Hồi 90: Nhậm Ngã Hành trừng trị phản đồ

Lão Nhậm cười nói:

– Hôm nay huynh đệ định đến cứu ta thoát ngục phải không? Ha ha, Hướng huynh đệ, người anh em này của Hướng huynh đệ rất đáng làm bằng hữu.

Hướng Vấn Thiên kéo tay Lệnh Hồ Xung, để chàng ngồi xuống bên phải lão Nhậm, còn lão ngồi bên trái. Lão nói:

– Lệnh Hồ huynh đệ gan dạ hơn người, thật đúng là đấng nam nhi dũng khí đương thời.

Lão Nhậm cười nói:

– Lệnh Hồ huynh đệ, huynh đệ chịu oan ức ở hắc lao dưới đáy Tây Hồ hơn hai tháng, ta thật áy náy vô cùng, muốn xin lỗi huynh đệ. Ha ha, ha ha!

Bây giờ Lệnh Hồ Xung đã hiểu ra phần nào, nhưng chưa hiểu hết. Lão họ Nhậm nhìn Lệnh Hồ Xung cười hà hà rồi nói:

– Tuy Lệnh Hồ huynh đệ vì ta mà bị giam trong ngục tối hơn hai tháng nhưng huynh đệ đã luyện thành công Hấp tinh đại pháp mà ta khắc trên thiết bản. Hì hì, vậy cũng đủ để bồi thường cho huynh đệ rồi.

Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên hỏi:

– Bí quyết trên thiết bản đó là do tiền bối khắc ư?

Lão Nhậm mỉm cười nói:

– Nếu không phải là ta khắc thì trên đời này còn ai biết Hấp tinh đại pháp nữa.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, Hấp tinh đại pháp của Nhậm giáo chủ chỉ truyền cho một mình huynh đệ. Ta xin chúc mừng huynh đệ.

Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:

– Nhậm giáo chủ ư?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Thì ra đến bây giờ huynh đệ còn chưa biết thân phận của Nhậm giáo chủ. Vị này là Nhậm giáo chủ của Nhật Nguyệt thần giáo, giáo chủ có tên húy là trên Ngã, dưới Hành. Huynh đệ từng nghe qua chưa?

Lệnh Hồ Xung biết Nhật Nguyệt thần giáo chính là Ma giáo, chẳng qua người trong bổn giáo tự xưng là Nhật Nguyệt thần giáo, còn người ngoài thì gọi là Ma giáo. Nhưng giáo chủ của Ma giáo xưa nay là Đông Phương Bất Bại, sao lại xuất hiện thêm một Nhậm Ngã Hành? Lệnh Hồ Xung ậm ờ nói:

– Tên húy của Nhậm giáo chủ vãn bối đã sờ thấy trên thiết bản chứ không biết tiền bối là giáo chủ.

Lão già quắc thước cao ráo đột nhiên quát:

– Hắn là giáo chủ cái gì? Giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo của ta khắp thiên hạ đều biết là Đông Phương giáo chủ. Tên họ Nhậm này phản giáo làm loạn, đã sớm bị khai trừ khỏi môn hộ. Hướng Vấn Thiên, ngươi giúp kẻ phản nghịch làm loạn, tội ác tày trời.

Nhậm Ngã Hành từ từ quay đầu lại, chằm chằm nhìn lão hỏi:

– Ngươi là Tần Vĩ Bang có phải không?

Lão già quắc thước đáp:

– Chính ta.

Nhậm Ngã Hành hỏi:

– Lúc ta chấp chưởng đại quyền trong bổn giáo, ngươi làm kỳ chủ Nhậm thanh kỳ ở Giang Tây phải không?

Tần Vĩ Bang đáp:

– Đúng vậy.

Nhậm Ngã Hành thở dài nói:

– Bây giờ ngươi được liệt vào hàng mười vị trưởng lão của bổn giáo, thăng chức mau quá. Tại sao Đông Phương Bất Bại coi trọng ngươi quá vậy? Vì võ công của ngươi cao hay vì ngươi làm được nhiều chuyện?

Tần Vĩ Bang nói:

– Ta tận trung với bổn giáo, gặp chuyện là đi trước, công trạng hơn mười năm nay nên được thăng lên chức trưởng lão.

Nhậm Ngã Hành gật đầu nói:

– Vậy cũng đúng.

Đột nhiên, Nhậm Ngã Hành lạng người một cái đến trước Bảo Đại Sở, đưa nhanh tay trái ra chụp vào yết hầu của lão. Bảo Đại Sở kinh hãi, đơn đao nơi tay phải không kịp vung lên chém vào cánh tay Nhậm Ngã Hành, đành đưa khuỷu tay trái lên bảo vệ yết hầu, đồng thời chân trái lùi về sau một bước, đơn đao tay phải thuận thế chém ra. Bảo Đại Sở vừa thủ vừa công, chỉ trong nháy mắt đã thực hiện xong, thủ thật nghiêm mật, công rất lợi hại với thủ pháp rất cao minh. Nhưng tay của Nhậm Ngã Hành còn nhanh hơn một bước, đơn đao của Bảo Đại Sở chưa kịp chém xuống thì Nhậm Ngã Hành đã túm được ngực lão. Soạt một tiếng, Nhậm Ngã Hành đã xé rách trường bào của lão, đưa tay trái nắm lấy vật gì trong túi của Bảo Đại Sở. Đó là chiếc Hắc mộc lệnh bài. Lão xoay tay phải lại, nắm chặt cổ tay phải của Bảo Đại Sở, vặn một cái. Chỉ nghe ba tiếng choang choang, Hướng Vấn Thiên đã vung trường kiếm ra nhắm vào Tần Vĩ Bang và hai tên trưởng lão khác, mỗi người đánh ra một chiêu. Ba trưởng lão giơ binh khí lên gạt đỡ. Hướng Vấn Thiên tấn công ba chiêu này chỉ để cản trở bọn họ không thể ra tay cứu Bảo Đại Sở. Ba chiêu vừa xuất xong thì Bảo Đại Sở đã hoàn toàn bị Nhậm Ngã Hành kiềm chế.

Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:

– Hấp tinh đại pháp của ta chưa thi triển, ngươi có muốn nếm qua một chút cho biết mùi không?

Trong khoảng thời gian chớp mắt này, Bảo Đại Sở đã biết nếu lão không đầu hàng thì sẽ mất mạng, ngoài ra không còn con đường nào khác để lựa chọn. Lão quyết định rất nhanh, liền nói:

– Nhậm giáo chủ, Bảo Đại Sở này từ nay về sau sẽ tận trung với giáo chủ.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Năm xưa ngươi đã từng lập lời thề sẽ tận trung với ta, tại sao sau đó ngươi lại lật lọng?

Bảo Đại Sở nói:

– Xin Nhậm giáo chủ cho phép thuộc hạ lấy công chuộc tội.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Được, ngươi hãy uống viên thuốc này đi.

Nhậm Ngã Hành buông cổ tay Bảo Đại Sở ra, thò tay vào túi lấy cái bình sứ đổ ra một viên dược hoàn màu đỏ, ném qua Bảo Đại Sở. Bảo Đại Sở chụp lấy, không cần xem nó là vật gì, bỏ ngay vào miệng nuốt.

Tần Vĩ Bang thất thanh hỏi:

– Đây… đây là Tam thi não thần đan phải không?

Nhậm Ngã Hành gật đầu nói:

– Đúng vậy, đây chính là Tam thi não thần đan.

Nhậm Ngã Hành đổ trong bình ra sáu viên Tam thi não thần đan nữa, ném lên bàn. Sáu viên đan hoàn đỏ như lửa lăn long lóc. Lão hỏi:

– Các ngươi biết sự lợi hại của Tam thi não thần đan thế nào không?

Bảo Đại Sở nói:

– Sau khi uống Não thần đan của giáo chủ thì vĩnh viễn phải nghe lời giáo chủ sai bảo, có chết cũng không từ. Nếu không, con thi trùng nằm ẩn trong đan dược đang chết cứng bỗng sống lại, chui vào trong não cắn phá đau đớn không thể tả được, con người hành sự như điên khùng, so với chuyện bị chó dại cắn còn nguy hiểm gấp bội.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Ngươi nói phải lắm. Ngươi đã biết linh hiệu của Não thần đan này của ta sao dám cả gan nuốt vào?

Bảo Đại Sở nói:

– Từ nay về sau, thuộc hạ vĩnh viễn trung thành với giáo chủ, không thay lòng đổi dạ thì dù Não thần đan này có lợi hại đến đâu cũng không liên can gì đến thuộc hạ.

Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:

– Hay lắm, hay lắm! Dược hoàn ở đây, còn ai muốn uống nữa?

Hoàng Chung Công, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh nhìn nhau, cả ba đều biến sắc. Bọn họ và Tần Vĩ Bang đã ở lâu trong Ma giáo, sớm biết trong Tam thi não thần đan này có thi trùng. Bình thường nó không phát tác, không có gì khác lạ, nhưng nếu đến giờ Ngọ vào tiết Đoan Ngọ mỗi năm nếu không uống dược vật để khắc chế thi trùng thì khi dược tính đã hết, thi trùng sẽ sống trở lại, chui vào trong não khiến người uống hành động như yêu, như ma, không thể lấy lý thường tình mà đo lường hết. Tính người đã mất thì ngay cả cha mẹ, vợ con cũng cắn xé mà ăn.Độc vật đương thời không có thứ nào so bì được. Hơn nữa việc luyện đơn dược không giống nhau, dược tính của mỗi loại đều khác nhau, thuốc giải của Đông Phương giáo chủ không giải được độc tố đan dược mà Nhậm Ngã Hành chế.

Mọi người đang kinh hoàng chần chừ, bỗng nhiên Hắc Bạch Tử lớn tiếng nói:

– Giáo chủ từ bi, thuộc hạ xin uống một viên trước.

Lão nói xong cố gắng đi đến bên bàn đưa tay ra lấy đơn dược.

Nhậm Ngã Hành phất nhẹ tay áo. Chân Hắc Bạch Tử đứng không vững, lão té ngửa về sau. Binh một tiếng, đầu lão đập mạnh vào tường. Nhậm Ngã Hành cười nhạt nói:

– Công lực của ngươi đã mất hết, trở thành một phế nhân thì không cần uống linh đan diệu dược của ta.

Lão quay sang nói:

– Tần Vĩ Bang, Vương Thành, Tang Tam Nương, các ngươi không muốn uống linh dược này của ta phải không?

Người phụ nữ trung niên là Tang Tam Nương cúi đầu nói:

– Thuộc hạ xin thề từ nay về sau trung thành với giáo chủ, vĩnh viễn không thay lòng.

Lão già mập lùn tên là Vương Thành nói:

– Thuộc hạ kính cẩn tuân theo lệnh của giáo chủ.

Hai người đi đến bên bàn, mỗi người cầm một viên dược hoàn bỏ vào miệng nuốt. Hai người này xưa nay rất úy kị Nhậm Ngã Hành, bây giờ thấy lão thoát ngục trở về, dĩ nhiên cả hai sợ đến vỡ mật, không dám dùng oai lực của mình để phản kháng.

Tần Vĩ Bang từ loại thường thường bậc trung được thăng lên hàng đầu; lúc Nhậm Ngã Hành làm giáo chủ, lão ở Giang Tây trông coi một số huyện, chưa hề lĩnh giáo qua thủ đoạn lợi hại của vị tiền nhiệm giáo chủ này. Lão la lên:

– Ta xin kiếu đây.

Lão điểm hai chân, chui qua lỗ hổng bức tường vọt đi.

Nhậm Ngã Hành cười ha hả, không thèm đứng lên ngăn cản. Đợi cho lão họ Tần chui ra ngoài, tay trái Hướng Vấn Thiên nhẹ vung lên, một sợi trường nhuyễn tiên màu đen từ trong tay áo bay ra. Mọi người đều hoa cả mắt. Chỉ nghe Tần Vĩ Bang thét lên một tiếng, sợi trường tiên từ trong lỗ hổng xoay chuyển quấn chặt chân trái Tần Vĩ Bang rồi kéo ngược lão trở lại. Sợi trường tiên này rất mảnh, nhỏ hơn đầu ngón tay út, nhưng Tần Vĩ Bang bị nó quấn chặt bàn chân trái, lăn lộn dưới đất không cách nào đứng dậy được.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Tang Tam Nương, ngươi lấy viên Não thần đan cẩn thận lột lớp vỏ ngoài đi.

Tang Tam Nương đáp dạ rồi đi đến bên bàn lấy một viên dược hoàn, dùng móng tay lột nhẹ lớp vỏ màu đỏ bên ngoài ra, để lộ một viên tròn màu xám tro. Nhậm Ngã Hành nói:

– Đưa cho hắn uống.

Tang Tam Nương đáp dạ rồi đi đến trước mặt Tần Vĩ Bang quát:

– Há miệng ra!

Tần Vĩ Bang xoay người, vù một tiếng lão nhắm đánh một chưởng vào Tang Tam Nương. Võ công của lão tuy kém hơn Tang Tam Nương nhưng khoảng cách không xa lắm, có điều chân trái của lão bị trường tiên quấn chặt, huyệt đạo bị kìm chế nên tay không vận hết kình lực được. Tang Tam Nương đưa chân trái đá lên cổ tay của lão, chân phải mụ vung lên đá bốp một cước trúng vào ngực lão. Mụ thi triển thế Uyên ương liên hoàn cước, liên tiếp đá ra ba cước trúng vào ba chỗ huyệt đạo của lão. Rồi mụ đưa tay trái bóp chặt má, tay phải nhét viên dược hoàn đã lột vỏ vào miệng, tay phải bóp họng của lão. Ực một tiếng, Tần Vĩ Bang đã nuốt viên dược hoàn vào bụng.

Lệnh Hồ Xung nghe Bảo Đại Sở nói thì biết Tam thi não thần đan có thi trùng cương phục, hoàn toàn dựa vào dược vật để khắc chế. Tang Tam Nương đã lột lớp thuốc màu đỏ đi rồi, dược vật khắc chế thi trùng đã không còn. Lại thấy thủ cước của Tang Tam Nương cử động rất linh hoạt, vô cùng lợi hại, dường như ngày thường mụ đã tập luyện thành thục việc chuyên bức ép người uống thuốc.

Lệnh Hồ Xung không biết công phu Tang Tam Nương chuyên về cầm nã và đánh xáp lá cà. Bây giờ mụ quy phục Nhậm Ngã Hành, dĩ nhiên tinh thần phấn chấn nên thi triển ra tuyệt kỹ cả đời của mình để phô trương thủ đoạn. Đó là mụ có ý tỏ dạ trung thành với giáo chủ.

Nhậm Ngã Hành mỉm cười gật đầu. Tang Tam Nương đứng dậy, vẻ mặt thản nhiên, cung kính đứng sang một bên.

Nhậm Ngã Hành đưa mắt nhìn ba người bọn Hoàng Chung Công, hiển nhiên lão có ý hỏi bọn họ có uống hay không.

Ngốc Bút Ông không nói lời nào, đi đến lấy một viên đơn dược nuốt vào. Đan Thanh tiên sinh miệng cứ lẩm bẩm, không biết lão đang nói câu gì, rồi cũng đi đến bàn lấy một viên đơn dược uống.

Vẻ mặt Hoàng Chung Công thê thảm. Lão đưa tay vào túi áo, lấy ra một quyển sách, chính là cầm phổ “Quảng Lăng tán”, đến trước Lệnh Hồ Xung nói:

– Võ công của tôn giá rất cao cường, mưu trí lại thâm sâu, bày ra xảo kế này để cứu Nhậm Ngã Hành thoát ngục. Hà hà, tại hạ vô cùng khâm phục. Quyển cầm phổ này đã làm cho bốn huynh đệ của tại hạ thân bại danh liệt, nguyên vật xin trả lại chủ.

Lão nói xong liền giơ tay ném cầm phổ vào ngực Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, thấy lão quay người lại đi đến bên bức tường. Lòng hắn không khỏi áy náy, thầm nghĩ: Việc cứu Nhậm giáo chủ hoàn toàn là mưu kế của Hướng đại ca, trước đây ta chẳng biết gì cả. Nhưng bọn Hoàng Chung Công trong lòng hận ta cũng là lẽ thường tình, ta không cách nào biện bạch được.

Hoàng Chung Công quay người lại, đứng dựa vào tường nói:

– Bốn huynh đệ của tại hạ thân ở trong Nhật Nguyệt thần giáo, vốn muốn hành hiệp trượng nghĩa, làm nên sự nghiệp tốt đẹp. Nhưng tính tình Nhậm giáo chủ bạo tàn, chỉ thích tác oai tác phúc, bốn huynh đệ tại hạ đã bất mãn từ lâu. Sau khi Đông Phương giáo chủ tiếp nhiệm, sủng tín quan nịnh, trừ khử lão huynh đệ trong bổn giáo thì bốn huynh đệ tại hạ chán nản nên bày ra chuyện giam cầm này, một là để xa rời Hắc Mộc Nhai, khỏi phải đấu đá với ai nữa, hai là nhàn nhã nơi Tây Hồ hưởng thú cầm thư. Mười hai năm nay, thanh phúc cũng đã hưởng đủ, người sống trên đời vui ít, buồn nhiều, vậy thì thôi…

Lão nói đến đây, hự lên một tiếng, thân người từ từ quỵ xuống. Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh cùng la lên:

– Đại ca!

Rồi cả hai cùng chạy đến đỡ lão dậy. Ngực lão cắm một cây trủy thủ vào tới tim, hai mắt đã trợn trắng, lão đã tắt thở rồi. Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh liên tiếp gọi:

– Đại ca, đại ca!

Rồi cả hai khóc rống lên.

Vương Thành quát:

– Lão này không tuân mệnh giáo chủ, sợ bị trừng trị nên tự tử, tội còn nặng thêm một bậc. Hai cái đồ ăn hại các ngươi khóc cái gì?

Mặt Đan Thanh tiên sinh đầy vẻ căm phẫn. Lão quay người lại muốn xông vào Vương Thành liều mạng. Vương Thành nói:

– Sao? Ngươi muốn tạo phản hả?

Đan Thanh tiên sinh nhớ lại mình đã uống Tam thi não thần đan, bây giờ lão không nên phản kháng lại ý chỉ của Nhậm Ngã Hành. Bao nhiêu lửa giận liền tiêu tan hết, lão cúi đầu gạt lệ.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Đem cái xác và tên phế nhân này đi chỗ khác rồi đem rượu thịt ra. Hôm nay, ta và Hướng huynh đệ, Lệnh Hồ huynh đệ cùng say một bữa.

Ngốc Bút Ông đáp dạ rồi ôm xác Hoàng Chung Công đi ra ngoài. Tiếp theo, gia đinh bày bát đũa và sáu cái ghế. Bảo Đại Sở nói:

– Bày ba cái bát, ba đôi đũa thôi! Chúng ta làm sao dám ngồi cùng bàn với giáo chủ được?

Lão vừa nói vừa thu dọn bàn giúp gia nhân.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Các ngươi cũng vất vả rồi, ra ngoài uống mấy bát đi.

Bảo Đại Sở, Vương Thành, Tang Tam Nương cùng cúi người nói:

– Đa tạ ân điển của giáo chủ. Rồi cả ba từ từ lui ra.

Lệnh Hồ Xung thấy Hoàng Chung Công tự tử, lòng nghĩ lão là một hán tử nghĩa liệt. Nhớ lại ngày hôm trước đó, lão muốn viết thư bảo mình đi gặp Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm để cầu xin đại sư trị bệnh, đối với mình bằng cả tấm lòng quan hoài, bất giác chàng cảm thấy thương cảm.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Huynh đệ, vì cơ duyên nào mà huynh đệ học được Hấp tinh đại pháp của giáo chủ? Hãy nói cho ta nghe đi.

Lệnh Hồ Xung liền đem việc phát hiện ra chữ trên thiết bản thế nào, vô tình luyện thành đại pháp ra sao, lần lượt kể hết ra. Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Cung hỷ, cung hỷ! Những cơ duyên này mà khuyết một cũng không được. Ca ca thật sự vui mừng cho huynh đệ.

Lão nói xong, bưng bát rượu lên uống cạn. Nhậm Ngã Hành và Lệnh Hồ Xung cũng bưng bát lên uống cạn.

Nhậm Ngã Hành cười nói:

– Chuyện này nói ra cũng nguy hiểm. Lúc đầu ta khắc bộ bí quyết luyện công này lên thiết bản vì nằm trong ngục rất buồn chán, muốn khắc để giải khuây chứ chưa chắc đã có hảo tâm. Bí quyết thần công cố nhiên là thật, nhưng nếu ta không chỉ điểm thêm giúp người luyện tán công, mà cứ nhắm mắt dựa vào cách này tự luyện tập thì phải đi đến tẩu hỏa nhập ma, ngàn người luyện không người nào thoát khỏi. Luyện thần công này có hai bước quan trọng. Bước thứ nhất là phải tán hết nội lực toàn thân, làm cho huyệt Đan điền trống không. Chỉ cần tán không hết hoặc tán nhầm huyệt đạo, lập tức bị tẩu hỏa nhập ma, toàn thân bị bại liệt, từ đó thành phế nhân, kinh mạch nghịch chuyển, thất khổng chảy máu mà chết. Môn công phu này xuất hiện đã được mấy trăm năm, nhưng người được truyền thụ thì rất hiếm mà người luyện thành càng hiếm hơn vì bước tán công này quá khó. Lệnh Hồ huynh đệ lại chiếm được tiện nghi to lớn này, nội lực của huynh đệ vốn đã mất hết, nguyên khí chẳng có gì, muốn tán thì tán mà không phí chút khí lực nào, còn người khác thực hiện bước này rất khó khăn nguy hiểm. Huynh đệ lại vô tình vượt qua được. Sau khi tán công, lại phải hút chân khí của người khác, tích trữ vào huyệt Đan điền của mình, rồi dựa vào phương pháp để tán chân khí vào kỳ kinh bát mạch là có chỗ hữu dụng. Bước này cũng vô cùng khó khăn. Nội lực của mình dĩ nhiên là tán hết, cần phải hút thêm chân khí của người khác há không phải là lấy trứng chọi đá để bị mất mạng sao? Lệnh Hồ huynh đệ lại gặp may mắn. Ta nghe Hướng huynh đệ nói trên người huynh đệ đã có tám luồng chân khí dị chủng của mấy tên cao thủ truyền vào, tuy mỗi người mỗi luồng chân khí khác nhau nhưng cũng cực kỳ lợi hại. Lệnh Hồ huynh đệ, huynh đệ lại dễ dàng vượt qua hai bước khó khăn này, luyện thành công đại pháp cũng là ý trời.

Lòng bàn tay Lệnh Hồ Xung ướt đẫm mồ hôi. Chàng nói:

– May mà nội lực của vãn bối mất hết, nếu không thì thật hậu quả không thể tưởng tượng nổi. Hướng đại ca, Nhậm giáo chủ làm thế nào thoát được hắc lao, đến nay tiểu đệ vẫn chưa hiểu ra.

Hướng Vấn Thiên cười hì hì, lấy trong túi ra một vật nhét vào tay Lệnh Hồ Xung rồi hỏi:

– Đây là cái gì?

Lệnh Hồ Xung cảm thấy vật ở trong tay mình là một viên tròn tròn rắn chắc, đúng là cái mà ngày hôm đó Hướng Vấn Thiên đưa mình cầm để trao lại cho Nhậm Ngã Hành. Chàng mở tay ra, thấy một viên thép tròn, trên viên thép có một hạt bi nhỏ xíu. Lệnh Hồ Xung vừa sờ đến viên bi, cảm thấy viên bi đó có thể chuyển động được, nhè nhẹ xoay mấy vòng, kéo ra một sợi dây thép rất nhỏ. Sợi dây thép này ở trên viên bi, trên dây thép đều là răng cưa. Đúng là một dây cưa bằng thép rất nhỏ được chế tạo cực kỳ tinh xảo. Lệnh Hồ Xung hiểu ra, nói:

– Thì ra cùm và xích trên tay chân của giáo chủ đã được dùng vật này cưa ra.

Nhậm Ngã Hành cười nói:

– Ta vận nội lực vào trong mấy tiếng cười to, làm cho năm người đều chấn động ngất xỉu, rồi cưa đứt cùm và xích, sau này huynh đệ đối phó với Hắc Bạch Tử làm sao, thì lúc đó ta cũng đối phó với huynh đệ như vậy.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thì ra tiền bối đổi y phục của vãn bối ra lấy cùm xích khóa chân tay của vãn bối, chẳng trách bọn Hoàng Chung Công không phát giác được.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Chuyện này vốn cũng không dễ che giấu được Hoàng Chung Công và Hắc Bạch Tử. Nhưng sau khi bọn họ tỉnh lại thì giáo chủ và ta đã đi khỏi Mai trang rồi. Bọn Hắc Bạch Tử thấy kỳ phổ, thư họa của ta để lại, ai cũng vô cùng vui mừng, không còn nghi ngờ gì đến chuyện người trong ngục tráo tù nhân.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đại ca thần cơ diệu toán, không ai bì kịp.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra tất cả mọi chuyện đại ca đã sắp đặt hết. Lão nắm được sở thích của bốn người này, dẫn họ vào cạm bẫy. Nhưng giáo chủ thoát ngục đã lâu mà tại sao lão không đến cứu ta?

Hướng Vấn Thiên nhìn vẻ mặt thì đoán được tâm ý của Lệnh Hồ Xung. Lão cười nói:

– Huynh đệ, sau khi giáo chủ thoát ngục, có rất nhiều điều phải làm nên không thể để cho bọn đối đầu biết, đành để huynh đệ phải chịu khuất tất dưới đáy Tây Hồ nhiều ngày. Hôm nay bọn ta đến cứu huynh đệ. May mà trong họa có phúc, huynh đệ đã luyện thành thần công đệ nhất đương thời, coi như đã bồi thường cho huynh đệ. Ha ha, ca ca xin lỗi huynh đệ là được rồi.

Lão nói xong rót đầy rượu vào bát của ba người, rồi tự mình uống cạn. Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:

– Ta cũng xin lỗi huynh đệ một bát.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Cái gì mà xin lỗi! Vãn bối phải đa tạ hai vị mới phải. Vãn bối bị trọng thương không cách nào trị khỏi, sau khi luyện thần công của giáo chủ, nội thương đã dần dần giảm bớt rồi hết hẳn, cái mạng này mới còn sống đây.

Ba người cùng lớn tiếng cười, rất cao hứng.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Mười hai năm trước, giáo chủ mất tích một cách lạ lùng. Đông Phương Bất Bại soán vị. Tiểu huynh biết trong chuyện này có điều kỳ quặc đành phải nhẫn nhịn, gắng gượng theo Đông Phương Bất Bại. Cho đến lúc gần đây, tiểu huynh mới thăm dò biết được nơi giáo chủ bị giam cầm, liền đến giúp giáo chủ thoát ngục. Nào ngờ tiểu huynh vừa xuống Hắc Mộc Nhai thì thằng cha Đông Phương Bất Bại phái đại đội nhân mã truy sát, lại gặp phải đồ khốn nạn trong chính phái kéo đến nhập bọn làm náo nhiệt. Huynh đệ, hôm ở dưới đáy thâm cốc, huynh đệ nói nguyên do mất hết nội lực, lúc đó ta liền nghĩ phải tán các luồng chân khí dị chủng trong người của huynh đệ đi. Trên đời này, chỉ có Hấp tinh đại pháp của giáo chủ mới chữa được. Ta định sau khi giáo chủ thoát ngục thì ta cầu xin giáo chủ lão nhân gia truyền thần công tuyệt thế này cho huynh đệ để cứu tính mạng huynh đệ, không ngờ không cần ta mở miệng cầu xin, tự giáo chủ đã truyền cho huynh đệ rồi.

Ba người lại nâng bát uống cạn rồi cười ha hả.

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Hướng đại ca cứu Nhậm giáo chủ cố nhiên là lợi dụng ta, cũng thật có tấm lòng cứu tính mạng ta. Lúc rời khỏi thâm cốc thì đại ca nói dẫn ta đi tìm người trị bệnh. Huống chi nếu ta không phải vì chuyện này mà có công lao thì Hấp tinh đại pháp thần diệu như vậy, Nhậm giáo chủ dễ gì truyền cho một người không hề quen biết như ta.

Bất giác Lệnh Hồ Xung đối với Hướng Vấn Thiên nảy sinh lòng cảm kích.

Hồi 91: Từ chối không nhập bọn với Ngã Hành

Sau khi uống được mười mấy bát rượu, Lệnh Hồ Xung cảm thấy vị Nhậm giáo chủ này ăn nói phóng khoáng, kiến thức hơn người, quả là một đại anh hùng đại hào kiệt hiếm có trên đời, bất giác sinh lòng kính phục. Vừa rồi thấy lão đối phó với bọn Tần Vĩ Bang, Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử bằng thủ đoạn tàn độc nhưng sau khi nghe lão đàm luận một lúc, chàng nhìn ra cách xử sự của lão rất anh hùng, không thể lấy lý thường tình mà đo lường được, bao nhiêu nỗi bất bình chất chứa trong lòng dần dần tiêu tan.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Lệnh Hồ huynh đệ, ta đối với địch nhân thì ra tay rất tàn độc. Nguyên tắc của ta rất nghiêm khắc, có lẽ huynh đệ chưa quen chứng kiến. Nhưng huynh đệ hãy nghĩ xem ta bị nhốt trong hắc lao ở dưới đáy Tây Hồ bao lâu? Huynh đệ đã từng ở hắc lao cũng biết được cái đau khổ khi bị giam cầm trong đó. Người ta đối xử với ta ra sao? Đối với phản đồ địch nhân, chẳng lẽ ta có thể mở lòng từ bi ư?

Lệnh Hồ Xung gật đầu khen phải. Bỗng chàng nhớ tới một chuyện bèn đứng dậy nói:

– Vãn bối có một chuyện muốn cầu xin giáo chủ, rất mong giáo chủ ưng thuận.

Nhậm Ngã Hành hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngày đầu tiên vãn bối gặp giáo chủ, từng nghe Hoàng Chung Công nói nếu giáo chủ thoát ngục trở lại giang hồ thì chỉ riêng một phái Hoa Sơn ít nhất cũng bị giết hơn một nửa. Lại nghe giáo chủ nói nếu gặp sư phụ của vãn bối thì giáo chủ sẽ làm khó dễ. Công lực của giáo chủ thần thông, nếu giáo chủ muốn làm khó dễ phái Hoa Sơn thì không ai có thể chống cự…

Nhậm Ngã Hành nói:

– Ta nghe Hướng huynh đệ nói sư phụ của huynh đệ đã truyền ngôn khắp thiên hạ trục xuất huynh đệ ra khỏi môn tường phái Hoa Sơn. Ta làm nhục hắn một trận hay làm cỏ cả phái Hoa Sơn, xóa hẳn tên trong võ lâm để trút cơn tức giận thay cho huynh đệ.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Vãn bối từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, được ân sư và sư nương thu nhận vào môn hạ, dưỡng nuôi đến lớn, tuy danh nghĩa là sư đồ nhưng tình cảm như phụ tử. Sư phụ đã trục xuất vãn bối khỏi môn tường một là vì vãn bối đã sai, hai là có chút hiểu lầm. Vãn bối vạn lần không dám oán trách ân sư.

Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:

– Thì ra Nhạc Bất Quần vô tình với huynh đệ mà huynh đệ lại không thể bất nghĩa với lão ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối xin giáo chủ khoan dung độ lượng, đừng làm khó dễ sư phụ, sư nương và bọn sư đệ, sư muội phái Hoa Sơn của vãn bối.

Nhậm Ngã Hành trầm ngâm nói:

– Ta thoát khỏi hắc lao là nhờ công lớn của huynh đệ, nhưng ta truyền Hấp tinh đại pháp để cứu tính mạng cho huynh đệ là coi như huề, không ai nợ ai cả. Ta tái xuất giang hồ, phải giải quyết rất nhiều chuyện ân oán, không thể hứa trước với huynh đệ điều gì để sau này hành sự khỏi phải vướng tay vướng chân.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói như vậy thì nghĩ lão sẽ làm khó dễ Nhạc Bất Quần, bất giác sự lo lắng hiện rõ lên nét mặt.

Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:

– Tiểu huynh đệ, huynh đệ cứ ngồi xuống đi. Ngày nay trên giang hồ ta chỉ có Hướng huynh đệ và tiểu huynh đệ là hai người thân tín nhất. Tiểu huynh đệ có chuyện cầu xin ta thì chúng ta phải cùng thương lượng. Nếu tiểu huynh đệ hứa với ta một chuyện thì ta cũng đồng ý với lời yêu cầu của tiểu huynh đệ. Từ nay về sau, nếu gặp sư đồ trong phái Hoa Sơn, chỉ cần bọn họ không bất kính với ta thì ta sẽ không làm khó dễ chúng. Nếu ta muốn giáo huấn bọn chúng thì đương nhiên ta cũng phải nể mặt tiểu huynh đệ, hạ thủ lưu tình ba phần. Tiểu huynh đệ thấy thế nào?

Lệnh Hồ Xung vui mừng vội nói:

– Được như vậy vãn bối cảm kích vô cùng. Giáo chủ có điều gì dạy bảo, vãn bối nhất nhất tuân theo.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Ta và hai người kết nghĩa huynh đệ kim lan, từ nay về sau có phúc cùng hưởng có nạn cùng chịu. Hướng huynh đệ là Quang Minh tả sứ của Nhật Nguyệt thần giáo còn tiểu huynh đệ làm Quang Minh hữu sứ. Ý tiểu huynh đệ thế nào?

Lệnh Hồ Xung vừa nghe, rất đỗi ngạc nhiên, vạn lần không ngờ lão mời gia nhập Ma giáo. Từ nhỏ, chàng đã nghe sư phụ và sư nương kể nhiều chuyện gian tà ác độc của Ma giáo. Bị trục xuất khỏi môn tường, chàng chỉ muốn sống như hạc nội mây ngàn, làm người phiêu bạt vô môn vô phái trên giang hồ. Nếu muốn chàng gia nhập vào Ma giáo thì vạn lần không thể được. Nhất thời, lòng chàng rối như tơ vò, khó trả lời được.

Nhậm Ngã Hành và Hướng Vấn Thiên nhìn Lệnh Hồ Xung chằm chằm, trong phòng im phăng phắc không một tiếng động.

Một lúc lâu sau Lệnh Hồ Xung mới nói:

– Hảo ý của giáo chủ, vãn bối nghĩ mình là kẻ mạt học hậu tiến, sao dám xưng huynh gọi đệ với giáo chủ? Vả lại, tuy vãn bối đã không còn là người phái Hoa Sơn nhưng vãn bối luôn mong muốn sư phụ có ngày hồi tâm chuyển ý, thu hồi lệnh…

Nhậm Ngã Hành cười nhạt nói:

– Tiểu huynh đệ gọi ta là giáo chủ, kỳ thực bây giờ tuy ta đã thoát được lao lung nhưng tính mạng của ta sống nay chết mai, hai chữ “giáo chủ” chẳng qua gọi cho dễ nghe mà thôi. Ngày nay, khắp thiên hạ ai ai cũng biết giáo chủ của Nhật Nguyệt thần giáo là Đông Phương Bất Bại. Người này võ công cao cường chẳng thua gì ta, lại đa mưu túc trí hơn ta nhiều. Dưới trướng của hắn có rất nhiều nhân tài, ta và Hướng huynh đệ có muốn đoạt lại ngôi vị giáo chủ từ trong tay hắn thì cũng chẳng khác gì lấy trứng chọi đá, thật là cuồng tâm vọng tưởng. Tiểu huynh đệ không muốn kết nghĩa huynh đệ với ta cũng là một chuyện tốt để giữ mình trong sạch. Nào nào, chúng ta uống rượu nói chuyện vui, không đề cập đến chuyện này nữa.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Quyền vị của giáo chủ vì sao bị Đông Phương Bất Bại cướp đoạt? Tại sao giáo chủ bị cầm tù trong hắc lao? Nhiều chuyện như vậy vãn bối hoàn toàn không biết, hai vị có thể kể cho vãn bối nghe được không?

Nhậm Ngã Hành lắc đầu cười thê lương, nói:

– Ở dưới đáy Tây Hồ mười hai năm trời, danh lợi quyền vị cái gì ta coi cũng nhạt nhẽo. Hì hì, tuổi ta càng ngày càng già thì lòng càng nóng nảy.

Lão rót từng bát rượu uống cạn rồi cười một tràng ha hả, tiếng cười đầy vẻ thê lương.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, hôm đó Đông Phương Bất Bại phái nhiều người truy đuổi ta. Thủ đoạn chúng tàn độc ra sao, huynh đệ đã chứng kiến rồi. Nếu không nhờ huynh đệ trượng nghĩa ra tay thì ta đã sớm bị bọn chúng chém nát như tương ở trong lương đình. Lòng huynh đệ thường phân biệt chính phái với Ma giáo, nhưng hôm đó mấy trăm người bọn chúng liên thủ với nhau để vây giết hai huynh đệ chúng ta, nào còn phân biệt chính phái với Ma giáo đâu? Kỳ thực, trong chính phái có người tốt nhưng chẳng lẽ không có kẻ đê tiện gian ác? Trong Ma giáo người xấu không ít nhưng nếu ba người chúng ta nắm giữ đại quyền chỉnh đốn mọi việc, đem những hạng gian ác xấu xa thanh trừ hết, há không khiến cho hào kiệt trên giang hồ vui lòng hả dạ sao?

Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:

– Lời đại ca nói thật chí lý.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nghĩ đến năm xưa giáo chủ đối xử với Đông Phương Bất Bại tình như thủ túc, đề bạt hắn làm Quang Minh tả sứ trong thần giáo, mọi đại quyền trong tay giáo phái đều giao phó cho hắn. Lúc đó giáo chủ chỉ chuyên tâm tu luyện Hấp tinh đại pháp để sửa chữa những sai sót nhỏ nhặt, nên chuyện thường ngày trong giáo phái, giáo chủ không chăm sóc được. Không ngờ Đông Phương Bất Bại lòng lang dạ sói, ngoài mặt đối với giáo chủ vô cùng cung kính, chuyện gì cũng không dám làm trái nhưng bên trong ngấm ngầm gầy dựng thế lực. Hắn bịa đặt nhiều lý do, đem toàn bộ thuộc hạ trung thành với giáo chủ hoặc cách chức hoặc xử tử. Trong vòng mấy năm, người thân tín của giáo chủ từ từ bị triệt hết. Giáo chủ là một người trung hậu chí thành, thấy Đông Phương Bất Bại xử sự cung kính cẩn thận mà tất cả mọi chuyện trong bổn phái hắn đều sắp đặt đâu vào đấy nên không chút hoài nghi.

Nhậm Ngã Hành thở dài nói:

– Hướng huynh đệ, chuyện này ta thật lấy làm xấu hổ. Huynh đệ đã mấy lần nói lời trung thành với ta, khuyên ta đề phòng. Nhưng ta quá tín nhiệm Đông Phương Bất Bại, lời trung lại nghe nghịch tai, còn trách huynh đệ đem lòng đố kỵ hắn, đưa lời ly gián sinh ra lắm chuyện thị phi, khiến cho huynh đệ tức giận bỏ đi biệt tích, từ đó không còn gặp mặt nữa.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Thuộc hạ quyết không dám có ý gì oán trách giáo chủ. Nhưng thấy tình thế trước mắt bất ổn, Đông Phương Bất Bại lại bố trí nghiêm mật sẽ gây ra tai biến lập tức. Nếu thuộc hạ còn phục tùng bên cạnh giáo chủ thì trước sau cũng bị hắn hạ độc thủ. Bổn giáo đang gặp nguy khốn, thuộc hạ cũng muốn gánh vác nhưng thuộc hạ suy trước nghĩ sau, cảm thấy nên rời xa trước là tốt nhất. Nếu giáo chủ có thể nhìn ra âm mưu tạo phản thì đó là điều tốt lành, nếu không thuộc hạ ở bên ngoài ít nhất cũng khiến cho hắn phải úy kị mà không dám lộng hành thái quá.

Nhậm Ngã Hành gật đầu nói:

– Đúng vậy, nhưng lúc đó ta đâu có biết nỗi khổ tâm của huynh đệ? Thấy huynh đệ ra đi không từ biệt thì lòng ta rất tức giận. Lúc đó, việc luyện công của ta đang vào thời kỳ khẩn yếu, rất dễ bị tẩu hỏa nhập ma. Đông Phương Bất Bại lại càng ra vẻ ân cần, khuyên ta không nên phiền não. Ta càng trúng gian kế của hắn, còn đem cả bí cấp Quỳ hoa bảo điển của bổn giáo truyền cho hắn.

Lệnh Hồ Xung nghe đến bốn chữ “Quỳ hoa bảo điển” bất giác ồ lên một tiếng. Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Huynh đệ, huynh đệ cũng biết Quỳ hoa bảo điển ư?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu đệ từng nghe sư phụ nói qua tên bộ bảo điển này, biết đây là bí cấp võ học bác đại tinh thâm nhưng không biết nó ở trong tay giáo chủ.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Nhiều năm trở lại đây, Quỳ hoa bảo điển là bảo vật trấn giáo của Nhật Nguyệt thần giáo, do giáo chủ đời trước truyền cho giáo chủ đời sau. Lúc đó ta luyện Hấp tinh đại pháp đến quên ăn mất ngủ, chuyện gì cũng không màng đến nên muốn đem ngôi vị giáo chủ truyền cho Đông Phương Bất Bại. Ta đem Quỳ hoa bảo điển truyền cho hắn, cốt để hắn hiểu rõ rằng không bao lâu nữa ta sẽ truyền ngôi vị giáo chủ cho hắn. Ôi, Đông Phương Bất Bại là người quá thông minh, ngôi vị giáo chủ này rõ ràng đã giao tận tay hắn rồi mà tại sao hắn lại nóng vội như vậy, không chịu đợi đến lúc ta mở tổng đàn chính thức công bố với mọi người? Tại sao hắn muốn làm chuyện phản nghịch soán ngôi?

Lão chau mày, dường như cho đến bây giờ, đối với chuyện này lão vẫn chưa hiểu rõ nguyên nhân.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Một là hắn không muốn chờ đợi, không biết lúc nào giáo chủ mới chính thức truyền ngôi; hai là hắn không an tâm chỉ sợ bỗng nhiên đại sự có biến cố.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Kỳ thực hắn đã sắp đặt bố trí tất cả, còn sợ đại sự biến cố gì? Thật khiến cho người ta khó hiểu nổi. Ta ở trong hắc lao tĩnh tâm suy nghĩ, nhất nhất muốn hiểu rõ hàng loạt gian mưu của hắn, nhưng vì sao hắn không chờ đợi mà đột nhiên làm loạn cho đến bây giờ ta vẫn chưa hiểu ra. Chắc trong lòng hắn có úy kị với huynh đệ nên sợ không chừng ta sẽ đem ngôi vị giáo chủ truyền cho huynh đệ. Nhưng huynh đệ đã ra đi không từ biệt, đã nhổ một cây đinh trong mắt của hắn, hắn cứ đợi từ từ là được rồi.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Năm đó Đông Phương Bất Bại làm loạn, mở đại tiệc vào buổi tối tiết Đoan Ngọ, tiểu thư có nói một câu ở bàn tiệc. Giáo chủ còn nhớ không?

Nhậm Ngã Hành gãi đầu nói:

– Tiết Đoan Ngọ ư? Tiểu thư đã nói gì? Có quan trọng không? Ta hoàn toàn không nhớ.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Giáo chủ đừng cho tiểu thư là trẻ con. Tiểu thư thông minh lanh lợi, suy nghĩ rất khôn ngoan thật không thua gì người lớn. Năm đó tiểu thư mới bảy tuổi, đếm người trên bàn tiệc rồi bỗng hỏi giáo chủ: “Gia gia, tại sao mỗi năm chúng ta mở tiệc rượu vào tiết Đoan Ngọ, cứ thiếu đi một người?” Giáo chủ ngẩn ra rồi hỏi: “Cái gì mà mỗi năm lại thiếu đi một người?” Tiểu thư nói: “Hài nhi nhớ năm ngoái có mười một người; năm kia có mười hai người; năm nay một, hai, ba, bốn, năm… chúng ta chỉ còn lại mười người”.

Nhậm Ngã Hành thở dài nói:

– Đúng vậy, lúc đó ta có nghe Tiểu Linh Linh nói, lòng đã không vui. Năm trước, Đông Phương Bất Bại đã xử Hách hiền đệ. Năm trước nữa, Khâu trưởng lão chết một cách không rõ ràng ở Cam Túc, bây giờ nghĩ ra, chắc chắn là do Đông Phương Bất Bại đã ngấm ngầm sắp đặt độc kế. Năm trước nữa, Văn trưởng lão bị cách chức đuổi ra khỏi bổn giáo; bị cao thủ ba phái Tung Sơn, Thái Sơn và Hành Sơn vây đánh mà chết. Khởi họa chuyện này dĩ nhiên cũng do Đông Phương Bất Bại gây nên. Ôi, Tiểu Linh Linh vô tình phát hiện ra, lúc đó ta như người trong mộng, không tỉnh ngộ.

Lão ngừng một lúc, uống một hớp rượu lại nói tiếp:

– Hấp tinh đại pháp được phái Tiêu Dao sáng tạo giữa thời Bắc Tống, phân làm hai đường Bắc Minh thần công và Hóa công đại pháp, về sau họ Đoàn ở Đại Lý và phái Tinh Tú phân ra để truyền lại, rồi hợp lại làm một gọi là Hấp tinh đại pháp, chủ yếu thừa kế đường Hóa công đại pháp. Có điều người thường học không được phương pháp này vì trong đó có chỗ thiếu sót. Lúc đó, ta tu luyện Hấp tinh đại pháp đã hơn mười năm, trên giang hồ thần công đại pháp này rất có tiếng tăm. Người trong chính giáo vừa nghe nhắc đến nó không ai không sợ đến vỡ mật. Nhưng ta lại biết trong thần công này có mấy chỗ thiếu sót lớn, lúc đầu không tìm ra được, sau đó những họa hoạn của nó dần dần hiện ra. Trong mấy năm, dĩ nhiên ta đã hiểu rõ những họa hoạn đó, biết rằng nếu không kịp thời bổ cứu thì sẽ có một ngày thân thể bị độc hỏa thiêu đốt. Đó là lấy công lực của người khác thì sẽ bị phản kích lại, hút càng nhiều công lực thì bị phản kích càng nhiều.

Lệnh Hồ Xung vừa nghe đến đây, lòng mơ hồ cảm thấy có một chuyện gì đó rất không ổn.

Nhậm Ngã Hành lại nói:

– Lúc đó trên người của ta đã tích tụ công lực của mười mấy tên cao thủ chính tà. Mười mấy cao thủ này thuộc nhiều môn phái khác nhau, công lực luyện tập của họ cũng khác nhau. Ta phải tìm cách đem chúng hợp lại làm một để thành nội lực của ta, nếu không thì nội thể sẽ gặp đại họa. Trong mấy năm đó, ta ngày đêm suy nghĩ, lúc nào cũng canh cánh về chuyện này. Hôm đãi yến tiệc tết Đoan Ngọ, tuy ta đang uống rượu cười nói mà trong lòng vẫn ngầm suy tính về hai mươi hai huyệt Dương kiểu và ba mươi hai huyệt Dương duy. Giữa năm mươi bốn huyệt này, làm sao vận nội tức cho lưu thông dễ dàng, có thể từ Dương kiểu vào Dương duy cũng có thể từ Dương duy trở về Dương kiểu. Cho nên nghe mấy câu nói của Tiểu Linh Linh, lòng ta không vui nhưng trong chốc lát thì quên ngay.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Thuộc hạ cũng thấy rất kỳ lạ. Xưa nay giáo chủ rất nhanh nhạy, chỉ cần người khác nói nửa câu, giáo chủ mười phần đã nắm được chín tâm ý của người đó, không hề nhầm lẫn. Nhưng trong mấy năm đó, không những đối với gian mưu của Đông Phương Bất Bại giáo chủ không phát giác mà còn thường ngày… thường ngày… ôi…

Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:

– Mà còn thường ngày ngơ ngơ ngác ngác, tâm thần bất định có phải không?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Đúng vậy. Sau khi tiểu thư nói mấy câu này, Đông Phương Bất Bại cười ha hả nói: “Tiểu thư, tiểu thư thích náo nhiệt phải không? Sang năm chúng ta mời thêm mấy người đến cùng uống rượu nữa”. Lúc hắn nói, bộ mặt đầy vẻ hân hoan nhưng tiểu đệ thấy từ trong ánh mắt của hắn đầy vẻ nghi ngại. Chắc hắn đoán rằng giáo chủ đã sớm có ý định, trước mắt giáo chủ chẳng qua giả bộ lờ đi để thử hắn. Hắn biết giáo chủ thông minh, đoán rằng giáo chủ quá hiểu rõ chuyện này, quyết không còn nghi ngờ gì nữa.

Nhậm Ngã Hành chau mày nói:

– Hôm đó Tiểu Linh Linh nói mấy câu trong bữa yến tiệc tết Đoan Ngọ mà mười hai năm nay ta không hề nhớ tới. Bây giờ huynh đệ nhắc đến ta mới nhớ ra, quả thực Tiểu Linh Linh có nói. Đúng vậy, Đông Phương Bất Bại nghe mấy câu nói đó, làm sao mà hắn không nghi ngờ được?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Hơn nữa, tiểu thư mỗi ngày một lớn, mỗi ngày càng thông minh, thì trong một hai năm nữa tiểu thư sẽ biết rõ mưu đồ của hắn. Đợi sau khi tiểu thư trưởng thành, có lẽ giáo chủ sẽ truyền ngôi vị cho tiểu thư. Cho nên Đông Phương Bất Bại không dám đợi lâu, mạo hiểm làm loạn, nguyên nhân là từ chỗ đó.

Nhậm Ngã Hành liên tục gật đầu rồi thở dài nói:

– Ôi, nếu bây giờ hài nhi ở bên ta thì chúng ta có thêm một người cũng không đến nỗi thế cô lực nhược như vậy.

Hướng Vấn Thiên quay lại nói với Lệnh Hồ Xung:

– Huynh đệ, vừa rồi giáo chủ nói Hấp tinh đại pháp của giáo chủ có thiếu sót rất lớn. Theo ta biết, tuy giáo chủ bị giam cầm mười hai năm trong hắc lao, chịu nhiều khuất tất, nhưng nhờ đó mà thoát được những mối ràng buộc thế tục, nghĩ suy nghiên cứu dĩ nhiên đã giải được những chỗ bí ảo trong thần công này. Giáo chủ, có phải vậy không?

Nhậm Ngã Hành vuốt chòm râu đen, cười ha hả trông rất đắc ý, lão nói:

– Đúng vậy. Từ đó về sau việc hút công lực của người khác ta đều tận dụng hết, cũng không còn lo sợ những chân khí dị chủng bỗng nhiên phản kích. Ha ha! Lệnh Hồ huynh đệ, huynh đệ thử hít một hơi dài, có phải cảm thấy chân khí ở huyệt Ngọc chẩm và Đản trung nhộn nhạo không?

Lệnh Hồ Xung theo lời lão hít một hơi, quả nhiên cảm thấy trong hai huyệt Đản trung và Ngọc chẩm chân khí nhộn nhạo lên, bất giác mặt hơi biến sắc.

Nhậm Ngã Hành nói:

– Chẳng qua huynh đệ mới bắt đầu luyện nên chưa thể phát giác ra được. Nhưng năm xưa lúc ta chưa giải phá được bí ảo này, chân khí trong hai huyệt này dấy lên, thật giống như trời đất đảo lộn khó mà chịu được. Tuy bề ngoài yên lặng không một tiếng động mà trong tai lại nghe tiếng vó của hàng vạn con ngựa dồn dập, có lúc lại giống như nghe tiếng sấm liên tục nổ ầm ầm. Ôi, nếu trong nội thể ta không có biến cố quan trọng này thì âm mưu phản nghịch của Đông Phương Bất Bại làm sao có thể thực hiện được.

Lệnh Hồ Xung biết lão nói thật, lại biết Hướng Vấn Thiên nói những lời như vậy là có ý muốn chàng cầu xin lão chỉ giáo cách chữa trọng bệnh nhưng nếu chàng không gia nhập Nhật Nguyệt thần giáo thì mở miệng cầu xin chỉ giáo dĩ nhiên không nói ra được. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Luyện Hấp tinh đại pháp này của lão thì ra có thể hút lấy nội lực của người khác để làm của mình. Công phu hiểm độc này ta quyết không luyện, quyết không sử dụng. Còn nếu chân khí dị chủng trong cơ thể ta vốn không cách nào hóa giải được thì nó đã là vậy rồi, tính mạng này của ta sắp gặp nguy hiểm. Lệnh Hồ Xung làm sao có thể ham sống sợ chết mà đi làm cái chuyện trái với lương tâm?

Lệnh Hồ Xung liền xoay sang chuyện khác, nói:

– Giáo chủ, vãn bối có một chuyện không rõ, xin giáo chủ chỉ giáo. Vãn bối từng nghe sư phụ nói: Quỳ hoa bảo điển là bí cấp chí cao vô thượng trong võ học, luyện thành công võ học trong bảo điển không những sẽ vô địch thiên hạ mà còn kéo dài tuổi thọ hơn một trăm tuổi. Sao giáo chủ không luyện võ công trong bảo điển mà lại đi luyện môn Hấp tinh đại pháp rất nguy hiểm này?

Nhậm Ngã Hành cười nhạt nói:

– Nguyên nhân của chuyện này không tiện nói cho người ngoài biết.

Mặt Lệnh Hồ Xung ửng đỏ:

– Dạ, vãn bối quá tò mò.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, tuổi giáo chủ đã cao, đại ca của huynh đệ cũng kém hơn giáo chủ lão nhân gia vài tuổi thôi. Nếu huynh đệ gia nhập bổn giáo, người kế nhiệm giáo chủ sau này là huynh đệ chứ không là ai nữa. Dù huynh đệ chê thanh danh của Nhật Nguyệt thần giáo không tốt, chẳng lẽ bàn tay của huynh đệ không thể chỉnh đốn để tạo phúc cho thiên hạ sao?

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói rất có tình có lý, lòng rất cảm động. Nhậm Ngã Hành tay trái cầm bát rượu đặt mạnh xuống bàn, tay phải cầm vò rượu rót đầy bát nói:

– Mấy trăm năm nay, Nhật Nguyệt thần giáo ta và các phái chính giáo là thù địch, ở thế không đội trời chung. Nếu huynh đệ cố chấp không chịu gia nhập, nội thương của huynh đệ khó khỏi, tánh mạng không bảo toàn, cũng chưa đáng kể. Chỉ e sư phụ và sư nương phái Hoa Sơn của huynh đệ… hì hì, ta muốn tiêu diệt hết sư đồ phái Hoa Sơn để từ nay không còn tên tuổi Hoa Sơn trong võ lâm cũng không phải là chuyện khó khăn gì. Hôm nay huynh đệ và ta tương hội ở đây là có duyên lớn, nếu huynh đệ nghe lời khuyên tốt lành của ta thì xin cạn bát này.

Lão nói những lời lẽ đầy ý uy hiếp khiến bầu nhiệt huyết trong ngực Lệnh Hồ Xung sôi lên. Chàng lớn tiếng nói:

– Giáo chủ, đại ca, vãn bối thân mang bệnh hoạn, mạng chỉ còn sớm chiều, vô tình học được đại pháp thần công của giáo chủ. Từ nay về sau dù không cách nào hóa giải, cũng chẳng qua trở lại trạng thái cũ mà thôi, cũng không sao hết. Đối với tính mạng mình, vãn bối đã sớm xem thường, sống chết có số, tới đâu thì tới. Phái Hoa Sơn thành lập đã mấy trăm năm, đương nhiên có quyền tồn tại, chưa chắc người khác vung tay là có thể tiêu diệt được. Hôm nay vãn bối nói hết lời ở đây, sau này sẽ có ngày gặp lại.

Lệnh Hồ Xung nói xong, đứng dậy hướng về hai người cung tay rồi quay người ra đi.

Hướng Vấn Thiên muốn nói thêm vài lời nhưng Lệnh Hồ Xung đã đi xa rồi.

Hồi 92: Vị tham tướng của phủ Tham Châu

Lệnh Hồ Xung ra khỏi Mai trang, thở phào nhẹ nhõm. Một luồng gió mát thổi vào cơ thể khiến chàng sảng khoái. Chàng ngẩng đầu lên, thấy mảnh trăng lưỡi liềm tựa hồ treo trên cành liễu, xa xa dưới mặt hồ ánh lên bóng trăng và chòm mây bay bay.

Lệnh Hồ Xung đến bên bờ hồ, đứng một lúc, thầm nghĩ: Trước mắt đại sự của Nhậm giáo chủ là tính sổ với Đông Phương Bất Bại, đoạt lại ngôi vị giáo chủ, tất nhiên lão chưa đi tìm phái Hoa Sơn để tru diệt. Nhưng nếu sư phụ, sư nương, bọn sư đệ, sư muội không hiểu biết nội tình mà đụng phải lão thì khó tránh khỏi bị hại. Ta phải sớm báo trước để bọn họ kịp đề phòng. Nhưng không biết bọn họ đi Phúc Châu về chưa? Từ đây đi Phúc Châu không xa, bây giờ rảnh rỗi ta đi Phúc Kiến một chuyến. Nếu bọn họ đã về rồi, thì trên đường ta có thể gặp họ được.

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến chuyện sư phụ đã truyền thư khắp võ lâm trục xuất mình ra khỏi sư môn, lòng thấy chua xót. Chàng lại nghĩ: Ta đem chuyện Nhậm giáo chủ bức bách ta gia nhập Ma giáo bẩm báo với sư phụ sư nương, chắc họ sẽ hiểu rõ ta không có ý kết giao với người trong Ma giáo. Không chừng sư phụ và sư nương có thể thu hồi lệnh trục xuất, chỉ phạt ta lên ngọn sám hối quay mặt vào tường ba năm thì được rồi.

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến hy vọng được trở về sư môn, tinh thần hắn phấn chấn, liền đi tìm khách điếm để nghỉ ngơi.

Lệnh Hồ Xung ngủ đến giờ ngọ mới tỉnh giấc, lòng nghĩ trước khi chưa gặp sư phụ sư nương, không nên để lộ dung mạo. Huống chi Doanh Doanh từng ra lệnh cho bọn Tổ Thiên Thu truyền ngôn trên giang hồ phải lấy tính mạng của mình, nên cần cải trang để khỏi gặp phiền phức. Nhưng cải trang thế nào mới được? Lệnh Hồ Xung trầm ngâm một lúc, bước ra khỏi phòng, vừa đi đến sân bỗng nghe ào một tiếng, một chậu nước tạt vào người. Lệnh Hồ Xung liền nhảy sang né tránh, chậu nước tạt vào khoảng không. Một viên quan tay đang cầm cái chậu gỗ rửa mặt, nhìn chàng với ánh mắt tức giận, hất hàm hỏi:

– Ngươi không có mắt hả, ngươi không thấy lão gia đang bưng chậu nước sao?

Lệnh Hồ Xung rất tức giận, lòng nghĩ trong thiên hạ tại sao có hạng người ngang ngược như vậy. Chàng thấy viên quan này khoảng bốn mươi tuổi, để bộ râu quai nón, chắc là quan võ. Gã mặc sắc phục dường như là hiệu úy, lưng mang yêu đao, đứng ưỡn ngực ra, hiển nhiên là tác oai tác phúc quen rồi. Viên quan quát:

– Còn nhìn cái gì nữa, không nhận ra lão gia sao?

Lệnh Hồ Xung nhanh nhạy nghĩ ngay: Cải trang thành một viên quan thì thú biết mấy, ta cứ ngang nhiên đi lại trên giang hồ, bằng hữu trong võ lâm không ai thèm ngó ngàng đến ta.

Viên quan quát:

– Cười cái gì? Bà nội ngươi, có gì đâu mà cười?

Thì ra Lệnh Hồ Xung đang nghĩ đến chuyện cải trang, vẻ mặt không khỏi hớn hở. Chàng đi đến trước quầy chưởng quỹ hỏi khẽ:

– Vị quân gia này từ đâu đến?

Chưởng quỹ nhăn mày nhíu mặt nói:

– Ai mà biết hắn từ đâu tới? Hắn tự xưng là từ thành Bắc Kinh đến, chỉ trọ một đêm mà điếm tiểu nhị hầu hạ hắn đã bị ăn ba cái tát tóe lửa. Ăn uống cho cố vào cũng không biết có trả tiền phòng, tiền cơm không nữa.

Lệnh Hồ Xung gật đầu, đi đến một quán trà bên cạnh, gọi đem một bình trà, ngồi nhâm nhi chờ đợi.

Đợi khoảng nửa canh giờ, bỗng nghe tiếng vó ngựa. Viên quan cưỡi con ngựa màu đỏ sậm từ trong khách điếm đi ra, roi ngựa vung lên chát chát. Y lớn tiếng quát:

– Tránh ra, tránh ra! Tổ mẹ nó, còn không mau tránh ra!

Mấy người đi đường tránh chậm liền bị y dùng roi ngựa quất vào người. Họ đau quá la oai oái.

Lệnh Hồ Xung trả tiền trà trước, đứng dậy bước nhanh theo sau con ngựa. Người đi đường thưa dần, chàng càng bước nhanh hơn vượt lên trước con ngựa, dang tay phải ra. Con ngựa giật mình hý một tiếng rồi nhảy lên, viên quan suýt chút nữa rớt xuống ngựa. Lệnh Hồ Xung quát:

– Tổ mẹ nó, bộ đui sao? Quân súc sinh này suýt đạp chết lão tử rồi.

