khắc lên đá xoèn xoẹt, nghe cả tiếng đá vụn rơi xuống, ta nín hơi không dám thở mạnh. Không biết bao lâu, y vứt thanh đoản đao xuống nghe keng một tiếng, cúi xuống bồng xác vợ con lên, đi đến bờ vực thẳm tung mình nhảy xuống.”

Mọi người nghe đến đây đều “A” lên một tiếng, không ngờ chuyện lại xảy ra như thế.

Trí Quang đại sư kể tiếp: “Các vị bây giờ nghe kể còn thấy ngạc nhiên, lúc đó chính mắt ta nhìn lại càng kinh ngạc bội phần. Một người võ công cao cường như thế ở nước Liêu ắt phải có thân phận cao quí, lần này đoàn võ sĩ đến Trung Nguyên tập kích chùa Thiếu Lâm, nếu như y không phải là đại thủ lĩnh thì cũng phải là một nhân vật trọng yếu. Y bắt sống được thủ lĩnh đại ca cùng Uông bang chủ, còn bao nhiêu thì đã giết sạch, coi như toàn thắng rồi, ai ngờ đâu y lại nhảy xuống vực sâu tự tận chứ không thừa thắng tiến lên.”

“Khi ta tới bên bờ vực nhìn xuống, chỉ thấy mây tỏa mịt mù, sâu không thấy đáy. Y cũng chỉ có cái thân máu thịt, dù cho võ công cao cường tới mực nào mà đã nhảy xuống thì cũng không sao sống sót. Ta giật mình kêu lên một tiếng. Ngờ đâu bên trong chuyện lạ lại có chuyện lạ hơn, ta vừa kệu thét lại có tiếng trẻ con khóc oa oa, rồi từ dưới vực sâu có một vật vọt lên rơi ngay trên mình Uông bang chủ nghe bịch một tiếng. Thế rồi tiếng hài nhi khóc oe oe vẫn không ngừng, hóa ra vật rơi vào người Uông bang chủ chính là đứa nhỏ lúc nãy. Khi đó ta đã bớt sợ, từ trên cây trèo xuống, chạy đến gần Uông bang chủ, thấy đứa bé Khất Đan nằm trên bụng ông vẫn đang khóc.”

“Ta nghĩ một lúc mới hiểu rõ: nguyên lúc thiếu phụ Khất Đan bị giết, đứa con nàng tuy ngã xuống đất, nhắm mắt tắt hơi nhưng chưa chết hẳn. Gã người Liêu kia đang khóc lóc thảm thiết, sờ mũi con thấy không thở nữa lại tưởng vợ con chết cả rồi, nên ôm hai cái xác nhảy xuống vực tự tận. Đứa hài nhi bị chấn động, tỉnh lại khóc ré lên. Gã người Liêu kia thân thủ quả là ghê gớm, không muốn con phải chết theo mình dưới vực sâu, lập tức bế đứa trẻ quăng lên. Y lượng đúng phương vị khoảng cách nên nhắm ngay bụng Uông bang chủ mà ném, để cho hài nhi không bị thương. Gã đang ở lưng chừng, vừa phát giác ra đứa con chưa chết lập tức tung lên, tâm linh chuyển biến đã mau lẹ, sử lực lại không sai một li nào, tài trí đó, võ công đó ai mà không khiếp sợ.”

“Ta nhìn anh em chết thảm, trong cơn đau lòng nhấc đứa bé Khất Đan lên định liệng vào vách đá cho chết luôn. Tay ta vừa giơ lên thì đứa trẻ lại khóc oa oa, khuôn mặt hồng hào, đôi mắt to đen láy nhìn ta. Nếu ta không trông vào mặt nó thì đã quật chết tươi rồi, chả còn chuyện gì nữa. Thế nhưng ta thấy khuôn mặt đứa trẻ thật đáng yêu không nỡ ra tay, nghĩ bụng: Hiếp đáp một đứa trẻ chưa đầy tuổi thì thật là hèn mạt, còn nói gì nam tử hán, đại trượng phu?”

Trong Cái Bang có người la lên: “Trí Quang đại sư! Bọn Liêu cẩu giết hại người Hán chúng ta nhiều vô số kể. Chính mắt tại hạ nhìn thấy chúng cầm trường mâu xiên vào trẻ con người Hán, phóng ngựa bêu khắp phố phường để diễu võ dương oai. Bọn chúng giết trẻ con được, lẽ nào mình lại không giết được?” Trí Quang đại sư thở dài đáp: “Quả đúng như vậy, song tấm lòng trắc ẩn ai mà không có? Hôm đó ta thấy người chết thảm đã nhiều, không nỡ giết thêm một đứa trẻ nữa. Các ngươi nói ta sai lầm cũng được, nói ta nhát gan cũng được, nhưng ta vẫn để nó sống.”

“Sau đó ta đến định giải huyệt cho thủ lĩnh đại ca và Uông bang chủ nhưng tài nghệ ta kém cỏi, lại thêm công phu đả huyệt của gã Khất Đan kia đặc dị, ta ra sức nào nắn, nào vỗ, nào thoa, nào bóp, hì hục đến đẫm mồ hôi, dùng đủ mọi cách mà thủ lĩnh đại ca và Uông bang chủ vẫn trơ trơ không nhúc nhích, cũng chẳng mở miệng nói được. Ta không còn cách nào khác hơn, lại sợ bọn Khất Đan tới tiếp viện nên dắt ba con ngựa tới, đem thủ lĩnh đại ca và Uông bang chủ buộc lên lưng ngựa. Chính ta cũng cưỡi một con, tay ôm đứa trẻ Khất Đan dẫn thêm hai con ngựa nữa chạy suốt đêm rời Nhạn Môn Quan tìm thầy thuốc chuyên về trật đả nhờ giải huyệt, cũng chẳng ăn thua gì. May sao đến tối hôm sau là đủ mười hai giờ, huyệt đạo hai vị tự nhiên khai thông.”

“Thủ lĩnh đại ca và Uông bang chủ nhớ ngay đến chuyện võ sĩ Khất Đan tấn công chùa Thiếu Lâm, nên lập tức quay lại Nhạn Môn Quan xem xét tình hình. Thế nhưng chỉ thấy máu đổ thịt rơi đầy mặt đất, hiện trường vẫn nguyên vẹn so với hôm trước. Ta thò đầu ra nhìn xuống vực cũng không lần được một chút manh mối nào. Chúng ta bèn cùng nhau đem thi hài anh em mai táng, nhưng khi đếm lại chỉ có mười bảy tử thi. Đúng ra số người tuẫn nạn phải là mười tám, sao bấy giờ lại thiếu mất một?” Ông ta nói tới đây đưa mắt nhìn Triệu Tiền Tôn.

Y nhăn nhó cười nói: “Trong đám này có một xác chết hồi sinh, đi đi lại lại được cho đến ngày nay. Cái xác ấy chính là Triệu Tiền Tôn Lý Chu Ngô Trịnh Vương ta đây.”

Trí Quang lại nói: “Lúc đó ba người chúng ta cũng không lấy làm lạ, lại nghĩ trong lúc hỗn chiến, nhân huynh đây đã chết lặn xuống vực thẳm mất xác cũng là chuyện thường. Bọn ta mai táng anh em xong rồi, căm tức chưa tan, lại đem các xác chết Khất Đan liệng hết xuống dưới Loạn Thạch Cốc. Thủ lĩnh đại ca nói với Uông bang chủ: Kiếm Nhiêm huynh, gã Khất Đan kia mà muốn giết hại người chúng ta thật dễ như trở bàn tay, sao lại chỉ đá vào huyệt đạo để cho mình sống tới bây giờ?” Uông bang chủ đáp: “Việc đó ta cũng nghĩ mãi mà chưa ra, hai ta là nhân vật đầu sỏ giết cả vợ con yêu dấu của gã, cứ lý mà nói thì phải đuổi tận giết tuyệt mới đúng.”

“Ba người bàn đi tán lại mãi vẫn không ra lẽ. Thủ lĩnh đại ca bèn nói: Gã khắc chữ trên vách đá chắc hẳn có thâm ý gì. Khổ nỗi cả ba người chúng ta không ai hiểu văn tự Khất Đan, thủ lĩnh đại ca bèn xuống suối lấy nước hòa máu đọng dưới đất tô lên vách đá, sau đó xé trường bào màu trắng, in vào đó. Y chỉ dùng một con dao găm mà khắc chữ sâu vào đá phải đến hai tấc, riêng thủ kình đó cũng đủ xưng hùng thiên hạ không ai bì kịp rồi. Ba người nhìn mà kinh ngạc, nhớ lại tình hình hôm qua trong lòng vẫn còn thảng thốt. Vào trong quan ải rồi, Uông bang chủ đi tìm một gã lái ngựa thường qua lại Thượng Kinh nước Liêu buôn bán, y có biết chữ Khất Đan, đưa tấm vải cho y xem, nhờ dịch ra chữ Hán rồi viết lên giấy.”

Trí Quang thuật đến đó, ngẩng đầu nhìn trời, thở dài một tiếng rồi tiếp tục kể: “Ba người chúng ta đọc xong bản dịch rồi, người nọ nhìn người kia không sao tin nổi. Gã Khất Đan kia lúc đó đã quyết ý tự tận, lẽ nào còn dối trá? Bọn ta lại đi tìm một người khác cũng hiểu tiếng Khất Đan nhờ y dịch miệng lại từng câu, thì ý tứ cũng đúng như bản dịch trước. Than ôi! Nếu sự thực là vậy thì mười bảy huynh đệ chết oan, bọn võ sĩ không tội vạ gì mà bị liên lụy, còn đối với vợ chồng người Khất Đan thì chúng ta thật có lỗi không thể kể xiết.”

Mọi người đang nóng lòng muốn nghe những hàng chữ Khất Đan trên vách núi kia có ý nghĩa gì, Trí Quang lại ngần ngừ không nói nữa. Có người nóng tính liền giục: “Những dòng chữ đó viết gì?” “Sao lại có lỗi với y?” “Tại sao lại oan cho vợ chồng người đó?” Trí Quang nói: “Các vị bằng hữu, không phải là ta có ý giấu giếm không chịu tiết lộ ý nghĩa của những chữ Khất Đan kia. Nếu như bản văn trên vách đá là sự thực thi hành vi của thủ lĩnh đại ca, Uông bang chủ và cả ta đều hết sức sai trái, không còn mặt mũi nào mà nhìn ai. Trí Quang này trong võ lâm chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, có sai lầm thì cũng chẳng đáng gì. Thế nhưng thủ lĩnh đại ca và Uông bang chủ ở vào địa vị cao đến thế nào? Huống chi Uông bang chủ đã qui tiên rồi, ta đâu dám nói năng càn rỡ để làm tổn hại đến thanh danh hai vị? Xin anh em tha lỗi, ta không thể nói rõ ra.”

Tiền bang chủ của Cái Bang là Uông Kiếm Thông oai danh lừng lẫy. Trên từ Kiều Phong và các trưởng lão, dưới đến các đệ tử ai ai cũng đều chịu ơn ông. Bang chúng Cái Bang tuy hiếu kỳ thật nhưng nghe nói chuyện này có liên quan đến thanh danh Uông bang chủ, không một ai dám hỏi thêm.

Trí Quang lại kế tiếp: “Ba người chúng ta thương nghị một hồi, trong lòng ai nấy đều bán tín bán nghi nên quyết định tạm tha mạng cho đứa hài nhi Khất Đan, trước hết đến chùa Thiếu Lâm nghe ngóng động tĩnh đã, nếu như võ sĩ Khất Đan có đến tấn công thực bấy giờ sẽ giết đứa trẻ cũng chưa muộn. Bọn ta chạy suốt ngày đêm ngựa không ngừng vó, đến chùa Thiếu Lâm rồi thấy các lộ anh hùng đến đây tiếp tay cũng không ít. Việc này liên quan đến an nguy sống chết của hàng nghìn hàng vạn bách tính Thần Châu, chỉ cần tin tức loan ra là ai ai cũng muốn đóng góp chút công lao.”

Trí Quang chậm rãi đưa mắt từ trái sang phải nhìn khắp mọi người nói tiếp: “Cuộc tụ hội ở chùa Thiếu Lâm năm đó qui tụ vô số võ lâm tiền bối, chẳng cần phải tường thuật chi tiết làm gì. Tất cả cẩn thận phòng bị, canh gác chặt chẽ, anh hùng các nơi đến tiếp viện mỗi lúc một đông. Cứ như thế từ tiết Trùng Dương tháng chín đến tháng chạp, hơn ba tháng trời chẳng thấy tăm hơi gì, mới định đi kiếm kẻ đưa tin kia để chất vấn thì không sao tìm thấy y được nữa. Bọn ta lúc ấy mới nghĩ rằng tin kia là giả, bị người ta đánh lừa. Trận chiến ở ngoài Nhạn Môn Quan hai bên chết uổng không ít.”

“Thế nhưng chẳng bao lâu, quân thiết kỵ Khất Đan lại xâm phạm, tấn công Hà Bắc nên việc võ sĩ Khất Đan có đến tấn công chùa Thiếu Lâm nữa hay không chẳng ai còn để ý nữa. Bọn chúng đến hay không đến cũng chẳng sao, dù gì thì người Khất Đan cũng là kẻ tử thù của Đại Tống.”

“Thủ lĩnh đại ca, Uông bang chủ và ta ba người đối với chuyện ngoài ải Nhạn Môn có phần hổ thẹn nên chỉ kể lại với phương trượng chùa Thiếu Lâm và báo tin cho thân nhân những anh em tử nạn, ngoài ra không hé răng với một ai. Đứa bé Khất Đan thì đem gửi nuôi tại nhà một nông dân dưới chân núi Thiếu Thất. Việc đã lỡ rồi, xử trí đứa hài nhi đó thế nào cũng thật là nan giải. Bọn ta đối với cha mẹ nó quả là tàn nhẫn nên không đành lòng giết nó. Thế nhưng nếu nuôi nó lớn khôn mà người Khất Đan đã thành kẻ tử thù của chúng ta thì phỏng có khác gì dưỡng hổ di hoạn? Về sau thủ lĩnh đại ca giao cho nhà nông đó một trăm lạng bạc, nhờ họ nhận thằng bé Khất Đan làm con, khi nó lớn lên tuyệt đối không cho nó biết gốc gác của nó. Vợ chồng họ vốn không có con, lập tức vui mừng nhận lời ngay. Hai người đó cũng chẳng biết đứa trẻ là nòi giống Khất Đan, vì khi chúng ta đem nó tới núi Thiếu Thất, trên đường đã thay quần áo như trẻ con người Hán rồi. Người dân Đại Tống thù hận Liêu cẩu tới xương tủy, nếu thấy hài nhi mặc y phục Khất Đan thể nào cũng làm hại nó…”

Kiều Phong nghe đến đây đã đoán ra được tám chín phần, run run hỏi: “Trí Quang đại sư, thế… thế người nhà nông dưới chân núi Thiếu Thất ấy, y… y… họ gì?”

Trí Quang đáp: “Chắc bang chủ cũng đoán được rồi, ta chẳng giấu làm chi. Người đó họ Kiều, tên là Tam Hòe.”

Kiều Phong bàng hoàng kêu lên: “Không? Không! Đại sư chớ có nói láo, dựng chuyện ra để vu hãm cho ta. Ta đường đường là người Hán, sao lại là quân mọi rợ Khất Đan được? Tam Hòe công là… là… gia gia thân sinh ra ta, đại sư chớ có nói bậy…” Đột nhiên chàng nhảy xổ đến trước mặt Trí Quang, tay trái chộp luôn ngực ông ta.

Đơn Chính và Từ trưởng lão cùng xông vào cứu, miệng la lên: “Không được!” Kiều Phong thân thủ cực nhanh, tay vẫn xách nhà sư nhảy tránh sang một bên.

Con trai Đơn Chính là Đơn Trọng Sơn, Đơn Thúc Sơn, Đơn Qui Sơn ba người cùng xông lên phía sau Kiều Phong. Chàng chỉ dùng tay phải lần lượt chộp được Đơn Thúc Sơn rồi Đơn Trọng Sơn vứt ra ngoài xa, còn lần thứ ba thì nắm lấy Đơn Quí Sơn quảng xuống đất, giơ chân đạp lên cổ y.

Đơn Thị Ngũ Hổ tiếng tăm lừng lẫy một dải Sơn Đông, năm anh em thành danh cũng đã lâu chứ nào phải hạng công tử nhà giàu ỷ thế cha, thế mà Kiều Phong tay trái cầm Trí Quang, tay phải liên tiếp chộp người, quăng ba đại hán nhà họ Đơn như liệng bù nhìn rơm, chẳng ai chống cự được mảy may. Mọi người trông thấy đều hết hồn, miệng há hốc ra.

Đơn Chính và Đơn Bá Sơn, Đơn Tiểu Sơn cốt nhục tình thâm cũng muốn xông lên cứu viện nhưng thấy Kiều Phong đạp chân lên đầu Đơn Quí Sơn, biết rõ thần lực của chàng ghê gớm, chỉ ấn một cái là y vỡ sọ mất mạng. Vì thế mà ba cha con Đơn Chính phải dừng chân không dám tiến lại gần. Đơn Chính kêu lên: “Kiều bang chủ, có gì thì nói chuyện phải trái với nhau, không nên mạnh tay. Nhà họ Đơn chúng tôi với bang chủ không thù không oán, xin tha cho con tôi.” Đến như Thiết Diện Phán Quan mà cũng phải ngỏ lời van xin Kiều Phong!

Từ trưởng lão nói: “Kiều bang chủ, Trí Quang đại sư được mọi người trên giang hồ kính ngưỡng, chớ nên hại mạng ông ta.”

Bầu máu nóng của Kiều Phong sôi lên, lớn tiếng nói: “Đúng lắm, Kiều Phong này cùng nhà họ Đơn không thì không oán, lại hằng kính ngưỡng Trí Quang đại sư, Các ngươi… các ngươi muốn phế bỏ chức vị bang chủ của ta thì ta bưng hai tay trao lại, việc gì phải bịa chuyện khinh miệt ta? Kiều mỗ… đã làm chuyện gì xấu xa mà các ngươi phải bức bách ta đến thế?” Mấy câu sau chàng nói giọng nghẹn ngào, làm người nghe ai cũng đồng tình.

Tiếng xương cốt trong người Trí Quang bỗng kêu răng rắc, mọi người biết tính mạng đại sư chỉ trong đường tơ kẽ tóc, sống chết tùy thuộc vào ý niệm của Kiều Phong. Ngoài tiếng gió thổi ngọn cây rì rào, tiếng giun dế sột soạt trong đám cỏ, tiếng thở của mọi người, không một ai dám lên tiếng.

Một hồi sau, Triệu Tiền Tôn đột nhiên cười khẩy, nói: “Tức cười ơi là tức cười! Người Hán thì đã hơn gì ai, mà người Khất Đan thì cũng đâu phải là heo chó? Hiển nhiên là người Khất Đan, sao lại cố mạo nhận mình là người Hán, có gì đáng tự hào dâu? Đến cha mẹ thân sinh cũng không thèm nhận, thật uổng cái danh nam tử hán đại trượng phu.”

Kiều Phong trợn mắt, hầm hầm hỏi lại: “Phải chăng tiền bối bảo Kiều mỗ là người Khất Đan?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Ta làm sao chắc được. Có điều trong trận chiến ngoài Nhạn Môn Quan, gã võ sĩ Khất Đan kia hình dáng mặt mày giống hệt ngươi. Hôm đó Triệu Tiền Tôn này sợ đến xiêu hồn bạt vía, vỡ mật vỡ gan cho nên một trăm năm nữa ta vẫn nhớ rõ tướng mạo kẻ đối đầu. Trí Quang đại sư ôm đứa trẻ Khất Đan về, chính mắt ta trông thấy. Triệu Tiền Tôn ta có khác gì xác chết biết đi, trên thế gian này ngoài Tiểu Quyên ra chẳng còn nhớ tới một ai, cũng chẳng còn nhớ chuyện gì. Ngươi làm hay không làm bang chủ Cái Bang có liên quan đếch gì tới ta, việc quái gì ta phải vu hãm cho ngươi? Giả tỷ ta bịa ra chuyện năm xưa có tham dự việc giết hại cha mẹ ngươi thì được cái mẹ gì? Kiều bang chủ, võ công Triệu Tiền Tôn này so với ngươi thì kém xa, nếu như ta không muốn sống thì chẳng lẽ đến tự sát cũng không biết hay sao?”

Kiều Phong chầm chậm buông Trí Quang đại sư xuống, đầu ngón chân hất một cái, thân thể to lớn của Đơn Quí Sơn văng ra, rơi xuống đất nghe đánh bịch. Đơn Quí Sơn nhún một cái đã đứng dậy ngay được, không bị thương tích gì. ,

Kiều Phong chằm chặp nhìn Trí Quang, thấy ông thần sắc thản nhiên, tuyệt không có vẻ gì giả vờ hay gian dối, bèn hỏi: “Thế rồi sao nữa?” Trí Quang đáp: “Về sau thì các hạ tự biết rồi. Năm lên bảy tuổi các hạ đi hái hạt dẻ trong núi bị một con chó sói rượt, được một nhà sư chùa Thiếu Lâm cứu thoát, giết con ác thú rồi trị thương cho, sau đó ngày ngày đến dạy võ, có đúng thế không?”

Kiều Phong đáp: “Đúng vậy! Thì ra chuyện này đại sư cũng biết.” Khi Huyền Khổ đại sư của chùa Thiếu Lâm truyền thụ võ công cho Kiều Phong có dặn chàng không được tiết lộ cho ai biết, trên giang hồ ai cũng tưởng Kiều Phong là đệ tử đích truyền của Uông bang chủ Cái Bang, có biết đâu ông ta và chùa Thiếu Lâm có liên hệ sâu xa.

Trí Quang nói: “Nhà sư Thiếu Lâm đó được thủ lĩnh đại ca ủy thác việc dạy dỗ các hạ từ bé cho khỏi lầm đường lạc lối. Vì việc này, ta và thủ lĩnh đại ca cùng Uông bang chủ ba người đã tranh luận sôi nổi. Ta bảo là cứ để cho các hạ sống bình thường, làm ruộng kiếm ăn, đừng học võ để khỏi bị lôi kéo vào ân oán giang hồ. Thủ lĩnh dại ca bảo nếu làm như vậy thì có điều hối hận với lệnh song đường, nên phải nuôi dưỡng giáo huấn để các hạ trở nên một vị đại anh hùng.”

Kiều Phong nói: “Các vị… các vị tiền bối sao lại có điều hối hận với song thân tại hạ? Người Hán và người Khất Đan giết hại lẫn nhau là chuyện bình thường, chả có gì mà phải hối hận.” Trí Quang thở dài, nói: “Di văn trên vách đá ngoài Nhạn Môn Quan đến nay chắc vẫn chưa mờ, sau này các hạ ra đó mà xem. Thủ lĩnh đại ca đã có chủ ý, Uông bang chủ cũng ngả theo, một mình ta không cãi lại được. Đến khi các hạ mười sáu tuổi mới được Uông bang chủ thu làm đồ đệ, rồi về sau biết bao nhiêu cơ duyên gặp gỡ. Dĩ nhiên là các hạ thiên tư trác tuyệt, người thường không sao theo kịp, thế nhưng nếu không có thủ lĩnh đại ca và Uông bang chủ đứng sau giúp đỡ e rằng cũng không dễ dàng đến thế.”.

Kiều Phong cúi đầu ngẫm nghĩ, nhớ lại cuộc đời mình gặp biết bao nguy nan song lần nào cũng đổi dữ ra lành, chưa gặp chuyện gì quá đau đớn nặng nề, lại biết bao cơ duyên đưa đẩy không cầu mà được. Trước đây chàng vẫn tưởng mình có phúc tinh chiếu mệnh, bây giờ nghe Trí Quang đại sư nói mới hiểu có người giấu mặt giúp đỡ mà mình tuyệt nhiên không hay biết gì. Trong lòng chàng lại bàng hoàng tự hỏi: “Nếu đại sư nói thật thì ta là người Khất Đan chứ đâu phải người Hán? Uông bang chủ không phải ân sư của ta mà là kẻ thù giết cha giết mẹ. Bậc tiền bối đứng sau lưng ám trợ ta cũng nào phải tốt lành gì, chẳng qua thẹn với lương tâm nên tìm cách chuộc tội đấy thôi. Không, không! Giống Khất Đan hung tàn bạo ngược là tử thù của người Hán chúng ta, ta làm sao có thể là quân mọi rợ được?”.

Lại nghe Trí Quang kể tiếp: “Uông huynh lúc đầu vẫn gia tâm đề phòng, nhưng về sau thấy các hạ học và tiến bộ thật nhanh, khẳng khái hào hiệp, đối với người thì nhân hậu, đối với ông ta thì kính cẩn tôn sùng, nên dần dần đem lòng yêu mến. Về sau các hạ công phu mỗi lúc một nhiều, uy danh mỗi lúc một lớn, trong Cái Bang ai nấy đều kính phục, ngay cả người ngoài bang cũng biết chắc chức vị bang chủ về ai. Thế nhưng Uông huynh vẫn dùng dằng chưa quyết, cũng chỉ vì các hạ dòng giống Khất Đan. Ông ta thử các hạ ba việc khó đều hoàn thành chu đáo, đến khi lập được bảy công lao mới đem Đả Cẩu Bổng pháp ra truyền thụ. Năm đó Thái Sơn đại hội, các hạ đánh bại chín kẻ cường địch, khiến cho Cái Bang uy chấn thiên hạ, ông ta mới hết do dự mà lập các hạ làm bang chủ. Cứ như lão nạp biết, trong mấy trăm năm qua, chưa có vị nào tiếp nhiệm bang chủ Cái Bang mà phải trải qua biết bao gian nan thử thách như các hạ.”

Kiều Phong cúi đầu đáp: “Tại hạ vẫn tưởng ân sư Uông bang chủ có ý rèn luyện, bắt tại hạ phải trải qua nhiều gian khổ để có thể đảm đương việc lớn, có ngờ đâu… Có ngờ đâu…” Lúc này trong lòng Kiều Phong mười phân đã tin đến tám.

Trí Quang nói: “Ta cũng chỉ biết tới đó mà thôi. Các hạ đứng ra làm bang chủ Cái Bang rồi, trên giang hồ ai cũng bảo bang chủ hành hiệp trượng nghĩa, tạo phúc cho lê dân, xử sự công chính, chỉnh đốn Cái Bang trở nên hưng vượng, ta trong lòng cũng mừng thầm. Lại nghe bang chủ mấy lần phá hỏng gian mưu, giết được vô số nhân vật anh hùng của Khất Đan, cái điều cố kỵ dưỡng hổ di hoạn năm xưa thành ra chuyện người nước Kỷ lo trời sập. Việc này kể ra vĩnh viễn chẳng nên nhắc tới nữa, mà không biết ai lại khuấy lên. Việc này có hay ho gì cho cả Cái Bang lẫn thân danh bang chủ đâu?” Nói tới đây ông thở dài một tiếng, sắc mặt buồn rười rượi.

Từ trưởng lão nói: “Đa tạ Trí Quang đại sư đã thuật lại vụ này một cách thật rành mạch, khiến cho ai nấy tưởng như chính mắt nhìn thấy. Còn phong thư này…” Trưởng lão đưa phong thư ra, nói tiếp: “… là do vị thủ lĩnh đại ca kia viết cho Uông bang chủ, trong thư hết sức ngăn trở Uông bang chủ không nên truyền ngôi vị cho Kiều Phong. Kiều bang chủ chắc không ngại xem qua cho biết.” Nói xong đưa lá thư ra cho chàng.

Trí Quang nói: “Để ta xem trước, có phải thư thật hay là thư giả?” Nói xong đại sư đưa tay đón lá thư đọc qua một lượt rồi nói: “Đúng vậy, quả nhiên là thủ bút của thủ lĩnh đại ca.” Ông ta vừa nói vừa dùng ngón tay xé ngay chỗ ký tên ở cuối lá thư bỏ vào mồm, lưỡi cuốn một cái nuốt chửng vào bụng.

Khi Trí Quang xé lá thư, ông đã tiến tới gần đống lửa thêm mấy bước cách Kiều Phong khá xa, lại vờ như không đủ ánh sáng nên đưa tờ giấy lên gần mắt, lá thư đã kề tới miệng. Kiều Phong không ngờ vị lão tăng đức cao vọng trong kia cũng biết giảo hoạt, giận dữ gầm lên một tiếng, tay trái cách không điểm ra trúng ngay huyệt đạo nhà sư, tay phải giật tờ giấy nhưng vẫn chậm mất một chút, chỗ ký tên ở cuối lá thư đã bị nuốt mất rồi. Kiều Phong đành giải huyệt cho ông ta, hậm hực hỏi: “Đại sư… đại sư làm gì vậy?”

Trí Quang mỉm cười nói: “Kiều bang chủ, một khi đã biết rõ thân thế mình rồi tất nhiên muốn báo thù cho cha mẹ. Uông bang chủ đã qua đời khỏi cần nói tới, còn tên tuổi vị thủ lĩnh đại ca này, lão nạp không muốn cho các hạ biết. Năm xưa lão nạp cũng có tham dự vụ phục kích lệnh tôn lệnh đường, bao nhiêu tội nghiệt xin một mình gánh chịu, thí chủ muốn lóc thịt lột da gì cũng được, xin cứ hạ thủ.”

Kiều Phong thấy ông ta lông mày rủ xuống, đứng cúi đầu, thần sắc thật trang nghiêm. Tuy chàng trong lòng bi phẫn nhưng cũng cảm thấy kính trọng, bèn nói: “Việc thực hay hư, lúc này Kiều mỗ chưa dám chắc. Muốn giết đại sư đâu phải chỉ một lúc này mà thôi.” Nói xong chàng đưa mắt nhìn sang Triệu Tiền Tôn.

Triệu Tiền Tôn nhún vai, dường như không coi vào đâu, nói: “Quả đúng như thế! Ta cũng dính líu vào vụ này, món nợ này ta cũng chịu một phần. Khi nào ngươi thích thì cứ ra tay giết ta.”

Đàm công lớn tiếng nói: “Kiều bang chủ, việc gì cũng nên suy nghĩ cho kỹ, hành sự không nên cẩu thả. Nếu bang chủ xét đến việc phân tranh Hồ Hán, hết thảy hào kiệt Trung Nguyên ai ai cũng là địch cả.” Triệu Tiền Tôn tuy là tình địch của ông ta nhưng bây giờ ông lại lên tiếng che chở.

Kiều Phong chỉ cười nhạt, ruột rối như tơ vò, không biết đáp thế nào cho phải. Ông cầm tờ giấy soi vào ánh lửa mà đọc:

Kiếm Nhiêm huynh đệ! |

Đàm luận mấy đêm, cải ý truyền ngôi của huynh đệ vẫn không thay đổi. Mấy bữa nay ta càng nghĩ kỹ, thấy rằng việc đó quả không nên. Kiều quân tài nghệ siêu quần, công lao vĩ đại, lại là người nhiệt huyết can đảm, không chỉ trong quí bang không ai bằng mà đến võ lâm đồng đạo khắp cõi Thần Châu cũng ít người sánh kịp.

Tài đức đó mà kế thừa chức vị của huynh đệ, rồi đây thanh danh Cái Bang ngày càng vang dội là điều không còn ngờ gì nữa.

Kiều Phong đọc đến đây thấy vị tiền bối này hết sức coi trọng mình, không khỏi trong lòng cảm kích, lại đọc tiếp đoạn dưới:

Thế nhưng trận huyết chiến ngoài Nhạn Môn Quan thật là kinh tâm động phách, ta vẫn ngày ngày canh cánh không quên. Đứa trẻ đó không phải cùng tộc loại với mình, cả cha lẫn mẹ đều chết dưới tay của chúng ta. Mai đây nếu y không biết gốc gác của mình thì không nói làm gì, còn không thì Cái Bang sẽ bị một tay y tiêu diệt, võ lâm Trung Nguyên sẽ gặp kiếp nạn to lớn. Đời nay kẻ có võ công ngang ngửa với đứa trẻ năm xưa, thực chẳng một ai. Việc nội bộ của quí bang, đáng lẽ người ngoài không nên xen vào, nhưng huynh đệ với ta giao tình chẳng phải bình thường, việc này lại liên quan quá lớn, mong suy nghĩ cho thật kỹ…

Cuối thư, chỗ người viết ký tên đã bị Trí Quang xé mất rồi.

Từ trưởng lão thấy Kiều Phong đọc xong đứng đờ đẫn không nói lời nào, bèn đưa thêm một tờ giấy khác mà nói: “Đây là thư của Uông bang chủ, chắc bang chủ nhận được bút tích.” Kiều Phong đón lấy thư xem. Trong thư nói:

Truyền cho Cái Bang Mã phó bang chủ, Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão cùng tất cả các trưởng lão. Kiều Phong mà có hành vi thân Liêu phản Hán, giúp Khất Đan chống lại nhà Đại Tống thì toàn bang phải lập tức hợp lực giết y ngay, không được bỏ lỡ. Hạ độc, hành thích tất cả đều dùng được, người hạ thủ có công chứ không có tội. Uông Kiếm Thông thủ bút.

Bên dưới có ghi rõ ngày tháng: Đại Tống Nguyên Phong năm thứ sáu, tháng năm, mồng bảy. Kiều Phong nhớ thật rõ ràng, đây chính là ngày mình tiếp nhiệm bang chủ Cái Bang.

Mấy hàng chữ này đích thị ân sư Kiếm Thông thủ bút, quả không còn hoài nghi gì nữa. Chàng nghĩ đến ân sư xem mình chẳng khác gì con ruột, dạy dỗ đã nghiêm mà cũng yêu thương tha thiết, ngờ đâu đúng ngày mình tiếp nhiệm bang chủ Cái Bang lại ngấm ngầm viết tờ di lệnh này. Chàng thấy trong lòng chua xót, nước mắt chảy ròng ròng, từng giọt từng giọt rơi xuống thủ dụ của Uông bang chủ đang cầm trên tay.

Từ trưởng lão chậm rãi nói: “Kiều bang chủ đừng trách chúng tôi vô lễ. Tờ thủ dụ này của Uông bang chủ vốn chỉ một mình Mã phó bang chủ biết được mà lại giấu thật kỹ, xưa nay chưa hề nói với ai. Trong những năm qua, bang chủ hành sự quang minh lỗi lạc, không hề có chuyện thông Liêu phản Tống, trợ Khất Đan để áp bức người Hán, thế thì di lệnh của Uông bang chủ không cần phải dùng đến. Đến khi Mã phó bang chủ đột nhiên chết thảm, Mã phu nhân mới tìm thấy tờ di lệnh này. Mọi người ai nấy đều nghi Mã phó bang chủ bị Cô Tô Mộ Dung giết hại, nếu bang chủ vì Đại Nguyên huynh đệ mà báo thù thì thân thế lai lịch của bang chủ quyết không ai nhắc đến. Lão hủ suy nghĩ đã nhiều, vì đại cục đã định đem lá thư này cùng di lệnh của Uông bang chủ mà hủy đi, có điều… có điều…” Lão nói đến đây đưa mắt nhìn Mã phu nhân nói: “Một là Mã phu nhân đau lòng muốn báo thù chồng, không thể để Đại Nguyên huynh đệ oan chìm đáy bể, chết không nhắm mắt. Hai là Kiều bang chủ lại bảo vệ cho người Hồ, việc làm xem ra nguy hại cho bản bang…”

Kiều Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Kiều mỗ bảo vệ cho người Hồ ư? Chuyện đó ở đâu mà ra?”

Từ trưởng lão đáp: “Hai chữ Mộ Dung vốn là họ của người Hồ. Họ Mộ Dung là hậu duệ giống Tiên Ti, với Khất Đan cũng đều là Hồ Lỗ Di Địch ở ngoài quan ải cả.” Kiều Phong đáp: “Thì ra là thế. Tại hạ nào có biết?” Từ trưởng lão tiếp tục: “Thứ ba, việc Kiều bang chủ là người Khất Đan nhiều anh em trong bang đã biết rồi, biến loạn đã sinh, giấu giếm cũng không ích lợi gì nữa.”

Kiều Phong ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng, những nghi nan nặng trĩu trong lòng từ chập tối đến bây giờ mới hiểu. Chàng quay sang hỏi Toàn Quan Thanh: “Phải chăng người biết ta là dòng dõi Khất Đan cho nên bội phản?” Toàn Quan Thanh đáp: “Đúng thế!” Kiều Phong hỏi thêm: “Tống Hề Trần Ngô bốn đại trưởng lão tin theo lời ngươi, muốn giết ta cũng vì thế phải không?” Toàn Quan Thanh đáp: “Không sai! Nhưng mấy vị đó còn bán tín bán nghi nên chủ ý chưa nhất quyết, lúc việc tới nơi lại rụt đầu rụt cổ.” Kiều Phong hỏi: “Về gốc gác thân thế ta, ngươi từ đâu mà biết được?” Toàn Quan Thanh đáp: “Việc này có liên quan đến người ngoài, xin tha thứ cho tại hạ không thể đáp lời. Bang chủ cũng nên hiểu rằng cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, túi giấy không gói được lửa, dù bang chủ có kín đáo cách nào rồi cũng có người biết đến. Chấp Pháp trưởng lão cũng đã biết rồi.”

Trong đầu Kiều Phong lúc này biết bao ý niệm dâng lên chẳng khác gì những đợt thủy triều tiếp nối nhau, khi thì nghĩ rằng: “Bọn chúng nổi lòng đố kỵ, đặt ra những chuyện hoang đường vu hãm cho ta. Kiều Phong này dù thân cô thế cô nhưng cũng quyết chiến đấu tới cùng, không chịu khuất phục”. Thế rồi chàng lại nghĩ: “Thủ dụ của ân sư quả thực rõ ràng. Trí Quang đại sư đức cao vọng trọng, đối với ta không thù oán, việc gì phải bày quỉ kế? Từ trưởng lão là nguyên lão trọng thần của bản bang, lẽ nào lại có ý muốn khuynh loát bản bang? Thiết Diện Phán Quan, Đàm công, Đàm bà là những bậc tiền bối có tên tuổi trong võ lâm, gã Triệu Tiền Tôn kia tuy dở điên dở dại nhưng cũng không phải là hạng tầm thường. Tất cả bọn họ đều một lời nhất nhất như thế, lẽ nào còn giả được?”.

Quần cái nghe Trí Quang cùng Từ trưởng lão nói ra như thế, nhốn nháo cả lên. Nhiều người đã từng nghe nói Kiều Phong là dòng giống Khất Đan nhưng chỉ bán tín bán nghi, còn đa số bây giờ mới biết. Ai nấy đều thấy chứng cớ rõ ràng, ngay cả Kiều Phong dường như cũng đã tin là chuyện thật. Kiều Phong trước nay đối với thuộc hạ rất có ân nghĩa, tài đức võ công ai nấy đều khâm phục, có ai ngờ lại là con cháu giống Khất Đan. Liêu quốc và Đại Tống cừu oán thực sâu xa, bao nhiêu năm qua đệ tử Cái Bang chết về tay người Liêu không biết bao nhiêu mà kể. Để cho một người Khất Đan làm bang chủ Cái Bang thì không thể được. Thế nhưng công nhiên trục xuất chàng ra khỏi bang thì bất luận là ai cũng không dám nói ra miệng. Nhất thời khu rừng hạnh lặng như tờ, chỉ nghe tiếng thở nặng nề của mọi người.

Đột nhiên có tiếng đàn bà trong trẻo cất lên: “Các vị bá bá, thúc thúc! Tiên phu bất hạnh qua đời, kẻ nào hạ độc thủ đến bây giờ cũng chưa điều tra được rõ. Tiên phu bình nhật là người thành thực, trung hậu, ít nói, trên giang hồ thật chẳng thù oán với ai, thiếp không hiểu được vì cớ nào mà bị người ta giết chết. Phải chăng vì tiên phu nắm giữ một vật trọng yếu, người ta không lấy được thì không yên lòng? Người ta sợ tiên phu tiết lộ cơ mật, làm hỏng việc lớn nên mới giết đi để bịt miệng chăng?” Người vừa nói chính là quả phụ của Mã Đại Nguyên là Mã phu nhân. Mấy câu đó ý tứ thật rõ ràng, dường như trỏ vào mặt Kiều Phong bảo chàng chính là thủ phạm giết chồng của thị để che đậy những chứng cứ tỏ rõ họ Kiều kia là con cháu Khất Đan.

Kiều Phong chậm rãi quay đầu lại, nhìn thẳng vào người đàn bà mặc đồ toàn trắng, thân hình nhỏ nhắn, dáng điệu ẻo lả khép nép kia, hỏi lại: “Phải chăng phu nhân nghi ngờ Kiều mỗ sát hại Mã phó bang chủ?”

Mã phu nhân trước nay vẫn mắt nhìn xuống đất, lúc này đột nhiên ngừng đầu lên nhìn thẳng vào Kiều Phong. Đôi mắt nàng trong trẻo như ngọc, lấp loáng trong đêm tối khiến Kiều Phong cũng hơi bối rối, nghe nàng nói: “Thiếp là phận nữ lưu đâu có biết gì, phải xuất đầu lộ diện thế này đã là quá rồi, còn dám buộc tội cho ai? Có điều tiên phu chết thật oan uổng, chỉ mong các vị bá bá thúc thúc nghĩ đến chút tình xưa mà tra xét cho minh bạch để báo thù rửa hận cho tiên phu.” Nàng ta nói xong quì xuống hướng về Kiều Phong khấu đầu.

Nàng không bảo thẳng Kiều Phong là hung thủ mà câu nào cũng ngụ ý ám chỉ chàng. Kiều Phong thấy nàng ta lạy mình, tức uất người nhưng không tiện phát tác, đành quì xuống hoàn lễ đáp: “Xin tẩu tẩu đứng lên.”

Trong rừng hạnh đột nhiên có tiếng một thiếu nữ hỏi: “Mã phu nhân, trong lòng tiểu nữ có một điểm nghi ngờ, liệu có thể hỏi phu nhân một câu chăng?” Mọi người quay đầu nhìn lại thấy nữ lang mặc áo màu hồng nhạt, chính là A Châu.

Mã phu nhân hỏi lại: “Cô nương có chuyện gì muốn tra vấn ta?” A Châu đáp: “Tra vấn thì quả là không dám. Tiểu nữ nghe phu nhân nói là phong di thư này được Mã tiền bối niêm phong, trước khi Từ trưởng lão mở ra thì dấu niêm vẫn còn nguyên. Thế thì trước đó chưa một ai được đọc nội dung lá thư viết gì, phải chăng?” Mã phu nhân đáp: “Chính thế!” A Châu hỏi tiếp: “Như thế thì lá thư của vị thủ lĩnh đại ca và di lệnh của Uông bang chủ, ngoài Mã tiền bối ra không một ai biết đến. Sao phu nhân lại biết nó quan trọng mà bảo người ta sát nhân diệt khẩu?” Mọi người nghe vậy ai ai cũng cho là có lý.

Mã phu nhân hỏi lại: “Cô nương là ai? Sao lại đến can thiệp vào đại sự của bản bang?” A Châu đáp: “Đại sự trong quí bang, một kẻ hèn mọn như tiểu nữ đâu dám can dự. Ngặt là các vị có ý vu hãm công tử gia nên tiểu nữ đành phải đứng ra phân biện.” Mã phu nhân hỏi lại: “Thế công tử gia của cô nương là ai? Phải chăng là Kiều bang chủ?” A Châu mỉm cười lắc đầu: “Không phải, đó là Mộ Dung công tử.”

Mã phu nhân buột miệng: “Ồ, thì ra là thế!” Nàng ta không đáp lời A Châu, quay sang nói với Chấp Pháp trưởng lão: “Bạch trưởng lão! Luật lệ bản bang rất là nghiêm ngặt. Giả tỷ chính trưởng lão phạm tội thì xử trí ra sao?” Mặt Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính hơi giật nhẹ, lão run run đáp: “Đã biết luật mà còn phạm pháp thì tội nặng thêm một bậc.” Mã phu nhân hỏi tiếp: “Thế còn người có địa vị cao hơn trưởng lão mà phạm bang qui thì sao?” Bạch Thế Kính biết bà ta ám chỉ ai, liếc mắt nhìn Kiều Phong một cái, đáp: “Bang qui của bản bang là do tổ tông qui định, không phân thứ bậc tôn ti. Ai cũng như ai, có công thì thưởng có tội thì phạt.”

Mã phu nhân lại nói: “Cô nương đây nghi ngờ chí phải, lúc đầu tiên thiếp cũng nghĩ như thế. Thế nhưng đêm hôm trước khi được tin buồn của tiên phu, có kẻ lẻn vào nhà ăn trộm.”

Ai nấy giật mình, có kẻ hỏi ngay: “Ăn trộm ư? Có mất gì không? Có chết ai không?” Mã phu nhân đáp: “Không chết ai cả. Kẻ trộm dùng hương mê xông cho tiện thiếp và hai tì nữ ngã lăn ra, mở rương lục tủ tìm hết khắp nơi, lấy mất độ mươi lạng bạc. Ngày hôm sau thiếp nghe tin tiên phu táng mạng, đâu còn tâm trí nào mà nhớ tới chuyện trộm đạo tiền tài? Cũng may tiên phu giấu phong thư này ở một nơi cực kỳ kín đáo, kẻ trộm mới không tìm thấy để xé bỏ đi.”

Mấy câu đó lại càng rõ ràng hơn, chỉ đích danh Kiều Phong tự mình đến hay sai người đến nhà Mã Đại Nguyên trộm lá thư. Nếu chàng đã định lấy thư ắt là đã biết nội dung lá thư nói gì, âm mưu sát nhân diệt khẩu hiển nhiên đã rõ ràng. Còn như làm sao chàng biết được nội dung lá thư, rất có thể vị thủ lĩnh đại ca, Uông bang chủ hay Mã phó bang chủ sơ ý vô tình nói lộ ra.

A Châu nhất định rửa oan cho Mộ Dung công tử, cũng không muốn Kiều Phong phải liên quan, nói tiếp: “Ăn trộm vặt vào nhà lấy mươi lạng bạc cũng là chuyện thường, chẳng qua lại ngẫu nhiên đúng lúc đó thôi.” Mã phu nhân đáp: “Cô nương nói phải lắm, lúc đầu ta cũng nghĩ như thế. Thế nhưng về sau tại chỗ cửa sổ kẻ trộm trèo vào, ta có nhặt được một vật của y đánh rơi dưới chân tường trong lúc vội vàng. Ta vừa nhìn thấy vật này trong lòng hoảng sợ, biết ngay vụ này quan hệ phi thường”

Tống trưởng lão hỏi: “Phu nhân nhặt được vật gì? Tại sao lại quan hệ phi thường?” Mã phu nhân từ từ mở bọc đeo sau lưng, lấy ra một vật dài chừng bảy tám tấc, đưa cho Từ trưởng lão, nói: “Xin các vị bá bá thúc thúc chủ trì cho.” Từ trưởng lão vừa đón lấy vật đó, nàng liền phục xuống đất khóc òa lên thật thảm thiết.

Mọi người quay sang Từ trưởng lão, thấy ông ta mở vật đó ra, thì ra là một cái quạt xếp. Từ trưởng lão trầm giọng đọc bài thơ đề trên chiếc quạt: Phiêu phiêu tuyết đổ Nhạn Môn Quan, Cỏ bồng bay loạn mặt cát vàng, Nam nhi chẳng phải tham công trạng, Quyết chém Lâu Lang báo quốc ân. (Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn Môn, Bình sa lịch loạn quyển bồng căn, Công danh sỉ kế cầm sinh số, Trực trảm Lâu Lang báo quốc ân.)

Kiều Phong vừa nghe bài thơ đó kinh hoảng không biết để đâu cho hết, chăm chú nhìn chiếc quạt thấy mặt bên kia vẽ bức tranh tráng sĩ ra biên tái giết giặc, chính là vật của mình. Bài thơ do ân sư Uông Kiếm Thông viết, còn bức họa là thủ bút Từ trưởng lão. Nét vẽ tuy không khéo lắm nhưng đầy vẻ hiệp nghĩa, lộ được cái chí khẳng khái hào hùng của người tráng sĩ trong cơn gió bấc, tuyết đổ mênh mang. Cái quạt đó là quà sinh nhật ân sư tặng năm chàng hai mươi lăm tuổi, trước nay chàng vẫn coi như báu vật cất kỹ một nơi, không hiểu sao lại lạc vào trong nhà Mã Đại Nguyên? Vả lại tính tình chàng thô hào khẳng khái, có bao giờ giắt quạt trong người như bọn công tử nho sinh?

Từ trưởng lão lật qua lật lại chiếc quạt, nhìn kỹ bức tranh chính là do tay mình vẽ nên, thở dài một tiếng rồi chép miệng: “Người ta đã không cùng chủng tộc với mình, tất nhiên tâm địa phải khác. Uông bang chủ ơi là Uông bang chủ, việc này ngươi đã nhầm lẫn lớn rồi.”

Kiều Phong từ khi nghe thấy mình là dòng giống Khất Đan, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Hơn mười năm trời, ngày nào chàng cũng chăm chăm nghĩ kế làm sao tiêu diệt nước Liêu, giết kẻ Khất Đan Hồ Lỗ. Trong đời chàng đã từng vượt qua bao nhiêu sóng to gió cả, mà nay đột nhiên gặp phải chuyện này liền luống cuống không biết phải làm sao. Thế nhưng khi Mã phu nhân liên tiếp vu cáo chàng âm mưu giết Mã Đại Nguyên, rồi chiếc quạt đột nhiên xuất hiện, tâm trí chàng có chuyện để mà suy nghĩ, chỉ một thoáng, trong lòng đã hơi bình ổn: “Có kẻ ăn cắp chiếc quạt để giá họa cho mình, chuyện này đừng hòng mà đánh ngã được ta.” Chàng quay lại nói với Từ trưởng lão: “Từ trưởng lão, cái quạt đó là của ta.”

Những người vai vế tương đối cao trong Cái Bang khi nhìn thấy chiếc quạt, nghe Từ trưởng lão đọc bài thơ đã biết ngay là của Kiều Phong, còn bang chúng thì chưa ai hay, đến khi nghe Kiều Phong tự nhận ai nấy đều kinh ngạc.

Từ trưởng lão trong lòng cũng hết sức xúc động, hồi lâu mới lẩm bẩm: “Uông bang chủ coi ta là kẻ tâm phúc, vậy mà bí mật để lại di thư cũng chẳng cho ta biết.”

Mã phu nhân đứng thẳng người lên nói: “Từ trưởng lão, Uông bang chủ không nói cho trưởng lão biết thế là may đó!” Từ trưởng lão không hiểu, hỏi lại: “Sao thế?” Mã phu nhân buồn bã đáp: “Trong Cái Bang chỉ một mình Đại Nguyên biết nên mới chết thảm. Giả tỷ trưởng lão,.. cũng biết trước thì biết đâu khó tránh được kiếp nạn này.”

Kiều Phong dõng dạc hỏi: “Các vị có điều gì muốn nói nữa không?”. Chàng đảo mắt nhìn từ Mã phu nhân qua Từ trưởng lão rồi đến các trưởng lão Chấp Pháp, Truyền Công một lượt. Ai nấy đều lặng thinh không đáp.

Chờ một hồi không thấy ai lên tiếng, chàng liền nói: “Lai lịch thân thế Kiều mỗ thật đáng hổ thẹn, chính Kiều mỗ lại không hay biết. Nhưng đã có nhiều vị tiền bối đưa ra chứng cớ, Kiều mỗ không dám phủ nhận, sẽ hết sức tìm hiểu chân tướng thế nào. Kiều mô xin thoái vị bang chủ Cái bang để nhường lại cho bậc hiền tài khác.” Nói đến đây chàng đưa tay tháo chiếc túi dài đeo bên chân phải, lấy ra một cây gậy trúc xanh biếc bóng loáng như ngọc, chính là Đả Cẩu Bổng, tín vật của bang chủ Cái Bang. Kiều Phong hai tay nâng cây gậy lên cao, nói: “Cây bổng này Kiều mỗ được Uông bang chủ trao cho để chấp chưởng Cái Bang, tuy chẳng có công trạng gì nhưng cũng không phạm lỗi lớn. Nay Kiều mỗ thoái vị, bậc hiền tài nào muốn ra gánh lấy trách nhiệm thì xin nhận lấy cây bổng này!”

Qui củ của Cái Bang từ trước tới nay, người nào tiếp nhiệm chức vụ bang chủ phải được bang chủ tiền nhiệm trao Đả Cẩu Bổng cho, trước đó đã phải dạy Đả Cẩu Bống pháp. Cũng có khi cựu bang chủ đột ngột qua đời, nhưng người kế thừa đã dự lập rồi, Đả Cẩu Bổng pháp cũng đã truyền thụ thành thử chức vụ bang chủ chưa từng tranh chấp. Kiều Phong đang tuổi tráng niên, chắc cũng phải hai chục năm nữa mới tính tới việc tuyển chọn trong bang một kẻ thiếu niên anh hiệp mà truyền thụ bổng pháp. Bây giờ mọi người trong Cái Bang thấy Kiều Phong tay nâng cây bổng, khí khái hiên ngang đứng trước mọi người, chẳng ai dám bước ra nhận lấy.

Kiều Phong hỏi luôn ba câu, thủy chung không ai đáp, liền nói: “Kiều mỗ thân thế chưa minh bạch, chức vị bang chủ dù sao cũng không thể đảm đương được nữa. Từ trưởng lão cùng Truyền Công, Chấp Pháp hai vị trưởng lão, vật trấn bang chi bảo Đả Cẩu Bổng này xin ba vị tạm giữ. Về sau khi định được ngôi bang chủ, ba vị trao lại cũng không muộn.”

Từ trưởng lão nói: “Như vậy cũng phải. Còn Đả Cẩu Bổng pháp chúng ta sẽ bàn đến sau.” Lão tiến lên toan nhận lấy chiếc gậy. Tống trưởng lão đột nhiên lớn tiếng nói: “Hãy khoan!” Từ trưởng lão ngạc nhiên dừng lại hỏi: “Tống huynh đệ có chuyện gì muốn nói” Tống trưởng lão nói: “Mỗ thấy Kiều bang chủ không phải người Khất Đan.” Từ trưởng lão hỏi lại: “Sao vậy?” Tống trưởng lão đáp: “Mỗ xem ông ta không giống.” Từ trưởng lão ngạc nhiên: “Sao lại không giống?” Tống trưởng lão đáp: “Người Khất Đan cùng hung cực ác, tàn bạo âm độc. Kiều bang chủ là anh hùng hảo hán đại nhân đại nghĩa. Mới rồi bọn ta phản bang chủ, bang chủ lại tự đâm chảy máu để xá tội phản nghịch cho mọi người. Thử hỏi người Khất Đan có hành vi anh hùng như thế chăng?”.

Từ trưởng lão nói: “Y từ bé được cao tăng chùa Thiếu Lâm và Uông bang chủ dưỡng dục, nên đã biến cải được tập tính hung tàn của người Khất Đan rồi.”

Tống trưởng lão cãi: “Nếu tập tính đã thay đổi thì đâu còn là người xấu nữa, làm bang chủ của chúng ta có gì là không được? Tống mỗ thấy trong bang không có ai anh hùng như Kiều bang chủ. Nếu người khác làm bang chủ, họ Tống này không phục.”

Những người cùng chung suy nghĩ như Tống trưởng lão cũng khá đông. Kiều Phong ân đức thấm nhuần, nay chỉ bằng mấy lời nói, mấy tờ giấy đã bị truất ngôi bang chủ, rất nhiều bang chúng vẫn tận trung với chàng lấy làm bất phục. Tống trưởng lão đứng đầu nói ra chuyện đó, lập tức có mấy chục người nhao nhao lên: “Có kẻ âm mưu hãm hại Kiều bang chủ, chúng ta chớ nên nhẹ dạ tin người.” “Chuyện qua đã mấy chục năm, chỉ bằng mấy lời nói vu vơ của vài người, ai biết là thực hay giả?” “Việc thay đổi ngôi chúa tể bản bang đâu có thể dễ dàng như thế được?” “Ta nhất tâm theo Kiểu bang chủ, muốn thay bang chủ khác, ta có bị chặt đầu cũng không phục.”

Hề trưởng lão hô to: “Ai ủng hộ Kiều bang chủ thì theo ta đứng sang bên này.” Ông ta tay trái kéo Tống trưởng lão, tay phải kéo Ngô trưởng lão đi qua phía đông. Kế đó ba đà chủ Đại Nhân, Đại Tín, Đại Nghĩa phân đà cũng bước sang. Các đà chủ đã qua rồi, thuộc hạ bang chúng cũng ào ào đi theo. Toàn Quan Thanh, Trần trưởng lão, Truyền Công trưởng lão cùng Đại Trí, Đại Dũng hai đà chủ đứng nguyên tại chỗ không nhúc nhích. Thế là Cái Bang biến thành hai phe, phía bên đông phải đến năm phần, ba phần đứng yên, còn lại thì do dự không biết phải theo bên nào. Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính trước nay hành sự chém đinh chặt sắt, nói một là một nói hai là hai, lúc này cũng phân vân không quyết định được.

Toàn Quan Thanh nói: “Hỡi các vị huynh đệ! Kiều bang chủ tài lực hơn người, anh hùng xuất chúng, ai cũng bội phục. Song chúng ta là người Đại Tống mà lại nghe lệnh một người Khất Đan được chăng? Tài nghệ Kiều Phong càng lớn lại càng nguy hiểm cho chúng ta.”

Hề trưởng lão kêu lên: “Thối lắm! Thối lắm! Quân chó đẻ! Ta coi cái bộ dạng ngươi mười phần giống Nhất Đan đến chín.” Toàn Quan Thanh lớn tiếng đáp: “Chúng ta đều là hảo hán tận trung báo quốc, lẽ nào cam tâm đi làm nô lệ, làm chó săn cho người khác giống hay sao?” Mấy câu đó của y quả là hiệu lực, trong số những người chạy sang phía đông có mươi người muốn chạy trở lại phía tây. Bang chúng ở phía đông người thì mắng nhiếc, kẻ thì lôi kéo, rối loạn cả lên. Có người lên chân xuống tay, có người cầm binh khí, mấy chục người quay ra đánh nhau túi bụi. Các trưởng lão lớn tiếng can gián anh em nhưng người nào cũng cho phần phải về mình, Ngô trưởng lão cùng Trần trưởng lão chỉ mặt nhau chửi rủa, tưởng như sắp động thủ đến nơi.

Kiều Phong bèn lên tiếng: “Anh em dừng tay nghe ta nói đây!” Giọng Kiều Phong đầy vẻ uy nghiêm, mọi người đang đánh mắng nhau lập tức đình chỉ quay lại nhìn chàng.

Kiều Phong lại dõng dạc nói: “Chức vụ bang chủ Cái Bang, ta quyết không đảm đương được nữa…” Tống trưởng lão vội ngắt lời: “Bang chủ! Bang chủ chớ có nản lòng…” Kiều Phong lắc đầu: “Không phải Kiều mỗ nản lòng. Chuyện khác thì hoặc giả có người âm mưu vu hãm, nhưng thủ bút của ân sư Kiều mỗ là Uông bang chủ thì bất luận ai cũng không thể ngụy tạo ra được.” Chàng cao giọng nói lớn: “Cái Bang là đại bang lớn nhất trên giang hồ, uy danh lừng lẫy võ lâm, có ai là không kính trọng? Nếu tự mình tàn sát lẫn nhau há chẳng khiến người ngoài phải cười đến trẹo quai hàm? Kiều mỗ trước khi chia tay xin nói một câu nữa: Nếu ai còn phóng một quyền, đá một cước vào anh em trong bang, ấy là tội nhân của bản bang đó.”

Cái Bang xưa nay vẫn coi trọng nghĩa khí, nghe chàng nói mấy câu đó không khỏi hổ thẹn. Bỗng có tiếng đàn bà cất lên: “Nếu ai giết hại anh em trong bang thì sao?” Người nói câu đó chính là Mã phu nhân. Kiều Phong đáp: “Giết người thì đền mạng, tàn hại anh em thì người đời thống mạ!” Mã phu nhân nói: “Vậy thì hay lắm!”.

Kiều Phong nói: “Mã phó bang chủ quả thực bị ai giết, kẻ nào ăn cắp cái quạt để hãm hại vu cáo, thể nào Kiều mỗ cũng phải tra xét cho tới ngọn tới ngành. Mã phu nhân! Thân thủ như họ Kiều này, nếu như muốn đến quí phủ lấy gì thì chẳng bao giờ phải về không, lại đánh rơi cả vật trong người. Đừng nói trong nhà chỉ có ba người đàn bà, dẫu là hoàng cung nội điện, trướng phủ tướng soái, trong chốn thiên quân vạn mã mà Kiều mỗ muốn lấy vật gì, vị tất đã không làm nổi?”

Mấy câu nói đó nghe thật hào hùng. Cái Bang ai cũng biết tài nghệ của chàng, đều cảm thấy thật là hữu lý, không ai dám bảo là chàng khoác lác. Mã phu nhân chỉ cúi đầu không nói gì nữa.

Kiều Phong chắp tay thi lễ với tất cả mọi người rồi nói: “Non xanh vẫn đó, nước biếc còn đây. Kiều mỗ xin tạm biệt, chúng ta còn có ngày hội ngộ. Kiều mỗ là người Hán cũng thế, mà người Khất Đan cũng thế, còn sống ngày nào quyết không tàn hại người Hán. Nếu trái lời thề thì như lưỡi dao này.” Nói xong ông quay sang phía Đơn Chính vẫy một cái trên không.

Đơn Chính chỉ thấy cổ tay tê buốt, ngón tay lỏng ra, đơn đao đã bị Kiều Phong cướp mất rồi. Chàng lấy ngón tay cái bên phải bấm vào ngón tay giữa, búng mạnh đánh “keng” một cái, thanh đao gãy đôi, mũi đao văng ra mấy thước, chuôi đao vẫn còn trong tay. Kiều Phong quay qua xin lỗi Đơn Chính, ném cán đao xuống đất, quay mình đi thẳng.

Mọi người ai nấy ngạc nhiên, có người gọi với theo: “Bang chủ khoan đi dã!” “Cái Bang trông cậy vào bang chủ chủ trương đại cuộc.” “Bang chủ mau trở lại đi!”

Nghe vù một tiếng, một chiếc gậy trúc từ trên không bay xuống, chính là Kiều Phong ném Đả Cẩu Bổng trở lại. Từ trưởng lão giơ tay đón lấy, tay phải vừa cầm vào cây bổng, tự nhiên một luồng kình lực từ bàn tay chạy lên cánh tay, lại từ cánh tay lan ra toàn thân khiến lão bị chấn động mạnh chẳng khác gì điện giật. Lão vội buông ra, dư lực của cây bổng vẫn còn, cắm sâu xuống đất.

Bang chúng Cái Bang cùng kinh hoảng kêu lên, nhìn vào bảo vật tối quan trọng của bản bang, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Mặt trời lúc ấy vừa nhô lên, từng luồng ánh sáng rung động xuyên qua kẽ lá, rọi vào Đả Cẩu Bổng nhấp nhánh như thoa dầu.

Đoàn Dự kêu lên: “Đại ca, đại ca! Cho tiểu đệ theo với!” Chàng toàn chạy theo Kiều Phong nhưng chỉ được ba bước bỗng quay lại nhìn Vương Ngữ Yên một cái. Vừa nhìn thấy mặt nàng, chân chàng đã như có nghìn vạn sợi dây tơ níu kéo không bước được nữa. Chàng quay trở lại, đến bên Vương Ngữ Yên, hỏi: “Vương cô nương! Các cô định đi đâu bây giờ?” Vương Ngữ Yên đáp: “Biểu ca bị người ta vu oan, xem chừng chính chàng cũng chưa biết, bọn ta định đi báo cho chàng hay.” Đoàn Dự tê tái trong lòng mà chẳng biết làm sao hơn, đành nói: “Ồ! Mấy cô nương nhỏ tuổi đi đường xa sao tiện, để tại hạ đưa đi.” Chàng lại thêm một câu như tự biện hộ cho mình: “Tại hạ nghe danh Mộ Dung công tử đã nhiều, cũng mong được gặp công tử một lần.”

Bỗng nghe Từ trưởng lão sang sảng nói: “Việc báo thù rửa hận cho Mã phó bang chủ chúng ta có thể để về sau sẽ bàn tính cho kỹ càng. Nhưng bản bang không thể một ngày vô chủ, Kiều… Kiều Phong đi rồi, việc kế nhiệm bang chủ không thể trì hoãn được. Nhân lúc ở đây đông đủ, ta bàn tính luôn cho được việc.”

