Hồng Hoa Hội – một bang hội có tổ chức vô cùng rộng lớn với tôn chỉ “phản Thanh phục Minh”. Sau khi lão hội chủ chẳng may qua đời, mọi người đều đồng lòng tôn Trần Gia Lạc- một bậc tài hoa vô song nhưng thân thế lại vô cùng bí ẩn – lên làm Tổng đà chủ.
Tứ đương gia của Hồng Hoa Hội là Bôn Lôi Thủ Văn Thái Lai vì mang trong mình một bí mật vô cùng trọng đại nên bị triều đình truy nã ráo riết…
Thân thế của Trần Gia Lạc như thế nào và Văn Thái Lai nắm giữ bí mật gì mà lại bị truy tầm gắt gao như vậy?
Đó là nội dung tác phẩm “Thư kiếm ân cừu lục” – tiểu thuyết võ hiệp đầu tay của nhà văn Kim Dung, được đăng trên Tân vãn báo của Hồng Kông từ ngày 8 tháng 2 năm 1955 đến ngày 5 tháng 9 năm 1956.
Tháng sáu năm Càn Long thứ mười tám đời nhà Thanh, trong nội viện phủ tổng binh huyện Phù Phong tỉnh Thiểm Tây, một cô bé mười bốn tuổi tung tăng vừa đi vừa nhảy về phía thư phòng của thầy giáo. Sáng nay, thầy đã giảng xong đoạn viết về trận Xích Bích trong sách Tư Trị Thông Giám, lại kể thêm mấy truyện về Gia Cát Lượng trêu tức Chu Du. Lẽ ra thì sau giờ ngọ không còn bài vở gì nữa, nhưng cô bé đang hứng thú muốn nghe thầy kể tiếp truyện Tam Quốc Chí.
Lúc này đang là mùa hè nóng nực, tứ bề im phăng phắc, không một chút gió. Cô bé đi đến phía ngoài thư phòng, sợ thầy ngủ trưa chưa dậy nên không dám gõ cửa ngay. Cô nhẹ nhàng vòng ra cửa sổ, lấy cây trâm vòng trên tóc xuống, khoét một lỗ nhỏ trên cửa sổ dán giấy, áp mắt vào đó mà nhìn. Cô bé thấy thầy giáo đang ngồi xếp bằng trên ghế, mặt hơi mỉm cười. Thầy nhẹ vẫy tay phải, một tiếng “tạch” nhẹ nhàng vang lên như có một vật gì đó bắn dính lên vách. Cô bé nhìn về hướng phát ra âm thanh, thấy trên tường đối diện có mấy chục con ruồi xanh đang nằm yên không động đậy. Cô ngạc nhiên, chăm chú nhìn kỹ, lại thấy trên lưng mỗi con ruồi đều ghim một mũi kim châm rất mảnh, mảnh như sợi tóc. Kim cực kỳ nhỏ, khoảng cách lại xa như thế, đáng lẽ khó mà nhìn rõ được, nhưng bây giờ đã là giờ mùi, ánh sáng mặt trời rọi chênh chếch từ cửa sổ vào, nên những mũi kim châm bằng vàng đó phản chiếu ánh sáng lấp lánh. Đám ruồi trong thư phòng vẫn bay qua bay lại, phát ra những tiếng vo ve khó chịu. Tay của thầy giáo lại vẫy một cái, nghe một tiếng “tạch”, một con ruồi nữa ghim lên vách. Cô bé cảm thấy trò chơi này thú vị vô kể, bèn chạy vào cửa lớn, vừa đẩy cửa vào vừa kêu thật to: “Thầy ơi! Thầy dạy con chơi với!” Cô bé này tên là Lý Nguyên Chỉ, là con gái duy nhất của quan tổng binh Lý Khả Tú. Lý tổng binh sinh con trong thời gian làm tham tướng ở biên ải phía tây, nên đặt tên như thế để kỷ niệm nơi có dòng Nguyên Giang, mọc nhiều cây bạch chỉ. Còn thầy giáo Lục Cao Chỉ là một bậc túc nho chừng năm bốn năm lăm tuổi. Thường ngày hai thầy trò bàn luận cổ kim rất hợp ý nhau. Chiều nay Lục Cao Chỉ không chịu nổi đám ruồi xanh quấy rầy, bèn phóng kim châm ghim chết mấy chục con, nào ngờ bị cô bé học trò lấp ngoài cửa sổ nhìn trộm được. Ông đã nhìn thấy gương mặt trái xoan thanh tú hồng hào của Lý Nguyên Chỉ ra vẻ rất hưng phấn, nhưng vẫn giả vờ thản nhiên nói: “Sao con không đi chơi với đám bạn gái đi? Lại muốn nghe tiếp chuyện Gia Cát Lượng ba lần trêu tức Chu Du hay sao?” Lý Nguyên Chỉ nài nỉ: “Thầy ơi! Thầy dạy cho con chơi trò này đi.” “Trò chơi gì?” “Trò chơi dùng kim châm phóng chết ruồi đó.” Cô bé vừa nói xong đã khiêng một cái ghế tới chỗ vách tường, nhảy phắt lên đứng nhìn. Nhìn tỉ mỉ một hồi, cô bèn rút kim châm trên mình lũ ruồi xuống, lấy giấy lau chùi sạch sẽ, trả lại cho thầy giáo rồi nói: “Thưa thầy! Con biết rồi, đây không phải trò chơi gì đâu, mà là một loại võ công rất cao minh. Thầy phải dạy cho con thôi.” Cô cũng thường theo cha ra võ trường luyện phép cưỡi ngựa bắn cung, biết qua chút ít võ nghệ. Lục Cao Chỉ mỉm cười: “Nếu con muốn học võ công, thì trong vòng mấy trăm dặm quanh thành Phù Phong này, còn ai giỏi võ hơn gia gia của con đâu?” Lý Nguyên Chỉ cãi: “Gia gia chỉ biết dùng cung tên để bắn chim ưng, chứ không biết dùng kim châm để bắn ruồi. Nếu thầy không tin, thì đi với con mà hỏi gia gia, thử xem ông ấy có biết hay không.” Lục Cao Chỉ im lặng hồi lâu, biết cô học trò này thông minh lanh lợi, lại quen được nuông chiều nên hành động có thiếu phần suy nghĩ. Tuổi của cô chưa đủ lớn nhưng cũng không còn nhỏ, nên mỗi khi nhõng nhẽo thì khó mà đối phó được. Ông đành gật đầu bảo: “Được rồi! Sáng mai con đến đây, thầy sẽ dạy cho. Còn bây giờ thì con đi chơi đi, tuyệt đối không được nói cho ai biết chuyện bắn ruồi này. Nếu bất luận là ai biết được, thầy sẽ không dạy cho con nữa.” Quả thật Lý Nguyên Chỉ không kể ai nghe chuyện này. Cô bé háo hức suy nghĩ cả đêm, nên mới sáng sớm hôm sau đã chạy ngay vào thư phòng của thầy giáo. Nhưng khi đẩy cửa vào thì cô không thấy bóng dáng thầy đâu, chỉ thấy trên bàn có một tờ giấy được chặn lại đàng hoàng, bèn cầm lên xem. Trên tờ giấy viết:
Đệ tử Nguyên Chỉ! Con thông minh, lanh lợi, hiếu học, ham hỏi. Được một học trò như thế này, kẻ làm thầy không đòi hỏi gì hơn nữa. Nhưng mặc dù con có tấm lòng rộng, ta lại không có kiến thức nhiều. Ba năm tạm trú nơi này mạo nhận làm thầy, ta hổ thẹn không dạy được con gì cả. Duyên của chúng ta có thể đến đây là hết, hẹn ngày sau gặp lại. Con thông minh ứng biến có thừa, nhưng định lực còn chưa đủ, sau này phải tu tâm dưỡng tánh cho nhiều. Việc này con phải nhớ kỹ. Thầy Lục Cao Chỉ viết.
Lý Nguyên Chỉ đọc xong lá thư, ngẩn ra không biết nói gì. Khóe mắt cô bé đã ứa lệ, trong lòng giận dỗi chỉ muốn la lên: “Con bị thầy gạt rồi! Con không chịu đâu!” Đúng lúc đó, đột nhiên cửa phòng mở ra, một người lảo đảo tiến vào, bước chân không vững. Đó chính là người đã để thư lại rồi bỏ đi, Lục Cao chỉ tiên sinh. Sắc mặt ông trắng xanh, cả người vấy máu, cố gắng bước tới một cái ghế, lảo đảo mấy cái rồi vịn ghế ngồi phệt xuống đất. Lý Nguyên Chỉ kinh hãi kêu lên: “Thầy!” Lục Cao Chỉ nói nhỏ một câu: “Đóng cửa lại, đừng lên tiếng!” rồi nhắm mắt lại, không nói năng gì nữa. Dù sao thì Lý Nguyên Chỉ cũng là con nhà võ, quen sử đao thương, tuy đang sợ mất hồn nhưng vẫn nghe lời thầy, đóng chặt cửa lại. Lục Cao Chỉ cố hít một hơi rồi nói tiếp: “Lý Nguyên Chỉ! Tình thầy trò giữa chúng ta đã hơn ba năm rồi, đối xử với nhau cũng không tệ. Ta cứ tưởng duyên phận đã hết, nào ngờ phải gặp lại nhau ngay tức khắc. Chuyện này có liên quan đến sinh mạng, con có thể giữ kín miệng, không nói ra một chữ hay không?” Nói dứt câu, ông đưa mắt nhìn chăm chú cô bé. Lý Nguyên Chỉ đáp: “Thầy cứ dặn, con xin nghe.” “Con hãy nói với gia gia là ta mắc bệnh, phải nghỉ ngơi nửa tháng.” Lý Nguyên Chỉ gật đầu. Lục Cao Chỉ nói tiếp: “Con bảo gia gia đừng mời đại phu, tự ta sẽ lo liệu lấy.” Một hồi lâu, ông lại bảo: “Con đi đi.” Đợi cô bé rời khỏi, Lục Cao Chỉ mới lấy ra mấy loại thuốc, đắp lên vết thương trên cánh tay trái của mình, rồi dùng vải buộc chặt lại. Không ngờ mới cố sức một chút, trước mắt ông đã tối sầm lại, miệng thổ ra một vũng máu. * * * Người gia sư này tên thật là Lục Phi Thanh, vốn là một đại hiệp phái Võ Đang. Thời tráng niên ông hành hiệp trượng nghĩa ở vùng Giang Nam, danh trấn giang hồ, cũng là một nhân vật nổi tiếng của Đồ Long Bang. Đồ Long Bang là một hội kín chống đối triều đình nhà Thanh, vào đầu triều Ung Chính có thanh thế rất lớn. Sau này hai triều Ung Chính và Càn Long trấn áp dữ dội, cuối cùng đến năm thứ bảy đời Càn Long thì Đồ Long Bang phải giải tán, khi đó Lục Phi Thanh trốn chạy về vùng biên cương này. Triều đình phái người đi lùng xét các nơi. Vì họ Lục là người cẩn mật lại có võ công cao cường nên mới thoát khỏi đại nạn, nhưng vẫn bị Thanh triều tiếp tục điều tra truy bắt. Ông nghĩ đến câu: Đại ẩn thì ẩn nơi triều đình, trung ẩn thì ẩn nơi thị tứ, còn tiểu ẩn thì ẩn nơi hoang dã; nên giả danh xin vào trong phủ Lý Khả Tú mà dạy học. Quan quân triều đình chỉ lùng sục những nơi lục lâm, chùa miếu, tiêu cục, võ trường, chứ không sao ngờ một ông giáo trông già nua yếu đuối như thế này lại là một khâm phạm võ công trác tuyệt. Đêm qua, Lục Phi Thanh biết mình đã để lộ hành tung, không thể ở lại đây được nữa, bèn quyết định viết thư cáo biệt, chuẩn bị hành trang. Hành lý của ông rất đơn giản, chỉ có mấy bộ y phục và thanh Bạch Long Kiếm. Ông buộc tất cả thành một bao, đợi đến canh hai sẽ đi tìm một nơi thanh tịnh khác. Ông ngồi xếp bằng trên giường, nhắm mắt dưỡng thần. Lúc xa xa đã nghe tiếng trống cầm canh, đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng sột soạt, hình như có người đang từ ngoài tường nhảy vào. Lục Phi Thanh lập tức nhảy xuống giường, tiện tay giắt gọn lại vạt áo bào, còn tay kia nhẹ nhàng rút cây Bạch Long Kiếm ra. Ngoài cửa sổ bỗng có người dõng dạc lên tiếng: “Lục lão đầu! Ngươi cứ tưởng làm con rùa ở đây rúc đầu suốt đời là người ta không tìm được hay sao? Hãy ngoan ngoãn theo bọn ta lên kinh thành mà trả mấy món nợ.” Lục Phi Thanh đã biết người đến đây không phải tay vừa, mà cũng không phải chỉ có một người. Địch đang đứng ngoài hờm sẵn, không ra thì không được, mà theo cửa đi ra thì bị tập kích ngay, nên ông liền thi triển công phu Bích Hổ Du Tường, nhẹ nhàng trườn lên dọc vách, nắm lấy kèo nhà. Ông vận khí vẫy tay đánh lên một chưởng, ngói lập tức vớ nát bay tứ tán, rồi theo ngói vỡ mà nhảy lên mái nhà. Người đang đứng dưới “Úi chà” một tiếng, phóng vội một mũi tụ tiễn rồi quát lớn: “Biết điều thì đừng chạy!” Lục Phi Thanh nghiêng mình né ám khí rồi hạ giọng nói: “Mời mấy ông bạn theo ta.” Ông lập tức thi triển khinh công Đề Tung Thuật chạy về phía ngoại thành, ngoái đầu lại nhìn thấy ba bóng người đuổi theo. Ông chạy một hơi sáu bảy dặm, ba người phía sau vừa đuổi vừa la hét: “Lão họ Lục kia! Ngươi cũng là một nhân vật hữu danh, sao lại cắp đít mà chạy trốn như thế? Chẳng đếm xỉa gì đến mặt mũi nữa hay sao?” Lục Phi Thanh không lý gì đến những lời chửi bới, cứ dẫn ba người chạy đến một ngọn đồi ở phía tây thành Phù Phong. Ông muốn dụ địch thủ đến nơi hoang vắng để tránh kinh động người trong phủ, đồng thời cũng kéo hết chúng ra mặt, tránh tình trạng mình ở ngoài sáng còn địch nấp trong bóng tối, đỡ bị đối phương ám toán. Hơn nữa, chạy như thế cũng có thể biết địch có bao nhiêu người và võ công thế nào. Ông đột ngột tăng tốc, chỉ trong khoảnh khắc đã xa thêm mười trượng. Nghe tiếng bước chân chạy theo thì biết trong ba tên địch có một cao thủ, còn hai tên kia vào hạng tầm thường. Chạy lên tới đỉnh đồi, Lục Phi Thanh bèn cắm thanh Bạch Long Kiếm trở vào trong vỏ. Ba tên đuổi theo cũng đã chạy đến, thấy ông dừng lại cũng không dám đến quá gần, liền đứng thành hình tam giác, một người phía trước, hai người hơi lùi phía sau. Dưới ánh trăng, Lục Phi Thanh chăm chú nhìn tên đứng trước, thấy đó là một người vừa lùn vừa ốm, tuổi khoảng trên dưới năm mươi, da mặt đen nhánh, hàng ria trên môi giống như đuôi én, dài không hơn một tấc. Tên này ra dáng nhanh nhẹn khoẻ mạnh, mà tướng mạo cũng hơi quen thuộc. Còn hai tên phía sau thì một cao nghều, một mập mạp. Tên lùn ốm mở miệng trước: “Lục lão anh hùng! Chớp nhoáng đã mười tám năm rồi, còn nhận ra Tiêu Văn Kỳ này không?” Trong lòng Lục Phi Thanh nhói lên một cái: quả nhiên là hắn. Tiêu Văn Kỳ là đệ tam ma trong Quan Đông Lục Ma. Mười tám năm trước, hắn ở Trực Lệ, vô cớ giết hại nhiều người, rủi ro gặp phải Lục Phi Thanh ra tay cản trở. Lần đó Lục Phi Thanh hạ thủ lưu tình, chỉ đánh hắn một chưởng chứ không lấy mạng. Thế mà Tiêu Văn Kỳ coi đó là mối nhục, đã thề phải báo thù. Lần này Tiêu Văn Kỳ nhận lời mời của một nhà đại quan vùng Giang Nam, đi về phía bắc Thiên Sơn để tìm một người quan trọng. Dọc đường, hắn ngẫu nhiên gặp mặt Lục Phi Thanh, nhận ra ông nhưng lại không báo cho quan phủ và tổng binh Lý Khả Tú ở địa phương biết. Hắn chỉ gọi thêm hai cao thủ của triều đình ở Thiểm Tây, tự đến bắt người để trả thù. Lục Phi Thanh chắp tay đáp: “Thì ra là Tiêu tam gia! Mười mấy năm trời không gặp, ta nhận không ra nữa. Còn hai vị này là ai, Tiêu tam gia có thể giới thiệu cho biết hay không?” Tiêu Văn Kỳ cười khẩy rồi hứ một tiếng, chỉ tên mập nói: “Đây là La Tín huynh đệ kết nghĩa của ta, được thiên hạ xưng tụng là Thiết Bối La Hán.” Rồi hắn chỉ sang tên cao nói tiếp: “Còn đây là Ngọc phán quan Bối Nhân Long, Bối nhị gia, hào kiệt vùng Lưỡng Hồ. Các vị làm quen đi.” La Tín chào được một câu: “Ngưỡng mộ đã lâu.” Còn Bối Nhân Long chỉ ngửa mặt lên trời cười nhạt. Lục Phi Thanh nói: “Nửa đêm mà được ba vị bất ngờ đến thăm, không biết có điều chi chỉ giáo?” Tiểu Văn Kỳ lạnh lùng nói: “Lục lão anh hùng! Mười tám năm trước ta đã được lãnh giáo một chưởng, chỉ trách mình học nghệ chưa thông, nhưng may mà xương cốt cứng cáp nên chưa đến nỗi mất mạng. Mấy năm gần đây ta có luyện được mấy chiêu quyền cước, mong ông đừng chê bai mà chỉ giáo cho lần nữa. Đó là việc tư. Ông lại lừng danh thiên hạ, triều đình cũng muốn mời ông đến để hỏi thăm vài vụ công án, nên ba người chúng ta cũng muốn nghênh đón đại giá về kinh. Đó là việc công.” Lục Phi Thanh biết rõ, chuyện đêm nay không dùng võ lực thì không xong được. Nhưng ông vốn là người rất thâm trầm, mấy năm nay lo âu phiền toái đã nhiều nên xử sự lại càng cẩn trọng, bèn chắp tay đáp: “Tiêu tam gia! Hai ta đều đã ngoại ngũ tuần rồi. Năm xưa ta đắc tội một lần, bây giờ nghiêng mình xin lỗi vậy.” Nói xong ông bèn vái lạy rất thành khẩn. Bối Nhân Long hứ một tiếng, lớn tiếng thóa mạ: “Hèn mạt vô sỉ.” Lục Phi Thanh đảo mắt một cái, lạnh lùng nhìn hắn rồi nghiêm giọng nói: “Lục mỗ đi lại giang hồ đã mấy chục năm, tuy chẳng có tiếng tăm, nhưng suốt đời chưa làm việc gì để bằng hữu võ lâm phải coi thường.” Rồi ông quay lại nói với Tiêu Văn Kỳ: “Tiêu tam gia vừa nói, lần này tìm tại hạ vì cả việc tư lẫn việc công. Nói về việc tư, thì năm xưa chúng ta đều tuổi trẻ hiếu thắng, bây giờ nhắc lại thật không đáng một nụ cười. Tiêu tam gia muốn đòi nợ cũ thì ta đã thành thật tạ lỗi rồi. Còn nói về việc công, thì Lục mỗ không mặt dày đến nỗi đi làm chó săn cho triều đình Mãn Thanh. Các vị muốn lấy mấy khúc xương già này để thăng quan phát tài, thì cứ qua đây mà lấy.” Ông lướt mắt nhìn khắp ba người rồi hỏi: “Chẳng hay ba vị cùng lên, hay là vị nào lên trước?” Tên mập La Tín hét lên: “Không phải nói nhiều!” Nói chưa dứt câu, hắn đã phóng ra một quyền đánh thẳng tới mặt Lục Phi Thanh. Lục Phi Thanh hoàn toàn không tránh né, cũng không chống đỡ. Đợi quyền đến cách mặt mình vài tấc, ông mới phát chiêu, tả chưởng chặt vào mạch môn trên cổ tay phải địch thủ. La Tín không ngờ đối phương phản đòn nhanh đến thế, phải lùi ba bước. Lục Phi Thanh không đuổi theo, nên hắn định thần rồi thi triển Ngũ Hành quyền tiếp tục tấn công. Tiêu Văn Kỳ và Bối Nhân Long đứng bên quan sát, mỗi người đều có tính toán riêng. Tiêu Văn Kỳ thì một lòng muốn trả thù, mấy năm nay đã cố luyện công phu Thiết Tỳ Bà, bản lãnh khác trước rất nhiều. Nhưng năm xưa hắn đã từng lãnh giáo Vô Cực Huyền Công Quyền của Lục Phi Thanh, biết là không phải tầm thường, nên hắn muốn để La Tín và Bối Nhân Long tiêu hao sức lực của đối phương trước, rồi mình mới ra tay để nắm chắc phần thắng. Còn Bối Nhân Long một lòng muốn bắt khâm phạm, để được quan tuần phủ tiến cử cho thăng cấp. Ngũ Hành Quyền của La Tín chỉ công không thủ, chiêu này vừa dứt chiêu kia đã đến ngay, không chậm trễ chút nào, cứ theo lẽ tương sinh tương khắc của kim mộc thủy hỏa thổ mà liên lạc không dứt. Hắn đánh mấy quyền không trúng, đột nhiên phát ra một quyền theo yếu quyết chữ Bích trong Ngũ Hành Quyền. Bích quyền thuộc kim, vừa hết lại nối sang Tỏa quyền thuộc thủy. Trong Trường quyền gọi đây là thế Xung Thiên Pháo, chuyên về tấn công thượng bàn. Chiêu thức của Lục Phi Thanh nhìn thì chậm, nhưng thực tế lại rất nhanh, trong chớp mắt đã qua lại mười mấy chiêu. Võ công của La Tín lẽ ra không thể cầm cự với ông đến mười chiêu, chỉ vì mấy năm nay Lục Phi Thanh đã tu tâm dưỡng tính, hiểu rằng bọn người ham công danh lợi lộc như La Tín trong thiên hạ rất nhiều, thật sự không sao giết xuể, nên trong lúc ra tay đã nhẫn nhịn rất nhiều. Đến lúc La Tín dùng đến Băng quyền, tiếp theo là một chiêu Hoành quyền đánh vào trước ngực, thì đột nhiên không thấy bóng dáng đối phương đâu nữa. Hắn vội vã xoay người lại, thấy Lục Phi Thanh đã vòng ra sau lưng mình, bèn vung tay định chụp lấy cổ tay ông mà đấu sức. Hắn tự cho mình thân hình cao to, sức lực khỏe mạnh, không sợ ngạnh công của đối phương. Nào ngờ Lục Phi Thanh chỉ khẽ phất phơ tay áo, né tả tránh hữu, không những hắn không nắm được cổ tay ông mà cả y phục cũng không đụng được chút nào. La Tín lo lắng, đột nhiên đổi quyền thành cầm nã thủ, hai tay gấp rút chộp bắt Lục Phi Thanh. Họ Lục vẫn không phát chiêu đánh trả, chỉ xoay trở quanh người hắn mà tránh né. Được mấy chiêu, La Tín thấy có cơ hội bèn phóng hữu quyền ra, bắt buộc Lục Phi Thanh phải né về bên trái. Hắn lập tức vung tay chụp lấy vai trái ông, vừa chụp trúng đã mừng rỡ trong lòng, lập tức vận thêm lực đạo để kéo đối phương lại. Nào ngờ vừa vận lực, thân hình to lớn của hắn đã văng ra ngoài hai trượng, rơi xuống nghe “bịch” một tiếng nặng nề. Hắn thấy đủ ba mươi sáu ông sao nhấp nháy trước mắt, chỉ biết chống hai bàn tay xuống đất gượng ngồi dậy, rồi cứ ngẩn ra ở đó một lúc lâu, miệng không ngớt lẩm bẩm: “Con mẹ nó! Không hiểu sao mình bị thế này?” Thì ra Lục Phi Thanh vừa sử dụng một công phu thượng thừa trong quyền thuật nội gia, gọi là Chiêm Y Thập Bát Trật. Nếu công lực đủ thâm hậu, kẻ địch chỉ cần đụng vào áo của mình là phải lập tức văng ngược ra ngoài. Đây là phương pháp tá lực đả lực, mượn thế tấn công của đối phương mà đánh trả. Võ công của Lục Phi Thanh chưa tới mức khiến kẻ địch đụng vào mình đã té nhào, nhưng vừa rồi La Tín dùng hết sức mà nắm vai ông, nên mới bị ông mượn sức mà hất văng đi. Tiêu Văn Kỳ chau mày quát khẽ: “La hiền đệ đứng dậy đi!” Còn Bối Nhân Long thì im lặng không nói tiếng nào, chỉ bất ngờ lao lên phía trước, xuất chiêu Song Long Thương Châu phóng cả song quyền tới Lục Phi Thanh. Nhưng thân hình của Lục Phi Thanh chỉ chớp lên một cái là mất hút, rồi lưng của Bối Nhân Long bị vồ trúng một cái. Hắn còn nghe phía sau vọng lên tiếng nói: “Ngươi phải luyện thêm mười năm nữa!” Bối Nhân Long vội vã xoay người lại, nhưng cũng không kịp nhìn thấy Lục Phi Thanh. Hắn chưa kịp thủ thế trở lại đã nghe hai tiếng bịch bịch, trúng hai tát tai vào mặt. Hai cái tát này khá nặng, hai má của hắn lập tức sưng vù. Lục Phi Thanh gằn giọng nói: “Tên tiểu bối này vô lễ, hôm nay ta phải dạy cho một bài học.” Vì vừa rồi Bối Nhân Long thốt lời vô lễ, nên Lục Phi Thanh vừa xuất thủ đã hiển lộ thân pháp cực nhanh để hắn biết mùi lợi hại. Một cái vỗ lên lưng, hai cái tát vào mặt, chỉ cần vận thêm chút kình lực là xương cốt Bối Nhân Long phải nát vụn. Nhưng họ Lục là bậc tiền bối võ lâm, không thèm chấp bọn tiểu bối này. Tiêu Văn Kỳ vừa thấy Bối Nhân Long thất lợi đã vội phóng đến như một mũi tên, người chưa đến mà chưởng phong đã đến trước. Lục Phi Thanh biết tên Quan Đông Đệ Tam Ma này có võ công hơn hẳn hai tên kia nên không dám đùa giỡn, lập tức thận trọng thi triển Vô Cực Huyền Công Quyền. Công phu Thiết Tỳ Bà của Tiêu Văn Kỳ gần đây tiến bộ rất nhiều. Hắn ra chiêu Thủ Huy Ngũ Huyền công tới, trông thì nhẹ nhàng vô lực, nhưng giữa hư là thực, trong nhu có cương, hễ chạm vào người là ngón tay biến thành thanh sắt. Chiêu này thật sự đã gom đủ sở trường của Thiết Sa Chưởng và Ưng Trảo Công. Lục Phi Thanh thấy công lực của Tiêu Văn Kỳ đã thâm hậu khác xưa, bất giác cất tiếng khen: “Hay lắm!” Ông bèn dùng bộ pháp Hổ Tung Bộ chuyển người tránh né, bước lên một bước đến dưới cánh tay phải của Tiêu Văn Kỳ, dùng hữu chưởng quạt vào dưới nách phải hắn. Tiêu Văn Kỳ gấp rút đảo người tránh đòn, tả chưởng bảo vệ thân mình, tay phải xuất chiêu Đao Thương Tề Minh, ngón trỏ và ngón giữa đồng thời điểm về Lục Phi Thanh. Qua lại chừng bảy tám chiêu, Lục Phi Thanh lạng người một cái, rùn xuống phóng chưởng đánh trúng vào trước ngực đối phương. Nhưng ông nảy lòng từ thiện, không nỡ phế bỏ mấy chục năm công lực của Tiêu Văn Kỳ, nên phát chưởng này chỉ dùng năm phần công lực, muốn địch thủ tự biết thua mà rút lui. Lục Phi Thanh hạ thủ lưu tình, nên chưởng kình rất yếu, thế đi cũng chậm. Dĩ nhiên Tiêu Văn Kỳ biết rõ đối phương tha mình, nhưng hắn lại thừa cơ đánh lén. Trong lúc Lục Phi Thanh cười ha hả, tay chưa rút lại nên trước ngực lộ sơ hở, Tiêu Văn Kỳ đột nhiên dùng tả chưởng phóng chiêu Lưu Tuyền Hạ Sơn, năm ngón tay chụm lại bấu trúng vào ngực trái Lục Phi Thanh. Trong lúc bất ngờ, Lục Phi Thanh không sao tránh được, trúng phải một chiêu Thiết Tỳ Bà. Nhưng dù sao thì ông vẫn là danh gia phái Võ Đang, trúng đòn mà không loạn, bèn gác chéo song chưởng phong tỏa trước ngực để giảm thế tấn công của Tiêu Văn Kỳ, lùi được một bước, đồng thời điều dưỡng thần khí, không dám giận giữ. Ông biết mình đã trọng thương, nếu nổi cơn nóng giận thì đêm nay chắc chắn mất mạng trên chốn hoang sơn này. Tiêu Văn Kỳ đã đắc thủ khi nào chịu bỏ qua, quyết không cho đối phương có thời gian nghỉ ngơi điều tức. Hắn lập tức ra chiêu Ngân Bình Sạ Phá rồi Thiết Kỵ Đột Xuất, những chiêu thức lợi hại nhất của Thiết Tỳ Bà. Lục Phi Thanh hừ một tiếng, rút thanh Bạch Long Kiếm ra, soạt soạt công liền ba chiêu. Tiêu Văn Kỳ cuống quýt nhảy tránh, rốt cuộc cũng né được hết. Hắn hoảng hôt la lên: “Anh em lên hết đi! Lão già này muốn liều mạng rồi.” Bối Nhân Long không nói nửa lời, vung ngay đôi Ngô Câu Kiềm chia trên dưới tấn công, tay trái đâm vào yết hầu còn tay phải nhắm vào vùng tim Lục Phi Thanh. Ngô Câu Kiếm tuy gọi là kiếm mà thực sự là hai cái móc câu, nhưng trên móc có thêm mũi kiếm. Ngoài những thế móc, giật, khóa của câu pháp ra, nó còn thi triển được những chiêu thức về song kiếm. Ngô Câu Kiếm không thuộc mười tám món binh khí chuẩn, cực kỳ âm hiểm và rất khó luyện. Người mới luyện rất dễ sơ xuất, nếu không bị móc câu hoặc miếng che tay tự đả thương mình, thì cũng bị vướng víu cổ tay khó mà xuất chiêu được. Nhưng khi đã luyện thành, thì món binh khí này thật là lợi hại. Lục Phi Thanh vừa nhìn thấy đôi Ngô Câu Kiếm đã phải lưu tâm để ý, thi triển mấy chiêu Hạnh Hoa Xuân Vũ, Tam Hoàn Âm Nguyệt trong Nhu Vân kiếm thuật tấn công liên tiếp. Lúc đó La Tín lôi cây Thất Tiết Cương Tiên ra, xông vào cùng lúc giáp công. Lục Phi Thanh không dám để lưỡi kiếm của mình chạm vào cây Cương Tiên trầm trọng, bèn đảo kiếm rất linh hoạt, hớt trúng cánh tay La Tín. Tên mập này la lên một tiếng, nhảy ra ngoài vòng chiến. Tiêu Văn Kỳ móc Thiết Bài ra, gõ đánh “keng” một tiếng, rồi đập tới gáy của Lục Phi Thanh. Tiêu Văn Kỳ học võ ở Hàn gia vùng Lạc Dương. Từ đời Hàn Ngũ Nương, môn Thiết Tỳ Bà của Hàn gia đã danh chấn giang hồ. Binh khí này là một cây Tỳ Bà được rèn bằng thép tinh luyện, bản rộng mà hai bên mép lại rất sắc bén, lúc công thì dùng như búa, lúc thủ thì dùng như thuẫn để che đỡ. Trong ruột cây Tỳ Bà có chỗ trống, giấu mười hai mũi Tỳ Bà Đinh. Quả là ba trong một, lợi hại khó lường. Tiêu Văn Kỳ chê Tỳ Bà là đồ dùng của nữ nhân nên không sử dụng, sợ bị bằng hữu giang hồ lôi ra trêu ghẹo những câu khó nghe. Vì thế hắn đã sáng chế ra một miếng thiết bài, hình thức tuy có khác, nhưng cách thức sử dụng thì giống hệt cây Tỳ Bà của sư môn truyền lại. Lục Phi Thanh nghe tiếng gió sau gáy, bèn lập tức nghiêng đầu sang trái cho thiết bài đánh vào khoảng không. Ông xoay tay lại, trường kiếm phóng ra, Nhu Vân kiếm thuật thi triển liên miên không dứt. Tiêu Văn Kỳ hoành ngang thiết bài chống đỡ, Bạch Long Kiếm lại thuận theo thế của thiết bài mà đâm tới. Trong võ thuật, bất kể là quyền cước hay binh khí, nếu muốn biến chiêu thì thường phải thu hồi chiêu trước rồi mới phát ra chiêu sau được. Nhưng Nhu Vân kiếm thuật kỳ diệu ở chỗ bất luận đối phương chống đỡ né tránh chiêu trước như thế nào, chiêu sau vẫn có thể thuận thế xuất ra, giống như tơ trời mềm mại không bao giờ đứt, như mây xuân trôi mãi không dừng. Bối Nhân Long và La Tín nhìn thấy Tiêu Văn Kỳ bị ép đến loạn cả tay chân, bèn nhanh chóng tập kích sau lưng Lục Phi Thanh. Thế là ba người, bốn món vũ khí: một bài, một tiên, một cặp ngô câu vây ông vào giữa. Lúc này trước ngực Lục Phi Thanh đã ngấm ngầm đau, nội thương bắt đầu phát tác. Tuy rằng Nhu Vân kiếm thuật lợi hại, nhưng vừa ép được người này thì hai người kia lập tức xông tới, không thể không thu chiêu về chống đỡ. Ông thầm nghĩ: “Không ngờ Lục Phi Thanh ta một đời anh hùng, hôm nay lại mất mạng dưới tay lũ chuột này.” Nghĩ tới chỗ mình vì nhân hậu mà bị ám toán, bất giác ông không nén nổi cơn giận. Nhưng càng tức giận lại càng dễ gặp nguy, ông bèn cố trầm tĩnh lại để suy nghĩ, cho rằng hôm nay dù thua trận nhưng phải cố thoát đại nạn trước đã, dưỡng thương xong rồi sẽ trả thù cũng chưa muộn. Lục Phi Thanh đã định tâm như thế, không mong giết hết kẻ địch ngay lúc này, lập tức tâm bình khí hòa trở lại. Đối với võ công nội gia thì tâm thần càng ổn định, chiêu thức càng vững mạnh. Bạch Long Kiếm phát ra những chiêu tuyệt diệu, che kín thân mình khắp cả bốn phương tám hướng, bất luận đối phương ba người thế nào cũng không sao tấn công vào được. La Tín kêu lên: “Tiêu tam ca! Chúng ta cứ bao vây mãi thế này, thì dù đánh không thắng cũng khiến lão phải mệt mỏi mà chết.” Tiêu Văn Kỳ khen: “Đúng vậy. Lát nữa cho La huynh đệ cắt cái đầu già đó mà đi lập công.” Bối Nhân Long cũng lên tiếng: “Thanh kiếm của lão tốt lắm. Tiêu tam gia! Cho ta thanh kiếm đó có được hay không?” Ba tên này vừa tung vừa hứng, coi Lục Phi Thanh như người đã chết rồi, rõ ràng là muốn khích ông nổi giận. Lục Phi Thanh phóng luôn hai chiêu kiếm về phía La Tín, bắt hắn phải vội vã né tránh, lộ ra một khoảng trống. Ông vung Bạch Long Kiếm sử chiêu Mãn Thiên Hoa Vũ, quay một vòng rộng lớn bảo vệ thân mình, đồng thời vọt đi một cái, nhảy ra ngoài vòng đấu. La Tín giận giữ quát lên: “Không xong! Lão này muốn chuồn rồi.” Lục Phi Thanh triển khai khinh công Đề Tung Thuật chạy như bay xuống núi, thoát khỏi vòng vây, biết chắc ba tên này khinh công không bằng mình, không thể đuổi kịp được. Nhưng Tiêu Văn Kỳ ấn vào nút trên thiết bài, ba mũi Tỳ Bà Đinh bắn ra, bay vù vù tới sau lưng Lục Phi Thanh. Ông vẫy kiếm gạt được hai mũi phía trên, hai chân nhảy lên tránh mũi thứ ba đánh vào hạ bàn. Trên Tỳ Bà Đinh có rất nhiều móc ngược, đã ghim vào thịt thì giống như bắt rễ bên trong. Nếu dùng sức rút ra thì phải mất một miếng thịt lớn, nếu đưa tay ra chụp lại càng có hại. Lục Phi Thanh né được hết ám khí, đang chạy nhanh xuống núi thì chân bỗng loạng choạng một cái, đồng thời trước ngực đau nhói lên, hơi thở khó khăn, trước mắt tối sầm lại. Ba tên họ Tiêu, họ La, họ Bối thấy ông lảo đảo, biết ngay nội thương đã phát tác, bèn cả mừng chạy tới. Lục Phi Thanh phải vung kiếm ngăn đỡ, thế là bốn người lại đấu tiếp mười mấy chiêu. Lục Phi Thanh thấy mỗi khi mình dùng sức bên tay phải thì ngực trái lại đau nhói, bèn chuyển kiếm sang tay trái, đâm tới Tiêu Văn Kỳ. Ông sử dụng kiếm bằng tay trái, chiêu thức ngược hẳn với lề lối thông thường nên Tiêu Văn Kỳ thật sự bất ngờ, phải lui mấy bước. Lục Phi Thanh chớp lấy cơ hội tốt, tay trái liền xuất chiêu Bạch Hồng Quán Nhật đâm vào Bối Nhân Long. Họ Bối nhận biết chiêu này, bèn né sang bên phải. Không ngờ kiếm sử dụng ngược tay nên phương vị ngược theo, cũng hướng về bên phải truy tới. Bối Nhân Long kinh hãi không kịp né tránh, trong lúc gấp rút phải nhào xuống đất, lăn người mấy vòng ra ngoài, thoát được chiêu đó. Lục Phi Thanh đang lúc đuổi theo, bỗng nghe tiếng gió lộng lên sau gáy. Thì ra La Tín đã sử chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh vung cương tiên đánh xuống. Hai chân của Lục Phi Thanh không động đậy, chỉ ngả thượng bàn sang trái, tay phải vung ra phía trước nhanh như điện chớp, điểm trúng vào U Môn huyệt của La Tín. Cây cương tiên vẫn đập mạnh xuống, nhưng La Tín đã bị điểm trúng huyệt đạo, lập tức bủn rủn toàn thân, năm ngón tay lỏng ra. Cương tiên cứ theo đà đập xuống tảng đá kế bên, rồi bắn ngược lên, văng lửa tung tóe. Ngay lúc đó ba mũi Tỳ Bà Đinh của Tiêu Văn Kỳ lại bắn tới sau lưng. Lục Phi Thanh nghe tiếng ám khí rít lên rất gấp, biết mình không sao nhảy tránh kịp nữa, bèn tiện tay kéo thân hình mập mạp đang bủn rủn của La Tín qua chống đỡ. Tên mập này trúng hai mũi Tỳ Bà Đinh vào ngực, một mũi vào bụng, chỉ la được một tiếng rồi mất mạng ngay. Tiêu Văn Kỳ nhìn thấy huynh đệ chết vì ám khí của mình, lại điên cuồng tung thiết bài đập tới Lục Phi Thanh. Đôi ngô câu của Bối Nhân Long cũng tham gia công kích. Trường kiếm của Lục Phi Thanh vừa đâm ra, Bối Nhân Long thấy thế kiếm lợi hại bèn né sang bên trái, nhưng thiết bài của Tiêu Văn Kỳ đã đánh tới nơi. Lục Phi Thanh biết mình quay lại chống đỡ thì Bối Nhân Long lại thừa thế đánh tiếp. Cứ thế kéo dài thì không lợi, vì tuy rằng kẻ địch đã ít đi một người, nhưng vết thương của mình mỗi lúc một đau hơn. Ông quyết định không quay lại đỡ, chỉ khom người ra trước để giảm bớt đà tới của thiết bài, nhưng không né được hoàn toàn. Mép bén như dao của thiết bài đã vạch một đường lên vai trái của ông. Tiêu Văn Kỳ còn chưa kịp mừng, một luồng sáng trắng đã chớp lên, Bạch Long Kiếm bay vù vù tới Bối Nhân Long. Tên này kinh hãi đưa Ngô Câu Kiếm ra gạt, tuy gạt trúng nhưng Lục Phi Thanh đã dùng hết mười phần công lực, thủ pháp Khai Bi Thủ sức nặng ngàn cân, lực của Ngô Câu không sao đỡ nổi. Thanh Bạch Long kiếm đã cắm vào trước ngực của Bối Nhân Long rồi trổ ra sau lưng, ghim chặt xác hắn xuống đất. Trong chớp nhoáng đó, Lục Phi Thanh đột nhiên quay người lại. Tiêu Văn Kỳ chưa kịp thu Thiết Bài về đã cảm thấy đau nhói trước mặt, rồi hai mắt bỗng tối sầm. Thì ra lúc Lục Phi Thanh bị thiết bài quét trúng vai, ông vừa ném trường kiếm ra vừa xoay ngược tay lại, phóng một nhúm Phù Dung kim châm vào mặt Tiêu Văn Kỳ. Khoảng cách rất gần, xuất thủ rất nhanh, kim châm rất nhiều, dĩ nhiên Tiêu Văn Kỳ không sao né được, cặp mắt bị mù ngay lập tức. Hai bàn tay của hắn còn đang quơ cào lên mặt, Lục Phi Thanh đã thừa cơ tiến lên một bước, vung cả song quyền đánh vào chỗ nhược, đấm chết hắn ngay lập tức. Thế là Lục Phi Thanh thi triển hết tuyệt kỹ bình sinh, dùng Điểm Huyệt Thủ, Khai Bi Thủ, Phù Dung kim châm… chỉ chốc lát đã giết hết ba tên địch. Trên núi hoang gió lạnh nổi lên rất mạnh, trăng tàn đã ló ra khỏi đám mây, chiếu lên ba thi thể ngổn ngang trên đường đá. Ở cánh rừng xa xa đã vẳng đến tiếng quạ kêu đêm. Gần mười năm nay Lục Phi Thanh chưa giết người nào, thế mà lần này bị ép phải ra tay hạ sát đến ba địch thủ. Ông không nén nổi phải khẽ lắc đầu, rồi xé tay áo của mình băng lại vết thương trên tay trái, đứng điều hòa hơi thở một chút. Sau đó ông rút thanh kiếm trở lên lau chùi sạch sẽ, tra vào trong vỏ, lại nhổ hết kim châm trên mặt Tiêu Văn Kỳ ra, vì sợ để lại manh mối điều tra. Cuối cùng ông gắng sức quăng hết ba thi thể xuống khỏi hoang sơn. * * * Lúc đó Lục Phi Thanh kiệt lực, cả người vấy máu, biết rằng bây giờ mà vào khách sạn sẽ bị nghi ngờ, bèn quyết định quay về nhà họ Lý để thay đổi y phục, tắm rửa sạch sẽ rồi mới bỏ đi. Không ngờ mới sáng sớm Lý Nguyên Chỉ đã đến thư phòng, nên thầy trò mới gặp nhau. Đợi Lý Nguyên Chỉ bước ra ngoài, Lục Phi Thanh mới ngã xuống giường, ngực phát đau dữ dội rồi ngất hẳn đi. Không biết sau bao lâu, ông mới mơ hồ cảm thấy có người lắc mạnh mình, rồi nghe thấy tiếng kêu: “Thầy! Thầy ơi!” Ông từ từ mở mắt ra, nhìn thấy Lý nguyên Chỉ đứng bên giường, khuôn mặt đầy vẻ kinh hãi. Cạnh cô bé còn một vị đại phu. Điều dưỡng hai tháng, nhờ có nội lực thâm hậu, lại thêm Lý Nguyên Chỉ bảo cha mời danh y, mua thuốc tốt, nên nội thương của ông lành hẳn. Trong hai tháng này, Lý Nguyên Chỉ đã chăm sóc cho thầy mình thật là tận tâm tận lực. Một hôm Lục Phi Thanh bảo thư đồng ra khỏi phòng, rồi nói với Lý Nguyên Chỉ: “Nguyên Chỉ! Thầy là người như thế nào, chắc là con chưa rõ lắm, nhưng không phải là hoàn toàn không biết. Lần này thầy gặp đại nạn, may nhờ con chăm sóc tận tâm. Đại trượng phu ân oán phân minh, ta không thể phủi tay rời khỏi đây được nữa, phải truyền công phu phóng kim châm đó cho con vậy.” Lý Nguyên Chỉ cả mừng, lập tức quì xuống cung kính khấu đầu tám cái. Khi nàng bắt đầu học sách thánh hiền với Lục Phi Thanh cũng đã từng bái sư, lần này là lần thứ hai. Lục Phi Thanh mỉm cười nhận lễ rồi nói: “Con bé này thông minh, ngộ tính rất cao, học võ công bản phái chắc chắn sẽ tiếp thu rất nhanh. Chỉ có điều…” Nói đến đây, Lục Phi Thanh bỗng dưng im lặng. Lý Nguyên chỉ vội vã thưa: “Sư phụ! Con nhất định sẽ vâng lời sư phụ.” Lục Phi Thanh bảo: “Nói thật, ta không đồng ý với những việc làm của phụ thân con. Sau này con lớn lên thành người, mong rằng con biết phân biệt thị phi tốt xấu. Con bái ta làm sư phụ thì phải giữ nghiêm những giới điều của sư môn, có làm được hay không?” “Đệ tử không dám cãi sư phụ điều gì.” “Nếu sau này con sử dụng võ công của ta truyền cho để làm điều xằng bậy, thì ta lấy mạng con dễ như trở bàn tay.” Lục Phi Thanh nói câu này bằng giọng nghiêm khắc vô cùng. Lý Nguyên Chỉ hoảng sợ đến mức không dám lên tiếng, hồi lâu mới mỉm cười đáp: “Sư phụ! Con mà ngoan ngoãn thì làm sao sư phụ nỡ giết con.” Bắt đầu từ hôm đó, Lục Phi Thanh dạy cho nàng võ công nhập môn của phái Võ Đang là phương pháp điều thần luyện khí. Bắt đầu từ Thập Đoạn Cẩm, rồi tới Tam Thập Nhị Thế Trường Quyền, vừa rèn luyện sức lực vừa luyện tập quyền cước. Sau một năm, Vô Cực Huyền Công Quyền đã có đôi chút hỏa hầu, ông mới dạy nàng luyện mắt luyện tai, luyện bắn đạn tròn và tụ tiễn, những công phu cơ bản về ám khí. Hai năm trôi qua nhanh chóng, Lý Nguyên Chỉ vừa siêng năng vừa thông minh nên tiến bộ cực nhanh. Lúc này, Lý Khả Tú đã được thuyên chuyển làm tổng binh trấn An Tây tỉnh Cam Túc. An Tây giáp với sa mạc cả phía bắc lẫn phía tây, là một trọng trấn ở vùng quan ngoại. Lại thêm hai năm nữa, Lục Phi Thanh dạy cho nàng Nhu Vân kiếm thuật và Phù Dung kim châm. Thế là trong năm năm này, Lý Nguyên Chỉ đã học đầy đủ về kim châm, kiếm thuật, khinh công, quyền cước, chỉ kém về hỏa hầu và kinh nghiệm lâm địch mà thôi. Nàng rất tôn trọng lời dặn của sư phụ, hoàn toàn không để lộ chút nào về việc luyện tập võ công với Lục Phi Thanh. Ngày nào nàng cũng tự luyện ở hậu viên, nhưng may ở chỗ từ nhỏ nàng đã thích học võ công, nên người khác không nghi ngờ gì. Đám tớ gái thì nhìn không hiểu được đại tiểu thư đang luyện môn gì, còn bọn tớ trai dĩ nhiên không dám nhìn lâu. Lý Khả Tú tinh minh mẫn cán, lại may mắn về chuyện thăng quan tiến chức. Năm Càn Long thứ hai mươi ba, họ Lý lập công trong chiến dịch bình định Y Lê, được ban thánh chỉ thăng làm Đề Đốc Thủy Lục của tỉnh Triết Giang, quản hạt năm thị trấn, năm doanh trại, cùng mấy thủy trại ở vùng Thủ Hiệp, Thái Hồ, Hải Ninh. Lý Nguyên Chỉ từ nhỏ đến lớn chỉ ở vùng biên cương tây bắc, bây giờ được đến những nơi thắng cảnh ở Giang Nam, đương nhiên phấn khởi không sao nói hết. Nàng nài nỉ Lục Phi Thanh đi cùng, Lục Phi Thanh thì rời khỏi Giang Nam đã lâu, cho rằng bây giờ có thể quay về, nên cũng vui vẻ đồng ý. Lý Khả Tú một mình đi nhận chức trước, để lại hai chục tên thân binh và một viên tham tướng hộ tống gia quyến theo sau. Tham tướng này tên là Tăng Đồ Nam, tuổi khoảng bốn mươi, râu ngắn bó hàm, tinh thần phong độ, thân thể khôi vĩ. Y giỏi về Lục Hợp Thương, chỉ dựa vào bản lãnh chân chính mà thăng chức, rất được Lý Khả Tú tín nhiệm. Đoàn người đem theo mười mấy xe hành lý. Lý phu nhân dĩ nhiên ngồi kiệu, còn Lý Nguyên Chỉ nếu phải ngồi kiệu suốt ngày thì bực bội không sao chịu nổi. Nhưng tiểu thư nhà quan mà cưỡi ngựa phơi mặt ra ngoài thì trông chẳng ra gì, nên nàng cải trang mặc y phục nam nhân, trông khá tuấn tú phong lưu, nên ai nói gì thì nói cũng không chịu mặc y phục nữ nhân nữa. Lý phu nhân đành mỉm cười than thở: “Thôi thì để nó ăn mặc như thế vậy.” Một buổi hoàng hôn, mặt trời đã ngả về tây, Lục Phi Thanh cưỡi ngựa đi cuối đoàn người, đưa mắt nhìn quanh tứ phía. Màn đêm dần buông, trên con đường vùng biên ải ngoài đoàn ngựa của họ ra chỉ còn những bãi cát vàng và mấy ngọn cỏ yếu ớt, trên trời lác đác tiếng quạ kêu. Đột nhiên một cơn gió tây thổi đến, Lục Phi Thanh cảm xúc ngâm nga:
Tướng quân đến lúc về chiều, Thân còn danh mất, quạnh hiu kiếp người. Quay đầu nhìn vạn dặm đời, Cổ nhân chôn sạch lắm nơi chiến trường. Gió sông Dịch thổi thê lương, Tuyết Tây Phong Lĩnh chán chường y quan. Tướng quân buông tiếng hát buồn…
Ông nghĩ bụng: “Bài từ này của Tân Gia Hiên thật giống với tâm sự của ta bây giờ. Năm xưa chắc họ Tân cũng đứng nhìn Thần Châu rộng lớn rơi vào tay địch. Thế địch hung mạnh, muốn phục quốc trả thù không biết ngày nào mới được. May mà trải trăm trận chiến vẫn còn sống sót, đến già chỉ còn biết ngâm khúc bi ca.” Lúc này Lục Phi Thanh đã gần sáu mươi rồi, tuy nhờ nội công thâm hậu nên tinh thần vẫn sung mãn, nhưng râu tóc đã bạc phơ. Nhìn xuống chòm râu trắng như tuyết, họ Lục lại càng cảm khái, biết mình khó làm gì được nữa. Ông quất roi, ruổi ngựa đuổi theo đoàn người. Đoàn người ngựa vượt qua một ngọn đồi thì trời đã gần tối. Bọn mã phu nói, đi thêm mười dặm nữa sẽ tới sông Tháp Bảo, ở đó có một thị trấn thuộc loại lớn ở vùng biên ải này. Đêm nay sẽ trú lại đó. Đúng lúc này Lục Phi Thanh đột nhiên nghe thấy tiếng vó ngựa rất nhanh, rồi trước mắt có một đám bụi bay lên, trong đó thấp thoáng hai bóng người. Hai con ngựa lông đỏ rực phi tới như bay, chớp nhoáng đã thấy gió thổi tới mặt. Hai kỵ sĩ cúi rạp người trên lưng ngựa, phóng ngang qua đoàn người. Lúc họ lướt qua, Lục Phi Thanh đã kịp thấy một người cao, một người lùn. Người cao thì mày dài mắt xếch, sắc mặt trắng trẻo, còn người lùn khí vũ rất hiên ngang. Ông bèn vỗ ngựa đuổi theo Lý Nguyên Chỉ, khẽ hỏi: “Con có nhìn rõ hai người ban nãy hay không?” Lý Nguyên Chỉ hớn hở hỏi lại: “Sư phụ! Chúng là bọn lục lâm phải không?” Nàng chỉ mong gặp phải cường đạo, để có dịp biểu diễn bản lãnh đã khổ luyện trong năm năm trời. Lục Phi Thanh đáp: “Bây giờ chưa biết, nhưng trông hai người này không giống bọn lục lâm tầm thường.” Lý Nguyên Chỉ kinh ngạc hỏi: “Hai người đó giỏi võ công lắm sao?” Lục Phi Thanh nói: “Cứ nhìn thuật cưỡi ngựa cũng biết họ không phải tay vừa.” Lúc đoàn người gần đến sông Tháp Bảo, phía trước mặt lại vang lên tiếng vó ngựa. Lại cũng hai con ngựa phi nhanh về hướng tây, lướt qua mặt đoàn người. Lục Phi Thanh càng ngạc nhiên hơn. Lúc này trời đã tối hẳn, mà suốt con đường họ vừa đi qua chỉ có hoang mạc, trước mắt lại là sông Tháp Bảo. Giờ này mà có người từ thị trấn chạy ra ngoài, dĩ nhiên họ phải có việc cần thiết lắm. Không bao lâu, đoàn người ngựa đã tiến vào thị trấn. Tăng tham tướng bèn dẫn cả đoàn kiệu xe lừa ngựa đến một khách sạn lớn. Lý Nguyên Chỉ ở với mẹ trong căn phòng sang trọng nhất, Lục Phi Thanh ở một mình trong phòng nhỏ. Sau bữa cơm, gia nhân thắp đèn chuẩn bị nghỉ ngơi. Trong đêm tĩnh lặng, bỗng nổi lên tiếng chó sủa, rồi phảng phất nghe tiếng vó ngựa từ xa truyền tới. Lục Phi Thanh nghĩ: “Lúc này vẫn còn người cố đi đêm, không biết có việc gì gấp đây.” Dọc đường ông cũng đã gặp bốn người, bây giờ nghĩ lại càng kỳ lạ. Tiếng vó ngựa lóc cóc càng lúc càng gần, chẳng mấy chốc đã đến trước khách sạn này. Ngựa vừa dừng vó đã nghe tiếng gõ cửa, rồi tiếng bọn tiểu nhị mở cửa. Tên tiểu nhị chào hỏi: “Quí khách mệt nhọc rồi, trong này trà nước rượu cơm có đủ, xin mời vào dùng.” Một giọng thô lỗ đáp lại: “Mau mau cho ngựa ăn, chúng ta ăn xong là phải lập tức lên đường.” Tiểu nhị vâng dạ liên hồi. Nghe tiếng bước chân, biết có hai người đi vào khách sạn. Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Cứ hai người một nhóm đi về phía Tây An, nhìn thân pháp cưỡi ngựa thì đều hiểu võ công cả. Ở biên cương xa xôi thế này, việc như thế thật là ít gặp.” Ông nhẹ nhàng bước ra ngoài, băng qua mấy lần sân, vòng ra phía sau khách sạn, lại nghe âm thanh thô lỗ vừa rồi hỏi: “Tam ca! Huynh nghĩ thiếu đà chủ còn trẻ tuổi như thế, huynh đệ ta có ủng hộ y nổi hay không?” Không phải Lục Phi Thanh cố ý nghe lén chuyện của người ta, nhưng vì nhóm người này rất kỳ lạ, mà bản thân ông lại đang mang trọng án, nên không thể không đề phòng cẩn thận. Trong nhà có một người khác nói: “Không ủng hộ nổi cũng phải ủng hộ. Đây là di mệnh của cố tổng đà chủ, bất luận thiếu chủ có thành công hay không thì chúng ta cũng phải son sắt một lòng, trung thành với y.” Giọng người này rất vang, trung khí đầy rẫy. Lục Phi Thanh biết nội công của y thâm hậu, nên không dám chọc thủng giấy dán cửa sổ để nhòm ngó, chỉ cố nén hơi thở mà nghe. Sau đó lại nghe giọng thô lỗ vang lên: “Thế thì không cần phải nói nữa, nhưng không biết thiếu đà chủ có chịu xuống núi hay không.” Người kia đáp: “Việc đó lại càng không cần phải lo. Di mệnh của cố tổng đà chủ, thiếu đà chủ chắc chắn phải tuân thủ.” Lúc y nói tới chữ “thủ”, giọng địa phương nghe rất rõ ràng. Lục Phi Thanh chợt động lòng, thanh âm này có vẻ quen thuộc. Ông suy nghĩ một hồi, cuối cùng cũng nhớ ra: Đó là hảo bằng hữu Triệu Bán Sơn, trước đây cùng ở trong Đồ Long Bang. Họ Triệu trẻ hơn ông đến mười tuổi, là đại đệ tử của Vương chưởng môn Thái Cực Môn ở Ôn Châu. Hai người vẫn thường nghiên cứu võ nghệ, đôi bên đều khâm phục lẫn nhau. Đến nay đã chia tay gần hai chục năm, vậy là y đã gần năm mươi tuổi. Sau khi Đồ Long Bang giải thể, không biết y trôi dạt phương nào, thế mà hôm nay bất ngờ gặp mặt tận ngoài biên ải. Tha phương gặp cố tri, nỗi vui mừng này không nói ra thì ai cũng biết. Nhưng lúc Lục Phi Thanh vừa định lên tiếng để nhận bạn bè, đột nhiên đèn trong phòng tắt phụt, rồi một mũi đoản tiễn bắn ra ngoài. Mũi tên này không phải bắn về phía Lục Phi Thanh. Một bóng người thoáng động, rồi một bàn tay vươn ra đón bắt mũi đoản tiễn. Người này vừa vươn mình một cái, định mở miệng chất vấn, Lục Phi Thanh đã vọt tới khẽ bảo: “Đừng lên tiếng, theo ta!” Thì ra người đó chính là Lý Nguyên Chỉ. Bên trong cửa sổ hoàn toàn không có động tĩnh gì nữa, cũng không có ai đuổi ra ngoài. Lục Phi Thanh kéo tay Lý Nguyên Chỉ, khom người luồn dưới cánh cửa sổ, kéo nàng vào trong phòng mình. Dưới ánh đèn nhìn rõ nàng đã thay y phục dạ hành, nhưng vẫn là đồ nam giới, không biết đã chuẩn bị hồi nào. Trên mặt nàng lộ vẻ nóng ruột muốn thử sức một phen. Lục Phi Thanh vừa tức giận vừa tức cười, bèn nghiêm giọng nói: “Nguyên Chỉ! Con biết những người đó là nhân vật thế nào hay không? Sao lại muốn động thủ với họ?” Câu hỏi này khiến Lý Nguyên Chỉ ngơ ngác không trả lời được, hồi lâu mới nhõng nhẽo hỏi lại: “Thế sao họ lại bắn con một mũi tên?” Nàng cứ ưa bắt lỗi người khác, không chịu nghĩ mình nghe lén người ta là phạm vào đại kỵ của giang hồ. Lục Phi Thanh nói: “Hai người này nếu không phải là đám lục lâm, thì cũng trong bang hội. Ta biết một người trong đó, võ công y không kém gì sư phụ của con. Nhất định họ có việc gấp lên mới phải đi suốt đêm như thế, mà mũi đoản tiễn này cũng không muốn đả thương người, chẳng qua là bảo con đừng dính líu vào. Nếu họ bắn con thật sự, thì chắc chắn con không đón bắt được đâu. Mau đi ngủ đi.” Trong lúc nói chuyện lại nghe tiếng mở cửa lách cách rồi tiếng vó ngựa khua lên, hai người đó đã gấp rút chạy đi. Vì bị Lý Nguyên Chỉ phá đám, nên Lục Phi Thanh cảm thấy chưa tiện gặp bạn cũ, do đó không đuổi theo nói chuyện. Hôm sau đoàn người ngựa tiếp tục hành trình, ra khỏi thị trấn. Đi hơn một giờ, rời khỏi sông Tháp Bảo chừng ba mươi dặm, Lý Nguyên Chỉ bỗng nói: “Sư phụ! Phía trước lại có người đến nữa rồi.” Xa xa có hai con ngựa lông màu mận chín gấp rút chạy tới. Đêm qua đã có chuyện, nên hai thầy trò đều để ý quan sát người đang đến. Hai con ngựa giống hệt nhau, đẹp đẽ phi phàm. Kỳ lạ hơn, hai kỵ sĩ cũng giống nhau như đúc, tuổi trạc tứ tuần, thân hình cao ốm, sắc mặt vàng khè, mắt sâu lõm vào, lông mày như treo ngược lên, trông rất đáng sợ. Rõ ràng đây là một cặp huynh đệ song sinh. Lúc đi ngang đoàn người ngựa, hai người kia giương mắt lên nhìn thẳng vào Lý Nguyên Chỉ. Lý Nguyên Chỉ trừng mắt nhìn trả, ghìm ngựa ra vẻ nếu muốn đánh nhau thì đánh. May mà hai người kia không lý gì đến nàng, cứ giục ngựa chạy thẳng về hướng tây. Lý Nguyên Chỉ nói với theo: “Không hiểu hai con ma đói này ở đâu chui ra.” Lục Phi Thanh nhìn theo sau lưng họ, quả là giống như hai cành tre cắm trên lưng ngựa. Đột nhiên ông nghĩ ra, bèn lạc giọng kêu lên: “Thì ra là họ.” Lý Nguyên Chỉ liền hỏi: “Sư phụ quen họ hay sao?” “Nhất định đó là Tây Xuyên Song Hiệp. Giang hồ thường gọi anh em họ Thường này là Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường.” Lý Nguyên Chỉ cười khúc khích rồi nói: “Biệt hiệu hay lắm, đúng là một cặp quỉ vô thường.” “Làm nữ nhân thì đừng nói bóng gió bừa bãi. Họ tuy xấu xí, nhưng bản lãnh không vừa đâu đấy. Thật ra ta cũng chưa gặp họ, nhưng nghe nói họ là anh em sinh đôi, từ nhỏ đã không bao giờ rời nhau, cứ như bóng với hình. Huynh đệ họ không lấy vợ, hành hiệp trượng nghĩa khắp nơi, oai danh lừng lẫy. Người tôn kính họ thì gọi họ là Tây Xuyên Song Hiệp, người sợ họ thì gọi họ là Hắc Bạch Vô Thường.” Lý Nguyên Chỉ kinh ngạc hỏi: “Rõ ràng hai người này giống nhau y như đúc, làm sao phân biệt trắng hay đen được?” “Nghe nói người anh trên khóe mắt có một nốt ruồi màu đen, tên là Thường Hách Chí, còn người em không có nốt ruồi tên là Thường Bá Chí. Họ là đệ tử của Huệ Lữ đạo nhân phái Thanh Thành. Từ khi Huệ Lữ đạo nhân chết đi, trong giang hồ không còn ai giỏi công phu Hắc Sa Chưởng hơn họ nữa. Thường gia huynh đệ là hiệp đạo trứ danh ở vùng Tứ Xuyên, xưa nay vẫn cướp người giàu giúp người nghèo, nhưng hành sự có phần ác độc tàn nhẫn nên mới có ngoại hiệu khó nghe như thế.” “Thế họ đến vùng biên cương này để làm gì vậy?” “Ta cũng không sao biết được. Xưa nay chưa từng nghe anh em họ gây án ở vùng biên cương.” “Con cũng mong cặp quỉ vô thường này gây sự với chúng ta, để cho chúng nếm thử Bạch Long Kiếm của sư phụ.” Khi nãy anh em nhà họ trừng mắt nhìn Lý Nguyên Chỉ một cái, cô nương này đã quyết không chịu bỏ qua, nhưng không dám nói là cho họ nếm thử bảo kiếm của mình, bèn kéo sư phụ vào trong. Lục Phi Thanh đáp: “Nghe nói huynh đệ họ xưa nay không đánh đơn lẻ, đối phó mười người cũng hai anh em liên thủ, mà đối phó với một người cũng hai anh em liên thủ.” Ông mỉm cười nói tiếp: “Nắm xương già của sư phụ con, chắc là không sao địch nổi bốn tay của họ rồi.” Đang nói chuyện, phía trước lại có tiếng vó ngựa vang lên. Lần này có một kỵ sĩ là đạo nhân đeo trường kiếm, sắc mặt trắng bệch đầy vẻ bệnh hoạn. Đạo nhân chỉ còn cánh tay phải, tay áo bên trái trống rỗng, giắt vào dây lưng. Kỵ sĩ kia là một người gù. Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy người gù tướng mạo xấu xí, mà lại phục sức rất sang trọng, không nén nổi bèn cười rộ lên rồi gọi: “Sư phụ! Sư phụ nhìn ông gù này mà xem.” Lục Phi Thanh muốn cản nàng nói nhưng không kịp nữa. Người gù kia trợn mắt lên giận dữ, lúc hai con ngựa chạy ngang qua đoàn người thì đột nhiên vung tay chộp tới Lý Nguyên Chỉ. Đạo nhân kia hình như đã biết trước người gù nổi giận, nên không đợi Lý Nguyên Chỉ tránh né đã đưa roi ngựa lên cản tay y lại, bảo: “Thập đệ không được gây chuyện!” Việc xảy ra trong chớp nhoáng, hai con ngựa đã chạy xa khỏi đoàn người. Lục Phi Thanh và Lý Nguyên Chỉ quay đầu nhìn, thấy người gù bỗng quất roi vào ngựa của mình lẫn ngựa của đạo nhân. Hai con ngựa lồng lên chạy như bay ra xa, còn y thi triển thân pháp lộn mình từ trên lưng ngựa xuống dưới bụng ngựa, rồi nhảy xuống đất, hai chân chỉ chấm đất có hai ba cái đã vọt đến chỗ Lý Nguyên Chỉ. Lý Nguyên Chỉ cầm trường kiếm trên tay, cố gắng làm theo khẩu quyết “địch chưa động, ta chưa động” mà sư phụ đã truyền thụ. Mũi kiếm nàng hơi run, nhưng quả là không vội vã xuất chiêu. Người gù cũng thấy ngạc nhiên, bèn không tấn công nàng mà vươn tay trái ra nắm lấy đuôi con ngựa nàng đang cưỡi. Con ngựa đang chạy bỗng bị kéo khựng hẳn lại, hí vang một tiếng rồi bốc hai vó trước lên trời. Người gù này thần lực kinh người, chỉ bị ngựa kéo lên hai bước. Y đưa tay phải ra quét lên đuôi ngựa một phát, cái đuôi lập tức đứt lìa ra như bị đao cắt vậy. Con ngựa lập tức phi thẳng tới, Lý Nguyên Chỉ hoảng sợ vô cùng, suýt nữa ngã nhào xuống đất. Nàng hoành tay lại, vẫy kiếm chém về phía người gù, nhưng khoảng cách đã rất xa nên chém không trúng được. Người gù quay đầu chạy ngay. Y thân lùn chân ngắn nhưng chạy cực nhanh, trông như một quả cầu thịt lăn tròn trên bãi cát vàng. Chỉ chớp nhoáng y đã đuổi kịp con ngựa của mình đang phi nước đại về hướng tây, tung người nhảy lên ngựa, rồi chốc lát đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Lý Nguyên Chỉ bị người gù trêu chọc một phen, tức đến muốn khóc, bèn nức nở kêu lên một tiếng: “Sư phụ!” Dĩ nhiên Lục Phi Thanh đã thấy hết mọi chuyện. Ông không nén nổi phải chau mày một cái, muốn trách mắng mấy câu, nhưng bỗng thấy mắt nàng ươn ướt, nước mắt sắp chảy ra ngoài, bèn không nỡ la rầy nữa. Lúc đó, đột nhiên từ phía sau lưng vọng đến những tiếng hô “Ngã Võ Duy Dương”. Lý Nguyên Chỉ kinh ngạc hỏi: “Sư phụ! Cái gì vậy?” Lục Phi Thanh đáp: “Đó là tiếng hô tiêu ngữ của tiêu cục. Mỗi tiêu cục đều có tiêu ngữ khác nhau, hô lên để thông báo cho đám lục lâm và anh em đồng đạo biết mình đang tới. Làm nghề bảo tiêu, thì hết bảy phần phải dựa vào tình nghĩa, còn bản lãnh chỉ đáng tin cậy ba phần. Nếu tổng tiêu đầu có giao tình rộng rãi, mọi người nể mặt, thì tiêu cục đó mới làm ăn trôi chảy được. Bằng hữu lục lâm nghe thấy tiếng hô tiêu ngữ sẽ biết là hàng của ai, có khi nể mặt mà cho qua. Nếu con đi bảo tiêu thì chưa biết ai là ai đã đắc tội với nhiều người, dù bản lãnh lớn gấp mười cũng khó mà đi nửa bước.” Lý Nguyên Chỉ nghe vậy, hiểu rằng sư phụ nhân chuyện này mà dạy dỗ mình. Vì thế tuy nàng nghĩ: “Làm gì mà con phải đi làm cái nghề bảo tiêu này,” nhưng không dám cãi sư phụ mà chỉ mỉm cười nói: “Sư phụ! Con biết lỗi rồi. Vậy bọn người hò hét to mồm kia thuộc về tiêu cục nào vậy?” Lục Phi Thanh đáp: “Đó là Trấn Viễn tiêu cục ở Bắc Kinh. Vùng phía bắc này, tiêu cục đó là lớn nhất, có phân cục ở cả Phụng Thiên, Tế Nam, Khai Phong, Thái Nguyên. Tổng tiêu đầu là Vương Duy Dương, oai trấn vùng Hà Sóc, bây giờ phải hơn bảy mươi tuổi rồi. Tiêu ngữ họ hô vẫn là Ngã Võ Duy Dương, thế thì lão vẫn chưa rửa tay gác kiếm. Ôi chao, lẽ ra lão nên cáo lão hồi hưu rồi mới phải. Trấn Viễn tiêu cục đã phát tài hơn bốn mươi năm trời, chẳng lẽ không biết thế nào là đủ!” Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Sư phụ quen biết tổng tiêu đầu của họ hay sao?” Lục Phi Thanh đáp: “Đã từng gặp mặt. Lão này dựa cào một thanh Bát Quái Đao, một đôi Bát Quái Chưởng, năm xưa khắp vùng giang bắc không gặp địch thủ, nên mới gọi là Oai Trấn Hà Sóc.” Lý Nguyên Chỉ phấn khởi nói: “Tiêu xa của họ đi nhanh lắm. Nếu lát nữa họ đuổi kịp mình, sư phụ cho con gặp họ một tí, để được làm quen với vị lão anh hùng này.” Lục Phi Thanh cười: “Con bé ngốc này, đã là tổng tiêu đầu thì họ tự mình đi bảo tiêu để làm gì?” Lý Nguyên Chỉ bị sư phụ chê hoài, trong lòng cũng thấy khó chịu. Nhưng nàng cũng biết là mình ít hiểu việc giang hồ, nên chỉ trách thầm: “Người ta không hiểu thì nói cho người ta hiểu, làm gì mà cứ la mắng hoài!” Nàng bèn vỗ ngựa đuổi theo đoàn người để nói chuyện với mẫu thân, vừa quay người lại đã thấy cái đuôi cụt của con ngựa mình cưỡi, lại không nén nổi sợ thầm. Nàng nghĩ bụng: “Một chưởng mà chặt gãy cây thương cũng chẳng lạ gì, nhưng cái đuôi ngựa mềm nhũn thì làm sao dùng tay chặt đứt được?” Nàng muốn dừng ngựa để chờ sư phụ lên rồi hỏi, nhưng nghĩ ngợi một chút lại không thèm hỏi nữa, bèn cố đuổi theo Tăng Đồ Nam rồi gọi: “Tăng tham tướng! Đuôi ngựa của ta không biết tại sao bị đứt, thật là khó nhìn.” Vừa nói xong, nàng đã dẩu môi lên. Tăng Đồ Nam biết đại tiểu thư nghĩ gì, bèn nói: “Không biết tại sao con ngựa của ta cưỡi suốt ngày nay không chịu đi đứng đàng hoàng. Tiểu thư cưỡi ngựa rất khá, làm phiền tiểu thư giúp ta trị nó một chút, có được hay không?” Lý Nguyên Chỉ khiêm tốn một câu: “Chỉ sợ ta cũng không trị nổi nó thôi.” Hai người bèn đổi ngựa cho nhau. Thật ra con ngựa của Tăng tham tướng hết sức ngoan ngoãn, không làm khó dễ người cưỡi chút nào, nhưng hắn vẫn mở miệng tán dương: “Tiểu thư thật có bản lãnh, ngay cả con ngựa chứng này cũng phải thuần phục tiểu thư rồi.” Lý phu nhân sợ xe lớn đi nhanh dễ lật, nên cả đoàn người chậm rãi mà đi. Tiếng hô của bọn bảo tiêu càng lúc càng gần, một lúc sau đã đuổi kịp. Lục Phi Thanh sợ gặp người quen, nên hơi quay lưng đi, kéo cái nón cỏ rộng vành xuống che khuất nửa khuôn mặt của mình, không nhìn ai. Bảy tám gã tiêu sư cưỡi ngựa đi ngang qua, bỗng một gã lên tiếng: “Nghe Hàn đại ca nói đã có tung tích Tiêu Văn Kỳ tam ca rồi.” Lục Phi Thanh giật mình một cái, quay lại liếc nhìn. Trong chớp nhoáng ông chỉ kịp thấy gã này mặt dài đen nhánh, phủ đầy râu ria. Lúc hắn đi ngang qua, ông còn thấy trên lưng hắn đeo một cái bọc vải màu đỏ, lại có một đôi binh khí hình thù kỳ lạ, chính là loại Ngũ Hành Luân. Ông bèn nghĩ: “Chẳng lẽ Quan Đông Lục Ma đi làm tiêu sư cả rồi hay sao?” Trong số Quan Đông Lục Ma, ông chỉ biết Tiêu Văn Kỳ, còn năm tên còn lại chưa từng gặp mặt, chỉ biết chúng đều võ nghệ cao cường, Ngũ ma Diêm Thế Khôi, Lục ma Diêm Thế Chương đều sử dụng Ngũ Hành Luân, rất giỏi công phu tà môn ngoại đạo. Trong lòng Lục Phi Thanh tính toán: “Phen này ra ngoài đã gặp không ít võ lâm cao thủ. Xem tình hình thì Trấn Viễn tiêu cục đang đưa tiêu thực sự. Còn những người khác, nếu họ đến đây kiếm chuyện thì chắc chắn mình lành ít dữ nhiều, tránh né sợ còn không kịp. Thế mà con bé nữ đệ tử không biết gì lại không ngừng gây sự với người ta. Nhưng dường như không phải họ đến đây để tìm mình. Triệu Bán Sơn lại là hảo bằng hữu, chắc chắn không thể không niệm tình xưa. Thế thì họ cứ đi từng nhóm về phía tây để làm gì?” Sau khi Lý Nguyên Chỉ đổi ngựa với Tăng tham tướng, nàng nhìn hắn cưỡi ngựa không đuôi sợ nhịn cười không nổi, bèn ghìm ngựa lại đợi sư phụ lên, mỉm cười hỏi: “Sư phụ! Tại sao phía trước không còn ai đến nữa? Từ hôm qua đến nay đã có năm cặp người đi về phía tây rồi. Con thật sự muốn quen biết mấy vị anh hùng hảo hán.” Lời nói của nàng đã nhắc nhở Lục Phi Thanh. Ông vỗ đùi một cái rồi nói: “Ái chà! Ta già quá, hồ đồ mất rồi. Sao lại không nghĩ đến chuyện Thiên Lý Tiếp Long Đầu?” Vì ông bị ám ảnh lên cứ mãi suy đoán theo hướng có liên quan đến mình, sai trật hoàn toàn. Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Thiên Lý Tiếp Long Đầu là cái gì thế?” Lục Phi Thanh giải thích: “Đó là lễ nghi quan trọng nhất của các bang hội trên chốn giang hồ để đón tiếp quí nhân. Thông thường thì cử ra sáu người vai vế cao nhất trong bang hội, nối tiếp nhau đi về phía trước mà nghênh tiếp. Long trọng nhất là đi tới mười hai người, chia từng cặp một. Đến bây giờ chúng ta đã thấy năm cặp rồi, thế thì phía trước chắc chắn còn một cặp nữa.” Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Họ thuộc bang hội nào?” Lục Phi Thanh lắc đầu: “Chuyện đó thì ta không biết được.” Một lúc sau, ông lại nói: “Con thấy không, Tây Xuyên Song Hiệp và người gù kia đều thuộc về bang hội này, vậy thì thanh thế của họ chắc chắn không nhỏ đâu. Dứt khoát con không được gây sự, đã hiểu chưa?” Lý Nguyên Chỉ vâng dạ, nhưng trong lòng không phục, chỉ muốn xem thử người phía trước sẽ đến là nhân vật thế nào. * * * Đã sắp hết giờ ngọ mà từ phía trước không có ai chạy tới nữa. Lục Phi Thanh âm thầm lo lắng, cảm thấy chuyện này rất lạ, chẳng lẽ mình đoán không đúng hay sao? Trong lòng ông nghĩ: “Ngay cả Triệu Bán Sơn cũng là người trong hội, vậy thì bang hội này thật sự không nhỏ. Bản thân mình đã mười năm mai danh ẩn tánh, hoàn toàn không liên hệ gì tới bằng hữu giang hồ, những đại sự trên giang hồ không biết chút nào. Than ôi, ta đã thật sự già nua vô dụng rồi.” Ông còn đang âm thầm than thở, thì có một nhóm người tiến đến, nhưng không phải từ phía trước mà từ phía sau. Đầu tiên thì nghe thấy tiếng chuông lạc đà, rồi bụi bay mù mịt, đúng là một đoàn thương khách vùng sa mạc. Khi đến gần, nhìn rõ mấy chục con lạc đà đi chung với hai ba chục con ngựa. Đoàn người này đều là dân Hồi tộc, mũi cao mắt sâu, mặt mày râu ria rậm rạp, đầu quấn khăn trắng, hông đeo đao hơi cong. Những thương gia người Hồi vẫn thường từ bộ tộc của mình đến vùng quan ngoại buôn bán, đó là việc thường ngày. Lục Phi Thanh cũng cho rằng không cần lưu ý, nhưng đột nhiên trước mắt ông sáng rực lên. Một cô gái áo vàng cưỡi ngựa trắng, nhẹ nhàng lướt lên phía trước. Cô gái này vô cùng diễm lệ, trong tú khí lại có một chút hào khí chiếu rọi nên thêm phần rực rỡ, đẹp như đóa hoa mai mùa đông đọng tuyết, hé lộ ra một chút như hạt minh châu. Thần sắc nàng như hoa cúc sáng sớm mùa thu còn long lanh những giọt sương, hai má ửng đỏ như ráng chiều ánh lên mây trắng, đôi mắt vừa sáng vừa trong trẻo như ánh trăng. Nhìn thấy thiếu nữ Hồi tộc bất phàm, Lục Phi Thanh cũng không khỏi nhìn thêm cái nữa, còn Lý Nguyên Chỉ nhìn đến nghệch mặt ra. Từ nhỏ nàng đã sống ở vùng biên ải tây bắc, xưa nay chưa nhìn thấy cô gái nào mặt mày sáng sủa, đừng nói là người đẹp như thiên tiên giáng thế này. Thiếu nữ kia tuổi tác tương tự Lý Nguyên Chỉ, cũng khoảng mười tám mười chín tuổi, eo lưng cài một thanh đoản đao, tóc dài chấm vai. Nàng mặc áo màu vàng nhạt, đầu đội mũ viền bằng chỉ vàng, trên mũ có cắm một cái lông vũ màu xanh thúy, chân mang giày da thú, mặc quần ngắn màu xanh, quả là xinh đẹp như vẽ trong tranh. Lúc nàng ruổi ngựa ngang qua mặt, Lý Nguyên Chỉ không nén nổi cũng thúc ngựa đuổi theo, mắt nhìn mãi không rời. Cô gái áo vàng nhìn thấy một thiếu niên Hán tộc tuấn tú đang say sưa ngắm mình, mặt không khỏi đỏ lên, cất tiếng gọi: “Gia gia!” Một người Hồi thân hình cao lớn, râu ria rậm rạp, tung ngựa chạy tới vỗ nhẹ lên vai Lý Nguyên Chỉ, bảo: “Này! Anh bạn trẻ, đi đường của mình đi.” Lý Nguyên Chỉ “À” một tiếng, vẫn không để ý là mình đang cải trang thành nam nhân, ngẩn ra mà nhìn con gái người ta thì thật là vô lễ. Cô gái áo vàng lại nghĩ rằng Lý Nguyên Chỉ coi thường mình, bèn vẫy tay một cái, vung roi ngựa quấn chặt lấy bờm ngựa của Lý Nguyên Chỉ, thuận tay lôi ngược lại, lập tức kéo đứt một mảng lông bờm. Con ngựa đau quá lồng lên, suýt chút nữa đã hất chủ nhân té nhào xuống ngựa. Cô gái áo vàng lại quất roi vào khoảng trống một cái, những tiếng loạt soạt vang lên, lông bờm ngựa bay ra tứ tán. Lý Nguyên Chỉ lập tức nổi nóng, rút một mũi cương tiêu bắn tới sau lưng cô gái áo vàng, nhưng không muốn đả thương nàng lên lật ngược tiêu lại, đầu nhọn quay ra sau rồi mới la lên: “Cô nương kia! Xem tiêu của ta.” Cô gái né sang trái một chút, mũi tiêu bay qua khỏi vai phải, bắn lên phía trước. Đợi mũi tiêu bay xa hơn mình một trượng, nàng mới vung cây roi dài trong tay ra, dùng đầu roi quấn lấy mũi cương tiêu, rồi vừa thuận tay vẫy trả ra sau vừa hô lên: “Thằng lỏi kia! Trả tiêu cho ngươi.” Nàng cũng không dùng kình lực, mũi tiêu từ từ bay về trước ngực Lý Nguyên Chỉ, cô này bèn đưa tay đón lấy. Nhìn thấy cô áo vàng biểu diễn tuyệt kỹ sử dụng roi ngựa, cả đoàn thương nhân vùng sa mạc đều hò reo ầm ĩ, nhưng cha của nàng lại ra vẻ lo âu, khẽ nói với nàng mấy câu gì đó. Cô gái áo vàng vâng dạ, rồi không đếm xỉa gì tới Lý Nguyên Chỉ nữa, quất ngựa chạy nhanh lên trước. Mấy chục con lạc đà lẫn ngựa cũng chạy theo, chẳng mấy chốc đã rời xa đoàn người hộ tống Lý phu nhân. Xa xa chỉ còn vẳng lại tiếng vó ngựa và tiếng chuông lạc đà. Lục Phi Thanh mỉm cười, lên tiếng giáo huấn: “Người ta vẫn nói ra ngõ gặp anh hùng, con đã tin chưa? Cô nương áo vàng đó tuổi tác cũng không chênh lệch con lắm, vừa rồi hiển lộ một chiêu, con có phục không?” Lý Nguyên Chỉ cãi: “Bọn con gái người Hồi thì cả ngày lẫn đêm ngồi trên lưng ngựa, đương nhiên cầm roi ngựa phải rành. Chưa chắc con bé đó đã có công phu thực sự.” Lục Phi Thanh cười hỏi: “Thật ư?” * * * Khoảng hoàng hôn thì đoàn người mới đến Bố Long Cát. Ở thị trấn này chỉ có một khách sạn lớn, tên là Thông Đạt khách sạn, trước cửa đã cắm tiêu kỳ Trấn Viễn tiêu cục. Thì ra đoàn tiêu xa đã vào đây nghỉ ngơi trước rồi. Đoàn người Lý phu nhân cũng nghỉ lại khách sạn này. Khách sạn phải liên tiếp đón hai đoàn khách lớn, bọn người giúp việc bận rộn không sao nói hết. Lục Phi Thanh rửa mặt xong, cầm một bình trà đi dạo ra sau vườn, nhìn thấy trong đại sảnh có hai bàn tiệc rượu. Gã tiêu sư đeo bao vải đỏ cũng có ở đây, binh khí đã cởi xuống nhưng cái bao vải đỏ vẫn còn trên lưng, đang nói huyên thuyên gì đó. Lục Phi Thanh vẫn cầm cái bình trà ngẩng mặt nhìn trời, giả vờ quan sát thiên văn thời tiết, nhưng chú ý nghe ngóng. Một tiêu sư mỉm cười nói: “Diêm ngũ gia! Chúng ta đem món đồ chơi này đến kinh thành yên ổn, nhất định huynh sẽ được Triệu tướng quân thưởng không tới một ngàn thì cũng tám trăm, tha hồ vui vẻ với cô nàng Tiểu Hỉ Bảo rồi.” Lục Phi Thanh nghĩ thầm: “Quả nhiên là Đệ ngũ ma Diêm Thế Khôi trong Quan Đông Lục Ma.” Ông càng chú ý hơn. Diêm Thế Khôi nói: “Tiền thưởng ấy à, chuyện đó thì ai mà thiết…” Hắn chưa nói dứt câu, một thanh âm eo éo bán nam bán nữ đã xen vào: “Chỉ sợ Tiểu Hỉ Bảo đã theo người khác, hoặc đã hoàn lương mất rồi.” Lục Phi Thanh liếc mắt qua, thấy người vừa lên tiếng tướng mạo xấu xí, thân hình ốm nhom, nhưng cũng mặc y phục tiêu sư. Dĩ nhiên Diêm Thế Khôi chẳng vui vẻ gì, hừ một tiếng. Tên tiêu sư vừa nói chuyện lấy lòng hắn cũng lên tiếng: “Cái thằng Đồng Triệu Hòa này, chẳng bao giờ nói được một câu cho tử tế.” Nhưng gã Đồng Triệu Hòa kia vẫn giở giọng hoạn quan nói tiếp: “Chẳng lẽ hoàn lương mà không phải là chuyện tử tế? Được rồi, vậy thì ta nói Tiểu Hỉ Bảo suốt đời làm điếm, đến chết cũng không ngóc đầu lên được.” Diêm Thế Khôi không nhịn nổi, lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ mày mới cả đời làm điếm.” Đồng Triệu Hòa mỉm cười: “Hay lắm, vậy ta phải gọi ông là nghĩa phụ.” Lục Phi Thanh nghe bọn này nói chuyện chẳng ra trò trống gì, đang muốn bỏ đi thì lại nghe Đồng Triệu Hòa nói tiếp: “Diêm ngũ gia đùa thì cứ đùa, còn việc thì phải lo làm. Ông đừng nhớ Tiểu Hỉ Bảo đến mức xây xẩm mặt mày. Cái bao vải màu đỏ đeo trên lưng ông, nếu bị người ta lấy đi, thì thủ cấp của ông dọn đi chỗ khác còn là chuyện nhỏ, làm sao đền nổi oai danh bốn mươi năm của Trấn Viễn tiêu cục chúng ta mới là chuyện lớn.” Diêm Thế Khôi giận dữ nói: “Con quỉ họ Đồng kia cứ yên tâm đi. Nếu bọn rợ Hồi muốn đoạt lại món đồ chơi này trên tay Diêm ngũ gia, hừ, đừng mơ mộng làm gì. Diêm Thế Khôi mỗ được mang danh hiệu Quan Đông Lục Ma là do bản lãnh chân chính, không giống như mấy thằng lỏi chui lủi vào trong tiêu cục, ngoài ăn cơm ra chỉ còn biết phóng trung tiện mà thôi.” Lục Phi Thanh nhìn kỹ cái bao vải đỏ trên lưng hắn. Cái bao không lớn lắm, dường như vật đựng bên trong cũng rất nhẹ. Sau đó nghe tiếng Đồng Triệu Hòa nói: “Danh hiệu Quan Đông Lục Ma tuy rằng không nhỏ, nhưng tiếc là Đệ Tam Ma bị người ta làm thịt, mà kẻ thù là ai cũng không hay biết.” Diêm Thế Khôi vỗ mạnh lên bàn quát: “Ai nói là không biết? Nhất định là Tam ca bị bọn Hồng Hoa Hội hại chết rồi.” Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Thật là cổ quái! Rõ ràng Tiêu Văn Kỳ bị ta giết chết, sao chúng lại đổ món nợ này cho Hồng Hoa Hội? Hồng Hoa Hội là bang hội thế nào nhỉ?” Ông bèn đi chầm chậm trong vườn như ngắm hoa cỏ, đến gần bọn tiêu sư thêm một chút. Đồng Triệu Hòa quyết không dừng miệng: “Tiếc là ta không có cốt khí, chỉ biết ăn cơm và phóng trung tiện. Nếu ta không phải con cháu loài rùa thì đã đi tìm Hồng Hoa Hội để tính sổ nợ rồi.” Diêm Thế Khôi bị hắn trêu chọc đến giận run lên, không nói được tiếng nào. Một gã tiêu sư bèn lên tiếng hòa giải: “Tổng đà chủ Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội đã chết ở Vô Tích tháng trước rồi, trên giang hồ còn ai không biết. Người ta không còn chủ nữa, biết tìm ai báo thù? Hơn nữa, chuyện Tiêu tam gia bị Hồng Hoa Hội hại chết thì không có ai làm chứng, không có ai nhìn thấy, nếu tìm đến đó mà người ta không chịu nhận món nợ này thì phải làm sao?” Đồng Triệu Hòa không cãi được nữa, bèn đổi sang chuyện khác: “Dĩ nhiên bọn chúng ta không dám dây vào Hồng Hoa Hội, nhưng ăn hiếp bọn con gái Hồi tộc thì chẳng lẽ không dám hay sao? Món đồ chơi này chúng quí như tính mạng, thế mà bị chúng ta cướp lấy. Sau này Triệu tướng quân đòi chúng dâng nộp tiền bạc, trâu dê, dĩ nhiên chúng phải hai tay cung kính dâng lên. Ta khuyên Diêm ngũ gia này, ông đừng nghĩ đến Tiểu Hỉ Bảo làm gì nữa, lần này về kinh xin Triệu tướng quân ban cho một con bé Hồi tộc đem về hú hí, còn khoái lạc hơn nhiều…” Hắn đang nói tới chỗ đắc ý, đột nhiên nghe “phạch” một tiếng, không biết từ đâu một miếng đất bay tới nhét ngay vào miệng, lập tức ú ớ không ra tiếng nữa. Hai gã tiêu sư lập tức xách vũ khí chạy ra ngoài. Diêm Thế Khôi đứng bật dậy, vớ lấy Ngũ Hành Luân đang đặt bên cạnh. Em của hắn là Diêm Thế Chương nghe động cũng chạy tới, hai huynh đệ đứng chung một chỗ, không dám rượt theo kẻ địch, rõ ràng là sợ trúng kế điệu hổ ly sơn. Đồng Triệu Hòa ráng lắm mới nhổ được cục đất trong miệng ra, rồi lôi tổ tông mười tám đời của người ta ra mà thóa mạ ỏm tỏi. Diêm Thế Chương lạnh lùng nói: “Xưa nay chỉ nghe nói ăn cứt chó, bây giờ mới biết là có người ăn cả đất bùn.” Hai gã tiêu sư Tái Vĩnh Minh và Tiền Chính Luân, một gã xách nhuyễn tiên, một gã nắm đơn đao chạy từ ngoài cửa vào rồi nói: “Kẻ quấy rối chạy trốn rồi, không thấy đâu nữa.” Lục Phi Thanh thấy hết mọi chuyện, nhìn vẻ mặt ngờ nghệch của Đồng Triệu Hòa mà tức cười trong bụng. Đột nhiên ông thấy trên bức tường phía đông có bóng người thấp thoáng, bèn giả vờ chuyện không liên can đến mình mà chậm rãi bước đi. Lúc này trời đã tối mịt, ông nấp dưới góc tường phía tây một lúc thì thấy một người trên nóc nhà nhảy xuống, chạm đất không hề phát ra tiếng động, rồi chạy nhanh về hướng đông. Lục Phi Thanh muốn biết người vừa cho Đồng Triệu Hòa ăn đất là nhân vật thế nào, bèn thi triển khinh công âm thầm bám theo, bình trà trên tay không sóng sánh, ngay cả vạt áo dài cũng không phấp phới. Khinh công của ông khổ luyện mấy chục năm trời, quả thật ít ai sánh kịp, tuy chạy rất nhanh nhưng người phía trước hoàn toàn không phát giác. Chốc lát hai người đã chạy tới năm sáu dặm. Người phía trước thân hình thon thả, dáng vẻ yểu điệu, dường như là nữ nhân, nhưng khinh công cũng rất cao. Vượt qua được một ngọn đồi, phía trước là một khu rừng âm u. Người đó chạy thẳng vào trong rừng, Lục Phi Thanh cũng theo vào. Trong khu rừng, cành lá rơi rụng trải đầy mặt đất, bước chân nghe rõ những tiếng xào xạc. Lục Phi Thanh sợ bị phát hiện nên đi chậm lại, chỉ trong chớp nhoáng đã không nhìn thấy bóng dáng người đó nữa. Đột nhiên mây tản ra, trăng xuất hiện, rọi ánh sáng qua những tán lá rậm rạp chiếu xuống đất. Dưới đất hiện ra vô số bóng cây, còn ở đằng xa ánh lên một thoáng áo vàng, người đó sắp rời khỏi khu rừng. Lục Phi Thanh theo đến ven rừng, núp sau một gốc cây lớn nhìn ra. Ngoài bìa rừng là một cánh đồng cỏ rộng lớn, đã có tám chín chiếc lều. Ông cảm thấy hiếu kỳ, muốn thăm dò một chút, bèn chờ đến khi hai người canh gác quay đi chỗ khác, thi triển khinh công Yến Tử Tam Xao Thủy nhảy đến nấp sau một con lạc đà đang đứng ngoài lều, không bị ai phát hiện. Ông khom người tiến đến cái lều lớn nhất ở giữa, nằm sát xuống đất, nghe thấy trong lều có nhiều giọng nói hùng hồn. Họ nói toàn là tiếng Hồi, lại rất nhanh. Tuy Lục Phi Thanh đã ở vùng biên giới nhiều năm, nhưng cũng không sao hiểu nổi. Ông bèn nhẹ nhàng vén một góc lều lên, ghé mắt nhìn vào trong. Trong lều có hai ngọn đèn dầu, dưới đất trải thảm, có rất nhiều người ngồi. Đây chính là đoàn thương gia người Hồi đã gặp ban ngày. Lúc này có một giọng nói thánh thót cất lên, Lục Phi Thanh đưa mắt nhìn sang thì thấy người nói chính là cô gái áo vàng. Nàng nói xong bèn xoay tay rút trên thắt lưng ra một thanh trủy thủ sáng đến chói mắt, đưa mũi trủy thủ khẽ đâm vào ngón trỏ bên trái của mình, nhỏ mấy giọt máu tươi vào cái chén đựng sữa ngựa. Những người còn lại trong lều cũng rút dao ra, mỗi người nhỏ mấy giọt máu vào chén sữa của mình. Rồi phụ thân của cô gái áo vàng, chính là người Hồi to lớn rậm râu kia, nâng chén lên lớn tiếng nói mấy câu. Lục Phi Thanh chỉ hiểu vài chữ, kinh Coran với quê hương gì gì đó. Sau đó cô gái áo vàng lại cất tiếng rõng rạc: “Nếu không đoạt lại được cuốn kinh Coran thần thánh này, thà chết cũng không về quê hương nữa.” Mọi người Hồi trong lều đều tuyên thệ theo như thế. Tuy ánh đèn ảm đạm, nhưng cũng đủ thấy trên mặt người nào cũng đầy vẻ khẳng khái quyết tâm. Mọi người thề xong thì nâng chén lên uống cạn, rồi xuống giọng thầm thì nói chuyện, dường như đang bàn tính chuyện gì đó. Lục Phi Thanh hiểu lờ mờ là nhóm người Hồi này có một bộ kinh sách quí báu vừa bị cướp mất, bây giờ đang muốn đoạt lại. Lục Phi Thanh suy đoán không lầm. Nhóm người Hồi tộc này thuộc một bộ lạc du mục ở phía bắc Thiên Sơn, dòng dõi của người Hồi Hột đời Đường, tính khí vừa cao thượng vừa dũng mãnh cang cường. Xưa nay họ không chịu để triều đình thống trị, tự chia bộ lạc ra mà sống. Vào đời nhà Nguyên, người Mông Cổ tự cao tự đại đã khinh miệt gọi họ là người Duy Ngô Nhĩ. Sau này, những người ăn nói khách sáo hơn thì gọi họ là dân Hồi tộc. Thật ra hình dáng và tập tục của họ khác hẳn với người Hồi ở trung nguyên, cũng không cùng chủng tộc, chẳng qua chỉ cùng theo Hồi giáo. Bộ tộc này khá đông người, tổng số đến gần hai chục vạn dân. Người cao lớn nhất tên là Mộc Trác Luân, thủ lĩnh bộ tộc này, võ công cao cường, nhân nghĩa công chính, rất được dân chúng yêu mến. Cô gái áo vàng này là con gái của y, tên gọi Hoắc Thanh Đồng. Nàng thích mặc áo màu vàng, trên mũ thường cắm một chiếc lông vũ màu xanh thúy, từ đó mà có ngoại hiệu rất đẹp. Trong võ lâm vùng nam bắc Thiên Sơn, rất nhiều người biết tiếng Thúy vũ hoàng sam Hoắc Thanh Đồng. Bộ tộc này sống kiểu du mục, ngao du trên đại mạc mênh mông thật là phiêu diêu khoái lạc. Nhưng rồi thế lực của triều đình nhà Thanh lan tràn đến vùng biên ải, trưng thu thuế má càng lúc càng nhiều. Lúc đầu Mộc Trác Luân còn nhượng bộ cho được việc, cố gắng tìm cách cung ứng. Nào ngờ triều đình lòng tham không đáy, khiến cho bộ tộc sinh sống mỗi ngày một khó. Mộc Trác Luân đã thương lượng với người trong tộc, ai cũng thấy nếu tiếp tục như thế thì không sao sống nổi, nên mấy lần phái người đi gặp người có quyền thế, xin giảm thuế má trưng thu. Không ngờ thuế má không được giảm, mà còn làm cho triều đình nhà Thanh nảy dạ nghi ngờ. Phó đô thống Hoàng Kỳ Mãn Châu Định Biên tướng quân Triệu Tuệ, lúc đó phụng mệnh lo về quân cơ dọc vùng Thiên Sơn, biết bộ tộc này có một quyển kinh Coran chép tay, đời đời truyền lại. Bộ kinh này đem từ thánh địa Mecca của Hồi giáo về, đã được mấy chục đời thủ lĩnh bảo vệ thận trọng, đúng là thánh vật của bộ tộc người Hồi này. Triệu Tuệ bèn nhân lúc Mộc Trác Luân có việc đi xa, phái cao thủ đi cướp lấy quyển kinh. Y muốn dùng vật này để uy hiếp cho người Hồi hết đường phản kháng. Lúc về, Mộc Trác Luân triệu tập đại hội vùng sa mạc, thống lãnh nhiều người đi về hướng đông đoạt lại bộ kinh. Họ đã lập thệ, cho dù xương cốt phơi vùng quan nội cũng phải đem được thánh kinh về lại quê nhà. Lúc này họ đang làm lễ cầu kinh buổi tối, mọi người trân trọng thề thốt. Lục Phi Thanh đã biết mưu đồ của nhóm người Hồi này không có liên quan gì đến mình, nên không muốn nghe tiếp nữa. Ông đang muốn buông góc lều xuống chạy về, đột nhiên thấy mọi người Hồi trong lều đều nằm hết xuống đất để cầu nguyện. Ông biết dễ bị nhìn thấy, bèn vội vàng đứng dậy. Nào ngờ trong chớp nhoáng đó, Hoắc Thanh Đồng đã kịp phát hiện bên ngoài lều có người thám thính. Nàng nói nhỏ với cha nằm bên cạnh, rồi lập tức tung người ra khỏi lều, nhìn thấy một bóng người đang chạy vào trong rừng, thân pháp cực nhanh. Nàng vung tay phải lên, ném theo một cục thiết liên tử. Lục Phi Thanh nghe tiếng gió sau lưng, biết có ám khí bắn tới. Ông hơi nghiêng người né tránh, đưa ngón trỏ bên phải ra nhắm chính xác viên thiết liên tử lúc nó bay qua, gõ nhẹ xuống một cái. Ám khí đang bay đột nhiên rơi xuống. Tay trái ông vẫn đang cầm bình trà, dùng hai ngón tay mở nắp bình ra hứng, thiết liên tử rơi tõm vào trong. Ông không quay đầu lại làm gì, cứ thi triển khinh công chạy nhanh về khách sạn. Về đến khách sạn thì mọi người đã ngủ say. Tên tiểu nhị hỏi: “Lão tiên sinh đi dạo lâu như vậy, chắc để thưởng thức ban đêm yên tĩnh phải không?” Lục Phi Thanh ậm ừ cho qua chuyện rồi vào phòng, lấy hòn thiết liên tử trong bình trà ra xem. Viên ám khí này đúc bằng thép tinh luyện, bên trên có khắc một cái lông vũ. Ông bèn tiện tay bỏ vào túi mình. * * * Sáng sớm hôm sau, đoàn người bảo tiêu khởi hành trước. Tiếng hô tiêu ngữ Ngã Võ Duy Dương vang dội, rồi cả bọn lên đường, ngọn tiêu kỳ bát quái của Trấn Viễn tiêu cục dẫn đầu. Lục Phi Thanh nhìn thấy hành lý trên lưng lừa không nặng lắm, bọn tiêu sư chỉ lo bảo vệ Diêm Thế Khôi. Hiển nhiên cái bao vải đỏ mới thật sự là thứ cần bảo vệ. Tiêu cục cũng có luật lệ của tiêu cục, rất nhiều người chỉ làm một việc là bảo vệ cái bao, nhưng trong bao đựng thứ gì thì họ cũng không thèm để ý. Khi bọn bảo tiêu đi khuất, Tăng tham tướng cũng dẫn binh sĩ hộ tống Lý phu nhân lên đường. Đến trưa, họ ăn cơm ở Hoàng Nhai Tử. Đoạn đường này ngoằn ngèo trên núi, dự tính chiều nay phải vượt qua ba quãng rất dài mới kịp đến Tam Đạo Câu dưới núi để nghỉ đêm. Đường núi rất hiểm trở, càng đi càng dốc. Lý Nguyên Chỉ cùng Tăng tham tướng lúc nào cũng đi sát cỗ xe của phu nhân, chỉ sợ lừa bị sẩy chân là xe rơi xuống vực, dĩ nhiên người trong xe phải tan nát thịt xương. Vào giờ thân thì đoàn người đã đến trấn Ô Kim, thấy bọn tiêu cục đang nghỉ ngơi ở đó. Tăng tham tướng cũng cho đoàn người nghỉ ngơi chốc lát. Hai bên trấn Ô Kim toàn là núi cao, chính giữa có một con đường lên núi rất dốc, dọc đường khó có chỗ dừng chân, phải đi một hơi lên tới đỉnh. Lục Phi Thanh đi ở sau cùng, không muốn giáp mặt đám người trong tiêu cục. Sau khi nghỉ ngơi xong, mọi người bắt đầu tiến vào hẻm núi. Đoàn người tiêu cục cùng với thủ hạ của Tăng tham tướng nối đuôi nhau thành một con rồng dài. Người vật đều thở hổn hển trèo lên, bọn mã phu luôn mồm quát tháo, giục ngựa đi nhanh. Lục Phi Thanh bỗng thấy có bóng người thấp thoáng trên một đỉnh núi bên phải, hình như đang theo dõi. Sau đó ông nghe thấy tiếng chuông lạc đà, một đoàn người Hồi cưỡi lạc đà và ngựa đang từ đỉnh núi trước mặt phi xuống ào ào. Tiếng vó ngựa vang lên gấp rút, khí thế giống như núi lở. Bọn bảo tiêu hô hoán ầm lên, kêu đối phương đi chậm lại. Đồng Triệu Hòa quát tháo: “Ê này! Bọn mù kia, trong nhà chết mấy con mẹ mà đi đưa ma gấp thế?” Trong chốc lát đám người Hồi đã chạy tới gần, bảy tám kỵ sĩ đi đầu đột nhiên cất tiếng hú vang. Tiếng hú rất dài, ngân vang cả một vùng thung lũng. Lúc đó, hai bên đỉnh núi đều có người lố nhố đứng dậy hú theo. Bọn người tiêu cục không nén nổi phải giật mình kinh hãi. Rồi trong đám người Hồi có tiếng sáo nổi lên, hai con ngựa phi nhanh tới, chạy qua mặt Diêm Thế Khôi, nhắm thẳng tới Diêm Thế Chương đang đứng sau lưng hắn. Đồng thời có bốn con lạc đà chạy tới bao vây Diêm Thế Khôi. Diêm gia huynh đệ đã đánh quen trăm trận, nhìn thấy tình thế khác lạ bèn rút binh khí ra ứng chiến. Mấy người Hồi cưỡi lạc đà đột nhiên lấy đại thiết trùy ra, vung lên bằng cả hai tay, đập thẳng xuống đầu Diêm Thế Khôi. Đường núi chật hẹp, không có chỗ quay đầu xoay trở, mà lúc này đông người lại càng chật chội. Bốn người Hồi thân hình to khỏe, cưỡi trên lưng lạc đà từ cao đánh xuống, bốn quả đại thiết trùy mỗi quả nặng tới trăm cân. Dù võ nghệ của Diêm Thế Khôi có giỏi gấp đôi cũng không sao tránh né, lập tức cả người lẫn ngựa bị đập thành một đám máu thịt lẫn lộn. Cô gái áo vàng Hoắc Thanh Đồng từ giữa đoàn người Hồi phóng tới, tung người nhảy xuống ngựa, vung trường kiếm cắt đứt một bên dây buộc cái bao vải màu đỏ trên lưng Diêm Thế Khôi. Dây bên kia chưa kịp cắt, nàng đột nhiên nghe sau lưng có tiếng gió rít lên như binh khí đánh tới. Hoắc Thanh Đồng nghiêng mình tránh né, không cần biết kẻ địch là ai, cứ đưa kiếm cắt đứt nốt đầu kia của sợi dây. Không ngờ kiếm pháp của địch rất nhanh, đảo lại chém ngang lưng nàng, không để nàng đưa tay nhặt cái bao vải đó. Hoắc Thanh Đồng không có cách nào tránh né, phải xoay kiếm lại đỡ. Hai thanh kiếm chạm nhau bắn lửa tung tóe, nàng bỗng giật mình vì địch thủ võ công không tệ. Nhưng lúc này nàng không có thì gìờ suy tính, cứ đưa tay trái ra nhặt cái bao vải. Trường kiếm của địch giống như bóng theo hình, đâm thẳng vào cổ tay trái nàng. Tay trái của Hoắc Thanh Đồng phải rụt lại, tay phải cầm kiếm đâm thẳng ra. Khi ngẩng đầu lên nhìn, nàng mới thấy người ba lần liên tiếp cản trở mình là một thiếu niên tuấn tú, cũng chính là thằng cha vô lễ hôm qua chòng chọc nhìn mình. Nàng giận giữ không nén nổi, veo véo đánh ngay ba chiêu, trận tỉ đấu đã khai diễn. Người đó chính là Lý Nguyên Chỉ đang cải nam trang. Nàng nhìn thấy đoàn thương nhân người Hồi đột kích cướp tiêu, lẽ ra cũng muốn đứng ngoài mà xem náo nhiệt. Nhưng nàng đột nhiên nhìn thấy cô gái áo vàng phóng ra cướp cái bao vải màu đỏ, mà đây chính là cô gái hôm qua vặt lông bờm ngựa của mình, lại còn được sư phụ mình khen giỏi võ công. Trong lòng Lý Nguyên Chỉ không phục, khi thấy bọn bảo tiêu đánh nhau với người Hồi thì không cần biết ai phải ai trái, cứ thi triển khinh công xông tới, so tài với cô gái áo vàng. Hoắc Thanh Đồng liên tiếp phóng ra ba kiếm đều bị Lý Nguyên Chỉ hóa giải, không nén nổi chút lo âu. Họ đã điều tra biết được tướng quân Triệu Tuệ thuê Trấn Viễn tiêu cục hộ tống bộ kinh Coran về Bắc Kinh. Bọn tiêu sư đều lo bảo vệ cái bọc vải màu đỏ này, nhất định trong đó cất cuốn thánh kinh của bộ tộc mình. Địch thủ võ công không tệ lắm, nếu đánh nhau quang minh chính đại thì chưa chắc thành công, nên Hoắc Thanh Đồng mới bàn kế mai phục ở hẻm núi Ô Kim này. Nàng định bất ngờ đột kích, nếu đoạt lại được thánh kinh thì lập tức chạy trở về tây, nào ngờ giữa đường lại có thiếu niên này cản trở. Hoắc Thanh Đồng thấy thời cơ đã mất, cũng không muốn đánh lâu làm gì. Nàng đột nhiên biến đổi kiếm pháp, thi triển tuyệt kỹ Tam Phân kiếm thuật của phái Thiên Sơn, chỉ mấy chiêu đã ép Lý Nguyên Chỉ lùi lại liên tục. Gọi là Tam Phân, vì mỗi chiêu kiếm trong Tam Phân kiếm thuật chỉ sử đến một phần ba. Địch vừa muốn chống đỡ thì ta đã biến chiêu rồi, trong một chiêu ẩn tàng đến ba chiêu khác, thật là vừa phức tạp vừa nhanh chóng. Kiếm thuật này hoàn toàn không có thế thủ, chiêu nào cũng chỉ tấn công. Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy cô gái áo vàng sử chiêu Băng Hà Đảo Tả đâm thẳng qua, lập tức hướng mũi kiếm lên trên, ra chiêu Triều Thiên Nhất Trụ để chống đỡ. Nào ngờ kiếm của đối phương chưa đi hết tầm, cách người mới hai thước đã biến thành chiêu Thiên Lý Lưu Sa, từ đâm thẳng thành phạt ngang. Lý Nguyên Chỉ giật mình, vội vàng xoay kiếm lại, rút về bảo vệ trung lộ. Thật kỳ lạ, thế phạt ngang của đối phương xem ra kình lực đầy đủ, nhưng lưỡi kiếm chưa đến nơi lại đột nhiên biến thành chiêu Phong Quyện Trường Thảo chém vèo tới chân trái, buộc Lý Nguyên Chỉ phải lùi ngay một bước, cố gắng lắm mới tránh né được. Hoắc Thanh Đồng lại biến thành chiêu Cử Hỏa Liệu Thiên, từ dưới hướng lên đâm vào cánh tay trái. Khi Lý Nguyên Chỉ đỡ chiêu này, đối phương lại thay đổi chiêu thức thành Tuyết Trung Kỳ Liên. Mỗi chiêu của nàng đều có thế như tên lắp trên cung, ẩn chứa kình lực rất mạnh, bất cứ lúc nào cũng có thể gây nguy hiểm. Hai người đã giao đấu mười mấy chiêu mà hai thanh kiếm chưa chạm nhau một lần nào, đó là vì mỗi chiêu của Hoắc Thanh Đồng chỉ sử có một phần ba, vừa đợi đối phương chống đỡ đã biến thành chiêu thức khác. Hoắc Thanh Đồng cứ đâm chém vùn vụt, lưỡi kiếm không lúc nào rời khỏi đối phương tới một thước. Lý Nguyên Chỉ bị nàng ép đến loạn cả tay chân, không ngừng lùi bước. Nếu không đón đỡ, thì không chừng hư chiêu của đối thủ lại trở thành thực chiêu, mà đón đỡ thì chiêu thức của đối phương chỉ sử tới một phần ba là biến đổi. Mình sử được một chiêu thì đối phương đã kịp biến đến ba chiêu rồi, dù tốc độ mình nhanh hơn cũng không sao đỡ kịp, nên trong lòng nàng kinh hoảng, phải liên tiếp rút lui. Thực ra Nhu Vân kiếm thuật của nàng đã luyện đến sáu bảy thành hỏa hầu, chỉ cần định lại tâm thần, giữ môn hộ thận trọng, thì chưa chắc đã thua. Nhưng dù sao thì nàng cũng mới giao đấu lần đầu, hoàn toàn chưa có kinh nghiệm. Đột nhiên thấy kiếm pháp của đối phương nhanh gấp ba mình, dĩ nhiên phải hoảng sợ, đón đỡ không kịp nên chỉ còn đường rút lui tránh né. Hoắc Thanh Đồng cũng không đuổi theo, lập tức quay người lại. Nàng nhìn thấy một người ốm yếu từ bên mình Diêm Thế Khôi đứng dậy, trong tay đã ôm cái bao vải đỏ. Hoắc Thanh Đồng đưa kiếm đâm tới. Người đó kêu lên: “Úi chà! Đồng đại gia phải rút lui thôi.” Thì ra đây chính là tên Đồng Triệu Hòa mồm mép thối tha. Hắn không dám tiếp chiêu, nhảy một cái đã lùi ra ba bước. Hoắc Thanh Đồng rượt theo, vung kiếm chém từ trên xuống, nhưng tới ngang tầm ngực thì bị Ngũ Hành Luân cản trở. Thì ra Diêm Thế Chương đã tới nơi đón đỡ rồi. Lần này Hoắc Thanh Đồng đã có kế hoạch chu toàn, trước sau đều dùng những con lạc đà to lớn để ngăn cách bọn người trong tiêu cục, không cho chúng tiếp ứng lẫn nhau. Phía sau có phụ thân của nàng là Mộc Trác Luân, tay cầm trường đao cản trở hai tên tiêu sư Tái Vĩnh Minh và Tiền Chính Luân. Ông lấy một chống hai mà vẫn công nhiều thủ ít, nhưng rốt cuộc vẫn bị Diêm Thế Chương lọt qua được. Tên này nhìn thấy huynh chưởng bị bốn ngọn thiết trùy đập nát, quên cả hiểm nguy, từ trên lưng ngựa lộn người bay qua mấy con lạc đà. Ngũ Hành Luân bên tay trái vừa đánh ra đã chặt đứt cánh tay cầm thiết trùy của một người Hồi, gã này lập tức nhào xuống lạc đà. Một người Hồi khác tiến lên cản trở, Diêm Thế Chương đợi thiết trùy tới nơi mới nghiêng người tránh né, Song Luân dồn hết qua tay trái, còn tay phải chụp trúng mạch môn đối thủ. Đại thiết trùy nặng cả trăm cân, thế công cực kỳ mãnh liệt, nhưng người Hồi đó đã bị y thuận thế lôi xuống khỏi lạc đà, thiết trùy tự đánh trúng ngực mình, chỉ hộc lên một tiếng là phun máu tươi ra chết. Trong lúc hỗn loạn, Đồng Triệu Hòa thấy cái bao vải đỏ không ai bảo vệ, bèn bấm gan lẻn tới nhặt lấy. Diêm Thế Chương thấy hắn bị Hoắc Thanh Đồng truy đuổi, biết tên này võ nghệ tầm thường bèn qua đỡ giúp. Hoắc Thanh Đồng đấu với Diêm Thế Chương được mấy chiêu, cảm thấy đối phương chiêu thức đã cao cường, lại khỏe như hùm beo, quả là xứng tay đối thủ. Nàng đang sợ thiếu niên tuấn tú kia tiếp tục xông tới trợ chiến, thì bỗng nghe hai bên núi có tiếng sáo vang lên. Đó là tín hiệu rút lui, cho biết bên tiêu cục có người tiếp ứng. Nàng ngẩng đầu lên thấy Đồng Triệu Hòa đang chạy vội lên núi, bèn thi triển Tam Phân kiếm thuật cố gắng ép Diêm Thế Chương lùi hai bước, rồi vung kiếm đuổi theo. Tiếng sáo càng lúc càng vang dội. Mộc Trác Luân lớn tiếng la lên: “Thanh Đồng! Lùi nhanh!” Hoắc Thanh Đồng dừng lại không đuổi nữa, đốc thúc quân mình đưa người chết và người bị thương lên lưng ngựa và lạc đà, rồi cả đoàn chạy lên đỉnh núi. Phía trước có mấy chục quân Thanh cản đường, Tăng Đồ Nam ruổi ngựa lên trước, hoành thương ngang ngực hét lên: “Rợ Hồi cả gan, muốn tạo phản phải không?” Hai cục thiết liên tử của Hoắc Thanh Đồng lập tức đánh trúng hai bàn tay của Tăng tham tướng. Mấy tiếng leng keng vang lên, ngọn thiết thương đã rơi xuống đất. Mộc Trác Luân vung cao trường đao, đi trước mở đường. Cả đoàn người Hồi cùng đổ xô tới bọn quân Thanh, chúng bắt buộc phải dạt ra nhường lối. Tiền Chính Luân và Tái Vĩnh Minh đã đuổi đến nơi, lại đánh nhau với Hoắc Thanh Đồng. Giữa đoàn người Hồi có một con ngựa bay vọt ra, người trên ngựa la lên: “Nhị muội! Lui trước đi!” Đây chính là Hoắc A Y, huynh trưởng của Hoắc Thanh Đồng, vung một cây thương lớn đón đỡ hai tên tiêu sư. Hoắc Thanh Đồng nhún chân nhảy lên ngựa, rồi hai anh em vừa đánh vừa lùi. Đột nhiên tiếng sáo trên đỉnh núi nổi lên gấp rút, Hoắc A Y cùng Hoắc Thanh Đồng thúc ngựa chạy nhanh. Diêm Thế Chương đuổi theo, nhưng bị Hoắc Thanh Đồng phóng hai viên thiết liên tử nhằm vào ngực nên phải dừng bước, vung Ngũ Hành Luân để gạt thiết liên tử văng đi. Hai bên núi bắt đầu lăn những tảng đá lớn xuống, mười mấy tên Thanh binh lập tức vỡ đầu chảy máu. Trong lúc hỗn loạn, đoàn người Hồi tộc đã rời xa. Diêm Thế Chương thấy huynh trưởng của mình chết một cách thê thảm, chỉ biết ôm lấy thi thể nát bét đó mà khóc lóc. Tiền Chính Luân và Tái Vĩnh Minh đến bên khuyên can mãi, hắn mới lau nước mắt mà lên ngựa. Bọn người trong tiêu cục liền hốt cái xác này lên cỗ xe lớn. Đồng Triệu Hòa dương dương đắc ý: “Nếu không nhờ Đồng đại gia tay chân mau lẹ, thì ông ấy chết thật uổng mạng.” Trong lúc hai bên hỗn chiến, Lục Phi Thanh chỉ đứng bên mà nhìn. Còn Lý Nguyên Chỉ thì tuy bị Hoắc Thanh Đồng đẩy lùi, nhưng dù sao cũng đã tương trợ thành công cho tiêu cục, không để người Hồi đắc thủ, nên trong lòng nàng đang thấy tự đắc. Thế mà Diêm Thế Chương đau lòng khóc anh, còn bọn tiêu sư còn phải lo lắng cứu chữa người bị thương, hoàn toàn chẳng có ai tới nói một tiếng cảm ơn nàng. Dĩ nhiên cô đại tiểu thư này hết sức không vui. Đồng Triệu Hòa thấy Tăng Đồ Nam phục sức kiểu võ quan, bèn chạy tới nói mấy câu khách sáo, vẫn không đếm xỉa gì đến Lý Nguyên Chỉ, khiến nàng càng tức tối. Nào ngờ Lục Phi Thanh lại giận giữ giáo huấn nàng một phen, nào là không nên tự động ra tay phá hư đại sự của người ta, nào là chẳng có lý do gì để kết nhiều oan gia như thế, nào là người trong tiêu cục tốt ít xấu nhiều, nào là không nên phí sức giúp cho điều ác. Tóm tắt là cô nàng bị mắng đến vuốt mặt không kịp. * * * Qua khỏi đoạn đường núi, vào khoảng hoàng hôn đã đến Tam Đạo Câu, đó là một thị trấn không lớn không nhỏ. Bọn mã phu đều nói là ở Tam Đạo Câu này chỉ có một tiệm ăn kiêm khách sạn mà thôi. Khi vào thị trấn, cả bọn người tiêu cục và bọn Tăng Đồ Nam đều phải tới đây ăn nghỉ. Ở vùng biên cương, chỗ nào cũng thô lậu. Khách sạn này vách đất, nền cũng đất, bài trí hết sức đơn giản. Đồng Triệu Hòa không thấy bọn người hầu trong khách sạn ra đón tiếp, lập tức ngoác mồm ra thóa mạ: “Chẳng lẽ bọn tiểu nhị trong tiệm này chết tiệt hết rồi hay sao, con mẹ mười tám đời tổ tông nhà nó.” Lý Nguyên Chỉ chau mày, trước giờ nàng chưa bao giờ nghe thấy người ta mắng nhiếc thô lỗ như vậy trước mặt mình. Lúc cả đoàn người vào cửa, đột nhiên nghe thấy trong nhà vang ra tiếng binh khí khua loảng xoảng. Lý Nguyên Chỉ cả mừng, lại có chuyện náo nhiệt để xem, bèn nhanh chân chạy vào trước. Trong sảnh đường chẳng có bóng người nào, vào tới sân trong thì thấy một thiếu phụ đầu tóc rối tung, đang ác chiến với bốn nam nhân. Thiếu phụ mặt mũi xanh xao, tay trái cầm trường đao, đang liều chết chống cự. Lý Nguyên Chỉ đứng xem mấy hiệp, thấy dường như bốn người kia đang muốn tấn công vào trong, nhưng bị thiếu phụ cố sống cố chết cản trở. Bốn tên đó võ công cũng không tệ, một người sử dụng nhuyễn tiên, một người dùng đôi hoài trượng, một người dùng quỉ đầu đao, một lão già sử kiếm. Lúc này Lục Phi Thanh cũng đã vào tới sân, đang thắc mắc không hiểu tại sao dọc đường lại gặp toàn những người biết võ công. Ông thấy người sử dụng hoài trượng vung cả cặp trượng lên ra sức đánh xuống đầu thiếu phụ. Thiếu phụ không dám công nhiên đánh đỡ nên tránh sang bên trái, thì nhuyễn tiên đã quất tới ngang lưng. Đoản đao bên tay phải của thiếu phụ chuyển nhanh như gió, đâm thẳng vào cổ tay phải của địch. Khi ngọn nhuyễn tiên cuộn đến, trường đao của thiếu phụ đã thu về gạt, nên không bị quấn lấy. Nhưng quỉ đầu đao đã chém tới, cùng lúc với thanh kiếm đâm vào sau lưng. Đoản đao bên tay phải của thiếu phụ gạt được thanh kiếm, nhưng địch tấn công hai phía nên không né hết kịp, liền bị thanh quỉ đầu đao chém trúng bả vai trái. Thiếu phụ trúng một đao, nhưng trận ác chiến vẫn không dừng lại. Mỗi lần nàng huy động song đao là máu tươi lại bắn ra. Hán tử cầm nhuyễn tiên la lên: “Đừng lấy mạng nó, phải bắt sống.” Lục Phi Thanh nhìn thấy bốn nam nhân vây đánh một nữ nhân, không khỏi động lòng nghĩa hiệp. Tuy thân ông đang mang trọng án, nhưng quyết định phải ra tay can thiệp. Lúc này hán tử sử hoài trượng lại vung song trượng đánh ngang, thiếu phụ phải cố lắm mới né khỏi. Trong lúc gấp rút, nàng chỉ gượng vung đoản đao bên tay phải đánh trả một đao, nhưng bên tay trái lại có một chiêu kiếm phóng tới. Thiếu phụ đưa nghiêng trường đao ra chống đỡ, nhưng kình lực đối phương quá mạnh, mà tay trái mình đã bị thương lên khí lực đã giảm mất nhiều. Vì thế khi đao kiếm chạm nhau, trường đao lập tức rớt xuống đất nghe choảng một tiếng. Địch thủ đã thắng thế quyết không chịu thôi, trường kiếm lại thừa thế tấn công. Thiếu phụ đành phải tránh né sang bên phải, bỏ ngỏ cánh cửa đang trông giữ. Nhân cơ hội đó, đại hán cầm quỉ đầu đao chạy vào phòng nhanh như chớp. Thiếu phụ không kể gì đến binh khí tấn công sau lưng, cứ thò tay trái chạy vào bọc rồi vẫy ra một cái, hai lưỡi phi đao đã bắn ngay vào sau lưng hán tử sử đao. Tên này biết chắc thiếu phụ đang bị ba người phe mình vây hãm, nên không để ý gì đến sau lưng. Đến khi nghe tiếng gió sau gáy thì hắn tránh không kịp nữa, chỉ vội vàng hơi cúi đầu xuống. Một lưỡi phi đao cắm vào cánh cửa, còn lưỡi kia đã ghim vào lưng hắn. May mà tay trái của thiếu phụ đã bị thương nên kình lực không đầy đủ, nếu không thì lưỡi phi đao này đã lấy mạng hắn rồi. Nhưng hắn cũng thét lên một tiếng, vội vàng lui ra, rút phi đao ra khỏi lưng mình. Lúc này thiếu phụ lại bị hoài trượng đánh trúng một phát, lảo đảo suýt ngã, nhưng vừa thấy kẻ địch lùi ra là lập tức tiến vào đứng ngay giữa cửa mà ngăn địch. Lục Phi Thanh bảo Lý Nguyên Chỉ: “Con mau đi giải vây cho thiếu phụ kia, nếu không thắng thì sư phụ sẽ giúp.” Lý Nguyên Chỉ đang nóng lòng muốn thử sức, vừa nghe sư phụ nói câu này đã vội vàng nhảy tới, vừa vung kiếm vù vù vừa quát: “Bốn nam nhân mà đánh một nữ nhân, da mặt có dày quá không?” Bốn tên kia thấy có người can thiệp, còn bên mình lại có người bị thương, bèn huýt sáo một tiếng rồi kéo nhau rời khỏi khách sạn đó. Thiếu phụ lúc này mặt không còn chút máu, đứng dựa vào cửa thở hổn hển. Lý Nguyên Chỉ bèn khẽ hỏi: “Tại sao chúng hiếp đáp phu nhân thế?” Thiếu phụ chưa kịp nói câu nào, Tăng Đồ Nam đã chạy tới lên tiếng: “Lý phu nhân cho gọi đại cô nương.” Rồi y hạ giọng bảo Lý Nguyên Chỉ: “Phu nhân vừa nghe nói đại tiểu thư đánh nhau đã hoảng sợ, tiểu thư mau mau tới vấn an đi.” Thiếu phụ nhìn thấy Tăng Đồ Nam mặc y phục võ quan, lập tức thay đổi sắc mặt, không đếm xỉa gì đến Lý Nguyên Chỉ nữa, nhổ lưỡi phi đao cắm trên cửa xuống, rồi chạy vào phòng, đóng cửa nghe “sầm” một tiếng. Lý Nguyên Chỉ cảm thấy không thoải mái, bèn quay đầu lại bảo Tăng Đồ Nam: “Được, đi thì đi.” Lúc đi đến cạnh Lục Phi Thanh, nàng hỏi: “Sư phụ! Sao họ lại đánh nhau quyết liệt như thế?” Lục Phi Thanh đáp: “Nhiều phần là do ân oán giang hồ. Chuyện này chưa xong đâu, chắc chắn bốn người đó còn tìm đến nữa.” Ông đang muốn dặn dò gì đó, đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng la lớn: “Con mẹ nó! Ngươi nói không có phòng tốt, sợ lão gia không có tiền phải không?” Thanh âm này chính là của tiêu sư Đồng Triệu Hòa. Tiểu nhị vội đáp: “Đại gia đừng giận giữ, bọn tiểu nhân mở tiệm làm ăn, sao dám đắc tội với các vị đại gia. Thật sự là mấy căn phòng tốt đều có khách ở cả rồi.” Đồng Triệu Hòa lớn tiếng: “Loại người nào mà dám ở phòng tốt, để ta xem thử.” Hắn vừa nói vừa tiến vào trong sân. Đúng lúc này cửa căn phòng kia hé mở, thiếu phụ thò đầu ra ngoài bảo tên tiểu nhị: “Làm phiền cho ít nước nóng.” Tiểu nhị vâng dạ rồi chạy đi ngay. Đồng Triệu Hòa nhìn thấy thiếu phụ kia da dẻ trắng trẻo, mặt mày diễm lệ, cổ tay trái còn đeo một xâu chuỗi ngọc, hạt nào cũng tròn trịa càng làm cho cổ tay xinh đẹp của nàng trông như ngọc chuốt. Hắn không nén nổi rung động trong lòng, nuốt nước miếng ừng ực, mắt đảo lia đảo lịa. Thiếu phụ nói giọng Giang Nam mà bắt chước thổ âm phương bắc, âm sắc không chuẩn nhưng thánh thót hiền hòa, lạ tai lại càng thú vị. Đồng Triệu Hòa càng ngứa ngáy, bèn lớn tiếng la: “Đồng đại gia qua lại con đường này bảo tiêu đã mấy chục lần rồi, xưa nay chưa từng chịu ở phòng thường. Chẳng lẽ căn phòng tốt này không nhường cho đại gia được hay sao?” Hắn vừa la lên, đã thừa cơ cửa phòng của thiếu phụ chưa đóng kín, xông thẳng vào bên trong đó. Bọn tiêu sư vội vàng đưa tay kéo lại, nhưng không kịp. Thiếu phụ thấy Đồng Triệu Hòa xông vào trong phòng, kêu lên một tiếng toan cản trở, nhưng bất ngờ cảm thấy đùi mình nhói đau một cái, phải ngồi phịch xuống ghế. Vừa rồi bên đùi này đã chịu một đòn hoài trượng, vết thương không nhẹ. Đồng Triệu Hòa vào trong phòng, nhìn thấy trên giường có một nam nhân. Trong phòng rất tối nên không nhìn rõ diện mạo, chỉ thấy đầu của ông ta băng đầy vải trắng, tay phải thì treo lên cổ bằng một miếng vải, một bên đùi lộ ra ngoài chăn cũng có băng bó, dường như trên người chỗ nào cũng có thương tích. Người nằm trên giường nhìn thấy Đồng Triệu Hòa vào phòng liền hỏi: “Ai thế?” Đồng Triệu Hòa đáp: “Đồng mỗ là tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục, đi bảo tiêu ngang qua Tam Đạo Câu, không có phòng tốt để ở, phiền huynh nhường cho ta một lần. Mỹ nhân này là ai, là thê tử hay tình nhân của huynh vậy?” Người kia thều thào bảo: “Cút đi!” Hiển nhiên là y bị thương nặng quá, nên không sao quát lớn được. Vừa rồi Đồng Triệu Hòa không nhìn thấy thiếu phụ ác đấu với bốn đại hán, nên bây giờ hắn nghĩ: “Một mụ đàn bà, một thằng cha bị thương không nhúch nhích nổi, ta mà không nhân lúc này ép người chút ít thì chờ đến bao giờ.” Hắn mỉm cười bảo: “Nếu huynh không chịu nhường phòng cũng được. Thế thì ba người chúng ta tạm nằm chung một giường vậy, chịu khó một chút. Huynh cứ yên tâm, ta không nằm cạnh huynh để chạm vào vết thương đâu.” Người nằm trên giường tức đến run lên. Thiếu phụ nhỏ nhẹ khuyên can: “Ca ca đừng chấp thằng khỉ này, tình hình trước mắt chúng ta không nên kết thêm thù oán.” Rồi nàng quay sang bảo Đồng Triệu Hòa: “Đừng ở đây lảm nhảm nữa, ra ngoài nhanh lên.” Đồng Triệu Hòa vừa cười vừa nói: “Ra ngoài làm chi, ở đây với muội không tốt hơn sao?” Người nằm trên giường bỗng cất giọng khàn khàn bảo: “Lại gần đây!” Đồng Triệu Hòa tiến lên một bước, nói: “Để làm gì vậy? Huynh muốn xem ta có tuấn tú hay không ư?” Người kia nói: “Ta nhìn chưa rõ.” Đồng Triệu Hòa cười ha hả, lại bước một bước nữa: “Huynh cứ nhìn cho rõ đi. Thế này mới đúng là chọn bạn cùng giường chứ…” Hắn chưa nói dứt câu, người kia bỗng hơi nhỏm dậy, vươn tay trái điểm vào huyệt Khí Du của Đồng Triệu Hòa nhanh như điện chớp, rồi lại vỗ thêm một chưởng vào lưng. Đồng Triệu Hòa giống như một con khỉ hiểu phép cân đẩu vân, bay qua cửa phòng ra ngoài, rớt ngay giữa sân nghe “bịch” một tiếng. Hắn đã bị điểm huyệt, cứ nằm kêu la oai oái, nhưng thân thể không động đậy được chút nào. Một tên chuyên nghề hô khẩu hiệu là Tôn Lão Tam vội vàng chạy tới dìu hắn dậy, khẽ nói: “Đồng gia! Đừng gây chuyện với họ, hình như là Hồng Hoa Hội đó.” Đồng Triệu Hòa la lớn: “Ái chà! Nhẹ thôi, chân của ta không động đậy được. Chúng là người của Hồng Hoa Hội ư, tại sao ngươi biết?” Hắn sợ quá không nén nổi, bất giác toát mồ hôi lạnh đầy người. Tôn Lão Tam đáp: “Chưởng quĩ của khách sạn nói thế. Vừa rồi có bốn vị công sai trong nha môn đến đây để bắt hai người này, đánh nhau một trận rồi thua chạy.” Mọi người trong khách sạn nghe nói lại có đám đánh nhau, đều chạy tới xem. Diêm Thế Chương đã khâm niệm xong thi thể anh mình, cũng qua hỏi: “Có việc gì thế?” Đồng Triệu Hòa kêu la: “Diêm Lục ca! Ta bị mấy thằng lỏi Hồng Hoa Hội điểm huyệt rồi. Chẳng lẽ chúng ta chịu thua hay sao?” Diêm Thế Chương cau mày, xốc nách Đồng Triệu Hòa đứng dậy rồi bảo: “Về phòng rồi hãy nói. Ngươi phải nghĩ đến danh tiếng của tiêu cục một chút. Đường đường là tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục mà bị đánh nằm dài dưới đất, không bò dậy được thì còn ra thể thống gì nữa?” Nào ngờ hắn vừa buông tay ra, Đồng Triệu Hòa lại bủn rủn ngã lăn xuống đất, tiếp tục kêu gào: “Ta không còn chút sức lực nào nữa. Tôn Lão Tam! Con mẹ nó, ngươi không đỡ ta được hay sao?” Diêm Thế Chương thấy đúng là Đồng Triệu Hòa đã bị điểm huyệt, bèn hỏi: “Ngươi vừa đánh nhau với ai thế?” Đồng Triệu Hòa đưa cặp mắt buồn rấu liếc lên một cái, muốn đưa tay chỉ trỏ cũng không được. Hắn nói: “Là thằng cháu loài rùa trong căn phòng đó.” Hắn muốn khiêu khích Diêm Thế Chương trả thù cho mình, bèn kiếm chuyện khích bác: “Con mẹ nó! Bọn thổ phỉ Hồng Hoa Hội đã giết Tiêu Văn Kỳ tam gia, bọn ta còn chưa rảnh nợ đi đòi nợ máu, thế mà dám đụng vào cả Đồng đại gia ta nữa.” Tôn Lão Tam khẽ khuyên giải: “Đồng đại gia đừng thóa mạ nữa, chúng ta đừng gây chuyện với Hồng Hoa Hội. Lỡ mà đắc tội với họ thì sau này đi bảo tiêu sẽ phiền phức lắm đấy.” Diêm Thế Chương nghe Đồng Triệu Hòa nói khích, cũng muốn đến xem thử thế nào. Nhưng hắn nghĩ bụng: “Thủ pháp điểm huyệt của đối phương rất nặng, dĩ nhiên võ công cao cường, chưa chắc mình làm gì được. Huynh trưởng lại chết rồi, không có ai giúp sức.” Vì thế, hắn mới bước lên một bước đã lùi trở lại hai bước. Lúc này tiêu sư Tiền Chính Luân cũng tới nơi, hỏi Tôn Lão Tam: “Ngươi có chắc là bọn Hồng Hoa Hội không?” Tôn Lão Tam ghé vào tai hắn khẽ nói: “Vừa rồi, lúc bốn công sai rời khỏi đây đã có dặn dò chưởng quĩ của khách sạn: Cặp vợ chồng này là khâm phạm của triều đình, là bọn cường đạo Hồng Hoa Hội mà hoàng thượng đã đặc biệt xuống chỉ truy nã. Họ còn dặn chưởng quĩ phải ở đây chú ý, nếu hai người rời khỏi thì phải lập tức báo tin. Lúc đó tiểu nhân đứng cạnh nghe rất rõ ràng.” Tiền Chính Luân đã ngoại ngũ tuần, ăn chén cơm tiêu cục đã lâu, tuy võ nghệ không cao nhưng kiến thức rộng, tính khí trầm tĩnh. Hắn lập tức liếc mắt ra hiệu với Diêm Thế Chương rồi đỡ Đồng Triệu Hòa dậy. Diêm Thế Chương hạ giọng hỏi: “Lai lịch thế nào?” Tiền Chính Luân đáp: “Đúng là Hồng Hoa Hội. Chúng ta tạm nhường họ một bước, cứu chữa cho lão Đồng rồi tính sau.” Hắn quay lại hỏi Tôn Lão Tam: “Lúc nãy công sai đến bắt người, ngươi có nhìn thấy không?” Tôn Lão Tam huơ tay huơ chân, vừa chỉ trỏ vừa nói: “Đánh thật ghê hồn. Chỉ có một nữ nhân múa tít song đao, tay trái trường đao tay phải đoản đao, thế mà bốn đại hán cũng không làm gì nổi.” Thật ra thì bốn hán tử đó đả thương thiếu phụ rồi, nhưng hắn khoác lác thêm cho sướng miệng. Tiền Chính Luân ngạc nhiên hỏi: “Đúng là người nhà Thần Đao Lạc gia rồi. Chắc là biết phóng phi đao phải không?” Tôn Lão Tam lập tức gật đầu: “Đúng, đúng thế! Phi đao phóng ra là trúng, thủ pháp tuyệt vời.” Tiền Chính Luân liền bảo Diêm Thế Chương: “Văn tứ đương gia của Hồng Hoa Hội đang ở đây.” Cả ba không nói gì nữa, giúp nhau dìu Đồng Triệu Hòa trở về phòng. Nãy giờ Lục Phi Thanh vẫn đứng bên quan sát, lúc bọn tiêu sư nói chuyện nhỏ nhẹ thì ông không nghe được, nhưng hai câu cuối cùng của Tiền Chính Luân thì nghe rất rõ ràng. Lúc này Lý Nguyên Chỉ chạy đến, thừa cơ năn nỉ: “Sư phụ! Lúc nào sư phụ dạy con điểm huyệt đi, người ta điểm huyệt hay quá.” Lục Phi Thanh không lý gì đến nàng, cứ lẩm bẩm: “Đã là hậu nhân của Thần Đao Lạc gia, ta lại càng phải giúp.” Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Thần Đao Lạc gia là ai thế?” Lục Phi Thanh đáp: “Thần Đao tên là Lạc Nguyên Thông, vốn là hảo bằng hữu của ta, nghe nói đã qua đời. Thiếu phụ vừa rồi giao đấu, hoàn toàn sử dụng chiêu thức của phái này, nếu không phải là con gái của Lạc Nguyên Thông thì cũng là đệ tử của ông ấy, thế mà ta không nhìn ra.” Ông lại thở dài tự trách, nghĩ thầm: “Ta ẩn cư ở vùng biên ải đã quá lâu, hoàn toàn không đi lại với người võ lâm, mọi chuyện năm xưa đã quên gần hết. Quả là tuổi tác lớn quá rồi, vô dụng quá rồi.” Lúc này, hai tên tiêu sư Tiền Chính Luân và Đái Vĩnh Minh lại dìu Đồng Triệu Hòa đến. Tôn Lão Tam đứng trước cửa phòng, hắng giọng một cái rồi lớn tiếng nói: “Tiền tiêu đầu, Đái tiêu đầu, Đồng tiêu đầu của Trấn Viễn tiêu cục đến đây, xin bái kiến Văn tứ đương gia của Hồng Hoa Hội.” Cửa phòng mở ra nghe kẹt một tiếng, thiếu phụ đứng ngay giữa cửa nhìn trừng trừng bốn người tiêu cục. Tôn Lão Tam đưa lên ba tấm danh thiếp, thiếu phụ không nhận, chỉ hỏi: “Có việc gì?” Tiền Chính Luân lên tiếng: “Huynh đệ của bọn tại hạ có mắt không tròng, không biết Văn tứ gia đang ở đây nên đắc tội cùng hai vị. Bọn tại hạ đến đây để xin lỗi giúp y. Mong rằng hai vị đại nhân đại lượng, bỏ qua đừng chấp nhất.” Nói xong, hắn chắp tay vái lạy. Đái Vĩnh Minh và Tôn Lão Tam cũng vái lạy theo. Tiền Chính Luân lại tiếp: “Văn tứ phu nhân! Mặc dù tại hạ chưa có duyên gặp mặt, nhưng ngưỡng mộ oai danh của Văn tứ gia cùng phu nhân đã lâu. Tổng tiêu đầu Vương lão gia của bọn tại hạ đã từng gặp Vu lão đương gia, mà với lệnh tôn Thần đao Lạc lão gia cũng có giao tình. Huynh đệ của tại hạ không biết giữ mồm, nói năng bậy bạ…” Thiếu phụ cắt ngang lời hắn: “Văn đương gia đang bị thương, vừa chợp mắt. Lát nữa y tỉnh dậy, ta sẽ chuyển lời giùm quí vị. Không phải ta không biết lễ phép, nhưng quả thật y bị thương không nhẹ, mà đã hai ngày không được nghỉ ngơi đầy đủ.” Nói tới đây, sắc mặt nàng lộ rõ vẻ lo âu. Tiền Chính Luân bèn hỏi: “Không hiểu Văn tứ gia bị thương như thế nào, bọn tại hạ cũng có đem thuốc kim sang.” Bản ý hắn muốn nịnh bợ, mong đối phương chữa trị cho Đồng Triệu Hòa. Thiếu phụ cũng hiểu ý, bèn đáp: “Đa tạ các hạ, chúng ta cũng có thuốc rồi. Huyệt vừa bị điểm không phải là trọng huyệt. Lát nữa Văn đương gia tỉnh dậy, ta sẽ bảo tiểu nhị gọi các vị đến đây.” Tiền Chính Luân thấy đối phương nhận lời chữa trị, bèn xin phép cáo lui. Thiếu phụ hỏi tiếp: “À này, làm sao các hạ biết được tên của chúng ta?” Tiền Chính Luân đáp: “Đôi Uyên Ương Đao cùng mấy ngọn phi đao này, trên giang hồ còn ai không biết? Hơn nữa, nếu không phải Văn tứ gia thì còn ai có thủ pháp điểm huyệt tuyệt diệu thế này? Hai vị lại ở cùng một chỗ, thì hiển nhiên chính là Văn tứ gia Bôn lôi thủ Văn Thái Lai và Văn tứ phu nhân Uyên ương đao Lạc Băng rồi.” Thiếu phụ khẽ mỉm cười, vừa lòng vì Tiền Chính Luân tán dương phu quân nghe rất lọt tai. Hai bên đối đáp, Lục Phi Thanh đều nghe hết. Ông thầm nghĩ: “Ta từng nghe Bôn lôi thủ Văn Thái Lai là hảo hán tử, từ lâu đã nổi danh trong võ lâm vùng Giang Nam. Thì ra con bé Tiểu Băng đã lấy y rồi, thật là môn đăng hộ đối. Lại thêm Triệu tam đệ cùng Tây Xuyên Song Hiệp, rõ ràng Hồng Hoa Hội toàn là huynh đệ của ta, chẳng khác Đồ Long Bang gì mấy. Hôm nay gặp phải việc này, nếu Lục Phi Thanh mỗ còn phủi tay vỗ đít bỏ đi, chỉ lo sáng suốt giữ mình, thì con mẹ nó, Miên Lý Châm này còn phải là con người nữa hay không?”.
Lý Nguyên Chỉ nhìn theo Tiền Chính Luận dìu đỡ Đồng Triệu Hòa về phòng, nghĩ bụng: “Công phu điểm huyệt thật là tuyệt diệu. Thằng cha tiêu sư đáng chết kia bị điểm trúng huyệt đạo, rõ ràng không có cách nào giải được. Sư phụ biết môn này mà không chịu dạy mình. Xem ra sư phụ còn giấu giếm không dạy tuyệt kỹ, làm sao năn nỉ ông ấy truyền thụ cho mình đây?” Lúc trở về phòng, nàng cứ hai tay chống cằm ngẩn ngơ đến nửa ngày trời.
Lúc ăn cơm xong ngồi hàn huyên với mẹ, Lý phu nhân cằn nhằn trách móc nàng gây chuyện dọc đường, nói là không cho nàng cải nam trang nữa. Lý Nguyên Chỉ mỉm cười nói: “Mẫu thân cứ suốt ngày than thở không có con trai. Bây giờ con đã biến thành con trai rồi, mẹ còn không vui hay sao?” Lý phu nhân không có cách nào dạy dỗ con gái, bèn lên giường đi ngủ.
Lý Nguyên Chỉ cũng định thay áo đi nằm, đột nhiên nghe thấy trong sân có tiếng động rất khẽ, rồi cửa sổ phòng mình có người dùng ngón tay khẽ gõ. Một giọng thánh thót vang lên: “Thằng lỏi kia! Ra đây, ta có chuyện muốn hỏi ngươi.”
Lý Nguyên Chỉ kinh ngạc, xách kiếm mở cửa ra, tung mình nhảy xuống sân. Bóng người đứng giữa sân nói tiếp: “Thằng lỏi hỗn láo kia, có gan thì theo ta.” Vừa nói xong, người đó lập tức nhảy ra ngoài tường.
Lý Nguyên Chỉ đúng là ngé con không biết sợ cọp, mặc kệ bên ngoài có mai phục hay không, cứ việc nhảy theo. Hai chân nàng vừa tiếp đất, trước mắt đã có bạch quang chớp động, một thanh kiếm đâm vèo tới.
Lý Nguyên Chỉ vừa vung kiếm lên gạt vừa quát: “Ai đó?”
Người kia lùi lại hai bước, nói: “Ta là Hoắc Thanh Đồng người Hồi tộc. Ta hỏi ngươi, chúng ta nước sông không phạm vào nước giếng, tại sao ngươi lại giúp bọn tiêu cục làm hỏng việc của chúng ta?”
Lý Nguyên Chỉ thấy người kia đứng chống kiếm xuống đất, tay trái chỉ mặt mình mà chất vấn, chính là cô gái áo vàng xinh đẹp vừa ác đấu với mình hôm nay. Nàng bị hỏi câu này thật khó trả lời, vì mình không có lý do gì để nhúng tay vào việc đó. Đã vô lý thì chỉ còn cách cưỡng từ đoạt lý, nàng bèn cãi bậy: “Việc của thiên hạ thì ai trong thiên hạ cũng có thể nhúng tay vào. Bản thiếu gia vẫn thích nhúng tay như thế, nếu không phục thì để ta tiếp tục lãnh giáo kiếm thuật của cô…”
Lời chưa nói hết, kiếm đã xuất chiêu. Hoắc Thanh Đồng càng giận dữ hơn, vung kiếm lên tiếp chiến.
Lý Nguyên Chỉ biết rõ là kiếm pháp của mình không thắng nổi cô ta, nhưng trong lòng đã có chủ ý nên cứ vừa đánh vừa lùi. Lúc lùi đến phòng của sư phụ ở, nàng bèn gọi lớn: “Sư phụ! Ra đây nhanh lên, có người muốn giết con!”
Hoắc Thanh Đồng cười khẩy một tiếng rồi nói: “Hừ! Đồ vô dụng! Ta cần gì phải giết ngươi, chỉ đến đây để dạy cho ngươi một bài học mà thôi. Đã không có bản lãnh thì đừng nhúng mũi vào chuyện của người khác nữa.” Nàng nói xong quay lưng bỏ đi, nào ngờ Lý Nguyên Chỉ không để nàng đi, bèn xuất chiêu Xuân Vân Hạ Triển đâm tới lưng nàng.
Hoắc Thanh Đồng xoay người lại chống đỡ, bắt đầu thi triển Tam Phân kiếm thuật. Chỉ chốc lát là Lý Nguyên Chỉ bị ép đến tay chân luống cuống. Nàng nghe thấy sau lưng có tiếng chân, biết sư phụ đã ra mặt. Lúc trường kiếm của Hoắc Thanh Đồng đâm ra ngay giữa ngực, nàng bèn nhảy lùi ra, trốn sau lưng Lục Phi Thanh. Lục Phi Thanh bèn đưa Bạch Long kiếm lên đón tiếp chiêu của Hoắc Thanh Đồng.
Hoắc Thanh Đồng thấy Lý Nguyên Chỉ có người giúp cũng không nói năng gì, cứ xuất chiêu như gió, tấn công mười mấy chiêu liên tiếp. Nàng nhận thấy chiêu thức của đối phương giống hệt như của Lý Nguyên Chỉ, thế mà lần này mình không chiếm được chút thượng phong nào. Kiếm chiêu của nàng càng nhanh thì đối phương đón đỡ càng chậm, nhưng thêm mấy hiệp thi thế công của nàng hoàn toàn bị kềm chế, đành chịu hạ phong.
Lý Nguyên Chỉ dồn hết tinh thần mà xem hai người tỉ đấu. Nàng dụ sư phụ ra đây, cốt ý là muốn học lén mấy chiêu tinh diệu mà sư phụ chưa truyền thụ, nhưng thấy sư phụ chỉ sử dụng pho Nhu Vân kiếm thuật đã dạy cho mình, chỉ có điều mỗi chiêu thức đều hàm chứa nội kình rất lớn.
Yếu chỉ Tam Phân kiếm thuật của Hoắc Thanh Đồng là lấy nhanh đánh chậm, lấy biến hóa vô cùng để làm địch thủ rối loạn. Nhưng Lục Phi Thanh không chịu biến chiêu để ứng đối những chiêu thần tốc của nàng, do đó mà thế chủ khách đã đảo ngược hoàn toàn.
Hoắc Thanh Đồng liên tiếp gặp nguy hiểm, biết đối phương là cao thủ nên trong lòng đã có phần hoảng sợ. Nàng bèn sử hai chiêu liên hoàn Đại Mạc Cô Yên và Bình Sa Lạc Nhạn tấn công kịch liệt, chỉ mong đối phương thu kiếm về cản trở là lập tức quay lưng bỏ chạy. Nào ngờ kiếm chiêu của đối phương liên miên bất tận, đã lọt vào vòng chiến thì đừng hòng rời khỏi. Hoắc Thanh Đồng âm thầm kêu khổ, chỉ còn cách nghiến răng chống đỡ đến cùng.
Lúc này Lý Nguyên Chỉ thấy phe ta thắng thế, bèn tra kiếm vào vỏ, thi triển Vô Cực Huyền Công Quyền nhảy vào vòng chiến. Hoắc Thanh Đồng không sao địch nổi Lục Phi Thanh, bị Lý Nguyên Chỉ quấy rối lại càng luống cuống chân tay. Lý Nguyên Chỉ xảo trá khác thường, khều bên này một quyền, móc bên kia một cước, không thèm công kích chỗ yếu hại của đối phương, chỉ muốn trêu chọc để trả mối thù bị vặt lông bờm ngựa.
Người Hồi tộc vốn phân biệt nam nữ nghiêm ngặt, nam nhân hết sức tôn trọng nữ nhân. Xưa nay Hoắc Thanh Đồng vẫn trang nghiêm đoan chính, bị Lý Nguyên Chỉ chọc ghẹo liền tức giận bừng bừng, nhưng càng giận lại càng sơ hở.
Lúc trường kiếm của Lục Phi Thanh công tới trung cung, điểm vào trước mặt mình, Hoắc Thanh Đồng phải vung kiếm ngăn trở. Lý Nguyên Chỉ thừa cơ chạy ra sau lưng nàng, quát lên một tiếng: “Xem đây!” rồi sử chiêu Mãnh Kê Đoạt Mễ đánh tới vai trái. Hoắc Thanh Đồng vội xoay tay trái lại, toan dùng Cầm Nã Thủ để hóa giải. Lý Nguyên Chỉ nhân lúc tay phải của Hoắc Thanh Đồng đang bận đỡ kiếm, liền vung tả chưởng đánh vào giữa ngực. Trúng phát chưởng này chắc chắn sẽ trọng thương. Hoắc Thanh Đồng kinh hãi, cả hai tay đều không rảnh để chống đỡ, chỉ còn biết ngửa người ra sau để giảm bớt chưởng lực của đối phương.
Nào ngờ Lý Nguyên Chỉ lại không dùng sức. Khi tay trái chạm tới ngực của Hoắc Thanh Đồng, nàng chỉ sờ mạnh một cái, rồi mỉm cười nhảy lùi ra sau. Hoắc Thanh Đồng tức giận không sao nói hết, lập tức quay mình lại vung kiếm đâm thẳng tới. Đối phương né tránh, nàng lại phóng kiếm chém theo. Dường như nàng đã quyết tâm liều mạng, không thèm né tránh những chiêu kiếm của Lục Phi Thanh nữa mà dốc toàn lực tấn công Lý Nguyên Chỉ.
Hôm nay Lục Phi Thanh đã nhìn thấy gia số võ công của Hoắc Thanh Đồng, rất chú ý. Lúc này ông chỉ muốn xem thử chiêu số kiếm pháp của nàng mà thôi, hoàn toàn không muốn đả thương. Do đó, khi thấy nàng không lý gì đến kiếm chiêu của mình, ông đợi đến khi kiếm đến sát người là ngưng lại không đâm tới.
Lúc này Hoắc Thanh Đồng tấn công rất dữ dội. Lý Nguyên Chỉ không có cả cơ hội đưa tay rút kiếm, cứ bị ép lùi liên tục, nhưng miệng vẫn buông lời thêu chọc: “Dù sao thì ta cũng đã sờ trúng rồi, có giết chết ta cũng vô dụng thôi.”
Hoắc Thanh Đồng xuất chiêu Thần Đà Tuấn Túc đâm thẳng tới, mũi kiếm gần đến lại đột nhiên biến sang chiêu Hải Thị Thần Lâu, một chiêu độc đáo trong Thiên Sơn kiếm pháp. Kiếm quang nhấp nháy nửa hư nửa thực, Lý Nguyên Chỉ nhìn mà chóng mặt, tay chân luống cuống, hoàn toàn không biết phải chống đỡ như thế nào, thấy rõ mình sắp mất mạng dưới chiêu này.
Lúc này Lục Phi Thanh không thể không can thiệp, bèn đưa kiếm đón chặn thế công của Hoắc Thanh Đồng. Lý Nguyên Chỉ thoát nạn bèn thở ra một hơi, mỉm cười nói: “Thôi đi, muội đừng giận nữa, lấy ta làm chồng là được rồi!”
Hoắc Thanh Đồng biết mình không sao địch nổi Lục Phi Thanh, nhưng cũng không cam tâm chịu nhục. Nàng thấy rõ thanh kiếm của Lục Phi Thanh đâm tới mà một thèm đỡ, dùng hết sức ném trường kiếm trong tay về phía Lý Nguyên Chỉ. Rõ ràng nàng muốn đồng qui ư tận, chết cùng địch thủ.
Lục Phi Thanh cũng giật mình kinh hãi, cũng vội quăng trường kiếm ra. Hai thanh kiếm chạm nhau giữa không trung nghe một tiếng keng, rồi cùng rơi xuống đất. Tay trái ông lại sử chiêu Bạt Vân Kiến Nhật, nhẹ nhàng ấn vào vai trái của Hoắc Thanh Đồng khiến nàng phải lùi tới năm sáu bước, rồi tung người tới nói: “Xin cô nương đừng vội trách.”
Hoắc Thanh Đồng vừa sợ vừa giận, lúc này không kìm nổi mấy giọt lệ tuôn rơi, vừa khóc vừa quay lưng định chạy đi. Lục Phi Thanh lại đuổi theo nữa, chặn đường bảo: “Cô nương khoan đi đã, ta có một câu muốn nói.”
Hoắc Thanh Đồng giận dữ hỏi: “Ông muốn gì?”
Lục Phi Thanh quay lại gọi Lý Nguyên Chỉ: “Sao con chưa chịu tới xin lỗi vị tỷ tỷ này?”
Lý Nguyên Chỉ mỉm cười bước tới chắp tay vái lạy. Hoắc Thanh Đồng nghiến răng đánh ngay một quyền vào giữa mặt. Lý Nguyên Chỉ vừa khom người tránh né vừa mỉm cười nói: “Úi chà, đánh chưa trúng đâu.” Nàng tiện tay bỏ mũ xuống, để lộ mái tóc dài của mình rồi lại mỉm cười: “Cô xem, có lấy ta làm chồng được hay không?”
Dưới ánh trăng, Hoắc Thanh Đồng đã nhìn thấy chân diện của Lý Nguyên Chỉ, không khỏi ngơ ngác. Xấu hổ đã tiêu tan, nhưng giận dữ thì chưa dứt, lúc đó nàng chỉ im lặng không nói lời nào.
Lục Phi Thanh lên, tiếng: “Đây là nữ đệ tử của ta, trước giờ vẫn hay nghịch ngợm, trêu chọc người khác. Ta giáo huấn nó không xong, nên cũng có lỗi trong những việc đã qua, xin cô đừng trách.” Nói xong, ông lại chắp tay vái.
Hoắc Thanh Đồng xoay người đi, không nhận lễ của ông. Nàng vẫn không nói gì, nhưng đã bớt giận.
Lục Phi Thanh lại hỏi: “Cô xưng hô với Thiên Sơn Song Ưng như thế nào?”
Hoắc Thanh Đồng chau mày một cái, khóe môi hơi động đậy, nhưng nhịn lại không đáp.
Lục Phi Thanh nói: “Ta rất có giao tình với Trần huynh Thốc Cưu(1) và Trần phu nhân Tuyết Điêu trong Thiên Sơn Song Ưng. Hình như chúng ta không phải người ngoài.”
Hoắc Thanh Đồng lên tiếng: “Sư phụ ta họ Quan. Ta phải về mách sư phụ cùng sư công,(2) nói ông ỷ lớn hiếp nhỏ. Không những ông sai đệ tử đánh ta mà chính mình cũng ra tay.” Nàng trừng mắt giận dữ nhìn hai thầy trò, rồi quay người đi ngay.
Lục Phi Thanh đợi nàng đi được mấy bước mới lớn tiếng gọi: “Này! Thế cô về mách sư phụ là bị ai bắt nạt?”
Hoắc Thanh Đồng nghĩ bụng: “Họ tên còn chưa biết, thì sau này làm sao đòi nợ?” Nàng bèn dừng bước hỏi; “Thế thì ông là ai?”
Lục Phi Thanh vuốt râu mỉm cười nói: “Thật là hai đứa trẻ nít, thôi đi, thôi đi. Đây là Lý Nguyên Chỉ, đệ tử của ta. Cô nương về trình lên sư phụ và sư công là Miên Lý Châm…” Ông bỗng dừng lời, nhớ ra Lý Nguyên Chỉ cũng chưa biết tên họ thật của mình, bèn nói tránh đi: “Nói là Miên Lý Châm họ Lục phái Võ Đang chúc mừng hai vị đã nhận được đồ đệ giỏi.”
Hoắc Thanh Đồng vùng vằng nói: “Còn nói là đồ đệ giỏi nữa ư? Ta bị hiếp đáp thế này, thật là làm mất mặt sư phụ cùng sư công.”
Lục Phi Thanh nghiêm nghị bảo: “Cô nương đừng cho rằng thua dưới tay ta là mất mặt. Người có thể đấu với ta mấy chục chiêu giống như cô, trong võ lâm không nhiều lắm đâu. Ta biết Thiên Sơn Song Ưng trước giờ không nhận đệ tử, nhưng hôm nay thấy kiếm pháp của cô hoàn toàn đích truyền của Song Ưng nên mới hồ nghi, tìm cách thử cô một phen. Vừa rồi ta thấy cô nương sử tuyệt chiêu Hải Thị Thần Lâu, mới tin chắc cô nương đã được chân truyền của Song Ưng. Sư công của cô còn hay ghen sư phụ hay không? Hai vị có thường cãi nhau nữa không?” Nói xong, ông cười lên ha hả.
Thì ra Thốc Cưu Trần Chính Đức rất hay ghen. Tuy rằng hai vợ chồng đều đã ngoại lục tuần, nhưng ông vẫn sợ phu nhân Tuyết Điêu Quan Minh Mai đi yêu người khác. Mấy chục năm trời hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, không có ngày nào yên ổn.
Hoắc Thanh Đồng thấy Lục Phi Thanh biết cả chuyện riêng tư của sư phụ sư công mình, nên đã tin tưởng ông ta đúng là tiền bối. Nhưng nàng vẫn không phục, lại lên tiếng: “Nếu ông là bạn của sư phụ ta, thì sao lại bảo đệ tử ra tay cản trở, báo hại chúng ta không đoạt lại được quyển thánh kinh? Ta không tin ông là người tốt.” Nói xong nàng lại quay người bỏ đi. Phen này nàng không chịu nhịn, cũng không chịu dùng lễ vãn bối bái kiến tiền bối.