Lệnh Hồ Xung không mở miệng đã làm cho viên quan tức giận lắm rồi, huống chi còn thóa mạ thì viên quan chịu sao thấu? Đợi chân trước của ngựa đáp xuống đất, y liền vung roi quất xuống đầu Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung thấy trên đường lớn không tiện giở trò liền la lên:

– Chao ôi!

Chàng loạng choạng, ôm đầu chạy về hướng con đường nhỏ. Viên quan chẳng chịu buông tha. Y nhảy xuống, vội vàng cột ngựa vào gốc cây rồi rượt theo Lệnh Hồ Xung như điên. Lệnh Hồ Xung la lên:

– Chao ôi, mẹ ơi!

Chàng chạy vào lùm cây. Viên quan la lối om sòm đuổi theo, bỗng nhiên dưới sườn trái y bị tê rần. Uỳnh một tiếng, y ngã lăn xuống đất.

Lệnh Hồ Xung chân trái đạp lên ngực y, cười nói:

– Tổ mẹ nó, bản lãnh tồi như vậy thì làm sao có thể hành quân đánh trận được?

Lệnh Hồ Xung lục túi của y, moi ra một phong thư, trên bì thư đóng dấu đỏ chót của Binh bộ thượng thư, viết hai chữ to: “Cáo thân”. Chàng mở phong thư rút ra một trang giấy dày. Đó là lệnh ủy nhiệm của Binh bộ thượng thư, viết rõ ủy nhiệm Ngô Thiên Đức là du kích ở Thương Châu, Hà Bắc được thăng lên chức tham tướng phủ Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến, phải tức khắc lên đường nhậm chức. Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Thì ra ngươi là tham tướng đại nhân. Ngươi là Ngô Thiên Đức ư?

Viên quan bị Lệnh Hồ Xung đạp không nhúc nhích được, vẻ mặt xám xanh, quát:

– Mau thả ta ra. Ngươi… ngươi… to gan làm càn, nhục mạ mệnh quan triều đình, không… không sợ vương pháp sao?

Tuy miệng y quát tháo mắng chửi nhưng khí thế lại ỉu xìu.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Lão tử hết tiền lộ phí rồi, muốn mượn tạm quần áo của ngươi đi cầm xài đỡ.

Chàng xoay tay đánh một chưởng vào đầu y, viên quan liền ngất đi.

Lệnh Hồ Xung nhanh chóng lột quần áo y ra, lòng nghĩ tên này khả ố như vậy, cho y một bài học cũng đáng đời nên lột hết đồ trong đồ ngoài khiến toàn thân y trần như nhộng. Lệnh Hồ Xung cầm cái bao tải nặng của y mở ra xem thấy có mấy trăm lạng bạc và thoi vàng nguyên. Chàng thầm nghĩ: Tất cả vàng bạc đều do tên cẩu quan này bòn rút của dân mà có, đáng lẽ vật trả về chủ. Nhưng thôi, phải để tham tướng đại nhân Ngô Thiên Đức là ta cầm đi mua rượu uống vậy.

Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy, không kìm được, phì cười ra tiếng. Chàng cởi hết quần áo, đem quân phục, ủng, yêu đao, túi xách của tên tham tướng mặc lên người rồi trói chặt tay của viên quan vào gốc cây, lại lấy bùn nhét đầy miệng hắn. Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ, quay người rút đơn đao cạo sạch bộ râu quai nón của viên quan rồi nhét bộ râu vào trong túi. Chàng cười nói:

– Ngươi biến thành tên tiểu bạch diện trông đẹp trai hơn nhiều.

Lệnh Hồ Xung đi ra đường lớn, mở dây cột ngựa ở gốc cây ra rồi vọt lên lưng ngựa, vung roi quát:

– Tránh ra, tránh ra! Tổ mẹ nó, bộ đui hết rồi sao? Ha ha…

Lệnh Hồ Xung cười một tràng dài rồi phóng ngựa phi về hướng Nam.

Tối hôm đó, chàng đến Dư Hàng, nghỉ trong một khách điếm. Chưởng quỹ và điếm tiểu nhị một tiếng quan gia, hai tiếng cũng quan gia, hầu hạ rất chu đáo. Sáng sớm hôm sau, Lệnh Hồ Xung hỏi chưởng quỹ đường đi Phúc Kiến, thưởng cho hắn năm lạng bạc. Chưởng quỹ và điếm tiểu nhị cung kính tiễn Lệnh Hồ Xung ra ngoài cửa. Chàng nghĩ bụng: Xem ra các ngươi may mắn gặp được vị tham tướng dỏm như ta. Nếu là tham tướng Ngô Thiên Đức thật đến đây ở trọ thì các ngươi phải khổ rồi.

Lệnh Hồ Xung vào tiệm mua một cái gương và một hũ keo. Sau khi ra khỏi thành, chàng đến một chỗ hoang vắng, soi gương lấy từng cọng râu dán lên cằm. Chàng làm rất tỉ mỉ trong hết nửa canh giờ, dán xong nhìn vào gương, thấy bộ râu quai nón xồm xoàm trên mặt trông thật oai vệ, bất giác khoái chí cười ha hả.

Trên đường đi về hướng Nam, sau khi qua phủ Kim Hoa và phủ Tứ Châu, khẩu âm phương Nam khác với khẩu âm Trung Châu nên Lệnh Hồ Xung rất khó nghe. May mà nhiều người thấy Lệnh Hồ Xung là quan gia nên họ đều uốn lưỡi nói tiếng Quan thoại với chàng, khiến chàng cũng thấy không khó nghe lắm. Trong đời Lệnh Hồ Xung chưa bao giờ có được nhiều tiền như vậy. Chàng uống rượu thỏa thuê, ăn nhiều món ngon vật lạ.

Các luồng chân khí dị chủng trong cơ thể Lệnh Hồ Xung tạm thời được tản vào các kinh mạch nhưng không thể trục ra ngoài cơ thể. Thỉnh thoảng, chúng lại chạy ngược vào huyệt Đan điền khiến cho chàng bị choáng váng, hoa cả mắt và miệng lại buồn nôn. Khi có thêm chân khí của Hắc Bạch Tử, so với trước, càng khó chịu hơn. Mỗi lần bị phát tác, Lệnh Hồ Xung đành phải dựa theo pháp môn mà Nhậm Ngã Hành khắc trên thiết bản để trục tán chúng ra khỏi huyệt Đan điền.

Chỉ cần các luồng chân khí dị chủng bị đẩy ra khỏi huyệt Đan điền thì tinh thần chàng lập tức phấn chấn, dễ chịu vô cùng. Mỗi lần luyện như vậy, Lệnh Hồ Xung tự biết công lực của mình tăng thêm một bậc, tuổi thọ càng giảm đi. Hắn thường nghĩ: Tính mạng của ta sống nay chết mai, sống được ngày nào thì ngày đó đã may mắn lắm rồi. Nhờ suy nghĩ vậy nên Lệnh Hồ Xung rất thản nhiên.

Sau giờ Ngọ, Lệnh Hồ Xung đã vào Tiên Hà Lĩnh. Đường núi gập ghềnh, càng đi càng dốc, người trên Tiên Hà Lĩnh rất ít. Đi được hơn mười hai dặm, vẫn không thấy một bóng người, chàng biết vì bọn cướp thường cản đường trấn lột nên trên đây không có nhà ở. Thấy trời đã gần tối, Lệnh Hồ Xung định tìm một bụi cỏ hoang để nghỉ ngơi. Phía dưới sườn núi có một sơn động nhỏ nhô ra không đến nỗi bị côn trùng quấy nhiễu, chàng liền cột ngựa vào gốc cây cho ngựa tự ăn cỏ, rồi tìm một ít cỏ khô trải trong động chuẩn bị ngủ qua đêm. Nhưng lúc ấy khí huyết trong huyệt Đan điền lại khó chịu, chàng liền ngồi xuống luyện công. Mỗi lần luyện thần công mà Nhậm Ngã Hành truyền cho thì chàng càng cảm thấy mình bị ràng buộc, nhưng lúc luyện xong lại thú vị vô cùng. Càng luyện nhiều lần càng cảm thấy toàn thân thoải mái dễ chịu, cảm giác lâng lâng như đang bay bổng trên mây.

Lệnh Hồ Xung thở phào một cái, đứng dậy bất giác cười gượng, thầm nghĩ: Hôm đó ta hỏi Nhậm giáo chủ tại sao đã có Quỳ hoa bảo điển võ công tuyệt học trong tay mà còn luyện Hấp tinh đại pháp, lão không trả lời thẳng. Nguyên nhân trong chuyện này bây giờ ta đã hiểu ra. Thì ra luyện Hấp tinh đại pháp này thì không cách nào dừng lại được.

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác ngấm ngầm kinh hãi: Ta đã từng nghe sư nương nói qua chuyện người Miêu nuôi trùng độc, sau khi nuôi chúng dù biết chúng có hại cũng không bỏ được, nếu không thả trùng độc ra hại người thì trùng độc sẽ phản lại chủ, xem ra ta đừng làm giống như người Miêu nuôi trùng mới được.

Lệnh Hồ Xung ra khỏi sơn động, thấy tinh tú đầy trời, bốn bề tiếng côn trùng rên rỉ. Bỗng nghe có tiếng người đi trên núi, lúc này khoảng cách còn xa nhưng nội công của Lệnh Hồ Xung rất cao, tai rất thính nhạy. Tâm thần xúc động, chàng liền đi đến cởi dây buộc, vỗ nhẹ lên mông ngựa cho ngựa từ từ đi về phía thung lũng.

Lệnh Hồ Xung núp sau thân cây, một lúc sau chàng nghe tiếng bước chân trên đường núi đến gần. Người đến rất đông, dưới ánh sao, chàng thấy đoàn người đều mặc áo đen. Một người trong đó lưng thắt đai vàng, nhìn cách ăn mặc thì biết là người trong Ma giáo. Tổng cộng có hơn ba chục người vừa cao vừa thấp đều im lặng đi theo sau người đó.

Hồi 93: Giả say cản lối phái Hằng Sơn

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bọn họ đi về hướng Nam vào đất Mân, phải chăng có liên quan đến phái Hoa Sơn ta? Chẳng lẽ họ phụng mệnh Nhậm giáo chủ đi làm khó dễ sư phụ sư nương ta?

Lệnh Hồ Xung đợi đoàn người đi xa liền lén theo sau. Đi được vài dặm, đường núi bỗng nhiên dựng đứng, hai bên sườn núi rất cao, ở giữa là con đường rất hẹp, hai người không thể cùng đi ngang nhau. Hơn ba chục người sắp thành một hàng dài như con rắn, leo lên sơn đạo. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Nếu ta leo lên theo, bọn chúng ở trên cao chỉ cần một người quay đầu lại thì sẽ thấy ta ngay.

Lệnh Hồ Xung tạm thời ẩn mình vào bụi cỏ, đợi bọn họ lên hết sườn núi, đi xuống phía Nam thì mới đuổi theo. Nào ngờ đoàn người này lên đến sườn núi bỗng phân tán ra, ẩn vào sau những tảng đá. Trong khoảnh khắc, bọn họ nấp hết không còn thấy một bóng người.

Lệnh Hồ Xung giật mình, nghĩ: Bọn chúng đã thấy ta rồi. Nhưng chàng liền biết là không phải, thầm nghĩ: Bọn họ mai phục ở đây là muốn tập kích người lên núi. Phải rồi, địa thế ở đây tuyệt hay, đột ngột xuất hiện tấn công thì người lên núi khó mà thoát khỏi độc thủ. Bọn họ muốn phục kích ai? Chẳng lẽ sư phụ và sư nương sau khi về phương Bắc lại có chuyện gấp rút phải đi Phúc Kiến ư? Nếu không thì tại sao bọn này cũng cản đường ngay cả trong đêm hôm tăm tối? Đêm nay ta có thể tương hội cùng tiểu sư muội rồi ư?

Lệnh Hồ Xung vừa nghĩ đến Nhạc Linh San, khắp người nóng ran lên. Chàng nhè nhẹ từ trong bụi cỏ bò ra, len lén đi ra xa sơn đạo rồi mới từ giữa những tảng đá mà chạy nhanh xuống núi, quẹo qua mấy khúc quanh. Chàng ngoái đầu lại không thấy sườn núi cao, mới quay về sơn đạo chạy theo hướng Bắc.

Lệnh Hồ Xung vừa chạy thật nhanh vừa lắng tai định thần xem trước mặt có người đi đến không. Sau khi chạy hơn mười dặm, bỗng nghe có người trên sườn núi bên trái mắng chửi:

– Lệnh Hồ Xung là tên chẳng ra gì mà ngươi còn cố biện hộ cho hắn ư?

Trong đêm khuya giữa chốn hoang sơn, bỗng nhiên có người kêu họ tên mình ra rất rõ khiến Lệnh Hồ Xung không khỏi giật mình. Chàng chợt nghĩ chắc là sư phụ của bọn chúng.

Nhưng thanh âm rõ ràng là của phụ nữ, cũng không phải là sư nương, càng không phải là Nhạc Linh San. Tiếp theo lại nghe giọng nói của một người con gái, nhưng khoảng cách đã xa mà giọng nói lại nhỏ, nên nghe không rõ cô nói cái gì. Lệnh Hồ Xung nhìn lên sườn núi, chỉ thấy có ba bốn chục bóng đen. Lòng chàng hơi chua xót: Không biết là ai đang chửi mình? Nếu quả thật là người phái Hoa Sơn, tiểu sư muội nghe người khác chửi mình như vậy, không biết tiểu sư muội sẽ nói thế nào?

Lệnh Hồ Xung liền cúi thấp người chui vào lùm cây bên vệ đường, đi vòng qua bên sườn núi, khom người chạy nhanh đến phía sau một gốc cây to. Tiếng một phụ nữ nói:

– Sư bá, Lệnh Hồ sư huynh hành hiệp trượng nghĩa…

Lệnh Hồ Xung chỉ nghe được nửa câu thì trong đầu đã hiện lên gương mặt trái xoan thanh tú. Ngực cảm thấy nóng ran, chàng biết người nói là tiểu ni cô Nghi Lâm phái Hằng Sơn. Lệnh Hồ Xung biết những người này là người phái Hằng Sơn chứ không phải là phái Hoa Sơn nên thất vọng vô cùng. Giữa lúc tâm thần bị kích động, Nghi Lâm nói tiếp mấy câu nhưng chàng không nghe được nữa.

Giọng người phụ nữ lớn tuổi rất đanh thép lúc trước tức giận nói:

– Ngươi còn nhỏ tuổi sao cố chấp vậy? Chẳng lẽ lá thư của Nhạc tiên sinh chưởng môn phái Hoa Sơn là giả sao? Nhạc tiên sinh đã truyền thư khắp thiên hạ, trục xuất Lệnh Hồ Xung ra khỏi môn tường, nói là hắn cấu kết với người trong Ma giáo. Còn oan ức cho hắn lắm sao? Trước đây Lệnh Hồ Xung cứu ngươi, chắc hắn sẽ dựa vào chút ân tình nhỏ đó để ám toán hạ thủ chúng ta…

Nghi Lâm nói:

– Sư bá, đó không phải là chút ân tình nhỏ đâu. Lệnh Hồ sư huynh tình nguyện liều cả tính mạng của mình…

Giọng người phụ nữ lớn tuổi quát:

– Ngươi còn gọi hắn là Lệnh Hồ sư huynh ư? Hắn là tên ác tặc tâm địa hiểm độc, giả nhân giả nghĩa để gạt bọn con nít như ngươi. Người trên giang hồ tâm địa hiểm độc, quỷ quyệt muôn mặt đều có cả. Các ngươi còn nhỏ chưa hiểu biết nhiều thì dễ bị lừa lắm.

Nghi Lâm nói:

– Lời sư bá dạy bảo, đệ tử không dám không nghe, nhưng… nhưng… Lệnh Hồ…

Chữ “huynh” cô chưa nói ra miệng liền kìm lại được. Người phụ nữ lớn tuổi hỏi:

– Nhưng thế nào?

Dường như Nghi Lâm rất sợ hãi, cô không dám nói nữa.

Người phụ nữ lớn tuổi nói:

– Lần này Tả minh chủ phái Tung Sơn truyền tin tức, rất nhiều người Ma giáo vào đất Mân với mưu đồ cướp đoạt Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu. Tả minh chủ muốn Ngũ Nhạc kiếm phái cùng tìm cách ngăn cản để những kẻ yêu ma đen tối không đoạt được kiếm phổ. Võ công chúng đại tiến thì Ngũ Nhạc kiếm phái người người bị chết không có đất mà chôn. Con trai nhà họ Lâm ở Phúc Châu đã đầu nhập vào môn hạ của Nhạc tiên sinh, nếu phái Hoa Sơn được kiếm phổ dĩ nhiên là hay biết mấy. Chỉ e Ma giáo lắm quỷ kế lại thêm đồ đệ của phái Hoa Sơn là Lệnh Hồ Xung biết rõ nội tình, khiến chúng ta vô cùng bất lợi. Chưởng môn nhân đã giao phó trọng trách cho ta gánh vác, ra lệnh cho ta thống lãnh mọi người vào đất Mân. Chuyện này có liên quan đến vận mạng của hai phe chính tà, vạn lần không được khinh suất. Còn ba mươi dặm nữa thì đến chỗ giao giới Triết – Mân. Hôm nay mọi người chịu vất vả một chút, phải đi suốt đêm đến Trấp Bát phố hãy nghỉ ngơi. Chúng ta đón đầu, đợi lúc bọn người Ma giáo kéo đến thì chúng ta chiếm được tiện nghi, lấy khỏe đánh kẻ nhọc mệt. Nhưng mọi chuyện phải thật cẩn thận.

Chỉ nghe tiếng mấy chục phụ nữ đồng thanh dạ. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Vị sư thái này không phải là chưởng môn phái Hằng Sơn, Nghi Lâm sư muội lại gọi bà ta là sư bá, Hằng Sơn Tam Định, chắc là Định Tĩnh sư thái rồi. Bà ta nhận được thư của sư phụ, xem mình là kẻ phản đồ cũng không trách được. Bà ta muốn mau lên đón đầu mà không biết giáo chúng Ma giáo đã mai phục trước rồi. May mà ta phát giác, phải tìm cách báo cho bọn họ biết mới được.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Khi vào đất Mân phải đề phòng từng bước, bốn bề đều là địch nhân. Không chừng cả điếm tiểu nhị trong phạn điếm hay tên hầu trà trong quán trà đều là gian tế trong Ma giáo. Đừng nói bức tường có tai, dù ở trong bụi cỏ cũng có địch nhân ẩn núp. Từ giờ trở đi, mọi người không được nhắc tới Tịch tà kiếm phổ, ngay cả những cái tên Nhạc tiên sinh, Lệnh Hồ Xung, Đông Phương Bất Bại… cũng không được nhắc đến.

Bọn nữ đệ tử đồng thanh đáp dạ.

Lệnh Hồ Xung biết giáo chủ Ma giáo Đông Phương Bất Bại thần công vô địch. Lão tự xưng là Bất Bại, nhưng người trong chính giáo lúc nhắc đến lão thì thường gọi là Tất Bại, chuyển âm đi là có hàm ý đề cao chí khí của mình mà giảm bớt oai phong của địch. Lệnh Hồ Xung nghe bà ta đem tên của mình sắp ngang hàng với sư phụ và Đông Phương Bất Bại thì không khỏi cười khổ não, thầm nghĩ: Ta là tên vô danh tiểu tốt mà được tiền bối phái Hằng Sơn xem trọng như vậy, quả thật không dám nhận.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Chúng ta lên đường thôi.

Chúng đệ tử đồng thanh đáp dạ. Bảy tên nữ đệ tử từ trên sườn núi chạy nhanh xuống, một lúc sau lại có bảy người nữa chạy xuống theo. Khinh công của phái Hằng Sơn đặc biệt có thanh danh trong võ lâm, bảy người trước cách bảy người sau xa gần giống nhau, giống như kết thành trận pháp, tay áo rộng của mười bốn người bay bay phất phới đồng thời tiến về trước, từ xa nhìn rất đẹp mắt. Một lúc sau nữa lại có bảy người chạy xuống núi.

Không bao lâu, chúng đệ tử phái Hằng Sơn từng tốp đều động thân. Tất cả có sáu tốp, tốp sau cùng có tám người. Chắc là có thêm Định Tĩnh sư thái. Những nữ đệ tử này không phải là nữ ni mà là đệ tử tục gia. Trong bóng đêm, Lệnh Hồ Xung khó nhận ra Nghi Lâm ở trong tốp nào. Chàng thầm nghĩ: Tuy những sư tỉ sư muội phái Hằng Sơn mỗi người đều có tuyệt kỹ, nhưng lên tới sườn núi, hai bên núi cao mà đường hẹp, giáo chúng Ma giáo tập kích bất ngờ tất thương vong nặng nề.

Lệnh Hồ Xung liền bứt một tí cỏ vắt lấy nước, móc một ít bùn bôi lên mặt, lại bôi lên bộ râu quai nón. Chàng nghĩ dù là ban ngày Nghi Lâm chắc cũng khó nhận ra được liền vội vàng đi qua mé trái của sơn đạo, đề khí đuổi theo. Khinh công của Lệnh Hồ Xung vốn cũng không giỏi gì, nhưng khinh công cao hay thấp là hoàn toàn lệ thuộc vào nội lực mạnh hay yếu. Bây giờ nội lực của chàng đã mạnh thì tùy ý cất bước, một bước nhảy rất xa. Lệnh Hồ Xung đề khí chạy rất gấp, trong khoảnh khắc đã đuổi kịp đám người phái Hằng Sơn. Chàng sợ Định Tĩnh sư thái võ công cao cường nghe được tiếng bước chân của mình, nên chạy theo đường vòng đón đầu mọi người. Sau khi đến sơn đạo chàng chạy càng nhanh.

Không bao lâu, mặt trăng đã lên đến đỉnh đầu. Lệnh Hồ Xung chạy đến dưới chân núi, đứng lại lắng nghe, không một chút động tĩnh nào. Chàng thầm nghĩ: Nếu không phải ta tận mắt thấy giáo chúng Ma giáo mai phục ở sườn núi, làm sao mà nghĩ được nơi đây nguy cơ bốn bề. Thật là nguy hiểm.

Lệnh Hồ Xung từ từ đi lên sườn núi, đến chỗ đường hẹp giữa hai ngọn núi, cách chỗ mai phục của giáo chúng Ma giáo khoảng hơn một dặm, ngồi xuống thầm nghĩ: Người trong Ma giáo đã thấy ta rồi, nhưng bọn họ sợ động chà cá nhảy, sẽ không động thủ với ta đâu.

Chàng đợi một lúc, liền nằm xuống giữa đường, nghe có tiếng bước chân ở dưới núi truyền lên. Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ: Hay nhất là ta dụ được giáo chúng Ma giáo xuống động thủ với ta. Chỉ cần đánh nhau thì phái Hằng Sơn biết ngay.

Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền nói lớn:

– Bình sinh lão tử ghét nhất kẻ bắn lén đả thương người. Có bản lãnh sao không vung đao múa thương đánh nhau một trận mà lại ẩn núp lén lút hại người. Đó là hành vi của kẻ đê tiện vô liêm sỉ.

Lệnh Hồ Xung quay về hướng núi cao đề khí nói lớn, tuy thanh âm không vang lắm nhưng nội lực sung mãn truyền đi rất xa, đoán rằng bọn Ma giáo nhất định phải nghe được. Nào ngờ bọn Ma giáo im hơi lặng tiếng, không thèm để ý tới.

Không bao lâu bảy tên nữ đệ tử phái Hằng Sơn đi đầu đã đến trước Lệnh Hồ Xung. Dưới ánh trăng, bảy nữ đệ tử thấy một tên quan sải tay sải chân nằm ngủ dưới đất. Đường núi này chỉ đủ một người đi qua, hai bên đều là vách núi cao chót vót, nếu muốn đi lên thì phải bước qua người của Lệnh Hồ Xung mới được. Bọn nữ đệ tử chỉ cần nhảy một cái thì đã qua khỏi người hắn, nhưng vì nam nữ khác biệt, nhảy qua đầu người đàn ông thì không khỏi quá vô lễ.

Một nữ ni trung niên lớn tiếng nói:

– Cảm phiền quan gia cho mượn đường đi.

Lệnh Hồ Xung ú ớ hai tiếng rồi bỗng nhiên ngáy o o. Nữ ni đó pháp danh là Nghi Hòa nhưng tính tình lại không hòa hoãn chút nào. Cô thấy viên quan này nửa đêm khuya khoắt mà ngủ giữa đường đã là chuyện bê bối, lại còn lớn tiếng ngáy, chín mười phần là cố ý cản lối đi. Cô cố dằn nỗi tức giận nói:

– Nếu quan gia không nhường lối, thì bọn bần ni phải nhảy qua người quan gia đó.

Lệnh Hồ Xung ngáy o o, mơ màng nói:

– Trên đường này yêu ma quỷ quái nhiều lắm, đi qua không được đâu. Ơ ờ ờ, khổ hải vô biên, hồi… hồi đầu thị ngạn.

Nghi Hòa ngẩn người ra, nghe hắn nói mấy câu này dường như có ẩn ý. Một tên nữ ni kéo tay áo Nghi Hòa, cả bảy người đều lui mấy bước.

Một người nhỏ nhẹ nói:

– Sư tỷ, người này kỳ quặc quá.

Lại một người nói:

– Chỉ sợ hắn là gian nhân của Ma giáo, chực chờ ở đây để khiêu chiến với chúng ta.

Một người khác nói:

– Người trong Ma giáo quyết không đi làm quan binh cho triều đình, dù có cải trang cũng không cải trang như vậy.

Nghi Hòa nói:

– Mặc kệ hắn! Hắn không tránh ra thì chúng ta nhảy qua luôn.

Nghi Hòa bước lên quát:

– Quan gia không chịu nhường đường thì bọn bần ni phải đắc tội thôi.

Lệnh Hồ Xung vươn vai ngáp dài từ từ ngồi dậy. Chàng sợ bị Nghi Lâm nhận ra nên quay mặt về hướng sườn núi, lưng quay về phía bọn đệ tử phái Hằng Sơn. Lệnh Hồ Xung chống tay phải lên sườn núi, thân người loạng choạng giống tên say rượu, nói:

– Rượu ngon, rượu ngon thật!

Lúc này tốp đệ tử thứ hai phái Hằng Sơn đã đến, một tên nữ đệ tử tục gia hỏi:

– Nghi Hòa sư tỷ, người này ở đây làm gì vậy?

Nghi Hòa chau mày nói:

– Ai mà biết hắn làm gì?

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:

– Vừa rồi ta mổ một con chó ăn nên bụng phát trướng ra rồi uống quá nhiều rượu, chỉ e phải nôn ra mới hết. Trời ơi, không xong rồi, nôn thật rồi.

Lệnh Hồ Xung liền nôn ọe liên tục. Bọn nữ đệ tử chau mày bịt mũi dần dần lùi bước. Lệnh Hồ Xung ọe mấy tiếng mà không nôn ra cái gì cả. Mọi người còn đang thì thào bàn tán thì tốp thứ ba đã đến.

Nghe một giọng trong trẻo mềm dịu nói:

– Người này đã say rồi, thật tội nghiệp. Để người này nghỉ ngơi một chút rồi chúng ta đi cũng không muộn.

Lệnh Hồ Xung nghe giọng nói này, lòng chợt động, thầm nghĩ: Nghi Lâm tiểu sư muội có tấm lòng thật nhân hậu.

Nghi Hòa nói:

– Người này cố tình gây rối chứ không phải đàng hoàng gì.

Nói xong, Nghi Hòa bước lên trước quát:

– Tránh ra!

Nghi Hòa vung chưởng nhắm đánh vào vai phải của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung loạng choạng mấy cái rồi la lên:

– Trời ơi, đừng làm vậy mà!

Lệnh Hồ Xung chân thấp chân cao khập khiễng đi lên trước mấy bước, đường đi càng bế tắc, cả người chàng chắn ngang lối nhỏ chật hẹp, người phía sau trừ phi nhảy qua đầu, nếu không thì không cách nào vượt qua được.

Nghi Hòa cũng đi theo Lệnh Hồ Xung rồi quát:

– Tránh ra!

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ, dạ!

Rồi chàng lại đi thêm mấy bước. Lệnh Hồ Xung càng đi lên cao, thì đường núi càng chật hẹp hơn. Đột nhiên hắn lớn tiếng nói:

– Này, các bằng hữu mai phục ở phía trên để ý, người các vị đợi đang lên đây. Các vị nhào ra đánh thì không ai trốn khỏi được.

Bọn Nghi Hòa nghe vậy liền lùi lại. Một người nói:

– Nơi này địa thế cực kỳ nguy hiểm, nếu địch nhân ở đây mai phục đánh úp thì chúng ta khó mà chống đỡ nổi.

Nghi Hòa nói:

– Nếu có người mai phục, thì sao hắn còn gọi ra? Hư là thực mà thực là hư, phía trên nhất định không có người. Nếu chúng ta sợ mà thoái lui khiến cho địch nhân cười nhạo sao?

Hai nữ ni trung niên cùng nói:

– Đúng vậy, ba người chúng ta đi trước mở đường, bọn sư muội đi theo sau.

Ba người rút trường kiếm ra rồi chạy đến sau lưng Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung thở hổn hển nói:

– Cái sườn núi này dốc quá. Ôi, lão gia lớn tuổi rồi, đi không nổi nữa.

Một nữ ni quát:

– Này, quan gia tránh qua một bên để bọn ta đi lên trước có được không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Người xuất gia đừng nóng nảy như vậy, đi nhanh cũng đến nơi mà đi chậm cũng đến nơi. Hà hà, đến Quỷ môn quan thì đi chậm một chút vẫn hay hơn.

Nữ ni hỏi:

– Có phải quan gia nói lòng vòng để chửi người ta không?

Vèo một tiếng, trường kiếm của Nghi Hòa đã nhắm đâm vào Lệnh Hồ Xung. Bà chỉ muốn dọa cho tránh ra, lúc chiêu kiếm này đâm đến người Lệnh Hồ Xung liền dừng lại.

Hồi 94: Cứu quần ni, hào kiệt ra tay

Ngay lúc đó Lệnh Hồ Xung quay người lại thấy mũi kiếm chỉ vào ngực mình. Chàng liền lớn tiếng quát:

– Này! Ngươi… ngươi… ngươi làm cái gì vậy? Ta là mệnh quan của triều đình mà ngươi dám vô lễ như vậy sao? Người đâu, bắt tên nữ ni này lại cho ta.

Mấy nữ đệ tử trẻ không nhịn được, bật cười lên. Người này ở chốn hoang sơn dã lĩnh mà còn ra oai là quan lớn thì thật là buồn cười.