Tống trưởng lão nói: “Cứ như ý mỗ, tất cả bọn ta đi tìm Kiều bang chủ trở về, xin bang chủ hồi tâm nghĩ lại mà đừng thoái vị…” Lão nói chưa dứt câu, bên phía tây đã có người kêu lớn: “Kiều Phong là Khất Đan Hồ Lỗ sao có thể làm thủ lĩnh bọn ta được? Hôm nay còn nghĩ tới tình cũ nghĩa xưa, lần tới gặp lại đã thành cừu địch, phải đánh nhau chí mạng mới xong.” Ngô trưởng lão cười khẩy hỏi lại: “Ngươi thử xem có đánh nhau chí mạng với Kiều bang chủ được không?” Người kia giận dữ đáp: “Mình ta không đánh được thì mười người cùng đánh, mười người không đánh được thì trăm người cùng đánh. Nghĩa sĩ ở Cái Bang tận trung báo quốc, chẳng lẽ thấy địch là rụt cổ vào?” Mấy câu của y quả là khẳng khái hiên ngang, trong đám phía tây không ít kẻ hò reo tán thưởng.

Tiếng reo hò chưa dứt bỗng phía tây bắc có tiếng người the thé nói: “Bọn Cái Bang hẹn người ta đến Huệ Sơn, bội ước không đến, thì ra thập thò ẩn nấp nơi đây. Ha ha! Buồn cười, thật là buồn cười đến nẻ ruột!” Giọng đó phát âm không rõ, tựa hồ như đầu lưỡi to quá hay là do nghẹt mũi khiến người nghe phải khó chịu.

Đại Nghĩa, Đại Dũng hai phân đà đà chủ cùng kêu “chao ôi” một tiếng, nói: “Từ trưởng lão, bọn ta lỡ lời ước hội, bọn đối đầu đã tìm đến đây rồi.”

Đoàn Dự bỗng nhớ ra, lúc ban ngày cùng Kiều Phong gặp mặt lần đầu ở quán rượu đã thấy có hai người vào báo, ước định đến sáng sớm ngày mai sẽ gặp người của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ tại Huệ Sơn. Khi đó Kiều Phong xem chừng gấp quá nhưng cũng bằng lòng. Bây giờ đã qua giờ Mão, đa số người trong Cái Bang không biết có cuộc hẹn này, mà nếu có biết thì cũng đang lo việc đại sự trong bang, không còn đầu óc nào nghĩ tới ước hội nữa, bây giờ nghe đối phương mỉa mai mới giật mình nhớ lại.

Từ trưởng lão hỏi dồn: “Ước hội gì thế? Đối đầu với mình là ai?” Lão đã lâu không nghe gì đến sự vụ trong bang nên không hay biết gì cả. Chấp Pháp trưởng lão hỏi nhỏ Tưởng là chủ: “Phải chăng Kiều bang chủ đã ước hẹn với họ?” Tưởng đã chủ đáp: “Đúng thế, có điều thuộc hạ đã phụng mệnh Kiều bang chủ phái người đến Huệ Sơn yêu cầu đối phương hoãn lại bảy ngày.”

Người nói giọng khó nghe kia quả là thính tai, Tưởng đà chủ chỉ nói nhỏ mấy câu y đã nghe được, nói: “Đã hẹn là phải tới, không có lui lại bảy ngày tám ngày gì hết. Muốn hoãn lại nửa giờ ta cũng không cho.”

Bạch Thế Kính giận dữ nói: “Cái Bang chúng ta đường đường là một bang hội của Đại Tống, há sợ bọn giặc Hồ Lỗ Tây Hạ hay sao? Chỉ vì bản bang đang có việc khẩn yếu nên không thể chu toàn với bọn chuột nhắt các ngươi. Thay đổi ước hội cũng là chuyện thường, có gì mà phải la ó?”

Đột nhiên từ trong rừng hạnh có một người bay ra nằm thẳng cẳng dưới đất không cục cựa. Người đó mặt mũi máu me bê bết, cổ họng đã bị cắt đứt, tắt hơi từ bao giờ. Bang chúng Cái Bang nhận ra chính là Tạ phó đà chủ của Đại Nghĩa phân đà.

Tưởng đà chủ vừa kinh hoàng vừa tức tối nói: “Tạ huynh đệ đây mà! Tại hạ vừa được lệnh Kiều bang chủ phái y đi để thay đổi kỳ hẹn.” Chấp Pháp trưởng lão nói: “Từ trưởng lão, bang chủ không có ở đây, xin trưởng lão tạm nắm quyền bang chủ.” Ông ta không muốn tiết lộ chuyện bản bang vô chủ để khỏi bị đối phương coi nhẹ. Từ trưởng lão hiểu ý, nghĩ thầm: “Lúc này mình không đứng ra thì không có ai chủ trì đại cục”, bèn dõng dạc nói: “Người ta thường nói hai nước đang giao tranh thì không chém sứ giả. Tệ bang phái người lại xin đổi hẹn kỳ, sao lại giết y?”.

Giọng the thé kia trả lời: “Tên này kiêu ngạo phách lối lại nói năng vô lễ, vào yết kiến tướng quân bên ta không biết đường quỳ lạy, không giết còn để làm gì?”. Bang chúng nghe thế đều nổi nóng, lắm người cất tiếng la ó chửi rủa ồn cả lên.

Từ trưởng lão đến lúc này vẫn chưa biết đối phương là hạng người nào, nghe Bạch Thế Kính gọi là “Tây Hạ Hồ Lỗ”, người kia lại nói “tướng quân bên ta” khiến ông càng không biết đâu mà mò, bèn hỏi: “Ngươi đang chui rúc ở xó nào, sao không có mặt ra đây? Cứ thập thò để nói nhăng nói cuội, đâu phải là hảo hán.” Người kia cười sằng sặc, nói: “Không biết đứa nào mới là thập thò lấp ló nơi rừng hạnh.”

Bỗng nghe đằng xa có tiếng tù và nổi lên, tiếp theo là tiếng vó ngựa từ ngoài mấy dặm vọng lại. Từ trưởng lão ghé tai hỏi nhỏ Bạch Thế Kính: “Bọn này là bọn nào? Có chuyện gì thế?” Bạch Thế Kính cũng thì thầm: “Nước Tây Hạ có một võ quán gọi là Nhất Phẩm Đường do quốc vương lập ra, chiêu nạp những tay cao thủ trong võ lâm, tiếp đãi rất trọng vọng để truyền dạy võ nghệ cho quan quân trong nước.” Từ trưởng lão gật đầu nói: “Nước Tây Hạ chỉnh đốn binh mã, luyện tập võ nghệ, chẳng phải có ý dòm ngó giang sơn nhà Đại Tống hay sao?” Bạch Thế Kính nói nhỏ: “Chính là thế đó. Những người đã vào được Nhất Phẩm Đường đều phải là võ công bậc nhất. Người cai quản Nhất Phẩm Đường là một vị vương gia, được phong tới chức Chinh Đông đại tướng quân, tên là Hách Liên Thiết Thụ gì gì đó. Bản bang có cử Dịch Đại Hổ huynh đệ qua Tây Hạ do thám tin tức, được biết gần đây Hách Liên Thiết Thụ thống lãnh dũng sĩ trong Nhất Phẩm Đường qua Biện Lương triều kiến thái hậu và hoàng thượng nhà Đại Tống chúng ta. Thế nhưng triều kiến chỉ là giả vờ, thực ra là đi do thám quân tình hư thực ra sao. Bọn chúng biết bản bang là một cột trụ của võ lâm Đại Tống nên định ra tay tiêu diệt, trước là để gây uy thế, sau là khi đưa binh xâm phạm biên giới sẽ nắm chắc phần thắng hơn.” Từ trưởng lão ngấm ngầm kinh hãi, khẽ nói: “Cái kế đó quả nhiên ác độc.”

Bạch Thế Kính lại nói: “Gã Hách Liên Thiết Thụ kia rời Biện Lương liền đến tổng đà của chúng ta ở Lạc Dương. Khi đó Kiều bang chủ dẫn tất cả anh em đi Giang Nam để báo thù cho Mã phó bang chủ nên bọn Tây Hạ phải một phen mất công không. Nhưng chúng chưa chịu thôi, lại theo xuống Giang Nam ước hẹn cùng Kiều bang chủ.”

Từ trưởng lão trầm ngâm rồi nói: “Nếu như vậy bọn chúng tính toán trước là tiêu diệt Cái Bang, không chừng sau đó sẽ tấn công chùa Thiếu Lâm rồi đánh cho các môn phái Trung Nguyên một trận tan tành.” Bạch Thế Kính nói: “Nói thì nói vậy nhưng bọn võ sĩ Tây Hạ có thực hiện được ý đồ hay không lại là chuyện khác. Kiều bang chủ có thể liệu được, tiếc rằng giữa lúc nguy cấp này…” Đang nói dở câu, lão hiểu rằng nói hết không tiện nên ngừng lại không nói nữa.

Khi đó tiếng vó ngựa đã gần, bỗng ba tiếng kèn nổi lên, tám con tuấn mã chia ra hai hàng chạy thẳng vào rừng hạnh. Tám người ngồi trên lưng ngựa đều cầm giáo dài, mũi giáo lấp lánh. Trên đầu giáo có treo một lá cờ nhỏ, bốn lá cờ bên trái có thêu hai chữ “Tây Hạ” bằng chỉ trắng, còn bên phải lại thêu hai chữ “Hách Liên”, ngoài ra còn những chữ Tây Vực ngoằn ngoèo. Kế đó lại có tám con ngựa khác chia thành hai hàng chạy vào, trên lưng ngựa bốn người thổi kèn, bốn người đánh trống.

Người của Cái Bang ai nấy cau mày, nói: “Bọn này dàn trận chẳng khác gì hai nước giao tranh, đâu có phải lề lối anh hùng hảo hán võ lâm gặp gỡ.” Theo sau đoàn kèn trống là tám võ sĩ Tây Hạ. Từ trưởng lão nhìn thoáng đã biết tám gã này đều mang võ công thượng thừa, nghĩ bụng: “Xem ra đây là những nhân vật trong Nhất Phẩm Đường”. Tám tên võ sĩ đó chia ra đứng hai bên, kế đó một người cưỡi ngựa chậm rãi đi vào. Người đó mặc cẩm bào màu đỏ, tuổi chừng ba mươi tư, ba mươi nhăm, mũi khoằm khoằm như mũi chim ưng, bộ râu mép chĩa sang hai bên. Theo sau y là một đại hán người cao lênh khênh, đặc biệt có cái mũi rất lớn. Gã mũi to vừa vào tới rừng đã quát lớn: “Chinh Đông đại tướng quân của Tây Hạ giá lâm, bang chủ Cái Bang mau ra nghênh tiếp!” Giọng nói nghe quái đản, chính là người hồi nãy mới nói chuyện.

Từ trưởng lão đáp: “Bang chủ bản bang không có đây, công việc bản bang do lão phu xử lý. Anh em Cái Bang toàn là giang hồ thảo dã, nếu tướng quân nước Tây Hạ dùng danh nghĩa quan trên để gặp gỡ thì anh em chúng tôi không dám với cao. Xin mời tướng quân đi hội diện vương công nhà Đại Tống chứ đừng đến gặp bọn ăn mày xin cơm thừa canh cặn này làm gì. Còn nếu dùng thân phận đồng đạo võ lâm gặp nhau thì tướng quân là khách phương xa, xin xuống ngựa vào đây theo lễ tân chủ.” Mấy câu nói đó không hạ mình mà cũng không ngạo mạn, không đắc tội với đối phương mà lại giữ được địa vị của mình. Bang chúng đều nghĩ thầm: “Đúng là gừng càng già càng cay, Từ trưởng lão ngoại giao thật đúng phép tắc.”

Gã mũi to lại nói: “Nếu như bang chủ không có nơi đây thì tướng quân chúng ta không thể dùng lễ đãi các ngươi được.” Y liếc qua nhìn thấy cây Đả Cẩu Bổng còn cắm dưới đất, biết đó là vật rất quan trọng của Cái Bang bèn nói: “Ồ, cái gậy tre này nhẵn bóng đẹp gớm! Ta lấy về làm cán chổi thì tốt quá.”Y vung tay một cái, chiếc roi ngựa liền tung ra cuốn vào Đả Cẩu Bổng.

Người trong Cái Bang cùng quát tháo: “Cút mau!” “Con bà ngươi!” “Đồ mọi rợ chó đẻ!” Đầu roi ngựa của gã mũi to sắp cuốn vào cây bổng, đột nhiên thấp thoáng có một bóng người phóng xéo ra, chắn ngay trước Đả Cẩu Bổng, vươn cánh tay cho chiếc roi ngựa cuốn lấy. Người đó co tay một cái, gã mũi to không ngồi vững trên yên được nữa phải tung mình nhảy xuống đất. Hai người cùng vận kình, nghe “rắc” một tiếng, chiếc roi đứt ra làm hai. Người đó vòng tay cầm lấy cây bổng, không nói không rằng quay trở về chỗ cũ.

Mọi người nhìn lại thấy ông ta lụ khụ hom hem, chính là Truyền Công trưởng lão. Võ công lão rất cao cường, bình thời ít nói nhưng khi món Cái Bang chi bảo bị nguy nan lập tức xông ra bảo vệ, chỉ một chiêu đã kéo được gã mũi to rơi xuống đất lại giựt chiếc roi ngựa đứt đôi, xem như đối phương đã thua rồi.

Gã mũi to tuy bị thất thế nhưng vẫn thản nhiên như không, nói: “Bọn hành khất xin cơm quả nhiên bụng dạ hẹp hòi, đến một khúc tre cũng chẳng chịu cho ai.” Từ trưởng lão nói: “Các vị anh hùng hảo hán bên Tây Hạ ước hẹn gặp gỡ tệ bang có việc gì?” Gã kia đáp: “Tướng quân chúng ta nghe nói bọn ăn mày ở Trung Nguyên có hai tài vặt, một là dùng gậy đập mèo, hai là mười tám cách bắt rắn nên muốn đến để xem chơi.”

Bang chúng nghe nói lửa giận bừng bừng, gã này rõ ràng có ý nhục mạ, cố ý đổi Đả Cẩu Bổng pháp thành Đả Miêu Bổng pháp, đem Hàng Long Thập Bát Chưởng đổi thành Hàng Xà Thập Bát Chưởng. Xem ra buổi hội ngộ hôm nay không thể tránh khỏi một phen ác chiến.

Trong khi quần cái hò la chửi rủa, Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão các người đều bồn chồn nghĩ thầm: “Môn Đả Cẩu Bổng pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng xưa nay chỉ một mình bang chủ bản bang là biết sử dụng. Đối phương đã biết tên hai môn tuyệt kỹ này mà vẫn không sợ, ngang tàng đến đây khiêu chiến, e rằng không phải dễ đối phó.” Từ trưởng lão nói: “Bọn ngươi muốn xem Đả Miêu Bổng pháp cùng Hàng Xà Thập Bát Chưởng của bản bang thì phỏng có khó gì, chỉ cần đem mấy con mèo mướp hoặc vài con rắn mối ra đây mà coi bọn ăn mày chúng ta đối phó, các hạ học võ mèo hay học võ rắn?” Ngô trưởng lão bật cười ha hả nói: “Đối phương là rồng thì bọn ta mới dùng đến Hàng Long Chưởng. Đối phương là rắn, thì chỉ cần bản lãnh bắt rắn là đủ.”

Gã mũi to đấu khẩu cũng thua, đang suy nghĩ tìm câu nói lại thì phía sau đột nhiên có tiếng nói ồm ồm: “Đánh mèo bắt rắn gì cũng được. Ra đây! Ai dám đấu với ta thì ra đây!” Người này vừa nói vừa rẽ đám đông đi ra, vênh váo đứng chống nạnh.

Bọn ăn mày thấy y tướng mạo xấu xí, vẻ mặt hung ác chưa biết là ai, bỗng nghe Đoàn Dự kêu lên: “Ô kìa, đồ đệ! Ngươi cũng đến đây à? Trông thấy sư phụ sao lại không biết khấu đầu?” Thì ra chính là Nam Hải Ngạc Thần, Nhạc lão tam.

Y vừa thấy Đoàn Dự liền giật mình hoảng hốt, thần sắc cực kỳ ngượng ngập ấp úng: “Ngươi… ngươi…” Đoàn Dự đáp: “Này đồ đệ! Bang chủ Cái Bang là huynh trưởng kết nghĩa của ta, các vị đây đều là sư bá, sư thúc ngươi đó, ngươi không được vô lễ! Mau trở về đi!” Nam Hải Ngạc Thần rống lên một tiếng, bao nhiêu cành lá chung quanh đều rung lên xào xạc. Y cất tiếng chửi: “Đồ khốn kiếp, quân chó đẻ!” Đoàn Dự sầm mặt xuống: “Ngươi chửi ai là đồ khốn kiếp, quân chó đẻ?”.

Nam Hải Ngạc Thần tuy hung hãn vô cùng nhưng được cái nói ra không bao giờ nuốt lời. Y đã từng trúng kế phải bái Đoàn Dự làm sư phụ mà không cãi chối, bèn nói: “Ta thích chửi ai thì chửi, sao ngươi cấm ta được? Ta có chửi ngươi đâu?” Đoàn Dự nói: “Hừ! Ngươi thấy sư phụ mà không biết quì xuống vấn an, thế thì còn ra thể thống gì nữa?” Nam Hải Ngạc Thần cố nhịn, quỳ xuống khấu đầu nói: “Sư phụ, lão nhân gia khỏe chứ?” Y càng nghĩ càng tức, lạy xong vụt đứng dậy co giò chạy một mạch, vừa chạy vừa gầm lên.

Tiếng gầm của lão nghe như nước thủy triều đổ xuống ầm ầm, mỗi lúc một xa dần nhưng vẫn cuồn cuộn từng đợt thật là mãnh liệt. Chỉ nghe cũng đủ biết y võ công cao cường không sao kể xiết, trong Cái Bang họa chăng chỉ có Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão một vài người là có thể đối địch với y. Một thư sinh yếu ớt như Đoàn Dự lại là sư phụ y, quả hết sức kỳ quái. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người biết Đoàn Dự hoàn toàn không hiểu võ công lại càng kinh ngạc vạn phần.

Trong đám võ sĩ Tây Hạ đột nhiên có một người nhảy ra, thân hình cao lênh khênh như cây tre, thân thủ mau lẹ dị thường, hai tay cầm một cặp binh khí kỳ lạ, cán dài chừng ba thước, một đầu là cương trảo hình năm ngón tay. Đoàn Dự nhận ra y chính là Thiên Hạ Đệ Tứ Ác Nhân, Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc nên nghĩ thầm: “Không lẽ cả bốn tên đại ác này đều đầu nhập nước Tây Hạ?”. Chàng chú ý nhìn sang phía người Tây Hạ, quả nhiên thấy Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương đang bồng một đứa trẻ, miệng tủm tỉm cười, chỉ không thấy lão đại Ác quán mãn doanh Đoàn Diên Khánh mà thôi. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chỉ cần thái tử Diên Khánh không đến, Nhị ác và Tứ ác thì Cái Bang cũng đủ đối phó rồi.”

Thì ra Thiên Hạ Tứ Ác từ Đại Lý thất thế chạy lên hướng bắc, gặp phải sứ giả của Tây Hạ Nhất Phẩm Đường đi rao tìm cao thủ võ lâm, bọn chúng liền gia nhập cho đỡ lẻ loi. Bốn tên võ nghệ cao siêu, chỉ trổ vài ngón là được tiếp đón trọng vọng ngay. Chuyến này Hách Liên Thiết Thụ sang thành Biện Lương đem bốn người đi theo để làm thủ túc. Riêng phần Đoàn Diên Khánh tự nghĩ thân phận cao sang, tuy cũng ở trong Nhất Phẩm Đường nhưng không chịu sai bảo nên không đi chung với bọn kia.

Vân Trung Hạc kêu lên: “Tướng quân chúng ta muốn coi hai tuyệt kỹ của Cái Bang xem bọn ăn mày chúng bay có bản lãnh thực hay chỉ giỏi tài nói khoác. Mau mau ra đây!”

Hề trưởng lão nói: “Để ta ra tỷ thí với hắn!” Từ trưởng lão dặn: “Gã này khinh công lợi hại, Hề huynh đệ phải cẩn thận.” Hề trưởng lão đáp: “Vâng!” Ông ta vác cương trượng ra đứng cách Vân Trung Hạc độ hơn một trượng, nói: “Tuyệt kỹ của bản bang phải tùy người mới đem ra thi thố. Những kẻ vô danh tiểu tốt như các hạ việc gì phải dùng đến Đả Cẩu Bổng pháp? Coi chiêu đây!” Lão vung cương trượng lên nghe vù vù, đánh xéo xuống vai Vân Trung Hạc. Hề trưởng lão thân hình lùn mập thế nhưng chiếc gậy sắt trong tay dài đến hơn một trượng, một khi múa lên tuy Vân Trung Hạc người cao lênh khênh nhưng vẫn có thể đập từ trên cao xuống. Vân Trung Hạc nghiêng qua tránh được, nghe “bình” một tiếng đất cát văng lên tứ tán, cương trượng vụt xuống đất, đầu trượng ngập sâu hơn một thước. Vân Trung Hạc biết chân lực của mình kém ông ta xa nên chỉ nhảy thoăn thoắt, hết tránh bên tả lại nghiêng bên hữu, vận động khinh công cùng lão giao đấu. Hề trưởng lão múa tít cương trượng, quanh mình lão chỉ thấy một luồng ánh bạc, nhưng không đánh trúng Vân Trung Hạc được đòn nào.

Đoàn Dự đang xuất thần theo dõi cuộc đấu, bỗng bên tai nghe một giọng thật êm dịu hỏi: “Đoàn công tử, mình giúp ai bây giờ?” Đoàn Dự ngoảnh đầu lại thì người hỏi chính là Vương Ngữ Yên, chàng bất giác tâm thần mê mẩn, ngẩn ngơ hỏi lại: “Cô nương… cô nương bảo sao?” Vương Ngữ Yên nói: “Gã cao nghều kia là bạn của đồ đệ công tử, còn ông già lùn mập thì là thuộc hạ của huynh trưởng Công tử. Hai người càng đánh càng hăng, chúng ta nên giúp ai?” Đoàn Dự đáp: “Đồ đệ của tại hạ đã là con người độc ác, mà gã cao gầy kia lại càng tồi bại hơn nữa, đừng giúp y làm gì.”

Vương Ngữ Yên trầm ngâm đáp: “Hừ, thế nhưng Cái Bang đã đuổi huynh trưởng công tử đi không để ông ta làm bang chủ nữa, lại vu oan cho biểu ca ta, ta ghét họ lắm.” Bất luận ai coi biểu ca nàng không ra gì, nàng đều cho là người tệ mạt nhất thiên hạ. Vương Ngữ Yên lại nói tiếp: “Lão lùn mập kia sử hai mươi bốn đường Phục Ma Trượng của Ngũ Đài Sơn, nhưng vì ông ta lùn quá thành thử hai chiêu Tần Vương Tiên Thạch và Đại Bằng Triển Xí không được kín đáo, ai đánh vào hạ bàn bên hữu là lão không đỡ được. Gã cao gầy không nhận ra, lại tưởng người lùn thì hạ bàn rất vững, nhưng thực ra không phải thế.”

Giọng nàng nói rất nhỏ, thế nhưng những tay cao thủ nội công tinh thâm ở đường trường đều nghe thấy cả. Những người đó hầu hết đã biết gia số võ công của Hề trưởng lão nhưng khuyết điểm ở chỗ nào thì lại chẳng mấy ai nhìn ra, đến khi nghe Vương Ngữ Yên chỉ điểm, bấy giờ mới thấy quả là không sai. Hề trưởng lão khi sử dụng hai chiêu Tần Vương Tiên Thạch và Đại Bằng Triển Xí quả thật uy mãnh có thừa nhưng trầm trọng không đủ, hạ bàn sơ hở rất nhiều.

Vân Trung Hạc quay sang liếc Vương Ngữ Yên, khen: “Cô bé xinh xắn quá, lại tinh mắt chẳng ai bằng, lấy ta làm chồng quách.” Y vừa nói vừa vung cương trảo lên đánh luôn ba chiều vào hạ bàn Hề trưởng lão. Quả nhiên chiêu thứ ba Hề trưởng lão không đỡ được, nghe “soạt” một tiếng, đùi bị Vân Trung Hạc móc một đường dài, lập tức máu chảy đầm đìa.

Vương Ngữ Yên bản tính hồn nhiên, nghe Vân Trung Hạc khen mình đẹp thì lấy làm khoái chí. Gã nói khinh bạc thế mà nàng không giận, mỉm cười nói: “Nói thế mà không biết xấu! Ngươi có gì là hay? Ta không lấy ngươi đâu.” Vân Trung Hạc nghe người đẹp cười đùa, sướng rơn nói: “Sao nàng không chịu lấy ta? Phải chăng nàng đã có thằng lỏi mặt trắng kia? Để ta giết ý trung nhân của nàng trước, xem nàng có chịu lấy ta không nào?” Câu nói đó phạm vào đại kỵ của Vương Ngữ Yên, nàng quay mặt đi không thèm nói gì nữa.

Vân Trung Hạc đang toan nói thêm mấy câu chớt nhả, Ngô trưởng lão trong Cái Bang đã nhảy ra vung Quỉ đầu đao chém liên tiếp bên trái bốn nhát, bên phải bốn nhát, trên bốn nhát, dưới bốn nhát, bốn lần bốn là mười sáu nhát, thế đao cực kỳ cương mãnh. Vân Trung Hạc không hiểu đao pháp lão thuộc về môn phái nào, chỉ còn biết nó đông tránh tây, rụt đầu xuống lại nhảy dựng lên thật là bối rối.

Vương Ngữ Yên cười nói: “Đao pháp của Ngô trưởng lão là Tứ Tượng Lục Hợp Đao, bên trong có chứa bát quái sinh khắc biến hóa khôn lường, gã cao gầy kia đâu có biết? Nếu gã biết sử chiêu Hạc Xà Bát Đả thì phá được Tứ Tượng Lục Hợp Đao dễ như chơi.” Người trong Cái Bang nghe nàng lại chỉ giúp cho Vân Trung Hạc, trong lòng ai nấy đều căm giận. Bỗng thấy Vân Trung Hạc biến chiêu, xoạc hai chân, cương trảo giang ngang trông chẳng khác gì một con hạc đang xòe cánh. Vương Ngữ Yên ghé tại Đoàn Dự nói thầm: “Gã sếu vườn kia mắc mưu ta rồi, không chừng tay trái gã bị chém đứt bây giờ.” Đoàn Dự lấy làm lạ, hỏi: “Sao thế?” Ngữ Yên chưa kịp đáp đã thấy Ngô trưởng lão đao pháp ngưng trọng tựa hồ như không theo lề lối nào cả, ra đòn mỗi lúc một chậm lại. Đột nhiên, lão chém ba đao rất mau, ánh đao vừa lóe lên, Vân Trung Hạc đã kêu rú lên một tiếng thất thanh, lưng bàn tay trái đã bị chém trúng, cương thảo trong tay cầm không vững, rơi ngay xuống đất nghe keng một tiếng. Cũng may thân pháp y mau lẹ dị thường, kịp nhảy ngược về sau né được ba đao tấn công tiếp theo của Ngô trưởng lão nên chỉ bị thương xoàng.

Ngô trưởng lão đi tới trước mặt Vương Ngữ Yên, dựng đao lên nói: “Đa tạ cô nương!” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Kỳ Môn Tam Tài Đao của trưởng lão quả là tuyệt diệu.” Ngô trưởng lão kinh ngạc nghĩ thầm: “Hóa ra cô ta vốn biết đao pháp của ta rồi”. Thì ra Vương Ngữ Yên cố ý nói đao pháp của Ngô trưởng lão thành Tứ Tượng Lục Hợp Đao, rồi theo chiêu số của Vân Trung Hạc liệu chừng y biết sử Hạc Xà Bát Đả liền dụ y xuất chiêu này, quả nhiên gã trúng kế, suýt đứt mất một tay.

Gã mũi to giọng nói the thé đứng bên cạnh Hách Liên Thiết Thụ tên là Nỗ Nhi Hải, thấy Vương Ngữ Yên chỉ nói vài câu đã giúp Vân Trung Hạc đả thương Hề trưởng lão rồi lại chỉ vài câu khiến cho Ngô trưởng lão đả thương Vân Trung Hạc, liền quay lại nói với Hách Liên Thiết Thụ: “Tướng quân! Cô gái người Hán kia thật là lợi hại, chi bằng ta bắt về Nhất Phẩm Đường ép thị biết được điều gì thì phải nói hết ra, hữu dụng vô cùng.” Hách Liên Thiết Thụ đáp: “Hay lắm! Ngươi làm đi!”

Nỗ Nhi Hải gãi đầu, nghĩ bụng: “Tướng quân thật khéo quá, mỗi khi mình hiến kế là lại nói gọn lỏn: Hay lắm! Ngươi làm đi! Nhưng hiến kế thì dễ, làm được mới khó. Cô bé này xem ra võ công cao siêu không biết đến đâu mà lường! Mình ra tất bị ê mặt với mọi người, chi bằng ta hạ thủ trước đi là hơn”. Y giơ tay ra hiệu, bốn tên thuộc hạ lập tức tiến ra.

Nỗ Nhi Hải tiến lên mấy bước nói: “Từ trưởng lão! Tướng quân chúng ta muốn xem Đả Cẩu Bổng pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng. Các ngươi có biết thì biểu diễn cho xem, nếu không biết thì chúng ta xin cáo từ, không ai hơi đâu mà chờ.” Từ trưởng lão cười khẩy đáp: “Các cao thủ trong Nhất Phẩm Đường của quí quốc khoe mình võ công hạng nhất, hóa ra chỉ tầm thường không có gì xuất sắc. Nếu muốn xem Đả Cẩu Bổng pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng e rằng chưa xứng.” Nỗ Nhi Hải hỏi: “Thế nào mới xứng?” Từ trưởng lão đáp: “Trước hết phải đánh bại bọn ăn mày vô tích sự chúng ta đã, lúc đó đầu não của Cái Bang mới ra tay…” Vừa nói tới đây, đột nhiên lão ho lên su sụ, rồi thấy mắt đau nhức kịch liệt không mở ra được, nước mắt trào ra. Từ trưởng lão cả kinh, vội nhảy vọt lên, nín thở đá luôn ba cái. Nỗ Nhi Hải không ngờ ông già tóc đã trắng xóa mà thân thủ lại còn nhanh đến thế. Y vội vàng tránh ra nhưng chỉ tránh được chỗ yếu hại trên ngực, đầu vai vẫn bị đá trúng, người hắn xiêu đi, tiện đà nhảy lùi về phía sau. Từ trưởng lão nhảy lên lần thứ hai, còn đang ở trên không đã thấy chân tay uể oải, rơi xuống đất đánh bịch một cái.

Người của Cái Bang kêu réo om sòm: “Không xong rồi, bọn man di mọi rợ chơi bẩn.” “Mắt ta dính cái gì thế này?” “Ta không mở mắt ra được.” Mọi người ai nấy mắt đau đớn, nước mắt đầm đìa. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích cũng chịu chung số phận, mắt không mở ra được.

Thì ra bọn Tây Hạ đã tung ra Bi Tô Thanh Phong là một loại độc khí không mùi vị, không màu sắc. Thuốc này lấy từ những độc vật trong Hoan Hỉ Cốc ngoài Đại Tuyết Sơn nước Tây Hạ, chế thành chất lỏng chứa trong bình. Người hạ độc nhét sẵn thuốc giải trong mũi, khi mở nắp lập tức độc thủy bốc hơi bay ra thoang thoảng như gió nhẹ. Dù ai thính mũi, tinh mắt đến đâu cũng không thể phát giác ra được, đến khi mắt thấy đau nhói thì độc khí đã xâm nhập vào óc. Người trúng độc nước mắt đầm đìa nên gọi là “bi”, toàn thân không cử động được nên gọi là “tô”, độc khí không màu sắc, không mùi vị nên gọi là “thanh phong”.

Chỉ nghe “Ôi chao!”, “Trời ơi!” liên tiếp, quần cái liên tiếp ngã lăn ra. Đoàn Dự đã nuốt Mãng Cổ Chu Cáp nên vạn độc bất xâm, Thanh Phong tuy đã hít vào mũi rồi nhưng chàng không “bi” mà cũng chẳng “tô”, thấy bọn Cái Bang cùng Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ai nấy tỏ vẻ đau đớn chẳng hiểu tại sao, trong bụng không khỏi hoảng hốt. Nỗ Nhi Hải lớn tiếng quát tháo, chỉ huy bọn thủ hạ cùng các võ sĩ trói hết người Cái Bang lại, còn tự mình thì tiến đến bên Vương Ngữ Yên, giơ tay nắm lấy cổ tay nàng.

Đoàn Dự quát lên: “Ngươi làm trò gì thế?” Trong lúc cấp bách, chàng giơ ngón tay trỏ bên phải lên búng một cái, một luồng chân khí từ đầu ngón tay bắn vọt ra nghe vèo vèo, chính là Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn nước Đại Lý. Nỗ Nhi Hải không hiểu gì cả, vẫn tiếp tục xông tưới nắm tay Vương Ngữ Yên, đột nhiên nghe cắc một tiếng, cánh tay phải không hiểu sao lại treo lủng lẳng, xương đã gãy lìa. Y kêu lên thảm thiết một tiếng, vội đứng lại.

Đoàn Dự cúi xuống ôm lấy tấm lưng thon của Vương Ngữ Yên vào lòng, đoạn thi triển Lăng Ba Vi Bộ, bước xéo lên ba bước rồi lại rẽ ngang hai bước, nhẹ nhàng chạy ra khỏi đoàn người.

Diệp Nhị Nương vẫy tay một cái, phóng kim độc vào sau lưng Đoàn Dự. Mũi độc châm đó nhắm rất chính xác, kình lực lại mạnh, Đoàn Dự vốn không thể nào tránh được. Thế nhưng bộ pháp của chàng lúc thì đi xéo lúc lại lui về, đến khi độc châm đến nơi thì chàng đã ở bên phải ba thước rồi. Ba tên hảo thủ trong đám võ sĩ Tây Hạ liền nhảy lên ngựa, hò hét đuổi theo. Đoàn Dự lạng người đến gần một con tuần mã, đặt Vương Ngữ Yên nằm ngang trên yên rồi mới phi thân nhảy lên, giật cương chạy như bay.

Bọn võ sĩ Tây Hạ vốn đã canh gác những điểm trọng yếu bốn mặt rừng hạnh, khi thấy Đoàn Dự cưỡi ngựa đột nhiên chạy ra, chúng liền bắn tên không ngớt. Nhưng nhờ có những cây hạnh chắn đỡ, hơn chục mũi lang nha vũ tiễn đều cắm vào thân cây.

Đoàn Dự kêu lên: “Ngựa ngoan ơi ngựa ngoan! Chạy càng nhanh càng tốt! Về nhà ta cho ăn gà, ăn thịt, ăn cá, ăn dê.” Chàng bối rối quên mất cả chuyện ngựa đâu có ăn thịt, chỉ ăn cỏ mà thôi.

Hồi 17: Nguyện làm con cóc khác thường – Chỉ mong thiên nga ngó đến

Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên cưỡi chung một con ngựa, phóng qua không biết bao nhiêu vườn dâu, chẳng mấy chốc không còn thấy tăm hơi bọn võ sĩ Tây Hạ đâu nữa.

Đoàn Dự hỏi: “Vương cô nương! Cô làm sao vậy?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta bị trúng độc uể oải, trong người không còn chút khí lực nào nữa.” Đoàn Dự nghe hai chữ “trúng độc” thì giật nẩy người lên, vội hỏi: “Có nặng lắm không? Làm sao tìm thuốc giải được đây?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta cũng chẳng biết nữa. Công tử cứ giục ngựa chạy thật nhanh, đến chỗ nào an toàn rồi tính sau.” Đoàn Dự hỏi: “Bây giờ đi đâu mới an toàn?” Nàng bèn hỏi lại: “Làm sao ta biết được?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta đã vỗ ngực hứa bảo vệ cho nàng được bình yên, bây giờ lại bảo nàng chỉ cho mình thì còn mặt mũi nào?”. Chàng không biết tính sao, cứ thúc ngựa chạy tiếp.

Khoảng chừng một bữa ăn, hai người không còn nghe tiếng đuổi theo đã hơi yên dạ, bỗng trời bắt đầu lất phất mưa. Đoàn Dự cứ chạy một quãng lại hỏi: “Vương cô nương, cô nương thấy ra sao rồi?” Vương Ngữ Yên chỉ đáp: “Không sao.” Đoàn Dự được đi cùng mỹ nhân, trong lòng vui sướng khôn xiết, nhưng lại sợ nàng trúng loại thuốc cực độc có thể nguy hại đến tính mạng. Vì thế mà có lúc chàng mỉm cười, có lúc nét mặt lại buồn thiu.

Trời mưa mỗi lúc một nặng hạt, Đoàn Dự cởi trường bào khoác lên người Vương Ngữ Yên nhưng chỉ được chốc lát cả hai đã ướt như chuột lột. Đoàn Dự lại hỏi: “Vương cô nương, cô nương thấy thế nào?” Vương Ngữ Yên thở dài: “Vừa lạnh vừa ướt thế này, sao công tử không kiếm chỗ nào trú mưa đi.”

Bất luận Vương Ngữ Yên nói gì, Đoàn Dự cũng coi như chỉ dụ của hoàng đế. Nay nàng bảo đi tìm chỗ trú mưa, tuy chàng biết vẫn chưa ra khỏi vòng nguy hiểm nhưng cũng luôn mồm vâng dạ trong bụng lại nghĩ vớ vẩn: “Lúc nào Vương cô nương cũng chỉ nghĩ đến biểu ca nàng là gã Mộ Dung Phục. Hôm nay gặp bước gian nguy, ta phải tận tâm tận lực bảo vệ, giả tỷ có vì nàng mà phải chết, thì ít ra sau khi ta chết rồi chắc nàng cũng nghĩ đến ta đôi chút. Mai sau nàng cùng Mộ Dung Phục thành hôn sinh con đẻ cái, khi nhàn rỗi kể chuyện cho con cháu nghe, có khi cũng đề cập đến chuyện hôm nay. Khi đó tuy nàng đầu tóc đã bạc phơ mà nói tới ba chữ Đoàn công tử không chừng sẽ long lanh giọt lệ…”. Chàng nghĩ tới đây bất giác tự thương thân, rưng rưng nước måt.

Vương Ngữ Yên thấy chàng lộ vẻ bi thương, lại chẳng lo kiếm chỗ trú mưa, bèn hỏi: “Công tử làm sao vậy? Không có chỗ nào trú mưa được hay sao?” Đoàn Dự còn đang ngơ ngán, đáp: “Khi đó nàng nói với con gái rằng…” Vương Ngữ Yên lấy làm lạ, hỏi: “Công tử nói gì đến con gái vậy?”

Đoàn Dự giật mình choàng tỉnh, cười nói: “Xin lỗi cô nương, ta nghĩ vẩn vơ ấy mà.” Chàng đưa mắt nhìn chung quanh, thấy phía đông bắc có một lán trại đặt cối xay nước, dòng suối chảy vào làm quay bánh xe lớn vận động chày đá giã gạo, liền nói: “Đằng kia có chỗ trú mưa.” Đoàn Dự liền giục ngựa chạy đến trại cối xay. Lúc đó trời mưa càng lớn, chung quanh hơi nước bốc lên mờ mịt.

Chàng nhảy xuống ngựa thấy Vương Ngữ Yên mặt mày tái mét, trong lòng lo lắng vạn phần, liền hỏi: “Bụng cô nương có đau không? Hay là lên cơn sốt? Hay là nhức đầu?” Vương Ngữ Yên lắc đầu mỉm cười nói: “Ta chẳng đau đớn gì cả.” Đoàn Dự nói: “Chao ôi! Không biết bọn Tây Hạ phóng thuốc độc gì đây, để tại hạ đi kiếm thuốc giải.” Vương Ngữ Yên nói: “Trời đang mưa tầm tã, công tử cho ta xuống ngựa vào trong nhà, lát nữa nói chuyện cũng chưa muộn.” Đoàn Dự dậm chân, nói: “Chết chưa? Tại hạ thật hồ đồ quá!”

Vương Ngữ Yên mỉm cười, nghĩ thầm: “Còn ai hồ đồ hơn ngươi nữa!”. Đoàn Dự nhìn khuôn mặt tươi cười của nàng, bao nhiêu hồn vía lên mây cả, suýt nữa quên cả mở cửa trại. Chàng chạy vào mở cửa rồi trở ra đỡ Vương Ngữ Yên xuống. Mắt chàng vẫn đăm đăm nhìn nàng không chớp, không để ý đến bên cửa trại có rãnh nước. Vương Ngữ Yên vội kêu: “Coi chừng!” Không kịp nữa rồi, Đoàn Dự chỉ kêu lên được một tiếng người đã ngã xuống rãnh bùn lầy, mặt mũi chân tay lấm bê bết. Chàng gượng mãi mới đứng lên được, mồm xuýt xoa: “Chết thật, xin lỗi cô nương. Cô nương có việc gì không?”

Vương Ngữ Yên đáp: “Ta hỏi mới phải. Công tử ngã có đau lắm không?” Đoàn Dự thấy nàng quan tâm đến mình, sướng như lên tới mây xanh, vội đáp: “Không sao, không sao! Mà dù ngã có đau thì cũng chẳng hề gì.” Chàng đưa tay toan đỡ Vương Ngữ Yên xuống ngựa, nhưng trông thấy tay đây bùn đất vội rụt lại, nói: “Không được! Để tại hạ đi rửa tay rồi sẽ đỡ cô nương xuống.” Vương Ngữ Yên thở dài, nói: “Công tử lẩn thẩn quá. Ta ướt hết rồi, có dính thêm chút bùn thì phỏng có can hệ gì!” Đoàn Dự gượng cười: “Tại hạ quả là chẳng đâu vào đâu, hầu hạ cô nương không được chu đáo.” Chàng bèn nhúng tay vào khe nước rửa sạch bùn, xong mới đỡ Vương Ngữ Yên xuống ngựa bước vào trại.

Hai người vào trong cửa, thấy chiếc chày đá giơ lên giã xuống cối thóc không ngừng nhưng không có người trông coi, Đoàn Dự cất tiếng gọi lớn: “Ở đây có ai không?” Bỗng trong đống rơm ở góc nhà có tiếng hốt hoảng la lên: “Chao ôi!” Rồi có hai người đứng lên, một nam một nữ đều là dân nhà quê chừng mười tám mười chín tuổi. Cả đội quần áo xốc xếch, đầu tóc dính đầy rơm rạ, mặt mũi đỏ bừng ra chiều bẽn lẽn. Thì ra đó là một cặp nhân tình, cô gái ở đây coi chừng cối gạo, chàng trai lẻn đến hú hí. Họ thấy mưa to gió lớn chắc chắng ai lai vãng nên càng say đắm, đến nỗi Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên ở bên ngoài một hồi lâu vẫn không hay biết.

Đoàn Dự chắp tay nói: “Xin lỗi, xin lỗi! Chúng tôi chỉ vào trú mưa, hai vị đang bận gì xin cứ việc tùy tiện, đừng để ý gì đến chúng tôi.” Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Cái tên này lại nói năng gàn dở rồi. Có mặt chúng ta ở đây, họ làm sao còn thân mật nổi”. Thế nhưng nàng làm sao dám nói ra, chính mình nhìn thấy đôi nhân tình đó cũng đỏ bừng mặt không dám nhìn lâu. Còn Đoàn Dự để cả tâm trí vào Vương Ngữ Yên, không hề chú ý đến đôi nam nữ nhà quê kia. Chàng đỡ Vương Ngữ Yên ngồi xuống ghế, hỏi: “Cô nương ướt hết rồi, làm sao bây giờ?” Vương Ngữ Yên lại càng thêm thẹn, chợt nghĩ ra một kế. Nàng rút trong búi tóc ra một chiếc kim thoa nạm hai hạt châu, nói với cô gái quê kia: “Tôi tặng chị cành thoa này, phiền chị cho mượn một bộ quần áo để thay.”

Cô gái kia tuy không biết hai viên ngọc này quí giá chừng nào nhưng cũng biết được giá vàng, không dám tin là thật, ngập ngừng đáp: “Để tôi lấy quần áo cho cô thay… còn cái… cái này tôi không dám nhận.” Nói xong cô ta trèo thang lên gác. Ngữ Yên vội gọi: “Chị hãy lại đây đã!” Cô gái quê kia đã trèo lên được ba bốn bậc thang, lại quay trở xuống đi đến trước mặt Vương Ngữ Yên. Nàng nhét cành kim thoa vào tay cô gái, nói: “Tôi tặng chị thật đấy. Chị đưa tôi lên đó thay áo được không?

Cô gái quê thấy Vương Ngữ Yên xinh đẹp đáng yêu, bản tâm đã muốn giúp đỡ, lại được tặng cành thoa thì mừng rỡ vô cùng. Cô cũng từ chối đôi lần rồi mới nhận, sau đó đỡ Vương Ngữ Yên lên thang gác để nàng thay áo. Trên gác ngổn ngang đầy rơm rạ, thúng mủng và bồ đựng thóc lúa. Cô gái quê có vài bộ áo cũ rách, đang vá dở thì chàng trai đến liền quăng đó, bây giờ lấy đưa cho Vương Ngữ Yên thay.

Còn anh chàng nhà quê thì khép nép, chân tay thừa thãi không biết làm gì, thỉnh thoảng lại liếc trộm Đoàn Dự. Đoàn Dự mỉm cười hỏi: “Quí tính đại ca là gì?” Anh chàng nhà quê ấp úng: “Tôi… tôi họ Kim.” Đoàn Dự nói: “Thì ra là:Kim đại ca.” Anh chàng nói: “Không phải! Tôi là Kim A Nhị, còn Kim A Đại là anh tôi.” Đoàn Dự nói: “Ồ, thế ra là Kim nhị ca…” Vừa nói đến đây bỗng nghe tiếng vó ngựa chừng hơn mười con chạy đến. Đoàn Dự cả kinh, đứng lên gọi: “Vương cô nương! Quân địch đuổi đến nơi rồi!”

Vương Ngữ Yên nhờ cô gái nhà quê kia giúp cởi áo ướt vắt cho khô, đang lau mình mẩy, bỗng nghe tiếng vó ngựa thì vừa kinh sợ vừa luống cuống không biết phải làm gì. Mấy con ngựa đó chạy thật nhanh, chỉ chốc lát đã đến ngay trước cửa trại. Có người nói to: “Con ngựa này của ta đây mà! Tên tiểu tử với con nhãi kia trốn trong đây rồi.” Vương Ngữ Yên cùng Đoàn Dự, một người trên gác, một người dưới nhà cùng kêu khổ thầm, nghĩ bụng: “Biết thế mình dắt ngựa vào trong này có phải hay không?”. Chỉ nghe binh một tiếng, có người đã đá tung cửa, ba bốn tên võ sĩ Tây Hạ xông vào,

Đoàn Dự nhất tâm bảo vệ Vương Ngữ Yên, vội vàng leo lên gác. Vương Ngữ Yên không kịp mặc áo, liền vớ lấy cái áo ướt che ngang ngực. Nàng trúng độc chân tay uể oải, tay cầm áo mới đưa lên được nửa chừng đã mềm nhũn buông xuống. Đoàn Dự vội vàng quay mặt đi, hoảng hốt nói: “Chết rồi! Tại hạ mạo phạm cô nương, thật là vô lễ!” Vương Ngữ Yên hỏi: “Biết làm thế nào bây giờ?”

Bỗng nghe một tên võ sĩ hỏi Kim A Nhị: “Con bé kia ở trên gác, phải không?” Kim A Nhị hỏi lại: “Ngươi hỏi con gái nhà người ta làm gì?” Nghe binh một cái, tên võ sĩ đấm Kim A Nhị một quyền văng xa hơn trượng. Gã tính tình cứng cỏi liên ngoác mồm chửi ngay. Cô thôn nữ vội kêu: “A Nhị ca! A Nhị ca! Chớ mắng chửi người ta làm gì.” Cô ta lo cho tình nhân nên vội xuống để khuyên can. Ngờ đâu tên võ sĩ kia đã vung đao chém Kim A Nhị một nhát chẻ đôi đầu, cô sợ quá, ngã lăn long lóc xuống dưới nhà. Một tên võ sĩ khác vồ ngay lấy, nhe răng cười, nói: “Con bé này đến nạp thịt đây.” Rồi “roạc” một tiếng, gã xé tung áo cô ra. Cô gái quê cùng đường liền vung tay cào mạnh lên mặt gã một cái, thành năm vệt máu dài. Tên võ sĩ cả giận, vung tay đánh một chưởng vào trước ngực cô khiến cho gân cốt đứt hết, chết ngay lập tức.

Đoàn Dự nghe những tiếng kêu thảm thiết dưới nhà, thò đầu ra xem, thấy cả đôi thanh niên nam nữ đều bị giết chết. Chàng áy náy vô cùng, lẩm bẩm: “Việc này là lỗi tại ta, làm liên lụy đến hai người chết thảm.” Chàng thấy một tên võ sĩ trèo lên thang, vội vàng giơ tay đấy một cái. Cái thang chỉ tựa hờ vào gác lửng nên Đoàn Dự vừa đẩy đã đổ ngay xuống. Tên võ sĩ kia vội nhảy xuống đất, lẹ làng đỡ lấy chiếc thang, lại để tựa vào gác. Đoàn Dự toan đẩy nữa thì một tên võ sĩ khác vung tay lên phóng tụ tiễn ra. Chàng không biết né tránh, mũi tên cắm phập vào vai trái. Tên võ sĩ thứ nhất nhân lúc chàng giơ tay bịt vết thương, phóng ba bậc một trèo nhanh lên gác.

Vương Ngữ Yên ngồi trên đống trấu đằng sau Đoàn Dự, đã nhìn thấy hắn xuất chưởng đánh chết cô gái quê, lại thấy thân pháp hắn tung mình nhảy lên trên thang, liền bảo Đoàn Dự: “Công tử dùng ngón tay trỏ bên trái, điểm vào huyệt Hạ Quản ở dưới bụng hắn.”

Đoàn Dự khi còn ở Đại Lý từng học Bắc Minh Thần Công và Lục Mạch Thần Kiếm, bao nhiêu huyệt đạo trong người chàng đã nhớ được rõ ràng. Vừa nghe Vương Ngữ Yên bảo, đã thấy chân trái tên võ sĩ bước vào cửa gác, chàng không nghĩ ngợi gì nữa, đưa ngón tay điểm luôn vào huyệt Hạ Quản của y. Gã võ sĩ kia trong lúc chui vào gác, để hở bụng dưới nên chỉ kịp rú lên một tiếng, ngã ngửa từ trên không xuống, chết ngay lập tức.

Đoàn Dự kêu lên: “Lạ thật! Lạ thật!” Lại có một tên võ sĩ Tây Hạ khác râu ria xồm xoàm, múa đại đao hộ vệ toàn thân trèo lên thang. Đoàn Dự vội hỏi: “Bây giờ điểm chỗ nào? Bây giờ điểm chỗ nào?” Vương Ngữ Yên kinh hoàng nói: “Chao ôi! Không xong rồi!” Đoàn Dự hỏi lại: “Sao lại không xong?” Vương Ngữ Yên đáp: “Hắn múa đao nhanh quá. Nếu công tử điểm huyệt Đản Trung của hắn, chắc là ngón tay chưa chạm được vào huyệt đạo đã bị chém đứt rồi.”

Nàng chỉ nói được bấy nhiêu thì tên võ sĩ Tây Hạ đã lên đến đầu thang gác. Đoàn Dự quyết tâm bảo vệ Vương Ngữ Yên, không cần biết ngón tay mình có bị chặt đứt hay không, đưa luôn ngón tay vận nội kình điểm vào huyệt Đản Trung của y. Tên võ sĩ vung đao chém xuống tay chàng, đột nhiên rú lên một tiếng, ngã ngửa ra sau rơi xuống, ngực thủng một lỗ máu vọt ra phải cao đến hai thước. Vương Ngữ Yên và Đoàn Dự vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, không ngờ kình lực ngón tay chàng lại lợi hại đến thế. Chỉ trong khoảnh khắc Đoàn Dự giết luôn hai tên võ sĩ, những tên còn lại không dám trèo lên nữa, chỉ chụm lại thương nghị kế hoạch,

Vương Ngữ Yên nói: “Đoàn công tử, công tử rút mũi tên trên vai ra đi.” Đoàn Dự cả mừng, nghĩ thầm: “Nàng quả có quan tâm đến vết thương của ta”. Chàng giơ tay giật phắt mũi tụ tiễn ra. Mũi tên đó lút vào một tấc, chạm đến tận xương, lúc nhổ ra đau đớn vô cùng, nhưng trong lòng chàng đang vui vẻ không coi vào đâu. Chàng lại hỏi: “Vương cô nương, bọn chúng lại sắp đánh lên nữa, bây giờ phải đối phó cách nào?” Chàng vừa nói vừa quay đầu lại nhìn Vương Ngữ Yên, bỗng mắt chạm đến chỗ áo nàng không được chỉnh tề, vội ngoảnh đi chỗ khác nói: “Tại hạ thật vô lễ quá!”

Vương Ngữ Yên thẹn đỏ mặt lên, nhưng cánh tay mềm như bún muốn mặc áo cũng không nổi, liền chui vào đống rơm chỉ để hở đầu ra, cười nói: “Không sao? Công tử quay đầu lại được rồi.” Đoàn Dự quay sang chầm chậm, nơm nớp đề phòng lỡ nhìn đến chỗ áo quần nàng không được kín đáo là lập tức quay đầu đi chỗ khác. Chàng nghiêng qua mới được nửa mặt, chợt nhìn thấy bên ngoài cửa sổ có một tên võ sĩ Tây Hạ đứng trên lưng ngựa ngấp nghé nhòm vào. Chàng vội nói: “Bên này có địch.”

Vương Ngữ Yên không biết gia số võ công của tên này như thế nào, bèn nói: “Công tử dùng tụ tiễn ném y đi.” Đoàn Dự nghe lời, vung tay ném mũi tên trong tay ra. Chàng ném tuy mạnh thật nhưng không chính xác, cách đầu gã kia ít ra là hai thước. Gã võ sĩ kia thấy trật xa quá không thèm né, nhưng kình lực chàng mạnh quá, mũi tên đi nghe vù vù. Gã lại giật mình rụt đầu xuống để tránh, người rụt lại thành một khối trên yên ngựa.

Vương Ngữ Yên thò đầu ra nhìn thấy rõ ràng, nói:”Y là một hảo thủ về môn đánh vật của Tây Hạ. Công tử cứ lờ đi như không biết, chờ y ôm được mình rồi, đưa bàn tay vỗ lên đỉnh đầu y một cái là xong.” Đoàn Dự đáp: “Cái đó dễ lắm.” Chàng từ từ đến bên cửa sổ, quả nhiên tên võ sĩ kia từ yên ngựa nhảy vọt lên, đạp gãy song cửa xông vào, Đoàn Dự kêu lên: “Ngươi lên đây làm gì?” Tên võ sĩ không hiểu tiếng Hán, trừng mắt nhìn rồi vươn tay trái ra chộp trúng ngay ngực Đoàn Dự. Thân thủ gã quả là nhanh, vừa túm được Đoàn Dự liền nhấc bổng chàng lên. Đoàn Dự đánh ngược lại một chưởng, nghe bộp một tiếng trúng ngay giữa đỉnh đầu. Tên kia đang định quật Đoàn Dự xuống sàn, đè cho chàng chết dở sống dở, ngờ đâu bị đánh bất thình lình một chưởng, vỡ đầu chết ngay lập tức.

Đoàn Dự lại giết thêm một người nữa, không khỏi nổi gai ốc, càng nghĩ càng sợ liền lớn tiếng gọi: “Ta không muốn giết người nữa đâu. Các ngươi mau chạy cho nhanh.” Chàng vận sức đẩy một cái, hất xác tên đô vật kia xuống dưới.

Cả thảy có mười lăm tên võ sĩ Tây Hạ đuổi đến trạm cối xay này, bây giờ chỉ còn mười hai, trong đó có bốn tay hảo thủ Nhất Phẩm Đường gồm hai người Hán, hai người Tây Hạ. Bốn tên hảo thủ đó thấy Đoàn Dự võ công lúc thì cao cường tuyệt luân, lúc lại ngờ nghệch tức cười, quả đúng là “cao sâu khôn lường”, thành thử không dám vọng động. Chúng tụ lại một chỗ, thảo luận kế hoạch tấn công. Còn tám tên võ sĩ Tây Hạ thì bàn nhau lấy rơm phóng hỏa đốt luôn trạm cối xay.

Vương Ngữ Yên hoảng hốt nói: “Nguy rồi! Chúng đang định phóng hỏa.” Đoàn Dự hốt hoảng hỏi lại: “Làm sao bây giờ?” Chàng chợt nhìn cái guồng nước của cối xay lúa bị nước suối đẩy chạy lên rồi lại đổ xuống không ngừng, lòng chàng cũng trồi lên hụp xuống chẳng khác gì.

Lại nghe một gã người Hán nói: “Đại tướng quân có lệnh phải bắt sống thiếu nữ kia, không được hại mạng cô ta. Đừng phóng hỏa vội!” Y lại cất tiếng gọi to: “Này, hai đứa nhãi nhép kia! Mau mau xuống đầu hàng, không thì ông cho một mồi lửa đốt chúng mày thành heo quay ngay.” Gã gọi luôn ba tiếng, Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên mặc kệ không đáp. Hắn lấy bùi nhùi đánh lửa, châm vào một nắm rơm cầm trong tay rồi nói: “Chúng bay mà không chịu hàng là ta thui sống.” Y cầm bó rơm đang cháy, làm bộ vứt vào đống rạ lớn.

Đoàn Dự thấy tình thế nguy cấp, nói: “Ta phải hạ thủ trước để chúng không kịp trở tay.” Chàng trèo lên cái guồng nước. Cái guồng này lớn lắm, đường kính phải đến hai trượng, cao hơn cả nóc nhà, Đoàn Dự bám vào mấy phiến gỗ làm cánh cản nước, từ từ hạ xuống theo chiều quay của cái guồng. Gã kia còn đang la lối om sòm chiêu hồi Vương Ngữ Yên cùng Đoàn Dự, không ngờ Đoàn Dự từ trên gác đã theo guồng nước lẻn xuống sau lưng, giơ ngón tay trỏ điểm vào lưng y. Chàng sử dụng Thiếu Dương kiếm pháp trong Lục Mạch Thần Kiếm đáng lẽ vừa chỉ một cái là kình lực phát xuất, ngờ đâu khi đánh lén người khác, trong bụng nơm nớp thành thử vận kình không đúng, chân khí không sao ra đến ngón tay. Nên biết rằng nội lực Đoàn Dự tuy thâm hậu nhưng chàng không có căn bản võ công, thu phát kình lực không như ý được. Gã kia thấy có cái gì chạm nhẹ vào lưng, quay đầu lại thấy Đoàn Dự đang chỉ điểm loạn xạ trên lưng mình.

Rõ ràng Đoàn Dự mới giết một hơi ba người, bây giờ chàng lại chỉ trỏ lung tung như đang dùng tà thuật. Y sợ hãi vô cùng, vội nhảy tránh sang bên tả một bước. Đoàn Dự ra một chiêu nữa cũng tuyệt không thấy chút uy lực nào, còn đang ngơ ngẩn thì gã kia quát lên: “Thằng nhãi thối tha kia! Mi làm trò ma quỷ gì đó?” Y vươn tay phải ra, chộp lên đỉnh đầu chàng. Đoàn Dự vội vàng rụt người lại, hai tay quơ lung tung may sao bám trúng cánh guồng, được bánh xe kéo lên cao. Gã kia vồ hụt nghe đánh “cách” một tiếng, mảnh gỗ tung tóe, gãy một mảnh ván trên chiếc guồng.

Vương Ngữ Yên nói: “Công tử tìm cách quanh ra sau lưng, tấn công vào huyệt Chí Dương ở đốt xương sống thứ bảy là hắn phải chết ngay. Tên này là đệ tử Hổ Trảo Môn ở Tấn Nam, công phu không luyện đến huyệt Chí Dương”

Đoàn Dự đang ở cao quá nóc nhà, cả mừng nói: “Thế thì tốt quá!” Chàng lại theo chiếc guồng xuống đến bên trong trạm xay lúa.

Có ba tên võ sĩ Tây Hạ không đợi chân Đoàn Dự chấm đất đã xông lên vồ lấy chàng. Đoàn Dự xua tay nói: “Người ta thường nói quả bất địch chúng, dẫu hảo hán cũng không đánh lại số đông. Tại hạ chỉ muốn lấy một đánh một.” Nói xong chàng nghiêng người, chân đi theo Lăng Ba Vi Bộ, chỉ mấy bước đã luồn ra sau lưng y, quát lên: “Trúng!”, ngón tay trỏ điểm ra trúng ngay huyệt Chí Dương. Gã kia chỉ hự được một tiếng đã lăn ra chết.

Đoàn Dự giết xong gã này, toan quay lại guồng nước để trở lên chỗ Vương Ngữ Yên thì đã không kịp nữa. Một tên võ sĩ Tây Hạ đã chặn đường chàng, vung đao xông tới. Đoàn Dự kêu lên: “Chao ôi! Nguy rồi! Hán quân chặn đường lui, mai phục tứ bề, vây khốn nơi Cai Hạ, đành coi như mất mạng.” Chàng bước chéo qua bên trái, nhát dao đó rơi vào khoảng không. Lập tức cả mười một gã liền vây Đoàn Dự lại, đao kiếm cùng vung lên đâm chém. Đoàn Dự kêu lớn: “Vương cô nương, thôi đành hẹn kiếp sau gặp lại. Đoàn Dự này bốn bề nghe Trương Lương thổi tiêu điệu Sở, mặt mũi nào gặp phụ lão Giang Đông, chỉ còn nước xuống suối vàng trước đợi cô nương.” Trong cảnh thập tử nhất sinh, miệng chàng gọi ầm ĩ cả lên, nhưng chân vẫn cứ bước theo Lăng Ba Vi Bộ thật là xảo diệu.

Vương Ngữ Yên chăm chú xem đến xuất thần, cất tiếng hỏi: “Đoàn công tử, đó là Lăng Ba Vi Bộ có phải không? Ta chỉ mới nghe tên nhưng chưa biết bộ pháp đó thế nào.” Đoàn Dự vui mừng nói: “Vâng! Vâng! Cô nương muốn xem thì để tại hạ biểu diễn lại từ đầu. Nhưng chưa biết có diễn được đến hết không, hay nửa chừng đã bị chém mất đầu rồi cũng nên.” Chàng bèn theo bộ pháp trên quyển trục, diễn lại từ bước đầu tiên.

Mười một tên võ sĩ Tây Hạ vừa đuổi vừa tay đấm chân đá, múa kiếm vung đao mà không trúng vào áo chàng được lần nào. Mười một cái miệng kêu rống lên: “Ngươi chặn đầu này.” “Người giữ góc đông bắc, hạ thủ đừng nể nang gì nữa!” “Thôi hỏng rồi! Thằng lỏi lại chuồn qua góc này mất rồi!”

Đoàn Dự cứ lúc tiến lúc lùi, chạy vòng vòng chung quanh guồng nước và cái chày máy. Vương Ngữ Yên tuy thông minh thật, nhưng nhất thời cũng không nhìn rõ, kêu lên: “Công tử tránh né kẻ địch mới là khẩn cấp, đừng lo biểu diễn cho ta xem nữa.” Đoàn Dự đáp: “Dịp may chớ bỏ qua! Lúc này mà không diễn, đến khi mạng ta ô hô ai tai rồi, cô nương có muốn xem cũng không được nữa.”

Lúc này chàng bỏ chuyện sống chết sang một bên, chỉ mong sao diễn được Lăng Ba Vi Bộ từ đầu chí cuối cho người trong mộng xem. Ngờ đâu kẻ si tình thường được hưởng phúc. Chàng không hiểu võ công, cao thủ đối phương lại ra đòn hư thực biến hóa khôn lường, giả tỷ chàng đợi địch nhân tấn công mới cất bước né tránh, thì tất không tránh được. Hơn nữa kẻ địch có đến mười một người, tránh được người thứ nhất thì lại trúng phải người thứ hai, mà có tránh được người thứ hai thì cũng bị người thứ ba đánh trúng. Thế nhưng chàng chỉ lo đi theo bộ pháp của mình, đối phương làm gì mặc kệ, thành ra cả mười một tên cùng đuổi theo tấn công chàng. Môn Lăng Ba Vi Bộ này mỗi bước đều không thể nào ngờ tới. Đối phương mắt thấy chân trái chàng khoa sang phía đông, nhưng lúc đặt chân xuống thì không hiểu sao người chàng lại nghiêng sang mé tây bắc. Mười một tên võ sĩ càng đánh càng nhanh, thế nhưng mười chiêu thì hết chín tấn công vào người bên mình còn một chiêu đánh vào quãng không.

