Kim Dung được xem là tác giả tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng và thành công nhất tới thời điểm hiện tại. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể nhiều lần thành phim truyền hình và phim điện ảnh.
Lệnh Hồ Xung hôn mê không biết bao lâu. Lúc tỉnh dậy, đầu chàng đau như búa bổ, tai ong ong như sấm động không dứt. Chàng mở mắt ra thấy tối mịt, không biết mình đang ở nơi nào, chống tay muốn đứng dậy nhưng người không còn chút khí lực, thầm nghĩ: Chắc ta đã chết rồi bị chôn trong hầm mộ này.
Lệnh Hồ Xung vừa thương tâm vừa bồn chồn lại ngất đi. Lúc tỉnh dậy lần thứ hai, đầu vẫn đau như muốn vỡ ra, tai vẫn nghe ong ong tuy có nhẹ hơn. Chàng cảm thấy dưới thân mình vừa lạnh vừa cứng, dường như đang nằm trên gang sắt. Chàng đưa tay mò mẫm, quả nhiên cảm thấy ở dưới tấm chiếu cỏ là một tấm thiết bản. Chàng vừa cử động tay lại nghe tiếng leng keng nhẹ phát ra, đồng thời cảm thấy trên tay có vật gì lạnh ngắt cột lại. Lúc đưa tay trái ra mò, cũng nghe phát ra tiếng leng keng, tay trái cũng bị cột chặt lại. Lệnh Hồ Xung vừa kinh ngạc, vừa vui mừng lại vừa sợ hãi. Rõ ràng là mình chưa chết nhưng thân người lại bị dây xích cột chặt. Chàng đưa tay trái mò tiếp, phát giác dây cột trên tay là mộ t sợi dây xích nhỏ, hai chân hơi cử động liền cảm thấy trên cổ chân cũng bị cột bằng dây xích.
Lệnh Hồ Xung cố mở mắt to ra nhìn, nhưng không hề thấy được một chút ánh sáng. Chàng thầm nghĩ: Lúc ta ngất đi, ta đang tỉ kiếm với Nhậm lão tiên sinh. Không biết bọn Giang Nam tứ hữu đã ám toán ta bằng cách nào, xem ra ta cũng bị nhốt trong địa lao dưới đáy hồ rồi. Nhưng không biết ta có ở cùng nơi với Nhậm lão tiền bối không?
Lệnh Hồ Xung liền lớn tiếng gọi:
– Nhậm lão tiền bối, Nhậm lão tiền bối!
Lệnh Hồ Xung kêu lên hai lần, không nghe chút động tĩnh gì. Chàng càng kinh hoàng, lớn tiếng gọi:
– Nhậm lão tiền bối, Nhậm lão tiền bối!
Trong bóng tối, chỉ nghe tiếng kêu của chính mình oang oang vọng lại, chàng lại lớn tiếng gọi to:
– Đại trang chủ, tứ trang chủ! Tại sao các ngươi giam ta ở đây? Mau thả ta ra! Mau thả ta ra!
Nhưng ngoài tiếng la hét của chàng ra, vẫn không nghe chút âm thanh nào khác. Từ kinh hoàng chuyển sang phẫn nộ, Lệnh Hồ Xung lớn tiếng chửi:
– Đồ tiểu nhân gian ác đê tiện vô liêm sỉ! Các ngươi đấu kiếm không lại nên muốn nhốt ta ở đây mãi sao?
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến số phận mình giờ giống như Nhậm lão tiên sinh, từ nay về sau suốt đời bị nhốt ở trong hắc lao dưới đáy hồ này. Trong phút chốc, lòng chàng đầy tuyệt vọng, bất giác toàn thân nổi gai ốc.
Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng sợ, lại ngoác miệng ra gọi, rồi tiếng la biến thành tiếng gào khóc, không biết tự lúc nào hai hàng nước mắt chảy dài. Chàng nghèn nghẹn nói:
– Trong Mai trang bốn cái đồ… bốn cái đồ cẩu tặc đê tiện, ta… ta… Lệnh Hồ Xung ta ngày nào thoát khỏi lao lung, ta sẽ tìm các ngươi… các ngươi… đâm lòi tròng, chặt cụt tay chân hết… chặt hết. Sau khi ta ra khỏi hắc lao…
Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung sựng lại, trong lòng dường như có tiếng la:
– Ta có thể ra khỏi hắc lao được sao? Ta có thể ra khỏi hắc lao được sao? Nhậm lão tiền bối bản lãnh như vậy mà còn không thể ra được, huống hồ… ta… sao có thể ra được?
Chàng quá căm phẫn, ọe một tiếng, thổ ra một ngụm máu tươi, lại ngất đi.
Trong lúc hôn mê, dường như chàng nghe có tiếng lách cách, tiếp theo là ánh sáng rọi vào mắt.
Lệnh Hồ Xung giật mình tỉnh dậy, vội nhảy lên. Chàng không nhớ hai tay chân đều bị dây xích cột chặt, toàn thân lại vô lực, nên chỉ nhảy hơn một thước liền rớt xuống; tứ chi, xương cốt dường như bị gãy vụn hết. Lệnh Hồ Xung ở trong bóng tối đã lâu, bỗng thấy ánh sáng, mắt bị lóa khó mở ra được, nhưng chàng sợ ánh sáng mong manh này chợt hiện ra rồi tắt ngay thì mất đi một cơ may. Tuy mắt đau buốt nhưng chàng vẫn cố gắng mở to nhìn ánh sáng phát ra từ hướng nào.
Ánh sáng từ cái lỗ vuông chừng một thước chiếu vào. Chàng liền nhớ ra hắc lao giam Nhậm lão tiền bối trên cửa sắt cũng có một cái lỗ vuông giống như cái lỗ vuông này. Quả nhiên chàng cũng ở trong hắc lao giống như vậy. Lệnh Hồ Xung lớn tiếng la:
– Mau thả ta ra! Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử, đồ cẩu tặc đê tiện, mau thả ta ra!
Chàng thấy trong lỗ vuông một cái khay bằng gỗ từ từ đưa vào, trên khay đặt một bát cơm to và một ít đồ ăn, còn có một cái bình sành đựng nước uống. Lệnh Hồ Xung vừa nhìn thấy, lòng thêm tức giận, nghĩ: Các ngươi đưa cơm đến cho ta chính là muốn giam cầm ta vĩnh viễn ở đây.
Chàng liền lớn tiếng chửi:
– Bốn cái đồ cẩu tặc, các ngươi muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ, đừng có giỡn mặt với đại gia.
Chỉ thấy cái khay gỗ dừng lại, rõ ràng muốn Lệnh Hồ Xung đưa tay ra nhận lấy. Lệnh Hồ Xung phẫn nộ đến cực điểm, đưa tay ra đánh một cái, loảng xoảng mấy tiếng, bát cơm và bình nước đều rớt xuống đất vỡ tan tành, cơm nước văng tung tóe đầy chỗ nằm. Cái khay gỗ từ từ rút ra.
Lệnh Hồ Xung tức giận vọt đến bên lỗ vuông, thấy một lão già tóc bạc, tay trái cầm đèn, tay phải cầm cái khay gỗ đang từ từ xoay người. Lão già này mặt đầy nếp nhăn, là người chàng chưa bao giờ gặp qua. Lệnh Hồ Xung gọi:
– Lão đi kêu Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử đến đây. Bốn tên cẩu tặc đó có ngon thì thử tử chiến với đại gia.
Lão già không hề để ý, khòm lưng đi từng bước xa dần. Lệnh Hồ Xung lớn tiếng gọi:
– Này, này, lão có nghe rõ không?
Lão già vẫn không quay đầu, cứ đi xa dần. Lệnh Hồ Xung thấy bóng lão mất hút ở lối rẽ đường hầm, ánh đèn cũng dần dần biến mất, bóng tối đen kịt lại bao trùm. Một lúc sau, nghe tiếng cửa gỗ và cửa sắt lần lượt đóng lại, trong hầm càng tối đen như mực, không có một chút ánh sáng, cũng không một tiếng động.
Lệnh Hồ Xung lại thấy choáng váng, liền ngưng thần một lúc rồi nằm xuống thầm nghĩ: Lão già đem cơm này nhất định là có nghiêm lệnh không được nói chuyện với ta. Ta gọi lão rát cả cổ cũng vô ích.
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Cái nhà giam này và chỗ giam Nhậm lão tiền bối cũng giống nhau. Xem ra dưới lòng đất của Mai trang có không ít hắc lao, không biết đã giam cầm bao nhiêu anh hùng hảo hán. Ước gì ta có thể thông tin với Nhậm lão tiền bối hoặc có thể liên lạc với một bằng hữu nào bị cầm tù để cả hai đồng tâm hợp lực, tìm cơ hội thoát khỏi nơi đây.
Lệnh Hồ Xung liền đưa tay gõ lên bức tường mấy cái, nghe kình kịch mấy tiếng, đúng là thanh âm của gang thép phát ra, âm vọng lại trầm nặng. Rõ ràng bức vách này dày đặc.
Lệnh Hồ Xung đi đến trước bức tường khác, đưa tay lên gõ mấy cái, tiếng vọng cũng rất trầm nặng. Chàng vẫn không nản, liền ngồi xuống đưa tay gõ bức tường phía sau, thanh âm vẫn giống như vậy. Lệnh Hồ Xung mò mẫm lên tường, cẩn thận gõ lên ba bức tường một lần nữa, ngoài bức tường có cửa sắt ra dường như gian hắc lao này bị cô lập sâu dưới lòng đất. Ở đây chắc chắn còn có một nhà lao khác, ít nhất cũng có một địa lao giam cầm lão họ Nhậm, nhưng không biết ở chỗ nào, cũng không biết cách phòng giam mình có xa không?
Lệnh Hồ Xung ngồi tựa vào vách tường, đem tình cảnh trước lúc hôn mê tỉ mỉ nhớ lại. Chàng chỉ nhớ kiếm chiêu của lão Nhậm càng sử càng nhanh, tiếng la hét càng lúc càng đinh tai nhức óc. Bỗng nhiên lão quát một tiếng kinh thiên thì chàng ngất đi. Còn việc Giang Nam tứ hữu bắt giữ thế nào, mình bị đưa vào trong nhà ngục này ra sao, thì chàng không nhớ tí gì.
Lệnh Hồ Xung nghĩ: Bốn tên trang chủ này ngoài mặt làm ra vẻ cao nhân nhã sĩ, ngày thường chỉ tiêu khiển cầm kỳ thư họa, nhưng thực chất lại là những tên đê tiện xấu xa, không có việc ác gì mà không làm. Trong võ lâm, loại người tiểu nhân này rất nhiều, cũng chẳng có gì lạ. Chỉ lạ ở chỗ, bốn người này đam mê bốn môn cầm kỳ thư họa, nếu giả bộ cũng không thể giả bộ đến vậy được. Ngốc Bút Ông viết lên tường bài “Bùi tướng quân thi”, bút pháp lâm ly, quyết không phải tài năng của hạng học võ bình thường.
Chàng lại nghĩ: Sư phụ từng nói: “Kẻ đích thực đại gian đại ác là người thông minh tài trí”. Câu nói này quả không sai. Giang Nam tứ hữu bày ra gian kế, thật khiến người ta khó phòng bị né tránh.
Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung thét lên:
– Trời ơi!
Chàng liền đứng bật dậy, trống ngực đập loạn xạ: Hướng đại ca ra sao rồi? Không biết có bị trúng độc thủ của bọn chúng không?
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Hướng đại ca là người thông minh cơ biến, xem ra đại ca đã sớm biết Giang Nam tứ hữu là hạng người nào. Đại ca đã tung hoành giang hồ, thân làm Quang Minh tả sứ của Ma giáo, tất sẽ không dễ mắc bẫy bọn này. Chỉ cần đại ca không bị Giang Nam tứ hữu cầm tù thì nhất định đại ca sẽ tìm cách cứu ta. Dù ta bị cầm tù dưới lòng đất sâu đến trăm trượng, với bản lĩnh của Hướng đại ca, tất nhiên đại ca sẽ tìm được cách cứu ta ra.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác lòng thấy nhẹ nhõm, cười hì hì rồi lẩm bẩm: Lệnh Hồ Xung ơi Lệnh Hồ Xung, ngươi là thứ nhát gan vô dụng, vừa rồi lại sợ đến nỗi khóc ầm lên. Nếu người ta biết được thì cái mặt ngươi biết giấu vào đâu?
Lòng chàng sảng khoái, từ từ đứng dậy, lúc này cảm thấy vừa đói vừa khát, thầm nghĩ: Đáng tiếc vừa rồi ta nổi điên làm bát cơm bình nước rớt bể cả. Nếu không ăn no thì sau này Hướng đại ca đến cứu ta ra, làm sao ta còn sức lực để giết bọn Giang Nam tứ cẩu này? Ha ha, đúng rồi, Giang Nam tứ cẩu! Cái bọn tiểu nhân gian ác này làm sao xứng đáng được gọi là Giang Nam tứ hữu?
Trong Giang Nam tứ cẩu, Hắc Bạch Tử vẻ mặt lạnh lùng, rất nham hiểm, tất cả ngụy kế phần nhiều là do hắn sắp đặt. Sau khi ta thoát ngục, người đầu tiên ta giết là hắn. Đan Thanh tiên sinh tương đối thật thà thì ta tha cho cái mạng chó của hắn cũng không sao. Có điều ta phải uống sạch hầm rượu ngon của hắn mới hả.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến chỗ rượu ngon của Đan Thanh tiên sinh thì cảm thấy khát muốn cháy họng, nghĩ: Không biết ta đã hôn mê bao lâu? Tại sao Hướng đại ca chưa đến cứu?
Bỗng Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Chao ôi, không xong rồi! Võ công của Hướng đại ca nếu lấy một chọi một thì dư sức thắng bọn Giang Nam tứ cẩu, nhưng nếu cả bốn tên liên thủ thì Hướng đại ca khó có đường thắng, mà dù Hướng đại ca có thần dũng, đem bốn người chúng giết sạch thì muốn tìm được cửa vào địa lao này cũng khó khăn vô cùng. Nào ai ngờ được cửa vào nhà ngục lại ở dưới giường nằm của Hoàng Chung Công.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy mệt mỏi. Chàng nằm xuống, đầu óc phân vân: Võ công của Nhậm lão tiền bối cao cường hơn Hướng đại ca, không thể thấp hơn đại ca được, cơ trí từng trải hơn có thể đoán được mọi việc, Hướng đại ca cũng không bì kịp. Nhân vật như lão còn bị giam cầm thì làm sao Hướng đại ca có thể thắng được? Trước nay, người quân tử quang minh lỗi lạc phần nhiều bị tiểu nhân ám toán. Người ta thường nói: “Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng”. Hướng đại ca lâu như vậy mà không đến cứu ta, e rằng đại ca đang gặp chuyện bất trắc.
Lệnh Hồ Xung nhất thời quên mình đang bị giam cầm, lại lo lắng cho sự an nguy của Hướng Vấn Thiên.
Chàng cứ nghĩ mông lung như vậy, không biết thiếp đi lúc nào. Khi tỉnh dậy, mở mắt ra, chàng chỉ thấy một màu đen kịt, cũng không biết là ngày hay đêm. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Nếu dựa vào chính sức lực của mình, bất luận thế nào ta cũng không thể thoát chốn ngục tù. Nếu Hướng đại ca không may cũng bị ám toán thì còn ai đến cứu ta nữa? Sư phụ đã truyền thư đi khắp thiên hạ, trục xuất ta ra khỏi sư môn, người trong chính phái chắc chắn không ai đến cứu. Còn Doanh Doanh, Doanh Doanh…
Lệnh Hồ Xung nhớ đến Doanh Doanh, tinh thần phấn chấn liền ngồi dậy, thầm nghĩ: Cô ta đã ra lệnh cho bọn Lão Đầu Tử truyền tin trên giang hồ phải giết ta, những kẻ bàng môn tả đạo dĩ nhiên cũng không đến cứu ta. Nhưng còn cô ta thì sao? Nếu cô ta biết ta đang bị giam cầm ở đây nhất định trước sau gì cũng đến cứu. Người trong tả đạo nghe hiệu lệnh của cô ta rất đông, cô ta chỉ cần truyền một câu, thì…
Bỗng nhiên chàng không kìm được, cười hì hì: Cô nương này coi thể diện lớn hơn tính mệnh, sợ nhất người khác nói cô mến ta. Dù cô ta đến cứu, chắc cũng chỉ đến một mình, quyết không chịu bảo ai giúp đỡ. Nếu có người biết cô ta đến cứu ta, thì người ấy khó bảo toàn tính mạng. Ôi, tâm tình của các cô nương thật khiến cho người ta khó mà hiểu nổi, giống y hệt tiểu sư muội…
Lệnh Hồ Xung vừa nghĩ đến Nhạc Linh San, lòng bỗng đau nhói, mối thương tâm tuyệt vọng càng tăng thêm. Tại sao ta còn mong có người đến cứu? Lúc này không chừng tiểu sư muội đã bái đường thành thân với Lâm sư đệ, ta có thoát khỏi lao tù thì cuộc sống cũng không còn gì vui thú nữa. Chi bằng cả đời bị giam trong hắc lao này, cái gì cũng không hay biết thì tốt hơn.
Chàng nghĩ đến chuyện bị giam cầm trong địa lao cũng thấy có cái hay, bao nhiêu nỗi bồn chồn liền tan biến hết, ngược lại còn có chút ý dương dương tự đắc.
Nhưng tâm trạng vui vẻ không được bao lâu, chàng lại cảm thấy đói khát khó chịu. Lệnh Hồ Xung nghĩ đến hôm trong tửu lâu, chàng hớn hở ăn cục thịt to, uống bát rượu lớn liền cảm thấy nếu thoát khỏi chốn tù ngục này thì sung sướng biết bao. Việc tiểu sư muội và Lâm sư đệ thành thân thì có sao đâu? Dù sao ta cũng đã bị khinh bỉ rồi. Nội lực của ta hoàn toàn mất hết, trở thành phế nhân, Bình đại phu nói ta sống không bao lâu nữa, dù tiểu sư muội có tình nguyện lấy ta, ta cũng không thể lấy tiểu sư muội. Chẳng lẽ ta muốn cho cô ta suốt đời góa bụa, thủ tiết vì ta?
Tận đáy lòng Lệnh Hồ Xung nghĩ nếu Nhạc Linh San thật sự muốn lấy chồng, chàng dĩ nhiên đồng ý, nhưng Nhạc Linh San yêu Lâm Bình Chi khiến chàng đau đớn tột cùng. Tốt nhất… tốt nhất… tốt nhất thế nào? Tốt nhất tiểu sư muội vẫn giống như trước đây, tốt nhất tất cả mọi chuyện đều chưa xảy ra, ta vẫn cùng với cô ta luyện kiếm trong thác nước ở Hoa Sơn, Lâm sư đệ đừng đến Hoa Sơn, ta và tiểu sư muội mãi mãi sống vui vẻ suốt đời. Ôi, Điền Bá Quang, Đào Cốc lục tiên, Nghi Lâm sư muội…
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến tiểu ni cô Nghi Lâm phái Hằng Sơn, vẻ mặt liền lộ ra nụ cười ôn hòa. Nghi Lâm sư muội bây giờ không biết thế nào rồi? Nếu cô ta biết ta bị giam ở đây, nhất định sẽ rất lo lắng. Sau khi sư phụ của cô ta nhận thư của sư phụ ta, đương nhiên sẽ không cho phép cô ta đến cứu ta. Nhưng cô ta sẽ cầu xin phụ thân của cô ta là Bất Giới hòa thượng, nói không chừng cô ta còn mời Đào Cốc lục tiên cùng đến. Ôi, bảy lão này chỉ làm rối tung cả lên chứ không làm được chuyện gì. Nhưng có người đến cứu còn hơn không có ai ngó ngàng tới ta.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến cái nghề mồm năm miệng mười của Đào Cốc lục tiên, bất giác cười hì hì.
Lúc cùng ở chung với bọn họ, chàng không khỏi có chút coi thường, bây giờ lại hận không được bầu bạn với bọn họ ở trong lao tù. Những lời kỳ cục trên trời dưới đất đó, bây giờ nếu nghe được thì thực giống như những khúc nhạc tiên. Chàng nghĩ ngợi một lúc lại thiếp đi.
Trong hắc lao, không biết ngày giờ, bỗng thấy ánh sáng mờ mờ ảo ảo từ lỗ vuông chiếu vào. Lệnh Hồ Xung vui mừng liền ngồi dậy, tim đập loạn xạ: Không biết ai đến cứu ta đây?
Nhưng niềm vui của chàng kéo dài không bao lâu, bởi tiếng bước chân nặng nề từ từ đi đến. Đó là lão già đem cơm. Lệnh Hồ Xung nằm vật xuống giường, gọi:
– Kêu bốn tên cẩu tặc đến đây, xem bọn chúng có dám nhìn mặt ta không?
Tiếng bước chân dần dần đến gần, ánh đèn cũng dần dần tỏ hơn, tiếp theo một cái khay gỗ từ lỗ vuông đưa vào, trên khay vẫn để một bát cơm trắng và một bình nước.
Lệnh Hồ Xung đã đói cồn cào, khát muốn cháy cổ. Chần chừ một lúc rồi nhận lấy khay gỗ. Lão già đưa cơm xong liền quay người đi. Lệnh Hồ Xung gọi:
– Này, lão khoan đi, ta có điều muốn hỏi lão.
Lão già vẫn không để ý, chỉ nghe tiếng bước chân nặng nề quay lui. Lão lủi thủi đi xa dần, ánh đèn cũng dần dần mất hút.
Lệnh Hồ Xung càu nhàu mấy câu rồi cầm bình nước lên kê vòi uống. Trong bình quả nhiên là nước lạnh. Chàng uống một hơi hết nửa bình mới ăn cơm. Trên bát cơm có để thức ăn, trong bóng tối cũng phân biệt được mùi vị của rau dưa và đậu hũ.
Cứ như vậy Lệnh Hồ Xung ở trong lao bảy tám ngày, mỗi ngày lão già đem cơm đến một lần. Lão nhận lấy đũa bát, bình nước của ngày hôm qua và bình nước tiểu. Bất luận Lệnh Hồ Xung nói cái gì, vẻ mặt của lão vẫn trơ ra, không có một biểu lộ tình cảm gì.
Không biết đến ngày thứ mấy, Lệnh Hồ Xung vừa thấy ánh đèn liền xông đến lỗ vuông, nắm chặt cái khay gỗ nói:
– Sao lão không nói gì cả? Rốt cuộc lão có nghe ta nói gì không?
Lão già giơ tay chỉ vào lỗ tai mình, lắc đầu ý muốn nói tai lão bị điếc. Rồi lão há miệng ra. Lệnh Hồ Xung vừa thấy liền giật mình ngây người, trong miệng lão cái lưỡi chỉ còn một nửa trống rất đáng sợ. Chàng ồ lên một tiếng rồi nói:
– Lưỡi của lão bị người ta cắt rồi ư? Có phải bốn tên cẩu trang chủ trong Mai trang hạ độc thủ không?
Lão già không đáp, từ từ đưa cái khay gỗ vào lỗ vuông, rõ ràng lão không nghe được lời nói của Lệnh Hồ Xung, mà dù lão có nghe thì cũng không sao trả lời được.
Lệnh Hồ Xung khiếp sợ, đợi lão già đi xa mới trấn tĩnh lại rồi ăn cơm. Hình ảnh lão già bị cắt hết nửa cái lưỡi trông thật đáng sợ hiện ra trước mắt. Lệnh Hồ Xung căm giận nói:
– Giang Nam tứ cẩu thật vô cùng độc ác. Lệnh Hồ Xung này suốt đời không thoát khỏi lao tù thì thôi, nếu một ngày nào đó thoát được thì nhất định đem bọn tứ cẩu này từng tên cắt lưỡi, đục tai cho câm điếc rồi đâm cho mù mắt…
Bỗng nhiên tận đáy lòng Lệnh Hồ Xung lóe lên một tia sáng: Chẳng lẽ mấy người này… mấy người này…
Lệnh Hồ Xung nhớ lại buổi tối ở miếu Dược vương mình đã đâm mù mắt mười lăm tên hán tử , những người đó lai lịch thế nào mình cũng không biết. Chẳng lẽ bọn chúng giam cầm mình ở đây để báo thù tối hôm đó?
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây liền thở dài, bao nhiêu nỗi căm hờn trong lòng đều vơi đi hết nửa. Ta đã đâm mù mắt mười lăm tên này, bọn chúng muốn báo thù cũng phải thôi.
Niềm căm phẫn của chàng giảm dần, những ngày trong tù cũng trôi nhanh. Ngày và đêm trong hắc lao, chàng không phân biệt được. Chính Lệnh Hồ Xung cũng không biết mình bị cầm tù bao nhiêu ngày rồi, chỉ cảm thấy càng ngày càng nóng thêm, chắc rằng đã đến mùa hạ.
Trong gian phòng giam nhỏ hẹp này không có chút gió, khí ẩm nóng rất khó chịu. Hôm ấy, nóng đến độ chịu không nổi, nhưng tay chân đều bị cột dây xích, chàng không có cách nào cởi hết quần áo ra được, đành phải kéo áo lên trên cổ, kéo quần tụt xuống dưới chân, rồi cuốn tấm chiếu rách phủ trên thiết bản lại. Toàn thân trần truồng, chàng nằm lên tấm thiết bản, liền cảm thấy mát lạnh. Mồ hôi bớt dần, không bao lâu thì thiếp đi.
Lệnh Hồ Xung ngủ được một lúc, tấm thiết bản dưới lưng dần nóng lên. Chàng nửa tỉnh nửa mê, trở mình qua chỗ khác cho mát. Tay trái chàng đặt lên thiết bản, cảm thấy dường như thiết bản có khắc hoa văn, nhưng vì đang còn ngái ngủ nên chàng không thèm để ý tới.
Lệnh Hồ Xung ngủ một giấc ngon lành, lúc tỉnh dậy cảm thấy tinh thần rất sảng khoái. Không bao lâu, lão già lại đem cơm đến. Lệnh Hồ Xung rất đồng cảm với lão, mỗi lần lão đẩy cái khay gỗ từ lỗ vuông vào, chàng liền nắm tay lão hoặc vỗ nhẹ lên tay lão mấy cái để tỏ lòng cảm ơn, lần này cũng vậy. Lệnh Hồ Xung nhận khay gỗ, rụt tay về, bỗng nhiên trong ánh đèn mờ, chàng thấy trên lưng tay trái của mình nổi lên bốn chữ rất rõ “Ngã Hành bị tù”.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy quá kỳ lạ, không hiểu bốn chữ này do đâu mà có. Chàng trầm ngâm, vội để khay cơm xuống, đưa tay mò lên tấm thiết bản, thì ra tấm thiết bản này khắc đầy chữ, chi chít không biết bao nhiêu. Lệnh Hồ Xung liền hiểu ra chữ trên thiết bản này đã in lên tay mình, trước đây vì có trải chiếu nên chưa phát hiện được. Tối qua chàng nằm lõa thể ngủ trên tấm thiết bản, cánh tay mới ấn lên bốn chữ này. Chàng xoay tay ra sau sờ từ lưng cho đến mông, không kìm được tức cười, vì khắp người chỗ nào cũng nổi lên những chữ. Mỗi chữ lớn khoảng đồng tiền, in rất sâu, nét chữ khắc rất tháu.
Lúc này lão già đem cơm đã đi xa, trong phòng giam lại tối đen như mực. Lệnh Hồ Xung uống vài ngụm nước, không muốn ăn cơm. Chàng đưa tay mò lên những vết chữ trên thiết bản từ đầu đến cuối, mò kỹ từng chữ một rồi đọc khẽ:
– Lão phu bình sinh thích đền ân trả oán, giết người như ngóe, bị giam dưới đáy hồ cũng là chuyện báo ứng. Tuy lão phu Nhậm Ngã Hành bị tù…
Lệnh Hồ Xung đọc đến đây thầm nghĩ: Thì ra bốn chữ “Ngã Hành bị tù” là do mấy chữ ở chỗ này in ra. Chàng liền mò dần xuống dưới, rồi đọc tiếp:
– Ta ở đây, dù có thần công long trời lở đất cũng không khỏi khô héo theo nắm xương tàn. Tiểu tử hậu thế không biết tài năng của lão phu, thật đáng tiếc.
Lệnh Hồ Xung dừng tay ngẩng đầu lên thầm nghĩ: Lão phu Nhậm Ngã Hành! Lão phu Nhậm Ngã Hành! Người khắc những chữ này tức nhiên là Nhậm Ngã Hành. Thì ra người này cũng họ Nhậm, không biết có quan hệ gì với Nhậm tiền bối không?
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Địa lao này không biết xây dựng đã bao nhiêu năm, không chừng người khắc những chữ này đã tạ thế mấy chục năm hoặc mấy trăm năm rồi.
Chàng liền mò tiếp, lẩm nhẩm đọc:
– Nay lão phu đem yếu chỉ tinh nghĩa thần công khắc lại ở đây, để tiểu tử hậu thế luyện tập, tung hoành khắp thiên hạ. Lão phu dẫu có chết võ công cũng không bị mai một. Thứ nhất, tọa công…
Những chữ khắc phía dưới đều là pháp môn điều khí hành công.
Sau khi Lệnh Hồ Xung luyện Độc Cô cửu kiếm, trong võ công chàng chỉ thích kiếm pháp, mà nội lực trong người lại mất hết. Khi vừa sờ đến hai chữ “tọa công” chàng chán nản ngay, chỉ mong sau chữ này có khắc một môn kiếm pháp kỳ diệu thì ở trong hắc ngục cũng luyện được. Hy vọng thoát ngục càng mờ mịt, ngồi trong hắc lao, nếu không tìm chuyện gì để làm thì sống qua một ngày cũng thật khó khăn.
Lệnh Hồ Xung lại mò các chữ khắc phía dưới đều là phương pháp hô hấp, ý thủ Đan điền, khí chuyển Kim tĩnh, Nhâm mạch… toàn là những chữ chỉ cách luyện tập nội công. Chàng mò đến tận đầu thiết bản cũng không tìm được một chữ “kiếm”. Lệnh Hồ Xung rất thất vọng: Cái gì thần công long trời lở đất? Đây thật đúng là trêu chọc ta! Cái gì của võ công cũng đều được hết, mà ta thì không thể luyện nội công được, vừa đề khí thì khí huyết trong ngực nhộn nhạo cả lên. Ta luyện nội công là tự rước cái khổ vào mình.
Lệnh Hồ Xung thở dài, bưng bát cơm ăn, nghĩ: Nhậm Ngã Hành này không biết là nhân vật thế nào? Khẩu khí lão thật ngông cuồng, cái gì kinh thiên động địa, tung hoành thiên hạ, dường như trên đời không còn ai địch nổi. Thì ra địa lao này chuyên dùng để cầm tù các cao thủ võ lâm.
Lúc đầu Lệnh Hồ Xung phát hiện chữ khắc trên thiết bản thì rất phấn khởi, bây giờ bất giác chàng lại tiu nghỉu, nghĩ: Ông trời thật khéo trêu ngươi, ta đừng tìm ra mấy chữ này còn hay hơn.
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Nếu Nhậm Ngã Hành quả thực đúng như lời lão tự khoe thì công phu lão rất cao cường, sao vẫn bị cầm tù ở đây mà không cách nào thoát được? Có thể thấy địa lao này rất kiên cố, dù có bản lãnh bằng trời, hễ đã vào thì chỉ còn cách ở đây đợi chết dần mà thôi.
Lệnh Hồ Xung không thèm để ý đến những chữ trên tấm thiết bản nữa.
Thành Hàng Châu hễ đến mùa nóng thì nóng như lửa đốt. Địa lao ở sâu dưới đáy hồ, không có chút ánh nắng mặt trời, đáng lẽ phải rất mát mẻ nhưng một là không có gió, hai là ẩm thấp vô cùng, người ở trong lao rất khó chịu. Mỗi ngày Lệnh Hồ Xung đều cởi hết quần áo ra ngủ trên thiết bản, vừa đưa tay ra là mò trúng chữ, không hiểu sao chàng thuộc rất nhiều câu khắc trên thiết bản.
Một hôm, Lệnh Hồ Xung đang bâng khuâng không biết sư phụ, sư nương, tiểu sư muội bọn họ bây giờ đang ở đâu? Đã về đến Hoa Sơn chưa? Bỗng nghe tiếng bước chân từ xa vọng lại, đã nhẹ lại nhanh, hoàn toàn khác với tiếng bước chân lão già đem cơm. Lệnh Hồ Xung ở trong ngục nhiều ngày, không còn hy vọng có người đến cứu nữa, đột nhiên nghe tiếng bước chân này, bất giác vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, muốn nhảy cẫng lên. Nhưng vì quá vui mừng toàn thân hầu như vô lực, chàng lại nằm bất động trên giường. Chỉ nghe tiếng bước chân rất nhanh đi đến ngoài cửa sắt.
