Hai người ở trong nhà càng nói cười đùa giỡn thì lòng Lệnh Hồ Xung càng đau như dao cắt. Chàng muốn bỏ đi nhưng Tịch tà kiếm phổ đối với chàng có liên quan rất lớn. Lúc phụ mẫu của Lâm Bình Chi sắp chết, có mấy câu di ngôn nói lại cho con trai của họ. Lúc đó chỉ có một mình Lệnh Hồ Xung ở bên cạnh, do vậy mà chàng phải chịu bao nỗi oan uổng. Sau đó chàng được Phong thái sư thúc tổ truyền thụ kiếm pháp thần diệu của Độc Cô cửu kiếm nên trong phái Hoa Sơn ai ai cũng đều cho rằng Lệnh Hồ Xung nuốt không bộ Tịch tà kiếm phổ. Ngay cả tiểu sư muội là người hiểu chàng nhất cũng đem lòng hoài nghi.
Bình tâm mà nói thì chuyện này cũng không trách ai được. Ngày chàng ở trên ngọn núi sám hối, đã từng đấu kiếm thử với sư nương, đỡ không nổi chiêu Vô song vô đối, Ninh thị nhất kiếm. Nhưng ở trên núi được mấy tháng, đột nhiên kiếm thuật đại tiến, mà kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung lại khác hẳn với kiếm pháp của bổn môn, nếu không phải chàng được bí cấp kiếm pháp của phái khác thì làm sao có thể được như vậy? Mà bí cấp kiếm pháp của phái khác, nếu không phải là Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm thì còn là cái gì vào đây nữa?
Lệnh Hồ Xung bị hiềm nghi chỉ vì chàng đã hứa quyết không để lộ hành tung của Phong thái sư thúc tổ nên có miệng mà không thể biện minh được. Nhiều đêm chàng tự nghĩ, sở dĩ sư phụ trục xuất mình ra khỏi sư môn, xử sự đoạn tuyệt với mình như vậy, tuy nói là do kết giao với yêu nhân Ma giáo nhưng còn có một nguyên nhân quan trọng khác. Có lẽ sư phụ cho rằng mình nuốt bộ Tịch tà kiếm phổ, làm chuyện đê tiện, không còn đủ tư cách là môn hạ phái Hoa Sơn nữa. Bây giờ nghe Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi nói đến kiếm phổ, tuy hai người thân mật cười nói, chàng cũng cố nhịn nỗi đau xót mà tìm cho rõ trắng đen.
Nhạc Linh San nói:
– Ngươi đã tìm mấy tháng mà không được thì kiếm phổ tất nhiên không có ở đây, còn đập tường làm gì nữa? Đại sư ca… đại sư ca tùy miệng nói ra mà ngươi cũng tin thật sao?
Lệnh Hồ Xung lại nhói đau: Cô ta còn gọi ta là “đại sư ca”.
Lâm Bình Chi nói:
– Đại sư ca truyền di ngôn của gia gia tiểu đệ, nói là di vật tổ tiên ở trong ngôi nhà cũ ngõ Hướng Dương, không nên mở ra xem. Tiểu đệ nghi bộ kiếm phổ có thể bị đại sư ca mượn tạm, chắc chưa kịp trả lại…
Lệnh Hồ Xung buồn bã cười nhạt, nghĩ thầm: Ngươi nói có vẻ khách khí, không nói ta nuốt không mà nói ta “mượn tạm chưa trả lại”. Hà hà, đâu cần phải quanh co như vậy.
Lâm Bình Chi nói tiếp:
– Nhưng tiểu đệ nghĩ nhà cũ hẻm Hướng Dương, năm chữ này không thể do đại sư ca bịa đặt ra được, nhất định đúng là di ngôn của gia gia má má tiểu đệ. Đại sư ca và nhà tiểu đệ không hề quen biết, đại sư ca lại chưa bao giờ qua Phúc Châu, sẽ không biết Phúc Châu có ngõ Hướng Dương, càng không biết ngôi nhà cũ của tổ tiên nhà họ Lâm tiểu đệ ở ngõ Hướng Dương. Ngay cả người bản địa ở Phúc Châu cũng ít ai biết đến.
Nhạc Linh San hỏi:
– Nếu đúng là di ngôn của gia gia má má ngươi thì sao nào?
Lâm Bình Chi nói:
– Đại sư ca truyền thuật lại di ngôn của gia gia tiểu đệ, còn nhắc đến hai chữ “mở ra”, thì không biết mở ra xem Tứ thư Ngũ kinh hay sổ sách cũ gì. Suy đi nghĩ lại nhất định là có liên quan đến kiếm phổ. Sư tỷ, tiểu đệ nghĩ trong di ngôn của gia gia đã nhắc đến ngôi nhà cũ ở ngõ Hướng Dương, thì dù kiếm phổ đã không còn ở đây chắc cũng có thể phát hiện chút manh mối gì chăng?
Nhạc Linh San nói:
– Nói cũng phải. Mấy ngày nay ta thấy ngươi tinh thần sa sút, tối đến lại không chịu ngủ trong tiêu cục, mà nhất định quay về đây, ta không yên lòng chút nào, cho nên qua đây xem sao. Thì ra ban ngày ngươi luyện kiếm là phải gắng gượng để cho ta vui, tối đến lại vào đây tìm kiếm.
Lâm Bình Chi cười nhạt, gã thở dài rồi nói:
– Nghĩ đến cái chết của gia gia má má tiểu đệ thật thảm. Nếu tiểu đệ tìm được kiếm phổ, có thể dùng kiếm pháp tổ truyền của nhà họ Lâm để trả thù hầu an ủi linh hồn gia gia má má ở trên trời.
Nhạc Linh San nói:
– Không biết đại sư ca bây giờ đang ở đâu, ta có thể gặp được đại sư ca thì hay biết mấy, nhất định ta sẽ thay ngươi đòi lại kiếm phổ. Kiếm pháp của đại sư ca đã luyện rất cao minh rồi, kiếm phổ này cũng nên trả về chủ cũ. Tiểu Lâm tử, ngươi đừng nghĩ ngợi gì nữa, không cần ở trong ngôi nhà cũ này lục lạo tìm kiếm mãi. Nếu chưa có kiếm phổ thì nội việc luyện xong Tử hà thần công của gia gia ta cũng đủ để ngươi báo thù rồi.
Lâm Bình Chi nói:
– Đương nhiên rồi. Nhưng gia gia và má má khi còn sống bị người tra tấn nhục mạ rồi chết thảm như vậy, nếu có thể lấy kiếm pháp của Lâm gia tiểu đệ báo thù mới khiến cho phụ mẫu hả giận. Hơn nữa, Tử hà thần công của bổn môn xưa nay không dễ truyền cho đệ tử, tiểu đệ lại nhập môn sau cùng. Dù ân sư, sư nương có chiếu cố, các vị sư huynh sư tỷ cũng sẽ không phục, nhất định họ sẽ nói… nhất định nói…
Nhạc Linh San hỏi:
– Nhất định nói cái gì?
Lâm Bình Chi nói:
– Nhất định nói tiểu đệ chưa chắc thực lòng với sư tỷ, chẳng qua muốn dòm ngó bộ Tử hà thần công nên làm cho sư phụ sư nương vui lòng mà thôi.
Nhạc Linh San nói:
– Hứ! Người ngoài thích nói sao thì nói, cứ mặc kệ họ. Chỉ cần ta biết ngươi thật lòng với ta là được rồi.
Lâm Bình Chi cười nói:
– Sao sư tỷ biết tiểu đệ thật lòng?
Nhạc Linh San đánh bốp một tiếng, không biết đã đánh mạnh vào vai hay vào lưng gã. Cô cáu gắt nói:
– Ta biết ngươi giả nhân giả nghĩa, lòng lang dạ sói.
Lâm Bình Chi cười nói:
– Thôi được, đi lâu như vậy chúng ta phải về thôi. Tiểu đệ đưa sư tỷ về tiêu cục. Nếu bị sư phụ và sư nương biết được thì hỏng bét hết.
Nhạc Linh San nói:
– Ngươi đuổi ta về phải không? Ngươi đuổi ta về thì ta về. Ai mướn ngươi đưa tiễn?
Cô nói giọng rất không vui. Lệnh Hồ Xung biết bây giờ nhất định cô ta chu miệng, động chút là giận hờn để người khác phải đau lòng.
Lâm Bình Chi nói:
– Sư phụ nói tiền nhiệm giáo chủ Ma giáo Nhậm Ngã Hành tái xuất giang hồ, nghe đâu lão đến địa phận Phúc Châu. Người này võ công cao cường không thể lường được, lòng dạ thủ đoạn rất tàn độc. Sư tỷ đi đêm một mình nếu không may gặp phải lão thì… thì biết làm sao?
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra chuyện này sư phụ đã biết rồi. Phải rồi, ta náo loạn trên Tiên Hà Lĩnh như vậy, ai ai cũng đều nói là Nhậm Ngã Hành tái xuất, có lý nào sư phụ không biết tin này được? Ta cũng không cần viết bức thư báo tin cho sư phụ nữa.
Nhạc Linh San nói:
– Hừ, ngươi đưa ta về nếu không may gặp phải lão chẳng lẽ ngươi có thể bắt hay giết được lão ư?
Lâm Bình Chi nói:
– Sư tỷ biết rõ võ công của tiểu đệ kém cỏi, còn đem ra chế giễu nữa. Dĩ nhiên tiểu đệ đối phó với lão không nổi, nhưng chỉ cần cùng đi với sư tỷ thì dù có chết cũng được chết chung…
Nhạc Linh San dịu dàng nói:
– Tiểu Lâm tử, không phải ta nói võ công ngươi kém cỏi. Ngươi dụng công khổ luyện như vậy thì tương lai võ công của ngươi sẽ cao hơn ta nhiều. Kỳ thực ngoài kiếm pháp ngươi chưa thuần thục ra, nếu đấu thực sự thì có thể ta chưa phải là đối thủ của ngươi.
Lâm Bình Chi cười nhẹ, nói:
– Trừ khi sư tỷ dùng tay trái sử kiếm chúng ta mới có thể tỉ thí với nhau được.
Nhạc Linh San nói:
– Ta giúp ngươi tìm kiếm xem sao. Ngươi đã quen thuộc đồ đạc trong nhà, thấy chẳng có gì lạ, có thể ta sẽ thấy ra những thứ lạ mắt.
Lâm Bình Chi nói:
– Hay lắm, sư tỷ xem ở đây có cái gì khác lạ không?
Tiếp theo nghe tiếng mở ngăn kéo, bàn ghế. Một lúc sau, Nhạc Linh San nói:
– Ở đây cái gì cũng quá bình thường. Trong nhà của ngươi còn chỗ nào khác thường nữa không?
Lâm Bình Chi trầm ngâm một lúc rồi nói:
– Chỗ khác thường ư? Không có.
Nhạc Linh San hỏi:
– Sân luyện kiếm của nhà ngươi ở đâu?
Lâm Bình Chi đáp:
– Không có sân luyện kiếm. Tằng tổ phụ của tiểu đệ sau khi sáng lập ra tiêu cục thì dời đến tiêu cục ở. Tổ phụ và phụ thân của tiểu đệ đều ở tiêu cục luyện công. Hơn nữa trong di ngôn của gia gia tiểu đệ có hai chữ “mở ra” mà trong chỗ luyện kiếm thì không có thứ gì để “mở ra” cả.
Nhạc Linh San nói:
– Đúng rồi, chúng ta đến thư phòng của nhà ngươi xem sao.
Lâm Bình Chi nói:
– Nhà tiểu đệ mấy đời bảo tiêu, chỉ có trướng phòng chứ không có thư phòng. Trướng phòng cũng ở trong tiêu cục.
Nhạc Linh San nói:
– Vậy thì thật khó tìm. Trong ngôi nhà này có thứ gì có thể mở ra xem được?
Lâm Bình Chi nói:
– Câu nói của đại sư ca, tiểu đệ đã nghiền ngẫm. Đại sư ca nói gia gia của tiểu đệ bảo tiểu đệ không nên mở di vật của tổ tông ra xem, kỳ thực chắc là ý nói ngược lại là bảo tiểu đệ mở ra xem di vật của tổ tông để trong ngôi nhà cũ này. Nhưng ở đây có vật gì để mở ra xem đâu? Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có vài quyển kinh Phật của tằng tổ tiểu đệ.
Nhạc Linh San nhảy lên vỗ tay nói:
– Kinh Phật! Vậy thì hay quá. Đạt Ma lão tổ là sư tổ của võ học, trong kinh Phật có tàng ẩn kiếm phổ là chuyện bình thường.
Lệnh Hồ Xung nghe Nhạc Linh San nói, tinh thần liền phấn chấn, nghĩ thầm: Nếu Lâm sư đệ có thể tìm được bộ kiếm phổ đó ở trong kinh Phật thì hay biết mấy. Bọn họ sẽ không còn nghi ngờ ta đã nuốt không nó.
Nghe Lâm Bình Chi nói:
– Tiểu đệ đã mở ra xem rồi. Không những chỉ xem một hai lần mà không biết đã mở ra xem bao nhiêu lần, chỉ e cả trăm lần rồi. Tiểu đệ còn đi mua kinh Kim cang, kinh Pháp hoa, Tâm kinh, Lăng già kinh về để đối chiếu từng chữ trong kinh Phật mà tằng tổ phụ để lại, xác thực không sai chữ nào. Mấy cuốn kinh đó là kinh Phật bình thường thôi.
Nhạc Linh San nói:
– Vậy chẳng còn gì để mở ra xem hết.
Cô ta trầm ngâm một lúc rồi đột nhiên hỏi:
– Trong chỗ giáp trang của kinh Phật, ngươi có tìm qua chưa?
Lâm Bình Chi ngẩn người ra nói:
– Chỗ giáp trang ư? Tiểu đệ chưa nghĩ đến, vậy chúng ta đi xem sao.
Hai người cầm hai ngọn nến cùng dắt tay nhau từ sương phòng đi về hướng hậu viện. Lệnh Hồ Xung đi theo, hắn thấy cửa sổ của một gian phòng có ánh đèn hắt qua, sau cùng hai người đi đến một gian phòng ở góc Tây Bắc. Lệnh Hồ Xung đi theo rồi nhẹ nhàng nhảy xuống sân, ghé mắt vào khe cửa sổ nhìn vào trong. Bên trong là một gian Phật đường, treo một bức tranh thủy mặc vẽ Đạt Ma lão tổ quay mặt vào trong, thể hiện lại cảnh ngài diện bích chín năm. Phía Tây Phật đường có một tấm bồ đoàn rất cũ, trên bàn để một cái mõ, một cái chuông và một chồng kinh Phật. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Vị Lâm lão tiền bối này sáng lập ra Phước Oai tiêu cục, năm xưa oai danh chấn động xa gần, sát thương không biết bao nhiêu lục lâm đại đạo. Chắc lúc về già, lão ở đây sám hối nghiệp sát trong đời.
Lệnh Hồ Xung tưởng tượng một vị anh hùng hào kiệt khét tiếng giang hồ đến lúc về già ngồi trong Phật đường tĩnh mịch gõ mõ tụng kinh, lòng cảm thấy thật tịch mịch thê lương.
Nhạc Linh San cầm một bộ kinh nói:
– Chúng ta thử rọc kinh thư ra xem giữa trang có cái gì không. Nếu không có gì thì lấy đinh đóng lại như cũ. Ngươi xem có được không?
Lâm Bình Chi nói:
– Được!
Rồi gã cầm một quyển kinh, kéo đứt sợi dây đóng cuốn kinh, lấy từng trang mở ra, kiểm tra chỗ giáp trang có tích tự gì không.
Nhạc Linh San mở một cuốn kinh Phật khác, cầm từng trang soi vào ánh đèn.
Lệnh Hồ Xung nhìn cái bóng sau lưng cô ta, thấy bàn tay cô ta trắng muốt như ngọc, tay trái đeo một cái vòng bạc, có lúc mặt cô hơi nghiêng, hai người bốn mắt giao nhau, cùng cười rồi lại kiểm tra từng trang kinh. Không biết do ánh đèn chiếu vào hay do má cô ta ửng hồng, nhưng đủ để chàng thấy mặt cô ta tươi như hoa đào ngày xuân. Lệnh Hồ Xung đứng ngoài cửa nhìn đến ngẩn ngơ.
Hai người mở hết cuốn này qua cuốn khác, một lúc lâu sau đã mở hết mười hai quyển kinh Phật để trên bàn. Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung nghe sau lưng có tiếng động nhẹ. Chàng thụp người xuống, quay đầu lại, thấy bóng hai người từ trên nóc nhà hướng Nam tiến lại, cùng ra hiệu với nhau nhảy vào sân. Họ nhảy xuống không một tiếng động, ghé mắt qua khe cửa nhìn vào trong.
Một lúc lâu sau, Nhạc Linh San nói:
– Mở ra hết rồi mà không thấy gì hết.
Giọng nói của cô ta rất thất vọng. Bỗng nhiên cô lại nói:
– Tiểu Lâm tử, ta nhớ ra rồi, chúng ta đi kiếm một chậu nước lại đây.
Giọng nói của cô có vẻ phấn khởi. Lâm Bình Chi hỏi:
– Để làm gì?
Nhạc Linh San nói:
– Hồi còn nhỏ, ta đã từng nghe gia gia kể qua câu chuyện: có một loại cỏ, ngâm vào chất cường toan dùng để viết chữ. Chữ viết khô rồi không thấy gì nữa, nhưng nếu ngâm cho ướt thì chữ lại hiện ra.
Lệnh Hồ Xung lòng chua xót, nhớ lúc sư phụ kể câu chuyện này, Nhạc Linh San mới có tám chín tuổi và mình mười bảy mười tám tuổi. Câu chuyện cũ năm xưa bỗng hiện lên trong đầu. Chàng nhớ ngày hôm đó cùng với cô ta đi bắt dế để chọi, chàng bắt con dế to nhất khỏe nhất nhường cho cô ta, mà cô vẫn thua hoài. Cô ta khóc mãi không nín, chàng phải bày trò khôi hài mãi cô ta mới bật cười không giận nữa. Hai người cùng đi đến xin sư phụ kể chuyện cổ tích. Lệnh Hồ Xung nhớ lại chuyện này, nước mắt lại ứa ra.
Lâm Bình Chi nói:
– Đúng, phải thử xem sao.
Gã quay người đi. Nhạc Linh San nói:
– Ta đi với ngươi.
Nói rồi nắm tay nhau đi ra ngoài. Hai người mới đến núp sau cánh cửa sổ nín thở bất động. Một lúc sau, Lâm Bình Chi và Nhạc Linh San mỗi người bưng một chậu nước đi vào Phật đường, lấy bảy tám trang kinh Phật mở ra nhúng vào chậu nước. Lâm Bình Chi nôn nóng lấy một trang kinh Phật soi vào ánh đèn, không thấy có tích tự gì. Hai người thử hơn hai chục trang mà không phát hiện ra chút gì khác lạ.
Lâm Bình Chi thở dài nói:
– Thôi đừng thử nữa, không có chữ nào viết trên đó đâu.
Lâm Bình Chi vừa nói hai câu này, hai người núp ngoài cửa sổ nhẹ nhàng đi vòng ra cửa lớn không một tiếng động, đẩy cửa đi vào. Lâm Bình Chi quát:
– Ai đó?
Hai người xông thẳng vào cửa, thế nhanh như gió. Lâm Bình Chi vung tay toan đỡ thì đã bị một người điểm trúng huyệt. Nhạc Linh San mới rút trường kiếm ra được một nửa, song chỉ của địch nhân đã nhắm đâm vào mắt cô ta.
Nhạc Linh San đành phải buông chuôi kiếm giơ tay lên gạt ra. Tay phải người đó chụp ba cái đều nhắm vào yết hầu của cô. Nhạc Linh San kinh hãi lùi lại hai bước, lưng tựa vào bên bàn thờ không cách nào lùi lại được nữa. Tay trái của người đó vung lên cao nhắm đánh xuống đầu cô. Nhạc Linh San đưa song chưởng lên đỡ, không ngờ chưởng này của người đó là hư chiêu, tay phải điểm ra trúng hông bên trái của Nhạc Linh San. Cô đứng tựa vào bàn thờ không nhúc nhích được nữa.
Lệnh Hồ Xung chứng kiến mọi việc. Chàng thấy nhất thời không lo gì cho tính mạng của Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi nên không vội ra tay cứu, chờ xem bọn địch nhân lai lịch thế nào. Hai người này nhìn Đông nhìn Tây, một người nhấc cái bồ đoàn dưới đất lên xé làm đôi, người kia đánh bốp một chưởng, cái mõ bể thành bảy tám mảnh. Lâm Bình Chi và Nhạc Linh San không nói, không nhúc nhích được, thấy chưởng lực của hai người này như đao, như kiếm. Họ xé rách bồ đoàn, đánh vỡ cái mõ thì rõ ràng là đến tìm Tịch tà kiếm phổ. Gã thầm nghĩ: Không ngờ kiếm phổ lại giấu trong bồ đoàn và mõ.
Nhưng thấy trong bồ đoàn và mõ không có cất giấu vật gì, lòng gã mừng thầm.
Hai người này khoảng năm mươi tuổi, một lão hói đầu còn một lão tóc bạc trắng. Cả hai hành động thần tốc, trong khoảnh khắc đã đánh vỡ tất cả những đồ vật để trong Phật đường, trên bàn thờ; cho đến khi không còn vật gì để đánh vỡ nữa thì ánh mắt của hai người đều nhìn lên bức tranh vẽ hình Đạt Ma lão tổ. Lão đầu hói đưa tay trái ra nắm lấy bức tranh. Lão đầu bạc đưa tay ra cản rồi quát:
– Khoan đã, huynh đệ nhìn ngón tay của lão kìa.
Ánh mắt của Lệnh Hồ Xung, Lâm Bình Chi, Nhạc Linh San đều nhìn vào bức tranh, thấy trong bức tranh tay trái của đức Đạt Ma để ở sau lưng, dường như nắm kiếm quyết, còn ngón trỏ của tay phải chỉ lên nóc nhà. Lão đầu hói hỏi:
– Ngón tay của lão có gì lạ đâu?
Lão đầu bạc nói:
– Không biết! Thử xem sao.
Lão tung người lên, song chưởng nhắm đúng vào chỗ ngón tay trỏ của đức Đạt Ma trong bức tranh chỉ, lão đánh một chưởng lên nóc nhà. Rầm một tiếng, bụi màng nhện rớt xuống mù mịt. Lão đầu hói nói:
– Đâu có gì đâu?
Lão vừa nói bốn tiếng thì một bọc tròn từ trên nóc nhà rơi xuống. Đó là một cái áo cà sa của hòa thượng.
Lão đầu bạc chụp lấy soi vào ánh đèn rồi vui mừng nói:
– Nó… nó đây rồi!
Lão mừng quýnh, giọng nói cũng phát run lên. Lão đầu hói hỏi:
– Sao?
Lão đầu bạc nói:
– Huynh đệ xem đây.
Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn, thấy trên cà sa dường như thấp thoáng viết vô số chữ nhỏ.
Lão đầu hói hỏi:
– Đây phải chăng là Tịch tà kiếm phổ?
Lão đầu bạc nói:
– Chắc chắn là kiếm phổ. Hà hà hai huynh đệ chúng ta hôm nay lập được đại công rồi. Huynh đệ, đi thôi.
Lão đầu hói vui mừng đến nỗi không ngậm miệng lại được. Lão cẩn thận xếp áo cà sa lại bỏ vào trong túi, đưa tay trái chỉ vào Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi rồi hỏi:
– Đập chết chúng không?
Lệnh Hồ Xung cầm chuôi kiếm, chỉ đợi lão đầu bạc lộ ra ý muốn giết Lâm Bình Chi và Nhạc Linh San thì hắn xông vào giết hai lão già ngay.
Lão đầu bạc nói:
– Kiếm phổ đã ở trong tay thì không cần kết thâm thù với phái Hoa Sơn nữa. Mặc bọn chúng, đi thôi.
Hai lão sánh vai ra khỏi Phật đường rồi vượt tường ra đi.
Lệnh Hồ Xung liền vọt ra ngoài theo sau hai lão. Hai lão già cước bộ vô cùng thần tốc. Lệnh Hồ Xung sợ trong đêm tối hai người sẽ biến mất nên hắn càng chạy nhanh hơn, chỉ cách hai lão không quá ba trượng.
Đột nhiên lão già dừng bước, quay người lại. Chỉ thấy hào quang lóe lên một cái, Lệnh Hồ Xung cảm thấy vai phải và cánh tay đau buốt, chàng đã bị song đao của hai lão đồng thời chém trúng. Hai lão dừng lại đột ngột rồi quay người phóng đao, sự việc xảy đến nhanh như chớp.
Nội lực Lệnh Hồ Xung thâm h ậu, kiếm pháp cao minh nhưng kỹ thuật ứng biến quá chiêu lúc lâm địch so với hạng đệ nhất cao thủ thì còn kém xa. Khi đối phương đột ngột xuất chiêu, đừng nói rút kiếm ra đỡ mà ngay cả đụng ngón tay đến chuôi kiếm cũng không kịp. Chàng đã bị thương rồi.
Đao pháp của hai lão già cực nhanh, chiêu đầu tiên đã đắc thủ nên chiêu thứ hai liền chém đến.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi vội nhảy lùi ra sau. May mà nội lực của chàng cực kỳ thâm hậu nên nhảy một cái đã lùi ra hai trượng, tiếp theo chàng tung người nhảy lùi hai trượng nữa. Hai lão già thấy Lệnh Hồ Xung bị trọng thương mà vẫn nhảy nhanh như vậy đều giật mình, xông lên.
Lệnh Hồ Xung liền quay người chạy đi. Lúc đầu vai và cánh tay bị thương không đau lắm, bây giờ đau muốn ngất đi mấy lần. Chàng nghĩ thầm: Hai lão này ăn cắp áo cà sa, chắc trên áo chép Tịch tà kiếm phổ, thì nỗi oan uổng của ta suốt đời không giải được. Bất cứ giá nào ta cũng phải đoạt về để trả cho Lâm sư đệ.
Lệnh Hồ Xung liền cố chịu đau, đưa tay rút trường kiếm ra, chỉ được một nửa thì rút không nổi nữa. Sau khi cánh tay phải bị trúng đao chàng không cách nào vận khí được. Bỗng nghe phía sau có tiếng gió, cương đao của địch nhân chém đến. Lệnh Hồ Xung đề khí nhảy vội về trước, tay trái cố sức giật mạnh một cái, kéo đứt cả thắt lưng mới nắm được trường kiếm trong tay. Chàng vận kình lực quăng vỏ kiếm xuống đất, vội quay người lại nhưng cảm thấy khí lạnh xông vào mặt, song đao đã đồng thời chém đến.
Lệnh Hồ Xung lại nhảy lùi. Lúc này trời đã gần sáng, nhưng trước khi trời sáng lại tối sầm lại. Ngoài ánh đao lấp loáng ra, mở to mắt cũng không nhìn thấy gì hết. Lệnh Hồ Xung đã học được Độc Cô cửu kiếm, yếu chỉ của kiếm pháp này là thấy được chỗ sơ hở trong chiêu số của địch nhân mới thừa thế mà đánh vào. Bây giờ, không nhìn thấy được chiêu thức và thân pháp của địch nhân nên kiếm pháp không sử ra được. Chàng cảm thấy tay trái lại đau buốt vì bị đao của địch nhân chém một đường, đành phóng kiếm chênh chếch ra rồi vội chạy đi, tay trái cầm kiếm bịt vào chỗ vết thương ở vai phải để khỏi bị mất nhiều máu.
Hai lão già đuổi một lúc, nhưng cước bộ của Lệnh Hồ Xung cực nhanh, hai lão đuổi không kịp. May mà hai lão đã đoạt được kiếm phổ, không muốn sinh thêm nhiều chuyện rắc rối, liền dừng lại không đuổi theo nữa, rồi quay người đi. Lệnh Hồ Xung la lên:
– Này, tặc tử to gan, ăn trộm rồi định bỏ trốn hả?
Lệnh Hồ Xung quay người đuổi theo. Hai lão già tức giận liền quay người lại vung đao nhắm chém Lệnh Hồ Xung, chàng không dám giao đấu chính diện với hai lão nên bỏ chạy, lòng ngấm ngầm cầu khẩn: Có ai cầm ngọn đèn lồng qua đây thì hay biết mấy.
Lệnh Hồ Xung chạy được mấy bước, bỗng nhanh trí, nhảy lên nóc nhà nhìn bốn phía một lượt, thấy trong gian nhà phía trước bên trái có ánh đèn tỏa ra, chàng liền chạy nhanh về hướng có ánh đèn. Hai lão già lại dừng bước không đuổi theo nữa.
Lệnh Hồ Xung cúi người, lấy hai miếng ngói ném qua hai lão rồi quát:
– Các ngươi ăn cắp Tịch tà kiếm phổ của Lâm gia, một tên đầu hói, một tên đầu bạc dù cố chạy đến chân trời góc biển hán tử võ lâm cũng phải bắt các ngươi bằm ra muôn mảnh.
Chát chát hai tiếng vang lên, hai miếng ngói rớt xuống đường đá xanh vỡ tan tành.
Hai lão già nghe đối phương la lên tên Tịch tà kiếm phổ liền đuổi theo về hướng ngôi nhà.
Lệnh Hồ Xung nghe chân mình nhũn ra, lực khí càng lúc càng yếu dần. Chàng hít mạnh một hơi, nhắm về hướng có ánh đèn mà chạy cuống lên. Đột nhiên chàng loạng choạng té từ trên nóc nhà xuống, vội thi triển chiêu Lý ngư đả đỉnh lộn người đứng dậy dựa vào bức tường.
Hai lão già nhẹ nhàng nhảy xuống phân ra đứng hai bên. Lão đầu hói cười man rợ nói:
– Lão tử đã mở cho ngươi một con đường sống mà ngươi không chịu chạy đi.
Lệnh Hồ Xung thấy đầu lão bóng lưỡng như bôi dầu, lòng hắn run lên: Thì ra trời đã sáng.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Hai vị thuộc môn phái nào, tại sao muốn giết tại hạ mới hả dạ?
Lão đầu bạc vung đơn đao lên nhắm đánh xuống đầu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung đưa kiếm qua tay phải nhẹ nhàng phóng ra, mũi kiếm đã đâm vào yết hầu của lão.
Lão đầu hói giật mình múa đao xông thẳng đến. Lệnh Hồ Xung chém kiếm ra trúng vào cổ tay của lão, cả đao lẫn cổ tay đều bị chém rơi xuống. Lệnh Hồ Xung chỉ mũi kiếm vào yết hầu của lão rồi quát:
– Hai ngươi là người môn phái nào, nói ra ngay thì ta tha mạng cho.
Lão đầu hói cười gằn, nói giọng thê lương:
– Huynh đệ ta tung hoành giang hồ, hiếm khi gặp địch thủ, hôm nay chết dưới kiếm của tôn giá thật khâm phục, khâm phục. Có điều không biết cao danh quý tánh của tôn giá, ta có chết cũng thành con ma hồ đồ.
Lệnh Hồ Xung thấy tuy lão bị đứt một cánh tay nhưng vẫn khí khái hiên ngang. Chàng kính trọng lão là một hán tử cương liệt bèn nói:
– Tại hạ bắt buộc phải tự vệ, kỳ thực không hề quen biết hai vị. Tại hạ lỡ tay đả thương người, thật là có lỗi. Chiếc áo cà sa đó giao lại cho tại hạ, thì chúng ta từ biệt ở đây.
Lão đầu hói gằn giọng nói:
– Ngốc ưng ta đâu phải là hạng người dễ đầu hàng.
Lão xoay tay trái đâm cây trủy thủ vào ngực.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Người này thà chết chứ không chịu khuất phục, quả là một hảo hán.
Lệnh Hồ Xung cúi người xuống lấy chiếc áo cà sa trong người lão. Bỗng chàng cảm thấy đầu choáng váng, biết mình đã mất máu quá nhiều, bèn xé tạm vạt áo, cột bừa lên vết thương ở cánh tay và đầu vai, mới lấy được chiếc áo cà sa trong trong túi lão đầu hói ra.
Lệnh Hồ Xung hít vào thở ra mấy cái, phân biệt phương hướng rồi đi về hướng ngôi nhà cũ ngõ Hướng Dương của Lâm Bình Chi. Đi được mấy chục trượng, chàng cảm thấy khó chống chọi nổi, thầm nghĩ: Nếu ta té xuống, không những tính mạng không bảo toàn mà sau khi chết người ta còn cho rằng ta ăn trộm Tịch tà kiếm phổ, trong người có tang vật, chết mà vẫn bị ô danh.
Chàng liền gắng gượng chống đỡ, cuối cùng cũng đi đến được ngõ Hướng Dương.
Cổng lớn nhà họ Lâm đóng chặt, Lâm Bình Chi và Nhạc Linh San lại bị điểm huyệt, không ai mở cửa. Chàng muốn nhảy vào trong tường nhưng không còn chút lực khí, đành phải đập cửa mấy cái rồi vung cước đá vào cánh cửa lớn.
Cái đá này không mở ra được cánh cửa mà còn khiến chàng bị dội người lại rồi ngất đi.
Khi Lệnh Hồ Xung tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên giường. Mở mắt ra, thấy vợ chồng Nhạc Bất Quần đứng ở đầu giường, Lệnh Hồ Xung vui mừng gọi:
– Sư phụ, sư nương… đệ tử… đệ tử…
Lệnh Hồ Xung cảm động, không kìm được, nước mắt chảy dài. Chàng gắng gượng ngồi dậy. Nhạc Bất Quần không đáp, chỉ hỏi:
Trong giọng nói của bà đầy vẻ quan hoài, khóe mắt đỏ hoe.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tịch tà kiếm phổ của Lâm sư đệ bị hai lão già cướp đi, đệ tử giết hai lão đoạt lại đem về. Hai lão… hai lão đó chắc là hảo thủ trong Ma giáo.
Lệnh Hồ Xung mò trong người, chiếc áo cà sa đã không còn, hắn vội hỏi:
– Tấm… áo cà sa đâu rồi?
Nhạc phu nhân hỏi:
– Nó là cái gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Trên cà sa có viết chữ, có lẽ là Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm.
Nhạc phu nhân nói:
– Đó là vật của Lâm Bình Chi, nên phải để hắn giữ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy. Sư nương, sư nương và sư phụ đều khỏe chứ? Các vị sư đệ sư muội khỏe không?
Nhạc phu nhân đỏ hoe mắt, đưa tay lên lau nước mắt, nói:
– Mọi người đều khỏe cả.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Sao đệ tử lại đến được đây? Sư phụ và sư nương cứu đệ tử đưa về đây phải không?
Nhạc phu nhân nói:
– Sáng sớm hôm nay, ta đến ngôi nhà cũ ở ngõ Hướng Dương của Lâm Bình Chi, thấy ngươi nằm ngất xỉu ngoài cổng.
Lệnh Hồ Xung ừm một tiếng, rồi nói:
– May mà sư nương đến sớm, nếu không bọn yêu nhân Ma giáo đến trước thấy được thì hài nhi đã mất mạng rồi.
Lệnh H ồ Xung biết sư nương sáng sớm không thấy con gái liền đến ngôi nhà cũ trong ngõ Hướng Dương tìm. Chuyện này bà không tiện nói cho hắn nghe.
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi nói ngươi giết hai tên yêu nhân Ma giáo. Sao ngươi biết chúng là người của Ma giáo?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đệ tử đến từ phương Nam, trên đường gặp không ít người trong Ma giáo, đã động thủ với bọn chúng mấy lần. Hai lão già đó võ công kỳ lạ, hiển nhiên không phải là người trong chính giáo ta.
Lệnh Hồ Xung mừng thầm: Ta đoạt lại Tịch tà kiếm phổ trả lại cho Lâm sư đệ thì sư phụ, sư nương, tiểu sư muội sẽ không nghi ngờ ta nữa. Ngoài ra ta còn giết hai tên yêu nhân Ma giáo, chắc sư phụ không còn trách ta đã cấu kết với Ma giáo.
Nào ngờ vẻ mặt Nhạc Bất Quần tái xanh. Lão hứ một tiếng rồi gằn giọng nói:
– Đến bây giờ mà ngươi vẫn nói nhăng nói cuội! Chẳng lẽ ta dễ bị ngươi gạt lắm sao?
Lệnh Hồ Xung kinh hãi vội nói:
– Đệ tử quyết không dám lừa dối sư phụ.
Nhạc Bất Quần nghiêm khắc nói:
– Ai là sư phụ của ngươi? Nhạc mỗ và ngươi đã không còn danh phận sư đồ từ lâu rồi.
Lệnh Hồ Xung từ trên giường lăn xuống đất, quỳ gối vừa lạy vừa nói:
– Đệ tử làm nhiều chuyện sai quấy, nguyện lãnh trừng phạt của sư phụ… nhưng… nhưng hình phạt trục xuất khỏi môn tường xin sư phụ thu hồi lại.
Nhạc Bất Quần tránh sang một bên không nhận đại lễ của hắn mà lạnh lùng nói:
– Tiểu thư của Nhậm giáo chủ Ma giáo đã để mắt đến ngươi, ngươi đã cấu kết với bọn chúng từ lâu rồi thì còn cần đến sư phụ để làm gì?
Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên nói:
– Tiểu thư của Nhậm giáo chủ Ma giáo ư? Sư phụ nghe ai nói vậy? Tuy đệ tử nghe nói… Nhậm Ngã Hành có một con gái, nhưng đệ tử chưa bao giờ gặp qua cô ta.
Nhạc phu nhân nói:
– Xung nhi, đến nước này mà ngươi còn nói dối làm gì?
Bà thở dài rồi nói tiếp:
– Vị Nhậm tiểu thư đó triệu tập những kẻ bàng môn tả đạo trên giang hồ lên Ngũ Bá Cương tỉnh Sơn Đông để trị bệnh cho ngươi. Ngày hôm ấy chúng ta cũng có ở đó…
Lệnh Hồ Xung vô cùng sợ hãi, run run nói:
– Vị cô nương trên Ngũ Bá Cương, cô ta… cô ta… Doanh Doanh… cô ta là con gái của Nhậm giáo chủ ư?
Nhạc phu nhân nói:
– Ngươi cứ đứng dậy rồi nói.
Lệnh Hồ Xung từ từ đứng dậy, lòng rất đỗi hoang mang. Chàng lẩm bẩm: Cô ta… cô ta là con gái của Nhậm giáo chủ sao? Chuyện này sao chưa nghe ai nói qua?
Nhạc phu nhân không vui nói:
– Tại sao đối với sư phụ sư nương mà ngươi còn muốn nói dối?
Nhạc Bất Quần tức giận nói:
– Ai là sư phụ sư nương của hắn?
Lão giơ tay đánh lên bàn một chưởng, góc bàn liền bị vỡ mất một miếng.