Lục Phi Thanh khuyên: “Về kiếm pháp thì cô nương đã thắng đệ tử của ta từ lâu rồi. Hơn nữa, kiếm pháp hơn thua đâu có quan hệ gì, không lấy lại được thánh kinh mới là mất mặt. Chuyện vinh nhục thắng bại của một người là nhỏ, chuyện cả bộ tộc bị người ta hiếp đáp mới cần liều mạng.”
Hoắc Thanh Đồng giật mình kinh hãi, hiểu ngay câu này là chí lý. Cơn giận dữ bay biến hết, nàng quay lại thi lễ với Lục Phi Thanh rồi nói: “Điệt nữ nhỏ tuổi ít hiểu biết, xin lão tiền bối chỉ dạy cách đoạt lại thánh kinh. Nếu lão tiền bối chịu ra tay giúp đỡ, toàn bộ tộc điệt nữ vĩnh viễn cám ơn đại đức.” Nói xong nàng định quì xuống, nhưng Lục Phi Thanh vội đỡ dậy.
Lý Nguyên Chỉ cũng nói: “Ta thiếu suy nghĩ đã làm hỏng việc lớn của các vị, đã bị sư phụ mắng cho rát mặt đến nửa ngày rồi. Cô đừng lo, để ta giúp cô đi cướp lại. Thứ được gói trong cái bọc vải màu đỏ đó, chắc chắn là quyển thánh kinh của cô có phải không?”
Hoắc Thanh Đồng lập tức gật đầu. Lý Nguyên Chỉ lại nói: “Bây giờ chúng ta đi ngay.”
Lục Phi Thanh bảo: “Khoan, thăm dò một chút đã.”
Ba người hạ giọng thương nghị mấy câu, rồi Lục Phi Thanh canh chừng động tĩnh bên ngoài, còn Hoắc Thanh Đồng và Lý Nguyên Chỉ vượt tường vào trong khách sạn để thám thính, dò xét động tĩnh của bọn tiêu sư.
* * *
Lần trước đi ngang qua chỗ Đồng Triệu Hòa, Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy hắn vẫn còn đeo cái bao vải màu đỏ. Nàng bèn vẫy tay gọi Hoắc Thanh Đồng. Hai cô khom người đến chỗ bọn tiêu sư ở, nhìn thấy trong phòng vẫn còn sáng đèn nên không dắm đứng thẳng lên nhìn, chỉ nấp bên trong.
Hai cô nghe tiếng Đồng Triệu Hòa la hét ỏm tỏi, một lát sau thì tiếng la ngừng bặt, rồi một tên tiêu sư nói: “Trương đại gia thật là cao minh, chỉ chốc lát đã chữa khỏi cho Đồng huynh đệ của chúng ta.”
Đồng Triệu Hòa khoác lác: “Ta thà cả đời không nhúc nhích được, chứ quyết không chịu để thằng lỏi Hồng Hoa Hội kia trị bệnh.”
Một tiêu sư khác nói: “Nếu chúng ta sớm biết Trương đại nhân đến đây, thì vừa rồi không cần xin lỗi tên tiểu tử đó. Nghĩ lại thấy thật xui xẻo.”
Một thanh âm trung khí rất dồi dào nói: “Các vị cứ theo dõi kỹ đôi nam nữ này, sáng sớm mai đợi bọn lão Hồ đến là chúng ta ra tay ngay. Bọn đó thật là tệ, bốn người đánh một nữ nhân không thắng nổi. Chỉ có điều đang lo vụ án này, ta không tiện nhúng tay vào để tranh công.”
Đồng Triệu Hòa mở miệng tán dương: “Chắc chắn Trương đại nhân chỉ nhấc tay là bắt được bọn chúng ngay. Lúc đó xin đại nhân cho tại hạ đạp lên đầu thằng lỏi đó mấy cái.”
Lý Nguyên Chỉ từ từ vươn mình lên, tìm một lỗ thủng trên cửa sổ dán giấy để nhìn vào. Nàng thấy trong phòng có năm sáu người, có một người lạ mặt khoảng hơn bốn mươi tuổi, mặc quan phục ngồi ngay chính giữa, đoán rằng y chính là Trương đại nhân mà bọn chúng đang tán tụng. Nàng nhìn kỹ, thấy cặp mắt y sáng như điện chớp, huyệt thái dương nhô lên rất cao, bèn nghĩ: “Nghe sư phụ nói những người như thế thì nội công tinh thuần, bản lãnh không sao lường được. Tại sao trong quan trường cũng có nhân vật như thế này?”
Diêm Thế Chương bỗng lên tiếng: “Lão Đồng đưa cái bao vải đó ra. Bọn rợ Hồi kia chắc không chịu buông đâu, dọc đường còn phiền hà nữa đấy.”
Đồng Triệu Hòa tháo cái bao vải xuống, nhưng chần chừ chưa chịu giao qua. Diêm Thế Chương bảo: “Ngươi cứ yên tâm, không phải ta muốn tranh công với ngươi đâu. Về võ nghệ thì chúng ta mạnh yếu thế nào, chẳng giấu ai được. Chỉ cần đem được cái bao vải này về đến kinh thành một cách bình yên, thì mọi người đều có phần cả.”
Lý Nguyên Chỉ nghĩ thầm: “Diêm Thế Chương võ công cao cường, nếu hắn giữ cái bao này thì muốn đoạt lại không phải dễ.” Nàng bèn nảy ra một ý, ghé tai Hoắc Thanh Đồng nói mấy câu, rồi bỏ mũ xuống, xõa mái tóc dài ra phía trước, lấy khăn che bớt nửa mặt. Sau đó nàng nhặt dưới đất lên hai miếng gạch vụn, ra sức ném lên cửa sổ. Giấy dán cửa thủng ngay, hai miếng gạch văng vào giữa phòng.
Đèn đuốc trong phòng đột nhiên tắt ngấm, cánh cửa mở ra, năm sáu người chạy ra ngoài. Người chạy đầu tiên quát lên: “Cái gì thế? Gan to quá có phải không?” Hoắc Thanh Đồng huýt một tiếng sáo, lộn người nhảy ra ngoài tường, dụ bọn tiêu sư đuổi theo.
Đợi khi đám tiêu sư và Trương đại nhân nhảy hết ra ngoài, Lý Nguyên Chỉ mới tiến vào trong phòng. Đồng Triệu Hòa đã bị điểm huyệt tê liệt mất nửa ngày, vừa được giải huyệt nên tay chân chưa linh hoạt, vẫn nằm yên trên giường. Hắn thấy bên ngoài có một cái bóng tóc tai bù xù, không giống ma cũng chẳng giống người, vừa nhảy chồm chồm vừa chí chóe kêu gọi gì đó, lập tức hoảng sợ bủn rủn nằm yên. Con ma kia nhảy đến trước mặt hắn, giật lấy cái bọc vải màu đỏ trong tay, thuận tay tát cho hắn hai phát, rồi vừa kêu chí chóe vừa nhảy ra khỏi phòng.
Bọn tiêu sư đuổi ra ngoài được mấy bước, Trương đại nhân đột nhiên điểm chân dừng lại, la lên: “Nguy rồi! Đây là kế điệu hổ ly sơn, chúng ta phải về nhanh!” Bọn Diêm Thế Chương cũng tỉnh ngộ chạy về phòng, nhìn thấy Đồng Triệu Hòa vẫn nằm trên giường, hai má sưng đỏ.
Đồng Triệu Hòa kể lại chuyện ma quỉ cướp lấy bọc vải, Trương đại nhân liền giận dữ nói: “Ma quỉ gì, chúng ta trúng kế rồi. Lăn lộn giang hồ mấy chục năm nay, không ngờ vẫn trúng một cái kế đơn giản như thế.”
Lý Nguyên Chỉ cướp được bao vải, cứ nấp ở sau tường, đợi đến khi bọn tiêu sư chạy hết vào trong phòng mới xoay người nhảy ra ngoài. Nàng khẽ huýt sáo làm hiệu, dưới bóng cây đối diện liền có tiếng trả lời, rồi có hai bóng người chạy tới, chính là Lục Phi Thanh và Hoắc Thanh Đồng. Lý Nguyên Chỉ vô cùng đắc ý, mỉm cười nói: “Bao vải đã lấy về đây rồi. Cô nương không trách ta nữa chứ…”
Câu này còn chưa nói xong, Lục Phi Thanh đã kêu lên: “Cẩn thận phía sau!”
Lý Nguyên Chỉ chưa kịp quay đầu lại, trên vai đã bị vỗ một cái. Nàng vội vàng xoay hai tay toan chụp lấy cổ tay kẻ địch mà không nắm được, nên vô cùng kinh hãi, biết đây là cường địch. Địch đến hoàn toàn không phát ra tiếng động, mà mình cũng không cảm giác gì được, bèn gấp rút quay người lại, đột ngột thấy một đại hán thân hình khôi vĩ đứng dưới ánh trăng. Nàng không ngờ kẽ địch đứng gần mình đến như thế, giật mình lùi lại hai bước, vung tay ném cái bao vải về phía Hoắc Thanh Đồng, miệng la lên: “Chụp lấy!” hai tay gác tréo nhau phòng thủ, chuẩn bị đón đánh kẻ địch.
Nào nhờ kẻ địch thân pháp cực nhanh. Cái bao vải ném chưa tới nơi, y đã tung người lên, vung tay chụp lấy giữa đường. Lý Nguyên Chỉ vừa kinh hãi vừa giận dữ, phóng ngay một quyền vào mặt y. Lúc đó Hoắc Thanh Đồng cũng tấn công về phía sau lưng đại hán.
Đại hắn nắm chặt bao vải, hai tay chia ra chống đỡ hai bên. Đó chỉ là thế Cao Tứ Bình của Võ Đang Trường Quyền, nhưng kình lực rất sung mãn, bức cả Lý Nguyên Chỉ, Hoắc Thanh Đồng phải thối lui mấy bước. Lúc này Lý Nguyên Chỉ đã nhìn rõ địch thủ, đó là Trương đại nhân lúc nãy.
Võ Đang Trường Quyền là công phu nhập môn của phái Võ Đang. Khi Lục Phi Thanh dạy võ cho nàng, đầu tiên là Đại Thập Đoạn Cẩm để luyện khí, rồi đến bộ quyền đầu tiên chính là bộ này. Không ngờ một chiêu Cao Tứ Bình rất bình thường mà địch thủ lại sử dụng có oai lực như vậy. Nàng không nén nổi phải thở ra một hơi, khi quay đầu lại thì bỗng không thấy sư phụ đâu nữa.
Hoắc Thanh Đồng nhìn thấy cái bao vải bị cướp đi, tuy biết mình địch không nổi, nhưng cũng không cam lòng rút lui ngay, bèn dùng kiếm tấn công. Lý Nguyên Chỉ thi đạp mạnh chân phải chiếm phương vị Thất Tinh, cũng dùng Võ Đang Trường Quyền để tấn công.
Trương đại nhân thấy quyền chiêu của nàng thì “ủa” một tiếng, đợi nàng xuất chiêu Đảo Kỳ Long thì không tránh né gì cả, chỉ hơi nghiêng mình rồi cũng ra chiêu Đảo Kỳ Long vung quyền đánh tới. Chiêu số giống nhau, nhưng công lực thì phân biệt cao thấp rõ ràng. Hai quyền vừa chạm nhau, Lý Nguyên Chỉ tức thì cảm thấy cánh tay của mình tê dại hẳn đi, đau không chịu nổi, chân bước loạng choạng, xiêu sang bên trái suýt nữa té nhào. Hoắc Thanh Đồng thấy nàng gặp nguy hiểm, bèn ngừng tấn công địch để cứu bạn trước. Nàng nhảy đến cạnh Lý Nguyên Chỉ, đưa tay trái dìu đỡ, còn tay phải chĩa kiếm về phía Trương đại nhân, đề phòng y tấn công tiếp.
Trương đại nhân lớn tiếng hỏi: “Thằng nhỏ kia! Ta hỏi, sư phụ của ngươi họ Mã hay họ Lục?”
Lý Nguyên Chỉ muốn lừa gạt y một phen, bèn nói: “Sư phụ của ta họ Mã, tại sao ông biết?”
Trương đại nhân hỏi: “Gặp sư thúc mà sao không cúi đầu chào?” Nói xong y cười ha hả.
Hoắc Thanh Đồng thấy hai người nhận tình nghĩa sư môn, còn chính mình lại chẳng có quan hệ gì với Lý Nguyên Chỉ. Nhìn thấy thánh kinh trước mắt mà không đoạt nổi chỉ tổ đau lòng, nàng bèn quay lưng bỏ đi.
Lý Nguyên Chỉ vội vả đuổi theo, chạy được mấy chục bước thì bỗng một đám mây kéo qua che khuất ánh trăng, trước mặt tối đen, trên trời lại nổi sấm sét loằng ngoằng, bất giác trong lòng sợ hãi không dám đuổi nữa, quay lại thì Trương đại nhân cũng đã đi rồi. Lúc nàng vượt tường nhảy vào khách sạn thì trên người đã dính mấy hạt mưa, vừa bước vào phòng thì mưa tuôn xối xả.
Mưa to suốt đêm, đến sáng vẫn chưa tạnh. Lý Nguyên Chỉ rửa mặt chải đầu xong, ra ngoài nhìn thì thấy mưa càng lớn. Người hầu của Lý phu nhân chạy vào nói: “Tăng tham tướng nói mưa lớn quá, hôm nay không thể đi tiếp dược.”
Lý Nguyên Chỉ vội vã sang phòng sư phụ, kể lại chuyện đêm qua rồi hỏi xem là thế nào. Lục Phi Thanh chau mày, hình như có rất nhiều tâm sự, nhưng chỉ nói: “Con không xưng là đệ tử của ta, việc đó rất hay.” Nàng thấy sắc mặt sư phụ rất nặng nề, bèn không dám hỏi nhiều, quay về phòng mình.
Mưa gió mùa thu lúc nhặt lúc khoan, từng cơn gió lạnh ùa vào trong phòng qua cánh cửa sổ bị phá vỡ. Lý Nguyên Chỉ ở trong khách sạn giữa nơi hoang vắng như thế này, cảm thấy buồn bã bèn sang phòng Tứ đương gia của Hồng Hoa Hội xem thử, nhưng thấy cửa phòng đóng chặt, hoàn toàn không có tiếng động gì. Đoàn tiêu xa của Trấn Viễn tiêu cục cũng chưa đi, mấy gã tiêu sư ngồi vắt chân ở một góc đại sảnh mà trò chuyện. Còn Trương đại nhân, đêm qua vừa tự xưng là sư thúc của nàng, lại không ở đó.
Một cơn gió lạnh ùa vào, Lý Nguyên Chỉ cảm thấy trong người ớn lạnh. Nàng đang định về phòng thi đột nhiên nghe tiếng nhạc ngựa reo vang ngoài cửa, một con ngựa từ trong mưa chạy tới.
Ngựa dừng bên ngoài khách sạn, một thư sinh trẻ tuổi nhảy xuống, tiến vào trong. Tiểu nhị chạy ra dắt ngựa đi cho ăn, rồi hỏi thư sinh có trú lại hay không. Thư sinh cởi áo mưa rồi bảo: “Ta ăn xong là phải khởi hành ngay.” Tiểu nhị bèn mời chàng ngồi, bưng trà lên.
Thư sinh mặt mũi thanh tú, dáng vẻ đàng hoàng. Nơi biên cương hoang vắng này rất ít khi gặp những nhân vật tiêu sái tuấn tú như thế. Lý Nguyên Chỉ không khỏi nhìn lâu hơn, thư sinh đó cũng nhìn nàng mỉm cười một cái. Lý Nguyên Chỉ đỏ mặt, vội vã quay đầu đi vào trong.
Bên ngoài khách sạn, tiếng vó ngựa lại vang lên, thêm mấy người nữa vào trong. Lý Nguyên Chỉ nhận ra đó chính là bốn tên công sai hôm qua đánh nhau với thiếu phụ, bèn chạy ngay tới phòng Lục Phi Thanh hỏi xem nên làm gì.
Lục Phi Thanh bảo: “Chúng ta hãy xem trước đã.” Rồi hai thầy trò nhìn qua khe cửa sổ ra ngoài.
Lão già sử kiếm gọi tiểu nhị ra hỏi nhỏ mấy câu rồi hô lớn: “Đem cơm rượu ra đây.” Tiểu nhị vâng dạ rồi ra sau bếp. Lão lại nói: “Bọn giặc Hồng Hoa Hội chưa rời khỏi đây? Chúng ta cứ ăn no rồi hành động sau.”
Thần sắc của thư sinh kia bỗng hơi thay đổi. Chàng đảo mắt liếc nhìn bốn người kia một cái.
Lý Nguyên Chỉ khẽ hỏi: “Chúng ta có giúp thiếu phụ nữa hay không?”
Lục Phi Thanh đáp: “Đừng có làm bừa, chờ ta bảo đã.” Ông không nhìn bốn tên công sai nữa, cứ chăm chú nhìn thư sinh kia.
Chàng thư sinh ăn uống xong, bèn nhấc một cái ghế dài ngồi chặn giữa hành lang dẫn ra sân sau, rồi lấy trong cái bọc đeo sau lưng ra một cây sáo, thổi lên những tiếng véo von. Lý Nguyên Chỉ hơi hiểu âm luật, nghe thì biết chàng thổi bài Thiên Tịnh Sa, âm điệu không xuất sắc lắm, nhưng kỳ lạ ở chỗ ống sáo này sáng chói hoàng kim, rõ ràng đúc bằng vàng nguyên chất. Vùng này không yên ổn lắm, một thư sinh yếu đuối mà dám khoe ống sáo bằng vàng, há chẳng gợi lòng tham của kẻ xấu hay sao? Nàng nghĩ bụng, đợi lát sẽ đến nhắc nhở chàng mấy câu.
Bốn tên công sai thấy cử chỉ của thư sinh này cũng có phần kinh ngạc. Ăn uống xong, lão già sử kiếm tung người nhảy lên đứng trên bàn, dõng dạc tuyên bố: “Chúng ta là công sai ở kinh thành và phủ Lan Châu, đến đây để bắt bọn khâm phạm trong Hồng Hoa Hội. Bà con lương dân an phận không cần phải sợ, nhưng lát nữa phải đánh nhau, đao thương không có mắt, mọi người nên tránh xa một chút.” Lão nói xong bèn nhảy xuống bàn, dẫn ba tên kia đi vào trong.
Thư sinh làm như chẳng nghe thấy gì, cứ ngồi chặn giữa đường mà thổi sáo. Lão sử kiếm đến gần bèn lên tiếng: “Này! Tránh ra một chút, đừng cản trở việc công của chúng ta.” Lão thấy người này ăn mặc theo kiểu văn sĩ thư sinh, không chừng cũng là tú tài cử nhân gì đó, nên mới nói năng khách sáo như vậy? Nếu là dân chúng tầm thường, chắc đã bị đuổi đi bằng quyền cước rồi.
Không ngờ thư sinh chậm rãi bỏ sáo xuống rồi hỏi: “Cho hỏi khâm phạm mà quí vị cần bắt đã phạm tội gì? Cổ nhân có một câu rất hay: Dễ dãi với người ta một chút thì bản thân mình cũng thoải mái hơn. Khổng Tử cũng nói: Việc mình không muốn, chớ làm cho người. Ta thấy bỏ qua là hơn, hà tất phải bắt người.”
Tên công sai cầm hoài trượng bước lên một bước, quát tháo: “Đừng ở đây lảm nhảm nữa, tránh ra!”
Thư sinh mỉm cười hỏi: “Các hạ đừng nổi nóng, để tại hạ đứng ra mời mọi người uống mấy ly, kết làm bằng hữu có được không?”
Công sai quen thói hống hách, đâu có quen bị nhờn mặt như thế, nên hắn vừa vung tay xô đẩy vừa thóa mạ: “Con mẹ nó, đáng ghét thật.”
Thư sinh bị xô đẩy, lảo đảo mấy cái rồi kêu lên: “Úi chà, đừng động võ! Quân tử động khẩu bất động thủ!” Rồi đột nhiên chàng mất thăng bằng ngã nhào tới. Lúc ngã thì cây sáo vàng chĩa ra phía trước, như tình cờ mà chạm phải huyệt đạo trên đùi trái của tên công sai kia.
Hai chân hắn bủn rủn, khuỵu ngay xuống đất. Thư sinh la lên: “Trời ơi, đừng quì lạy ta nữa. Không cần đa lễ như vậy.” Rồi chàng chắp tay vái trả. Nhìn diễn biến này, ai biết võ công đều hiểu thư sinh này thân mang tuyệt kỹ, đang cố ý làm khó dễ bọn khâm sai.
Lý Nguyên Chỉ đang lo lắng cho thư sinh, sợ chàng bọ bọn công sai hiếp đáp. Đến khi nàng thấy chàng biết điểm huyệt, lại còn giả vờ làm trò, lập tức yên tâm, vui cười khoái chí.
Tên công sai sử dụng nhuyễn tiên kinh hãi la lên: “Sư thúc! Không chừng gã này cũng là phỉ đồ Hồng Hoa Hội.”
Lão gò sử kiếm và tên cầm quỉ đầu đao tức thì thối lui mấy bước. Gã sử dụng hoài trượng, tên là Hàn Xuân Lâm, thì đã bủn rủn ngã nằm dưới đất, hoàn toàn không động đậy được. Tên cầm nhuyễn tiên bèn kéo hắn qua một bên, còn lão sử kiếm lên tiếng hỏi thư sinh: “Ngươi là người của Hồng Hoa Hội phải không?” Thanh âm của lão lộ vẻ sợ sệt.
Thư sinh cười ha hả rồi đáp: “Tai mắt các hạ thật là linh mẫn, ăn chén cơm công sai thật không uổng phó, quả nhiên đã nhìn ra tại hạ là nhân vật trong Hồng Hoa Hội. Người xưa có nói, mắt nhà quan bén như kéo thép, quả nhiên có lý. Tại hạ đi không sửa họ, ngồi chẳng sửa tên, gọi Dư tên là Ngư Đồng. Ngư là con cá, Đồng trong câu “quân tử hòa nhi bất đồng,” không phải chữ Đồng như đồng nát sắt vụn. Tại hạ là hàng nhỏ xíu trong Hồng Hoa Hội, ngồi tận ghế thứ mười bốn.” Chàng giơ cây sáo lên hỏi tiếp: “Các vị có biết thứ đồ chơi này không?”
Lão già sử kiếm la lên: “Thì ra là Kim Địch Tú Tài.”
Thư sinh đáp: “Không dám, chính là tại hạ. Các hạ tay cầm bảo kiếm thanh quang nhấp nhoáng, chắc chắn là bộ đầu Hồ Quốc Đống lừng danh ở Bắc Kinh rồi. Nghe nói các hạ đã cáo lão hồi hưu, sao còn tiếp tục đi làm những việc thế này?”
Lão già sử kiếm hừ một tiếng rồi nói: “Nhãn lực của ngươi cũng không đến nỗi tồi. Ngươi đã là người trong Hồng Hoa Hội, chắc chắn chúng ta không thể bỏ qua.” Lời nói vừa dứt, tay đã vung lên, kkiếm thế linh hoạt nhẹ nhàng. Chiêu kiếm này của lão trong cương lại có nhu, kình lực đầy đủ mười phần.
Hồ Quốc Đống vốn là danh bộ của Bắc Kinh, từng phá nhiều vụ án lớn, giết cường đạo nhiều không đếm xuể. Lão tự biết mình kết oan gia vô số, nên mấy năm trước đã cáo lão về hưu. Tên sử nhuyễn tiên là sư điệt của lão, tên Phùng Huy, làm thị vệ trong đại nội. Lần này Phùng Huy phụng mệnh đi bắt yếu phạm Hồng Hoa Hội, tự biết bản lãnh không đủ nên mới khẩn cầu sư thúc, nhờ giúp một tay. Tên dùng quỉ đầu đao là Trương Thiên Thọ, còn tên cầm hoài trượng là Hàn Xuân Lâm, đều là bộ khoái ở Lan Châu. Võ công của bộ khoái không cao, nhưng bản lãnh truy lùng phạm nhân thì hơn hẳn ngự tiền thị vệ.
Dư Ngư Đồng múa tít ống sáo vàng, tỉ đấu với ba tên công sai. Kim địch của chàng có lúc sử dụng như thiết tiên, có lúc như phán quan bút, thỉnh thoảng lại xen lẫn mấy chiêu kiếm pháp. Bọn ba người Hồ Quốc Đống lập tức rối loạn cả tay chân.
Lục Phi Thanh và Lý Nguyên Chỉ xem được mấy chiêu thì bất giác nhìn nhau. Lý Nguyên Chỉ khẽ nói: “Nhu Vân kiếm pháp:”
Lục Phi Thanh gật đầu, thầm nghĩ Nhu Vân kiếm pháp là bí quyết độc môn của phái mình. Chàng thư sinh kia là người của Hồng Hoa Hội, vậy phải là đệ tử của đại sư huynh.
Sư huynh đệ Lục Phi Thanh có ba người, Lục Phi Thanh đứng hàng thứ hai, đại sư huynh là Mã Chân, còn sư đệ là Trương Triệu Trọng(3) chính là Trương đại nhân đêm qua đã động thủ với Lý Nguyên Chỉ.
Trương Triệu Trọng thiên bẩm rất cao, lại cực ky siêng năng rèn luyện. Trong ba sư huynh đệ thì y có võ công cao nhất. Vì ham mê công danh lợi lộc mà y vào triều làm quan, việc gì cũng ra sức lập công nên mấy năm nay thăng quan tiến tước như diều, bây giờ đã là Hiệu Kỳ Dinh Khã Lĩnh của ngự lâm quân.
Mười mấy năm trước, Lục Phi Thanh đã tuyệt giao với y. Đêm qua ông thấy võ công của y đã tiến bộ rất nhiều, khác hẳn trước kia, nên suốt đêm hồi tưởng những chuyện xưa khi còn bé, học võ một thầy, cảm khái vô cùng. Không ngờ hôm nay ông lại gặp thêm một thiếu niên hậu tiến, cũng phát xuất cùng một sư môn.
Ông đoán Dư Ngư Đồng là đệ tử của sư huynh Mã Chân, quả nhiên không lầm. Dư Ngư Đồng vốn là con nhà danh gia vọng tộc xứ Giang Nam, từng đậu tú tài. Cha của Dư Ngư Đồng vì tranh chấp một khu mộ tốt với một tên phú hào ở địa phương, nên bị quan phủ kiếm chuyện đến khuynh gia bại sản, rồi lại bị vu oan hãm hại mà chết uất trong ngục. Dư Ngư Đồng đau lòng bỏ nhà mà đi, gặp cơ duyên bái Mã Chân làm sư phụ, bỏ văn học võ. Sau này chàng quay về giết chết tên phú hào đó, rồi bắt đầu lang bạt giang hồ, gia nhập Hồng Hoa Hội.
Chàng là người tinh nhanh linh hoạt, thông thuộc nhiều nơi, nên trong hội thường giữ nhiệm vụ liên lạc bốn phương, thám thính tin tức. Lần này chàng có việc đến Lạc Dương, hoàn toàn biết vợ chồng Văn Thái Lai gặp nạn dọc đường và đang trị thương trong khách sạn này. Chàng chỉ muốn ghé ăn chút điểm tâm rồi tiếp tục đi về phía đông, không ngờ nghe thấy bọn Hồ Quốc Đống la lối bắt người Hồng Hoa Hội, nên mới đứng ra cản trở.
Lạc Băng nấp sau cửa sổ, nghe thấy tiếng sáo liền biết là Thập Tứ đệ đã đến đây. Dư Ngư Đồng lấy một địch ba, đánh mãi chưa phân thắng bại. Bọn người trong tiêu cục nghe tiếng huyên náo bèn kéo nhau đến xem.
Đồng Triệu Hòa lớn tiếng nói: “Nếu là ta, ta sẽ để hai người đánh nhau với thằng lỏi đó, còn một người đứng bên ngoài mà bắn.”
Phùng Huy nghe thấy có lý, bèn lùi ra khỏi vòng chiến, nhảy lên bàn đứng. Hắn lấy cung ra bật nghe veo véo, một trận mưa tên bắn về hướng Dư Ngư Đồng.
Dư Ngư Đồng vừa phải tránh tên vừa phải chống đỡ đao kiếm, lập tức rơi vào thế hạ phong. Thêm mấy hiệp nữa, trường kiếm của Hồ Quốc Đống và quỉ đầu đao của Trương Triệu Trọng đồng thời công đến. Dư Ngư Đồng vẫy kim địch gạt đao, bị mũi kiếm của Hồ Quốc Đống đâm thủng trường bào một lỗ. Chàng đang giật mình thì trên má lại trúng một viên đạn đau nhói, tay chân liền chậm lại. Hồ Quốc Đống và Tưởng Thiên Thọ thừa cơ tấn công ráo riết.
Võ công của Tưởng Thiên Thọ chỉ bình thường, nhưng Hồ Quốc Đống thì kiếm pháp lão luyện, có thể gọi là cao thủ chốn công môn. Ống sáo vàng trong tay chỉ còn cách chống đỡ, không sao xuất chiêu phản kích được nữa.
Đồng Triệu Hòa đứng bên rất đắc ý, lại hô lên: “Cứ nghe lời của Đổng đại gia là bảo đảm không lầm. Ê, thằng nhóc kia! Đừng đánh nữa, mau mau bỏ sáo xuống cúi đầu chiu thua, rồi tuột quần chổng mông ra chịu đòn cho rồi.”
Võ nghệ của Dư Ngư Đồng là chân truyền danh môn chánh phái, lâm nguy không loạn. Chàng đột nhiên đưa hai ngón tay trái ra, diểm thẳng tới huyệt đạo dưới ngực Hồ Quốc Đống. Hồ Quốc Đống vội vã lùi lại hai bước, Dư Ngư Đồng lại biến chỉ thành chưởng giả vờ tát vào mặt Tưởng Thiên Thọ. Lúc đối phương đưa đao lên cản, bàn tay đó không kịp rút về. Tưởng Thiên Thọ nhìn tưởng ngon ăn, bèn hoành ngang quỉ đầu đao biến thế chém thẳng qua. Dư Ngư Đồng để hở bên trái dụ binh khí địch đánh tới, tay phải lập tức đưa Kim Địch đâm qua, trúng ngay hông họ Tưởng. Tưởng Thiên Thọ la lên một tiếng, đau đến nỗi gập lưng xuống. Dư Ngư Đồng muốn thừa thế tấn công, nhưng Hồ Quốc Đống đã vung kiếm qua chống đỡ dùm, rồi một loạt tên của Phùng Huy lại cản chân chàng.
Tưởng Thiên Thọ thở ra một hơi, nghiến răng cố nén cơn đau, lom khom đi vòng ra sau lưng Dư Ngư Đồng. Nhân lúc chàng vừa phải đối phó trường kiếm phía trước, vừa phải lo tránh né những viên đạn bắn tới sườn, hắn bèn vận hết toàn lực xuất chiêu Khai Thiên Tịch Địa, vung quỉ đầu đao chém thẳng từ sau đầu chàng xuống. Chiêu này dùng để tấn công khi đối phương không phòng bị, thật là khó tránh. Nào ngờ lưỡi đao sắp chạm đến đỉnh đầu địch thủ, thì cổ tay hắn bỗng đau nhói, đao cầm không chặt để rơi xuống đất. Hắn đang ngơ ngác thì trước ngực lại trúng một mũi phi đao, đứt hơi chết ngay lập tức.
Dư Ngư Đồng quay lại, nhìn thấy Lạc Băng đứng ở sau lưng, tay trái phải vịn bàn, tay phải cầm một lưỡi phi đao nữa. Khuôn mặt nàng sáng như một đóa hoa tươi, đôi mắt trong veo, đôi môi hàm tiếu mỉm cười, vung tay giết địch dễ như không, thật là diễm lệ khó mà diễn tả. Ngực chàng bỗng nóng ran, tinh thần phấn chấn, múa tít kim địch thành một màn sáng màu vàng, lớn tiếng gọi: “Tứ tẩu! Diệt tên ưng trảo bắn tên trước đã.”
Lạc Băng lại mỉm cười, phi đao rời khỏi tay. Phùng Huy nghe tiếng kêu nên vội vàng quay lại đón đỡ, kịp thấy một lưỡi đao nhỏ như lá liễu, sáng lóng lánh bay đến trước ngực, rít lên veo véo nghe rất gấp rút, bèn đưa cây cung ra gạt. Nghe một tiếng “cắc” cung đã gãy đôi nhưng phi đao vẫn còn dư lực, tiếp tục bay tới rạch trên mặt hắn đứt một đường.
Phùng Huy kinh hãi la lên: “Sư thúc! Rút lui thôi!” rồi nhảy xuống bàn. Hồ Quốc Đống lùi lại hai bước, rồi cõng Hàn Xuân Lâm đang nằm bủn rủn dưới đất lên. Phùng Huy vung roi ngăn chặn phía sau, cả bọn chạy ra cửa khách sạn.
Dư Ngư Đồng thấy bọn công sai chạy trốn mà không đuổi theo, lại đưa cây sáo lên miệng. Lý Nguyên Chỉ nghĩ bụng: “Công tử này thật khéo làm duyên, lúc này mà còn thổi sáo được.” Nào ngờ phen này chàng không cầm ngang, mà ngậm đầu sáo thổi mạnh một cái, một mũi tên nhỏ xíu từ trong ống sáo bắn vèo ra. Phùng Huy vội cúi đầu né được, mũi tên đó ghim ngay vào mông của Hàn Xuân Lâm. Tên này đau quá thét lên be be.
Dư Ngư Đồng quay người lại hỏi: “Tứ ca đâu rồi?”
Lạc Băng đáp: “Cứ đi theo tỷ.” Nàng đang bị thương, nên phải cầm cây gài cửa làm gậy chống, đi trước dẫn đường.
Dư Ngư Đồng nhặt lưỡi phi đao dưới đất lên đưa trả Lạc Bang, hỏi: “Sao Tứ tẩu bị thương vậy? Có nặng lắm không?”
Ngoài kia Hồ Quốc Đống cõng Hàn Xuân Lâm đi trước, vẫn sợ kẻ địch đuổi theo nên cố chạy nhanh về phía khách sạn. Lúc lão ra tới cửa, bên ngoài cũng có một người chạy vào, hai bên cùng vội dĩ nhiên xảy ra tai nạn. Hồ Quốc Đống đã luyện võ công mấy chục năm, bộ pháp vững vàng, nhưng không hiểu sao chỉ bị đụng một cái nhẹ nhàng đã không đứng vững. Hắn phải lùi lại mấy bước, buông Hàn Xuân Lâm rơi xuống dất mới không bị té nhào. Chỉ xui xẻo cho Hàn Xuân Lâm rơi mông xuống trước, nên bị mũi tên ghim sâu thêm vào trong thịt.
Hồ Quốc Đống ngẩng nhìn lên, nhìn thấy người chạy vào là Hiệu kỳ doanh tả lĩnh Trương Triệu Trọng, bèn đổi giận làm vui. Lão nuốt kịp mấy câu thô tục suýt nữa buột miệng nói ra, vội vàng chào hỏi: “Trương đại nhân! Bọn, tiểu nhân vô dụng, một huynh đệ bị chúng giết mất rồi, còn người này bị điểm huyệt!”
Trương Triệu Trọng hừ một tiếng, tay trái xách Hàn Xuân Lâm lên, tay phải bóp vào hông rồi vỗ lên đùi hắn để khai huyệt đạo, đồng thời hỏi: “Chúng chạy trốn hết rồi sao?”
Hồ Quốc Đống đáp: “Vẫn còn trong khách sạn.”
Trương Triệu Trọng hừ một tiếng nữa rồi nói: “Gan mật không nhỏ, đã giết quan quân còn dám ở lại khách sạn.” Y vừa nói vừa đi vào trong sân.
Phùng Huy đưa tay chỉ vào phòng của Văn Thái Lai, rồi nói: “Trương đại nhân! Bọn giặc dó ở đây.” Hắn cầm nhuyễn tiên đi trước dẫn đường.
Chúng đang tiến vào thì đột nhiên ở phòng bên cạnh có một thiếu niên chạy ra, tay cầm một cái bao vải màu đỏ giơ lên, mỉm cười nói với Trương Triệu Trọng: “Ái chà! Lại bị ta đoạt lấy rồi.” Gã vừa nói vừa chạy ra trước cửa.
Trương Triệu Trọng ngẩn người ra nghĩ: “Mấy thằng ngốc trong tiêu cục này thật là tệ hại. Ta đã lấy lại cho, còn để cướp đi lần nữa. Mặc kệ nó, chuyện của mình quan trọng hơn.” Y không duổi theo, cứ đi tiếp vào trong.
Thiếu niên kia thấy y không đuổi theo mình, bèn dừng lại la lên: “Không biết ở đâu nứt ra mấy con mèo quào ba cẳng dám mạo nhận là sư thúc của người ta. Thật là không biết xấu hổ!” Thiếu niên này chính là Lý Nguyên Chỉ đang cải nam trang.
Ngoại hiệu của Trương Triệu Trọng là Hỏa Thủ Phán Quan, danh chấn giang hồ. Giới lục lâm thường nói: Thà gặp Diêm Vương đừng gặp lão Vương, thà chịu ba thương đừng gặp một Trương. Lão Vương chính là Oai Trấn Hà Sóc Vương Duy Dương, tổng tiêu đầu Trấn Viễn tiêu cục. Còn một Trương chính là vị Hỏa Thủ Phán Quan Trương Triệu Trọng này. Mấy năm nay y đã đi làm quan, nhưng nhân vật võ lâm gặp y vẫn có phần kính nể. Rất hiếm khi y bị sĩ nhục thế này, lập tức nổi giận phóng tới như mũi tên, vung tay toan bắt lấy Lý Nguyên Chỉ, dạy cho bài học rồi giao lại cho sư huynh là Mã Chân xử lý. Y vẫn cho rằng thiếu niên này là đệ tử của Mã Chân.
Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy y đuổi theo mình, bèn vắt chân lên cổ mà chạy. Trương Triệu Trọng quát: “Thằng lỏi kia! Chạy đi đâu?” Y đuổi được mấy bước, thấy nàng chạy khá nhanh nên định quay về lo chuyện chính.
Nào ngờ Lý Nguyên Chỉ thấy y ngừng đuổi, thì cũng dừng bước mở lời trêu ghẹo, bảo y chỉ có hư danh, làm mất thể diện của phái Võ Đang. Miệng nàng nói thì cứ nói, chân vẫn chuẩn bị sẵn sàng chạy tiếp. Quả nhiên Trương Triệu Trọng nổi giận đùng đùng, lại đuổi theo hai ba dặm nữa. Lúc này mưa lớn vẫn chưa dứt, cả hai người đều ướt như chuột lột.
Trương Triệu Trọng quyết tâm bắt được thằng lỏi phá rối này rồi tính tiếp. Y liền dốc hết sức ra, thi triển khinh công thượng thừa mà đuổi. Trương Triệu Trọng đã quyết tâm thì dĩ nhiên Lý Nguyên Chỉ không sao chạy thoát. Nàng thấy đối phương càng lúc càng gần, lại biết võ công của y cao tuyệt, bất giác hoảng sợ, chạy rẽ lên đường núi.
Trương Triệu Trọng im lặng không nói gì, cứ tiếp tục đuổi sát tới, càng chạy càng nhanh. Chỉ chốc lát y đã đưa tay ra nắm được áo của Lý Nguyên Chỉ. Nàng kinh hãi ra sức giãy giụa. Roạc một tiếng, một mảnh lưng áo đã bị giật rách ra, nàng chợt động tâm vứt vái bao vải xuống suối, rồi vừa chạy vừa nói: “Thôi thì trả cho ông vậy.”
Trương Triệu Trọng biết cuốn kinh trong cái bao này quan hệ không nhỏ, được Triệu Tuệ tướng quân cực kỳ coi trọng. Y không dám sơ sẩy để nó bị suối cuốn trôi đi mất, cho dù tìm được cũng bị thấm nước hư hỏng, bèn không rượt Lý Nguyên Chỉ nữa, mà lập tức nhảy xuống suối để lượm cái bao. Lý Nguyên Chỉ cười lên ha hả, chạy mất hút.
Trương Triệu Trọng nhặt cái bao vải ướt lên, vội vã mở ra xem thử kinh sách đã thấm nước chưa. Y vừa mở bao ra đã không nén nổi, phải buột miệng thóa mạ. Trong cái bao này không có kinh Coran, chỉ có hai quyển sổ thu chi của khách sạn. Lật ra xem thi thấy trong sổ ghi toàn những khoảng tiền phòng của khách mấy hào, tiền trả công cho tiểu nhị mấy xu…
Trương Triệu Trọng bất giác than thầm. Y đã trải qua biết bao nhiêu trận chiến trên chốn giang hồ, thế mà bị thằng nhóc này lừa hai lần liên tiếp, bèn thuận tay vứt trả hai quyển sổ này xuống dòng suối. Nếu cầm về tiệm, có người hỏi đến thì còn mặt mũi nào.
Y giận như điên, chạy gấp về khách sạn, vừa vào tới cửa đã gặp tiêu sư Diêm Thế Chương, thấy cái bọc vải màu đỏ vẫn còn đeo trên lưng hắn rất đàng hoàng. Trương Triệu Trọng âm thầm hổ thẹn, liền hỏi: “Cái bao này có bị ai động đến không?”
Diêm Thế Chương đáp ngay: “Không.” Nhưng hắn là người cẩn thận, biết Trương Triệu Trọng hỏi như vậy là có nguyên nhân, bèn mời y vào phòng rồi mở bao ra xem. Quyển kinh vẫn yên ổn nằm trong đó.
Trương Triệu Trọng hỏi: “Bọn công sai đi đâu hết rồi?”
Diêm Thế Chương kinh ngạc hỏi lại: “Vừa rồi họ còn ở đây mà!”
Trương Triệu Trọng giận dữ nói: “Triều đình nuôi lũ này thật là vô ích, ta mới rời đây mấy bước là chạy trốn sạch rồi. Diêm lão đệ! Ngươi đi theo ta, xem ta đơn thương độc mã bắt hết bọn kia.” Y nói xong bèn đi về phía phòng Văn Thái Lai.
Diêm Thế Chương mừng thầm trong bụng. Hắn cũng khiếp sợ oai danh Hồng Hoa Hội, biết hội này người đông thế lớn, cao thủ như mây. Một mình y thì quyết không dám gây chuyện với họ. Nhưng Trương Triệu Trọng đã nói thế thì hắn không cãi làm gì, quyết tâm giữ vững lập trường đứng cạnh mà nhìn, không can dự vào. May mà võ công của Trương Triệu Trọng trên cả tuyệt vời, hơn nữa đối phương ba người thì đã có hai người bị thương, chắc là bắt được. Y đã nói đơn thương độc mã, thì cứ để y ra trận một mình là tốt nhất.
Trương Triệu Trọng đi đến cửa phòng, quát lớn: “Bọn ma quỉ Hồng Hoa Hội đâu rồi, dẫn xác ra đây cho ta!” Sau một lúc lâu, trong phòng vẫn hoàn toàn im ắng. Y bèn lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó, toàn là đồ rùa đen rút đầu!” Rồi vung cước đá vào cửa. Thì ra cửa phòng chỉ khép hờ chứ không có khóa chốt gì.
Cánh cửa mở ra, trong phòng vẫn không thấy ai. Trương Triệu Trọng giật mình la lớn: “Bọn chúng chạy mất rồi!” Y lập tức chạy vào trong. Đúng là trong phòng không có ai, nhưng trên giường thi chăn bị đội lên, hình như bên trong có người nằm. Y rút kiếm hất cái chăn ra, quả nhiên trong đó có hai người nằm quay mặt vào nhau. Y dùng mũi kiếm chọc khẽ vào lưng người nằm ngoài, vẫn không thấy động tĩnh gì. Dùng tay lật lại xem, thì mặt của người này hoàn toàn không chút huyết sắc, hai mắt lồi ra, rõ ràng là bộ khoái Hàn Xuân Lâm của phủ Lan Châu. Còn người nằm bên trong, quay mặt ra ngoài, chính là bộ đầu Phùng Huy ở Bắc Kinh. Đưa tay lên mũi, thấy cả hai đều đã tắt thở. Trên thân thể hai người này hoàn toàn không có vết máu, cũng không có vết dao kiếm gì, nhưng xem tỉ mỉ hơn thì thấy xương gáy của chúng đều vỡ vụn ra, rõ ràng là bị chưởng lực của cao thủ nội gia đánh trúng.
Trương Triệu Trọng không khỏi thầm phục Văn Thái Lai, nghĩ bụng: “Y đã trọng thương mà chưởng lực vẫn lợi hại thế này, ba chữ Bôn Lôi Thủ quả nhiên danh bất hư truyền.” Họ Trương không hiểu Hồ Quốc Đống đi đâu, vợ chồng Văn Thái Lai chạy trốn hướng nào, bèn gọi tiểu nhị đến hỏi tới hỏi lui, nhưng hoàn toàn không biết thêm chút xíu gì.
Phen này Trương Triệu Trọng đoán sai. Hàn Xuân Lâm và Phùng Huy không phải bị Văn Thái Lai đánh chết.
* * *
Thì ra khi nãy Lục Phi Thanh cùng Lý Nguyên Chỉ nấp sau cửa sổ xem trận chiến đó, lúc thấy Dư Ngư Đồng gặp nguy hiểm, Lục Phi Thanh bèn phóng Phù Dung kim châm trúng vào cổ tay của Tưởng Thiên Thọ, quỉ đầu đao rơi xuống đất. Lúc dó Lạc Băng phóng phi đao lấy mạng hắn, rồi Hồ Quốc Đống cõng Hàn Xuân Lâm chạy trốn. Lục Phi Thanh đã yên tâm, tưởng rằng khó khăn đã hết, nào ngờ Trương Triệu Trọng lại tiến vào.
Lý Nguyên Chỉ khẽ nói: “Đêm qua, chính người này đoạt lấy bao vải của con. Sư phụ có biết y không?” Lục Phi Thanh gật đầu. Ông đã tính toán sẵn, bèn nói nhỏ: “Con ra dụ y rời khỏi đây, càng xa càng tốt. Nếu lúc trở về không gặp sư phụ, thì ngày mai con và Lý phu nhân cứ việc lên đường, sư phụ sẽ đến tìm sau.”
Lý Nguyên Chỉ còn muốn hỏi gì đó nhưng Lục Phi Thanh đã tiếp: “Nhanh lên, chậm là không kịp, nhưng phải hết sức cẩn thận.” Ông biết cô bé học trò này quỉ kế đa đoan, tuy sư đệ võ công rất khá nhưng về thông minh cơ biến thì không sánh kịp cô ta, nên tin chắc đệ tử mình không thua thiệt. Hơn nữa, cha của nàng là đề đốc đương triều, nếu không may Trương Triệu Trọng bắt được nàng cũng không dám nặng tay. Ông lại biết Trương Triệu Trọng bản tính kêu ngạo, không thèm bắt nạt đàn bà con nít, đến lúc khẩn trương, chỉ cần Lý Nguyên Chỉ để lộ diện mạo nữ nhân, Trương Triệu Trọng nhất định sẽ cười khẩy buông tay.
Quả nhiên không ngoài dự tính, Trương Triệu Trọng đã bị lừa. Nhưng nếu lúc đó Trương Triệu Trọng phóng ám khí hay buông sát thủ, chắc chắn Lý Nguyên Chỉ sẽ trọng thương. Chỉ vì y tưởng nàng là đệ tử của đại sư huynh Mã Chân, nên mới hạ thủ lưu tình. Chuyện này thì Lục Phi Thanh nghĩ không tới.
Lục Phi Thanh nhìn thấy Trương Triệu Trọng đuổi ra khỏi khách sạn, bèn lấy bút viết nhanh một lá thư ngắn rồi cất vào bọc, đi đến trước cửa phòng của Văn Thái Lai gõ cửa khe khẽ. Lạc Băng ngồi trong phòng hỏi ra: “Ai thế?”
Lục Phi Thanh đáp: “Ta là hảo bằng hữu của Lạc ngũ gia Lạc Nguyên Thông, có việc cần gặp các vị.”
Bên trong không có tiếng trả lời, cũng không có ai mở cửa, đương nhiên là đang bàn bạc xem nên đối phó thế nào. Lúc này ba người bọn Hồ Quốc Đống đã đến nơi, đứng xa xa canh chừng. Chúng thấy Lục Phi Thanh đứng trước cửa phòng, đều không khỏi ngạc nhiên.
Cửa phòng khẽ mở, Dư Ngư Đồng dứng giữa cửa hỏi rất đàng hoàng: “Không hiểu tiền bối là ai?”
Lục Phi Thanh đáp nhỏ: “Ta là Miên Lý Châm Lục Phi Thanh, sư thúc của ngươi.”
Dư Ngư Đồng không khỏi ngần ngừ. Chàng là người nghĩa hiệp, nhưng chưa bao giờ gặp mặt nên không biết người đối diện thật giả ra sao. Lúc này Văn Thái Lai lại bị thương nặng, làm sao chàng dám khinh xuất để người lạ vào phòng?
Lục Phi Thanh nói tiếp: “Đừng lên tiếng, ta sẽ làm cho ngươi tin.” Dư Ngư Đồng càng nghi ngờ hơn, vận công xuống hạ bàn đề phòng ông ta tung cửa chạy vào, mắt thì chú ý quan sát từ trên xuống dưới.
Lục Phi Thanh đột nhiên đưa tay trái ra vỗ lên vai chàng. Dư Ngư Đồng đảo người né tránh. Lục Phi Thanh dùng hữu chưởng đẩy nhẹ vào dưới nách, khẽ hất chàng sang một bên. Lãng Trác Y là chiêu đầu tiên trong Võ Đang trường quyền, tay trái giữ vạt trường bào, chỉ dùng tay phải tấn công địch thủ. Sử chiêu này phải ung dung tiêu sái, ra ý là ta không cần cởi trường bào vẫn đánh được ngươi. Đã là người phái Võ Đang, nhất định phải thuộc bài học nhập môn này. Dư Ngư Đồng cảm thấy một luồng đại lực hất mình ra, không tự chủ được phải lùi mấy bước. Chàng vừa kinh hãi vừa vui mừng, biết đúng là sư thúc đã đến đây.
Thấy Dư Ngư Đồng bị đẩy lùi, Lạc Băng bèn cầm lấy song đao nhảy ra phía trước. Dư Ngư Đồng lập tức đưa tay cản lại, khẽ nói: “Khoan đã!”
Lục Phi Thanh cũng vẫy tay ra hiệu, rồi lùi ra khỏi phòng, gọi bọn Hồ Quốc Đống: “Ái chà! Bọn chúng trốn đâu hết rồi. Các vị mau đến đây!”
Hồ Quốc Đống giật mình chạy nhanh tới, xông vào phòng. Hàn Xuân Lâm và Phùng Huy cũng theo sát sau lưng. Lục Phi Thanh là người cuối cùng tiến vào, đứng chặn đường lui của ba tên này, thuận tay đóng chặt cửa lại.
Hồ Quốc Đống nhìn thấy Dư Ngư Đồng đàng hoàng đứng ngay giữa phòng, không khỏi kinh hãi la lên: “Mau lùi lại!”
Hàn Xuân Lâm và Phùng Huy vừa định quay người, Lục Phi Thanh đã vận nội công vào song chưởng vỗ nhẹ một cái, xương gáy của hai tên này lập tức vỡ nát, chết ngay tại chỗ.
Hồ Quốc Đống cảnh giác hơn, thấy cửa phòng đóng chặt bèn tung người nhảy lên giường, hai tay che đầu, nhắm thẳng cửa sổ bay ra ngoài. Văn Thái Lai đang nằm trên giường, thấy lão bay qua đầu mình bèn đẩy tả chưởng ra. Nghe rắc một tiếng, cánh tay phải của Hồ Quốc Đống lập tức gãy xương rũ xuống, nhưng lão lắc lư mấy cái rồi chân trái dùng sức đạp mạnh, vẫn phá được cửa sổ. Lúc này sau gáy có tiếng gió rít lên, Lạc Băng đã phóng phi đao.
Hồ Quốc Đống có đề phòng ám khí của địch truy kích, nên hai chân vừa chấm xuống đất đã đảo người nhảy sang trái. Dù vậy nhưng lão vẫn bị phi đao cắm vào vai phải. Lúc này lão không có thì giờ chăm sóc vết thương, chỉ biết dốc hết sức mà chạy ra khỏi khách sạn.
Sau diễn biến này, Lạc Băng và Dư Ngư Đồng không hoài nghi gì nữa, cùng quì xuống bái kiến. Văn Thái Lai cũng lên tiếng: “Lão tiền bối! Thứ lỗi cho tại hạ không thể xuống giường thi lễ.”
Lục Phi Thanh đáp: “Đừng khách sáo. Không hiểu vị này xưng hô như thế nào với Lạc ngũ gia?” Ông vừa hỏi vừa nhìn sang Lạc Băng.
Lạc Băng đáp: “Đó là tiên phụ.”
Lục Phi Thanh nói: “Thì ra đây là con bé Tiểu Băng. Ta là Lục bá bá của con đây, còn nhận ra không? Nguyên Thông lão đệ là bằng hữu thâm giao, không ngờ lại tạ thế trước ta.” Thanh âm ông lộ vẻ thê lương. Mắt của Lạc Băng cũng đỏ lên, lại sụp lạy nữa.
Lục Phi Thanh quay sang hỏi Dư Ngư Đồng: “Chắc ngươi là đệ tử của Mã sư huynh. Sư huynh gần đây có khỏe không?”
Dư Ngư Đồng đáp: “Nhờ hồng phúc của sư thúc, sư phụ vẫn còn tráng kiện. Lão nhân gia thường nhắc tới sư thúc, nói rằng đã mười năm không gặp, không biết sư thúc hiện giờ ở đâu, mãi không yên tâm được.”
Lục Phi Thanh buồn bã nói: “Ta cũng rất nhớ sư phụ của ngươi. Còn một sư thúc nữa vừa đến đây, ngươi có biết không?”
Dư Ngư Đồng kinh hãi hỏi: “Có phải là Trương sư thúc Trương Triệu Trọng không?” Lục Phi Thanh gật đầu.
Văn Thái Lai vừa nghe thấy tên Trương Triệu Trọng bỗng rùng mình, rồi khẽ la một tiếng. Lạc Băng vội tới nâng đỡ trượng phu, tình yêu thắm thiết lộ hẳn trên nét mặt. Dư Ngư Đồng nhìn cảnh tượng này đến nỗi xuất thần, nghĩ rằng nếu mình lấy được người vợ thế này, thì cho dù bị trọng thương cũng thấy sướng hơn ở cõi tiên.
Lục Phi Thanh nói: “Sư đệ của ta đã bán thân về với triều đình, thật là một mối nhục của sư môn. Nhưng võ công của y rất tinh thuần, hơn nữa từ Bắc Kinh ngàn dặm xa xôi về đến nơi này, chắc chắn còn có hậu viện. Văn lão đệ lại đang bị trọng thương, theo ý ta thì trước mắt phải tránh mặt một chút, sau này chúng ta hẹn thêm mấy hảo thủ sẽ quyết thư hùng lại một phen. Nếu lão phu không thanh trừ mối bại hoại này của sư môn, thì mấy khúc xương già này cũng không muốn giữ lại làm chi.” Lời của ông tuy nhỏ nhẹ, nhưng không che đậy mối bi phẫn trong lòng.
Lạc Băng đáp: “Bọn tiểu điệt xin nghe Lục lão bá dặn dò.” Nàng nói xong, nhìn qua xem thái độ của chồng mình. Văn Thái Lai khẽ gật đầu.
Lục Phi Thanh lấy trong bọc ra một lá thư, giao cho Lạc Băng. Lạc Băng nhận lấy, thấy trên bì thư có viết: “Kính gởi Chu lão anh hùng Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm trang.” Nàng cả mừng hỏi: “Lục lão bá! Lão bá có giao tình với Chu lão anh hùng hay sao?”
Lục Phi Thanh chưa kịp trả lời, Văn Thái Lai đã hỏi: “Vị Chu lão anh hùng nào thế?”
Lạc Băng đáp: “Chu Trọng Anh.”
Văn Thái Lai lại hỏi: “Có phải Chu lão anh hùng ở Thiết Đảm trang hay không?”
Lục Phi Thanh nói: “Đúng là ông ấy ở Thiết Đảm trang, cách đây chỉ chừng hai ba chục dặm. Ta với Chu lão anh hùng chưa từng gặp mặt nhưng từ lâu đã có giao tình, biết ông ấy gan dạ hơn người, đáng mặt nam tử hán đại trượng phu, cứng rắn như sắt thép. Ta muốn phiền Văn lão đệ tạm thời đến trang của ông ấy nghỉ sức dưỡng thương, rồi cho người đi thông báo cho bằng hữu quí hội đến đón về.” Ông thấy sắc mặt Văn Thái Lai ra vẻ chần chừ, liền hỏi: “Ý của Văn lão đệ thế nào?”
Văn Thái Lai đáp: “Tiền bối đã sắp xếp thật không thể hay hơn, nhưng có một điều không dám giấu giếm. Vãn bối mang nặng mối huyết hải thâm thù, ngày nào tên cẩu hoàng đế Càn Long chưa tận mắt nhìn thấy thi thể vãn bối thì y chưa thể ăn ngon ngủ yên. Đại danh Thiết Đảm trang Chu lão anh hùng thì bọn vãn bối ngưỡng mộ đã lâu. Ông ấy đúng là một lãnh tụ võ lâm tây bắc, đã kết giao là đối đãi nhiệt tâm, nhưng bọn vãn bối cùng ông ấy chưa có giao tình mà cũng chưa phải là bằng hữu. Nếu phen này bọn vãn bối chạy đến chỗ ông ấy mà trốn, dĩ nhiên ông ấy sẽ nể mặt tiền bối mà giữ lại, nhưng giữ lại thì hậu hoạn vô cùng. Chu lão anh hùng an cư lập nghiệp ở nơi đây, nếu không may bị quan phủ biết được mà liên lụy, thì trong lòng vãn bối thật sự không sao yên ổn được.”
Lục Phi Thanh bảo: “Văn lão đệ đừng nói như thế. Chúng ta là nhân vật giang hồ, chỉ biết lấy hai chữ nghĩa khí làm đầu. Vì bằng hữu thì bị nhổ mất hai dãy xương sườn vẫn không tiếc, huống gì chút ít gia tài sản nghiệp. Phen này chúng ta gặp phải việc khó giải quyết, nếu không đi tìm Chu lão anh hùng thì lỡ sau này ông ấy biết được, sẽ trách chúng ta coi thường ông ấy là không biết trọng nghĩa khí.”
Văn Thái Lai nói: “Cái mạng này của vãn bối coi như vứt đi. Nếu bọn ưng trảo triều đình tìm đến đây thì chấp nhận lấy một mạng đổi một mạng là xong. Tiền bối chưa biết, chuyện phiền hà mà vãn bối phạm phải thật là quá lớn. Càng là người tốt lại càng không dám để liên lụy đến.”
Lục Phi Thanh nói: “Chắc chắn lão đệ có biết Triệu Bán Sơn ở Thái Cực môn. Lão đệ xưng hô với y thế nào?”
Văn Thái Lai đáp: “Vãn bối gọi là Triệu tam ca. Ông ấy là Tam đương gia trong hội.”
Lục Phi Thanh gật đầu: “Thì ra là thế. Ta chưa biết gì về Hồng Hoa Hội các vị, nhưng đã có giao tình rất hậu với Triệu Bán Sơn hiền đệ. Năm xưa chúng ta cùng ở Đồ Long bang, lắm phen ra sống vào chết, thật là thân hơn cả anh em ruột thịt. Bây giờ ông ấy đã là người trong quí hội, thế thì công việc của các vị nhất định là quang minh chính đại. Còn chuyện phiền hà mà lão đệ phạm phải thì lớn đến đâu? Tối đa cũng chỉ là giết quan tạo phản mà thôi. Ta cũng vừa giết hai tên chó săn của quan phủ rồi.” Nói xong, ông phóng chân đá vào xác của Phùng Huy một cước.
Văn Thái Lai nói: “Chuyện của vãn bối nói ra dài dòng lắm, sau này nếu còn một hơi thở sẽ quyết kể cho lão tiền bối nghe tường tận. Lần này Càn Long phái ba tên đại nội thị vệ đến bắt vợ chồng vãn bối. Trận chiến ở Tửu Tuyền vãn bối bị thương nặng, may mà cháu gái của tiền bối dùng hai lưỡi phi đao giết được hai tên ưng trảo, rồi khó khắn lắm mới chạy được đến đây. Nào ngờ Trương Triệu Trọng của ngự lâm quân cũng đuổi đến rồi. Dù sao thì vãn bối cũng chỉ chết một lần thôi, còn những hành động của tên Càn Long kia thì quyết không thể không đưa ra ánh sáng. Vãn bối phải nói ra rồi chết mới cam lòng.”
Lục Phi Thanh nghe kỹ mấy câu này, lờ mờ đoán rằng Văn Thái Lai đã nắm được bí mật gì rất lớn của hoàng đế Càn Long, nên hắn mới điên tiết phái nhiều cao thủ giết chàng diệt khẩu. Tuy chàng đang gặp đại nạn mà vẫn không muốn liên lụy đến người khác, đúng là bậc anh hùng mình làm mình chịu. Ông nghĩ nếu không dùng kế kích tướng mà chọc tức, nhất định chàng không chịu đến dựa dẫm Thiết Đảm trang, bèn nói: “Văn lão đệ! Lão đệ không muốn liên lụy đến người khác, quả là hành vi của một hán tử quang minh lỗi lạc. Nhưng ta nghĩ lại thì có điều đáng tiếc.”
Văn Thái Lai vội hỏi: “Đáng tiếc ở chỗ nào?
Lục Phi Thanh nói: “Nếu lão đệ không chịu đi, thì ba người chúng ta có rời lão đệ được hay không? Lão đệ bị trọng thương, không tiện động thủ. Không phải ta muốn trợ oai cho địch mà hạ thấp bên mình, nhưng lát nữa bọn ưng trảo đến đây có cả sư đệ của ta, ở đây không ai địch nổi hắn. Thế mà ở đây, một người là thê tử lão đệ, một người là huynh đệ của lão đệ, còn lão già này tuy bất tài nhưng cũng biết coi nghĩa khí quan trọng hơn tính mạng. Lỡ chúng ta bị thua, có ai bỏ lão đệ mà chạy trốn được không? Lục mỗ sống hơn sáu chục năm rồi cái mạng này đã vứt đi lượm lại mấy lần, đem ra liều với chúng cũng không có gì là quan trọng. Chỉ tiếc cho sư điệt của ta đang ở vào tuổi kiến công lập nghiệp, phu nhân của lão đệ thì tuổi trẻ thanh xuân. Chẳng lẽ vì lão đệ muốn làm hảo hán mà lụy đến mọi người mất mạng ở đây hay sao?”
Văn Thái Lai nghe đến đó, bất giác mồ hôi toát ra đầy đầu. Mấy câu này của Lục Phi Thanh tuy có phần khích bác, nhưng hoàn toàn có tình có lý.
Lạc Băng kêu lên một tiếng: “Đại ca!” rồi lấy khăn tay lau mồ hôi trán cho chồng, âu yếm nắm lấy bàn tay chưa bị thương.
Văn Thái Lai có ngoại hiệu là Bôn Lôi Thủ, hồi mười lăm tuổi đã bôn tẩu giang hồ, đã giết chết không biết bao nhiêu bọn gian xảo, hung đồ ác bá. Nhưng bàn tay giết người vô số này lại là bàn tay êm dịu ấp áp của Lạc Băng nắm chặt, đúng là nhi nữ tình trường anh hùng khí đoản. Vì thế chàng không cố chấp bảo thủ ý kiến của mình nữa, nói vói Lục Phi Thanh: “Tiền bối dạy rất đúng. Vừa rồi vãn bối nghĩ sai lầm, bây giờ xin tuân lời tiền bối.”
Lục Phi Thanh rút lá thư viết cho Chu Trọng Anh ra, Văn Thái Lai đọc thấy đầu thư là mấy câu ngưỡng mộ, tiếp theo là nói về mấy vị bằng hữu trong Hồng Hoa Hội gặp nguy nan, nhờ ông ta chiếu cố. Trong thư không ghi rõ tên Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng. Văn Thái Lai xem xong, thở ra một hơi rồi nói: “Phen này chúng ta đến Thiết Đảm trang, Hồng Hoa Hội lại có thêm một vị ân nhân nữa rồi.”
Trước nay Hồng Hoa Hội có ơn là trả, có thù là báo. Bất cứ ai có chút xíu ân huệ với họ, họ cũng tìm thiên phương vạn kế báo đáp mới thôi. Nếu ai kết oán thù, thù lớn thì trả lớn, thù nhỏ thì trả nhỏ, quyết không chịu bỏ qua. Ngay như Trấn Viễn tiêu cục nghe thấy danh tiếng Hồng Hoa Hội cũng phải sợ hãi, như vậy đủ biết Hồng Hoa Hội người đông thế mạnh, ân oán phân minh, thật không nên đắc tội.
Lục Phi Thanh lại hỏi Dư Ngư Đồng phải đến đâu báo tin cầu viện, và lực lượng của Hồng Hoa Hội khi nào mới đến được. Dư Ngư Đồng đáp: “Mười hai vị đương gia của Hồng Hoa Hội, ngoài Văn tứ đương gia và Lạc thập nhất đương gia đang ở đây, còn lại đã tập hợp ở An Tây. Mọi người đang thỉnh cầu thiếu đà chủ lên thống lĩnh Hồng Hoa Hội. Nhưng nếu thiếu đà chủ quyết không chịu, cứ nói là mình tuổi trẻ, kiến thức nông cạn, danh vọng lẫn khả năng đều không xứng với ngôi vị ấy, nhất định đề cử Nhị đương gia là Vô Trần đạo trưởng làm tổng đà chủ. Dĩ nhiên Vô Trần đạo trưởng không chịu, nên tình thế bây giờ không sao giải quyết được. Mọi người đang đợi Tứ đương và và Thập Nhất đương gia đến nơi để khai hương đường, đề cử tổng đà chủ. Nào ngờ hai vị lại gặp khó khăn ở đây, nên mọi người chỉ còn cách giương mắt lên mà đợi.”
Lục Phi Thanh mừng rỡ nói: “An Tây cách đây không xa lắm, nếu các hảo thủ của quí hội đều tập trung ở đó thì Trương Triệu Trọng có giỏi gấp đôi cũng không đáng sợ nữa.”
Dư Ngư Đồng quay sang nói với Văn Thái Lai: “Thiếu đà chủ phái đệ đi Lạc Dương gặp chưởng môn nhân của Hàn gia để phân trần một chuyện hiểu lầm, không phải là việc gấp. Tiểu đệ muốn về An Tây báo tin này trước, Tứ ca xem có được không?” Vị trí của chàng trong hội thấp hơn Văn Thái Lai, khi gặp chuyện khó phân giải thì phải theo qui luật mà thỉnh thị người trên.
Văn Thái Lai suy nghĩ chưa trả lời, Lục Phi Thanh đã nói: “Theo ta thì ba người các vị hãy lập tức khởi hành đi Thiết Đảm trang, yên ổn rồi thì Dư hiền điệt cứ đến Lạc Dương. Còn việc đi An Tây báo tin thì để cho ta.”
Văn Thái Lai không nhiều lời nữa. Chàng hiểu đã là anh hùng đối đãi với nhau, thì những chuyện như thế này không cần phải cám ơn, mà cũng không phải nói một tiếng cám ơn là đủ đền đáp. Chàng lấy trong bọc ra một đóa hoa bằng nhung đỏ, trao cho Lục Phi Thanh rồi nói: “Tiền bối đi đến An Tây hãy cài đóa hoa này lên ngực áo, tệ hội chắc chắn sẽ có người đến nghênh tiếp.”
Lạc Băng dìu Văn Thái Lai xuống đất. Dư Ngư Đồng lại lôi hai thi thể dưới đất lên giường, phủ chăng đắp lại. Lục Phi Thanh mở cửa phòng đi ra ngoài một cách đàng hoàng, rồi lên ngựa phi về hướng tây.
Một lúc sau, Dư Ngư Đồng tay cầm kim địch mở đường, Lạc Băng một tay cầm cây gài cửa làm gậy chống, một tay dìu Văn Thái Lai đi ra khỏi phòng. Chưởng quĩ và bọn tiểu nhị trong khách sạn đã thấy họ ác chiến giết người mấy ngày nay, sợ đến vỡ mật, cứ đứng xa xa không dám tới gần.
Dư Ngư Đồng để ít bạc vụn lên quầy rồi nói: “Đây là tiền phòng và tiền cơm. Trong phòng của ta có hai món đồ rất quí, tạm thời gởi lại. Nếu có ai dám vào phòng, thiếu đi một món là ta phải về tính sổ nợ.”
Chưởng quĩ vâng dạ liên hồi, thở cũng không dám thở mạnh. Tên tiểu nhị dắt ngựa của ba người đến, tay cũng run rẩy không ngớt. Hai chân Văn Thái Lai không đứng vững được, chàng bèn dùng tay trái ấn khẽ lên yên ngựa, mượn sức nhẹ nhàng vọt lên ngồi.
Dư Ngư Đồng khen ngợi: “Công phu của Tứ ca thật là tuyệt diệu.” Lạc Băng mỉm cười, cũng lên ngựa cầm lấy dây cương, ba con ngựa nối đuôi nhau chạy về hướng đông.
Lúc còn ở thị trấn, Dư Ngư Đồng đã hỏi rõ ràng đường đến Thiết Đảm trang. Ba người chạy nhanh về hướng đông nam, chạy một hơi mười lăm mười sáu dặm, rồi hỏi tiếp thì biết không lâu nữa sẽ đến.
Lạc Băng âm thầm mừng rỡ, trong lòng nghĩ: “Đến được Thiết Đảm trang thì chắc chắn phu quân thoát nạn. Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm trang oai danh lừng lẫy vùng tây bắc, hai đạo hắc bạch đều không ai không kính nể, việc to bằng trời cũng gánh nổi. Bọn ta chỉ cần nghỉ ngơi dưỡng sức, đợi viện trợ của Hồng Hoa Hội đến nơi. Lúc đó thì bọn ưng trảo có đưa thiên quân vạn mã đến đây cũng có cách đối phó như thường.”
Con đường đá cát này trông thật hoang vu, hai bên cỏ dại mọc kín. Đột nhiên nghe tiếng vó ngựa gấp rút, phía trước có ba con ngựa chạy tới. Người cưỡi ngựa là hai hán tử khỏe mạnh tinh anh, và một lão già thân hình khôi vĩ, tóc trắng như bông, sắc mặt hồng hào, tay trái xoay chuyển hai quả cầu bằng sắt nghe loảng choảng. Lúc đi qua mặt, cả ba người đều nhìn Văn Thái Lai, sắc mặc lộ vẻ kinh ngạc. Sáu con ngựa đều đang chạy rất nhanh nên chỉ trong khoảnh khắc đã xa nhau mười mấy trượng.
Dư Ngư Đồng lên tiếng: “Tứ ca! Tứ tẩu! Không chừng ông ấy chính là Thiết Đảm Chu Trọng Anh.”
Lạc Băng nói: “Ta cũng nghĩ như thế. Thần khí như thế thì chắc chắn là nhân vật không phải tầm thường, hơn nữa trong tay lại cầm hai quả thiết đảm.”
Văn Thái Lai cũng nói: “Nhiều phần chắc là thế, nhưng ông ấy đi nhanh như thế, chắc là đang có việc gấp. Chặn đường người ta để hỏi danh tánh thì không ổn, chúng ta đến Thiết Đảm trang rồi sẽ tính sau.”
Đi vài dặm nữa thì đến trước Thiết Đảm trang. Lúc này trời đã sắp tối, gió nổi mạnh, mây sà xuống thấp hơn. Ánh chiều tà soi sáng một vùng hoang dã mênh mông không bờ bến, nhìn mãi chỉ thấy cát vàng cùng mấy ngọn cỏ lơ thơ, chỉ có một trang viện lẻ loi.
Cảng hoàng hôn vốn đã buồn, tâm trạng phải vào trang nhờ cậy người ta lại càng khó chịu, dường như ba người đều mang nỗi thê lương. Ngựa đi chậm tới, thấy ngoài trang viên có suối nhỏ bao quanh, hai bên bờ trồng toàn dương liễu. Mùa này những cây dương liễu hoàn toàn trơ trụi, không có một chiếc lá nào, những cành liễu nghiêng theo gió đông đang thổi. Ngoài trang có bố trí những trạm gác, có cả cầu treo và lầu canh, khí thế rất lớn.
Trang đinh mời ba người vào trang, ngồi trong đại sảnh dùng trà. Một hán tử trung niên có vẻ quản gia, tự xưng họ Tống, tên là Thiện Bằng, rồi thỉnh giáo danh tánh quí khách. Ba người bọn Văn Thái Lai đều xưng tên thật.
Tống Thiện Bằng nghe nói là nhân vật Hồng Hoa Hội, trong lòng cũng hơi kinh hãi liền nói: “Nghe nói quí hội lập nghiệp ở Giang Nam, trước nay rất ít ra tới vùng biên ải này. Không biết ba vị tìm tệ lão trang chủ có điều gì chỉ giáo, tiếc là trang chủ của bọn tiểu nhân vừa ra ngoài.” Y vừa nói vừa xem xét những người mới đến. Hồng Hoa Hội oai chấn thiên hạ, chính y cũng có phần tôn kính, nhưng y biết Hồng Hoa Hội và lão trang chủ trước nay chưa từng đi lại với nhau. Lần này đối phương đột ngột đến đây vì chuyện tốt xấu ra sao chưa hiểu, nên lúc nói chuyện không khỏi lộ vẻ hoài nghi lạnh nhạt.
Văn Thái Lai nghe nói Chu Trọng Anh không có ở nhà, nên không đưa lá thư của Lục Phi Thanh ra. Chàng thấy Tống Thiện Bằng tuy cung kính lễ phép nhưng có phần nhút nhát, ra vẻ định cự tuyệt người ta, nên trong lòng hơi giận, bèn nói: “Chu lão anh hùng đã không có ở nhà, thế thì chúng ta xin cáo lui vậy. Chúng ta đến bái trang không có việc gì quan trọng, chỉ vì từ lâu đã ngưỡng mộ oai danh Chu lão anh hùng nên gặp dịp bèn đến thăm chiêm ngưỡng, tiếc là phen này không gặp may.” Chàng vừa nói vừa vịn ghế, cố gắng đứng dậy.
Tống Thiện Bằng vội nói: “Xin quí vị đừng vội, dùng bữa cơm rồi hãy đi.” Rồi y quay đầu lại dặn dò một tên trang đinh gì đó, gã này gật đầu vâng dạ rồi rời phòng.
Văn Thái Lai nhất định đòi đi, Tống Thiện Bằng bèn nói: “Vậy thì xin đợi chốc lát, nếu không lão trang chủ trở về sẽ khiển trách tiểu nhân đối đãi với quí khách không đúng lễ.” Đang nói chuyện thi trang đinh bưng một cái khay ra, trên khay có đặt hai đĩnh bạc ba mươi lạng, tổng cộng là sáu chục lạng bạc.
Tống Thiện Bằng đón lấy cái khay đó rồi nói với Văn Thái Lai: “Văn gia! Chút lễ vật này không đủ tỏ lòng thành kính. Ba vị đường xa tới đây, tệ trang không tiếp đãi được đàng hoàng. Xin quí vị nể mặt mà nhận lấy chút tiền tiêu vặt.”
Văn Thái Lai nghe thế đột nhiên nổi giận, nghĩ bụng: “Ta vì nguy cấp phải đến tìm nơi trú ẩn, không ngờ bị ngươi coi là bọn bòn rút mạt hạng giang hồ.” Chàng trước nay rất kiêu ngạo, phen này đến Thiết Đảm trang nhờ cậy đã là ép mình lắm rồi, nào ngờ phải chịu nhục thế này. Lạc Băng thấy chồng đổi sắc mặt, bèn nhẹ nhàng nắm tay tỏ ý khuyên chồng đừng giận dữ.
Văn Thái Lai cố nén giận, đưa tay trái cầm lấy hai đĩnh bạc rồi nói: “Chúng ta đến viếng bảo trang, không có ý xin tiền. Tống bằng hữu coi thường chúng ta quá rồi.”
Tống Thiện Bằng liên tiếp: “Không dám” nhưng trong lòng lại nghĩ: “Nếu ngươi không có ý xin tiền, thì sao lại cầm hai đĩnh bạc này lên?” Y biết danh tiếng Hồng Hoa Hội rất lớn, nên đã tặng lễ vật có phần đặc biệc hơn khách thường.
Văn Thái Lai lạnh nhạt cười khẩy một tiếng, rồi đặt bạc trở lại khay, nói: “Cáo từ.”
Tống Thiện Bằng nhìn thấy lập tức giật mình, hai đĩnh bạc to tướng vừa rồi đã bị ông khách này vận nội lực bóp dẹp như bánh bột. Y vừa xấu hổ vừa lo lắng, nghĩ thầm: “Bản lãnh người này không phải thứ thường, chắc đến đây để trả thù hay quấy rối gì đó.”
Y liền khẽ bảo tên trang đinh đứng phía sau lưng mấy câu, dặn mau vào hậu đường báo cho đại phu nhân biết, còn chính mình thì tiễn ba người khách ra khỏi trang, liên tiếp nói lời tạ lỗi, nhưng Văn Thái Lai cứ mặc kệ. Ba trang đinh dắt ngựa của khách tới, Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng ôm quyền cám ơn Tống Thiện Bằng, nói một câu: “Đã quấy rầy” rồi lập tức lên ngựa.
Lạc Băng lấy trong bọc ra một thỏi vàng nặng khoảng mười lạng, đưa cho tên trang đinh dắt ngựa của mình rồi nói: “Làm phiền các ngươi, tặng chút quà cho ba người uống ly rượu nhạt.” Nàng vừa nói vừa vẫy tay chào hai tên trang đinh kia.
Mười lượng vàng này, so với hai đĩnh bạc Tống Thiện Bằng đưa tặng thì giá trị hơn nhiều. Ba tên dắt ngựa này cực khổ suốt đời cũng chưa chắc đã có nhiều tiền đến thế. Tay chúng cầm thỏi vàng nặng trĩu mà không dám tin là sự thật, mừng rỡ đến quên cả cám ơn. Lạc Băng mỉm cười lên ngựa.
Thì ra Lạc Băng chào đời chưa được bao lâu, mẫu thân đã tạ thế. Phụ thân nàng Thần Đao Lạc Nguyên Thông vốn là độc hành đại hiệp, một người một ngựa chuyên đi cướp bọn nhà giàu độc ác. Ông từng một đêm đánh phá ba gia đình phú hộ ở Kim Lăng, dùng ba món trường đao, đoản đao, phi đao đánh tan hết đám võ sư bảo vệ ba nhà, bắt chúng cúp đuôi mà chạy, từ đó danh chấn giang hồ. Mỗi lần ông hành sự đều có thăm dò kỹ lưỡng, nếu đúng là khổ chủ mang nhiều tiếng xấu, làm điều bất nghĩa mới ra tay. Vì thế mỗi lần ông cướp được nhiều thì trong lòng lại càng vui vẻ, thật là nhân tâm đại khoái.
Lạc Nguyên Thông chiều chuộng đứa con gái một của mình hết mức, hơn nữa tính tình ông cũng hào phóng sẵn rồi. Một mình ông vừa là nghiêm phụ vừa là từ mẫu, lại ít hiểu tính tình của nữ nhị, nên nuôi con khôn lớn không phải là chuyện dễ. May mà ông kiếm tiền hết sức dễ dàng, cứ hết thì lại lấy của người khác, tất cả những gia đình làm giàu bất chính trong thiên hạ đều là kho để ông gửi vàng bạc. Con gái chỉ cần mở miệng hay chìa tay, cần một trăm lạng thì có một trăm, nếu xin một ngàn không chừng sẽ cho hai ngàn, nên dễ hiểu là Lạc Băng từ nhỏ đã có tính khí hào phóng vô cùng. Nói đến tiêu xài, thì ngay cả những thiên kim tiểu thư của hoàng thân quốc thích cũng không thể nào sánh được với cái phóng khoáng của cô gái con nhà đại đạo này.
Lạc Băng từ nhỏ đã rất hay cười, chỉ cần gặp chút chuyện vui là có thể cười khúc khích cả nửa ngày. Bất kể là ai, nhìn thấy một cô bé luôn luôn tươi cười như thế cũng không thể không đem lòng thương mến. Sau khi lấy Văn Thái Lai, tính hay cười của nàng vẫn không thay đổi. Thế nên Văn Thái Lai tuy lớn hơn nàng đến mười mấy tuổi, nhưng ngoài lão đà chủ Vu Vạn Đình và mấy vị nghĩa huynh trong Hồng Hoa Hội ra, thì suốt đời chàng chỉ kính phục có người vợ này thôi.
Văn Thái Lai đang giục ngựa muốn rời khỏi đó, bỗng nghe tiếng nhạc ngựa vang vang. Một con ngựa chạy như bay tới dừng ngay trước mặt, kỵ sĩ lộn mình nhảy xuống ngựa, chắp tay hướng về Văn Thái Lai mà nói: “Quả nhiên là ba vị đến tệ trang! Xin mời vào trong trang uống chén trà.”
Văn Thái Lai đáp: “Chúng ta đã quấy rầy rồi, để hôm khác sẽ quay lại thăm viếng.”
Người kia nói: “Khi nãy gặp ba vị giữa đường, lão trang chủ cũng đoán là ba vị đến tệ trang, lúc đó cũng muốn quay lại, nhưng vì đang có việc cần, nên mới sai tiểu đệ nhanh chóng quay về đón tiếp quí khách. Lão trang chủ rất thích giao kết bằng hữu, vừa thấy ba vị đã biết ngay là anh hùng hào kiệt nên rất vui mừng. Ông ấy dặn bất luận ra sao thì tối nay cũng nhất định về trang, xin ba vị hãy ở lại chờ. Có chỗ nào không được chu tất, khi lão trang chủ trở về sẽ đích thân tạ lỗi.”
Văn Thái Lai thấy người này tầm vóc trung bình, eo thon vai rộng, chính là một người đã gặp dọc đường lúc nãy. Chàng nghe y nói chuyện thành khẩn nên cũng nguôi giận.
Người kia mời ba người Văn Thái Lai vào trong trang rồi tự xưng họ Mạnh tên Kiện Hùng, là đại đệ tử của Thiết Đảm Chu Trọng Anh, lời lẽ mười phần cung kính. Tống Thiện Bằng đứng cạnh, thật là xấu hổ không để đâu cho hết. Phân ngôi chủ khách cùng ngồi, bắt đầu dùng trà thì một trang đinh ra ghé vào tai Mạnh Kiện Hùng nói nhỏ. Mạnh Kiện Hùng đứng dậy nói: “Sư nương của tại hạ mời vị nữ anh hùng này vào nghỉ ở nội đường.”
Lạc Băng đi theo tên trang đinh vào trong, qua hết đại sảnh thi có một đứa tỳ nữ dẫn nàng vào nhà trong. Từ xa đã nghe có tiếng nữ nhân la lên: “Ái chà! Quí khách giáng lâm, thật là đón tiếp chậm trễ mất rồi.” Một nữ nhân hơn bốn mươi tuổi sải bước tiến tới, kéo tay Lạc Băng ra chiều thân mật rồi nói: “Lúc nãy nghe chúng nói có anh hùng Hồng Hoa Hội đến đây, rồi lại nói quí vị chỉ ngồi một lúc rồi đi. Ta đang buồn bã, thì may mà quí vị nể mặt quay lại, lão gia của chúng ta chắc cũng rất vui. Các vị đừng đi nữa, nơi này tuy chật hẹp nhưng cứ ở chơi vài ngày đã…”
Bà quay đầu lại nói với mấy cô tỳ nữ: “Thiếu phu nhân này thật là xinh đẹp, ngay cả tiểu thư nhà chúng ta cũng không sánh kịp.”
Lạc Băng nghĩ bụng: “Vị thái thái này thật là mở miệng không biết lựa lời.” Nàng bèn nói: “Chưa biết phải xưng hô như thế nào, còn đương gia của tiểu muội họ Văn.”
Nữ nhân kia nói: “Ta hồ đồ quá đi mất, vừa thấy một cô muội muội xinh đẹp thế này đã vui mừng quá, quên cả giới thiệu.” Rốt cuộc bà vẫn không nói mình là ai. Một đứa tỳ nữ phải lên tiếng: “Vị này là phu nhân của lão trang chủ.”
Nữ nhân này là vợ kế của Chu Trọng Anh. Người vợ trước của Chu Trọng Anh sinh được hai trai, nhưng đều vì chuyện ân oán giang hồ mà mất mạng hết. Bà kế thất này sinh được một gái tên là Chu Ỷ, năm nay mười tám tuổi, bản tính hiếu sự, thường ra ngoài gây chuyện. Lúc nãy Chu Trọng Anh phải gấp rút ra ngoài cũng vì cô đại tiểu thư này đả thương người khác, phận làm cha phải mau mau đi xin lỗi.
Vợ kế đã sinh được một gái rồi mãi không sinh nữa. Chu Trọng Anh đã nghĩ: “Mình lớn tuổi rồi, xem ra số phận của mình là không người nối dõi.” Nào ngờ năm ông năm mươi tư tuổi lại sinh được một trai. Vợ chồng già mà sinh được con trai vào tuổi xế chiều, đương nhiên mừng rỡ vô cùng. Bạn bè thân hữu đều cung kính ca tụng là làm phước được phước, báo đáp tức thời.
Mời khách ngồi xong, Chu phu nhân bảo: “Mau gọi thiếu gia tới đây cho Văn phu nhân gặp mặt.” Một đứa bé từ buồng trong đi ra, mặt mày thanh tú, tay chân linh hoạt nhẹ nhàng, nhìn đã biết đã học mấy năm võ nghệ. Thằng bé khấu đầu bái kiến Lạc Băng, kêu một tiếng: “Thẩm thẩm.”
Lạc Băng nắm tay cậu, hỏi bao nhiêu tuổi, tên là gì. Đứa bé nói: “Năm nay cháu muời tuổi rồi, tên là Chu Anh Kiệt.”
Lạc Băng cởi xâu chuỗi đeo trên tay trái ra, đưa tặng rồi nói: “Ta từ xa đến đây không kịp mua quà, tặng cháu mấy hạt châu để gắn lên mũ đội chơi.”
Chu phu nhân thấy xâu chuỗi này hạt nào cũng to tròn, thật là quí báu, nghĩ bụng: “Vừa mới gặp lần đầu, sao dám nhận lễ hậu đến thế?” Và vừa kêu la vừa than thở, từ chối mãi mà không được, cuối cùng đành phải bảo con trai khấu đầu cảm tạ.
Đột nhiên một cô tỳ nữ hớt hải chạ vào, kêu lớn: “Văn phu nhân! Văn đại gia ngất xỉu ngoài kia rồi.” Chu phu nhân liền cho người đi gọi đại phu, còn Lạc Băng vội vã chạy ra đại sảnh để chăm sóc trượng phu.
Thì ra Văn Thái Lai đang bị thương rất nặng, vừa rồi lại còn nổi giận vận sức để bóp bẹp hai thỏi bạc. Lúc chàng còn duy trì được kình lực để giữ cho đừng ngã thì không sao, nhưng vừa buông lỏng là không thể chống đỡ được nữa. Lạc Băng thấy sắc mặt chồng mình cắt không ra máu, thần trí hôn mê, nên rất đau lòng lo lắng, liên tiếp gọi đại ca. Qua một hồi lâu Văn Thái Lai mới từ từ tỉnh lại.
* * *
Mạnh Kiện Hùng gấp rút sai trang đinh phóng ngựa lên thị trấn mời đại phu, nhân tiện báo cho lão trang chủ biết là đã giữ khách lại chơi. Y dẫn tên trang đinh ra tới cửa trang, vừa đi vừa dặn dò, rồi nhìn hắn lên ngựa chạy về hướng Triệu gia bảo. Lúc y quay người định đi vào trong, thì bỗng thấy sau một cây liễu ngoài trang có bóng người nhoáng lên một cái. Dường như người đó cũng nhìn thấy y, bèn vội vàng nấp kín…
Mạnh Kiện Hùng không nói tiếng nào, chầm chậm vào trang. Vào khỏi cổng, y chạy lẹ lên vọng lâu, nấp sau tường nhìn ra ngoài, quả nhiên thấy sau cây liễu đó có một cái đầu thò ra đưa mắt láo liên nhìn hết mọi chỗ, rồi lại rụt vào. Một lát nữa thì một hán tử vừa ốm vừa lùn chạy ra, vòng đi vòng lại phía trước trang, cứ vài bước lại nấp sau gốc liễu.
Mạnh Kiện Hùng thấy tên này lén lút, rõ ràng không phải người lương thiện, bèn chau mày đi xuống vọng lâu, gọi Chu Anh Kiệt tới dặn dò gi đó. Thằng bé cả mừng, ra vẻ khoái chí.
Mạnh Kiện Hùng chạy ra ngoài cửa trang, lớn tiếng la lên: “Hảo huynh đệ! Ta sợ ngươi rồi. Được chưa?” Y cứ chạy trước, còn Chu Anh Kiệt đuổi theo la lớn: “Để xem huynh trốn đi đâu. Thua rồi định quịt nợ phải không? Mau quì xuống lạy đệ mấy cái đi.”
Mạnh Kiện Hùng vừa chắp tay vái thằng nhỏ vừa mỉm cười xin tha, nhưng Chu Anh Kiệt quyết không chịu, cứ đưa hai bàn tay nhỏ xíu ra muốn bắt y. Mạnh Kiện Hùng chạy trốn đến chỗ cây liễu mà gã lùn kia đang núp.
Tên lùn hoảng sợ đứng thẳng dậy, giả vờ lạc đường mà hỏi: “Này! Hỏi nhờ một chút, muốn tới Tam Đạo Câu phải đi đường nào vậy?” Mạnh Kiện Hùng giả vờ không nghe, vừa cười đùa vừa chạy thẳng tới, xô vào ngực hắn một cái. Gã lùn té nhào xuống, nằm ngửa mặt nhìn trởi.
Thì ra đây là Đồng Triệu Hòa ở Trấn Viễn tiêu cục. Hắn vẫn mơ tưởng nụ cười tươi như hoa nở của Lạc Băng, tuy đã bị Văn Thái Lai cho một trận đòn mà trong lòng vẫn nghĩ: “Lão gia quyết không đến gần người đẹp, chỉ đứng xa xa nhìn thêm mấy cái, chắc không đến nỗi bị làm thịt đâu.” Vì thế mà hắn cố tìm cơ hội, thỉnh thoảng liếc vào cửa phòng của Lạc Băng để nhìn trộm.
Đến khi thấy nàng cùng Văn Thái Lai, Dư Ngư Đồng ra khỏi khách sạn, hắn biết họ đang chạy trốn liền cưỡi ngựa lén lút theo sau. Hắn không dám tới gần, cứ xa xa theo dõi, thấy họ vào Thiết Đảm trang. Một lúc sau hắn lại thấy ba người đi ra khỏi trang, nhưng không hiểu sao lại vào lần nữa, lần này thì mãi không thấy ra ngoài. Hắn muốn tìm hiểu sự thật để về báo cáo lập công, để người ta khỏi nói mình chỉ biết ăn cơm đánh rắm chứ không được tích sự gì. Đang lúc hắn thò đầu ra thám thính, không ngờ bị Mạnh Kiện Hùng chạy tới hất té nhào.
Đồng Triệu Hòa chẳng có bản lãnh gì, chỉ được cái cảnh giác. Hắn biết hành tung của mình đã lộ, người ta xô vào là muốn thử công phu của mình đây, bèn buông lỏng toàn thân, giả vờ biết võ công mà té nhào một cái, rồi vừa la vừa lồm cồm không dậy nổi. May mà võ công của hắt hết sức tầm thường, nên giả vờ không biết võ công khá dễ dàng.
Mạnh Kiện Hùng liền miệng xin lỗi, vừa mỉm cười vừa nói: “Ta mãi đùa giỡn với tiểu huynh đệ nên vô ý đụng vào tôn giá. Tôn giá ngã có đau lắm không?”
Đồng Triệu Hòa la lên: “Vai ta đay ghê gớm… Úi chao!”
Mạnh Kiện Hùng đưa tay đỡ hắn đứng dậy rồi nói: “Mời tôn giá vào trong này để ta xem thử. Ở chổ chúng ta có thuốc trị thương rất tốt.” Đồng Triệu Hòa không có cách nào từ chối bèn gắn gượng lê bước vào trang.
Mạnh Kiện Hùng dẫn hắn vào một căn phòng ở hướng đông rồi hỏi: “Tôn giá muốn đến Tam Đạo Câu phải không? Thế thì đi ngang đây để làm gì vậy?”
Đồng Triệu Hòa đáp: “Lúc nãy có một thằng chăn dê lừa gạt ta, chỉ ta đi theo con đường này. Con mẹ nó, lát nữa ta phải quay lại tính sổ với thằng khốn kiếp đó.”
Mạnh Kiện Hùng lạnh nhạt nói: “Chưa biết ai sẽ tính sổ với ai. Bây giờ phiền tôn giá cởi áo ra để ta xem thử thương thế nặng nhẹ ra sao.” Đồng Triệu Hòa không thể không vâng lời.
Nói là xem vết thương, nhưng thật ra là khám xét hắn từ trong ra ngoài, may mà hắn giấu trủy thủ trong giày nên không bị phát hiện. Mạnh Kiện Hùng còn cố ý sờ vào mấy chỗ yếu hại trên người hắn. Người biết võ công, khi biết kẻ địch chạm đến nhược điểm của mình thì nhất định phải tránh né hoặc phong tỏi, không thì coi như giao mạng cho người. Nhưnh Đồng Triệu Hòa lại nghĩ: “Đại gia đã là anh hùng thì không sợ chết, đã giả thì giả tới cùng.”
Mạnh Kiện Hùng ấn vào hai bên huyệt Thái Dương trên đầu hắn, rồi vỗ vào hai huyệt Đản Trung trước ngực. Đồng Triệu Hòa vẫn thản nhiên nói: “Ở đó không đau.” Lúc Mạnh Kiện Hùng thọc vào nách, Đồng Triệu Hòa mỉm cười nói: “Úi chà, đừng thọc léc nữa, ta sợ nhột lắm.” Những bộ vị đó đều là nhược điểm chí mạng, thế mà hắn hoàn toàn mặc kệ.”
Mạnh Kiện Hùng phải tin là thằng lùn này không hiểu võ công, nhưng ban nãy thấy hắn hành động mờ ám, nên vẫn đem lòng hoài nghi: “Nghe giọng của hắn không phải là dân bản xứ. Không chừng hắn là một tên cướp gà trộm chó phiêu dạt đến đây, chưa biết danh Thiết Đảm trang nên cả gan đụng đến.” Nhưng Thiết Đảm trang xưa nay rất biết kiêng nể vương pháp, không dám tự ý nhốt người, nên rốt cuộc cũng thả hắn về.
Đồng Triệu Hòa vừa đi vừa đảo mắt nhìn bên này bên nọ, muốn biết xem bọn Lạc Băng hiện ở chỗ nào. Còn Mạnh Kiện Hùng thì nghi ngờ hắn đi thám thính cho bọn cướp nào dó, bèn hỏi: “Ông bạn có biết đây là chỗ nào hay không?”
Đồng Triệu Hòa giả ngu đáp: “Nhà này rộng lớn hơn cả chùa miếu, nhưng lại không có tượng bồ tát.”
Mạnh Kiện Hùng đưa hắn đi qua khỏi cầu treo, rồi lạnh nhạt bảo: “Ông bạn về đi, sau này có rảnh cứ việc đến đây chơi.”
Đồng Triệu Hòa nhịn không nổi nữa, đáp lại: “Chắc là không rảnh. Bây giờ ta phải đến chỗ thằng cháu mới được. Thằng cháu của ta đang học làm đại phu, suốt ngày bắt người về cởi áo quần để tập khám nghiệm vết thương.” Mạnh Kiện Hùng nghe hắn nói chẳng đâu vào đâu, ngẩn ra suy nghĩ một lát mới biết hắn đang kiếm chuyện vòng vo chửi mình.
Mạnh Kiện Hùng bèn đưa tay vỗ mạnh lên vai hắn một cái, cười khẩy rồi quay lưng đi vào trong trang. Đồng Triệu Hòa bị vỗ đau đến thấu xương, đứng đó mắng thầm con cháu loài rùa một hồi, rồi đi tìm con ngựa của mình, chạy về An Thông khách sạn ở Tam Đạo Câu.
Hắn vừa chạy vào khách sạn đã thấy ngay Trương Triệu Trọng, Hồ Quốc Đống và bọn người trong tiêu cục đang xúm nhau thương nghị gì đó, lại còn bảy tám người lạ mặt. Cả đám đang xôn xao bàn luận, đoán xem bọn Văn Thái Lai chạy trốn phương nào, ông lão đánh chết Hàn Xuân Lâm và Phùng Huy là ai. Không ai biết rõ, nên chúng đều chau mày rầu rĩ, vì đã để bọn trọng phạm chạy thoát.
Đồng Triệu Hòa dương dương đắc ý đi vào, kể lại tông tích của Văn Thái Lai, còn chuyện mình bị người ta khám xét thì dĩ nhiên im đi không nói. Trương Triệu Trọng nghe xong vô cùng mừng rỡ, cười nói: “Chúng ta đi ngay. Nhờ Đồng lão đệ dẫn đường.” Trước nay y chỉ gọi là Lão Đồng, lần này mừng quá mà kêu là lão đệ.
Đồng Triệu Hòa vâng dạ liên hồi, cảm thấy mình sang trọng hẳn lên. Hắn không thèm để mắt đến anh em tiêu sư trong tiêu cục mình nữa, cứ thao thao kể lại mình đã thi triển võ công thế nào, mạo hiểm truy lùng ra sao, cuối cùng kết luận: “Đã là nhiệm vụ của hoàng thượng trao cho, lại là việc của của Trương đại nhân, thì họ Đồng này có mất mạng cũng quyết tìm cho ra tông tích của bọn phản tặc kia.”
Bên vai phải của Hồ Quốc Đống đã bị gãy, phải mời đại phu chuyên trật đả sắp lại chỗ khớp xương. Hắn thấy Đồng Triệu Hòa cứ kể lể mãi công lao của mình, bèn giới thiệu mấy người mới đến cho biết. Đồng Triệu Hòa vừa nghe đã kinh hãi, hóa ra đều là cao thủ số một của quan phủ cả. Nào là Thoại Đại Lâm nhị đẳng thị vệ của đại nội, nào là Vạn Khánh Lan tổng giáo đầu võ thuật của Trịnh thân vương phủ, nào là tổng binh Thành Hoàng ở Cửu môn đề đốc phủ, nào là Ngôn Bá Càn chưởng môn phái Ngôn Gia Quyền ở Thần Châu Hồ Nam, lại còn mấy vị bộ đầu của Thiên Tân và Bảo Định.
Chỉ vì việc bắt Văn Thái Lai mà đã có rất nhiều danh gia võ thuật từ nam đến bắc tập trung tới thị trấn Tam Đạo Câu nhỏ xíu này. Cả đám cùng hăm hở xắn áo xoa quyền, tiến thẳng tới Thiết Đảm trang.
* * *
Trong lúc này Lục Phi Thanh đang phi ngựa như gió thẳng về hướng tây. Lúc đi qua hẻm núi Ô Kim Hiệp, ông thấy khu đất hôm qua ác chiến đã được nước mưa rửa trôi sạch sẽ, không còn vết máu nào. Chạy thêm bốn năm chục dặm nữa thì đến một thị trấn nhỏ, bôn ba như thế nhưng tinh thần ông vẫn sung túc. Trời chưa tối lắm, đáng lẽ có thể tiếp tục lên đường, nhưng ngựa đã quá mệt, miệng sủi bọt trắng, thở hổn hển không ngừng. Thế mà việc của Văn Thái Lai gấp như chữa cháy, cứu viện tới sớm chút nào là hy vọng chút ấy.
Lục Phi Thanh đang lúc chưa biết làm sao, bỗng thấy cuối chợ có một người Hồi dắt hai con ngựa, nhìn ngang nhìn dọc như đang đợi ai đó. Ông thấy hai con ngựa này to cao đẹp đẽ, lông mượt sáng, trong lòng liền nảy ra ý nghĩ hỏi mua.
Người Hồi lắc đầu không bán, Lục Phi Thanh lấy trong túi vải ra một thỏi bạc rất lớn, khoảng chừng hai chục lượng, nhưng người Hồi vẫn lắc đầu. Lục Phi Thanh sốt ruột quá, bèn dốc hết túi ra. Trong túi còn sáu bảy thỏi bạc nhỏ, ông dồn chung với thỏi lớn đưa hết cho người kia, nhưng người Hồi đó vẫn xua tay bảo ông đi đi, ngựa này nhất định không bán, đừng nói nhiều phí sức.
Lục Phi Thanh rầu rĩ cất mấy thỏi bạc vào trong túi. Người Hồi kia đột nhiên nhìn thấy giữa mấy thỏi bạc còn có một viên thiết liên tử, bèn đưa tay cầm lấy nhìn tỉ mỉ, thấy trên ám khí có khắc hình một cái lông vũ. Thì ra đêm Lục Phi Thanh thám thính ngoài lều của bộ tộc người Hồi, Hoắc Thanh Đồng đã dùng viên thiết liên tử này bắn ông, ông dùng bình trà hứng được, rồi tiện tay nhét vào túi. Chuyện này chính ông cũng đã suýt quên.
Người Hồi kia hỏi: “Ở đâu ông có hạt thiết liên tử này?”
Lục Phi Thanh suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Ra có một người bạn là nữ nhân Hồi tộc, trên đầu cắm một cái lông vũ màu xanh, sử dụng trường kiếm. Vật này là của cô ấy tặng ta.”
Người Hồi gật đầu một cái, xem xét tỉ mỉ rồi trả cho Lục Phi Thanh, lại giao con tuấn mã cho ông. Lục Phi Thanh cả mừng, vội lấy bạc ra trả, nhưng người Hồi lắc đầu rồi dắt con ngựa của Lục Phi Thanh quay đầu đi ngay.
Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Không ngờ một tiêu cô nương xinh đẹp như hoa mà đối với những người Hồi tộc lại oai phong như thế. Viên thiết liên tử này chẳng khác gì lệnh tiễn.”
Thì ra người Hồi này cũng thuộc bộ tộc của Hoắc Thanh Đồng. Lần này họ đi về hướng đông để doạt kinh, đã thiết lập nhiều trạm ở các thị trấn dọc đường để điều động nhân mã và truyền tin tức. Hắn nhìn thấy một ông lão cầm hạt thiết liên tử đi về hướng tây, nghĩ rằng ông đã giúp phe mình, nên không chút do dự mà giao cho một con ngựa tốt, đổi lấy con ngựa đang mệt mỏi của ông.
Lục Phi Thanh ruổi ngựa chạy nhanh, đến thị trấn phía trước lại gặp một người Hồi. Ông lại đưa hạt thiết liên tử ra, lập tức đổi được một con ngựa khỏe. Lần này trao đổi được một con ngựa khỏe. Lần này trao đổi được dễ dàng hơn, vì trên mông con ngựa đã có ám ký của bộ tộc. Ông dùng ngựa của bổn tộc để đổi, nên không ai hoài nghi gì hết.
Lục Phi Thanh cứ đổi ngựa dọc đường, còn chính mình thì ăn lương khô trên mình ngựa, mới một gày một đêm đã đi được hơn sáu trăm dặm, chiều tối hôm sau đã đến An Tây. Võ công của ông thâm hậu, mà phái Võ Đang lại rất chú trọng về tu dưỡng nội lực, nhưng dù sao ông cũng cao tuổi rồi, phi ngựa một ngày một đêm không nghỉ ngơi dĩ nhiên phải mệt mỏi.
Vào trong thành, ông lấy đóa hoa hồng của Văn Thái Lai ra, cài lên ngực áo. Mới đi mấy bước là trước mặt đã có hai hán tử mặc áo chẽn đến chắp tay thi lễ, mời ông vào tửu lâu dùng cơm. Lục Phi Thanh không từ chối. Đến tửu lâu, một hán tử ngồi lại tiếp ông uống rượu, còn hán tử kia nói một câu xin lỗi rồi chạy vội đi. Hán tử ở lại với ông hết sức cung kính lễ phép, không hỏi câu nào, chỉ mở miệng để gọi thức ăn và mời rượu mà thôi.
Uống được ba chén, bên ngoài có một người vội vã tiến vào, đến trước mặt Lục Phi Thanh thi lễ. Lục Phi Thanh cũng đứng dậy đáp lễ, thấy y mặc trường bào màu xanh, tuổi độ tam tuần, mắt rất sáng, oai khí ép người. Người đó thỉnh giáo danh tánh, Lục Phi Thanh đáp ngay.
Y nói: “Thì ra là Lạc lão ca tiền bối ở phái Võ Đang. Thường nghe Triệu tam ca Triệu Bán Sơn nhắc đến đại danh của tiền bối, tại hạ ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được gặp thật là may mắn.”
Lục Phi Thanh nói: “Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh.”
Y đáp: “Vãn bối là Vệ Xuân Hoa.”
Hán tử vừa bồi rượu lão trượng lên tiếng: “Mời lão anh hùng ngồi xuống.” Rồi hắn thi lễ với hai người, xong rời khỏi đó.
Vệ Xuân Hoa nói: “Thiếu đà chủ của tệ hội cùng rất nhiều huynh đệ đang ở đây, nếu biết lão tiền bối đại giá quang lâm chắc chắn phải cử nhiều người ra ngoài thị trấn để đón tiếp. Bây giờ đã lỡ rồi, không biết lão tiền bối có thể đi đến chỗ bọn tại hạ để mọi người được bái kiến hay không?”
Lục Phi Thanh đáp: “Thế thì tốt quá. Ta đến đây cũng vì việc của quí hội.” Vệ Xuân Hoa muốn mời rượu tiếp, nhưng Lục Phi Thanh đã nói: “Việc rất khẩn cấp, sau khi gặp các vị anh hùng của quí hội sẽ uống tiếp cũng không muộn.”
Vệ Xuân Hoa lập tức dẫn đường ra khỏi tửu lâu, không cần gọi chưởng quĩ tính tiền rượu. Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Không chừng tửu lâu này là nơi liên lạc của Hồng Hoa Hội.”
Hai người phi ngựa ra khỏi thành, Vệ Xuân Hoa mới hỏi: “Lão tiền bối đã gặp Văn tứ ca và Văn tứ tẩu của tại hạ phải không?”
Lục Phi Thanh đáp: “Đúng vậy. Sao các hạ biết?”
Vệ Xuân Hoa nói: “Đóa hoa hồng trên ngực lão tiền bối là của Văn tứ ca, có bốn cái lá xanh.”
Lục Phi Thanh nghĩ: “Đây là ám hiệu trong hội mà y thẳng thắn nói ra, không coi ta như người ngoài. Chắc chắn y nghĩ ta cũng là người trong hội.”
Chỉ chốc lát hai người đã đến một đạo quán. Trước sau quán đều có những cây to mọc thẳng đâm lên trời, khí thế hùng vĩ. Phía trước quán có một tấm hoành phi viết bốn chữ lớn: Ngọc Hư Đạo Viện. Hai đạo nhân đứng trước cửa, nhìn thấy Vệ Xuân Hoa bèn tỏ vẻ cung kính. Vệ Xuân Hoa dẫn khách vào trong quán. Một tên đạo đồng bưng trà lên mời, Vệ Xuân Hoa ghé tai nói nhỏ mấy câu, đạo đồng bèn vâng dạ vào trong.
Lục Phi Thanh vừa nâng chén trà lên, đã nghe trong nội đường có tiếng la lớn: “Lục đại ca! Tiểu đệ nhớ đại ca đến chết người…” Lời chưa dứt, người đã chạy tới nơi, chính là Triệu Bán Sơn, bằng hữu tâm giao, năm xưa đã kết nghĩa thề cùng sinh tử với Lục Phi Thanh.
Bạn cũ gặp nhau, vui mừng thật không sao tả xiết. Triệu Bán Sơn hỏi liền miệng: “Mấy năm nay huynh ở đâu. Làm sao huynh tới đây được?”
Lục Phi Thanh chưa trả lời vội, chỉ nói: “Triệu hiền đệ! Chúng ta có việc khẩn cấp, phải bàn trước đã. Văn tứ gia của quí hội đang gặp nạn.” Ông bèn kể lại tình hình của Văn Thái Lai và Lạc Băng, chỉ nghe sơ sơ là hai người họ Triệu và họ Vệ thay đổi hẳn sắc mặt. Vệ Xuân Hoa chưa nghe hết đã chạy vội vào trong để báo tin, còn Triệu Bán Sơn hỏi tỉ mỉ về thương tích của họ Văn và họ Lạc.
Lục Phi Thanh chưa nói xong, đã nghe Vệ Xuân Hoa cãi nhau lớn tiếng ở sân sau. Người kia la lên: “Huynh cản ta làm chi! Ta không thể không lập tức đi cứu Tứ ca.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Đừng vội vã mà hư sự. Chúng ta phải bàn bạc trước, quyết định phải làm thế nào, rồi thiếu đà chủ mới hạ lệnh bảo ai đi đón Tứ ca chứ?” Người kia vẫn la lớn, nhất định không chịu.
Triệu Bán Sơn kéo tay Lục Phi Thanh vào trong. Lục Phi Thanh thấy một người gù đang quát tháo om sòm, nhớ ra đây là người đã dùng tay cắt đứt đuôi con ngựa của Lý Nguyên Chỉ hôm trước.
Vệ Xuân Hoa đẩy người gù một cái rồi bảo: “Tới tham kiến Lục lão tiền bối đi.” Người gù đi tới, giương to mắt nhìn một lúc, không nói năng gì.
Lục Phi Thanh tưởng là y nhớ mặt mình nên không vui vì chuyện hôm ấy bị Lý Nguyên Chỉ chọc tức. Ông đang định xin lỗi, người gù đột nhiên lên tiếng: “Ông một ngày một đêm chạy sáu trăm dặm đường, để đến đây báo tin Tứ ca Tứ tẩu. Chương đà tử mỗ cảm ơn ông lắm.” Y chưa nói xong đã đột nhiên quì xuống dập đầu binh binh xuống thềm đá.
Lục Phi Thanh muốn cản mà không kịp, chỉ còn cách quì xuống trả lễ. Người gù kia dập đầu xong lập tức đứng dậy nói: “Triệu tam ca! Vệ cửu ca! Ta đi trước đây.” Triệu Bán Sơn gọi bảo y đợi chút xíu, nhưng người gù không hề quay đầu lại, đi thẳng ra ngoài.
Y đi tới khung cửa hình mặt trăng thì bên ngoài có người đi vào, kéo tay lại hỏi: “Đi đâu thế?”
Người gù đáp: “Tới chỗ Tứ ca Tứ tẩu. Theo đệ đi!” Y không để người kia nói năng gì cả, xoay tay nắm lại đẩy người kia, cứ thế lôi đi.
Triệu Bán Sơn kêu lớn: “Thất đệ! Đi với hắn đi.” Người kia xa xa vâng dạ trả lời.
Người gù này họ Chương tên Tấn, tính tình thẳng thắng nhất đời. Y mới sinh ra đã bị gù lưng, nhưng có thần lực hơn người, lại luyện thành công phu ngoại gia. Y bị khuyết tật nên ghét nhất là bị người ta gọi là gù, nhưng chuyên lại tự xưng là Chương đà tử. Y tự nói mình gù thì sao, nhưng người khác mà trước mặt nhắc đến một chữ Đà, thậm chí nhìn cái lưng gù của y mà cười một cái, coi như gặp họa. Người thường mà nhìn, thì y còn có thể cho qua, nhưng nếu là người biết võ nghệ thì chắc chắn sẽ bị y đánh cho một trận nên thân.
Trong Hồng Hoa Hội thì Chương Tấn nghe lời của Lạc Băng nhất. Cũng vì tính tình y cổ quái nên ai cũng kiêng kỵ phần nào, chỉ có Lạc Băng cảm thông vì y tàn phế nên hay lo lắng cho y những chuyện cơm nước áo quần, coi y như một người em nhỏ vậy. Y vừa nghe thấy vợ chồng Văn Thái Lai gặp nạn là máu nóng sôi lên hừng hực, muốn chạy đi cứu viện ngay.
Chương Tấn trong Hồng Hoa Hội xếp hàng thứ mười. Người bị y lôi đi xếp hàng thứ bảy, tên Từ Thiên Hoằng. Họ Từ thân thể thấp bé nhưng túc trí đa mưu coi như quân sư trong Hồng Hoa Hội, mà võ công cũng không tệ. Giang hồ tặng cho y ngoại hiệu Võ Gia Cát.
Nhiều người trong Hồng Hoa Hội chạy ra bái kiến. Triệu Bán Sơn mở lời giới thiệu, đều là những bậc anh hùng hảo hán đã thành danh trong võ lâm cả, mà đại đa số Lục Phi Thanh đã gặp dọc đường rồi. Mọi người đều đang lo lắng, nên chẳng ai nói mấy câu khách sáo thông thường. Sau khi Lục Phi Thanh kể một hồi nữa về tình hình của Văn Thái Lai, vị Nhị đương gia cụt một cánh tay là Vô Trần đạo trưởng bèn bảo: “Chúng ta cùng đi gặp thiếu đà chủ!”
Mọi người ra sau hậu viện, vào một gian nhà rộng thì thấy trên vách có khắc một bàn cờ vây rất lớn. Phía ngoài ba trượng có hai người ngồi trên phản, tay cần những quân cờ bắn vào bàn cờ dựng đứng kia, quân cờ cũng được bắn rất chính xác vào người điểm trên bàn cờ. Lục Phi Thanh kiến thức rộng, nhưng trước giờ chưa thấy ai chơi cờ như thế.
Đứng cạnh bàn cờ có một tiểu đạo đồng, thấy con cờ nào bị bắt chết thì đưa tay gỡ khỏi bàn cờ. Người cầm cờ trắng là một thiếu niên công tử mặc trường bào màu trắng, mặt đẹp như ngọc, trông như con cái nhà quí tộc. Người cầm cờ đen là một ông lão trông như nông dân.(4)
Mỗi lần ông lão bắn quân cờ ra là kình phong rít lên veo véo, quân cờ cắm sâu vào vách. Trong lòng của Lục Phi Thanh âm thầm kinh hãi. Ông không biết đây là vị anh hùng nào, nhưng thủ kình phát xạ ám khí rất mạnh và chuẩn xác, cả đời ông chưa gặp người thứ hai như thế.
Bên cờ đen đã gặp nguy hiểm sắp thua, chỉ cần bên trắng hạ một quân nữa là phân thắng bại. Nhưng công tử kia lại bắn một quân cờ không chính xác, không trúng vào chỗ giao điểm của đường ngang đường dọc mà gắn vào một chỗ trống. Ông lão cười ha hả nói: “Thế là thế nào? Chịu thua rồi phải không?” Rồi lão đẩy hộp quân cờ ra, đứng dậy.
Công tử mỉm cười nói: “Lát nữa sẽ tái đấu với sư phụ.” Ông lão kia không chào hỏi mọi người, cứ sải bước đi ra khỏi cửa.
Triệu Bán Sơn nói với công tử đó: “Thiếu đà chủ! Vị này là danh túc tiền bối phái Võ Đang, Lục đại ca Lục Phi Thanh.” Y lại nói với Lục Phi Thanh: “Đây là thiếu đà chủ của bọn ta, hai vị làm quen đi.”
Thiếu đà chủ chắp tay thi lễ rồi nói: “Tiểu điệt họ Trần tên Gia Lạc, xin lão bá thường xuyên chỉ giáo. Tiểu điệt cũng nhiều lần nghe Triệu tam ca nhắc đến đại danh của lão bá, nghĩ đến anh phong hào kiệt mà hận mình chưa có duyên bái kiến. Vừa rồi chơi cờ với sư phụ lại không biết lão bá đến đây để đích thân nghênh tiếp, thật là thất lễ, nghĩ lại áy náy vô cùng.” Lục Phi Thanh liên tiếp nói câu không dám, trong lòng cảm thấy kỳ lạ. Thì ra vị thiếu đà chủ này lại ra vẻ con cái thế gia vọng tộc, ăn nói rất đàng hoàng văn nhã, không có chút gì là lỗ mãng.
Triệu Bán Sơn kể Trần Gia Lạc nghe chuyện Văn Thái Lai tị nạn ở Thiết Đảm trang, rồi thỉnh thị đối sách. Trần Gia Lạc nói với Vô Trần đạo trưởng: “Xin đạo trưởng cứ dặn dò.”
Một đại hán đứng sau lưng Vô Trần đạo trưởng bỗng giận dữ lên tiếng: “Tứ ca đang bị trọng thương. Người chưa từng quen biết cũng chạy suốt ngày đêm đến đây báo tin, còn bản thân chúng ta thì mãi đẩy qua đẩy lại. Chẳng lẽ đợi đến khi Tứ ca mất mạng rồi mới thôi nhường nhịn hay sao? Di mạng cũa lão đương gia, chẳng ai dám không tôn trọng. Thiếu đà chủ không chịu vâng theo di chúc của nghĩa phụ chính là bất hiếu, cũng chính là coi thường huynh đệ chúng ta. Thiếu đà chủ không chịu làm thủ lĩnh, thì bảy tám vạn anh em Hồng Hoa Hội phải giải tán hết hay sao?” Lục Phi Thanh thấy người này cao mập, sắc mặt đen sì, thần thái rất oai dũng. Vừa rồi Triệu Bán Sơn đã giới thiệu đó là người đứng hàng thứ tám trong hội, tên là Dương Thành Hiệp.
Quần hùng cũng nhao nhao lên tiếng: “Chúng ta không thể mãi làm con rắn không đầu. Thiếu đà chủ còn muốn nhường ngôi cho người khác, là anh em còn lo lắng. Hiện nay Tứ ca lại trong cơn hoạn nạn, mọi người đều muốn phụng lệnh của thiếu đà chủ để mau mau đi cứu viện.”
Vô Trần đạo trưởng dõng dạc tuyên bố: “Hồng Hoa Hội trên dưới có bảy mươi ngàn người. Người nào không chịu nghe hiệu lệnh của thiếu đà chủ, thì đến so kiếm với Vô Trần mỗ trước đã.” Trần Gia Lạc thấy mọi người đều đồng lòng như thế, khó tìm lời từ chối nên cứ chau mày im lặng.
Thường Hách Chí trong Tây Xuyên Song Hiệp lạnh nhạt bảo em: “Đệ đệ! Thiếu đà chủ coi thường chúng ta rồi. Hai anh em ta đi đón Tứ ca rồi cùng về Tây Xuyên quách.”
Thường Bá Chí gật đầu: “Ca ca nói đúng lắm. Chúng ta cứ thế mà làm.”
Trần Gia Lạc biết nếu mình cứ mãi cãi thì mất cả nghĩa khí anh em, liền chắp tay vái lạy rồi nói: “Không phải ta không biết điều, chỉ vì tự biết mình còn trẻ tuổi, cả tài lẫn đức đều không đủ đảm đương đại nhiệm. Nhưng các vị yêu mến mà đi từ Giang Nam xa xôi đến tận vùng biên cương này để trao di mạng của nghĩa phụ, khiến ta hết sức khó xử. Ta vẫn muốn đợi Văn tứ ca đến đây để mọi người cùng nhau bàn bạc, nhưng bây giờ Văn tứ ca gặp nạn không thể đợi lâu được nữa. Các vị cứ ép ta đồng ý việc này, thôi thì cung kính bất như phụng mạng, ta xin nghe các vị huynh trưởng dặn dò.” Quần hùng Hồng Hoa Hội nghe thiếu đà chủ đã đồng ý nhận chức tổng đà chủ, đều vui mừng hoan hô, quả là trút được gánh nặng trong lòng. Vô Trần đạo trưởng nói: “Vậy thì bây giờ mời tổng đà chủ hành lễ bái tổ sư, đón Hồng Hoa.”
Lục Phi Thanh biết bang hội nào cũng có nghi lễ riêng biệt. Tôn thủ lĩnh, mở hương đường đều là việc lớn, mình là người ngoài không tiện tham dự, nên nói mấy câu chúc mừng Trần Gia Lạc rồi xin cáo lui. Vả lại, ông bôn ba đường dài như thế, cũng đã mệt mỏi thật sự. Triệu Bán Sơn dẫn ông về phòng tắm rửa nghỉ ngơi.
Khi Lục Phi Thanh tỉnh dậy thì đêm đã khuya rồi. Triệu Bán Sơn nói: “Tổng đà chủ dẫn hết mọi huynh đệ đi Thiết Đảm trang rồi. Đại ca biết một ngày một đêm huynh chưa được ngủ, nên để tiểu đệ ở lại đây, anh em ta ngày mai mới lên đường.”
Bạn cũ mười mấy năm không gặp, đã nói chuyện thì khó dứt ra. Những chuyện ân oán giang hồ mấy năm nay, bằng hữu võ lâm sinh tử ra sao, kể đến khi trời đông hé sáng cũng mới chỉ qua loa đại khái. Lục Phi Thanh ẩn cư tránh họa, đối với những phong ba loạn lạc trong giang hồ không biết chút gì, bây giờ nghe Triệu Bán Sơn nói cứ như lạc vào cõi khác. Nghe đến chỗ những bi phẫn thì lòng đau như xé, nghe đến những chỗ tráng liệt thì hào khí lại nổi lên bừng bừng. Ông bèn hỏi: “Tổng đà chủ của các vị tuổi còn quá trẻ, bộ dạng lại giống như công tử nhà giàu, tại sao được mọi người khâm phục?”
Triệu Bán Sơn đáp: “Chuyện này dài lắm. Đại ca cứ nghỉ ngơi một lúc, lát nữa chúng ta vừa đi đường vừa nói chuyện”.
Nhắc lại tiêu đầu Đồng Triệu Hòa của Trấn Viễn tiêu cục đang hớn hở dẫn đầu một đám hảo thủ của quan phủ và Trương Triệu Trọng, lại thêm bảy tám tên bộ khoái, đi vội đến Thiết Đảm Trang. Lần này hắn có người đỡ sau lưng nên gan mật càng to, cảm thấy mình oai phong lẫm liệt. Đến trước cửa trang hắn hò hét bọn trang đinh: “Mau mau kêu chủ các ngươi ra đây để nghênh tiếp khâm sai.”
Trang đinh thấy bọn này hung hãn, không biết lai lịch thế nào, bèn quay lưng định chạy vào bẩm báo. Trương Triệu Trọng thì nghĩ, danh tiếng của Chu Trọng Anh rất lớn, không thể coi thường nhân vật đầu não này của võ lâm tây bắc được, bèn vội gọi: “Hãy khoan! Phiền ông bạn vào nói chúng ta từ kinh thành đến, có chút việc công, cần thỉnh giáo Chu lão anh hùng.” Nói xong, y nháy mắt với Hồ Quốc Đống. Hồ Quốc Đống hiểu ý gật đầu, dẫn ngay mấy tên bộ khoái đi vòng ra sau trang viện, để đề phòng khâm phạm theo cửa sau chạy trốn.
Mạnh Kiện Hùng nghe trang đinh vào bẩm báo, tin chắc bọn này đến đây để kiếm Văn Thái Lai, bèn bảo Tống Thiện Bằng ra ngoài tiếp chuyện, còn mình lập tức vào phòng của Văn Thái Lai gọi: “Văn gia! Ngoài kia có bọn ưng trảo của triều đình, không biết đến đây làm gì. Đành phải làm phiền ba vị, tạm thời tránh né một chút”. Y đỡ Văn Thái Lai dậy, đi vào một cái đình ở vườn hoa phía sau trang. Mấy tên gia đinh hợp lực khiêng một cái bàn đá lên, để lộ ra một tấm sắt lớn có gắn vòng. Chúng lại ra sức kéo vòng sắt để nâng tấm sắt lên, thì ra bên dưới có những bậc thang dẫn xuống hầm ngầm dưới đất.
Văn Thái Lai giận dữ nói: “Văn mỗ không phải là kẻ tham sống sợ chết, chẳng lẽ chui rúc vào một chỗ thế này để giữ mạng mình? Làm như thế chỉ tổ cho anh hùng thiên hạ chê cười.”
Mạnh Kiện Hùng khuyên: “Văn gia đừng nói thế. Đại trượng phu phải biết lúc cứng lúc mềm, Văn gia đang bị trọng thương thì tạm thời lánh đi một chút, chẳng ai dám coi thường.”
Văn Thái Lai nói: “Hảo ý của Mạnh huynh, Văn mỗ hiểu rồi. Thôi thì bọn ta cáo từ để tránh liên lụy đến Thiết Đảm Trang.”
Mạnh Kiện Hùng đang không ngớt tìm lời khuyên bảo, bỗng nghe ở cửa sau có người lớn tiếng kêu mở cửa, mà ở phía trước cũng đang ồn ào. Thì ra bọn nha môn quyết vào trang, Tống Thiện Bằng cố gắng cản trở mà không được. Bọn Trương Triệu Trọng cũng có kiêng nể oai danh của Chu Trọng Anh nên né chữ “tra xét”, chỉ nói: “Quý trang kiến trúc đẹp đẽ thế này, vùng biên cương thật là hiếm thấy. Xin Tống bằng hữu hướng dẫn tham quan, cho chúng ta được thêm phần kiến thức.”
Văn Thái Lai thấy Thiết Đảm Trang đã bị bao vây, trước sau đều có địch, bèn nổi giận bảo Lạc Băng và Dư Ngư Đồng: “Chúng ta cùng xông ra!”
Lạc Băng vâng dạ, đưa tay dìu cánh tay phải của chồng. Văn Thái Lai dùng tay trái rút soạt đơn đao, đang định chạy ra ngoài thì cảm thấy thân thể Lạc Băng run rẩy. Chàng nhìn thê tử thì thấy mắt nàng đầy lệ, sắc mặt đau khổ, nên lòng dạ bỗng mềm nhũn đi, khẽ thở dài rồi dịu dàng nói: “Thôi thì tránh né đi một chút.”
Mạnh Kiện Hùng cả mừng, đợi cả ba người xuống hầm liền kéo tấm sắt đậy lại đàng hoàng, rồi hợp sức với hai trang đinh khiêng cái bàn đá đè lại lên tấm sắt. Chú bé Chu Anh Kiệt cũng đứng bên giúp sức.
Mạnh Kiện Hùng nhìn kỹ thấy không còn chỗ nào sơ suất, mới bảo trang đinh ra mở cửa sau. Bọn Hồ Quốc Đống tuy gọi cửa, nhưng cửa mở rồi vẫn cứ đứng ngoài không chịu vào trong. Còn bọn Trương Triệu Trọng đã đi vào vườn hoa.
Mạnh Kiện Hùng thấy Đồng Triệu Hòa cũng ở đó, bèn tức giận nói: “Thì ra là một vị quan gia. Lúc nãy ta thất kính mất rồi.”
Đồng Triệu Hòa nói: “Ta xưa nay vẫn là tiêu đầu của Trấn Viễn tiêu cục, lão huynh chưa biết hay sao?” Rồi hắn quay đầu lại nói với Trương Triệu Trọng: “Tiểu nhân chính mắt nhìn thấy ba tên khâm phạm trốn vào trang này. Trương đại nhân hạ lệnh lục soát đi.”
Tống Thiện Bằng nghiêm giọng nói: “Chúng tôi đều là lương dân an phận thủ thường. Chu lão trang chủ là người nổi tiếng ở vùng này, gia đình cùng sản nghiệp trong vòng năm trăm dặm không ai không biết. Chúng tôi che giấu phỉ loạn, mưu đồ bất chính để làm gì? Vừa rồi vị quan gia này có ghé thăm, nhưng trong trang lại không biết để tặng chút lộ phí đi đường. Thế cũng có điều không phải, nhưng vì thế mà buông lời hãm hại thì chúng tôi không gánh nổi đâu.” Y biết bọn Văn Thái Lai đã trốn trong hầm nên nói chuyện mạnh dạn hơn.
Mạnh Kiện Hùng thì giả vờ không biết gì, hỏi tại sao Trương Triệu Trọng đến đây, rồi cười ha hả mà nói: “Hồng Hoa Hội là bang hội lớn vùng Giang Nam, tội nợ gì mà đi chín mười ngàn dặm đến vùng biên cương tây bắc này. Chắc vị tiêu đầu này nằm mơ rồi. Các vị đại nhân tin tưởng hắn thật sao?”
Bọn Trương Triệu Trọng đều lão luyện giang hồ, biết rõ Văn Thái Lai nhất định ở trong trang. Nếu chúng khám xét tỉ mỉ trang này, tìm ra thì không sao, nhưng tìm không ra thì Chu Trọng Anh nhất định không chịu bỏ qua. Mặc dù chúng đều là người có công danh, nhưng cũng có đi lại giang hồ. Đắc tội với lão tiền bối như Chu Trọng Anh không phải là chuyện đùa, nên tên nào cũng có phần do dự.
Đồng Triệu Hòa nghĩ bụng: “Hôm nay mà không bắt được ba tên giặc đó, quay về nhất định ta sẽ bị mọi người oán trách. Người ta thường nói, ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ. Ở đây có thằng bé này, may ra thì gạt được nó nói thật.” Hắn bèn làm mặt vui vẻ, kéo tay Chu Anh Kiệt.
Lúc nãy Chu Anh Kiệt đã gặp hắn rồi, biết thằng cha này lén lút nhất quyết không phải người tốt, bèn dùng sức giật tay ra rồi hỏi: “Ông kéo tay ta làm gì?”
Đồng Triệu Hòa mỉm cười nói: “Tiểu huynh đệ! Nếu ngươi nói với ta ba người khách đến nhà ngươi đang trốn ở đâu, thì ta cho ngươi cái này để mua kẹo ăn.” Hắn nói xong, lấy một thỏi bạc ra đưa cho cậu.
Chu Anh Kiệt bĩu môi, nhăn mặt hỏi: “Ông coi ta là ai? Người ở Chu gia Thiết Đảm Trang đâu có thèm mấy đồng bạc thối tha này?”
Đồng Triệu Hòa hổ thẹn, giận dữ quát tháo: “Vậy thì bây giờ chúng ta phải lục nát cái trang này ra. Sau khi tìm được ba tên đó, bắt cả thằng bé này đi theo một thể.”
Chu Anh Kiệt cười khẩy: “Ngươi mà dám động đến một sợi lông của ta, coi như là hảo hán. Phụ thân ta chỉ cho một quyền là cái đầu của ngươi nát bét ra.”
Trương Triệu Trọng chỉ nhìn mặt cũng hiểu thằng bé này biết chỗ Văn Thái Lai trốn. Y thấy Mạnh Kiện Hùng và Tống Thiện Bằng tinh anh lão luyện, chỉ còn cách điều tra từ nó. Nhưng chú bé này tuổi nhỏ gan lớn, không dọa được mà phải lừa gạt. Y bèn nói: “Hôm nay nhà cháu có bốn vị khách chứ không phải ba vị, có đúng thế không?”
Chu Anh Kiệt không bị mắc lừa, bèn đáp: “Ta không biết.”
Trương Triệu Trọng nói: “Lát nữa chúng ta tìm được ba tên đó, không những ba người bọn chúng mà cả ngươi và mẹ ngươi cũng bị chém đầu.”
Chu Anh Kiệt nhổ một bãi xuống đất, trợn mắt lên nói: “Ta còn không sợ ngươi, chẳng lẽ cha mẹ ta lại sợ ngươi hay sao?”
Đột nhiên Đồng Triệu Hòa nhìn thấy trên cổ tay trái của Chu Anh Kiệt có một xâu chuỗi, hạt nào cùng vừa sáng vừa tròn rất đẹp, chính là quà của Lạc Băng. Hắn làm nghề bảo tiêu, cả đời đã thấy không ít châu báu, có thể gọi là biết người biết của. Hai ngày nay hắn giương mắt lên nhìn Lạc Băng, biết nữ trang quý giá trên người nàng không có món nào là giả, nên bây giờ xác định được ngay.
Đồng Triệu Hòa cả mừng nói: “Ta nhận ra xâu chuỗi trên tay ngươi rồi, đúng là vật của người nữ khách kia. Thế mà ngươi còn nói dối là họ không đến đây. Nhất định là tên tiểu tặc này ăn cắp của người ta rồi.”
Chu Anh Kiệt tức giận nói: “Ta mà đi ăn cắp hay sao? Rõ ràng là vị thẩm thẩm kia đã tặng cho ta.”
Đồng Triệu Hòa mỉm cười nói: “Thế thì hay lắm. Vị thẩm thẩm đó đang ở đâu?”
Chu Anh Kiệt nói: “Tại sao ta phải nói cho ngươi biết?”
Trương Triệu Trọng nghĩ bụng: “Thằng nhóc này thật là láo toét. Gia gia của nó thường ngày được thiên hạ tâng bốc quá đáng, nên chính nó cũng tự cao tự đại. Để ta nói khích thử xem sao.” Y bèn nói: “Lão Đồng nói nhiều với thằng nhãi này chỉ tốn hơi, nó không biết gì đâu. Chuyện của người lớn ở Thiết Đảm Trang, dĩ nhiên không cho hạng con nít còn bú mẹ biết. Lúc họ đưa ba người khách trốn vào nơi bí mật, nhất định phải đuổi thằng nhóc này đi chỗ khác chơi.”
Quả nhiên Chu Anh Kiệt bực tức cãi lại: “Sao ta lại không biết?”
Mạnh Kiện Hùng thấy Chu Anh Kiệt bị khích, lo lắng vô cùng bèn nói: “Tiểu sư đệ! Chúng ta vào nhà đi, đừng chơi ở vườn hoa này nữa.”
Trương Triệu Trọng thừa cơ nói tiếp: “Đúng rồi. Chú bé này chẳng biết gì, rời khỏi đây nhanh lên, đừng ở đây vướng tay vướng chân. Ngươi chỉ giỏi khoác lác. Nếu ngươi biết ba người khách đó trốn ở chỗ nào thì ngươi là tiểu anh hùng, nếu không thì ngươi chỉ là đồ tiểu khốn, đồ tiểu cẩu.”
Chu Anh Kiệt giận dữ nói: “Dĩ nhiên là ta biết. Ngươi mới là đồ đại khốn, đồ đại cẩu.”
Trương Triệu Trọng nói: “Ta tin chắc là con tiểu cẩu này không biết.”
Chu Anh Kiệt không nhẫn nại được nữa, hét lớn: “Ta biết. Họ ở ngay trong vườn hoa này, ngay trong cái đình này.”
Mạnh Kiện Hùng kinh hãi hét lên: “Tiểu sư đệ nói bậy rồi. Vào nhà nhanh đi.” Chu Anh Kiệt vừa buông lời đã biết là hỏng bét, sợ quá khóc rống lên, co giò chạy ngay vào nhà.
Trương Triệu Trọng nhìn thấy xung quanh ngôi đình này chỉ toàn là lan can sơn đỏ, trống trơn chẳng có chỗ nào để giấu. Y nhảy lên nóc đình, nhìn tứ phía cũng không thấy bóng người, lúc nhảy xuống thì im lặng không nói gì. Đột nhiên y động tâm, mỉm cười nói với Mạnh Kiện Hùng: “Mạnh gia, võ nghệ của ta thô thiển lắm, chỉ được cái khí lực hơn người. Xin thỉnh giáo Mạnh gia một chút.”
Mạnh Kiện Hùng thấy y không tìm ra nơi giấu thì cũng yên tâm đôi chút, cho rằng y không bắt được người nên nổi giận, trở mặt muốn động thủ với mình. Tuy đối phương người đông thế mạnh, nhưng mình cũng không thể tỏ ra yếu kém, bèn nói: “Không dám! Quyền cước hay binh khí, ông cứ nói một câu. Ta cũng liều cái mạng này thử sức với ông một phen.”
Trương Triệu Trọng cười ha hả nói: “Tứ hải giai huynh đệ, hà tất phải động binh đao quyền cước để tổn thương hòa khí. Chúng ta mượn bàn đá này mà tỉ thí. Ta nâng trước, rồi mời Mạnh gia thử sau. Nếu ta nâng không nổi, xin Mạnh gia đừng có chê cười.”
Mạnh Kiện Hùng ngẩn người kinh hãi, không nghĩ ra cách nào từ chối hay cản trở, chỉ biết ấp úng: “Không… không… cách này không hay lắm…”
Bọn Thoại Đại Lâm, Thành Hoàng thấy Trương Triệu Trọng đột nhiên muốn thử sức với Mạnh Kiện Hùng, trong lòng đều cảm thấy kỳ lạ. Nhưng họ Trương đã vén tay áo lên, tay phải mắm lấy chân cái bàn đá, quát lên một tiếng. Y chỉ dùng một tay mà nâng nổi cái bàn đá nặng hơn ba trăm cân, mọi người đều mở miệng tán dương: “Khí lực Trương đại nhân thật kinh người.”
Tiếng hoan hô chưa dứt, đã đổi sang tiếng la kinh ngạc. Bàn đá vừa được giở lên, phía dưới đã hiện ra tấm sắt.
Văn Thái Lai trốn dưới hầm, biết trên đầu có nhiều người đi qua đi lại mãi không chịu rời khỏi, nhưng không nghe được họ nói gì với nhau. Chàng đang nảy dạ hoài nghi thì đột nhiên nghe mấy tiếng lách cách, rồi ánh sáng chói chang chiếu xuống. Tấm sắt đậy nắp hầm đã được mở ra.
Bọn quan sai nhìn thấy ba người Văn Thái Lai đang trốn trong hầm, nhưng chưa dám xuống ngay. Chúng muốn bắt sống nên cũng không phóng ám khí, chỉ cầm vũ khí đứng trên miệng hầm, lớn tiếng la hét.
Văn Thái Lai khẽ nói với Lạc Băng: “Chúng ta đã bị Thiết Đảm Trang bán đứt rồi. Đã là phu thê, muội phải đồng ý với ta một việc này.”
Lạc Băng đáp: “Đại ca nói đi.”
Văn Thái Lai nói: “Lát nữa ta bảo muội làm gì, muội nhất định phải nghe lời.” Lạc Băng vừa rơi lệ vừa gật đầu.
Văn Thái Lai bèn quát lớn: “Văn Thái Lai ở đây! Các ngươi đứng đó la hét gì thế?” Mọi người nghe chàng quát đều khiếp oai, chẳng ai lên tiếng trả lời. Văn Thái Lai nói tiếp: “Chân của ta bị thương rồi, các ngươi thả dây xuống kéo ta lên.”
Trương Triệu Trọng quay lại định bảo Mạnh Kiện Hùng tìm dây, nhưng không biết họ Mạnh đã biến đâu mất. Y bèn ra lệnh cho bọn trang đinh đi lấy dây.
Thành Hoàng cầm sợi dây, thòng một đầu xuống hầm để kéo Văn Thái Lai lên. Văn Thái Lai chân vừa chấm đất đã vung tay trái giật mạnh một cái, sợi dây tuột khỏi tay Thành Hoàng. Văn Thái Lai hét một tiếng như sấm động lưng trời, cổ tay hất một cái, sợi dây duỗi thẳng ra. Chàng dùng sợi dây làm nhuyễn tiên, lập tức xuất chiêu Phản Thiết Cà Sa, thân hình xoay tít, thân lộng gió xoáy theo, thế công thật khó mà tránh né.
Võ lâm có câu nói: Luyện trường bất luyện đoản, luyện ngạnh bất luyện nhuyễn. Lại có câu: Nhất đao, nhị thương, tam phủ, tứ xoa, ngũ câu, lục tiên, thất trảo, bát kiếm. Theo đó thì muốn luyện được căn bản về đao pháp chỉ cần một năm, nhưng luyện roi phải mất sáu năm. Đó là roi cứng như đơn tiên hay song tiên, còn nhuyễn tiên và phi trảo là loại binh khí mềm dẻo còn khó luyện thành hơn.
Văn Thái Lai đã luyện võ tới mức một thứ thông thì vạn thứ cũng thông, môn nào cũng giỏi. Chàng vận kình lực vào sợi dây, quét ngang tầm đầu mọi người đứng quanh, thế roi rất gấp. Cả bọn đều bất ngờ không kịp chống đỡ, chỉ biết vội vàng cúi đầu tránh né.
Đồng Triệu Hòa từng nếm đòn của Văn Thái Lai, khi thấy chàng lên đã sớm né ra sau lưng người khác, càng lúc càng lẻn ra xa. Nào ngờ vì hắn lùn quá nên trốn càng xa càng bị thiệt thòi. Khi mọi người đứng trước cúi rạp xuống hết, hắn mới nhìn thấy sợi dây quất tới, muốn tránh né cũng không kịp nữa. Hắn vội vàng quay người lại, nhưng đã bị sợi dây cứng như côn sắt đập “bình” một tiếng vào lưng, lập tức té nhào xuống đất.
Thị vệ Thoại Đại Lâm và chưởng môn Ngôn Bá Càn của phái Ngôn Gia Quyền ở Hà Nam, một người cầm đao, một người cầm đôi thiết hoàn, chia hai đường tả hữu tấn công tới.
Lúc này Dư Ngư Đồng đã đề khí, điểm chân vào bậc đá mà vọt người lên, tay vung kim địch đánh tới tổng binh Thành Hoàng. Thành Hoàng sử một cây tề mi côn. Côn dài sáo ngắn, nhưng hắn lại bị Dư Ngư Đồng ép lùi liên tiếp.
Lạc Băng thì phải dùng trường đao làm gậy, chống vào những bậc thang mà lên từng bước một. Sắp lên gần đến nơi thì nàng thấy gần cửa hầm có một hán tử khôi vĩ chống nạnh đứng đó, bèn phóng cho một mũi phi đao. Người kia không thèm tránh né, đợi con phi đao đến cách mũi chừng một tấc mới đưa ba ngón tay ra chụp lại. Lạc Băng thấy người này thảnh thơi đứng đó, tựa như coi phi đao của nàng không phải là vũ khí, bèn hít một hơi múa tít song đao, định mở đường chạy đến chỗ chồng.
Người chặn đường nàng chính là Trương Triệu Trọng. Y hơi chau mày, không muốn rút kiếm ra đấu với nữ nhân, bèn dùng ngọn phi đao dài năm tấc của Lạc Băng làm trủy thủ, tấn công nàng mấy chiêu liên tiếp. Lạc Băng bước đi không vững, may mà song đao đã được gia truyền trọn vẹn, đủ phong tỏa kín thân mình.
Đánh chừng bốn năm hiệp, Trương Triệu Trọng vung tay trái lên tấn công vào bên phải Lạc Băng, quét vẹt song đao của nàng qua một bên, rồi vận sức đẩy ra. Lạc Băng đứng không vững, rơi xuống hầm trở lại.
Văn Thái Lai phải một mình đánh với hai hảo thủ. Vết thương của chàng đang rất đau, thần trí cũng hơi mơ hồ, chỉ biết múa tít sợi dây, quét ra loạn xạ.
Dư Ngư Đồng thi triển kim địch lại chiếm được thượng phong. Trương Triệu Trọng thấy chàng sử kim địch có xen vào mấy chiêu Nhu Vân kiếm pháp, mà thủ pháp dùng sáo điểm huyệt cũng chính là chân truyền của bổn môn. Y thấy kinh ngạc, muốn bước lên hỏi thử. Nào ngờ Dư Ngư Đồng lại ra chiêu Bạch Vân Thương Cẩu, đợi Thành Hoàng đảo người tránh né là nhảy xuống hầm. Thì ra chàng thấy Lạc Băng rơi xuống, không biết nàng có bị thương hay không, bèn nhảy vào cứu ứng.
Dư Ngư Đồng thấy Lạc Băng đã đứng dậy được, bèn hỏi: “Tứ tẩu có bị thương không?”
Lạc Băng đáp: “Không can gì. Đệ mau mau ra giúp tứ ca đi.”
Dư Ngư Đồng nói: “Để đệ dìu tỉ lên.”
Thành Hoàng xách cây côn đồng đứng trên miệng hầm ngăn trở. Thế từ trên đập xuống rất mạnh, nên hắn cản được hai người đi lên. Văn Thái Lai thấy vợ mình khó mà chạy thoát, còn chính mình cũng không còn gượng nổi, nên bước đi loạng choạng rồi ngã thẳng vào sau lưng Thành Hoàng, tiện tay điểm vào hông hắn. Thành Hoàng lập tức bủn rủn tay chân, bị Văn Thái Lai ôm ngang hông. Chàng quát lên một tiếng rồi buông mình rơi xuống, hai người lọt vào trong hầm.
Thành Hoàng đã bị điểm trúng huyệt đạo, không sao nhúc nhích được. Lúc rơi xuống hầm, Văn Thái Lai nằm đè lên người hắn, nhưng chàng cũng không bò dậy nổi. Lạc Băng vội vã đỡ chồng dậy. Mặt chàng không còn chút huyết sắc, mồ hôi tuôn đầy đầu, nhưng vẫn gượng cười với vợ. Bỗng chàng hộc lên một tiếng, phun ra một ngụm máu lên áo Lạc Băng.
Dư Ngư Đồng đã hiểu ý định của Văn Thái Lai, bèn lớn tiếng nói: “Xin nhường đường một chút!”
Trương Triệu Trọng thấy Dư Ngư Đồng là hậu bối phái Võ Đang, cũng thấy Văn Thái Lai đã bị trọng thương. Y tự trọng không muốn tấn công, nên đẩy Lạc Băng rơi xuống hầm rồi không ra tay tiếp. Nào ngờ chỉ trong khoảnh khắc, Thành Hoàng đã lọt vào tay địch. Tình hình lúc này ném chuột sợ bể đồ, y nghe Dư Ngư Đồng nói vậy, đành vẫy tay bảo mọi người đứng né ra hai bên, chừa đường đi ở giữa.
Dĩ nhiên người đầu tiên lên khỏi hầm là Thành Hoàng. Lạc Băng nắm cổ áo hắn, chĩa mũi đoản đao thẳng vào lưng. Người đi thứ ba là Dư Ngư Đồng, tay trái thì đỡ lưng Lạc Băng, tay phải thì ôm lấy Văn Thái Lai. Cả bốn người đều phải cố gắng mới lên được.
Lạc Băng hét lớn: “Ai dám nhúc nhích thì tên này mất mạng!” Bốn người đi giữa hai hàng binh khí, từ từ tiến tới cửa sau vườn. Lạc Băng nhìn thấy ba con ngựa đang buộc cạnh cây dương liễu, trong lòng mừng rỡ, âm thầm cảm ơn trời đất. Ba con ngựa này là của Hồ Quốc Đống cưỡi đến để chặn cửa sau.
Trương Triệu Trọng nhìn thấy khâm phạm sắp trốn thoát, bèn nghĩ bụng: “Tên Thành Hoàng vô dụng có sống hay chết cũng không liên can gì đến ta. Bắt Văn Thái Lai đưa về Bắc Kinh mới là việc chính, mới là đại công.” Y bèn nhặt lấy sợi dây của Văn Thái Lai đang rơi dưới đất, vận nội lực vung ra. Nghe vèo một tiếng, sợi dây đã quấn chặt lấy Văn Thái Lai đi sau cùng.
Trương Triệu Trọng giật mạnh một cái, kéo được Văn Thái Lai rời khỏi tay Dư Ngư Đồng. Lạc Băng nghe chồng la lên lập tức phân tâm, bỏ mặc Thành Hoàng mà quay lại cứu chồng, nhưng chân nàng đang bị thương nên chỉ bước được hai bước đã té nhào xuống đất.
Văn Thái Lai kêu lớn: “Chạy đi mau lên.”
Lạc Băng đáp ngay: “Muội quyết cùng sống chết với huynh.”
Văn Thái Lai giận dữ nói: “Vừa rồi muội đã đồng ý nghe lời ta mà…” Chàng chưa nói dứt câu đã bị bọn Thoại Đại Lâm nhảy lên đè chặt.
Dư Ngư Đồng bay tới ôm lấy Lạc Băng, chạy thẳng qua khu vườn. Một tên bộ khoái cầm thiết xích chạy ra cản đường, Dư Ngư Đồng phóng cước đá cho một phát vào ngực, hất hắn văng ra năm sáu bước.
Lạc Băng thấy chồng bị bắt, hoàn toàn không tự chủ được nữa, cũng không biết mình đang ở đâu. Dư Ngư Đồng vội chạy đến bên cây liễu, đặt nàng lên ngựa rồi kêu lớn: “Phóng phi đao nhanh lên.”
Lúc này Ngôn Bá Càn và hai tên bộ khoái đã rượt tới cửa vườn. Ba mũi phi đao của Lạc Băng phóng ra như nỏ liên châu, một tiếng kêu thê thảm vang lên, một tên bộ khoái đã trúng đao vào vai. Ngôn Bá Càn giật mình dừng bước.
Dư Ngư Đồng tháo xong dây cương của ba con ngựa, bèn nhảy lên lưng một con, quay đầu con ngựa thứ ba lại phía cửa vườn, dùng kim địch quất mạnh lên mông nó một cái. Con ngựa bị đau, lồng lên xông thẳng tới bọn Ngôn Bá Càn, cản trở bọn người truy đuổi ở chỗ cửa vườn hoa.
Trong lúc hỗn loạn, hai con ngựa của Dư Ngư Đồng và Lạc Băng đã chạy xa rồi. Bọn Trương Triệu Trọng bắt được yếu phạm Văn Thái Lai, đang mừng rỡ nên không muốn truy đuổi tiếp.
Lạc Băng nằm mọp trên lưng ngựa, hồn xiêu phách tán. Mấy lần nàng muốn quay đầu ngựa chạy về Thiết Đảm Trang, nhưng đều bị Dư Ngư Đồng quất roi cho ngựa chạy về phía trước. Chạy được sáu bảy dặm, quay lại không thấy ai đuổi theo, Dư Ngư Đồng mới không thúc ngựa chạy gấp nữa.
Đi khoảng ba bốn dặm nữa, thì phía trước có bốn con ngựa tiến đến. Người đi đầu là một lão già tóc đã bạc phơ, chính là Thiết đảm Chu Trọng Anh. Vừa thấy Dư Ngư Đồng và Lạc Băng, ông đã kinh ngạc kêu lên: “Quí khách! Xin dừng bước, ta đã mời đại phu đến đây rồi.”
Lạc Băng đang cơn hận, bắn về phía ông một mũi phi đao. Chu Trọng Anh đột nhiên thấy phi đao bay tới phải giật mình, vì không phòng bị nên không kịp chống đỡ, chỉ vội cúi người mọp xuống lưng ngựa, phi đao bay sạt trên lưng. Đệ tử An Kiện Cương đi phía sau gấp rút vung đao lên gạt, phi đao bay xéo ra, cắp phập vào một cành liễu bên đường. Ánh chiều đỏ ngầu như máu, soi lên lưỡi đao phát ra những tia sáng nhấp nháy.
Chu Trọng Anh đang muốn hỏi, Lạc Băng đã lớn tiếng chửi mắng: “Tên lão tặc này lòng lang dạ sói, mua danh cầu phúc! Các ngươi hại chết chồng của ta, ta quyết thí mạng với ngươi.” Nàng vừa la vừa khóc, hay tay cầm song đao giục ngựa lên phía trước.
Chu Trọng Anh bị mắng mà không hiểu gì cả, đứng ngẩn ra nhìn. An Kiện Nhân thì thấy nữ nhân này nặng lời thóa mạ sư phụ của mình, không nhịn nổi bèn vung đơn đao bước lên đón đánh. Nhưng Chu Trọng Anh đưa tay cản lại rồi bảo: “Có chuyện gì hãy nói trước đã.”
Dư Ngư Đồng cũng khuyên giải: “Cứu người là quan trọng. Chúng ta tìm cách cứu Tứ ca trước đã, rồi mới đốt Thiết Đảm Trang sau.” Lạc Băng nghe nói có lý, nên quay đầu ngựa lại, nhổ một bãi nước bọt xuống đất rồi quất ngựa chạy đi.
Chu Trọng Anh ngang dọc giang hồ, mọi lúc mọi nơi đối đãi với người đều lấy nhân nghĩa làm đầu. Thật sự là ông không bao giờ chuốc oán gây thù, lại thích kết giao bằng hữu, nên cả hai đạo hắc bạch chỉ cần nhắc đến Thiết đảm Chu Trọng Anh là không ai không giơ ngón tay cái lên mà khen ngợi. Nào ngờ hôm nay ông bị phóng phi đao, rồi lại bị mắng chửi mà không hiểu tại sao, thật là chuyện lạ cả đời chưa gặp.
Ông thấy Lạc Băng nộ khí xung thiên, quyết ý liều mạng, biết chắc là có chuyện, liền hỏi tên trang đinh đã lên thị trấn mời y sĩ. Nhưng gã này chỉ nói là phu nhân cùng Mạnh gia ở nhà tiếp khách rất đàng hoàng, hoàn toàn không có tranh chấp gì.
Chu Trọng Anh rầu rĩ trong lòng, gấp rút quất ngựa chạy về. Ông vừa đến cửa Thiết Đảm Trang, trang đinh lập tức kéo ra nghênh đón. Chu Trọng Anh thấy thần sắc mọi người khác lạ, biết rằng đã xảy ra chuyện lớn, bèn bước nhanh vào trong trang, quát tháo gọi Mạnh Kiện Hùng lại hỏi.
Một tên gia đinh trả lời: “Mạnh gia đang bảo vệ phu nhân cùng tiểu thiếu gia trốn ở hậu sơn.” Chu Trọng Anh nghe vậy lại càng kinh ngạc.
Bọn trang đinh cứ người này một câu, người kia một câu kể chuyện đã xảy ra, nói là bọn công sai đã bắt Văn Thái Lai đi, rời khỏi trang chưa được bao lâu. Hẳn là bọn này không đi theo đường cái, nên Chu Trọng Anh không gặp. Bọn trang đinh còn nói: “Sau khi công sai đi hết, bọn tiểu nhân đã cử người đi thông báo cho Mạnh gia, chắc là ông ấy sắp quay trở lại.”
Chu Trọng Anh hỏi: “Ai làm lộ chuyện ba vị khách trốn dưới hầm?” Bọn trang đinh nhìn nhau, không ai dám nói. Chu Trọng Anh giận dữ, vung roi ngựa quất túi bụi lên đầu chúng. An Kiện Cương thấy sư phụ nổi trận lôi đình, cũng không dám mở miệng khuyên can.
Chu Trọng Anh mới đánh được mấy roi đã ngồi phịch xuống ghế mà thở hổn hển, buông hai viên thiết đảm lăn loảng choảng dưới đất. Mọi người không dám thở mạnh, chỉ biết đứng bên chờ đợi.
Chu Trọng Anh hét lên: “Bọn bay đứng đây làm gì? Sao không đi gọi Mạnh Kiện Hùng đến đây cho lẹ?”
Ông chưa nói dứt câu, Mạnh Kiện Hùng đã chạy vào la lớn: “Sư phụ về rồi đấy ư?”
Chu Trọng Anh nhảy chồm lên, quát hỏi: “Ai làm lộ chuyện? Ngươi nói đi! Ngươi nói đi!”
Mạnh Kiện Hùng thấy sư phụ giận đến nỗi nói không ra lời, mất hết khí độ ung dung hào sảng ngày thường, dĩ nhiên không dám khai ra cậu tiểu sư đệ. Y chần chừ một lúc rồi mới đáp: “Bọn ưng trảo tự tìm thấy.”
Chu Trọng Anh đưa tay trái túm lấy cổ áo của y, còn tay phải vung roi định quất vào mặt, nhưng cuối cùng cũng kìm lại được, chỉ giận dữ mắng: “Chỉ nói bậy! Cái hầm của ta bí mật như thế, bọn cẩu tặc kia làm sao tìm thấy được?” Mạnh Kiện Hùng không dám trả lời, cũng không dám nhìn thẳng vào mắt sư phụ. Lúc này Chu phu nhân thấy chồng mình giận dữ, bèn dẫn con đến khuyên can.
Chu Trọng Anh đảo mắt nhìn qua mặt Tống Thiện Bằng, hét lên: “Chắc là ngươi bị bọn công sai quát nạt, sợ hãi mà nói ra. Có phải vậy không?” Ông biết Mạnh Kiện Hùng vốn là người nghĩa hiệp, dù bị chém đầu cũng không bán đứng bằng hữu. Còn Tống Thiện Bằng thì đã không biết võ công lại nhát gan, sợ liên lụy, phần nhiều là hắn sợ bọn công sai uy hiếp nên đã khai ra chân tướng.
Tống Thiện Bằng thấy lão trang chủ oai khí kinh người, cứ như sắp đập mình một chưởng, không nén nổi phải run rẩy toàn thân, gan mật vỡ ra mà lắp bắp: “Không… không phải tiểu nhân, là… là… là… tiểu công tử nói ra.”
Chu Trọng Anh điếng người, run giọng gọi con: “Ngươi qua đây.”
Chu Anh Kiệt sợ sệt đi đến trước mặt phụ thân. Chu Trọng Anh hỏi: “Cái hầm ba người khách trốn trong vườn hoa, có phải là ngươi chỉ cho bọn công sai hay không?”
Chu Anh Kiệt chưa bao giờ dám nói dối trước mặt cha, nhưng việc này thì cậu không dám thẳng thắn thừa nhận. Chu Trọng Anh vung roi lên hét: “Ngươi nói hay không?”
Chu Anh Kiệt hoảng sợ muốn khóc nhưng lại không dám khóc, chỉ đưa mắt nhìn mẹ. Chu phu nhân bèn đi đến cạnh thằng bé, tìm lời khuyên giải: “Lão gia! Đừng giận dữ nữa. Chị của nó mới hay làm ông nổi giận, còn thằng bé này ngoan ngoãn ở nhà, ông không nên bắt nó hoảng sợ như thế.”
Chu Trọng Anh không lý gì đến bà, cứ vẫy roi vun vút trên không, quát lên: “Ngươi không chịu nói thì ta phải đánh chết thằng lộn giống này.”
Chu phu nhân cãi: “Lão gia hồ đồ mất rồi. Con trai của ông sinh ra, sao lại mắng là thằng lộn giống?” Cả đám Mạnh Kiện Hùng nghe nói cũng phải tức cười, nhưng không ai dám cười cả.
Chu Trọng Anh nắm vai vợ mình xô ra rồi nói: “Đừng ở đây lảm nhảm nữa.”
Mạnh Kiện Hùng thấy tình hình không sao giấu giếm được nữa, bèn cố lấy giọng bình tĩnh nói: “Sư phụ! Tên cẩu tặc Trương Triệu Trọng rất gian xảo, dùng lời khích bác, nói là nếu tiểu sư đệ không biết chuyện này thì tiểu đệ chỉ là tiểu… tiểu khốn, tiểu cẩu.”
Biết con không ai bằng cha. Chu Trọng Anh hiểu con trai mình tuổi nhỏ nhưng luôn luôn muốn làm anh hùng hảo hán, bèn hét lên: “Thằng tiểu khốn kia! Ngươi muốn làm anh hùng nên đã nói ra phải không?”
Khuôn mặt nhỏ bé dễ thương của Chu Anh Kiệt bây giờ tái nhợt, cắt không còn giọt máu, khẽ đáp: “Gia gia, con không muốn làm tiểu khốn…”
Cơn giận của Chu Trọng Anh đã không sao kìm được nữa. Ông thét lên: “Làm như thế mà là anh hùng hảo hán hay sao?” Trong cơn giận dữ điên cuồng, ông vung tay phải quăng hai trái thiết đảm lên vách tường đối diện. Nào ngờ ngay lúc đó Chu Anh Kiệt lại chạy tới, sà vào lòng cha năn nỉ xin cha.
Chu Trọng Anh ném hai trái thiết đảm là để trút cơn giận dữ, nên kình lực vô cùng. Nghe hai tiếng keng keng, một trái thiết đảm gắn sâu vào tường, còn trái kia dội ngược lại, văng trúng ngay đầu Chu Anh Kiệt. Máu tươi lập tức bắn tóe ra.
Chu Trọng Anh kinh hãi ôm lấy con trai. Chú bé Chu Anh Kiệt còn cố thều thào năn nỉ: “Gia gia… Con… con không dám nữa… Xin… xin gia gia… đừng đánh…” Nói chưa xong, hơi thở cậu đã tắt rồi. Tất cả mọi người trong đại sảnh đều ngơ ngác.
Chu phu nhân ôm lấy con kêu gọi: “Hài nhi, hài nhi!” Bà thấy nó không thở nữa, ngẩn ra một lúc, rồi điên cuồng phóng tới Chu Trọng Anh, vừa khóc vừa gào lên: “Tại sao… tại sao phải giết chết hài nhi…”
Chu Trọng Anh lắc đầu, lùi lại hai bước, lắp bắp: “Ta… ta không…”
Chu phu nhân đặt xác con xuống đất, rút phắt thanh đơn đao cài bên hông An Kiện Cương, chạy tới vung đao chém xuống đầu chồng.
Lúc này Chu Trọng Anh không còn phản ứng gì. Ông không tránh né cũng không lùi bước, hai mắt nhắm nghiền mà nói: “Thôi thì chúng ta cùng chết với nhau cho xong.” Chu phu nhân thấy chồng như vậy, tay chân run bắn lên, quăng đao xuống đất, rồi vừa khóc rống vừa chạy ra ngoài.
Lạc Băng cùng Dư Ngư Đồng sợ gặp phải bọn người ở công môn, nên chọn những con đường mòn hoang vắng mà đi, chưa được bao xa thì trời đã tối. Ở vùng biên cương hoang dã này thì đừng nói khách sạn, ngay cả một hộ nông gia cũng không sao tìm thấy. Hai người đã vất vả rất lâu nên không kén chọn nữa, tìm một tảng đá lớn để ngả lưng.
Dư Ngư Đồng thả ngựa đi ăn cỏ, lại cầm cây trường đao của Lạc Băng đi cắt một ít cỏ phủ xuống đất rồi nói: “Giường đã có rồi, chỉ thiếu lương khô và nước. Chúng ta đành chịu đói, chờ đến sáng rồi tính sau.”