Ngoài cửa có người nói:
– Nhậm tiên sinh, mấy ngày này thời tiết quá nóng, Nhậm tiên sinh lão nhân gia có khỏe không?
Nghe giọng nói, Lệnh Hồ Xung nhận ra là Hắc Bạch Tử . Nếu lão này đến trước đây một tháng thì nhất định Lệnh Hồ Xung sẽ ngoác miệng chửi một hồi, lời thô tục nào cũng phun ra. Nhưng trải qua những ngày bị giam cầm khá lâu, sự tức giận đã giảm bớt, chàng đã bình tĩnh rất nhiều, lại nghĩ: Tại sao hắn gọi ta là Nhậm tiên sinh? Có phải hắn đi nhầm nhà lao không?
Lệnh Hồ Xung liền mặc kệ không thèm lên tiếng.
Hắc Bạch Tử nói:
– Có một câu mà cách hai tháng thì tại hạ đến xin hỏi Nhậm lão tiên sinh lão nhân gia một lần. Hôm nay ngày mồng một tháng bảy, tại hạ vẫn hỏi câu này, rốt cuộc lão tiên sinh có đồng ý không?
Lời lão nói rất kính cẩn. Lệnh Hồ Xung cười thầm: Quả nhiên hắn đi nhầm nhà lao rồi, cho rằng ta là Nhậm lão tiền bối. Vì sao hắn lại hồ đồ như vậy?
Lệnh Hồ Xung liền giật mình: Trong bốn trang chủ Mai trang, hẳn nhiên Hắc Bạch Tử là người tinh tế hơn hết. Nếu là Ngốc Bút Ông, Đan Thanh tiên sinh không chừng còn có thể đi nhầm phòng giam, còn Hắc Bạch Tử làm sao mà đi nhầm được? Trong chuyện này chắc có nguyên do.
Lệnh Hồ Xung liền lặng yên không lên tiếng. Hắc Bạch Tử nói:
– Nhậm lão tiên sinh, một đời Nhậm lão tiên sinh anh hùng ngang dọc, tại sao chịu khổ để tàn tạ trong địa lao này? Chỉ cần Nhậm tiên sinh đồng ý với tại hạ một chuyện, lời nói của tại hạ như núi, đương nhiên tại hạ giúp Nhậm lão tiên sinh thoát ngục ngay.
Trái tim Lệnh Hồ Xung đập thình thình, trong đầu xoay chuyển vô số ý nghĩ, nhưng không tìm ra nguyên nhân. Nếu quả thực lão coi hắn là tiền bối họ Nhậm thì lòng hắn càng thêm nghi ngờ. Hắc Bạch Tử lại nói một hồi, toàn là những lời xin hắn đồng ý một chuyện. Lệnh Hồ Xung sốt ruột muốn rõ sự tình, nhưng biết mình chỉ mở miệng ra thì tình hình hỏng bét, đành phải cố nhịn, không nói tiếng nào.
Hắc Bạch Tử nói:
– Lão gia tử cố chấp như vậy, đành phải hai tháng sau gặp lại.
Bỗng Hắc Bạch Tử cười nhẹ mấy tiếng rồi nói tiếp:
– Lần này lão gia tử không ngoác miệng chửi mắng tại hạ, xem ra đã có biến chuyển. Trong hai tháng này, xin lão gia tử hãy suy nghĩ kỹ đi.
Lão nói xong quay người đi ra. Lệnh Hồ Xung sốt ruột, lão mà đi thì phải cách hai tháng sau mới quay lại. Ở trong hắc ngục này, ngày dài như một năm, làm sao có thể đợi đến hai tháng? Chờ lão đi mấy bước, chàng liền che miệng cho giọng khác đi, ồm ồm nói:
– Ngươi yêu cầu ta đồng ý chuyện gì?
Hắc Bạch Tử quay phắt lại, đi đến trước lỗ vuông, cử động rất thần tốc. Lão run run nói:
– Nhậm lão tiên sinh… Nhậm lão tiên sinh đồng ý rồi sao?
Lệnh Hồ Xung quay người vào trong vách tường, đưa tay bịt miệng, giọng ồm ồm không rõ, hỏi:
– Đồng ý chuyện gì?
Hắc Bạch Tử đáp:
– Mười hai năm nay, mỗi năm tại hạ đều sáu lần mạo hiểm đến đây cầu khẩn Nhậm lão tiên sinh, tại sao lão gia tử đã biết rõ rồi còn cố hỏi?
Lệnh Hồ Xung hừ một tiếng, nói:
– Ta quên cả rồi.
Hắc Bạch Tử nói:
– Tại hạ cầu xin lão nhân gia đem bí quyết đại pháp đó truyền thụ cho tại hạ, sau khi tại hạ học xong, đương nhiên sẽ thả lão gia tử ra.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Có thật hắn lầm ta là Nhậm lão tiền bối không? Hay còn có âm mưu ngụy kế khác?
Lệnh Hồ Xung nhất thời không biết ý đồ của lão, chỉ ậm ừ vài câu, ngay cả mình cũng không biết mình nói gì thì đương nhiên Hắc Bạch Tử càng không hiểu. Lão liền hỏi:
– Lão gia tử có đồng ý không? Lão gia tử có đồng ý không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ngươi nói không có chữ tín, ta không mắc bẫy ngươi đâu.
Hắc Bạch Tử nói:
– Lão gia tử muốn tại hạ phải cam đoan thế nào mới tin?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tự ngươi nói ra thì hay hơn.
Hắc Bạch Tử nói:
– Lão gia tử nhất định lo lắng sau khi truyền thụ cho tại hạ bí quyết đại pháp này thì tại hạ sẽ nuốt lời, không chịu thả lão gia tử ra có phải không? Về vấn đề này, tại hạ đã tự sắp đặt để lão gia tử yên tâm.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Sắp đặt như thế nào?
Hắc Bạch Tử đáp:
– Xin hỏi lão gia tử, lão gia tử đồng ý rồi ư?
Nghe giọng nói của lão rõ ràng vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Trong đầu Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ rất nhanh: Hắn cầu ta truyền bí quyết đại pháp, ta đây có bí quyết đại pháp gì đâu mà truyền? Nhưng không sao, thử nghe hắn sắp đặt cái gì. Nếu hắn thật có thể thả ta ra thì ta đem những bí quyết khắc trên thiết bản đọc cho hắn nghe, dù hắn có cần hay không thì ta gạt hắn trước rồi hãy tính.
Hắc Bạch Tử thấy Lệnh Hồ Xung không đáp lại nói:
– Sau khi lão gia tử đem đại pháp truyền cho tại hạ thì tại hạ là đệ tử môn hạ của lão gia tử rồi. Đệ tử bổn giáo lừa thầy diệt tổ phải chịu hình phạt lột da lăng trì, mấy trăm năm nay không ai có thể trốn thoát được. Sao tại hạ dám cả gan không thả sư phụ lão gia tử ra được?
Lệnh Hồ Xung tằng hắng một cái rồi nói:
– Thì ra là vậy. Sau ba ngày, ngươi đến ta sẽ trả lời.
Hắc Bạch Tử nói:
– Hôm nay lão gia tử đồng ý thì được rồi, hà tất phải kéo dài thêm ba ngày trong hắc lao nữa?
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Hắn còn sốt ruột hơn cả ta nữa. Ta hãy kéo dài thêm ba ngày nữa rồi tính sau, xem hắn có ngụy kế gì.
Lệnh Hồ Xung liền hứ một tiếng rất to biểu thị ý tức giận. Hắc Bạch Tử nói:
– Dạ, dạ! Ba ngày sau, tại hạ đến thỉnh giáo lão nhân gia.
Lệnh Hồ Xung nghe lão đi ra khỏi địa lao, đóng cửa sắt lại, lòng đầy nghi vấn: Chẳng lẽ hắn nhầm ta là Nhậm tiền bối thật ư? Hắn rất tinh vi, sao lại lầm lẫn đến vậy?
Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung lại nghĩ ra một chuyện: Chẳng lẽ Hoàng Chung Công biết bí mật của hắn nên ngầm đem Nhậm tiền bối nhốt ở nhà ngục khác rồi đem ta nhốt ở đây? Đúng rồi, mười hai năm trời Hắc Bạch Tử cứ cách hai tháng đến một lần, có lẽ đã bị người phát giác. Nhất định Hoàng Chung Công đã ngấm ngầm bố trí cạm bẫy.
Nhưng Lệnh Hồ Xung nhớ đến câu nói vừa rồi của Hắc Bạch Tử: “Đệ tử bổn giáo khi sư diệt tổ, xưa nay phải chịu hình phạt lột da lăng trì, mấy trăm năm nay không ai có thể thoát được”, thầm nghĩ: Bổn giáo ư? Giáo gì? Chẳng lẽ là Ma giáo? Phải chăng tiền bối họ Nhậm và Giang Nam tứ cẩu đều là người trong Ma giáo? Cũng không biết bọn họ giở trò ma quỷ gì mà làm cho ta bị liên lụy vào.
Lệnh Hồ Xung vừa nghĩ đến hai chữ “Ma giáo”, thì cảm thấy trong đó có vô số điều kỳ bí khó hiểu nổi. Chàng hướng suy nghĩ của mình tập trung vào hai chuyện: Hắc Bạch Tử hành động chân thật hay trá ngụy? Ba ngày sau hắn trở lại thì biết trả lời thế nào đây?
Đoán xa nghĩ gần, nhiều ý tưởng cổ quái Lệnh Hồ Xung đều nghĩ qua mà vắt muốn nát óc cũng không sao đoán được chân ý của Hắc Bạch Tử. Rồi chàng mệt quá ngủ thiếp đi. Sau khi tỉnh dậy, Lệnh Hồ Xung chợt nhớ đến Hướng Vấn Thiên. Nếu Hướng đại ca ở đây, đại ca biết nhiều hiểu rộng, trong khoảnh khắc có thể đoán được dụng ý của Hắc Bạch Tử. Nhậm tiền bối trí tuệ sáng suốt, hiển nhiên càng cao hơn Hướng đại ca… Chao ôi!
Lệnh Hồ Xung buột miệng la to một tiếng liền đứng phắt dậy. Sau giấc ngủ, đầu óc tỉnh táo hơn, hắn thầm nghĩ: Mười hai năm nay, Nhậm lão tiền bối vẫn không chấp thuận, đương nhiên là có nguyên nhân sâu xa. Lão giàu kinh nghiệm như vậy, há không biết vấn đề lợi hại trong chuyện này?
Lệnh Hồ Xung liền nghĩ lại: Nhậm lão tiền bối cố nhiên không đồng ý, nhưng ta không phải là Nhậm lão tiền bối thì sao lại không thể?
Lệnh Hồ Xung biết chuyện này thật không ổn, trong đó hàm chứa nhiều mối nguy hiểm, nhưng chỉ cần có cơ hội thoát khỏi hắc lao thì hiểm họa gì cũng mặc, liền quyết định chủ ý: Ba ngày sau, Hắc Bạch Tử đến hỏi thì ta nhận lời với hắn, đem những bí quyết luyện khí khắc trên thiết bản truyền thụ cho hắn, để xem hắn thế nào rồi mới tùy cơ ứng biến.
Lệnh Hồ Xung mò chữ trên thiết bản rồi ngấm ngầm học thuộc, nghĩ: Ta phải đọc thật thuộc, lúc dạy hắn nói một lèo ra thì hắn sẽ không nghi ngờ. Có điều khẩu âm của ta khác xa khẩu âm của Nhậm lão tiền bối, đành phải đè thấp giọng xuống. Phải rồi, ta la to hai ngày, để cổ họng khàn lên, đến lúc đó nói hàm hồ ra thì hắn không dễ gì phát giác được.
Lệnh Hồ Xung liền đọc khẩu quyết một lúc thì lớn tiếng thét một hồi. Hắc lao này nằm sâu dưới lòng đất, cách nhiều lớp cửa sắt thì dù ở dưới ngục này có nổ pháo lớn, bên ngoài cũng chẳng ai nghe. Chàng ngoác miệng rống thật to, lúc thì chửi Giang Nam tứ cẩu, lúc thì ca hát om sòm, không kìm được cười lên ha hả một trận. Rồi hắn lại học thuộc khẩu quyết trên thiết bản.
Đột nhiên Lệnh Hồ Xung đọc đến câu: Bây giờ huyệt Đan điền như cái rương trống rỗng, giống như hang sâu. Rương trống có thể đựng đồ, hang sâu có thể chứa nước. Nếu có nội tức, tán ra các huyệt Nhâm mạch.
Mấy câu này, trước đây Lệnh Hồ Xung đã từng mò đến mấy lần, nhưng lòng chàng đối với những pháp môn luyện khí rất chán ghét, nên chữ đã mò qua mà không thèm suy nghĩ hàm ý bên trong. Bây giờ chàng lại thấy rất kỳ quái: Sư phụ dạy ta luyện tập nội công, căn bản phải ngưng tụ khí đầy huyệt Đan điền, trong huyệt Đan điền nội tức càng sung mãn thì nội lực càng mạnh. Tại sao khẩu quyết này lại nói trong huyệt Đan điền không thể để tồn đọng một chút nội tức? Nếu trong huyệt Đan điền không có nội tức thì nội lực từ đâu mà có? Bất kỳ pháp môn luyện công nào cũng đều không giống vậy, đây không phải làm trò cười cho người ta hay sao? Ha ha, con người của Hắc Bạch Tử đê tiện vô liêm sỉ thì ta đem cái pháp môn này truyền cho hắn, làm hắn bị mắc bẫy có sao đâu?
Lệnh Hồ Xung tiếp tục mò chữ trên thiết bản, mày mò suy nghĩ hiểu được hàm ý bên trong. Mấy trăm chữ nầy đều dạy người ta cách tán công thế nào, hóa giải nội tức bản thân ra sao. Càng lúc chàng càng ngạc nhiên: Trong thiên hạ có người nào ngu đến cỡ này, chịu đem nội lực tu luyện cả đời của mình để tìm cách hóa giải hết? Trừ khi người đó quyết ý muốn tự tử. Nếu muốn tự tử cứ đưa kiếm cứa ngang cổ là được rồi, hà tất phải mất công như vậy? Chuyện hóa tán nội lực này so với chuyện tu tập nội lực còn khó hơn nhiều, luyện xong rồi thì dùng để làm gì?
Lệnh Hồ Xung nghĩ một lúc, bất giác thấy chán nản: Hắc Bạch Tử nghe những khẩu quyết và pháp môn này thì biết ta cà rỡn với hắn, làm sao hắn bị mắc bẫy được? Xem ra kế sách này không thông rồi.
Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng buồn bực, miệng vẫn đọc lại những khẩu quyết:
– Đan điền hữu khí, tán chi Nhâm mạch, như cái bộng ống trúc, như cái hang sâu…
Lệnh Hồ Xung đọc một lúc, lòng đầy tức giận, đập xuống thiết bản lớn tiếng thóa mạ: Tổ mẹ nó, lão này bị nhốt trong hắc lao tức giận không tiêu được nên sắp đặt ngụy kế để lừa gạt kẻ khác.
Chàng chửi một lúc thì ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, chàng dường như cảm thấy mình đang dựa theo khẩu quyết trên thiết bản mà luyện công, cái gì “Đan điền hữu khí, tản ra Nhâm mạch” thì có một luồng nội tức lưu động trong Nhâm mạch, tứ chi bách cốt cảm thấy dễ chịu.
Một lúc sau, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, chàng cảm thấy nội tức trong huyệt Đan điền vẫn đang lưu chuyển trút vào Nhâm mạch. Lòng chàng chợt động: Ui chao, không xong rồi. Nội lực của ta không ngừng tan đi như vậy, trong phút chốc không chừng ta biến thành phế nhân mất.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi ngồi bật dậy, nội tức từ trong Nhâm mạch lập tức đổ ngược về, khí huyết nhộn nhạo, đầu nhức mắt hoa, một lúc sau hắn mới định thần lại được.
Bỗng nhiên, chàng nghĩ ra một chuyện, vừa kinh hãi vừa vui mừng: Sở dĩ ta bị trọng thương không giảm là vì cơ thể tích tụ bảy luồng chân khí khác nhau của Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng, đến nỗi ngay cả Bình Nhất Chỉ đại phu cũng không cách chi trị được. Phương trượng Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm nói chỉ có luyện Dịch cân kinh may ra mới hóa giải được. Nội công bí quyết trên thiết bản này dạy ta hóa tán các luồng nội lực trong cơ thể. Ha ha, Lệnh Hồ Xung, sao ngươi u mê quá vậy? Người khác thì sợ nội lực bị mất đi còn ngươi thì sợ nội lực không cách nào hóa tán được. Có cách tuyệt diệu như vậy để luyện công không phải là tốt đẹp sao?
Lệnh Hồ Xung biết chuyện luyện công trong giấc ngủ vừa rồi là ngày nghĩ làm sao đêm chiêm bao làm vậy. Lúc tỉnh dậy, miệng chàng lẩm bẩm đọc thuộc khẩu quyết. Trong khi ngủ mơ, không hiểu sao chàng cứ dựa vào phương pháp đó mà luyện tập nhưng các luồng suy nghĩ còn lộn xộn, không hoàn toàn dựa đúng pháp môn mà luyện. Bây giờ chàng đã hiểu rõ, bèn đọc lại khẩu quyết, tay sờ hai lần vào vết khắc chữ trên thiết bản, lòng càng lúc càng sáng ra, mới ngồi xếp bằng theo trình tự mà luyện tập. Luyện được một canh giờ thì chàng cảm thấy các luồng chân khí dị chủng lưu cữu trong huyệt Đan điền bấy lâu đã hóa tán vào Nhâm mạch được một phần, tuy chưa trục ra khỏi cơ thể nhưng tình trạng khí huyết nhộn nhạo làm chàng đau khổ đã giảm đi nhiều.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy, cả mừng cất tiếng ca hát râm ran. Chàng cảm thấy giọng hát của mình khan lớ khó nghe. Thì ra hôm trước do ngoác miệng la hét đến nỗi khàn cả cổ, cũng có chút kết quả. Chàng thầm nghĩ: Nhậm Ngã Hành ơi Nhậm Ngã Hành! Lão để lại pháp môn khẩu quyết này là để hại người, nào ngờ gặp phải tay ta, chẳng những không có hại mà còn có lợi. Lão mà biết được chuyện này thì e rằng lão tức đến nỗi râu tóc dựng đứng cả lên. Ha ha!
Cứ như vậy, luyện được một chút thì trong người lại dễ chịu một chút. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Sau khi ta đem chân khí của Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng hóa tán đi, ta sẽ dựa vào pháp môn sư phụ đã truyền để luyện lại nội công phái Hoa Sơn. Tuy tất cả được làm lại từ đầu, phải mất nhiều thời gian nhưng ta còn có cơ hội để làm lại cuộc đời. Nếu Hướng đại ca đến cứu được ta ra thì trên giang hồ há không phải ta có lại một cuộc đời mới sao?
Bỗng nhiên chàng lại nghĩ: Sư phụ đã trục xuất ta ra khỏi phái Hoa Sơn, việc gì ta phải luyện nội công phái Hoa Sơn? Trong võ lâm nội công của các môn phái khác rất nhiều, ta có thể học với Hướng đại ca hoặc Doanh Doanh có sao đâu?
Lòng Lệnh Hồ Xung vừa thê lương, vừa hưng phấn. Sau khi ăn cơm xong, chàng luyện công một lúc, cảm thấy dễ chịu vô cùng, bất giác cười to lên. Bỗng nghe tiếng Hắc Bạch Tử ở ngoài cửa nói:
– Chào tiền bối, tiền bối đợi có lâu không?
Thì ra Lệnh Hồ Xung không biết kỳ hạn ba ngày đã hết. Chàng chỉ toàn tâm luyện công tán khí, ngay khi Hắc Bạch Tử đến ngoài cửa cũng không phát giác ra được, may mà giọng nói của chàng đã khàn đục, nên lão không phát hiện ra. Chàng cười khô khan mấy tiếng. Hắc Bạch Tử nói:
– Hôm nay tiền bối rất cao hứng, xin thu nhận đệ tử nhập môn được chăng?
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ta đồng ý thu nhận hắn làm đệ tử rồi truyền cho hắn những pháp môn luyện công này ư? Hắn vừa mở cửa tiến vào thì phát hiện Phong Nhị Trung ta không phải là Nhậm tiền bối, tức nhiên sẽ lập tức trở mặt ngay. Hơn nữa, cho dù người truyền công phu cho hắn đúng là Nhậm tiền bối thì sau khi Hắc Bạch Tử luyện thành, chắc hắn cũng tìm cách giết chết lão, chẳng hạn như trộn thuốc độc vào trong cơm rau. Phải rồi, Hắc Bạch Tử muốn hạ độc ta thật dễ như trở bàn tay. Hắn học được khẩu quyết rồi, làm sao thả ta ra được? Mười hai năm nay Nhậm lão tiền bối không chịu truyền cho hắn là vì vậy.
Hắc Bạch Tử không nghe Lệnh Hồ Xung trả lời, liền nói: Sau khi tiền bối truyền công phu, đệ tử liền đi lấy rượu ngon gà béo đến hiếu kính tiền bối.
Lệnh Hồ Xung bị cầm tù nhiều ngày, ngày nào cũng ăn cơm rau với đậu hũ, nên vừa nghe nói đến rượu ngon gà béo, bất giác thèm đến nhỏ dãi, bèn nói:
– Được, ngươi đi lấy rượu ngon gà béo đến đây trước, sau khi ta ăn xong, lòng cao hứng thì sẽ truyền chút công phu cho ngươi.
Hắc Bạch Tử vội nói:
– Được, được, tại hạ sẽ đi lấy rượu ngon gà béo. Nhưng hôm nay không được rồi, nếu ngày mai có cơ hội, tại hạ sẽ đem đến phụng hiến.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Vì sao hôm nay không được?
Hắc Bạch Tử đáp:
– Muốn đến chỗ này, phải đi qua phòng ngủ của đại ca. Đệ tử chỉ thừa cơ hội lúc đại ca đi ra ngoài mới có thể… mới có thể…
Lệnh Hồ Xung hừ một tiếng không nói gì nữa.
Hắc Bạch Tử nơm nớp sợ Hoàng Chung Công trở về phòng nên không dám chần chừ lâu, liền cáo từ quay về.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Làm sao có thể đưa hắn vào trong lao? Đánh chết hắn ư? Tên này rất xảo quyệt, quyết không dễ bị mắc bẫy, huống chi dây xích chân tay ta không đứt thì dù có đánh chết Hắc Bạch Tử, ta cũng không thể thoát ngục được.
Lệnh Hồ Xung chuyển đổi ý nghĩ. Chàng luồn mấy ngón tay phải vào vòng sắt bên cổ tay trái, dùng lực tiện tay kéo thử. Bỗng nhiên cái vòng sắt hở ra. Chàng kéo thêm vài cái nữa thì cổ tay trái đã thoát khỏi cái vòng sắt.
Chuyện này vượt ngoài sự liệu đoán của mình khiến Lệnh Hồ Xung vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Chàng sờ lên vòng sắt, thì ra ở giữa vòng có một kẽ hở, nhưng nếu nội lực của chàng chưa hóa tán thì dù vòng có hở cũng không kéo ra được. Bây giờ Lệnh Hồ Xung đã tán nội tức được hai ngày, chân khí của Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng truyền vào cơ thể đã hút vào Nhâm mạch, đương nhiên phát xuất nguồn nội lực rất mạnh. Chàng lại sờ lên vòng sắt trên phải, quả nhiên cũng có một kẽ hở nhỏ . Kẽ hở này trước đây không biết chàng đã sờ qua bao nhiêu lần nhưng không ngờ được nó là chỗ bị cắt đứt. Lệnh Hồ Xung liền sử kình lực lên tay trái, kéo vòng tròn trên cổ tay phải ra, tiếp theo chàng mò đến hai vòng sắt dưới hai cổ chân, cũng đều có vết cắt đứt. Chàng vận kình lực kéo ra từng cái, mệt đến nỗi mồ hôi ướt đẫm cả người, hơi thở hồng hộc. Toàn thân không bị ràng buộc nữa, Lệnh Hồ Xung rất lấy làm lạ, tự hỏi: Tại sao trên mỗi vòng sắt đều có dấu cắt? Mấy cái vòng sắt như vậy làm sao có thể xích người được?
Hôm ấy lúc lão già đem cơm đến, Lệnh Hồ Xung đưa vòng sắt lên xem dưới ánh đèn thấy chỗ cắt vòng sắt có những vết răng cưa rất nhỏ, rõ ràng có người dùng một cái cưa bằng thép để cưa đứt bốn cái vòng xích tay chân. Chỗ cưa phát ra ánh sáng lấp lánh, chưa bị rỉ sét, thì ra mấy cái vòng sắt này được cưa cách đây không lâu. Tại sao mấy cái vòng sắt này vẫn được bóp lại để xích lấy tay chân hắn?
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Có lẽ có người ngấm ngầm tìm cách cứu ta. Địa lao này bí mật như vậy, người ngoài quyết không cách nào đột nhập được, người cứu ta đương nhiên là nhân vật trong Mai trang. Chắc người đó không nỡ thấy ta bị ám toán, cho nên lúc ta hôn mê bất tỉnh mới ngấm ngầm dùng cưa nhỏ cưa đứt những cái vòng xích tay chân ta. Người này chắc không muốn công nhiên gây thù địch với người trong Mai trang nên đành chờ cơ hội đến thả ta ra.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, tinh thần phấn khởi. Nhưng ai là người đã cứu ta? Cửa địa đạo này nằm dưới giường của Hoàng Chung Công, nếu Hoàng Chung Công muốn cứu ta thì lúc nào ra tay cũng được, đâu cần phải kéo dài thời gian như vậy. Hắc Bạch Tử đương nhiên không phải. Trong hai người Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh, Đan Thanh tiên sinh và ta là tri kỷ ẩm tửu, giao tình khác với mọi người. Chắc hẳn người ấy không ai khác ngoài Đan Thanh tiên sinh.
Lệnh Hồ Xung chợt nhớ đến chuyện ngày mai Hắc Bạch Tử đến, thầm nghĩ: Ta chỉ thuận miệng đồng ý, để gạt hắn uống rượu ăn thịt, dạy cho hắn một chút công phu giả thì có hề gì?
Nhưng Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Đan Thanh tiên sinh bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến cứu ta ra nên ta phải mau học thuộc lòng pháp môn khẩu quyết trên thiết bản.
Lệnh Hồ Xung mò chữ nào miệng liền đọc ra chữ đó, lòng cố ghi nhớ. Trước đây không để ý, bây giờ hắn muốn thuộc làu không sai sót thì không phải chuyện dễ. Chữ trên thiết bản rất tháu, Lệnh Hồ Xung đọc sách không nhiều nên có những chữ viết tháu không biết, đành phải cố nhớ nét bút. Lòng nghĩ pháp môn công phu thượng thừa này hễ sai một chữ dễ khiến người luyện công bị lạc vào đường rẽ, kết quả sẽ trái ngược. Chỉ cần luyện sai một chút sẽ khó tránh khỏi bị tẩu hỏa nhập ma. Sau khi thoát khỏi lao tù, mình không còn cơ hội trở lại đối chiếu nữa nên phải nhớ kỹ không được sai sót chữ nào. Chàng đọc đi đọc lại nhiều lần, cho đến lúc thuộc làu làu mới an tâm nằm ngủ.
Trong giấc ngủ, Lệnh Hồ Xung mơ thấy Đan Thanh tiên sinh đến mở cửa ngục thả mình ra. Chàng giật mình tỉnh dậy mới hiểu đây chỉ là giấc mộng nhưng cũng không lấy làm chán nản, thầm nghĩ: Hôm nay lão không đến cứu, chẳng qua là chưa có cơ hội. Không bao lâu nữa lão sẽ đến cứu ta.
Lệnh Hồ Xung nghĩ khẩu quyết pháp môn trên thiết bản này đối với mình vô cùng có ích còn đối với người khác thì rất có hại. Sau này nếu có người bị giam cầm trong hắc lao, người đó chắc là người tốt, thì không thể để họ bị mắc bẫy của Nhậm Ngã Hành. Chàng liền mò vết chữ, đọc từ đầu đến cuối khoảng mười bận rồi cầm cái vòng sắt bạt mất mười mấy chữ trong đó.
Hôm ấy, Hắc Bạch Tử chưa đến, Lệnh Hồ Xung cũng không thèm để ý. Chàng cứ dựa theo khẩu quyết pháp môn tiếp tục luyện tập. Mấy ngày sau Hắc Bạch Tử cũng chưa đến, Lệnh Hồ Xung tự cảm thấy việc luyện công có tiến bộ nhiều, những luồng chân khí dị chủng của Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng lưu lại trong cơ thể đã có sáu bảy phần trong huyệt Đan điền bị trục đi, tản vào Nhâm mạch. Chàng nghĩ chỉ cần mình kiên trì tất có thể trục xuất chúng đi hết.
Mỗi ngày Lệnh Hồ Xung đọc thuộc khẩu quyết đến chục lần rồi bạt đi mấy chục chữ trên thiết bản. Chàng tự cảm thấy lực khí càng lúc càng mạnh, dùng vòng sắt bạt vết chữ khắc trên thiết bản mà gần như không tốn một chút khí lực. Cứ như vậy qua hơn một tháng, tuy Lệnh Hồ Xung ở trong địa lao cũng cảm thấy khí nóng nực dần dần giảm đi, bèn nghĩ: Trong chốn âm u quả có ý trời. Nếu ta bị giam ở đây vào mùa đông thì chắc không phát hiện được chữ khắc trên thiết bản. Không chừng chưa đến mùa nóng thì Đan Thanh tiên sinh đã đến cứu ta ra rồi.
Chàng đang nghĩ đến đây, bỗng nghe dưới địa đạo truyền lại bước chân của Hắc Bạch Tử.
Lệnh Hồ Xung đang nằm liền xoay người quay mặt vào tường. Hắc Bạch Tử đến ngoài cửa nói:
– Nhậm… Nhậm lão tiền bối, vãn bối thật có lỗi. Hơn một tháng nay đại ca của vãn bối không bước chân ra khỏi phòng. Ngày nào vãn bối cũng sốt ruột vô cùng, chỉ muốn đến xin vấn an tiền bối lão nhân gia… Tiền bối lão nhân gia xin đừng trách.
Một làn hương rượu và mùi thịt gà từ lỗ vuông xông vào mũi. Đã lâu ngày, Lệnh Hồ Xung không có giọt rượu liếm môi. Chàng vừa ngửi được mùi rượu thơm thì sao còn nhịn được nữa, liền quay lại nói:
– Đem rượu và đồ nhắm đến cho ta ăn rồi hãy nói.
Hắc Bạch Tử hỏi:
– Dạ, dạ. Tiền bối đồng ý truyền bí quyết thần công cho vãn bối ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Mỗi lần ngươi đem đến cho ta ba cân rượu, một con gà thì ta sẽ truyền cho ngươi bốn câu khẩu quyết. Đợi ta uống ba ngàn cân rượu, ăn hết một ngàn con gà thì khẩu quyết cũng truyền nhiều lắm rồi.
Hắc Bạch Tử nói:
– Như vậy thì chậm quá, chỉ e lâu ngày sẽ sinh biến cố. Mỗi lần vãn bối đem đến sáu cân rượu, hai con gà, tiền bối truyền cho tám câu khẩu quyết được không?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ngươi tham lam quá. Thôi cũng được. Đem đây! Đem đây!
Hắc Bạch Tử bưng khay gỗ đưa từ lỗ vuông vào, trên khay gỗ quả có đặt một bình rượu lớn và một con gà béo.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ta chưa truyền khẩu quyết thì ngươi không thể hạ độc cho ta chết được.
Chàng liền cầm bình rượu lên uống ừng ực. Rượu này chẳng phải loại mỹ tửu, nhưng bây giờ hắn uống vào thấy thơm ngon vô cùng, cơ hồ rượu Bồ đào Thổ L ỗ Phồn bốn lần chưng bốn lần cất của Đan Thanh tiên sinh cũng không bằng. Chàng uống một hơi hết nửa bình, rồi xé một cái đùi gà bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm. Trong phút chốc, một bình rượu và một con gà chàng ngốn hết sạch, vỗ bụng khen:
– Rượu ngon! Gà béo!
Hắc Bạch Tử cười nói:
– Lão gia tử ăn gà béo uống rượu ngon rồi, xin truyền khẩu quyết cho tại hạ đi.