Một ni cô cười nói:

– Quan gia, bọn ta có chuyện gấp, phải lên đường ngay. Phiền quan gia tránh sang một bên.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Cái gì quan gia với không quan gia? Ta đường đường là một tham tướng, ngươi phải gọi ta là tướng quân mới phải.

Bảy tám nữ đệ tử cùng cười rồi gọi:

– Tướng quân đại nhân, xin tướng quân đại nhân tránh sang một bên cho.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả, ưỡn ngực ra chiều đắc ý. Đột nhiên chàng trượt chân té ngã. Bọn nữ đệ tử kinh hãi la hoảng:

– Cẩn thận!

Có hai người chụp được cánh tay Lệnh Hồ Xung kéo lại. Chàng trượt thêm một cái nữa mới đứng vững, liền chửi:

– Tổ mẹ nó… đường gì mà trơn quá. Lũ quan địa phương toàn là bọn ăn hại, không sai vài dân phu tu sửa con đường núi này cho tốt.

Lệnh Hồ Xung trượt chân hai cái như vậy, thân người đã đứng co ro vào chỗ lõm của vách núi.

Bọn nữ đệ tử triển khai khinh công, từng người vượt qua hắn. Có người cười nói:

– Quan địa phương nên phái tám người mang kiệu đến đây khiêng tướng quân đại nhân lên núi mới phải.

Có người nói:

– Tướng quân thì cưỡi ngựa chứ không ngồi kiệu.

Người trước nói:

– Vị tướng quân này khác quan thường, nếu cưỡi ngựa thì chỉ e bị té ngã ngay.

Lệnh Hồ Xung tức giận nói:

– Nói tầm bậy tầm bạ! Ta có bao giờ cưỡi ngựa mà bị té đâu? Tháng trước, một con hổ súc sinh đáng chết nhảy ra, ta mới từ trên ngựa lăn xuống, bị thương ở be sườn nhưng có nhằm nhò gì đâu.

Bọn nữ đệ tử cười to một trận rồi phóng lên núi nhanh như gió.

Lệnh Hồ Xung thấy một bóng người mảnh mai lướt qua, chính là Nghi Lâm. Chàng liền đi theo sau cô ta. Thế là bọn đệ tử đi phía sau bị cản lại. Tuy bước nặng nề, thở hồng hộc cứ ba bước thì trượt hết hai, vừa leo vừa trượt nhưng Lệnh Hồ Xung đi cũng khá nhanh. Một nữ đệ tử phía sau vừa cười vừa than:

– Vị tướng quân đại nhân này thật là… ôi, không biết một ngày bị té bao nhiêu lần.

Nghi Lâm quay đầu lại nói:

– Nghi Thanh sư tỉ, sư tỉ đừng thúc giục tướng quân, khiến tướng quân lật đật lại bị té ngã thật. Sườn núi này rất dốc, bị té xuống thì không phải chuyện đùa đâu.

Lệnh Hồ Xung thấy đôi mắt to của Nghi Lâm sáng lấp lánh giống như hai dòng suối biếc, một gương mặt nhỏ nhắn đẹp tuyệt trần dưới ánh trăng, sự tức giận của người thế tục trong lòng chàng tan biến hết. Lệnh Hồ Xung nhớ lại ngày chạy trốn sự truy kích của phái Thanh Thành, ở trong thành Hành Sơn cô ta ôm mình chạy đi, mình cũng từng nhìn ngắm cô. Bỗng nhiên tận đáy lòng chàng nổi lên một thứ tình cảm êm dịu. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Trên dốc núi cao này, có bọn cường thù đại địch mai phục muốn hại cô ta, ta sẽ không màng tính mạng để bảo vệ cho cô thật an toàn.

Nghi Lâm thấy cặp mắt Lệnh Hồ Xung đờ ra, dung mạo lại xấu xí. Cô nhìn hắn khẽ gật đầu, lộ ra nụ cười hiền hòa. Cô nói:

– Nghi Thanh sư tỉ, nếu vị tướng quân này trượt chân té, sư tỉ phải mau đỡ tướng quân dậy.

Nghi Thanh cười nói:

– Tướng quân nặng như vậy làm sao ta đỡ nổi.

Phái Hằng Sơn giới luật nghiêm minh, nữ đệ tử không được cười nói với người ngoài. Lệnh Hồ Xung giả bộ yếu đuối như vậy để chọc cười bọn họ, xung quanh không có trưởng bối, đi đường trong đêm tối nói cười mấy câu cũng không sao, lại tinh thần thêm phấn khởi.

Lệnh Hồ Xung tức giận nói:

– Bọn con nít các ngươi ăn nói không biết trọng khinh. Ta đường đường là tướng quân, năm xưa nơi chiến trường xông trận giết giặc, oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, nếu các ngươi nhìn thấy thì hì hì, phải phục sát đất. Đường núi nhỏ nhặt này không ăn thua gì với ta, sao ta té ngã được? Thật nói năng tùy tiện… Trời ơi, không xong rồi!

Chân Lệnh Hồ Xung dường như dẫm phải một cục đá nhỏ, thân người tuột dài xuống. Hai tay chàng quơ loạn xạ trên không, mấy tên đệ tử sau lưng đều la thất thanh.

Nghi Lâm vội quay người, đưa tay ra. Lệnh Hồ Xung nắm bàn tay cô, Nghi Lâm vận kình lực nâng lên. Tay trái Lệnh Hồ Xung chống đất mới đứng vững, khuôn mặt đầy vẻ bối rối. Mấy nữ đệ tử phía sau nhịn không được, cười khanh khách. Lệnh Hồ Xung nói:

– Đôi ủng của ta đi đường núi nặng như đeo đá, nếu mang đôi giày vải như các người thì làm sao mà té. Hơn nữa, ta chỉ trượt chứ không hề té ngã, có chi đâu mà cười?

Nghi Lâm buông tay chàng ra, nói:

– Đúng vậy, tướng quân mang ủng cưỡi ngựa, đi đường núi bất tiện lắm.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tuy bất tiện nhưng oai phong vô cùng. Nếu như thường dân các ngươi, chân cứ đi giày cỏ thì còn thể diện gì nữa.

Bọn nữ đệ tử nghe Lệnh Hồ Xung sợ mất thể diện thì càng cười ầm lên. Lúc này, mấy tốp người phía sau đã đến chân núi, tốp đi đầu tiên đã lên đến đỉnh.

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng hô hoán:

– Bọn giặc cỏ bắt gà trộm chó ở đây rất nhiều, nếu các người không đề phòng thì chúng sẽ đánh người mà cướp tài vật. Các ngươi xuất gia tuy không mang theo nhiều của cải nhưng đồng tiền hóa duyên vất vả mới có được thì cũng nên cẩn thận đừng để bị chúng cướp đoạt.

Nghi Thanh cười nói:

– Đại tướng quân của chúng ta đang ở đây thì bọn tiểu tặc đó không dám động đến Thái Tuế đâu.

Lệnh Hồ Xung la lên:

– Này này, cẩn thận đó! Dường như ta nhìn thấy ở trên cao có đầu người lấp ló.

Một nữ đệ tử nói:

– Tướng quân thật là ba hoa, chẳng lẽ chúng ta mà sợ mấy tên giặc cỏ nhãi nhép đó sao?

Bỗng nhiên nghe hai nữ đệ tử la lên:

– Chao ôi!

Rồi lăn lông lốc xuống. Hai nữ đệ tử khác vội chạy lại đỡ; mấy nữ đệ tử phía trước cũng la lên:

– Tặc tử phóng ám khí. Cẩn thận!

Tiếng la chưa dứt, lại có người lăn xuống. Nghi Hòa la lớn:

– Mọi người cúi xuống, đề phòng ám khí.

Mọi người đều nằm phục xuống. Lệnh Hồ Xung chửi:

– Giặc cỏ to gan. Các ngươi không biết bản tướng quân đang ở đây sao?

Nghi Lâm kéo tay chàng, nói:

– Mau phục xuống đi!

Bọn nữ đệ tử phía trước lấy ám khí ra, nào tụ tiễn, thiết bồ đề lần lượt ném về phía trước. Nhưng địch nhân ẩn phục sau các mô đá, không thấy một người nào; ám khí đều rơi vào khoảng không.

Định Tĩnh sư thái nghe phía trước có địch, vội phóng người lướt qua đỉnh đầu bọn nữ đệ tử đến sau lưng Lệnh Hồ Xung; vù một tiếng bà nhảy qua đầu của chàng.

Lệnh Hồ Xung la lên:

– Đại cát lợi bố, xui quá, xui quá!

Rồi chàng nhổ mấy bãi nước bọt, thấy tay áo rộng thùng thình của Định Tĩnh sư thái bay phấp phới, đang đánh lên phía trước, ám khí của địch nhân bắn ra vù vù, có cái cắm vào tay áo bà, có cái bị lực đạo của tay áo đánh bay đi.

Định Tĩnh sư thái nhô lên hụp xuống mấy lần thì đã đến đỉnh núi. Bà còn đứng chưa vững đã nghe tiếng gió rất mạnh. Một cây thục đồng côn đánh xuống đầu bà. Nghe tiếng kình phong bà biết binh khí này rất nặng, không dám đón tiếp mà nghiêng người từ bên cây côn chui qua, lại thấy hai cây liễn tử chùy một trên một dưới đồng thời phóng đến, thế rất mãnh liệt. Địch nhân mai phục ở cửa ải này là ba tên cao thủ. Định Tĩnh sư thái quát:

– Đồ vô liêm sỉ.

Bà xoay tay rút trường kiếm ra, một kiếm phá song thương, gạt ra hết. Thục đồng côn lại đánh quét ngang lưng bà. Trường kiếm của Định Tĩnh sư thái đáp trên cây côn rồi thừa thế chém xuống, cây liễn tử chùy đã phóng đến vai phải của bà. Chỉ nghe bọn nữ đệ tử ở lưng chừng sườn núi la thất thanh, tiếp theo nghe tiếng ầm ầm, thì ra địch nhân trên sườn núi đẩy những tảng đá to xuống.

Bọn đệ tử phái Hằng Sơn chen nhau trên con đường nhỏ, thụp lên thụp xuống để né những tảng đá to, trong khoảnh khắc có mấy người bị đá làm bị thương. Định Tĩnh sư thái lùi lại hai bước la lên:

– Tất cả rút lui, xuống chân núi rồi hãy tính.

Bà múa kiếm chặn phía sau để cản sự truy kích của địch nhân. Lại nghe tiếng ầm ầm không dứt, đá to trên đỉnh núi không ngừng ném xuống, tiếp theo mấy tiếng binh khí giao nhau ở phía dưới, thì ra dưới chân núi cũng có địch nhân mai phục. Đợi bọn Hằng Sơn lên núi hết, phía trên phát ra tiếng động thì bọn chúng xuất hiện để chặn đường lui của họ.

Ở phía dưới truyền tin lên:

– Sư bá, bọn tặc tử cản đường công phu rất lợi hại, không xông xuống được.

Tiếp theo lại có người truyền tin lên:

– Hai vị sư tỉ bị thương rồi.

Định Tĩnh sư thái tức giận, chạy như bay xuống núi, thấy hai tên hán tử tay cầm cương đao đang bức bách hai nữ đệ tử phải lùi ngược lại. Định Tĩnh sư thái quát lên một tiếng thật to, phóng nhanh trường kiếm về phía trước, bỗng nghe vù vù hai tiếng, hai quả bát giác chùy bằng thép nguyên chất có dây xích dài từ dưới tấn công lên trước mặt Định Tĩnh sư thái. Định Tĩnh sư thái phóng trường kiếm ra gạt, một trái chùy đè xuống trường kiếm còn quả kia đập vào đỉnh đầu bà. Định Tĩnh sư thái kinh hãi: Sức người này quá mạnh!

Nếu gặp chỗ đất bằng, Định Tĩnh sư thái cũng không để tâm đến loại võ công hung dữ như vậy, bà chỉ cần triển khai công phu tiểu xảo thì có thể tấn công sang bên, nhưng đường núi chật hẹp, ngoài cách đánh chính diện ra không còn cách nào khác nữa. Hai quả bát giác thiết chùy của địch nhân múa tít như hai cái vòng đen tấn công trước mặt nên Định Tĩnh sư thái không sao triển khai kiếm thuật tinh diệu, bà đành phải từng bước từng bước lên trên núi.

Bỗng nghe phía trên có tiếng la oai oái không ngớt, lại có mấy tên đệ tử bị trúng ám khí ngã xuống. Định Tĩnh sư thái định thần lại, bà cảm thấy võ công của bọn địch nhân ở trên đỉnh núi không mạnh, dễ đối phó, liền nhảy qua đầu bọn nữ đệ tử, tiếp theo bà vượt qua đầu Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng la:

– Trời ơi, làm cái trò gì mà nhảy như gà giữa ruộng vậy? Già rồi mà còn ham vui. Ngươi nhảy qua nhảy lại trên đầu thì làm sao ta đánh bạc cho được?

Định Tĩnh sư thái vội phá vòng vây địch, chẳng để ý đến những lời của chàng. Nghi Lâm từ tốn nói:

– Xin lỗi quan gia, sư bá của tiểu ni không cố ý nhảy đâu.

Lệnh Hồ Xung lầm bầm mắng:

– Ta đã nói rồi, ở đây có giặc cỏ mà các ngươi không tin.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Ta chỉ thấy bọn Ma giáo mai phục trên đỉnh núi, thì ra dưới chân núi cũng có bọn cao thủ mai phục, người phái Hằng Sơn tuy đông nhưng tụ tập trên sơn đạo nhỏ hẹp này thì làm sao triển khai thủ cước được, đại sự thật không may.

Định Tĩnh sư thái lên đến đỉnh núi bỗng thấy bóng một cây trượng thấp thoáng đánh xuống, thì ra địch nhân điều động những tay hảo thủ trấn ở đây. Định Tĩnh sư thái nghĩ: Nếu hôm nay ta không xông phá vòng vây này dẫn bọn đệ tử ra ngoài thì e rằng phải bỏ mạng nơi đây.

Bà né người tránh, tay phóng trường kiếm chênh chếch ra, thân người cách thiền trượng không quá mấy tấc, thoáng một cái, cả người và kiếm đã phóng về phía trước. Bà vội đâm vào gã đầu đà mập ú sử thiền trượng. Chiêu kiếm này có thể nói cực kỳ nguy hiểm, là cách đánh liều mạng hai bên cùng bị thương. Gã đầu đà không kịp đề phòng, không kịp thu thiền trượng lại, choang nhẹ một tiếng, trường kiếm đã đâm vào sườn gã.

Gã đầu đà vô cùng kinh hãi la thất thanh. Gã đánh ra một quyền, trường kiếm của Định Tĩnh sư thái bị gãy làm đôi, máu từ tay gã chảy ra bê bết.

Định Tĩnh sư thái gọi:

– Mau lên đây đưa kiếm cho ta!

Nghi Hòa phi thân lên, đưa ngang kiếm nói:

– Sư bá, kiếm đây.

Định Tĩnh sư thái quay người nhận lấy, một cây liễn tử thương đâm chênh chếch về phía Nghi Hòa, một cây liễn tử thương khác đâm về phía Định Tĩnh sư thái. Nghi Hòa đành vung kiếm lên gạt đỡ, người sử liễn tử thương tiến đến bức Nghi Hòa phải lùi xuống núi, trường kiếm không sao đưa đến tay Định Tĩnh sư thái.

Phía trên có ba người xông ra, hai người sử đao, một người sử một đôi phán quan bút vây quanh Định Tĩnh sư thái. Định Tĩnh sư thái múa tít song chưởng, sử Thiên trường chưởng pháp phái Hằng Sơn, xuyên qua xuyên lại giữa bốn cây binh khí. Định Tĩnh sư thái tuổi gần lục tuần, nhưng thân thủ mau lẹ không thua gì thời còn trẻ. Bốn tên hảo thủ Ma giáo hợp lực vây đánh cũng không làm gì được một lão ni tay không.

Nghi Lâm kinh hãi la khẽ:

– Trời ơi, phải làm sao đây? Phải làm sao đây?

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:

– Mấy tên giặc cỏ này đâu thành vấn đề, tránh đường, tránh đường, bổn tướng quân muốn đi lên bắt giặc cỏ.

Nghi Lâm vội nói:

– Đừng đi! Chúng không phải là giặc cỏ, toàn là người võ công cao cường, quan gia lên trên thì bọn chúng giết ngay.

Lệnh Hồ Xung vỗ ngực, hiên ngang nói:

– Giữa thanh thiên bạch nhật…

Chàng ngửng đầu lên, thấy trời chưa sáng, không thể nói “thanh thiên bạch nhật” được, nhưng cũng lờ đi, tiếp tục nói:

– Mấy tên giặc cỏ này chặn đường cướp của, ăn hiếp hạng nữ lưu, hừ hừ, chẳng lẽ bọn bay không sợ vương pháp sao?

Nghi Lâm nói:

– Bọn tiểu ni đâu phải hạng nữ lưu bình thường, địch nhân cũng không phải là giặc cỏ chặn đường cướp của…

Lệnh Hồ Xung khoa chân bước lên trước, chen người vào bọn nữ đệ tử mà đi. Bọn nữ đệ tử đành phải nép vào vách đá nhường cho chàng bước qua.

Lệnh Hồ Xung lên đến đỉnh núi, đưa tay rút yêu đao ra. Chàng rút một hồi lâu, giả bộ như rút không được bèn chửi:

– Tổ mẹ nó, cây đao này thật là bực mình, lúc người ta cần gấp thì lại rỉ sét. Đao của tướng quân bị rỉ sét sao bắt giặc được đây?

Nghi Hòa đang vung kiếm đấu kịch liệt với hai tên Ma giáo, liều mạng trấn giữ sơn đạo, nghe Lệnh Hồ Xung ở sau lưng lải nhải vì đao bị rỉ sét không rút ra được, bà vừa bực mình vừa buồn cười bèn la lên:

– Mau tránh ra, ở đây nguy hiểm lắm.

Bà ta la câu này, hơi bị phân tâm, cây liễn tử thương đâm soạt một tiếng suýt trúng vào vai bà.

Nghi Hòa lùi nửa bước, người đó lại vung thương phóng tới.

Lệnh Hồ Xung la lên:

– Phải rồi, phải rồi! Giặc cỏ to gan không thấy bổn tướng quân ở đây sao?

Chàng lạng người qua cản trước mặt Nghi Hòa. Gã hán tử sử liễn tử thương sửng sốt, lúc này trời đã hừng sáng, thấy sắc phục của chàng đúng là mệnh quan triều đình, gã liền dừng thương không đánh nữa, chỉ mũi thương vào ngực Lệnh Hồ Xung quát:

– Ngươi là ai? Vừa rồi ở dưới la lối om sòm có phải là cẩu quan ngươi không?

Lệnh Hồ Xung chửi:

– Tổ mẹ ngươi, ngươi dám gọi ta là cẩu quan hả? Ngươi mới là cẩu tặc, ở đây chặn đường cướp của. Bổn tướng quân đến đây mà các ngươi còn không cút đi thật coi trời bằng vung. Bổn tướng quân bắt các ngươi đem đến huyện nha môn, đánh cho mỗi tên năm mươi trượng vọt cứt té đái phải kêu cha gọi mẹ mới thỏa lòng.

Gã hán tử sử thương không muốn giết mệnh quan triều đình sợ phiền phức, liền chửi:

– Mẹ kiếp đồ thúi tha mau cút đi! Ở đây mà nói bậy nói bạ nữa thì lão tử sẽ đâm xuyên ba lỗ lên người cẩu quan ngươi đó.

Lệnh Hồ Xung thấy Định Tĩnh sư thái nhất thời chưa đến nỗi thất bại mà bọn Ma giáo cũng không ném ám khí, lăn đá nữa. Chàng lớn tiếng quát:

– Bọn giặc cỏ to gan, mau quỳ xuống khấu đầu trước bổn tướng quân. Bọn bay có mẹ già tám chục tuổi thì ta có thể giảm tội cho, nếu không thì, hừ hừ, ta sẽ đem cái đầu bọn các ngươi chém đứt từng cái, từng cái một…

Bọn đệ tử phái Hằng Sơn nghe nói vậy đều chau mày lắc đầu. Họ thầm nghĩ:

– Hắn bị điên rồi.

Nghi Hòa bước lên một bước, cầm kiếm hộ vệ, nếu địch nhân phóng thương đâm Lệnh Hồ Xung thì cô sẽ vung kiếm gạt đỡ.

Lệnh Hồ Xung lại cố rút yêu đao ra rồi chửi:

– Tổ mẹ nó, lúc lâm trận cấp bách thì thanh bảo đao tổ truyền này lại han rỉ. Hừ, bảo đao này của bổn tướng mà không bị sét rỉ thì bọn giặc cỏ các ngươi có mười cái đầu cũng bị chém rụng hết.

Gã hán tử sử thương cười hô hố, quát:

– Cút mau!

Gã vung thương nhắm đánh vào hông Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung giật mạnh một cái, cả đao lẫn vỏ đều bị giật xuống. Chàng la lên:

– Trời ơi!

Rồi lao người về trước, ngã nhào xuống. Nghi Hòa la lên:

– Cẩn thận!

Lúc Lệnh Hồ Xung trượt chân té, yêu đao đã phóng ra, đầu vỏ đao điểm trúng yếu huyệt trên lưng gã hán tử sử thương. Gã hán tử chưa hừ được một tiếng thì đã mềm nhũn ra, té lăn xuống đất.

Lệnh Hồ Xung ngã bịch xuống rồi lồm cồm bò dậy, hứ một tiếng rồi nói:

– A ha! Ngươi cũng bị té. Mọi người thấy đó, lão tử đâu có sao, chúng ta đánh tiếp đi.

Nghi Hòa túm lấy gã hán tử hất về phía sau, thầm nghĩ: Có một con tin trong tay, cục diện có lợi thế hơn một chút.

Ba người trong Ma giáo xông đến muốn cứu đồng môn. Lệnh Hồ Xung la lên:

– A ha, đâu có dễ như vậy, ta phải bắt hết bọn giặc cỏ các ngươi.

Lệnh Hồ Xung vung yêu đao lên, chỉ Đông đánh Tây, sử toàn những chiêu kiếm không theo chương pháp. Độc Cô cửu kiếm vốn không có chiêu số, cách chàng sử đao rất thoải mái, ưu nhã nhưng chậm chạp vụng về mà oai lực mạnh đến kỳ lạ. Yếu điểm của nó ở kiếm ý chứ không phải chiêu thức. Lệnh Hồ Xung không giỏi về điểm huyệt hay đả huyệt, lúc đang đấu kịch liệt khó mà nhận ra chuẩn xác huyệt đạo đối phương, nhưng kiếm pháp tinh diệu cộng với nội lực hùng hậu tuy không đâm trúng yếu điểm nhưng đâm nghiêng huyệt đạo thì địch nhân cũng chịu không nổi. Chàng cứ tiện tay đâm ra thì người đó té ngã.

Bỗng thấy bước chân Lệnh Hồ Xung loạng choạng xiêu vẹo, chàng cầm luôn cả yêu đao lẫn vỏ đao múa loạn xạ. Đột nhiên Lệnh Hồ Xung không dừng chân kịp, va vào một tên Ma giáo, soạt một tiếng, đầu vỏ đao đâm trúng bụng dưới của tên đó. Gã chỉ kịp thở dốc một hơi dài, nhũn ra té xuống. Lệnh Hồ Xung la lên:

– Trời ơi!

Rồi nhảy lùi ra sau, chuôi đao của chàng đánh trúng vào vai một người đứng phía sau, người đó liền té nhào xuống, lăn long lóc dưới đất. Lệnh Hồ Xung bị vấp lên người gã, chàng chửi:

– Tổ mẹ nó!

Lệnh Hồ Xung xông về phía trước, vỏ đao lại đâm trúng một tên Ma giáo sử đao. Tên này là một trong ba hảo thủ vây đánh Định Tĩnh sư thái, lưng gã bị đánh trúng, đơn đao rớt khỏi tay bay đi. Định Tĩnh sư thái thừa cơ vung chưởng, đánh trúng ngực gã. Gã thổ huyết, chắc khó sống nổi.

Lệnh Hồ Xung la lên:

– Cẩn thận, cẩn thận!

Chàng liền lui mấy bước, lưng va vào người sử phán quan bút. Gã này giơ bút lên nhắm điểm vào lưng Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung quờ quạng, xông về phía trước, vỏ đao của chàng lao đến thì lại có hai tên Ma giáo bị đâm ngã xuống đất. Gã sử phán quan bút vội lao nhanh về phía chàng, Lệnh Hồ Xung la to:

– Chết mẹ rồi!

Chàng liền co giò chạy, gã cũng vắt chân đuổi theo. Đột nhiên Lệnh Hồ Xung dừng bước khom người xuống, chuôi đao của chàng dưới nách lộ ra một nửa. Gã đó vạn lần không ngờ đối phương đang chạy nhanh đột nhiên dừng lại, tuy võ công gã cao cường nhưng biến chiêu không kịp, trong lúc chạy vội chỗ giữa ngực và bụng của gã bị chuôi đao Lệnh Hồ Xung thúc trúng. Mặt gã lộ ra vẻ rất sửng sốt, đối với chuyện vừa rồi dường như gã không tin là sự thật, người gã từ từ mềm ra rồi ngã xuống.

Lệnh Hồ Xung quay người thấy trận chiến đã ngưng lại. Bọn đệ tử phái Hằng Sơn đã lên đỉnh núi gần được phân nửa, đang đứng đối diện với bọn Ma giáo, những đệ tử còn lại thì đang tức tốc chạy lên. Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:

– Đồ giặc cỏ, thấy bổn tướng quân ở đây sao không mau quỳ xuống đầu hàng. Thật kỳ cục.

Lệnh Hồ Xung múa vỏ đao, quát một tiếng rồi xông vào đám Ma giáo. Bọn Ma giáo liền tấn công, đao thương giao nhau. Bọn đệ tử phái Hằng Sơn muốn lên tương trợ, nhưng thấy Lệnh Hồ Xung la to:

– Lợi hại, lợi hại! Bọn giặc cỏ này thật hung hãn.

Lệnh Hồ Xung chạy ra khỏi đám đông, chân bước nặng nề, lúc chạy thì quờ quạng, té bịch một cái. Chàng vung vỏ đao lên đánh trúng trán mình, muốn ngất đi. Nhưng mỗi lần vào ra trong đám Ma giáo thì hắn đã đâm mấy tên hảo thủ.

Song phương thấy Lệnh Hồ Xung như vậy, không khỏi trố mắt kinh ngạc.

Nghi Thanh và Nghi Hòa cùng chạy đến gọi:

– Tướng quân, tướng quân có sao không?

Lệnh Hồ Xung nhắm nghiền hai mắt, giả đò bất tỉnh.

Một lão già cầm đầu bọn Ma giáo thấy trong khoảnh khắc mà phe lão bị chết một người, còn mười một người bị viên quan điên khùng này đánh ngã. Vừa rồi lão thấy hắn xông trận, chính lão đã liên tục xuất chiêu cầm nã nhưng lại suýt bị vỏ đao của hắn điểm trúng tay. Cái mũi da của vỏ đao điểm không trúng huyệt đạo nhưng thế điểm rất lợi hại, phương vị cổ quái, bình sinh lão chưa bao giờ thấy qua. Võ công của người này cao cường không biết đến đâu mà lường. Lại thấy phe mình có năm người bị hắn điểm ngã đã bị phái Hằng Sơn bắt giữ, bất luận thế nào phe lão cũng không đối phó được. Lão liền lớn tiếng nói:

– Định Tĩnh sư thái, bọn đệ tử của ngươi bị trúng ám khí, có cần thuốc giải không?

Định Tĩnh sư thái thấy mấy tên đệ tử của bà bị trúng ám khí đang hôn mê bất tỉnh, máu nơi vết thương chảy ra đều màu đen. Bà biết ám khí có tẩm chất kịch độc, vừa nghe lão nói câu này liền biết rõ ý của lão, bèn nói:

– Đem thuốc giải đến để đổi lấy người.

Lão già gật đầu nói nhỏ mấy câu. Một tên Ma giáo cầm một bình sứ đi đến trước mặt Định Tĩnh sư thái cúi người đưa lên. Định Tĩnh sư thái nhận bình sứ, gằn giọng nói:

– Nếu thuốc giải có công hiệu, sẽ thả người.

Lão già nói:

– Định Tĩnh sư thái phái Hằng Sơn chắc không phải là người nói rồi nuốt lời.

Lão huơ tay một cái. Bọn Ma giáo khiêng những người bị thương và xác chết cùng đi theo hướng Tây xuống núi, trong khoảnh khắc tất cả đi hết không còn người nào.

Lệnh Hồ Xung từ từ tỉnh lại, hắn la lên:

– Đau quá!

Rồi liền đưa tay sờ lên trán, chỗ bị đánh sưng lên một cục. Hắn ngạc nhiên hỏi:

– Hừ, mấy tên giặc cỏ đâu rồi? Chúng đi đâu hết rồi?

Nghi Hòa cười khúc khích, nói:

– Vị tướng quân này thật kỳ lạ, cổ quái. Vừa rồi may mà tướng quân xông trận, đánh tán loạn, mấy tên giặc cỏ bị tướng quân hù dọa phải lui hết.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Đại tướng quân xuất mã, quả nhiên oai phong lẫm liệt. Bọn giặc cỏ cúp đuôi chạy tán loạn, úi chao…

Hồi 95: Trấp Bát Phố, phái Hằng Sơn lâm nạn

Lệnh Hồ Xung đưa tay sờ lên trán, rồi nhăn mặt ra chiều đau đớn vô cùng. Nghi Thanh nói:

– Tướng quân, tướng quân bị thương rồi chăng? Bọn bần ni có thuốc trị thương đây.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Không sao, không sao, bậc đại trượng phu da ngựa bọc thây, cũng là chuyện nhỏ…

Nghi Hòa trề môi cười nói:

– Chỉ sợ là da ngựa bọc thây thiệt đó.

Nghi Thanh đưa mắt liếc Nghi Hòa một cái rồi nói:

– Ngươi thích bới móc, bây giờ nói những thứ đó làm gì?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Người phương Bắc bọn ta nói là da ngựa bọc thây, còn người phương Nam các ngươi cách đọc có khác một chút.

Nghi Hòa quay người lại nói:

– Chúng ta cũng là người phương Bắc mà.

Định Tĩnh sư thái đưa thuốc giải cho người đệ tử bên cạnh và sai mấy cô đem đi cứu đồng môn bị trúng ám khí, rồi bà đi đến trước Lệnh Hồ Xung, cúi đầu thi lễ nói:

– Lão ni Định Tĩnh phái Hằng Sơn không dám thỉnh giáo cao danh quý tính của thiếu hiệp.