Tên Giáp, tên Ất, tên Bính thấy Đoàn Dự đứng bên cạnh chiếc guồng quay lập tức quyền cước, đao kiếm đều chặn trước chỗ chàng sắp tới, còn tên Đinh, tên Mậu, tên Kỷ thì tấn công thẳng vào nơi chàng đang đứng. Đoàn Dự thân hình đột nhiên chuyển hướng, lập tức nghe binh binh boong boong, leng keng loảng xoảng, Giáp Ất Bính Đinh… kẻ nọ chém vào kẻ kia, kẻ kia đụng phải kẻ nọ, có mấy tên hơi chậm chạp lại bị chính bên mình đả thương.

Vương Ngữ Yên coi thêm một lát đã hiểu được nguyên lý, liền kêu lên: “Đoàn công tử! Cước bộ của công tử tuyệt diệu nhưng thật là phức tạp, ta coi một lần chưa hiểu rõ. Công tử diễn lại từ đầu một lần nữa được không?” Đoàn Dự đáp: “Vâng! Cô nương bảo sao, tại hạ làm vậy.” Chàng lại theo phương vị bát quái tám lần tám thành sáu mươi tư quẻ, diễn lại bộ pháp từ đầu đến cuối.

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Tính mạng Đoàn công tử nhất thời không có gì nguy hiểm, nhưng làm sao để thoát được đây? Ta nửa thân trên để trần, xấu hổ chết đi được. Phải cố chỉ điểm Đoàn công tử giết sạch mười một tên kia mới xong.” Nàng nghĩ thế, không quan sát bộ pháp của Đoàn Dự nữa mà quay sang nhận định võ công gia số của mười một tên kia.

Bỗng nghe tiếng động lách cách, một tên võ sĩ Tây Hạ bắc thang trèo lên gác. Thì ra mười một tên đánh với Đoàn Dự lâu không thắng, tên chỉ huy bèn sai một thuộc hạ trèo lên bắt Vương Ngữ Yên trước. Vương Ngữ Yên kinh hãi kêu lên: “Chết rồi!” Đoàn Dự ngẩng đầu nhìn thấy tên võ sĩ Tây Hạ đang trèo lên thang, vội hỏi: “Đánh vào chỗ nào?” Vương Ngữ Yên nói: “Huyệt Chí Thất.” Đoàn Dự liền xông tới, giơ tay quả nhiên chộp ngay huyệt Chí Thất ở ngang lưng, tiện tay quẳng y một cái trúng ngay vào cái cối giã gạo. Chiếc chày đá nặng hai trăm cân do guồng nước vận chuyển, thóc trong cối đã nát thành bột từ bao giờ nhưng vì không ai trông coi nên chiếc chày vẫn cứ tiếp tục giã không ngừng. Tên võ sĩ Tây Hạ vừa ngã vào trong cối, chiếc chày rơi xuống đánh y vỡ đầu, máu me tung tóe trộn vào trong bột gạo.

Gã cao thủ Tây Hạ vẫn thúc giục thuộc hạ, lại có ba tên võ sĩ chen nhau lên thang. Vương Ngữ Yên kêu lên: “Cứ thế mà làm!” Đoàn Dự giơ tay chộp huyệt Chí Thất một tên khác, lại sử kình vứt y vào trong cối. Lần này chàng không được khéo léo như lần trước, chiếc chày giã trúng ngay hông y, gã võ sĩ Tây Hạ không chết ngay, kêu gào nghe rợn người, cứ mỗi chày rơi xuống lại rống lên thảm thiết.

Đoàn Dự còn đang thộn mặt ra mà nhìn thì hai tên kia đã trèo lên thang. Chàng kinh hoảng kêu lên: “Không được! Không được! Xuống mau!” Chàng hoảng hốt vung ngón tay trái điểm loạn lên, không ngờ chân khí bung ra, Lục Mạch Thần Kiếm phát xuất đầy uy lực, vèo vèo hai tiếng trúng vào lưng, hai gã kia lập tức rơi bịch xuống đất.

Bảy tên võ sĩ Tây Hạ còn lại thấy Đoàn Dư điểm hờ trên không đã giết được người, tuyệt kỹ đó quả chưa từng nghe nói tới. Bọn chúng có biết đâu môn công phu của Đoàn Dự phát xuất chưa được như ý, có khi cần sử dụng lại không ra, có khi gấp gáp phóng bừa thì lại kiến hiệu. Bảy tên càng nghĩ càng sợ, ai nấy chột dạ nhưng bỏ chạy thì lại không dám.

Vương Ngữ Yên từ trên cao nhìn xuống rất rõ ràng, thấy bên địch tuy còn bảy tên nhưng chỉ có ba tên võ nghệ cao cường, trong đó có một tên Tây Hạ đứng chỉ huy cả bọn. Nàng liền kêu lên: “Đoàn công tử! Công tử giết gã áo vàng, đầu đội mũ da kia trước! Nhằm đánh vào hai huyệt đạo Ngọc Chẩm và Thiên Trụ sau đầu gã.” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ kính cẩn tuân lệnh.”

Gã cao thủ Tây Hạ kinh hãi nghĩ thầm: “Hai huyệt Ngọc Châm và Thiên Trụ chính là hai yếu điểm của ta, sao con bé này lại biết?”. Y thấy Đoàn Dự xông lên, lập tức vung đơn đao quét ngang không cho chàng đến gần. Đoàn Dự mấy lần xông lên nhưng không thể nào luồn ra sau lưng y được, lại suýt bị đao chém trúng. Cũng may gã này nghe Vương Ngữ Yên gọi ra yếu điểm đằng sau lưng mình nên hết sức cẩn thận gìn giữ phía sau đầu, nếu không Đoàn Dự đã bị nguy hiểm rồi. Đoàn Dự kêu lên: “Vương cô nương! Gã này lợi hại quá, tại hạ không lẻn ra sau lưng y được.” Vương Ngữ Yên nói: “Gã mặc áo sắc tro thì cửa tử ở huyệt Liêm Tuyền trên cổ. Còn gã có râu vàng kia ta không nhìn ra võ công gia số của y, công tử đâm vài chỉ vào ngực y thử xem.” Đoàn Dự đáp: “Tuân lệnh!”

Chàng thò ngón tay điểm vào ngực gã râu vàng, thủ pháp rất đúng nhưng lần này hoàn toàn không có chút kình lực nào. Thế nhưng gã nào có biết, vội vàng rùn người xuống tránh luôn ba chiêu, đến khi Đoàn Dự điểm lần thứ tư, y mới nhảy vọt lên, phóng chưởng đánh xuống, chiêu số cực kỳ lợi hại bao trùm toàn thân đối thủ. Đoàn Dự tức ngực khó thở, đầu váng mắt hoa, mắt mở không ra. Chàng cực kỳ kinh hãi, vung tay điểm lung tung. Bỗng dưng nghe veo véo liên tiếp, Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch cả sáu mạch thần kiếm đều phóng ra, gã râu vàng bị thủng sáu cái lỗ lớn nhưng chưởng thế chưa tiêu giảm, vẫn đánh trúng đầu vai Đoàn Dự nghe bốp một tiếng. Lúc này chân khí Đoàn Dự vận ra khắp mình, nội lực rất hùng hậu tự nhiên chống lại nên không bị thương chút nào, lại còn đẩy gã râu vàng văng ra xa một trượng. Vương Ngữ Yên không biết chàng hoàn toàn vô sự, kinh hãi kêu lên: “Đoàn công tử! Công tử không sao chứ? Có bị thương không?”

Đoàn Dự mở mắt nhìn thấy gã râu vàng nằm thẳng căng dưới đất ngửa mặt lên trời, trên ngực và bụng có sáu lỗ thủng, máu tươi phun thẳng lên không. Mặt gã trông thật khủng khiếp, cặp mắt tròn xoe nhìn chàng ra chiều căm phẫn lại hung dữ khôn tả, tưởng như chưa chết hẳn. Đoàn Dự sợ đến nỗi trái tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, vội kêu lên: “Ta đã bảo không muốn giết ngươi, tại ngươi… tại người xông vào đánh ta.” Chân chàng vẫn bước theo Lăng Ba Vi Bộ thật mau lẹ, chắp hai tay nhìn sáu gã kia, vừa thi lễ vừa nói: “Các vị anh hùng hảo hán! Đoàn Dự này cùng quí vị vô oán vô cừu, xin mở cho tại hạ một con đường sống. Tại hạ thực… thực không muốn giết ai cả nhưng làm… làm chết bấy nhiêu người, quả là tàn nhẫn, hối hận vô cùng. Các vị mau rút lui đi, Đoàn Dự này chịu thua rồi mà!”

Chàng vừa chuyển mình chợt thấy một người Tây Hạ đứng ngay trước cửa, không biết đã đến từ bao giờ. Người đó thân hình tầm thước, y phục giống hệt những tên kia, có điều mặt mày vàng bủng, trơ như gỗ đá, chẳng khác gì một cái xác chết. Đoàn Dự thấy lạnh cả người, nghĩ thầm: “Không biết người hay quỉ đây? Không lẽ… không lẽ… mấy võ sĩ Tây Hạ bị ta giết âm hồn bất tán nên hiện ra đòi mạng?”. Chàng sợ quá run cầm cập, lắp bắp hỏi: “Ngươi… ngươi là ai? Định… định làm gì?”

Gã người Tây Hạ vẫn đứng trơ như phỗng, không trả lời cũng không nhúc nhích. Đoàn Dự lạng người đi, túm được huyệt Chí Thất một tên võ sĩ ném vào quái nhân kia. Gã chỉ hơi lách qua, nghe binh một tiếng, tên võ sĩ Tây Hạ lao luôn vào tường, vỡ đầu chết ngay. Đoàn Dự thở phào một cái rồi nói: “Té ra mi cũng là người chứ không phải là quỉ.”

Khi đó ngoài quái khách vừa đến, bọn Tây Hạ chỉ còn lại có năm người, trong đó chỉ có một người Tây Hạ và một người Hán là hảo thủ trong Nhất Phẩm Đường. Ba gã còn lại võ công tầm thường, thấy phe ta mỗi lúc một ít, tên nào cũng chột dạ chỉ muốn bỏ chạy. Một gã chạy ra toan đẩy cửa thì tên hảo thủ Tây Hạ quát lên: “Mi làm gì vậy?” Soẹt soẹt soẹt, y xông vào chém Đoàn Dự ba nhát liền.

Đoàn Dự thấy đao quang xanh lè lấp loáng trước mặt, không biết lúc nào sẽ trúng vào người mình, chàng sợ hãi vô cùng, kêu lên: “Ngươi… ngươi mà ngang ngược như thế, ta đánh vào huyệt Ngọc Chẩm và huyệt Thiên Trụ là ngươi không sống nổi đâu. Ta khuyên người nghĩ lại mà rút lui đi, mỗi người đi mỗi hướng là hay nhất.” Những chiêu số thanh đao càng lúc càng cấp bách tiến gần đến Đoàn Dự. Nếu như chàng chậm chân hơn một chút thì chỉ một đao là mất mạng.

Gã hảo thủ người Hán vẫn đứng ở đằng sau, bây giờ thấy Đoàn Dự năn nỉ xin thôi, chỉ tránh né chứ không còn cách nào đánh trả, chợt nghĩ ra một kế, đi đến bên cạnh cái cối đá bốc một nắm bột gạo ném luôn vào mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự bộ pháp xảo diệu ném không trúng được, gã lại ném hết năm này tới nắm khác khiến trong nhà trại, bột cảm bay mù mịt chẳng khác gì sương khói.

Đoàn Dự lớn tiếng kêu: “Chao ôi! Chao ôi! Ta không thấy gì hết.” Vương Ngữ Yên thấy tình hình cực kỳ nguy hiểm, nàng biết Đoàn Dự chống cự được với mấy tên hảo thủ toàn nhờ vào bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ cực kỳ thần diệu. Địch nhân cứ nhắm chàng mà công kích phát chiêu thì binh khí quyền cước bao giờ cũng trệch đi một chút. Bây giờ trong nhà bột cám bay mù mịt không thấy gì nữa, bọn võ sĩ kia không cần biết Đoàn Dự ở đâu, cứ việc đâm chém bừa ắt sẽ băm chàng nát như tương ngay.

Hai mắt Đoàn Dự bị trúng đầy bột không sao mở ra được, chàng hết sức nhảy lên, may sao rơi xuống cạnh guồng quay nước, bám lấy phiến gỗ rồi được kéo lên cao. Chỉ nghe “A” “A” hai tiếng thảm thiết, hai tên võ sĩ Tây Hạ đã bị tên hảo thủ chém nhầm chết tươi. Tiếp theo là những tiếng loảng xoảng, có người quát lên: “Ta đây!” Lại một người khác hô to: “Cẩn thận, ta đó!” Đao kiếm hai gã hảo thủ chạm nhau mấy cái, kế đó có tiếng gào thảm thiết, tên võ sĩ Tây Hạ cuối cùng không biết bị ai đá trúng chỗ yếu hại bay vọt ra cửa. Trước khi chết gã còn rú lên thê thảm khiến cho Đoàn Dự nổi da gà, người rung bần bật. Chàng run run nói: “Các ngươi càng lúc càng ít người, đánh nữa làm gì? Giết nhau có ích chi đâu, ta cầu xin các ngươi liệu có được không?”

Gã người Hán nghe tiếng nhận được phương vị, vung tay phải một cái, phóng một mũi cương tiêu về phía chàng. Mũi tiêu đến nơi thì cánh buồng đã quay Đoàn Dự xuống thấp một chút. “Tách” một tiếng, vạt áo Đoàn Dự bị ghim vào cánh gỗ. Đoàn Dự kinh hãi nghĩ thầm: “Ta không biết tránh ám khí, đối phương phóng trúng là mình phải chết!” Chàng sợ đến bủn rủn tay chân, nắm cánh guồng không chặt được nữa, lỏng tay rơi ngay xuống.

Gã người Hàn kia trong đám bột mờ mờ trông thấy chàng rơi, liền xông ra chụp lấy. Đoàn Dự nhớ Vương Ngữ Yên bảo mình điểm vào huyệt Liêm Tuyền của gã, nhưng một là đang lúc hoảng loạn, hai là tuy nhận ra huyệt nhưng bình thời không tập luyện, nên điểm không trúng huyệt Liêm Tuyền, lại lệch sang tả xuống dưới, trúng huyệt Khí Hộ. Đấy là tiếu huyệt, gã kia chân khí chạy ngược nhịn không nổi cười lên sằng sặc. Y phóng kiếm nhắm Đoàn Dự đâm liên tiếp mà mồm thì vẫn cứ hi hi, ha ha… cười mãi không thôi.

Gã hảo thủ Tây Hạ bèn hỏi: “Dung huynh làm gì mà cười lắm thế?” Gã người Hán không sao trả lời được, vẫn tiếp tục cười ngặt nghẽo. Gã Tây Hạ không hiểu nguyên do, tức giận hỏi: “Đại địch ở trước mặt, ngươi còn đùa giỡn được ư?” Gã người Hán đáp: “Ha ha, ta… ta… ha ha, hi hi…” Y vung kiếm lên đâm vào sau lưng Đoàn Dự. Chàng nghiêng qua bên trái, gã Tây Hạ mờ mờ nhìn không rõ, cũng lại tránh qua đó, hai người đụng phải nhau.

Gã Tây Hạ sở trường về cầm nã, vừa đụng trúng Đoàn Dự, tay trái liền lật một cái nắm ngay được cánh tay chàng. Y biết đối phương chỉ giỏi bộ pháp, nay nắm được chàng đúng là cơ hội, tay phải quẳng đơn đao xuống, chộp luôn cổ tay trái Đoàn Dự, Đoàn Dự kêu lên: “Nguy rồi! Nguy rồi!” Chàng hết sức giãy giụa nhưng hai tay gã Tây Hạ kia chẳng khác hai gọng kìm, làm sao thoát ra được? Gã người Hán thấy dịp may liền vung kiếm lên nhắm ngay lưng Đoàn Dự đâm tới. Gã cao thủ người Tây Hạ nghĩ thầm: “Không được! Nếu để y đâm sâu vào vài tấc thì đối phương không toàn tính mạng. Và nếu y không kể gì đến nghĩa khí, muốn tranh công một mình, đâm sâu vào một thước thì chết luôn cả ta nữa”. Nghĩ vậy, gã kéo Đoàn Dự lui về phía sau một bước.

Gã người Hán vẫn cười không ngớt, tiến lên một bước, lại muốn phóng kiếm ra đâm nữa, đột nhiên nghe binh một tiếng, cánh guồng nước đập trung vào sau gáy khiến y ngã lăn ra bất tỉnh. Hắn tuy ngất xỉu ngay nhưng chưa tắt thở, vẫn cười ha hả liên hồi nhưng hơi thở yếu đi nên giọng cười nghe thật quái dị. Chiếc guồng nước vẫn quay chầm chậm, cánh gỗ thứ hai lại đập vào ngực y đánh binh một tiếng nữa khiến cho tiếng cười nhỏ đi một chút, cứ như thế bảy tám lần thì tiếng cười của y chỉ còn ú ớ, chẳng khác gì đang ngủ mà mơ thấy chuyện gì khoái trá.

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự bị túm không giãy ra được, trong bụng hết sức bồn chồn, lại nghĩ đến trước cửa còn một gã Tây Hạ mặt mày dễ sợ, y chỉ vung đao lên là Đoàn Dự táng mạng ngay. Nàng lớn tiếng la lên: “Các ngươi không được hại mạng Đoàn công tử, chúng ta… chúng ta để từ từ thương lượng sau.”

Gã Tây Hạ kia vẫn nắm chặt Đoàn Dự, tay phải ép ngang vào ngực chàng, định chờ chàng gãy xương đứt gân hoặc ngột thở mà chết. Đoàn Dự hết sức sợ hãi, công phu Bắc Minh Thần Công để hút chân khí địch thủ lúc này không sử dụng được, ngón tay trái điểm loạn xạ toàn vào khoảng không. Áp lực trên ngực mỗi lúc một nặng, dần dần chàng không thở nổi nữa.

Đang lúc mười phần nguy ngập, gã hảo thủ Tây Hạ kia bỗng “A” lên một tiếng, kêu: “Úi chao! Thằng lỏi này… điểm trúng vào… vào huyệt Ngọc Chẩm ta rồi!” Hai tay y từ từ lỏng ra, cổ ngoẹo sang một bên, gục vào tường mà chết.

Đoàn Dự lạ quá, lật y ra xem quả nhiên nơi huyệt Ngọc Chẩm có một lỗ nhỏ, máu tươi vẫn ứa ra, chính là bị Lục Mạch Thần Kiếm của mình đâm phải. Chàng có ngờ đâu cả thảy mình điểm đến mấy chục phát, kiếm khí đụng phải vách đều bật trở lại vào lưng đối phương. Thế nhưng gã Tây Hạ kia công lực cao cường mà chân khí phản xạ lại yếu nên không gây tổn thương y chút nào, đến lúc khẩn yếu may sao trúng ngay huyệt Ngọc Chẩm. Đây là tử huyệt của y, kiếm khí tuy yếu mà điểm chính xác nên vẫn đủ táng mạng.

Đoàn Dự vừa mừng vừa sợ, bỏ xác gã Tây Hạ kia xuống rồi kêu lên: “Vương cô nương, Vương cô nương! Địch nhân chết hết rồi!” Thốt nhiên phía sau có tiếng nói lạnh như băng: “Chưa chết hết đâu!” Đoàn Dự kinh hãi quay đầu lại, thấy gã quái nhân mặt gỗ kia vẫn đứng bên cửa. Chàng nghĩ thầm: “Chắc võ công gã này không giỏi, mình chỉ cần túm lấy huyệt Chí Thất gã là giết được ngay”, liền cười nói: “Lão huynh mau đi đi, ta không giết đâu.” Gã kia hỏi lại: “Ngươi mà đủ bản lĩnh giết được ta ư?” Giọng nói cực kỳ ngạo mạn. Đoàn Dự quả không muốn giết người thêm nữa, chàng chắp tay nói: “Tại hạ chắc không phải là đối thủ của các hạ, xin dung tình mà tha cho.”

Gã cao thủ Tây Hạ nói: “Mấy lời người nói đúng là giả vờ chứ không có ý thành thực xin tha. Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của nhà họ Đoàn nổi danh thiên hạ, lại được vị cô nương kia chỉ điểm yếu quyết, quả là ghê gớm. Ta muốn lãnh giáo cao chiêu.” Mấy câu đó gã nói ra từng chữ từng chữ, tiếng nào tiếng ấy cứ bình bình không cao không thấp, không nặng không nhẹ, nghe như người ngoại quốc học nói tiếng Hán. Từ ngữ cú pháp không sai nhưng âm điệu thật là bất bình thường.

Ta nên nhớ rằng bản tính Đoàn Dự không thích võ công, hôm nay giết đã lắm người chỉ vì tình thế bất đắc dĩ. Về chuyện đánh nhau, nếu có thể tránh được là chàng tránh ngay. Chàng vái một vái thật sâu, nói hết sức thành khẩn: “Các hạ chỉ trích thật đúng, tại hạ cầu xin tha thứ không đủ thành kính, vậy xin tạ tội. Tại hạ chưa từng học võ công, mới rồi làm chết mấy người chẳng qua là chuyện ngẫu nhiên. Tại hạ mong được bảo toàn tính mạng là mãn nguyện lắm rồi, đâu dám sính cường tranh thắng với ai.” Gã võ sĩ Tây Hạ cười khẩy, nói: “Người chưa từng học võ công, vậy mà cất tay một cái đã giết bốn cao thủ của Nhất Phẩm Đường cùng mười một võ sĩ khác. Nếu ngươi học võ rồi thì trong võ lâm liệu còn ai sống được nữa không?”

Đoàn Dự đảo mắt nhìn từ đông sang tây một lượt, thấy trong trại xay lúa người chết nằm ngang dọc, ai nấy bê bết máu me, trong lòng quả thực ăn năn. Chàng ôm mặt kêu lên: “Sao… Sao ta lại giết nhiều người thế này? Ta… ta thực không muốn giết người. Bây giờ biết làm thế nào? Bây giờ biết làm thế nào?” Người kia cười nhạt mấy tiếng, liếc nhìn chàng xem mấy câu nói đó có thực lòng không. Đoàn Dự rớt nước mắt nói: “Những người này ai là chẳng có cha mẹ vợ con, mới đây ai cũng mạnh khỏe như rồng như cọp, bây giờ bị giết cả rồi, Ta… ta… làm sao tạ lỗi cùng họ được?” Nói tới đây chàng đấm ngực khóc rống lên, nước mắt như mưa, nức nở nói: “Bọn họ chưa chắc đã muốn giết ta, chẳng qua chỉ phụng mệnh đi bắt người đấy thôi. Ta với bọn họ nào có quen biết gì nhau, nỡ nào lại hạ độc thủ như thế?” Chàng vốn tâm địa nhân từ, đọc kinh niệm Phật từ bé, đến con kiến cũng không dám giết, ngờ đâu hôm nay lại gây nhiều tội nghiệt như thế này.

Gã võ sĩ Tây Hạ cười khẩy, lại nói: “Ngươi còn giở trò mèo khóc chuột, tưởng thế là được người ta tha tội cho ư?”

Đoàn Dự gạt lệ đáp: “Các hạ nói phải lắm! Người đã giết rồi, tội đã phạm rồi, khóc lóc có ích gì? Chi bằng tại hạ đem những người này chôn cất cho tử tế là hơn.”

Ngữ Yên nghĩ bụng: “Đem mười mấy cái xác đi chôn thì biết bao giờ cho xong?” Nàng liền kêu lên: “Đoàn công tử, e rằng địch nhân còn đến nữa, chúng mình chạy nhanh chừng nào tốt chừng nấy.” Đoàn Dự đáp: “Vâng! Vâng!” Chàng quay mình toan trèo lên thang.

Gã võ sĩ Tây Hạ kia liền hỏi: “Ngươi chưa giết ta thì làm sao đi được?” Đoàn Dự lắc đầu: “Tại hạ không muốn giết các hạ, mà cũng không phải là đối thủ.” Người kia nói: “Chúng ta chưa tỷ thí sao ngươi đã biết không địch nổi ta? Vương cô nương đã đem môn Lăng Ba Vi Bộ truyền thụ cho ngươi, ha ha, quả nhiên khác hẳn người thường.” Đoàn Dự định cãi rằng Lăng Ba Vi Bộ không phải do Vương cô nương truyền thụ cho mình.

Song chàng lại nghĩ chuyện này không đáng để đôi co với người ngoài, bèn nói: “Đúng rồi! Tại hạ không hiểu võ công, hoàn toàn nhờ Vương cô nương chỉ điểm cho mới thoát khỏi đại nạn.” Gã kia nói: “Thế thì hay lắm. Ta đợi người ở đây. Ngươi lên hỏi Vương cô nương phương pháp giết ta đi!” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ không muốn giết các hạ thật mà.” Người kia đáp: “Ngươi không muốn giết ta, nhưng ta lại muốn giết ngươi.” Nói xong y nhặt một thanh đơn đạo dưới đất lên. Đột nhiên đao quang lấp loáng phủ hết phạm vi một trượng. Đoàn Dự tức thời trúng một sống đao vào bả vai, kêu rú lên một tiếng, chân bước loạng choạng. Bộ pháp của chàng vừa lộn xộn, gã võ sĩ Tây Hạ lập tức thừa thế chĩa ngay mũi dao vào cổ chàng. Đoàn Dự sợ toát mồ hôi, đứng yên không nhúc nhích. Gã kia nói: “Ngươi mau mau đi thỉnh giáo sư phụ, xem nàng có cách nào giết ta không?” Nói xong y thu đao lại, phóng cước nghe “bình” một tiếng, Đoàn Dự ngã lăn cù.

Vương Ngữ Yên kêu lên: “Đoàn công tử, mau lên đây!” Đoàn Dự đáp: “Vâng!” Chàng vịn thang trèo lên gác, quay đầu nhìn lại thấy gã kia thu đao về ngồi xuống. Nét mặt gã vẫn trơ ra như xác chết, hiển nhiên không coi chàng vào đâu, không thèm đánh lén sau lưng khi chàng trèo lên thang. Đoàn Dự lên gác rồi nói nhỏ: “Vương cô nương! Tại hạ đánh không lại y. Chúng ta chuồn đi là hơn.” Vương Ngữ Yên đáp: “Y giữ ngay trước cửa, chuồn đi lối nào bây giờ? Công tử mang cái áo kia lại đây cho ta.” Đoàn Dự đáp: “Vâng!” Chàng thò tay nhặt một chiếc áo cũ của cô gái quê để lại. Vương Ngữ Yên nói: “Nhắm mắt lại, đi tới đây. Được rồi, dừng lại. Công tử khoác áo lên người cho ta, không được hé mắt nhìn trộm đấy nhé!” Đoàn Dự tuyệt đối kính cẩn làm theo. Nguyên chàng đã là người quân tử chí thành, lại sùng bái Ngữ Yên như một vị thần linh, không dám mảy may trái lệnh. Thế nhưng chàng vừa tưởng tượng đến người nàng y phục không đủ che thân, tim đã đập thình thình.

Vương Ngữ Yên đợi Đoàn Dự mặc áo cho mình xong rồi nói: “Được rồi! Được rồi! Công tử đỡ ta dậy.” Đoàn Dự chưa được phép mở mắt nên vẫn nhắm nghiền, vừa nghe lệnh lập tức thò tay ra, vô ý chạm phải má Vương Ngữ Yên. Chàng thấy da thịt nàng vừa mát rượi vừa mềm mại, bất giác sợ giật nảy mình, vội vàng rụt tay lại, luôn mồm xin lỗi: “Thật là đắc tội! Thật là đắc tội!”

Vương Ngữ Yên lúc nhờ mặc áo đã thẹn đến chín người, giờ thấy chàng hai mắt nhắm tịt, thò tay sờ trúng mặt mình lại càng bẽn lẽn, nói: “Ta bảo công tử đỡ ta dậy kia mà!” Đoàn Dự đáp: “Vâng! Vâng!” Mắt chàng vẫn nhắm nghiền, hai tay quờ quạng không biết phải đưa đến hướng nào, nơm nớp sợ đụng phải thân thể nàng thì tội nghiệt càng thêm nặng, không khỏi luống cuống. Vương Ngữ Yên cũng mơ hồ ngây ngất, một hồi sau mới nhớ ra mình chưa bảo chàng mở mắt, phụng phịu nói: “Sao công tử không mở mắt ra?”

Gã Tây Hạ ngồi dưới nhà cười khẩy mấy tiếng nói: “Ta bảo người lên học võ công để giết ta chứ có bảo người lên để cười cợt, ôm ấp người đẹp đâu.”

Đoàn Dự mở mắt ra, thấy Vương Ngữ Yên hai má đỏ ửng, thẹn thùng thật là kiều diễm khiến chàng mê mẩn tâm thần, run run thộn mặt ra mà nhìn, mấy lời gã Tây Hạ vừa nói không lọt vào tai. Vương Ngữ Yên nói: “Công tử đỡ ta ngồi ở đây.” Đoàn Dự vội đáp: “Vâng! Vâng!” Chàng luống cuống đỡ nàng dậy ngồi trên một tấm ghế dài.

Vương Ngữ Yên hai tay run rẩy, cố giữ lấy vạt áo che người, cúi đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói: “Gã cố ý không để lộ gia số võ công, ta… ta không biết làm thế nào để đánh bại gã.” Đoàn Dự hỏi: “Gã ghê gớm đến thế kia à?” Vương Ngữ Yên đáp: “Vừa rồi gã động thủ với công tử đã sử dụng đến mười bảy loại võ công.” Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại: “Sao? Gã chỉ khua đao một vòng mà đã sử dụng đến mười bảy loại võ công khác nhau ư?” Vương Ngữ Yên đáp: “Đúng thế, Y sử đơn đao uy hiếp quanh mình công tử, phía đông chém một đao là Hàng Ma đao pháp của phái Thiếu Lâm. Khi y chém từ bên tây xuống một đao, đó là Sài Đao Thập Bát Lộ của Lê lão tử ở Lê Sơn Động tỉnh Quảng Tây. Khi y khoa đao chém trở lại thì biến thành Hồi Phong Phất Liễu Đao của Sử gia đất Giang Nam. Kế đó còn mười một chiêu nữa, sử mười một đao pháp hoàn toàn khác nhau. Sau cùng y trở ngược sống đạo đập lên vai công tử, đó là Từ Bi Đao của Tâm Quán hòa thượng chùa Thiên Đồng ở Ninh Ba sáng tác, chỉ chế ngự đối phương mà không giết. Y kề đao vào cổ khống chế công tử, là một trong Hậu Sơn Tam Tuyệt Chiêu của Dương lão lệnh công bản triều khi ra trận bắt sống kẻ địch, vốn dùng cán trường đao nhưng y đổi qua thành đơn đao. Lúc y giơ chân đá công từ ngã lăn cù, lại là cước pháp của người Tây Hạ.” Nàng nói ra lai lịch từng chiêu đều rành rẽ, còn Đoàn Dự là người trong cuộc lại không nhớ được chút gì, cũng chẳng hiểu, chỉ thộn mặt ra mà nghe.

Vương Ngữ Yên nghiêng đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói: “Công tử đánh không lại y đâu, chịu thua là hơn.” Đoàn Dự đáp: “Thì tại hạ đã chịu thua từ lúc nãy rồi!” Rồi chàng lớn tiếng nói vọng xuống: “Bất luận dùng cách nào tại hạ cũng không địch nổi, các hạ có chịu bỏ qua hay không?”

Gã võ sĩ Tây Hạ cười khẩy: “Kể ra thì ngươi muốn ta tha mạng cũng chẳng khó gì, chỉ hứa một chuyện là đủ.” Đoàn Dự hỏi: “Chuyện gì vậy?” Người kia đáp: “Từ nay trở đi, mỗi khi người thấy mặt ta phải quì xuống đất khấu đầu ba cái cho kêu, rồi hô lên một câu: Xin đại lão gia tha cho cái mạng chó này!”

Đoàn Dự tức khí bừng bừng, nói: “Sĩ khả sát bất khả nhục, ngươi bảo ta khấu đầu van xin thì đừng hòng. Ngươi muốn giết thì cứ việc ra tay.” Người kia nói: “Có thật ngươi không sợ chết chăng?” Đoàn Dự đáp: “Chết thì ai mà không sợ. Nhưng sống để mỗi lần gặp ngươi lại phải quỳ xuống dập đầu lạy, thì ta quyết không chịu.” Gã kia cười khẩy nói: “Gặp ta phải quì xuống khấu đầu thì có gì là quá đáng đâu. Sau này ta lên ngôi hoàng đế đất Trung Nguyên, dễ thường ngươi gặp ta lại không quì xuống khấu đầu ư?” Vương Ngữ Yên chột dạ nghĩ thầm: “Sao y lại dám nói như thế nhỉ?”.

Đoàn Dự đáp: “Bái kiến đức hoàng đế phải quì lạy thì là chuyện khác, đó là theo lễ nghi chứ không phải van xin tha mạng.” Gã võ sĩ Tây Hạ nói: “Ngươi không chịu điều kiện của ta, có phải chăng?” Đoàn Dự lắc đầu: “Tại hạ không thể tuân mệnh được, thôi đành phố mặc trong tay lão huynh.” Gã kia nói: “Được lắm! Ngươi xuống đây để ta chém một đao.” Đoàn Dự nhìn Vương Ngữ Yên mà trong lòng chua xót, bèn nói: “Lão huynh định giết tại hạ, việc đó không có gì quan trọng. Chỉ xin lão huynh một việc.” Người kia hỏi: “Việc gì?” Đoàn Dự đáp: “Vị cô nương này trúng phải kỳ độc, chân tay bải hoải không cất nhắc được. Xin lão huynh tìm cách đưa cô ta về Mạn Đà Sơn Trang ở Thái Hồ.”.

Gã kia cười ha hả nói: “Sao ta lại phải tìm cách đưa cô ta về? Chinh Đông đại tướng quân nước Tây Hạ đã ban tướng lệnh, ai bắt được cô nương học rộng tài cao này sẽ được thưởng một nghìn lạng vàng, phong tước Vạn Hộ hầu.” Đoàn Dự nói: “Thế thì dễ lắm! Tại hạ viết một phong thư, sau khi lão huynh đưa nàng về nhà rồi, cầm thư đưa đến Đại Lý lấy năm ngàn lượng vàng, tước Vạn Hộ hầu cũng không mất đâu.” Người kia cười khanh khách, nói: “Ngươi tưởng ta là đứa trẻ lên ba hay sao? Ngươi là cái thá gì mà chỉ viết một lá thư đã có năm nghìn lượng vàng với cả Vạn Hộ hầu?”

Đoàn Dự nghĩ thầm, chuyện này quả thực khó tin. Chàng không biết làm sao, hai tay xoắn vào nhau lẩm bẩm: “Biết làm sao bây giờ? Ta chết chả có gì đáng tiếc, nhưng để tiểu thư lưu lạc nơi đất lạ, rơi vào tay quân mọi rợ thì có chết vạn lần cũng không chuộc được tội”

Vương Ngữ Yên nghe chàng nói thật chân thành, trong lòng không khỏi xúc động. Nàng lớn tiếng bảo gã cao thủ Tây Hạ: “Này! Nếu ngươi vô lễ với ta thì biểu ca ta sẽ tìm người để báo thù, làm cho nước Tây Hạ phải một phen thất điên bát đảo, long trời lở đất, đến con gà con chó cũng không sống được.” Gã kia hỏi lại: “Biểu ca ngươi là ai?” Vương Ngữ Yên đáp: “Biểu ca ta là Mộ Dung công tử, tên tuổi lừng lẫy trong võ lâm Trung Nguyên, chắc ngươi chẳng lạ gì. Nếu ngươi không nể ta thì biểu ca ta sẽ ra đòn gậy ông đập lưng ông còn khốc liệt hơn, chứ không nể ngươi đâu.”

Người kia cười khẩy: “Mộ Dung công tử nếu biết được ngươi cùng tên mặt trắng này ôm ấp nhau như thế, lẽ nào còn báo thù cho ngươi nữa?” Vương Ngữ Yên mặt đỏ bừng nói: “Ngươi đừng nói bậy, ta và vị Đoàn công tử này không hề… không hề…” Nàng nhất thời không biết nói sao, bèn đánh trống lảng hỏi lại: “Nãy giờ ta chưa kịp hỏi họ tên ngươi, ngươi có dám nói cho ta biết không?” Gã kia đáp: “Có gì mà không dám? Bản quan đi không thay họ, ngồi chẳng đổi tên, Tây Hạ Lý Diên Tông chính thị là ta.” Vương Ngữ Yên nói: “Ái chà, ngươi họ Lý, đó là quốc tính nước Tây Hạ.” Gã dõng dạc nói: “Không chỉ ở trong quốc tính mà thôi! Ta còn có chí tận trung báo quốc, nuốt Liêu diệt Tống, tây trừ Thổ Phồn, nam lấy Đại Lý.”

Đoàn Dư nói: “Các hạ chí hướng quả là không nhỏ. Này này Lý tướng quân, để ta nói cho mà nghe. Các hạ thông hiểu tuyệt kỹ nhiều môn phái, muốn luyện thành võ công đệ nhất thiên hạ kể ra cũng không khó lắm. Thế nhưng muốn thôn tính cả thiên hạ thì không phải chỉ cần bản lãnh võ công là đủ.” Lý Diên Tông hừ một tiếng không trả lời.

Vương Ngữ Yên nói thêm: “Ngay đến cái việc luyện thành võ công đệ nhất thiên hạ, vị tất ngươi đã làm được.” Lý Diên Tông hỏi: “Sao ngươi dám nói thế?” Vương Ngữ Yên đáp: “Cứ như ta biết thì hiện nay trên đời đã có hai người võ công giỏi hơn ngươi xa.” Lý Diên Tông tiến lên một bước, ngẩng đầu hỏi: “Hai người đó là ai?” Vương Ngữ Yên đáp: “Người thứ nhất là tiền nhiệm Cái Bang bang chủ tên gọi Kiều Phong.” Lý Diên Tông hừ một tiếng rồi nói: “Tên tuổi y lớn thật, nhưng chắc gì danh với thực đã đi đôi. Còn người thứ hai là ai?” Vương Ngữ Yên đáp: “Người thứ hai là biểu ca ta, Mộ Dung Phục công tử đất Giang Nam.”

Lý Diên Tông lắc đầu nói: “Cái đó cũng chưa hẳn. Ta hỏi người: Ngươi kể tên Kiều Phong lên trên Mộ Dung Phục là vì công đạo hay vì tư tình?” Vương Ngữ Yên hỏi lại: “Thế nào là công đạo, thế nào là tư tình?” Lý Diên Tông đáp: “Nếu vì công đạo, thì bởi Kiều Phong giỏi hơn Mộ Dung Phục, còn nếu vì tư tình, bởi Mộ Dung Phục là thân thích với ngươi nên phải kể đến người ngoài trước.” Vương Ngữ Yên trầm ngâm một lát rồi nói: “Vì công đạo hay vì tư tình cũng vậy. Ta vẫn mong biểu ca ta giỏi hơn Kiều bang chủ, nhưng hiện tại thì chưa được.” Lý Diên Tông cười nhạt, nói: “Trước mắt thì vậy nhưng Kiều Phong chỉ giỏi một môn phái, còn biểu ca ngươi môn nào cũng biết, tương lai tài nghệ tiến bộ thì sẽ trở thành võ công thiên hạ đệ nhất.” Vương Ngữ Yên thở dài nói: “Tương lai cũng không được đâu! Võ công đệ nhất thiên hạ sau này có lẽ không ai khác ngoài vị Đoàn công tử đây.”

Lý Diên Tông ngửa mặt lên trời cười ha hả, nói: “Ngươi khéo nói đùa! Gã đồ gàn này bất quá được ngươi chỉ điểm một môn Lăng Ba Vi Bộ. Không lẽ cái bản lĩnh cắm đầu chạy trốn như chuột, rụt cổ né tránh như rùa kia lại dám xưng là võ công đệ nhất thiên hạ hay sao?”

Vương Ngữ Yên đã toan cãi: “Công phu Lăng Ba Vi Bộ của Đoàn công tử đâu có phải do ta truyền thụ, nội lực chàng lại hùng hậu thiên hạ vô song.” Thế nhưng nàng lại nghĩ: “Tên này xem chừng tâm địa hẹp hòi, nếu ta cứ tình thực nói ra, e rằng y sẽ giết Đoàn công tử. Chi bằng mình nói khích gã mấy câu”. Nàng liền nói: “Nếu như Đoàn công tử chịu nghe lời ta chỉ điểm tập luyện võ công, thì ba năm sau chưa chắc thắng được Kiều bang chủ, nhưng đánh bại các hạ thì dễ như trở bàn tay.”

Lý Diên Tông nói: “Nếu vậy càng hay! Ta tin lời cô nương, để hắn lại sẽ thành mầm họa. Chi bằng hôm nay một đao giết y để khỏi lo về sau. Đoàn công tử, xuống đây mau cho ta giết!” Đoàn Dự vội nói: “Ta không xuống đâu. Ngươi… ngươi cũng đừng lên.”

Vương Ngữ Yên có ngờ đâu khéo quá hóa vụng, gã này không thể dùng lời nói khích được. Nàng đành cười nhạt, nói: “Thế ra ngươi nhát gan thật, sợ ba năm sau Đoàn công tử sẽ thắng ngươi.” Lý Diên Tông đáp: “Ngươi định khích ta để cứu mạng y chứ gì? Ha ha, Lý Diên Tông này là hạng người nào mà dễ mắc mưu thế được? Muốn ta tha mạng cho y cũng dễ, ta đã nói rồi, chỉ cần y hứa mỗi khi gặp ta thì phải dập đầu xin tha.”

Vương Ngữ Yên quay sang nhìn Đoàn Dự, nghĩ bụng việc dập đầu xin tha ắt là không xong rồi. Bây giờ chỉ còn cố tìm lấy cái sống trong chỗ chết. Nàng khẽ hỏi Đoàn Dự: “Đoàn công tử! Kiếm khí ở ngón tay công tử có lúc linh nghiệm có lúc không là tại sao vậy?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ cũng chẳng hiểu ra sao nữa.” Vương Ngữ Yên nói: “Biện pháp tối ưu là công tử cố gắng dùng kiếm khí đâm vào cổ tay y, đoạt lấy đao trước, sau đó ôm chặt lấy y, sử dụng Lục Dương Dung Tuyết Công tiêu trừ công lực.” Đoàn Dự ngạc nhiên: “Lục Dương Dung Tuyết Công là cái gì?” Vương Ngữ Yên đáp: “Hôm trước ở Mạn Đà Sơn Trang, công tử chế phục Nghiệm má má để cứu bọn ta đã chẳng sử dụng môn thần công đó của họ Đoàn Đại Lý là gì?” Đoàn Dự bấy giờ mới nhớ ra, hôm đó Vương Ngữ Yên tưởng Bắc Minh Thần Công của chàng là môn tà pháp đáng khinh Hóa Công Đại Pháp, nhất thời chàng không thể giải thích nên bịa ra cái tên Lục Dương Dung Tuyết Công, bảo đó là tuyệt kỹ gia truyền của nhà họ Đoàn nước Đại Lý. Chàng chỉ thuận miệng nói bừa nên quên đi, nhưng Vương Ngữ Yên thì võ công môn phái nào trong thiên hạ cũng nhớ như in vào lòng, huống chi là môn kỳ công chưa từng nghe nói?

Đoàn Dự gật đầu, nghi thầm ngoài cách đó ra không còn cách nào khác. Thế nhưng pháp môn đó cũng không dùng được mọi lúc mọi nơi, xem ra hung đa cát thiểu. Chàng bèn xốc áo lại cho ngay ngắn rồi cười, nói: “Vương cô nương, tại hạ bất tài không đủ sức hộ tống cô nương trở về quý phủ, thật lấy làm xấu hổ. Mai này cô nương cùng lệnh biểu huynh thành thân, đừng quên tưới vài chén rượu vào gốc cây hoa trà do tại hạ trồng, coi như cho Đoàn mỗ nâng chén chung vui.”

Vương Ngữ Yên nghe chàng chúc mình cùng biểu ca mai này thành hôn, không khỏi hoan hỉ trong lòng. Song nàng nhìn Đoàn Dự đem thân ra cho người ta giết không khỏi tội nghiệp, buồn rầu nói: “Đoàn công tử, cái ơn cứu mạng của huynh, muội quyết chẳng bao giờ dám quên.” Đoàn Dự bụng bảo dạ:“Nếu như sau này mình phải ngồi nâng chén nhìn nàng và Mộ Dung Phục thành thân, tất sinh lòng đố kỵ đến phải phát điên mà chết, chi bằng hôm nay hy sinh cho nàng còn mát ruột hơn”. Nghĩ thế chàng quay lại mỉm cười với Vương Ngữ Yên rồi từng bước từng bước xuống thang.

Vương Ngữ Yên nhìn theo lưng chàng, lẩm bẩm: “Thật là con người kỳ lạ, đã đến lúc này mà chàng hãy còn cười được!”.

Đoàn Dự xuống thang rồi, trừng mắt nhìn Lý Diên Tông nói: “Lý tướng quân! Nếu ngươi không thể không giết ta thì động thủ đi.” Nói xong, chàng tiến lên một bước theo Lăng Ba Vi Bộ. Lý Diên Tông vũ lộng đơn đao chém vùn vụt ba nhát liền, sử ba loại đao pháp khác nhau. Vương Ngữ Yên cũng không lấy làm lạ, nghĩ bụng trong các loại binh khí thì đao pháp là phong phú nhất, nếu quả là kẻ biết rộng thì sử đến bảy tám chục chiêu cũng chưa cần lặp lại. Lăng Ba Vi Bộ của Đoàn Dự thật là biến ảo tinh kỳ, Lý Diên Tông muốn dùng đao thế vây bọc chàng lại, mấy lần tưởng đã thành công, ngờ đâu đối phương như ma như quí không hiểu cách nào lại chui ra lọt. Vương Ngữ Yên thấy lần này Đoàn Dự chống đỡ được lâu như thế cũng có chút hi vọng, chỉ mong chàng đột ngột xuất chiêu chuyển bại thành thắng.

Đoàn Dự ngầm vận nội lực vào năm ngón tay bên phải để phóng kiếm khí, thế nhưng chẳng hiểu vì sao chân khí cứ đến cánh tay là lại quay trở về. Cũng may là phép Lăng Ba Vi Bộ chàng đã rất thuần thục, chân bước trơn tru như nước chảy mây trôi. Đao pháp của Lý Diên Tông mỗi lúc một nhanh, vậy mà vẫn không sao chém trúng được vào người chàng.

Về phần Lý Diên Tông, chính mắt y trông thấy chàng dùng ngón tay giết chết mấy cao thủ Tây Hạ một cách dễ dàng, bây giờ lại thấy chàng vẽ ngang vạch dọc không biết làm gì. Y có biết đâu nội lực chàng không phóng ra được, lại tưởng chàng trước khi sử dụng tà thuật phải vẽ bùa niệm chú gì đây, đến khi bùa chú xong xuôi rồi sẽ dùng tà thuật vô hình để giết người. Trong bụng y không khỏi sợ hãi, nghĩ thầm: “Gã này bộ pháp tuy kỳ quái nhưng võ công tầm thường. Chắc là tà thuật của y lợi hại, ta phải giết được y trước khi y sử dụng tà pháp mới xong. Thế nhưng đao của ta chém mãi không trúng, biết làm sao đây?”, Lý Diên Tông tâm cơ linh diệu, chợt nghĩ ra một cách. Y bất ngờ xoay tay lại phóng chưởng vào chiếc guồng quay nước, vỡ ra một mảng gỗ lớn, nhặt lấy rồi liệng vào chân Đoàn Dự. Đoàn Dự bước chân như quỷ mị, miếng gỗ kia làm sao trúng nổi, thế nhưng Lý Diên Tông tay đấm chân đá, bao nhiêu đồ đạc trong nhà, luôn cả thúng mủng giỏ tre đều vỡ nát, liên tiếp ném vào chân đối phương.

Trong trạm cối xay vốn dĩ đã la liệt mười mấy xác chết, lại thêm bao nhiêu đồ đạc vỡ vụn, Đoàn Dự không còn chỗ đặt chân. Lăng Ba Vi Bộ của chàng tới lui phiêu dật chẳng khác gì gió lướt trên mặt hồ hoàn toàn không có gì ngăn trở, bây giờ mỗi bước đi đều vướng víu, nếu không vấp trúng đồ đạc thì cũng dẫm phải thân người, làm sao còn thi triển yếu quyết “nhàn nhã tiêu sái, đạp gió mà đi” được nữa? Chàng biết mình chỉ chậm chân một chút là bỏ mạng ngay nên không nhìn xuống đất, cứ theo phương vị bộ pháp đã thuần thục mà đi. Dù có bước cao bước thấp hay dưới chân có tiếng động lạ tai, chàng cứ mặc kệ không biết đến.

Vương Ngữ Yên thấy tình hình không ổn vội kêu lên: “Đoàn công tử! Công tử mau mau đi ra ngoài cửa, chạy trốn đi thôi! Công tử ở đây một lát nữa, e rằng khó bảo toàn tính mạng.” Đoàn Dự kêu lên: “Trừ phi Đoàn mỗ bị người giết thì thôi, chứ còn một hơi thở cũng nhất quyết bảo vệ cô nương đến cùng.” Lý Diên Tông cười nhạt nói: “Nhà ngươi võ công tuy chẳng ra gì nhưng được cái đa tình, đối với Vương cô nương quả là tình nghĩa thâm sâu, yêu đương nồng thắm.” Đoàn Dự lắc đầu, nói: “Sai bét, sai bét! Vương cô nương là một bậc thần tiên, Đoàn mỗ chỉ là phàm phu tục tử, sao dám nói đến chuyện ái tình. Nàng coi trọng ta mới nhờ đưa đi kiếm biểu ca, ta quyết lòng báo đáp để đền ơn tri ngộ.” Lý Diên Tông nói: “Ái chà! Nàng đi theo ngươi chẳng qua là để kiếm Mộ Dung công tử, chứ trong lòng nàng có coi ngươi ra gì đâu? Nhà ngươi ngốc nghếch, mơ tưởng hão huyền chẳng khác gì con cóc muốn ăn thịt ngỗng trời. Ha ha! Ha ha! Thật là buồn cười đến nẻ ruột.”

Đoàn Dự tuyệt nhiên không nổi giận, thủng thỉnh trả lời: “Ngươi bảo ta là con cóc còn Vương cô nương là thiên nga, so sánh như thế là đúng lắm. Có điều ta không phải như những con cóc tầm thường, chỉ mong được thiên nga nhìn thấy một đôi lần đã lấy làm mãn nguyện, không mong gì hơn nữa.”

Lý Diên Tông nghe chàng tự cho mình là con cóc không phải tầm thường, thật không sao nhịn nổi phải cười phá lên. Cũng lạ là y cười to như thế nhưng bộ mặt vẫn trơ trơ không cử động chút nào. Đoàn Dự đã từng thấy thái tử Diên Khánh nói không mấp máy môi, Lý Diên Tông tuy mặt mày quái đản nhưng cũng không đáng ngạc nhiên lắm, bèn nói: “Nếu nói về mặt mày trơ như gỗ đá thì người còn kém thái tử Diên Khánh xa lắm, chưa đáng làm đồ đệ ông ta.” Lý Diên Tông hỏi: “Thái tử Diên Khánh là ai vậy?” Đoàn Dự đáp: “Y là một cao thủ nước Đại Lý, võ công ngươi còn kém xa.” Thực ra võ công người khác cao thấp thế nào chàng có hiểu gì đâu, nhưng nghĩ mình sắp chết dưới tay y, nói mấy câu bâng quơ chọc giận đối phương cũng chẳng hại gì.

Lý Diên Tông hừ một tiếng rồi nói: “Võ công ta cao thấp thế nào, tên bị thịt như ngươi biết gì mà nói?” Y vừa nói vừa vũ lộng đơn đao, càng lúc càng nhanh.

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự thân nghiêng mình ngả, chân thấp chân cao, tình thế cực kỳ nguy ngập bèn kêu lên: “Đoàn công tử! Công tử mau ra ngoài cửa cho trống trải. Muốn cầm chân gã thì ở ngoài hay trong nhà cũng vậy thôi.” Đoàn Dự đáp: “Cô nương chưa cử động được, một mình ở lại trong nhà tại hạ chẳng yên lòng chút nào. Trong nhà nhiều xác chết thế, nữ nhi tất nhiên phải hoảng sợ. Tại hạ cần ở lại đây cho cô nương vững dạ.” Vương Ngữ Yên thở dài, nghĩ thầm: “Anh chàng này thật là si ngốc, lo cả đến việc ta sợ xác chết, còn chính mình sắp mất mạng thì lại không đếm xỉa đến”.

Khi đó Đoàn Dự bước tới đâu vấp tới đó, mấy lần bị đạo của kẻ địch chém vụt qua đỉnh đầu đứt cả tóc. Chàng sợ đến run lẩy bẩy, không ngớt xoay chuyển ý nghĩ: “Gã mà chém trúng mình một đao hớt mất nửa đầu thì thật là hỏng bét. Đại trượng phu phải biết khi tiến khi thoái, hay là ta chịu quì xuống dập đầu để xin tha mạng quách.” Song tuy lòng nghĩ vậy mà miệng không nói ra được.

Lý Diên Tông cười nhạt, nói: “Ta xem chừng ngươi sợ lắm rồi, đang định tính bài chuồn chứ gì?” Đoàn Dự đáp: “Chết là việc lớn, có ai mà không sợ. Sau khi chết rồi thì mọi việc đều xong hết. Chuồn thì ta cũng muốn chuồn, nhưng lại không thể chuồn được.” Lý Diên Tông nói: “Sao thế?” Đoàn Dự nói: “Nói lắm cũng vô ích. Ta đếm từ một tới mười, nếu như ngươi giết ta không kịp thì đừng có chèo kéo ta thêm nữa. Ngươi đánh mãi không thắng, có nghĩ đến Vương cô nương đứng xem chán chết đi được hay không?”

Chàng không cần biết Lý Diên Tông có ưng thuận hay không, cất tiếng đếm luôn: “Một, hai, ba…” Lý Diên Tông hỏi: “Ngươi giở trò gì mà ngốc thế?” Đoàn Dự vẫn đếm tiếp: “Bốn, năm, sáu…” Lý Diên Tông cười nói: “Thiên hạ sao lại có đứa vô vị như ngươi, làm nhục cả cái tiếng con nhà võ.” Gã chém luôn ba đao hai bên tả hữu. Đoàn Dự lại bước lẹ hơn, miệng đếm càng lẹ hơn nữa: “Bảy, tám, chín, mười, mười một, mười hai, mười ba… Ha ha, ta đếm tới mười ba rồi mà người vẫn chưa giết được ta, sao không chịu nhận thua đi. Ta xem bụng ngươi cũng đói rồi, mồm khô lưỡi đắng, thôi vào thành Vô Tích đến Tùng Hạc Lâu uống vài chén, ăn dăm món sơn hào hải vị, có phải sảng khoái hơn không?” Chàng thấy đối phương chưa chịu ngừng tay nên định dụ y đi uống rượu thi.

Lý Diên Tông nghĩ thầm: “Ta bình sinh gặp không biết bao nhiêu đại địch, thật chưa có người nào giống như gã này. Y khôn chẳng ra khôn, dại chẳng ra dại, võ công giỏi thì không giỏi mà kém cũng không kém, quả thực trên đời ít gặp. Ta đánh mãi mà không kết liễu được, chỉ sợ trúng phải tà thuật là mất mạng nơi đây cũng chưa biết chừng. Chi bằng ta phải lập kế hạ thủ trước.” Y biết Đoàn Dự cực kỳ quan tâm đến Vương Ngữ Yên, đột nhiên ngửng đầu nhìn lên trên gác, lớn tiếng hô: “Hay lắm! Hay lắm! Các ngươi mau mau chém chết con bé đó đi, rồi xuống đây giúp ta.”

Đoàn Dự cả kinh, lại tưởng có địch nhân trên các gia hại Vương Ngữ Yên, vội ngửng đầu lên nhìn, bước chân chậm đi một chút. Lý Diên Tông đưa chân đá quét ngang, chàng liền ngã lăn ra đất. Chân trái y liền đạp lên ngực, lưỡi đao kề ngay vào cổ chàng. Đoàn Dự vung tay toan điểm ra, Lý Diên Tông chân hơi nhấn mạnh xuống, lưỡi đao đưa sát vào thêm mấy phân nữa, quát lên: “Ngươi hơi nhúc nhích là ta cắt đứt đầu ngay!”

Lúc này Đoàn Dự đã thấy trên gác không có người nào nên cũng an tâm, cười nói: “Thế ra ngươi lừa ta. Vương cô nương có gặp nguy hiểm gì đâu?” Chàng lại thở dài nói: “Đáng tiếc ơi là đáng tiếc!” Lý Diên Tông hỏi lại: “Tiếc cái gì?” Đoàn Dự đáp: “Võ công người giỏi thật, ta tưởng ngươi cũng là một vị anh hùng hảo hán thì có chết vào tay ngươi cũng đáng. Dè đâu võ công ngươi không thắng nổi ta, phải giở trò man tá, học thói tiểu nhân hèn hạ. Đoàn mỗ này chết thật oan uổng.” Lý Diên Tông nói: “Ta xưa nay chẳng để ai nói khích bao giờ. Ngươi chết oan, trong lòng bất phục thì xuống Diêm Vương mà kiện.”

Vương Ngữ Yên kêu lên: “Lý tướng quân! Khoan đã.” Lý Diên Tông hỏi: “Gì nữa đây?” Vương Ngữ Yên nói: “Nếu ngươi giết Đoàn công tử, trừ phi giết luôn cả ta thì không nói, nếu không thì có ngày ta giết ngươi để báo thù cho chàng.” Lý Diên Tông ngạc nhiên hỏi: “Phải chăng ngươi sẽ nhờ biểu ca đi giết ta?” Vương Ngữ Yên đáp: “Võ công biểu ca ta chưa chắc đã hơn ngươi, nhưng ta đã có cách giết ngươi rồi!” Lý Diên Tông cười nhạt, hỏi: “Sao ngươi nói chắc thế?” Vương Ngữ Yên đáp: “Về võ học, ngươi tuy biết rộng thật nhưng cũng chưa bằng nửa ta. Lúc đầu ta thấy đao pháp ngươi phức tạp quả có lấy làm kinh dị, nhưng coi độ năm chục chiêu đã hiểu, nếu gọi là con lừa chỉ biết đá hậu thì có hơi ác khẩu, nhưng nói nghiêm chỉnh thì hiểu biết của ngươi còn kém xa ta.”

Lý Diên Tông nói: “Từ đầu tới cuối, đao pháp của ta chưa sử hai chiêu nào cùng một môn phái. Ta còn vô số võ công chưa hiển lộ, làm sao ngươi biết?” Vương Ngữ Yên đáp: “Vừa rồi ngươi sử chiếu Đại Mạc Phi Sa của phái Ngọc Thụ ở Thanh Hải, Đoàn công tử rảo bước tránh qua. Nếu ngươi xuất chiêu thứ mười bảy của Vũ Y Đao phái Thái Ất, rồi tiếp theo là Thanh Phong Từ Lai của phái Linh Phi thì đã đánh ngã được Đoàn công tử rồi, việc gì phải biểu diễn Hác gia đao pháp của đất Sơn Tây cho đẹp mắt, việc gì phải gian trá đánh lừa để cho Đoàn công tử phân tâm? Ta xem ra ngươi tuyệt không biết gì về danh môn đao pháp của Đạo gia.” Lý Diên Tông buột miệng hỏi lại: “Danh môn đao pháp của Đạo gia ư?” Vương Ngữ Yên đáp: “Đúng thết chắc ngươi vẫn tưởng Đạo gia chỉ tinh thông kiếm pháp, có biết đâu đao pháp của Đạo gia trong cương có nhu, là một công phu đáng kể.” Lý Diên Tông cười khẩy: “Ngươi tự phụ quá. Xem ra ngươi đã nặng tình với gã họ Đoàn này lắm nhỉ?”

Vương Ngữ Yên hơi đỏ mặt đáp: “Sao lại bảo là nặng tình? Ta đối với chàng chả có tình ý gì hết. Có điều chàng vì ta mà uổng mạng, đương nhiên ta phải quyết tâm báo thù.” Lý Diên Tông hỏi lại: “Ngươi nói vậy sau này không hối hận chứ?” Vương Ngữ Yên đáp: “Dĩ nhiên là không hối hận.” Lý Diên Tông cười nhạt, móc trong bọc ra một chiếc lọ sứ, vứt lên người Đoàn Dự. Y tra đao vào vỏ soạt một tiếng, thân hình lạng đi một cái đã ra tới ngoài cửa. Tiếp theo là tiếng ngựa hí rồi có tiếng vó ngựa cồm cộp, mỗi lúc một xa.

Đoàn Dự đứng lên, đưa tay sờ vào vết đao trên cổ cảm thấy hơi đau mới dám chắc mình không mơ ngủ. Vương Ngữ Yên cũng không sao ngờ được hành vi đột ngột của tay cao thủ Tây Hạ. Hai người kẻ ở trên gác, người dưới chân thang ngơ ngẩn nhìn nhau, vừa sung sướng lại vừa kinh ngạc.

Hồi lâu Đoàn Dự mới nói: “Gã bỏ đi rồi!” Vương Ngữ Yên cũng nói: “Gã bỏ đi rồi!” Đoàn Dự cười: “Hay quá! Hay quá! Gã vẫn chưa giết tại hạ. Vương cô nương, chắc kiến thức võ học cô nương còn hơn gã nhiều lắm, gã bở vỉa bỏ chạy rồi.” Vương Ngữ Yên đáp: “Cái đó chưa chắc! Gã giết công tử rồi chém nhát nữa giết luôn ta, có phải đơn giản hơn không?” Đoàn Dự gãi đầu: “Cô nương nói thế cũng đúng. Sở dĩ… sở dĩ gã không dám hạ thủ vì cô nương mỹ lệ như thần tiên xuống trần, gã đời nào dám giết.”

Vương Ngữ Yên hai má đỏ ửng, nghĩ thầm: “Chỉ có đồ gàn như ngươi mới bảo ta là thần tiên, còn thứ võ biền Tây Hạ lòng lang dạ thú như y thì có vì nể gì ta.” Nghĩ vậy nhưng nàng không tiện nói ra. Đoàn Dự thấy nàng bẽn lẽn càng thêm kiều diễm, cũng nức lòng hả dạ, nói: “Tại hạ đã định liều mạng, chỉ mong cô nương được an toàn. Không ngờ cô nương vẫn yên lành mà cái mạng này cũng còn sống sót, thật là may mắn vô kể.”

Đoàn Dự tiến lên một bước, một vật rớt xuống nghe keng một tiếng, chính là cái bình mà Lý Diên Tông ném vào người chàng vừa rồi. Đoàn Dự cúi xuống nhặt bình lên coi, thấy có viết tám chữ: “Bi Tô Thanh Phong, ngửi vào là khỏi”. Chàng cả mừng, nói: “Té ra là thuốc giải độc.” Đoàn Dự mở nắp bình ra, một làn hơi xú uế cực kỳ khó ngửi xông ngay vào mũi. Chàng choáng váng, vội đậy nắp bình lại kêu lên: “Láo toét, láo toét! Thối ơi là thối, thật chẳng khác gì tiệm bán cá khô.”

Vương Ngữ Yên nói: “Công tử cứ đem lên đây ta ngửi thử. Không chừng phải dĩ độc trị độc mới có hiệu nghiệm.” Đoàn Dự đáp: “Vâng!” Chàng liền cầm cái bình lên chỗ Vương Ngữ Yên rồi nói: “Cái này khó ngửi lắm! Cô nương hãy thử một chút xem sao đã!” Vương Ngữ Yên gật đầu, Đoàn Dự cầm bình thuốc, nhưng chưa mở nắp vội.