Lệnh Hồ Xung hoảng sợ nói:
– Đệ tử quyết không dám lừa dối sư phụ, sư nương…
Nhạc Bất Quần gằn giọng nói:
– Nhạc mỗ có mắt không tròng, đã thu nhận thứ tiểu tử vô liêm sỉ như ngươi, thực là xấu hổ với anh hào thiên hạ. Có phải ngươi muốn ta phải chịu ô danh? Ngươi còn gọi một tiếng sư phụ sư nương thì ta lập tức giết ngươi ngay!
Lúc lão giận, mặt hiện lên sắc tía. Lão đã thực tức giận đến cực điểm.
Lệnh Hồ Xung dạ, đưa tay vịn thành giường, mặt không còn chút máu, lảo đảo muốn té. Chàng chuyển giọng:
– Bọn họ trị thương cho tại hạ là chuyện có thật, nhưng… nhưng không ai nói cho tại hạ biết cô ta… là con gái của Nhậm giáo chủ.
Nhạc phu nhân nói:
– Ngươi thông minh, lanh lợi cơ trí như vậy sao không đoán ra được? Cô ta là một cô nương nhỏ tuổi, chỉ một câu nói đã điều động được những kẻ sĩ tả đạo của Tam sơn Ngũ nhạc, ai ai cũng tranh nhau đến trị thương cho ngươi. Trừ Nhậm tiểu thư của Ma giáo ra thì ai có thể có oai quyền bằng trời như vậy?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đệ… tại hạ… lúc đó tại hạ chỉ biết cô ta là một vị bà bà.
Nhạc phu nhân hỏi:
– Cô ta cải trang dung mạo sao?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đâu có, nhưng… nhưng lúc đó tại hạ chưa thấy.
Nhạc Bất Quần cười khẩy mấy tiếng nhưng nét mặt không có chút gì là cười.
Nhạc phu nhân thở dài nói:
– Xung nhi, ngươi đã lớn rồi mà tính cách cũng không thay đổi. Lời ta nói ngươi cũng không để tâm tới.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Sư… sư… tại hạ đối với lời nói của lão nhân gia, thật… thật… thật không…
Chàng muốn nói “Tại hạ đối với lão nhân gia thật không dám cãi lời” nhưng sự thật sư phụ và sư nương bảo chàng không được kết giao với người trong Ma giáo, chàng lại có liên quan với mấy người như Doanh Doanh, Hướng Vấn Thiên, Nhậm Ngã Hành thì đâu chỉ là “kết giao” mà thôi?
Nhạc phu nhân lại nói:
– Dù tiểu thư của Nhậm giáo chủ đối xử tốt với ngươi, ngươi vì muốn sống mà bảo cô ta tìm người trị bệnh cho ngươi, hoặc giả còn có nguyên nhân…
Nhạc Bất Quần tức giận nói:
– Có nguyên nhân cái gì? Vì muốn sống thì cái gì cũng làm được hết sao?
Bình thường lão đối với sư muội kiêm phu nhân này bao giờ cũng nhã nhặn, lịch thiệp. Nhưng hôm nay lão lại cáu giận, gằn giọng cắt lời bà, có thể thấy lão vô cùng tức giận. Nhạc phu nhân hiểu rõ tâm trạng của trượng phu nên cũng không chấp nhứt. Bà nói tiếp:
– Nhưng tại sao ngươi lại cấu kết với Hướng Vấn Thiên, một đại ma đầu trong Ma giáo, sát hại không ít đồng đạo chính phái? Hai tay của ngươi đã nhuốm đầy máu của kẻ sĩ chính giáo, ngươi… ngươi mau đi đi.
Lệnh Hồ Xung lạnh toát cả người. Chàng nhớ lại ngày ở lương đình, trên vực thẳm, mình cùng với Hướng Vấn Thiên nghênh địch, quả thực có không ít người trong chính giáo vì mình mà chết. Tuy nói lúc ác đấu nếu không giết người thì bị người giết, thật là chuyện ngoài ý muốn, nhưng lại kết thành món nợ máu đeo đẳng suốt đời.
Nhạc phu nhân nói:
– Dưới Ngũ Bá Cương, ngươi còn liên thủ với tiểu thư Ma giáo, giết hại mấy đệ tử phái Côn Luân và phái Thiếu Lâm. Xung nhi, trước đây ta xem ngươi như con ruột của ta, nhưng chuyện đến nước này, ngươi… sư nương ngươi cũng bất lực, không cách nào che chở cho ngươi được nữa.
Bà nói đến đây, hai hàng nước mắt chảy dài trên má.
Lệnh Hồ Xung buồn bã nói:
– Đúng là hài nhi đã làm nhiều chuyện sai trái, tội không thể tha. Nhưng chuyện mình làm mình chịu, quyết không để thanh danh của phái Hoa Sơn bị ô nhục. Xin hai vị lão nhân gia mở pháp đường, mời anh hùng các môn các phái tham dự, đem hài nhi ra xử quyết, để tỏ rõ môn quy của phái Hoa Sơn.
Nhạc Bất Quần thở dài nói:
– Lệnh Hồ sư phó, nếu hôm nay sư phó còn là đệ tử môn hạ phái Hoa Sơn ta thì chuyện này sẽ xử được. Tính mạng của sư phó mất đi thì thanh danh của phái Hoa Sơn ta vẫn được toàn vẹn, tình thầy trò giữa ta và sư phó vẫn còn. Nhưng ta đã sớm truyền thư đi khắp thiên hạ, trục xuất sư phó ra khỏi môn tường. Những việc làm của sư phó từ nay về sau không còn dính dáng gì đến phái Hoa Sơn nữa. Ta đâu có thân phận gì để xử trí sư phó? Hì hì, chính tà không đội trời chung, lần sau sư phó tác tệ mà gặp phải tay ta, yêu tà gian tặc ai ai cũng muốn tru diệt, thì ta không dễ tha cho sư phó đâu.
Lão nói đến đây thì ngoài phòng có người gọi:
– Sư phụ, sư nương!
Đó là Lao Đức Nặc. Nhạc Bất Quần hỏi:
– Chuyện gì?
Lao Đức Nặc đáp:
– Bên ngoài có người muốn bái kiến sư phụ sư nương, nói là Chung Trấn phái Tung Sơn và hai sư đệ của lão.
Nhạc Bất Quần nói:
– Cửu khúc kiếm Chung Trấn cũng đến Phúc Kiến sao? Được, để ta xem. Lão liền ra khỏi phòng.
Nhạc phu nhân đưa mắt nhìn Lệnh Hồ Xung, trong ánh mắt chứa đầy sự bao dung, dường như có điều gì muốn nói. Bà bảo Lệnh Hồ Xung chờ ở đây rồi đi ra ngoài.
Từ nhỏ Lệnh Hồ Xung đối với sư nương tình chẳng khác gì mẫu thân. Thấy bà tỏ vẻ thương yêu, lòng chàng hối hận vô cùng, thầm nghĩ: Nhiều chuyện xảy ra như vậy là do ta hành sự theo bản tính, thị phi thiện ác không phân biệt rõ ràng. Hướng đại ca rõ ràng không phải là chính nhân quân tử, sao ta không hỏi nguyên do mà cứ xông vào giúp lão đấu? Ta chết cũng không tiếc nhưng làm cho sư phụ sư nương phải mất mặt. Trong phái Hoa Sơn có một đệ tử tác tệ như vậy thì ngay cả các sư đệ sư muội cũng hổ thẹn.
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Thì ra Doanh Doanh là con gái của Nhậm giáo chủ, chẳng trách bọn Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu đối với cô ta quá tôn sùng. Cô ta chỉ nói một câu đã khiến bao nhiêu hào sĩ trên giang hồ xung phong đi về đảo hoang ở Đông Hải, suốt đời không được trở về Trung Nguyên. Ôi, ta phải nghĩ ra mới phải. Trong võ lâm trừ giáo chủ của Ma giáo ra thì có ai có quyền thế như vậy? Nhưng lúc cô ta ở cùng với ta, kiều diễm thướt tha, so với tiểu sư muội còn đẹp hơn ba phần, làm sao mà ta nghĩ ra được cô ta lại là đại nhân vật trong Ma giáo? Mà lúc Nhậm giáo chủ bị Đông Phương Bất Bại cầm tù dưới đáy hồ, làm sao con gái của lão lại có quyền thế ghê gớm vậy?
Đang lúc tư tưởng Lệnh Hồ Xung như triều dâng, bỗng nghe có tiếng bước chân. Một người thoáng vào phòng, chính là tiểu sư muội mà chàng ngày đêm tưởng nhớ. Lệnh Hồ Xung gọi:
Lệnh Hồ Xung không nói tiếp được nữa. Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca mau… mau rời khỏi nơi đây ngay. Người phái Tung Sơn đang tìm đại sư ca để tính sổ đó.
Giọng cô rất vội vã. Lệnh Hồ Xung vừa thấy Nhạc Linh San đến thì chuyện to bằng trời cũng bỏ mặc, cái gì phái Tung Sơn với không phái Tung Sơn căn bản không cần để tâm đến. Chàng ngơ ngẩn nhìn cô ta, bao nhiêu nỗi buồn vui cay đắng trỗi dậy trong lòng.
Nhạc Linh San thấy Lệnh Hồ Xung nhìn cô không chớp mắt, mặt cô hơi ửng đỏ. Cô nói:
– Có một người họ Chung gì đó dẫn hai tên sư đệ nói đại sư ca đã giết người phái Tung Sơn nên họ truy tìm đến đây.
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, buồn bã nói:
– Ta giết người phái Tung Sơn ư? Không có đâu.
Bỗng rầm một tiếng, cánh cửa bị đẩy ra. Nhạc Bất Quần tức giận hầm hầm đi vào, gằn giọng nói:
– Lệnh Hồ Xung, ngươi làm chuyện hay thật! Ngươi đã giết tiền bối võ lâm phái Tung Sơn mà lại nói là yêu nhân Ma giáo để gạt ta.
Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên hỏi:
– Đệ… tại hạ… tại hạ đã giết tiền bối võ lâm phái Tung Sơn ư? Tại hạ… tại hạ không có…
Nhạc Bất Quần tức giận nói:
– Bạch đầu tiên ông Bốc Trầm, Ngốc ưng Sa Thiên Giang, hai người này có phải do ngươi giết không?
Lệnh Hồ Xung nghe ngoại hiệu của hai người này, nhớ lại lúc lão đầu hói tự sát, đã nói câu: “Ngốc ưng ta đâu phải là hạng người dễ đầu hàng”. Vậy lão đầu bạc kia là cái gì Bạch đầu tiên ông Bốc Trầm rồi. Chàng bèn nói:
– Một lão đầu bạc, một lão đầu hói quả thực do tại hạ giết. Tại hạ… tại hạ không biết hai lão là môn hạ phái Tung Sơn. Họ sử đơn đao, hoàn toàn không phải là võ công của phái Tung Sơn.
– Đi ra! Ai bảo ngươi vào đây? Ta đang nói chuyện ai cần ngươi chõ miệng vào?
Nhạc Linh San cúi đầu từ từ ra khỏi phòng.
Lòng Lệnh Hồ Xung vừa buồn bã vừa vui mừng: Tuy tiểu sư muội yêu Lâm Bình Chi nhưng đối với ta vẫn còn có nghĩa tình. Cô ta dám ngắt lời phụ thân, trước đó còn vào báo tin cho ta biết, muốn ta mau tránh cái họa này.
Nhạc Bất Quần cười nhạt nói:
– Võ công của các phái trong Ngũ Nhạc kiếm phái ngươi đều không biết sao? Hai vị Bốc, Sa này ở bang chi của phái Tung Sơn, ngươi lòng dạ độc ác, không biết dùng thủ đoạn đê tiện gì giết hại họ, lại đem vết máu đến ngôi nhà cũ của Bình Chi ở ngõ Hướng Dương. Phái Tung Sơn vừa điều tra ra và đã tìm đến đây. Bây giờ Chung sư huynh phái Tung Sơn đang ở bên ngoài, bắt ta giao người, ngươi còn gì để nói nữa không?
Nhạc phu nhân đi vào phòng nói:
– Bọn họ đâu có tận mắt thấy Xung nhi giết người. Chỉ dựa vào mấy vết máu cũng không thể nhận định là người trong tiêu cục chúng ta giết. Chúng ta chối phắt là được rồi.
Nhạc Bất Quần tức giận nói:
– Sư muội, đã đến nước này mà sư muội còn che chở cho tên vô lại không chuyện ác gì không làm ư? Ta đường đường là chưởng môn phái Hoa Sơn, làm sao có thể vì tên tiểu súc sinh mà nói dối? Sư muội… sư muội… chúng ta hành xử như vậy thì tự làm cho thân bại danh liệt.
Mấy năm nay Lệnh Hồ Xung thường nghĩ sư phụ sư nương là sư huynh muội mà kết thành quyến thuộc, nếu có một ngày mình có thể cùng với tiểu sư muội giống như vậy thì thật là vạn sự mỹ mãn, không còn cầu gì hơn. Bây giờ thấy sư phụ đối với sư nương lại vô cùng nghiêm khắc, lòng chàng bỗng nghĩ: Nếu tiểu sư muội là thê tử của ta, thì cô ta muốn làm gì, ta cứ để cô ta tự do, chuyện tốt cũng được mà chuyện xấu cũng được, ta quyết không làm gì nghịch ý cô ta. Cô ta muốn ta làm một chuyện gì xấu xa độc ác ta cũng không chau mày.
Nhạc Bất Quần dán mắt nhìn vào mặt Lệnh Hồ Xung, bỗng lão thấy mặt chàng lộ ra nụ cười ôn hòa, ánh mắt trìu mến nhìn con gái lão đang đứng ngoài cửa phòng. Lão tức giận quát:
– Tiểu súc sinh, đến thế này mà lòng ngươi còn có ý bại hoại sao?
Nhạc Bất Quần quát một tiếng, khiến cho Lệnh Hồ Xung chợt tỉnh. Chàng ngẩng đầu lên thấy mặt sư phụ bừng bừng tử khí, đưa chưởng lên muốn đánh xuống đầu mình. Bỗng nhiên chàng vui mừng khôn xiết, cảm thấy sống trên đời này thật vô vị, hôm nay được chết dưới tay của sư phụ thật là sung sướng vì được giải thoát mọi nỗi đau khổ. Nhất là khi có tiểu sư muội ở bên, thấy chàng bị phụ thân nàng vung chưởng đánh chết, thì đó là chuyện chàng rất mong muốn. Lệnh Hồ Xung mỉm cười, ánh mắt hướng về Nhạc Linh San, chờ sư phụ vung chưởng đánh xuống.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy có tiếng gió trên đầu, chưởng của Nhạc Bất Quần sắp đánh xuống, bỗng nghe Nhạc phu nhân la lên:
– Đừng đánh!
Bà vung ngón tay điểm vào huyệt Ngọc chẩm sau cổ của trượng phu. Hai vợ chồ ng từ nhỏ cùng học võ nghệ, cùng chiết chiêu với nhau, dĩ nhiên cả hai rất hiểu nhau. Chỗ điểm huyệt này của Nhạc phu nhân là một yếu huyệt chí mạng, dĩ nhiên Nhạc Bất Quần phải thu chưởng về để đỡ. Nhạc phu nhân thoáng một cái, lạng người cản trước mặt Lệnh Hồ Xung.
Sắc mặt Nhạc Bất Quần tái xanh, lão tức giận hỏi:
– Sư muội… sư muội làm cái gì vậy?
Nhạc phu nhân vội la lên:
– Xung nhi, mau chạy đi, chạy đi!
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Đệ tử không đi, sư phụ muốn giết đệ tử thì giết. Đệ tử đáng tội lắm.
Nhạc phu nhân dậm chân nói:
– Có ta ở đây, lão không giết được ngươi đâu, mau chạy đi. Chạy cho thật xa, vĩnh viễn đừng quay lại đây nữa.
Nhạc Bất Quần nói:
– Hừ, hắn mà đi thì ba người phái Tung Sơn ở ngoài sảnh chúng ta đối phó sao đây?
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra sư phụ lo lắng không ứng phó nổi bọn Chung Trấn, ta phải thay sư phụ đánh dẹp bọn chúng mới được.
Lệnh Hồ Xung bèn lớn tiếng nói:
– Được, để đệ tử đi gặp bọn chúng.
Chàng nói vậy liền bước ra ngoài. Nhạc phu nhân la lên:
– Đừng ra đó, bọn chúng sẽ giết ngươi.
Nhưng Lệnh Hồ Xung đi ra rất nhanh. Chàng xông vào đại sảnh, quả thấy Cửu khúc kiếm Chung Trấn, Thần tiên Đặng Bá Công, Cẩm mao sư Cao Khắc Tân, cả ba người phái Tung Sơn đang ngồi ở khách vị phía Tây. Lệnh Hồ Xung ngồi vào ghế thái sư đối diện bọn họ rồi lạnh lùng hỏi:
– Các ngươi đến đây làm gì?
Bây giờ Lệnh Hồ Xung còn mặc y phục của điếm tiểu nhị, đã bỏ bộ râu quai nón, hoàn toàn không giống vị tham tướng lúc bọn họ gặp giữa đêm trong khách điếm ở Trấp Bát phố. Bọn Chung Trấn ba người bỗng thấy một thanh niên rách rưới, mình đầy vết máu vô lễ như vậy, đều rất tức giận.
Cao Khắc Tân quát:
– Ngươi là cái thá gì?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ba người các ngươi là cái đồ trôi sông lạc chợ.
Cao Khắc Tân sửng sốt thầm nghĩ: Sao hắn nói bọn ta là “cái đồ trôi sông lạc chợ”?
Nhưng lão nghĩ chắc chẳng phải là lời nói hay ho gì. Lão tức giận nói:
– Mau đi mời Nhạc tiên sinh ra đây, ngươi đâu có xứng ngồi với bọn ta.
Lúc này Nhạc Bất Quần, Nhạc phu nhân, Nhạc Linh San cùng với bọn đệ tử đều đến sau cửa ngăn, nghe Lệnh Hồ Xung đối đáp với ba người này. Nhạc Linh San nghe Lệnh Hồ Xung nói: “Ba người các ngươi là đồ trôi sông lạc chợ”, cô nhịn cười không được. Nhưng biết trước mắt ba người này đều là hảo thủ phái Tung Sơn, đại sư ca giết người của bọn họ còn vô lễ đối với bọn họ như vậy, chắc họ phải động thủ, đại sư ca sẽ gặp dữ nhiều lành ít, mà phụ thân và mẫu thân lại ở vào thế khó ra tay giúp đỡ đại sư ca được, cô không biết phải làm sao. Lòng cô buồn nên cười không nổi nữa.
Lệnh Hồ Xung giả bộ hỏi:
– Nhạc tiên sinh là ai? A, ngươi nói đến chưởng môn phái Hoa Sơn phải không? Ta cũng đang muốn tìm Nhạc tiên sinh để trút giận đây. Phái Tung Sơn có hai tên đồi bại, một tên gọi là cái gì Bạch đầu yêu ông Bốc Trầm, còn một tên gọi là Ngốc ưng Sa Thiên Giang đã bị ta giết rồi. Nghe nói phái Tung Sơn còn có ba tên ôn vật đang trốn trong Phước Oai tiêu cục. Ta muốn Nhạc tiên sinh giao người ra mà Nhạc tiên sinh lại không chịu. Tức chết đi được, tức chết đi được!
Hắn lại lớn tiếng la:
– Nhạc tiên sinh, phái Tung Sơn có ba tên ôn vật, một tên gọi là Lan thiết kiếm Chung Trấn, một tên gọi là Tiểu quỷ Đặng Bát Bà, còn một tên gọi là Lãi bì miêu Cao Khắc Tân. Xin Nhạc tiên sinh mau giao người ra đây, ta muốn tính sổ với bọn chúng. Tiên sinh mà bao che cho bọn chúng thì không xong đâu. Ngũ Nhạc kiếm phái của các ngươi đồng khí liên chi, ta không vơ đũa cả nắm đâu.
Nhạc Bất Quần nghe vậy, không khỏi sửng sốt, biết hắn bô lô ba la chửi người ta như vậy là muốn chứng minh phái Hoa Sơn không dính dáng gì tới vụ giết người. Nhưng ba người phái Tung Sơn này thành danh đã lâu, Cửu khúc kiếm Chung Trấn là nhân vật cao cường. Nghe Lệnh Hồ Xung mạt sát lão thì rõ ràng hắn đã biết lai lịch của bọn Chung Trấn này. Trong cuộc chiến đấu ngoài miếu Dược vương đêm nào, hắn đã đánh bại Phong Bất Bình phe Kiếm tông, rồi đâm mù hai mắt mười lăm tên cao thủ giang hồ, kiếm pháp của hắn thật rất phi thường. Nhưng bây giờ hắn đang bị trọng thương, chỉ e hắn đứng cũng không vững, sao dám to gan ngông cuồng khiêu chiến với bọn họ?
Cao Khắc Tân tức giận nhảy phắt lên. Lão tuốt kiếm ra khỏi vỏ toan phóng kiếm về hướng Lệnh Hồ Xung. Chung Trấn giơ tay cản lại. Lão hỏi Lệnh Hồ Xung:
– Tôn giá là ai?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ha ha, ta nhận ra ngươi mà ngươi không nhận ra ta. Phái Tung Sơn các ngươi muốn đem Ngũ Nhạc kiếm phái hợp làm một để phái Tung Sơn ngươi nuốt chửng bốn phái kia. Ba người các ngươi đến Phúc Kiến, một là muốn đoạt Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm, hai là muốn giết hại nhân vật trọng yếu của các phái Hoa Sơn và Hằng Sơn. Tất cả những âm mưu của các ngươi đều bị ta biết hết. Hì hì, tức cười thật, tức cười thật!
Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân nhìn nhau, thầm nghĩ: Lời hắn nói chưa chắc không có căn cứ.
Nét mặt Chung Trấn lộ vẻ kinh hãi. Lão nghi ngờ hỏi:
– Tôn giá là nhân vật của môn phái nào?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta là cô hồn vô chủ, miếu lớn không nhận, chùa nhỏ không thu, hoang sơn dã quỷ quyết không đến đoạt miếng mồi của phái Tung Sơn các ngươi đâu. Ngươi cứ an tâm đi. Ha ha, ha ha!
Tiếng cười của Lệnh Hồ Xung hàm chứa ý đau đớn.
Chung Trấn nói:
– Tôn giá đã không phải là nhân vật phái Hoa Sơn thì chúng ta không thể làm phiền Nhạc tiên sinh. Vậy chúng ta ra ngoài nói chuyện đi.
Mấy câu nói của lão ra vẻ bình thản nhưng ánh mắt lộ hung quang đầy sát khí. Rõ ràng là Lệnh Hồ Xung đã biết bọn lão nên lão quyết tâm tru diệt hắn. Lão đối với Nhạc Bất Quần lại có chút úy kỵ nên không dám rút kiếm giết người trong Phước Oai tiêu cục. Lão muốn dẫn Lệnh Hồ Xung ra ngoài tiêu cục rồi mới động thủ.
Câu nói này của lão rất hợp với ý của Lệnh Hồ Xung, chàng lớn tiếng hỏi:
– Nhạc tiên sinh, từ nay về sau tiên sinh phải đề phòng hơn nữa. Giáo chủ Ma giáo Nhậm Ngã Hành đã tái xuất giang hồ, người này có Hấp tinh đại pháp, chuyên hút nội lực của người khác, muốn gây khó dễ phái Hoa Sơn. Còn nữa, phái Tung Sơn muốn nuốt phái Hoa Sơn của tiên sinh đó. Tiên sinh là quân tử có kiến thức, lòng dạ lang sói của người ta tiên sinh không thể không đề phòng.
Chuyến này Lệnh Hồ Xung đến Phúc Châu là muốn nói với sư phụ mấy câu này. Chàng nói xong liền bước nhanh ra khỏi cửa. Bọn Chung Trấn đi theo sau.
Lệnh Hồ Xung đi ra khỏi Phước Oai tiêu cục chợt thấy một đám ni cô và phụ nữ đứng ngoài cổng lớn, chính là bọn nữ đệ tử của phái Hằng Sơn. Nghi Hòa và Trịnh Ngạc hai người bưng một hộp lễ vật đi đầu. Bọn họ đến Phước Oai tiêu cục bái kiến Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân. Lệnh Hồ Xung sửng sốt vội quay người đi, không để cho bọn họ thấy mặt, nhưng chàng đã chạm mặt bọn Nghi Hòa. May mà Nghi Lâm còn đứng xa nên không thấy.
Lúc bọn Chung Trấn ba người đi qua, Nghi Hòa và Trịnh Ngạc liền nhận ra bọn chúng. Họ sửng sốt dừng bước lại.
Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Bọn đệ tử phái Hằng Sơn đã biết sư phụ của ta ở đây, đương nhiên họ đến bái kiến, có sư phụ và sư nương ta lo liệu bọn họ sẽ không bị ăn hiếp nữa.
Lệnh Hồ Xung không muốn để Nghi Lâm gặp mặt, liền né sang một bên đi lướt qua.
Chung Trấn, Đặng Bá Công, Cao Khắc Tân cùng rút binh khí ra cản trước mặt Lệnh Hồ Xung rồi quát:
– Ngươi còn muốn trốn hả?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ta không có binh khí làm sao mà đánh được?
Lúc này Nhạc Bất Quần, Nhạc phu nhân và bọn đệ tử phái Hoa Sơn đều đến trước cổng để xem Lệnh Hồ Xung đối phó với bọn Chung Trấn ra sao. Nhạc Linh San rút trường kiếm ra khỏi vỏ la lên:
– Đại…
Cô muốn ném trường kiếm qua cho Lệnh Hồ Xung. Nhạc Bất Quần đưa hai ngón tay trái ra, kẹp lấy sống kiếm của cô ta lại. Lão lắc đầu. Nhạc Linh San sốt ruột nói:
– Gia gia!
Nhạc Bất Quần lại lắc đầu.
Tất cả mọi chuyện đều không lọt qua ánh mắt của Lệnh Hồ Xung. Lòng hắn cảm thấy được an ủi rất nhiều: Tiểu sư muội đối với ta vẫn còn tình nghĩa như xưa.
Bỗng nhiên có mấy người cùng la hoảng lên. Lệnh Hồ Xung biết có người đánh lén, chàng không quay đầu lại, liều vọt người ra phía trước. Nội lực của chàng cực kỳ thâm hậu, cú vọt người này vừa cao vừa nhanh. Dù vọt như vậy nhưng chàng vẫn cảm thấy phía sau gáy có gió, một kiếm từ phía sau chém tới. Cú vọt vừa rồi chỉ chậm một chút hoặc lực đạo không đủ gần lại nửa thước thì thân người chàng đã bị chém làm hai, thật nguy hiểm vô cùng.
Sau khi đứng vững, Lệnh Hồ Xung liền quay đầu lại. Chỉ nghe hô lên một tiếng, bạch quang lấp loáng, bọn nữ đệ tử phái Hằng Sơn đã đồng thời ra tay. Bảy người một tốp, họ phân thành ba tốp, bảy thanh trường kiếm chỉ vào một người, bọn Chung Trấn đã bị họ phân ra vây thành ba vòng.
Trong phút chốc, họ rút kiếm, dời bước, vây địch, xuất chiêu, động tác thần tốc vô bì, thân pháp lại nhẹ nhàng, tư thế rất đẹp, rõ ràng bọn họ luyện tập trận pháp rất thuần thục. Mỗi mũi kiếm của trường kiếm đều chỉ vào chỗ yếu hại của đối phương như đầu, yết hầu, ngực, bụng, hông, lưng, xương sườn. Bảy chỗ yếu hại trên thân của ba lão đều bị trường kiếm chỉ vào. Trận pháp đã thành, bảy nữ đệ tử đều bất động.
Vừa rồi, người ra tay đánh lén Lệnh Hồ Xung là Chung Trấn. Lão nghe Lệnh Hồ Xung phanh phui mọi chuyện rất bất lợi cho phái Tung Sơn, liền thừa lúc Lệnh Hồ Xung không đề phòng chợt ra tay sát thủ. Ý lão muốn mau giết người diệt khẩu, để hắn khỏi nói huỵch toẹt ra mọi chuyện càng làm cho Nhạc Bất Quần nghi ngờ. Lão ra tay rất tàn độc nhưng không ngờ Lệnh Hồ Xung né tránh được mà bọn đệ tử phái Hằng Sơn lại lập thành kiếm trận vây lão. Tuy võ công lão cao cường nhưng cũng không thể nào nhúc nhích được, tứ chi bách cốt chỉ cần động đậy một chút thì sẽ bị một thanh kiếm đâm vào. Bọn Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân không biết phái Hằng Sơn và bọn Chung Trấn đã từng có một lần giao chiến ở Trấp Bát phố nên thấy song phương động thủ, bọn họ đều rất ngạc nhiên. Bọn nữ đệ tử phái Hằng Sơn lập kiếm trận rất kỳ diệu, hai mươi mốt người phân thành ba tốp, ngoài tay áo, vạt áo bay phất phơ trong gió ra, thì hàn quang của hai mươi mốt thanh kiếm không động đậy, trong những thanh trường kiếm lại ẩn tàng sát khí vô hạn.
Lệnh Hồ Xung thấy kiếm trận của phái Hằng Sơn nghi thức bất động, bảy thanh trường kiếm vừa tấn công vừa phòng thủ, bảy kiếm liên hoàn tuyệt không tìm được chỗ sơ hở, giống như diệu chỉ của Độc Cô cửu kiếm “Lấy vô chiêu phá hữu chiêu”. Chàng vừa thở vừa reo lên:
– Tuyệt thật! Kiếm trận này thật tinh thâm!
Chung Trấn thấy bọn lão bị khắc chế liền cười ha hả nói:
– Chúng ta là người một nhà, đừng giỡn như vậy! Ta chịu thua rồi, bằng lòng chưa?
Choang một tiếng, lão ném kiếm xuống đất. Bảy người vây lão do Nghi Hòa cầm đầu thấy đối phương liệng kiếm chịu thua, liền rung trường kiếm một cái rồi thu về. Sáu người kia cũng thu kiếm về. Không ngờ Chung Trấn điểm mũi chân trái lên thân kiếm ở dưới đất, trường kiếm bật mạnh lên. Lão đưa tay chụp vào chuôi phóng lưỡi kiếm ra nhanh như điện chớp.
Nghi Hòa kinh hãi la lên một tiếng, vai phải của bà bị trúng kiếm, trường kiếm trong tay bà rớt choang xuống đất. Trong tràng cười dài của Chung Trấn, ánh hàn quang liên tục thấp thoáng, bọn đệ tử phái Hằng Sơn lần lượt bị thương. Còn lại mười bốn đệ tử trong hai kiếm trận tinh thần bị phân tán. Đặng Bá Công và Cao Khắc Tân thừa cơ hội liền phản công, binh khí liền giao nhau, tiếng choang choang phát ra liên tục.
Lệnh Hồ Xung nhặt thanh trường kiếm của Nghi Hòa lên, vung kiếm đánh ra. Chỉ nghe thấy tiếng choang choang, a, úi chao vang lên. Cổ tay của Cao Khắc Tân bị trúng kiếm, trường kiếm của lão rớt xuống đất. Cây nhuyễn tiên của Đặng Bá Công lại quấn vào cổ lão. Cổ tay của Chung Trấn bị sống kiếm đánh trúng, lão lùi lại mấy bước, trường kiếm của lão vẫn còn nắm trong tay nhưng cánh tay đã xuội ra.
Hai thiếu nữ đồng thời kêu lên, một cô gọi:
– Ngô tướng quân!
Một cô gọi:
– Lệnh Hồ đại ca!
Cô gọi “Ngô tướng quân” là Trịnh Ngạc. Vừa rồi Lệnh Hồ Xung sử thủ pháp đánh lùi ba lão này, giống hệt chiêu thức chàng đã sử lúc đối phó với ba lão trong khách điếm ở Trấp Bát phố. Ngay cả Cao Khắc Tân cũng hoang mang, Đặng Bá Công suýt chút nữa bị nghẹt thở, Chung Trấn vừa kinh hãi vừa tức giận, vẻ mặt lão chẳng khác gì hai lão kia. Trịnh Ngạc rất nhạy bén, ngày hôm đó cô từng thấy Lệnh Hồ Xung xuất chiêu như vậy, tuy dung mạo và y phục của chàng đã thay đổi nhiều mà cô vẫn nhận ra ngay.
Cô gọi “Lệnh Hồ đại ca” chính là Nghi Lâm. Cô ta và bọn Nghi Chân, Nghi Chất sáu vị sư tỷ kết thành kiếm trận vây Đặng Bá Công. Mỗi người đều tập trung chú ý, hai mắt nhìn chằm chằm vào địch nhân, tuyệt không liếc đi đâu, trong tầm mắt của họ chỉ nhìn chỗ yếu hại của lão, người nhìn đầu chỉ thấy đầu của lão, người nhìn ngực chỉ thấy ngực, ngay cả chỗ khác của lão họ cũng không cách nào nhìn thấy được. Dĩ nhiên họ càng không thể nhìn người bên ngoài, cho đến khi kiếm trận tan, cô mới thấy Lệnh Hồ Xung. Xa nhau lâu ngày, bỗng nhiên tương ngộ, Nghi Lâm xúc động run rẩy, suýt chút nữa ngất đi.
Chân tướng Lệnh Hồ Xung đã lộ ra. Chàng không thể giấu giếm được nữa, bèn cười nói:
– Tổ mẹ nó, ba lão này ngu như bò. Các vị sư thái phái Hằng Sơn đã tha mạng cho các ngươi mà các ngươi còn lấy ân trả oán. Bổn tướng quân thấy quá ngứa mắt. Ta… ta…
Lệnh Hồ Xung nói đến đây, bỗng nhiên đầu choáng váng, mắt tối sầm lại, ngã lăn ra đất.
Nghi Lâm vọt lên đỡ chàng dậy, vội gọi:
– Lệnh Hồ đại ca, Lệnh Hồ đại ca!
Cô thấy vai và cánh tay của Lệnh Hồ Xung máu chảy đầm đìa, vội vén tay áo của chàng lên, lấy Bạch vân hùng đảm hoàn linh dược trị thương của bổn môn cho vào miệng chàng. Bọn Trịnh Ngạc, Nghi Chân lấy Thiên hương đoạn tục giao để rịt vết thương. Bọn nữ đệ tử phái Hằng Sơn cô nào cũng cảm ân đức cứu viện của Lệnh Hồ Xung. Ngày hôm đó nếu Lệnh Hồ Xung không ra tay cứu giúp thì cô nào cũng bị mất mạng, không những chết thảm mà không chừng còn bị bọn tặc tử này làm ô nhục, vì vậy cô lấy thuốc, cô lau máu, cô buộc vết thương, giữa đường các cô vẫn ra sức tận tâm cứu trị.
Phụ nữ trong thiên hạ mà gặp phải tình trạng khẩn cấp như thế này thì không khỏi mồm năm miệng mười bu quanh bàn tán không thôi. Bọn nữ đệ tử phái Hằng Sơn tuy là người học võ cũng khó tránh khỏi. Họ hoặc cất tiếng than thở, hoặc là biểu lộ quan tâm, hoặc hỏi tướng quân ta bị ai đả thương, hoặc giữa ban ngày ban mặt sao hung thủ ra tay tàn độc như vậy… Lại có người niệm A Di Đà Phật lẫn vào mớ tạp âm đó.
Người phái Hoa Sơn thấy tình cảnh như vậy đều rất ngạc nhiên. Nhạc Bất Quần thầm nghĩ: Xưa nay giới luật phái Hằng Sơn tinh nghiêm, nhưng không hiểu tại sao những nữ đệ tử này lại mê tín tên lãng tử vô hạnh Lệnh Hồ Xung đến thất điên bát đảo. Ngay ở giữa chỗ đông người mà họ không kiêng dè nam nữ; người gọi đại ca, người kêu tướng quân. Tiểu tặc này có làm tướng quân hồi nào đâu? Thật là trời đất hôn ám, vũ trụ hồ đồ. Tại sao tiền bối phái Hằng Sơn không quản lý họ?
Chung Trấn ra hiệu cho hai tên sư đệ, cùng vung binh khí xông đến Lệnh Hồ Xung. Cả ba lão đều biết không trừ khử Lệnh Hồ Xung thì hậu hoạn vô cùng, huống chi bọn lão bị hai phen thất thủ dưới kiếm của hắn, thì lúc hắn đột nhiên bị ngất chính là thời cơ tốt nhất để giết hắn.
Nghi Hòa huýt lên một tiếng, mười bốn nữ đệ tử liền xếp thành một hàng múa tít trường kiếm, chống đỡ bọn Chung Trấn. Những nữ đệ tử này võ công không cao nhưng bọn họ cùng kết thành kiếm trận, cùng công, cùng thủ, thì mười bốn người cũng chống đỡ nổi bốn năm cao thủ đệ nhất.
Lúc đầu Nhạc Bất Quần có ý đứng ra điều giải song phương, nhưng nhiều chuyện xảy ra đều vượt ngoài suy đoán của lão. Lão không biết tại sao song phương kết oán, lại đối với Tung Sơn và Hằng Sơn vốn có ác cảm, lòng nghĩ tạm thời tụ thủ bàng quan, lặng yên nhìn diễn biến. Mười bốn nữ đệ tử phái Hằng Sơn phòng thủ rất nghiêm mật, bọn Chung Trấn liên tục biến chiêu vẫn không cách nào tấn công đến gần được.
Cao Khắc Tân sơ suất tấn công về phía trước liền bị một kiếm của Nghi Thanh đâm trúng đùi, tuy thương thế không nặng nhưng máu tuôn ra nhiều nên lão rất hoang mang.
Trong lúc nửa mê nửa tỉnh, L ệnh Hồ Xung nghe tiếng binh khí giao nhau choang choảng bất tuyệt. Chàng hé mắt ra, thấy vẻ mặt Nghi Lâm rất lo lắng, miệng lâm râm niệm Phật:
– Chúng sanh bị khổ ách, vô lượng khổ biến thân, Quán Âm diệu trí lực, năng cứu thế gian khổ…
Lệnh Hồ Xung mỉm cười, nhận kiếm từ tay cô, tay trái vịn vai cô, đi loạng choạng. Nghi Lâm vốn rất lo cho thương thế của chàng nhưng khi cảm thấy vai mình đang chịu sức nặng của người Lệnh Hồ Xung thì dũng khí của cô tăng lên, nội lực toàn thân đều vận hết lên vai phải.
Lệnh Hồ Xung đi qua bên người mấy nữ đệ tử. Chàng vừa vung kiếm đầu tiên, trường kiếm của Cao Khắc Tân liền bị rớt xuống đất. Vung kiếm thứ hai, nhuyễn tiên của Đặng Bá Công lại quấn lấy cổ lão. Kiếm thứ ba choang một tiếng, chàng đã đánh trúng lên sống kiếm của Chung Trấn. Chung Trấn biết kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung kỳ ảo, tự biết lão không phải là đối thủ của chàng, nhưng thấy chàng đứng không vững, lão định vận nội lực hất ra cho kiếm của đối phương bay đi. Song kiếm giao nhau, lão liền huy động hết nội kình lên kiếm. Bỗng lão cảm thấy nội lực trong người tiết ào ạt ra ngoài, cố thu về cũng không được nữa. Thì ra Hấp tinh đại pháp của Lệnh Hồ Xung không hiểu sao càng ngày càng thâm hậu như vậy. Chàng không cần phải đụng vào da thịt, chỉ cần đối phương vận nội kình tấn công thì nội lực của đối phương sẽ thông qua binh khí mà truyền vào cơ thể chàng.