Lệnh Hồ Xung ớn lạnh xương sống, nghĩ: Vị tiền bối phái Hằng Sơn này quả có con mắt tinh đời, nhìn ra được tuổi ta còn nhỏ mà lại giả mạo làm tướng quân. Nghĩ vậy chàng liền chắp tay, cúi người cung kính đáp lễ:

– Lão sư thái có hỏi thì xin đáp: bổn tướng quân họ Ngô, quan danh là Thiên Đức. Thiên là trời mênh mông bát ngát, còn Đức là văn chương đạo đức. Bổn tướng được bổ làm chức tham tướng ở Tuyền Châu, bây giờ đang lên đường nhậm chức.

Định Tĩnh sư thái liệu đoán chàng không muốn tiết lộ mặt mũi, chưa chắc là tướng quân thật. Bà bèn nói:

– Hôm nay phái Hằng Sơn của bần ni gặp phải đại nạn, nhờ có tướng quân ra tay cứu giúp, đại ân đại đức này không biết làm sao báo đáp cho được. Võ công của tướng quân cao thâm, bần ni lại không biết được sư thừa môn phái của tướng quân, thật là khâm phục.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Lão sư thái quá khen, nhưng ta cũng nói thật. Võ công của bổn tướng có mấy cách đánh, trên đánh tuyết rơi phủ núi, dưới đánh cây già trốc rễ, giữa đánh lấy tim hắc hổ… Úi chao, úi chao!

Chàng vừa nói vừa múa tay chân, một quyền đánh ra dường như dùng sức quá mạnh, tự làm khớp xương mình đau buốt. Lúc chàng trộm nhìn Nghi Lâm, thấy cô ta giật mình, có ý rất quan tâm lo lắng, thầm nghĩ: Vị tiểu sư muội này có tấm lòng thật là nhân hậu. Nếu biết đúng là ta, thì không hiểu cô ta nghĩ sao?

Định Tĩnh sư thái dĩ nhiên biết rõ chàng giả bộ, bèn mỉm cười nói:

– Tướng quân là chân nhân bất lộ tướng, bần ni chỉ còn cách sớm chiều thắp nén thanh hương, chúc cho tướng quân phúc thể an khang, vạn sự như ý…

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đa tạ, đa tạ. Sư thái cầu xin đức Bồ Tát phù hộ cho bổn tướng thăng quan phát tài. Tiểu tướng cũng chúc lão sư thái và các vị tiểu sư thái thuận buồm xuôi gió, gặp hung hóa kiết, vạn sự thuận lợi. Ha ha, ha ha.

Trong lúc đang cười to, chàng cúi người sát đất hướng về phía Định Tĩnh sư thái rồi nghênh ngang mà đi. Lệnh Hồ Xung tuy là cuồng vọng làm ẩu, nhưng đã lâu ở trong Ngũ Nhạc kiếm phái, đối với vị tiền bối phái Hằng Sơn này không dám thất lễ.

Bọn đệ tử phái Hằng Sơn nhìn theo bước chân xiêu vẹo của chàng đi về phía Nam, rồi vây lấy Định Tĩnh sư thái hỏi không ngớt:

– Sư bá, người này lai lịch thế nào?

– Hắn khùng thật hay là giả bộ?

– Có phải võ công hắn cao cường hay là chẳng qua gặp hên, đánh bừa đánh ẩu mà trúng địch nhân?

– Đệ tử thấy hắn không giống tướng quân, dường như tuổi cũng không lớn có phải không?

Định Tĩnh sư thái thở dài, quay đầu nhìn các đệ tử bị trúng ám khí, thấy sau khi rịt thuốc giải, máu đen đã chuyển sang đỏ, mạch đập càng mạnh lên, đã thoát hiểm. Linh dược trị thương của phái Hằng Sơn có thể coi là hay nhất trong các phái, rồi tự trị thêm sau. Bà liền giải khai huyệt đạo cho năm tên giáo chúng Ma giáo, thả họ về. Bà nói:

– Tất cả đến dưới gốc cây bên đó ngồi nghỉ một chút đi.

Một mình bà ngồi tọa định ở bên tảng đá to, nhắm mắt trầm tư: Lúc người này xông vào trong trận Ma giáo, trưởng lão thủ lĩnh Ma giáo đã động thủ với hắn, nhưng hắn vẫn có thể trong khoảnh khắc điểm ngã năm người, lại không phải là công phu điểm huyệt. Hắn sử chiêu thức cũng không biểu hiện môn phái nào. Trong võ lâm đương thời, có người trẻ tuổi lợi hại như vậy, chắc là đệ tử của một vị cao nhân? Nhân vật như vậy là bạn chứ không phải là địch, thật là may mắn cho phái Hằng Sơn ta.

Bà trầm ngâm một chút rồi sai đệ tử lấy nghiên bút và một tấm giấy lụa mỏng để viết thư. Bà nói:

– Nghi Chất, đem chim bồ câu ra đây.

Nghi Chất dạ rồi bắt một con chim bồ câu từ lồng trúc đeo trên lưng ngựa ra. Định Tĩnh sư thái cuộn mảnh lụa viết thư thành một cuộn dài dài rất nhỏ, nhét vào trong ống trúc, đậy nắp lại, rồi đánh lửa đốt keo, dùng sợi dây cột vào chân trái của bồ câu. Bà khấn thầm, rồi tung chim bồ câu lên. Bồ câu vỗ cánh bay về phương Bắc, cao dần xa dần, trong khoảnh khắc chỉ còn là một điểm đen nhỏ xíu trên bầu trời.

Định Tĩnh sư thái từ lúc viết thư đến lúc thả bồ câu, mỗi cử chỉ đều rất chậm chạp, hoàn toàn khác hẳn với tình trạng khi bà tung hoành giữa vòng vây địch nhân. Bà ngẩng đầu lên, điểm đen nhỏ đã ẩn vào đám mây trắng từ lâu, nhưng bà vẫn nhìn đăm đăm về hướng Bắc. Bọn đệ tử không dám lên tiếng. Trong trận chiến vừa rồi, tuy có tướng quân đó xen vào đánh giúp, dường như rất hoạt kê, kỳ thực cục diện còn hung hiểm vô cùng. Mọi người đều tìm được cái sống trong cái chết.

Một lúc lâu sau, Định Tĩnh sư thái quay người lại vẫy gọi một tiểu cô nương mười lăm mười sáu tuổi đến. Thiếu nữ đó liền đứng dậy, đi đến trước bà, gọi khẽ:

– Sư phụ!

Định Tĩnh sư thái nhè nhẹ vuốt tóc cô hỏi:

– Quyên nhi, vừa rồi ngươi có sợ không?

Thiếu nữ đó gật đầu nói:

– Sợ lắm. May mà vị tướng quân dũng cảm vô cùng, đánh bọn ác nhân này bỏ chạy.

Định Tĩnh sư thái mỉm cười nói:

– Vị tướng quân này không phải dũng cảm vô cùng mà là võ công thâm hậu không lường được.

Thiếu nữ nói:

– Sư phụ, võ công của vị tướng quân này cao thâm lắm ư? Hài nhi thấy tướng quân đó xuất chiêu loạn xạ đến nỗi không cẩn thận để cả vỏ đao đánh vào trán mình. Tại sao đao của tướng quân đó bị rỉ không rút ra khỏi vỏ được?

Tần Quyên này là đệ tử của Định Tĩnh sư thái thu nhận ở quan môn, cô thông minh lanh lợi, rất được sư phụ yêu mến. Trong nữ đệ tử phái Hằng Sơn, ni cô xuất gia chiếm khoảng sáu phần, còn lại bốn phần là đệ tử tục gia, có một số người là phụ nữ trung niên, bà già năm sáu chục tuổi cũng có. Tần Quyên là người nhỏ tuổi nhất trong phái Hằng Sơn. Chúng đệ tử thấy Định Tĩnh sư thái nói chuyện với tiểu sư muội Tần Quyên, từ từ vây lại.

Nghi Hòa nói xen vào:

– Hắn xuất chiêu có loạn xạ đâu. Hắn giả bộ, đem võ công thượng thừa giấu đi không để lộ một chút dấu vết, cho nên mới càng cao minh. Sư bá, sư bá thấy vị tướng quân này lai lịch thế nào? Thuộc môn phái nào?

Định Tĩnh sư thái lắc đầu, nói:

– Võ công người này chỉ có thể hình dung qua bốn chữ “cao thâm khôn lường”, ngoài ra ta không biết gì hết.

Tần Quyên hỏi:

– Sư phụ, phong thư này sư phụ viết cho chưởng môn sư thúc có phải không? Có thể đến ngay được không?

Định Tĩnh sư thái nói:

– Con chim bồ câu này bay đến Bạch Y am ở Tô Môn là một trạm rồi đổi con chim khác. Từ Bạch Y am đến Diệu Tướng am ở Tế Nam lại đổi một chim khác nữa, đến Thanh Tịnh am ở Lao Hà Khẩu đổi một lần nữa. Bốn con chim bồ câu tiếp sức nhau mới đưa thư đến núi Hằng Sơn được.

Nghi Hòa nói:

– May mà chúng ta chưa bị tổn thương người nào, mấy sư tỉ sư muội trúng ám khí độc đã rịt thuốc, qua hai ngày thì chắc không còn lo ngại gì nữa. Những người bị đá làm tổn thương và trúng binh khí cũng không lo gì tính mạng.

Định Tĩnh sư thái ngẩng đầu suy tư, nên không nghe những lời Nghi Hòa nói. Bà thầm nghĩ: Phái Hằng Sơn lần này xuống phương Nam, hành tung vô cùng bí mật, ngày nghỉ đêm đi. Tại sao bọn Ma giáo lại biết được tin, lựa chỗ hiểm này phục kích?

Bà quay lại nói với các đệ tử:

– Địch nhân đã chạy xa rồi, chắc trong nhất thời không dám quay lại. Tất cả đã mệt lắm rồi, nên ngồi đây ăn một ít lương khô rồi đến bóng cây bên kia nằm ngủ.

Mọi người đáp dạ, người gác bếp nấu nước pha trà. Đoàn người ngủ mấy canh giờ, rồi dùng cơm trưa. Định Tĩnh sư thái thấy những đệ tử bị thương vẻ mặt đờ đẫn, bà nói:

– Hành tung của chúng ta đã bị lộ, từ nay về sau không cần đi đêm nữa. Người bị thương phải nghỉ ngơi dưỡng thương, tối nay chúng ta nghỉ ở Trấp Bát phố.

Từ trên sườn núi cao đi xuống, hơn ba canh giờ mới đến Trấp Bát phố. Đây là chỗ giao giới quan trọng giữa hai tỉnh Triết Giang và Phúc Kiến, lữ hành lên Tiên Hà Lĩnh phải qua chỗ này. Đoàn người vào trấn, trời còn chưa tối nhưng trong trấn không có một bóng người.

Nghi Hòa nói:

– Phong tục của Phúc Kiến thật là kỳ lạ, sớm như thế này mà đã ngủ hết rồi.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Chúng ta hãy tìm một khách điếm nghỉ ngơi.

Phái Hằng Sơn và các ni am trong võ lâm đều có mối quan hệ với nhau, nhưng Trấp Bát phố không có ni am, không thể đi ngủ nhờ nhà người, đành phải tìm đến khách điếm nghỉ ngơi. Điều bất tiện là người thế tục đối với ni cô có điều úy kỵ, cho rằng gặp ni cô là không may, thường rỗi hơi bàn tán. Nhưng các ni cô quen rồi, cũng không bao giờ chấp nhứt.

Các khách điếm đều đóng cửa. Trấp Bát phố nói lớn cũng không lớn, nói nhỏ cũng không nhỏ, cũng có một hai trăm nhà phố, nhưng nhìn lướt qua thì giống như một thị trấn chết. Mặt trời chưa tắt hết mà trên đường Trấp Bát phố giống như giữa đêm khuya. Đoàn người quẹo qua một con đường, thấy trước một khách điếm treo bảng hiệu bằng vải trắng viết bốn chữ to: “Tiên An khách điếm”, nhưng cửa đóng kín, yên lặng không một tiếng động. Nữ đệ tử tên gọi Trịnh Ngạc liền tiến lên trước gõ cửa. Trịnh Ngạc là đệ tử tục gia, gương mặt trái xoan tròn trịa lúc nào cũng tươi cười, cô lại khéo ăn nói nên rất được nhiều người yêu mến. Trên đường đi, nếu có chuyện cần giao tiếp với người, cô ta thường đứng ra đối đáp, để người ngoài khỏi phải vừa thấy ni cô thì sinh lòng úy kỵ.

Trịnh Ngạc gõ cửa mấy cái, ngừng lại một lúc lại gõ mấy cái. Một lúc lâu sau, vẫn không thấy có người mở cửa. Trịnh Ngạc gọi:

– Điếm đại gia thúc, xin mở cửa!

Giọng cô trong trẻo, lại là người luyện võ cho nên thanh âm có thể truyền đi rất xa, dù ở cách mấy cái sân cũng nghe thấy. Nhưng trong khách điếm vẫn không có người lên tiếng, tình hình hiển nhiên rất kỳ lạ.

Nghi Hòa đi đến trước, áp tai lên cánh cửa nghe. Trong điếm hoàn toàn không có động tĩnh gì. Cô quay lại nói:

– Sư bá, trong điếm không có người.

Định Tĩnh sư thái cảm thấy có điều khác thường, thấy tấm bảng hiệu của điếm rất mới, cánh cửa cũng lau chùi sạch sẽ. Bà nói:

– Đi nữa xem, trong trấn này chắc không chỉ có một khách điếm này.

Đoàn người đi qua mấy chục căn nhà, đến Nam An khách điếm. Trịnh Ngạc chạy lên trước đập cửa, cũng giống như trước, vẫn không có người trả lời. Trịnh Ngạc nói:

– Nghi Hòa sư tỉ, chúng ta vào xem sao.

Nghi Hòa đáp:

– Cũng được.

Hai người vượt tường vào trong. Trịnh Ngạc lớn tiếng hỏi:

– Trong điếm có ai không?

Không nghe có người đáp lại. Hai người rút kiếm ra khỏi vỏ, đi song song vào khách đường, đến sau bếp, chuồng ngựa, các phòng các nơi xem xét một lượt, quả nhiên không có một ai. Bàn ghế sạch trơn không chút bụi bám, ngay cả trà trong bình ở trên bàn cũng còn hơi ấm. Trịnh Ngạc mở cửa lớn để Định Tĩnh sư thái và mọi người vào. Cô đem tình hình thuật lại, mọi người đều lẩm bẩm cho là kỳ lạ.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Các ngươi bảy người một tốp, phân ra đi các nơi trong trấn xem sao, hỏi thăm xem vì nguyên nhân gì. Bảy người không được rời nhau, hễ có tung tích của địch thì thổi còi làm hiệu.

Chúng đệ tử đồng thanh đáp dạ rồi vội phân ra đi. Khách đường chỉ còn lại một mình Định Tĩnh sư thái. Lúc đầu, bà còn nghe tiếng bước chân của các đệ tử, lúc sau thì tịch mịch không còn một tiếng động. Trấp Bát phố yên tĩnh khiến cho người ta cảm thấy rợn tóc gáy. Một thị trấn to nhường ấy, yên tĩnh không có tiếng người mà ngay cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không, thật là bất bình thường.

Định Tĩnh sư thái bỗng nhiên lo lắng vô cùng. Bà thầm nghĩ: Phải chăng Ma giáo bày bố cạm bẫy âm độc? Bọn nữ đệ tử rất ít kinh nghiệm trên giang hồ chắc trúng quỷ kế bị Ma giáo bắt hết rồi.

Bà đi đến cửa, thấy góc Đông Bắc có bóng người thoáng qua, ở đầu mé Tây có mấy người nhảy vào trong nhà người ta, đều là đệ tử của bổn phái. Bà hơi yên tâm, lại qua một lúc sau, bọn đệ tử từ các nơi về bẩm báo, đều nói trấn này không có một bóng người.

Nghi Hòa nói:

– Đừng nói là không có người mà ngay cả gà chó cũng không có một con.

Nghi Thanh nói:

– Xem ra mọi người trên trấn đi không lâu, nhiều nhà rương hòm còn mở ra, chắc là lấy đồ có giá trị đem đi.

Định Tĩnh sư thái gật đầu hỏi:

– Các ngươi nghĩ thế nào?

Nghi Hòa nói:

– Đệ tử đoán rằng bọn yêu nhân Ma giáo đã đuổi dân trong trấn đi, không bao lâu sẽ kéo đến rất đông để đánh mình.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Đúng vậy, lần này yêu nhân Ma giáo muốn minh thương giao chiến với chúng ta. Vậy thì càng hay. Các ngươi có sợ không?

Chúng đệ tử cùng đáp:

– Hàng ma diệt tà là thiên chức của đệ tử Phật môn chúng ta.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Chúng ta ở trong khách điếm này nghỉ ngơi, làm cơm ăn no một bữa rồi hãy hay. Trước tiên thử xem trong nước, gạo, rau có độc dược không?

Lúc phái Hằng Sơn ăn cơm, không nói chuyện, ai cũng lắng tai nghe động tĩnh ở bên ngoài. Tốp thứ nhất ăn cơm xong, đi ra ngoài canh giữ, đổi cho những đệ tử kia vào ăn cơm.

Bỗng nhiên Nghi Thanh nghĩ ra một kế, bèn nói:

– Sư bá, chúng ta đi vào các nhà thắp đèn lên, làm cho địch nhân không biết chỗ ở của chúng ta.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Kế nghi binh này hay lắm. Bảy người các ngươi đi đốt đèn đi.

Từ cửa lớn bà nhìn ra trên đường phía Tây, trong cửa sổ nhiều nhà, chỗ nào cũng có ánh đèn sáng lên, một lúc sau trong cửa sổ nhiều quán điếm ở phía Đông cũng có ánh đèn. Trên đường lớn chỗ nào cũng có ánh đèn nhưng vẫn không thấy động tĩnh gì. Định Tĩnh sư thái ngẩng đầu lên thấy vành trăng lưỡi liềm giữa trời. Bà khấn thầm:

– Cầu xin Bồ Tát phù hộ để các đệ tử phái Hằng Sơn lần này được bình yên quay về. Đệ tử Định Tĩnh nếu trở về được núi Hằng Sơn thì từ nay đèn hương lễ Phật, không động đến đao kiếm nữa.

Năm xưa Định Tĩnh sư thái khét tiếng trên giang hồ, không ít sự tích oanh liệt. Nhưng trận chiến trên Tiên Hà Lĩnh tối hôm qua, cục diện vô cùng hung hiểm, bây giờ nghĩ lại bà còn sợ hãi. Bà lo lắng là vì thống lĩnh nhiều đệ tử, nếu chỉ một mình bà, thì tình cảnh có đáng sợ đến gấp mười lần, bà cũng không ngại. Bà lại thầm cầu nguyện:

– Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, nếu lần này mọi người phái Hằng Sơn của đệ tử bị tổn thất, xin để cho một mình đệ tử Định Tĩnh gánh chịu tai họa. Các báo ứng sát nghiệp, chỉ để một mình đệ tử nhận lãnh.

Ngay lúc này bỗng nghe có tiếng phụ nữ ở phía đông bắc truyền lại:

– Cứu tôi với, cứu tôi với!

Trong đêm tối bốn bề tĩnh lặng, tiếng la thất thanh càng thê thảm. Định Tĩnh sư thái kinh hãi, nghe rõ tiếng la không phải là đệ tử của bổn môn. Bà chăm chú nhìn về phía Đông Bắc, không thấy động tĩnh gì, liền thấy tốp bảy người của Nghi Thanh chạy về hướng đó để quan sát phía trước. Một lúc lâu sau, không thấy bọn Nghi Thanh trở về bẩm báo. Nghi Hòa nói:

– Sư bá, đệ tử và sáu vị sư muội qua xem sao.

Định Tĩnh gật đầu. Nghi Hòa thống lĩnh sáu người, gọi một tiếng rồi chạy thẳng đến chỗ đó.

Trong bóng đêm kiếm quang lấp loáng, không bao lâu thì mất hút.

Một lúc lâu sau, bỗng nghe tiếng phụ nữ lại la thất thanh:

– Giết người! Cứu mạng! Cứu tôi với!

Bọn đệ tử phái Hằng Sơn ngơ ngác nhìn nhau. Không biết bên đó xảy ra chuyện gì, tại sao hai tốp Nghi Thanh và Nghi Hòa đi lâu như vậy mà vẫn chưa về bẩm báo. Nếu nói gặp phải địch nhân tại sao không có tiếng binh khí đánh nhau. Nghe từng tiếng gọi cứu mạng của người phụ nữ, mọi người nhìn Định Tĩnh sư thái, đợi bà ra lệnh phái người đi cứu.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Vu Tẩu, ngươi dẫn sáu tên sư muội đi trước, bất luận thấy chuyện gì, tức khắc phái người về báo.

Vu Tẩu là một phụ nữ trung niên khoảng bốn chục tuổi, nguyên là bộc phụ hầu hạ Định Nhàn sư thái trong Bạch Vân am ở Hằng Sơn, về sau Định Nhàn sư thái thấy bà ta có lòng trung thành, có tài năng bèn nhận làm đệ tử, lần này được theo Định Tĩnh sư thái là lần đầu tiên phiêu bạt giang hồ. Vu Tẩu cúi người đáp dạ rồi dẫn sáu sư muội, nhắm đi về hướng Đông Bắc.

Nhưng sau khi bảy người đi, vẫn giống như đá chìm dưới đáy biển, không một ai trở lại. Định Tĩnh sư thái càng lúc càng sợ, đoán rằng địch nhân bày bố cạm bẫy để dụ bọn đệ tử, lần lượt bắt giữ. Lại đợi thêm một lúc nữa, vẫn không có động tĩnh gì, tiếng kêu cứu mạng cũng im bặt. Định Tĩnh sư thái nói:

– Nghi Chất, Nghi Chân, các ngươi ở lại đây, chăm sóc sư tỉ, sư muội bị thương, bất luận thấy cái gì cổ quái cũng không được rời khỏi khách điếm, để khỏi trúng kế điệu hổ li sơn của chúng.

Nghi Chất và Nghi Chân cúi người đáp dạ. Định Tĩnh sư thái nói với ba tên đệ tử trẻ là Trịnh Ngạc, Nghi Lâm và Tần Quyên:

– Các ngươi đi theo ta.

Bà rút trường kiếm ra, chạy về hướng Đông Bắc. Sắp đến gần, thấy một dãy phòng tối thui không có một bóng đèn, cũng không có động tĩnh gì, Định Tĩnh sư thái lớn tiếng quát:

– Yêu nhân ma giáo, có ngon thì ra đây quyết một trận tử chiến, cứ lén lút giả thần làm quỷ thì đâu phải anh hùng hảo hán.

Bà dừng một lúc, trong phòng cũng không có người đáp lại. Bà liền phóng chân đá lên cửa lớn nơi đang đứng. Rắc rắc hai tiếng vang lên, then cửa bị gãy, cánh cửa bật vào trong. Trong phòng tối đen như mực, cũng không biết là có người hay không.

Định Tĩnh sư thái không dám mạo hiểm xông vào. Bà gọi:

– Nghi Hòa, Nghi Thanh, Vu Tẩu, các ngươi có nghe tiếng ta gọi không?

Tiếng của bà gọi truyền đi xa dần, một lúc sau từ nơi xa vọng lại. Tiếng vọng dừng hẳn, chỉ còn lại một bầu không khí tĩnh mịch.

Định Tĩnh sư thái quay lại nói:

– Ba ngươi đi theo sát ta, không được rời xa.

Bà cầm kiếm chạy một vòng quanh dãy phòng này, không thấy gì khác lạ. Bà tung mình lên nóc nhà, chăm chú nhìn bốn phía. Không có một chút gió thổi, cây cối đứng yên, ánh trăng mát lạnh tỏa sáng trên mái ngói, phong cảnh giống như ngày trước ở Hằng Sơn bà đi đạo dưới ánh trăng lúc đêm khuya. Nhưng ở Hằng Sơn là một bầu không khí thanh tĩnh, còn bây giờ bà lại đang đứng vào giữa kỳ bí và sát khí vô cùng đáng sợ.

Định Tĩnh sư thái là một người võ công cao cường, địch nhân vẫn không chịu lộ diện thì bà cũng đành chịu bó tay chẳng biết làm thế nào.

Bà vừa sốt ruột vừa hối hận:

– Ta mà biết trước quỷ kế thâm mưu của yêu nhân thì không nên phái bọn đệ tử phân ra từng tốp đến…

Đột nhiên bà phát lãnh, hai tay vỗ một cái bốp, nhảy xuống khỏi nóc nhà, triển khai khinh công chạy nhanh về Nam An khách điếm, gọi:

– Nghi Chất, Nghi Chân, có chuyện gì không?

Trong khách điếm không có tiếng trả lời.

Bà xông vào trong, không thấy một bóng người, mấy tên đệ tử nằm trên giường dưỡng thương cũng không biết biến đi đâu mất.

Giờ phút này Định Tĩnh sư thái có đạo hạnh đến đâu cũng không sao trấn tĩnh được, mũi kiếm ở dưới ánh đèn không ngừng rung động, lấp loáng ánh thanh quang. Trường kiếm cầm trong tay kìm không được, run lên. Mấy chục tên nữ đệ tử đột nhiên mất tích một cách vô duyên vô cớ, rốt cuộc là thế nào? Làm sao bây giờ? Ngay lúc này bà cảm thấy lưỡi ráo môi khô, gân cốt toàn thân đều nhũn ra không sao di động được.

Nhưng cảm giác ấy chỉ xảy ra trong khoảnh khắc. Bà hít một hơi chân khí vào huyệt Đan điền, gia tâm vận chuyển nội lực, tinh thần liền phấn chấn. Bà chạy nhanh một vòng các phòng các xá, đình, sân một lượt, không thấy có gì đáng ngại. Bà gọi:

– Ngạc nhi, Quyên nhi, các ngươi lại đây.

Nhưng trong bóng đêm, chỉ nghe tiếng của mình gọi. Trịnh Ngạc, Tần Quyên và Nghi Lâm cả ba người đều không đáp lại. Định Tĩnh sư thái la thầm:

– Nguy rồi!

Bà vội xông ra cửa gọi:

– Ngạc nhi, Quyên nhi, Nghi Lâm, các ngươi ở đâu?

Ánh trăng ngoài cửa mờ nhạt, ba tiểu đồ nhi cũng không thấy tông tích đâu.

Gặp đại biến như vậy, Định Tĩnh sư thái không kinh hãi mà ngược lại còn tức giận. Bà nhảy vọt lên nóc nhà, lớn tiếng quát:

– Bọn yêu nhân Ma giáo, có giỏi thì ra đây quyết một trận tử chiến, giả bộ làm thần làm quỷ thì còn ra thể thống gì nữa?

Bà hô hoán mấy tiếng, bốn bề yên lặng tuyệt không một tiếng động. Bà luôn miệng quát tháo om sòm. Trong tòa thị trấn Trấp Bát phố to như vậy dường như chỉ còn lại một mình bà. Đang lúc không biết phải làm sao, bỗng nhiên bà nhanh trí bèn lớn tiếng nói:

– Bọn yêu nhân Ma giáo nghe đây. Các ngươi không dám chường mặt ra thì điều đó chứng tỏ rằng Đông Phương Bất Bại là đồ hèn hạ khiếp nhược vô liêm sỉ, không dám phái người ra đánh chính diện với ta. Đông Phương Bất Bại cái gì, chẳng qua là Đông Phương Tất Bại mà thôi. Đông Phương Tất Bại, ngươi có dám ra đây diện kiến với lão ni không? Đông Phương Tất Bại, Đông Phương Tất Bại, ta đoán là ngươi không dám chường mặt ra đâu.

Bà biết trong Ma giáo từ trên xuống dưới, đối với giáo chủ phụng thờ như đấng thần linh, nếu có người sỉ nhục tên của giáo chủ, giáo đồ nghe thấy mà không xông ra liều mạng để bảo vệ danh dự cho giáo chủ là phạm tội đại ác. Quả nhiên sau khi bà kêu mấy tiếng Đông Phương Tất Bại, bỗng thấy trong mấy gian phòng xông ra bảy người, khẽ vọt lên nóc nhà không phát ra tiếng động, vây bà vào giữa.

Địch nhân vừa xuất hiện thì Định Tĩnh sư thái mừng thầm. Bà nghĩ: Bọn yêu ma quỷ quái các người rốt cuộc bị ta chửi mà chường mặt ra. Ta thà bị loạn đao phân thây, còn hơn là chỉ nói với bóng ma.

Nhưng bảy người đứng vây quanh bà lặng thinh không nói lời nào. Định Tĩnh sư thái tức giận nói:

– Những tên đệ tử của ta đâu? Các ngươi đem bọn họ đi đâu rồi?

Bảy người đó vẫn lặng yên không lên tiếng.

Định Tĩnh sư thái thấy hai người đứng ở phía Tây khoảng năm chục tuổi, cơ thịt trên mặt như cương thi, không lộ ra vẻ hỉ nộ nào. Bà thở mạnh quát:

– Được, xem kiếm đây!

Bà vung kiếm lên nhằm đâm vào ngực người đứng ở góc Tây Bắc.

Hồi 96: Bọn Tung Sơn thừa nước đục thả câu

Định Tĩnh sư thái biết mình đang ở trong trùng vây thì chiêu kiếm này không tài nào phóng đến hắn được, chẳng qua chỉ là một hư chiêu thôi. Người kia cũng là một cao thủ tuyệt luân, hắn đoán được chiêu kiếm này chỉ là hư chiêu, nên không thèm né tránh. Chiêu kiếm này Định Tĩnh sư thái vốn đã thu về nhưng bà thấy hắn không màng đến, nên nửa chừng đột ngột biến chiêu, vận lực vào cánh tay phóng nhanh đi. Hai người đứng bên cạnh vội chụp lấy hai vai của bà.

Định Tĩnh sư thái né người qua, chuyển động nhanh như gió, xoay mình nhằm tấn công người rất cao bên phía Đông. Người đó trượt đi nửa bước, soạt một tiếng, đã rút binh khí ra cầm tay. Đó là tấm thiết bài rất nặng. Gã vung thiết bài lên nhằm gạt trường kiếm của bà. Trường kiếm của Định Tĩnh sư thái đã chuyển thành vòng tròn, vèo một tiếng, nhằm phóng đến bên trái của lão già. Lão già đưa tay trái ra toan chụp trường kiếm của bà. Dưới ánh trăng thấp thoáng, bà thấy dường như lão có mang bao tay màu đen. Bà đoán rằng lưỡi kiếm không chém vào được nên lão mới dám tay không mà đoạt trường kiếm.

Trận chiến chuyển vòng tròn. Định Tĩnh sư thái đã giao thủ với năm người trong bảy tên địch, cảm thấy năm người này đều là những cao thủ. Nếu bà đơn đả độc đấu hoặc lấy một chọi hai, thì bà quyết chẳng sợ gì, còn có thể nắm được bảy tám phần thắng. Nhưng bảy người này cùng tấn công, chỉ cần có chút sơ hở thì người khác liền đánh vào ngay, đẩy bà vào thế chỉ còn chống đỡ, khó mà phản kích được.