Lệnh Hồ Xung nghe lão không đề cập đến chuyện bái sư, cho rằng mình vừa uống rượu ăn thịt, nhất thời không nhớ nên lão không thèm đề cập đến, bèn nói:
– Được, bốn câu khẩu quyết này, ngươi cố nhớ cho kỹ: “Kỳ kinh bát mạch, trong có nội tức, tụ ở Đan điền, hội ở Đản trung”. Ngươi có hiểu không?
Nguyên câu khẩu quyết trên thiết bản là: “Nội tức ở Đan điền tản ra tứ chi, chân khí ở Đản trung phân vào tám mạch”. Lệnh Hồ Xung cố ý đảo ngược lại. Hắc Bạch Tử vừa nghe liền cảm thấy bốn câu khẩu quyết này không có gì lạ, chỉ là pháp môn luyện khí phổ thông, lão liền nói:
– Bốn câu này, tại hạ đã lĩnh hội rồi, xin tiền bối truyền cho bốn câu nữa.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bốn câu này ta đổi thành tầm thường, hắn chưa thỏa mãn nên phải đọc bốn câu vô cùng cổ quái để hù dọa hắn chơi. Bèn nói:
– Hôm nay là ngày đầu tiên, ta du di truyền thêm cho ngươi bốn câu nữa, ngươi nhớ cho kỹ: “Chấn động cho đứt mạch Dương duy, chặn đường mạch Âm kiều, tám mạch đều đứt đoạn, thần công mới luyện thành”.
Hắc Bạch Tử giật mình kinh hãi nói:
– Chuyện này… chuyện này… nếu kỳ kinh bát mạch trong người bị đứt hết thì làm sao còn sống được nữa? Chuyện này… bốn câu khẩu quyết này vãn bối thật không hiểu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Thần công đại pháp này nếu ai ai cũng có thể lĩnh hội được thì còn gì là kỳ lạ nữa? Trong bốn câu này dĩ nhiên có rất nhiều chỗ tinh vi ảo diệu, người thường không dễ hiểu nổi đâu.
Hắc Bạch Tử nghe đến đây thì cảm thấy ngữ khí và cách dùng từ của Lệnh Hồ Xung khác hẳn lão họ Nhậm, bất giác lão sinh lòng nghi ngờ. Hai lần trước Lệnh Hồ Xung nói rất ít, giọng nói lại rất hàm hồ. Lần này sau khi ăn uống no say, tinh thần phấn chấn nên nói nhiều. Hắc Bạch Tử vô cùng tinh tế, lão liền sinh lòng hoài nghi, đoán rằng Lệnh Hồ Xung có ý bịa đặt khẩu quyết để trêu chọc mình. Lão bèn nói:
– Tiền bối nói: “Tám mạch đều đứt đoạn, thần công mới luyện thành”, chẳng lẽ kỳ kinh bát mạch của lão gia tử đều bị đứt đoạn rồi sao?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tất nhiên là vậy.
Lệnh Hồ Xung nghe trong ngữ khí của Hắc Bạch Tử bắt đầu có mối nghi ngờ nên hắn không dám nhiều lời với lão nữa, bèn nói:
– Tất cả đã truyền xong, ngươi cố suy nghĩ tất sẽ hiểu rõ.
Lệnh Hồ Xung nói vậy, liền để bình rượu lên khay gỗ rồi đưa ra lỗ vuông. Hắc Bạch Tử đưa tay nhận lấy.
Đột nhiên Lệnh Hồ Xung la trời ơi một tiếng, thân người xông về phía trước, rầm một tiếng, trán của hắn va vào cửa sắt.
Hắc Bạch Tử giật mình nói:
– Sao vậy?
Lão là người có võ công cao cường nên phản ứng rất nhanh. Lão đưa tay vào trong lỗ vuông, nắm chắc khay gỗ vì sợ bình rượu rơi xuống đất vỡ tan.
Trong thời gian chớp nhoáng, Lệnh Hồ Xung xoay tay trái nắm chặt cổ tay phải của lão cười nói:
– Hắc Bạch Tử, ngươi nhìn xem ta là ai?
Hắc Bạch Tử kinh hãi, run run nói:
– Tiền bối… tiền bối…
Lúc Lệnh Hồ Xung đưa cái khay gỗ ra, không có ý định nắm chặt cổ tay của lão. Nhưng dưới ánh đèn dầu mờ mờ chàng nhìn thấy bàn tay của Hắc Bạch Tử ngoài lỗ vuông, để chờ nhận khay gỗ đưa ra. Bỗng nhiên trong lòng Lệnh Hồ Xung dậy lên một sự căm phẫn khó kìm chế được. Chàng bị giam trong ngục này lâu ngày hoàn toàn là do gian kế của lão mà ra, nếu có thể vặn gãy cổ tay của lão thì cũng đủ để hả nỗi căm giận trong lòng. Lệnh Hồ Xung lại nghĩ lão sơ ý bị nắm chặt nên bỗng nhiên giật mình kinh hãi, lão gian xảo như vậy, mình dọa cho lão mất vía cũng đâu có sao? Lệnh Hồ Xung không có ý báo thù, nhất thời động tính trẻ con, nên giả đò té ngã như vậy để dụ lão đưa tay vào, liền nắm lấy cổ tay lão.
Hắc Bạch Tử vốn là người rất nhanh nhạy nhưng sự việc xảy ra quá đột ngột, không hề có dấu hiệu báo trước nên không kịp đề phòng. Lòng lão cảm thấy hơi bất ổn thì cổ tay đã bị Lệnh Hồ Xung nắm chặt, năm ngón tay của đối phương giống như một cái gọng kìm bằng sắt khóa chặt hai huyệt Nội quan và Ngoại quan trên cổ tay lão, lão liền xoay tay ra chiêu cầm nã.
Rầm một tiếng, ba ngón chân trái của lão liền bị gãy, lão đau quá la oai oái.
Tại sao cổ tay phải của Hắc Bạch Tử bị nắm chặt mà mấy ngón chân trái của lão lại bị gãy? Thì ra, Hắc Bạch Tử xưa nay rất kính sợ đối phương, bây giờ cổ tay bị nắm chặt, lão liền nghĩ đến tính mạng vội sử ngay chiêu Giao long xuất uyên. Chiêu này sử lúc cổ tay bị người khác nắm chặt, cánh tay đập mạnh vào phía trong, chân trái đồng thời đá mạnh ra. Thế cước này rất lợi hại, nếu đá trúng ngực địch nhân thì người bị đá phải thổ huyết tại chỗ. Nếu địch nhân là cao thủ biết né tránh thì phải lập tức buông tay người đá ra, nếu không thì không còn cách nào né tránh một cước vào ngực. Chuyện xảy ra quá bất ngờ, Hắc Bạch Tử sốt ruột muốn thoát hiểm, quên mất giữa lão và Lệnh Hồ Xung còn cách nhau một cái cửa sắt rất dày. Chiêu Giao long xuất uyên này lão sử đến nơi đến chốn, cước này nhắm đá chuẩn xác vào bộ vị, lực đạo lại cực mạnh. Chỉ tiếc rầm một tiếng, lão đá trúng vào cửa sắt!
Lệnh Hồ Xung nghe cửa bị đá một cái rầm, hiểu ra rằng mình hoàn toàn nhờ cánh cửa sắt bảo vệ mới thoát khỏi đòn cước lợi hại vừa rồi của Hắc Bạch Tử. Chàng nhịn không được, cười lên ha hả, nói:
– Đá một cước nữa đi, đá thật mạnh như vậy thì ta mới buông ngươi ra.
Bỗng nhiên Hắc Bạch Tử cảm thấy nội lực trong hai huyệt Nội quan và Ngoại quan của tay phải tiết ra ào ạt. Bất giác lão nhớ ra đây là chuyện đáng sợ nhất trong đời, hồn xiêu phách tán, lão vừa vận lực ngưng khí vừa van xin:
– Lão… lão gia tử, cầu xin lão… lão…
Hắc Bạch Tử vừa mở miệng thì nội lực càng ào ạt tiết ra, lão đành phải im miệng nhưng nội lực vẫn không ngừng tiết ra ngoài.
Sau khi Lệnh Hồ Xung tự luyện công phu trên thiết bản, huyệt Đan điền của chàng như ống trúc rỗng ruột, như cái hang trống không. Bây giờ chàng cảm thấy trong huyệt Đan điền có khí truyền vào nhưng không để ý. Cánh tay của Hắc Bạch Tử không ngừng run bần bật, rõ ràng lão rất sợ hãi. Khí giận trong lòng Lệnh Hồ Xung chưa vơi, chàng muốn hăm dọa lão, liền quát:
– Ta truyền công phu cho ngươi thì ngươi là đệ tử của bổn môn rồi. Ngươi khi sư diệt tổ thì đáng tội gì?
Hắc Bạch Tử cảm thấy nội lực tiết ra càng lúc càng nhiều, lão gắng gượng ngưng khí thì tạm thời dừng lại được một chút, nhưng cũng phải thở, lúc hít thở thì nội lực lại tiết ra. Bây giờ lão đã quên cái chân đau, chỉ cầu cho tay phải rút ra khỏi lỗ vuông, dù mất đi một tay, một chân cũng cam lòng. Lão nghĩ đến đây, liền đưa tay rút trường kiếm ở sau lưng ra.
Hắc Bạch Tử vừa cử động thì hai huyệt Nội quan và Ngoại quan trên cổ tay dường như mở ra hai chỗ khuyết lớn, nội lực toàn thân lập tức tuôn ra dữ dội như nước vỡ đê, khó mà ngăn chặn lại. Hắc Bạch Tử biết chỉ cần kéo dài thêm một chút nữa thì nội lực toàn thân sẽ bị đối phương hút hết, liền gắng gượng rút trường kiếm ra, cắn chặt răng vung lên toan chặt cánh tay của mình. Nhưng lão vừa vận lực thì nội lực tuôn ra, tai lão ù rồi ngất đi.
Lệnh Hồ Xung nắm cổ tay lão, chẳng qua chỉ muốn hăm dọa, nhiều lắm là vặn gãy xương cổ tay cho hả giận, không ngờ lão sợ đến hồn xiêu phách tán rồi ngất đi. Lệnh Hồ Xung cười ha hả rồi buông tay lão ra, nhưng vừa buông tay thì thân người Hắc Bạch Tử ngã xuống, tay phải từ lỗ vuông rút về.
Bỗng nhiên trong đầu Lệnh Hồ Xung lóe lên một ý nghĩ. Chàng vội chụp cánh tay của lão lại. May mà động tác của chàng cực kỳ nhanh, kịp thời kéo lão lại được. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Sao ta không dùng vòng sắt để khóa hắn lại, bức bọn Hoàng Chung Công thả ta ra?
Lệnh Hồ Xung liền vận lực kéo cổ tay của Hắc Bạch Tử đến gần, nào ngờ vừa kéo thì cái đầu của Hắc Bạch Tử chui qua lỗ vuông. Vù một tiếng, cả thân người lão đều chui tọt vào trong lao.
Tình cảnh này thật quá sức tưởng tượng, Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, thầm chửi mình ngu. Cái lỗ hổng này rộng hơn một thước vuông, chỉ cần cái đầu chui qua được thì cả người cũng chui qua luôn. Hắc Bạch Tử đã có thể vào đây, sao mình không thử chui ra? Trước đây tứ chi đều bị xích chặt, không có cách nào vượt ngục, nhưng mấy sợi dây xích đã sớm có người bí mật cưa ra rồi, tại sao không trốn đi?
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Đan Thanh tiên sinh ngấm ngầm cưa đứt xích cho ta, ngày ngày mong muốn ta đi theo lão già đem cơm mà vượt ngục đào tẩu. Chắc Đan Thanh tiên sinh sốt ruột lắm?
Lệnh Hồ Xung phát hiện xích sắt đã bị người cưa đứt đúng vào lúc mình đang luyện công, toàn bộ tinh thần để hết vào việc ấy. Vả lại lúc đó chàng chưa thuộc những công phu trên thiết bản, nên chưa muốn rời khỏi đây.
Lệnh Hồ Xung trầm ngâm một lúc rồi quyết định chủ ý, lật đật cởi hết quần áo của Hắc Bạch Tử và của mình ra, hoán đổi cho nhau, lấy luôn cả cái bao trùm đầu của y. Chàng nghĩ: Lúc ta ra khỏi đây dù gặp người khác, bọn chúng cũng chỉ biết ta là Hắc Bạch Tử mà thôi.
Lệnh Hồ Xung lấy trường kiếm của Hắc Bạch Tử giắt vào lưng. Có kiếm bên mình, tinh thần phấn chấn lên. Chàng lại đem xích sắt khóa chân tay của Hắc Bạch Tử lại, dùng lực bóp mạnh. Mấy cái vòng sắt ép chặt vào da thịt lão.
– Hai chúng ta thay đổi địa vị cho nhau! Lão già mỗi ngày sẽ đem cơm nước đến cho ngươi.
Hắc Bạch Tử vừa rên vừa nói:
– Nhậm… Nhậm lão gia tử… Hấp… hấp tinh đại pháp của Nhậm lão gia tử…
Hôm Lệnh Hồ Xung liên thủ với Hướng Vấn Thiên kháng địch ở ngoài bãi hoang, nghe có người trong đối phương la lên: “Hấp tinh đại pháp”, bây giờ lại nghe Hắc Bạch Tử nhắc lại bèn hỏi:
– Hấp tinh đại pháp cái gì?
Hắc Bạch Tử nói:
– Vãn bối… vãn bối… đáng… đáng chết…
Lệnh Hồ Xung chỉ quan tâm đến chuyện thoát thân, nên không thèm để ý gì đến lão. Từ lỗ vuông chàng chui đầu ra, hai cánh tay từ từ đưa ra ngoài nhẹ đẩy cánh cửa sắt. Thân người chuồn ra rồi, liền đứng vững xuống đất, cảm thấy trong huyệt Đan điền lại tích trữ nhiều nội lực rất khó chịu. Lệnh Hồ Xung không biết những nội lực này có được là do hút trong người của Hắc Bạch Tử. Chàng chỉ nghĩ tại lâu không luyện công nên nội lực của Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng lại trở về huyệt Đan điền. Bây giờ chàng chỉ mong mau thoát khỏi hắc ngục liền cầm đèn dầu Hắc Bạch Tử để lại, từ trong địa đạo đi ra. Trong địa đạo cửa chỉ khép hờ, chàng đoán rằng Hắc Bạch Tử đợi lúc đi ra mới khóa lại. Lệnh Hồ Xung vượt qua từng cánh cửa kiên cố, nhớ lại những ngày ở trong hắc lao thật giống như đã trải qua một đời người. Đột nhiên, đối với bọn Hoàng Chung Công chàng cũng không còn thù hận gì, cảm thấy mình được tự do thì cái gì cũng không màng tới nữa.
Lệnh Hồ Xung đi đến đầu địa đạo, liền bước theo bậc tam cấp mà lên. Trên đầu là một tấm thiết bản, chàng nghiêng tai lắng nghe không có động tĩnh gì. Từ lúc trải qua hiểm họa này, thì tất cả chàng đều cẩn thận. Lệnh Hồ Xung không nhảy lên liền, đứng dưới thiết bản đợi một lúc lâu, vẫn không nghe có động tĩnh. Chàng biết xác thực Hoàng Chung Công không có trong phòng ngủ, bèn nhẹ đẩy tấm thiết bản ra rồi vọt người lên. Lệnh Hồ Xung đặt tấm thiết bản lại đúng vị trí, kéo chiếu phủ lên rồi rón rén đi ra ngoài. Bỗng nghe phía sau có người hỏi nhỏ:
– Nhị đệ, nhị đệ xuống đó làm gì vậy?
Lệnh Hồ Xung giật mình quay đầu lại, thấy Hoàng Chung Công, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh cả ba người đều cầm binh khí vây quanh. Chàng không biết trên cửa hang bí mật cài đặt những bộ phận báo động, khi mạo nhiên xông ra như vậy, mấy cái lục lạc trên cơ quan phát ra tiếng rung lớn, bọn Hoàng Chung Công ba người chạy đến. Chỉ vì trên đầu Lệnh Hồ Xung trùm bao, lại mặc trường bào của Hắc Bạch Tử nên không ai nhận ra được. Chàng giật mình nói:
– Tiểu đệ… tiểu đệ…
Hoàng Chung Công lạnh lùng nói:
– Tiểu đệ cái gì? Ta thấy ngươi có thái độ bất chính, từ lâu ta đoán được ngươi muốn cầu xin Nhậm Ngã Hành dạy ngươi luyện Hấp tinh yêu pháp đó. Hừ hừ, năm xưa ngươi đã thề thốt thế nào?
Lòng Lệnh Hồ Xung hỗn loạn, không biết nên bộc lộ chân tướng của mình hay nên mạo xưng Hắc Bạch Tử. Chàng nhất thời chưa có chủ ý, rút trường kiếm sau lưng ra nhắm vào Ngốc Bút Ông mà đâm. Ngốc Bút Ông tức giận nói:
– Hảo nhị ca, muốn động kiếm thật sao?
Lão giơ bút lên đỡ. Chiêu kiếm này của Lệnh Hồ Xung chỉ là hư chiêu, thừa lúc lão giơ bút lên đỡ, liền co giò chạy. Bọn Hoàng Chung Công ba người đuổi theo. Lệnh Hồ Xung đề khí chạy rất nhanh, trong khoảnh khắc đã chạy đến đại sảnh. Hoàng Chung Công la to:
– Nhị đệ, nhị đệ, nhị đệ đi đâu vậy?
Lệnh Hồ Xung không trả lời, vẫn co giò chạy nhanh. Bỗng chàng thấy có người đứng giữa cổng lớn nói:
– Nhị trang chủ, xin dừng bước.
Lệnh Hồ Xung đang chạy rất nhanh, không kịp dừng bước, bịch một tiếng chàng đụng mạnh vào người đó. Thế xông ra của Lệnh Hồ Xung rất mạnh, người đó bay ra ngoài mấy trượng. Lệnh Hồ Xung vội nhìn lại, thì ra đó là Nhất tự điện kiếm Đinh Kiên đang nằm thẳng cẳng dưới đất, thân người thật giống hình chữ “Nhất”, nhưng hai chữ “điện kiếm” thì chẳng giống chút nào.
Chân không dừng bước, Lệnh Hồ Xung vùng chạy thẳng ra con đường nhỏ. Bọn Hoàng Chung Công chạy đến cổng chính thì dừng lại. Đan Thanh tiên sinh lớn tiếng nói:
– Nhị ca, nhị ca mau quay về, huynh đệ chúng ta có gì không phải thì nói…
Lệnh Hồ Xung chỉ lựa những đường nhỏ hoang vắng mà chạy như bay đến nơi sơn dã không có bóng người, hiển nhiên đã cách xa Hàng Châu. Chân chàng hầu như chân không chạm đất nhưng lúc dừng lại cũng không thở hồng hộc, so với trước lúc bị thương, công lực dường như còn mạnh hơn nhiều.
Lệnh Hồ Xung cởi khăn trùm đầu ra, nghe tiếng nước chảy róc rách. Miệng đang khát, chàng liền đi theo tiếng nước chảy đến bên một khe núi, toan cúi xuống hớp nước uống, thấy mặt nước in hình một bóng người râu tóc xồm xoàm, mặt đầy cáu ghét trông rất xấu xí, bẩn thỉu.
Lệnh Hồ Xung giật mình, ồ lên một tiếng rồi phì cười. Ở trong ngục mấy tháng không được tắm gội, dĩ nhiên người đầy cáu ghét. Bây giờ chàng cảm thấy toàn thân ngứa ngáy, liền cởi áo bào, nhảy xuống suối tắm rửa, thầm nghĩ: Bùn đất trên người ta không được nửa gánh thì cũng đến ba chục cân.
Lệnh Hồ Xung tắm rửa sạch sẽ, uống mấy ngụm nước trong, bới tóc lên đỉnh đầu, nhìn vào nước thấy đã hồi phục lại gương mặt như xưa, chẳng còn giống chút nào gương mặt sưng húp của lão Phong Nhị Trung.
Lúc mặc áo vào, Lệnh Hồ Xung cảm thấy khí huyết trong ngực khó chịu, bèn ngồi bên khe suối luyện công một lát, cảm thấy nội tức trong Đan điền đã tan vào kinh kỳ bát mạch, trong huyệt Đan điền lại giống như cái ống trúc rỗng, như hang sâu trống không. Toàn thân phấn chấn, chàng vô cùng sung sướng không nói nên lời. Lệnh Hồ Xung không biết mình đã luyện thành công công phu lợi hại đệ nhất đương thời, tám luồng chân khí của Đào Cốc lục tiên, Bất Giới hòa thượng và Phương Sinh đại sư lúc ở chùa Thiếu Lâm trị thương cố nhiên đều được hóa giải đi hết. Vừa rồi, chàng lại nắm cổ tay của Hắc Bạch Tử, đã hút hết nội công luyện tập cả đời của lão vào trong huyệt Đan điền rồi tán vào kỳ kinh bát mạch nên lại được thêm công lực của một cao thủ, đương nhiên tinh thần rất phấn chấn.
Lệnh Hồ Xung nhảy lên, rút trường kiếm ra, thuận tay chém cây liễu rủ xuống bên bờ suối. Cổ tay chỉ lướt một cái, soạt nhẹ một tiếng, trường kiếm đã tra vào vỏ, chân trái mới chạm đất. Chàng ngẩng đầu lên thấy năm lá liễu từ từ bay xuống. Trường kiếm lần thứ hai lại rút ra khỏi vỏ, thân người xoay một vòng trong không trung, năm lá liễu đều dính vào lưỡi kiếm. Lệnh Hồ Xung đưa tay trái cầm một lá liễu trên lưỡi kiếm, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng khôn xiết. Bỗng nhiên lòng chàng chua xót nghĩ: Công phu của ta, bất luận thế nào sư phụ và sư nương dạy cũng không được như vậy. Nhưng thà ta chịu như trước đây, nội lực kiếm pháp không bằng ai mà vẫn được ở trong phái Hoa Sơn, tiêu diêu khoái lạc, sớm chiều đều gặp mặt tiểu sư muội, còn hơn là một mình cô độc trên giang hồ, lập lờ như bóng du hồn dạ quỷ.
Lệnh Hồ Xung tự cảm thấy võ công trong đời mình chưa bao giờ cao như lúc này. Và chàng cũng cảm thấy chưa bao giờ tịch mịch thê lương như bây giờ. Bản tính Lệnh Hồ Xung thích náo nhiệt, thích giao hảo với bạn và rượu. Mấy tháng qua bị cầm tù ở địa lao, cô độc một mình là lẽ đương nhiên. Bây giờ thân được tự do, nhưng vẫn cô đơn quạnh quẽ một mình. Chàng đứng một mình bên bờ suối, cảm giác hớn hở vui mừng đã giảm dần. Gió mát lùa vào người, ánh trăng mờ nhạt chiếu xuống, lòng chàng cảm thấy trống vắng vô ngần.
Lệnh Hồ Xung đứng lặng yên rất lâu, thấy trăng đã lên cao, đêm đã khuya. Lòng còn vô số điều hoài nghi nên chàng nghĩ phải đến Mai trang điều tra cho rõ. Nếu tiền bối họ Nhậm không phải là hạng người đại gian đại ác thì phải cứu lão thoát khỏi ngục tù.
Lệnh Hồ Xung liền xác định hướng, nhắm phía Mai trang mà đi. Sau khi đến Cô Sơn, xuyên qua khu rừng đến gần Mai trang, nghe trong trang tĩnh lặng không một tiếng động, chàng nhẹ nhàng nhảy lên bức tường. Mười mấy gian phòng đều tối om, chỉ gian phòng mé phải là có ánh đèn. Chàng đề khí nhẹ bước đến cửa sổ thì nghe tiếng một lão già quát:
– Hoàng Chung Công, ngươi đã biết tội chưa?
Giọng của lão vô cùng gay gắt.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy kỳ quái, vì thân phận của Hoàng Chung Công cao như vậy mà lại bị lão này hỏi một cách xấc xược. Chàng cúi thấp người xuống nhìn qua khe cửa sổ, thấy bốn người phân ra ngồi trên bốn cái ghế, ba người trong bọn họ đều là lão già năm sáu chục tuổi, còn một người là phụ nữ trung niên. Bốn người đều mặc áo đen, lưng thắt đai vàng. Hoàng Chung Công, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh đứng trước mặt bốn người, quay lưng về hướng cửa sổ. Lệnh Hồ Xung nhìn không được vẻ mặt của ba người họ nhưng thấy người ngồi kẻ đứng là đã phân biệt được tôn ty.
Nghe Hoàng Chung Công nói:
– Dạ, thuộc hạ biết tội rồi. Bốn vị trưởng lão giá lâm, thuộc hạ không nghênh tiếp từ xa. Thật đắc tội, đắc tội!
Lão già thân người ốm nhom ngồi trên ghế cười nhạt nói:
– Hừ, không nghênh tiếp từ xa có gì mà đắc tội? Ngươi thật khéo giả bộ. Hắc Bạch Tử đâu? Sao hắn không đến gặp ta?
Lệnh Hồ Xung cười thầm: Hắc Bạch Tử bị ta nhốt trong địa lao, bọn Hoàng Chung Công lại cho rằng hắn đã đào tẩu. Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Tại sao là trưởng lão, thuộc hạ? Đúng rồi, bọn họ đều là người trong Ma giáo.
Hoàng Chung Công nói:
– Bốn vị trưởng lão, thuộc hạ quản giáo không nghiêm, tính tình của Hắc Bạch Tử này ương bướng, gần đây lại tệ hại hơn nhiều. Ngày hôm nay hắn không ở trong trang.
Hai mắt lão già nhìn trừng trừng, đột nhiên chiếu ra những tia tinh quang rùng rợn. Lão lạnh lùng nói:
– Hoàng Chung Công, giáo chủ ra lệnh cho các ngươi trông coi Mai trang là bảo các ngươi ở đây gảy đàn, uống rượu, hội họa tiêu khiển có phải không?
Hoàng Chung Công cúi người nói:
– Bốn người thuộc hạ phụng chỉ của giáo chủ ở đây cai quản trọng phạm.
Lão già nói:
– Đúng thế. Vậy các ngươi ở đây cai quản trọng phạm thế nào?
Hoàng Chung Công nói:
– Khải bẩm trưởng lão, trọng phạm đó vẫn bị giam trong địa lao. Mười hai năm nay, thuộc hạ không rời Mai trang một bước, không dám xao lãng nhiệm vụ.
Lão già nói:
– Hay lắm, hay lắm! Các ngươi không rời khỏi Mai trang một bước, không dám xao lãng nhiệm vụ. Nếu nói như vậy, tức trọng phạm vẫn còn bị giam trong địa lao ư?
Hoàng Chung Công đáp:
– Đúng vậy!
Lão già ngẩng đầu nhìn lên nóc nhà, đột nhiên cười ha hả, lập tức bụi bặm trên tấm Thiên hoa bản lả tả rơi xuống. Một lúc sau, lão nói:
– Hay lắm! Ngươi dẫn tên trọng phạm ra đây để bọn ta xem thử.
Hoàng Chung Công nói:
– Xin bốn vị trưởng lão lượng thứ cho, ngày trước giáo chủ có nghiêm lệnh, ngoài giáo chủ lão nhân gia đích thân đến, còn thì bất luận người nào cũng không được đến thăm trọng phạm, nếu vi phạm… vi phạm…
Lão già thò tay vào túi lấy ra một vật, giơ cao lên, lão liền đứng dậy. Ba người còn lại cũng đứng dậy luôn, thái độ rất cung kính. Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn, thấy vật đó dài khoảng nửa thước, là một cục gỗ đen thui, trên mặt khắc chữ và hoa văn, xem ra vô cùng kỳ dị. Bọn Hoàng Chung Công cúi người nói:
– Hắc mộc lệnh bài của giáo chủ giá lâm cũng như giáo chủ đích thân giá lâm, thuộc hạ kính cẩn phụng chỉ.
Lão già nói:
– Được, ngươi đi dẫn tên trọng phạm lên đây.
Hoàng Chung Công chần chừ nói:
– Trọng phạm này bị xiềng xích khóa chặt, không cách nào… không cách nào dẫn lên đây được.
Lão già cười nhạt nói:
– Đến giờ phút này mà ngươi còn cố cãi lý, có ý đồ che giấu. Ta hỏi ngươi, tên trọng phạm đó làm sao mà trốn thoát được?
Hoàng Chung Công giật mình nói:
– Trọng phạm đó… trọng phạm đó trốn thoát rồi ư? Chắc… chắc không có chuyện này được. Rõ ràng lão bị giam trong địa lao, trước đây không bao lâu thuộc hạ còn tận mắt thấy. Làm sao… sao có thể trốn thoát được?
Nét mặt lão già dịu đi, lão ôn tồn nói:
– Ồ, thì ra lão còn ở trong địa lao, ta đã trách nhầm các ngươi rồi, cho ta xin lỗi.
Nét mặt vui vẻ, lão đứng dậy từ từ đi đến gần, dường như muốn đáp lễ ba người. Đột nhiên lão đưa tay ra đánh mạnh lên vai Hoàng Chung Công, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh vội lùi về sau hai bước. Mặc dù hai người họ hành động vô cùng thần tốc nhưng lão già ra tay lại càng thần tốc hơn. Bốp bốp hai ti ếng, vai của Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh cũng bị lão đánh trúng. Lão già ra tay đánh ba cái theo kiểu đánh úp bất ngờ mà vẻ mặt vẫn tươi cười hiền hòa, ngay cả Hoàng Chung Công là một cao thủ trên giang hồ cũng không đề phòng được. Võ công của Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh thì kém hơn, tuy cả hai thấy nhưng không cách nào né tránh được.
Đan Thanh tiên sinh lớn tiếng nói:
– Bảo trưởng lão, bọn thuộc hạ phạm tội gì? Sao trưởng lão dùng độc thủ như vậy đối phó với bọn thuộc hạ?
Giọng nói của lão rất đau đớn và phẫn nộ. Bảo trưởng lão bĩu môi, từ từ nói:
– Giáo chủ ra lệnh cho các ngươi ở đây cai quản trọng phạm, để trọng phạm trốn thoát rồi, các ngươi có đáng chết không?
Hoàng Chung Công nói:
– Nếu trọng phạm đào tẩu thật thì thuộc hạ tội đáng muôn thác, nhưng lão vẫn còn bị giam trong địa lao. Bảo trưởng lão lạm dụng độc hình, khiến bọn thuộc hạ không phục.
Lúc lão nói, thân người hơi nghiêng. Lệnh Hồ Xung đứng ngoài cửa sổ thấy trán của lão mồ hôi nhỏ xuống từng giọt. Chàng nghĩ: Vừa rồi Bảo trưởng lão đánh một đòn nhất định vô cùng lợi hại, đến nỗi ngay cả Hoàng Chung Công là người võ công cao cường như vậy cũng không chịu nổi.
Lại nghĩ: Võ công của Hoàng Chung Công đương nhiên không thua người này, nếu Bảo trưởng lão không sử kế đánh úp thì chưa chắc khắc chế được lão.
Bảo trưởng lão nói:
– Các ngươi đến địa lao xem đi, nếu quả thật trọng phạm vẫn còn trong địa lao thì ta… hừ… thì Đại Sở ta sẽ khấu đầu bồi tội trước ba vị, sẽ lập tức giải khai cực hình Lam sa thủ cho các vị.
Hoàng Chung Công nói:
– Được, xin bốn vị ở đây chờ.
Lão liền cùng với Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh đi ra. Lệnh Hồ Xung thấy ba người họ lúc ra khỏi phòng người hơi run, không biết vì lòng họ bị kích động hay là vì họ bị trúng Lam sa thủ.
Lệnh Hồ Xung sợ bị bốn người trong phòng phát hiện nên không dám nhìn vào trong nữa. Chàng từ từ ngồi xuống đất thầm nghĩ: Bọn họ nói cái gì giáo chủ, nhất định là hiệu xưng của Đông Phương Bất Bại, đệ nhất võ lâm đương thời. Lão ra lệnh cho Giang Nam tứ hữu ở đây canh giữ trọng phạm, cai quản được mười hai năm rồi, dĩ nhiên không phải chỉ vào ta mà là chỉ vào Nhậm tiền bối. Chẳng lẽ tiền bối đã trốn thoát rồi ư? Lão trốn khỏi địa lao mà ngay cả bọn Hoàng Chung Công cũng không ai hay biết thì bản lĩnh quả thật thần thông quảng đại. Đúng vậy, bọn họ nhất định không biết, nếu không thì Hắc Bạch Tử cũng không nhận lầm ta là Nhậm tiền bối.
Chàng nghĩ bọn Hoàng Chung Công vào địa lao dĩ nhiên nhận ra Hắc Bạch Tử ngay, trong chuyện này có rất nhiều điều cắc cớ, bèn tức cười.