Trong lòng Lạc Băng đang mãi lo lắng cho chồng, cho dù trước mặt có sơn hào hải vị cũng không thể nuốt trôi, lệ tuôn không ngớt. Dư Ngư Đồng luôn miệng an ủi: “Ngày mai là Lục sư thúc đến An Tây. Quần hùng Hồng Hoa Hội nhất định dốc toàn lực ra viện trợ, không chừng sẽ đuổi kịp bọn ưng trảo để cứu tứ ca.”
Hôm nay Lạc Băng phải ác chiến rồi chạy trốn, mệt mỏi lắm rồi. Nàng nghe Dư Ngư Đồng khuyên can cũng thấy thoải mái đôi chút, khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ, nàng mường tượng như phu quân nhẹ nhàng ôm nàng vào lòng, khẽ hôn lên môi nàng. Lạc Băng sung sướng vô cùng, lỏng người cho chồng ôm lấy, lại thì thầm: “Huynh cực khổ quá. Những vết thương trên người huynh đã lành hết chưa?” Dường như Văn Thái Lai ấp úng mấy câu gì đó, rồi ôm nàng chặt hơn, nụ hôn càng lúc càng nóng bỏng.
Lạc Băng đang mơ màng hạnh phúc thì đột nhiên giật mình tỉnh dậy. Dưới ánh sao trời, nàng thấy người mình đang ôm không phải là phu quân mà là Dư Ngư Đồng, kinh hãi không sao tả xiết, liền cố sức giãy giụa thoát ra. Nhưng Dư Ngư Đồng vẫn không chịu buông, ôm nàng khẽ nói: “Ta nghĩ đến muội nhiều lắm.”
Lạc Băng vừa hổ thẹn vừa giận dữ, xoay tay tát lên mặt chàng một phát thật nặng. Dư Ngư Đồng còn ngơ ngác, Lạc Băng lại đánh thêm một quyền vào giữa ngực, giãy ra khỏi vòng tay của chàng rồi lăn sang một bên, quờ tay muốn rút đao nhưng không thấy đao đâu, thì ra đã bị Dư Ngư Đồng lấy cất rồi. Nàng càng thêm kinh hãi, liền thò tay vào bọc tìm phi đao, may mà còn hai lưỡi. Lạc Băng lấp tức nắm chặt lấy đao, giận dữ hỏi: “Ngươi muốn gì?”
Dư Ngư Đồng run rẩy nói: “Tứ tẩu! Tỉ nghe đệ nói…”
Lạc Băng quát luôn: “Ai là Tứ tẩu của ngươi? Tứ đại giáo điều của Hồng Hoa Hội chúng ta là gì, ngươi nói đi!” Dư Ngư Đồng cúi gằm mặt xuống, không dám lên tiếng.
Tuy rằng bản tính Lạc Băng vui tươi thoải mái, nhưng mọi hành động của nàng đều đàng hoàng ngay thẳng, dĩ nhiên không thể để người ta trêu ghẹo như thế. Nàng lớn tiếng quát hỏi: “Lão tổ Hồng Hoa họ gì?”
Dư Ngư Đồng chỉ còn cách trả lời: “Hồng Hoa lão tổ vốn họ Chu, hạ phàm để cứu chúng sinh.”
Lạc Băng lại hỏi: “Huynh đệ chúng ta phải kính nể những thánh nhân nào?”
Dư Ngư Đồng nói: “Một kính Lưu Quan Trương đào viên kết nghĩa, hai kính liệt vị anh hùng Ngõa Cang Trại, ba kính một trăm lẻ tám hảo hán Thủy Bạc Lương Sơn.”
Hai người một hỏi một đáp một loạt giáo điều của Hồng Hoa Hội. Mỗi khi khai đường nhập hội, hay khi tuyên án xử phạt, người có địa vị cao nhất trong hội đều hỏi những câu này, mọi người phải đồng thanh cung kính trả lời. Trong hội thì địa vị của Lạc Băng cao hơn Dư Ngư Đồng. Nàng hỏi một loạt câu này, cơn đam mê của Dư Ngư Đồng đã chuyển sang sợ sệt, không dám không trả lời.
Lạc Băng dõng dạc hỏi tiếp: “Hồng Hoa Hội phải cứu giúp bốn loại người nào?”
Dư Ngư Đồng đáp: “Một cứu nghĩa sĩ nhân giả, hai cứu hiếu tử hiền tôn, ba cứu tiết phụ trinh nghĩa, bốn cứu lê dân khổ nạn.”
Lạc Băng hỏi: “Hồng Hoa Hội phải giết bốn loại người nào?”
Dư Ngư Đồng đáp: “Một giết tẩu cẩu Mãn Thanh, hai giết tham quan ô lại, ba giết thổ hào ác bá, bốn giết hung đồ ác đảng.”
Lông mày của Lạc Băng chau lại, hỏi tiếp: “Tứ đại giáo điều của Hồng Hoa Hội là gì?”
Dư Ngư Đồng run giọng trả lời: “Đầu hàng Thanh triều phải giết, phạm thượng bản hội phải giết, bán đứt bằng hữu phải giết, dâm ô vợ người phải giết.”
Lạc Băng kết luận: “Muốn tốt thì mau tự đâm mình ba đao sáu lỗ, ta sẽ dẫn ngươi đi năn nỉ Thiếu đà chủ. Nếu không thì ngươi cứ việc chạy trốn đi, xem thử Thập nhị lang Quỉ Kiến Sầu có tìm được ngươi hay không.”
Theo hội qui của Hồng Hoa Hội, huynh đệ trong hội nếu hồ đồ nhất thời mà phạm vào đại tội, thành tâm hối cải thì trước khi mở hương đường chấp pháp có thể dùng dao nhọn tự đâm ba nhát vào đùi. Ba đao này phải xuyên thủng đùi từ trước ra sau, nên mới gọi là ba đao sáu lỗ. Sau đó tội nhân cầu xin tổng đà chủ và hương chủ chấp pháp tha cho, thì hy vọng được xử nhẹ hơn. Còn nếu không ăn năn hối cải thì chạy trời cũng không thoát.
Ngồi ghế thứ mười hai trong hội là Quỉ kiến sầu Thạch Song Anh. Người này mặt sắt vô tư, chấp chưởng hình đường. Ai phạm phải hội qui, cho dù trốn tận chân trời góc bể cũng chắc chắn sẽ bị y sai người đi bắt về xử tội. Hết thảy mấy chục ngàn huynh đệ Hồng Hoa Hội, nhắc đến ba chữ Quỉ Kiến Sầu là không ai không hoảng sợ dựng tóc gáy lên.
Dư Ngư Đồng bèn nói: “Muội giết chết ta giùm đi. Được chết dưới tay muội, ta cũng cam lòng.” Lạc Băng nghe chàng vẫn giở giọng si mê, lại càng giận dữ. Nàng đưa phi đao lên trước ngực, vận kình lực vào cổ tay muốn phóng ra.
Dư Ngư Đồng run giọng nói: “Muội không biết hay sao? Năm sáu năm nay ta đã khổ tâm lắm rồi. Lần đầu tiên gặp muội ở Tổng hương đường Thái Hồ, lòng dạ ta đã… đã không phải là của bản thân mình nữa.”
Lạc Băng giận dữ nói: “Lúc đó ta đã là người của Tứ ca rồi, chẳng lẽ ngươi không biết?”
Dư Ngư Đồng nói: “Ta… ta biết. Nhưng ta không kiềm chế được mình nên cũng không dám gặp muội thường xuyên. Hễ trong hội có việc phải đi xa, ta đều xin tổng đà chủ phái ta đi. Người khác chỉ nghĩ rằng ta không sợ mệt mỏi gian nan, coi ta là hảo huynh đệ. Chẳng ai biết ta dùng cách đó để trốn tránh muội. Nhưng ta bôn ba khắp chốn, cũng chẳng có giờ nào ngày nào không nghĩ đến muội.” Nói đến đó, chàng xắn tay áo lên, để lộ cánh tay trái rồi bước lên hai bước mà tiếp: “Ta rất hận bản thân mình, thường tự mắng mình là đồ lòng dạ cầm thú. Mỗi khi hận mình đến cực điểm, ta lại dùng trủy thủ đâm vào đây một nhát. Muội xem đây.”
Dưới ánh sao lờ mờ, quả nhiên Lạc Băng nhìn thấy trên cánh tay chàng đầy sẹo, không nén nổi phải mềm lòng lại.
Dư Ngư Đồng lại nói: “Ta cũng thường hận ông trời không chịu thương mình, cho ta được gặp muội khi muội chưa thành gia thất. Tuổi tác muội với ta tương đối phù hợp, còn Tứ ca lại chênh lệch với muội rất nhiều.”
Lạc Băng thấy chàng si mê quá, đã hơi thương xót. Nhưng nghe đến hai câu cuối cùng, nàng lại nổi giận lên nói: “Tuổi tác chênh lệch thì đã sao? Tứ ca là bậc anh hùng hảo hán, đại nhân đại nghĩa, đâu có giống như ngươi…”
Nàng nhịn lại được không chửi mắng nữa, chỉ hừ một tiếng rồi khập khiễng đi đến chỗ con ngựa, cố trèo lên yên. Dư Ngư Đồng chạy tới định đỡ, nhưng Lạc Băng quát đuổi đi, rồi tự mình lên ngựa.
Dư Ngư Đồng hỏi: “Bây giờ Tứ tẩu đi đâu?”
Lạc Băng nói: “Ngươi cứ mặc kệ ta. Tứ ca đã bị bọn ưng trảo bắt đi rồi, ta cũng không muốn sống nữa. Mau trả đao cho ta.” Dư Ngư Đồng cúi đầu, đưa cặp Uyên Ương đao cho nàng.
Lạc Băng nhìn lại thấy chàng đứng đó không biết làm gì, trong lòng đột nhiên thấy bất nhẫn bèn nói: “Chỉ cần sau này ngươi ra sức làm việc cho hội, không vô lễ với ta nữa, thì việc đêm nay ta sẽ không nói cho ai biết cả. Sau này ta sẽ để ý tìm cho ngươi một hảo cô nương tài mạo song toàn.” Nói xong, nàng bỗng cười khúc khích rồi quất ngựa chạy đi.
Cái tính thích cười của nàng thật là bất trị, tiếp tục làm hại Dư Ngư Đồng. Chàng nhìn nụ cười dịu dàng khả ái đó mà tiêu hồn lạc phách, người lảo đảo mấy cái rồi ngã lăn xuống đất. Nhìn theo bóng nàng mất hút trong đêm mà tim chàng đập loạn lên như nồi nước sôi bùng. Lúc thì chàng tự thương thân trách phận, hận lão tặc thiên thích đùa giỡn trêu người. Lúc thì chàng cho rằng số kiếp của mình xúi quẩy đến cực điểm. Lúc thì chàng lại tự hối hận, trách mình đường đường là hán tử mình cao sáu thước mà vô hạnh vô sỉ, không bằng cả con heo con chó. Đột nhiên chàng đập đầu binh binh vào một gốc cây, rồi ôm lấy cái cây đó mà la hét điên cuồng.
* * *
Lạc Băng cưỡi ngựa chạy hơn một dặm, bèn nhìn sao Bắc Đẩu phía chân trời để phân biệt phương hướng. Bây giờ đi hướng tây thì sẽ gặp huynh đệ ở Hồng Hoa Hội để hiệp lực cứu người, còn đi hướng đông thì có thể âm thầm theo dấu chồng mình đang bị bắt để thừa cơ giải cứu. Nàng biết rõ ràng mình đã bị thương, thế cô sức mỏng, cứu người chắc chắn không thể được. Nhưng nghĩ đến chồng đang lê lết từng bước đi về hướng đông, thì nàng làm sao có thể đi ngược về hướng tây, bèn cứ mặc kệ con ngựa muốn đi đâu thì đi. Khoảng bảy tám dặm, Lạc Băng tin rằng mình đã cách Dư Ngư Đồng khá xa, mà y chắc không dám đến quấy rầy nữa, bèn xuống ngựa, buộc cương ngồi nghỉ trong một khu rừng.
Lúc nhỏ nàng ở với cha, lấy chồng thì ở với chồng. Cả thân phụ lẫn trượng phu đều võ công cao cường, đối với nàng cưng chiều hết mực. Nàng đi lại giang hồ, trước nay đều ở thế thượng phong, chưa bao giờ lép vế trước ai. Về sau gia nhập Hồng Hoa Hội, thì Hồng Hoa Hội người đông thế mạnh, nàng lại được huynh đệ quí mến. Hai mươi hai năm nay, Lạc Băng có thể gọi là giang hồ kiêu nữ, không gì là không đạt được, không gì là không thuận lợi.
Phen này là khổ sở nhất trong đời nàng. Chồng bị bắt, mình bị thương, lại bị Dư Ngư Đồng quấy rầy, nên cứ tức tối than thở, khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi. Trong đêm sâu hoang vắng, nàng bỗng thấy người mình nóng như lửa đốt, mơ hồ kêu gọi: “Nước… Ta muốn uống nước…” Ở đó làm gì có ai lo lắng cho nàng?
Ngày hôm sau bệnh càng nặng hơn. Nàng muốn gắng gượng đứng dậy, nhưng mới ngồi lên đã thấy đầu đau như cắt, chỉ còn cách nằm lại xuống đất. Nhìn thấy mặt trời lên tới đỉnh đầu rồi lặn xuống hướng tây, đói khát mà không sao lên ngựa, Lạc Băng nghĩ bụng: “Thôi thì ta chết ở đây cũng không sao.” Nhưng nghĩ chuyện không được gặp chồng lần nữa, nàng đau lòng ngất xỉu ngay lập tức.
Không biết đã hôn mê bao lâu, Lạc Băng bỗng nghe tiếng nói: “Hay lắm! Đã tỉnh lại rồi!” Nàng từ từ mở mắt ra, nhìn thấy một thiếu nữ đứng trước mặt mình. Da mặt cô này hơi đen, mắt to miệng nhỏ, mặt mũi cũng thanh tú, khoảng mười tám mười chín tuổi. Thiếu nữ thấy Lạc Băng tỉnh dậy liền tỏ vẻ vui mừng, quay lại bảo a hoàn đứng cạnh: “Mau đem cháo tới đây cho vị phu nhân này ăn trước đã.”
Lạc Băng định thần một lúc, biết mình đang nằm trên giường, chăn đệm ấm áp, đồ đạc bài trí trong phòng rất đẹp đẽ, rõ ràng là nhà của người giàu có. Nàng nghĩ đến tình cảnh mình hôn mê mà được cứu, cảm kích bèn hỏi: “Xin hỏi quí tính đại danh của cô nương là chi?”
Thiếu nữ kia đáp: “Ta họ Chu! Phu nhân cứ nghỉ ngơi một lúc, lát nữa sẽ nói chuyện sau.” Rồi cô nhẹ nhàng lui ra. Lạc Băng ăn hết một chén cháo loãng, lại nhắm mắt ngủ thiếp đi.
Lúc nàng tỉnh dậy lần nữa thì trong phòng đã thắp đèn, ngoài cửa phòng có tiếng nữ nhân nói: “Bọn đó đã ức hiếp người ta như thế, còn dám đến quấy rầy Thiết Đảm Trang, vậy mà lão gia nhịn được. Nhưng ta quyết dạy cho chúng một bài học.” Lạc Băng nghe thấy ba chữ Thiết Đảm Trang, trong lòng hơi kinh hãi, chẳng lẽ mình đang ở trong Thiết Đảm Trang hay sao.
Rồi có hai người vào phòng, chính là thiếu nữ ban nãy và một đứa a hoàn. Thiếu nữ đi đến bên giường vén màn ra nhìn, Lạc Băng nhắm mắt vờ ngủ say. Thiếu nữ quay người, với lấy thanh đao treo trên tường.
Lạc Băng đã thấy cặp Uyên Ương Đao của mình đặt trên bàn, bèn ngầm chuẩn bị. Nếu thiếu nữ kia quay lại chém, nàng sẽ tung chăn phủ lên đầu cô ta, rồi đoạt lấy cặp Uyên Ương Đao mở đường máu chạy đi.
Con a đầu kia bỗng mở lời khuyên: “Cô nương đừng gây họa nữa. Trong lòng lão gia đã khó chịu lắm rồi, cô đừng trêu cho lão gia nổi giận.” Lạc Băng nghe thấy, đoán chắc cô nương này là con gái của Chu Trọng Anh.
Thiếu nữ này chính là đại tiểu thư Chu Ỷ của Thiết Đảm Trang. Nàng tính tình hào phóng, khí phách y hệt cha mình, cũng thích nhúng tay vào chuyện của thiên hạ, thấy việc bất bình quyết không chịu làm ngơ. Vì dung mạo nàng khá đẹp, nên được giới võ lâm tây bắc tặng cho ngoại hiệu là Tiêu Lý Lục. Hôm trước nàng lỡ đả thương người khác, sợ cha trách mắng nên không dám về nhà, chịu cực ngủ một đêm ngoài trang, định chờ cha bớt giận rồi mới trở về. Không ngờ dọc đường gặp Lạc Băng nằm hôn mê dưới đất, nàng bèn cứu về đây. Khi về trang, nghe nói em trai bị cha đánh chết, còn mẹ bỏ đi, dĩ nhiên nàng đau khổ vô cùng.
Chu Ỷ lấy đơn đao xuống rồi lớn tiếng nói: “Hừ! Ta cứ mặc kệ!” Nàng xách đao nhảy ra ngoài, đứa a hoàn cũng theo ra.
Lạc Băng ngủ được hai ngày, tinh thần hồi phục, cơn sốt đã đứt. Nàng chỉnh đốn y phục, mang giày, cầm lấy song đao rồi nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng, nghĩ bụng: “Chúng đã bán đứt đại ca cho quan phủ, không hiểu còn cứu ta làm gì. Chắc là có âm mưu gì khác.”
Lúc này Lạc Băng còn ở trong hiểm địa, vết thương ở đùi cũng chưa lành hẳn, dĩ nhiên không dám sơ ý chút nào. Nàng đã đến đây một lần, vẫn còn nhớ đường đi lối lại, định lén ra vườn hoa rồi vượt cửa hậu ra ngoài. Đi được một quãng xa, nàng nghe phía trước có tiếng hai người đang nói chuyện. Đợi một lúc, hình như hai người này không định rời khỏi đó, nên nàng quay trở lại, lén lút đi qua hai căn phòng. Trong đêm tối, may mà nàng không gặp phải ai.
Lạc Băng đi vòng qua hành lang, thấy trong đại sảnh đèn đuốc vẫn sáng trưng, có người lớn tiếng nói chuyện. Nghe thanh âm hơi quen, nàng bèn ghé mắt vào khe cửa, thấy Chu Trọng Anh đang nói chuyện với hai người. Một người hình như nàng đã gặp nhưng nhất thời không nghĩ ra là ai, còn người kia chính là kẻ đã từng trêu ghẹo nàng, rồi dẫn công sai quan phủ đến bắt phu quân nàng, chính là Đồng Triệu Hòa.
Nhìn thấy kẻ thù, lại nghĩ đến chồng mình đang phải chịu đựng những gì, Lạc Băng không sao lo lắng đến chuyện sống chết của bản thân mình được nữa. Nàng đưa tay trái đẩy cửa đại sảnh ra, phóng thẳng tới Đồng Triệu Hòa một mũi phi đao.
* * *
Nhắc lại sau khi Chu Trọng Anh lỡ tay đánh chết đứa con trai duy nhất, vợ ông đau lòng bỏ chạy khỏi Thiết Đảm Trang. Chu phu nhân vốn là con gái của một quyền sư võ công bình thường, gia đình bên ngoại cũng chẳng còn ai, không biết bà dựa dẫm nơi nào. Vợ đi, con chết, Chu Trọng Anh thương tâm cực điểm, u uất trong nhà suốt hai ngày.
Hoàng hôn hôm nay, trang đinh vào báo có hai người cầu kiến, Chu Trọng Anh bèn lệnh cho Mạnh Kiện Hùng đón tiếp. Thì ra đó là tên đầu tội Đồng Triệu Hòa, đi cùng Vạn Khánh Lan, tổng giáo đầu dạy võ ở Trịnh vương phủ. Hôm trước tên này cũng tham gia vụ đến Thiết Đảm Trang bắt người.
Mạnh Kiện Hùng vừa sợ vừa nghi, rõ ràng đây không phải là chuyện tốt. Hai tên này nhất định đòi gặp Chu Trọng Anh. Mạnh Kiện Hùng nói: “Lão trang chủ không được khỏe, hai vị có việc gì cứ nói, tại hạ sẽ chuyển lời thì cũng vậy thôi.”
Đồng Triệu Hòa cười ha hả rồi nói: “Lần này bọn ta bỏ công đến đây là do hảo ý, Chu trang chủ muốn gặp hay không thì tùy. Thiết Đảm Trang sắp gặp họa diệt môn, còn ngồi đó làm bộ ta đây gì nữa.”
Sau khi Văn Thái Lai bị bắt, Mạnh Kiện Hùng vẫn lo lắng trong lòng, sợ Thiết Đảm Trang bị liên lụy. Nghe nói vậy, y chỉ còn cách vào trong bẩm báo. Chu Trọng Anh tung tung hai quả thiết đảm loảng xoảng trên tay, nộ khí đằng đằng, bước ra ngoài lớn tiếng: “Ai nói Thiết Đảm Trang sắp bị họa diệt môn thế? Lão phu phải thỉnh giáo một phen!”
Vạn Khánh Lan lấy trong bọc ra một tờ giấy, đặt lên bàn rồi nói: “Chu lão anh hùng cứ xem thử!” Hai tay hắn vẫn chặn lên tờ giấy đó, dường như sợ Chu Trọng Anh đoạt lấy. Chu Trọng Anh đưa mắt nhìn xuống, thì ra đó là một lá thư của Miên lý châm Lục Phi Thanh phái Võ Đang viết cho ông, nhờ ông chiếu cố cho mấy bằng hữu Hồng Hoa Hội đang cơn nguy cấp. Lá thư này Văn Thái Lai chưa có dịp đưa cho Chu Trọng Anh. Sau khi bắt chàng, chúng lục soát lấy được.
Lục Phi Thanh phạm thượng gây loạn, tội danh rất lớn, cũng là một yếu phạm bị truy nã lâu nay chưa bắt được. Thì ra họ Lục lại còn cả gan cấu kết với cả Thiết Đảm Trang. Bọn Thoại Đại Lâm thương lượng được một lúc, cảm thấy nếu báo lên quan trên thì cũng chưa chắc bắt được Lục Phi Thanh, còn bọn mình lại phải vác thêm một gánh nặng. Không bằng bây giờ cầm lá thư này đi gõ cửa Chu Trọng Anh kiếm ít tiền, chia chác nhau thì thực tế hơn. Thiết Đảm Trang đã dám giấu khâm phạm, bây giờ lại có bằng chứng là quan hệ với tội phạm, dĩ nhiên phải ngoan ngoãn lòi bạc ra cho được yên thân.
Trương Triệu Trọng cùng Lục Phi Thanh là sư huynh đệ, tuy đã tuyệt giao từ lâu, nhưng vẫn có nghĩa đồng môn. Y cũng biết họ Lục lợi hại nên không dám làm càn. Khi nghe bọn Thoại Đại Lâm bàn chuyện moi tiền Chu Trọng Anh, y cũng thấy là chuyện tổn hại nhân phẩm, không ra vẻ anh hùng hảo hán. Nhưng trong chốn quan trường không tiện cản trở người khác phát tài, nên y bèn mặc kệ chúng muốn làm gì thì làm, còn bản thân mình quyết không chia một đồng xu để khỏi hủy hoại danh tiếng Hỏa Thủ Phán Quan.
Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm đều là người có công danh, không tiện công nhiên ra mặt, nên cả bọn đề cử Vạn Khánh Lan và Đồng Triệu Hòa đến đây đòi tiền.
Chu Trọng Anh đọc thư xong, trong lòng cũng hơi kinh hãi, bèn hỏi: “Hai vị có gì chỉ giáo?”
Vạn Khánh Lan nói: “Chúng ta ngưỡng mộ Chu lão anh hùng đã lâu, ai cũng thán phục ông trượng nghĩa sơ tài lại thích kết giao bằng hữu. Nghe nói ông vì bằng hữu mà phải tốn chín mười vạn lạng cũng quyết chẳng chau mày. Ông cũng biết rồi, nếu lá thư này đến tay quan phủ thì sẽ hậu hoạn vô cùng, Huynh đệ ta đọc xong thư, ai cũng muốn liều mình kết giao với một bằng hữu như Chu lão anh hùng. Mọi người quyết định hủy lá thư này, không nhắc nửa chữ đến việc Thiết Đảm Trang che giấu khâm phạm Văn Thái Lai và kết giao với phản tặc Lục Phi Thanh, chịu lấy cái tội không bẩm báo với quan trên.”
Chu Trọng Anh đáp: “Vậy thì ta phải đa tạ rồi.”
Vạn Khánh Lan nói thêm mấy câu hoa mỹ chẳng liên quan gì, cuối cùng thì buồn bã kết luận: “Chỉ vì huynh đệ ta lần này rời kinh công cán, dọc đường chi tiêu tốn kém nên ai cũng nợ đầy mình. Giả tỉ Chu lão anh hùng lấy tình nghĩa võ lâm mà ra tay giúp đỡ một chút, chúng ta sẽ vô cùng cảm kích.”
Chu Trọng Anh chau mày, hứ một tiếng.
Vạn Khánh Lan tiếp: “Món nợ này cũng không lớn lắm, mấy chục người cộng lại chỉ đến sáu bảy chục ngàn lạng bạc là cùng. Chu lão anh hùng gia tài trăm vạn, vàng bạc đầy nhà, ruộng tốt ngàn mẫu, lừa ngựa cả bầy, là bậc hào phú vùng Hà Tây. Con số nhỏ nhoi như thế, chắc ông không thèm đắn đo. Người xưa nói rất hay: Của đi thay người. Lại có câu: Tiểu tài không bỏ ra thì đại tài sẽ không đến.”
Chu Trọng Anh thấy bọn công sai đến Thiết Đảm Trang bắt người, hoàn toàn không nể mặt mình, vốn đã giận dữ rồi. Ông lại nghĩ đến chỗ anh em đồng đạo giang hồ gặp nạn đến đây nhờ vả, mình không bảo vệ được, trong lòng rất áy náy vì có lỗi với bằng hữu. Đứa con yêu quí của ông mất mạng, suy cho cùng thì cũng do bọn công sai này gây nên. Hai ngày nay ông cũng muốn tìm cách cứu được Văn Thái Lai để trị bọn công sai cho hả dạ, chỉ vì vợ đi con mất, thần tình rối loạn, nên nhất thời không quyết định được gì.
Bây giờ hai tên này dám đến quấy nhiễu, lại còn cả gan mở miệng tống tiền, thật là đổ dầu vào lửa. Chu Trọng Anh bèn lạnh nhạt nói: “Lão phu cũng có chút ít gia sản, nhưng cả đời chỉ dùng để giúp đỡ những bậc anh hùng hảo hán, có cốt cách nghĩa khí mà thôi.” Không những ông mở miệng là cự tuyệt ngay, lại còn chửi bọn này không đáng xu nào.
Đồng Triệu Hòa bật cười: “Chúng ta là tiểu nhân, chuyện đó không sai. Nhưng chắc Chu lão anh hùng hiểu rõ, tiểu nhân làm thì dở mà phá thì giỏi. Xây dựng một đại trang viện như thế này, thì đúng là chúng ta không đủ bản lãnh. Nhưng muốn hủy hoại nó thì…”
Hắn nói chưa dứt câu đã có một người xông vào giận dữ quát: “Ngươi hủy hoại Thiết Đảm Trang như thế nào, bản cô nương phải coi thử.” Đó chính là Chu Ỷ.
Chu Trọng Anh bèn nháy mắt với con gái một cái, đi ra ngoài đại sảnh. Chu Ỷ cũng theo ra. Chu Trọng Anh khẽ bảo: “Con đi dặn Kiện Hùng, Kiện Cương, tuyệt đối không để hai tên ưng trảo này ra khỏi trang.”
Chu Ỷ cả mừng đáp: “Hay quá! Con đứng ngoài, càng nghe càng tức!”
Chu Trọng Anh quay vào đại sảnh, Vạn Khánh Lan bèn nói: “Chu lão anh hùng đã không nể mặt, chúng ta xin cáo từ vậy.” Nói xong hắn xé vụn lá thư của Lục Phi Thanh. Chu Trọng Anh ngẩn ra, chuyện này thật là ngoài dự liệu của ông.
Vạn Khánh Lan tiếp: “Đây chỉ là bản sao, phải xé đi lỡ người khác nhìn thấy không tiện. Còn bản chính đang ở trong tay Hỏa thủ phán quan Trương đại nhân.” Câu nói này tỏ ý cho Chu Trọng Anh biết, dù có giết hai người thì cũng không hủy được chứng cớ chắc như ngọn núi.
Chu Trọng Anh trừng mắt giận dữ nhìn hắn, nghĩ bụng: “Ngươi muốn Chu mỗ bỏ tiền mua mạng, quá xem thường ta rồi.”
Đúng lúc này, Lạc Băng xô cửa phóng phi đao về phía Đồng Triệu Hòa.
Chu Trọng Anh không biết ai ra tay. Tuy ông rất hận Đồng Triệu Hòa, nhưng cũng không muốn hắn mất mạng như thế. Không kịp nghĩ nhiều, cứu người là gấp, ông lập tức ném một quả thiết đảm về hướng phi đao. Nghe keng một tiếng, cả phi đao lẫn thiết đảm cùng rơi xuống đất.
Lạc Băng thấy Chu Trọng Anh ra tay cứu kẻ thù, bèn lớn tiếng thóa mạ: “Hay lắm! Quả nhiên là cùng một bọn. Tên lão tặc này đã hại chồng của ta, thì giết luôn ta đi cho xong.” Nàng khập khiễng tiến vào đại sảnh, vung Uyên Ương song đao lên chém vào đầu Chu Trọng Anh.
Trong tay Chu Trọng Anh không có binh khí, ông vội xách một cái ghế lên, vừa chống đỡ vừa hô: “Nói chuyện rõ ràng trước đã, khoan hãy động thủ!” Lạc Băng đã quyết liều mạng, không thèm nghe gì nữa, cả song đao đều ra những chiêu thức tấn công.
Chu Trọng Anh cũng biết Hồng Hoa Hội ngộ nhận rằng mình bán đứt Văn Thái Lai. Ông chỉ muốn tìm cách giải thích, dứt khoát không đả thương người để gây nợ, nên cứ lùi mãi mà không đánh trả. Còn Lạc Băng thì một trường đao một đoản đao vun vút chém tới, đao nào cũng nhằm chỗ yếu hại mà tấn công.
Lạc Băng nhìn thấy địch thủ đã lùi đến chân tường, không thể lùi được nữa, thì đột nhiên nghe sau lưng có tiếng gió rít lên. Nàng biết có người đánh lén, vội cúi người tránh né. Nghe vù một tiếng, một thanh đơn đao bay sạt qua đầu. Trường đao bên tay trái của Lạc Băng bèn phong tỏa trung lộ của địch, bắt đối phương lùi một bước rồi nàng mới quay người lại, nhìn thấy Chu Ỷ hoành đao đứng đó.
Chu Ỷ đưa tay chỉ mặt Lạc Băng, giận dữ nói: “Quả là không biết tốt xấu! Ta đã có lòng tốt cứu ngươi, sao ngươi lại chém gia gia ta?”
Lạc Băng nói: “Thiết Đảm Trang giả nhân giả nghĩa hại chết chồng ta. Ngươi tránh ra, ta không làm khó dễ ngươi.” Rồi nàng quay lại chém Chu Trọng Anh thêm một đao. Chu Trọng Anh đưa ghế lên chống đỡ, Lạc Băng rụt trường đao về không chém vào ghế, rồi lại ra ba chiêu liên hoàn thần tốc công tới.
Chu Trọng Anh né trái né phải, miệng luôn hô hoán: “Dừng tay! Dừng tay!”
Chu Ỷ giận dữ xông ra cản trước mặt Chu Trọng Anh, vung đao đấu với Lạc Băng.
Về kinh nghiệm hay võ nghệ thì Lạc Băng đều hơn hẳn Chu Ỷ, nhưng vết thương trên vai và trên đùi nàng chưa lành hẳn. Hơn nữa, nàng đang vừa tức giận vừa lo lắng, đó chính là chuyện đại kỵ của người học võ. Vì thế mà mới bảy tám chiêu, Lạc Băng đã ở thế hạ phong.
Chu Trọng Anh vẫn la gọi dừng tay, nhưng làm sao mà can ngăn được. Vạn Khánh Lan cùng Đồng Triệu Hòa đứng bên cứ chỉ chỉ trỏ trỏ, nhàn hạ đứng nhìn.
Chu Trọng Anh thấy con gái không nghe lời mình lại càng lo lắng, định xách ghế liều mạng nhảy ra ngăn cản trận đấu giữa hai người. Đột nhiên ông nghe phía sau có tiếng gầm, rồi một bóng đen lao tới.
Người này thân hình lùn tịt, tay cầm lang nha bổng. Cây bổng ngắn này trên đầu lấp loáng rất nhiều răng nhọn, đập từ trên xuống đầu Chu Ỷ, thế dữ như cọp điên, khó mà đỡ nổi. Chu Ỷ hoảng sợ né qua rồi xoay đơn đao lại ra chiêu Thần Long Đẩu Giáp chặt lên vai người đó.
Y vung bổng công nhiên đón lấy, nghe keng một tiếng rồi lửa bắn tung tóe. Tay của Chu Ỷ tê chồn, đơn đao suýt tuột khỏi tay. Nàng phải lùi lại hai bước, nhìn kỹ lại thấy người này lưng gù, xấu xí vô cùng. Người gù này không truy kích, lại chạy đến chỗ Lạc Băng.
Lạc Băng nhìn thấy người quen, vừa vui mừng vừa thương tâm. Nàng chỉ gọi được một tiếng: “Thập ca!” rồi nhịn không nổi, hai dòng lệ đã lăn xuống má.
Chương Tấn hỏi: “Tứ ca đâu?”
Lạc Băng chỉ mặt Chu Trọng Anh, Vạn Khánh Lan và Đồng Triệu Hòa, la lên: “Tứ ca đã bị chúng hại rồi. Thập ca mau trả thù cho muội.”
Chương Tấn vừa nghe thấy Văn Thái Lai bị người ta hại, chưa biết hại như thế nào đã vội kêu lên: “Tứ ca! Tứ ca! Đệ trả thù cho ca ca đây!” Tay y liền vung lang nha bổng đập tới hạ bàn của Chu Trọng Anh.
Chu Trọng Anh tung người nhảy lên bàn, hét lên: “Khoan hãy động thủ!” Chương Tấn đang lúc bi phẫn, không nói năng gì cứ múa bổng đánh vào chân ông. Hai vai của Chu Trọng Anh nhún một cái, ông nhảy lên cao mấy thước, rồi đảo người đứng xuống đất. Cây bổng của Chương Tấn đánh vào cái bàn bằng gỗ cẩm, mấy cái răng nhọn ghim lút xuống bàn, nhất thời không nhổ lên kịp để đánh tiếp.
Lúc này, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương đã biết chuyện, chạy vội vào đại sảnh. An Kiện Cương đem cây kim bối đại đao của Chu Trọng Anh tới, đưa cho sư phụ.
Chu Ỷ thấy Lạc Băng cùng gã gù kia đến trang quấy rối một cách vô lý, lại ra những chiêu hung ác tấn công gia gia mình, dĩ nhiên không thể đứng yên. Nàng la lớn: “Mạnh đại ca, An đại ca! Chúng ta cùng tiến lên đi! Không biết ở đâu chui ra những quân tàn bạo thế này, cả gan đến Thiết Đảm Trang quấy rối.”
Hai người Mạnh, An không biết lai lịch của Chương Tấn, cũng không biết lý do Chương Tấn đến đây, nhưng vừa vào đại sảnh đã thấy y vung bổng tấn công sư phụ, liền cho y là kẻ địch, không nghi ngờ gì nữa. Thế là ba người ba đao cùng tấn công Chương Tấn.
Chương Tấn múa bổng chống đỡ, lớn tiếng hô: “Thất ca! Ca ca mau mau bảo vệ Tứ tẩu. Ca ca mà không vào đây cho lẹ thì đệ lôi tổ tông ca ca ra mà chửi đấy!”
Thì ra Chương Tấn cùng Võ gia cát Từ Thiên Hoằng vừa biết vợ chồng Văn Thái Lai lâm nạn đã nhanh chóng đến đây cứu giúp. Hai người đi suốt ngày đêm, tới Thiết Đảm Trang thì trời đã tối. Từ Thiên Hoằng định chuẩn bị danh thiếp, dùng lễ vãn bối bái kiến Chu Trọng Anh trước, nhưng Chương Tấn chưa nói gì đã tung người nhảy vào trang. Từ Thiên Hoằng sợ y gây họa, chỉ còn cách chạy vội theo. Chàng đến trễ một bước, Chương Tấn đã giao thủ với cả bốn người Chu Trọng Anh, Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương.
Từ Thiên Hoằng nghe tiếng hô của Chương Tấn liền vội vàng chạy vào trong sảnh, đến cạnh Lạc Băng. Lúc này Lạc Băng cũng đã bình tĩnh trở lại, đôi song đao trong tay lại chém tới Chu Trọng Anh. Nàng thấy Từ Thiên Hoằng đột nhiên xuất hiện liền mừng thầm trong lòng, biết vị quân sư túc trí đa mưu này đến đây thì chắc chắn phe ta không bị thiệt thòi nữa.
Lạc Băng chỉ mặt Đồng Triệu Hòa và Vạn Khánh Lan, la lớn: “Chúng đã hại Tứ ca của ta rồi!” Từ Thiên Hoằng vốn cẩn thận trì trọng, nhưng nghe thấy Tứ ca thân ái bị hại cũng phải mất bình tĩnh, tay hữu cương đao tay tả thiết quải, tung người nhảy tới trước mặt Đồng Triệu Hòa.
Họ Đồng và họ Vạn đang khoái chí đứng xem Hồng Hoa Hội và Thiết Đảm Trang cấu xé lẫn nhau. Hồng Hoa Hội ít người chắc chắn sẽ thua, khi đó chúng thừa cơ bắt thêm mấy người về nộp, thật là công lao to lớn. Cặp mắt háo sắc của Đồng Triệu Hòa đang thèm thuồng nhìn Lạc Băng, đột nhiên thấy Từ Thiên Hoằng tung người nhảy đến, hắn vội vàng đưa đao ra cản lại.
Vạn Khánh Lan nghĩ bụng: “Danh tiếng Trấn Viễn tiêu cục không phải nhỏ, để ta xem thử bọn tiêu đầu các người bản lãnh ra sao.”
Từ Thiên Hoằng thân hình nhỏ bé, trông rất xứng cặp với Đồng Triệu Hòa. Nhưng võ nghệ chàng cao hơn nhiều, chỉ mấy chiêu là đã ép đối phương lùi liên tục. Tay tả vung thiết quải móc ra ngoài, tay hữu ra chiêu Bàn Thốn Thích Trác công tới. Đồng Triệu Hòa vội tránh sang bên trái, lưu ý được phía trên thì phía dưới lại sơ hở. Hắn liền bị một chiêu Tảo Đường Thoái của Từ Thiên Hoằng quét trúng gót chân, ngã lăn quay ra đất.
Từ Thiên Hoằng bèn vung thiết quải từ trên đập xuống, nhưng chưa đánh tới nơi đã phát giác sau lưng mình có một luồng kình phong ào tới. Chàng không kịp quay lại, chân trái chấm lên ngực Đồng Triệu Hòa, ngã người ra né tránh cặp thiết xuyên của Vạn Khánh Lan. Đồng Triệu Hòa kêu ôi ối, nhất thời không sao đứng dậy được.
Vạn Khánh Lan đã khổ công tập luyện đôi thiết xuyên hơn hai mươi năm trời, dựa vào bản lãnh chân thật của mình mà liên tiếp đánh bại rất nhiều cao thủ ở Bắc Kinh, giành được chức Tổng giáo đầu trong Trịnh vương phủ. Trịnh Thân Vương muốn nâng đỡ hắn, bèn cho hắn đi theo Trương Triệu Trọng kiếm chút ít công lao, rồi đề cử làm quan. Lúc này hắn ác đấu với Từ Thiên Hoằng, một người sức lực mạnh mẽ, một người chiêu thức tinh vi, mười mấy chiêu vẫn chưa phân thắng bại.
Vạn Khánh Lan lo lắng, thầm nghĩ: “Tên này nhỏ con như vậy mà ta không thắng nổi, chắc Đồng Triệu Hòa sẽ chê cười.” Y bèn vung cao thiết xuyên đánh mạnh về phía Từ Thiên Hoằng. Từ Thiên Hoằng dùng thiết quải cản trở, còn cương đao bên tay phải chém thẳng tới mặt địch thủ. Vạn Khánh Lan vội thu thiết xuyên lại, ra chiêu Khổng Tước Khai Bình hoành ngang trước mặt chống đỡ, còn thiết xuyên bên tay phải dùng chiêu Bá Vương Ngự Giáp chém từ trên xuống. Từ Thiên Hoằng lập tức nghiêng mình né tránh, cây thiết xuyên vụt sạt qua bên trái, cách chưa đầy một tấc, thật là nguy hiểm.
Từ Thiên Hoằng thấy đối phương bản lãnh cao cường, bèn cẩn thận hơn. Chàng thân hình bé nhỏ nên tập trung tấn công vào hạ bàn, đơn đao thiết quải nhập lại đánh vào chân địch thủ. Vạn Khánh Lan không biết đây chỉ là hư chiêu, bèn đưa đôi xuyên một chặn giữa đùi, một vung ra ngoài phản kích. Không ngờ cương đao của Từ Thiên Hoằng thì chém tiếp, nhưng thiết quải lại biến chiêu giữa chừng, từ dưới đánh ngược lên, điểm vào giữa mặt.
Vạn Khánh Lan không sao đỡ kịp, lập tức nhào ngửa ra sau. Hắn thi triển thân pháp Thiết Bản Kiều né được quải này, nhưng đã sợ đến toát mồ hôi lạnh đầy người. Đánh thêm mấy chiêu nữa, hắn cảm thấy mình không sao địch nổi, bất giác kinh hãi trong lòng.
Bên kia thì Chương Tấn lấy một địch ba, càng đánh càng hung mãnh. Mạnh Kiện Hùng hô lớn: “Kiện Cương! Mau mau ra giữ cổng trang, đừng để người khác vào thêm nữa.”
Cây lang nha bổng của Chương Tấn rất cương mãnh, múa lên gió lộng vù vù, An Kiện Cương không sao thoát khỏi vòng chiến được. Chu Ỷ bèn la lớn: “An nhị ca ra nhanh lên, tên gù này để muội đối phó.”
Chương Tấn nghe thấy Chu Ỷ nói tới chữ “gù”, phạm vào đại kỵ, nên lửa giận càng hừng hực, vừa gào thét điên cuồng vừa tấn công mãnh liệt. Chu Ỷ và Mạnh Kiện Hùng hợp sức vất vả chống đỡ, An Kiện Cương tranh thủ nhanh chân chạy ra ngoài sảnh.
Chu Trọng Anh hô to: “Mọi người mau dừng tay, nghe lão phu nói một câu đã.”
Mạnh Kiện Hùng cùng Chu Ỷ lập tức lui lại mấy bước. Từ Thiên Hoằng cũng lùi lại một bước, kêu lên: “Thập đệ dừng tay, nghe ông ta nói trước đã.” Chương Tấn cứ mặc kệ, nhào lên đánh tiếp. Từ Thiên Hoằng định tiến tới cản trở, không ngờ Vạn Khánh Lan đột nhiên đánh lén sau lưng.
Từ Thiên Hoằng không kịp phòng bị, vội co người lại nhưng cũng trúng đòn vào vai. Chàng vừa đau vừa giận, loạng choạng kêu lên: “Hay lắm! Thiết Đảm Trang thật là quỉ kế đa đoan.” Chàng không biết Vạn Khánh Lan không phải là người của Thiết Đảm Trang.
Họ Từ vốn là người trầm tĩnh, nhưng bất ngờ bị ám toán nên không khỏi giận dữ. Vai trái bị thương, thiết quải không dùng được, chàng chỉ cầm cương đao tái đấu với Vạn Khánh Lan, thi triển đao pháp Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao tấn công liên tục. Nhưng thiếu đi cây thiết quải nên đơn đao không sao phát huy hết sức, không chiếm thế thượng phong được nữa.
Đồng Triệu Hòa đứng xa xa chỉ trỏ Lạc Băng, miệng không ngừng phát ngôn bừa bãi, dùng lời bậy bạ mà trêu chọc mỹ nhân. Lạc Băng chỉ còn một mũi phi đao nên không thể khinh suất phóng ra, chỉ xách đao đuổi theo. Đồng Triệu Hòa ỷ vào đôi chân nhanh nhạy, chạy vòng vèo trong đại sảnh giữa mớ bàn ghế đổ lung tung mà tránh né. Hắn lại nói: “Đừng hung dữ như thế! Chồng của muội đã chết từ lâu rồi, bây giờ ngoan ngoãn tái giá với Đồng đại gia cho xong.”
Lạc Băng vốn đã hoảng loạn, nghe thấy câu này lại tưởng Văn Thái Lai đã chết thật, trước mắt bỗng tối sầm rồi ngã xuống ngất đi. Đồng Triệu Hòa thấy nàng té nhào liền chạy tới. Chu Trọng Anh thấy thế, cơn giận nổi lên, cũng vung thanh Kim bối đại đao nhảy về phía Lạc Băng. Ông muốn cản trở Đồng Triệu Hòa vô lễ với nàng, nào ngờ lại gây chuyện hiểu lầm lần nữa.
Trước cửa có tiếng quát lớn: “Lão tặc dám thừa cơ ám toán Tứ tẩu của ta! Ta phải thí mạng với ngươi!” Một người nắm đôi song câu phân ra trên dưới, một chĩa vào yết hầu, một chĩa vào giữa ngực, xông thẳng vào Chu Trọng Anh, thế gấp như gió bão.
Chu Trọng Anh thấy người này diện mạo tuấn tú, thân thủ nhanh nhạy, trong lòng bỗng phát sinh hảo cảm, bèn cử đao lên cản nhẹ, lùi lại một bước rồi hỏi: “Tôn giá là ai? Xin cho biết danh tánh.”
Người kia không đáp, cúi nhìn Lạc Băng, thấy mặt nàng trắng như tờ giấy, hơi thở yếu ớt. Y liền dìu nàng dậy để ngồi dựa trên ghế, tiện tay nhặt đôi Uyên Ương Đao dưới đất lên, đặt bên cạnh nàng.
Chu Trọng Anh thấy đối phương càng lúc càng đông, đánh nhau càng lúc càng ác liệt, không sao biện minh được nên cứ bồn chồn trong dạ. Đột nhiên ông nghe bên ngoài có tiếng quát như sấm nổ, rồi lại nghe thấy tiếng vũ khí chạm nhau loảng xoảng. Chỉ chốc lát là An Kiện Cương thua trận chạy vào trong, một người đuổi theo sát gót. Người này vừa cao vừa mập, tay cầm cây cương tiên rất nặng, ít ra cũng hơn ba mươi cân. An Kiện Cương không dám dùng đơn đao để công nhiên đón đỡ cây cương tiên này.
Chương Tấn la lên: “Bát ca! Cửu ca! Hôm nay chúng ta chưa giết sạch người của Thiết Đảm Trang thì quyết không chịu dừng tay.”
Người mập mạp kia là Dương Thành Hiệp, ngồi ghế thứ tám trong Hồng Hoa Hội, ngoại hiệu Thiết Tháp. Người mặt mũi tuấn tú cầm song câu ngồi ghế thứ chín, chính là Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa. Lần nào ác chiến trong giang hồ hoặc với binh lính triều đình, Vệ Xuân Hoa cũng liều mạng bất kể sống chết. Số lần y gặp nguy hiểm thì không sao đếm xuể, nhưng chưa trọng thương lần nào, nên mới được người ta ví là con báo có chín mạng sống.
Hai người này là nhóm viện trợ thứ hai của Hồng Hoa Hội. Họ đến Thiết Đảm Trang đã gần nửa đêm, thấy cửa trang chong đuốc sáng trưng, trang đinh cầm sẵn vũ khí như sắp gặp đại địch. Vệ Xuân Hoa tiến lên hô lớn: “Họ Dương và họ Vệ của Hồng Hoa Hội đến đây xin bái kiến Chu lão anh hùng của Thiết Đảm Trang, phiền huynh đệ vào trong thông báo.”
Bên trong đang đánh nhau náo nhiệt, An Kiện Cương nghe thấy ba chữ Hồng Hoa Hội dĩ nhiên không dám để họ vào trang. Y bèn hét lớn: “Bắn tên!” Hai mươi mấy trang đinh đồng loạt giương cung, tên bay veo véo. Vệ Xuân Hoa và Dương Thành Hiệp giận dữ huy động binh khí gạt tên.
Cho dù trước mắt là núi đao hay mưa tên cũng thế, Vệ Xuân Hoa xông thẳng vào như một cơn gió. Bọn trang đinh thấy người này hung hãn vô song, tay chân đều bủn rủn hết. Chúng chưa kịp đóng chặt cửa trang, họ Vệ đã xông được vào trong.
Dương Thành Hiệp đi theo sau, bị An Kiện Cương múa đao cản trở. Họ Dương thân hình khôi vĩ, khí thế oai phong lẫm liệt, cương tiên vừa đánh ra đã nghe tiếng gió vù vù. An Kiện Cương không dám gạt đỡ, phải vừa lo tránh né vừa tìm khoảng trống vung đao phản kích. Dương Thành Hiệp sử chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, dùng sức quạt cương tiên ra. Nghe keng một tiếng, đao và tiên chạm nhau, cổ tay của An Kiện Cương chấn động, đơn đao tuột khỏi tay văng đi mất.
Dương Thành Hiệp không muốn hại mạng người, đợi y lùi lại mới vung roi đập vỡ cánh cửa thứ hai rồi xông vào. Y không thuộc đường lối trong trang, trong đêm tối phải đứng yên nghe ngóng để tìm đường. An Kiện Cương đã tìm được một con đao khác, lại nhảy tới cản trở, lần này còn cẩn thận hơn. Nhưng được mấy chiêu, đơn đao của y lại bị cương tiên của Dương Thành Hiệp đập trúng, cong vòng lại.
An Kiện Cương múa thanh loan đao này hộ thân lùi vào trong đại sảnh. Dương Thành Hiệp vung roi đập xuống đầu, An Kiện Cương vội vàng giật lùi lại, tiện tay đẩy một cái bàn ra cản. Nghe ầm một tiếng, một góc bàn bị đánh sập xuống đất, gỗ vụn bay tứ tán.
Chu Trọng Anh vừa kinh hãi vừa thán phục, chẳng trách Hồng Hoa Hội thanh thế rất lớn. Nhân vật trong hội này, quả nhiên người nào cũng võ nghệ kinh người. Ông thấy An Kiện Cương mồ hôi đầy đầu, chỉ vài chiêu nữa là không khỏi mất mạng dưới ngọn roi, bèn đề khí hô to: “Các vị anh hùng Hồng Hoa Hội, hãy nghe lão phu nói một câu.”
Lúc này Vệ Xuân Hoa đã thay thế cho Từ Thiên Hoằng, ác chiến với Vạn Khánh Lan. Chàng và Dương Thành Hiệp nghe Chu Trọng Anh kêu gọi, tay liền chậm lại. Từ Thiên Hoằng kêu lớn: “Cẩn thận, đừng để bị lừa!”
Tiếng kêu chưa dứt, quả nhiên Vạn Khánh Lan đã vung thiết xuyên đánh tới Vệ Xuân Hoa. Hắn sợ nhất là Thiết Đảm Trang và Hồng Hoa Hội liên kết với nhau, nên quyết không để họ có cơ hội nói chuyện. Vệ Xuân Hoa nghe tiếng kêu của Từ Thiên Hoằng đã có phần phòng bị. Chàng thấy địch thủ bỉ ổi đánh lén, bèn nổi giận vung song câu đánh như gió táp mưa sa. Vạn Khánh Lan thấy địch thủ này hung hãn liều mạng, bèn hoảng sợ nhảy lùi lại, thu cặp thiết xuyên về chống đỡ.
Từ Thiên Hoằng lạnh lùng cất tiếng: “Giang hồ đồn đại Chu Thiết Đảm là hảo bằng hữu, đại danh đại nghĩa, thì ra chỉ có hư danh. Con người âm hiểm độc ác, chuyên dùng quỉ kế để ám toán, sao gọi là anh hùng hảo hán được?”
Chu Trọng Anh biết đối phương hiểu lầm, nhưng cũng không sao nén được cơn giận, bèn quát lớn: “Hồng Hoa Hội các ngươi bức hiếp người ta quá đáng!” Ông bèn vung thanh kim bối đại đao lên, hô gọi: “Kiện Cương lùi lại, để ta tỉ đấu với mấy vị anh hùng hào kiệt nổi danh này.”
An Kiện Cương lùi ra vài bước. Chu Trọng Anh bước tới nói: “Xin hỏi tôn tính đại danh các vị.”
Dương Thành Hiệp thấy râu tóc của ông bạc phơ bay phất phới, không dám khinh mạn, bèn chắp tay nói: “Tại hạ là Thiết tháp Dương Thành Hiệp.”
Lúc này, Lạc Băng đã tỉnh lại, bèn kêu lớn: “Bát ca! Ca ca khách khí làm gì nữa, lão thất phu này đã hại Tứ ca rồi.”
Câu này vừa nói ra, bốn người họ Từ họ Dương họ Vệ họ Chương lập tức vừa kinh hãi vừa bi phẫn. Vệ Xuân Hoa không lý gì tới Vạn Khánh Lan nữa, nhảy xổ tới trước mặt Chu Trọng Anh, vung song câu như gió đánh thẳng vào ông. Chu Trọng Anh hoành đại đao xuống tấn, vận nội lực gạt bật song câu ra ngoài. Ngực Vệ Xuân Hoa nhói lên một cái, biết ngay võ công đối phương lợi hại. Nhưng y là người nổi tiếng không biết sợ chết, nên không lùi bước mà cứ tiếp tục tấn công.
Bên kia Chương Tấn một mình đấu với Mạnh Kiện Hùng và Chu Ỷ, đã đánh đến mức không nói chuyện gì được nữa. An Kiện Cương thở hồng hộc, đưa tay áo lên lau mồ hôi trên trán, rồi lại vung đao nhảy vào trợ chiến. Dương Thành Hiệp thì múa cương tiên tấn công Vạn Khánh Lan.
Từ Thiên Hoằng xem tình hình ác chiến trong đại sảnh, thấy Chương Tấn tuy phải lấy một địch ba nhưng không chịu ở thế hạ phong, còn Vệ Xuân Hoa mới là khó chống đỡ. Chu Trọng Anh đã mấy lần hạ thủ lưu tình, nhưng đối phương vẫn quyết không chịu lùi bước, quả là đang tuổi tráng niên không biết tốt xấu là gì. Thêm mấy chiêu nữa, móc câu bên tay trái của Vệ Xuân Hoa bị gạt văng ra ngoài.
Từ Thiên Hoằng thấy Chu Trọng Anh đao pháp kỳ lạ, công lực thâm hậu, rõ ràng Vệ Xuân Hoa không phải là địch thủ, liền cầm đơn đao xông vào trợ chiến. Họ Từ, họ Vệ lấy hai địch một nhưng vẫn không sao thắng nổi. Chu Trọng Anh tuổi đã già, mà vẫn huy động cây kim bối đại đao phát ra ánh sáng trắng vàng đan xen chói mắt. Chiêu số càng lúc càng tinh vi, kình lực càng lúc càng mạnh mẽ, quả là dũng mãnh phi thường.
Từ Thiên Hoằng thấy không thắng nổi, bèn lớn tiếng hô: “Ngũ ca, Lục ca! Các huynh đến đây, chúng ta phóng hỏa đốt Thiết Đảm Trang này quách.” Chàng chỉ hư trương thanh thế mà thôi. Thật ra đương gia thứ năm và thứ sáu trong Hồng Hoa Hội là anh em Thường Hách Chí và Thường Bá Chí không đến đây, họ đang phụng mệnh Tổng đà chủ đi Tam Đạo Câu để theo dõi hành tung của bọn công sai.
Nghe họ Từ kêu gọi như thế, quả nhiên mọi người trong Thiết Đảm Trang đều giật mình kinh hãi. Chu Trọng Anh bị phân tâm, suýt trúng phải một câu của Vệ Xuân Hoa. Ông chau mày lại, vung đại đao ra ba chiêu liên hoàn Tam Dương Khai Thái, ép Từ và Vệ lùi luôn mấy bước, rồi tung người phóng đến cửa đại sảnh, định ra ngoài cản trở kẻ địch phóng hỏa.
Nào ngờ Vệ Xuân Hoa đuổi sát như bóng theo hình, người chưa đến mà câu đã đến trước, móc thẳng vào lưng ông. Chu Trọng Anh hoành đao ngược lại, hất song câu ra nghe keng một tiếng. Chân phải của ông lại quét sát dưới đất, đồng thời tay trái phóng ra một chưởng. Vệ Xuân Hoa vội vã tung người nhảy lên né tránh. Chu Trọng Anh bèn chụm năm ngón tay lại như móng chim điêu, vẫy ngược lại đánh trúng vào vai đối thủ.
Chu Trọng Anh liên tiếp đá quét, phóng chưởng, vẫy tay như thế, chính là tuyệt kỹ Nhị Lang Đảm Sơn trong Thiếu Lâm quyền. Vệ Xuân Hoa đang chuyên tâm đối phó với đại đao của ông, nào ngờ ông đột nhiên thi triển Thiếu Lâm quyền nên nhảy loạn cả lên. Chàng tránh được hai thức, tới thức cuối cùng thì không sao tránh nổi, vai phải trúng ngay một đòn. Rất may Chu Trọng Anh hạ thủ lưu tình chỉ sử dụng bốn phần công lực, nếu không thì y phải trọng thương.
Vệ Xuân Hoa đánh thua lại càng hung hãn. Y bị Chu Trọng Anh đánh lùi ba bước, đứng chưa vững chân đã phóng tới bốn bước, vung song câu sử chiêu Thái Phượng Thuyền Sào, cuộn tới vô cùng dũng mãnh.
Chu Trọng Anh giận dữ kêu lên: “Anh bạn trẻ kia! Ta với ngươi không có thù giết cha giết mẹ, cũng không có hận cướp vợ đoạt con, làm gì phải liều mạng đến thế? Ta đã hạ thủ lưu tình, ngươi cũng nên biết tốt xấu một chút.”
Vệ Xuân Hoa đáp: “Ngươi giết Văn tứ ca của ta, thù sâu như biển. Ta đánh không thắng ngươi, nhưng ta lại là Cửu Mạng Cẩm Báo Tử đánh không chết được, ngươi có biết không?” Miệng y đối đáp, song câu trong tay y vẫn không chậm lại chút nào.
Chu Trọng Anh thấy y hung hãn dũng mãnh như thế, trong lòng tức giận nhưng không khỏi có phần kính nể, bèn nói: “Lão phu đã sống sáu mươi mấy tuổi rồi, chưa gặp tên nào liều mạng như ngươi.”
Vệ Xuân Hoa đáp luôn: “Thế thì hôm nay ông đã gặp rồi.” Soạt một tiếng, câu lại đâm tới, Từ Thiên Hoằng cũng vung đơn đao chém tạt ngang. Chu Trọng Anh nhảy vọt lên tránh né, đại đao lại nhanh chóng chém ra. Vệ Xuân Hoa đang luống cuống đỡ đao thì Chu Trọng Anh bỗng khom lưng xuống, thúc khuỷu tay ra trúng ngay vào sườn của y. Đây đúng là chiêu Lạc Hà Khốn trong Thiếu Lâm quyền, nếu dùng hết sức thì ít ra Vệ Xuân Hoa cũng phải gãy mấy cái xương sườn. Vệ Xuân Hoa bị thúc trúng, biết đối phương chưa dùng hết sức, nhưng cũng đau đến tận xương tủy, hự một tiếng rồi gập lưng xuống.
Từ Thiên Hoằng vội bảo: “Cửu đệ, mau lùi ra.” Vệ Xuân Hoa không đáp, lảo đảo mấy cái, giương mắt nhìn chòng chọc vào Chu Trọng Anh, rồi lại cầm song câu tiến lên.
Chu Trọng Anh cất tiếng mắng: “Tên này thật là hết thuốc chữa rồi!”
Từ Thiên Hoằng lại hô hoán: “Thập nhị đệ mau mau phóng hỏa, nhớ giữ chắc cửa sau, đừng để tên nào chạy thoát khỏi trang.”
Chu Ỷ bị tiếng hô đó làm loạn cả tâm trí, biết lúc này không sao thắng nổi Chương Tấn, bèn nghĩ bụng: “Ta phải giết bớt một tên rồi tính tiếp.” Nàng bèn vung đao lên, chạy về phía Lạc Băng.
Từ lúc Lạc Băng nghe Đồng Triệu Hòa nói chồng mình đã chết, nàng cứ mơ mơ hồ hồ ngồi yên trên ghế. Mọi người trong đại sảnh đánh nhau loạn xạ, nàng chỉ thấy mờ mờ một khối người chạy qua chạy lại, đầu óc hoàn toàn trống rỗng, mọi việc trước mắt không hiểu tí gì. Chu Ỷ tung người, nhảy đến trước mặt, vung đao chém xuống, Lạc Băng cứ ngơ ngẩn mỉm cười, dáng vẻ muốn khóc nhưng không khóc nổi.
Chu Ỷ thấy vẻ mặt nàng dịu dàng đau khổ thật đáng thương, lưỡi đao không sao chém xuống được. Cô định thần lại, nhặt lấy Uyên Ương song đao trên ghế, nhét vào tay Lạc Băng rồi bảo: “Đánh đi!”
Lạc Băng tiện tay nhận lấy đao. Chu Ỷ khẽ chém từ trên xuống, xem thử nàng có đỡ hay không. Lạc Băng vẫn mỉm cười, tiện tay đưa đoản đao bên tay phải chống đỡ, trường đao bên tay trái phản kích. Chu Ỷ thở ra một hơi, dịu dàng nói: “Vậy mới đúng chứ! Đứng lên mà đánh.”
Lạc Băng cũng nghe lời đứng dậy, nhưng vết thương trên đùi còn rất đau, nên nàng lảo đảo một cái lại ngồi xuống ghế. Thế là một người ngồi một người đứng, một bên song đao một bên đơn đao nhẹ nhàng chiết giải mấy chiêu.
Chu Ỷ bỗng lên tiếng: “Ta không giỡn với cô nữa.” Cô thấy đối thủ cứ ngẩn ngơ không tỉnh, giết chết thì không nỡ, mà tỉ đấu thì vô vị. Bây giờ cô nghe Từ Thiên Hoằng hô hào phóng hỏa, trong lòng hoang mang liền bỏ mặc Lạc Băng ở đó mà chạy ra ngoài đại sảnh.
Vừa đến cửa sảnh, nàng đột nhiên nghe một giọng âm u cất lên: “Muốn chạy trốn ư?” Chu Ỷ kinh hãi tung người nhảy ngược ra sau, rồi lùi thêm hai bước. Dưới ánh nến, nàng nhìn rõ hai người đứng chặn trước cửa. Người vừa lên tiếng khuôn mặt lạnh như băng, nhưng ánh mắt rất sáng, có thể thu nhiếp cả hồn phách người ta.
Chu Ỷ muốn nhìn sang người đứng cạnh y, nhưng thật là kỳ lạ, dường như nàng đã bị ánh mắt sáng lạnh của y thôi miên, không nhìn đi đâu được nữa, khẽ rên lên: “Ta gặp ma rồi!”
Người kia lạnh lùng cất tiếng: “Không sai! Ta là Quỉ Kiến Sầu đây!” Thanh âm của y hoàn toàn không có chút nào hơi ấm của con người.
Chu Ỷ trước giờ không biết sợ trời sợ đất là gì, nhưng nghe giọng nói rợn người đó cũng không khỏi rùng mình, bèn hét lên để tự trấn an: “Chẳng lẽ bản cô nương lại sợ ma?” Tuy trong lòng sợ hãi lắm rồi, nhưng nàng vẫn vung đao lên chém xuống đầu y.
Người đó cũng cầm đơn đao, bèn ra chiêu Tả Quái Kim Linh nhẹ nhàng gạt ra, hai mắt vẫn nhìn thẳng vào nàng. Chu Ỷ cảm thấy chiêu thức của y nhẹ nhàng linh hoạt, kình lực chưa phát ra đã thấy sung túc, rõ ràng công phu nội gia cực kì thâm hậu. Nàng kinh hãi vô cùng, nhưng lại nghĩ: “Dù sao thì mẹ ta đã bỏ đi, em trai ta đã bỏ mạng, ta cùng gia gia có bị giết cũng không sao nữa.” Chu Ỷ bèn đề cao dũng khí, vung đao loạn xạ, bất kể phương hướng cứ việc chém tới.
Người này chính là nhân vật chấp chưởng Hình đường của Hồng Hoa Hội, Thập nhị lang Quỉ kiến sầu Thạch Song Anh. Y vốn là đệ tử của Vô Cực quyền môn, nhưng sau khi gia nhập Hồng Hoa Hội thì thường xuyên được thỉnh giáo võ công của Tam đương gia Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn đã đem Huyền Huyền đao pháp của Thái Cực Môn dạy cho y, nên hai người này danh nghĩa là huynh đệ mà thực chất là sư đồ.
Thạch Song Anh dùng tịnh chế động, dùng nhu thắng cương, chỉ mấy chiêu đã phong tỏa được đao pháp của Chu Ỷ. Bên kia thì hai người Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương đã sắp thua dưới tay Chương Tấn. Cây thiết xuyên bên trái của Vạn Khánh Lan đã bị Dương Thành Hiệp dùng cương tiên đánh gãy, hắn không dám đánh nữa, chỉ chạy vòng vòng quanh bàn ghế để né tránh, may mà họ Dương to con mập mạp nên đuổi hắn không kịp. Đồng Triệu Hòa thì không biết đã chui vào đâu mà trốn.
Chỉ có Chu Trọng Anh đánh với Từ Thiên Hoằng và Vệ Xuân Hoa là ở thế thượng phong. Ông biết hỗn chiến kéo dài như thế này không phải là thượng sách, muốn đánh ngã hai người này trước rồi sẽ nói chuyện rõ ràng, bèn vung đao đánh gấp, ép hai đối thủ lùi lại liên tục. Đã sắp đắc thủ, đột nhiên ông thấy một người nhảy đến la lớn: “Để ta đấu với lão già này thử xem!”, rồi một cây thiết trượng đập thẳng xuống đầu.
Binh khí là thiết trượng, nhưng chiêu thức lại của thiền trượng, chính là Phong Ma trượng pháp của Lỗ Trí Thâm. Người này ỷ mạnh nên dùng thiết trượng sử dụng như thiền trượng, ra chiêu Tần Vương Tiên Thạch vung thiết trượng từ sau lưng vòng qua vai phải, đánh thẳng tới Chu Trọng Anh nghe vù một tiếng. Y chính là người cùng đến với Thạch Song Anh, xếp thứ mười ba trong Hồng Hoa Hội, Đồng đầu ngạc ngư Tưởng Tứ Cân.
Chu Trọng Anh thấy thế công của địch thủ rất mãnh liệt, bèn né sang bên trái, tiện tay chém trả một đao. Tưởng Tứ Cân đảo người tránh né, hai tay nắm chắc đuôi thiết trượng, quét lẹ đầu trượng tấn công qua trái. Đây chính là chiêu Kim Giao Tiễu Nguyệt trong Phong Ma trượng pháp. Chu Trọng Anh là đồ đệ chính tông của phái Thiếu Lâm, dĩ nhiên biết chiêu này nên chuyển mình tránh được. Trong đầu ông nảy ra một ý nghĩ, bèn thay đổi bộ pháp, vừa đánh vừa lùi dần lại. Thấy Vạn Khánh Lan đang chạy trốn Dương Thành Hiệp sắp tới gần mình, Chu Trọng Anh bèn vung đại đao ra chém vào lưng họ Vạn.
Thì ra Chu Trọng Anh biết Hồng Hoa Hội hiểu lầm rất nặng, không phải chỉ mấy câu là giải thích xong. Ông đã mấy lần hô hoán dừng tay, đều bị tên Vạn Khánh Lan này đứng giữa phá cho hỏng việc. Lúc hắn đến Thiết Đảm Trang giở trò đòi tiền, Chu Trọng Anh đã giận lắm rồi, nhưng ông nghĩ nếu mình chống đối với quan phủ tức là tạo phản, uổng công mấy chục năm trời an cư lập nghiệp ở đây. Người xưa đã nói: “Diệt môn lẹ nhất là huyện quan”, nếu đắc tội với quan phủ thì tai họa vô cùng.
Chu Trọng Anh đúng là hào kiệt một phương, nhưng hai chục năm nay đã gầy dựng địa sản gia tài, ngày càng giàu có, không muốn vứt đi tất cả để xử lý Vạn Khánh Lan. Hơn nữa con trai của ông vừa chết vì Hồng Hoa Hội, thế mà họ chẳng thèm hỏi câu nào, vừa vào trang đã chém giết ác liệt, còn dọa đốt cả trang trại. Trong lòng ông không khỏi tức giận, vì dù sao thì tuổi mình cũng lớn, đối phương không kính hiền thì cũng nên kính lão. Vì thế ông muốn thi thố võ công để áp đảo quần hùng, rồi sau đó mới nói rõ nguyên do.
Không ngờ người của Hồng Hoa Hội đến càng lúc càng nhiều, càng đánh càng hung hãn. Nếu kéo dài thì không khỏi có người trọng thương hay bỏ mạng, lúc đó thì hiểu lầm biến thành oán thật, không sao vãn hồi được nữa. Cân nhắc nặng nhẹ, Chu Trọng Anh bèn quyết tâm bỏ Thiết Đảm Trang không tiếc, thẳng tay với Vạn Khánh Lan để giải thoát cục diện căng thẳng này.
Vạn Khánh Lan thấy kim đao của Chu Trọng Anh chém tới mình, không khỏi sợ hãi vội vàng tránh né. Phía sau Dương Thành Hiệp lại truy tới, họ Vạn phải tức tốc nhảy lên bàn. Hắn đã biết dụng ý của Chu Trọng Anh, bèn kêu to lên: “Hai ta phải hợp sức mới bắt được Văn Thái Lai. Tuy rằng Văn Thái Lai là do ông giết được, nhưng món thưởng hai vạn lạng bạc của triều đình phải chia ra mới phải. Ông muốn giết ta để độc chiếm hay sao?” Tên này xảo quyệt vô cùng, muốn mồi cho Thiết Đảm Trang và Hồng Hoa Hội đánh nhau đến chỗ lưỡng bại câu thương.
Khi thấy Chu Trọng Anh vung đao chém Vạn Khánh Lan, quần hùng Hồng Hoa Hội đều chưng hửng dừng tay lại hết. Nhưng khi họ nghe Vạn Khánh Lan la lên vu cáo, thì mối thương tâm cho huynh đệ lại nổi lên, nhất thời không sao phân biệt được phải trái. Thế là trận chiến lại kịch liệt. Chương Tấn gầm lên một tiếng, múa lang nha bổng đánh tới lưng của Chu Trọng Anh. Họ Chu trong lúc gấp rút, có miệng cũng khó mà biện bạch, chỉ còn cách vung đao cản trở.
Chỉ có Từ Thiên Hoằng là tinh ý nhất, vừa rồi đấu với Chu Trọng Anh thấy ông nhiều lần hạ thủ lưu tình, tin chắc bên trong còn ẩn giấu nội tình. Chàng bèn hô lớn: “Thập đệ! Chớ có làm bừa.” Chương Tấn đang lúc đánh nhau say máu, hoàn toàn không nghe thấy.
Thiết trượng của Tưởng Tứ Cân cũng đồng thời đập ngang lưng Chu Trọng Anh. Họ Chu nghiêng mình né tránh, không ngờ sau lưng lại có cương tiên của Dương Thành Hiệp đánh với vai. Chu Trọng Anh nghe bên tai có tiếng gió rít lên, vội vàng hoành đao ngăn đón, cánh tay hai người đều tê dại hẳn đi.
Dương Thành Hiệp, Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân là ba đại lực sĩ của Hồng Hoa Hội, đều có sức mạnh kinh người. Chu Trọng Anh lấy một đánh ba, dần dần tới lúc không chống đỡ được nữa. Ông quát to một tiếng, phải dùng đại đao gạt lang nha bổng của Chương Tấn làm tóe lửa ra, cánh tay gần như tê liệt. Lúc đó Tưởng Tứ Cân lại vung thiết trượng ra chiêu Phiên Thân Thượng Quyển, thiết trượng từ dưới hất lên, trúng ngay vào lưỡi đại đao. Chu Trọng Anh không giữ nổi, đại đao rời khỏi tay, bay lên cắm vào xà nhà đại sảnh.
Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương thấy binh khí của sư phụ bị tuột khỏi tay đều kinh hãi vô cùng. Hai người xông lên bảo vệ, nhưng mới chạy được hai bước đã bị Vệ Xuân Hoa huy động song câu chặn đường.
Chu Trọng Anh để đao rời khỏi tay, lại nhảy chồm tới, hướng thẳng tới Dương Thành Hiệp. Ông ra chiêu Cung Tiễn Xung Quyền, tay trái chụp lấy đầu roi, tay phải đánh vào ngực y. Dương Thành Hiệp không ngờ bản lãnh của đối phương lại cao đến thế, lâm nguy vẫn có thể thi triển Không Thủ Đoạt Bạch Nhận để đoạt lấy cương tiên của mình. Khoảng cách quá gần, không sao phản ứng kịp, y bèn “hừ” một tiếng, ưỡn ngực ra hứng một quyền, cố giữ cương tiên không bị đoạt mất.
Dương Thành Hiệp có luyện công phu Hoành Luyện Thiết Bố Sam, tuy không thể nói là đao thương chém không vào, nhưng những roi gậy tầm thường không thể đả thương được y. Ngoại hiệu của y là Thiết Tháp, đủ biết thân hình to lớn vững chắc, giống như một tòa tháp được đúc bằng sắt vậy.
Thoi quyền của Chu Trọng Anh cực mạnh, kình lực vỡ đá giết trâu. Ông thấy đối phương thản nhiên hứng lấy như không, không khỏi âm thầm kinh hãi. Thật ra Dương Thành Hiệp cũng khổ sở một phen. Quyền này đánh y đau thấu tim gan, máu trào lên suýt vọt ra khỏi miệng. Y phải cố hít một hơi rất sâu để dằn lại, rồi ra sức giật mạnh cương tiên về.
Lúc này Chu Trọng Anh dồn kình lực vào tay trái, sức Dương Thành Hiệp tuy mạnh nhưng không bằng được công lực thâm hậu của Chu Trọng Anh. Thế là cương tiên trong tay y đã bị họ Chu cướp lấy.
Lúc Chu Trọng Anh chưa đoạt được cương tiên, binh khí của Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân đã đánh tới nơi. Ông phải thả cây cương tiên xuống, tiện tay xô một cái bàn, đẩy hai người Chương Tưởng lùi ra.
Mạnh Kiện Hùng nhảy sang một bên, giương cung lắp đạn, bắn veo véo vào người Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân, chống đỡ cho sư phụ được một lúc. Y thấy tình thế phe mình vô cùng nguy cấp, lại thấy sư phụ đẩy ngã chiếc bàn, ngọn nến trên bàn rơi xuống tắt ngấm, bèn này ra một ý.
Mạnh Kiện Hùng bèn bắn một loạt liên châu đạn, tắt hết tất cả đèn nến trong đại sảnh. Đại sảnh lập tức tối om, xòe tay ra cũng không thấy ngón tay. Mọi người đều bị bất ngờ, không hẹn cùng nhau lùi lại mấy bước, trận ác đấu lập tức ngưng lại. Ai cũng hít thở nhẹ nhàng, không phát ra tiếng, cũng không dám di chuyển bước nào. Trong bóng tối mà phát ra một chút âm thanh, bị địch thủ phát hiện là lập tức binh khí ám khí sẽ phóng tới, không biết đường nào mà né. Huống chi đây lại là một trận quần đấu, đánh nhau loạn xạ, trong tối mà ra tay bừa bãi, không chừng lại làm tổn thương đến người của phe mình.
Trong đại sảnh đột nhiên vắng lặng, nhưng sát khí vẫn trùng trùng, hình như còn kinh tâm động phách hơn những tiếng la hét chém giết vừa rồi.
Trong im lặng, đột nhiên có tiếng bước chân bên ngoài vang lên. Cửa sảnh vừa mở ra, mọi người cũng nhìn thấy ánh sáng. Một người cầm đuốc đi vào, ăn mặc như thư sinh, tay kia cầm một ống sáo bằng vàng. Y vừa bước vào trong cửa đã dừng lại, giơ ngọn đuốc lên cao.
Dưới ánh đuốc, lại có ba người đi vào trong. Một người là đạo nhân cụt một tay, lưng đeo trường kiếm. Một người khoác áo bào nhẹ nhàng, mày dài mặt ngọc, ăn mặc sang trọng như một công tử nhà giàu. Sau lưng chàng còn có một thiếu niên mười mấy tuổi, tay xách một cái bao. Mấy người này chính là Kim địch tú tài Dư Ngư Đồng, Truy hồn đoạt mệnh kiếm Vô Trần đạo nhân, và tổng đà chủ Hồng Hoa Hội mới nhận chức là Trần Gia Lạc. Thiếu niên đó là thư đồng Tâm Nghiễn(5) của Trần Gia Lạc.
Quần hào Hồng Hoa Hội thấy tổng đà chủ và Nhị đương gia đến nơi đều mừng rỡ, ai cũng bước lên chào hỏi.
Từ Thiên Hoằng khẽ bảo Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa: “Để ý, coi chừng bọn Thiết Đảm Trang, đừng để trốn đi.” Hai người gật đầu, đi vòng ra sau Chu Trọng Anh.
An Kiện Cương hiểu ý, tức tối vô cùng. Y bước lên một bước, đang muốn mở miệng chất vấn thì bị Chu Trọng Anh nắm tay kéo lại, nói nhỏ: “Bình tĩnh, xem chúng nói gì trước đã.”
Dư Ngư Đồng cầm hai tấm danh thiếp đi đến trước mặt Chu Trọng Anh, chắp tay cúi mình, lớn tiếng nói: “Tổng đà chủ Trần Gia Lạc, Nhị đương gia Vô Trần đạo nhân của Hồng Hoa Hội bái kiến Chu lão anh hùng ở Thiết Đảm Trang.”
Mạnh Kiện Hùng bước lên nhận lấy rồi đưa cho sư phụ. Chu Trọng Anh xem thấy lời lẽ viết trên danh thiếp rất khách sáo, Trần Gia Lạc và Vô Trần đạo nhân đều tự xưng là vãn bối, bèn bước lên chắp tay nói: “Quí khách đến mà tệ trang không ra xa đón tiếp thật là thất lễ. Mời ngồi, mời ngồi!”
Lúc này bàn ghế trong đại sảnh đã nghiêng ngả lung tung. Chu Trọng Anh gọi lớn: “Người đâu!”
Tống Thiện Bằng vội dẫn mấy tên trang đinh vào sắp xếp lại bàn ghế, thắp nến lên, rồi phân ngôi chủ khách ngồi xuống đàng hoàng. Khách ngồi phía đông, đầu tiên là Trần Gia Lạc, rồi theo thứ tự là Vô Trần đạo nhân, Từ Thiên Hoằng, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Lạc Băng, Thạch Song Anh, Tưởng Tứ Cân, Dư Ngư Đồng. Tâm Nghiễn đứng sau lưng Trần Gia Lạc. Còn chủ vị ở phía đông, Chu Trọng Anh ngồi ghế đầu tiên, rồi sau đó là Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương và Chu Ỷ.
Dư Ngư Đồng lén nhìn về phía Lạc Băng, thấy mặt nàng nhợt nhạt. Chàng không sao nén nổi, vừa thương xót, vừa đau lòng, vừa hổ thẹn, không biết nàng có kể lại chuyện mình làm bậy cho Thạch Song Anh biết hay không. Chàng nhìn sang Quỉ kiến sầu Thập Nhị Lang, thấy sắc mặt y vẫn lạnh như băng, hoàn toàn không lộ vẻ gì.
Từ lúc Lạc Băng bỏ đi, Dư Ngư Đồng cứ tự oán trách mình mà không biết phải làm gì. Suốt hai ngày sau đó, chàng cứ đi tới đi lui trong vòng mười mấy dặm, lúc nào cũng nghĩ đến vết thương ở chân của Lạc Băng, nếu nàng gặp phải bọn công sai thì làm sao mà chống đỡ. Chàng muốn lén lút theo sau để âm thầm bảo vệ, nhưng rốt cuộc vẫn không phát hiện ra tung tích của nàng, không ngờ nàng đã quay lại Thiết Đảm Trang. Đến hôm sau thì Dư Ngư Đồng gặp được Trần Gia Lạc và Vô Trần đạo nhân.
Hai người này nghe chuyện Văn Thái Lai bị Thiết Đảm Trang bán đứt, vừa kinh hãi vừa giận dữ vô cùng. Vô Trần muốn lập tức đi cứu Văn Thái Lai, Trần Gia Lạc bèn cản: “Các vị huynh đệ đã đến Thiết Đảm Trang hết. Mọi người không biết Chu Trọng Anh không đếm xỉa nghĩa khí giang hồ, không chừng sẽ bị lão này ám toán. Chi bằng chúng ta đến Thiết Đảm Trang trước, tập hợp huynh đệ rồi mới đi cứu Tứ ca.” Vô Trần gật đầu khen phải, bèn bảo Dư Ngư Đồng chỉ đường, tức tốc đến Thiết Đảm Trang. Họ đến đúng vào lúc Mạnh Kiện Hùng bắn đạn tắt nến, đại sảnh tối đen.
Vạn Khánh Lan thấy hai bên thi lễ đúng kiểu giang hồ, biết việc đã hỏng bét rồi, bèn lén lút đi chậm tới cửa, toan chạy trốn. Từ Thiên Hoằng tung người nhảy ra đứng chặn giữa cửa, quát lên: “Xin dừng bước! Chúng ta phải nói chuyện cho rõ ràng đã.”
Vạn Khánh Lan thấy đối phương người nhiều thế mạnh không dám động thủ, chỉ còn cách quay lại ngồi phía sau Chu Ỷ. Chu Ỷ trợn mắt hét lên: “Cút đi! Ngươi ngồi cạnh bản cô nương làm chi?” Vạn Khánh Lan bẽn lẽn kéo ghế ra xa mà ngồi.
Chu Trọng Anh và Trần Gia Lạc giới thiệu phe mình, mọi người đều thông danh tính. Chu Trọng Anh thấy đối phương đều là anh hùng hảo hán lừng danh cả, chẳng trách bản lãnh họ cao như thế. Ông lại thấy tổng đà chủ Trần Gia Lạc ra vẻ con quan, lúc nào cũng nhàn hạ thảnh thơi. Người như thế mà lại thống lĩnh nhiều giang hồ hào kiệt, hơn nữa ai đối với chàng cũng thập phần cung kính! Chu Trọng Anh thật sự cảm thấy kỳ lạ, âm thầm hoài nghi chuyện này có chỗ bí ẩn bên trong.
Trần Gia Lạc thấy ánh mắt của Chu Trọng Anh không ngớt nhìn mình lộ vẻ khác thường, đã hơi tức giận, nhưng cố nén lại, bình thản nói: “Tứ đương gia của tệ hội là Bôn lôi thủ Văn Thái Lai đã bị bọn ưng trảo tấn công, mang trọng thương phải trốn tránh ở quí trang. May mà được Chu lão tiền bối nghĩ đến chỗ đồng đạo võ lâm mà trượng nghĩa ra tay cứu giúp, hết thảy anh em tệ hội đều cảm kích muôn phần. Bây giờ gặp mặt xin gửi lễ đa tạ.” Chàng nói xong, đứng dậy chắp tay vái rất sâu.
Chu Trọng Anh vội đứng dậy trả lễ, trong lòng lại càng khó chịu. Ông thầm nghĩ: “Tên công tử nhà giàu này quả nhiên lợi hại, nói thì ra vẻ lịch sự mà người nghe không sao nuốt trôi được.”
Mấy câu này của Trần Gia Lạc, cả đám Vô Trần, Từ Thiên Hoằng, Vệ Xuân Hoa, Dư Ngư Đồng đều phải âm thầm thán phục. Chương Tấn lại không hiểu dụng ý, bèn kêu lớn lên: “Tổng đà chủ không biết đâu, lão thất phu này đã hại Tứ ca của chúng ta rồi.” Vệ Xuân Hoa ngồi cạnh y, phải nắm áo kéo lại, ra hiệu đừng la hét nữa.
Trần Gia Lạc làm như không nghe thấy Chương Tấn nói gì, vẫn tiếp tục mở lời khách sáo: “Anh em vãn bối đêm khuya thế này mà đến quấy nhiễu quí trang thật là kém phần lễ phép, xin Chu lão tiền bối tha lỗi. Chỉ vì nghe thấy Văn tứ ca lâm nạn, nên lòng dạ mọi người nóng như lửa đốt, không khỏi có phần lỗ mãng. Không hiểu Văn tứ ca bị thương thế nào, Chu lão tiền bối đã mời đại phu chữa trị chưa, bây giờ xin dẫn đường cho anh em vãn bối gặp mặt.” Chàng nói xong đứng dậy, quần hùng Hồng Hoa Hội cũng đứng hết dậy.
Chu Trọng Anh không nói được câu nào, mà nhất thời cũng không biết phải trả lời ra sao. Còn Lạc Băng thì nghẹn ngào lên tiếng: “Tứ ca đã bị chúng hại chết rồi. Tổng đà chủ! Chúng ta mau bắt lão thất phu này đền mạng cho Tứ ca.”
Quần hùng và Trần Gia Lạc vừa nghe thấy đều kinh hãi, không ai không biến sắc mặt. Cả đám Chương Tấn, Từ Thiên Hoằng, Vệ Xuân Hoa đều cầm lấy binh khí, dợm bước lên phía trước.
Mạnh Kiện Hùng đứng lên lớn tiếng nói: “Văn gia có đến tệ trang, quả là như thế…”
Từ Thiên Hoằng ngắt lời: “Thế thì xin Mạnh gia dẫn bọn ta đi gặp mặt.”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Văn gia, Văn phu nhân và Dư gia đến tệ trang lúc lão trang chủ không có ở nhà. Anh em tại hạ đã phái người đi Triệu Gia Bảo mời đại phu, Văn phu nhân và Dư gia đã đích thân nhìn thấy. Sau đó người của công môn đến đây, bọn tại hạ hổ thẹn không bảo vệ nổi quí khách, để Văn gia bị chúng bắt đi. Trần đương gia! Nếu ông trách chúng ta đón tiếp không chu đáo, chưa hết lòng bảo vệ bằng hữu thì chúng ta thừa nhận. Ông muốn giết muốn xẻo thì cứ việc, Mạnh mỗ quyết chẳng chau mày. Nhưng nếu ông trách cứ lão trang chủ bán đứt bạn bè, thì không được đâu.”
Lạc Băng bước lên một bước, trỏ tay mắng luôn: “Họ Mạnh kia! Ngươi còn làm bộ hảo hán. Ta hỏi ngươi, ngươi dẫn chúng ta vào trốn vào trong hầm bí ẩn như thế, nếu các ngươi không hám lợi mà tiết lộ thì làm sao bọn chó săn biết được? Ngươi nói đi!” Quả nhiên Mạnh Kiện Hùng không nói được gì. Bạn đọc đã biết, khi đó Chu Anh Kiệt bị khích bác mà nói ra bí mật. Tuy cậu bé là con nít chưa biết gì, nhưng dù sao đó cũng là lỗi của Thiết Đảm Trang.
Vô Trần nói với Chu Trọng Anh: “Lúc xảy ra sự việc, chắc là lão trang chủ thật sự không có ở nhà. Nhưng rồng có đầu người có chủ, việc của Thiết Đảm Trang thì chúng ta chỉ biết hỏi lão trang chủ mà thôi. Ông nói một câu đi.”
Vạn Khánh Lan đang nấp né một bên, lúc này thấy có cơ hội liền la lên: “Chính là con trai của lão nói ra. Thế mà lão không thừa nhận ư?”
Trần Gia Lạc bước lên một bước, hỏi: “Chu lão tiền bối! Việc này có thật không?”
Chu Trọng Anh hết đường biện bạch, đành chậm rãi gật đầu. Quần hào Hồng Hoa Hội ồ cả lên, vây chặt lại. Người thì trừng mắt giận dữ nhìn Chu Trọng Anh, người lại chăm chăm nhìn Trần Gia Lạc đợi chàng hạ lệnh. Còn Trần Gia Lạc lại liếc nhìn Vạn Khánh Lan, lạnh nhạt hỏi: “Vị này là ai, chúng ta chưa được thỉnh giáo tên tuổi.”
Lạc Băng đáp hộ: “Hắn cũng là một tên trong đám ưng trảo đến đây bắt Tứ ca.”
Trần Gia Lạc không nói tiếng nào, chậm rãi đến trước mặt Vạn Khánh Lan. Đột nhiên chàng vung tay ra đoạt lấy đôi cương xuyên trong tay hắn quăng xuống đất, rồi chụp hai tay hắn bắt chéo sau lưng, dùng tay trái nắm chặt lại. Vạn Khánh Lan chỉ kịp úi chà một tiếng, không sao giãy thoát khỏi tay Trần Gia Lạc được nữa.
Phen này Trần Gia Lạc xuất thủ cực kỳ nhanh chóng, chẳng ai nhìn rõ chàng hành động ra sao. Võ công của Vạn Khánh Lan không tệ lắm, ai cũng thấy rồi, thế mà chỉ nháy mắt đã bị khống chế hết đường động đậy. Chẳng những mọi người trong Thiết Đảm Trang mà cả quần hùng Hồng Hoa Hội cũng phải thay đổi sắc mặt, âm thầm khen ngợi. Họ vốn chỉ coi Trần Gia Lạc là tổng đà chủ mà tôn trọng hiệu lệnh, còn võ công của chàng ra sao thì chưa ai biết được.
Trần Gia Lạc quát hỏi: “Bọn ngươi đã bắt Văn tứ gia đi đâu rồi?”
Vạn Khánh Lan ngậm miệng không đáp, sắc mặt vẫn ngạo nghễ. Trần Gia Lạc đưa ngón tay điểm vào huyệt Trung Phủ của hắn một cái, lại quát: “Ngươi nói hay không?”
Vạn Khánh Lan gào lên: “Hành hạ người khác không phải là hảo hán. Ngươi có giỏi thì giết ta đi…” Hắn nói chưa dứt câu, những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu đã lăn từ trên đầu xuống.
Trần Gia Lạc lại điểm huyệt Cân Túc của hắn. Phen này Vạn Khánh Lan chịu không nổi nữa, nhỏ giọng lắp bắp: “Ta nói… ta nói…”
Trần Gia Lạc nắn vào huyệt Khí Du mấy cái. Vạn Khánh Lan thở hắt ra một hơi rồi khẽ nói: “Giải y đến kinh thành rồi.”
Lạc Băng vội hỏi: “Y… y chưa chết hay sao?”
Vạn Khánh Lan đáp: “Đương nhiên là chưa chết. Y là yếu phạm, ai mà dám giết.”
Quần hùng của Hồng Hoa Hội đều mừng rỡ, thở nhẹ một hơi. Văn Thái Lai chưa chết, mối hận của họ với Thiết Đảm Trang đã giảm đi một nửa. Lạc Băng run rẩy hỏi: “Ngươi… ngươi… nói có thật không?”
Vạn Khánh Lan đáp: “Ta lừa gạt cô để làm gì.”
Lạc Băng mừng quá, bỗng dưng ngất xỉu, ngã ngửa ra sau. Dư Ngư Đồng đưa tay ra định đỡ, nhưng bất giác sợ hãi trong lòng, cánh tay vừa đưa ra đã rụt về, để Lạc Băng ngã đập đầu xuống đất.
Chương Tấn vội đỡ nàng dậy, kêu lên: “Tỉ tỉ sao rồi?” Y liếc mắt nhìn Dư Ngư Đồng một cái, cảm thấy chàng không đỡ Lạc Băng là vô lý hết sức.
Trần Gia Lạc buông lỏng tay ra, bảo thư đồng Tâm Nghiễn: “Trói lại.” Tâm Nghiễn bèn lấy trong bao ra một sợi dây, cột chặt hai tay Vạn Khánh Lan. Huyệt đạo của Vạn Khánh Lan đã được giải, nhưng lúc đó chân tay y còn tê dại, không sao phản kháng.
Trần Gia Lạc lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Chúng ta phải đi cứu Tứ ca trước, món nợ ở đây sau này sẽ tính.” Quần hùng của Hồng Hoa Hội đồng thanh vâng lệnh. Lúc này Lạc Băng đã tỉnh lại, ngồi trên ghế vui mừng mà rơi lệ. Nghe Trần Gia Lạc nói, nàng gượng đứng dậy, Chương Tấn vội tới dìu.
Mọi người cùng đến cửa đại sảnh, Mạnh Kiện Hùng đưa họ ra ngoài. Trần Gia Lạc bước ra khỏi cửa, quay người lại nói với Chu Trọng Anh: “Quấy rầy đã nhiều, đại ơn đại đức này suốt đời không quên được. Chúng ta còn có lúc gặp nhau.”
Chu Trọng Anh nghe giọng điệu của chàng, biết rằng Hồng Hoa Hội nhất định sẽ quay lại trả thù. Ông nghĩ bụng: “Chu mỗ chỉ cần không thẹn với lòng là đủ. Các ngươi không chịu tha lỗi cho ta, chẳng lẽ ta lại sợ các ngươi hay sao?” Ông bèn hừ một tiếng, không thèm đáp.
Chương Tấn la lớn: “Cứu Tứ ca xong, Chương đà tử này sẽ là người đầu tiên đến đây đánh nhau với anh hùng hảo hán của Thiết Đảm Trang.”
Dương Thành Hiệp xen vào: “Cẩu hùng cũng chưa xứng, sao gọi là anh hùng?”
Chu Ỷ vừa nghe vậy đã tức tối hét lên: “Ngươi chửi ai vậy?”
Dương Thành Hiệp giận dữ nói: “Ta chửi lão thất phu không hiểu nghĩa khí, không biết dạy con.” Y đã trúng một quyền nặng của Chu Trọng Anh, may mà có công phu Thiết Bố Sam nên chưa trọng thương, nhưng lúc này vẫn còn rất đau. Nghe nói Văn Thái Lai bị con của Chu Trọng Anh bán đứt, y càng tức giận hơn, chỉ muốn tìm lời thóa mạ.
Chu Ỷ bước lên một bước, lại quát: “Ngươi là cái thứ gì mà dám mắng gia gia của ta?”
Dương Thành Hiệp mắng: “Thứ nha đầu biết gì mà nói!” Y không muốn tranh chấp với con gái, bèn quay đầu bỏ đi.
Khổ nỗi cô nương Tiêu Lý Lục này tính nóng như lửa, vẫn thường hận người ta coi thường mình là nữ nhân. Nàng vẫn thường nói, nam nhân hay nữ nhân thì cũng là người, chẳng lẽ những việc nam nhân làm được mà nữ nhân lại không làm được? Bây giờ nghe Dương Thành Hiệp mắng mình là nha đầu, sắc mặt lại đầy vẻ coi thường, nàng không sao nhịn được, bèn bước lên một bước, quát tháo: “Nha đầu thì đã sao nào?”
Dương Thành Hiệp giận dữ bảo: “Ngươi đi gọi ca ca ra đây, nói là Dương mỗ cần gặp.”
Chu Ỷ kinh ngạc, lắp bắp: “Ca ca của ta…”
Vệ Xuân Hoa ngắt lời: “Có gan bán đứt bằng hữu thì phải có gan ra gặp người ta. Ca ca của ngươi bán đứt Tứ ca của chúng ta, bây giờ lại trốn đi đâu mất rồi?”
Chu Ỷ lại càng ngơ ngác, không hiểu mình có một ông anh ở đâu ra. Mạnh Kiện Hùng nghe vậy, biết ngay Hồng Hoa Hội đã bị câu nói của Vạn Khánh Lan làm hiểu lầm rồi. Nhưng tình hình đã căng thẳng thế này, nếu bây giờ đem chuyện sư phụ đánh chết con ruột ra kể thì không tránh khỏi tỏ ra yếu đuối, giống như năn nỉ xin tha. Vì thế y chỉ bước lên đỡ lời cho sư muội, lập tức lớn tiếng: “Quí vị còn điều gì muốn dặn dò thì bây giờ cứ nói luôn đi, lần sau đỡ phải phiền đại giá đến đây.”
Chương Tấn nói: “Chúng ta muốn gặp vị ca ca của cô nương này.”
Chu Ỷ mắng: “Tên gù này ăn nói bừa bãi. Ta làm gì có ca ca nào?” Chương Tấn bị mắng là gù, bèn hừ một tiếng, vung tay tát vào mặt nàng. Chu Ỷ đưa tay cản trở, Chương Tấn bèn thi triển Cầm Nã Thủ dùng tay không đấu với nàng.
Song câu của Vệ Xuân Hoa lại giương ra. Y gọi: “Mạnh gia! Hai chúng ta thử sức một chút.”
Mạnh Kiện Hùng gật đầu nói: “Xin Vệ gia chỉ giáo.” Bên kia Tưởng Tứ Cân cùng An Kiện Cương cũng thách đố nhau, mọi người đều cầm binh khí chuẩn bị ra tay.
Dương Thành Hiệp lớn tiếng hô: “Thằng nhãi nào bán đứt bằng hữu đâu? Nếu không mau mau thò mặt ra đây, thì gia gia phải phóng hỏa đốt nhà.” Binh khí của hai bên tới tấp rút ra, tình thế rõ ràng lại sắp đánh nhau loạn xạ.
Chu Trọng Anh tức đến nỗi râu tóc lông mày đều dựng đứng cả lên, nói với Trần Gia Lạc: “Hay lắm! Thì ra Hồng Hoa Hội chỉ giỏi buông lời nặng nhẹ người ta, lấy nhiều mà đắc thắng.”
Trần Gia Lạc nghe vậy giật mình, vỗ tay một tiếng. Quần hào lập tức thu hết binh khí, lùi ra đứng sau lưng chàng, không ai lên tiếng nữa.
Chu Trọng Anh thầm nghĩ: “Người này lãnh đạo quần hùng rất có uy, ra lệnh mọi người đều tôn trọng. Vừa rồi ta quát tháo dừng tay, mà ngay cả con gái của mình cũng không chịu nghe lời.”
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Chu lão anh hùng trách bọn tại hạ lấy nhiều để thủ thắng. Bây giờ tại hạ đơn thân, xin Chu lão anh hùng chỉ giáo mấy chiêu.”
Chu Trọng Anh nói: “Vậy thì hay lắm. Lúc nãy Trần đương gia đã hiển lộ một chiêu, mọi người đều phải thán phục. Đúng là anh hùng xuất tự thiếu niên, lão phu cũng muốn lãnh giáo thử xem. Không hiểu Trần đương gia muốn tỉ thí về binh khí hay về quyền cước?”
Thạch Song Anh lạnh lùng buông tiếng: “Đại đao đã cắm trên xà nhà rồi, làm sao tỉ thí binh khí được.” Vừa nghe câu này, mọi người đều nhìn lên thanh kim bối đại đao còn dính trên xà nhà. Mặt Chu Trọng Anh đỏ bừng lên.
Đột nhiên có một người nhẹ nhàng tung người nhảy lên, tay phải móc lấy xà nhà, tay trái rút thanh đại đao ra rồi hạ chân xuống đất, hầu như không phát ra tiếng động. Sau đó y tiến đến trước mặt Chu Trọng Anh, khuỵu chân trái xuống, nâng đại đao lên khỏi đầu mà nói: “Chu lão thái gia! Đao của ông đây.” Người này chính là thư đồng Tâm Nghiễn của Trần Gia Lạc. Không ngờ tuổi y còn rất trẻ mà khinh công đã phi phàm như thế.
Tâm Nghiễn hiển lộ thân thủ, sắc mặt của Chu Trọng Anh càng khó chịu hơn. Ông hừ một tiếng, mặc kệ Tâm Nghiễn, nói với Trần Gia Lạc: “Trần đương gia cứ lấy binh khí ra. Lão phu thử dùng tay không tiếp đón mấy chiêu.”
Mạnh Kiện Hùng nhận lấy thanh kim bối đại đao từ tay Tâm Nghiễn, khẽ nói: “Sư phụ đừng nổi giận, dùng đao mà đấu với hắn.” Y sợ sư phụ trúng kế khích tướng của đối phương, nếu thật sự dùng tay không đấu với binh khí thì chẳng khác gì chịu thiệt trước ba phần. Tâm Nghiễn xoay người trở về, mở bao lấy binh khí độc môn bí mật của Trần Gia Lạc ra, hai tay đưa lên trước mặt chủ nhân.
Từ Thiên Hoằng nói nhỏ: “Tổng đà chủ! Lão đã muốn tỉ quyền thì đấu quyền với lão.” Thì ra từ lúc biết Văn Thái Lai chưa chết, tâm trí Từ Thiên Hoằng ổn định trở lại. Chàng thấy rõ Chu Trọng Anh đối xử với Hồng Hoa Hội lúc nào cũng nhẫn nhịn, rất ít ý thù địch. Nếu hai bên dùng binh khí thì khó tránh khỏi có người chết hoặc bị thương, chi bằng tỉ thí quyền cước để dễ lùi bước nương tay.
Hơn nữa chàng đã lãnh giáo công phu đại đao của Chu Trọng Anh, thật là thâm hậu ít ai sánh được. Chính chàng cùng Vệ Xuân Hoa lấy hai đánh một, đối phương chưa dốc hết toàn lực mà mình đã chống đỡ không nổi rồi. Bản lãnh về binh khí của Trần Gia Lạc thì sâu cạn thế nào chưa biết, nhưng vừa rồi họ Trần khống chế rồi hỏi cung Vạn Khánh Lan, thủ pháp vừa kỳ lạ vừa nhanh chóng không phải tầm thường. Chàng muốn Trần Gia Lạc đấu quyền, là để tránh chỗ mạnh của địch mà phát huy được sở trường của mình.
Trần Gia Lạc đáp: “Được lắm.” Rồi chàng chắp tay nói với Chu Trọng Anh: “Tại hạ xin thỉnh giáo Chu lão anh hùng mấy lộ quyền pháp. Xin lão tiền bối hạ thủ lưu tình.”
Chu Trọng Anh nói: “Hay lắm! Trần đương gia đừng quá khách sáo.”
Chu Ỷ bước tới giúp cha cởi trường bào, nói nhỏ: “Thằng lỏi kia biết điểm huyệt, gia gia nhớ để ý.” Nói xong, khóe mắt nàng hơi đỏ lên. Những lúc tính nóng của nàng phát tác lên thì đúng như một viên pháo, không biết sợ trời sợ đất là gì. Nhưng bây giờ đối phương đông người, mà ai cũng võ công cao cường, tình thế nguy hiểm khác thường dĩ nhiên nàng phải biết.
Chu Trọng Anh khẽ nói: “Nếu gia gia gặp chuyện không lành thì con đi Tây An tìm Ngô thúc thúc, từ nay về sau đừng gây sự nữa.” Chu Ỷ vừa đau lòng vừa chua xót, rơi lệ gật đầu.
Tống Thiện Bằng đốc thúc trang đinh khiêng bàn ghế trong đại sảnh dọn qua một bên, chừa ra một khoảng trống, bốn bề thắp nến lớn, sáng rực như ban ngày. Chu Trọng Anh bước ra giữa, ôm quyền nói: “Xin mời.”
Trần Gia Lạc không cởi trường bào, vạt áo vẫn bay phấp phới. Chàng từ từ bước đến gần, nói: “Sau khi tại hạ thua, nhất định sẽ mời hết đồng đạo võ lâm tây bắc đến chứng kiến mình tạ tội với lão tiền bối. Từ đó về sau, anh em Hồng Hoa Hội quyết không mang binh khí bước vào tỉnh Cam Túc một bước nào.”
Chu Trọng Anh nói: “Trần đương gia nặng lời rồi.”
Trần Gia Lạc nhướng mày lên hỏi: “Còn nếu lão tiền bối nhường cho tại hạ nửa chiêu một thức thì sẽ ra sao?”
Chu Trọng Anh ngang nhiên ngẩng đầu lên cười ha hả, vuốt bộ râu dài mà đáp: “Lúc đó mấy chục sinh mạng của Thiết Đảm Trang đều giao hết cho Hồng Hoa Hội.”
Trần Gia Lạc nói: “Hồng Hoa Hội tuy là một bang hội nhỏ, nhưng cũng ân oán phân minh, không dám hại người vô cớ. Nếu tại hạ may mắn thắng được một quyền một cước, thì xin được dẫn người đã tiết lộ hành tung của Văn tứ ca đi. Nếu Văn tứ ca bình an thoát hiểm, tại hạ sẽ phái người hộ tống lệnh lang trở về quí trang, bảo đảm không làm rụng một sợi tóc. Nhưng nếu Văn tứ ca gặp chuyện bất tường, thì buộc lòng bọn tại hạ phải lấy mạng lệnh lang.”
Chu Trọng Anh bị mấy câu này làm đau nhói tận đáy lòng. Mắt ông rớm lệ, tay phải vẫy nhẹ rồi nói: “Không cần nhiều lời nữa, xuất chiêu đi.”
Trần Gia Lạc đứng ở mé dưới, chắp tay nói: “Xin tiền bối ra chiêu.” Mọi người đều thấy chàng giữ phong độ nhàn nhã, ung dung tự tại, nhường nhịn lễ phép, chẳng giống quyết đấu sinh tử chút nào. Người thì thán phục, người thì lo lắng.
Chu Trọng Anh giữ đúng lễ số phái Thiếu Lâm, tay trái chắp quyền, tay phải đưa ra mời theo thế Thỉnh Thủ. Nhưng ông biết đối phương tuổi trẻ, lại là vãn bối chắc chắn không chịu phát chiêu trước, nên không khách sáo nữa. Ông ra chiêu Tả Xuyên Hoa Thủ, hữu quyền thủ trước bụng, tả chưởng đánh vào mặt Trần Gia Lạc nghe vù một tiếng. Phát chưởng này kình lực ghê người, chưởng chưa đến mà chưởng phong đã đến trước rồi.
Trần Gia Lạc bước thành Hàn Nha Bộ, tay phải đưa lên gạt phát chưởng, còn tay trái vẽ một vòng rộng tấn công vào hông của đối phương. Đó chính là chiêu Đan Phụng Triều Dương của Thiếu Lâm quyền. Vừa thấy chiêu này, cả người của Hồng Hoa Hội và Thiết Đảm Trang đều phải giật mình. Chu Trọng Anh là cao thủ Thiếu Lâm quyền thì ai ai cũng biết, nhưng thật không ngờ Trần Gia Lạc cũng thuộc phái Thiếu Lâm.
Chu Trọng Anh “úi chao” một tiếng kinh ngạc, nhưng không dám chậm tay, liên tiếp công tới mấy chiêu Hoàng Anh Lạc Giá rồi Hoài Trung Bão Nguyệt, chiêu sau gấp hơn chiêu trước. Trần Gia Lạc tới lui tránh né, cũng thi triển Thiếu Lâm quyền rất thuần thục.
Quyền thức hai bên giống hệt nhau. Tình hình lúc này không giống như tỉ đấu, mà giống như là đồng môn đang luyện võ. Tuổi tác hai bên chênh lệch rất nhiều, công lực sâu cạn lại càng phân biệt, thắng bại thế nào thì không nói cũng biết. Quần hùng Hồng Hoa Hội đều âm thầm lo lắng, còn người trong Thiết Đảm Trang thì thở phào nhẹ nhõm.
Chỉ chốc lát, hai bên đã qua lại mười mấy chiêu. Chu Trọng Anh đã luyện Thiếu Lâm quyền mấy chục năm trời, công lực đã đến cảnh giới lư hỏa thuần thanh. Mỗi quyền mỗi cước của ông đều sung mãn kình lực, lộng gió vù vù. Yếu chỉ của Thiếu Lâm quyền là tâm nhanh, mắt nhanh, tay nhanh, thân nhanh, bước nhanh; nên ông càng đánh càng nhanh, công thủ liền lạc tự nhiên, xoay chuyển tùy theo ý muốn.
Ba mươi bảy thế của lộ quyền Thiếu Lâm đầu tiên chưa sử hết một nửa, rõ ràng Trần Gia Lạc đã ở thế hạ phong. Chu Trọng Anh đột ngột quát lên, quay người sang trái, xuất chiêu Phản Thân Bích Kích nhanh như sao xẹt. Trần Gia Lạc vội vã ngửa người ra sau, chưởng chỉ cách người chừng một tấc, suýt nữa không tránh kịp. Quần hùng Hồng Hoa Hội đều giật mình kinh hãi.
Trần Gia Lạc lùi mấy bước, đứng vững rồi tái đấu. Lần này chàng thay đổi quyền pháp, sử dụng Ngũ Hành Liên Hoàn Quyền của phái Thiếu Lâm, luân phiên thi triển đủ năm món Băng Chuyên Bích Pháo Hoành. Chu Trọng Anh vẫn dùng Thiếu Lâm quyền đánh trả.
Mới được mấy chiêu, Trần Gia Lạc đột nhiên chuyển sang Bát Quái Du Thân Chưởng, chuyển thân không ngừng quanh đại sảnh. Dưới ánh nến, trông như có đến mấy chục người chạy qua chạy lại, Chu Trọng Anh dùng tịnh chế động, cứ trầm tĩnh ứng chiến. Thân pháp của Trần Gia Lạc tuy nhanh, nhưng chàng vẫn không chiếm được chút lợi thế nào.
Thêm vài chiêu nữa, Chu Trọng Anh vừa phóng tả quyền ra, đột nhiên phát hiện quyền phong của mình đã bị Trần Gia Lạc dùng nội lực phong tỏa chặt. Đây chính là chiêu Như Phong Tự Bế trong Thái Cực Quyền. Quyền thế của chàng chậm rãi, thần khí ẩn tàng ở bên trong, đúng theo bí quyết lấy nhu chế cương, gặp chiêu phá chiêu, gặp thức phá thức của Thái Cực Quyền.
Mọi người càng xem càng thấy kỳ lạ. Môn hộ phái Thiếu Lâm và Thái Cực rất khác nhau, quyền ý trái ngược nhau, rất ít có người kiêm học cả hai. Chàng công tử này còn trẻ như thế mà nội ngoại đã song tu, thật là quái sự của võ lâm. Chu Trọng Anh cũng phải tập trung chú ý, ứng phó cẩn thận. Lúc này hai bên công thủ rất chậm, nhưng người am hiểu thì thấy còn hung hiểm hơn rất nhiều so với lúc đấm đá vùn vụt vừa rồi.
Hai người tỉ đấu hai mươi mấy chiêu như thế, hầu như đánh chưa đến nơi đã thu về. Trần Gia Lạc đột nhiên xuất chiêu Đảo Bối Hầu, quyền pháp lại thay đổi. Rồi chỉ trong khoảnh khắc, chàng liên tiếp sử dụng lộn xộn những chiêu thức của Võ Đang Trường Quyền, Tam Thập Lục Lộ Đại Cầm Nã Thủ, Phân Cân Tá Cốt Thủ, Nhạc Gia Tán Thủ, bốn loại quyền pháp.
Mọi người thấy quyền pháp của chàng thay đổi liên tiếp thật là hiếm có, không hiểu chàng còn biết sử dụng những loại quyền thuật nào nữa. Chu Trọng Anh vẫn dùng bất biến ứng vạn biến, sáu đường Thiếu Lâm quyền nhuần nhuyễn ứng phó nhẹ nhàng, thủ thì bảo vệ môn hộ nghiêm mật, công cũng lợi hại vô cùng. Ông đã tung hoành giang hồ đến mấy chục năm, trải qua mấy trăm trận chiến lớn nhỏ. Tuy ông chưa gặp ai kiêm dùng nhiều loại quyền thuật như Trần Gia Lạc, nhưng đã có nhiều kinh nghiệm về sử dụng Thiếu Lâm quyền để đánh thắng các loại quyền pháp khác.
Chu Trọng Anh vẫn cho rằng trong quyền thuật thì quí là ở chỗ tinh thông, nhuần nhuyễn một môn còn hơn tạp nhạp không thuần. Nhưng ông thấy Trần Gia Lạc thi triển mỗi lộ quyền pháp vài chiêu, nhưng hoàn toàn không phải là sơ lược, cũng bất giác khen thầm.
Được một lúc, Chu Trọng Anh đột nhiên bước chân trái lên, đạp trúng vạt áo bào của Trần Gia Lạc, tả chưởng xuất chiêu Thảng Đảng Thiết Chưởng đánh tới hạ bàn. Trần Gia Lạc vội vã lùi lại, nhưng không lùi được, bèn cấp tốc sử dụng thân pháp Lý Ngư Đả Đỉnh nhảy vọt lên. Nghe soạt một tiếng, vạt trước trường bào đã bị xé rách. Chu Trọng Anh lên tiếng: “Đa tạ đã nhường.” Trần Gia Lạc đỏ mặt lên, phóng chỉ điểm tới hông địch thủ, hai người lại tiếp tục tỉ đấu.
Bây giờ thì mọi người đứng xem đều phải nhìn nhau lắc đầu. Họ thấy Trần Gia Lạc sử Cầm Nã Thủ lại xen lẫn Ưng Trảo Công, tay trái phóng Trường Quyền tay phải dùng Miên Chưởng, khi phát chiêu rõ ràng là Bát Quái Chưởng, khi thu chiêu đã là Thái Cực Quyền, quả là trăm hoa đua nở, loạn xà ngầu nhìn hoa cả mắt. Bây giờ quyền thế của chàng khó mà phân biệt, không sao hiểu nổi đó là chiêu số của môn phái nào.
Không ai biết đây chính là Bách Hoa Tá Quyền, quyền thuật độc môn do Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu sáng lập ra. Hồi trẻ Viên Sĩ Tiêu ham mê nghiên cứu võ học, kiến thức uyên bác vô song. Về sau ông gặp chuyện tình cảm không như ý, bèn phát nguyện làm những việc trước đây chưa ai làm, đánh loại quyền trước đây chưa ai đánh. Ông đi bái phỏng rất nhiều danh gia võ học, học lén hoặc khiêu khích đánh nhau để xem những chiêu thức của họ. Ông còn kiếm được rất nhiều quyền phổ của người khác, hoặc là công nhiên cướp đoạt, hoặc là âm thầm đánh cắp.
Khi đã biết rất nhiều quyền thuật các nhà các phái, đến tuổi trung niên thì Viên Sĩ Tiêu ẩn cư ở Thiên Trì rồi sáng tạo ra lộ Bách Hoa Tá Quyền. Quyền pháp này bao gồm cả trăm nhà, mà chỗ kỳ diệu nhất là ở chữ Tá, có nghĩa là sai lệch. Mỗi chiêu mỗi thức đều trông giống như thủ pháp của các phái võ chính tông, nhưng thực tế lại không phải. Vừa xuất chiêu thì đối phương tưởng là chiêu đó, khi đón đỡ thì mới biết phương vị tấn công lại không phải thế. Chỗ tinh diệu chính là giống mà không phải, tạo được bất ngờ.
Ai thấy quyền thế sai lệch như vậy cũng cho là học chưa đến chỗ, nhưng vì sai lệch nên đối phương mới không phòng chống được. Đã là cao thủ võ lâm thì kiến văn phải uyên bác, võ học phải tinh thông, nên đối với võ thuật của các phái đều đã có định kiến trong lòng. Vì thế mà không tránh khỏi Bách Hoa dễ địch, Giả Tá khó phòng.
Viên Sĩ Tiêu sáng tạo ra quyền thuật này là muốn đánh cho tình địch té nhào, thất bại thê thảm. Nhưng về sau ông lại sợ trong lúc điên cuồng, lỡ tay đánh chết tình địch thì không hợp lý lắm, nên lại tự kiềm chế mình, không đi kiếm đối phương động thủ nữa, vì thế mà pho quyền này cả đời ông chưa dùng tới. Đệ tử của ông chỉ có một mình Trần Gia Lạc. Thiên Trì Quái Hiệp đã dạy Trần Gia Lạc đủ loại quyền thuật binh đao của các đại môn phái trước, rồi đến căn bản về những môn cầm nã ám khí điểm huyệt khinh công, cuối cùng mới dạy tới Bách Hoa Tá Quyền.
Hôm nay Trần Gia Lạc kịch đấu với Chu Trọng Anh tới hơn trăm chiêu, suýt thảm bại rồi mới hối hận vì mình lỗ mãng. Trước đây chàng chưa bại bao giờ, không khỏi có ý xem thường anh hùng thiên hạ. Sau lần kinh hãi vừa rồi, chàng đành phải đem lộ quái quyền này ra thử lần đầu, quả nhiên lợi hại vô cùng.
Chu Trọng Anh trong lúc hoảng hốt chỉ biết múa song quyền bảo vệ phía trước, chân lùi liên tiếp. Ông thấy quyền pháp của đối phương cực kỳ cổ quái, trong quyền trong chỉ lại xen lẫn những chiêu số của đao kiếm, thật là chưa gặp mà cũng chưa nghe bao giờ.
Chu Ỷ thấy cha mình lùi mãi như vậy, bèn lớn tiếng la lên: “Ngươi dùng quyền pháp gì vậy, loạn xạ như thế thật chẳng ra thể thống gì. Đúng là quyền pháp hồ đồ… Sai bét… sai bét… Ngươi… chiêu này lại đánh sai nữa rồi…”
Tiếng la chưa dứt, bên ngoài sảnh lại có hai người chạy vào, kêu lớn: “Dừng tay lại!” Đây chính là Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn đã đến.
Ngay lúc đó, lại nghe có tiếng hô hoán bên ngoài đại sảnh: “Đem nước tới! Chữa cháy! Mau lấy nước!” Trong tiếng ồn ào đó, ánh lửa đã chiếu vào trong đại sảnh.
Chu Trọng Anh đang bị tấn công áp đảo, quyền pháp vốn đã rối loạn rồi. Đột nhiên ông nghe tiếng kêu chữa cháy, nghĩ tới tài sản cùng gia đình cũng không khỏi lo lắng trong lòng. Vừa phân tâm một chút, đột nhiên chân trái ông tê chồn, huyệt Dương Quan trên đầu gối trái đã bị điểm trúng.
Thấy cha loạng choạng sắp ngã xuống đất, Chu Ỷ vội chạy đến đỡ, kêu lên: “Gia gia!” Rồi nàng rút soạt đơn đao, giương ra bảo vệ phụ thân, đề phòng địch thủ ra chiêu đoạt mạng.
Nhưng Trần Gia Lạc không đuổi theo mà lại lùi ba bước, lên tiếng: “Xin Chu lão anh hùng nói một câu.”
Chu Trọng Anh giận dữ nói: “Hay lắm! Ta thua rồi, phải giao con cho các vị. Đi theo ta.” Rồi ông tựa vào Chu Ỷ, đi khập khiễng từng bước vào bên trong sảnh.
Trần Gia Lạc, Lục Phi Thanh cùng với quần hùng Hồng Hoa Hội theo Chu Trọng Anh băng qua hai khu vườn. Lúc này thế lửa rất lớn, hơi nóng ép người, trong màn đêm nhìn rõ những ngọn lửa đỏ bốc thẳng lên trời, khói mù dày đặc. Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương và Tống Thiện Bằng đã chạy ra ngoài chỉ đạo bọn trang đinh chữa lửa từ lâu.
Từ Thiên Hoằng hô lớn: “Hay là chúng ta hợp sức dập tắt lửa trước đã rồi hãy nói chuyện sau.”
Chu Ỷ mắng: “Ngươi đã sai người phóng hỏa, lại còn giả vờ làm người tốt nữa ư?” Lúc này nàng nghe Từ Thiên Hoằng mấy lần hô hào phóng hỏa, tin chắc là chàng chủ mưu thiêu cháy Thiết Đảm trang nên lòng đầy căm phẫn.
Chu Ỷ không thèm đếm xỉa đến đối phương người đông thế mạnh nữa, cứ vung đao lên chém Từ Thiên Hoằng. Họ Từ vội vã tránh né, Chu Ỷ định đuổi theo nhưng đã bị Triệu Bán Sơn cản lại. Thanh đơn đao của Chu Ỷ đang chém tới mãnh liệt, thế mà Triệu Bán Sơn chỉ khẽ đưa tay chặn lên sống đao là lập tức lưỡi đao nặng trịch như bị núi đè. Chu Ỷ cầm đao còn không chắc, nói gì đến chuyện truy kích chém người.
Mọi chuyện xảy ta, Chu Trọng Anh hầu như không nghe thấy, không nhìn thấy, cứ sải bước ra sau hậu sảnh. Mọi người vào theo, thấy trong đó có đặt linh đường, trước linh vị đang thắp hai ngọn nến trắng, bài trí rất đơn giản, nhuốm màu lặng lẽ thê lương. Chu Trọng Anh vén tấm màn trắng, để lộ ra một cỗ quan tài nhỏ màu đen, hãy còn chưa đậy nắp. Thì ra sau khi sơ ý đánh chết Chu Anh Kiệt, vì Chu Ỷ chưa về trang nên ông chưa cho liệm và đóng nắp quan tài con trai, để con gái quay về được nhìn mặt em lần cuối.
Chu Trọng Anh gầm lên: “Con trai của ta tiết lộ hành tung của Văn gia, đúng thế! Các ngươi muốn bắt con ta, được lắm! Đến đây mà dẫn nó đi đi!” Tâm thần của ông đang cực kỳ kích động, thanh âm lạc hẳn đi.
Dưới ánh nến âm u, mọi người thấy trong quan tài có thi hài của một đứa bé, đều không hiểu gì cả. Chu Ỷ la lên: “Em trai của ta mới có mười tuổi. Nó chưa hiểu biết gì, lỡ nói ra nơi Văn gia của các ngươi đang nấp. Gia gia của ta về tới nhà nổi cơn thịnh nộ, lỡ tay đánh chết thằng bé. Mẹ của ta phát điên bỏ chạy khỏi trang. Chừng đó đã đủ vừa lòng các ngươi chưa? Nếu các ngươi chưa thấy đủ thì giết nốt hai cha con ta đi cho hả dạ.”
Mọi người trong Hồng Hoa Hội nghe vậy đều không nén nổi hối hận vô cùng, ai cũng cảm thấy vừa rồi mình trách Chu Trọng Anh là vạn lần không đúng. Chương Tấn là người thẳng thắn nhất, bước lên hai bước rồi lập tức quì xuống lạy Chu Trọng Anh, kêu lớn: “Lão gia! Ta đã đắc tội với ông rồi! Chương đà tử này xin đền tội cho ông.” Nói xong, y đứng dậy, lại chắp tay Chu Ỷ mà nói: “Cô nương! Cô nương cứ gọi ta là tên gù đi, ta không dám giận nữa đâu.” Chu Ỷ nghe cũng thấy buồn cười nhưng không sao cười nổi.
Lúc này, Trần Gia Lạc cùng với những người đã từng trách mắng Chu Trọng Anh như Lạc Băng, Từ Thiên Hoằng, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa đều đến tạ tội. Trần Gia Lạc thừa lúc cúi mình thi lễ, đưa tay chạm khẽ một cái, giải khai huyệt đạo dưới đầu gối của Chu Trọng Anh, mọi người đứng bên đều không thấy gì. Chu Trọng Anh trả lễ liên tục, trong lòng cực kỳ khó chịu, không nói được tiếng nào.
Trần Gia Lạc hô to: “Chu lão anh hùng đối xử tốt với Hồng Hoa Hội chúng ta, ơn này đến chết cũng không thể nào quên. Các vị huynh đệ! Bây giờ quan trọng nhất là chữa lửa, mọi người mau mau ra tay đi.” Ai cũng đồng thanh vâng dạ, tất cả đều chạy ra ngoài.
Ngọn lửa sáng rừng rực, ngói trên mái nhà rơi rào rào, xà nhà cột nhà gãy răng rắc, trang đinh la hét ầm ĩ, tình hình cực kỳ rối rắm. An Tây vốn là vùng nhiều gió nhất Trung Quốc, một năm ba trăm sáu mươi ngày thì không ngày nào không có gió. Lúc này gió rất lớn, càng trợ sức cho ngọn lửa. Rõ ràng đám cháy này không còn cách nào dập tắt, chỉ chốc lát là tòa Thiết Đảm trang to lớn này sẽ trở thành hoang địa.
Trong nhà đã nóng rát mặt, vải sô trắng và giấy tiền vàng bạc đã tự bốc cháy, thế mà Chu Trọng Anh vẫn đứng ngơ ngẩn bên quan tài, hồn phách đi đâu mất hết. Không bao lâu nữa, lửa sẽ cháy tới đại sảnh này, Vệ Xuân Hoa,Thạch Song Anh, Tưởng Tứ Cân đều đã chạy ra ngoài chữa cháy.
Chu Ỷ liên tiếp la gọi: “Gia gia, chúng ta ra ngoài thôi.” Chu Trọng Anh không lý gì đến nàng, chỉ giương to cặp mắt nhìn đứa con trai đang nằm trong quan tài. Mọi người đều biết ông không nỡ để quan tài của con trai bị thiêu trong ngọn lửa, cũng không nỡ rời khỏi đây.
Chương Tấn khom thêm lưng xuống, lên tiếng: “Các vị ca ca, đặt quan tài lên lưng của đệ đi.” Dương Thành Hiệp bèn vận sức nâng quan tài lên, đặt lên cái lưng gù của Chương Tấn. Chương Tấn không vươn thẳng dậy, cứ cong lưng như vậy mà chạy ra ngoài. Chu Ỷ nâng đỡ phụ thân, mọi người đều chạy ùa ra sân trống của trang trại. Chạy ra ngoài chưa được bao lâu, mái nhà của hậu sảnh đã đổ sập xuống. Mọi người đều thầm nghĩ: “Nguy hiểm quá!”
Tâm Nghiễn bỗng la lên: “Úi chà! Tên ưng trảo bị trói kia vẫn còn trong đó.”
Thạch Song Anh nói: “Hạng người tác ác đa đoan như hắn, bị thiêu sống cũng không oan.”
Lạc Băng cũng nói: “Vậy là chúng ta để cho thằng khốn kia trốn mất rồi.” Trần Gia Lạc hỏi ai, Lạc Băng bèn đem chuyện Đồng Triệu Hòa ra kể. Mạnh Kiện Hùng cũng kể vụ tên lùn ba lần tới Thiết Đảm trang, đầu tiên là thám thính trang trại, rồi dẫn người đến bắt Văn Thái Lai, cuối cùng còn dám đến tống tiền.
Từ Thiên Hoằng kêu lên: “Đúng rồi! Nhất định là hắn phóng hỏa.” Mọi người đều nghĩ, nhất định là hắn, không còn ai khác. Từ Thiên Hoằng liếc nhìn Chu Ỷ, thấy nàng cũng đang liếc nhìn mình. Ánh mắt hai người chạm nhau, cùng vội quay đi.
Chu Ỷ lớn tiếng cằn nhằn: “Nhất lé nhìn lùn, âm mưu phóng hỏa quái ác này nhất định chỉ có bọn lùn mới nghĩ ra được. Người không cao thì trong bụng có dao, chuyện này xưa nay ai cũng biết.”
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Chúng ta phải bắt được thằng khốn đó về đây. Thất ca, Bát ca, Cửu ca, Thập ca, bốn vị chia ra bốn hướng đông tây nam bắc mà lùng xét, tìm được hay không thì trong vòng một giờ cũng trở về báo tin.” Bốn người tuân lệnh chạy đi.
Lúc này Lục Phi Thanh và Chu Trọng Anh làm lễ tương kiến, cùng tỏ ý ngưỡng mộ nhau. Trần Gia Lạc lại xin lỗi Chu Trọng Anh lần nữa: “Chu lão tiền bối đã vì Hồng Hoa Hội mà tán gia bại sản đến như thế này, đại ân đại nghĩa thật là suốt đời không báo hết. Bọn tại hạ nhất định sẽ đi tìm Chu lão thái thái về đoàn tụ cùng lão tiền bối. Thiết Đảm trang đã bị hủy, đương nhiên Hồng Hoa Hội phải xây dựng lại. Tổn thất của các anh em trang đinh ở đây, Hồng Hoa Hội xin bồi thường toàn bội, lại còn đền bù cho họ một phen cực khổ.”
Chu Trọng Anh mắt thấy Thiết Đảm trang cháy thành tro bụi, tài sản tâm huyết nhiều năm đã bị hủy trong chốc lát, đương nhiên không khỏi xót xa. Nhưng nghe Trần Gia Lạc nói vậy, ông lập tức trả lời: “Trần đương gia nói gì lạ vậy? Tiền tài là vật ngoại thân, các hạ nói những lời này tức là không coi ta là bằng hữu.” Từ xưa tính ông đã thích kết giao, bây giờ mọi hiểu lầm đã được giải quyết, ông thấy mọi người trong Hồng Hoa Hội lo cứu lửa cứu người, không nghĩ gì đến bản thân, nên đối với Hồng Hoa Hội lại thêm phần kính trọng và cảm kích. Trong chốc lát mà được kết giao với nhiều nhân vật anh hùng như thế này thật là thống khoái. Chuyện Thiết Đảm trang bị đốt cháy, tạm thời ông không nghĩ tới nữa, nhưng vừa nhìn qua cỗ quan tài nhỏ xíu, trong lòng Chu Trọng Anh lại dậy lên một trận đau thương.
Lúc này Vệ Xuân Hoa và Chương Tấn đã trở về bẩm báo với Trần Gia Lạc là trong vòng sáu bảy dặm không thấy tung tích của Đồng Triệu Hòa. Một lúc sau, Từ Thiên Hoằng và Dương Thành Hiệp cũng trở về, nói rằng mấy dặm phía đông nam cũng không có bóng người. Có thể trong lúc hỗn loạn lửa cháy, tên khốn này đã thừa cơ trốn xa rồi.
Trần Gia Lạc nói: “May mà đã biết thằng khốn đó là người của Trấn Viễn tiêu cục. Hắn có trốn tới chân trời góc bể cũng không lo, sau này chắc chắn sẽ có ngày bắt được.” Chày quay lại hỏi Chu Trọng Anh: “Chu lão tiền bối! Những trang đinh cùng nam phụ lão ấu của quí trang, tạm thời yên trí ở đâu?”
Chu Trọng Anh đáp: “Ta định sáng mai cho mọi người đến Thích Kim Vệ trước.”
Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Tiểu điệt có một ý kiến, xin lão tiền bối nghe xem có được hay không.”
Trần Gia Lạc nói: “Ai cũng biết Thất ca ngoại hiệu là Võ Gia Cát, túc trí đa mưu nhất hội chúng ta. Thất ca nói đi.”
Chu Ỷ liếc xéo Từ Thiên Hoằng một cái, nhăn mũi, rồi nói với Mạnh Kiện Hùng: “Mạnh đại ca! Huynh nghe không, người ta còn lợi hại hơn Gia Cát Lượng nữa kìa. Chắc là y giỏi hơn Gia Cát Lượng.”
Mạnh Kiện Hùng chỉ mỉm cười, còn Chu Trọng Anh vội nói: “Xin Từ gia cho nghe cao kiến.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Thằng khốn họ Đồng trốn về tới nơi chắc chắn sẽ thêm mắm thêm muối, ăn nói bừa bãi. Tên họ Vạn có đi không có về, bọn chó săn nhất định sẽ báo quan, đổ rất nhiều tội trạng lên tiền bối. Tiểu điệt cho rằng người của Thiết Đảm trang tốt nhất là đi về hướng tây, tạm thời tránh né một chút, đợi biết rõ tình hình rồi mới tính kế lâu dài. Nếu bây giờ đi về hướng đông đến Thích Kim Vệ, e rằng có điều không ổn.”
Chu Trọng Anh rất nhiều kinh nghiệm, nghe Từ Thiên Hoằng góp ý bèn liền miệng khen phải: “Đúng lắm, đúng lắm! Lão đệ thật không thẹn là Võ Gia Cát. Ngày mai dĩ nhiên phải đưa đến thành An Tây trước. Ở đó ta có nhiều bằng hữu, ở lại mười ngày hay nửa tháng thì chẳng khó gì.”
Chu Ỷ thấy phụ thân khen ngợi Từ Thiên Hoằng thì bất mãn trong lòng. Tuy nàng đã hết nghi người đốt Thiết Đảm trang là Từ Thiên Hoằng nhưng trước đây đã lỡ ghét rồi, nên càng nhìn càng thấy không vừa mắt.
Chu Trọng Anh bảo Tống Thiện Bằng: “Ngươi dẫn mọi người đến An Tây châu, có thể ở lại nhà của Ngô đại quan nhân. Mọi phí tổn thì đến cửa hiệu của chúng ta mà lấy chi dùng, đợi ta lo xong việc sẽ gọi ngươi sau.”
Chu Ỷ hỏi: “Gia gia, chúng ta không đi An Tây châu sao?”
Chu Trọng Anh đáp: “Đương nhiên là không. Văn gia đã bị bắt trong trang trại của mình, chúng ta đâu thể khoanh tay đứng nhìn bằng hữu của người?” Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương nghe ông nói đến việc ra tay cứu Văn Thái Lai, mọi người đều mừng rỡ.
Trần Gia Lạc nói: “Hảo ý của Chu lão tiền bối, bọn tại hạ muôn phần cảm kích. Nhưng việc cứu Văn tứ ca chính là giết quan tạo phản, mà quí vị đều là lương dân an phận thủ thường, khắc hẳn những kẻ bôn tẩu giang hồ như bọn tại hạ. Nếu tiền bối đích thân ra tay, e rằng có phần không tiện. Chỉ xin Chu lão tiền bối cho ý kiến để chỉ giáo về chiến lược, còn việc ra tay giết chó cứu người thì để bọn tại hạ đích thân lo liệu.”
Chu Trọng Anh vuốt chòm râu dài rồi nói: “Trần đương gia! Các hạ đừng sợ liên lụy đến bọn ta. Các hạ không chịu để ta giúp đỡ bằng hữu, tức là không coi Chu mỗ là bạn tốt.”
Lục Phi Thanh nói xen vào: “Chu lão anh hùng nghĩa nặng như núi Thái Sơn, giang hồ không ai không phục. Nếu không thế thì ta cùng lão huynh chưa từng quen biết, trên người Văn tứ gia lại mang trọng án, làm sao ta dám ngang nhiên giới thiệu đến Thiết Đảm trang?”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chu lão anh hùng trọng nghĩa như thế, tất cả anh em trên dưới của Hồng Hoa Hội đều cảm ơn đại đức.”
Lạc Băng bước lên, cúi lạy rồi nói: “Lão tiền bối rút đao tương trợ, vãn bối xin thay mặt phu quân cảm tạ trước.”
Chu Trọng Anh vội đỡ nàng dậy nói: “Văn tứ phu nhân cứ việc yên tâm. Không cứu được Văn Thái Lai trở về, ta thề không làm người nữa.” Rồi ông quay trở lại bảo Trần Gia Lạc: “Chuyện này không nên chậm trễ, Trần đương gia mau ra hiệu lệnh đi.”
Trần Gia Lạc nói: “Chuyện này tại hạ nhất định không dám. Xin hai vị Chu tiền bối và Lục tiền bối thương lượng xem sao.”
Lục Phi Thanh nói: “Trần đương gia đừng quá khách sáo. Hồng Hoa Hội là chủ, chúng ta là khách, tuyệt đối không được lấy khách đoạt chủ.”
Trần Gia Lạc khiêm nhường mấy lần nữa không được, bèn nói: “Vậy thì tại hạ phải lạm quyền rồi.” Chàng quay người lại, phát hiệu lệnh điều động nhân mã.
Lúc này ngọn lửa vẫn chưa tắt hẳn, mùi gỗ cháy vẫn khét nồng trong không khí. Mọi người im phăng phắc đợi lệnh, nghe cả tiếng nổ lách tách khi gió thổi vào những đám lửa tàn.
Nhóm thứ nhất là Kim Địch Tú Tài Dư Ngư Đồng cùng anh em Tây Xuyên song hiệp Thường Hách Chí, Thường Bá Chí. Ba người này phải nhanh chóng thám thính hành tung của Văn Thái Lai. giữ liên lạc với nhau, thường xuyên bẩm báo, coi như nhóm mở đường.
Nhóm thứ hai là Thiên Tí(6) Như Lai Triệu Bán Sơn lãnh đạo Thập đương gia Chương Tấn, Quỉ Kiến Sầu Thạch Song Anh.
Nhóm thứ ba là Truy Hồn Đoạt Mệnh Vô Trần đạo nhân lãnh đạo Thiết Tháp Dương Thành Hiệp, Đồng Đầu Ngạc Như Tưởng Tứ Cân.
Nhóm thứ tư là tổng đà chủ Trần Gia Lạc lãnh đạo Cửu Mạng Cẩm Bào Vệ Xuân Hoa, Thư Đồng Tâm Nghiễn.
Nhóm thứ năm là Miên Lý Châm Lục Phi Thanh lãnh đạo Thần Tử Mạnh Kiện Hùng, Độc Giác Hổ An Kiện Cương.
Nhóm thứ sáu là Thiết Đảm Chu Trọng Anh lãnh đạo Tiêu Lý Lục Chu Ỷ, Võ Gia Cát Từ Thiên Hoằng và Uyên Ương Đao Lạc Băng.
Trần Gia Lạc chia nhóm xong xuôi, bèn nói: “Bây giờ Thập tứ đệ lập tức khởi hành. Còn mọi người nghỉ tại đây, sáng sớm mai khởi hành, chia nhóm đi tới ải Gia Cốc rồi tập hợp lạo. Tên chó săn Tôn Quỳnh giữ ải này nhất định sẽ tra xét nghiêm mật, các vị nhớ đừng sơ ý.”
Mọi người đều đồng thanh tuân lệnh.
Dư Ngư Đồng chắp tay nhìn mọi người từ biệt, rồi nhảy lên ngựa khởi hành. Đi được mấy bước, chàng quay đầu lại liếc nhìn Lạc Băng. Thấy nàng vẫn cúi đầu thẫn thờ nghĩ ngợi, chẳng để ý gì đến chuyện chàng ra đi, anh tú tài si tình này thở dài sườn sượt rồi quất ngựa chạy đi một cách điên cuồng.
Mọi người tìm chỗ sạch sẽ để ngủ. Trần Gia Lạc khẽ bảo Từ Thiên Hoằng: “Thất ca! Phen này Chu lão anh hùng bị chúng ta liên lụy đến nỗi tán gia bại sản, lại còn con chết vợ bỏ, thế mà vẫn trượng nghĩa đi cứu Tứ ca. Dọc đường huynh phải chú ý đừng để bọn quan phủ nhận ra ông ấy. Còn Tứ tẩu đang bị thương mà lại buồn chuyện Tứ ca, khi gặp chuyện chắc sẽ liều mình. Thất ca hãy lưu ý đừng để cô ấy thí mạng. Đi đường không cần quá gấp rút, nếu giữ được không động thủ là tốt nhất.” Từ Thiên Hoằng gật đầu đồng ý.
Mọi người ngủ chừng hai giờ thì trời sáng. Thiên Tí Như Lai Triệu Bán Sơn dẫn Chương Tấn và Thạch Song Anh đi trước tiên. Lạc Băng suốt đêm không chợp mắt, gọi Chương Tấn tới bảo: “Thất đệ, dọc đường chớ nên gây sự.”
Chương Tấn đáp: “Tứ tẩu yên tâm. Cứu Tứ ca là đại sự, đệ có hồ đồ đến mấy cũng phải biết lo liệu.”
Bọn Mạnh Kiện Hùng, Tống Thiện Bằng lo việc khâm liệm thi hài của Chu Anh Kiệt, rồi an táng cạnh trang. Chu Ỷ phục dưới đất kêu khóc thảm thiết, bộ mặt già nua của Chu Trọng Anh cũng lệ chảy ngang dọc. Mọi người trong Hồng Hoa Hội đều thi lễ trước mộ.
Sau đó, ba nhóm của Vô Trần, Trần Gia Lạc, Lục Phi Thanh cũng lần lượt khởi hành. Nhóm cuối cùng ra đi là Chu Trọng Anh và Từ Thiên Hoằng dẫn rất đông người trong trang cũng đã lên đường. Đến Triệu Gia Bảo, dân chúng địa phương biết tin Thiết Đảm trang bị cháy đều kéo đến hỏi thăm. Chu Trọng Anh cảm ơn họ rồi đưa nhau đến một tiệm ăn. Ăn uống xong xuôi thì đưa cho Tống Thiện Bằng một ngàn lạng bạc, dặn dò y rồi chia tay phi ngựa về hướng đông.
* * *
Dọc đường lúc nào Chu Ỷ cũng kình chống Từ Thiên Hoằng. Dường như nàng thấy họ Từ làm gì nói gì cũng có chỗ không đúng. Chu Trọng Anh nghiêm mặt trách mắng cũng vậy. Lạc Băng mỉm cười khuyên giải cũng thế. Từ Thiên Hoằng đã cố nhẫn nại nói năng nhỏ nhẹ nhưng Chu Ỷ quyết không chịu buông tha, cứ mở miệng ra là bóng gió, chẳng nể mặt chút nào.
Từ Thiên Hoằng cũng phải bực tức trong lòng, nghĩ: “Chẳng qua là ta nể mặt phụ thân cô mà nể cô ba phần. Chẳng lẽ ta sợ cô thật hay sao? Võ Gia Cát này ngang dọc giang hồ, anh hùng hào kiệt không ai là không kính trọng, chẳng lẽ hôm nay để con nhãi này trêu cho tức được?” Chàng cứ cưỡi ngựa đi sau cùng, không nói câu nào, cứ đêm dừng lại ăn xong là ngủ ngay, sáng sớm lại lên đường. Suốt con đường ngựa không dừng vó, đến ngày thứ ba đã ra khỏi ải Gia Cốc.
Chu Trọng Anh thấy con gái không biết nghe lời, đã nhiều lần gọi riêng ra mà trách cứ. Chu Ỷ vâng vâng dạ dạ, nhưng mỗi khi nhìn thấy Từ Thiên Hoằng lại nhịn không nổi, kê tủ đứng vào miệng chàng. Chu Trọng Anh nghĩ bụng: “Nếu có vợ mình ở đây, có thể sẽ dạy dỗ được con gái. Bây giờ bà ấy đã tức giận bỏ đi, không biết lưu lạc nơi nào.” Nghĩ đến đó ông bất giác buồn rầu, nhìn qua thấy Từ Thiên Hoằng không vui lại thêm phần áy náy.
Một đêm đi đến Túc Châu, bốn người trọ lại một khách sạn gần Đông Môn. Từ Thiên Hoằng ra ngoài, một hồi trở lại nói: “Thập tứ đệ chưa đuổi kịp Tứ ca, cũng chưa gặp Tây Xuyên song hiệp.”
Chu Ỷ không nhịn được, chõ miệng vào: “Làm sao huynh biết được, chỉ tổ nói bừa.” Từ Thiên Hoằng liếc nàng một cái, không nói gì.
Chu Trọng Anh sợ con gái tiếp tục buông lời vô lễ, bèn lên tiếng: “Rượu ở vùng này nổi tiếng là ngon. Thất gia, hai chúng ta đi qua đại lộ phía đông, đến Hạnh Hoa Lâu uống mấy chén.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Thế thì tuyệt diệu.”
Chu Ỷ lên tiếng: “Gia gia con cũng đi.”
Từ Thiên Hoằng cười khì một tiếng. Chu Ỷ giận dữ nói: “Huynh cười cái gì? Chẳng lẽ ta không đi được hay sao?”
Từ Thiên Hoằng quay mặt đi, coi như không nghe thấy. Lạc Băng mỉm cười giảng hòa: “Ỷ muội, chúng ta cùng đi. Tại sao nữ nhân lại không được đến tửu lâu uống rượu?” Chu Trọng Anh là người phóng khoáng nên cũng không ngăn trở.
Bốn người đến Hạnh Hoa Lâu gọi rượu và thức ăn. Nước suối vùng Túc Châu trong xanh đặc biệt đem cất rượu thơm tho vô cùng, có thể gọi là số một vùng tây bắc. Tiểu nhị lại đưa lên một khay bánh nướng hảo hạng ở Túc Châu, mềm như giấc mộng mùa xuân, trắng như trăng giữa đêm thi, vừa dẻo vừa dòn. Chu Ỷ vừa thưởng thức vừa khen liền miệng. Tửu lâu này đông khách nên bốn người không tiện thương lượng về việc cứu Văn Thái Lai, chỉ nói chuyện phiếm về phong cảnh dọc đường.
Chu Trọng Anh bỗng hỏi Từ Thiên Hoằng: “Trần đương gia của quí hội tuổi còn rất trẻ, dáng vẻ như công tử nhà giàu, thế mà tinh thông quyền thuật nhiều nhà nhiều phái, thật sự xưa nay chưa từng thấy. Lúc đấu quyền với ta, bộ quyền pháp cuối cùng mà y sử dụng thật là kỳ dị, không hiểu gọi là gì? Thất gia có biết hay không?” Chu Ỷ cũng đang thắc mắc chuyện này, nghe phụ thân hỏi bèn im lặng mà nghe.
Từ Thiên Hoằng đáp: “Trần đương gia là tam công tử của Trần Các Lão ở Hải Ninh. Phen này cũng là lần đầu tiên tại hạ gặp Trần đương gia. Năm mười lăm tuổi, y đã được Vu lão đương gia của bọn tại hạ dẫn lên Thiên Sơn gặp Thiên Trì Quái Hiệp bái sư, mãi không trở về Giang Nam. Trong tệ hội chỉ có Vô Trần đạo trưởng, Triệu tam ca và mấy vị hương chủ lớn tuổi là đã từng gặp y hồi nhỏ. Bộ quyền pháp đó, theo tại hạ thì chắc là do Thiên Trì Quái Hiệp sáng chế ra rồi truyền thụ cho Trần đương gia.”
Chu Trọng Anh nói: “Hồng Hoa Hội lừng danh khắp Giang Nam mà tổng đà chủ lại giống như một công tử phú quí. Lúc ta vừa gặp đã thấy kinh ngạc, thấy có phần không tương xứng. Sau này đối đáp rồi giao thủ với y, mới biết y chẳng những võ công rất giỏi mà kiến thức cũng bất phàm, thật sự là một nhân vật ít ai bì được. Thế mới gọi là chân nhân không thể coi tướng mà lường.”
Từ Thiên Hoằng và Lạc Băng nghe ông nhiệt liệt tán dương thủ lãnh của mình, dĩ nhiên rất vui mừng. Nhưng chỉ chốc lát, Lạc Băng lại nghĩ đến chuyện an nguy của chồng mình, lo chàng đang bị bọn công sai ngược đãi, nên sầu não lại ngay.
Chu Trọng Anh lại nói: “Mấy năm gần đây, trong võ lâm xuất hiện không ít nhân vật kiệt xuất. Thật là Trường Giang sóng sau dồi sóng trước, chỉ mười năm mà nhân sự đã mấy lần thay đổi. Cũng như lão đệ thôi, trí dũng song toàn ít thấy trong giang hồ. Lão đệ đừng để uổng phí thân thủ thế này, phải cố mà làm nên sự nghiệp.”
Từ Thiên Hoằng liên tiếp vâng dạ, còn Chu Ỷ lại hừ một tiếng, nghĩ bụng: “Gia gia của ta tán dương ngươi quá đáng. Thế mà ngươi còn khen phải, không biết mắc cỡ hay sao?”
Chu Trọng Anh uống một hớp rượu rồi nói: “Từng nghe nói Vu lão đương gia của quí hội là đệ tử Thiếu Lâm, rất gần với môn hộ của ta. Từ lâu ta đã muốn gặp ông ấy để thỉnh giáo một lần, nhưng người Giang Nam kẻ Tây Bắc, tâm nguyện đó chưa đạt được mà ông ấy đã về cõi tây thiên rồi. Ta vẫn thường hỏi về lai lịch sư thừa của ông ấy, nhưng người nói thế này người nói thế kia, cuối cùng không biết tin nào là chính xác.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Trước nay Vu lão đương gia vẫn không nhắc đến sư thừa, mãi đến lúc lâm chung mới nói ra. Trước kia ông ấy học võ nghệ ở Phúc Kiến Thiếu Lâm tự.”
Chu Trọng Anh nói: “Ta lại học ở Thiếu Thất, tỉnh Hà Nam. Thiếu Lâm bắc phái hay nam phái cũng vốn một nhà, thế thì ta cùng Vu lão đương gia tuy không học cùng tu viện nhưng có thể gọi là đồng môn.” Ông ngừng một chút rồi nói tiếp: “Trước kia nghe nói võ công của tổng đà chủ Hồng Hoa Hội rất gần với Thiếu Lâm, ta vì ngưỡng mộ nên đã hỏi thử bối phận của ông ấy ở phái Thiếu Lâm mà không ai biết, nên cảm thấy kinh ngạc trong lòng. Nhân vật lừng lẫy như ông ấy, nếu xuất thân từ phái Thiếu Lâm mà không ai biết thì thật là kỳ lạ. Ta cũng từng viết thư, ông ấy hồi đáp rất khiêm cung, nhưng chỉ toàn là câu khách sáo, hoàn toàn không nhắc đến môn phái Thiếu Lâm.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Vu lão đương gia không đề cập đến môn phái võ công của mình, chắc chắn có chỗ khuất khúc gì khó nói. Xưa nay ông ấy rất thích kết giao bằng hữu. Người nhiệt tình trọng nghĩa như lão tiền bối, nếu gặp Vu lão đương gia thì nhất định hai người mới gặp đã tình như cố cựu.”
Chu Ỷ lạnh lùng lên tiếng: “Nhân vật Hồng Hoa Hội rất thích coi thường người khác. Băng tỷ, không phải muội nói tỷ tỷ đâu.” Từ Thiên Hoằng mặc kệ không lý gì đến nàng.
Chu Trọng Anh lại hỏi: “Không hiểu Vu lão đương gia mắc bệnh gì mà tạ thế? Tuổi tác của ông ấy hình như cũng không lớn hơn ta là mấy.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Vu lão đương gia hưởng thọ được sáu mươi lăm tuổi. Nguyên do bệnh trạng của ông ấy nói ra rất dài dòng, chỗ này lại đông người tạp nhạp. Đêm nay chúng ta cố đi thêm mấy chục dặm, tìm nơi hoang dã để tại hạ có thể bẩm báo với tiền bối tỉ mỉ hơn.”
Chu Trọng Anh khen phải, bèn gọi tính tiền. Từ Thiên Hoằng nói: “Xin đợi chốc lát, tại hạ phải xuống dưới một chút đã.”
Chu Trọng Anh vội bảo: “Lão đệ! Đây là ta mời, lão đệ không được giành thanh toán.” Từ Thiên Hoằng vâng dạ rồi nhanh chân bước xuống lầu.
Chu Trọng Anh trách mắng: “Con gái gì mà ăn nói bừa bãi, chẳng có qui củ gì cả.”
Lạc Băng mỉm cười lên tiếng: “Ỷ muội! Thất ca của ta có lắm sở trường. Muội mà trêu chọc y, nhớ cẩn thận coi chừng bị y bắt chẹt.”
Chu Ỷ hứ một tiếng rồi nói: “Nam tử hán gì mà đứng chưa cao bằng muội! Chẳng lẽ muội sợ hắn hay sao?” Chu Trọng Anh muốn trách cứ gì đó, nhưng bỗng nghe tiếng bước chân lên lầu bèn im lặng không nói nữa.
Từ Thiên Hoằng lên tới nơi rồi nói: “Thôi, chúng ta đi.” Chu Trọng Anh bèn thanh toán tiền, quay về khách sạn lấy đồ đạc quần áo, rồi lên ngựa ra ngoài thành. May mà trời chưa tối nên cửa thành còn mở.
Bốn con ngựa chạy một hơi ngoài ba chục. Tới chỗ bên trái có một dãy mười mấy gốc cây lớn, phía sau hàng cây này lại có nhiều tảng đá dựng lên như bình phong, đúng là một nơi ẩn náu rất tốt. Chu Trọng Anh bảo: “Chúng ta ở đây nhé.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Hay lắm!” Bốn người bèn buộc ngựa rồi ngồi tựa vào gốc cây. Lúc này trăng sáng sao thưa, đêm thanh mát mẻ, gió lay ngọn cỏ nghe xào xạc.
Từ Thiên Hoằng đang định kể chuyện thì bỗng nghe thấy xa xa có tiếng vó ngựa, bèn nằm áp tai xuống đất lắng nghe một lúc, rồi đứng dậy nói: “Có ba con ngựa chạy tới đây.” Chu Trọng Anh đưa tay ra hiệu, bốn người tháo dây cương, dẫn ngựa nấp sau tảng đá.
Không bao lâu, tiếng vó ngựa lại gần, ba con ngựa cứ theo đường cái mà chạy về hướng đông. Dưới ánh trăng thấy rõ cả ba kỵ sĩ đều cột vải trắng trên đầu, người khoác áo dài có sọc, đúng là cách ăn mặc của người Hồi. Trên yên ngựa đều có treo loan đao.
Đợi ba con ngựa chạy xa, bốn người mới quay về chỗ ngồi cũ. Suốt ngày đi đường không rảnh rỗi để nói chuyện, lúc này Chu Trọng Anh mới hỏi đến nguyên do tại sao triều đình quyết bắt Văn Thái Lai.
Lạc Băng nói: “Quan phủ vẫn coi Hồng Hoa Hội là cái gai trước mắt, chuyện đó không cần phải nói. Nhưng lần này chúng phái đi rất nhiều võ lâm cao thủ, không bắt được Tứ ca chưa chịu buông tay, đó là có nguyên nhân khác. Tháng trước Vu lão đương gia từ tổng đà ở Thái Hồ đi đến Bắc Kinh, có gọi vợ chồng vãn bối đi cùng. Khi đến Bắc Kinh, Vu lão đương gia nói nhỏ: đêm nay phải vào Hoàng cung để gặp hoàng đế Càn Long. Chuyện này khiến bọn vãn bối phải một phen hoảng sợ, hỏi lão đương gia gặp tên hoàng đế kia để làm gì nhưng ông ấy không chịu nói. Tứ ca bèn khuyên: tên hoàng đế này âm hiểm độc ác, tốt nhất là gọi thêm Vô Trần đạo trưởng, Triệu tam ca, Tây Xuyên song hiệp đến kinh thành rồi nhờ Thất ca tính một cách an toàn nhất.”
Chu Ỷ liếc Từ Thiên Hoằng một cái, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ tên lùn này lại có bản lĩnh đến thế? Mọi người phải đến thỉnh giáo ngươi ư, ta quyết không tin.”
Chu Trọng Anh khen: “Tứ gia nói đúng lắm.”
Lạc Băng kể tiếp: “Vu lão đương gia nói ông ấy đi gặp hoàng đế là có việc trọng đại, không thể đi nhiều người vào cung, rất dễ phát sinh biến cố. Tứ ca nghe lão đương gia nói thể, đương nhiên phải tuân hiệu lệnh. Đêm hôm đó hai người đi vào trong cung, vãn bối cứ đứng ngoài tường hoàng cung mà trông đợi, thấp thỏm sợ hãi. Mãi hơn một giờ sau họ mới nhảy ra khỏi tường, rồi sáng sớm hôm sau cả ba rời khỏi kinh thành, lập tức trở về Giang Nam. Vãn bối lén hỏi Tứ ca xem có gặp tên hoàng đế hay không, rốt cuộc là việc gì. Tứ ca đáp, hoàng đế thì đã gặp rồi, còn việc này liên quan đến chuyện lật đổ Thanh triều, khôi phục đại nghiệp cho người Hán. Dĩ nhiên không phải là Tứ ca không tin vãn bối nhưng thêm một người biết thì thêm một phần rủi ro tiết lộ bí mật nên không nói rõ ra. Vãn bối cũng không hỏi thêm nhiều.”
Chu Trọng Anh lại khen ngợi: “Hoài bão của Vu lão đương gia thật là không nhỏ, dám lẻn vào cung tìm gặp hoàng đế. Trong khắp thiên hạ, chẳng có mấy người can đảm đến thế.”
Lạc Băng kể tiếp: “Về tới Giang Nam, Vu lão đương gia chia tay với bọn vãn bối. Bọn vãn bối quay về tổng đà ở Thái Hồ, còn ông ấy đi đến Hải Ninh ở Hàng Châu. Từ lúc đi Hải Ninh về, thần sắc ông ấy thay đổi hẳn, giống như đột ngột già thêm mười mấy tuổi, suốt ngày không thấy nụ cười, rồi vài ngày sau thì khởi bệnh. Tứ ca có nói nhỏ cho vãn bối biết, vì người yêu nhất trong đời của lão đương gia đã tạ thế nên ông ấy quá thương tâm mà chết…” Nói đến đây, Lạc Băng và Từ Thiên Hoằng đều rơi nước mắt. Chu Trọng Anh cũng không nén nổi, quay đi hỉ mũi.
Lạc Băng lau nước mắt rồi nói tiếp: “Trước lúc lâm chung, lão đương gia cho triệu tập mười hai người chánh phó hương chủ của nội tam đường và ngoại tam đường, hạ lệnh đi đón thiếu đà chủ về, tiếp nhiệm ngôi vị tổng đà chủ. Ông còn nói: đây không phải vì ích kỷ hay tư tâm gì, nhưng chuyện này có liên quan đến việc quang phục thiên hạ nhà Hán, đó là việc quan trọng nhất. Nguyên nhân bên trong thì bây giờ chưa thể nói rõ, sau này mọi người sẽ biết. Mà cho dù ông ấy không để lại di ngôn nhất định huynh đệ cũng vì cảm ân đức mà nhất trí ủng hộ thiếu đà chủ tiếp quản đại nhiệm này.”
Chu Trọng Anh hỏi: “Không hiểu thiếu đà chủ xưng hô như thế nào với lão đương gia?”
Lạc Băng đáp: “Vốn là nghĩa tử! Thiếu đà chủ vốn là tam công tử của Trần Các Lão ở Hải Ninh, năm mười lăm tuổi đã đỗ cử nhân. Đỗ đạt chưa được bao lâu thì lão đương gia đã dẫn y đến Thiên Sơn Bắc, tìm Thiên Trì Quái Hiệp Viên lão anh hùng để xin học võ. Còn tại sao công tử của Tướng Quốc phủ lại có thể bái một hào kiệt võ lâm làm nghĩa phụ thì chuyện này bọn vãn bối không sao biết được.”
Chu Trọng Anh nói: “Nguyên nhân chuyện đó chắc chắn Văn tứ gia đã biết.”
Lạc Băng nói: “Hình như Tứ ca cũng không rõ lắm. Lúc lão đương gia sắp chết, còn một tâm nguyện chưa hoàn thành nên rất cần gặp thiếu đà chủ một lần. Ông ấy vừa từ Bắc Kinh trở về đã gấp rút người đến Hồi Cương, dặn thiếu đà chủ về gấp Ngọc Hư đạo quán ở An Tây đợi lệnh. Viên lão tiền bối Thiên Trì Lão Quái không yên tâm nên cùng đi với thiếu đà chủ về phía đông. Không ngờ lão đương gia lại tạ thế nhanh chóng như thế. Từ An Tây đi đến tổng đà ở Thái Hồ đường xa vạn dặm, tuy thiếu đà chủ được tin là trở về ngay, nhưng lão đương gia biết không đợi nổi bèn sai lục đường chánh phó hương chủ đi về Tây Bắc đón thiếu đà chủ để bàn luận đại sự. Chuyện cơ mật đó, khi gặp chính thiếu đà chủ Tứ ca sẽ tường trình lại. Nào ngờ Tứ ca gặp phải kiếp nạn này…” Nói đến đây, giọng nàng nghẹn hẳn đi: “Lỡ Tứ ca có mệnh hệ gì, di chí của lão đương gia sẽ không ai biết nữa.”
Chu Ỷ dỗ dành: “Băng tỷ đừng quá buồn lòng. Nhất định chúng ta có thể cứu Văn gia ra.” Lạc Băng nắm tay nàng, khẽ gật đầu, nhoẻn nụ cười buồn.
Chu Trọng Anh lại hỏi: “Văn tứ gia bị thương như thế nào?”
Lạc Băng kể: “Các huynh đệ đều chia nhóm đi nghênh tiếp thiếu đà chủ, vợ chồng vãn bối là nhóm cuối cùng. Vừa đến Túc Châu, đột nhiên có tám tên đại nội thị vệ đến khách sạn tìm gặp, nói là phụng mệnh mời bọn vãn bối về Bắc Kinh gấp. Tứ ca nói gặp thiếu đà chủ xong mới có thể phụng mạng được. Tám tên thị vệ kia ăn nói rất khách sáo nhưng vẫn buộc Tứ ca lập tức hồi kinh. Tứ ca khước từ, hai bên càng nói càng căng thẳng, cuối cùng xảy ra chuyện động thủ. Tám thị vệ đó đều là cao thủ được tuyển chọn đặc biệt, bọn vãn bối lấy hai địch tám, dần dần ở thế hạ phong. Tứ ca nổi nóng lên, nói là Bôn Lôi Thủ này dù mất mạng cũng không để chúng bắt đi. Trong trận ác chiến, huynh ấy dùng đơn đao chém chết hai tên, phóng chưởng đánh chết ba tên, lại còn hai tên trúng phi đao của vãn bối. Tên cuối cùng thấy không êm nên bỏ chạy, nhưng Tứ ca cũng bị thương tới sáu bảy chỗ. Trong lúc đánh nhau, huynh ấy trước sau vẫn lo bảo vệ cho vãn bối nên vãn bối không bị thương chút nào cả.”