Chàng ngừng một lát, trong đầu óc nảy ra vô số ý nghĩ: “Nếu như bình thuốc này quả là hiệu nghiệm, giải được chất độc trong người nàng thì nàng đâu cần ta giúp đỡ nữa. Tài nghệ nàng gấp trăm lần ta, còn để ta bên mình làm gì? Dù nàng không cự tuyệt mà cho ta theo, lúc gặp ý trung nhân Mộ Dung Phục rồi, chẳng lẽ mình giương mắt lên nhìn hai người quấn quít với nhau, nghe lỏm hai người thủ thỉ yêu đương? Đoàn Dự này liệu có bình tĩnh thản nhiên được chăng, hay lại mặt mày cau có, buông lời gắt gỏng?”

Vương Ngữ Yên thấy chàng ngẩn ngơ không nói gì, liền nhoẻn miệng cười, cất tiếng hỏi: “Công tử nghĩ gì thế? Cứ đưa cho ta ngửi, ta không sợ thối đâu.” Đoàn Dự vội đáp: “Vâng! Vâng!” Rồi mở nắp bình, đưa đến bên mũi nàng. Vương Ngữ Yên hít một hơi thật mạnh, kinh hoảng kêu lên: “Ôi chao! Quả là khó ngửi thật.” Đoàn Dự nói: “Có đúng thế không? Tại hạ đã bảo cô nương chẳng nên ngửi.” Chàng đang định cất chiếc bình đi, Vương Ngữ Yên bỗng nói: “Để ta ngửi thêm lần nữa xem sao.” Đoàn Dự lại cầm bình thuốc đặt trước mũi nàng, cũng không hiểu mình mong thuốc giải này linh nghiệm hay không linh nghiệm.

Vương Ngữ Yên cau mày đưa tay bịt mũi nói: “Thà tay chân không cử động được, còn hơn ngửi cái thứ thối đến… A! Tay… tay ta cử động được rồi!” Thì ra nàng bất giác đưa được tay lên bịt mũi, mới lúc nãy chỉ hơi cất tay kéo hai vạt áo khép lại cũng rất khó nhọc. Nàng mừng rỡ, đón lấy chiếc bình trong tay Đoàn Dự hít lấy hít để, biết rằng mùi hôi này cực kỳ hiệu nghiệm nên không sợ nữa. Ngữ Yên hít thêm vài hơi thì những chỗ bạc nhược vô lực trong thân thể dần dần trở lại bình thường. Nàng bảo Đoàn Dự: “Công tử xuống dưới nhà một chút cho ta thay áo!” .

Đoàn Dự đáp: “Vâng! Vâng!” Chàng hấp tấp xuống thang, nhìn thấy xác chết ngổn ngang, ngoại trừ đôi trai gái nhà quê còn bao nhiêu đều do mình hạ thủ, trong lòng áy náy vô cùng. Chàng lại thấy một tên võ sĩ Tây Hạ mắt vẫn mở trừng trừng, thật là chết không nhắm mắt. Đoàn Dự xá dài một cái, nói: “Ta không giết lão huynh thì lão huynh cũng giết ta, cái xác nằm đây không phải là lão huynh thì phải là Đoàn Dự. Tại hạ thật cực chẳng đã mới phải ra tay nhưng trong lòng quả là đau xót, sau này về đến Đại Lý nhất định sẽ mời cao tăng tụng kinh siêu độ cho các vị nhân huynh.” Chàng nhìn xác đôi thanh niên nam nữ, lại quay sang nhìn xác những võ sĩ Tây Hạ mà nói: “Người các ngươi muốn giết là ta, còn người các ngươi muốn bắt là Vương cô nương, sao lại giết hai người vô tội này?”

Vương Ngữ Yên thay áo xong rồi, cầm chiếc áo ướt đi xuống thang, chân tay vẫn còn uể oải. Nàng thấy Đoàn Dự đứng nhìn những xác người nói lảm nhảm thì bật cười, hỏi: “Công tử nói gì vậy?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ giết nhiều người quá, trong lòng ái ngại.”

Vương Ngữ Yên trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Đoàn công tử! Vì lẽ gì gã võ sĩ Tây Hạ họ Lý kia lại cho ta thuốc giải nhỉ?” Đoàn Dự ấp úng: “Cái đó.. cái đó… tại hạ không được rõ… à… mà phải rồi! Gã… gã…” Chàng nói mấy tiếng “gã” rồi bỏ lửng, không dám nói tiếp: “Gã ái mộ nàng rồi.” Chàng nghĩ bụng: “Một tên võ sĩ Tây Hạ dã man, thô lỗ như thế mà lại bảo là ái mộ nàng thì quả là đường đột. Nàng mỹ lệ tuyệt trần, tâm lý ngưỡng mộ người đẹp ai mà chẳng có, thế nhưng nếu như ai ai cũng đều say mê nàng cả thì tấm lòng của Đoàn Dự này có gì là lạ? Đoàn mỗ cũng cá mè một lứa với tất cả nam nhi trong thiên hạ hay sao? Hỡi ôi! Cam tâm vì nàng mà chết còn chẳng đến đâu, mình chưa chết vì nàng thì còn ăn thua gì”. Đoàn Dự nghĩ đến đây bèn nói: “Tại hạ… tại hạ cũng không biết nữa.”

Vương Ngữ Yên nói: “Không chừng lát nữa lại có võ sĩ Tây Hạ đến, chúng mình nên tức tốc ra đi là hơn. Công tử định đi đâu bây giờ?” Bản tâm nàng chỉ muốn đi tìm biểu ca, nhưng ngượng miệng không nói ra. Đoàn Dự dĩ nhiên hiểu rõ, bèn hỏi lại: “Thế cô nương muốn đi đâu?” Chàng mở miệng hỏi mà chua xót trong lòng, chỉ đợi nàng trả lời: “Ta muốn đi tìm hiểu ca.” là sẽ mặt dày mày dạn nói: “Để tại hạ đưa cô nương đi”.

Ngữ Yên tay mân mê cái bình thuốc, mặt đỏ bừng, nói: “Cái đó… cái đó…” Nàng ấp úng rồi nói tiếp: “Các vị anh hùng hảo hán của Cái Bang đều trúng phải Bi Tô Thanh Phong, nếu biểu ca ta có ở đó thể nào cũng tìm giải dược cho họ ngửi. Huống chi hai cô A Châu, A Bích e rằng cũng rơi vào tay địch…” Đoàn Dự nhảy nhổm lên kêu lớn: “Phải rồi! A Châu, A Bích hai vị cô nương gặp nạn, chúng ta phải tức tốc nghĩ cách cứu họ ra ngay!”

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Việc này quả là nguy hiểm, chỉ bằng tài nghệ của ta và anh đồ gàn này làm sao cứu người trong tay bọn võ sĩ Tây Hạ được? Thế nhưng A Châu, A Bích là hai thị tì tâm phúc của biểu ca, ta biết họ rơi vào tay địch lẽ nào lại không đi cứu? Thôi thì tới đâu hay đó vậy.” Nàng bèn nói: “Phải rồi! Chúng ta đi thôi!”.

Đoàn Dự chỉ các xác chết ngổn ngang trên mặt đất, nói: “Mình nên đem bọn họ an táng cho tử tế, rồi tra xét tên họ từng người, dựng bia mộ để ngày sau thân nhân họ tìm đến lấy hài cốt đem về quê quán, kẻ chết rồi có nơi nương tựa.” Vương Ngữ Yên cười khúc khích nói: “Tốt lắm! Công tử ở lại đây lo việc ma chay cho họ. Tẩm liệm, báo tang, đọc điếu văn, viết câu đối, tụng kinh, cúng tuần cho đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày, sau đó đi thông báo cho gia đình thân thuộc đến cải táng. Ta sẽ quay lại tìm công tử sau.”

Đoàn Dự nghe giọng nàng ra vẻ trào phúng, chính mình nghĩ lại thấy cũng không xong, bèn gượng cười nói: “Theo ý cô nương thì nên làm thế nào?” Vương Ngữ Yên đáp: “Cho một mồi lửa, biến tất cả thành tro có phải hay hơn không?” Đoàn Dự nói: “Ôi chao, như thế liệu có giản dị quá chăng?” Chàng trầm ngâm một lát, nhận thấy không còn cách nào hơn, đành châm lửa đốt vào đống rơm trong trại cối xay. Hai người đi ra ngoài, chẳng mấy chốc đã thấy lửa bùng lên.

Đoàn Dự cung kính quì xuống khấn: “Xác thân vô thường chỉ là tạm bợ. Các vị nhân huynh hôm nay chết dưới tay tại hạ, âu cũng là nghiệp báo. Tại hạ cầu cho linh hồn các vị về nơi cực lạc, vĩnh viễn thoát kiếp luân hồi. Xin đừng oán trách.” Chàng lầm rầm khấn khứa một hồi nữa mới chịu đứng lên.

Bên ngoài trại cối xay có mươi con ngựa buộc dưới gốc cây, chính là của bọn võ sĩ Tây Hạ cưỡi đến, Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên mỗi người cưỡi một con theo đại lộ mà chạy. Hai người đi đã khá xa mới văng vẳng nghe tiếng thanh la beng beng, thôn dân vùng lân cận chạy đến chữa lửa.

Đoàn Dự nói: “Một nhà trại cối xay to lớn, vì tại hạ mà phút chốc thành đống tro tàn, thật áy náy vô cùng!” Vương Ngữ Yên đáp: “Sao công tử mềm yếu vậy? Mẫu thân ta tuy là hạng nữ lưu nhưng tính tình sảng khoái, hành động mau lẹ, nói làm là làm. Công tử là nam tử hán đại trượng phu mà cái gì cũng dùng dằng đủ thứ qui củ,” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mẫu thân nàng động một tí là giết người, lấy thịt bón hoa, so sánh với ta làm sao được?”. Chàng bèn nói: “Đây là lần đầu tiên tại hạ giết nhiều người như thế, lại nổi lửa đốt nhà, không khỏi bồn chồn hoảng hốt.” Vương Ngữ Yên gật đầu: “Ừ! Công tử nói phải đó! Dần dà quen đi sẽ không còn thấy ghê tay nữa.” Đoàn Dự giật mình, xua tay liên tiếp nói: “Không được! Không được! Một lần đã là quá, đâu dám tái phạm. Việc giết người đốt nhà không thể nào làm lần thứ hai được.”

Vương Ngữ Yên đang cưỡi ngựa đi song song với Đoàn Dự, quay đầu qua nhìn chàng hỏi: “Trên chốn giang hồ, sát nhân phóng hỏa là việc thường ngày. Đoàn công tử định rửa tay gác kiếm, không len lỏi vào chốn giang hồ nữa chăng?” Đoàn Dự đáp: “Bá phụ và gia gia bắt học võ công, tại hạ nhất quyết không học. Chẳng ngờ lúc sự việc đáo đầu, rồi cũng bắt buộc phải theo. Ôi! Thật chẳng biết làm sao cho phải.” Vương Ngữ Yên tủm tỉm cười, hỏi: “Phải chăng chí hướng của công tử là đọc sách đề ra làm quan học sĩ hay tể tướng?” Đoàn Dự đáp: “Không phải thế đâu! Làm quan cũng chẳng thú vị gì.” Ngữ Yên lại hỏi: “Thế thì công tử muốn làm gì? Chẳng lẽ cũng giống như biểu ca của ta, lúc nào cũng hoài bão chí lớn, mơ làm hoàng đế?” Đoàn Dự lấy làm kỳ, hỏi lại: “Mộ Dung công tử muốn làm hoàng đế ư?”

Vương Ngữ Yên đỏ mặt lên, nàng biết mình lỡ lời thổ lộ tâm sự bí mật của biểu ca. Từ khi trải qua nguy hiểm nơi trại cối xay, hai người cùng chung hoạn nạn đã thành đôi bạn. Nàng hiểu tính tình chàng bình dị dễ gần, trước mặt chàng nói chuyện gì cũng được, thế nhưng đại chí của Mộ Dung Phục nhất tâm khôi phục nước Yên cũng không nên bạ đâu nói đó. Nàng bèn dặn Đoàn Dự: “Đó là ta buột miệng nói ra, công tử đừng nói với một người thứ hai nào. Nhất là trước mặt biểu ca thì lại càng phải tránh đề cập đến, nếu không biểu ca sẽ giận ta đến chết được.”

Trong lòng Đoàn Dự lại một phen chua xót, nghĩ thầm: “Việc gì phải hốt hoảng thế, cứ mặc kệ biểu ca nàng trách cứ thì đã sao nào?”. Nghĩ vậy nhưng miệng chàng vẫn đáp: “Được rồi! Biểu ca cô nương làm hoàng đế cũng vậy mà làm ăn mày cũng thế, tại hạ chẳng để ý đến làm gì.” Ngữ Yên lại đỏ mặt lên, nghe giọng chàng có vẻ không bằng lòng liền nhỏ nhẹ nói: “Đoàn công tử! Công tử giận ta đấy ư?”

Đoàn Dự từ khi biết nàng tới giờ, thấy trong lòng nàng chỉ nghĩ đến biểu ca, miệng nói ra lúc nào cũng nhắc đến Mộ Dung công tử. Bây giờ mới là câu đầu tiên nàng nói với mình bằng giọng ôn nhu, bất giác chàng sung sướng quá, suýt rơi từ yên ngựa xuống đất. Chàng ngồi lại cho vững, rồi cười nói: “Không đâu! Không đâu! Đời nào tại hạ dám giận. Vương cô nương, suốt đời suốt kiếp, tại hạ vĩnh viễn không bao giờ giận cô nương.”

Bao nhiêu tình ý của Vương Ngữ Yên đều dành hết cho biểu ca. Tuy Đoàn Dự liều mạng cứu nàng, nàng cũng chỉ cảm kích ân đức, bội phục tấm lòng nghĩa hiệp của chàng. Lúc này nghe Đoàn Dự nói chuyện suốt đời suốt kiếp, tuy thật là thành khẩn nhưng cũng tựa hồ như thề thốt nặng nề, nàng mới tỉnh ngộ ra mà tự hỏi: “Chàng… chàng… định giãi bày tình ý với mình hay chăng?”. Nàng thẹn thùng đỏ mặt, chậm rãi cúi đầu xuống, nhỏ nhẹ nói: “Công tử không giận, thế thì hay lắm!”

Đoàn Dự trong lòng sung sướng, không biết nói sao, một hồi sau mới nói nhỏ: “Tại hạ thật chẳng mong ước gì hơn, chỉ mong vĩnh viễn được như lúc này là thỏa mãn lắm rồi.” Chàng nói đến “vĩnh viễn được như lúc này” có nghĩa là cùng nàng sánh vai cưỡi ngựa chạy song song. Vương Ngữ Yên không muốn chàng đề cập đến chuyện này nữa, nghiêm nét mặt nói: “Đoàn công tử! Đại đức công tử cứu mạng hôm nay, Ngữ Yên này không bao giờ dám quên. Thế nhưng trái tim ta… trái tim ta đã sớm thuộc về người khác rồi. Chỉ mong công tử nói năng giữ ý để sau này còn có thể gặp nhau.”

Mấy câu nói đó thật chẳng khác gì mấy cây cương trượng bổ vào ngực Đoàn Dự, khiến chàng mắt nổ đom đóm, cơ hồ ngất xỉu đến nơi. Lời nàng quả thật rõ ràng: “Trái tim ta đã thuộc về Mộ Dung công tử rồi, từ nay trở đi huynh đừng đả động gì đến chuyện yêu đương nữa, nếu không ta sẽ không gặp huynh nữa đâu. Huynh đừng tưởng có ơn với ta là có thể tư tưởng hão huyền”. Không có những câu này thì Đoàn Dự cũng đã biết tâm sự nàng rồi. Thế nhưng nay chính miệng nàng nói ra, chàng quả thật đau lòng không sao kể xiết. Chàng đưa mắt nhìn trộm Vương Ngữ Yên, thấy nàng đầy vẻ trang nghiêm, không khác pho tượng ngọc trong thạch động ở Đại Lý chút nào. Bất giác chàng cảm thấy mình sắp gặp đại họa đến nơi, lẩm bẩm: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, trái tim cô nương này đã thuộc về người khác, người đã lỡ gặp nàng thì kiếp này sẽ phải chịu biết bao cực hình, đau đớn không thể nói xiết được!”

Hai người lặng lẽ cưỡi ngựa sóng nhau mà đi, không ai nói thêm câu nào nữa.

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Chắc là chàng bực bội lắm rồi, ta cứ giả vờ như không biết là hơn. Nếu lần này mình xin lỗi, sau này chàng thể nào cũng lại mở lời ong bướm, lỡ mà vào tai biểu ca thì không tốt chút nào.” Còn Đoàn Dự thì bụng bảo dạ: “Nếu ta còn nói một câu nào thổ lộ tâm tình thì quả là khinh bạc vô lại, bất kính với nàng. Từ đây trở đi Đoàn Dự này dù chết thì thôi, quyết không buông lời sàm sỡ nữa”. Vương Ngữ Yên lại nghĩ bụng: “Chàng chẳng nói câu nào, cứ phóng ngựa mà chạy, chắc là đã biết đường đi cứu A Châu, A Bích rỗi”. Đoàn Dự cũng nghĩ như thế: “Nàng chẳng nói câu nào, cứ phòng ngựa mà chạy, chắc là đã biết đường đi cứu A Châu, A Bích rồi”.

Hai người tiếp tục đi chừng nửa giờ, đến một ngã ba thì không hẹn mà cùng dừng lại, quay ra hỏi nhau: “Đi qua trái hay qua phải?” Rồi đưa mắt nhìn nhau, lại cùng hỏi tiếp: “Chết rồi! Thế ra chưa biết đường ư?” Câu hỏi vừa ra khỏi miệng, cả hai cùng thấy thú vị bật cười, không khí nặng nề tự nhiên biến mất.

Thế nhưng cả hai đều chưa từng trải giang hồ, bàn tán một hồi cũng không biết phải đi hướng nào để cứu người. Mãi sau Đoàn Dự mới nói: “Bọn Tây Hạ bắt được vô số bang chúng Cái Bang. Bất luận là chúng đem giết đi hay giam giữ thì cũng còn dấu vết để lại. Chúng ta quay về khu rừng hạnh xem xét rồi tính sau.” Vương Ngữ Yên hỏi: “Trở về rừng hạnh ư? Nếu bọn võ sĩ Tây Hạ còn ở đó thì có khác gì mình chui đầu vào rọ?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ nghĩ vừa rồi có trận mưa to, chắc là bọn chúng đi hết rồi. Bây giờ thế này vậy, cô nương ở bên ngoài đời, tại hạ lẻn vào rừng xem trước, nếu địch nhân còn ở đó thì chúng ta lập tức bỏ chạy ngay.” Hai người quyết định để Đoàn Dự thi triển Lăng Ba Vi Bộ chạy tới chỗ A Châu A Bích, đưa bình thuốc hôi thối cho hai cô ngửi, giải độc xong rồi mới tìm cách cứu ra.

Đoàn Dự cùng Ngữ Yên vừa nói vừa giục ngựa đi mau, chẳng mấy chốc đã đến bìa rừng. Hai người xuống ngựa, buộc vào một cây hạnh, Đoàn Dự cầm chiếc bình rón rén đi vào. Trong rừng hạnh bùn lầy nhơ nhớp, trên ngọn có hãy còn sũng nước mưa. Đoàn Dự đưa mắt nhìn quanh, không thấy một bóng người, bèn kêu lên: “Vương cô nương, ở đây không có ai cả.” Vương Ngữ Yên cũng chạy vào rừng, nói: “Quả nhiên bọn chúng đi hết rồi, chúng ta về thành Vô Tích thám thính xem sao.” Đoàn Dự đáp: “Phải lắm!” Chàng nghĩ đến chuyện sánh vai Ngữ Yên cưỡi ngựa đi thêm một quãng nữa, trong lòng hoan hỉ, miệng cười rạng rỡ.

Ngữ Yên lấy làm lạ, hỏi: “Ta nói sai chỗ nào chăng?” Đoàn Dự vội đáp: “Đâu có! Chúng ta lại về thành Vô Tích là phải.” Vương Ngữ Yên nói: “Thế sao công tử cứ cười hoài?” Đoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, quay đi phía khác tủm tỉm cười, đáp: “Tại hạ thỉnh thoảng hay cười vô cớ, cô nương đừng để ý làm gì.” Vương Ngữ Yên nghe thế cũng buồn cười, khúc khích bật lên mấy tiếng. Đoàn Dự cũng không nhịn được nữa, phá lên cười ha hả.

Hồi 18: Một ngày ba nỗi đại oan, anh hùng Khất Đan rơi lệ

Hai người cưỡi ngựa nhắm hướng Vô Tích mà đi được vài dặm, bỗng thấy bên vệ đường có một cây tùng treo xác người lủng lẳng, nhìn y phục thì ra một tên võ sĩ Tây Hạ. Đi thêm mấy trượng nữa, lại thấy bên sườn đồi hai võ sĩ Tây Hạ nằm lăn lóc, máu trên vết thương còn chưa khô, xem ra chết cũng chưa lâu. Đoàn Dự hỏi: “Bọn Tây Hạ đúng là đã gặp phải kình địch. Vương cô nương, cô nương thử nghĩ xem ai đã giết họ?” Vương Ngữ Yên đáp: “Người này võ công tuyệt cao, chỉ giơ tay một cái là giết được người không tốn hơi sức gì, quả thật ghê gớm. Ồ, đằng kia có ai tới kìa?”

Trên đường lớn có hai người cưỡi ngựa song song chạy đến, một người áo đỏ, một người áo xanh, chính là hai cô A Châu, A Bích. Đoàn Dự mừng quá kêu to:“A Châu cô nương, A Bích cô nương, các cô thoát hiểm rồi ư? Hay lắm! Hay lắm!”.

Bốn người liền cùng giục ngựa chạy đi, ai nấy vui mừng khôn xiết. A Châu nói: “Vương cô nương, Đoàn công tử, hai vị quay trở lại làm gì? Hai đứa tiểu nữ đang định đi tìm hai vị đây.” Đoàn Dự đáp: “Chúng ta cũng đang định đi tìm hai cô đây.” Chàng vừa nói vừa liếc Vương Ngữ Yên xem nàng có chịu gộp chung thành “chúng ta” không, nếu chịu thì quả thật là sung sướng. Vương Ngữ Yên chỉ hỏi: “Các ngươi làm sao mà thoát được? Đã ngửi cái bình thuốc hôi thối chưa?” A Châu cười, đáp: “Trời ơi! Khó ngửi muốn chết được, chắc cô nương cũng phải ngửi rồi. Cô nương cũng được Kiều bang chủ giải cứu ư?” Vương Ngữ Yên đáp: “Không phải, Đoàn công tử cứu ta đó. Các ngươi được Kiều bang chủ cứu hay sao?”

Đoàn Dự nghe chính miệng nàng nói “Đoàn công tử cứu ta đó” sung sướng như bay bổng tận mây xanh, đầu óc choáng váng suýt rơi khỏi lưng ngựa.

A Châu trả lời: “Đúng thế. Tiểu nữ và A Bích trúng độc không nhúc nhích được, bị bọn Tây Hạ trói lại vứt lên yên ngựa cùng với cả bọn Cái Bang. Đi được một quãng trời đổ mưa to, cả bọn phải tản ra tìm chỗ trú mưa. Tiểu nữ và A Bích bị mấy tên Tây Hạ dẫn vào trú tại một tòa lương đình, tạnh mưa mới ra đi. Lúc đó, phía sau có một người cưỡi ngựa chạy đến, chính là Kiều bang chủ. Chàng thấy bọn tiếu nữ bị bắt giữ rất đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi thì A Bích đã kêu cứu. Bọn võ sĩ Tây Hạ nghe thấy đại danh Kiều bang chủ, lập tức rút binh khí xúm lại vây đánh. Kết quả là có tên thì bị treo lên cây tùng, có tên chết nơi sườn núi, có tên lại lọt xuống sông.”

Vương Ngữ Yên cười, hỏi: “Việc vừa mới xảy ra phải không?” A Châu đáp: “Đúng thế! Tiểu nữ nhờ Kiều bang chủ tìm trên người bọn man tử Tây Hạ xem có giải dược không. Chàng lục trong xác bọn võ sĩ Tây Hạ tìm được một cái bình sứ nhỏ, thơm hay thối thì không nói chắc cô nương cũng biết rồi.”

Vương Ngữ Yên hỏi thêm: “Thế Kiều bang chủ đâu?” A Châu đáp: “Kiều bang chủ nghe tin bọn Cái Bang trúng độc bị bắt hết thì nóng nảy vô cùng, hốt hoảng đi ngay, bảo là phải cứu bọn họ. Bang chủ còn quay lại hỏi thăm Đoàn công tử, xem ra quan tâm đến công tử lắm.” Đoàn Dự thở dài than rằng: “Đại ca ta thật là người nghĩa khí thâm trọng vô cùng!” A Châu nói: “Người của Cái Bang chẳng biết phân biệt tốt xấu, một vị bang chủ như thế mà đem đuổi đi, bây giờ mình làm mình chịu thật là đáng kiếp. Tiểu nữ thấy vị đại ca đó thật là độ lượng, thà để kẻ khác phụ mình chứ nhất định không chịu phụ ai.”

A Bích hỏi: “Vương Cô nương, bây giờ chúng mình đi đâu?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta và Đoàn công tử đã bàn nhau đi cứu hai người. Bây giờ cả bốn đều bình yên, thế là hay lắm rồi. Chúng ta không có liên quan gì đến Cái Bang, chi bằng lên Thiếu Lâm Tự tìm Mộ Dung công tử của các ngươi.” A Châu, A Bích quan tâm nhất là Mộ Dung Công tử, nghe Ngữ Yên nói vậy đều vỗ tay khen phải. Đoàn Dự trong lòng chua xót nhưng cố làm ra vẻ thản nhiên nói: “Tại hạ vốn ngưỡng mộ Mộ Dung công tử lắm, mong được gặp một lần. Hiện nay không có việc gì làm, đi theo các cô đến chùa Thiếu Lâm một chuyến cũng hay.”

Bốn người quay đầu ngựa đi về hướng bắc. Vương Ngữ Yên cùng hai nàng A Châu, A Bích nói cười vui vẻ, đem chuyện gặp nguy hiểm ở trại xay lúa, Đoàn Dự nghênh địch thế nào, tay cao thủ Tây Hạ là Lý Diên Tông tha mạng cũng tặng thuốc giải độc ra sao, tất cả kể lại rành mạch rõ ràng, khiến cho A Châu, A Bích hai nàng đều lấy làm kinh ngạc.

Ba cô gái nói chuyện mỗi khi đến đoạn nào thú vị lại cười khúc khích, thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn Đoàn Dự, lấy tay áo che miệng cho khỏi lộ liễu. Đoàn Dự biết các nàng đang bàn tán những chuyện ngốc nghếch của mình, nhưng tự nghĩ mình vụng về đủ thứ mà sau cùng cũng bảo vệ được Vương cô nương chu toàn, nên vừa thấy hổ thẹn lại vừa thấy tự hào. Chàng lại nghĩ: “Bây giờ mới có ba cô thân mật với nhau, họ đã không đếm xỉa gì đến mình. Khi gặp Mộ Dung công tử rồi thì mình quả thật hết đất dung thân. Mộ Dung Phục chắc cũng như Bao Bất Đồng, đuổi thẳng mình đi không nể nang gì.” Đoàn Dự càng nghĩ càng thấy ê chề.

Đi được mấy dặm, qua khỏi một vùng trồng dâu thật lớn, bỗng nghe ở bìa rừng có tiếng hai thiếu niên đang khóc. Bốn người phóng ngựa lại xem, thấy hai chú tiểu chừng mười bốn mười lăm, trên tăng bào còn vết máu lốm đốm, một chú bị thương nơi trán. A Bích dịu dàng hỏi: “Này các tiểu sư phụ! Ai hiếp đáp các chú đó? Tại sao lại bị thương?”.

Chú tiểu không bị thương vừa khóc vừa trả lời: “Có vô số ác nhân Phiên bang đến chùa, giết mất sư phụ rồi đuổi hai đứa chúng cháu ra ngoài.” Bốn người nghe nói đến “ác nhân Phiên bang” liền đưa mắt nhìn nhau cùng nghĩ: “Phải chăng là bọn Tây Hạ?” A Châu hỏi thêm: “Thế chùa của các chú ở đâu? Ác nhân Phiên bang là bọn nào thế?” Chú tiểu đáp: “Chúng cháu ở chùa Thiên Ninh, phía bên kia…” Chú trỏ về phía đông bắc, vừa nói vừa khóc: “Bọn Phiên bang kia bắt đâu được hơn một trăm người hành khất đưa vào chùa trú mưa, đòi rượu thịt rồi đòi giết gà mổ bò. Sư phụ bảo không thể sát sinh ở nơi cửa Phật thanh tĩnh được, thế là chúng đem sư phụ cùng mười mấy vị sư huynh, sư đệ chúng tôi ra giết hết, hu hu, hu hu.” A Châu hỏi tiếp: “Bọn chúng còn ở đó không?” Chú tiểu trỏ tay về phía làn khói đang bốc lên cuồn cuộn phía sau rừng dâu, nói: “Bọn chúng còn đang thui bò kia kìa, thật là tội nghiệp? Đức Bồ Tát có linh thiêng tất sẽ đem bọn giam xuống a tì địa ngục.” A Châu nói: “Hai chú chạy trốn đi thôi. Nếu bọn Phiên bang bắt được, chúng mổ các chú ra ăn thịt đó.” Hai chú tiểu cả kinh, lật đật bỏ chạy ngay.

Đoàn Dự tỏ ý không bằng lòng, nói: “Hai chú đó đã rối trí lắm rồi, A Châu tỉ tỉ lại còn dọa thêm làm gì?” A Châu cười nói: “Có phải dọa dâu, tiểu nữ nói thực đấy.” A Bích nói: “Bang chúng Cái Bang đang bị nhốt trong chùa Thiên Ninh, Kiều bang chủ lại chạy về thành Vô Tích thì đúng là vô tích sự.”

A Châu đột nhiên nghĩ ra một kế thật kỳ lạ, liền nói: “Vương cô nương! Tiểu nữ muốn cải trang làm Kiều bang chủ vào trong chùa, đem chiếc bình hôi thối kia cho bọn ăn mày ngửi. Sau khi bọn chúng thoát nạn nhất định sẽ cảm kích Kiều bang chủ vô cùng!” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Kiều bang chủ thân thể cao lớn hùng vĩ, làm sao ngươi hóa trang cho giống được?” A Châu cười, nói: “Càng khó khăn bao nhiêu, càng rõ thủ đoạn A Châu này bấy nhiêu.” Vương Ngữ Yên lại cười, chất vấn tiếp: “Giả tỷ ngươi giả trang giống được Kiều bang chủ thì cũng không giả mạo được thần công tuyệt thế của chàng. Trong chùa Thiên Ninh đầy dẫy cao thủ Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, ngươi đâu có vào ra thong thả được? Theo ý ta thì người giả làm một tên đầu bếp hay một bà già bán rau trà trộn vào chùa còn dễ hơn.” A Châu nói: “Bảo tiểu nữ giả làm bà già bán rau thì có gì là thú. Thôi, không đi nữa.”

Vương Ngữ Yên nhìn Đoàn Dự, mấp máy đôi môi như muốn nói gì, rồi lại thôi. Đoàn Dự hỏi: “Cô nương định bảo gì tại hạ thế?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta muốn nhờ công tử hóa trang thành một người cùng đi với A Châu đến Thiên Ninh Tự, nhưng nghĩ kỹ lại thấy không xong.” Đoàn Dự hỏi: “Cô nương muốn tại hạ giả dạng ai?” Vương Ngữ Yên nói: “Các cao thủ Cái Bang nghi Kiều bang chủ cùng biểu ca ta ngấm ngầm cấu kết giết hại Mã phó bang chủ. Nếu như… nếu như… biểu ca cùng Kiều bang chủ đến cứu bọn họ, chắc không còn bị ngờ oan nữa.” Đoàn Dự chua xót trong lòng, hỏi: “Cô nương muốn tại hạ giả trang làm lệnh biểu ca ư?” Vương Ngữ Yên hơi hổ thẹn nói: “Bọn địch trong chùa Thiên Ninh rất mạnh. Hai người vào đó nguy hiểm lắm, đừng đi nữa là hơn.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nàng bảo sao ta làm vậy, dù phải tan xương nát thịt cũng quyết chẳng từ nan”.

Chàng đột nhiên nghĩ thêm: “Nếu mình hóa trang thành Mộ Dung Phục, không chừng nàng nhìn ta bằng con mắt tình tứ, mình được nàng dịu dàng chiều chuộng trong chốc lát thì cũng hay”. Chàng nghĩ đến đó bất giác phấn khởi tinh thần, hăng hái nói: “Có gì là nguy hiểm đâu? Đoàn Dự này sở trường nhất là bản lãnh cong đuôi chạy trốn.”.

Vương Ngữ Yên nói: “Ta thấy không ổn, vì biểu ca giết địch dễ như trở bàn tay, chẳng bao giờ chạy trốn ai.” Đoàn Dự nghe nàng nói thế, một làn khí lạnh theo xương sống chạy dài từ đầu xuống chân, nghĩ thầm: “Hóa ra biểu ca cô là đại anh hùng đại hào kiệt, tên họ Đoàn này đâu có xứng đáng giả mạo y? Lỡ ta để lộ cái xấu ra trước mặt mọi người, tức là làm ô nhục thanh danh của gã”. A Bích thấy chàng có vẻ bực dọc, liền tìm lời an ủi: “Địch nhiều mà ta ít, tạm thời rút lui chẳng có gì là lạ. Chúng ta đi cứu người, chứ đâu phải đi tỷ võ để dương danh.”

Đôi mắt tinh tường của A Châu quan sát Đoàn Dự từ đầu xuống chân rồi lại từ chân lên đầu, một lúc sau nàng gật đầu nói: “Đoàn công tử, muốn cải trang thành công từ chúng tôi quả không phải là dễ. May mà người trong Cái Bang chưa biết mặt Mộ Dung công tử, giọng nói cùng hình dáng ra sao cũng chỉ nghe đại khái thôi.” Đoàn Dự nói: “Tỉ tỉ phải trổ hết tài nghệ cải trang làm Kiều bang chủ cho thật giống, vì người trong Cái Bang ngày nào cũng gặp bang chủ. Chỉ sơ hở một chút là cơ mưu bại lộ.” A Châu mỉm cười nói: “Kiều bang chủ là đại trượng phu cao lớn, vậy mà tiểu nữ giả làm Kiều bang chủ lại dễ dàng. Mộ Dung công tử tầm vóc không khác công tử bao nhiêu, tuổi tác cũng chẳng hơn nhiều, cả hai đều là thư sinh con nhà gia thế, vậy mà đem bộ mặt Đoàn công tử biến thành Mộ Dung công tử lại rất khó khăn.”

Đoàn Dự thở dài: “Mộ Dung công tử là rồng phượng trong loài người, người tầm thường dễ gì mô phỏng cho giống được? Theo tại hạ thì cải trang không giống càng hay, lát nữa cụp đuôi bỏ chạy cũng đỡ tổn hại đến thanh danh của Mộ Dung công tử.” Ngữ Yên đỏ mặt lên, nói khẽ: “Đoàn công tử, ta trót lỡ lời, công tử có giận không?” Đoàn Dự vội vàng đáp: “Không phải! Không phải! Chẳng khi nào tại hạ dám giận cô nương.”

Vương Ngữ Yên mặt tươi cười, nói: “A Châu tỉ tỉ, hai người đi đâu cải trang đây?” A Châu đáp: “Phải tìm đến nơi thị trấn mới mua được những thứ cần dùng.” Bốn người quay ngựa chạy về hướng tây chừng bảy tám dặm, đến một thị trấn tên là Mã Lang Kiều. Thị trấn này thật nhỏ bé, không có cả quán trọ. A Châu nghĩ ra một cách, thuê thuyền neo giữa sông rồi đi mua vật dụng, quần áo đem xuống thuyền cải trang. Đất Giang Nam sông ngòi dày đặc, thuyền bè nhiều vô kể chẳng khác gì ngựa xe ở miền bắc.

Nàng bảo Đoàn Dự thay đổi y phục trước, cho chàng mặc trường bào màu xanh, tay phải cầm quạt giấy, ngón trỏ tay trái đeo nhẫn. A Châu nói: “Công tử chúng tôi đeo nhẫn ngọc đời Hán, ở đây làm sao mua được? Đành dùng tạm nhẫn bằng đá Thanh Điền vậy, cũng được rồi.” Đoàn Dự nhăn nhó cười, nghĩ thầm: “Mộ Dung Phục thì đeo nhẫn ngọc quý, còn mình thì đeo nhẫn đá hèn hạ. Có lẽ ba cô nương này đánh giá mình với gã cũng như đá với ngọc, thân phận cách nhau xa” A Châu trát bột mì lên mặt chàng, nặn mũi cho cao lên, sửa cho mặt hơi mập thêm một chút, lấy bút vẽ lông mày, khóe mắt, hóa trang xong cười hỏi Vương Ngữ Yên: “Cô nương xem còn chỗ nào không giống nữa chăng?” Vương Ngữ Yên không đáp, chỉ ngây người ra mà nhìn, trong ánh mắt chứa đầy tình ý, hiển nhiên tâm thần miên man xúc động.

Đoàn Dự trong ánh mắt mê mẩn của nàng cũng thấy lâng lâng, nhưng chợt nghĩ ra: “Đây là nàng nhìn Mộ Dung Phục chứ có phải nhìn Đoàn Dự ta đâu?”. Chàng lại nghĩ: “Không biết gã Mộ Dung Phục anh tuấn đến mức nào, có hơn ta gấp trăm lần không. Tiếc rằng ta không thấy được mình hiện thời ra sao.” Lòng chàng khi thì khoan khoái, khi thì đau khổ.

Chàng nhìn nàng, nàng nhìn chàng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng, ngẩn ngơ đến nỗi không biết A Châu, A Bích đã ra khoang sau cải trang tự lúc nào. Hồi lâu bỗng nghe giọng một người đàn ông ôm ồm nói: “A! thì ra Đoàn hiền đệ ở đây, thế mà ngu huynh tìm mãi, mất bao công phu vẫn không thấy.” Đoàn Dự giật mình quay đầu lại xem, té ra là Kiều Phong, bất giác cả mừng reo lên: “Đại ca đấy ư? Thế thì hay lắm. Bọn tiểu đệ đang định cải trang để đi cứu người. Bây giờ đại ca lại đến đây, A Châu tỉ tỉ bất tất phải giả dạng nữa.”

Kiều Phong nói: “Người của Cái Bang đã trục xuất ta ra khỏi bang rồi. Bọn họ sống chết gì cũng mặc, Kiều mỗ mặc kệ không bận tâm đến nữa. Hảo hiền đệ, đi mau, chúng ta lên bờ đi kiếm rượu uống thi hai chục bát!” Đoàn Dự vội đáp: “Đại ca! Bang chúng Cái bang đa số là những người quang minh lỗi lạc, lại là bằng hữu cũ của đại ca. Nên đi cứu họ là phải.” Kiều Phong tức mình nói: “Đồ gàn như ngươi thì biết gì? Thôi, đi uống rượu đã.” Nói xong vươn tay ra nắm lấy tay Đoàn Dự, Đoàn Dự không biết phải làm sao, đành nói: “Thôi được, để tiểu đệ hầu rượu đại ca, uống xong rồi sẽ đi cứu người.”

Kiều Phong đột nhiên cười khanh khách, giọng cười thanh tao mà uyển chuyển. Một đại hán khôi vĩ lại có giọng cười như một cô gái nhỏ tuổi, quả thực quái lạ. Đoàn Dự ngạc nhiên, lập tức hiểu ra, cười nói: “A Châu tỉ tỉ: Tỉ tỉ cải trang quả là thần diệu, đến cả cách ăn nói cũng giống hệt không khác chút nào.”

A Châu lại đổi qua bắt chước giọng Kiều Phong, nói: “Này hiền đệ, chúng ta đi thôi! Nhớ mang cái bình hôi thối theo.” Nàng quay sang nói với Vương Ngữ Yên và A Bích: “Hai vị cô nương ở đây chờ tiện hơn.” Nói xong dắt tay Đoàn Dự bước lên bờ. Không biết nàng đắp cái gì mà bàn tay nhỏ bé trắng nõn bây giờ lại ngăm ngăm, tuy không lớn bằng tay Kiều Phong, nhưng người ngoài thoáng nhìn thật khó mà phân biệt.

Vương Ngữ Yên đưa mắt nhìn theo Đoàn Dự, trong bụng nghĩ thầm: “Nếu chàng là biểu ca thật thì hay biết mấy. Biểu ca hỡi biểu ca, lúc này chàng ở đâu, có nghĩ gì đến muội không?”

A Châu cùng Đoàn Dự cưỡi ngựa đi về phía chùa Thiên Ninh. Còn cách chừng năm dặm, hai người sợ bọn Tây Hạ nghe tiếng vó ngựa, liền đem buộc ngựa vào chuồng bò của một nhà nông rồi đi bộ tiếp.

A Châu nói: “Mộ Dung huynh đệ! Khi đến chùa, tại hạ sẽ đại ngôn khoác lác dọa cho chúng sợ một mẻ. Công tử thừa cơ đem bình thuốc thời giải độc cho bang chúng Cái Bang.” Nàng nói mấy câu đó giọng ồm ồm, nghe y hệt Kiều Phong. Đoàn Dự chỉ cười gật đầu.

Hai người hùng dũng tiến đến Thiên Ninh Tự, thấy ngoài cổng có độ mươi võ sĩ Tây Hạ; tay cầm trường đao, tướng mạo cực kỳ hung dữ. Hai người vừa trông thấy chúng đã tim đập thình thành, không khỏi hoảng sợ. A Châu khẽ bảo: “Đoàn công tử! Nếu có chuyện gì rắc rối thì công tử dắt tiểu nữ chạy cho nhanh, nếu không bọn chúng níu lại đòi tỉ võ thì thật khó mà đối phó.” Đoàn Dự cũng khẽ đáp: “Được!” Thế nhưng giọng chàng run run, quả là có khiếp sợ trong lòng.

Hai người còn đang thì thầm bàn định, nhìn quanh quất thăm dò thì một tên võ sĩ đứng ngoài cửa đã trông thấy, lớn tiếng quát: “Hai thằng chết tiệt kia, làm gì mà thập thò dòm ngó? Các ngươi là gian tế chăng?” Tiếng quát chưa dứt đã có thêm bốn tên võ sĩ khác chạy ra.

A Châu không còn cách gì hơn, đàng hoàng tiến lên, dõng dạc nói: “Các ngươi mau vào báo với Hách Liên đại tướng quân là có Kiều Phong ở Cái Bang cùng Mộ Dung Phục ở Giang Nam đến bái kiến.”

Gã võ sĩ đứng đầu bọn này nghe thế giật mình, vội vàng vòng tay khom lưng nói: “Thì ra là Kiều bang chủ Cái Bang giá lâm. Bọn tiểu nhân thực là vô lễ, xin lập tức vào bẩm báo.” Y nói xong rảo bước đi vào trong, còn những tên khác cũng đứng nghiêm trang ra chiều cung kính.

Lát sau có tiếng tù và vang dội, cửa chùa mở toang, đường chủ Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ là Hách Liên Thiết Thụ cùng bọn Nỗ Nhi Hải suất lĩnh các cao thủ tiến ra nghinh tiếp. Trong đám này có cả Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc. Đoàn Dự chẳng còn hồn vía nào nữa, cúi đầu xuống không dám nhìn thẳng.

Bỗng nghe Hách Liên Thiết Thụ nói: “Bản tướng đã lâu hâm mộ đại danh Cô Tô Mộ Dung chuyên về môn gậy ông đập lưng ông. Hôm nay được gặp cao hiền, quả là vinh hạnh.” Y nói xong bèn chắp tay nhìn Đoàn Dự thi lễ. Y nghĩ bụng Nhất Phẩm Đường với Cái Bang đã thành thù địch, nên không tỏ vẻ gì nể nang Kiều Phong cả.

Đoàn Dự vội vàng hoàn lễ, nói: “Uy danh Hách Liên tướng quân vang dậy ra đến ngoài biên ải. Tại hạ vẫn mong được hội diện các vị hào kiệt trong Nhất Phẩm Đường một phen, hôm nay đến đây bái kiến, xin được tha thứ cái tội đường đột.” Mấy câu khách sáo kia, đúng là chàng quen mồm nói trơn tru như cháo chảy, không có chút sơ hở nào.

Hách Liên Thiết Thụ nói: “Võ lâm đã có câu Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Hôm nay hai vị đứng đầu trong hào kiệt Trung Nguyên cùng giá lâm một lượt, quả là vinh hạnh cho bản tướng xiết bao. Xin mời!” Y tránh qua một bên, nhường lối cho hai người vào trong đại điện.

A Châu và Đoàn Dự ngang nhiên đi song song cùng Hách Liên Thiết Thụ. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Từ lời nói cho đến vẻ mặt, xem ra tên đại tướng quân này đối với Mộ Dung công tử trịnh trọng hơn đối với Kiều đại ca. Chẳng lẽ võ công cùng nhân phẩm Mộ Dung Phục còn trên đại ca ta một mức hay sao? Ta không tin nổi.”

Bỗng nghe một giọng quái gở la lên: “Không tin được! Nhất định không tin được!” Đoàn Dự giật mình liếc xem ai vừa nói, thì ra là Nam Hải Ngạc Thần. Lão giường đôi mắt ti hí, ngoẹo cổ dòm ngó Đoàn Dự rồi lắc đầu lia lịa, Đoàn Dự lại càng bở vía, nghĩ thầm: “Thôi hỏng bét rồi! Lão nhận ra mình rồi!” Lại nghe Nam Hải Ngạc Thần tiếp: “Từ đầu đến chân ngươi chưa được ba lạng xương, làm trò gì được? Này này ta hỏi, nghe đồn người biết thuật gậy ông đập lưng ông, Nhạc lão nhị này đếch tin.” Đoàn Dự thở phào, nghĩ thầm: “Hóa ra y chưa nhận ra mình”, Nam Hải Ngạc Thần nói: “Cóc cần ngươi phải ra tay, ta chỉ hỏi ngươi một câu. Người biết Nhạc lão nhị này có môn gì đặc biệt không? Nếu ngươi không biết thì làm sao dùng phép gây ông đập lưng ông đối phó với ta?” Nói xong y đứng chống nạnh, vẻ mặt vênh vênh tự đắc.

Hách Liên Thiết Thụ đã toan lên tiếng ngăn cản, nhưng lại nghĩ: “Thằng cha Mộ Dung Phục này tên tuổi rất lớn, chẳng hiểu có thực tài không. Chi bằng để lão Nam Hải Ngạc Thần dở điên dở khùng thử xem cho biết.” Thế rồi gã để yên không can thiệp.

Lúc đó mọi người đã vào đến đại điện, Hách Liên Thiết Thụ mời Đoàn Dự ngồi vào ghế thủ vị, Đoàn Dự nhường lại cho A Châu. Nam Hải Ngạc Thần lớn tiếng hỏi nữa: “Này này Mộ Dung tiểu tử, ngươi thử nói đi, công phu đắc ý nhất của ta là gì?” Đoàn Dự tủm tỉm cười, nghĩ bụng: “Người khác hỏi thì ta không biết thật, còn ngươi thì ta có lạ gì”. Chàng mở quạt ra phe phẩy, đáp: “Nam Hải Ngạc Thần Nhạc lão tam, bản lĩnh đắc ý nhất của ngươi là vặn gãy cổ người ta kêu lách cách: Mấy năm nay công phu ngươi có tiến bộ, bây giờ môn võ công đắc ý hơn cả là Ngạc Vĩ Tiên và Ngọc Chủy Tiên. Ta muốn đối phó với ngươi, lẽ dĩ nhiên phải về trang viện lấy cây roi đuôi cá sấu và cây kéo hàm cá sấu đem theo.”

Chàng nói đúng tên hai thứ khí giới của Nam Hải Ngạc Thần khiến lão sợ quá, há hốc miệng ra không ngậm lại được nữa, cả đến Diệp Nhị Nương cùng Vân Trung Hạc cũng cực kỳ kinh dị. Ta nên biết hai món bình khí đó Nam Hải Ngạc Thần mới luyện gần đây, ít khi đem ra thi triển, chỉ mới một lần động thủ với Vân Trung Hạc trên Vô Lượng Sơn, lúc đó ngoài Mộc Uyển Thanh ra không ai trông thấy. Bọn chúng có ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đã kể hết đầu đuôi cho chàng Mộ Dung công tử giả hiệu này nghe rồi.

Nam Hải Ngạc Thần lại nghiêng đầu ngoẹo cổ quan sát Đoàn Dự. Tuy lão là người hùng ác, nhưng có lòng khâm phục anh hùng hảo hán. Lão ngắm nghía một lúc rồi giơ ngón tay cái lên, nói: “Giỏi thật!” Đoàn Dự cười, đáp: “Chẳng bõ làm trò cười cho quý vị.” Nam Hải Ngạc Thần nghĩ thầm: “Đến cả món binh khí ta mới luyện xong mà y cũng nói ra được, những thứ võ công khác bất tất phải hỏi làm gì. Tiếc là lão đại Diên Khánh thái tử không có ở đây để vặn hỏi y xem sao. A, có cách rồi!” Lão la lớn: “Mộ Dung công tử! Ngươi biết được võ công của ta cũng chưa lấy làm kỳ lạ. Giả tỷ mà sư phụ ta đến đây thì bảo đảm ngươi không thể hiểu võ công của ông ấy.” Đoàn Dự mỉm cười hỏi: “Lệnh sư là ai? Ông ta có võ công gì đặc biệt?” Nam Hải Ngạc Thần dương dương đắc ý đáp: “Thụ nghiệp ân sư của ta thì qua đời đã lâu chẳng nói làm gì, ta chỉ nói đến vị sư phụ sau này. Bản lãnh ông ta thật là ghê gớm, chẳng cần kể nhiều, riêng một môn Lăng Ba Vi Bộ ta dám chắc trên đời này không có người thứ hai biết được.”

Đoàn Dự trầm ngâm đáp: “Môn Lăng Ba Vi Bộ quả là kỳ công tuyệt thế. Chắc các hạ nhận xằng Đoàn công tử nước Đại Lý làm sư phụ, tại hạ chẳng tin chút nào.” Nam Hải Ngạc Thần vội đáp: “Ta nói láo ngươi làm chi? Ở đây có nhiều người chính tai nghe thấy Đoàn công tử gọi ta là đồ đệ.” Đoàn Dự trong bụng cười thầm: “Lúc trước thì lão thà chết không chịu bái ta làm sư phụ, lúc này thì lại sợ ta không nhận là đồ đệ”. Chàng bèn nói: “Nếu vậy thì các hạ chắc đã học được tuyệt kỹ của lệnh sư rồi. Chúc mừng! Chúc mừng!” Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quây quậy nói: “Ta chưa được học đâu. Còn người đã tự xưng là biết hết võ công trong thiên hạ, nếu đi được ba bước Lăng Ba Vi Bộ thì Nhạc lão nhị này mới phục.”.

Đoàn Dự mỉm cười đáp: “Lăng Ba Vi Bộ tuy khó thật nhưng tại hạ cũng học qua vài bước. Nhạc lão gia, lại đây thử bắt tại hạ xem nào.” Nói rồi trường bào phất phới, chàng đã lướt ra chính giữa đại điện.

Quần hào Tây Hạ chưa từng nghe nói đến Lăng Ba Vi Bộ, bây giờ nghe Nam Hải Ngạc Thần xưng tụng là thần kỹ, ai nấy đều háo hức muốn xem. Chúng lập tức chia ra đứng chung quanh đại điện để xem Đoàn Dự biểu diễn.

Nam Hải Ngạc Thần gầm lên một tiếng, tay trái vươn ra trước, tay phải lại luồn dưới tả chưởng, chộp luôn vào Đoàn Dự. Đoàn Dự bước chéo đi hai bước rồi lại lui về phía sau nửa bước, nhẹ nhàng như lá sen trước gió, khéo léo tránh đòn. Nghe “phập” một tiếng, Nam Hải Ngạc Thần thu trảo về không kịp, năm ngón tay phải đã cắm vào cây cột lớn trong đại điện, ngập sâu đến mấy tấc. Mọi người đứng chung quanh thấy y công lực cao thâm như thế đều tái mặt. Nam Hải Ngạc Thẩn đánh không trúng, lại rống lên lần nữa, tung mình lên không, từ trên cao chộp xuống như chim ưng vồ mồi. Đoàn Dự không thèm lý đến y, chỉ án theo phương vị bát quái, chân bước ung dung. Nam Hải Ngạc Thần tấn công mỗi lúc một nhanh, tiếng rống mỗi lúc một lớn chẳng khác gì mãnh thú.

Đoàn Dự bỗng nhìn thấy khuôn mặt khủng khiếp của y, trong lòng không khỏi lo sợ. Chàng vội vàng quay đầu đi, lấy trong tay áo ra một chiếc khăn tay buộc lên che mắt mình lại, rồi nói: “Dù ta bịt mắt lại, ngươi cũng không đánh trúng được ta.”

Nam Hải Ngạc Thần múa tít song chưởng nhắm đánh vào người Đoàn Dự mà đòn nào cũng chỉ trệch một chút. Người đứng xem ai nấy lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh. A Châu quan tâm đến Đoàn Dự nên lắm lúc giật mình, đột nhiên cất giọng ồm ồm quát lên: “Nam Hải Ngạc Thần, ngươi thấy Lăng Ba Vi Bộ của Mộ Dung công tử so với sư phụ ngươi thì thế nào?”.

Nam Hải Ngạc Thần giật mình, thở phào một cái rồi dừng chân lại, nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Ngươi bịt mắt mà vẫn đi đúng theo bộ pháp quái ác kia, e rằng sư phụ ta cũng chưa được thế. Cô Tô Mộ Dung quả nhiên danh bất hư truyền, Nam Hải Ngạc Thần này chịu phục ngươi rồi.”

Đoàn Dự gỡ chiếc khăn che mắt ra, quay lại chỗ ngồi. Trong đại điện tiếng hoan hô vang lên như sấm. Hách Liên Thiết Thụ đợi hai người ngồi xuống rồi mới nâng chén trà lên nói: “Xin mời hai vị anh hùng uống trà! Chưa hiểu hai vị tới đây có điều chi dạy bảo?”

A Châu đáp: “Tệ bang có mấy anh em không biết đắc tội chỗ nào, nghe nói tướng quân sai các cao thủ dùng võ công thượng thừa bất cả về đây. Tại hạ mạo muội đến xin tướng quân tha cho họ.” Nàng nhấn mạnh mấy chữ “sai các cao thủ dùng võ công thương thừa” để mỉa mai người Tây Hạ dùng thủ đoạn để hèn phun thuốc độc bắt người.

Hách Liên Thiết Thụ mỉm cười nói: “Quả có như vậy. Mới rồi Mộ Dung công tử thi triển bản lãnh, quả là không phải chỉ có danh tiếng mà thôi. Kiều bang chủ cùng Mộ Dung công tử nổi tiếng ngang nhau, cũng xin hiển lộ chút ít công phu cho xem thử. Khi người Tây Hạ chúng ta đã tâm phục, quyết sẽ thả các vị anh hùng hảo hán của quí bang ra.”

A Châu chột dạ, nghĩ bụng: “Ta mà giả mạo thân thủ của Kiều bang chủ thì lòi đuôi ra lập tức.” Nàng còn đang nghĩ cách thoái thác, bỗng thấy chân tay mềm nhũn, tưởng như nhúc nhích một ngón tay cũng không được, giống hệt như bị trúng độc hôm trước, bất giác than thầm: “Chết rồi! Không ngờ bọn ác nhân Tây Hạ lại giở trò cũ ra ám toán, bây giờ biết làm thế nào?”.

Đoàn Dự bách độc bất xâm nên hoàn toàn không hay biết gì, nhìn thấy A Châu mềm nhũn ngồi trên ghế mới biết nàng lại trúng độc. Chàng vội lấy trong túi ra chiếc bình thuốc thối, mở nắp đưa vào mũi nàng. A Châu hít mấy hơi, vì nàng trúng độc chưa lâu nên tay chân đỡ tê dại ngay. Nàng liền tự cầm chiếc bình mà hít liên tiếp, trong bụng không hiểu sao địch nhân không can thiệp. Nhìn lại bọn người Tây Hạ, thấy tên nào tên nấy ngồi nhũn ra, không cử động gì được, chỉ còn đôi mắt nhớn nhác.

Đoàn Dự nói: “Thật là cổ quái! Chẳng lẽ bọn chúng tự hại mình, tự phóng độc, tự trúng độc hay sao?” A Châu đến lay thử Hách Liên Thiết Thụ một cái thì gã lăn kềnh ra ghế, đúng là trúng độc rồi. Tuy vậy, gã vẫn còn nói được. Gã quát lên: “Đứa nào dùng Bi Tô Thanh Phong đó? Mau lấy thuốc giải ra đây!” Y quát luôn mấy tiếng nhưng bọn thủ hạ đều trúng độc nằm gục đó, chỉ bẩm báo: “Bẩm tướng quân, thuộc hạ không cử động được nữa rồi!” Nỗ Nhi Hải nói: “Chắc là có kẻ nội gian, nếu không thì ai biết được cách sử dụng loại Bi Tô Thanh Phong phức tạp này?” Hách Liên Thiết Thụ giận dữ nói: “Đúng đó! Ngươi mau mau tra xét cho rõ ràng xem đứa nào, đem nó ra phanh thây muôn đoạn.” Nỗ Nhi Hải đáp: “Vâng! Có điều bây giờ cần phải kiếm thuốc giải trước đã.” Hách Liên Thiết Thụ nói: “Nói phải lắm. Người làm đi.”

Nỗ Nhi Hải nhíu mày lại, liếc mắt nhìn chiếc bình sứ trong tay A Châu mà nói: “Kiều bang chủ! Cảm phiền bang chủ đem bình thuốc cho chúng tôi ngửi, thể nào tướng quân chúng tôi cũng hậu thưởng.”

A Châu cười nói: “Ta đến đây là để giải cứu anh em trong bang chứ có phải để lãnh thưởng của tướng quan nhà ngươi đâu.” Nỗ Nhi Hải lại nói với Đoàn Dự: “Mộ Dung công tử, bên người tại hạ cũng có một cái bình nhỏ, phiền công tử lấy ra mở nắp cho ngửi một chút.”

Đoàn Dự thò tay vào bọc y lấy ra một chiếc bình nhỏ, quả nhiên cũng là thuốc giải. Chàng cười nói: “Ta lấy giải dược không phải cho ngươi đâu.” Chàng cùng A Châu chạy xuống hậu điện, đẩy cửa phòng ở phía đông thấy bên trong đầy người, quả là bang chúng Cái Bang bị bắt nhốt nơi đây.

Ngô trưởng lão vừa trông thấy A Châu đã gọi to: “Kiều bang chủ đấy ư? Tạ ơn trời đất!” A Châu đưa giải dược cho lão ngửi rồi nói: “Đây là thuốc giải, trưởng lão mau đem cho anh em ngửi.” Ngô trưởng lão mừng quá, một lát sau tay chân bắt đầu cử động được liền đưa chiếc bình cho Tống trưởng lão, còn Đoàn Dự thì đưa chiếc bình lấy được của Nỗ Nhi Hải cho Từ trưởng lão.

A Châu nói: “Cái Bang đông người thế này mà chỉ có hai bình, biết bao giờ mới giải độc xong? Ngô trưởng lão, phiền trưởng lão đi lục trong người bọn Tây Hạ xem còn bình thuốc giải nào nữa không.” Ngô trưởng lão đáp: “Vâng!” Lão liền rảo bước ra đại diện, rồi nghe từ ngoài vọng vào tiếng chửi bới, tiếng kêu trời, rồi tiếng bôm bốp, hẳn là Ngô trưởng lão vừa tìm thuốc giải, vừa đánh mắng cho hả giận. Chẳng bao lâu, lão cầm sáu cái bình quay vào, cười nói: “Ta cứ nhắm đứa Hồ Lỗ nào ăn mặc sang trọng mà lục, quả nhiên trong người đều có thuốc giải. Ha ha, bọn chúng thật là khổ sở.” Đoàn Dự cười hỏi: “Sao thế?” Ngô trưởng lão cũng cười, nói: “Ta tát cho mỗi đứa hai tát, thằng nào có thuốc lại càng tát mạnh tay.”

Lão bỗng nhiên nhớ ra mình chưa gặp Đoàn Dự lần nào, bèn hỏi: “Chẳng hay vị huynh đài đây quý tính cao danh là chi? Xin đa tạ đã cứu chúng tôi.” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ ở họ Mộ Dung, đến cứu quá muộn để quí vị phải chờ đợi, thật là đắc tội”

Bang chúng Cái Bang nghe chàng tự xưng là con người tiếng tăm lừng lẫy Mộ Dung Cô Tô, ai nấy hết sức ngạc nhiên. Tống trưởng lão nói: “Bọn ta quả là có mắt như mù, nghi oan cho Mộ Dung công tử giết hại Mã phó bang chủ. Hôm nay nếu không nhờ công tử cùng Kiều bang chủ ra tay cứu mạng, cả lũ rơi vào nanh vuốt bọn ác cẩu Tây Hạ này, không biết hậu quả sẽ tới đâu.” Ngô trưởng lão cũng nói: “Kiểu bang chủ, người trên không chấp nhặt kẻ dưới, xin bang chủ trở lại cho xong.”

Toàn Quan Thanh lạnh lùng nói: “Kiều gia và Mộ Dung công tử quả nhiên là chỗ bằng hữu thâm giao.”

Y không gọi Kiều Phong là Kiều bang chủ, lại bảo ông với Mộ Dung công tử là chỗ bằng hữu thâm giao, câu nói quả là lợi hại. Ta nên biết bang chúng Cái Bang nghi Kiều Phong mượn tay Mộ Dung Phục để trừ khử Mã Đại Nguyên, mà trước nay Kiều Phong vẫn nói là không hề quen biết với Mộ Dụng Phục. Hôm nay hai người cùng đến chùa Thiên Ninh nói nói cười cười ra chiều thân mật, hiển nhiên không phải chỉ mới biết nhau.

A Châu nghĩ bụng những người này ai ai cũng thân thiết với Kiều Phong từ lâu, nán lại càng lâu càng dễ sơ hở. Nàng liền nói: “Đại sự trong bang thong thả sẽ bàn tới, để ta đi xem bọn ác cẩu Tây Hạ ra sao đã.” Nàng nói xong liền bước ra đại diện, Đoàn Dự cũng đi theo.

Hai người chưa ra đến ngoài đã nghe Hách Liên Thiết Thụ quát tháo om sòm: “Các ngươi mau tra xét cho rõ ràng, thằng khốn kiếp Tây Hạ đó tên là gì, đốt ngay nhà nó, bắt hết già trẻ trai gái giết cho kỳ hết, con gà con chó cũng không chừa. Mẹ nó chứ, đã là người Tây Hạ còn phản chủ giúp người ngoài lấy Bi Tô Thanh Phong đem phóng loạn lên.” Đoàn Dự ngạc nhiên, không biết y đang mắng chửi gã Tây Hạ nào. Hách Liên Thiết Thụ cứ chửi một câu thì Nỗ Nhi Hải lại dạ một tiếng. Hách Liên Thiết Thụ lại tiếp: “Thằng khốn kiếp đó viết tâm chữ trên tường, rõ ràng là để mạt sát chúng ta.”

A Châu cùng Đoàn Dự ngửng đầu lên, thấy trên tường có bốn hàng mười sáu chữ như rồng bay phượng múa: “Ai có tài gì, Ta đem trả lại, Gió độc mê người, Thổi lại chúng bay.” (Dĩ bỉ chi đạo, Hoàn thi bỉ thân, Mê nhân độc phong, Nguyên bích qui quân.) Nét bút hãy còn chưa khô, hiển nhiên người viết đi chưa lâu.

Đoàn Dự “A” lên một tiếng, ấp úng hỏi: “Đây… đây có phải Mộ Dung công tử viết đấy chăng?” A Châu hạ giọng nhắc: “Đoàn công từ chớ quên mình đang đóng vai Mộ Dung công tử. Thiếu gia viết nhiều bút pháp khác nhau, tiểu nữ cũng không hiểu có phải chính công tử viết hay không.” Đoàn Dự quay sang hỏi Nỗ Nhi Hải: “Ai viết những dòng chữ này?” Nỗ Nhi Hải không trả lời, trong bụng phập phồng lo sợ. Bọn chúng bắt được bang chúng Cái Bang rồi, đánh đập chửi mắng không thiếu thứ gì, người trong Cái Bang chỉ cần “gậy ông đập lưng ông” là cũng đủ khổ rồi.