Chung Trấn kinh hãi vội thu trường kiếm về rồi phóng kiếm ra. Lệnh Hồ Xung thấy dưới nách lão có chỗ sơ hở rất lớn, chỉ cần thuận thế phóng kiếm là lấy được tính mạng của lão ta ngay. Nhưng cánh tay hắn mềm nhũn, lực bất tòng tâm đành phải đưa kiếm ngang lên đỡ gạt. Song kiếm giao nhau, Chung Trấn lại thấy nội lực ào ạt tiết ra, trống ngực lão đập thình thịch. Lão vừa kinh hãi vừa tức giận, cố gắng hết sức bình sinh, trường kiếm phóng nhanh ra. Kiếm phóng đến nửa chừng, bỗng nhiên chuyển hướng, mũi kiếm lại nhằm đâm vào ngực Nghi Lâm bên cạnh Lệnh Hồ Xung.
Chiêu kiếm này hư hư thực thực, càng về sau càng âm độc vô cùng. Nếu Lệnh Hồ Xung quét ngang kiếm để cứu, thì lão thu kiếm về đâm vào bụng dưới của chàng; nếu không cứu thì chiêu này đâm trúng Nghi Lâm thật. Lão muốn làm cho Lệnh Hồ Xung tâm thần rối loạn thì mới có thể thừa cơ hội hạ chiêu sát thủ.
Trong tiếng hô hoán kinh hãi của mọi người, mũi kiếm đã chạm đến áo trước ngực của Nghi Lâm.
Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung đột nhiên xoay lại, đè lên sống kiếm của lão.
Trường kiếm của Chung Trấn đang ở giữa khoảng không đột nhiên dính chặt bất động. Lão vận nội lực đẩy về phía trước, mũi kiếm không cách nào tiến tới được, sống kiếm lại từ từ đưa lên trên cong lại, đồng thời nội lực tiết ra ào ào. Lão kiến cơ cực nhanh, vội ném kiếm nhảy lùi ra sau, nhưng tiền lực đã mất mà hậu lực chưa dứt, người lão ở giữa khoảng không, bỗng nhiên nhũn ra rồi rớt xuống rất mạnh, chẳng khác nào như người thường không biết một chút võ công. Hai tay lão chống xuống đất, lồm cồm bò dậy, nhưng giữa chừng lại té lăn cù xuống đất.
Đặng Bá Công và Cao Khắc Tân cùng chạy đến đỡ lão dậy rồi hỏi:
– Sư ca, có sao không?
Hai mắt Chung Trấn nhìn chằm chặp vào Lệnh Hồ Xung. Lão nhớ lại mấy chục năm về trước, giáo chủ Nhậm Ngã Hành của Ma giáo oai trấn võ lâm, quyết không thể là một thanh niên ngoài hai mươi tuổi. Lão ngập ngừng nói:
– Ngươi là đệ… đệ tử của Nhậm Ngã Hành, biết sử Hấp… Hấp tinh yêu pháp!
Cao Khắc Tân giật mình hỏi:
– Sư ca, nội lực của sư ca bị hắn hút hết rồi sao?
Chung Trấn đáp:
– Đúng vậy.
Nhưng lão ưỡn thân người ra, cảm thấy nội lực dần dần tăng lại. Thì ra Lệnh Hồ Xung luyện Hấp tinh đại pháp chưa tinh thâm, lại không có ý muốn hút nội lực của lão, nhưng khi nội lực của Chung Trấn đột nhiên tiết ra ngoài, lão hoảng sợ đến nỗi té rất nặng.
Đặng Bá Công nói khẽ:
– Chúng ta đi thôi, sau này sẽ tìm hắn tính sổ.
Chung Trấn vẫy tay một cái, lão lớn tiếng nói với Lệnh Hồ Xung:
– Yêu nhân Ma giáo, ngươi sử yêu pháp âm độc tuyệt luân như vậy tức là thù địch của anh hùng thiên hạ. Hôm nay Chung mỗ không phải là đối thủ của ngươi nhưng hàng ngàn hàng vạn hảo hán của chính giáo quyết không khuất phục dưới dâm oai yêu pháp của ngươi.
Lão nói xong quay người lại, cung tay nói với Nhạc Bất Quần:
– Nhạc tiên sinh, yêu nhân Ma giáo này và các hạ có quan hệ sâu xa gì không?
Nhạc Bất Quần chỉ ừ hử một tiếng chứ không trả lời. Chung Trấn ở trước mặt Nhạc Bất Quần cũng không dám xử sự càn quấy. Lão bèn nói:
– Chân tướng ra sao cuối cùng cũng sẽ rõ, sau này có ngày tái hội.
Nhạc Bất Quần từ bậc tam cấp cổng lớn đi xuống, gằn giọng nói:
– Lệnh Hồ Xung, ngươi giỏi thật! Thì ra ngươi học Hấp tinh đại pháp của Nhậm Ngã Hành.
Lệnh Hồ Xung đúng là đã học được môn công phu này của Nhậm Ngã Hành. Tuy chàng vô tình học được, nhưng sự thật đúng là như vậy nên không sao biện bạch được.
Nhạc Bất Quần đanh thép nói:
– Ta hỏi ngươi có đúng vậy không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ đúng.
Nhạc Bất Quần tức giận nói:
– Ngươi luyện yêu pháp này tức là trở thành công địch của người trong chính giáo. Hôm nay ngươi đang bị thương, ta không thừa lúc ngươi gặp nguy hiểm mà hạ thủ. Lần sau gặp mặt, ta không giết ngươi thì ngươi giết ta.
Lão quay sang bọn đệ tử nói:
– Người này là thù địch của các ngươi, người nào đối với hắn mà biểu lộ tình đồng môn như ngày xưa thì không còn là môn hạ của chính giáo. Các ngươi nghe rõ chưa?
Bọn đệ tử đồng thanh đáp dạ.
Nhạc Bất Quần thấy con gái mấp máy môi muốn nói gì. Lão gằn giọng:
– San nhi, ngươi tuy là con gái của ta cũng không ngoại lệ, ngươi có nghe không?
Nhạc Linh San đáp khẽ:
– Dạ nghe.
Lệnh Hồ Xung vốn đã bị suy nhược rất nhiều. Chàng nghe mấy câu nói này, cảm thấy hai đầu gối vô lực. Choang một tiếng, trường kiếm rớt xuống đất, thân người chàng từ từ quỵ xuống.
Nghi Hòa đứng bên cạnh vội đưa tay ra đỡ dưới nách Lệnh Hồ Xung rồi nói:
– Nhạc sư bá, trong chuyện này chắc có sự hiểu lầm. Sư bá chưa điều tra cho minh bạch mà đã tuyệt tình ngay như vậy, thật là sai lầm, lỗ mãng.
Nhạc Bất Quần nói:
– Hiểu lầm cái gì?
Nghi Hòa nói:
– Phái Hằng Sơn của đệ tử bị bọn yêu nhân Ma giáo làm nhục, hoàn toàn nhờ vị Lệnh Hồ Ngô tướng quân này ra tay cứu viện. Nếu tướng quân là người Ma giáo thì tại sao lại giúp bọn đệ tử để rồi đối địch với Ma giáo?
Bà ta nghe Nghi Lâm gọi chàng là “Lệnh Hồ đại ca”, Nhạc Bất Quần lại gọi là “Lệnh Hồ Xung”, còn bà thì chỉ biết chàng là “Ngô tướng quân” nên đành phải gọi hai tên nhập một.
Nhạc Bất Quần nói:
– Yêu nhân Ma giáo quỷ kế đa đoan, các ngươi đừng có mắc bẫy của hắn. Trong quý phái, vị sư thái nào đứng đầu?
Lão nghĩ những ni cô, cô nương trẻ tuổi này đã bị mê hoặc bởi cái miệng hoa ngôn xảo ngữ của Lệnh Hồ Xung, chỉ có tiền bối sư thái hiểu biết rộng mới thấy được gian kế của hắn.
Nghi Hòa buồn bã nói:
– Sư bá Định Tĩnh sư thái không may bị yêu ma sát hại.
Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân đều a lên một tiếng, vừa kinh hãi vừa xót xa. Ngay lúc này, trên đường có một ni cô trung niên tức tốc chạy đến nói:
– Có chim bồ câu từ Bạch Vân am đưa thư đến.
Bà chạy đến trước mặt Nghi Hòa, lấy trong túi ra một ống trúc nhỏ hai tay đưa qua. Nghi Hòa nhận lấy, mở nắp đậy ống trúc, rút ra một cuộn vải. Bà mở xem rồi kinh hãi la lên:
– Than ôi, nguy rồi!
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn nghe có thư từ Bạch Vân am đến đã vội bu quanh lại, thấy sắc mặt của Nghi Hòa kinh hãi, vội hỏi:
– Sao?
– Trong thư sư phụ nói gì?
– Có chuyện nguy hả?
Nghi Hòa nói:
– Sư muội đọc đi.
Bà đưa cuộn vải cho Nghi Thanh. Nghi Thanh cầm lấy lớn tiếng đọc:
– Ta và Định Dật sư muội bị khốn ở Long Tuyền Chú Kiếm cốc.
Nghi Thanh nói:
– Đây là… huyết thư của chưởng môn sư tôn. Chưởng môn lão nhân gia sao lại đến Long Tuyền?
Nghi Chân nói:
– Chúng ta mau lên đường đi.
Nghi Thanh hỏi:
– Không biết địch nhân là ai?
Nghi Hòa nói:
– Dù hắn là hung thần ác quỷ đi nữa, chúng ta cũng phải đi ngay. Nếu có chết thì cũng chết cùng với sư phụ.
Nghi Thanh thầm nghĩ: Võ công của sư phụ và sư thúc cao cường như vậy mà còn bị khốn, chúng ta có đến đó chắc cũng chẳng làm được gì. Bà cầm huyết thư đi đến trước Nhạc Bất Quần cúi người nói:
– Nhạc sư bá, chưởng môn sư tôn của bọn đệ tử truyền thư đến nói là: “Bị khốn ở Long Tuyền Chú Kiếm cốc”. Xin sư bá nghĩ tình nghĩa Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi mà tìm cách tương cứu.
– Tôn sư và Định Dật sư thái sao lại đi Triết Giang? Hai vị võ công trác tuyệt, sao lại bị địch nhân làm khốn, thật kỳ lạ? Phong thư này có phải do tôn sư viết không?
Nghi Thanh nói:
– Xác thực là do sư phụ của đệ tử đích thân viết. Chỉ e sư phụ lão nhân gia đã bị thương, lúc thảng thốt lấy máu để viết thư.
Nhạc Bất Quần hỏi:
– Không biết địch nhân là ai sao?
Nghi Thanh đáp:
– Chắc là người của Ma giáo, nếu không thì tệ phái không thù địch gì với ai.
– Không chừng yêu nhân Ma giáo giả mạo thư để dụ các ngươi tự lao vào chỗ chết. Yêu nhân quỷ kế khôn lường, không thể không đề phòng.
Nghi Hòa lớn tiếng nói:
– Tôn sư có nạn, tình trạng khẩn cấp vô cùng, chúng ta mau đi cứu viện ngay. Nghi Thanh sư muội, chúng ta mau lên đường, Nhạc sư bá không sẵn sàng, cầu xin mãi cũng vô ích thôi.
Nghi Chân cũng nói:
– Đúng vậy, nếu chậm trễ một bước thì hối hận ngàn năm.
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn thấy Nhạc Bất Quần lần lữa thoái thác, không có nghĩa khí, lòng ai nấy đều tức giận. Nghi Lâm nói:
– Lệnh Hồ đại ca, Lệnh Hồ đại ca hãy ở lại Phúc Châu dưỡng thương. Bọn tiểu ni đi cứu sư phụ sư bá xong sẽ trở lại thăm Lệnh Hồ đại ca.
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:
– Giặc cỏ to gan hại người, bổn tướng quân sao có thể tụ thủ bàng quan? Ta và các ngươi cùng đi cứu người.
Nghi Lâm nói:
– Lệnh Hồ đại ca đang bị trọng thương, làm sao có thể lên đường được?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bổn tướng quân vì nước quên mình, dẫu da ngựa bọc thây cũng chẳng đáng gì. Nào, nào, đi mau!
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn vốn không nắm chắc sẽ cứu được tôn sư thoát hiểm, nay có Lệnh Hồ Xung cùng đi thì hăng hái hơn rất nhiều, vẻ mặt đều hiện lên nỗi vui mừng. Nghi Chân nói:
– Vậy thì đa tạ tướng quân. Chúng ta đi tìm ngựa cho tướng quân cưỡi đi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mọi người đều cưỡi ngựa! Xuất trận đánh giặc mà không cưỡi ngựa thì còn ra cái thể thống gì nữa? Đi thôi, đi thôi!
Lệnh Hồ Xung thấy sư phụ tuyệt tình như vậy lòng rất đau khổ nên cuồng khí lại phát tác. Nghi Thanh hướng về Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân cúi người nói:
– Bọn vãn bối xin cáo biệt.
Nghi Hòa hậm hực nói:
– Hạng người này còn khách khí làm gì? Chỉ phí thời gian. Hừ, chẳng có chút nghĩa khí, chỉ là hư danh thôi!
Nghi Thanh la lên:
– Sư tỷ, đừng nói nhiều nữa!
Nhạc Bất Quần cười ruồi, làm như không nghe thấy. Lao Đức Nặc lách người ra trước quát:
– Ngươi ăn nói kiểu gì vậy? Ngũ Nhạc kiếm phái ta vốn đồng khí liên chi, một phái gặp nạn bốn phái cùng cứu. Nhưng các ngươi cấu kết với Lệnh Hồ Xung là yêu nhân Ma giáo, hành sự lén lút, sư phụ ta muốn suy xét tường tận. Các ngươi giết yêu nhân Lệnh Hồ Xung này trước đi để chứng minh các ngươi trong sạch. Nếu không thì phái Hoa Sơn ta không thể hòa vào dòng ô nhục của phái Hằng Sơn các ngươi được.
Nghi Hòa tức giận bước lên trước một bước, nắm chuôi kiếm lớn tiếng hỏi:
– Ngươi nói cái gì hòa vào dòng ô nhục?
Lao Đức Nặc nói:
– Các ngươi cấu kết với Ma giáo là đã hòa vào dòng ô nhục rồi.
Nghi Hòa tức giận nói:
– Vị Lệnh Hồ Xung đại hiệp này thấy việc nghĩa thì dũng cảm làm. Cứu nạn cho các người đang nguy cấp mới là đại anh hùng, đại trượng phu chân chính. Còn cái hạng người như các ngươi tự cho là hào hiệp kì thực là ngụy quân tử, thấy chết không cứu, thấy khó bỏ mặc.
Ngoại hiệu của Nhạc Bất Quần là “Quân tử kiếm” nên môn hạ phái Hoa Sơn úy kị nhất là ba chữ “ngụy quân tử”. Lao Đức Nặc nghe trong lời nói của bà rõ ràng là châm chích sư phụ gã. Soạt một tiếng, gã tuốt trường kiếm ra khỏi vỏ, chỉ thẳng vào yết hầu của Nghi Hòa. Chiêu này chính là chiêu Hữu phụng lai nghi tuyệt diệu của Hoa Sơn kiếm pháp. Nghi Hòa không ngờ gã lại đột nhiên ra tay nên bà không kịp rút kiếm đỡ, mũi kiếm đã đến yết hầu của bà. Bà liền hô lên một tiếng. Hào quang rung động, bảy thanh trường kiếm chỉ vào Lao Đức Nặc.
Lao Đức Nặc vội thu kiếm về đỡ gạt nhưng gã chỉ gạt ra được một kiếm trước mặt. Roạt roạt, sáu thanh trường kiếm của phái Hằng Sơn đã vạch lên quần áo của gã sáu đường. Mỗi đường rạch dài khoảng hai thước. Đệ tử phái Hằng Sơn không muốn giết gã, mỗi kiếm vừa đụng vào người gã thì lập tức dừng lại. Nhưng võ công của Trịnh Ngạc kém cỏi hơn, cô xuất kiếm không nắm kĩ trọng khinh, đã vạch rách phía sau tay áo, mũi kiếm lại làm rách luôn da thịt nơi cánh tay phải. Lao Đức Nặc kinh hãi vội nhảy lùi về sau. Bộp một tiếng, một quyển sách từ trong túi gã rơi ra.
Dưới ánh mặt trời, ai ai cũng nhìn rõ trên quyển sách viết bốn chữ “Tử hà bí cấp”. Lao Đức Nặc thất sắc, gã muốn nhanh chân chạy đến lượm lên. Lệnh Hồ Xung la lên:
– Cản hắn lại!
Lúc này Nghi Hòa đã rút kiếm, bà liên tiếp phóng veo véo ba kiếm. Lao Đức Nặc phải vung kiếm lên đỡ gạt, không tiến lên được một bước nào.
Nhạc Linh San nói:
– Gia gia, quyển bí cấp này sao lại ở trên mình nhị sư ca?
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:
– Lao Đức Nặc, Lục sư đệ do ngươi giết phải không?
Ngày hôm đó, trên tuyệt đỉnh Hoa Sơn, Lục sư đệ Lục Đại Hữu bị giết, Tử hà bí cấp bị mất tích, là một mối ngờ vực lớn. Không ngờ bây giờ lại phát hiện quyển nội công bí cấp vật báu trấn sơn ấy của phái Hoa Sơn rơi vào tay Lao Đức Nặc.
Lao Đức Nặc nói:
– Nói bậy!
Đột nhiên lão vội lún thấp người, chạy như bay vào một con đường nhỏ. Lệnh Hồ Xung vô cùng phẫn nộ, liền co giò đuổi theo, nhưng chỉ chạy được mấy bước thì lảo đảo té ngã. Nghi Lâm và Trịnh Ngạc vội chạy đến đỡ chàng dậy.
Nhạc Linh San nhặt quyển sách lên đưa cho phụ thân, cô nói:
– Gia gia, thì ra nó bị nhị sư ca ăn cắp.
Sắc mặt Nhạc Bất Quần xám xanh. Lão nhận quyển sách xem quả nhiên là nội công bí cấp lịch tổ tương truyền của bổn phái, may mà trang sách còn nguyên chưa bị hủy hoại. Lão hậm hực nói:
– Tất cả do ngươi lấy đi cho người tình.
Miệng lưỡi Nghi Hòa không chịu thua ai, bà lớn tiếng nói:
– Đây mới gọi là cùng hòa vào dòng ô nhục.
Vu Tẩu đi đến trước Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Lệnh Hồ Xung đại hiệp cảm thấy thế nào?
Lệnh Hồ Xung cắn chặt răng nói:
– Sư đệ của ta bị tên gian tặc này giết hại, đáng tiếc ta đuổi không được hắn.
Nhạc Bất Quần và bọn đệ tử quay người đi vào trong, khép cổng lớn tiêu cục lại. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Đại đệ tử của sư phụ học võ công thâm độc của Ma giáo, nhị đệ tử lại là ác tặc sát hại đồng môn ăn trộm bí cấp. Chẳng trách sư phụ lão nhân gia không tức giận sao được?
Lệnh Hồ Xung bèn nói:
– Tôn sư bị khốn, chuyện không nên chậm trễ. Chúng ta phải hỏa tốc đi cứu người là việc khẩn yếu. Tên gian tặc Lao Đức Nặc này sớm muộn gì cũng gặp phải tay ta.
Vu Tẩu nói:
– Lệnh Hồ đại hiệp đang bị thương. Như vậy… như vậy… ôi, lão ni không biết nói…
Bà xuất thân là nô bộc, bây giờ thân phận của bà trong phái Hằng Sơn dĩ nhiên không còn thấp nữa, võ công cũng không yếu, nhưng sự hiểu biết của bà có hạn, không biết biểu lộ sự cảm kích của bà đối với Lệnh Hồ Xung thế nào. Lệnh Hồ Xung nói:
– Chúng ta mau đi đến chợ lừa ngựa, thấy ngựa thì mua.
Lệnh Hồ Xung lấy vàng trong túi ra đưa cho Vu Tẩu. Nhưng chợ không đủ ngựa để bán, mấy nữ đệ tử nhỏ con thì hai người cưỡi một ngựa, đi ra khỏi thành Phúc Châu phi nhanh về hướng Bắc.
Chạy được hơn mười dặm, thấy trên một bãi cỏ có mấy chục con ngựa đang ăn, có sáu, bảy tên lính giữ ngựa, chắc chắn là ngựa của quan quân trong doanh trại. Lệnh Hồ Xung nói:
– Đi cướp mấy con ngựa lại đây.
Vu Tẩu vội nói:
– Đây là ngựa của quan binh, chỉ e không ổn đâu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Cứu người là chuyện khẩn yếu, dù là ngựa của hoàng đế cũng cướp. Ngựa của quan binh thì có gì đâu mà không ổn?
Nghi Thanh nói:
– Đắc tội với quan phủ chỉ sợ…
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:
– Cứu sư phụ là việc quan trọng hay giữ vương pháp là quan trọng? Đi ngay đi! Tổ mẹ nó quan phủ với không quan phủ! Ngô tướng quân ta là quan phủ. Tướng quân muốn cưỡi ngựa, tiểu binh dám trái lệnh sao?
Nghi Hòa nói:
– Đúng vậy!
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Điểm huyệt mấy tên binh lính này cho ngã hết rồi dắt ngựa chạy.
Nghi Thanh nói:
– Dắt hai mươi con ngựa là đủ rồi.
Lệnh Hồ Xung la:
– Dắt hết!
Lệnh Hồ Xung hô hiệu quát lệnh cũng rất oai nghiêm. Từ lúc Định Tĩnh sư thái tạ thế, bọn đệ tử phái Hằng Sơn như rắn mất đầu, lục thần vô chủ. Nay nghe Lệnh Hồ Xung quát như vậy thì tất cả liền vỗ ngựa xông về trước, đưa tay điểm ngã mấy tên binh lính giữ ngựa rồi dắt mấy chục con ngựa đi. Mấy tên binh lính chưa bao giờ thấy ni cô vô pháp vô thiên như vậy, chỉ la lên được một hai câu:
– Làm cái gì vậy?
– Giỡn kiểu gì vậy?
Rồi chúng té xuống đất, không nhúc nhích được nữa. Bọn đệ tử cướp được ngựa rồi cười hì hà, vô cùng hứng khởi, nhảy lên ngựa của quan binh phóng nhanh đi. Đến giờ Ngọ, tất cả chạy đến một thị trấn nghỉ chân ăn uống.
Dân cư thị trấn thấy một đám ni cô cùng với một nam tử dẫn một bầy ngựa ai cũng ngạc nhiên, há hốc mồm. Khi ăn cơm xong, Nghi Thanh lấy tiền ra trả. Bà nói khẽ:
– Lệnh Hồ sư huynh, chúng ta không có đủ tiền.
Vừa rồi ra chợ mua ngựa, mọi người lo lắng cho việc cứu sư phụ nên không còn lòng dạ để trả giá, xài hết cả vàng bạc, chỉ còn lại vài đồng.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Trịnh sư tỷ, sư tỷ và Vu Tẩu đi bán một con ngựa.
Trịnh Ngạc đáp dạ rồi dẫn ngựa cùng với Vu Tẩu đi lên chợ bán. Bọn đệ tử bặm môi cười thầm. Họ đều nghĩ: Vu Tẩu đi cũng được, còn Trịnh Ngạc là một tiểu cô nương xinh đẹp như vậy lại đứng ngoài chợ bán ngựa thật là chuyện hiếm có.
Trịnh Ngạc thông minh lanh lợi, có thể nói lý lẽ, đến Phúc Kiến không được mấy ngày, tiếng Phúc Kiến là thứ tiếng khó nói nhất trong thiên hạ mà cô ta cũng học được mấy trăm câu. Không bao lâu, cô đã bán được ngựa, cầm tiền về.
Lúc trời xế chiều, đứng trên sườn núi nhìn xa xa có một thị trấn lớn, nóc nhà như vảy cá, ít nhất cũng bảy tám trăm ngôi nhà. Mọi người đến trấn ăn cơm, đem tiền bán ngựa ra trả thì không còn lại bao nhiêu. Trịnh Ngạc cao hứng hớn hở cười nói:
– Ngày mai chúng ta đi bán một con nữa.
Lệnh Hồ Xung nói khẽ:
– Sư muội ra phố dò hỏi xem ở trấn này tài chủ giàu nhất là ai, người xấu nhất là ai.
Trịnh Ngạc gật đầu rồi kéo Tần Quyên cùng đi.
Cả hai đi khoảng nửa canh giờ, trở về nói:
– Bổn trấn chỉ có một tên đại tài chủ họ Bạch, có ngoại hiệu là Bạch Bát Bì (Bạch lột da). Lão mở một cửa tiệm và một hiệu bán gạo, người này có ngoại hiệu là Bạch Bát Bì thì xem ra không phải là người tốt.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tối nay chúng ta vào nhà lão hóa duyên.
Trịnh Ngạc nói:
– Loại người này rất keo kiệt, chỉ e chẳng hóa duyên được bao nhiêu tiền gạo đâu.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười, một lúc hắn mới nói:
– Tất cả lên đường thôi.
Mọi người thấy trời đã tối nhưng nghĩ sư phụ đang gặp nạn nên không ngại khổ cực gian lao, đi đường suốt đêm cũng không sao. Cả bọn liền ra khỏi trấn đi về hướng Bắc. Đi chưa được mấy dặm, Lệnh Hồ Xung nói:
– Được rồi, chúng ta nghỉ lại ở đây.
Bọn đệ tử y theo lời, ngồi nghỉ bên một con suối nhỏ. Lệnh Hồ Xung nhắm mắt dưỡng thần. Qua hơn một canh giờ hắn mới mở mắt ra, nói với Vu Tẩu và Nghi Hòa:
– Hai vị mỗi vị dẫn sáu vị sư muội đến nhà Bạch Bát Bì để hóa duyên. Trịnh sư muội dẫn đường.
Bọn Vu Tẩu, Nghi Hòa cảm thấy kỳ lạ nhưng vẫn gật đầu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ít nhất cũng phải hóa được năm trăm lượng bạc, nếu hóa được hai ngàn lượng thì càng tốt.
Nghi Hòa lớn tiếng nói:
– Chao ơi, làm sao hóa duyên được nhiều như vậy!
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hai ngàn lượng có chút xíu, bổn tướng quân coi chẳng đáng vào đâu. Nếu có hai ngàn lượng, chúng ta chỉ xài một ngàn, còn lại một ngàn đem chia cho người nghèo trên trấn.
Mọi người mới hiểu ra, nhìn nhau. Nghi Hòa nói:
– Lệnh Hồ đại hiệp… muốn bọn bần ni đi cướp của nhà giàu chia cho người nghèo ư?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nếu không cướp được thì chúng ta hóa thành kẻ bần cùng. Mấy chục người chúng ta dốc sạch túi góp lại cũng không đủ vài lượng bạc, vậy thì nghèo đến xơ xác rồi. Không xin đại phú gia bố thí để chu cấp cho bọn dân nghèo như chúng ta thì làm sao mà đi đến được Long Tuyền Chú Kiếm cốc?
Mọi người nghe đến năm chữ “Long Tuyền Chú Kiếm cốc” ai cũng lo lắng, đều nói:
– Phải đi hóa duyên thôi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Kiểu hóa duyên này các vị chưa bao giờ làm qua, cách thức chỉ khác một chút thôi. Các vị lấy khăn bịt mặt lại, lúc hóa duyên ở nhà Bạch Bát Bì thì không được mở miệng nói, thấy vàng bạc thì thò tay mà “hóa”.
Trịnh Ngạc cười hỏi:
– Nếu lão không chịu thì sao?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vậy thì không cần phải lịch sự nữa. Những hào kiệt môn hạ phái Hằng Sơn đều là những kẻ sĩ phi thường trong võ lâm, người ta có dùng kiệu lớn tám người khiêng đến mời cũng không dễ mời được các vị đến cửa hóa duyên có phải không? Bạch Bát Bì chẳng qua chỉ là một thổ hào hèn kém tại cái trấn nhỏ xíu này, trong võ lâm có thân phận danh tiếng gì đâu? Lão được mười lăm vị cao thủ của phái Hằng Sơn đại giá quang lâm, không phải là làm cho lão nở mặt nở mày sao? Nếu lão mà coi thường các vị thì các vị cứ việc động thủ quá chiêu với lão để xem võ công của Bạch Bát Bì và quyền cước của Trịnh sư muội phái Hằng Sơn chúng ta ai lợi hại hơn?
Nghe Lệnh Hồ Xung nói, mọi người đều cười ồ cả lên. Trong bọn đệ tử, có mấy vị lão thành như bọn Nghi Thanh cảm thấy lo lắng, ngấm ngầm nghĩ giới luật phái Hằng Sơn tinh nghiêm cấm trộm cắp. Hóa duyên kiểu này không khỏi phạm giới. Nhưng bọn Nghi Hòa và Trịnh Ngạc đã nhanh bước đi trước, những người thấy trong lòng không ổn cũng không kịp nói thêm điều gì.
Lệnh Hồ Xung vừa quay đầu, thấy ánh mắt dịu dàng của Nghi Lâm đang chăm chú nhìn mình, hắn mỉm cười nói:
– Tiểu sư muội, tiểu sư muội không tán thành ư?
Nghi Lâm tránh ánh mắt của Lệnh Hồ Xung. Cô cúi đầu đáp khẽ:
– Tiểu muội không biết. Lệnh Hồ đại ca bảo nên làm gì thì làm theo, tiểu muội… tiểu muội nghĩ cũng phải.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ngày hôm đó ta muốn ăn một quả dưa hấu, tiểu muội không phải đã từng đi “hóa” một quả dưa cho ta ư?
Mặt Nghi Lâm ửng hồng. Cô nhớ lại khoảng thời gian cô ở cùng với Lệnh Hồ Xung nơi hoang dã, ngay lúc ấy trên trời có một vì sao băng xẹt một đường dài qua. Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Tiểu sư muội còn nhớ chuyện cầu nguyện trong lòng không?
Nghi Lâm đáp khẽ:
– Tiểu muội làm sao quên được.
Cô quay đầu đi rồi nói:
– Lệnh Hồ đại ca, điều cầu nguyện ấy rất linh nghiệm.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Thật không? Sư muội đã cầu nguyện gì?
Nghi Lâm cúi đầu không đáp, cô thầm nghĩ: Ta đã cầu nguyện mấy trăm ngàn lần, mong có thể gặp lại Lệnh Hồ đại ca. Cuối cùng ta cũng đã gặp Lệnh Hồ đại ca rồi.
Bỗng nhiên có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, một kỵ mã từ phía Nam phi nhanh đến, theo con đường mà mười lăm người bọn Vu Tẩu và Nghi Hòa đã đi. Nhưng lúc họ đi không cưỡi ngựa, chẳng lẽ lại xảy ra chuyện gì? Mọi người đều đứng dậy nhìn về phía có tiếng vó ngựa.
Tiếng một người con gái gọi:
– Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ Xung!
Lệnh Hồ Xung giật mình. Đó là tiếng gọi của Nhạc Linh San. Hắn bèn gọi:
– Tiểu sư muội, ta ở đây!
Nghi Lâm run lên, sắc mặt tái xanh, lùi sau một bước. Trong bóng đêm một con ngựa trắng lao nhanh đến. Khi cách mọi người khoảng mấy chục trượng, ngựa hý vang, đứng dựng hai vó trước lên rồi mới dừng lại. Hiển nhiên là Nhạc Linh San đột ngột giật dây cương. Lệnh Hồ Xung thấy cô ta vội vã đến, linh cảm thấy có điều không hay, bèn la lên:
– Tiểu sư muội! Sư phụ sư mẫu không có chuyện gì chứ?
Nhạc Linh San vẫn ngồi trên lưng ngựa. Dưới ánh trăng, chỉ nhìn thấy nửa gương mặt cô ta tái mét.
Cô ta lớn tiếng nói:
– Ai là sư phụ, sư mẫu của ngươi? Gia gia, má má ta đâu có liên quan gì đến ngươi?
Ngực Lệnh Hồ Xung giống như bị ai đánh mạnh một quyền. Chàng lảo đảo người. Nhạc Bất Quần đối với Lệnh Hồ Xung rất nghiêm khắc nhưng Nhạc phu nhân và Nhạc Linh San vẫn nhớ tình cũ, không làm cho chàng khó chịu. Bây giờ nghe cô ta nói như vậy, chàng không kìm được nỗi đau đớn, nói:
– Phải, ta đã bị trục xuất khỏi môn tường phái Hoa Sơn, không có phúc phận được gọi sư phụ sư nương nữa.
Nhạc Linh San nói:
– Ngươi đã biết không được gọi mà cứ mở miệng gọi hoài làm gì?
Lệnh Hồ Xung cúi đầu không đáp, lòng đau như cắt. Nhạc Linh San hừ một tiếng, vọt ngựa lên trước mấy bước, nói:
– Đưa đây!
Cô đưa tay phải ra. Lệnh Hồ Xung nói yếu ớt:
– Cái gì?
Nhạc Linh San nói:
– Đến nước này mà ngươi còn làm bộ làm tịch, tưởng có thể qua mặt ta được sao?
Đột nhiên cô gắt giọng lên:
– Đưa đây!
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Ta không hiểu. Tiểu sư muội muốn ta đưa cái gì?
Nhạc Linh San nói:
– Muốn cái gì ư? Ta muốn Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm.
Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên nói:
– Tịch tà kiếm phổ ư? Sao lại hỏi ta?
Nhạc Linh San cười nhạt nói:
– Ta không hỏi ngươi thì còn hỏi ai đây? Tấm áo cà sa đó đã bị ai cướp đi trong ngôi nhà cũ của Lâm gia?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đó là hai tên ôn dịch của phái Tung Sơn, một tên gọi là cái gì Bạch đầu tiên ông Bốc Trầm, một tên gọi là Ngốc ưng Sa Thiên Giang.
Nhạc Linh San hỏi:
– Hai tên ôn dịch họ Bốc, họ Sa bị ai giết?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Ta giết.
Nhạc Linh San hỏi:
– Vậy tấm áo cà sa ai lấy?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Ta lấy.
Nhạc Linh San nói:
– Vậy thì đưa ra đây.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta bị thương ngất đi, may nhờ sư… sư… may được mẫu thân của tiểu sư muội cứu. Sau đó tấm áo cà sa không còn ở trong người ta nữa.
Nhạc Linh San ngẩng đầu lên cười ha hả, tiếng cười không có chút gì là cười. Cô hỏi:
– Theo lời ngươi nói thì má má của ta đã nuốt luôn rồi ư? Lời nói đê tiện vô liêm sỉ như vậy mà ngươi cũng nói ra được ư?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta không nói mẫu thân của tiểu sư muội nuốt luôn. Trời cao có mắt, lòng Lệnh Hồ Xung này không có một chút nào bất kính với mẫu thân của tiểu sư muội. Ta chỉ nói là… chỉ nói là…
Nhạc Linh San hỏi:
– Cái gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mẫu thân của tiểu sư muội thấy tấm áo cà sa đó biết là vật của Lâm sư đệ, đương nhiên bà trả lại cho Lâm sư đệ rồi.
Nhạc Linh San lạnh lùng nói:
– Má má của ta sao lại lục soát vật trên người của ngươi? Dù má má muốn giao trả nó lại cho Lâm sư đệ nhưng là vật do ngươi liều mạng đoạt được thì hà hà, sau khi ngươi tỉnh lại, ngươi có chịu giao trả không? Sao má má không để ngươi làm cho có ơn với Lâm sư đệ?
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Cô ta nói cũng có lý. Chẳng lẽ tấm áo cà sa lại bị ai trộm mất? Lòng chàng nóng nảy, lưng toát mồ hôi hột. Lệnh Hồ Xung nói:
– Nếu như vậy thì trong chuyện này tất có vấn đề.
Hắn đem quần áo ra giũ, rồi nói:
– Toàn bộ quần áo của ta đều ở đây, nếu tiểu sư muội không tin thì cứ lục soát.
Nhạc Linh San lại cười nhạt nói:
– Ngươi là người điêu ngoa xảo quyệt, lấy của người ta chẳng lẽ lại cất giấu trên người? Hơn nữa, dưới tay của ngươi có bao nhiêu ni cô toàn hạng phụ nữ giang hồ tứ chiếng, người nào cũng có thể giấu giếm giùm ngươi.
Nhạc Linh San tra hỏi Lệnh Hồ Xung chẳng khác gì tra hỏi phạm nhân, bọn đệ tử phái Hằng Sơn đều căm phẫn bất bình. Nghe cô ta nói vậy liền có mấy người cùng la lên:
– Nói bậy bạ!
– Cái gì gọi là hạng giang hồ tứ chiếng?
– Ở đây có hòa thượng đâu?
– Chính ngươi mới là hạng phụ nữ tứ chiếng.
Tay Nhạc Linh San cầm chuôi kiếm lớn tiếng nói:
– Các ngươi là đệ tử Phật môn mà còn dây dưa với một người đàn ông, ngày đêm không rời hắn, vậy không phải là hạng gái tứ chiếng sao? Thật là quân mặt dày!
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn tức giận, tiếng soạt soạt bất tuyệt, bảy tám người đã rút trường kiếm ra. Nhạc Linh San bấm chốt kiếm, soạt một tiếng, cô tuốt trường kiếm ra, la lên:
– Các ngươi ỷ nhiều thủ thắng, muốn giết người diệt khẩu thì cứ xông lên. Bản cô nương mà sợ các ngươi thì không phải là đệ tử phái Hoa Sơn.
Lệnh Hồ Xung giơ tay trái ra cản bọn đệ tử phái Hằng Sơn lại, thở dài nói:
– Tiểu sư muội vẫn còn nghi ngờ, ta không có cách gì để biện minh được. Lao Đức Nặc đâu rồi? Sao tiểu sư muội không hỏi hắn xem? Hắn đã ăn trộm Tử hà bí cấp, không chừng tấm áo cà sa cũng bị hắn ăn trộm luôn đó.
Nhạc Linh San lớn tiếng nói:
– Ngươi muốn ta đi hỏi Lao Đức Nặc ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đúng vậy.
Nhạc Linh San quát:
– Được. Vậy ngươi lên đây mà lấy mạng ta đi. Ngươi tinh thông Tịch tà kiếm pháp của Lâm gia, ta không phải là đối thủ của ngươi.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ, hỏi:
– Ta… Làm sao ta đả thương tiểu sư muội được?
Nhạc Linh San nói:
– Ngươi bảo ta đi hỏi Lao Đức Nặc, ngươi không giết ta thì làm sao ta có thể xuống âm phủ gặp hắn?