Càng đấu bà càng ngạc nhiên: Những nhân vật có tên tuổi trong Ma giáo, tám chín phần ta đều có nghe biết. Võ công lộ số của bọn chúng, binh khí sử dụng, Ngũ Nhạc kiếm phái ta không phải không biết. Nhưng bảy người này lai lịch thế nào, ta hoàn toàn đoán không ra. Không ngờ mấy năm gần đây thế lực của Ma giáo lại lớn mạnh, có nhiều cao thủ thân phận bí ẩn đến như vậy.

Cuộc đấu kéo dài đến sáu bảy chục chiêu, Định Tĩnh sư thái gạt trái đỡ phải, miệng thở hồng hộc. Bà liếc mắt nhìn, bỗng thấy trên mái nhà đối diện có hơn mười bóng người. Những người này hiển nhiên đã ẩn phục ở đây từ lâu, đến bây giờ mới đột nhiên xuất hiện. Bà la thầm: Thôi rồi, thôi rồi, trước mắt bảy người này ta đã đối phó không xong. Bây giờ lại có thêm những địch nhân ngấm ngầm mai phục bên cạnh, hôm nay Định Tĩnh này khó mà trốn thoát. Đằng nào ta cũng chết, để lọt vào tay địch nhân, phải chịu sỉ nhục, chi bằng tự tử sớm một chút thì hơn. Cái bọc thúi này chỉ là ngôi nhà tạm thời của ta, hủy nó đi thì đâu có gì mà tiếc. Nhưng mấy chục tên đệ tử ta thống lĩnh cũng bị uổng mạng theo, Định Tĩnh này thật là tủi hổ với liệt vị tiền nhân của phái Hằng Sơn.

Bà phóng ba kiếm veo véo, bức địch nhân lùi lại hai bước, bỗng xoay trường kiếm lại tự đâm vào ngực mình.

Mũi kiếm vừa đến ngực, bỗng choang một tiếng, cánh tay bà chấn động, trường kiếm bị hất ra.

Một hán tử tay cầm kiếm đứng cạnh bà nói lớn:

– Định Tĩnh sư thái chớ có làm vậy. Có bằng hữu phái Tung Sơn đến viện trợ đây.

Trường kiếm của bà bị lão đánh gạt ra.

Nghe tiếng binh khí chạm nhau chát chúa, mười mấy người mai phục trong bóng tối tới tấp nhảy ra đấu với bảy người bọn Ma giáo. Định Tĩnh sư thái thoát chết, tinh thần phấn chấn, liền chống kiếm tiến lên truy sát. Nhưng thấy những người phái Tung Sơn lấy hai mà địch một, bảy người Ma giáo lập tức xuống hạ phong. Ít không địch lại nhiều, họ huýt lên một tiếng ra hiệu rút lui, chạy về phía Nam.

Định Tĩnh sư thái cầm kiếm đuổi theo, bỗng nghe tiếng gió rít lên trước mặt, trên mái nhà mười mấy thứ ám khí đồng thời phát ra. Bà vung trường kiếm lên, ngưng thần lắng nghe từng thứ ám khí bay đến. Trong đêm tối, chỉ có ánh trăng sao lờ mờ, trường kiếm múa tít, những tiếng leng keng vang lên liên tục, mười mấy thứ ám khí bị bà đánh rớt hết. Có điều bà bị ám khí ngăn cản, bọn Ma giáo bảy người đã chạy xa rồi. Người ở phía sau la lên:

– Vạn hoa kiếm pháp của phái Hằng Sơn tinh diệu tuyệt luân, hôm nay mới được mở rộng tầm mắt.

Định Tĩnh sư thái tra kiếm vào vỏ, từ từ quay người lại. Trong phút chốc từ chỗ động vào chỗ tĩnh, một người cường kiện trong võ lâm còn đang vung kiếm kịch đấu bỗng biến thành một lão ni đắc đạo hiền hòa nhân từ. Bà chắp tay hành lễ, nói:

– Đa tạ Chung sư huynh đã giải vây.

Bà nhận ra hán tử trung niên này là sư đệ của Tả chưởng môn phái Tung Sơn, họ Chung tên Trấn, ngoại hiệu là Cửu khúc kiếm. Ngoại hiệu đó không phải là do lão sử dụng binh khí là thanh trường kiếm cong, mà là tán dương kiếm pháp của lão biến ảo vô cùng, ít ai bì kịp. Năm kia, đại hội Ngũ Nhạc kiếm phái trên ngọn Nhật Quán núi Thái Sơn, Định Tĩnh sư thái đã có duyên gặp lão. Trong những nhân vật còn lại của phái Tung Sơn, bà biết được ba bốn người.

Chung Trấn cung tay đáp lễ, mỉm cười nói:

– Định Tĩnh sư thái một mình địch lại Thất tinh sứ giả của Ma giáo, quả nhiên kiếm pháp cao siêu. Tại hạ rất khâm phục, khâm phục!

Định Tĩnh sư thái thầm nghĩ: Thì ra bảy cái đồ thối tha đó gọi là cái gì Thất tinh sứ giả.

Bà không muốn để người ta biết mình cô lậu quả văn nên không hỏi nữa, lòng nghĩ sau này từ từ thăm dò cũng chưa muộn, đã biết danh hiệu của bọn chúng, thì dễ hỏi ra thôi.

Những người còn lại của phái Tung Sơn cũng đến hành lễ. Có hai người là sư đệ của Chung Trấn, còn lại là hàng đệ tử. Định Tĩnh sư thái đáp lễ xong, rồi nói:

– Nói ra thật xấu hổ, lần này phái Hằng Sơn của lão ni đến Phúc Kiến, dẫn theo mấy chục tên đệ tử, đột nhiên chúng mất tích ở trấn này. Chung sư huynh, các vị đến Trấp Bát phố này hồi nào vậy? Có chút manh mối gì để giúp lão ni điều tra không?

Bà nghĩ đến những người của phái Tung Sơn đã ẩn phục ở đây từ lâu, muốn đợi bà thế cùng lực kiệt vung kiếm toan tự tử mới ra tay giúp đỡ. Rõ ràng là họ muốn bà lộ chỗ dở ra trước thì oai phong của bọn chúng càng mạnh hơn. Lòng bà rất không vui. Nhưng mấy chục tên nữ đệ tử đột nhiên mất tích thật là chuyện vô cùng trọng đại, không thể không hỏi thăm bọn chúng. Nếu là chuyện cá nhân của bà thì thà chết chứ không mở miệng cầu xin những người này. Bà hỏi Chung Trấn câu này là đã nhịn nhục lắm rồi.

Chung Trấn nói:

– Yêu nhân Ma giáo quỷ kế đa đoan, chúng biết rõ sư thái võ công trác tuyệt, đấu bằng lực khó mà thủ thắng, nên ngấm ngầm sắp đặt âm mưu, bắt tất cả đệ tử của quý phái đem đi. Sư thái không cần phải sốt ruột, bọn Ma giáo tuy to gan đến đâu cũng không dám lập tức gia hại các vị sư muội của quý phái liền đâu. Chúng ta sẽ thương lượng kế sách cứu người.

Lão nói xong xòe tay trái ra mời bà xuống nhà. Định Tĩnh sư thái gật đầu, nhảy xuống đất. Bọn Chung Trấn cũng nhảy theo sau.

Chung Trấn đi về hướng Tây, lão nói:

– Tại hạ xin dẫn đường.

Sau khi đi được mấy chục dặm thì quẹo qua hướng Bắc, đến trước Tiên An khách điếm. Lão đẩy cửa vào, rồi nói:

– Sư thái, chúng ta vào đây thương nghị.

Hai người sư đệ của lão một người tên là Tiểu thần tiên Đặng Bá Công, còn người kia tên là Cẩm mao sư Cao Khắc Tân. Ba người dẫn Định Tĩnh sư thái đi vào một gian phòng rộng lớn, đốt nến lên rồi phân ra chủ khách mà ngồi. Bọn đệ tử dâng trà lên rồi lùi ra. Cao Khắc Tân đóng cửa phòng lại.

Chung Trấn nói:

– Bọn tại hạ ngưỡng mộ kiếm pháp của sư thái thuộc hàng cao thủ đệ nhất phái Hằng Sơn đã lâu…

Định Tĩnh sư thái lắc đầu nói:

– Không phải đâu, kiếm pháp của lão ni không bằng chưởng môn sư muội, cũng không bằng Định Dật sư muội.

Chung Trấn mỉm cười nói:

– Sư thái không nên quá khiêm. Hai vị sư đệ của tại hạ ngưỡng mộ anh danh đã lâu, nên muốn xem cho biết kiếm pháp thần diệu của sư thái, vì vậy vừa rồi mới cứu viện chậm trễ, thực ra không có ác ý. Bây giờ tại hạ có lời xin lỗi, xin sư thái miễn trách.

Định Tĩnh sư thái đã hơi nguôi giận. Thấy ba người đứng cung tay hành lễ, bà cũng đứng dậy chắp tay đáp lễ nói:

– Chung sư huynh quá lời.

Chung Trấn đợi Định Tĩnh sư thái ngồi xuống rồi nói:

– Sau khi Ngũ Nhạc kiếm phái ta kết minh, như cây liền cành thì không có chuyện phân bỉ thử. Có điều mấy năm gần đây mọi người ít khi gặp mặt, có nhiều chuyện lại không liên thủ với nhau mà làm, khiến cho Ma giáo bành trướng ngày càng lớn mạnh.

Định Tĩnh sư thái ừm một tiếng, thầm nghĩ: Lão này lại nói chuyện vòng vo để làm gì?

Chung Trấn lại nói tiếp:

– Tả sư ca thường nói: Hợp lại là thế mạnh còn phân ra thì lực yếu. Nếu Ngũ Nhạc kiếm phái ta có thể hợp lại làm một thì Ma giáo không phải địch thủ của chúng ta; Thiếu Lâm, Võ Đang những danh môn đại phái đã lừng danh từ lâu thanh thế cũng không bằng chúng ta. Tả sư ca lão nhân gia có tâm nguyện muốn đem Ngũ Nhạc kiếm phái phân tán quy về làm một Ngũ Nhạc phái. Lúc đó chúng ta người đông thế mạnh, đồng tâm hợp lực, có thể đứng đầu các phái trong võ lâm, không biết ý sư thái thế nào?

Định Tĩnh sư thái giương cặp lông mày lên. Bà nói:

– Bần ni ở trong phái Hằng Sơn là người nhàn hạ, không để ý đến mọi việc. Đại sự mà Chung sư huynh mới đề cập nên đi nói với chưởng môn sư muội của lão ni mới phải. Việc cấp thiết nhất là phải tìm cách cứu bọn nữ đệ tử của tệ phái mất tích. Còn những chuyện khác sẽ thủng thẳng tính sau.

Chung Trấn mỉm cười nói:

– Sư thái cứ yên tâm. Đã đến tay phái Tung Sơn thì chuyện của phái Hằng Sơn cũng là chuyện của phái Tung Sơn, không thể để cho các vị sư muội của quý phái chịu khuất phục.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Vậy thì xin đa tạ. Nhưng không biết Chung huynh có cao kiến gì mà nói chắc như vậy?

Chung Trấn mỉm cười nói:

– Sư thái là một cao thủ lừng danh của phái Hằng Sơn chẳng lẽ còn sợ mấy tên yêu nhân Ma giáo? Hơn nữa bọn sư huynh đệ của tại hạ và mấy tên sư điệt sẽ tận tâm tận lực, nếu không điều tra được mấy tên lưu manh này trong Ma giáo, hì hì, thì còn làm cái trò gì nữa?

Định Tĩnh sư thái nghe nói vòng vo, bà vẫn không điều tra được cái gì. Bà vừa sốt ruột vừa tức giận, đứng dậy nói:

– Chung sư huynh đã nói vậy tất nhiên là hay biết mấy. Bây giờ chúng ta đi thôi.

Chung Trấn nói:

– Sư thái đi đâu?

Định Tĩnh sư thái nói:

– Đi cứu người.

Chung Trấn hỏi:

– Đi đâu để cứu người?

Nghe câu hỏi này, Định Tĩnh sư thái bất giác cứng họng không trả lời được. Ngừng lại một lúc, bà nói:

– Bọn đệ tử của lão ni mất tích không lâu, thì đương nhiên là ở gần đây, càng chần chờ thì càng khó tìm.

Chung Trấn nói:

– Theo tại hạ biết, có một sào huyệt là chỗ ở của bọn Ma giáo cách Trấp Bát phố không xa. Các sư muội của quý phái chắc đã bị giam ở chỗ đó, theo tại hạ…

Định Tĩnh sư thái vội hỏi:

– Sào huyệt đó ở đâu? Chúng ta đi cứu người đi.

Chung Trấn thủng thẳng nói:

– Bọn Ma giáo đã chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta mạo nhiên đến trước, nếu có sự sai lầm, không chừng người chưa cứu được mà bọn ta lại mắc bẫy chúng rồi. Theo ý kiến của tại hạ hãy bàn định kế hoạch rồi đi cứu người cho vẹn mọi bề.

Định Tĩnh sư thái không biết làm sao, đành ngồi lại xuống ghế. Bà nói:

– Lão ni xin nghe cao kiến của Chung sư huynh.

Chung Trấn nói:

– Lần này tại hạ phụng mệnh chưởng môn sư huynh đến Phúc Kiến là có một chuyện lớn muốn thương lượng với sư thái. Chuyện này có liên quan đến vận khí võ lâm Trung Nguyên, liên quan đến sự thịnh suy của Ngũ Nhạc kiếm phái ta, thật là chuyện trọng đại. Đợi đại sự thương định xong, thì chuyện cứu người chỉ cần vung tay một cái là xong.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Không biết đại sự đó là chuyện gì?

Chung Trấn nói:

– Thì là chuyện mà vừa rồi tại hạ đề cập, đem Ngũ Nhạc kiếm phái hợp lại làm một.

Định Tĩnh sư thái tức giận nói:

– Chính miệng Chung huynh nói ra thì lão ni khỏi phải nói. Đây không phải thừa cơ người gặp nguy khốn thì là cái gì?

Chung Trấn nói:

– Quý phái là phái Hằng Sơn, tệ phái là phái Tung Sơn. Việc của quý phái tuy tệ phái quan tâm, nhưng là chuyện liều mạng trên đầu đao mũi kiếm. Dù tại hạ tình nguyện vì sư thái mà tận lực nhưng không biết ý của các vị sư đệ, sư điệt thế nào. Nếu hai phái hợp lại làm một thì thành ra chuyện của phái mình, không dễ đùn đẩy trách nhiệm cho ai.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Theo như Chung huynh nói, nếu phái Hằng Sơn lão ni không hợp nhất với quý phái, phái Tung Sơn sẽ tụ thủ bàng quan đối với chuyện đệ tử Hằng Sơn mất tích phải không?

Chung Trấn nói:

– Sao lại nói vậy. Tại hạ phụng mệnh chưởng môn sư huynh đến đây thương nghị với sư thái đại sự này. Còn chuyện khác chưa được mệnh lệnh của chưởng môn sư huynh, nên tại hạ không dám hành sự bừa. Mong sư thái đừng trách.

Định Tĩnh sư thái cả giận, sắc mặt trắng xanh. Bà lạnh lùng nói:

– Chuyện hai phái hợp lại, bần ni không làm được. Dù bần ni có ưng thuận mà chưởng môn sư muội của bần ni không ưng thuận cũng vô ích thôi.

Chung Trấn đến gần, nói khẽ:

– Chỉ cần sư thái ưng thuận rồi thì đến lúc đó Định Nhàn sư thái cũng phải ưng thuận theo. Từ trước đến nay chưởng môn của một môn một phái, tám chín phần là do đại đệ tử chấp chưởng. Luận về đức hạnh, võ công, nhập môn, đáng lẽ sư thái chấp chưởng môn hộ phái Hằng Sơn mới phải…

Định Tĩnh sư thái vung chưởng trái lên, bốp một tiếng, đánh gãy một góc bàn. Bà gằn giọng nói:

– Chung huynh muốn li gián tỉ muội lão ni sao? Sư muội của lão ni làm chưởng môn là do lão ni năn nỉ với tiên sư rồi hết sức khuyên Định Nhàn sư muội chấp chưởng. Nếu Định Tĩnh này muốn làm chưởng môn thì đã làm từ năm đó rồi, đâu cần người khác đến xúi bẩy?

Chung Trấn thở dài nói:

– Lời Tả sư ca nói quả thật không sai.

Định Tĩnh sư thái hỏi:

– Tả chưởng môn nói cái gì?

Chung Trấn nói:

– Trước khi tại hạ xuống miền Nam, Tả sư ca nói: “Định Tĩnh sư thái phái Hằng Sơn nhân phẩm rất cao, võ công cũng rất tinh thông, xưa nay mọi người ai ai cũng rất khâm phục, nhưng đáng tiếc không hiểu biết đại thể”. Tại hạ hỏi: “Sao sư ca nói vậy?” Tả sư ca nói: “Ta biết con người của Định Tĩnh sư thái. Tính cách của sư thái thanh cao, không màng hư danh, lại không thích tham dự vào chuyện trần tục. Sư đệ đi nói với sư thái chuyện hợp nhất ngũ phái, nhất định sẽ đụng phải một cái đinh to, có điều chuyện này quá trọng đại, chúng ta biết vậy nhưng không thể không làm. Nếu Định Tĩnh sư thái chỉ muốn hưởng phúc thanh nhàn một mình, không màng đến sự sinh tử an nguy của mấy ngàn người trong chính giáo, đó là kiếp nạn khó thoát trong võ lâm, cũng không biết phải làm sao”.

Định Tĩnh sư thái đứng dậy lạnh lùng nói:

– Chung huynh nói toàn những lời hoa ngôn xảo ngữ trước mặt lão ni cũng vô ích thôi. Phái Tung Sơn của Chung huynh hành động như vậy, là đã thừa cơ hội người ta gặp nguy hiểm mà đẩy người ta như đẩy đá xuống giếng.

Chung Trấn nói:

– Sư thái nói sai rồi. Nếu sư thái thấy được trách nhiệm, bổn phận đối với đồng đạo võ lâm mà chịu cùng gánh vác trọng trách này, hợp các phái Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn, Hoa Sơn lại làm một thì phái Tung Sơn của tại hạ nhất định cử sư thái làm chưởng môn Ngũ Nhạc phái. Có thể thấy Tả sư ca của tại hạ rất công bằng, tuyệt không có chút gì riêng tư…

Định Tĩnh sư thái liên tục xua tay nói lớn:

– Chung huynh còn nói nữa chỉ tổ làm bẩn tai lão ni.

Bà vung song chưởng lên, rồi vận chưởng lực, ầm một tiếng hai cánh cửa gỗ bay đi. Thân người bà chuyển động, thoáng một cái đã ra khỏi Tiên An khách điếm.

Bà vừa ra khỏi cửa, một luồng gió thổi vào mặt. Mặt bà đang nóng bừng liền cảm thấy mát mẻ. Bà thầm nghĩ: Theo lời lão họ Chung nói, sào huyệt của Ma giáo ở gần Trấp Bát phố, bọn nữ đệ tử của bổn phái đều bị giam giữ ở đó. Không biết lời nói này có chính xác không?

Bà ngập ngừng, không có kế sách gì nữa, lủi thủi đi một mình. Lúc này trăng sắp lặn, bóng người bà đổ dài in trên đường lát đá xanh.

Sau khi đi được vài trượng, bà dừng bước thầm nghĩ: Sức một mình ta không thể cứu được chúng đệ tử. Xưa nay bậc anh hùng hào kiệt phải biết lúc nào đánh lúc nào khuất. Sao ta không tạm thời ưng thuận lời Chung Trấn? Đợi cứu được bọn đệ tử rồi ta liền tự tử để tạ tội, làm cho hắn mất bằng chứng vì tử vô đối chứng? Dù hắn có sỉ nhục ta nuốt lời thì Định Tĩnh ta vẫn vui lòng nhận lấy sự ô danh.

Bà thở dài quay người lại, từ từ đi về Tiên An khách điếm. Bỗng nghe bên kia đường có người lớn tiếng quát:

– Tổ mẹ nó, bổn tướng quân muốn uống rượu nghỉ ngơi. Tổ mẹ nó, điếm tiểu nhị sao không mau mở cửa?

Đúng là thanh âm của tham tướng Ngô Thiên Đức mà tối hôm qua bà vừa gặp ở Tiên Hà Lĩnh. Định Tĩnh sư thái vừa nghe khác nào như người chết đuối vớ được khúc gỗ lớn.

Lệnh Hồ Xung ở trên Tiên Hà Lĩnh đã giúp phái Hằng Sơn thoát nguy khốn, lòng rất lấy làm đắc ý, liền đi nhanh đến trấn Trấp Bát phố. Lúc này phạn điếm vừa mở cửa. Chàng đi vào trong điếm, lớn tiếng quát:

– Đem rượu ra đây!

Điếm tiểu nhị thấy một vị tướng quân, không dám chậm trễ, rót rượu làm cơm, giết gà cắt thịt, cung kính cẩn thận khoản đãi tướng quân ăn một bữa. Lệnh Hồ Xung uống hơi ngà ngà say, nghĩ thầm: Lần này bọn Ma giáo bị thất bại, nhất định không cam tâm, mười phần sẽ đi sinh sự với phái Hằng Sơn. Định Tĩnh sư thái là người hữu dũng vô mưu, không phải là đối thủ của Ma giáo, ta phải ngấm ngầm theo dõi bảo vệ bọn họ mới được.

Sau khi tính tiền cơm rượu, Lệnh Hồ Xung đến Tiên An khách điếm mướn phòng ngủ. Chàng ngủ đến chiều mới tỉnh dậy rửa mặt. Bỗng nghe trên đường có mấy người lớn tiếng la hét om sòm:

– Bọn cường nhân ở trại Hoàng Phong núi Loạn Thạch đêm nay sẽ đến càn quét Trấp Bát phố, gặp người thì giết người, thấy của thì cướp. Mọi người hãy mau chạy trốn đi.

Trong khoảnh khắc tiếng kêu la vang dậy khắp nơi. Điếm tiểu nhị đập cửa phòng của Lệnh Hồ Xung đùng đùng kêu lớn:

– Quan gia, quan gia, có chuyện nguy rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tổ mẹ nó, có chuyện đại sự gì mà nguy?

Điếm tiểu nhị nói:

– Quan gia, quan gia, bọn đại vương ở trại Hoàng Phong núi Loạn Thạch tối nay sẽ đến càn quét, nhà nào cũng chạy trốn hết rồi.

Lệnh Hồ Xung mở cửa phòng ngoác miệng chửi:

– Bà mẹ nó, giữa thanh thiên bạch nhật, càn khôn xán lạn, làm gì có trộm cướp? Bổn tướng quân ở đây, bọn chúng dám làm càn không?

Điếm tiểu nhị nhăn mặt nói:

– Những đại vương đó, hung… hung ác lắm, bọn… bọn chúng lại không biết tướng quân… tướng quân đang ở đây.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngươi hãy đi nói với bọn chúng là ta đang ở đây.

Điếm tiểu nhị nói:

– Tiểu… tiểu nhân vạn lần không dám đi nói, chưa nói xong thì đã bị cường nhân chém rơi cái đầu quả dưa này rồi.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Trại Hoàng Phong núi Loạn Thạch ở đâu?

Điếm tiểu nhị đáp:

– Núi Loạn Thạch nằm ở đâu tiểu nhân cũng chưa nghe nói nhưng biết cường nhân của trại Hoàng Phong vô cùng độc ác, hai ngày trước chúng đã càn quét Phúc Châu cách Trấp Bát phố ba mươi dặm về phía Đông, giết đi sáu bảy chục người, đốt hơn một trăm gian nhà. Tướng quân… tuy tướng quân lão nhân gia võ nghệ cao cường, nhưng song quyền khó địch tứ thủ. Trong trại không tính đại vương gia, nghe nói chỉ riêng đám lâu la cũng có hơn ba trăm tên.

Lệnh Hồ Xung chửi:

– Tổ mẹ nó, ba trăm tên thì sao nào? Bổn tướng quân xông vào giữa chiến trận với thiên binh vạn mã, cũng bảy tám lần vào bảy tám lần ra.

Điếm tiểu nhị nói:

– Dạ, dạ!

Nói xong gã quay người chạy nhanh đi.

Bên ngoài thành nhốn nháo cả lên, tiếng kêu con gọi mẹ vang khắp bốn phía. Tiếng địa phương Triết Mân, Lệnh Hồ Xung không hiểu gì cả, chàng đoán rằng đều là những tiếng nào là “Mẹ của A Mao ơi, bà có đem cái chăn không?” nào là “Đại Bảo, Tiểu Bảo chạy mau, bọn cướp đến rồi”. Lệnh Hồ Xung đi ra ngoài cửa thấy có mấy chục người lưng đeo túi, tay xách rương chạy về hướng Nam.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Đây là nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Triết Mân, tướng quân Hàng Châu và Phúc Kiến đều không quản nổi, đến nỗi cường tặc tác loạn làm hại muôn dân. Đại tướng quân Ngô Thiên Đức, tham tướng phủ Tuyền Châu ta đã gặp phải giặc loạn thì không thể khoanh tay làm ngơ, đem đầu bọn cường tặc chém hết cũng là một việc công đức. Đây gọi là ăn lộc vua phải vùa việc nước. Tổ mẹ nó, có gì đâu mà không được, ha ha!

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây không kìm được, hắn bật cười gọi:

– Điếm tiểu nhị, đem rượu ra đây! Bổn tướng muốn uống rượu cho say rồi đi giết giặc.

Nhưng lúc này trong điếm chủ khách, chưởng quỹ, vợ cả, vợ hai, vợ ba của chưởng quỹ và điếm tiểu nhị, đầu bếp đều trốn sạch, chỉ sợ chạy chậm một bước thì gặp phải cường nhân. Lệnh Hồ Xung gọi một lúc nhưng không nghe ai lên tiếng.

Chàng không còn cách nào khác đành phải đi xuống bếp lấy rượu, ngồi trên đại đường rót rượu uống một mình. Nghe tiếng gà kêu, chó sủa, ngựa hí ỏm tỏi, chàng đoán rằng người trong trấn đem súc vật ra đi. Một lúc sau tiếng ồn ào của súc vật dần dần giảm bớt, chàng uống thêm ba bát rượu nữa, tất cả những thanh âm kinh hoàng sợ hãi đều im bặt hết. Bốn bề lặng yên. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Lần này bọn cường nhân trại Hoàng Phong gặp vận xui rồi, không hiểu sao chúng lại để lộ tin tức, lúc đến trấn thì còn cái gì nữa mà cướp.

Cái trấn rộng lớn như vậy chỉ còn lại một mình Lệnh Hồ Xung cũng là chuyện lạ, bình sinh chưa bao giờ gặp. Trong lúc mọi âm thanh đều lắng xuống, bỗng nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, bốn kỵ mã từ hướng Nam phi nhanh đến.

Hồi 97: Ngô tướng quân kịp thời cứu viện

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Đại vương gia đến sao chỉ có mấy người?

Bốn con ngựa phóng trên đường lớn, vó ngựa nện xuống những phiến đá xanh bật lên những tiếng côm cốp. Một người lớn tiếng nói:

– Bọn dê béo ở Trấp Bát phố nghe đây, đại vương trại Hoàng Phong núi Loạn Thạch có lệnh: nam, nữ, già, trẻ đều ra hết ngoài cửa. Ở ngoài cửa thì không bị giết, người nào không ra thì bị chém đầu.

Miệng gã vừa quát tháo vừa vọt ngựa chạy trên đường. Lệnh Hồ Xung nhìn từ khe cửa ra ngoài, chỉ thấy bóng kỵ mã vừa vọt ngang qua, thầm nghĩ: Không xong rồi! Xem ra bốn kỵ mã này là người có võ công cao cường. Bọn tiểu lâu la trong đám giặc cướp thì làm sao lại có được phong độ như vậy?

Lệnh Hồ Xung đẩy cửa ra, đi hơn mười dặm, không một bóng người. Chàng nhìn thấy một ngôi miếu Thổ địa bên gốc cây hòe cành lá sum suê, liền tung mình leo lên ngồi trên cành, đợi lâu càng cảm thấy trong chuyện này chắc có điều gì kỳ quặc. Bọn lâu la của trại Hoàng Phong đến trước mà một hồi lâu, đại đội kỵ mã vẫn chưa đến. Chẳng lẽ chúng chỉ phái mấy tên lâu la đến thông báo tin trước để trăm họ trốn chạy hết, còn lại tòa thị trấn trống không?

Lệnh Hồ Xung đợi hơn nửa canh giờ mới thấp thoáng nghe tiếng người, mà là tiếng bô lô ba la của phụ nữ. Chàng ngưng thần nghe vài câu thì nhận ra bọn đệ tử phái Hằng Sơn đến. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Sao bọn họ bây giờ mới tới đây? Phải rồi, chắc ban ngày bọn họ nghỉ ngơi nơi hoang dã.

Tai chàng nghe bọn họ đến gõ cửa Tiền An khách điếm rồi lại đi gõ cửa một vài khách điếm khác nữa. Nam An khách điếm cách miếu Thổ địa rất xa, sau khi bọn phái Hằng Sơn vào khách điếm, họ làm gì nói gì hắn không thể nghe được. Lòng hắn ngờ ngợ: Chắc là bọn Ma giáo sắp đặt cạm bẫy, để phái Hằng Sơn bị lọt vào lưới.

Lệnh Hồ Xung ẩn mình trên ngọn cây, lặng yên quan sát. Qua một lúc lâu, thấy bọn Nghi Thanh bảy người đi đốt đèn. Trên đường lớn có rất nhiều cửa sổ các tiệm bán tạp hóa có ánh đèn chiếu xuyên ra. Một lúc sau bỗng nghe góc Đông Bắc có tiếng người phụ nữ la lên:

– Cứu tôi với!

Lệnh Hồ Xung giật mình:

– Trời ơi nguy rồi, đệ tử phái Hằng Sơn chắc bị trúng độc thủ của Ma giáo.

Lệnh Hồ Xung liền nhảy xuống đất, chạy đến ngoài căn nhà nơi người phụ nữ kêu cứu.

Từ khe cửa sổ Lệnh Hồ Xung nhìn vào bên trong thấy trong nhà không có đèn, ánh trăng mờ nhạt chiếu vào cửa sổ, có bảy tên hán tử đứng nép sát vào tường, một người phụ nữ đứng giữa nhà la to:

– Cứu tôi với, cứu tôi với, giết người rồi!

Lệnh Hồ Xung nhìn được nửa gương mặt của người phụ nữ, vẻ mặt giả bộ đau khổ, rõ ràng mụ đợi người đến mắc bẫy.

Quả nhiên mụ ta kêu cứu chưa dứt thì bên ngoài có người phụ nữ quát:

– Kẻ nào hành hung ở đây?

Căn nhà này cửa lớn chưa đóng, chỉ đẩy một cái thì mở ra, bảy người phụ nữ liền tiến vào. Người đi đầu chính là Nghi Thanh. Bảy người tay cầm trường kiếm, vì cứu người nên bọn họ vào rất vội.