Khi Lạc Băng kể đến chỗ phu quân múa đao phóng chưởng đánh tan tác tám tên đại nội thị vệ, Chu Ỷ nghe đến ngẩn mặt ra. Nàng tưởng tượng đến phong độ anh hùng của Bôn Lôi Thủ, không nén nổi đem lòng ngưỡng vọng. Hồi lâu Chu Ỷ mới thở ra một hơi, giương mắt lên nhìn Từ Thiên Hoằng, mặt đầy sắc thái chê cười.
Dĩ nhiên Từ Thiên Hoằng hiểu được ý nàng. Chàng nghĩ bụng: “Tứ ca là anh hùng hào kiệt, trên đời ít ai bì được. Từ Thiên Hoằng mỗ không sánh kịp Tứ ca, chuyện đó ai cũng biết, không cần cô nương phải nói.”
Lạc Băng kể tiếp: “Bọn vãn bối biết chắc không thể nghỉ lại Túc Châu được nữa, bèn cố vượt qua ải Gia Cốc. Nhưng Tứ ca đã bị thương nặng, thật sự không đi nổi nữa, bèn tìm một khách sạn để dưỡng thương, chỉ mong thiếu đà chủ và các huynh đệ mau mau quay lại. Nào ngờ bọn chó săn ở Bắc Kinh và Lan Châu lại tìm đến. Những việc sau này, mọi người đều biết hết rồi.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Tên hoàng đế kia càng sợ Tứ ca lại càng hận Tứ ca. Trước mắt Tứ ca hoàn toàn không phải lo âu về tính mạng. Quan phủ và bọn ưng trảo đã biết huynh ấy là khâm phạm, chắc chắn không dám tùy tiện đối xử tồi tệ.”
Chu Trọng Anh khen: “Lão đệ đoán không sai.”
Chu Ỷ bỗng nói với Từ Thiên Hoằng: “Nếu các vị đi đón Văn tứ gia sớm một chút thì hay quá rồi. Bọn chó săn đó sẽ bị giết cho sạch sẽ. Văn tứ gia không gặp rủi ro mà các vị cũng không cần phải đến Thiết Đảm trang kiếm chuyện…”
Chu Trọng Anh vội vàng quát lên ngắt lời: “Con nha đầu này, ngươi nói gì lạ vậy?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Chỉ vì thiếu đà chủ khiêm cung khách sáo quá, nói sao cũng không chịu tiếp nhận chức tổng đà chủ. Một bên ép một bên từ chối, chậm trễ bao nhiêu ngày tháng. Hơn nữa Tứ ca và Tứ tẩu đều bản lãnh đầy người, ai ngờ lại có kẻ cả gan đụng đến.”
Chu Ỷ nói: “Huynh đã là Gia Cát Lượng, sao lại không ngờ được?”
Từ Thiên Hoằng bị hỏi một câu vô lý tới như vậy, cho dù đầu óc linh hoạt gấp đôi thì cũng không biết trả lời sao, chỉ còn cách im lặng.
Chu Trọng Anh bèn nói: “Nếu Thất gia ngờ được việc này, thì chúng ta không được quen biết các hảo bằng hữu trong Hồng Hoa Hội. Nhân vật cao thâm lại tuấn nhã như Trần đương gia, ở vùng biên cương tây bắc chúng ta khó mà gặp được.” Ông quay lại hỏi Lạc Băng: “Phu nhân của y là ai, là danh môn khuê nữ hay hiệp nữ giang hồ?”
Lạc Băng đáp: “Trần đương gia vẫn chưa thành thân.”
Chu Trọng Anh không hỏi gì nữa. Lạc Băng bỗng bật cười khúc khích, hỏi: “Còn Chu Ỷ muội muội thì sao, bao giờ mới cho chúng ta uống chén rượu mừng?”
Chu Trọng Anh cười đáp: “Con nha đầu đó dở điên dở dại chẳng ai thèm lấy, chắc phải sống cả đời với lão già này thôi.”
Lạc Băng cười rộ lên: “Đợi khi cứu được Tứ ca, vợ chồng vãn bối sẽ làm mai cho Ỷ muội, đảm bảo kiếm cho lão tiền bối một chàng rể vừa ý.”
Chu Ỷ vội vàng nói: “Các vị còn trêu chọc ta nữa thì ta phải đi trước một mình đấy.” Ba người nhìn nhau mỉm cười, không nói gì nữa.
Qua một hồi lâu, Từ Thiên Hoằng bỗng bật cười thành tiếng. Chu Ỷ giận dữ nói: “Huynh lại cười cái gì rồi?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Ta cười chuyện của ta, có liên quan gì đến cô đâu?”
Chu Ỷ không biết giấu giếm là gì, hừ một tiếng rồi nói: “Huynh cười chuyện gì chẳng lẽ ta không biết hay sao? Các vị muốn gả ta cho Trần Gia Lạc, nhưng người ta là công tử nhà tể tướng, làm sao ta với tới được. Mà mặc kệ các vị coi y là bảo bối, ta cứ không thèm. Lúc y tỉ đấu với gia gia của ta, ngoài mặt thì nói năng lịch sự, nhưng trong lòng lại xảo trá vô cùng. Ta thà cả đời ở vậy còn hơn lấy một tên miệng nam mô bụng bồ dao găm như thế.”
Chu Trọng Anh vừa tức giận vừa tức cười, hét lên bảo nàng im, nhưng Chu Ỷ cứ mặc kệ, nói một hơi cho hết, đúng như pháo nổ nguyên dây.
Lạc Băng mỉm cười nói: “Được rồi, được rồi! Sau này ta sẽ giới thiệu cho Ỷ muội một bậc đại anh hùng hào kiệt lòng thật miệng nhanh là được rồi. Như vậy đã vừa ý chưa?”
Chu Trọng Anh cũng cười nói: “Con nha đầu này miệng lưỡi không có hàng rào, đúng là không biết sợ Thất gia và Văn phu nhân chê cười. Thôi được rồi, mọi người ngủ đi một chút để sáng mai đi đường thoải mái hơn.” Bốn người bèn tới chỗ buộc ngựa, lấy chăn ra đắp lên người, nằm ngủ dưới gốc cây.
Chu Ỷ bỗng hỏi nhỏ: “Gia gia! Gia gia có mang theo cái gì ăn hay không, con đói lắm rồi.”
Chu Trọng Anh đáp: “Ta không mang theo. Sáng mai chúng ta khởi hành sớm một chút, đi đến Song Tỉnh rồi ăn sáng.”
Một lúc sau, ông đã ngáy khò khò, hình như ngủ say rồi. Còn Chu Ỷ thì bụng đói cồn cào, trở qua lăn lại không sao ngủ được. Nàng nhìn qua Lạc Băng nằm ngủ bên cạnh, rồi bỗng nhìn thấy Từ Thiên Hoằng ngồi dậy, từ từ đi đến nơi buộc ngựa.
Chu Ỷ nổi dạ hiếu kỳ, liếc mắt nhìn trộm. Trong đêm tối, nàng thấy chàng lấy trong bọc ra cái gì đó, rồi về chỗ nằm ngồi xuống, đắp chăn lên người rồi bắt đầu nhai. Chu Ỷ bèn xoay người lại, không thèm nhìn nữa.
Nhưng tên quân sư kia chơi ác, không những nhai nuốt thành tiếng nhồm nhoàm rau ráu, lại còn hít hà khen ngợi. Chu Ỷ nhịn không nổi, phải mở mắt liếc nhìn. Không nhìn thì thôi, vừa nhìn là nước bọt nàng tuôn ra, cơn đói càng khó chịu. Thì ra trong tay Từ Thiên Hoằng cầm mấy miếng bánh trắng tinh, ngoạm từng miếng lớn. Bên cạnh còn một chồng rất cao, rõ ràng là bánh nướng đặc sản của Túc Châu. Thì ra lúc ở Hạnh Hoa lâu, chàng xuống dưới lầu trước là để mua mấy cái bánh này.
Suốt dọc đường Chu Ỷ cứ nói năng chẹn họng chàng, lúc này làm sao dám mở miệng hỏi xin? Nàng bèn nghĩ bụng: “Thôi, ta cố mà ngủ cho nhanh, đừng nghĩ gì đến chuyện ăn nữa.” Nào ngờ càng muốn ngủ lại càng không ngủ được, rồi đột nhiên có mùi rượu bay tới. Tên lùn kia thật là vô pháp vô thiên, ngửa đầu lên cắm một cái bầu nhỏ mà tu ừng ực.
Chu Ỷ nhịn không nổi nữa, la lên: “Nửa đêm còn uống rượu gì nữa? Muốn uống thì đi chỗ khác mà uống, đừng uống ở đây.”
Từ Thiên Hoằng đáp gọn: “Được lắm.” Rồi chàng đặt bầu rượu xuống, ngủ thiếp đi. Chàng không thèm đậy nút hồ lô, cứ để đó cho mùi rượu theo gió mà bay tới mũi Chu Ỷ. Thì ra khi ở Hạnh Hoa lâu, chàng thấy Chu Ỷ hễ rót ra là cạn chén, biết nàng là một cô nương mê rượu, bèn làm như thế để trêu nàng.
Phen này thì Chu Ỷ tức đến nỗi lông mày dựng ngược, cặp mắt giương to, muốn nổi giận thì không có lý do, nhưng không nổi giận thì lại không nhịn nổi. Nàng bèn xoay người đi, lấy chăn phủ kín cả mắt mũi miệng, nhưng được một lúc thì thấy ngột thở khó chịu, phải mở chăn ra. Dưới ánh trăng sáng, Chu Ỷ đột nhiên nhìn thấy hai viên thiết đảm lấp lánh sáng ở cạnh gối cha mình. Suy nghĩ một lúc, nàng nhẹ nhàng đưa tay ra cầm một trái thiết đảm, ném tới chỗ bầu rượu. Nghe một tiếng bụp nhỏ, hồ lô vỡ nát ra, rượu chảy đầy chăn Từ Thiên Hoằng.
Dường như lúc này chàng đã ngủ say, không động đậy gì. Chu Ỷ nhìn thấy cha mình cùng Lạc Băng cũng ngủ rất say, bèn rón rén bò dậy, tới lấy lại trái thiết đảm. Nào ngờ nàng vừa đưa tay ra, Từ Thiên Hoằng đột nhiên xoay người lại nằm úp lên thiết đảm, miệng vẫn ngáy khò khò.
Chu Ỷ hoảng sợ, giật phắt tay về. Tuy tính tình nàng thoải mái hào sảng, nhưng dù sao cũng là một cô nương trẻ tuổi, dĩ nhiên không dám luồn tay xuống dưới bụng một nam nhân mà sờ soạng. Nhưng nếu không lấy thì ngày mai tên lùn này có thiết đảm trong tay làm bằng chứng, đem ra kể lại đảm bảo nàng sẽ bị phụ thân mắng cho một trận nên thân.
Không làm gì được, nàng chỉ còn cách quay về mà ngủ. Đúng lúc đó, đột nhiên Lạc Băng cười lên khúc khích. Chu Ỷ xấu hổ quá, mặt đỏ đến tận mang tai. Vừa rồi nàng bò đến chỗ Từ Thiên Hoằng, chắc chắn đã bị người ta nhìn thấy. Thế là tim cô nàng đập loạn cả lên, suốt đêm không sao ngủ cho ngon được.
Sáng hôm sau, nàng thức dậy từ rất sớm nhưng không cục cựa, cứ nằm trong chăn mà mong trời đừng bao giờ sáng nữa. Chẳng bao lâu Chu Trọng Anh và Lạc Băng thức dậy, rồi một lúc sau Từ Thiên Hoằng cũng tỉnh giấc. Chàng bỗng la lên: “Trời ơi, cái gì mà cứng ngắc vậy?”
Chu Ỷ rúc sâu thêm vào trong chăn, lại nghe chàng nói: “Ái chà! Lão tiền bối, thiết đảm của tiền bối lăn vào trong chăn của tại hạ. Ôi chao, không xong rồi! Ngay cả bầu rượu cũng bị đập vỡ. Đúng rồi, nhất định là có con khỉ trong núi ngửi thấy mùi rượu, thèm quá nên bò đến trộm. Nó lại nhìn thấy quả thiết đảm của lão gia, cầm lên mà nghịch, không cẩn thận nên đập vỡ mất hồ lô. Con khỉ này hư đốn quá.”
Chu Trọng Anh cười ha hả nói: “Lão đệ thích đùa quá. Ở chỗ như thế này làm sao có khỉ?”
Lạc Băng cũng bật cười: “Nếu không phải là khỉ thì nhất định là tiên nữ trên trời thèm rượu hạ phàm rồi.”
Mọi người cười đùa một chập. Chu Ỷ không nghe ai nhắc đến chuyện đêm qua nữa, cũng hơi yên lòng một chút. Nhưng khi hiểu được Từ Thiên Hoằng nói vòng vo mắng mình là khỉ, trong lòng nàng lại càng rầu rĩ hơn. Lúc Từ Thiên Hoằng đem bánh nướng ra mời mọi người, Chu Ỷ tức giận không thèm ăn.
Đến Song Tỉnh, bốn người vào quán ăn mỳ. Sau khi rời khỏi thị trấn, Từ Thiên Hoằng cùng Lạc Băng đột nhiên cúi xuống, xem kỹ dưới chân tường một ngôi nhà. Chu Ỷ cũng lại gần xem, thấy dưới chân tường có ai dùng than mà vẽ loạn xà ngầu, trông giống như bọn trẻ nghịch ngợm vậy. Nàng đã nghĩ là chẳng có gì đáng xem, nhưng bỗng nghe Lạc Băng mừng rỡ reo lên: “Tây Xuyên song hiệp đã phát hiện hành tung của Tứ ca rồi, đang tiếp tục theo dõi.”
Chu Ỷ hỏi: “Làm sao tỷ biết? Những cái này vẽ gì vậy?”
Lạc Băng đáp: “Đây là ký hiệu để liên lạc tin tức trong Hồng Hoa Hội, do Tây Xuyên song hiệp vẽ.” Nàng vừa nói vừa lấy gót giày xóa hết nét vẽ đi, rồi nói: “Chúng ta rời khỏi đây ngay.”
Bốn người được biết đã có tung tích của Văn Thái Lai, lập tức tinh thần phấn chấn hẳn lên. Nụ cười tươi tắn của Lạc Băng càng thêm phần khả ái. Họ chạy một hơi bốn năm chục dặm, ăn uống nghỉ ngơi chốc lát lại tiếp tục lên đường. Trưa ngày hôm đó, đến Thất Đạo Câu lại thấy ký hiệu của Dư Ngư Đồng để lại, nói là đã gặp Tây Xuyên song hiệp.
Lúc này vết thương trên đùi Lạc Băng đã đỡ nhiều, tuy đi đứng còn hơi gượng gạo nhưng không cần chống gậy nữa. Nàng nghĩ đến chẳng bao lâu đã có thể gặp được phu quân, không nhẫn nại được nữa, bèn quất ngựa chạy trước về hướng đông. Mọi người phải cố đuổi theo nàng.
Hoàng hôn thì đến Liễu Tuyền Tử, Lạc Băng còn muốn đi tiếp, nhưng Từ Thiên Hoằng nhớ tới lời dặn của Trần Gia Lạc bèn khuyên: “Chúng ta không sợ mệt, nhưng phải cho ngựa nghỉ ngơi một chút.”
Lạc Băng không làm gì được, đành phải ghé vào khách sạn nghỉ đêm. Nàng trăn trở trên giường không sao ngủ được. Giữa đêm, ngoài trời lại có mưa, nàng bỗng nhớ lại chuyện cũ, hai người vừa cưới nhau đã phụng mệnh lão đương gia đi đến Gia Khánh Phủ, cứu một quả phụ bị thổ hào hãm hại. Xong việc, hai người cùng uống rượu thưởng thức đêm mưa trên Yên Vũ Lâu ở Nam Hồ. Văn Thái Lai ngồi bên người vợ mới cưới, vừa cầm đao gõ vào thủ cấp của tên thổ hào đánh nhịp, vừa cất tiếng hát ca. Kỷ niệm đó theo tiếng mưa đêm lúc này mà dậy sóng trong lòng Lạc Băng.
Lạc Băng nghĩ bụng: “Các vị ca ca nghĩ đến cha con họ Chu là khách, không tiện giục nhanh chóng lên đường. Thế thì tại sao ta không đi trước?” Nghĩ đến đó, nàng không nén nổi, lập tức âm thầm thức dậy, mang theo song đao và hành trang của mình, dùng than vẽ lại ký hiệu trên bàn, bảo Từ Thiên Hoằng thay mình xin lỗi cha con họ Chu. Thấy Chu Ỷ đang ngon giấc trên giường, nàng sợ mở cửa làm cô bé tỉnh giấc, bèn nhẹ nhàng mở cửa sổ nhảy ra, vào chuồng dẫn con ngựa của mình ra ngoài, khoác áo tơi rồi tung người lên lưng ngựa, phi về hướng đông. Những giọt mưa rơi trên đôi má đỏ bừng của nàng thật là mát mẻ dễ chịu.
Vào lúc bình minh, Lạc Băng ghé vào một thị trấn để điểm tâm. Nàng thấy con ngựa không đi nổi nữa, đành phải nghỉ lại nửa giờ. Nghỉ xong lại chạy tiếp, được chừng bốn chục dặm thì đột nhiên con ngựa vấp chân một cái. Lạc Băng giật mình vội kéo dây cương, may mà ngựa chưa quị hẳn. Nàng biết nếu tiếp tục chạy gấp như thế thì ngựa không thể chịu nổi, chỉ còn cách chậm rãi mà đi.
Chưa được bao lâu, đột nhiên phía sau có tiếng vó ngựa gấp rút chạy tới. Vừa nghe thấy tiếng vó ngựa, ngựa đã phi tới sát mình. Lạc Băng kéo ngựa tránh qua bên trái, thấy trước mắt như gió cuốn một khối tuyết vụt qua, thì ra là một con ngựa trắng đang phóng vù vù. Con ngựa này chạy nhanh khủng khiếp, dáng dấp người cưỡi thế nào cũng không nhìn rõ được.
Lạc Băng kinh hãi la lên: “Sao lại có con ngựa hay đến thế?” Con ngựa đó dường như chạy chân không dính đất, một hình mười bóng, thật sự có thể gọi là truy phong trục điện. Chỉ trong chốc lát, cả ngựa lẫn người đã thu nhỏ thành một khối xam xám, rồi nháy mắt là không thấy tung tích đâu nữa.
Lạc Băng khen ngợi một hồi, cứ chậm rãi mà chạy đến một thôn nhỏ. Nàng thấy dưới mái hiên một ngôi nhà có cột một con ngựa lông trắng như tuyết, bờm phấp phới trong gió, thân cao chân dài, đẹp đẽ phi phàm. Đột nhiên nó hí vang một tiếng thanh thoát thấu mây, khiến con ngựa Lạc Băng đang cưỡi phải hoảng sợ nhảy lùi mấy bước. Lạc Băng đưa mắt nhìn kỹ, đúng là con ngựa trắng vừa rồi, bên cạnh có một hán tử đang chải chuốt vỗ về cho nó.
Lạc Băng nảy ra một ý, thầm nghĩ: “Nếu ta được cưỡi con tuấn mã này thì chẳng sợ gì không đuổi kịp đại ca. Ngựa tốt thế này, chắc là chủ không chịu bán, không chừng phải dùng biện pháp cứng rắn mà mượn đỡ. Nhưng chủ con ngựa này dĩ nhiên không phải hạng tầm thường, có thể là cao thủ. Ta phải cẩn thận một chút.”
Từ nhỏ nàng đã theo phụ thân là Thần Đao Lạc Nguyên Thông bôn tẩu giang hồ, biết hết mọi phương pháp trộm cướp xảo diệu, không món nào mà không tới chỗ tinh vi, bèn lập tức có chủ ý. Lạc Băng lấy mồi lửa trong bọc ra, dùng hỏa đao hỏa thạch đánh lửa thắp lên. Một tay nàng giật cương ngựa chạy nhanh về hướng con bạch mã, tay kia cầm sẵn phi đao.
Nghe vèo một tiếng, phi đao đã ghim vào cột nhà, cắt đứt dây cương của con ngựa trắng. Lúc này khoảng cách đã gần, tay trái Lạc Băng bèn nhét mồi lửa đang cháy vào yên con ngựa mình đang cưỡi, tiện tay xách hành lý của mình lên, tay phải ấn vào yên ngựa sử chiêu Tiềm Long Thăng Thiên, tung người bay qua lưng bạch mã. Con ngựa trắng giật mình hí vang một tiếng, rồi như tên bay khỏi cung, bắn thẳng về phía trước.
Phóng đao, đổi ngựa, cướp đồ, cản địch chỉ trong chốc lát đã xong xuôi hết. Chuyện nhanh quá, không ai kịp ra tay cản trở. Người chủ ngựa la toáng lên nhưng con ngựa vốn của Lạc Băng đang bị lửa đốt đau đến phát điên, đạp phá loạn xạ cả trở đường đi một lúc. Chủ ngựa quả nhiên thân thủ không vừa, tung người nhảy qua khỏi con ngựa điên rồi chạy ra ngoài, nhưng bấy giờ Lạc Băng đã chạy xa rồi.
Nàng thấy có người đuổi theo, bèn dừng ngựa quay đầu lại, lấy ra trong bọc một thỏi vàng, vừa ném ra vừa mỉm cười nói: “Ta mạn phép đổi ngựa. Con ngựa của huynh rất tốt, ta bù thêm một thỏi vàng đây.” Người kia không thèm đón lấy thỏi vàng, vừa kêu la ẫm ĩ vừa vắt giò lên cổ mà đuổi.
Lạc Băng mỉm cười, khẽ ép chân vào hông ngựa một cái. Con ngựa chồm lên tới mười mấy trượng, rồi nàng chỉ còn thấy gió lộng qua tai, hai hàng cây cối bên đường lùi vùn vụt ra sau, cái thôn nhỏ sau lưng trong chớp nhoáng đã biến đâu mất. Hơn nửa giờ nữa, con ngựa đó vẫn phóng như tên, không ra vẻ mệt mỏi chút nào.
Một lúc sau, hai bên đường đã xuất hiện những thửa ruộng tươi tốt, lề đường trồng đầy bạch dương, sắp đến một thị trấn lớn. Lạc Băng xuống ngựa, ghé vào thị trấn ăn cơm. Nàng hỏi thì biết nơi này là Sa Tỉnh, cách nơi mình đoạt ngựa đã hơn bốn chục dặm.
Con ngựa này nàng càng nhìn càng mến, bèn đích thên đút cho nó ăn, lại còn đưa tay vỗ về một lúc. Lạc Băng thấy bên yên ngựa còn treo một bao vải, vừa rồi vội vã chạy trốn nên không phát hiện ra, bây giờ đưa tay tháo xuống thì thấy khá nặng. Nàng mở ra xem thì ra trong bọc có một cây thiết tỳ bà.
Lạc Băng thầm nghĩ: “Thì ra con ngựa này là của Thiết Tỳ Bà Hàn gia ở Lạc Dương. Chuyện này về sau e còn phiền phức.” Nàng lại thò tay vào trong bọc, lôi ra hai ba chục lạng bạc vụn và một lá thư. Trên bì thư ghi là gửi cho Hàn Văn Xung. Phong bì đã bóc sẵn rồi, nàng bèn lấy ra đọc.
Đầu tiên, Lạc Băng nhìn xuống cuối thư thấy ký tên Duy Dương, cũng hơi kinh hãi. Suy nghĩ một lúc nàng lại thấy khoái chí, nghĩ bụng: “Thì ra chủ con ngựa này có liên quan gì đó với lão Vương Duy Dương. Bọn ta cũng đang muốn tìm đến Trấn Viễn tiêu cục mà đòi nợ, phen này đoạt trước một con ngựa cũng hả dạ chút ít rồi. Biết thế thì ta chẳng thèm ném cho hắn thỏi vàng làm gì.”
Rồi nàng đọc hết lá thư. Thì ra Vương Duy Dương gọi Hàn Văn Xung gấp rút trở về, nói là vừa được tặng một con ngựa tốt, tạm thời cho mượn mà cưỡi, bảo hắn mau mau đi tìm anh em họ Diêm để cùng bảo vệ đồ vật vào kinh, lại còn một món hàng khác cần hắn hộ tống đi Giang Nam. Còn chuyện Tiêu Viễn Kỳ bị Hồng Hoa Hội hại chết thì tạm thời gác lại, sau này sẽ điều tra.
Lạc Băng thầm nghĩ: “Tiêu Văn Kỳ là đệ tử của Hàn gia Thiết Tỳ Bà ở Lạc Dương. Giang hồ đồn đại là hắn bị Hồng Hoa Hội giết chết, thật ra không phải. Tổng đà chủ còn định phái Thập tứ đệ đến Lạc Dương nói rõ, để tránh bị oán thay người khác. Không hiểu Trấn Viễn tiêu cục phải hộ tống thứ gì quan trọng tới Giang Nam đây? Đợi cứu được đại ca, vợ chồng ta sẽ ra tay đoạt lấy món tiêu này. Có thù không báo không phải là quân tử. Tên tiểu đầu quỉ sứ kia dẫn người đến bắt đại ca, làm sao mà bỏ qua được? May mà Hàn Văn Xung cũng mới làm quen với con ngựa này, không thì tuấn mã bao giờ chủ quyến luyến chủ cũ, chẳng dễ gì đoạt được.”
Nàng càng nghĩ càng thấy hả dạ, ăn mỳ xong bèn lên ngựa tiếp tục hành trình. Trời mưa suốt dọc đường, lúc to lúc nhỏ mãi không chịu tạnh. Ngựa phi như gió, qua mặt rất nhiều cả xe lẫn ngựa, không sao đếm hết. Lạc Băng nghĩ bụng: “Nếu mấy nhóm huynh đệ đi trước mà nghỉ lại ăn cơm, thì ta đi nhanh như thế không chừng sẽ qua mặt mất.” Nàng đang định đi chậm lại, đột nhiên bên lề có người chạy ra giữa đường đưa tay ngăn cản.
Thế mà con ngựa vẫn không chồm lên. Nó đang chạy nhanh như thế mà đột ngột dừng lại được, bước lui mấy bước. Lạc Băng chưa kịp lên tiếng, thì người kia đã thi lễ rồi nói: “Văn tứ phu nhân! Thiếu gia đang ở đây.” Thì ra đó là Thư Đồng Tâm Nghiễn của Trần Gia Lạc. Lạc Băng mừng rỡ liền xuống ngựa.
Tâm Nghiễn bước tới đón lấy dây cương, khen: “Văn tứ phu nhân mua ở đâu được con ngựa tốt đến thế này. Tiểu nhân từ xa đã nhìn thấy Tứ tẩu, nào ngờ mới nháy mắt một cái là con ngựa đã chạy tới trước mặt, suýt nữa không chặn kịp.”
Lạc Băng mỉm cười không đáp, hỏi lại: “Có tin tức gì của Văn tứ ca hay không?”
Tâm Nghiễn đáp: “Thường ngũ gia và Thường lục gia nói đã gặp Tứ gia rồi. Mọi người đang ở trong này.” Y vừa nói vừa dẫn Lạc Băng tới một tòa miếu cũ.
Lạc Băng dành đi trước Tâm Nghiễn. Nàng quay đầu lại nhờ y cho con ngựa ăn uống, rồi chạy vội vào trong miếu, lập tức nhìn thấy mọi người. Trần Gia Lạc, Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, Thường nhị huynh đệ… tụ tập trong đại điện. Mọi người thấy nàng đều đứng dậy nghênh đón.
Lạc Băng thi lễ với Trần Gia Lạc, nói rõ là mình nóng ruột không đợi nổi nên chạy trước đến đây, xin tổng đà chủ tha tội. Trần Gia Lạc nói: “Chuyện này về tình thì do Tứ tẩu nhớ Tứ ca có thể bỏ qua. Nhưng về lý thì phạm tội không tuân hiệu lệnh, đợi khi cứu Tứ ca rồi sẽ luận tội xét xử. Thạch nhị ca, xin huynh nhớ lấy.” Thạch Song Anh vâng dạ.
Lạc Băng cười tươi như hoa, thầm nghĩ: “Nếu cứu đại ca ra rồi, thì các huynh muốn xử phạt ta kiểu gì cũng được.” Nàng quay lại hỏi Thường thị song hiệp: “Ngũ ca, Lục ca! Nghe nói các huynh đã gặp Tứ ca. Huynh ấy thế nào, có phải chịu khổ hay không?”
Thường Hách Chi đáp: “Đêm qua, anh em ta đuổi kịp bọn ưng trảo đang áp giải Tứ ca ở Song Tỉnh. Bọn con rùa đó rất đông, con mẹ nó, bọn ta chỉ sợ đả thảo kinh xà nên không ra tay. Ban đêm, ta nhìn qua cửa sổ thấy Tứ ca nằm trên giường nhắm mắt dưỡng thần nhưng y không thấy ta. Lũ con rùa đó canh giữ trong nhà rất chặt, nên ta phải lùi ra ngoài.”
Thường Bá Chí cũng nói: “Bọn con rùa của Trấn Viễn tiêu cục và bọn ưng trảo ở hỗn lộn một nơi. Con mẹ nó, ta đếm một lúc, thấy bọn rùa có võ công kha khá cũng phải đến mười con.” Anh em họ Thường là người Tứ Xuyên quen miệng mắng người ta là con rùa.
Đang nói chuyện thì Dư Ngư Đồng từ ngoài miếu chạy vào. Nhìn thấy Lạc Băng, chàng không khỏi giật mình, hô một tiếng “Tứ tẩu”, rồi bẩm báo với Trần Gia Lạc: “Đám người Hồi đã dựng lều ở con suối phía trước, cắt người cầm đao thương phòng thủ, canh giữ rất nghiêm mật. Đệ không tiện đến gần, đợi trời tối sẽ đi thám thính.”
Đột nhiên ngoài đường có tiếng bánh xe lộc cộc, rồi tiếng lừa hí vang. Tâm Nghiễn vào bẩm báo: “Một đại đội nhân mã mới đi qua, có mấy tên võ quan chỉ huy hai mươi tên lính đi áp tải mấy cỗ xe lớn.” Nói xong, y lại ra ngoài miếu để canh gác.
Trần Gia Lạc bàn với mọi người: “Từ đây đi về hướng đông, dân chúng ít hơn, tiện cho chúng ta hành sự. Nhưng còn đội quan quân này và nhóm người Hồi kia, không biết đường lối của họ thế nào. Trong lúc chúng ta cứu Tứ ca, không chừng họ sẽ ta tay cản trở. Chuyện này không thể không dự phòng trước.” Mọi người đồng thanh khen phải.
Vô Trần đạo nhân lên tiếng: “Lục Phi Thanh lão tiền bối đã nói, sư đệ của ông là Trương Triệu Trọng võ công rất giỏi. Chúng ta đi lại giang hồ cũng từng nghe đại danh của Hỏa Thủ Phán Quan rồi. Lần này đám người bắt Tứ đệ là do hắn dẫn đầu, đúng là dịp tốt để bần đạo tỉ đấu với hắn một phen.”
Trần Gia Lạc nói: “Bảy mươi hai đường Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm của đạo trưởng là thiên hạ vô song, hôm nay nhất định đừng để mối họa này sống sót.”
Triệu Bán Sơn nói: “Tuy Lục đại ca đã tuyệt giao với sư đệ rồi, nhưng ông ấy vốn là người nặng tình nặng nghĩa. May mà ông ấy chưa đến kịp, không thì chúng ta phải giết họ Trương trước mặt ông ấy, cũng có phần trở ngại.”
Thường Hách Chí nói: “Vậy thì sáng sớm mai chúng ta khởi hành, vào khoảng giờ Mạo sẽ đuổi kịp Tứ ca.”
Trần Gia Lạc nói: “Hay lắm, Ngũ ca, Lục ca! Tình hình bọn ưng trảo và bọn tiêu đầu kia như thế nào, xin hai vị nói cho mọi người nghe tỉ mỉ, phòng bị trước thì ngày mai động thủ dễ hơn.”
Thường nhị huynh đệ theo dõi dọc đường, hầu như đã nắm được toàn bộ hành tung của bọn quan sai và tiêu sư, lập tức kể lại: “Ban đêm thì Tứ ca ngủ chung phòng với bọn ưng trảo. Ban ngày thì ngồi trên xe lớn, tay chân đều bị xiềng xích. Cỗ xe này có màn vải che chắn rất kín, hai bên xe có hai tên con cháu loài rùa cưỡi ngựa đi kèm, không rời một bước.”
Vô Trần đạo nhân hỏi: “Trương Triệu Trọng trông như thế nào?”
Thường Bá Chí nói: “Con rùa đó khoảng hơn bốn mươi tuổi, thân hình to lớn, trên mặt để một chỏm râu ngắn. Người hắn cứng đờ, trông như một tấm bài vị biết đi vậy.”
Thường Hách Chí lên tiếng: “Đạo trưởng! Chúng ta nói trước, nếu hai anh em chúng ta gặp con rùa đó trước thì sẽ động thủ trước. Đạo trưởng đừng trách chúng ta là không khách sáo.”
Vô Trần mỉm cười hỏi: “Hai vị đã lâu không gặp đối thủ, chắc là ngứa tay rồi. Còn Tam đệ, có muốn thi triển Thái Cực Quyền trước hay không?”
Triệu Bán Sơn cười đáp: “Tên Trương Triệu Trọng đó nhường cho các vị, ta không tranh giành nữa là xong.”
Mọi người đều ngứa ngáy tay chân, chỉ đợi chém giết một phen, nên chỉ ăn chút ít lương khô cho đỡ đói rồi xin tổng đà chủ phát lệnh. Trần Gia Lạc đã tính toán kỹ, bèn nói: “Đoàn người Hồi kia chưa chắc đã cấu kết với bọn công sai. Chúng ta cố gắng vượt qua họ, cứu xong Tứ ca thì không cần phải lo đến họ nữa. Thập tứ đệ cũng không cần phải đi dò xét làm gì. Ngày mai, đệ cùng Thập tam đệ lo việc ngăn chận toán quan quân, chỉ cần không để chúng tới can thiệp là được, không cần làm tổn thương nhiều nhân mạng.” Tưởng Tứ Cân và Dư Ngư Đồng vâng dạ.
Trần Gia Lạc lại nói: “Cửu ca, Thập nhị ca! Hai vị lập tức xuất phát, cố qua mặt bọn ưng trảo, sáng mai phải giữ cửa thung lũng, không để bọn chúng vượt ra khỏi đó.” Vệ Xuân Hoa và Thạch Song Anh tuân lệnh, lập tức rời khỏi miếu.
Trần Gia Lạc nói tiếp: “Đạo trưởng, Ngũ ca, Lục ca! Ba vị lo đối phó với quan sai. Tam ca, Bát ca hai vị đối phó với bọn nhãi tiêu cục. Tứ tẩu cùng Tâm Nghiễn cướp xe cứu Tứ ca. Ta đứng giữa quan sát, tiếp ứng chỗ nào bất lợi. Thập ca canh giữ ở đây, nếu có quan binh công sai từ tây sang đông thì tìm cách cản trở.” Mọi người đều vâng mệnh.
Sau khi giao nhiệm vụ, mọi người đều rời miếu lên ngựa, chia tay với Chương Tấn. Nhìn thấy con ngựa của Lạc Băng, không ai là không mở miệng tán dương. Lạc Băng nghĩ bụng: “Lẽ ra nên tặng con ngựa này cho tổng đà chủ mới phải. Nhưng phen này đại ca cực khổ nhiều như thế, ta đợi cứu ra rồi tặng, chắc đại ca thích lắm.”
Trần Gia Lạc bảo Dư Ngư Đồng: “Đám người Hồi kia dựng lều ở đâu, chúng ta vòng qua xem thử.” Dư Ngư Đồng dẫn đường đi tới con suối, từ xa đã thấy trống trơn, không còn bóng người hay cọc lều nào, dưới đất chỉ còn rải rác phân lạc đà và phân ngựa. Ai cũng thấy đoàn lạc đà lừa ngựa này hành tung rất bí mật nhưng không biết họ có ý định gì.
Trần Gia Lạc bèn nói: “Chúng ta đi thôi.” Mọi người tung ngựa chạy nhanh, trong đêm chỉ nghe thấy tiếng tinh tang của vó ngựa. Ngựa của Lạc Băng chạy nhanh nhất, nàng cứ đi một lúc lại phải đợi mọi người một lúc.
Trời rạng sáng, đến bên một con suối. Trần Gia Lạc nói: “Các vị huynh đệ! Chúng ta dừng lại đây để ngựa uống nước và dưỡng sức một tí. Chắc một giờ nữa là đuổi kịp Tứ ca rồi.”
Máu Lạc Băng như sôi lên, tim đập rộn, hai má đỏ bừng. Dư Ngư Đồng liếc mắt trộm nhìn, cảm giác trong lòng khó mà diễn tả. Chàng từ từ đi đến cạnh nàng, khẽ gọi: “Tứ tẩu!” Lạc Băng quay lại, Dư Ngư Đồng bèn nói: “Cho dù đệ phải mất mạng cũng quyết cứu Tứ ca ra trả lại cho Tứ tẩu!”
Lạc Băng mỉm cười, thì thầm: “Như vậy mới là huynh đệ tốt.” Lòng dạ Dư Ngư Đồng đầy chua xót, hình như nước mắt sắp chảy ra. Chàng vội vã quay mặt đi nơi khác.
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Tứ tẩu! Tỷ cho Tâm Nghiễn mượn ngựa một chút, để y chạy nhanh lên phía trước, thám thính hành tung của bọn ưng trảo rồi quay lại báo tin.”
Tâm Nghiễn nghe thấy được cưỡi ngựa của Lạc Băng, khoái chí vô cùng bèn hỏi: “Văn tứ phu nhân có chịu không?”
Lạc Băng cười đáp: “Sao ta lại không chịu?” Tâm Nghiễn bèn cưỡi “bạch mã tẩu như phi.”
Mọi người đợi ngựa uống nước xong, rồi lên ngựa ra roi chạy lẹ. Một lúc sau trời đã sáng rõ, Tâm Nghiễn chạy ngược về hô lớn: “Bọn ưng trảo đang ở trước mặt, các vị đuổi theo nhanh lên.”
Quần hùng nghe vậy, tinh thần phấn chấn hẳn lên, gắng sức đuổi theo. Lạc Băng đổi ngựa Tâm Nghiễn lại rồi hỏi: “Ngươi có nhìn thấy cỗ xe lớn chở Tứ ca không?”
Tâm Nghiễn gật đầu lia lịa đáp: “Tiểu nhân thấy rất rõ. Lúc ngựa chạy qua kế bên xe, tên khốn canh giữ cỗ xe còn vung đao lên dọa, mắng tiểu nhân là tiểu tạp chủng, tiểu khốn.”
Lạc Băng cười nói: “Lát nữa sẽ bắt chúng kêu ngươi là tiểu tổ tông, tiểu thái gia.”
Cả đàn ngựa tung vó phi nhanh, cát bụi nổi lên mù mịt. Đuổi chừng năm sáu dặm đã thấy một đội nhân mã ở phía trước, lại gần hơn thì nhìn rõ đó là một đội quan quân đang áp tải mấy cỗ xe. Tâm Nghiễn nói với Trần Gia Lạc: “Đi thêm sáu bảy dặm nữa mới đến đoàn xe chở Văn tứ gia.” Mọi người thúc ngựa vượt qua toán quan quân này, rồi Trần Gia Lạc liếc mắt một cái. Tưởng Tứ Cân và Dư Ngư Đồng quay ngựa lại đứng chặn giữa đường, còn bao nhiêu tiếp tục phi nhanh về phía trước.
* * *
Dư Ngư Đồng đợi bọn quan binh đến trước mặt, chắp tay chào hỏi, ăn nói rất văn nhã: “Chắc quí vị mệt nhọc rồi. Phong cảnh ở đây thật là đẹp đẽ mà thời tiết hôm nay lại càng tuyệt diệu. Một ngày không nóng không lạnh thế này khó mà gặp được, tốt nhất là chúng ta cùng ngồi đây hàn huyên một chút.”
Một tên lính Thanh hét lên: “Tránh ra! Đây là gia quyến của Lý tướng quân.”
Dư Ngư Đồng nói: “Đã là gia quyến, lại càng nên nghỉ ngơi một tí. Phía trước có một cặp quỷ Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường, đừng để các vị cô nương cùng thái thái hoảng sợ.”
Một tên quân vung roi ngựa lên, vừa quất vào mặt Dư Ngư Đồng vừa quát: “Tên nghèo đói điên khùng này, đứng đây làm gì?”
Dư Ngư Đồng cười khanh khách, tránh né rồi đáp: “Quân tử động khẩu không động thủ. Các hạ thích dùng roi ngựa như vậy, không phải là quân tử rồi.”
Tướng quân chỉ huy bọn này đã phi ngựa tới nơi. Dư Ngư Đồng chắp tay mỉm cười chào hỏi: “Không hiểu tôn tính đại danh của tướng quân là gì, quí quán ở đâu?”
Tướng quân kia thấy hai người họ Dư họ Tưởng rất đáng nghi ngờ, nên ngần ngừ không đáp. Dư Ngư Đồng bèn lấy cây kim địch ra nói: “Tại hạ có biết chút ít âm luật, thường than thở khó gặp tri âm. Đại quan tướng mạo đường đường, chắc chắn không phải người phàm tục. Xin mời xuống ngựa để tại hạ thổi tặng một bài, giải bớt nỗi mệt nhọc đi đường, có được hay chăng?”
Tướng quân kia chính là người hộ tống gia quyến Lý Khả Tú, tên là Tăng Đồ Nam, vừa thấy kim địch đã giật mình. Hôm trước Dư Ngư Đồng đánh nhau với bọn công sai trong khách sạn, tuy họ Tăng không chính mắt nhìn thấy, nhưng về sau nghe bọn lính và tiểu nhị kể lại, biết người giết công sai cứu khâm phạm là một vị tú tài tay cầm kim địch. Bây giờ gặp chàng ở đây, hắn không biết là có chuyện gì, nhưng thấy đối phương chỉ có hai người nên cũng không sợ lắm, bèn hét lớn: “Chúng ta nước sông không phạm nước giếng, ai đi đường nấy. Xin tránh ra nhường bước.”
Dư Ngư Đồng nói: “Tại hạ có mười bài sáo ruột, một là Long Ngâm, hai là Phụng Minh, ba là Tử Vân, bốn là Hồng Hà, năm là Diêu Ba, sáu là Liệt Thạch, bảy là Kim Cốc, tám là Ngọc Quang, chín là Kình Nhật, mười là Lương Tiêu. Bài thì khẳng khái kịch liệt, bài thì uyển chuyển triền miên, bài nào cũng có chỗ hay riêng biệt. Chỉ vì hiếm khi gặp được tri âm nên đã lâu chưa được tấu lên. Hôm nay gặp được cao hiền, ống sáo này đã xôn xao muốn động, tại hạ phải chiều ý nó mà trổi lên từ đầu đến cuối một lần. Đại quan muốn tại hạ nhường đường cũng chẳng khó gì, đợi tại hạ thổi hết mười bài rồi sẽ nghiêng mình cung kính tiễn chân.” Nói xong, Dư Ngư Đồng bèn đưa kim địch lên môi, ngón tay máy động. Tiếng sáo thanh thoát lập tức nổi lên, thấu suốt tầng mây, phủ khắp bốn phương.
Tăng Đồ Nam thấy rõ ràng chuyện này không sao lo liệu được cho ổn thỏa, bèn cử thương lên múa một vòng, bắn ra mấy đóa thương hoa, rồi xuất chiêu Ô Long Xuất Động đâm thẳng vào tim Dư Ngư Đồng. Rõ ràng họ Dư đang dốc hết tinh thần vào tiếng sáo, thế mà khi mũi thương gần đâm trúng thì chàng đột nhiên đưa tay trái chụp lấy, kim địch bên tay phải gõ lên cán thương một cái.
Tăng Đồ Nam nắm không chặt, để thương rơi xuống đất. Hắn kinh hãi giật ngựa lùi lại mấy bước, đoạt trong tay quân lính một cây đao khác, lại chém tới. Đánh nhau chừng bảy tám hiệp, Dư Ngư Đồng tìm được chỗ sơ hở, chọc kim địch vào vai phải của hắn. Thế là đơn đao của Tăng Đồ Nam cũng tuột khỏi tay.
Dư Ngư Đồng lên tiếng: “Mười bài ca của tại hạ hôm nay đại quan bắt buộc phải nghe. Suốt đời tại hạ hận nhất là bị phá rối cho cụt hứng. Không chịu nghe thổi sáo tức là xem thường tại hạ. Người xưa có nói: “Bẻ cành liễu làm roi quất ngựa. Cầm sáo thổi buồn chết người nghe.” Nhưng thổi sáo là chuyện của tại hạ, còn nghe có buồn đến chết hay không lại là chuyện của đại quan, chắc người xưa chỉ nói phóng đại thế thôi.” Nói xong, họ Dư lại đưa kim địch lên môi, tiếp tục thổi.
Tăng Đồ Nam vẫy tay hô lớn: “Tất cả xông lên bắt thằng lỏi này!” Hết thảy binh lính cùng quát tháo ào tới.
Tưởng Tứ Cân tung người nhảy xuống ngựa, cầm thiết trượng ra chiêu Loạn Thảo Tầm Xà, nhẹ nhàng khều vào chân tên lính Thanh chạy đầu. Hắn kêu lên một tiếng, ngã xuống ngửa mặt nhìn trời. Thiết trượng của Tưởng Tứ Cân lại xuất chiêu Phiên Thân Thượng Quyển Trực hất lên, hắn biến thành một con diều bị đứt dây bay tới lưng chưng trời, rồi “Mẹ ơi!” một tiếng, té nhào vào đám đông phía sau.
Tưởng Tứ Cân bước lên hai bước, lại tiếp tục làm như thế. Thiết trượng như một cái xẻng hốt từng tên lính Thanh hất ngược ra sau. Bọn quân lính đều sợ đến vỡ mật, quay lưng bỏ chạy. Tăng Đồ Nam vung roi ngựa vừa mắng vừa quất loạn xạ, nhưng không sao quản thúc được chúng nữa.
Tưởng Tứ Cân đang cao hứng thì đột nhiên một cỗ xe lớn vén màn lên, một lằn sáng vọt ra. Khi đến gần, y nhìn rõ đó là mũi nhọn của một thanh kiếm đang đâm thẳng đến trước ngực mình. Tưởng Tứ Cân bèn múa thiết trượng sử chiêu Đao Bạt Thùy Dương hất kiếm ra. Đối phương không đợi trượng bay tới, thanh kiếm đã biến sang chiêu khác, đánh xuống hạ bàn. Tưởng Tứ Cân vội quét ngang thiết trượng. Người kia thấy cây trượng này rất nặng, không dám ngang nhiên đón đỡ, phải lùi mấy bước.
Tưởng Tứ Cân định thần lại nhìn, thì ra đối phương là một cô gái mặc áo đỏ. Họ Tưởng là người vùng bắc Quảng Đông, nói giọng địa phương rất nặng, ở biên cương tây bắc này ít ai nghe hiểu nên hiếm khi nói chuyện. Bởi thế y không nói năng gì, cứ múa thiết trượng đấu với cô gái này. Được mấy chiêu thấy kiếm pháp nàng tinh diệu, họ Tưởng không nén nổi phải âm thầm khen ngợi.
Tưởng Tứ Cân đã thấy kỳ lạ trong lòng, Dư Ngư Đồng đứng cạnh lại càng ngơ ngẩn xuất thần. Lúc này chàng quên mất chuyện thổi sáo của mình, chỉ chú ý nhìn kiếm pháp của thiếu nữ. Nàng thi triển trường kiếm mềm mại như những dải tơ lụa phất phơ, uyển chuyển như mặt nước sông gờn gợn, kiếm ý nhẹ nhàng liên tục, đúng là Nhu Vân kiếm thuật chính truyền của bổn môn.
Cô gái áo đỏ tỉ đấu với Tưởng Tứ Cân, một người lợi về chiêu thức, một người lợi về sức mạnh, nhất thời chưa phân thắng bại. Dư Ngư Đồng vội tung người tới, đưa kim địch ngăn cả cả kiếm lẫn trượng, hô lớn: “Dừng tay!” Thiếu nữ và Tưởng Tứ Cân đều lùi một bước. Lúc này Tăng Đồ Nam đã lấy một cây thương khác cưỡi ngựa xông lên trợ chiến, còn bọn lính Thanh thì đứng xa xa hò hét trợ oai.
Thiếu nữ áo đỏ vẫy tay bảo Tăng Đồ Nam lùi lại. Dư Ngư Đồng bèn hỏi: “Xin hỏi cao danh quí tánh của cô nương. Không hiểu tôn sư là vị tiền bối nào?”
Thiếu nữ kia mỉm cười đáp: “Huynh hỏi ta ư? Ta không nói đâu. Nhưng ta lại biết huynh đi không sửa họ ngồi chẳng sửa tên, họ Dư tên là Ngư Đồng. Ngư là con cá, Đồng trong câu “quân tử hòa nhi bất đồng”, không phải chữ Đồng như đồng nát sắt vụn. Huynh là hàng nhỏ xíu trong Hồng Hoa Hội, ngồi tận ghế thứ mười bốn.” Dư Ngư Đồng và Tưởng Tứ Cân cùng kinh hãi nhìn nhau, sắc mặt thay đổi. Tăng Đồ Nam nhìn thấy tiểu thư đột nhiên mỉm cười với hai tên gian dương đại đạo kia, lại càng kinh ngạc dị thường. Ba nam nhân cứ ngẩn ra nhìn một cô thiếu nữ đang cười khúc khích, không biết phải nói gì mới hợp lý.
Lúc đó đột nhiên có tiếng vó ngựa gấp rút nổi lên, bọn lính nhà Thanh vội vã né ra nhường lối. Sáu con ngựa tốt từ hướng tây chạy tới, người đi đầu thần sắc thanh tao, râu tóc bạc phơ, chính là bậc danh túc phái Võ Đang, Lục Phi Thanh. Dư Ngư Đồng cùng thiếu nữ kia không hẹn mà cùng tiến lên phía trước, một người gọi sư thúc, một người kêu sư phụ, đều xuống ngựa thi lễ.
Thì ra thiếu nữ áo đỏ đó chính là nữ đệ tử của Lục Phi Thanh. Năm người phía sau Lục Phi Thanh là Chu Trọng Anh, Chu Ỷ, Từ Thiên Hoằng, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương.
Hôm trước Lạc Băng nửa đêm ra đi, sáng mai Chu Ỷ thức dậy trách móc Từ Thiên Hoằng: “Hồng Hoa Hội các vị đúng là quen xem thường người khác. Sao huynh không đi chung với Tứ tẩu của huynh luôn đi?”
Từ Thiên Hoằng cố gắng tìm lời giải thích. Chu Trọng Anh bèn nói: “Vợ chồng họ còn trẻ, tình cảm nồng nàn chỉ muốn gặp mặt sớm hơn, nóng ruột đi trước một bước cũng là hợp tình hợp lý.” Ông còn quay lại mắng Chu Ỷ có thế mà cũng nặng lời.
Từ Thiên Hoằng nói: “Một mình Tứ tẩu lên đường cô thân độc mã, mà bọn ưng trảo cũng từng giáp mặt cô ấy rồi, chỉ biết hy vọng dọc đường đừng xảy ra chuyện gì nữa.”
Chu Trọng Anh nói: “Đúng lắm! Tốt nhất là chúng ta ráng đuổi kịp cô ấy. Trần đương gia đã sắp xếp ta lãnh đạo nhóm này, nếu cô ấy gặp chuyện rủi gì thì mặt mũi ta biết giấu vào đâu?” Thế là ba người thúc ngựa chạy nhanh, đến giờ ngọ hôm sau đã đuổi kịp Lục Phi Thanh và hai người họ Mạnh họ An.
Sáu người đều lo lắng cho Lạc Băng nên hết sức mà đi, dọc đường không trễ nãi chút nào. Lúc họ gặp Chương Tấn ở lại chặn đường ở ngôi miếu cổ, thì cả nhóm Trần Gia Lạc vừa rời khỏi đó không lâu. Nghe nói Văn Thái Lai đang ở phía trước, họ càng giục ngựa chạy nhanh hơn mà đuổi.
Lục Phi Thanh hỏi: “Nguyên Chỉ! Sao con lại ở đây với Dư huynh và Tưởng huynh?”
Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp: “Vị Dư huynh này bắt con gái nhà người ta phải nghe thổi mười bài sáo, nào là Long Ngâm, nào là Phụng Minh gì gì đó. Con không thích nghe, mà huynh ấy cứ chận đường không cho con đi. Sư phụ xem thử chuyện này có hợp đạo lý hay không?”
Dư Ngư Đồng nghe Lý Nguyên Chỉ mách với Lục Phi Thanh, không nén nổi phải đỏ mặt lên, nghĩ bụng: “Đúng là ta có chặn đường bắt người khác nghe sáo, nhưng đâu phải ta chặn một mình cô nương?”
Chu Ỷ nghe Lý Nguyên Chỉ nói xong, tức giận liếc qua Từ Thiên Hoằng một cái thầm nghĩ: “Thì ra Hồng Hoa Hội các ngươi chẳng có bao nhiêu người tốt.”
Lục Phi Thanh bảo Lý Nguyên Chỉ: “Chuyện xảy ra phía trước rất nguy hiểm, con ở lại đây đừng đi, đừng để phu nhân phải kinh hãi. Giải quyết chuyện đó xong, sư phụ sẽ quay lại đây tìm con.” Lý Nguyên Chỉ nghe nói phía trước có náo nhiệt mà sư phụ lại không cho đi, bèn dẫu môi ra vẻ bất mãn. Lục Phi Thanh mặc kệ nàng, cứ gọi mọi người lên ngựa chạy về hướng đông.
* * *
Trần Gia Lạc lãnh đạo quần hùng đuổi gấp bọn quan sai, chừng bốn năm dặm đã thấy một dãy người ngựa đi thành đường thẳng ở vùng bình nguyên hoang dã phía trước. Vô Trần đang đi đầu, bèn rút kiếm hô lớn: “Đuổi theo!”
Chạy hơn một dặm nữa, bóng người phía trước càng ngày càng lớn. Con ngựa trắng của Lạc Băng đang cưỡi sải vó như bay, chỉ chớp mắt đã đuổi kịp quân địch. Nàng tuốt song đao ra cầm sẵn, định vượt lên trước rồi sẽ quay lại chặn đường.
Đột nhiên phía trước vang lên những tiếng ầm ầm, mấy chục con lạc đà và ngựa từ phía đông xung phong về phía tây. Chuyện này thật sự bất ngờ, Lạc Băng bèn kéo dây cương dừng ngựa lại, xem thử đoàn lạc đà và ngựa này là của ai. Lúc này bọn quan sai cũng dừng hẳn lại, có người lớn tiếng quát hỏi, nhưng đội lạc đà phía trước mặt càng chạy càng nhanh, trường đao lấp loáng xông thẳng vào giữa đội ngũ quan sai, hai bên bắt đầu hỗn chiến.
Lạc Băng kinh ngạc, không hiểu ở đâu xuất hiện đội viện quân này. Chẳng bao lâu nhóm người Trần Gia Lạc từ phía sau cũng chạy tới, cùng đứng theo dõi trận chiến.
Rồi lại có một con ngựa tốt từ phía trước xuất hiện, vòng qua tránh trận hỗn chiến, phi thẳng đến chỗ quần hùng Hồng Hoa Hội. Gần tới nơi thì nhận ra chính là Vệ Xuân Hoa.
Chàng chạy tới trước mặt Trần Gia Lạc, lớn tiếng nói: “Tổng đà chủ! Đệ và Thập Nhị Lang giữ ở cửa thung lũng, bị nhóm người Hồi này xung phong qua mặt, không sao ngăn cản nổi. Đệ vội vã chạy về bẩm báo, nào ngờ họ lại đánh nhau với bọn ưng trảo kia.”
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Đạo trưởng nhị ca, Triệu tam ca, Thường ngũ ca! Bốn vị tiến lên đoạt lấy cỗ xe chở Tứ ca. Còn tất cả khoan hãy ra tay, xem rõ rồi tính tiếp.” Bốn người Vô Trần đồng thanh vâng dạ, ruổi ngựa xông lên phía trước.
Hai tên bộ khoái lớn tiếng hỏi: “Bằng hữu phe nào vậy?” Triệu Bán Sơn không đáp, phóng ngay hai mũi cương tiêu. Một trúng yết hầu, một trúng bụng dưới, hai tên bộ khoái lập tức nhào xuống ngựa.
Triệu Bán Sơn mang ngoại hiệu là Như Lai có ngàn tay, vì miệng ông lúc nào cũng cười, khuôn mặt hiền từ, tấm lòng nhân hậu, chiều chuộng người khác vô cùng, nhưng trên người ông lại toàn là ám khí đủ loại, phóng ra vừa nhanh vừa chính xác. Hai bàn tay ông chỉ trong khoảnh khắc là có thể phát xạ rất nhiều loại ám khí, người đứng kế bên cũng đừng hòng nhìn thấy rõ ràng. Phen này Hồng Hoa Hội đem toàn lực cứu người, không ngờ người lập công đầu lại là Thiên Tí Như Lai xưa nay khiêm tốn bình hòa.
Bốn người phi ngựa đến gần cỗ xe lớn, thí phía trước có một người Hồi đầu quấn vải trắng đưa thương đâm tới. Vô Trần nghiêng người tránh né, không đánh trả mà chạy thẳng tới cỗ xe. Một tiêu sư múa đao chém đến, Vô Trần vung kiếm ra gạt. Lưỡi kiếm nhanh như điện chớp, thuận theo thế đao mà lướt tới đối phương, cắt đứt bốn ngón tay. Rồi ông lại ra chiêu Thuận Thủy Thôi Chu, kiếm đâm trúng vào tim tên tiêu sư đó.
Vô Trần nghe thấy sau gáy có tiếng gió rít lên, biết có địch nhưng không thèm quay đầu lại. Tay phải ông đảo kiếm chém ra sau, từ dưới hớt lên. Thanh kiếm chém trúng tên địch từ dưới nách phải qua tới vai trái, thế là tên bộ khoái muốn ám toán sau lưng đã bị chém thành hai khúc, máu tươi bắn ra tung tóe.
Triệu Bán Sơn và Thường Thị song hiệp đứng sau nhìn thấy rõ ràng bèn hoan hô vang dội. Bọn người tiêu cục nhìn thấy kiếm pháp của Vô Trần đều kinh hãi, hai người phe mình sử chưa hết một chiêu đã bị giết rồi. Chúng sợ tới té đái vãi phân, run giọng la lên: “Hỏng bét, chuồn thôi!”
Thường thị song hiệp chạy gần tới cỗ xe lớn, thì bên cạnh lại có bảy tám người Hồi chạy ra, múa trường đao cản trở. Song Hiệp bèn thi triển phi trảo giao đấu với họ.
Một tên tiêu sư lùn tịt vội kéo con lừa đang kéo cỗ xe lớn đó quay đầu lại, vung roi quất mạnh. Cỗ xe chạy nhanh, còn hắn thì phi ngựa chạy theo sau. Tên này chính là Đồng Triệu Hòa.
Triệu Bán Sơn và Vô Trần rượt đuổi theo. Triệu Bán Sơn lấy ra một cục phi hoàng thạch, ném trúng gáy Đồng Triệu Hòa nghe bốp một tiếng. Máu tươi chảy ra, hắn la quang quác rồi rút trủy thủ trong ống giày ra, đâm vào mông con lừa kéo xe một nhát. Nó bị đau càng chạy nhanh hơn.
Triệu Bán Sơn tung người nhảy lên lưng ngựa của Đồng Triệu Hòa, chưa hạ xuống thì tay phải đã nắm chặt cổ tay của hắn, thuận tay vung lên vẽ thành một vòng trong không trung, ném ra phía trước. Đồng Triệu Hòa té ngay lên cổ con lừa đang kéo cỗ xe lớn. Hắn thét lên be be rồi ôm chặt lấy đầu lừa. Con lừa giật mình hoảng sợ, mắt lại bị che kín, bèn hí ầm ĩ nhảy loạn xạ, cuối cùng quay đầu trở lại.
Vô Trần và Triệu Bán Sơn đã tới nơi, nắm dây giữ con lừa lại. Triệu Bán Sơn túm lấy lưng Đồng Triệu Hòa ném xuống vệ đường. Vô Trần hô lớn: “Tam đệ! Tuyệt kỹ dùng người để làm ám khí chỉ có đệ mới sử dụng được.” Hai người này không biết Đồng Triệu Hòa, chỉ lo cứu Văn Thái Lai nên không để ý đến hắn nữa.
Đồng Triệu Hòa lăn mấy vòng dưới đất rồi lọt vào một bụi cỏ. Hắn hoảng sợ quá, lén bò vào bãi cỏ mà nấp.
Triệu Bán Sơn vạch màn xe ra nhìn vào. Trong xe tối đen không nhìn rõ mặt, ông chỉ thấy một người đang ngồi trong xe, người có phủ chăn, bèn mừng rỡ nói: “Tứ đệ! Là đệ phải không? Chúng ta đến cứu đệ đây.” Người kia rên lên mấy tiếng.
Vô Trần bảo: “Tam đệ đưa Tứ đệ về trước, để ta đi tìm họ Trương tính nợ đã.” Ông chưa nói xong đã tung ngựa chạy ra giữa đường chặn đám đông. Bọn tiêu sư và công sai đang chạy về hướng đông, đột nhiên thấy Vô Trần quay ngựa lại, bèn la hét om sòm rồi chạy trốn về hướng tây.
Vô Trần quát lớn: “Trương Triệu Trọng! Ngươi vác mặt ra đây cho ta.” La mấy tiếng không có ai trả lời, ông bèn xông vào giữa đám đông đối phương. Bọn công sai và tiêu sư thấy ông chạy tới, hồn vía bay hết lên trời, xô nhay chạy tán loạn.
Quần hùng Hồng Hoa Hội thấy Triệu Bán Sơn dẫn cỗ xe lớn trở về đều rất vui mừng, nhanh chân chạy lên đón tiếp. Dĩ nhiên Lạc Băng thúc ngựa chạy tới đầu tiên, dừng lại trước cỗ xe, phi thân xuống ngựa, vén màn xe ra, run rẩy kêu lên: “Đại ca!” Nhưng trong xe không có tiếng trả lời, Lạc Băng kinh hãi nhảy vào trong xe mở tấm chăn ra. Lúc này quần hùng Hồng Hoa Hội đã chạy đến nơi, vẫn ngồi trên ngựa mà đứng xung quanh nhìn vào.
Thường Thị Song Hiệp thấy cứu người đã xong, bèn không ham chiến với đám người Hồi lai lịch bất minh nữa. Hai huynh đệ huýt một tiếng sáo, thi triển phi trảo đánh dạt địch thủ ra ngoài, rồi quay đầu ngựa chạy về. Nhóm người Hồi đó hình như chỉ lo việc cản trở người khác đến gần, nhìn thấy hai người rút lui bèn không đuổi theo, chạy trở lại nhóm người đang hỗn chiến.
Vô Trần đạo trưởng vẫn đang tung hoành giữa đám đông. Một tên chạy hiệu chậm chân một chút, bị ông chém trúng vai té nhào dưới đất. Vô Trần không muốn hại mạng, bèn giật ngựa nhảy qua người hắn, lại lớn tiếng hô: “Hoả Thủ Phán Quan đâu rồi? Mau ra đây gặp ta.”
Đột nhiên có một con ngựa xông lên trước, trên ngựa có một người Hồi thân hình cao lớn, mặt mày râu ria rậm rạp. Y quát hỏi: “Đạo nhân này từ đâu đến đây mà la hét loạn xa vậy?” Vô Trần xuất chiêu đâm ngay vào mặt, người Hồi bèn đưa mã đao lên cản trở. Vô Trần lại ra hai kiếm liên hoàn, đâm bên trái bên phải nhanh như chớp giật. Cánh tay của người Hồi kia chưa kịp hạ xuống kịp, thanh mã đao vẫn còn trên đỉnh đầu, mà kiếm khí đã ràn rạt rát da, bao trùm cả thân thể. Y bối rối hết đường chống đỡ, vội nghiêng người ngã xuống một bên lưng ngựa, chân phải móc lấy cái để chân, cả thân thể luồn xuống dưới bụng ngựa mới né được hai chiêu kiếm đó.
Y hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh đầy người, may mà cưỡi ngựa rất giỏi nên có thể núp dưới bụng ngựa mà giục ngựa chạy trốn. Vô Trần mỉm cười nói: “Thoát được ba chiêu kiếm của ta, coi như hảo hán rồi. Tha mạng cho ngươi!” Rồi ông lại xông vào giữa đám đông.
Lúc Thường Thị Song Hiệp từ hướng đông trở về, phía tây cũng có tám con ngựa chạy tới, đó là nhóm người Chu Trọng Anh và Lục Phi Thanh. Hai nhóm từ hai phía còn chưa đến gần cỗ xe lớn, Lạc Băng đã lôi trong xe ra một người quăng xuống đất, quát hỏi: “Văn đại gia ở đâu?” Nàng chưa hỏi dứt câu, đôi dòng lệ đã tuôn rơi.
Mọi người đều thấy người này ốm yếu già nua, ăn mặc theo kiểu công sai, tay phải bó lại treo dưới cổ. Lạc Băng nhận ra hắn chính là Hồ Quốc Đống, bộ đầu của Bắc Kinh. Lúc ở trong khách sạn đã bị Văn Thái Lai đánh gãy cánh tay phải. Nàng đá hắn một cước, định hỏi nữa nhưng không nói được ra lời.
Vệ Xuân Hoa vung câu chỉ vào mắt phải của hắn, gằn giọng: “Văn gia ở đâu? Ngươi mà không nói thì ta lập tức lấy cái bóng đèn này trước.”
Hồ Quốc Đống ra vẻ giận dữ đáp: “Thẳng lỏi Trương Triệu Trọng kia đã áp tải Văn… Văn gia đi xa rồi. Tên khốn đó bảo ta ngồi trong xe, ta còn tưởng rằng hắn có lòng tốt cho mình nghỉ dưỡng thương, nào ngờ đó là kế Kim Thiền Thoát Xác. Hắn thí cái mạng già này, còn chính mình thì đi trước đến Bắc Kinh lãnh thưởng. Con mẹ nó, cái đồ lòng lang dạ sói như vậy chắc chắn không được chết toàn thây.” Hắn thóa mạ Trương Triệu Trọng nặng lời, có lẽ vì mong thoát chết.
Trần Gia Lạc bảo Thường Thị Song Hiệp: “Ngũ ca, Lục ca! Lúc này vấn đề quan trọng nhất là không biết tên gian tặc Trương Triệu Trọng đã đưa Tứ ca đến đâu. Dù sao thì từ Lương Châu về đến Trung Nguyên, nhất định phải qua Ô Sào Lãnh. Hai vị hãy đi suốt đêm, cố gắng đuổi kịp, đến đó trước để chặn đường. Nếu không chặn nổi thì ít ra cũng điều tra được chúng đi hướng nào, để đại quân theo sau biết đường mà truy đuổi.” Thường Thị Song Hiệp gật đầu nhận lệnh rời khỏi đó ngay.
Bây giờ mọi người đã dồn vào một chỗ, Trần Gia Lạc hạ lệnh: “Tất cả chia hai ngả bao vây, bắt hết bọn chó săn ưng trảo và bọn nhãi tiêu cục, không để thoát một tên nào.”
Thế là Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Tiền Vọng Thôi, Tâm Nghiễn từ phía nam tiến lên, còn Chu Trọng Anh, Lục Phi Thanh, Từ Thiên Hoằng, Lạc Băng, Dư Ngư Đồng, Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương từ phía bắc dồn xuống, giống như hai gọng kìm sắt bao vây toàn bộ quan quân, bọn tiêu cục và những người Hồi ở giữa.
Nhóm người Hồi vẫn đang đánh nhau kịch liệt với bọn công sai và tiêu sư. Triệu Bán Sơn vung tay một cái, phóng ra ba loại ám khí. Lập tức có hai tên bộ khoái và một gã tiêu sư té nhào xuống ngựa.
Nhóm người Hồi đã phân biệt được địch ta, bèn hò reo vang dội. Người Hồi râu rậm khi nãy bèn vụt ngựa chạy ra trước, lớn tiếng hô hoán: “Không biết hảo hán lộ nào ra tay trợ giúp, tại hạ xin cảm ơn trước một câu.” Y nói tiếng Hán không rõ ràng lắm, nói dứt câu liền vung đao lên chào.
Trần Gia Lạc cũng chắp tay thi lễ, rồi ngoảnh lại hô: “Các vị huynh đệ, cùng tiến lên đi.” Quần hùng đồng thanh dạ một tiếng, xông vào vung đao múa kiếm.
Chỉ một lúc là số hảo thủ trong đám công sai và tiêu sư không chết cũng bị thương gần hết, chỉ còn lại mấy tên tầm thường hết đường chống đối. Chúng quì hết xuống đất, lớn tiếng xin tha, xưng hô loạn xạ, nào là gia gia, nào là tổ tông. Tâm Nghiễn vui vẻ nói với Lạc Băng: “Văn tứ phu nhân dự đoán như thần, quả nhiên bây giờ chúng chịu gọi tiểu nhân là gia gia rồi.” Trong lòng Lạc Băng đang rất buồn rầu nên lời nói của Tâm Nghiễn không lọt vào tai.
Đột nhiên Vô Trần đạo trưởng chạy ra khỏi đám đông la lên: “Úi chà! Các vị đến đây mà xem, kiếm pháp của con bé này thật không phải thứ thường.” Ai cũng biết Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm của Vô Trần đạo trưởng hạng nhất giang hồ, người trong võ lâm đỡ được ba chiêu của ông không phải là nhiều. Thế mà ông lại tán dương kiếm pháp của người khác, mà lại là một cô gái nên mọi người đều nổi dạ hiếu kỳ tới gần coi thử.
Người Hồi râu rậm lớn tiếng nói mấy câu tiếng Hồi, bảo những người Hồi né ra nhường đường, cùng quần hùng đứng thành một vòng bao vây. Vô Trần đạo trưởng nói với Trần Gia Lạc: “Tổng đà chủ! Thằng lỏi kia sử dụng Ngũ Hành Luân cũng không phải tệ.”
Trần Gia Lạc nhìn vào giữa vòng người, thấy kiếm khí tung hoành, ánh kim của Ngũ Hành Luân chớp nháy. Một cô gái áo vàng đang tỉ đấu kịch liệt với một hán tử rất nhanh nhẹn. Lục Phi Thanh đi đến cạnh Trần Gia Lạc, khẽ nói: “Cô gái áo vàng này tên là Hoắc Thanh Đồng, là đệ tử của Thiên Sơn Song Ưng. Còn người sử dụng Ngũ Hành Luân là Diêm Thế Chương trong Quan Đông Lục Ma.”
Trần Gia Lạc nghe vậy bỗng động tâm. Chàng biết Thiên Sơn Song Ưng gồm Thốc Cưu Trần Chính Đức và Tuyết Điêu Quan Minh Mai, là võ lâm tiền bối vùng Hồi Cương. Hai nhân vật này cùng với sư phụ chàng là Thiên Trì Quái Hiệp xưa nay vốn có hiềm khích, tuy không phải là kẻ thù nhưng cố gắng tránh mặt nhau. Từ lâu chàng cũng đã nghe nói Tam Phân kiếm thuật của Thiên Sơn phái tự lập thành một nhà riêng biệt, bèn lưu tâm quan sát.
Trần Gia Lạc định thần xem kỹ, thấy cô gái áo vàng sử kiếm tấn công rất lợi hại, nhưng Diêm Thế Chương thi triển song luân cũng gắng gượng chống đỡ được. Nhóm người Hồi hò hét trợ oai, có mấy người dần dần nhích tới gần, lăm le muốn nhảy vào vòng đấu.
Diêm Thế Chương múa tít cặp vòng, xuất chiêu Chỉ Thiên Hoạch Địa ép Hoắc Thanh Đồng thu trường kiếm về biến chiêu, rồi lùi lại hai bước hét lớn: “Khoan đã! Ta có một câu muốn nói!”
Nhóm người Hồi đã ép lên phía trước, hoa binh khí lên chói mắt. Tình hình lúc này rõ ràng là Diêm Thế Chương sắp bị loạn đao phân thây. Họ Diêm lập tức chuyển hết song luân qua tay trái, tay phải quờ ra sau lưng lấy cái bao vải màu đỏ ra, cầm giơ cao trước mặt, hô lớn: “Nếu các ngươi muốn ỷ số đông thủ thắng, thì ta phải băm nát món đồ trong cái bao này trước.” Mép của Ngũ Hành Luân chiếu ra những tia bạch quang lấp lánh, sắc bén vô cùng. Nếu hắn dùng song luân chém xuống thì dĩ nhiên cái bao vải nát bươm ra lập tức. Mọi người Hồi đều giật mình thối lui mấy bước.
Diêm Thế Chương thấy mình vây chặt xung quanh, chỉ dựa vào võ nghệ thì khó mà thoát được.Hắn bèn kêu lên: “Các ngươi người nhiều thế mạnh, muốn lấy mạng ta thì dễ như trở bàn tay, nhưng như vậy thì Diêm mỗ chết cũng không phục. Nếu có ai đơn đả độc đấu thắng được song luân, ta sẽ kính trọng là anh hùng hảo hán mà giao cái bọc này ra. Không thì ta quyết cùng sống chết với món vật trong bao, các ngươi đừng hòng lấy được.”
Người đầu tiên nóng mặt là Chu Ỷ. Nàng nhảy vào vòng chiến, vung thanh nhạn linh đao hét lớn: “Được lắm! Chúng ta cứ thử một phen.”
Chu Trọng Anh vội vã đưa tay kéo con gái lại bảo: “Trước mắt có rất nhiều bá bá thúc thúc, toàn là anh hùng hảo hán, cần gì con nha đầu này bêu cái xấu của mình ra?”
Hoắc Thanh Đồng vẫy tay về phía Chu Ỷ, lên tiếng: “Thịnh tình của vị tỷ tỷ này, muội xin đa tạ trước.”
Chu Ỷ vội đáp: “Không có gì.”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Muội đánh trận đầu trước, nếu không thắng nổi sẽ xin tỷ tỷ trợ giúp một tay.”
Chu Ỷ đáp: “Cô nương cứ yên tâm. Ta thấy cô là người rất tốt, nhất định sẽ giúp cô.”
Chu Trọng Anh khẽ bảo: “Nha đầu ngốc ơi, võ công của người ta giỏi hơn con nhiều, con không thấy hay sao?”
Lục Phi Thanh nói xen vào: “Trong cái bọc vải đỏ đó là một thứ bảo bối của người Hồi tộc, cô ấy nhất định phải đích thân đoạt lấy.”
Chu Ỷ gật đầu nói: “Thế là phải rồi.”
Chu Trọng Anh xua tay lắc đầu, vừa buồn cười vừa cảm động. Ông là nhân vật hàng đầu võ lâm, dĩ nhiên võ nghệ tinh diệu hơn người. Chỉ vì tính tình ông hào sảng phóng khoáng, không thích gò ép dạy dỗ nên công phu của đám đồ đệ cùng con gái đều kém ông một khoảng rất xa. Nhưng cô nương bảo bối này của ông lại có tấm lòng nhiệt huyết, gặp chuyện gì cũng muốn xông xáo tiến lên phía trước, bất kể có liên quan đến mình hay không.
Diêm Thế Chương cột lại bao vải ra sau lưng, cất tiếng hỏi: “Người nào lên trước, đã thương lượng xong chưa?”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Vẫn là ta muốn tiếp mấy cao chiêu Ngũ Hành Luân của ngươi.”
Diêm Thế Chương hỏi: “Sau khi phân thắng bại thì sao?”
Hoắc Thanh Đồng đáp: “Bất luận thắng bại ra sao, ngươi cũng phải để kinh thư ở lại. Nhưng nếu ngươi thắng thì được đi, nếu thua thì nằm lại ở đây.”
Nàng nói dứt câu, liền nghiêng kiếm đâm thẳng vào vai trái hắn. Diêm Thế Chương thi triển song luân tiếp đón. Song luân của hắn chiếu theo ngũ hành bát quái, tám lần tám sáu mươi bốn chiêu, chuyên môn đoạt lấy binh khí của địch, phòng thủ rất nghiêm mật. Chớp nhoáng hai người đã đánh được bảy tám chiêu.
Trần Gia Lạc vẫy tay gọi Dư Ngư Đồng bước tới. Trần Gia Lạc khẽ bảo: “Thập tứ đệ! Đệ hãy đi trước điều tra tung tích của Tứ ca, số đông sẽ đi sau.” Dư Ngư Đồng dạ một tiếng, lùi ra khỏi vòng người. Chàng quay đầu nhìn về phía Lạc Băng, thấy nàng cúi đầu thờ thẫn, bất giác muốn tới an ủi mấy câu. Nhưng chàng suy nghĩ một lúc, rồi quay đầu vỗ ngựa đi ngay.
Hoắc Thanh Đồng múa tít trường kiếm, chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, kiếm chưa tới nơi đã biến đổi chiêu thức. Diêm Thế Chương muốn dùng song luôn phong tỏa trường kiếm của nàng nhưng không sao khóa được.
Vô Trần đạo trưởng, Lục Phi Thanh, Triệu Bán Sơn đều là hảo thủ quen sử kiếm, đứng bên chỉ trỏ bàn luận. Vô Trần đạo trưởng nói: “Chiêu này đâm vào nách phải nhanh thì có nhanh nhưng chưa đủ dứt khoát.”
Triệu Bán Sơn mỉm cười nói: “Cô bé này làm sao so được với mấy chục năm công lực của huynh? Lúc huynh bằng tuổi với cô ấy bây giờ, thủ pháp có đẹp bằng người ta hay không?”
Vô Trần đạo trưởng cũng cười: “Con bé này thật là khả ái, ai thấy cũng muốn giúp đỡ.”
Trần Gia Lạc thấy kiếm pháp của Hoắc Thanh Đồng tinh xảo tuyệt diệu, trong lòng cũng âm thầm khen ngợi.
Đấu thêm hai mươi mấy chiêu nữa, hai má Hoắc Thanh Đồng hơi đỏ lên, trán lấm tấm mồ hôi, nhưng thần sắc vẫn ổn định, khí lực vẫn đầy đủ, thân pháp cùng bộ pháp hoàn toàn không loạn. Rồi kiếm pháp đột nhiên thay đổi, nàng đã dùng tới tuyệt kỹ Hải Thị Thần Lâu của phái Thiên Sơn. Kiếm phong từ mũi kiếm vọt ra, kiếm chiêu nửa hư nửa thật, tưởng là thật mà lại là hư, tưởng là hư nhưng lại là thật. Quần hùng đều nín thở ngưng thần nhìn không chớp mắt.
Trong quầng kim quang của Ngũ Hành Luân bỗng chớp lên những tia bạch quang của trường kiếm. Diêm Thế Chương bị trúng kiếm vào cổ tay phải, lạc giọng la lên một tiếng, hữu luân tuột tay bay lên trời. Mọi người không hẹn mà cùng hoan hô vang dội.
Diêm Thế Chương tung người nhảy ra ngoaì một trượng nói: “Ta chịu thua rồi. Kinh thư giao cho ngươi.” Rồi hắn xoay tay tháo bao vải màu đỏ xuống. Hoắc Thanh Đồng mặt mày rạng rỡ bước lên mấy bước, tra kiếm vào vỏ, hai tay đón lấy quyển kinh Coran mà bộ tộc mình coi là thánh vật.
Sắc mặt của Diêm Thế Chương đột nhiên lạnh lại, rồi hắn hét lên: “Đỡ lấy!” Từ bàn tay phải vừa đưa kinh, đột nhiên vọt ra ba mũi phi tiêu bắn đến ngực Hoắc Thanh Đồng. Diễn biến xảy ra đột ngột, Hoắc Thanh Đồng chỉ còn cách nhào ngửa ra sau, dùng thân pháp Thiết Bản Kiều, ba mũi phi tiêu bay sát sạt trên mặt.
Diêm Thế Chương đã ra tay không dừng được nữa. Lại thêm ba mũi phi tiêu nữa bắn ra như nỏ liên châu. Lúc này Hoắc Thanh Đồng đang nằm ngửa, hai mắt nhìn trời, không sao thấy được đại nạn sắp đến. Mọi người xung quanh vừa kinh hãi vừa giận dữ, tới tấp rút binh khí ra.
Hoắc Thanh Đồng vừa bật người ngồi dậy đã nghe thấy ba tiếng leng keng, ba mũi phi tiêu đã bị ám kình bắn rơi ngay kế bên mình. Nàng biết nếu không có người ra tay giải cứu thì mình đã bị ba mũi phi tiêu này ghim vào yếu huyệt, bất giác đầy mình toát mồ hôi lạnh, lại tuốt kiếm ra.
Triệu Bán Sơn mỉm cười. Ông đã lấy ra ba hạt thiết bồ đề, chuẩn bị cứu viện, nhưng thấy có người ra tay trước, bèn cất trở lại vào túi đựng ám khí.
Diêm Thế Chương phóng người tới, hung hãn như một con cọp điên, Ngũ Hành Luân chém từ trên đầu xuống. Hoắc Thanh Đồng không kịp biến chiêu, chỉ còn cách đưa kiếm lên chống đỡ. Song luân ép xuống, trường kiếm chống lên, hai bên duy trì như thế một lúc. Khí lực của Diêm Thế Chương vốn đã mạnh hơn, lại có thế đè từ trên xuống nên song luân cứ như dần dần ép sát vào đầu Hoắc Thanh Đồng. Những răng nhọn trên mép song luân đã chạm tới cọng lông vũ màu xanh trên mũ của mỹ nhân.
Quần hùng đang muốn xông vào, đột nhiên một tia sáng xanh nháy động, tay trái của Hoắc Thanh Đồng rút bên hông ra một thanh đoản kiếm, cắm ngay vào giữa bụng Diêm Thế Chương nghe phụp một tiếng. Họ Diêm gào lên một tiếng, ngã ngửa ra sau. Mọi người lại hoan hô vang dội.
Hoắc Thanh Đồng tháo bao vải đỏ trên lưng Diêm Thế Chương ra. Người Hồi râu rậm tiến lên khen ngợi: “Con gái ta giỏi lắm.”
Hoắc Thanh Đồng dùng cả hai tay đưa bao vải lên, mỉm cười gọi: “Gia gia!” Người Hồi này chính là cha của nàng tên gọi Mộc Trác Luân, cũng dùng cả hai tay nhận lấy. Mọi người Hồi đều bước lên một bước, tiếng reo hò như sấm dậy.
Lúc Hoắc Thanh Đồng cúi xuống rút trủy thủ ra thì Diêm Thế Chương đã tắt thở từ lâu rồi. Đột nhiên nàng thấy một thiếu niên chừng mười lăm mười sáu tuổi nhảy xuống ngựa, nhặt ba hạt tròn màu trắng trên mặt đất, rồi cung kính trao cho một thanh niên. Chàng đón lấy cất vào trong bọc.
Hoắc Thanh Đồng nghĩ bụng: “Thì ra chàng chính là người vừa đánh rớt ám khí của gian tặc, cứu được mạng ta.” Nàng không khỏi nhìn lâu hơn một chút, thấy chàng thanh niên này phong thái như ngọc, ánh mắt như sao, trường bào phơ phất nhẹ nhàng, trong tay cầm quạt xếp, thần khí phiêu du nhàn nhã. Ánh mắt hai người chạm nhau, người đó mỉm cười với nàng một cái.
Hoắc Thanh Đồng đỏ mặt cúi đầu, đi đến chỗ phụ thân, ghé tai nói mấy câu gì đó. Mộc Trác Luân gật đầu, bước tới trước ngựa của chàng thanh niên kia, khom người thi lễ. Thanh niên đó cũng vội xuống ngựa đáp lễ. Mộc Trác Luân nói: “May mà được công tử ra tay cứu mạng cho tiểu nữ, ta cảm tạ vô cùng. Xin hỏi tôn tánh đại danh.”
Thanh niên đó chính là Trần Gia Lạc. Chàng lịch sự đáp: “Vãn bối họ Trần, tên là Gia Lạc. Bọn tại hạ có một huynh đệ kết nghĩa đã bị bọn ưng trảo triều đình và đám người tiêu cục này bắt đi nên mọi người phải đến đây giải cứu, nhưng lại không thấy huynh đệ của mình ở đâu. Thánh vật của quí tộc đã đoạt lại được rồi, thật là chuyện đáng mừng.”
Mộc Trác Luân bèn gọi Hoắc Thanh Đồng và con trai là Hoắc A Y đến bái tạ. Trần Gia Lạc thấy Hoắc A Y mặt vuông tai lớn, cũng râu ria đầy mặt, còn Hoắc Thanh Đồng thì thân hình cân đối, tươi tắn như đóa hoa xuân, diễm lệ như ánh chiều tà. Lúc nãy chàng chỉ chú ý nhìn kiếm pháp của nàng, bây giờ đối diện nhìn nhau thì không ngờ trên đời có người đẹp thế này, lập tức tim đập rộn lên.
Hoắc Thanh Đồng khẽ lên tiếng: “Nếu không nhờ công tử trượng nghĩa cứu giúp, tiểu nữ đã bị ám toán rồi. Đại ơn đại đức này, vĩnh viễn không dám quên.”
Trần Gia Lạc đáp: “Từ lâu đã nghe danh hai vị tiền bối Thiên Sơn Song Ưng có tuyệt kỹ Tam Phân kiếm thuật. Hôm nay được thấy thần kỹ của cô nương, thật là danh bất hư truyền. Vừa rồi tại hạ có phần vô lễ, được cô nương không trách đã là muôn phần may mắn rồi, không cần nói lời cảm tạ.”
Chu Ỷ nghe hai người nói chuyện toàn lời khách sáo, cảm thấy chán tai bèn xen vào nói với Hoắc Thanh Đồng: “Kiếm pháp của cô thì giỏi hơn ta, nhưng có một việc ta phải dạy cho cô.”
Hoắc Thanh Đồng vội đáp: “Xin tỷ tỷ chỉ giáo.”
Chu Ỷ nói: “Tên địch thủ ban nãy của cô thật là gian xảo, cô quá tin hắn nên suýt nữa trúng phải độc thủ. Phần nhiều nam nhân đều quỷ kế đa đoan, từ nay về sau cô phải cẩn thận hơn.”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Tỷ tỷ nói đúng lắm. Nếu không nhờ Trần công tử trượng nghĩa cứu giúp thì thật không dám nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra.”
Chu Ỷ nói: “Trần công tử nào? À, thì ra cô nói tới tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội. À này, Trần… Trần đại ca! Vừa rồi huynh dùng thứ ám khí gì để đánh rớt phi tiêu vậy, cho ta xem thử có được hay không?”
Trần Gia Lạc lấy trong bọc ra ba quân cờ rồi nói: “Chỉ là mấy quân cờ vây thôi. Ta phóng không giỏi lắm, Chu cô nương đừng có chê cười.”
Chu Ỷ nói: “Ai dám cười huynh? Bản lãnh của huynh không tệ, dọc đường gia gia cứ mãi khen huynh thì ra cũng có phần đúng.”
Hoắc Thanh Đồng nghe Chu Ỷ nói chàng thanh niên công tử này là tổng đà chủ của bang hội gì đó, cũng hơi ngạc nhiên, bèn nhỏ nhẹ bàn bạc với phụ thân. Mộc Trác Luân gật đầu lia lịa khen phải, rồi quay người lại bước lên mấy bước, nói với Trần Gia Lạc: “Được các vị anh hùng ra tay trợ giúp, việc lớn của chúng ta đã xong rồi. Nhưng nghe công tử nói có một vị anh hùng chưa cứu ra được, ta muốn gửi tiểu nhi và tiểu nữ cùng vài người bạn để công tử sao khiến góp sức cứu người. Võ nghệ của chúng không được khá lắm, chắc chắn không thể giao cho việc lớn, nhưng cũng có thể góp công chạy đi chạy lại đưa đón tin tức cho quí vị. Không hiểu công tử có chịu nhận hay không?”
Trần Gia Lạc mừng rỡ đáp: “Như thế thì bọn tại hạ phải thập phần cảm kích.” Chàng bèn giới thiệu cho quần hùng biết nhau.
Mộc Trác Luân nói với Vô Trần đạo trưởng: “Kiếm pháp của đạo trưởng nhanh vô kể, bình sinh ta chưa từng gặp. May mà đạo trưởng kiếm hạ lưu tình, nếu không thì… ha ha…”
Vô Trần đạo trưởng mỉm cười đáp: “Không biết nên đắc tội, xin đừng trách!”
Người Hồi xưa nay rất tôn kính anh hùng, vừa rồi thấy Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, Trần Gia Lạc, Thường Thị Song Hiệp hiển lộ thân thủ đều rất khâm phục, bây giờ tới tấp kéo đến thi lễ và tỏ lòng kính mến.
Trong lúc nói chuyện, tiếng vó ngựa ở phía tây lại gấp rút vang lên. Một người phóng tới gần rồi phi thân xuống ngựa. Thì ra đó là một thiếu niên tuấn tú, hướng về Lục Phi Thanh mà chào: “Sư phụ!” Đây chính là Lý Nguyên Chỉ, bây giờ đã mặc trang phục nam nhân.
Nàng nhìn tứ phía mà không thấy Dư Ngư Đồng đâu, chợt thấy Hoắc Thanh Đồng bèn chạy tới nắm tay thân mật mà nói: “Đêm đó cô bỏ đi đâu, khiến ta nhớ cô đến chết được. Kinh thư đã lấy lại được chưa?”
Hoắc Thanh Đồng vui vẻ đáp: “Vừa đoạt lại được, xem này.” Rồi nàng chỉ vào cái bao vải đỏ đang đeo trên lưng Hoắc A Y.
Lý Nguyên Chỉ suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Đã mở ra thử chưa, kinh thư có trong đó hay không?”
Hoắc Thanh Đồng đáp: “Bọn muội phải bái lạy thánh A-la trước để cảm tạ thiên ân, rồi mới được mở thánh kinh ra.”
Lý Nguyên Chỉ bảo: “Tốt nhất là nên mở ra xem thử.”
Mộc Trác Luân nghe thế bỗng nổi dạ nghi ngờ, liền mở cái bao ra. Thì ra trong bao chỉ có một xấp giấy vụn, đâu phải thánh kinh của họ? Mọi người Hồi nhìn thấy, không ai không tức giận đến phát điên lên. Hoắc A Y xách một tên chạy hiệu của tiêu cục đang nằm dưới đất lên, thuật tay tát cho một phát rồi quát hỏi: “Kinh thư ở đâu?”
Tên chạy hiệu này bật khóc, vừa đưa tay xoa lên bên má bị đánh sưng vù vừa nói: “Đây là việc… do tiêu đầu làm… tiểu nhân không biết…” Hắn chỉ về phía Tiền Chính Luân đang ôm đầu ngồi một góc.
Trong lúc hỗn chiến họ Tiền đã bị thương nhẹ mấy chỗ, vừa thấy Tái Vĩnh Minh bỏ mạng là hắn lập tức đầu hàng. Hoắc A Y kéo hắn tới, hỏi: “Ông bạn muốn chết hay muốn sống?” Tiền Chính Luân nhắm nghiền mắt, không đáp. Hoắc A Y lửa giận bốc tới đầu vung tay định đánh. Nhưng Hoắc Thanh Đồng đưa tay khẽ kéo chéo áo của y một cái, bàn tay vừa đưa lên bỗng từ từ hạ xuống.
Hoắc A Y tuy tính tình nóng nảy, nhưng đối với muội muội vừa nể phục vừa yêu thương. Em gái lớn là Thanh Đồng, không những giỏi võ công hơn huynh trưởng mà còn túc trí đa mưu, từng đoán trúng nhiều việc. Lần này đi về hướng đông đoạt kinh, mọi việc đều do nàng bày kế hoạch. Còn đứa em út là Kha Tư Lệ thì tuổi còn nhỏ lại không biết võ công nên lần này không đi theo.
Hoắc Thanh Đồng hỏi Lý Nguyên Chỉ: “Sao tỷ biết trong bao này không có kinh thư?”
Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp: “Lần trước ta đã lừa chúng một lần, nên đoán là chúng đã học mót được chiêu đó rồi.”
Mộc Trác Luân quát tháo một hồi, nhưng Tiền Chính Luân trước sau chỉ nói là kinh sách đã bị một tiêu sư khác mang đi trước. Mộc Trác Luân bán tín bán nghi, hạ lệnh cho tay chân lùng xét tất cả các bao trên lưng lừa ngựa, nhưng hoàn toàn chẳng thấy đâu. Ông lo rằng thánh vật của bộ tộc mình bị hủy hoại mất rồi, bất giác chau mày phiền não.
Bây giờ mọi người mới hiểu tại sao Diêm Thế Chương đã thua mà quyết liều mạng, không chịu giao cái bao đó ra. Thì ra hắn cũng biết trong bao không có kinh sách, khi mọi người phát hiện thì mạng mình không sao giữ được.
Bên này thì Lý Nguyên Chỉ đang hỏi chuyện sư phụ Lục Phi Thanh. Họ Lục bảo: “Những chuyện này sau này hãy nói, bây giờ con quay trở lại đi, kẻo mẫu thân lo lắng. Những việc ở đây, con tuyệt đối không được kể với người khác.”
Lý Nguyên Chỉ đáp: “Đương nhiên là con không nói. Sư phụ tưởng con là một đứa bé không biết gì hay sao? Nhưng những người này là ai vậy, sư phụ giới thiệu cho con biết có được không?”
Lục Phi Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Ta nghĩ là chưa cần thiết. Con rời khỏi đây đi.” Ông nghĩ Lý Nguyên Chỉ là con gái quan đề đốc, đường lối khác hẳn quần hào, không nên để họ quen nhau làm gì.
Lý Nguyên Chỉ dẩu môi ra nói: “Con biết sư phụ không thương đồ đệ bằng sư điệt Kim Địch Tú Tài gì gì đó. Thôi con đi đây.” Nàng cúi chào rồi nhảy lên ngựa, chạy đến chỗ Hoắc Thanh Đồng bèn cúi xuống vỗ vai nàng, lại còn kề miệng vào sát tai người đẹp thì thầm gì đó. Hoắc Thanh Đồng cười khúc khích, rồi Lý Nguyên Chỉ ra roi giật cương phi về phía tây.
Tất cả những chuyện xảy ra, Trần Gia Lạc đều thấy cả. Chàng nhìn Hoắc Thanh Đồng thân mật với thiếu niên tuấn tú kia, bỗng dưng cảm thấy như bị đánh một quyền rất nặng vào giữa ngực. Trong lòng chàng có gì đó cứ trào ngược lên, mặt nóng miệng khô, cứ đứng đó mà ngơ ngẩn xuất thần.
Từ Thiên Hoằng đi đến cạnh chàng, cất tiếng gọi: “Tổng đà chủ! Chúng ta phải thương lượng một chút, bàn việc đi cứu Tứ ca.”
Trần Gia Lạc giật mình định thần lại nói: “Đúng vậy! Tâm Nghiễn, đệ cưỡi con ngựa của Văn phu nhân đi mời Chương thập gia tới đây.” Tâm Nghiễn nhận lệnh đi ngay.
Trần Gia Lạc lại bảo: “Cửu ca! Huynh đến cửa thung lũng này gặp Thập Nhị Lang, rồi đi dò xét hành tung bọn ưng trảo xem Tứ ca đi về hướng nào, đêm nay phải về báo tin.” Vệ Xuân Hoa cũng tuân lệnh rời khỏi đó.
Trần Gia Lạc nói với mọi người: “Đêm nay chúng ta ngủ lại đây để chờ tin tức của Tứ ca, sáng sớm mai tiếp tục lên đường.”
Hôm nay mọi người phải phi ngựa gấp nửa ngày nên ai cũng vừa đói vừa mệt. Mộc Trác Luân chỉ huy nhóm người Hồi dựng lều ở bên đường, chia cho quần hùng Hồng Hoa Hội mấy chiếc lều, lại nấu thịt bò thịt dê đem qua mời.
Mọi người ăn xong, Trần Gia Lạc bèn bắt Hồ Quốc Đống ra tra xét tỉ mỉ. Hồ Quốc Đồng cứ luôn mồm thóa mạ Trương Triệu Trọng, kể rằng Văn Thái Lai từ trước vẫn ngồi trên cỗ xe lớn. Về sau Trương Triệu Trọng phát hiện tung tích địch nhân, đoán sẽ có người đến cướp xe, nên bảo Hồ Quốc Đống ngồi vào trong cỗ xe này để thí mạng.
Trần Gia Lạc hỏi thêm mấy tên nữa, có cả Tiền Chính Luân nhưng hoàn toàn không có kết quả gì. Từ Thiên Hoằng dẫn bọn bị bắt ra khỏi lều, rồi quay vào khẽ nói với Trần Gia Lạc: “Tổng đà chủ! Tên họ Tiền này mục quang rất sáng, thần sắc lại gian xảo. Chúng ta hãy thử một phen.” Trần Gia Lạc gật đầu khen phải, rồi hai người hạ giọng bàn bạc với nhau.
Trời đã tối hẳn mà Vệ Xuân Hoa cùng Thạch Song Anh vẫn chưa trở về báo tin, mọi người đều lo lắng. Từ Thiên Hoằng nói: “Không chừng hai huynh ấy đã phát hiện ra tung tích của Tứ ca, đang theo dõi. Nếu thế thì tốt quá.” Quần hùng nghe vậy đỡ lo, bàn tán một lúc rồi vào ngủ trong lều. Bọn quan sai và tiêu đầu đều bị trói chặt chân tay để ở ngoài lều, canh đầu thì Tưởng Tứ Cân canh giữ còn canh sau thì Từ Thiên Hoằng canh giữ.
Trăng đã lên lưng chừng trời, Từ Thiên Hoằng ra gọi Tưởng Tứ Cân vào lều ngủ. Chàng đi rảo quanh một vòng, rồi nằm xuống, lấy chăn phủ kín đầu. Chàng cố ý nằm cạnh Tiền Chính Luân, lúc nằm xuống còn đưa chân đạp mạnh hắn một cái mạnh. Họ Tiền đau điếng tỉnh giấc ngay. Hắn đang muốn ngủ tiếp thì bỗng nghe Từ Thiên Hoằng phát ra tiếng ngáy, hình như ngủ say lắm rồi.
Tiền Chính Luân mừng thầm trong bụng, thử nhúc nhích hai tay. Sợi dây trói hai cổ tay hắn buộc không chặt lắm, chỉ giãy vài cái đã rút tay ra được. Tiền Chính Luân cố thở nhẹ, đợi một lúc thì nghe thấy tiếng ngáy của Từ Thiên Hoằng càng lúc càng lớn hơn. Hắn bèn nhẹ nhàng tháo sợi dây trói chân ra, xoa xoa cho bớt tê chân rồi từ từ đứng dậy, rón rén ra ngoài. Hắn vòng ra sau lều, tháo dây cương một con ngựa đang buộc ở gốc cây, dặt đi một bước lại dừng một bước.
Đi đến đường lớn, hắn định thần lắng nghe, nhưng xung quanh hoàn toàn không có chút âm thanh nào, lại càng mừng rỡ. Đi càng xa mấy gian lều, hắn càng sải bước nhanh hơn, tiến đến cỗ xe lớn Hồ Quốc Đống nằm khi nãy. Lúc này con lừa kéo xe đã được thả ra, cỗ xe đổ nghiêng ngả dưới đất.
Trong gian lều phía tây đột nhiên có một người chạy ra đó chính là Chu Ỷ. Nàng cùng Hoắc Thanh Đồng và Lạc Băng ngủ chung trong một chiếc lều. Hai người kia đều tâm sự năn5g nề, trằn trọc mãi không sao ngủ được, còn Chu Ỷ vừa nằm xuống đã ngủ ngon lành. Trong cơn mơ nàng thấy mình rơi xuống một cái hố sâu, giãy giụa thế nào cũng không lên được, rồi lại thấy Từ Thiên Hoằng đứng trên miệng hố nhìn xuống mỉm cười trêu ghẹo nàng. Chu Ỷ nổi giận đang muốn la mắng, đột nhiên Từ Thiên Hoằng nhảy vào trong hố ôm chặt lấy nàng, há miệng cắn vào má nàng, đau không sao chịu nổi.
Chu Ỷ giật mình tỉnh giấc, cả người ướt đẫm mồ hôi, rồi đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng động. Nàng định thần một chút rồi vén lều lên xem, thấy xa xa có một người lén lút đi về phía đường cái, bèn cầm đơn đao ra ngoài lều đuổi theo. Đuổi được mấy bước, nàng toan la lên báo động thì đột nhiên sau lưng có một người âm thầm phóng tới, bịt miệng nàng lại.
Chu Ỷ giật mình xoay tay đâm lại một đao. Người kia nhanh tay chụp lấy cổ tay nàng, đẩy đao ra rồi khẽ nói: “Đừng la! Chu cô nương là ta đây.” Chu Ỷ nhận ra thanh âm Từ Thiên Hoằng nên không dùng đao nữa mà chuyển sang đấm đá. Nàng vung tả quyền, dùng hết sức đánh ngay vào ngực phải của chàng. Từ Thiên Hoằng phần thì đau thật, phần thì giả vờ hự một tiếng rồi té ngửa ra sau.
Chu Ỷ kinh hãi, vội cúi xuống hỏi nhỏ: “Huynh… không, không, ai bảo huynh bịt miệng ta? Có người đang chạy trốn, huynh có thấy không?”
Từ Thiên Hoằng hạ giọng đáp: “Đừng lên tiếng! Chúng ta theo dõi hắn.” Hai người nằm sát dưới đất từ từ bò tới, thấy rõ Tiền Chính Luân đang lôi một cái ghế ngồi trên xe ra. Rồi lại có tiếng lách cách, hình như hắn nạy một tấm ván sàn xe lên, lấy một cái hộp gỗ ra nhét vào trong người, rồi chuẩn bị lên ngựa.
Từ Thiên Hoằng vội vã đẩy sau lưng Chu Ỷ một cái, hô lớn: “Cản hắn lại!” Chu Ỷ phi thân nhảy vọt tới. Tiền Chính Luân chỉ mới đặt chân trái lên vòng để chân, nghe có tiếng người nên hốt hoảng không kịp trèo lên, chân phải đá một cái vào mông ngựa. Con ngựa bị đau, chồm tới một cái xa mấy trượng. Chu Ỷ đề khí đuổi theo gấp rút.
Tiền Chính Luân lật người ngồi lên lưng ngựa vung tay phải ra hét lớn: “Xem tiêu!” Chu Ỷ vội dừng bước, nghiên người né tránh phi tiêu. Nào ngờ đó chỉ là hù dọa, ám khí trong người hắn đã bị lục soát tước hết cả rồi.
Chu Ỷ vừa chậm chân một chút, con ngựa đã chạy thêm một quãng xa, ai cũng thấy nàng không thể đuổi kịp. Tiền Chính Luân khoái chí cười ha hả, nhưng tiếng cười chưa dứt đã lảo đảo người rồi lăn từ trên ngựa xuống.
Chu Ỷ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, chạy vội tới đạp chân lên lưng hắn, lại chĩa mũi đao vào gáy. Từ Thiên Hoằng cũng đã tới nơi, lên tiếng: “Cô xem thử cái hộp trong người của hắn là thứ gì?”
Chu Ỷ mở hộp gỗ ra, thấy bên trong là một xấp da dê rất dày được đóng lại như quyển sách, bèn giở thử xem. Dưới ánh trăng, nàng thấy văn tự rất kỳ lạ, không hiểu chữ nào, bèn nói: “Đây là những thứ cổ quái của Hồng Hoa Hội các vị, làm sao ta biết được.” Rồi nàng tiện tay ném cho Từ Thiên Hoằng.
Từ Thiên Hoằng đón lấy, vừa liếc qua đã mừng rỡ la lên: “Chu cô nương! Công lao của cô nương không phải nhỏ, đây có lẽ là kinh sách của người Hồi tộc. Chúng ta mau đi tìm tổng đà chủ đi.”
Chu Ỷ hỏi: “Thật không?” Nàng vừa nói xong, Trần Gia Lạc đã bước tới.
Chu Ỷ kinh ngạc hỏi: “Ủa, Trần đại ca! Sao huynh cũng đến đây? Huynh xem đây là thứ gì vậy?”
Từ Thiên Hoằng đưa hộp gỗ qua, Trần Gia Lạc đón lấy xem thử rồi nói: “Đây chắc chắn là bộ kinh sách ấy rồi. May mà cô cản trở được tên này. Mấy chục nam nhân bọn ta cũng chưa sánh kịp với cô.”
Chu Ỷ được hai người khen ngợi, vui sướng trong lòng. Nàng muốn nói mấy câu khiêm tốn nhưng không biết phải nói thế nào, hồi lâu mới hỏi Từ Thiên Hoằng: “Vừa rồi ta đánh huynh có đau không?”
Từ Thiên Hoằng cười thành tiếng rồi đáp: “Công lực của Chu cô nương không phải tầm thường.”
Chu Ỷ nói: “Đó là do huynh không đàng hoàng.” Nàng nói xong, quay lại bảo Tiền Chính Luân: “Đứng dậy, vào trong lều.”
Chu Ỷ lỏng chân, lấy đao ra khỏi gáy hắn, nhưng Tiền Chính Luân vẫn không đứng dậy. Nàng giận dữ la lên: “Ta đâu có đả thương ngươi? Giả vờ chết làm chi?” Rồi nàng co chân tặng hắn một cước, thế mà họ Tiền vẫn không nhúch nhích.
Trần Gia Lạc đưa tay vỗ dưới nách hắn một cái, rồi quát: “Đứng dậy!” Lúc này Tiền Chính Luân mới rên hừ hừ lồm cồm bò dậy.
Chu Ỷ ngẩn ra một chút, dường như nghĩ đến điều gì đó. Nàng nhìn tứ phía rồi nhặt dưới đất lên một quân cờ màu trắng, đưa cho Trần Gia Lạc rồi nói: “Đây đúng là quân cờ của huynh. Thì ra các vị hùa nhau đến đây để phỉnh phờ ta. Hừ hừ… Từ lâu ta đã biết các vị không phải là người tốt.”
Trần Gia Lạc mỉm cười lên tiếng: “Ai rảnh mà hùa nhau để dụ dỗ cô? Chính cô nghe thấy tiếng động của tên này mới đuổi ra tới đây. Hơn nữa, nếu không bị cô cản trở thì hắn đâu có hoảng sợ? Trong lòng hắn không hoảng sợ thì đương nhiên có thể né khỏi quân cờ của ta. Hắn lại đang cưỡi ngựa, làm sao chúng ta đuổi kịp được?”
Chu Ỷ nghe chàng nói rất có lý, lại vui vẻ nói: “Thế thì ba người chúng ta đều có công cả.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Công của cô là lớn nhất.”
Chu Ỷ khẽ bảo: “Chuyện ta đánh huynh một quyền đừng nói cho phụ thân ta biết.”
Từ Thiên Hoằng bật cười rồi đáp: “Nói thì có sao đâu?”
Chu Ỷ giận dữ đáp: “Nếu huynh nói thì ta sẽ vĩnh viễn không nhìn đến huynh nữa.” Từ Thiên Hoằng mỉm cười không đáp.
Chàng cùng Trần Gia Lạc sắp đặt mưu kế này, đã thông báo cho quần hùng là nếu ban đêm nghe thấy tiếng động thì không cần phải chạy ra. Nếu không thì với bản lãnh như Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, chẳng lẽ nghe thấy tiếng vó ngựa mà không cảnh giác?
Ba người áp giải Tiền Chính Luân, cầm theo kinh sách đi đến lều của Mộc Trác Luân. Người Hồi canh gác chạy vào thông báo, Mộc Trác Luân vội vàng mặc áo ra ngoài lều đón họ vào.
Trần Gia Lạc kể lại sự việc, rồi giao kinh sách cho Mộc Trác Luân. Họ Mộc cả mừng hai tay đỡ lấy, thấy đúng là quyển kinh Coran chép tay mà bộ tộc ông coi là thánh vật. Tin mừng lan đi nhanh chóng, chỉ một lúc sau, Hoắc A Y, Hoắc Thanh Đồng và tất cả người Hồi đều vào hết trong lều, ai cũng chắp tay cúi đầu cảm tạ ba người.
Mộc Trác Luân mở kinh sách ra, lớn tiếng đọc: “Thánh A-la nhân từ tối cao là chủ của mọi lời tán tụng, là chủ tối nhân tối thiện của toàn thế giới, là chủ của ngày phán xét. Chúng con tôn sùng ngài, cầu xin ngài phù trợ, cầu xin ngài hướng dẫn chúng con đi đúng con đường được ngài phù hộ, không lạc vào đường bị khiển trách, không lạc vào đường si mê ngu tối.” Hết thảy người Hồi đều nằm rạp dưới đất cầu nguyện chân thành cảm tạ thánh A-la.
Cầu nguyện xong, Mộc Trác Luân nói với Trần Gia Lạc: “Trần đương gia! Huynh đã đoạt lại thánh vật của bộ tộc chúng ta từ tay bọn gian tặc này. Đại ân không dám nói lời cảm tạ, nhưng từ nay về sau nếu Trần đương gia có gì cần sai khiến thì hãy nhắn tin. Dù cách xa thiên sơn vạn thủy chúng ta cũng đến, dù phải vào nước sôi lửa bỏng chúng ta cũng quyết không bao giờ từ chối.”
Trần Gia Lạc chắp tay cảm tạ. Mộc Trác Luân lại nói: “Ngày mai chúng ta sẽ đưa thánh kinh này trở về bộ tộc. Tiểu nhi và tiểu nữ ở lại đây, nhờ Trần đương gia hướng dẫn chỉ huy. Sau khi cứu được Văn tứ gia, hai đứa mới trở về. Nếu khi đó Trần đương gia cùng các vị anh hùng rảnh rỗi xin đến chỗ chúng ta ở lại mấy ngày, để người trong bộ tộc được chiêm ngưỡng phong thái của hào kiệt thời nay.”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Bây giờ thánh vật đã trở về chủ cũ, đó là nhờ quí tộc đã được chân thần A-la phù hộ, cùng hồng phước của lão anh hùng. Anh em tại hạ và Chu cô nương chỉ may mà được việc, thật không dám nói là công đức. Xin lệnh lang và lệnh ái cứ đi cùng lão anh hùng về bộ tộc. Phen này bọn tại hạ cảm kích hảo ý của lão anh hùng còn chưa hết nói gì đến việc kinh động đại giá của lệnh lang cùng lệnh ái.”
Trần Gia Lạc vừa nói dứt câu, ba cha con Mộc Trác Luân đều kinh ngạc nghĩ thầm: “Chiều mới khen là phải, sao đêm đã đột nhiên đổi ý?” Mộc Trác Luân nói thêm mấy lần, Trần Gia Lạc cũng chỉ từ tạ. Hoắc Thanh Đồng khẽ gọi gia gia, nhè nhẹ lắc đầu tỏ ý không cần nói nữa.
Lúc này quần hùng Hồng Hoa Hội đều đã vào chúc mừng Mộc Trác Luân. Người quá đông, lều không chứa hết nên đa số người Hồi phải lui ra ngoài.
Từ Thiên Hoằng thấy Chu Trọng Anh đi vào, bèn lên tiếng: “Phen này đoạt lại thánh kinh, công lao của Chu cô nương lớn nhất.” Chu Trọng Anh đắc ý trong lòng, nhìn con gái của mình tỏ ý khen ngợi.
Từ Thiên Hoằng đột nhiên đưa tay đè lên ngực phải, rên mấy tiếng. Mọi người đều chăm chú nhìn chàng. Chu Ỷ kinh hãi trong lòng, thầm nghĩ: “Ta vừa đánh hắn một quyền. Nếu hắn kể ra trước mặt mọi người thì ta biết làm sao?”
Chu Trọng Anh vội hỏi: “Sao thế?”
Từ Thiên Hoằng im lặng không đáp, một lúc lâu mới mỉm cười nói: “Không sao cả.”
Chu Ỷ toát mồ hôi trán, nghĩ bụng: “Hay lắm! Thì ra tên tiểu tử này tìm cách trêu ghẹo người ta.”
Mọi người cáo từ ra ngoài, về ngủ tiếp. Sáng sớm hôm sau, Mộc Trác Luân dẫn toàn bộ người Hồi đến từ biệt quần hào. Tuy rằng hai bên mới chỉ gặp mặt nửa ngày, nhưng qua trận chiến với kẻ thù chung, mọi người đã hiểu nhau, tình cảm nồng nàn.
Chu Ỷ nắm tay Hoắc Thanh Đồng, hỏi Trần Gia Lạc: “Cô nương này rất tốt, võ công lại cao cường. Người ta muốn giúp mình đi cứu Văn tứ gia, sao huynh không đồng ý?”
Trần Gia Lạc nhất thời không biết nói sao. Hoắc Thanh Đồng bèn lên tiếng: “Trần công tử có hảo ý, không muốn bọn muội phải mạo hiểm. Muội rời gia đình đã lâu, nhớ mẫu thân và muội tử lắm rồi, cũng muốn về sớm một chút. Chu tỷ tỷ, chúng ta hẹn gặp lại sau.” Nói xong, nàng giật tay về, cho ngựa quay đầu chạy thẳng.
Chu Ỷ nói với Trần Gia Lạc: “Thật không hiểu tại sao huynh không muốn cô ấy đi cùng. Huynh xem, nước mắt người ta sắp chảy ra rồi. Huynh xem thường người ta, đắc tội với người ta… thôi thì mặc kệ huynh.” Trần Gia Lạc cứ nhìn theo Hoắc Thanh Đồng không nói tiếng nào.
Hoắc Thanh Đồng chạy một quãng xa, đột nhiên giật ngựa quay người lại. Nàng thấy Trần Gia Lạc đang ngơ ngẩn nhìn mình, bèn cắn chặt môi rồi vẫy chàng tới.
Trần Gia Lạc thấy mỹ nhân gọi mình, không tự chủ được, mơ hồ bước tới. Hoắc Thanh Đồng nhảy xuống ngựa. Hai người đối diện cứ thẫn thờ im lặng mãi không ai nói gì.
Hoắc Thanh Đồng định thần lại, lên tiếng: “Tính mạng của muội đã nhờ công tử cứu giúp. Thánh vật của bộ tộc cũng nhờ công tử đoạt về. Bất luận công tử đối xử thế nào, muội cũng không oán trách gì công tử.” Nàng tháo thanh đoản kiếm đeo bên hông ra, nói tiếp: “Thanh đoản kiếm này là của phụ thân tặng cho muội. Nghe nói bên trong có ẩn chứa một bí mật cực lớn, mấy trăm năm nay truyền đời đồn đại, nhưng mãi đến nay vẫn chưa có ai tìm ra được. Hôm nay tạm biệt, không biết bao giờ mới gặp lại nhau, xin công tử giữ lấy thanh đoản kiếm này. Công tử thông minh tuyệt thế, không chừng sẽ phát hiện ra chỗ ảo diệu bên trong.”
Nàng nói xong, hai tay đua thanh đoản kiếm này lên. Trần Gia Lạc cũng đón lấy bằng cả hai tay, nói: “Kiếm là vật quý, vốn không dám nhận. Nhưng cô nương đã tặng, nếu từ chối thì sợ không cung kính chỉ còn cách hổ thẹn mà nhận lấy.”
Hoắc Thanh Đồng thấy chàng thần sắc rối bời cũng thấy khó chịu trong lòng. Nàng ngần ngừ một chút rồi nói: “Huynh không muốn muội đi cùng cứu Văn tứ gia vì lý do gì, muội đã hiểu rồi. Hôm qua huynh thấy chàng thiếu niên kia thân mật với muội nên coi thường muội. Thật ra y là đệ tử của Lục lão tiền bối Lục Phi Thanh. Y là người như thế nào huynh có thể đi hỏi Lục lão tiền bối. Lúc đó huynh sẽ biết muội có phải là một cô gái tự trọng hay không.” Nàng nói xong, lập tức phi thân lên ngựa, ra roi chạy thẳng.
Trần Gia Lạc được nghe mấy câu tình ý nồng nàn, không nén nổi cả tâm lẫn ý cùng rung động. Nhưng chàng lập tức nghĩ đến dáng vẻ của thiếu niên kia dung mạo tuấn tú, môi đỏ răng trắng, rõ ràng đẹp đẽ hơn mình rất nhiều. Trước nay Trần Gia Lạc vẫn tự phụ mình văn võ toàn tài, gia thế dung mạo đều xuất chúng, hiếm người sánh được. Bây giờ chàng phải tự so sánh với chàng thiếu niên kia, bất giác hơi thẹn trong lòng.
Phen này đại quân đi cứu Văn Thái Lai, mắt thấy thành công mà lại chẳng được tích sự gì. Trần Gia Lạc vừa nhận chức thống soái đã xuất quân bất lợi, dĩ nhiên trong lòng ấu trĩ. Cũng có lúc chàng muốn chạy theo, nói chuyện thêm với người đẹp mấy câu, nhưng chỉ bước được hai bước đã dừng chân lại.
Trần Gia Lạc tay cầm đoản kiếm, ngơ ngác xuất thần nhìn Hoắc Thanh Đồng mỗi lúc một xa, rồi bộ tộc người Hồi khuất dần trong hoang mạc nơi trời đất gặp nhau. Chàng bỗng mềm lòng, định chạy đi hỏi Lục Phi Thanh về đệ tử của ông, nhưng nhiều suy nghĩ trỗi dậy trong đầu: “Về việc kết hôn với người Hán, luật lệ của người Hồi xưa nay rất nghiêm ngặt. Giả tỉ như cô nương Hoắc Thanh Đồng có hảo ý với ta đi nữa, thì cũng bắt ta qui theo Hồi giáo làm người Hồi tộc, không thì hai bên chỉ vướng vít tơ tình, cuối cùng chẳng có kết quả gì. Như thế là tự mình chuốc lấy phiền não về mình. Ta đối với chân thần của Hồi giáo vốn không thật lòng tin kính, nếu vì Hoắc cô nương mà vờ vịt tôn sùng thì rõ ràng là thiếu thành ý. Đó không phải là hành động của người chính nhân quân tử, không khỏi bị thiên hạ khinh rẻ chê cười.”
Chàng đang nghĩ ngợi thì bỗng nhìn thấy phía trước có một con ngựa chạy tới nhanh như khói tỏa, càng đến gần càng có vẻ nhanh hơn, rồi nhận ra Tâm Nghiễn đã trở về.
Tâm Nghiễn nhìn thấy Trần Gia Lạc liền vội xuống ngựa từ xa, dắt ngựa tới vui mừng nói: “Thiếu gia! Chương thập gia đang đi sau. Chúng ta vừa bắt được một người.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Bắt được ai thế?”
Tâm Nghiễn kể: “Tiểu nhân cưỡi con bạch mã chạy đến tòa cổ miếu, thấy Chương thập gia đang tranh cãi với một người. Tiểu nhân lên tiếng gọi, Thập gia bèn bảo người kia đợi một chút. Không ngờ hắn vừa nhìn thấy bạch mã đã mắng tiểu nhân là quân trộm ngựa, rồi vung dao lên chém. Tiểu nhân và Thập gia phải đánh trả. Công phu của hắn rất khá, nhưng không có binh khí nên phải cầm một con dao bổ củi, dĩ nhiên không thuận tay. Được hơn hai mươi hiệp thì Thập gia dùng lang nha bổng đánh văng mất con dao chẻ củi, hắn phải dùng tay không đấu với hai người. Sau đó, tiểu nhân cứ nhặt đá dưới đất ném tới. Hắn lo tránh né, nên sơ ý trúng một bổng của Thập gia, rồi bị bắt.”
Trần Gia Lạc cười hỏi: “Người đó tên là gì?”
Tâm Nghiễn đáp: “Tiểu nhân có hỏi nhưng hắn không chịu nói ra. Thập gia thấy hắn sử toàn chiêu thức của Thiết Tỳ Bà, đoán hắn là người nhà họ Hàn ở Lạc Dương.”
Không bao lâu Chương Tấn cũng đến nơi, xuống ngựa thi lễ với Trần Gia Lạc, tiện tay xách một người trên lưng ngựa bỏ xuống. Hắn đã bị cột tay chân phải nằm yên một chỗ, nhưng thần thái rất ngạo mạn.
Trần Gia Lạc hỏi: “Chắc các hạ là người Hàn gia ở Lạc Dương. Xin cho biết tôn tánh đại danh.” Hắn ngửa mặt nhìn trời không đáp.
Trần Gia Lạc bảo: “Tâm Nghiễn, ngươi cởi trói cho đại gia đi.” Tâm Nghiễn bèn rút dao cắt đứt sợi dây trói, rồi cầm dao đứng sau lưng hắn để phòng biến cố.
Trần Gia Lạc nói: “Hai người đã đắc tội với các hạ, xin đừng trách. Mời vào trong lều nói chuyện.”
Bốn người cùng vào trong lều. Trần Gia Lạc và người kia ngồi xuống đất. Quần hùng lục tục kéo vào, đều đứng sau lưng Trần Gia Lạc.
Lúc thấy Lạc Băng đi vào, đột nhiên hắn nổi giận nhảy chồm lên, chỉ mặt nàng thóa mạ: “Con mẹ ăn cắp ngựa kia! Còn chưa chịu trả ngựa cho ta ư? Không trả thì lão gia quyết không chịu bỏ qua.”
Lạc Băng cười nói: “Ông là Hàn Văn Xung đại gia có phải không? Ta đổi ngựa cho ông, lại còn bù thêm một thỏi vàng. Thế là ông phát tài rồi, làm gì phải nổi nóng nữa.”
Trần Gia Lạc hỏi nguyên do, Lạc Băng bèn kể lại vụ đoạt ngựa này. Mọi người nghe thấy đều cười rộ lên. Mặc dù hội qui của Hồng Hoa Hội không cấm chuyện trộm cướp, nhưng Lạc Băng biết tổng đà chủ xuất thân từ tể tướng phủ, chắc là con cháu nhà quan không ưa những chuyện cướp bóc trấn lột, nên nàng chưa nói đến lai lịch của con bạch mã.
Trần Gia Lạc bảo: “Nếu thế thì Tứ tẩu trả ngựa lại cho Hàn gia đi. Thỏi vàng kia cũng không cần lấy lại, coi như tiền thuê ngựa, cũng để tỏ lòng kính trọng. Còn vết thương trên chân của Hàn gia chắc không nặng lắm, Tâm Nghiễn mau lấy thuốc kim sang ra băng bó.”
Hàn Văn Xung thấy Trần Gia Lạc xử lý như thế, cơn giận hơi nguôi. Hắn đang muốn nói mấy câu để kết thúc việc này, thì Lạc Băng bỗng lên tiếng: “Tổng đà chủ, chuyện đó không được. Tổng đà chủ biết hắn là ai không? Hắn là người của Trấn Viễn tiêu cục đấy.”
Trần Gia Lạc hỏi lại: “Thật không?”
Lạc Băng lấy lá thư của Vuơng Duy Dương ra, nói với Trần Gia Lạc: “Xin tổng đà chủ xem thử.”
Trần Gia Lạc cầm thư, mới đọc dòng xưng hô đầu tiên đã gấp lại, trả cho Hàn Văn Xung rồi nói: “Đây là thư của Hàn gia, ta không tiện xem.”
Hàn Văn Xung nghĩ thầm: “Dù sao thì đồng bọn của ngươi cũng đã xem rồi, ta chẳng giấu giếm làm chi nữa.” Hắn liền nói: “Đúng thế, ta là người của Trấn Viễn tiêu cục, nhưng không hiểu ta đã mạo phạm quí vị chuyện gì. Việc này phải thỉnh giáo, Hàn mỗ quang minh lỗi lạc, chưa bao giờ làm những chuyện không minh bạch. Các hạ cứ xem đi.” Nói xong, hắn trải lá thư ra, đặt trước mật Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc xem lướt qua, chớp nhoáng đã hiểu ý trong thư, bèn nói: “Vương lão tiêu đầu Vương Duy Dương oai trấn vùng Hà Sóc, tại hạ đã nghe danh từ lâu, chỉ vi vô duyên nên chưa được làm quen, thật là ân hận. Các hạ là người của Hàn gia Lạc Dương, không biết xưng hô với Hàn Ngũ Nương như thế nào?”
Hàn Văn Xung đáp: “Đó là tiên thẩm nương của tại hạ. Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh, không hiểu các hạ có quen biết tiên thẩm nương hay không?”
Trần Gia Lạc mỉm cười nói: “Cũng chỉ mới được nghe danh mà thôi. Ta họ Trần tên Gia Lạc.”
Hàn Văn Xung nghe xong lập tức đứng dậy, kinh hãi nói: “Ông… ông… là công tử của Trần Các Lão…”
Thường Hách Chí lên tiếng: “Đây là tổng đà chủ Hồng Hoa Hội chúng ta. Ngươi nói chuyện cả nửa ngày mà có mắt không tròng, không thấy Thái Sơn trước mặt.” Hàn Văn Xung từ từ ngồi xuống, ngắm nghía chàng thanh niên tổng đà chủ này không nháy mắt.
Trần Gia Lạc nói: “Trên giang hồ, không biết ai đã đồn đại rằng cái chết của bạn đồng môn các hạ có liên quan đến tệ hội. Thật ra việc này chúng ta hoàn toàn không biết chút gì. Ta đã phái một huynh đệ đến Lạc Dương, định nói rõ ràng việc này với quí vị, nhưng dọc đường gặp chuyện khẩn cấp nên y không thể phân thân mà tới. May mà hôm nay Hàn gia lại đến đây. Không hiểu lời đồn đại này phát xuất từ đâu, Hàn gia có thể cho biết hay không?”
Hàn Văn Xung vẫn lắp bắp hỏi: “Ông… ông… thật sự là công tử của Trần Các Lão ở Hải Ninh ư?”
Trần Gia Lạc đáp: “Hàn gia đã biết rồi, đương nhiên ta cũng chẳng cần giấu diếm thân thế làm gì.”
Hàn Văn Xung nói: “Từ khi công tử rời nhà, tướng phủ đã cho người tìm kiếm, hứa sẽ trọng thưởng. Suốt mấy năm chẳng có âm tín gì, về sau có người cho biết công tử gia nhập Hồng Hoa Hội, đang ở Hồi Cương. Sư huynh của ta là Tiêu Văn Kỳ được tướng phủ nhờ đến Hồi Cương tìm công tử, nào ngờ y đột nhiên mất tích một cách không minh bạch. Việc đó cách đây đã năm năm rồi. Mãi đến gần đây, có người phát hiện thiết bài cùng tỳ bà đinh của Tiêu sư huynh ở một sơn cốc vùng Thiểm Tây, bọn ta mới biết y bị hại rồi. Tuy rằng y chết không có chứng cớ, cũng không ai chính mắt nhìn thấy y chết, nhưng công tử nghĩ xem, nếu không phải Hồng Hoa Hội thì còn ai đủ bản lãnh giết chết Tiêu sư huynh…”
Hắn chưa nói hết, Chương Tấn đã hét lên: “Sư huynh của ngươi tham tiền bán mạng, chết đi là phải. Nếu Hồng Hoa Hội bọn ta giết hắn, chẳng lẽ lại không dám nhận? Lão gia nói thật cho ngươi biết, bọn ta không giết tên đó. Nhưng nếu các ngươi không tìm được kẻ thù, thì coi như là lão gia giết hắn cũng được. Bình sinh lão gia giết người không phải ít, thêm một mạng Tiêu Văn Kỳ con mẹ nó thì phỏng có chi đáng kể.”
Hàn Văn Xung liếc y một cái, trong lòng bán tín bán nghi. Vô Trần cũng lạnh nhạt lên tiếng: “Thập đương gia Hồng Hoa Hội chúng ta xưa nay nói một là một, nói hai là hai. Ngươi không tin lời nói của y, tức là coi ta không ra gì. Ngươi dám coi ta không ra gì, thì gan ngươi quả không phải nhỏ.”
Giữa những tiếng la ó hỗn loạn, Lục Phi Thanh kêu lớn lên: “Tiêu Văn Kỳ là do ta giết. Ta không ở Hồng Hoa Hội, việc này hoàn toàn không có liên quan gì đến Hồng Hoa Hội cả.” Ông bèn đứng dậy, kể lại chuyện năm năm trước Tiêu Văn Kỳ nửa đêm tầm thù ra sao, lấy ba người đánh một ra sao, mình hạ thủ lưu tình rồi bị hắn dùng độc thủ ám toán ra sao, cuối cùng hắn chuốc lấy cái chết ở hoang sơn ra sao.
Lục Phi Thanh kể rành mạch từ đầu đến cuối, mọi người nghe xong đều lớn tiếng thóa mạ Tiêu Văn Kỳ lưu manh vô sỉ, giết đi là phải. Sắc mặt của Hàn Văn Xung thay đổi hẳn, không nói được lời nào.
Lục Phi Thanh kết luận: “Nếu Hàn gia muốn trả thù cho sư huynh, cứ động thủ ngay bây giờ cũng được. Việc này chẳng liên quan gì đến Hồng Hoa Hội, ai mà giúp ta một quyền một cước thì tức là coi thường lão già này.” Rồi ông quay lại bảo Lạc Băng: “Văn tứ phu nhân! Trả lại binh khí cho Hàn gia đi.”
Lạc Băng lấy thiết tỳ bà ra giao cho Lục Phi Thanh. Họ Lục đón lấy rồi nói: “Năm xưa Hàn Ngũ Nương sáng lập ra Thiết Tỳ Bà Môn danh chấn giang hồ, có thể gọi là nữ trung hào kiệt. Than ôi…” Ông ra vẻ rất cảm khái, vừa nói vừa lặng lẽ vận nội lực. Thiết tỳ bà vốn rỗng ruột, bị ông ấn bẹp thành một miếng sắt phẳng.
Ông ta lại nói tiếp: “Tiêu Văn Kỳ chịu lời của Trần phủ đi tìm Trần công tử thì không sao, nhưng hắn thò tay nhận tiền, lại đến tìm lão già này toan bắt nộp lĩnh thưởng. Chúng ta đều là nhân vật võ lâm, cho dù không thể xả thân báo quốc thì cũng nên trừ bớt bọn cướp Mãn Thanh kia, coi như hành hiệp trượng nghĩa trừ hại cho dân.” Nội công của phái Võ Đang rất khác thường, miệng ông cứ nói chuyện mà tay đã cuộn miếng sắt phẳng đó thành một cái ống, rồi bóp vài cái biến thành một cây thiết côn.
Lục Phi Thanh tiếp: “Giả sử võ công không khá cũng nên giữ nhân phẩm một chút. Làm người cũng phải biết giữ chữ tín, phải trung thành với chuyện mình đang gánh vác. Suốt đời Lục mỗ hận nhất là bọn ưng khuyển triều đình, bọn chó má bảo tiêu hộ viện, ỷ vào chút xíu bản lãnh mà nối giáo cho giặc, đàn áp lương dân. Nếu gặp phải bọn này, Lục mỗ quyết chẳng buông tha.” Nói đến đây, thanh âm và sắc mặt ông đều rất nghiêm khắc. Cây thiết côn trong tay đã biến thành một cái vòng sắt.
Mấy câu này làm tim Hàn Văn Xung đập nghe thình thịch. Hắn tưởng võ công mình cao thâm, trước nay vẫn tự cao tự đại, nào ngờ phen này thất bại liên tiếp. Bại dưới tay Lạc Băng, Chương Tấn, Tâm Nghiễn, hắn vẫn còn đổ cho đối phương dùng quỉ kế. Nhưng bây giờ hắn thấy Lục Phi Thanh vừa nói chuyện vừa vo nặn món binh khí thành danh của mình như nặn đất sét, như vo bột mì, thì không tránh khỏi vừa kinh hãi vừa sợ sệt. Hắn cũng biết võ công của Tiêu Văn Kỳ chỉ ngang với mình, đấu với ông lão này thì dĩ nhiên phải chết.
Tưởng Tứ Cân hứng thú nhìn Lục Phi Thanh chơi đùa cục sắt đó, tính nghịch ngợm bỗng nổi lên. Y đón lấy thiết hoàn, giang tay kéo thẳng ra thành một cây thiết côn trở lại, rồi chính mình cầm một đầu, đưa đầu kia cho Dương Thành Hiệp.
Dương Thành Hiệp đưa tay nắm lấy, mỉm cười nói: “Đấu sức phải không?” Tưởng Tứ Cân gật đầu, rồi hai người vận sức mà kéo. Cây thiết côn mỗi lúc một dài ra, mọi người đều cười ha hả.
Trần Gia Lạc sợ hai người quyết phân thắng bại làm tổn thương hòa khí, bèn mỉm cười nói: “Hai vị ca ca thần lực bằng nhau. Đưa thiết tỳ bà cho ta đi.” Mọi người nghe chàng vẫn gọi cái que sắt này là thiết tỳ bà, tiếng cười càng vang dội.
Trần Gia Lạc nhận lấy que sắt, lại nói: “Đạo trưởng, Chu lão tiền bối, Dương bát ca, ba vị ở một bên. Triệu tam ca, Tưởng huynh đệ, ba người chúng ta ở một bên. Chúng ta luyện khí thử xem.” Bọn Chu Trọng Anh đều mỉm cười đi đến, ba người một bên, xếp chưởng với nhau mà chống đỡ một đầu cái que sắt dài ngoằng.
Trần Gia Lạc cười bảo: “Cây côn này dài quá, chúng ta sửa lại đi. Một, hai, ba!” Sáu người cùng vận sức. Kình lực của sáu người này cộng lại, quả là trên đời này hiếm thấy. Cây thiết côn từ từ co rút lại, dày lên và ngắn đi. Mọi người đứng xem đều hoan hô vang dội.
Sắc mặt Hàn Văn Xung thay đổi hẳn, thầm nghĩ: “Thôi rồi! Thế này mới gọi là ngoài trời còn có trời, trên người còn có người. Nếu hôm nay Hàn mỗ giữ được mạng sống, thì ngày mai phải về quê cuốc đất thôi.”
Trần Gia Lạc hô lớn: “Được rồi!” Năm người Chu Trọng Anh cười rộ lên rồi dừng tay lại.
Trần Gia Lạc quay lại nói: “Lỡ tay làm hỏng mất binh khí của Hàn gia, thật là áy náy. Xin đừng trách.” Hàn Văn Xung mồ hôi đầy đầu, không sao trả lời được nữa.
Trần Gia Lạc nói: “Ta muốn khuyên Hàn huynh một câu, không biết Hàn huynh có đồng ý hay không.”
Hàn Văn Xung gật đầu: “Xin cứ nói.”
Trần Gia Lạc nói: “Có câu oán thù nên giải không nên kết. Lệnh sư huynh mất mạng ở hoang sơn là tự mình chuốc họa, không thể trách Lục lão tiền bối. Mong Hàn huynh nể mặt ta mà xóa bỏ mâu thuẫn này với Lục lão tiền bối, mọi người kết làm bằng hữu có tốt hơn không?”
Hàn Văn Xung đã sợ quá rồi, làm sao dám động thủ với Lục Phi Thanh nữa. Nhưng nếu bị đối phương hù dọa mà cúi đầu đồng ý ngay, thì không khỏi tỏ ra quá vô dụng. Vì thế nhất thời hắn không nói nên lời, nhưng sắc mặt thì thay đổi lúc xanh lúc trắng.
Trần Gia Lạc lại nói: “Chuyện rủi của Tiêu tam gia, thật ra phát xuất từ ta. Bây giờ để ta viết một lá thư gửi cho huynh trưởng, nói là Tiêu tam gia đã tìm được ta, nhưng ta không chịu về nhà, rồi Tiêu tam gia dọc đường về bất ngờ tạ thế. Nhờ huynh trưởng gửi tiền tử tuất thật là ưu đãi, để gia quyến của Tiêu tam gia được dễ chịu hơn.” Hàn Văn Xung trù trừ chưa đáp.
Trần Gia Lạc dựng cặp lông mày lên nói: “Còn nếu Hàn gia nhất quyết trả thù, thì để ta tiếp mấy chiêu thiết tỳ bà thủ của Hàn gia trước.” Chàng lập tức vận kình, phóng cây thiết côn cắm thẳng xuống đất. Nó mất hút vào lòng đất trong nháy mắt, không thấy bóng dáng đâu nữa.
Ruột gan của Hàn Văn Xung vừa lạnh vừa run, không dám nhiều lời nữa, đáp gọn: “Mọi việc tùy ý công tử.”
Trần Gia Lạc khen: “Thế mới gọi là hảo hán biết đường tiến thối.” Sau đó chàng bảo Tâm Nghiễn lấy văn phòng tứ bảo ra, múa bút như rồng bay phượng múa, thảo lẹ một lá thư.
Hàn Văn Xung nhận thư rồi nói: “Vương tổng tiêu đầu có dặn dò tại hạ giúp đưa một chuyến tiêu đến Bắc Kinh, khi đến kinh thành thì hộ tống một số châu báu của hoàng thượng ban cho quí phủ về lại Giang Nam. Hôm nay nhìn thấy thần kỹ của quí vị, quả là chút xíu bản lãnh của tại hạ chỉ đáng gọi là múa rìu qua mắt thợ mà thôi. Đồ châu bảo của quí phủ, quyết chẳng có ai dám đụng vào. Đã thế tại hạ xin cáo từ.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Thì ra món vật mà Hàn huynh chuẩn bị hộ tống là của gia đình ta đó ư?”
Hàn Văn Xung đáp: “Tên chạy hiệu đưa thư cho tại hạ có nói: Hoàng thượng ban bổ thiên ân cho quí phủ hết sức rộng rãi, chỉ vài tháng lại thưởng một món kim ngân châu báu. Bây giờ tích tụ nhiều rồi, cần đưa về quí phủ ở Giang Nam, nên người trong phủ đã nhờ tiêu cục của bọn tại hạ hộ tống. Hôm nay tại hạ thảm bại ở đây, chẳng còn mặt mũi đi kiếm cơm trong chốn giang hồ nữa. Sau khi sắp xếp xong gia quyến của Tiêu sư huynh, tại hạ sẽ về quê cày ruộng săn bắn, nhất quyết không thò mặt ra võ lâm.”
Trần Gia Lạc nói: “Hàn huynh đã chịu nghe những lời vàng ngọc của Lục lão tiền bối, thật không còn gì tốt hơn nữa. Ta nhất định phải kết giao với một người bạn như huynh. Tâm Nghiễn! Ngươi mời các vị ở Trấn Viễn tiêu cục ra đây.”
Tâm Nghiễn vâng dạ ra ngoài, rồi đưa bọn Tiền Chính Luân vào. Chúng giáp mặt Hàn Văn Xung, hai bên cứ đưa mắt nhìn nhau, đều không nói được lời nào.
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Ta nể mặt Hàn huynh, để Hàn huynh dẫn mấy ông bạn này về. Nhưng từ đây về sau, ta không muốn nhìn thấy họ làm việc xấu nữa. Nếu tiếp tục làm điều không tốt, đừng trách chúng ta hạ thủ vô tình.”
Phen này Hàn Văn Xung bị Trần Gia Lạc sử dụng cả cứng lẫn mềm, cả ân lẫn oai, vừa hiển lộ công phu vừa kết giao tình cảm. Sắc mặt hắn xanh mét như thây ma, câm miệng không nói được tiếng nào. Hắn nhớ Trần Gia Lạc chưa nhắc đến hai chữ “trả ngựa”, nhưng dĩ nhiên không dám mở miệng xin xỏ.
Trần Gia Lạc lại nói: “Chúng ta đi trước một bước, còn quí vị cứ ở đây nghỉ ngơi một ngày, mai hãy khởi hành.”
Quần hùng Hồng Hoa Hội lập tức lên ngựa ra đi, còn một bầy tiêu sư và quan sai ngơ ngác đứng đó, không hề lên tiếng.
Được một đoạn đường, Lục Phi Thanh nói với Trần Gia Lạc: “Trần đương gia! Bọn nhãi tiêu cục ở lại phía sau, thế thì chẳng bao lâu đồ đệ của ta sẽ gặp phải chúng. Chúng bị bẽ mặt, không biết làm sao cho hả dạ, không chừng sẽ kiếm chuyện với đồ đệ của ta. Ta muốn đi chậm một bước, lo lắng cho nó một chút rồi sẽ theo sau.”
Trần Gia Lạc đáp: “Lục lão tiền bối cứ tự nhiên, tốt nhất là kéo lệnh hiền đồ theo. Thế thì chúng ta lại có thêm một tay giúp sức.”
Lục Phi Thanh mỉm cười nói: “Nó chỉ biết đùa giỡn gây họa, chẳng giúp được gì đâu.” Rồi ông chắp tay chào, lập tức quay ngựa chạy ngược lại. Trần Gia Lạc không kịp hỏi kỹ về đồ đệ của ông, trong lòng không khỏi hơi buồn.
* * *
Dư Ngư Đồng vâng lệnh đi điều tra tung tích Văn Thái Lai, dọc đường hỏi thăm mãi vẫn cũng chưa tìm ra chút manh mối nào, dần dần đi đến Lương Châu. Thị trấn Lương Châu đã có từ lâu, là một địa điểm quan trọng của Hà Tây, dân chúng giàu có, sản vật lại phong phú. Họ Dư nghỉ lại một khách sạn trên con đường phía nam.
Chàng lên Tích Thúy Lâu uống rượu một mình, hết nghĩ ngợi lại nhớ nhung tiếng nói giọng cười của Lạc Băng, lòng dạ nổi sóng trùng trùng không sao yên được. Mối tương tư này rõ ràng là vô vọng, cũng là không nên không phải, nhưng kiếm chặt không đứt, sáo thổi không tan. Chàng nhìn thấy trên vách đầy những câu: “Mỗ đã đến đây một lần”, “Mỗ đã du ngoạn qua đây”, bèn nổi hứng thi ca, kêu tiểu nhị đem bút mực đến, viết một bài thơ lên vách:
Một sáo trải giang hồ trăm trận
Hiệp nghĩa tâm sống chết coi khinh
Thế mà chẳng quản được mình
Con tằm đến thác, tơ tình còn vương.
Bên dưới ký: “Người hữu tình vô nghĩa, cuồng si đệ nhất cổ kim.” Vị tú tài này cầm sáo vượt qua trăm trận trong chốn giang hồ, vì hiệp nghĩa coi thường sống chết; nhưng mỗi khi nghĩ đến mối tình với Lạc Băng lại hận mình vô nghĩa với Văn Thái Lai.
Nhấc chén để tiêu sầu, nhưng sầu lại càng sầu. Dư Ngư Đồng ngâm nga một chập, định gọi thanh toán tiền, thì đột nhiên nghe tiếng bước chân, có hai người đi lên. Cặp mắt sắc bén của chàng đảo qua, thấy người đi trước quen quen.
Dư Ngư Đồng quay lại bàn, nhớ ra đó là một tên quan sai đã từng giao đấu với mình ở Thiết Đảm Trang. May mà hắn đang say sưa nói chuyện với đồng bọn nên không nhìn thấy chàng.
Hai tên đó chọn một cái bàn gần cửa sổ, ngay cạnh bàn của chàng. Dư Ngư Đồng nằm gục trên bàn, vờ như đã say mèm.
Chúng nói mấy chuyện lăng nhăng không quan trọng, rồi bỗng một tên nói: “Thoại đại ca! Phen này bắt được yếu phạm, thật là đã lập kỳ công. Không biết hoàng thượng thưởng gì cho huynh đây.”
Tên họ Thoại nói: “Thưởng gì ta cũng không muốn, bây giờ chỉ mong đưa phạm nhân đến Hàng Châu được bình yên. Bọn ta tám người thị vệ cùng lúc rời kinh, bây giờ chỉ còn một mình ta trở về. Không phải ta đề cao địch để giảm oai phong mình, nhưng ngồi đây nghĩ đến trận chiến ở Túc Châu vẫn còn dựng tóc gáy lên.”
Tên kia nói: “Bây giờ các vị cùng đi với Trương đại nhân, chắc đã hết rủi ro rồi.”
Tên họ Thoại đáp: “Nói vậy cũng không sai, nhưng phen này tất cả công lao đều thuộc về ngự lâm quân, còn bọn ngự tiền thị vệ chúng ta mất hết thể diện. Lão Chu này, ta cũng không hiểu tại sao không giải can phạm này về Bắc Kinh, mà lại đưa đến Hàng Châu để làm gì.”
Tên họ Chu khẽ nói: “Anh rể của ta làm việc trong phủ Đại học sĩ, chắc huynh cũng biết. Y đã lén nói với ta là hoàng thượng sắp đến Giang Nam. Đưa can phạm tới Hàng Châu, có thể là hoàng thượng muốn đích thân thẩm vấn.”
Tên họ Thoại à một tiếng, hớp một ngụm rượu rồi hỏi: “Sáu người các vị tuân thánh chỉ đi gấp từ kinh thành đến đây, cũng vì việc này hay sao?”
Tên họ Chu đáp: “Nhất định phải nhờ các vị giúp đỡ. Thế lực của Hồng Hoa Hội ở Giang Nam rất lớn, chúng ta phải cẩn thận đề phòng.”
Dư Ngư Đồng nghe đến đây giật mình, nghĩ mình may mắn lắm mới tình cờ nghe thấy chuyện này. Chúng đem Tứ ca xuống Giang Nam, mà hết thảy anh em lại chạy lên Bắc Kinh ứng cứu, đúng là đau nam chữa bắc.
Tên thị vệ họ Chu lại nói: “Thoại đại ca! Khâm phạm này rút cuộc đã phạm phải tội gì, tại sao hoàng thượng phải đích thân xét hỏi?”
Tên họ Thoại đáp: “Việc này thì ta làm sao mà biết được? Chỉ biết thượng dụ nói là nếu không bắt được hắn, cả bọn trở về đều bị cách chức điều tra, thủ cấp có ở nguyên chỗ cũ hay không còn phải xem lại. Huynh tưởng là chén cơm ngự tiền thị vệ dễ nuốt lắm hay sao?”
Tên họ Chu mỉm cười rồi nói: “Dù sao thì Thoại đại ca đã lập được công lớn rồi. Ta phải kính huynh ba chén.”
Rồi hai tên tiếp tục uống rượu, chuyển qua “bình loạn” về nữ nhân, nào là đàn bà phương bắc chân nhỏ dễ thương, nào là đàn bà Giang Nam da dẻ trắng trẻo. Cơm no rượu say rồi, tên họ Thoại thanh toán xuống lầu. Nhìn thấy Dư Ngư Đồng vẫn gục trên bàn, hắn vừa cười vừa chửi: “Bọn có học hành đúng là chẳng được tích sự gì. Mới uống có ba chén mà con sâu này đã không bò được nữa.”
Dư Ngư Đồng đợi chúng xuống lầu, ném ít bạc vụn lên bàn rồi bám đuôi theo gót. Chàng lẫn vào đám đông, thấy hai tên đó đi vào Lương Châu phủ, hơn nửa ngày vẫn không thấy trở ra, chắc là chúng nghỉ lại trong nha môn này, bèn quay về khách sạn nhắm mắt dưỡng thần.
Trời vừa tối, họ Dư liền thay y phục ngắn màu đen, cài kim địch lên lưng, lén nhảy qua cửa sổ ra ngoài, đi thẳng về hướng nha phủ. Chàng vượt tường vào hậu viện, thấy tứ bề tối mịt, chỉ còn một căn phòng lớn phía đông là có ánh sáng hắt ra cửa sổ. Lẻn lại gần, nghe thấy bên trong có người nói chuyện, chàng thấm chút nước bọt lên đầu ngón tay, nhẹ nhàng khoét một lỗ nhỏ trên giấy dán cửa sổ, vừa nhìn vào bên trong đã không nén nổi phải kinh hãi một phen.
Thì ra trong sảnh rất đông người. Trương Triệu Trọng ngồi chính giữa, hai bên toàn là thị vệ và công sai. Có một người đứng quay lưng lại chàng đang la mắng dữ dội, nghe kỹ thì đúng là thanh âm của Văn Thái Lai. Dư Ngư Đồng biết trong sảnh đều là cao thủ, không dám nhìn tiếp, bèn khom sát xuống, im lặng lắng nghe.
Văn Thái Lai quát lên: “Bọn bay làm chó săn cho triều đình, chỉ là thân phận đầy tớ. Văn đại gia này lọt vào tay các ngươi, sẽ có người đến trả thù. Ta phải xem thử bọn lòng lang dạ sói chúng bay sẽ có kết cuộc ra sao.”
Một tên trầm giọng nói: “Hay lắm! Ngươi cứ việc chửi mắng cho sướng miệng. Ngươi là Bôn Lôi Thủ, chưởng pháp của ta không lợi hại bằng ngươi, nhưng hôm nay ngươi cũng nên nếm thử cho biết.”
Dư Ngư Đồng nghe thấy không ổn, nghĩ bụng: “Tứ ca sắp phải chịu nhục rồi. Huynh ấy là anh hùng hào kiệt đương thời, làm sao mà chịu nổi bọn nhãi này sỉ nhục.” Chàng lại ghé mắt vào lỗ nhỏ nhìn vào, thấy một hán tử trung niên mặc áo bào xanh, thân hình vừa cao vừa ốm, đang vung chưởng tát vào mặt Văn Thái Lai. Sắc mặt hắn rất dữ tợn, miệng cười lạnh lẽo. Văn Thái Lai bị trói chặt hai tay không nhúc nhích được, chỉ giận dữ nghiến răng ken két.
Tên kia lại đưa chưởng lên toan đánh nữa. Dư Ngư Đồng bèn cắm kim địch vào lỗ cửa, hít hơi phun ra. Một mũi đoản tiễn từ trong kim địch bắn ra, ghim trúng ngay mắt trái của hắn.
Tên này không phải ai xa lạ, chính là Ngôn Bá Càn, chưởng môn phái Ngôn gia quyền. Công phu của hắn khá cao, nhưng đoản tiễn bay đến quá sức bất ngờ nên không tránh kịp. Hắn trúng tên vào mắt, gào lên một tiếng rồi lăn xuống đất, trong sảnh hỗn loạn cả lên.
Dư Ngư Đồng bắn thêm một mũi, trúng má phải một tên thị vệ, rồi phóng cước đá bật cửa sảnh, chạy thẳng vào trong hét lên: “Hồng Hoa Hội đến cứu người đây.” Chàng vung kim địch điểm trúng huyệt đạo hai tên quan sai đang đứng kế cạnh Văn Thái Lai, rồi lấy dưới chân ra một con trủy thủ, cắt đứt dây trói.
Trương Triệu Trọng tưởng là có đông người đến cứu Văn Thái Lai, nên mặc kệ Văn Dư, rút kiếm xông ra đứng chặn cửa sảnh. Y quyết định như vậy là để bên trong cản trở phạm nhân chạy trốn, bên ngoài chặn đánh cứu binh.
Văn Thái Lai được cởi trói, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Thấy một tên ngự tiền thị vệ phóng tới, chàng nghiêng người tránh né, xoay tay trái phóng ra một chưởng trúng ngay sườn bên phải của hắn. Những tiếng răng rắc vang lên, rõ ràng mấy dẻ xương sườn đã gãy rồi. Bọn kia bị oai khí của chàng nhiếp phục, nhất thời không dám đến gần.
Dư Ngư Đồng la lớn: “Tứ ca! Chúng ta xông ra ngoài!”
Văn Thái Lai hỏi: “Mọi người đến cả rồi phải không?”
Dư Ngư Đồng khẽ đáp: “Chưa đến, chỉ có một mình tiểu đệ.”
Văn Thái Lai gật đầu. Vết thương ở tay phải và trên đùi chưa lành, chàng phải tựa vào Dư Ngư Đồng, hai người đi ra cửa. Bốn năm tên thị vệ chạy tới cản trở, Dư Ngư Đồng múa kim địch đánh dạt ra.
Hai người vừa đến cửa sảnh, Trương Triệu Trọng bước tới một bước quát lên: “Ở lại cho ta!” rồi phóng trường kiếm ra đâm vào bụng dưới Văn Thái Lai. Chân Văn Thái Lai còn đau nên xoay trở không tiện, phải lấy công làm thủ, dùng ngón trỏ và ngón giữa tay trái đâm thẳng vào cặp mắt địch thủ.
Trương Triệu Trọng phải thu kiếm về gạt, bất giác hô lên: “Hay lắm!” Chỉ trong chớp nhoáng, hai người đã qua lại bảy tám chiêu. Văn Thái Lai chỉ dùng được tay trái, đôi chân lại tránh né không linh hoạt, cố được mấy chiêu nữa rồi bị Trương Triệu Trọng đánh một chưởng nặng trúng vai, chân đứng không vững phải ngồi phịch xuống đất.
Dư Ngư Đồng vừa đánh vừa nghĩ: “Hôm trước mình làm bừa làm ẩu có lỗi với Tứ ca, sống thừa trên thế gian chỉ tổ làm bẩn danh tiếng anh hùng của Hồng Hoa Hội. Hôm nay ta phải liều cái mạng này cho bọn ưng trảo giết đi, quyết cứu Tứ ca, để Tứ tẩu biết Dư Ngư Đồng này không phải loại tiểu nhân vô nghĩa. Ta lấy mạng để báo ân, chết không uổng phí.” Chàng nghĩ tới đó thì thấy Văn Thái Lai té nhào xuống đất, bèn xoay người lại, múa tít kim địch liều mạng tấn công Trương Triệu Trọng.
Văn Thái Lai định thần lại, trở mình gượng đứng lên, quát lớn một tiếng. Bọn thị vệ và quan sai đều giật mình, bất giác lui mấy bước.
Dư Ngư Đồng hô lớn: “Tứ ca! Huynh đi trước đi, đệ sẽ theo sau.” Rồi chàng vung kim địch tấn công những chỗ yếu hại của đối phương, hoàn toàn không phòng thủ gì nữa. Võ công của chàng và Trương Triệu Trọng chênh lệch rất xa, nhưng một người liều mạng trăm người khó địch. Kim địch xuất toàn những chiêu thức tấn công, chiêu nào cũng thí mạng, quyết chết cùng địch thủ, ít ra cũng bắt địch thủ bị thương. Trương Triệu Trọng tuy kiếm pháp cao cường, nhưng nhất thời cũng bị ý chí quyết tử của chàng đẩy lùi mấy bước.
Văn Thái Lai thấy chỗ sơ hở bèn lảo đảo chạy ra khỏi sảnh. Bọn thị vệ đều kinh hãi la hét om sòm. Dư Ngư Đồng đứng chặn ở cửa sảnh, trên mình đã trúng hai kiếm, nhưng vẫn không chịu phòng thủ, cứ nhắm mắt tiếp tục tấn công.
Trương Triệu Trọng quát lên: “Ngươi không thiết cái mạng của mình nữa hay sao? Ai dạy ngươi đánh kiểu này?” Y thấy võ công của chàng đúng là đích truyền của phái Võ Đang, biết có liên quan gì đó nên chưa muốn hạ sát thủ.
Dư Ngư Đồng cười thê thảm rồi nói: “Tốt nhất là ngươi giết ta đi.” Thêm mấy chiêu, vai phải chàng lại trúng một kiếm. Chàng đưa sáo sang tay trái, vẫn tiếp tục tấn công, một bước không lùi.
Phần lớn bọn thị vệ đã chạy ra ngoài. Dư Ngư Đồng điên cuồng múa tít kim địch, gió thổi qua lỗ sáo rít lên những tiếng u u. Một tên thị vệ vung đao chém tới, họ Dư coi như không thấy, cứ đưa kim địch điểm trúng dưới nách của hắn. Tên đó lập tức ngất xỉu, nhưng cánh tay trái của Dư Ngư Đồng đã trúng đao, máu bắn ra vấy đầy người. Chàng vẫn cầm sáo tung hoành dưới bóng kiếm trùng trùng. Lại nghe một tiếng “cắc”, một tên thị vệ đã bị chàng đánh vỡ xương hàm.
Lúc này đám thị vệ dồn lại bao vây, đao kiếm roi côn tấn công cùng lúc. Trong trận hỗn chiến đó, chân của Dư Ngư Đồng trúng một côn. Chàng té nhào xuống đất, còn cố múa máy kim địch một lúc rồi mới ngất xỉu.
Ngoài cửa sảnh bỗng có tiếng quát: “Dừng tay!” Mọi người quay đầu lại, thấy Văn Thái Lai chậm rãi bước vào. Chàng không thèm nhìn ngó tới ai, cứ đi thẳng đến chỗ Dư Ngư Đồng, thấy thân thể huynh đệ đầy máu me, bất giác không nén nổi mà rơi lệ. Chàng cúi xuống đưa tay sờ thử lên mũi, thấy hơi thở vẫn còn nên cũng hơi yên tâm, bèn đưa tay trái đỡ họ Dư lên rồi hét lớn: “Cầm máu, cứu thương, nhanh lên!” Bọn thị vệ đều khiếp oai Văn Thái Lai, quả nhiên đã có tên đem thuốc kim sang đến.
Văn Thái Lai thấy Dư Ngư Đồng đã được băng bó vết thương, khiêng vào nội đường, rồi mới chắp hai tay ra sau lưng, bảo: “Trói đi.” Trương Triệu Trọng đưa mắt nhìn một tên thị vệ, tên này từ từ bước tới.
Văn Thái Lai lại quát: “Ngươi sợ cái gì? Nếu ta muốn đả thương ngươi thì đã ra tay từ lâu rồi.” Tên kia thấy hai tay của chàng thật sự không nhúc nhích, bèn đến trói chàng lại đưa vào trong ngục của nha môn, khóa kỹ. Bọn thị vệ đích thân chia phiên nhau giữ ngục.
Sáng hôm sau Trương Triệu Trọng đi thăm Dư Ngư Đồng, thấy chàng nằm thiêm thiếp, hỏi người trong nha môn thì biết chúng đã mời đại phu khám rồi cho chàng uống thuốc. Buổi chiều y lại đi thăm, Dư Ngư Đồng đã hơi tỉnh táo.
Trương Triệu Trọng hỏi chàng: “Sư phụ của ngươi họ Lục hay họ Mã?”
Dư Ngư Đồng đáp: “Ân sư của ta là Thiên Lý Độc Hành Hiệp, họ Mã tên Chân.”
Trương Triệu Trọng nói: “Vậy thì đúng rồi. Ta là Trương Triệu Trọng, sư thúc của ngươi.”
Dư Ngư Đồng khẽ gật đầu. Trương Triệu Trọng hỏi: “Ngươi là người của Hồng Hoa Hội phải không?”
Dư Ngư Đồng lại gật đầu. Trương Triệu Trọng thở dài rồi than: “Thanh niên ưu tú như thế này mà lại chui vào một chỗ hạ lưu. Văn Thái Lai là gì của ngươi, mà ngươi phải liều mạng cứu hắn?”
Dư Ngư Đồng nhắm mắt không đáp, hồi lâu mới nói: “Rốt cuộc thì ta đã cứu được Tứ ca ra ngoài, chết cũng có thể nhắm mắt.”
Trương Triệu Trọng cười gằn: “Hừ! Ngươi tưởng đủ sức cứu người trước mặt ta hay sao?”
Dư Ngư Đồng kinh hãi hỏi: “Huynh ấy không chạy được hay sao?”
Trương Triệu Trọng đáp: “Làm sao mà trốn được? Ngươi đừng có nằm mơ nữa.” Rồi y tiếp tục xét hỏi, nhưng Dư Ngư Đồng nhắm nghiền cặp mắt không thèm trả lời, chỉ một lúc sau lại ngủ thiếp đi.
Trương Triệu Trọng mỉm cười, khen: “Đúng là người trẻ tuổi quật cường.” Rồi y quay người đi ra, gọi Thoại Đại Lâm, Ngôn Bá Càn, Thành Hoàng và sáu tên ngự tiền thị vệ vửa từ kinh thành đến, trong đó có cả Chu Tổ Ấm. Chúng thương nghị gì đó rất bí mật, rồi trở về phòng nghỉ ngơi. Sau giờ cơm tối, chúng lại giải Văn Thái Lai từ trong ngục ra ngoài đại sảnh, giả vờ xét hỏi.
Hôm qua Trương Triệu Trọng đang hỏi cung thật sự, không ngờ bị Dư Ngư Đồng xông vào phá đám. Đêm nay y bèn bố trí mai phục bên ngoài, sắp xếp đầy cung nỏ xung quanh, định bắt cứu binh của Hồng Hoa Hội. Nào ngờ chúng chờ suốt một đêm, mà chuột cũng không thấy con nào.
* * *
Sáng hôm sau có báo cáo là nước sông Hoàng Hà đang dâng lên, phía bắc Hoàng Hà thế nước rất mạnh. Trương Triệu Trọng hạ lệnh khởi hành ngay. Y cáo biệt tri phủ Lương Châu và đám quan địa phương, cho nhốt Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng vào hai cỗ xe lớn.
Lúc bước ra khỏi cửa, đột nhiên Hồ Quốc Đống, Tiền Chính Luân, Hàn Văn Xung chạy vào nha môn. Trương Triệu Trọng thấy thần sắc ba tên này đầy vẻ bối rối, liền gạn hỏi nguyên do. Hồ Quốc Đống bèn đem mọi chuyện ra kể lại.
Trương Triệu Trọng nghe xong chỉ nói: “Võ công của Diêm lục gia rất vững, làm sao có thể chết dưới tay của một cô nương? Thật là kỳ lạ.” Rồi y vẫy tay chào: “Hẹn gặp lại trên kinh.”
Hồ Quốc Đống tức tối nhưng không dám cãi, chỉ cố nuốt cơn giận vào bụng.
Dù sao thì Trương Triệu Trọng nghe Hồ Quốc Đống kể quần hùng Hồng Hoa Hội bản lãnh ghê gớm, lại có số đông người Hồi tương trợ, cũng phải thầm lo. Tuy bản thân y võ nghệ cao cường mà gan dạ cũng không nhỏ, nhưng dù sao cũng không địch nổi số đông, nên y bèn thương lượng với tổng binh ở Lương Châu, yêu cầu phái thêm bốn trăm tinh binh để giúp sức giải khâm phạm về kinh. Tổng binh thấy chuyện này trọng đại không dám chối từ, lập tức điều động binh mã, lại phái phó tướng Tào Năng và tham tướng Bình Vượng theo áp giải đến tỉnh thành Cao Lang, rồi trên tỉnh lại điều nhân mã khác thay thế. Cả một đạo quân đi về hướng đông, dọc đường thuận tay cướp bóc, bắt gà bắt chó, khiến bá tánh khổ sở kêu trời. Những chuyện đó không cần kể lại làm gì.