A Châu thấy quần hào Cái Bang tới tấp kéo vào đại điện, khẽ bảo: “Đại sự xong rồi. Chúng ta đi thôi!” Nàng lớn tiếng nói: “Ta có việc khẩn cấp, phải cùng Mộ Dung công tử đi lo liệu ngay, sau này sẽ gặp lại.” Nói xong rảo bước ra cửa điện. Bọn Ngô trưởng lão gọi to lên: “Bang chủ hãy thong thả! Bang chủ hãy thong thả?” A Châu không dám chần chừ, lại cùng Đoàn Dự đi nhanh hơn. Quần hào Cái Bang trước nay vẫn kính sợ Kiều Phong, không ai chạy theo níu kéo.

Hai người đi chừng một dặm, A Châu cười nói: “Đoàn công tử! Nghĩ lại quả thật là xảo hợp, lão đồ đệ xấu xí đòi ngay công tử biểu diễn Lăng Ba Vi Bộ, còn bảo công tử giỏi hơn cả sư phụ lão.” Đoàn Dự cũng cười theo. A Châu lại tiếp: “Không biết kẻ nào ngầm phóng hơi độc ra. Gã tướng quân Tây Hạ luôn mồm mắng nhiếc nội gian, xem chừng chính người Tây Hạ làm chuyện này.” Đoàn Dự chợt nghĩ đến một người, bèn nói: “Hay chính là Lý Diên Tông, gã võ sĩ Tây Hạ mà tại hạ cùng Vương cô nương gặp nơi trạm xay lúa?” A Châu chưa gặp Lý Diên Tông nên không phỏng đoán gì được, chỉ nói: “Chúng ta về hỏi lại Vương cô nương xem cô nương nghĩ thế nào.”

Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, trên đường cái một người phi ngựa chạy như bay tới. Đoàn Dự tinh mắt, từ xa đã nhận ra người, mừng rỡ kêu lên: “A! Kiều đại ca kìa!” Chàng đang tính cất tiếng gọi, A Châu đã vội kéo áo chàng, nói: “Người thật tới rồi, chớ có lên tiếng.”rồi nàng vội vàng quay người đi. Đoàn Dự chợt hiểu ra: “A Châu đang giả làm Kiều đại ca, để đại ca trông thấy quả là không hay”. Chẳng mấy chốc Kiều Phong đã cưỡi ngựa đến gần. Đoàn Dự không dám đối diện với chàng, nghĩ bụng: “Khi Kiều đại ca tương hội cùng quần hào Cái Bang, chân tướng tất nhiên bại lộ. Không hiểu đại ca có phiền trách A Châu hay không?”

***

Nguyên Kiều Phong cứu được A Châu, A Bích hai nàng rồi biết tin anh em Cái Bang bị người Tây Hạ bắt hết thì trong lòng nóng nảy, chạy khắp nơi tìm kiếm. Thế nhưng đất Giang Nam ruộng lúa nương dâu bát ngát, đường thủy đường bộ giao tiếp tứ tung, không phải như miền bắc phần nhiều là đường độc đạo, nên khó bề tìm ra được. Kiều Phong kiếm mãi, may sao cũng gặp hai chú tiểu, mới hỏi ra chuyện, lập tức chạy đến Thiên Ninh Tự. Chàng thấy Đoàn Dự dáng người thanh tú, trạng mạo khôi ngô, liền nghĩ thầm: “Vị công tử này trông mặt mũi sáng sủa chẳng kém gì Đoàn Dự hiền đệ”. A Châu lúc ấy đã trở gót quay đi, chàng cũng không để ý, trong bụng chỉ mải lo lắng về anh em Cái Bang nên cứ quất ngựa chạy cho nhanh về phía trước.

Kiều Phong chạy đến trước chùa Thiên Ninh, thấy độ mươi bang chúng Cái Bang đang áp giải bọn võ sĩ Tây Hạ bị trói từ trong chùa đi ra, Kiều Phong mừng quá nghĩ thầm: “Thì ra các huynh đệ Cái Bang đã chuyển bại ra thắng rồi.” Bang chúng Cái Bang thấy Kiều Phong đi rồi quay trở lại, tới tấp chạy ra nghênh tiếp, nói: “Bang chủ! Bây giờ nên phát lạc bọn man rợ này ra sao, xin bang chủ cho hiệu lệnh.” Kiều Phong nói: “Ta đã không còn là người Cái Bang nữa, hai tiếng bang chủ xin đừng gọi đến. Các huynh đệ có bị tổn thương không?”

Bọn Từ trưởng lão trong chùa nghe tin Kiều Phong quay lại liền vội vàng chạy ra đón, người thì hổ thẹn, người thì vui sướng ra mặt. Tống trưởng lão cao giọng nói: “Bang chủ, hôm qua ở trong rừng hạnh, thám tử về cấp báo quân tình khẩn cấp Tây Hạ, Từ trưởng lão tự mình quyết định không cho Kiều bang chủ xem. Bang chủ có biết chuyện gì không? Từ trưởng lão, mau đem ra cho bang chủ xem nào.” Giọng nói của Tống trưởng lão xem ra có vẻ châm biếm.

Từ trưởng lão mặt mày sượng sùng, lấy viên giấy bên trong cục sáp ong, thở dài đưa cho Kiều Phong rồi nói: “Ta quả là nhầm lẫn.” Kiều Phong lắc đầu không cầm.

Tống trưởng lão chen lên, cầm lấy viên giấy mở ra lớn tiếng đọc: “Khải bẩm bang chủ! Thuộc hạ nghe nói tướng quân Hách Liên Thiết Thụ của Tây Hạ dẫn các cao thủ Nhất Phẩm Đường qua Trung Nguyên đối phó với bản bang. Bọn họ có một loại độc khí rất ghê gớm, khi phóng ra tuyệt không mùi vị, ai mà trúng phải thì không cử động được. Khi gặp bọn chúng phải bịt mũi lại, khống chế thủ lãnh để cướp lấy giải dược có mùi hôi thối kinh người, nếu không cực kỳ nguy hiểm. Khẩn cấp, khẩn cấp! Dịch Đại Bưu thuộc hạ Đại Tín Đà bẩm báo.”

Tống trưởng lão đọc xong, cùng bọn Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão nét mặt hầm hầm nhìn Từ trưởng lão. Bạch Thế Kính nói: “Dịch Đại Bưu huynh đệ gửi tin khẩn cấp về cũng còn đúng lúc, tiếc thay chúng ta không kịp mở ra xem. Cũng may anh em chỉ bị một phen hoảng vía, không ai bị thương tổn. Bang chủ, tất cả bọn thuộc hạ xin chịu lỗi, bang chủ đại nhân đại nghĩa lượng thứ cho.”

Ngô trưởng lão nói: “Bang chủ vừa đi khỏi anh em đã ra nông nỗi này, không nhờ bang chủ và Mộ Dung công tử kịp thời đến cứu thì toàn thể Cái Bang chết sạch rồi. Bang chủ mà không quay về chủ trì đại cuộc, đứng đầu bản bang thì không xong, hỏng bét hết.” Kiều Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Mộ Dung công tử nào?” Ngô trưởng lão nói: “Gã Toàn Quan Thanh nói năng lếu láo, bang chủ chẳng nên để vào tai. Kết giao bạn bè phỏng có chi là khó? Thuộc hạ tin rằng Bang chủ cùng Mộ Dung công tử mới quen biết nhau bữa nay.” Kiều Phong hỏi: “Mộ Dung công tử ư? Phải chăng Ngô lão nói đến Mộ Dung Phục? Ta chưa gặp y lần nào.”

Từ trưởng lão cùng bốn lão Tống, Hề, Trần, Ngô mặt mày ngơ ngác, ai nấy ngớ ra nghĩ bụng: “Vừa mới đây y cùng Mộ Dung công tử dắt tay nhau vào giải độc cho mọi người, sao bây giờ bảo chưa biết Mộ Dung công tử?” Hề trưởng lão suy nghĩ một lát tỉnh ngộ ra, nói: “A phải rồi! Công tử vừa rồi chỉ tự xưng ở họ Mộ Dung chứ có bảo là Mộ Dung Phục đâu! Trong thiên hạ, người họ Mộ Dung hàng nghìn hàng vạn, chẳng có gì là lạ.” Trần trưởng lão nói: “Y đề thơ trên tường khẩu khí gây ông đập lưng ông, không phải Mộ Dung Phục thì còn ai?”.

Bỗng có một giọng nói quái gở xen vào: “Gã công tử nhãi nhép kia công phu gì cũng biết, lại còn tinh diệu hơn chính chủ nhân, mà còn không phải Mộ Dung Phục ư? Chính là hắn, nhất định là hắn!” Mọi người nhìn xem ai nói, thì ra lão Nam Ngạc Hải Thần mắt nhỏ như mắt chuột, râu ngắn mặt vàng. Lão trúng độc bị trói, không nhịn được nữa nên xen vào nói góp.

Kiều Phong lạ lùng hỏi: “Thế ra Mộ Dung Phục đã đến đây rồi ư?” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ chửi: “Đồ rắm thối! Chính người vừa mới dắt tay Mộ Dung Phục đến đây, không biết dùng tà thuật gì khiến cho lão gia mềm như bún. Ngươi mau mau thả lão gia ra, nếu không… nếu không…” Lão ấp úng không biết “nếu không” thì sao, nghĩ đi nghĩ lại chỉ đằng hắng mấy tiếng.

Kiều Phong nói: “Ngươi xem ra cũng là một cao thủ võ lâm, sao lại ăn nói lăng nhăng như thế? Ta đến đây bao giờ? Lại cùng Mộ Dung Phục dắt tay đi vào ư? Thật là hoang đường cổ quái!” Nam Hải Ngạc Thần tức đến thở hồng hộc, gầm lên: “Con mẹ thằng Kiều Phong, thật uổng cho ngươi làm tới bang chủ Cái Bang mà lại nói năng láo toét đến thế. Này các huynh đệ lớn nhỏ, có phải Kiều Phong vừa đến đây không? Tướng quân chúng ta chẳng mời y ngồi uống trà là gì?” Bọn Tây Hạ đồng thanh đáp: “Đúng thế! Mộ Dung Phục biểu diễn Lăng Ba Vi Bộ, Kiều Phong đứng vỗ tay khen, không lẽ còn giả được hay sao?”

Ngô trưởng lão kéo tay áo Kiều Phong, khẽ nói: “Bang chủ! Người quang minh lỗi lạc không làm việc ám muội, chuyện bang chủ mới đến đây chẳng nên cãi làm gì.” Kiều Phong nhăn nhó cười gượng, nói: “Ngô tứ ca, đến từ ca cũng không tin ta nữa hay sao?” Ngô trưởng lão liền lấy chiếc bình thuốc giải đưa ra nói: “Bang chủ, thuộc hạ trả lại chiếc bình này, không chừng mai sau có việc dùng đến.” Kiều Phong ngạc nhiên: “Trả lại cho ta ư? Sao lại trả cho ta?” Ngô trưởng lão nói: “Bình thuốc giải này bang chủ vừa mới đưa cho thuộc hạ, không lẽ quên rồi ư?” Kiều Phong sững sờ hỏi lại: “Sao? Có thực Ngô tứ ca vừa mới gặp ta hay không?” Ngô trưởng lão thấy ông ta cãi tới cùng, trong lòng vừa thấy không vui, lại vừa cảm thấy băn khoăn.

Còn Kiều Phong tuy xét việc tinh minh mau lẹ, nhưng cũng không thể đoán ra lúc nãy đã có người giả dạng mình đến Thiên Ninh Tự cứu người. Chàng nghĩ thầm trong việc này ắt có âm mưu trọng đại. Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão đều là người thẳng thắn quyết không làm trò gian dối, nhưng kẻ bày mưu tính kế phải vô cùng lợi hại, bố trí tinh vi, mà nhằm mục đích gì chàng cũng không rõ.

Quần hào Cái Bang được giải cứu vốn dĩ ai nấy đều cảm kích, nhưng nay thấy Kiều Phong nhất quyết phủ nhận lại chuyển sang kinh ngạc. Có người nghĩ rằng mấy hôm nay chàng gặp nhiều chuyện đau lòng, khiến cho thần trí thác loạn. Người khác lại cho rằng Kiều Phong còn có kế hoạch bí mật đối phó với Tây Hạ nên không tiện công khai thừa nhận. Có người lại cho rằng Mã Đại Nguyên quả đúng là bị chàng nhờ tay Mộ Dung Phục giết đi, lúc nãy nghe Toàn Quan Thanh châm biếm, e ngại gian mưu bại lộ nên khẳng khăng chối là mình không quen biết gì với họ Mộ Dung. Kẻ thì đoán chàng muốn quay lại ngôi bang chủ nên sắp đặt kế sách, người lại cho rằng chàng là người Khất Đan ra tay hại cả Tây Hạ lẫn Đại Tống. Mỗi người nghĩ một nẻo nên nét mặt kẻ thì hoài nghi, người thì sùng kính, kẻ lại băn khoăn, phẫn nộ, hoặc khinh bỉ, hận thù.

Kiều Phong thở dài một tiếng, nói: “Dù sao thì các vị huynh đệ đều đã thoát hiểm rồi, Kiều Phong này xin cáo biệt.” Nói xong chàng chắp tay từ giã, xoay người nhảy lên ngựa, ra roi chạy ngay.

Bỗng nghe Từ trưởng lão gọi to: “Kiều Phong! Hãy để Đả Cẩu Bổng lại đã!” Kiều Phong dừng ngựa, hỏi: “Đả Cẩu Bổng ư? Ta đã trao trả từ lúc còn ở rừng hạnh kia mà?” Từ trưởng lão nói: “Bọn ta lỡ bị bắt, Đả Cẩu Bổng rơi vào tay bọn ác cẩu Tây Hạ. Bây giờ tìm khắp mà chẳng thấy đâu, ắt hẳn nhà ngươi lấy được rồi.” Kiều Phong ngửa mặt lên trời cười một tràng dài đầy vẻ thê lương, rồi lớn tiếng nói: “Kiều mỗ với Cái Bang không còn dây mơ rễ, má, lấy Đả Cẩu Bổng để làm gì? Thì ra Từ trưởng lão coi thường ta quá.” Chàng thúc hai vế vào bụng ngựa, phóng như bay về phía bắc.

Từ thuở nhỏ Kiều Phong đã được cha mẹ nâng niu, về sau được Huyền Khổ đại sư của chùa Thiếu Lâm dạy võ nghệ, lại bái Uông bang chủ Cái Bang làm thầy. Chàng bôn tẩu giang hồ từng gặp nhiều bước gian nan, nhưng vẫn được sư phụ cùng bằng hữu thương mến một cách chân thành. Ai ngờ hai ngày nay đất bằng nổi sóng, oai danh lừng lẫy cùng tiếng thơm của một vị bang chủ đại nhân đại nghĩa bỗng phút chốc tiêu tan, chàng bị người ta nhìn như một tên bán nước hại dân, nói dối vô liêm sỉ. Kiều Phong cứ để cho con ngựa tùy ý chạy đi, trong lòng ngổn ngang trăm mối: “Giả tỷ ta là người Khất Đan thật, thì trong mười năm qua chính tay ta giết biết bao nhiêu đồng bào, phá vỡ bao nhiêu kế hoạch của quốc gia, quả là đại bất trung. Nếu đúng là cha mẹ ta bị người Hán giết ngoài Nhạn Môn Quan, ba mươi năm qua ta nhận người khác làm cha mẹ, lại nhận kẻ đại cừu làm thầy, quả là đại bất hiếu, Kiều Phong hỡi Kiều Phong! Mi đã là người bất trung, bất hiếu như vậy thì còn mặt mũi nào sống ở trên đời nữa? Mà nếu như Tam Hòe Công không phải cha ta thì ta nào phải là Kiều Phong? Ta họ gì? Phụ thân đặt cho ta tên gì? Ha ha, ta không những là kẻ bất trung bất hiếu mà còn là đứa không họ không tên.”

Kiều Phong lại nghĩ: “Không chừng mọi việc đều do một tên đại gian đại ác đặt ra, vu hãm cho ta thân bại danh liệt, không ngóc đầu lên được nữa. Kiều Phong này đường đường là bậc đại trượng phu, nếu vì phẫn nộ nhất thời mà bỏ đi, không ngó ngàng gì đến Cái Bang nữa, thì có phải là gian mưu của y đã thành công rồi ư? Không được! Thế nào ta cũng phải tra xét cho minh bạch.”

Chàng suy nghĩ một hồi rồi quyết định việc đầu tiên là phải về núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam, hỏi lại Tam Hòe Công về thân thế lại lịch của mình. Sau đó sẽ vào chùa Thiếu Lâm khấu kiến Huyền Khổ đại sư để xin chỉ bảo chân tướng. Hai người này xưa nay thương yêu ta khôn xiết, chắc không nỡ giấu giếm.

Khi đã định được chủ ý, trong lòng Kiều Phong không còn buồn phiền nữa. Có điều khi trước chàng là bang chủ Cái Bang thì khắp giang hồ đâu cũng là nhà, còn bây giờ không tiện đến tá túc tại các phân đà nữa, lại phải tìm những đường hẻo lánh mà đi để khỏi gặp các thuộc hạ cũ trong Cái Bang, tránh sinh ra rắc rối cùng phiền não. Đi được hai ngày, trong người cạn sạch tiền bạc, chàng đành phải đem bán con ngựa đoạt được của bọn Tây Hạ để làm lộ phí.

Một hôm, Kiều Phong đến chân núi Tung Sơn bèn nhắm theo ngọn Thiếu Thất mà đi. Đây là nơi chàng sinh sống hồi còn nhỏ tuổi, chỗ nào cũng quen thuộc. Trong võ lâm thì Cái Bang là bang hội lớn nhất, Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất, nếu như bang chủ Cái Bang đến bái phỏng Thiếu Lâm Tự ắt phải sắp đặt đủ loại nghi lễ, kinh động rất nhiều người. Vì thế mà từ lúc nhậm chức bang chủ Cái Bang đến nay, hàng năm chàng chỉ sai người đem đồ nhu dụng cùng quà cáp về vấn an cha mẹ và ân sư, chưa tự về thăm. Đến nay Kiều Phong mới quay về cố lý, nghĩ đến một hai giờ nữa sẽ rõ thân thể vốn mơ hồ, nên dù vốn là người trấn tĩnh trầm ổn, trong lòng chàng cũng thấy nao nao.

Nhà cũ của chàng ở về phía đông núi Thiếu Thất. Kiều Phong rảo bước theo sườn núi, đến một khu vườn rau có cây táo lớn. Dưới gốc táo còn úp một cái nón cỏ và một chiếc bình trà đã sứt quai. Kiều Phong nhận ra là vật của phụ thân Kiều Tam Hòe, trong lòng nổi lên một niềm thương cảm: “Gia gia cần mẫn tiết kiệm, cái bình trà vỡ này dùng đã mấy chục năm nay mà cũng chưa vứt bỏ.”

Kiều Phong nhìn lại cây táo, hồi tưởng khi còn nhỏ, mỗi mùa trái chín phụ thân đều nắm bàn tay bé nhỏ của chàng mà rung cho trái rụng. Những trái táo đỏ chín đến nứt ra, vừa ngọt vừa nhiều nước, từ lúc xa nhà đến nay chàng chưa được ăn thứ táo nào ngon đến thế. Kiều Phong nghĩ thầm: “Dù cho hai người không phải phụ mẫu thân sinh ta chăng nữa, nhưng cái ơn dưỡng dục kia, ta một đời báo đáp cũng không xong. Bất luận chân tướng thế nào, ta quyết không thay đổi cách xưng hô”.

Kiều Phong đến trước ba gian nhà đất thấy ngoài sân có mảnh phên tre phơi đầy rau dưa. Một con gà mái dẫn đàn gà con đang bới cỏ tìm mồi. Bất giác chàng tủm tỉm cười, nghĩ thầm: “Không chừng tối nay má má giết gà làm cơm để khoản đãi đứa con lâu nay không gặp.” Chàng cao giọng gọi: “Gia gia! Má má! Con đã về đây!”

Kiều Phong gọi luôn mấy tiếng không nghe đáp lại thì nghĩ bụng: “Phải rồi! Hai cụ nay đã cao tuổi, chắc lãng tai không nghe rõ”. Chàng đẩy cửa bước vào, trong nhà từ bàn gỗ ghế tre đến cày bừa cuốc xẻng vẫn gần như nguyên vẹn, nhưng sao không thấy bóng người?

Kiều Phong lại gọi thêm mấy tiếng nữa: “Gia gia, má má ơi!” Vẫn không thấy ai trả lời, chàng hơi ngạc nhiên, lẩm bẩm một mình: “Không biết hai cụ đi đâu?” Chàng thò đầu nhìn vào trong phòng, bất giác giật nảy mình. Hai vợ chồng Kiều Tam Hòe nằm lăn lóc dưới đất, không động đậy.

Kiều Phong nhảy xổ ngay vào nâng mẫu thân dậy thì thấy bà đã tắt thở nhưng thân còn hơi ấm, rõ ràng là mới chết chưa đầy một giờ. Chàng đến đỡ phụ thân lên thì cũng y như thế. Kiều Phong vừa kinh hoàng vừa đau xót, ôm thi thể phụ thân chạy ra ngoài cửa, xem xét kỹ dưới ánh sáng mặt trời, thấy gân cốt trước ngực đều bị đứt đoạn, hiển nhiên bị một tay cao thủ võ lâm dùng chưởng lực lợi hại đánh chết. Xem đến thi thể mẫu thân thì cũng không khác chút nào. Kiều Phong trong lòng bấn loạn, nghĩ thầm: “Gia nương ta là vợ chồng nhà quê trung hậu thực thà, sao lại bị cao thủ võ lâm đến hạ độc thủ? Chuyện này ắt hẳn vì ta mà ra.”

Chàng liền xem xét kỹ càng ba gian nhà từ trước ra sau, nhảy cả lên mái xem có vết tích gì không. Song hung thủ vô cùng cẩn thận, một vết chân cũng không để lại. Kiều Phong mặt mày đẫm lệ, càng nghĩ càng đau buồn, nhịn không nổi khóc òa lên.

Mới khóc được mấy tiếng thì sau lưng có tiếng người nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Chúng ta đến chậm mất rồi.” Kiều Phong đứng lên quay lại nhìn, thấy bốn nhà sư trung niên, phục sức theo lối chùa Thiếu Lâm. Kiều Phong tuy đã từng học võ phái Thiếu Lâm, nhưng sư phụ chàng là Huyền Khố đại sư cứ nửa đêm mới đến nhà chàng truyền thụ, thành ra chàng không biết mặt nhà sư nào trong chùa. Lúc này trong lòng chàng đau khổ, thấy người ngoài đến mà cũng không cầm được nước mắt.

Một nhà sư dáng người cao cao, mặt đầy vẻ giận dữ, lớn tiếng quát mắng: “Kiều Phong! Con người như ngươi thật không bằng chó lợn. Vợ chồng Kiều Tam Hòe dù không phải là phụ mẫu thân sinh, song mười mấy năm trời dưỡng dục đâu phải ít công lao, ngươi nỡ nào ra tay sát hại?” Kiều Phong sụt sùi đáp: “Tại hạ vừa về đến nhà đã thấy song thân bị hại, đang muốn tra xét hung thủ là ai để báo thù. Sao đại sư lại nói như thế?” Nhà sư cao tức giận đáp: “Dòng giống Khất Đan tâm địa như lang sói, hành động như cầm thú. Chính tay ngươi hạ sát nghĩa phụ, nghĩa mẫu, tiếc rằng bọn ta đến chậm mất một chút. Họ Kiều kia! Ngươi muốn đến núi Thiếu Thất làm càn, e rằng không dễ dàng đâu.” Nói xong vung chưởng đánh vào ngực Kiều Phong. “

Chàng đang định né tránh bỗng nghe sau lưng có hơi gió nhè nhẹ, biết rằng có người đánh lén. Kiều Phong không muốn động thủ cùng các nhà sư Thiếu Lâm một cách hồ đồ nên chân trái điểm một cái đã lạng người xa hơn trượng, quả nhiên một nhà sư Thiếu Lâm đá hụt vào quãng không.

Bốn nhà sư thấy chàng né tránh một cách dễ dàng như vậy đều lộ vẻ kinh dị. Nhà sư cao lại quát mắng: “Võ công ngươi giỏi thì đã sao? Ngươi tưởng rằng giết nghĩa phụ nghĩa mẫu diệt khẩu là giấu được lai lịch xuất thân ư? Ngươi là nghiệt chủng Khất Đan, việc này đã đồn rầm khắp võ lâm, trên chốn giang hồ còn ai không biết? Ngươi làm chuyện đại nghịch như thế chỉ tăng thêm tội nghiệt mà thôi.” Một nhà sư khác mắng tiếp: “Ngươi trước đã giết Mã Đại Nguyên, nay lại giết vợ chồng Kiều Tam Hòe. Hừ, tưởng như thế là che giấu được chuyện xấu xa hay sao?”

Kiều Phong nghe hai nhà sư nhục mạ, trong lòng chỉ cảm thấy xót xa, chẳng oán hận chút nào. Bình sinh chàng gặp khó khăn đã nhiều, tập được tính nhẫn nại. Chàng cố giữ bình tĩnh chắp tay thi lễ, nói: “Xin hỏi bốn vị đại sư pháp hiệu là gì? Phải chăng là những bậc cao tăng tại chùa Thiếu Lâm?”

Một nhà sư người tầm thước tính tình dễ chịu hơn liền nói: “Bọn ta đều là đệ tử Thiếu Lâm. Ôi, nghĩa phụ nghĩa mẫu ngươi một đời trung hậu sao lại được báo đáp một cách thê thảm thế này! Kiều Phong, người Khất Đan các ngươi thật là tàn nhẫn!”

Kiều Phong nghĩ thầm: “Mấy nhà sư này đã không chịu nói pháp danh, hỏi nữa cũng vô ích. Nhà sư cao kia bảo là họ đến cứu viện chậm một chút, hẳn là có người đưa tin. Ai biết trước gia nương ta gặp nguy hiểm? Ai thế nhỉ?” Chàng liền tìm cách hỏi: “Bốn vị đại sư lòng dạ từ bị định đến cứu gia nương tại hạ, tiếc thay chậm mất một bước…”

Nhà sư cao kia tính nóng như lửa, vung quyền lên nhắm Kiều Phong đấm tới, quát lớn: “Bọn ta chậm một bước nên người mới làm chuyện hung ác này được. Ngươi còn tự đắc khoe khoang, buông lời khiêu khích nữa hay sao?”

Kiều Phong biết bốn vị này vì lòng hảo tâm mà đến cứu gia nương mình, thực tâm không muốn động thủ xuất chiêu. Thế nhưng nếu không chế ngự được bọn họ thì vĩnh viễn sẽ không hiểu rõ trắng đen, chàng liền nói: “Tại hạ hết sức cảm kích hảo ý của bốn vị. Hôm nay không biết làm sao hơn, bất đắc dĩ phải đắc tội.” Nói xong, chàng chuyển mình quay vụt lại, đưa tay ra vỗ vào vai nhà sư thứ ba. Nhà sư này quát hỏi: “Ngươi động thủ thật sao?” Y vừa hỏi dứt câu đã bị vỗ trúng vai, nhũn người ra ngồi phịch xuống đất.

Kiều Phong học võ từ phái Thiếu Lâm nên võ công gia số của bốn nhà sư chàng thuộc nằm lòng, liên tiếp xuất chưởng đánh ngã hết rồi nói: “Tại hạ thật là đắc tội! Xin hỏi bốn vị đại sư, các vị vừa bảo đến cứu chậm một chút, vậy làm sao biết được gia nương tôi sắp bị nạn? Ai đã báo tin cho các vị biết?”

Nhà sư cao kia giận dữ đáp: “À, thì ra ngươi lại muốn tra hỏi cho biết người đưa tin để hạ độc thủ tiếp. Đệ tử Thiếu Lâm khi nào chịu cung khai với bọn chó Khất Đan? Ngươi cứ thử dùng độc hình xem bọn ta có nói lộ nửa lời hay chăng?”

Kiều Phong than thầm trong bụng: “Hiểu lầm mỗi lúc một sâu, ta có trình bày cách nào bọn họ cũng nghĩ là mình đang lấy khẩu cung.” Chàng đưa tay xoa nắn trên lưng mỗi người mấy cái, giải hết huyệt đạo rồi nói: “Nếu Kiều mỗ muốn sát nhân diệt khẩu thì lúc này đã lấy mạng bốn vị rồi. Chuyện đúng hay sai, thể nào rồi đây cũng có ngày sông cạn đá bày.”

Bỗng nghe từ sườn núi có tiếng người cười nhạt, nói: “Muốn sát nhân diệt khẩu cũng không dễ như thế đâu.”

Kiều Phong ngoảnh đầu lại xem thì thấy đến hơn mười vị hòa thượng Thiếu Lâm, vị nào cũng tay cầm binh khí. Hai nhà sư đứng đầu chừng năm chục tuổi, tay cầm phương tiện sạn, đầu cây sạn hàn quang lấp lánh. Nhãn quan hai vị này loang loáng như điện, thoạt nhìn đã biết nội công thâm hậu. Kiều Phong không sợ hãi, nhưng cũng biết những người vừa đến võ công không phải tầm thường, nếu đã giao tranh thì phải giết vài người mới bảo toàn được tính mạng mà trốn thoát. Chàng chắp tay nói: “Kiều Phong vô lễ, xin có lời tạ tội với chư vị đại sư.” Đột nhiên thần hình chàng bay ngược về sau, lưng đụng gãy cánh cửa, chui tọt vào trong căn nhà đất.

Biến cố diễn ra cực kỳ nhanh, các nhà sư cùng kinh hoảng kêu la, năm sáu người xông lên nhưng vừa đến cửa, một luồng kình phong từ bên trong đánh ra. Ai nấy đều vội vàng đưa chưởng lên vận nội lực chống đỡ, nghe bùng một tiếng, cát bụi tung bay. Tất cả bị ép lùi lại đến bốn năm bước. Mấy vị đứng vững lại rồi, đều thấy khí huyết trong ngực trào lên, sắc mặt nhợt nhạt, ngơ ngác nhìn nhau. Ai nấy trong bụng đều hiểu rõ chưởng lực của Kiều Phong tuy đã mạnh nhưng vẫn còn dư lực, nếu phóng tiếp chưởng thứ hai ra vị tất đã đỡ nổi. Mọi người cho rằng Kiều Phong là hạng cùng hung cực ác, còn dành sức để đánh nữa, có biết đâu chàng hạ thủ lưu tình, không cố ý giết người.

Mười mấy hòa thượng đều thủ thế đề phòng. Một lát sau, hai nhà sư đứng đầu cầm phương tiện sạn cùng xuất chiếu Song Long Nhập Động, thân hình song song cùng tiến vào căn nhà đất. Hai cây sạn chạm nhau bật lên những tiếng leng keng, kết thành một màn lưới sáng lòe bảo hộ toàn thân. Nhưng trong nhà trống không, Kiều Phong biến đâu không thấy nữa, thi thể vợ chồng Kiều Tam Hòe cũng không còn.

Hai nhà sư cầm phương tiện sạn thuộc Giới Luật Viện trong chùa Thiếu Lâm, một người là trì giới tăng, chuyên giám sát hành vi đệ tử bản phái, còn một người là thủ luật tăng, chuyên bôn tẩu giang hồ để tra xét công tội các đệ tử môn hạ. Hai vị này bản lãnh cao cường, kiến văn rộng rãi hơn người, thấy Kiều Phong biến mất trong khoảnh khắc đã là giỏi rồi, ôm theo cả thi thể vợ chồng Kiều Tam Hòe lại càng khó tưởng tượng. Các vị chia nhau tra xét ngõ trước vườn sau, đến cả xó bếp cũng bị lục lọi mấy lần. Hai nhà sư Giới Luật Viện cùng đề khí chạy xuống núi đuổi đến hơn hai chục dặm nhưng nào có thấy tung tích Kiều Phong đâu?

Chẳng ai ngờ Kiều Phong lại ôm thi thể gia nương chạy ngược lên núi Thiếu Thất. Chàng tìm đến một sườn núi cheo leo thật kín đáo, an táng cha mẹ rồi cung kính dập đầu tám lạy, lâm râm khấn vái: “Gia gia ơi! Má má ơi! Chưa biết gia gia má má bị kẻ nào hạ độc thủ sát hại. Hài nhí nhất định tìm ra hung thủ, đưa đến mộ phần moi tim tế sống hai vị lão nhân gia.”

Lần này Kiều Phong về nhà, chỉ chậm một phút mà không được gặp mẹ cha. Chàng nghĩ thầm: “Nếu gia nương trông thấy mình đã trưởng thành, tráng kiện khôi ngô chắc là mừng lắm! Giá như ba người được đoàn tụ một ngày nửa buổi thì cũng còn được an ủi phần nào.” Nghĩ đến đây, không cầm lòng được, Kiều Phong thổn thức không ra tiếng. Chàng tính tình cứng cỏi từ bé, ít khi khóc lóc, hôm nay vì đau thương đến cùng cực, căm phẫn đến tột độ, nên nước mắt tuôn trào không sao cầm được.

Đột nhiên chàng nghĩ ra một chuyện quan trọng, kêu thầm: “Thôi nguy rồi! Ân sư ta là Huyền Khổ đại sư không chừng cũng bị nguy hiểm”.

Kiều Phong bỗng hiểu ra mấy việc: “Hung thủ giết gia nương chỉ nửa giờ trước khi ta về đến nhà, không phải là chuyện ngẫu nhiên. Y đã dự mưu, hạ thủ xong rồi lập tức thông báo cho chùa Thiếu Lâm rằng ta đang lên núi Thiếu Thất giết hai ông bà để diệt khẩu. Các nhà sư đó tấm lòng nghĩa hiệp, thể nào cũng đến cứu viện, rồi chạm trán với ta. Hiện nay chỉ còn một người biết rõ thân thế của ta là Huyền Khổ sư phụ. Ta phải đề phòng hung thủ lại ra tay, rồi đem hết tội lỗi trút lên đầu mình.”

Kiều Phong nghĩ đến Huyền Khổ đại sư vì mình mà phải chịu nguy hiểm, bất giác ruột nóng như lửa đốt, vội vàng cất bước chạy thẳng lên chùa Thiếu Lâm. Chàng biết rõ cao thủ trong chùa đông như kiến, nhất là mấy vị lão tăng trong Đạt Ma Đường mang tuyệt kỹ kinh người, nếu mình thò mặt ra tất nhiên bị chư tăng vây đánh, khó lòng thoát thân được. Do đó chàng chỉ tìm những nẻo đường hoang vắng, chông gai, cỏ rậm mà chạy, quần áo bị móc rách bươm, ống chân máu chảy đầm đìa nhưng chàng cũng không coi vào đâu. Lòng vòng theo đường nhỏ lên núi, xa thêm gấp rưỡi, chàng chạy mất hơn một giờ mới lên đến sau chùa. Lúc đó trời đã tối mịt, chàng trong lòng vừa mừng vừa lo, mừng là vì trời tối dễ bề ẩn nấp, lo là vì hung thủ nhân lúc đêm tối đánh lén, mình khó tìm ra tung tích.

Mấy năm qua Kiều Phong ngang dọc giang hồ ít khi gặp kình địch. Nhưng lần này địch thủ không những võ công cao cường mưu mô quỷ quyệt, mà lại chưa lộ diện. Chùa Thiếu Lâm tuy là đầm rồng hang cọp nhưng đâu có đề phòng có người đến ám toán, nếu như hung thủ đánh lén thì e rằng Huyền Khổ đại sự khó mà thoát được tai kiếp. Kiều Phong cũng biết mình đang rất dễ bị hiềm nghi. Nếu như lúc này Huyền Khổ đại sư đã bị ám toán, không ai nhìn thấy hung thủ hình dạng thế nào, chàng bị người ta phát giác lén lút vào chùa thì dù có trăm cái miệng cũng không cãi nổi. Nếu lúc này Kiều Phong chỉ nghĩ đến mình thì đã tránh khỏi chùa Thiếu Lâm càng xa càng tốt, nhưng một là lo lắng đến sự an nguy của ân sư Huyền Khổ đại sư, hai là muốn nhân cơ hội này tróc nã hung phạm báo thù cho gia nương, nên dẫu cực kỳ nguy hiểm chàng cũng không coi vào đâu.

Kiều Phong ở núi Thiếu Thất hơn chục năm nhưng chưa hề bước chân vào trong chùa Thiếu Lâm, thành thử phương hướng các phòng ốc tòa viện hoàn toàn không biết gì, cũng chẳng hiểu Huyền Khổ đại sư ngụ tại nơi nào. Chàng nghĩ bụng: “Nếu ta gặp được ân sư bình an vô sự, trước tiên bẩm rõ nội tình để lão nhân gia để ý đề phòng, sau đó sẽ hỏi thân thế lai lịch. May ra ân sư có thể đoán được hung thủ là ai”.

Trong chùa Thiếu Lâm, điện, đường, viên, lạc nhiều vô kể, đông một tòa, tây một tòa rải rác khắp các sườn núi. Huyền Khổ đại sư không giữ chức vụ gì quan trọng, trong chùa ít ra cũng có tới hai chục cao tăng pháp hiệu chữ Huyền ăn mặc giống nhau, trong đêm tối biết tìm ông nơi đâu? Kiều Phong tính thầm trong bụng: “Chỉ còn cách khống chế một nhà sư Thiếu Lâm, bắt y dẫn mình đến gặp Huyền Khổ sư phụ, sau đó sẽ nói rõ việc bất đắc dĩ rồi trịnh trọng xin lỗi ông ta. Thế nhưng không được, tăng chúng Thiếu Lâm phần nhiều coi trọng nghĩa khí, nếu hiểu lầm ta mưu toan điều gì bất lợi cho Huyền Khổ đại sư, hẳn là thà chết chứ không chịu khuất phục dẫn đến nơi. Thôi! Ta đành xuống nhà bếp tìm một gã hỏa công bắt y dẫn đường. Nhưng hạng người này vị tất đã biết chỗ ở của sư phụ mình?”

Chàng nhất thời chưa biết làm thế nào, qua tòa viện nào cũng phục ngoài cửa số nghe ngóng, hi vọng tìm được chút manh mối. Tuy chàng thân thể khôi vĩ nhưng thân thủ nhanh nhẹn, trồi lên hụp xuống nhẹ nhàng như mèo khiến chẳng một ai hay biết. Kiều Phong cứ dần dần mà tiếp, đến bên một tòa nhà nhỏ bỗng nghe bên trong có người nói: “Phương trượng có việc cần thương nghị gấp, mời sư thúc lập tức đến Chứng Đạo Viện.” Nghe một giọng già nua trả lời: “Được rồi! Ta sẽ đến ngay.” Kiều Phong nghĩ thầm: “Phương trường triệu tập các lão tăng để bàn việc quan trọng, không chừng sư phụ ta cũng có mặt. Ta nên theo vị này đến Chứng Đạo Viện”. Nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở, hai nhà sư đi ra. Nhà sư già đi về hướng tây còn nhà sư trẻ rảo bước về hướng đông, chắc là đi truyền tin chỗ khác.

Kiều Phong nghĩ bụng: “Vị lão tăng này được phương trượng mời đến hội họp, chắc là vai vế cực cao, Chùa Thiếu Lâm không phải tầm thường, người có thân phận cao tất nhiên võ công thâm hậu”. Nghĩ vậy, chàng không dám theo sát, chỉ nhìn bóng sau lưng thấy vị lão tăng đi thẳng vào một tòa nhà ở hướng tây. Kiều Phong đợi ông ta vào trong rồi mới đi vòng ra phía sau, xem kỹ chung quanh không có ai mới phục xuống bên cửa số nghe ngóng.

Trong lòng chàng vừa bi phẫn vừa tức tối, tự nhủ: “Kiều Phong này bôn tẩu giang hồ, đối với đồng đạo chính phái chuyện gì cũng quang minh lỗi lạc. Vậy mà hôm nay ta bắt buộc phải lén lút, nếu bại lộ hành tung thì thanh danh một đời Kiều mỗ mất hết, còn mặt mũi nào mà nhìn ai?”. Nhưng rồi chàng lại nghĩ: “Năm xưa sư phụ xuống núi dạy võ nghệ cho ta, dẫu có mưa to gió lớn cũng không bỏ một đêm nào. Ơn đức nặng như thế, ta dù tan xương nát thịt cũng chưa đủ báo đền. Cái nhục phải lén lút có chi là đáng kể?”

Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng chân bốn người bước vào, một lát lại thêm hai người nữa. Kiều Phong nhìn bóng in trên giấy dán cửa sổ, thấy có đến hơn mười người trong viện, liền nghĩ thầm: “Nếu họ thương lượng việc cơ mật của phái Thiếu Lâm mà ta nghe lỏm được, dù không cố ý nhưng cũng không ổn, chi bằng ta lui xa ra thì hơn. Nếu sư phụ quả có ở trong, hung thủ lợi hại cỡ nào cũng không thể đả thương ông giữa đám đông cao thủ. Đợi khi hội họp xong rồi, quần tăng phân tán, ta sẽ tìm cách gặp riêng sư phụ.”

Chàng đang rón rén lùi ra, bỗng nghe từ trong nhà vang lên tiếng tụng kinh. Kiều Phong không hiểu gì về kinh Phật, nhưng nghe thấy giọng trang nghiêm lại có chiều thương xót. Phải một thời gian khá lâu, chàng mới dần dần hiểu ra có việc gì không ổn, nghĩ thầm: “Dường như các vị đang làm lễ cầu siêu, hay tham thiền nghiên cứu kinh điển gì đó, xem ra sự phụ ta không có ở đây”. Chàng lắng tai nghe kỹ, quả nhiên trong tiếng chư tăng tụng niệm không có giọng trầm trầm của Huyền Khổ đại sư.

Trong lúc Kiều Phong vẫn chưa quyết định được nên tiếp tục chờ hay không, tiếng tụng kinh bỗng chấm dứt, một giọng oai nghiêm cất lên: “Huyền Khổ sư đệ! Sư đệ còn có điều gì muốn nói nữa không?” Kiều Phong cả mừng, thầm nghĩ: “Lão nhân gia có ở trong này, vẫn bình an. Thì ra người không lên tiếng đọc kinh.”.

Một giọng trầm trầm đáp lại, Kiều Phong nhận ra ngay thanh âm của thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư: “Ngày tiểu đệ thụ giới, tiên sư cho pháp hiệu là Huyền Khổ. Đức Phật Tổ có nói đến bảy nỗi khổ trên đời, đó là sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ không ưa, xa kẻ thân yêu, muốn điều không được. Tiểu đệ cố gắng thoát ra khỏi bảy nỗi khổ đó mà chỉ mong độ được cho mình chứ chẳng dám độ cho người, nói ra càng thêm hổ thẹn. Cái nỗi khổ gần kẻ không ưa kia, nguyên là một cảnh giới mà nhân sinh phải có. Gieo nhân nào thì ắt sẽ hái quả đó, các vị sư huynh thấy tiểu đệ tránh được một nghiệp, nên vui mừng mới phải.” Giọng ông nói cực kỳ bình tĩnh, có điều dùng nhiều ngôn ngữ nhà Phật nên Kiều Phong không hiểu ý nghĩa ra sao.

Lại nghe giọng oai nghiêm ban nãy tiếp lời: “Mấy tháng trước đây Huyền Bi sư đệ chết vào tay gian nhân. Chúng ta hết sức truy tìm hung thủ, tựa hồ như phạm vào hai giới, là giới sân và giới nộ. Tuy nhiên cốt lõi của việc hàng ma phục quỷ, trừ gian diệt ác cũng là phổ cứu thế nhân. Chúng ta học võ là để tuyên dương Phật pháp, giải trừ khổ nạn cho chúng sinh…” Kiều Phong nghĩ thầm: “Giọng nói uy nghiêm này chắc là của Huyền Từ đại sư, phương trường chùa Thiếu Lâm”. Lại nghe nói tiếp: “… Loại trừ một ma vương là cứu được vô số người đời, Sư đệ! Kẻ đó phải chăng là Cô Tô Mộ Dung?”

Kiều Phong nghĩ bụng: “Việc này lại dính líu đến nhà Mộ Dung đất Cô Tô. Nghe nói Huyền Bi đại sư bị ám sát tại nước Đại Lý, chắc họ nghi là Mộ Dung công tử hạ độc thủ.” Lại nghe Huyền Khổ đại sư đáp: “Phương trượng sư huynh! Tiểu đệ không muốn sư huynh cùng các vị sư huynh đệ phải lo lắng cho mình mà tăng thêm nghiệp báo. Kẻ kia nếu như biết buông dao đồ tể, quay đầu lại là thấy bờ ngay, còn như chấp mê không tỉnh ngộ là tự chuốc lấy cái đau khổ vào mình. Tướng mạo gã thế nào cũng bất tất đề cập đến nữa.” Huyền Từ phương trượng nói: “Được rồi! Sư đệ giác ngộ lớn, kiến thức cao, còn ta chưa dứt tính câu chấp, thật không bằng được…” Huyền Khổ nói: “Tiểu đệ muốn được tĩnh tọa một lúc để sám hối.” Huyền Từ đáp: “Thôi được! Sư đệ bảo trọng!”

Lại nghe tiếng cửa mở kèn kẹt, một nhà sư cao gầy từ từ đi ra. Sau ông một trường là một đoàn người, tổng cộng mười bảy nhà sư. Cả mười tám vị đều chắp tay trước ngực, cúi đầu mặc niệm, vẻ mặt trang nghiêm.

Sau khi chúng tăng đi khỏi, trong nhà lại im lặng như tờ, Kiều Phong nhất thời chưa dám hiện thân gõ cửa. Bỗng nghe Huyền Khổ đại sư lên tiếng gọi: “Khách từ xa đến sao lại ngập ngừng không vào?” Kiều Phong cả kinh, nghĩ thầm: “Ta nín thở bế khí, người khác đứng sát bên chưa chắc đã phát hiện ra. Sư phụ thính tai như thế, nội công quả là cao cường”. Chàng bèn đến trước cửa phòng, cung kính nói: “Sư phụ an hảo! Đệ tử Kiều Phong khấu đầu bái kiến sư phụ.”

Huyền Khổ “A” lên một tiếng rồi hỏi: “Phong nhi đấy ư? Ta đang nghĩ đến con đây, chỉ mong được gặp con một lần. Vào đây mau!” Trong giọng nói đầy vẻ hoan hỉ. Kiều Phong cả mừng rảo bước tiến vào, quì xuống khấu đầu nói: “Bình nhật đệ tử ít khi được hầu hạ, để nhọc lòng sư phụ nhớ mong. Sư phụ cường kiện, đệ tử vui mừng khôn xiết!” Nói xong chàng ngẩng đầu lên, nhìn sư phụ đăm đăm.

Huyền Khổ đại sư nét mặt đang hòa ái tươi cười, nhìn rõ Kiều Phong dưới ánh đèn dầu đột nhiên, sắc mặt đại biến, đứng phắt dậy, run run hỏi: “Ngươi… ngươi… thì ra là ngươi, ngươi là Kiều Phong đấy sao? Chính tay ta… ta dạy được học trò giỏi thật!” Vẻ mặt ông vừa kinh ngạc vừa thống khổ, dường như lẫn cả thương xót và tiếc nuối.

Kiều Phong thấy trong giây lát mà nét mặt sư phụ đã biến đổi dị thường thì trong lòng kinh ngạc. Chàng nói: “Sư phụ! Hài nhi là Kiều Phong đây mà!”

Huyền Khổ đại sư nói: “Hay lắm! Hay lắm! Hay lắm!” Ông nói ba câu “hay lắm” liên tiếp rồi không nói gì nữa. Kiều Phong cũng không dám hỏi, lẳng lặng chờ xem sư phụ có điều chi dạy bảo. Ngờ đâu chờ mãi vẫn không thấy Huyền Khổ đại sư lên tiếng, Kiều Phong nhìn lên khuôn mặt sư phụ, thấy hình như đã cứng đờ, vẻ mặt không thay đổi chút nào. Chàng không khỏi giật mình, cầm tay đại sư thì thấy đã hơi lạnh, lại để tay lên mũi, ôi thôi, sư phụ đã tắt thở tự lúc nào. Biến cố xảy ra quá đột ngột khiến Kiều Phong há hốc miệng, mắt mở trừng trừng, đầu óc rối loạn: “Sư phụ vừa trông thấy ta liền sợ hãi đến chết ư? Không thể như thế được, mặt ta có gì đáng sợ đâu? Hay là người sớm đã bị thương rồi?” Thế nhưng ông không dám xem xét thân thể ân sư.

Kiều Phong cố gắng định thần, trong bụng đã quyết: “Nếu ta lẳng lặng trốn đi thì còn gì bản sắc hảo hán hiên ngang của Kiều Phong này? Việc hôm này dẫu có nguy hiểm vạn phần cũng phải tra xét cho minh bạch.” Chàng ra khỏi cửa, lớn tiếng kêu lên:“Phương trượng đại sư: Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi! Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi!” Chàng chân khí sung mãn, tiếng gọi truyền đi rất xa, vang rền cả khe núi, cả chùa cùng nghe thấy. Tiếng kêu tuy hùng hồn nhưng cũng thật là thống khổ.

Huyền Từ phương trượng cùng quần tăng còn chưa về đến phòng riêng, nghe tiếng gọi của Kiều Phong vội vàng quay lại, rảo bước chạy đến Chứng Đạo Viện thì thấy một đại hán cao lớn đứng sừng sững bên cạnh cửa, giơ tay chùi nước mắt. Chúng tăng ai nấy đều ngạc nhiên, Huyền Từ chắp tay hỏi: “Thí chủ là ai?” Phương trường quan tâm đến an nguy của Huyền Khổ, không đợi Kiều Phong đáp đã vội vàng xông thẳng vào phòng, thấy Huyền Khổ vẫn còn sừng sững không ngã, lại càng ngạc nhiên. Các nhà sư cùng vào theo, cúi đầu tụng kinh.

Kiều Phong vào sau cùng, quì xuống khấn thầm: “Sư phụ ơi! Đệ tử đến muộn quá, lão nhân gia đã bị độc thủ rồi. Tên hung đỗ kia lại gây thêm cừu hận, đệ tử gian nan đến đâu cũng phải đi tìm y về phân thây trăm mảnh để báo thù cho sư phụ.”

Huyền Từ tụng kinh xong, quan sát Kiều Phong rồi hỏi: “Thí chủ là ai? Có phải thí chủ vừa hô hoán đấy chăng?”

Kiều Phong nói: “Đệ tử là Kiều Phong, thấy sư phụ viên tịch không dằn nổi bị thương, làm kinh động đến phương trượng.” Huyền Từ nghe đến tên của Kiều Phong thì giật mình, trên mặt lộ vẻ lạ lùng, lại nhìn chàng một hồi nữa mới nói: “Phải chăng… phải chăng thí chủ là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang?” Kiều Phong nghĩ thầm: “Tin tức trên giang hồ thật là mau lẹ. Đại sư đã biết ta không còn làm bang chủ Cái Bang, ắt hẳn biết nguyên do vì sao ta bị trục xuất khỏi Cái Bang.” Chàng bèn đáp: “Thưa vâng”

Huyền Từ hỏi: “Vì sao thí chủ lại đang đêm lẻn vào tệ tự? Sao lại thấy Huyền Khổ sư đệ viên tịch?” Kiều Phong trong lòng có trăm ngàn điều muốn hỏi, nhưng nhất thời không biết bắt đầu từ đâu, đành đáp: “Huyền Khổ đại sư là ân sư đã dạy dỗ đệ tử, không biết ân sư bị thương ra sao, kẻ nào ra tay hạ thủ?”

Huyền Từ phương trượng sa nước mắt, đáp: “Huyền Khổ sư đệ bị người đánh lén, ngực trúng một chưởng trầm trọng, gân cốt đứt hết, ngũ tạng cũng tan nát. Chỉ nhờ sư đệ nội công thâm hậu mới gượng được đến bây giờ. Chúng ta có hỏi địch nhân là ai, y bảo không quen biết, lại hỏi tướng mạo tuổi tác hung thủ ra sao, y nói đến thất khổ của nhà Phật, trong đó gần kẻ không ưa là một. Sư đệ cho rằng gặp phải oan gia đối đầu là có cơ duyên giải thoát, nên hình dáng hung thủ nhất định không nói ra.”

Kiều Phong chợt hiểu: “Thì ra chư tăng đã biết sư phụ bị trọng thương, lúc nãy niệm Phật tụng kinh chính là để tiễn người về cõi Tây phương”. Chàng nghẹn ngào nói: “Các vị cao tăng tâm địa từ bi mới không nghĩ đến oán thù. Còn đệ tử là kẻ trần tục, thể nào cũng bắt kẻ gian kia chặt ra muôn đoạn để báo thù cho ân sư. Quí tự là chốn thâm nghiêm, không biết hung thủ lẻn vào lối nào?”

Huyền Từ trầm ngâm chưa đáp thì một lão tăng thân thể thấp bé đột nhiên cười khẩy nói: “Thí chủ lén vào chùa Thiếu Lâm, chúng ta cũng chẳng phát giác được mà ngăn trở. Hung thủ kia dĩ nhiên cũng có thể muốn đến thì đến, muốn đi thì đi như chỗ không người.”

Kiều Phong khom lưng chắp tay nói: “Đệ tử có việc cấp bách bên mình, không kịp đứng ngoài sơn môn báo tin cầu kiến, thật là thất lễ, khẩn cầu các vị sư phụ lượng thứ cho. Đệ tử đã có uyên nguyên sâu xa với chùa Thiếu Lâm, quyết không dám có ý mạo phạm.” Chàng có ý nói nếu như phái Thiếu Lâm mất mặt thì mình cũng xấu lây. Kiều Phong cũng hiểu rằng mình lẻn vào hậu viện chùa Thiếu Lâm đến khi tự hô hoán mới có người biết, việc này mà truyền ra ngoài thì thể diện phái Thiếu Lâm bị tổn thương rất lớn.

Lúc đó một chú tiểu bưng bát thuốc còn bốc hơi nghi ngút đi vào phòng, nhìn thi thể Huyền Khổ mà nói: “Xin sư phụ dùng thuốc.” Chú tiểu này vẫn phục thị Huyền Khổ, vừa tới Dược Vương Viện sắc một thang thuốc trị thương Cửu Chuyển Hồi Xuân Thang cho sư phụ. Y thấy Huyền Khổ vẫn đứng sững, không biết ông đã viên tịch rồi. Kiều Phong trong lòng thống khổ, nghẹn ngào nói: “Sư phụ đã…” .

Chú tiểu quay đầu lại, vừa trông thấy Kiều Phong đột nhiên la hoảng: “Ngươi…Ngươi… lại đến nữa à?” Nghe choang một tiếng, bát thuốc rơi xuống đất, thuốc lẫn mảnh bát văng tung tóe. Chú tiểu nhảy lùi về sau hai bước đứng nép vào tường, kêu lên: “Chính là hắn! Hắn vừa đả thương sư phụ!”

Y kêu lên như vậy, mọi người ai cũng kinh hoảng. Kiều Phong lại càng bàng hoàng, lớn tiếng hỏi: “Ngươi nói gì?” Chú tiểu này mới mười hai mười ba tuổi, trông thấy Kiều Phong cực kỳ sợ hãi, trốn vào sau lưng Huyền Từ phương trượng, bíu lấy tay áo ông mà kêu gọi rối rít: “Phương trượng Phương trượng!” Huyền Từ nói: “Thanh Tùng, không việc gì phải sợ. Con vừa nói gì, có phải kia là người đả thương sư phụ không?” Chú tiểu Thanh Tùng đáp: “Đúng rồi! Hắn phóng chưởng đánh trúng ngực sư phụ, con đứng ngoài cửa sổ trông thấy rõ ràng. Sư phụ, sao sư phụ không đánh hắn đi?” Y vẫn chưa biết Huyền Khổ đã viên tịch rồi.

Huyền Từ phương trượng nói: “Con nhìn cho kỹ, chớ nên nhầm lẫn.” Thanh Tùng đáp: “Con thấy rõ ràng, hắn mặc áo sắc tro, mặt vuông, lông mày dựng ngược, miệng to, tai lớn. Đúng hắn rồi. Sư phụ ơi! Sư phụ đánh hắn đi, đánh hắn đi!”

Kiều Phong lạnh dọc xương sống, nghĩ thầm: “Phải rồi! Hung thủ cải trang giống hệt, cố ý gieo vạ cho mình. Sư phụ nghe nói ta trở về cực kỳ hoan hỉ, nhưng thấy mặt ta giống hệt hung thủ mới đổi thái độ. Mười năm không gặp lại, ta từ một đứa trẻ đã thành người lớn, dĩ nhiên tướng mạo khác trước.” Chàng nghĩ đến Huyền Khổ đại sư trước khi chết nói liên tiếp ba lần “hay lắm”, lòng lại đau như dao cắt: “Sư phụ trúng phải đòn nặng nhưng không biết kẻ địch là ai, đến khi nghe ta xưng tên lại tưởng đồ đệ là hung thủ, quá đau lòng mà chết. Sư phụ đã bị trọng thương, trước lúc lâm chung không kịp nghĩ cho rõ, nếu đúng là ta hạ độc thủ sao còn quay lại xưng tên?”

Bỗng nghe tiếng huyên náo rồi một đám người rảo bước chạy đến trước Chứng Đạo Viện. Hai nhà sư khom lưng cung kính tiến vào, chính là hai vị trì giới tăng và thủ luật tăng vừa giao chiến với Kiều Phong ở chân núi Thiếu Thất, Trì giới tăng mới nói được nửa câu: “Bẩm phương trượng…” Y liền trông thấy Kiều Phong, vẻ mặt vừa phẫn nộ vừa kinh ngạc, không hiểu sao hắn đã tới đây rồi. Tất cả những nhà sư khác cũng hầm hầm, chăm chăm nhìn Kiều Phong.

Huyền Từ phương trượng thần sắc trang nghiêm, chậm rãi nói: “Kiều thí chủ tuy không ở Cái Bang nữa, nhưng cũng là một nhân vật nổi danh trong võ lâm. Hôm nay thí chủ giá lâm tệ tự ra tay đánh chết Huyền Khổ sư đệ, không hiểu vì lẽ gì, mong được chỉ giáo.”

Kiều Phong thở dài một tiếng, phục xuống vái lạy thi thể Huyền Khổ mà khấn: “Sư phụ! Lúc sư phụ lâm chung cũng tưởng đệ tử hạ thủ, ôm hận mà viên tịch. Đệ tử tuy ngàn vạn lần không dám mạo phạm sư phụ, nhưng gian nhân gia hại sư phụ cũng vì đệ tử mà ra. Hôm nay nếu đệ tử tự sát để tạ lỗi cũng không ân hận, nhưng vậy thì mối đại cừu của sư phụ không ai báo phục. Đệ tử phải phạm vào sự tôn nghiêm của phái Thiếu Lâm, xin sư phụ tha thứ.” Chàng nấc lên hai tiếng rồi thổi mạnh, hai đĩa đèn dầu lập tức tắt ngóm, trong phòng tối đen như mực.

Kiều Phong khi khấn nguyện đã tính toán kế sách thoát thân. Chàng vừa thổi tắt đèn, tay trái tung chưởng đẩy vào sau lưng thủ luật tăng. Phát chưởng đó dùng kình lực nhu hòa không làm tổn thương nội tạng của y, nhưng lại đấy thân hình cao to của y bay ra khỏi cửa.

Trong bóng tối chư tăng nghe thấy tiếng gió, đều nghĩ rằng Kiều Phong chạy ra, liền dùng cầm nã thủ pháp chộp vào người thủ luật tăng. Các vị đều không muốn nặng tay giết chết Kiều Phong, chỉ định bắt giữ tra hỏi cho ra vì sao giết chết Huyền Khổ đại sư. Hơn chục cao tăng đó đều là hảo thủ bậc nhất của chùa Thiếu Lâm, mà đã là bậc nhất của chùa Thiếu Lâm thì cũng là bậc nhất trong võ lâm. Cầm nã thủ của mỗi vị không giống nhau, người nào cũng có chỗ độc đáo. Cùng một lúc, Cầm Long Thủ, Ưng Trảo Thủ, Hổ Trảo Công, Kim Cương Chỉ, Ác Thạch Chưởng… các tuyệt kỹ cầm nã tối cao của phái Thiếu Lâm đều chộp lên người thủ luật tăng. Các vị đại sư xuất thủ quả là kỳ diệu, trong đêm tối chỉ nghe tiếng gió mà vẫn không sai một li. Gã thủ luật tăng phen này chịu đủ loại khổ sở, chỉ trong phút chốc yếu huyệt toàn thân đều trúng cầm nã thủ pháp, thân thể lơ lửng trên không mà miệng không nói được tiếng nào, từ cổ chí kim chắc chưa ai phải chịu như thế bao giờ.

Những cao tăng này rất lịch duyệt, thủ đoạn ứng biến cực kỳ mau lẹ. Các vị biết ngay là bắt lầm, có người lập tức phi thân lên mái nhà trấn giữ, Chỉ trong chớp mắt, mọi cửa trước cửa sau của Chứng Đạo Viện cùng các ngõ ngách, các nơi hiểm yếu đều có cao thủ án ngữ. Đừng nói gì Kiều Phong thân hình khôi vĩ, dẫu chàng có biến thành con chồn con cáo cũng chẳng thể nào thoát nổi.

Chú tiểu Thanh Tùng vội lấy hỏa đao, hóa thạch, châm mấy ngọn đèn dầu trong phòng, mọi người mới hay người bị bắt nhầm chính là thủ luật tăng.

Thủ tòa Đạt Ma Viện là Huyền Nạn đại sự liền ra lệnh cho quần tăng ở nguyên vị trí không được loạn động. Ai nấy đều nghĩ, Kiều Phong dẫu có lớn mật cũng không dám một mình xông vào một nơi đầm rồng hang cọp như chùa Thiếu Lâm để giết người. Thể nào hắn cũng có cường viện, không chừng sẽ nhân lúc nhốn nháo để thi hành độc kế điệu hổ ly sơn.

Mười mấy vị cao tăng trong Chứng Đạo Viện cùng số tăng chúng đi theo trì giới tăng liền chia ra tra xét những nơi lân cận, dường như tảng đá nào cũng bị lật lên, lùm cây bụi cỏ nào cũng có người dùng côn bổng đập vào. Tuy các đại hòa thượng đều lấy từ bị làm tâm niệm, lấy hiếu sinh làm căn bản, mà công cuộc tìm kiếm này cũng khiến vô số ếch nhái, chuột bọ, châu chấu, kiến ong bị chết oan.

Lục soát hơn một giờ sau, chỉ còn thiếu việc đào hết đất lên tìm, mà vẫn không thấy Kiều Phong đâu. Ai nấy đều cho thật là kỳ quái, có người buột mồm chửi rủa, thập giới của nhà Phật lại một phen bị vi phạm. Lúc đó di thể Huyền Khổ đại sư được đưa vào Xá Lợi Viện để thiêu hóa, còn thủ luật tăng thì được khiêng xuống Dược Vương Viện điều trị thương tích. Quần tăng ủ rũ lặng thinh, ai nấy đều cảm thấy mất mặt. Chùa Thiếu Lâm cao thủ đông như kiến, nhất là mười mấy vị cao tăng võ công tuyệt cao, tiếng tăm lừng lẫy khắp giang hồ, vậy mà để cho Kiều Phong tay không ra vào như chỗ không người. Đừng nói đến việc giết hay bắt được chàng, mà ngay việc chàng đào tẩu cách nào cũng chẳng ai đoán ra được.

Thì ra Kiều Phong đã liệu rằng các nhà sư sẽ chạy ra truy tìm tứ phía, còn trong nhà đông nghẹt thì lại lơ là. Do đó khi chàng đánh bật thủ luật tăng rồi, lập tức co người chui vào gầm giường nơi Huyền Khổ đại sư vẫn thường nằm, mười ngón tay bám lên các thanh giường, thân hình ép sát vào dưới vạt giường. Mặc dầu cũng có người cúi xuống xem xét dưới gầm giường, nhưng không trông thấy chàng được. Đến khi đưa thi thể của Huyền Khổ đi rồi, chấp sự tăng liền đóng cửa Chứng Đạo Viện lại, không ai ra vào nữa.

Kiều Phong nằm dưới gầm giường, nghe các nhà sư nhốn nháo đến quá nửa đêm, dần dần yên lặng trở lại. Chàng nghĩ thầm: “Đợi đến trời sáng thì thoát thân không phải là dễ, lúc này mà không chạy thì còn đợi đến bao giờ?”. Từ dưới gầm giường chàng len lén chui ra, khẽ đẩy cửa phòng, lạng người đến nấp đằng sau một gốc cây.