Bỗng thấy tay phải của người phụ nữ kêu cứu phất lên một cái, một tấm vải xanh dài khoảng bốn thước vuông tung lên. Bọn Nghi Thanh bảy người thân hình đều run rẩy, dường như họ bị choáng đầu, hoa mắt. Họ quay người mấy vòng liền ngã xuống. Lệnh Hồ Xung kinh hãi, nghĩ ngay: Tấm vải trong tay người phụ nữ nhất định có độc dược gây mê rất lợi hại. Nếu ta xông vào cứu người, nhất định cũng bị độc thủ của mụ, đành phải nhẫn nại xem một chút rồi hãy tính.

Một tên hán tử đứng sát vào tường nhảy xổ ra, lấy dây thừng trói tay chân bọn Nghi Thanh lại.

Qua một lúc sau, bên ngoài lại có tiếng một phụ nữ quát:

– Ai ở trong đó?

Lúc Lệnh Hồ Xung qua Tiên Hà Lĩnh đã từng nói chuyện mấy lần với ni cô nóng tính này. Chàng biết Nghi Hòa đến rồi, thầm nghĩ: Bà này tính tình nóng nảy lỗ mãng, lần này chắc cũng bị biến thành một đòn bánh tét to.

Nghi Hòa lại quát:

– Nghi Thanh sư muội, các ngươi đang ở đâu?

Tiếp theo nghe binh một tiếng, bà đá cửa lớn ra, bọn Nghi Hòa sóng vai tiến vào. Vừa bước chân vào cửa, họ liền đưa kiếm lên phóng vào hai bên tả hữu để hộ vệ, đề phòng địch nhân từ trong bóng tối nhảy ra đánh úp. Người thứ bảy lại xoay người vào trong, sử kiếm hộ vệ phía sau.

Trong nhà tất cả mọi người đều nín thở bất động, chỉ đợi khi bảy người cùng vào nhà, người phụ nữ đó lại tung tấm vải xanh khiến bảy người đều mê man ngã xuống đất.

Tiếp theo Vu Tẩu thống lĩnh sáu người đi vào nhà, cũng bị trúng thuốc mê ngã xuống. Trước sau hai mươi mốt tên nữ đệ tử phái Hằng Sơn đều hôn mê bất tỉnh, bị cột chặt ở góc nhà. Một lúc sau, một lão già vỗ tay mấy cái, những người đứng trong nhà rút lui theo cửa sau.

Lệnh Hồ Xung nhảy lên nóc nhà, cúi người đi theo chúng. Giữa lúc đang đi, bỗng nghe phía trên nóc nhà phía trước có tiếng tay áo bay trong gió. Chàng vội nép vào bên mái nhà, thấy khoảng mười mấy tên hán tử cùng ra hiệu phân ra mai phục trên mái một ngôi nhà lớn, cách chỗ Lệnh Hồ Xung núp không quá vài trượng. Lệnh Hồ Xung bò nhè nhẹ theo sát tường, thấy Định Tĩnh sư thái dẫn ba đệ tử đang đi tới. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Không xong nữa rồi, đây là kế điệu hổ ly sơn. Những ni cô còn ở trong Nam An khách điếm chắc bị nguy mất.

Lệnh Hồ Xung thấy lắc lư mấy cái bóng người chạy nhanh về hướng Nam An khách điếm, định chạy theo xem có chuyện gì. Bỗng nghe có người trên nóc nhà nói khẽ:

– Một chút lão ni cô đó lại đây, thì bảy người các ngươi ở đây vây chặt mụ ta lại.

Giọng nói này phát ra ngay trên đầu Lệnh Hồ Xung, chỉ cần chàng vừa nhúc nhích thì sẽ bị phát hiện ngay, đành phải đứng nép yên sau góc tường.

Tai chàng nghe Định Tĩnh sư thái đá cánh cửa ra rồi lớn tiếng gọi:

– Nghi Hòa, Nghi Thanh, Vu Tẩu, các ngươi có nghe ta nói không?

Tiếng gọi của bà truyền đi rất xa, lại thấy bà ta chạy vòng quanh nhà, rồi nhảy lên nóc nhà chứ không vào trong nhà quan sát. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Sao Định Tĩnh sư thái không vào trong xem sao? Nếu bà vào thì biết ngay hai mươi mốt tên nữ đệ tử bị cột nằm dưới đất.

Lệnh Hồ Xung liền hiểu ra: Bà không vào là phải lắm. Bọn người Ma giáo mai phục trên nóc nhà, chỉ cần bà vào nhà thì chúng liền vây chặt bốn phía, đó là thế đưa cá vào rọ.

Trước mắt hắn thấy Định Tĩnh sư thái cứ chạy lui chạy tới rõ ràng bà lục thần vô chủ. Đột nhiên bà chạy một cách thần tốc về Nam An khách điếm, ba tên nữ đệ tử phía sau đuổi theo không kịp. Bỗng thấy mấy người ở bên góc đường chạy ra, vung tấm vải xanh, ba tên nữ đệ tử liền ngã xuống, bị bọn chúng khiêng vào nhà. Dưới ánh trăng lờ mờ, chàng thấy dường như trong ba người đó có bóng Nghi Lâm. Lệnh Hồ Xung động tâm nghĩ thầm: Có nên đi cứu Nghi Lâm tiểu sư muội ngay không?

Nhưng Lệnh Hồ Xung liền nghĩ lại: Bây giờ ta xuất hiện thì xảy ra một trận ác đấu. Nhiều người phái Hằng Sơn bị bọn Ma giáo bắt rồi, ném chuột sợ vỡ đồ, ta không nên đấu chính diện với bọn chúng. Ta ngấm ngầm động thủ là hơn.

Lệnh Hồ Xung thấy Định Tĩnh sư thái từ trong Nam An khách điếm chạy ra, trên đường bà lớn tiếng mắng chửi. Bà lại nhảy lên nóc nhà, lớn tiếng chửi Đông Phương Bất Bại, quả nhiên bọn Ma giáo nhẫn nại không được, có bảy người xông ra vây đánh bà. Lệnh Hồ Xung thấy hai bên qua lại mấy chiêu, nghĩ bụng: Kiếm thuật của Định Tĩnh sư thái tinh thâm, tuy một địch bảy, nhưng nhất thời bà không đến nỗi bị bại. Ta đi cứu Nghi Lâm tiểu muội trước là hơn.

Lệnh Hồ Xung liền tung người nhảy vào trong nhà, thấy một tên đứng cầm đao trong sảnh đường, ba tên nữ đệ tử bị trói nằm ngay cạnh chân gã. Lệnh Hồ Xung nhảy lên trước, vung cả yêu đao lẫn vỏ đâm vào cổ họng gã. Tên này chưa kịp phát giác thì đã toi mạng. Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, nghĩ: Đao của ta sao mà nhanh dữ vậy? Tay vừa đưa ra thì vỏ đao đã đâm trúng chỗ yếu hại nơi yết hầu của gã.

Chính Lệnh Hồ Xung cũng không biết từ lúc luyện được Hấp tinh đại pháp, những luồng chân khí của Đào Cốc lục tiên, Bất Giới hòa thượng, Hắc Bạch Tử ở trong cơ thể chàng đã tận dụng được hết. Nguyên ý Lệnh Hồ Xung phóng ra đao này để địch nhân vung đao lên đỡ, thì vỏ đao của chàng sẽ đâm vào hai đùi của gã khiến gã bị ngã xuống đất để sau đó hắn cứu người. Không ngờ gã không kịp trở tay liền bị đâm chết tại chỗ.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy hơi hối hận, liền kéo tử thi ra rồi cúi đầu xuống nhìn, quả thấy trong ba nữ đệ tử nằm dưới đất có cả Nghi Lâm. Lệnh Hồ Xung sờ lên mũi cô ta, thấy hơi thở đều đặn, ngoài việc bị hôn mê bất tỉnh thì không có gì đáng ngại. Lệnh Hồ Xung liền xuống bếp lấy một ca nước lạnh vẩy một ít nước lên mặt cô ta.

Trong khoảnh khắc, nghe Nghi Lâm ú ớ rồi tỉnh dậy. Lúc đầu cô ta không biết mình đang ở đâu, cô từ từ mở mắt ra, bỗng cô hiểu ra, liền bật người lên tìm thanh trường kiếm bên mình. Cô mới biết tay chân đã bị trói, suýt chút nữa cô lại bị té ngã.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu sư thái đừng sợ, người xấu đó đã bị bổn tướng quân giết rồi.

Lệnh Hồ Xung rút đao cắt đứt dây trói trên tay chân cô ta. Trong bóng đêm Nghi Lâm nghe giọng nói của vị tướng quân mang máng giống giọng nói của Lệnh Hồ đại ca, người mà cô ngày đêm tưởng nhớ. Cô vừa vui mừng vừa ngạc nhiên gọi:

– Tướng quân… tướng quân là Lệnh Hồ đại…

Chữ “ca” chưa nói ra cô liền cảm thấy không đúng. Cô xấu hổ đến nỗi mặt đỏ lên, ấp úng hỏi:

– Tướng quân… tướng quân là ai?

Lệnh Hồ Xung nghe cô ta đã nhận ra được mình nên đổi giọng nói khẽ:

– Bổn tướng quân đây mà, bọn giặc cỏ đó không dám ăn hiếp các ngươi nữa đâu.

Nghi Lâm nói:

– Ủa, thì ra là Ngô tướng quân. Sư… sư bá của tiểu ni đâu?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bà ta đang giao chiến với địch nhân ở bên ngoài, chúng ta ra ngoài xem sao.

Nghi Lâm nói:

– Trịnh sư tỷ, Tần sư muội…

Nghi Lâm lấy trong túi ra viên đá lửa quẹt lên thì thấy hai người đang nằm dưới đất, cô bèn nói:

– Ồ, bọn họ đều ở đây.

Cô muốn cắt dây trói tay chân hai người. Lệnh Hồ Xung liền nói:

– Đừng vội, đi giúp sư bá của tiểu sư thái là cần kíp nhất.

Nghi Lâm nói:

– Đúng vậy.

Lệnh Hồ Xung quay người đi ra ngoài. Nghi Lâm đi theo sau. Đi chưa được mấy bước, thấy bảy bóng người lao ra như bay, tiếp theo nghe leng keng tiếng ám khí bị đánh rơi xuống, lại nghe có người lớn tiếng xưng tán:

– Định Tĩnh sư thái kiếm pháp cao cường.

Không bao lâu, thấy Định Tĩnh sư thái đi theo mười mấy tên hán tử vào Tiên An khách điếm. Lệnh Hồ Xung vẫy Nghi Lâm ngấm ngầm đi theo bọn họ, đến khách điếm đứng ngoài cửa sổ nghe trộm.

Định Tĩnh sư thái đang nói chuyện với Chung Trấn ở trong nhà, Chung Trấn luôn miệng ép Định Tĩnh sư thái đồng ý chuyện đem phái Hằng Sơn hợp làm một với phái Tung Sơn mới chịu giúp bà đi cứu người. Lệnh Hồ Xung thấy lão nhân cơ hội người gặp nguy mà bắt chẹt thì lòng ngấm ngầm tức giận, lại nghe Định Tĩnh sư thái càng nói càng nổi nóng, rồi bà bỏ đi ra khỏi khách điếm.

Lệnh Hồ Xung đợi Định Tĩnh sư thái đi xa rồi mới đến ngoài Tiên An khách điếm gõ cửa gọi:

– Tổ mẹ nó, bổn tướng quân muốn uống rượu rồi nghỉ ngơi. Tổ mẹ nó điếm tiểu nhị sao không mau mở cửa?

Định Tĩnh sư thái đang lúc không biết làm sao, chợt nghe vị tướng quân quát tháo, lòng bà vui mừng liền vọt đến. Nghi Lâm ra đón, cô gọi:

– Sư bá!

Định Tĩnh sư thái càng mừng hơn, vội hỏi:

– Vừa rồi ngươi ở đâu vậy?

Nghi Lâm nói:

– Đệ tử bị yêu nhân Ma giáo bắt giữ, vị tướng quân này đã cứu đệ tử…

Lúc này Lệnh Hồ Xung đã đẩy cửa tiến vào.

Trên đại đường đốt hai cây nến sáng trưng. Chung Trấn ngồi trên ghế chính giữa, gằn giọng nói:

– Tên nào ở đây quát tháo ầm ĩ, mau cút ngay đi.

Lệnh Hồ Xung ngoác miệng chửi:

– Tổ mẹ nó, bổn tướng quân đường đường là mệnh quan của triều đình mà ngươi dám to gan ăn nói hỗn xược. Chủ quán, chưởng quỹ, điếm tiểu nhị đâu, mau đuổi chúng cút khỏi đây cho ta!

Bọn người phái Tung Sơn nghe Lệnh Hồ Xung sau khi chửi, liền gọi chưởng quỹ, chủ quán, hiển nhiên mặt lim gan sứa, lòng đã có ý sợ hãi nên chúng cảm thấy tức cười. Chung Trấn nghĩ mình đang làm đại sự, nửa đêm nửa hôm lại gặp phải tên cẩu quan này liền nói khẽ:

– Điểm huyệt cho cái thứ điên khùng này ngã chứ đừng làm tổn thương tính mạng.

Cẩm mao sư Cao Khắc Tân gật đầu, cười hì hì đi đến trước mặt Lệnh Hồ Xung nói:

– Thì ra là một vị quan lão gia, vậy xin thất kính.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngươi biết vậy là tốt rồi. Các ngươi là những hạng dân đen ngang ngạnh, không hiểu vương pháp…

Cao Khắc Tân cười nói:

– Dạ, dạ!

Lão lạng người lên trước, đưa ngón tay trỏ ra nhắm điểm vào giữa ngực Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung thấy phương vị của lão điểm, vội vận nội tức vào giữa ngực. Cao Khắc Tân điểm trúng huyệt Tiếu yêu của Lệnh Hồ Xung, người bị điểm trúng huyệt này sẽ cười một trận rồi ngất đi. Không ngờ Lệnh Hồ Xung chỉ cười hì hì rồi nói:

– Ngươi là kẻ không biết vương pháp gì hết, dám động thủ động cước để làm trò cười với bổn tướng quân hả?

Cao Khắc Tân vô cùng kinh ngạc. Lão lại phóng chỉ ra điểm lần nữa, lần này lão vận đủ mười thành kình lực vào trong ngón tay. Lệnh Hồ Xung cười ha hả, nhảy người lên, vừa cười vừa chửi:

– Tổ mẹ nó, cứ rờ mó lưng của bổn tướng quân để trộm bạc hả? Trông tướng mạo cái thứ như ngươi đường đường là một hán tử ra dáng nhân tài, sao không ăn học cho đàng hoàng?

Cao Khắc Tân xoay tay trái lại, đã nắm chặt cổ tay phải của Lệnh Hồ Xung hất sang phải một cái. Lão muốn lôi cho Lệnh Hồ Xung ngã lăn xuống đất. Không ngờ bàn tay lão vừa đụng đến cổ tay của Lệnh Hồ Xung thì nội lực trong người lão liền từ trong lòng bàn tay tiết ra ồ ạt, không thu về được. Bất giác lão kinh hãi vô cùng, muốn la to nhưng há miệng ra cũng không nói được tiếng nào.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy nội lực của đối phương đang truyền vào cơ thể của mình giống như tình trạng hôm mình nắm chặt cổ tay của Hắc Bạch Tử. Lòng chàng sợ hãi, thầm nghĩ: Tà pháp này không thể sử dụng được.

Lệnh Hồ Xung liền dùng lực giật ra khỏi bàn tay của lão. Cao Khắc Tân giống như được hoàng ân đại xá. Lão ngẩn người ra, nhảy lùi về sau, cảm thấy toàn thân mềm nhũn như người bị bệnh nặng mới khỏi. Lão la lên:

– Hấp tinh đại pháp, Hấp… Hấp tinh đại pháp.

Giọng lão nghèn nghẹn đầy vẻ kinh hoàng. Chung Trấn, Đặng Bá Công và bọn đệ tử phái Tung Sơn đều cùng nhảy vọt lên, hỏi:

– Sao?

Cao Khắc Tân nói:

– Người… người này biết sử Hấp… Hấp tinh đại pháp.

Trong khoảnh khắc, thanh quang lóe tán loạn, tiếng soạt soạt vang lên. Mỗi người đều rút trường kiếm ra khỏi vỏ. Thần tiên Đặng Bá Công tay cầm cây nhuyễn tiên. Kiếm pháp của Chung Trấn cực nhanh, ánh quang mới lấp loáng, thì kiếm quang đã phóng tới yết hầu của Lệnh Hồ Xung.

Lúc Cao Khắc Tân ngoác miệng kêu la, Lệnh Hồ Xung đã đoán rằng bọn phái Tung Sơn nhất định sẽ xông lên tấn công. Thấy chúng đã cầm trường kiếm ở tay, chàng rút yêu đao sau lưng ra, dùng cả đao lẫn vỏ để làm trường kiếm, cổ tay rung lên nhằm điểm vào mu bàn tay của bọn chúng. Nghe tiếng loảng xoảng liên tục, trường kiếm của bọn chúng đều bị rơi xuống đất. Võ công của Chung Trấn rất cao, tuy mu bàn tay của lão bị đầu vỏ đao của Lệnh Hồ Xung đâm trúng nhưng trường kiếm của lão cũng không bị rơi xuống đất. Lão kinh hãi nhảy lùi ra sau. Đặng Bá Công bị thảm hại nhất, cây nhuyễn tiên rớt khỏi tay lão rồi lại quấn chặt vào cổ của lão. Nó quấn chặt đến nỗi lão bị nghẹt thở.

Hồi 98: Bị trọng thương, Định Tĩnh qua đời

Chung Trấn tựa lưng vào tường, mặt không còn chút máu. Lão nói:

– Trên giang hồ đồn rằng tiền nhiệm giáo chủ của Ma giáo tái xuất giang hồ. Ngươi… ngươi… là Nhậm giáo chủ… Nhậm Ngã Hành ư?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tổ mẹ nó cái gì Nhậm Ngã Hành với Nhậm Nhĩ Hành? Bổn tướng quân ngồi không đổi họ, đi chẳng thay tên, họ Ngô, quan hiệu húy là Thiên Đức. Các ngươi là bọn tiểu mao tặc ở trại nào, núi nào?

Chung Trấn cung tay nói:

– Các hạ trở lại giang hồ. Chung mỗ tự biết không phải là địch thủ, vậy xin cáo từ.

Lão tung người lên, phá cửa sổ bay ra. Cao Khắc Tân cũng phóng theo sau. Những người còn lại lần lượt nhảy cửa sổ ra ngoài, trường kiếm văng đầy đất không ai dám nhặt lấy.

Lệnh Hồ Xung tay trái cầm vỏ đao, tay phải cầm chuôi đao liên tục rút mấy lần mà đao vẫn không rút ra được. Chàng nói:

– Cái bảo đao này han rỉ tệ hại quá, ngày mai phải đi tìm tên thợ mài đao để mài nó mới được.

Định Tĩnh sư thái chắp tay nói:

– Ngô tướng quân, chúng ta đi cứu mấy tên đồ nhi ra được chăng?

Lệnh Hồ Xung đoán bọn Chung Trấn đã đi hết rồi, không còn tên nào chống đỡ nổi thần kiếm của Định Tĩnh sư thái. Chàng bèn nói:

– Bổn tướng quân muốn ở đây uống mấy bát rượu. Lão sư thái, lão sư thái cũng uống một bát nhé?

Nghi Lâm nghe Lệnh Hồ Xung lại nhắc đến rượu, lòng nghĩ: Nếu vị tướng quân này mà gặp Lệnh Hồ đại ca, thì hai người sẽ là một đôi bằng hữu hảo tửu nhất thiên hạ.

Cô đưa mắt trộm nhìn Lệnh Hồ Xung, thấy ánh mắt của tướng quân cũng đang chăm chú nhìn mình. Mặt cô hơi ửng hồng, liền cúi đầu xuống.

Định Tĩnh sư thái nói:

– Bần ni không được phép uống rượu, xin tướng quân thông cảm.

Bà chấp tay hành lễ rồi quay người đi. Nghi Lâm cũng đi theo sau. Lúc ra đến cửa, cô nhịn không được, quay đầu nhìn Lệnh Hồ Xung một cái, thấy Lệnh Hồ Xung vừa đi tìm rượu vừa lớn tiếng chửi mắng:

– Bà mẹ nó, người trong khách điếm này đều chết sạch cả rồi hay sao mà không thấy ló mặt ra?

Nghi Lâm nghĩ:

– Giọng nói của người này dường như hơi giống Lệnh Hồ đại ca. Nhưng vị tướng quân này mở miệng ra là chửi thề, mỗi câu đều có tiếng chửi, Lệnh Hồ đại ca quyết không giống như vậy. Võ công của người này cao hơn Lệnh Hồ đại ca nhiều. Ta… ta lại nghĩ vẩn nghĩ vơ, ôi, thật là…

Lệnh Hồ Xung tìm được rượu, liền kề miệng vào vò uống hết một nửa. Chàng nghĩ: Mấy ni cô, bà nương, cô nương này sẽ quay trở lại, cứ bô lô ba la người này nói chưa hết câu thì người kia tiếp lời, ứng phó không xong thì sẽ bị lộ tẩy, cứ để bọn họ đi hết là hay hơn. Nếu ta cứu từng người một cũng mất hết một canh giờ, mà bụng thì đã đói cồn cào rồi, phải tìm chút gì ăn trước đã.

Chàng uống cạn vò rượu rồi đi xuống bếp tìm cái gì đó để ăn, bỗng nghe xa xa có tiếng Nghi Lâm gọi thất thanh:

– Sư bá, sư bá, sư bá ở đâu vậy?

Thanh âm của cô rất hoảng sợ.

Lệnh Hồ Xung vội xông ra khỏi điếm, chạy theo hướng phát ra tiếng của Nghi Lâm, thấy Nghi Lâm và hai cô nương trẻ tuổi đứng trên đường lớn lớn tiếng gọi:

– Sư bá, sư phụ!

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Sao vậy?

Nghi Lâm nói:

– Tiểu ni đi cứu Trịnh sư tỷ và Tần sư muội, sư bá lo lắng cho các vị sư tỷ nên chạy đi tìm kiếm. Ba người tiểu ni ra đây, nhưng… nhưng không biết lão nhân gia đi đâu rồi.

Lệnh Hồ Xung thấy Trịnh Ngạc không đến hai mươi mốt hai mươi hai tuổi, Tần Quyên còn nhỏ tuổi hơn nữa, chỉ khoảng mười lăm mười sáu. Chàng nghĩ: Những cô nương trẻ tuổi này không có chút hiểu biết, phái Hằng Sơn phái bọn họ đi để làm gì?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ta biết bọn họ đang ở đâu, các ngươi đi theo ta.

Tất cả chạy nhanh về ngôi nhà hướng Đông Bắc, đứng ngoài cửa. Lệnh Hồ Xung đá tung cánh cửa ra, nhưng sợ người phụ nữ còn ở trong đó lại vẫy mê hồn dược để hại người bèn nói:

– Các ngươi dùng khăn tay bịt mũi lại, bên trong có một mụ thúi tha biết phóng độc.

Lệnh Hồ Xung giơ tay phải bịt mũi lại, mím chặt môi xông thẳng vào trong nhà. Vừa vào trong đại đường, chàng không khỏi sửng sốt.

Trong đại đường, lúc nãy các nữ đệ tử phái Hằng Sơn còn nằm đầy, bây giờ không thấy tung tích ai cả. Lệnh Hồ Xung ối lên một tiếng, thấy trên bàn có một ngọn nến, bèn điểm lửa đốt lên; trong sảnh đường trống không, không một bóng người. Chàng lục soát một lượt các nơi trong nhà, cũng không tìm ra chút manh mối gì, bèn la lên:

– Chuyện này kỳ quặc thật.

Nghi Lâm, Trịnh Ngạc, Tần Quyên, cả ba người nhìn Lệnh Hồ Xung với ánh mắt nghi ngờ. Lệnh Hồ Xung nói:

– Tổ mẹ nó, các sư tỷ của các ngươi đều bị một mụ phóng độc làm cho mê man ngã lăn ra rồi trói lại ở chỗ này, mới trong chốc lát sao không thấy ai cả.

Trịnh Ngạc hỏi:

– Ngô tướng quân, tướng quân thấy những sư tỷ của bọn tiểu ni bị hôn mê ngã ở đấy ư?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bổn tướng nằm mơ thấy rất nhiều ni cô, bà vãi nằm ngổn ngang trên sảnh đường này, sao mà nhầm lẫn được?

Trịnh Ngạc nói:

– Tướng quân… tướng quân…

Cô ta muốn nói tướng quân nằm mơ thấy sao mà đúng được? Nhưng không chừng tướng quân thích nói đùa, nói là nằm mơ thật ra là tận mắt thấy. Cô liền đổi lời nói:

– Tướng quân nghĩ bọn họ đi đâu cả rồi?

Lệnh Hồ Xung trầm ngâm nói:

– Không chừng bọn họ đến nơi nào có lắm cá nhiều thịt ăn uống cho thỏa thích hay là đến nơi nào có kịch để xem.

Lát sau, chàng vẫy tay nói:

– Ba cô bé, tốt nhất hãy đi sát sau ta, không nên cách xa. Muốn ăn thịt xem kịch nhất thời không nên vội vàng.

Tần Quyên tuy nhỏ tuổi nhưng biết tình thế đang nguy hiểm, các sư tỷ đều lọt vào tay địch, tướng quân này chỉ nói đùa chứ không phải vậy. Mấy chục người phái Hằng Sơn cùng đến đây mà bây giờ chỉ còn lại ba đệ tử nhỏ tuổi, ngoài việc nghe lời tướng quân này dặn bảo ra, cô không biết nên làm gì. Cô liền theo Nghi Lâm, Trịnh Ngạc đi cùng Lệnh Hồ Xung ra ngoài cửa.

Lệnh Hồ Xung lẩm bẩm:

– Chẳng lẽ đêm qua ta nằm mơ không đúng, mắt hoa nhìn lầm người ư? Đêm nay phải nằm mơ cho đàng hoàng mới được.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Những nữ đệ tử này coi như bị bắt đi, tại sao Định Tĩnh sư thái cũng đột nhiên mất tích? Chỉ e rằng bà lọt vào ổ phục kích, gặp địch nhân ám toán, phải lập tức truy tìm mới được. Bọn Nghi Lâm ba người tuổi còn trẻ, nếu để họ lại Trấp Bát trấn thì không ổn, đành phải dẫn bọn họ cùng đi.

Lệnh Hồ Xung bèn nói:

– Bây giờ chúng ta không có chuyện gì thì đi tìm sư bá của các ngươi, để xem bà ta đang vui chơi ở đâu. Các ngươi nghĩ có được không?

Trịnh Ngạc nói:

– Hay lắm! Tướng quân võ nghệ cao cường, kiến thức hơn người, nếu tướng quân không dẫn bọn tiểu ni đi, chỉ sợ bọn tiểu ni khó mà tìm được.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Võ nghệ cao cường, kiến thức hơn người, tám chữ này ngươi nói đúng lắm. Bổn tướng sau này được mang ấn soái đi bình Phiên, thăng quan phát tài, thì nhất định sẽ tặng một hai trăm lạng bạc để ba cô bé mua quần áo mới mặc chơi.

Lệnh Hồ Xung miệng nói huênh hoang. Đi đến đầu Trấp Bát phố, chàng nhảy lên nóc nhà nhìn bốn phía. Lúc này trời đã hừng sáng, sương trắng còn phủ đầy, trên ngọn cây màn sương rực rỡ.

Chàng nhìn ra xa, thấy hai bên đường lớn không một bóng người. Bỗng thấy trên đường lớn phía Nam có một vật màu xanh, khoảng cách rất xa nên nhìn không rõ. Nhưng trên con đường mênh mông rộng lớn, vật đó nằm ngay giữa đường, hiển nhiên tạo ra sự chú ý. Lệnh Hồ Xung nhảy xuống nhà, co giò chạy đi lượm vật đó lên. Đó là một chiếc hài bằng vải xanh, giống chiếc hài Nghi Lâm đang mang.

Lệnh Hồ Xung đợi một lúc, bọn Nghi Lâm chạy đến. Chàng đưa chiếc hài cho Nghi Lâm rồi hỏi:

– Đây là hài của ngươi phải không? Sao nó bị rớt ở đây?

Nghi Lâm nhận chiếc hài, cô biết rõ mình đang mang hài, nhưng cũng liếc nhìn xuống chân xem, thấy hai chân đều mang hài đầy đủ. Trịnh Ngạc nói:

– Đó… đó là hài sư tỷ, sư muội của tiểu ni mang, sao lại rớt ở đây?

Tần Quyên nói:

– Nhất định là vị sư tỷ sư muội đó bị địch nhân bắt đem đi, giãy giụa ở đây nên chiếc hài rớt lại.

Trịnh Ngạc nói:

– Không chừng họ cố ý để lại chiếc hài này để cho chúng ta biết mà truy tìm.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy, ngươi thật là võ nghệ cao cường, kiến thức hơn người. Chúng ta nên đuổi về hướng Nam hay hướng Bắc?

Trịnh Ngạc nói:

– Dĩ nhiên là hướng Nam.

Lệnh Hồ Xung liền chạy nhanh về hướng Nam, trong khoảnh khắc đã chạy được hơn mấy chục trượng. Lúc đầu bọn Trịnh Ngạc còn cách chàng không xa, về sau khoảng cách xa dần. Lệnh Hồ Xung quan sát đường, thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn bọn họ, chỉ sợ khoảng cách quá xa thì cứu viện không kịp nếu ba người này bị địch nhân bắt đi. Vì vậy chàng chạy hơn một dặm liền dừng chân lại đợi.

Đợi ba người chạy đến, Lệnh Hồ Xung lại chạy lên trước, cứ như vậy mấy lần, đã chạy được hơn mười dặm. Trước mặt đường sá gập ghềnh, cây cối hai bên rất nhiều, nếu địch nhân mai phục ở góc đường, bắt bọn Nghi Lâm đi thì chàng cứu viện không kịp. Lại thấy Tần Quyên chạy lâu, hai má đỏ lên; chàng biết cô còn nhỏ tuổi, không đủ sức chạy đường dài, liền bước chậm lại rồi lớn tiếng nói:

– Tổ mẹ nó, bổn tướng quân chân mang giày ủng mà còn chạy nhanh nên thủng cả đế, thật bất tiện. Vậy chúng ta cứ đi từ từ thôi.

Bốn người lại đi thêm bảy tám dặm, đột nhiên Tần Quyên la lên:

– Ô kìa!

Cô chạy đến dưới một bụi cây, lượm lên một cái mũ chóp xanh, chính là mũ các nữ ni phái Hằng Sơn đội. Trịnh Ngạc nói:

– Tướng quân, những sư tỷ của bọn tiểu ni đúng là bị địch nhân bắt đi rồi, chúng ta cứ đi theo con đường này.