Đoàn quân đi được hai ngày, ghé ăn trưa tại Song Tỉnh Tử rồi đi tiếp hai ba chục dặm, bỗng thấy dọc đường cái có hai hán tử cởi trần ngồi dưới bóng cây, gốc cây có cột hai con tuấn mã. Hai tên lính Thanh nháy mắt với nhau, chạy tới trước la lên: “Úi chà! Hai con ngựa này hình như là của quan quân, bị ai trộm đến đây.”
Một hán tử mặt mày thanh tú mỉm cười đáp: “Bọn tiểu nhân là lương dân an phận thủ thường, đâu dám trộm cắp ngựa.”
Một tên Thanh binh nói: “Lão gia đi mệt quá rồi, cho mượn ngựa cưỡi một chút.”
Hán tử đáp: “Được thôi! Nếu đại gia nể mặt muốn cưỡi, thì coi như hôm nay tiểu nhân được quen biết quí nhân.”
Tên Thanh binh kia mỉm cười nói: “Thì ra ngươi biết điều lắm.”
Hai hán tử cùng đứng dậy, tháo dây cương ngựa ra rồi nói: “Hai vị đại gia cẩn thận, đừng để té.”
Tên kia thóa mạ luôn: “Con mẹ nói, chỉ nói bậy! Lão gia cưỡi ngựa mà té thì còn ra thể thống gì.” Hắn tà tà bước tới một cách oai vệ, đang thò tay ra đón lấy dây cương thì đột nhiên bị đá một cước vào mông. Còn tên kia thì bị tát cho một chưởng, rồi cả hai bị xách lên quăng ra giữa đường cái. Cả đại đội binh lính lập tức nhốn nháo cả lên.
Hai hán tử tung mình lên ngựa, chạy đến chỗ cỗ xe lớn. Một hán tử trên mặt có vết sẹo lớn đưa tay trái vén màn xe lên, tay phải lia đao, roạc một tiếng đã cắt đứt tấm màn rồi hỏi: “Tứ ca có ở trong đó không?”
Văn Thái Lai ngồi trong xe kinh ngạc la lên: “Thập Nhị Lang!”
Hán tử mặt sẹo nói: “Tứ ca, chúng ta đi đây. Huynh cứ yên tâm, mọi người sắp đến rồi.”
Thành Hoàng và Tào Năng chạy tới tấn công để giữ cỗ xe, hán tử mặt mày trắng trẻo bèn vung song câu cản trở. Lúc số đông Thanh binh ùa tới, hai người huýt một tiếng sáo rồi vọt người chạy đi. Bọn thị vệ đuổi theo một lúc, thấy địch nhân đã chạy xa nên không đuổi tiếp nữa.
Đêm hôm đó, đại đội Thanh binh trú lại Thanh Thủy Phố. Sáng hôm sau đột nhiên có tiếng binh lính la hét ồn ào. Tào Năng và Bình Vượng ra ngoài xem thử, thấy mười mấy tên lính Thanh chết ngay tại chỗ ngủ, không biết vì sao mà chết. Binh lính nhốn nháo hẳn lên, nghi là ma quỉ hiện hình.
Đêm tiếp theo, cả bọn nghỉ lại trấn Hoàng Thạch. Quân lính nhét đầy ba tòa khách sạn, còn phải chiếm dụng thêm nhà cửa của dân. Giữa khuya đột nhiên khách sạn bốc cháy, bốn bề có tiếng la hét om sòm. Trương Triệu Trọng ra lệnh cho bọn thị vệ chỉ lo giữ Văn Thái Lai, còn tất cả những việc khác phải hoàn toàn mặc kệ, đề phòng trúng kế điệu hổ ly sơn của địch.
Ngọn lửa càng lúc càng bốc cao, rồi Tào Năng chạy vào bẩm báo: “Có thổ phỉ đến, đang đánh nhau với binh lính.”
Trương Triệu Trọng nói: “Nhờ Tào tướng quân chỉ huy đốc chiến. Ta phải ở đây, không thể rời khỏi được.” Tào Năng vâng dạ rồi chạy ra ngoài.
Bên ngoài khách sạn vang lên những tiếng kêu la thê thảm, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng lửa cháy và tiếng mái nhà sập xuống, lộn xộn cả nửa đêm. Trương Triệu Trọng hạ lệnh cho Thoại Đại Lâm cùng Chu Tổ Ấm canh giữ trên mái nhà, nếu kẻ địch không tấn công vào trong khách sạn này thì không cần phải ra tay.
May mà đám cháy không lớn lắm nên chẳng bao lâu đã dập tắt được, rồi dứt tiếng ồn ào, yên ổn trở lại. Chỉ còn nghe thấy tiếng vó ngựa rào rào, một nhóm người chạy về hướng đông.
Tào Năng mặt đầy muội than và máu me chạy vào báo: “Bọn cướp đó đã bị đuổi đi hết rồi.”
Trương Triệu Trọng hỏi: “Chúng ta thương vong mất bao nhiêu anh em?”
Tào Năng đáp: “Chưa đếm, nhưng ít ra cũng mấy chục người.”
Trương Triệu Trọng lại hỏi: “Còn cướp thì bắt được bao nhiêu, giết được bao nhiêu?”
Tào Năng ú ớ không nói được gì. Trương Triệu Trọng hừ một tiếng, không hỏi nữa.
Hồi lâu Tào Năng mới ấp úng: “Bọn cướp này đều bịt kín mặt, tên nào võ công cũng lợi hại. Thật là kỳ lạ, chúng không cướp bóc tiền bạc gì cả, chỉ lo chém giết anh em mình. Trước khi đi chúng còn quăng lại hai trăm lạng bạc cho ông chủ khách sạn này, nói rằng đã đốt nhà của y nên phải đền bù.”
Trương Triệu Trọng hỏi: “Tào tướng quân tưởng chúng là cướp thật ư? Thôi, huynh đi bảo mọi người nghỉ ngơi một chút, sáng sớm mai lên đường ngay.”
Tào Năng lui ra, lập tức đi tìm ông chủ khách sạn, trách cứ y cấu kết với thổ phỉ giết hại quan quân. Ông chủ khách sạn sợ quá, quì xuống dập đầu lia lịa, rốt cuộc hiểu ra bèn hai tay dâng lên hai trăm lạng bạc, lại còn hứa sẽ lo việc chôn người chết, chữa trị thương binh. Lúc đó Tào Năng mới chịu thôi.
Sáng hôm sau, đại đội Thanh binh nhốn nháo loạn xạ, đến khoảng giờ Ngọ mới khởi hành được. Dọc đường phong cảnh thật đẹp, núi non xanh rì cây cỏ. Đi được khoảng hai giờ, con đường bắt đầu lên dốc, hai bên đều là núi cao.
Không bao lâu, phía trước bỗng có một con ngựa từ trên núi chạy xuống, đến cách đại đội hơn mười bước thì dừng lại. Người ngồi trên ngựa hô lớn: “Này! Bọn rùa kia nghe đây! Các ngươi đã gặp phải ác quỉ rồi, mau mau quay về thì còn đường sống, nếu đi tiếp về hướng đông thì chết uổng mạng từng con rùa một.”
Người kia mặc y phục may bằng vải bố, ngang lưng thắt một sợi dây kết bằng cỏ, da mặt vàng khè, lông mày dựng ngược, hoàn toàn giống hệt quỉ truy mạng vô thường thờ trong miếu, nên ai cũng rùng mình dựng tóc gáy. Y nói xong bèn phi ngựa xuống núi, chạy nhanh qua mặt đại đội nhân mã.
Đột nhiên tên Thanh binh đi cuối cùng hét lên một tiếng, ngã lăn xuống đất, lập tức chết ngay. Cả đám kinh hãi chạy đến xem, thấy trên người hắn không có thương tích lại càng kinh ngạc, bàn tán xôn xao.
Tào Năng phái hai tên lính ở lại mai táng, còn đại đội tiếp tục lên núi. Chẳng bao lâu, phía trước lại có một con ngựa chạy nhanh tới, cũng chính là người vừa gặp. Y cũng lớn tiếng hô: “Này! Bọn rùa kia nghe đây! Các ngươi đã gặp phải ác quỉ rồi, mau mau quay về thì còn đường sống, nếu đi tiếp về hướng đông thì chết uổng mạng từng con rùa một.”
Ai cũng phải hoảng sợ. Rõ ràng y vừa xuống núi, bây giờ lại xuất hiện ở đây. Không có con đường nào đi vòng trở lại lên núi, mà nếu có thì cũng không thể nhanh như thế được. Chẳng lẽ y bay lên trời hay chui xuống đất?
Người kia nói xong, lại phi ngựa chạy xuống núi. Toàn bộ binh lính đều như gặp ác quỉ, dạt hết ra xa.
Chu Tổ Ấm xông đến, đưa đơn đao ra cản trở, hô lên: “Ông bạn, khoan đã!”
Người kia làm như không nghe thấy gì, đưa tay phải vỗ nhẹ lên vai Chu Tổ Ấm, thanh đơn đao loảng xoảng rơi ngay xuống đất. Y không quay đầu lại, cứ cho ngựa chạy nhanh xuống dưới núi. Lúc y vừa qua khỏi đại đội, tên lính đi cuối cùng của đoàn Thanh binh này lại kêu lên một tiếng thê thảm, rồi ngã lăn xuống đất mà chết. Bọn lính đều kinh hoảng, đứng ngẩn ra mà nhìn.
Trương Triệu Trọng hạ lệnh cho thị vệ canh giữ cỗ xe lớn, rồi đích thân tới nơi xem xét. Chu Tổ Ấm hỏi: “Trương đại nhân! Rút cuộc thì tên đó là người hay là quỉ?” Hắn xoa xoa bên vai bị thương, sắc mặt tái hẳn đi.
Trương Triệu Trọng bảo hắn cởi áo ra, thấy vai phải đen cả một vùng, hơi sưng lên. Họ Trương chau mày, lấy trong bọc ra một lọ thuốc, cho hắn nuốt một viên, rồi hạ lệnh cho binh lính cởi quần áo tên Thanh binh đã chết ra xem. Vết tử thương giống hệt như của họ Chu, sau lưng có một vùng da bị bầm xanh, rõ hình bàn tay năm ngón.
Binh lính nhốn nháo hẳn lên, kêu la: “Quỉ sờ vào rồi! Ma sờ vào rồi!” Bình Vượng sai hai tên lính ở lại mai táng người chết, nhưng hai tên này thà chết chứ không chịu ở lại một mình. Trương Triệu Trọng cũng không làm gì được, đành phải cho cả đại đội dừng lại, đợi chôn xác xong mới tiếp tục lên đường.
Thoại Đại Lâm hỏi: “Trương đại nhân! Tên này thật là kỳ lạ, sao vừa rời khỏi đã quay ra phía trước được?”
Trương Triệu Trọng cũng hoang mang không hiểu, suy nghĩ hồi lâu mới nói: “Chu huynh đệ! Đệ và hai tên lính kia rõ ràng bị thương vì Hắc Sa Chưởng. Trên giang hồ đâu có bao nhiêu hảo thủ về môn Hắc Sa Chưởng, sao ta lại không nhận ra được?”
Thoại Đại Lâm nói: “Nói về Hắc Sa Chưởng, đương nhiên Huệ Lữ đạo nhân của phái Thanh Thành là số một giang hồ. Nhưng Huệ Lữ đã chết lâu rồi, chẳng lẽ hồn ma của ông ấy xuất hiện hay sao?”
Trương Triệu Trọng vỗ đùi kêu lên: “Đúng rồi, đúng rồi! Đây là đồ đệ của Huệ Lữ đạo nhân, người ta gọi là Thường thị huynh đệ, Hắc Vô Thường Bạch Vô Thường. Ta cứ nghĩ là một người, bây giờ mới nhớ ra. Thì ra đôi huynh đệ song sinh này giả làm ma quỉ dọa người. Được, chúng ta sẽ đấu với cặp quỉ này một trận.”
Bọn chúng đều không biết Thường thị huynh đệ là nhân vật trong Hồng Hoa Hội. Thoại Đại Lâm, Thành Hoàng đã nghe danh tiếng Tây Xuyên Song Hiệp từ lâu, bây giờ đột nhiên gặp ở vùng tây bắc này. Chúng không biết mình đắc tội với họ từ lúc nào, mà vừa gặp nhau đã hạ sát thủ, nên trong lòng đều âm thầm nghi hoặc kinh hãi. Không tên nào muốn tỏ ra yếu kém, nên đều im lặng không lên tiếng.
Đêm đó nghỉ lại Hắc Tùng Tảo, Tào Năng phái binh lính tuần tra xung quanh, phòng thủ nghiêm mật. Sáng sớm hôm sau, hắn không thấy tên lính tuần nào trở về báo cáo, bèn cho người đi tìm. Thì ra toàn bộ binh lính tuần tra đã chết ngay tại chỗ, cổ mỗi tên quăng một xâu tiền. Thanh binh đều sợ đến vỡ gan vỡ mật, mười mấy tên đã lén bỏ trốn khỏi đại đội.
Hôm đó phải đi qua Ô Sào Lãnh. Đó là nơi hiểm trở nhất trên con đường từ Cam Túc về Lương Châu. Tào Năng cho binh lính nghỉ ngơi ăn uống no nê, để lấy sức trèo lên đỉnh núi. Đi được nửa ngày thì càng lúc càng lạnh, đường càng lúc càng hiểm trở. Lúc này mới đầu mùa thu, thế mà trên núi đã có tuyết rơi.
Một bên là vách núi cao, bên kia là thung lũng sâu thẳm không nhìn thấy đáy, đường trơn trợt vì tuyết. Bọn lính sắp hàng mà đi, nắm chặt tay nhau, sơ ý một chút là rơi ngay xuống thung lũng, xương cốt cũng không còn. Bọn thị vệ cũng xuống ngựa, bảo vệ cỗ xe lớn có Văn Thái Lai rất cẩn thận.
Mọi người đang thận trọng mà đi, dồn hết tinh thần vào đoạn đường vượt núi, đột nhiên nghe thấy sau ngọn núi phía trước phát ra những tiếng u ú như tiếng ma khóc quỉ gào. Một lúc sau, tiếng hú đó lại vang lên thảm thiết, vọng qua vọng lại trong thung lũng, ai nghe cũng dựng tóc gáy lên. Binh sĩ dừng chân lại hết.
Bây giờ tiếng hú nghe rất rõ ràng: “Đi tới phải gặp diêm vương… quay về có con đường sống…” Cứ thế lặp đi lặp lại liên hồi. Không tên lính nào dám tiến về phía trước.
Bình Vượng dẫn mười mấy binh sĩ xuống ngựa, xung phong tiến lên. Vừa qua khỏi eo núi, bỗng trước mặt có cung tên bắn tới. Một tên lính lập tức trúng tên vào ngực, kêu lên một tiếng rồi rơi xuống vực. Bình Vượng dẫn binh sĩ xông lên, nhưng đối phương bắn phát nào cũng trúng, lại thêm mấy người trúng tên mất xác.
Bọn lính Thanh phải nằm rạp xuống đất để tránh tên. Sau đó từ eo núi có một người bước ra, hú lên bằng giọng âm u lạnh lẽo: “Đi tới phải gặp diêm vương… quay về có con đường sống…” Bọn lính đều thấy đây chính là con quỉ vô thường ngày hôm qua, chỉ nhấc tay là giết được người. Mấy tên nhát gan nhất bỗng la lên một tiếng, quay người chạy trốn.
Tào Năng hô hoán om sòm, nhưng không thể nào quản thúc chúng được. Bình Vượng vung đao lên chém chết ngay một tên, bọn còn lại mới không dám chạy nữa. Sáu bảy tên chạy trước, chỉ chốc lát đã mất hút chẳng thấy đâu.
Trương Triệu Trọng bảo Thoại Đại Lâm: “Các ngươi canh giữ cỗ xe, để ta đi gặp anh em họ Thường.” Rồi y tách ra khỏi đám đông, tiến lên phía trước, nói dõng dạc: “Phía trước có phải là Thường thị song hiệp đấy không? Tại hạ Trương Triệu Trọng xin thi lễ. Hai bên xưa nay chưa từng quen biết, không oán không thù, tại sao các vị mấy lần trêu ghẹo chúng ta?”
Người kia cười nhạt, lên tiếng: “Ha ha! Hôm nay đúng là song quỉ gặp phán quan rồi.” Y cất bước đến gần, vù một tiếng, tay phải phóng ra một chưởng.
Nơi này địa thế rất hẹp, Trương Triệu Trọng không có chỗ tránh né, liền vận nội lực vào tay trái đón tiếp phát chưởng, còn tay phải thủ thế. Hai chưởng gặp nhau nghe bùng một tiếng, thì ra nội lực hai bên không phân biệt là bao. Trương Triệu Trọng dùng chân trái ra chiêu Hoành Vân Đoạn Phong quét lên phía trước. Người ấy né không kịp, bèn nhảy xổ tới, hai chưởng vỗ mạnh vào huyệt Thái Dương hai bên của Trương Triệu Trọng.
Họ Trương nghiêng mình, chân trái lập tức co lại, bước lên hai bước. Người đó cũng nghiêng người bước lên phía trước, thế là hai bên bước chéo qua mặt nhau trên con đường chật hẹp này. Hai bên đều dùng song chưởng công kích đối phương, bốn bàn tay chạm nhau trên không, mỗi người phải lùi mấy bước. Bây giờ vị trí đã thay đổi, Trương Triệu Trọng ở phía đông, người kia ở phía tây.
Hai người định thần một lúc, lại tiếp tục đấu chưởng. Bình Vượng đã chuẩn bị cung tên, nhắm người kia bắn ra một mũi. Người kia dùng tả chưởng chống đỡ một chưởng của Trương Triệu Trọng, tay phải chụp được mũi tên, ném ngược ra sau về phía Bình Vương. Bình Vượng cúi đầu tránh né, một tên lính Thanh thét lên một tiếng, bị tên ghim trúng vào vai.
Trương Triệu Trọng lên tiếng tán dương: “Thường thị song hiệp danh bất hư truyền!” Miệng khen, nhưng tay hắn vẫn không chậm lại chút nào. Đột nhiên hắn nghe sau lưng mình có tiếng vù vù, một chưởng đã đánh tới.
Trương Triệu Trọng đảo người tránh né, nhìn lại thì thấy một gã ốm yếu mặt vàng khè, diện mạo giống hệt người trước mặt. Hai con quỉ múa tít song chưởng, đánh nhanh như gió, ép phán quan vào giữa.
Thành Hoàng, Chu Tổ Ấm cũng chạy lên, thấy ba người ác chiến trên con dường chỉ rộng vài thước, bên bờ vực sâu thăm thẳm. Họ đứng sát người nhau mà đánh, hoàn toàn không còn chỗ để xoay chuyển. Lúc này hai trăm mấy chục người bọn Thành Hoàng có cũng như không, chẳng có cách nào bước lên trợ giúp một quyền một cước, chỉ còn biết hò hét trợ oai.
Ba người càng đánh càng khẩn trương, Trương Triệu Trọng thấy bốn bàn tay của địch thủ phát ra tiếng gió vù vù thanh thế kinh người, phải hết sức định thần chống đỡ từng chiêu một. Bỗng dưng một phát chưởng đánh lệch hướng, đập trúng vào vách núi làm đất đá rung chuyển rơi xuống. Một tảng đá lọt xuống vực sâu thăm thẳm, rất lâu tiếng vọng mới truyền lên.
Ác chiến hồi lâu, một người bên địch nghiêng vai huých vào Trương Triệu Trọng, hắn phải đảo người tránh né. Địch thủ kia tìm được một khoảng trống, bèn đứng tựa lưng vào vách đá hét lên một tiếng, phóng hữu chưởng ra.Đồng thời người kia cũng phóng chân trái lên, hai người sử dụng cả quyền lẫn cước muốn ép họ Trương rơi xuống vực sâu.
Trương Triệu Trọng thấy địch phóng cước đá tới, vội lùi lại nửa bước, chỉ còn nửa bàn chân đặt trên mép đường, còn nửa bàn chân đã lơ lửng ngoài bờ vực. Bọn Thanh binh đều kinh hãi kêu lên.
Lúc này phát chưởng kia đã ép sát tới mặt. Trương Triệu Trọng không còn chỗ để lùi, cũng không dám đón đỡ, nghĩ bụng: “Chưởng lực hai bên tương tự nhau, nếu đối chưởng thì đối phương chỉ tựa lưng vào vách đá là xong, còn mình chắc chắn sẽ rơi xuống vực sâu.” Trong lúc gấp rút hắn nảy ra một ý, liền thi triển cầm nã thủ pháp, xoay lẹ tay trái lại, bắt được cổ tay của đối phương, rồi hét một tiếng nhấc địch thủ lên. Người kia cũng lật tay lại chụp lấy cổ tay của Trương Triệu Trọng, nhưng vì hai chân đã bị nhấc lên khỏi đất nên không thể vận kình. Trương Triệu Trọng dùng hết sức giật mạnh, thế là một người rơi xuống vực sâu. Đó là thường Hách Chí trong Thường thị song hiệp. Quan binh nhà Thanh hoan hô rầm rĩ.
Thường Hách Chí thân thể lơ lửng giữa trời nhưng tâm trí vẫn không loạn, giữa không trung vội co hai chân lại, lộn đi một vòng cho thế rơi xuống chậm lại bớt. Mới lộn được nửa vòng, Thường Hách Chí đã lấy được phi trảo sau lưng ra, vẫy tay một cái hất phi trảo vọt thẳng lên. Lúc này phi trảo của Thường Bá Chí cũng đã vung ra, hai phi trảo quấn chặt lại như hai bàn tay nắm lấy nhau.
Thường Bá Chí không đợi anh trai rơi hết đà, vội giật mạnh một cái. Thường Hách Chí bay thẳng lên, rơi lại trên đường núi, cách đó mười mấy trượng. Đây là một kỹ xảo mà anh em họ đã rèn luyện từ hôi nhỏ.
Thường Bá Chí quay người lại, chắp tay nói: “Hỏa Thủ Phán Quan võ nghệ cao cường, thật là đáng phục!” Không ai thấy y khom lưng vận sức gì, thế mà thân thể bỗng bắn vọt lên không, nhảy lùi mấy trượng nắm lấy tay Thường Hách Chí, rồi hai anh em chạy đi mất hút. Sau đó Thường thị song nghiệp vẫn bám theo Trương Triệu Trọng, đến đâu cũng để lại ký hiệu, báo cáo tin tức của Văn Thái Lai cho các huynh đệ cùng biết.
Cả đội quan quân xúm lại, người thì khen ngợi Trương Triệu Trọng võ công tuyệt diệu, người thì luyến tiếc không ném chết được Thường Hách Chí. Trương Triệu Trọng không nói tiếng nào, tựa vào vách đá từ từ ngồi xuống.
Thoại Đại Lâm bước tới khen: “Võ công của Trương đại nhân tuyệt vời quá.” Rồi hắn hỏi nhỏ: “Trương đại nhân có bị thương hay không?”
Trương Triệu Trọng không trả lời ngay, cố gắng điều khí hồi lâu mới nói: “Không việc gì.” Hắn nhìn lại cổ tay mình có năm dấu ngón tay tím bầm khảm vào da thịt, giống như bị dây buộc chặt hay bị phỏng, bất giác run sợ trong lòng.
Thế là cả đoàn người kéo nhau qua khỏi Ô Sào Lãnh. Đêm đó lại thêm ba bốn chục tên lính bỏ trốn.
Trương Triệu Trọng thương nghị với Thoại Đại Lâm: “Trước mặt đã là thành Lan Châu, nhưng nhất định bọn kia không chịu cam lòng, còn gây nhiều phiền phức. Tốt nhất là bây giờ chúng ta đi đường nhỏ đến Hồng Thành, rồi qua sông ở Xích Sáo Độ để chúng không biết đường nào mà theo nữa.”
Tào Năng chỉ mong đi đến tỉnh thành để trút được gánh nặng này. Nghe Trương Triệu Trọng nói vậy, hắn rất muốn phản đối, nhưng không dám.
Trương Triệu Trọng nói thêm: “Dọc đường đã tổn thất nhiều binh lính. Khi trở về Tào đại nhân có thể báo cáo là anh em vì trung dũng mà tuẫn nạn, ta sẽ viết giấy chứng nhận cho.”
Tào Năng nghe vậy cả mừng. Theo lệ trong Binh Bộ, chiến sĩ trận vong đều được nhận tiền tử tuất. Số bạc này không có người nhận, đương nhiên sẽ lọt vào túi của quan thống binh.
Cả bọn đi về hướng sông Hoàng Hà, từ xa đã nghe tiếng nước chảy ầm ầm, mất nửa ngày nữa mới đến Xích Sáo Độ. Ở khúc sông Hoàng Hà này, hai bên bờ toàn là núi đá đỏ ngầu như máu, nên mới có địa danh đó. Lúc này trời đã tối, trong âm u vẫn thấy được nước sông Hoàng Hà cuồn cuộn đổ về đông, sóng vỗ ầm ầm vào bờ, nước sông đục ngầu, sùng sục như nồi canh nấu sôi.
Trương Triệu Trọng nói: “Đêm nay chúng ta phải qua sông. Tình thế rất hung hiểm, để chậm trễ chỉ sợ có chuyện không hay.”
Thượng nguồn sông Hoàng Hà nước chảy rất mạnh, không thể đi bằng thuyền gỗ được. Muốn vượt qua bến sông này, chỉ có thể dùng loại thuyền bằng da cừu. Quân lính đã để ý tìm cả nửa ngày mà không thấy chiếc thuyền da nào, bây giờ trời tối sẫm lại càng khó kiếm. Trương Triệu Trọng đang lo lắng, đột nhiên thấy trên thượng du có hai chiếc thuyền da cừu băng xuống nhanh như tên bắn. Bọn binh lính lớn tiếng hò hét, hai chiếc thuyền từ từ đi chậm lại rồi ghé sát bờ.
Bình Vượng hô lớn: “Này, thuyền phu! Ngươi đưa chúng ta qua sông, sẽ có trọng thưởng.”
Trên thuyền có một đại hán đứng lên, vẫy tay một cái.
Bình Vượng hỏi: “Ngươi bị câm hả?”
Người kia mắng: “Con mẹ nó. Bọn bay muốn lên thì lên cho nhanh, không lên thì thôi, ta mặc kệ.” Y nói thổ âm Quảng Đông nên không ai hiểu gì cả.
Bình Vượng cũng mặc kệ, mời Trương Triệu Trọng cùng bọn thị vệ áp tải Văn Thái Lai lên thuyền trước.
Trương Triệu Trọng nhìn người chèo thuyền, thấy đầu y trơn tru chẳng có bao nhiêu sợi tóc, nón sụp xuống che khuất nửa mặt, không nhìn rõ diện mạo. Thân hình y chắc nịch, thế đứng rất vững vàng, chứng tỏ sức lực không yếu. Mái chèo trong tay y lại đen thui, trông như thiết trượng chứ không giống gỗ.
Họ Trượng bất giác nghĩ bụng: “Mình không biết bơi, tốt nhất là cẩn thận một chút.” Hắn bèn nói: “Bình tham tướng! Huynh dẫn mấy tên lính qua đó trước đi.”
Bình Vượng dạ một tiếng rồi lên thuyền. Chiếc thuyền kia cũng có bảy tám tên lính leo lên. Thế nước chảy rất gấp, nên hai chiếc thuyền phải chèo ngược lên phía thượng du, được mấy trượng rồi mới xoay hướng ra giữa dòng sông. Hai gã chèo thuyền này rất quen sông nước, đưa bọn quan quân yên lành đến bờ bên kia rồi quay lại đón người khác. Lần này đến lượt Tào Năng, dẫn theo nhiều binh lính hơn.
Thuyền vừa rời khỏi bờ, đột nhiên phía sau vang lên một tiếng huýt sáo dài. Trương Triệu Trọng lập tức hạ lệnh cho binh sĩ tản ra, vây chặt quanh cỗ xe lớn, hết sức cảnh giác. Bây giờ mặt trăng mới nhô lên khỏi chân trời, cả một vùng lờ mờ dưới ánh trăng. Từ ba phía đông tây bắc, thưa thớt có mấy chục con ngựa chạy tới.
Đối phương xếp thành hình chữ nhất, từ từ tiến đến gần. Một thanh niên rẽ đám đông bước lên, tay không cầm binh khí, chỉ phe phẩy một chiếc quạt màu trắng, dõng dạc hỏi: “Có phải Hỏa thủ phán quan Trương Triệu Trọng đấy không?”
Trương Triệu Trọng đáp: “Chính là tại hạ. Các hạ là ai?”
Người kia mỉm cười nói: “Tứ ca của chúng ta đã được các hạ hộ tống đến đây. Bây giờ không dám làm phiền nữa, xin được đón về.”
Trương Triệu Trọng hỏi: “Các ngươi là người của Hồng Hoa Hội phải không?”
Người kia lại mỉm cười: “Người trong giang hồ chỉ tán tụng Hỏa Thủ Phán Quan võ công cái thế, nào ngờ còn liệu sự như thần. Đúng thế, chúng ta là nhân vật Hồng Hoa Hội.”
Nói đến đây, đột nhiên chàng huýt một tiếng sáo. Trương Triệu Trọng giật mình, rồi nghe hai gã đang chèo thuyền da cừu huýt sáo đáp trả.
Tào Năng ngồi trên thuyền lơ lửng giữa dòng, thấy địch nhân xuất hiện trên bờ đã hoảng hốt không biết làm gì, bây giờ nghe tiếng huýt sáo của người chèo thuyền thì sợ hãi đến mức mặt cắt không ra máu.
Người chèo thuyền đó quạt thiết trượng xuống sông, dừng thuyền lại rồi quát lên: “Con mẹ nó. Ta phải cho bọn chó má này xuống sông hết.”
Tào Năng nghe không hiểu tiếng Quảng Đông, chỉ biết giương mắt lên nhìn.
Thuyền bên kia cũng có thanh âm nữ nhân dõng dạc cất lên: “Thập tam đệ, ra tay đi!”
Người chèo thuyền bên này đáp gọn: “Được!”
Tào Năng liền múa thương đâm tới. Người chèo thuyền vung thiết trượng gạt ra, rồi trở trượng lại đập cho Tào Năng một phát, lọt xuống sông Hoàng Hà chìm nghỉm.
Hai người chèo thuyền cùng huy động binh khí, đánh rớt hết quan quân xuống sông, rồi quay thuyền vào bờ. Bọn Thanh binh tới tấp bắn tên, nhưng khoảng cách còn xa, trong đêm tối không sao bắn trúng được.
* * *
Trương Triệu Trọng âm thầm sợ hãi, tự khen mình cẩn thận, nếu không thì bây giờ đã biến thành con ma chết trôi sông Hoàng Hà rồi. Hắn cố gắng định thần rồi hét lên: “Bọn ngươi dọc đường sát hại nhiều binh lính, phạm tội ác không thể dung tha, bây giờ tự đến đây nộp mạng là hay lắm. Các ngươi là gì trong Hồng Hoa Hội?”
Người đối diện hắn chính là Trần Gia Lạc, tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội. Chàng mỉm cười đáp: “Các hạ không cần hỏi tên của ta làm gì. Chỉ cần nhận ra món binh khí này sẽ biết ta là ai.” Rồi chàng quay lại gọi: “Tâm Nghiễn! Lấy ra đây.” Tâm Nghiễn bèn mở bao, lấy hai món binh khí trao vào tay Trần Gia Lạc.
Mỗi khi quần hùng Hồng Hoa Hội gặp phải quan quân, theo thường lệ thì Chương Tấn và Vệ Xuân Hoa đi tiên phong đánh trận đầu. Nhưng phen này cứu người là gấp, phải đánh cho nhanh. Hơn nữa võ công Trương Triệu Trọng rất cao, anh em ai cũng muốn thử, nên Trần Gia Lạc phải đích thân ứng chiến. Chủ soái đã cho ngựa lên trước, bọn Vô Trần phía sau không tiện tranh giành nhau nữa.
Trương Triệu Trọng phi thân xuống ngựa, rút kiếm ra tay tiến lên mấy bước. Đột nhiên sau lưng y có một người bước lên nói: “Trương đại nhân! Để thuộc hạ đấu với hắn trước.”
Trương Triệu Trọng nhìn lại thấy ngự tiền thị vệ Chu Tổ Ấm, nghĩ bụng: “Cũng nên để hắn đánh thử một trận, xem thực hư của địch thế nào.” Y bèn lùi lại hai bước, bảo: “Chu huynh đệ phải cần thận.”
Chu Tổ Ấm xông lên quát lớn: “Cuồng phỉ cả gan, dám mạo phạm khâm sai.” Rồi hắn vung đao chém vào chân Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, tay trái cầm thuẫn bài cản trở. Dưới ánh trăng, Chu Tổ Ấm thấy kẻ địch sử dụng binh khí rất kỳ lạ. Trên cái thuẫn bài đó có khảm chín cái móc ngược sáng loáng, nhọn hoắt. Nếu để đơn đao chạm vào thuẫn bài, chắc chắn sẽ bị những cái móc đó khóa chặt, nên họ Chu trong lòng âm thầm kinh sợ, vội vã thu đao về. Thuẫn bài của Trần Gia Lạc nửa công nửa thủ, thuận thế đẩy tới. Chu Tổ Ấm xoay đao chém vào cánh tay trái địch thủ. Thuẫn bài của Trần Gia Lạc lật nghiêng lại, đưa những cái móc nghiêng cắt tới, Chu Tổ Ấm phải lùi lại hai bước.
Tay phải của Trần Gia Lạc vung lên, năm sợi dây đánh thẳng vào mặt địch thủ, ở đầu mỗi sợi dây có treo một quả cầu bằng thép. Chu Tổ Ấm cả kinh, biết lợi hại nên tung người định chạy, nào ngờ đã bị quất trúng sau lưng. Hắn thấy huyệt Chí Đường ở hậu tâm nhói lên một cái, thầm la: “Không xong!” rồi ngã xuống, đôi chân đã bị mấy sợi dây trói lại.
Trần Gia Lạc giật một cái nhấc bổng hắn lên, rồi thuận thế vung tay ra. Chu Tổ Ấm bay vèo ra phía trước, rõ ràng sắp đập đầu vào một tảng đá bên đường.
Trương Triệu Trọng vừa thấy thân pháp của địch nhảy xuống ngựa đã biết Chu Tổ Ấm không phải là đối thủ, nhưng không ngờ tên này mới hai chiêu ba thức đã bị quăng ra. Y vội nhảy tới chặn trước tảng đá, vung tay trái ra chộp được tóc của Chu Tổ Ấm, xách cổ hắn lên, vỗ vỗ lên đan điền và ngựa, giải huyệt đạo rồi nói: “Chu huynh đệ lùi lại, nghỉ ngơi một chút.” Chu Tổ Ấm đang sợ đến vỡ gan vỡ mật, ngẩn ngơ không nói được tiếng nào.
Trương Triệu Trọng rút cây Ngưng Bích Kiếm ra, tung người nhảy đến trước mặt Trần Gia Lạc rồi nói: “Không ngờ ngươi còn trẻ mà công phu đã đến thế này. Sư phụ của ngươi là ai?”
Tâm Nghiễn đứng cạnh la lên: “Không ngờ ngươi đã già mà công phu còn được thế này. Sư phụ của ngươi là ai?”
Trương Triệu Trọng giận dữ quát: “Con nít không biết gì, đừng ăn nói bừa bãi.”
Tâm Nghiễn nói: “Thì ra ngươi không biết binh khí của công tử nhà ta. Ngươi cúi đầu lạy ta ba cái, ta sẽ dạy cho ngươi biết.”
Trương Triệu Trọng không lý gì đến cậu bé nữa, vung kiếm đâm véo một tiếng vào bên phải Trần Gia Lạc. Mấy sợi dây trong tay Trần Gia Lạc vung ngược lên quấn lấy lưỡi kiếm, thuẫn bài bên tay trái đưa ra đẩy vào mặt hắn. Trương Triệu Trọng dùng Ngưng Bích Kiếm thi triển Nhu Vân kiếm thuật. Kiếm chiêu của hắn rất mềm mại, lấy ngắn chống dài, có công có thủ, kịch đấu với hai món binh khí kỳ lạ của đối phương.
Lúc này hai người chèo thuyền đã lên bờ, tiến sát tới bọn lính nhà Thanh. Bọn lính Thanh bắn tới rất nhiều, nhưng đều bị hai người gạt ra hết. Người đi trước chính là Đồng đầu ngạc ngư Tưởng Tứ Cân. Người đi sau đã cởi nón bỏ áo tơi, để lộ bộ y phục trắng, tay cầm Uyên Ương song đao, chính là Lạc Băng.
Tưởng Tứ Cân múa cây thiết trượng xung phong vào giữa đám quan binh, Lạc Băng tiến sát theo sau, chạy thẳng đến cỗ xe lớn. Hai tên đứng đầu đã bị thiết trượng đánh văng óc ra ngoài, bọn còn lại đều dạt ra nhường lối. Thành Hoàng vội xách cây tề mi côn chạy tới ngăn trở, đánh nhau với Tưởng Tứ Cân.
Lạc Băng chạy tới bên chiếc xe lớn, vén màn xe kêu lên: “Đại ca, huynh ở đây phải không?”
Nào ngờ trong chiếc xe này là Dư Ngư Đồng đang bị trọng thương. Chàng mơ hồ nghe thấy âm thanh của Lạc Băng như từ xa vẳng tới, cho rằng mình đã chết rồi nên mới được gặp nàng ở âm phủ, bèn mừng rỡ hỏi: “Tỉ cũng đến đây rồi ư?”
Lạc Băng nghe thanh âm không phải của chồng, nhưng cũng hơi quen thuộc. Nhưng nàng đang vội nên không kịp suy nghĩ kỹ, lại chạy tới cỗ xe lớn tiếp theo. Nàng đang đưa tay định vén màn xe lên, bỗng một lưỡi đao răng cưa từ bên tay phải bất ngờ chém tới. Lạc Băng vội dùng đoản đao bên tay phải cản lại, còn trường đao bên tay trái liên tiếp xuất hai chiêu chém vào vai phải và chân phải của đối phương.
Đao pháp của nàng tương truyền được truyền lại từ Hàn Thế Trung đời nhà Tống. Mỗi khi Hàn tướng quân ra trận đại chiến với Kim binh, tay phải cầm trường đao, tay trái cầm đoản đao, quân Kim chết dưới tay ông nhiều không sao đếm xuể. Nhưng tay trái của Lạc Băng linh hoạt hơn tay phải, nên phụ thân nàng là Thần đao Lạc Nguyên Thông hoán đổi hai thanh đao để dạy cho nàng.
Trường đao bên phải của nàng vừa nặng nề vừa ác hiểm, sử những chiêu thức của đơn đao bình thường. Còn đao bên tay trái lại biến hóa vô cùng khiến người ta khó mà lường biết được, đáng gọi là tuyệt kỹ của võ lâm Giang Nam.
Dưới ánh trăng Lạc Băng đã nhìn rõ diện mạo của kẻ địch, chính là một trong tám tên thị vệ đã vây bắt chồng mình ở Túc Châu. Trong lòng nàng giận dữ vô cùng, thế đao càng gấp rút. Thoại Đại Lâm cũng đã từng mục kích tuyệt kỹ phi đao của nàng, vội vã múa tít cây đao răng cưa chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, quyết không để nàng rảnh tay phóng phi đao. Giao đấu một lúc thì có hai tên thị vệ đến trợ chiến, rồi quan binh tứ phía đều ùa tới bao vây Tưởng Tứ Cân và Lạc Băng vào giữa.
Một tiếng huýt sáo vang lên, bốn con ngựa từ phía đông bắc phi thẳng tới. Người chạy đầu chính là Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa, theo sau là Chương Tấn, Dương Thành Hiệp và Chu Ỷ.
Vệ Xuân Hoa múa song câu bảo vệ trước mặt, ruổi ngựa chạy đến rất gấp. Dưới ánh trăng mờ, con huyền mã như một luồng khói đen phi thẳng vào giữa trận quân Thanh, bất chấp cơn mưa tên bắn tới. Nó trúng tên vào cổ, đau quá điên cuồng phóng tới, chân trước đã xéo lên ngựa một tên lính. Vệ Xuân Hoa bèn tung người xuống ngựa, song câu tới đâu thì ở đó có tiếng kêu la thảm thiết vang lên, trước ngực hai tên thị vệ đã thấm ướt máu tươi.
Song câu của Vệ Xuân Hoa đâm đến sau lưng Thoại Đại Lâm, hắn đành bỏ Lạc Băng để quay lại đón đỡ. Tiếp theo Chương Tấn cũng chạy tới nơi. Bọn quan binh không sao chống đỡ nổi, bị ba người đánh chạy tứ tán.
Trong lúc hỗn chiến bỗng thấy một cây tân thiết côn bay lên trời. Thì ra Tưởng Tứ Cân đánh nhau với Thành Hoàng một hồi bất phân thắng bại, trong lòng đã bực bội. Y thấy Thành Hoàng đánh một côn xuống đầu mình, bèn dùng toàn lực vung thiết trượng quạt ngược lên. Côn trượng chạm nhau, cổ tay của Thành Hoàng rung động muốn gãy. Côn thì rời khỏi tay, người thì quay lưng chạy trốn.
Tên thị vệ đang giao đấu với Lạc Băng đã bị đoản đao đâm trúng hai nhát, nhưng chưa chịu chạy mà còn ác chiến. Đột nhiên hắn nghe thấy sau gáy có tiếng gió vội quay đầu lại, thấy một cây cương tiên đánh từ trên đầu xuống, liền đưa đao cản trở. Không ngờ lực đạo của đối phương quá trầm trọng làm đao dội lại, cả đao và tiên đánh xuống mặt mình. Hắn vội lộn ra ngoài thoát được, nhưng sau lưng đã bị đá cho một cước rất nặng.
Lạc Băng rảnh tay thoát ra khỏi vòng chiến, vội chạy đến chiếc xe lớn thứ hai, mở màn xe lên. Nàng đã thất vọng mấy lần, lần này không dám lên tiếng nữa. Nhưng người ngồi trong xe lại kêu lên: “Ai vậy?”, thanh âm ấm áp ngọt ngào không thể nào diễn tả được. Câu này vừa lọt vào tai Lạc Băng, nàng đã lập tức chui vào trong chiếc xe, ôm lấy cổ của Văn Thái Lai khóc nức nở, không nói nên lời.
Văn Thái Lai đột nhiên thấy mặt vợ yêu, vô cùng mừng rỡ, chỉ hiềm hai tay bị trói nên không cách nào ôm lấy nàng vỗ về an ủi. Hai người ở trong xe quên mất thời gian, chỉ mong đất trời cứ thế không bao giờ thay đổi. Tiếng hò hét chém giết, tiếng va chạm binh khí bên ngoài hoàn toàn không khiến họ bận tâm.
Qua một hồi cỗ xe bỗng nhúc nhích, Chương Tấn thò đầu vào trong gọi: “Tứ ca! Bọn đệ đón huynh về.”
Văn Thái Lai kêu lên: “Mau đi cứu Thập tứ đệ.” Chương Tấn như không để ý, cứ leo lên ghế đánh xe, nhanh chóng cho xe chạy về hướng bắc. Mấy tên thị vệ liều chết xông tới nhưng bị bốn người Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Tưởng Tứ Cân, Chu Ỷ ngăn cản đành phải lùi về, hô hào phóng tiễn. Mấy chục tên lính Thanh dương cung tên, trong đêm tối Dương Thành Hiệp bỗng kêu lên một tiếng, vai trái đã trúng tên.
Vệ Xuân Hoa giật mình hỏi: “Bát ca làm sao rồi?”
Dương Thành Hiệp dùng răng cắn chặt đuôi tên, tay trái hất mạnh một cái đã nhổ được tên ra, giận dữ thét: “Giết hết bọn nô tài này đi.” Y mặc kệ vết thương đang chảy máu, vung cương tiên lên cao xông thẳng vào trận lính Thanh.
Vệ Xuân Hoa cũng hô lên: “Hay lắm! Giết nữa đi!” Hai người sát cánh tiến lên, chỉ chốc lát đã có bảy tám tên lính Thanh bị cương tiên và song câu đả thương, số còn lại chạy tứ tán. Hai người giết từ đông qua tây, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương cũng đến nơi tiếp ứng. Một loạt đạn Mạnh Kiện Hùng bắn ra là mười mấy tên lính Thanh sưng mắt sưng mũi, kêu khổ vang trời.
Tưởng Tứ Cân cùng Chu Ỷ lo bảo vệ cỗ xe lớn. Chương Tấn dong xe đến bên một quả đồi nhỏ thì dừng lại, chăm chú xem Trần Gia Lạc đấu với Trương Triệu Trọng.
Văn Thái Lai hỏi: “Bên ngoài đánh nhau thế nào rồi?”
Lạc Băng đáp: “Tổng đà chủ đang tỉ đấu với Trương Triệu Trọng.”
Văn Thái Lai hết sức kinh ngạc hỏi: “Tổng đà chủ nào?”
Lạc Băng đáp: “Thiếu đà chủ của chúng ta đã nhận chức tổng đà chủ rồi.”
Văn Thái Lai mừng rỡ nói: “Vậy thì hay lắm. Gã Trương Triệu Trọng này võ công rất cao cường, đừng để tổng đà chủ thiệt thòi.” Lạc Băng thò đầu ra ngoài xe, dưới ánh trăng chỉ thấy hai người xoay qua chuyển lại, ác chiến chưa phân cao thấp.
Văn Thái Lai hỏi liên tục: “Tổng đà chủ có đối phó được không?”
Lạc Băng nói: “Binh khí của tổng đà chủ rất lợi hại. Tay trái cầm thuẫn bài, trên thuẫn có những móc nhọn hướng ngược. Còn tay phải cầm năm sợi dây, đầu dây còn có năm quả cầu thép. Huynh nghe đi, có tiếng dây rít vù vù đó.”
Văn Thái Lai hỏi: “Trên đầu dây có cương cầu, thế thì tổng đà chủ có thể dùng dây đả huyệt hay sao?”
Lạc Băng đáp: “Đúng thế. Trương Triệu Trọng đang bị năm sợi dây bao vây bốn phía.”
Văn Thái Lai lại hỏi: “Tổng đà chủ còn sung sức hay không? Nghe âm thanh thì hình như mấy sợi dây đó chậm lại rồi.”
Lạc Băng không đáp ngay, đột nhiên nhảy chồm lên kêu lớn: “Hay lắm! Trường kiếm của Trương Triệu Trọng đã bị thuẫn bài khóa chặt rồi. Úi chà! Hắn không sao thoát khỏi sợi dây này được nữa rồi. Trời ơi! Hỏng bét! Hỏng bét!”
Văn Thái Lai vội hỏi: “Cái gì hỏng bét?”
Lạc Băng nói: “Thì ra hắn dùng một thanh bảo kiếm, chém đứt hai cái móc trên thuẫn bài rồi. Không xong! Sợi dây cũng bị bảo kiếm cắt đứt rồi! Tổng đà chủ tay không đánh với Trương Triệu Trọng thì không được, hắn quả thật hung hãn. Hay lắm! Vô Trần đạo trưởng tiến lên rồi, tổng đà chủ đã lùi ra.”
Văn Thái Lai đã biết kiếm pháp của Vô Trần đạo trưởng lợi hại vô cùng, độc nhất vô nhị, bây giờ mới yên tâm hơn nhưng lòng bàn tay đã đẫm mồ hôi lạnh. Nghe thấy mọi người hô vang lên, Văn Thái Lai lại hỏi: “Sao rồi?”
Lạc Băng nói: “Đạo trưởng thi triển Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm cực kỳ mau lẹ, Trương Triệu Trọng phải liên tiếp lùi bước.”
Văn Thái Lai hỏi: “Muội xem có phải chân hắn đang chạy theo phương vị bát quái hay không?”
Lạc Băng đáp: “Hắn từ cung Ly đạp vào cung Càn, bây giờ lại đi vào cung Khảm, đạp qua cung Chấn. Không sai! Ca ca, làm sao mà ca ca biết được?”
Văn Thái Lai nói: “Người này võ công hết sức cao cường, ta đoán hắn không phải bị bức phải rút lui đâu. Nghe nói trong Nhu Vân Kiếm Pháp của phái Võ Đang có một đường kiếm chuyên về thế thủ, làm tiêu giảm sức tấn công lợi hại của địch trước rồi mới phản kích sau. Khi thi triển lộ kiếm pháp này thì chân phải đi đúng hình bát quái. Đáng tiếc, đáng tiếc!”
Lạc Băng hỏi: “Đáng tiếc chuyện gì?”
Văn Thái Lai đáp: “Tiếc là ta không được thấy. Người rất giỏi võ công mới hiểu lộ kiếm pháp này, mà họ phải gặp cường địch thật sự mới đem ra sử dụng. Vì thế mà đường kiếm đó ít ai được thấy hai lần.”
Lạc Băng tìm lời an ủi: “Lần sau muội sẽ xin Lục lão tiền bối tỉ kiếm với đạo trưởng một trận, để huynh xem một cách rõ ràng.”
Văn Thái Lai cười ha hả: “Họ đâu có trẻ con như muội.”
Lạc Băng đưa hai tay quàng qua cổ Văn Thái Lai, đột nhiên kêu lên: “Đạo trưởng đã sử dụng chân rồi. Liên Hoàn Mê Tung Thối của đạo trưởng cực kỳ xảo diệu.”
Văn Thái Lai nói: “Đạo trưởng đã mất cánh tay trái, nên công phu ở chân phải luyện đến mức xuất thần nhập hóa để bổ sung cho khiếm khuyết trên tay. Năm xưa ông ấy chỉ sử dụng đôi chân cũng đủ thu phục Thanh Tỳ Bang.”
Thời trẻ Vô Trần đạo trưởng lăn lộn trong chốn lục lâm, cướp giàu giúp nghèo gây ra vô số vụ án lớn. Võ công của ông cao cường, huynh đệ dưới tay lại rất đông, quan phủ không làm gì được. Có lần ông gặp một tiểu thư con nhà quan, rồi đem lòng luyến ái. Tiểu thư không thực lòng với Vô Trần, lại bị cha xúi giục, nên một đêm Vô Trần lén lút tới gặp, cô ả đã nói: “Huynh đối với muội chỉ là đùa cợt mà thôi, chẳng thành tâm chút xíu nào.” Vô Trần lập tức nặng lời thề thốt. Cô ả nói: “Nam nhân các người ai cũng nói miệng là giỏi. Lâu lắm huynh mới đến thăm muội một lần, muội thấy huynh không đủ thành ý. Nếu huynh thật sự yêu muội thì hãy chặt đứt một cánh tay cho muội xem. Có cánh tay của huynh lúc nào cũng kề cận bên mình, thì muội sẽ không cảm thấy cô đơn nữa.” Vô Trần không nói tiếng nào, rút kiếm chặt đứt cánh tay trái của mình. Không ngờ trên lầu của tiểu thư đã có rất nhiều quan binh mai phục, lập tức ùa tới. Vô Trần đau quá ngất xỉu dưới đất, không sao chống đỡ được nữa.
May mà anh em dưới tay của Vô Trần phá vỡ được thành trì cứu ông ra, rồi lại bắt hết gia đình tiểu thư này để ông xử lý. Mọi người cứ tưởng Vô Trần sẽ giết sạch bọn chúng, chỉ để lại tiểu thư làm vợ. Nào ngờ khi nhìn thấy người đẹp ông lại mềm lòng, bảo mọi người thả cả cô ả lẫn người nhà, còn chính mình thì bỏ đi ngay trong đêm đó, xuất gia làm đạo sĩ.
Tuy đã xuất gia mà bản tính ông vẫn không thay đổi, phóng khoáng hành hiệp giang hồ, rồi được lão đương gia Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội mời về làm phó thủ. Có lần Hồng Hoa Hội cùng Thanh Tỳ Bang tranh chấp một việc, về lý thì hai bên không ai nhường ai, chỉ còn cách dựa vào vũ lực mà quyết định. Có người trong Thanh Tỳ Bang chê cười Vô Trần chỉ có một cánh tay, ông bèn giận dữ nói: “Cho dù ta không có tay đi nữa, thì chín mười người như ngươi ta cũng không coi vào đâu.”
Vô Trần liền lấy dây tự trói cánh tay phải còn lại ra sau lưng, thi triển Liên Hoàn Mê Tung Thối đá té nhào mấy đương gia của Thanh Tỳ Bang. Mọi người trong Thanh Tỳ Bang đều tâm phục khẩu phục, tham gia vào Hồng Hoa Hội. Thiết tháp Dương Thành Hiệp vốn là bang chủ Thanh Tỳ Bang, vào Hồng Hoa Hội được ngồi ghế thứ tám.
Lạc Băng nói: “Thế thì hay quá! Huynh xem kìa, bộ pháp của Trương Triệu Trọng bị đạo trưởng đá cho loạn xạ rồi, không đạp chuẩn phương vị bát quái nữa.”
Văn Thái Lai mừng rỡ nói: “Từ khi đạo trưởng thành danh tới nay chưa từng gặp địch thủ. Lần này phải để Trương Triệu Trọng biết mùi lợi hại của Hồng Hoa Hội.”
Chàng chưa nói dứt câu, đột nhiên Lạc Băng khẽ kêu một tiếng, Văn Thái Lai vội hỏi: “Lại có chuyện gì thế?”
Lạc Băng đáp: “Đạo trưởng đang vội né tránh. Không biết Trương Triệu Trọng đã phóng ra ám khí gì, hình như rất nhỏ, trong bóng tối nhìn không rõ.”
Văn Thái Lai định thần lắng tai, chỉ nghe những tiếng vi vu nhỏ xíu bèn trả lời: “Đây là Phù Dung Kim Châm, ám khí lợi hại nhất của phái Võ Đang.” Lúc này cỗ xe lớn đã lùi thêm mấy bước.
Lạc Băng nói: “Đạo trưởng múa kiếm đến mức gió mưa cũng khó lọt vào, bảo vệ toàn thân nên kim châm bị đánh bay tứ tán, mọi người đều phải lùi ra sau tránh né. Hình như kim châm đã hết phóng rồi, hai người lại đánh với nhau. Đạo trượng vẫn ở thế thượng phong, nhưng Trương Triệu Trọng phòng thủ nghiêm mật nên đánh mãi không thắng.”
Văn Thái Lai bảo: “Mau cởi trói cho ta.”
Lạc Băng mỉm cười nói: “Đại ca xem đó, muội mừng quá thành hồ đồ mất rồi.” Nàng liền lấy dao cắt đứt dây trói, rồi nhẹ nhàng xoa xoa cổ tay của chàng cho máu lưu thông.
Đột nhiên ở phía ngoài vang lên những tiếng tinh tang, tiếp theo là những tiếng hét dữ dội. Lạc Băng thò đầu ra ngoài, cũng kêu lên: “Hỏng rồi! Thanh kiếm của đạo trưởng đã bị đối phương chặt đứt. Kiếm của tên họ Trương tốt quá. Đại ca, muội đã cướp được một con ngựa rất tốt, sau này sẽ tặng cho huynh cưỡi.” Tình hình rối ren thế này mà nàng cũng đột nhiên nghĩ đến con ngựa trắng đó.
Văn Thái Lai cười: “A đầu ngốc này, gấp gì chuyện đó. Mau mau xem đạo trưởng thế nào rồi.”
Lạc Băng đáp: “Bây giờ thì yên rồi. Đạo trưởng đá trúng hắn một cước rồi lùi ra. Triệu tam ca xông vào.”
Văn Thái Lai nghe Vô Trần đạo trưởng thóa mạ ầm ĩ, dùng toàn những lời thô tục thì cười nói: “Đạo trưởng là người xuất gia, không ngờ đến lúc tức giận vẫn lớn tiếng như thế. Muội thử dìu ta ra ngoài, để ta xem Tam ca thi triển ám khí.”
Lạc Băng đưa tay đỡ chồng dậy, nào ngờ vết thương trên đùi và trên vai của chàng rất nặng, vừa động đậy một chút đã đau dữ dội, không nhịn nổi phải rên lên một tiếng. Lạc Băng bảo: “Ca ca cứ nằm yên ở đây, để muội nói cho ca ca nghe.”
Nghe những tiếng rú rít liên hồi, Văn Thái Lai bèn nói: “Đây là tụ tiễn, phi hoàng thạch… Ám khí gì cũng sử dụng hết rồi. Cái gì? Trương Triệu Trọng cũng dùng tụ tiễn và phi hoàng thạch ư? Vậy thì lạ quá!”
Lạc Băng nói: “Hắn dùng tay đón bắt ám khí của Triệu đại ca, rồi phóng trả lại. Úi chà, hay quá! Giống như trời mưa vậy, không hổ danh Thiên Tí Như Lai. Cương tiêu, thiết liên tử, kim tiền tiêu… muội nhìn không rõ nữa, nhiều quá. Gã họ Trương kia đón bắt không kịp, nhưng tiếc là hắn vẫn tránh được.”
Đột nhiên nghe vèo một tiếng, một mũi xà dương tiễn sáng loáng khác thường bắn về phía Trương Triệu Trọng, ánh sáng chiếu cả vào thùng cỗ xe lớn. Văn Thái Lai thoáng thấy khuôn mặt ửng hồng của vợ, sung sướng không sao tả xiết. Chàng động lòng khẽ gọi: “Muội muội!” Lạc Băng quay đầu lại mỉm cười, nụ cười chưa dứt ánh sáng đã vụt tắt.
Triệu Bán Sơn thừa lúc ánh sáng soi rõ Trương Triệu Trọng mà phóng liền hai loại độc môn ám khí, Hồi Long Bích và Phi Yến Ngân Thoa.
Triệu Bán Sơn là người Ôn Châu tỉnh Triết Giang. Thời thiếu niên, ông đã từng theo cha chú đi buôn bán vùng Nam Dương, thấy dân ở đó sử dụng một loại khí giới cực kỳ xảo diệu để săn bắn, sau khi ném ra có thể bay ngược trở về. Sau này ông vào học nghệ ở Thái Cực Môn nhà họ Vương ở Ôn Châu, đặc biệt xuất sắc về môn ám khí. Một hôm ông nhớ lại hồi nhỏ được thấy món vũ khí phóng ra có thể bay về, tự nghĩ có thể biến nó thành một loại ám khí kỳ diệu. Qua rất nhiều lần thí nghiệm và luyện tập, ông chế được một loại phi tiêu bằng thép tinh luyện, cong cong như thước thợ, đặt tên là Hồi Long Bích.
Phi Yến Ngân Thoa cũng là một loại độc môn ám khí do họ Triệu sáng chế. Cao thủ nào cũng phải nghiên cứu tỉ mỉ về phương pháp phóng ám khí và tránh ám khí, những loại ám khí bình thường khó mà đả thương họ được. Nhưng Phi Yến Ngân Thoa lại có chỗ xảo diệu bên trong.
Trương Triệu Trọng đưa kiếm sang tay trái để gạt các loại ám khí nhỏ như thiết liên tử, bồ đề tử, kim tiền tiêu, còn tay phải lia lịa đón bắt những loại ám khí lớn hơn như cương tiêu, tụ tiễn, phi hoàng thạch để ném trả lại. Dĩ nhiên hắn còn cúi xuống nhảy lên, né trái tránh phải, thứ nào bay đến không tránh kịp mới đón lấy. Trong lòng hắn cũng âm thầm kinh hãi: “Không biết người này có bao nhiêu loại ám khí, phóng mãi không hết. Thật là lợi hại!”
Trong lúc tay chân họ Trương luống cuống, đột nhiên có một mũi tiêu trắng xóa cong cong bay tới, tiếng rít gió rất lạ tay. Hắn sợ trên mũi ám khí này có độc nên không dám chụp ngay, đưa tay nhằm bắt lấy đuôi của nó. Không ngờ Hồi Long Bích giống như một con vật sống, lượn ra khỏi tay hắn rồi bay ngược trở về. Triệu Bán Sơn đón lấy, lại phóng qua tiếp. Trương Triệu Trọng đang hoảng hồn không dám đón bắt nữa, dùng Ngưng Bích Kiếm gạt đi.
Đột nhiên hắn lại nghe thấy tiếng gió, hai mũi ngân thoa chia hai bên tả hữu đánh tới. Trương Triệu Trọng nhìn chuẩn đường đến, tung người nhảy lên một trượng cho hai chiếc ngân thoa bay qua dưới chân. Không ngờ lại nghe hai tiếng keng keng, phần đuôi ngân thoa rơi xuống đất, lò xo bên trong bật ra làm mũi thoa khởi động lại. Ngân thoa đột nhiên chuyển hướng giữa không trung, bắn thẳng lên.
Trương Triệu Trọng thầm kêu: “Không xong!” rồi vội đưa tay chắn dưới bụng, đón được một chiếc ngân thoa. Hắn vận nội lực cho lòng bàn tay hơi co lai, thế ngân thoa đã yếu nên không làm tổn thương da thịt. Còn mũi ngân thoa kia thì không tài nào tránh được, cuối cùng cũng đâm thủng chân hắn. Trương Triệu Trọng khẽ la lên một tiếng.
Triệu Bán Sơn thấy đối thủ đã bị thương, lập tức vung kiếm tấn công. Trương Triệu Trọng đưa kiếm cản trở. Triệu Bán Sơn biết cây Ngưng Bích Kiếm của y là lợi khí, không để hai lưỡi kiếm chạm nhau mà xoay nghiêng kiếm của mình đi, ép vào thân của Ngưng Bích Kiếm, vận dụng quyết chữ Miên trong Thái Cực Kiếm kéo thanh Ngưng Bích Kiếm lệch đi mấy tấc.
Trương Triệu Trọng lại giật mình: “Người này ám khí đã lợi hại mà kiếm pháp cũng điêu luyện không kém.” Trong lòng hắn đã có phần sợ sệt.
Hắn định trông vào võ nghệ cao cường của mình để đánh bại hết đối thủ, nào ngờ liên tiếp gặp phải kình địch. Nếu không nhờ báu kiếm trong tay, thì chỉ riêng đạo nhân cụt tay hắn cũng không sao địch nổi. Lúc này chân hắn đã bị thương không dám ham chiến, đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy đám thị vệ và quan binh chạy tứ tán, cỗ xe lớn nhốt Văn Thái Lai cũng bị đoạt mất rồi.
Hắn vội vã xuất luôn ba chiêu liên hoàn ép Triệu Bán Sơn lùi mấy bước, rồi nhổ ngân thoa cắm dưới chân phóng trả ông. Triệu Bán Sơn cúi đầu né tránh, họ Trương tranh thủ vọt thẳng đến chỗ chiếc xe lớn.
Lạc Băng thấy Trương Triệu Trọng bị ám khí của Triệu Bán Sơn đánh cho luống cuống tay chân, mừng rỡ đến mức nhảy múa trong xe. Văn Thái Lai hỏi: “Thập tứ đệ đâu? Y bị thương có nặng lắm không? Mọi người mau mau đi cứu Thập tứ đệ!”
Lạc Băng hỏi lại: “Thập tứ đệ bị thương rồi ư?” Nàng hỏi chưa xong, Trương Triệu Trọng đã chạy đến nơi. Lạc Băng quát một tiếng, đưa song đao ra cản trở trước xe. Quần hùng thấy Trương Triệu Trọng đến gần, liền kéo đến vây chặt.
Chu Trọng Anh chạy ra cản giữa đường, vung cây kim bối đại đao hét lên: “Tên tặc tử này dám đến Thiết Đảm Trang bắt người, chẳng nể mặt lão phu chút nào. Món nợ này hôm nay phải tính toán cho xong.”
Trương Triệu Trọng thấy ông đầu tóc bạc phơ, khí độ hào sảng, qua khẩu khí biết đó là Thiết đảm Chu Trọng Anh, nhân vật lãnh tụ của võ lâm tây bắc. Hắn không dám chậm trễ, phóng kiếm đâm tới ngay. Chu Trọng Anh xoay ngược đại đao đỡ lấy nhát kiếm. Trương Triệu Trọng chỉ nhẹ nhàng chém xuống, thế mà sống đao đã mẻ một đường sâu đến hơn một tấc.
Lúc này Chu Ỷ, Chương Tấn, Từ Thiên Hoằng và Thường thị song hiệp đều cầm vũ khí bao vây bốn mặt. Trương Triệu Trọng thấy đối phương đông người, bèn vung Ngưng Bích Kiếm ra chiêu Vân Hoành Tần Lĩnh, vạch một đường tròn trên không trung. Mọi người kiêng nể thanh báu kiếm của y, đều rút binh khí lại.
Trương Triệu Trọng quyết định tấn công vào chỗ yếu, bèn nhắm thẳng Chu Ỷ xông tới. Chu Ỷ vung đao chém từ trên đầu xuống, tay trái của Trương Triệu Trọng vừa đưa ra đã nắm được cổ tay nàng, xoay một cái đoạt được thanh nhạn linh đao của Chu Ỷ.
Chu Trọng Anh kinh hãi, bắn ngay hai viên thiết đảm tới sau lưng Trương Triệu Trọng. Ngay lúc này ba con cờ vây của Trần Gia Lạc cũng bay vèo tới, đánh vào ba huyệt Thần Phong, Quan Nguyên, Khúc Trì của Trương Triệu Trọng.
Trương Triệu Trọng nghĩ thầm: “Không ngờ trời tối như mực mà đối phương vẫn nhận huyệt chính xác như thế.” Hắn vẫy kiếm gạt bay cả ba quân cờ, rồi lại nghe tiếng gió gấp rút, thiết đảm đã đến gần.
Trương Triệu Trọng nghe tiếng biết được phương hướng, xoay người toan chụp lấy viên thiết đảm tới trước. Nào ngờ bụp một tiếng, ngực hắn đã bị viên thiết đảm kia bắn trúng. Tuy hắn biết Chu Trọng Anh thành danh nhờ thiết đảm, nhưng chưa rõ lắm về độc môn công phu này. Hai viên thiết đảm bắn ra, viên trước thế đi chậm rãi còn viên sau lại bay tới gấp rút. Nhìn thì thấy một viên trước một viên sau, không ngờ viên bắn sau lại đến trước. Địch đang lo tránh né viên thiết đảm đi trước, thì viên đi sau đột ngột tăng tốc bay tới, không sao trở tay kịp.
Trương Triệu Trọng bất ngờ thấy trước ngực đau nhói, thân hình lắc lư một cái, không dám thở mạnh. Hắn buông cổ tay Chu Ỷ, vung hai tay hai bên gạt Chương Tấn và Từ Thiên Hoằng phía trước tránh ra, rồi nhảy xổ tới cỗ xe lớn.
Lạc Băng thấy hắn chạy tới, liền cầm trường đao chém vào chân. Kiếm chiêu của Trương Triệu Trọng mau lẹ khác thường, keng một tiếng đã chặt đứt trường đao. Hắn thừa thế nhảy lên xe, nắm lấy vai phải của Lạc Băng.
Lạc Băng bị nắm chặt vai phải nên không sử dụng được đoản đao, cố dùng tả quyền đánh vào mặt hắn. Quần hùng kinh hãi, tới tấp chạy tới cứu viện. Trương Triệu Trọng túm lấy lưng Lạc Băng, ném về phía Thường thị song hiệp và Chu Trọng Anh. Thường thị song hiệp sợ nàng bị thương, vội vàng đỡ lấy.
Đột nhiên Trương Triệu Trọng hự lên một tiếng, thì ra sau lưng đã bị trúng chưởng của Văn Thái Lai. Văn Thái Lai đang bị trọng thương nên công lực giảm đi rất nhiều, dù vậy Trương Triệu Trọng vẫn tối sầm trước mắt, đau thấu tâm can. Hắn không kịp quay người, xoay tay trái giật cái chăn đang đắp trên người Văn Thái Lai để cản trở chưởng thứ hai, còn tay phải túm lấy huyệt Thần Tàng của Văn Thái Lai, kéo chàng đến cửa xe hét lên: “Văn Thái Lai ở đây! Ai dám lên đây thì ta phải giết hắn trước.” Thanh Ngưng Bích Kiếm tỏa kiếm khí lạnh ngắt ép người, nhấp nháy ngay trên cổ Văn Thái Lai.
Trương Triệu Trọng còn muốn nói mấy câu, nhưng bỗng cảm thấy trong cổ họng có cái gì đó ngòn ngọt, rồi ọe một cái đã nhổ ra một búng máu tươi.
Lục Phi Thanh bước tới một bước, lên tiếng: “Trương Triệu Trọng! Ngươi xem thử ta là ai.”
Trương Triệu Trọng đã lâu không gặp ông, dưới trăng mờ nhìn không rõ. Lục Phi Thanh bèn lấy Bạch Long Kiếm ra, dùng tay uốn cong mũi kiếm về với chuôi kiếm thành một vòng tròn, rồi buông tay ra. Nghe keng một tiếng, lưỡi kiếm bắn ra lại thẳng tắp, chỉ hơi rung một chút.
Trương Triệu Trọng hừ một tiếng rồi nói: “À, thì ra là Lục sư huynh. Chúng ta đã ân đoạn nghĩa tuyệt từ lâu, bây giờ còn đến đây làm gì?”
Lục Phi Thanh nói: “Ngươi bị thương rồi. Anh hùng Hồng Hoa Hội ở cả đây, lại thêm Chu lão anh hùng ở Thiết Đảm Trang ra tay trợ giúp. Hôm nay ngươi muốn sống sót thật sự không dễ. Tuy ngươi vô tình, nhưng ta không thể vô nghĩa. Niệm tình xưa kia cùng học một thầy, ta muốn chỉ cho ngươi một con đường sống.”
Trương Triệu Trọng lại hừ một tiếng, không nói năng gì.
* * *
Đột nhiên từ phía đông truyền đến tiếng quân reo ngựa hí ồn ào, dường như thiên quân vạn mã đang xông tới. Quần hùng Hồng Hoa Hội kinh nghi chưa biết thế nào. Trương Triệu Trọng càng kinh hãi hơn, nghĩ bụng: “Hồng Hoa Hội thật không phải tầm thường. Ở vùng tây bắc này mà chúng cũng tập hợp được lực lượng hùng hậu như thế.”
Lục Phi Thanh lại nói: “Ngươi cứ thả Văn Thái Lai ra tử tế, ta sẽ yêu cầu các vị anh hùng ở đây nể mặt mà cho ngươi một con đường sống quay về. Nhưng ngươi phải thề một chuyện.”
Trương Triệu Trọng thấy cường địch vây kín xung quanh, cũng tự biết hôm nay mình phải chết, khó mà sống sót trở về. Nghe Lục Phi Thanh nói vậy, hắn cũng không nén nổi phải động tâm hỏi lại: “Chuyện gì thế?”
Lục Phi Thanh nói: “Ngươi phải thề rằng từ nay về sau rời khỏi quan trường, không được làm ưng khuyển cho bọn cẩu quan kia nữa.”
Trương Triệu Trọng là con người tham công danh lợi lộc, mấy năm nay gặp nhiều chuyện đắc ý, thăng quan như diều gặp gió. Nếu bắt hắn từ quan thì thà lấy mạng hắn còn hơn. Hắn nghĩ bụng: “Ta cũng có thể lập thệ lung tung để giữ được mạng sống, nhưng để mất khâm phạm thì Hoàng thượng và Phúc thống lãnh chắc chắn sẽ bắt tội. Như vậy thì cuộc đời ta chẳng còn gì nữa. May mà bọn chúng cũng có phần kiêng kỵ, vậy ta phải liều mạng một trận thì hơn.”
Tính toán xong, họ Trương hét lên: “Các ngươi lấy nhiều thắng ít, Trương mỗ dù bại cũng không mất thể diện. Hôm nay ta quyết cùng Văn Thái Lai đồng qui ư tận, để lại danh tiếng đời sau. Sau này anh hùng thiên hạ biết được chuyện này, xem thử Hồng Hoa Hội các ngươi phải giấu mặt mũi vào đâu.”
Dương Thành Hiệp lớn tiếng kêu: “Hạng người cam tâm làm chó săn cho giặc, làm gì có thể diện mà dám nói những lời như thế?”
Trương Triệu Trọng ngọng miệng không biết đáp sao, bèn thả Văn Thái Lai xuống sản xe, lấy chân đạp lên, rồi nắm lấy dây cương ngựa, thúc xe chạy về phía trước.
Quần hùng cũng muốn xông lên cướp người, nhưng sợ hắn ở vào cảnh chó chạy cùng đường sẽ động thủ sát hại Văn Thái Lai thật sự, nhất thời không biết phải làm sao.
Lạc Băng thấy chồng mình bị uy hiếp, nhìn cỗ xe lớn chạy xa dần, đau lòng khôn xiết. Nàng buột miệng kêu lên: “Ngươi cứ thả Văn tứ gia, chúng ta để ngươi đi, cũng không bắt ngươi thề bồi gì nữa.” Trương Triệu Trọng không lý gì tới nàng, tiếp tục ruổi xe chạy về đại đội quân Thanh.
Bọn thị vệ và lính Thanh chạy một lúc, thấy địch không truy đuổi nữa bèn từ từ tập hợp lại. Lúc này Thoại Đại Lâm thấy Trương Triệu Trọng đưa cỗ xe lớn trở về, bèn hạ lệnh cho quân lính chuẩn bị cung tên, chờ lệnh mà bắn.
Tiếng người ngựa xa xa chạy tới càng lúc càng gần. Cả Hồng Hoa Hội và quân Thanh binh đều kinh hãi nghi ngờ, sợ đó là viện binh của đối phương.
Trần Gia Lạc lớn tiếng hô: “Cửu ca, Thập tam đệ, Mạnh đại ca, An đại ca! Bốn vị xông vào làm tán loạn bọn ưng trảo kia.”
Vệ Xuân Hoa lập tức cầm binh khí, chạy thẳng về phía quân Thanh. Đột nhiên một thiếu niên đứng sau Lục Phi Thanh chạy ra nói: “Ta cũng đi”, rồi đuổi theo họ Vệ. Trần Gia Lạc thấy đó chính là đồ đệ Lý Nguyên Chỉ của Lục Phi Thanh, bất giác chau mày.
Hôm trước Lục Phi Thanh đi lùi lại sau để đợi, đến chiều thì gặp Lý Nguyên Chỉ. Cô nương này được xem đánh nhau ác liệt mấy ngày liên tiếp, ngứa tay không nhịn nổi nữa, nhất quyết đòi sư phụ dẫn đi tham gia cứu Văn Thái Lai. Lục Phi Thanh không sao từ chối được, đành bắt nàng thề không được làm bừa. Lý Nguyên Chỉ thấy sư phụ nhượng bộ, lập tức vui vẻ nở mày nở mặt, thề thốt một loạt: “Nếu con không nghe lời sư phụ, thì phải bị đậu mùa để biến thành người mặt rỗ, hoặc phải rụng hết tóc đi trở thành một tên trọc xấu xí.”
Lục Phi Thanh nghĩ thầm: “Con gái ai chẳng thích đẹp, con bé này thề như thế thì so với chết dưới đao kiếm còn nặng hơn nhiều”, bèn mỉm cười đồng ý. Lý Nguyên Chỉ lập tức viết thư cho mẹ, nói rằng đi chậm thế này thật là buồn chán, nên nàng lên đường trước để sớm đến Hàng Châu gặp cha. Nàng biết nhất định thế nào cũng bị cằn nhằn mấy tháng, nhưng khổ nỗi những trận chiến thú vị phía trước là cơ duyên khó gặp, bèn mặc kệ sau này tới đâu thì tới.
Hai thầy trò nhanh chóng đuổi kịp quần hùng Hồng Hoa Hội, rồi biết Trương Triệu Trọng phải qua sông ở Xích Sáo Độ. Trận chiến đêm nay Lục Phi Thanh quyết không để Lý Nguyên Chỉ tham dự. Nàng xem quần hùng ác đấu với Trương Triệu Trọng, võ công người nào cũng hơn mình không biết mấy lần, chỉ biết lè lưỡi mà nhìn. Bây giờ thấy Vệ Xuân Hoa đi giết quân Thanh binh, cô nàng bèn mặc kệ cha mình làm chức quan gì, chỉ nổi hứng là chạy theo xung phong. Trong lòng nàng nghĩ: “Lần này mình không xin phép nên sư phụ không kịp cản trở. Sư phụ không nói gì, thì không phải mình cãi lời thầy.”
Trần Gia Lạc lên tiếng dặn dò, quần hùng gật đầu phụng mạng. Triệu Bán Sơn là người đầu tiên xông lên, tay ông vừa giơ lên là hai cây tụ tiễn đã ghim vào cặp mắt của con lừa đang kéo cỗ xe lớn. Con lừa hí dài một tiếng, cất cao hai vó trước lên.
Chương Tấn chạy theo sau xe, vận thần lực cố kéo lại. Cỗ xe lập tức dừng lại như bị đóng đinh xuống đất, hoàn toàn không chuyển động nữa. Anh em Thường Hách Chí, Thường Bá Chí chạy đến hai bên trái phải cỗ xe, quăng hai cái phi trảo đến đánh Trương Triệu Trọng.
Trương Triệu Trọng vừa vung kiếm ra chống đỡ, Dương Thành Hiệp đã hét lớn một tiếng, nhảy lên xe toan cướp lấy Văn Thái Lai. Trương Triệu Trọng đánh thẳng một quyền vào mặt, họ Dương nghiêng người tránh, đưa vai trái hứng quyền, hai tay cứ ôm lấy Văn Thái Lai.
Vô Trần và Từ Thiên Hoằng nhảy lên sau xe, chui vào phục kích sau lưng Trương Triệu Trọng.
Trần Gia Lạc bảo Tâm Nghiễn: “Lên đi.” Hai người cùng sử dụng khinh công Yến Tử Xuyên Vân phi thân lên nóc xe, khom lưng đánh xuống.
Trương Triệu Trọng đánh trúng vai Dương Thành Hiệp một quyền, thấy y trúng đòn mà không tổn thương gì, trong lòng cũng thấy kinh ngạc, nhưng trong lúc hỗn loạn không có thời gian suy nghĩ. Hắn thấy Văn Thái Lai bị cướp, vội vung tay trái nắm lấy lưng họ Dương. Lúc này phi trảo của Thường thị huynh đệ từ hai bên chụp xuống, Trương Triệu Trọng đưa kiếm cản trở, rồi xuất chiêu Đảo Đệ Kim Chung ném thân hình to lớn của Dương Thành Hiệp xuống khỏi xe.
Hỏa Thủ Phán Quan mắt nhìn bốn phương tai nghe tám hướng, phía trước lo cản trở kẻ địch tấn công mà sau lưng cũng nghe thấy có địch nhân tập kích. Hắn cúi về phía trước, tay trái lấy ra một nắm Phù Dung kim châm, người hơi nghiêng một cái đã phóng kim châm lên nóc xe và phía sau.
Trần Gia Lạc thấy họ Trương vẫy tay, biết hắn phóng ám khí bèn đưa ngay thuẫn bài cản phía trước. Nghe keng keng, mấy mũi kim châm rơi xuống đất. Chàng đưa tay phải đẩy mạnh vào vai Tâm Nghiễn một cái, hất cậu xuống khỏi nóc xe. Tuy thủ pháp của chàng đã cực kỳ mau lẹ, nhưng Tâm Nghiễn cũng la lên một tiếng. Trần Gia Lạc biết Tâm Nghiễn trúng ám khí rồi, liền vội nhảy xuống ứng cứu.
Vô Trần và Từ Thiên Hoằng tấn công từ phía sau cũng bị kim châm phóng tới. Vô Trần công lực thâm hậu, ngửa người nhảy ngược ra phía sau. Thân hình ông như một mũi tên bắn vù đi, kim châm cũng không đuổi kịp. Từ Thiên Hoằng không có công phu như thế, vội vã giật bừa cái chăn trên xe để che người, chỉ hở cánh tay trái. Ngay lúc đó chàng bị một mũi kim châm phóng trúng, vai tê rần rồi lọt xuống dưới xe.
Chương Tấn chạy tới, dìu Từ Thiên Hoằng dậy hỏi: “Thất ca sao rồi?” Y hỏi chưa dứt câu đã thấy lưng đau nhói, trúng một mũi tên.
Loáng thoáng nghe tiếng Trần Gia Lạc hô hoán: “Các vị ca ca! Mọi người tập hợp qua đây!” Bây giờ tên từ phía sau đã rào rào bắn tới như ong. Tay trái của Chương Tấn vịn lên vai Vô Trần, còn tay phải huy động lang nha bổng không ngớt gạt tên.
Vô Trần bảo: “Thập đệ đừng nhúc nhích, trấn tĩnh lại đi.” Rồi ông đè chặt mạch máu của họ Chương, nhẹ nhàng nhổ mũi tên ra, rồi xé một góc trường bào cột vết thương lại.
Đại đội Thanh binh từ phía đông đang ào tới đen đặc một vùng, thiên binh vạn mã khí thế hơn người. Quần hùng cũng dần dần tụ tập, Vệ Xuân Hoa đã quay trở lại. Trần Gia Lạc lên tiếng: “Hai vị ca ca nào xông lên phía trước, cản trở chúng một lúc.” Vô Trần và Vệ Xuân Hoa lập tức tình nguyện bước ra.
Trần Gia Lạc lại bảo: “Mọi người mau mau phân tán ra, lùi đến chân đồi phía sau.” Mọi người vâng dạ. Trần Gia Lạc tiếp: “Tam ca, Ngũ ca, Lục ca! Chúng ta tiếp tục.” Rồi bốn người lại chia ra tấn công vào cỗ xe lớn.
Vệ Xuân Hoa cầm song câu đi dưới mưa tên, giết tới trước trận quân Thanh. Vô Trần tay không, chụp lấy một mũi tên trên không, dùng tên gạt tên đi theo Vệ Xuân Hoa, chớp mắt hai người đã xông vào trong trận. Vô Trần đoạt lấy một thanh đao, dùng đao làm kiếm đâm chém tứ phương. Thế của quân Thanh rất lớn, hai người không sao cản trở nổi. Chỉ chốc lát là đám quân tiên phong đã gần tới chỗ quần hùng.
Trương Triệu Trọng thấy viện binh đã đến, mừng rỡ vô cùng. Hơi thở của hắn đã nặng hơn, tự biết vết thương của mình không nhẹ. Hắn thấy bốn người Trần Gia Lạc tấn công lên xe, không dám đón đánh, bèn túm lấy Văn Thái Lai đưa lên đỡ gạt. Chỉ chốc lát, mấy chục kỵ binh đã phi tới nơi, vung mã đao lên tấn công Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc nhận xét tình hình, biết rằng muốn đoạt lại Văn Thái Lai chỉ tổ làm tổn thương đến sinh mạng Tứ ca. Chàng bèn huýt một tiếng sáo, cùng Triệu Bán Sơn và Thường thị song hiệp chạy lên đồi.
Bốn người chạy tới, thấy mọi người đã tập hơp, bèn kiểm điểm nhân sự. Vô Trần và Vệ Xuân Hoa xông vào trận địch chưa thấy trở về, ngoài ra còn thất lạc Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ, Lý Nguyên Chỉ, Chu Trọng Anh, Mạnh Kiện Hùng năm người.
Trần Gia Lạc hỏi: “Có ai thấy Thất ca và Chu lão anh hùng không?”
Chương Tấn đang nằm dưới đất, ngóc đầu lên nói: “Thất ca đã bị thương còn thất lạc ư? Để ta đi tìm.” Y bèn đứng dậy xách lang nha bổng định chạy ra ngoài, nhưng trên lưng trúng tên rất nặng, người lảo đảo đứng còn không vững.
Thạch Song Anh nói: “Thập ca đừng đi. Để đệ đi.”
Tưởng Tứ Cân cũng nói: “Ta cũng đi.”
Trần Gia Lạc hạ lệnh: “Thập tam ca! Huynh cùng Tứ tẩu mau chạy đến bờ sông, chuẩn bị thuyền bè tử tế.” Tưởng Tứ Cân vâng lệnh chạy đi. Lạc Băng đang thương tâm quá độ, trong lòng trống rỗng, mơ hồ đi theo Tưởng Tứ Cân.
Thạch Song Anh cầm đơn đao phi người lên ngựa, đi vòng qua một ngọn đồi nhỏ. Lúc này đại đội Thanh binh đã tràn ngập vùng hoang dã này. Họ Thạch giục ngựa lên cao, đưa mắt nhìn quanh quất cũng không thấy Từ Thiên Hoằng đâu, chỉ còn cách xung phong vào trận địch mà tìm kiếm.
Chẳng bao lâu Chu Trọng Anh cùng Mạnh Kiện Hùng hai người đã chạy tới. Trần Gia Lạc vội hỏi: “Có thấy Chu cô nương không?” Chu Trọng Anh ruột nóng như sôi, lắc đầu lia lịa.
Lục Phi Thanh nói: “Tiểu đồ đệ của lão cũng không biết ở đâu. Lão phu phải đi tìm.”
An Kiện Cương nói: “Để tại hạ cùng đi với tiền bối.”
Trần Gia Lạc nói: “Ở đây loạn tiễn rất nhiều, mọi người hãy nhặt lấy. Ta đi đoạt mấy cây cung.” Chàng nói xong, lên ngựa phóng thẳng vào đội cung tên nhà Thanh. Sợi dây vừa vẫy ra ngoài đã đánh ngã hai tên cung thủ, cuộn ngược trở lại đã lấy được hai cây cung rơi dưới đất. Quân Thanh hô hoán om sòm, bốn năm cây thương đâm tới. Trần Gia Lạc vung tít sợi dây, đao thương của đám lính lập tức tuột khỏi tay.
Trong chốc lát Trần Gia Lạc đã lấy được tám cây cung, bèn cho ngựa quay đầu. Chàng định rút lui thì đột nhiên nhìn thấy quân Thanh bị rẽ ra hai bên, ở giữa có mấy kỵ sĩ chạy ra ngoài. Người đầu tiên chính là Vô Trần đạo nhân, phía sau là An Kiện Cương nắm lấy hai tay Vệ Xuân Hoa.
Trần Gia Lạc thấy Vệ Xuân Hoa máu me đầy mình, kinh hãi lập tức xông lên phía trước để ngăn cản quân lính đuổi theo. Quân Thanh thấy mấy người này hung hãn khác thưởng cũng không dám cản trở, cứ để họ rút lui.
Trần Gia Lạc giao mấy cây cung đoạt được cho Triệu Bán Sơn rồi chạy đến xem xét vết thương của Vệ Xuân Hoa. Vô Trần nói: “Cửu đệ mệt quá nên tâm trí hơi mơ hồ, cũng không đáng ngại lắm.”
Vệ Xuân Hoa vẫn tiếp tục reo hò: “Giết hết bọn quan binh chó má này đi.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Có thấy Thất ca và Thập nhị ca không?”
Vô Trần đáp: “Để ta đi kiếm.”
Trần Gia Lạc tiếp: “Còn Chu cô nương và đồ đệ của Lục lão tiền bối nữa.”
Vô Trần gật đầu, lập tức lên ngựa cầm đao xung phong vào trận Thanh binh. Một tên thiên tổng cầm thương bay ngựa tới, Vô Trần nghiêng người tránh mũi thương rồi vung đao đâm vào lưng hắn. Tên thiên tổng đó lập tức ngã ngựa nhào xuống đất, binh lính dưới quyền hắn cùng la lên một tiếng rồi chạy tứ tán.
Vô Trần chỉ nhằm vào những chỗ đông người, đao đến đâu là quân Thanh ngã gục đến đó. Ông xung phong một đoạn đường, đột nhiên nhìn thấy một đám lính vây tròn hò hét, giữa đám người còn phát ra tiếng binh khí loảng xoảng. Ông liền giục ngựa chạy thẳng tới đó, thấy Thạch Song Anh đang cầm đơn đao một mình đấu với ba viên võ tướng, bốn phía còn bị lính Thanh cầm đao thương tấn công.
Họ Thạch dường như chống cự không nổi nữa, nhưng thấy Vô Trần chạy đến vẫn mừng rỡ kêu lên: “Đã tìm được Thất ca chưa?”
Vô Trần hô lớn: “Mau chạy về phía trước. Đừng lo phía sau!” Thạch Song Anh nghe lời, vung đao giục ngựa tấn công tới trước. Y nghe thấy sau lưng liên tiếp vang lên những tiếng kêu gào thê thảm, rồi tiếng bọn Thanh binh kinh hãi la lên, dạt hết ra xa.
Thạch Song Anh quay đầu lại nhìn, thấy ba tên võ tướng đã bị giết hết. Y vừa ác chiến với ba tên đó hơn nửa ngày trời, biết võ công chúng không phải tầm thường, nào ngờ vừa quay lưng là Vô Trần đã lo liệu xong xuôi. Quỉ Kiến Sầu không nén nổi, vô cùng khâm phục vị Nhị ca này.
Hai người chạy trở lên đồi, vẫn chưa thấy tung tích Từ Thiên Hoằng đâu cả. Một tên võ tướng thống lĩnh mấy chục binh sĩ xung phong tới đây. Triệu Bán Sơn, Thường thị song hiệp, Mạnh Kiện Hùng đều giương cung lắp tên chờ đợi, mỗi phát hạ một người. Mấy tên Thanh binh đi đầu ngã xuống, rồi chỉ chốc lát là mười mấy tên bỏ mạng. Số còn lại phải lùi ra sau hò hét, không dám lại gần nữa.
Trần Gia Lạc giục ngựa lên đồi, bảo An Kiện Cương: “An đại ca! Nhờ huynh lo liệu giùm một lát, phòng hờ cung tên bắn lén.” An Kiện Cương gật đầu, đứng cạnh con ngựa. Trần Gia Lạc tung người nhảy lên lưng ngựa, đứng trên yên nhìn ra xa, thấy đại đội quânThanh đi về hướng tây.
Đột nhiên có tiếng tù và vang dội, một con rồng lửa uyển chuyển chạy tới, thì ra là một đội Thanh binh cầm đuốc. Ánh đuốc soi rõ một lá cờ lớn tung bay trước gió. Trần Gia Lạc định thần nhìn kỹ, thấy trên cờ thêu mấy chữ: “Định biên tướng quân Triệu.” Đội Thanh binh này cưỡi ngựa to cao, tay cầm mâu dài kích lớn, di chuyển phát ra những tiếng chói tai. Dường như đây là quân thiết giáp.
Vô Trần lo lắng nói: “Để ta đi tìm Thất đệ và mấy huynh đệ kia.”
Thường Hách Chí lên tiếng: “Đạo trưởng cứ nghỉ ngơi một chút, để anh em đệ đi.” Y chưa nói xong, Vô Trần đã xông ra. Hai chân ông kẹp cứng xương hông con ngựa, nửa thân trên nghiêng ra phía trước, vung đao mở đường máu. Mặc cho quân Thanh la hét om sòm, Vô Trần ngựa không ngừng vó cứ chạy vòng vòng giữa đại đội nhân mã. Ông giết mười mấy tên, trở đi trở lại tìm kiếm khắp nơi mà vẫn không thấy tung tích Từ Thiên Hoằng đâu cả.
Quần hùng đều lo lắng, e rằng Từ Thiên Hoằng và các huynh đệ đã bỏ mạng trong đám loạn quân. Mọi người đều nghi hoặc, nhưng chưa ai dám mở miệng. Đột nhiên xa xa trong đám bụi mù có một con ngựa phi nhanh tới, gần sát mọi người mới nhìn rõ là Tưởng Tứ Cân. Y kêu lớn: “Lùi nhanh lên, bọn quân thiết giáp xung phong đến đây rồi.”
Trần Gia Lạc ra lệnh: “Mọi người lên ngựa chạy đến bờ sông.” Quần hùng đều đồng thanh vâng dạ. Chu Trọng Anh nóng lòng lo lắng cho con gái, nhưng trong đám thiên quân vạn mã biết đâu mà tìm?
Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương, Thạch Song Anh chia nhau dìu những người bị thương Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn… cứ một ngựa hai người. Mọi người vừa lên ngựa thì đội quân thiết giáp đã chạy tới trong ánh lửa.
Thường thị song hiệp thấy khí thế của đội kỵ binh này rất hung hãn, bèn dẫn mọi người vòng qua bên phải. Thường Hách Chí nói: “Bọn rùa bọc sắt này sử dụng thần kiên cung, sức bắn rất mạnh. Bây giờ chúng ta chui vào đám rùa mềm kia mà tránh né là hay nhất.”
Thường Bá Chí khen: “Phải lắm.” Hai người lập tức xông vào giữa đại đội quân Thanh, quần hùng nối tiếp chạy theo sau. Thường thị song hiệp biết dùng phi trảo tấn công thì không tiện lắm nên cất vào trong người. Một người đoạt lấy đại đao, một người giật được trường mâu, đao chém, mâu đâm mà mở một con đường máu tiến thẳng đến bờ sông Hoàng Hà.
Quân thiết giáp thấy quần hùng chạy vào giữa trận Thanh binh, trong đêm không dám bắn tên vì sợ làm quân ta bắn quân mình, chỉ truy đuổi phía sau. Lúc này người ngựa hai phe lẫn lộn thành một đám bên bờ sông Hoàng Hà.
Quần hùng không để rời nhau, trong lúc hỗn loạn vẫn chạy đến bờ sông một lượt. Tưởng Tứ Cân cắm thiết trượng xuống bãi cát, rồi nhảy xuống sông kéo thuyền vào. Lạc Băng dùng chèo đưa thuyền da cừu vào bờ, đưa anh em bị thương cùng Chương Tấn xuống ghe.
Trần Gia Lạc giục: “Mọi người nhanh chóng lên ghe. Đạo trưởng, Tam ca, Chu lão anh hùng, bốn người chúng ta sẽ lên sau.” Nói chưa dứt lời, thần kiên cung đã bắn tới rào rào.
Vô Trần la to: “Tiến lên.” Thế là cả bốn quay mặt lại, tiến lên ngăn cản truy binh. Thanh đao của Vô Trần đưa trúng ngay yết hầu của một tên thiết giáp, nào ngờ chém không vào được. Thì ra thanh đao này giết nhiều người quá, lưỡi đã cùn mẻ hết. Một cây trường thương đâm tới, Vô Trần ném đao đi, đưa cánh tay gạt ngang qua, cây trường thương kia bay tuốt lên trời.
Chu Trọng Anh múa kim đao chém mấy tên lính Thanh rơi xuống ngựa. Triệu Bán Sơn lấy một mũi cương tiêu bắn ngay vào huyệt Đản Trung của một tên. Chỉ nghe keng một tiếng, tên Thanh binh đó chẳng sứt mẻ gì, cứ phi ngựa thẳng tới trước mặt ông. Thì ra đám quân này toàn thân có giáp sắt bảo vệ, không bị ám khí đả thương. May mà Vô Trần đã cướp được một cây thiết thương, đâm thẳng vào giữa mặt hắn.
Triệu Bán Sơn phóng phi tiêu liên tục, nhằm bắn vào tròng mắt quân địch. Tuy rằng trong đêm khó mà phân biệt rõ ràng, nhưng ông vẫn đánh mù được năm sáu tên, khiến chúng đau đớn đưa tay cào loạn lên mặt mình. Lúc này ngoài bốn người Trần Gia Lạc ra, còn lại đều đã xuống thuyền.
Đội quân thiết giáp này được huấn luyện rất tốt, tuy thấy đối phương hung hãn vẫn không nao núng, cứ xung phong tới. Trần Gia Lạc thấy một tên tướng đang cưỡi ngựa vung mã đao chỉ huy, chàng bèn dùng thân pháp Yến Tử Tam Sao Thủy lộn người đến trước mặt hắn. Tên tướng kia liền vung đao chém xuống, nhưng mới được nửa đường đột nhiên cảm thấy cổ tay đau dữ dội, mã đao đã lọt vào tay của địch thủ. Tiếp theo cánh tay hắn tê chồn, thân hình bị kéo lọt xuống ngựa, rồi kẹp lại chạy đến bờ sông. Quân Thanh thấy chủ tướng bị bắt, nhao nhao chạy tới toan đoạt lại, nhưng không dám bắn tên nữa.
Giữa tiếng quân Thanh la ó, Trần Gia Lạc nắm lấy bím tóc tướng quân kia chạy đến bên mép nước, cùng Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh tung người lên thuyền. Tưởng Tứ Cân nhổ thiết trượng lên, cùng Lạc Băng phóng ra hai chưởng, đưa thuyền ra giữa dòng.
Thế nước sông Hoàng Hà rất lớn, cuồn cuộn chảy ào ào, đẩy hai chiếc thuyền da cừu này trôi xuống hạ lưu nhanh như tên bắn. Đội quân thiết giáp càng lúc càng nhỏ lại, qua một hồi nhìn lại phía sau chỉ còn thấy những đốm lửa nhấp nháy. Tiếng người ngựa ồn ào cũng lấp giữa tiếng nước chảy, không còn nghe thấy nữa.
Quần hùng bình tĩnh lại, lo lắng cho anh em bị thương. Thần trí của Vệ Xuân Hoa dần dần tỉnh táo lại, xem kỹ thì trên người y không có vết thương nào. Triệu Bán Sơn rất giỏi về trị các vết thương do tên đạn, lo băng bó vết thương cho Dương Thành Hiệp và Chương Tấn. Vết thương của Chương Tấn tương đối nặng hơn, nhưng cũng không nguy hiểm lắm.
Tâm Nghiễn trúng mấy mũi kim châm, đau đớn kêu la không ngớt. Thủ pháp của Trương Triệu Trọng rất nặng, kim châm ghim tới tận xương. Triệu Bán Sơn lấy trong túi thuốc ra một miếng nam châm, hút từng mũi kim ra rồi bó thuốc lên vết thương cho Tâm Nghiễn.
Lạc Băng nắm chặt mái chèo, không nói tiếng nào. Trận đấu này chưa cứu được Văn Thái Lai, ngược lại Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ và thầy trò Lục Phi Thanh bốn người không biết đi đâu, ngay cả Dư Ngư Đồng cũng không biết đang ở nơi nào.
Trần Gia Lạc than thở: “Khi nãy Trương Triệu Trọng đã là cá nhốt trong chậu, khó bề chạy trốn. Nào ngờ đại đội Thanh binh lại đi ngang đúng lúc. Biết thế thì từ đầu chúng ta đã hợp sức tấn công để băm vằm tên gian tặc họ Trương ra, cứu Văn tứ ca cho sớm thì kết quả đã tốt hơn.” Chàng càng nói càng thấy ân hận. Mọi người cũng đang ủ rũ, ai cũng im lặng.
Trần Gia Lạc giải huyệt đạo cho tên tướng Thanh rồi hỏi: “Tại sao các ngươi phải hành quân suốt đêm như thế, có việc gì?” Tên tướng kia hôn mê mới tỉnh, nhất thời chưa kịp nói gì. Dương Thành Hiệp vung chưởng lên tát ngay vào mặt, quát hỏi: “Ngươi có nói không?”
Hắn ôm lấy má, lắp bắp: “Tiểu nhân nói… tiểu nhân nói… Nói cái gì?”
Trần Gia Lạc hỏi lại: “Tại sao đại quân của các ngươi phải đi đêm như thế?”
Hắn đáp: “Định Biên tướng quân Triệu Tuệ đã phụng thánh chỉ, phải đánh chiếm bộ tộc người Hồi càng sớm càng tốt. Ông ấy sợ chậm trễ thời hạn, lại sợ người Hồi biết được tin tức mà phòng bị, nên phải hành quân cả ngày lẫn đêm.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Người Hồi đàng hoàng tử tế như thế, sao phải đi đánh họ?”
Hắn ấp úng trả lời: “Cái này… cái này thì tiểu nhân không biết.”
Trần Gia Lạc lại hỏi: “Các ngươi muốn đi Hồi Cương, sao lại nhúng tay vào việc của chúng ta?”
Hắn nói: “Triệu đại tướng quân nghe tin cấp báo có một nhóm thổ phỉ đang quấy nhiễu, liền sai tiểu tướng đến đây giúp đỡ, còn đại quân thì không dừng lại.”
Chưa dứt câu, Dương Thành Hiệp lại đánh thêm một quyền, hét lên: “Con mẹ mày mới là thổ phỉ!”
Hắn hoảng sợ đáp: “Vâng, vâng! Tiểu nhân nói lộn, các vị đều là anh hùng hảo hán.”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc, rồi hỏi tường tận về quân số của Triệu Tuệ tướng quân, đường hành quân và lương thực. Có mấy vấn đề gã kia không biết rõ, còn biết gì thì khai hết, không dám giấu giếm.
Trần Gia Lạc bèn hạ lệnh: “Cho thuyền cập vào bờ.” Lạc Băng và Tưởng Tứ Cân cho thuyền ghé vào, mọi người lên bờ. Lúc này thế nước càng lớn hơn, tiếng sóng vỗ ào ào inh tai nhức óc.
Trần Gia Lạc bảo Dương Thành Hiệp cởi trói cho tên tướng, rồi nói với Thường thị song hiệp: “Ngũ ca, Lục ca! Hai vị ca ca thử quay lại xem Tứ ca, Thất ca, Thập tứ đệ, Chu cô nương và Chu lão anh hùng ra sao rồi. Chỉ mong họ không gặp phải chuyện gì. Nếu họ lọt vào tay của quan quân, thì nhất định sẽ bị đưa về Bắc Kinh. Chúng ta sẽ tiếp ứng ở phía trước, tìm cách cứu lại.” Thường thị song hiệp nhận lệnh đi về phía tây.
Trần Gia Lạc bảo Thạch Song Anh: “Thập nhị ca! Đệ muốn nhờ huynh giúp một việc.”
Thạch Song Anh nói: “Xin tổng đà chủ dặn dò.”
Trần Gia Lạc lấy trong cái bao trên lưng Tâm Nghiễn ra văn phòng tứ bảo, dưới ánh trăng viết một lá thư rồi nói: “Nhờ huynh đưa lá thư này đến lão anh hùng Mộc Trác Luân ở Hồi tộc để thông báo tin tức. Tuy rằng họ với chúng ta chỉ gặp nhau một lần, nhưng đã phơi bày hết gan ruột, có thể nói là mới gặp nhau đã có nghĩa tri âm. Bạn bè gặp nạn, chúng ta không thể phủi tay đứng nhìn. Tứ tẩu, phiền Tứ tẩu cho Thập nhị ca mượn tạm con bạch mã đi một chuyến.”
Thì ra trong lúc hỗn loạn mọi người đều bỏ ngựa lại trên bờ, chỉ có Lạc Băng vì yêu con ngựa trắng của mình, lại muốn để tặng phu quân, nên dắt nó xuống thuyền. Thạch Song Anh cưỡi bạch mã đi gấp về phía Hồi Cương, dự tính chỉ một ngày là đuổi kịp Mộc Trác Luân, thông báo cho người Hồi kịp thời phòng bị.
Sắp đặt xong xuôi, Trần Gia Lạc bảo Tưởng Tứ Cân trói tên tướng kia lại, bỏ lên thuyền rồi thả trôi theo dòng nước. Hắn sống hay chết hoàn toàn trông vào vận số.
Chu Ỷ lạc mất mọi người trong đám loạn quân, thấy xung quanh toàn là lính Thanh. Nàng thuận tay đánh ngã mấy tên đứng gần, nhưng từ bốn phương tám hướng đều có binh lính ùa tới. Chu Ỷ bối rối vô cùng, giục ngựa chạy loạn xạ một lúc lại gặp một đội quân khác. Nàng không dám nghênh chiến, vội quay đầu lại, chỉ muốn mau mau rời khỏi đó. Trong đêm tối, không biết con ngựa vấp phải vật gì mà đột nhiên quỵ xuống. Lúc này nàng vừa mệt mỏi, vừa sợ hãi nên té nhào xuống đất, đập gáy vào một vật cứng nào đó ngất xỉu tại chỗ. May mà trời tối nên quân Thanh không phát hiện ra.
Chu Ỷ mê man không biết bao lâu, rồi đột nhiên thấy trước mắt lóe sáng. Sau đó tai nàng nghe tiếng sấm nổ, rồi trên mặt mát lạnh như bị nước dội vào. Nàng mở to đôi mắt thì thấy bầu trời tối mịt, mây đen bao phủ, mưa to đang ào xuống, bèn kêu lên một tiếng nhảy chồm dậy. Đột nhiên Chu Ỷ thấy cạnh mình cũng có một người ngồi dậy, bèn kinh hãi nhặt lấy đơn đao rơi kế bên định chém. Bất giác cả hai đều kinh ngạc la lên, thì ra người kia chính là Từ Thiên Hoằng.
Từ Thiên Hoằng hỏi lớn: “Chu cô nương! Tại sao cô cũng có đây?”
Chu Ỷ lạc trong đám loạn quân, phụ thân cũng không biết ở đâu, bây giờ lại gặp phải oan gia. Trước giờ nàng vẫn không ưa anh chàng này, hai bên cứ có dịp là khích bác lẫn nhau, nhưng dù sao cũng là người phe mình. Cô nàng Tiêu Lý Lục vốn gan dạ khí phách không kém gì nam tử hán đại trượng phu, mà lúc này cũng không nén nổi muốn rơi nước mắt. Nàng cắn chặt môi lại, ráng nhịn khóc để hỏi: “Gia gia ta đâu?”
Từ Thiên Hoằng bỗng vẫy tay bảo nàng nằm xuống, nói nhỏ: “Có lính tới.” Chu Ỷ liền phục sát xuống đất. Hai người từ từ bò đến núp sau một mô đất, thò đầu nhìn ra ngoài.
Trời đã gần sáng. Thấp thoáng mấy chục tên Thanh binh đang chôn cất bọn tử trận dưới cơn mưa lớn, vừa đào huyệt vừa luôn miệng cằn nhằn. Hồi lâu, đa số tử thi đã được mai táng sơ sài. Một tên quan lớn tiếng ra lệnh: “Trương Đắc Tiêu, Vương Thanh! Nhìn quanh xem còn cái xác nào không?”
Hai tên này vâng lệnh, trèo lên một cái gò cao nhìn tứ phía. Chúng thấy hai người nằm dưới đất liền kêu lên: “Đằng kia còn hai xác chết.”
Chu Ỷ nghe chúng gọi mình là xác chết, tức điên lên chỉ muốn nhảy tới đánh cho một trận. Từ Thiên Hoằng phải vội kéo nàng lại, bảo: “Đợi chúng tới gần đã.”
Hai tên lính đó cầm xẻng đi tới, Chu Ỷ và Từ Thiên Hoằng cứ nằm bất động giả chết. Khi chúng đến gần thò tay định kéo, hai người mới đột ngột vung đao đâm vào bụng. Hai gã không kịp kêu một tiếng, chết ngay tại chỗ.
Tên võ quan kia đợi mất nửa ngày vẫn không thấy hai tên lính quay về, mà mưa lại to thêm. Hắn nóng ruột tức giận thóa mạ lung tung, cưỡi ngựa chạy tới xem xét. Từ Thiên Hoằng khẽ nói: “Đừng lên tiếng, phải đoạt lấy được ngựa của hắn.”
Tên quan đến gần, thấy hai tên thuộc hạ nằm chết duới đất thì giật mình kinh hãi, há mồm toan kêu lính tới. Từ Thiên Hoằng bật dậy nhanh như chớp, chạy tới vung đao chém ngay. Hắn không cầm binh khí, đành giơ roi ngựa lên cản. Nhát đao của Từ Thiên Hoằng chém đứt cả roi lẫn cổ, đầu tên kia rơi từ trên ngựa xuống đất. Từ Thiên Hoằng túm lấy dây cương, kêu lớn: “Lên ngựa mau.” Chu Ỷ nhảy lên lưng ngựa, Từ Thiên Hoằng sải bước chạy theo.
Quân Thanh phát hiện tung tích hai người, lớn tiếng kêu vang, cả bọn cầm vũ khí đuổi theo. Từ Thiên Hoằng chạy được mấy chục bước thì chỗ vai trái trúng Phù Dung kim châm càng lúc càng đau không chịu nổi, choáng váng mặt mày ngã khuỵu xuống đất. Chu Ỷ quay đầu lại thấy Từ Thiên Hoằng té xuống, vội dừng ngựa lui lại, khom người đưa tay nhắc chàng đặt lên lưng ngựa. Nàng trở chuôi đao thúc vào lưng ngựa, nó liền chạy như bay. Quân Thanh la ó ỏm tỏi nhưng không sao đuổi kịp.
Chu Ỷ thấy đã bỏ xa bọn Thanh binh mới cất đao vào lưng. Nàng thấy Từ Thiên Hoằng hai mắt nhắm nghiền, mặt mày trắng bệch, hơi thở rất yếu thì sợ hãi không biết phải làm sao, chỉ còn cách dựng chàng ngồi thẳng trên yên ngựa, tay trái vòng ôm qua hông để chàng khỏi ngã, cố gắng chọn những con đường mòn hoang vắng mà đi. Chạy được một lúc, Chu Ỷ thấy phía trước là một khu rừng rậm bèn thúc ngựa chạy vào. Nàng nhìn xung quanh thấy cây cối um tùm rậm rạp, lúc này mới tạm yên tâm.
Mưa đã tạnh, Chu Ỷ nhảy xuống dắt ngựa đi tìm một chỗ tương đối rộng rãi thoáng mát. Thấy Từ Thiên Hoằng thần trí vẫn còn mơ hồ, nàng suy nghĩ một lúc rồi ôm chàng đặt xuống một bãi cỏ, mình thì ngồi bên cạnh nghỉ ngơi, thả cho ngựa ăn cỏ. Một cô nương chưa tới hai mươi tuổi, cô đơn ngồi trong rừng hoang, trước mắt chỉ có một người chưa biết sống chết ra sao. Nàng hoàn toàn không biết phải làm gì, bất giác đau lòng ôm đầu khóc, nước mắt nhỏ xuống mặt Từ Thiên Hoằng.
Từ Thiên Hoằng nằm dưới đất một lúc, thần trí đã tỉnh táo trở lại. Chàng tưởng trời lại mưa nên khẽ mở mắt nhìn, bỗng thấy một khuôn mặt đẹp đẽ, một đôi mắt to tròn khóc đến sưng lên, nước mắt từng giọt rơi vào mặt mình. Rồi chàng lại thấy vai trái đau không chịu nổi, khẽ rên lên.
Chu Ỷ thấy Từ Thiên Hoằng tỉnh dậy cả mừng, nhìn lại thấy nước mắt mình rơi ngay khóe miệng chàng liền lấy khăn tay định lau, nhưng vừa giơ tay lên đã hổ thẹn rụt lại, lên tiếng trách: “Sao huynh lại nằm trước mặt ta, không chịu tránh đi chỗ khác?”
Từ Thiên Hoằng thở dài một tiếng, gắng gượng định ngồi dậy thật. Chu Ỷ vội nói: “Thôi được, cứ nằm đây đi. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Huynh tự xưng là Gia Cát Lượng kia mà, gia gia vẫn khen huynh đa mưu túc trí.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Vai ta đang đau dữ dội, không suy nghĩ được chuyện gì khác. Cô nương! Nhờ cô xem vết thương giùm ta.”
Chu Ỷ bĩu môi nói: “Ta không muốn xem!” Miệng thì nói vậy, nhưng nàng vẫn cúi người xem xét, nhìn một lúc rồi nói: “Đâu có sao đâu? Hoàn toàn không chảy máu, da thịt vẫn nguyên mà.”
Từ Thiên Hoằng ráng ngồi dậy, tay phải dùng mũi đơn đao khều một chỗ rách trên vai áo, nghiêng mắt nhìn rồi nói: “Chỗ này trúng phải ba mũi kim châm.” Ba mũi châm tuy nhỏ nhưng ghim sâu vào thịt, tới sát tận xương, khiến chàng đau đớn chẳng khác gì bị chém ba đao.
Chu Ỷ hỏi: “Làm sao bây giờ? Hay chúng ta vào thị trấn tìm đại phu?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Chuyện đó không được. Trận đánh đêm qua, cả vùng không ai không biết. Chúng ta ăn mặc thế này đi tìm đại phu trị thương thì chẳng khác gì tự chui vào lưới. Ba mũi kim đó đáng lẽ phải dùng nam châm để hút ra, nhưng lúc này không sao tìm được nam châm. Phiền cô lấy dao xẻ thịt để rút chúng ra vậy.”
Chu Ỷ vừa ác chiến quá nửa đêm, giết không ít quan quân mà sắc mặt vẫn không thay đổi, nhưng bây giờ nghĩ tới chuyện cầm dao xẻ vào da thịt Từ Thiên Hoằng thì không khỏi chần chừ.
Từ Thiên Hoằng nói: “Ta chịu được mà, cô cứ ra tay đi… Khoan đã, chờ một lát.” Chàng xé một miếng vải áo mình ra, đưa cho nàng rồi hỏi: “Cô có mang theo mồi lửa không?”
Chu Ỷ sờ vào bọc rồi nói: “Có! Huynh làm gì vậy?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Phiền cô đi lượm một ít cành cây và cỏ khô đốt lên thành tro. Sau khi rút kim châm ra, lấy tro phủ lên vết thương rồi dùng mảnh vải này buộc chặt lại.”
Chu Ỷ theo lời, đốt một đống tro lớn rồi hỏi đủ chưa. Từ Thiên Hoằng mỉm cười đáp: “Chừng đó đủ để bó một trăm vết thương.”
Chu Ỷ giận dữ nói: “Ta chỉ là thứ nha đầu ngu ngốc. Huynh tự mình làm đi.”
Từ Thiên Hoằng mỉm cười: “Ta lỡ lời, mong cô nương đừng giận.”
Chu Ỷ hừ một tiếng: “Người như huynh mà cũng biết mình sai hay sao?” Tay phải nàng xách đơn đao lên, tay trái ấn lên vai Từ Thiên Hoằng gần chỗ vết thương. Khi ngón tay chạm vào da thịt chàng, nàng bất giác xấu hổ rụt tay lại, mặt mũi nóng bừng.
Thấy nàng đột nhiên đỏ mặt, Từ Thiên Hoằng tuy mang ngoại hiệu Võ Gia Cát mà cũng không hiểu chuyện gì, phải hỏi: “Cô nương sợ hay sao?”
Chu Ỷ khẽ đáp: “Ta mà sợ gì? Chính huynh mới sợ đó. Quay đầu chỗ khác đi, đừng nhìn.” Từ Thiên Hoằng nghe lời quay đi. Chu Ỷ bóp chặt chỗ trúng kim châm, đưa đao chích vào thịt rồi nhẹ xoay mũi đao một chút, máu tươi lập tức trào ra. Từ Thiên Hoằng cắn chặt răng không để bật lên tiếng kêu nào, nhưng những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu đã tuôn ướt đẫm đầu. Chu Ỷ phanh vết thương ra để lộ đuôi kim châm, kéo áo Từ Thiên Hoằng lau bớt máu tươi cho dễ nhìn, rồi đưa hai ngón tay kẹp chặt, dùng sức rút ra.
Sắc mặt Từ Thiên Hoằng trắng bệch, nhưng vẫn cố mỉm cười: “Tiếc là loại kim này không có lỗ xâu chỉ, không thì có thể tặng cho cô nương thêu thùa.”
Chu Ỷ đáp: “Ta không biết thêu thùa gì cả. Mấy năm trước mẹ có bắt thử ta thêu, nhưng mới được mấy đường ta đã làm gãy kim, hỏng luôn cả khung thêu. Mẹ mắng, ta bèn nói: “Mẹ! Con thêu không được. Mẹ dạy cho con đi.” Huynh đoán xem mẹ ta nói gì?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Chắc phu nhân gọi cô nương tới để dạy.”
Chu Ỷ nói: “Sai rồi! Bà nói lúc này không rảnh. Sau này ta mới nghĩ ra, thì ra bà cũng không biết thêu thùa.” Từ Thiên Hoằng cười ha hả. Trong lúc nói chuyện, nàng lại rút một cây kim châm nữa ra.
Chu Ỷ mỉm cười nói tiếp: “Ta vốn cũng không thích học thêu, nhưng khi biết mẹ cũng không hiểu chuyện thêu thùa thì ta lại một mực đòi bà dạy ta. Bà bị quấy rầy không sao chịu nổi bèn nói: “Thôi thôi! Nếu con làm phiền ta nữa, thì ta sẽ mách cha mắng con đấy.” Bà lại nói: “Nếu con không chịu học thêu thùa thì sau này…” Nói đến đây, nàng đột nhiên dừng lại. Rõ ràng lúc đó Chu phu nhân nói là: “Sau này thử xem con có lấy được chồng hay không.”
Từ Thiên Hoằng hỏi kỹ: “Sau này thì sao?”
Chu Ỷ gắt: “Ta không muốn nói chuyện đó nữa, huynh đừng lải nhải.”
Miệng nói chuyện nhưng tay nàng vẫn không dừng, mũi kim châm thứ ba đã được rút ra. Sau đó nàng lấy tro đắp lên vết thương, rồi lấy vải buộc chặt lại.
Chu Ỷ thấy Từ Thiên Hoằng máu me đầy mình mà vẫn nói chuyện vui vẻ, không khỏi phục thầm: “Tên này tuy thấp lùn, nhưng xem ra cũng là một nhân vật anh hùng. Nếu người ta xẻo vào thịt mình, chắc mình phải la hét ầm ĩ, kêu cha gọi mẹ.” Nghĩ đến song thân, nàng không khỏi chạnh lòng. Lúc này nàng thấy tay mình đầy máu, bèn nói: “Huynh nằm đây đừng nhúc nhích, để ta đi tìm một ít nước uống.”
Chu Ỷ quan sát địa thế một lúc rồi chạy ra khỏi khu rừng, được vài trăm bước thì thấy một con suối nhỏ. Mưa to mới dứt, nước suối còn chảy rất mạnh. Nàng rửa sạch máu trên tay rồi cúi người xuống suối, đột nhiên thấy bóng mình dưới nước, đầu tóc bù xù, y phục ẩm ướt nhăn nheo, mặt đầy bùn đất, nhìn không ra con người nữa. Nàng bất giác nghĩ: “Hỏng bét! Hắn đã thấy bộ dạng tiều tụy của mình rồi.”
Chu Ỷ lập tức soi mình dưới suối để rửa mặt sạch sẽ, dùng mười ngón tay làm lược cào sơ lại mái tóc, thắt bím đàng hoàng. Sau đó nàng vốc ít nước uống, tự nhủ: “Chắc hắn cũng đang khát nước.” Nhưng không có gì để đựng, nàng chần chừ một chút rồi nghĩ ra, lấy trong bao lưng ra một cái áo, giặt giũ sạch sẽ rồi thấm ướt sũng, xách chạy về.
Lúc nãy Từ Thiên Hoằng ráng chịu đau để làm bộ tươi cười trò chuyện với Chu Ỷ, bây giờ thì không sao chống đỡ nổi nữa. Lúc nàng quay lại, chàng đang đau đến chết đi sống lại. Chu Ỷ thấy chàng như vậy mà vẫn cố giả vờ không sao, không khỏi thương xót trong lòng. Nàng kêu chàng há mồm, vắt nước trong áo vào cho, rồi hỏi: “Huynh đau lắm phải không?”
Xưa nay Từ Thiên Hoằng vẫn coi cô nương này là một đối thủ đấu trí, hoàn toàn không có tình cảm nam nữ gì. Không ngờ khi chàng bị thương, nàng lại là bằng hữu duy nhất chăm sóc cho mình, nên những nghi kỵ trước đây hoàn toàn quên hết. Lúc này Chu Ỷ lại lộ vẻ quan tâm chàng tha thiết. Cả đời chàng lăn lộn giang hồ không màng sống chết, đối mặt với biết bao âm mưu quỉ kế, chưa bao giờ được nghe những lời dịu dàng như vậy. Họ Từ không nén nổi cảm động, ngẩn ra nhìn nàng không biết nói gì.
Chu Ỷ thấy chàng ngơ ngác, tưởng thần trí chàng vẫn còn mơ hồ liền hỏi: “Sao rồi? Huynh thấy sao rồi?”
Từ Thiên Hoằng định thần đáp lại: “Đỡ hơn rồi, cảm ơn cô!”
Chu Ỷ hừ một tiếng: “Ta không cần huynh cảm ơn.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta ở đây không tiện, nhưng cũng không thể vào thành, chắc phải tìm một nông gia ở chỗ tương đối hoang vắng. Chúng ta cứ nói mình là huynh muội…”
Chu Ỷ tán đồng: “Ta sẽ gọi huynh là Từ ca ca.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Lúc nào cô cũng thấy ta lớn tuổi, vậy gọi ta là thúc thúc đi.”
Chu Ỷ cãi: “Huynh đâu có già quá, kêu huynh là ca ca được rồi. Nhưng chỉ trước mặt người khác thôi, lúc không có ai thì ta không gọi như vậy đâu.”
Từ Thiên Hoằng cười nói: “Được rồi, không gọi thì không gọi. Chúng ta nói với họ là dọc đường gặp phải đại quân, hành lý bị người ta cướp hết, lại còn bị đánh một trận nữa.”
Hai người bàn bạc xong xuôi, Chu Ỷ bèn dìu chàng dậy. Từ Thiên Hoằng bảo nàng: “Cô cưỡi ngựa đi. Chân ta không bị thương, đi lại chẳng trở ngại gì.”
Chu Ỷ quát: “Mau lên ngựa đi! Huynh quá coi thường nữ nhân rồi đó.” Từ Thiên Hoằng không còn cách nào khác, đành phải nghe lời. Hai người ra khỏi rừng, tìm một con đường nhỏ nhắm hướng mặt trời mà đi.
Tây Bắc là vùng hoang vu, không giống miền nam Trung Quốc chỗ nào cũng đông dân nhiều ruộng. Hai người đi hơn một canh giờ, vừa đói vừa mệt, khó khăn lắm mới nhìn thấy một làn khói mỏng manh, đến gần mới biết đó là một căn nhà vách đất. Từ Thiên Hoằng xuống ngựa gõ cửa, hồi lâu mới có một bà lão bước ra. Bà cụ thấy trang phục hai người lôi thôi lếch thếch, không khỏi tần ngần. Từ Thiên Hoằng đem những chuyện đã bàn tính trước nói qua, rồi hỏi xin bà cụ chút gì ăn lót dạ.
Bà lão kia than thở: “Quan quân chỉ giỏi tàn hại dân chúng. Xin hỏi khách quan họ gì?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Cháu họ Chu.” Chu Ỷ liếc chàng một cái, nhưng im lặng không nói. Từ Thiên Hoằng nhìn lại nàng, cũng không nói.
Bà lão dẫn họ vào nhà, lấy cho mấy cái bánh. Hai người đói bụng đã lâu, tuy bánh làm bằng lúa mạch vừa đen vừa xấu, rất thô kệch, nhưng vẫn cảm thấy hương vị ngọt ngào.
Bà lão nói mình họ Đường, chỉ có một đứa con trai. Một hôm con bà vào thị trấn bán củi bị chó cắn, giận dữ lấy đòn gánh phang chết con chó, không may đó là chó nhà giàu. Con trai bà bị tên nhà giàu đó kêu gia đinh đánh cho một trận, về nhà vừa đau vừa tức, chẳng bao lâu thì qua đời. Cô con dâu còn trẻ tuổi, nhất thời suy nghĩ nông cạn, giữa đêm thắt cổ chết theo chồng, để lại một mình bà lão cô đơn.
Bà lão vừa kể vừa chảy nước mắt, Chu Ỷ nghe xong nổi giận, hỏi ngay tên nhà giàu tên là gì, ở đâu. Bà lão nói: “Tên sát nhân đó cũng họ Đường. Trước mặt thì người ta gọi là Đường Lão Gia, Đường Tú Tài, còn sau lưng thì gọi là Đường Thạch Tín. Lão ở trong thị trấn, tòa nhà lớn nhất thị trấn này chính là nhà lão.”
Chu Ỷ hỏi: “Không hiểu đó là thị trấn gì, ở hướng nào?”
Bà lão trả lời: “Từ đây đi về hướng bắc khoảng năm dặm đường, qua khỏi ngọn đồi là ra đường cái, đi thêm về hướng đông hai mươi dặm nữa là tới. Thị trấn đó tên là Văn Quang trấn.”
Chu Ỷ đứng dậy, cầm đơn đao lên nói với Từ Thiên Hoằng: “Ca ca! Muội phải ra ngoài một chút. Ca ca cứ ở đây nghỉ ngơi.”
Từ Thiên Hoằng nhìn mặt là biết nàng muốn đi giết tên thạch tín bọc đường đó, vội ngăn cản: “Muội muốn ăn kẹo phải không? Để tối nay hãy ăn.” Chu Ỷ ngẩn ra một chút, hiểu ý chàng liền gật đầu ngồi xuống.
Từ Thiên Hoằng nói: “Bà bà! Cháu đang bị thương đi lại không tiện, muốn xin bà bà cho nghỉ lại một đêm.”
Bà lão chậm rãi đáp: “Ở lại thì không sao, nhưng gia đình nghèo quá chẳng có gì tiếp đãi, khách quan đừng chê cười.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Bà bà chịu cho chúng cháu nghỉ lại là cảm kích lắm rồi. Muội muội cháu ướt hết, bà bà có quần áo cũ không? Phiền bà bà cho mượn một bộ để thay.”
Bà lão đáp: “Con dâu lão còn để lại y phục, nếu cô nương không chê thì mặc thử xem sao, chắc cũng vừa.” Chu Ỷ liền đi thay quần áo, lúc trở ra đã thấy Từ Thiên Hoằng nằm ngủ trên giường của con trai bà lão rồi.
Đến xế chiều, Từ Thiên Hoằng bắt đầu nói năng lảm nhảm. Chu Ỷ sờ trán thấy chàng sốt cao, đoán là vết thương phát tác. Nàng biết tình trạng nguy hiểm mà không biết phải làm sao, không khỏi hoảng hốt. Nàng hết giận Từ Thiên Hoằng lại đến giận mình, vung đao chém loạn xạ xuống đất, một lúc thì bật khóc. Bà lão vừa thương vừa sợ, không dám khuyên can.
Chu Ỷ khóc một hồi rồi hỏi: “Trong trấn có đại phu không?”
Bà lão trả lời: “Có! Tào Tư Bằng là đại phu giỏi nhất vùng này. Nhưng ông ấy rất phách lối, xưa nay không chịu đến những nơi thôn dã như thế này để khám bệnh. Khi con lão bị thương nặng, lão đã cùng con dâu lạy ông ấy mười bảy mười tám cái, nhưng năn nỉ thế nào, van xin thế nào, ông ấy cũng không chịu đến đây…”
Chu Ỷ không đợi bà lão dứt lời, lau nước mắt mà nói: “Bây giờ cháu đi mời ông ấy. Nhờ bà bà chăm sóc giùm ca ca của cháu.”
Bà lão nói: “Cô nương cứ yên tâm mà đi. Chỉ e Tào đại phu không chịu đến đây thôi.”
Chu Ỷ mặc kệ, giấu đơn đao vào yên ngựa, phi một mạch đến trấn Văn Quang thì trời đã nhá nhem tối. Đi qua một quán cơm có bán rượu, mùi rượu bay tới khiến nàng không nén nổi cơn thèm, nhưng lại nghĩ: “Ta phải mời đại phu về trị thương cho huynh ấy trước đã. Ngày tháng còn dài, lo gì sau này không có rượu uống.” Nàng thấy phía trước có một người đi tới, liền hỏi rõ nơi ở của Tào Tư Bằng rồi đi thẳng đến đó.
Chu Ỷ tới nhà họ Tào, gõ cửa mất nửa ngày mới có một gia nhân đi ra. Hắn lớn tiếng hỏi: “Trời tối mịt rồi còn gõ cửa ầm ĩ như vậy làm gì? Báo tin người chết hay sao?”
Chu Ỷ giận dữ nhưng nghĩ mình đến đây là để cầu xin người ta, nên không tiện nổi xung ngay. Nàng nhẫn nhịn nói: “Ta đến mời Tào đại phu đi khám bệnh.”
Hắn nói luôn: “Không có nhà “, rồi không hỏi han gì nữa, quay lưng đóng cổng.
Chu Ỷ vừa giận dữ vừa lo lắng, lập tức túm lấy vai gã xách ra ngoài cửa, rút đơn đao ra hỏi: “Tào đại phu có nhà không?”
Hắn hoảng sợ đến nỗi hồn lìa khỏi xác, run rẩy nói: “Thật mà… không có nhà thật mà.”
Chu Ỷ lại hỏi: “Đang ở đâu? Nói nhanh lên.”
Hắn đáp: “Lão gia đến chỗ Tiểu Mai Quế rồi.”
Chu Ỷ liếc đao vào mũi hắn, hét lên: “Tiểu Mai Quế là cái gì, ở đâu?”
Hắn đáp: “Tiểu Mai Quế là một người…”
Chu Ỷ quát luôn: “Nói bậy! Làm gì có ai tên là Tiểu Mai Quế?”
Hắn hoảng sợ lắp bắp: “Đại… đại vương cô nương! Tiểu Mai Quế là một cô gái lầu xanh.”
Chu Ỷ giận dữ hỏi: “Ta nghe nói lầu xanh là chỗ đê tiện. Lão gia ngươi đến đó làm gì?”
Tên gia nhân kia nghĩ thầm: “Con nhãi này hung hãn bá đạo, nhưng chẳng hiểu việc đời gì cả.” Hắn muốn cười nhưng không dám cười, chỉ còn cách im lặng.
Chu Ỷ giận dữ hỏi tiếp: “Ta hỏi ngươi, tại sao ngươi không nói?”
Hắn đành kiếm cách trả lời: “Cô ấy là tình nhân của lão gia.”
Chu Ỷ bây giờ mới hiểu, thở ra một hơi rồi ra lệnh: “Dẫn ta đi ngay, đừng có lảm nhảm nữa.”
Tên kia ấm ức nghĩ: “Ta lảm nhảm hồi nào, chuyện gì cũng do ngươi hỏi mà!” Nhưng lưỡi đao lạnh ngắt đang kề cổ, dĩ nhiên hắn không dám không nghe lời.
Hai người đi đến trước cửa một ngôi nhà nhỏ, tên gia nhân nói: “Đến nơi rồi.”
Chu Ỷ bảo: “Ngươi gõ cửa đi, kêu đại phu ra đây.”
Tên kia ngoan ngoãn làm theo. Tú bà bước ra mở cửa, hắn nói: “Có người đến tìm lão gia khám bệnh, tiểu nhân nói là lão gia không rảnh, nhưng cô ấy không tin, ép tiểu nhân dẫn đến đây tìm.” Mụ tú bà liếc xéo hắn một cái rồi đóng sầm cửa lại.
Chu Ỷ đứng sau lưng muốn chạy lên ngăn cản nhưng không kịp. Nàng đập cửa ầm ầm như đánh trống, nhưng bên trong chẳng có ai trả lời. Nàng giận dữ đá vào lưng tên kia một cước, hét lên: “Cút mau! Đừng láng cháng trước mặt làm bổn cô nương nổi nóng.” Hắn bị đá nhào sấp xuống đất như chó ăn phân, lẩm bẩm thóa mạ rồi bò lê bò càng chạy biến.
Chu Ỷ đợi hắn đi xa mới tung người nhảy vào trong sân, nhìn thấy một căn phòng có ánh đèn hắt qua khung cửa sổ giấy, liền nhẹ nhàng cúi người đi tới. Nàng nghe bên trong có tiếng hai nam nhân thì cả mừng, chỉ lo tên đại phu kia đang làm chuyện bậy bạ với ả Tiểu Mai Quế thì mình không biết phải hành động ra sao. Chu Ỷ thấm nước bọt ướt đầu ngón tay, chọc thủng giấy dán cửa sổ, ghé mắt nhìn vào.
Nàng thấy trong phòng có hai nam nhân đang ngồi trên giường nói chuyện, một tên thân hình to lớn, còn tên kia ốm yếu dài ngoằng. Một cô nàng yểu điệu đang đấm bóp cho tên ốm yếu. Chu Ỷ muốn quát gọi Tào Tư Bằng ra ngoài, nhưng bỗng thấy hán tử to cao phẩy tay một cái. Cô ả kia đứng dậy, mỉm cười nói: “Hai vị đại ca lại muốn thương lượng những chuyện hại người nữa rồi phải không? Lo mà tích đức cho con cháu đi, nếu không sau này đẻ con không có hậu môn thì khốn đấy!”
Hán tử cao to vừa cười vừa mắng: “Về mà ngửi cái hậu môn thúi của mẹ cô đi.” Cô ả cũng cười, ra ngoài đóng chặt cửa lại, đi ra nhà sau. Chu Ỷ nghĩ bụng: “Ả này chắc là Tiểu Mai Quế. Thật là đồ mặt dày, nhưng kể ra ả nói cũng có lý.”
Trong phòng, hán tử to cao lấy ra bốn thỏi bạc đặt trên bàn rồi nói: “Tào lão ca, đây là hai trăm lượng bạc. Chúng ta đã thương lượng lâu rồi, vẫn giá cũ nhé.”
Gã ốm đáp lời: “Đường lục gia! Mấy ngày nay quân binh đi qua huyện thành chúng ta, Lục gia được giao cung ứng quân lương, thế là phát tài thêm một món nữa rồi.” Chu Ỷ nghe mấy câu này vừa mừng vừa giận. Nàng mừng là cái tên thạch tín bọc đường cũng ở đây, không cần phải vất vả đi tìm nữa. Còn giận là vì đạo quân kia đã làm mình cực khổ như vậy, mà tên này còn giúp đỡ chúng hãm hại người khác.
Hán tử cao to nói: “Bọn dân đen cũng láu cá lắm. Huynh tưởng là chúng ngoan ngoãn nộp lương thảo cho đệ hay sao? Mấy ngày nay đệ chạy đông chạy tây, mệt chết cả người.”
Tên ốm nói: “Lão đệ mang hai gói thuốc này về, tha hồ mà khỏe lại. Gói giấy đỏ thì cho con nhỏ kia uống, chỉ chốc lát là bất tỉnh nhân sự. Lúc đó lão đệ muốn làm gì thì làm, không cần ta chỉ bảo nữa.” Hai gã phá lên cười khả ố.
Tên ốm lại tiếp: “Còn gói giấy đen thì cho thằng lỏi kia uống. Lão đệ nói là thuốc trị thương cho hắn, nhưng hắn uống vào thì vết thương sẽ chảy máu đến chết. Người khác nghĩ là vết thương vỡ miệng làm chết người, chứ không ai nghi ngờ là lão đệ hạ thủ. Lão đệ thấy ta tính toán thế nào?”
Gã kia lập tức tán dương: “Cao minh, cao minh!”
Tên ốm nói: “Lục gia! Lão đệ phen này được cả gái lẫn tiền mà chỉ cho ta có hai trăm lạng bạc, hình như hơi ít đấy.”
Gã kia nói: “Tào đại ca! Huynh đệ chúng ta là người tử tế, không nói lời ám muội. Con nha đầu kia thật là xinh đẹp, nó ăn mặc như đàn ông mà ta còn dằn lòng không nổi, huống chi sau này được nhìn thấy nó cởi đồ. Ha ha, thịt mỡ đưa đến miệng, không biết hưởng thụ thì người ta sẽ lôi tổ tông mười tám đời nhà họ Đường ra mà chửi không biết dạy con cháu. Còn thằng nhãi kia thì thật sự chẳng có bao nhiêu tiền bạc, chỉ vì hai đứa đi chung, đã muốn chiếm lấy con nha đầu kia thì không thể cho hắn sống.”
Gã ốm hỏi: “Không phải lão đệ nói hắn có một cây sáo đúc bằng vàng hay sao? Chỉ cây sáo đó thôi, ít ra cũng được mấy cân rồi chứ?”
Hán tử cao to đáp: “Được rồi, được rồi! Tiểu đệ chồng thêm cho huynh năm chục lạng.” Hắn nói xong, đặt thêm một thỏi bạc lên bàn.
Chu Ỷ càng nghe càng giận, phóng cước đá bật cửa phòng chạy thẳng vào trong. Hán tử to cao kêu lên một tiếng, phóng cước đá vào cổ tay cầm đao của nàng. Chu Ỷ xoay đơn đao lại, thuận tay chặt gãy chân phải hắn, rồi trở mủi đao đâm một nhát thấu tim.
Gã ốm ngồi bên hoảng sợ ngẩn người, thân mình run rẩy, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Chu Ỷ rút đao ra khỏi xác chết, lau sạch vết máu, rồi đưa tay trái nắm lấy ngực áo gã ốm quát hỏi: “Ngươi chính là Tào Tư Bằng phải không?”
Đầu gối gã ốm kia nhũn ra, quì dưới đất nói: “Xin… Xin cô nương tha mạng… tiểu nhân không dám nữa.”
Chu Ỷ nói: “Ai thèm lấy mạng ngươi? Đứng dậy!”
Tào Tư Bằng run rẩy đứng dậy, nhưng hai chân bủn rủn đứng không nổi lại khuỵu xuống. Chu Ỷ lấy hai gói thuốc và năm thỏi bạc cất vào bọc rồi bảo: “Đi ra.”
Tào Tư Bằng không biết nàng muốn gì, nhưng cũng chỉ còn cách từ từ đi ra ngoài, mở cửa lớn. Tú bà nghe tiếng động trong phòng, hỏi Tào Tư Bằng nhưng hắn không dám lên tiếng. Chu Ỷ kèm hắn đi lấy ngựa, rồi hai người lên ngựa chạy ra khỏi thị trấn.
Chu Ỷ nắm dây cương ngựa hắn, gằn giọng: “Nếu ngươi dám kêu một tiếng, thì ta lập tức cắt cái đầu chó ngươi rớt xuống.”
Tào Tư Bằng vội đáp: “Không… không dám!”
Chu Ỷ giận dữ nói: “Ai nói ta không dám? Ta cắt cho ngươi coi.” Nói xong nàng rút đơn đao ra.
Tào Tư Bằng run rẩy nói: “Không… Không… Không phải cô nương không dám… Là… Là tiểu nhân không dám.”
Chu Ỷ bật cười, cất đao vào bọc nghĩ bụng: “Quả thực ta không dám cắt cái đầu chó của ngươi. Cắt rồi thì ai trị bệnh cho huynh ấy đây.”
Không đầy hai canh giờ, hai người đã về đến nhà bà lão. Chu Ỷ đến bên giường Từ Thiên Hoằng, thấy chàng vẫn nằm thiêm thiếp, mặt mũi đỏ bừng, người nóng hầm hập. Nàng đẩy Tào Tư Bằng tới, nói: “Vị ca ca này đã bị thương. Ngươi mau trị bệnh cho huynh ấy đi.”
Tào Tư Bằng biết đối phương muốn nhờ mình trị bệnh, bấy giờ mới yên tâm trở lại, không đến nỗi kinh tâm động phách như trước. Hắn bắt mạch cho Từ Thiên Hoằng, rồi cởi băng vải trên vai chàng ra xem. Khám xong, hắn nhìn sắc mặt chàng lắc đầu quầy quậy rồi nói: “Huyết khí vị gia gia này rất yếu, hư hỏa đã bốc lên…”
Chu Ỷ ngắt lời: “Ai cần ngươi nói mấy chuyện đó? Chỉ cần trị bệnh huynh ấy cho tốt, trị không lành thì đừng hòng rời khỏi chỗ này.”
Tào Tư Bằng nói: “Để tiểu nhân về thị trấn lấy thuốc, không có thuốc thì chẳng làm được gì cả.”
Bấy giờ Từ Thiên Hoằng đã tỉnh lại một chút, nằm nghe hai người cãi vã. Chu Ỷ hỏi: “Ngươi tưởng ta là con nít ba tuổi hay sao? Ngươi kê toa đi, để ta đi bốc thuốc.”
Tào Tư Bằng không làm gì được, đành chịu thua: “Vậy nhờ cô nương đi lấy bút mực để tiểu nhân kê toa.”
Nơi hoang dã nghèo nàn này kiếm đâu ra bút mực. Chu Ỷ chau mày không biết phải làm sao. Tào Tư Bằng đắc ý nói: “Bệnh tình vị gia gia này không thể chờ đợi thêm nữa. Cứ để tiểu nhân về thị trấn lấy thuốc là tốt nhất.”
Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Muội muội! Muội lấy một cây củi đốt thành than, viết lên giấy bản. Không có giấy thì viết lên ván gỗ cũng được.”
Chu Ỷ mừng rỡ: “Ca ca đúng là lắm mưu nhiều kế.” Nàng theo lời Từ Thiên Hoằng đốt một miếng than, rồi xin bà lão được một tờ giấy vàng dùng để thắp hương cúng Phật. Tào Tư Bằng đành phải kê toa.
Chu Ỷ đợi hắn viết xong, rồi tìm một sợi dây trói ngược cả tay chân hắn vào cạnh giường. Nàng để đơn đao của Từ Thiên Hoằng cạnh gối chàng, rồi dặn bà lão: “Cháu vào thị trấn bốc thuốc. Nếu tên cẩu đại phu này muốn chạy trốn thì bà gọi ca ca của cháu dậy, chặt đầu hắn trước rồi tính sau.”
Chu Ỷ cưỡi ngựa vào thị trấn, tìm được một tiệm bán thuốc. Nàng gọi cửa, hốt mười mấy thang thuốc tổng cộng là một lạng ba tiền. Lúc sờ vào túi, nàng mới biết là vội vã quên cả mang tiền, năm thỏi bạc đã để ở nhà bà lão, liền nói: “Cho ta nợ, lát nữa đem tiền tới trả.”
Người giúp việc trong tiệm lo lắng kêu lên: “Cô nương, không được đâu. Cô không phải là người vùng này, huống chi bổn tiệm vốn liếng cũng eo hẹp lắm.”
Chu Ỷ giận dữ nói: “Thế thì chỗ thuốc này coi như ta mượn, sau này ngươi bệnh ta sẽ đem trả cho ngươi.”
Người giúp việc nói: “Đây là thuốc trị thương. Tiểu nhân đâu có bị thương bao giờ?”
Chu Ỷ lại càng giận dữ: “Chẳng lẽ ngươi bị đao chém cũng bình an vô sự hay sao?” Nàng rút đơn đao nghe soạt một tiếng, hét lên: “Ta thử thí nghiệm một đao xem ngươi có bị thương hay không.” Gã kia thấy lưỡi đao sáng loáng trước mặt, hai chân bủn rủn ngồi bẹp xuống đất, rồi chui ngay vào gầm bàn.
Chu Ỷ là thiên kim tiểu thư con nhà gia thế, khác hẳn Lạc Băng. Hôm nay nàng dùng vũ lực ép người lấy thuốc là chuyện bất đắc dĩ. Đây là lần đầu tiên trong đời nàng làm thế, nên cảm thấy rất khó chịu trong lòng, im lặng lấy thuốc rồi lên ngựa. Lúc này trời đã sáng dần, dọc đường đầy bọn quan sai địa phương qua lại tuần tra. Chu Ỷ biết vụ án giết thạch tín bọc đường đã bị phát giác, bèn nép vào một góc chờ vắng người mới cho ngựa chạy thật nhanh, về tới nhà bà lão thì trời sáng hẳn. Nàng cùng với bà lão sắc thuốc, rót vào cái chén mẻ mang tới bên giường Từ Thiên Hoằng, gọi chàng dậy uống thuốc.
Từ Thiên Hoằng thấy đầu nàng vừa đen bồ hóng vừa đẫm mồ hôi, tóc vương đầy cỏ thì nghĩ thầm: “Chắc nàng chưa bao giờ phải làm những việc đun nấu thế này.” Chàng không nén nổi cảm kích, ngồi dậy đón lấy chén thuốc, nhưng chợt nảy ra một ý, liền đẩy chén thuốc đến trước mặt Tào Tư Bằng nói: “Ngươi uống hai hớp trước đi.”
Tào Tư Bằng hơi chần chừ. Chu Ỷ chưa hiểu ý Từ Thiên Hoằng, nhưng cũng hùa theo: “Đúng, đúng, bắt hắn uống trước là phải. Huynh chưa biết đâu, tên này tồi tệ lắm.”
Tào Tư Bằng chỉ còn cách mở miệng uống hai hớp thuốc. Từ Thiên Hoằng nói: “Muội muội! Muội ngồi nghỉ một chút, thuốc này lát nữa hãy uống.”
Chu Ỷ hỏi: “Tại sao vậy?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Xem thử hắn có chết hay không.”
Chu Ỷ đồng tình: “Đúng vậy. Nếu hắn chết thì thuốc này không uống được.” Nàng bèn cầm đèn dầu rọi vào Tào Tư Bằng, trừng mắt nhìn chằm chặp xem hắn có chết hay không.
Tào Tư Bằng cười khổ nói: “Đã là đại phu thì phải có tấm lòng cắt thịt chữa người, sao có thể hại người được?”
Chu Ỷ giận dữ nói: “Ngươi lén lút thương lượng với Đường Thạch Tín mưu hại cô nương nhà người ta, mưu lấy kim địch của người ta, những chuyện này ta nghe thấy hết. Bây giờ lại còn oai phong lỗ miệng ư?”
Từ Thiên Hoằng nghe thấy hai chữ “kim địch”, vội vàng hỏi rõ. Chu Ỷ kể lại mọi chuyện, cả chuyện mình giết gã thạch tín bọc đường kia. Nói đến đây, nàng sực nhớ liền chạy ra ngoài thuật lại với bà lão chuyện mình vừa trả thù cho con trai và con dâu bà. Bà lão nước mắt giọt ngắn giọt dài, vừa khóc vừa cảm ơn, miệng không ngừng niệm phật.
Từ Thiên Hoằng đợi Chu Ỷ quay vào mới hỏi Tào Tư Bằng: “Người cầm ống sáo vàng trông như thế nào? Còn nữ nhân cải nam trang kia là ai?”
Chu Ỷ rút đơn đao ra uy hiếp: “Nếu ngươi không nói rõ ràng thì lưỡi đao này kết liễu ngươi ngay.”
Tào Tư Bằng cực kỳ sợ hãi nói: “Tiểu… tiểu nhân nói thật… Hôm qua Đường lục gia đến tìm tiểu nhân, nói rằng trong nhà hắn có hai người đến tá túc, một người bị thương nặng, người kia là một thiếu niên tuấn tú đẹp trai. Hắn không muốn giữ họ lại, nhưng thấy thiếu niên kia đẹp kỳ lạ nên mới cho nghỉ nhờ một đêm. Sau này nghe thiếu niên đó ăn nói nhỏ nhẹ dịu dàng, cử chỉ thần sắc giống như con gái, lại không chịu ở cùng phòng với hán tử bị thương, nên hắn mới đoán là nữ cải nam trang.”
Chu Ỷ nói: “Vì thế mà hắn đến mua thuốc của ngươi phải không?”
Tào Tư Bằng ấp úng: “Tiểu nhân đáng chết.”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Hán tử kia dáng vẻ như thế nào?”
Tào Tư Bằng đáp: “Đường lục gia có gọi tiểu nhân xem thử. Người đó khoảng hai ba hai bốn tuổi, ăn mặc kiểu văn sĩ, trên người bị đao và côn đả thương bảy tám chỗ.”
Từ Thiên Hoằng lại hỏi: “Bị thương có nặng lắm không?”
Tào Tư Bằng đáp: “Hơi nặng nhưng đều là ngoại thương cả, không có vết thương nào trí mạng.”
Từ Thiên Hoằng cảm thấy không hỏi thêm gì được, bèn đưa tay bê chén thuốc uống. Không ngờ chàng yếu quá, tay run rẩy làm thuốc sánh ra ngoài. Chu Ỷ thấy vậy liền giành lấy chén thuốc, kề lên miệng chàng. Từ Thiên Hoằng uống hết chén thuốc rồi nói: “Đa tạ.”
Tào Tư Bằng nghe vậy nghĩ thầm: “Hai tên này không phải là huynh muội. Làm gì có ông anh nào đa tạ vì em gái mình sắc thuốc?”
Từ Thiên Hoằng uống hết chén thuốc rồi ngủ một giấc, mồ hôi toát ra đầm đìa. Đến chiều chàng lại uống thêm một chén nữa. Nhân phẩm Tào Tư Bằng tuy tồi tệ nhưng y thuật lại khá cao minh, quả nhiên chữa được bệnh cho chàng. Sáng hôm sau Từ Thiên Hoằng đã có thể bước xuống giường.
Lại thêm một ngày nữa, Từ Thiên Hoằng nghĩ mình đã ráng cưỡi ngựa được, liền nói với Chu Ỷ: “Người cầm kim địch chính là Thập tứ đệ của ta, không biết tại sao lại lạc vào nhà tên ác bá đó. Tuy hắn đã bị cô giết chết, trước mắt không có gì đáng lo ngại, nhưng ta vẫn không yên tâm. Tối nay chúng ta đi thám thính một chút xem sao.”
Chu Ỷ hỏi: “Người đó là Thập tứ đệ của huynh hay sao?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Y đã từng tới Thiết Đảm Trang, cô cũng gặp rồi. Đó chính là người đầu tiên mà tổng đà chủ của ta phái đi thám thính tin tức.”
Chu Ỷ nói: “À ra thế! Nếu biết trước là huynh ấy thì ta đã đón đến đây dưỡng thương cùng huynh rồi. Như vậy không phải tốt hơn hay sao?”
Từ Thiên Hoằng mỉm cười, một lúc bỗng trầm ngâm tự hỏi: “Nữ nhân cải nam trang đó là ai nhỉ?”
Đến xế chiều, Chu Ỷ tặng cho bà lão hai thỏi bạc, bà cảm ơn cả ngàn lần rồi mới chịu nhận lấy. Sau đó Chu Ỷ nhấc bổng Tào Tư Bằng lên, đưa đao xẻo vành tai phải của hắn rơi xuống đất, hét lớn: “Vì ngươi đã chữa trị cho ca ca ta nên ta mới tha cái mạng chó này. Nếu sau này ngươi tiếp tục làm chuyện bậy bạ thì cứ nhìn gương gã thạch tín bọc đường, một đao là mất mạng.”
Tào Tư Bằng xua tay lia lịa: “Không phải! Không phải cô nương không dám mà là tiểu nhân không dám.”
Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Ba tháng sau chúng ta sẽ quay lại đây, khi đó sẽ đến bái phỏng Tào đại phu.”
Tào Tư Bằng lại nói: “Không dám! Không dám! À không phải! Không phải đại gia không dám bái phỏng, mà tiểu nhân không dám, không dám không đón tiếp.”
Chu Ỷ bảo: “Huynh lấy ngựa hắn mà cưỡi, chúng ta đi thôi.”
Hai người lên ngựa đi về hướng Văn Quang trấn. Dọc đường Chu Ỷ hỏi: “Ba tháng sau chúng ta trở lại đây để làm gì?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Ta gạt tên đại phu đó để hắn khỏi làm khó dễ lão bà.”
Chu Ỷ gật đầu, đi thêm một đoạn lại hỏi: “Tại sao lúc nào huynh cũng xảo quyệt lừa gạt người khác? Ta chẳng thích như vậy chút nào.”
Từ Thiên Hoằng không đáp ngay được, hồi lâu mới nói: “Cô nương chưa biết, nhân vật giang hồ lòng dạ xảo trá khó lường. Đối với bạn bè thì đương nhiên phải lấy nhân nghĩa làm đầu, nhưng đối với tiểu nhân mà cô nương thật lòng thì chỉ tổ chuốc lấy thiệt thòi, bị lừa mất mạng cũng nên.”
Chu Ỷ nói: “Gia gia ta vẫn dạy, thà mình chịu thiệt thòi một chút chứ không được hiếp đáp người khác.”
Từ Thiên Hoằng gật gù: “Đó chính là điểm hơn người của gia gia cô nương. Vì thế mà trong giang hồ bất kể hắc đạo hay bạch đạo, bất kể quan lại hay lục lâm, không ai không coi Thiết đảm trang Chu lão gia là anh hùng hảo hán đại nhân đại nghĩa, mọi người đều muôn phần thán phục.”
Chu Ỷ hỏi: “Sao huynh không học theo gia gia ta?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Chu lão gia tử bản tính nhân hậu. Con người tính tình xảo quyệt cổ quái như ta làm sao mà học được?”
Chu Ỷ nói: “Ta ghét nhất là tính khí xảo quyệt cổ quái như huynh. Gia gia vẫn nói, chỉ cần mình đối xử tốt với người ta là đương nhiên người ta cũng đối xử tốt với mình.”
Từ Thiên Hoằng ngẫm nghĩ, nhất thời không biết nói gì. Chu Ỷ hỏi: “Sao? Huynh không vui rồi hả? Lại muốn tìm cách trêu ghẹo ta phải không?”
Từ Thiên Hoằng bắt chước giọng lưỡi Tào Tư Bằng: “Không dám! Không dám! Là tiểu nhân không dám, không phải cô nương không dám.”
Chu Ỷ phì cười: “Người tốt không chịu học, lại đi học tên cẩu đại phu kia.”
Từ Thiên Hoằng mỉm cười: “Cẩu đại phu là gì? Chó có biết làm đại phu đâu?”
Chu Ỷ cười đắc ý: “Không phải chó làm đại phu, mà là đại phu trị bệnh cho chó.”
Hai người dọc đường đùa giỡn, không lúc nào rầu rĩ. Sau phen hoạn nạn này đương nhiên Từ Thiên Hoằng cảm kích Chu Ỷ vô cùng, còn Chu Ỷ sợ vì mình có ân huệ nên người ta phải cố ý nhẫn nhịn, nên lúc nào cũng ráng khiêm nhường một chút. Nàng nói: “Trước đây ta cứ nghĩ rằng tính xấu của huynh đã ăn vào đến xương tủy. Nào ngờ…”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Nào ngờ cái gì?”
Chu Ỷ tiếp: “Bây giờ ta nghĩ, trước đây huynh chỉ cố ý giả vờ xảo quyệt. Tại sao lúc nào huynh cũng một mực chống đối ta? Con người như ta ai nhìn thấy cũng phải tức, có phải vậy không?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Người tốt hay xấu, khi mới quen biết vẫn thường lầm. Lúc đầu ta đâu có biết bụng dạ cô tốt như thế này?”
Chu Ỷ hỏi lại: “Lúc đó huynh nghĩ ta là con nha đầu vừa kiêu ngạo vừa nhỏ mọn có phải không?” Từ Thiên Hoằng cười cười không đáp.
Hai người đợi trời tối hẳn mới vào Văn Quang trấn, tìm đến nhà Đường Thạch Tín, tung người nhảy qua tường vào trong thám thính. Từ Thiên Hoằng bắt một tên tuần canh hăm dọa, hỏi tung tích Dư Ngư Đồng. Hắn nói: “Đường lục gia bị đại phu Tào Tư Bằng giết chết ở nhà Tiểu Mai Quế, trong nhà rối loạn lung tung. Sáng hôm sau hai người tá túc đó đã bỏ đi rồi.”
Chu Ỷ đề nghị: “Chúng ta đuổi theo họ đi.”
* * *
Không đầy một ngày hai người đã đi qua Cao Lan. Đi thêm hai ngày nữa thì Từ Thiên Hoằng phát hiện dọc đường có ký hiệu Trần Gia Lạc để lại, cho biết mọi người đến Khai Phong, hẹn gặp nhau tại nhà Mai Lương Minh, liền nói với Chu Ỷ. Chu Ỷ nghe tin mọi người vô sự, hết sức mừng rỡ. Bây giờ nàng mới yên tâm, hết lo lắng cho gia gia bèn đi mua ba cân rượu uống một bữa thoải mái.
Lúc này vết thương trên vai Từ Thiên Hoằng đã lành hẳn, sức lực hồi phục. Hai người vừa đi đường vừa nói chuyện, Từ Thiên Hoằng kể mấy giai thoại võ lâm, rồi mang một số điều cấm kỵ trên giang hồ ra giải thích tường tận. Chu Ỷ nghe rất thích thú, cứ cằn nhằn sao họ Từ không nói những chuyện đó sớm hơn mà cứ lo chặn họng, gây sự với người ta.
Chẳng bao lâu đã đến Đồng Quan. Hai người tìm chỗ nghỉ ngơi, biết Duyệt Lai khách điếm là chỗ đàng hoàng hơn cả, nhưng đến đó hỏi mới biết chỉ còn một phòng tốt. Từ Thiên Hoằng lấy một xâu tiền nhét vào tay tiểu nhị, bảo hắn tìm cách kiếm thêm một phòng nữa. Tiểu nhị lắc đầu hỏi lại: “Những phòng khác đã có người trọ hết rồi. Chẳng hay đại gia cùng vị cô nương này xưng hô thế nào?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Đó là tiểu muội ta.”
Tiểu nhị nói: “Đã là huynh muội thì ở chung một phòng đâu có sao.”
Chu Ỷ giận dữ gắt: “Không được nói nhiều.”
Chưa nói dứt, Từ Thiên Hoằng đã khẽ giật chéo áo nàng rồi nói: “Được, một phòng thì một phòng.” Dọc đường Chu Ỷ thấy chàng hết sức giữ lễ với mình, thật sự là một nam tử hán đường hoàng. Thế mà bây giờ chàng đòi ở cùng phòng, nàng không khỏi vừa xấu hổ vừa nghi ngờ, nhưng trước mặt tiểu nhị không sao lên tiếng được.
Vừa bước vào phòng, Từ Thiên Hoằng lập tức đóng cửa. Chu Ỷ đỏ mặt, định chất vấn, Từ Thiên Hoằng liền ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng rồi thì thầm: “Vừa rồi cô có nhìn thấy tên khốn kiếp ở Trấn Viễn tiêu cục không?”
Chu Ỷ giật mình hỏi lại: “Cái gì? Cái gã dẫn người đến bắt Văn tứ gia và hại chết em trai ta ư?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Lúc đó ta liếc qua thấy hình như là hắn, cũng không chắc lắm, vì ta sợ bại lộ hành tung nên phải nhanh chóng về phòng. Lát nữa sẽ thăm dò lại.”
Tiểu nhị đem trà vào, hỏi hai người cần ăn uống gì không. Từ Thiên Hoằng dặn dò xong xuôi bèn hỏi: “Mấy vị đại gia ở Trấn Viễn tiêu cục Bắc Kinh cũng ở đây phải không?”
Tiểu nhị nói: “Đúng thế. Mỗi lần đi ngang Đồng Quan họ đều trọ lại đây.”
Từ Thiên Hoằng đợi tiểu nhị ra ngoài mới nói: “Tên Đồng Triệu Hòa này hết sức ác ôn. Tối nay chúng ta làm thịt hắn trước để trả thù cho tiểu đệ cô và Tứ ca ta.”
Chu Ỷ nghĩ đến em mình chết thảm, nghĩ đến Thiết Đảm Trang cháy trụi, giận dữ xung thiên. Nếu Từ Thiên Hoằng không ráng sức khuyên ngăn thì nàng đã xách đao xông ra rồi. Từ Thiên Hoằng khuyên: “Cô nên nghỉ ngơi trước đã. Hãy chuẩn bị tinh thần, nửa đêm chúng ta ra tay cũng không muộn.”
Chàng nói xong gục đầu lên bàn mà nghỉ, không nhìn Chu Ỷ cái nào nữa. Chu Ỷ cũng bình tĩnh lại, lên giường ngồi điều tức. Khó khăn lắm nàng mới chờ được đến canh hai, không nhịn nổi nữa liền rút đao ra nói: “Đi thôi.”
Từ Thiên Hoằng nói nhỏ: “Bọn chúng người đông thế mạnh, e rằng không ít cao thủ. Ta nên thám thính trước, tìm cách dụ tên khốn đó ra ngoài rồi tính sổ với hắn.” Chu Ỷ gật đầu đồng ý.
Hai người ra sân quan sát, thấy căn phòng hướng đông có ánh đèn. Từ Thiên Hoằng vẫy tay ra hiệu, hai người nhẹ nhàng tới đó. Chu Ỷ tìm thấy một khe hở trên cửa sổ, liền ghé mắt nhìn vào bên trong.
Từ Thiên Hoằng nắm chặt binh khí đứng phía sau canh chừng, thấy nàng đột nhiên đứng bật dậy, phóng chân trái đá vào cánh cửa sổ. Chàng giật mình, vội lạng người ra cản trước mặt Chu Ỷ. Nàng vội co chân lại để khỏi đá trúng ngực Từ Thiên Hoằng. Đòn cước này lực đạo rất mạnh, Chu Ỷ phải cố hết sức mới thu lại được, không đứng vững phải lùi mấy bước.
Từ Thiên Hoằng nhảy tới giữ nàng lại, hỏi nhỏ: “Cái gì thế?”
Chu Ỷ giục: “Ra tay nhanh lên! Mẹ ta đang bị bọn chúng trói trong đó.”
Từ Thiên Hoằng kinh hãi nói: “Mau về phòng thương lượng.”
Về tới phòng, Chu Ỷ giận dữ hỏi: “Còn thương lượng gì nữa? Mẹ ta bị bọn khốn đó bắt rồi.”
Từ Thiên Hoằng tìm lời trấn an: “Cô nên bình tĩnh, ta đảm bảo sẽ cứu được mẹ cô. Trong phòng có bao nhiêu người?”
Chu Ỷ đáp: “Khoảng sáu bảy người.”
Từ Thiên Hoằng nghiêng đầu suy nghĩ một lúc. Chu Ỷ tức tối lên tiếng: “Việc gì phải sợ? Huynh không đi thì ta đi một mình.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Không phải ta sợ, mà đang nghĩ cách để vừa cứu được mẹ cô vừa giết được tên gian tặc đó. Hai việc này phải chu toàn một lúc mới khỏi uổng công.”
Chu Ỷ nói: “Cứu mẫu thân là gấp, còn thằng khốn kia giết muộn một chút cũng chẳng hề gì.”
Ngay lúc đó có tiếng bước chân vọng tới, Từ Thiên Hoằng vội đưa tay ra hiệu cho nàng im lặng. Có người đi ngang cửa phòng, trong miệng lẩm bẩm oán trách: “Nửa đêm rồi, không ngủ thẳng cẳng đi còn rượu chè cho lắm vào. Con mẹ nó! Bồ tát hiển linh xin trừng phạt bọn bảo tiêu này, dọc đường gặp cường địch cướp sạch tiêu ngân.”
Từ Thiên Hoằng nghe tên tiểu nhị trù ẻo, đoán là đám tiêu sư bắt hắn kiếm rượu giữa đêm khiến hắn tức tối. Chàng suy nghĩ một chút rồi hỏi Chu Ỷ: “Tên cẩu đại phu kia có hai gói thuốc, cô có đem theo hay không? Trong đó có một gói mà hắn nói là uống vào bất tỉnh nhân sự, mau đưa cho ta.”