Lại nghĩ: Tại sao bọn họ cũng đem ta giam vào trong ngục? Chắc là sau khi ta tỉ kiếm với Nhậm tiền bối, bọn họ sợ ta ra ngoài tiết lộ cơ mật, nên mới giam ta lại. Hừ, tuy không giết người diệt khẩu nhưng cũng chẳng khác giết người diệt khẩu. Bây giờ, bọn họ bị trúng Lam sa thủ, cơ thể chắc rất khó chịu, cũng coi như họ Bảo này trút cơn tức giận thay ta.
Bốn người ngồi trong phòng không nói lời nào, nên ngay cả thở mạnh Lệnh Hồ Xung cũng không dám. Tuy chàng cách bốn người một bức tường nhưng khoảng cách không quá một trượng, chỉ cần thở mạnh, lập tức bị bọn họ phát giác ngay.
Bốn bề tịch mịch, bỗng nghe vọng lại tiếng la, thanh âm đầy ý sợ hãi và đau khổ. Giữa đêm khuya tĩnh lặng mà nghe tiếng la đó, bất giác người nghe nổi da gà. Lệnh Hồ Xung nhận ra tiếng la của Hắc Bạch Tử, bất giác cảm thấy hơi áy náy. Tuy lão vì ám toán mình mà nhận lấy quả báo này, có thể nói là tự làm tự chịu, nhưng lão lọt vào trong tay của bọn Bảo Đại Sở thì nhất định dữ nhiều lành ít. Tiếp theo, tiếng bước chân dần dần đến gần, bọn Hoàng Chung Công đi vào phòng. Lệnh Hồ Xung lại đưa mắt nhìn qua khe cửa sổ, thấy Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh đứng hai bên dìu Hắc Bạch Tử. Nét mặt Hắc Bạch Tử tái mét, hai mắt vô thần, khác hẳn với vẻ tinh minh cường tráng trước đây.
Hoàng Chung Công cúi người nói:
– Khải… khải bẩm bốn vị trưởng lão, trọng phạm quả nhiên… quả nhiên đã trốn thoát rồi. Thuộc hạ xin nhận lãnh cái chết trước bốn vị trưởng lão vậy.
Dường như lão biết không còn con đường nào nữa nên giọng nói rất trấn tĩnh, không bị kích động như lúc trước.
Bảo Đại Sở gằn giọng:
– Ngươi nói Hắc Bạch Tử không có trong trang, tại sao hắn lại xuất hiện đây? Vụ này là thế nào?
Hoàng Chung Công nói:
– Nguyên nhân vì sao thật sự thuộc hạ không biết gì hết. Ôi, mê chơi lú lẫn, tất cả chỉ vì bốn người bọn thuộc hạ đam mê cầm kỳ thư họa nên bị người ta biết được nhược điểm lớn này, bày ra gian kế, đem lão… đem lão trốn thoát rồi.
Bảo Đại Sở nói:
– Bốn chúng ta phụng mệnh giáo chủ đến đây điều tra cho rõ chân tướng việc trọng phạm trốn thoát. Nếu các ngươi thật tình bẩm báo, không giấu diếm điều gì bọn ta có thể thay các ngươi mà cầu xin giáo chủ, để giáo chủ từ bi phát lạc.
Hoàng Chung Công thở dài nói:
– Dù giáo chủ có lòng từ bi và được bốn vị trưởng lão quan tâm, thuộc hạ cũng không còn mặt mũi nào sống trên đời nữa. Nhưng trong chuyện này thật có nhiều khuất tất, nếu thuộc hạ không biết rõ sự thật thì có chết cũng không nhắm mắt. Bảo trưởng lão, giáo chủ… giáo chủ lão nhân gia đang ở Hàng Châu phải không?
Bảo Đại Sở nhướn cặp lông mày hỏi:
– Ai nói giáo chủ lão nhân gia đang ở Hàng Châu?
Hoàng Chung Công nói:
– Vậy thì tên trọng phạm mới trốn thoát ngày hôm qua, sao giáo chủ lão nhân gia lại biết ngay mà phái bốn vị trưởng lão đến Mai trang?
Bảo Đại Sở hừ một tiếng nói:
– Ngươi càng nói càng hồ đồ. Ai nói tên trọng phạm đó trốn thoát ngày hôm qua?
Hoàng Chung Công nói:
– Quả thực người đó vượt ngục vào giờ Ngọ ngày hôm qua, lúc đó ba người thuộc hạ còn cho rằng hắn là Hắc Bạch Tử, không ngờ hắn dùng kế di hoa tiếp mộc, đem Hắc Bạch Tử nhốt vào trong địa lao rồi mặc quần áo của Hắc Bạch Tử xông ra ngoài. Chuyện này tam đệ và tứ đệ của thuộc hạ thấy rất rõ, Đinh Kiên còn bị hắn đụng vào làm cho bị gãy hết mười mấy rẻ xương sườn.
Bảo Đại Sở quay lại nhìn ba trưởng lão, cau mày nói:
– Hắn nói vòng vo, không ra ngô ra khoai gì cả.
Một lão già mập lùn nói:
– Ngày mười bốn tháng trước bọn ta đã được tin này…
Lão vừa nói vừa nhẩm tính đốt tay rồi nói tiếp:
– Đến hôm nay là mười bảy ngày.
Hoàng Chung Công bỗng thoái lui hai bước, binh một tiếng, lưng lão va mạnh vào bức tường. Lão nói:
– Quyết… quyết không thể như vậy! Đích thực là hôm qua bọn tại hạ tận mắt nhìn thấy hắn trốn thoát ra ngoài.
Hoàng Chung Công đi ra cửa, lớn tiếng gọi:
– Thi Lệnh Oai, khiêng Đinh Kiên vào đây!
Thi Lệnh Oai đáp dạ.
Bảo Đại Sở đi đến trước Hắc Bạch Tử túm ngực nhấc lão lên, thấy tay chân của lão xụi lơ, dường như xương cốt đều bị gãy hết chỉ còn lại một bọc da. Bảo Đại Sở biến sắc, rất kinh hoàng. Lão buông tay ra. Hắc Bạch Tử ngã xuống đất không đứng dậy được. Một lão già quắc thước cao ráo nói:
– Đúng vậy, hắn bị trúng… trúng Hấp tinh đại pháp, tinh lực toàn thân đều bị hút sạch.
Giọng nói của lão run run, vô cùng kinh hãi. Bảo Đại Sở hỏi Hắc Bạch Tử:
– Ngươi bị hắn hại lúc nào?
Hắc Bạch Tử đáp:
– Thuộc hạ… thuộc hạ… đúng là ngày hôm qua, hắn… hắn nắm chặt cổ tay của thuộc hạ, thuộc hạ… thuộc hạ không nhúc nhích được, đành mặc hắn muốn làm gì thì làm.
Bảo Đại Sở rất hoang mang, da mặt hơi co giật, ánh mắt đầy nghi ngờ, hỏi:
– Vậy là sao?
Hắc Bạch Tử nói:
– Hắn kéo thuộc hạ vào trong lỗ vuông cửa sắt, rồi cởi quần áo của thuộc hạ mặc vào, lại… khóa chân khóa tay của thuộc hạ. Sau đó, hắn chui qua lỗ vuông ra ngoài.
Bảo Đại Sở chau mày nói:
– Hôm qua? Sao có thể là hôm qua được?
Lão già mập liền hỏi:
– Xích tay xích chân đều đúc bằng thép nguyên chất, làm sao có thể bẻ gãy được?
Hắc Bạch Tử nói:
– Thuộc hạ… thuộc hạ… quả thật không biết.
Ngốc Bút Ông nói:
– Thuộc hạ xem kỹ chỗ đứt của xích, thấy hắn đã dùng một lưỡi cưa bằng thép rất nhỏ để cưa. Lưỡi cưa nhỏ này không biết từ đâu mà hắn có được.
Thi Lệnh Oai dẫn hai tên gia nhân khiêng Đinh Kiên vào. Đinh Kiên nằm trên cái giường hẹp, trên người phủ một tấm chăn mỏng. Bảo Đại Sở giở tấm chăn ra, đưa tay để nhẹ lên ngực Đinh Kiên. Đinh Kiên la to, rõ ràng lão vô cùng đau đớn. Bảo Đại Sở gật đầu, xua tay. Thi Lệnh Oai và hai tên gia nhân khiêng Đinh Kiên ra.
Bảo Đại Sở nói:
– Hắn bị đụng quả nhiên rất nặng, đúng là do lão ấy gây ra rồi.
Người phụ nữ nãy giờ không mở miệng, bây giờ bỗng nhiên nói:
– Bảo trưởng lão, nếu quả thực hắn mới trốn ngày hôm qua, thì tháng trước chúng ta nghe tin chỉ e là tin giả rồi. Đồng đảng của hắn ở bên ngoài có ý ngụy trang thế trận khiến cho bọn ta rúng động.
Bảo Đại Sở lắc đầu nói:
– Không phải giả đâu.
Người phụ nữ hỏi:
– Không phải giả ư?
Bảo Đại Sở đáp:
– Tiết hương chủ toàn thân mặc thiết giáp làm bằng thứ vải sắt chế luyện rất công phu, đao kiếm bình thường chém không đứt nhưng ngực lão bị năm ngón tay đâm vào, móc trái tim ra. Trừ hắn ra, trên đời này không còn người thứ hai…
Lệnh Hồ Xung đang lắng nghe đến xuất thần, bỗng nhiên có người vỗ nhẹ lên vai. Cái vỗ này bất ngờ, hắn giật mình nhảy lùi ba bước, rút kiếm ra quay đầu lại, thấy hai người đang đứng đó.
Hai người này đứng quay lưng hướng về ánh trăng nên Lệnh Hồ Xung nhìn không rõ mặt. Một người đưa tay vẫy hắn nói:
– Huynh đệ, chúng ta vào đi.
Đúng là giọng nói của Hướng Vấn Thiên. Lệnh Hồ Xung vui mừng gọi khẽ:
– Hướng đại ca.
Lệnh Hồ Xung nhảy lùi rút kiếm, đối đáp với Hướng Vấn Thiên, mấy người trong phòng đều nghe rõ. Bảo Đại Sở quát:
– Ai đó?
Một người mở miệng cười ha hả chính là người đứng bên cạnh Hướng Vấn Thiên. Tiếng cười này làm chấn động mái ngói, khiến tai Lệnh Hồ Xung ù cả lên, khí huyết trong ngực nhộn nhạo rất khó chịu. Người đó bước đi về phía trước, đến bức tường, lão giơ song chưởng ra. Ầm một tiếng, bức tường bị thủng một lỗ to, người đó chui qua lỗ hổng đi vào. Hướng Vấn Thiên đưa tay nắm chặt tay phải của Lệnh Hồ Xung, sánh vai cùng đi vào trong phòng.
Bọn Bảo Đại Sở bốn người đã đứng dậy từ lâu, tay cầm binh khí, thần sắc rất căng thẳng. Lệnh Hồ Xung sốt ruột muốn xem người này là ai, nhưng lão quay lưng về hướng hắn nên hắn chỉ thấy thân người lão rất cao, tóc đen thui, mặc áo bào màu xanh.
Bảo Đại Sở run run nói:
– Thì… thì ra Nhậm… Nhậm tiền bối đến rồi.
Lão hứ một tiếng, bước đến trước. Bọn Bảo Đại Sở, Hoàng Chung Công tự lùi hai bước. Lão xoay người lại, ngồi xuống cái ghế ở giữa, cái ghế mà Bảo Đại Sở vừa ngồi. Lúc đó, Lệnh Hồ Xung mới nhìn rõ, thấy gương mặt lão dài, mặt trắng bệch, không có chút huyết sắc. Lão này mày thanh mắt sáng nhưng sắc mặt khiến người ta phải sợ, trông giống như cương thi từ trong mộ mới đem ra.
Lão vẫy Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung nói:
– Hướng huynh đệ, Lệnh Hồ Xung huynh đệ, mời qua đây ngồi.
– Hôm nay huynh đệ định đến cứu ta thoát ngục phải không? Ha ha, Hướng huynh đệ, người anh em này của Hướng huynh đệ rất đáng làm bằng hữu.
Hướng Vấn Thiên kéo tay Lệnh Hồ Xung, để chàng ngồi xuống bên phải lão Nhậm, còn lão ngồi bên trái. Lão nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ gan dạ hơn người, thật đúng là đấng nam nhi dũng khí đương thời.
Lão Nhậm cười nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ, huynh đệ chịu oan ức ở hắc lao dưới đáy Tây Hồ hơn hai tháng, ta thật áy náy vô cùng, muốn xin lỗi huynh đệ. Ha ha, ha ha!
Bây giờ Lệnh Hồ Xung đã hiểu ra phần nào, nhưng chưa hiểu hết. Lão họ Nhậm nhìn Lệnh Hồ Xung cười hà hà rồi nói:
– Tuy Lệnh Hồ huynh đệ vì ta mà bị giam trong ngục tối hơn hai tháng nhưng huynh đệ đã luyện thành công Hấp tinh đại pháp mà ta khắc trên thiết bản. Hì hì, vậy cũng đủ để bồi thường cho huynh đệ rồi.
Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên hỏi:
– Bí quyết trên thiết bản đó là do tiền bối khắc ư?
Lão Nhậm mỉm cười nói:
– Nếu không phải là ta khắc thì trên đời này còn ai biết Hấp tinh đại pháp nữa.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Huynh đệ, Hấp tinh đại pháp của Nhậm giáo chủ chỉ truyền cho một mình huynh đệ. Ta xin chúc mừng huynh đệ.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:
– Nhậm giáo chủ ư?
Hướng Vấn Thiên nói:
– Thì ra đến bây giờ huynh đệ còn chưa biết thân phận của Nhậm giáo chủ. Vị này là Nhậm giáo chủ của Nhật Nguyệt thần giáo, giáo chủ có tên húy là trên Ngã, dưới Hành. Huynh đệ từng nghe qua chưa?
Lệnh Hồ Xung biết Nhật Nguyệt thần giáo chính là Ma giáo, chẳng qua người trong bổn giáo tự xưng là Nhật Nguyệt thần giáo, còn người ngoài thì gọi là Ma giáo. Nhưng giáo chủ của Ma giáo xưa nay là Đông Phương Bất Bại, sao lại xuất hiện thêm một Nhậm Ngã Hành? Lệnh Hồ Xung ậm ờ nói:
– Tên húy của Nhậm giáo chủ vãn bối đã sờ thấy trên thiết bản chứ không biết tiền bối là giáo chủ.
Lão già quắc thước cao ráo đột nhiên quát:
– Hắn là giáo chủ cái gì? Giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo của ta khắp thiên hạ đều biết là Đông Phương giáo chủ. Tên họ Nhậm này phản giáo làm loạn, đã sớm bị khai trừ khỏi môn hộ. Hướng Vấn Thiên, ngươi giúp kẻ phản nghịch làm loạn, tội ác tày trời.
Nhậm Ngã Hành từ từ quay đầu lại, chằm chằm nhìn lão hỏi:
– Ngươi là Tần Vĩ Bang có phải không?
Lão già quắc thước đáp:
– Chính ta.
Nhậm Ngã Hành hỏi:
– Lúc ta chấp chưởng đại quyền trong bổn giáo, ngươi làm kỳ chủ Nhậm thanh kỳ ở Giang Tây phải không?
Tần Vĩ Bang đáp:
– Đúng vậy.
Nhậm Ngã Hành thở dài nói:
– Bây giờ ngươi được liệt vào hàng mười vị trưởng lão của bổn giáo, thăng chức mau quá. Tại sao Đông Phương Bất Bại coi trọng ngươi quá vậy? Vì võ công của ngươi cao hay vì ngươi làm được nhiều chuyện?
Tần Vĩ Bang nói:
– Ta tận trung với bổn giáo, gặp chuyện là đi trước, công trạng hơn mười năm nay nên được thăng lên chức trưởng lão.
Nhậm Ngã Hành gật đầu nói:
– Vậy cũng đúng.
Đột nhiên, Nhậm Ngã Hành lạng người một cái đến trước Bảo Đại Sở, đưa nhanh tay trái ra chụp vào yết hầu của lão. Bảo Đại Sở kinh hãi, đơn đao nơi tay phải không kịp vung lên chém vào cánh tay Nhậm Ngã Hành, đành đưa khuỷu tay trái lên bảo vệ yết hầu, đồng thời chân trái lùi về sau một bước, đơn đao tay phải thuận thế chém ra. Bảo Đại Sở vừa thủ vừa công, chỉ trong nháy mắt đã thực hiện xong, thủ thật nghiêm mật, công rất lợi hại với thủ pháp rất cao minh. Nhưng tay của Nhậm Ngã Hành còn nhanh hơn một bước, đơn đao của Bảo Đại Sở chưa kịp chém xuống thì Nhậm Ngã Hành đã túm được ngực lão. Soạt một tiếng, Nhậm Ngã Hành đã xé rách trường bào của lão, đưa tay trái nắm lấy vật gì trong túi của Bảo Đại Sở. Đó là chiếc Hắc mộc lệnh bài. Lão xoay tay phải lại, nắm chặt cổ tay phải của Bảo Đại Sở, vặn một cái. Chỉ nghe ba tiếng choang choang, Hướng Vấn Thiên đã vung trường kiếm ra nhắm vào Tần Vĩ Bang và hai tên trưởng lão khác, mỗi người đánh ra một chiêu. Ba trưởng lão giơ binh khí lên gạt đỡ. Hướng Vấn Thiên tấn công ba chiêu này chỉ để cản trở bọn họ không thể ra tay cứu Bảo Đại Sở. Ba chiêu vừa xuất xong thì Bảo Đại Sở đã hoàn toàn bị Nhậm Ngã Hành kiềm chế.
Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:
– Hấp tinh đại pháp của ta chưa thi triển, ngươi có muốn nếm qua một chút cho biết mùi không?
Trong khoảng thời gian chớp mắt này, Bảo Đại Sở đã biết nếu lão không đầu hàng thì sẽ mất mạng, ngoài ra không còn con đường nào khác để lựa chọn. Lão quyết định rất nhanh, liền nói:
– Nhậm giáo chủ, Bảo Đại Sở này từ nay về sau sẽ tận trung với giáo chủ.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Năm xưa ngươi đã từng lập lời thề sẽ tận trung với ta, tại sao sau đó ngươi lại lật lọng?
Bảo Đại Sở nói:
– Xin Nhậm giáo chủ cho phép thuộc hạ lấy công chuộc tội.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Được, ngươi hãy uống viên thuốc này đi.
Nhậm Ngã Hành buông cổ tay Bảo Đại Sở ra, thò tay vào túi lấy cái bình sứ đổ ra một viên dược hoàn màu đỏ, ném qua Bảo Đại Sở. Bảo Đại Sở chụp lấy, không cần xem nó là vật gì, bỏ ngay vào miệng nuốt.
Tần Vĩ Bang thất thanh hỏi:
– Đây… đây là Tam thi não thần đan phải không?
Nhậm Ngã Hành gật đầu nói:
– Đúng vậy, đây chính là Tam thi não thần đan.
Nhậm Ngã Hành đổ trong bình ra sáu viên Tam thi não thần đan nữa, ném lên bàn. Sáu viên đan hoàn đỏ như lửa lăn long lóc. Lão hỏi:
– Các ngươi biết sự lợi hại của Tam thi não thần đan thế nào không?
Bảo Đại Sở nói:
– Sau khi uống Não thần đan của giáo chủ thì vĩnh viễn phải nghe lời giáo chủ sai bảo, có chết cũng không từ. Nếu không, con thi trùng nằm ẩn trong đan dược đang chết cứng bỗng sống lại, chui vào trong não cắn phá đau đớn không thể tả được, con người hành sự như điên khùng, so với chuyện bị chó dại cắn còn nguy hiểm gấp bội.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Ngươi nói phải lắm. Ngươi đã biết linh hiệu của Não thần đan này của ta sao dám cả gan nuốt vào?
Bảo Đại Sở nói:
– Từ nay về sau, thuộc hạ vĩnh viễn trung thành với giáo chủ, không thay lòng đổi dạ thì dù Não thần đan này có lợi hại đến đâu cũng không liên can gì đến thuộc hạ.
Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:
– Hay lắm, hay lắm! Dược hoàn ở đây, còn ai muốn uống nữa?
Hoàng Chung Công, Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh nhìn nhau, cả ba đều biến sắc. Bọn họ và Tần Vĩ Bang đã ở lâu trong Ma giáo, sớm biết trong Tam thi não thần đan này có thi trùng. Bình thường nó không phát tác, không có gì khác lạ, nhưng nếu đến giờ Ngọ vào tiết Đoan Ngọ mỗi năm nếu không uống dược vật để khắc chế thi trùng thì khi dược tính đã hết, thi trùng sẽ sống trở lại, chui vào trong não khiến người uống hành động như yêu, như ma, không thể lấy lý thường tình mà đo lường hết. Tính người đã mất thì ngay cả cha mẹ, vợ con cũng cắn xé mà ăn.Độc vật đương thời không có thứ nào so bì được. Hơn nữa việc luyện đơn dược không giống nhau, dược tính của mỗi loại đều khác nhau, thuốc giải của Đông Phương giáo chủ không giải được độc tố đan dược mà Nhậm Ngã Hành chế.
Mọi người đang kinh hoàng chần chừ, bỗng nhiên Hắc Bạch Tử lớn tiếng nói:
– Giáo chủ từ bi, thuộc hạ xin uống một viên trước.
Lão nói xong cố gắng đi đến bên bàn đưa tay ra lấy đơn dược.
Nhậm Ngã Hành phất nhẹ tay áo. Chân Hắc Bạch Tử đứng không vững, lão té ngửa về sau. Binh một tiếng, đầu lão đập mạnh vào tường. Nhậm Ngã Hành cười nhạt nói:
– Công lực của ngươi đã mất hết, trở thành một phế nhân thì không cần uống linh đan diệu dược của ta.
Lão quay sang nói:
– Tần Vĩ Bang, Vương Thành, Tang Tam Nương, các ngươi không muốn uống linh dược này của ta phải không?
Người phụ nữ trung niên là Tang Tam Nương cúi đầu nói:
– Thuộc hạ xin thề từ nay về sau trung thành với giáo chủ, vĩnh viễn không thay lòng.
Lão già mập lùn tên là Vương Thành nói:
– Thuộc hạ kính cẩn tuân theo lệnh của giáo chủ.
Hai người đi đến bên bàn, mỗi người cầm một viên dược hoàn bỏ vào miệng nuốt. Hai người này xưa nay rất úy kị Nhậm Ngã Hành, bây giờ thấy lão thoát ngục trở về, dĩ nhiên cả hai sợ đến vỡ mật, không dám dùng oai lực của mình để phản kháng.
Tần Vĩ Bang từ loại thường thường bậc trung được thăng lên hàng đầu; lúc Nhậm Ngã Hành làm giáo chủ, lão ở Giang Tây trông coi một số huyện, chưa hề lĩnh giáo qua thủ đoạn lợi hại của vị tiền nhiệm giáo chủ này. Lão la lên:
– Ta xin kiếu đây.
Lão điểm hai chân, chui qua lỗ hổng bức tường vọt đi.
Nhậm Ngã Hành cười ha hả, không thèm đứng lên ngăn cản. Đợi cho lão họ Tần chui ra ngoài, tay trái Hướng Vấn Thiên nhẹ vung lên, một sợi trường nhuyễn tiên màu đen từ trong tay áo bay ra. Mọi người đều hoa cả mắt. Chỉ nghe Tần Vĩ Bang thét lên một tiếng, sợi trường tiên từ trong lỗ hổng xoay chuyển quấn chặt chân trái Tần Vĩ Bang rồi kéo ngược lão trở lại. Sợi trường tiên này rất mảnh, nhỏ hơn đầu ngón tay út, nhưng Tần Vĩ Bang bị nó quấn chặt bàn chân trái, lăn lộn dưới đất không cách nào đứng dậy được.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Tang Tam Nương, ngươi lấy viên Não thần đan cẩn thận lột lớp vỏ ngoài đi.
Tang Tam Nương đáp dạ rồi đi đến bên bàn lấy một viên dược hoàn, dùng móng tay lột nhẹ lớp vỏ màu đỏ bên ngoài ra, để lộ một viên tròn màu xám tro. Nhậm Ngã Hành nói:
– Đưa cho hắn uống.
Tang Tam Nương đáp dạ rồi đi đến trước mặt Tần Vĩ Bang quát:
– Há miệng ra!
Tần Vĩ Bang xoay người, vù một tiếng lão nhắm đánh một chưởng vào Tang Tam Nương. Võ công của lão tuy kém hơn Tang Tam Nương nhưng khoảng cách không xa lắm, có điều chân trái của lão bị trường tiên quấn chặt, huyệt đạo bị kìm chế nên tay không vận hết kình lực được. Tang Tam Nương đưa chân trái đá lên cổ tay của lão, chân phải mụ vung lên đá bốp một cước trúng vào ngực lão. Mụ thi triển thế Uyên ương liên hoàn cước, liên tiếp đá ra ba cước trúng vào ba chỗ huyệt đạo của lão. Rồi mụ đưa tay trái bóp chặt má, tay phải nhét viên dược hoàn đã lột vỏ vào miệng, tay phải bóp họng của lão. Ực một tiếng, Tần Vĩ Bang đã nuốt viên dược hoàn vào bụng.
Lệnh Hồ Xung nghe Bảo Đại Sở nói thì biết Tam thi não thần đan có thi trùng cương phục, hoàn toàn dựa vào dược vật để khắc chế. Tang Tam Nương đã lột lớp thuốc màu đỏ đi rồi, dược vật khắc chế thi trùng đã không còn. Lại thấy thủ cước của Tang Tam Nương cử động rất linh hoạt, vô cùng lợi hại, dường như ngày thường mụ đã tập luyện thành thục việc chuyên bức ép người uống thuốc.
Lệnh Hồ Xung không biết công phu Tang Tam Nương chuyên về cầm nã và đánh xáp lá cà. Bây giờ mụ quy phục Nhậm Ngã Hành, dĩ nhiên tinh thần phấn chấn nên thi triển ra tuyệt kỹ cả đời của mình để phô trương thủ đoạn. Đó là mụ có ý tỏ dạ trung thành với giáo chủ.
Nhậm Ngã Hành mỉm cười gật đầu. Tang Tam Nương đứng dậy, vẻ mặt thản nhiên, cung kính đứng sang một bên.
Nhậm Ngã Hành đưa mắt nhìn ba người bọn Hoàng Chung Công, hiển nhiên lão có ý hỏi bọn họ có uống hay không.
Ngốc Bút Ông không nói lời nào, đi đến lấy một viên đơn dược nuốt vào. Đan Thanh tiên sinh miệng cứ lẩm bẩm, không biết lão đang nói câu gì, rồi cũng đi đến bàn lấy một viên đơn dược uống.
Vẻ mặt Hoàng Chung Công thê thảm. Lão đưa tay vào túi áo, lấy ra một quyển sách, chính là cầm phổ “Quảng Lăng tán”, đến trước Lệnh Hồ Xung nói:
– Võ công của tôn giá rất cao cường, mưu trí lại thâm sâu, bày ra xảo kế này để cứu Nhậm Ngã Hành thoát ngục. Hà hà, tại hạ vô cùng khâm phục. Quyển cầm phổ này đã làm cho bốn huynh đệ của tại hạ thân bại danh liệt, nguyên vật xin trả lại chủ.
Lão nói xong liền giơ tay ném cầm phổ vào ngực Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, thấy lão quay người lại đi đến bên bức tường. Lòng hắn không khỏi áy náy, thầm nghĩ: Việc cứu Nhậm giáo chủ hoàn toàn là mưu kế của Hướng đại ca, trước đây ta chẳng biết gì cả. Nhưng bọn Hoàng Chung Công trong lòng hận ta cũng là lẽ thường tình, ta không cách nào biện bạch được.
Hoàng Chung Công quay người lại, đứng dựa vào tường nói:
– Bốn huynh đệ của tại hạ thân ở trong Nhật Nguyệt thần giáo, vốn muốn hành hiệp trượng nghĩa, làm nên sự nghiệp tốt đẹp. Nhưng tính tình Nhậm giáo chủ bạo tàn, chỉ thích tác oai tác phúc, bốn huynh đệ tại hạ đã bất mãn từ lâu. Sau khi Đông Phương giáo chủ tiếp nhiệm, sủng tín quan nịnh, trừ khử lão huynh đệ trong bổn giáo thì bốn huynh đệ tại hạ chán nản nên bày ra chuyện giam cầm này, một là để xa rời Hắc Mộc Nhai, khỏi phải đấu đá với ai nữa, hai là nhàn nhã nơi Tây Hồ hưởng thú cầm thư. Mười hai năm nay, thanh phúc cũng đã hưởng đủ, người sống trên đời vui ít, buồn nhiều, vậy thì thôi…
Lão nói đến đây, hự lên một tiếng, thân người từ từ quỵ xuống. Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh cùng la lên:
– Đại ca!
Rồi cả hai cùng chạy đến đỡ lão dậy. Ngực lão cắm một cây trủy thủ vào tới tim, hai mắt đã trợn trắng, lão đã tắt thở rồi. Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh liên tiếp gọi:
– Đại ca, đại ca!
Rồi cả hai khóc rống lên.
Vương Thành quát:
– Lão này không tuân mệnh giáo chủ, sợ bị trừng trị nên tự tử, tội còn nặng thêm một bậc. Hai cái đồ ăn hại các ngươi khóc cái gì?
Mặt Đan Thanh tiên sinh đầy vẻ căm phẫn. Lão quay người lại muốn xông vào Vương Thành liều mạng. Vương Thành nói:
– Sao? Ngươi muốn tạo phản hả?
Đan Thanh tiên sinh nhớ lại mình đã uống Tam thi não thần đan, bây giờ lão không nên phản kháng lại ý chỉ của Nhậm Ngã Hành. Bao nhiêu lửa giận liền tiêu tan hết, lão cúi đầu gạt lệ.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Đem cái xác và tên phế nhân này đi chỗ khác rồi đem rượu thịt ra. Hôm nay, ta và Hướng huynh đệ, Lệnh Hồ huynh đệ cùng say một bữa.
Ngốc Bút Ông đáp dạ rồi ôm xác Hoàng Chung Công đi ra ngoài. Tiếp theo, gia đinh bày bát đũa và sáu cái ghế. Bảo Đại Sở nói:
– Bày ba cái bát, ba đôi đũa thôi! Chúng ta làm sao dám ngồi cùng bàn với giáo chủ được?
Lão vừa nói vừa thu dọn bàn giúp gia nhân.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Các ngươi cũng vất vả rồi, ra ngoài uống mấy bát đi.
Bảo Đại Sở, Vương Thành, Tang Tam Nương cùng cúi người nói:
– Đa tạ ân điển của giáo chủ. Rồi cả ba từ từ lui ra.
Lệnh Hồ Xung thấy Hoàng Chung Công tự tử, lòng nghĩ lão là một hán tử nghĩa liệt. Nhớ lại ngày hôm trước đó, lão muốn viết thư bảo mình đi gặp Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm để cầu xin đại sư trị bệnh, đối với mình bằng cả tấm lòng quan hoài, bất giác chàng cảm thấy thương cảm.
Hướng Vấn Thiên cười nói:
– Huynh đệ, vì cơ duyên nào mà huynh đệ học được Hấp tinh đại pháp của giáo chủ? Hãy nói cho ta nghe đi.
Lệnh Hồ Xung liền đem việc phát hiện ra chữ trên thiết bản thế nào, vô tình luyện thành đại pháp ra sao, lần lượt kể hết ra. Hướng Vấn Thiên cười nói:
– Cung hỷ, cung hỷ! Những cơ duyên này mà khuyết một cũng không được. Ca ca thật sự vui mừng cho huynh đệ.
Lão nói xong, bưng bát rượu lên uống cạn. Nhậm Ngã Hành và Lệnh Hồ Xung cũng bưng bát lên uống cạn.