Lệnh Hồ Xung vừa giật mình vừa vui mừng nói:
– Lao Đức Nặc hắn… hắn bị sư… sư… bị gia gia của tiểu sư muội giết rồi ư?
Lệnh Hồ Xung biết Lao Đức Nặc có võ nghệ rồi mới đầu sư môn hạ phái Hoa Sơn, ngoài mình ra, thì võ công của lão cao cường nhất. Nếu không phải Nhạc Bất Quần đích thân động thủ, người khác không trừ khử nổi lão. Người này đã giết Lục sư đệ Lục Đại Hữu, chàng hận đến xương tủy, nghe nói lão chết đi là một chuyện đáng vui mừng.
Nhạc Linh San cười nhạt nói:
– Bậc đại trượng phu mình làm mình chịu, ngươi giết Lao Đức Nặc sao lại không nhận?
Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên nói:
– Tiểu sư muội nói ta giết lão ư? Nếu đúng là ta giết thì sợ gì mà ta không nhận. Người này giết chết Lục sư đệ, may mà lão chết sớm, ta hận không được chính tay ta giết lão.
Nhạc Linh San lớn tiếng nói:
– Vậy tại sao ngươi giết bát sư ca? Hắn đâu có đắc tội gì với ngươi, ngươi… ngươi thật là độc ác.
Lệnh Hồ Xung càng kinh hãi, run run nói:
– Bát sư đệ xưa nay rất tốt với ta, ta… ta sao lại giết hắn?
Nhạc Linh San nói:
– Ngươi… sau khi ngươi cấu kết với yêu nhân Ma giáo, hành vi trái với đạo lí. Ai mà biết tại sao ngươi… tại sao ngươi giết bát sư ca, ngươi… ngươi…
Cô nói đến đây, không kìm được nước mắt chảy dài. Lệnh Hồ Xung bước lên một bước nói:
– Tiểu sư muội, tiểu sư muội đừng có đoán bậy bạ nữa. Bát sư đệ tuổi còn nhỏ, không thù không oán với ai, đừng nói là ta, mà ai cũng không nhẫn tâm gia hại hắn.
Cặp chân mày lá liễu của Nhạc Linh San dựng ngược lên, cô gằn giọng nói:
– Vậy tại sao ngươi nhẫn tâm sát hại Tiểu Lâm tử?
Lệnh Hồ Xung giật mình thất sắc, nói:
– Lâm sư đệ… Hắn… hắn cũng chết rồi ư?
Nhạc Linh San nói:
– Bây giờ thì chưa chết, một nhát kiếm của ngươi chưa đủ làm y chết được, nhưng… nhưng… ai cũng không thể biết y… y… có thể qua được không.
Cô nói đến đây lại nghẹn ngào. Lệnh Hồ Xung thở phào nhẹ nhõm hỏi:
– Hắn bị thương rất nặng phải không? Tất nhiên, hắn biết rõ là ai giết hắn. Hắn nói sao?
Nhạc Linh San nói:
– Trên đời này có ai mà xảo quyệt bằng ngươi? Ngươi chém sau lưng y, sau lưng y làm gì có mắt?
Lệnh Hồ Xung đau đớn, tức tối mà không thể giãi bày được. Chàng rút trường kiếm ra, vận nội lực vào tay. Vù một tiếng, chàng phóng kiếm đi. Thanh kiếm bay thẳng chém vào một cây lớn đường kính hơn thước, lưỡi kiếm tiện ngang thân cây đứt làm đôi. Nửa cây phía trên đổ xuống, ầm một tiếng khiến cát bụi, đất đá bay mù mịt.
Nhạc Linh San thấy uy thế như vậy, không tự chủ được, giật cương cho ngựa lui mấy bước, nói:
– Ngươi học được yêu pháp của Ma giáo, võ công lợi hại, trước mặt ta mà giễu võ giương oai ư?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Nếu ta muốn giết Lâm sư đệ thì đâu cần phải động thủ sau lưng hắn và không đời nào ta chém một kiếm mà hắn không chết được.
Nhạc Linh San nói:
– Ai mà biết lòng dạ ngươi có âm mưu quỷ quái gì? Hừ, nhất định là bát sư ca phát giác được hành động của ngươi nên ngươi giết luôn bát sư ca để diệt khẩu. Ngươi còn chém nát mặt của y thì cũng như ngươi đối phó với nhị… Lao Đức Nặc.
Lệnh Hồ Xung nén giận, biết trong chuyện này có một âm mưu to lớn mà bây giờ chưa nghĩ ra được, bèn hỏi:
– Mặt của Lao Đức Nặc cũng bị băm nát ư?
Nhạc Linh San nói:
– Ngươi đích thân ra tay làm chuyện tốt đẹp này, chẳng lẽ chính ngươi lại không biết? Sao còn hỏi ta?
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Môn hạ phái Hoa Sơn còn có người nào bị tổn thương nữa không?
Nhạc Linh San nói:
– Ngươi giết hai người, đả thương một người, như vậy còn chưa đủ sao?
Lệnh Hồ Xung nghe cô ta nói như vậy, thì biết trong phái Hoa Sơn không còn ai bị hại nữa. Lòng hơi an ổn, nhưng trong đầu chàng lại hiện lên câu hỏi: Ai đã hạ độc thủ?
Bỗng nhiên lòng Lệnh Hồ Xung lạnh buốt. Hắn nhớ lại lời nói của Nhậm Ngã Hành ở Cô Sơn Mai trang Hàng Châu. Lão nói nếu hắn không chịu gia nhập Ma giáo thì lão sẽ tận diệt phái Hoa Sơn.
Phải chăng lão đã đến Phúc Châu, bắt đầu hạ thủ phái Hoa Sơn? Chàng vội nói:
– Tiểu sư muội… tiểu sư muội mau về bẩm báo với gia gia má má của tiểu sư muội, e rằng… e rằng đại ma đầu của Ma giáo đến hạ độc thủ phái Hoa Sơn.
Nhạc Linh San bĩu môi, cười nhạt nói:
– Đúng vậy, quả thực là đại ma đầu của Ma giáo đến hạ độc thủ phái Hoa Sơn ta. Nhưng đại ma đầu này trước đây lại là người của phái Hoa Sơn. Đây mới gọi là nuôi ong tay áo, nuôi cáo dòm nhà, lấy oán trả ân.
Lệnh Hồ Xung cười khổ não, thầm nghĩ: Ta đã đồng ý đi Long Tuyền cứu viện hai vị sư thái Định Nhàn và Định Dật, nhưng sư phụ và sư nương đang gặp đại nạn, ta phải làm sao đây? Nếu Nhậm Ngã Hành ra tay thì ta không phải là đối thủ của lão, nhưng sư phụ sư nương gặp nạn thì dù ta có chết vô ích cũng nên đồng sinh cộng tử với họ. Việc có trọng khinh, tình có thân sơ, chuyện phái Hằng Sơn đành phải để cho bọn họ đi trước lo liệu. Nếu ta có thể ngăn cản được Nhậm Ngã Hành thì liền đi Long Tuyền để cứu viện.
Lệnh Hồ Xung đã quyết vậy, bèn nói:
– Hôm nay sau khi rời khỏi Phúc Châu, ta cùng với những vị sư tỷ phái Hằng Sơn đi chung với nhau, làm sao có thể phân thân đi giết bát sư đệ và Lao Đức Nặc được? Tiểu sư muội không tin thì hỏi bọn họ đi.
Nhạc Linh San nói:
– Hứ, ta hỏi bọn chúng ư? Bọn chúng cùng một bè với ngươi, chẳng lẽ bọn chúng không biết bao che cho ngươi ư?
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn vừa nghe, bảy tám cô la toáng lên. Mấy người xuất gia ăn nói xem ra còn khách khí còn những đệ tử tục gia thì chửi những câu rất chua ngoa.
Nhạc Linh San nắm lấy dây cương lùi lại mấy bước, nói:
– Lệnh Hồ Xung, Tiểu Lâm tử bị thương rất nặng, trong lúc hôn mê hắn vẫn nhớ đến kiếm phổ. Nếu ngươi còn chút nhân tính thì nên đem kiếm phổ trả lại cho hắn. Nếu không… nếu không…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu sư muội xem ta là hạng người đê tiện vô liêm sỉ như vậy sao?
Nhạc Linh San tức giận nói:
– Nếu ngươi không đê tiện vô liêm sỉ thì trong thiên hạ này chẳng còn ai đê tiện vô liêm sỉ nữa.
Nghi Lâm đứng gần đó nghe hai người đối đáp với nhau, lòng vô cùng kích động. Không nhẫn nhục được nữa, cô bèn nói:
– Nhạc cô nương, Lệnh Hồ đại ca đối với Nhạc cô nương rất tốt, lòng của Lệnh Hồ đại ca luôn chân thành với Nhạc cô nương. Tại sao Nhạc cô nương lại thóa mạ Lệnh Hồ đại ca dữ vậy?
Nhạc Linh San cười nhạt nói:
– Hắn đối với ta tốt hay không tốt, ngươi là người xuất gia thì làm sao mà biết được?
Nghi Lâm đột nhiên cảm thấy lòng kiêu hãnh trỗi dậy. Lệnh Hồ Xung bị cô ta vu oan khinh miệt, dù cô có chết một trăm lần cũng phải biện bạch cho Lệnh Hồ đại ca, còn thanh quy giới luật trong Phật môn, sau này sư phụ trách phạt như thế nào, nhất thời cô gạt sang một bên. Cô lớn tiếng nói:
– Chính Lệnh Hồ đại ca đã nói cho ta nghe.
Nhạc Linh San nói:
– Hừ, ngay cả chuyện như vậy hắn cũng nói cho ngươi nghe. Hắn… Hắn muốn lấy lòng ta nên mới ra tay gia hại Lâm sư đệ.
Lệnh Hồ Xung thở dài nói:
– Nghi Lâm sư muội, không cần nói nhiều nữa. Thiên hương đoạn tục giao và Bạch vân hùng đảm hoàn là linh dược trị thương rất có hiệu nghiệm của quý phái, xin sư muội cho sư… Nhạc cô nương một ít, để cô ta đem về trị thương cứu người.
Nhạc Linh San cho ngựa quay đầu lại, cô nói:
– Ngươi chém hắn một kiếm chưa chết, bây giờ còn muốn dùng độc dược nữa sao? Ta không dễ mắc lừa ngươi đâu. Lệnh Hồ Xung, nếu Tiểu Lâm tử có bề gì, ta… ta…
Cô nói đến đây giọng nghẹn ngào như muốn khóc. Cô vội giật cương cho ngựa chạy về hướng Nam. Lệnh Hồ Xung nghe tiếng vó ngựa xa dần, lòng đau khổ vô hạn.
Tần Quyên nói:
– Cô ả này đanh đá như vậy, để cho Tiểu Lâm tử của cô ả chết phứt đi cho rồi.
Nghi Chân nói:
– Tần sư muội, chúng ta là người Phật môn, lấy lòng từ bi làm gốc, tuy vị cô nương này không phải cũng không nên trù ẻo cho người ta chết.
Lệnh Hồ Xung vừa nghĩ ra điều gì, bèn nói:
– Nghi Chân sư muội, ta có một chuyện muốn cầu xin sư muội, xin sư muội vất vả một chuyến.
Nghi Chân nói:
– Lệnh Hồ sư huynh có điều gì sai khiến, tiểu muội xin tuân theo.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Không dám. Người họ Lâm đó là sư đệ đồng môn của ta, theo lời Nhạc cô nương nói hắn bị thương rất nặng. Ta nghĩ linh dược trị thương của quý phái hiệu nghiệm vô cùng…
Nghi Chân nói:
– Lệnh Hồ sư huynh muốn tiểu muội đem thuốc đến cho hắn phải không? Được, tiểu muội sẽ quay lại thành Phúc Châu. Nghi Linh sư muội, sư muội đi cùng ta.
Lệnh Hồ Xung vung tay nói:
– Làm phiền hai vị sư muội đại giá.
Nghi Chân nói:
– Lệnh Hồ sư huynh cùng đi với bọn tiểu muội, làm sao mà giết người được? Chuyện oan uổng như vậy, bọn tiểu muội cũng phải phân bày với Nhạc sư bá.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu cười gượng, từng nghĩ sư phụ đã cho rằng mình đầu nhập vào Ma giáo, không chuyện ác gì mà không làm thì còn có thể tin lời các sư muội sao? Chàng thấy Nghi Chân và Nghi Linh phóng ngựa đi, lòng nghĩ: Bọn họ nhiệt tâm đối với chuyện ta như vậy, nếu ta bỏ mặc bọn họ trở về Phúc Châu thì làm sao đành lòng được? Huống chi Định Nhàn sư thái đang bị địch vây khốn, mà Nhậm Ngã Hành không biết có đến Phúc Châu chưa, ta lại không hề gì…
Tần Quyên đi lượm thanh trường kiếm đã chặt đứt cây đưa cho chàng tra vào vỏ sau lưng. Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung nghĩ: Nếu ta muốn giết Lâm Bình Chi, việc gì phải chém sau lưng hắn? Nếu người hạ thủ là Nhậm Ngã Hành, thì sao lão chém một kiếm mà hắn không chết? Vậy nhất định là một người khác rồi. Chỉ cần người đó không phải Nhậm Ngã Hành, thì sư phụ ta đâu phải sợ ai?
Lệnh Hồ Xung nghĩ tới điểm này, lòng thấy nhẹ bớt. Có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, chắc chắn là bọn Vu Tẩu đi hóa duyên về. Quả nhiên không bao lâu, mười lăm kỵ mã chạy đến. Vu Tẩu nói:
– Lệnh Hồ Xung thiếu hiệp, bọn bần ni hóa… hóa được nhiều vàng bạc, có thể xài… xài không hết đâu. Trong đêm tối, cũng không thể phân một ít đi cứu tế người nghèo khổ.
Nghi Hòa nói:
– Bây giờ đi Long Tuyền là chuyện cần kíp nhất. Chuyện tế bần từ từ hãy làm sau.
Bà quay sang nói với Nghi Thanh:
– Vừa rồi trên đường có một cô gái trẻ tuổi, các ngươi có gặp không? Không biết lai lịch cô ta thế nào mà lại động thủ với bọn ta.
Lệnh Hồ Xung giật mình hỏi:
– Động thủ với các vị ư?
Nghi Hòa nói:
– Đúng vậy, trong đêm tối cô gái này cưỡi ngựa xông đến, vừa thấy bọn bần ni liền chửi cái gì ni cô tứ chiếng, cái gì không biết xấu hổ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Cô ta có bị thương nặng không?
Nghi Hòa ngạc nhiên hỏi:
– Ủa, sao Lệnh Hồ thiếu hiệp biết cô ta bị thương?
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Cô ta chửi bọn họ như vậy, tính tình của bà này lại nóng nảy. Một mình cô ta đối phó với mười lăm người bọn họ, làm sao không bị thương được?
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Cô ta bị thương ở chỗ nào?
Nghi Hòa nói:
– Bần ni hỏi cô ta trước: “Tại sao không hề quen biết lại mở miệng ra chửi người bọn ta?” Cô ta nói: “Hừ, ta mới biết các ngươi. Các ngươi là một đám ni cô trong phái Hằng Sơn không giữ giới luật thanh quy”. Bần ni nói: “Cái gì mà không giữ giới luật thanh quy? Nói bậy bạ, miệng lưỡi ngươi ăn nói cho đàng hoàng một chút”. Cô ta vung roi ngựa, không thèm lý luận với bần ni nữa mà quát: “Tránh ra”. Bần ni liền đưa tay nắm roi ngựa của cô ta và cũng quát: “Tránh ra”. Thế là hai bên động thủ.
Vu Tẩu nói:
– Cô ta rút kiếm ra, bọn bần ni nhận ra cô ta là người phái Hoa Sơn. Trong đêm tối nhìn không rõ dung mạo cô ta, sau đó mới nhận ra dường như là tiểu thư của Nhạc tiên sinh. Bần ni vội quát cản lại, nhưng cánh tay của cô ta đã bị trúng hai nhát kiếm, cũng không nặng lắm.
Nghi Hòa cười nói:
– Bần ni đã nhận ra cô ta rồi. Trong thành Phúc Châu, phái Hoa Sơn đối với Lệnh Hồ sư ca rất vô lễ, phái Hằng Sơn chúng ta có nạn bọn họ lại khoanh tay bỏ mặc, nên bần ni cố ý cho cô ta nếm mùi kiếm thương một chút.
Trịnh Ngạc nói:
– Nghi Hòa sư tỷ đối với Nhạc cô nương này quả thực đã hạ thủ lưu tình. Chiêu Kim châm độ kiếp chém trúng cánh tay trái của cô ta chỉ vạch một vết nhẹ liền thu kiếm về ngay, nếu đánh thật thì còn đâu cánh tay của cô ta nữa.
Lệnh Hồ Xung nghĩ chuyện này chưa yên lại đến chuyện khác. Tiểu sư muội tính khí kiêu ngạo, chưa bao giờ chịu thua ai. Trận chiến đêm nay, tiểu sư muội sẽ cho rằng mình bị đại sỉ nhục, chắc sẽ trút tội lên đầu chàng. Tất cả đều tại cô ta hết. May mà cô ta bị thương không nặng, chắc không có gì đáng ngại.
Trịnh Ngạc đã biết Lệnh Hồ Xung rất quan tâm đến Nhạc cô nương đó, bèn nói:
– Nếu bọn tiểu muội sớm biết cô ta là sư muội của Lệnh Hồ sư huynh thì để cô ta chửi mấy câu cũng không sao, nhưng vì trời tối, cái gì cũng không thấy rõ. Sau này gặp mặt, bọn tiểu muội phải xin lỗi cô ta mới được.
Nghi Hòa hầm hầm nói:
– Xin lỗi cái gì, chúng ta đâu có đắc tội với cô ta. Cô ta vừa mở miệng ra là chửi chúng ta. Đi khắp thiên hạ cũng không có hạng người như vậy.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Các vị hóa duyên được rồi, chúng ta lên đường thôi. Bạch Bát Bì đó thế nào?
Lòng Lệnh Hồ Xung rất khó chịu, hắn không muốn nhắc đến chuyện Nhạc Linh San nữa nên mới nói lái sang chuyện khác.
Bọn Nghi Hòa nghe hỏi đến chuyện hóa duyên thì rất lấy làm hứng thú, liền nói huyên thuyên bất tuyệt. Nghi Hòa còn nói thêm:
– Bình thường hóa duyên được một hai lượng bạc cũng khó vô cùng. Tối nay bọn bần ni lại hóa được mấy ngàn lượng.
Trịnh Ngạc cười nói:
– Bạch Bát Bì nằm ở dưới đất vừa khóc vừa la, nói rằng mấy chục năm tâm huyết làm ăn, chỉ trong một đêm tất cả trôi theo dòng nước hết.
Tần Quyên cười nói:
– Ai biểu lão thuộc họ Bạch làm chi? Lão đi lột da người khác, vơ vét tài vật, rốt cuộc trắng tay lại hoàn trắng tay.
Mọi người cười một trận, nhưng không lâu liền nghĩ đến chuyện sư bá và sư phụ đang bị khốn thì lòng ai cũng buồn bã.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chúng ta phải đi gần nhau kẻo lạc. Mau lên đường thôi!
Đoàn người phóng ngựa phi rất nhanh, mỗi ngày chỉ ngủ một hai canh giờ, trên đường không có chuyện gì xảy ra. Mấy ngày sau thì đến Long Tuyền ở Triết Nam. Lệnh Hồ Xung bị hai lão Bốc Trầm và Sa Thiên Giang chém bị thương, tuy mất máu nhiều nhưng chỉ là vết thương ngoài da. Nội lực của hắn thâm hậu, rồi được trong uống ngoài bôi linh dược trị thương của phái Hằng Sơn nên lúc đến Triết Giang sức khỏe đã bình phục.
Bọn đệ tử rất sốt ruột, vừa vào địa phận Triết Giang liền hỏi thăm Chú Kiếm cốc ở đâu, nhưng dân địa phương không ai biết cả. Đến nội thành Long Tuyền thấy rất nhiều tiệm bán đao kiếm, nhưng đến hỏi thì không một người thợ rèn nào biết Chú Kiếm cốc nằm ở đâu. Mọi người rất sốt ruột, hỏi có thấy hai vị lão ni cô hay gần đây có ai đánh nhau không. Bọn thợ rèn đều nói không nghe ai đánh nhau, còn ni cô thì thường thấy. Trong Thủy Nguyệt am ở phía Tây thành có nhiều ni cô nhưng cũng không biết già hay trẻ.
Mọi người hỏi đường đến Thủy Nguyệt am, liền phóng ngựa đến đó. Đến trước am, thấy cửa am đóng chặt.
Trịnh Ngạc gõ cửa một hồi lâu cũng không có ai ra mở. Nghi Hòa thấy Trịnh Ngạc lại gõ cửa một lúc nữa nhưng cũng không thấy trong am có động tĩnh gì. Bà không nhẫn nại được nữa liền rút trường kiếm ra khỏi vỏ, vượt tường vào trong. Nghi Thanh cũng nhảy theo vào. Nghi Hòa hỏi:
– Sư muội trông kìa, đây là cái gì?
Bà chỉ tay xuống đất. Trong sân có bảy tám mũi kiếm sáng loáng nằm rơi vãi dưới đất, rõ ràng là chúng bị ai dùng lợi khí chém gãy. Nghi Hòa la lên:
– Có ai trong am không?
Bà tìm trong hậu điện. Nghi Thanh rút chốt mở cửa để Lệnh Hồ Xung và mọi người vào. Bà lượm một mũi kiếm đưa cho Lệnh Hồ Xung rồi nói:
– Hai vị sư bá Định Nhàn và Định Dật có sử bảo kiếm không?
Nghi Thanh nói:
– Hai vị lão nhân gia đều không sử bảo kiếm. Sư phụ của tiểu muội từng nói, chỉ cần luyện kiếm pháp cho thuần thục thì kiếm gỗ kiếm trúc cũng có thể khắc địch thủ thắng. Sư phụ lão nhân gia còn nói bảo đao bảo kiếm lại càng bá đạo, chỉ lỡ tay thì giết hại người ta, hoặc chém mất tay chân…
Lệnh Hồ Xung trầm ngâm hỏi:
– Vậy thì đây không phải do hai vị sư bá chém đứt?
Nghi Thanh gật đầu. Nghi Hòa ở hậu điện la lên:
– Ở đây cũng có mũi kiếm.
Mọi người liền chạy về hướng hậu điện, thấy trong điện đường, trên bàn dưới đất, khắp nơi đều đầy vết tro bụi. Ni am Phật đường trong thiên hạ phải lau chùi sạch sẽ, mà ở đây chỗ nào cũng đầy bụi đất, ít nhất cũng đã nhiều ngày không có người ở. Bọn Lệnh Hồ Xung lại vào hậu điện, thấy nhiều gốc cây bị lợi khí chém đứt, quan sát kỹ chỗ chém, thấy cũng đã qua nhiều ngày. Sau cửa có một cái động, cánh cửa nằm ngoài mấy trượng, dường như bị ai đá văng đi.
Ngoài cửa sau có một con đường nhỏ thông xuống quần sơn, đi hơn mươi trượng thì gặp một ngã ba. Nghi Thanh la lên:
– Mọi người phân ra đi tìm xem có gì khác thường không.
Không bao lâu, Tần Quyên từ trên con đường mé phải la lên:
– Ở đây có một mũi tên.
Lại có một người la lên:
– Thiết chùy, có một mũi thiết chùy.
Con đường nhỏ này thông xuống một cụm núi nhấp nhô; mọi người liền chạy nhanh về phía trước, trên đường thỉnh thoảng thấy ám khí và những mảnh đao kiếm bị gãy.
Bỗng nhiên, Nghi Thanh ồ lên một tiếng. Từ trong bụi cỏ, bà nhặt ra một thanh trường kiếm rồi nói với Lệnh Hồ Xung:
– Đây là binh khí của bổn môn.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hai vị sư thái Định Nhàn và Định Dật đấu với địch nhân, nhất định đã đi qua hướng này.
Mọi người đều biết chưởng môn nhân và Định Dật sư thái nhất định đấu không lại địch nhân, nên từ chỗ này chạy trốn đi. Lệnh Hồ Xung nói vậy chẳng qua là tế nhị mà thôi. Thấy trên đường binh đao ám khí rải đầy, họ đoán rằng trận ác đấu này nhất định vô cùng khốc liệt. Sự việc xảy ra cách đây đã nhiều ngày, không biết còn cứu viện kịp không. Mọi người lo lắng, co giò chạy nhanh.
Đường núi càng lúc càng hiểm trở, vòng quanh lên, rồi vòng xuống. Đi được mấy dặm, thấy sỏi đá ngổn ngang, không còn đường để đi nữa. Những đệ tử võ công thấp như bọn Nghi Lâm, Tần Quyên lọt lại phía sau.
Lại đi thêm một lúc nữa, trên núi không còn đường, cũng không thấy vật dụng hay ám khí để chỉ phương hướng.
Mọi người đang lúc phân vân không biết làm thế nào, bỗng thấy sau núi phía bên trái khói đen ngùn ngụt bốc lên. Lệnh Hồ Xung nói:
– Chúng ta mau đến đó xem sao!
Chàng liền chạy đến hướng khói tỏa. Làn khói càng lúc càng cao. Vòng qua sau một sườn núi, chàng thấy phía trước có một sơn cốc rất lớn, trong cốc khói lửa bốc lên, tiếng cành cây, cỏ dại cháy kêu lách tách. Lệnh Hồ Xung núp sau tảng đá, quay lại vẫy tay ra hiệu bảo bọn Nghi Hòa đừng lên tiếng.
Ngay lúc này nghe tiếng một lão già nói:
– Định Nhàn, Định Dật, hôm nay bọn ta đưa tiễn các ngươi về thế giới Tây phương cực lạc, được chứng chánh quả. Các ngươi không cần phải đa tạ bọn ta đâu.
Lệnh Hồ Xung vui mừng:
– Hai vị sư thái chưa gặp nguy, may mà ta đến kịp.
Lại có giọng một nam tử la lên:
– Đông Phương giáo chủ khuyên các ngươi hãy đầu hàng, các ngươi cứ cố chấp không nghe thì từ nay về sau trong võ lâm không còn có phái Hằng Sơn nữa.
Người trước lại nói:
– Các ngươi đừng oán Nhật Nguyệt thần giáo ta tàn độc, mà nên trách mình ngoan cố làm liên lụy đến nhiều đệ tử trẻ phải chết oan uổng. Thật là đáng tiếc, ha ha!
Lửa trong cốc càng cháy càng mạnh, rõ ràng hai vị sư thái Định Nhàn, Định Dật bị khốn trong vòng vây lửa. Lệnh Hồ Xung cầm kiếm, hít một hơi, lên tiếng nói:
– Tặc tử Ma giáo to gan, dám làm khó dễ các vị sư thái phái Hằng Sơn. Các cao thủ bốn phương của Ngũ Nhạc kiếm phái đã đến cứu ứng, các ngươi còn không chịu đầu hàng ư?
Lệnh Hồ Xung vừa quát vừa chạy xuống sơn cốc. Vừa đến nơi, hắn thấy củi, cỏ khô chất cao đến hai trượng. Lệnh Hồ Xung không chần chờ, tung người nhảy qua đám lửa xông vào cốc. Chàng xông lên mấy bước, thấy có hai thạch động mà không thấy người, bèn gọi to:
– Định Nhàn, Định Dật hai vị sư thái! Cứu binh phái Hằng Sơn tới đây.
Lúc này bọn đệ tử Nghi Hòa, Nghi Thanh, Vu Tẩu đã la to ngoài vòng lửa:
– Sư phụ, sư bá, bọn đệ tử đã đến rồi!
Tiếp theo lại có tiếng quát tháo om sòm của địch nhân:
– Giết hết bọn chúng!
– Toàn là ni cô phái Hằng Sơn.
– Phô trương thanh thế cái gì mà cao thủ Ngũ Nhạc kiếm phái.
Binh khí giao nhau, bọn đệ tử phái Hằng Sơn và địch nhân đã giao chiến rồi.
Ở cửa động có một bóng người cao to chui ra, người đầy vết máu, chính là Định Dật sư thái. Bà cầm trường kiếm đứng ngay trước cửa hang, tay áo ống quần rách tả tơi, vẻ mặt lem luốc vết máu, nhưng vẫn hiên ngang, oai phong lẫm liệt, không mất đi khí độ của một cao thủ hạng nhất.
Thấy Lệnh Hồ Xung, bà sửng sốt nói:
– Ngươi… ngươi là…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đệ tử là Lệnh Hồ Xung.
Định Dật sư thái nói:
– Ta biết ngươi là Lệnh Hồ Xung…
Ở bên ngoài Quần Ngọc viện thành Hành Sơn, bà đã từng nhìn qua cửa sổ thấy Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung nói:
– Đệ tử xin mở đường để các vị cùng xông ra.
Lệnh Hồ Xung lượm một cái cây dài để tém những củi khô, cỏ đang cháy. Định Dật sư thái nói:
– Ngươi đã đầu nhập Ma giáo…
Ngay lúc đó có một người quát:
– Ai dám náo loạn ở đây?
Ánh đao lấp loáng, một thanh cương đao từ trong ánh lửa chém ra. Lệnh Hồ Xung thấy lửa cháy rất mạnh, tình thế nguy cấp mà Định Dật sư thái còn nghi ngờ mình, không chịu theo mình xông ra ngoài. Gặp tình thế này, chỉ có đại khai sát giới mới có thể cứu được mọi người thoát hiểm. Chàng liền lùi lại một bước. Đao của người đó chém không trúng, đao thứ hai lại chém tới.Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung chém ngay ra, choang một tiếng, cánh tay phải và đao của người đó bị rớt xuống đất. Lại nghe tiếng một phụ nữ ở bên ngoài thét lên đau đớn, rõ ràng nữ đệ tử phái Hằng Sơn bị độc thủ.
Lệnh Hồ Xung giật mình, vội từ trong đám lửa nhảy ra ngoài, thấy trên sườn núi phía Đông một tốp, phía Tây một tốp, mấy trăm người đã đấu với nhau rất quyết liệt. Quần đệ tử phái Hằng Sơn bảy người một tốp, tổ chức kiếm trận mà kháng cự địch nhân, nhưng cũng có nhiều người rời rạc chưa kịp tổ chức thành kiếm trận thì đã tiếp chiến với địch nhân rồi. Tổ chức thành kiếm trận dù chưa chiếm được thế thượng phong ngay, trong nhất thời cũng không có gì đáng ngại, nhưng những người chiến đấu đơn độc thì nguy hiểm vô cùng. Đã có hai nữ đệ tử chết nằm dưới đất.
Lệnh Hồ Xung đưa mắt nhìn bao quát trận chiến, thấy Nghi Lâm và Tần Quyên tựa lưng vào nhau đang đấu với ba tên hán tử. Chàng đề khí xông đến, bỗng thấy thanh quang lấp loáng, một thanh trường kiếm phóng nhanh đến. Lệnh Hồ Xung vung trường kiếm lên đâm vào yết hầu của người đó. Chàng tung người mấy cái đã chạy đến trước Nghi Lâm, vung kiếm đâm vào sau lưng một tên hán tử, lại đánh ra một kiếm đâm xuyên sườn một tên hán tử thứ hai. Tên hán tử thứ ba vung cương tiên lên toan đánh xuống đầu Tần Quyên, Lệnh Hồ Xung xoay ngược trường kiếm lại, chém thẳng cánh tay đến bả vai của hắn.
Nghi Lâm mặt tái mét. Cô nói:
– A Di Đà Phật, Lệnh Hồ đại ca!
Lệnh Hồ Xung thấy Vu Tẩu bị hai tên hảo thủ đánh rất rát, chàng liền tung người qua. Choang choang hai kiếm, một kiếm trúng bụng dưới một tên, còn một kiếm chém đứt cổ tay tên kia.
Hai tên hảo thủ bên địch một tên chết một tên bị thương. Lệnh Hồ Xung quay người lại, phóng trường kiếm tới. Ba tên hán tử đang đấu kịch liệt với Nghi Hòa và Nghi Thanh la lên thảm khốc rồi ngã lăn xuống đất.
Một lão già quát:
– Hợp lực lại giết tên cẩu tặc này trước.
Ba bóng người cùng đáp rồi xông đến. Ba kiếm cùng phóng ra, phân ra đánh vào ngực, bụng dưới và yết hầu của Lệnh Hồ Xung. Chiêu kiếm tinh kỳ, thế kiếm lợi hại, đúng là kiếm pháp của hảo thủ bậc nhất. Lệnh Hồ Xung giật mình thầm nghĩ:
– Đây là kiếm pháp của phái Tung Sơn! Chẳng lẽ bọn chúng là người phái Tung Sơn?
Lệnh Hồ Xung phân tâm nghĩ ngợi thì ba mũi kiếm của ba tên địch nhân đã đâm gần đến ba chỗ yếu hại của chàng. Lệnh Hồ Xung sử yếu quyết Phá kiếm thức trong Độc Cô cửu kiếm, xoay trường kiếm một vòng hóa giải ba kiếm của địch nhân, kiếm ý chưa hết đã bức địch nhân lùi lại hai bước. Hắn thấy bên trái là một hán tử cao to khoảng bốn chục tuổi, dưới cằm để một túm râu. Đứng giữa là một lão già gầy đét, da sạm đen, đôi ngươi lấp loáng. Lệnh Hồ Xung không kịp nhìn người thứ ba. Hắn nghiêng người vọt qua, rồi xoay tay. Soạt soạt hai tiếng, hắn đã đâm ngã hai tên đang hợp lại tấn công Trịnh Ngạc. Ba người đó lớn tiếng la lên đuổi theo Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung nhận định: Ba người này kiếm pháp rất cao thâm, nhất thời không đánh thắng chúng được. Nếu đấu kéo dài thì môn hạ phái Hằng Sơn bị tổn thương rất nhiều.
Nghĩ vậy, chàng liền đề khí vận nội lực, chân không dừng bước, bên Đông phóng một chiêu, bên Tây chém một kiếm. Trường kiếm của chàng vung tới đâu thì ở đó có một tên địch nhân bị thương ngã xuống hoặc bị trúng kiếm chết.
Ba tên cao thủ hò hét đuổi theo nhưng lúc nào bọn chúng cũng cách xa Lệnh Hồ Xung hơn một trượng. Trong thời gian cạn một tuần trà, đã có hơn ba chục tên địch nhân chết và bị thương dưới kiếm của Lệnh Hồ Xung. Quả thực không một tên nào đỡ nổi một chiêu một thức của hắn. Bên địch trong khoảnh khắc đã tổn thất hơn ba chục người, thế mạnh yếu liền đảo ngược. Lệnh Hồ Xung mỗi lần sát thương mấy tên địch nhân thì nữ đệ tử phái Hằng Sơn lại có một số người rảnh tay chạy đi tương trợ đồng môn. Lúc trước, họ lấy ít địch nhiều; bây giờ bọn họ lấy nhiều địch ít, càng lúc càng chiếm thượng phong.
Lệnh Hồ Xung nghĩ cuộc chiến hôm nay là cuộc chiến sinh tử, quyết không thể dung tình. Nếu trong khoảng thời gian cực ngắn mà không đánh lui quân địch, lửa cháy bừng lên thì bọn Định Nhàn sư thái bị nhốt trong hang không cách nào thoát hiểm được. Chàng chạy như bay, bỗng xông thẳng bỗng lách ngang, chỗ nào cũng có vết chân của chàng. Trong vòng hơn một trượng địch nhân không tên nào trốn được. Không bao lâu, hơn hai mươi người nữa ngã lăn ra đất.
Định Dật đứng ở chỗ cao trong hang, thấy Lệnh Hồ Xung sát thương địch nhân một cách xuất quỷ nhập thần, kiếm pháp tinh kỳ, bình sinh chưa bao giờ thấy. Bà vui mừng khôn xiết, không còn ngạc nhiên về chàng nữa.
Địch nhân còn lại bốn năm chục tên, thấy Lệnh Hồ Xung như quỷ như ma, sức người không thể chống đỡ nổi. Bỗng nghe huýt lên một tiếng, có hơn hai mươi tên chạy vào lùm cây trốn. L ệnh Hồ Xung giết thêm một số tên nữa, những tên còn lại không còn nhuệ khí chiến đấu, liền trốn sạch. Ba tên cao thủ vẫn đuổi theo phía sau hắn, nhưng khoảng cách càng xa dần, hiển nhiên chúng đã có ý khiếp sợ.
Lệnh Hồ Xung dừng bước quay người lại quát:
– Các ngươi là người phái Tung Sơn có phải không?
Ba người vội nhảy lùi lại. Một hán tử cao to quát:
– Các hạ là ai?
Lệnh Hồ Xung không đáp, nhìn bọn Vu Tẩu la lên:
– Mau dập lửa cứu người!
Bọn đệ tử chặt cành cây để dập lửa. Bọn Nghi Hòa mấy người đã nhảy vào. Những đám lửa còn cháy bùng nhưng mười mấy người hợp lực lại cùng dập, đã mở ra được một đường thoát. Bọn Nghi Hòa từ trong hang dìu mấy ni cô còn thoi thóp thở ra.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Định Nhàn sư thái sao rồi?
Nghe một phụ nữ lớn tuổi nói:
– Thật làm nhọc lòng các hạ lo lắng.
Một lão ni tầm thước khoan thai từ trong đám lửa bước ra. Trên y phục màu trắng của bà không một vết máu, cũng không có một vết dơ, tay mặt không cầm binh khí, tay trái chỉ cầm một chuỗi hạt châu, nét mặt hiền từ, thần sắc điềm nhiên, khí độ nhàn nhã. Lệnh Hồ Xung rất ngạc nhiên, thầm nghĩ: Định Nhàn sư thái điềm tĩnh như vậy. Thân đang gặp nạn vẫn không mất một chút oai phong, thật là danh bất hư truyền. Hắn bèn cúi người hành lễ nói:
– Đệ tử xin bái kiến sư thái.
Định Nhàn sư thái chấp tay đáp lễ rồi nói:
– Có người đánh lén, cẩn thận!
Lệnh Hồ Xung đáp dạ, không quay người lại mà chỉ xoay tay vung kiếm cản một chiêu của lão hán tử to béo đâm tới. Chàng nói:
– Đệ tử cứu viện chậm trễ, xin sư thái miễn thứ.
Choang choang mấy tiếng, Lệnh Hồ Xung lại gạt ra hai kiếm từ phía sau đâm tới. Lúc này mười mấy ni cô từ trong đám lửa chạy ra. Có người cõng cả xác chết. Định Dật sư thái bước lên trước, lớn tiếng quát:
– Đồ gian tà vô sỉ, lòng lang dạ sói…
Vạt áo của bà bị bén lửa, bà cũng mặc. Vu Tẩu vội chạy đến dập lửa trên áo bà.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hai vị sư thái không sao, thật đại phúc.