Chu Ỷ không hiểu ý chàng, nhưng cũng lấy ra rồi hỏi: “Huynh định làm gì vậy?” Từ Thiên Hoằng không đáp, vẫy nàng một cái rồi nhảy ra ngoài cửa sổ. Chu Ỷ vội vã chạy theo.
Từ Thiên Hoằng chạy vòng ra hành lang, nói nhỏ: “Cúi xuống, đừng nhúc nhích.” Chu Ỷ nghi ngờ trong bụng, không hiểu chàng định bày trò gì. Nàng đợi mãi không thấy gì lạ, đang muốn hỏi thì bỗng thấy ánh sáng le lói, thì ra tên tiểu nhị đang cầm nến bưng một cái khay đi tới.
Từ Thiên Hoằng lượm một hòn đá nhỏ ném tới, ngọn nến tắt phụt. Tên tiểu nhị kinh hãi la lên: “Đúng là gặp ma rồi. Chẳng có chút gió nào mà nến lại tắt.” Hắn để chiếc khay xuống đất, quay về tìm lửa.
Từ Thiên Hoằng đợi hắn đi khuất, nhảy lẹ ra, đập đá lửa chiếu sáng. Chàng thấy trong khay có hai bình rượu, liền chia gói thuốc đó làm hai phần đổ vào hai bình, rồi bảo Chu Ỷ: “Tới chỗ bọn chúng đi.”
Hai người vòng ra phía sau phòng bọn tiêu sư ngồi đợi. Từ Thiên Hoằng nhìn vào cửa sổ, quả nhiên thấy một phụ nữ trung niên bị trói hai tay đặt ngồi dưới đất. Hai người ngồi bên bàn đàm luận gì đó, một là Thiết tỳ bà thủ Hàn Văn Xung, một là Tiền Chính Luân. Ngoài ra còn có Đồng Triệu Hòa và bốn tiêu sư chàng chưa biết mặt.
Đồng Triệu Hòa đang nói đến chỗ cao hứng: “Nhắc đến Thiết Đảm Trang thì giang hồ đều coi là chỗ tường đồng vách sắt, nào ngờ lão tử chỉ dùng một ngọn đuốc mà đốt sạch sành sanh. Vậy mới gọi là Đồng Triệu Hòa đốt cháy Thiết Đảm Trang, Chu Trọng Anh khóc như mưa lụt đất.”
Chu Ỷ đứng ngoài cửa sổ, tận tai nghe rõ hắn huênh hoang. Từ Thiên Hoằng sợ nàng nổi giận, phải quay đầu lại ra hiệu đừng manh động.
Hàn Văn Xung cũng bực mình, quay lại bảo: “Lão Đồng! Ngươi đừng ngồi đó mà khoác lác. Lão Chu Trọng Anh kia ta đã từng gặp, nếu mặt đối mặt giao đấu thì bảy người chúng ta hợp sức chưa chắc là đối thủ của lão. Sẽ có lúc lão tìm đến tiêu cục, lúc đó ngươi sẽ biết thế nào là khóc như mưa lụt đất.”
Đồng Triệu Hòa nói: “Cứ chờ xem, chúng ta đang có phước tinh hộ mạng. Con mụ này tự chuốc họa vào thân. Mụ nằm trong tay chúng ta, để coi lão dám làm gì.” Nói đến đây, tiểu nhị đã bưng rượu vào phòng.
Bọn tiêu sư bày tiệc đánh chén no say. Hàn Văn Xung chẳng cao hứng gì, nhưng Đồng Triệu Hòa không ngừng mời mọc: “Hàn đại ca! Hảo hán cũng không địch nổi đông người, huynh thua bọn chúng một trận cũng đâu phải là chuyện lớn? Lần sau chúng ta hẹn ước đường hoàng, lấy một chọi một với Hồng Hoa Hội để phân cao thấp một phen.”
Một tên tiêu sư cười hỏi: “Chúng ta một đối một thì tạm được, còn lão Đồng thì đấu với ai?”
Đồng Triệu Hòa đáp: “Ta đi tìm vợ con chúng…” Hắn nói chưa dứt câu, đột nhiên lăn ra đất. Bọn kia giật mình tới dìu hắn dậy, nhưng tay chân cũng bủn rủn hết, từng tên gục xuống.
Lúc này Từ Thiên Hoằng mới lấy đơn đao đâm vào khe cửa sổ, nạy cửa ra nhảy vào trong phòng. Chu Ỷ theo sau chàng, chỉ mới gọi một tiếng “Mẫu thân!” là mắt đã có ngấn nước. Nàng cắt hết dây trói tay mẹ. Chu phu nhân nhìn thấy con gái mà tưởng đang nằm mơ, không nói được lời nào.
Từ Thiên Hoằng nhấc Đồng Triệu Hòa lên, bảo Chu Ỷ: “Chu cô nương! Hãy trả thù cho tiểu đệ cô đi!” Chu Ỷ vung đao đâm xuyên qua ngực Đồng Triệu Hòa, hắn mất mạng ngay lập tức. Tên gian ác này suốt đời làm việc thất đức, thọc gậy không biết bao nhiêu bánh xe, hại không biết bao nhiêu người, rốt cuộc đã tán mạng dưới tay Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ.
Chu Ỷ muốn giết sạch bọn tiêu sư, nhưng Từ Thiên Hoằng ngăn lại: “Bọn này tội chưa đáng chết, tha chúng một lần đi.” Chu Ỷ vâng lời thu đao lại.
Chu phu nhân biết con gái mình xưa nay ngang bướng, đã quyết định làm gì thì không ai cản nổi. Chỉ có Chu Trọng Anh còn đôi lúc khuyên được nàng, còn người khác thì đừng hòng. Bây giờ bà thấy con gái nghe lời Từ Thiên Hoằng, không khỏi thấy kỳ lạ.
Từ Thiên Hoằng lục soát trên người bọn tiêu sư, tìm được mấy lá thư. Chàng không kịp đọc, nhét hết vào bọc rồi giục: “Chúng ta mau về phòng thu dọn đồ đạc, đi ngay thôi.”
Ba người nhảy ra cửa sổ trở về phòng. Từ Thiên Hoằng thu dọn hành lý, đặt ít bạc vụn lên bàn coi như trả tiền ăn nghỉ, rồi đến chuồng ngựa dắt ba con ngựa ra. Ba người chạy về hướng đông
* * *
Chu phu nhân thấy con gái mình đi chung với Từ Thiên Hoằng, lại ngủ chung một phòng, nên càng lúc càng thấy nghi ngờ. Bà cũng là một nữ nhân tính khí nóng nảy, không nhịn được hỏi ngay: “Gia gia ngươi đâu? Gã này là ai? Sao ngươi lại đi chung với y? Không biết gia gia hay nổi nóng hay sao?”
Chu Ỷ đáp: “Mẹ mới là người nổi nóng rời bỏ gia gia. Mẹ chờ một lát rồi hỏi có được không?” Hai mẹ con đều nóng tính, mới nói hai câu đã lớn tiếng ngay. Từ Thiên Hoằng tìm lời khuyên giải, Chu Ỷ bực tức nạt luôn: “Mọi chuyện đều tại huynh cả. Huynh còn muốn nói gì nữa?” Từ Thiên Hoằng cười khổ, quất ngựa chạy trước. Hai mẹ con cũng im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Đêm đó họ tá túc ở nhà một nông dân. Hai mẹ con ngủ chung một phòng, Chu Ỷ bèn kể lại tình hình. Nàng không khéo nói chuyện, lại thêm Chu phu nhân tính tình bộp chộp hỏi vặn lung tung, nên hai người lúc khóc lúc cười, người thì tức tối nghẹn lời, người thì la mắng con mình không biết lễ nghi, mất nửa đêm mới hiểu được tình hình từ lúc rời nhau.
Thì ra Chu phu nhân vì thương xót con trai mà bi phẫn bỏ nhà ra đi, đến nhà bà con họ Hứa ở Cao Lan. Mặc dù chủ nhân tiếp đón ân cần, nhưng bà đang đau khổ, ở không lại càng rầu rĩ, chẳng bao lâu đã rời khỏi đó. Hôm đó bà đến Đồng Quan, trú tại khách sạn Duyệt Lai.
Bà nhìn thấy tiêu kỳ của Trấn Viễn tiêu cục, nhớ đến đại đệ tử Mạnh Kiện Hùng từng nói người khiến con trai mình chết thê thảm là Đồng Triệu Hòa, tiêu đầu Trấn Viễn tiêu cục. Thế là đêm đó bà nhảy vào dò xét. Nghe bọn tiêu sư nói chuyện, biết tên Đồng Triệu Hòa cũng ở trong đó, bà không nhịn được, xông vào động thủ. Nhưng song quyền khó địch bốn tay, rút cuộc bà bị chúng bắt. Bà đã nghĩ mình chắc chắn không thoát chết, nào ngờ con gái đột nhiên xuất hiện.
Chu Ỷ kể lại chuyện báo thù và cứu mẹ hoàn toàn do Từ Thiên Hoằng sắp đặt, Chu phu nhân vô cùng cảm kích.
Ngày hôm sau, dọc đường Chu phu nhân hỏi thân thế Từ Thiên Hoằng. Họ Từ kể: “Vãn bối người Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang. Năm mười hai tuổi cả nhà bị quan phủ hại chết, chỉ một mình vãn bối chạy thoát.”
Chu phu nhân hỏi: “Tại sao quan phủ lại hại gia đình các hạ?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Tri phủ Thiệu Hưng thấy tỉ tỉ vãn bối vừa mắt, muốn lấy tỉ tỉ làm vợ bé. Nhưng tỉ tỉ đã đính ước với người khác từ lâu rồi, đương nhiên gia gia vãn bối không đồng ý. Hắn lập tức buộc tội gia gia cấu kết với thổ phỉ, nhốt gia gia, má má và ca ca vào ngục, rồi sai người đi tìm tỉ tỉ vãn bối, nói là chỉ cần tỉ tỉ gật đầu là tha gia gia lập tức. Tỉ phu tương lai của vãn bối biết chuyện, liền đi hành thích tri phủ. Sự việc bại lộ, tỉ phu bị bọn bổ khoái đánh chết. Tỉ tỉ hay tin liền nhảy xuống sông tự tử. Thế là gia gia, má má và ca ca vãn bối không còn đường sống nữa.”
Chu Ỷ nghe đến đó, giận dữ hỏi: “Huynh đã trả thù chưa?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Khi ta lớn lên học được võ công, quay về tìm tên tri phủ đó thì hắn đã thăng quan tiến chức, điều động đến nơi khác rồi. Mấy năm nay ta tìm kiếm khắp nơi, nhưng chưa có tin tức gì.”
Chu Ỷ hỏi: “Tên cẩu quan đó tên là gì? Ta quyết không tha cho hắn.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Chỉ biết hắn họ Phương, hình như tên là Phương Hữu Đức hay Phương Vô Đức gì đó. Má trái hắn có một cái bớt đen, nhìn thấy là nhận ra ngay.”
Chu Ỷ hừ một tiếng. Chu phu nhân lại hỏi chàng đã kết thân với ai chưa, bôn ba giang hồ nhiều năm như thế chẳng lẽ chưa gặp cô nương nào ưng ý. Chu Ỷ mỉm cười nói: “Con người huynh ấy điêu ngoa xảo trá, đâu có cô nương nào chịu thích?”
Chu phu nhân vừa cười vừa mắng nàng: “Con gái lớn rồi mà ăn nói bừa bãi, thật chẳng ra làm sao.”
Chu Ỷ cười khúc khích rồi trêu: “Mẹ muốn làm mai cho huynh ấy có phải không? Cô nương nhà nào thế? Có phải muội muội nhà họ Hứa không?”
Đêm hôm đó họ nghỉ lại khách sạn. Chu phu nhân trách con: “Con là khuê nữ mà ngủ chung phòng với nam nhân, làm sao lấy người khác được?”
Chu Ỷ cãi: “Huynh ấy bị thương, con cứu huynh ấy là sai hay sao? Huynh ấy tuy quỉ kế đa đoan nhưng đối với con hết sức đàng hoàng.”
Chu phu nhân nói: “Việc này con biết, hắn biết, mẹ tin, gia gia con tin, nhưng người khác có tin hay không? Nếu sau này con bị chồng nghi ngờ, thì muốn làm người tốt cũng không được nữa. Đó chính là nỗi khổ nhất đời của nữ nhân chúng ta.”
Chu Ỷ nói: “Thế thì suốt đời con không lấy chồng là xong.”
Hai người càng nói càng lớn tiếng, tranh chấp căng thẳng. Chu phu nhân nói: “Gã họ Từ ở ngay cạnh phòng này, để hắn nghe thấy thì không hay chút nào.”
Chu Ỷ gắt: “Nghe thì đã sao? Con có làm điều gì quấy đâu mà sợ người ta nói này nói nọ?”
Sáng hôm sau hai mẹ con thức dậy, tiểu nhị đem vào một lá thư rồi nói: “Từ gia ở phòng bên bảo tiểu nhân đem đến cho phu nhân.”
Chu Ỷ liền hỏi: “Huynh ấy đâu?”
Tiểu nhị nói: “Từ gia nói là có việc cần phải đi trước một chút, sáng sớm đã cưỡi ngựa đi rồi.”
Chu Ỷ lập tức túm lấy cổ áo hắn, quát: “Tại sao ngươi không báo cho chúng ta biết ngay?”
Tiểu nhị hoảng sợ đáp: “Từ gia nói là không cần thông báo, mọi chuyện đều viết trong thư.”
Chu Ỷ buông hắn, mở thư ra đọc: “Chu phu nhân! Chu cô nương! Tại hạ bị thương, rất may được Chu cô nương cứu mạng, đại ân không thể cảm tạ bằng lời. Bây giờ hai người đã đoàn tụ, từ đây đến Khai Phong không còn xa nữa, Thiên Hoằng đi trước một bước mong hai vị đừng trách. Việc Chu cô nương cứu giúp, tại hạ suốt đời không quên. Ơn này ghi nhớ trong lòng, nhất định không nói với ai một câu một chữ, xin hai vị yên tâm. Từ Thiên Hoằng kính bút.”
Chu Ỷ đọc xong, ngơ ngẩn một hồi rồi quăng lá thư đi, về phòng lăn lên giường nằm thẳng cẳng. Chu phu nhân gọi nàng dậy ăn cơm, nàng cũng chẳng nói năng gì, mặc kệ bà. Chu phu nhân lo lắng hỏi: “Đại tiểu thư! Bây giờ chúng ta không ở Thiết Đảm Trang, sao con cứ mang tính đỏng đảnh ra dọa người ta thế?”
Chu Ỷ vẫn mặc kệ. Chu phu nhân lại hỏi: “Con trách Từ gia bỏ đi không nói năng gì phải không?”
Chu Ỷ tức giận đáp: “Huynh ấy làm thế là vì con, sao lại trách huynh ấy được.”
Chu phu nhân hỏi: “Vậy là con đang trách mẹ phải không?” Chu Ỷ lăn người quay mặt vào trong, kéo chăn trùm kín đầu lại. Chu phu nhân lại hỏi: “Con trách mẹ chuyện gì chứ?”
Chu Ỷ ngồi bật dậy: “Những gì tối qua mẹ nói, nhất định huynh ấy nghe hết rồi. Huynh ấy sợ người ta đàm tiếu hại thanh danh con, khiến con không lấy được chồng, nên mới một mình đi trước. Chẳng phải huynh ấy viết trong thư nhất định không nói với ai một câu một chữ hay sao? Chuyện con có lấy được chồng hay không, mẹ có lo lắng thì kệ mẹ. Con nhất định không nghe, nhất định không lấy ai cả.”
Chu phu nhân thấy nàng vừa nói vừa ứa lệ, biết nàng đã có tình cảm với Từ Thiên Hoằng. Chính bản thân nàng cũng chưa hiểu, nhưng trong lúc vô tình đã để lộ hết tâm sự mình ra. Chu phu nhân bèn an ủi: “Mẹ chỉ có một đứa con gái, chẳng lẽ không thương yêu hay sao? Bây giờ chúng ta đến phủ Khai Phong gặp gia gia con, bảo ông ấy đứng ra gả con cho Từ gia. Con yên tâm đi, mọi chuyện mẹ sẽ lo liệu chu toàn.”
Chu Ỷ vội cướp lời: “Ai nói là con cần lấy huynh ấy? Có gì mà không yên tâm chứ? Lần sau đừng nói là bị thương, cho dù huynh ấy chết ngay trước mặt con, con cũng không thèm cứu.”
Đêm qua Từ Thiên Hoằng ở khách sạn, đem mấy lá thư lấy được trên người bọn tiêu sư ra xem. Chàng ngồi dưới đèn đọc tỉ mỉ, chỉ có một lá thư do tổng tiêu đầu Vương Duy Dương của Trấn Viễn tiêu cục viết cho Hàn Văn Xung, giục họ Hàn về kinh gấp để hộ tống báu vật về Giang Nam, ngoài ra không có gì quan trọng nữa. Từ Thiên Hoằng vốn cũng không để ý đến chuyện tranh cãi của hai mẹ con họ Chu ở phòng bên cạnh, nhưng mấy lần nghe nhắc đến tên mình nên phải lắng tai nghe kỹ. Chàng nghe rõ rồi áy náy không yên, tự nghĩ Chu Ỷ vì cứu mình mà mang tiếng thì có lỗi với nàng, bèn viết thư để lại rồi sáng sớm bỏ đi trước.
Chàng vào tỉnh Hà Nam, thấy dân chúng ven sông Hoàng Hà lo lắng vì thấy nước lũ dâng cao. Từ Thiên Hoằng thấy họa lũ sắp đến, âm thầm than thở: “Tuy lũ sông Hoàng Hà là thiên tai, nhưng nếu kẻ cầm quyền dốc lòng hết sức vì dân lo liệu thì chưa chắc không cứu được. Nhưng bọn làm quan đều coi việc trị thủy Hoàng Hà là chùm khế ngọt, hễ lên nhậm chức là ra sức vơ vét chia nhau ngay. Có tên nào xem thiên tai là việc cấp bách phải lo đâu?”
Chàng theo ký hiệu, đến Khai Phong tìm nhà Mai Lương Minh gặp lại quần hùng. Mọi người thấy chàng trở về bình yên đều vô cùng mừng rỡ. Mai Lương Minh thiết yến chiêu đãi. Lúc này vết thương của Chương Tấn, Vệ Xuân Hoa, Tâm Nghiễn đều đã lành hẳn. Thạch Song Anh về Hồi Cương đưa thư chưa trở lại, Thường thị song hiệp còn đang thám thính tung tích Văn Thái Lai, Tưởng Tứ Cân thì đến bờ sông Hoàng Hà xem tình hình nước lũ dâng cao.
Từ Thiên Hoằng hoàn toàn không nhắc đến Chu phu nhân và Chu Ỷ trước mặt Chu Trọng Anh, nghĩ họ cũng sắp đến đây rồi. Chàng sợ ông hỏi tỉ mỉ khó mà trả lời, chỉ nói với quần hùng là dọc đường có nghe tin tức Dư Ngư Đồng, biết chàng bị trọng thương và đi chung với một thiếu nữ cải nam trang không biết là ai. Mọi người bàn tán xôn xao, rốt cuộc cũng không ai đoán được, đều đem lòng lo lắng. Họ chỉ hy vọng Dư Ngư Đồng xưa nay tinh minh lanh lợi, chắc chắn có cách dưỡng thương và tránh địch.
Sáng hôm sau Chu Ỷ tìm đến Mai gia, gặp mọi người và phụ thân mình, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Chào hỏi xong xuôi, Chu Ỷ lén gọi Từ Thiên Hoằng: “Huynh qua đây, muội có mấy câu muốn nói.”
Từ Thiên Hoằng hơi ngại, nghĩ rằng cô nương này nhất định sẽ trách mình bỏ đi mà không nói lời từ biệt, sẽ lớn tiếng chửi mắng mình một trận. Chàng bèn quyết định mặc kệ nàng muốn chửi sao thì chửi, mình không nói lại câu nào là xong, rồi đi từ từ đến trước mặt nàng.
Chu Ỷ khẽ nói: “Má má không chịu đến gặp gia gia. Lát nữa huynh nghĩ cách giúp muội.”
Từ Thiên Hoằng yên tâm bèn nói: “Thế thì mời gia gia muội đi gặp bà ấy.”
Chu Ỷ nói: “Má má cũng không chịu, hễ mở miệng là nói gia gia muội không có lương tâm.”
Từ Thiên Hoằng suy nghĩ một lúc rồi bảo: “Được, huynh có cách rồi.”
Chàng dặn dò mấy câu, Chu Ỷ hỏi lại: “Liệu như thế có được không?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Nhất định là được. Muội đi trước đi.”
Từ Thiên Hoằng đợi Chu Ỷ ra ngoài rồi hàn huyên với huynh đệ một hồi, hỏi Mai Lương Minh về địa phương này. Chàng cho rằng thời cơ đã đến, bèn nói riêng với Chu Trọng Anh: “Chu lão gia! Nghe nói tửu gia Tư Trúc Viên ở cạnh Thiết Tháp Tự có rượu rất ngon, nổi danh nhất tỉnh Hà Nam này. Nhất định phải đến đó uống thử một lần.”
Nghe tới rượu ngon, Chu Trọng Anh cao hứng cười nói: “Được, được! Để ta làm chủ, mời mọi người đến đó say sưa một phen.”
Từ Thiên Hoằng cản: “Thành này tai mắt bổ khoái rất nhiều, chúng ta đi đông e rằng không tiện. Bây giờ tổng đà chủ với tiểu điệt hai người đi trước với lão gia, có được hay không?”
Chu Trọng Anh tán thưởng: “Hay lắm! Lão đệ suy nghĩ thật là chu toàn.” Ông bèn hẹn với Trần Gia Lạc, ba người đến Thiết Tháp Tự.
Tư Trúc Viên quả là nơi thanh nhã, ly tách tinh khiết gọn gàng, phòng ốc sáng sủa. Từ Thiên Hoằng nhìn quanh tìm một chỗ tương đối yên tĩnh, ba người vừa uống rượu vừa than thở chuyện dân sông Hoàng Hà chết lụt.
Bàn đến những chuyện thiết đãi bạn bè, Tín Lăng Quân năm xưa nghênh đón Hầu Doanh, Trần Gia Lạc than thở: “Thành Đại Lương bây giờ vẫn đó, anh hùng liệt sĩ không biết đâu rồi. Tín Lăng Quân một kiếp anh hùng, không ngờ rút cuộc say sưa mà chết dưới tay nữ nhân. Đến nay Biện Lương chỉ còn lại một miếng đất Di Sơn mà thôi.”
Sau vài tuần rượu, chuếnh choáng hơi men, Trần Gia Lạc gõ bình rượu ngâm nga:
Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến;
Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi;
Này nem này rượu khuyên mời;
Bên thời Châu Hợi, bên thời Hầu Doanh;
Ba chén cạn, thân mình sá kể,
Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng;
Mắt hoa mặt đã nóng bừng;
Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh…
Chu Trọng Anh và Từ Thiên Hoằng không hiểu chàng hát bài gì.
Đến khi ba người đã say đến năm phần, Từ Thiên Hoằng nâng chén lên gọi Chu Trọng Anh: “Chu lão gia! Hôm nay cha con đoàn tụ, tiểu điệt xin kính lão gia một chén.”
Chu Trọng Anh cạn chén, thở dài một tiếng. Từ Thiên Hoằng bèn hỏi: “Chu lão gia không được vui, có phải đang tiếc Thiết Đảm Trang bị cháy hay không?”
Chu Trọng Anh đáp: “Tiền bạc là vật ngoại thân, một Thiết Đảm Trang có gì đáng tiếc?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Thế thì nhất định lão gia đang nghĩ đến mấy vị công tử đã qua đời.”
Chu Trọng Anh không đáp, thở dài sườn sượt. Trần Gia Lạc vội nháy mắt lia lịa, ra hiệu bảo Từ Thiên Hoằng đừng nói động chạm đến nỗi đau của ông ấy nữa. Từ Thiên Hoằng vờ như không biết, cứ đổ thêm dầu vào lửa: “Hôm đó tiểu công tử còn nhỏ không biết gì, lỡ nói ra nơi ẩn giấu Tứ ca, nên Chu lão gia mới giận dữ mà xử phạt. Về phần lão gia thì đó là giữ đạo nghĩa giang hồ, nhưng bọn vãn bối thì không sao yên lòng được.”
Trần Gia Lạc vội giục: “Thất ca! Chúng ta đi thôi. Tửu lượng của ta sắp hết rồi.”
Từ Thiên Hoằng cứ hỏi tiếp Chu Trọng Anh: “Không biết Chu phu nhân vì lý do gì mà rời khỏi gia trang?”
Chu Trọng Anh than thở: “Bà ấy trách ta về chuyện giết đứa con trai. Than ôi, không biết bây giờ bà ấy đơn thân lưu lạc nơi nào. Đứa con này bà ấy yêu quí như tính mạng, ta thật sự có lỗi với bà ấy. Thật ra ta chỉ lỡ tay trong cơn thịnh nộ, đâu phải chủ tâm giết nó? Sau khi chúng ta cứu được Tứ gia, dù phải đi đến chân trời góc bể ta cũng quyết tìm bà ấy trở về. Ta tuổi tác đã cao, người thân trên thế gian này chỉ còn hai người là bà ấy và đứa con gái mà thôi.”
Ông nói đến đây đột nhiên rèm được vén lên, Chu phu nhân và Chu Ỷ bước vào. Chu phu nhân lên tiếng: “Những lời của lão gia, thiếp ngồi bên kia nghe thấy hết rồi. Lão gia chịu nhận lỗi là xong, thiếp trở về đây, không cần đi tìm đâu nữa.” Chu Trọng Anh nhìn thấy vợ vừa bất ngờ vừa mừng rỡ, nhất thời xúc động không nói nên lời.
Chu Ỷ nói với Trần Gia Lạc: “Trần đại ca, đây là mẫu thân của muội.” Rồi nàng quay lại nói với mẹ: “Má má, đây là Trần tổng đà chủ Hồng Hoa Hội.” Hai người nhìn nhau thi lễ.
Chu Ỷ gọi tửu bảo chuyển chén bát phòng bên cạnh qua đây, rồi nói với Chu Trọng Anh: “Gia gia, phen này thật là may mắn. Con nghe nói rượu ở đây rất ngon, nhất định phải đến thưởng thức một lần. Má má không chịu nhưng con một mực kỳ kèo bắt tới, nào ngờ lại ngồi giáp vách gia gia.” Năm người cười rộ lên, thoải mái say sưa, rồi nhắc đến những chuyện trong lúc xa nhau.
Chu Ỷ thấy cha mẹ đoàn tụ nồng nàn trở lại, vui sướng không nén nổi nên quên cả giữ lời, cao hứng nhắc đến vụ giết Đồng Triệu Hòa trả mối thù giết em trai và đốt Thiết Đảm Trang. Từ Thiên Hoằng nháy mắt liên hồi bảo nàng đừng nói tiếp, nhưng nàng không thấy nên vẫn tiếp tục: “Mưu kế của huynh ấy thật là hiệu quả. Sau khi mấy tên tiêu sư hôn mê, con phá cửa sổ nhảy vào cứu mẹ rồi túm lấy gã họ Đồng, đích thân cho tên cẩu tặc đó một đao.”
Chu Trọng Anh cùng với Trần Gia Lạc, Từ Thiên Hoằng đang mời rượu nhau. Chu Trọng Anh bèn nói: “Lão đệ đã cứu thê tử lại giúp báo thù thì lão phu thực sự cảm kích.”
Từ Thiên Hoằng khiêm nhượng mấy câu: “Lão gia quá lời rồi, đây đều là công lao của Chu cô nương cả.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Làm sao hai vị gặp nhau dọc đường vậy?”
Từ Thiên Hoằng ấp úng, Chu Ỷ âm thầm than khổ: “Chết rồi, hỏng bét! Mình lỡ kể chuyện cùng huynh ấy giết Đồng Triệu Hòa, thế thì những việc trước đây làm sao mà giấu giếm người khác nữa?” Đột nhiên nàng đỏ mặt cúi đầu, thần trí hỗn loạn, tay chân lóng ngóng. Chén đũa rơi vỡ xoang xoảng, cô nàng lại càng thêm phần bối rối.
Trần Gia Lạc thấy vậy biết ngay việc giữa hai người này không chỉ có bấy nhiêu. Lại nghe Chu Ỷ mỗi khi nhắc đến Từ Thiên Hoằng thì không gọi tên mà cứ huynh ấy thế này, huynh ấy thế kia, chàng đoán biết được sáu bảy phần. Về tới Mai phủ, chàng bèn gọi Từ Thiên Hoằng tới hỏi: “Thất ca! Huynh thấy Chu cô nương thế nào?”
Từ Thiên Hoằng vội đáp: “Tổng đà chủ! Vừa rồi lời nói của Chu cô nương trên tửu lâu, xin tổng đà chủ đừng kể với ai. Cô ấy là người trung hậu chất phác, quang minh lỗi lạc, nhưng nếu người khác nghe thấy thêm bớt mấy câu xằng bậy thì chúng ta sẽ có lỗi với Chu lão anh hùng.”
Trần Gia Lạc nói: “Đệ biết con người Chu cô nương rất tốt nên muốn làm mai cho huynh. Huynh thấy thế nào?”
Từ Thiên Hoằng giật nảy người đáp: “Tuyệt đối không được! Thuộc hạ sao có thể sánh với nàng?”
Trần Gia Lạc nói: “Thất ca không nên quá khiêm tốn. Huynh là Võ Gia Cát trí dũng song toàn, lừng danh trên giang hồ. Mỗi khi Chu lão anh hùng nhắc đến huynh đều tỏ ra thán phục.”
Từ Thiên Hoằng ngẩn ra hồi lâu không đáp. Trần Gia Lạc liền hỏi gặng: “Thế nào?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Tổng đà chủ chưa biết đâu, Chu cô nương không thích thuộc hạ.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Làm sao mà huynh biết?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Chính miệng nàng nói vậy. Nàng ghét loại người xảo quyệt cổ quái như thuộc hạ đến tận xương tủy. Hôm trước đi chung, dọc đường nàng cứ tìm lời chặn họng thuộc hạ.”
Trần Gia Lạc cười ha hả: “Thế là huynh chịu rồi chứ gì?”
Từ Thiên Hoằng ngập ngừng nói: “Tổng đà chủ đừng uổng công lo lắng làm gì. Chúng ta không nên suy nghĩ những việc vô bổ như thế.”
Đột nhiên một gia nhân của Mai phủ đi vào phòng gọi: “Trần thiếu gia! Chu lão gia ở bên ngoài, muốn nói chuyện với thiếu gia.”
Trần Gia Lạc mỉm cười với Từ Thiên Hoằng rồi ra khỏi phòng. Chàng thấy Chu Trọng Anh chắp tay sau lưng đi tới đi lui ngoài hành lang, liền bước tới nói: “Chu lão gia có việc gì dặn dò thì cứ sai người đi gọi vãn bối là được, hà tất phải đích thân đến đây.”
Chu Trọng Anh vội đáp: “Không dám!” Ông kéo tay chàng đến hoa sảnh, mời ngồi rồi nói: “Lão có một chuyện muốn hỏi ý Trần đương gia.”
Trần Gia Lạc nói: “Xin lão gia nói thẳng, tiểu điệt sẽ đích thân lo liệu.”
Chu Trọng Anh nói: “Tiểu nữ năm nay đã mười chín tuổi rồi, tuy tính hơi ngang bướng nhưng cũng có thể gọi là thuần hậu. Chỉ vì lão phu có dạy nó một chút võ nghệ, nên nó không để hạng tầm thường lọt vào mắt, vì thế mới chậm trễ, đến nay vẫn chưa thành thân…” Ông nói đến đây, ngần ngừ một lúc mới tiếp: “Từ thất đương gia của quí hội được cả giang hồ ngưỡng mộ, trí dũng có thừa, nhân phẩm hơn người. Lão phu muốn nhờ Trần đương gia làm mai gả tiểu nữ cho Từ gia. Chỉ sợ tính khí tiểu nữ không được tốt, không dám trèo cao như vậy.”
Trần Gia Lạc nghe vậy cả mừng, liền vỗ ngực nói: “Việc này để tiểu điệt lo. Chu lão gia là thái sơn bắc đẩu của võ lâm, được lão gia tin yêu như thế, anh em Hồng Hoa Hội bọn tiểu điệt thấy vinh dự vô cùng. Tiểu điệt đi ngay đây!”
Trần Gia Lạc chạy thẳng đến phòng Từ Thiên Hoằng kể lại, khiến anh chàng mừng rỡ đến nỗi tim đập loạn xạ. Trần Gia Lạc nói thêm: “Thất ca! Đệ coi sắc mặt Chu lão anh hùng thì dường như ông ấy còn một chuyện không tiện nói ra. Đệ đoán thế này, nhưng không biết huynh có chịu hay không.”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Có gì mà không chịu?”
Trần Gia Lạc mỉm cười nói: “Đệ cũng nghĩ là huynh sẽ ưng thuận. Hai người con trai lớn của Chu lão anh hùng đã mất cả rồi, còn đứa con trai út cũng chết vì Hồng Hoa Hội chúng ta. Trước mắt thì hương hỏa Chu gia đã dứt, nên đệ muốn ủy khúc Thất ca một chút, không những làm con rể Chu lão anh hùng mà còn phải làm con trai ông ấy.”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tổng đà chủ muốn thuộc hạ ở rể nhà họ Chu phải không?”
Trần Gia Lạc nói: “Không sai! Sau này huynh sinh con trai, thì con trai cả sẽ mang họ Chu, con trai thứ mới mang họ Từ. Cổ nhân có câu: Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại. Chúng ta làm như thế, coi như đã báo đáp một phần ân nghĩa của Chu lão anh hùng.” Từ Thiên Hoằng nghĩ tới ân đức cứu mạng của Chu Ỷ, bèn mau lẹ đồng ý.
Hai người quay về phòng Chu Trọng Anh, mời Chu phu nhân qua nói chuyện. Chu Ỷ không hiểu chuyện gì, cũng chạy vào phòng. Chu Trọng Anh nhìn mặt hai người Trần Từ, biết việc đã thành bèn mỉm cười bảo: “Ỷ nhi! Con ra ngoài kia chơi đi.”
Chu Ỷ tức tối nói: “Lại có việc gì giấu giếm con rồi phải không? Không được! Con nhất định phải nghe.” Nói thì nói vậy, nhưng nàng vẫn quay người đi ra ngoài.
Trần Gia Lạc nói lại ý định gửi rể vừa rồi, Chu phu nhân hoan hỉ quá, ngoác miệng ra cười đến nỗi không ngậm lại được. Chu Trọng Anh cũng cả mừng: “Đâu dám như thế? Đâu dám như thế?”
Từ Thiên Hoằng quì xuống thi lễ, Chu Trọng Anh vội đỡ dậy, mỉm cười nói: “Chúng ta ra ngoài, không mang theo vật gì đáng giá. Chuyện thế này mà không có lễ kiến diện thì… Lát nữa ta sẽ dạy cho Thất gia phép đánh thiết đảm, Thất gia thấy thế nào?”
Chu phu nhân cười bảo: “Lão này già quá, lẩm cẩm mất rồi. Sao lại gọi con là Thất gia?” Chu Trọng Anh cười ha hả.
Từ Thiên Hoằng biết công phu thiết đảm là tuyệt nghệ thành danh của ông, hôm nay đúng là phúc vô đơn chí, đã được vợ đẹp lại gặp danh sư, chàng vội quỳ xuống khấu đầu bái tạ, hai người gọi nhau bằng phụ tử.
Tin vừa truyền ra, mọi người tới tấp kéo đến chúc mừng. Đêm đó Mai Lương Minh mở đại tiệc khoản đãi, Chu Ỷ trốn chui trốn lủi. Lạc Băng cố gắng thế nào cũng không kéo được nàng ra ngoài.
Giữa tiệc, Thạch Song Anh về đến, nói với Trần Gia Lạc: “Tổng đà chủ! Thư của đà chủ đã đưa tới nơi. Đây là hồi âm của lão anh hùng Mộc Trác Luân.”
Trần Gia Lạc đón lấy, đáp lời: “Thập nhị ca bôn ba vạn dặm thật là cực khổ. Nhanh lên, qua đây uống một chén…”
Lời nói chưa dứt, Tưởng Tứ Cân bỗng chạy vào, lớn tiếng hô: “Hoàng Hà vỡ đê rồi.”
Mọi người nghe vậy đứng cả dậy, hỏi tình hình tai nạn ra sao. Tưởng Tứ Cân nói: “Từ Mạnh Tân đến Đồng Quả Thương đã bị vỡ đến bảy tám chỗ, rất nhiều địa phương không còn đường tới nữa.” Mọi người nghe xong đều nóng ruột lo âu, dân chúng đã khốn đốn gặp phải chuyện này càng khổ sở hơn. Thường thị song hiệp đến giờ vẫn chưa có hồi báo gì, không biết tình hình Văn Thái Lai thế nào.
Trần Gia Lạc lớn tiếng: “Các vị ca ca! Chúng ta đã đợi ở đây mấy ngày rồi, mà Ngũ ca, Lục ca vẫn chưa có tin tức. Chắc là tình hình đã thay đổi, lại e nước lũ cản đường làm lỡ mất đại sự. Mọi người suy nghĩ xem nên làm thế nào.”
Chương Tấn hô to: “Chúng ta đừng đợi nữa, mau mau kéo hết về Bắc Kinh. Cho dù Tứ ca bị nhốt ở thiên lao, mọi người cũng phải cướp Tứ ca về.” Vệ Xuân Hoa, Dương Thành Hiệp, Tưởng Tứ Cân đều đồng thanh phụ họa.
Trần Gia Lạc cùng Chu Trọng Anh, Vô Trần, Triệu Bán Sơn khẽ bàn bạc mấy câu rồi nói: “Việc không nên chậm trễ, chúng ta phải khởi hành ngay.” Mọi người cảm tạ Mai Lương Minh vì quấy nhiễu bấy lâu, rồi lập tức khởi hành đi về hướng đông.
Dọc đường Trần Gia Lạc đọc thư của Mộc Trác Luân. Trong thư mấy lần cảm tạ việc Hồng Hoa Hội báo tin, cho biết đã triệu tập mọi người chuẩn bị lừa ngựa binh khí, quyết chiến đến cùng với cường địch. Mặc dù địch đông ta ít, tình thế khó mà thắng được, nhưng già trẻ lớn nhỏ toàn tộc thà hi sinh cũng nhất định không khuất phục.
Lời lẽ trong thư đượm màu bi tráng, Trần Gia Lạc bất giác thay đổi sắc mặt, hỏi Thạch Song Anh: “Lão anh hùng Mộc Trác Luân còn dặn dò gì nữa không?”
Thạch Song Anh đáp: “Ông ấy hỏi đã cứu được Tứ ca hay chưa. Nghe nói không thành công, ông ấy ra vẻ lo lắng.” Trần Gia Lạc khẽ “À” một tiếng.
Thạch Song Anh lại nói: “Hồi tộc đối với chúng ta bằng tình sâu nghĩa nặng. Nghe nói thuộc hạ là sứ giả của tổng đà chủ phái đi, họ đối xử rất ân cần.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Huynh có gặp gia đình của lão anh hùng Mộc Trác Luân hay không?”
Thạch Song Anh đáp: “Gặp cả phu nhân, con trai và hai cô con gái. Con trai ông ấy thì tổng đà chủ đã gặp rồi, y hỏi thăm tổng đà chủ có được an khang không.”
Trần Gia Lạc ngừng lại một lúc, ngập ngừng hỏi: “Không ai nói gì nữa ư?”
Thạch Song Anh suy nghĩ rồi đáp: “Lúc thuộc hạ rời khỏi, Hoắc Thanh Đồng cô nương hình như muốn nói gì đó nhưng rốt cuộc không nói, chỉ hỏi han về tình hình cứu Tứ ca.”
Trần Gia Lạc im lặng, đưa tay nắm chặt thanh đoản kiếm mà Hoắc Thanh Đồng đã tặng. Lưỡi thanh kiếm này chỉ dài có tám tấc, ánh sáng chói mắt. Chuôi kiếm quấn bằng chỉ vàng đã mòn nhiều chỗ, xem ra đây là cổ vật đã mấy trăm năm. Ngày ấy Hoắc Thanh Đồng đã nói: “Xưa nay vẫn tương truyền trong kiếm có ẩn giấu một bí mật lớn, nhưng tìm hiểu tỉ mỉ đến đâu cũng không thấy điểm nào khác lạ.” Chàng quay đầu nhìn về hướng tây chỉ thấy một trời sao sáng, không như hôm gặp nhau ở vùng đại mạc, mặt trời lấp lánh rọi lên chiếc lông vũ màu xanh phỉ thúy, ánh xuống chiếc áo màu vàng nhạt.
Mọi người đi suốt đêm, sáng sớm đã gần đến đê sông Hoàng Hà, thấy nước sông đục ngầu ào ào chảy xiết. Đi thêm vài giờ nữa thì thấy một vùng bình nguyên giờ đã thành biển cả, nhà cửa, ruộng nương, những chỗ thấp trũng đều chìm trong nước lũ. Dân chúng chạy hết lên đồi núi, chịu cảnh màn trời chiếu đất. Cũng có một số kẹt lại, bám trên mái nhà hay những cành cây. Một vùng nước rộng mênh mông, hoàn toàn không có khói bếp, khắp nơi vang lên những tiếng kêu cứu bi ai. Lác đác có những thi hài bập bềnh theo dòng nước, cùng mấy cái rương hòm bằng gỗ lênh đênh trôi dạt về đông.
Dọc đường quần hùng cũng cứu mấy người bị nạn, vòng lên chỗ cao mà đi về hướng đông, đêm đó ngủ lại trên vùng núi. Hôm sau họ phải đi vòng một vòng lớn mới đến Đỗ Lương Trại, dọc đường thấy chỗ nào cũng có những cảnh bi ai thê thảm, khó mà chịu nổi.
Chu Ỷ vẫn đi chung với Lạc Băng, nhưng lúc này nhịn không nổi nữa liền đi nhanh tới chỗ Từ Thiên Hoằng, hỏi: “Ca ca quỉ kế nhiều như vậy, cố tìm cách cứu dân chúng đi chứ?”
Từ hôm đính ước, đôi vợ chồng chưa cưới này cứ tránh mặt nhau. Hai ngày nay chưa nói câu nào, không ngờ câu đầu tiên nàng mở miệng lại đặt cho chàng một vấn đề khó giải quyết như vậy. Từ Thiên Hoằng không khỏi khó xử, bèn đáp: “Muốn thì muốn vậy, nhưng nạn dân nhiều như thế, ca ca thật không có cách gì.”
Chu Ỷ nói: “Nếu muội có cách thì cần gì phải hỏi ca ca nữa?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Ngày mai ca ca sẽ xin mọi người đừng gọi mình bằng cái ngoại hiệu Võ Gia Cát nữa, để khỏi bị muội lúc nào cũng làm khó dễ.”
Chu Ỷ dỗi ngay: “Muội mà lúc nào cũng làm khó dễ ca ca ư? Lúc nào muội cũng nói không đúng, thế có được không? Muội xin lỗi là xong chứ gì?” Rồi nàng bĩu môi không nói gì nữa.
Từ Thiên Hoằng dỗ dành: “Muội muội, bây giờ chúng ta đã là người một nhà rồi, không nên gây chuyện nữa.” Chu Ỷ cứ mặc kệ.
Từ Thiên Hoằng nói: “Ca ca sai rồi. Muội muội tha cho ca ca lần này, cười một cái đi.” Chu Ỷ quay đầu lại nhưng vẫn nhăn mặt.
Từ Thiên Hoằng nói: “À, muội muội không dám cười, thì ra tân nương xấu hổ với tân lang.”
Chu Ỷ không nhịn nổi nữa, bật cười khúc khích rồi giơ roi ngựa lên nói: “Ca ca nói bậy nữa đi, xem muội có dám đánh đòn ca ca không?”
Lạc Băng chậm rãi đi sau hai người, vì xót con bạch mã vừa phải chạy xa vạn dặm từ Hồi Cương về mới hai ngày. Nàng nhìn Chu Ỷ và Từ Thiên Hoằng ngây thơ đùa giỡn, nghĩ đến chồng càng thấy nhớ nhung sầu khổ hơn.
Khoảng giờ Mùi mọi người đã đến Triệu Thảo Doanh, là một thị trấn lớn nằm ven sông Hoàng Hà. Dân chúng bị nạn lũ lụt quanh vùng chạy đến thị trấn này rất đông. Lạc Băng lấy hết vàng trong mình đem đổi lấy bạc, mua lương thực phân phát. Nạn dân chạy ào ào đến, chỉ một lúc đã hết sạch, cứu trợ chưa tới một phần mười.
Khi mọi người rời khỏi thị trấn, rất nhiều dân đói dắt díu nhau đi theo, chỉ mong được phát cho chút ít lương thực. Quần hùng không phải nhẫn tâm, nhưng làm sao cứu tế được nhiều như thế, chỉ biết cắn răng lên ngựa rời khỏi đó.
Dọc đường đầy những nạn dân đùm đề con cái, vừa đi vừa khóc lóc. Đột nhiên phía trước có một người cưỡi ngựa phi tới rất gấp. Đường núi chật hẹp mà tên kia cứ lạng ẩu lách bừa, chỉ chốc lát đã đụng vào một thiếu phụ đang ẵm con, làm đứa bé rơi xuống nước. Tên kia cứ mặc kệ, cho ngựa phóng như bay. Quần hùng giận dữ, Vệ Xuân Hoa vọt ngay tới, túm lấy chân trái lôi hắn xuống, nện cho một quyền. Hắn ọe một cái, nhổ ra một vũng máu lẫn ba chiếc răng cửa.
Thì ra đó là một tên công sai. Hắn vừa đứng dậy đã ngoác mồm ra thóa mạ: “Con mẹ nó, đám thổ phỉ lưu manh này! Lão gia đang có việc gấp, lát nữa mới quay lại tính sổ với bọn bay.”
Hắn leo lên ngựa tính đi tiếp, nhưng Chương Tấn đứng bên kia lại túm chân phải lôi hắn xuống ngựa, quát to: “Việc gì mà gấp? Ở lại đây chờ một lát đã.”
Trần Gia Lạc bảo: “Thập ca, tìm trên người hắn xem có gì không?” Chương Tấn lục soát, lấy ra một công văn giao cho Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc thấy văn thư đó có cắm lông gà, một góc cháy sém, rõ ràng là loại công văn khẩn cấp mà dịch trạm phải chạy suốt ngày đêm. Trên phong bì ghi là gửi gấp cho Định biên đại tướng quân Triệu ở cách xa sáu trăm dặm. Chàng bèn tiện tay xé niêm phong, rút công văn ra xem.
Gã công sai thấy công văn bị xé, kinh hãi kêu lên: “Đây là việc quân cơ mật, ngươi không sợ bị chém đầu hay sao?”
Tâm Nghiễn cười hỏi lại: “Ngươi không sợ bị chém đầu hay sao?”
Trần Gia Lạc đọc thấy công văn ký tên quan tổng binh vận lương Tôn Khắc Thông, bẩm cho Triệu Tuệ biết là lương thảo của đại quân mới vận chuyển đến Lan Phong, vì lũ sông Hoàng Hà nên kẹt lại ở đó, chậm trễ mấy ngày. Trần Gia Lạc giao công văn cho Từ Thiên Hoằng, nói: “Không liên can gì đến chúng ta, cũng chẳng liên can gì đến Tứ ca.”
Từ Thiên Hoằng xem xong, mặt mày hớn hở nói: “Tổng đà chủ! Đây là vận may lớn của chúng ta. Tương trợ Mộc lão anh hùng, cứu tế dân chúng gặp nạn lũ Hoàng Hà, mọi việc đều nhờ vào tờ công văn này.”
Họ Từ lập tức xuống ngựa, xé nát công văn trước mặt tên công sai rồi cười hỏi: “Bây giờ ngươi đến chỗ Triệu Tuệ hay về Lan Phong? Làm mất công văn là phạm vào tội chém phải không? Ta khuyên ngươi, muốn giữ mạng thì tự mình chạy trốn là hơn.”
Tên công sai vừa tức vừa sợ, im lặng suy nghĩ thì thấy câu đó không sai, mình không làm gì được. Hắn đành cởi bộ quân phục trên người quăng xuống nước, rồi lẩn vào đám dân chúng đang chạy nạn.
Trần Gia Lạc đã hiểu ý Từ Thiên Hoằng, bèn nói: “Cướp lương cứu nạn thật là một công đôi việc. Có điều lương thảo của đại quân chắc chắn phải có trọng binh hộ tống, chúng ta lại ít người. Việc này thành bại thế nào, hoàn toàn trông vào diệu kế của Thất ca.”
Từ Thiên Hoằng ghé tai nói nhỏ mấy câu, Trần Gia Lạc mừng rỡ thốt lên: “Hay lắm! Cứ làm như thế!” Chàng lập tức phân phối nhân mã. Mọi người nhận lệnh, lo cải trang và tung tin đồn.
Sáng sớm hôm sau mấy vạn nạn dân rủ nhau kéo vào thành Lan Phong, hỗn loạn vô cùng. Tri huyện Vương Đạo thấy tình hình khác lạ, bèn sai bộ khoái bắt mấy nạn dân đến hỏi. Họ đều khai rằng nghe nói hôm nay quan phủ mở kho phát chẩn, nên đến đây để nhận lương thực. Vương Đạo liền hạ lệnh đóng chặt cửa thành, nhưng một đồn mười, mười đồn trăm, nạn dân kéo về đông đúc, trong thành ngoài thành đầy ắp những người. Vương Đạo vội ra thông báo là không có chuyện này, nhưng họ đâu có chịu tin?
Vương Đạo thấy nạn dân càng lúc càng đông thì vô cùng hốt hoảng, đích thân đến Thạch Phật Tự ở đông thành bái kiến tổng binh Tôn Khắc Thông đang trú ở đó, nhờ họ Tôn điều binh trấn áp dân chúng trong thành.
Tôn Khắc Thông nói: “Tiểu tướng phụng tướng lệnh của Triệu tướng quân, trong vòng mấy ngày phải đưa quân lương đến Hồi Cương, nếu có sai sót phải bị chém đầu. Không phải tiểu tướng không chịu giúp, mà thật sự là việc quân trọng đại, xin Vương đại nhân tha thứ.”
Vương Đạo cầu khẩn liên tục nhưng Tôn Khắc Thông nhất quyết không nghe, không làm gì được đành cáo biệt. Dọc đường về, hắn thấy vô số dân chúng gặp thiên tai láo nháo khắp nơi.
Trời sắp tối, đột nhiên huyện nha, nhà tù và những tiệm buôn trên mấy con đường lớn đồng thời bốc cháy, Vương Đạo liền đốc thúc nha dịch bộ khoái cứu hỏa. Trong lúc lộn xộn, một tên công sai chạy tới thở hổn hển nói: “Đại… đại lão gia! Không hay rồi! Cửa tây thành đã bị nạn dân mở ra, cả ngàn cả vạn người đang tiến vào thành.”
Vương Đạo kêu khổ, không biết phải làm gì. Hắn sai lấy ngựa, rồi dẫn bọn nha dịch đi xem xét phía tây thành. Mới được nửa đường chúng đã bị nạn dân cản lại, không tiến lùi gì được, rồi nghe thấy có người trong đám đông kêu lên: “Thạch Phật Tự tại đông thành chuẩn bị phát lương tiền. Mọi người mau mau đến Thạch Phật Tự mà nhận.”
Dân chúng chạy ào ào về hướng đông, cản đường Vương Đạo. Hắn giận dữ hét lên: “Tên nào dám tung tin đồn nhảm, mau bắt đến cho ta thẩm vấn.” Hai tên nha dịch vâng dạ, lấy xích sắt ra toan trói một người thân hình ốm yếu đang đứng hò hét nạn dân đi lãnh đồ cứu trợ.
Người này chỉ khẽ vung tay đã đoạt được sợi xích, rồi quật gãy sống lưng một tên nha dịch, lớn tiếng kêu: “Chúng ta đi xin cơm, có vi phạm vương pháp gì đâu?”
Vương Đạo thấy không êm lập tức quay đầu ngựa, vòng qua cửa nam, nhưng trước mặt lại có một đoàn nạn dân chạy tới. Hắn nghĩ phải trốn đến chỗ Tôn tổng binh may ra mới được an toàn, nhưng đến đó thì thấy binh lính tuần tra trong thành cũng đang chạy trốn láo nháo. Một đạo sĩ cụt tay cầm trường kiếm, một người mập mạp xách cây roi sắt, một người gù múa lang nha bổng, một đại hán cầm thiết trượng đang chạy tới reo hò giết chóc.
Vương Đạo chạy lẫn trong đám binh sĩ, thúc ngựa hướng về Thạch Phật Tự. Cửa chùa đã đóng chặt, nhưng binh sĩ gác cửa nhận ra tri huyện đại nhân nên cho y vào. Lúc này phía ngoài chùa nạn dân bao vây tầng tầng lớp lớp. Giữa đám đông có tiếng kêu la: “Tiền bạc và lương thực triều đình đưa xuống để cứu tế thiên tai đều bị bọn cẩu quan này ăn chặn hết rồi. Phát tiền phát lương đi! Phát tiền phát lương đi!”
Nạn dân đồng thanh hô theo, chấn động rung chuyển cả mái chùa. Vương Đạo run rẩy không ngừng, lắp bắp: “Tạo phản rồi, tạo phản rồi!”
Tôn Khắc Thông dù sao cũng là võ quan, gan dạ hơn nhiều. Hắn bảo binh sĩ bắc thang, trèo lên đầu tường lớn tiếng kêu: “Ai là lương dân an phận thủ thường thì mau mau lui ra khỏi thành, đừng nghe tin đồn nhảm. Không lùi lại thì quân lính phải bắn tên.” Lúc này hai tên du kích(7) đã dẫn bọn cung thủ lên đầu tường.
Nạn dân nhốn nháo, Tôn Khắc Thông bèn ra lệnh: “Bắn!” Một loạt tên phóng ra, mười mấy người dân ngã lăn xuống đất. Những người khác kinh hãi quay người bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau. Người kêu mẹ, kẻ gọi con, loạn xạ cả một vùng.
Tôn Khắc Thông đứng trên đầu tường cười ha hả. Tiếng cười chưa dứt thì trong đám đông bỗng có hai mảnh đá bắn lên. Tôn Khắc Thông né được một viên, còn một viên sượt vào bên má. Hắn đau đớn vô cùng, đưa tay sờ lên thấy toàn là máu, không nén nổi giận dữ bèn hô lớn: “Bắn! Bắn chết hết cho ta!”
Bọn cung thủ bắn thêm một loạt, lại có mười mấy người bỏ mạng. Nạn dân kêu la thảm thiết. Đột nhiên có tiếng gió rít, hai người vừa cao vừa ốm nhảy vọt lên tường, tay vừa vung ra đã hất mấy tên cung thủ lộn nhào xuống đất. Nạn dân tức giận vì bị bắn tên, liền ào lên đè chúng xuống. Đàn ông thì đấm đá, đàn bà thì cào cấu cắn xé.
Thì ra quần hùng Hồng Hoa Hội đã cải trang lẫn vào đám đông người bị thiên tai đó. Từ Thiên Hoằng cố ý để bọn quan binh tác oai tác quái một hồi khiến dân chúng giận dữ đến mức không nhịn được nữa, rồi mới tấn công vào chùa. Đột nhiên quần hùng thấy Thường thị song hiệp xuất hiện, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.
Lạc Băng múa song đao nhảy lên đầu tường, đến bên Thường Hách Chí hỏi: “Ngũ ca! Có gặp Tứ ca hay không? Huynh ấy thế nào rồi?”
Thường Hách Chí nhìn thấy Lạc Băng, kinh ngạc hỏi: “Úi chà! Tứ tẩu cũng đến đây rồi à? Đã gặp Tứ ca rồi, Tứ tẩu yên tâm đi.”
Lạc Băng nghe vậy, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Nàng hoan hỉ quá độ khiến sát khí biến đi đâu hết, ngồi thụp xuống tường, hai tay ôm đầu. Chương Tấn và Tâm Nghiễn vội vàng chạy tới hỏi: “Sao rồi? Bị thương rồi à?”
Lạc Băng cười đáp: “Ta không sao cả! Ngũ ca đã gặp Tứ ca rồi.”
Trên đầu tường Vệ Xuân Hoa, Dương Thành Hiệp, Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng ác đấu với bọn quan binh. Chỉ một lúc sau cửa chùa đã được mở ra. Tưởng Tứ Cân và Mạnh Kiện Hùng từ trong chùa chạy ra, vẫy tay với đám nạn dân, kêu lớn: “Mọi người vào trong này lấy lương thực.”
Dân chúng ùa vào như kiến. Quan binh trong chùa lúc đầu còn vung binh khí chém giết loạn xạ, về sau thấy dân chúng càng lúc càng đông, lại có một nhóm người võ công cao cường, trong khi đó bọn thống binh đã bị giết mấy người, nên sợ đến loạn cả tay chân. Tuy nhiên quan binh khá đông lại có vũ khí, nên nạn dân cũng không dám tới gần.
Tôn Khắc Thông múa đại đao dẫn mấy tên Thanh binh chiến đấu trên đầu tường, vừa đánh vừa lùi. Đột nhiên bên tai hắn rít lên một cơn gió, rồi sau lưng tê liệt, lỏng tay buông đại đao rớt nghe loảng xoảng. Hai tay hắn bị bẻ ra sau lưng, một thanh âm vang lên sau gáy: “Con rùa kia! Mau mau ra lệnh cho đám rùa thuộc hạ của ngươi buông vũ khí xuống, lùi ra khỏi chùa.”
Tôn Khắc Thông chần chừ một lúc, chợt thấy gáy mình đau nhói lên. Thì ra con dao đang kề vào cổ bị người ta nhẹ nhàng kéo một đường, hớt mất một miếng da. Đến nước này thì Tôn Khắc Thông không dám không nghe lời, chỉ còn cách lớn tiếng truyền lệnh. Quan binh đều thấy thượng cấp bị một người trông như ma quỉ bắt lấy, chủ tướng đã có lệnh thì hà tất phải thí mạng nữa, nên chúng cùng buông binh khí xuống, lùi ra ngoài chùa. Dân chúng đồng thanh hoan hô vang dội.
Trần Gia Lạc tiến vào, thấy đại điện rộng khoảng năm gian nhà bình thường, chất đầy những túi lương thực và tiền bạc.
Thạch Song Anh lôi Vương Đạo vào trong điện, Trần Gia Lạc cười hỏi: “Ngươi là tri huyện đại nhân phải không?”
Vương Đạo run rẩy đáp: “Vâng… vâng… đại vương…”
Trần Gia Lạc ngắt lời: “Ngươi thấy ta có giống đại vương không?”
Vương Đạo nói: “Tiểu nhân tội đáng muôn chết. Dám hỏi công tử tôn tánh đại danh là chi?”
Trần Gia Lạc mỉm cười, không đáp mà hỏi lại: “Ngươi có phải xuất thân đầu bảng hai lần không?”
Vương Đạo vội nói: “Không dám, không dám.”
Trần Gia Lạc nói: “Có gì mà không dám? Ngươi đã là tiến sĩ thì chắc hẳn không ít chữ nghĩa. Ta ra một câu đối cho ngươi.” Chàng phẩy quạt, cười cười nói tiếp: “Nếu ngươi đối được thì ta tha mạng, còn đối không được thì ta không khách sáo nữa.”
Dân chúng gặp thiên tai vừa nghe quần hùng Hồng Hoa Hội tuyên bố lát nữa sẽ phân phát lương tiền, nên tất cả đều yên tâm trở lại. Bây giờ họ nghe nói tri huyện bị bắt, tổng đà chủ Hồng Hoa Hội thi thố tài năng với hắn, đều cảm thấy hiếu kỳ. Họ đứng thành một vòng ở ngoài, cả ngàn cặp mắt đều dồn vào mặt Vương Đạo.
Trần Gia Lạc nói: “Ngươi nghe đây! Câu đối là: Sông có đục có trong, quan có trong có đục, sông trong dễ hay quan trong dễ?”
Lúc này Vương Đạo sợ quá, mồ hôi vã ra đầy người. Bao nhiêu chữ nghĩa của hắn đều theo mồ hôi mà trôi ra biển hết, suy nghĩ cả nửa ngày rồi đành nói: “Công tử! Vế đối của công tử khó quá, tiểu nhân sức học có hạn, tiểu nhân… tiểu nhân… đối không nổi.”
Trần Gia Lạc nói: “Được, không đối cũng được. Vậy ta hỏi ngươi, nước sông Hoàng Hà dễ trong sạch hay quan lại dễ trong sạch?”
Vương Đạo đột nhiên phúc khởi tâm linh, đáp ngay: “Theo tiểu nhân nghĩ, nếu quan lại khắp thiên hạ đều trong sạch, ắt hẳn nước sông Hoàng Hà cũng trong sạch theo.”
Trần Gia Lạc cười lớn: “Nói hay lắm! Ta giữ lời, tha mạng cho ngươi. Mau triệu sai dịch đến đây, lấy tiền và lương thực phát cho dân chúng bị thiên tai. À, phiền quan tổng binh cũng giúp cho một tay.”
Tôn Khắc Thông cùng Vương Đạo nhìn nhau khó xử, mất quân lương đã mang tội chém đầu, sao còn chính tay phân phát được? Nhưng không nghe lệnh thì tán mạng ngay tức khắc, phải dập lửa cháy lông mày trước đã. Chúng trăm ngàn lần khó xử cũng chỉ còn cách đốc thúc binh lính nha dịch, lấy quân lương quân hướng phát cho dân chúng bị thiên tai.
Muôn dân hoan hô vang dậy một vùng, hết lời cảm tạ quần hùng Hồng Hoa Hội. Người nào vào lãnh tiền lãnh lương cũng cười với Tôn Khắc Thông và Vương Đạo một cái. Cái cười đó đương nhiên là cười chê cười mỉa, nhưng quan văn quan võ đành coi như không biết không hay.
Trần Gia Lạc dõng dạc lên tiếng: “Các vị phụ lão, huynh đệ, tỉ muội nghe đây! Sau này nha môn xét hỏi, thì quí vị cứ nói là quan tổng binh và tri huyện đích thân cấp phát.” Dân chúng reo hò khen phải, nhất định sẽ nói đúng như vậy.
Quần hùng giám thị đến khuya, lương tiền mới phát xong. Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Quí vị phụ lão! Quí vị hãy đem binh khí về cất trong nhà. Nếu bọn cẩu quan này biết tốt xấu thì thôi, còn nếu sau khi bọn tại hạ rời thành má chúng ép quí vị giao trả quân lương, thì mọi người hãy thí mạng với chúng một phen.”
Lúc này đúng là Hồng Hoa Hội nói sao nạn dân nghe vậy. Những thanh niên trai tráng lập tức tới lượm hết đao thương của bọn binh lính rơi vãi dưới đất. Bọn chúng thấy dân chúng đông đúc, quan tổng binh lại đang bị khống chế, dĩ nhiên không dám ho he.
Trần Gia Lạc đứng dậy nói: “Việc lớn đã xong! Các vị ca ca, chúng ta đi thôi.” Quần hùng ép Tôn Khắc Thông cùng đi, ra khỏi Thạch Phật Tự rồi lên ngựa rời thành giữa tiếng hoan hô của mấy vạn nạn dân.
Đi được mười mấy dặm, Trần Gia Lạc mới đẩy Tôn Khắc Thông xuống ngựa rồi nói: “Tổng binh đại nhân! Đa ta lương thực và ngân lượng của ngươi, chúng ta còn ngày tái ngộ. Lần sau nếu ngươi có áp tải quân lương đi đâu, nhớ báo tin cho ta biết.” Chàng vừa chắp tay chào vừa cười ha hả, dẫn quần hùng rời khỏi đó.
Chạy hơn một dặm, Trần Gia Lạc mới hỏi Thường thị song hiệp: “Hai vị có tin tức Tứ ca hay không?”
Thường Hách Chí nói: “Đã gặp dấu hiệu Thập tứ đệ để lại, Tứ ca bị đưa đi Hàng Châu.”
Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi: “Đưa đi Hàng Châu làm gì? Tại sai không đi Bắc Kinh? Không phải tên cẩu hoàng đế muốn đích thân thẩm vấn hay sao?”
Thường Bá Chí đáp: “Bọn thuộc hạ cũng cảm thấy kỳ lạ, nhưng Thập tứ đệ xưa nay hành sự tỉ mỉ tinh tế, tin này nhất định là xác thực.”
Trần Gia Lạc gọi mọi người xuống ngựa, ngồi quây lại thương nghị. Từ Thiên Hoằng nói: “Tứ ca đã đi Hàng Châu, thì chúng ta về Giang Nam tìm cách cứu Tứ ca. Hàng Châu là địa bàn của chúng ta, tai mắt triều đình không linh hoạt bằng ở Bắc Kinh, cứu Tứ ca sẽ dễ hơn. Nhưng vẫn phải nhờ một vị ca ca đi Bắc Kinh thám thính tin tức, phòng hờ vạn nhất.” Mọi người đều cho là phải.
Trần Gia Lạc quay sang Thạch Song Anh nói: “Lại làm phiền Thạch ca một phen cực khổ nữa rồi.”
Thạch Song Anh lắc đầu đáp: “Chẳng hề gì!”
Thương nghị xong xuôi, một mình Thạch Song Anh đi về hướng bắc, còn quần hùng khởi hành về phương nam.
Trần Gia Lạc hỏi tiếp về tình hình vết thương của Dư Ngư Đồng, Thường thị song hiệp trả lời là chưa có tin tức. Hai người vừa thấy ký hiệu là lập tức trở về báo tin, khi đi qua Lan Phong thấy dân chúng bị thiên tai tập hợp đông đúc liền đi theo đến Thạch Phật Tự để xem náo nhiệt. Lúc bọn quan binh bắn tên, hai người nhịn không nổi nhảy lên tường động thủ với chúng, không ngờ quần hùng cũng có mặt ở đó.
Tuy Văn Thái Lai chưa thoát hiểm, nhưng mọi người đã biết tin tức Văn, Dư bình an vô sự, đều cảm thấy vui mừng, nhắc lại vụ cướp lương cứu nạn vừa rồi thật là thống khoái. Chu Ỷ nói: “Đại quân mất hết lương thảo, nhất định không thắng được Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ.”
Vô Trần cười nói: “Con bé đó kiếm pháp rất khá, nhân phẩm lại phi phàm, ai cũng muốn giúp đỡ. Mong sao nó đánh một trận cho oanh liệt, để mọi người được tới chung vui.”
Trần Gia Lạc nói: “Cũng nhờ Thất ca thần cơ diệu toán. Vụ này đúng là một công đôi việc.”
Chu Ỷ nghe tổng đà chủ khen ngợi Từ Thiên Hoằng, thầm mừng rỡ liếc nhìn, ánh mắt lấp lánh như biết nói biết cười. Từ Thiên Hoằng lè lưỡi nhìn nàng, nháy nháy mắt trả lời.
Chưa đầy một ngày quần hùng đã đến Từ Châu. Đà chủ phân đà Hồng Hoa Hội nơi đó thấy tổng đà chủ và các vị hương chủ nội hương đường ngoại hương đường đột ngột đến cả đây, lập tức cung kính đón tiếp, không khỏi bận rộn suốt ngày. Hội chúng vùng Giang Bắc này do Dương Thành Hiệp thống lĩnh, y hạ lệnh cho phân đà chủ không được bày vẽ rườm rà, cũng không cần phải thông báo cho anh em trong hội đến tham kiến tổng đà chủ.
Quần hùng chỉ nghỉ một đêm, rồi đi miết về hướng nam. Mọi bến đò vượt sông đều có đầu mục hay phân chi Hồng Hoa Hội, nhưng quần hùng muốn giữ cơ mật nên không kinh động ai cả, chỉ nhanh chóng vượt qua. Mấy ngày sau mọi người đã đến Hàng Châu, nghỉ tại nhà Mã Thiện Quân là chủ phân đà Hàng Châu. Gia trang nhà họ Mã tọa lạc dưới chân núi Cô Sơn ở Tây Hồ. Nơi này sản vật phong phú, cảnh trí tuyệt vời, lại vô cùng yên tĩnh.
Mã Thiện Quân chuyên nghề buôn bán vải vóc, làm chủ hai xưởng dệt tơ lụa khá lớn. Tính ông hiếu võ nên kết giao với Vệ Xuân Hoa, rồi được họ Vệ giới thiệu vào Hồng Hoa Hội. Mã Thiện Quân thân hình mập mạp, tuổi trạc ngũ tuần, thường mặc áo bào bằng tơ lụa in bông lớn, ngoài khoác thêm áo ngắn màu đen. Nhìn y chẳng khác gì một vị đại gia sống trong nhung lụa, nào ngờ cũng là hiệp khách phong trần.
Đêm đó đón tiếp quần hùng trong hậu sảnh, mọi người bàn đến việc cứu Văn Thái Lai. Mã Thiện Quân nói: “Để thuộc hạ lập tức cho người đi điều tra xem Tứ đương gia bị nhốt trong lao nào, rồi chúng ta theo tình hình mà hành sự.” Y bèn lệnh cho con trái Mã Đại Đình ra ngoài sắp xếp mọi chuyện.
Sáng hôm sau Mã Đại Đình về báo: “Đã cho huynh đệ đi thám thính khắp các nha môn phủ Hàng Châu, huyện Tiền Đường, huyện Nhân Hòa, kể cả doanh trại của tướng quân trú phòng, thủy lục đề đốc, nhưng không có tin tức gì của Văn tứ đương gia.”
Trần Gia Lạc triệu tập quần hùng nghị sự. Mã Thiện Quân nói: “Trong nha môn quan phủ, doanh trại tướng quân đều có huynh đệ chúng ta nằm vùng, nếu Văn tứ đương gia bị giam trong nhà lao của quan sai thì chắc chắn sẽ tìm được. Chỉ sợ Tứ đương gia gây trọng án nên chúng phải nhốt riêng, vậy thì khó mà xoay xở.”
Trần Gia Lạc nói: “Bước đầu chúng ta phải điều tra cho được Tứ ca đang ở đâu. Phiền Mã đại ca tiếp tục cử các huynh đệ đắc lực đi tìm kiếm, thám thính lại các nơi quan phủ. Đêm nay mời đạo trưởng, Ngũ ca, Lục ca đến dinh tuần phủ xem thử. Quan trọng nhất là đừng đánh cỏ động rắn, bất kể thế nào cũng không nên động võ.” Bọn Vô Trần vâng lệnh, hỏi tỉ mỉ Mã Thiện Quân về đường đi nước bước và tình hình trong ngoài dinh tuần phủ.
Giờ tí đêm đó ba người xuất phát, hai canh giờ sau về báo cáo. Dinh tuần phủ canh gác nghiêm mật khác thường, hàng ngàn binh lính đèn đuốc sáng trưng canh giữ suốt đêm, rất nhiều quan quân tuần tra thuộc hàng nhị phẩm tam phẩm đội nón đỏ. Họ không dám xông vào, nấp ngoài chờ đợi hồi lâu. Đơi mãi vẫn thấy chúng chẳng có vẻ gì lơi lỏng, ba người đành phải trở về.
Quần hùng đều kinh ngạc, không sao ngờ đến cục diện này. Mã Thiện Quân nói: “Mấy ngày nay trong thành Hàng Châu nơi nào cũng tra xét cẩn mật. Ngay cả chốn lầu xanh, thậm chí thuyền bè qua lại trên sông cũng bị quan sai xét hỏi. Rất nhiều người vô cớ bị bắt đi. Chẳng lẽ những việc đó có liên quan đến Văn tứ gia hay sao?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Chắc không phải vậy. Không chừng có khâm sai đại thần gì đó từ kinh đến đây, nên quan lại địa phương mới hao công tốn sức như thế.”
Mã Thiện Quân nói: “Nhưng lại không nghe nói có quan khâm sai nào đến Triết Giang.” Mọi người bàn luận khá lâu, cuối cùng cũng chẳng được gì.
Hôm sau Chu Ỷ nũng nịu bắt cha mẹ đi chơi hồ với nàng, Chu Trọng Anh đồng ý. Chu Ỷ nháy mắt với Từ Thiên Hoằng, muốn chàng cùng đi. Họ Từ không dám mở miệng, làm như chẳng biết gì.
Nhưng người xưa có nói, biết con không ai bằng cha. Chu Trọng Anh hiểu tâm sự của nàng, cười bảo: “Hoằng nhi! Chúng ta chưa đến Hàng Châu bao giờ. Con đi chung với chúng ta, đừng để ông bà già cả này lạc mất đường về.”
Từ Thiên Hoằng vâng dạ. Chu Ỷ khẽ trách: “Gia gia kêu thì ca ca đi, còn muội kêu thì ca ca không chịu.” Từ Thiên Hoằng mỉm cười không nói. Chàng từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, phiêu bạt điêu linh, bây giờ đột nhiên được vợ chồng Chu Trọng Anh coi mình như con ruột, lại thêm hôn thê ngây thơ khả ái, đối với chàng thân mật muôn phần, trước mặt người khác cũng không chút e dè. Không những bản thân chàng hoan hỉ, mà các huynh đệ cũng thấy vui lây.
Trần Gia Lạc cũng dẫn Tâm Nghiễn đi dạo cảnh hồ. Dạo qua Tô Đê, Bạch Đê, chàng lên cầu ngồi nhìn về ngọn núi xa xôi. Không mưa mà vẫn um tùm cây cối xanh xanh trùng điệp, không khói mà vẫn nhòa nhạt những đỉnh núi hùng vĩ thấp thoáng trong mây. Trần Gia Lạc nghĩ: “Người xưa lần đầu đến Tây Hồ đã ví mình như Tào Thực kiến diện nữ thần sông Lạc, vừa ngẩng đầu lên đã thấy ngợp mắt lạc thần, quả thật không sai.”
Trần Gia Lạc đã đến Tây Hồ mấy lần, nhưng lúc đó còn nhỏ không hiểu được cái đẹp của cảnh sắc thiên nhiên. Lần này chàng quay lại mới hiểu được thế nào là sơn dung thủy ý, hoa thái liễu tình. Chàng say mê thưởng ngoạn hơn nửa ngày rồi mới thuê xe ngựa vào chùa Linh Ẩn để thăm Phi Lai Phong.
Ngọn núi này cao hơn năm mươi trượng, từ chân lên tới đỉnh toàn là đá, dưới những khe đá mọc nhiều cây cối cành lá xum xuê. Trên cao có những tảng đá lởm chởm, chông chênh như chỉ chực rơi xuống dưới. Trần Gia Lạc cao hứng, bảo Tâm Nghiễn: “Chúng ta lên đó xem thử.” Vốn không có đường lên đỉnh núi, nhưng hai người ỷ vào khinh công phi phàm, vừa nói chuyện vừa bước nhẹ như không.
Nhìn về phía Tam Thiên Trúc thấy phong cảnh thanh nhã thoát tục, Trần Gia Lạc bèn nói: “Bên kia lại càng tuyệt đẹp.” Hai người bèn chậm rãi xuống núi, tiến đến Tam Thiên Trúc.
Được mười mấy trượng thì có hai đại hán mặc trường bào màu lam đi qua mặt, nhìn hai thầy trò tỉ mỉ, sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc. Tâm Nghiễn khẽ nói: “Thiếu gia, hai người này biết võ công.”
Trần Gia Lạc cười đáp: “Nhãn lực của ngươi không tệ.” Chưa dứt câu, trước mặt lại có hai người đi tới, phục sức giống hai người trước, ra vẻ đang thưởng ngoạn phong cảnh, khẩu âm như người Mãn Thanh. Cứ thế, rải rác dọc đường lên núi có tới ba bốn chục người biết võ công mặc trường bào màu lam. Nhìn thấy Trần Gia Lạc, chúng đều lộ vẻ khác thường.
Tâm Nghiễn hoa cả mắt, Trần Gia Lạc cũng phải ngạc nhiên thầm nghĩ: “Chẳng lẽ có bang hội hay võ phái nào hội họp ở đây hay sao? Nhưng Hàng Châu là địa bàn của Hồng Hoa Hội, nếu vậy thì nhất định họ phải thông báo cho mình biết. Hơn nữa, những người này nhìn mình rất lạ, hẳn phải có lý do.”
Thầy trò đi qua một khúc quanh, sắp lên tới Quan Âm Miếu trên Tam Thiên Trúc thì đột nhiên bên trên vọng xuống tiếng đàn thánh thót ngân vang, nghe như tiếng thác nước đổ từ trên núi. Tiếng nhạc ngân nga ca ngợi Thanh triều giang sơn cẩm tú, nhờ hoàng ân mà lê dân được sống an bình, thôn xóm nào cũng có nhà dựng cờ bán rượu.
Trần Gia Lạc nghĩ: “Tiếng đàn bình hòa nhã nhặn, thế mà ca từ lại đầy vẻ nịnh bợ, thật không tương xứng. Nhưng bảy chữ An đỗ thôn thôn dương tửu kỳ quả nhiên xuất sắc. Nếu thôn xóm nào trên thiên hạ cũng có tửu gia, thì dĩ nhiên là lê dân bá tánh được sống vui vẻ rồi.”
Nhắm hướng tiếng đàn đi tới, chàng thấy giữa tòa núi đá có một thư sinh trạc tứ tuần đang ngồi đánh đàn, bên cạnh có hai người áo lam đứng hầu, một ông lão gầy ốm và một đại hán thấp lùn. Trong lòng Trần Gia Lạc đột nhiên phát sinh cảm giác mình với người đang chơi đàn đã quen biết lâu rồi. Y có dáng vẻ thanh tú, cốt cách cao quí, chàng càng nhìn càng thấy quen thuộc nhưng mãi không sao nhớ được đã gặp ở đâu. Trong phút chốc, đầu óc chàng mơ hồ như đang nằm mộng, cảm thấy người này đối với mình hết sức thân cận mà cũng rất đỗi xa xôi.
Lúc đó, hai người áo lam kia cũng chăm chú quan sát Trần Gia Lạc và Tâm Nghiễn, hình như muốn bước tới nói hỏi han. Thư sinh bỗng đưa ba ngón tay chặn lên dây đàn, âm thanh vụt tắt. Trần Gia Lạc tiến lên hai bước, chắp tay nói: “Vừa rồi mạo muội trộm nghe nhân huynh tấu nhạc, ca từ mới lạ tân kỳ. Chẳng hay bài ca đó có phải của nhân huynh vừa phổ nhạc hay không.”
Người kia cười đáp: “Đúng vậy! Bài Cẩm tú càn khôn này do tại hạ phổ nhạc gần đây. Các hạ quả nhiên là bậc tri âm, xin được nghe chỉ giáo.”
Trần Gia Lạc khen: “Cao minh, cao minh. Câu An đỗ thôn thôn dương tửu kỳ quả thật tuyệt vời.”
Người kia lộ vẻ hân hoan nói: “Huynh đài mới nghe mà đã nhập tâm như vậy! Xin mời đến đây đàm đạo.”
Trần Gia Lạc nghĩ: “Nhưng mấy câu kia thì sặc mùi bợ đít triều đình, ngươi cũng chỉ vào hạng tầm thường.” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng không biết vì sao chàng lại có ý muốn thân cận với người này, bèn tới thi lễ rồi ngồi xuống. Người kia nhìn kỹ dung mạo Trần Gia Lạc, cũng ra vẻ ngơ ngác hồi lâu.
Trần Gia Lạc cười nói: “Dọc đường lên núi gặp rất nhiều du khách, người nào gặp tiểu đệ cũng để lộ sắc thái khác thường như vậy. Vừa rồi huynh đài cũng thế, chẳng lẽ mặt mày tiểu đệ có gì cổ quái hay sao? Mong được chỉ giáo.”
Người kia mỉm cười đáp: “Huynh đài không hiểu cũng phải. Tại hạ có một người thân thích, tướng mạo rất giống huynh đài. Những du khách đó đều là bằng hữu của tại hạ, nên họ mới ngạc nhiên như vậy.”
Trần Gia Lạc cười nói: “Thì ra là thế. Tiểu đệ cũng thấy tướng mạo nhân huynh rất quen thuộc, hình như đã gặp ở đâu nhưng tiểu đệ ngu muội không sao nhớ nổi. Không biết nhân huynh nghĩ thế nào?”
Người kia cười rộ lên: “Chúng ta thật hữu duyên. Xin hỏi cao danh quý tánh nhân huynh?”
Trần Gia Lạc danh tiếng lẫy lừng trong giang hồ, không muốn nói thật bèn đáp bừa: “Tiểu đệ họ Lục, tên Gia Thành.” Đây chỉ là ba chữ Trần Gia Lạc đọc ngược lại. Rồi chàng cũng hỏi: “Xin hỏi tôn tánh huynh đài?”
Người kia suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tại hạ họ kép là Đông Phương, tên chỉ có một chữ Nhĩ, là người Trực Lệ. Nghe khẩu âm thì hình như huynh đài là người địa phương này?”
Trần Gia Lạc đáp: “Tiểu đệ đúng là người ở đây.”
Đông Phương Nhĩ nói: “Từ lâu đã nghe nói phong cảnh Giang Nam thiên hạ vô song, hôm nay đến đây quả nhiên danh bất hư truyền. Không những nơi này núi non hùng vĩ, lại còn địa linh nhân kiệt. Tại hạ gặp rất nhiều nhân vật, đa số là học sĩ tài ba.”
Trần Gia Lạc nghe y nói chuyện phong thái bất phàm, lại thấy đại hán và ông lão kia đối với y mười phần cung kính, thõng tay đứng hầu không chút trễ nãi. Chàng thật sự không biết người này là nhân vật thế nào, bèn nói: “Huynh đài đã yêu thích Giang Nam tại sao không định cư hẳn nơi đây, để tiểu đệ thường xuyên được nghe lời dạy bảo?”
Đông Phương Nhĩ cười lớn: “Tranh thủ nửa ngày nhàn hạ, đi chơi một buổi ở đây đã là quá lắm rồi. Người tục lụy như tại hạ đây, phước phận như lúc này không phải hễ muốn là được. Huynh đài hiểu được tiếng đàn của tại hạ, nhất định là bậc cao nhân. Xin huynh đài tấu thử một khúc, có được hay không?” Nói xong, y khẽ đẩy cây thất huyền cầm đến trước mặt Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc thử đưa ngón tay lướt nhẹ, thấy tiếng đàn thanh thoát tuyệt diệu. Chàng nhìn kỹ cây đàn thấy trên đầu có buộc chùm tua xen kẽ sợi vàng thắt thành hai chữ triện Lai Phượng, còn chất liệu và hoa văn thì tuyệt hảo, giống như cổ vật cả ngàn năm. Chàng âm thầm kinh hãi, biết cây đàn này là bảo vật vô giá, không biết người này có được từ đâu, bèn nói: “Tiểu đệ mạn phép tấu đàn trước mặt cao nhân, mong huynh đài đừng có chê cười.”
Trần Gia Lạc gảy một bài Bình Sa Lạc Nhạn, Đông Phương Nhĩ chăm chú ngồi nghe. Nghe xong y hỏi: “Chắc hẳn huynh đài đã từng đến vùng biên ải?”
Trần Gia Lạc nói: “Đúng là tiểu đệ vừa từ Hồi Cương trở về, không hiểu sao nhân huynh biết được?”
Đông Phương Nhĩ đáp: “Tiếng đàn của huynh đài đạm bạc mà khoáng đạt mênh mông, phong cảnh hùng vĩ nơi đại mạc thể hiện rõ ràng trong đó. Nghe tiếng đàn của huynh phải nhớ tới bài từ của Tân Gia Hiên: Say rượu khêu đèn ngắm kiếm, Nhớ về những tháng năm xưa, Biếm ra ngoài tám trăm dặm, Tai nghe đàn năm mươi dây, Tiếng đàn ngoại tộc vùng biên ải, Tưởng trống điểm binh chốn sa trường. Tại hạ đã nghe khúc Bình Sa Lạc Nhạn này mấy chục lần, nhưng chưa từng thấy khí tượng bát ngát xung thiên như tiếng đàn của huynh đài.” Trần Gia Lạc thấy y quả đáng mặt tri âm của mình, không khỏi cao hứng.
Đông Phương Nhĩ lại nói: “Tại hạ còn một việc không rõ, muốn thỉnh giáo huynh đài. Nhưng vừa mới quen nhau, giao thiệp còn nông cạn, mở lời không khỏi e ngại.”
Trần Gia Lạc nói: “Rất mong được nghe tôn ý huynh đài.”
Đông Phương Nhĩ nói: “Trong tiếng đàn của huynh đài còn chất chứa can qua, như ẩn tàn mười vạn binh giáp bên trong. Nhưng nhìn dáng vẻ huynh đài lại như một công tử quí phái, văn nhã ôn hòa, chắc chắn không phải là đại tướng thống binh. Thật sự tại hạ không hiểu ra sao.”
Trần Gia Lạc cười nói: “Tiểu đệ chỉ là một kẻ thư sinh lang bạt giang hồ. Lời nói của huynh đài khiến đệ nghe mà xấu hổ.”
Dường như Đông Phương Nhĩ không tin lắm, lại hỏi tiếp: “Cũng có thể huynh đài xuất thân thế gia con nhà đại tướng. Không biết tôn đại nhân bây giờ làm đến chức quan nào, còn công danh huynh đài ra sao?”
Trần Gia Lạc đáp: “Tiên phụ bất hạnh đã tạ thế từ lâu. Còn tiểu đệ tài sơ trí thiển, hoàn toàn vô duyên với công danh lợi lộc.”
Đông Phương Nhĩ lại hỏi: “Chỉ nghe lời đàm luận đủ biết huynh đài tài ba lỗi lạc. Chẵng lẽ huynh đài không đặt mục đích kiến thân lập nghiệp hay sao?”
Trần Gia Lạc lắc đầu đáp: “Chuyện đó thì không phải.”
Đông Phương Nhĩ nói: “Tuần Phủ Triết Giang là chổ tri giao của tại hạ. Ngày mai huynh đài thử dời gót đến gặp ông ấy, không chừng sẽ có một phen hạnh ngộ.”
Trần Gia Lạc nói: “Hảo ý của huynh đài đệ xin cảm tạ, nhưng thật sự đệ không có ý làm quan.”
Đông Phương Nhĩ hỏi: “Chẳng lẽ huynh đài cam chịu để tài năng mai một suốt đời như vậy sao?”
Trần Gia Lạc đáp: “Trước mặt bình dân bá tánh mà lộ vẻ anh hùng, chẳng khác gì hành vi bỉ ổi.” Đông Phương Nhĩ nghe xong câu này, bất giác nét mặt thay đổi. Hai người áo lam thấy vậy đều bước lên một bước.
Đông Phương Nhĩ im lặng một lát rồi nói: “Huynh đài là bậc cao nhân nhã trí, đương nhiên những kẻ phàm tục như tại hạ không sao sánh kịp.”
Hai bên quan sát lẫn nhau, đều cảm thấy đối phương là nhân vật không phải tầm thường, mà trong sự đề phòng lại không nén nổi phát sinh cảm giác thân tình. Đông phương Nhĩ lại cất tiếng: “Huynh đài đi từ Hồi Cương đến tận Giang Nam này, dọc đường chắc hẳn đã thưởng ngoạn rất nhiều cảnh đẹp.”
Trần Gia Lạc đáp: “Thần Châu vạn dặm, thắng cảnh sông núi đương nhiên không sao xem hết được. Nhưng thấy Hoàng Hà lũ lụt, dân tình khắp nơi thê thảm bi ai, tiểu đệ chẳng còn tâm trí đâu du ngoạn nữa.”
Đông Phương Nhĩ nói: “Nghe nói dân chúng bị thiên tai ở Lan Phong đã cướp hết quân lương của đại quân tây chinh. Dọc đường huynh đài có nghe thấy vụ này hay không?”
Trần Gia Lạc giật mình nghĩ: “Tin tức của người này tại sao mau lẹ đến thế? Chúng ta cướp lương xong là đi thẳng Giang Nam, ngày đêm không dừng bước, mà y đã biết rồi.” Chàng bèn đáp: “Đúng là có chuyện đó, nhưng thiết nghĩ nạn dân không có cơm ăn áo mặc, thế mà quan phụ mẫu không thương xót chút nào. Họ chỉ vì muốn sống mà gây ra chuyện đó, về tình thì có thể tha thứ được.”
Đông Phương Nhĩ chậm rãi lắc đầu, từ từ nói: “Xem ra sự việc không đơn giản như vậy. Vụ này là do Hồng Hoa Hội xách động nạn dân phạm thượng làm loạn.”
Trần Gia Lạc vờ hỏi: “Hồng Hoa Hội là cái gì vậy?”
Đông Phuơng Nhĩ trả lời: “Đó là một bang hội mưu đồ tạo phản trên giang hồ. Huynh đài chưa từng nghe thấy hay sao?”
Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ đắm mình trong cầm kỳ, đối với chuyện thế gian không hiểu là mấy. Nói ra xấu hổ, một bang hội danh tiếng lẫy lừng như thế mà đến hôm nay tiểu đệ mới nghe thấy lần đầu.” Chàng dừng lại một chút rồi tiếp: “Triều đình nghe tin này, chắc chắn sẽ nghiêm phạt Hồng Hoa Hội.”
Đông Phuơng Nhĩ nói: “Đó là lẽ đương nhiên, một nhúm phản tặc đó không đủ trở thành đại họa.”
Trần Gia Lạc không phản đối, chỉ hỏi: “Huynh đài căn cứ vào đâu mà nói thế?”
Đông Phương Nhĩ đáp: “Đương kim thiên tử là bậc thánh minh, chỉ cần phái một hai nhân vật tài cán hơn người, Hồng Hoa Hội sẽ bị tiêu diệt trong chốc lát.”
Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ không rõ về triều chính, nếu ăn nói hoang đường mong nhân huynh đừng cười là ngu muội. Tiểu đệ cho rằng trong triều chỉ có hạng giá áo túi cơm, chưa chắc làm nổi việc gì.” Câu này vừa thốt ra, Đông Phương Nhĩ và hai kẻ hầu cận áo lam đều biến sắc.
Đông Phương Nhĩ nói: “Huynh đài nói như vậy, thật không ngoài cách nghĩ của học trò. Chưa cần nhắc đến vô số danh tướng cùng hiền sĩ trong triều, chỉ riêng mấy bằng hữu của tại hạ đây cũng không phải tầm thường. Chỉ tiếc huynh đài là hạng thư sinh, không thì có thể bảo họ thi triển mấy chiêu. Nếu huynh đài biết võ công, sẽ hiểu lời nói của tại hạ không phải là vô căn cứ.”
Trần Gia Lạc nói: “ Tiểu đệ trói gà không chặt, nhưng đã từng đọc Du Hiệp Liệt Truyện của Thái Sử Công, bản thân cũng rất thán phục các bậc anh hùng hiệp sĩ. Không hiểu huynh đài là tôn chủ phái nào, các vị đây có phải là đệ tử quí phái hay không? Cảm phiền huynh đài mời họ biểu diển môt vài tuyệt kỹ cho tiểu đệ được mở rộng tầm mắt.”
Đông Phuơng Nhĩ bảo hai người áo lam: “Các ngươi thử làm trò để ra mắt Lục gia.”
Trần Gia Lạc đưa tay mời, nghĩ bụng: “Chỉ cần bọn bay xuất thủ là ta biết ở phái nào ngay.”
Gã đại hán bước lên nói: “Con sẻ trên cành cây kia ồn ào đáng ghét quá. Để tiểu nhân lôi nó xuống đây cho nhĩ căn được thanh tịnh hơn.” Hắn nói xong vẫy tay, một mũi tụ tiễn bắn về phia con chim sẻ đang đậu trên cành. Nào ngờ tụ tiễn đến gần thì đột ngột rẽ sang bên, bay lạc mất.
Đông Phương Nhĩ thấy hắn không đánh trúng thì rất bất ngờ. Đại hán kia xấu hổ đỏ mặt tía tai, lại vung tay, một mũi tụ tiễn nữa bắn lên. Lần này mọi người nhìn thấy rõ ràng, khi tụ tiễn tới gần con sẻ thì khống biết từ đâu có một viên đất bắn tới làm tụ tiễn bay lệch đi. Ông lão gầy ốm đứng bên Đông Phuơng Nhĩ thấy tay phải Tâm Nghiễn hơi rung động, biết cậu là thủ phạm bèn lên tiếng: “Không ngờ tiểu huynh đệ này công phu không tệ. Chúng ta làm quen một tý!” Lão bèn đưa năm ngón tay ra thành cương trảo, giống như móc sắt móc vào tay Tâm Nghiễn.
Trần Gia Lạc thấy ông lão này sử dụng Đại Lực Ưng Trảo Công của phái Tung Dương, xuất thủ không nhanh mà bàn tay đã có tiếng gió rít lên. Chàng thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Võ công người này có thể gọi là cao thủ đệ nhất trên giang hồ, nếu không phải là tôn chủ một phái thì cũng là tiền bối võ lâm. Sao lão lại chịu làm nô bộc cho gã Đông Phương Nhĩ này?”
Chàng nghĩ vậy, vội phẩy cây quạt xếp trong tay một cái, xòe ra cản giữa ông lão và Tâm Nghiễn. Ông lão lập tức rút tay về, nghĩ thầm: “Chủ nhân vừa đối xử với gã này như bằng hữu, nếu phá hủy đồ vật của hắn thì thật vô lễ.” Lão nhìn chằm chằm Trần Gia Lạc từ trên xuống dưới xem thử chàng có biết võ công hay không, nhưng chỉ thấy chàng đưa quạt nhẹ nhàng như không chú ý, hình như lần can thiệp vừa rồi chỉ là may mắn.
Đông Phương Nhĩ nói: “Tiểu huynh đệ này tuổi tác còn nhỏ mà võ nghệ cao cường. Huynh đài tìm đâu ra thư đồng như vậy?”
Trần Gia Lạc đáp: “Nó không biết võ đâu. Chỉ vì từ nhỏ nó thích bắt sâu bắt chim, nên ném đất cũng khá chính xác.”
Đông Phuơng Nhĩ thấy chàng đáp không thật lòng nên không hỏi vặn. Y nhìn cây quạt xếp trong tay chàng, hỏi: “Không hiểu cây quạt xếp trong tay huynh đài có bút tích của ai, có thể cho xem một lát không?” Trần Gia Lạc bèn đưa cây quạt xếp qua.
Đông Phuơng Nhĩ cầm xem, thấy trên quạt có thủ bút bài từ Kim Lũ Khúc của Nạp Lan Tính Đức là một thi nhân tiền triều, ý tứ cao siêu, bút phong tuấn nhã. Y bèn nói: “Nạp Lan là công tử nhà tướng quốc nên viết thi từ rất có khí phách, sánh được Tô Đông Pha thời xưa. Triều đình lúc ấy chỉ có một mình ông đáng nói. Thư pháp này theo kiểu Chư Hà Nam, cũng ẩn tàng đôi chút phong thái vương tôn. Chiếc quạt và bài từ này có thể gọi là song bích, rất hợp với nhau, không phải là cao nhân thì chắc chắn không có duyên sử dụng. Không hiểu huynh đài từ đâu có được?”
Trần Gia Lạc đáp: “Tiểu đệ tình cờ dùng mười lạng vàng mua được trong kho sách cũ.”
Đông Phương Nhĩ nói: “Nếu đắt gấp mười, bỏ trăm lạng vàng mua được cây quạt này cũng là quá rẻ. Đa số văn vật kiểu này chỉ truyền đời trong nhà thế gia, huynh đài mua được trong kho sách cũ thì quả là kỳ ngộ hiếm thấy trên đời.” Y nói xong cười rộ, Trần Gia Lạc biết y tỏ ý không tin nhưng cứ mặc kệ, mỉm cười bỏ qua.
Đông Phương Nhĩ lại nói: “Nạp Lan công tử tài hoa tuyệt diệu, tự thị là anh kiệt trong đám thư sinh. Huynh đài xem, trong bài từ của ông ấy có mấy câu:
Mày ngài có ngày nhăn nhíu,
Từ xưa ai cũng ngại ngùng,
Cuộc thế đáng gì mà hỏi,
Chỉ nên cười nhạt mà thôi.
Con người tự cao sinh ra kiêu ngạo, không tránh khỏi đoản mạng, bài từ này đã nói quá rõ ràng.” Y nói xong, trừng mắt nhìn Trần Gia Lạc, ra ý thiếu niên cậy tài kiêu ngạo như ngươi thì chưa chắc có kết cuộc tốt đẹp gì.
Trần Gia Lạc cười cười, cũng dẫn ra một bài từ của Nạp Lan:
“Cười rộ phất ống tay áo,
Công danh phú quí đáng gì,
Ngắm danh hoa say mỹ tửu,
Chuyện đời gác bỏ ngoài tai.
Con người được như Nạp Lan công tử, dĩ nhiên không để lọt tai những gì bọn giá áo túi cơm bình phẩm.”
Đông Phương Nhĩ thấy chàng khí khái ngông cuồng, lắc đầu lia lịa. Nhưng y không nỡ rời chàng ngay, muốn thử khí độ ra sao, bèn lật quạt lại xem, thấy phía sau không có thư họa gì liền nói: “Tại hạ rất thích cây quạt này, dám xin huynh đài tặng cho, không biết có được hay không?”
Trần Gia Lạc nói: “Vật mọn đã lọt vào mắt xanh bậc cao nhân, tiểu đệ không chút ngần ngại tặng ngay.”
Đông Phương Nhĩ chỉ vào mặt quạt còn trống, nói: “Xin huynh đài viết mấy câu vào mặt này, để ngày sau có thể trông vật nhớ người. Không biết huynh đài đang ngụ ở đâu, ngày mai tiểu đệ cho người đi lấy có được hay không ?”
Trần Gia Lạc đáp: “Nếu huynh đài không chê món quà nhỏ mọn, thì tiểu đệ lập tức viết ngay.” Nói xong, chàng gọi Tâm Nghiễn mở bao lấy văn phòng tứ bảo ra, suy nghĩ một chút rồi thảo ngay một bài thất ngôn tứ cú:
Gươm đàn nửa gánh dạo sơn hà,
Biển xanh núi thẳm ấy nhà ta,
Sa mạc gió tây lay thúy vũ,
Giang Nam trăng tỏ rọi quế hoa.
Lão già giỏi Ưng Trảo Công đứng bên thấy chàng đi chơi mang theo bút mực, lại văn tài nhạy bén, nên không nghi ngờ chàng biết võ công nữa.
Đông Phương Nhĩ nhận lấy cây quạt, buông lời cảm kích: “Tại hạ cũng có vật này xin tặng huynh đài.” Y hai tay bưng chiếc cổ cầm đặt trước mặt Trần Gia Lạc, nói: “Bảo kiếm cho người cháng sĩ, cổ cầm tặng khách tri âm. Cây đàn này phải của huynh đài mới đúng.”
Trần Gia Lạc biết đây là một bảo vật hiếm có trên đời, thế mà mới gặp lần đầu người này đã đem tặng cho mình, không biết có dụng ý gì. Nhưng chàng là con nhà tể tướng, trân bảo đã gặp rất nhiều nên không coi là đặc biệt lắm, bèn chắp tay cảm tạ rồi bảo Tam Nghiễn nhận lấy.
Đông Phương Nhĩ cười hỏi: “Huynh đài từ Hồi Cương đến tận Giang Nam, chỉ vì thích hoa quế thôi sao?”
Trần Gia Lạc đáp: “Một người bạn có chút việc cần, nên tiểu đệ phải gấp đến đây lo liệu.”
Đông Phương Nhĩ hỏi: “Nhìn sắc mặt huynh đài thì hình như không nhàn hạ lắm, còn lo lắng rất nhiều. Phải chăng việc của quí hữu vẫn chưa xong?”
Trần Gia Lạc đáp: “Đúng vậy.”
Đông Phuơng Nhĩ nói: “Không hiểu quí hữu gặp khó khăn thế nào? Ở đây tại hạ có rất nhiều bằng hữu, có thể giúp đỡ được chút gì chăng?”
Trần Gia Lạc đáp: “ Chỉ vài ngày sau là xong rồi, đa tạ hảo ý của huynh đài.”
Hai người nói chuyện gần nửa ngày mà vẫn chưa hiểu người đối diện là nhân vật thế nào. Đông Phương Nhĩ nói: “Ngày sau nếu huynh đài có điều gì cần giúp đỡ, có thể cầm đàn này đến Bắc Kinh tìm tại hạ. Bây giờ chúng ta hạ sơn thôi.” Trần Gia Lạc gật đầu ưng thuận, rồi hai người dắt tay nhau cùng xuống núi.
Khi đến Linh Ẩn, đột nhiên phía trước có mấy người bước tới. Người đi đầu mặt đẹp như ngọc, mình khoác cẩm bào, tướng mạo rất giống Trần Gia Lạc, tuổi tác cũng không chênh lệch mấy. Y tuấn tú tiêu sái còn hơn cả Trần Gia Lạc, nhưng về chí khí anh hùng hào sảng không thể sánh bằng. Hai người đối diên, nhìn nhau ngơ ngác.
Đông Phương Nhĩ cười nói: “Lục huynh! Người này có giống huynh đài không? Y là cháu họ của tại hạ. Khang nhi! Mau qua đây bái kiến Lục thế thúc.” Người ấy bước tới thi lễ. Trần Gia Lạc không dám nhận vai trưởng bối, vội trả lễ ngay.
Đột nhiên xa xa vẳng tới một thanh âm nữ nhân rất quen thuộc. Trần Gia Lạc giật mình quay lại, thấy Chu Ỷ cùng song thân từ chùa Linh Ẩn bước ra, bên cạnh đó còn có Từ Thiên Hoằng. Chàng sợ nàng đột nhiên nhìn thấy hai Trần Gia Lạc sẽ kinh ngạc la lên, nên quay đi coi như không thấy. Từ Thiên Hoằng khẽ bảo Chu Ỷ: “Mình qua hướng khác đi.”
Đông Phương Nhĩ nói: “Lục huynh! Hai ta vừa gặp mà đã thân thiết như bằng hữu lâu năm. Hôm nay tạm biệt ở đây, mai này có ngày gặp lại.” Rồi hai người chắp tay cáo biệt, mấy chục đại hán áo lam vây quanh hộ vệ trước sau Đông Phương Nhĩ mà đi.
Trần Gia Lạc quay lại khẽ gật đầu, hất hàm một cái. Từ Thiên Hoằng hiểu ý ngay, bèn xin phép Chu Trọng Anh: “Nghĩa phụ! Tổng đà chủ sai hài nhi đi lo việc. Nghĩa phụ, nghĩa mẫu và muội muội ở đây chơi thêm một chút.” Chu Ỷ trề môi tỏ ý không vui, nhưng Từ Thiên Hoằng cứ đi theo bọn đại hán vào thành.
Xế chiều, Từ Thiên Hoằng trở về bẩm báo: “Người đó dạo chơi nửa ngày trên hồ, sau đó về dinh tuần phủ.”
Trần Gia Lạc Kể lại chuyện hồi sáng. Hai người suy nghĩ một hồi, đoán rằng Đông Phuơng Nhĩ chắc chắn là nhân vật không đơn giản, nếu không phải khâm sai đại thần bí mật từ kinh thành đến đây điều tra xét hỏi thì cũng là vương thân tôn thất. Y nhìn không giống người Mãn Thanh, chắc là khâm sai. Lão già gầy ốm có võ công cao như thế lại là thuộc hạ của y, vây y không phải quan lại bình thường.
Trần Gia Lạc nói: “Chẳng lẽ người này đến đây vì việc Từ ca hay sao? Tối nay ta muốn đích thân đi dò xét.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Đúng thế! Tốt nhất là gọi một vị ca ca cùng đi, để tiếp ứng lẫn nhau.”
Trần Gia Lạc nói: “Để ta mời Triệu tam ca đi. Tam ca là người Triết Giang, rất quen thuộc khu vực Hàng Châu này.”
Vào canh hai, Trần Gia Lạc và Triệu Bán Sơn khởi hành, thi triển khinh công chạy về hướng dinh tuần phủ. Hai người đi trên mái nhà, hoàn toàn không phát ra tiếng động. Trần Gia Lạc nghĩ: “Xưa nay vẫn nghe nói võ công nội gia Thái Cực Môn ảo diệu, khinh công của Triệu tam ca quả nhiên cao siêu. Khi nào rảnh rỗi ta phải thỉnh giáo thêm ông ấy mới được.”
Triệu Bán Sơn cũng âm thầm thán phục tổng đà chủ. Lúc thí võ với Thiết Đảm Chu lão anh hùng, mọi người đã mục kích võ công chàng tinh diệu, nào ngờ khinh công chàng cũng phi phàm chẳng kém. Không hiểu sư phụ chàng là Thiên Trì Quái Hiệp làm sao mà dạy được học trò giỏi giang đến thế chỉ trong mười năm ngắn ngủi.
Chỉ một lúc đã đến gần tuần phủ nha môn. Hai người đồng thời phát hiện trên mái nhà phía trước có chỗ khả nghi, lập tức khom xuống nấp. Đúng là có hai người đang tuần tra trên mái nhà. Triệu Bán Sơn đợi chúng quay lưng bèn vung tay lên, một viên thiết liên tử bắn vào một cành cây cách đó mấy trượng. Hai tên kia nghe tiếng động ở cành cây liền phi thân qua đó để xem xét. Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn thừa cơ vọt nhanh lên mái nha môn, lập tức tránh vào một góc tối.
Họ chờ một hồi không thấy động tĩnh gì mới từ từ ngẩng đầu lên nhìn tứ phía, không nén nổi giật mình kinh hãi. Thì ra dưới sân đèn đuốc soi sáng tựa ban ngày, mấy trăm cung thủ sẵn sàng, tên lắp trên cung, đao tuốt khỏi vỏ, phòng thủ cảnh giới vô cùng nghiêm mật. Lại còn mấy tên võ tướng đi tới đi lui đốc thúc. Thật kỳ lạ, binh tướng ra vào đều hít thở nhẹ nhàng, bước chân rón rén, hoàn toàn không phát ra tiếng động. Tuy có cả ngàn người tụ tập mà nơi đây tĩnh mịch phi thường, nghe được cả tiếng dế kêu nơi góc tường. Chỉ đôi lúc mời có vài tiếng đuốc nổ lép bép.
Trần Gia Lạc thấy không có cách nào vào được, bèn đưa tay ra hiệu cho Triệu Bán Sơn cùng lui ra ngoài, tránh bọn lính tuần tra tên mái nhà, đứng sau góc tường thương lượng kế sách. Trần Gia Lạc nói: “Chúng ta không nên vạch cỏ động rắn, bây giờ tốt nhất là quay về tìm cách khác.”
Triệu Bán Sơn gật đầu, đang định phi thân chạy đi thì đột nhiên cánh cửa dinh tuần phủ ken két hé mở, một tên võ quan đi ra, phía sau là bốn tên Thanh binh. Năm người đi dọc theo con đường chừng vài chục trượng lại quay trở lại, thì ra chúng tuần tra cả bên ngoài. Hai người thấy khí thế như vậy, không khỏi thầm kinh hãi.
Đợi năm tên đó quay trở ra, Trần Gia Lạc khẽ nói: “Đánh ngã!” Triệu Bán Sơn hiểu ý, bắn ra ba chiếc kim tiền tiêu, ba tên Thanh binh lập tức ngã xuống đất. Trần Gia Lạc cũng bắn hai quân cờ vây, đánh trúng tên võ quan và tên lính còn lại. Hai người nhảy xổ đến, điểm huyệt rồi kéo năm tên vào một chỗ tối, lột quân trang của chúng mặc vào mình, rồi lôi bọn chúng vào giấu sau góc tường.
Hai người chờ bọn tuần tra trên mái nhà quay lưng lại, rồi nhảy qua tường, đàng hoàng đi vào trong sân dưới ánh đuốc sáng trưng. Trong sân có cả ngàn quan binh, làm sao biết được đã có kẻ địch trà trộn vào? Họ đi sâu vào, thấy bọn tuần tra bên trong đều là võ quan cao cấp, chỉ có điều nhân số ít hơn bên ngoài.
Hai người đi đến sát tường nội điện, tìm được chỗ sơ hở, nhún người vọt lên nấp dưới mái hiên, nép vào một cây cột lớn nín thở không động đậy. Hồi lâu, Trần Gia Lạc thấy chưa lộ hành tung, bèn dùng hai chân móc lấy xà nhà treo người xuống, bôi nước bọt làm thủng giấy cửa sổ rồi dán mắt nhìn vào. Triệu Bán Sơn canh giữ sau lưng chàng, mắt nhìn bốn bên tám hướng đề phòng kẻ địch. Hai người này võ nghệ cao cường lại to gan lớn mật. Chỗ được canh phòng nghiêm mật như thế mà dám thám thính tình hình, thật là nguy hiểm đến cực điểm.
Trần Gia Lạc thấy bên trong là một đại sảnh rộng khoảng ba gian nhà bình thường, có năm sáu người đứng, đều mặc phục sức đại quan. Có một người ngồi quay lưng ra ngoài nên không nhìn rõ mặt, chỉ thấy bọn quan lại kia đối với y thần sắc rất cung kính, mắt không dám nhìn nghiêng.
Bên ngoài có một tên quan đi vào, hướng về người ngồi mà hành lễ, dập đầu chín cái. Trần Gia Lạc kinh hãi nghĩ thầm: “Đây là nghi lễ tham kiến hoàng đế. Chẳng lẽ hoàng đế đã vi hành đến Hàng Châu hay sao?”
Chàng đang phân vân thì nghe tên quan đó nói: “Thần là Y Chương Cai, Bố chánh Triết Giang, khấu kiến Hoàng thượng.”
Trần Gia Lạc nghe rất rõ ràng bèn nghĩ: “Quả nhiên là đương kim hàng đế Càn Long, không trách chúng canh phòng đến thế.”
Hoàng đế “hừ” một tiếng, nghiêm giọng nói: “Ngươi to gan lắm!”
Y Chương Cai lột mão đặt dưới đất, dập đầu lia lịa không dám nói tiếng nào. Lát sau hoàng đế mới nói tiếp: “Ta phái binh chinh phục Hồi Cương, nghe nói ngươi không đồng ý?”
Trần Gia Lạc lại giật mình nghĩ: “Thanh âm của tên hoàng đế này nghe rất quen thuộc.”
Y Chương Cai vừa dập đầu vừa nói: “Tội thần đáng chết! Thần không dám!”
Hoàng đế nói: “Ta hạ lệnh cho Triết Giang chuyển gấp mười vạn thạch lương thực để cung ứng quân nhu, sao ngươi dám kháng chỉ?”
Y Chương Cai đáp: “Thần có chết muôn lần cũng không dám kháng chỉ. Thật sự là năm nay tỉnh Triết Giang mất mùa, bá tánh cực khổ, trong thời gian ngắn không sao tập trung cho đủ quân lương.”
Hoàng đế cười nhạt: “Bá tánh cực khổ! Hừ, ngươi đúng là quan tốt, thương dân như con.”
Y Chương Cai lại dập đầu: “Tội thần đáng chết! Tội thần đáng chết!”
Hoàng đế nói: “Theo ngươi thì phải làm sao? Quân lương không đủ, tình hình gấp như lửa cháy, chẳng lẽ bắt đại quân chết đói ở Hồi Cương hay sao?”
Y Chương Cai vẫn dập đầu: “Thần không dám nói”
Hoàng đế bảo: “Có gì mà không dám nói? Ngươi nói đi.”
Y Chương Cai nói: “Đức vạn tuế thánh minh, ơn khắp lê dân. Hồi Cương là vùng di địch, thật ra không cần phiền vương sư viễn chinh như thế. Chỉ cần phái một đại thần đến thi ân bố đức là dân chúng vùng biên cương này tự nhiên qui thuận.” Hoàng đế “hừ” một tiếng không nói gì.
Y Chương Cai lại nói: “Người xưa cũng nói: Việc binh là chuyện dữ, thánh nhân chẳng muốn dùng. Nếu thánh thượng bãi bỏ cuộc viễn chinh này, cả thiên hạ đều cảm ân cảm đức.”
Hoàng đế cười nhạt: “Ta nhất định phái binh chinh phạt, thế thì cả thiên hạ đều oán thán phải không?”
Từ nãy Y Chương Cai vẫn dập đầu liên tục, trên trán đã đầy máu tươi. Hoàng đế cười khẩy: “Đầu ngươi chưa cứng lắm, thế mà dám chống đối với trẫm hay sao?” Y quay người lại.
Lần này Trần Gia Lạc càng kinh hãi hơn. Thì ra hoàng đế chính là Dông Phương Nhĩ mà mình vừa gặp sáng nay tại Tam Thiên Trúc chùa Linh Ẩn. Trần Gia Lạc kiến thức rộng rãi, gặp việc rất trấn tĩnh, nhưng lúc này không sao nén nổi mồ hôi lạnh toát ra đầy người.
Hoàng đế Càn Long lại nói: “Đi ra đi! Để mão quan lại đây.” Y Chương Cai dập đấu mấy cái nữa rồi mới đứng dậy, để đầu trần lùi ra ngoài cửa.
Càn Long quay sang mấy vị đại thần kia nói: “Tên họ Y này hành sự bất lực, chắc bên trong còn uẩn khúc gì. Các khanh hãy điều tra rõ ràng vụ này rồi trình tấu, không được vì tình riêng mà bao biện, nếu không sẽ bị xử cùng một tội.” Bọn đại thần vâng dạ liên hồi.
Càn Long lại bảo: “Các ngươi lui ra đi. Lập tức tập hợp đầy đủ mười vạn thạch quân lương, vận chuyển đi Hồi Cương gấp.” Bọn kia liên tiếp vâng dạ rồi mới khấu đầu lui ra.
Càn Long hạ lệnh: “Gọi Khang nhi vào đây.” Một tên nội thị vén màn ra ngoài, dẫn một thiếu niên vào. Trần Gia Lạc thấy đó chính là người có diện mạo giống mình. Y đứng bên Càn Long ra vẻ thân mật, không nơm nớp sợ hãi như mấy vị đại thần kia.
Càn Long lại truyền: “Gọi Lý Khả Tú”
Nội thị truyền chỉ ra ngoài, một võ tướng tiến vào khấu kiến: “Thần là Triết Giang thủy lục đề đốc Lý Khả Tú, khấu kiến thánh giá.”
Càn Long hỏi: “Tên phỉ đồ họ Văn của Hồng Hoa Hội như thế nào rồi?” Trần Gia Lạc nghe nhắc đến Văn Thái Lai lại càng chú ý lắng nghe.
Lý khả Tú nói: “Tên giặc này hung hãn chống trả, đã bị thương rất nặng. Thần đang cho đại phu chẩn trị, phải đợi thần trí hắn hồi phục lại mới thẩm vấn được.”
Càn Long bảo: “Nếu thế càng phải cẩn thận lưu ý.”
Lý Khả Tú đáp: “Thần không dám sơ xuất chút nào.”
Càn Long bảo: “Đứng dậy đi.” Lý Khả Tú khấu đầu lùi ra.
Trần Gia Lạc khẽ nói: “Chúng ta đi theo hắn.” Hai người nhẹ nhàng tuột xuống, nhưng chân vừa chạm xuống thì trong đại sảnh có người phát giác la lên: “Có thích khách!” Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn chạy ngay ra sân ngoài, trà trộn vào giữa đám binh sĩ đông đúc.
Lúc này bốn bề tiếng mõ tre vang dội. Trần Gia Lạc thấy ông lão gầy ốm vừa gặp trên Tam Thiên Trúc dẫn rất đông đại hán áo xanh tuần tra tứ phía. Ánh mắt lão này rất tinh tường, đảo nhìn khắp chốn. Trần Gia Lạc quay lưng lại, từ từ bước ra phía cổng.
Lão kia bỗng hét lên: “Ngươi là ai?”, rồi đưa tay chộp vào Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn vung song chưởng xuất chiêu Như Phong Tự Bế gạt trảo của lão ra, tung người vọt đi. Lão gấp rút đuổi theo, phóng chưởng đánh theo sau lưng. Bấy giờ Triệu Bán Sơn đã ra đến cổng, nghe sau lưng có tiếng gió liền vội cúi mình, vận sức đánh trả lại. Trần Gia Lạc đã cởi áo lính ra, xoay tay chụp vào đầu lão già đó. Lão đưa tay cản lại, hai người vừa kéo một cái, áo đã rách toạc làm hai mảnh.
Trần Gia Lạc vận kình vào nửa chiếc áo, quật veo véo lên người lão già gầy ốm đó. Chân chàng không dám dừng nửa bước, cứ chạy thẳng ra ngoài. Lão cũng không vừa, vung trảo chộp nửa cái áo đó rách bươm ra, đuổi sát theo như hình với bóng.
Giữa cổng có một tên lính xớ rớ chạy tới, Triệu Bán Sơn liền tóm lấy ném ngược lại sau. Lão già đưa tay trái chụp được, để hắn qua một bên rồi mới đuổi tiếp. Vì thế mà lão chậm một bước, thích khách đã chạy ra khỏi dinh tuần phủ. Hai ba chục tên thị vệ từ phía sau chạy tới, ào ào như ong vỡ tổ.
Lão già hét lên: “Bảo vệ hoàng thượng quan trọng hơn! Năm người các ngươi theo ta truy lùng thích khách.” Rồi lão vẫy năm tên thị vệ, thi triển khinh công rượt đuổi. Chúng còn kịp thấy hai bóng người chạy trốn trên mái nhà.
Lão cũng tung người lên mái, nhảy một hơi qua mấy chục gian nhà, khoảng cách cũng có rút ngắn lại. Lão đang muốn quát hỏi thì đột nhiên phía dưới có tiếng sáo nổi lên, hình như địch thủ đã có người tiếp ứng. Lão thấy hai người phía trước nhảy xuống đứng lại giữa đường, lập tức nhảy xuống theo, bắt tréo hai tay toan vồ lấy Trần Gia Lạc đứng trước mặt.
Trần Gia Lạc không lùi lại mà cũng không chống đỡ, cười ha hả nói: “Ta là bạn tốt của chủ nhân ngươi. Lão già này dám vô lễ hay sao?”
Dưới ánh trăng ông lão đã nhìn thấy rõ diện mạo đối phương, kinh hãi thu trảo về nói: “Quả nhiên ngươi không phải là hảo nhân! Mau theo ta đi gặp thanh thượng.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Ngươi dám làm gì ta nào?”
Lão chần chừ một lúc, năm tên thị vệ phía sau đã chạy tới nơi. Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn bỗng phi thân về phía tây.
Lão già bèn hô lớn: “Đuổi theo!” Phía Tây Hồ là nơi trú phòng của Kỳ Doanh, quân đội chính qui của Thanh triều. Lão già nghĩ bụng: “Đó là chỗ quan binh hùng hậu nhất, hắn dám chạy đến bờ hồ đó tức là tự đi vào chỗ chết”, bèn yên tâm đuổi theo.
Đến bờ hồ, hai người Trần Gia Lạc nhảy lên một chiếc thuyền, thuyền phu lập tức khua mái chèo, đưa thuyền tách bờ mấy trượng. Lão già hét theo: “Bằng hữu kia! Rốt cuộc ngươi là nhân vật thế nào, hãy để lại tên tuổi.”
Triệu Bán Sơn dõng dạc đáp: “Tại hạ là Triệu Bán Sơn ở Ôn Châu. Các hạ ở phái Tung Dương phải không?”
Lão già gầy ốm kinh ngạc: “Úi chà! Có phải Triệu lão sư, giang hồ gọi là Thiên Tí Như Lai đó không?”
Triệu Bán Sơn nói: “Không dám, đó là bằng hữu vui miệng mà gọi thế, thật hổ thẹn không dám nhận. Xin thỉnh giáo tên các hạ?”
Lão kia đáp: “Tại hạ họ Bạch, tên Chấn.” Vừa dứt lời, Triệu Bán Sơn cùng Trần Gia Lạc đều kinh hãi. Bạch Chấn có ngoại hiệu Kim Trảo Thiết Câu, là một đệ nhất cao thủ phái Tung Duơng, ba mươi năm về trước đã thành danh về môn Đại Lực Ưng Trảo Công. Lão biệt tích giang hồ đã lâu, không ai hiểu được hành tung, nào ngờ đã làm thị vệ bên mình hoang đế.
Triệu Bán Sơn chắp tay nói: “Thì ra là Kim trảo thiết câu Bạch lão tiền bối, chẳng trách công lực phi phàm như thế. Bạch lão tiền bối ép người quá đáng như vậy, không biết có điều chi chỉ giáo?”
Bạch Chấn nói: “Nghe nói Triệu lão sư là Tam đương gia của Hồng Hoa Hội, thế còn vị kia là ai?” Nói đến đây lão bỗng nghĩ ra, bèn hỏi: “Chẳng lẽ là Trần công tử, tổng đà chủ của quí hội?”
Triệu Bán Sơn không đáp mà hỏi lại: “Bạch lão tiền bối muốn gì?”
Trần Gia Lạc xòe cây quạt ra, dõng dạc nói: “Gió mát trăng trong, cảnh khuya như vẽ thế này, chẳng hay Bạch lão tiền bối có bằng lòng tới đây uống một chén với ta không?”
Bạch Chấn nói: “Các hạ giữa đêm xông vào dinh tuần phủ làm kinh động thánh giá, chuyện này đâu thể giải quyết ở đây một cách dễ dàng? Tại hạ buộc lòng phải mời các vị đi gặp chủ nhân, không thì trở về không biết đường nào phúc đáp. Bản chủ nhân rất tốt với các hạ, chắc không làm khó các hạ đâu.”
Trần Gia Lạc cười nói: “Chủ nhân của ngươi không phải hạng người phàm tục. Ngươi hãy về nói cho ông ấy biết, mặt hồ lúc này đầy mùi hương hoa quế và ánh trăng rực rỡ. Nếu ông ấy có nhã hứng thì xin mời tới đây uống mấy chén hàn huyên tâm sự, ta sẽ ở đây chờ đợi.”
Sáng nay Bạch Chấn đã tận mắt thấy hoàng thượng rất chiếu cố người này, ân sủng lạ thường. Nếu lão đắc tội với chàng, không chừng sẽ bị hoàng thượng trách mắng. Nhưng chàng giữa đêm dám kinh động thánh giá, không bắt về thì không sao kết thúc vụ này. Dù sao thì quanh đây không có thuyền bè nên lão chẳng có cách nào truy đuổi, đành quay về bẩm báo lên hoàng đế.
Càn Long suy nghĩ một lát rồi nói: “Y đã hứng thú như vậy, mà ngắm trăng trên hồ cũng không phải là tồi. Ngươi đi nói với hắn là ta sẽ đến ngay.”
Bạch Chấn khuyên can: “Bọn đó toàn là đồ liều mạng, hoàng thượng nên bảo trọng long thể. Theo ngu ý của hạ thần thì hoàng thượng nên cẩn thận, không đi là tốt nhất.”
Càn Long bảo: “Ngươi mau thi hành mệnh lệnh!”
Bạch Chấn không dám nhiều lời, liền cưỡi ngựa chạy đến bờ hồ. Lão thấy tên thuyền phu khi nãy đang ngồi đợi tin, bèn lớn tiếng nói: “Về nói với thiếu gia nhà ngươi, chủ nhân chúng ta sắp đến cùng hắn đàm luận thưởng trăng. Các ngươi chuẩn bị nghênh giá đi.”
Bạch Chấn quay về bẩm báo, mới đến giữa đường đã thấy Kiêu Kỵ Doanh, Hộ Quân Doanh, Tiền Phong Doanh của ngự lâm quân đang tiến đến bờ hồ. Chạy thêm một đoạn, thấy Kỳ Doanh và quân thủy sư trú phòng ở Hàng Châu cũng đang đến. Bạch Chấn nghĩ thầm: “Không hiểu sao hoàng thượng lại thích thằng lỏi đó, chỉ vì ngắm trăng với hắn mà phải điều động bao nhiêu binh lính đi hộ giá.” Lão vội vã chạy về để còn lo bố trí thị vệ.
Càn Long đang cao hứng cười đùa, có Lý Khả Tú thủy lục đề đốc tỉnh Triết Giang hầu hạ kế bên. Càn Long hỏi: “Chuẩn bị xong cả rồi sao? Đi thôi.” Càn Long thay thường phục, bọn thị vệ hộ giá cũng mặc y phục bình dân, tất cả đi ngựa đến bờ hồ.
Đến bên bờ hồ, Càn Long chậm rãi nói: “Hắn cũng biết ta là ai rồi, nhưng các ngươi cứ giữ lễ như kẻ sĩ thăm nhau.” Lúc này góc hồ nào cũng có mai phục ngự lâm quân. Còn thân binh của Kỳ Doanh, Thủy Sư và Lý Khả Tú thì bố trí vòng ngoài, vây chặt Tây Hồ mấy lớp.
Trên hồ bỗng có ánh đèn lay động, năm chiếc thuyền chèo tới. Một người đứng ở mũi thuyền đầu tiên, bộ tấn chắc chắn, khí thế bất phàm, dõng dạc hô lớn: “Tiểu nhân phụng mệnh Lục công tử, cung thỉnh Đông Phương tiên sinh ra giữa hồ ngắm trăng.” Nói xong y nhảy lên bờ, chắp tay vái chào Càn Long. Đây chính là Vệ Xuân Hoa.
Càn Long gật đầu khen: “Hay lắm!” rồi bước lên thuyền đó. Lý Khả Tú, Bạch Chấn và ba bốn chục thị vệ chia nhau lên bốn chiếc thuyền còn lại. Trong đám thị vệ có mười mấy tên đặc biệt tinh thông thủy tánh, Bạch Chấn dặn dò chúng đặc biệt cẩn thận, dù mất mạng thành ma cũng phải lo bảo vệ thánh giá.
Năm chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì thấy đèn đuốc sáng trưng, rất nhiều du thuyền thắp đèn khiến Tây Hồ rực rỡ như trời sao sáng. Khi đến gần, bỗng có tiếng sáo trúc nổi lên từ mặt nước, một chiếc thuyền con lướt tới như bay, một người ở đầu mũi thuyền kêu lớn: “Đông Phương tiên sinh đã đến rồi ư? Lục công tử đợi khá lâu rồi.” Vệ Xuân Hoa đáp: “Đến rồi, đến rồi!”
Thuyền nhỏ quay đầu dẫn đường, một chiếc thuyền lớn đối diện từ từ đến gần. Bạch Chấn và bọn thị vệ thấy khí thế đối phương như thế không khỏi e dè. Tuy đã triệu tập đại đội nhân mã để phòng hờ bất trắc, nhưng chúng vẫn không tự chủ được phải thầm kinh hãi, bất giác sờ tay vào binh khí đang giấu trong người.
Bỗng nghe Trần Gia Lạc bên thuyền bên kia hô lớn: “Đông Phương tiên sinh quả nhiên cao hứng. Xin mời qua bên này.”
Hai chiếc thuyền tiến lại gần nhau, bắc ván làm cầu nối. Càn Long, Lý Khả Tú, Bạch Chấn và mấy thị vệ cao cấp đạp lên tấm ván bước qua. Thấy trong thuyền chỉ có hai người là Trần Gia Lạc và thư đồng, bọn Bạch Chấn mới yên tâm trở lại.
Chiếc thuyền hoa đó rất rộng rãi, vách có vẽ tranh, mạn thuyền được điêu khắc tinh xảo. Trên bàn đặt giữa thuyền đã bày sẵn chén bát, rượu, trái cây và các loại thức ăn. Trần Gia Lạc lên tiếng: “Nhân huynh hạ cố đến đây, tại hạ thật vinh hạnh khôn xiết.”
Càn Long đáp: “Huynh đài đã mời, lẽ nào ta không tới?” Hai người nắm tay nhau cười rộ rồi ngồi đối diện, Lý Khả Tú và Bạch Chấn đứng sau lưng Càn Long.
Trần Gia Lạc cười với Bạch Chấn một cái rồi bỗng im bặt. Chàng đột nhiên thấy sau lưng Lý Khả Tú có một thiếu niên tuấn tú, rõ ràng là đồ đệ của Lục Phi Thanh. Tại sao hắn lại ở giữa đám quan tướng triều đình này, thật là kỳ lạ! Trần Gia Lạc ngạc nhiên không nén nổi, phải nhìn thêm cái nữa. Lý Nguyên Chỉ mỉm cười, nháy mắt với chàng, tỏ ý bảo đừng nhận người quen.
Tâm Nghiễn bước lên rót rượu. Trần Gia Lạc sợ Càn Long nghi ngờ, bèn tự uống trước một chén rồi gắp thức ăn nếm trước. Càn Long chỉ lựa mấy món mà Trần Gia Lạc đã nếm, gắp mấy đũa rồi dừng lại không ăn nữa. Một chiếc thuyền kế bên có tiếng sáo vang lên, thổi bài Nghinh Gia Tân.
Càn Long cười nói: “Huynh đài thật là người tao nhã, chỉ chớp mắt đã sắp xếp mọi việc chu đáo thế này.”
Trần Gia Lạc cảm tạ rồi nói: “Đã có rượu thì không thể không có nhạc. Tại hạ nghe nói Ngọc Như Ý là đệ nhất ca nữ vùng này, nên cố ý mời đến để phục vụ huynh đài.”
Càn Long vỗ tay khen ngợi rồi quay lại hỏi Lý khả Tú: “Ngọc Như Ý là người như thế nào”
Lý Khả Tú đáp: “Đó là một danh kỹ ở Hàng Châu. Nghe nói nàng rất kiêu ngạo, nếu nàng không vừa ý thì bỏ ra mười lạng hoàng kim cũng đừng hòng thấy mặt, đừng nói đến ca hát hay mời rượu.”
Càn Long cười hỏi: “Ngươi đã gặp nàng chưa?”
Lý Khả Tú hoảng sợ đáp: “Tiểu… tiểu nhân không dám.”
Càn Long cười nói: “Thế thì hôm nay ngươi được mở rộng tầm mắt rồi.”
Trong lúc hai người nói chuyện, Vệ Xuân Hoa đã sang chiếc thuyền kia dẫn Ngọc Như Ý qua. Càn Long thấy cô gái này trắng trẻo nhỏ xinh, tướng mạo diễm lệ phi thường, cặp mắt lanh lợi chỉ nhìn thoáng một cái đã thân mật chảo hỏi hết mọi người.
Nàng uyển chuyển thân hình, cúi chào Trần Gia Lạc rồi cất giọng oanh thỏ thẻ: “Lục công tử hôm nay thật cao hứng.” Thanh âm êm dịu phi thường.
Trần Gia Lạc đưa tay về phía Càn Long, nói: “Vị này là Đông Phương lão gia” Ngọc Như Ý quay sang Càn Long chào hỏi, rồi ngồi xuống cạnh Trần Gia Lạc
Trần Gia Lạc hỏi: “Nghe nói cô nương hát rất hay, có thể cho chúng ta thưởng thức một chút hay không?”
Ngọc Như Ý cười đáp: “Nếu Lục công tử muốn, tiểu nữ có thể hát ba ngáy ba đêm cho công tử nghe. Chỉ sợ công tử phát chán mà thôi.”
Có người đưa đàn tỳ bà đến, Ngọc Như Ý đưa tay vẫy nhẹ, bắt đầu cất giọng. Bài đầu tiên là tiểu khúc Nhất Bán Nhi:
Ngoài rèm thấy gã oan gia,
Quì xin về lại nếp nhà phu thê,
Miệng ta mắng kẻ bội thề,
Lòng ta thì lại đê mê chẳng đành.
Trần Gia Lạc vỗ tay khen hay. Càn Long nghe tiếng đàn thánh thót, giọng điệu ôn nhu cũng bất giác thấy tinh thần hưng phấn.
Ngọc Như Ý nghiêng mặt nở một nụ cười, đưa tay vuốt lên chiếc đàn tỳ bà, quay lại nhìn Càn Long hát tiếp:
Lắm khi đùa muốn đánh chàng,
Suy đi nghĩ lại kỹ càng lại thôi,
Nhẹ tay chàng tưởng xua ruồi,
Nặng tay chàng tưởng gặp nòi sát phu,
Thôi thì hẹn trước một câu,
Đánh xong rồi thưởng, lỡ đau hôn đền.
Càn Long nghe vậy, quên mất mình là ai, lớn tiếng kêu lên: “Cô nương muốn đánh thì đánh ta trước đi.” Trần Gia Lạc lớn tiếng cười ha hả. Lý Nguyên Chỉ núp sau lưng cha bĩu môi ra. Lý Khả Tú, Bạch Chấn và bọn thị vệ thì cố nghiêm mặt nhịn cười. Ngọc Như Ý thấy mọi người lúng túng thì bật cười khúc khích.
Càn Long sống trong chốn thâm cung, phi tần mỹ nữ tuy nhiều nhưng ai cũng khiếp sợ hoàng đế, cười một tiếng cũng không dám. Y chưa bao giờ gặp danh kỹ Giang Nam thế này, thấy nàng đầu mày cuối mắt lúng liếng đong đưa, bộ điệu lả lướt đầy vẻ phong tình, lời ca uyển chuyển đàn gảy du dương. Thêm vào những đợt hương hoa trên hồ bay đến, y như đi vào cõi mộng trong ánh trăng lồng sóng nước, dần dần quên mất mình đang đối điện với bọn giang dương đại đạo.
Ngọc Như Ý rót rượu mời, Càn Long và Trần Gia Lạc mỗi người cạn liền ba chén. Nàng cũng uống một chén. Càn Long tháo chiếc vòng ngọc bích trên tay, thưởng cho Ngọc Như Ý rồi bảo: “Nàng hát một bài nữa đi.”
Ngọc Như Ý cúi đầu mỉm cười, trên má lộ ra hai lúm đồng tiền vừa nhu mì vừa ranh mãnh, càng lộ vẻ phong tình khiến trái tim Càn Long phải nhũn ra. Nàng nhoẻn một nụ cười rồi nói: “Tiểu nữ sợ bài hát này Đông Phương lão gia không thích, nổi giận mất vui.”
Càn Long cười ha hả nói: “Bài nào cô nương hát ta cũng thích, sao có thể nổi giận được?”
Ngọc Như Ý liếc Càn Long một cái, rồi lại đưa mấy ngón tay mềm mại gảy đàn. Lần này khúc điệu nhẹ nhàng thánh thót, âm hưởng vui tươi phong phú. Càn Long vừa nghe tiếng dạo đàn đã gật đầu khen ngợi. Rồi giọng hát nàng cất lên, kể về một anh chàng kiết xác chỉ mơ được ăn no, ăn ngon lại nghĩ đến mặc, có áo gấm lại chê nhà thấp, xây lầu cao lại đòi vợ đẹp, cưới vợ bé lại đòi ngựa cưỡi, mua ngựa lại nghĩ thiếu tùy tùng, thuê mấy chục người hầu lại trách mình là thường dân dễ bị ức hiếp, may được làm tri huyện thì oán trách chức quan nhỏ mọn, làm đến thượng thư thì ngày đêm mơ tưởng chuyện lên ngôi báu…
Càn Long vừa nghe vừa cười, cảm thấy lời ca khôi hài thú vị, nhưng đến câu cuối cùng đột nhiên biến sắc.
Ngọc Như ý hát tiếp: “Một hôm hắn quay mặt về nam làm thiên tử, chinh đông chinh tây đánh man di, tứ hải vạn quốc đều thần phục. Hắn muốn đánh cờ với thần tiên, Lã Động tân vội xuống hầu cờ, hắn lại sai bắc thang để leo lên trời. Thang bắc chưa xong, Diêm Vương đã cho quỉ lại câu hồn. May mà đại hạn lâm đầu, không thì hắn leo lên còn chê trời thấp, nếu được làm Ngọc Hoàng Đại Đế chắc còn chê thiên cung kém phần sang trọng.”
Trần Gia Lạc mỉm cười đắc ý, còn Càn Long càng nghe sắc mặt càng thay đổi.Y nghĩ: “Không chừng cô ả này đã biết thân phận của ta, cố ý hát bài này trêu ghẹo.”
Ngọc Như Ý hát xong, chậm rãi đặt đàn tỳ bà xuống cười nói: “Bài ca này chê cười những kẻ nghèo hèn mà ưa mơ tưởng. Đông Phương lão gia và Lục công tử đều là bậc đại gia phú quí, lầu cao gác tía, thê tử đề huề, đương nhiên không thích loại người này.”
Càn Long cười ha hả, sắc mặt đã bình thường trở lại. Y liếc nhìn Ngọc Như Ý thấy nàng thần sắc nhu mì, trong lòng rất ưng ý, bèn tính chuyện bảo Lý Khả Tú đưa nàng về hoàng cung. Nhưng việc này phải tuyệt đối bí mật để tránh người đời dị nghị thiên tử háo sắc, làm bại hoại thanh danh.
Đột nhiên Trần Gia Lạc lên tiếng: “Có câu Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc, Đường Huyền Tông quả là bậc thiên tử phong lưu. Phong lưu cũng không sao, nhưng để giang sơn suýt lọt vào tay rợ Hồ An Lộc Sơn thì là sai lầm rất lớn.”
Càn Long nói: “Buổi đầu Đường Huyền Tông cũng là đấng minh quân, chỉ những năm cuối đời hư hỏng như thế. Nhưng nói sao thì nói, ông ấy cũng không thể sánh kịp tổ tông là Đường Thái Tông.”
Trần Gia Lạc nói: “Đường Thái Tông tài ba quán thế. Huynh đài nhất định rất khâm phục ông ấy phải không?”
Suốt đời Càn Long tôn sùng nhất là Hán Vũ Đế và Đường Thái Tông, hai vị hoàng đế có sự nghiệp mở mang bờ cõi, danh tiếng lẫy lừng tận chốn xa xôi. Càn Long từ lúc lên ngôi đã muốn kế thừa cơ nghiệp hai vị vua này, nên mới đưa binh lính viễn chinh đến Hồi Cương. Y nghe Trần Gia Lạc hỏi đúng vào việc mình đang suy nghĩ, bèn nói: “Đường Thái Tông thần võ anh minh, di địch nghe tên là vỡ mật, văn tài võ lược đều đáng mặt kỳ nhân, thế gian ngàn năm có một.”
Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ đọc sách đến chỗ ghi lại kim ngôn của Đuờng Thái Tông như bài Trinh Quán Chính yếu, thấy có mấy câu hữu lý.”
Càn Long cả mừng hỏi lại: “Là những câu nào?” Từ lúc y gặp Trần Gia Lạc, tuy rất thích chàng nhưng hai người nói chuyện không được tâm đầu ý hợp. Bây giờ y thấy chàng cũng tôn sùng Đường Thái Tông, vui mừng là phải.
Trần Gia Lạc đáp: “Đường Thái Tông đã nói: Dân chúng như nước chảy, nước có thể đỡ thuyền, cũng có thể đắm thuyền. Lại còn nói: Thiên tử hữu đạo thì mọi người suy tôn làm chủ, vô đạo thì mọi người cười là vô dụng.”
Càn Long chưa nói gì, Trần Gia Lạc đã tiếp: “Ví dụ thế này, chúng ta đang ngồi trên thuyền, nếu thuận theo dòng nước thì ngồi rất yên ổn. Nhưng nếu khuấy động lung tung, muốn chèo nhanh hơn thiên lý mã, hoặc chèo ngược thế nước ào ào thì không khỏi lật thuyền.”
Chàng nói mấy câu này trên mặt hồ, rõ ràng là có ý cảnh cáo. Không những chàng miệt thị hoàng đế, nói là bá tánh bất cứ lúc nào cũng có thể lật đổ y, mà ngữ điệu cũng có phần uy hiếp, như thuyền sắp bị lật xuống Tây Hồ thật sự.
Suốt đời Càn Long chỉ sợ tổ phụ Khang Hy và cha mình là Ung Chính, ngoài ra chưa bị ai uy hiếp khinh thường như thế. Y không nén nổi nộ khí xung thiên, nhưng lập tức tự kiềm chế, nghĩ thầm: “Cứ để ngươi đắc ý nói cho sướng miệng. Lát nữa gông cổ ngươi lại, xem ngươi có quì xuống xin ta tha mạng hay không. Ngự lâm quân và binh lính Kỳ Doanh đã vây kín hồ này. Thị vệ của ta đều là hảo thủ võ công tuyệt thế, tuyển lựa vạn người lấy một. Một bang hội giang hồ nhỏ xíu thì tác oai tác quái được bao lâu?” Y bèn cười nói: “Khổng tử có viết: Đế vương thọ mệnh trời đất mà thống lĩnh muôn loài. Lập luận của huynh đài không khỏi trái ngược với lời cổ nhân dạy bảo.”
Trần Gia Lạc rót ra một chén rượu rồi nói: “Ở tỉnh Triết Giang bọn tại hạ có bậc hương hiền là Hoàng Lê Châu tiên sinh. Ông ấy đã nói mấy câu rất đúng: Hoàng đế muốn lên ngôi thì phải hại mạng thiên hạ rất nhiều, bắt nhân dân đồ thán để giành lấy sản nghiệp cho mình. Lên ngôi rồi thì bóc lột thiên hạ rất nhiều, bắt nhân dân đồ thán để cung phụng cho mình, lại coi đó là việc đương nhiên. Mấy câu này không thể đúng hơn được nữa, chúng ta nên theo đó mà suy nghĩ lại. Huynh đài, xin mời!” Nói xong chàng nâng chén lên uống cạn.
Càn Long nghe xong không nhẫn nhục được nữa. Y vung tay đập cái chén xuống đất, toan nổi cơn thịnh nộ. Chén rơi chưa tới ván thuyền, Tâm Nghiễn đã nghiêng người đưa tay chụp được, rượu còn lưng chén. Tâm Nghiễn quì xuống, hai tay dâng lên: “Đông Phương lão gia! May mà chén chưa bị vỡ.”
Cậu bé làm Càn Long ngẩn người, xanh mặt “hừ” một tiếng. Lý Khả Tú nhận lấy cái chén rồi quay lại nhìn y chờ lệnh.
Càn Long cười ha hả rồi nói: “Lục nhân huynh! Tiểu quản gia của nhân huynh tay chân thật là nhanh nhạy.” Y quay đầu lại bảo một tên thị vệ: “Ngươi thử tranh tài với vị tiểu quản gia này một phen. Nhớ đừng để nó đánh gục nhé. Ha ha!”
Tên thị vệ đó tên là Phạm Trung Ân, sử một đôi phán quan bút. Hắn vừa nghe hoàng thượng ban lệnh lập tức đảo người sang một bên, chĩa đôi phán quan bút ra chia hai đường điểm vào huyệt đạo của Tâm Nghiễn. Tâm Nghiễn vội lộn người nhảy ngược ra sau nửa truợng.
Tâm Nghiễn tuổi còn nhỏ, công phu có hạn, nhưng đã học được khinh công chân truyền của Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu. Câu thấy đôi phán quan bút của Phạm Trung Ân mười phần hung dữ, biết nếu công nhiên tỉ thí thì mình không phải là đối thủ của hắn, bèn nhanh chóng né tránh.
Phạm Trung Ân múa bút như gió, tiếp tục tấn công. Tâm Nghiễn đề khí nhảy lên đứng trên mui thuyền cười nói: “Bây giờ chúng ta chơi đuổi bắt một chút. Khi nào ông bắt được thì ta thua, phải đuổi bắt lại ông.”
Phạm Trung Ân đánh hai lần không trúng đã bắt đầu tức tối, chấm chân xuống đất nhảy vọt lên mui thuyền. Tâm Nghiễn bèn sử chiêu Nhất Hạc Xung Thiên, như một con chim lớn bay qua con thuyền nhỏ neo bên trái. Phạm Trung Ân cũng đuổi theo, hai người cứ thế cứ rượt qua đuổi lại trên mười mấy chiếc thuyền.
Phạm Trung Ân không sao đến gần Tâm Nghiễn, đã lo thầm trong bụng. Chạy thêm một vòng nữa, trước mặt có ba chiếc thuyền nhỏ xếp thành hình tam giác. Tâm Nghiễn dợm chân vờ nhảy lên thuyền bên trái, nhưng vừa cười nhạo vừa nhảy lên thuyền bên phải. Nào ngờ Phạm Trung Ân đoán biết bèn tương kế tựu kế, cũng vờ nhảy về bên trái rồi lập tức nhảy qua phải. Hai người đối diện nhau, hắn múa tả bút điểm tới trước ngực Tâm Nghiễn.
Tâm Nghiễn muốn tránh nhưng không kịp nữa. Trong lúc nguy cấp, nó vội nhảy tới trước phóng chưởng đánh vào bụng Phạm Trung Ân. Phạm Trung Ân đưa tả bút chống đỡ, hữu bút điểm vèo xuống hậu tâm đối phương. Chiêu này vừa nhanh vừa chuẩn, Tâm Nghiễn nhìn thấy nhưng không sao tránh kịp.
Đột nhiên Phạm Trung Ân nghe thấy sau lưng có tiếng gió, một món binh khí rất trầm trọng đánh tới. Hắn phải lo cứu mình trước, xoay hữu bút lại gạt món binh khí đó. “Choang” một tiếng, lửa bay tứ tán. Binh khí kia chỉ hơi nghiêng đi một chút, rồi lại đập ngang eo lưng hắn. Hắn vội nhảy lên để tránh.
Tưởng Tứ Cân giải nguy cho Tâm Nghiễn xong, thấy Phạm Trung Ân tung người lên liền đưa thiết trượng khuấy mạnh xuống nước để thuyền xoay nửa vòng tròn. Khi Phạm Trung Ân rơi xuống, thuyền không còn ở vị trí cũ nữa. Hắn rơi bõm xuống nước, há mồm chưa kịp la lên đã bị nước hồ tràn vào lấp kín. Tâm Nghiễn vỗ tay reo hò: “Chúng ta chơi đuổi bắt chứ có thi bơi đâu?”
Trên thuyền Càn Long, hai tên thị vệ biết thủy tính vội vàng nhảy xuống nước. Chúng sắp sửa bơi tới chỗ Phạm Trung Ân thì Tưởng Tứ Cân thò thiết trượng xuống nước. Họ Phạm đang quơ tay quơ chân loạn xạ dưới nước thì quơ đụng cây thiết trượng, bất kể đó là cái gì cũng vội vàng níu lấy. Tưởng Tứ Cân bèn vung trượng hất hắn bay qua thuyền Càn Long, hét lớn: “Đón lấy!”
Sư thúc Phạm Trung Ân là Long Tấn cũng là ngự tiền thị vệ, vội bước ra mũi thuyền đưa tay đón lấy. Phạm Trung Ân làm hoàng thượng mất mặt, dĩ nhiên sẽ bị nghiêm trị nên vừa tức tối vừa lo lắng. Người hắn còn ướt đẫm, nhưng cứ đứng yên không dám động đậy, nước trên người nhỏ lộp bộp xuống ván thuyền.
Long Tấn đã nghe chuyện Tâm Nghiễn bắn đất cho tụ tiễn lệch đường trên Tam Thiên Trúc, làm mất mặt ngự tiền thị vệ, bây giờ lại thấy cậu trêu cợt sư điệt hắn. Đợi Tâm Nghiễn quay lại đứng sau lưng Trần Gia Lạc, hắn bèn đứng dậy trầm giọng nói: “Nghe nói vị tiểu huynh đệ này có công phu ám khí rất cao minh, tại hạ xin thỉnh giáo mấy chiêu.”
Trần Gia Lạc nói với Càn Long: “Hai ta gặp nhau vì nghĩa tri âm, đừng để thuộc hạ tranh chấp nhau làm tổn thương hòa khí. Vị này đã là danh gia ám khí, chúng ta hãy để y biểu diễn bắn bia, đề phòng thư đồng của tiểu đệ không đón được phải bị thương. Huynh đài thấy có được không?”
Càn Long nghe chàng nói rất có lý, đành phải đáp: “Được lắm, dĩ nhiên phải làm như thế. Nhưng lúc bất ngờ không kịp chuẩn bị, làm sao có bia mà bắn?”
Tâm Nghiễn tung người nhảy qua thuyền Dương Thành Hiệp nói nhỏ mấy câu. Dương Thành Hiệp gật đầu rồi vẫy tay gọi, Chương Tấn từ thuyền bên cạnh nhảy qua.
Dương Thành Hiệp bảo: “Nắm lấy đuôi thuyền kia.” Chương Tấn vâng lời nắm lấy đuôi chiếc thuyền mình vừa ngồi, còn Dương Thành Hiệp nắm vào mũi thuyền. Hai người quát một tiếng “Lên!”, con thuyền lập tức bị nhấc lên khỏi mặt nước, còn thuyền hai người đang đứng thì chìm xuống một đoạn. Mọi người thấy thần lực kinh hồn như thế, không khỏi vừa kinh ngạc vừa thán phục, đồng thanh hoan hô ầm ĩ.
Lạc Băng cao hứng cũng nhảy lên thuyền của hai người, cười nói: “Cái bia này tuyệt đẹp!” Rồi nàng chèo đến cạnh chiếc thuyền hoa.
Tâm Nghiễn hỏi: “Thiếu gia! Bia thế này có được hay không? Xin thiếu gia vẽ giúp hồng tâm.”
Trần Gia Lạc nâng chén rượu lên ngửa cổ uống cạn. Chàng vẫy tay một cái, chén rượu bay tới đáy thuyền. Nghe “phập” một tiếng, đáy chén khảm vào bằng mặt ván thuyền, cái chén còn nguyên không vỡ. Mọi người vỗ tay reo hò vang dội.
Bọn cao thủ bên Càn Long, như Bạch Chấn và Long Tấn, nhìn thấy Dương Thành Hiệp và Chương Tấn nâng thuyền lên cũng hơi e ngại, nhưng nghĩ là cái dũng của thất phu không đáng sợ lắm. Đến khi nhìn thấy Trần Gia Lạc vận nội lực gắn chén vào đáy thuyền như phóng phi tiêu, chúng mới chau mày, cảm thấy người này khó mà đối phó.
Trần Gia Lạc cười nói: “Hãy xem cái chén này là hồng tâm, mời vị huynh đài này thử thi triển ám khí.”
Long Tấn không nói tiếng nào, phóng ra liên tiếp năm chiếc độc tật lê. Nghe tiếng loảng xoảng, mảnh sành bay tứ tung, chung rượu khảm vào đáy thuyền đã bị đánh vỡ vụn ra. Tâm Nghiễn từ sau thuyền chui ra, lên tiếng hoan hô: “Quả nhiên chính xác!”
Long Tấn nổi lòng độc ác, lại bắn ra năm chiếc độc tật lê, lần này nhắm vào Tâm Nghiễn. Dưới ánh trăng mọi người nhìn thấy rõ ràng, đều la lên kinh hãi. Công phu ám khí của Long Tấn thật sự lợi hại, tay vừa đưa lên là ám khí đã tới ngay trước mặt. Năm chiếc độc tật lê nhằm vào năm chỗ yếu hại khác nhau, Tâm Nghiễn kinh hãi nhào xuống sàn thuyền. Lạc Băng ném ra hai mũi phi đao, gạt hai chiếc độc tật lê rớt xuống hồ. Tâm Nghiễn lăn người né được hai chiếc, còn một chiếc trúng vào vai trái.
Tâm Nghiễn cảm thấy vai mình hơi tê, không đau lắm nên đứng dậy ngay, cất tiếng thóa mạ. Quần hùng Hồng Hoa Hội giận dữ xung thiên, tất cả thuyền nhỏ đều chèo ào ào đến, muốn trị tội Long Tấn một phen.
Ngay cả bọn thị vệ cũng cảm thấy vụ này quá ư nham hiểm. Trước mặt hoàng đế cùng đông người như thế mà dùng thủ đoạn bỉ ổi ám toán một cậu bé, thật đáng xấu hổ, không sao tránh được miệng đời cười chê phỉ nhổ. Dù sao thì thấy quần hùng Hồng Hoa Hội phô trương thanh thế ào ào lướt tới, chúng cũng vội vàng lấy binh khí giấu trong trường bào ra chuẩn bị ứng phó. Lý Khả Tú đưa kèn hiệu lên miệng, định triệu tập binh sĩ.
Trần Gia Lạc kêu lớn: “Các vị ca ca! Đông Phương tiên sinh là khách quí, chúng ta không nên vô lễ. Mọi người lùi ra đi.” Quần hùng nghe lệnh tổng đà chủ, bèn chèo thuyền ra xa mấy trượng.
Lúc này Dương Thành Hiệp và Chương Tấn đã buông chiếc thuyền làm bia trở xuống nước. Lạc Băng xem xét vết thương Tâm Nghiễn, Từ Thiên Hoằng cũng nhảy tới hỏi han. Tâm Nghiễn nói: “Tứ phu nhân, Thất gia! Các vị yên tâm đi, vãn bối không đau lắm, chỉ thấy ngứa ngáy quá chừng.” Nói xong, cậu muốn đưa tay lên gãi.
Lạc Băng và Từ Thiên Hoằng nghe mà kinh hãi, biết trên ám khí có tẩm chất độc lợi hại, liền nắm chặt tay cậu. Tâm Nghiễn kêu lớn: “Ngứa quá! Thất gia! Thất gia buông tay ra đi.” Cậu vừa kêu vừa giãy giụa.
Từ Thiên Hoằng lo lắng trong lòng, nhưng mặt không động sắc, chỉ nói: “Ngươi ráng chịu đựng một chút!” Rồi quay lại bảo Lạc Băng: “Tứ tẩu! Mau đi mời Tam gia đến đây.”
Lạc Băng gật đầu đi ngay. Nàng vừa rời khỏi thì một chiếc thuyền con bay đến như tên bắn, trên mũi thuyền là Mã Thiện Quân, tổng đầu mục Hồng Hoa Hội ở Hàng Châu. Họ Mã nhảy lên thuyền Từ Thiên Hoằng, khẽ nói: “Thất đương gia! Xung quanh hồ đầy nghẹt quân Thanh, có cả mấy doanh ngự lâm quân.”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tổng số bao nhiêu?”
Mã Thiện Quân đáp: “Khoảng bảy tám ngàn, chưa kể quân lính Kỳ Doanh tiếp ứng vòng ngoài.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Huynh lập tức triệu tập tất cả huynh đệ trong ngoài thành Hàng Châu đến bờ hồ chờ lệnh, tuyệt đối đừng để quan phủ phát giác. Mỗi người chuẩn bị một đóa hoa đỏ.” Mã Thiện Quân gật đầu nhận lệnh.
Từ Thiên Hoằng lại hỏi: “Nếu triệu tập lập tức thì được bao nhiêu huynh đệ?”
Mã Thiện Quân nói: “Kể cả công nhân hai xưởng của thuộc hạ thì trong thành có khoảng hai ngàn anh em. Sau một canh giờ, huynh đệ ngoài thành đến kịp thì được hơn một ngàn nữa.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Huynh đệ chúng ta ít ra cũng có thể lấy một chọi năm. Ba ngàn người đối phó được một vạn rưỡi Thanh binh, nhân số thế là đủ rồi, huống chi trong lục doanh cũng có huynh đệ chúng ta. Huynh đi sắp xếp đi.” Mã Thiện Quân nhận lệnh đi ngay.
Triệu Bán Sơn chèo thuyền tới xem xét vết thương Tâm Nghiễn, chau mày một cái rồi nhẹ nhàng khều chiếc độc tật lê trên vai cậu ra, lấy trong túi ra một viên thuốc nhét vào miệng Tâm Nghiễn. Sau đó ông quay người lại, nói thầm với Từ Thiên Hoằng: “Thất đệ! Hết cứu rồi!”
Từ Thiên Hoằng giật mình hỏi: “Làm sao bây giờ?”
Triệu Bán Sơn khẽ nói: “Chất độc trên ám khí này vô cùng lợi hại, ngoài chủ nhân ám khí ra thì chẳng ai giải được.”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tâm Nghiễn còn duy trì được bao lâu?”
Triệu Bán Sơn đáp: “Ít nhất cũng ba giờ.”
Từ Thiên Hoằng bèn nói: “Tam ca! Chúng ta đi bắt tên đó về, ép hắn giải cứu.”
Câu nói này đã cảnh tỉnh Triệu Bán Sơn. Ông lấy trong bọc ra một cái bao tay bằng da nai, đeo vào rồi tung người nhảy lên, chỉ nhấp nhô ba cái đã đến trước mặt Trần Gia Lạc và Càn Long rồi mở miệng hô: “Lục công tử! Thuộc hạ muốn thỉnh giáo thủ đoạn của vị danh gia ám khí này.”
Trần Gia Lạc thấy Long Tấn đả thương Tâm Nghiễn thì cực kỳ phẫn nộ, thấy Triệu Bán Sơn khiêu chiến rất hợp ý mình, bèn nói với Càn Long: “Vị bằng hữu này của tiểu đệ cũng có thể gọi là cao thủ về ám khí. Hai người tỉ thí một trận, chắc hẳn sẽ rất hào hứng.”
Dĩ nhiên là Càn Long tán thành. Tỉ thí càng nguy hiểm thì y càng thấy hứng thú, bèn quay đầu lại bảo Long Tấn: “Đi đi! Nhớ đừng làm mất mặt ta.”
Long Tấn tuân lệnh bước ra. Bạch Chấn dặn với theo: “Người đó là Thiên Tí Như Lai, Long hiền đệ nhớ cẩn thận một chút.”
Long Tấn đã nghe đại danh Thiên Tí Như Lai từ lâu, không khỏi giật mình kinh hãi. Nhưng hắn tự nghĩ công phu ám khí của mình xưa nay chưa gặp địch thủ, nếu hôm nay đả bại Thiên Tí Như Lai danh chấn giang hồ thì oai phong biết mấy. Vì thế, hắn hiên ngang đến trước mặt Triệu Bán Sơn, chắp tay nói: “Tại hạ là Long Tấn, xin thỉnh giáo cao chiêu của tiền bối.”
Triệu Bán Sơn hừ một tiếng rồi đáp: “Quả nhiên là ngươi! Người khác chắc chắn sẽ không sử dụng thủ đoạn đê tiện đến thế, không dùng loại ám khí tổn âm đức đến thế.”
Long Tấn cười nhạt, lên tiếng mỉa mai: “Ta chỉ có hai cánh tay. Mời người có ngàn tay xuất chiêu xem thử.”
Triệu Bán Sơn xoay người lại, nhảy ra xa rồi gọi: “Qua đây đi.”
Long Tấn nói: “Ta chỉ so tài với một mình các hạ thôi.”
Triệu Bán Sơn giận dữ nói: “Chẳng lẽ bọn ta thèm ám toán ngươi hay sao?”
Long Tấn nói: “Được lắm! Ta chỉ đợi câu nói này thôi.” Hắn thấp thoáng thân hình một cái, đã nhảy lên mui một con thuyền nhỏ. Mọi người trên thuyền đều là cao thủ bậc nhất của Hồng Hoa Hội. Tuy Triệu Bán Sơn đã nói là không ai ám toán, nhưng Long Tấn vừa dùng thủ đoạn đê tiện để đả thương một cậu thiếu niên, hắn sợ đối phương sẽ hạ độc thủ trả thù nên không dám bước xuống mũi thuyền hay khoang thuyền chỗ có người.
Triệu Bán Sơn đợi hắn đứng chân, vẫy cả hai tay phóng ra ba chiếc kim tiền tiêu, ba mũi tụ tiễn. Rồi ông cúi đầu xuống, từ sau lưng lại có một mũi tên bay ra. Long Tấn không ngờ nổi chỉ trong chớp mắt mà ông phóng ra tới bảy món ám khí. Hắn sợ đến dựng tóc gáy, không màng đến thể diện mà nhào xuống nằm rạp dưới đáy thuyền. Nghe một loạt những tiếng bục bục, bảy món ám khí ghim hết lên ván thuyền. Có tiếng người phía đuôi thuyền quát mắng: “Đồ con rùa! Nam tử hán đại trượng phu mà nằm dài như chó liếm phân, thế thì còn tỉ đấu gì nữa? Con mẹ nó!”
Long Tấn nhảy lên, nhìn rõ Triệu Bán Sơn đứng dưới ánh trăng, liền ném ra một hạt bồ đề tử. Triệu Bán Sơn nghe tiếng gió biết không phải độc tật lê, bèn nghiêng người tránh né. Ông vừa nhích qua bên phải thì ba chiếc độc tật lê đã bay đến trước mặt.
Triệu Bán Sơn ngả người theo thế Thiết Bản Kiều cho ba chiếc độc tật lê bay xẹt qua mặt, hô lớn: “Hay lắm!” Ông vừa đứng dậy, lại thấy ba chiếc nữa đánh dưới hạ bàn. Thế là trong chớp mắt Long Tấn cũng phóng ra bảy món ám khí, gọi là liên hoàn tam kích.
Triệu Bán Sơn chưa đứng thẳng dậy, tay trái đã bắn ra một viên phi hoàng thạch, tay phải bắn ra một viên thiết liên tử, đánh hai chiếc độc tật lê rơi xuống nước. Ông đợi chiếc độc tật lê ở giữa bay tới, bèn đưa tay có đeo bao bắt lấy.
Triệu Bán Sơn thấy thủ đoạn phóng ám khí của hắn quả nhiên có chỗ khác thường, thầm nghĩ: “Tên này nham hiểm độc ác, nhất định có nhiều quỉ kế. Ta không nên tỉ đấu dằng dai, dễ bị mắc lừa.” Ông bèn nhấc tay lên, ba chiếc kim tiền tiêu phóng vào huyệt Thành Đỉnh ở thượng bàn, huyệt Thiên Trì ở giữa ngực, huyệt Huyết Hải ở hạ bàn Long Tấn. Hắn vội tung người lên, nhảy qua một chiếc thuyền khác.
Triệu Bán Sơn nhắm thẳng vào chỗ hắn sắp hạ xuống, phóng một cây tụ tiễn. Long Tấn đưa tay đón bắt, thì bỗng thấy một món ám khí kỳ lạ lượn vòng vòng bay đến, bèn vội vã cúi đầu xuống tránh. Hắn chưa hết ngạc nhiên thì ám khí đó tự quay trở về tay Triệu Bán Sơn, ông bắt lấy rồi tiếp tục ném ra.