Nhậm Ngã Hành cười nói:
– Chuyện này nói ra cũng nguy hiểm. Lúc đầu ta khắc bộ bí quyết luyện công này lên thiết bản vì nằm trong ngục rất buồn chán, muốn khắc để giải khuây chứ chưa chắc đã có hảo tâm. Bí quyết thần công cố nhiên là thật, nhưng nếu ta không chỉ điểm thêm giúp người luyện tán công, mà cứ nhắm mắt dựa vào cách này tự luyện tập thì phải đi đến tẩu hỏa nhập ma, ngàn người luyện không người nào thoát khỏi. Luyện thần công này có hai bước quan trọng. Bước thứ nhất là phải tán hết nội lực toàn thân, làm cho huyệt Đan điền trống không. Chỉ cần tán không hết hoặc tán nhầm huyệt đạo, lập tức bị tẩu hỏa nhập ma, toàn thân bị bại liệt, từ đó thành phế nhân, kinh mạch nghịch chuyển, thất khổng chảy máu mà chết. Môn công phu này xuất hiện đã được mấy trăm năm, nhưng người được truyền thụ thì rất hiếm mà người luyện thành càng hiếm hơn vì bước tán công này quá khó. Lệnh Hồ huynh đệ lại chiếm được tiện nghi to lớn này, nội lực của huynh đệ vốn đã mất hết, nguyên khí chẳng có gì, muốn tán thì tán mà không phí chút khí lực nào, còn người khác thực hiện bước này rất khó khăn nguy hiểm. Huynh đệ lại vô tình vượt qua được. Sau khi tán công, lại phải hút chân khí của người khác, tích trữ vào huyệt Đan điền của mình, rồi dựa vào phương pháp để tán chân khí vào kỳ kinh bát mạch là có chỗ hữu dụng. Bước này cũng vô cùng khó khăn. Nội lực của mình dĩ nhiên là tán hết, cần phải hút thêm chân khí của người khác há không phải là lấy trứng chọi đá để bị mất mạng sao? Lệnh Hồ huynh đệ lại gặp may mắn. Ta nghe Hướng huynh đệ nói trên người huynh đệ đã có tám luồng chân khí dị chủng của mấy tên cao thủ truyền vào, tuy mỗi người mỗi luồng chân khí khác nhau nhưng cũng cực kỳ lợi hại. Lệnh Hồ huynh đệ, huynh đệ lại dễ dàng vượt qua hai bước khó khăn này, luyện thành công đại pháp cũng là ý trời.
– May mà nội lực của vãn bối mất hết, nếu không thì thật hậu quả không thể tưởng tượng nổi. Hướng đại ca, Nhậm giáo chủ làm thế nào thoát được hắc lao, đến nay tiểu đệ vẫn chưa hiểu ra.
Hướng Vấn Thiên cười hì hì, lấy trong túi ra một vật nhét vào tay Lệnh Hồ Xung rồi hỏi:
– Đây là cái gì?
Lệnh Hồ Xung cảm thấy vật ở trong tay mình là một viên tròn tròn rắn chắc, đúng là cái mà ngày hôm đó Hướng Vấn Thiên đưa mình cầm để trao lại cho Nhậm Ngã Hành. Chàng mở tay ra, thấy một viên thép tròn, trên viên thép có một hạt bi nhỏ xíu. Lệnh Hồ Xung vừa sờ đến viên bi, cảm thấy viên bi đó có thể chuyển động được, nhè nhẹ xoay mấy vòng, kéo ra một sợi dây thép rất nhỏ. Sợi dây thép này ở trên viên bi, trên dây thép đều là răng cưa. Đúng là một dây cưa bằng thép rất nhỏ được chế tạo cực kỳ tinh xảo. Lệnh Hồ Xung hiểu ra, nói:
– Thì ra cùm và xích trên tay chân của giáo chủ đã được dùng vật này cưa ra.
Nhậm Ngã Hành cười nói:
– Ta vận nội lực vào trong mấy tiếng cười to, làm cho năm người đều chấn động ngất xỉu, rồi cưa đứt cùm và xích, sau này huynh đệ đối phó với Hắc Bạch Tử làm sao, thì lúc đó ta cũng đối phó với huynh đệ như vậy.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Thì ra tiền bối đổi y phục của vãn bối ra lấy cùm xích khóa chân tay của vãn bối, chẳng trách bọn Hoàng Chung Công không phát giác được.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Chuyện này vốn cũng không dễ che giấu được Hoàng Chung Công và Hắc Bạch Tử. Nhưng sau khi bọn họ tỉnh lại thì giáo chủ và ta đã đi khỏi Mai trang rồi. Bọn Hắc Bạch Tử thấy kỳ phổ, thư họa của ta để lại, ai cũng vô cùng vui mừng, không còn nghi ngờ gì đến chuyện người trong ngục tráo tù nhân.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đại ca thần cơ diệu toán, không ai bì kịp.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra tất cả mọi chuyện đại ca đã sắp đặt hết. Lão nắm được sở thích của bốn người này, dẫn họ vào cạm bẫy. Nhưng giáo chủ thoát ngục đã lâu mà tại sao lão không đến cứu ta?
Hướng Vấn Thiên nhìn vẻ mặt thì đoán được tâm ý của Lệnh Hồ Xung. Lão cười nói:
– Huynh đệ, sau khi giáo chủ thoát ngục, có rất nhiều điều phải làm nên không thể để cho bọn đối đầu biết, đành để huynh đệ phải chịu khuất tất dưới đáy Tây Hồ nhiều ngày. Hôm nay bọn ta đến cứu huynh đệ. May mà trong họa có phúc, huynh đệ đã luyện thành thần công đệ nhất đương thời, coi như đã bồi thường cho huynh đệ. Ha ha, ca ca xin lỗi huynh đệ là được rồi.
Lão nói xong rót đầy rượu vào bát của ba người, rồi tự mình uống cạn. Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:
– Ta cũng xin lỗi huynh đệ một bát.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Cái gì mà xin lỗi! Vãn bối phải đa tạ hai vị mới phải. Vãn bối bị trọng thương không cách nào trị khỏi, sau khi luyện thần công của giáo chủ, nội thương đã dần dần giảm bớt rồi hết hẳn, cái mạng này mới còn sống đây.
Ba người cùng lớn tiếng cười, rất cao hứng.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Mười hai năm trước, giáo chủ mất tích một cách lạ lùng. Đông Phương Bất Bại soán vị. Tiểu huynh biết trong chuyện này có điều kỳ quặc đành phải nhẫn nhịn, gắng gượng theo Đông Phương Bất Bại. Cho đến lúc gần đây, tiểu huynh mới thăm dò biết được nơi giáo chủ bị giam cầm, liền đến giúp giáo chủ thoát ngục. Nào ngờ tiểu huynh vừa xuống Hắc Mộc Nhai thì thằng cha Đông Phương Bất Bại phái đại đội nhân mã truy sát, lại gặp phải đồ khốn nạn trong chính phái kéo đến nhập bọn làm náo nhiệt. Huynh đệ, hôm ở dưới đáy thâm cốc, huynh đệ nói nguyên do mất hết nội lực, lúc đó ta liền nghĩ phải tán các luồng chân khí dị chủng trong người của huynh đệ đi. Trên đời này, chỉ có Hấp tinh đại pháp của giáo chủ mới chữa được. Ta định sau khi giáo chủ thoát ngục thì ta cầu xin giáo chủ lão nhân gia truyền thần công tuyệt thế này cho huynh đệ để cứu tính mạng huynh đệ, không ngờ không cần ta mở miệng cầu xin, tự giáo chủ đã truyền cho huynh đệ rồi.
Ba người lại nâng bát uống cạn rồi cười ha hả.
Lệnh Hồ Xung nghĩ: Hướng đại ca cứu Nhậm giáo chủ cố nhiên là lợi dụng ta, cũng thật có tấm lòng cứu tính mạng ta. Lúc rời khỏi thâm cốc thì đại ca nói dẫn ta đi tìm người trị bệnh. Huống chi nếu ta không phải vì chuyện này mà có công lao thì Hấp tinh đại pháp thần diệu như vậy, Nhậm giáo chủ dễ gì truyền cho một người không hề quen biết như ta.
Bất giác Lệnh Hồ Xung đối với Hướng Vấn Thiên nảy sinh lòng cảm kích.
Sau khi uống được mười mấy bát rượu, Lệnh Hồ Xung cảm thấy vị Nhậm giáo chủ này ăn nói phóng khoáng, kiến thức hơn người, quả là một đại anh hùng đại hào kiệt hiếm có trên đời, bất giác sinh lòng kính phục. Vừa rồi thấy lão đối phó với bọn Tần Vĩ Bang, Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử bằng thủ đoạn tàn độc nhưng sau khi nghe lão đàm luận một lúc, chàng nhìn ra cách xử sự của lão rất anh hùng, không thể lấy lý thường tình mà đo lường được, bao nhiêu nỗi bất bình chất chứa trong lòng dần dần tiêu tan.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Lệnh Hồ huynh đệ, ta đối với địch nhân thì ra tay rất tàn độc. Nguyên tắc của ta rất nghiêm khắc, có lẽ huynh đệ chưa quen chứng kiến. Nhưng huynh đệ hãy nghĩ xem ta bị nhốt trong hắc lao ở dưới đáy Tây Hồ bao lâu? Huynh đệ đã từng ở hắc lao cũng biết được cái đau khổ khi bị giam cầm trong đó. Người ta đối xử với ta ra sao? Đối với phản đồ địch nhân, chẳng lẽ ta có thể mở lòng từ bi ư?
Lệnh Hồ Xung gật đầu khen phải. Bỗng chàng nhớ tới một chuyện bèn đứng dậy nói:
– Vãn bối có một chuyện muốn cầu xin giáo chủ, rất mong giáo chủ ưng thuận.
Nhậm Ngã Hành hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ngày đầu tiên vãn bối gặp giáo chủ, từng nghe Hoàng Chung Công nói nếu giáo chủ thoát ngục trở lại giang hồ thì chỉ riêng một phái Hoa Sơn ít nhất cũng bị giết hơn một nửa. Lại nghe giáo chủ nói nếu gặp sư phụ của vãn bối thì giáo chủ sẽ làm khó dễ. Công lực của giáo chủ thần thông, nếu giáo chủ muốn làm khó dễ phái Hoa Sơn thì không ai có thể chống cự…
Nhậm Ngã Hành nói:
– Ta nghe Hướng huynh đệ nói sư phụ của huynh đệ đã truyền ngôn khắp thiên hạ trục xuất huynh đệ ra khỏi môn tường phái Hoa Sơn. Ta làm nhục hắn một trận hay làm cỏ cả phái Hoa Sơn, xóa hẳn tên trong võ lâm để trút cơn tức giận thay cho huynh đệ.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Vãn bối từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, được ân sư và sư nương thu nhận vào môn hạ, dưỡng nuôi đến lớn, tuy danh nghĩa là sư đồ nhưng tình cảm như phụ tử. Sư phụ đã trục xuất vãn bối khỏi môn tường một là vì vãn bối đã sai, hai là có chút hiểu lầm. Vãn bối vạn lần không dám oán trách ân sư.
Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:
– Thì ra Nhạc Bất Quần vô tình với huynh đệ mà huynh đệ lại không thể bất nghĩa với lão ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối xin giáo chủ khoan dung độ lượng, đừng làm khó dễ sư phụ, sư nương và bọn sư đệ, sư muội phái Hoa Sơn của vãn bối.
Nhậm Ngã Hành trầm ngâm nói:
– Ta thoát khỏi hắc lao là nhờ công lớn của huynh đệ, nhưng ta truyền Hấp tinh đại pháp để cứu tính mạng cho huynh đệ là coi như huề, không ai nợ ai cả. Ta tái xuất giang hồ, phải giải quyết rất nhiều chuyện ân oán, không thể hứa trước với huynh đệ điều gì để sau này hành sự khỏi phải vướng tay vướng chân.
Lệnh Hồ Xung nghe lão nói như vậy thì nghĩ lão sẽ làm khó dễ Nhạc Bất Quần, bất giác sự lo lắng hiện rõ lên nét mặt.
Nhậm Ngã Hành cười ha hả nói:
– Tiểu huynh đệ, huynh đệ cứ ngồi xuống đi. Ngày nay trên giang hồ ta chỉ có Hướng huynh đệ và tiểu huynh đệ là hai người thân tín nhất. Tiểu huynh đệ có chuyện cầu xin ta thì chúng ta phải cùng thương lượng. Nếu tiểu huynh đệ hứa với ta một chuyện thì ta cũng đồng ý với lời yêu cầu của tiểu huynh đệ. Từ nay về sau, nếu gặp sư đồ trong phái Hoa Sơn, chỉ cần bọn họ không bất kính với ta thì ta sẽ không làm khó dễ chúng. Nếu ta muốn giáo huấn bọn chúng thì đương nhiên ta cũng phải nể mặt tiểu huynh đệ, hạ thủ lưu tình ba phần. Tiểu huynh đệ thấy thế nào?
Lệnh Hồ Xung vui mừng vội nói:
– Được như vậy vãn bối cảm kích vô cùng. Giáo chủ có điều gì dạy bảo, vãn bối nhất nhất tuân theo.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Ta và hai người kết nghĩa huynh đệ kim lan, từ nay về sau có phúc cùng hưởng có nạn cùng chịu. Hướng huynh đệ là Quang Minh tả sứ của Nhật Nguyệt thần giáo còn tiểu huynh đệ làm Quang Minh hữu sứ. Ý tiểu huynh đệ thế nào?
Lệnh Hồ Xung vừa nghe, rất đỗi ngạc nhiên, vạn lần không ngờ lão mời gia nhập Ma giáo. Từ nhỏ, chàng đã nghe sư phụ và sư nương kể nhiều chuyện gian tà ác độc của Ma giáo. Bị trục xuất khỏi môn tường, chàng chỉ muốn sống như hạc nội mây ngàn, làm người phiêu bạt vô môn vô phái trên giang hồ. Nếu muốn chàng gia nhập vào Ma giáo thì vạn lần không thể được. Nhất thời, lòng chàng rối như tơ vò, khó trả lời được.
Nhậm Ngã Hành và Hướng Vấn Thiên nhìn Lệnh Hồ Xung chằm chằm, trong phòng im phăng phắc không một tiếng động.
Một lúc lâu sau Lệnh Hồ Xung mới nói:
– Hảo ý của giáo chủ, vãn bối nghĩ mình là kẻ mạt học hậu tiến, sao dám xưng huynh gọi đệ với giáo chủ? Vả lại, tuy vãn bối đã không còn là người phái Hoa Sơn nhưng vãn bối luôn mong muốn sư phụ có ngày hồi tâm chuyển ý, thu hồi lệnh…
Nhậm Ngã Hành cười nhạt nói:
– Tiểu huynh đệ gọi ta là giáo chủ, kỳ thực bây giờ tuy ta đã thoát được lao lung nhưng tính mạng của ta sống nay chết mai, hai chữ “giáo chủ” chẳng qua gọi cho dễ nghe mà thôi. Ngày nay, khắp thiên hạ ai ai cũng biết giáo chủ của Nhật Nguyệt thần giáo là Đông Phương Bất Bại. Người này võ công cao cường chẳng thua gì ta, lại đa mưu túc trí hơn ta nhiều. Dưới trướng của hắn có rất nhiều nhân tài, ta và Hướng huynh đệ có muốn đoạt lại ngôi vị giáo chủ từ trong tay hắn thì cũng chẳng khác gì lấy trứng chọi đá, thật là cuồng tâm vọng tưởng. Tiểu huynh đệ không muốn kết nghĩa huynh đệ với ta cũng là một chuyện tốt để giữ mình trong sạch. Nào nào, chúng ta uống rượu nói chuyện vui, không đề cập đến chuyện này nữa.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Quyền vị của giáo chủ vì sao bị Đông Phương Bất Bại cướp đoạt? Tại sao giáo chủ bị cầm tù trong hắc lao? Nhiều chuyện như vậy vãn bối hoàn toàn không biết, hai vị có thể kể cho vãn bối nghe được không?
Nhậm Ngã Hành lắc đầu cười thê lương, nói:
– Ở dưới đáy Tây Hồ mười hai năm trời, danh lợi quyền vị cái gì ta coi cũng nhạt nhẽo. Hì hì, tuổi ta càng ngày càng già thì lòng càng nóng nảy.
Lão rót từng bát rượu uống cạn rồi cười một tràng ha hả, tiếng cười đầy vẻ thê lương.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Huynh đệ, hôm đó Đông Phương Bất Bại phái nhiều người truy đuổi ta. Thủ đoạn chúng tàn độc ra sao, huynh đệ đã chứng kiến rồi. Nếu không nhờ huynh đệ trượng nghĩa ra tay thì ta đã sớm bị bọn chúng chém nát như tương ở trong lương đình. Lòng huynh đệ thường phân biệt chính phái với Ma giáo, nhưng hôm đó mấy trăm người bọn chúng liên thủ với nhau để vây giết hai huynh đệ chúng ta, nào còn phân biệt chính phái với Ma giáo đâu? Kỳ thực, trong chính phái có người tốt nhưng chẳng lẽ không có kẻ đê tiện gian ác? Trong Ma giáo người xấu không ít nhưng nếu ba người chúng ta nắm giữ đại quyền chỉnh đốn mọi việc, đem những hạng gian ác xấu xa thanh trừ hết, há không khiến cho hào kiệt trên giang hồ vui lòng hả dạ sao?
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Lời đại ca nói thật chí lý.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Nghĩ đến năm xưa giáo chủ đối xử với Đông Phương Bất Bại tình như thủ túc, đề bạt hắn làm Quang Minh tả sứ trong thần giáo, mọi đại quyền trong tay giáo phái đều giao phó cho hắn. Lúc đó giáo chủ chỉ chuyên tâm tu luyện Hấp tinh đại pháp để sửa chữa những sai sót nhỏ nhặt, nên chuyện thường ngày trong giáo phái, giáo chủ không chăm sóc được. Không ngờ Đông Phương Bất Bại lòng lang dạ sói, ngoài mặt đối với giáo chủ vô cùng cung kính, chuyện gì cũng không dám làm trái nhưng bên trong ngấm ngầm gầy dựng thế lực. Hắn bịa đặt nhiều lý do, đem toàn bộ thuộc hạ trung thành với giáo chủ hoặc cách chức hoặc xử tử. Trong vòng mấy năm, người thân tín của giáo chủ từ từ bị triệt hết. Giáo chủ là một người trung hậu chí thành, thấy Đông Phương Bất Bại xử sự cung kính cẩn thận mà tất cả mọi chuyện trong bổn phái hắn đều sắp đặt đâu vào đấy nên không chút hoài nghi.
Nhậm Ngã Hành thở dài nói:
– Hướng huynh đệ, chuyện này ta thật lấy làm xấu hổ. Huynh đệ đã mấy lần nói lời trung thành với ta, khuyên ta đề phòng. Nhưng ta quá tín nhiệm Đông Phương Bất Bại, lời trung lại nghe nghịch tai, còn trách huynh đệ đem lòng đố kỵ hắn, đưa lời ly gián sinh ra lắm chuyện thị phi, khiến cho huynh đệ tức giận bỏ đi biệt tích, từ đó không còn gặp mặt nữa.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Thuộc hạ quyết không dám có ý gì oán trách giáo chủ. Nhưng thấy tình thế trước mắt bất ổn, Đông Phương Bất Bại lại bố trí nghiêm mật sẽ gây ra tai biến lập tức. Nếu thuộc hạ còn phục tùng bên cạnh giáo chủ thì trước sau cũng bị hắn hạ độc thủ. Bổn giáo đang gặp nguy khốn, thuộc hạ cũng muốn gánh vác nhưng thuộc hạ suy trước nghĩ sau, cảm thấy nên rời xa trước là tốt nhất. Nếu giáo chủ có thể nhìn ra âm mưu tạo phản thì đó là điều tốt lành, nếu không thuộc hạ ở bên ngoài ít nhất cũng khiến cho hắn phải úy kị mà không dám lộng hành thái quá.
Nhậm Ngã Hành gật đầu nói:
– Đúng vậy, nhưng lúc đó ta đâu có biết nỗi khổ tâm của huynh đệ? Thấy huynh đệ ra đi không từ biệt thì lòng ta rất tức giận. Lúc đó, việc luyện công của ta đang vào thời kỳ khẩn yếu, rất dễ bị tẩu hỏa nhập ma. Đông Phương Bất Bại lại càng ra vẻ ân cần, khuyên ta không nên phiền não. Ta càng trúng gian kế của hắn, còn đem cả bí cấp Quỳ hoa bảo điển của bổn giáo truyền cho hắn.
Lệnh Hồ Xung nghe đến bốn chữ “Quỳ hoa bảo điển” bất giác ồ lên một tiếng. Hướng Vấn Thiên hỏi:
– Huynh đệ, huynh đệ cũng biết Quỳ hoa bảo điển ư?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu đệ từng nghe sư phụ nói qua tên bộ bảo điển này, biết đây là bí cấp võ học bác đại tinh thâm nhưng không biết nó ở trong tay giáo chủ.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Nhiều năm trở lại đây, Quỳ hoa bảo điển là bảo vật trấn giáo của Nhật Nguyệt thần giáo, do giáo chủ đời trước truyền cho giáo chủ đời sau. Lúc đó ta luyện Hấp tinh đại pháp đến quên ăn mất ngủ, chuyện gì cũng không màng đến nên muốn đem ngôi vị giáo chủ truyền cho Đông Phương Bất Bại. Ta đem Quỳ hoa bảo điển truyền cho hắn, cốt để hắn hiểu rõ rằng không bao lâu nữa ta sẽ truyền ngôi vị giáo chủ cho hắn. Ôi, Đông Phương Bất Bại là người quá thông minh, ngôi vị giáo chủ này rõ ràng đã giao tận tay hắn rồi mà tại sao hắn lại nóng vội như vậy, không chịu đợi đến lúc ta mở tổng đàn chính thức công bố với mọi người? Tại sao hắn muốn làm chuyện phản nghịch soán ngôi?
Lão chau mày, dường như cho đến bây giờ, đối với chuyện này lão vẫn chưa hiểu rõ nguyên nhân.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Một là hắn không muốn chờ đợi, không biết lúc nào giáo chủ mới chính thức truyền ngôi; hai là hắn không an tâm chỉ sợ bỗng nhiên đại sự có biến cố.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Kỳ thực hắn đã sắp đặt bố trí tất cả, còn sợ đại sự biến cố gì? Thật khiến cho người ta khó hiểu nổi. Ta ở trong hắc lao tĩnh tâm suy nghĩ, nhất nhất muốn hiểu rõ hàng loạt gian mưu của hắn, nhưng vì sao hắn không chờ đợi mà đột nhiên làm loạn cho đến bây giờ ta vẫn chưa hiểu ra. Chắc trong lòng hắn có úy kị với huynh đệ nên sợ không chừng ta sẽ đem ngôi vị giáo chủ truyền cho huynh đệ. Nhưng huynh đệ đã ra đi không từ biệt, đã nhổ một cây đinh trong mắt của hắn, hắn cứ đợi từ từ là được rồi.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Năm đó Đông Phương Bất Bại làm loạn, mở đại tiệc vào buổi tối tiết Đoan Ngọ, tiểu thư có nói một câu ở bàn tiệc. Giáo chủ còn nhớ không?
Nhậm Ngã Hành gãi đầu nói:
– Tiết Đoan Ngọ ư? Tiểu thư đã nói gì? Có quan trọng không? Ta hoàn toàn không nhớ.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Giáo chủ đừng cho tiểu thư là trẻ con. Tiểu thư thông minh lanh lợi, suy nghĩ rất khôn ngoan thật không thua gì người lớn. Năm đó tiểu thư mới bảy tuổi, đếm người trên bàn tiệc rồi bỗng hỏi giáo chủ: “Gia gia, tại sao mỗi năm chúng ta mở tiệc rượu vào tiết Đoan Ngọ, cứ thiếu đi một người?” Giáo chủ ngẩn ra rồi hỏi: “Cái gì mà mỗi năm lại thiếu đi một người?” Tiểu thư nói: “Hài nhi nhớ năm ngoái có mười một người; năm kia có mười hai người; năm nay một, hai, ba, bốn, năm… chúng ta chỉ còn lại mười người”.
Nhậm Ngã Hành thở dài nói:
– Đúng vậy, lúc đó ta có nghe Tiểu Linh Linh nói, lòng đã không vui. Năm trước, Đông Phương Bất Bại đã xử Hách hiền đệ. Năm trước nữa, Khâu trưởng lão chết một cách không rõ ràng ở Cam Túc, bây giờ nghĩ ra, chắc chắn là do Đông Phương Bất Bại đã ngấm ngầm sắp đặt độc kế. Năm trước nữa, Văn trưởng lão bị cách chức đuổi ra khỏi bổn giáo; bị cao thủ ba phái Tung Sơn, Thái Sơn và Hành Sơn vây đánh mà chết. Khởi họa chuyện này dĩ nhiên cũng do Đông Phương Bất Bại gây nên. Ôi, Tiểu Linh Linh vô tình phát hiện ra, lúc đó ta như người trong mộng, không tỉnh ngộ.
Lão ngừng một lúc, uống một hớp rượu lại nói tiếp:
– Hấp tinh đại pháp được phái Tiêu Dao sáng tạo giữa thời Bắc Tống, phân làm hai đường Bắc Minh thần công và Hóa công đại pháp, về sau họ Đoàn ở Đại Lý và phái Tinh Tú phân ra để truyền lại, rồi hợp lại làm một gọi là Hấp tinh đại pháp, chủ yếu thừa kế đường Hóa công đại pháp. Có điều người thường học không được phương pháp này vì trong đó có chỗ thiếu sót. Lúc đó, ta tu luyện Hấp tinh đại pháp đã hơn mười năm, trên giang hồ thần công đại pháp này rất có tiếng tăm. Người trong chính giáo vừa nghe nhắc đến nó không ai không sợ đến vỡ mật. Nhưng ta lại biết trong thần công này có mấy chỗ thiếu sót lớn, lúc đầu không tìm ra được, sau đó những họa hoạn của nó dần dần hiện ra. Trong mấy năm, dĩ nhiên ta đã hiểu rõ những họa hoạn đó, biết rằng nếu không kịp thời bổ cứu thì sẽ có một ngày thân thể bị độc hỏa thiêu đốt. Đó là lấy công lực của người khác thì sẽ bị phản kích lại, hút càng nhiều công lực thì bị phản kích càng nhiều.
Lệnh Hồ Xung vừa nghe đến đây, lòng mơ hồ cảm thấy có một chuyện gì đó rất không ổn.
Nhậm Ngã Hành lại nói:
– Lúc đó trên người của ta đã tích tụ công lực của mười mấy tên cao thủ chính tà. Mười mấy cao thủ này thuộc nhiều môn phái khác nhau, công lực luyện tập của họ cũng khác nhau. Ta phải tìm cách đem chúng hợp lại làm một để thành nội lực của ta, nếu không thì nội thể sẽ gặp đại họa. Trong mấy năm đó, ta ngày đêm suy nghĩ, lúc nào cũng canh cánh về chuyện này. Hôm đãi yến tiệc tết Đoan Ngọ, tuy ta đang uống rượu cười nói mà trong lòng vẫn ngầm suy tính về hai mươi hai huyệt Dương kiểu và ba mươi hai huyệt Dương duy. Giữa năm mươi bốn huyệt này, làm sao vận nội tức cho lưu thông dễ dàng, có thể từ Dương kiểu vào Dương duy cũng có thể từ Dương duy trở về Dương kiểu. Cho nên nghe mấy câu nói của Tiểu Linh Linh, lòng ta không vui nhưng trong chốc lát thì quên ngay.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Thuộc hạ cũng thấy rất kỳ lạ. Xưa nay giáo chủ rất nhanh nhạy, chỉ cần người khác nói nửa câu, giáo chủ mười phần đã nắm được chín tâm ý của người đó, không hề nhầm lẫn. Nhưng trong mấy năm đó, không những đối với gian mưu của Đông Phương Bất Bại giáo chủ không phát giác mà còn thường ngày… thường ngày… ôi…
Nhậm Ngã Hành mỉm cười nói:
– Mà còn thường ngày ngơ ngơ ngác ngác, tâm thần bất định có phải không?
Hướng Vấn Thiên nói:
– Đúng vậy. Sau khi tiểu thư nói mấy câu này, Đông Phương Bất Bại cười ha hả nói: “Tiểu thư, tiểu thư thích náo nhiệt phải không? Sang năm chúng ta mời thêm mấy người đến cùng uống rượu nữa”. Lúc hắn nói, bộ mặt đầy vẻ hân hoan nhưng tiểu đệ thấy từ trong ánh mắt của hắn đầy vẻ nghi ngại. Chắc hắn đoán rằng giáo chủ đã sớm có ý định, trước mắt giáo chủ chẳng qua giả bộ lờ đi để thử hắn. Hắn biết giáo chủ thông minh, đoán rằng giáo chủ quá hiểu rõ chuyện này, quyết không còn nghi ngờ gì nữa.
Nhậm Ngã Hành chau mày nói:
– Hôm đó Tiểu Linh Linh nói mấy câu trong bữa yến tiệc tết Đoan Ngọ mà mười hai năm nay ta không hề nhớ tới. Bây giờ huynh đệ nhắc đến ta mới nhớ ra, quả thực Tiểu Linh Linh có nói. Đúng vậy, Đông Phương Bất Bại nghe mấy câu nói đó, làm sao mà hắn không nghi ngờ được?
Hướng Vấn Thiên nói:
– Hơn nữa, tiểu thư mỗi ngày một lớn, mỗi ngày càng thông minh, thì trong một hai năm nữa tiểu thư sẽ biết rõ mưu đồ của hắn. Đợi sau khi tiểu thư trưởng thành, có lẽ giáo chủ sẽ truyền ngôi vị cho tiểu thư. Cho nên Đông Phương Bất Bại không dám đợi lâu, mạo hiểm làm loạn, nguyên nhân là từ chỗ đó.
Nhậm Ngã Hành liên tục gật đầu rồi thở dài nói:
– Ôi, nếu bây giờ hài nhi ở bên ta thì chúng ta có thêm một người cũng không đến nỗi thế cô lực nhược như vậy.
Hướng Vấn Thiên quay lại nói với Lệnh Hồ Xung:
– Huynh đệ, vừa rồi giáo chủ nói Hấp tinh đại pháp của giáo chủ có thiếu sót rất lớn. Theo ta biết, tuy giáo chủ bị giam cầm mười hai năm trong hắc lao, chịu nhiều khuất tất, nhưng nhờ đó mà thoát được những mối ràng buộc thế tục, nghĩ suy nghiên cứu dĩ nhiên đã giải được những chỗ bí ảo trong thần công này. Giáo chủ, có phải vậy không?
Nhậm Ngã Hành vuốt chòm râu đen, cười ha hả trông rất đắc ý, lão nói:
– Đúng vậy. Từ đó về sau việc hút công lực của người khác ta đều tận dụng hết, cũng không còn lo sợ những chân khí dị chủng bỗng nhiên phản kích. Ha ha! Lệnh Hồ huynh đệ, huynh đệ thử hít một hơi dài, có phải cảm thấy chân khí ở huyệt Ngọc chẩm và Đản trung nhộn nhạo không?
Lệnh Hồ Xung theo lời lão hít một hơi, quả nhiên cảm thấy trong hai huyệt Đản trung và Ngọc chẩm chân khí nhộn nhạo lên, bất giác mặt hơi biến sắc.
Nhậm Ngã Hành nói:
– Chẳng qua huynh đệ mới bắt đầu luyện nên chưa thể phát giác ra được. Nhưng năm xưa lúc ta chưa giải phá được bí ảo này, chân khí trong hai huyệt này dấy lên, thật giống như trời đất đảo lộn khó mà chịu được. Tuy bề ngoài yên lặng không một tiếng động mà trong tai lại nghe tiếng vó của hàng vạn con ngựa dồn dập, có lúc lại giống như nghe tiếng sấm liên tục nổ ầm ầm. Ôi, nếu trong nội thể ta không có biến cố quan trọng này thì âm mưu phản nghịch của Đông Phương Bất Bại làm sao có thể thực hiện được.
Lệnh Hồ Xung biết lão nói thật, lại biết Hướng Vấn Thiên nói những lời như vậy là có ý muốn chàng cầu xin lão chỉ giáo cách chữa trọng bệnh nhưng nếu chàng không gia nhập Nhật Nguyệt thần giáo thì mở miệng cầu xin chỉ giáo dĩ nhiên không nói ra được. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Luyện Hấp tinh đại pháp này của lão thì ra có thể hút lấy nội lực của người khác để làm của mình. Công phu hiểm độc này ta quyết không luyện, quyết không sử dụng. Còn nếu chân khí dị chủng trong cơ thể ta vốn không cách nào hóa giải được thì nó đã là vậy rồi, tính mạng này của ta sắp gặp nguy hiểm. Lệnh Hồ Xung làm sao có thể ham sống sợ chết mà đi làm cái chuyện trái với lương tâm?
Lệnh Hồ Xung liền xoay sang chuyện khác, nói:
– Giáo chủ, vãn bối có một chuyện không rõ, xin giáo chủ chỉ giáo. Vãn bối từng nghe sư phụ nói: Quỳ hoa bảo điển là bí cấp chí cao vô thượng trong võ học, luyện thành công võ học trong bảo điển không những sẽ vô địch thiên hạ mà còn kéo dài tuổi thọ hơn một trăm tuổi. Sao giáo chủ không luyện võ công trong bảo điển mà lại đi luyện môn Hấp tinh đại pháp rất nguy hiểm này?