Sau lưng chàng có tiếng gió vù vù, ba thanh trường kiếm đồng thời phóng tới. Nghe tiếng đao phong, nội lực liền cảm ứng tự nhiên biết ra chiêu số của địch. Lệnh Hồ Xung vung trường kiếm ra, xoay lại đâm trúng cổ tay địch nhân. Ba người này võ công rất cao cường, chúng vội lạng người né tránh, nhưng lưng bàn tay của lão hán tử cao to bị vạch một đường, máu chảy túa ra.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hai vị sư thái, phái Tung Sơn là thủ lĩnh của Ngũ Nhạc kiếm phái, cùng phái Hằng Sơn đồng khí liên chi mà sao lại tập kích đánh lén, thật khiến cho người ta khó hiểu.
Định Dật sư thái hỏi:
– Sư tỷ đâu? Sao sư tỷ chưa đến?
Tần Quyên vừa khóc vừa nói:
– Sư… sư phụ bị gian nhân vây đánh, cố sức chống chọi… đã chết rồi…
Bà bước tới, nhưng chỉ đi được hai bước, thân người loạng choạng, miệng hộc máu ra, ngồi phệt xuống đất.
Ba tên cao thủ phái Tung Sơn liên tiếp biến chiêu mà vẫn không làm gì được Lệnh Hồ Xung. Chàng quay lưng về hướng chúng, cầm kiếm xoay tay ra sau lưng mà chiêu kiếm vẫn thần diệu khôn lường. Nếu chàng quay người lại thì làm sao chúng có thể địch lại? Ba lão ngấm ngầm kêu trời, chỉ muốn thoát thân chạy đi.
Lệnh Hồ Xung quay người lại, soạt soạt tấn công mấy chiêu. Đối với địch nhân phía bên trái thì chàng tấn công về bên phải, còn đối với địch nhân bên phải thì chàng tấn công về bên trái, bức ba lão càng lúc co cụm lại. Trường kiếm của hắn vây ba người lại, liên tiếp tấn công mười tám kiếm. Ba lão liền đỡ mười tám chiêu, mà vẫn không thể trả chiêu được. Ba lão đều sử kiếm pháp tinh diệu của phái Tung Sơn nhưng dưới chiêu số tấn công của Độc Cô cửu kiếm, chúng không cách nào trả được một chiêu. Lệnh Hồ Xung có ý bức bọn chúng phải thi triển kiếm pháp bổn môn để chúng hết đường chối cãi. Thấy mặt ba người ướt đẫm mồ hôi, vẻ mặt hung tợn đáng sợ nhưng kiếm pháp vẫn không có chút tán loạn, hiển nhiên mỗi lão đều tu luyện võ công mấy chục năm, không phải hạng tầm thường.
Định Nhàn sư thái nói:
– A Di Đà Phật, thiện tai thiện tai! Triệu sư huynh, Trương sư huynh, Tư Mã sư huynh, phái Hằng Sơn và quý phái không thù không oán, sao ba vị lại uy hiếp, muốn dùng lửa thiêu đốt bọn bần ni thành tro? Bần ni không hiểu, xin thỉnh giáo các vị.
Ba tên hảo thủ phái Tung Sơn đúng là họ Triệu, họ Trương và họ Tư Mã. Ba lão rất ít đi lại trên giang hồ, cho rằng thân phận của mình vô cùng bí mật. Bị Lệnh Hồ Xung bức đến tay chân luống cuống, bỗng nghe Định Nhàn sư thái gọi đích danh họ tên ra, ba lão đều giật mình, choang choang hai tiếng, cổ tay của hai lão bị trúng kiếm, trường kiếm rớt xuống đất. Mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung chỉ vào yết hầu của lão thấp lùn họ Triệu, quát:
– Buông kiếm!
Lão già thở dài nói:
– Thiên hạ lại có người võ công cao cường, kiếm pháp tinh thâm như vậy. Triệu mỗ bị bại ở dưới kiếm của các hạ coi như cũng không uổng.
Lão rung cổ tay, nội lực tản ra khắp nơi, trường kiếm trong tay lão gãy ra thành bảy tám đoạn rớt xuống đất.
Lệnh Hồ Xung lùi lại mấy bước, bọn Nghi Hòa bảy người đều tuốt trường kiếm ra vây chặt ba lão.
Định Nhàn sư thái đĩnh đạc nói:
– Quý phái muốn đem Ngũ Nhạc kiếm phái hợp lại làm một, thành Ngũ Nhạc phái. Phái Hằng Sơn của bần ni truyền thế mấy trăm năm không thể để bị mất vì tay bần ni, nên cự tuyệt đề nghị của quý phái. Chuyện này lẽ ra phải bàn bạc đâu đó, sao các vị lại mạo xưng là Ma giáo để ra tay độc thủ, muốn tận diệt phái Hằng Sơn của bần ni. Hành sự như vậy không phải là lộng quyền lắm sao?
Định Dật sư thái tức giận nói:
– Sư tỷ nói nhiều với bọn chúng làm gì? Giết hết bọn chúng đi để trừ hậu hoạn…
Bà ho lên mấy tiếng rồi lại thổ huyết. Lão hán tử cao to họ Tư Mã nói:
– Bọn ta phụng mệnh bề trên, nội tình bên trong thật không biết gì hết…
Lão họ Triệu tức giận nói:
– Cứ mặc bọn chúng muốn giết muốn mổ, ngươi nói nhiều làm gì?
Lão họ Tư Mã bị lão họ Triệu quát như vậy thì không nói nữa, mặt lộ vẻ xấu hổ.
Định Nhàn sư thái nói:
– Ba chục năm về trước, ba vị tung hoành ở Tái Ký, sau đó đột nhiên im hơi lặng tiếng. Bần ni còn cho rằng ba vị đã tỉnh ngộ, sửa đổi lỗi lầm lúc trước, nhưng không ngờ các vị ngấm ngầm đầu nhập vào phái Tung Sơn, còn có mưu đồ. Ôi, Tả chưởng môn phái Tung Sơn là cao nhân một thời lại đi thu nhận nhiều tả đạo… trên giang hồ để làm khó dễ đồng đạo. Lòng dạ… ôi, khiến cho người ta khó hiểu nổi!
Tuy bà gặp đại biến mà vẫn không muốn nói nặng ai, vừa rồi tự thấy hơi quá, liền lái sang chuyện khác. Bà thở dài hỏi:
– Sư tỷ Định Tĩnh của bần ni cũng do quý phái giết hại ư?
Lão họ Tư Mã trong lời nói hồi nãy tỏ ý khiếp nhược, vội muốn gỡ lại thể diện liền lớn tiếng nói:
– Đúng vậy, đó là do Chung sư đệ…
Lão họ Triệu hứ một tiếng tức giận nhìn lão họ Tư Mã, lão họ Tư Mã biết mình lỡ lời nên nói huỵch toẹt ra luôn:
– Chuyện đến nước này còn giấu diếm làm gì nữa! Tả chưởng môn sai bọn ta phân làm hai đường đến Triết Mân để hành sự.
Định Nhàn sư thái nói:
– A Di Đà Phật, A Di Đà Phật! Tả chưởng môn đã làm minh chủ của Ngũ Nhạc kiếm phái, địa vị và danh vọng như vậy, sao còn muốn thôn tính cả năm phái để một mình lão làm chưởng môn? Dấy động can qua, tàn sát đồng đạo như vậy há không phải khiến cho anh hùng thiên hạ chê cười sao?
Định Dật sư thái gằn giọng nói:
– Sư tỷ, tặc tử dã tâm, lòng tham không đáy… Sư tỷ…
Định Nhàn sư thái phẩy tay nói với ba lão:
– Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt. Làm nhiều chuyện bất nghĩa tất gặp phải ác báo. Các vị đi đi! Phiền ba vị về bẩm báo Tả chưởng môn, phái Hằng Sơn từ đây không phụng mệnh của Tả chưởng môn nữa. Tệ phái tuy đều là hạng nữ lưu yếu ớt nhưng quyết không khuất phục dưới tay cường bạo. Đề nghị hợp phái của Tả chưởng môn, phái Hằng Sơn quyết không phụng mệnh.
Nghi Hòa la lên:
– Sư bá, bọn họ… bọn họ ác độc…
Định Nhàn sư thái nói:
– Giải tán kiếm trận!
Nghi Hòa đáp dạ, bà giơ trường kiếm lên, bảy người liền thoái lui thu kiếm về.
Ba tên hảo thủ phái Tung Sơn vạn lần không ngờ lại được phóng thích dễ dàng như vậy, chúng cảm kích vô cùng, hướng về Định Nhàn sư thái cúi người hành lễ rồi quay người chạy như bay.
Lão họ Triệu chạy được mấy trượng liền dừng bước quay lại lớn tiếng hỏi:
– Xin hỏi tôn tính đại danh vị thiếu hiệp kiếm pháp thần thông. Hôm nay tại hạ bị thua, không dám nghĩ đến chuyện báo thù, chỉ muốn biết tại hạ đã thua dưới kiếm của vị anh hùng nào?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Bổn tướng quân là Ngô Thiên Đức, tham tướng phủ Tuyền Châu!
Lão già họ Triệu biết Lệnh Hồ Xung nói xạo bèn thở dài quay người ra đi.
Lúc này, lửa cháy càng lúc càng mạnh, bọn phái Tung Sơn bị tử thương nằm dọc ngang dưới đất. Mười mấy tên bị thương tương đối nhẹ liền bò dậy chạy đi. Người bị trọng thương nằm trong vũng máu, thấy lửa cháy sắp đến mà không còn sức để tránh, có người lớn tiếng kêu cứu.
Định Nhàn sư thái nói:
– Chuyện này không liên can đến bọn chúng, đều do Tả chưởng môn suy nghĩ sai lầm mà ra. Vu Tẩu, Nghi Thanh đi cứu bọn chúng đi.
Mọi người biết chưởng môn nhân từ bi bác ái, không dám trái lời, liền phân ra đi cứu những người bị thương nặng. Chỉ cần chúng còn thở, bọn họ liền dìu sang một bên, lấy thuốc bôi lên vết thương.
Định Nhàn sư thái ngẩng đầu nhìn về hướng Nam, nước mắt chảy dài, bà gọi:
– Sư tỷ!
Bà loạng choạng, té ngã về phía trước. Bọn đệ tử kinh hãi chạy đến dìu bà dậy, thấy miệng bà máu tuôn ra xối xả, mà thương thế của Định Dật sư thái cũng rất nặng. Bọn đệ tử vô cùng hoảng hốt không biết phải làm thế nào, tất cả cùng nhìn Lệnh Hồ Xung muốn biết ý kiến của chàng.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mau cho hai vị sư thái uống thuốc trị thương. Lấy thuốc cầm máu trước đã. Ở đây lửa cháy nóng quá, mọi người sang bên kia nghỉ ngơi. Xin hai vị sư muội đi tìm một ít quả dại hoặc cái gì để ăn.
Mọi người tuân mệnh chia nhau đi làm. Trịnh Ngạc và Tần Quyên cầm bình đi lấy nước suối về để các vị Định Nhàn, Định Dật và những đồng môn uống thuốc.
Trong trận chiến Long Tuyền, đệ tử phái Hằng Sơn bị chết ba mươi bảy người. Bọn đệ tử nhớ lại chuyện Định Tĩnh sư thái và sư tỷ, sư muội tử chiến đều thương cảm. Đột nhiên có người khóc to lên, những người khác cũng khóc theo. Trong phút chốc, sơn cốc đầy những tiếng khóc bi ai.
Định Dật sư thái gằn giọng quát:
– Chết thì đã chết rồi, sao các ngươi không hiểu gì cả? Bình thường mọi người học Phật thông kinh là để tham ngộ hai chữ “sinh tử”, cái bọc da thúi này có gì đâu mà luyến tiếc?
Bọn đệ tử biết vị sư thái này tính nóng như lửa, ai cũng không dám trái ý bà liền nín khóc nhưng nhiều người vẫn còn thút thít. Định Dật sư thái hỏi:
– Sư tỷ gặp nạn ra sao? Ngạc nhi, ngươi lanh mồm lanh miệng hãy bẩm cáo rõ cho chưởng môn nhân biết.
Trịnh Ngạc đáp dạ rồi đứng dậy, đem việc bọn địch nhân phục kích trên Tiên Hà Lĩnh thế nào, được Lệnh Hồ Xung ra tay cứu giúp, ở Trấp Bát trấn bị địch nhân đánh thuốc mê, bị bắt ra sao, Định Tĩnh sư thái bị Chung Trấn phái Tung Sơn uy hiếp thế nào, rồi bọn bịt mặt vây đánh, may được Lệnh Hồ Xung đến giải vây, Định Tĩnh sư thái cuối cùng bị thương nặng đã viên tịch, tất cả mọi chuyện cô lần lượt kể ra.
Định Dật sư thái nói:
– Thì ra là vậy. Tặc tử phái Tung Sơn mạo xưng Ma giáo, bức bách sư tỷ phải tán đồng đề nghị hợp phái của chúng. Hừ, lòng dạ chúng thật độc ác. Nếu các ngươi đều bị bọn phái Tung Sơn bắt giữ thì sư tỷ có muốn không đồng ý cũng không được.
Bà nói đến câu sau, dường như khí lực đã cạn, thanh âm yếu dần. Bà thở hổn hển một lúc, lại nói:
– Sư tỷ ở Tiên Hà Lĩnh bị địch vây đánh thì biết địch nhân không phải là hạng tầm thường, bồ câu đưa thư đến muốn chúng ta thống lĩnh đệ tử đi cứu viện. Không ngờ… không ngờ… chuyện này cũng rơi vào mưu kế của bọn địch.
Nhị đệ tử Nghi Văn ngồi dưới Định Nhàn sư thái nói:
– Sư thúc, xin sư thúc hãy nghỉ ngơi, để đệ tử thuật lại chuyện chúng ta gặp địch như thế nào.
Định Dật sư thái tức giận nói:
– Gặp cái gì? Trong Thủy Nguyệt am bị bọn địch nhân đánh lén, đánh cho đến ngày hôm nay.
Nghi Văn đáp dạ. Cô vẫn thuật lại tình cảnh bị địch vây khốn trong nhiều ngày qua.
Thì ra tối hôm đó phái Tung Sơn cử rất đông người đến tập kích, người nào cũng bịt mặt mạo xưng là giáo chúng của Ma giáo. Phái Hằng Sơn bị tấn công đột ngột, không có gì để chống đỡ, may mà Thủy Nguyệt am cũng là một phái trong võ lâm, trong am có giữ năm thanh Long Tuyền bảo kiếm. Trụ trì Thanh Hiểu sư thái trong lúc nguy cấp đã lấy bảo kiếm giao cho bọn Định Nhàn, Định Dật để chống cự địch. Long Tuyền bảo kiếm chém sắt như chém bùn, đã chém đứt không ít binh khí của địch nhân và đả thương khá nhiều người, mới vừa đánh vừa lui, chạy đến sơn cốc này. Thanh Hiểu sư thái vì bảo vệ bằng hữu nên gặp đại nạn. Ngày xưa, sơn cốc này sản xuất thép nguyên chất, mấy trăm năm về trước lại chuyên đúc kiếm. Về sau thép nguyên chất đã khai thác hết, lò đúc kiếm dời đi nơi khác, chỉ còn lại mấy cái hang đá đen sì. Cũng may nhờ mấy hang này nên phái Hằng Sơn mới chống chọi được nhiều ngày chưa gặp đại nạn. Phái Tung Sơn tấn công lâu ngày vẫn không được, chúng liền chất cỏ và củi khô đánh độc kế hỏa công. Nếu bọn Lệnh Hồ Xung đến chậm nửa ngày thì mọi người trong hang đều bị thiêu chết.
Định Dật sư thái không nhẫn nại nghe chuyện Nghi Văn kể lại. Bà nhìn Lệnh Hồ Xung trừng trừng, đột nhiên bà hỏi:
– Ngươi… ngươi rất tốt. Tại sao sư phụ của ngươi lại trục xuất ngươi ra khỏi môn tường, nói ngươi cấu kết với Ma giáo?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đệ tử giao du không cẩn thận, quả thực đệ tử có quen biết mấy nhân vật trong Ma giáo.
Định Dật sư thái hừ một tiếng rồi nói:
– Lòng lang dạ sói như bọn phái Tung Sơn so với Ma giáo còn ác độc hơn nhiều. Hừ, người trong chính giáo chắc gì đã hơn Ma giáo chứ?
Nghi Hòa nói:
– Lệnh Hồ sư huynh, bần ni không dám nói phải trái về sư phụ của Lệnh Hồ sư huynh. Nhưng lão… lão biết rõ phái bần ni có nạn mà vẫn tụ thủ bàng quan, trong chuyện này… nói không chừng lão cũng đã tán thánh đề nghị hợp phái của Tung Sơn.
Lệnh Hồ Xung giật mình, cảm thấy lời nói này cũng có lý. Nhưng chàng từ nhỏ đã rất tôn sùng ân sư, lòng quyết không dám có chút ý nghĩ bất kính với lão. Chàng bèn nói:
– Ân sư của ta không tụ thủ bàng quan đâu, chắc là sư phụ lão nhân gia còn có chuyện quan trọng bên mình… chuyện này…
Định Nhàn sư thái vẫn nhắm mắt dưỡng thần, bây giờ mới từ từ mở ra. Bà nói:
– Tệ phái mấy lần gặp đại nạn đều nhờ Lệnh Hồ thiếu hiệp ra tay cứu giúp, đại ân đại đức này…
Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Đệ tử chỉ góp chút công sức nhỏ nhặt. Sư bá nói vậy, đệ tử thật hổ thẹn không dám nhận.
Định Nhàn sư thái lắc đầu nói:
– Thiếu hiệp hà tất phải khiêm nhường! Nhạc sư huynh không thể phân thân nên phái đại đệ tử đến giúp. Nghi Hòa, ngươi không được nói bậy, vô lễ với tôn trưởng.
Nghi Hòa cúi người nói:
– Dạ, đệ tử không dám. Nhưng… Nhưng Lệnh Hồ sư huynh đã bị trục xuất khỏi phái Hoa Sơn, Nhạc sư bá đã không cần Lệnh Hồ sư huynh nữa. Lệnh Hồ sư huynh cũng không phải do Nhạc sư bá phái đến.
Định Nhàn sư thái mỉm cười nói:
– Xem ra ngươi còn hậm hực, nhất định muốn biện bạch cho rõ ràng.
Bỗng Nghi Hòa thở dài nói:
– Nếu Lệnh Hồ sư huynh là con gái thì tốt biết mấy.
Định Nhàn sư thái hỏi:
– Cái gì?
Nghi Hòa đáp:
– Lệnh Hồ sư huynh đã bị trục xuất khỏi Hoa Sơn, không nơi nương tựa. Nếu Lệnh Hồ sư huynh là con gái thì có thể đầu vào phái chúng ta. Lệnh Hồ sư huynh và chúng ta trải bao hoạn nạn chẳng khác gì người một nhà…
Định Dật sư thái quát:
– Nói tầm bậy tầm bạ! Ngươi lớn tuổi rồi mà ăn nói như con nít.
Định Nhàn sư thái mỉm cười nói:
– Nhạc sư huynh nhất thời hiểu lầm, sau này ngộ ra chân tướng đương nhiên sẽ thu nhận Lệnh Hồ thiếu hiệp trở lại môn hạ. Lòng dạ đen tối của phái Tung Sơn sẽ sớm bị phanh phui, phái Hoa Sơn cũng phải dựa vào Lệnh Hồ thiếu hiệp. Dù thiếu hiệp không trở lại phái Hoa Sơn nhưng với phẩm chất, võ công như vậy thì việc thiếu hiệp tự sáng lập môn phái cũng không khó gì.
Trịnh Ngạc nói:
– Chưởng môn sư thúc nói rất đúng. Lệnh Hồ sư huynh, những người phái Hoa Sơn đều đối xử bạc tình bạc nghĩa với sư huynh như vậy thì sư huynh tự lập… lập ra phái Lệnh Hồ cho bọn họ sáng mắt ra. Hừ, chẳng lẽ không quay về phái Hoa Sơn thì không làm được gì hay sao?
Lệnh Hồ Xung cười gượng nói:
– Lời sư bá khen ngợi đệ tử làm sao dám nhận. Đệ tử luôn mong ân sư sau này có thể tha thứ lỗi lầm, được trở lại môn tường. Ngoài ra, đệ tử không cầu mong gì hơn.
Tần Quyên nói:
– Lệnh Hồ sư huynh không cầu gì nữa ư? Còn tiểu sư muội của sư huynh thì sao?
– Chúng ta nên an táng hay hỏa thiêu tất cả di thể của các sư tỷ rồi đem tro cốt về Hằng Sơn.
Định Nhàn sư thái nói:
– Hỏa thiêu hết thôi!
Tuy bà thấu hiểu thế sự, nhưng thấy những thi thể nằm ngổn ngang dưới đất đều là hảo đệ tử theo bà nhiều năm, lúc bà nói câu này, thanh âm không khỏi nghẹn ngào. Bọn đệ tử lại có nhiều người khóc lên. Có đệ tử đã chết nhiều ngày, có thi thể ở cách xa mấy chục trượng. Lúc bọn đệ tử khiêng thi thể của đồng môn, không ai không chửi tâm địa hiểm ác, thủ đoạn tàn độc của Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn.
Hỏa táng xong xuôi thì trời đã tối, đêm hôm đó mọi người nghỉ lại hoang sơn. Sáng sớm hôm sau, bọn đệ tử cõng Định Nhàn sư thái, Định Dật sư thái và đồng môn bị thương đến thành Long Tuyền rồi chuyển sang đi đường thủy. Họ thuê bảy chiếc thuyền có mui đi về hướng Bắc.
Lệnh Hồ Xung sợ phái Tung Sơn lại tập kích trên đường nên cùng đi theo mọi người. Phái Hằng Sơn đã có hai vị trưởng bối đồng hành, Lệnh Hồ Xung được thư thái nghỉ ngơi, không dám nói giỡn với bọn đệ tử nữa. Định Nhàn sư thái và Định Dật sư thái bị thương khá nặng, may mà thuốc men trị thương của phái Hằng Sơn rất công hiệu, sau khi qua sông Tiền Đường thì đã thoát hiểm. Lần này, nguyên khí của phái Hằng Sơn bị thương tổn nặng, trên đường không muốn sinh thêm nhiều chuyện nữa nên cứ né tránh nhân vật giang hồ. Khi đến bến Trường Giang, phái Hằng Sơn thuê một chiếc thuyền ngược dòng đi về hướng Tây. Cứ như vậy, họ thong thả mà đi, dự đoán sau khi đến Hán Khẩu, những người bị thương sẽ khỏe được sáu bảy phần, lúc đó họ sẽ bỏ thuyền đi đường bộ rẽ sang hướng Bắc mà về Hằng Sơn.
Một hôm, đến bên hồ Bà Dương, thuyền đậu lại bến Cửu Giang. Lúc đó trên bến sông thuyền đậu rất đông, mấy chục người phân ra hai bên thuyền. Tối hôm đó Lệnh Hồ Xung ngủ chung với thuyền trưởng, thủy thủ ở phía sau lái. Ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe trên bờ có người búng tay ra hiệu. Hắn búng ba cái, ngừng một lúc rồi búng ba cái nữa. Tiếp theo ở trên thuyền phía Tây cũng có người búng tay ba cái, ngừng một lúc lại búng ba cái nữa. Tiếng búng tay rất nhỏ nhưng nội lực Lệnh Hồ Xung thâm hậu, tai nghe rất thính, vừa nghe tiếng lạ liền tỉnh dậy ngay, biết có nhân vật giang hồ đang ra hiệu cho nhau. Mấy ngày nay, lúc nào chàng cũng quan sát kỹ động tĩnh trên mặt nước, đề phòng địch tập kích. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Phải lên trước xem sao, nếu không có liên can đến phái Hằng Sơn thì không sao, còn nếu có thì ngấm ngầm lo liệu để khỏi làm kinh động bọn Định Nhàn sư thái.
Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn ra con thuyền phía Tây, quả thấy một bóng đen cách mấy trượng nhảy lên bờ, khinh công cũng bình thường. Lệnh Hồ Xung nhẹ tung người lên bờ không phát ra tiếng động, vòng ra sau một thùng dầu to ở mé Đông bờ sông và núp vào đó. Nghe tiếng một người nói:
– Bọn ni cô trên thuyền đúng là phái Hằng Sơn.
Người khác nói:
– Ngươi nói xem phải làm sao đây?
Lệnh Hồ Xung rón rén đi đến gần. Dưới ánh trăng sao mờ mờ, chàng thấy một người mặt mũi đầy râu, người kia mặt vừa dài vừa nhọn. Gã hán tử mặt nhọn nói:
– Bạch Giao bang chúng ta người tuy đông mà võ công không bằng người ta, ngày mai động thủ không thắng nổi rồi.
Hán tử đầy râu nói:
– Ai nói ngày mai động thủ? Những ni cô này võ công tuy cao cường nhưng đánh trên nước chưa chắc đã giỏi. Ngày mai chúng ta cặp thuyền theo, đến Đại Giang, nhảy xuống nước đâm thủng thuyền bọn chúng, rồi bắt từng tên một được không?
Gã hán tử mặt nhọn vui mừng nói:
– Kế này tuyệt diệu. Huynh đệ chúng ta mà lập được đại công này thì Cửu Giang Bạch Giao bang từ nay trên giang hồ tiếng tăm lừng lẫy. Nhưng ta còn lo một chuyện.
Lão lắm râu hỏi:
– Lo cái gì?
Lão mặt dài nói:
– Ngũ Nhạc kiếm phái bọn chúng kết minh, nói cái gì Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi. Nếu bị Mạc Đại tiên sinh biết được thì lão sẽ đến tìm chúng ta tính sổ, Bạch Giao bang sẽ bị nguy mất.
Lão đầy râu nói:
– Hừ, mấy năm nay chúng ta bị phái Hành Sơn làm khó dễ đủ điều. Lần này nếu chúng ta không vì bằng hữu mà tận sức thì lần sau khi có chuyện, bằng hữu cũng không thèm ra tay giúp đỡ. Phen này mà thành công, không chừng toàn phái Hành Sơn bị náo loạn, việc gì phải sợ Mạc Đại tiên sinh?
Lão mặt dài nói:
– Được, cứ theo kế hoạch này. Chúng ta đi triệu tập cao thủ giỏi bơi lội là được rồi.
Lệnh Hồ Xung chui ra, xoay chuôi kiếm đánh vào gáy lão mặt dài, lão liền ngất đi. Lão đầy râu vung quyền đánh lại, Lệnh Hồ Xung xoay chuôi kiếm ra điểm trúng huyệt Thái dương bên trái của lão. Lão đầy râu như con quay, quay người mấy cái rồi ngồi phệt xuống đất. Lệnh Hồ Xung quơ ngang trường kiếm chém vào nắp hai thùng dầu rồi nhấc hai lão lên, bỏ vào hai thùng dầu. Trong thùng chứa đầy dầu cải, mỗi thùng đựng ba trăm cân, để hôm sau đưa xuống thuyền vận chuyển xuống vùng hạ lưu. Hai lão bị dìm ngập vào dầu, dầu xông vào mũi, vì dầu lạnh nên hai lão tỉnh lại, uống ừng ực.
Chính là tiếng của Định Nhàn sư thái. Lệnh Hồ Xung giật mình thầm nghĩ: Định Nhàn sư thái đến sau lưng ta hồi nào mà ta không hay?
Lệnh Hồ Xung liên buông đầu hai lão ra, đáp dạ. Hai lão đó vừa được buông đầu liền muốn nhảy ra. Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đứng yên đó!
Lệnh Hồ Xung đưa kiếm gõ lên đầu hai lão, bức hai lão ở yên trong thùng dầu. Hai lão đứng cong người, dầu ngập đến cổ, mở mắt ra mà không biết tại sao lại bị tóm.
Một bóng người màu xám từ trên thuyền nhảy lên bờ. Đó là Định Dật sư thái, bà hỏi:
– Sư tỷ, bắt được tiểu tặc chưa?
Định Nhàn sư thái nói:
– Có hai vị đường chủ Bạch Giao bang sông Cửu Giang, Lệnh Hồ thiếu hiệp đang giỡn với họ.
Bà quay qua hỏi lão đầy râu:
– Các hạ họ Dịch hay họ Tề? Sử bang chủ khỏe không?
Lão lắm râu họ Dịch lấy làm lạ nói:
– Tại hạ… tại hạ họ Dịch, sao các hạ biết? Sử bang chủ của bọn tại hạ rất khỏe.
Định Nhàn mỉm cười nói:
– Bạch Giao bang Dịch đường chủ, Tề đường chủ, người trên giang hồ xưng rằng Trường Giang song phi ngư tiếng tăm lẫy lừng. Lão ni nghe như sấm dậy bên tai.
Định Nhàn sư thái là người rất tinh tế, tuy bình thường bà rất ít khi ra khỏi am, nhưng những nhân vật các môn các phái trên giang hồ chẳng một ai bà không biết rõ, nếu không bà sao có thể nhận ra ba tên cao thủ cầm đầu phái Tung Sơn? Ngay lão đầy râu họ Dịch và lão mặt dài họ Tề là nhân vật trong võ lâm chỉ thuộc hạng ba, hạng tư nhưng bà vừa thấy dung mạo liền đoán ra thân phận, lai lịch của hai lão. Lão mặt dài rất đắc ý, nói:
– Như sấm bên tai thật không dám.
Lệnh Hồ Xung dùng lực đè thanh kiếm xuống đầu lão dìm vào dầu rồi mới buông tay ra. Chàng cười nói:
– Ta ngưỡng mộ đại danh của lão đã lâu như dầu vào đầy tai.
Lão mặt dài tức giận nói:
– Ngươi… ngươi…
Lão muốn ngoác miệng chửi nhưng không dám. Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta hỏi một câu, các ngươi phải thành thật trả lời, nếu giấu diếm thì cái tên “Trường Giang Song phi ngư” sẽ biến thành một cặp “Du tẩm tử nê thu”.
Lệnh Hồ Xung nói xong lại ấn lão lắm râu dìm xuống dầu. Lão lắm râu đã đề phòng trước nên không bị uống dầu, nhưng cũng bị dầu vào lỗ mũi nên khó chịu vô cùng.
Định Nhàn và Định Dật không nhịn được cười, đều nghĩ: Tiểu tử này còn nhỏ tuổi nên thích đùa giỡn. Nhưng đấy cũng là một biện pháp hay để bức cung chúng.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Bạch Giao bang các ngươi cấu kết với phái Tung Sơn khi nào? Ai sai các ngươi đến hại phái Hằng Sơn?
Lão lắm râu đáp:
– Cấu kết với phái Tung Sơn ư? Làm gì có. Anh hùng phái Tung Sơn bọn tại hạ không hề biết một người nào.
Lệnh Hồ Xung nói:
– A ha, câu đầu tiên ngươi đã trả lời không thành thật. Ta cho ngươi uống một bụng đầy dầu đây!
Chàng liền để kiếm lên đầu lão ấn xuống. Lão lắm râu này tuy không phải là hạng cao thủ bậc nhất, võ công cũng không yếu, nhưng nội lực của Lệnh Hồ Xung hùng hậu truyền vào trường kiếm thì như một tảng đá to nặng ngàn cân đè lên đầu lão, lão không nhúc nhích được chút nào. Dầu ngập đến mũi lão chỉ còn lộ ra hai con mắt, xương cốt lão kêu răng rắc trông rất tội nghiệp.
Lệnh Hồ Xung nói với lão mặt dài:
– Ngươi nói mau! Ngươi muốn làm Trường Giang phi ngư hay Du tẩm nê thu?
Lão họ Tề nói:
– Gặp phải vị anh hùng như các hạ, không muốn làm Du tẩm nê thu cũng không được. Nhưng Dịch đại ca đâu có nói dối, quả thật bọn tại hạ không hề quen biết nhân vật nào của phái Tung Sơn. Hơn nữa phái Tung Sơn kết minh với phái Hằng Sơn, người trong võ lâm đều biết. Sao phái Tung Sơn bảo Bạch Giao bang của bọn tại hạ đến… hại quý phái được?
Lệnh Hồ Xung buông trường kiếm ra để lão họ Dịch ngẩng đầu lên. Chàng hỏi:
– Ngươi nói rõ ở trên sông Trường Giang các ngươi muốn đục thuyền phái Hằng Sơn. Dụng tâm hiểm ác như vậy là do phái Hằng Sơn đã đắc tội gì với các ngươi?
Định Dật sư thái đến sau, bà không biết tại sao Lệnh Hồ Xung lại đối xử với hai lão như vậy. Bây giờ vừa nghe hỏi, bà liền nổi giận đùng đùng, quát:
– Hảo tặc tử muốn dìm chết bọn ta trên sông hả?
Môn hạ phái Hằng Sơn của bà tám chín phần là người phương Bắc, không hề biết bơi lội. Nếu thuyền bị đắm giữa sông thì phải làm mồi cho cá, nghĩ đến điều đó mà phát khiếp.
Lão họ Dịch sợ Lệnh Hồ Xung lại dìm đầu xuống dầu nên vội cướp lời, đáp:
– Phái Hằng Sơn và Bạch Giao bang của tại hạ vốn không thù không oán. Bọn tại hạ chỉ là một bang hội nhỏ bé trên bến Cửu Giang, thì sao có thể kết oán với các vị sư thái phái Hằng Sơn. Nhung chẳng qua… chẳng qua tại hạ nghĩ mọi người trên thuyền là một phái trong Phật môn, quý phái đi về hướng Tây chắc là đi trước để tiếp ứng. Cho nên… cho nên… chuyện này bọn tại hạ không tự lượng sức, sinh ra ý đồ đen tối. Lần sau bọn tại hạ không dám vậy nữa.
Lệnh Hồ Xung càng nghe càng không hiểu, bèn hỏi:
– Cái gì là một phái Phật môn, đi về phía Tây tiếp ứng cái gì? Nói năng úp mở, ta chẳng hiểu gì cả.
Lão họ Dịch nói:
– Dạ, dạ! Tuy phái Thiếu Lâm không phải là một trong Ngũ Nhạc kiếm phái nhưng bọn tại hạ nghĩ hòa thượng và ni cô đều là người một nhà…
Định Dật sư thái quát:
– Nói bậy!
Lão họ Dịch hết hồn, tự nhiên hụp người xuống uống một ngụm dầu nghẹn họng không nói ra được. Định Dật sư thái không nhịn được cười, bà quay sang lão mặt dài nói:
– Ngươi nói đi.
Lão họ Tề đáp:
– Dạ, dạ! Có một người tên là Vạn lý độc hành Điền Bá Quang, không biết sư thái và hắn có quen thân không?
Định Dật sư thái tức giận. Bà nghĩ tên Vạn lý độc hành Điền Bá Quang là một tên thái hoa dâm tặc độc ác khét tiếng trên giang hồ, ta sao lại quen thân với hắn được? Vậy mà hắn cũng dám hỏi ra, thật là quá xúc phạm. Bà giơ tay phải lên toan đánh xuống đầu lão.
Định Nhàn sư thái đưa tay ra cản, bà nói:
– Sư muội đừng giận. Hai vị này bị dìm trong dầu đã lâu, đầu óc không được tỉnh táo. Đừng chấp nhất họ làm gì.
Bà hỏi lão họ Tề:
– Điền Bá Quang thế nào?
Lão họ Tề nói:
– Vạn lý độc hành Điền Bá Quang đại gia là hảo bằng hữu của Sử bang chủ bọn tại hạ. Mấy ngày trước Điền đại gia…
Định Dật sư thái tức giận quát:
– Điền đại gia cái gì? Hắn là tặc tử tội lỗi ngập đầu, đáng lý phải giết hắn từ lâu rồi. Các ngươi lại kết giao với hắn, đủ thấy Bạch Giao bang không phải hạng người tốt.
Lão họ Tề nói:
– Dạ, dạ, dạ. Bọn tại hạ không phải… không phải là người tốt.
Định Dật sư thái hỏi:
– Bọn ta chỉ hỏi ngươi, tại sao Bạch Giao bang muốn hại phái Hằng Sơn rồi còn lôi kéo Điền Bá Quang vào để làm gì?
Điền Bá Quang đã từng vô lễ với Nghi Lâm đệ tử của bà, Định Dật sư thái vẫn chưa nguôi giận, vì chưa giết được gã nên lòng lấy làm xấu hổ. Bà không muốn ai nhắc đến tên của gã.
Lão họ Tề nói:
– Dạ, dạ. Mọi người muốn cứu Nhậm đại tiểu thư, sợ người trong chính giáo giúp hòa thượng cho nên bọn huynh đệ tại hạ mù quáng nảy ra ý đồ đen tối, muốn hạ thủ quý phái…
Định Dật sư thái càng không hiểu được đầu đuôi ra sao, bà thở dài nói:
– Sư tỷ, chúng nói chuyện gì vậy, hay là sư tỷ đến hỏi chúng đi.
Định Nhàn sư thái mỉm cười hỏi:
– Hạ thủ để làm gì?
Lão họ Tề nói:
– Để cứu Nhậm đại tiểu thư.
Định Nhàn sư thái hỏi:
– Nhậm đại tiểu thư có phải là đại tiểu thư của tiền giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo không?
Lệnh Hồ Xung giật mình: Bọn họ nói về Doanh Doanh ư?
– Dạ, Điền đại gia… Không, Điền… Điền Bá Quang mấy hôm trước đến Cửu Giang, ở Tổng đà Bạch Giao bang uống rượu với Sử bang chủ, nói rằng dự định ngày mười lăm tháng mười hai mọi người muốn đại náo chùa Thiếu Lâm cứu Nhậm đại tiểu thư.
Định Dật sư thái nhịn không được nói xen vào:
– Đại náo chùa Thiếu Lâm ư? Lá gan của các ngươi bao lớn mà dám đi vuốt râu hùm?
Lão họ Tề nói:
– Dạ, dạ. Bọn tại hạ dĩ nhiên không làm gì được.
Định Nhàn sư thái hỏi:
– Điền Bá Quang cước trình rất nhanh, nên hắn đến liên lạc truyền tin có phải không? Chuyện này là do ai chủ trương?
Lão họ Dịch đáp:
– Mọi người nghe tin Nhậm đại tiểu thư bị tặc… không phải, bị hòa thượng chùa Thiếu Lâm bắt giữ, không hẹn mà cùng muốn đi cứu, cũng không biết ai chủ trương. Mọi người nhớ đến ân nghĩa của Nhậm đại tiểu thư, đều nói dù vì tiểu thư mà có tan xương nát thịt cũng cam lòng.
Lúc này, Lệnh Hồ Xung lòng đầy nghi vấn. Bọn họ nói Nhậm đại tiểu thư có phải là Doanh Doanh không? Tại sao cô ta bị tăng nhân chùa Thiếu Lâm bắt? Cô ta còn nhỏ tuổi, mà đã làm ân nghĩa nhiều cho ai? Tại sao nhiều người vừa nghe tin cô ta gặp nạn liền tình nguyện xả thân đi cứu?