Xưa nay Long Tấn chưa hề nghe đến loại ám khí độc môn Hồi Long Bích này nên vô cùng kinh hãi, tâm thần rối loạn không đề phòng gì được nữa. Hắn lập tức bị hai viên bồ đề tử đánh trúng vào huyệt Dương Bạch ở cạnh lông mày trái và huyệt Cước Bàn ở cánh tay trái, thân hình bủn rủn rồi ngã quỵ trên mui thuyền.
Bọn thị vệ thấy hắn té nhào, đều la lên kinh hãi. Một tên thị vệ lừng danh khắp đại nội, giữ chức ngang với Long Tấn là Nhất vĩ độ giang Trừ Viên vội nhảy qua cứu viện. Hắn múa kiếm che trước mặt, tung người về phía Long Tấn, nhưng chưa kịp đáp xuống thì đã thấy một người cầm kiếm nhảy tới cản trở.
Trừ Viên xuất phát trước nên đáp xuống mui thuyền sớm hơn nửa bước. Hắn cung tay trái giữ kiếm quyết, tay phải rung kiếm thành một đóa hoa phong tỏa vùng ngực người đang xông tới, tin chắc ép được đối phương rơi xuống nước. Không ngờ người đó còn lơ lửng giữa trời mà mũi kiếm đã chĩa thẳng vào cổ tay phải Trừ Viên, đúng theo nguyên tắc lấy công làm thủ. Chiêu kiếm này vừa thần tốc vừa chính xác, chỉ trong chớp nhoáng đã lấy lại thế thượng phong.
Trừ Viên vội vã rút tay về, hướng kiếm đâm xuống chân địch thủ. Đây là chiêu Hư Thức Phân Kim trong Đạt Ma kiếm pháp. Người kia khẽ nhích chân trái, hất chân phải đá vào cổ tay cầm kiếm của Trừ Viên. Trừ Viên lại phải thu chiêu, chưa kịp biến thức lần nữa thì đối thủ đã đáp xuống đứng ở đầu thuyền. Ánh trăng soi rõ người này mặc áo bào đạo sĩ, cánh tay áo bên trái trống rỗng giắt vào thắt lưng.
Trừ Viên vốn là hòa thượng pháp danh Chí Viên, về sau phạm phải thanh qui nên bị thu hồi độ điệp, trục xuất khỏi chùa. Hắn tức giận bèn để tóc hoàn tục, đổi tên thành Trừ Viên, rồi dựa vào môn Đạt Ma kiếm pháp đã luyện đến chỗ tinh diệu mà tiến thân, làm đến chức thị vệ bên mình hoàng đế.
Hồi nhỏ hắn sống trong chùa, khi hoàn tục lại vào cấm thành nên không hiểu chuyện giang hồ lắm. Mắt thấy kiếm pháp của địch nhân mau lẹ ít thấy trên đời, mà hắn cũng không biết đó là Thất Thập Nhị Thủ Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm độc bộ thiên hạ của Vô Trần đạo nhân, phải thét hỏi: “Ngươi là ai?”
Vô Trần mỉm cười hỏi lại: “Ngươi cũng sử kiếm, sao lại không biết ta?”
Trừ Viên bèn xuất chiêu Kim Cang Phục Hổ, tiếp đến là chiêu Cửu Phẩm Liên Đài, một kiếm chém xuống một kiếm hất lên. Vô Trần mỉm cười nói: “Kiếm pháp không tệ! Sao không mau dùng chiêu Kim Châm Độ Kiếp đi.”
Ông chưa dứt lời thì Trừ Viên đã xuất chiêu Kim Châm Độ Kiếp. Hắn kinh ngạc tự hỏi: “Sao y lại biết?”
Vô Trần lại mỉm cười, vung kiếm đâm hai nhát hai bên trái phải, miệng hét lên: “Ngươi sử Phù Khưu Áp Trục, rồi Hồng Nhai Phá Kích.” Trừ Viên quả nhiên nghe theo răm rắp, sử dụng hai chiêu này. Tình hình không giống như tỉ đấu, mà giống sư phụ đang chỉ dẫn đồ đệ luyện kiếm hơn.
Trước nay Trừ Viên khá tự phụ, nhưng sử xong hai chiêu này thì hắn lùi lại hai bước, ngẩn ra nhìn đối phương, hai phần xấu hổ, hai phần giận dữ, còn tới sáu phần sợ hãi. Thì ra Vô Trần cũng biết Đạt Ma kiếm pháp là lợi hại, ông thấy kiếm pháp Trừ Viên không phải tầm thường nên mới sử dụng tiểu xảo, ra chiêu bắt hắn phải xuất những chiêu thức mà mình nói, đồng thời hô tên của chiêu thức đó lên trước. Đó là kế Tiên Thanh Đoạt Nhân, khiến cho Trừ Viên mất hết cả nhuệ khí.
Lạc Băng khua mái chèo, mỉm cười đưa thuyền tới gần thuyền của Trần Gia Lạc và Càn Long, để hoàng đế nhìn rõ thuộc hạ mất mặt thế nào.
Lúc này Triệu Bán Sơn đã bắt được Long Tấn, Từ Thiên Hoằng ép hắn giao thuốc giải nhưng hắn cứ nhắm mắt lặng thinh. Từ Thiên Hoằng kề đao vào cổ mà uy hiếp, hắn cũng mặc kệ, trong lòng đã có chủ ý: “Ta thà chết không chịu khuất phục, lúc về nhất định hoàng thượng sẽ trọng thưởng. Nếu ta tỏ ra khiếp sợ, làm mất mặt hoàng thượng, thì tương lai coi như bị hủy ngay lập tức. Trước mặt hoàng thượng, chắc bọn thổ phỉ này không dám giết ta.”
Vô Trần bỗng hét lên: “Ta ra chiêu Tiên Nhân Chỉ Lộ, ngươi mau dùng chiêu Hồi Đầu Thị Ngạn mà chống đỡ.”
Trừ Viên hạ quyết tâm không sử dụng chiêu thức đối phương đã nói, nào ngờ lưỡi kiếm của Vô Trần cứ đâm thẳng vào má phải hắn. Trừ Viên đã khổ luyện hai mươi mấy năm trời, tâm kiếm hợp nhất, Đạt Ma kiếm pháp đã ăn sâu vào máu thịt. Thấy kiếm của địch nhân đâm đến như vậy, thân hình hắn tự động lách sang trái, tay cầm kiếm vạch ngang một đường để gạt, mũi kiếm hướng xéo từ trên trời xuống dưới đất. Chiêu này chính là Hồi Đầu Thị Ngạn.
Vô Trần ra chiêu Tiên Nhân Chỉ Lộ ép Trừ Viên dùng chiêu Hồi Đầu Thị Ngạn mà chống đỡ, còn có ý nghĩa nếu ngươi phản tỉnh thì ta chỉ điểm cho một con đường sáng, ngươi mau chịu thua mà quay đầu trở lại.
Trừ Viên sử dứt chiêu thì thấy Vô Trần thu trường kiếm về, đưa ánh mắt như điện chiếu thẳng vào mình. Hắn không dám tấn công nữa, nhưng cũng không dám lùi về, thật mười phần khó xử.
Vô Trần lại hét lên: “Ta ra chiêu Đương Đầu Bổng Hát, ngươi mau sử chiêu Hoành Giang Phi Độ!” Ông vừa dứt lời, trường kiếm đã đưa ra trước mặt rồi chém sả từ trên đầu xuống. Trừ Viên bất giác chuyển mình nương theo thế kiếm, hoành kiếm gạt ngang, chuôi kiếm bảo vệ khuỷu tay bên trái. Nếu chiêu này không phải là Hoành Giang Phi Độ trong Đạt Ma kiếm pháp thì là gì nữa?
Càn Long chỉ biết chút ít võ nghệ nhập môn, nhưng trong đại nội có rất nhiều kỳ tài ẩn sĩ, nên kiến thức y khá uyên bác. Y thấy Vô Trần dạy sao Trừ Viên làm vậy, vừa tức giận vừa buồn cười, nhưng cũng phải kinh hãi nghĩ thầm: “Trong đám thị vệ đại nội thì Trừ Viên đã là cao thủ bậc nhất, không ngờ khi tỉ thí với bọn phỉ đồ này lại bị chúng đùa giỡn như con khỉ làm trò. Nếu thật sự giao tranh, đối phó với đám giặc này thật không phải dễ.”
Y chưa biết là kiếm pháp của Vô Trần trong võ lâm không còn địch thủ. Trừ Viên gặp phải ông, dĩ nhiên không làm gì được. Đêm nay Càn Long may mắn được mở rộng tầm mắt, chứng kiến kiếm pháp đệ nhất thiên hạ này. Y vẫn cho rằng đám giặc cỏ này không có nhân tài, bây giờ mới biết mình lầm.
Càn Long xem thêm mấy chiêu, không nhẫn nại được nữa bèn bảo Bạch Chấn: “Kêu hắn về đi.”
Bạch Chấn vội vàng hô lớn: “Trừ huynh! Chủ nhân gọi huynh về!”
Trừ Viên mong nhất là câu đó, vì quân pháp Mãn Thanh cực kỳ nghiêm ngặt, lâm trận bỏ chạy phải bị xử tử. Hắn đang bất lực, tiến thoái lưỡng nan mà nghe thánh chỉ gọi về thật chẳng khác gì nắng hạn gặp mưa rào, liền thu kiếm hộ thân muốn nhảy ra khỏi vòng chiến.
Bỗng Vô Trần hét lên: “Vừa rồi ta muốn ngươi lui mà ngươi không chịu, bây giờ ngươi muốn lui thì ta không chịu nữa.” Trường kiếm của ông chớp lên, Trừ Viên cảm thấy bốn phía đều bị kiếm khí bao trùm, không biết né đâu, đành nhắm mắt đứng yên. Rồi hắn cảm thấy một luồng hơi lạnh tràn tới, như một lưỡi dao rất bén đang cạo khắp người mình.
Bạch Chấn thấy Trừ Viên không lùi ra được, bèn tung người vào trận. Hắn đưa song trảo ra chụp vào trường kiếm của Vô Trần. Vô Trần thấy hắn hung hãn như thế, bèn xoay lưỡi kiếm lại nửa vòng, đâm xuống hạ bàn. Võ nghệ của Bạch Chấn cao hơn Trừ Viên rất nhiều, chỉ dùng hai ngón tay trái kẹp lấy lưỡi kiếm, còn tay phải phóng chưởng đánh vào vai trái đối phương.
Vô Trần chỉ có một cánh tay, không khỏi bị thiệt thòi. Mỗi khi địch tấn công vào bên trái, ông chỉ có cách tránh né chứ không đỡ gạt được. Ông đảo người sang một bên, thần tốc phóng kiếm đâm vào yết hầu của kẻ địch. Bạch Chấn cũng nhanh không kém, nghiêng người tránh kiếm rồi tay phải lại phóng ra một chưởng, tiếp tục đánh vào vai trái đối phương.
Vô Trần phải lùi một bước, cổ tay phải đã bị Bạch Chấn nắm lấy. Triệu Bán Sơn, Từ Thiên Hoằng, Lạc Băng đều nhìn thấy rõ ràng, không khỏi kêu khổ thầm trong bụng.
Giữa kiếm quang lấp loáng, Vô Trần đột nhiên phóng chân trái đá lên, trúng ngay vào đùi phải đối phương. Bạch Chấn nghiêng người qua trái, vẫn cố giữ cổ tay cầm kiếm. Nhưng chân trái của Vô Trần chưa chạm đất, chân phải đã đá ra. Bạch Chấn không sao ngờ nổi cước pháp của ông nhanh đến thế, có thể nói là tiền vô cổ nhân hậu vô lai giả. Hắn gấp rút buông tay địch thủ, lùi về phía sau.
Chân phải của Vô Trần đá vào khoảng trống, chân trái lại phóng lên. Lần này thì Bạch Chấn không còn cách nào tránh né được nữa, mông trúng một cước nặng nề, loạng choạng suýt nhào xuống hồ. May mà hạ bàn của hắn rất vững nên giữ được thăng bằng trở lại, lảo đảo một chút rồi đứng vững trên thuyền, thò hai ngón tay ra móc vào cặp mắt của Vô Trần.
Vô Trần nghiêng đầu tránh né, liền trúng một chưởng vào vai. Ông lớn tiếng thóa mạ rồi lại dùng bộ pháp Liên Hoàn Mê Tung Thối, cước sau nhanh hơn cước trước, liên tục không dứt, chân trước chưa thu về chân sau đã phóng ra. Bạch Chấn lập tức thay đổi thế đánh, thấy đối phương phóng chân đá tới, cũng tung người lên cao. Thân pháp hai đại cao thủ lúc này như thỏ nhảy chim đậu, như quả bóng đang tung hứng, biến hóa không ngừng làm khán giả nhìn hoa cả mắt.
Lạc Băng ngồi ở đuôi thuyền, thấy Bạch Chấn nhảy lên bèn đưa mái chèo gỗ tạt nước qua. Bạch Chấn đang định đáp xuống đầu thuyền, dùng tay không đấu với trường kiếm của Vô Trần thì đột nhiên thấy những tia nước trắng xóa bắn lên, bèn vội lộn trên không trung một vòng, lui về chiếc thuyền hoa. May mà thân thủ của lão khá nhanh, nhưng nửa người phía dưới vẫn ướt đẫm, trông thật là thảm hại.
So với Bạch Chấn thì Trừ Viên còn thảm hại hơn nhiều. Hắn được đồng bọn cứu viện nên thoát khỏi lưỡi kiếm của Vô Trần, kinh hồn táng đởm nhảy về chiếc thuyền hoa. Hắn đứng sau lưng Càn Long, vừa trấn tĩnh lại thì bỗng thấy Ngọc Như Ý cười khúc khích, Càn Long chau mày, còn Trần Gia Lạc muốn nhịn cười mà không nhịn nổi. Thấy thần sắc mọi người kỳ lạ, hắn cũng hơi ngơ ngác.
Một cơn gió nhẹ thổi qua, hắn thấy hơi lạnh, nhìn xuống thân mình thì vô cùng kinh hãi. Thì ra y phục của hắn đã bị đối phương cắt nát vụn ra, tả tơi phấp phới chẳng ra gì nữa. Hắn lại thấy trên đầu hơi rát, đưa tay sờ thử mới biết bím tóc và chân mày vừa bị gọt mất, nham nhở lôi thôi. Đột nhiên quần hắn tụt xuống, thì ra dây lưng quần cũng bị cắt đứt rồi. Hắn hoảng hồn dùng cả hai tay kéo lưng quần lên nhanh như chớp, buông cả trường kiếm trong tay rơi tõm xuống hồ.
Càn Long thấy ba tên thị vệ giỏi nhất của mình đều bị đánh cho thê thảm, biết rằng tỉ thí tiếp chỉ tổ thêm bất lợi, bèn nói với Trần Gia Lạc: “Mấy vị bằng hữu của Lục huynh quả nhiên võ nghệ kinh người. Sao họ không cùng Lục huynh ra sức giúp triều đình, sau này làm rạng rỡ cho tổ tông, vinh hoa cho thê tử? Như thế mới không uổng phí một thân võ nghệ cao cường. Bây giờ lưu lạc giang hồ làm thân thảo khấu, há chẳng đáng tiếc hay sao?” Kể ra Càn Long cũng là một ông vua sáng suốt, không giận dữ mà còn có lòng ưu ái hiền tài, muốn họ dốc sức cho mình.
Trần Gia Lạc mỉm cười đáp: “Mấy vị bằng hữu đó chẳng khác gì kẻ gàn này, chỉ thích khoái hoạt ung dung, tiếu ngạo giang hồ. Hảo ý của huynh đài, chúng ta chỉ có thể cảm kích trong lòng mà thôi.”
Càn Long nòi: “Đã vậy thì ta không còn gì để nói. Đêm nay quấy rầy đã lâu, bây giờ xin cáo biệt.” Nói xong, y nhìn qua Long Tấn đang bị giữ trên thuyền của Triệu Bán Sơn.
Trần Gia Lạc hô lớn: “Triệu tam ca! Mau thả tùy tùng của Đông Phương tiên sinh về đây.”
Lạc Băng kêu lên: “Không được! Tâm Nghiễn đã trúng độc tật lê của hắn, mà hắn không chịu trao thuốc giải.” Nàng nói xong, chèo thuyền đến gần hơn.
Càn Long nói nhỏ với Lý Khả Tú rồi quay lại bảo Long Tấn: “Đưa thuốc giải cho họ.”
Long Tấn sợ hãi đáp: “Thuộc hạ đáng chết, thuốc giải để ở Bắc Kinh, không mang theo người.”
Càn Long chau mày, không nói gì nữa. Trần Gia Lạc bảo: “Thôi, Triệu tam ca thả hắn đi đi.”
Triệu Bán Sơn nghĩ bụng: “Chắc tổng đà chủ chưa biết độc tật lê lợi hại ra sao. Lúc này ta không tiện công khai tra khảo, mà tên này hung hãn nham hiểm như thế, e rằng tra khảo cũng vô dụng. Giả tỉ khám trên người hắn tìm được thuốc giải, mà không hiểu cách dùng thì chỉ uổng công. Bây giờ nếu thả hắn ra, muốn bắt lại chắc chắn không phải dễ. Tính mạng Tâm Nghiễn đang như chỉ mành treo chuông, không thể chậm trễ được.” Nhưng lệnh của tổng đà chủ thì không thể không tuân, họ Triệu chỉ biết chau mày ngần ngừ đứng đó.
Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Tam ca! Đưa hai cái độc tật lê đó cho đệ.”
Triệu Bán Sơn không hiểu dụng ý của chàng nhưng vẫn lấy trong bọc ra hai chiếc độc tật lê, một chiếc rút từ vai Tâm Nghiễn ra, một chiếc chụp được trong lúc tỉ thí ám khí. Từ Thiên Hoằng nhận lấy, vung tay trái xé áo trước ngực Long Tấn, nghe soạt một tiếng, phơi ra bộ ngực đầy lông lá. Tay phải chàng đưa lên, dùng độc tật lê dùi sáu cái lỗ nhỏ vào giữa ngực hắn.
Long Tấn thét lên một tiếng, sợ toát mồ hôi lạnh đầy đầu. Từ Thiên Hoằng trả lại độc tật lê cho Triệu Bán Sơn, rồi lớn tiếng gọi Trần Gia Lạc: “Lục công tử! Phiền công tử rót rượu cho. Long gia muốn uống mấy chén kết tình bằng hữu với bọn thuộc hạ, rồi mới về sau.”
Trần Gia Lạc gật đầu, Ngọc Như Ý vội rót đầy ba chén rượu. Trần Gia Lạc gọi: “Tam ca, rượu đây!” Chàng cầm chén ném ra, cái chén bay là là từ thuyền hoa qua đó. Triệu Bán Sơn đưa tay nhẹ nhàng đón lấy, một giọt rượu cũng không rớt ra ngoài. Giữa tiếng hoan hô của mọi người, hai chén rượu kia cũng lần lượt bay tới tay Triệu Bán Sơn.
Từ Thiên Hoằng cầm một chén, nói: “Long gia! Chúng ta cạn chén.” Vết thương của Long Tấn đã thấy vừa tê vừa ngứa, hắn biết rượu vào là huyết khí đi nhanh hơn, kịch độc phát tác lập tức mất mạng. Hắn nhìn chén rượu mà như nhìn rắn rết bò cạp, kinh hãi muôn phần, vội mím miệng nghiếng răng chặt lại.
Từ Thiên Hoằng mỉm cười: “Uống đi, đừng khách sáo.” Chàng dùng ngón cái và ngón trỏ bóp chặt mũi hắn, hai ngón khác vận sức vành miệng hắn ra. Miệng Long Tấn vừa há ra, Từ Thiên Hoằng đã đổ luôn ba chén rượu vào trong.
Long Tấn vừa nuốt rượu trôi xuống bụng, lập tức cảm thấy trước ngực tê liệt, một mảng da ngực đã đổi màu xanh đen, chuyện sống chết chỉ còn gang tấc. Hắn biết độc tính của loại độc tật lê này hơn ai hết, không sao ngang bướng được nữa. Nghĩ lại thấy công danh phú quí chỉ là phù phiếm, tính mạng quan trọng hơn nhiều, hắn bèn run rẩy nói: “Giải huyệt đạo cho ta! Ta… ta… ta sẽ lấy… lấy… thuốc giải.”
Triệu Bán Sơn cười rộ, vừa xoa vừa vỗ nhẹ nhàng giải huyệt đạo cho hắn. Long Tấn nghiến răng, lấy trong bọc ra ba gói thuốc, gắng gượng nói: “Uống gói đỏ, thoa gói đen để hút chất độc, rắc gói trắng để lành vết thương.” Nói được tới đó, hắn ngất xỉu.
Triệu Bán Sơn vội lấy gói thuốc màu đỏ đổ vào chén, hòa với nước hồ cho Tâm Nghiễn uống. Ông thoa gói thuốc đen lên vết thương, chỉ một lúc máu đen đã từ vết thương chảy ra ngoài. Lạc Băng lấy vải thấm cho, máu đen tím dần rồi chuyển sang màu đỏ. Tâm Nghiễn đã thều thào được mấy tiếng kêu đau. Lúc đó Triệu Bán Sơn mới lấy gói thuốc màu trắng rắc lên vết thương, băng bó rồi mỉm cười: “Giữ được cái mạng nhỏ xíu này rồi.”
Từ Thiên Hoằng hận Long Tấn ác độc không chịu giao thuốc giải, bèn lớn tiếng nói: “Nghe nói Long gia để thuốc giải ở Bắc Kinh, bây giờ về lấy vẫn còn kịp chán.” Triệu Bán Sơn thấy thảm trạng của Long Tấn lại không nhẫn tâm, bèn lấy thuốc từ tay Từ Thiên Hoằng qua chữa thương cho hắn.
Trần Gia Lạc nói với Càn Long: “Mấy vị bằng hữu của tiểu đệ đều là những kẻ thô hào không biết lễ nghĩa, xin huynh đài đừng trách.”
Càn Long rặn ra mấy tiếng cười, đưa tay lên nói: “Hôm nay tại hạ thật sự mở rộng tầm mắt. Bây giờ xin cáo biệt.”
Trần Gia Lạc hô lớn: “Đông Phương tiên sinh muốn về, mau đưa thuyền vào bờ.”
Bọn thuyền phu dạ ran, đưa chiếc thuyền hoa từ từ áp vào bờ. Mấy trăm chiếc thuyền con hộ vệ hai bên, thuyền nào cũng thắp đèn lồng. Vầng trăng sáng trên trời soi xuống mặt nước hồ xanh thẳm như ngọc bích, trăng trời trăng nước chỉ cách nhau một mặt hồ mà vời vợi muôn trùng. Trần Gia Lạc nhìn cảnh hồ quang nguyệt sắc, nghĩ thầm: “Diện tích hồ này phải hơn ngàn mẫu. Xưa đã có kẻ hiền tài làm thơ vịnh cảnh trăng Tây Hồ: Sóng lạnh xô xô, ruộng vàng nghìn khoảnh; Khí thiêng bốc bốc, bảo ngọc một mâm.(8) Tả cảnh như thế tưởng không phải là quá đáng”.
Một lúc sau, mọi thuyền trên hồ đã cập hết vào bờ. Lý Khả Tú nhảy lên trước, đưa hai tay dìu Càn Long lên bờ, bọn thị vệ vây quanh thành nửa vòng tròn, hộ vệ ba mặt. Trần Gia Lạc cũng lên theo.
Lý Khả Tú lấy tù và ra thổi ba tiếng tu tu, mấy trăm ngự lâm quân Kiêu Kỵ Doanh vội vàng chạy tới. Một tên thị vệ dắt bạch mã đến, quỳ chân phải xuống đỡ Càn Long lên ngựa. Quân sĩ bốn phía từ từ tiến lại, bao vây anh em Hồng Hoa Hội và Trần Gia Lạc vào giữa.
Càn Long nháy mắt ra hiệu, Lý Khả Tú liền gân cổ lên quát mắng quần hào Hồng Hoa Hội: “Bọn ngươi thật là lớn mật! Nhìn thấy hoàng thượng mà dám không thi lễ ư?”
Từ Thiên Hoằng vẫy tay, cha con Mã Thiện Quân, Mã Đại Đình lập tức lấy pháo lưu tinh ra phóng veo véo lên trời. Mấy ngôi sao băng vừa rơi trở xuống mặt Tây Hồ, bốn phương tám hướng lập tức nổi lên tiếng reo hò vang dội. Dưới tán cây, dưới mái nhà, dưới gầm cầu, người nào cũng đầu cắm hoa hồng, tay cầm binh khí.
Từ Thiên Hoằng lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Tồng đà chủ Hồng Hoa Hội đã đến đây, huynh đệ mau mau tiến lên tham kiến.” Hội chúng Hồng Hoa Hội cất tiếng hoan hô như sấm động, mỗi người bước lên một bước.
Binh sĩ Kỳ Doanh và ngự lâm quân vội lắp tên vào cung, rút đao khỏi vỏ, đề phòng mọi người xông đến. Hai bên đối địch với nhau, đều đứng yên không động đậy. Lý Khả Tú lại thổi tù và, tiếng vó ngựa rộn rã nổi lên xen lẫn tiếng người hô ngựa hí, thì ra binh sĩ Kỳ Doanh và Lục Doanh đang trú phòng ở Hàng Châu cũng đến rồi. Lý Khả Tú lên ngựa chỉ huy binh mã bao vây quần hào Hồng Hoa Hội, chỉ chờ Càn Long ra lệnh là động thủ bắt người.
Trần Gia Lạc không nói tiếng nào, từ từ bước tới bên một tên lính ngự lâm quân, đưa tay đón lấy cương ngựa đang nắm trong tay hắn. Tên lính này bị oai khí của chàng nhiếp phục, không tự chủ được bất giác giao cương ngựa. Trần Gia Lạc nhảy lên ngựa, lấy trong người ra một đóa hoa hồng cài lên ngực. Đóa hoa này to bằng miệng chén, kết bằng chỉ vàng và vải nhung, lại dùng bảo thạch khảm lên, sáng lấp láng dưới ánh đuốc. Đây chính là phù hiệu tổng đà chủ Hồng Hoa Hội, giá trị như soái kỳ trong quân đội vậy. Hội chúng Hồng Hoa Hội chưa từng gặp mặt đại thủ lĩnh, người nào cũng phấn chấn hẳn lên, cúi mình thi lễ, hoan hô như sấm động.
Kỳ Doanh và Lục Doanh vốn đang xếp hàng tể chỉnh, đột nhiên có một số binh lính bỏ hàng ngũ chạy ra. Đám quân này chạy đến trước mặt Trần Gia Lạc, bắt chéo tay trước ngực, khom lưng thi hành đại lễ bái kiến tổng đà chủ. Trần Gia Lạc chắp tay đáp lễ.
Đám quân phía trước thi lễ xong chạy về đội ngũ, lại có một đám khác phía sau chạy ra thi lễ. Nhóm này rút về nhóm kia lại đến, hồi lâu mới hết. Thì ra thế lực của Hồng Hoa Hội ở Giang Nam rất lớn, nhiều binh sĩ trong Kỳ Doanh và Lục Doanh cũng nhập hội rồi. Số người Hán trong Kỳ Doanh và Lục Doanh không phải là ít.
Càn Long thấy binh sĩ của mình chạy ra thi lễ với Trần Gia Lạc, không khỏi giật mình kinh hãi. Nếu đêm nay động võ, y chỉ có thể dựa vào mấy doanh ngự lâm quân hộ giá đến đây, nhưng trong đó chưa chắc không có đệ tử Hồng Hoa Hội. Dù sao thì cũng không nắm chắc phần thắng, mà bản thân mình lại đang ở trong hiểm địa, nên rút lui ổn thỏa mới là thượng sách.
Y bèn nhìn Lý Khả Tú, lạnh nhạt nói: “Ngươi dạy lính tốt quá nhỉ?”
Lý Khả Tú đang kinh hãi ngẩn ngơ, nghe Càn Long mắng bèn lật đật nhảy xuống ngựa, quì mọp dưới đất vừa dập đầu lia lịa vừa nói: “Thần đáng chết, thần đáng chết!”
Càn Long nói: “Bảo chúng lùi lại đi.”
Lý Khả Tú dạ dạ, rồi dứng lên lớn tiếng ra lệnh cho binh lính lùi ra hết.
Từ Thiên Hoằng thấy thân binh rút lui bèn hô lớn: “Các vị huynh đệ! Mọi người đã mệt mỏi rồi, hãy trở về đi!”
Hội chúng Hồng Hoa Hội đồng thanh đáp: “Tổng đà chủ, các vị đương gia! Xin tạm biệt!” Tiếng hô như sấm sét, đứng bên bờ hồ cũng thấy đầu người nhấp nhô tản ra khắp bốn phương tám hướng.
Càn Long từ nhỏ đã được phụ vương là Ung Chính giáo dục văn tài võ lược, có thể gọi là nhân tài số một trong hoàng tộc. Y rất hâm mộ Thái Tông Thái Tổ của mình năm xưa đông chinh tây phạt, tấn công thành trì chiếm đoạt đất đai. Hai vị tiên đế đều từng mạo hiểm thân chinh. Quân đội Mãn Châu chia làm bát kỳ, thống binh của mỗi kỳ đều là thân vương, quận vương hay bối lặc. Thống binh ra trận mà lùi bước thì bị cách chức ngay, binh mã bốn kỳ chia cho bảy kỳ còn lại. Vì thế người nào cũng cố gắng đốc thúc chỉ huy, đánh đâu thắng đó.
Từ khi Càn Long đăng quang đến nay, trong bờ ngoài cõi đều được bình yên, nên y không có đất dụng võ để tỏ chí anh hùng. Hôm nay nghe Trần Gia Lạc mời mình thưởng trăng uống rượu giữa hồ, y nghĩ năm xưa Thái Tổ Thái Tông từng múa đao xông trận giữa chốn thiên binh vạn mã, chẳng lẽ mình không dám mạo hiểm đôi chút hay sao. Nào ngờ đêm nay làm gì cũng bị người ta khắc chế.
May mà Càn Long rất hiểu đại thể, biết rằng không nhịn được viện nhỏ thì sẽ hư việc lớn. Y bèn vẫy tay nói với Trần Gia Lạc: “Cuộc du ngoạn trên hồ hôm nay quả là khoái hoạt. Tưởng đã thỏa mãn lắm rồi, đa tạ hiền chủ nhân nhiệt tình thết khách. Bây giờ xin tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.” Nói xong, y quay về tuần phủ nha môn, binh tướng vây quanh bảo vệ.
* * *
Trần Gia Lạc lớn tiếng cười ha hả, trở xuống thuyền say sưa một bữa với quần hùng.
Đêm nay Hồng Hoa Hội đánh tơi tả bọn thị vệ triều đình, cuối cùng Từ Thiên Hoằng và Mã Thiện Quân bố trí lại càng toàn mỹ, hoàng đế nắm trọng binh mà vẫn không dám hạ lệnh tấn công. Tung tích Văn Thái Lai cũng rõ rồi, nên người nào cũng vui vẻ mà ăn uống.
Từ Thiên Hoằng nói với Mã Thiện Quân: “Mã đại ca! Hôm nay hoàng đế thua thiệt trở về, nhất định không chịu buông tay. Huynh nhớ dặn dò mọi huynh đệ ở Hàng Châu phải thận trọng đặc biệt, nhất là huynh đệ trong Kỳ Doanh và Lục Doanh phải đề phòng ám toán. Nếu chúng điều đại quân đến đây thì mọi người hãy lui về phòng thủ Thái Hồ.” Mã Thiện Quân gật đầu khen phải, uống cạn một chén rồi xin rút trước, dẫn con trai đi bố trí.
Trần Gia Lạc cạn chén, gõ nhịp hát mấy câu. Chàng thấy trăng tỏ rọi mặt hồ, bóng trăng lấp lánh giữa những lá sen trông như bạc vụn, đột nhiên giật mình hỏi Từ Thiên Hoằng: “Hôm nay ngày bao nhiêu rồi? Mấy hôm nay bận rộn, ngày tháng cũng quên mất.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Hôm nay mười bảy. Chẳng phải hôm kia chúng ta đã ăn tết trung thu hay sao?”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một chút rồi nói: “Chu lão tiền bối, đạo trưởng, các vị ca ca! Hôm nay chúng ta bận rộn suốt đêm không hề mất mặt, Văn tứ ca cũng có tin tức rồi. Bây giờ mọi người về nghỉ ngơi thôi. Này mai tại hạ có chút việc riêng, ngày mốt chúng ta sẽ bắt đầu lo cứu Tứ ca.”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tổng đà chủ có cần huynh đệ nào cùng đi không?”
Trần Gia Lạc đáp: “Không cần. Chuyện này chẳng có gì nguy hiểm, ta muốn yên tĩnh một mình để suy nghĩ mấy việc.”
Mọi người đưa thuyền vào bờ rồi tạm biệt Trần Gia Lạc trở về nghỉ ngơi. Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Tưởng Tứ Cân đã nửa tỉnh nửa say, giữa đêm bá vai nhau nghênh ngang ca hát trên phố xá Hàng Châu, tựa như nơi đây không phải là đất của triều đình vậy.
Trần Gia Lạc nhìn theo mọi người đi xa rồi nhảy lên một chiếc thuyền con. Chàng nhẹ khuấy mái chèo cho thuyền từ từ lướt trên mặt hồ sáng như gương. Ra đến giữa hồ, chàng dừng chèo rồi ngơ ngẩn nhìn trăng, bất giác tuôn đôi dòng lệ. Thì ra ngày mai đã là mười tám tháng tám, sinh nhật của Từ Thị, mẫu thân chàng.
Mười năm trước chàng rời nhà ra đi, bây giờ trở về Giang Nam thì mẹ đã mất rồi. Từ nay âm dương cách trở, nhớ đến nụ cười và vẻ mặt hiền từ của mẹ, chàng không nén nổi bi ai. Vừa rồi nghe Từ Thiên Hoằng nhắc đến ngày tháng, chàng cố nhẫn nại. Bây giờ mọi người đi hết, Trần Gia Lạc mới cho phép mình buông tiếng khóc.
Xen giữa tiếng than khóc bi ai, đột nhiên truyền đến tiếng cười khe khẽ dịu dàng. Trần Gia Lạc lập tức ngưng khóc, quay đầu nhìn lại thấy một chiếc thuyền con đang từ từ chèo tới. Dưới ánh trăng thấy rõ một người đứng ở lái thuyền, mặc trường bào xám nhạt, chắp tay thi lễ: “Trần công tử ở đây ngắm trăng một mình đấy ư?”
Trần Gia Lạc nhận ra anh chàng tuấn tú này là đồ đệ của Lục Phi Thanh, vừa rồi còn đứng sau lưng Lý Khả Tú. Chàng không biết y một mình đến đây có việc gì, liền lau nước mắt, chắp tay trả lễ: “Lý huynh tìm ta có việc gì không?”
Lý Nguyên Chỉ nhẹ nhàng tung người lên, đáp xuống mũi thuyền Trần Gia Lạc rồi mỉm cười nói: “Có tin tức của Kim Địch Tú Tài. Huynh muốn biết không?”
Trần Gia Lạc ngẩn ra một chút rồi nói: “Mời huynh ngồi đây nói chuyện.” Lý Nguyên Chỉ mỉm cười ngồi xuống, đưa tay khuấy nhẹ mặt hồ, làm vỡ vụn bóng trăng trong.
Trần Gia Lạc hỏi: “Huynh đã gặp Dư huynh đệ của ta hay sao? Xin hỏi huynh ấy đang ở đâu?”
Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp: “Dĩ nhiên là ta biết, nhưng ta lại không muốn nói với huynh.”
Trần Gia Lạc lại ngẩn ra, thầm nghĩ: “Thằng lỏi này thật là kỳ lạ, nói chuyện cứ như con gái làm điệu vậy.” Bỗng dưng trước mắt chàng lại hiện lên hình ảnh Lý Nguyên Chỉ quàng vai Hoắc Thanh Đồng mà thân thiết cười đùa. Trần Gia Lạc đột nhiên thấy chán ghét người này, cảm giác khó mà diễn tả được.
Lý Nguyên Chỉ nghịch nước một lúc rồi giơ bàn tay ướt đẫm lên trời. Dưới ánh trăng nàng thấy Trần Gia Lạc khóe mắt đỏ hoe, má vương dấu lệ, bèn ngạc nhiên hỏi: “Úi chà! Huynh mới khóc hay sao? Ta vừa nghe thấy tiếng khóc, thì ra là huynh…”
Trần Gia Lạc quay mặt đi, không lý gì đến nàng. Lý Nguyên Chỉ cảm thấy mềm lòng, bèn dịu dàng nói: “Có phải huynh đang lo lắng cho Tứ ca và Thập Tứ đệ hay không? Huynh đừng buồn nữa, ta có thể nói với huynh là hai người đó còn sống đàng hoàng.”
Trần Gia Lạc muốn hỏi tỉ mỉ, nhưng nghe nàng nói chuyện bằng giọng khuyên dỗ trẻ nít, bèn tức giận nghĩ: “Dù ngươi không báo tin, chúng ta vẫn có thể điều tra được.” Chàng im lặng, không lên tiếng.
Lý Nguyên Chỉ lại hỏi: “Sư phụ của ta đâu? Ông ấy cũng đến Hàng Châu rồi phải không?”
Trần Gia Lạc hỏi: “Sao? Lục lão tiền bối không cùng đi với huynh hay sao?”
Lý Nguyên Chỉ đáp: “Đúng thế. Sau đêm đại loạn ở bến Hoàng Hà, ta không gặp lại sư phụ nữa.”
Trần Gia Lạc nói: “Lục lão tiền bối võ công trác tuyệt, chắc chắn không gặp sơ suất gì đâu. Huynh cứ yên tâm đi.”
Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Hồng Hoa Hội của các vị thế lực lớn, tại sao không phái người đi tìm sư phụ ta?”
Trần Gia Lạc nghe nàng càng nói càng vô lễ, không khỏi bực mình. Nhưng dù sao chàng vẫn dày công phu hàm dưỡng, bèn đáp: “Lý đại ca nói phải. Ngày mai ta sẽ cử người đi thám thính.”
Hồi lâu Lý Nguyên Chỉ mới nói: “Ta nghe Dư sư ca nói võ công của huynh là vô địch, ta không tin. Huynh ấy còn nói, huynh có thể làm sư phụ của ta được. Chẳng lẽ võ công của huynh còn cao hơn cả sư phụ của ta hay sao?”
Trần Gia Lạc nghe anh chàng này nói chuyện không biết nặng nhẹ ra sao, bèn mỉm cười đáp: “Lục lão tiền bối là cao thủ trên đời. Giả tỉ ta muốn bái ông ấy làm sư phụ, lão nhân gia chưa chắc đã chịu thu nhận. Đồ đệ ông ấy nhất định phải có tư chất cực tốt.”
Lý Nguyên Chỉ cười: “Úi chà! Huynh đừng nịnh bợ trước mặt người ta như vậy nữa. Vừa rồi ta có thấy huynh ném mấy chung rượu, nội kình rất tốt. Nhưng không hiểu sao người Hồng Hoa Hội lại phục tùng huynh sát đất, cung kính hơn cả phụ thân. Điểm này thì ta có phần không phục.”
Trần Gia Lạc khẽ hừ một tiếng, nghĩ bụng: “Muốn được người khác kính phục, không chỉ dựa vào võ công mà được. Điểm này mà ngươi không hiểu, thì ta chẳng cần nói hiều với ngươi cho tốn hơi.” Chàng thấy anh chàng này vừa ấu trĩ vừa vô lễ, không biết đối phó cách nào bèn nói: “Trời sắp sáng rồi, ta phải lên bờ. Xin tạm biệt!”
Nói xong chàng đưa mái chèo lên, ra vẻ đợi nàng nhảy khỏi thuyền mình. Lý Nguyên Chỉ bất mãn nói: “Ai phục huynh thì phục, nhưng huynh không nên kiêu ngạo với ta như thế.”
Trần Gia Lạc nghe câu này, nộ khí muốn nổi lên nhưng chàng lập tức nghĩ lại, mình đang lãnh đạo quần hào, là người đứng đầu Hồng Hoa Hội, không thể tùy tiện giận dữ được. Tên họ Lý này nhỏ tuổi hơn mình, bây giờ lại không có người thứ ba ở đây làm chứng. Nếu mình nặng tay sẽ bị trách là lấy lớn hiếp nhỏ, huống chi sư phụ của y lại có tình sâu nghĩa nặng với bản hội. Chàng nể mặt Lục Phi Thanh, bèn nén giận đưa mái chèo lên chèo thuyền.
Lý Nguyên Chỉ từ nhỏ quen được người ta chiều chuộng, thấy mặt Trần Gia Lạc hầm hầm với mình cũng không khỏi tức tối. Nhưng nàng vẫn ngồi yên trên mũi thuyền, nhất thời không biết phải làm gì.
Lúc thuyền đến gần Tam Đàn Ấn Nguyệt, Lý Nguyên Chỉ cười nhạt nói: “Huynh không cần ra vẻ ta đây như thế. Nếu huynh thật sự có bản lĩnh thì đâu có trốn ở trong này mà khóc?”
Trần Gia Lạc vẫn mặc kệ. Lý Nguyên Chỉ lớn tiếng nói: “Này! Ta đang nói chuyện với huynh! Chẳng lẽ huynh bị điếc rồi hay sao?”
Trần Gia Lạc thở hắt ra một hơi, đảo mắt nhìn nàng nghĩ bụng: “Thằng lõi này không biết tốt xấu gì cả. Ngay cả sư phụ ngươi cũng phải giữ lễ với ta, mà ngươi lại dám quát nạt ta như vậy hay sao?”
Lý Nguyên Chỉ tiếp tục gắt gỏng: “Người ta có lòng tốt đến đây báo tin cho huynh biết, thế mà huynh lại mặc kệ người ta. Không có ta giúp đỡ, xem thử huynh có cứu được Văn tứ ca hay không?”
Trần Gia Lạc chau mày, rồi trề môi ra nói: “Chẳng lẽ huynh lại có bản lãnh đến thế?”
Lý Nguyên Chỉ nói: “Huynh xem thường người khác quá lắm. Thế thì chúng ta phải tỉ thí một phen.” Nàng nói dứt câu, lập tức xoay tay rút trường kiếm đeo sau lưng ra.
Trần Gia Lạc nể mặt Lục Phi Thanh nên mới nhẫn nhịn được tới lúc này. Bây giờ thấy đối phương đột nhiên rút kiếm, chàng lại phải thay đổi suy nghĩ. Vừa rồi chàng thấy người này đứng hầu phía sau Càn Long, ra vẻ thân mật với đề đốc thống binh. Chẳng lẽ y là địch hay sao?
Trong lòng Trần Gia Lạc bỗng phát sinh cảm giác khó chịu khôn tả. Chàng tự trách mình, tại sao bình thường khí độ ung dung mà lại tự dưng chán ghét người này như thế. Nhìn y mi thanh mục tú, dung nhan tuấn mã, nhất thời chàng không biết rốt cuộc đây là nhân vật thế nào, bèn hỏi: “Vừa rồi thấy huynh đứng hầu sau lưng hoàng đế, là giả bộ đầu hàng hay đã có quan chức trong triều?”
Lý Nguyên Chỉ đáp: “Cả hai đều không phải.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Chẳng lẽ trong bọn chó săn của triều đình lại có thân nhân của huynh?”
Lý Nguyên Chỉ mắng cha mình là chó săn, lập tức nổi giận phóng kiếm đâm ra, quát lên: “Tiểu tử kia! Tại sao ngươi cứ mở miệng là thóa mạ người ta bừa bãi?”
Trần Gia Lạc thấy đối phương động thủ thật sự, nghĩ thầm: “Quả nhiên tên này có quan hệ với Thanh triều.” Chàng không trách sáo nữa, hét lên: “Hay lắm! Vụ này ta phải đi hỏi sư phụ của ngươi.”
Trần Gia Lạc nghiêng người né kiếm, vừa thẳng người dậy thì Lý Nguyên Chỉ đưa kiếm đâm thẳng vào ngực. Trần Gia Lạc không thèm tránh né, đợi mũi kiếm chạm đến ngực áo mới đột ngột ép khí thổi ra, lồng ngực thõm vào ba tấc. Chiêu kiếm của Lý Nguyên Chỉ đã hết đà, nên chỉ cách ba tấc mà mũi kiếm không sao đâm thủng ngực chàng nữa. Sợ bị trả đòn, nàng vội vã nhún chân nhảy ngược ra sau, đứng trên một bệ đá của Tam Đàn Ấn Nguyệt. Bệ đá đó cách thuyền khá xa, lại nhẵn nhụi trơn trượt mà nàng vẫn đứng được vững vàng.
Trần Gia Lạc định dùng tay không tỉ thí, nhưng thấy nàng thi triển thượng thừa khinh công của phái Võ Đang nên không dám khinh địch. Chàng từng quyết đấu với Trương Triệu Phong, biết võ công của phái Võ Đang lợi hại, bèn tung người lên bẻ một cành liễu rồi nhảy tới đứng trên một bệ đá.
Lý Nguyên Chỉ thấy thân pháp của chàng cực kỳ nhanh chóng, không khỏi âm thầm kinh hãi. Nhưng đến nước này, nàng chỉ còn cách nhắm mắt đánh liều một trận, bèn nói yếu xìu: “Xem chiêu!” Nàng đưa tả chưởng hộ thân, tung người bay tới bệ đá Trần Gia Lạc đang đứng, kiếm nghiêng một bên đâm vào tay trái của chàng.
Tam Đàn Ấn Nguyệt là ba cái bệ đá nhỏ trên mặt nước Tây Hồ. Người Hàng Châu có tập tục hễ đêm trung thu là lấy giấy ngũ sắc bịt những cái lỗ trên bệ đá lại. Bây giờ trung thu đã qua nhưng giấy dán vẫn còn. Ánh trăng rọi qua lỗ trên bệ đá chiếu xuống mặt hồ, bị đổi màu ngũ sắc tạo nên một vẻ đẹp kỳ lạ, dường như dưới hồ này lại còn hồ khác. Bây giờ lại thêm một bóng xám tro bay lượn trên mặt hồ như chim, kiếm quang nháy động cũng in bóng xuống đáy hồ đầy màu sắc.
Trần Gia Lạc đảo những tránh né, đưa cành liễu phất vào sau lưng đối thủ. Lý Nguyên Chỉ ra chiêu không trúng, chân phải đạp lên bệ đá, dùng thân pháp Phượng Đỉnh Đầu né cành liễu đang đánh tới, rồi hất kiếm đâm chéo lên. Sau đó nàng nhảy qua một cái bệ khác, sử chiêu Ngọc Đới Vi Yêu, trường kiếm xoay quanh mình liên hồi bất tận. Đây chính là một chiêu tinh diệu trong Nhu Vân kiếm pháp.
Lý Nguyên Chỉ vừa xoay kiếm vừa nhảy lên phía trước, nghĩ bụng: “Phen này chắc chắn hắn bị ta ép nhảy qua bệ đá bên trái.” Nhưng Trần Gia Lạc vẫn không lùi. Đợi nàng nhảy tới, thân thể chàng đột nhiên bắn lên cao, lộn nửa vòng trên không, đầu chúc xuống dưới chân chĩa lên trời, chụp cành dương liễu xuống đầu Lý Nguyên Chỉ.
Lý Nguyên Chỉ đưa kiếm lên đỡ, nào ngờ cành dương liễu lướt theo sống kiếm mà lượn xuống, vẩy trúng mặt nàng một cái. Lý Nguyên Chỉ trúng đòn, không đau lắm nhưng hổ thẹn đỏ mặt lên. Nàng không kịp nghĩ gì, cúi đầu nhảy qua bệ đá tay trái. Khi nàng đứng vững, nhìn qua thấy Trần Gia Lạc đã đáp xuống rồi, trường bào phất phơ trong gió, đung đưa cành liễu nhẹ nhàng, dáng vẻ thật là tiêu sái.
Lý Nguyên Chỉ tức giận chuyển kiếm qua tay trái, tay phải lấy trong bọc ra một nhúm Phù Dung kim châm. Nàng vẫy tay ba cái, kim châm chia làm ba đường trên dưới bắn tới Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc đang đứng trên bệ đá nhỏ, không có chỗ tránh né. Chàng vội tung cả hai chân lăn thân mình ngã ra khoảng không, ngang bằng với mặt hồ. Tay trái cũng đưa thỏng ra, chỉ còn tay phải ấn lên đỉnh bệ đá. Ba làn kim châm bay veo véo ngang qua, rồi rơi hết xuống hồ.
Chàng lại vận sức vào tả chưởng, uốn người nhảy trở lên bệ đá, người không dính chút xíu nước hồ nào.
Lý Nguyên Chỉ đánh ba chiêu vẫn không ép được chàng rời khỏi bệ đá, tự hiểu mình không phải là đối thủ, bèn hô lớn: “Xin tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.” Nàng toan chuồn vào ngôi đình nhỏ Tiểu Doanh Châu trên hồ.
Trần Gia Lạc kêu lên: “Ngươi cũng xem chiêu!” Lời chưa dứt người đã nhảy lên, cành liểu vẫy lên mặt nàng. Lý Nguyên Chỉ đã nếm đòn này, vội vung kiếm gạt ra trước mặt, muốn chặt đứt cành liểu của chàng. Nào ngờ cành liễu bỗng biến chiêu, quấn lấy lưỡi kiếm. Nàng cảm thấy một luồng lực đạo muốn giật kiếm đi, đồng thời tay trái của đối phương ấn tới trước ngực của mình. Lý Nguyên Chỉ nghe ngực nóng ran, vừa kinh hãi vừa xấu hổ, chỉ còn cách buông chuôi kiếm, dùng tả chưỡng đỡ lấy tay trái đối phương, mượn sức nhảy qua bệ đá bên tay phải. Trường kiếm của nàng bay tuốt lên trời, khi rơi xuống, Trần Gia Lạc giơ tay đón lấy.
Lý Nguyên Chỉ hổ thẹn mắng luôn: “Đồ vô liêm sĩ, dám dùng chiêu thức hạ lưu!”
Trần Gia Lạc ngẩn ra hỏi lại: “Ngươi nói bậy! Hạ lưu ở chỗ nào?”
Lý Nguyên Chỉ cũng hiểu đối phương không biết mình là nữ nhân, chiêu đó chỉ là vô tình. Nàng không nói gì nữa, lập tức đề khí tung người nhảy qua đình Tiểu Doanh Châu. Thân pháp của Trần Gia Lạc nhanh hơn nhiều, cũng tung người bay theo.
Lý Nguyên Chỉ tới nơi, nhìn thấy Trần Gia Lạc đang đứng trước mặt, hai tay cầm trường kiếm đưa qua. Nàng bĩu môi nhận lấy, tra kiếm vào vỏ rồi quay đầu đi ngay.
Trần Gia Lạc tỉ thí chiếm được thượng phong, lẽ ra phải thấy vui vẻ mới đúng. Nhưng sao đột nhiên trong lòng chàng lại nổi lên bóng dáng Hoắc Thanh Đồng.
Lúc này trời đã gần sáng. Trần Gia Lạc tháo đóa hoa trên ngực cất vào trong bọc, từ từ đi về phía đông thành. Cửa thành đã mở, người lính giữ cửa nhìn Trần Gia Lạc một cái rồi bắt chéo tay trước ngực khom mình thi lễ. Thì ra y là người của Hồng Hoa Hội.
Trần Gia Lạc gật đầu một cái, đi ra khỏi cửa thành. Người lính Thanh cất tiếng hỏi: “Tổng đà chủ ra khỏi thành, có cần ngựa hay không?”
Trần Gia Lạc đáp: “Thế thì hay quá.”
Người lính cả mừng chạy đi, chỉ chốc lát đã dẫn một con ngựa tốt đến, lại còn dẫn theo hai võ quan cấp thấp. Họ khom mình thi lễ với Trần Gia Lạc, có cơ hội phục vụ tổng đà chủ là cảm thấy muôn phần vinh dự.
Trần Gia Lạc lên ngựa chạy đi. Nhờ ngựa tốt nên ba mươi mấy dặm đường mà chàng chỉ tốn hai giờ, giờ tỵ đã đến An Túc Môn, cửa tây của thành Hải Ninh.
Mười năm chàng mới trở về mái nhà xưa, thế mà cảnh sắc không có gì thay đổi, vẫn hệt như hồi chàng còn nhỏ leo lên tường thành đùa giởn. Ngay cả những ngọn cỏ vẫn xanh như thế, cứ như những ngọn cỏ chàng đã nghịch ngợm khi xưa.
Chàng sợ gặp phải người quen, bèn quay ngựa đi ra ngoại thành phía bắc chừng năm sáu dặm đường. Chàng ghé vào một nông gia để nghĩ ngơi, ăn cơm bữa trưa, ngủ một giấc ngon lành, đợi khuya sẽ vào thành.
Vợ chồng nông gia đó thấy chàng ăn mặc như công tử mà lại nói tiếng địa phương, nên tiếp đãi rất ân cần, xế chiều còn làm thịt gà khoản đãi. Trần Gia Lạc hỏi tình hình mấy năm nay, người nông dân ấy nói: “Ba năm nay hoàng thượng đã hạ chỉ giảm thuế cho toàn huyện Hải Ninh, nói là nể mặt Trần Các Lão.”
Phụ thân Trần Gia Lạc đã tạ thế nhiều năm. Chàng nghĩ mãi không ra tại sao hoàng đế đặc biệt ân sủng quê hương như thế. Ăn cơm tối xong, chàng để lại mấy lạng bạc, cảm tạ nông gia rồi lên ngựa vào thành.
Chàng đến cửa nam, ngồi trên con đê chắn sóng nhìn ra biển cả. Nhớ lại ngày xưa nhiều lần được mẹ dẫn ra đây ngắm thủy triều, khóe mắt chàng không khỏi rưng rưng. Chàng ở Hồi Cương mười năm, ngày nào cũng thấy cát vàng vô tận, bây giờ gặp lại thủy triều và sóng biển, trong lòng sảng khoái vô cùng.
Trần Gia Lạc ngồi hứng gió nhìn ra biển cả, mọi kỷ niệm hồi còn niên thiếu dần dần hiện lại trong trí. Thấy trời đã tối dần, sóng biển trắng xóa đã mơ hồ, chàng mới cột ngựa vào một cây liễu bên đê chắn sóng, rồi rảo bước nhắm hướng tây bắc, về nhà mình.
Mới đến cửa nhà, Trần Gia Lạc đã thấy có chỗ khác lạ. Dinh thự này vốn có tên là Ngẫu Viên, bây giờ tấm biển cũ đã bị tháo ra, thay vào biển mới có viết ba chữ An Lạc Viên, bút pháp chính là ngự bút của Càn Long. Bên cạnh nhà cũ lại có nhiều tòa mới, đình đài lầu các không sao đếm xuẻ. Chàng ngạc nhiên không hiểu, bèn nhảy vào trong tường.
Chàng đi vào trong, thấy ngay một cái đình, trong đình có dựng một tấm bia đá lớn. Dưới ánh trăng, chàng thấy tấm bia này rất mới, khắc sáu bài thơ ngũ ngôn, cũng là bút pháp của Càn Long. Mấy bài thơ này ngụ ý quan tâm đến chuyện an nguy sướng khổ của bá tánh, ca tụng công danh sự nghiệp của Trần gia. Trần Gia Lạc thấy thơ tuy không hay lắm, nhưng đầy vẻ tôn trọng gia đình mình, nên không khỏi vui mừng đôi chút.
Theo một hành lang dài đi về phía tây, qua khỏi ba khoảnh sân nhỏ mới đến Hoài Bích Đường. Trần Gia Lạc thấy trong sảnh có treo một tấm biển mới, ghi ba chữ Ái Nhật Đường, cũng do Càn Long viết. Chàng nghĩ: “Hai chữ Ái Nhật thường để chỉ sự hiếu thảo với cha mẹ, nguồn gốc từ lời người xưa cảm thán ngày tháng phụng sự cha mẹ không được lâu dài, đoàn tụ thêm nmột gày là mừng rỡ một ngày, vì thế ngày nào cũng nên quyến luyến. Hai chữ này nếu do ta viết mới hợp lý, sao hoàng đế lại đích thân viết ở chỗ này? Chẳng lẽ học vấn của y lại mơ hồ đến thế?”
Ra khỏi sảnh đường này, chàng qua Cửu Khúc Kiều đi về phía bắc, vào một rừng trúc râm mát mới đến Huân Hương Quán, nơi mẫu thân cư ngụ khi xưa. Trước quán cũng có một tấm biển mới, ngự bút ghi ba chữ Xuân Huy Đường. Chàng thấy trong lòng chua xót, ngồi bên hòn non bộ thầm nghĩ: “Đây là chữ trong bài thơ Du Tử của Mạnh Giao: Thùy ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy.” Bài thơ này thật đúng tâm sự, chàng nhìn vào ba chữ lại càng thương nhớ mẫu thân, lệ lại tiếp tục rơi.
Đột nhiên chàng giật mình một cái, nhảy chồm dậy, trong lòng nghĩ: “Hai chữ Xuân Huy là điển cố chỉ đứa con lưu lạc cảm niệm mẫu ân, ngoài ra không còn ý nghĩa gì khác. Tại sao hoàng đế lại treo tấm bia này trên lầu của mẹ mình? Càn Long không thể hồ đồ bừa bãi đến thế. Chẳng lẽ y đoán rằng mình sẽ về tảo mộ, nên cố ý viết sẵn mấy tấm biển để lấy lòng hay sao?”
Trần Gia Lạc suy nghĩ hồi lâu vẫn chưa hiểu được dụng ý của Càn Long, bèn nhẹ nhàng bước lên lầu. Chàng nép vào một góc, thấy trong phòng không có ai, bố trí vẫn hệt như khi mẹ mình còn sống. Cái tủ lớn bằng gỗ đỏ, giường cham hoa văn, rương viền vàng đựng quần áo vẫn để ở chỗ mà mười mấy năm xưa chàng từng thấy. Trên bàn vẫn có một cây nến đang thắp sáng. Đột nhiên có tiếng bước chân ở phòng bên, rồi có người đi vào.
Đó là một nữ nhân lớn tuổi. Chàng thấy sau lưng, nhịn không nổi chỉ muốn gọi to. Đó là một cô nha hoàn đã theo mẹ chàng từ thời khuê nữ, tên là Thụy Phương. Bà đã nuôi nấng Trần Gia Lạc tử nhỏ cho đến mười lăm tuổi, là người thân thiết nhất trong số gia nhân.
Thụy Phương vào phòng, cầm giẻ chậm rãi lau chùi đồ vật trong phòng. Bà ngồi trên ghế ngơ ngẫn một hồi, rồi lấy dưới gối ra một cái nón trẻ con, vừa mân mê vừa thở dài thở ngắn. Đó là một cái nón đoạn thêu hoa, có đính một miếng ngọc xanh, quanh miếng ngọc là ba hạt châu rất lớn. Đây chính là cái nón mà Trần Gia Lạc đội hồi còn nhỏ. Chàng không nhẫn nại được nữa, chạy ra giữa phòng ôm lấy bà ta.
Thụy Phương kinh hãi định la lên. Trần Gia Lạc vội đưa tay bịt miệng bà, khẽ nói: “Con đây, dì đừng la.”
Thụy Phương nhìn chàng, hoảng sợ đến mức không nói được tiếng nào. Trần Gia Lạc rời nhà từ lúc mười lăm tuổi, mười năm không gặp tướng mạo đã khác nhiều. Hơn nữa, đối với nữ nhân đã ngoại ngũ tuần thì mười năm chỉ chớp mắt là đã qua.
Trần Gia Lạc lại nói: “Dì Thụy Con là Tam Quan đây, dì không nhận ra hay sao?”
Thụy Phương mơ hồ hỏi lại: “Ngươi… ngươi là Tam Quan? Công tử về rồi đấy ư?”
Trần Gia Lạc mỉm cười gật đầu. Thần trí của Thụy Phương dần dần tỉnh táo lại, hình như bà đã nhận ra trên mặt Trần Gia Lạc những nét của cậu bé Tam Quan nghịch ngợm khi xưa. Đột nhiên bà đưa hai tay ra ôm choàng lấy chàng, khóa òa lên.
Trần Gia Lạc vội nắm tay bà nói: “Dì đừng khóc nữa, đừng để người khác biết con đã về đây.”
Thụy Phương Đáp: “Không sao đâu. Họ đi qua tân viên hết rồi, ở đây không còn ai cả.”
Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi: “Tân viên là sao?”
Thụy Phương đáp: “Tân viên mới xây nửa năm nay, tốn không biết bao nhiêu vàng bạc. Nô tì cũng không biết xây để làm gì.”
Trần Gia Lạc biết bà không hiểu được những chuyện như vậy, bèn hỏi: “Má má con bị bệnh ra sao mà phải từ trần?”
Thụy Phương lấy khăn ra lau mắt rồi kể: “Hôm ấy không biết tại sao tiểu thư rầu rĩ vô cùng, ba ngày không ăn không uống rồi ngã bệnh, mười mấy ngày sau thì qua đời.” Nói đến đây bà khóc thút thít. Những tiểu thư nhà giàu Ở Giang Nam khi xuất giá đều đem theo mấy ả nha hoàn về nhà chồng. Mặc dù theo thời gian tiểu thư trở thành thái thái, rồi bà bà, nhưng những nha hoàn đó vẫn gọi chủ nhân của mình là tiểu thư như thời con gái.
Bà vừa khóc vừa nói: “Lúc tiểu thư qua đời vẫn nhớ đến công tử, luôn miệng hỏi: Tam Quan đâu? Tam Quan chưa về hay sao? Ta muốn gặp Tam Quan! Tiểu thư gọi hoài như vậy hai ngày trước khi chết.”
Trần Gia Lạc cũng thút thít nói: “Ta thật là bất hiếu! Mẫu thân sắp chết muốn gặp ta lần cuối mà cũng không được gặp!” Chàng lại hỏi: “Mộ phần của má má ở đâu?”
Thụy Phương đáp: “Ở phía sau tòa Hải Thần Miếu.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Hải Thần Miếu?”
Thụy Phương đáp: “Cũng mới xây mùa xuân năm nay, là ngôi miếu rất lớn ở cạnh đê chắn sóng.”
Trần Gia Lạc nói: “Dì Thụy, con phải qua đó một chút.”
Thụy Phương vội cản: “Không… không được.” Nhưng chàng đã bay ra khỏi cửa sổ rồi.
Đường từ nhà đến đê chắn sóng là con đường mà chàng quen thuộc nhất trên đời, nhắm mắt cũng chạy tới nơi. Thấy ở phía tây có mấy tòa lầu cao ngất trời mà hồi nhỏ mình chưa từng thấy, chàng đoán chắc đó là Hải Thần Miếu, bèn rảo bước đến gần.
Đột nhiên nghe tiếng bước chân rất nhẹ, chàng vội lùi lại, núp mình sau một gốc liễu. Mỗi bên miếu có hai đại hán áo đen bước ra, bốn người gặp nhau trước cửa miếu bèn đưa tay chào nhau, nhưng chân vẫn không dừng lại, tiếp tục tuần tra quanh miếu. Trần Gia Lạc rất ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Hải Ninh chỉ là một huyện ven biển nhỏ xíu. Bốn người này võ công không tệ, không hiểu chúng đến đây âm mưu chuyện gì?”
Chàng đang muốn theo dõi thì lại nghe tiếng bước, bốn người nữa đi vòng từ sau miếu ra ngoài, phục sức giống hệt bốn người vừa rồi. Chàng càng kinh ngạc hơn, đợi bốn người này đi chéo qua nhau rồi đề khí nhảy lên, nằm trên đỉnh tường thò đầu nhìn xuống.
Khắp nơi tổng cộng có hơn bốn chục người, chia từng tốp bốn người đi vòng quanh Hải Thần Miếu tuần tra chăm chú, hoàn toàn không lên tiếng. Võ công của chúng đều không phải tầm thường, cứ như giáo phái nào đó tiến hành tế lễ, hay một nhóm hải tặc hay bang hội gì đó đang tụ tập chia chác, sợ người ta phát hiện nêm mới tuần tra nghiêm mật như thế. Nếu Trần Gia Lạc khinh công không cao, thân thủ không nhanh thì chàng đã bị chúng phát giác rồi. Lòng hiếu kỳ nổi lên, chàng nhẹ nhàng nhảy xuống nấp vào mé tường, tiến lần vào trong đại điện xem xét.
Phía đông điện thờ Việt vương Câu Tiễn, phía tây điện thờ hai vị trung thần Ngũ Tử Tư và Văn Chủng. Chàng vào trung điện, thấy khói nhang đang tỏa, đèn nến đang thắp sáng trưng, tự hỏi không biết ở đây thờ vị thần nào. Khi ngẩn đầu lên, Trần Gia Lạc bất giác giật bắn người.
Thì ra tượng thần ở giữa điện có vẻ mặt thanh tú, cằm lưa thưa râu, giống hệt phụ thân chàng Trần Các Lão lúc sinh tiền. Chàng càng nghĩ càng thấy lạ, nhưng nghe ngoài điện có tiếng bước chân nên vội ẩn mình vào phía sau một cái chuông lớn. Lát sau thì có bốn người đi vào trong điện. Chúng cũng mặc đồ đen, tay cầm binh khí, rảo một vòng trong điện rồi trở ra ngoài.
Bên trái Trần Gia Lạc có một cánh cửa đang mở. Chàng rón rén tới đó nhìn ra ngoài, thấy ngoài cửa là một con đường lát đá trắng rất dài, chạy thẳng ra xa tít trông rất hùng vĩ. Trần Gia Lạc nghĩ: “Mình mà đi trên con con đường đá trắng này chắc chắc sẽ bị phát giác.” Chàng bèn nhảy lên mái của hành lang, chạy một hơi đến đầu bên kia, nhìn qua nhìn lại thấy bên dưới không một ai, liền nhẹ nhàng nhảy xuống.
Trước mặt lại là một tòa thần điện nữa, trước cửa ghi ba chữ Thiên Hậu Cung. Cửa điện không đóng, chàng liền đi vào để chiêm ngưỡng thần tượng. Phen này chàng còn kinh hãi gấp mấy lần vừa rồi. Tượng Thiên hậu này khuôn mặt tròn trịa, mắt hơi xếch lên, giống hệt mẫu thân của mình là Từ Thị.
Trần Gia Lạc càng lúc càng mơ mịt, như người bị rơi vào giữa năm dặm sương mù. Chàng quay lưng chạy ra ngoài, định đi tìm mộ phần của mẹ mình, nhưng lại thấy phía sau Thiên Hậu Cung này có một dãy liều bằng vải vàng, nối nhau liên miên bất tận. Chàng bèn ẩn mình vào góc tường nhìn chăm chú ra ngoài, nhìn đâu cũng thấy bọn đại hán áo đen đang tuần tra quanh những căn liều màu vàng đó.
Đêm nay đúng là Trần Gia Lạc gặp toàn những chuyện không ngờ. Tuy bọn này cảnh giới nghiêm ngặt, nhưng chàng ỷ mình tài cao mật lớn, quyết tâm thám thính rõ ràng. Chàng nằm rạp xuống sát đất, trườn đến cửa lều, đợi hai tên áo đen vừa quay lưng lại là lập tức vạch lều ra chui vào trong.
Chàng cứ nằm sát đất không động đậy gì để nghe ngóng bên ngoài, biết mình chưa bị phát giác mới quay lại nhìn. Trong lều trống rỗng không có đồ vật gì mà cũng chẳng có ai, nhưng mặt đất đã được tu sửa chỉnh tề, một ngọn cỏ cũng không có. Dãy lều này liền sát vào nhau, gìống như một cái dãy hành lang dẫn thẳng về phía sau. Mỗi căn lều đều thắp hai ngọn đèn dầu lớn, soi sáng như ban ngày. Nhìn dọc theo hành lang, hai dãy đèn trông như hai con rồng lửa dài vô tận.
Trần Gia Lạc không khỏi mơ hồ, vừa kinh hãi vừa sợ sệt, nghĩ mãi cũng không hiểu chuyện gì. Chàng cứ từng bước từng bước đi sâu vào, như người mộng du vậy.
Bốn bề vắng lặng, chỉ đôi lúc có tiếng lửa đèn nổ lép bép. Chàng cố gắng hít thở nhẹ nhàng lấy lại dũng khí, đi được vài chục bước thì đột nhiên nghe thấy phía trước có tiếng áo quần loạt soạt, bèn vội nép sang một bên tránh né. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì, chàng lại đi thêm mấy bước nữa. Dưới ánh đèn đã thấy phía trước có hai ngôi mộ rất lớn nằm sát nhau, lại có một người đang ngồi trước mộ.
Trước mỗi ngôi mộ có một tấm bia ghi chữ lớn màu đỏ. Một tấm bia viết: Hoàng Thanh thái tử thái phó, Vân Uyên Các đại học sĩ, Công bộ thượng thư Trần, Văn Cần Công, Thế Quan chi mộ. Tấm kia viết: Hoàng Thanh nhất phẩm phu nhân, Trần mẫu Từ phu nhân chi mộ.
Dưới ánh nến, Trần Gia Lạc nhìn thất rõ ràng, trong lòng đau xót, thì ra song thân mình yên nghỉ nơi này. Chàng bất kể xung quanh nguy hiểm trùng trùng, định chạy tới khóc lóc lạy một lần. Vừa bước lên một bước, thấy người đang ngồi trước mộ đột nhiên đứng dậy, Trần Gia Lạc liền dừng lại. Người kia đứng trước mộ phần ngần ngừ một lúc rồi bỗng quỳ xuống, lạy mấy cái rồi nằm luôn dưới đất không đứng dậy. Sau lưng y nhấp nhô, hình như đang khóc.
Thấy cảnh tượng này, Trần Gia Lạc không lo lắng đề phòng nữa. Người này đang khóc lạy trước mộ song thân mình, nếu không phải là thân thuộc thì cũng là học trò hay bạn cũ của phụ thân. Chàng thấy y khóc lóc bi thương, bèn nhẹ nhàng bước tới vỗ vai nói: “Thôi, đứng dậy đi.”
Người kia giật mình một cái rồi đứng bật dậy, nhưng không quay người lại, lớn tiếng hỏi: “Ai đó?”
Trần Gia Lạc đáp: “Ta cũng đến đây bái mộ.” Chàng không để ý đến người kia nữa, cứ quỳ xuống. Nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ lúc sanh tiền, chàng không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa, thút thít nói: “Gia gia! Má má! Tam Quan đến trễ rồi, không sao gặp gia gia má má được nữa.”
Người đứng bên “à” một tiếng, rảo bước toan chạy ra ngoài. Trần Gia Lạc vội đứng dậy, nhảy ngược ra sau hai bước, cản trước mặt y. Hai người vừa nhìn rõ nhau dưới ánh đèn, đều kinh hãi lùi lại.
Thì ra người đang khóc lạy trước mộ song thân Trần Gia Lạc lại là Càn Long, đương kim hoàng đế Mãn Thanh.
Càn Long lắp bắp hỏi: “Ngươi… tại sao giữa đêm tới đây?”
Trần Gia Lạc đáp: “Hôm nay là sinh nhật của mẹ ta, nên ta đến đây bái mộ. Còn huynh đài thì sao?”
Càn Long không đáp, lại hỏi: “Ngươi… ngươi là con trai của Trần Thế Quan ư?”
Trần Gia Lạc đáp: “Không sai! Trong giang hồ rất nhiều người biết chuyện này, chắc huynh đài cũng biết.”
Càn Long lắc đầu: “Ta chưa từng nghe.” Thật vậy, gần đây Càn Long sủng ái đặc biệt Trần gia ở Hải Ninh, bọn triều thần dù biết tân thủ lĩnh của Hồng Hoa Hội là con út của Trần Các Lão, nhưng không tên nào dám nhắc đến. Chúng đều biết Càn Long hoàng đế hỉ nộ khó lường, mình mà nhiều chuyện chưa chắc đã có thưởng, lại không chừng mang họa rơi đầu.
Lúc này Trần Gia Lạc không đề phòng nữa, nhưng phần nghi hoặc tăng lên. Chàng nghĩ: “Ngoài kia cảnh giới nghiêm mật đến thế, thì ra là để bảo vệ hoàng đế đến đây tảo mộ. Tảo mộ giữa đêm, đường đến phần mộ lại được che kín bằng vải vàng, hiển nhiên y không muốn người ta biết. Tại sao hoàng đế lại lén lút đến đây cúng tế đại thần? Hoàng đế có thể vì sủng ái đại thần mà có ý tưởng niệm sau khi chết, nhưng chắc chắn không thể quỳ lạy khóc lóc trước mộ người ta như thế. Chuyện này thật là khó nghĩ.”
Chàng kinh nghi chưa dứt, Càn Long cũng tỉ mỉ nhìn chàng từ đầu đến chân, sắc mặt thay đổi mấy lần. Hồi lâu y mới lên tiếng: “Ngồi đây nói chuyện đi.” Hai người bèn sánh vai ngồi xuống, trước hai ngôi mộ.
Đây là lần thứ ba hai người gặp mặt. Lần đầu gặp ở Tam Thiên Trúc chùa Linh Ẩn, hai bên vừa nghi ngờ lẫn nhau vừa có ý làm quen. Lần thứ hai gặp nhau giữa hồ âm thần tranh đấu, thế thành địch thủ. Lần này gặp nhau ý thù địch đã hết. Tấm lòng thân cận tự nhiên nảy sinh.
Càn Long nắm tay Trần Gia Lạc nói: “Ngươi thấy ta tế mộ giữa khuya thế này, nhất định có phần kỳ lạ. Lệnh tôn hồi sinh tiền đã có ơn với ta. Năm xưa vì chuyện tranh ngôi mà ta bị hoàng huynh âm mưu gia hại, may mà được lệnh tôn xả thân bảo vệ. Ngày hôm nay ta được ở ngôi đại bảo, công lao của lệnh tôn là lớn nhất. Sẵn dịp tuần tra phía nam, đêm nay ta đặc biệt đến đây bái mộ.”
Trần Gia Lạc bán tín bán nghi “à” một tiếng. Càn Long lại nói: “Việc này mà đồn đại ra ngoài thì rất bất tiện. Chắc ngươi cũng không muốn tiết lộ chứ?”
Trần Gia Lạc thấy y tôn kính song thân mình, rất cảm kích nên khẳng khái nói ngay: “Huynh đài cứ việc yên tâm. Tiểu đệ thề trước mộ phần phụ mẫu, việc xảy ra đêm nay quyết không nhắc với bất kỳ ai một câu một chữ.”
Càn Long biết chàng là một nhân vật thủ lĩnh võ lâm, rất trọng chữ tín, huống hồ lại thề trước mộ song thân. Y lập tức yên tâm, ra vẻ hoan hỉ.
Hai người nắm chặt tay nhau ngồi trước mồ, một người là đương kim hoàng đế chí tôn, một người là thủ lĩnh bang hội lớn nhất giang hồ. Hai người đều im lặng suy nghĩ, nhất thời không ai nói tiếng nào.
Hồi lâu, đột nhiên xa xa vọng về tiếng sấm ì ầm. Trần Gia Lạc nghe thấy trước, bèn nói: “Triều lên rồi, chúng ta đến đê chắn sóng xem nhé. Tiểu đệ đã hơn mười năm nay không thấy cảnh này.”
Càn Long nói: “Hay lắm!” Y vẫn nắm tay Trần Gia Lạc, cùng ra khỏi dãy lều.
Trần Gia Lạc nói: “Mười tám tháng tám hàng năm là ngày sóng triều lớn nhất. Mẫu thân tiểu đệ cũng sinh vào ngày đó, nên…” Chàng nói đến đây, bỗng dừng lại giữa câu.
Càn Long lộ vẻ quan tâm, hỏi ngay: “Lệnh đường ra sao?”
Trần Gia Lạc đáp: “Vì thế nên tên chữ của mẫu thân tiểu đệ là Triều Sinh.” Nói xong câu này, chàng hơi thấy hối hận trong lòng, nghĩ bụng: “Tại sao mình lại đem khuê danh của mẹ ra nói với hoàng đế?” Thực ra lúc đó chàng buột miệng nói ra rất tự nhiên.
Mặt hoàng đế hơi đổi sắc, nhẹ nhàng nói: “À, thì ra…” Hình như y nuốt lại nửa câu sau vào bụng, bàn tay đang nắm tay Trần Gia Lạc hơi run rẩy.
Nhìn thấy hoàng đế đi ra, bọn thị vệ đang tuần tra liền bước tới để bảo vệ. Chúng thấy bên cạnh hoàng đế lại có thêm một người, tên nào cũng kinh hãi nhưng không ai dám lên tiếng. Bạch Chấn, Trừ Viên là hai thị vệ lại càng sợ hãi. Có người chui vào trong lều mà mình không phát hiện, lỡ hắn đã mạo phạm đến thánh giá thì mình không sao thoát tội. Đến gần hơn, nhận ra người đứng bên hoàng đế lại là tổng đà chủ Hồng Hoa Hội, nỗi kinh hãi này mới thật không sao lường nổi. Tên nào cũng thấm đẫm mồ hôi lạnh.
Khi thị vệ dẫn ngự mã tới, Càn Long bèn bảo Trần Gia Lạc: “Ngươi cưỡi con ngựa của ta đi.” Thị vệ vội dẫn thêm một con ngựa nữa tới, hai người cùng lên ngựa đi về phía cửa Xuân Hy Môn.
Tiêng ì ầm như sấm động càng lúc càng nghe dữ dội, liên miên bất tận. Đứng ở Xuân Hy Môn tai chỉ nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm, nhưng đưa mắt nhìn ra biển khơi lại rất phẳng lặng. Khoảng bảy tám trượng gần bờ, mặt biển được ánh trăng chiếu mờ mờ như dát bạc.
Càn Long nhìn ra biển xuất thần, hồi lâu mới nói: “Ngươi và ta rất có duyên với nhau. Ngày mai ta quay lại Hàng Châu, ba ngày nữa sẽ về Bắc Kinh. Ngươi cùng đi với ta có được không? Tốt nhất là từ đây về sau ngươi hãy thường xuyên kề cận ta. Ta nhìn thấy ngươi, giống như được nhìn thấy lệnh tôn vậy.”
Trần Gia Lạc hoàn toàn không ngờ y có thể nói những lời thân thiết ôn hòa như vậy, nên nhất thời ngẩn ra không biết cách trả lời.
Càn Long lại nói: “Ngươi văn võ toàn tài, sau này làm đến chức vị như lệnh tôn không phải là khó, so với bôn ba trong giang hồ thì cao hơn gấp vạn lần.” Câu này của hoàng đế chính là hứa hẹn sẽ phong chàng làm Điện Các Đại Học Sĩ. Thanh triều không có tể tướng, đại học sĩ là chức vị cao nhất, chỉ dưới một người mà trên vạn người. Y ngỡ rằng chàng sẽ mừng rỡ khấu đầu lạy tạ, nào ngờ Trần Gia Lạc nói: “Hảo ý của huynh đài, tiểu đệ rất cảm tạ. Nhưng nếu tiểu đệ ham mê phú quý thì chắc chắn không rời nhà Các Lão để đơn thân lưu lạc giang hồ.”
Càn Long hỏi: “Ta muốn hỏi, sao ngươi không chịu làm thế gia công tử mà lại bôn tẩu giang hồ để làm gì? Chẳng lẽ lệnh tôn không dung thứ hay sao?”
Trần Gia Lạc đáp: “Không phải thế. Tiểu đệ làm vậy là phụng mạng mẫu thân. Phụ thân và ca ca của tiểu đệ hoàn toàn không biết, đã tốn rất nhièu công sức tìm kiếm khắp nơi. Mãi đến bây giờ ca ca của tiểu đệ vẫn còn phái người đi tìm kiếm.”
Càn Long nói: “Thì ra mẫu thân ngươi bảo ngươi rời khỏi gia đình. Lạ thật, tại sao lệnh đường lại làm như vậy?”
Càn Long nói: “Trần gia ở Hải Ninh của ngươi đời đời trâm anh, khoa danh thịnh vượng, khắp thiên hạ không có gia đình nào sánh được. Ba trăm năm nay, một nhà mà có hai trăm mấy chục tiến sĩ, ba vị ở ngôi tể phụ, lại còn mười một thượng thư, thị lang, bố chánh. Con số đó thật là kỳ lạ. Lệnh tôn Văn Cần Công làm quan thanh minh liêm chính, thường khóc lóc cầu xin cho dân trước mặt hoàng đế. Có mấy lần làm phụ vương ta bãi triều xong, lớn tiếng cười ha hả nói: Hôm nay Trần Thế Quan lại vì bá tánh mà khóc ngập cả sân chầu, ta chỉ còn cách đồng ý với hắn mà thôi.”
Trần Gia Lạc nghe Càn Long kể sự tích của phụ thân mình, vừa thương tâm vừa vui mừng nghĩ bụng: “Cũng suốt đời vì bá tánh, nhưng gia gia vì bá tánh mà khóc lóc với hoàng đế, còn ta vì bá tánh mà cướp quân lương của hoàng đế. Phương pháp khác nhau, nhưng mục đích lại là một.”
Lúc này tiếng hải triều càng vang dội, lấn át dần tiếng nói của hai người. Nhìn ra xa, thấy rõ một vạch trắng đang từ từ dịch vào dưới ánh trăng.
Trong chốc lát gió mạnh ập tới, vạch trắng ở phía trước đã đến gần bờ, tiếng ầm ầm còn vang hơn tiếng sấm. Âm thanh vang dội như trăm vạn đại quân đang xung phong giữa vô số trống đập rầm rầm hiệu lệnh, có tiến không lùi.
Tay trái Càn Long nắm tay Trần Gia Lạc cùng đứng trên con đê chắn sóng, tay phải nhẹ nhàng phẩy cây quạt xếp. Y nhìn thấy hải triều mãnh liệt xông tới, không khỏi kinh hãi đôi chút. Tay phải vừa lỏng ra, cây quạt xếp đã rơi ra ngoài đê, vướng lại trên những bậc thang. Đây là cây quạt xếp mà Trần Gia Lạc đã tặng cho y.
Càn Long “úi chà” một tiếng. Bạch Chấn lập tức nhảy tới, đầu chúc xuống đất, chân ngược lên trời, nhào xuống con đê để nhặt. Tay trái hắn ấn lên một tảng đá của con đê, tay phải đã chụp trúng cây quạt xếp.
Nhưng hải triều càng gần càng nhanh, bức tường nước vĩ đại dựng thẳng lên chạy tới sắp đập vào đê. Rõ ràng Bạch Chấn sắp bị sóng thần cuộn vào lòng biển, bọn thị vệ đồng thanh la lên kinh hãi. Bạch Chấn tập trung hết thần khí, thi triển khinh công tột mức, trèo lên thang cấp của con đê. Nhưng hắn mới đến nửa chừng, hải triều đã đập xuống đầu.
Trần Gia Lạc thấy nguy bèn cởi ngay trường bào, xẻ đôi rồi nhanh tay thắt lại cho dài hơn, ném xuống đầu Bạch Chấn. Bạch Chấn nhảy lên một cái cuối cùng, đưa tay túm được một đầu của áo bào, lúc đó nước đã ập tới chân hắn. Trần Gia Lạc vận lực giật mạnh, kéo được hắn lên bờ đá. Lúc đó Càn Long và bọn thị vệ thấy thế triều cực lớn, đã lùi vào cách bờ đê mấy trượng.
Bạch Chấn lên được mặt đê thì hải triều sắp phủ qua đê. Trần Gia Lạc từ nhỏ đã chơi ở đây, nên rất quen thuộc sức nước ở con đê chắn sóng này. Chàng vừa giật Bạch Chấn lên vừa tức tốc nhảy lùi mấy bước. Khi Bạch Chấn rơi xuống đất thì mực nước ở mặt đê đã sâu mấy thước rồi. Trần Gia Lạc hất tay phải một cái, ném cây quạt xếp về phía Trừ Viên. Sau đó chàng dùng cả hai tay ôm lấy Bạch Chấn, chạy tới một cây liễu mọc phía trong đê.
Dưới ánh trăng lấp lánh, mặt biển long lanh như dát bạc, bọt sóng tung lên trắng xóa tựa tuyết rơi, những đợt sóng nối nhau như ngàn mây cuộn. Sóng đập vào bờ đá rầm rầm như ngàn kỵ mã phi nước đại, chỉ trong chốc lát đã xéo lên Bạch Chấn. Hắn ngập chìm dưới làn sóng dữ, lại không biết thủy tính nên chỉ còn biết nín thở mà chờ.
Bạo phát bạo tàn, sóng biển dâng lên nhanh thì rút cũng nhanh, chỉ khoảnh khác nước đã rút hết ra ngoài đê chắn sóng. Từ nãy Bạch Chấn cứ ngậm miệng nín thở mà ôm gốc liễu, mười ngón tay như mười cái đinh sắt cắm chặt vào thân cây. Đợi nước triều rút đi, hắn mới buông tay rồi lùi lại phía sau.
Càn Long hoan hỉ nhận lại cây quạt xếp từ tay Trừ Viên. Thấy Bạch Chấn trung thành anh dũng, y bèn hứa khi về sẽ thưởng cho một cái áo ngắn màu vàng. Bạch Chấn còn ướt đẫm người, vội quì xuống đất khấu đầu tạ ơn.
Càn Long quay lại nói với Trần Gia Lạc: “Người xưa từng so sánh ngọn triều này với mười vạn quân, thập vạn quân thanh bán dạ triều. Cảnh sắc như thế này có thể gọi là thiên hạ kỳ quan.”
Trần Gia Lạc nói: “Tiên vương từng sai ba trăm cung thủ bắn hải triều, nhưng hải triều có suy giảm chút nào đâu? Phải thuận theo đại thế tự nhiên, ráng sức cản trở thật không có lợi.”
Càn Long nghe chàng ám chỉ đến những lời đã nói ở Tây Hồ, biết chàng nhất định không chịu vào triều làm quan, bèn nói: “Mỗi người đều có chí riêng. Ta không thể cưỡng ép ngươi, nhưng muốn khuyên ngươi một câu.”
Trần Gia Lạc nói: “Xin thỉnh giáo.”
Càn Long nói: “Hồng Hoa Hội của các ngươi đã có nhiều hành vi phản nghịch. Những gì đã qua, ta có thể không truy cứu. Nhưng từ đây về sau, tuyệt đối không được làm những việc vô pháp vô thiên như thế nữa.”
Trần Gia Lạc đáp: “Những việc chúng ta đã làm và sẽ làm đều vì nước vì dân, chỉ cần tự thấy yên lòng là được.”
Càn Long thở dài: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Hồi lâu y mới nói tiếp: “Nhưng vì một đêm tri ngộ thế này, sau này tiêu diệt Hồng Hoa Hội ta sẽ tha chết cho ngươi một lần.”
Trần Gia Lạc nói: “Nếu thế thì khi huynh đài lọt vào tay Hồng Hoa Hội, chúng ta cũng sẽ không hại mạng huynh đài.”
Càn Long cười ha hả, lớn tiếng nói: “Trước mặt hoàng đế mà ngươi cũng không chịu thua thiệt chút nào. Hay lắm! Đại trượng phu một lời đã nói bốn ngựa khó theo. Bây giờ chúng ta vỗ tay thề thốt, sau này không được hại nhau.”
Hai người liền vỗ tay nhau ba cái. Bọn thị vệ thấy hoàng đến nghe Trần Gia Lạc ăn nói đại nghịch bất đạo mà không nổi giận, lại còn kích chưởng lập thệ với chàng, đều hết sức kinh ngạc.
Càn Long lại nói: “Thủy triều cứ tràn vào mãi thế này, nếu không nhanh chóng sửa chữa con đê cho kiện cố, ruộng nương phần mộ bá tánh nhất định có ngày bị cuốn trôi. Chắc ta phải xuất tiền công quỹ hạ lệnh xây dựng lại con đê chắn sóng này để bảo vệ sinh linh.”
Trần Gia Lạc thẳng người cung kính nói: “Đây là đại nghiệp yêu dân, bá tánh Giang Nam sẽ cảm kích vô cùng.”
Càn Long gật đầu rồi nói: “Hơn nữa lệnh tôn có công với nước, dĩ nhiên ta không nỡ thấy phần mộ của ông ấy bị nước biển phạm vào.” Y quay lại bảo Bạch Chấn: “Ngày mai truyền dụ cho tổng đốc Cao Tấn và tuần vũ Trang Cửu Cung, lập tức đến Hải Ninh toàn lực thi công.”
Biển đã lặng trở lại, mặt biển nhấp nhô những gợn sóng nhỏ như nồi canh đang sôi. Càn Long lại nắm tay Trần Gia Lạc dắt đến bờ đê. Bọn thị vệ định đi theo, nhưng Càn Long vẫy vẫy tay ra lệnh bảo chúng dừng lại.
Hai người đi dọc theo bờ đê được vài chục bước, Càn Long nói: “Lúc nào ta cũng thấy sắc diện của ngươi có ý không vui. Ngoài chuyện tưởng nhớ song thân ra, chắc hẳn trong lòng ngươi còn điều gì chưa giải quyết được. Ngươi không chịu ra làm quan thì thôi, nhưng có yêu cầu gì cứ nói cho ta biết.”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tiểu đệ chỉ muốn xin một việc, nhưng sợ huynh đài không đồng ý.”
Càn Long nói: “Chỉ cần ngươi muốn, không gì là không được.”
Trần Gia Lạc mừng rỡ hỏi: “Thật thế ư?”
Càn Long dõng dạc đáp: “Quân vô hí ngôn.”
Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ muốn xinh huynh đài thả nghĩa huynh Văn Thái Lai của tiểu đệ ra.”
Càn Long khẽ giật mình. Y không ngờ Trần Gia Lạc xin việc này, nên nhất thời không trả lời ngay.
Trần Gia Lạc bèn hỏi: “Rốt cuộc thì nghĩa huynh của tiểu đệ đã đắc tội với huynh đài ở điểm nào?”
Càn Long nói: “Người này nhất định không thể thả, nhưng ta hứa với ngươi thì không thất tín. Thôi, ta không giết hắn là được rồi.”
Trần Gia Lạc nói: “Vậy thì bọn tiểu đệ chỉ còn cách động thủ để cứu nghĩa huynh. Tiểu đệ xin huynh thả, không phải sợ cứu không nổi, chỉ sợ động đao thương làm tổn thương hòa khí giữa hai người chúng ta.”
Hôm qua Càn Long đã nhìn thấy thanh thế của Hồng Hoa Hội, biết câu nói của chàng không phải là khoe khoang lỗ miệng. Y liền nói: “Hảo ý thì ta nhận. Nhưng nói thật với ngươi, ta quyết không để người này thoát khỏi tay mình. Ngươi đã quyết ý phải cứu, thì ta chỉ còn cách đem hắn ra giết.”
Trần Gia Lạc gằn giọng: “Nếu Văn tứ ca của tiểu đệ bị giết, e rằng từ nay huynh đài ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng được nữa.”
Càn Long lạnh lùng đáp: “Nhưng nếu không giết hắn, ta lại càng ăn không ngon, ngủ không yên.”
Trần Gia Lạc nói: “Nếu vậy thì ngôi chí tôn của huynh đài không tiêu diêu tự tại bằng con người mây ngàn hạc nội như tiểu đệ.”
Càn Long không muốn nhắc đến Văn Thái Lai nữa, bèn hỏi sang chuyện khác: “Năm nay ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”
Trần Gia Lạc đáp: “Hai mươi lăm.”
Càn Long thở dài: “Ta không so bì với cách sống nhàn vân dã hạc của ngươi, nhưng phải so bì với cái thanh xuân tuổi trẻ của ngươi. Ôi, bất kể sự nghiệp lẫy lừng cái thế đến đâu, khi tuổi thọ đã hết thì cũng phải trở về cát bụi mà thôi.”
Hai người dạo bước một lát nữa, Càn Long bỗng hỏi: “Ngươi có mấy vị phu nhân rồi?” Không đợi chàng trả lời, y lấy trong người ra một miếng ngọc rồi nói: “Miếng bảo ngọc này có thể gọi là trân quí hiếm có trên đời, ngươi cầm về mà tặng cho phu nhân.”
Trần Gia Lạc không nhận, đáp: “Tiểu đệ chưa thành hôn.”
Càn Long cười rộ lên: “Thì ra ngươi nhìn cao quá, đến nay vẫn chưa có ý trung nhân. Thôi thì miếng bảo ngọc này để ngươi dành tặng cho ý trung nhân tương lai, coi như vật đính ước cũng được.”
Mảnh ngọc này sắc óng ánh, dưới ánh trăng phát ra ánh sáng dịu dàng. Trần Gia Lạc đa tạ rồi nhận lấy, cầm vào tay lập tức cảm thấy ấm áp. Thì ra đó là một miếng noãn ngọc trân quí lạ thường. Trên ngọc lại dùng chỉ vàng khảm bốn hàng chữ chìm rất nhỏ: “Tình sâu quá chẳng bền. Cương cường quá tất nhụt. Khiêm hòa như quân tử. Ôn nhuận như bảo ngọc.”
Càn Long thấy thần sác Trần Gia Lạc lạnh nhạt không chút tình thân mật, nhưng y vẫn nói rất dịu dàng: “Ta biết ngươi trách người Mãn Châu chúng ta chiếm cứ giang san người Hán, nên trong lòng ôm hận, luôn luôn chống đối. Nhưng ta với ngươi, tuy một Mãn một Hán mà vẫn có thể thân tình như huynh đệ. Thánh tổ hoàng đế đã có di chiếu, Mãn Hán phải là một nhà, không chia cương vực. Tiên đế đã lập trọng thệ Vĩnh bất gia phú, vĩnh viễn không tăng thuế người Hán. Ta đây đảm đương quốc sự, nhất định sẽ yêu dân như con cái. Về điểm này, ngươi có thể yên tâm.” Nói xong, y đưa tay phải ra nắm chặt lấy tay trái Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc nói: “Nếu từ nay về sau có thể Hán Mãn nhất gia thật sự, thì còn hơn cả ước mong. Hung Nô xâm phạm nhà Hán, Đột Quyết tàn sát dân Đường, mà hôm nay cũng đã thành người một nhà rồi.”
Càn Long hoan hỉ nói: “Đây là ý nguyện chung của hai ta, nhất định mãi mãi không quên.”
Trần Gia Lạc cất miếng ôn ngọc vào bọc rồi nói: “Đa tạ vì hậu lễ, xin hẹn ngày gặp lại.” Chàng chắp tay từ biệt.
Càn Long vẫy tay nói: “Ngươi nhớ bảo trọng.”
Trần Gia Lạc quay đầu đi về phía trong thành. Bạch Chấn vội chạy đến trước mặt chàng, lên tiếng: “Vừa rồi may được các hạ cứu cho tính mạng, thật cảm kích vô cùng. Chỉ sợ ân này khó mà báo đáp.”
Trần Gia Lạc đáp: “Bạch lão tiền bối nói gì vậy? Chúng ta là võ lâm đồng đạo, lâm nguy giúp nhau tí chút phỏng có chi đáng kể!”
* * *
Trần Gia Lạc chạy trở vè phủ Các Lão, nhảy vào trong tìm gặp Thụy Phương rồi nói: “Ca ca của con chắc đang ở tân viên. Y cứ bận rộn hoài, lát nữa con sẽ tìm gặp sau. Dì Thụy! Dì có tâm niệm gì thì nói với con, nhất định con sẽ làm được cho dì.”
Thụy Phương đáp: “Nô tì chỉ cầu mong công tử được bình yên, sau này cưới được vợ hiền rồi sinh mấy đứa con kháu khỉnh.”
Trần Gia Lạc mỉm cười đáp: “Chuyện này sợ không phải dễ. Hai cô Tình Họa Vũ Thi đâu, dì gọi họ đến cho con gặp một chút.” Tình Họa và Vũ Thi là hai tiểu a đầu phục vụ Trần Gia Lạc hồi nhỏ.
Thụy Phương nói: “Vũ Thi chết năm ngoái rồi. Tình Họa vẫn còn ở đây. Để nô tì đi kêu nó đến.” Bà đi chưa được bao lâu, Tình Họa đã chạy lên lầu.
Trần Gia Lạc thấy nàng đã trở thành thiếu nữ đàng hoàng, nhưng vẫn nhút nhát hay thẹn như hồi còn nhỏ. Nhìn thấy Trần Gia Lạc, nàng đỏ mặt gọi một tiếng “Tam Quan” rồi lập tức khóe mắt mọng lên.
Trần Gia Lạc nói: “Cô đã lớn đến thế rồi! Vũ Thi làm sao mà chết?”
Tình Hoa buồn bã đáp: “Nhảy xuống biển mà chết.”
Trần Gia Lạc kinh hãi hỏi: “Tại sao phải nhảy xuống biển?”
Tình Họa nhìn quanh một vòng, rồi khẽ nói: “Nhị gia muốn lấy tỷ ấy làm hầu thiếp, tỷ ấy không chịu.”
Trần Gia Lạc “à” một tiếng. Tình Họa vừa khóc vừa kể tiếp: “Chuyện tỷ muội nô tì không muốn giấu giếm công tử. Vũ Thi và gia nhân Tấn Trung trong phủ thương nhau. Hai người cố gắng dành dụm, đợi đủ tiền sẽ xin thái thái cho nàng chuộc mình để kết làm phu phụ với Tấn Trung. Nào ngờ một hôm nhị gia say rượu nhìn thấy tỷ ấy, rồi gọi tỷ ấy vào dọn phòng. Hôm sau Vũ Thi khóc lóc với nô tì, nói là có lỗi với Tấn Trung. Nô tì cũng cố khuyên giải, nói thân phận chúng ta chỉ như con sâu cái kiến, bị người chà đạp thật chẳng có cách gì. Nào ngờ tỷ ấy nghĩ không thông, nửa đêm nhảy xuống biển tự trầm. Tấn Trung vớt được thi thể, ôm khóc một hồi rồi đập đầu vào con sư tử đá trước cửa chết theo.”
Trần Gia Lạc nghe mà đau nhói tâm can, kêu lớn: “Không ngờ ca ca của ta lại là loại người như thế. Ta định gặp y một chút để thỏa tình thủ túc, nhưng bây giờ không cần gặp nữa. Mộ của Vũ Thi ở đâu, cô dẫn ta đi xem.”
Tình Họa đáp: “Ở bên cửa Tiên Đức, sáng mai nô tì sẽ dẫn Tam Quan đi.”
Trần Gia Lạc bảo: “Bây giờ đi ngay.”
Tình Họa hỏi: “Bây giờ cửa phủ chưa mở, làm sao ra ngoài được?”
Trần Gia Lạc khẽ mỉm cười, quàng tay trái ôm lưng cô gái. Tình Họa xấu hổ đến đỏ mặt tía tai, ấp úng chưa nói được gì thì thân thể đột nhiên như biết lướt gió cưỡi mây, qua cửa sổ bay tới mái nhà. Trần Gia Lạc cắp nàng chạy trên mái nhà, đến chỗ không còn nhà cửa gì nữa mới nhảy xuống đi bộ dưới đất, khoảnh khắc đã đến Tuyên Đức Môn.
Dừng lại lâu rồi mà Tình Họa mới định thần được, kinh hãi hỏi: “Tam Quan! Tam Quan đã học được phép tiên hay sao?”
Trần Gia Lạc mỉm cười không đáp, hỏi lại: “Cô có sợ không?”
Tình Họa cũng mỉm cười không đáp, dẫn Trần Gia Lạc đến mộ của Vũ Thi. Đó chỉ là một nấm đất vàng. Trần Gia Lạc nghĩ đến tình nghĩa khi xưa mà không nén nổi thê lương, chắp tay vái lạy trước mộ ba lần.
Tình Họa bật khóc, lên tiếng: “Tam Quan! Nếu Tam Quan ở nhà, chắc nhị gia không dám làm chuyện đó.”
Trần Gia Lạc lặng lẽ gật đầu, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy trăng đã xế tây, sao đã nhạt dần. Chàng liền nói: “Chúng ta về đi! Ta còn có việc gấp phải quay lại Hàng Châu.”
Hai người trở về Trần phủ. Trần Gia Lạc đang định nhảy ra cửa sổ, Tình Họa bỗng nói: “Tam Quan! Nô tì xin Tam Quan một việc.”
Trần Gia Lạc bảo: “Được, cô nói đi.”
Tình Họa nói: “Nô tì muốn được chải tóc Tam Quan một lần.”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một chút rồi nói: “Được.”
Chàng ngồi xuống ghế. Tình Họa vui vẻ chạy ra ngoài, chỉ một lúc đã bưng khay bạc đi vào, đặt trước mặt chàng. Trên khay có hai cái chén sứ nho nhỏ, một chén đựng canh quế hoa mộc nhĩ, còn chén kia đựng bốn miếng xôi ngọt.
Trần Gia Lạc xa nhà đã mười năm, ở miết trong sa mạc hoang vu. Hôm nay cầm thìa bạc múc canh bách hợp, thưởng thức lại mùi vị những món ăn của gia đình phú quí Giang Nam, chàng tưởng mình đã qua kiếp khác. Tình Họa tháo bím tóc của chàng ra, bôi dầu rồi cầm lược chải. Chàng lấy đũa gắp xôi ngọt, tự mình ăn một miếng, rồi gắp một miếng đút cho Tình Họa. Nàng mỉm cười nói: “Tam Quan vẫn hệt như xưa.”
Khi thắt bím xong thì chàng cũng vừa ăn hết điểm tâm. Tình Họa hỏi: “Tại sao ngay cả trường bào mà công tử cũng không chịu mặc? Lỡ bị cảm lạnh thì sao?”
Trần Gia Lạc mỉm cười nghĩ bụng: “Chẳng lẽ cô tưởng ta vẫn còn là chú nhóc yếu ớt mười năm về trước hay sao?”
Tình Họa đi ra ngoài, đem vào một tấm trường bào màu xanh nhạt, đưa cho Trần Gia Lạc rồi nói: “Đây là áo của nhị gia, hơi rộng một chút, Tam Quan mặc tạm.” Rồi nàng giúp chàng khoác trường bào, lại cúi người xuống cài khuy cho.
Trần Gia Lạc thấy nàng nhỏ lệ tí tách trên tấm trường bào, cảm thấy động lòng. Chàng lấy hết mấy thỏi vàng trong bọc ra, đặt vào tay nàng rồi nói: “Cô đưa cái này cho gia gia, bảo ông ấy chuộc cô về, rồi lựa một gia đình đàng hoàng mà lấy chồng. Ta đi đây!” Rồi chàng nhún chân một cái, thân hình đã vọt qua cửa sổ ra ngoài.
* * *
Trần Gia Lạc cố gác lại những suy nghĩ bi ai mềm yếu, phi ngựa chạy nhanh về Hàng Châu, đến nhà Mã Thiện Quân thì thấy mọi người đang vây quanh Thạch Song Anh hỏi han.
Thạch Song Anh vội tới thi lễ rồi nói: “Thuộc hạ vào kinh thành nghe tin hoàng đến đã đến Giang Nam, vội chạy cả ngày đêm tới đây. Nào ngờ các vị ca ca không những đã gặp hoàng đế mà còn giao thủ với hán.”
Trần Gia Lạc nói: “Thập Nhị ca phen này thật là cực khổ! Huynh còn thám thính được tin gì nữa không?”
Thạch Song Anh đáp: “Thuộc hạ vừa nghe nói tên cẩu hoàng đế đi về phía nam, biết là đại sự nên không để ý gì những việc khác nữa.”
Trần Gia Lạc thấy sắc mặt y tiều tụy, biết mấy ngày nay y phải đi suốt đêm mệt mỏi, bèn nói: “Huynh đi ngủ một giấc ngon lành đi, rồi sẽ nói chuyện sau.”
Thạch Song Anh gật đầu ra ngoài, còn quay lại nói với Lạc Băng: “Tứ tẩu! Con ngựa trắng đó thật tuyệt. Tứ tẩu yên tâm, dọc đường đệ lo liệu cho nó rất đàng hoàng.”
Lạc Băng đáp: “Đa tạ Thập Nhị đệ.”
Thạch Song Anh dừng chân lại nói: “À, dọc đường đã có gặp Hàn Văn Xung, chủ cũ con ngựa này.”
Lạc Băng hỏi: “Thế nào? Hắn còn muốn tới đòi ngựa nữa ư?”
Thạch Song Anh đáp: “Hắn không thấy đệ. Ở khách sạn Dương Châu đệ nhìn thấy hắn đi với mấy tiêu đầu của Trấn Viễn tiêu cục, nghe chúng chửi bới Hồng Hoa Hội nên tới nghe lén. Chúng mắng bọn ta dùng thủ đoạn hạ lưu, dùng thuốc mê để giết chết thằng lỏi họ Đồng kia.”
Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ nghe đến đây chen vào: “Hôm đó mấy tên này được chúng ta tha mạng không giết, thế mà còn dám chửi mắng sau lưng. Thật là đồ không biết tốt xấu.”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Lần này Trấn Viễn tiêu cục làm gì vậy?”
Thạch Song Anh đáp: “Đệ rình nghe mất nửa ngày mới biết chúng đi từ Bắc Kinh tới Hải Ninh, hộ tống một số châu ngọc của hoàng đế ban tặng đến phủ Trần Các Lão. Y quay lại nói với Trần Gia Lạc: “Đó là đồ vật của gia đình tổng đà chủ, thuộc hạ đã thông báo cho các huynh đệ ở Giang Ninh biết để âm thầm bảo vệ.”
Trần Gia Lạc bật cười: “Đa tạ huynh. Thế là phen này chúng ta lại bắt tay với Trấn Viễn tiêu cục rồi.”
Thạch Song Anh nói: “Lần này tổng tiêu đầu của họ đích thân xuất mã, rõ ràng chuyến tiêu này rất quan trọng.
Trần Gia Lạc, Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh nghe nói Oai Trấn Hà Sóc Vương Duy Dương cũng đến đây, không hẹn mà cùng “à” lên một tiếng. Chu Trọng Anh nói: “Vương lão tiêu đầu đã mười mấy năm không đích thân đi bảo tiêu, vụ này thật là hiếm có. Tổng đà chủ! Thể diện của gia đình lão đệ thật không phải nhỏ.”
Thạch Song Anh nói: “Thuộc hạ cũng thấy thật là kỳ. Sau này lại nghe, ngoài đồ vật của gia đình tổng đà chủ ra, chúng còn phải hộ tống một đôi ngọc bình.”
Trần Gia Lạc ngạc nhiên hỏi: “Ngọc bình ư?”
Thạch Song Anh đáp: “Đúng thế, đó là báu vật của người Hồi. Lần này Triệu Tuệ chinh tây, tuy người Hồi thắng thế nhưng thế của quân Thanh rất lớn, nếu đánh tiếp thì dĩ nhiên họ không chống nổi. Vì thế họ mới đưa tặng đôi ngọc bình đó để cầu hòa.”
Mọi người nghe nói người Hồi chiến thắng đều vui mừng phấn khởi, liền hỏi cho tường tận. Thạch Song Anh nói: “Nghe nói đại quân của Triệu Tuệ bị cướp hết quân lương nên phải nhịn đói mất mấy ngày, chỉ còn cách lui binh. Nhưng dọc đường lui lại trúng phải mai phục của người Hồi, tổn thương hai ba ngàn mạng.” Quần hùng nghe đến đó đều vỗ tay tán thưởng.
Chu Ỷ khẽ bảo Từ Thiên Hoằng: “Nếu Hoắc Thanh Đồng tỷ tỷ biết đây là kế sách của huynh, nhất định sẽ rất cảm kích huynh.”
Từ Thiên Hoằng mỉm cười nói nhỏ: “Đó là nhờ muội bảo ta suy nghĩ tìm biện pháp.”
Thạch Song Anh lại nói: “Bọn Triệu Tuệ đợi quân lương tới sẽ tiếp tục tấn công, trận chiến này vẫn chưa xong. Sứ giả của người Hồi đến Bắc Kinh cầu hòa, triều thần không dám quyết định nên cho người đưa đôi ngọc bình đến Giang Nam xin ý kiến của hoàng đế. Phen này lão già Vương Duy Dương thân hành xuất mã, thuộc hạ nghĩ chính là vì đôi ngọc bình này.”
Trần Gia Lạc nói: “Đừng nói là một cặp ngọc bình, dù đồ trân bảo kỳ lạ hơn nữa, chắc chắn hoàng đế cũng không chấp nhận cầu hòa.”
Thạch Song Anh nói: “Bọn tiêu sư còn nói, nếu triều đình đồng ý cầu hòa thì giữ đôi ngọc bình này lại, còn không thì phải đem trả. Vì thế chúng phải bảo vệ không được sơ sẩy chút nào.”
Trần Gia Lạc nháy mắt gọi Từ Thiên Hoằng, hai người đi sang phòng bên cạnh. Trần Gia Lạc nói: “Thất ca! Đêm qua ta có gặp hoàng đế, y nói ba ngày nữa sẽ về Bắc Kinh, trước khi về Bắc Kinh nhất định phải giết tứ ca.”
Từ Thiên Hoằng giật mình nói: “Chúng ta đã biết Tứ ca bị giam trong nội nha đề đốc Lý Khả Tú. Bây giờ tình thế khẩn cấp, phải ra tay ngay.”
Trần Gia Lạc nói: “Chắc hoàng đế chưa về tới Hàng Châu. Bọn thị vệ cao thủ đều đi theo hoàng đế, ngay lúc này chúng ta cứu người chắc dễ dàng hơn.”
Từ Thiên Hoằng hỏi: “Hoàng đế không ở Hàng Châu hay sao?” Trần Gia Lạc bèn kể những việc Càn Long ở Hải Ninh xem hải triều, quyết định tu sửa con đê chắn sóng biển, nhưng hoàn toàn không nhắc đến chuyện tế phần mộ.
Từ Thiên Hoằng xếp qua xếp lại mấy thứ nghiên mực giấy bút trên bàn, bên đông để một mớ, bên tây để một món, trầm ngâm không nói tiếng nào. Trần Gia Lạc biết chàng đang trù tính kế hoạch cứu người, nên im lặng ngồi bên để không gián đoạn suy nghĩ.
Hồi lâu, Từ Thiên Hoằng mới nói: “Tổng đà chủ! Lực của chúng ta đang mạnh, đối phương đang yếu, tấn công trực diện là hơn.” Trần Gia Lạc gật đầu khen phải. Hai người thương lượng xong xuôi, bèn quay lại đại sảnh triệu tập quần hùng.
Trần Gia Lạc vỗ tay ra hiệu, dõng dạc nói: “Bây giờ chúng ta lập tức đi cứu Văn tứ đương gia.” Quần hùng nghe vậy đều mừng rỡ.
Trần Gia Lạc gọi: “Thập Tam ca! Huynh thống lãnh ba trăm huynh đệ biết về thủy tánh, lo chuẩn bị thuyền bè. Khi xong việc, mọi người sẽ đi thuyền rút về Thái Hồ. Tưởng Tứ Cân lãnh lệnh đi ngay.
Trần Gia Lạc gọi: “Mã Đại Đình huynh đệ! Huynh lo thu dọn đồ đạc, cùng Tâm Nghiễn và toàn bộ gia quyến lên thuyền đi trước.” Mã Đại Đình cũng nhận lệnh đi ngay.
Trần Gia Lạc nói: “Thập Nhị ca! Huynh mệt quá rồi, cũng nên lên thuyền nghỉ ngơi. Những người còn lại sẽ cùng ta đi tấn công phủ đề đốc, cứu Văn tứ ca. Bây giờ Thất ca bố trí tấn công, mọi người hãy lắng nghe nhiệm vụ của mình!”
Từ Thiên Hoằng nói: “Tứ tẩu! Đúng giờ tỷ hãy tới phía đông phủ đề đốc, ở đó có tiệm pháo Hưng Long. Tứ tẩu đốt tiệm pháo đó, rồi mau mau chạy về cửa tây của phủ đề đốc, tập hợp với mọi người để tấn công.” Lạc Bănh nhận lệnh đi ngay.
Từ Thiên Hoằng nói: “Mã đại ca! Huynh cho người đi mời chủ tiệm và những người giúp việc ở tiệm pháo Hưng Long đến đây tạm trú, không cần phải nói rõ nguyên nhân. Sau khi xong việc sẽ đền bù cho họ gấp đôi tổn thất. Rồi huynh triệu tập tấc cả các đội chữa cháy trong toàn thành để chuẩn bị, triệu tập thêm bốn trăm huynh đệ đắc lực, ba trăm huynh đệ của Lục Dinh, đúng giờ thìn tập hợp ở đây để nhận lệnh.” Mã Thiện Quân lập tức sai người tỏa đi các nơi thi hành mệnh lệnh.
Từ Thiên Hoằng nói: “Bát đệ! Đệ dẫn hai trăm huynh đệ, một trăm người đẩy xe chất đầy cỏ rơm giả làm nông phu, một trăm người gánh than củi giả làm người bán củi. Cửu đệ! Đệ chỉ huy các đội chữa cháy, giả trang làm dân chúng bình thường thấy lửa thì đến cứu. Ỷ muội! Muội thống lãnh một trăm huynh đệ giả làm dân chạy nạn, mỗi người gánh một trăm cân dầu, đeo theo sau lưng một cái chảo lớn.”
Chu Ỷ mỉm cười hỏi: “Dùng chảo dùng dầu để chiên xào thức ăn hay sao?”
Từ Thiên Hoằng nghiêm chỉnh đáp: “Ta cần những thứ đó. Thập đệ! Đệ thống lãnh một trăm huynh đệ giả trang làm thợ xây thợ mộc, mỗi người đẩy một chiếc xe chở đầy vôi bột.”
Quần hùng nghe theo Từ Thiên Hoằng phân phối nhiệm vụ đều cảm thấy tức cười, nhưng ai cũng nhận lệnh.
Từ Thiên Hoằng lại nói: “Mã đại ca! Huynh giả trang làm quân nhà Thanh, thống lãnh ba trăm huynh đệ ở Lục Doanh tuần tra bên ngoài, không để ai đi dạo tới gần, tuyệt đối không để người trong phủ đề đốc thoát ra ngoài báo tin. Nghĩa phụ dẫn Mạnh đại ca, An đại ca tấn công phía nam, tổng đà chủ, đạo trưởng và tại hạ tấn công phía tây. Tam ca, Ngũ ca, Lục ca tấn công phía bắc.”
Sau khi phân phối nhiệm vụ chàng mới giải thích tỉ mỉ, quần hùng đều khen là diệu kế. Mã Thiện Quân lập tức phái người triệu tập nhân mã, đem ngân lượng đi mua sắm những thứ cần thiết. Thế lực Hồng Hoa Hội ở Hàng Châu cực lớn, chỉ một thời gian ngắn đã chuẩn bị xong xuôi. Quần hùng ăn qua loa cho xong bữa, rồi mài kiếm thử quyền chuẩn bị chém giết một phen.Ăn cơm xong, mọi người cải trang và giấu giếm binh khí, chia nhóm đi về hướng phủ đề đốc. Trần Gia Lạc nói với Từ Thiên Hoằng: “Tôn tử binh pháp nói: Dĩ hỏa tá công giả minh, Dĩ thủy tá công giả cường. Mượn lửa tấn công là sáng suốt, mượn nước tấn công là mạnh bạo. Huynh không những dùng lửa dùng nước, lại còn dùng dầu và dùng vôi bột nữa. Để xem phen này Lý Khả Tú có chống đỡ nổi hay không?”
Đang nói chuyện, hai người bỗng nghe tiếng pháo nỗ ầm ầm bên ngoài, ánh lửa bốc lên đỏ ngầu cả một vùng trời. Tiệm pháo đã cháy rồi.
Lạc Băng phóng hỏa đốt tiệm pháo, những thứ lưu huỳnh, tiêu thạch dự trữ bốc lửa nổ vang, dận cư xung quanh vắt chân lên cổ mà chạy, một vùng lập tức hỗn loạn. Nhưng nàng tới phủ đề đốc lại không thấy động tĩnh gì. Nàng đứng bên tường chờ đợi, chỉ một lúc đã thấy mấy trăm binh sĩ xếp hàng chữ nhất trên đầu tường cao của phủ đề đốc, giương cung lắp tên canh phòng rất nghiêm ngặt. Lại còn mấy chục binh lính cầm thùng nước đứng bên tường canh giữ nhưng không chạy ra ngoài chữa cháy.
Lạc Bang nghĩ: “Tên Lý Khả Tú cũng rất có mưu lược. Hắn sợ trúng kế điệu hổ ly sơn, dù bên ngoài náo động thế nào vẫn kiên quyết ở trong chờ đợi.”
Bỗng có mấy trăm người dân gánh củi, đẩy xe rơm chạy tới. Hình như họ thấy lửa cháy thì hoảng hốt, nên quăng những gánh cỏ rơm và than củi lung tung dưới đất. Trong phủ đề đốc có một tên võ quan chạy ra lớn tiếng thóa mạ: “Đồ khốn! Củi rơm quăng ở đây nguy hiểm lắm, mau mau gánh đi chỗ khác!” Hắn vung roi ngựa quất loạn xạ, dân chạy tứ tán.
Đang loạn xạ thì tiếng la hét lại vang lên, mấy chục chiếc xe chửa lửa lục tục kéo tới. Lúc này rơm củi bên ngoài phủ đề đốc đã bắt lửa, dần dần cháy rộng ra. Một trăm nạn dân do Chu Ỷ hướng dẫn đã tới, liền bắc bếp lò dưới đất, đổ dầu vào trong chảo, chất của nấu sôi lên.
Lý Khả Tú đứng trên đầu tường quan sát đám cháy, thấy dân chúng bên ngoài có vẻ kỳ lạ, bèn sai tham tướng Tăng Đồ Nam ra ngoài xem xét. Tăng Đồ Nam đi đến bên cạnh đám nạn dân, hét lên: “Các ngươi làm gì vậy?”
Chu Ỷ mỉm cười đáp: “Chúng ta nấu thức ăn, ngươi không thấy hay sao?”
Tăng Đồ Nam quát tháo: “Đồ hổn láo! Đồ chó má! Đồ con rùa! Cút nhanh! Cút nhanh lên!”
Hắn đang thóa mạ thì Mã Thiện Quân đã hướng dẫn quân lích Lục Doanh đến vây kín phủ để đốc, đuổi những người nhàn rỗi đứng xem náo nhiệt ra xa.
Tăng Đồ Nam la lên: “Không biết vị đại nhân nào dẫn quân tới, xin mời qua đây để đuổi đám gian tặc này…” Hắn nói chưa xong câu đã bị Chu Ỷ cầm muỗng gỗ tạt cho một muỗng dầu đang nấu vào mặt. Tăng Đồ Nam đau đớn ngã lăn ra đất, đám binh lính tùy tùng kinh hãi vội dìu hắn chạy vào trong phủ.
Bọn Thanh binh đứng trên đầu tường nhìn thấy rõ ràng, liền bắn tên xối xả xuống. Huynh đệ Hồng Hoa Hội nấp sau những đống củi rơm và xe đẩy, chẳng ai trúng một mũi tên.
Bây giờ dầu đã nấu sôi, Vệ Xuân Hoa thống lãnh đội chữa cháy đổ dầu vào trong ống, thụt lên đầu tường. Quân Thanh bất ngờ không kịp né tránh, những tiếng la hét thê thảm vang lên liên tục, nhiều tên té từ trên tường xuống đất.
Lý Khả Tú biết Hồng Hoa Hội tập hợp đông người cướp ngục, bèn sai người chạy ra ngoài cầu cứu, còn mình đích thân thống lĩnh binh lính đứng trên đầu tường chống đỡ. Nào ngờ bọn đi cứu đều bị huynh đệ Lục Doanh do Mã Thiện Quân hướng dẫn chặn lại. Lý Khả Tú thấy lửa cháy càng lúc càng gần, hốt hoảng đến rối loạn tay chân.
Thật ra Từ Thiên Hoàng chỉ đốt củi rơm chứ không đốt phủ. Quan trọng là hư trương thanh thế, chứ lỡ phủ đề đốc bốc cháy mà chưa kịp cứu Văn Thái Lai ra thì thật là hỏng bét.
Tưới hết dầu sôi rồi đến nước lạnh. Chương Tấn chỉ huy mọi người xách những bao vôi sống liệng vào phủ đề đốc, còn ống chữa cháy thì bơm nước vào. Vôi sống gặp nước sôi lên sùng sục, bọn lính Thanh chạy láo nháo khắp nơi.
Trần Gia Lạc hô lớn: “Xung phong!” Tất cả anh em bèn lập tức từ bốn phía ào vào trong phủ. Chỉ có một trăm người cải trang làm nạn dân là ở lại bên ngoài để tiếp tục thụt nước.
Bọn Thanh binh cầm đao thương nghênh chiến. Chương Tấn vừa huy động lang nha bổng quét ngang đáp thẳng vừa chạy tới, hai bên thì có Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa thống lĩnh hội chúng xung phong. Bọn lính Thanh vừa đánh vừa lùi, cả ngàn quân lính bị dồn vào diễn võ trường. Hội chúng Hồng Hoa Hội cố phân cách chúng thành từng đám để dễ tấn công.
Từ Thiên Hoằng dùng tiếng lóng của Hồng Hoa Hội lớn tiếng truyền lệnh, hội chúng đột nhiên tản ra tứ phía. Từ giữa đám đông đẩy ra mấy chục cỗ xe có gắn vòi rồng, phun ra nước vôi sôi sùng sục làm bọn Thanh binh chạy tứ tán, tên thì nhào lăn dưới đất kêu cha gọi mẹ, tên thì nhào vào trốn giữa đám đông.
Tử Thiên Hoằng hô lớn: “Tạm dừng phun nước!” Chàng gọi đám Thanh binh: “Ai muốn giữ mạng thì lập tức buông vũ khí, nằm sát xuống đất.” Không để chúng kịp nghĩ ngợi gì, họ Từ lại hô tiếp: “Phun nước!” Mấy chục luồng nước sôi lại bắn tới, bọn lính Thanh hoảng loạn vô chủ vội nằm rạp hết xuống đất.
Lý KHả Tú đang hoang mang lo lắng thì bỗng có một thiếu niên bên ngoài xách kiếm chạy vào, vừa nắm tay kéo hắn đi vừa kêu lớn: “Gia gia! Chạy nhanh lên!” Chính là Lý Nguyên Chỉ đang mặc nam trang.
Trần Gia Lạc, Vô Trần cùng mọi người đã tìm kiếm hết trong ngoài phủ đề đốc một lượt. Lạc Băng không thấ ytung tích chồng mình, bèn tiện tay túm lấy một tên lính Thanh, trở sống đao gõ loạn xạ lên lưng hắn rồi thét hỏi. Tên lính Thanh đó chỉ biết năn nỉ xin tha, hình như thật sự không biết chỗ nhốt Văn Thái Lai.
Đột nhiên có một người bịt mặt từ bên trong nhảy ra, phóng kiếm đâm tới Lạc Băng. Nàng vội dùng đoản đao bên tay phải gạt ra, trường đao bên trái chém trả một đao. Người đó đưa kiếm cản trở, nói giọng khàn khàn: “Muốn gặp phu quân thì đi theo ta!”
Lạc Băng còn đang ngơ ngác, y đã quay đầu chạy ngay. Lạc Băng la lên: “Ngươi nói gì?” rồi vội đuổi theo. Chương Tấn, Chu Ỷ sợ nàng sơ suất liền đi theo sau.
Người bịt mặt chạy vòng vòng một lát rồi chạy thẳng ra sau hậu viện, Lạc Băng, Chu Ỷ, Chương Tấn vẫn theo sát. Lạc Băng không ngớt gọi hỏi: “Ngươi là ai?”
Y không đáp, cứ chạy qua mấy cánh cửa tròn rồi vào một vườn hoa. Dọc đường có rất nhiều tử thi nằm lăn lóc dưới đất, chắc bị Vô Trần giết trong lúc ông lục soát. Người bịt mặt đến gần một chậu hoa, chạy quanh cái chậu đó một vòng rồi vỗ tay ba cái la lên: “Dưới này…”
Y chưa dứt lời thì đột nhiên cha con Lý Khả Tú chạy vào trong vườn, phía sau có Thường thị song hiệp đuổi sát không rời.
Người bịt mặt bèn nhảy đến trước mặt Thường thị song hiệp vung kiếm cản trở, cha con họ Lý thừa cơ nhảy lên đầu tường. Thường Bá Chí ném phi trảo bay ra, người bịt mặt đưa kiếm đỡ phi trảo, uốn mình nhảy ngược ra sau.
Thường thị huynh đệ mỗi khi lâm trận đều tâm linh tương ứng, bốn tay bốn chân như của một người vậy. Phi trảo của Thường Bá Chí vừa rời tay, Thường Hách Chí đã biết địch thủ muốn lùi. Vì thế mà người bịt mặt vừa lùi đã bị tay trái của Thường Hách Chí đánh một chưởng trúng vai, văng ra mấy bước.
Lạc Băng vội la lên: “Ngũ ca! Lục ca! Đều là người mình cả, đừng đả thương y!”
Thường thị song hiệp đứng ngẩn ra, người kia thừa cơ nhảy ra khỏi vườn hoa rồi chạy mất. Lạc Băng đem những chuyện kỳ lạ vừa rồi kể lại vắn tắt. Song hiệp nhìn bồn hoa đó mãi, vẫn không thấy chỗ nào kỳ lạ.
Mọi người đều im lặng suy nghĩ, chỉ có Chương Tấn không biết sợ làm phiền người khác, cứ kêu lên: “Tứ ca! Tứ ca đang ở đâu? Chúng ta đến cứu tứ ca đây” Ý múa lang nha bổng loạn xạ, đập vỡ luôn cái chậu này.
Thường Hách Chí thấy dưới đáy chậu hoa nát vụn hình nhu có cái gì, bèn nhảy tới thì thấy một cái vòng sắt. Y vận sức kéo lên, nghe tiếng lạch cạch, đáy chậu từ từ di chuyển để lộ ra một phiến đá lớn. Chu Ỷ biết phía dưới có cơ quan, liền chạy ra ngoài gọi Từ Thiên Hoằng, Trần Gia Lạc mọi người vào trong.
Thường thị song hiệp, Chương Tấn, Lạc Băng bốn người hợp sức mà kéo, nhưng phiến đá dó giống như đúc bằng sắt vậy, hoàn toàn không nhúc nhích. Lạc Băng kêu lớn: “Đại ca! Đại ca! Đại ca có dưới đó không?” Nhưng áp tai lên phiến đá để nghe, nhưng không có âm thanh gì cả.
Từ Thiên Hoằng nhìn kỹ phiến đá vẫn không phát hiện được gì. Chàng bèn lùi lại vài bước, đứng nhìn xung quanh chậu hoa vỡ. Dưới ánh nắng xiên xiên, đột nhiên chàng thấy ở góc phải của phiến đá có khắc mờ mờ hình bát quái, bèn nhảy lên đứng trên tảng đá, dùng đơn quải chọc nhẹ vào trung tâm của bát quái đồ. Không có động tĩnh gì, chàng vận lực ấn mạnh hơn thì bỗng cảm thấy dưới chân mình có rung động, bèn vội vàng nhảy ra.
Phiến đá đột nhiên lọt sâu xuống mặt đất. Lạc Băng mừng rỡ kêu lên, định nhảy xuống thì Thường Bá Chí la lớn; “Khoan đã!” Y kéo nàng lại, ngay lúc đó từ miệng hầm có ba mũi tên bắn lên. Lạc Băng không khỏi âm thầm kinh hãi. Phiến đá hạ xuống tới đáy, để lộ ra một cầu thang bằng đá.
Trần Gia Lạc nói: “Ngũ ca! Lục ca! Hai huynh giữ cửa hầm này, chúng ta đi xuống.” Lúc này Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh, Dương Thành Hiệp, Mạnh Kiện Hùng đã nghe tin chạy tới, tất cả đều ùa vào. Chương Tấn cầm lang nha bổng đi trước mở đường.
Xuống hết cầu thang thì tới một con đường hầm rất dài. Quần hùng chạy thẳng vào trong, tới cuối đường hầm thì thấy một cánh cửa sắt chắn ngang.
Từ Thiên Hoằng lấy mồi lửa ra đốt lên, soi vào cánh cửa sắt thì quả nhiên tìm thấy một hình bát quái nữa. Chàng cầm đơn quải chọc mấy cái lên bát quái đồ, kêu lên: “Mọi người né qua một bên!” Quần hùng vội nép sát vào hai bên đường hầm, đề phòng sau cửa sắt có ám khí bắn ra. Lần này không có ám khí, chỉ nghe những tiếng ken két rồi cánh cửa sắt này từ từ rút lên trên nóc đường hầm.
Khi cánh cửa sắt rời khỏi mặt đất một đoạn, quần hùng đều thấy nó dày khoảng hai thước, ít ra cũng nặng đến ngàn cân. Lạc Bang không đợi cửa kéo lên hết, khom người chui vào bên dưới. Từ Thiên Hoằng vội kêu: “Tứ tẩu hãy khoan!” Nhưng chàng mới mở miệng, nàng đã chui vào trong rồi. Chương Tấn, Chu Ỷ cũng vào theo.
Quần hùng lần lượt vào trong cửa, bổng Vệ Xuân Hoa từ bên ngoài chạy tới nói với Trần Gia Lạc: “Tổng đà chủ! Tên tướng quân đó đã chuồn được rồi, anh em không chặn nổi. Chúng ta hành động nhanh lên, kẻo hắn đem cứu binh đến.
Trần Gia Lạc bảo: “Huynh đi giúp Mã đại ca chuẩn bị thêm cung tiễn, đừng để cứu binh vào trong này.” Vệ Xuân Hoa nhận lệnh đi ngay.
Trần Gia Lạc cùng Vô Trần cũng chui vào dưới cửa sắt, thấy bên trong lại là một con đường hầm khác. Lúc này ai nấy cũng lo lắng cứu người, không nghĩ gì đến cơ quan ám khí nữa. Quần hùng đều xông thẳng vào trong.
Mới chạy được mấy trượng, đã thấy vách đá cuối đường hầm. Chương Tấn la lên: “Đồ rùa đen, đồ khốn kiếp! Làm gì mà lắm cơ quan đến thế!”
Đến chỗ tận cùng, thì ra đó ở đó có một chỗ ngoặt. Quần hùng rẽ qua chỗ ngoặt, bỗng thấy một cánh cửa nhỏ trước mắt. ChươngTấn cầm bổng đập vào, cánh cửa lập tức mở ra. Trước mắt mọi người bỗng sáng bừng lên, sau cửa là một gian phòng nhỏ, trong phòng thắp mấy cây nến lớn, giữa phòng có một cái ghế, ngồi trên ghế là một người cầm kiếm.
Đúng là oan gia ngõ hẹp gặp nhau. Người ngồi trên ghế chính là Hỏa Thủ Phán Quan Trương Triệu Trọng. Sau lưng Trương Triệu Trọng là một cái giường. Lạc Băng thấy rõ ràng người nằm trên giường chính là trượng phu mà mình ngày đêm tưởng nhớ.
Văn Thái Lai nghe tiếng bước chân, quay đầu lại nhìn thấy ái thê chạy tới, cứ tưởng mình đang mơ. Tay chân chàng đang bị xiềng chặt không cử động được, chỉ khẽ la lên một tiếng. Ba lưỡi phi đao của Lạc Băng nhắm hướng Trương Triệu Trọng bay tới. Nàng bất kể hắn ta đối phó cách nào hay tránh né ra sao, cứ chạy thẳng đến chiếc giường.
Tay trái của Trương Triệu Trọng quơ từ phải sang trái chộp hết ba lưỡi phi đao, tay trái ấn vào cơ quan trên ghế đang ngồi. Một cái lưới sắt từ trên nóc phòng rơi xuống, chụp khít quanh giường của Văn Thái Lai. Thế là anh nằm trong lưới sắt, em đứng ngoài lưới sắt, gần nhau trong gang tấc, mà chỉ biết nhìn nhau bằng mắt.
Trần Gia Lạc hô lớn: “Mọi người hợp lực tấn công, kết liễu tên gian tặc này!” Hô chưa dứt lời, ngọn trủy thủ dưới cổ tay chàng đã xoay mũi ra, đâm thẳng tới trước ngực Trương Triệu Trọng. Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh đều biết võ công Trương Triệu Trọng cao cường, tình hình lại đang khẩn cấp nên không tính tới chuyện anh hùng hảo hán đơn đả độc đấu nữa, cả ba rút binh khí ra bao vây hắn vào giữa.
Hỏa Thủ Phán Quan tập trung tinh thần, sử Ngưng Bích Kiếm tiếp chiến với bốn cao thủ, không hề hoảng hốt. Được mấy chiêu thì Trần Gia Lạc cất trủy thủ đi, dùng hai tay thi triển cầm nã thủ pháp chụp thẳng vào thượng bàn Trương Triệu Trọng. Chàng biết nếu địch phản công thì có Vô Trần đỡ hộ, nên múa tít song chưởng chỉ công không thủ, tấn công liên tiếp.
Võ công Trương Triệu Trọng dù cao hơn nữa cũng không chống nổi bốn nhân vật này liên thủ tấn công, nên phải lùi hai bước. Gian phòng này rất nhỏ, bây giờ lưng hắn đã dựa sát vào tường rồi. Vô Trần cả mừng vung kiếm đánh ngay chính diện, đồng thời Chu Trọng Anh, Trần Gia Lạc và Triệu Bán Sơn cũng chia hướng tấn công.
Tay trái của Trương Triệu Trọng vịn lên tường, tay phải vẫn múa kiếm chống đỡ. Vô Trần kiếm sau nhanh hơn kiếm trước, lực đạo mãnh liệt chiêu thế tinh vi, rõ ràng sắp ghim được hắn vào tường. Nào ngờ nghe roạt một tiếng, trên tường đột nhiên xuất hiện một khuôn cửa nhỏ. Trương Triệu Trọng lách người vào nhanh như chớp, rồi cánh cửa đóng lại ngay.
Bốn người phải giật mình. Vô Trần giậm chân chửi mắng. Trần Gia Lạc tung người nhảy đến trước mặt Văn Thái Lai. Lúc này Chương Tấn, Chu Ỷ, Lạc Băng cố dùng binh khí phá tấm lưới sắt trùm quanh chiếc giường.
Đột nhiên trên, đỉnh đầu có những tiếng lách cách, một tấm sắt rơi xuống giữa phòng, ngăn Văn Thái Lai ở bên trong, Trần Gia Lạc phải tức tốc đưa hai tay kéo Lạc Băng và Chu Ỷ lùi lại phía sau, hai cô này mới không bị tấm sắt xả đôi ra. Chương Tấn lại vung lang nha bổng lên đập rầm rầm vào tấm sắt, nhưng chỉ thấy lửa bắn ra chứ sắt chẳng hề gì.
Từ Thiên Hoằng xem xét trên tường tỉ mỉ xem thử có cơ quan để mở tấm sắt đó hay không. Chàng tìm được một đồ hình bát quái, lấy sức ấn vào. Nhưng hiển nhiên Trương Triệu Trọng đã làm gì trong đó rồi, nên chàng ấn mấy cái mà vẫn không có động tĩnh gì.
Từ nãy Dương Thành Hiệp vẫn đứng sau cùng, canh giữ chỗ ngoặt của đường hầm để đề phòng kẻ địch bên ngoài. Đột nhiên y nghe thấy vọng vào tiếng cừa sắt kêu ken két, bèn lập tức kêu lên: “Không xong rồi!” vọt ra ngoài.
Quần hùng không đành lòng bỏ chạy, cứ ráng lục lọi gian phòng nhỏ xíu này để tìm cơ quan kéo tấm sắt kia lên. Lạc Băng vừa gõ vào tấm sắt vừa kêu lên tha thiết: “Đại ca! Đại ca!”
Đột nhiên có tiếng Dương Thành Hiệp la gọi liên hồi trong đường hầm, tiếng la vửa kinh hãi vừa gấp rút. Triệu Bán Sơn và Chu Trọng Anh vội chạy ra. Nháy mắt lại nghe Triệu Bán Sơn hô lớn: “Mọi người ra khỏi đây nhanh lên! Nhanh lên!”
Mọi người liền chạy ra ngoài, chỉ còn Lạc Băng lưu luyến bên tấm sắt không chịu lùi ra. Chu Ỷ đả chạy đến chỗ ngoặt, thấy Lạc Băng không chịu đi liền quay lại dùng sức kéo nàng ra theo.
Dương Thành Hiệp đang dùng hai tay đỡ lấy cánh cửa nặng cả ngàn cân đó, mồ hôi đầy đầu. Chu Trọng Anh quăng đại đao, chồm tới dùng hết sức phụ đỡ từ dưới lên. Trần Gia Lạc thấy tình hình nguy ngập bèn kêu lên: “Chúng ta ra ngoài trước rồi tính tiếp.”
Quần hùng lần lượt chui qua dưới cửa. Hai người Chu, Dương đã vận toàn lực, nhưng cánh cửa sắt đó vẫn từng tấc từ từ hạ xuống. Chương Tấn khom lưng chạy tới nói: “Để đệ đỡ cho” rồi đưa cái lưng gù hứng lấy cánh cửa ngàn cân này.
Dương Thành Hiệp, Chu Trọng Anh chạy ngay ra ngoài. Dương Thành Hiệp nhặt cây cương tiên vừa quăng xuống đất, dựng đứng dưới cánh cửa sắt rồi hô lớn: “Thập đệ, ra ngay!”
Chương Tấn lăn tròn dưới đất, cánh cửa sắt rơi ầm xuống cây cương tiên. Dương Thành Hiệp nắm vai Chương Tấn kéo được ra, sau đó nghe tiếng răng rắc, cánh cửa đã đè gãy cương tiên, sau đó rớt bịch xuống đất, bụi cát bay lên mù mịt. Tình thế quả là cực kỳ hung hiểm. Dương Thành Hiệp và Chương Tấn khí lực cạn kiệt, ngồi bệt dưới đất mà thở hổn hển.
Có tiếng bước chân gấp rút, Trường Hách Chí chạy vào trong nói: “Tồng đà chủ! Ngự lâm quân đã kéo đến rồi, chúng ta có tiếp chiến không?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Đánh như vậy không lợi, chúng ta lui đi là hơn.”
Trần Gia Lạc bèn nói: “Được! Mọi người rút lui!” Triệu Bán Sơn cùng Chu Trọng Anh còn cố ấn vào cơ quan mở cửa sắt, đập rầm rầm một lúc mà vẫn không có gì động đậy. Nghe lệnh Trần Gia Lạc, họ đành bỏ đó chạy ra ngoài.
Trong vườn hoa có một thiều phụ ăn mặc đẹp đẽ nhưng đầu bù tóc rối đang hốt hoảng chạy loạn lên. Trần Gia Lạc bèn nói: “Bắt lấy!” Chu Ỷ đưa tay túm lấy mụ, kéo ra ngoài.
Mọi người đi ra sân phủ đề đốc, thấy đầu người vẫn nhấp nhô thành một khối, cả quan binh lẫn hội chúng ở chung một chỗ. Trần Gia Lạc dùng ám ngữ Hồng Hoa Hội hạ lệnh: “Lập tức rút lui!” Mọi người tập hợp ở cổng dinh, rồi đồng thanh hô một tiếng, các lộ nhân mã lùi hết về hướng bắc. Quan binh nhất thời không hiểu ra sao nên không truy đuổi.
Số người do Chu Ỷ chỉ huy còn mang theo rất nhiều chảo lớn, ngoài ra còn mấy chục hội chúng đã lo sẵn về lương thực, họp nhau nấu nướng trong rừng. Triệu Bán Sơn an ủi Lạc Băng: “Tứ muội cứ yên tâm! Nếu không cứu được Tứ đệ bình yên trở về, chúng ta thề không làm người nữa”
Mọi người đều chửi mắng tên Trương Triệu Trọng tàn độc hết chỗ nói, hai lần cứu người đều bị hắn làm hỏng chuyện. Còn người bịt mặt kia không biết là ai. Y chỉ chỗ giam cầm văn Thái Lai, rõ ràng là bằng hữu mà không chịu lộ diện, rồi lại giúp cha con Lý Khả Tú chạy trốn, thật là không sao hiểu được.
Đang đàm luậnthì đột nhiên ngoài rừng truyền vào tiếng hô vang dội “Ngã Võ Duy Dương.” Dương Thành Hiệp nói: “Trấn Viễn tiêu cục đã đến rồi.”
Lạc Băng lên tiếng mắng: “Bọn Trấn Viển tiêu cục thật là khốn kiếp. Tuy thằng chó họ Đồng đã bị Thất ca giết, nhưng ta vẫn chưa hết hận. Lần này coi như chúng may mắn một phen, vì đang bảo vệ đồ vật của gia đình tổng đà chủ. Nếu không thì chúng ta không cướp tiêu mới là chuyện lạ.”
Từ Thiên Hoằng kéo Trần Gia Lạc qua một bên, nói nhỏ: “Hôm nay chúng ta làm như vậy, không chừng hoàng đế hoảng sợ sẽ hại Tứ ca sớm hơn.”
Trần Gia Lạc chau mày: “Chuyện này thật sự không thể không đề phòng.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Trước mắt không có cách nào khác, chỉ có thể đoạt lấy ngọc bình.”
Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi: “Ngọc bình ư?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Đúng thế! Thập Nhị đệ đã nói, người Hồi đưa đến một cặp ngọc bình để cầu hòa, do bọn Trấn Viễn tiêu cục này hộ tống. Hoàng đế đã phái đại quân chinh tậy, nhất định không chịu hòa. Nhưng không nghị hòa thì phải trả lại ngọc bình cho họ, nếu không sẽ thất tín với thiên hạ. Tên hoàng đế này thích nhất là nịnh bợ, mà cũng phải giữ thể diện, chắc chắn không coi nhẹ việc này.”
Trần Gia Lạc gật đầu nói: “Sau khi lấy được ngọc bình, chúng ta sẽ gửi thư cho hoàng đế, tứ ca rụng một sợi lông là ngọc bình nát bét.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Đúng thế! Giả tỉ không thể dùng ngọc bình để đổi lấy Tứ ca, thì ít ra cũng kéo dài được mấy ngày. Chuyện này đối với Mộc lão anh hùng của Hồi tộc cũng rất có lợi.”
Trần Gia Lạc cả mừng nói: “Hay lắm! Vậy chúng ta đấu với lão Oai Trấn Hà Sóc Vương Duy Dương này một phen xem thử.”
* * *
Oai Trấn Hà Sóc Vương Duy Dương năm nay sáu mươi chín tuổi. Lão từ lúc ba mươi đã bôn tẩu giang hồ, dùng một thanh bát quái đao, một đôi bát quái chưởng dọc đường bảo tiêu dẹp hết khắp lục lâm vùng Giang Bắc, chưa hề gặp địch thủ. Trấn Viễn tiêu cục do lão sáng lập, ba chục năm ở phương bắc đã kinh qua không ít sóng to gió lớn, nhưng vẫn đứng vững không suy. Lục lâm có câu: Thà gặp Diêm Vương đừng gặp Lão Vương, nhìn thấy tiêu kỳ của lão là bọn cướp gan lớn bằng trời cũng chỉ dám đứng xa giương mắt mà nhìn.
Lão định sang năm làm lễ mừng đại thọ thất tuần để rửa tay gác kiếm, dưỡng già để được danh hiệu phước thọ toàn quy. Không ngờ năm nay tiêu cục của lão chịu lệnh Triệu Tuệ tướng quân hộ tống kinh Coran của Hồi tộc, dọc đường xảy ra xơ xuất, không những bị cướp mất thánh vật mà còn hao tổn khá nhiều tiêu đầu đắc lực. Lần này hộ tống ngọc bình, binh bộ đã chỉ định lão phải đích thân xuất mã.
Vương Duy Dương tuổi cao mà công phu chưa giảm, biết vụ này liên quan trọng đại nên không dám khinh xuất chút nào. Lão gọi từ các phân cục về sáu tên hảo thủ, triều đình còn phái thêm bốn đại nội thị vệ, hai chục tên ngự lâm quân hộ tống, lại thêm vào sứ giả người Hồi. Cả bọn cảnh giới nghiêm mật suốt đường xuôi nam, đến đây vẫn bình yên vô sự.
Hôm đó sắp đến giờ ngọ, đoàn bảo tiêu đi đến một thị trấn lớn, cách thành Hàng Châu chưa đầy mười dặm. Cả đám ghé vào một tiệm cơm lớn, gọi thức ăn. Từ đây trở đi là vùng dân cư đông đúc, chắc chắn không gặp biến cố gì, nên bọn chúng rất vui vẻ, bàn chuyện khi đến Hàng Châu sẽ chơi bời khoái lạc kiểu nào.
Đang nói đến chỗ hứng thú, nước bọt bắn ra lả tả, thì đột nhiên ngoài cửa có tiếng ngựa hí, âm thanh rất thanh thoát. Hàn Văn Xung nghe ngựa hí mà như nghe sấm ngang tai, chạy ngay ra cửa. Y thấy con ngựa yêu quý của mình đang từ từ đi ngang qua, trên lưng chất đầy củi khô. Tuấn mã thế này mà bắt đi chở củi! Hàn Văn Xung vừa đau lòng vừa tức giận nhưng lại vui mừng, vội vả nhảy ra ngoài, đưa tay chụp lấy cương ngựa.
Phía sau có một người nhà quê đang dắt ngựa. Y quất lên mông con ngựa một roi, rồi lập tức nhảy lên lưng ngựa, ngồi trên mấy bó củi. Hàn Văn Xung chưa kịp nắm chặt dây cương, con ngựa đã nhảy một cái ra xa mấy trượng. Người nhà quê ngồi trên lưng ngựa kêu trời kêu đất, dường như ngồi không vững lắm, lảo đảo muốn té.
Hàn Văn Xung quyết không chịu bỏ con ngựa này, bèn sải bước đuổi theo. Ngựa rẽ qua một chỗ ngoặt, chạy vào trong rừng. Lúc này Hàn Văn Xung không nhớ gì tới phương châm “Gặp rừng chớ vào” của bọn bảo tiêu nữa, cứ nhắm mắt tuốt theo.
Bọn tiêu đầu thấy hắn rượt theo một người nhà quê cũng không để ý lám. Tiêu đầu Vương Hạo Thiên còn mỉm cười nói: “Hàn đại ca nhớ con bạch mã của y đến phát điên rồi, dọc đường hễ thấy con ngựa hơi trắng một chút là cố đuổi theo để xem cho rõ ràng. Mai mốt về nhà nhìn thấy Hàn đại tẩu da dẻ trắng trẻo, sợ y nhầm là con ngựa, không nhảy lên bụng lại nhảy lên lưng mà cưỡi” Cả đám khoái chí ngoác mồm ra mà cười ha hả.
Trong lúc vui đùa, bỗng nghe Kim tiểu nhị chào hỏi liền miệng: “Trương đại gia! Trương đại gia! Mời đại gia ngồi bên này, sao hôm nay rảnh mà đi chơi vậy?” Một người trông như phú thương đi vào trong, khoác trường bào và áo ngắn đi ngựa cùng màu lam. Phía sau ông có bốn gia nhân theo hầu, người bưng tẩu thuốc, kẻ bưng hộp thức ăn, khí thái vừa hào nhoáng vừa khoáng đạt.
Trương đại gia vừa ngồi xuống, Kim tiểu nhị vội tới pha trà rồi nói: “Trương đại gia! Đây là trà Long Tĩnh hái vào sáng sớm thanh minh, pha bằng nước suối hồ Bảo Tuyền mới gánh về hôm qua, đại gia nếm thử xem”
Trương đại gia “à” một tiếng, mở miệng nói thổ âm Hàng Châu: “Ngươi cho ta mấy miếng thịt, một dĩa nhộng chiên và ba cân rượu trắng Trần Thiệu.” Tiểu nhị vâng dạ lùi xuống. Lát sau mùi thơm bốc lên ngào ngạt, hắn bưng rượu thịt ra ngoài cho Trương đại gia.
Vương Duy Dương hỏi: “Không hiểu sao Hàn lão đệ đi lâu như thế mà chưa trở lại?” Tên hô khẩu hiệu Tôn Lão Tam đang định trả lời thi bên ngoài bỗng vang lên tiếng giày thình thịch, một hán tử lùn tịt đi vào, theo sau là một cô nương và một hán tử tráng niên, trông như những người lưu lạc giang hồ để kiếm sống.
Người lùn chắp tay vái lạy bốn phía rồi lên tiếng: “Người ta thường nói, ở nhà dựa dẫm cha mẹ, ra ngoài nương tựa bạn bè. Tại hạ lưu lạc giang hồ có mấy ngón nghề, muốn biễu diễn cho quí vị vui vẻ mà uống rượu. Nếu hay thì tùy quí vị thưởng bao nhiêu tùy hỉ, nếu không hay thì xin quí vị thứ lỗi cho.” Y đặt một cái tách trà lên bàn, rồi lấy cái nón nỉ cũ trên đầu xuống, đậy lên cái tách rồi hét: “Biến!” Sau đó y giở cái nón nỉ ra, cái tách trà đã biến đâu mất. Y vò vò cái nón, rõ ràng trong nón không có ly tách gì hết. Mọi người đều biết đây là xảo thuật, nhưng không sao thấy được thủ pháp của y ra sao.
Trương đại gia thấy hứng thú, liền đứng dậy đến gần xem. Người lùn mỉm cười nói: “Lão gia có thể cho tại hạ mượn cái hộp thuốc một chút hay không?” Trương đại gia cười ha hả, đưa cái hộp đựng thuốc bằng ngọc trong tay cho y. Người lùn đặt hộp thuốc lên bàn, rồi cũng lấy nón nỉ úp lại, mở ra thấy trống trơn.
Một gia nhân của Trương đại gia mỉm cười nói: “Cái hộp ngọc đó đắt tiền lắm đấy, ngươi chớ có làm sứt mẻ.”
Người lùn đáp: “Xin quản gia sờ vào túi của mình.” Gia nhân đó sờ thử, rồi lấy trong túi áo mình ra cái hộp thuốc còn nguyên vẹn.
Không những Trương đại gia và đám gia nhân kinh ngạc, mà bọn tiêu sư và ngự tiền thị vệ cũng thấy lạ mắt, nên đều đứng dậy xem làm xiếc. Trương đại gia tháo chiếc nhẫn phỉ thúy đeo ở ngón giữa ra đưa cho người lùn rồi mỉm cười nói: “Ngươi biến thử cái này xem.”
Người lùn nhận lấy, rồi cũng đặt lên bàn, lấy nón chụp lên, thổi một hơi rồi niệm chú: “Đông biến tây biến, Biến loạn xà ngầu, Không sợ Diêm Vương, Không kiêng Hà Bá. Hô biến!” Y chỉ một ngón tay một cái rồi giở cái nón ra, quả nhiên chiếc nhẩn không còn ở đó nữa.
Mọi người cùng ồ lên khen ngợi. Người lùn nói: “Lão gia sờ vào túi thử xem.”
Trương đại gia vừa thò tay vào đã lấy trong túi áo của mình ra một chiếc nhẫn, ngơ ngác nhìn rồi hoan hô vang lên: “Hay quá, hay quá!”
Lúc này có mấy chục người lục tục kéo vào tiệm, nào là thương nhân lữ khách, nào là bộ khoái công sai, có cả võ tướng thống binh. Cả đám vây quanh xem làm xiếc, càng lúc càng nhích vào gần.
Tên võ quan cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Bọn cặn bã giang hồ này chỉ biết lừa bịp lấy tiền, có gì là lạ. Lão gia có món này, ngươi dám biến thử hay không?” Hắn lấy ra một vật, thuận tay dằn mạng xuống bàn. Mọi người đều thấy đó là một phong văn thư, trên phong bì có viết: Cấp trình binh bộ Vương đại nhân ở Bắc Kinh, bên dưới ký tên Lý thủy lục đề đốc ở Triết Giang, có đóng dấu niêm phong cẩn thận.
Người lùn nói: “Xin tướng gia đừng trách. Tiểu nhân chỉ biết làm bừa để kiếm miếng ăn, còn văn thư quan trọng của quan phủ thì dù cho tiểu nhân gan lớn bằng trời cũng không dám động đến.”
Dường như Trương đại gia nhìn thấy tên võ quan phách lối không thuận mắt, bèn nói: “Làm trò ảo thuật đùa vui một tí, có gì lớn chuyện lắm đâu? Ngươi cứ việc hóa phép cho người ta xem thử.” Ông quay lại bảo gia nhân: “Lấy năm lạng bạc ra đây!” Gia nhân mở hành lý lấy ra một thỏi bạc. Trương đại gia cầm lấy đặt lên bàn rồi nói với người lùn: “Nếu ngươi làm tốt, thỏi bạc này lập tức của ngươi.”
Người lùn thấy bạc sáng mắt, quay lại nói nhỏ với cô nương đứng sau lưng, rồi nói với tên võ quan: “Tiểu nhân cả gan làm trò cho vui, xin tướng gia tha lỗi trước.” Rồi y lấy cái nón nỉ úp lên văn thư, quát gọi nào là Ngọc Hoàng Đại Đế, nào là Thái Bạch Kim Tinh, đột nhiên chỉ vào một cái rương da ở bàn bên kia, hét lớn; “Đi vào, đi vào! Tôn Ngộ Không biến thành sợi lông, chui vào trong hộp, ai thấy ngộ không: “Rồi y giở nón nỉ ra, văn thư đó quả nhiên không thấy đâu nữa.
Tên võ quan la lên: “Còn rùa này, hay thật đấy!”
Người lùn quay lại vái tạ Trương đại gia, mỉm cười nói: “Đa tạ lão gia ban thưởng.” Y lập tức lấy thỏi bạc trên bàn, đưa cho cô nương đứng sau cất vào bọc. Mọi người vỗ tay hoan hô không ngớt.
Tên võ quan nói: “Được rồi! Bây giờ trả văn thư lại cho ta.”
Người lùn mỉm cười: “Văn thư đang ở trong cái rương da kia, xin tướng gia mở ra mà lấy.” Câu này làm bọn người tiêu cục phải hoảng sợ nhảy chồm lên. Cái rương da đó đang đựng ngọc bình, đã dán giấy niêm phong của nội phủ hoàng cung, ai dám mở ra?
Tên võ quan đi tới, thò tay sờ vào rương. Tiêu đầu Vương Hạo Thiên vội nói: “Lão gia! Đây là bảo vật của hoàng cung, không thể động đến được.”
Tên võ quan hỏi: “Ngươi nói giỡn kiẻu gì vậy?” vẫn đưa tay tới.
Ngự tiền thị vệ Mã Kiếm Hiệp gằn giọng: “Ai giỡn với ngươi? Xê ra lập tức!”
Tên võ quan thấy họ Mã mặc sắc phục thị vệ, cấp bậc còn lớn hơn mình nhiều. Hắn không dám ngang bướng, bèn khom lưng nói: “Dạ dạ, xin đại gia lấy văn thư trả lại cho hạ quan.”
Mã Kiếm Hiệp quát bảo người lùn: “Ngươi đừng đùa nữa, mau mau trả văn thư cho người ta đi.”
Người lùn khúm núm đáp: “Văn thư ở trong cái rương đó thật mà, đại nhân không tin thì mở ra nhìn là biết ngay.”
Tên võ quan giận dữ nện luôn một quyền xuống vai người lùn, hét lên: “Đừng lải nhải nữa, lấy ra nhanh lên.”
Cô nương đứng sau tức giận kêu lên: “Có gì thì nói, sao lại đánh người?”
Tên võ quan tiếp tục quát nạt: “Đồ con rùa khốn kiếp! Công văn của lão gia mà ngươi cũng dám lấy ra đùa giỡn hay sao?”
Trương đại gia nhịn không nổi bèn nói: “Lão gia, đừng động thủ bửa bãi.” Rồi ông bảo người lùn: “Ngươi mau mau biến cho văn thư trở lại, trả cho vị lão gia này đi.”
Người lùn ảo não nói: “Không dám lừa gạt lão gia, văn thư thật sự vào trong cái rương da đó rồi. Tiểu nhân biết biến vào đó chứ không biết biến trở ra.”
Trương đại gia bước tới mấy bước, hỏi Mã Kiếm Huệp: “Xin hỏi quí tính đại nhân?”
Mã Kiếm Hiệp đáp: “Ta họ Mã.”
Trương đại gia nói: “Bọn tiểu nhân hạ lưu này hành động không biết suy nghĩ. Xin Mã đại nhân giúp cho một tay, lấy văn thư trả lại cho ông ấy đi.”
Mã Kiếm hiệp nói: “Đây có dấu ngự phong của hoàng gia, nếu không có thánh chỉ của hoàng thượng thì không ai dám mở.”
Trương đại gia chau mày, cảm thấy khó xử. Tên võ quan tức giận nói: “Nếu không đem văn thư trả lại cho ta, làm chậm trễ đại sự thì phải mang tội chém đầu. Này! Các vị huynh đệ, phiền các vị giúp ta nói lý mấy câu.”
Trong tiệm cơm đang có mười mấy tên quan quân, sắc phục giống như tên võ quan này, hình như ở cùng doanh trại. Chúng đều bước lên vây quanh, hung hăng nói giúp, nhất dịnh đòi Mã Kiếm Hiệp giao trả lại văn thư.
Vương Duy Dương lão luyện giang hồ mấy chục năm, thấy chuyện này có phần cổ quái bèn nghĩ: “Mấu chốt của vụ này là ở tên lùn!” Lão bèn đưa tay chụp vào vai trái người lùn.
Người lùn co mình lại tránh, lớn tiếng kêu: “Xin tha cho tiểu nhân một lần!”
Vương Duy Dương thấy thân thủ y rất mau lẹ, lại càng nghi ngờ hơn. Lão đang đuổi theo người lùn thì mấy chục quan quân đã lên tiếng gây gổ với bọn tiêu đầu và ngự tiền thị vệ. Vương Hạo Thiên ôm chặt rương da trong lòng, hai tiêu đầu đứng bên hộ vệ. Mã Kiếm Hiệp rút đao sau lưng ra, chém lên bàn một nhát rồi quát: “Còn ai dám lải nhải nữa không? Lùi ra nhanh lên!”
Tên võ quan cũng rút đao, hô lớn: “Ngươi không chịu trả công văn thì ta cũng chết. Dù sao cũng mất mạng rồi, hôm nay ta phải liều với ngươi một phen. Các huynh đệ! Mọi người lên cả đi!” Hắn lập tức phóng lên giao đấu với Mã Kiếm Hiệp. Vương Duy Dương liền miệng quát lên cản trở, nhưng không sao cản nổi. Bọn quan quân đều lấy binh khí ra, chạy ùa tới gây một trường loạn đả.
Mã Kiếm Hiệp là hảo thủ số một của ngự tiền thị vệ, thế mà mới qua lại mấy chiêu với tên võ quan hạng bét này đã ở thế hạ phong. Hắn thấy đối phương đao pháp kỳ lạ, võ công thâm hậu, hắn không khỏi vừa kinh hãi vừa giận dữ. Thêm mấy chiêu nữa, họ Mã đã suýt trúng một đao vào vai phải.
Trong lúc hỗn loạn, bên ngoài lại có một nhóm người đi vào. Có người quát lớn: “Bọn nào phá rối ở đây vậy? Bắt hết cho ta!”
Bọn quan quân bị oai khí của người này nhiếp phục, đều dừng tay lại. Mã Kiếm Hiệp thở ra một hơi, nhìn lại thấy mấy chục quan quân đang hộ tống một đại quan còn trẻ vào trong. Hắn nhận ra đây là Phúc Khang An, người đang được hoàng thượng sủng ái nhất, hiện là đô thống bạch kỳ Mãn Châu, kiêm nhiệm thống lĩnh ngự lâm quân và cửu môn đề đốc Bắc Kinh.
Mã Kiếm Hiệp vội bước tới thỉnh an, bọn ngự tiền thị vệ còn lại đều khom mình thi lễ.
Đại quan hỏi: “Các ngươi đang ồn ào chuyện gì vậy?”
Mã Kiếm Hiệp đáp: “Bẩm thống lĩnh đại nhân, chuyện này do bọn họ đòi hỏi vô lý.” Hắn thuật lại tình hình một chập.
Đại quan hỏi: “Còn tên làm trò đó đâu rồi?”
Người lùn đang trốn kỹ, bây giờ mới chui ra khấu đầu. Đại quan nói: “Việc này thật là cổ quái. Tất cả bọn ngươi phải theo ta về Hàng Châu, để ta điều tra lại đã.”
Mã Kiếm Hiệp vội đáp: “Vâng, vâng! Thống lĩnh đại nhân quả là anh minh quyết đoán.”
Đại quan quay lưng lại bảo: “Đi thôi!” rồi nhảy ngay lên ngựa. Bọn quan quân thủ hạ của y bèn thu gom mọi người tiêu cục và bọn quan binh gây sự, ngay cả sứ giả người Hồi cũng bị dẫn về.
Lúc nãy Vương Duy Dương cảm thấy bất ổn, đã định rút cương đao ra trấn áp bọn quan quân gây sự rồi mới nói lý lẽ sau. Lão đột nhiên thấy thống lĩnh ngự lâm quân Phúc Khang An đến đây, không khỏi mừng rỡ trong lòng.
Mã Kiếm Hiệp giới thiệu với vị đại quan: “Phúc đại nhân! Đây là tổng tiêu đầu Vương Duy Dương của Trấn Viễn tiêu cục.”
Vương Duy Dương bước tới thỉnh an. Đại quan nhìn lão từ đầu đến chân một cái, hừ một tiếng rồi nói: “Đi thôi!”
Cả đoàn người tiến vào thành Hàng Châu. Vương Duy Dương theo ngự lâm quân đi tới một tòa dinh thự lớn ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ, thầm nghĩ: “Đây nhất định là nhà nghỉ của thống lĩnh đại nhân rồi. Ông ấy là người được hoàng thượng ân sủng nhất, chẳng trách có khí thế lớn như vậy.”
Mọi người vào trong đại sản, đại quan bảo Mã Kiếm Hiệp; “Các ngươi ngồi đây một lát.”
Mã Kiếm Hiệp vội nói: “Xin đại nhân cứ tùy tiện.”
Đại quan đi vào bên trong. Lát sau một tên võ quan ngự lâm quân bước ra ngoài, hạ lệnh gọi đám quan quân gây chuyện, bọn làm xiếc, Trương đại gia và gia nhân vào bên trong.