Mặc dù tiếng người đã yên, nhưng Kiều Phong biết tăng chúng chùa Thiếu Lâm chưa bỏ cuộc mà vẫn tăng cường phòng bị. Chứng Đạo Viện ở cực tây của Thiếu Lâm Tự, nếu chạy về hướng tây sẽ vào ngay trong núi. Một khi đã ra khỏi chùa Thiếu Lâm rồi, các nhà sư sẽ phải dàn rộng ra phân tán lực lượng, dẫu có đón đường thì cũng không ngăn chặn được. Nhưng chàng không muốn động thủ, chỉ mong sau này bắt được hung phạm, dẫn đến chùa trình bày cho minh bạch. Hôm nay giao đấu với thêm một nhà sư là kết thêm một mối oán thù, giả tỷ lỡ tay đánh người bị thương hoặc chết thì không biết đến thế nào mà nói. Quần tăng thấy chàng mất tích ở phía tây chùa, ắt sẽ phòng thủ nghiêm mật hướng tây, nhất là các đường về núi Thiếu Thất. Kiều Phong tính toán một lát, cho rằng ổn thỏa nhất là đi ngược về hướng đông, xuyên qua chùa mà ra.

Nghĩ vậy chàng nép người lần theo các gốc cây, qua bốn tòa phòng viện, nấp sau một cây bồ đề. Kiều Phong chợt phát hiện có hai nhà sư nằm phục sau một gốc cây phía trước mặt. Hai vị này nằm im không nhúc nhích, trong bóng tối thật khó mà nhìn thấy, may mà nhãn quang chàng sắc bén nên nhìn thấy một lưỡi giới đao lóe sáng lên. Chàng nghĩ thầm: “Thật là nguy hiểm! Ta chỉ đi lẹ một chút nữa là bại lộ hành tung”. Chàng nấp sau gốc cây chờ một lúc, hai nhà sư thủy chung vẫn không nhúc nhích. Cái kế “ôm cây đợi thỏ” quả là lợi hại, nếu như Kiều Phong hơi cử động là bị hai người đó nhìn thấy ngay, nhưng cũng không thể chần chờ ngồi đó mãi.

Chàng trầm ngâm một chút rồi nhặt một viên đá nhỏ, dùng ngón tay búng ra, kình lực thật là xảo diệu, lúc đầu thì chậm nhưng sau thì nhanh. Viên đá lúc mới bắn ra không có chút thanh âm nào, nhưng được bảy tám trượng rồi mới rít lên vo vo, đập vào một gốc cây nghe cạch một tiếng. Hai nhà sư kia vội khom lưng chạy tới.

Kiều Phong đợi cho hai nhà sư đó qua khỏi rồi tung mình nhảy lên, len luôn vào tòa viện bên cạnh, dưới ánh trăng nhìn rõ trên biển có ba chữ Bồ Đề Viện. Chàng đoán rằng hai nhà sư kia không thấy gì lạ thể nào cũng quay lại, thành thử không dừng mà chạy thẳng ra phía sau hậu điện. Chàng chợt thấy một bóng người cao lớn ở phía sau chạy vụt qua nhanh nhẹn dị thường, thân pháp trên đời ít gặp. Kiều Phong giật này mình tự hỏi: “Người này là ai mà thân thủ mau lẹ đến thế?”. Chàng đưa chưởng lên hộ vệ thân thể, quay đầu nhìn lại không khỏi bật cười, thấy trước mặt là một đại hán đứng khom người, thủ thế trước mặt, khí thế vững như núi. Thì ra trong hậu điện có một tấm bình phong, trên bình phong có gắn một chiếc gương đồng sáng bóng cực lớn, phản chiếu rõ thân mình. Trước tượng Phật có hai ngọn đèn dầu, dưới ánh sáng lờ mờ vẫn đọc được bốn hàng kinh văn khắc trên tấm gương: “Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn bào ảnh, Như lộ diệc như điện, Đương tác như thị quan.” (Những gì có hình tướng, Như bọt nước phập phồng, Như giọt sương lơ lửng, Thoắt đã rời thế gian). Kiều Phong mỉm cười, quay đầu lại toan trở gót, bỗng dưng ngẩn ngơ, dường như nghĩ ra một việc cực kỳ trọng yếu, nhưng đó là việc gì thì mơ hồ không rõ.

Chàng bần thần một lát, ngẫu nhiên lại nhìn vào chiếc gương đồng thấy bóng sau lưng của mình, tự hỏi: “Chiếc gương này tuy lớn nhưng bộ vị không đúng, hình như không thể phản chiếu được bóng ta đi qua lúc nãy. Vậy sao ta lại nhìn thấy nhỉ?” Chàng còn đang xuất thần thì bên ngoài bỗng có tiếng chân, mấy người đi vào trong điện.

Kiều Phong đang hoang mang chưa biết trốn đâu, thấy trên bàn thờ có ba pho tượng Phật, vội nhảy lên nấp vào sau lưng pho tượng thứ ba. Cả thảy sáu người chia thành hai hàng song song đi vào hậu điện, rồi mỗi người ngồi xuống một chiếc bồ đoàn, Kiều Phong từ sau pho tượng nhìn ra, thấy cả sáu nhà sư đều tuổi trung niên, nghĩ thầm: “Nếu lúc này mình lẻn ra ngoài, giả tỷ sáu nhà sư này võ công bình thường thì không thể nào biết được. Thế nhưng chỉ cần một người nội công cao thâm, mắt tinh tai thính thì sẽ phát giác ngay. Ta hãy đợi thêm một lúc nữa xem sao.”

Nhà sư ngôi đầu bên phải nói: “Sư huynh, Bồ Đề Viện này trống rỗng làm gì có kinh sách? Sư phụ bảo bọn ta đến đây coi giữ cái gì?” Nhà sư ngồi đầu bên trái mỉm cười nói: “Đó là một điều bí mật trong Bồ Đề Viện, không tiện nói nhiều.” Nhà sư bên phải nói khích: “Hừ, tiểu đệ xem chừng cả sư huynh cũng không biết.” Nhà sư phía bên trái tức mình nói “Sao ta lại không biết? Nhất mộng như thị…” Y mới nói nửa câu, chợt nhớ phải cảnh giác lập tức im bặt. Nhà sư bên phải lại hỏi: “Nhất mộng như thị là thế nào?” Nhà sư ngồi trên bồ đoàn thứ hai liền nói: “Chỉ Thanh sư đệ! Ngày thường sư đệ ít nói, sao bữa nay lại hỏi nhiều thế? Nếu sư đệ muốn biết những bí mật trong Bồ Đề Viện thì sao không lên hỏi sư phụ đi?”

Vị hòa thượng Chỉ Thanh kia không dám hỏi nữa, một lát sau mới nói: “Tiểu đệ đi ra sau tiểu tiện một chút.” Y nói xong liền đứng dậy, từ bên phải đi về cửa hông bên trái, lúc đi ngang sau lưng người thứ năm, đột nhiên vung chân phải đá trúng ngay huyệt Huyền Khu ở sau lưng, bên dưới đốt xương sống thứ mười ba. Nhà sư đó đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, huyệt Huyền Khu ngay sát mép chiếu, bị đầu ngón chân của Chỉ Thanh đã trúng, thân hình từ từ ngã ra bên phải.

Chỉ Thanh phóng cước vừa mau lẹ vừa nhẹ nhàng không một tiếng động, lại đi vào huyệt Huyền Khu của nhà sư thứ tư, rồi nhà sư thứ ba, chỉ trong nháy mắt đã đánh ngã ba người.

Kiều Phong ngồi sau tượng Phật nhìn thấy rõ ràng, trong bụng rất lấy làm kỳ, không hiểu tại sao bọn sư Thiếu Lâm lại đánh lén nhau. Lại thấy gã Chỉ Thanh phóng cước đá vào nhà sư thứ năm, tức là thứ hai từ bên trái, đầu mũi chân vừa đụng vào huyệt đạo y thì nhà sư bị điểm huyệt đầu tiên mới ngã tới đất, đầu và xuống thêm gạch đánh huỵch một cái. Nhà sư ngồi đầu bên trái giật mình đứng bật dậy, vừa kịp thấy Chỉ Thanh đá ngã người ngồi bên phải mình, kinh hãi quát lên: “Chỉ Thanh, người làm gì thế?” ChỉThanh giơ tay chỉ ra ngoài nói: “Sư huynh trông kìa! Ai đến đó?” Nhà sư kia quay đầu nhìn ra, Chỉ Thanh liền tung chân phải đá mạnh vào sau lưng y.

Cước pháp y cực nhanh lẽ ra phải trúng, thế nhưng cái gương đồng ở phía trước phản chiếu rõ ràng đòn đánh lén, nhà sư kia liền nghiêng người tránh qua, xoay tay trả lại một chưởng, kêu lên: “Ngươi có điên không?” Chỉ Thanh xuất chưởng nhanh như chớp phản kích, đến chiêu thứ tám thì bụng dưới nhà sư kia bị trúng một quyền, tiếp theo lại bị bồi thêm một cước. Kiều Phong thấy Chỉ Thanh ra chiêu âm độc, không phải võ công Thiếu Lâm, càng lấy làm kỳ.

Nhà sư kia biết không địch nổi, la lên: “Có gian tế! Có gian tế!” Chỉ Thanh nhảy vọt tới, đánh một quyền trúng ngực, nhà sư đó lập tức lăn ra bất tỉnh.

Chỉ Thanh vội chạy tới trước chiếc gương đồng, đưa ngón tay trỏ ấn vào chữ Nhất ở hàng chữ đầu tiên một cái. Kiều Phong lại thấy y ấn chữ Mộng ở hàng thứ hai, nghĩ thầm: “Nhà sư kia vừa nói lộ bí mật là Nhất Mộng Như Thị, nhưng trên tấm gương có đến bốn chữ Như, không biết y ấn chữ nào.”

Chỉ Thanh không cần suy nghĩ, giơ ngón tay ấn chữ Như đầu tiên ở hàng thứ ba, rồi tiếp theo là chữ Thị ở hàng thứ tư. Tay y chưa rời khỏi tấm gương đã nghe những tiếng lách cách, tấm gương đồng từ từ ngả ra.

Giả tỷ Kiều Phong nhân lúc này mà trốn đi thì thực là một cơ hội tốt, nhưng chàng nổi dạ hiếu kỳ, muốn biết vì lẽ gì mà nhà sư Thiếu Lâm kia lại ám hại đồng môn, sau tấm gương đồng có cất giấu vật gì, không chừng có thể liên quan đến việc Huyền Khổ đại sư bị hại.

Nhà sư cuối cùng bị Chỉ Thanh đánh ngã đã hô hoán lên. Hơn trăm hòa thượng Thiếu Lâm đang tuần tiễu ở phía tây nghe thấy đều chạy đến, khắp bốn mặt đông tây nam bắc của Bồ Đề Viện đều có tiếng chân rầm rập. Kiều Phong còn đang phân vân chưa biết làm thế nào để bao nhiêu nhà sự khỏi phát giác ra mình, nhưng chàng lại nghĩ: “Quần tăng chăm chú cả vào Chỉ Thanh thì ta thoát thân cũng dễ, bất tất phải trốn ngay.” Chàng thấy Chỉ Thanh đưa tay mò trong lỗ hổng phía sau tấm gương, nhưng chưa lấy được gì cả. Lúc đó, tiếng chân từ phương bắc đã chạy đến cửa Bồ Đề Viện.

Chỉ Thanh dậm chân thất vọng, đang định xoay mình chạy đi, Đột nhiên y nghĩ ra điều gì, cúi nhìn vào sau chiếc gương, khẽ reo lên: “À, đây rồi!” Y thò tay móc ra một cái túi nhỏ xíu, đút vào trong bọc rồi toan tìm đường trốn, nhưng bốn mặt quần tăng đã vây bọc hết, không còn đường chạy. Chỉ Thanh nhìn quanh quất rồi chạy ra cửa trước của Bồ Đề Viện.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Gã này chạy ra ngã đó, thể nào cũng bị bắt ngay”. Bỗng nhiên hơi gió ập tới, có người nhảy vào chỗ chàng đang nấp. Kiều Phong nghe gió mà định bộ vị, vươn tay trái ra đã chộp ngay được cổ tay địch nhân, tay phải đè luôn vào huyệt Thần Đạo trên lưng y khẽ vận nội lực, gã kia liền toàn thân mềm nhũn không nhúc nhích gì được nữa. Kiều Phong bắt được rồi, chăm chú nhìn kỹ tướng mạo kẻ địch, tưởng ai hóa ra Chỉ Thanh. Chàng ngạc nhiên một chút, lập tức hiểu ra: “Phải rồi. Gã này cũng định chui vào đằng sau tượng Phật để trốn như ta, lại đúng ngay pho tượng thứ ba, chắc là vì pho tượng này to hơn cả. Mà tại sao lúc đầu y chạy ra cửa trước, rồi lại lén quay trở vào đây? Ồ, là để đánh lạc hướng năm nhà sư nằm dưới đất, nếu người khác vào hỏi, cả năm vị đều nói là y chạy ra cửa trước rồi, không ai tra xét gì Bồ Đề Viện nữa. Ôi, người này quả là đa mưu túc trí.”

Kiều Phong nghĩ bụng không thể thả Chỉ Thanh ra, bèn ghé vào tai y nói nhỏ: “Ngươi mà la lên là ta phóng chưởng đánh chết liền, có hiểu không?” Chỉ Thanh gật đầu.

Bảy tám nhà sư chạy vào cửa lớn, trong đó có ba người cầm đuốc, đại điện sáng bừng lên. Quần tăng thấy năm nhà sư nằm lăn dưới đất, đều sửng sốt, lập tức xôn xao lên: “Tên ác tặc Kiều Phong lại hạ độc thủ rồi!” “Trời ơi! Chỉ Trầm, Chỉ Uyên sư huynh đấy ư?” “Ôi thôi, không xong rồi. Chiếc gương đồng này mới bị đẩy ra, Kiều Phong ăn cắp kinh thư ở Bồ Đề Viện rồi. Mau mau bẩm báo phương trượng.” Kiều Phong nghe mấy nhà sư lao xao bàn tán, không khỏi gượng cười: “Lại thêm nợ đổ lên đầu ta.” Chỉ trong giây lát, trong điện đã đông nghẹt hòa thượng.

Kiều Phong thấy Chỉ Thanh cố sức cựa quậy để thoát thân, liền đoán ngay: “Lúc này quần tăng đang nhốn nháo, bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên lại chưa tỉnh, chính là cơ hội tốt để Chỉ Thanh bỏ đi. Y cứ đường hoàng đi ra không ai nghi ngờ, vì người nào cũng đổ riệt cho ta là hung thủ.” Rồi chàng lại nghĩ: “Gã Chỉ Thanh này cũng chưa phải là tinh khôn lắm, lúc này việc gì y phải trốn? Y cứ ngang nhiên đi ra cũng chẳng ai hỏi đến.”

Đột nhiên trong điện im bặt, không ai mở miệng. Kế đó chúng tăng đồng thanh nói: “Tham kiến phương trượng, tham kiến thủ tòa Đạt Ma Viện, tham kiến thủ tòa Long Thụ Viện.”

Nghe lốp bốp mấy tiếng nhẹ, có người đã xuất chưởng vỗ năm nhà sư Chỉ Trầm, Chỉ Uyên tỉnh lại, rồi hỏi: “Lại là thủ đoạn của Kiều Phong phải không? Sao hắn lại biết bí mật trong tấm gương đồng?” Chỉ Trầm đáp: “Không phải Kiều Phong mà là Chỉ Thanh…” Đột nhiên y tung mình nhảy lên chửi: “Giỏi thật! Sao ngươi dám ra tay ám toán đồng môn?”

Kiều Phong nấp ở sau lưng pho tượng không sao đoán nổi y đang chửi ai. Bỗng nghe tiếng một người kinh hãi kêu lên: “Chỉ Trầm sư huynh, sao sư huynh lại lôi kéo tiểu đệ?” Chỉ Trầm giận dữ đáp: “Ngươi đánh ngã năm người chúng ta, ăn trộm kinh thư, thật là lớn mật. Bẩm phương trượng, tên phản tặc Chỉ Thanh này mở trộm tấm gương đồng trong Bồ Đề Viện để lấy cắp kinh thư.” Người kia kêu lên: “Cái gì? Cái gì? Từ nãy tiểu đệ vẫn ở bên cạnh phương trượng, làm sao có thể ăn trộm kinh được?”.

Một giọng già nua khàn khàn nói: “Đóng chiếc gương đồng lại, rồi tường thuật tình hình xem thế nào.” Chỉ Uyên đến đóng chiếc gương lại như cũ. Bây giờ Kiều Phong nhìn trong gương thấy tình hình quần tăng ngoài điện thật rõ ràng. Một nhà sư đang hoa chân múa tay cực kỳ khích động, Kiều Phong đưa mắt nhìn y không khỏi giật mình, chính là Chỉ Thanh. Chàng ngạc nhiên quay lại nhìn nhà sư bị mình bắt, thấy tướng mạo giống hệt người ở dưới kia, nhìn kỹ mới thấy hơi khác, trông thoáng qua thì không thể nào phân biệt được. Kiều Phong nghĩ thầm: “Trên đời này sao lại có hai người giống nhau đến thế, chắc là anh em sinh đôi. Thật là diệu kế, một người xuất gia vào chùa Thiếu Lâm, một người ở ngoài chờ đợi, gặp thời cơ liền giả trang làm hòa thượng để vào chùa trộm kinh. Nhà sư Chỉ Thanh đã không rời phương trượng nửa bước thì còn ai nghi ngờ nữa.”

Chỉ Trầm kể lại việc Chỉ Thanh dò hỏi bí mật của chiếc gương đồng, mình vô ý nói hớ bốn chữ, Chỉ Thanh giả vờ đi tiểu rồi ngầm đá ngã bốn người, sau đó động thủ đánh ngã mình. Bọn bốn người Chỉ Uyên liên tiếp phụ họa, chứng thực lời Chỉ Trầm không sai chút nào.

Huyền Từ phương trượng thần sắc vẫn thản nhiên, đợi Chỉ Trầm nói xong mới chậm rãi hỏi lại: “Ngươi trông rõ là Chỉ Thanh chứ?” Chỉ Trầm và cả bọn Chỉ Uyên cùng đáp: “Bẩm phương trượng, bọn đệ tử và Chỉ Thanh không thù không oán, lẽ nào lại vu hãm cho y?” Huyền Từ thở dài: “Việc này bên trong còn nhiều uẩn khúc. Nãy giờ Chỉ Thanh ở cạnh ta không rời nửa bước, cả thủ tòa Đạt Ma Viện cũng có mặt.”

Phương trượng đã nói vậy, quần tăng trên điện không ai dám lên tiếng nữa. Thủ tòa Đạt Ma Viện là Huyền Nạn đại sư cũng nói: “Chính ta cũng thấy Chỉ Thanh luôn luôn kề cận phương trượng sư huynh, làm sao y đến Bồ Đề Viện trộm kinh được?” Thủ tòa Long Thụ Viện là Huyền Tịch liền hỏi: “Chỉ Trầm! Khi gã Chỉ Thanh kia động thủ với ngươi, quyền cước có gì khác lạ không?” Nghe giọng ông ta đúng là giọng nói già nua khàn khàn khi nãy. Chỉ Trầm kêu lên một tiếng rồi đáp: “Đúng rồi! Bây giờ đệ tử mới nghĩ ra. Gã Chỉ Thanh kia lúc động thủ cùng đệ tử, không sử dụng võ công bản môn.” Huyền Tịch nói: “Ngươi có nhận ra chiêu thức của y thuộc môn phái nào không?” Ông thấy Chỉ Trầm hoang mang không trả lời được, bèn hỏi thêm: “Y sử trường quyền hay đánh nhập nội? Cầm nã thủ? Hay là Địa Đường, Lục Hợp, Thông Tí quyền?” Chỉ Trầm đáp: “Y… y… đại khái sử dụng công phu âm hiểm lạ thường, mấy lần đánh trúng đệ tử.”.

Huyền Tịch, Huyền Nạn cùng mấy vị lão tăng tiền bối đưa mắt nhìn phương trượng, ai nấy nghĩ thầm hôm nay bản tự gặp phải đối thủ bản lãnh tuyệt luân, thủ đoạn huyền ảo, khiến cho ai nấy như lạc trong đám sương mù. Trước mắt phải cố làm sao tra xét cho ra, đồng thời trấn tĩnh mọi người thấy chuyện quái lạ cũng đừng hoảng hốt. Nếu không tăng chúng sẽ rối loạn nhốn nháo, e rằng hậu hoạn không giải quyết êm thấm được.

Huyền Từ chắp hai tay trước ngực nói: “Kinh thư cất trong Bồ Đề Viện là kinh luận Đại Thừa do cao tăng tiền bối soạn ra để xiển dương Phật pháp, độ hóa thế nhân. Nếu là đệ tử Phật môn lấy được, tụng niệm nghiên cứu dĩ nhiên có ích rất nhiều. Còn như kẻ thế tục lấy được mà không biết tôn trọng thì tội nghiệt không phải nhỏ. Các vị sư đệ, sư điệt trở về bản viện nghỉ ngơi đi, ai làm việc nấy” .

Quần tăng nghe lời đều giải tán, chỉ còn bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên vẫn cãi cọ với Chỉ Thanh, Huyền Tịch trừng mắt nhìn, bọn chúng hoảng hồn không dám ý kiến gì nữa, rồi cũng đi ra.

Trong điện chỉ còn ba vị Huyền Từ, Huyền Nạn, Huyền Tịch ngồi trên bồ đoàn ngay trước tượng Phật. Huyền Từ đột nhiên cất tiếng hô: “A Di Đà Phật, thật là có lỗi!” Tiếng hô vừa dứt, ba nhà sư phi thân nhảy lên, chuyển người ra phía sau tượng Phật, từ ba phương vị khác nhau xuất chưởng đánh vào Kiều Phong.

Kiều Phong không ngờ ba nhà sư đã nhìn vào tấm gương đồng phát hiện tung tích của mình, cũng không ngờ ba vị lão tăng bảy tám mươi tuổi chưa nói gì đã xông lên đánh liền, xuất chưởng mau lẹ ghê gớm đến thế. Chỉ trong chớp mắt chàng thấy khó thở, ngực như bị ép lại, ba vị cao tăng Thiếu Lâm hợp công quả là ghê gớm. Chiêu số của ba nhà sư không còn phân biệt được phương hướng từ đâu tới, trái phải trên dưới trước sau chỗ nào cũng bị chưởng lực bao trùm, muốn xông ra chỉ còn cách dùng ngạnh công phản kích, không đả thương đối phương thì chính mình sẽ bị thương. Chàng không kịp suy tính, đành vận sức vào song chưởng đẩy ra trước, pho tượng Phật ngã ầm xuống. Kiều Phong thuận tay xách luôn Chỉ Thanh, tung mình vọt ra, bỗng thấy sau lưng có tiếng gió rít, chưởng lực chưa đến mà kình phong đã đến rồi.

Kiều Phong không muốn đối chưởng với các cao tăng Thiếu Lâm, tay phải liền chộp lấy tấm bình phong có gắn tấm gương đồng, xoay tay lật ngược lại che chắn sau lưng. Nghe “choảng” một tiếng lớn, một chưởng của Huyền Nạn đã đánh trúng tấm gương đồng, chấn động tê buốt cả cánh tay Kiều Phong, bình phong chỗ chung quanh tấm gương vỡ thành mấy mảnh.

Kiều Phong dựa vào chưởng lực của Huyền Nạn vọt thêm một trượng về phía trước, bỗng nghe sau lưng có người hít một hơi chân khí, thanh âm không phải tầm thường. Kiều Phong biết ngay một vị sắp sử Phách Không Thần Quyền, tuy chàng không sợ nhưng cũng không muốn tỉ đấu nội lực, lại cầm chiếc gương đồng che sau lưng, vận kình vào tay phải.

Lúc đó quyền phong đối phương nghiêng nghiêng đánh tới, phương vị hơi lạ. Kiều Phong ngạc nhiên, hiểu ra nhà sư kia không đánh thẳng vào mình, mà đánh vào lưng Chỉ Thanh. Kiều Phong không hề quen biết Chỉ Thanh, lúc trước vốn không muốn cứu y, nhưng khi nắm y trong tay tự nhiên nảy ra ý muốn chiếu cố, bèn đẩy chiếc gương đồng ra che cho. Lần này chiếc gương chỉ kêu bốp một tiếng chứ không ngân nga nữa, thì ra đã bị chưởng lực của Huyền Nạn đánh nứt từ trước, bây giờ lãnh Phách Không Quyền của Huyền Từ thành ra vỡ nát.

Kiều Phong khi giơ chiếc gương ra sau lưng đã xách Chỉ Thanh nhảy lên mái nhà, thấy thân thể y nhẹ bổng, so với tấm thân to lớn không hợp chút nào. Trong lòng còn đang ngờ vực, bỗng chàng thấy đầu gối nhũn ra, chân khuỵu xuống. Từ khi Kiều Phong bôn tẩu giang hồ, chưa từng gặp tay đối thủ nào lợi hại đến thế, nên không khỏi giật mình. Chàng chuyển thân một cái, thế tấn lại vững chãi như một hòn núi, khí độ trầm hùng tưởng chừng như không coi cường địch vây quanh vào đâu.

Huyền Từ liền nói: “A Di Đà Phật! Thiện tại! Thiện tai! Kiều thí chủ đã đến chùa Thiếu Lâm giết người, lại còn phá vỡ cả tượng Phật là sao?” Huyền Tịch cũng quát lớn: “Nếm một chưởng của ta!” Song chưởng của ông ta đưa ra quyện thành vòng tròn, rồi từ từ đẩy tới. Chưởng lực chưa đến, Kiều Phong đã thấy khó thở. Chưa kịp nháy mắt, chưởng lực của Huyền Tịch đã ào ào đổ tới chẳng khác nào cuồng phong bão tố.

Kiều Phong vứt chiếc gương vỡ xuống, hữu chưởng trả lại một chiêu Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Hai luồng chưởng lực chạm nhau nghe ầm một tiếng, cả Huyền Tịch lẫn Kiều Phong đều phải lùi lại ba bước. Kiều Phong chấn động toàn thân, đuối sức buông Chỉ Thanh tuột xuống, nhưng nhờ nội lực thâm hậu chỉ vận chân khí lên là lập tức tinh thần lại phấn chấn. Không đợi Huyền Tịch đánh tiếp chưởng thứ hai, chàng kêu lên: “Không đấu nữa, cáo từ” rồi một tay xách Chỉ Thanh, phi thân trở lên mái nhà.

Huyền Nạn, Huyền Tịch cùng kêu lên một tiếng, kinh dị vô cùng. Phát chưởng vừa rồi của Huyền Tịch đã tập trung hết công lực bình sinh, có tên là Nhất Phách Lưỡng Tán. Chưởng này đánh vào đá thì đá vỡ nát, mà đánh vào người thì hồn phách đều tan. Lộ chương pháp đó chỉ có một chiêu, vì chưởng lực quá ư rùng rợn nên không cần tới chiêu thứ hai, kẻ địch đã toi mạng rồi. Người xuất chiêu này phải có nội lực bài sơn đảo hải, muốn biến chiêu hay thay đổi thế đánh đều không được. Thế mà Kiều Phong tiếp chiêu đó rồi, chẳng những không chết tại đương trường, mà chỉ trong chớp mắt đã phục hồi nguyên lực, xách người nhảy lên nóc nhà chạy mất.

Huyền Nạn than rằng: “Võ công người này quả là giỏi thật.” Huyền Tịch nói: “Nếu như không sớm trừ khử, hậu hoạn không biết sẽ đến đâu.”

Huyền Nạn gật đầu, còn Huyền Từ nhìn theo phía Kiều Phong vừa chạy, ngẩn người ra không nói năng gì. Khi Kiều Phong vọt đi, còn quay lại nhìn tấm gương đồng bị Huyền Từ phương trượng đánh một quyền vỡ thành mấy chục mảnh tung tóe dưới đất, mảnh nào cũng phản chiếu bóng mình. Kiều Phong vô cùng ngạc nhiên, không hiểu sao cứ mỗi lần trông thấy bóng mình lại băn khoăn trong dạ, khó có thể giải thích được tình trạng cổ quái này. Nhưng khi đó chuyện chạy cho xa chùa Thiếu Lâm là khẩn cấp, trong đầu chàng tuy nổi lên một mối nghi ngờ nhưng cũng quên ngay.

Kiều Phong đã thuộc hết đường lối trên núi Thiếu Thất, luồn xuống sau núi rồi kiếm những đường mòn cheo leo mà chạy. Luôn mấy dặm không nghe tiếng các nhà sư đuổi theo, chàng yên tâm, bèn bỏ Chỉ Thanh xuống đất quát lớn: “Ngươi tự mình đi đi, đừng nghĩ tới chuyện chạy trốn.” Ngờ đâu Chỉ Thanh vừa chạm đất người đã nhũn ra, rơi phịch xuống tưởng chừng như đã chết. Kiều Phong giật mình, để tay vào mũi y thấy hơi thở yếu ớt như có như không. Chàng lại sờ vào cổ tay, thấy mạch nhảy vừa yếu vừa chậm, xem chừng sắp chết đến nơi.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Ta còn biết bao nhiêu nghi vấn cần phải hỏi, không để gã chết ngay được. Không chừng gã lọt vào tay ta, sợ âm mưu bại lộ mà uống thuốc độc tự sát.” Chàng sờ lên ngực y để xem tim còn đập hay không, bỗng giật nảy mình vì thấy ngực gã mềm mại tựa như ngực nữ nhân.

Kiều Phong vội rụt tay về, rất lấy làm kỳ, tự hỏi: “Hay gã là một cô gái cải trang?” Trong đêm tối không sao nhìn kỹ được mặt mũi y ra sao. Chàng là người hào sảng khoáng đạt, không câu nệ tiểu tiết như anh chàng thư sinh Đoàn Dự mê sách giữ kẽ, bèn nắm lưng Chỉ Thanh nhấc lên, quát hỏi: “Ngươi là nam hay nữ? Nếu không nói thật, ta sẽ lột hết quần áo ra khám nghiệm cho rõ.” Chỉ Thanh mấp máy môi dường như định nói gì nhưng không đủ hơi sức để thốt nên lời. Rõ ràng y đang hấp hối, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc.

Kiều Phong lẩm bẩm: “Bất luận người này là nam hay nữ, tốt hay xấu, cũng không thể để chết như thế này được”. Chàng bèn áp hữu chưởng vào sau lưng y, vận khí từ đan điền lên cánh tay, xuống lòng bàn tay rồi truyền vào thân thể Chỉ Thanh, dẫu không cứu được tính mạng y thì cũng có thể hỏi vài điều. Một lúc sau, mạch Chỉ Thanh dần dần mạnh lên, hô hấp cũng đều trở lại, Kiều Phong thấy y chưa đến nỗi chết ngay, trong bụng cũng đỡ lo, nghĩ thầm: “Nơi đây chưa xa chùa Thiếu Lâm mấy, không nên nán lại lâu.” Chàng bế hẳn Chỉ Thanh lên hai tay, rảo bước đi về hướng tây bắc.

Thân hình Chỉ Thanh cực kỳ nhẹ, không tương xứng với dáng dấp cao to của y chút nào. Kiều Phong nghĩ bụng: “Ta không nên lột quần áo y ra, nhưng cởi giày vớ thì có gì bất tiện đâu?” Chàng định kéo tăng hài bên phải của y, nhưng năm vào thấy cứng ngắt như chân người chết. Chàng kéo mạnh một chút, một vật theo tay tuột ra, hóa ra là một bàn chân giả bằng gỗ, Kiều Phong sờ vào bàn chân thật của Chỉ Thanh thấy nhỏ nhắn mềm mại, kêu lên một tiếng, nghĩ thầm: “Quả nhiên là một nữ nhân.”

Chàng thi triển khinh công, chạy mỗi lúc một nhanh, đến tờ mờ sáng đã cách chùa Thiếu Lâm năm sáu mươi dặm. Kiều Phong ôm Chỉ Thanh đến một khu rừng nhỏ có khe suối chảy ngang, đi đến bên dòng nước, vốc nước vỗ lên mặt Chí Thanh rồi lấy tay áo cà sa lau mấy cái cho sạch. Đột nhiên từng mảng da thịt trên mặt y lả tả rơi xuống. Kiều Phong giật nảy mình, tự hỏi: “Tại sao da thịt y lại rữa nát ra thế này?” Chàng chăm chú nhìn, thấy bên dưới những mảng da lở loét lộ ra làn da mịn màng trắng như tuyết, trong như ngọc.

Chỉ Thanh được Kiều Phong ôm chạy đi trong lúc hôn mê bất tỉnh, lúc này bị vỡ nước lạnh vào mặt liền hồi tỉnh. Y mở mắt ra nhìn thấy Kiều Phong, gượng cười gọi nhỏ: “Kiều bang chủ!” Thế nhưng y quá yếu, chỉ gọi được một tiếng rồi lại nhắm mắt thiếp đi.

Kiều Phong nhìn mặt Chỉ Thanh thấy loang loang lổ lổ, lồi lên lõm xuống chẳng rõ tướng mạo ra sao, liền nhúng tay áo y xuống nước, lau mạnh lên mặt mấy cái, bao nhiêu phấn bột đều trôi đi, lộ ra khuôn mặt xinh tươi của một thiếu nữ. Chàng la lên một tiếng thất thanh: “Trời ơi! Té ra là A Châu cô nương!”.

Kẻ hóa trang làm Chỉ Thanh lẻn vào Bồ Đề Viện chùa Thiếu Lâm chính là A Châu, thị tì của Mộ Dung Phục, có thuật dị dung cải trang khéo léo mau lẹ, trên đời không ai bì kịp. Kỳ này nàng dùng bàn chân gỗ đệm dưới gót nâng cao người lên, lấy bông đệm vào vai vào bụng cho tầm vóc to lớn, lại dùng bột trộn hồ đắp cho mặt mập ra, mình mặc tăng bào. Ngay cả bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên thường ngày vẫn gặp Chỉ Thanh cũng không nhận ra nổi.

Nàng mơ hồ nghe Kiều Phong gọi “A Châu Cô nương” đã toan đáp lời, cũng muốn giải thích vì sao mình lẻn vào chùa Thiếu Lâm nhưng không còn chút khí lực nào nữa, đầu lưỡi cũng cứng đờ nói không ra tiếng.

Lúc Kiều Phong xách Chí Thanh chạy trốn, tưởng y là kẻ gian trá hiểm độc, chắc có liên quan mật thiết tới cái chết của gia nương và sư phụ mình. Chàng hao phí nội lực cứu y cốt để tra xét cho minh bạch, định bụng nếu y không nói thì sẽ dùng cực hình tra tấn. Ngờ đâu lúc y lộ chân tướng lại là cô nàng A Châu hình dung ẻo lả, xinh đẹp dễ thương, quả thật nằm mơ cũng không thấy. Kiều Phong tuy đã gặp A Châu, A Bích vài lần, lại cứu hai nàng thoát khỏi bọn võ sĩ Tây Hạ nhưng chưa biết A Châu giỏi tài hóa trang. Giá như Đoàn Dự ở địa vị chàng thì chắc đã đoán ra rồi.

Kiều Phong đã biết A Châu không phải trúng độc, mà bị thương do chưởng lực, suy nghĩ một chút liền vỡ lẽ. Lúc Huyền Từ phương trượng dùng Phách Không Quyền đánh tới, chàng dùng tấm gương đồng che chở nên không trúng phải A Châu, nhưng vì tay trái đang xách nàng lên, chưởng lực khủng khiếp kia chấn động tới cô. Chàng không khỏi ngấm ngầm hối hận: “Nếu ta không xen vào chuyện người khác, cứ để nàng mặc ý ra vào thì nàng đã thoát thân rồi, không đến nỗi gặp phải đại nạn” Kiều Phong vốn coi trọng Mộ Dung Phục, đối với thị tì của y cũng nhìn bằng con mắt đặc biệt, nên nghĩ thầm: “Nàng bị trọng thương thế này cũng vì ta mà ra. Thể nào ta cũng phải đưa nàng đến thị trấn, tìm lương y chữa trị cho khỏi.” Chàng bèn nói: “A Châu cô nương, để ta bồng cô nương tìm chỗ chữa thương.” A Châu đáp: “Trong túi tiểu nữ có linh dược.” Nói xong nàng giơ tay lên nhưng không đủ sức thò vào bọc.

Kiều Phong bèn lục túi nàng ra, ngoại trừ một ít bạc vụn, thấy có một sợi xích vàng đúc thật tinh xảo, trên sợi xích có khắc mấy chữ nhỏ xíu: “Thiên thượng tinh, Lượng tinh tinh, Vĩnh xán lạn, Trường an ninh.” (Sao trên trời, Chiếu lấp lánh, Mãi xán lạn, Mãi bình an.) Ngoài ra còn có một hộp ngọc nhỏ màu trắng, chính là chiếc hộp Đàm công tặng nàng nơi rừng hạnh, Kiều Phong cả mừng thầm, biết loại cao trong hộp chữa thương cực kỳ hiệu nghiệm, bèn nói: “Việc cứu tính mạng cho cô nương là quan trọng, xin đừng trách ta mạo phạm.” Chàng bèn đưa tay cởi áo nàng ra, xoa Băng Thiềm Cao lên ngực, A Châu thẹn chín người muốn tránh né mà không được, vừa cựa quậy vết thương đau nhói lại ngất đi.

Kiều Phong mặc áo lại cho cô gái, cất hộp ngọc và dây xích vàng vào bọc nàng, còn bạc vụn thì bỏ vào túi mình, bồng A Châu rảo bước đi về hướng bắc. Được chừng hai chục dặm thì đến một thị trấn sầm uất tên là Hứa Gia Tập, Kiều Phong tìm đến một khách điếm lớn, thuê hai căn phòng, đưa A Châu lên nằm nghỉ rồi đi mời một lương y đến khám bệnh. Lương y đó bắt mạch A Châu xong, liên tiếp lắc đầu nói: “Bệnh cô nương đây không còn thuốc nào chữa được. Thang thuốc này chẳng qua là để tỏ ra đã hết lòng mà thôi.” Kiều Phong thấy toa thuốc có các vị cam thảo, bạc hà, cát cánh, ngưu hạ đều là những loại thuốc tầm thường, xem chừng trị đau bụng nhức đầu linh tinh cũng không khỏi.

Chàng không đi cắt thuốc, nghĩ thầm: “Linh được của Đàm công ở Xung Tiêu Động trị còn không được, thì thuốc của lang băm ở thị trấn nhỏ bé này phỏng có ích gì” Chàng lại vận chân khí, truyền nội lực vào người nàng. Trong khoảnh khắc, sắc mặt A Châu đang nhợt nhạt đã trở lại hồng hào, rồi nàng nói: “Kiều bang chủ! Cảm ơn bang chủ đã cứu cho. Giả tỷ tiểu nữ bị mấy tên lừa trọc đầu kia bắt được thì khó mà thoát chết.” Kiều Phong nghe giọng nàng đã có khí lực thì cả mừng, đáp: “A Châu cô nương, ta cứ lo là cô nương không khỏi được.” A Châu đáp: “Bang chủ đừng gọi là cô nương gì hết, cứ gọi thẳng A Châu cũng được rồi. Kiều bang chủ tới chùa Thiếu Lâm làm chi vậy?” Kiều Phong đáp: “Ta cũng không còn là bang chủ, đừng gọi như thế nữa nhé.” A Châu đáp: “Vậy để tiểu nữ gọi là Kiều đại gia.”

Kiều Phong lại hỏi: “Cô đến chùa Thiếu Lâm làm gì? Hãy nói cho ta nghe trước đã.” A Châu cười đáp: “Nói ra xin Kiều đại gia đừng cười là tiểu nữ phá quấy. Tiểu nữ nghe nói Mộ Dung công tử đến chùa Thiếu Lâm nên định đi tìm, nói cho công tử biết chuyện Vương cô nương. Ngờ đâu vừa đến cổng chùa, gã hòa thượng gác cổng hung dữ Chỉ Thanh kia đã hầm hầm nói là đàn bà con gái không được vào chùa Thiếu Lâm. Tiểu nữ tranh cãi với y một hồi, lại còn bị mắng nhiếc, thành thử giả làm y để vào chùa, xem y làm gì được.”

Kiều Phong mỉm cười nói: “Cô nương cải trang vào chùa Thiếu Lâm mà vô số hòa thượng vẫn không biết cô là nữ nhân. Sao lúc vào được chùa rồi, cô nương không lộ chân tướng ra cho bọn họ coi, xem có ai tức đến vỡ bụng mà chết không.” Xưa nay Kiều Phong vẫn cực kỳ tôn kính các nhà sư Thiếu Lâm Tự, nhưng một là Huyền Khổ đại sư đã chết, hai là quần tăng chưa điều tra minh bạch đã vu cho chàng ba đại tội giết cha, giết mẹ, giết thầy, trong lòng chàng không khỏi giảm phần tôn trọng.

A Châu khoái chí ngồi nhổm dậy, vỗ tay cười, nói: “Kiều đại gia! Đại gia quả là cao kiến. Tiểu nữ khỏi bệnh rồi sẽ cải dạng nam tử vào chùa, sau đó trở lại nguyên hình nhi nữ hiên ngang ngồi giữa Đại Hùng Bảo Điện, chọc cho mấy lão hòa thượng giận đến lăn lộn dưới đất, thế mới thật là thú! A…” Đột nhiên nàng không nói tiếp được nữa, thân thể lại nhũn ra phục xuống giường, không nhúc nhích được.

Kiều Phong kinh hãi, đặt ngón tay lên mũi thì thấy nàng tựa hồ đã ngừng thở. Chàng hốt hoảng, vội đặt bàn tay lên huyệt Linh Đài ở sau lưng cô gái, truyền chân khí cho nàng. Chưa đầy thời gian uống một chén trà, A Châu lại chầm chậm ngửng đầu lên, cười nói: “Chao ôi! Sao tiểu nữ đang nói lại ngủ thiếp đi, quả là không phải với Kiều đại gia!” Kiều Phong biết tình hình nguy ngập, bèn nói: “Cô nương chưa được khỏe hắn, hãy ngủ đi một lát để dưỡng thần.” A Châu đáp: “Tiểu nữ thấy không mệt lắm. Có điều Kiều đại gia vất vả mất nửa đêm, hãy đi nghỉ cho lại sức.” Kiều Phong đáp: “Phải lắm! Chốc nữa ta lại sang thăm cô nương.”

Chàng trở lại phòng khách, gọi năm cân rượu và hai cân thịt bò nóng, ngồi ăn uống một mình. Lúc này trong lòng phiền não, uống rượu vào dễ say nên mới hết năm cân rượu chàng đã thấy chếnh choáng. Kiều Phong cầm hai chiếc bánh bao vào phòng A Châu, gọi hai tiếng không nghe đáp lại, liền đến trước giường thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, gò má lõm xuống như người chết rồi. Chàng đưa tay sờ trán cô gái thấy vẫn còn âm ấm, vội vận chân khí vào người nàng. A Châu từ từ tỉnh lại, vui vẻ cầm lấy chiếc bánh ăn ngay.

Đến lúc này, Kiều Phong đã biết nàng hoàn toàn sống nhờ chân khí của mình. Nếu không truyền chân khí vào, chỉ trong một giờ tất nàng kiệt lực mà chết, thật không biết phải tính sao.

A Châu thấy chàng trầm ngâm, nét mặt lo buồn, bèn nói: “Kiều đại gia! Tiểu nữ bị thương nặng quá, ngay cả linh dược của Đàm lão tiên sinh cũng không chữa được, có phải không nào?” Kiều Phong vội đáp:“Không! Không sao cả! Cô nương chỉ nghỉ ngơi mấy hôm là khỏe.” A Châu đáp: “Đại gia đừng nói dối làm chi. Tiểu nữ thấy trong người dường như trống rỗng, chẳng có chút hơi sức nào cả.” Kiều Phong đáp: “Cô nương cứ yên tâm dưỡng bệnh, ta thể nào cũng có cách chữa được cho cô nương.”

A Châu nghe giọng Kiều Phong nói, biết là mình bị thương trầm trọng, trong lòng bất giác sợ hãi, tay run lẩy bẩy, cái bánh mới ăn hết một nửa đã rớt xuống đất. Kiều Phong tưởng nội lực của nàng đã cạn, lại để tay lên trên huyệt Linh Đài.

Lúc này thần trí A Châu tỉnh táo, nàng thấy một luồng nhiệt khí từ lòng bàn tay Kiều Phong cuồn cuộn đổ vào người mình, lập tức khắp thân thể chỗ nào cũng dễ chịu. Nàng suy nghĩ một chút liền hiểu ngay mình đã chết đi sống lại mấy lần, đều nhờ Kiều Phong truyền chân khí cứu tỉnh, trong lòng vừa cảm kích lại vừa kinh hãi. A Châu tuy tâm cơ lanh lợi, nhưng dẫu sao cũng là một cô gái nhỏ tuổi. Nàng nước mắt tuôn rơi, nài nỉ: “Kiều đại gia! Tiểu nữ không muốn chết, đại gia đừng bỏ tiểu nữ ở đây.”

Kiều Phong nghe nàng nói, động lòng trắc ẩn bèn kiếm lời an ủi: “Không đâu, cô nương cứ yên tâm! Kiều Phong này là hạng người nào mà bỏ rơi bằng hữu đang lúc nguy nan?” A Châu đáp: “Tiểu nữ đâu có xứng đáng là bằng hữu của đại gia? Kiều đại gia, liệu tiểu nữ có chết chăng? Có phải người ta chết rồi biến thành ma quỉ hay không?” Kiều Phong đáp: “Cô nương đừng quá lo lắng. Cô còn ít tuổi, mới bị thương xoàng, làm gì mà chết được?” A Châu lại hỏi: “Đại gia có nói dối tiểu nữ không?” Kiều Phong đáp: “Không đâu!” A Châu trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Đại gia là nhân vật anh hùng hảo hán nổi danh trong võ lâm, ai ai cũng nói: Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, hai vị kẻ nam người bắc ngang ngửa nhau. Đã có bao giờ đại gia nói mà không làm chưa?” Kiều Phong mỉm cười nói: “Lúc còn bé, ta cũng hay nói dối. Từ khi bôn tẩu giang hồ thì không đánh lừa ai nữa.” A Châu hỏi: “Đại gia bảo thương thế của tiểu nữ không nặng, chẳng phải nói dối thì là gì?”.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu cô biết thương thế trầm trọng tất không yên lòng, lại càng khó chữa thêm. Ta vì muốn cô mau khỏi, buộc lòng phải nói dối vậy.” Chàng liền đáp: “Ta không nói dối cô nương đâu.” A Châu thở dài rồi nói: “Thế thì hay lắm, tiểu nữ yên tâm rồi. Kiều đại gia ơi, tiểu nữ cầu xin đại gia một việc nhé!” Kiều Phong hỏi: “Việc gì?” A Châu đáp: “Tối nay đại gia ở đây, đừng đi chỗ khác.” Trong thâm tâm nàng cũng đã hiểu, nếu Kiều Phong ra khỏi phòng thì mình không sống được đến sáng. Kiều Phong cười, đáp: “Được lắm! Chẳng cần cô nương nói, ta cũng định bụng ngồi với cô nương đêm nay ở đây. Thôi cô đừng nói nhiều nữa, ngủ một giấc đi.”

A Châu nhắm mắt lại, một lát sau lại mở mắt ra nói: “Kiều đại gia! Tiểu nữ không ngủ được, lại xin một việc nữa, liệu có được chăng?” Kiều Phong hỏi: “Việc gì thế?” A Châu đáp: “Lúc tiểu nữ còn nhỏ, mỗi khi không ngủ được là má má lại đến bên cạnh giường hát ru. Chỉ cần hát ba câu là tiểu nữ ngủ say ngay.” Kiều Phong mỉm cười đáp: “Bây giờ đi kiếm cho ra mẫu thân cô nương chẳng phải là chuyện dễ dàng.” A Châu thở dài một tiếng, buồn bã nói: “Tiểu nữ chẳng biết gia gia má má ở đâu, cũng không biết còn sống hay đã chết. Kiều đại gia! Đại gia hát cho tiểu nữ nghe mấy câu, liệu có được chăng?”

Kiều Phong chỉ biết gượng cười. Nam tử hán đại trượng phu như chàng mà hát ru cho một thiếu nữ ngủ thì thật chẳng còn ra thể thống gì, chàng bèn đáp: “Quả thực ta không biết ca hát.” A Châu hỏi lại: “Lúc đại gia còn nhỏ có được mẫu thân hát ru cho ngủ không?” Kiều Phong gãi đầu nói: “Dường như cũng có đấy, nhưng lâu ngày ta quên hết rồi, mà có nhớ thì cũng không hát được.” A Châu thở dài: “Đại gia không chịu hát thì đành vậy, biết làm sao bây giờ!” Kiều Phong buồn rầu, đáp: “Không phải là ta không chịu hát, quả thực không biết hát đấy thôi.” A Châu đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vỗ tay reo lên: “À, được rồi! Kiều đại gia, tiểu nữ lại xin một việc khác, lần này không có lý nào đại gia lại từ chối.”.

Kiều Phong thấy cô nàng này thật là tinh nghịch, nói gì làm gì cũng ngoài dự liệu. Nàng lại xin mình một việc, thật không biết là việc kỳ quái gì đây. Chàng bèn cẩn thận giao hẹn trước: “Cô nương phải nói ra trước đã. Nếu ta làm được thì sẽ nhận lời, còn không làm được thì thôi.” A Châu đáp: “Việc này dễ lắm, trẻ nít bốn năm tuổi cũng làm được!” Kiều Phong nhất định không chịu mắc lừa, liền gặng hỏi: “Việc đó là việc gì, cô nương cứ nói trước đi đã.” A Châu cười khúc khích nói: “Đại gia kể chuyện cho tiểu nữ nghe đi, chuyện anh em nhà thỏ cũng được mà chuyện mẹ con nhà sói cũng hay, tiểu nữ nghe là ngủ được ngay.”

Kiều Phong nhíu mày ra chiều khó nghĩ. Mới đây, chàng còn là bang chủ một bang lớn nhất giang hồ, một lãnh tụ quần hùng khí khái hiên ngang. Chỉ sau vài ngày đã bị bãi chức bang chủ, bị trục xuất ra khỏi Cái Bang, ba người thân thiết nhất là phụ mẫu cùng sư phụ qua đời trong một buổi. Đến ngày thân thế mình cũng chưa minh bạch là người Hồ hay người Hán, thiên hạ còn dán cho cái nhãn phản nghịch, đổ lên đầu ba tội đại ác giết cha, giết mẹ, giết thầy. Lúc này lại chẳng có người bạn nào để an ủi, cùng chia sẻ nỗi lo âu, thôi cũng đành chịu. Ngờ đâu nơi khách điếm này, chàng còn phải bầu bạn với một tiểu cô nương, nghe cô đòi ca hát, kể chuyện. Những chuyện đàn bà, trẻ con vô vị như thế, trước đây chàng chỉ nghe nửa câu đã bịt tai chạy mất. Kiều Phong bình sinh chỉ thích cùng anh em uống rượu, đánh bạc, đùa giỡn, rượu say nóng mặt lại đàm luận chuyện quân quốc đại sự, chuyện thiên hạ anh hùng. Nghĩ đến việc ngồi kể chuyện anh em nhà thỏ, mẹ con nhà sói cho một cô nương nghe, quả thật nực cười.

Nhưng Kiều Phong chợt nhìn thấy A Châu dung nhan tiều tụy, có vẻ đăm đăm trông đợi, lại nghĩ thầm: “Nàng bị trọng thương xem chừng khó mà qua khỏi, chân khí không truyền vào được nữa là bỏ mạng ngay. Nàng muốn nghe kể chuyện, thôi thì ta cũng đành chiều ý vậy.” Chàng liền nói: “Được rồi, để ta kể chuyện cho cô nương nghe, chỉ sợ chuyện không hay thôi.” A Châu vui sướng ra mặt, nói: “Nhất định là hay lắm rồi! Đại gia mau mau kể đi!”

Kiều Phong tuy nhận lời, nhưng cũng chẳng nhớ ra mẩu chuyện cổ tích nào mà kể. Chàng ngẫm nghĩ một lát mới nói: “Để ta kể chuyện con sói nhé. Ngày xửa ngày xưa, có một ông già đang đi trong rừng trông thấy một con sói bị người ta trói bỏ trong bao vải. Con sói năn nỉ ông già thả nó ra, ông già liền mở chiếc bao rồi cởi trói. Con sói…” A Châu ngắt lời: “Con sói được thả ra, nó kêu đói rồi đòi ăn thịt ông già phải không?” Kiều Phong đáp: “Ồ, thì ra chuyện này cô nương đã nghe rồi.” A Châu đáp: “Chuyện đó có chép trong sách. Tiểu nữ thích nghe đại gia kể những chuyện chưa có sách vở nào ghi chép kia.”

Kiều Phong ngẫm nghĩ rồi nói: “Không phải chuyện trong sách, tức là chuyện ngoài đời. Được rồi, để ta kể chuyện một đứa trẻ nhà quê cho cô nương nghe: Ngày xưa, có một gia đình rất nghèo sống ở vùng núi, hai vợ chồng chỉ có một đứa con trai. Đứa trẻ mới bảy tuổi mà thân thể cao lớn, đã đi theo gia gia lên núi chặt củi được rồi. Một hôm, gia gia y bị bệnh mà nhà thì nghèo quá không dám đi mời thầy thuốc, cũng không có tiền mua thuốc. Thế nhưng người cha bệnh mỗi ngày một nặng thêm, không uống thuốc thì không được. Má má y chỉ có sáu con gà mái với một rổ trứng, đành đem ra chợ bán. Cả gà lẫn trứng bán được bốn tiền, bà liền đi mời lương y. Thế nhưng tên thầy thuốc kia lại bảo rằng đường vào núi vừa xa vừa mệt, không chịu đi xem bệnh. Người mẹ năn nỉ rớt cả quai hàm mà gã lang băm vẫn lắc đầu quầy quậy. Người mẹ quì xuống van lạy, tên thầy thuốc kia mới nói: Đi xem bệnh ở nơi thâm sơn cùng cốc tất bị nhiễm lam sơn chướng khí. Có bốn tiền ít quá chẳng đáng công đi. Người mẹ níu vạt áo y khóc lóc, gã liền giằng ra, ngờ đâu bà ta nắm chặt quá, chiếc áo rách mất một mảnh to. Y nổi giận xô người mẹ ngã lăn ra, lại đi thêm một cái thật mạnh, nhất định bắt đền, nói là áo này mới may, đáng giá hai lượng bạc.”

A Châu nghe tới đây, khẽ nói: “Gã lang băm đó thật là đáng ghét.” .

Kiều Phong ngoảnh mặt nhìn bầu trời đang tối dần ngoài cửa sổ, chậm rãi kể tiếp: “Thằng bé ở bên cạnh mẹ, thấy má má bị người ta ức hiếp liền xông lên, vừa đánh vừa cắn tên thầy thuốc. Nhưng nó chỉ là một đứa bé sức lực chẳng bao nhiêu, liền bị xách lên quẳng ra khỏi cửa, trán đập vào một tảng đá, chảy bao nhiêu là máu. Người mẹ sợ con bị thương nặng vội chạy ra xem. Tên lang băm sợ bà lại gây rắc rối, liền đóng chặt cửa lại. Bà mẹ vốn tính hiền hậu, sợ phiền nên không dám gõ cửa nữa, chỉ vừa khóc mếu máo vừa dắt con về nhà.”

“Thằng bé kia đi ngang một tiệm bán đồ sắt, thấy trên sạp bày đầy các loại dao dùng để giết bò mổ lợn. Chủ tiệm đang lo mời chào khách mua, không để ý, thằng bé liền lén lấy cắp một con dao nhọn, giấu dưới áo, ngay đến mẹ nó cũng không biết. Về tới nhà rồi, người mẹ mới kể lại mọi chuyện cho chồng nghe, lại sợ ông bực mình bệnh sẽ nặng thêm, định lấy bốn tiền ra đưa lại cho chồng. Ngờ đâu khi sờ vào túi thì không thấy tiền đâu nữa.”

“Người mẹ vừa hoảng hốt vừa ngạc nhiên bèn chạy ra hỏi con, thấy thằng bé đang mài một con dao mới toanh trên tảng đá. Bà liền hỏi: Sao con lại có con dao này? Thằng bé không dám nhận là mình ăn trộm, bèn nói dối là người ta cho nó. Dĩ nhiên bà mẹ không tin. Con dao này ngoài chợ bán đến tiền rưỡi, hai tiền, có lý nào người ta lại đem cho trẻ con. Bà hỏi ai cho thì nó ấp úng không trả lời được. Bà mẹ thở dài nói: Con ơi! Gia nương nghèo khổ, chẳng bao giờ mua đồ chơi cho con, thật là tội nghiệp, Con là con trai, mua con dao đó để chơi thì cũng không sao. Thế nhưng tiền còn thừa con đưa lại cho má má, để mua chút thịt nấu canh cho gia gia ăn, gia gia con đang bệnh. Thằng bé nghe thế liền giương mắt lên nhìn mẹ, hỏi lại: Tiền thừa nào? Người mẹ nói: Má má có bốn tiền, con lấy đi mua dao có phải không? Đứa trẻ hốt hoảng kêu lên: Con không lấy! Con không lấy! Trước nay nó chưa hề bị cha mẹ đánh đòn. Tuy chỉ là một đứa trẻ bảy tuổi nhưng lúc nào cũng được nuông chiều, nể nang như tân khách…”

Kiều Phong kể đến đây đột nhiên rùng mình, tự hỏi: “Sao lại thế nhỉ? Trong thiên hạ, cha mẹ đối với con cái chỉ có thương yêu nuông chiều, chẳng ai lại nể nang khách sáo như thế bao giờ.” Chàng lẩm bẩm: “Sao lại lạ lùng như thế?” A Châu hỏi lại: “Có gì mà lạ lùng?” Nàng chỉ nói được bấy nhiêu, đột nhiên thở hắt ra. Kiều Phong biết chân khí trong người nàng lại cạn kiệt, liền áp bàn tay lên lưng cô gái, truyền nội lực vào.

A Châu tinh thần tạm thời khôi phục, thở dài nói: “Kiều đại gia! Mỗi lần đại gia truyền chân khí cho tiểu nữ là nội lực giảm sút một phần. Người luyện võ thì chân khí nội lực là quan trọng hơn cả, đại gia tận tâm với tiểu nữ như thế, A Châu… A Châu làm sao đền đáp được?” Kiều Phong cười nói: “Ta chỉ cần tĩnh tọa, thổ nạp mấy giờ là nội lực khôi phục lại như cũ, cô nương hà tất phải nói đến chuyện đền đáp. Ta cùng chủ nhân cô nương là Mộ Dung công tử thiên lý thần giao, tuy chưa gặp mặt nhưng trong lòng ta đã coi y như bằng hữu. Cô nương là người nhà y, bất tất phải coi ta như người ngoài.” A Châu buồn rầu nói: “Nội lực tiểu nữ cứ tiêu tán dần, chỉ một lát là cạn sạch. Đại gia không thể… vĩnh viễn…” Kiều Phong nói: “Cô nương cứ yên tâm, thể nào ta cũng kiếm được một thầy thuốc y đạo cao minh, trị cho cô nương hết nội thương.”

A Châu mỉm cười: “Chỉ sợ vị lương y đó thấy tiểu nữ ít tiền, lại sợ nhiễm lam sơn chướng khí, không chịu đến xem bệnh. Kiều đại gia! Câu chuyện chưa kể hết, đại gia vừa nói cái gì lạ lùng ấy nhỉ?” Kiều Phong đáp: “Ta lỡ lời đấy thôi. Lúc đó người mẹ thấy thằng bé không thừa nhận, cũng chẳng nói thêm. Lát sau, thằng bé mài dao xong đi vào, thấy má má đang thì thầm với gia gia, nói là nó ăn cắp tiền mua dao rồi nhưng không chịu nhận. Người cha nói: Thằng bé đó ở với chúng ta trước nay chẳng có món đồ chơi nào, nó thích mua gì thì cứ mặc kệ, chúng ta chớ để nó phải tủi thân. Hai người vừa nói tới đây, thấy thằng bé đi vào, liền thôi không nói nữa. Gia gia xoa đầu nó, nói: Con ngoan, từ đây đi chơi nhớ cẩn thận, va vào đâu mà đau đến thế? Ông không nói gì đến việc mất bốn tiền và việc nó mua con dao, vẫn ôn hòa, không tỏ vẻ gì khó chịu.”

“Thằng bé tuy chỉ mới bảy tuổi đầu nhưng đã sớm khôn. Cậu nghĩ thầm: Gia gia má má nghi mình ăn cắp tiền đi mua dao, giả tỷ hai người nổi giận đánh mắng ta một trận, ta cũng chẳng dám oán hận. Quả hai người thương ta thật. Y băn khoăn trong lòng, bèn nói với cha: Gia gia, con không lấy trộm tiền, con dao này không phải con mua đâu! Người cha nói: Má má con thật lắm chuyện, mất tiền thì đã sao? Việc gì mà phải cuống cuồng lên, đúng là bụng dạ đàn bà nhỏ nhen. Hảo hài tử, đầu con có đau lắm không? Thằng bé đành trả lời: Không sao cả! Nó muốn biện bạch nữa, nhưng chẳng biết nói thế nào, thành thử trong bụng ấm ức, không ăn cơm, chui vào giường ngủ.”

“Nó nằm trên giường trằn trọc không ngủ được, lại nghe mẹ sụt sịt khóc, chắc là lo gia gia bệnh nặng thêm, lại bực tức chuyện ban ngày bị gã lang băm kia chửi mắng đánh đập. Thằng bé bèn len lén trở dậy, trèo cửa sổ ra ngoài, đi suốt đêm đến thị trấn, tới nhà gã thầy thuốc. Căn nhà có cửa trước cửa sau đều đóng chặt, không có lối vào. Thân hình nó bé nhỏ, bèn theo lỗ chó chui vào. Thấy một căn phòng hãy còn ánh đèn, nó liền chọc thủng giấy dán trên cửa sổ để nhòm vào. Tên lang băm chưa ngủ, còn đang sắc thuốc. Thằng bé đẩy cửa…”.

A Châu lo cho đứa trẻ, vẻ mặt nghiêm trọng, than thở: “Thằng bé bảy tuổi đang đêm lẻn vào nhà người ta, e rằng bị ăn đòn.”

Kiều Phong lắc đầu, kể tiếp: “Không phải thế. Gã đại phu nghe tiếng mở cửa, chẳng thèm ngẩng đầu lên, chỉ hỏi: Ai đó? Thằng bé không lên tiếng, đi tới gần, rút con dao nhọn chơi luôn một nhát. Người nó thấp, nhát dao đâm trúng bụng tên thầy thuốc, y chỉ hự được một tiếng rồi lăn ra đất.”

A Châu rú lên một tiếng, kinh hãi hỏi: “Thằng bé đó đâm chết gã kia sao?” Kiều Phong gật đầu, đáp: “Đúng vậy. Nó lại chui lỗ chó ra, quay trở về nhà. Trong một đêm phải chạy mấy chục dặm đường, nó mệt lả người. Sáng sớm hôm sau, người nhà tên thầy thuốc mới biết y đã chết, thủng bụng lòi ruột thật là thê thảm. Thế nhưng cửa trước cửa sau vẫn đóng chặt, then cài bên trong, hung thủ từ bên ngoài làm sao vào được? Ai cũng nghi người trong nhà ra tay, quan huyện liền bắt hết anh em, vợ con gã thầy thuốc đem ra tra khảo, xét hỏi đến mấy năm vẫn không ra thủ phạm. Thế là tên bất… lương y không những mất mạng mà còn tan cửa nát nhà. Vụ giết người nơi Hứa Gia Tập đó trở thành một vụ thiên cổ nghi án”

A Châu hỏi: “Đại gia nói Hứa Gia Tập ư? Thế ra gã thầy thuốc đó… ở ngay thị trấn này ư?” Kiều Phong đáp: “Đúng thế! Gã họ Đặng, vốn là một thầy thuốc nổi tiếng nhất thị trấn này, mấy huyện quanh đây đều biết tên tuổi. Nhà y ở về phía tây, trước kia tường cao quét vôi trắng, hiện nay tan hoang cả rồi. Lúc nãy ta đi mời người xem bệnh cho cô nương, có đi ngang nhà gã nên biết thế.”