Định Nhàn sư thái nói:
– Các ngươi sợ phái Hằng Sơn ta đi tương trợ chùa Thiếu Lâm cho nên các ngươi muốn đục thuyền nhận chìm bọn ta có phải không?
Lão họ Tề nói:
– Đúng vậy, bọn tại hạ nghĩ hòa thượng, ni cô… chuyện này…
Định Dật sư thái tức giận nói:
– Chuyện này cái gì…?
Lão họ Tề vội nói:
– Dạ, dạ, chuyện này… chuyện đó… tiểu nhân không dám nói. Tiểu nhân đâu có nói…
Định Nhàn sư thái nói:
– Trước ngày mười lăm tháng mười hai, Bạch Giao bang các ngươi cũng đi lên chùa Thiếu Lâm ư?
Hai lão họ Dịch, họ Tề cùng đáp:
– Đây là lệnh của Sử bang chủ.
Lão họ Tề lại nói:
– Tất cả đều đi thì Bạch Giao bang bọn tại hạ cũng không thể không đi.
Định Nhàn sư thái hỏi:
– Tất cả ư? Tất cả là gồm những ai?
Lão họ Tề đáp:
– Điền… Điền Bá Quang nói Hải Sa bang ở Triết Tây, Hắc Phong hội ở Sơn Đông, Bài giáo ở Tương Tây…
Lão nói một mạch khoảng ba mươi tên hiệu các bang hội lớn nhỏ trên giang hồ. Lão là người võ công bình thường mà danh xưng của mấy chục môn phái bang hội đều nhớ rất rõ. Định Dật sư thái chau mày nói:
– Toàn là những nhân vật trong bàng môn tả đạo không lo chính nghiệp, tuy đông người nhưng cũng chưa chắc là đối thủ của chùa Thiếu Lâm.
Lệnh Hồ Xung nghe lão họ Tề kể tên các bang hội, trong đó có Thiên Hà bang, bang chủ Ngân Tu giáo Hoàng Bá Lưu; Trường Kình đảo chủ Tư Mã Đại, còn mấy người mà ngày hôm đó gặp trên Ngũ Bá Cương, lòng không còn hoài nghi, biết người mà bọn họ đi cứu nhất định là Doanh Doanh rồi. Bỗng nhiên được tin cô ta chàng rất lấy làm vui mừng, nhưng nghĩ đến cô bị phái Thiếu Lâm bắt giữ, mà cô đã giết mấy tên đệ tử phái Thiếu Lâm, nên không khỏi lo lắng, bèn hỏi:
– Phái Thiếu Lâm tại sao bắt giữ vị… vị Nhậm đại tiểu thư này?
Lão họ Tề đáp:
– Chuyện này cũng không biết. Chắc là bọn hòa thượng phái Thiếu Lâm ăn no rồi không có việc gì làm, cố ý tìm những chuyện này để gây khó dễ mọi người.
Định Nhàn sư thái nói:
– Xin hai vị về bẩm với quý bang chủ, nói là Định Nhàn và Định Dật phái Hằng Sơn và vị bằng hữu này đi qua sông Cửu Giang, mà không đến bái kiến Sử bang chủ thật là thất lễ, xin Sử bang chủ lượng thứ. Sáng mai bọn bần ni đi thuyền về hướng Tây, xin hai vị độ lượng bao dung đừng phái người đến đục thuyền của bọn bần ni nữa.
Bà nói xong thì hai lão cùng đáp:
– Tại hạ không dám.
Định Nhàn sư thái nói với Lệnh Hồ Xung:
– Trăng thanh gió mát, thiếu hiệp từ từ ngắm cảnh đêm khuya trên bờ sông, xin miễn cho bần ni. Bà nắm tay Định Dật từ từ đi xuống thuyền.
Lệnh Hồ Xung biết bà có ý né tránh để mình hỏi thêm hai lão cho rõ ràng hơn, nhưng nhất thời lòng dạ rối bời, không biết phải hỏi câu gì. Ở trên bờ, chàng đi qua đi lại, đứng một hồi lâu, thấy ánh trăng non chiếu xuống giữa dòng sông, nước sông chảy cuồn cuộn về hướng Đông, ánh trăng rung động không thôi. Bỗng nhiên chàng nghĩ: Hôm nay đã là hạ tuần tháng mười một. Ngày mười lăm tháng sau bọn họ đi chùa Thiếu Lâm, thời gian không còn nhiều nữa. Hai vị Phương Chứng và Phương Sinh đại sư phái Thiếu Lâm đối đãi với ta rất tốt. Những người này vì cứu Doanh Doanh, tất đại động can qua với phái Thiếu Lâm, bất luận ai thắng ai bại, song phương cũng tổn thất không ít. Sao ta không đón đầu cầu xin Phương Chứng phương trượng thả Doanh Doanh, để tránh khỏi cuộc đổ máu khủng khiếp, há không hay lắm sao?
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Hai vị sư thái Định Nhàn và Định Dật thương thế đã bớt nhiều rồi. Định Nhàn sư thái nhìn bề ngoài chẳng khác gì một lão ni bình thường, kỳ thực bà biết nhiều hiểu rộng hơn người, thật là một vị cao nhân có kiến thức hiếm có trong võ lâm. Bà thống lĩnh mọi người đi về phương Bắc, chỉ cần không gặp bọn cường địch phái Tung Sơn thì sẽ không có nguy nan gì mà ứng phó không nổi. Nhưng làm sao ta cáo từ bọn họ đây?
Những ngày vừa qua Lệnh Hồ Xung với bọn ni cô, cô nương cùng chung hoạn nạn. Mọi người cư xử với hắn vừa cung kính vừa thân thiết, đối với chuyện chàng bị trục xuất khỏi sư môn và bị tiểu sư muội ruồng bỏ, tuy không nhắc đến nhưng trên vẻ mặt ai cũng biểu hiện nỗi buồn. Trong chúng đồng môn phái Hoa Sơn, ngoài Lục Đại Hữu ra thì không có ai đối đãi thân thiết như vậy, bỗng nhiên giữa đường chia tay, chàng cảm thấy khó mà mở miệng được.
Bỗng nghe có tiếng bước chân, hai người đi đến gần, lại là Nghi Lâm và Trịnh Ngạc. Họ đi đến cách Lệnh Hồ Xung hai ba trượng, cất tiếng gọi:
– Lệnh Hồ đại ca!
Rồi hai cô dừng bước. Lệnh Hồ Xung nói:
– Các vị sư muội cũng bị giật mình tỉnh giấc ư?
Nghi Lâm nói:
– Lệnh Hồ đại ca, chưởng môn sư bá dặn bọn tiểu muội đến nói với Lệnh Hồ đại ca…
Cô đẩy qua cho Trịnh Ngạc, cô nói:
– Sư tỷ nói với Lệnh Hồ đại ca đi.
Trịnh Ngạc nói:
– Chưởng môn sư thúc bảo sư muội nói chứ.
Nghi Lâm nói:
– Sư tỷ nói cũng được mà.
Trịnh Ngạc nói:
– Lệnh Hồ đại ca, chưởng môn sư thúc nói, đại ân không nói lời cám ơn, từ nay về sau bất luận Lệnh Hồ đại ca có chuyện gì, phái Hằng Sơn cùng gánh với Lệnh Hồ đại ca. Nếu Lệnh Hồ đại ca đi chùa Thiếu Lâm để cứu vị Nhậm đại tiểu thư đó, mọi người sẽ tận lực giúp Lệnh Hồ đại ca.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ thầm nghĩ: Ta đâu có nói muốn đi cứu Doanh Doanh đâu, sao Định Nhàn sư thái nói như vậy? Chao ôi! Phải rồi, quần hùng tụ hội ở trên Ngũ Bá Cương, tìm cách trị bệnh cho ta, đều là vì nể mặt Doanh Doanh. Chuyện này làm náo động võ lâm, ngay cả hai tên Trường Giang song phi ngư qua lại giang hồ chưa mấy tiếng tăm mà sư thái đã biết thì chuyện này sao lại không biết? Chàng nghĩ đến chuyện này bất giác thẹn đỏ mặt.
Trịnh Ngạc lại nói:
– Chưởng môn sư thúc còn nói, hay hơn hết là đừng xảy ra chuyện. Hai vị lão nhân gia và Định Dật sư thúc bây giờ đã qua sông, để đi đến chùa Thiếu Lâm thỉnh cầu phương trượng đại sư thả người. Xin Lệnh Hồ đại ca dẫn bọn tiểu muội từ từ đi về trước.
Lệnh Hồ Xung nghe nói vậy liền ngẩn người ra không nói một lời, đưa mắt nhìn sông Trường Giang, quả thấy một con thuyền nhỏ, giương buồm trắng chạy về phía Bắc. Lòng chàng vừa cảm kích vừa cảm thấy xấu hổ, thầm nghĩ: Hai vị sư thái là người đạo cao đức trọng trong Phật môn, lại là cao nhân trong võ lâm. Hai vị lại chịu đích thân lên chùa Thiếu Lâm thỉnh cầu thì tốt quá, so với ta là một tên vô danh tiểu tốt phiêu bạt giang hồ, làm toàn việc không đoan chính, thể diện lớn gấp trăm lần của ta, chắc Phương Chứng phương trượng nể mặt hai vị sư thái mà chịu tha cho Doanh Doanh.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây thì hơi yên tâm một chút. Chàng quay lại thấy hai lão họ Tề và họ Dịch vẫn ở trong thùng dầu thò đầu thò cổ, không dám leo ra. Lòng chàng nghĩ hai lão này có tấm lòng nhiệt thành, họ vì đi cứu Doanh Doanh mà mình lại đắc tội với hai lão, thì lòng cảm thấy áy náy. Lệnh Hồ Xung liền đi đến gần, cung tay nói:
– Tại hạ nhất thời lỗ mãng, đắc tội với hai vị anh hùng Trường Giang song phi ngư của Bạch Giao bang. Thật chuyện này chưa biết nguyên do, xin hai vị thứ lỗi.
Lệnh Hồ Xung nói xong liền xá dài xuống.
Trường Giang song phi ngư thấy Lệnh Hồ Xung trước thì kiêu căng sau thì cung kính, cảm thấy ngạc nhiên vô cùng, vội cung tay đáp lễ, trong lúc chân tay luống cuống, làm bắn tung tóe dầu văng vào đầy người Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười gật đầu rồi nói với Trịnh Ngạc và Nghi Lâm:
– Chúng ta đi thôi!
Ba người về đến thuyền. Bọn đệ tử phái Hằng Sơn tuyệt không nhắc đến chuyện này, ngay cả Nghi Hòa, Tần Quyên là những người đầy tính hiếu kỳ cũng không hỏi một câu. Lệnh Hồ Xung biết lúc Định Nhàn sư thái sắp ra đi đã dặn, để khỏi khiến cho chàng phải khó xử. Lệnh Hồ Xung ngấm ngầm cảm kích, nhưng thấy nhiều nữ đệ tử nét mặt dường như cười mà không phải cười, nên cũng không khỏi lúng túng, thầm nghĩ: Xem ra các cô này trong lòng họ đã cho rằng Doanh Doanh là tình nhân của ta rồi. Kỳ thật giữa ta và Doanh Doanh còn trong trắng, chứ không có chuyện gì vượt lễ giáo. Nhưng bọn họ không hỏi, làm sao ta biện bạch được?
Lệnh Hồ Xung thấy ánh mắt của Tần Quyên lấm lét nhìn mình. Chàng nhịn không được nữa, bèn nói:
– Hoàn toàn không phải chuyện này đâu, các… các cô đừng nghĩ vớ vẩn nữa.
Lệnh Hồ Xung quay đầu đi để tránh ánh mắt của cô, thấy Nghi Lâm ngồi ở góc thuyền, vẻ mặt rất lạnh nhạt. Chàng không khỏi động lòng: Cô ta đang nghĩ gì? Tại sao cô ta không nói chuyện với mình?
Lệnh Hồ Xung nhìn Nghi Lâm trân trân, bỗng nhớ lại hôm ở ngoại thành Hành Dương, mình bị thương, vẻ mặt lúc cô ta ôm mình chạy trong khoáng dã. Lúc đó cô ta vừa quan tâm vừa cảm động, chứ không phải như bây giờ không màng gì đến mọi chuyện. Tại sao? Tại sao vậy?
Nghi Hòa bỗng gọi:
– Lệnh Hồ sư huynh!
Lệnh Hồ Xung không nghe thấy nên không trả lời. Nghi Hòa lớn tiếng gọi:
– Lệnh Hồ sư huynh!
Lệnh Hồ Xung giật mình, quay đầu lại đáp:
– Ồ, sao?
Nghi Hòa nói:
– Chưởng môn sư bá nói: Ngày mai chúng ta chuyển sang đi đường bộ hoặc vẫn đi đường thủy thì tùy theo ý của Lệnh Hồ sư huynh.
Lệnh Hồ Xung lòng chỉ muốn đổi sang đi đường bộ để sớm biết được tin của Doanh Doanh, nhưng chàng liếc mắt nhìn thấy Nghi Lâm lông mi dài dài long lanh ngấn lệ, trông thật đáng thương, bèn nói:
– Chưởng môn sư thái bảo chúng ta từ từ mà đi, vậy thì cứ đi thuyền như cũ. Chắc Bạch Giao bang cũng không dám làm gì chúng ta đâu.
Sáng sớm hôm sau thuyền đi về hướng Tây. Lệnh Hồ Xung bảo người lái thuyền đi gần bờ để đề phòng Bạch Giao bang tập kích, nhưng thuyền đi đến địa phận tỉnh Hồ Bắc vẫn không có động tĩnh gì. Từ đó đến mấy ngày sau, Lệnh Hồ Xung cũng không trò chuyện nhiều với đệ tử phái Hằng Sơn. Mỗi tối thuyền dừng lại bến, chàng một mình đi lên bờ uống rượu, uống đến say khướt mới về.
Một hôm thuyền đi qua Hạ Khẩu, rồi rẽ sang hướng Bắc, đi ngược dòng sông Hán Thủy, đến tối thuyền ngừng ở bến Kê Minh gần một thị trấn nhỏ. Lệnh Hồ Xung lại lên bờ vào một quán rượu uống mấy bát. Chàng bỗng nghĩ: vết thương của tiểu sư muội không biết lành chưa? Nghi Chân, Nghi Linh hai vị sư tỷ đem linh dược của phái Hằng Sơn đưa đến nghĩ chắc trị khỏi vết thương của tiểu sư muội rồi. Thương thế của Lâm sư đệ không biết ra sao? Nếu Lâm sư đệ lại bị trọng thương không trị được, thì tiểu sư muội phải làm sao?
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây lòng không khỏi kinh hãi rồi lại tự trách mình: Lệnh Hồ Xung ơi Lệnh Hồ Xung, ngươi thật là một kẻ tiểu nhân đê tiện. Tuy ngươi mong muốn tiểu sư muội mau lành, mà trong thâm tâm ngươi lại muốn Lâm sư đệ trọng thương mà chết đi ư? Chẳng lẽ Lâm sư đệ chết rồi thì tiểu sư muội sẽ được gả cho ngươi sao?
Lệnh Hồ Xung cảm thấy vô vị quá, liên tiếp uống ba bát nữa rồi lại nghĩ: Lao Đức Nặc và bát sư đệ không biết ai đã giết? Tại sao người đó lại đi ám toán Lâm sư đệ? Sư phụ, sư nương không biết gần đây thế nào?
Lệnh Hồ Xung lại bưng bát rượu lên uống một hơi cạn sạch. Trong tửu điếm không có đồ nhắm, chàng đưa tay bốc mấy hạt đậu phộng rang muối, ném vào miệng. Bỗng nghe phía sau có người thở dài nói:
– Ôi, đàn ông trong thiên hạ mười người có hết chín người bạc bẽo!
Lệnh Hồ Xung quay mặt lại nhìn về hướng người vừa nói. Dưới ánh đèn lờ mờ, chàng thấy trong tửu điếm nhỏ này ngoài mình ra còn có một người nằm gục trên một cái bàn ở góc điếm. Trên bàn để một hũ rượu và một cái bát, áo quần người đó cũ mèm, trông có vẻ quê mùa, không giống người văn nhã. Lệnh Hồ Xung không thèm để ý nữa, uống thêm một bát rượu, bỗng nghe sau lưng lại có người nói:
– Người ta vì ngươi mà bị giam cầm trong chỗ âm u không có ánh nắng, vậy mà ngươi suốt ngày la cà vào đám phụ nữ, tiểu cô nương cũng được mà ni cô trọc đầu cũng được, lão bà bà cũng không chê, hạng nào cũng khoái hết. Ôi, đáng tiếc ơi là đáng tiếc!
Lệnh Hồ Xung biết lão đang ám chỉ mình. Chàng không quay đầu lại mà nghĩ bụng: Người này là ai? Lão nói “Người ta vì ngươi mà bị giam cầm trong chỗ âm u không có ánh nắng”. Lão nói đến Doanh Doanh sao? Tại sao Doanh Doanh vì ta mà bị giam cầm?
Nghe lão lại nói tiếp:
– Những hạng không liên can gì thì thích lo chuyện bao đồng, nói muốn liều mạng để cứu người ra. Người này muốn làm thủ lĩnh, người kia cũng muốn làm thủ lĩnh, người còn chưa cứu được mà phe ta lại đánh nhau đến trời sầu đất thảm. Ôi, chuyện trên giang hồ, lão tử thật không muốn thấy nữa.
Lệnh Hồ Xung cầm bát rượu bước sang ngồi đối diện với lão nói:
– Tại hạ có nhiều chuyện không hiểu, xin lão huynh chỉ giáo.
Lão vẫn nằm gục trên bàn, không ngẩng đầu lên, lão nói:
– Ôi, càng phong lưu thì càng thêm tội nghiệt. Bọn ni cô, cô nương phái Hằng Sơn thật chẳng làm được trò gì.
Bỗng chàng thấy dưới chân bàn có một cây hồ cầm, thân đàn màu vàng thẫm đã lâu năm rồi.
Lệnh Hồ Xung bỗng nhớ ra người này là ai, liền bái xuống nói:
– Vãn bối Lệnh Hồ Xung may mắn được bái kiến Mạc sư bá phái Hành Sơn. Vừa rồi vãn bối thật thất lễ.
Lão ngẩng đầu lên, hai mắt sáng quắc, lạnh lùng quét mắt nhìn Lệnh Hồ Xung. Lão chính là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn. Lão hừ một tiếng rồi nói:
– Gọi sư bá, ta không dám nhận. Lệnh Hồ đại hiệp, mấy ngày nay sống vui vẻ chứ?
Lệnh Hồ Xung cúi người đáp:
– Xin Mạc sư bá minh giám, đệ tử phụng mệnh Định Nhàn sư bá theo các vị sư tỷ sư muội phái Hằng Sơn đến Thiếu Lâm. Tuy đệ tử là người không biết gì nhưng quyết không dám có chút biểu hiện thất lễ với các sư tỷ sư muội phái Hằng Sơn.
Mạc Đại tiên sinh thở dài nói:
– Mời ngồi! Ôi, sao đại hiệp không biết người trên giang hồ bàn tán xôn xao lắm chuyện?
Lệnh Hồ Xung cười gượng đáp:
– Vãn bối hành sự ngông cuồng, không biết kiềm chế, ngay cả bổn môn cũng không thể dung tha thì những lời rỗi hơi bàn tán trên giang hồ vãn bối không màng tới nữa.
Mạc Đại tiên sinh cười nhạt nói:
– Đại hiệp tự cho mình là kẻ lãng tử, chẳng ai thèm để ý tới. Nhưng thanh danh mấy trăm năm của phái Hằng Sơn lại bị bại hoại dưới tay đại hiệp, đại hiệp không động lòng chút nào sao? Trên giang hồ đồn đãi rằng đại hiệp là một nam nhân mà trà trộn vào trong đám ni cô, cô nương phái Hằng Sơn. Đừng nói thanh danh của mấy chục vị hoàng hoa khuê nữ bị đại hiệp làm tổn hại, mà thậm chí ngay cả… ngay cả mấy vị lão sư thái giữ giới nghiêm minh cũng bị người ta đem ra làm trò cười. Chuyện này… chuyện này thật tệ quá mức.
Lệnh Hồ Xung lùi lại hai bước, tay đặt lên chuôi kiếm, nói:
– Không biết kẻ nào đó đã bịa đặt ra, nói những lời hoang đường vô sỉ này. Xin Mạc sư bá nói cho đệ tử biết.
Mạc Đại tiên sinh nói:
– Đại hiệp muốn giết bọn chúng ư? Trên giang hồ nói những lời này không có một vạn thì cũng có tám ngàn, đại hiệp có giết hết được không? Hừ, người ta khen đại hiệp hồng phúc đầy trời, có gì đâu mà không tốt?
Lệnh Hồ Xung ngồi thừ ra ngẫm nghĩ: Ta làm chuyện gì thường không suy nghĩ trước sau, nhưng miễn sao không thẹn với lương tâm, không ngờ làm liên lụy đến tất cả các vị phái Hằng Sơn. Chuyện… chuyện này phải làm sao đây?
Mạc Đại tiên sinh thở dài ôn tồn nói:
– Năm ngày nay, đêm nào ta cũng đều lên thuyền của đại hiệp quan sát…
Lệnh Hồ Xung ồ lên một tiếng, thầm nghĩ: Mạc sư bá liên tiếp năm lần lên thuyền quan sát mà ta không hề hay biết, ta thật là tệ quá.
Mạc Đại tiên sinh nói tiếp:
– Ta thấy mỗi đêm đại hiệp thường nằm ngủ phía sau khoang lái, mặc nguyên quần áo dài mà ngủ, đừng nói hành vi của đại hiệp không hề có chút vô lễ với bọn đệ tử phái Hằng Sơn mà ngay cả một lần nói giỡn cũng không có. Lệnh Hồ thế huynh, thế huynh không những không phải người vô hạnh lãng tử mà thật đúng là một vị quân tử thủ lễ. Đối với bọn ni cô trẻ tuổi đầy thuyền, thiếu nữ đẹp như hoa mà thế huynh lại tuyệt không động tâm, không phải chỉ một đêm mà mấy chục đêm vẫn giữ được như vậy. Thế huynh là một bậc nam tử hán đại trượng phu, thật xưa nay hiếm có, Mạc Đại ta rất khâm phục.
Lão giơ ngón tay cái lên, tay phải đánh chát một cái lên bàn rồi nói:
– Nào, nào, nào, Mạc Đại ta kính thế huynh một bát.
Lão nhấc hũ rượu lên rót ra bát. Lệnh Hồ Xung nói:
– Lời Mạc sư bá nói khiến tiểu điệt rất lo sợ. Tiểu điệt phẩm hạnh bất đoan, đến nỗi sư môn bất dung, nhưng sư muội đồng đạo phái Hằng Sơn sao có thể đắc tội với họ được?
Mạc Đại tiên sinh cười ha hả, lão nói:
– Quang minh lỗi lạc như vậy mới đúng là bản sắc của bậc nam tử hán. Mạc Đại ta ở vào tuổi hai mươi, mà đêm nào cũng có nhiều cô nương bầu bạn như vậy, nếu bảo ta giữ mình trong sáng như thế huynh thì không được đâu. Khó lắm, khó lắm! Nào, cạn!
Hai người cụng bát uống cạn rồi nhìn nhau cười ha hả.
Lệnh Hồ Xung thấy Mạc Đại tiên sinh vóc dáng tiều tụy, áo quần bạc phếch, chẳng giống vị chưởng môn một phái oai chấn giang hồ. Ánh mắt lão mà quét ngang thì sắc bén như dao, nhưng vẻ oai hùng chỉ lộ ra rồi ẩn đi ngay, lại biến thành một hán tử dày dạn phong trần. Chàng thầm nghĩ: Định Nhàn sư thái chưởng môn phái Hằng Sơn từ bi hiền hòa, Thiên Môn đạo trưởng chưởng môn phái Thái Sơn thì oai nghiêm hậu trọng, Tả Lãnh Thiền chưởng môn phái Tung Sơn âm độc nham hiểm. Còn ân sư của ta là một vị quân tử phong nhã. Riêng vị Mạc sư bá này vẻ ngoài tiều tụy bần hàn giống như một tiểu nhân đầu đường xó chợ. Nhưng năm vị chưởng môn nhân của Ngũ Nhạc kiếm phái, kỳ thực vị nào cũng là người thâm trầm đa trí. Lệnh Hồ Xung ta là một cái bao cỏ, so với các vị còn thua kém xa.
Mạc Đại tiên sinh nói:
– Ta ở Hồ Nam, nghe thế huynh ở cùng với phái Hằng Sơn, rất kinh ngạc, lòng nghĩ Định Nhàn sư thái là một nhân vật cao đạo sao lại để môn hộ làm những chuyện như vậy? Sau đó nghe người của Bạch Giao bang nói hành tung của phái Hằng Sơn và thế huynh nên ta liền đuổi theo. Lệnh Hồ lão đệ, lão đệ làm náo động ở Quần Ngọc viện thành Hành Sơn, lúc đó Mạc Đại ta cho rằng lão đệ là một thanh niên hư hỏng. Sau đó lão đệ lại giúp sư đệ Lưu Chính Phong của ta, lòng ta rất thiện cảm với lão đệ, chỉ muốn mau đuổi đến kịp để nói lời khuyên can. Không ngờ lại thấy lão đệ là một trang hào kiệt, ta lại có được một thanh niên anh hùng tuyệt vời như lão đệ. Hay lắm, hay lắm! Nào nào nào, chúng ta cùng cạn ba bát.
Lão gọi điếm tiểu nhị rót rượu đối ẩm với Lệnh Hồ Xung.
Uống mấy bát rượu vào bụng, con người phiêu bạt hào phóng như Mạc Đại tiên sinh đột nhiên cao hứng, hào khí bốc lên. Lão liên tiếp kêu rượu, nhưng tửu lượng của lão kém xa Lệnh Hồ Xung. Lão uống được mấy bát thì mặt mày đã đỏ lên. Lão nói:
– Lệnh Hồ lão đệ, ta biết lão đệ rất thích uống rượu. Mạc Đại không có gì để kính, đành bồi tiếp lão đệ thêm vài bát. Hì hì, trong võ lâm, người được Mạc Đại bồi rượu chẳng mấy ai. Hôm đại hội ở phái Tung Sơn, ngồi trên có Đại tung dương thủ Phí Bân. Người này ngổ ngáo coi trời bằng vung, khoác lác có một không hai. Mạc Đại càng nhìn càng ngứa mắt, lúc đó một giọt ta cũng không uống. Người này lại còn ăn nói xấc xược, cái đồ thúi tha như hắn, lão đệ bảo có đáng để cùng ta đối ẩm không?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đúng vậy, loại người này không tự lượng sức, hoành hành bá đạo, cuối cùng cũng bị quả báo.
Mạc Đại tiên sinh nói:
– Sau đó nghe đâu hắn đột nhiên mất tích, không biết biến đi đâu, thật là kỳ lạ.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ngày hôm đó ở ngoại thành Hành Dương, Mạc Đại tiên sinh đã thi triển kiếm pháp thần diệu giết chết Phí Bân. Lúc đó, rõ ràng lão thấy ta đứng bên cạnh, bây giờ lão lại nói như vậy, chắc là lão không muốn bị lộ hành tung chuyện đó. Chàng bèn nói:
– Môn hạ phái Tung Sơn hành sự khiến cho người ta không lường nổi. Lão Phí Bân không chừng đang ẩn cư trong một cái hang động nào đó ở Tung Sơn, chuyên luyện kiếm pháp cũng chưa biết chừng.
Trong ánh mắt Mạc Đại tiên sinh lóe ra những tia xảo quyệt, lão mỉm cười vỗ bàn la lên:
– Thì ra là như vậy. Nếu lão đệ không tỉnh táo đề cập tới chuyện đó thì ta có nghĩ đến vỡ đầu ra cũng không thấu hiểu nguyên nhân trong đó.
Lão uống một ngụm rượu rồi hỏi:
– Lệnh Hồ lão đệ, tại sao lão đệ lại ở cùng với phái Hằng Sơn? Nhậm đại tiểu thư của Ma giáo rất nặng tình với lão đệ, lão đệ vạn lần không nên phụ bạc cô ta.
Mặt Lệnh Hồ Xung đỏ lên, hắn nói:
– Mạc sư bá minh giám, tiểu điệt đang bị thất tình nên đối với chuyện nam nữ tiểu điệt đã chán nản từ lâu rồi.
Lệnh Hồ Xung nhớ tới tiểu sư muội Nhạc Linh San. Lòng đau xót, khóe mắt đỏ lên, đột nhiên chàng cười ha hả rồi lớn tiếng nói:
– Tiểu điệt muốn bỏ chốn hồng trần, xuất gia làm hòa thượng, chỉ sợ người xuất gia giới luật quá nghiêm, không cho phép uống rượu, nên tiểu điệt không làm được hòa thượng. Ha ha, ha ha!
Tuy Lệnh Hồ Xung cười rất to nhưng trong tiếng cười ẩn chứa nhiều đau đớn. Một lúc sau Lệnh Hồ Xung thuật lại chuyện đã gặp Định Tĩnh, Định Nhàn, Định Dật ba vị sư thái thế nào, mình đã ra tay cứu viện ra sao, mỗi sự kiện chàng chỉ kể sơ sài thôi.
Mạc Đại tiên sinh lặng yên nghe kể xong, nhìn trừng trừng vào hũ rượu xuất thần. Một lúc sau lão mới nói:
– Tả Lãnh Thiền có ý muốn thôn tính bốn phái, để hợp thành một phái lớn, cùng với hai đại môn phái Võ Đang và Thiếu Lâm chia làm ba chân và đứng ngang hàng với họ. Mưu đồ bí mật của hắn đã có từ lâu; tuy lão giấu kín, nhưng ta đã nhìn ra được phần nào. Tổ mẹ nó, hắn không cho Lưu sư đệ của ta rửa tay gác kiếm, ngấm ngầm giúp phe Kiếm tông phái Hoa Sơn đi tranh đoạt ngôi vị chưởng môn của Nhạc tiên sinh, chung quy hành vi của hắn là như vậy. Nhưng ta không ngờ hắn lại to gan làm càn, dám ra mặt hạ thủ phái Hằng Sơn.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lão cũng không dám ra mặt, cứ mạo danh Ma giáo, muốn bức bách phái Hằng Sơn vào bước đường cùng, không thể không đồng ý lời đề nghị hợp phái của lão.
Mạc Đại tiên sinh gật đầu nói:
– Đúng vậy. Nước cờ thứ hai của hắn là đối phó với Thiên Môn đạo trưởng phái Thái Sơn. Hừ, Ma giáo tuy độc ác nhưng cũng chưa chắc độc ác bằng Tả Lãnh Thiền. Lệnh Hồ huynh đệ, bây giờ huynh đệ đã không còn là môn hạ phái Hoa Sơn, làm thân hạc nội mây ngàn, không còn bị ràng buộc, cũng không cần phải cái gì chính giáo với Ma giáo. Ta khuyên huynh đệ cũng không cần phải làm hòa thượng, cũng không cần đau lòng như vậy, cứ đi cứu Nhậm đại tiểu thư đó ra rồi lấy cô ta làm vợ. Người khác không đến uống rượu của huynh đệ thì Mạc Đại ta sẽ đến uống ba bát rượu mừng huynh đệ. Tổ mẹ nó, sợ cái chó gì?
Có lúc lão nói toàn những lời rất văn nhã, có lúc lại kèm theo mấy lời thô tục, nói là chưởng môn của một phái cũng thật không giống chút nào.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lão cho rằng ta thất tình là vì Doanh Doanh, những chuyện với tiểu sư muội ta cũng không cần đề cập với lão.
Lệnh Hồ Xung bèn hỏi:
– Mạc sư bá, rốt cuộc tại sao phái Thiếu Lâm bắt Nhậm đại tiểu thư?
Mạc Đại tiên sinh há hốc mồm, hai mắt trợn ngược, vẻ mặt hết sức kinh ngạc. Lão nói:
– Tại sao phái Thiếu Lâm lại bắt giữ Nhậm đại tiểu thư ư? Huynh đệ không biết thật hay biết rồi mà còn cố ý hỏi? Mọi người trên giang hồ đều biết, huynh đệ… huynh đệ… còn hỏi cái gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Trong mấy tháng qua, tiểu điệt bị người cầm tù nên chuyện giang hồ tiểu điệt không biết chút gì. Nhậm tiểu thư đó đã từng giết bốn tên đệ tử phái Thiếu Lâm, cũng là do tiểu điệt mà ra, nhưng không biết sau đó tại sao cô ta thất thủ bị phái Thiếu Lâm giam cầm?
Mạc Đại tiên sinh nói:
– Nếu nói như vậy, thì huynh đệ không biết rõ căn nguyên trong đó thật. Trong người huynh đệ bị nội thương kỳ lạ không thuốc nào có thể trị được. Nghe nói trong bàng môn tả đạo cùng nhau kéo đến ở Ngũ Bá Cương vì muốn lấy lòng vị Nhậm đại tiểu thư này mà trị thương cho huynh đệ, kết quả ai ai cũng bó tay bất lực, có đúng vậy không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đúng vậy.
Mạc Đại tiên sinh nói:
– Chuyện này đồn đãi khắp giang hồ, đều nói tiểu tử Lệnh Hồ Xung không biết có phúc đức mấy đời mà lọt vào mắt xanh của Thánh cô Nhậm đại tiểu thư của Hắc Mộc Nhai, dù thương thế không trị khỏi được cũng không uổng một đời.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mạc sư bá lại đùa tiểu điệt rồi.
Chàng thầm nghĩ: Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu tuy bọn họ có tấm lòng tốt nhưng hành sự quá lỗ mãng, chuyện này đồn đãi ra như vậy chẳng trách Doanh Doanh tức giận.
Mạc Đại tiên sinh hỏi:
– Sau đó tại sao huynh đệ khỏi bệnh? Do tu luyện thần công Dịch cân kinh của phái Thiếu Lâm phải không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không phải. Phương trượng Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm từ bi bác ái, không nghĩ đến chuyện hiểu lầm trước đó, đã đồng ý truyền thụ võ công vô thượng của phái Thiếu Lâm cho tiểu điệt. Nhưng tiểu điệt không muốn cải đầu vào phái Thiếu Lâm, mà môn Thiếu Lâm thần công này lại không thể truyền thụ cho người khác phái. Tiểu điệt đành phải phụ lòng tốt của phương trượng đại sư.
Mạc Đại tiên sinh nói:
– Phái Thiếu Lâm là Thái Sơn, Bắc Đẩu trong võ lâm. Lúc đó huynh đệ đã bị trục xuất khỏi môn tường phái Hoa Sơn, là dịp tốt để cải đầu phái Thiếu Lâm. Đó là cơ duyên ngàn năm một thuở, tại sao ngay cả tính mạng của mình huynh đệ cũng không màng đến?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu điệt từ nhỏ được ân sư, sư nương thu nhận, ân đức dưỡng dục dù tan xương nát thịt cũng khó mà báo đáp. Chỉ mong sau này ân sư có thể cho phép tiểu điệt sửa chữa lỗi lầm, trở lại môn tường, quyết không tham sống sợ chết mà đầu vào phái khác.
Mạc Đại tiên sinh gật đầu nói:
– Nói cũng có lý. Nếu nói như vậy thì nội thương của huynh đệ được khỏi là do một cơ duyên khác.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đúng vậy. Kỳ thực nội thương của tiểu điệt cũng chưa hoàn toàn khỏi hẳn.
Mạc Đại tiên sinh nhìn chằm chằm vào hắn, lão nói:
– Phái Thiếu Lâm và huynh đệ xưa nay không hề có quan hệ thâm sâu, người trong Phật môn tuy nói là từ bi bác ái, cũng không thể tùy tiện lấy thần công vô thượng của bổn môn mà truyền cho người. Phương Chứng đại sư đồng ý lấy Dịch cân kinh truyền thụ, huynh đệ thật không biết vì nguyên nhân gì ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Quả thật tiểu điệt không biết, mong Mạc sư bá chỉ giáo.
Mạc Đại tiên sinh nói:
– Được! Trên giang hồ đều nói, ngày hôm đó Nhậm đại tiểu thư Hắc Mộc Nhai đích thân cõng huynh đệ đến chùa Thiếu Lâm gặp phương trượng, nói là chỉ cần phương trượng cứu tính mạng của huynh đệ thì cô ta chịu mặc cho chùa Thiếu Lâm xử trí, muốn giết muốn mổ cô ta cũng tuyệt đối không chau mày.
Lệnh Hồ Xung a lên một tiếng, nhảy xổm lên, làm bát rượu ở trên bàn đổ cả ra. Toàn thân chàng ướt đẫm mồ hôi, chân tay run bần bật, nói:
– Chuyện này… chuyện này… chuyện này…
Trong đầu chàng hỗn loạn cả lên. Lệnh Hồ Xung nhớ lại lúc cơ thể mình càng ngày càng yếu đi, trong một đêm nằm mơ, nghe Doanh Doanh khóc nức nở rồi nói: “Ngươi càng ngày càng ốm, ta… ta…”. Giọng nói rất chân thành, lòng chàng cảm động, thổ huyết ra rồi ngất đi không biết gì nữa. Lúc tỉnh dậy, chàng thấy mình nằm trong gian đấu thất chùa Thiếu Lâm, Phương Sinh đại sư đã phí nhiều tâm sức để cứu mình. Lệnh Hồ Xung vẫn không biết tại sao mình lại ở trong chùa Thiếu Lâm và cũng không biết Doanh Doanh ở đâu. Thì ra cô ta xả thân cứu mình, bất giác nước mắt chàng ứa ra, chảy dài xuống má.
Mạc Đại tiên sinh than:
– Vị Nhậm đại tiểu thư này tuy xuất thân Ma giáo nhưng đối xử với huynh đệ hết lòng hết dạ, khiến người ta phải cảm phục. Trong Thiếu Lâm, bốn tên đại đệ tử Tân Quốc Lương, Dịch Quốc Tử, Hoàng Quốc Bách, Giác Nguyệt thiền sư đều bị giết dưới tay cô ta. Cô ta lại đến Thiếu Lâm là chẳng mong sống nữa, nhưng vì cứu huynh đệ, cô ta… cô ta hoàn toàn không thiết đến mạng sống của mình. Phương Chứng đại sư không muốn giết cô ta là vì lẽ đó, nhưng cũng không thể thả cô ta, cho nên đem cô ta giam cầm trong sơn động sau chùa Thiếu Lâm. Thuộc hạ của Nhậm đại tiểu thư biết bao nhiêu là người đủ hạng Tam sơn, Ngũ nhạc dĩ nhiên ai cũng muốn đi cứu cô ta ra. Nghe nói mấy tháng nay chùa Thiếu Lâm không một ngày yên ổn, người bắt được ít nhất cũng khoảng một trăm.