Nhậm Ngã Hành cười nhạt nói:
– Nguyên nhân của chuyện này không tiện nói cho người ngoài biết.
Mặt Lệnh Hồ Xung ửng đỏ:
– Dạ, vãn bối quá tò mò.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Huynh đệ, tuổi giáo chủ đã cao, đại ca của huynh đệ cũng kém hơn giáo chủ lão nhân gia vài tuổi thôi. Nếu huynh đệ gia nhập bổn giáo, người kế nhiệm giáo chủ sau này là huynh đệ chứ không là ai nữa. Dù huynh đệ chê thanh danh của Nhật Nguyệt thần giáo không tốt, chẳng lẽ bàn tay của huynh đệ không thể chỉnh đốn để tạo phúc cho thiên hạ sao?
Lệnh Hồ Xung nghe lão nói rất có tình có lý, lòng rất cảm động. Nhậm Ngã Hành tay trái cầm bát rượu đặt mạnh xuống bàn, tay phải cầm vò rượu rót đầy bát nói:
– Mấy trăm năm nay, Nhật Nguyệt thần giáo ta và các phái chính giáo là thù địch, ở thế không đội trời chung. Nếu huynh đệ cố chấp không chịu gia nhập, nội thương của huynh đệ khó khỏi, tánh mạng không bảo toàn, cũng chưa đáng kể. Chỉ e sư phụ và sư nương phái Hoa Sơn của huynh đệ… hì hì, ta muốn tiêu diệt hết sư đồ phái Hoa Sơn để từ nay không còn tên tuổi Hoa Sơn trong võ lâm cũng không phải là chuyện khó khăn gì. Hôm nay huynh đệ và ta tương hội ở đây là có duyên lớn, nếu huynh đệ nghe lời khuyên tốt lành của ta thì xin cạn bát này.
Lão nói những lời lẽ đầy ý uy hiếp khiến bầu nhiệt huyết trong ngực Lệnh Hồ Xung sôi lên. Chàng lớn tiếng nói:
– Giáo chủ, đại ca, vãn bối thân mang bệnh hoạn, mạng chỉ còn sớm chiều, vô tình học được đại pháp thần công của giáo chủ. Từ nay về sau dù không cách nào hóa giải, cũng chẳng qua trở lại trạng thái cũ mà thôi, cũng không sao hết. Đối với tính mạng mình, vãn bối đã sớm xem thường, sống chết có số, tới đâu thì tới. Phái Hoa Sơn thành lập đã mấy trăm năm, đương nhiên có quyền tồn tại, chưa chắc người khác vung tay là có thể tiêu diệt được. Hôm nay vãn bối nói hết lời ở đây, sau này sẽ có ngày gặp lại.
Lệnh Hồ Xung nói xong, đứng dậy hướng về hai người cung tay rồi quay người ra đi.
Hướng Vấn Thiên muốn nói thêm vài lời nhưng Lệnh Hồ Xung đã đi xa rồi.
Lệnh Hồ Xung ra khỏi Mai trang, thở phào nhẹ nhõm. Một luồng gió mát thổi vào cơ thể khiến chàng sảng khoái. Chàng ngẩng đầu lên, thấy mảnh trăng lưỡi liềm tựa hồ treo trên cành liễu, xa xa dưới mặt hồ ánh lên bóng trăng và chòm mây bay bay.
Lệnh Hồ Xung đến bên bờ hồ, đứng một lúc, thầm nghĩ: Trước mắt đại sự của Nhậm giáo chủ là tính sổ với Đông Phương Bất Bại, đoạt lại ngôi vị giáo chủ, tất nhiên lão chưa đi tìm phái Hoa Sơn để tru diệt. Nhưng nếu sư phụ, sư nương, bọn sư đệ, sư muội không hiểu biết nội tình mà đụng phải lão thì khó tránh khỏi bị hại. Ta phải sớm báo trước để bọn họ kịp đề phòng. Nhưng không biết bọn họ đi Phúc Châu về chưa? Từ đây đi Phúc Châu không xa, bây giờ rảnh rỗi ta đi Phúc Kiến một chuyến. Nếu bọn họ đã về rồi, thì trên đường ta có thể gặp họ được.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến chuyện sư phụ đã truyền thư khắp võ lâm trục xuất mình ra khỏi sư môn, lòng thấy chua xót. Chàng lại nghĩ: Ta đem chuyện Nhậm giáo chủ bức bách ta gia nhập Ma giáo bẩm báo với sư phụ sư nương, chắc họ sẽ hiểu rõ ta không có ý kết giao với người trong Ma giáo. Không chừng sư phụ và sư nương có thể thu hồi lệnh trục xuất, chỉ phạt ta lên ngọn sám hối quay mặt vào tường ba năm thì được rồi.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến hy vọng được trở về sư môn, tinh thần hắn phấn chấn, liền đi tìm khách điếm để nghỉ ngơi.
Lệnh Hồ Xung ngủ đến giờ ngọ mới tỉnh giấc, lòng nghĩ trước khi chưa gặp sư phụ sư nương, không nên để lộ dung mạo. Huống chi Doanh Doanh từng ra lệnh cho bọn Tổ Thiên Thu truyền ngôn trên giang hồ phải lấy tính mạng của mình, nên cần cải trang để khỏi gặp phiền phức. Nhưng cải trang thế nào mới được? Lệnh Hồ Xung trầm ngâm một lúc, bước ra khỏi phòng, vừa đi đến sân bỗng nghe ào một tiếng, một chậu nước tạt vào người. Lệnh Hồ Xung liền nhảy sang né tránh, chậu nước tạt vào khoảng không. Một viên quan tay đang cầm cái chậu gỗ rửa mặt, nhìn chàng với ánh mắt tức giận, hất hàm hỏi:
– Ngươi không có mắt hả, ngươi không thấy lão gia đang bưng chậu nước sao?
Lệnh Hồ Xung rất tức giận, lòng nghĩ trong thiên hạ tại sao có hạng người ngang ngược như vậy. Chàng thấy viên quan này khoảng bốn mươi tuổi, để bộ râu quai nón, chắc là quan võ. Gã mặc sắc phục dường như là hiệu úy, lưng mang yêu đao, đứng ưỡn ngực ra, hiển nhiên là tác oai tác phúc quen rồi. Viên quan quát:
– Còn nhìn cái gì nữa, không nhận ra lão gia sao?
Lệnh Hồ Xung nhanh nhạy nghĩ ngay: Cải trang thành một viên quan thì thú biết mấy, ta cứ ngang nhiên đi lại trên giang hồ, bằng hữu trong võ lâm không ai thèm ngó ngàng đến ta.
Viên quan quát:
– Cười cái gì? Bà nội ngươi, có gì đâu mà cười?
Thì ra Lệnh Hồ Xung đang nghĩ đến chuyện cải trang, vẻ mặt không khỏi hớn hở. Chàng đi đến trước quầy chưởng quỹ hỏi khẽ:
– Vị quân gia này từ đâu đến?
Chưởng quỹ nhăn mày nhíu mặt nói:
– Ai mà biết hắn từ đâu tới? Hắn tự xưng là từ thành Bắc Kinh đến, chỉ trọ một đêm mà điếm tiểu nhị hầu hạ hắn đã bị ăn ba cái tát tóe lửa. Ăn uống cho cố vào cũng không biết có trả tiền phòng, tiền cơm không nữa.
Lệnh Hồ Xung gật đầu, đi đến một quán trà bên cạnh, gọi đem một bình trà, ngồi nhâm nhi chờ đợi.
Đợi khoảng nửa canh giờ, bỗng nghe tiếng vó ngựa. Viên quan cưỡi con ngựa màu đỏ sậm từ trong khách điếm đi ra, roi ngựa vung lên chát chát. Y lớn tiếng quát:
– Tránh ra, tránh ra! Tổ mẹ nó, còn không mau tránh ra!
Mấy người đi đường tránh chậm liền bị y dùng roi ngựa quất vào người. Họ đau quá la oai oái.
Lệnh Hồ Xung trả tiền trà trước, đứng dậy bước nhanh theo sau con ngựa. Người đi đường thưa dần, chàng càng bước nhanh hơn vượt lên trước con ngựa, dang tay phải ra. Con ngựa giật mình hý một tiếng rồi nhảy lên, viên quan suýt chút nữa rớt xuống ngựa. Lệnh Hồ Xung quát:
– Tổ mẹ nó, bộ đui sao? Quân súc sinh này suýt đạp chết lão tử rồi.
Lệnh Hồ Xung không mở miệng đã làm cho viên quan tức giận lắm rồi, huống chi còn thóa mạ thì viên quan chịu sao thấu? Đợi chân trước của ngựa đáp xuống đất, y liền vung roi quất xuống đầu Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung thấy trên đường lớn không tiện giở trò liền la lên:
– Chao ôi!
Chàng loạng choạng, ôm đầu chạy về hướng con đường nhỏ. Viên quan chẳng chịu buông tha. Y nhảy xuống, vội vàng cột ngựa vào gốc cây rồi rượt theo Lệnh Hồ Xung như điên. Lệnh Hồ Xung la lên:
– Chao ôi, mẹ ơi!
Chàng chạy vào lùm cây. Viên quan la lối om sòm đuổi theo, bỗng nhiên dưới sườn trái y bị tê rần. Uỳnh một tiếng, y ngã lăn xuống đất.
Lệnh Hồ Xung chân trái đạp lên ngực y, cười nói:
– Tổ mẹ nó, bản lãnh tồi như vậy thì làm sao có thể hành quân đánh trận được?
Lệnh Hồ Xung lục túi của y, moi ra một phong thư, trên bì thư đóng dấu đỏ chót của Binh bộ thượng thư, viết hai chữ to: “Cáo thân”. Chàng mở phong thư rút ra một trang giấy dày. Đó là lệnh ủy nhiệm của Binh bộ thượng thư, viết rõ ủy nhiệm Ngô Thiên Đức là du kích ở Thương Châu, Hà Bắc được thăng lên chức tham tướng phủ Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến, phải tức khắc lên đường nhậm chức. Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Thì ra ngươi là tham tướng đại nhân. Ngươi là Ngô Thiên Đức ư?
Viên quan bị Lệnh Hồ Xung đạp không nhúc nhích được, vẻ mặt xám xanh, quát:
– Mau thả ta ra. Ngươi… ngươi… to gan làm càn, nhục mạ mệnh quan triều đình, không… không sợ vương pháp sao?
Tuy miệng y quát tháo mắng chửi nhưng khí thế lại ỉu xìu.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Lão tử hết tiền lộ phí rồi, muốn mượn tạm quần áo của ngươi đi cầm xài đỡ.
Chàng xoay tay đánh một chưởng vào đầu y, viên quan liền ngất đi.
Lệnh Hồ Xung nhanh chóng lột quần áo y ra, lòng nghĩ tên này khả ố như vậy, cho y một bài học cũng đáng đời nên lột hết đồ trong đồ ngoài khiến toàn thân y trần như nhộng. Lệnh Hồ Xung cầm cái bao tải nặng của y mở ra xem thấy có mấy trăm lạng bạc và thoi vàng nguyên. Chàng thầm nghĩ: Tất cả vàng bạc đều do tên cẩu quan này bòn rút của dân mà có, đáng lẽ vật trả về chủ. Nhưng thôi, phải để tham tướng đại nhân Ngô Thiên Đức là ta cầm đi mua rượu uống vậy.
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy, không kìm được, phì cười ra tiếng. Chàng cởi hết quần áo, đem quân phục, ủng, yêu đao, túi xách của tên tham tướng mặc lên người rồi trói chặt tay của viên quan vào gốc cây, lại lấy bùn nhét đầy miệng hắn. Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ, quay người rút đơn đao cạo sạch bộ râu quai nón của viên quan rồi nhét bộ râu vào trong túi. Chàng cười nói:
– Ngươi biến thành tên tiểu bạch diện trông đẹp trai hơn nhiều.
Lệnh Hồ Xung đi ra đường lớn, mở dây cột ngựa ở gốc cây ra rồi vọt lên lưng ngựa, vung roi quát:
– Tránh ra, tránh ra! Tổ mẹ nó, bộ đui hết rồi sao? Ha ha…
Lệnh Hồ Xung cười một tràng dài rồi phóng ngựa phi về hướng Nam.
Tối hôm đó, chàng đến Dư Hàng, nghỉ trong một khách điếm. Chưởng quỹ và điếm tiểu nhị một tiếng quan gia, hai tiếng cũng quan gia, hầu hạ rất chu đáo. Sáng sớm hôm sau, Lệnh Hồ Xung hỏi chưởng quỹ đường đi Phúc Kiến, thưởng cho hắn năm lạng bạc. Chưởng quỹ và điếm tiểu nhị cung kính tiễn Lệnh Hồ Xung ra ngoài cửa. Chàng nghĩ bụng: Xem ra các ngươi may mắn gặp được vị tham tướng dỏm như ta. Nếu là tham tướng Ngô Thiên Đức thật đến đây ở trọ thì các ngươi phải khổ rồi.
Lệnh Hồ Xung vào tiệm mua một cái gương và một hũ keo. Sau khi ra khỏi thành, chàng đến một chỗ hoang vắng, soi gương lấy từng cọng râu dán lên cằm. Chàng làm rất tỉ mỉ trong hết nửa canh giờ, dán xong nhìn vào gương, thấy bộ râu quai nón xồm xoàm trên mặt trông thật oai vệ, bất giác khoái chí cười ha hả.
Trên đường đi về hướng Nam, sau khi qua phủ Kim Hoa và phủ Tứ Châu, khẩu âm phương Nam khác với khẩu âm Trung Châu nên Lệnh Hồ Xung rất khó nghe. May mà nhiều người thấy Lệnh Hồ Xung là quan gia nên họ đều uốn lưỡi nói tiếng Quan thoại với chàng, khiến chàng cũng thấy không khó nghe lắm. Trong đời Lệnh Hồ Xung chưa bao giờ có được nhiều tiền như vậy. Chàng uống rượu thỏa thuê, ăn nhiều món ngon vật lạ.
Các luồng chân khí dị chủng trong cơ thể Lệnh Hồ Xung tạm thời được tản vào các kinh mạch nhưng không thể trục ra ngoài cơ thể. Thỉnh thoảng, chúng lại chạy ngược vào huyệt Đan điền khiến cho chàng bị choáng váng, hoa cả mắt và miệng lại buồn nôn. Khi có thêm chân khí của Hắc Bạch Tử, so với trước, càng khó chịu hơn. Mỗi lần bị phát tác, Lệnh Hồ Xung đành phải dựa theo pháp môn mà Nhậm Ngã Hành khắc trên thiết bản để trục tán chúng ra khỏi huyệt Đan điền.
Chỉ cần các luồng chân khí dị chủng bị đẩy ra khỏi huyệt Đan điền thì tinh thần chàng lập tức phấn chấn, dễ chịu vô cùng. Mỗi lần luyện như vậy, Lệnh Hồ Xung tự biết công lực của mình tăng thêm một bậc, tuổi thọ càng giảm đi. Hắn thường nghĩ: Tính mạng của ta sống nay chết mai, sống được ngày nào thì ngày đó đã may mắn lắm rồi. Nhờ suy nghĩ vậy nên Lệnh Hồ Xung rất thản nhiên.
Sau giờ Ngọ, Lệnh Hồ Xung đã vào Tiên Hà Lĩnh. Đường núi gập ghềnh, càng đi càng dốc, người trên Tiên Hà Lĩnh rất ít. Đi được hơn mười hai dặm, vẫn không thấy một bóng người, chàng biết vì bọn cướp thường cản đường trấn lột nên trên đây không có nhà ở. Thấy trời đã gần tối, Lệnh Hồ Xung định tìm một bụi cỏ hoang để nghỉ ngơi. Phía dưới sườn núi có một sơn động nhỏ nhô ra không đến nỗi bị côn trùng quấy nhiễu, chàng liền cột ngựa vào gốc cây cho ngựa tự ăn cỏ, rồi tìm một ít cỏ khô trải trong động chuẩn bị ngủ qua đêm. Nhưng lúc ấy khí huyết trong huyệt Đan điền lại khó chịu, chàng liền ngồi xuống luyện công. Mỗi lần luyện thần công mà Nhậm Ngã Hành truyền cho thì chàng càng cảm thấy mình bị ràng buộc, nhưng lúc luyện xong lại thú vị vô cùng. Càng luyện nhiều lần càng cảm thấy toàn thân thoải mái dễ chịu, cảm giác lâng lâng như đang bay bổng trên mây.
Lệnh Hồ Xung thở phào một cái, đứng dậy bất giác cười gượng, thầm nghĩ: Hôm đó ta hỏi Nhậm giáo chủ tại sao đã có Quỳ hoa bảo điển võ công tuyệt học trong tay mà còn luyện Hấp tinh đại pháp, lão không trả lời thẳng. Nguyên nhân trong chuyện này bây giờ ta đã hiểu ra. Thì ra luyện Hấp tinh đại pháp này thì không cách nào dừng lại được.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác ngấm ngầm kinh hãi: Ta đã từng nghe sư nương nói qua chuyện người Miêu nuôi trùng độc, sau khi nuôi chúng dù biết chúng có hại cũng không bỏ được, nếu không thả trùng độc ra hại người thì trùng độc sẽ phản lại chủ, xem ra ta đừng làm giống như người Miêu nuôi trùng mới được.
Lệnh Hồ Xung ra khỏi sơn động, thấy tinh tú đầy trời, bốn bề tiếng côn trùng rên rỉ. Bỗng nghe có tiếng người đi trên núi, lúc này khoảng cách còn xa nhưng nội công của Lệnh Hồ Xung rất cao, tai rất thính nhạy. Tâm thần xúc động, chàng liền đi đến cởi dây buộc, vỗ nhẹ lên mông ngựa cho ngựa từ từ đi về phía thung lũng.
Lệnh Hồ Xung núp sau thân cây, một lúc sau chàng nghe tiếng bước chân trên đường núi đến gần. Người đến rất đông, dưới ánh sao, chàng thấy đoàn người đều mặc áo đen. Một người trong đó lưng thắt đai vàng, nhìn cách ăn mặc thì biết là người trong Ma giáo. Tổng cộng có hơn ba chục người vừa cao vừa thấp đều im lặng đi theo sau người đó.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bọn họ đi về hướng Nam vào đất Mân, phải chăng có liên quan đến phái Hoa Sơn ta? Chẳng lẽ họ phụng mệnh Nhậm giáo chủ đi làm khó dễ sư phụ sư nương ta?
Lệnh Hồ Xung đợi đoàn người đi xa liền lén theo sau. Đi được vài dặm, đường núi bỗng nhiên dựng đứng, hai bên sườn núi rất cao, ở giữa là con đường rất hẹp, hai người không thể cùng đi ngang nhau. Hơn ba chục người sắp thành một hàng dài như con rắn, leo lên sơn đạo. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Nếu ta leo lên theo, bọn chúng ở trên cao chỉ cần một người quay đầu lại thì sẽ thấy ta ngay.
Lệnh Hồ Xung tạm thời ẩn mình vào bụi cỏ, đợi bọn họ lên hết sườn núi, đi xuống phía Nam thì mới đuổi theo. Nào ngờ đoàn người này lên đến sườn núi bỗng phân tán ra, ẩn vào sau những tảng đá. Trong khoảnh khắc, bọn họ nấp hết không còn thấy một bóng người.
Lệnh Hồ Xung giật mình, nghĩ: Bọn chúng đã thấy ta rồi. Nhưng chàng liền biết là không phải, thầm nghĩ: Bọn họ mai phục ở đây là muốn tập kích người lên núi. Phải rồi, địa thế ở đây tuyệt hay, đột ngột xuất hiện tấn công thì người lên núi khó mà thoát khỏi độc thủ. Bọn họ muốn phục kích ai? Chẳng lẽ sư phụ và sư nương sau khi về phương Bắc lại có chuyện gấp rút phải đi Phúc Kiến ư? Nếu không thì tại sao bọn này cũng cản đường ngay cả trong đêm hôm tăm tối? Đêm nay ta có thể tương hội cùng tiểu sư muội rồi ư?
Lệnh Hồ Xung vừa nghĩ đến Nhạc Linh San, khắp người nóng ran lên. Chàng nhè nhẹ từ trong bụi cỏ bò ra, len lén đi ra xa sơn đạo rồi mới từ giữa những tảng đá mà chạy nhanh xuống núi, quẹo qua mấy khúc quanh. Chàng ngoái đầu lại không thấy sườn núi cao, mới quay về sơn đạo chạy theo hướng Bắc.
Lệnh Hồ Xung vừa chạy thật nhanh vừa lắng tai định thần xem trước mặt có người đi đến không. Sau khi chạy hơn mười dặm, bỗng nghe có người trên sườn núi bên trái mắng chửi:
– Lệnh Hồ Xung là tên chẳng ra gì mà ngươi còn cố biện hộ cho hắn ư?
Trong đêm khuya giữa chốn hoang sơn, bỗng nhiên có người kêu họ tên mình ra rất rõ khiến Lệnh Hồ Xung không khỏi giật mình. Chàng chợt nghĩ chắc là sư phụ của bọn chúng.
Nhưng thanh âm rõ ràng là của phụ nữ, cũng không phải là sư nương, càng không phải là Nhạc Linh San. Tiếp theo lại nghe giọng nói của một người con gái, nhưng khoảng cách đã xa mà giọng nói lại nhỏ, nên nghe không rõ cô nói cái gì. Lệnh Hồ Xung nhìn lên sườn núi, chỉ thấy có ba bốn chục bóng đen. Lòng chàng hơi chua xót: Không biết là ai đang chửi mình? Nếu quả thật là người phái Hoa Sơn, tiểu sư muội nghe người khác chửi mình như vậy, không biết tiểu sư muội sẽ nói thế nào?
Lệnh Hồ Xung liền cúi thấp người chui vào lùm cây bên vệ đường, đi vòng qua bên sườn núi, khom người chạy nhanh đến phía sau một gốc cây to. Tiếng một phụ nữ nói:
– Sư bá, Lệnh Hồ sư huynh hành hiệp trượng nghĩa…
Lệnh Hồ Xung chỉ nghe được nửa câu thì trong đầu đã hiện lên gương mặt trái xoan thanh tú. Ngực cảm thấy nóng ran, chàng biết người nói là tiểu ni cô Nghi Lâm phái Hằng Sơn. Lệnh Hồ Xung biết những người này là người phái Hằng Sơn chứ không phải là phái Hoa Sơn nên thất vọng vô cùng. Giữa lúc tâm thần bị kích động, Nghi Lâm nói tiếp mấy câu nhưng chàng không nghe được nữa.
Giọng người phụ nữ lớn tuổi rất đanh thép lúc trước tức giận nói:
– Ngươi còn nhỏ tuổi sao cố chấp vậy? Chẳng lẽ lá thư của Nhạc tiên sinh chưởng môn phái Hoa Sơn là giả sao? Nhạc tiên sinh đã truyền thư khắp thiên hạ, trục xuất Lệnh Hồ Xung ra khỏi môn tường, nói là hắn cấu kết với người trong Ma giáo. Còn oan ức cho hắn lắm sao? Trước đây Lệnh Hồ Xung cứu ngươi, chắc hắn sẽ dựa vào chút ân tình nhỏ đó để ám toán hạ thủ chúng ta…
Nghi Lâm nói:
– Sư bá, đó không phải là chút ân tình nhỏ đâu. Lệnh Hồ sư huynh tình nguyện liều cả tính mạng của mình…
Giọng người phụ nữ lớn tuổi quát:
– Ngươi còn gọi hắn là Lệnh Hồ sư huynh ư? Hắn là tên ác tặc tâm địa hiểm độc, giả nhân giả nghĩa để gạt bọn con nít như ngươi. Người trên giang hồ tâm địa hiểm độc, quỷ quyệt muôn mặt đều có cả. Các ngươi còn nhỏ chưa hiểu biết nhiều thì dễ bị lừa lắm.
Nghi Lâm nói:
– Lời sư bá dạy bảo, đệ tử không dám không nghe, nhưng… nhưng… Lệnh Hồ…
Chữ “huynh” cô chưa nói ra miệng liền kìm lại được. Người phụ nữ lớn tuổi hỏi:
– Nhưng thế nào?
Dường như Nghi Lâm rất sợ hãi, cô không dám nói nữa.
Người phụ nữ lớn tuổi nói:
– Lần này Tả minh chủ phái Tung Sơn truyền tin tức, rất nhiều người Ma giáo vào đất Mân với mưu đồ cướp đoạt Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu. Tả minh chủ muốn Ngũ Nhạc kiếm phái cùng tìm cách ngăn cản để những kẻ yêu ma đen tối không đoạt được kiếm phổ. Võ công chúng đại tiến thì Ngũ Nhạc kiếm phái người người bị chết không có đất mà chôn. Con trai nhà họ Lâm ở Phúc Châu đã đầu nhập vào môn hạ của Nhạc tiên sinh, nếu phái Hoa Sơn được kiếm phổ dĩ nhiên là hay biết mấy. Chỉ e Ma giáo lắm quỷ kế lại thêm đồ đệ của phái Hoa Sơn là Lệnh Hồ Xung biết rõ nội tình, khiến chúng ta vô cùng bất lợi. Chưởng môn nhân đã giao phó trọng trách cho ta gánh vác, ra lệnh cho ta thống lãnh mọi người vào đất Mân. Chuyện này có liên quan đến vận mạng của hai phe chính tà, vạn lần không được khinh suất. Còn ba mươi dặm nữa thì đến chỗ giao giới Triết – Mân. Hôm nay mọi người chịu vất vả một chút, phải đi suốt đêm đến Trấp Bát phố hãy nghỉ ngơi. Chúng ta đón đầu, đợi lúc bọn người Ma giáo kéo đến thì chúng ta chiếm được tiện nghi, lấy khỏe đánh kẻ nhọc mệt. Nhưng mọi chuyện phải thật cẩn thận.
Chỉ nghe tiếng mấy chục phụ nữ đồng thanh dạ. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Vị sư thái này không phải là chưởng môn phái Hằng Sơn, Nghi Lâm sư muội lại gọi bà ta là sư bá, Hằng Sơn Tam Định, chắc là Định Tĩnh sư thái rồi. Bà ta nhận được thư của sư phụ, xem mình là kẻ phản đồ cũng không trách được. Bà ta muốn mau lên đón đầu mà không biết giáo chúng Ma giáo đã mai phục trước rồi. May mà ta phát giác, phải tìm cách báo cho bọn họ biết mới được.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Khi vào đất Mân phải đề phòng từng bước, bốn bề đều là địch nhân. Không chừng cả điếm tiểu nhị trong phạn điếm hay tên hầu trà trong quán trà đều là gian tế trong Ma giáo. Đừng nói bức tường có tai, dù ở trong bụi cỏ cũng có địch nhân ẩn núp. Từ giờ trở đi, mọi người không được nhắc tới Tịch tà kiếm phổ, ngay cả những cái tên Nhạc tiên sinh, Lệnh Hồ Xung, Đông Phương Bất Bại… cũng không được nhắc đến.
Bọn nữ đệ tử đồng thanh đáp dạ.
Lệnh Hồ Xung biết giáo chủ Ma giáo Đông Phương Bất Bại thần công vô địch. Lão tự xưng là Bất Bại, nhưng người trong chính giáo lúc nhắc đến lão thì thường gọi là Tất Bại, chuyển âm đi là có hàm ý đề cao chí khí của mình mà giảm bớt oai phong của địch. Lệnh Hồ Xung nghe bà ta đem tên của mình sắp ngang hàng với sư phụ và Đông Phương Bất Bại thì không khỏi cười khổ não, thầm nghĩ: Ta là tên vô danh tiểu tốt mà được tiền bối phái Hằng Sơn xem trọng như vậy, quả thật không dám nhận.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Chúng ta lên đường thôi.
Chúng đệ tử đồng thanh đáp dạ. Bảy tên nữ đệ tử từ trên sườn núi chạy nhanh xuống, một lúc sau lại có bảy người nữa chạy xuống theo. Khinh công của phái Hằng Sơn đặc biệt có thanh danh trong võ lâm, bảy người trước cách bảy người sau xa gần giống nhau, giống như kết thành trận pháp, tay áo rộng của mười bốn người bay bay phất phới đồng thời tiến về trước, từ xa nhìn rất đẹp mắt. Một lúc sau nữa lại có bảy người chạy xuống núi.
Không bao lâu, chúng đệ tử phái Hằng Sơn từng tốp đều động thân. Tất cả có sáu tốp, tốp sau cùng có tám người. Chắc là có thêm Định Tĩnh sư thái. Những nữ đệ tử này không phải là nữ ni mà là đệ tử tục gia. Trong bóng đêm, Lệnh Hồ Xung khó nhận ra Nghi Lâm ở trong tốp nào. Chàng thầm nghĩ: Tuy những sư tỉ sư muội phái Hằng Sơn mỗi người đều có tuyệt kỹ, nhưng lên tới sườn núi, hai bên núi cao mà đường hẹp, giáo chúng Ma giáo tập kích bất ngờ tất thương vong nặng nề.
Lệnh Hồ Xung liền bứt một tí cỏ vắt lấy nước, móc một ít bùn bôi lên mặt, lại bôi lên bộ râu quai nón. Chàng nghĩ dù là ban ngày Nghi Lâm chắc cũng khó nhận ra được liền vội vàng đi qua mé trái của sơn đạo, đề khí đuổi theo. Khinh công của Lệnh Hồ Xung vốn cũng không giỏi gì, nhưng khinh công cao hay thấp là hoàn toàn lệ thuộc vào nội lực mạnh hay yếu. Bây giờ nội lực của chàng đã mạnh thì tùy ý cất bước, một bước nhảy rất xa. Lệnh Hồ Xung đề khí chạy rất gấp, trong khoảnh khắc đã đuổi kịp đám người phái Hằng Sơn. Chàng sợ Định Tĩnh sư thái võ công cao cường nghe được tiếng bước chân của mình, nên chạy theo đường vòng đón đầu mọi người. Sau khi đến sơn đạo chàng chạy càng nhanh.
Không bao lâu, mặt trăng đã lên đến đỉnh đầu. Lệnh Hồ Xung chạy đến dưới chân núi, đứng lại lắng nghe, không một chút động tĩnh nào. Chàng thầm nghĩ: Nếu không phải ta tận mắt thấy giáo chúng Ma giáo mai phục ở sườn núi, làm sao mà nghĩ được nơi đây nguy cơ bốn bề. Thật là nguy hiểm.
Lệnh Hồ Xung từ từ đi lên sườn núi, đến chỗ đường hẹp giữa hai ngọn núi, cách chỗ mai phục của giáo chúng Ma giáo khoảng hơn một dặm, ngồi xuống thầm nghĩ: Người trong Ma giáo đã thấy ta rồi, nhưng bọn họ sợ động chà cá nhảy, sẽ không động thủ với ta đâu.
Chàng đợi một lúc, liền nằm xuống giữa đường, nghe có tiếng bước chân ở dưới núi truyền lên. Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ: Hay nhất là ta dụ được giáo chúng Ma giáo xuống động thủ với ta. Chỉ cần đánh nhau thì phái Hằng Sơn biết ngay.
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền nói lớn:
– Bình sinh lão tử ghét nhất kẻ bắn lén đả thương người. Có bản lãnh sao không vung đao múa thương đánh nhau một trận mà lại ẩn núp lén lút hại người. Đó là hành vi của kẻ đê tiện vô liêm sỉ.
Lệnh Hồ Xung quay về hướng núi cao đề khí nói lớn, tuy thanh âm không vang lắm nhưng nội lực sung mãn truyền đi rất xa, đoán rằng bọn Ma giáo nhất định phải nghe được. Nào ngờ bọn Ma giáo im hơi lặng tiếng, không thèm để ý tới.
Không bao lâu bảy tên nữ đệ tử phái Hằng Sơn đi đầu đã đến trước Lệnh Hồ Xung. Dưới ánh trăng, bảy nữ đệ tử thấy một tên quan sải tay sải chân nằm ngủ dưới đất. Đường núi này chỉ đủ một người đi qua, hai bên đều là vách núi cao chót vót, nếu muốn đi lên thì phải bước qua người của Lệnh Hồ Xung mới được. Bọn nữ đệ tử chỉ cần nhảy một cái thì đã qua khỏi người hắn, nhưng vì nam nữ khác biệt, nhảy qua đầu người đàn ông thì không khỏi quá vô lễ.
Một nữ ni trung niên lớn tiếng nói:
– Cảm phiền quan gia cho mượn đường đi.