Vương Hạo Thiên bỗng lên tiếng: “Vụ rắc rối vừa rồi thật là đáng sợ, sợ nhất là đám quan quân đó làm hỏng ngọc bình. Tại hạ xem chừng bọn này có chỗ khác thường.”
Mã Kiếm Hiệp đáp: “Đúng thế! Bọn này võ công cao thâm kỳ lạ, không phải là quan quân tầm thường. May mà gặp Phúc đại nhân, nếu không thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra.”
Vương Duy Dương nhận xét: “Phúc đại nhân nội công rất thâm hậu. Một vị công tử mà luyện được công lực như thế thật không phải dễ.”
Mã Kiếm Hiệp hỏi: “Sao? Phúc đại nhân giỏi võ công lắm ư? Làm sao tổng tiêu đầu biết được?”
Vương Duy Dương đáp: “Chỉ nhìn nhãn thần của ông ấy là biết nội công cao tới mức nào. Nhưng trong các vị vương thân quốc thích cũng có nhiều người giỏi võ, không đáng ngạc nhiên lắm.”
Đang trò chuyện thì một tên ngự lâm quân bước ra nói: “Gọi Vương Duy Dương ở Trấn Viễn tiêu cục vào trong.”
Vương Duy Dương đứng dậy, theo hắn đi vào. Qua hai cái sân, đến hậu sảnh thì thấy Phúc Khang An bệ vệ ngồi chính giữa, mặc quan phục trọng thần, bên ngoài còn khoác thêm áo ngắn màu vàng, đội nón có tua ngù càng tăng thêm phần uy thế. Trước mặt y có bày công án, hai bên có rất nhiều ngự lâm quân đứng hầu. Đám người làm xiếc và Trương đại gia đang quì bên trái.
Vương Duy Dương vừa vào đó, bọn quan quân đứng hai bên đều quát: “Quì xuống!” Đến nước này, dĩ nhiên họ Vương không dám không quì.
Phúc Khang An quát hỏi: “Ngươi chính là Vương Duy Dương phải không?”
Họ Vương đáp: “Tiểu nhân chính là Vương Duy Dương.”
Phúc Khang An gằn giọng: “Nghe nói ngươi có ngoại hiệu là Oai Trấn Hà Sóc.”
Vương Duy Dương đáp: “Đó chỉ là lời tâng bốc của bằng hữu trên giang hồ mà thôi.”
Phúc Khang An lạnh nhạt nói: “Hoàng thượng và ta đều ở Bắc Kinh, thế thì cũng bị oai danh của ngươi trấn áp chứ gì?”
Vương Duy Dương giật mình kinh hãi, lập tức dập đầu lia lịa mà năn nỉ: “Tiểu nhân không dám! Tiểu nhân lập tức bỏ cái ngoại hiệu đó đi.”
Phúc Khang An quát: “Thật là lớn mật! Bắt hắn cho ta!” Bọn quan quân ở hai bên chạy tới, khóa tay lão lại rồi dẫn ra sau. Vương Duy Dương toàn thân võ nghệ mà không dám phản kháng chút nào.
Sau đó Mã Kiếm Hiêp, Vương Hạo Thiên cùng bọn thị vệ tiêu đầu, từng người được gọi vào rồi bắt giam. Cuối cùng thì bọn tiểu tốt chạy cờ hô khẩu hiệu cũng bị bắt nốt, tất cả đều bị khóa tay giam lại. Một tên ngự lâm quân hai tay bưng cái rương da đến trước mặt Phúc Khang An, quì một gối nâng rương lên đỉnh đầu, mỉm cười nói: “Bẩm báo Phúc thống lãnh, ngọc bình đã đem đến.”
Phúc Khang An cười ha hả bước ra khỏi ghế. Trương đại gia, người lùn và bọn đang quì dưới đất đều đứng dậy, ai cũng cười rộ lên. Phúc Khang An nói với người lùn: “Thất ca! Huynh thật không thẹn với ba chữ Võ Gia Cát.”
Thì ra người lùn làm xiếc là Từ Thiên Hoằng, hai người đi theo chàng là Chu Ỷ và An Kiện Khang. Trương đại gia là Mã Thiện Quân, còn Phúc Khang An chính là Trần Gia Lạc. Đám quan quân gây chuyện là Thường Hách Chí, Mạnh Kiện Hùng và mấy anh em khác. Gia nhân của Trương đại gia và tiểu nhị là tay chân của Mã Thiện Quân cả.
Sau khi bàn kế, Từ Thiên Hoằng chợt nghĩ đến tiêu sư Hàn Văn Xung đã quen mặt người trong Hồng Hoa Hội, bèn để Triệu Bán Sơn giả làm một nông phu cưỡi con ngựa trắng của Lạc Băng dụ hắn vào rừng thông. Rồi Thường Bá Chí tới giúp một tay, hai người lập tức bắt hán trói lại.
Trò xiếc Từ Thiên Hoằng chỉ là chuyện đã sắp xếp sẵn. Có hai cái nón nỉ giống hệt nhau, một cái vừa úp lên tách trà và các thứ khác là đẩy đi ngay, giao cho Chu Ỷ cất giấu. Từ Thiên Hoằng lấy cái nón kia để lật qua lật lại, dĩ nhiên trong đó chẳng có thứ gì. Trương đại gia và tên gia nhân đã giấu hộp thuốc và nhẫn ngọc sẵn trong túi, đương nhiên mỗi thứ phải có hai chiếc giống nhau. Từ Thiên Hoằng đưa cho Chu Ỷ một chiếc, họ lấy trong túi ra chiếc kia, người khác không sao biết được.
Dĩ nhiên không thể giấu sẵn văn thư trong rương da, nhưng Từ Thiên Hoằng chỉ muốn làm rối loạn một hồi, để khi Trần Gia Lạc tiến vào thì bọn tiêu đầu và thị vệ đã đầu choáng mắt hoa hết rồi, không còn tỉnh táo mà khởi lòng nghi hoặc.
Từ Thiên Hoằng chỉ muốn Trần Gia Lạc giả trang làm một đại quan, nào ngờ âm phù tương trợ thế nào mà tướng mạo họ Trần lại rất giống Phúc Khang An, mấy tên thị vệ tự động chạy tới vấn an thi lễ. Thế là kế hoạch lại càng kín kẽ, giống như áo trời không có đường may.
Trần Gia Lạc xé dấu niêm phong, vừa mở cái rương da ra là lập tức hào quang chói mắt. Trong rương có một đôì ngọc bình trắng muốt, cao một thước hai tấc, sắc dịu dàng mà óng ánh vô cùng. Trên bình vẽ mỹ nhân có bím tóc dài, đội nón nhỏ, mặc trang phục kiểu người Hồi, ngang hông đeo một thanh đoản kiếm. Mỹ nhân diễm lệ tuyệt trần, sắc thái mê người, mục quang sáng long lanh, miệng tươi như muốn nói. Nàng trông như tiên nữ đang múa trên cung Quảng Hàn, không thể có trong cõi đời phàm tục này được.
Mọi người vây quanh thưởng thức ngọc bình, không ai không tán thưởng. Vệ Xuân Hoa thở dài nói: “Hồi Cương ở tận miền Tây Vực, thế mà có họa sư cao minh đến thế ư?”
Lạc Băng nói: “Lúc ta gặp Hoắc Thanh Đồng muội muội, tưởng nàng đã là thiên hạ vô song rồi. Nào ngờ mỹ nữ trên ngọc bình còn đẹp hơn nhiều.”
Chu Ỷ nói: “Đó chỉ là hình vẽ. Không lẽ các vị cho rằng có người đẹp đến thế thật sao?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta mời vị sứ giả người Hồi đến thì biết ngay thôi.”
Sứ giả người Hồi gặp Trần Gia Lạc, nghĩ là trọng thần hay quí tộc nên cung kính thi lễ. Trần Gia Lạc nói: “Quí sứ từ xa tới đây thật là cực khổ. Xin hỏi tôn tánh đại danh?”
Sứ giả biết tiếng Hán, liền đáp: “Tại hạ là Khải Biệt Hưng. Không biết phải xưng hô đại quan như thế nào?”
Từ Thiên Hoằng nói xen vào: “Vị này là Lý tướng quân, thủy lục đề đốc tỉnh Triết Giang.” Trần Gia Lạc và quần hùng làm ngơ, chưa biết chàng có dụng ý gì.
Trần Gia Lạc hỏi: “Mộc Trác Luân lão anh hùng có được khỏe không?”
Khải Biệt Hưng đáp: “Đa tạ đại quan hỏi thăm, tộc trưởng của bọn tại hạ rất khỏe.”
Trần Gia Lạc lại hỏi: “Xin hỏi quí sứ, mỹ nhân được vẽ trên ngọc bình là nhân vật kim cổ thế nào, hay chỉ xuất phát từ ý tưởng của họa sư?
Khải Biệt Hưng đáp: “Ngọc bình này do họa sư Tư Anh trứ danh của tệ tộc vẽ từ năm trăm năm trước, mỹ nữ trên bình là nữ anh hùng Mã Mễ Nghi trong truyền thuyết của tệ tộc. Nàng được chân chủ Ala phù hộ, đã xả thân lập đại công vì dân tộc. Tệ tộc có rất nhiều đồ ngọc, tranh vẽ, thảm treo có hình của nàng. Đôi ngọc bình này vốn thuộc về tam tiểu thư Kha Tư Lệ của Mộc lão anh hùng. Kha Tư Lệ cũng đẹp như Mã Mễ Nghi vậy.”
Chu Ỷ không nhịn nổi, hỏi xen vào: “Cô ấy là muội muội của Hoắc Thanh Đồng cô nương à?”
Khải Biệt Hưng kinh ngạc hỏi: “Vị cô nương này cũng quen với Thúy Vũ Hoàng Sam hay sao?”
Chu Ỷ đáp: “Từng có duyên gặp gỡ một lần.”
Trần Gia Lạc muốn hỏi Hoắc Thanh Đồng lúc này ra sao, mặt bỗng đỏ lên, một chút. Chàng định hỏi thì đột nhiên Mã Thiện Quân từ bên ngoài rảo bước chạy vào, ghé tai nói: “Lý Khả Tú đang thống lãnh khoảng ba ngàn quân binh tiến về hướng này, không chừng là để đối phó với chúng ta.”
Trần Gia Lạc khẽ gật đầu, rồi bảo Khải Biệt Hưng: “Xin mời quí sứ về nghỉ ngơi, chúng ta sẽ nói chuyện sau.”
Khải Biệt Hưng chắp tay, khom lưng nói: “Xin hỏi đại quan, đôi ngọc bình này sẽ xử lý như thế nào?”
Trần Gia Lạc nói: “Các vị ca ca, bây giờ tốt nhất ta tạm lui khỏi Hàng Châu. Trước mắt chưa cứu thoát được Tứ ca được, dàn trận đánh nhau với bọn Thanh binh chẳng có ích lợi gì.”
Lạc Băng suy nghĩ một hồi rồi lên tiếng: “Lý Khả Tú dám nhốt đại ca, chúng ta đem vợ bé của hắn ra giết trước đi, Tổng đà chủ có cho phép không?”
Trần Gia Lạc không hiểu, hỏi lại: “Vợ bé nào?”
Lạc Băng đáp: “Mụ đàn bà trang điểm lòe loẹt mà chúng ta bắt được ở phủ đề đốc chính là vợ bé của Lý Khả Tú. Lúc nãy mụ ta vừa la vừa khóc, bị thuộc hạ tát cho mấy cái, bây giờ chịu nằm yên trong kia rồi.”
Quần hùng biết nàng thương nhớ phu quân da diết, trong lòng vừa buồn phiền vừa tức giận nên muốn xử lý mụ kia cho hả dạ. Mọi người bất giác mỉm cười.
Từ Thiên Hoằng nói: “Tổng đà chủ! Đà chủ viết thư cho Lý Khả Tú đi, có được không?”
Trần Gia Lạc hiểu ngay, cả mừng đáp: “Hay quá!” Chàng lập tức lấy bút viết một lá thư: “Lý tướng quân! Tại hạ sáng nay đi dạo cảnh hồ, may được làm quen với người được tướng quân sủng ái nhất. Bọn tại hạ đã mạn phép mời về tệ xá để khoản đãi tỏ chút tình ngưỡng mộ. Xin tướng quân đừng trông ngóng làm gì. Hồng Hoa Hội hội chủ, Trần Gia Lạc kính bái.”
Trần Gia Lạc hạ lệnh: “Cửu ca! Phiền huynh đưa thư này cho Lý Khả Tú. Bát ca! Huynh đi theo để tiếp ứng Cửu ca.” Dương, Vệ nhận lệnh đi ngay.
Trần Gia Lạc lại nói: “Nếu thật sự Lý Khả Tú sủng ái ả tiểu thiếp này, có thể hắn sẽ không dám vọng động. Nhưng nếu hoàng đế hạ lệnh thì hắn có lo lắng đến thế nào cũng không dám tuân chỉ. Thất ca nghĩ xem thế nào?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta định cướp ngọc bình để thương lượng với hoàng đế, không ngờ đôi ngọc bình này lại tuyệt vời đến thế. Thuộc hạ nghĩ rằng hoàng đế thấy chắc cũng yêu thích không muốn rời tay, cũng có thể y sẽ đồng ý nghị hòa với Hồi tộc. Nếu vậy chúng ta lấy cặp ngọc bình này há chẳng làm hỏng đại sự của Mộc lão anh hùng? Giả tỉ vì thế mà xảy ra binh họa liên miên, sinh linh đồ thán thì không sao yên tâm được.”
Trần Gia Lạc chau mày nói: “Nói là nói vậy, nhưng chúng ta cướp ngọc bình cực khổ như thế, chẳng lẽ đưa trả cho y một cách dễ dàng hay sao?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Thuộc hạ có kế hoạch này, tổng đà chủ xem thử thế nào.”
Chàng nói mưu mẹo của mình ra, Chu Ỷ lập tức kêu lớn: “Không quang minh chính đại gì cả, muội không thích đâu.”
Chu Trọng Anh mắng: “Yên lặng mà nghe Tổng đà chủ dặn dò. Con gái gì mà nhiều chuyện như thế?”
Chu Ỷ không dám lớn tiếng nữa, chỉ lẩm bẩm cằn nhằn: “Làm vậy mà không sợ thất đức hay sao?”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói: “Không làm hỏng việc nghị hòa của Hồi tộc, lại có thể cứu được Tứ ca. Kế hoạch này của Thất ca vẹn cả hai bề, có thể dùng được. Thất ca! Huynh đi nói chuyện với sứ giả đi.” Rồi chàng quay lại, mỉm cười nói với Chu Ỷ: “Trước nay Thất ca đối đãi với bằng hữu không có chỗ nào thất đức, Chu cô nương không cần lo lắng.”
Từ Thiên Hoằng đi gặp Khải Biệt Hưng, nói: “Bây giờ tại hạ dẫn ngài đi gặp hoàng thượng.” Mạnh Hiện Hùng bưng cái rương da, trong đó chỉ còn một cái ngọc bình, giấy niêm phong được dán lại đàng hoàng, Khải Biệt Ưng không biết gì cả.
Ba người đến cổng dinh tuần phủ, Mạnh Hiện Hùng giao rương da cho sứ giả, rồi bảo: “Ngài vào đó một mình đi.” Rồi hai người quay lưng về nhà họ Mã ở Cô Sơn, dọc đường gặp Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa. Thì ra Lý Khả Tú nhận được thư vừa kinh hãi vừa giận dữ, đã thu binh trở về rồi.
Khoảng giờ Thân, gia nhân đưa vào một tấm thiệp nói rằng có một võ quan đến xin bái kiến Tổng đà chủ, trên thiệp có ghi tên Tăng Đồ Nam.
Mã Thiện Quân mỉm cười nói: “Thất đương gia! Kế sách của huynh đã thành rồi. Tên tham tướng này là người thân tín của Lý Khả Tú.”
Trần Gia Lạc bảo: “Cửu ca! Huynh ra gặp hắn đi.”
Vệ Xuân Hoa ra phòng khách, thấy một võ quan đang ngồi trên ghế. Tên này thân hình khôi vĩ nhưng trên mặt có một vết bỏng lớn, rõ ràng mới bị tạt dầu sôi ở phủ đề đốc.
Vệ Xuân Hoa hỏi: “Không hiểu Tăng tướng quân cần gặp tệ đương gia có gì chỉ giáo?”
Tăng Đồ Nam đáp: “Tại hạ phụng mệnh Lý tướng quân, muốn gặp Trần tổng đà chủ của quý hội để thương lượng một việc quan trọng.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Tệ đương gia lúc này không rảnh, Tăng tướng quân nói với tại hạ là được rồi.”
Tăng Đồ Nam nghĩ bụng: “Ta là mệnh quan triều đình, thân hành đến gặp bọn thảo khấu giang hồ này là ép mình lắm rồi, thế mà còn làm bộ không thèm gặp.” Hắn tức tối, nhưng nghĩ lại mình có việc cần, đành ráng dằn cơn giận xuống rồi nói: “Vừa rồi, Lý tướng quân có nhận được thư của Trần tổng đà chủ, cho biết Như phu nhân đang làm khách ở quý hội. Rất mong Trần tổng đà chủ để bà ấy trở về tướng phủ, dĩ nhiên tướng quân muôn phần cảm kích.”
Vệ Xuân Hoa đáp: “Việc này rất dễ, tại hạ nghĩ Trần đương gia chắc chắn không từ chối.”
Tăng Đồ Nam nói: “Còn việc thứ hai, có liên quan đến ngọc bình.”
Vệ Xuân Hoa chỉ “à” một tiếng, không nói gì. Tăng Đồ Nam tiếp: “Hồi tộc đã phái sứ giả đưa đến một cặp ngọc bình để cầu hòa. Khi hoàng thượng mở rương da ra, thấy đã mất đi một cái. Mặt rồng giận dữ, hỏi sứ giả thì biết liên can tới một tướng quân trẻ tuổi, tự xưng là Lý thủy lục đề đốc tỉnh Triết Giang. Hoàng thượng lập tức gọi Lý tướng quân ra xét hỏi, dĩ nhiên tướng quân không biết chút gì. May mà thánh thượng anh minh, biết trong vụ này phải có ẩn tình, chắc chắn người đó không phải Lý tướng quân nên không trách tội.”
Vệ Xuân Hoa nói nhẹ như không: “Vậy thì hay quá rồi.”
Tăng Đồ Nam nói: “Nhưng hoàng thượng lại bảo là việc này có liên quan đến Lý tướng quân, nên hạn định trong vòng ba ngày tướng quân phải tìm được ngọc bình về trình lên hoàng thượng. Thật là khó cho tướng quân.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Nếu tìm không được, chắc bị điều tra cách chức là cùng. Không làm quan nữa lại càng nhàn hạ, lỡ bị liên lụy vào việc lớn đến mức chém hết cả nhà còn khổ hơn nhiều.”
Tăng Đồ Nam nghe chế giễu mà phải bỏ qua, xuống giọng nói: “Trước người quân tử không nói lời giả dối. Tại hạ hôm nay đến đây là để cầu xin quý hội trả lại ngọc bình.”
Vệ Xuân Hoa không hề động thanh sắc, bình tĩnh đáp: “Ngọc bình nào, tại hạ chưa được biết. Nhưng Lý tướng quân gặp phải vấn đề nan giải, Tăng tướng quân lại đích thân đến đây nhờ cậy, bọn tại hạ cũng có thể giúp sức thử tìm xem. Không chừng sáu tháng một năm sau sẽ có chút ít manh mối.”
Tăng Đồ Nam võ nghệ không cao lắm, nhưng khá tinh minh mẫn cán. Hắn biết khi giao tiệp với bọn giang hồ hảo hán thì càng thẳng thắn càng có kết quả, bèn nói: “Lý tướng quân nói là đã ngưỡng mộ Trần tổng đà chủ của quý hội rất lâu, tiếc rằng chưa có cơ hội kết giao thân mật, hôm nay mới ngẫu nhiên có hai chuyện cần giúp đỡ. Người xưa thường nói không có công thì không dám nhận lộc, tướng quân cũng thấy trong lòng khó xử, vì thế đã dặn là nếu Trần tổng đà chủ cần gì thì đừng khách sáo, xin nói ra cho biết.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Tăng tướng quân thẳng thắn mau lẹ như thế là tốt rồi. Trần đương gia của bọn tại hạ có nói, việc thứ nhất là Hồng Hoa Hội hôm nay đã làm phiền phủ đề đốc, xin Lý tướng quân rộng lượng tha thứ, bỏ qua không truy cứu.”
Tăng Đồ Nam nói: “Chuyện này là lẽ đương nhiên. Tại hạ có thể vỗ ngực đảm bảo, từ nay về sau tướng quân không vì việc này mà làm khó dễ quý hội. Xin hỏi việc thứ hai là gì?”
Vệ Xuân Hoa nói: “Tứ đương gia Văn Thái Lai của bọn tại hạ đang bị nhốt trong phủ đề đốc, việc này chắc Tăng tướng quân cũng biết.”
Tăng Đồ Nam khẽ gật đầu, Vệ Xuân Hoa nói tiếp: “Tứ đương gia là khâm phạm, dĩ nhiên Lý tướng quân gan lớn bằng trời cũng không dám thả huynh ấy ra, việc này bọn tại hạ rất hiểu. Nhưng Trần tổng đương gia rất nhớ Văn tứ ca, tối nay muốn được gặp một lần.”
Tăng Đồ Nam suy nghĩ một lúc rồi nói: “Việc này trọng đại, tại hạ không dám làm chủ, phải trở về thỉnh thị Lý tướng quân rồi sẽ phúc đáp sau. Trần tổng đà chủ còn việc gì muốn dặn nữa hay không?”
Vệ Xuân Hoa đáp: “Hết rồi.”
Tăng Đồ Nam cáo từ trở về. Khoảng một giờ sau hắn quay lại, vẫn là Vệ Xuân Hoa ra tiếp.
Họ Tăng nói: “Tướng quân nói, án của Văn tứ gia cực kỳ trọng đại, lẽ ra tuyệt đối không để ai vào ngục thăm hỏi.”
Vệ Xuân Hoa gật đầu: “Thì đúng là như thế.”
Tăng Đồ Nam tiếp: “Nhưng Trần tổng đà chủ đã đồng ý trả lại ngọc bình, tướng quân cũng chỉ biết liều thủ cấp của mình để Trần tổng đà chủ được gặp một lần. Nhưng có hai việc mọn, xin Trần tổng đà chủ nhận lời mới được.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Xin Tăng tướng quân nói ra nghe thử.”
Tăng Đồ Nam nói: “Thứ nhất, tướng quân vì muốn kết giao bằng hữu nên mới liều mạng đồng ý việc này, nhất định không thể cho người khác biết được. Vụ này mà tiết lộ thì đúng là họa lớn bằng trời.”
Vệ Xuân Hoa hỏi: “Lý tướng quân muốn Trần tổng đà chủ hứa là việc này không tiết lộ ra ngoài một câu một chữ, có phải vậy không?”
Tăng Đồ Nam đáp: “Đúng thế!”
Vệ Xuân Hoa nói: “Chuyện này thì tại hạ có thể thay mặt Trần đương gia mà đồng ý.”
Tăng Đồ Nam nói tiếp: “Việc thứ hai, lúc vào lao thăm hỏi thì chỉ một mình Trần tổng đà chủ vào mà thôi.”
Vệ Xuân Hoa mỉm cười nói: “Dĩ nhiên Lý tướng quân phải sợ bọn tại hạ thừa cơ cướp ngục. Được, tại hạ đồng ý là một mình Trần tổng đương gia vào thăm hỏi, nhưng tại hạ không hứa là không cướp ngục đâu nhé.”
Tăng Đồ Nam hoan hỉ nói: “Vệ huynh là anh hùng hảo hán, một lời đáng giá ngàn vàng. Bây giờ tại hạ lập tức trở về báo cáo, lát nữa xin mời Trần tổng đà chủ ghé thăm phủ đề đốc.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Nếu khi Trần tổng đương gia gặp Văn tứ đương gia mà có Trương Triệu Trọng ở bên, đương nhiên không thể giấu được hắn vụ này. Sẽ rất phiền cho Lý tướng quân.”
Tăng Đồ Nam nói: “Vệ huynh nói rất có lý. Vậy để Lý tướng quân tìm cách mời ông ấy rời khỏi đó.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Chúng ta ăn chén cơm trên chốn giang hồ, phải lấy tín nghĩa làm đầu. Chỉ cần Lý tướng quân tuân thủ lời hẹn ước, bọn tại hạ nhất định giao trả Như phu nhân và ngọc bình.”
Tăng Đồ Nam đứng dậy chắp tay nói: “Tại hạ xin đa tạ trước.”
Quần hùng đợi Tăng Đồ Nam rời khỏi, tụ tập trong đại sảnh đợi Trần Gia Lạc điều binh khiển tướng đi cứu Văn Thái Lai. Trần Gia Lạc nói: “Thất ca! Huynh bố trí đi.”
Từ Thiên Hoằng suy nghĩ không nói gì, hồi lâu mới lên tiếng: “Bây giờ đã điều Trương Triệu Trọng rời đi, Tổng đà chủ lại được vào trong, chúng ta thừa cơ cướp ngục dĩ nhiên dễ hơn nhiều. Nhưng chắc chắn Lý Khả Tú cũng đề phòng, nên phải suy đoán xem hắn sẽ đối phó như thế nào rồi mới đánh vào chỗ sơ hở của hắn.”
Trần Gia Lạc gật đầu khen phải. Dương Thành Hiệp nói: “Theo ta nghĩ thì hắn nhất định sẽ triệu tập trọng binh bao vây cửa ngục, không chừng còn mời cao thủ thị vệ trong đại nội đến yểm trợ, chỉ để một mình tổng đà chủ đi vào, cũng chỉ để một mình tổng đà chủ đi ra.”
Thường Bá Chí nói: “Chúng ta phải bố trí bên ngoài phủ đề đốc, để đề phòng bọn con rùa đó láo xược với tổng đà chủ.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Dĩ nhiên là phải bố trí tiếp ứng. Nhưng ta nghĩ Lý Khả Tú không dám làm khó tổng đà chủ, vì vợ bé của hắn và ngọc bình vẫn còn ở chỗ chúng ta.”
Mọi người bàn luận một hồi, ai cũng thấy tình hình trước mắt có lợi hơn sáng nay rất nhiều. Một là đã tìm hiểu địa hình và cơ quan trong địa lao, hai là Trần Gia Lạc vào trong lao có thể nội công ngoại kích. Tuy nhiên nhất định Lý Khả Tú sẽ phòng thủ vững chắc hơn sáng nay, nếu tấn công trực diện thì chưa chắc thắng.
Vô Trần kêu lên: “Dù sao thì hôm nay giải quyết một phen sinh tử tồn vong, ta không nén giận nổi nữa rồi.”
Trần Gia Lạc bỗng kêu lên: “Được rồi! Thất ca! Khi nào gặp Tứ ca, ta sẽ khoác áo rộng, đầu đội nón chụp xuống mặt, làm như không muốn để người ta phát hiện ra mình…”
Từ Thiên Hoằng hiểu ý ngay, ngắt lời: “Làm như vậy thì được một người lại mất một người, không phải là kế sách vẹn toàn.”
Trần Gia Lạc tiếp: “Sau khi vào địa lao, ta sẽ thay đổi trang phục với Tứ ca để huynh ấy đi ra. Quân canh giữ sẽ tưởng là ta, lại còn các vị ca ca bên ngoài tiếp ứng, phen này nhất định cứu được Tứ ca.”
Vô Trần hỏi: “Thế còn tổng đà chủ thì sao?”
Trần Gia Lạc nói: “Hoàng đế cùng ta đặc biệt có duyên. Sau khi chúng phát hiện đã bị đổi người, nhất định sẽ thả ta ra.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Phương pháp của tổng đà chủ đúng là diệu kế. Nhưng tổng đà chủ là chủ nhân một hội, không thể khinh suất đi vào hổ huyệt như thế. Việc này để thuộc hạ đi làm!” Lập tức quần hùng tranh nhau tự đề cử mình.
Trần Gia Lạc dõng dạc nói: “Các vị ca ca! Không phải là ta tự cho mình có bản lĩnh hay dũng cảm hơn, nhưng chỉ có ta là thích hợp nhất. Vị ca ca nào khác đi vào trong đó, tuy cứu được Tứ ca nhưng chính mình lại bị giam cầm. Huynh đệ chúng ta ai cũng như ai, ta không thấy vị ca ca nào ít thân cận hơn Tứ ca.”
Dương Thành Hiệp nói: “Các vị chưa biết, hoàng đế đã từng vỗ tay thề thốt với ta là hai người không hại lẫn nhau.” Chàng bèn thuật lại tình hình đêm trước hai người lập thệ trên đê chắn sóng như thế nào.
Từ Thiên Hoằng nói: “Tên cẩu hoàng đế này nham hiểm ác độc, chắc y không giữ lời thề đâu.”
Nhưng Trần Gia Lạc cứ nhất quyết làm như thế. Từ Thiên Hoằng bèn nói: “Đã vậy thì chúng ta phải sắp xếp kế hoạch vẹn toàn mới được.”
Lạc Băng thấy quần hùng đều muốn đem thân mình thay thế để cứu Văn Thái Lai ra ngoài, trong lòng vừa cảm kích vừa khó xử, đứng ngẩn ra không nói được câu nào.
Chu Trọng Anh thấy mọi người nghĩa khí sâu đậm, không khỏi âm thầm thán phục. Ông nghĩ bụng: “Hồng Hoa Hội lừng tiếng giang hồ, nhân vật trong hội thật có chỗ khác thường.” Thấy thần sắc Lạc Băng có vẻ bất thường, ông bèn đến gần nàng nói: “Văn tứ phu nhân cứ yên tâm, chúng ta thử nghe Thiên Hoằng nói trước đã.”
Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Kế kim thiền thoát xác của tổng đà chủ rất cao minh, chỉ hơi mạo hiểm một chút. Theo thuộc hạ thì vẫn làm như vậy, nhưng khi Tứ ca vừa thoát ra ngoài là chúng ta phải lập tức tấn công vào địa lao để tiếp ứng tổng đà chủ ra ngoài.”
Quần hùng phải đứng nhìn thủ lãnh đi vào hiểm địa, dĩ nhiên không được yên lòng. Nhưng thật sự không còn phương pháp nào tốt hơn, nên mọi người chỉ còn cách đồng ý.
Lạc Băng đến trước mặt Trần Gia Lạc thi lễ, rồi quỳ xuống nói: “Tình nghĩa này của tổng đà chủ, phu thê thuộc hạ cho dù xương tan thịt nát cũng khó mà báo đáp…” Nói đến đây, khóe mắt nàng đỏ hẳn lên.
Trần Gia Lạc chắp tay trả lễ rồi đáp: “Tứ tẩu không nên nói như vậy. Huynh đệ chúng ta tình như cốt nhục, hai chữ báo đáp nhắc đến làm gì?”
Bố trí xong xuôi, Trần Gia Lạc khoác áo choàng đen, lật cổ áo lên che gáy, kéo vành mũ sụp xuống, cùng Vệ Xuân Hoa đi đến phủ đề đốc. Lúc này đã sắp hoàng hôn, sao lác đác mọc ở chân trời.
Đến phía ngoài phủ đề đốc, có một người đi đến hỏi nhỏ: “Trần tổng đà chủ phải không?” Vệ Xuân Hoa gật đầu, người kia bèn nói: “Mời đi theo tại hạ, còn vị này xin dừng bước.”
Vệ Xuân Hoa đứng lại, nhìn Trần Gia Lạc theo người đó vào phủ đề đốc. Trời chiều nhòa nhạt, đàn nhạn bay lượn gọi nhau về tổ. Trái tim Vệ Xuân Hoa đập loạn xạ, hồi hộp không biết phen này tổng đà chủ hung cát thế nào. Chỉ một lúc sau là quần hùng Hồng Hoa Hội lần lượt cải trang đi tới, bố trí rải rác quanh phủ đề đốc để chờ cơ hội hành động.
Trần Gia Lạc đi vào trong cổng, thấy sân phủ đứng đầy binh tướng, tay cầm khí giới phòng thủ nghiêm ngặt. Qua hết ba khoảng sân, người kia mới dẫn chàng vào một căn phòng rồi nói: “Xin ngồi nghỉ chân một lát.”
Hắn đi ra ngoài, một lúc sau Lý Khả Tú tiến vào, chắp tay nói: “Hân hạnh được gặp.”
Trần Gia Lạc bỏ mũ ra để lộ khuôn mặt, mỉm cười nói: “Ngày trước từng gặp trên hồ, không ngờ hôm nay lại được trùng phùng.”
Lý Khả Tú nhìn rõ Trần Gia Lạc, bèn nói: “Bây giờ xin mời các hạ đi gặp phạm nhân.”
Hai người ra đến cửa phòng, đột nhiên một tên lính chạy ào ào tới, vừa thở hổn hển vừa nói: “Hoàng thượng giá lâm! Tướng quân mau mau ra ngoài tiếp giá.”
Lý Khả Tú giật mình kinh hãi, quay lại bảo Trần Gia Lạc: “Bây giờ chỉ còn cách mời các hạ ngồi đây chờ đợi.” Trần Gia Lạc nhìn thần sắc của hắn biết không phải đóng kịch, bèn gật đầu quay vào phòng ngồi xuống.
Lý Khả Tú vội vã chạy ra ngoài, thấy trong nha môn toàn là ngự tiền thị vệ, Càn Long đã vào trong phủ. Họ Lý liền quỳ xuống khấu kiến.
Càn Long bảo: “Ngươi chuẩn bị một gian phòng kín, ta muốn đích thân thẩm vấn Văn Thái Lai.”
Lý Khả Tú bèn đưa Càn Long vào thư phòng của mình. Bọn ngự tiền thị vệ vây chặt tất cả các phòng quanh đó, trên mái nhà cũng có thị vệ canh giữ.
Càn Long bảo Bạch Chấn: “Ta có việc cơ mật cần hỏi phạm nhân này, không ai được nghe.” Bạch Chấn vâng dạ lùi ra.
Lát sau bốn tên thị vệ khiêng vào một cái cáng, trên cáng có Văn Thái Lai hai tay hai chân đều bị xiềng khóa. Bốn tên này lập tức khom lưng lùi ra, trong thư phòng chỉ còn lại hai người là Văn Thái Lai và Càn Long.
Nhất thời không khí lặng như tờ, không có tiếng động nào. Ngoại thương của Văn Thái Lai chưa khỏi, nhưng thần trí chàng rất tỉnh táo. Chàng cứ nằm trên cáng, không cần biết mình đang ở đâu.
Càn Long lên tiếng: “Thương tích của ngươi đã lành hẳn chưa?”
Văn Thái Lai trừng mắt, giật mình nhỏm dậy. Khi chàng theo lão đương gia Vu Vạn Đình vào cung đã từng gặp Càn Long một lần, bây giờ đột nhiên gặp lại ở Hàng Châu dĩ nhiên cảm thấy bất ngờ. Chàng hừ một tiếng lạnh nhạt rồi nói: “Ta chưa chết.”
Càn Long nói: “Ta sai người mời ngươi đến Bắc Kinh, vốn là có chút việc cần thương lượng. Nào ngờ thuộc hạ để xảy chuyện hiểu lầm, ta đã trách phạt chúng rồi. Ngươi đừng để bụng chuyện đó nữa.”
Văn Thái Lai nghe y nói toàn lời hoa ngôn xảo ngữ, giận dữ hừ một tiếng nữa.
Càn Long tiếp: “Lần trước Vu thủ lĩnh đến gặp ta là để bàn luận một việc hệ trọng, không ngờ ông ấy trở về lại mắc bệnh không qua nổi. Thật là đáng tiếc, thật là đáng tiếc!”
Văn Thái Lai nói: “Nếu Vu lão đương gia không chết, chắc là hôm nay ông ấy cũng bị nhốt ở đây.”
Càn Long cười ha hả nói: “Hán tử giang hồ các ngươi thật là thẳng thắn, trong lòng có gì muốn nói là nói ra ngay. Bây giờ ta hỏi một câu, nếu ngươi trả lời thành thật thì ta lập tức thả ra.”
Văn Thái Lai cười nhạt: “Ngươi thả ta ư? Ngươi tưởng ta là thằng nhóc ba tuổi hay sao? Ta biết ngươi chưa giết ta thì ăn không ngon ngủ không yên, mãi đến hôm nay vẫn chưa hạ thủ chỉ vì muốn hỏi cung gì đó.”
Càn Long mỉm cười nói: “Vậy là ngươi quá đa nghi rồi.” Y đứng dậy bước đến hai bước hỏi: “Vu thủ lĩnh nói chuyện gì với ta, ông ấy đã kể hết với ngươi rồi chứ?”
Văn Thái Lai hỏi lại: “Chuyện gì?”
Càn Long giương to mắt nhìn chàng, Văn Thái Lai cũng đưa mắt nhìn lại, hoàn toàn không tránh né gì cả. Hồi sau Càn Long quay đi chỗ khác, hạ giọng nói: “Chuyện liên quan đến thân thế của ta.”
Văn Thái Lai nghĩ thầm: “Mình đã lọt vào tay hắn, chắc chắn phải chết chứ không sống được. Nhưng anh em Hồng Hoa Hội đã đến Hàng Châu, nếu kéo dài được chút ít thì không chừng họ có thể tìm cách cướp lao.” Chàng bèn đáp: “Ông ấy không nói. Ngươi là hoàng đế, dĩ nhiên là con của tiên hoàng và hoàng thái hậu. Thân thế của ngươi còn ai không biết, có gì đáng nói?”
Càn Long thở ra một hơi, hỏi lại: “Đêm hôm đó ông ấy vào gặp ta, ngươi biết vì việc gì không?”
Văn Thái Lai nói: “Vu lão đương gia kể là ông ấy từng giúp ngươi một việc. Gần đây Hồng Hoa Hội kinh phí không đủ, ông ấy đến hỏi mượn ngươi ba trăm vạn lạng bạc, nào ngờ ngươi không những không cho mượn mà con bắt ta nhốt ở đây. Nếu có ngày ta thoát nạn, nhất định sẽ đem chuyện vong ân bội nghĩa này bố cáo ra ngoài cho thiên hạ biết.”
Càn Long cười ha hả, liếc mắt nhìn thấy Văn Thái Lai giận dữ vô cùng, không giống giả vờ. Nhưng y vẫn còn bán tín bán nghi: “Đã thế thì ta chỉ còn cách giết ngươi. Nếu để ngươi lọt ra ngoài thì thanh danh của ta không khỏi bị hủy hoại.”
Văn Thái Lai nói: “Ai bảo ngươi không giết ta sớm đi? Ngươi giết ta xong thì ăn ngon hơn, ngủ yên hơn, gặp hoàng thái hậu cũng không nơm nớp lo sợ.”
Càn Long đột nhiên biến sắc mặt hỏi: “Hoàng thái hậu liên quan gì đến vụ này?”
Văn Thái Lai đáp: “Việc này chính ngươi cũng tự hiểu rồi.”
Càn Long trầm giọng hỏi: “Thế thì ngươi biết hết rồi chứ gì?”
Văn Thái Lai đáp: “Dĩ nhiên là ta biết hết. Vu lão đương gia nói, hoàng thái hậu biết chuyện ông ấy từng giúp ngươi, đã bảo ngươi báo đáp đàng hoàng, thế mà ngươi không nỡ bỏ ra ba trăm vạn lạng bạc. Ngươi có núi vàng núi bạc, ba trăm vạn lạng bạc chẳng qua chỉ là một sợi lông. Ngươi thật là quá sức nhỏ mọn.”
Càn Long lại thấy yên tâm, cười rộ mấy tiếng rồi khăn ra lau mồ hôi trán. Y đi qua đi lại trong phòng, đầu óc tương đối ổn định mới mỉm cười hỏi: “Trước mặt hoàng đế mà ngươi không hoảng sợ tí nào, chết cũng không sợ đáng mặt một trang thiết hán. Ngươi có việc gì chưa yên lòng thì cứ nói ra đừng ngại, sau khi ngươi chết ta sẽ sau người lo giúp.”
Văn Thái Lai nói: “Ta không sợ chết, nhưng ngươi cũng không dám giết ta đâu.”
Càn Long hỏi: “Sao ta lại không dám?”
Văn Thái Lai nói: “Ngươi muốn giết ta vì sợ bí mật của ngươi bị tiết lộ, nhưng ta chết thì bí mật của ngươi nhất định không giữ kín được nữa.”
Càn Long cười gằn, hỏi: “Chẳng lẽ người chết cũng biết nói chuyện hay sao?”
Văn Thái Lai thản nhiên đáp: “Ta vừa chết là có người đem lá thư và vật chứng công bố ra khắp thiên hạ. Lúc đó để xem ngươi giấu mặt vào đâu.”
Càn Long vội hỏi ngay: “Thư gì?”
Văn Thái Lai nói: “Vu lão đương gia đã đem chuyện của ngươi viết ra tỉ mỉ, niêm phong chung với hai món chứng vật cực kỳ quan trọng, gửi ở nhà một vị bằng hữu, rồi hai người chúng ta mới vào cung gặp ngươi.”
Văn Thái Lai đáp: “Dĩ nhiên là thế. Làm sao tin loại người như ngươi được? Vu lão đương gia có dặn ông ấy, nếu hai người chúng ta chết đi thì mở thư ra xem, rồi làm theo lời dặn trong thư. Nếu một trong hai ta còn sống trên đời thì đừng mở. Bây giờ Vu lão đương gia đã về trời, ngươi có dám giết ta không?”
Càn Long bất giác xoa tay liên tục, nỗi lo lắng lộ rõ ra ngoài. Văn Thái Lai lại nói: “Lá thư và hai món vật chứng đó, nếu ngươi dùng ba trăm vạn lạng bạc để mua thì tính ra không đắt.”
Càn Long mỉm cười: “Ta có thể trả ba trăm vạn lạng bạc, thêm cả mạng ngươi nữa. Bây giờ ngươi viết thư cho vị bằng hữu đó, bảo hắn đem lá thư và hai món vật đến đây, ta lập tức đếm bạc cho ngươi chở về.”
Văn Thái Lai cười ha hả rồi nói: “Nếu ta nói tên của người đó cho ngươi biết, ngươi không phái thị vệ đi truy sát ông ấy mới là chuyện lạ. Nói thật cho ngươi khỏi suy nghĩ lung tung, ta thấy sống ở đây rất thoải mái, không muốn ra ngoài nữa. Ta quyết tâm ăn vạ ngươi suốt đời, ngươi phải nuôi ta đến chết. Số mạng hai người chúng ta là đồng qui ư tận, nếu ta chết trước thì ngươi cũng chẳng sống thêm được bao lâu.”
Càn Long mím môi im lặng, suy nghĩ tìm cách đối phó. Hồi lâu y mới lên tiếng: “Ngươi không chịu viết thư cũng được. Cho ngươi hai ngày, tối mốt ta sẽ hỏi lại. Nếu ngươi vẫn cứng đầu cứng cổ thì buộc ta phải giết. Ta giết ngươi không để người khác biết, bằng hữu của ngươi vẫn tưởng ngươi còn sống. Nói cho cùng, giả tỉ ta không giết ngươi thì cũng có thể tuần này móc mắt ngươi ra trước, tuần sau cắt lưỡi, tuần sau nữa chặt đứt hai tay. Ngươi chịu khó ở đây hai ngày nữa, suy nghĩ kỹ lưỡng một chút.”
Nói xong, y đẩy cửa thư phòng, sải bước ra ngoài. Bọn thị vệ kéo theo hộ tống, Lý Khả Tú ra cổng quỳ xuống tiễn chân.
Càn Long vừa đi khỏi, Văn Thái Lai đã được bọn thân binh trong phủ đề đốc cáng trở vào địa lao. Chàng được khiêng tới đâu là Trương Triệu Trọng cầm kiếm đi tới đó để hộ tống.
Về tới địa lao, một tên thân binh nói với Trương Triệu Trọng: “Lý tướng quân gửi lá thư này cho Trương đại nhân.” Trương Triệu Trọng nhận thư, vừa đọc xong là đi ngay.
Văn Thái Lai nằm trên giường suy nghĩ. Nhất định Lạc Băng và các hảo bằng hữu đang tìm cách cứu mình, nhưng thế lực triều đình quá lớn, hơn nữa hoàng đế lại đích thân đến đây, thật sự không phải trò đùa. Nếu bằng hữu vì cứu mình mà bị tổn thương, mình có thoát cũng suốt đời không sao yên lòng nổi.
Đang suy nghĩ thì đột nhiên cánh cửa mở ra, một người đi vào. Văn Thái Lai tưởng là Trương Triệu Trọng, không thèm mở mắt ra nhìn. Người đó đén trước giường của chàng, khẽ lên tiếng: “Tứ ca! Ta đến thăm huynh đây.”
Văn Thái Lai giật mình giương mắt lên nhìn, thì ra là tổng đà chủ Trần Gia Lạc. Khi Trần Gia Lạc chỉ huy mọi người ở Xích Sáo Độ sông Hoàng Hà thì chàng chưa được thấy mặt, sáng nay mới gặp lần đầu. Trong lúc hỗn loạn nằm trong lưới sắt nhìn ra, chàng thấy họ Trần nghĩa khí thâm sâu, gặp việc trấn tĩnh, trong lòng đã kính phục rồi. Bây giờ bất ngờ gặp nhau trong ngục, chàng không khỏi nửa lo nửa mừng, vội gượng ngồi dậy cúi đầu chào hỏi: “Tổng đà chủ!”
Trần Gia Lạc mỉm cười khẽ gật đầu, rồi lấy trong bọc ra hai chiếc giũa bằng thép tốt, định giũa đứt xiềng xích trên tay chân Văn Thái Lai. Chàng vận sức giũa mất cái, xiềng xích chỉ trầy trụa sơ sơ mà giũa đã hỏng rồi. Thì ra xiềng xích này rèn đúc bằng thép đặc biệt, giũa thép bình thường không làm gì được.
Chuyện này khiến Trần Gia Lạc bất ngờ. Chàng lo lắng trong lòng, vận thêm lực đạo giũa mấy cái nữa. Lắc cắc mấy tiếng, cái giũa thép gãy lìa. Chàng lấy cái giũa kia nhẹ nhàng gõ tiếp, hồi lâu mồ hôi hai người đã tuôn đầy trán mà xiềng xích vẫn chẳng hề hấn gì. Trần Gia Lạc lại lôi trong bọc ra nào khoan, nào búa, nào đục, nhưng làm gì thì làm cũng không mở nổi xiềng xích.
Văn Thái Lai bèn nói: “Tổng đà chủ! Xiềng xích này thì phải có bảo đao bảo kiếm mới chặt đứt được.”
Trần Gia Lạc nhớ lại đêm giao đấu với Trương Triệu Trọng ở sông Hoàng Hà, hắn đã dùng Ngưng Bích Kiếm để chặt gãy móc câu trên thuẫn bài của mình, cả trường kiếm của Vô Trần cũng bị chém đứt. Chàng liền hỏi: “Trương Triệu Trọng canh giữ ở đây suốt ngày phải không?”
Văn Thái Lai đáp: “Hắn vốn không rời thuộc hạ nửa bước, nhưng lúc nãy không biết có việc gì gấp mới đi ra ngoài.”
Trần Gia Lạc nói: “Hay lắm! Chúng ta đợi hắn quay trở lại, đoạt lấy bảo kiếm.” Rồi chàng đem các loại cưa đục quăng hết xuống gầm giường.
Văn Thái Lai nói: “Chưa biết thuộc hạ có thoát nổi hay không. Tổng đà chủ! Hoàng đế muốn giết người diệt khẩu là vì sợ thuộc hạ tiết lộ bí mật. Bây giờ thuộc hạ đem bí mật đó nói cho đà chủ biết, thì cho dù thuộc hạ sống hay chết cũng không làm hỏng đại sự của chúng ta.”
Trần Gia Lạc đáp: “Được! Tứ ca nói đi.”
Văn Thái Lai kể: “Đêm hôm đó thuộc hạ theo Vu lão đương gia vào cung tìm gặp hoàng đế, dĩ nhiên Càn Long vô cùng kinh hãi. Vu lão đương gia nói là một vị lão thái thái ở Trần gia tỉnh Triết Giang bảo mình đến đây, rồi đưa ra một lá thư. Hoàng đế xem xong sắc mặt thay đổi hẳn, bảo thuộc hạ ra ngoài chờ đợi. Hai người nói chuyện rất nhỏ, hơn một giờ sau Vu lão đương gia mới ra ngoài. Dọc đường về, Vu lão đương gia nói cho thuộc hạ biết hoàng đế là người Hán, là ca ca của thiếu đà chủ.”
Trần Gia Lạc giật mình kinh hãi, không nói được tiếng nào, hồi lâu mới mở miệng ấp úng: “Chắc không phải đâu, ca ca của ta vẫn còn ở Hải Ninh.”
Văn Thái Lai nói: “Vu lão đương gia kể lại, năm xưa tiên vương Ung Chính sinh được một công chúa, cùng ngày đó lệnh đường hạ sinh một công tử. Trần công tử bị Ung Chính triệu vào cung thăm hỏi, lúc về lại biến thành một bé gái. Con trai của lão thái thái chính là Càn Long hoàng đế bây giờ…”
Chuyện chưa kể hết, đột nhiên trong đường hầm có tiếng bước chân vọng đến, Trần Gia Lạc liên nấp vào một góc phòng. Một tên lính đi vào, không thấy Trần Gia Lạc bèn kinh ngạc hỏi: “Trần đương gia của Hồng Hoa Hội đâu?”
Trần Gia Lạc bước ra hỏi: “Có việc gì không?”
Tên Thanh binh đáp: “Trương Triệu Trọng đại nhân đã quay về rồi. Lý tướng quân giữ ông ấy không được, nên bảo tiểu nhân mời đương gia nhanh chân ra ngoài.”
Trần Gia Lạc “À” một tiếng, tay trái đưa ra điểm trúng huyệt Thần Cốc của hắn. Tên Thanh binh không kêu được tiếng nào, ngã lăn quay dưới đất. Trần Gia Lạc liền kéo hắn vào gầm giường.
Văn Thái Lai nói tiếp: “Trương Triệu Trọng sắp quay về đây, không kịp kể cho tỉ mỉ. Đại khái Vu lão đương gia biết hoàng đế là người Hán, bèn khuyên y phản Mãn phục Hán để khôi phục giang sơn, đuổi hết người Mãn Thanh ra ngoài quan ải, y vẫn làm hoàng đế như thường. Hình như hoàng đế cũng hơi động lòng, nhưng y chưa tin chắc việc này là thật hay giả, yêu cầu Vu lão đương gia đem hai món vật chứng cho xem rồi sẽ bàn tiếp. Không ngờ hôm ấy Vu lão đương gia trở về rồi lâm bệnh không dậy được, trối lại bảo mọi người lập thiếu đà chủ làm tổng đà chủ. Vu lão đương gia có nói với thuộc hạ, đây là cơ hội để khôi phục nhà Hán. Hoàng đế là ca ca của tổng đà chủ, nếu y không chịu phản Mãn phục Hán thì mọi người sẽ ủng hộ tổng đà chủ lên làm hoàng đế.”
Mới nghe thì Trần Gia Lạc bàng hoàng không nói được gì, nhưng dần dần chàng nghĩ đến lần đầu gặp Càn Long ở Tây Hồ đã phát sinh cảm tình đặc biệt, sau này lại gặp y khóc lạy trước mộ phần song thân mình, quả là những chuyện bắt người ta phải suy nghĩ. Nếu hoàng đế cũng là con trai họ Trần, thì những tấm biển Xuân Huy, Ái Nhật do chính tay y viết mới có thể hiểu được.
Văn Thái Lai lại nói: “Về câu chuyện Ung Chính đổi con gái của mình lấy ca ca của tổng đà chủ, nghe nói lệnh đường đã viết tường tận trong một lá thư, ngoài ra còn có mấy món vật chứng quan trọng. Vu lão đương gia giao cho lệnh sư là Thiên Trì quái hiệp Viên lão tiền bối giữ gìn.”
Trần Gia Lạc “À” một tiếng rồi nói: “Mùa xuân năm nay Thường thị song hiệp đến thăm sư phụ của ta, chắc là tuân lệnh nghĩa phụ đưa những vật đó, có phải thế không?”
Văn Thái Lai đáp: “Không sai! Đó là đại sự cơ mật, ngay cả tổng đà chủ cũng chưa được biết. Viên lão tiền bối chỉ biết vụ này quan trọng khác thường, chứ cũng không hiểu rõ. Trước khi từ trần Vu lão đương gia đã có di ngôn, đợi thiếu đà chủ tiếp nhiệm ngôi cao rồi thuộc hạ sẽ mở lá thư đó, cùng mưu đồ việc lớn. Không may lúc đó thuộc hạ lỡ tay bị bắt, suýt nữa làm hỏng mất chuyện trọng đại này. Tổng đà chủ! Nếu hôm nay không cứu được thuộc hạ ra ngoài thì tổng đà chủ phải mau mau quay về Hồi Cương để gặp lệnh sư, nhất định không thể vì chuyện sinh tử an nguy của một mình thuộc hạ mà để lỡ việc lớn khôi phục giang sơn.”
Văn Thái Lai kể xong cảm thấy trong người nhẹ nhõm, vẻ an bình lộ hẳn ra ngoài mặt. Chàng còn muốn nói tiếp, nhưng nghe thấy tiếng bước chân trong đường hầm liền đưa tay ra hiệu. Trần Gia Lạc nấp dưới gầm giường, còn Văn Thái Lai nằm vắt nửa trên nửa dưới, hoàn toàn không động đậy.
Trong địa lao lúc này chỉ có một ngọn đèn nhỏ bằng hạt đậu, ánh sáng âm u mờ ảo. Trương Triệu Trọng tiến vào, thấy Văn Thái Lai nằm thõng đầu xuống đất như đã chết rồi. Hắn giật mình chạy tới, khẽ đẩy chàng một cái, nhưng Văn Thái Lai vẫn không nhúc nhích. Trương Triệu Trọng lại càng kinh hãi, liền nâng đầu chàng lên, đưa tay sờ xem hơi thở còn không.
Đột nhiên Văn Thái Lai bật người dậy, dùng cả hai ta đang bị xích quét ngang vào người hắn. Trương Triệu Trọng thật sự bất ngờ, đang muốn lùi lại thì đột nhiên thấy huyệt Khí Hải ở dưới bụng tê chồn. Hắn biết ngay dưới giường có địch thủ ám toán, giận dữ la lên một tiếng, lùi lại hai bước, bắt chéo song chưởng trước ngực để hộ vệ thân thể, ráng sức đề khí để bảo vệ kinh mạch.
Trần Gia Lạc thấy hắn bị điểm trúng huyệt mà chưa ngã xuống, không khỏi ngạc nhiên. Chàng nhảy từ dưới gầm giường ra, múa song quyền đánh nhanh như gió, chớp mắt đã đánh tới mặt hắn tám quyền.
Trương Triệu Trọng không dám đánh trả, vì nếu hắn buông lỏng hơi thở là lập tức kinh mạch bị bế tắc. Mặt hắn trúng liên tiếp tám quyền, chỉ biết không ngừng lùi lại cho nhẹ bớt. Trần Gia Lạc phóng chân phải lên đá vào hông trái của hắn, Trương Triệu Trọng vội né sang phải. Hắn bỗng thấy huyệt Thần Đình đau nhói, thì ra bị đánh trúng thêm một trọng huyệt. Họ Trương không gượng được nữa, toàn thân bủn rủn té nhào xuống đất.
Trần Gia Lạc sờ lên người hắn, nào ngờ không thấy cây Ngưng Bích Kiếm đâu. Chàng thất vọng, nhưng vẫn lục soát, lôi trong túi áo hắn ra một tờ giấy. Chàng mở ra soi vào đèn đọc, thì ra đó là thư của Lý Khả Tú, bảo hắn cầm Ngưng Bích Kiếm ra, có một vị đại quan muốn mượn xem một chút. Trần Gia Lạc biết Lý Khả Tú mượn cớ này để điều hắn ra ngoài. Chắc là hắn không yên tâm, ra ngoài một lúc lại quay về canh giữ ngay. Kiếm đang đưa người ta xem, nên không mang trở lại.
Trần Gia Lạc lục soát tiếp, đột nhiên vui mừng nhảy chồm lên. Văn Thái Lai thấy chàng tươi cười bèn hỏi: “Cái gì thế?” Trần Gia Lạc lôi ra một xâu chìa khóa, thử mở xiềng xích thì được ngay lập tức.
Văn Thái Lai co duỗi tay chân một lúc cho thoải mái. Trần Gia Lạc cởi áo mũ trên mình ra, bảo: “Tứ ca mặc vào đi!”
Văn Thái Lai hỏi: “Còn tổng đà chủ thì sao?”
Trần Gia Lạc đáp: “Ta cần ở đây một lúc, huynh mau mau ra ngoài trước.”
Văn Thái Lai hiểu ý chàng liền nói: “Tổng đà chủ! Hảo ý này thuộc hạ muôn phần cảm kích, nhưng không thể làm như vậy được.”
Trần Gia Lạc nói: “Tứ ca chưa biết, ta ở lại đây hoàn toàn không gặp nguy hiểm gì cả.”
Chàng kể lại sơ lược chuyện mình cùng Càn Long vỗ tay thề thốt, Văn Thái Lai vẫn lắc đầu: “Việc này nhất định không được.”
Trần Gia Lạc chau mày nói: “Ta là tổng đà chủ, mọi người trên dưới trong Hồng Hoa Hội đều phải nghe lệnh của ta. Có đúng thế không?”
Văn Thái Lai đáp: “Dĩ nhiên là thế.”
Trần Gia Lạc nói: “Được lắm! Văn Thái Lai nghe lệnh! Mau mau khoác áo mũ đi ra, bên ngoài đã có huynh đệ tiếp ứng.”
Văn Thái Lai đáp: “Phen này thuộc hạ đành phải kháng lệnh của tổng đà chủ, sau này sẽ chịu phạt sau.”
Trần Gia Lạc hạ giọng nói: “Tứ tẩu ngày đêm tưởng nhớ, các vị ca ca đều mong huynh sớm thoát hiểm. Bây giờ có cơ hội tốt, sao huynh lại vô tình vô nghĩa đến thế?”
Trần Gia Lạc nói gì thì nói, Văn Thái Lai cũng lắc đầu. Hai bên tranh luận một hồi, Trần Gia Lạc biết họ Văn quyết không chấp nhận. Chàng đổi ý, suy nghĩ một lát rồi nói: “Vậy thì hai người chúng ta mạo hiểm cùng ra. Huynh mặc y phục của hắn đi.” Nói xong, chàng đưa tay chỉ Trương Triệu Trọng.
Văn Thái Lai cả mừng nói: “Hay quá! Sao tổng đà chủ không nghĩ ra sớm hơn một chút?”
Hai người bèn lột quần áo của Trương Triệu Trọng, đổi cho Văn Thái Lai, sau đó lấy xiềng xích khóa chặt họ Trương lại. Trần Gia Lạc cất chìa khóa vào bọc, mỉm cười nói: “Cho dù ngươi có bản lãnh bằng trời, lần này cũng không thể làm khó dễ chúng ta nữa rồi.” Trương Triệu Trọng vừa lo lắng vừa tức giận đến phát điên, mắt vằn đỏ lên như muốn bật máu ra, nhưng khổ nỗi bị điểm huyệt không sao nói được.
Hai người nhẹ nhàng đi ra, qua cửa, qua đường hầm, rồi leo cầu thang đá đi lên. Đột nhiên trước mắt sáng rực, thì ra trong vườn đầy đèn đuốc. Mấy chục tên lính cầm trường mâu chĩa thăng vào cửa địa lao, xa xa lại có mấy trăm tên giương cung lắp sẵn tên đứng đợi, cũng nhắm thẳng vào đó. Tay phải của Lý Khả Tú đang đưa lên, mắt nhìn chăm chú. Tay hắn mà phẩy xuống là lập tức tên bắn mâu đâm, võ nghệ của Trần Gia Lạc và Văn Thái Lai có cao gấp mười cũng không thể nào chạy thoát.
Trần Gia Lạc lùi lại một bước, hỏi nhỏ Văn Thái Lai: “Vết thương của huynh ra sao, có thể xông ra ngoài được không?”
Văn Thái Lai cười khổ: “Không được, chân thuộc hạ còn yếu lắm. Tổng đà chủ cứ đi trước một mình, đừng lo lắng cho thuộc hạ nữa.”
Trần Gia Lạc nói: “Vậy huynh cứ giả làm Trương Triệu Trọng thử xem.” Văn Thái Lai bèn kéo sụp nón xuống tới lông mày, hiên ngang bước ra ngoài.
Lý Khả Tú thấy Trương Triệu Trọng và Trần Gia Lạc cùng ra, trong lòng âm thầm kêu khổ. Hắn tưởng Trương Triệu Trọng đã bắt được Trần Gia Lạc, bèn quay đầu lại bảo Lý Nguyên Chỉ: “Con đem cây kiếm này trả cho Trương Triệu Trọng, tìm cách quấy rối ông ta để tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội thoát thân.”
Lý Nguyên Chỉ hai tay cầm Ngưng Bích Kiếm đi đến trước cửa địa lao. Nàng cố ý đứng giữa hai người, đưa kiếm đến trước mặt Văn Thái Lai rồi nói: “Trương sư thúc! Bảo kiếm của sư thúc đây.” Nàng dùng khuỷu tay hích nhẹ Trần Gia Lạc một cái.
Văn Thái Lai hừ nhẹ một cái, đưa tay nhận kiếm. Dưới ánh nến, Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy rõ ràng, lạc giọng la lên: “Văn Thái Lai! Ngươi muốn trốn hay sao?” Nàng giật hai tay về, tay phải nắm lấy chuôi kiếm, rút ngay ra khỏi vỏ đâm vào trước ngực Văn Thái Lai.
Văn Thái Lai xoay người, tay trái chìa ra, ngón trỏ và ngón giữa kẹp lấy sống kiếm, tay phải vung ra nhanh như điện chớp, đánh vào Thái Dương huyệt của nàng. Lý Nguyên Chỉ kinh hãi vội lùi lại, nào ngờ thanh kiếm đã bị hai ngón tay của họ Văn kẹp lại, không sao nhúc nhích. Nàng vội buông kiếm chạy ra ngoài, cánh ta trái đã bị năm ngón tay của Văn Thái Lai phất trúng. Lý Nguyên Chỉ tê liệt nửa người, đau đớn thấu xương. Nàng khom lưng la lớn: “Mẹ ơi!”
Trần Gia Lạc nhảy lẹ tới hai bước, quay đầu lại thì thấy Văn Thái Lai đã bị bọn Thanh binh vây kín. Kiếm quang của thanh Ngưng Bích Kiếm lóe lên từng hồi, rất nhiều lưỡi mâu bị chém đứt rơi xuống đất.
Lý Khả Tú hô lớn: “Các ngươi mà không chịu dừng tay thì ta phải bắn tên.”
Văn Thái Lai vừa dùng sức một chút, vết thương cũ trên đùi lại xé miệng, máu phun ra ngoài. Chàng biết mình không đủ sức thoát khỏi vòng vây, bèn la lên: “Tổng đà chủ! Lấy kiếm, nhanh chóng chạy ra ngoài đi.” Chàng ném cây Ngưng Bích Kiếm về phía Trần Gia Lạc, đột nhiên cảm thấy trên vai đau nhói, cánh tay bủn rủn, thanh kiếm chỉ bay ar mấy thước đã rơi xuống đất. Thì ra Văn Thái Lai đã trúng một mũi tên vào vai.
Trần Gia Lạc thấy thế, bèn quát Lý Khả Tú: “Đừng bắn tên nữa!”
Lý Khả Tú vẫy ta, bọn Thanh binh lập tức ngưng bắn. Mười mấy cây trường mâu lại chia ra nhằm vào Trần Gia Lạc và Văn Thái Lai.
Trần Gia Lạc nói: “Mau mời đại phu trị vết thương cho Văn tứ gia. Ta đi đây.” Rồi chàng ngang nhiên bước ra ngoài. Bọn Thanh binh đã được lệnh của Lý Khả Tú, la hét om sòm nhưng không truy đuổi chàng thật sự.
Trần Gia Lạc nhảy lên đầu tường, nhìn thấy bên ngoài có tới ba lớp linh cầm trường mâu, ba lớp lính cầm cung tên. Chàng thầm đau khổ, đối phương đã cảnh giác phòng bị như thế thì sau này chuyện của Văn Thái Lai lại khó thêm một bậc.
Vừa ra khỏi phủ đề đốc, Vệ Xuân Hoa và Lạc Băng đã bước tới. Trần Gia Lạc cười khổ, lắc đầu. Lúc này chân trời phía đông đã có những tia sáng đầu tiên của một ngày mới. Quần hùng phẫn uất vô cùng, đành kéo nhau về nhà họ Mã ở Cô Sơn để nghỉ ngơi.
* * *
Nghỉ chưa được hai giờ, người nào cũng có tâm sự nên không ngủ nổi, lại tập hợp trong đại sảnh để bàn bạc. Trần Gia Lạc bảo Vệ Xuân Hoa: “Cửu ca! Huynh đem ngọc bình và vợ bé của Lý Khả Tú đi trả cho hắn. Chúng ta không thể thất tín được.” Vệ Xuân Hoa nhận lệnh đi ngay.
Đột nhiên Mã Đại Đình vào đại sảnh báo cáo: “Tổng đà chủ! Trương Triệu Trọng gửi thư cho tổng đà chủ.”
Trần Gia Lạc nói: “Trương Triệu Trọng viết thư cho ta ư? Lạ thật, không biết hắn muốn gì đây.” Chàng mở thư xem, thấy từ đầu tới cuối toàn là những câu phẫn hận, trách chàng dùng quỷ kế để ám toán, không đáng mặt anh hùng hảo hán. Cuối cùng hắn hẹn chàng đơn đả độc đấu, quyết phân thắng bại một lần. Thời gian địa điểm hoàn toàn do chàng quyết định.
Trần Gia Lạc nói: “Thì ra hắn muốn trả thù chuyện đêm qua. Đánh nhau thì đánh, chẳng lẽ ta sợ hắn hay sao?” Chàng lập tức lấy giấy bút ra viết thư trả lời, hẹn giờ Ngọ ngày mai gặp nhau ở Cát Lãnh Sơ Dương Đài, ai đem người trợ giúp thì không phải anh hùng.
Đang sai người gửi thư thì Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta phải cứu Tứ ca trong vòng hai ngày. Xin tổng đà chủ lùi cuộc hẹn với Trương Triệu Trọng lại mấy ngày, đừng vì việc đó mà làm lỡ mất đại sự.”
Trần Gia Lạc nói: “Đúng thế! Hôm nay là hai mươi, vậy thì hẹn với hắn vào giờ Ngọ ngày hai mươi ba.” Chàng viết ngay một lá thư khác, cho người đưa đến phủ đề đốc.
Triệu Bán Sơn nói: “Bảo kiếm của tên này sắc bén vô cùng, tổng đà chủ đừng tỉ thí với hắn bằng binh khí. Dùng quyền cước thì chưa chắc hắn đã thắng được.”
Vô Trần nói: “Chỉ sợ hắn đòi tỉ kiếm. Thằng giặc này…” Ông nghĩ đến mối thù chặt gãy kiếm ở bến sông Hoàng Hà, giận dữ nghiến răng không nói tiếp được.
Chu Trọng Anh lên tiếng: “Tổng đà chủ đừng trách, ta có một câu muốn nói.”
Trần Gia Lạc nói: “Chu lão tiền bối lại khách sáo với tiểu điệt rồi. Xin thỉnh giáo.”
Chu Trọng Anh nói: “Võ công của tổng đà chủ thì ta đã từng lãnh giáo, cao minh thật sự. Nhưng công lực Trương Triệu Trọng còn thâm hậu hơn một bực. Không phải là ta đề cao người khác để giảm oai phong của mình, tổng đà chủ tuy không đến nỗi thua hắn, nhưng muốn thắng hắn thì không phải dễ. Chúng ta phải có kế hoạch mới bắt hắn được.”
Trần Gia Lạc nói: “Chu lão tiền bối nói không sai. Tiểu điệt muốn không nắm chắc là thắng được hắn, nhưng hắn đã gọi đích danh thách đấu, nếu không đi chắc chắn sẽ bị thiên hạ chê cười. Tiểu điệt chỉ biết dốc toàn lực mà thôi, chuyện thắng bại không nên nghĩ tới.”
Thường Hách Chí nói: “Chúng ta phải đi ăn cắp cây báu kiếm, làm giảm oai phong của con rùa này trước.”
Chương Tấn la lớn: “Bây giờ từng người chúng ta đi tìm hắn mà đánh suốt hai ngày, dù không thắng nổi cũng bắt hắn mệt đến thở không ra hơi. Tổng đà chủ nghỉ ngơi đàng hoàng, tinh thần khí lực đầy đủ, chắc chắn sẽ thắng.” Quần hùng đều cười rộ, cảm thấy ý kiến này cũng có lý.
Đang bàn bạc thì một trang đinh của nhà họ Mã đến nói với Mã Thiện Quân: “Lão gia! Vương Duy Dương không chịu ăn cơm, hễ mở miệng là chửi mắng om sòm.”
Mã Thiện Quân hỏi: “Lão mắng cái gì?”
Trang đinh đáp: “Lão mắng ngự lâm quân làm việc vô lý. Lão đi lại giang hồ đã mấy chục năm, người người đều kính trọng. Không ngờ lần này đi bảo tiêu cho triều đình mà vô duyên vô cớ bị nhốt ở đây.”
Vô Trần mỉm cười nói: “Lão là Oai Trấn Hà Sóc chứ không phải Oai Trấn Giang Nam. Đi tới đây thì làm gì có oai phong nữa, phải nếm chút ít đau khổ cho biết với người ta.”
Từ Thiên Hoằng chợt động tâm nói: “Ta chợt nghĩ ra kế hoạch dắt hổ đánh nhau, biến hóa từ ý kiến của Thập đệ. Quý vị thử xem có dùng được hay không.”
Chàng trình bày xong kế hoạch, mọi người đều không nén nổi phải cười rộ lên. Vô Trần tán thưởng: “Diệu kế, diệu kế!” Chu Ỷ cũng cười, nhưng không ngớt lắc đầu bĩu môi với Từ Thiên Hoằng.
Trần Gia Lạc vừa cười vừa nói: “Chắc là Chu cô nương lại chê Thất ca không đủ quang minh, lỗi lạc, nhưng đối xử với tiểu nhân thì không cần giữ đạo của người quân tử. Mạnh đại ca! Huynh vào nói chuyện với lão Oai Trấn Hà Sóc kia đi.”
Vương Duy Dương tung hoành suốt vùng Tề Lỗ Yên Triệu mấy chục năm trời chưa hề bất lợi, nào ngờ vừa đến Giang Nam đã lãnh cái nạn này. Lão quát tháo om sòm, nhất định đòi gặp thống lãnh ngự lâm quân để cãi lý. Đang ầm ĩ thì cửa phòng mở ra, một hán tử trung niên mặc sắc phục ngự lâm quân tiến vào, chính là Mạnh Kiện Hùng.
Họ Mạnh tinh minh mẫn cán chẳng kém gì Vệ Xuân Hoa. Chàng đi thẳng vào phòng không thèm thi lễ, oai vệ ngồi xuống ghế rồi hỏi: “Ông là Oai Trấn Hà Sóc phải không?”
Vương Duy Dương thấy chàng ngạo mạ vô lễ, tức giậ đáp: “Không sai! Ngoại hiệu này là do bằng hữu giang hồ tặng cho ta. Nếu Phúc thống lĩnh nghe không thuận tai, thì ngày mai ta thông báo cho toàn thể võ lâm bỏ ngoại hiệu này đi là được rồi.”
Mạnh Kiện Hùng lạnh nhạt nói: “Phúc thống lãnh là vương thân quốc thích, ông ấy đâu có thèm tranh hơi với bọn giang hồ lỗ mãng như ông.”
Vương Duy Dương hỏi lại: “Vậy thì ta đang làm việc cho triều đình, hộ tống bảo vật đến Hàng Châu, dọc đường không sơ suất chút nào, sao lại bắt nhốt ở đây một cách bất minh như thế?”
Mạnh Kiện Hùng hỏi: “Ông thật sự muốn biết hay sao?”
Vương Duy Dương đáp ngay: “Đương nhiên!”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Chỉ sợ ông lớn tuổi rồi, kinh hãi không chịu nổi mà thôi.”
Vương Duy Dương bực nhất là bị người ta nói mình tuổi già sức yếu. Tay lão không bị xiềng, bèn vận nội lực vỗ xuống bàn một cái. Một góc bàn nát bét, gỗ vụn bay tung tóe. Lão giận dữ nói: “Vương Duy Dương này tuổi tác tuy lớn nhưng hùng tâm chưa mất, lên núi đao vào chảo dầu mà chau mày một cái thì không phải là hảo hán. Có gì mà phải sợ?”
Mạnh Kiện Hùng vừa cười vừa nói: “Thì ra Vương lão đầu cũng có chút bản lãnh. Ha ha! Trên giang hồ có một câu, cái gì Thà gặp Diêm Vương đừng gặp lão Vương, thà chịu ba thương đừng gặp một Trương, có phải vậy không?”
Vương Duy Dương đáp: “Đó cũng là lời anh em hắc đạo quá khen Vương mỗ mà thôi.”
Mạnh Kiện Hùng hỏi: “Sao lại phải đặt lão Vương lên trên một Trương? Chẳng lẽ bản lãnh họ Vương cao hơn họ Trương sao?”
Vương Duy Dương lập tức tỉnh ngộ, đứng dậy bước lên một bước, lớn tiếng nói: “À! Thì ra là Hỏa Thủ Phán Quan muốn ấn chứng võ công của lão phu. Lão già này hồ đồ mất rồi, không nghĩ ra chuyện đó.”
Mạnh Kiện Hùng hỏi: “Trương đại nhân là thượng cấp của tại hạ, chắc ông cũng biết chứ?”
Vương Duy Dương đáp: “Ta biết Trương đại nhân trong ngự lâm quân.”
Mạnh Kiện Hùng hỏi: “Ông có quen biết Trương lão nhân gia không?”
Vương Duy Dương đáp: “Tuy cùng là người trong võ lâm, lại cùng ở Bắc Kinh, nhưng ông ấy là quan còn ta là dân. Ta ngưỡng mộ anh danh của ông ấy từ lâu, đáng tiếc không đủ phúc phận để kết giao.”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Trương đại nhân cũng đã nghe danh tiếng của ông lâu rồi. Hiện giờ ông ấy đang ở Hàng Châu. Ông ấy nhắn là lúc ở Bắc Kinh dưới chân thiên tử, nếu chỉ vì một chút hư danh mà đánh nhau làm tổn thương hòa khí thì chẳng đẹp mắt gì. Hiện nay chúng ta đều ở ngoài kinh, Trương đại nhân có ba việc cần thương lượng với Vương lão anh hùng. Chỉ cần ông nói một lời đáng giá ngàn vàng là có thể lập tức ra ngoài.”
Vương Duy Dương nói: “Bây giờ ta đã bị ngự lâm quân các ngươi bắt nhốt, có gì thì các ngươi cứ nói, cần gì ta phải đồng ý hay không?”
Mạnh Kiện Hùng mỉm cười nói: “Ba việc này cũng dễ dàng thôi, tổng tiêu đầu hà tất phải nổi giận.”
Vương Duy Dương hỏi: “Hỏa Thủ Phán Quan muốn ta làm gì?”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Việc thứ nhất, xin lão tiêu đầu phế bỏ cái ngoại hiệu Oai Trấn Hà Sóc.”
Vương Duy Dương đáp: “Được! Việc thứ hai thì sao?”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Xin lão tiêu đầu đóng cửa Trấn Viễn tiêu cục.”
Vương Duy Dương giận dữ nói: “Trấn Viễn tiêu cục của ta đã đứng vững ba mươi năm trời, không bị hủy vào tay bạn bè hắc đạo, thế mà Trương đại nhân lại bắt ta cáo lão về hưu! Cũng được, còn việc thứ ba?”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Việc thứ ba là xin Vương lão tiêu đầu mời hết đồng đạo võ lâm đến nhà, tuyên bố câu nói Thà gặp Diêm Vương đừng gặp lão Vương, thà chịu ba thương đừng gặp một Trương phải nói ngược lại. Trương đại nhân còn nói, Vương lão tiêu đầu tuổi đã cao rồi, giữ cây tử kim bát quái đao không dùng làm gì được nữa, nên đem tặng cho ngự lâm quân làm đồ kỷ niệm.”
Vương Duy Dương nghe tới đây lập tức nộ khí xung thiên, lạc giọng la lên: “Ta cùng Trương Triệu Trọng xưa nay không quen không biết, không thù không oán. Tại sao hắn lại bức hiếp người đến thế?”
Mạnh Kiện Hùng mỉm cười nói: “Ông đã nổi danh bốn chục năm trời, tới lúc phải nghỉ ngơi rồi. Một núi không thể có hai cọp dữ, chẳng lẽ đạo lý này ông cùng không biết hay sao?”
Vương Duy Dương nói: “Thì ra hắn muốn làm nhục Vương mỗ để mình được vang danh bốn biển. Nếu ta không đồng ý thì sao? Hắn quyết nhốt ta ở đây không bao giờ thả phải không? Hay lắm! Hắn mượn việc công để giải quyết việc riêng, e rằng khó tránh khỏi thiên hạ sau này đồn đãi.”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Trương đại nhân là anh hùng hào kiệt, đâu có làm những việc như thế? Ông ấy hẹn ông giờ Ngọ hôm nay gặp nhau, tỉ quyền thí kiếm trên Sư Tử Phong. Nếu lão Vương lợi hại thì ba việc đó không cần nhắc lại nữa, bằng không thì xin gật đầu một cái.”
Vương Duy Dương nói: “Cứ thế mà làm! Danh tiếng Vương mỗ bốn chục năm trời, nếu mất vào tay Hỏa Thủ Phán Quan cũng không uổng phí.”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Trương đại nhân còn nói, nếu việc này bị hoàng thượng biết được thì không tiện lắm. Giá tỉ Vương lão tiêu đầu dám đi thì cứ việc đơn đao phó hội, còn nếu sợ sệt muốn mời bạn bè trợ quyền lược trận thì không cần tỉ thí làm gì nữa.”
Vương Duy Dương vừa nghiến răng ken két vừa nói: “Dù phải vùi xương ở chốn hoang sơn, Vương mỗ cũng quyết đơn đao song chưởng mà đi lãnh giáo.”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Vậy thì ông viết thư đi, để tại hạ sai người hồi đáp cho Trương đại nhân.”
Nói xong, chàng gọi lấy văn phòng tứ bảo. Vương Duy Dương tức đến run tay, viết một lá thư ngắn như sau:
“Trương Triệu Trọng đại nhân minh giám. Lời nói và hành vi của ông thật sự hiếp người quá đáng. Giờ Ngọ hôm nay gặp nhau trên Sư Tử Phong, nếu ta thua dưới tay ông thì để ông xử trí thế nào cũng được. Vương Duy Dương kính bút.”
Họ Vương chỉ là một kẻ võ phu không thông văn lý, lại trong cơn thịnh nộ nên chỉ viết sơ sài. Mạnh Kiện Hùng mỉm cười, cất lá thư đi.
Vương Duy Dương lại nói: “Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh của lão ca, để lát nữa lãnh giáo luôn thể.” Thì ra lão giận lây qua tới Mạnh Kiện Hùng.
Mạnh Kiện Hùng cười đáp: “Tại hạ là hàng hậu sinh vãn bối, tên tuổi không có gì đáng nói. Nếu đơn đả độc đấu thì lát nữa tại hạ không đến Sư Tử Phong, còn nếu đông người đánh nhau loạn xạ thì Trấn Viễn tiêu cục không so được với ngự lâm quân đâu. Ha ha!”
Chàng cười nhạt mấy tiếng rồi quay lưng đi ra ngoài, đóng cửa lại. Hồng Hoa Hội biết Vương Duy Dương kiêng nể quan phủ không dám chạy trốn, nên chỉ đóng cửa sơ sài. Nếu không thì võ công như lão, trên người lại không đeo xiềng xích, mấy cánh cửa gỗ này làm sao nhốt được?
* * *
Hôm đó Thiết tỳ bà thủ Hàn Văn Xung rượt theo con ngựa trắng, trúng mai phục rồi bị bắt. Sáng nay hắn bị đưa đến nhốt trong một căn nhà nhỏ, nghĩ rằng phen này mình rơi vào tay Hồng Hoa Hội chắc không sống được nữa. Hắn đang suy nghĩ lung tung thì đột nhiên nghe thấy ở phòng bên cạnh có tiếng kêu la. Lắng tai nghe kỹ thì nhận ra thanh âm của tổng tiêu đầu Vương Duy Dương, đang mắng chửi Trương Triệu Trọng hết sức dữ dội, những là “thằng lỏi Trương Triệu Trọng dưới mắt không người.”
Hàn Văn Xung ngạc nhiên, đang định lên tiếng hỏi thì cửa phòng bỗng mở, hai người đi vào nói: “Mời Hàn đại gia lên sảnh nói chuyện.”
Hắn vào sảnh thì thấy bên trái có ba người ngồi trên ghế, trên cùng là Trần Gia Lạc tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội, người tiếp theo tóc bạc bay phấp phới, người còn lại thân hình bé nhỏ, đều là những người từng gặp dọc đường Cam Lương. Hàn Văn Xung xấu hổ vô cùng, không nói tiếng nào. Hắn chắp tay vái lạy rồi ngồi vào ghế.
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Hàn đại ca! Chúng ta vừa gặp nhau ở Cam Túc, không ngờ hôm nay lại gặp nhau ở đây nữa rồi. Ha ha! Phải nói là rất có duyên.”
Hàn Văn Xung im lặng một hồi mới nói: “Lúc đó tại hạ đã nói là sẽ phong đao quy ẩn, nhưng Vương tổng tiêu đầu nhất định bắt tại hạ bảo vệ chuyến tiêu này. Mệnh lệnh của thượng cấp không thể từ chối, hơn nữa đây là bảo vệ trân bảo của gia đình công tử, nghĩ chắc công tử không trách nên…”
Từ Thiên Hoằng giận dữ ngắt lời: “Bằng hữu giang hồ phải lấy hai chữ tín nghĩa làm đầu. Các hạ nói mà không giữ lời, thử nói xem mình đáng tội gì?”
Hàn Văn Xung suy nghĩ rồi đáp: “Tại hạ đã rơi vào tay các vị, còn gì để nói nữa? Các vị muốn giết muốn xẻo…”
Hắn chưa dứt lời, Trần Gia Lạc đã nói: “Hàn đại ca đừng nói vậy. Lần này Vương tổng tiêu đầu đang bị Trương Triệu Trọng cáo mượn oai hùm bức hiếp nặng nề. Vương lão anh hùng oai trấn vùng Hà Sóc, trước giờ chưa từng bị xúc phạm đến thế, nói sao thì nói cũng phải đánh nhau với tên Hỏa Thủ Phán Quan đó một trận. Chúng ta đều là người trong võ lâm, nghe chuyện này dĩ nhiên nảy dạ bất bình. Hơn nữa Vương tổng tiêu đầu lại đang bảo vệ đồ vật của gia đình ta, dĩ nhiên ta không thể phủi tay đứng nhìn. Không biết Hàn đại ca có giao tình như thế nào với Trương Triệu Trọng?”
Hàn Văn Xung đáp: “Có gặp mấy lần ở Bắc Kinh, nhưng sang hèn cách biệt. Ông ấy lại ỷ mình võ công cao cường không xem người khác ra gì, nên không thể nói là có giao tình.”
Trần Gia Lạc nói: “Nếu vậy thì huynh xem thử lá thư này.” Rồi chàng đưa lá thư Vương Duy Dương viết cho hắn xem.
Hàn Văn Xung cũng biết tổng tiêu đầu trước nay kiêng nể quan phủ, vốn không muốn đối đầu với Trương Triệu Trọng. Nhưng ông ấy thành danh đã lâu, tính tình lại nóng nảy, nếu bị Trương Triệu Trọng ỷ thế hiếp người thì phẫn nộ là chuyện dĩ nhiên. Hắn chính tai nghe tổng tiêu đầu thóa mạ họ Trương, chính mắt thấy bút tích của Vương Duy Dương nên không hoài nghi gì nữa, bèn nói: “Đã thế thì xin cho tại hạ gặp tổng tiêu đầu một chút, để thương lượng kế hoạch đối phó.”
Trần Gia Lạc nói: “Bây giờ còn sớm, ta muốn nhờ Hàn đại ca đưa lá thư này cho Trương Triệu Trọng trước, khi về mới gặp Vương lão anh hùng. Huynh thấy có được hay không?” Hỏi thì hỏi vậy thôi, dĩ nhiên Hàn Văn Xung không thể không đồng ý.
Trần Gia Lạc lớn tiếng gọi: “Thập nhị ca! Huynh ra đây một chút.”
Thạch Song Anh từ trong nội đường tiến ra. Trần Gia Lạc bèn giới thiệu với Hàn Văn Xung rồi nói: “Thạch huynh đệ sẽ cùng huynh đi gặp Trương Triệu Trọng. Hàn đại ca! Huynh chưa hiểu rõ Trương Triệu Trọng bức hiếp Vương lão anh hùng như thế nào, việc này nói ra rất dài dòng mà bây giờ cũng không tiện nói rõ ràng. Lúc gặp Trương Triệu Trọng, huynh cứ nói Thạch huynh đệ là tiêu sư của quý tiêu cục, rồi mọi chuyện để Thạch huynh đệ đối đáp.”
Hàn Văn Xung bỗng nảy dạ nghi ngờ, nên trù trừ không trả lời ngay. Trần Gia Lạc bèn hỏi: “Chẳng lẽ Hàn đại ca thấy có chỗ nào không đúng hay sao?”
Hàn Văn Xung vội đáp: “Không! Tại hạ cứ làm theo lời dặn của công tử là xong.”
Từ Thiên Hoằng biết hắn vẫn còn hoài nghi, sợ hắn làm hỏng việc bèn nói: “Xin chờ một chút.” Rồi chàng vào trong lấy một bình rượu và một cái chén, rót rượu đưa đến trước mặt Hàn Văn Xung mà nói: “Vừa rồi ta nói năng đụng chạm, xin Hàn đại ca tha lỗi. Mời huynh cạn chén này, coi như không trách ta nữa.”
Hàn Văn Xung vội đáp: “Không dám! Không dám!” Hắn nâng chén lên uống cạn rồi nói: “Trần công tử, tại hạ đi đây.”
Trần Gia Lạc chắp tay đáp: “Làm phiền huynh quá.”
Hàn Văn Xung nhận lấy lá thư, quay người đi ra. Nhưng Từ Thiên Hoằng đột nhiên lạc giọng la lên: “Úi chà! Không xong! Hàn đại ca! Ta lầm rồi, chén rượu vừa rồi có độc.”
Mọi người đều phải giật mình. Hàn Văn Xung đổi hẳn sắc mặt, quay người lại. Từ Thiên Hoằng nói: “Thật là có lỗi! Cái chén này có thuốc độc, vốn dùng để ngâm vũ khí. Bọn hầu hạ không biết nên lấy nhầm, vừa rồi ta ngửi thấy mùi mới biết. Hàn đại ca đã lỡ uống rồi, thật là hỏng bét! Mau đem thuốc giải ra!”
Một người trang đinh nói: “Thuốc giải để ở nhà bên đông thành rồi.”
Từ Thiên Hoằng quát luôn: “Đồ ngu, mau cưỡi ngựa đi lấy nhanh lên.”
Tên trang đinh đó lập tức vâng dạ chạy ra. Từ Thiên Hoằng quay lại nói với Hàn Văn Xung: “Tại hạ sơ suất thật đáng chết. Bây giờ xin Hàn đại ca đi đưa lá thư này trước, mọi việc cứ theo lời Thạch huynh đệ mà hành sự. Huynh quay về uống thuốc giải vẫn còn kịp chán.”
Hàn Văn Xung biết họ Từ cố ý hạ độc để ép mình, phải tuân lời Hồng Hoa Hội thì mới có thuốc giải mà uống, không thì mất mạng. Hắn nhìn Từ Thiên Hoằng đầy vẻ căm thù, không nói tiếng nào quay mình đi ngay. Thạch Song Anh cũng bước theo.
Đợi hai người đi khuất, Chu Trọng Anh mới chau mày nói: “Ta thấy tên Hàn Văn Xung này cũng không đến nỗi quá tệ hại, sao Hoằng nhi lại hạ độc hắn? Việc này thật không quang minh chút nào cả.”
Từ Thiên Hoằng mỉm cười nói: “Nghĩa phụ! Trong rượu không có độc.”
Chu Trọng Anh kinh ngạc hỏi: “Không có độc thật ư?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Đúng thế!” Chàng tiện tay rót một chén rượu, uống cạn rồi mỉm cười nói: “Con sợ hắn nói chuyện lung tung trước mặt Trương Triệu Trọng, làm hỏng việc của chúng ta, nên mới dọa hắn một chút. Khi trở về, cho hắn uống thêm một chén nữa thì coi như thái bình vô sự.”
Mọi người cười rộ lên.
* * *
Trương Triệu Trọng nhận được thư hồi âm của Trần Gia Lạc hẹn mình thí võ trên Cát Lãnh, cơn giận trong lòng lập tức nguôi bớt. Hắn đã giao đấu mấy lần với Trần Gia Lạc, biết mình chắc thắng tới chín phần mười, có thể rửa được cái nhục hôm trước.
Họ Trương đang ngồi canh Văn Thái Lai thì cửa ngục mở, một tên lính vào nói: “Trương đại nhân có khách!” Hắn còn đưa lên một tấm danh thiếp, ghi là Oai trấn Hà Sóc Vương Duy Dương.
Đúng phép lịch sự thì trên bái thiếp chẳng ai ghi ngoại hiệu cả. Trương Triệu Trọng vừa thấy đã phẫn nộ, nhưng nén giận bảo: “Ngươi ra nói là ta đang bận chuyện công, không được tiếp khách. Bảo ông ấy để lại địa chỉ, hôm khác ta sẽ tới bái phỏng sau.”
Tên lính đi ra, một hồi vào báo: “Khách không chịu đi, lại gửi một lá thư.”
Trương Triệu Trọng mở thư ra xem. Hắn nửa tức giận nửa kinh ngạc, thầm nghĩ: “Mình với lão già này chưa hề đụng chạm, sao hắn lại hẹn mình thí võ?” Hắn liền sai tên lính: “Ngươi nói với Lý tướng quân là ta cần tiếp khách, nhờ ông ấy cho người đến đây canh giữ giùm.”
Đợi bốn tên thị vệ đến canh giữ Văn Thái Lai, Trương Triệu Trọng mới khoác thêm trường bào ra khách sảnh. Hắn biết mặt Hàn Văn Xung, bèn đưa tay chào hỏi: “Vương tổng tiêu đầu không đến hay sao?”
Hàn Văn Xung nói: “Trương đại nhân! Giới thiệu với đại nhân, đây là Thạch tiêu đầu của tiêu cục bọn tại hạ. Vương tổng tiêu đầu có mấy câu muốn nói, nhờ Thạch tiêu đầu chuyển đến đại nhân.”
Trương Triệu Trọng dằn lá thư của Vương Duy Dương xuống bàn rồi nói: “Oai danh của Vương tổng tiêu đầu thì ta biết đã lâu. Ta với ông ấy trước nay chưa hề đụng chạm, sao lại nói là hiếp người quá đáng? Chắc là bên trong có sự hiểu lầm, phải nhờ hai vị chỉ giáo rồi.”
Thạch Song Anh lạnh lùng nói: “Vương tổng tiêu đầu là lãnh tụ võ lâm. Trong võ lâm mà xuất hiện kẻ bại hoại, bất kể có đụng chạm gì đến ông ấy hay không, ông ấy cũng phải nhúng tay một chút. Không thế sao gọi là Oai Trấn Hà Sóc?”
Trương Triệu Trọng đứng bật dậy hỏi: “Vương Duy Dương dám nói ta là võ lâm bại hoại ư?” Thạch Song Anh nhăn nhăn khuôn mặt đầy sẹo, không nói tiếng nào ra vẻ xác nhận.
Trương Triệu Trọng càng giận dữ hơn, hỏi: “Xin chỉ giáo, ta đã làm gì để bằng hữu võ lâm chê trách?”
Thạch Song Anh nói: “Vương tổng tiêu đầu có mấy việc cần hỏi Trương đại nhân. Việc thứ nhất, đã là người học võ thì bất cứ gia nào phái nào cũng kỵ nhất là xúc phạm tôn trưởng. Nghe nói Trương đại nhân là cao thủ phái Võ Đang mà không nhìn mặt sư huynh, lại còn muốn bắt sư huynh để thăng quan phát tài. Có đúng thế không?”
Trương Triệu Trọng tức tối đáp: “Việc giữa sư huynh đệ chúng ta, không cần người ngoài phải nhúng tay vào.”
Thạch Song Anh nói: “Việc thứ hai, đã là người lăn lộn trong giang hồ thì bất kể là bạch đạo hay hắc đạo, quan phủ hay lục lâm cũng phải trọng chữ nghĩa. Trương đại nhân cùng Hồng Hoa Hội không thù không oán, chỉ vì muốn thăng quan phát tài mà đi bắn Bôn Lôi Thủ Văn Thái Lai, lừa gạt một thằng bé ở Thiết Đảm Trang khiến nó mất mạng. Đại nhân nghĩ lại xem trong lòng có yên hay không?”
Trương Triệu Trọng giận dữ nói: “Ta ăn lộc vua thì phải trung với vua, chuyện này thì có liên quan gì đến Trấn Viễn tiêu cục nhà các ngươi?”
Thạch Song Anh nói: “Đại nhân đánh không lại Hồng Hoa Hội thì cứ chạy trốn thoát thân là xong, sao lại phải dùng kế Kim Thiền Thoát Xác bắt người của Trấn Viễn tiêu cục chết thay? Vụ đó làm không ít bằng hữu tiêu sư của chúng ta phải thương vong.”
Trương Triệu Trọng và Hàn Văn Xung nghe xong câu này đều tim đậpn thình thình, thì ra đây là chuyện làm Vương Duy Dương tức tối. Trận chiến dọc đường Cam Lương, Trấn Viễn tiêu cục tổn thất không ít. Tái Vĩnh Minh và Diêm thị huynh đệ bị giết, Tiền Chính Luân mất tay, những việc này Hàn Văn Xung đều biết. Lúc này họ Hàn nhịn không nổi, bèn lên tiếng: “Trương đại nhân! Việc này đại nhân thật là không phải, chẳng trách Vương tổng tiêu đầu nổi giận.”
Thạch Song Anh lạnh nhạt nói: “Những việc khác không cần hỏi nữa. Ba việc này phải giải quyết như thế nào, đại nhân nói đi.” Y trừng mắt lên nhìn, đầy vẻ oai phong lẫm liệt.
Trương Triệu Trọng bị hỏi như hỏi cung phạm nhân, nhịn không nổi phải bước lên một bước, hét lên: “Thằng lỏi này chán sống rồi hay sao mà dám trêu vào tay thái tuế?” Dường như hắn muốn động thủ ngay lập tức.
Thạch Song Anh lùi lại một bước rồi nói: “Sao? Oai Trấn Hà Sóc tìm ông thí võ, ông không dám nên mới động thủ với ta phải không?”
Trương Triệu Trọng quát: “Ai nói ta không dám? Về bảo lão già đó giờ Ngọc hôm nay lên Sư Tử Phong phân cao thấp, ai không đi không phải là hảo hán.”
Thạch Song Anh nói: “Nếu ông không đi thì từ nay về sau đừng ló mặt ra chốn giang hồ nữa. Vương tổng tiêu đầu nhắn, nếu ông còn chút xíu cốt khí thì đi một mình, tiêu cục chúng ta quyết không có người thứ hai ở đó. Còn nếu ông gọi tới quan phủ điều binh khiển tướng, thì bọn dân đen chúng ta không dám đến đâu.”
Trương Triệu Trọng nói: “Vương Duy Dương chỉ có danh hão mà thôi. Chẳng lẽ ta lại sợ lão già rỗng tuếch chỉ có hư danh đó, gọi người giúp để làm gì?”
Thạch Song Anh nói: “Vương tổng tiêu đầu không dẻo miệng như ông, lát nữa gặp nhau chỉ nói chuyện bằng quyền cước đao thương. Ông muốn thóa mạ người ta thì bây giờ cứ thóa mạ cho đã miệng trước đi.”
Thật ra Trương Triệu Trọng cũng không dẻo miệng lắm, càng nghe họ Thạch nói càng tức tối, không nói lại được câu nào.
Thạch Song Anh tiếp: “Được, chúng ta cứ thế. Bây giờ ông nên dành chút thời gian để ôn luyện lại võ nghệ, mà cũng nên lo lắng hậu sự một chút.”
Cặp mắt Trương Triệu Trọng tóe lửa, hắn xoay tay phóng ra một chưởng nhanh như điện chớp. Thạch Song Anh gấp rút đảo người tránh né nhưng không thể kịp, bị đánh trúng vào vai trái, loạng choạng mấy bước. Trương Triệu Trọng xuất thủ cực nhanh, hữu chưởng vừa đánh ngã Thạch Song Anh, người đã rượt tới nơi, tả quyền đánh bồi vào trước ngực.
Thạch Song Anh ra chiêu Lãm Tước Vĩ trong Thái Cực Quyền, lôi kéo quyền phong của họ Trương đánh ra ngoài cửa. Trương Triệu Trọng thấy y sử dụng công phu nội gia, bất giác ngẩn người ra một chút.
Trong chớp nhoáng đó, Thạch Song Anh lùi được vài bước, hét lên: “Hay lắm! Ông đã không dám gặp Vương tổng tiêu đầu, thì chúng ta cứ ở đây so tài cao thấp một phen.” Y bắt chéo hai chưởng trước ngực phòng thủ, cảm thấy bên vai phải đã tê chồn, rõ ràng không đỡ nổi chưởng tiếp theo.
Trương Triệu Trọng quát: “Ngươi không phải là đối thủ của ta. Về nói với Vương Duy Dương, đúng giờ Ngọ ta sẽ đến.”
Thạch Song Anh cười nhạt quay người đi ngay. Hàn Văn Xung cũng ra theo.
Trong lúc hai bên đấu khẩu, Hàn Văn Xung cứ lo nghĩ về chuyện uống rượu độc, cảm thấy từ đầu đến chân không có chỗ nào thoải mái. Hắn chỉ mong Thạch Song Anh nói chuyện cho mau để mau mau về uống thuốc giải. Khi thấy hai bên động thủ, hắn sợ đến xanh mặt mồ hôi ướt đầm, chân run lẩy bẩy, khó khăn lắm mới về tới nhà họ Mã ở Cô Sơn.
Thạch Song Anh báo cáo: “Hắn đã đồng ý đến vào giờ Ngọ.”
Hàn Văn Xung cảm thấy ruột mình đau như cắt, nhăn nhó ngồi trên ghế. Từ Thiên Hoằng bèn rót một chén rượu, lên tiếng: “Thuốc giải đây, Hàn đại ca uống đi.” Hàn Văn Xung vội vàng đưa tay đón lấy.
Bỗng dưng Chu Trọng Anh đưa tay ra đoạt lấy chén rượu, ngửa cổ uống cạn. Hàn Văn Xung ngơ ngác không hiểu, Chu Trọng Anh bèn mỉm cười nói: “Đùa như vậy là quá đủ rồi. Hàn lão đệ! Ngươi chưa uống rượu độc đâu, Từ đương gia chỉ giỡn với ngươi thôi. Hoằng nhi, mau mau qua đây xin lỗi!”
Từ Thiên Hoằng mỉm cười bước tới, chắp tay vái một cái rồi nói: “Xin Hàn đại ca đừng trách.” Sau đó chàng giải thích rõ ràng. Dĩ nhiên Hàn Văn Xung chẳng vui vẻ gì, nhưng cũng không ôm hận nữa.
Mạnh Kiện Hùng lại vào trong gặp Vương Duy Dương, tay chống nạnh ra vẻ giận dữ, chỉ mặt lão mà nói: “Trương đại nhân đã đồng ý rồi, ông đi ngay đi. Còn nữa, Trương đại nhân không thích loại người lắm mồm. Bây giờ ông muốn nói gì thì nói ngay đi. Lát nữa lên Sư Tử Phong chỉ tranh cao thấp về quyền cước binh đao, ông muốn lải nhải huyên thuyên Trương đại nhân chắc chắn không nghe, muốn van xin tha mạng cũng không có kết quả. Giả tỉ ông cảm thấy hối hận hay hoảng sợ thì phải nói ngay bây giờ mới kịp.”
Vương Duy Dương đứng bật dậy, gầm lên: “Hôm nay ta quyết liễu cái mạng này để đấu với hắn một phen.” Lão sải bước ra ngoài.
Mạnh Kiện Hùng vẫy tay một cái, một tên trang đinh đem thanh tử kim bát quái đao và túi phi tiêu trả lại cho Vương Duy Dương. Lão đón lấy, tức giận đến mức cả hàm râu bạc phải dựng ngược lên.
Hàn Văn Xung đứng trước cửa nói: “Lần này Vương tổng tiêu đầu đi, xin cẩn thận một chút.”
Vương Duy Dương hỏi: “Ngươi cũng biết rồi hay sao?”
Hàn Văn Xung gật đầu rồi nói: “Thuộc hạ mới gặp Trương Triệu Trọng.”
Vương Duy Dương hỏi: “Hắn mắng ta những gì?”
Hàn Văn Xung đáp: “Lời nói của kẻ tiểu nhân, Vương tổng tiêu đầu không cần phải để vào lòng.”
Vương Duy Dương giục: “Ngươi nói đi, đừng ngại.”
Hàn Văn Xung nói: “Hắn mắng chửi ông là lão già rỗng tuếch chỉ có hư danh.”
Vương Duy Dương hừ một tiếng rồi nói: “Có phải là hư danh rỗng tuếch hay không, bây giờ chưa biết. Lỡ ta gặp bất trắc, thì… Hàn lão đệ! Mọi chuyện trong tiêu cục và gia đình ta, nhờ ngươi lo liệu giúp.” Lão dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Phải dặn hai đứa Kiếm Anh, Kiếm Kiệt đừng vội trả thù. Anh em nó học võ chưa xong, bây giờ động thủ chỉ tổ uổng mạng.” Vương Kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt là hai đứa con trai của Vương Duy Dương, đều học võ nghệ gia truyền Bát Quái Môn.
Hàn Văn Xung nói: “Võ công của tổng tiêu đầu hết mực tinh thâm, thuộc hạ nghĩ rằng tên Trương Triệu Trọng kia chưa chắc là địch thủ. Xin ở đây để chờ đợi tin lành.”
Vương Duy Dương bèn đi theo tên trang đinh dẫn đường, lên đỉnh Sư Tử Phong đơn đao phó hội.
* * *
Sư Tử Phong là nơi sản xuất trà có tiếng, trà Sư Tử Long Tĩnh là tuyệt phẩm trong thiên hạ. Ngọn núi này vừa cao vừa dốc, hiếm khi có du khách trèo lên tới đỉnh.
Vương Duy Dương cài đao sau lưng, bước lên Sư Tử Phong. Trên đỉnh núi có một bãi trống bằng phẳng, xung quanh đều là đất trồng trà. Phía trước có một người bước tới, mặc áo ngắn, chân quấn chặt, thân hình khôi vĩ. Hắn nhìn chằm chằm Vương Duy Dương một lúc rồi hỏi: “Ông là Vương Duy Dương phải không?”
Vương Duy Dương nghe hắn gọi thẳng tên mình, lửa trong lòng lập tức bốc lên. Nhưng lão đã gần bảy mươi rồi, huyết khí của thời thanh niên đã giảm hơn một nửa. Dù sao thì Trương Triệu Trọng cũng là võ quan trong triều đình, nên ít nhiều lão cũng có phần kính nể, bèn nói: “Không sai, chính là tại hạ. Ông là Hỏa Thủ Phán Quan Trương đại nhân phải không?”
Người kia chính là Trương Triệu Trọng, hỏi ngay: “Chúng ta tỉ thí quyền cước hay binh khí?” Hắn hành sự rất tỉ mỉ, lên đỉnh núi từ sớm để điều tra xung quanh trước. Thấy đối phương hoàn toàn không đặt mai phục, hắn nghĩ: “LãoVương Duy Dương này tuy ngông cuồng ngạo mạn, nhưng cũng chỉ là một tiêu đầu, chẳng lẽ dám bày trận ám toán người của triều đình hay sao?” Thế là hắn yên tâm ứng chiến.
Vương Duy Dương thì nghĩ: “Ta cùng hắn không có thâm thù oan trái gì, hà tất phải dùng binh đao làm tổn thương nhau. Giả tỉ lỡ tay giết mất mệnh quan triều đình thì sau này hậu hoạn vô cùng. Tốt nhất là dùng Bát Quái Chưởng dạy cho hắn bớt kiêu ngạo, cho hắn biết lão tử không phải là hư danh rỗng tuếch, như vậy cũng được rồi.” Lão suy nghĩ xong liền nói: “Ta xin lãnh giáo Vô Cực Huyền Công Quyền vang danh thiên hạ của Trương đại nhân.”
Trương Triệu Trọng đáp: “Hay lắm!” Hắn bèn đưa tả quyền hữu chưởng lên chạm nhau, vái chào một cái. Tuy tên này tự cao ngạo mạn, nhưng sở học đúng là quyền pháp nội gia của phái Võ Đang, nên vẫn dùng thế Dĩ dật đãi lao, lấy nhàn rỗi đánh mệt mỏi, lấy tĩnh chế động, ngưng thần tụ khí chờ địch tấn công.
Vương Duy Dương biết hắn chắc chắn không ra chiêu trước, bèn hô lớn: “Ta xuất chiêu đây!” Lời còn chưa dứt, tả chưởng đã đưa ra ngoài, hữu chưởng xuất chiêu Du Không Thámg Trảo chặt vào vai phải, đồng thời tả chưởng lật lên theo chiêu Mãnh Hổ Phục Trang đập vào tay phải đối phương. Tiếp theo hữu chưởng lại biến thành quyền đánh vào trước ngực, chớp nhoáng đã xuất ba chiêu liên hoàn. Trương Triệu Trọng phải lùi ba bước, dùng Vô Cực Huyền Công Quyền hóa giải.
Hai người đứng sát nhau rồi lại tách ra, lượn vòng quanh người đối phương, đều âm thầm thán phục nhau. Trương Triệu Trọng nghĩ: “Ba chiêu này vừa nhanh vừa mạnh, lão già này đúng là kình địch.”
Vương Duy Dương thì nghĩ: “Hắn dễ dàng hóa giải ba chiêu trong nhu có cương của ta, Hỏa Thủ Phán Quan đúng là danh bất hư truyền.”
Hai người đều không dám khinh địch. Lượn quanh một vòng, Trương Triệu Trọng bước lên một bước dùng chân trái quét ngang. Vương Duy Dương nhảy lên tránh né, đưa song chưởng vỗ xuống mặt đối thủ. Khi Trương Triệu Trọng phóng chân trái đá ra đã âm thầm sử dụng hai chiêu Không Kích Thương Ưng và Thụ Tiếu Cầm Hầu. Hai chưởng của Vương Duy Dương đánh xuống đã hóa giải hai chiêu này mất tích.
Đúng là kỳ phùng địch thủ, mỗi người đều triển khai tuyệt học, chớp nhoáng đã qua lại hai ba chục chiêu. Lúc này trời đang đứng bóng, hai bóng đen múa máy dưới đất, lúc hợp lúc chia.
Vương Duy Dương thấy đánh mãi chưa thắng, thầm nghĩ: “Mình đã già rồi, khí lực không bằng đối phương ở tuổi tráng niên, đánh lâu dĩ nhiên kém thế.” Lão đột nhiên thay đổi chiêu thức, chưởng không rời chỏ, chỏ không rời ngực, một chưởng hộ thân, một chưởng ứng chiến. Hữu chưởng hướng hơi lệch lệch về phía vai trái, hai chân đạp theo bát quái chạy vù vù xung quanh Trương Triệu Trọng. Đó chính là tuyệt kỹ Du Thân Bát Quái Chưởng thành danh của lão.
Khi thi triển chưởng pháp này thì dưới chân không dừng lại bước nào, luôn luôn chạy quanh người kẻ địch, lúc chạy sang trái lúc chạy sang phải, gấp rút xoay chuyển để tìm chỗ sơ hở phát chiêu. Đối phương thấy mình trước mắt, vừa phát chưởng cản trở thì mình đã xoay ra đến sau lưng rồi. Đối phương quay lại, thì mình đã lại chạy ra sau lưng nữa. Cứ thế quay mấy chục vòng, dù đối phương có võ nghệ cao cường cũng phải luống cuống, đầu váng mắt hoa. Còn nếu đối phương không chịu quay theo, chỉ cần dừng lại một chútt hì sau lưng sẽ trúng quyền chưởng vào chỗ yếu hại.
Vương Duy Dương mới chạy được hai vòng, Trương Triệu Trọng đã biết ngay đấu pháp này lợi hại. Chưa đợi lão chạy đến sau lưng, lão đã bước ngang một bước, xoãi chân quét chặn về hướng lão đang chạy tới, rồi phóng chưởng đánh đón vào mặt. Nhưng Vương Duy Dương đã quay sang hướng khác rồi.
Trương Triệu Trọng thấy chân lão đan theo hình cửu cung bát quái, biết lão đang ở cung Khảm phải tới cung Ly, b`n múa tít song chưởng cố giành lấy cung Càn. Hai người xoay bảy tám vòng như thế, chưởng vừa phóng ra đã thu về, không để giao nhau.
Lộ chưởng pháp này Vương Duy Dương đã luyện tập thành thuộc mấy chục năm trời, bộ pháp càng ngày càng nhanh, chưởng vừa thu lại đã phát ra ngay, tới mức độ hoàn toàn không cần suy nghĩ.
Trương Triệu Trọng chỉ biết thấy chiêu đỡ chiêu, lúc đầu còn giữ được thế quân bình, nhưng kéo dài thì không thể nhanh kịp đối phương. Hắn thầm nghĩ: “Nếu cứ xoay chuyển như thế, chắc chắn mình sẽ rơi vào thế hạ phong.”
Họ Trương liền vận khí theo yếu quyết dĩ nhu khắc cương của Vô Cực Huyền Công Quyền mà ngưng lại không nhúc nhích, bảo nguyên quy nhất để đợi địch đánh tới. Hắn vừa dừng chân lại, Vương Duy Dương đã quành ra phía sau, xuất chiêu Kim Long Trảo Trảo phóng chưởng đánh vào hậu tâm.
Trương Triệu Trọng đợi chưởng đánh tới nơi, xoay tay trái toan chụp lấy tay địch thủ. Vương Duy Dương vội rút tay về, chân đã chuyển sang bộ vị khác. Lão âm thầm thán phục: “Tên này quả nhiên rất khá, có thể nhắm mắt thay đổi chưởng pháp.”
Thì ra Trương Triệu Trọng biết, nếu quay mãi theo đối phương như thế thì địch là chủ mình là khách, chắc chắn mình không tự nhiên nhuần nhuyễn được như đối phương. Hắn thấy họ Vương râu tóc bạc phơ, nếu kéo dài thời gian sẽ không thể bằng mình được, bèn sử dụng công phu Bế Mục Hoán Chưởng để tiếp Du Thân Bát Quái Chưởng của lão.
Khi luyện loại võ công này phải dùng khăn đen bịt mắt mình lại, chỉ dựa vào tai nghe và cảm giác của da để biết phương hướng kẻ địch tấn công, hoàn toàn giữ thế thủ để tiếp đón. Chưởng đưa ra thụt vào chỉ trong vòng một thước, bởi thế mà chiêu nào cũng cực nhanh. Địch chỉ thu quyền hơi chậm là lập tức bị túm lấy cổ tay, bẻ trật khớp xương.
Bế Mục Hoán Chưởng thường dùng ban đêm, hoặc ở chỗ thiếu ánh sáng khi gặp cường địch, ngay cả khi đưa tay không nhìn thấy năm ngón cũng có thể dùng để hộ thân. Chưởng pháp này biến hóa cực kỳ tinh diệu, tuy không thể công kích thân thể của đối phương, nhưng có thể đoạt được binh khí, bẻ gãy tay chân.
Lúc này một người xoay chuyển cực nhanh, một người khom lưng đứng yên một chỗ. Mỗi khi sát vào nhau là biến chiêu chớp nhoáng, rồi lập tức rời ra. Trong chốc lát hai người lại đánh thêm mấy chục chiêu, Vương Duy Dương dần dần lo lắng trong lòng, thầm nghĩ: “Nếu cứ hao tổn sức lực thế này thì kết quả sẽ ra sao?”
Lão đột nhiên phóng tơi sau lưng địch thủ, tay phải đánh vờ một chưởng, chân phải đá vờ một cước. Trương Triệu Trọng xoay tay hai cái đều không túm được. Tay trái của Vương Duy Dương lại phát hai hư chiêu đánh tới sau lưng, rồi tay phải vỗ mạnh xuống vai địch thủ.
Dù sao thì sau lưng cũng không có mắt. Trương Triệu Trọng vừa tập trung hết tinh thần đối phó bốn hư chiêu liên tục, đột nhiên cảm thấy chưởng lực đánh mạnh xuống vai. Hắn kinh hãi trong lòng, muốn tránh né hay chống đỡ cũng không kịp nữa, bèn đưa vai ra hứng chưởng, rồi xoay tay phải toan bắt lấy cổ tay trái kẻ địch, khóa lấy cánh tay đang đà đi xuống, dùng tả quyền đánh mạnh vào khuỷu tay trái địch thủ. Nếu bàn tay của đối phương đã bị khóa lại, thì cánh tay không thể không gãy vì chiêu Tiên Kiếm Trảm Long này. Trương Triệu Trọng nghĩ trên vai không phải là chỗ trí mạng, mình ỷ vào thân thể cường tráng mà chịu một chưởng cùng chưa sao, còn tay phải của đối phương chắc chắn phải tàn phế.
Vương Duy Dương đánh trúng đầu vai địch thủ, đang mừng rỡ thì đột nhiên bàn tay trái của mình bị khóa chặt không rút về được. Lão thấy tả quyền của đối phương sắp đánh xuống khuỷu tay trái của mình, biết rằng phen này lỗ vốn. May mà lão lâm nguy không loạn, lập tức xoay chuyển thân hình sang hướng khác, mượn sức đánh vào vai đối phương, để giật tay về. Thế là khi tả quyền của Trương Triệu Trọng đánh xuống thì khuỷu tay của Vương Duy Dương đã dời qua nơi khác.
Vai của Trương Triệu Trọng trúng một chưởng, nhưng hắn nương theo đà chưởng mà hơi co lại nên không trọng thương. Dù sao thì huyệt Khúc Trì của hắn cũng tê chồn. Hai người vừa biến chiêu đã nhảy rời ra. Họ Trương trúng đòn, coi như thua mất một chiêu quyền pháp.
Trương Triệu Trọng quát lên: “Quả nhiên chưởng pháp cao minh! Chúng ta tỉ thí binh khí xem sao.” Soạt một tiếng, Ngưng Bích Kiếm đã nắm trong tay. Vương Duy Dương cũng rút thanh Tử Kim Bát Quái Đao sau lưng ra.
Lúc này hai người đứng gần, nhìn nhau rất rõ ràng. Vương Duy Dương thấy mặt mũi Trương Triệu Trọng sưng húp, trên mắt phải có quầng thâm đen, bất giác kinh ngạc nghĩ thầm: “Tên này võ nghệ đầy mình mà còn bị đánh thê thảm như thế, không biết gặp phải cao nhân nào.” Thật ra đêm qua Trương Triệu Trọng bị Trần Gia Lạc nện cho mấy quyền, đầu mặt bị thương không nhẹ. Hôm nay hắn thua một chiêu chưởng pháp, một phần là do vết thương này ảnh hưởng.
Trương Triệu Trọng quyết gỡ lại thể diện, Ngưng Bích Kiếm vừa tuốt ra tay là kiếm thế liên miên bất tận, toàn là những chiêu thức tấn công mãnh liệt và lợi hại vô cùng. Vương Duy Dương thấy kiếm quang của hắn trong sáng như nước hồ thu, biết đó là bảo kiếm, nếu để binh khí chạm nhau thì chắc mình bị thiệt thòi. Do đó lão không dám dùng thanh Bát Quái Đao mà công nhiên đón đỡ.
Đao kiếm đấu nhau hồi lâu, tình thế của Trương Triệu Trọng càng lúc càng sáng sủa. Tuy nhiên đối phương phòng thủ khá nghiêm ngặt nên nhất thời hắn không tấn công vào được. Bỗng nhiên hắn thấy họ Vương xuất chiêu Thiết Ngưu Canh Địa chém ngang qua, bèn đợi đà đao sắp hết rồi lập tức ra chiêu Thiên Thân Đảo Huyền, hớt lưỡi kiếm vào sống thanh Bát Quái Đao.
Vương Duy Dương thu đao về không kịp, đành chĩa ngón giữa và ngón trỏ bên tay trái đâm vào mặt hắn, nhưng Trương Triệu Trọng nghiêng đầu tránh được. Nghe tiếng loảng xoảng, cây Bát Quái Đao đã bị chém đứt mất một khúc.
Vương Duy Dương cất tiếng khen ngợi: “Bảo kiếm!” Lão nhảy ra một bước, lại nói: “Chúng ta mỗi người thắng một trận. Trương đại nhân muốn tỉ thí tiếp hay không?” Lão muốn nhân cơ hội này để dừng tay, hai người đều không mất thể diện, nào ngờ lỡ lời một câu “bảo kiếm.”
Trương Triệu Trọng nghĩ thầm: “Thì ra ngươi chê cười ta chỉ nhờ bảo kiếm mà chiếm thượng phong, thắng trận cũng không đẹp đẽ gì!” Hắn bèn quát: “Hôm nay chưa phân thắng bại quyết chẳng chịu thôi!” Kiếm lại vung lên, đâm thẳng ra phía trước.
Hai người lăn xả vào nhau đấu thêm bảy tám chục chiêu nữa, trên đầu Vương Duy Dương đã ướt đẫm mồ hôi. Lão tự biết đánh càng lâu mình càng bất lợi, bèn âm thầm lấy kim tiêu ra, chuyển đao sang tay trái rồi hét lớn: “Xem tiêu đây!” Đao pháp đột nhiên thay đổi, dùng tay trái ngược hẳn với đao pháp bình thường, lại có ba mũi kim tiêu thuận theo thế đao mà phóng ra.
Đây là một tuyệt kỹ của họ Vương. Đối phương chống đỡ với đao pháp ngược tay đã khó hơn, lại còn kim tiêu phối hợp. Tránh tiêu thì khó tránh đao, tránh đao thì khó tránh tiêu, quả là lợi hại phi thường.
Thấy đao lẫn phi tiêu công tới, Trương Triệu Trọng liền đảo người sang phải né đao, rồi đưa tay đón bắt phi tiêu. Kim đao của Vương Duy Dương lại chém tới, Trương Triệu Trọng bèn cúi đầu tránh né. Hắn thấy đối phương phóng tới một tiêu tới hạ bàn mình, liền phóng mũi tiêu trong tay mình ra, nhắm vào tiêu của đối phương. Hai mũi kim tiêu chạm nhau tóe lửa, rồi cùng rơi xuống cắm dưới đất.
Vương Duy Dương đao sau nhanh hơn đao trước, tiêu sau gấp hơn tiêu trước, phóng sắp hết hai mươi bốn mũi tiêu mà vẫn chưa làm gì được đối phương. Lúc này trong tay lão chỉ còn lại ba mũi tiêu, bèn bước chân trái sang phải một bước, thân hình hơi cúi, tay trái vung đao chém xuống, rồi tay phải giương lên.
Kim tiêu càng phóng càng nhanh, Trương Triệu Trọng vừa đỡ đao vừa né tiêu đến bối rối tay chân, không có lúc nào rảnh mà lấy Phù Dung kim châm ra đánh trả. Hắn đã thấy Vương Duy Dương phóng tới hai mươi mốt cây kim tiêu, biết rằng sau nhát đao này nhất định sẽ có một tiêu đi theo, bèn lập tức xoay người lại nhìn chằm chằm vào tay phải họ Vương. Nào ngờ đây lại là hư chiêu, Trương Triệu Trọng đợi mãi mà không thấy tiêu phóng tới.
Lúc đó Vương Duy Dương đạp vào cung Chấn, xuất chiêu Lực Phách Hoa Sơn chặt đến trước mặt. Trương Triệu Trọng thấy thế đao rất nặng, không dám chống đỡ phải lùi lại một bước. Ngưng Bích Kiếm thi triển chiêu Hoành Vân Đoạn Phong quét ngang vào lưng địch thủ. Vương Duy Dương liền phóng một lúc ba mũi tiêu còn lại.
Trương Triệu Trọng la lên một tiếng “úi chà,” buông Ngưng Bích Kiếm rơi xuống đất, ngã ngửa ra sau.
Thì ra Vương Duy Dương cố y dụ hắn xoay người để hắn bị lưỡi đao phản chiếu ánh nắng mặt trời làm chói mắt nhìn không rõ, đồng thời mạo hiểm cho hắn chặt đứt đao của mình. Lão thừa lúc hắn đắc ý mà phóng ba mũi phi tiêu, quả nhiên đắc thủ.
Vương Duy Dương lên tiếng: “Trương đại nhân! Xin đắc tội! Ta có thuốc kim thương đây.” Lão đợi một hồi không thấy hắn trả lời, bất giác kinh hãi nghĩ thầm: “Chẳng lẽ phi tiêu trúng vào chỗ yếu hại, giết hắn ròi hay sao? Hắn là mệnh quan của triều đình, còn mình lại có gia đình sản nghiệp, đánh chết hắn thật chẳng tốt lành gì.”
Lão bèn tới chỗ Trương Triệu Trọng cúi xuống xem xét, vừa khom lưng xuống đã nghe họ Trương thét lên một tiếng, rồi trước mắt có một vừng đen nhòa nhòa bay tới. Vương Duy Dương la lên: “Hỏng rồi!” lập tức dùng thân pháp Thiết Bản Kiều đổ người ra sau, nhưng đã trễ mất một phút. Trên ngực và bên vai trái lão đau nhức kịch liệt, hiển nhiên đã trúng ám khí.
Vương Duy Dương giận dữ hét lên một tiếng, tung người lên muốn thí mạng với họ Trương để chết chung một chỗ, nhưng vừa vận sức là trước ngực và trên vai đau thấu tới xương, lập tức té lăn xuống đất. Trương Triệu Trọng cười ha hả, nhổ cây kiam tiêu ở cổ tay bên phải ra, xé vạt áo buộc lại vết thương, rồi đứng dậy.
Vương Duy Dương lên tiếng thóa mạ: “Thằng khốn Trương Triệu Trọng kia! Nếu ta không có lòng tốt đến xem xét vết thương cho ngươi, thì làm sao ngươi đả thương ta được? Ngươi sử dụng thủ đoạn đê tiện bỉ ổi như thế, làm sao dám xưng là anh hùng hào kiệt? Để xem ngươi còn mặt mũi nào để gặp hảo hán giang hồ nữa hay không.”
Trương Triệu Trọng cười rộ lên: “Ở đây chỉ có hai người chúng ta, còn ai biết nữa? Ngươi sống đến tuổi này rồi, quy thiên không phải là sớm. Ngày này năm sau chính là giỗ đầu của ngươi đấy.”
Vương Duy Dương nghe vậy, biết hắn muốn giết người diệt khẩu liền mở miệng mắng chửi om sòm. Trương Triệu Trọng bước tới, đưa tay vỗ vào Á huyệt dưới nách, họ Vương lập tức không nói ra tiếng được nữa. Mắt lão bốc lửa, da thịt trên mặt co rút lại, tức tối đến nỗi lồng ngực muốn vỡ tung ra.
Trương Triệu Trọng nhặt nửa cây đao dưới đất đào một cái hố lớn, xách Oai Trấn Hà Sóc lên quăng xuống hố, cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Ngươi tự xưng là Oai Trấn Hà Sóc, xem thử bây giờ còn trấn được con mẹ gì nữa không.” Hắn dùng chân hất đất xuống hố, muốn chôn sống họ Vương.
Mới đá được mấy cục đất, đột nhiên xa xa phía sau vang tới giọng cười lạnh nhạt. Trương Triệu Trọng giật bắn người, quay lại thì thấy một người cầm binh khí kỳ lạ đứng trên một lùm cây dưới ánh nắng chói chang, chính là Thiết Tỳ Bà Thủ Hàn Văn Xung.
Trương Triệu Trọng giận dữ hét lên: “Hay lắm! Đã hẹn đơn đả độc đấu mà Trấn Viễn tiêu cục cũng có người mai phục xung quanh, thật không đếm xỉa gì đến danh dự cả.”
Hàn Văn Xung đáp: “Nếu ngươi còn chút danh dự thì đã không dùng thủ đoạn đê tiện như thế.”
Trương Triệu Trọng nói: “Được! Hôm nay ta phải lãnh giáo Thiết Tỳ Bà Thủ của ngươi.” Hắn thi triển khinh công Bát Bộ Cản Thiền, chỉ nhấp nhô ba cái đã tới nơi, vung kiếm đâm thẳng. Hàn Văn Xung lùi lại hai bước, nhưng từ giữa lùm cây bỗng có một ngọn đao thép bay ra, quét ngang trước mặt Trương Triệu Trọng.
Trương Triệu Trọng dựng bảo kiếm lên đón đỡ. Người kia xuất đao nhanh mà thu đao còn nhanh hơn, không đợi đao kiếm chạm nhau đã thu trở lại. Trương Triệu Trọng nhận ra người này chính là Thạch tiêu sư ăn nói vô lễ hồi sáng, bèn giận dữ quát: “Hai ngươi xông vào cả đi, Hỏa Thủ Phán Quan này quyết chẳng coi vào đâu.”
Hắn đang đứng đợi thì bỗng nghe thấy sau lưng có tiếng động, trong lòng lập tức bất an. Trương Triệu Trọng lập tức nhảy lùi ra, quay đầu nhìn lại thì thấy tám chín người đang lên núi, đi đầu là Trần Gia Lạc, tổng đà chủ Hồng Hoa Hội.
Trương Triệu Trọng nhớ đến vố đau đêm qua, cơn giận lập tức nổi lên. Nhưng hắn thấy đối phương đông người, xem ra toàn không phải tay vừa, nên không khỏi run rẩy một chút. Vừa kinh hãi vừa giận dữ, hắn quay đầu tứ phía để tìm đường chạy.
Trần Gia Lạc bảo Hàn Văn Xung: “Hàn đại ca! Huynh đi cứu Vương tổng tiêu đầu trước đi.”
Hàn Văn Xung chạy đến miệng hố, ôm Vương Duy Dương lên. Trương Triệu Trọng đứng yên không cản trở. Trần Gia Lạc đưa tay xoa mấy cái, giải khai Á huyệt cho lão. Tội nghiệp cho Vương Duy Dương tới tuổi xế chiều mới bị một trận thế này, vừa đau vừa tức, nhất thời không nói được tiếng nào.
Trương Triệu Trọng hô lớn: “Lão già Vương Duy Dương này đòi thí võ với ta, đã nói rõ là đơn đả độc đấu, không rủ người trơ. giúp. Bây giờ thắng bại đã phân rồi. Xin cáo biệt Trần đương gia, ba ngày sau lại gặp nhau ở Cát Lãnh.” Hắn vừa chắp tay vái chào vừa quay người lại, muốn xuống núi ngay.
Trần Gia Lạc nói: “Tại hạ cùng các vị huynh đệ đến đây là để thưởng thức phong cảnh, ngẫu nhiên được xem hai vị tỉ đấu quyền cước, binh khí và ám khí. Quả nhiên võ nghệ kinh người, chúng ta đều được mở rộng tầm mắt. Trương đại nhân thắng thì có thắng, nhưng không được quang minh lỗi lạc lắm.”
Trương Triệu Trọng nói: “Từ xưa đến nay, xuất binh là phải dùng mưu kế. Chúng ta đấu lực, đấu trí, ai giỏi hơn thì thắng, có gì mà không phải?”
Trần Gia Lạc mỉm cười rồi nói: “Kiến thức của Trương đại nhân quả nhiên cao minh khác người. Cổ nhân có nói, hẹn ngày không bằng chạm mặt. Trương đại nhân hẹn tại hạ tỉ thí, bây giờ may mắn gặp nhau, lẽ ra hôm nay nên lãnh giáo ngay, không cần hẹn ngày khác làm gì. Nhưng cổ tay phải của Trương đại nhân đã bị thương, tại hạ không muốn nhân cơ hội để ép người. Vết thương của đại nhân không phải một sớm một chiều mà lành được, cuộc hẹn của chúng ta dời lại ba tháng có được không?”
Trương Triệu Trọng mừng thầm trong bụng: “Ngươi đã bày trò rộng lượng, thì trước mắt ta không phải thiệt thòi nữa rồi.” Hắn vội đáp: “Hay lắm! Thế thì ngày này ba tháng sau, chúng ta sẽ gặp nhau trên Sơ Dương Đài ở Cát Lãnh.”
Trần Gia Lạc bước tới gần, từ từ nói: “Khoan đã! Chúng ta cần cứu Bôn Lôi Thủ Văn tứ đương gia, việc này đại nhân cũng biết rồi.”
Trương Triệu Trọng hỏi: “Thế thì sao?”
Trần Gia Lạc nói: “Xiềng xích trên người huynh ấy đều đúc bằng thép tinh luyện, giũa đục bình thường không làm gì được, chỉ còn cách mượn bảo kiếm của đại nhân dùng thử. Chúng ta đều là người trong võ lâm, dĩ nhiên coi trọng nghĩa khí. Chắc Trương đại nhân vui vẻ mà cho mượn.”
Trương Triệu Trọng hừ một tiếng. Tuy hắn thấy đối phương đông người, hôm nay mình khó thoát thân, nhưng cũng nói: “Muốn mượn kiếm của ta thì phải có bản lãnh mới được.” Nói chưa xong, hắn đã vọt ra ngoài mấy trượng, rồi quay lưng lại chạy như bay xuống núi.
Họ Trương vừa hít một hơi, đột nhiên thấy trước mặt có hai cái phi trảo phóng tới, một nhắm trên đầu, một nhắm dưới chân. Trên dưới đến cùng một lúc, thế trảo vừa nhanh chóng vừa mãnh liệt. Hắn múa kiếm vẫy ra trước mặt thành một đóa kiếm hoa, cản được phi trảo phía trên, rồi nhảy vọt lên phóng cước đá phi trảo bên dưới bật ra, tiếp tục chạy ào ào xuống núi.
Phi trảo của Thường Bá Chí lại đánh tới, Trương Triệu Trọng cúi xuống, lạng người tránh sang bên phải. Thường Hách Chí nhảy đến gần, vù một tiếng xuất chiêu Lang Bạt Giang Tiều trong Hắc Sa Chưởng đánh vào giữa mặt. Trương Triệu Trọng đã từng kịch đấu với Thường thị song hiệp trên Ô Tiêu Lãnh, biết hai người này rất lợi hại, trong vòng vài chục chiêu khó mà thắng được. Hắn bèn nhảy lùi lại, rồi chạy về hướng nam. Thường thị huynh đệ lo giữ mặt bắc, nên không đuổi theo.
Lúc này thái dương đã ngả về nam. Trương Triệu Trọng nhắm thẳng hướng mặt trời, né nhóm người Trần Gia Lạc mà chạy. Hắn vừa đến đầu con đường dẫn xuống núi thì nghe hai tiếng veo véo, hai mũi phi yến ngân thoa phóng tới. Hắn đã từng bị loại thoa này đánh trúng, vội vã nhào xuống đất lăn đi hai vòng. Nghe hai tiếng lách cách, những mũi thoa nhỏ xíu chứa trong ngân thoa bắn xẹt ra nhanh như điện chớp.
Trương Triệu Trọng vung Ngưng Bích Kiếm che đỡ trên đầu, rồi thuận thế bật người dậy, không dám đi về hướng nam nữa. Hắn ra chiêu Phượng Hoàng Triển Xí, bảo kiếm xoay một vòng quanh người rồi lập tức co giò chạy về hướng đông. Nghe tiếng ám khí phía sau rít lên liên miên không dứt, chỉ quay đầu lại hươi kiếm gạt được ba cây tụ tiễn, hai hạt bồ đề tử.
Quần hùng thấy hắn vừa đỡ ám khí sau lưng vừa chạy như bay, ai cũng thán phục trong lòng.
Trương Triệu Trọng biết nhất định phía đông cũng có mai phục, tuy chân chạy cực nhanh nhưng mắt vẫn dáo dác nhìn quanh tứ phía. Hắn chạy được mấy bước, quả nhiên bên đường có một người nhảy ra, tay cầm đại đao cản trở. Người này tóc bạc bay phấp phới, oai phong lẫm liệt, chính là lão anh hùng Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm Trang. Trương Triệu Trọng giất mình không dám nghênh chiến, lại quay lưng chạy sang hướng tây.
Hắn đổi liền ba hướng vẫn chưa thoát khỏi đỉnh núi, bèn thầm nghĩ: “Số người này mà hợp lại tấn công thì hôm nay ta mất mạng. Bây giờ chạy qua đường phía tây, bất kể là ai canh giữ, ta phải lập tức hạ sát thủ để thoát khỏi vòng vây.” Tay trái hắn bèn âm thầm lấy ra một nắm Phù Dung Kim Châm, tay phải múa kiếm chạy về hướng tây.
Người đón phía trước là một đạo sĩ cụt tay, nếu không phải là Truy Hồn Đoạt Mạng Vô Trần đạo nhân thì còn ai nữa? Trương Triệu Trọng từng giao đấu với ông ấy, biết trong Hồng Hoa Hội thì người này võ công cao nhất, cao hơn mình rất nhiều. Hắn âm thầm kêu khổ, nhưng cũng cố xông thẳng tới, xuất liền hai chiêu Bạch Hồng Quán Nhật, Ngân Hà Hoành Không. Họ Trương ỷ mình có bảo kiếm sắt bén, đối phương không dám chống đỡ mà phải tránh né, chạy đuợc về phía tây của Vô Trần.
Vô Tràn vừa đảo người tránh né, trường kiếm bên tay phải đã xuất ngay hai chiêu Vô Thường Đẩu Sách, Sát Thân Đương Đạo. Hai chiêu này đều cực kỳ lợi hại, sử liên tiếp nhau giống như một chiêu. Trương Triệu Trọng đã tới đường xuống núi mà vẫn chưa thoát được thân, phải vũ lộng thanh trường kiếm hóa giải hai chiêu này. Hắn hét lên một tiếng, tay trái bắn ra hai nhúm Phù Dung Kim Châm về hai phía trái phải của Vô Trần.
Trương Triệu Trọng nghĩ: “Đạo nhân cụt tay này võ công tinh diệu, kim châm không thể đả thương được y, nhưng nếu y không múa kiếm chống đỡ thì cũng phải nhảy lùi tránh né. Chỉ cần y chậm đi một chút là mình có thể chạy thoát khỏi tầm kiếm rồi xông thẳng xuống núi. Dưới đó chắc chắn không có ai cản trở được mình nữa.”
Vô Trần cũng đoán được dụng ý của hắn, bèn xuất ngay một chiêu hiểm hóc. Ông giữ người song song mặt đất mà phóng tới, vừa tránh được kim châm vừa đưa kiếm đâm thẳng vào chân phải đối phương. Chiêu này có thên là Oan Hồn Triền Túc, rất hiếm khi sử dụng, chuyên để tấn công hạ bàn. Trương Triệu Trọng kinh hãi, vội dùng bảo kiếm ra chiêu Lưu Tinh Đọa Địa đâm thẳng xuống dưới.
Lúc đó mới nghe tiếng xuỵt xuỵt của kim châm cắm xuống đất sau lưng Vô Trần. Ông không đợi chiêu kiếm của mình hết đà, chĩa mũi kiếm cắm xuống đất để mượn thế tung người lên không, từ trên đầu Trương Triệu Trọng xuất chiêu Dung Y Hạ Dược chém từ trên xuống dưới.
Trương Triệu Trọng phải nhảy tới tránh né, ra chiêu Thái Hồng Kinh Thiên đánh ngược lên trên. Vô Trần thu kiếm lại đáp xuống đất, rồi tấn công veo véo liền hai chiêu Phán Quan Phản Bộ, Điếu Khách Lâm Môn cùng một lúc. Thế là Vô Trần lại chiếm được hướng tây, ép Trương Triệu Trọng vào lại vòng vây.
Lúc này Trương Triệu Trọng chỉ lo đón đỡ những chiêu kiếm tinh diệu của địch thủ, không có thời gian nghĩ đến chuyện thoát thân. Hắn thấy chiêu nào đỡ chiêu đó, chỉ đợi cơ hội chặt đứt trường kiếm của đối phương. Chớp nhoáng hai người đã qua lại ba bốn chục chiêu. Vô Trần thấy hắn đã bị thương mà vẫn có thể đón tiếp mấy chục chiêu kiếm của mình, trong lòng cũng hơi lo lắng, liên tiếp xuất ra những chiêu bí hiểm. Trương Triệu Trọng dần dần cảm thấy mình khó mà chống đỡ.
Thêm mấy chiêu nữa, Vô Trần vừa xuất chiêu Diêm Vương Đoạt Bút vừa quát lên: “Buông kiếm!” Ông cười ha hả, điểm trúng mũi kiếm vào cổ tay phải của Trương Triệu Trọng, thanh Ngưng Bích Kiếm rơi xuống đất nghe xoảng một tiếng. Họ Trương còn đang ngơ ngác đã bị Vô Trần đá một cước trúng hông trái, lập tức té nhào xuống đất. Vô Trần tung người nhảy tới, toan bắt lấy hắn.
Trương Triệu Trọng từ dưới đất bật dậy, đánh thẳng một quyền ra trước mặt. Vô Trần múa kiếm toan gạt đi, đột nhiên nghĩ bụng: “Chiêu kiếm này chặt đứt một cánh tay của hắn, thì hắn không tỉ võ được với tổng đà chủ nữa. Đối thủ như thế này cực kỳ khó tìm, không khỏi làm tổng đà chủ mất hứng.” Bạn đọc nên biết đã là cao thủ thì rất khó gặp đối thủ xứng tay. Vô Trần có tật hiếu võ, nghĩ Trần Gia Lạc cũng như mình, nên trường kiếm đang chém xuống bỗng nhiên dừng lại.
Lúc đó Trương Triệu Trọng chỉ liều mạng đánh bừa. Nhân lúc Vô Trần chần chừ một lúc, hắn đưa tả chưởng đánh vào khuỷu tay bên phải của ông, đồng thời hữu quyền đánh vào hông trái.
Vô Trần chỉ có một cánh tay, bên trái không phòng thủ kín được, mà quyền pháp cũng yếu hơn địch thủ. Ông thấy thoi quyền đánh tới, lập tức đảo người tránh né mà không kịp, nên trúng một quyền vào hông, đau đớn phải lui máy bước. Trương Triệu Trọng không thèm quay đầu lại, vắt chân lên cổ mà chạy như bay. Vô Trần giận dữ đuổi theo, nhưng hắn đã chạy đến con đường xuống núi rồi.
Kiếm pháp Vô Trần tinh anh tuyệt thế, trước nay không dùng ám khí. Ông thấy hắn sắp chạy đi mất, bèn nghĩ bụng: “Hôm nay mà để tên này chạy thoát thì oai danh Hồng Hoa Hội giảm sút rất nhiều.” Thế là Vô Trần mặc kệ Trương Triệu Trọng sống chết ra sao, giương thẳng kiếm lên, toan sử dụng tuyệt chiêu Ngũ Quỷ Đầu Xoa dùng kiếm làm ám khí.
Trường kiếm sắp rời khỏi tay, đột nhiên từ lưng chừng núi có một người bay ra nhanh như gió, ôm ghì lấy chân Trương Triệu Trọng. Hai người cùng té nhào xuống đất, nhập thành một khối.
Vô Trần vội thu kiếm về, nhìn rõ người ôm lấy Trương Triệu Trọng là Thập đệ Chương Tấn. Hai người đang lăn qua lộn lại đấm đá nhau thì Dương Thành Hiệp và Tưởng Tứ Cân chạy tới nơi, ba người hợp sức đè nghiến họ Trương xuống đất.
Lạc Băng lấy dây trói chặt hai tay hắn vào trước ngực. Nàng nghĩ đến lúc hắn dẫn nhiều người tới Thiết Đảm Trang bắt chồng mình, điên tiết nện ngay một quyền lên sống mũi. May mà Trần Gia Lạc vội kêu lên: “Tứ tẩu! Hãy khoan!” Lạc Băng mới không đánh tiếp quyền thứ hai.
Trần Gia Lạc bước tới gần, Trương Triệu Trọng bèn gầm lên: “Các ngươi chỉ cậy đông người. Hôm nay Trương đại gia sa cơ thất thế, bọn trộm cướp các ngươi muốn giết thì cứ giết. Ta mà chau mày một cái thì không phải là hảo hán.”
Vương Duy Dương chạy tới mắng luôn: “Ta với ngươi xưa nay không oán cũng không thù, thế mà ngươi dám đem lão tử chôn sống chỉ vì sợ thủ đoạn đê tiện của mình bị lộ ra ngoài. Hỏa Thủ Phán Quan ngươi thật là lòng lang dạ sói.”
Thạch Song Anh lạnh lùng cất tiếng: “Cái hố này chính tay hắn đào để chôn sống người ta, cứ chiều ý hắn là được rồi.” Quần hùng đồng thanh khen phải. Trương Triệu Trọng mặc dù ngạo khí đầy mình, nhưng nghĩ đến nỗi khổ bị chôn sống, bất giác mồ hôi lạnh tuôn ra ướt cả đầu.
Trần Gia Lạc hỏi: “Bây giờ ngươi đã chịu phục hay chưa? Ngươi hãy thề không chống đối Hồng Hoa Hội nữa, chúng ta nể mặt Lục sư ca của ngươi mà tha mạng một lần.”
Trương Triệu Trọng vẫn cứng đầu, gân cổ lên nói: “Muốn giết thì giết, cần gì phải nói nhiều? Các ngươi dùng quỷ kế, làm sao bắt người khác tâm phục khẩu phục được?”
Trần Gia Lạc nói: “Hay lắm! Ngươi quả là một trang thiết hán. Để ta tặng ngươi một đao để mau lẹ lìa đời, khỏi phải bị chôn sống.” Chàng rút đoản kiếm, đi đến trước mặt hắn, lại hỏi: “Ngươi thật sự không sợ chết hay sao?”
Trương Triệu Trọng cười đau khổ, nói: “Ngươi cứ đâm cho thoải mái đi.” Hắn nhắm mắt lại chờ chết.
Trần Gia Lạc vung tay một cái, đưa đoản kiếm đâm tới trước ngực. Đột nhiên chàng cười ha hả, xoay cổ tay lại cắt đứt dây trói cho hắn. Chẳng những Triệu Trọng Trương cảm thấy bất ngờ, mà quần hùng đều phải ngạc nhiên.
Trần Gia Lạc nói: “Lần này bắt ngươi, chúng ta đúng là đã dùng mưu kế. Tội ngươi đáng chết, nhưng hôm nay mà giết ngươi thì chắc ngươi làm ma cũng không tâm phục khẩu phục. Được rồi, ngươi đi đi! Nếu ngươi cố gắng sửa chữa lỗi lầm, sau này vẫn có thể gặp nhau. Nếu ngươi vẫn giữ thói ác ôn thì… Hừ, Hồng Hoa Hội đâu có sợ Trương Triệu Trọng. Ngươi mà lọt vào tay chúng ta lần nữa, thì chết đừng oán hận.
Chương Tấn, Lạc Băng, Dương Thành Hiệp, Thường thị huynh đệ đều la lớn: “Tổng đà chủ! Đừng tha cho hắn.”
Trần Gia Lạc xua tay rồi nó[i: “Sư huynh của hắn là Lục lão tiền bối có ơn với chúng ta, chúng ta chưa có gì báo đáp. Hồng Hoa Hội ân oán phân minh, hôm nay thả sư đệ của Lục lão tiền bối ra, coi như tỏ chút tình hữu nghị.”
Quần hùng nghe tổng đà chủ nói năng dứt khoát, nên không xôn xao gì nữa. Mọi người đều trừng mắt giận dữ nhìn Trương Triệu Trọng.
Trương Triệu Trọng chắp tay nhìn Trần Gia Lạc nói: “Trần đương gia! Tạm biệt!” Hắn quay người đi ngay.
Từ Thiên Hoằng gọi lớn: “Họ Trương kia, khoan đi đã!” Trương Triệu Trọng dừng chân, quay đầu nhìn lại. Từ Thiên Hoằng hỏi: “Chẳng lẽ ông cứ thế mà đi hay sao?”
Trương Triệu Trọng lập tức hiểu ra, chắp tay chào quần hùng rồi nói: “Trần đương gia đại nhân đại nghĩa, Trương mỗ không phải là loại người không biết tốt xấu. Hôm nay tại hạ không phải là đối thủ của quý vị, phải quay về luyện lại. Trận thí võ này coi như ta thua, xin hẹn ba tháng sau tái đấu.” Câu nói này của hắn vừa mềm dẻo vừa cứng rắn, hàm ý chỉ thua đối phương đông người, sau này quyết chẳng chịu thôi. Quần hùng đều hiểu ý, càng thấy khó chịu hơn.
Chu Ỷ bỗng hô lớn: “Tổng đà chủ Hồng Hoa Hội thả cho ngươi đi, vì ông ấy đại nhân đại lượng. Nhưng ta phải hỏi ngươi! Ngươi đến Thiết Đảm Trang, nếu có bản lãnh bắt người thì chẳng nói làm gì, sao phải dụ dỗ đứa em còn nhỏ tuổi chưa biết gì của ta? Ta không phải là người trong Hồng Hoa Hội, cũng chưa nhận ân huệ gì của sư huynh ngươi. Hôm nay ta phải trả thù cho đệ đệ!” Nàng lập tức xách đơn đao phóng tới, quyết tâm liều mạng.
Trương Triệu Trọng thật là khó xử. Tiểu cô nương này thì đương nhiên hắn chẳng sợ gì, nhưng trước mắt lại có rất nhiều cao thủ. Nếu cô nương này bị thua, làm sao họ chịu đứng nhìn? Giả tỉ tiếp tục tranh chấp thì không biết kết cuộc ra sao. Hắn vội nhảy lùi hai bước, tránh né hai đao của Chu Ỷ.
Tới đao thứ ba, Chu Ỷ sử chiêu Đạt Ma Diện Bích từ trên đầu chém mạnh xuống, thế đao vừa mãnh liệt vừa gấp rút. Trương Triệu Trọng không tránh nữa, xuất chiêu Xuân Phong Phất Liễu quạt ngang mặt nàng, đợi nàng thu chiêu phòng thủ là đưa tay trái đoạt lấy thanh đao. Hắn nghĩ, đoạt đao xong sẽ nói mấy câu tử tế rồi trả lại, chắc đối thủ không chém tiếp.
Không ngờ Chu Ỷ không thu đơn đao về, mà cứ liều chém tới. Trương Triệu Trọng bèn đưa hai ngón giữa và trỏ từ dưới lên, điểm trúng huyện Khúc Trì trên cổ tay nàng. Cánh tay Chu Ỷ lập tức tê chồn, thanh đao bay lên trời.
Từ Thiên Hoằng vội vàng chạy tới che đỡ trước mặt người yêu, đơn quải ra chiêu Thiết Tỏa Hoành Giang đánh vào mặt Trương Triệu Trọng, tay kia cầm đơn đao đưa cho Chu Ỷ.
Chu Trọng Anh xách đại đao bước ra cản trở đường lui của Trương Triệu Trọng, An Kiện Khang cũng cầm đao bước tới, bốn người đã hình thành thế bao vây.
Rõ ràng sắp sửa hỗn chiến trở lại, đột nhiên từ lưng chừng núi có tiếng người hô lớn: “Dừng tay! Dừng tay!” Mọi người quay lại nhìn, thấy trên con đường phía nam có hai người gấp rút chạy lên. Một người mặc áo màu tro, một người mặc áo màu đen, khinh công đều rất giỏi. Ai cũng thấy kinh ngạc.
Chỉ chớp mắt hai người đã chạy lên đỉnh núi, mọi người nhận ra người mặc áo bào đen là Miên Lý Châm Lục Phi Thanh, bèn lập tức bước lên hoan hô nghênh đón. Người mặc áo màu tro là một lão đạo sĩ lưng đeo trường kiếm, sắc mặt hiền từ, quần hùng chưa ai quen biết.
Lục Phi Thanh đang muốn giới thiệu, Trương Triệu Trọng đột nhiên chạy tới trước mặt lão đạo này, chắp tay hô lớn: “Đại sư ca! Nhiều năm không gặp, sư ca khỏe chứ?” Quần hùng nghe vậy mới biết đây là Mã Chân, chưởng môn phái Võ Đang, cũng là sư phụ của Kim Địch Tú Tài Dư Ngư Đồng. Tất cả đều bước lên thi lễ.
Lục Phi Thanh nói: “Mã sư huynh và ta vừa đến Cô Sơn, gặp Mã Thiện Quân đại gia. Ông ấy biết chúng ta không phải là người ngoài, nên nói cho biết cuộc tỉ võ trên Sư Tử Phong này. Chúng ta liền chạy tới, thấy chưa có ai chết hay bị thương mới được yên lòng.”
Trước đây Mã Chân và Vương Duy Dương đã từng gặp nhau, tuy kết giao không đậm đà lắm nhưng đều thán phục võ công của đối phương. Còn quần hùng Hồng Hoa Hội đã nghe Dư Ngư Đồng giới thiệu sư phụ nhiều lần, nên đều rất vui mừng, tranh nhau nói lời ngưỡng mộ, để Trương Triệu Trọng đứng trơ trọi một bên.
Lúc này Trương Triệu Trọng đứng lại không được mà chạy cũng không xong, thật là bối rối. Mã Chân từng nghe những chuyện quái ác của tên sư đệ này, đầy lòng phẫn hận. Ông định hễ gặp mặt là dùng ngay môn quy bản phái để trừng phạt nặng nề, nhưng bây giờ nhìn thấy tiểu sư đệ áo vấy đầy máu tươi, sắc mặt vàng khè, mặt mũi sưng vù bầm tím, bỗng động lòng.
Mã Chân không nén nổi, thở ra một hơi rồi hỏi: “Trương sư đệ! Sao bộ dạng ngươi lại thảm hại thế này?”
Trương Triệu Trọng ủ rũ đáp: “Tiểu đệ chỉ có một mình mà họ đông người như thế, đương nhiên phải có bộ dạng này.”
Quần hùng nghe vậy, không ai là không giận dữ. Chu Ỷ là người đầu tiên nhịn không nổi, lập tức hét lên: “Ngươi lại điêu ngoa xảo quyệt không chịu nhận lỗi ư? Mã bá bá, Lục bá bá! Hai vị hãy phân xử xem sao.”
Nàng xách đơn đao, lại toan xông tới chém. Chu Trọng Anh vội nắm tay kéo lại rồi nói: “Bây giờ hai vị bá bá đã đến đây rồi. Phái Võ Đang xưa nay môn quy nghiêm ngặt, chúng ta hãy nghe hai vị nói một lời trước đã.” Câu nói này rõ ràng là ép Mã Chân.
Mã Chân nhìn Lục Phi Thanh, lại nhìn Trương Triệu Trọng, đột nhiên quỳ hai gối xuống trước mặt Chu Trọng Anh và Trần Gia Lạc. Quần hùng kinh hãi vội nói: “Mã lão tiền bối có gì dạy bảo xin cứ nói ra, đừng làm thế!” Mọi người liền dìu ông đứng dậy.
Mã Chân cực kỳ khích động, nghẹn ngào nói: “Các vị huynh đệ! Trương sư đệ của ta thật chẳng ra gì, những chuyện hắn làm đúng là trời đất không thể dung tha. Ta hổ thẹn là chưởng môn phái Võ Đang mà không kịp thời thanh lý môn hộ, thật chẳng còn mặt mũi nào gặp bằng hữu võ lâm thiên hạ. Ta… ta…” Cổ họng ông như bị vật gì nhét chặt lại, nói không ra lời nữa. Hồi lâu ông mới bảo Lục Phi Thanh: “Lục sư đệ! Sư đệ nói giùmý của ta đi.”
Lục Phi Thanh lên tiếng: “Sư huynh của ta biết được phẩm hạnh của vị Trương đại nhân này, giận dữ đến mức ăn không ngon ngủ không yên, nhưng… nhưng… vẫn phải vì vong linh sư phụ m à cả gan cầu xin quý vị.”
Quần hùng đều đưa mắt nhìn Trần Gia Lạc và Chu Trọng Anh, đợi ý kiến hai người.
Trần Gia Lạc nghĩ: “Ta không thể hào hiệp một mình để Chu lão anh hùng gánh lấy tiếng ác. Bây giờ hãy xem ông ấy nói thế nào, ta sẽ làm như vậy.” Chàng không nói gì, chỉ nhìn sang Chu Trọng Anh.
Chu Trọng Anh dõng dạc lên tiếng: “Mối thù đốt rụi gia trang, hại chết con trai, Chu mỗ chỉ còn một hơi thở cũng không bỏ qua.” Ông dừng lại một chút, lại tiếp: “Nhưng Mã huynh đã nói vậy, thì ta xin kết giao các vị làm bằng hữu, tất cả những gì đã qua hoàn toàn bỏ hết.”
Chu Ỷ không phục, kêu lên: “Gia gia!”
Chu Trọng Anh xoa đầu con gái rồi nói: “Con ơi, thôi đi.”
Trần Gia Lạc nói: “Chu lão anh hùng đã khoan hồng đại lượng như thế, thì trước mặt Mã Lục hai vị tiền bối, Hồng Hoa Hội chúng tôi tuyên bố hoàn toàn không truy cứu những việc trước đây nữa.”
Mã Chân cùng Lục Phi Thanh chắp tay hướng về mọi người nói: “Thật là cảm kích, không sao nói cho hết được.”
Vô Trần lạnh nhạt nói: “Mã đạo huynh! Lần này có thể bỏ qua, nhưng nếu hắn tiếp tục làm bừa thì Mã đạo huynh tính sao đây?”
Mã Chân nghiêm giọng nói: “Từ nay về sau, bần đạo dứt khoát quản thúc hắn một cách nghiêm ngặt, bắt hắn sửa chữa lỗi lầm. Nếu hắn tiếp tục làm ác thì phải giết bần đạo trước, nếu không, bần đạo là người đầu tiên không tha cho hắn.
Quần hùng nghe Mã Chân nói như chém đinh chặt sắt, nên không có ý kiến gì nữa.
Mã Chân lại nói: “Bây giờ bần đạo dẫn hắn về núi Võ Đang để hắn bế môn tứ quá, đóng cửa suy nghĩ lỗi lầm. Lục sư để ở lại đây giúp một tay để cứu Văn tứ đương gia, còn bần đạo gác kiếm đã lâu, không giúp gì được, xin quý vị niệm tình tha thứ. Khi nào Văn tứ đương gia thoát hiểm, Lục sư đệ nhất định phải báo cho bần đạo biết ngay để sớm yên lòng. Còn tiểu đồ Ngư Đồng của bần đạo sao không có ở đây?”
Trần Gia Lạc đáp: “Thập tứ đệ mất liên lạc với bọn tại hạ từ lúc ở sông Hoàng Hà. Sau này nghe nói y bị thương, rồi được một cô nương cứu đi, nhưng đến nay vẫn chưa biết tung tích ở đâu. Đợi cứu Tư ca xong, bọn tại hạ sẽ lập tức đi dò hỏi, xin đạo trưởng yên tâm.”
Mã Chân nói: “Tiểu đồ tuy có thông minh, nhưng vì tuổi trẻ ngông cuồng phóng túng nên thiếu trầm tĩnh, phải nhờ Trần đương gia chiếu cố chỉ bảo nhiều hơn.”
Trần Gia Lạc nói: “Huynh đệ bọn tại hạ gặp nạn thì tương trợ, có lỗi thì khuyên bảo, xem nhau như anh em ruột thịt. Thập tứ đệ tinh minh mẫn cán, mọi người đều cực kỳ nể trọng.”
Mã Chân nói: “Chuyện hôm nay, bần đạo thật sự cảm kích vô cùng. Trần đương gia, Chu lão anh hùng, Vô Trần đạo huynh và các vị hiền đệ! Sau này nếu có việc đi ngang Hồ Bắc, nhất định phải ghé núi Võ Đang ở chơi mấy ngày.” Mọi người đều vâng dạ đồng ý.
Mã Chân bèn bảo Trương Triệu Trọng: “Đi thôi!”
Trương Triệu Trọng nhìn lại thanh Ngưng Bích Kiếm đang cắm sau lưng Lạc Băng. Tuy hắn tiếc cây bảo kiếm thần kỳ, nhưng nếu mở miệng đòi thì chỉ chuốc nhục vào thân, đành nghiến chặt răng quay đầu đi ngay.
Hai người Mã Triệu xuống núi xong, quần hùng vội hỏi tình hình Lục Phi Thanh từ ngày xa cách. Thì ra ông mất liên lạc với quần hùng ở bến Hoàng Hà, tìm Lý Nguyên Chỉ cũng không thấy đâu, nhưng nghĩ bụng: “Lý Nguyên Chỉ là con gái nhà quan, lại lanh lợi cảnh giác, chắc không gặp nguy hiểm gì. Vấn đề trước mắt là Trương Triệu Trọng, tên này thật là nỗi nhục của bổn môn.” Ông bèn đi về hướng nam, tới Hồ Bắc mời đại sư huynh Mã Chân xuống núi, gấp rút cùng đến Bắc Kinh. Đến Bắc Kinh, hỏi thăm mới biết Trương Triệu Trọng đã đến Hàng Châu, bèn trở lại phương nam. xuôi ngược mấy lần như vậy nên hai người mới đến sau quần hùng Hồng Hoa Hội.
Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, chốc lát đã xuống tới chân núi. Trần Gia Lạc nói với Vương Duy Dương và Hàn Văn Xung: “Hai vị xin tùy tiện, hẹn ngày tái ngộ.”
Vương Duy Dương nói: “Suốt đời lão phu không dám quên ân đức của Trần đương gia.”
Trần Gia Lạc cười ha hả, lên tiếng: “Còn có hai việc phải xin Vương lão anh hùng tha thứ, bây giờ tại hạ xin tạ lỗi trước.” Chàng hành lễ xong, bèn kể lại chuyện giả trang quan quân đoạt lấy ngọc bình, đâm thọc cho ông ta và Trương Triệu Trọng thí võ, nói ra thẳng thắn không hề giấu giếm.
Trước nay Vương Duy Dương vẫn là người hào kiệt khoáng đạt, lần này từ chỗ chết trở về lại càng coi rẻ thêm những chuyện vinh danh lợi lộc. Lão mỉm cười nói: “Vừa rồi nghe lão đệ nói chuyện với Trương Triệu Trọng, ta mới biết lão đệ là thống lĩnh giả mạo. Ha ha! Thật là anh hùng xuất thiếu niên, Vương mỗ gần chết mới học được chiêu này. Chúng ta không đánh nhau không quen biết, tuy rằng cuộc thí võ của ta và họ Trương là do các vị gợi ra, nhưng cái mạng già này cũng nhờ các vị cứu về.”
Trần Gia Lạc nói: “Đợi khi việc lớn hoàn thành, mọi người phải uống say một bữa cho thống khoái.”
Mọi người vừa đi vừa vui cười nói chuyện, chốc lác đã đến bên hồ, rồi đi thuyền về nhà họ Mã. Lục Phi Thanh dùng đá nam châm hút hết kim trên người Vương Duy Dương ra, rồi bó thuốc lên.
Quanh quẩn mất nửa ngày trời, mặt trời đã chếch về tây. Mã Thiện Quân đến báo, công việc đã thực hiện hơn một nửa, khoảng ba giờ nữa sẽ hoàn thành.
Trần Gia Lạc gật đầu nói: “Hay lắm! Mã đại ca thật là cực khổ. Bây giờ xin nhờ Thập tam ca tiếp tục giám sát công việc.” Tưởng Tứ Cân vâng dạ đi ngay.
Trần Gia Lạc quay sang nói với Vương Duy Dương và Hàn Văn Xung: “Các vị tiêu đầu và gia nhân ở quý tiêu cục, chúng ta đều tiếp đãi đàng hoàng không dám sơ suất. Sao hai vị không dẫn họ đến Tây Hồ vui chơi thêm mấy bữa? Hai ngày nữa tại hạ sẽ đặc biệt khoản đãi quý vị để đền tội.”
Vương Hàn hai người đều nói lời không dám, nhưng Vương Duy Dương là bậc lão thành rất hiểu chuyện đời, thấy Hồng Hoa Hội đông người tới lui bận rộn, đoán chắc là họ đang sắp xếp việc cứu Văn Thái Lai. Lão thầm nghĩ: “Bây giờ mà mình đi khỏi đây thì rất bất tiện. Mưu đồ của họ mà thành công thì chẳng nói làm gì, nhưng nếu sơ sẩy thì không chừng họ sẽ nghi ngờ mình đã mật báo với quan phủ.”
Vương Duy Dương bèn nói: “Tuổi ta đã lớn, bị mấy vết thương kim châm này đau không chịu nổi. Xin được quấy rầy quý xứ, nghỉ lại đây một vài ngày.”
Trần Gia Lạc đáp: “Vương lão anh hùng cứ tùy tiện theo tôn ý. Xin tha lỗi cho tại hạ không thể bồi tiếp lão gia.”
Hai người Vương Hàn đi theo Mã Đại Đình vào trong, gặp bọn tiêu đầu Uông Hạo Thiên. Vương Duy Dương dặn dò mọi người trong tiêu cục không được rời khỏi cửa nhà họ Mã. Lão run rẩy trong lòng, chỉ sợ Hồng Hoa Hội thất bại, quan phủ đến đây bắt người, phát hiện mình và bọn phỉ này cùng ở một nơi, thật là dốc hết nước Tây Hồ cũng không rửa sạch nỗi oan.