A Châu hỏi thêm: “Thế còn người cha bị bệnh thì sao? Sau đó có khỏi không?” Kiều Phong đáp: “Về sau một hòa thượng chùa Thiếu Lâm mang thuốc đến, chữa lành bệnh cho ông ta.” A Châu nói: “Thế ra chùa Thiếu Lâm cũng có hòa thượng tốt.” Kiều Phong nói: “Dĩ nhiên là có. Thiếu Lâm Tự có mấy vị cao tăng tâm địa nhân hậu, hành hiệp trượng nghĩa, đáng cho thiên hạ kính phục.” Nói đến đây, chàng nghĩ đến ân sư Huyền Khổ đại sư, lòng se lại.

A Châu trầm ngâm nói: “Gã thầy thuốc kia không ngó tới kẻ cùng khổ, không coi mạng người vào đâu, dĩ nhiên là đáng ghét nhưng tôi cũng chưa đáng chết. Thằng bé kia cũng thật là dã man ngang ngược. Tiểu nữ quả không tin nổi, một đứa nhỏ mới bảy tuổi đầu đã dám hạ thủ giết người hay sao? Kiều đại gia! Đó là đại gia kể chuyện bịa chứ không phải thật, đúng không?” Kiều Phong đáp: “Chuyện này có thật đấy!” A Châu thở dài, buột miệng nói: “Thằng bé quả là hung dữ, giống như bọn Khất Đan độc ác.”

Kiều Phong đột nhiên run bắn người, đứng phắt dậy hỏi: “Cô nương… cô nương nói cái gì?”

A Châu thấy chàng biến sắc mặt, trong lòng kinh hãi. Nàng chợt hiểu ra, liền run run nói: “Kiều… Kiều đại gia! Tiểu nữ thật là có lỗi. Tiểu nữ không… không cố ý xúc phạm đại gia. Quả thật không cố ý…” Kiều Phong đứng ngơ ngẩn một lúc rồi buồn bã ngồi xuống, hỏi: “Cô nương đoán được rồi ư?” A Châu gật đầu. Kiều Phong lại nói: “Những điều không cố ý nói ra mới là chân thực. Ta cũng không hiểu tại sao lại hạ thủ độc ác đến thế, phải chăng vì mang dòng máu Khất Đan mà ra?” A Châu dịu dàng đáp: “Kiều đại gia! A Châu này thật là ngu muội, đại gia đừng để bụng làm chi. Gã lang băm kia tàn nhẫn ức hiếp lệnh mẫu thân, đại gia quả là anh hùng khí khái, giết y đi là phải.”

Kiều Phong hai tay ôm đầu, nói: “Không phải chỉ vì y đá má má ta, cái chính là vì y làm cho ta bị nghi oan ăn cắp tiền rồi nói dối. Bốn tiền của mẹ ta chắc là rơi mất ở nhà lão khi bị lão lôi kéo đánh đập. Ta… ta trong đời ghét nhất là bị nghi oan.”

Trong một ngày hôm đó, Kiều Phong bị ba vụ kỳ oan. Chàng có phải là người Khất Đan hay không, chưa có cách nào xác định được. Nhưng vợ chồng Kiều Tam Hòe cùng Huyền Khổ đại sư thì rõ ràng không phải tay chàng hạ sát, thế mà ba tội đại ác này trút cả lên đầu chàng. Vậy thì hung thủ là ai? Người hãm hại chàng là ai?

Kiều Phong lại nghĩ đến một điều: “Tại sao cả gia gia lẫn má má ta đều nói, ta ở với hai người thật đáng tủi thân? Cha mẹ nghèo khổ thì phận làm con tất nhiên phải chịu, hà tất phải khách khí như vậy. Xem thế thì mình quả không phải là con đẻ, mà là có người ngoài gửi nuôi. Người này địa vị phải tôn quý thì phụ mẫu mới đối với ta như thế, không chỉ khách khí mà còn kính trọng. Vậy ai là người nhờ phụ mẫu nuôi dưỡng ta? Chắc hẳn là Uông bang chủ rồi.” Song thân Kiều Phong đối xử với chàng thật không giống người thường đối xử với con ruột mình. Chàng bản tính thông minh, đáng ra phải thấy vậy rồi. Có điều từ bé đã như thế nên chàng coi là bình thường, dù tinh tế đến mấy cũng chỉ nghĩ rằng song thân mình đặc biệt hiền hậu ôn hòa mà thôi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, thì ra mọi việc đều chứng thực rằng mình là dòng dõi Khất Đan.

A Châu cất tiếng an ủi: “Kiều đại gia, người ta bảo đại gia là người Khất Đan, tiểu nữ thấy là chuyện bịa đặt vu hãm. Không nói gì những chuyện đại gia nhân nghĩa khẳng khái vang danh bốn bể, một đứa a hoàn hèn mọn như tiểu nữ mà đại gia cũng hết lòng hết dạ chiếu cố. Người Khất Đan tàn độc như lang sói, so với đại gia thật là một trời một vực, bì thế nào được!”

Kiều Phong nói: “A Châu! Giả tỷ ta là người Khất Đan thật, cô nương có còn để cho ta trông nom nữa không?” Bấy giờ người Hán ở Trung Nguyên căm hận người Khất Đan thấu xương, coi họ chẳng khác gì độc xà mãnh thú. A Châu suy nghĩ rồi trả lời: “Đại gia đừng nghĩ ngợi vẩn vơ, không thể như vậy được. Nếu dân Khất Đan mà có người tốt như đại gia thì chúng ta còn căm hận họ làm gì?”

Kiều Phong im lặng không nói gì, nghĩ bụng: “Nếu ta quả là người Khất Đan, thì đến một đứa thị tỳ như A Châu cũng không thèm đếm xỉa đến ta nữa.” Chàng bỗng nhiên thấy trời đất tuy rộng lớn mênh mông mà mình không có chỗ dung thân. Suy nghĩ cuồn cuộn trong đầu, khí huyết sục sôi trong ngực, Kiều Phong tự biết mình truyền chân khí cho A Châu nhiều lần, nội lực tiêu hao không ít, liền ngồi xếp bằng lên chiếc ghế để cạnh giường, từ từ vận khí điều tức. A Châu cũng nhắm mắt dưỡng thần.

Hồi 19: Trợn mắt xem khinh nghìn hảo hán – Nhất tâm cứu mạng tiểu cô nương

Kiều Phong vận công điều khí một hồi lâu, bỗng nghe ở phía tây bắc có hai tiếng lạch cạnh vang lên, biết ngay có người nhảy lên nóc nhà, kế tiếp phía đông nam cũng có tiếng động. Lúc mới nghe tiếng động phía tây bắc Kiều Phong chưa quan tâm lắm, nhưng khi nghe cả hai phía đều có người, chàng nghĩ hẳn có kẻ đến tìm. Chàng khẽ bảo A Châu: “Ta ra ngoài một chốc sẽ quay lại ngay, cô nương đừng sợ” A Châu gật đầu. Kiều Phong không thổi tắt đèn, cửa phòng vốn dĩ khép hờ, chàng nghiêng người lẻn ra, vòng ra cửa sổ phía sau, đứng nép sát vào tường.

Từ một căn phòng phía đông khách điếm có tiếng người vọng ra: “Có phải Hướng bát gia đó không? Xin mời xuống đây.” Người ở phía tây bắc cười nói: “Kỳ lão lục ở Quan Tây cũng đến rồi.” Người trong phòng đáp: “Thế thì hay lắm! Mời xuống cả đây!” Hai người trên nóc nhà lần lượt nhảy xuống, đi vào trong phòng.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Kỳ lão lục ở Quan Tây được người đời gọi là Khoái đao Kỳ Lục, cũng là một hảo hán nổi tiếng. Còn Hướng bát gia kia chắc là Hướng Vọng Hải đất Tương Đông, nghe nói y là người trọng nghĩa khinh tài, bản lãnh khá cao cường. Hai người này không phải là bọn gian ác, cũng chẳng liên quan gì đến ta, ắt không phải vì mình mà đến đây. Hóa ra mình nghi nhầm. Mà giọng người trong phòng nghe cũng quen quen, không biết là ai?”

Bỗng nghe Hướng Vọng Hải nói: “Diêm Vương Địch Tiết Thần Y đột nhiên phát Anh hùng thiếp mời hết thảy đồng đạo giang hồ, chắc hẳn có chuyện khẩn cấp. Trong thiếp có ghi là bất kể vị anh hùng hảo hán nào cũng xin mời đến. Bào đại ca, huynh có biết chuyện gì chăng?”

Kiều Phong nghe đến sáu chữ “Diêm Vương Địch Tiết Thần Y” lập tức mừng thầm: “Tiết Thần Y ở gần đây sao? Ta vẫn tưởng y ở tận Cam Châu, nếu như ở gần đây thì mạng A Châu có thể giữ được.”

Tiết Thần Y là thánh thủ đệ nhất trong y giới bấy giờ. Hai tiếng “thần y” đã quá nổi tiếng nên chẳng mấy người biết tên thật của ông là gì nữa. Các chuyện đồn đại trên giang hồ vốn dĩ hay khoa trương, nói là đến người chết ông cũng cứu sống lại được, còn người sống thì dù thương tích hay bệnh tật nặng tới đâu, ông cũng có cách chữa khỏi. Mỗi lần Diêm Vương ở dưới âm cung sai quỉ vô thường đi bắt người đều bị Tiết Thần Y ngăn trở chặn đường đoạt mất, do đó mà có ngoại hiệu Diêm Vương Địch. Tiết Thần Y không những y đạo tinh thông mà võ công cũng vào hạng giỏi. Ông thích kết giao bằng hữu giang hồ, mỗi khi trị bệnh cho ai đều muốn học mấy chiêu. Người ta cảm cái ân cứu mạng, dĩ nhiên là đem những tuyệt kỹ của mình ra truyền thụ, không giấu giếm chút nào.

Khoái đao Kỳ Lục lại hỏi: “Bào lão bản lâu nay có làm ăn được vố nào khá không?” Kiều Phong nghĩ thầm: “Hèn gì giọng người trong phòng nghe quen quen, thì ra là Một Bản Tiền Bào Thiên Linh. Gã này chuyên ăn trộm của người giàu phát cho người nghèo, cũng có đôi chút hiệp danh. Năm xưa khi ta làm lễ tiếp nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang, gã cũng đến dự.”

Kiều Phong đã biết ba người trong phòng là Hướng Vọng Hải, Kỳ Lục, Bào Thiên Linh, không muốn nghe lén thêm, chỉ nghĩ thầm: “Sáng mai ta đến gặp Bào Thiên Linh, hỏi y xem Tiết Thần Y hiện đang ở đâu.” Chàng vừa toan quay về phòng, bỗng nghe Bào Thiên Linh thở dài nói: “Hỡi ôi! Mấy hôm nay trong lòng ta thật là chán nản, chả hứng thú làm ăn gì. Lại mới nghe nói y giết cha, giết mẹ, giết thầy ba tội đại ác, càng bực bội thêm.” Y nói tới đây, vỗ bàn một cái rồi lại thở dài.

Kiều Phong nghe nói đến “giết cha, giết mẹ, giết thầy”, chột dạ tự hỏi: “Họ nói đến ta chăng?.” Hướng Vọng Hải nói: “Kiều Phong trước nay tiếng tăm lừng lẫy, thì ra giả nhân giả nghĩa lừa được vô số người. Ai mà ngờ nổi y dám phạm những tội tày trời đến thế?” Bào Thiên Linh cũng nói: “Ngày y nhậm chức bang chủ Cái Bang, ta có gặp một lần. Người đó xưa nay ta vẫn mười phần bội phục. Nghe Triệu lão tam nói y là dòng giống Khất Đan, ta gân cổ lên cãi, khiến cho Triệu lão tam đỏ mặt tía tai, suýt nữa đánh nhau. Ôi chao, giống người Di Địch chẳng khác gì cầm thú, tính tình hung dữ của y có giấu được một thời gian, rồi sau cũng bộc phát ra.” Kỳ Lục nói: “Cũng chẳng ai biết y xuất thân từ phái Thiếu Lâm, Huyền Khổ đại sư lại là sư phụ của y.” Bào Thiên Linh nói: “Chuyện đó rất bí mật, ngay trong phái Thiếu Lâm cũng chẳng mấy ai biết. Thế nhưng Kiều Phong giết sư phụ y rồi, phái Thiếu Lâm chẳng thể che đậy được nữa. Tên ác tặc họ Kiều kia cứ tưởng giết cha giết mẹ giết thầy là có thể giấu được lai lịch xuất thân của y, ai hỏi cứ chối biến đi là xong. Có ngờ đâu y khéo quá hóa vụng, tội nghiệt càng lúc càng nhiều.”

Kiều Phong đứng bên ngoài cửa sổ, nghe Bào Thiên Linh đánh giá mình như thế, nghĩ thầm: “Một Bản Tiền Bào Thiên Linh không phải hạng người bạ đâu nói đó, cũng có chút giao tình với ta, thế mà chính y cũng nghĩ như vậy. Không hiểu những người khác còn nói tới đâu. Ôi chao, Kiều mỗ đã mang tiếng oan không sao xóa sạch, việc gì phải phí công gột rửa? Chi bằng từ nay mai danh ẩn tích, mươi năm sau chẳng còn ai nhớ tới mình, thế là xong.” Kiều Phong chán nản vô cùng, bao nhiêu hùng tâm tráng chí tan thành mây khói.

Lại nghe Hướng Vọng Hải nói: “Cứ như ta đoán, Tiết Thần Y gửi Anh hùng thiếp, chắc là để bàn việc đối phó với Kiều Phong. Vị Diêm Vương Địch này ghét kẻ ác như kẻ thù, lại giao tình rất hậu với hai vị Huyền Nạn, Huyền Tịch đại sư của chùa Thiếu Lâm.” Bào Thiên Linh nói: “Đúng thế! Ta cũng nghĩ là gần đây trên giang hồ chẳng có chuyện gì lớn hơn hành vi tàn ác của Kiều Phong. Hướng huynh, Kỳ huynh, mau mau lại đây, tối nay bọn ta uống cạn mấy cân rượu, gác chân nhau đàm luận một phen.”

Kiều Phong nghĩ bụng: “Bọn họ nói chuyện đến sáng mai, chắc cũng chỉ thêm dầu thêm mỡ chửi rủa mình suốt đêm mà thôi.” Chàng không muốn nghe thêm, bèn quay về phòng A Châu. Nàng thấy mặt mày ân nhân nhợt nhạt trông thật khó coi, liền hỏi: “Kiều đại gia! Đại gia vừa gặp kẻ địch chăng?” Nàng ra vẻ lo lắng, sợ chàng bị nội thương. Kiều Phong lắc đầu, A Châu vẫn chưa yên tâm, lại hỏi: “Đại gia không bị thương đấy chứ?”

Từ khi Kiều Phong bước chân vào chốn giang hồ chỉ thấy bạn bè kính trọng, địch nhân sợ hãi, chưa hề bị người ta khinh bỉ coi thường như mấy hôm nay. Chàng nghe A Châu hỏi như thế, bất giác tấm lòng cao ngạo lại nổi lên, lớn tiếng đáp: “Không đâu! Bọn tiểu nhân ngu dốt đó vu oan giá họa cho Kiều mỗ thì dễ, chứ ra tay đả thương ta thì khó đấy.” Đột nhiên Kiều Phong nổi hùng tâm, muốn làm chuyện kinh thiên động địa, bèn nói: “A Châu! Ngày mai ta sẽ đưa cô đi tìm danh y đệ nhất thiên hạ để trị thương. Cô cứ yên tâm ngủ đi.”

A Châu nhìn thần thái cao ngạo của Kiều Phong, trong lòng không khỏi kính phục, lại mấy phần sợ hãi. Nàng thấy người trước mặt mình đây hoàn toàn khác Mộ Dung công tử, dẫu rằng cả hai đều chẳng sợ trời sợ đất, đều tính khí cao ngạo, vẻ mặt hiên ngang. Thế nhưng Kiều Phong hùng tráng hào sảng chẳng khác gì một con sư tử oai mãnh, còn Mộ Dung Phục ôn nhu tiêu sái như một con phượng hoàng.

Kiều Phong đã quyết định xong, không nghĩ ngợi gì nữa, ngồi ngay xuống ghế mà ngủ. A Châu nhìn khuôn mặt chàng dưới ánh đèn dầu ảm đạm, chỉ một chốc đã nghe tiếng ngáy khò khò. Bỗng nhiên Kiều Phong nghiến răng trong giấc ngủ, các cơ bắp trên mặt hơi giật giật, quai hàm vuông vắn gồng cứng lên. A Châu bỗng thấy vị hào kiệt trước mặt mình thật đáng thương, so với mình còn bất hạnh hơn nhiều.

Sáng sớm hôm sau, Kiều Phong lại truyền nội lực cho A Châu, thanh toán tiền trọ rồi nhờ tiểu nhị đi thuê một cỗ xe lừa. Chàng đỡ A Châu vào trong xe, sau đó đi đến bên ngoài phòng của Bào Thiên Linh, lớn tiếng gọi: “Bào huynh! Tiểu đệ Kiều Phong đến bái kiến đây!”

Bào Thiên Linh, Hướng Vọng Hải và Kỳ Lục ba người ngồi nói xấu Kiều Phong đến gần sáng, lúc đó còn chưa ngủ dậy. Nghe tiếng Kiều Phong bên ngoài, ai nấy hoảng hồn cùng nhảy khỏi giường, vớ lấy đao, kiếm, nhuyễn tiên. Ba người cầm khí giới trong tay mới thộn mặt ra, thấy trên món nào cũng có dán một mảnh giấy nhỏ, trên viết bốn chữ “Kiều Phong bái kiến”. Họ kinh hãi nhìn nhau, đều hiểu rằng đêm qua đã bị Kiều Phong đùa một mẻ, nếu như hắn muốn lấy mạng ba người thật dễ như trở bàn tay. Trong ba người thì Bào Thiên Linh hổ thẹn nhất, y có ngoại hiệu là Một Bản Tiền, ban ngày đi rình nhà này nhà khác, tối đến dỡ mái khoét vách lẻn vào. Bản lĩnh độc đáo của y là lấy tiền trộm bạc, ngờ đâu đêm hôm bị Kiều Phong chơi một vố, đến sáng bạch mới biết.

Bào Thiên Linh nghĩ rằng nếu như Kiều Phong muốn lấy mạng mình thì đêm qua đã ra tay rồi, liền quấn nhuyễn tiên lại vào lưng, bước ra trước cửa nói: “Đầu của Bào Thiên Linh này còn trên cổ đây, Kiều huynh lúc nào muốn lấy thì cứ tự tiện. Bào mỗ làm cái nghề đi buôn không vốn, chẳng có cơ nghiệp gì, có chết dưới tay Kiều huynh cũng chẳng sao. Ngay cả phụ thân, mẫu thân, sư phụ mà các hạ còn chẳng dung tình, thì cái tình sở giao nhạt nhẽo như Bào mỗ còn mong gì các hạ dung thứ?” Từ lúc y nhìn thấy mảnh giấy gắn trên nhuyễn tiên đã có chủ ý, biết hôm nay mười phần chết đến chín, chạy trốn cũng không xong, thà rằng cứ ngang tàng hết sức rồi đem tính mạng giao cho địch còn hơn.

Kiều Phong vòng tay nói: “Ngày nào từ biệt nhau nơi phủ Thanh Châu đất Sơn Đông, thấm thoắt đã mấy năm rồi, Bào huynh phong thái vẫn như xưa, thật là đáng mừng.” Bào Thiên Linh cười khanh khách, đáp: “Bào mỗ cứ sống hôm nay không biết đến ngày mai, thế mà không ngờ đến nay vẫn chưa chết,” Kiều Phong hỏi: “Nghe nói Diêm Vương Địch Tiết Thần Y phát Anh hùng thiếp, tại hạ cũng muốn đến xem sao. Không biết đi cùng với ba vị liệu có tiện chăng?” Bào Thiên Linh rất lấy làm lạ, nghĩ: “Tiết Thần Y đại hội anh hùng chính là để đối phó với ngươi. Ngươi chán sống rồi sao mà vác xác tới một mình, hay là có dụng ý gì? Ta thường nghe Kiều bang chủ Cái Bang đã lớn mật lại tinh tế, trí dũng song toàn. Nếu ngươi không có gian mưu thì lẽ nào tự chui vào lưới, ta dại gì mà trúng kế?”

Kiều Phong thấy y ngần ngừ không trả lời, liền nói: “Kiều mỗ có việc phải cầu đến Tiết Thần Y, mong được Bào huynh dẫn đường.” Bào Thiên Linh nghĩ bụng: “Ta đang sợ chạy không thoát độc thủ của ngươi, lại được dắt ngươi đến Anh hùng yến cho quần hào vây đánh, dù ngươi có ba đầu sáu tay cũng không trốn thoát. Có điều đi chung một đường với ngươi thì vẫn là chín phần chết một phần sống.” Tuy y trong bụng phập phồng nhưng nghĩ lại, dẫn Kiều Phong đến Anh hùng yến vẫn hay hơn, bèn nói: “Anh hùng yến họp ở Tụ Hiền Trang, cách đây bảy mươi dặm về phía đông bắc. Kiều huynh muốn đi thì cứ đi. Bào Thiên Linh này xin nói rõ, bữa hội yến này chẳng hay ho mà cũng chẳng vui vẻ gì. Kiều huynh đến đó thì dữ nhiều lành ít, đừng trách Bào mỗ không nói trước.”

Kiều Phong thản nhiên cười nói: “Hảo ý của Bào huynh, Kiều mỗ xin tâm lãnh. Anh hùng yến họp tại Tụ Hiền Trang, chủ nhân có phải là Du Thị Song Hùng chăng? Hỏi thăm đường đi Tụ Hiền Trang chắc cũng dễ, ba vị cứ tùy tiện đi trước, một giờ nữa tiểu đệ chầm chậm đi theo cũng chưa muộn, cũng là cho các vị có thời gian chuẩn bị.”

Bào Thiên Linh quay lại nhìn Kỳ Lục và Hướng Vọng Hải, hai người chậm rãi gật đầu. Bào Thiên Linh nói: “Nếu thế thì bọn tại hạ đến Tụ Hiền Trang trước, đón chờ đại giá của Kiều huynh.”

Bào, Kỳ, Hướng hấp tấp thanh toán tiền cho khách điếm rồi nhảy lên ngựa, ra roi chạy thẳng về phía Tụ Hiền Trang. Ba người có sức chạy nhanh, thỉnh thoảng quay đầu nhìn lại, chỉ sợ Kiều Phong cười khoái mã đuổi theo, nhưng trước sau vẫn không thấy. Bào Thiên Linh tâm cơ linh mẫn, Kỳ Lục và Hướng Vọng Hải cũng nhiều lịch duyệt giang hồ, kiến văn rộng rãi. Thế nhưng ba người vừa đi đường vừa phỏng đoán, vẫn không hiểu được Kiều Phong đơn thân đến Anh hùng yến để làm gì.

Kỳ Lục bỗng nói: “Bào đại ca! Đại ca có trông thấy chiếc xe lớn bên cạnh Kiều Phong không? Bên trong cỗ xe đó hẳn có điều quái dị.” Hướng Vọng Hải nói: “Chẳng lẽ có nhân vật lợi hại mai phục trong xe chăng?” Bào Thiên Linh đáp: “Cỗ xe đó mà xếp chật đến không thở nổi cũng chỉ được bảy tảm mạng, tính luôn Kiều Phong cũng chưa đủ chục, đến Anh hùng yến chẳng khác gì thuyền con vào trong sóng cả, làm được trò trống gì?”

Ba người vừa đi vừa trò chuyện, trên đường gặp võ lâm đồng đạo mỗi lúc một đông, ai ai cũng đi phó yến tại Tụ Hiền Trang. Lần hội yến này rất đột ngột, thiếp mời không đề tên khách, tất cả nhân vật võ lâm đều được hoan nghênh, Người nào nhận được thiếp cũng phi ngựa suốt ngày đêm chuyển giao cho bạn bè quen biết, người nọ truyền người kia, mới một ngày một đêm mà thiếp mời đã truyền đi thật xa. Thế nhưng vì quá cấp bách, phần lớn những người đến Tụ Hiền Trang chỉ ở trong chu vi vài trăm dặm quanh chùa Thiếu Lâm. May mà Hà Nam nằm ở khoảng giữa, ngoài người bản địa, nhân vật võ lâm ở khắp bốn phía nghe được tin này cũng lên đường đi ngay, thành ra số người tham gia cũng không ít.

Anh hùng yến lần này do Du Thị Song Hùng của Tụ Hiền Trang liên danh với Diêm Vương Địch Tiết Thần Y cùng mời. Du thị Song Hùng Du Ký, Du Câu giàu có, hào hiệp, giao du rộng rãi, võ công cao siêu mà tiếng tăm cũng vang dội, nhưng không đủ thể lực, cũng không thể coi là đức cao vọng trọng để có thể mời được bấy nhiêu anh hùng hảo hán. Thế nhưng Tiết Thần Y lại là người mà ai ai cũng muốn kết giao. Ta nên biết người tự phụ võ công cao cường thì nhiều, còn người tự xưng thiên hạ vô địch thì ít, mà thiên hạ vô địch cũng không dám chắc suốt đời không bệnh tật hay bị thương. Nếu kết giao được với Tiết Thần Y thì giữ được tính mạng vững chắc, chỉ cần còn sống mà đưa đến, bất luận bệnh nặng thế nào ông ta cũng chữa được. Do đó mà Anh hùng thiếp của Du Thị Song Hùng cùng Tiết Thần Y, ngoài việc làm vinh dự cho người nhận còn có giá trị như một đạo bùa hộ mệnh. Những nhân sĩ võ lâm sinh sống bằng nghề đao kiếm không ai dám chắc giữ mình được yên lành suốt đời, hôm nay có dịp làm quen với Tiết Thần Y, đến khi sơ sẩy lẽ nào ông ta lại bỏ mặc không thèm chữa? Trên danh thiếp ngoài ba cái tên Tiết Mộ Hoa, Du Ký, Du Câu còn chua thêm một hàng chữ nhỏ: “Du Ký, Du Câu trình bày thêm, Tiết Mộ Hoa tiên sinh được người đời gọi là Tiết Thần Y”. Nếu không có hàng phụ chú đó, người nhận được thiếp chắc ít ai biết Tiết Mộ Hoa là cao nhân phương nào, số người đến Tụ Hiền Trang mười phần có lẽ chưa được ba bốn.

Bào Thiên Linh, Kỳ Lục, Hướng Vọng Hải ba người đến Tụ Hiền Trang rồi, Du Câu lão nhị ra nghênh tiếp, vào nhà đại sảnh thì thấy đã đầy tân khách. Bào Thiên Linh chỉ quen biết chừng một nửa, nhưng y vừa bước chân vào là bốn phía đã nhao nhao lên, ai cũng: “Bào lão gia có phát tài không?” “Bào huynh! Mấy bữa nay làm ăn khá chứ?” Bào Thiên Linh luôn tay thi lễ, hỏi thăm khắp lượt. Y thật không dám sơ suất chút nào, trong chỗ đông đảo nhân vật giang hồ thế này không thiếu kẻ hẹp hòi. Chỉ cần sót một cái gật đầu đáp lễ, hay thiếu một nụ cười chào hỏi là có thể xảy ra chuyện lôi thôi, nếu có mất mạng thì cũng không phải là chuyện lạ.

Du Câu dẫn y đến chỗ chủ vị phía đông, Tiết Thần Y liền đứng lên nói: “Bào huynh, Kỳ huynh, Hướng huynh ba vị đại giá quang lâm, thực chẳng khác gì nạm vàng lên mặt lão hủ. Lão hủ thật là cảm kích!” Bào Thiên Linh vội vàng đáp lễ, nói: “Tiết lão gia đã có lệnh gọi, Bào Thiên Linh này dù có ốm liệt giường cũng phải cho người khiêng đến.” Du Ký lão đại cười nói: “Nếu quả như Bào huynh bị bệnh liệt giường thì lại càng cần cho người khiêng đến gặp Tiết lão gia” Mọi người nghe thế, ai nấy cười ha hả, Du Câu nói: “Ba vị đường xa nhọc mệt, xin mời vào hậu sảnh dùng điểm tâm.” Bào Thiên Linh nói: “Việc điểm tâm thong thả một chút cũng không sao. Tại hạ có việc muốn hỏi, lần này Tiết lão gia tử và hai vị Du lão gia mời khách, có mời Kiều Phong không?”

Tiết Thần Y và Du Thị Song Hùng nghe thấy hai chữ “Kiều Phong” liền biến sắc mặt. Du Ký nói: “Lần này phát, thiếp vô danh, ai đến cũng đón tiếp. Sao Bào huynh lại đề cập đến Kiều Phong? Phải chăng Bào huynh và gã cũng có chút giao tình?” Bào Thiên Linh đáp: “Tiểu đệ nghe gã nói là sẽ đến Tụ Hiền Trang để tham dự Anh hùng đại yến.”

Y vừa nói ra, quần hùng đều sửng sốt. Mấy chục người trong đại sảnh đang cao đàm khoát luận rất là huyên náo cũng đột nhiên dừng lại, im phăng phắc. Những người ngồi xa không nghe Bào Thiên Linh nói gì, thấy mọi người im lặng cũng ngừng nói chuyện để lắng nghe. Chỉ giây lát, trong đại sảnh không còn một tiếng động, đến nỗi tiếng người đang ăn uống dưới hậu sảnh cũng vọng lên tận nhà trên.

Tiết Thần Y hỏi: “Làm sao Bào huynh biết được là Kiều Phong sẽ đến?” Bào Thiên Linh đáp: “Chính tai tại hạ cùng hai vị Kỳ huynh, Hướng huynh đều nghe thấy. Nói ra lại xấu hổ, đêm qua ba người chúng ta bị một vố ê chề.” Hướng Vọng Hải liên tiếp đưa mắt ra hiệu cho Bào Thiên Linh đừng thuật lại câu chuyện xấu hổ ấy. Nhưng Bào Thiên Linh là người khôn ngoan, hiểu rõ Tiết Thần Y cùng Du Thị Song Hùng cố nhiên rất tinh ý, mà trong đám anh hùng đây những người tài trí cũng không phải ít. Mình chỉ giấu giếm một chút cũng đủ cho người ta phải nghi ngờ. Đây là việc vô cùng hệ trọng, mình đã bị lôi cuốn vào thì sơ ý một chút là đi đến chỗ thân bại danh liệt ngay. Y chậm rãi tháo cây nhuyễn tiên ở thắt lưng ra, mảnh giấy có viết bốn chữ “Kiều Phong bái kiến” kia vẫn còn dính nơi đó. Y liền hai tay đưa cho Tiết Thần Y, nói: “Kiều Phong nhờ ba người bọn tại hạ báo tin, hôm nay y sẽ tới Tụ Hiền Trang.” Sau đó y kể lại đã gặp Kiều Phong ra sao, đối đáp những gì nhất nhất thuật lại không giấu một mảy, không đổi một từ. Hướng Vọng Hải đứng bên cạnh liên tiếp dậm chân, mặt mày thẹn đỏ lên.

Bào Thiên Linh kể xong xuôi, sau cùng mới nói: “Gã Kiều Phong kia là giống chó dại Khất Đan, Dù y có nhân nghĩa chúng ta cũng phải diệt đi, huống chi tính ác đã lộ ra, gây họa càng ngày càng lớn. Nếu mà y xa chạy cao bay thì khó mà tầm nã được, Quả là lòng trời run rủi, y lại tự đâm đầu vào bẫy.”

Du Câu trầm ngâm đáp: “Ta thường nghe Kiều Phong trí dũng song toàn, đủ tài để làm việc đại ác chứ không phải kẻ thất phu liều lĩnh. Lẽ nào y dám đến Anh hùng đại yến?” Bào Thiên Linh đáp: “Chỉ sợ y có gian mưu, ta phải đề phòng cẩn thận. Có câu lắm người nhiều kế, tất cả chúng ta đây phải cùng nhau bàn thảo tính toán xem thế nào.”

Trong khi đang nói chuyện, phía ngoài lại có vô số anh hùng hào kiệt mới tới, trong đó có cả Thiết diện pháp quan Đơn Chính cùng năm con, vợ chồng Đàm công Đàm bà cùng Triệu Tiền Tôn. Lát sau hai vị cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn, Huyền Tịch cũng tới nơi. Ai ai cũng được Tiết Thần Y cùng Du Thị Huynh Đệ hoan nghênh khoản đãi. Quần hào ngồi nhắc lại những tội ác của Kiều Phong, mọi người đều hết sức phẫn nộ.

Bỗng nhiên gã quản gia lật đật chạy vào bẩm: “Từ trưởng lão ở Cái Bang suất lãnh các trưởng lão Truyền Công, Chấp Pháp cùng Tống Hề Trần Ngô đến bái trang.” Mọi người ai nấy rùng mình, Cái Bang là bang hội lớn nhất giang hồ, thanh thế quả thật đáng gờm. Hướng Vọng Hải nói: “Bọn Cái Bang kéo hết đến đây, chắc hẳn là để viện trợ cho Kiều Phong.” Đơn Chính nói: “Kiều Phong đã ra khỏi Cái Bang, không còn là bang chủ nữa. Chính mắt tại hạ trông thấy bọn họ trở mặt với nhau rồi.” Hướng Vọng Hải nói: “Tình nghĩa cố cựu không phải dễ quên được ngay đâu.” Du Ký nói: “Các vị trưởng lão Cái Bang ai cũng là nam tử hiên ngang khẳng khái, chẳng lẽ lại không phân biệt. phải trái, bảo vệ kẻ thù? Nếu họ đến đây để giúp Kiều Phong, chẳng hóa ra biến thành Hán gian bán nước hay sao?” Mọi người gật đầu khen phải, cùng nói: “Dẫu có là người không ra gì cũng chẳng ai cam tâm làm Hán gian bán nước.”

Tiết Thần Y cùng Du Thị Song Hùng thân hành ra ngoài cửa trang nghênh tiếp, thấy Cái Bang chỉ đến chừng mười hai, mười ba người. Quần hùng thấy vậy cũng hơi yên tâm vì đều nghĩ rằng chưa chắc bọn này có giúp đỡ Kiều Phong hay không, dù cho họ tâm địa bất hảo thì mười hai, mười ba người cũng chẳng làm trò gì được. Quần hùng cùng Từ trưởng lão chỉ chào hỏi qua loa rồi cùng vào đại sảnh. Các nhân vật Cái Bang đều mặt mày lo âu, rõ ràng trong bụng có tâm sự nặng nề.

Chủ khách an tọa rồi, Từ trưởng lão cất tiếng hỏi: “Tiết huynh cùng hai vị Du lão đệ! Hôm nay anh hùng khắp nơi tụ họp ở đây, phải chăng để đối phó với cái mầm họa mới trong võ lâm là Kiều Phong?” Mọi người nghe ông ta gọi Kiều Phong là “mầm họa mới của võ lâm”, đưa mắt nhìn nhau, không ai bảo ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Du Ký đáp: “Đúng thế. Chắc cũng vì việc này mà Từ trưởng lão cùng các vị trưởng lão nhất tề giá lâm, thật là đại hạnh cho võ lâm. Chúng tôi trừ diệt tên mọi rợ này cần được quý bang chứng kiến, nếu không lỡ có chuyện hiểu lầm làm tổn thương hòa khí thì cả đôi bên đều không khỏi hối hận.”.

Từ trưởng lão thở dài, nói: “Y táng tận lương tâm thành kẻ điên rồ, hành động đại nghịch bất đạo. Quả thật y đã giúp tệ bang không biết bao nhiêu công lao, mới đây bọn ta bị gian nhân ám toán cũng được y ra tay giải cứu. Thế nhưng đại trượng phu lập thân xử thế, phải lấy đại thể làm trọng, những điều ân oán nhỏ mọn đành phải gác qua một bên. Y là tử thù của Đại Tống chúng ta, các trưởng lão tệ bang tuy đều từng được y đối đãi tử tế, nhưng không thể vì ơn riêng mà bỏ nghĩa công. Người ta có câu Đại nghĩa diệt thân, huống chi y không phải là thân thích của tệ bang.”

Lão vừa dứt lời, quần hùng đều vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Lúc đó Du Ký mới nói đến việc Kiều Phong muốn đến tham dự Anh hùng đại yến, các trưởng lão đều sửng sốt. Mọi người đều theo Kiều Phong lâu ngày, biết chàng không bao giờ hành sự hữu dũng vô mưu, nếu lần này đơn thương độc mã đến Tụ Hiền Trang thì quả là kỳ quái. Hướng Vọng Hải đột nhiên nói: “Tôi nghĩ Kiều Phong cố ý bày kế nghi binh để quần hùng chờ ở đây, còn y cúp đuôi chạy mất rồi. Cái đó gọi là kế Kim Thiền Thoát Xác.” Ngô trưởng lão đập tay xuống bàn, mắng ngay: “Kim Thiền Thoát Xác cái con bà ngươi. Kiều Phong là hạng người nào ngươi có biết không? Người ta đã nói thế nào là làm đúng như vậy.” Hướng Vọng Hải bị Ngô trưởng lão mắng thẹn đỏ mặt lên, giận dữ đáp: “Ngươi định bệnh vực cho Kiều Phong chăng? Hướng mỗ đây nhất định không chịu. Ngươi có giỏi thì lại đây tỷ võ với ta!” Ngô trưởng lão nghe những chuyện Kiều Phong giết cha, giết mẹ, giết thầy, đại náo chùa Thiếu Lâm thì trong lòng hết sức uất ức, lửa giận chưa biết trút vào ai. Gã Hướng Vọng Hải lại đứng ra khiêu chiến, thật là cầu còn chưa được. Lão tung người nhảy vọt ra sân, lớn tiếng nói: “Kiều Phong là giống chó Khất Đan hay đường đường là người Hán, lúc này chưa rõ ràng. Nếu quả y là Khất Đan mọi rợ, Ngô mỗ sẽ là người thứ nhất liều mạng với y, đến thứ một nghìn cũng chưa đến lượt thằng khốn kiếp kia giết Kiều Phong. Ngươi là cái thá gì mà đến đây nói năng bậy bạ? Vác xác ra đây để ông dạy cho một trận.”

Hướng Vọng Hải giận tím mặt, rút đơn đao ra khỏi vỏ đánh soạt một tiếng, nhìn đến binh khí lại nhớ tờ giấy có ghi “Kiều Phong bái kiến”, không khỏi ngẩn ngơ. Du Ký vội can: “Hai vị đều là tân khách của Du mỗ, xin nể mặt họ Du này, đừng để mất hòa khí.” Từ trưởng lão cũng nói: “Ngô huynh đệ chớ nên nóng nảy, phải giữ lấy thanh danh cho bản bang.”

Trong đám đông bỗng có tiếng nhỏ nhẹ nói móc: “Cái Bang đã có một nhân vật như Kiều Phong, thanh danh quả là lừng lẫy. Phải cố giữ lấy thanh danh đó.” Quần hào Cái Bang nghe nói thế, ai nấy thét lên quát hỏi: “Đứa nào đánh rắm đó? Có gan thì chường mặt ra, cứ lủi trong đám đông thì sao đáng mặt hảo hán?” “Thằng chó đẻ khốn kiếp nào thế?”

Kẻ kia chỉ nói một câu rồi im bặt, chẳng ai phát hiện ra y. Bọn Cái Bang bị mỉa mai trêu tức, ai nấy căm giận vô cùng, nhưng không kiếm ra thủ phạm nên cũng đành chịu. Cái Bang tuy là đệ nhất đại bang trên giang hồ nhưng bang chúng đều là dân ăn mày, chẳng cần biết lễ nghĩa thượng lưu. Họ thi nhau chửi rủa quát tháo, có người lại lôi đến tổ tông mười tám đời của thằng hèn nhát ra mà réo.

Tiết Thần Y nhíu mày nói: “Xin các vị hãy nén giận để nghe lão hủ nói một lời.” Quần hào Cái Bang dần dần yên lặng trở lại. Bỗng nhiên trong đám đông, giọng nói lạnh lùng ban nãy lại phát ra: “Hay lắm! Hay lắm! Kiều Phong phái vô số thủ hạ lợi hại đến nằm vùng. Thể nào ta cũng được xem một tuồng kịch thật hay.” Bọn Ngô trưởng lão nghe thế lại càng căm tức, liên tiếp rút binh khí ra loạt soạt, ánh sáng lập lòe. Các tân khách thấy Cái Bang muốn động thủ, cũng vội lấy vũ khí, tiếng quát tháo la rầm rầm như chợ vỡ. Tiết Thần Y và Du Thị huynh đệ cố khuyên can mọi người bình tĩnh, nhưng ba người hò hét chỉ làm huyên náo thêm chứ chẳng ích lợi gì.

Trong lúc hỗn loạn, có một tên quản gia chạy vào, ghé tai Du Ký nói nhỏ mấy câu. Du Ký biến sắc hỏi lại thì gã quản gia trỏ tay ra cổng, vẻ mặt cực kỳ kinh hãi. Du Ký lại ghé tai nói thầm với Tiết Thần Y, Tiết Thần Y thốt nhiên thay đổi sắc mặt. Du Câu chạy đến bên anh. Du Ký nhìn em vừa nói một câu, Du Câu cũng biến sắc liền. Thế rồi người nọ truyền người kia, một truyền thành hai, hai truyền thành bốn, bốn truyền thành tám, tin đó lan ra rất mau, chỉ trong giây lát đại sảnh lặng yên không một tiếng động.

Ai cũng đã nghe bốn chữ “Kiều Phong bái trang”. Tiết Thần Y quay sang nhìn anh em họ Du gật đầu, lại quay sang nhìn hai vị sư Huyền Nạn, Huyền Tịch, mới nói: “Mời vào!” Gã quản gia trở gót đi ra. Quần hùng ai nấy trống ngực đánh thình thình, tuy biết rằng bên mình người đông thế mạnh, tất cả cùng xông lên thì chỉ chớp mắt đã băm vằm Kiều Phong thành muôn mảnh. Nhưng uy danh Kiều Phong không phải nhỏ, lại đàng hoàng một mình đến đây, hiển nhiên còn có âm mưu gì khác.

Tất cả yên lặng đợi chờ, chỉ nghe tiếng vó lộp cộp cùng tiếng bánh xe lăn lọc cọc, một cỗ xe lừa chậm rãi vượt qua cổng chính, tiến thẳng vào trong. Hai anh em họ Du nhíu đôi mày khó chịu, xem chừng thái độ nghênh ngang của Kiều Phong cực kỳ vô lễ. Lại nghe lạch cạch mấy tiếng, chiếc xe đã vượt qua ngạch cửa, ngồi chỗ xa phu là một đại hán cầm roi. Chiếc xe thì buông rèm rủ thấp, không biết bên trong có chứa những gì, quần hào không ai bảo ai cùng đăm đăm nhìn vào xe phu.

Người đó mặt vuông, thân hình cao lớn, vai rộng ngực nở, không giận mà lộ vẻ oai nghiêm, chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang tên gọi Kiều Phong.

Kiều Phong để chiếc roi nơi chỗ ngồi, xuống xe ôm quyền thi lễ nói: “Nghe nói Tiết Thần Y cùng Du Thị huynh đệ họp Anh hùng đại yến tại Tụ Hiền Trang, Kiều mỗ không phải hào kiệt Trung Nguyên, lẽ ra đâu dám mặt dày đến dự. Chỉ vì hôm nay gặp việc khẩn cấp phải cần đến Tiết Thần Y nên mạo muội đến đây, mong liệt vị thứ tội cho.” Nói xong chàng vái một cái thật sâu, vẻ mặt cực kỳ cung kính. Kiều Phong càng lễ độ, quần hùng càng tin là chàng đã sắp đặt âm mưu ngụy kế. Du Câu vẫy tay một cái, bốn tên đệ tử lẳng lặng ra xem xét trước sau trang viện xem có gì khác lạ. Tiết Thần Y chắp tay đáp lễ, nói: “Không hiểu Kiều huynh có việc chi cần đến tại hạ?”

Kiều Phong lùi lại hai bước, vén chiếc rèm xe, đưa tay đỡ A Châu ra, nói: “Tại hạ hành sự lỗ mãng khiến cho tiểu cô nương này bị trúng phải chưởng lực của người khác, thương tích cực kỳ trầm trọng. Trên đời này ngoài Tiết Thần Y ra không ai chữa nổi, nên đành liều lĩnh chạy đến đây xin thần y cứu mạng cho nàng.”

Quần hào khi thấy chiếc xe lừa buông rèm kín mít liền đem lòng nghi hoặc, cố phỏng đoán điều gì quái lạ bên trong, ắt là độc dược thuốc nổ, độc xà mãnh thú, hoặc người thân của Tiết Thần Y bị Kiều Phong bắt làm con tin. Đến lúc thấy trong xe chỉ có một cô gái mười sáu mười bảy tuổi, ai nấy đều chưng hửng. Nghe Kiều Phong nói đem nàng đến để nhờ trị thương, mọi người càng kinh ngạc.

Thiếu nữ mặc áo màu vàng nhạt, gò má nhô cao không đẹp chút nào. Thì ra A Châu nghĩ rằng nhà Mộ Dung ân oán rất nhiều, nếu Tiết Thần Y biết được lai lịch cô tất không chịu chữa. Thành thử ở Hứa Gia Tập cô đã mua quần áo, ngồi trong xe sửa đổi dung mạo, nhưng không dám giả thành đàn ông hoặc đàn bà trung niên, vì thần y ắt phải xem mạch coi bệnh.

Tiết Thần Y nghe chàng nhờ cậy, quả thật ngoài dự liệu. Trong đời ông, người ở xa ngàn dặm đến nhờ chữa bệnh là việc rất thường, hầu như ngày nào cũng có. Thế nhưng ở đây mọi người đang tính việc bắt giết Kiều Phong, thì kẻ hung đồ không việc ác nào không làm, người lẫn quỷ thần đều căm giận, lại tự nhiên dẫn xác đến, thực khiến cho người ta không khỏi sinh lòng ngờ vực.

Tiết Thần Y đưa mắt nhìn A Châu từ đầu đến chân, thấy nàng dung mạo xấu xí lại còn ít tuổi, quyết nhiên Kiều Phong không thể bị sắc đẹp của cô bé này mê hoặc. Ông ta tự hỏi: “Phải chăng cô bé này là em gái y? Hừ, không thể được, y hạ độc thủ cả song thân cùng sư phụ, không có lý nào vì một đứa em gái mà vào nơi nguy hiểm để rước lấy cái họa sát thân. Hay đó là con gái y? Cũng không phải, có nghe ai nói y đã lấy vợ đâu?” Tiết Thần Y là người rất tinh thông y lý, chỉ trông qua thể chất hình mạo đã nhìn ngay ra đặc điểm. Ông thấy Kiều Phong tráng kiện to cao mà cô bé yểu điệu ốm yếu không giống chút nào, đoán chắc ngay hai người này không có liên quan cốt nhục gì với nhau. Ông trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Cô nương này tôn tính là gì? Có liên hệ thế nào với các hạ?”

Kiều Phong ngỡ ngàng, từ khi chàng biết A Châu chỉ gọi nàng là A Châu, cũng không biết có phải họ Châu hay không. Chàng bèn quay lại hỏi: “A Châu! Có phải cô nương họ Châu không?” A Châu mỉm cười đáp:“Ta họ Nguyễn.” Kiều Phong gật đầu nói: “Tiết Thần Y, thì ra cô ta họ Nguyễn. Tới lúc này tại hạ mới biết.” Tiết Thần Y càng lấy làm kỳ, hỏi thêm: “Thế ra cô nương này không phải là chỗ thâm giao với các hạ?” Kiều Phong đáp: “Cô ta là thị tì của một vị bằng hữu.” Tiết Thần Y nói: “Thế vị bằng hữu của các hạ là ai? Ắt hẳn hai người tình thân như cốt nhục, mới quí nhau đến thế?” Kiều Phong lắc đầu: “Vị bằng hữu đó tại hạ cũng chưa biết mặt, trước nay chưa từng tương kiến.”

Kiều Phong vừa dứt lời, quần hào trong đại sảnh đều “ủa” lên một tiếng. Quá nửa số người không tin trên đời có chuyện lạ đến thế, chắc là hắn chỉ mượn cớ để thực hành âm mưu quỷ quái gì khác. Song cũng có nhiều người biết trước nay Kiều Phong không nói dối bao giờ. Dù gần đây y có làm nhiều việc độc ác nhưng con người tự trọng ấy vị tất đã công khai dối trá đánh lừa ai.

Tiết Thần Y đưa tay chẩn mạch cho A Châu, thấy mạch nàng nhảy rất yếu nhưng trong người lại có chân khí thúc đẩy, hai đằng không tương xứng chút nào. Ông đưa tay bắt thêm mạch bên trái, hiểu ngay lý do, quay sang nói với Kiều Phong: “Vị cô nương này nếu không nhờ linh dược trị thương của Đàm công ở Thái Hàng Sơn, không nhờ các hạ truyền nội lực vào thì đã chết vì Đại Kim Cương Chưởng của Huyền Từ đại sư từ lâu rồi.”

Quần hùng nghe thế đều chấn động. Đàm công, Đàm bà mặt mày ngơ ngác nghĩ thầm: “Sao cô ta có được linh dược trị thương của chúng ta?” Hai vị sư Huyền Nạn, Huyền Tịch lại càng lạ lùng, tự hỏi:“Phương trượng sư huynh khi nào lại dùng Đại Kim Cương Chưởng đánh một cô bé bao giờ? Giả tỷ cô ta trúng phải Đại Kim Cương Chưởng thật thì có lý nào còn sống được?” Huyền Nạn nói: “Tiết cư sĩ, Phương trượng sư huynh của bần tăng mấy năm nay không ra khỏi bổn tự; mà chùa Thiếu Lâm xưa nay không cho đàn bà con gái vào thăm. Bần tăng e rằng đòn Đại Kim Cương Chưởng này không phải do sư huynh hạ thủ.”

Tiết Thần Y nhíu mày nói: “Trên đời này còn ai khác biết Đại Kim Cương Chưởng của quý phái?”. Huyền Nạn, Huyền Tịch nhìn nhau không nói gì. Hai người ở trong chùa Thiếu Lâm đã mấy chục năm nay, cùng với Huyền Từ học chung một thầy, đã luyện tập mất không biết bao nhiêu công sức, chỉ vì thiên tư có hạn mà không sao luyện thành môn Đại Kim Cương Chưởng. Hai vị cũng không tiếc nuối vì biết rằng phái Thiếu Lâm hàng trăm năm mới có một bậc kỳ tài luyện được chưởng pháp này. Cũng may là yếu quyết luyện Đại Kim Cương Chưởng đều được các vị cao tăng đời trước ghi chép kỹ càng trong võ kinh, thành thử có khi cả chùa không ai luyện được mà cũng không đến nỗi thất truyền.

Huyền Tịch định hỏi “Có thật cô ta trúng phải Đại Kim Cương Chưởng chăng?” nhưng e rằng hỏi như vậy không tiện nên ngừng lại. Nếu đưa ra câu hỏi đó tựa hồ như có ý nghi ngờ y đạo của Tiết Thần Y, như vậy là đại bất kính. Lão tăng liền quay sang hỏi Kiều Phong: “Đêm trước, thí chủ lẻn vào chùa Thiếu Lâm ám hại Huyền Khổ sư huynh, đã thử đỡ một chiêu Đại Kim Cương Chưởng của phương trượng sư huynh ta. Phát chưởng đó nếu đánh vào một tiểu cô nương thì cô ta làm sao sống được?” Kiều Phong lắc đầu: “Huyền Khổ đại sư là ân sư, tại hạ vẫn còn chưa bao đáp được đại ân của sư phụ. Kiều mỗ dù phải bỏ mạng cũng chẳng dám động một ngón tay vào ân sư.” Huyền Tịch giận dữ nói: “Ngươi còn chối à? Thế còn nhà sư Thiếu Lâm bị ngươi bắt cóc thì sao? Không lẽ cũng không phải thủ đoạn của ngươi?”

Kiều Phong nghĩ thầm: “Nhà sư Thiếu Lâm bị ta bắt cóc đang ở ngay trước mặt chứ đâu”, bèn nói: “Đại sư nói Kiều mỗ bắt cóc một cao tăng chùa Thiếu Lâm, xin hỏi vị đó pháp hiệu là gì?” Huyền Tịch và Huyền Nạn hai người nhìn nhau, ấp úng không trả lời được. Đêm hôm qua, Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Nạn ba người hợp kích Kiều Phong vẫn để chàng chạy thoát, còn chính mắt thấy chàng bắt theo một nhà sư. Thế mà kiểm tra tăng chúng trong chùa thì lại không thiếu một ai, việc đó quả là cổ quái, quần tăng không sao hiểu nổi.

Tiết Thần Y xen vào: “Kiều huynh một thân một mình vào chùa Thiếu Lâm mà không rụng một sợi tóc, lại còn bắt được một vị cao tăng đem đi, quả thật là lạ. Trong đó ắt có điều gì không minh bạch, Kiều huynh còn giấu giếm chưa nói hết.” Kiều Phong đáp: “Tại hạ không làm hại Huyền Khổ đại sư, mà cũng không bắt vị hòa thượng nào ra khỏi chùa Thiếu Lâm. Các vị có nhiều điều chưa minh bạch, tại hạ cũng có nhiều điều còn thắc mắc.”

Huyền Nạn nói: “Nói gì thì nói, tiểu cô nương này quyết không phải do phương trượng sư huynh chúng ta đả thương. Sư huynh bần tăng là một vị cao tăng đạo đức, địa vị cao cả chưởng môn một phái, lẽ nào lại ra tay đánh một cô bé bị thương nặng đến thế? Dù tiểu cô nương đây có muôn vàn chuyện sai quấy thì sư huynh chúng ta cũng không chấp nhất.”

Kiều Phong trong bụng nảy ra một ý: “Hai nhà sư này không chịu nhận là A Châu bị Huyền Từ đả thương thì lại càng tốt. Nếu không, Tiết Thần Y nể mặt phái Thiếu Lâm, nhất định không chịu chữa.” Nghĩ vậy, ông cũng xuôi nước đẩy thuyền, nói theo: “Phải lắm! Huyền Từ phương trượng vốn một lòng từ bi, quyết không bao giờ quá tay đánh bị thương một cô gái nhỏ tuổi. Chắc hẳn có kẻ mạo nhận cao tăng chùa Thiếu Lâm ra tay đánh người bừa bãi.” Huyền Tịch và Huyền Nạn đưa mắt nhìn nhau, lẩm nhẩm gật đầu, nghĩ thầm: “Gã Kiều Phong kia tuy đại gian ác, nhưng nói mấy câu này quả là biết điều.”.

A Châu cười thầm trong bụng: “Kiều đại gia nói không sai một ly. Quả là có người mạo xưng làm sư chùa Thiếu Lâm, ra tay đánh người bừa bãi. Có điều y không mạo xưng Huyền Từ phương trượng, mà chỉ dám mạo xưng hòa thượng Chỉ Thanh.” Thế nhưng Huyền Tịch, Huyền Nạn, Tiết Thần Y và những người khác đoán thế nào nổi những ẩn ý trong câu nói của Kiều Phong.

Tiết Thần Y nghe thấy hai vị cao tăng không nói gì, ắt hẳn không sai liền nói: “Thì ra trên đời hãy còn kẻ khác biết sử dụng Đại Kim Cương Chưởng của quý phái. Người đó khi hạ thủ bị vật gì ngăn trở, chưởng lực mười phần đã bớt đi bảy tám. Vì vậy Nguyễn cô nương không đến nỗi chết ngay lập tức. Chưởng lực của gã này cực kỳ hùng hậu, xem ra cũng ngang ngửa với Huyền Từ phương trượng.”

Kiều Phong trong lòng ngấm ngầm bội phục: “Quả thực chưởng lực của Huyền Từ phương trượng bị ta dùng tấm gương đồng chặn lại, làm tiêu giảm đến quá nửa. Vị Tiết Thần Y này quả là y đạo như thần, chỉ mới bắt mạch A Châu đã nói được tình hình hai bên ra chiêu động thủ không sai chút nào. Chắc chắn ông ta đủ tài chữa A Châu khỏi bệnh”. Chàng nghĩ thế, mặt lộ vẻ vui mừng nói tiếp: “Nếu vị tiểu cô nương này bỏ mạng vì Đại Kim Cương Chưởng thì thanh danh của phái Thiếu Lâm bị tổn thương rất nhiều, xin Tiết Thần Y mở lượng từ bi…” Nói xong vai một cái thật dài.

Huyền Tịch không đợi Tiết Thần Y trả lời, hỏi A Châu: “Ai đã ra tay đả thương cô nương? Ở địa phương nào? Người đó bây giờ đang ở đâu?” Nhà sư vừa nghĩ đến thanh danh chùa Thiếu Lâm, vừa băn khoăn trên đời này còn có kẻ biết môn Đại Kim Cương Chưởng độc đáo của phái Thiếu Lâm, nên muốn hỏi cho ra lẽ.

Bản tính A Châu cực kỳ ngang bướng, đâu có giống như Kiều Phong mực thước chín chắn, nàng vốn lẹ miệng, bịa đặt trơn như cháo chảy, lúc này trong lòng tính toán: “Mấy ông sư này đều khiếp vía công tử nhà ta, chi bằng ta dọa cho sợ một mẻ.” Nàng liền nói: “Gã đó là một công tử tướng mạo anh tuấn, tuổi chừng hăm tám hăm chín. Tiểu nữ đang cùng Kiều đại gia ở trong khách điếm, đàm luận về y thuật thần sầu quỷ khốc của Tiết Thần Y. Không những hiện nay chẳng ai bằng mà người xưa cũng không ai bì kịp, sau này không còn người kế tiếp, không chừng cả thần tiên trên trời cũng chưa bằng…”

Con người ta ở đời, chẳng ai không ưa lời tâng bốc. Tiết Thần Y bình sinh đã được nghe vô số người tán dương xưng tụng, nhưng lời tâng bốc líu lo réo rắt từ miệng một thiếu nữ thì đây mới là lần đầu. Hơn nữa nàng lại khoa trương quá đỗi, Tiết Thần Y nghe xuôi tai, bất giác vuốt râu mỉm cười. Kiều Phong nghe vậy lại nhíu mày: “Làm gì có chuyện đó? Cô nương này chỉ giỏi ba hoa phóng đại.”

A Châu lại tiếp: “Khi đó tiểu nữ mới nói rằng: Trời sinh ra vị Tiết Thần Y này thì đại gia học võ giỏi đến đâu cũng bằng vô ích. Kiều đại gia mới hỏi: Sao lại vô ích? Tiểu nữ đáp: Người nào bị đánh chết, Tiết Thần Y cũng cứu sống lại được. Thế thì đại gia luyện quyền tập kiếm ích gì? Giết một người thì Tiết Thần Y cứu một người, giết hai người thì Tiết Thần Y cứu một cặp, có phải đại gia chỉ mất công vô ích không?”

Nàng lanh mồm lanh miệng, thanh âm réo rắt, tuy đang bị trọng thương mà thanh âm trong trẻo như tiếng trân châu rơi trên mâm ngọc, bắt chước thổ âm Tứ Xuyên của bọn phái Thanh Thành, nghe không biết chán tai. Mọi người ai nấy đều vui vẻ, có kẻ bật cười thành tiếng.

Thế nhưng A Châu không cười, vẫn tiếp tục kể: “Góc phòng bên kia có một gã công tử nghe chúng tôi nói chuyện, đột nhiên cười khẩy nói: Chưởng lực trong thiên hạ đa số nhẹ như bông gòn, nội lực chẳng có gì đáng kể, nên gã lang băm họ Tiết kia mới có được cái hư danh. Để ta đánh một chưởng xem y có trị nổi không nào? Gã nói xong liền vung chưởng lên. Tiểu nữ thấy mình ngồi cách xa y đến mấy trượng, lại tưởng y thuận mồm nói chơi nên cũng không để ý. Song Kiều đại gia kinh hãi…”

Huyền Tich hỏi lại: “Kiều thí chủ đưa song chưởng ra đỡ phải không?” A Châu lắc đầu, đáp: “Không phải. Nếu như Kiều đại gia phong chưởng ra đỡ thì gã công tử kia làm sao đánh tiểu nữ bị thương được. Kiều đại gia ngồi xa, không đến cứu kịp, vội chụp một chiếc ghế nếm qua. Kình lực của đại gia vừa lợi hại vừa chính xác, chỉ nghe lách cách mấy tiếng, chiếc ghế đã bị Phách Không Chưởng của gã công tử kia đánh tan nát. Gã kia nói giọng Tô Châu êm dịu, mà xuất thủ lại chẳng êm dịu chút nào. Tiểu nữ chỉ thấy người nhẹ lâng lâng, tựa hồ như bồng bềnh trên mây, không còn chút khí lực nào nữa. Lại nghe gã công tử kia nói: Người đi kêu Tiết Thần Y lục lọi sách thuốc, luyện tay nghề thêm một bậc nữa, chữa thử cho ngươi để sau này chữa cho Huyền Từ khỏi phải luống cuống.” Huyền Nạn chau mày, hỏi: “Y nói thế là có ý gì?” A Châu đáp: “Dường như gã có ý hăm dọa sau này sẽ dùng Đại Kim Cương Chưởng đả thương Huyền Từ đại sư.”

Quần hùng ai nấy kêu lên kinh hãi. Có người nói: “Đúng là gậy ông đập lưng ông.” Có vị lại bảo: “Quả nhiên là Cô Tô Mộ Dung!” Các vị dùng hai chữ “quả nhiên” để tỏ ra đã đoán được trước là ai rồi. Ta nên biết chuyện này A Châu đổ oan cho Mộ Dung công tử gây chuyện với phái Thiếu Lâm, vì nàng hiểu sớm muộn gì hai bên cũng sẽ tranh chấp, nên mới thổi phồng câu chuyện để dọa nạt đối phương, tăng gia uy phong cho chủ mình.

Bỗng nghe Du Câu nói: “Vừa rồi Kiều huynh bảo có kẻ mạo xưng cao tăng phái Thiếu Lâm, đả thương người bừa bãi. Bây giờ cô nương này lại bảo là một gã công tử đánh cô nương bị thương. Không hiểu ai nói đúng?” A Châu vội đáp: “Quả là có kẻ mạo xưng cao tăng phái Thiếu Lâm. Chính mắt tiểu nữ thấy hai người tự xưng là sư chùa Thiếu Lâm đi ăn trộm của nhà người ta một con chó mực, về làm thịt ăn.” Nàng tự biết mình nói dối mãi tất có chỗ lòi đuôi, liền đánh trống lảng sang chuyện khác.

Tiết Thần Y biết nàng nói không hoàn toàn đúng, nhưng cũng có phần sự thật. Ông cũng chưa biết có nên chữa thương cho cô ta hay không, quay sang nhìn Huyền Tịch, Huyền Nạn rồi lại đưa mắt nhìn Du Ký, Du Câu, sau đó nhìn Kiều Phong và A Châu ngầm nghĩ.

Kiều Phong nói: “Hôm nay Tiết tiên sinh cứu mạng cho cô nương này, Kiều mỗ suốt đời không dám quên đại đức.” Tiết Thần Y cười gần, lạnh lùng hỏi: “Ngày sau không dám quên đại đức ư? Không lẽ bữa nay Kiều huynh còn tưởng sống sót được mà ra khỏi Tụ Hiền Trang chăng?” Kiều Phong đáp: “Kiều mỗ còn sống ra khỏi nơi đây hay chết rồi mới ra được cũng thế, điều đó không có gì đáng kể. Thương thế của cô nương này xin thần y mở lòng chữa trị cho.” Tiết Thần Y hỏi lại: “Ta trị thương cho cô ta để làm gì?”

Kiều Phong đáp: “Người đời có câu: Cứu một mạng người bằng xây bảy tòa bảo tháp. Tiết tiên sinh đã nổi tiếng về công đức trong võ lâm, chẳng lẽ thấy một cô gái vô tội chết oan như thế này lại không nổi lòng trắc ẩn hay sao?”.

Tiết Thần Y đáp: “Bất luận là ai đưa cô ta đến đây ta cũng chữa. Hừ! Chỉ mình ngươi đưa đến là ta không chữa.”

Kiều Phong biến sắc mặt, buồn bã nói: “Hôm nay các vị hội họp ở Tụ Hiền Trang để đối phó với Kiều mỗ, họ Kiều này không lẽ không biết…” A Châu xen vào: “Chao ôi! Kiều đại gia, hóa ra đại gia đã vì tiểu nữ mà mạo hiểm đến đây ư?” Kiều Phong cứ nói tiếp: “Ta tưởng các vị đây đều đường đường là những bậc đại trượng phu, phải trái phân minh. Muốn giết thì chỉ giết một mình Kiều mỗ là đủ hả giận, chứ có can dự gì đến cô nương đây? Tiết tiên sinh đem lòng thống hận Kiều mỗ mà trút lên đầu Nguyễn cô nương thì đúng là giận cá chém thớt, thật không nên chút nào.”