Ba tên nữ đệ tử thấy mình chạy đúng đường liền phấn khởi càng bước nhanh hơn, ngược lại Lệnh Hồ Xung bị rớt lại đằng sau.

Đến giờ Ngọ, bốn người đi vào một quán cơm nhỏ, nghỉ ngơi ăn uống. Chủ quán thấy một tướng quân dẫn một tiểu ni cô và hai cô nương nhỏ tuổi cùng đi thì rất lấy làm lạ, nghiêng mắt nhìn bọn họ chằm chằm. Lệnh Hồ Xung vỗ bàn chửi:

– Tổ mẹ nó, có gì mà nhìn? Ngươi chưa từng thấy ni cô, hòa thượng hả?

Gã chủ quán nói:

– Dạ, dạ! Tiểu nhân không dám.

Trịnh Ngạc hỏi:

– Đại thúc ơi, đại thúc có thấy nhiều người xuất gia đi qua đây không?

Gã hán tử nói:

– Mấy người thì không nhưng một người thì có. Có một lão sư thái, so với tiểu sư thái này bà còn lớn tuổi hơn nhiều…

Lệnh Hồ Xung quát:

– Ăn nói tầm phào! Một vị lão sư thái chẳng lẽ lại nhỏ tuổi hơn tiểu sư thái?

Gã hán tử nói:

– Dạ, dạ.

Trịnh Ngạc vội hỏi:

– Lão sư thái đó thế nào?

Hán tử đáp:

– Lão sư thái đó vội vàng hỏi tại hạ có thấy nhiều người xuất gia đi qua đây không. Tại hạ nói không thấy, bà ta liền chạy đi. Ối, lớn tuổi như vậy mà chạy rất nhanh, trong tay bà còn cầm bảo kiếm sáng loáng, trông giống như người hát kịch trên sân khấu.

Tần Quyên vỗ tay nói:

– Đúng là sư phụ rồi, chúng ta mau đuổi theo đi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đừng vội, ăn no rồi hãy tính.

Bốn người vội vã ăn cơm. Lúc sắp ra đi, Tần Quyên mua bốn cái bánh bao nói là để cho sư phụ ăn. Lòng Lệnh Hồ Xung chua xót: Cô ta có hiếu với sư phụ như vậy, còn ta có muốn tận hiếu với sư phụ cũng không được.

Cả bốn người chạy đến tối vẫn không thấy tung tích của Định Tĩnh sư thái và bọn đệ tử phái Hằng Sơn. Đưa mắt nhìn ra xa, toàn thấy rừng hoang cỏ rậm, đường sá càng lúc càng chật. Đi một lúc nữa, cỏ mọc cao đến lưng, đường cũng không nhìn rõ nữa.

Bỗng nhiên ở góc phía Bắc loáng thoáng nghe có tiếng binh đao giao đấu truyền lại.

Lệnh Hồ Xung la lên:

– Ở đó có người đánh nhau, có cuộc náo nhiệt để xem rồi.

Tần Quyên nói:

– Chao ôi, phải chăng là sư phụ của tiểu nữ?

Lệnh Hồ Xung chạy theo hướng phát ra tiếng binh khí. Chạy được mấy chục trượng, trước mặt chàng bỗng nhiên sáng rực lên. Mấy chục cây đuốc đang rực cháy, tiếng binh khí giao nhau vang dội.

Lệnh Hồ Xung càng chạy nhanh hơn. Đến gần thấy mấy chục người cầm đuốc vây thành vòng tròn, trong vòng vây một người tay áo rộng thùng thình bay phấp phới, trường kiếm múa tít, cố địch với bảy người. Đó chính là Định Tĩnh sư thái. Bên ngoài vòng vây nằm la liệt mấy chục người, vừa nhìn sắc phục biết ngay là bọn đệ tử phái Hằng Sơn. Lệnh Hồ Xung thấy đối phương ai ai cũng bịt mặt, liền đi đến gần. Mọi người đều ngưng thần quan sát trận đấu, nhất thời không ai phát hiện. Lệnh Hồ Xung cười ha hả la lên:

– Bảy người đánh một thì có hay ho gì đâu?

Bọn người che mặt thấy Lệnh Hồ Xung bỗng nhiên xuất hiện đều giật mình quay đầu lại nhìn. Chỉ có bảy người đang đấu kịch liệt hoàn toàn như không hay biết gì, chúng đang vây Định Tĩnh sư thái, binh khí đang vờn quanh người bà. Lệnh Hồ Xung thấy trên vạt áo bào của Định Tĩnh sư thái đã có nhiều vết máu, ngay cả mặt bà cũng dính không ít máu, đồng thời bà sử kiếm bằng tay trái, rõ ràng tay phải của bà đang bị thương.

Lúc này trong đám người có người quát:

– Ai đó?

Hai hán tử đang cầm đơn đao nhảy đến trước mặt Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung quát:

– Bổn tướng quân Đông chinh Tây chiến, không ngừng vó ngựa, ngày nào cũng gặp phải bọn giặc cỏ các ngươi. Mau thông danh báo họ, lưỡi đao của bổn tướng không bao giờ chém kẻ vô danh.

Một tên hán tử cười nói:

– Thì ra là một quan nhân.

Gã vung đao lên nhắm chém vào đùi của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung la lên:

– Trời ơi, động đao thật sao?

Chàng lạng người một cái đã xông vào vòng chiến. Lệnh Hồ Xung vung thanh yêu đao có cả vỏ, bốp bốp liên tục bảy tiếng, đánh trúng cổ tay của bảy người, bảy thứ binh khí lần lượt rớt xuống. Tiếp theo nghe soạt một tiếng, Định Tĩnh sư thái đâm một kiếm vào ngực một tên địch nhân. Gã đó bỗng nhiên bị đánh rớt binh khí, trong lúc sửng sốt nên không kịp né tránh chiêu kiếm thần tốc như điện chớp của Định Tĩnh sư thái.

Định Tĩnh sư thái loạng choạng mấy cái, bà không đứng vững được nữa, phải ngồi phệt xuống đất. Tần Quyên gọi:

– Sư phụ, sư phụ!

Cô chạy đến muốn đỡ bà đứng dậy. Một tên bịt mặt vung đơn đao lên kề vào cổ một tên nữ đệ tử phái Hằng Sơn rồi quát:

– Lùi ra ba bước, nếu không ta chém chết tên đệ tử này.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Hay lắm, hay lắm, lùi thì lùi, có gì lạ đâu? Đừng nói lùi ba bước mà ba chục bước cũng được.

Chàng bỗng nhiên phóng yêu đao ra, đầu vỏ đao đâm vào ngực gã. Gã bịt mặt la lên một tiếng to, thân người bay thẳng về phía sau. Lệnh Hồ Xung không ngờ nội lực của mình lại cường mạnh như vậy. Chàng cũng ngẩn ra, thuận tay vung vỏ đao bốp bốp mấy tiếng, đánh ngã ba tên hán tử bịt mặt rồi quát:

– Các ngươi còn không tránh ra, ta phải bắt các ngươi đưa về quan phủ, đánh mỗi tên ba chục trượng thấy bà nội các ngươi luôn.

Tên đầu sỏ bịt mặt thấy võ công của Lệnh Hồ Xung cao cường thật ngoài sức tưởng tượng. Lão bèn cung tay nói:

– Nể mặt Nhậm giáo chủ, bọn ta tạm nhường một bước.

Lão vẫy tay, quát:

– Ma giáo Nhậm giáo chủ ở đây, chúng ta phải biết điều một chút, đi thôi!

Bọn bịt mặt khiêng một cái xác và bốn tên bị đánh ngã chạy về hướng Tây Bắc, trong khoảnh khắc đã mất hút trong đám cỏ rậm.

Tần Quyên lấy linh dược trị thương của bổn môn đưa cho sư phụ uống. Nghi Lâm và Trịnh Ngạc đi cởi dây trói cho các sư tỷ. Bốn tên nữ đệ tử lượm đuốc ở dưới đất lên đứng bốn phía quanh Định Tĩnh sư thái. Bọn đệ tử thấy bà bị trọng thương, vẻ mặt ai cũng lo buồn, lặng yên không lên tiếng.

Ngực của Định Tĩnh sư thái thở phập phồng. Bà từ từ mở mắt ra rồi nói với Lệnh Hồ Xung:

– Tướng quân… tướng quân quả thật là giáo… giáo chủ… Nhậm… Nhậm Ngã Hành của Ma giáo năm xưa ư?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Không phải.

Ánh mắt của Định Tĩnh sư thái lờ đờ vô thần, bà thở dốc, hiển nhiên khó sống nổi. Bà thở ra một hơi dài rồi đột nhiên gằn giọng nói:

– Nếu ngươi là Nhậm Ngã Hành thì dù phái Hằng Sơn của ta bị thất bại thảm hại, bị… bị tiêu diệt hết, cũng không… không cần…

Bà nói đến đây, không còn đủ sức nói được nữa.

Lệnh Hồ Xung thấy tính mệnh của bà lâm nguy trong chốc lát, nên không dám nói càn nữa, chàng nói:

– Tại hạ tuổi còn nhỏ, chẳng lẽ là Nhậm Ngã Hành ư?

Định Tĩnh sư thái hỏi:

– Vậy thì tại sao… tại sao ngươi biết sử Hấp tinh đại pháp? Ngươi là đệ tử của Nhậm Ngã Hành…

Lệnh Hồ Xung nhớ lại lúc ở Hoa Sơn, sư phụ và sư nương thường kể về vô số hành vi độc ác của Ma giáo. Hai ngày nay chàng lại tận mắt thấy bọn Ma giáo tập kích phái Hằng Sơn bằng hành động quỷ quyệt, bèn nói:

– Ma giáo làm những chuyện độc ác, tại hạ làm sao có thể cùng hòa mình với bọn chúng? Nhậm Ngã Hành không phải là sư phụ của tại hạ. Sư thái hãy an tâm, ân sư của tại hạ là người có nhân phẩm cao đẹp, hành hiệp trượng nghĩa, là bậc tiền bối anh hùng mà người trong võ lâm ai ai cũng kính phục và cũng có quan hệ thâm sâu với sư thái.

Mặt Định Tĩnh sư thái lộ ra chút tươi cười, bà nói đứt đoạn:

– Vậy… vậy ta yên lòng rồi. Ta… ta không xong rồi, cảm phiền túc hạ đưa giùm bọn đệ tử… phái Hằng Sơn này, đến… đến…

Bà nói đến đây, hơi thở dồn dập, một lúc sau mới nói tiếp:

– Đến Vô Tướng am ở Phúc Châu… cho yên ổn. Chưởng môn sư muội của ta… trong ngày… thì sẽ đến.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Sư thái hãy an tâm, dưỡng thương vài ngày thì sẽ khỏi thôi.

Định Tĩnh sư thái hỏi:

– Ngươi… ngươi có đồng ý không?

Lệnh Hồ Xung thấy hai mắt bà chăm chú nhìn mình, vẻ mặt đầy tha thiết, chỉ sợ mình không đồng ý. Chàng bèn nói:

– Sư thái dặn bảo như vậy, đương nhiên tại hạ làm theo.

Định Tĩnh sư thái mỉm cười nói:

– A Di Đà Phật, trọng trách này, ta… ta vốn… vốn không gánh nổi. Thiếu hiệp… rốt cuộc thiếu hiệp là ai?

Lệnh Hồ Xung thấy ánh mắt của bà tán loạn, hơi thở thoi thóp, tính mệnh sẽ mất trong khoảnh khắc. Chàng không nỡ giấu diếm nữa, liền nói khẽ vào tai bà:

– Định Tĩnh sư bá, vãn bối là khí đồ Lệnh Hồ Xung, môn hạ phái Hoa Sơn.

Định Tĩnh à một tiếng rồi nói:

– Thiếu hiệp… thiếu hiệp…

Nói chưa hết câu bà đã ngừng thở.

Lệnh Hồ Xung gọi to:

– Sư thái, sư thái!

Chàng đưa tay sờ lên mũi bà, thấy hơi thở đã ngừng, không kìm được nỗi thê lương. Bọn đệ tử phái Hằng Sơn khóc to lên; nơi hoang dã, tiếng khóc nghe rất bi ai. Mấy cây đuốc rớt xuống đất rồi tắt dần, bốn bề tối đen như mực.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Định Tĩnh sư thái cũng là một tay cao thủ đương thời, lại bị tiểu nhân ám toán, phải mất mạng nơi hoang dã. Bà là một người xuất gia không tranh danh đoạt lợi với ai, sao bọn Ma giáo vẫn không buông tha bà?

Đột nhiên Lệnh Hồ Xung giật mình nghĩ: Lúc tên đầu sỏ bịt mặt đó sắp đi, lão nói “Nhậm giáo chủ Ma giáo ở đây, chúng ta nên biết điều một chút, đi thôi”. Người trong Ma giáo tự xưng bổn giáo là Nhật Nguyệt thần giáo, nghe đến hai chữ “Ma giáo” thì cho đó là tiếng gọi sỉ nhục, nên hễ ai nói hai chữ này thì bị giết ngay. Tại sao người này lại thốt ra hai chữ “Ma giáo”? Lão đã “Ma giáo” thì quyết không phải là người trong Ma giáo. Vậy thì bọn người này rốt cuộc lai lịch thế nào?

Lệnh Hồ Xung nghe tiếng khóc của bọn nữ đệ tử rất bi thương. Chàng không làm phiền họ nữa, ngồi tựa vào gốc cây, trong khoảnh khắc đã ngủ thiếp đi.

Hồi 99: Về Phúc Châu, thám thính Phước Oai

Sáng sớm hôm sau thức dậy, Lệnh Hồ Xung thấy mấy tên đệ tử lớn tuổi đang giữ thi thể của Định Tĩnh sư thái, mấy cô nương, nữ ni trẻ tuổi đều ngủ co ro bên cạnh. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Nếu tướng quân thống lãnh một đám phụ nữ đi Phúc Châu thì thật là chuyện cổ quái hiếm thấy, lố lăng chẳng ra sao cả. May mà ta cũng muốn đi Phúc Châu để gặp sư phụ sư nương, việc trực tiếp dẫn họ đi cũng không cần thiết lắm, dọc đường ta quan tâm bảo vệ họ là được rồi.

Lệnh Hồ Xung liền ho lên một tiếng rồi cất bước đi. Bọn Nghi Hòa, Nghi Thanh, Nghi Chất, Nghi Chân là mấy tên đệ tử đứng đầu hướng về Lệnh Hồ Xung chắp tay hành lễ rồi nói:

– Bọn bần ni nhờ đại hiệp ra tay giải cứu, đại ân đại đức này không biết lấy gì để báo đáp. Sư bá không may gặp nạn, lúc viên tịch đã ủy thác trọng trách cho đại hiệp. Từ đây về sau, tất cả mọi chuyện bọn bần ni đều nghe theo sự chỉ bảo của đại hiệp.

Bọn họ không gọi Lệnh Hồ Xung là “tướng quân” nữa, đương nhiên họ biết rõ Lệnh Hồ Xung là tướng quân giả rồi. Lệnh Hồ Xung nói:

– Cái gì đại hiệp với không đại hiệp, khó nghe quá đi. Nếu các ngươi còn coi trọng ta, cứ gọi ta là tướng quân được rồi.

Bọn Nghi Hòa nhìn nhau gật đầu. Lệnh Hồ Xung nói:

– Tối hôm kia ta nằm mơ, thấy các ngươi bị một mụ dùng mê dược đánh ngã, nằm trong một gian nhà lớn. Sau đó sao lại đến chỗ này?

Nghi Hòa nói:

– Bọn tiểu ni sau khi bị hôn mê ngã xuống thì không biết gì hết. Sau đó những tên tặc tử dùng nước lạnh tạt vào mặt, rồi cởi dây trói chân của bọn tiểu ni ra, dẫn đi vòng một con đường nhỏ ở sau trấn, bắt bọn tiểu ni phải chạy nhanh, chân không dừng bước. Hễ ai đi chậm một chút thì mấy tên tặc tử vung roi lên đánh. Trời tối mà cũng không dừng bước, sau đó sư bá đuổi đến, thì bọn chúng vây sư bá lại buộc sư bá đầu hàng…

Bà nói đến đây nghẹn ngào không nói được nữa rồi khóc nức nở. Lệnh Hồ Xung nói:

– Thì ra còn có con đường nhỏ khác, thảo nào trong khoảnh khắc các ngươi không còn tung tích gì.

Nghi Thanh nói:

– Tướng quân, bọn tiểu ni nghĩ chuyện lớn trước mắt là hỏa táng di thể của sư bá. Sau này hành sự thế nào, xin tướng quân chỉ bảo.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Chuyện của hòa thượng ni cô, bổn tướng quân không hiểu gì hết, muốn ta dặn dò chỉ bảo, thật là chẳng khác ép người mù dắt người đui. Bổn tướng quân thăng quan phát tài là quan trọng nhất. Bây giờ, ta đi đây.

Lệnh Hồ Xung rảo bước đi nhanh về hướng Bắc. Bọn đệ tử lớn tiếng gọi:

– Tướng quân!

Lệnh Hồ Xung không thèm để ý tới.

Sau khi Lệnh Hồ Xung quẹo qua một sườn núi, chàng núp lại trên một cây to, đợi đến hơn hai canh giờ mới thấy bọn đệ tử phái Hằng Sơn vừa đi vừa khóc rất thảm thiết. Lệnh Hồ Xung đi xa xa, từ sau ngấm ngầm bảo vệ họ.

Lệnh Hồ Xung đến một khách điếm ở đầu trấn phía trước, nghĩ bụng: Ta đã động thủ với mấy toán giáo đồ Ma giáo và bọn phái Tung Sơn. Cái bộ mặt râu ria của tham tướng Ngô Thiên Đức phủ Tuyền Châu trên giang hồ đã có tiếng đồn đãi. Tổ mẹ nó, lão tử không làm tướng quân được nữa rồi.

Lệnh Hồ Xung liền gọi tiểu nhị, lấy hai lạng bạc mua lại toàn bộ quần áo giày mũ của gã, nói muốn cải trang để phá án bắt giặc, dặn gã không được tiết lộ ra ngoài, nếu để cho gian dương đại đạo biết mà trốn thoát thì sẽ quay lại bắt gã trị tội.

Hôm sau Lệnh Hồ Xung đi đến một nơi vắng vẻ, cải trang thành điếm tiểu nhị, lột bỏ bộ râu quai nón. Chàng đem quần áo giày ủng, yêu đao, văn kiện của tham tướng đào hố chôn hết. Nghĩ đến chuyện từ đây không thể làm “tướng quân” nữa, nhất thời hắn hơi thất vọng chán chường.

Hai hôm sau, chàng vào trong cửa hiệu bán binh khí ở phủ Kiến Ninh mua một thanh trường kiếm gói vào trong bao.

May mắn trên đường bình an vô sự, cho đến khi Lệnh Hồ Xung tận mắt thấy đoàn người phái Hằng Sơn đi vào một ni am ở phía Đông thành Phúc Châu. Trên cổng tòa ni am đề ba chữ “Vô Tướng am”, chàng thở phào nhẹ nhõm, thầm nghĩ: Trọng trách này xem như đã làm xong. Ta đã đồng ý với Định Tĩnh sư thái là dẫn bọn họ đến Vô Tướng am ở thành Phúc Châu, tuy chỉ đi sau hộ vệ nhưng tất cả đều bình an vô sự là coi như xong nhiệm vụ rồi.

Lệnh Hồ Xung quay người đi về hướng con đường lớn. Chàng hỏi thăm đường đến Phước Oai tiêu cục, nhưng nhất thời chưa muốn đi ngay nên chầm chậm lánh vào con hẻm nhỏ. Không hiểu chàng không dám đi gặp sư phụ sư nương hay là không dám tận mắt nhìn thấy thực trạng của tiểu sư muội và Lâm sư đệ. Lệnh Hồ Xung đi chầm chậm để kéo dài thời gian, dường như kéo dài được khắc nào hay khắc đó. Bỗng nhiên chàng nghe một giọng nói rất quen thuộc:

– Tiểu Lâm tử, rốt cuộc ngươi có chịu đi uống rượu với ta không?

Máu nóng trong ngực Lệnh Hồ Xung dâng lên, đầu choáng váng muốn ngất đi. Lệnh Hồ Xung vượt ngàn dặm đến Phúc Kiến là vì muốn nghe được giọng nói này và muốn nhìn mặt người nói ra giọng nói này. Bây giờ chàng đã nghe thật rồi mà không dám quay đầu lại. Trong khoảnh khắc, chàng ngây người, đờ ra như một pho tượng gỗ, mắt ngấn lệ. Chỉ nghe một tiếng xưng hô, một câu nói cũng đủ biết tiểu sư muội và Lâm sư đệ thân thiết nhau đến dường nào.

Lâm Bình Chi nói:

– Tiểu đệ không rảnh. Sư phụ đã giao cho bài học mà tiểu đệ vẫn chưa luyện thuộc.

Nhạc Linh San nói:

– Ba chiêu kiếm pháp này dễ ợt. Ngươi uống rượu với ta thì ta sẽ dạy những yếu quyết trong đó cho ngươi có được không?

Lâm Bình Chi nói:

– Sư phụ sư nương dặn chúng ta mấy hôm nay đừng la cà vào thành để khỏi chuốc lấy thị phi. Tiểu đệ thấy chúng ta nên về thôi.

Nhạc Linh San nói:

– Chẳng lẽ đi một vòng trên phố cũng không được sao? Ta chưa gặp một nhân vật võ lâm nào hết, hơn nữa dù có hào khách giang hồ đến đây, chúng ta cứ mặc họ. Nước sông không phạm nước giếng thì ngươi còn sợ cái gì?

Hai người vừa nói vừa đi xa dần.

Lệnh Hồ Xung từ từ quay người lại, thấy bóng dáng mảnh mai của Nhạc Linh San ở bên trái còn cái bóng cao cao của Lâm Bình Chi ở bên phải. Hai người sánh vai nhau mà đi. Nhạc Linh San mặc chiếc áo màu xanh biếc, quần màu xanh lục. Lâm Bình Chi mặc trường bào màu vàng nhạt. Y phục của cả hai tươi tắn, chỉ trông cái bóng sau lưng cũng biết đó là một đôi ngọc nhân tài mạo song toàn. Ngực Lệnh Hồ Xung như có vật gì đè nặng, dường như muốn nghẹt thở. Chàng và Nhạc Linh San đã xa nhau mấy tháng, tuy lúc nào cũng nhớ nhưng hôm nay chàng mới biết đã yêu thương cô ta quá sâu đậm. Tay đặt lên trường kiếm, Lệnh Hồ Xung hận không thể rút kiếm ra để đâm vào cổ tự tử. Bỗng nhiên trước mặt tối đen, chàng cảm thấy trời đất quay cuồng liền ngồi phệt xuống đất.

Một lúc sau, chàng định thần lại, từ từ đứng dậy, đầu óc còn choáng váng. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Ta vĩnh viễn không nên chạm mặt hai người này nữa để khỏi chuốc lấy khổ não mà chẳng ích lợi gì. Tối nay ta ngấm ngầm đến thăm sư phụ và sư nương, viết thư nói cho biết Nhậm Ngã Hành đã tái xuất giang hồ, sẽ làm khó dễ phái Hoa Sơn, người này võ công cao cường, xin hai vị lão nhân gia hãy cẩn thận. Ta cũng không cần để lại tên họ, từ nay sẽ đi xa mãi không bước vào Trung Nguyên nữa.

Lệnh Hồ Xung về đến khách điếm gọi rượu uống. Uống đến khi say khướt, chàng lăn ra giường ngủ.

Nửa đêm Lệnh Hồ Xung tỉnh dậy, vượt tường ra ngoài nhắm hướng Phước Oai tiêu cục mà đi. Tiêu cục kiến trúc hùng vĩ nên rất dễ nhận ra, nhưng trong tiêu cục đèn đuốc tắt ngấm không có động tĩnh gì. Chàng nghĩ bụng: Không biết sư phụ sư nương ở đâu? Bây giờ chắc họ đã ngủ rồi.

Ngay lúc này, thấy có bóng người ở đầu tường bên trái, một bóng đen vượt tường ra ngoài, nhìn thân người biết là phụ nữ. Người phụ nữ chạy về hướng Tây Nam, khinh công chính là thân pháp của bổn phái. Lệnh Hồ Xung đề khí đuổi theo, nhìn sau lưng thấy mang máng là Nhạc Linh San, chàng nghĩ: Nửa đêm canh ba tiểu sư muội đi đâu?

Nhạc Linh San men theo bức tường mà đi. Lệnh Hồ Xung cảm thấy hiếu kỳ, liền đi theo sau cách cô ta khoảng bốn năm trượng, chân bước nhẹ nhàng không để cho cô ta nghe một chút động tĩnh gì. Thành Phúc Châu đường sá dọc ngang, Nhạc Linh San chuyển qua hướng Đông rồi lại vòng qua hướng Tây. Rõ ràng là cô ta đã quen thuộc con đường này rồi, đến những ngã ba cô không do dự chút nào. Chạy được hơn hai dặm, cô đến bên một cái cầu đá, quẹo vào một con hẻm nhỏ.

Lệnh Hồ Xung phi thân lên nóc nhà, thấy cô ta chạy đến đầu con hẻm nhỏ, tung người nhảy qua bức tường vào trong một ngôi nhà lớn. Ngôi nhà này cửa sơn đen tường trắng, trên đầu tường phủ đầy bụi, dây leo già; trong nhà mấy cửa sổ đều có ánh sáng xuyên qua.

Nhạc Linh San đi đến dưới cửa sổ sương phòng phía Đông, ghé mắt nhìn qua khe cửa, đột nhiên cô hú lên mấy tiếng như quỷ kêu.

Lệnh Hồ Xung đã đoán rằng chỗ này chắc là chỗ ở của địch nhân nên cô ta đến để do thám, bỗng nhiên cô ta hú lên như vậy, vượt ra ngoài sự tưởng tượng của chàng, nhưng vừa nghe người trong cửa sổ lên tiếng, chàng liền hiểu ra.

Người trong cửa sổ nói:

– Sư tỷ, sư tỷ muốn hù cho tiểu đệ chết ư? Tiểu đệ chết sẽ biến thành quỷ, nhiều nhất cũng giống sư tỷ là cùng.

Nhạc Linh San cười nói:

– Lâm tử thúi tha, Lâm tử chó chết kia! Ngươi mắng ta là quỷ, liệu hồn kẻo ta moi tim gan ngươi ra bây giờ.

Lâm Bình Chi nói:

– Không cần sư tỷ đến moi tim gan, tự tiểu đệ sẽ moi ra đưa cho sư tỷ xem.

Nhạc Linh San cười nói:

– Được, ngươi nói xấu ta, ta sẽ đi mách má má cho coi.

Lâm Bình Chi cười nói:

– Nếu sư nương hỏi sư tỷ câu này tiểu đệ nói lúc nào, nói ở đâu, sư tỷ sẽ đáp sao đây?

Nhạc Linh San nói:

– Thì ta nói là sau giờ Ngọ hôm nay ngươi nói ở nơi luyện kiếm. Ngươi không dụng tâm luyện kiếm còn nói xấu ta.

Lâm Bình Chi nói:

– Sư nương mà tức giận thì nhốt sư đệ lại để ba tháng trời sư tỷ không gặp mặt tiểu đệ.

Nhạc Linh San nói:

– Hứ! Ta đâu có cần. Không gặp thì thôi! Này Tiểu Lâm tử thúi tha, ngươi còn không mở cửa sổ, làm cái trò gì vậy?

Trong tràng cười của Lâm Bình Chi, nghe rẹt một tiếng, cánh cửa sổ được đẩy ra. Nhạc Linh San thu người núp một bên. Lâm Bình Chi lẩm bẩm:

– Ta tưởng sư tỷ đến, thì ra chẳng có ai.

Gã làm bộ từ từ đóng cửa sổ lại. Nhạc Linh San tung mình nhảy chuồn qua cửa sổ, vào phòng.

Lệnh Hồ Xung ngồi co ro trong góc nhà, nghe hai người nói đùa qua lại. Chàng ngây người ra như không biết mình còn tồn tại trên đời nữa không. Chàng chỉ mong đừng nghe một câu nào nhưng từng câu nói cứ rõ ràng chui tọt vào tai. Trong sương phòng, hai người cứ cười nói rôm rả.

Cửa sổ chỉ khép hờ, bóng hai người chiếu lên cửa sổ bằng giấy, đầu hai người chụm vào nhau, tiếng cười dần dần nhỏ lại.

Lệnh Hồ Xung nhè nhẹ thở dài, muốn chạy khỏi nơi này. Bỗng nghe Nhạc Linh San hỏi:

– Khuya vậy mà ngươi chưa ngủ. Làm cái gì vậy?

Lâm Bình Chi nói:

– Tiểu đệ đang đợi sư tỷ.

Nhạc Linh San cười nói:

– Hứ, nói dóc mà, không sợ rụng răng ư? Sao ngươi biết ta sẽ đến?

Lâm Bình Chi nói:

– Sơn nhân thần cơ diệu toán, tâm huyết trỗi dậy liền bấm ngón tay tính thì biết hảo sư tỷ của tiểu đệ sắp đại giá quang lâm.

Nhạc Linh San nói:

– Ta biết rồi. Nhìn phòng của ngươi lộn xộn lung tung như vậy, chắc là ngươi lại tìm bộ kiếm phổ phải không?

Lệnh Hồ Xung đã đi được mấy bước, bỗng nghe hai chữ “kiếm phổ” liền giật mình quay người lại.

Chỉ nghe Lâm Bình Chi nói:

– Mấy tháng nay, căn nhà này cũng không biết bị tiểu đệ lục soát bao nhiêu lần, ngay cả ngói trên nóc nhà cũng bị lật từng tấm lên, chỉ còn mỗi tường là chưa đập ra xem xét thôi… Sư tỷ, căn nhà cũ này dù sao cũng không dùng nữa, chúng ta hãy phá tường ra xem, được không?

Nhạc Linh San nói:

– Đây là nhà của họ Lâm ngươi. Phá cũng được mà không phá cũng được, ngươi hỏi ta để làm gì?

Lâm Bình Chi nói:

– Đây là nhà của họ Lâm nên tiểu đệ mới phải hỏi sư tỷ.

Nhạc Linh San hỏi:

– Tại sao?

Lâm Bình Chi đáp:

– Không hỏi sư tỷ thì còn hỏi ai đây? Chẳng lẽ sư tỷ… tương lai sư tỷ không phải mang họ… không phải mang họ của tiểu đệ… hì… hì… hì hì.

Nhạc Linh San vừa cười vừa mắng:

– Lâm tử thúi tha, Lâm tử chết băm chết vằm, ngươi tính lấn lướt ta phải không? Lại nghe tiếng bốp bốp, rõ ràng cô ta dùng chưởng đánh Lâm Bình Chi.