Lệnh Hồ Xung quá cảm kích, không bình tĩnh được. Một lúc lâu sau mới hỏi:
– Mạc sư bá, sư bá nói mọi người tranh nhau làm thủ lĩnh, nên tự đánh nhau tới long trời lở đất. Chuyện đó ra sao?
Mạc Đại tiên sinh thở dài, đáp:
– Những nhân vật bàng môn tả đạo, bình thường ngoài nghe hiệu lệnh của Nhậm đại tiểu thư ra thì ai ai cũng cuồng vọng tự đại, hiếu chiến ngông nghênh, không ai chịu phục ai. Lần này lên chùa Thiếu Lâm cứu người, mọi người đều biết Thiếu Lâm là cội nguồn của võ học trong thiên hạ, tình thế rất là gay cấn, huống chi nếu đơn độc xông vào chùa thì không ai quay trở về được cho nên mọi người nói phải có người đứng ra tập hợp số đông để kết minh cùng đi. Đã kết minh thì phải có một minh chủ. Nghe nói mấy ngày nay vì tranh đoạt địa vị minh chủ, có nhiều người đã động thủ, chết có bị thương cũng có, thật đã tổn thất không ít người, Lệnh Hồ lão đệ, ta thấy chỉ có lão đệ mau đi ngay mới có thể chế ngự được bọn chúng. Lão đệ nói cái gì thì không ai dám trái lời. Ha ha, ha ha!
Mạc Đại tiên sinh cười như vậy khiến mặt Lệnh Hồ Xung đỏ cả lên. Chàng biết lão nói không sai, nhưng quần hào có phục mình thì cũng chẳng qua là nể mặt Doanh Doanh, nếu sau này Doanh Doanh biết được cô ta sẽ rất giận. Đột nhiên chàng động tâm nghĩ: Doanh Doanh đối với ta tình thâm nghĩa trọng, nhưng ngoài mặt cô ta vẫn lạnh lùng vì sợ người khác chọc ghẹo, nói cô ta đối với ta là “hoa rơi hữu ý” mà ta lại là “nước chảy vô tình”. Ta phải báo đáp tấm lòng tốt của cô ta, cần phải làm cho bọn hán tử trên giang hồ đồn rằng Lệnh Hồ Xung ta có tình thâm với Nhậm đại tiểu thư, vì cô ta mà không màng tính mạng. Ta phải một mình xông vào chùa Thiếu Lâm, có thể cứu được cô ta ra thì tốt, nếu cứu không được thì cũng phải làm náo động để mọi người biết đến.
Lệnh Hồ Xung bèn nói:
– Hai vị sư bá Định Nhàn, Định Dật phái Hằng Sơn đã lên chùa Thiếu Lâm để thỉnh cầu phương trượng Thiếu Lâm, xin phương trượng thả vị Nhậm tiểu thư này ra để tránh khỏi nạn kiếp đại động máu chảy can qua.
Mạc Đại tiên sinh gật đầu nói:
– Thảo nào, thảo nào! Ta vẫn thấy làm lạ, Định Nhàn sư thái là người tài trọng lão thành như vậy sao lại để các ni cô, cô nương bầu bạn với người, mà chính bà lại đi con đường khác. Thì ra, bà vì lão đệ mà đi làm thuyết khách.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mạc sư bá, tiểu điệt đã biết chuyện này, trong lòng lo lắng vô cùng, hận không mọc cánh để bay lên chùa Thiếu Lâm xem kết quả thỉnh cầu của hai vị sư thái thế nào. Nhưng những sư muội sư tỷ phái Hằng Sơn đều là hạng nữ lưu, nếu giữa đường gặp chuyện gì bất trắc thì thật là khó.
Mạc Đại tiên sinh nói:
– Lão đệ cứ đi đi!
Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:
– Tiểu điệt đi trước được chứ?
Mạc Đại tiên sinh không đáp, lão cầm cây đàn hồ cầm để dựa bên chân bàn gảy lên tình tang.
Lệnh Hồ Xung biết lão nói như vậy nghĩa là lão đã đồng ý chăm sóc bọn đệ tử phái Hằng Sơn. Vị Mạc sư bá này võ công, kiến thức đều phi phàm, bất luận lão ra mặt hay âm thầm bảo vệ thì phái Hằng Sơn không có gì đáng lo nữa. Chàng liền cúi đầu hành lễ, nói:
– Cảm tạ đại đức của Mạc sư bá.
Mạc Đại tiên sinh cười nói:
– Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi. Ta giúp phái Hằng Sơn trong lúc ngặt nghèo mà lão đệ đa tạ cái gì? Vị Nhậm đại tiểu thư đó mà biết được chỉ e ăn phải ớt cay.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu điệt xin cáo từ. Các vị sư tỷ sư muội phái Hằng Sơn làm phiền Mạc sư bá trông nom giúp.
Lệnh Hồ Xung ra khỏi điếm.
Chàng dừng bước nhìn ra sông thấy ánh đèn xuyên qua từ trong cửa sổ một chiếc thuyền phản chiếu lên mặt sông Hán Thủy thành một vệt sáng vàng rung rinh lấp lánh. Phía sau, trong tửu điếm, tiếng đàn của Mạc Đại tiên sinh trầm xuống dần, trong đêm tĩnh mịch nghe rất buồn thảm.
Lệnh Hồ Xung đi nhanh về hướng Bắc. Đến sáng, chàng đến một thị trấn lớn, tìm vào một khách điếm. Hồ Bắc có món điểm tâm nổi tiếng là canh đậu; đậu lột sạch vỏ nấu canh ăn rất ngon. Lệnh Hồ Xung ăn hết ba bát to rồi trả tiền đi ra khỏi điếm.
Một đám hán tử chạy đến, trong đó có một người vừa mập vừa lùn, đó là Lão Đầu Tử, một trong Hoàng Hà Lão Tổ. Lệnh Hồ Xung vui mừng, lớn tiếng gọi:
– Lão Đầu Tử! Khỏe không?
Lão Đầu Tử vừa thấy Lệnh Hồ Xung, vẻ mặt rất lúng túng. Lão ngần ngừ một chút, soạt một tiếng lão tuốt đại đao ra. Lệnh Hồ Xung tiến lên trước nói:
– Tổ Thiên Thu…
Mới chỉ nói được ba tiếng, Lão Đầu Tử đã vung đao lên chém về hướng chàng. Tuy đao lực rất mạnh nhưng lại sai lệch rất kỳ lạ, cách vai Lệnh Hồ Xung đến hơn một thước. Vù một tiếng lão chém đao xuống. Lệnh Hồ Xung giật mình nhảy lùi ra sau, la lên:
– Lão tiên sinh, ta là Lệnh Hồ Xung đây mà.
Lão Đầu Tử la lên:
– Đương nhiên ta biết ngươi là Lệnh Hồ Xung. Các vị bằng hữu nghe đây, ngày hôm đó, Thánh cô có lệnh bất luận người nào thấy Lệnh Hồ Xung thì phải giết hắn ngay, Thánh cô sẽ trọng thưởng cho. Câu nói này mọi người đều nghe cả rồi chứ?
Mọi người đều đáp ầm lên:
– Chúng ta đều nghe rồi.
Tuy mọi người nói như vậy nhưng cứ ngơ ngác nhìn nhau, vẻ mặt rất cổ quái. Không ai rút binh khí ra động thủ, thậm chí có vài người còn đứng cười hì hì, dường như cảm thấy vô cùng thích thú.
Mặt Lệnh Hồ Xung đỏ lên, chàng nhớ lại ngày hôm đó, Doanh Doanh ra lệnh cho bọn Lão Đầu Tử truyền ngôn trên giang hồ rằng phải giết mình. Cô ta vì muốn chàng ở bên cạnh, lại muốn bọn quần hào đều biết rằng Nhậm đại tiểu thư quyết không yêu Lệnh Hồ Xung mà ngược lại còn căm hận đến tận xương tủy. Sau này, chàng trải qua nhiều biến cố nên những câu nói lúc đó chàng đã quên hết. Bây giờ, nghe Lão Đầu Tử nói như vậy chàng mới hiểu hiệu lệnh của cô ta vẫn chưa truyền ra ngoài.
Lúc này bọn Lão Đầu Tử truyền ngôn ra dĩ nhiên quần hào không tin, cho đến lúc cô ta vì cứu tính mệnh của Lệnh Hồ Xung, cam tâm lên chùa Thiếu Lâm chịu chết, chuyện này do bọn đệ tử tục gia của chùa Thiếu Lâm tiết lộ ra ngoài liền ầm ĩ cả giang hồ. Ai ai cũng khen cô ta tình thâm nghĩa trọng, nhưng cũng không khỏi tức cười, cảm thấy vị đại tiểu thư này quá kiêu ngạo hiếu thắng, rõ ràng đã yêu người ta mà không chịu thừa nhận, quyết che giấu mà lại càng để lộ ra. Chuyện này không những bọn hảo hán phe bàng môn tả đạo thuộc hạ của Doanh Doanh đều biết rõ mà ngay cả người trong chính giáo cũng biết, thường đem ra để đàm tiếu. Bây giờ, quần hào bỗng nhiên thấy Lệnh Hồ Xung xuất hiện, vừa vui mừng vừa ngạc nhiên nhưng cũng có người rất lúng túng.
Lão Đầu Tử nói:
– Lệnh Hồ công tử, Thánh cô có lệnh bảo bọn tại hạ giết công tử nhưng võ công của công tử quá cao cường. Vừa rồi, đao của tại hạ chém không trúng công tử mà còn được công tử hạ thủ lưu tình không lấy tính mạng của tại hạ, đủ cảm thấy thịnh tình của công tử. Các vị bằng hữu, các vị đã tận mắt nhìn thấy, chúng ta quyết không phải không chịu giết Lệnh Hồ công tử, mà thực tế là chúng ta đánh không lại. Lão Đầu Tử đánh không lại Lệnh Hồ công tử thì đương nhiên các vị cũng vậy, có phải không?
Mọi người đều cười ha hả, cùng nói:
– Đúng vậy.
Một người nói:
– Vừa rồi chúng ta ác đấu một trận kinh tâm động phách, song phương đánh đến nỗi sức cùng lực kiệt, không ai giết được ai, đành phải ngưng chiến. Mọi người đấu võ không được thì đấu rượu. Nếu có vị anh hùng hảo hán nào có thể phục rượu cho Lệnh Hồ công tử say chết luôn, sau này gặp Thánh cô cũng dễ trình bày.
Quần hào ôm bụng cười nghiêng ngả, đều nói:
– Tuyệt quá, tuyệt quá!
Lại có một người nói:
– Thánh cô chỉ muốn chúng ta giết Lệnh Hồ công tử mà không quy định phải dùng đao. Dùng rượu ngon để phục cho Lệnh Hồ công tử say đến chết cũng được. Đây gọi là đấu sức không lại thì phải đấu trí.
Quần hào hoan hô ầm ĩ, dẫn Lệnh Hồ Xung lên một tửu lâu lớn. Hơn bốn chục người ngồi đầy sáu bàn, mấy người chưa kịp ngồi xuống đã đập bàn lớn tiếng gọi:
– Đem rượu ra đây!
Lệnh Hồ Xung ngồi vào bàn, hỏi:
– Thánh cô sao rồi? Tại hạ lo muốn chết được.
Quần hào nghe chàng quan tâm đến Doanh Doanh đều rất vui mừng. Lão Đầu Tử nói:
– Mọi người dự định rằm tháng mười hai cùng đến chùa Thiếu Lâm đón Thánh cô ra. Mấy ngày nay, vì chuyện ai cũng muốn làm minh chủ nên mọi người giành nhau náo loạn cả lên, rất tổn thương hòa khí. Lệnh Hồ công tử giá lâm, thật hay biết mấy. Lệnh Hồ công tử không làm minh chủ thì còn ai vào đây nữa? Nếu người khác làm dù đón được Thánh cô về thì Thánh cô lão nhân gia cũng không vui.
Một lão già tóc bạc cười nói:
– Đúng vậy. Chỉ cần đích thân Lệnh Hồ công tử chủ trì đại cuộc, dù nhất thời gặp trở ngại, không đón được Thánh cô, chỉ cần Thánh cô lão nhân gia biết được tin này thì trong lòng cũng vui mừng khôn xiết. Địa vị minh chủ trời đất xếp đặt để chờ Lệnh Hồ công tử đảm nhận.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ai làm minh chủ thì cũng là chuyện nhỏ, chỉ cần cứu được Thánh cô ra, dù tại hạ có tan xương nát thịt cũng cam tâm tình nguyện.
Lệnh Hồ Xung nói mấy câu này không phải là tùy miệng nói ra. Chàng cảm kích Doanh Doanh đã vì mình mà xả thân, nếu vì Doanh Doanh mà chết thì chàng cũng quyết không do dự. Nhưng nếu bình thường thì đó chỉ là một ý niệm trong thâm tâm mà thôi, không cần phải nói ra ngoài miệng với ai. Bây giờ chàng lại muốn liều mạng chứng tỏ là mình chí tình chí nghĩa để khiến cho người khác không cười Doanh Doanh nữa.
Quần hào vừa nghe nói, thì lòng bọn họ được an ủi rất nhiều, cảm thấy Thánh cô xem trọng người này là đúng chứ không sai. Thánh cô thực có con mắt tinh đời.
Lão già tóc bạc cười nói:
– Thì ra Lệnh Hồ công tử quả đúng là một vị anh hùng có tình có nghĩa. Trước đây nghe giang hồ đồn đãi rằng Lệnh Hồ công tử mọi việc bỏ ngoài tai, không thèm để ý tới khiến cho giáo chúng rất bất mãn.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mấy tháng nay, tại hạ thất thủ, thân bị giam trong chốn lao lung, sự việc trên giang hồ đại khái tại hạ không biết. Nhưng ngày đêm tại hạ vẫn nhớ Thánh cô, đến đầu cũng bạc luôn. Nào, nào, nào tại hạ kính các vị bằng hữu một bát, đa tạ các vị vì Thánh cô mà ra sức.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy bưng bát rượu uống cạn. Quần hào cũng đều uống cạn. Lệnh Hồ Xung nói:
– Lão tiên sinh, tiên sinh nói nhiều bằng hữu đang tranh địa vị minh chủ, làm tổn thương hòa khí. Chuyện không nên chậm trễ nữa, chúng ta mau đến khuyên can ngay.
Lão Đầu Tử nói:
– Đúng vậy. Tổ Thiên Thu và Dạ miêu tử đều đã đi rồi. Chúng ta cũng nên đi ngay.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Không biết mọi người đang tụ tập ở đâu?
Lão Đầu Tử đáp:
– Quần hào tụ hội ở Hoàng Bảo Bình.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Hoàng Bảo Bình ư?
Lão già tóc bạc nói:
– Nơi đó ở trong núi Kinh Sơn phía tây thành Tương Dương.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mau ăn cơm uống rượu rồi lập tức đi Hoàng Bảo Bình. Chúng ta đã đấu rượu ba ngày ba đêm rồi, các vị đã phí hết tâm trí mà vẫn không phục chết được Lệnh Hồ Xung. Sau này gặp Thánh cô, có thể trình bày được rồi.
Quần hào cười rộ lên, đều nói:
– Lệnh Hồ công tử tửu lượng như biển, chỉ e có đấu thêm ba ngày ba đêm nữa cũng không làm gì được Lệnh Hồ công tử.
Lệnh Hồ Xung và Lão Đầu Tử sóng vai đi, chàng hỏi:
– Bệnh của lệnh ái có đỡ nhiều không?
Lão Đầu Tử đáp:
– Cám ơn công tử đã quan tâm, tuy tiểu nữ không đỡ hơn, nhưng may mà bệnh tình cũng không xấu thêm.
Lệnh Hồ Xung vẫn chưa giải được mối hoài nghi. Thấy bọn quần hào ở phía sau cách mấy trượng, bèn hỏi:
– Các bằng hữu đều nói Thánh cô có đại ân đại đức với các vị. Tại hạ thật sự không hiểu rõ nguyên nhân. Thánh cô còn nhỏ tuổi, làm sao có thể ban thí ân đức cho quá nhiều bằng hữu giang hồ như vậy?
Lão Đầu Tử hỏi:
– Công tử không biết rõ nguyên nhân thật sao?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:
– Tại hạ không biết.
Lão Đầu Tử nói:
– Công tử không phải là người ngoài, đáng lẽ không nên giấu diếm. Nhưng mọi người đã lập lời thề với Thánh cô là không thể tiết lộ điều cơ mật trong chuyện này. Xin công tử lượng thứ.
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Đã không tiện thì đừng nói vậy.
Lão Đầu Tử nói:
– Sau này sẽ có ngày chính miệng Thánh cô nói với công tử, không hay hơn sao?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Mong ngày đó đến càng sớm càng tốt.
Đi trên đường, quần hào gặp thêm hai tốp hán tử cũng đến Hoàng Bảo Bình. Ba tốp hợp lại có hơn một trăm người.
Lúc đến Hoàng Bảo Bình thì trời đã khuya. Chỗ quần hào tụ hội là một nơi hoang dã phía tây. Còn cách khoảng hơn một dặm thì đã nghe tiếng người la ó, có người quát tháo chửi thề, có người ngoác miệng la hét. Lệnh Hồ Xung càng tăng cước bộ chạy nhanh hơn. Dưới ánh trăng, chàng thấy núi bao bọc chung quanh một vùng cỏ rậm trên đó lố nhố vô số đầu người, ít nhất cũng khoảng hơn một ngàn.
Có người lớn tiếng nói:
– Minh chủ, minh chủ, đã gọi một tiếng “minh chủ” thì đương nhiên chỉ do một người làm. Các ngươi đến sáu người đều muốn làm thì còn gọi là minh chủ sao được?
Người khác nói:
– Sáu người bọn ta là một người, mà một người là sáu người. Các ngươi đều nghe hiệu lệnh của sáu huynh đệ ta, thì sáu huynh đệ ta là minh chủ. Ngươi mà còn la ó om sòm thì bọn ta xé ngươi thành bốn mảnh trước.
Lệnh Hồ Xung không cần nhìn cũng biết đó là một trong Đào Cốc lục tiên. Nhưng giọng nói của sáu huynh đệ họ đều giông giống nhau nên rất khó phân biệt là ai nói.
Người nói trước bị lão dọa nên không dám nói nữa. Nhưng quần hào đối với Đào Cốc lục tiên rõ ràng không phục. Có người ở từ xa kêu chửi, có người núp trong bóng tối mà cười to lên, có người ném đất đá vào bọn họ loạn cả lên.
Đào Diệp Tiên lớn tiếng la:
– Ai dám ném hòn đá này vào lão tử?
Trong bóng tối có người hét lên:
– Lão tử ta đó.
Đào Hoa Tiên tức giận hỏi:
– Cái gì? Ngươi là lão tử của ca ca ta, cũng tức là lão tử của ta ư?
Có người nói:
– Cái đó thì chưa chắc.
Mấy trăm người liền cười rần lên. Đào Hoa Tiên hỏi:
– Tại sao lại chưa chắc?
Người kia nói:
– Chuyện này ta cũng không biết. Ta chỉ sinh được một đứa con.
Đào Căn Tiên hỏi:
– Ngươi chỉ sinh được một đứa con thì có liên can gì đến ta?
Người kia cười khằng khặc rồi nói:
– Không có liên can gì đến ngươi nhưng chắc có liên can đến huynh đệ của ngươi.
Đào Cán Tiên hỏi:
– Chẳng lẽ cũng có liên can đến ta sao?
Người kia cười nói:
– Để coi tướng mạo có giống hay không?
Đào Thực Tiên nói:
– Ngươi nói tướng mạo của ta hơi giống, thử ra đây xem.
Người đó cười nói:
– Có gì hay đâu mà xem. Tự ngươi soi gương là thấy rồi.
Đột nhiên bốn bóng người nhảy lên tấn tốc dị thường, cùng xông về trước túm lấy người đó, lôi từ trong bóng tối ra. Người này vừa cao vừa to, nặng có đến hai trăm cân. Lão bị Đào Cốc tứ tiên túm lấy tứ chi không sao nhúc nhích được. Bốn người xách lão ra dưới ánh trăng. Đào Thực Tiên nói:
– Không giống ta. Ta đâu có khó coi như vậy? Lão tam, hắn có vẻ hơi giống ngươi.
Đào Chi Tiên nói:
– Ấy, ta khó coi hơn ngươi sao? Anh hùng thiên hạ ở đây xin tất cả cứ bình phẩm mấy lời thử xem.
Quần hào đã thấy Đào Cốc lục tiên mặt mũi xấu xí, nếu nói người nào hơn người nào thì bình phẩm vụ này cũng không dễ. Lúc này, thấy đại hán bị bốn người nắm chặt, trong khoảnh khắc sẽ bị xé ra làm bốn mảnh nên ai cũng run sợ, cười không nổi nữa.
Lệnh Hồ Xung biết tính khí của Đào Cốc lục tiên. Một lão trong bọn họ không vừa lòng thì sẽ xé đại hán này ra. Chàng liền lớn tiếng nói:
– Đào Cốc lục tiên, cho phép Lệnh Hồ Xung ta bình phẩm được không?
Lệnh Hồ Xung vừa nói vừa đi từ trong chỗ tối ra. Quần hào vừa nghe đến ba tiếng “Lệnh Hồ Xung” liền sửng sốt, hơn một ngàn người đều hướng mắt nhìn vào.
Lệnh Hồ Xung nhìn chằm chằm vào Đào Cốc tứ tiên. Chàng sợ bọn chúng nhất thời hứng khởi liền xé xác đại hán này, bèn nói:
– Các vị để bằng hữu này xuống thì tại hạ mới nhìn rõ mặt được.
Đào Cốc tứ tiên liền để lão xuống.
Đại hán này thân thể rất to cao, lão đứng xuống đất trông giống như một cái tháp. Vừa rồi lão thoát chết nên sợ đến nỗi hồn lìa khỏi xác, sắc mặt trắng bệch, thân run bần bật. Lão biết đứng trước mọi người mà run như vậy thì thật đáng xấu hổ nhưng không kìm chế được. Lão muốn nói mấy câu để gỡ thể diện, nhưng miệng cứ lắp bắp:
– Ta… ta… ta…
Lệnh Hồ Xung thấy lão quá sợ hãi, nhưng diện mạo của gã cũng đàng hoàng nên hắn nói với Đào Cốc lục tiên:
– Lục vị Đào huynh, tướng mạo của các vị hoàn toàn không giống vị bằng hữu này; so với vị bằng hữu này, các vị đẹp trai hơn nhiều. Đào Căn Tiên cốt cách thanh kỳ, Đào Cán Tiên khôi ngô tuấn tú, Đào Chi Tiên tứ chi nở nang, Đào Diệp Tiên mày thanh mắt sáng, Đào Hoa Tiên thì chuyện này… chuyện này… mắt như sao sáng, Đào Thực Tiên tinh thần quắc thước. Hễ ai thấy đều biết các anh hùng mặt ngọc lục vị hành hiệp trượng nghĩa là bậc anh tuấn thiếu… là anh tuấn trung niên.
Quần hào nghe vậy đều cười rần cả lên. Đào Cốc lục tiên càng khoái chí. Lão Đầu Tử đã nếm mùi đau khổ vì lục huynh đệ này, biết bọn họ rất khoái nghe nịnh nên lão cũng nói theo:
– Theo tại hạ thấy, anh hùng trong thiên hạ nhìn chung võ công dù có cao cường đến đâu nhưng nói đến tướng mạo thì không ai bằng Đào Cốc lục tiên.
Quần hào lại nhao nhao lên, có người nói:
– Đào Cốc lục tiên đâu chỉ tuấn mĩ mà thôi, lại còn có vẻ phong lưu tao nhã nữa. Xưa nay chưa từng có ai như vậy.
Có người nói:
– Phan An thấy Đào Cốc lục tiên cũng phải tránh, Tống Ngọc cũng phải chào thua.
Có người nói:
– Trong võ lâm, nam tử đẹp trai từ đệ nhất đến đệ lục đương nhiên là sáu huynh đệ họ. Lệnh Hồ Xung giỏi lắm chỉ liệt vào hàng thứ bảy.
Đào Cốc lục tiên không biết mọi người cười mình, cứ nghĩ rằng bọn họ xưng tán mình thật nên càng thêm đắc ý, cứ ngoác miệng cười không sao ngậm lại được. Đào Chi Tiên nói:
– Má má của ta năm xưa đã nói sáu huynh đệ ta xấu như tám con quỷ. Thì ra má má nói sai rồi.
Có người cười hỏi:
– Đương nhiên là sai rồi, các ngươi chỉ có sáu người thì sao có thể gọi là tám con quỷ được?
Có người nói khẽ:
– Thêm gia gia, má má của bọn chúng nữa.
Câu nói chưa dứt thì bị người nào đó bịt miệng lại.
Lão Đầu Tử lớn tiếng nói:
– Các vị bằng hữu, chúng ta gặp vận may rồi. Lệnh Hồ công tử đang muốn đơn thương độc mã xông vào chùa Thiếu Lâm để đón Thánh cô về. Trên đường gặp bọn ta, nghe nói mọi người đang ở đây nên công tử lên thương nghị với các vị. Nói đến tướng mạo đẹp đương nhiên chỉ có Đào Cốc lục tiên.
Quần hùng vừa nghe lại cười rần cả lên. Lão Đầu Tử xua tay liên tục, trong tiếng cười to của quần hùng, lão nói tiếp:
– Nhưng việc xông vào chùa Thiếu Lâm đón Thánh cô là việc quan trọng không liên can gì lắm đến tướng mạo đẹp hay xấu. Theo ý của tại hạ, chúng ta cùng tôn Lệnh Hồ công tử làm minh chủ, mời Lệnh Hồ công tử chủ trì đại cuộc, phát hiệu lệnh để mọi người cùng tuân theo. Ý của các vị thế nào?
Quần hùng ai ai cũng biết Thánh cô vì Lệnh Hồ Xung mà chịu giam thân ở Thiếu Lâm. Lệnh Hồ Xung võ công trác tuyệt, ngày trước ở Hà Nam đã liên thủ cùng Hướng Vấn Thiên đại chiến với các lộ anh hùng. Chuyện này đã chấn động giang hồ. Nhưng dù sức hắn có trói gà không chặt đi nữa, một khi Thánh cô để mắt tới thì việc tôn hắn làm minh chủ như lời Lão Đầu Tử nói là điều hợp lý. Tất cả liền hoan hô, nhiều người vỗ tay reo hò.
Bỗng Đào Hoa Tiên nói:
– Chúng ta đi cứu Nhậm đại tiểu thư ra thì có phải cô ta sẽ làm vợ Lệnh Hồ Xung không?
Quần hào đối với Nhậm đại tiểu thư vô cùng tôn kính, tuy cảm thấy Đào Hoa Tiên nói không sai nhưng ai cũng không dám công nhiên gật đầu. Lệnh Hồ Xung vô cùng lúng túng, lặng yên không lên tiếng.
Đào Diệp Tiên nói:
– Đúng vậy! Trừ khi bản lãnh của Lệnh Hồ Xung cao hơn bọn ta thì khỏi cần phải bàn.
Đột nhiên Đào Căn, Đào Cán, Đào Chi, Đào Thực, cả bốn cùng động thủ, túm chặt lấy tứ chi của Lệnh Hồ Xung nhấc bổng lên. Bốn người ra tay rất thần tốc mà không hề báo trước, nói túm thì túm. Lệnh Hồ Xung không kịp né tránh.
Quần hùng cùng kinh hãi la lên:
– Đừng làm vậy, buông ra mau!
Đào Diệp Tiên cười nói:
– Tất cả cứ yên tâm, bọn ta không làm tổn thương tính mạng của Lệnh Hồ Xung đâu. Chỉ cần Lệnh Hồ Xung đồng ý nhường để sáu huynh đệ ta làm minh…
Lão chưa nói hết câu, Đào Căn, Đào Cán, Đào Chi, Đào Thực, cả bốn cùng hét lên, vội ném Lệnh Hồ Xung xuống, rồi la lên:
– Trời ơi, ngươi… ngươi sử yêu pháp gì vậy?
Thì ra tay chân của Lệnh Hồ Xung bị bốn lão túm chặt, chàng sợ đầu óc bọn lão ngu muội, chuyện quái gì cũng làm được, không chừng bọn chúng xé mình ra thật, liền vận Hấp tinh đại pháp. Đào Cốc tứ tiên cảm thấy nội lực của mình ùn ùn từ bàn tay tiết ra ngoài, càng vận công kháng cự thì nội lực tiết ra ngoài càng nhiều hơn. Trong lúc kinh hãi, bốn lão liền ném chàng xuống. Lệnh Hồ Xung ưỡn người đứng dậy ngay.
Đào Diệp Tiên vội hỏi:
– Sao?
Đào Căn Tiên và Đào Thực Tiên cùng nói:
– Cái… cái công phu của Lệnh Hồ Xung thật là kỳ quái, chúng ta không túm hắn được.
Đào Cán Tiên nói:
– Không phải là túm không được hắn mà đột nhiên không muốn túm hắn nữa.
Quần hào hoan hô. Tất cả đều nói:
– Đào Cốc lục tiên, lần này các ngươi phục chưa?
Đào Căn Tiên nói:
– Lệnh Hồ Xung là hảo bằng hữu của sáu huynh đệ bọn ta, Lệnh Hồ Xung cũng như là Đào Cốc lục tiên, Đào Cốc lục tiên cũng như là Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung làm minh chủ thì cũng như Đào Cốc lục tiên làm minh chủ, có gì đâu mà không phục?
Đào Hoa Tiên nói:
– Trong thiên hạ làm gì có chuyện mình không phục mình? Sao các ngươi hỏi ngu quá vậy?
Quần hào thấy vẻ mặt của Đào Cốc lục tiên, đoán rằng vừa rồi lúc bọn chúng túm Lệnh Hồ Xung không được đã ngấm ngầm xấu hổ, nhưng sợ mất mặt nên không chịu thừa nhận. Tuy không biết rõ nguyên nhân nhưng ai cũng cười và hoan hô rộ lên.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Các vị bằng hữu, lần này chúng ta đi nghinh đón Thánh cô và giải cứu rất nhiều bằng hữu giang hồ đã thất thủ bị giam cầm trong chùa Thiếu Lâm. Chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn, Bắc Đẩu trong võ lâm, Thiếu Lâm bảy mươi hai tuyệt kỹ lừng danh trong thiên hạ đã mấy trăm năm, bất cứ môn phái nào cũng không thể kháng cự được. Nhưng chúng ta người đông thế mạnh, ngoài hơn một ngàn vị anh hùng ở đây ra còn có không ít hảo hán đã đến đó trước. Võ công của chúng ta dù không bằng đệ tử tăng tục của chùa Thiếu Lâm, thì mười người đánh một không chột cũng què.
Mọi người đáp ầm lên:
– Đúng, đúng! Chẳng lẽ các hòa thượng chùa Thiếu Lâm có ba đầu sáu tay sao?
Lệnh Hồ Xung lại nói:
– Tuy các đại sư chùa Thiếu Lâm giữ Thánh cô nhưng cũng không làm khó dễ gì Thánh cô. Họ đều là những bậc cao tăng đắc đạo, từ bi bác ái khiến ai cũng kính ngưỡng. Chúng ta phá hủy chùa Thiếu Lâm thì e rằng hảo hán trên giang hồ sẽ nói chúng ta cậy nhiều để thủ thắng, không phải là hành vi của bậc anh hùng. Cho nên, theo ý của tại hạ, chúng ta phải tiên lễ hậu binh, nếu có thể thuyết phục được chùa Thiếu Lâm nhường một bước, không giam giữ làm khó dễ Thánh cô và các vị bằng hữu nữa để tránh khỏi một trận ác đấu thì vẫn hay hơn nhiều.
Tổ Thiên Thu nói:
– Lời của Lệnh Hồ công tử rất hợp với ý của tại hạ. Nếu động thủ thì song phương sẽ tổn thương rất nhiều.
Đào Chi Tiên nói:
– Lời của Lệnh Hồ công tử không hợp với ý của ta. Nếu song phương không động thủ thì tử thương rất ít, còn gì thú vị nữa?
Tổ Thiên Thu nói:
– Chúng ta đã tôn Lệnh Hồ công tử làm minh chủ, khi Lệnh Hồ công tử phát hiệu lệnh, mọi người phải nghe theo.
Đào Căn Tiên nói:
– Đúng rồi, chuyện phát hiệu lệnh để bọn Đào Cốc lục tiên ta làm là được rồi.
Quần hùng nghe sáu huynh đệ lão cứ làm rộn một cách vô lý, cản trở việc chính thì ai cũng tức giận. Nhiều người đặt tay lên chuôi đao, đợi Lệnh Hồ Xung ra lệnh thì sẽ loạn đao phân thây sáu lão ra. Võ công của sáu lão có cao cường đến đâu cũng không chống đỡ nổi mấy chục đao đồng thời chém xuống.
Tổ Thiên Thu nói:
– Việc của minh chủ là gì? Đương nhiên là phát hiệu lệnh. Nếu minh chủ không phát hiệu lệnh thì sao gọi là minh chủ được nữa? Chữ “chủ” này có nghĩa là phát hiệu lệnh.
Đào Hoa Tiên nói:
– Nếu như vậy thì chỉ gọi hắn một chữ “minh” thôi, bỏ bớt chữ “chủ” là được rồi.
Đào Diệp Tiên lắc đầu nói:
– Chỉ gọi một chữ “minh” thì còn ý nghĩa gì nữa.
Đào Cán Tiên nói:
– Theo cao kiến của ta, thì chữ “minh” dĩ nhiên không có nghĩa gì, nếu tách chữ “minh” ra thì gọi hắn là “minh huyết”.
Đào Chi Tiên la lên:
– Sai rồi, sai rồi! Chữ “minh” mà tách ra thì chữ phía dưới không phải là chữ “huyết”, nó ít hơn một nét. Vậy đó là chữ gì?
Đào Cốc lục tiên đều không hiểu đó là chữ “mãnh” trong khí mãnh. Quần hùng muốn bọn lão lòi cái dốt ra nên không ai lên tiếng chỉ điểm.
Đào Cán Tiên nói:
– Ít đi một nét thì cũng là huyết. Ví như ta chém ngươi một đao, chém sâu thì máu chảy ra nhiều, đương nhiên là huyết, nếu ta hạ thủ lưu tình, chém nhẹ một đao thì máu chảy rất ít, tuy ít một chút nhưng cũng là huyết.
Đào Chi Tiên tức giận nói:
– Ngươi chém ta một đao thì dù chém nhẹ cũng không phải là hạ thủ lưu tình. Mà tại sao ngươi muốn chém ta một đao?
Đào Cán Tiên nói:
– Ta đâu có chém, tay ta đâu có đao.
Đào Hoa Tiên hỏi:
– Nếu tay ngươi có đao thì sao?
Quần hùng nghe bọn lão nói càng lúc càng không đâu vào đâu, không kìm được tức giận, cùng quát:
– Im miệng đi! Mọi người hãy nghe hiệu lệnh của minh chủ.
Đào Chi Tiên nói:
– Hắn ra lệnh thì cứ ra lệnh, cần gì phải im miệng.
Lệnh Hồ Xung đề khí nói lớn:
– Các vị bằng hữu, từ nay đến rằm tháng mười hai còn mười bảy ngày nữa, mọi người lên đường từ từ mà đi, đến Thiếu Lâm là vừa đúng ngày. Lần này chúng ta không phải bí mật hành sự mà là giương cờ, viết dòng chữ “Anh hùng thiên hạ cùng lên chùa Thiếu Lâm cung nghinh Thánh cô”, lại mua nhiều trống, trên đường gõ trống đi trước để bọn đệ tử tăng tục của Thiếu Lâm nghe được phải hoảng sợ.
Phần lớn những hào khách bàng môn tả đạo là những kẻ hiếu sự, nghe L ệnh Hồ Xung nói sẽ đại náo như vậy đều khoái chí, tiếng hoan hô dậy lên chấn động cả sơn cốc. Cũng có nhiều người lão thành trầm tĩnh, nhưng thấy mọi người đều phấn khích nên không ngăn cản, chỉ mỉm cười mà thôi.
Sáng sớm hôm sau, Lệnh Hồ Xung mời Tổ Thiên Thu, Kế Vô Thi, Lão Đầu Tử ba người đi làm cờ phướn, trống da. Đến giờ Ngọ thì đã viết xong dòng chữ trên lá cờ lớn vải trắng, trống da chỉ mua được hai cái, Lệnh Hồ Xung nói:
– Chúng ta lên đường, dọc đường gặp các thị trấn thì dừng lại mua sắm thêm.
Lập tức có người đánh trống, quần hào cùng reo hò, sắp thành hàng tiến về hướng Bắc.
Lệnh Hồ Xung nhớ lại tình trạng đệ tử phái Hằng Sơn bị địch tập kích trên Tiên Hà Lĩnh. Chàng bàn bạc với bọn Kế Vô Thi, phái bảy bang hội, hai bang đi trước tiên phong, hai bang đi bên trái hộ vệ, hai bang đi bên phải cũng hộ vệ, một bang đi phía sau tiếp ứng, những người còn lại là đại đội đi chính giữa. Chàng lại phái Thần Điểu bang ở sông Hán Thủy quay về truyền tin tức. Thần Điểu bang là bang hội bổn địa, từ Ngạc Bắc đến Dự Nam đều thuộc phạm vi thế lực của bang này, nếu có gió thổi cỏ động thì bọn họ đều nhận biết ngay. Quần hào thấy Lệnh Hồ Xung điều động rất hợp lý, ngoài Đào Cốc lục tiên ra, ai cũng phục và tuân theo.
Đi được mấy ngày, dọc đường liên tục có hào sĩ đến nhập bọn. Cờ giương trống đánh càng lúc càng khí thế, trong tiếng trống thùng thùng, hơn hai ngàn người reo hò tiến về Thiếu Lâm tự.
Một hôm đến dưới chân núi Võ Đang, Lệnh Hồ Xung nói:
– Phái Võ Đang là đệ nhị đại phái trong võ lâm, thanh thế rất hùng mạnh, ngang hàng với phái Thiếu Lâm. Lần này chúng ta đi nghinh đón Thánh cô, ngay cả phái Thiếu Lâm cũng không nên đắc tội. Để khỏi đắc tội với phái Võ Đang chúng ta nên tránh đường mà đi, tỏ ý tôn trọng Xung Hư đạo trưởng, chưởng môn nhân phái Võ Đang. Không biết ý của các vị thế nào?
Lão Đầu Tử nói:
– Lệnh Hồ công tử nói sao thì làm vậy. Chúng ta chỉ cần đón được Thánh cô là thỏa tâm nguyện rồi, không nên sinh chuyện rắc rối để thêm cường địch. Nếu đón Thánh cô không được dù có san bằng núi Võ Đang cũng chẳng ích gì.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vậy thì hay lắm! Xin truyền lệnh xuống: hãy cuốn cờ, thôi đánh trống, đi rẽ về hướng Đông.