Tiết Thần Y cứng họng không trả lời được, hồi lâu mới nói: “Ta trị bệnh hay không là do ta vui buồn yêu ghét, người ngoài cưỡng ép ta thế nào được? Kiều Phong! Ngươi làm tội đại ác, bọn ta đang muốn truy nã ngươi để băm vằm ra đem tế song thân và sư phụ ngươi. Ngươi dẫn xác đến đây là tốt lắm, tự xử đi là hơn.” Tiết Thần Y nói tới đây, vẫy tay một cái. Quần hào nhốn nháo cả lên, tới tấp rút binh khí ra. Trong đại sảnh ánh sáng lấp lánh lóa cả mắt, dường như đủ loại, trường đao đoản kiếm, song phủ đơn tiên đều có cả. Trên nóc nhà cũng có tiếng lao xao, mái nhà góc chải đâu đâu cũng có người lăm lăm binh khí, trấn giữ mọi ngả.

Kiều Phong tuy đánh quen trăm trận, nhưng trước đây thường suất lãnh huynh đệ Cái Bang đối địch, bên mình bao giờ cũng người nhiều thế mạnh. Lúc này một mình chàng thân hãm trùng vi, lại dắt theo một cô gái bị trọng thương, quả thực chưa biết cách nào xông ra, trong bụng không khỏi hoang mang.

A Châu lại càng kinh hãi, khóc òa lên, nói: “Kiều đại gia ơi! Đại gia cứ một mình chạy đi, đừng lo cho tiểu nữ làm gì. Bọn họ với tiểu nữ không thì không oán, chắc không nỡ hại đâu.” Kiều Phong chợt nghĩ thầm: “Đúng thế! Ở đây toàn là người nghĩa hiệp, không lý nào vô cớ làm hại cô ta. Ta mau mau thoát khỏi chốn này là hơn.” Thế nhưng chàng lại nghĩ: “Đại trượng phu đã cứu người thì phải cứu cho đến nơi đến chốn. Tiết Thần Y chưa nhận lời trị thương, chưa biết cô ta sống chết thế nào, Kiều Phong này không lẽ tham sống sợ chết mà bỏ chạy?” .

Chàng đảo mắt nhìn khắp bốn phía, thấy vô số cao thủ võ lâm, trong đám này đến quá nửa là quen biết, ai cũng mang tuyệt nghệ. Hùng tâm trạng khí trong người chàng lại nổi lên, nghĩ thầm: “Kiều Phong này dù cho máu nhuộm Tụ Hiền Trang, thi thể để cho loạn đao chém nát, phỏng có chi đáng kể. Đại trượng phu sống có gì là vui, chết có gì là sợ?” Chàng nghe có người nói khe khẽ: “Đúng đó! Ngươi là đồ tạp chủng, chính mình cũng không biết cha mẹ là giống gì.” Thanh âm này cũng chính là thanh âm nhạo báng Cái Bang lúc trước. Có điều y nấp trong đám đông, nói một câu rồi im bặt nên không hiểu là ai. Quần hùng mấy lần quay về phía phát ra tiếng nói, trước sau vẫn không thấy ai mấp máy môi. Trong đám đông cũng chẳng có ai đặc biệt thấp bé để có thể núp lén được.

Kiều Phong nghe mấy câu đó, chăm chú nhìn một hồi rồi gật đầu không lý tới nữa, quay sang Tiết Thần Y nói tiếp: “Giả tỷ Kiều mỗ là người Hán mà hôm nay ông nhục mạ như vậy thì ta đâu có để yên? Còn nếu như ta là người Khất Đan, là kẻ địch của hào kiệt Đại Tống thì người đầu tiên ta phải giết chính là ông, chứ nếu ta giết vị anh hùng nào khác thì ông lại cứu cho sống lại. Có phải thế không?” Tiết Thần Y đáp: “Đúng thế! Đằng nào thì ngươi cũng ra tay giết ta trước.” Kiều Phong nói: “Hôm nay ta khẩn cầu ông cứu cô nương này, thế là một mạng đổi một mạng. Kiều mô vĩnh viễn không bao giờ đụng đến chân lông tiên sinh.” Tiết Thần Y khanh khách cười, nói: “Bình sinh lão phu trị bệnh cứu người, chỉ có người cầu khẩn, chưa có ai uy hiếp.” Kiều Phong đáp: “Một mạng đổi một mạng là hợp lẽ công bằng, nào phải là uy hiếp?”

Tiếng nói nhỏ nhẹ trong đám đông lại nổi lên: “Ngươi mở miệng nói láo sao không biết thẹn? Chỉ lát nữa đã bị loạn đạo băm nát ra như tương mà còn dám bảo tha mạng cho người ư? Ngươi…” Kiều Phong quát lên một tiếng: “Ra đây!” Tiếng quát làm rung chuyển mái ngói, bụi cát trên xà nhà rơi xuống lả tả. Quần hùng ai nấy tai ù đi, tim đập thình thình.

Một đại hán ở trong đám đông chuệnh choạng bước ra theo tiếng gọi, lảo đảo không vững như người say rượu. Kẻ đó mặc áo bào xanh, mặt xám như tro, không ai nhận ra. Đột nhiên Đàm công kêu lên: “Phải rồi! Ngươi chính là Truy hồn trượng Đàm Thanh, đồ đệ của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.”

Quần hào Cái Bang nghe thấy y là đệ tử của Đoàn Diên Khánh lại càng giận dữ vô kể, quát mắng om sòm, nhưng trong bụng cũng không khỏi thấp thỏm. Thì ra hôm đó bọn họ bắt được tướng quân Hách Liên Thiết Thụ cùng các cao thủ Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ bị trúng thuốc độc Bi Tô Thanh Phong, nhưng chỉ một lát sau Đoàn Diên Khánh tới nơi, quần hào Cái Bang không một ai địch nổi y. Đoàn Diên Khánh lấy bình thuốc thối chữa cho tất cả các cao thủ Nhất Phẩm Đường, bọn chúng xông lên đánh cho người của Cái Bang thua chạy tan tác. Quần cái vừa tức vừa sợ Đoàn Diên Khánh, thấy rằng Cái Bang nếu đã không còn Kiều bang chủ thì tuyệt không cách nào kháng cự được tên Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân này.

Truy hồn trượng Đàm Thanh mặt mũi nhăn nhó giần giật dường như đang đau đớn khôn tả, hai tay không ngớt cào vào trước ngực, từ nơi đó có tiếng nói phát ra không rõ: “Ta… ta với ngươi không thù không oán, sao… sao người lại phá pháp thuật của ta?” Thanh âm gã nhỏ nhẹ, lúc có lúc không, còn môi thì không hề động đậy. Mọi người thấy vậy đều kinh hãi. Trong đại sảnh chỉ có vài người biết là y dùng thuật phục ngữ, kết hợp với nội công thượng thừa, có thể làm cho đối phương bị mê man, mất hồn mà chết. Thế nhưng nếu như gặp phải người công lực cao hơn y, thuật đã không linh nghiệm mà chính y lại bị tổn thương.

Tiết Thần Y giận dữ hỏi: “Ngươi là đồ đệ của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh đấy ư? Ta mở Anh hùng đại yến chỉ mời các vị anh hùng hảo hán trong thiên hạ, còn hạng hèn mạt vô liêm sỉ như ngươi sao dám trà trộn vào đây?”

Bỗng từ phía trên cao có tiếng người nói: “Anh hùng yến cái quái gì? Ta thấy gọi là cẩu hùng yến hay hơn.” Mấy tiếng đầu thì âm thanh còn văng vẳng xa xa, lúc dứt câu thì người đã từ trên đầu tường nhẹ nhàng nhảy xuống rồi. Người này cao lênh khênh mà gầy khẳng gầy kheo, cử động cực kỳ mau lẹ. Trên nóc nhà vô số người vung quyền, phóng kiếm ra ngăn trở đều bị chậm trễ, gã tránh né lướt qua như không. Trong đại sảnh có nhiều người nhận ra y là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc.

Vân Trung Hạc nhảy vào trong sân rồi, chỉ lạng người một cái đã xông ngay vào trong sảnh, chộp lấy Đàm Thanh, xông luôn vào Tiết Thần Y. Vô số cao thủ trong sinh đều sợ y đả thương Tiết Thần Y, bảy tám người đứng gần nhất lập tức quay ra hộ vệ. Ngờ đâu Vân Trung Hạc đã định trước rồi, lấy tiến làm thoái, y thấy mọi người vừa xông lại thì đã vọt ngược trở lên đầu tường.

Trong anh hùng hội, số hảo thủ không phải là ít, đánh nhau chân thực thì người có bản lãnh thắng được Vân Trung Hạc không đến năm sáu chục thì cũng ba bốn mươi người, nhưng vì y ra tay bất ngờ nên không ai phòng bị kịp. Hơn nữa khinh công của y cực kỳ cao siêu, nhảy được tên đầu tường là khó ai đuổi kịp. Không ít người thò tay vào túi móc ám khí ra, những người đang canh trên mái nhà cũng hò hét tiến lại ngăn trở nhưng muộn mất rồi. Kiều Phong quát lên: “Ngừng lại đã!” Chàng vung tay đánh một chưởng lên không, chưởng lực ào tới không khác gì một binh khí vô hình, trúng ngay vào lưng Vân Trung Hạc. Vân Trung Hạc hự lên một tiếng, rơi bật ngửa trở vào, máu miệng trào ra như suối. Lúc đó Đàm Thanh vẫn còn đứng được, dù lúc thì xiêu về phía đông, lúc lại vẹo sang hướng tây, miệng ú ớ trông thật buồn cười. Thế nhưng trong đại sảnh không một ai dám cười, chỉ thấy tình hình trước mắt cực kỳ ghê rợn, trước nay chưa từng chứng kiến bao giờ.

Tiết Thần Y biết rằng Vân Trung Hạc tuy bị trọng thương nhưng còn chữa được, còn Đàm Thanh tiêu tán hết cả thần hồn rồi, chẳng còn linh đơn diệu dược gì cứu y được nữa. Ông ta thấy Kiều Phong mới quát lên một tiếng, tùy tiện phóng ra một chưởng mà uy lực đã ghê gớm đến thế, nếu gã muốn lấy mạng mình thì vị tất đã có ai ngăn trở kịp. Tiết Thần Y còn đang trầm ngâm, chợt thấy Đàm Thanh đứng không nhúc nhích nữa, miệng hết ú ớ, hai mắt trợn ngược lên, xem ra đã tắt thở rồi.

Vừa rồi Đàm Thanh lên tiếng nhục mạ Cái Bang, quần cái đều cực kỳ tức tối nhưng lúc đó chưa biết là ai, khí tức chẳng biết trút vào đâu. Bây giờ thấy Kiều Phong ra tay giết y, ai nấy đều thống khoái. Tống trưởng lão, Ngô trưởng lão là những tay hảo hán thẳng thắn mau lẹ đã toan cất tiếng hò reo, nhưng nghĩ lại Kiều Phong là giống Khất Đan đại ác, nên đành phải nén lòng. Ai nấy đều tự nhủ: “Có chàng làm bang chủ thì chuyện gì cũng dễ dàng, nếu không, từ nay bước đường sẽ đầy chông gai, Cái Bang chẳng thể duy trì được uy phong như trước nữa.”

Lúc đó Vân Trung Hạc gượng đứng lên được, lảo đảo đi ra cửa, cứ ba bước lại thổ ra một ngụm máu. Quần hùng thấy y bị thương nặng nên không ai làm khó nữa, nghĩ thầm: “Gã này chửi mắng bọn mình, chẳng ai làm gì được y, lại phải để Kiều Phong ra tay.”

Kiều Phong nói: “Hai vị Du huynh! Hôm nay tại hạ gặp ở đây rất nhiều bằng hữu, nhưng từ nay bạn bè đã trở nên địch thủ cả rồi. Trong lòng tại hạ xiết bao đau xót, mong hai vị cho xin mấy bát rượu.”

Mọi người thấy chàng đòi uống rượu đều hết sức kinh ngạc, Du Câu nghĩ thầm: “Để xem y giở trò gì.”, rồi lập tức sai người nhà lấy rượu ra. Hôm nay Tụ Hiền Trang mở Anh hùng đại yến, rượu thịt chuẩn bị đầy đủ, nên chỉ giây lát đầy tớ đã mang rượu cùng chén ra.

Kiều Phong nói: “Chén nhỏ thế này làm sao đủ hứng? Xin rót rượu ra bát lớn.” Hai tên trang khách bèn đem ra hai cái bát lớn và một vò rượu trắng mới mở nắp, để lên bàn trước mặt Kiều Phong, rồi rót đầy một bát, Kiều Phong nói: “Rót đầy cả hai bát đi.” Hai gã đầy tớ theo lời, rót đầy cả bát kia.

Kiều Phong nâng một bát rượu lên nói: “Rất nhiều vị anh hùng tại đây ngày trước đã từng giao thiệp với Kiều mỗ, hôm nay dễ có điều vướng mắc, chi bằng chúng ta cạn chén tuyệt giao. Vị bằng hữu nào muốn giết Kiều mỗ thì xin mời đến đối ẩm một bát, từ nay về sau, giao tình coi như xóa bỏ hết. Kiều mỗ có giết người cũng không phải là vong ân, mà người giết Kiều mỗ cũng không phải là phụ nghĩa. Tất cả anh hùng thiên hạ ở đây đều chứng kiến cho.”

Mọi người nghe chàng nói không khỏi rùng mình, trong đại sảnh im lặng như tờ. Ai cũng nghĩ thầm: “Nếu như ta tiến lên uống rượu, rất có thể bị y ám toán. Phách không thần quyền của y đánh ra, làm sao chống đỡ được?” Yên lặng một lúc, đột nhiên một người đàn bà mặc tang phục bước ra, chính là Mã phu nhân, quả phụ của Mã Đại Nguyên. Nàng nâng bát rượu lên, buồn thản nói: “Tiên phu ta táng mạng nơi tay ngươi thì còn tình cố cựu gì nữa?” Nàng đưa bát rượu lên môi nhấp một hớp, nói: “Tửu lượng ta kém không thể uống hết, sinh tử đại cừu cũng như bát rượu này.” Nói xong hắt bát rượu xuống đất.

Kiều Phong đưa mắt nhìn thẳng, thấy nàng mi thanh mục tú, tướng mạo khá xinh đẹp. Đêm hôm trước ở trong rừng hạnh, dưới ánh lửa chập chờn chàng nhìn chưa rõ mặt, có ngờ đâu một người đàn bà liễu yếu đào tơ như vậy lại ghê gớm thế. Chàng không nói gì, cầm bát lên uống một hơi cạn sạch, quay sang vẫy tay bảo người nhà lại rót đầy hai bát.

Mã phu nhân lui ra, Từ trưởng lão bước lại, lầm lì bưng rượu uống luôn. Kiều Phong lại uống bát nữa. Đến khi Truyền Công trưởng lão uống xong, Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính bước tới. Lão vừa cầm bát lên, Kiều Phong liền nói: “Khoan đã!” Bạch Thế Kính hỏi: “Kiều huynh có điều gì dặn bảo?” Ông ta trước nay đối với Kiều Phong vẫn một niềm kính cẩn, bây giờ lời lẽ âm điệu cũng chẳng khác xưa, chỉ không gọi là bang chủ mà thôi.

Kiều Phong thở dài: “Chúng ta là huynh đệ đã bấy nhiêu năm, không ngờ ngày nay đã hóa ra cừu địch.” Bạch Thế Kính ứa nước mắt nói: “Thân thế Kiều huynh, tại hạ vốn đã nghe đồn đãi, khi đó dù đem chặt đầu cũng quyết không tin, ai ngờ… ai ngờ lại là thật. Nếu không phải vì chuyện cừu hận quốc gia, Bạch Thế Kính này thà chết cho rồi, không dám coi Kiều huynh là địch thủ.” Kiều Phong gật đầu nói: “Ta cũng biết thế. Nhưng bạn bè đã thành cừu địch, lát nữa không khỏi có một trường ác đấu, Kiều Phong này có một việc muốn ủy thác lại cho trưởng lão.” Bạch Thế Kính nói: “Miễn là việc đó không liên quan gì đến quốc gia đại sự, Bạch mỗ nhất định sẽ tuân theo.” Kiều Phong mỉm cười, chỉ vào A Châu nói: “Các vị huynh đệ Cái Bang, nếu như còn nhớ tới chút công lao nho nhỏ của Kiều mỗ trước kia, xin chiếu cố cho cô nương này được bình an.”

Mọi người nghe mấy câu của chàng tựa như trăn trối, lại thấy chàng cùng bằng hữu uống với nhau mỗi người một bát, sau đó sẽ đại chiến một phen. Vô số hào kiệt Trung Nguyên liên hoàn vây đánh, ai cũng biết dù chàng có giết được tám người, mười người, sau cùng cũng không thể thoát chết. Quần hào tuy hận chàng là dòng giống rợ Hồ làm nhiều điều bất nghĩa, nhưng thấy những hành vi nghĩa hiệp khẳng khái kia vẫn không khỏi động lòng hào khí.

Bạch Thế Kính cùng Kiều Phong giao tình rất hậu, nghe chàng nói mấy câu chẳng khác nào di ngôn lúc lâm chung, liền khẳng khái đáp: “Kiều huynh hãy yên tâm. Bạch Thế Kính này thế nào cũng cầu khẩn Tiết Thần Y ra tay chữa trị. Nếu như Nguyễn cô nương đây có mệnh hệ nào, Bạch mỗ sẽ tự vẫn để tạ tội với Kiều huynh,” Mấy câu đó quả là minh bạch, giả tỷ Tiết Thần Y không chịu chữa thì lão cũng không thể ép được, nhưng nhất định sẽ hết sức hết lòng.

Kiều Phong nói: “Kiều mỗ đa tạ.” Bạch Thế Kính nói: “Đến khi giao thủ, Kiều huynh chẳng cần phải lưu tình. Nếu Bạch mỗ chết dưới tay Kiều huynh thì Cái Bang sẽ có người khác lo liệu cho Nguyễn cô nương.” Lão nói xong nâng bát rượu lên uống một hơi cạn sạch. Kiều Phong cũng cầm bát của mình uống cạn.

Kế đó là bọn Tống trưởng lão, Hề trưởng lão của Cái Bang cùng chàng đối ẩm. Khi người của Cái Bang uống rượu tuyệt giao xong rồi, anh hào các bang hội môn phái khác lần lượt đến, mỗi người uống một bát. Mọi người càng lúc càng kinh hãi, xem ra chàng đã uống đến bốn, năm chục bát lớn rồi, một vò rượu to đã hết, người nhà lại khiêng vò khác đến. Thần sắc Kiều Phong vẫn thản nhiên, bụng chỉ hơi phình ra một chút, ngoài ra không thấy gì khác lạ. Ai nấy đều nghĩ “Nếu uống như thế thì say cũng đủ chết, việc gì còn phải ra tay động thủ?”

Ngờ đâu Kiều Phong càng uống thì khí lực càng thêm, hơn nữa mấy hôm nay chàng bị oan khuất quá nhiều, trong lòng buồn bực chưa có chỗ phát tiết. Bây giờ chàng gác hết qua một bên, phóng tâm uống rượu.

Chàng uống cạn năm chục bát lớn rồi, Bào Thiên Linh và Khoái Đao Kỳ Lục cũng đã uống xong, đến lượt Hướng Vọng Hải tiến lên cầm bát rượu nói: “Gã họ Kiều kia! Ta uống với ngươi một bát!” Giọng nói có vẻ vô lễ. Kiều Phong hơi men chếnh choáng, liếc mắt nhìn nói: “Kiều Phong này cùng anh hùng thiên hạ uống rượu là có ý xóa bỏ những ân nghĩa ngày xưa. Còn ngươi có kết giao gì với ta mà cũng đòi uống rượu tuyệt giao?” Nói đến đây, không đợi ý đáp lời, chàng tiến lên một bước vươn tay ra chộp ngay ngực y, hất tay một cái ném ra cửa sảnh. Hướng Vọng Hải va vào bức tường trước mặt nghe “binh” một tiếng, lập tức ngất xỉu. Biến cố đó khiến cho đại sảnh nhốn nháo cả lên.

Kiều Phong nhảy ra giữa viện, lớn tiếng quát: “Ai ra đây tử chiến với ta?” Quần hùng thấy chàng thần oai lẫm liệt, nhất thời không một ai dám xông lên. Kiều Phong lại quát: “Các ngươi không động thủ thì ta ra tay trước.” Chàng vung tay lên, bình bình hai tiếng đã có hai người trúng Phách không chưởng ngã lăn ra. Kiều Phong thừa thế xông lên tay đấm chân đá, chỉ chớp mắt lại đánh ngã mấy người nữa.

Du Ký la lên: “Anh em đứng tựa cả vào tường, đừng rối loạn như thế!” Trong đại sảnh tụ tập đến hơn ba trăm người, nếu như cùng hợp công, Kiều Phong có giỏi đến đâu cũng không chống cự nổi. Thế nhưng người nhiều mà đất hẹp, chỉ độ vài chục người đứng gần Kiều Phong, còn đao thương kiếm kích bốn bề múa loạn lên, phần lớn chỉ cốt để phòng giữ cho mình khỏi bị thương. Du Ký vừa hô lên, giữa đại sảnh lập tức giãn ra một khoảng trống.

Kiều Phong quát lên: “Để ta lãnh giáo Du Thị Song Hùng ở Tụ Hiền Trang.” Chàng vừa nói vừa vung tay trái lên chụp lấy vò rượu nhắm mặt Du Ký liệng tới. Du Ký liền đưa hai tay chặn lại, định hất sang một bên, ngờ đâu Kiều Phong đã tính sẵn, tay phải lại phóng chưởng nghe ầm một tiếng, chiếc vò liền vỡ tan thành trăm ngàn mảnh. Những mảnh sành đó khá sắc bén, bị chưởng phong cực kỳ lợi hại của Kiều Phong quạt tung ra, thật chẳng khác gì ám khí Kim tiền tiêu. Mặt Du Ký trúng luôn ba mảnh chảy máu đầm đìa, hơn một chục người ở bên cạnh cũng bị vạ lây. Tiếng chửi rủa, kêu la loạn cả lên.

Đột nhiên nơi góc nhà có tiếng một thanh niên kinh hoàng gọi: “Bá phụ! Bá phụ!” Du Ký nhận ra tiếng của Du Thản Chi, đứa con trai duy nhất của em mình, liếc qua thấy trên má y máu me đầm đìa, thì ra cũng bị mảnh vỡ đâm phải, bèn quát lớn: “Cút ngay đi, mi ở đây làm gì?” Du Thân Chi đáp: “Vâng!” Y co người lại nấp sau cột nhà, nhưng vẫn thò đầu ra xem.

Kiều Phong chân trái liền đá một cái, lại thêm một chiếc vò rượu nữa bay vụt ra. Chàng toan phóng chưởng đánh vỡ, bỗng thấy sau lưng có một luồng chưởng lực nhu hòa âm thầm phóng tới. Phát chưởng đó tuy mềm mại ôn nhu, nhưng ẩn tàng nội công cực kỳ hùng hậu. Kiều Phong biết đây phải là một đại cao thủ ra tay, không dám coi thường, vội vàng thu tay về đỡ. Hai người nội lực đụng nhau, đều phải khựng lại. Kiều Phong quay đầu nhìn, thấy y tướng mạo thấp bé xấu xa, chính là kẻ vô danh Triệu Tiền Tôn Lý Chu Ngô Trịnh Vương, gọi tắt là Triệu Tiền Tôn. Chàng nghĩ bụng: “Gã này nội lực khá thật, ta không nên coi thường”, bèn hít một hơi chân khí, phóng ra một chưởng nữa mạnh chẳng khác gì bài sơn đảo hải. Triệu Tiền Tôn tự biết một chưởng không chống đỡ nổi, lập tức tung song chương để đối phó với một chưởng của đối phương. Người đàn bà đứng bên cạnh y quát lên: “Sư huynh không muốn sống nữa ư?” Bà vừa nói vừa nắm lấy y nhấc qua một bên tránh được. Thế nhưng chưởng lực của Kiều Phong vẫn ào ào đẩy tới, ba người đứng sau Triệu Tiền Tôn bị bật ngược đập mạnh vào tường khiến cho bức tường rung chuyển. Vôi vữa đất cát bung ra từng mảnh rơi xuống rào rào.

Triệu Tiền Tôn nhìn lại xem ai kéo mình ra, thì chính là Đàm bà, cả mừng nói: “Tiểu Quyên! Nàng đã cứu mạng ta.” Đàm bà nói: “Ta sẽ đánh y bên mé tả, sư huynh đánh mé hữu.” Triệu Tiền Tôn vừa kịp đáp “được lắm” thì đã thấy một ông già nhỏ bé gầy gò nhảy tới bên Kiều Phong, chính là Đàm công. Y thân hình loắt choắt nhưng nội công thật là hùng hậu. Tay trái vừa đánh ra tay phải đã phóng theo, chưởng trước chưa thu về thì chưởng sau đã đánh tiếp. Y đánh liên hoàn ba chưởng như ba làn sóng xô nhau, chưởng nọ đè chưởng kia khiến cho sức mạnh gấp ba đơn chưởng. Kiều Phong hô lên: “Chiêu Trường Giang Tam Điệp Lãng tuyệt diệu!” Chàng đẩy tả chưởng ra nghênh đón, hai thân hình cùng rung động. Lúc đó Triệu Tiền Tôn và Đàm bà cũng giáp công, rồi lại thêm Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão, Trần trưởng lão cùng nhảy vào vòng chiến.

Truyền Công trưởng lão kêu lên: “Kiều huynh đệ, Khất Đan và Đại Tống không thể đứng chung, bọn ta phải vì chuyện công mà quên tình riêng. Lão huynh xin đắc tội.” Kiều Phong cười đáp: “Bát rượu tuyệt giao đã uống, còn kêu huynh gọi đệ làm gì nữa? Xem chiêu đây!” Chàng nói xong liền phóng ra một cước. Tuy ngoài miệng Kiều Phong nói thế, song trong lòng chàng vẫn chưa quên tình cố cựu. Đối với quần hào Cái Bang chẳng những chàng không muốn giết, mà còn không muốn làm xấu mặt họ trước mọi người, nên ngọn cước đến nửa chừng đột nhiên chuyển hướng. Khoái Đao Kỳ Lục rống một tiếng, vọt lên không.

Không phải y cố ý phi thân mà bị đá trúng mông. Thanh đơn đao trong tay đang vận kình chém xuống đầu Kiều Phong, khi bị hất lên vẫn còn lực đạo, chém ngập vào xà nhà một thước rồi dính cứng vào đấy. Thanh đao đó là vũ khí nổi danh của Khoái Đao Kỳ Lục, hôm nay gã gặp phải cường địch khi nào lại dám bỏ? Tay phải y nắm chặt chuôi đao, thân hình treo lơ lửng trên không. Tình trạng này vừa quái đản vừa buồn cười, nhưng quần hào trong đại sảnh đang chiến đấu trí mạng với Kiều Phong, không ai dám phân tâm để mắt đến Kỳ Lục, cũng không ai rỗi hơi cười một tiếng.

Từ khi Kiều Phong học võ đến nay đã đánh hàng trăm trận chưa chịu thua ai, nhưng bị nhiều cao thủ hợp lực vây đánh nguy hiểm như thế này thì bình sinh chưa gặp. Men rượu bốc lên ngùn ngụt, chàng múa tít song chưởng khiến đối phương không có cách nào đến gần được.

Tiết Thần Y tuy y đạo tinh thông nhưng võ công không thể xếp vào hạng nhất được. Về y thuật, ông ta là một thiên tài siêu việt, dường như không cần học cũng biết. Ông ta cũng học võ từ nhỏ, sư phụ là một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy, nhưng năm xưa bỗng dưng Tiết Thần Y cùng bảy anh em đồng môn bị trục xuất khỏi môn phái. Ông đành phải tự mình dùng y |thuật để trao đổi võ công với người khác, bên đông học một chiêu, bên tây học một thức nên hiểu rộng biết nhiều, trên giang hồ ít ai bằng. Thế nhưng biết rộng về võ thuật cũng có cái hại là vì quá ôm đồm, không môn nào luyện được tới nơi, chẳng khác gì ăn nhiều nhai không kỹ.

Danh tiếng y thuật như thần của ông lừng lẫy khắp nơi, ai cũng kính phục mấy phần. Nhưng mỗi khi ông hỏi đến võ nghệ là người ta đưa đẩy lấy lòng, chẳng ai chịu nói thực. Chính vì thế mà ông không khỏi tự đắc, cứ tưởng rằng võ công thiên hạ mười phần thì mình đã biết được tám chín. Lúc này Tiết Thần Y thấy Kiều Phong đấu với quần hùng, xuất thủ cực nhanh mà chiêu nào cũng cương mãnh phi thường, quả thật dẫu có nằm mơ cũng chẳng thấy. Ông không tưởng tượng được trên đời lại có người bản lãnh ghê gớm đến thế. Tiết Thần Y sợ tái mặt, trống ngực đánh hơn trống làng, không thốt nên lời, không nghĩ đến chuyện xông ra động thủ nữa.

Ông đứng dựa vào tường, mỗi lúc một sợ hãi thêm, đã toan lẳng lặng lẻn ra khỏi đại sảnh nhưng lại không dám, nhìn qua thấy một lão tăng đứng ngay bên cạnh mình, chính là Huyền Nạn. Ông sực nhớ lại một việc hết sức ăn năn nên quay sang nói: “Đại sư phụ! Mới rồi tại hạ có nói một câu vô lễ, xin đại sư miễn trách cho.”

Huyền Nạn bao nhiêu tâm trí để cả vào Kiều Phong, không nghe Tiết Thần Y nói gì, phải nghe nhắc lại lần nữa mới ngạc nhiên hỏi lại: “Cư sĩ có nói gì thất lễ đâu?” Tiết Thần Y đáp: “Lúc nãy tại hạ có nói: Kiều huynh một thân một mình vào chùa Thiếu Lâm mà không rụng một sợi tóc, lại còn bắt được một vị cao tăng đem đi, quả thật là lạ.” Huyền Nạn hỏi lại: “Thế thì đã sao?” Tiết Thần Y bẽn lẽn đáp: “Võ công Kiều Phong cao đến độ trên thế gian ít người bì kịp. Đến lúc này tại hạ mới biết y vào chùa Thiếu Lâm bắt được người là phải, quả khó mà ngăn trở.”

Bản ý Tiết Thần Y nói câu này để xin lỗi Huyền Nạn. Song đại sư nghe xong lại càng khó chịu, bèn hừ một tiếng nói: “Phải chăng Tiết Thần Y muốn khảo sát võ công của phái Thiếu Lâm?” Ông không đợi trả lời, từ từ bước ra khẽ phất tay áo rộng thùng thình, kình phong phát ra vù vù đánh thẳng vào Kiều Phong. Đó là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm tên là Tụ Lý Càn Khôn, tay áo phất lên che khuất quyền kình từ bên dưới đánh ra. Xưa nay Thiếu Lâm Tự vẫn lấy chuyện tham thiền học Phật là gốc, còn luyện võ tập quyền là ngọn, chỉ giận dữ bực bội cũng là phạm giới, huống hồ ra tay đánh nhau? Thế nhưng chùa Thiếu Lâm là nguồn gốc của võ học thiên hạ mấy trăm năm qua, làm sao tránh né việc chiến đấu được. Môn Tụ Lý Càn Khôn này giấu quyền trong tay áo thật là kín đáo, đối phương không thể phán đoán được hướng đánh nên khó mà đỡ cho kịp. Hơn nữa, kình lực của cánh tay áo đó cũng ghê gớm, nếu kẻ địch đem hết tinh thần chú ý vào quyền chiêu giấu bên trong, thì vị đại sư sẽ biến khách thành chủ, dùng tụ lực đả thương người.

Kiều Phong thấy đòn đánh tới, hai cánh tay áo rộng căng phồng như hai cánh buồm no gió, uy thế cực kỳ mãnh liệt, bất giác lớn tiếng: “Tụ Lý Càn Khôn quả là ghê gớm!” Chàng vừa hô vừa phóng một chưởng, trúng vào tay áo nhà sư. Tụ lực của Huyền Nạn trải ra một khoảng rộng, còn chưởng lực của Kiều Phong tập trung theo một đường nên khi hai luồng lực đạo chạm nhau chỉ nghe phần phật mấy tiếng, rồi trong đại sảnh xuất hiện một đàn bướm màu xám tro.

Quần hùng cả kinh, nhìn kỹ lại thì ra đàn bướm đó chính là những mảnh tay áo Huyền Nạn bị bay tung lên. Ai cũng quay lại nhìn ông, thấy áo rách đến tận nách để lộ hai cánh tay gầy guộc dài ngoẵng, trông rất khó coi. Thì ra nội kình hai người xung kích, hai cánh tay tăng bào không chịu nổi, lập tức nát vụn ra.

Chỉ qua một chiêu, Huyền Nạn mất hai ống tay áo, tụ lý không còn tất nhiên càn khôn cũng mất. Nhà sư giận muốn phát điên, sắc mặt xám xanh, có ngờ đâu tuyệt kỹ thành danh của mình bị Kiều Phong phá tan tành. Ông quả là mất mặt, liền múa tít song quyền tấn công tới tấp. Mọi người ai ai cũng biết đây chính là Thái Tổ Trường Quyền lưu hành rộng rãi trong dân gian. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn chỉ nhờ vào một đôi quyền, một cây bổng mà thu được giang sơn cẩm tú, lập nên nhà Đại Tống. Các vị hoàng đế từ xưa tới nay không có ai thần dũng như Tống Thái Tổ, cho nên hai môn Thái Tổ Trường Quyền và Thái Tổ Bổng là phổ biến nhất thời đó, dẫu người chưa tập mà nhìn thấy cũng biết ngay.

Quần hùng thấy vị cao tăng Thiếu Lâm lừng danh lại sử thứ quyền pháp rất thông thường chẳng có chi kỳ dị thì không khỏi ngạc nhiên. Nhưng khi lão tăng đánh ra ba quyền rồi, ai nấy đều phải trầm trồ: “Phái Thiếu Lâm nổi tiếng không phải ngẫu nhiên. Chỉ một chiêu Thiên Lý Hoành Hành ai cũng biết mà ông ta đánh ra uy lực đến thế.” Quần hào bội phục, nên cái hình ảnh tăng bào rách nát của Huyền Nạn không ai để ý đến nữa.

Khi Huyền Nạn xuất thủ, mấy chục người đang vây đánh Kiều Phong đều biết không tiện giáp công, lùi lại hết, chỉ bao vây trùng điệp đề phòng Kiều Phong tẩu thoát, ngưng thần quan sát hai bên quyết chiến.

Kiều Phong thấy mọi người lùi ra xem, trong bụng nảy ra một ý, hô lên một tiếng đánh ra chiêu Xung Trận Trảm Tướng, cũng ở trong Thái Tổ Trường Quyền. Chàng xuất chiêu đó trông nhẹ nhàng ung dung mà kình lực gồm đủ cả nhu lẫn cương. Quyền thuật đạt đến mức hoàn mỹ thì chỉ một chiêu cũng đủ thấy. Những người đến tham dự đại hội Anh hùng yến, nếu võ công không cao cường thì kiến thức cũng quảng bác, chỗ tinh yếu trong Thái Tổ Trường Quyền không ai không biết. Kiều Phong vừa ra chiêu, mọi người bất giác bật lên tiếng reo hò khen ngợi.

Sau khi buột miệng hoan hô, nhiều người cảm thấy hối hận vì nhớ ra Kiều Phong là một kẻ đại địch. Reo hò như thế là cổ võ nhuệ khí đối phương mà tiêu giảm oai phong bên mình. Thế nhưng tiếng hò reo đã ra khỏi miệng rồi không thu về được nữa. Kiều Phong đánh ra chiêu thứ hai Hà Sóc Lập Uy cũng tinh diệu đến chỗ cùng cực, so với chiêu thứ nhất thực khó mà phân biệt được chiêu nào hay hơn chiêu nào, trong đại sảnh lại có một phen hô hoán. Nhiều người đã cảnh giác nên tiếng hò reo không vang dội như lần thứ nhất, nhưng cũng lắm tiếng xuýt xoa nho nhỏ “Ái chà!”, “Ôi chao!”… nghe còn sướng tai hơn lớn tiếng tán dương. Ban đầu Kiều Phong cùng mọi người ác đấu, quần hùng chỉ chuyên tâm chống đỡ, sợ chàng đánh đòn hung mãnh. Lúc này tạm thời bàng quan đứng xem mới thấy rõ võ công chàng tinh diệu tuyệt luân.

Kiều Phong và Huyền Nạn trao đổi được bảy tám chiêu, ai cao ai thấp đã rõ. Hai người đều sử dụng những quyền chiêu bình thường không có gì kỳ lạ, nhưng Kiều Phong chiêu nào cũng nhường cho Huyền Nạn ra tay trước. Huyền Nạn xuất chiêu rồi, Kiều Phong mới trả đòn, nhưng không hiểu vì chàng tuổi trẻ tráng kiện, hay là thân thủ nhanh nhẹn hơn mà chiêu nào cũng ra sau tới trước. Thái Tổ Trường Quyền vốn chỉ có sáu mươi tư chiêu, chiêu nào cũng khắc chế lẫn nhau, Kiều Phòng nhìn rõ quyền chiêu của đối phương rồi sau đó mới ra chiêu áp đảo thì làm gì mà Huyền Nạn chẳng thua? Đạo lý đó ai mà chẳng biết, thế nhưng dám đem bốn chữ Hậu Phát Chế Nhân áp dụng vào một đại cao thủ như Huyền Nạn, mọi người nếu không chính mắt thấy thì không thể nghĩ đến.

Huyền Tịch thấy Huyền Nạn che tả đỡ hữu rõ ràng không địch nổi, liền quát mắng: “Ngươi là giống chó má Khất Đan, dùng thủ đoạn ti tiện.” Kiều Phong thản nhiên đáp: “Tại hạ sử dụng quyền pháp chính tông của Thái Tổ bản triều, sao đại sư lại dùng hai chữ ti tiện?”

Quần hùng nghe nói thế liền hiểu ngay vì sao chàng lại sử Thái Tổ Trường Quyền. Nếu Kiều Phong dùng một loại võ công khác để đánh bại Thái Tổ Trường Quyền, mọi người sẽ đổ tội cho chàng là làm nhục võ công khai quốc của Thái Tổ, càng làm sâu thêm thù nghịch Hồ Hán phân tranh. Đằng này cả hai bên đều sử Thái Tổ Trường Quyền thì ngoài việc so sánh võ công cao thấp, không còn chỗ nào để nhiếc móc nữa.

Huyền Tịch thấy Huyền Nạn chỉ trong chớp mắt nữa là nguy hiểm đến tính mạng, không nói gì, vèo một tiếng phóng chỉ nhắm ngay huyệt Tuyền Cơ của Kiều Phong, chính là tuyệt kỹ điểm huyệt của phái Thiếu Lâm có tên là Thiên Trúc Phật Chỉ.

Kiều Phong vừa nghe tiếng gió liền nghiêng người tránh né, nói: “Kiều mỗ ngưỡng mộ danh tiếng của Thiên Trúc Phật Chỉ đã lâu, quả nhiên lợi hại! Tuy nhiên đại sư dùng võ công của người Hồ Thiên Trúc, tấn công quyền pháp của Thái Tổ bản triều, lỡ mà thắng được tại hạ thì há chẳng mang tiếng thông Phiên mại quốc, làm nhục Trung Hoa hay sao?” Huyền Tịch nghe thế bất giác rùng mình. Hôm nay quần hùng vây đánh Kiều Phong chỉ vì cho rằng chàng là rợ Hồ Khất Đan. Võ công phái Thiếu Lâm do Đạt Ma lão tổ truyền thụ, mà Đạt Ma lại là người Hồ ở Thiên Trúc. Tuy nhiên phái Thiếu Lâm lập nên ở Trung Thổ, mọi môn phái của Trung Quốc đều có liên quan ít nhiều đến phái Thiếu Lâm, nên mọi người cơ hồ đã lãng quên mối liên quan đó. Bây giờ nghe Kiều Phong nói ra, ai nấy trong lòng chấn động.

Trong quần hùng nhiều người có kiến thức, không khỏi nghĩ: “Chúng ta kính trọng Đạt Ma lão tổ như một vị thần minh, sao lại hận người Khất Đan đến tận xương tủy, cả hai đâu cùng dòng giống với mình? Ồ, bởi vì hai giống đó khác nhau xa. Người Thiên Trúc xưa nay đâu có giết hại người Trung Quốc, còn người Khất Đan thì hung dữ như lang sói. Như vậy không phải cứ thấy người Hồ là giết, cũng còn phải phân biệt thiện ác nữa. Thế thì bọn Khất Đan kia liệu có ai là người tốt hay không?” Lúc đó trong đại sảnh đang hồi kịch đấu, số đông thô lỗ không biết suy nghĩ thì chẳng nói làm gì, còn những người hiểu biết suy nghĩ đến đó rồi cũng bỏ qua, trong lòng chỉ băn khoăn: “Kiều Phong chưa hẳn đáng giết, cái lý của bên mình cũng chưa hẳn chắc như đinh đóng cột.”

Huyền Nạn, Huyền Tịch lấy hai địch một mà vẫn thủ nhiều công ít. Huyền Nạn thấy Thái Tổ Trường Quyền của mình chiêu nào cũng bị khống chế, trói chân trói tay không thi triển được, đến lúc Huyền Tịch xông vào tấn công lập tức biến đổi quyền pháp sang La Hán Quyền của phái Thiếu Lâm.

Kiều Phong cười nhạt nói: “La Hán Quyền cũng do người Hồ Thiên Trúc đem sang. Để xem võ công người Hồ lợi hại hay võ công Đại Tống lợi hại.” Chàng vừa nói vừa liên tiếp đánh ra mấy đòn Thái Tổ Trường Quyền nghe vù vù. Mọi người đều không biết phải cãi thế nào. Quần hào đến vây đánh chỉ vì đối phương là người Hồ, thế nhưng bên mình thì lại dùng võ công gốc tích Phiên bang, còn chính y lại sử dụng trường quyền do Thái Tổ bản triều sáng tạo.

Bỗng nghe Triệu Tiền Tôn lớn tiếng hò hét: “Gã này giết cha, giết mẹ, giết thầy, sử dụng quyền pháp gì thì cũng đáng chết. Tất cả mọi người cùng tiến lên đi.” Y miệng thì la, chính mình cũng xông vào đầu tiên. Kế đó Đàm công, Đàm bà, Từ trưởng lão, Trần trưởng lão của Cái Bang rồi cha con nhà Thiết Diện Phán Quan họ Đơn… tất cả đến mấy chục người cùng ùa lên. Những người đó đều là hảo thủ võ công cao cường, đông mà không loạn, người này lên thì kẻ kia xuống chẳng khác gì xa luân chiến.

Kiều Phong múa chưởng đánh ra, vừa đánh vừa nói: “Các vị bảo ta là người Khất Đan, thế thì Kiều Tam Hòe phu phụ có phải cha mẹ ta đâu. Chưa nói tới chuyện ta cực kỳ kính ái hai vị lão nhân gia tuyệt không có ý gia hại, mà dù ta có giết thì cũng không thể đổ lên đầu ta cái tội giết cha, giết mẹ được. Huyền Khổ đại sư là thu nghiệp ân sư của ta, nếu buộc tội ta giết thầy, thì Kiều mỗ phải là đệ tử Thiếu Lâm, các vị sao lại vây đánh một đệ tử Thiếu Lâm?”

Huyền Tịch hừ một tiếng, nói: “Ngươi chỉ giành phần phải về mình, cưỡng từ đoạt lý.” Kiều Phong đáp trả ngay: “Nếu đã giành được phần phải thì không thể gọi là cưỡng từ đoạt lý. Nếu các vị không thừa nhận ta là đệ tử Thiếu Lâm thì không thể đổ cái tội giết thầy lên đầu ta được. Các vị muốn giết ta thì cứ quang minh lỗi lạc ra tay, việc gì phải đổ lên đầu ta vô số tội ác? Thế mới là cưỡng từ đoạt lý” Chàng miệng nói hùng hồn mà tay chân không ngừng chút nào, tay đấm Đơn Thúc Sơn, chân đá Triệu Tiền Tôn, khuỷu thúc một đại hán áo xanh chưa gặp, chưởng đánh một ông già râu bạc quên mất tên, vừa nói vừa đánh luôn bốn người. Kiều Phong biết những người này không phải là phường gian ác nên hạ thủ vẫn lưu tình, đã mười bảy mười tám người trúng đòn nhưng không ai đến nỗi chí mạng. Còn với huynh đệ Cái Bang thì lại càng lịch sự, Từ trưởng lão vừa xông đến, chàng liền né ra chỗ khác. Thế nhưng đối phương đông người quá, đánh ngã mười người thì lại có một chục đầy sinh lực xông vào thay thế. Một lát sau Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu cứ đánh mãi thế này trước sau gì mình cũng kiệt sức, tìm cách chạy trước đi là hơn.” Chàng vừa ra chiêu vừa tìm đường đào tẩu.

Triệu Tiền Tôn đang nằm dưới đất không cử động được, nhưng vẫn phát hiện ra ý định của Kiều Phong, liền lớn tiếng nói: “Mọi người cố gắng lấy mạng tên chó má này, đừng để trốn thoát.” Kiều Phong chiến đấu đang hăng, hơi rượu bốc lên cùng với lửa giận mỗi lúc một cao. Nghe Triệu Tiền Tôn lên tiếng nhục mạ mình, không kiềm chế được nữa, chàng quát lớn: “Thằng chó má này lấy mạng ngươi đầu tiên.” Kiều Phong vừa quát vừa vận kình vào cánh tay, phóng Phách Không Chưởng nhằm đánh Triệu Tiền Tôn. Huyền Nạn và Huyền Tịch cùng kêu lên: “Nguy mất!” Hai người lập tức đưa tay phải đỡ phát chưởng của Kiều Phong để cứu mạng Triệu Tiền Tôn.

Bỗng từ trên không một bóng người thấp thoáng rồi có tiếng kêu rống lên thảm thiết. Người này trước ngực trúng chưởng của Huyền Nạn, Huyền Tịch, sau lưng trúng Phách Không Chưởng của Kiều Phong, ba luồng lực đạo cùng ép lại, khiến y gân cốt đứt đoạn, phủ tạng tan nát, phun máu miệng ra, nằm mềm oặt dưới đất như một đống bùn.

Biến cố này làm cho Huyền Nạn, Huyền Tịch phải kinh hãi, cả Kiều Phong cũng không khỏi ngạc nhiên. Thì ra đó chính là Khoái Đao Kỳ Lục. Y treo lơ lửng trên không cũng đã lâu, cố đong đưa người cho thanh đao bập vào xà nhà lỏng ra. Lúc y rơi xuống lại vừa đúng lúc ba người dùng toàn lực phóng chưởng, thật chẳng khác nào kê giữa đe sắt với búa tạ thì làm gì mà không nát người ra?

Huyền Nạn nói: “A Di Đà Phật! Thiện tại! Thiện tai! Kiều Phong, ngươi lại gây thêm đại nghiệt.” Kiều Phong cả giận nói: “Ta chỉ giết gã có một nửa, sư huynh đệ các người hợp lực lại giết gã một nửa. Sao lại đổ cả cho ta?” Huyền Nạn đáp: “A Di Đà Phật! Tội nghiệt! Tội nghiệt! Nếu ngươi không hại người trước thì làm gì có trận đấu ngày hôm nay?”.

Kiều Phong càng giận dữ nói: “Được lắm! Mọi việc cứ trút hết vào ta đi, thế thì đã sao?” Trong lúc ác chiến, tính hung dữ nổi lên, Kiều Phong tung hoành chẳng khác gì một con mãnh thú. Chàng vung tay phải chộp trúng một người chính là Đơn Trọng Sơn, đứa con trai thứ của Đơn Chính, tay trái đoạt lấy đơn đao trong tay y rồi cầm đập xuống một cái, đầu Đơn Trọng Sơn nát bét chết ngay tại chỗ. Quần hùng la lối om sòm, vừa kinh hãi vừa căm giận.

Kiều Phong giết người rồi, ra tay lại càng điên cuồng, tay phải khi vung quyền khi phóng chưởng, tay trái cầm đơn đao khi phạt ngang khi chém xuống, uy thế cực kỳ mãnh liệt không ai đương cự nổi. Mấy bức tường trắng nhòe nhoẹt đầy máu tươi, dưới nền đại sảnh ngổn ngang xác chết, kẻ thì đầu một nơi mình một nẻo, kẻ thì cụt chân lòi ruột. Lúc này chàng không thể nghĩ đến tình cố cựu Cái Bang nữa, cũng chẳng còn nhìn xem đối thủ là ai, mắt đỏ long lên sòng sọc, gặp ai giết nấy. Hề trưởng lão cũng bỏ mạng dưới lưỡi đao của chàng.

Hào kiệt đến dự Anh hùng yến, mười phần thì tám chín đã từng giết người, nổi tiếng võ lâm không phải chỉ nhờ vào giao du, nịnh nọt. Dù ai chưa chính tay giết người thì việc sát nhân phóng hỏa cũng đã thấy nhiều. Thế nhưng cuộc ác đấu kinh tâm động phách như hôm nay thì bình sinh chưa ai thấy qua. Địch nhân chỉ có một người nhưng nửa như mãnh thú, nửa như ma quỉ, thoắt ở bên này thoắt qua bên kia chém giết lung tung. Rất đông cao thủ tiến lên tiếp chiến đều bị chàng dùng những chiêu thức vừa nhanh nhẹn, vừa mạnh bạo, vừa độc địa, vừa tinh vi đánh chết. Địch thủ như con mãnh hổ điên cuồng, võ công lại không ai địch nổi, trong đại sảnh máu huyết vung vãi xác người ngổn ngang, tai nghe tiếng người sắp chết kêu la thảm thiết, tuy quần hùng không phải là hạng nhát gan sợ chết mà có đến già nửa muốn tháo chạy ra khỏi đại sảnh, dù Kiều Phong có tội hay vô tội cũng không dây dưa gì nữa.

Du Thị Song Hùng thấy tình hình bất lợi, hai người tay trái cầm khiên, tay phải cầm đoản thương, đơn đao, hô lên một tiếng, múa khiên hộ thân xông vào hai bên tả hữu Kiều Phong. Kiều Phong đang lúc cuồng đả loạn sát không còn kiêng nể gì nữa, song vẫn chú ý nhìn chiêu thức đối phương, tâm ý không loạn chút nào nên vẫn giữ được chưa bị thương. Chàng thấy hai anh em họ Du tấn công tư thế độc địa, lập tức vù vù chém hai người hai bên ngã xuống để chiếm lấy tiên cơ, rồi xông vào tấn công Du Ký. Đao của chàng vừa chém xuống, Du Ký liền đưa khiên lên đỡ, nghe choang một tiếng, đơn đao của Kiều Phong bật trở lại, lưỡi dao quằn lên không còn dùng được nữa. Hai chiếc khiên của anh em họ Du đúc bằng thép nguyên chất bảo kiếm cũng không chặt nổi, huống chi trong tay Kiều Phong chỉ có một thanh cương đao tầm thường đoạt được trong tay Đơn Trọng Sơn?

Du Ký múa khiên gạt được binh khí địch rồi, ngọn đoản thương trong tay liền sử thế Độc Xà Xuất Động, luồn dưới khiên ra, đâm vào bụng dưới Kiều Phong. Cùng lúc đó hàn quang lấp loáng, chiếc khiên trong tay Du Câu cũng quét vào hông đối phương.

Kiều Phong nhanh mắt nhìn thấy mép chiếc khiên cực kỳ sắc bén chẳng khác gì một lưỡi đại phủ hình tròn, nếu bị quét trúng thân hình chắc chắn đứt đôi, quả là lợi hại vô cùng. Chàng liền quát lên “giỏi lắm!” rồi quăng thanh đao mẻ đi, hai tay đấm hai quyền vào giữa đôi khiên của hai đối thủ nghe choang choảng hai tiếng lớn. Du Thị Song Hùng thấy thân trên tê buốt, bị một quyền vô cùng hùng hậu của Kiều Phong làm chấn động đến mắt nổ đom đóm, hai cánh tay ê ẩm cầm không vững, cặp khiên cùng thương đao bốn món binh khí loảng xoảng rơi xuống. Tay trái hai người đều bị toạc hổ khẩu, máu chảy đầm đìa.

Kiều Phong cả cười nói: “Tốt lắm! Để hai món lợi khí này cho ta!” Chàng cướp lấy hai chiếc khiên, múa lên che đỡ. Cặp cương thuẫn này quả là khí giới vừa , công vừa thủ cực kỳ lợi hại, chỉ nghe mấy tiếng rú “Trời ơi!” “Chao ôi!” đã có năm người chết vì hai chiếc khiên.

Du Thị huynh đệ mặt mày xám ngoét, thần khí không còn. Du Ký kêu lên: “Hiền đệ! Sư phụ đã dạy rằng khiên còn người còn, khiên mất người chết.” Du Câu cũng đáp lại: “Đại ca! Hôm nay anh em mình thật là đại nhục, còn mặt mũi nào sống ở trên đời?” Hai người nhìn nhau gật đầu một cái, nhặt lấy đao thương của mình đâm cổ tự vẫn. Quần hùng cùng kêu lên: “Ối chà !” Thế nhưng đang lúc Kiều Phong múa cương thuẫn như gió cuốn, chẳng ai dám tới gần, mà dẫu có người dám cũng chẳng thể nhảy vào để cứu viện Du Thị huynh đệ được. Chỉ nghe tiếng một thanh niên khóc rống lên: “Gia gia! Bá phụ!” Chính là Du Thản Chi, con trai Du Câu..

Kiều Phong sững sờ, không ngờ Du Thị huynh đệ của Tụ Hiền Trang lại tự sát. Chàng cảm thấy sống lưng ớn lạnh, hơi men tiêu đi quá nửa, trong lòng không khỏi bàng hoàng, nói: “Du gia huynh đệ sao lại phải tự vẫn? Ta trả lại các vị đôi cương thuẫn này.” Nói xong, chàng cung kính đặt hai chiếc khiên cạnh xác của Du Thị Song Hùng.

Kiều Phong vừa cúi xuống chưa kịp đứng lên, bỗng nghe có tiếng một thiếu nữ kinh hãi la lên: “Cẩn thận!” Chàng lập tức nhích qua bên trái, ánh sáng xanh lấp loáng, một thanh kiếm đâm vụt ngang hông.

Giả tỷ A Châu không kêu lên, chiêu kiếm đó cũng chưa chắc đâm trúng, nhưng thể nào chân tay chàng cũng luống cuống, mất thế thượng phong. Người đánh lén chính là Đàm công, lão đâm không trúng liền vội vàng nhảy ra thật xa.

Trong khi Kiều Phong giao chiến với quần hùng thì A Châu nép tại một góc sảnh, nguyên khí trong người dần dần tiêu tán. Nàng thấy mọi người vây đánh Kiều Phong, nghĩ thầm: “Kiều đại gia đã biết là hung hiểm mà vẫn dấn thân đưa mình tới đây xin chữa bệnh. Ơn đức ấy dù ta tan xương nát thịt cũng khó mà báo đáp.”. Nàng trong lòng cảm kích, lúc thấy Kiều Phong trả lại cương thuẫn bất giác lo lắng, khi thấy Đàm công đánh lén liền kêu lên cảnh giác.

Đàm bà giận dữ nói: “Con tiểu quỷ này gớm thật! Ta không giết mi thì mi còn nối giáo cho giặc.” Bà ta lạng người đi một cái, vung chưởng đánh xuống đỉnh đầu A Châu. Phát chưởng còn cách nửa thước thì Kiều Phong đã tung mình nhảy tới, chộp ngay lưng bà xô mạnh qua một bên, đụng “uỳnh” vào một chiếc ghế bành bằng gỗ lê, ghế vỡ vụn ra từng mảnh. A Châu tuy chưa bị trúng chưởng, nhưng bỗng mặt mày xám ngắt, người nhũn ra quỵ dần xuống Kiều Phong kinh hoàng nghĩ thầm: “Trong người nàng lại hết chân khí rồi. Ta đang bị vây đánh rát thế này, làm sao mà tiếp chân khí cho nàng được?”

Tiết Thần Y cất tiếng lạnh lùng nói: “Cô nương này chỉ lát nữa là chân khí tiêu tán hết. Ngươi có truyền nội lực cho cô ta nữa không? Nếu để tuyệt khí đứt hơi rồi thì thần tiên cũng không cứu sống lại được nữa.” Kiều Phong lâm vào cảnh khó xử, biết Tiết Thần Y nói vậy là đúng sự thật. Nhưng nếu mình ra tay giúp đỡ A Châu thì bao nhiêu món binh khí của quần hùng chung quanh sẽ nhắm mình mà phóng tới. Trong đám này kẻ thì chết con, người thì mất bạn bè, ra tay còn dung tình gì nữa? Thế nhưng đứng giương mắt nhìn nàng đoạn khí mà chết thì cũng không xong.

Chàng mạo hiểm đưa A Châu đến Tụ Hiền Trang, đã không được Tiết Thần Y ra tay chữa trị, lại để chết vì hết chân khí thì quả là đáng tiếc. Thế nhưng nếu lúc này chàng lại truyền chân khí giữ mạng cho cô ta thì đúng là đem một mạng đổi một mạng. A Châu bất quá chỉ là một cô thị tỳ giữa đường gặp gỡ, cũng chưa có gì gọi là giao tình, chàng ra tay cứu giúp chỉ là hành vi nghĩa hiệp bình thường, nếu đem mạng mình đổi lấy mạng cô ta, thì quả là hơi quá đáng. Kiều Phong nghĩ thầm: “Cô ta chẳng phải thân nhân, cũng không phải có ơn nghĩa gì với mình mà cần báo đáp, mình cố đến thế này cũng đã là hết lòng hết dạ rồi. Ta phải bỏ chạy ngay, Tiết Thần Y có cứu cô ta hay không thì trông vào vận số.”

Kiều Phong liền cúi xuống nhặt đôi cương thuẫn lên lại, sử chiêu Đại Bằng Triển Xí, hai luồng bạch quang lấp loáng cuồn cuộn bọc quanh mình, từ từ tiến ra cửa sảnh. Quần hùng tuy đông người thật nhưng chiêu số của Kiều Phong ghê gớm, đôi khiên lợi hại vô cùng, thành ra không ai dám tới gần hơn một trượng. Chàng tiến được mấy bước, chân vừa đặt vào ngạch cửa, bỗng nghe giọng nói lạnh tanh của một lão già: “Giết con thị tì này trước đã, rồi sau sẽ báo thù!” Chính là tiếng Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính. Đứa con trưởng của ông ta là Đơn Bá Sơn liền đáp: “Vâng!” Y vung đơn đao nhắm ngay đầu A Châu chém xuống.

Kiều Phong cực kỳ kinh ngạc, không suy nghĩ gì nữa, lia chiếc khiên bên trái ra. Cương thuẫn xoay vòng vòng bay tới, thế đi vô cùng mãnh liệt. Bảy tám người đồng thanh la lên: “Coi chừng!” Đơn Bá Sơn vội vàng thu đao về đỡ gạt, thế nhưng hình lực Kiều Phong ném ra thật ghê gớm, cạnh chiếc khiên lại sắc bén vô cùng, chỉ nghe một tiếng choảng, cả người lẫn đao của Đơn Bá Sơn đứt làm hai đoạn, Dư lực của cương thuẫn vẫn còn, tiếp tục bay tới chặt đứt thêm một cái cột, ngói trên mái nhà loảng xoảng rơi xuống.

Đơn Chính và ba đứa con còn lại đau lòng kêu rống lên. Thấy Kiều Phong lẫm lẫm thần uy, không ai dám công kích, nhưng sáu bảy người xông vào A Châu. Kiều Phong cất tiếng mắng: “Thật là đồ hèn mạt!” Veo véo liên tiếp bốn chưởng, chàng đánh dạt bọn đó ra rồi sấn lên, tay trái ôm A Châu, lấy chiếc khiên che cho nàng.

A Châu thều thào: “Kiều đại gia! Tiểu nữ không sống được nữa rồi, đừng lý tới nữa. Đại gia mau mau tẩu thoát đi.”

Kiều Phong thấy bọn này chẳng còn nghĩ gì tới công đạo, cả đám xông vào hiếp đáp một cô gái yếu đuổi đang hấp hối. Chàng nổi cơn cao ngạo, lớn tiếng nói: “Đã đến nước này, bọn chúng không để cho cô sống đâu. Chúng ta cùng chết nơi đây vậy.” Kiều Phong lại xoay tay phải cướp được một thanh trường kiểm, đâm chém tứ tung. Tay trái chàng ôm A Châu nên cử động không thuận lợi, lại thiếu đi một cánh tay để sử dụng. Thế nhưng Kiều Phong đã đến lúc không coi sống chết vào đâu nữa, múa tít thanh trường kiếm rảo bước đi ra. Vừa đi được hai bước, lưng bỗng đau nhói lên, thì ra đã bị người nào đó chém trúng một đao rồi.

Kiều Phong liền phóng chân đi ngược về sau, hất kẻ đó văng ra một trường đụng vào một người khác, cả hai cùng chết ngay. Thế nhưng ngay lúc đó, vai của chàng lại bị đâm một mũi thương, rồi ngực lại bị đâm một kiếm. Chàng gầm lên một tiếng như sấm nổ, quát lớn: “Kiều Phong này biết tự xử lấy mình, quyết không để chết vào tay lũ chuột.”

Nhưng quần hùng đang đắc thắng, khi nào chịu để chàng tự vẫn, hơn chục người cùng xông lên. Kiều Phong phấn khởi thần uy, tay phải vươn ra chộp trúng huyệt Đản Trung của Huyền Tịch, thuận tay giơ cao nhà sư lên. Mọi người kêu lên một tiếng, bất giác cùng lùi lại mấy bước.

Huyền Tịch đã bị nắm trùng yếu huyệt rồi, dẫu võ công cao cường nhưng toàn thân tê liệt, không còn cử động gì được. Nhà sư thấy yết hầu mình chỉ còn cách cương thuẫn chừng một thước, Kiều Phong chỉ nhích tay một cái là đầu ông sẽ bị cắt đứt ngay, nên chỉ còn nước thở dài nhắm mắt chờ chết.

Kiều Phong cảm thấy sau lưng, ngực phải, vai phải, ba chỗ bị thương cùng đau buốt như bị lửa đốt, lửa giận hạ xuống, bình tĩnh lại, liền nói: “Bản lĩnh của ta khởi đầu từ Thiếu Lâm Tự mà ra. Uống nước phải nhớ nguồn, không lẽ lại hạ sát cao tăng phái Thiếu Lâm? Hôm nay Kiều mỗ đằng nào cũng chết, giết thêm một người cũng chẳng ích gì.” Nói xong ông ném Huyền Tịch xuống đất, giang tay ra lớn tiếng nói: “Các ngươi ra tay đi!”

Quần hùng nhìn nhau ngơ ngác, bị hào khí của chàng làm cho sững sờ, nhất thời không ai muốn động thủ. Lại có người nghĩ thầm: “Đến như Huyền Tịch lúc này y còn không muốn giết, lẽ nào lại ám hại sư phụ là Huyền Khổ đại sư?”

Thế nhưng Đơn Chính mới bị Kiều Phong giết chết hai đứa con trai, thương tâm phấn khích, liền sấn lên vùng dao đâm thẳng vào ngực chàng. Kiều Phong biết mình đã bị trọng thương, không còn cách nào xung sát ra khỏi trùng vi, nên đứng yên không cử động. Chỉ trong chớp mắt, trong đầu chàng xoay chuyển rất nhiều, tự hỏi: “Thực ra ta là người Khất Đan hay người Hán? Kẻ nào ám hại cha mẹ cùng sư phụ ta? Ta một đời hành động nghĩa hiệp, sao hôm nay vô duyên vô cớ sát hại bấy nhiêu anh hùng hiệp sĩ? Ta chỉ vì muốn cứu A Châu mà để cho mình chết uổng, có phải là ngu muội đáng cho anh hùng thiên hạ chê cười hay không?”

Trước mắt chàng chỉ còn khuôn mặt đen sì của Đơn Chính uốn éo biến dạng, hai mắt trợn trừng, thanh đao sắp cắm vào ngực mình. Kiều Phong vừa đau lòng vừa phẫn nộ, ngửa mặt lên trời hú lên một tiếng như tiếng rống của mãnh thú sắp lìa trần.