Lệnh Hồ Xung ú ớ hai tiếng rồi bỗng nhiên ngáy o o. Nữ ni đó pháp danh là Nghi Hòa nhưng tính tình lại không hòa hoãn chút nào. Cô thấy viên quan này nửa đêm khuya khoắt mà ngủ giữa đường đã là chuyện bê bối, lại còn lớn tiếng ngáy, chín mười phần là cố ý cản lối đi. Cô cố dằn nỗi tức giận nói:
– Nếu quan gia không nhường lối, thì bọn bần ni phải nhảy qua người quan gia đó.
Lệnh Hồ Xung ngáy o o, mơ màng nói:
– Trên đường này yêu ma quỷ quái nhiều lắm, đi qua không được đâu. Ơ ờ ờ, khổ hải vô biên, hồi… hồi đầu thị ngạn.
Nghi Hòa ngẩn người ra, nghe hắn nói mấy câu này dường như có ẩn ý. Một tên nữ ni kéo tay áo Nghi Hòa, cả bảy người đều lui mấy bước.
Một người nhỏ nhẹ nói:
– Sư tỷ, người này kỳ quặc quá.
Lại một người nói:
– Chỉ sợ hắn là gian nhân của Ma giáo, chực chờ ở đây để khiêu chiến với chúng ta.
Một người khác nói:
– Người trong Ma giáo quyết không đi làm quan binh cho triều đình, dù có cải trang cũng không cải trang như vậy.
Nghi Hòa nói:
– Mặc kệ hắn! Hắn không tránh ra thì chúng ta nhảy qua luôn.
Nghi Hòa bước lên quát:
– Quan gia không chịu nhường đường thì bọn bần ni phải đắc tội thôi.
Lệnh Hồ Xung vươn vai ngáp dài từ từ ngồi dậy. Chàng sợ bị Nghi Lâm nhận ra nên quay mặt về hướng sườn núi, lưng quay về phía bọn đệ tử phái Hằng Sơn. Lệnh Hồ Xung chống tay phải lên sườn núi, thân người loạng choạng giống tên say rượu, nói:
– Rượu ngon, rượu ngon thật!
Lúc này tốp đệ tử thứ hai phái Hằng Sơn đã đến, một tên nữ đệ tử tục gia hỏi:
– Nghi Hòa sư tỷ, người này ở đây làm gì vậy?
Nghi Hòa chau mày nói:
– Ai mà biết hắn làm gì?
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:
– Vừa rồi ta mổ một con chó ăn nên bụng phát trướng ra rồi uống quá nhiều rượu, chỉ e phải nôn ra mới hết. Trời ơi, không xong rồi, nôn thật rồi.
Lệnh Hồ Xung liền nôn ọe liên tục. Bọn nữ đệ tử chau mày bịt mũi dần dần lùi bước. Lệnh Hồ Xung ọe mấy tiếng mà không nôn ra cái gì cả. Mọi người còn đang thì thào bàn tán thì tốp thứ ba đã đến.
Nghe một giọng trong trẻo mềm dịu nói:
– Người này đã say rồi, thật tội nghiệp. Để người này nghỉ ngơi một chút rồi chúng ta đi cũng không muộn.
– Người này cố tình gây rối chứ không phải đàng hoàng gì.
Nói xong, Nghi Hòa bước lên trước quát:
– Tránh ra!
Nghi Hòa vung chưởng nhắm đánh vào vai phải của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung loạng choạng mấy cái rồi la lên:
– Trời ơi, đừng làm vậy mà!
Lệnh Hồ Xung chân thấp chân cao khập khiễng đi lên trước mấy bước, đường đi càng bế tắc, cả người chàng chắn ngang lối nhỏ chật hẹp, người phía sau trừ phi nhảy qua đầu, nếu không thì không cách nào vượt qua được.
Nghi Hòa cũng đi theo Lệnh Hồ Xung rồi quát:
– Tránh ra!
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ, dạ!
Rồi chàng lại đi thêm mấy bước. Lệnh Hồ Xung càng đi lên cao, thì đường núi càng chật hẹp hơn. Đột nhiên hắn lớn tiếng nói:
– Này, các bằng hữu mai phục ở phía trên để ý, người các vị đợi đang lên đây. Các vị nhào ra đánh thì không ai trốn khỏi được.
Bọn Nghi Hòa nghe vậy liền lùi lại. Một người nói:
– Nơi này địa thế cực kỳ nguy hiểm, nếu địch nhân ở đây mai phục đánh úp thì chúng ta khó mà chống đỡ nổi.
Nghi Hòa nói:
– Nếu có người mai phục, thì sao hắn còn gọi ra? Hư là thực mà thực là hư, phía trên nhất định không có người. Nếu chúng ta sợ mà thoái lui khiến cho địch nhân cười nhạo sao?
Hai nữ ni trung niên cùng nói:
– Đúng vậy, ba người chúng ta đi trước mở đường, bọn sư muội đi theo sau.
Ba người rút trường kiếm ra rồi chạy đến sau lưng Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung thở hổn hển nói:
– Cái sườn núi này dốc quá. Ôi, lão gia lớn tuổi rồi, đi không nổi nữa.
Một nữ ni quát:
– Này, quan gia tránh qua một bên để bọn ta đi lên trước có được không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Người xuất gia đừng nóng nảy như vậy, đi nhanh cũng đến nơi mà đi chậm cũng đến nơi. Hà hà, đến Quỷ môn quan thì đi chậm một chút vẫn hay hơn.
Nữ ni hỏi:
– Có phải quan gia nói lòng vòng để chửi người ta không?
Vèo một tiếng, trường kiếm của Nghi Hòa đã nhắm đâm vào Lệnh Hồ Xung. Bà chỉ muốn dọa cho tránh ra, lúc chiêu kiếm này đâm đến người Lệnh Hồ Xung liền dừng lại.
Ngay lúc đó Lệnh Hồ Xung quay người lại thấy mũi kiếm chỉ vào ngực mình. Chàng liền lớn tiếng quát:
– Này! Ngươi… ngươi… ngươi làm cái gì vậy? Ta là mệnh quan của triều đình mà ngươi dám vô lễ như vậy sao? Người đâu, bắt tên nữ ni này lại cho ta.
Mấy nữ đệ tử trẻ không nhịn được, bật cười lên. Người này ở chốn hoang sơn dã lĩnh mà còn ra oai là quan lớn thì thật là buồn cười.
Một ni cô cười nói:
– Quan gia, bọn ta có chuyện gấp, phải lên đường ngay. Phiền quan gia tránh sang một bên.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Cái gì quan gia với không quan gia? Ta đường đường là một tham tướng, ngươi phải gọi ta là tướng quân mới phải.
Bảy tám nữ đệ tử cùng cười rồi gọi:
– Tướng quân đại nhân, xin tướng quân đại nhân tránh sang một bên cho.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả, ưỡn ngực ra chiều đắc ý. Đột nhiên chàng trượt chân té ngã. Bọn nữ đệ tử kinh hãi la hoảng:
– Cẩn thận!
Có hai người chụp được cánh tay Lệnh Hồ Xung kéo lại. Chàng trượt thêm một cái nữa mới đứng vững, liền chửi:
– Tổ mẹ nó… đường gì mà trơn quá. Lũ quan địa phương toàn là bọn ăn hại, không sai vài dân phu tu sửa con đường núi này cho tốt.
Lệnh Hồ Xung trượt chân hai cái như vậy, thân người đã đứng co ro vào chỗ lõm của vách núi.
Bọn nữ đệ tử triển khai khinh công, từng người vượt qua hắn. Có người cười nói:
– Quan địa phương nên phái tám người mang kiệu đến đây khiêng tướng quân đại nhân lên núi mới phải.
Có người nói:
– Tướng quân thì cưỡi ngựa chứ không ngồi kiệu.
Người trước nói:
– Vị tướng quân này khác quan thường, nếu cưỡi ngựa thì chỉ e bị té ngã ngay.
Lệnh Hồ Xung tức giận nói:
– Nói tầm bậy tầm bạ! Ta có bao giờ cưỡi ngựa mà bị té đâu? Tháng trước, một con hổ súc sinh đáng chết nhảy ra, ta mới từ trên ngựa lăn xuống, bị thương ở be sườn nhưng có nhằm nhò gì đâu.
Bọn nữ đệ tử cười to một trận rồi phóng lên núi nhanh như gió.
Lệnh Hồ Xung thấy một bóng người mảnh mai lướt qua, chính là Nghi Lâm. Chàng liền đi theo sau cô ta. Thế là bọn đệ tử đi phía sau bị cản lại. Tuy bước nặng nề, thở hồng hộc cứ ba bước thì trượt hết hai, vừa leo vừa trượt nhưng Lệnh Hồ Xung đi cũng khá nhanh. Một nữ đệ tử phía sau vừa cười vừa than:
– Vị tướng quân đại nhân này thật là… ôi, không biết một ngày bị té bao nhiêu lần.
Nghi Lâm quay đầu lại nói:
– Nghi Thanh sư tỉ, sư tỉ đừng thúc giục tướng quân, khiến tướng quân lật đật lại bị té ngã thật. Sườn núi này rất dốc, bị té xuống thì không phải chuyện đùa đâu.
Lệnh Hồ Xung thấy đôi mắt to của Nghi Lâm sáng lấp lánh giống như hai dòng suối biếc, một gương mặt nhỏ nhắn đẹp tuyệt trần dưới ánh trăng, sự tức giận của người thế tục trong lòng chàng tan biến hết. Lệnh Hồ Xung nhớ lại ngày chạy trốn sự truy kích của phái Thanh Thành, ở trong thành Hành Sơn cô ta ôm mình chạy đi, mình cũng từng nhìn ngắm cô. Bỗng nhiên tận đáy lòng chàng nổi lên một thứ tình cảm êm dịu. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Trên dốc núi cao này, có bọn cường thù đại địch mai phục muốn hại cô ta, ta sẽ không màng tính mạng để bảo vệ cho cô thật an toàn.
Nghi Lâm thấy cặp mắt Lệnh Hồ Xung đờ ra, dung mạo lại xấu xí. Cô nhìn hắn khẽ gật đầu, lộ ra nụ cười hiền hòa. Cô nói:
– Nghi Thanh sư tỉ, nếu vị tướng quân này trượt chân té, sư tỉ phải mau đỡ tướng quân dậy.
Nghi Thanh cười nói:
– Tướng quân nặng như vậy làm sao ta đỡ nổi.
Phái Hằng Sơn giới luật nghiêm minh, nữ đệ tử không được cười nói với người ngoài. Lệnh Hồ Xung giả bộ yếu đuối như vậy để chọc cười bọn họ, xung quanh không có trưởng bối, đi đường trong đêm tối nói cười mấy câu cũng không sao, lại tinh thần thêm phấn khởi.
Lệnh Hồ Xung tức giận nói:
– Bọn con nít các ngươi ăn nói không biết trọng khinh. Ta đường đường là tướng quân, năm xưa nơi chiến trường xông trận giết giặc, oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, nếu các ngươi nhìn thấy thì hì hì, phải phục sát đất. Đường núi nhỏ nhặt này không ăn thua gì với ta, sao ta té ngã được? Thật nói năng tùy tiện… Trời ơi, không xong rồi!
Chân Lệnh Hồ Xung dường như dẫm phải một cục đá nhỏ, thân người tuột dài xuống. Hai tay chàng quơ loạn xạ trên không, mấy tên đệ tử sau lưng đều la thất thanh.
Nghi Lâm vội quay người, đưa tay ra. Lệnh Hồ Xung nắm bàn tay cô, Nghi Lâm vận kình lực nâng lên. Tay trái Lệnh Hồ Xung chống đất mới đứng vững, khuôn mặt đầy vẻ bối rối. Mấy nữ đệ tử phía sau nhịn không được, cười khanh khách. Lệnh Hồ Xung nói:
– Đôi ủng của ta đi đường núi nặng như đeo đá, nếu mang đôi giày vải như các người thì làm sao mà té. Hơn nữa, ta chỉ trượt chứ không hề té ngã, có chi đâu mà cười?
Nghi Lâm buông tay chàng ra, nói:
– Đúng vậy, tướng quân mang ủng cưỡi ngựa, đi đường núi bất tiện lắm.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tuy bất tiện nhưng oai phong vô cùng. Nếu như thường dân các ngươi, chân cứ đi giày cỏ thì còn thể diện gì nữa.
Bọn nữ đệ tử nghe Lệnh Hồ Xung sợ mất thể diện thì càng cười ầm lên. Lúc này, mấy tốp người phía sau đã đến chân núi, tốp đi đầu tiên đã lên đến đỉnh.
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng hô hoán:
– Bọn giặc cỏ bắt gà trộm chó ở đây rất nhiều, nếu các người không đề phòng thì chúng sẽ đánh người mà cướp tài vật. Các ngươi xuất gia tuy không mang theo nhiều của cải nhưng đồng tiền hóa duyên vất vả mới có được thì cũng nên cẩn thận đừng để bị chúng cướp đoạt.
Nghi Thanh cười nói:
– Đại tướng quân của chúng ta đang ở đây thì bọn tiểu tặc đó không dám động đến Thái Tuế đâu.
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Này này, cẩn thận đó! Dường như ta nhìn thấy ở trên cao có đầu người lấp ló.
Một nữ đệ tử nói:
– Tướng quân thật là ba hoa, chẳng lẽ chúng ta mà sợ mấy tên giặc cỏ nhãi nhép đó sao?
Bỗng nhiên nghe hai nữ đệ tử la lên:
– Chao ôi!
Rồi lăn lông lốc xuống. Hai nữ đệ tử khác vội chạy lại đỡ; mấy nữ đệ tử phía trước cũng la lên:
– Tặc tử phóng ám khí. Cẩn thận!
Tiếng la chưa dứt, lại có người lăn xuống. Nghi Hòa la lớn:
– Mọi người cúi xuống, đề phòng ám khí.
Mọi người đều nằm phục xuống. Lệnh Hồ Xung chửi:
– Giặc cỏ to gan. Các ngươi không biết bản tướng quân đang ở đây sao?
Nghi Lâm kéo tay chàng, nói:
– Mau phục xuống đi!
Bọn nữ đệ tử phía trước lấy ám khí ra, nào tụ tiễn, thiết bồ đề lần lượt ném về phía trước. Nhưng địch nhân ẩn phục sau các mô đá, không thấy một người nào; ám khí đều rơi vào khoảng không.
Định Tĩnh sư thái nghe phía trước có địch, vội phóng người lướt qua đỉnh đầu bọn nữ đệ tử đến sau lưng Lệnh Hồ Xung; vù một tiếng bà nhảy qua đầu của chàng.
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Đại cát lợi bố, xui quá, xui quá!
Rồi chàng nhổ mấy bãi nước bọt, thấy tay áo rộng thùng thình của Định Tĩnh sư thái bay phấp phới, đang đánh lên phía trước, ám khí của địch nhân bắn ra vù vù, có cái cắm vào tay áo bà, có cái bị lực đạo của tay áo đánh bay đi.
Định Tĩnh sư thái nhô lên hụp xuống mấy lần thì đã đến đỉnh núi. Bà còn đứng chưa vững đã nghe tiếng gió rất mạnh. Một cây thục đồng côn đánh xuống đầu bà. Nghe tiếng kình phong bà biết binh khí này rất nặng, không dám đón tiếp mà nghiêng người từ bên cây côn chui qua, lại thấy hai cây liễn tử chùy một trên một dưới đồng thời phóng đến, thế rất mãnh liệt. Địch nhân mai phục ở cửa ải này là ba tên cao thủ. Định Tĩnh sư thái quát:
– Đồ vô liêm sỉ.
Bà xoay tay rút trường kiếm ra, một kiếm phá song thương, gạt ra hết. Thục đồng côn lại đánh quét ngang lưng bà. Trường kiếm của Định Tĩnh sư thái đáp trên cây côn rồi thừa thế chém xuống, cây liễn tử chùy đã phóng đến vai phải của bà. Chỉ nghe bọn nữ đệ tử ở lưng chừng sườn núi la thất thanh, tiếp theo nghe tiếng ầm ầm, thì ra địch nhân trên sườn núi đẩy những tảng đá to xuống.
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn chen nhau trên con đường nhỏ, thụp lên thụp xuống để né những tảng đá to, trong khoảnh khắc có mấy người bị đá làm bị thương. Định Tĩnh sư thái lùi lại hai bước la lên:
– Tất cả rút lui, xuống chân núi rồi hãy tính.
Bà múa kiếm chặn phía sau để cản sự truy kích của địch nhân. Lại nghe tiếng ầm ầm không dứt, đá to trên đỉnh núi không ngừng ném xuống, tiếp theo mấy tiếng binh khí giao nhau ở phía dưới, thì ra dưới chân núi cũng có địch nhân mai phục. Đợi bọn Hằng Sơn lên núi hết, phía trên phát ra tiếng động thì bọn chúng xuất hiện để chặn đường lui của họ.
Ở phía dưới truyền tin lên:
– Sư bá, bọn tặc tử cản đường công phu rất lợi hại, không xông xuống được.
Tiếp theo lại có người truyền tin lên:
– Hai vị sư tỉ bị thương rồi.
Định Tĩnh sư thái tức giận, chạy như bay xuống núi, thấy hai tên hán tử tay cầm cương đao đang bức bách hai nữ đệ tử phải lùi ngược lại. Định Tĩnh sư thái quát lên một tiếng thật to, phóng nhanh trường kiếm về phía trước, bỗng nghe vù vù hai tiếng, hai quả bát giác chùy bằng thép nguyên chất có dây xích dài từ dưới tấn công lên trước mặt Định Tĩnh sư thái. Định Tĩnh sư thái phóng trường kiếm ra gạt, một trái chùy đè xuống trường kiếm còn quả kia đập vào đỉnh đầu bà. Định Tĩnh sư thái kinh hãi: Sức người này quá mạnh!
Nếu gặp chỗ đất bằng, Định Tĩnh sư thái cũng không để tâm đến loại võ công hung dữ như vậy, bà chỉ cần triển khai công phu tiểu xảo thì có thể tấn công sang bên, nhưng đường núi chật hẹp, ngoài cách đánh chính diện ra không còn cách nào khác nữa. Hai quả bát giác thiết chùy của địch nhân múa tít như hai cái vòng đen tấn công trước mặt nên Định Tĩnh sư thái không sao triển khai kiếm thuật tinh diệu, bà đành phải từng bước từng bước lên trên núi.
Bỗng nghe phía trên có tiếng la oai oái không ngớt, lại có mấy tên đệ tử bị trúng ám khí ngã xuống. Định Tĩnh sư thái định thần lại, bà cảm thấy võ công của bọn địch nhân ở trên đỉnh núi không mạnh, dễ đối phó, liền nhảy qua đầu bọn nữ đệ tử, tiếp theo bà vượt qua đầu Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng la:
– Trời ơi, làm cái trò gì mà nhảy như gà giữa ruộng vậy? Già rồi mà còn ham vui. Ngươi nhảy qua nhảy lại trên đầu thì làm sao ta đánh bạc cho được?
Định Tĩnh sư thái vội phá vòng vây địch, chẳng để ý đến những lời của chàng. Nghi Lâm từ tốn nói:
– Xin lỗi quan gia, sư bá của tiểu ni không cố ý nhảy đâu.
Lệnh Hồ Xung lầm bầm mắng:
– Ta đã nói rồi, ở đây có giặc cỏ mà các ngươi không tin.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Ta chỉ thấy bọn Ma giáo mai phục trên đỉnh núi, thì ra dưới chân núi cũng có bọn cao thủ mai phục, người phái Hằng Sơn tuy đông nhưng tụ tập trên sơn đạo nhỏ hẹp này thì làm sao triển khai thủ cước được, đại sự thật không may.
Định Tĩnh sư thái lên đến đỉnh núi bỗng thấy bóng một cây trượng thấp thoáng đánh xuống, thì ra địch nhân điều động những tay hảo thủ trấn ở đây. Định Tĩnh sư thái nghĩ: Nếu hôm nay ta không xông phá vòng vây này dẫn bọn đệ tử ra ngoài thì e rằng phải bỏ mạng nơi đây.
Bà né người tránh, tay phóng trường kiếm chênh chếch ra, thân người cách thiền trượng không quá mấy tấc, thoáng một cái, cả người và kiếm đã phóng về phía trước. Bà vội đâm vào gã đầu đà mập ú sử thiền trượng. Chiêu kiếm này có thể nói cực kỳ nguy hiểm, là cách đánh liều mạng hai bên cùng bị thương. Gã đầu đà không kịp đề phòng, không kịp thu thiền trượng lại, choang nhẹ một tiếng, trường kiếm đã đâm vào sườn gã.
Gã đầu đà vô cùng kinh hãi la thất thanh. Gã đánh ra một quyền, trường kiếm của Định Tĩnh sư thái bị gãy làm đôi, máu từ tay gã chảy ra bê bết.
Định Tĩnh sư thái gọi:
– Mau lên đây đưa kiếm cho ta!
Nghi Hòa phi thân lên, đưa ngang kiếm nói:
– Sư bá, kiếm đây.
Định Tĩnh sư thái quay người nhận lấy, một cây liễn tử thương đâm chênh chếch về phía Nghi Hòa, một cây liễn tử thương khác đâm về phía Định Tĩnh sư thái. Nghi Hòa đành vung kiếm lên gạt đỡ, người sử liễn tử thương tiến đến bức Nghi Hòa phải lùi xuống núi, trường kiếm không sao đưa đến tay Định Tĩnh sư thái.
Phía trên có ba người xông ra, hai người sử đao, một người sử một đôi phán quan bút vây quanh Định Tĩnh sư thái. Định Tĩnh sư thái múa tít song chưởng, sử Thiên trường chưởng pháp phái Hằng Sơn, xuyên qua xuyên lại giữa bốn cây binh khí. Định Tĩnh sư thái tuổi gần lục tuần, nhưng thân thủ mau lẹ không thua gì thời còn trẻ. Bốn tên hảo thủ Ma giáo hợp lực vây đánh cũng không làm gì được một lão ni tay không.
Nghi Lâm kinh hãi la khẽ:
– Trời ơi, phải làm sao đây? Phải làm sao đây?
Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:
– Mấy tên giặc cỏ này đâu thành vấn đề, tránh đường, tránh đường, bổn tướng quân muốn đi lên bắt giặc cỏ.
Nghi Lâm vội nói:
– Đừng đi! Chúng không phải là giặc cỏ, toàn là người võ công cao cường, quan gia lên trên thì bọn chúng giết ngay.
Lệnh Hồ Xung vỗ ngực, hiên ngang nói:
– Giữa thanh thiên bạch nhật…
Chàng ngửng đầu lên, thấy trời chưa sáng, không thể nói “thanh thiên bạch nhật” được, nhưng cũng lờ đi, tiếp tục nói:
– Mấy tên giặc cỏ này chặn đường cướp của, ăn hiếp hạng nữ lưu, hừ hừ, chẳng lẽ bọn bay không sợ vương pháp sao?
Nghi Lâm nói:
– Bọn tiểu ni đâu phải hạng nữ lưu bình thường, địch nhân cũng không phải là giặc cỏ chặn đường cướp của…
Lệnh Hồ Xung khoa chân bước lên trước, chen người vào bọn nữ đệ tử mà đi. Bọn nữ đệ tử đành phải nép vào vách đá nhường cho chàng bước qua.
Lệnh Hồ Xung lên đến đỉnh núi, đưa tay rút yêu đao ra. Chàng rút một hồi lâu, giả bộ như rút không được bèn chửi:
– Tổ mẹ nó, cây đao này thật là bực mình, lúc người ta cần gấp thì lại rỉ sét. Đao của tướng quân bị rỉ sét sao bắt giặc được đây?
Nghi Hòa đang vung kiếm đấu kịch liệt với hai tên Ma giáo, liều mạng trấn giữ sơn đạo, nghe Lệnh Hồ Xung ở sau lưng lải nhải vì đao bị rỉ sét không rút ra được, bà vừa bực mình vừa buồn cười bèn la lên:
– Mau tránh ra, ở đây nguy hiểm lắm.
Bà ta la câu này, hơi bị phân tâm, cây liễn tử thương đâm soạt một tiếng suýt trúng vào vai bà.
Nghi Hòa lùi nửa bước, người đó lại vung thương phóng tới.
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Phải rồi, phải rồi! Giặc cỏ to gan không thấy bổn tướng quân ở đây sao?
Chàng lạng người qua cản trước mặt Nghi Hòa. Gã hán tử sử liễn tử thương sửng sốt, lúc này trời đã hừng sáng, thấy sắc phục của chàng đúng là mệnh quan triều đình, gã liền dừng thương không đánh nữa, chỉ mũi thương vào ngực Lệnh Hồ Xung quát:
– Ngươi là ai? Vừa rồi ở dưới la lối om sòm có phải là cẩu quan ngươi không?
Lệnh Hồ Xung chửi:
– Tổ mẹ ngươi, ngươi dám gọi ta là cẩu quan hả? Ngươi mới là cẩu tặc, ở đây chặn đường cướp của. Bổn tướng quân đến đây mà các ngươi còn không cút đi thật coi trời bằng vung. Bổn tướng quân bắt các ngươi đem đến huyện nha môn, đánh cho mỗi tên năm mươi trượng vọt cứt té đái phải kêu cha gọi mẹ mới thỏa lòng.
Gã hán tử sử thương không muốn giết mệnh quan triều đình sợ phiền phức, liền chửi:
– Mẹ kiếp đồ thúi tha mau cút đi! Ở đây mà nói bậy nói bạ nữa thì lão tử sẽ đâm xuyên ba lỗ lên người cẩu quan ngươi đó.
Lệnh Hồ Xung thấy Định Tĩnh sư thái nhất thời chưa đến nỗi thất bại mà bọn Ma giáo cũng không ném ám khí, lăn đá nữa. Chàng lớn tiếng quát:
– Bọn giặc cỏ to gan, mau quỳ xuống khấu đầu trước bổn tướng quân. Bọn bay có mẹ già tám chục tuổi thì ta có thể giảm tội cho, nếu không thì, hừ hừ, ta sẽ đem cái đầu bọn các ngươi chém đứt từng cái, từng cái một…
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn nghe nói vậy đều chau mày lắc đầu. Họ thầm nghĩ:
– Hắn bị điên rồi.
Nghi Hòa bước lên một bước, cầm kiếm hộ vệ, nếu địch nhân phóng thương đâm Lệnh Hồ Xung thì cô sẽ vung kiếm gạt đỡ.
Lệnh Hồ Xung lại cố rút yêu đao ra rồi chửi:
– Tổ mẹ nó, lúc lâm trận cấp bách thì thanh bảo đao tổ truyền này lại han rỉ. Hừ, bảo đao này của bổn tướng mà không bị sét rỉ thì bọn giặc cỏ các ngươi có mười cái đầu cũng bị chém rụng hết.
Gã hán tử sử thương cười hô hố, quát:
– Cút mau!
Gã vung thương nhắm đánh vào hông Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung giật mạnh một cái, cả đao lẫn vỏ đều bị giật xuống. Chàng la lên:
– Trời ơi!
Rồi lao người về trước, ngã nhào xuống. Nghi Hòa la lên:
– Cẩn thận!
Lúc Lệnh Hồ Xung trượt chân té, yêu đao đã phóng ra, đầu vỏ đao điểm trúng yếu huyệt trên lưng gã hán tử sử thương. Gã hán tử chưa hừ được một tiếng thì đã mềm nhũn ra, té lăn xuống đất.
Lệnh Hồ Xung ngã bịch xuống rồi lồm cồm bò dậy, hứ một tiếng rồi nói:
– A ha! Ngươi cũng bị té. Mọi người thấy đó, lão tử đâu có sao, chúng ta đánh tiếp đi.
Nghi Hòa túm lấy gã hán tử hất về phía sau, thầm nghĩ: Có một con tin trong tay, cục diện có lợi thế hơn một chút.
Ba người trong Ma giáo xông đến muốn cứu đồng môn. Lệnh Hồ Xung la lên:
– A ha, đâu có dễ như vậy, ta phải bắt hết bọn giặc cỏ các ngươi.
Lệnh Hồ Xung vung yêu đao lên, chỉ Đông đánh Tây, sử toàn những chiêu kiếm không theo chương pháp. Độc Cô cửu kiếm vốn không có chiêu số, cách chàng sử đao rất thoải mái, ưu nhã nhưng chậm chạp vụng về mà oai lực mạnh đến kỳ lạ. Yếu điểm của nó ở kiếm ý chứ không phải chiêu thức. Lệnh Hồ Xung không giỏi về điểm huyệt hay đả huyệt, lúc đang đấu kịch liệt khó mà nhận ra chuẩn xác huyệt đạo đối phương, nhưng kiếm pháp tinh diệu cộng với nội lực hùng hậu tuy không đâm trúng yếu điểm nhưng đâm nghiêng huyệt đạo thì địch nhân cũng chịu không nổi. Chàng cứ tiện tay đâm ra thì người đó té ngã.
Bỗng thấy bước chân Lệnh Hồ Xung loạng choạng xiêu vẹo, chàng cầm luôn cả yêu đao lẫn vỏ đao múa loạn xạ. Đột nhiên Lệnh Hồ Xung không dừng chân kịp, va vào một tên Ma giáo, soạt một tiếng, đầu vỏ đao đâm trúng bụng dưới của tên đó. Gã chỉ kịp thở dốc một hơi dài, nhũn ra té xuống. Lệnh Hồ Xung la lên:
– Trời ơi!
Rồi nhảy lùi ra sau, chuôi đao của chàng đánh trúng vào vai một người đứng phía sau, người đó liền té nhào xuống, lăn long lóc dưới đất. Lệnh Hồ Xung bị vấp lên người gã, chàng chửi:
– Tổ mẹ nó!
Lệnh Hồ Xung xông về phía trước, vỏ đao lại đâm trúng một tên Ma giáo sử đao. Tên này là một trong ba hảo thủ vây đánh Định Tĩnh sư thái, lưng gã bị đánh trúng, đơn đao rớt khỏi tay bay đi. Định Tĩnh sư thái thừa cơ vung chưởng, đánh trúng ngực gã. Gã thổ huyết, chắc khó sống nổi.
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Cẩn thận, cẩn thận!
Chàng liền lui mấy bước, lưng va vào người sử phán quan bút. Gã này giơ bút lên nhắm điểm vào lưng Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung quờ quạng, xông về phía trước, vỏ đao của chàng lao đến thì lại có hai tên Ma giáo bị đâm ngã xuống đất. Gã sử phán quan bút vội lao nhanh về phía chàng, Lệnh Hồ Xung la to:
– Chết mẹ rồi!
Chàng liền co giò chạy, gã cũng vắt chân đuổi theo. Đột nhiên Lệnh Hồ Xung dừng bước khom người xuống, chuôi đao của chàng dưới nách lộ ra một nửa. Gã đó vạn lần không ngờ đối phương đang chạy nhanh đột nhiên dừng lại, tuy võ công gã cao cường nhưng biến chiêu không kịp, trong lúc chạy vội chỗ giữa ngực và bụng của gã bị chuôi đao Lệnh Hồ Xung thúc trúng. Mặt gã lộ ra vẻ rất sửng sốt, đối với chuyện vừa rồi dường như gã không tin là sự thật, người gã từ từ mềm ra rồi ngã xuống.
Lệnh Hồ Xung quay người thấy trận chiến đã ngưng lại. Bọn đệ tử phái Hằng Sơn đã lên đỉnh núi gần được phân nửa, đang đứng đối diện với bọn Ma giáo, những đệ tử còn lại thì đang tức tốc chạy lên. Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:
– Đồ giặc cỏ, thấy bổn tướng quân ở đây sao không mau quỳ xuống đầu hàng. Thật kỳ cục.
Lệnh Hồ Xung múa vỏ đao, quát một tiếng rồi xông vào đám Ma giáo. Bọn Ma giáo liền tấn công, đao thương giao nhau. Bọn đệ tử phái Hằng Sơn muốn lên tương trợ, nhưng thấy Lệnh Hồ Xung la to:
Lệnh Hồ Xung chạy ra khỏi đám đông, chân bước nặng nề, lúc chạy thì quờ quạng, té bịch một cái. Chàng vung vỏ đao lên đánh trúng trán mình, muốn ngất đi. Nhưng mỗi lần vào ra trong đám Ma giáo thì hắn đã đâm mấy tên hảo thủ.
Song phương thấy Lệnh Hồ Xung như vậy, không khỏi trố mắt kinh ngạc.
Một lão già cầm đầu bọn Ma giáo thấy trong khoảnh khắc mà phe lão bị chết một người, còn mười một người bị viên quan điên khùng này đánh ngã. Vừa rồi lão thấy hắn xông trận, chính lão đã liên tục xuất chiêu cầm nã nhưng lại suýt bị vỏ đao của hắn điểm trúng tay. Cái mũi da của vỏ đao điểm không trúng huyệt đạo nhưng thế điểm rất lợi hại, phương vị cổ quái, bình sinh lão chưa bao giờ thấy qua. Võ công của người này cao cường không biết đến đâu mà lường. Lại thấy phe mình có năm người bị hắn điểm ngã đã bị phái Hằng Sơn bắt giữ, bất luận thế nào phe lão cũng không đối phó được. Lão liền lớn tiếng nói:
– Định Tĩnh sư thái, bọn đệ tử của ngươi bị trúng ám khí, có cần thuốc giải không?
Định Tĩnh sư thái thấy mấy tên đệ tử của bà bị trúng ám khí đang hôn mê bất tỉnh, máu nơi vết thương chảy ra đều màu đen. Bà biết ám khí có tẩm chất kịch độc, vừa nghe lão nói câu này liền biết rõ ý của lão, bèn nói:
– Đem thuốc giải đến để đổi lấy người.
Lão già gật đầu nói nhỏ mấy câu. Một tên Ma giáo cầm một bình sứ đi đến trước mặt Định Tĩnh sư thái cúi người đưa lên. Định Tĩnh sư thái nhận bình sứ, gằn giọng nói:
– Nếu thuốc giải có công hiệu, sẽ thả người.
Lão già nói:
– Định Tĩnh sư thái phái Hằng Sơn chắc không phải là người nói rồi nuốt lời.
Lão huơ tay một cái. Bọn Ma giáo khiêng những người bị thương và xác chết cùng đi theo hướng Tây xuống núi, trong khoảnh khắc tất cả đi hết không còn người nào.
Lệnh Hồ Xung từ từ tỉnh lại, hắn la lên:
– Đau quá!
Rồi liền đưa tay sờ lên trán, chỗ bị đánh sưng lên một cục. Hắn ngạc nhiên hỏi:
– Hừ, mấy tên giặc cỏ đâu rồi? Chúng đi đâu hết rồi?
Nghi Hòa cười khúc khích, nói:
– Vị tướng quân này thật kỳ lạ, cổ quái. Vừa rồi may mà tướng quân xông trận, đánh tán loạn, mấy tên giặc cỏ bị tướng quân hù dọa phải lui hết.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:
– Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Đại tướng quân xuất mã, quả nhiên oai phong lẫm liệt. Bọn giặc cỏ cúp đuôi chạy tán loạn, úi chao…
Lệnh Hồ Xung đưa tay sờ lên trán, rồi nhăn mặt ra chiều đau đớn vô cùng. Nghi Thanh nói:
– Tướng quân, tướng quân bị thương rồi chăng? Bọn bần ni có thuốc trị thương đây.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Không sao, không sao, bậc đại trượng phu da ngựa bọc thây, cũng là chuyện nhỏ…
Nghi Hòa trề môi cười nói:
– Chỉ sợ là da ngựa bọc thây thiệt đó.
Nghi Thanh đưa mắt liếc Nghi Hòa một cái rồi nói:
– Ngươi thích bới móc, bây giờ nói những thứ đó làm gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Người phương Bắc bọn ta nói là da ngựa bọc thây, còn người phương Nam các ngươi cách đọc có khác một chút.
Nghi Hòa quay người lại nói:
– Chúng ta cũng là người phương Bắc mà.
Định Tĩnh sư thái đưa thuốc giải cho người đệ tử bên cạnh và sai mấy cô đem đi cứu đồng môn bị trúng ám khí, rồi bà đi đến trước Lệnh Hồ Xung, cúi đầu thi lễ nói:
– Lão ni Định Tĩnh phái Hằng Sơn không dám thỉnh giáo cao danh quý tính của thiếu hiệp.
Lệnh Hồ Xung ớn lạnh xương sống, nghĩ: Vị tiền bối phái Hằng Sơn này quả có con mắt tinh đời, nhìn ra được tuổi ta còn nhỏ mà lại giả mạo làm tướng quân. Nghĩ vậy chàng liền chắp tay, cúi người cung kính đáp lễ:
– Lão sư thái có hỏi thì xin đáp: bổn tướng quân họ Ngô, quan danh là Thiên Đức. Thiên là trời mênh mông bát ngát, còn Đức là văn chương đạo đức. Bổn tướng được bổ làm chức tham tướng ở Tuyền Châu, bây giờ đang lên đường nhậm chức.
Định Tĩnh sư thái liệu đoán chàng không muốn tiết lộ mặt mũi, chưa chắc là tướng quân thật. Bà bèn nói:
– Hôm nay phái Hằng Sơn của bần ni gặp phải đại nạn, nhờ có tướng quân ra tay cứu giúp, đại ân đại đức này không biết làm sao báo đáp cho được. Võ công của tướng quân cao thâm, bần ni lại không biết được sư thừa môn phái của tướng quân, thật là khâm phục.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:
– Lão sư thái quá khen, nhưng ta cũng nói thật. Võ công của bổn tướng có mấy cách đánh, trên đánh tuyết rơi phủ núi, dưới đánh cây già trốc rễ, giữa đánh lấy tim hắc hổ… Úi chao, úi chao!
Chàng vừa nói vừa múa tay chân, một quyền đánh ra dường như dùng sức quá mạnh, tự làm khớp xương mình đau buốt. Lúc chàng trộm nhìn Nghi Lâm, thấy cô ta giật mình, có ý rất quan tâm lo lắng, thầm nghĩ: Vị tiểu sư muội này có tấm lòng thật là nhân hậu. Nếu biết đúng là ta, thì không hiểu cô ta nghĩ sao?
Định Tĩnh sư thái dĩ nhiên biết rõ chàng giả bộ, bèn mỉm cười nói:
– Tướng quân là chân nhân bất lộ tướng, bần ni chỉ còn cách sớm chiều thắp nén thanh hương, chúc cho tướng quân phúc thể an khang, vạn sự như ý…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đa tạ, đa tạ. Sư thái cầu xin đức Bồ Tát phù hộ cho bổn tướng thăng quan phát tài. Tiểu tướng cũng chúc lão sư thái và các vị tiểu sư thái thuận buồm xuôi gió, gặp hung hóa kiết, vạn sự thuận lợi. Ha ha, ha ha.
Trong lúc đang cười to, chàng cúi người sát đất hướng về phía Định Tĩnh sư thái rồi nghênh ngang mà đi. Lệnh Hồ Xung tuy là cuồng vọng làm ẩu, nhưng đã lâu ở trong Ngũ Nhạc kiếm phái, đối với vị tiền bối phái Hằng Sơn này không dám thất lễ.
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn nhìn theo bước chân xiêu vẹo của chàng đi về phía Nam, rồi vây lấy Định Tĩnh sư thái hỏi không ngớt:
– Sư bá, người này lai lịch thế nào?
– Hắn khùng thật hay là giả bộ?
– Có phải võ công hắn cao cường hay là chẳng qua gặp hên, đánh bừa đánh ẩu mà trúng địch nhân?
– Đệ tử thấy hắn không giống tướng quân, dường như tuổi cũng không lớn có phải không?
Định Tĩnh sư thái thở dài, quay đầu nhìn các đệ tử bị trúng ám khí, thấy sau khi rịt thuốc giải, máu đen đã chuyển sang đỏ, mạch đập càng mạnh lên, đã thoát hiểm. Linh dược trị thương của phái Hằng Sơn có thể coi là hay nhất trong các phái, rồi tự trị thêm sau. Bà liền giải khai huyệt đạo cho năm tên giáo chúng Ma giáo, thả họ về. Bà nói:
– Tất cả đến dưới gốc cây bên đó ngồi nghỉ một chút đi.
Một mình bà ngồi tọa định ở bên tảng đá to, nhắm mắt trầm tư: Lúc người này xông vào trong trận Ma giáo, trưởng lão thủ lĩnh Ma giáo đã động thủ với hắn, nhưng hắn vẫn có thể trong khoảnh khắc điểm ngã năm người, lại không phải là công phu điểm huyệt. Hắn sử chiêu thức cũng không biểu hiện môn phái nào. Trong võ lâm đương thời, có người trẻ tuổi lợi hại như vậy, chắc là đệ tử của một vị cao nhân? Nhân vật như vậy là bạn chứ không phải là địch, thật là may mắn cho phái Hằng Sơn ta.
Bà trầm ngâm một chút rồi sai đệ tử lấy nghiên bút và một tấm giấy lụa mỏng để viết thư. Bà nói:
– Nghi Chất, đem chim bồ câu ra đây.
Nghi Chất dạ rồi bắt một con chim bồ câu từ lồng trúc đeo trên lưng ngựa ra. Định Tĩnh sư thái cuộn mảnh lụa viết thư thành một cuộn dài dài rất nhỏ, nhét vào trong ống trúc, đậy nắp lại, rồi đánh lửa đốt keo, dùng sợi dây cột vào chân trái của bồ câu. Bà khấn thầm, rồi tung chim bồ câu lên. Bồ câu vỗ cánh bay về phương Bắc, cao dần xa dần, trong khoảnh khắc chỉ còn là một điểm đen nhỏ xíu trên bầu trời.
Định Tĩnh sư thái từ lúc viết thư đến lúc thả bồ câu, mỗi cử chỉ đều rất chậm chạp, hoàn toàn khác hẳn với tình trạng khi bà tung hoành giữa vòng vây địch nhân. Bà ngẩng đầu lên, điểm đen nhỏ đã ẩn vào đám mây trắng từ lâu, nhưng bà vẫn nhìn đăm đăm về hướng Bắc. Bọn đệ tử không dám lên tiếng. Trong trận chiến vừa rồi, tuy có tướng quân đó xen vào đánh giúp, dường như rất hoạt kê, kỳ thực cục diện còn hung hiểm vô cùng. Mọi người đều tìm được cái sống trong cái chết.
Một lúc lâu sau, Định Tĩnh sư thái quay người lại vẫy gọi một tiểu cô nương mười lăm mười sáu tuổi đến. Thiếu nữ đó liền đứng dậy, đi đến trước bà, gọi khẽ:
– Sư phụ!
Định Tĩnh sư thái nhè nhẹ vuốt tóc cô hỏi:
– Quyên nhi, vừa rồi ngươi có sợ không?
Thiếu nữ đó gật đầu nói:
– Sợ lắm. May mà vị tướng quân dũng cảm vô cùng, đánh bọn ác nhân này bỏ chạy.
Định Tĩnh sư thái mỉm cười nói:
– Vị tướng quân này không phải dũng cảm vô cùng mà là võ công thâm hậu không lường được.
Thiếu nữ nói:
– Sư phụ, võ công của vị tướng quân này cao thâm lắm ư? Hài nhi thấy tướng quân đó xuất chiêu loạn xạ đến nỗi không cẩn thận để cả vỏ đao đánh vào trán mình. Tại sao đao của tướng quân đó bị rỉ không rút ra khỏi vỏ được?
Tần Quyên này là đệ tử của Định Tĩnh sư thái thu nhận ở quan môn, cô thông minh lanh lợi, rất được sư phụ yêu mến. Trong nữ đệ tử phái Hằng Sơn, ni cô xuất gia chiếm khoảng sáu phần, còn lại bốn phần là đệ tử tục gia, có một số người là phụ nữ trung niên, bà già năm sáu chục tuổi cũng có. Tần Quyên là người nhỏ tuổi nhất trong phái Hằng Sơn. Chúng đệ tử thấy Định Tĩnh sư thái nói chuyện với tiểu sư muội Tần Quyên, từ từ vây lại.
Nghi Hòa nói xen vào:
– Hắn xuất chiêu có loạn xạ đâu. Hắn giả bộ, đem võ công thượng thừa giấu đi không để lộ một chút dấu vết, cho nên mới càng cao minh. Sư bá, sư bá thấy vị tướng quân này lai lịch thế nào? Thuộc môn phái nào?
Định Tĩnh sư thái lắc đầu, nói:
– Võ công người này chỉ có thể hình dung qua bốn chữ “cao thâm khôn lường”, ngoài ra ta không biết gì hết.
Tần Quyên hỏi:
– Sư phụ, phong thư này sư phụ viết cho chưởng môn sư thúc có phải không? Có thể đến ngay được không?
Định Tĩnh sư thái nói:
– Con chim bồ câu này bay đến Bạch Y am ở Tô Môn là một trạm rồi đổi con chim khác. Từ Bạch Y am đến Diệu Tướng am ở Tế Nam lại đổi một chim khác nữa, đến Thanh Tịnh am ở Lao Hà Khẩu đổi một lần nữa. Bốn con chim bồ câu tiếp sức nhau mới đưa thư đến núi Hằng Sơn được.
Nghi Hòa nói:
– May mà chúng ta chưa bị tổn thương người nào, mấy sư tỉ sư muội trúng ám khí độc đã rịt thuốc, qua hai ngày thì chắc không còn lo ngại gì nữa. Những người bị đá làm tổn thương và trúng binh khí cũng không lo gì tính mạng.
Định Tĩnh sư thái ngẩng đầu suy tư, nên không nghe những lời Nghi Hòa nói. Bà thầm nghĩ: Phái Hằng Sơn lần này xuống phương Nam, hành tung vô cùng bí mật, ngày nghỉ đêm đi. Tại sao bọn Ma giáo lại biết được tin, lựa chỗ hiểm này phục kích?
Bà quay lại nói với các đệ tử:
– Địch nhân đã chạy xa rồi, chắc trong nhất thời không dám quay lại. Tất cả đã mệt lắm rồi, nên ngồi đây ăn một ít lương khô rồi đến bóng cây bên kia nằm ngủ.
Mọi người đáp dạ, người gác bếp nấu nước pha trà. Đoàn người ngủ mấy canh giờ, rồi dùng cơm trưa. Định Tĩnh sư thái thấy những đệ tử bị thương vẻ mặt đờ đẫn, bà nói:
– Hành tung của chúng ta đã bị lộ, từ nay về sau không cần đi đêm nữa. Người bị thương phải nghỉ ngơi dưỡng thương, tối nay chúng ta nghỉ ở Trấp Bát phố.
Từ trên sườn núi cao đi xuống, hơn ba canh giờ mới đến Trấp Bát phố. Đây là chỗ giao giới quan trọng giữa hai tỉnh Triết Giang và Phúc Kiến, lữ hành lên Tiên Hà Lĩnh phải qua chỗ này. Đoàn người vào trấn, trời còn chưa tối nhưng trong trấn không có một bóng người.
Nghi Hòa nói:
– Phong tục của Phúc Kiến thật là kỳ lạ, sớm như thế này mà đã ngủ hết rồi.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Chúng ta hãy tìm một khách điếm nghỉ ngơi.
Phái Hằng Sơn và các ni am trong võ lâm đều có mối quan hệ với nhau, nhưng Trấp Bát phố không có ni am, không thể đi ngủ nhờ nhà người, đành phải tìm đến khách điếm nghỉ ngơi. Điều bất tiện là người thế tục đối với ni cô có điều úy kỵ, cho rằng gặp ni cô là không may, thường rỗi hơi bàn tán. Nhưng các ni cô quen rồi, cũng không bao giờ chấp nhứt.
Các khách điếm đều đóng cửa. Trấp Bát phố nói lớn cũng không lớn, nói nhỏ cũng không nhỏ, cũng có một hai trăm nhà phố, nhưng nhìn lướt qua thì giống như một thị trấn chết. Mặt trời chưa tắt hết mà trên đường Trấp Bát phố giống như giữa đêm khuya. Đoàn người quẹo qua một con đường, thấy trước một khách điếm treo bảng hiệu bằng vải trắng viết bốn chữ to: “Tiên An khách điếm”, nhưng cửa đóng kín, yên lặng không một tiếng động. Nữ đệ tử tên gọi Trịnh Ngạc liền tiến lên trước gõ cửa. Trịnh Ngạc là đệ tử tục gia, gương mặt trái xoan tròn trịa lúc nào cũng tươi cười, cô lại khéo ăn nói nên rất được nhiều người yêu mến. Trên đường đi, nếu có chuyện cần giao tiếp với người, cô ta thường đứng ra đối đáp, để người ngoài khỏi phải vừa thấy ni cô thì sinh lòng úy kỵ.
Trịnh Ngạc gõ cửa mấy cái, ngừng lại một lúc lại gõ mấy cái. Một lúc lâu sau, vẫn không thấy có người mở cửa. Trịnh Ngạc gọi:
– Điếm đại gia thúc, xin mở cửa!
Giọng cô trong trẻo, lại là người luyện võ cho nên thanh âm có thể truyền đi rất xa, dù ở cách mấy cái sân cũng nghe thấy. Nhưng trong khách điếm vẫn không có người lên tiếng, tình hình hiển nhiên rất kỳ lạ.
Nghi Hòa đi đến trước, áp tai lên cánh cửa nghe. Trong điếm hoàn toàn không có động tĩnh gì. Cô quay lại nói:
– Sư bá, trong điếm không có người.
Định Tĩnh sư thái cảm thấy có điều khác thường, thấy tấm bảng hiệu của điếm rất mới, cánh cửa cũng lau chùi sạch sẽ. Bà nói:
– Đi nữa xem, trong trấn này chắc không chỉ có một khách điếm này.
Đoàn người đi qua mấy chục căn nhà, đến Nam An khách điếm. Trịnh Ngạc chạy lên trước đập cửa, cũng giống như trước, vẫn không có người trả lời. Trịnh Ngạc nói:
– Nghi Hòa sư tỉ, chúng ta vào xem sao.
Nghi Hòa đáp:
– Cũng được.
Hai người vượt tường vào trong. Trịnh Ngạc lớn tiếng hỏi:
– Trong điếm có ai không?
Không nghe có người đáp lại. Hai người rút kiếm ra khỏi vỏ, đi song song vào khách đường, đến sau bếp, chuồng ngựa, các phòng các nơi xem xét một lượt, quả nhiên không có một ai. Bàn ghế sạch trơn không chút bụi bám, ngay cả trà trong bình ở trên bàn cũng còn hơi ấm. Trịnh Ngạc mở cửa lớn để Định Tĩnh sư thái và mọi người vào. Cô đem tình hình thuật lại, mọi người đều lẩm bẩm cho là kỳ lạ.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Các ngươi bảy người một tốp, phân ra đi các nơi trong trấn xem sao, hỏi thăm xem vì nguyên nhân gì. Bảy người không được rời nhau, hễ có tung tích của địch thì thổi còi làm hiệu.
Chúng đệ tử đồng thanh đáp dạ rồi vội phân ra đi. Khách đường chỉ còn lại một mình Định Tĩnh sư thái. Lúc đầu, bà còn nghe tiếng bước chân của các đệ tử, lúc sau thì tịch mịch không còn một tiếng động. Trấp Bát phố yên tĩnh khiến cho người ta cảm thấy rợn tóc gáy. Một thị trấn to nhường ấy, yên tĩnh không có tiếng người mà ngay cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không, thật là bất bình thường.
Định Tĩnh sư thái bỗng nhiên lo lắng vô cùng. Bà thầm nghĩ: Phải chăng Ma giáo bày bố cạm bẫy âm độc? Bọn nữ đệ tử rất ít kinh nghiệm trên giang hồ chắc trúng quỷ kế bị Ma giáo bắt hết rồi.
Bà đi đến cửa, thấy góc Đông Bắc có bóng người thoáng qua, ở đầu mé Tây có mấy người nhảy vào trong nhà người ta, đều là đệ tử của bổn phái. Bà hơi yên tâm, lại qua một lúc sau, bọn đệ tử từ các nơi về bẩm báo, đều nói trấn này không có một bóng người.
Nghi Hòa nói:
– Đừng nói là không có người mà ngay cả gà chó cũng không có một con.
Nghi Thanh nói:
– Xem ra mọi người trên trấn đi không lâu, nhiều nhà rương hòm còn mở ra, chắc là lấy đồ có giá trị đem đi.
Định Tĩnh sư thái gật đầu hỏi:
– Các ngươi nghĩ thế nào?
Nghi Hòa nói:
– Đệ tử đoán rằng bọn yêu nhân Ma giáo đã đuổi dân trong trấn đi, không bao lâu sẽ kéo đến rất đông để đánh mình.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Đúng vậy, lần này yêu nhân Ma giáo muốn minh thương giao chiến với chúng ta. Vậy thì càng hay. Các ngươi có sợ không?
Chúng đệ tử cùng đáp:
– Hàng ma diệt tà là thiên chức của đệ tử Phật môn chúng ta.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Chúng ta ở trong khách điếm này nghỉ ngơi, làm cơm ăn no một bữa rồi hãy hay. Trước tiên thử xem trong nước, gạo, rau có độc dược không?
Lúc phái Hằng Sơn ăn cơm, không nói chuyện, ai cũng lắng tai nghe động tĩnh ở bên ngoài. Tốp thứ nhất ăn cơm xong, đi ra ngoài canh giữ, đổi cho những đệ tử kia vào ăn cơm.
Bỗng nhiên Nghi Thanh nghĩ ra một kế, bèn nói:
– Sư bá, chúng ta đi vào các nhà thắp đèn lên, làm cho địch nhân không biết chỗ ở của chúng ta.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Kế nghi binh này hay lắm. Bảy người các ngươi đi đốt đèn đi.
Từ cửa lớn bà nhìn ra trên đường phía Tây, trong cửa sổ nhiều nhà, chỗ nào cũng có ánh đèn sáng lên, một lúc sau trong cửa sổ nhiều quán điếm ở phía Đông cũng có ánh đèn. Trên đường lớn chỗ nào cũng có ánh đèn nhưng vẫn không thấy động tĩnh gì. Định Tĩnh sư thái ngẩng đầu lên thấy vành trăng lưỡi liềm giữa trời. Bà khấn thầm:
– Cầu xin Bồ Tát phù hộ để các đệ tử phái Hằng Sơn lần này được bình yên quay về. Đệ tử Định Tĩnh nếu trở về được núi Hằng Sơn thì từ nay đèn hương lễ Phật, không động đến đao kiếm nữa.
Năm xưa Định Tĩnh sư thái khét tiếng trên giang hồ, không ít sự tích oanh liệt. Nhưng trận chiến trên Tiên Hà Lĩnh tối hôm qua, cục diện vô cùng hung hiểm, bây giờ nghĩ lại bà còn sợ hãi. Bà lo lắng là vì thống lĩnh nhiều đệ tử, nếu chỉ một mình bà, thì tình cảnh có đáng sợ đến gấp mười lần, bà cũng không ngại. Bà lại thầm cầu nguyện:
– Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, nếu lần này mọi người phái Hằng Sơn của đệ tử bị tổn thất, xin để cho một mình đệ tử Định Tĩnh gánh chịu tai họa. Các báo ứng sát nghiệp, chỉ để một mình đệ tử nhận lãnh.
Ngay lúc này bỗng nghe có tiếng phụ nữ ở phía đông bắc truyền lại:
– Cứu tôi với, cứu tôi với!
Trong đêm tối bốn bề tĩnh lặng, tiếng la thất thanh càng thê thảm. Định Tĩnh sư thái kinh hãi, nghe rõ tiếng la không phải là đệ tử của bổn môn. Bà chăm chú nhìn về phía Đông Bắc, không thấy động tĩnh gì, liền thấy tốp bảy người của Nghi Thanh chạy về hướng đó để quan sát phía trước. Một lúc lâu sau, không thấy bọn Nghi Thanh trở về bẩm báo. Nghi Hòa nói:
– Sư bá, đệ tử và sáu vị sư muội qua xem sao.
Định Tĩnh gật đầu. Nghi Hòa thống lĩnh sáu người, gọi một tiếng rồi chạy thẳng đến chỗ đó.
Trong bóng đêm kiếm quang lấp loáng, không bao lâu thì mất hút.
Một lúc lâu sau, bỗng nghe tiếng phụ nữ lại la thất thanh:
– Giết người! Cứu mạng! Cứu tôi với!
Bọn đệ tử phái Hằng Sơn ngơ ngác nhìn nhau. Không biết bên đó xảy ra chuyện gì, tại sao hai tốp Nghi Thanh và Nghi Hòa đi lâu như vậy mà vẫn chưa về bẩm báo. Nếu nói gặp phải địch nhân tại sao không có tiếng binh khí đánh nhau. Nghe từng tiếng gọi cứu mạng của người phụ nữ, mọi người nhìn Định Tĩnh sư thái, đợi bà ra lệnh phái người đi cứu.
Định Tĩnh sư thái nói:
– Vu Tẩu, ngươi dẫn sáu tên sư muội đi trước, bất luận thấy chuyện gì, tức khắc phái người về báo.
Vu Tẩu là một phụ nữ trung niên khoảng bốn chục tuổi, nguyên là bộc phụ hầu hạ Định Nhàn sư thái trong Bạch Vân am ở Hằng Sơn, về sau Định Nhàn sư thái thấy bà ta có lòng trung thành, có tài năng bèn nhận làm đệ tử, lần này được theo Định Tĩnh sư thái là lần đầu tiên phiêu bạt giang hồ. Vu Tẩu cúi người đáp dạ rồi dẫn sáu sư muội, nhắm đi về hướng Đông Bắc.
Nhưng sau khi bảy người đi, vẫn giống như đá chìm dưới đáy biển, không một ai trở lại. Định Tĩnh sư thái càng lúc càng sợ, đoán rằng địch nhân bày bố cạm bẫy để dụ bọn đệ tử, lần lượt bắt giữ. Lại đợi thêm một lúc nữa, vẫn không có động tĩnh gì, tiếng kêu cứu mạng cũng im bặt. Định Tĩnh sư thái nói:
– Nghi Chất, Nghi Chân, các ngươi ở lại đây, chăm sóc sư tỉ, sư muội bị thương, bất luận thấy cái gì cổ quái cũng không được rời khỏi khách điếm, để khỏi trúng kế điệu hổ li sơn của chúng.
Nghi Chất và Nghi Chân cúi người đáp dạ. Định Tĩnh sư thái nói với ba tên đệ tử trẻ là Trịnh Ngạc, Nghi Lâm và Tần Quyên:
– Các ngươi đi theo ta.
Bà rút trường kiếm ra, chạy về hướng Đông Bắc. Sắp đến gần, thấy một dãy phòng tối thui không có một bóng đèn, cũng không có động tĩnh gì, Định Tĩnh sư thái lớn tiếng quát:
– Yêu nhân ma giáo, có ngon thì ra đây quyết một trận tử chiến, cứ lén lút giả thần làm quỷ thì đâu phải anh hùng hảo hán.
Bà dừng một lúc, trong phòng cũng không có người đáp lại. Bà liền phóng chân đá lên cửa lớn nơi đang đứng. Rắc rắc hai tiếng vang lên, then cửa bị gãy, cánh cửa bật vào trong. Trong phòng tối đen như mực, cũng không biết là có người hay không.
Định Tĩnh sư thái không dám mạo hiểm xông vào. Bà gọi:
– Nghi Hòa, Nghi Thanh, Vu Tẩu, các ngươi có nghe tiếng ta gọi không?
Tiếng của bà gọi truyền đi xa dần, một lúc sau từ nơi xa vọng lại. Tiếng vọng dừng hẳn, chỉ còn lại một bầu không khí tĩnh mịch.
Định Tĩnh sư thái quay lại nói:
– Ba ngươi đi theo sát ta, không được rời xa.
Bà cầm kiếm chạy một vòng quanh dãy phòng này, không thấy gì khác lạ. Bà tung mình lên nóc nhà, chăm chú nhìn bốn phía. Không có một chút gió thổi, cây cối đứng yên, ánh trăng mát lạnh tỏa sáng trên mái ngói, phong cảnh giống như ngày trước ở Hằng Sơn bà đi đạo dưới ánh trăng lúc đêm khuya. Nhưng ở Hằng Sơn là một bầu không khí thanh tĩnh, còn bây giờ bà lại đang đứng vào giữa kỳ bí và sát khí vô cùng đáng sợ.
Định Tĩnh sư thái là một người võ công cao cường, địch nhân vẫn không chịu lộ diện thì bà cũng đành chịu bó tay chẳng biết làm thế nào.
Bà vừa sốt ruột vừa hối hận:
– Ta mà biết trước quỷ kế thâm mưu của yêu nhân thì không nên phái bọn đệ tử phân ra từng tốp đến…
Đột nhiên bà phát lãnh, hai tay vỗ một cái bốp, nhảy xuống khỏi nóc nhà, triển khai khinh công chạy nhanh về Nam An khách điếm, gọi:
– Nghi Chất, Nghi Chân, có chuyện gì không?
Trong khách điếm không có tiếng trả lời.
Bà xông vào trong, không thấy một bóng người, mấy tên đệ tử nằm trên giường dưỡng thương cũng không biết biến đi đâu mất.
Giờ phút này Định Tĩnh sư thái có đạo hạnh đến đâu cũng không sao trấn tĩnh được, mũi kiếm ở dưới ánh đèn không ngừng rung động, lấp loáng ánh thanh quang. Trường kiếm cầm trong tay kìm không được, run lên. Mấy chục tên nữ đệ tử đột nhiên mất tích một cách vô duyên vô cớ, rốt cuộc là thế nào? Làm sao bây giờ? Ngay lúc này bà cảm thấy lưỡi ráo môi khô, gân cốt toàn thân đều nhũn ra không sao di động được.
Nhưng cảm giác ấy chỉ xảy ra trong khoảnh khắc. Bà hít một hơi chân khí vào huyệt Đan điền, gia tâm vận chuyển nội lực, tinh thần liền phấn chấn. Bà chạy nhanh một vòng các phòng các xá, đình, sân một lượt, không thấy có gì đáng ngại. Bà gọi:
– Ngạc nhi, Quyên nhi, các ngươi lại đây.
Nhưng trong bóng đêm, chỉ nghe tiếng của mình gọi. Trịnh Ngạc, Tần Quyên và Nghi Lâm cả ba người đều không đáp lại. Định Tĩnh sư thái la thầm:
– Nguy rồi!
Bà vội xông ra cửa gọi:
– Ngạc nhi, Quyên nhi, Nghi Lâm, các ngươi ở đâu?
Ánh trăng ngoài cửa mờ nhạt, ba tiểu đồ nhi cũng không thấy tông tích đâu.
Gặp đại biến như vậy, Định Tĩnh sư thái không kinh hãi mà ngược lại còn tức giận. Bà nhảy vọt lên nóc nhà, lớn tiếng quát:
– Bọn yêu nhân Ma giáo, có giỏi thì ra đây quyết một trận tử chiến, giả bộ làm thần làm quỷ thì còn ra thể thống gì nữa?
Bà hô hoán mấy tiếng, bốn bề yên lặng tuyệt không một tiếng động. Bà luôn miệng quát tháo om sòm. Trong tòa thị trấn Trấp Bát phố to như vậy dường như chỉ còn lại một mình bà. Đang lúc không biết phải làm sao, bỗng nhiên bà nhanh trí bèn lớn tiếng nói:
– Bọn yêu nhân Ma giáo nghe đây. Các ngươi không dám chường mặt ra thì điều đó chứng tỏ rằng Đông Phương Bất Bại là đồ hèn hạ khiếp nhược vô liêm sỉ, không dám phái người ra đánh chính diện với ta. Đông Phương Bất Bại cái gì, chẳng qua là Đông Phương Tất Bại mà thôi. Đông Phương Tất Bại, ngươi có dám ra đây diện kiến với lão ni không? Đông Phương Tất Bại, Đông Phương Tất Bại, ta đoán là ngươi không dám chường mặt ra đâu.
Bà biết trong Ma giáo từ trên xuống dưới, đối với giáo chủ phụng thờ như đấng thần linh, nếu có người sỉ nhục tên của giáo chủ, giáo đồ nghe thấy mà không xông ra liều mạng để bảo vệ danh dự cho giáo chủ là phạm tội đại ác. Quả nhiên sau khi bà kêu mấy tiếng Đông Phương Tất Bại, bỗng thấy trong mấy gian phòng xông ra bảy người, khẽ vọt lên nóc nhà không phát ra tiếng động, vây bà vào giữa.
Địch nhân vừa xuất hiện thì Định Tĩnh sư thái mừng thầm. Bà nghĩ: Bọn yêu ma quỷ quái các người rốt cuộc bị ta chửi mà chường mặt ra. Ta thà bị loạn đao phân thây, còn hơn là chỉ nói với bóng ma.
Nhưng bảy người đứng vây quanh bà lặng thinh không nói lời nào. Định Tĩnh sư thái tức giận nói:
– Những tên đệ tử của ta đâu? Các ngươi đem bọn họ đi đâu rồi?
Bảy người đó vẫn lặng yên không lên tiếng.
Định Tĩnh sư thái thấy hai người đứng ở phía Tây khoảng năm chục tuổi, cơ thịt trên mặt như cương thi, không lộ ra vẻ hỉ nộ nào. Bà thở mạnh quát:
– Được, xem kiếm đây!
Bà vung kiếm lên nhằm đâm vào ngực người đứng ở góc Tây Bắc.