Quần hào liền rẽ sang hướng Đông mà đi. Bỗng trước mặt có người cưỡi lừa đi đến, phía sau còn có thêm hai người nông dân, một người gánh củi còn người kia gánh rau. Cưỡi trên lưng lừa là một lão già, lưng còng, không ngừng ho sù sụ, quần áo vá chằng vá đụp. Quần hào quá đông, tay cầm binh khí, đi trên đường la lối ỏm tỏi, thanh thế rất hùng dũng, người đi đường vừa thấy liền né sang một bên. Nhưng ba người này làm ra vẻ như không thấy, xông thẳng vào họ.
Đào Căn Tiên quát:
– Các ngươi làm cái gì vậy?
Lão đưa tay đẩy một cái, con lừa hí lên một tiếng ngã lăn ra, rắc rắc mấy tiếng, xương chân nó bị gãy. Lão già cưỡi lừa té xuống đất, rên hừ hừ, gượng mãi mà không dậy được.
Lệnh Hồ Xung áy náy trong lòng, liền chạy lại đỡ lão dậy rồi nói:
– Thật xin lỗi. Lão trượng có đau lắm không?
Lão già rên hừ hừ nói:
– Cái… cái… cái… này có gì đáng kể?
Hai lão nông dân để gánh xuống, đứng giữa đường, hai tay chống nạnh, mặt đầy vẻ tức giận.
Hán tử gánh củi thở hồng hộc nói:
– Đây là chân núi Võ Đang, các ngươi là ai mà to gan dám ra tay đánh người?
Đào Căn Tiên nói:
– Chân núi Võ Đang thì đã sao?
Hán tử nói:
– Dưới chân núi Võ Đang, ai ai cũng biết võ công. Các ngươi là người ngoài mới đến đây, lại dở thói ngang ngược, thật không biết sống chết là gì, tự rước lấy cái khổ vào thân.
Quần hào thấy hai lão mặt vàng hốc hác, khoảng năm chục tuổi, lời nói của lão gánh rau trung khí không đủ, lại tự xưng là biết võ. Mấy chục người liền cười ồ lên.
Đào Hoa Tiên cười nói:
– Ngươi cũng biết võ công ư?
Hán tử đó nói:
– Dưới núi Võ Đang, đứa trẻ lên ba cũng biết đánh quyền, đứa trẻ lên năm thì biết luyện kiếm, có gì là lạ?
Đào Hoa Tiên chỉ hán tử gánh củi cười nói:
– Hắn thì sao? Hắn có biết sử kiếm không?
Hán tử gánh củi nói:
– Ta… ta… lúc còn nhỏ có học qua mấy tháng, mười mấy năm nay không có luyện. Công phu đều bỏ qua một bên hết rồi.
Hán tử gánh rau nói:
– Võ công của phái Võ Đang đệ nhất thiên hạ, chỉ cần học qua vài tháng thì ngươi không phải là đối thủ.
Đào Diệp Tiên cười nói:
– Vậy ngươi luyện mấy đường cho bọn ta xem.
Hán tử gánh củi nói:
– Luyện cái gì? Các ngươi xem không hiểu đâu.
Quần hào cười rần rần, đều nói:
– Không hiểu cũng phải xem thử cho biết.
Hán tử gánh củi nói:
– Ôi! Đã như vậy thì ta luyện vài chiêu, nhưng không biết còn nhớ không? Vị nào cho mượn kiếm đi.
Một người liền đưa kiếm tới. Hán tử đó nhận kiếm, đi đến đám ruộng, vung bên này một kiếm, bên kia một kiếm. Lão sử được ba bốn chiêu bỗng quên mất, gãi đầu suy nghĩ rồi lại sử mấy chiêu nữa.
Quần hào thấy lão sử hoàn toàn không ra chương pháp, thân thủ lại rất vụng về, ai cũng ôm bụng cười lăn ra.
Hán tử gánh rau nói:
– Có gì đâu mà cười? Để ta sử. Cho ta mượn kiếm đi.
Lão nhận trường kiếm, liền chém loạn xạ. Lão ra tay rất nhanh, giống như điên khùng khiến cho mọi người cười ngả nghiêng.
Ban đầu Lệnh Hồ Xung cũng mỉm cười, nhưng lúc xem được mười mấy chiêu bất giác cảm thấy kinh ngạc. Chiêu kiếm của hai hán tử, một người rất chậm còn một người rất nhanh, nhưng trong kiếm pháp của cả hai rất ít có chỗ sơ hở, thật là hiếm thấy. Tư thế của hai lão rất khó coi nhưng chiêu kiếm lại cổ quái hùng hậu, oai lực trên kiếm dường như mới chỉ phát huy được một hai phần, còn lại thì tiềm ẩn không lộ ra. Lệnh Hồ Xung liền bước lên trước mấy bước cung tay nói:
– Hôm nay được bái kiến hai vị tiền bối, tận mắt thấy cao chiêu, thật quả vinh hạnh.
Lệnh Hồ Xung nói rất thành khẩn. Hai lão thu trường kiếm về. Lão gánh củi trừng mắt hỏi:
– Tiểu tử, ngươi hiểu được kiếm pháp của bọn ta sao?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Không dám nói chữ “hiểu”. Kiếm pháp của hai vị bác đại tinh thâm, chữ “hiểu” làm sao vãn bối nói được? Kiếm pháp phái Võ Đang lừng danh thiên hạ, quả nhiên khiến người khâm phục và được mở rộng tầm mắt.
Hán tử gánh rau hỏi:
– Tiểu tử, ngươi tên gì?
Lệnh Hồ Xung còn chưa trả lời thì trong quần hào đã có mấy người la lên:
– Cái gì tiểu tử với không tiểu tử?
– Vị này là minh chủ của bọn ta, là Lệnh Hồ công tử.
– Tên nông dân quê mùa kia nên ăn nói thận trọng một chút.
Hán tử gánh củi nghiêng đầu nói:
– Lệnh Hồ qua tử ư? Sao không gọi là A Cẩu, A Miêu, mà gọi cái gì dưa hấu đậu phộng? Cái tên khó nghe quá đi.
Lệnh Hồ Xung cung tay nói:
– Hôm nay Lệnh Hồ Xung được thấy kiếm pháp thần diệu của phái Võ Đang, rất khâm phục. Vãn bối sẽ có ngày lên núi khấu kiến Xung Hư đạo trưởng để tỏ lòng kính trọng. Tôn tính đại danh của hai vị có thể cho vãn bối biết được không?
Lão gánh củi nhổ một bãi nước miếng xuống đất rồi nói:
– Bọn ngươi đông người, la ó om sòm, đánh trống thổi kèn có phải là đưa đám ma không?
Lệnh Hồ Xung biết hai lão này là cao thủ phái Võ Đang, liền cung kính cúi người đáp:
– Bọn vãn bối có một vị bằng hữu bị giữ trong chùa Thiếu Lâm nên đi cầu xin Phương Chứng phương trượng lão nhân gia từ bi tha cho.
Hán tử gánh rau nói:
– Thì ra không phải là đưa đám ma! Nhưng các ngươi đánh chết con lừa của bá bá ta, có chịu đền tiền không?
Lệnh Hồ Xung tiện tay dẫn qua ba con tuấn mã, nói:
– Ba con ngựa này đương nhiên không bằng con lừa của tiền bối, nhưng xin tiền bối cưỡi tạm. Bọn vãn bối không biết tiền bối giá lâm, nên lỡ đụng độ, xin tiền bối miễn tội.
Lệnh Hồ Xung nói xong dẫn ba con ngựa qua. Quần hào thấy vẻ mặt Lệnh Hồ Xung càng lúc càng khiêm cẩn, tuyệt không có ý giả bộ nên ai cũng cảm thấy kỳ lạ.
Hán tử gánh rau nói:
– Ngươi đã biết kiếm pháp của bọn ta cao thâm, vậy ngươi có muốn tỉ thí không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối không phải là đối thủ của hai vị.
Hán tử gánh củi nói:
– Ngươi không muốn tỉ thí nhưng ta muốn tỉ thí đó.
Lão đâm một kiếm chênh chếch ra nhằm phóng về L ệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung thấy kiếm này của lão chụp lên chín chỗ yếu hại trên người hắn rất tinh diệu. Hắn bèn khen:
– Hảo kiếm pháp!
Lệnh Hồ Xung rút trường kiếm ra, xoay kiếm lại. Hán tử chém loạn lên không trung. Lệnh Hồ Xung thu trường kiếm về, hắn cũng chém lên không. Hai người liên tiếp xuất bảy tám chiêu, mỗi chiêu đều đâm vào khoảng không, song kiếm chưa hề giao nhau. Nhưng hán tử gánh củi lại lùi dần từng bước.
Hán tử gánh rau la lên:
– Dưa hấu đậu phộng quả nhiên có chút môn đạo.
Lão vung kiếm lên chém loạn xạ, trong khoảnh khắc đã liên tiếp chém khoảng hai mươi kiếm. Mỗi chiêu kiếm đều chém về hướng Lệnh Hồ Xung, nhưng mũi kiếm luôn cách Lệnh Hồ Xung bảy tám thước.
Lệnh Hồ Xung vung trường kiếm lên, có lúc chàng điểm hán tử gánh củi một chiêu, có lúc lại chém hán tử gánh rau một chiêu; lưỡi kiếm cách người hai lão đều khoảng bảy tám thước. Hai lão thấy Lệnh Hồ Xung xuất chiêu thì vẻ mặt rất căng thẳng, hoặc nhảy lên né tránh hoặc múa kiếm vội gạt đỡ.
Quần hào thấy vậy đều ngẩn người ra. Rõ ràng lưỡi kiếm của Lệnh Hồ Xung cách hai lão một khoảng khá xa, lúc xuất kiếm lại không sử chút kình lực nào, quyết không phải là loại kiếm khí vô hình để tấn công người mà tại sao hai lão lại né tránh gạt đỡ vội vã như vậy? Xem đến lúc này quần hào đều biết hai lão là cao thủ võ công rất thâm hậu chứ không phải hạng tiều phu, nông dân bình thường. Lúc hai lão xuất chiêu tấn công tuy một lão chậm chạp, một lão như điên cuồng nhưng lúc đỡ chiêu né tránh thì thân thủ rất nhanh nhẹn vững vàng. Để được như vậy, phải tập trung toàn lực không thể có chút lơ là sơ hở.
Bỗng nghe hai lão cùng thét lên, kiếm pháp thay đổi. Trường kiếm của lão gánh củi vung ra rất rộng, thế kiếm rất hùng hậu. Lão gánh rau khi tiến khi lùi rất mau lẹ, mũi kiếm của lão biến ảo vô số tinh quang. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung đâm hơi nghiêng ra lại không rung động, mục quang của chàng có lúc nhìn chằm chằm vào lão gánh củi, có lúc nhìn xéo lão gánh rau. Ánh mắt của Lệnh H ồ Xung chiếu đến đâu thì hai lão liền biến chiêu, hoặc thét to nhảy thối lui, hoặc chuyển thế công thành thế thủ.
Bọn Kế Vô Thi, Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu là những kẻ sĩ võ công cao cường đã dần dần nhìn ra manh mối, hiểu rằng sở dĩ hai hán tử này né tránh và hộ vệ, nhất định là do mục quang của Lệnh Hồ Xung chiếu đến. Đó cũng chính là các chỗ yếu huyệt trên người hai lão.
Thấy lão gánh củi vung kiếm lên chém, mục quang của Lệnh Hồ Xung chiếu vào huyệt Thương khúc ở bụng dưới của lão. Lão chưa sử xong một chiêu liền thu kiếm về để cản đỡ nơi huyệt Thương khúc của mình. Lúc này lão gánh rau đâm liền mấy chiêu về hướng Lệnh Hồ Xung, mục quang của chàng chiếu vào huyệt Thiên đỉnh ở cổ bên trái của lão, lão vội cúi đầu, trường kiếm chém nhanh xuống, cắm sâu vào đất ruộng khô. Dường như mục quang của Lệnh Hồ Xung phát ra ám khí, lão không dám để ánh mắt của chàng chiếu vào huyệt Thiên đỉnh.
Hai lão sử kiếm thêm một lúc nữa, mồ hôi ra nhễ nhại, trong khoảnh khắc quần áo hai lão ướt đẫm. Lão già cưỡi lừa vẫn đứng một bên nhìn, không nói lời nào. Bỗng lão ho lên một tiếng rồi nói:
– Khâm phục, khâm phục, các ngươi lui ra đi.
Hai lão cùng đáp dạ nhưng mục quang của Lệnh Hồ Xung vẫn nhìn quanh không rời các chỗ yếu huyệt trên hai người lão. Hai lão vừa múa kiếm đỡ vừa thối lui mà vẫn không thoát được mục quang của Lệnh Hồ Xung. Lão già khen:
– Hảo kiếm pháp! Lệnh Hồ công tử, để lão phu thỉnh giáo mấy cao chiêu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vãn bối không dám!
Hai lão già kia đến bây giờ mới có thể thoát khỏi vòng vây mục quang của Lệnh Hồ Xung, liền nhảy lùi ra sau, giống như hai con chim to bay ra xa mấy trượng. Quần hào không kìm được, nổi tiếng hoan hô. Kiếm pháp của hai lão thế nào khó mà lĩnh hội được nhưng cú nhảy lộn của hai lão ra xa, thân pháp tuyệt đẹp. Ai cũng biết võ công của hai lão vào hàng thượng thừa.
Lão già nói:
– Lệnh Hồ công tử hạ thủ lưu tình, nếu đánh thật thì trên người của hai ngươi đã sớm bị chém cả trăm vết, đâu có thể để các ngươi dễ sử hết một đường kiếm pháp? Mau qua đây cám ơn đi.
Hai lão phi thân đến, cúi người sát đất. Lão gánh rau nói:
– Hôm nay mới biết ngoài trời còn có trời, trên người còn có người. Cao chiêu của công tử trên đời này hiếm có. Vừa rồi bọn tại hạ có lời vô lễ, xin công tử thứ tội.
Lệnh Hồ Xung cung tay đáp lễ nói:
– Kiếm pháp của phái Võ Đang rất thần diệu. Chiêu kiếm của hai vị nhất âm nhất dương, nhất cương nhất nhu, là Thái Cực kiếm pháp phải không?
Lão gánh rau nói:
– Thật chẳng đáng làm trò cười cho công tử. Bọn tại hạ là Lưỡng Nghi kiếm pháp, kiếm vẫn còn phân ra âm dương, chưa thể hợp làm một được.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Khách quan mà nói, tại hạ cố gắng mới có thể phân biệt được một chút tinh vi trong kiếm pháp của hai vị. Nếu ra tay tương đấu thật thì chưa chắc tại hạ có thể tìm ra chỗ sơ hở để có cơ hội.
Lão già nói:
– Công tử hà tất phải quá khiêm nhường. Mục quang của công tử chiếu đến đâu thì chính là chỗ nhược điểm của mỗi chiêu Lưỡng Nghi kiếm pháp, ôi, đường kiếm pháp này… đường kiếm pháp này…
Lão lắc đầu mấy cái rồi nói:
– Hơn năm mươi năm về trước, phái Võ Đang có hai vị đạo trưởng sáng tác hai đường kiếm này. Phải mất mấy chục năm tâm huyết, hai vị vẫn còn tự cảm thấy trong kiếm pháp có âm có dương, có nhu có cương. Ôi!
Lão thở dài rồi nói tiếp:
– Nào ngờ gặp phải cao thủ kiếm thuật, đánh không nổi một chiêu.
Lệnh Hồ Xung cung kính nói:
– Kiếm thuật của hai vị đại thúc đã tinh thâm như vậy thì Xung Hư đạo trưởng và các cao thủ khác của phái Võ Đang chắc càng khiến cho người ta khó mà hiểu nổi. Vãn bối và các vị bằng hữu lần này đi qua chân núi Võ Đang là vì có chuyện khẩn yếu, chưa lên núi bái kiến Xung Hư đạo trưởng thật là thất lễ. Chuyện này xong rồi, vãn bối sẽ lên miếu Chân Võ, khấu đầu trước Chân Võ đại đế và Xung Hư đạo trưởng.
Lệnh Hồ Xung là người rất cuồng ngạo, nhưng vừa rồi thấy kiếm pháp của hai lão cương nhu tinh tế, bên trong có không ít động tác thần kỳ. Tuy chàng tìm được chỗ sơ hở trong chiêu thức của hai lão nhưng bất cứ chiêu thức nào trong thiên hạ cũng đều có chỗ sơ hở, nên lòng chàng rất khâm phục. Lệnh Hồ Xung đoán rằng hai lão nhất định là hạng cao thủ đệ nhất trong phái Võ Đang nên nói mấy câu này rất chân thành.
Lão già gật đầu nói:
– Lệnh Hồ công tử trẻ tuổi, võ công tuyệt thế mà không kiêu ngạo, thật hiếm có. Lệnh Hồ công tử, Lệnh Hồ công tử được Phong Thanh Dương tiền bối phái Hoa Sơn truyền thụ kiếm pháp phải không?
Lệnh Hồ Xung giật mình thầm nghĩ: Mục quang của lão thật là lợi hại, lão mới nhìn qua đã biết lai lịch sở học của ta. Tuy ta không thể thổ lộ ra hành tung của Phong thái sư thúc tổ, nhưng lão đã nói thẳng ra như vậy thì ta không thể nói dối để phủ nhận. Chàng bèn nói:
– Vãn bối may mắn được học một chút kiếm thuật của Phong thái sư thúc tổ…
Lệnh Hồ Xung nói câu này là có ý không xác nhận đã được Phong Thanh Dương đích thân truyền thụ kiếm pháp.
Lão già mỉm cười nói:
– Một chút, một chút! Hà hà, một chút kiếm thuật của Phong tiền bối mà đã tuyệt vời như vậy ư?
Lão nhận trường kiếm từ tay lão gánh củi, cầm kiếm qua tay trái rồi nói:
– Lão phu muốn lĩnh giáo một chút kiếm thuật của Phong lão tiền bối.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Làm sao vãn bối dám động thủ với tiền bối.
Lão già mỉm cười, thân người từ từ chuyển sang phải, tay trái cầm kiếm lên để ngang trước ngực, lòng bàn tay phải úp vào tay trái giống như đang ôm một quả cầu. L ệnh Hồ Xung thấy lão chưa xuất chiêu mà tiềm lực đã mạnh vô cùng, liền ngưng thần chăm chú nhìn. Kiếm nơi tay trái của lão từ từ đưa về trước vạch thành hình cánh cung. Lệnh Hồ Xung cảm thấy một luồng hàn khí ồ ạt xông tới phía mình, nếu chàng không trả chiêu thì không được, bèn nói:
– Vãn bối đắc tội!
Lệnh Hồ Xung nhìn không ra chỗ sơ hở trong kiếm pháp của lão, đành phải điểm một hư chiêu.
Bỗng nhiên lão già đưa kiếm qua tay phải, ánh hàn quang lấp lánh lướt qua cổ Lệnh Hồ Xung. Chiêu kiếm này thần tốc vô cùng, quần hào không kìm được la lên kinh hãi. Nhưng Lệnh Hồ Xung đã thấy được ngay chỗ sơ hở, liền phóng kiếm ra điểm vào huyệt Uyên ba ở dưới sườn của lão.
Lão già liền dựng đứng trường kiếm. Choang một tiếng, song kiếm giao nhau, hai người đều lùi ra một bước. Lệnh Hồ Xung cảm thấy trên kiếm của lão có một luồng kình lực liên miên, làm chấn động khiến cánh tay của chàng bị tê. Lão già hứ một tiếng, mặt hơi lộ vẻ kinh dị.
Lão già lại đưa kiếm qua tay trái, vạch trước người hai vòng tròn. Lệnh Hồ Xung thấy luồng kình lực trên kiếm của lão xuất ra liên miên, bảo hộ khắp người lão không có một chút sơ hở. Chàng ngấm ngầm kinh dị: Ta chưa bao giờ thấy qua chiêu thức của ai kín đáo như thế này. Nếu lão tấn công ta như vậy thì ta phá bằng cách nào? Kiếm pháp của Nhậm Ngã Hành tiền bối so với vị lão tiên sinh này có lẽ còn mạnh hơn, nhưng trong mỗi chiêu của lão chẳng lẽ không có chỗ sơ hở ư?
Tay phải của lão già nắm chặt kiếm quyết, kiếm tay trái không ngừng rung động. Đột nhiên lão phóng ra một chiêu trung bình, mũi kiếm rung động, nhìn ra không biết lão tấn công chỗ nào.
Chiêu này của lão chụp xuống cả bảy đại yếu huyệt thượng bàn của Lệnh Hồ Xung. Nhưng lão vừa tấn công thì Lệnh Hồ Xung liền nhận ra ba chỗ sơ hở trên người lão, mấy chỗ sơ hở này không cần tấn công hết, chỉ nhằm vào một chỗ cũng đủ lấy tính mạng của lão. Chàng liền nghĩ: Lúc lão phòng thủ hoàn toàn không có sơ hở, lúc tấn công thì vẫn có chỗ sơ hở để ta thừa cơ tấn công.
Lệnh Hồ Xung liền vung trường kiếm chỉ vào cuối hàng lông mày trái của lão. Nếu lão tiếp tục vung kiếm phóng về trước thì trán lão tất bị trúng trường kiếm, mũi kiếm của lão có đâm tới được chàng thì đã chậm một bước rồi.
Lão sử chiêu kiếm chưa hết thì đã vội xoay thành vòng bạch quang, có lớn có nhỏ, xoay thẳng xoay nghiêng lấp loáng không thôi. Lệnh Hồ Xung hoa cả mắt, liền thu kiếm về rồi phóng kiếm chênh chếch ra tấn công vào vòng kiếm ảo của lão. Choang một tiếng, song kiếm giao nhau, Lệnh Hồ Xung cảm thấy cánh tay tê buốt.
Vòng bạch quang kiếm ảo trên kiếm của lão già càng lúc càng nhiều. Không bao lâu, toàn thân lão đã ẩn trong vô số vòng bạch quang, vòng này chưa dứt thì vòng khác phát sinh. Tuy trường kiếm của lão sử rất nhanh nhưng không nghe tiếng gió rít đủ thấy kiếm hình mềm dẻo của lão đã đạt đến hóa cảnh. Lúc này Lệnh Hồ Xung nhìn không ra chỗ sơ hở trong kiếm pháp của lão, chàng cảm thấy dường như lão có trăm ngàn trường kiếm hộ thân. Thế thủ của lão quá điêu luyện, tuyệt không có chỗ nào sơ hở. Cái thành trì kiếm này lại có thể di động, trăm ngàn vòng kiếm quang giống như làn sóng từ từ ập đến. Lão già không tấn công từng chiêu mà mấy chục chiêu kiếm pháp thủ thế hợp nhau lại hóa thành thế công. Lệnh Hồ Xung không cách nào chống đỡ nổi đành phải lùi lại né tránh.
Chàng lùi một bước thì những vòng kiếm quang liền tiến lên một bước. Trong khoảnh khắc Lệnh Hồ Xung đã liên tiếp lùi bảy bước. Quần hào thấy tình huống của minh chủ bất lợi, đã rơi xuống hạ phong, nín thở theo dõi, bàn tay nắm chặt, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.
Bỗng Đào Cán Tiên nói:
– Kiếm pháp gì vậy? Đây là đứa trẻ vẽ loạn vòng tròn, ta cũng biết vẽ như lão thôi.
Đào Hoa Tiên nói:
– Để ta vẽ cho, ta vẽ thì nhất định còn tròn hơn lão nhiều.
Đào Chi Tiên nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ, Lệnh Hồ huynh đệ đừng sợ, nếu huynh đệ bị thua, bọn ta sẽ xé xác lão già này thành bốn mảnh để trả hận cho huynh đệ.
Đào Diệp Tiên nói:
– Nói trật lất rồi. Một là, hắn là Lệnh Hồ minh chủ chứ không phải là Lệnh Hồ huynh đệ. Hai là, sao ngươi biết Lệnh Hồ minh chủ sợ?
Đào Chi Tiên nói:
– Lệnh Hồ Xung tuy làm minh chủ, nhưng tuổi còn nhỏ hơn ta, chẳng lẽ hắn mới được làm minh chủ thì thành Lệnh Hồ ca ca, Lệnh Hồ bá bá, Lệnh Hồ gia gia, Lệnh Hồ lão thái gia sao?
Lúc này Lệnh Hồ Xung vẫn lùi, quần hào đều vô cùng lo lắng, nghe Đào Cốc lục tiên nói tầm phào bên tai thì càng thêm tức giận.
Lệnh Hồ Xung lùi thêm bước nữa, bẹp một tiếng, chân trái đạp vào một vũng nước nhỏ. Hắn động tâm nghĩ: Ngày đó Phong thái sư thúc tổ đã ân cần dặn ta rằng võ thuật trong thiên hạ thiên biến vạn hóa. Tinh thần sáng suốt, dụng tâm suy nghĩ thì bất luận chiêu thức nào của đối phương dù tinh diệu đến đâu, chỉ cần có chiêu thức thì nhất định có chỗ sơ hở. Kiếm pháp của Độc Cô đại hiệp truyền lại sở dĩ có thể đánh bại mọi người trong thiên hạ, không còn ai là địch thủ là vì nhìn ra được chỗ sơ hở trong chiêu thức của địch. Bây giờ, kiếm pháp của vị tiền bối này vây vòng tròn như ý lão, mà không có chỗ sơ hở, nhưng dù ta nhìn không ra chỗ sơ hở thì cũng chưa chắc không có chỗ sơ hở. Chỗ sơ hở đó mắt ta chưa nhìn ra được mà thôi.
Lệnh Hồ Xung lại lùi thêm mấy bước, chăm chú nhìn vô số vòng kiếm quang biến ảo của lão già, bỗng nghĩ: Không chừng ở giữa vòng tròn kiếm quang là chỗ sơ hở. Nhưng nếu không phải là chỗ sơ hở, ta phóng một kiếm vào thì bị trường kiếm của lão xoắn lấy chặt đứt cả cánh tay.
Chàng lại nghĩ: May mà lão tấn công theo cách chỉ từ từ tiến lên, muốn lấy tính mạng của ta cũng không dễ. Nhưng ta cứ né tránh hoài rốt cuộc phải thua. Trận này mà ta thất bại thì tất cả mọi người đều nhụt chí, làm sao có thể xông vào chùa Thiếu Lâm cứu Doanh Doanh được?
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến Doanh Doanh đối với mình tình thâm nghĩa trọng, vì cô ta mà mình bị chặt một cánh tay thì cũng đâu có sao? Tận đáy lòng chàng cảm thấy có thể vì cô ta mà bị chặt đứt cánh tay là chuyện được an ủi vô cùng. Lệnh Hồ Xung lại cảm thấy mình đã phụ cô ta rất nhiều, nên phải vì cô mà chịu trọng thương hay tàn phế thì mới có thể đáp một chút ân sâu.
Nghĩ đến đây, dường như chàng mong muốn đối phương chém đứt cánh tay. Lệnh Hồ Xung vung cánh tay ra, trường kiếm liền đâm vào vòng kiếm quang của lão già.
Choang một tiếng rất lớn, Lệnh Hồ Xung cảm thấy ngực bị chấn động kịch liệt, khí huyết nhộn nhạo. Cánh tay hắn vẫn còn nguyên.
Lão già lùi lại hai bước, thu kiếm về. Vẻ mặt lão rất cổ quái, vừa rất kinh ngạc vừa rất xấu hổ, và cũng thoáng một chút hối tiếc. Một lúc sau, lão mới nói:
– Lệnh Hồ công tử kiếm pháp cao minh, gan dạ hơn người. Khâm phục, khâm phục!
Lúc này Lệnh Hồ Xung mới biết vừa rồi hắn mạo hiểm đánh một đòn quả nhiên đã tìm được chỗ nhược trong kiếm pháp của lão. Có điều kiếm pháp của lão quá cao minh, trong vòng kiếm quang vẫn là chỗ nguy hiểm nhất, lão lại luyện được cách ẩn giấu chỗ sơ hở vào trong đó. Trong hàng ngàn hàng vạn kiếm khách khắp thiên hạ, chỉ e rằng khó có được một người cả gan dám đem thân mình ra mạo hiểm như chàng. Lệnh Hồ Xung xuất một chiêu thành công, lòng như reo lên: May quá, may quá!
Lệnh Hồ Xung nghe từng dòng mồ hôi trên lưng đang chảy xuống. Chàng liền khom người nói:
– Kiếm pháp của tiền bối thần thông, mong tiền bối chỉ giáo cho, vãn bối xin thành tâm thụ giáo.
Chàng nói câu này không phải là khách khí bình thường. Cuộc so kiếm vừa rồi khiến võ công của chàng tiến bộ rất nhiều, giúp chàng biết được trong chiêu số của địch nhân chỗ mạnh nhất cũng là chỗ yếu nhất. Chỗ mạnh nhất đều có thể đánh phá được, thì những chỗ khác chỉ nghênh kiếm mà hóa giải thôi.
Cao thủ tỉ kiếm, thắng bại chỉ quyết định trong một chiêu. Lão già đã thấy Lệnh Hồ Xung dám vung kiếm đâm vào giữa vòng kiếm quang của lão thì sau đó không cần tỉ đấu thêm nữa. Lão nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc rồi mới nói:
– Lệnh Hồ công tử, lão phu có mấy câu muốn nói với Lệnh Hồ công tử.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dạ, vãn bối xin cung kính nghe lời giáo hối của tiền bối.
Lão già liền đưa trường kiếm cho lão gánh củi rồi đi về hướng Đông. Lệnh Hồ Xung ném trường kiếm xuống đất rồi đi theo sau lão.
Cả hai đi đến bên một cây cổ thụ to, cách quần hào mấy chục trượng, tuy có thể nhìn thấy nhưng lời nói thì không nghe được. Lão già ngồi xuống dưới bóng râm của tán cây, chỉ vào một tảng đá bên gốc cây, nói:
– Xin mời ngồi xuống nói chuyện.
Đợi Lệnh Hồ Xung ngồi xuống, lão từ từ nói:
– Lệnh Hồ công tử, trong những nhân vật thanh niên, người có võ công tài ba như công tử thật là hiếm có.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vãn bối không dám. Hành vi của vãn bối không đoan chính, thanh danh bại hoại, sư môn bất dung, làm sao đáng được tiền bối coi trọng như vậy.
Lão già nói:
– Chúng ta là người học võ, hành sự chỉ cần quang minh lỗi lạc, không thẹn với lòng. Những việc công tử làm tuy có lúc to gan ngông cuồng, không câu nệ khuôn phép, nhưng cũng không mất đi phong độ của bậc đại trượng phu. Lão phu ngấm ngầm phái người dò hỏi, cũng không thấy công tử làm điều gì xấu xa, những lời phao ngôn trên giang hồ thì không có căn cứ.
Lệnh Hồ Xung nghe lão phân tích những chuyện chàng làm toàn bằng những câu đánh trúng vào tâm khảm của mình. Bất giác, chàng sinh lòng cảm kích, nghĩ: Vị tiền bối này nhất định có địa vị tôn yếu trong phái Võ Đang, nếu không thì tại sao lão ngấm ngầm phái người đi quan sát hành động của ta.
Lão già nói tiếp:
– Người thanh niên hành sự nông nổi cũng là chuyện khó tránh khỏi. Nhạc tiên sinh bề ngoài văn nhã, nhưng sự độ lượng lại thiếu…
Lệnh Hồ Xung liền đứng dậy nói:
– Ân sư đối đãi với vãn bối tình như phụ mẫu, vãn bối không dám nghe lời vạch lỗi ân sư.
Lão già tươi cười nói:
– Công tử không quên gốc gác là điều rất tốt. Lão phu lỡ lời rồi.
Bỗng nhiên nét mặt lão trở nên trịnh trọng. Lão hỏi:
– Công tử luyện Hấp tinh đại pháp bao lâu rồi?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Nửa năm trước, vãn bối vô tình học được, lúc đầu luyện thực sự vãn bối không biết là Hấp tinh đại pháp.
Lão già gật đầu nói:
– Đúng rồi! Vừa rồi lão phu và công tử ba lần binh khí giao nhau, nội lực của lão phu bị công tử hút, nhưng lão phu phát hiện công tử không muốn vận dụng môn yêu pháp này để hại người. Lão phu có một lời khuyên, không biết thiếu hiệp có muốn nghe không?
Lệnh Hồ Xung kinh hãi, cúi người đáp:
– Lời vàng đá của tiền bối, vãn bối xin nghe.
Lão già nói:
– Hấp tinh đại pháp lúc lâm địch giao chiến, tuy oai lực rất lớn, nhưng đối với bản thân người luyện cũng có hại rất lớn, công lực càng thâm hậu thì mối hại càng tăng lên. Nếu thiếu hiệp có thể dừng ngựa lại bên bờ vực, từ bỏ hết sở học yêu thuật thì hay lắm. Nếu không từ bỏ được thì ngay bây giờ phải dừng việc luyện tập lại.
Ngày đó ở Cô Sơn Mai trang, Lệnh Hồ Xung đã nghe Nhậm Ngã Hành nói sau khi luyện Hấp tinh đại pháp gặp phải hậu họa rất lớn, nếu đồng ý gia nhập Ma giáo thì lão mới truyền cách hóa giải cho. Lúc đó, chàng đã kiên quyết khước từ. Bây giờ nghe lão già này nói như vậy, chàng càng tin lời đó là sự thật, bèn nói:
– Tiền bối chỉ giáo, vãn bối không dám quên. Vãn bối biết rõ nó là tà thuật bất chính, cũng từng quyết ý không dùng nó để hại người, nhưng trên người vãn bối đã có tà thuật này dù không muốn dùng cũng không được.
Lão già gật đầu nói:
– Theo lão phu biết, đúng là như vậy. Có một chuyện lão phu muốn thiếu hiệp làm, chỉ e rất khó, nhưng anh hùng hào kiệt phải làm những việc mà người thường không làm nổi. Chùa Thiếu Lâm có một tuyệt nghệ tối cao là Dịch cân kinh, chắc thiếu hiệp đã từng nghe rồi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy. Vãn bối nghe nói đây là nội công chí cao vô thượng trong võ lâm, những cao tăng đại sư đệ nhất đương thời của phái Thiếu Lâm mới được truyền thụ.
Lão già nói:
– Thiếu hiệp thống lĩnh nhiều người đến Thiếu Lâm lần này chỉ e rằng chuyện không đi đâu. Bất luận bên nào thắng thì song phương đều bị tổn thất vô số cao thủ, thực không phải là cái phúc của võ lâm. Lão phu bất tài, muốn làm trung gian hòa giải, xin phương trượng chùa Thiếu Lâm mở lòng từ bi, đem Dịch cân kinh truyền cho thiếu hiệp, còn thiếu hiệp tìm cách giải tán mọi người đi, xóa tan mối đại họa này. Thiếu hiệp thấy thế nào?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nhậm đại tiểu thư bị chùa Thiếu Lâm giam giữ thì phải làm sao?
Lão già nói:
– Nhậm tiểu thư giết hại bốn đệ tử của phái Thiếu Lâm, làm mưa làm gió trên giang hồ, tổn hại nhiều người. Phương Chứng đại sư giam cô ta ở chỗ âm u, không phải là để báo thù ân oán riêng tư của môn phái, mà là vì có tấm lòng Bồ Tát, muốn tạo phúc cho đồng đạo giang hồ. Võ công và nhân phẩm của thiếu hiệp như vậy há không xứng đáng với các phụ nữ danh môn sao? Hà tất phải xả thân vì ả yêu nữ Ma giáo, đến nỗi bại hoại cả thanh danh, hủy hoại cả tiền đồ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chịu ân của người thì phải báo đáp. Mỹ ý của tiền bối, vãn bối cảm kích vô cùng nhưng không thể tuân theo được.
Lão già thở dài lắc đầu nói:
– Thanh niên bị mềm yếu bởi mỹ sắc, mắc vào cạm bẫy phấn son thì khó mà thoát ra được.
Lệnh Hồ Xung cúi người nói:
– Vãn bối xin cáo từ.
Lão già nói:
– Hãy khoan, lão phu tuy ít qua lại với phái Hoa Sơn, nhưng Nhạc tiên sinh cũng nể mặt lão phu một chút. Nếu thiếu hiệp chịu nghe lời khuyên của lão phu thì lão phu và phương trượng chùa Thiếu Lâm vỗ ngực đứng ra bảo đảm cho thiếu hiệp được trở về phái Hoa Sơn. Thiếu hiệp có tin lão phu không?
Lệnh Hồ Xung không khỏi động tâm. Được trở về phái Hoa Sơn là tâm nguyện lớn nhất của chàng. Lão già này võ công cao cường như vậy, nghe lời nói chắc chắn lão là một vị tiền bối tiếng tăm lừng lẫy trong phái Võ Đang. Lão nói có thể cùng với Phương Chứng phương trượng đứng ra bảo đảm thì chuyện này chắc chắn sẽ làm được. Xưa nay sư phụ bao giờ cũng giữ mối giao hảo vẹn toàn với đồng đạo. Thiếu Lâm, Võ Đang là hai môn phái lớn nhất trong võ lâm đương thời, nhân vật tai to mặt lớn của hai phái đứng ra điều giải thì sư phụ nhất định phải nể mặt. Sư phụ đối với chàng xưa nay tình sâu như phụ tử, sở dĩ lần này truyền thư khắp võ lâm, trục xuất chàng ra khỏi môn tường là vì hắn đã kết giao với bọn người như Hướng Vấn Thiên, Doanh Doanh làm cho sư phụ không còn mặt mũi nào để nhìn đồng đạo chính phái. Nhưng đã có Thiếu Lâm, Võ Đang hai vị đại chưởng môn nhân ra mặt, đương nhiên sư phụ sẽ chấp thuận. Nhưng được trở lại phái Hoa Sơn, sớm hôm tương kiến tiểu sư muội, chẳng lẽ cứ để mặc cho Doanh Doanh chịu khổ ở trong sơn động âm u sau chùa Thiếu Lâm ư?
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bầu nhiệt huyết trong ngực trào dâng. Chàng nói:
– Nếu vãn bối không thể cứu được Nhậm đại tiểu thư ra khỏi chùa Thiếu Lâm thì uổng cho tấm thân làm người. Bất luận việc này thành bại ra sao, nếu vãn bối còn tính mạng thì nhất định sẽ lên chùa Chân Võ núi Võ Đang để khấu tạ Xung Hư đạo trưởng và tiền bối.
Lão già thở dài nói:
– Thiếu hiệp không lấy tính mạng mình làm trọng, không lấy sư môn làm trọng, không lấy thanh danh tiền trình làm trọng, cứ làm theo ý mình là vì yêu nữ Ma giáo này. Nếu sau này cô ta phụ lòng thiếu hiệp, làm hại thiếu hiệp, thiếu hiệp cũng không hối hận chứ?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tính mạng này của vãn bối là do Nhậm tiểu thư cứu. Lấy tính mạng này báo đáp cô ta thì đâu có tiếc gì?
Lão già gật đầu nói:
– Thôi được, vậy thiếu hiệp đi đi.
Lệnh Hồ Xung lại cúi người hành lễ, rồi quay người về phía quần hào nói: