Hồi 02: Lời nguyền ở Vạn Kiếp cốc

Lúc đó trời vừa tối, trăng mới mọc. Đoàn Dự nhờ ánh trăng trông về hướng tây tiến bước. Tuy chàng không có võ công nhưng tuổi còn trẻ, sức lực dồi dào, chân thoăn thoắt bước mau. Được chừng mười dặm, đến sau ngọn cao nhất núi Vô Lượng, bỗng nghe tiếng nước chảy róc rách, trước mặt hiện ra một con suối. Chàng đang khát bèn lần đến bờ suối, thấy nước trong xanh, vừa thò tay xuống toan vốc nước uống, chợt nghe phía sau có tiếng ai đạp vào cành cây khô “cách” một tiếng, kế đó là tiếng bước chân của hai người. Đoàn Dự vội vàng nằm phục bên bờ suối, không dám động đậy.

Chỉ nghe một người nói: “Ở đây có suối, uống xong mình lại đi tiếp.”

Giọng nghe rất quen, Đoàn Dự nhận ra Can Quang Hào đệ tử của Tả Tử Mục, lại càng không dám cử động. Chỉ thấy hai người đi đến bên trên mé nước, tiếp theo nghe thấy tiếng vục nước và tiếng người uống. Một lát sau Can Quang Hào nói: “Cát sư muội, chúng mình đã thoát hiểm rồi, nàng đi cũng đã mệt, ta ngồi nghỉ một lát rồi hãy đi tiếp.” Có tiếng người đàn bà “ừ” rồi tiếng loạt soạt ở bên bờ suối, hẳn là hai người đã ngồi xuống.

Lại nghe người đàn bà nói: “Sư huynh, liệu Thần Nông Bang có cho người canh ở chỗ này không?” Nghe giọng hơi run run, xem chừng sợ hãi lắm. Can Quang Hào an ủi: “Sư muội an tâm. Sơn đạo này rất kín đáo, ngay cả trong Đông tông chúng ta cũng chẳng mấy người lui tới, Thần Nông Bang không biết được đâu.” Người đàn bà lại hỏi: “Thế làm sao sư huynh biết được con đường mòn này?” Can Quang Hào đáp: “Cứ năm ngày một lần sư phụ lại dẫn đệ tử đến nghiên cứu khối Vô Lượng Ngọc Bích xem có gì bí ảo, thế nhưng bao năm qua chúng ta chỉ cứ chăm chăm nhìn khối đá này, chẳng nhận ra được điều gì. Sư phụ lão nhân gia nói cái gì người muốn làm nên đại nghiệp thì phải có nghị lực bền bỉ, lại thêm rằng có chí thì nên. Thế nhưng quả thực ta nhìn mãi chán lắm rồi, có khi giả vờ đi đại tiện rồi ra ngoài chạy lăng quăng nên mới tìm ra được đường mòn.”

Cô gái kia cười khúc khích nói: “Thì ra sư huynh không dụng công, chỉ trốn học đi chơi. Xem ra trong các đồng môn, sư huynh là người kém nghị lực hơn cả.” Can Quang Hào cười nói: “Cát sư muội, năm năm trước tỉ kiếm trên Kiếm Hồ Cung ta đã thua sư muội rồi.” Cô gái ngắt lời: “Thôi đừng nói là thua sư muội. Lúc đó sư huynh giả vờ không đủ nội lực, cố ý nhường cho tiểu muội, người ngoài thì không thấy nhưng chẳng lẽ muội cũng không biết hay sao?”

Đoàn Dự nghe thấy thế nghĩ thầm: Thì ra người đàn bà này thuộc về Tây tông của Vô Lượng Kiếm.

Can Quang Hào đáp: “Ta vừa thấy mặt nàng trong lòng nguyện thể nào cũng phải được cùng nhau ăn ở suốt đời. May gặp cơ hội nghìn năm một thuở, Thần Nông Bang đột nhiên đến tấn công, lại thêm có hai đứa nhãi nhép đem con chồn độc đến làm loạn cả lên khiến cho Kiếm Hồ Cung nhốn nháo, hai đứa mình mới thừa cơ bỏ chạy, thế chẳng phải có chí thì nên đó sao?” Cô gái kia cười khúc khích nhỏ nhẹ đáp: “Muội cũng thật là có chí thì nên.” Can Quang Hào nói: “Cát sư muội, nàng tốt với ta như thế, ta sẽ cưng chiều muội suốt kiếp.” Nghe giọng nói thấy y vui sướng không để đâu cho hết.

Cô gái kia thở dài nói: “Chúng mình phản thầy rủ nhau đi trốn, thật không còn chỗ đứng trong võ lâm nữa. Mình phải đi càng xa càng tốt, kiếm chỗ nào kín đáo mà ở, đừng để sư phụ và đồng môn biết được mới xong. Càng nghĩ đến muội càng sợ.” Can Quang Hào đáp: “Muội chớ lo làm gì. Phen này Thần Nông Bang đã chuẩn bị rồi mới đến, hai phái Đông Tây ngoài huynh và muội ra e rằng chẳng một ai thoát khỏi độc thủ.” Người đàn bà lại thở dài nói: “Cũng mong được vậy.”

Đoàn Dự nghe xong khí tức xông lên, nghĩ thầm: Hai đứa chúng bay muốn thành vợ chồng, thừa cơ sư môn có nạn mà bỏ trốn thì cũng đành, nhưng sao lại mong sư trưởng đồng môn của mình đều bị độc thủ? Tâm địa chúng bay thật là tàn độc. Chàng nghĩ đến hai người tính tình thâm hiểm như thế, nếu như chúng phát giác ra mình, thể nào cũng biết để diệt khẩu, thành thử đến thở mạnh cũng không dám.

Cô gái lại nói: “Cái phiến Vô Lượng Ngọc Bích kia có gì kỳ lạ, bên huynh ở đây đã mười năm, không lẽ vẫn chưa có chút manh mối nào?”

Can Quang Hào đáp: “Mình đã là một nhà, lẽ nào ta còn dối muội sao? Sư phụ nói, nhiều năm trước, lúc đó thái sư phụ của ngu huynh làm chưởng môn Đông tông, những đêm trăng thấy trên bức tường ngọc có hình người múa kiếm, khi thì nam, khi thì nữ, có khi nam nữ đấu kiếm với nhau, đâm chém kịch liệt. Kiếm pháp trên khối ngọc bích đó tinh diệu lắm, thái sư phụ bình sinh chưa thấy bao giờ, dù có nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi, hẳn là do thiên tiên biểu diễn. Thái sư phụ ta chỉ mong học được vài chiêu tiên kiếm, thế nhưng kiếm ảnh trên vách núi quá ư kỳ lạ, lanh lẹ lại mờ ảo khi có khi không, chẳng thể nào coi cho rõ được, có muốn học nửa chiêu cũng không xong. Hình ảnh của tiên kiếm có lúc thật khuya mới có, có khi một hai tháng mới thấy một lần. Thái sư phụ mê say kiếm ảnh trên ngọc bích xao lãng cả việc luyện tập kiếm pháp bản môn, cũng lơ là cả việc đốc thúc đệ tử luyện tập nên về sau mới bị Tây tông của muội đánh bại. Cát sư muội, thái sư phụ muội cùng đệ tử vào ở trong Kiếm Hồ Cung rồi có thấy cái gì không?”

Cô gái nói: “Cứ như sư phụ muội nói, kiếm ảnh trên tường đó thái sư phụ muội cũng thấy, nhưng về sau chỉ thấy một người đàn bà múa kiếm, còn vị nam kiếm tiên kia không thấy đâu nữa. Chắc vì thái sư phụ muội là đàn bà nên chỉ có một nữ kiếm tiên hiện ra chỉ dạy thôi. Thế nhưng mới được hai năm thì vị nữ kiếm tiên kia cũng biến mất. Thái sư phụ cũng nói, thân pháp kiếm pháp của những vị tiên hiện ra trên ngọc bích tuy thật là kỳ diệu, nhưng mơ hồ mông lung, lại quá nhanh không thể quan sát kỹ càng. Bức tường ngọc đó lại cách một vực sâu thành thử muốn liều mạng cũng không đến gần mà coi được. Thái sư phụ tuy được thiên duyên nhưng lại không đủ phúc trạch mà học được nửa chiêu nửa thức dương oai thiên hạ, trong lòng uất ức thế nào không nói cũng biết. Sau khi tiên ảnh biến mất rồi, thái sư phụ muội ngày đêm ở trên đỉnh núi bàng hoàng, chăm chăm xuất thần nhìn vào bức tường ngọc kia, ngày càng tiều tụy, chỉ nửa năm sau thì lâm bệnh mà chết. Khi lâm chung lão nhân gia còn đang ở trên đỉnh núi, tuy hơi thở chỉ còn thoi thóp nhưng vẫn không cho đệ tử đem về Kiếm Hồ Cung. Sư phụ muội kể rằng, khi thái sư phụ tắt thở, hai mắt vẫn còn trừng trừng nhìn vào ngọc bích.” Cô ta ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Can sư ca, huynh nghĩ trên đời này có tiên thật chăng? Hay là hai vị thái sư phụ của huynh và của muội nói thế để đánh lừa người khác?”

Can Quang Hào đáp: “Nếu bảo hai vị thái sư phụ dựng chuyện đánh lừa đệ tử thì chắc không phải, có được gì đâu. Hơn nữa, ta nghe Thẩm sư bá nói rằng khi người còn nhỏ quả đã chính mắt trông thấy hình ảnh của kiếm tiên. Thế nhưng trên đời này có tiên thật hay không, ta cũng không biết.” Người đàn bà nói: “Hay là có hai vị cao nhân múa kiếm ở trước hồ rồi bóng họ in lên bức tường ngọc đó chăng?” Can Quang Hào đáp: “Hồi đó thái sư phụ đã nghĩ đến. Thế nhưng trước bức tường ngọc là Kiếm Hồ, phía tây hồ lại là vực sâu, hai vị cao nhân kia dù có thể thủy thượng phiêu mà múa kiếm ngay trên mặt hồ thì thái sư phụ cũng phải nhìn thấy rồi. Còn như nếu ở bên bờ hồ mà múa kiếm thì cách xa như thế, cái bóng không thể nào chiếu lên trên ngọc bích được.” Cô gái nói: “Thái sư phụ muội lìa đời rồi, các đệ tử đêm đêm thắp hương lễ bái trước bức tường ngọc, khấn nguyện chỉ mong cái bóng của kiếm tiên hiện ra một lần nhưng không bao giờ thấy nữa. Sư phụ muội chỉ mong được quay lại xem thế nào, nhưng mười năm qua hai lần tỉ kiếm đều thua Đông tông bên huynh cả.”

Can Quang Hào nói: “Từ nay trở đi, hai đứa mình không còn phân biệt Đông tông, Tây tông gì nữa. Hai tông bây giờ đã hợp làm một…” Chỉ nghe cô gái cười rúc rích, ứ hự mấy tiếng, nói khẽ: “Đừng… đừng làm thế…” Hiển nhiên Can Quang Hào có hành vi sàm sỡ nên cô nàng mới ngúng nguẩy. Can Quang Hào nói: “Muội cứ chiều ta, nếu như sau này ta phụ bạc thì nguyện sẽ biến thành chó ngay ở cạnh hồ này.” Thiếu nữ cười khanh khách, nũng nịu nói: “Nếu huynh là con chó thì có khác gì huynh mắng muội là đồ chó cái?”

Đoàn Dự nghe đến đây, nhịn không nổi bật cười một tiếng. Tiếng cười vừa ra khỏi miệng, chàng biết ngay là không xong, vội vàng nhỏm lên chạy thục mạng. Phía sau Can Quang Hào quát lớn: “Ai đó?” Rồi tiếng người rầm rập đuổi theo.

Đoàn Dự kêu khổ, càng ra sức chạy. Chỉ trong giây lát, phía tây lấp loáng ánh sáng, một người đàn bà tay cầm trường kiếm chạy về phía sườn núi hẳn là định chặn đường của chàng. Đoàn Dự kêu lên: “Ôi chao!” liền quay sang hướng đông, trong bụng lẩm bẩm: Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm bồ tát, cứu cho đệ tử Đoàn Dự thoát được kiếp nạn này. Tai chàng vẫn nghe thấy tiếng Can Quang Hào đuổi theo rất gấp. Chỉ được một lát Đoàn Dự đã thở hồng hộc, tai nghe Can Quang Hào quát lớn: “Cát sự muội mau chặn sơn khẩu!”

Đoàn Dự nghĩ thầm: Ta chết cũng không có gì quan trọng, nhưng làm cho cả Chung cô nương cũng không sống nổi, lại thêm bao nhiêu mạng người trong Thần Nông Bang, tội nghiệt thâm trọng. A Di Đà Phật! Quan Thế Âm bồ tát! Chàng lại nghĩ tiếp: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, bọn chúng có thành chó cái chó đực gì cũng mặc kệ, có liên can gì đến ngươi? Việc gì ngươi phải cười người ta? Tiếng cười đó chẳng phải là giết đến mấy chục mạng hay sao? Tuyệt sắc mỹ nhân thì một nụ cười mới nghiêng nước nghiêng thành, còn ngươi Đoàn Dự cười thì nghiêng cái quái gì? Nghiêng thùng đổ nước chăng?” Trong bụng tự oán trách như thế nhưng chân không chậm lại chút nào, chẳng cần nhắm hướng cứ xông bừa vào phía rừng sâu rậm rạp.

Chạy thêm một lúc nữa, hai chân chàng đã mỏi nhừ, hơi thở phì phò, tai bỗng nghe thấy tiếng nước chảy ào ào, gầm rú chẳng khác gì sóng biển. Chàng ngửng đầu lên thấy về phía tây bắc dường như có giải ngân hà lơ lửng giữa trời, chính là dòng thác lớn từ trên sườn núi cao đổ xuống. Phía sau Can Quang Hào kêu lên: “Phía trước là cấm địa phái ta. Mi chỉ chạy mười trượng nữa là chết không có đất mà chôn.” Đoàn Dự nghĩ thầm: Ta không vào cấm địa thì ngươi cũng giết, đã chết thì có đất chôn hay không cũng chẳng hơn kém là mấy. Nghĩ vậy chàng càng chạy nhanh hơn trước. Can Quang Hào lại gọi giật giọng: “Phải đứng lại ngay! Mi muốn chết hay sao? Trước mặt là…”

Đoàn Dự cười đáp: “Vì ta muốn sống nên mới chạy…” Chưa dứt lời, bất thình lình chân chàng bước hẫng. Chàng đã không có võ nghệ lại đang lúc chạy nhanh nên không dừng lại kịp. Chàng vừa kêu lên một tiếng “chết” thì người đã rơi đến quá mười trượng.

Chàng đang ở giữa khoảng không, hai tay múa may loạn lên, chỉ mong nắm được vật gì. Thêm mấy trăm trượng nữa, đột nhiên nghe “bình” một tiếng, mông đụng vào một cây cổ tùng mọc xiên từ vách núi ra, thân hình liền bắn trở lên. Lách cách lách cách mấy tiếng, cành cùng to lớn đã gãy lìa nhưng sức rơi xuống đã giảm bớt.

Đoàn Dự hai tay liền chồm ra, ôm chặt được một cành tùng khác, đánh đu giữa lưng trời, thân mình lắc lư không ngớt. Chàng cúi đầu nhìn xuống, hang núi mây mù che phủ, không thấy đâu là đáy. Chàng đong đưa thân hình chạm được vào sườn núi, hai chân mò được một chỗ tựa, mới hơi bình tâm lại, lần theo vách đá về phía cây tùng, miệng nói: “Ông thông già ơi, may nhờ hôm nay ông đại hiển thần thông, cứu được mạng cho Đoàn Dự này. Tổ tiên ông được Tần Thủy Hoàng trú mưa ngày xưa nên phong cho làm Ngũ Đại Phu. Che mưa so với cứu mạng người thì có đáng gì? Ta sẽ phong cho ông làm Lục Đại Phu, không, phải là Thất Đại Phu, Bát Đại Phu mới xứng.”

Chàng xem kỹ thấy vách đá có một khe nứt lớn, nếu may mắn có thể leo xuống được. Chàng thở một hồi rồi nghĩ thầm: “Can Quang Hào và Cát sư muội của y chắc nghĩ mình đã nát như tương rồi, đâu có ngờ mình được Bát Đại Phu cứu. Giờ này chắc bọn chúng đã bỏ xuống dưới núi, hai người đang chàng chàng thiếp thiếp, Đông tông Tây tổng hợp thành một rồi. Dưới đáy sơn cốc này chắc nguy hiểm lắm, nhưng nếu số chết thì ở đâu cũng chết thôi. Biết đâu được Quan Thế Âm bồ tát phù hộ mà không chết.”

Chàng men theo khe đá, từ từ tuột xuống. Cái khe đó có rất nhiều đá và cây cỏ nên không bị trượt, nhưng quần áo chân tay bị xé rách bầm dập lung tung. Hang núi tưởng như vô cùng vô tận, mãi chàng vẫn chưa xuống được tới đáy hang. May sao càng xuống sâu, vách núi càng thoai thoải không còn thẳng đứng như trước, chàng bèn ngồi phệt xuống vừa trượt vừa lết từ từ nên nhanh hơn nhiều.

Tiếng thác nước ì ầm mỗi lúc một lớn khiến chàng không khỏi kinh hãi, nghĩ thầm: Nếu dưới này nước chảy xiết thì thật là nguy hiểm. Bỗng thấy những giọt nước như mưa rào bắn tung lên đập cả vào mặt mũi rát rạt.

Đoàn Dự không thể suy tính nữa, chỉ khoảnh khắc đã xuống đến đáy khe. Chàng đứng thẳng người lên, bất giác cất tiếng khen: Đẹp quá! Bên tả sườn núi, thác nước lớn trắng phau, trông tựa như một con rồng lơ lửng trên không, cuồn cuộn đổ xuống một cái hồ trong vắt. Tuy thác nước đổ xuống suốt ngày đêm mà hồ vẫn không tràn, hẳn có chỗ thoát nước đi. Trên mặt hồ chỉ chỗ thác đổ vào là sóng vỗ bập bềnh, còn cách từ mười trượng lại phẳng như một tấm gương khổng lồ. Dưới đáy hồ còn có một vầng trăng vằng vặc, do ánh trăng phản chiếu.

Đứng trước phong cảnh kỳ tuyệt của tạo hóa, Đoàn Dự ngây người mà nhìn đến ngơ ngẩn xuất thần. Lát sau chàng mới nhìn chếch sang bên: trên bờ hồ những bụi hoa trà trùng điệp, lung linh trong đêm. Hoa trà Vân Nam nổi tiếng đệ nhất thiên hạ, Đoàn Dự vốn đã yêu thích, ngờ đâu lâm cảnh hiểm nghèo lại được thấy nhiều. Chàng đến xem kỹ, lẩm bẩm: “Nơi đây hoa trà mọc nhiều, nhưng cũng bình bình. Chỉ có vài khóm Vũ Y Nghê Thường là đẹp hơn ở nhà ta. Còn mấy bụi Bộ Bộ Sinh Liên toàn là thứ phẩm.”

Chàng ngắm hoa một hồi rồi ra bờ hồ vốc nước lên uống. Nước hồ mới ngon ngọt làm sao, uống tới đâu thấy mát mẻ tới đó. Tinh thần đã tỉnh táo, chàng nhớ đến công việc cần kíp, phải mau tìm lối ra.

Bờ hồ này hình bầu dục, có đến phần nửa ẩn vào các bụi cây um tùm, Đoàn Dự quanh về mé đông đi hết một vòng, được chừng ba dặm. Mé đông nam cũng như mé tây bắc, sườn núi đều dựng đứng, tuyệt không có đường nào ra được. Duy chỗ chàng rơi xuống vừa rồi là sườn núi tương đối thoải hơn cả, ngoài ra không còn nơi nào có thể trèo lên được. Chàng ngửng đầu lên thấy mây mù che phủ miệng hang, xuống đã biết bao gian nan, nghĩ đến việc trèo lên lại càng ngán ngẩm, nghĩ thầm: Dù người võ công tuyệt đỉnh cũng chưa chắc đã lên được. Có hay không có võ công thì cũng thế thôi.

Khe núi im lặng như tờ, đừng nói vết chân người, ngay vết chân loài dã thú cũng không thấy. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng chim kêu từ xa vẳng lại. Nhìn cảnh tượng này, Đoàn Dự lại buồn thiu. Chàng nghĩ thầm: dù mình chết đói ở đây cũng chẳng sao nhưng chỉ sợ Chung cô nương thiệt mạng, còn cha mẹ mình sẽ ngày đêm khắc khoải nhớ thương.

Chàng ngồi phịch xuống bên bờ hồ rầu rĩ, bụng chưa biết tính sao. Trong khi thất vọng lòng nảy ra ảo tưởng: Giá như biến được thành con cá, theo thác nước bơi ngược lên thì may ra mới thoát khỏi vách đá dựng đứng này. Chàng đưa mắt nhìn theo dòng nước từ dưới đi lên, thấy bên phải của dòng thác có một vách đá nhẵn bóng, sáng loáng như ngọc, nghĩ thầm muôn ngàn năm trước chắc dòng thác lớn hơn bây giờ nhiều, qua không biết bao nhiêu thời gian mới mài cho nửa bên vách đá thành nhẵn nhụi đến thế, về sau lượng nước giảm ít mới lộ ra phiến đá lưu ly khiến cho vách núi trong như một mặt gương.

Lúc đó chàng nhớ lại những lời mà Can Quang Hào và Cát sư muội của y nói chuyện, nghĩ thầm: Xem ra đây chính là cái mà họ nói là Vô Lượng Ngọc Bích rồi. Họ kể lại năm xưa các chưởng môn Đông tông, Tây tông của Vô Lượng Kiếm thường nhìn thấy trên vách núi này bóng các vị tiên hiện ra trong những đêm trăng. Ngọc bích này dựng đứng bên cạnh cái hồ, nếu có kiếm tiên thì phải nổi trên mặt hồ, còn không phải ở bờ hồ phía đông mà múa kiếm thì bóng mới chiếu lên trên đó được. Thế nhưng phía đông cũng lại là vách đá thẳng tắp phản chiếu ánh sáng, nếu không có ánh trăng thì không thể có bóng người. A, đúng rồi, chắc tại mặt hồ có chim bay qua lượn lại, bóng nó chiếu lên trên vách núi, nhìn xa thấp thoáng thì thấy thân pháp linh động, vừa nhanh nhẹn, vừa kỳ lạ. Bọn họ trong đầu đã có chủ ý nên tưởng là tiên đang múa kiếm, mờ mờ tỏ tỏ không nhìn thấy rõ vì sao nên phải đi vào ma đạo.

Chàng nghĩ ra rồi không khỏi bật cười. Từ lúc ăn uống ở trong Kiếm Hồ Cung tới giờ cũng đã bảy tám canh giờ nên bụng đói meo, thấy bên bờ hồ có một lùm cây đầy trái xanh xanh đỏ đỏ nên đến hái một chùm, cho vào miệng nhai thử thấy chua lè, nhưng đang đói nên cũng đành ăn luôn một hơi đến hơn chục chùm mới lưng lửng dạ, thấy toàn thân xương cốt mỏi nhừ nên lăn ra cỏ nằm thiu thiu ngủ.

Chàng ngủ một giấc thật say, đến khi tỉnh dậy mặt trời đã ngả về tây, mặt hồ hiện ra một hình cầu vồng, đẹp không tả được, Đoàn Dự biết rằng bụi nước từ thác nước bắn lên gặp ánh mặt trời chiếu vào nên hiện ra cầu vồng, nghĩ thầm mình tuy sắp chết nhưng được thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, phúc lộc không phải nhỏ. Được chết dưới bóng hoa nơi bờ hồ thật phong lưu biết bao, ánh hồ sáng loáng diễm lệ, chỉ hiềm hoa trà không phải là giai chủng nên có phần mỹ trung bất túc.

Hồi lâu chàng tự nhủ: Chẳng qua tại mình hoảng hốt chưa tìm ra mà thôi, thế nào cũng có con đường nhỏ phía sau rừng cây kia. Nghĩ vậy chàng cao hứng, vừa cất tiếng hát vang, vừa men theo bờ hồ để tìm lối ra. Lần này Đoàn Dự men theo bờ hồ xem xét kỹ càng, lách cả vào những nơi âm u, rậm rạp. Song sau bao nhiêu đám hoa cỏ, cây cối um tùm, chỗ nào cũng vách đá kiên cố, dựng đứng lên cao ngất trời. Đừng nói lối ra, cả đến một hang dã thú hay một lỗ rắn chui cũng không có.

Giọng hát mỗi lúc một khản, đầu óc mỗi lúc một tối. Chàng đi một vòng về đến chỗ thác nước thì cặp giò đã mỏi nhừ, ngồi phịch xuống đất, vẻ mặt bơ phờ mệt nhọc, lại nghĩ thầm: Chung cô nương vì cứu ta mà chết oan.

Nghĩ đến Chung Linh, chàng thò tay vào túi lấy đôi giày hoa ra ngắm nghía, hình dung đôi chân bé nhỏ, khuôn mặt xinh xắn của nàng, nhịn không nổi đưa đôi giày lên miệng hôn một cái rồi lại bỏ vào túi, nghĩ thầm: “Phen này ta chắc không thoát chết được rồi, Chung cô nương cũng bỏ mạng. Giá như nàng cũng ở đây, hai đứa chết chung bên bờ hồ này thì đẹp biết bao. Chỉ tiếc nàng giờ đây lại ở bên cạnh lão râu dê Tư Không Huyền thật là chán ngắt. Lúc này ta đang nghĩ đến nàng chắc hẳn nàng cũng đang nghĩ đến ta.”

Chàng không có việc gì làm đành đi hái mấy quả chua kia ăn tạm, bỗng nghĩ ra: Chỗ nào mình cũng tìm hết rồi, chỉ còn chỗ này chưa mò đến, không chừng sờ sờ trước mắt mà không thấy. Chàng liền vạch bụi cây ra, lập tức lắc đầu. Đằng sau bụi cây chỉ là một vách núi trơ trơ, bám đầy dây leo, làm gì có lối nào ra? Thế nhưng phiến thạch bích đó phẳng lạ thường, chẳng khác gì một tấm gương đồng nhưng so với vách đá bên phía tây thì nhỏ hơn nhiều, trong lòng chợt động: Hay đây mới thực là Vô Lượng Ngọc Bích? Chàng bèn gỡ hết các dây leo bám trên phiến đá, nhưng chỉ thấy mặt đá phẳng lì, tuyệt nhiên không có gì khác lạ. Chàng nghĩ bụng: Ta chết nơi thâm cốc này vĩnh viễn không ai hay biết, chi bằng khắc vài chữ trên phiến đá này. À, khắc tám chữ “Đại Lý Đoàn Dự Chết Tại Nơi Đây” xem ra cũng thú.

Chàng bèn dọn sạch đám dây leo bám trên mặt đá, cởi trường bào ra, xuống dưới hồ nhúng nước, đem lên rửa thật sạch cho hết rong rêu khiến phiến đá đó trở nên trắng bóng như ngọc. Chàng nhặt một hòn đá nhọn kẽ chữ lên trên thạch bích, thế nhưng vách đá cứng rắn lạ thường, một hồi lâu mới xong một chữ “Đoàn” vừa cạn vừa méo xẹo chẳng ra gì. Chàng nghĩ thầm: Người sau nhìn thấy sẽ cho rằng Đoàn Dự không biết viết chữ, viết hết tám chữ này chắc để tiếng xấu đến muôn đời! Chàng thấy cổ tay mỏi nhừ, đau nhức nên liệng hòn đá đi không viết nữa.

Đến khi trời tối, chàng lại ăn thêm ít trái cây dại rồi nằm xuống ngủ. Trong giấc mơ chàng thấy một đôi giày bay qua lượn lại trước mắt, vải xanh thêu hoa vàng, chính là đôi giày của Chung Linh, vội vươn tay ra cầm lấy nhưng đôi giày chẳng khác gì đôi bướm, chập chờn lên xuống không sao bắt được. Một lúc sau, đôi giày bay mỗi lúc một cao, Đoàn Dự kêu lên: “Giày kia đừng bay nữa.” Chàng bàng hoàng tỉnh dậy thì mới biết là mộng, giơ tay dụi mắt, sờ thấy đôi giày hoa vẫn còn trong túi bèn đứng lên ngửng đầu nhìn. Ánh trăng vằng vặc, chiếu xuống chẳng khác gì dát bạc lên mặt hồ. Đột nhiên chàng giật mình thấy ở bức vách bên kia có một bóng người.

Chàng kinh hãi không để đâu cho hết, nhưng cũng xiết đỗi vui mừng, kêu lên: “Các vị tiên ơi! Cứu tôi với!” Hình người kia hơi rung động nhưng không trả lời. Đoàn Dự định thần, chăm chú nhìn kỹ bóng người kia không rõ ràng mấy, chỉ thấy áo dài, khăn nho sinh quả là một người đàn ông. Chàng vội vàng tiến lên mấy bước đến bên cạnh hồ kêu to: “Tiên ông ơi, cứu tôi với!” Bóng người trên vách ngọc lắc lư mấy cái, lớn thêm lên nhiều. Đoàn Dự đứng lại, cái bóng đó cũng không di chuyển nữa.

Chàng ngạc nhiên lập tức hiểu ra: Thì ra đó là bóng của chính mình! Chàng nghiêng qua trái, cái bóng đó cũng nghiêng qua trái, chàng bước qua phải cái bóng trên vách núi cũng qua phải, không còn hoài nghi gì nữa, nhưng vẫn còn điều chưa hiểu được: Vầng trăng từ tây nam chiếu qua làm sao lại chiếu được bóng ta lên bức tường trước mặt nhỉ?

Chàng quay đầu lại thấy chữ Đoàn chàng khắc lúc ban ngày cũng có một cái bóng in lên trên thạch bích, chữ đó bé nhưng rõ nét hơn nhiều. Chàng nghĩ ra ngay: Thì ra ánh trăng chiếu bóng của ta lên trên phiến đá trước, sau đó mới rọi lên trên vách núi, chẳng khác gì mình đứng giữa hai tấm gương, tấm gương lớn phản ánh hình của ta trên tấm gương nhỏ.

Chàng suy nghĩ thêm một chút, hiểu ra ngay cái “ngọc bích tiên ảnh” của Vô Lượng Kiếm mấy chục năm qua chẳng có gì thần kỳ: Năm xưa quả có người đứng đây múa kiếm, bóng chiếu lên trên bức vách đá. Đầu tiên có một nam một nữ, sau đó người đàn ông bỏ đi đâu hay chết rồi không biết, chỉ còn người đàn bà ở lại u cốc này tịch mịch cô đơn, mấy năm sau cũng từ trần. Chàng nghĩ đến giai nhân cô độc, sống vò võ nơi hang sâu, uất hận mà chết không khỏi ngậm ngùi.

Thế nhưng sau khi hiểu được lý lẽ đó rồi, nỗi buồn biến mất không còn tăm hơi đâu nữa. Chàng huơ tay múa chân, tay đấm chân đá, nghĩ thầm: “Giá như Tả Tử Mục, Song Thanh hai người đang ở trên mỏm núi kia bỗng thấy ngọc bích có hình ta hiện ra, chắc tưởng là đang biểu diễn võ công thần kỳ, thể nào chẳng hết sức cố gắng học, vùi đầu nghiên cứu để truyền cho hậu thế, ha ha…” Chàng càng nghĩ càng khoái chí, nhịn không nổi cười lên sằng sặc.

Cười chán chê rồi, chàng bỗng nghĩ ra một việc: Hai vị tiền bối kia ngày xưa thường thường luyện kiếm cùng nhau, nếu như không sống ngay dưới đáy vực này thì phải có đường đi ra đi vào. Dù cho hai người võ công cao đến đâu nhưng leo lên leo xuống để múa kiếm thì thật là phiền toái, một hai lần còn được chứ ngày nào cũng làm thì xem ra không ổn. Chàng bỗng thấy một tia hi vọng trước mắt, nghĩ thầm: “Ngày mai mình sẽ cố gắng tìm đường ra. Gã Can Quang Hào đã chẳng nói có chí thì nên đấy ư? Ha ha! Ha ha! Y lập chí quyết lấy cho bằng được Cát sư muội làm vợ, còn ta lập chí phải thoát khỏi nơi đây.”

Chàng ngồi ôm gối, thản nhiên nhìn ánh trăng trên mặt hồ, bốn bề thanh tĩnh, nghĩ thầm: “Có chí thì nên”, câu đó tuy không phải là sai nhưng Khổng Phu Tử lại nói: “Người biết không bằng người hiền, người hiền không bằng người vui”. Câu này xem ra hợp với bụng ta hơn. Cha mẹ ta vẫn bảo ta là si nhi, từ thuở bé đã thích cái gì là mê mẩn điên cuồng. Năm bảy tuổi, ta mê một cây hoa trà Thập Bát Học Sĩ, ngắm từ sáng đến tối, đến nửa đêm còn len lén trở dậy nhìn ngơ ngẩn, bỏ ăn bỏ uống quên cả học hành, đến khi hoa tàn khóc mấy ngày chưa thôi. Lúc ta học đánh cờ cũng không ăn không ngủ, suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến bàn cờ, chẳng còn thiết gì khác. Một hôm kia gia gia bảo ta luyện võ, thế nhưng lúc đó ta đang nghiên cứu Dịch Kinh, ngay cả khi ăn cơm giơ đũa ra gắp đồ ăn cũng nghĩ phương vị chiếc đũa bên này là Đại Hữu hay là Đồng Nhân. Ta không chịu học võ, không hiểu vì không muốn bỏ Kinh Dịch qua một bên hay thực sự không thích cái môn đánh nhau giết người này? Cha ta bảo ta cưỡng từ đoạt lý, chắc hẳn ta có cãi chày cãi cối thật không chừng. Mẹ ta hiểu bụng dạ tính nết ta lắm mới khuyên gia gia: Thằng con si này một mai thích học võ rồi, ông có bảo nó bớt luyện đi một chút, nó cũng chẳng nghe đâu. Bây giờ nó không chịu học, cứng đầu không chịu có ép cũng không xong. Ôi! Bảo ta lập chí làm điều gì quả là khó, nếu như một ngày nào đó ta mê luyện võ thì gia gia, má má, bá phụ hẳn sung sướng biết bao nhiêu. Ta luyện võ cho giỏi rồi, không đánh ai cũng chẳng giết ai, luyện võ đâu phải chỉ là để giết người. Bá phụ võ công cao cường biết bao nhưng tính tình nhân từ, chắc xưa nay chưa giết ai. Có điều ông ấy mà muốn giết thì đâu cần phải tự ra tay?

Chàng ngồi bên bờ hồ, đầu óc suy nghĩ miên man không biết thời gian trôi qua, bỗng chợt thấy vách đá bên cạnh dường như có màu sắc di động, nhìn kỹ thấy bên dưới chữ Đoàn chàng khắc có bóng một thanh kiếm rõ ràng lạ thường, có cả cán, cả miếng che tay, thân kiếm, mũi kiếm mọi thứ đều đâu ra đấy. Mũi kiếm nghiêng nghiêng chỉ xuống, còn thanh kiếm có màu cầu vồng tỏa ra, lấp loáng chuyển động không ngừng. Chàng lấy làm lạ tự hỏi: Sao bóng thanh kiếm lại hiện màu cầu vồng? Chàng ngửng đầu lên nhìn nhưng không thấy vầng trăng đâu, thì ra bóng nguyệt đã chìm về phương tây, ẩn ở đằng sau vách núi rồi. Thế nhưng vách núi đó có một lỗ hổng, ánh trăng theo đó mà rọi xuống, trong hang có ánh sáng lấp lánh. Chàng vỡ lẽ ra: Đúng rồi. Thì ra trên vách núi kia có treo một thanh kiếm, trên thanh kiếm này có nạm các loại bảo thạch đủ màu, ánh trăng chiếu vào in hình thanh kiếm và các loại châu báu đủ màu sắc thành ra mới rực rỡ đến thế.

Chàng nghĩ tiếp: Như thế ắt phải đục được lưỡi kiếm ra rồi nạm bảo thạch cho ánh trăng chiếu qua mới thành hình đủ màu. Còn như không đục được lưỡi kiếm thì ánh trăng đâu có thể chiếu xuyên qua bảo thạch. Người chế tạo ra chiếc kiếm quái lạ này thật tốn nhiều công sức.

Cái hang đó cách mặt đất đến mấy chục trượng không thể trèo tới mà xem cho kỹ được, từ dưới trông lên, chỉ thấp thoáng thấy ánh sáng của mấy viên đá quí chiếu lên vách đá vừa huyền ảo, vừa đẹp đẽ, nhìn mà mê mẩn tâm thần.

Chàng chỉ mới xem được chừng thời gian uống một chén trà, ánh trăng đã di động, cái bóng đó mờ dần rồi biến mất, vách đá chỉ còn một màu trắng bệch. Đoàn Dự nghĩ thầm: Thanh bảo kiếm đó chắc là của hai vị cao nhân kia. Sơn cốc hiểm sâu thế này, người của phái Vô Lượng Kiếm chẳng một ai dám mạo hiểm trèo xuống xem xét, cứ đứng trên đỉnh núi thì đâu có thấy được phiến đá nhỏ, cũng không thấy cái hang trên bức vách bên kia có treo một thanh kiếm. Họ có đứng ngơ ngẩn trên đầu núi một trăm năm nữa thì cũng không sao hiểu được cái bí mật này. Thế nhưng lấy được thanh bảo kiếm kia thì có ích lợi gì? Chàng nghĩ ngợi một hồi rồi ngủ thiếp đi.

Ngủ một lúc đột nhiên chàng choàng tỉnh dậy, nghĩ thầm: Treo được thanh kiếm trên bức tường đá kia quả là khó khăn, dẫu võ công có cao cường đến đâu cũng không dễ gì làm được. Xếp đặt mất nhiều công lao như thế, phải có thâm ý gì. Hẳn là trong cái hang này còn cất giấu võ học bí kíp chi đó. Chàng nghĩ đến võ công thấy không còn gì hứng thú. Bí kíp võ công kia bọn Vô Lượng Kiếm coi là quí giá chứ còn như ta, dù có để ngay trước mặt ta cũng chẳng thèm liếc mắt đến làm gì.

Hôm sau chàng lại đi men quanh hồ, tính ra từ hôm rơi vào cái vực này đã đến ngày thứ ba, nghĩ thầm chỉ còn bốn ngày nữa, chất kịch độc của đoạn trường tán trong ruột phát tác, lúc đó có tìm được lối ra cũng thành vô dụng.

Hôm đó chàng ngủ đến nửa đêm liền tỉnh dậy, đợi cho bóng trăng chếch về phương tây. Đến khoảng canh tư, ánh trăng chiếu vào hang núi, lại chiếu lên trên thạch bích hình thanh kiếm đủ màu. Chỉ thấy thanh kiếm trên bức vách nghiêng sang hướng bắc, mũi kiếm chỉ đúng vào một khối đá lớn. Đoàn Dự trong lòng chợt động: Không lẽ khối nham thạch này có gì khác thường? Chàng đi đến bên tảng đá đẩy thử, tay chạm vào rêu xanh trơn tuột nhưng khối đá dường như hơi lắc lư. Chàng ra sức đẩy cả hai tay, lại thấy tảng đá rung rinh. Khối đá đó cao đến ngực, không đến hai nghìn cũng phải một nghìn cân, nếu là một tảng đá bình thường thì không thể nào làm cho nó nhúc nhích được. Chàng đưa tay mò dưới đáy thì ra tảng đá này không sát đất mà kê trên một tảng đá nhỏ hơn, không biết trời sinh như thế hay là do người sắp đặt. Tim chàng đập thình thành nghĩ thầm: Khối đá này quả có điều gì khác lạ.

Chàng dùng hai tay đẩy phía bên phải tảng đá, hòn đá lắc lư nhưng rồi lại trở về, nghe như có tiếng dây leo bị nghiến đứt, biết là có cây cỏ quấn chặt hai tảng đá với nhau. Lúc bấy giờ trăng đã lặn, chàng chỉ thấy mờ mờ, nghĩ bụng: Tối thế này nhìn không rõ, để đến sáng mai xem kỹ thế nào.

Chàng nằm xuống bên cạnh tảng đá chợp mắt một lúc, đến khi sáng rõ mới trở dậy xem kỹ chung quanh rồi cúi xuống gỡ sạch các dây leo cỏ dại quấn giữa hai tảng đá, lại vét cả đất cát ra, sau đó mới giơ tay đẩy lần nữa, quả nhiên khối nham thạch từ từ chuyển động chẳng khác gì một cánh cửa lớn, xê dịch mới một nửa đã thấy để lộ ra một cái hang cao chừng ba thước.

Chàng mừng lắm, không kịp nghĩ xem trong động có gì nguy hiểm, liền khom lưng chui vào, được mươi bước thì cái hang đã tối om không còn chút ánh sáng nào. Chàng giơ hai tay ra trước, mỗi bước lại mò thử xem có gì không nhưng thấy dưới chân vững chãi chẳng khác gì đi trên một con đường đá, hẳn là hang này do tay người tu sửa nên càng mừng hơn. Thế nhưng cái hang đi xeo xéo xuống dưới, càng lúc càng thấp. Bỗng nhiên tay chàng chạm phải một vật tròn tròn, lạnh lạnh, phát lên tiếng leng keng trong như tiếng chuông, đưa tay sờ lại thì nhận ra cái vòng này giống như vòng đồng thường được gắn lên các cánh cửa, dùng để gọi cửa.

Đã có vòm cửa, tất có cánh cửa. Chàng nghĩ vậy rồi cứ lần mò, sờ soạng mãi, quả thấy đến chục cái đinh đồng to bằng cái bát thì vừa mừng vừa sơ, tự hỏi: Chẳng lẽ trong này lại có người ở? Chàng liền lắc mạnh cái vòng cho nó bật lên tiếng kêu leng keng rồi chờ xem bên trong có ai thưa không. Chờ một lát chẳng thấy gì, lại gõ mạnh ba tiếng nữa cũng chẳng thấy ai. Chàng liền đưa tay ra đẩy cửa. Cánh cửa này dường như đúc bằng kim loại nên rất nặng. Nhưng then trong không cài nên chàng cố hết sức đẩy, cánh cửa từ từ hé mở. Chàng lớn tiếng gọi: “Tại hạ là Đoàn Dự, không được mời mà đường đột tới quý phủ, thật là có lỗi, xin chủ nhân khoan thứ cho!” Chàng chờ một lát, không thấy bên trong có tiếng đáp lại, đành cất bước mạnh dạn tiến vào.

Đoàn Dự vào trong cửa rồi, tuy chàng mở mắt thật to mà nhìn cũng chẳng rõ chi hết, chỉ thấy nơi đây không còn ẩm ướt như ở bên ngoài. Chàng tiếp tục đi vào, bỗng đánh kịch một tiếng, trán va phải vật gì, cũng may mà đi thong thả nên không đau mấy. Chàng đưa tay lên sờ thì ra đây lại là một tầng cửa. Lại cố sức đẩy, chợt thấy ló ra chút ánh sáng mờ ảo, không phải ánh sáng mặt trời.

Chàng nhằm phía có ánh sáng đi tới, chợt thấy một con tôm hùm rất lớn bơi ngoài cửa sổ. Chàng rất lấy làm kỳ, đi thêm mấy bước nữa, lại thấy một con cá chép có vân rực rỡ bơi vụt qua. Bấy giờ chàng mới để ý nhìn kỹ cửa sổ, thì ra là một khối pha lê lớn bằng miệng chậu gắn vào vách đá. Ánh sáng bên ngoài chiếu qua cửa sổ pha lê vào trong nhà.

Đoàn Dự đứng bên cửa sổ nhìn ra, thấy nước xanh biếc, tôm cá bơi qua bơi lại bên ngoài, mịt mờ xa thẳm không rõ đâu là bờ bến. Chàng lại nghĩ đến người chủ tòa thạch thất này đã tốn biết bao nhiêu tâm cơ để kiến tạo nên, cùng nghĩ cách lấy ánh sáng ở ngoài rọi vào trong nhà: Khối pha lê kia là bảo vật khó lòng kiếm được. Chàng định thần suy nghĩ bỗng dưng kêu khổ: “Chết rồi, chết rồi! Ta đang ở dưới đáy hồ, đường đi chỉ toàn giơ tay lần mò không biết qua bao nhiêu chỗ quẹo, chui xuống đây rồi làm thế nào mà trở ra?”

Chàng lại quay vào trong nhà quan sát thấy có một cái bàn đá, trước bàn để cái ghế đá, trên bàn có đặt một tấm gương đồng, bên gương còn mấy thứ nào lược chải đầu, nào vòng đeo tay, rõ ràng là phòng khuê nữ. Tấm gương đồng đã hoen gỉ xanh lè, mặt bàn cát bụi dày đến đốt ngón tay, đủ tỏ rằng trong nhà đã bao lâu nay không có người đặt chân tới.

Trước cảnh tượng đó Đoàn Dự không khỏi ngơ ngẩn nghĩ thầm: Mấy chục năm về trước, tại đây nhất định đã có một vị tiểu thư ở ẩn. Không hiểu nàng đau buồn nỗi gì mà phải xa cõi nhân gian, lánh mình vào nơi tĩnh mịch này?. Chàng thầm suy nghĩ một lúc rồi lại xem khắp mọi chỗ trong nhà. Trên vách đá gắn la liệt những gương đồng, chàng đếm được hơn ba chục chiếc thì lấy làm lạ, đoán ra rằng: Vị tiểu thư ở đây trước là bậc tuyệt thế giai nhân, ngày ngày ngắm bóng lẻ loi thương thân trách phận. Nghĩ vậy chàng cũng vì ai đau lòng xót dạ. Đoàn Dự quanh quẩn trong thạch thất, lúc lẩm bẩm một mình, lúc thở dài sườn sượt thương cho thân phận người mình chưa từng thấy mặt. Bỗng chàng sực nhớ lại chuyện mình, bất giác than rằng: “Trời ơi! Từ nãy tới giờ mình chỉ vơ vẩn nghĩ chuyện đâu đâu, quên cả lo tính việc mình. Trong buồng này không có ngõ ngách nào, làm sao tìm được lối ra?” Chàng lẩm bẩm một mình: Đoàn Dự này quả là một thằng đàn ông thối tha, nếu như chết ở đây đúng là đường đột với giai nhân, chết ở bên ngoài bờ hồ mới đúng. Kẻo rồi người sau tìm đến, thấy hài cốt của ta, lại tưởng là nắm xương tàn của người đẹp, chẳng hóa ra… chẳng hóa ra… Chàng chưa nghĩ được “chẳng hóa ra” cái gì, thấy bên phía đông có một tấm gương treo hơi lệch phản chiếu ánh sáng, có hình góc tường phía tây nam, trên tường đá dường như có vết nứt. Chàng liền tiến đến, cố gắng đẩy bức tường đó, quả nhiên là một cánh cửa, từ từ mở ra, để lộ một cái hang. Chàng nhìn vào trong động, thấy có những bậc thang bằng đá.

Đoàn Dự mừng rỡ khôn xiết kêu lên: Tạ ơn Trời Phật, quả có đường ra rồi. Đoạn chàng theo bậc đá đi xuống. Không ngờ xuống được vài chục bậc, Đoàn Dự thấy phía trước có tia sáng, hình như một cánh cửa. Chàng giơ tay đẩy ra bỗng thấy sáng lòa, giật nẩy mình kêu to “Ối chao!”.

Một trang mỹ nữ tay cầm thanh trường kiếm, mũi nhắm thẳng vào bụng chàng. Nhác trông thật là một giai nhân thanh nhã khác thường, diễm lệ vô song. Chàng chưa từng thấy người nào đẹp đến thế.

Hồi lâu thấy mỹ nhân vẫn đứng yên không nhúc nhích. Đoàn Dự định thần nhìn kỹ, thì ra mỹ nữ này tuy đẹp mê hồn nhưng không phải là người thật, mà là một pho tượng ngọc thạch, chạm trổ rất tinh vi. Pho tượng lớn bằng người thật, tà áo lụa màu vàng nhạt như cũng rung rinh. Kỳ nhất là đôi mắt long lanh như sóng gợn hồ thu, linh động dị thường, khiến cho Đoàn Dự phải ngây người ra mà nhìn. Chàng ấp úng: “Xin lỗi! Tôi nhìn cô nương chăm chăm, thật là vô lễ.” Biết là khiếm lễ mà chàng vẫn không sao rời mắt khỏi đôi mắt tuyệt vời của pho tượng được. Hồi lâu mới biết là đôi mắt pho tượng chạm bằng thứ đá đen có vân, càng nhìn càng thấy sâu thăm thẳm.

Mặt pho tượng lại bằng thứ ngọc trắng có vân hồng ẩn hiện, trông chẳng khác gì da người thật. Khi Đoàn Dự nghiêng mình, hình như luồng nhãn quang pho tượng cũng đổi hướng chăm chú nhìn chàng, chẳng khác chi một vị thần nữ. Ánh mắt thật là khó hiểu: mừng không ra mừng, lo không ra lo; dường như thoáng buồn, lại tựa hồ hờn mát; có thể nói là tình ý nồng nàn, hay chứa sầu lai láng cũng không sai.

Đoàn Dự ngẩn ngơ ngắm đi ngắm lại pho tượng rồi xá dài cung kính thưa rằng: “Thần tiên tỉ tỉ! Hôm nay tiểu sinh Đoàn Dự được chiêm ngưỡng phương dung, dù chết cũng không oán thán. Tỉ tỉ xa lánh trần tục, một mình ẩn tại nơi đây, chẳng hiu quạnh lắm sao?” Đôi mắt pho tượng biến ảo khôn lường, nghe lời chàng nói như ra chiều xúc động.

Đoàn Dự tâm thần ngây ngất, mê mẩn. Chàng nghĩ thầm: “Không biết xưng hô với thần tiên tỉ tỉ thế nào cho phải. Ta thử nhìn kỹ lại, hoặc giả thấy chỗ nào có ghi phương danh tỉ tỉ chăng?” Chàng nhìn đi nhìn lại xung quanh rồi chợt nhìn lên đầu pho tượng, thấy mớ tóc đúng là tóc thật. Một làn tóc mây óng mượt quấn lại từng lọn bồng bềnh. Bên mái tóc có cài một chiếc vòng ngọc, mặt trên nạm hai hạt minh châu lớn bằng đầu ngón tay út, chiếu ra một thứ ánh sáng huyền ảo. Bên vách phía tây có sáu khối pha lê lớn, nhìn ra thấy nước thấp thoáng khiến cho gian phòng này so với gian phòng trước còn sáng hơn nhiều.

Chàng lại say sưa ngắm pho tượng ngọc một hồi rồi mới quay ra, thấy bức tường phía đông được mài nhẵn nhụi, trên khắc mấy hàng chữ đều lấy từ trong sách Trang Tử các thiên Tiêu Dao Du, Dưỡng Sinh Chủ, Chí Lạc.., bút pháp khoáng đạt dường như do một người nào đó có sức cổ tay rất mạnh dùng vật nhọn khắc thành, nét nào nét nấy sâu vào trong đá đến nửa tấc. Cuối bài văn đó là một hàng lạc khoản đề: “Tiêu Dao Tử vì Thu Thủy muội mà viết. Trong động không ngày tháng, chính cực lạc nhân gian.”

Đoàn Dự nhìn hàng chữ đó mà thừ người ra, nghĩ thầm: Vị Tiêu Dao Tử và Thu Thủy muội hẳn là hai vị cao nhân nam nữ mấy chục năm trước cùng nhau múa kiếm dưới sơn cốc. Pho tượng ngọc có lẽ là người mà ông ta gọi là Thu Thủy muội, Tiêu Dao Tử được sống với bà ta ở nơi mật động dưới u cốc này, đúng là cực lạc của nhân gian. Thực ra cực lạc đâu phải chỉ của nhân gian, mà ngay cả trên trời chắc cũng không bằng.

Mắt chàng nhìn đến mấy hàng chữ trên vách: “Nơi núi xa xăm mờ mịt, có thần nhân ở; da trắng như tuyết, giữ mình như ngọc, không ăn ngũ cốc, hút gió uống sương.” Chàng lại quay đầu nhìn qua pho tượng nghĩ thầm: Mấy câu này của Trang Tử, đem ra để hình dung vị thần tiên tỉ tỉ quả là chuẩn xác. Chàng đi đến trước pho tượng, ngây ngất đứng nhìn, xem có đúng là da trắng như tuyết không, chỉ tiếc là không dám đưa ngón tay ra vuốt ve thử, lòng như mê đi, thoang thoảng dường như ngửi thấy mùi lan xạ thơm ngát, vì say đắm mà đâm ra kính trọng, từ kính trọng lại càng thêm say đắm.

Một lúc sau chàng không nhịn nổi phải kêu lên: “Thần tiên tỉ tỉ ơi! Nếu tỉ tỉ có phép mầu nói với tôi chỉ một lời thôi, thì dù tôi có phải vì tỉ tỉ mà tan xương nát thịt cũng hoan hỉ như vào cực lạc.” Đoạn tự nhiên chàng quỳ gối xuống lạy.

Quỳ rồi chàng mới biết rằng ở dưới đất, trước pho tượng có đặt sẵn hai cái bồ đoàn, dường như để cho người vào tham bái. Chân chàng quỳ lên cái lớn, dưới chân pho tượng cũng có cái nhỏ hơn, phải chăng để người lạy dập đầu xuống? Đoàn Dự vừa phục xuống, bỗng nhìn mé trong gót hài tựa như có thêu chữ. Chàng định thần nhìn kỹ quả thấy hài chân trái có tám chữ: “Lạy ta nghìn lạy, cho ta sai khiến”. Hài chân phải cũng có tám chữ: “Tuân theo lệnh ta, chết đừng hối hận”.

Thần tượng đi đôi hài màu nước biển, mười sáu chữ trên đây nhỏ như đầu ruồi lại thêu bằng chỉ màu xanh hơi thẫm hơn một chút, nếu không cúi đầu sát xuống thì không tài nào nhìn rõ được. Đoàn Dự đã bị dung nhan pho tượng mê hoặc, khấu đầu ngàn lạy giai nhân cũng chẳng sao. Còn việc được giai nhân sai bảo thì cầu khẩn vị tất đã được? Sau cùng là việc vì mỹ nhân mà bị đại họa sát thân lại là điều sở nguyện của chàng, dù nước sôi lửa cháy cũng không hối hận. Tâm hồn chàng say mê điên đảo, đọc xong mấy câu chàng khấu đầu rất cung kính vừa lạy, vừa đếm “năm, mười, mười lăm, hai mươi…”

Chàng lạy được năm, sáu trăm lạy, bắt đầu thấy lưng mỏi, xương đau, sái đầu sái cổ nhưng vẫn cố gắng lạy cho đủ số mới thôi. Mệnh lệnh đầu tiên của thần tiên tỉ tỉ đã không xong thì còn nói gì đến chuyện dẫu chết cũng không hối hận? Đến lúc được trên tám trăm cái, mặt chiếc bồ đoàn nhỏ đã sờn, lộ ra bên dưới có vật gì đó, Chàng không để ý đến, vẫn cứ cung cung kính kính lên gối xuống gối đủ một nghìn lần. Khi xong rồi thấy lưng mỏi nhừ, vừa ngóc đầu đã khuỵu ngay xuống.

Chàng nằm lăn ra nghỉ cho lại sức, thấy mình đã tuân hành được một chuyện của người ngọc, chân càng chồn, gối càng mỏi thì trong lòng càng sung sướng. Qua một lúc sau chàng mới từ từ trở dậy, giơ tay mò vào chỗ rách của cái bồ đoàn nhỏ thấy vật gì trơn nhẵn, hóa ra là một cái túi bằng lụa nghĩ thầm: “Thì ra thần tiên tỉ tỉ đã sắp xếp, nếu ta không lạy đủ một nghìn cái thì cái đệm nhỏ này đâu có rách, vật báu của nàng tặng cho ta đâu có lộ ra được”. Chàng xưa nay chẳng coi châu báu ngọc ngà vào đâu nhưng cái túi này là của thần tiên tỉ tỉ ban cho, dẫu bên trong chỉ là vải rách giấy vụn thì cũng coi như quý giá nhất đời. Chàng lôi cái túi ra, hai tay bưng lên ngang ngực.

Cái túi đó dài chừng một thước, trên nền lụa trắng viết mấy chữ nhỏ: “Ngươi đã lạy ta đủ một nghìn lần thì hãy tuân theo mệnh lệnh. Cuộn này là tinh yếu võ công của phái Tiêu Dao, mỗi ngày ba lần cố gắng tu tập những giờ mão, ngọ, dậu, nếu như biếng nhác thì ta thật đau lòng. Thần công thành tựu rồi, hãy tới Lang Hoàn Phúc Địa đọc cho kỳ hết kinh điển để biết gia số các môn phái trong thiên hạ mà dùng. Đừng gấp gáp, cứ thư thả, học xong rồi hạ sơn, giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, nếu sót một người thì ta dù trên trời hay dưới đất cũng không tiêu mối hận.”

Hay tay chàng run rẩy cầm cái bọc lụa nghĩ thầm: “Thế là thế nào? Ta vốn đã không muốn học võ, còn việc giết sạch người của phái Tiêu Dao thì lại càng không thể làm được. Thế nhưng mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ lẽ nào không tuân hành? Ta đã dập đầu đủ một nghìn lần, nghĩa là bằng lòng cho nàng sai khiến. Thế nhưng nàng bảo ta học võ giết người, biết làm sao đây?”

Trong đầu chàng lúc này thật rối như tơ vò, nghĩ tiếp: “Nàng bảo ta học võ của phái Tiêu Dao, rồi lại bảo ta đi giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, thật lạ lùng thay. Ôi, chắc là sư huynh sư đệ, sự tỉ sư muội trong phái Tiêu Dao của nàng làm nàng khốn khổ cho nên nàng mới mong báo thù. Nàng đến lúc chết vẫn chưa nguôi mối hận nên mới tính chuyện thu đệ tử để thay mình hoàn thành tâm nguyện. Những kẻ đó làm hại thần tiên tỉ tỉ đến như thế, hẳn là xấu xa, gian ác nhất trên đời, có giết cho hết cũng phải. Khổng Phu Tử có nói: Lấy ngay thẳng mà báo oán, chính là như thế. Cha ta cũng nói rằng, nếu gặp kẻ xấu xa gian tà, mình không giết nó, nó cũng giết mình, nếu như không biết võ công thì có khác gì để cho người ta đâm chém sao cũng được. Câu đó xem ra không sai chút nào.” Khi cha chàng ép chàng học võ, chàng đem ra đủ các đạo lý của nhà nho, nhà Phật nhất định không chịu học. Cha chàng không thông hiểu sách vở bằng chàng nên không cãi được. Lúc này chàng vì say mê pho tượng ngọc mới nhận rằng lời cha là đúng.

Chàng nghĩ tiếp: “Thần tiên tỉ tỉ qui tiên đã mấy chục năm, chắc gì trên đời này còn phái Tiêu Dao? Người đời có nói: ác hữu ác báo, biết đâu những kẻ xấu xa kia chẳng đợi ta ra tay giết cũng đã chết cả rồi. Nếu không còn đệ tử phái Tiêu Dao, tâm nguyện của thần tiên tỉ tỉ đã hoàn thành, nàng ở trên trời dưới đất đâu có còn ôm mối hận nữa.”

Nghĩ ra như thế trong lòng chàng cảm thấy dịu lại, khấn thầm: “Thần tiên tỉ tỉ, những việc tỉ tỉ sai bảo, Đoàn Dự này dĩ nhiên phải tuân theo không dám cãi, nhưng mong rằng tỉ tỉ pháp lực vô biên, đệ tử phái Tiêu Dao ai nấy đều không bệnh hoạn mà chết cả rồi.” Chàng hồi hộp mở cái bọc gấm ra, bên trong là một cuộn lụa cuốn tròn.

Chàng mở cuộn lụa, hàng chữ đầu tiên viết: Bắc Minh thần công, nét chữ mềm mại nhưng có lực, so với hàng chữ bên ngoài túi không khác gì. Bên dưới viết tiếp: “Trang Tử Tiêu Dao Du có viết: ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn, vài nghìn dặm không ai nhìn thấy bao giờ.” Lại viết: “Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ một chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn. Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu quyết đầu tiên là tích súc nội lực. Nội lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc, thuyền lớn thuyền nhỏ đều chở được, cá lớn cá nhỏ đều dùng được. Cho nên nội lực là gốc, chiêu số là ngọn. Những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập.”

Đoàn Dự khen: “Đoạn này thần tiên tỉ tỉ viết thật là rõ ràng.” Chàng nghĩ thầm: Bắc Minh thần công là công phu tu luyện nội lực, có học cũng không sao. Tay trái chàng lần từ từ giở cuộn vải ra, đột nhiên “A” lên một tiếng, tim đập thình thành rồi mặt đỏ bừng, người nóng rực.

Thì ra trên tấm lụa là hình vẽ một người con gái nằm ngang, thân thể không một mảnh vải, diện mạo chẳng khác gì pho tượng ngọc. Đoàn Dự cảm thấy nếu nhìn lâu thêm không khỏi coi thường thần tiên tỉ tỉ, nên vội vàng cuộn lại không coi nữa. Một hồi sau chàng mới nghĩ thầm: Thần tiên tỉ tỉ có dặn là những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập, ta cũng chỉ theo lệnh mà làm không thể coi là bất kính.

Chàng run run đưa tay mở cuộn vải ra, thấy bức hình người con gái khỏa thân kia đang mỉm cười đầu mày cuối mắt, trên môi trên má thật là kiều mị, so với pho tượng khuôn mặt trang nghiêm tuy dung mạo có giống nhưng tinh thần khác hẳn. Chàng thấy ngực mình rộn ràng, nghe được cả tiếng tim đập, liếc mắt nhìn trộm bức tranh, thấy có một đường chỉ nhỏ màu xanh từ trên vai trái vòng xuống dưới cổ rồi chạy xéo xuống ngực bên phải. Chàng nhìn đến đôi nhũ hoa đầy đặn của người đẹp trong lòng thảng thốt, vội vàng nhắm mắt lại, một lát sau mới he hé nhìn thấy sợi chỉ xanh đó chạy xuống dưới nách rồi kéo dài đến tận cánh tay phải, qua cổ tay tới ngón tay cái mới ngừng. Chàng càng nhìn càng yên bụng, nghĩ thầm mình nhìn bàn tay, ngón tay của thần tiên tỉ tỉ thì không sao, nhưng nghĩ đến cánh tay trắng muốt trong lòng không khỏi rộn ràng.

Lại có một sợi chỉ xanh khác từ cổ đi xuống, qua bụng rồi đi tiếp nữa tới cách rốn mấy tấc mới ngừng. Đoàn Dự không dám nhìn sợi dây đó lâu, chăm chú nhìn đường trên cánh tay, thấy bên cạnh sợi dây ghi đầy những chữ nhỏ, nào Vân Môn, Trung Phủ, Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế… đến Thiếu Thương ở ngón tay cái thì ngừng lại. Chàng thường ngày nghe cha mẹ bình luận võ công, tuy không lưu ý những lọt vào tai cũng khá nhiều, biết ngay Vân Môn, Trung Phủ… đều là tên các huyệt đạo trên thân thể con người.

Chàng mở thêm một chút thấy bên dưới có một hàng chữ: “Bắc Minh thần công lấy nội lực của thiên hạ làm của mình. Nước lớn biển bắc không phải tự nhiên mà có. Lời rằng: Trăm sông đổ vào biển, nước của biển sở dĩ có là vì dung chứa nước của trăm sông. Biển cả bao la cũng là vì biết tích tụ. Thủ Thái Âm Phế Kinh này là bài học đầu tiên của Bắc Minh thần công.” Bên dưới viết kỹ phương pháp luyện môn công phu này.

Sau cùng chép: “Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao ta lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, ngón tay cái vừa chạm vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình, tới tận các huyệt. Nếu như nội lực kẻ địch mạnh hơn ta, tức là nước biển chảy ngược vào sông hồ cực kỳ hung hiểm, phải hết sức cẩn thận. Bọn phản đồ trong bản phái không hiểu được đạo lý này nên chỉ biết làm tiêu hao nội lực kẻ địch mà không biết biến nội lực của địch thành của mình, khác nào trong tay có nghìn vàng đem vứt dưới đất, coi bảo vật không ra gì, thật đáng buồn cười!”

Đoàn Dự thở dài một tiếng, mang máng thấy công phu này dường như không được quang minh, lấy nội lực của người làm của mình thì khác nào ăn cắp tài vật người ta? Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: “Thí dụ của thần tiên tỉ tỉ thật là đúng, trăm sông đổ vào biển là do tự ý chảy vào chứ biển có ăn cắp nước của sông đâu? Ta lại cho rằng thần tiên tỉ tỉ đi lấy của người khác, thật là lếu láo, đáng đánh đòn.”

Chàng giơ tay lên, tát ngay vào mặt mình một cái, má trái liền sưng lên thật là đau, lại tát bên phải một cái nữa nhẹ hơn, nghĩ thầm: “Kẻ xấu xa tàn ác dám mạo phạm đến thần tiên tỉ tỉ, thần tiên tỉ tỉ lấy nội lực của chúng chính là bẻ nanh vuốt bọn chúng, khác gì giật con dao trong tay kẻ cướp chứ có phải giết y đâu. Thần tiên tỉ tỉ làm như thế có gì là không phải?”

Chàng mở tiếp cuộn vải lụa, trên đó vẽ toàn là hình con gái khỏa thân, kẻ đứng người nằm, hoặc trước mặt, hoặc sau lưng, cùng một khuôn mặt nhưng khi vui khi buồn, khi thì tình ý triền miên, lúc lại có vẻ bực bội, mỗi bức một khác. Tất cả tổng cộng ba mươi sáu bức tranh, trên bức tranh nào cũng có những sợi chỉ màu, ghi rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công.

Đến cuốn lụa sau cùng có bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ, kế đó vẽ đầy những vết chân, ghi rõ Qui Muội, Võ Vọng các loại, đều là những phương vị trong kinh Dịch. Mấy hôm trước đây Đoàn Dự toàn tâm toàn lực nghiên cứu kinh Dịch, vừa đọc đến những tên này lập tức tinh thần phấn khởi chẳng khác gì tha hương ngộ cố tri. Chỉ thấy dấu chân chằng chịt, không biết bao nhiêu trăm, bao nhiêu nghìn, từ bước nọ sang bước kia có một đường dây xuyên qua, vô số dấu mũi tên, xem ra là một loại bộ pháp phức tạp. Sau cùng là một hàng chữ viết: “Nếu gặp phải cường địch, thì dùng bộ pháp này để bảo vệ chính mình, tích thêm nội lực sau đó sẽ quay lại giết địch.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bộ pháp của thần tiên tỉ tỉ để lại ắt là tinh diệu, khi gặp cường địch đào tẩu thoát thân thì tốt biết bao, còn như việc quay lại thì bất tất phải nghĩ đến.”

Chàng cuộn tấm lụa lại, để lên vái hai cái rồi trinh trọng bỏ vào trong túi, quay sang nói với pho tượng ngọc: “Thần tiên tỉ tỉ dặn ta sáng trưa chiều ba lần luyện công, Đoàn Dự này không dám trái lời. Từ nay trở đi đối với người khác sẽ hết sức nể nang để cho người khác khỏi đánh, khỏi phải hút nội lực của người ta. Còn Lăng Ba Vi Bộ kia ta sẽ gia tâm luyện cho thành thục, nếu thấy không êm thì lập tức chạy ngay, khỏi phải hút nội lực của họ.” Còn lời dặn giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, chàng không dám nhắc đến.

Chàng thấy bên trái có một cái cửa hình tròn nên chậm rãi đi vào, bên trong lại là một gian thạch thất khác, trong đó có một chiếc giường đá, trước giường để một cái nôi nho nhỏ bằng gỗ. Chàng ngơ ngẩn nhìn chiếc nôi, nghĩ thầm: Không lẽ thần tiên tỉ tỉ lại có con ư? Nghĩ đến người thần tiên tỉ tỉ bằng thanh ngọc khiết kia lại có con, không khỏi cực kỳ thất vọng, nhưng chàng lại nghĩ ngay: “A, đúng rồi. Đây chắc là cái nôi của thần tiên tỉ tỉ nằm khi nàng còn bé. Hai người Tiêu Dao Tử và Thu Thủy muội chắc là song thân, đúng rồi.” Chàng cũng không thèm nghĩ thêm xem mình đoán trúng hay trật, tinh thần lại trở nên cao hứng.

Trong gian phòng không có chăn gối quần áo gì, trên tường có treo một cây đàn, dây đã đứt cả. Bên cạnh giường lại có một cái bàn đá, trên bàn khắc mười chín đường bàn cờ, trên còn sắp xếp đến hơn hai trăm quân trắng đen đang hồi kịch liệt. Đàn còn đó, cờ chưa xong mà giai nhân mờ mịt nơi nào? Đoàn Dự đứng sững sờ trong gian thạch thất, không khỏi bị thương, hai hàng lệ chảy dài trên má.

Bỗng dưng chàng lại hoảng hốt: “Trời ơi! Nếu có bàn cờ, ắt phải có hai người giao đấu, e rằng thần tiên tỉ tỉ chính là Thu Thủy muội, cùng chồng là Tiêu Dao Tử ngồi đây đánh cờ. Ôi thôi! Thật là… thật là… Ô, đúng rồi! Bàn cờ này không phải hai người đánh mà là thần tiên tỉ tỉ ở một mình nơi u cốc, tịch mịch không có gì làm, nên đánh cờ một mình. Thần tiên tỉ tỉ, năm xưa sao nàng không gọi lên vài tiếng? Đoàn Dự này nghe tiếng oanh êm ả, thể nào chẳng vào trong sơn cốc hầu cờ cùng tỉ tỉ”. Chàng đến bến xem kỹ cuộc cờ, không ngờ càng xem càng kinh hãi.

Cuộc cờ đó biến hóa phức tạp vô song, là thế cờ vẫn gọi là Trân Lung, hai bên hết sức tranh đoạt mà không bên nào dứt điểm được. Đoàn Dự đã từng nghiên cứu về cờ vây mấy năm qua, có lúc từng đánh cờ mê mẩn với Thôi tiên sinh trong nhà. Chàng vốn thông minh nên lúc đầu Thôi tiên sinh chấp chàng bốn quân mà sau một năm đã chấp lại ông ta ba quân, có thể nói là một tay cờ cao thủ trong nước Đại Lý. Thế nhưng bàn cờ trước mắt rồi sẽ ra sao vẫn không thể nghĩ ra, bên nào cũng có thể thắng có thể bại. Chàng đứng hồi lâu, thế cờ càng lúc càng mờ mịt, thấy có hai chân đèn trên còn hai cây nến cháy dở, bên cạnh có cả hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi nên đánh lửa lên đốt đèn coi cho rõ. Chàng xem đến khi đầu váng mắt hoa.

Đoàn Dự đứng lên, vặn lưng cho bớt mỏi, bỗng giật mình: “Cuộc cờ này có nghĩ thêm mười ngày chưa chắc đã giải xong, đến lúc đó tính mạng mình đã không còn mà Chung cô nương thì cũng đã bị Thần Nông Bang chôn đến chết đói.” Chàng không dám ngồi coi nữa, tiện tay cầm luôn cây đèn, trong lòng đột nhiên mừng rỡ: “Đúng rồi! Đúng rồi! Bàn cờ này phức tạp đến thế, chắc là thần tiên tỉ tỉ tự mình sắp đặt một thế Trân Lung, chứ nào phải hai người đánh với nhau, quả thật hay quá.”

Chàng ngửng đầu lên thấy dưới chân giường lại cũng có một cái cửa hình tròn, tường bên cạnh có bốn chữ Lang Hoàn Phúc Địa. Chàng nhớ đến câu thần tiên tỉ tỉ viết bên ngoài cuộn lụa, nghĩ thầm: Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa ở ngay đây. Thần tiên tỉ tỉ có nói là kinh điển các môn phái trong thiên hạ đều có ở trong này. Ta đâu muốn học võ công, những kinh điển đó không xem là hơn. Thế nhưng thần tiên tỉ tỉ đã dặn, đâu thể trái lời. Chàng bèn cắm đuốc tiến vào.

Vừa bước chân vào, Đoàn Dự đưa mắt nhìn bốn phía thở ra khoan khoái, trong lòng nhẹ hẳn đi. Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa là một cái thạch động thật lớn, to gấp mấy lần những phòng ở bên ngoài, trong bày đầy những giá sách bằng gỗ. Có điều trên những kệ đó trống trơn, không còn một quyển nào. Chàng bưng cây nến lại gần thấy trên giá có cắm đầy những thẻ, nào là Côn Luân Phái, Thiếu Lâm Phái, Tứ Xuyên Thanh Thành Phái, Sơn Đông Bồng Lai Phái… bên trong có cả Đại Lý Đoàn Thị. Thế nhưng trong chiếc thẻ đề Thiếu Lâm Phái thì có chú thích “thiếu Dịch Cân Kinh”, trong thẻ đề Cái Bang thì chú thích “thiếu Hàng Long Thập Bát Chưởng”, còn thẻ để Đại Lý Đoàn Thị thì ghi chú “thiếu Nhất Dương Chỉ, Lục Mạch Thần Kiếm kiếm pháp, thật đáng tiếc”.

Như vậy hẳn là năm xưa trên những kệ sách này chất đầy đồ phổ, kinh sách của các môn phái nhưng nay đã bị lấy đi hết chỉ còn giá không. Thoạt tiên Đoàn Dự tưởng như trút được tảng đá trong lòng: “Nếu như không còn võ công điển tịch nữa thì ta không học võ công cũng không thể nói là không theo lệnh của thần tiên tỉ tỉ”. Thế nhưng trong lòng chàng bỗng cảm thấy hổ thẹn: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi vui vì không phải tuân lệnh của thần tiên tỉ tỉ thì đã là bất trung với nàng rồi. Ngươi không thấy võ công điển tịch đáng lẽ phải thất vọng mới phải, sao lại lấy làm sung sướng là sao? Thần tiên tỉ tỉ trên trời dưới đất nếu có linh thiêng ắt sẽ không bằng lòng.”

Lang Hoàn Phúc Địa này không có cửa ra, chàng trở lại phòng ngoài. Trong lòng vẫn còn quyến luyến pho tượng mỹ nhân, chân bước đi mặt còn ngoảnh lại, chàng định nhìn lần nữa rồi thôi, nhưng vừa nhìn lên gặp ngay đôi mắt pho tượng ngọc đang nhìn mình, lòng chàng lại thẫn thờ, đầu óc lại quay cuồng, đứng ngây ra một lúc rồi vái dài sát đất nói: “Thần tiên tỉ tỉ ơi! Hôm nay vì có việc khẩn cấp, ta xin tạm biệt. Sau khi cứu được Chung Linh ra rồi, ta sẽ trở về đây đoàn tụ cùng tỉ tỉ.”

Ra khỏi thạch thất, chàng theo bậc đá đi chếch lên. Chàng vừa đi vừa do dự, mấy phen toan quay trở lại ngắm tượng ngọc mỹ nhân. Chàng phải quả quyết lắm mới chế phục được cõi lòng.

Đoàn Dự đi được hơn trăm bậc, chuyển qua ba khúc quanh, văng vẳng có tiếng sóng vỗ bì bõm, chàng đi hơn hai trăm bậc nữa, tiếng sóng nghe đã rõ, phía trước đã thấy ánh sáng rọi vào. Chàng càng đi mau hơn cho đến bậc đá cuối cùng thì thấy trước mắt có một cái hang vừa đủ một người đứng. Chàng ló đầu ra ngoài, giật mình hồi hộp, run lên cầm cập.

Bên ngoài nước chảy băng băng, sóng vỗ ầm ầm, một con sông lớn hiện ra trước mắt Đoàn Dự. Hai bên bờ sông là hai rặng núi đá dựng đứng cao chót vót, cực kỳ hiểm trở. Chàng nhận ra đây đã đến bờ sông Lan Thương, thì nửa mừng nửa sợ, cúi rạp xuống bò ra cửa động, nhìn thấy chỗ mình nằm cao hơn mặt nước đến mười trượng. Dù mực nước sông có lên cao cũng không thể tràn tới được. Chỉ còn một điều khó khăn là phải vượt qua mấy tầng đèo cao, vực thẳm mới ra tới chỗ đất bằng. Chàng vận dụng cả chân tay lúc trèo lên, khi tụt xuống đồng thời vẫn lưu ý nhìn kỹ mọi địa thế, ghi nhớ vào lòng để sau này cứu người xong, sẽ trở lại chốn này. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Từ nay mỗi năm ta để vài tháng vào trong hang này làm bạn với thần tiên tỉ tỉ.”

Bờ sông toàn là núi đá lởm chởm, không có lấy một con đường nhỏ, Đoàn Dự vất vả lắm mới đi được bảy tám dặm. Đến một gốc cây đào mọc tự nhiên, trên cành trái chín lúc lỉu, chàng mừng quá, trèo lên hái ăn kỳ no bụng. Lại thấy tinh thần phấn khởi, đi chừng hơn mười dặm nữa mới thấy một lối đi xuất hiện. Chàng lần theo lối nhỏ này đi cho tới lúc mặt trời xế bóng thì đến một cái cầu sắt bắc qua sông. Đầu cầu dựng một tấm bia đá khắc ba chữ: Thiện Nhân Độ.

Đoàn Dự trông thấy cả mừng, vì trước Chung Linh đã dặn chàng phải qua cầu này. Cầu gồm bốn sợi dây sắt: hai sợi dưới gác ván gỗ để đi, còn hai sợi trên dùng làm tay vịn. Đoàn Dự bước chân lên cầu thấy chao qua chao lại đã sợ. Ra đến giữa sông cầu lắc mạnh hơn, chàng nhìn xuống sông chỉ thấy nước chảy băng băng, tựa như đàn ngựa hoang đuổi nhau dưới cầu. Chỉ sểnh một chút té nhào xuống thì dù có biết bơi lội cũng không toàn tánh mạng.

Chàng kinh hãi không dám trông xuống nữa, mắt chỉ nhìn về phía trước, vừa đi vừa run, lập cập tụng niệm: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật! Lần từng bước một, sang tới đầu cầu bên kia bấy giờ mới hoàn hồn.

Chàng ngồi nghỉ một lúc, lại theo lời dặn của Chung Linh mà đi. Chừng nửa giờ thì thấy một khu rừng rậm, biết là đã đến cửa Vạn Kiếp Cốc, nơi nàng ở. Chàng đến gần quả nhiên thấy một hàng chín cây cổ tùng vươn lên cao vút. Chàng đến cây thứ tư bên phải, vòng qua phía sau vạch đám cỏ cao, quả nhiên trên cây có một cái hang, nghĩ thầm: “Vạn Kiếp Cốc quả thật kín đáo, nếu không được Chung cô nương cho hay thì nào ai biết được cửa cốc lại ở ngay trong một cây tùng.”

Chàng tiến vào cửa hang, một tay vạch cỏ ra, tay phải mò thấy một cái vòng sắt lớn, dùng sức kéo lên, nắp gỗ liền mở, bên dưới là một hàng bậc thang bằng đá. Chàng đi xuống mấy bậc rồi hai tay lại nâng cánh cửa gỗ để lại chỗ cũ, tiếp tục đi xuống, khoảng chừng ba mươi bước thì đường ngoặt qua phía phải, sau mấy trượng lại trồi trở lên, nghĩ thầm: ở đây làm bậc đá dễ hơn thần tiên tỉ tỉ nhiều. Lên chừng ba mươi bậc thì đến một khoảng đất bằng.

Trước mắt chàng thấy một bãi cỏ rộng, xa xa là những cây tùng. Đến gần thấy một cây tùng lớn trên bạt đi một mảng vỏ dài chừng một trượng, ngang chừng một thước, trên sơn trắng viết tám chữ lớn: Họ Đoàn vào đây tất giết không tha. Những chữ khác đều màu đen, riêng chữ giết lại màu đỏ.

Đoàn Dự nghĩ thầm: Sao cốc chủ lại hận thù họ Đoàn ta đến thế? Dẫu như có người họ Đoàn đắc tội với y nhưng trên đời này người họ Đoàn hàng nghìn, hàng vạn, đâu phải ai cũng đáng giết. Khi đó trời đã tối, những chữ đó trông như giơ nanh múa vuốt, chữ giết kia màu đỏ chói chẳng khác gì bôi đầy máu tươi, trông thật ghê rợn. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chung cô nương bảo ta đừng xưng mình họ Đoàn thì ra là thế. Cô ta bảo mình gõ vào chữ thứ hai ba lần, tức là phải gõ vào chữ Đoàn. Lúc đó nàng không nói rõ ra, sợ ta nổi giận. Gõ thì đã sao nào? Nàng cứu mạng ta, đừng nói chỉ gõ vào chữ Đoàn ba lần, mà có đá cho Đoàn Dự này ba phát cũng không sao.”

Chàng thấy trên cây có đóng một cái đinh treo một cái búa nhỏ, liền lấy xuống gõ vào chữ Đoàn một cái. Tiếng kim loại vang lên, Đoàn Dự không đề phòng phải giật nảy người, mới hay bên dưới là một miếng sắt, phía sau rỗng, chỉ vì bên ngoài sơn trắng nên không nhìn ra. Chàng gõ thêm hai lần nữa rồi treo cái búa lại chỗ cũ.

Qua một lát, đằng sau cây tùng có tiếng một thiếu nữ reo lên: “Tiểu thư về đấy ạ?”.

Đoàn Dự đáp: “Tại hạ vâng mệnh Chung cô nương xin đến bái kiến cốc chủ.” Cô gái bỗng “Ồ” một tiếng, ra chiều kinh ngạc hỏi: “Ngươi… ngươi là người ngoài ư? Tiểu thư của ta đâu?” Đoàn Dự đáp: “Chung cô nương hiện đang bị nguy khốn, tại hạ đến để báo tin.”

Thiếu nữ kinh hãi hỏi lại: “Nguy hiểm gì?” Đoàn Dự đáp: “Chung cô nương bị người ta bắt giữ, e rằng nguy hiểm đến tính mạng.” Cô gái kêu lên: “Ngươi… ngươi chờ đây để ta vào bẩm lại phu nhân.” Đoàn Dự nói: “Hay lắm!” Chàng nghĩ thầm: “Chung cô nương dặn ta đến ra mắt mẫu thân nàng trước”.

Đoàn Dự đứng ngoài chờ một lúc khá lâu, chợt nghe có tiếng chân người đi tới. Cô gái lúc nãy trở ra lên tiếng: “Phu nhân mời vào.” Đoàn Dự trông cô gái chừng mười bảy, mười tám tuổi, cách ăn mặc theo kiểu a hoàn, liền cất tiếng hỏi: “Tôi gọi tỉ tỉ bằng gì cho phải?” Cô gái ngoảnh lại, lắc đầu, đưa tay ra hiệu cho chàng đừng lên tiếng. Đoàn Dự thấy y có vẻ sợ sệt nên không hỏi han gì nữa, cứ lẳng lặng theo sau.

Nữ tì dẫn chàng xuyên qua một rừng cây, men theo lối đi nhỏ hẹp về mé tay trái đến một căn nhà ngói. Y đứng ngoài gõ cửa ba tiếng cạch cạch cạch. Cánh cửa từ từ mở ra, y đưa tay vẫy Đoàn Dự rồi đứng tránh sang bên, nhường lối cho chàng vào trước. Đoàn Dự bước vào trong nhà nhìn xem thì đây là một phòng khách nhỏ. Trên bàn đặt một cây nến lớn, thắp sáng trưng. Bàn ghế sạch như lau. Trên vách treo mấy bức họa, trên án trần thiết đỉnh đồng cùng những đồ bằng ngọc. Căn nhà này tuy không rộng lắm song bài trí cực kỳ tao nhã. Chàng vào ghế ngồi, nữ tỳ bưng trả lại mời: “Xin mời công tử dùng trà! Phu nhân sắp ra đó.

Đoàn Dự nhấp hai ngụm, thấy ở phía đông treo một bộ tứ bình trên vẽ mai lan cúc trúc bốn loại hoa cỏ, nhưng thứ tự lại xếp thành lan, trúc, cúc, mai; bên phía tây có bốn bức tranh vẽ xuân hạ thu đông nhưng lại treo thành đông, hạ, xuân, thu; nghĩ thầm: cha mẹ của Chung cô nương là con nhà võ, không rành thư họa, cũng không có gì lạ.

Chợt nghe tiếng ngọc va vào nhau kêu leng keng, một thiếu phụ mặc áo lụa xanh uyển chuyển bước ra, trạc tuổi bốn mươi, dung nhan diễm lệ, đôi mắt giống Chung Linh như hệt. Chàng biết đó là Chung phu nhân liền đứng dậy vái dài thưa rằng: “Vãn sinh là Đoàn Dự xin bái kiến bá mẫu.” Chàng vừa nói xong, mặt liền biến sắc, bụng kêu thầm: “Chao ôi! Sao ta lại xưng tên thật của mình thế này? Ta chỉ chăm chăm xem bà ta có giống Chung Linh hay không, quên bẵng đi là mình phải dùng tên giả.”

Chung phu nhân chắp tay đáp lễ nói: “Chào công tử!”

Phu nhân vừa chào vừa nhìn diện mạo Đoàn Dự, bất giác biến sắc, lắp bắp hỏi: “Cậu… cậu… họ Đoàn phải không?”

Đoàn Dự thấy Chung phu nhân hoảng hốt ra mặt, chàng muốn nói dối là mình họ khác, nhưng đã lỡ mất rồi, đành thưa lại: “Bẩm phu nhân, vãn sinh họ Đoàn.” Chung phu nhân lại hỏi: “Công tử quê quán ở đâu? Đại danh lệnh tôn là gì?”

Đoàn Dự nghĩ thầm: Hai câu này mình phải nói dối mới được, để phu nhân khỏi biết rõ tông tích nhà mình. Chàng nghĩ vậy liền đáp: “Vãn sinh quê ở phủ Lâm An, tỉnh Giang Nam, gia phụ tên gọi Đoàn Long.” Mặt Chung phu nhân lộ vẻ hoài nghi nói: “Thế sao giọng nói của công tử nghe như tiếng người Đại Lý?” Đoàn Dự đáp: “Vãn sinh đã ở Đại Lý ba năm rồi, học nói khẩu âm bản địa e rằng chưa được giống lắm, mong phu nhân đừng cười.”

Chung phu nhân hừ một tiếng nói: “Công tử nói giọng giống lắm, thật chẳng khác gì người chính gốc ở đây. Mời công tử ngồi.”

Hai người an tọa rồi, Chung phu nhân nhìn đi nhìn lại từ đầu đến chân chàng, dường như để đánh giá điều gì. Đoàn Dự không giữ được vẻ tự nhiên nữa, liền cất tiếng thưa: “Vãn sinh trên đường đi gặp hung hiểm khiến cho áo quần rách rưới, quả thực thất lễ. Lệnh ái đang gặp hiểm nguy, văn sinh vội đến báo tin, việc quá gấp gáp không kịp thay đổi áo mũ, xin phu nhân thứ tội.”

Chung phu nhân thần sắc đang hoảng hốt, nghe thấy thế như tỉnh giấc mơ, hỏi ngay: “Tiểu nữ ra sao?”

Đoàn Dự lấy trong túi ra đôi giày hoa của Chung Linh nói: “Xin bá mẫu hãy coi vật này! Lệnh ái đã đưa cho vãn sinh đem về làm tin.” Chung phu nhân cầm lấy đôi giày nói: “Đa tạ công tử, không biết tiểu nữ gặp phải chuyện gì?”

Đoàn Dự bèn đem chuyện mình gặp Chung Linh ở Kiếm Hồ Cung trong trường hợp nào, tự mình đòi đi can thiệp vào việc Thần Nông Bang ra sao, Chung Linh bị dồn vào tình thế bắt buộc phải cho con thiểm điện điêu ra cắn người, rồi bị bang Thần Nông bắt giữ thế nào nên mình phải đến đây cầu cứu, bị rơi vào hang núi mấy ngày qua, nhưng chàng không nhắc đến pho tượng ngọc trong động đá.

Chung phu nhân lẳng lặng, chăm chú lắng nghe chàng thuật chuyện, nét mặt mỗi lúc càng thêm vẻ lo âu. Chờ Đoàn Dự dứt lời, phu nhân thở dài thườn thượt nói: “Con nhỏ này cứ bước chân ra khỏi cửa là lại sinh chuyện lôi thôi, chuốc lấy tai họa.” Đoàn Dự nói: “Vụ này là do vãn sinh gây ra, bá mẫu chẳng nên quở trách cô nương.”

Chung phu nhân chăm chăm nhìn chàng nói nhỏ: “Ừ phải! Kể ra vụ này chẳng nên trách y. Ngay mình trước kia cũng thế.” Đoàn Dự hỏi: “Sao kia ạ?” Chung phu nhân rùng mình, hai má ửng hồng. Tuy bà đã đứng tuổi song vẻ thẹn thùng, e lệ chẳng khác chi cô gái đang xuân, ngượng nghịu đáp: “Ta… ta nhớ lại một chuyện ngày xưa.” Trong khi phu nhân nói câu này, mặt bà đỏ bừng lên rồi đánh trống lảng: “Ta nghĩ việc này nan giải quá!”

Đoàn Dự thấy phu nhân thay đổi sắc mặt, ra vẻ hoang mang thì nghĩ thầm trong bụng: Bà này còn không già dặn bằng cô con gái. Giữa lúc ấy ngoài sân có tiếng nói lạnh lẽo khô khan: “Hay nhỉ, Tiến Hỉ Nhi lại bị người ta giết là sao?”

Chung phu nhân giật mình bảo Đoàn Dự: “Lang quân ta đã về, tính người đa nghi lắm, Đoàn công tử hãy tạm lánh mặt đi!” Đoàn Dự nói: “Vãn sinh cần được bái kiến tiền bối, xin để…” Chàng chưa dứt lời, Chung phu nhân liền một tay bịt miệng chàng còn một tay kéo tuột vào căn phòng phía đông, ghé tai bảo: “Công tử nấp vào đây, chớ có lên tiếng nhé! Lang quân ta tính nóng như lửa, chỉ lỡ tay một tí là cậu mất mạng, ta không cứu nổi đâu.”

Chung phu nhân bề ngoài mảnh dẻ, mà bản lãnh không vừa. Đoàn Dự bị kéo tuột đi, muốn kháng cự không được, đành chịu một phép. Chàng cảm thấy ấm ức trong lòng, nghĩ mình vất vả lặn lội đến báo tin, dù sao mình cũng là một người khách mà phải ấn nấp lén lút, chẳng khác gì kẻ trộm cắp. Chung phu nhân quay sang nhìn chàng mỉm cười vẻ thật ôn nhu. Đoàn Dự thấy nụ cười đó liền hết giận, gật đầu. Chung phu nhân quay mình đi ra khép cửa phòng, trở lại khách sảnh.

Chỉ nghe thấy tiếng bước chân hai người đi vào trong phòng, một giọng đàn ông cất tiếng chào: “Phu nhân!” Đoàn Dự nhìn qua khe tường thấy một người chừng ba mươi tuổi ăn mặc theo lối gia nhân, vẻ mặt đang sợ hãi. Một người đàn ông khác mặc áo đen, vừa cao vừa gầy, mặt quay ra ngoài nên chàng không nhìn rõ tướng mạo, chỉ thấy hai bàn tay to như hai cái quạt, trên lưng bàn tay nổi đầy gân xanh, nghĩ thầm: Bàn tay cha Chung cô nương to thật.

Chung phu nhân hỏi: “Tiến Hỉ Nhi chết rồi ư? Có chuyện gì thế?” Người kia đáp: “Lão gia sai Tiến Hỉ Nhi và tiểu nhân đến Bắc Trang đón khách. Lão gia nói là tất cả có bốn người, hôm nay lúc trưa mới có một vị, nói là họ Nhạc. Lão gia từng dặn nếu gặp họ Nhạc thì chào là tam lão gia! Tiến Hỉ Nhi tiến lên cung kính gọi tam lão gia. Ngờ đâu người đó bỗng nổi cơn lôi đình, quát lớn: Ta là Nhạc lão nhị, cớ gì lại gọi ta là tam lão gia? Người coi thường ta phải không? Nghe bộp một cái đã đánh cho Tiến Hỉ Nhi sứt đầu chảy máu, lăn ra ngay.” Chung phu nhân nhíu mày: “Trên đời này sao lại có kẻ ngang ngược đến thế? Nhạc lão tam trở thành Nhạc lão nhị từ bao giờ?”

Chung cốc chủ nói: “Nhạc lão tam xưa nay tính tình nóng nảy, lại điên điên rồ rồ.” Nói xong y quay mình lại.

Đoàn Dự từ bên kia bức vách nhìn ra không khỏi giật mình vì tướng mạo lão rất ghê sợ: mặt dài như mặt ngựa, mắt xếch, mũi to mà tròn như trái cà xệ xuống gần miệng, thành ra giữa mắt và mũi cách một khoảng khá lớn. Chàng tưởng đến Chung Linh mi thanh mục tú nét mặt xinh tươi, lại ngạc nhiên sao cha ruột nàng lại xấu xí đến thế được?

Chung động chủ vốn mặt mày đăm đăm nhưng khi quay lại nhìn vợ lại đổi ra vẻ ôn hòa, bộ mặt xấu xí nanh ác cũng dịu lại đôi phần. Lão cười bảo vợ: “Nhạc lão tam tính tình ngang ngược, ta cũng sợ y kinh động đến phu nhân, nên không để cho y vào trong cốc. Chuyện nhỏ nhặt kia nàng đừng để tâm làm gì.”

Đoàn Dự càng lấy làm lạ nghĩ thầm: Chung phu nhân vừa nghe tiếng chồng về đã sợ cuống quít, nhưng giờ xem động chúa đối với bà vợ không những đầy vẻ thương yêu còn ra dáng kính nể nữa.

Chung phu nhân nói: “Sao lại là chuyện nhỏ nhặt được? Tiến Hỉ Nhi trung thành chăm chỉ hầu hạ mình bao nhiêu năm nay, nay bị gã bằng hữu chó lợn kia giết chết, trong lòng ta thật đau đớn xiết bao.” Chung cốc chủ cười gượng: “Đúng, đúng lắm! Nàng thương xót kẻ ăn người làm, quả là tốt bụng.”

Chung phu nhân hỏi gã gia nhận: “Lai Phúc Nhi, rồi sau ra sao?” Lai Phúc Nhi đáp: “Tiến Hỉ Nhi bị y đánh ngã xuống vốn đâu đã chết. Tiểu nhân vội vàng chào Nhị lão gia, xin nhị lão nhân gia đừng nóng nảy. Y liền cười hề hề rất là cao hứng. Tiểu nhân bèn đỡ Tiến Hỉ Nhi dậy, rồi dọn một mâm rượu cho gã họ Nhạc kia ăn. Y hỏi: Chung… Chung… sao không ra tiếp ta? Tiểu nhân trả lời: Lão gia chúng tôi chưa biết nhị lão gia đại giá quang lâm, nếu không thì đã ra nghinh tiếp rồi, để tiểu nhân quay vào bẩm báo. Người đó gật đầu, thấy Tiến Hỉ Nhi khép na khép nép đứng bên cạnh hầu hạ, liền hỏi: Hồi nãy ta đánh người một chưởng, trong bụng ngươi thể nào cũng rủa thầm ta, có đúng không nào? Tiến Hỉ Nhi vội đáp: Không, không, tiểu nhân đâu dám thế? Vạn lần không dám. Người đó nói: Ngươi trong bụng nhất định bảo ta là một đại ác nhân, không ai có thể ác hơn, hà hà! Tiến Hỉ Nhi nói: Không, không! Nhị lão gia là một người rất tốt, không ác một tí nào. Người kia dựng ngược lông mày quát: Ngươi bảo ta không ác chút nào ư? Tiến Hỉ Nhi sợ đến toàn thân run rẩy, nói: Ngài… nhị lão gia… không ác tí nào, chẳng… hoàn toàn chẳng ác. Người kia gầm lên một tiếng, đột nhiên giơ tay ra bẻ gãy cổ Tiến Hỉ Nhi…” Y giọng vẫn còn run rẩy, hiển nhiên chưa hoàn hồn.

Chung phu nhân thở dài một tiếng, vẫy tay nói: “Ngươi đã sợ hãi lắm rồi, thôi xuống nhà nghỉ ngơi đi.” Lai Phúc Nhi đáp: “Vâng, để tiểu nhân ra xem Nhạc lão tam có gây thêm chuyện gì không.” Chung phu nhân nói: “Ta khuyên người nên gọi hắn là Nhạc lão nhị cho xong.” Chung cốc chủ nói: “Hừ, tuy Nhạc lão tam hung ác thật nhưng ta lại nghĩ tình y nể mặt ta mà vạn dặm xa xôi đến đây giúp một tay, việc giết Tiến Hỉ Nhi thôi cũng đừng hỏi nữa làm gì.”

Chung phu nhân lắc đầu: “Hai người chúng ta yên lành nơi đây, trong mười năm qua ta chưa hề đặt chân ra khỏi cốc, phu quân còn chưa vừa ý hay sao? Việc gì còn tính chuyện đi mời Tứ Đại Ác Nhân đến để một phen long trời lở đất? Bình thời… chàng nói với ta những lời ngon ngọt dễ nghe, thực ra chàng có coi ta ra gì đâu.” Chung cốc chủ vội nói: “Ta… ta có làm gì mà bảo không coi nàng vào đâu? Ta mời bốn người đó tới đây chẳng phải vì nàng hay sao?” Chung phu nhân hừ một tiếng nói: “Vì tôi ư? Thế thì cảm ơn ông. Nếu quả thực vì tôi thì hãy bảo Tứ Đại Ác Nhân về đi.”

Đoàn Dự ở bên kia vách nghe thế bụng lấy làm lạ lùng: Gã Nhạc lão tam kia ra tay giết người vô duyên vô cớ, thật ác không ai bằng, không lẽ trên đời này còn có ba người cũng hung ác như y hay sao?

Chỉ thấy Chung cốc chủ hầm hầm giận dữ đi qua đi lại trong phòng khách, thở hổn hển nói: “Gã họ Đoàn kia làm nhục ta quá lắm, thù này không báo, Chung Vạn Cừu này còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất nữa?”

Đoàn Dự nghĩ bụng: Thì ra tên ngươi là Chung Vạn Cừu, cái tên đó xem ra không ổn. Người đời thường nói oan gia nên cởi không nên buộc, nhớ một mối cừu cũng đã không hay, huống chi lại Vạn Cừu? Thảo nào mặt ngươi mới dài ngoằng như thế. Cứ như dung mạo nhà ngươi, lấy được một người vợ như hoa như ngọc thì quả là một đại hạnh trên đời, phải đổi tên thành Chung Vạn Hạnh mới phải.

Chung phu nhân nhướng mày lên, lạnh lùng đáp: “Thực ra ông trong lòng hận tôi chứ đâu phải là hận người khác. Nếu quả như ông muốn gây chuyện với người ta, sao không tự mình đến kiếm y, lấy quyền cước mà so cao thấp? Nhờ người đến giúp, dẫu có thắng thì cũng đâu có vinh dự gì.” Gân xanh trên trán Chung Vạn Cừu cuồn cuộn nổi lên, y quát lớn: “Hắn ta bộ hạ đông như thế, bà không biết hay sao? Ta muốn một chọi một y không chịu gặp, còn làm thế nào được bây giờ?” Chung phu nhân cúi đầu không nói, nước mắt tuôn tràn rơi xuống vạt áo. Chung Vạn Cừu vò đầu bứt tai, vẻ bối rối, chỉ biết luôn miệng: “A Bảo, nàng đừng giận, ta nhất thời không tự chế được, thật đáng chết.”

Chung phu nhân nói nhỏ: “Thì ra trong lòng ông chẳng bao giờ quên được chuyện cũ, tôi có sống cũng thật là vô vị. Chi bằng ông phóng chưởng đánh chết tôi đi, thế là kết thúc mọi chuyện, để trong bụng ông khỏi ấm ức. Sau đó ông ra ngoài kiếm một bà nào xinh đẹp làm vợ là xong.”

Chung Vạn Cừu giơ bàn tay lên, vả vào mặt mình hai cái bôm bốp, nói: “Ta đáng chết! Ta đáng chết!”

Đoàn Dự thấy bàn tay to như cái quạt của y đánh vào bộ mặt dài như ngựa, trông thật là vừa vặn, nhịn không nổi phải cười khì một tiếng. Tiếng cười vừa ra khỏi miệng, chàng biết ngay lần này gây họa còn lớn gấp mấy, chỉ mong Chung Vạn Cừu không nghe thấy. Nào ngờ đã nghe y quát tháo: “Đứa nào đó?” Tiếp theo nghe “bình” một tiếng, cửa phòng bị đá tung ra, ai đó đã bước vào. Đoàn Dự bị nắm cổ lôi ra, quẳng một cái mạnh xuống sàn nhà, mắt tối sầm, bao nhiêu xương cốt tưởng như gãy hết.

Chung Vạn Cừu lại nắm cổ áo chàng dựng dậy, quát hỏi: “Ngươi là ai? Sao trốn ở trong phòng phu nhân làm gì?” Y thấy chàng dung mạo thanh tú, trong lòng nổi cơn nghi ngờ, quay sang hỏi Chung phu nhân: “A Bảo, nàng… nàng… lại…”

Chung phu nhân giận dỗi nói: “Lại với chẳng lại cái gì? Mau bỏ y ra, y tới báo tin cho mình đó,” Chung Vạn Cừu hỏi: “Báo tin gì?” Y nhấc Đoàn Dự lên khỏi mặt đất, quát lớn: “Thằng lỏi thối tha này, ta xem ngươi mặt mày trơ trẽn không tốt lành gì. Ngươi lấp ló trốn trong phòng phu nhân là sao? Khai mau, khai mau! Ngươi chỉ nói láo nửa câu, ta sẽ đánh cho cái sọ ngươi nát như tương.”Y vung quyền đấm xuống, nghe lách cách, chiếc bàn bằng gỗ lê sứt một góc.

Đoàn Dự bị quật một cái đã đau, lại bị y nhấc bổng lên vùng vẫy không được, nghe giọng xem chừng nghi mình thậm thụt gì với vợ y, trong lòng hết sợ mà hóa giận, lớn tiếng đáp: “Ta họ Đoàn, ngươi muốn giết thì ra tay mau đi. Không biết gì thì đừng có nói bậy nói bạ”

Chung Vạn Cừu giơ tay lên, hầm hầm nói: “Tên tiểu tử này cũng lại họ Đoàn ư? Lại cũng họ Đoàn nữa, lại… lại cũng họ Đoàn nữa.” Nói đến câu sau, giọng phẫn nộ của y biến thành thê thảm, đôi mắt ốc nhồi ứa lệ.

Đoàn Dự bỗng nổi lòng thương xót, dường như y biết tài mạo mình không xứng với vợ cho nên chuyện gì cũng dễ ghen tuông, thực là đáng thương hại. Chàng quên rằng mạng mình đang ở trong tay người, cất tiếng an ủi: “Ta họ Đoàn, chưa từng gặp mặt phu nhân, cốc chủ chớ có nghi ngờ cho khổ vào thân.”

Chung Vạn Cừu mặt lộ vẻ vui mừng, nghẹn ngào nói: “Thật thế sao? Ngươi trước nay chưa hề… chưa hề gặp A Bảo ư?” Đoàn Dự nói: “Ta đến đây chưa đầy nửa giờ.” Chung Vạn Cừu ngoác mồm cười hề hề mấy tiếng nói: “Đúng lắm, đúng lắm! A Bảo mười năm nay chưa ra khỏi cốc, mười năm trước ngươi chỉ mới chín mười tuổi, không thể nào… không thể nào…” Thế nhưng y vẫn xách Đoàn Dự lên chưa thả xuống.

Chung phu nhân mặt đỏ lên, nói: “Mau thả Đoàn công tử ra!” Chung Vạn Cừu vội đáp: “Vâng!” Y nhẹ nhàng để Đoàn Dự xuống, đột nhiên mặt lại lộ vẻ ngờ vực, hỏi: “Đoàn công tử? Đoàn công tử? Thế… thế cha ngươi là ai?”

Đoàn Dự nghĩ thầm: Nếu ta còn nói láo hóa ra có tà ý hay sao? Chàng ngang nhiên đáp: “Hồi nãy ta giấu Chung phu nhân, thực ra chẳng có gì đáng dối. Ta tên Đoàn Dự, chính người Đại Lý. Tên cha ta thượng Chính hạ Thuần.”

Chung Vạn Cừu thoạt đầu chưa nghĩ ra thượng Chính hạ Thuần là gì, Chung phu nhân đã run run hỏi lại: “Cha ngươi là… là Đoàn… Đoàn Chính Thuần ư?” Đoàn Dự gật đầu: “Đúng thế.”

Chung Vạn Cừu gào lên: “Đoàn Chính Thuần!” Ba tiếng đó y hét đến long trời lở đất, đột nhiên mắt đỏ ngầu, toàn thân run lên bần bật: “Ngươi là… ngươi là con tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần đấy sao?”

Đoàn Dự giận quá, quát lại: “Sao ngươi lớn mật dám mắng cha ta?” Chung Vạn Cừu bực bội nói: “Có gì mà không dám? Đoàn Chính Thuần, ngươi là tên cẩu tặc, là đồ khốn nạn.”

Đoàn Dự bấy giờ mới rõ, y viết ở ngoài cửa cốc: Họ Đoàn Vào Đây Sẽ Giết Không Tha, chính là vì căm hận cha mình mới giận lây ra hết thảy họ Đoàn khác, nên thản nhiên đáp: “Chung cốc chủ, nếu ông có thù với cha ta thì nên quang minh chính đại mà giải quyết. Ông có giỏi thì tới trước mặt cha ta mà chửi, còn chửi sau lưng thì đâu có gì là anh hùng hảo hán? Cha ta ở trong thành Đại Lý, ông muốn kiếm thì dễ như trở bàn tay, việc gì mà phải để biển hiệu trước cửa nhà?”

Mặt Chung Vạn Cừu lúc xanh xám, lúc đỏ bừng, dường như những lời nói của Đoàn Dự đều đánh trúng vào tâm khảm lão. Mắt lão nẩy ra những tia hung dữ. Lão mím môi đứng ngẩn người ra một lúc, đột nhiên nổi giận đùng đùng, nắm tay đấm mạnh xuống bàn đánh rầm một cái. Bàn bị gãy đôi ra, lão lại đưa chân đá phốc vào tường, làm thủng một lỗ lớn. Lão la lên: “Ta không sợ đánh không lại cha ngươi, ta… ta chỉ sợ… chỉ sợ cha ngươi biết được… biết được A Bảo đang ở đây thôi…” Nói tới mấy câu đó, trong giọng lão đã lẫn tiếng nức nở, hai tay ôm mặt, kêu lên: “Ta là con quỷ nhát gan! Ta là con quỷ nhát gan!” Y cắm đầu cắm cổ chạy ra, chỉ nghe bình bình, loảng xoảng liên tiếp không ngừng, hắn là trên đường đụng phải các thứ bồn hoa, ghế đá.

Đoàn Dự ngạc nhiên hồi lâu, nghĩ thầm: Cha ta biết được phu nhân của ngươi ở đây thì đã sao? Không lẽ đến đây giết bà ta chăng? Nghĩ lại lời mình nói ra quả có nặng nề, khơi dậy mối đau lòng của Chung Vạn Cừu nên chàng cảm thấy ăn năn, quay đầu lại thì thấy Chung phu nhân đang chăm chăm nhìn mình.

Hai người ánh mắt chạm nhau, Chung phu nhân lập tức quay đi chỗ khác, trên khuôn mặt xanh xao kia ẩn hiện sắc hồng, một hồi sau hạ giọng hỏi: “Đoàn công tử, lệnh tôn mấy năm nay có được khỏe không? Mọi việc vẫn trôi chảy chứ?”

Đoàn Dự thấy bà ta hỏi thăm cha mình, vội vàng đứng lên, cung kính đáp: “Gia nghiêm vẫn khỏe, mọi việc bình thường.”

Chung phu nhân nói: “Thế thì hay lắm. Ta… ta cũng…”

Đoàn Dự thấy hàng mi dài của bà rưng rưng lệ, nói chưa dứt lời đã quay đi, giơ tay lau mắt, trong lòng không khỏi thương cảm, liền an ủi: “Chung cốc chủ tuy tính tình nóng nảy nhưng thật là kính yêu bá mẫu. Hai vị nhân duyên mỹ mãn, nếu có đôi khi lỡ lời va chạm, bá mẫu cũng chẳng nên đau lòng.”

Chung phu nhân quay đầu lại, miệng mỉm cười nói: “Cậu mới bấy nhiêu tuổi đầu, biết thế nào là nhân duyên mỹ mãn hay không.”

Đoàn Dự thấy nụ cười của bà đầy vẻ ngây thơ, trong lòng chợt động, lập tức nghĩ đến chung Linh, mắt quay qua nhìn đôi giày hoa của nàng trên ghế, nghĩ thầm: Chung cô nương bị gã râu dê kia bắt giữ, một giờ một khắc cũng đau đớn biết bao, phải mau mau cứu nàng ra mới được. Chàng bèn nói: “Vãn sinh mới rồi ăn nói vô lễ, xin bá mẫu chuyển lời tạ tội đến cốc chủ, xin người sớm lên đường đi cứu lệnh ái.”

Chung phu nhân đáp: “Phu quân ta hiện đang bận tiếp những bằng hữu từ xa tới, thật khó mà ra đi được. Công tử nghe rồi đó, những người khách đó tính tình cổ quái, ra tay giết người vô cớ, nếu như đối đãi với họ lễ số không chu toàn, không khỏi hậu hoạn vô cùng. Ôi! Sự đã đến nước này, ta đi theo công tử vậy.” Đoàn Dự mừng rỡ nói: “Bá mẫu đích thân ra đi thì hay quá.”

Chàng nhớ lại lời của Chung Linh nên hỏi thêm: “Bá mẫu có trị được chất độc của thiểm điện điêu chăng?” Chung phu nhân lắc đầu nói: “Ta không trị được.” Đoàn Dự phân vân nói: “Thế thì… e rằng…”

Chung phu nhân quay vào phòng ngủ, lật đật viết một lá thư, vừa xong liền lấy trên tường xuống một thanh trường kiếm đeo vào lưng, quay trở lại sảnh đường nói: “Ta đi.” Bà ta xoay mình đi trước.

Đoàn Dự thuận tay nhặt lấy đôi giày của Chung Linh bỏ vào túi. Chung phu nhân lặng lẽ lắc đầu, định nói gì, nhưng lại thôi.

Hai người ra khỏi cái hang sau thân cây, Chung phu nhân liền gia tăng cước bộ, nếu chỉ thấy thân hình mảnh dẻ thì không ai dám bảo bà ta chạy nhanh hơn Đoàn Dự nhiều. Đoàn Dự vẫn không yên tâm, nói: “Phu nhân không trị được nọc độc, vãn sinh e rằng bang Thần Nông không chịu buông tha lệnh ái.”

Chung phu nhân lạnh lùng đáp: “Ai cần bọn chúng tha? Bang Thần Nông dám cả gan bắt giữ con gái ta là không nể mặt ta rồi. Ta dù không cứu được người, há lại không biết giết người sao?”

Đoàn Dự nghe nói không khỏi chột dạ. Vài lời đơn giản mà ngụ ý coi mạng người như cỏ rác, phu nhân nhìn bề ngoài xinh đẹp ôn hòa, lại hay luống cuống sợ sệt mà hành động chẳng kém gì tên hung thần ác quỷ Nhạc lão tam.

Chung phu nhân hỏi lại: “Cha cậu có tất cả bao nhiêu thị thiếp?” Đoàn Dự đáp: “Chẳng có ai cả, một người cũng không. Mẹ cháu không chịu.” Chung phu nhân hỏi thêm: “Cha cậu sợ mẹ cậu lắm sao?” Đoàn Dự cười nói: “Cũng chẳng phải sợ, có lẽ là vì yêu mà đâm ra kính, cũng như cốc chủ đối với bà mẫu vậy thôi.” Chung phu nhân nói: “Thế cha cậu hàng ngày có luyện võ không? Bao nhiêu năm nay công lực chắc tiến triển lắm rồi?” Đoàn Dự đáp: “Cha cháu mỗi ngày đều luyện công nhưng công lực đến đâu thì cháu không biết.” Chung phu nhân nói: “Nếu công phu ông ta không kém sút, ta… ta cũng yên lòng. Sao cậu lại không biết chút võ công nào?”

Hai người vừa nói chuyện vừa chạy, chừng hơn một dặm chợt có tiếng gọi to: “A Bảo! Nàng… nàng đi đâu đó?” Đoàn Dự ngoảnh đầu nhìn lại thì ra Chung Vạn Cừu chạy như bay đuổi gần đến nơi.

Chung phu nhân luồn tay qua nách Đoàn Dự, nhấc bổng lên quát một tiếng “mau”, rồi cứ nhằm phía trước mà lao vút đi. Đoàn Dự chân không chấm đất, mất hết tự chủ để mặc phu nhân cắp chạy. Thành ra trước hai sau một, cả ba người cùng lướt như bay, thoáng cái đã được vài chục trượng. Kể ra thì khinh công Chung phu nhân còn cao hơn chồng, nhưng còn phải đeo thêm một người nên Chung Vạn Cừu dần dần đuổi kịp. Chạy thêm chục trượng nữa, Đoàn Dự đã thấy hơi thở Chung Vạn Cừu phập phù sau gáy. Bỗng nghe đánh roạt một tiếng, sau lưng mát lạnh, thì ra áo chàng đã bị Chung Vạn Cừu nắm được, kéo rách toạc một miếng.

Chung phu nhân tay trái vận kình hất Đoàn Dự ra ngoài hơn một trượng, quát lên “chạy đi!”, còn tay phải rút thanh trường kiếm đâm ngược lại, cốt để ngăn cản không cho Chung Vạn Cừu đuổi theo.

Với võ công của mình, Chung Vạn Cừu có thể tránh mũi kiếm dễ như chơi, huống chi Chung phu nhân tuyệt không có ý giết chồng. Ai ngờ tay bà thấy hơi vướng, mũi kiếm đã đâm vào ngực Chung Vạn Cừu.

Thì ra gã không tránh cũng không gạt, cốt ý nhận lấy nhát kiếm của vợ: Chung phu nhân thất kinh quay đầu lại thấy mặt chồng đầy vẻ phẫn nộ, khóe mắt rưng rưng ướt lệ, trước ngực máu loang. Lão cất tiếng thê thảm hỏi vợ: “A Bảo nàng ơi! Nàng… nàng rồi cũng bỏ ta đấy ư?”

Chung phu nhân thấy nhát kiếm tự tay mình đâm trúng ngực chồng, tuy không đụng đến trái tim nhưng sâu tới vài tấc, không biết sống chết ra sao. Trong lúc hoảng hốt, phu nhân rút mũi kiếm ra, tay nắm chặt lấy vết thương, nhưng máu cứ tuôn ra như suối chảy, luồn qua kẽ ngón tay phun ra ngoài.

Chung phu nhân giận dỗi hỏi: “Tại sao mình không tránh?” Chung Vạn Cừu nhăn nhó cười đáp: “Nàng đã muốn bỏ ta mà đi thì ta chết phứt cho rồi.” Chung phu nhân hỏi: “Ai nói tôi lìa bỏ mình?… Tôi đi cứu con vài ngày rồi lại trở về chứ đi đâu? Trên giấy đã viết rõ đấy thôi!” Chung cốc chủ nói: “Ta có thấy tờ giấy nào đâu.” Chung phu nhân nói: “Ôi, sao ông vô tâm đến thế?” Đoạn bà vội đem chuyện Chung Linh bị bang Thần Nông bắt giữ thuật sơ qua.

Đoàn Dự thấy tình cảnh như vậy trong tâm không khỏi xúc động, ngẩn người ra một hồi. Sau chàng trấn tĩnh lại, vội xé vạt áo, ba chân bốn cẳng chạy lại, định buộc vết thương cho Chung Vạn Cừu. Không ngờ Chung Vạn Cừu đưa chân đá cho một cái và quát to: “Thằng chó đẻ, tao không muốn thấy cái mặt mày.” Y quay lại nói với Chung phu nhân: “Bà lừa ta, ta không tin. Rõ ràng là nó… nó đến gọi bà đi. Thằng khốn kiếp này là con nó… Nó lại còn mở miệng chửi ta…” Nói xong y lại ho rũ ra, mỗi cơn ho chỗ vết thương lại chảy máu ra rất nhiều. Lão quay lại gọi Đoàn Dự: “Mi lại đây! Dù ta bị trọng thương vẫn không sợ Nhất Dương Chỉ của nhà mi đâu. Lại đây mau cùng ta thử sức!”

Đoàn Dự bị cái đá như trời giáng ngã lăn ra, má bên trái đâm vào một viên đá nhỏ nhọn hoắt, một bên mặt máu tươi chảy ra đỏ lòm, lóp ngóp bò dậy nói: “Ta không biết sử dụng Nhất Dương Chỉ mà dẫu có biết, ta cũng không đánh nhau với ông.” Chung Vạn Cừu lại ho lên mấy tiếng, vẫn một giọng căm hờn: “Mi còn giả vờ ư? Mi về gọi thằng cha mi đến đây!” Lão càng giận lại càng ho như xé phổi.

Chung phu nhân nói: “Mình vẫn chưa chừa cái bệnh ghen tuông mù quáng. Mình đã không tin tôi thì tôi chết trước mặt mình đi còn hơn.”

Chung Vạn Cừu lộ vẻ vui mừng, run run nói: “A Bảo, có thực nàng không bỏ ta để đi theo quân tiểu tạp chủng kia chứ?”

Chung phu nhân giận dữ đáp: “Người ta là một vị công tử họ Đoàn, sao mình lại ăn nói càn rỡ, luôn miệng xỉa xói hết tiểu tạp chủng nọ đến lão tạp chủng kia? Tôi định theo Đoàn công tử đi giết hết bọn Thần Nông Bang mà cứu con gái về.” Chung Vạn Cừu thấy vợ không tính chuyện bỏ mình, trong lòng vui mừng khôn xiết, nhìn nàng hờn dỗi lại càng thương hơn, vội cười: “Nếu thế thì ta quả không ra gì thật. Chẳng qua…chẳng qua, sao ta đuổi theo mà nàng không đứng lại nói cho rõ ràng?” Chung phu nhân hơi đỏ mặt nói: “Tôi không muốn ông lại gặp Đoàn công tử.” Chung Vạn Cừu đột nhiên lại nổi nghi ngờ, hỏi dồn: “Thằng tiểu… à Đoàn công tử, không phải là con bà đấy chứ?”

Chung phu nhân vừa thẹn vừa giận, hứ một cái nói: “Ông nói lăng nhăng gì đó? Lúc thì nghi y là tình lang của tôi, lúc lại nghi y là con tôi. Tôi nói thật với ông nhé, y là cha tôi, là bố vợ ông đó. Mau tham kiến nhạc phụ đại nhân.” Chung Vạn Cừu ngơ ngẩn, hiểu ra là vợ mình nói đùa, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Y cười khiến cho máu ở vết thương lại túa ra.

Chung phu nhân xem vết thương thấy máu chảy hoài, nước mắt chan hòa nức nở: “Bây giờ biết làm… làm thế nào?” Chung Vạn Cừu cả mừng, đưa tay lên vuốt ve lưng vợ nói: “Mình khóc vì tôi thế này, dù tôi có chết ngay cũng thỏa dạ.” Chung phu nhân nhẹ nhàng đẩy tay chồng ra nói: “Có Đoàn công tử kia kìa, mình làm gì như kẻ điên rồ vậy?” Chung Vạn Cừu vẫn cười hà hà, cực kỳ hoan hỉ, cười mấy tiếng lại ho mấy tiếng.

Chung phu nhân thấy chồng đã nguôi giận, nhưng sắc mặt lại càng nhợt nhạt, trong lòng lo sợ nói: “Thôi tôi không đi cứu Linh Nhi nữa, nó đã gây nên tai vạ, tính mạng đành phó thác cho trời.” Bà nâng chồng dậy, bảo Đoàn Dự: “Đoàn công tử, cậu đi nói với Tư Không Huyền rằng chồng ta là Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu năm xưa ngang dọc giang hồ, còn ta Cam Bảo Bảo có cái ngoại hiệu khó nghe là Tiếu Dược Xoa, nếu y dám động đến một sợi tóc của Chung Linh thì đừng trách vợ chồng ta độc ác vô tình.” Bà ta nói câu nào Chung Vạn Cừu cũng gật gù: “Đúng thế, đúng thế.”

Đoàn Dự thấy Chung Vạn Cừu bị thương nặng, Chung phu nhân cũng không thể bỏ chồng thập tử nhất sinh để đi cứu con, chỉ còn trông vào hai cái tên Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu và Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo không biết có dọa được lão Tư Không Huyền chăng? Chưa thể biết. Chàng nghĩ đến đoạn trường tán ở trong ruột mình không ai giải cứu được mà giật mình tự nhủ: Cơ sự đã đến thế này, nói lắm cũng vô ích. Chàng đành cáo từ Chung phu nhân: “Vãn sinh xin đem lời dặn của phu nhân bảo Thần Nông Bang.”

Chung phu nhân thấy chàng vừa nói vừa cất bước, hành động dứt khoát không câu nệ, chợt nhớ đến người xưa, liền gọi chàng lại dặn: “Đoàn công tử, ta còn câu này nữa.” Nói rồi nhẹ nhàng đặt Chung Vạn Cừu xuống, vọt đến trước mặt Đoàn Dự, lấy trong bọc ra một vật nhét vào tay chàng dặn nhỏ: “Cậu đem vật này về giao lại cho cha, nhờ ông ra tay cứu con ta.”

Đoàn Dự đáp: “Nếu như cha cháu ra tay thì thể nào cũng cứu được Chung cô nương. Chỉ có điều ở đây xa Đại Lý, e rằng không kịp.” Chung phu nhân nói: “Để ta đi mượn cho cậu một con ngựa tốt, cậu chờ nơi đây. Đừng quên nói với cha cậu rằng: Xin ông ra tay cứu con ta.” Không đợi Đoàn Dự đáp lời, bà quay mình chạy lại bên trượng phu, đỡ y dậy, dìu nhau đi.

Đoàn Dự vừa đi vừa xem Chung phu nhân nhét cho mình vật gì, thì ra là một cái hộp nhỏ bằng vàng, chạm trổ rất tinh vi. Chàng mở nắp hộp ra, thấy bên trong đựng một mảnh giấy để lâu ngày đã biến ra màu vàng lợt. Trên mảnh giấy còn vết tích mấy giọt máu và viết tám chữ: Quý Hợi, Tháng Hai, Mồng Năm, Giờ Sửu. Nét chữ mềm mại, chắc là chữ đàn bà. Ngoài mảnh giấy ra không còn vật gì nữa. Đoàn Dự tự hỏi: Bát tự này ghi năm tháng ngày giờ sinh của ai? Phu nhân bảo ta đưa về cho gia gia để làm gì? Năm Quý Hợi… Chàng bấm đốt ngón tay tính toán thì ra là mười sáu năm trước… không lẽ lại là niên canh bát tự của Chung cô nương? Hay là Chung phu nhân muốn gả con gái cho ta nên nhờ cha ta đi cứu con dâu?

Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng nghe tiếng một người đàn ông gọi: “Đoàn công tử dừng bước!”.

Hồi 03: Người được vợ, kẻ vạ lây

Đoàn Dự quay đầu lại, thấy một hán tử ăn mặc theo lối gia nhân đang hấp tấp đi tới, chính là Lai Phúc Nhi, người lúc nãy chàng nhìn thấy qua khe vách. Y đi đến gần, hành lễ nói: “Tiểu nhân Lai Phúc Nhi, vâng lệnh phu nhân đến đưa công tử đi mượn ngựa.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Nếu vậy càng hay!”

Lai Phúc Nhi liền đi trước dẫn đường, qua khỏi rừng tùng rồi, chuyển qua hướng bắc, đi vào một con đường nhỏ chừng sáu bảy dặm đến trước một tòa nhà lớn. Y tiến lên cầm vòng cửa gõ nhẹ hai tiếng, ngừng lại một chút, lại gõ thêm bốn tiếng, rồi lại gõ thêm ba tiếng. Cánh cửa kêu kẹt một cái rồi mở ra. Lai Phúc Nhi đứng ngoài cùng người mở cửa nói với nhau một hồi tiếng lóng. Lúc đó trời đã tối mịt, trên trời ánh sao lờ mờ, Đoàn Dự lại nghĩ đến pho tượng ngọc mỹ nhân dưới đáy sông.

Bất thình lình trong cổng có tiếng vó câu lộp cộp và tiếng ngựa hí. Đoàn Dự bất giác bật lên tiếng khen “Ngựa hay tuyệt”. Cánh cổng chợt mở, đầu ngựa ló ra, đôi mắt lóe sáng trong đêm tối. Nhác trông Đoàn Dự đã biết ngay là một giống thần mã, khác hắn ngựa thường. Lông nó đen láy, bốn vó thon thon rất cao, toàn thân hùng vĩ hiên ngang. Con tiểu tỳ dắt ngựa, tóc còn buông rủ, trời tối không trông rõ mặt, tuổi chừng mười bốn mười lăm, dáng điệu rất là mềm mại.

Lai Phúc Nhi nói: “Thưa công tử, phu nhân sợ công tử không kịp về Đại Lý, sai tiểu nhân qua đây mượn con tuấn mã này.” Đoàn Dự được xem ngựa đã nhiều, mới nghe tiếng con này kêu cũng đã biết là ngựa hay vô cùng, hàng vạn con chưa chắc đã chọn được một. Chàng hoan hỉ đáp: “Xin đa tạ!” rồi đưa tay ra đón lấy dây cương.

Ả tiểu tỳ nhẹ nhàng xoa đầu và vuốt ve bờm ngựa, dịu dàng bảo: “Hắc Mai Côi! Hắc Mai Côi! Tiểu thư cho công tử mượn ngươi để cưỡi, ngươi phải nhất nhất nghe lệnh công tử. Đi mau lên rồi mà về nghe!” Con ngựa quay đầu lại liếm tay ả, coi bộ thân mật lắm. Tiểu tỳ cầm cương đưa cho Đoàn Dự nói: “Con ngựa này không thể giục bằng roi vọt được. Công tử càng ngọt ngào chừng nào nó càng mau lẹ chừng ấy.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Tên Hắc Mai Côi hẳn là ngựa cái” bèn kính cẩn nói: “Bẩm Hắc Mai Côi tiểu thư, tiểu sinh xin ra mắt.” Nói rồi xá dài. Ả tiểu tỳ nhoẻn miệng cười nói: “Công tử nói chuyện khéo quá. Này, cưỡi cho khéo kẻo ngã đấy nhé!” Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy lên yên rồi nhìn tiểu tỳ bảo: “Đa tạ tiểu thư!” Tiểu tỳ cười nói: “Thế công tử không cảm ơn tiểu tỳ này sao?” Đoàn Dự chắp tay nói: “Đa tạ tỉ tỉ! Lúc trở lại ta sẽ mua mứt về làm quà.” Tiểu tỳ vẫn cười nói: “Mứt thì không dám mong, chỉ mong công tử cẩn thận đừng làm con ngựa bị thương.”

Lai Phúc Nhi nói: “Công tử trông hướng bắc mà đi, ra đường lớn thì về thẳng nước Đại Lý. Xin công tử bảo trọng.” Đoàn Dự vừa khẽ giật cương, ngựa tung bốn vó nhảy vài cái đã ra xa tới vài mươi trượng.

Con Hắc Mai Côi không cần phải giục, đêm tối mà nó vẫn phóng như bay. Đoàn Dự ngó hai bên đường, cây cối trong rừng trông như chạy giật lùi lại sau. Chàng ung dung ngồi trên ngựa, êm ru dị thường, tuyệt không thấy xóc chút nào. Chàng nghĩ thầm: “Con ngựa chạy nhanh như gió thế này thì chỉ trưa mai là về đến Đại Lý.”

Chưa đầy một khắc đồng hồ chàng đã đi chừng mười dặm. Gió khuya thổi hiu hiu, mùi hương dịu mát của cây cỏ thoảng vào mũi, chàng tự nhủ: “Đêm thanh ruổi ngựa kể cũng là lạc thú trên đời”. Bất thình lình phía trước mặt chàng có tiếng quát: “Tiện tỳ kia! Đứng lại!” Ánh đao lấp loáng trong đêm tối nhằm chàng chém tới, nhưng ngựa chạy lẹ quá, đao chém vào quãng không. Ngựa tung vó lên đã nhảy xa hơn một trượng. Đoàn Dự ngoảnh đầu lại, nhìn thấy phía sau có hai gã đại hán đang đuổi theo rất gấp. Một gã tay cầm đơn đao, còn một gã sử cây trường thương. Hai gã vẫn lớn tiếng mắng: “Con tiện tỳ kia! Ngươi mặc giả trai định che mắt lão gia phải không?” Ngựa phi nhanh như gió cuốn, chỉ trong chớp mắt đã bỏ hai người một quãng khá xa. Hai gã đại hán tuy chạy mau, đuối gấp mà trong khoảnh khắc tiếng la gọi cũng không nghe thấy nữa.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hai tên này mồm năm miệng mười gọi ta là con tiện tỳ, rồi còn nói cái gì gái mặc giả trai. Thôi phải rồi, bọn chúng đón đường chủ nhân con Hắc Mai Côi để trả hận. Chúng nhìn ra ngựa mà không nhận ra người cỡi ngựa là ai. Thật là lỗ mãng!”. Chàng đi thêm quãng nữa, bỗng la lên: “Thôi hỏng to rồi! Ta nhờ con ngựa này phóng nhanh mà thoát được hai gã phục kích. Xem ra hai gã này võ nghệ không phải tay vừa. Nếu như tiểu thư cho mình mượn ngựa không biết vụ này, cứ nghiễm nhiên đi ra tất bị chúng ám toán. Ta phải trở lại báo tin cho tiểu thư mới được.” Chàng liền dừng ngựa lại nói: “Hắc Mai Côi! Có người toan ám hại tiểu thư ngươi đó, chúng ta phải quay lại báo tin cho tiểu thư hay để nàng cẩn thận đừng có ra ngoài.”

Thế rồi Đoàn Dự theo đường cũ quay trở lại. Gần đến chỗ hai gã đại hán đón đường vừa rồi, chàng giục ngựa: “Lẹ lên! Lẹ lên!” Con Hắc Mai Côi hình như hiểu tiếng người, vừa nghe tiếng giục “lẹ lên”, quả nhiên nó phóng nhanh hơn trước. Nhưng tới nơi thì chẳng thấy hai gã đại hán đâu nữa. Đoàn Dự lại càng nóng ruột tự hỏi: “Phải chăng hai gã này đến vây trang trại tiểu thư? Nếu vậy càng nguy biết mấy!”. Chàng luôn mồm giục ngựa: “Nhanh lên!” Hắc Mai Côi phi như bay, vó không chấm đất.

Chàng về đến trước trại, bất thình lình hai cây côn phóng ra phang vào chân ngựa. Hắc Mai Côi không chờ Đoàn Dự giục, nhảy vọt qua, chân sau đó phốc một cái, một tên cầm côn bắn ra xa.

Hắc Mai Côi rướn lên một cái nữa là đến cổng trại, Đoàn Dự thấy bốn năm tên đứng đó thò tay ra giằng lấy dây cương. Tay phải chàng bị giật mạnh lôi xuống, đoạn có tiếng quát hỏi: “Thằng nhỏ này! Mi đến đây làm chi? Dòm dỏ cái gì?”

Đoàn Dự than thầm: “Thật là hỏng bét. Tòa nhà này đã bị vây kín cả rồi. Không biết chủ nhân đã mắc độc thủ của chúng chưa?”. Tay phải chàng bị một bàn tay nắm giữ, chẳng khác gì cái đai sắt bóp chặt lại, làm cho nửa người tê nhức. Chàng nói: “Ta đến tìm chủ nhân tòa nhà này. Sao các ngươi hung hăng thế?” Chợt có tiếng khàn khàn của một lão già khác nói: “Thằng nhãi ranh kia cỡi ngựa của con tiện tỳ, chắc là chỗ thân thích với nhau. Hãy thả cho nó vào, bọn ta đã nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, để rồi tóm cả một mẻ.”.

Đoàn Dự hoảng hồn nghĩ thầm: “Thôi ta tự chui đầu vào tròng mất rồi! Đã đến thế này có muốn chạy cũng không thoát, đành vào đây rồi sau sẽ liệu”. Gã kia buông tay chàng ra. Chàng sửa lại khăn áo chỉnh tề rồi ngang nhiên đi vào.

Qua khỏi cổng đến một trang viện, giữa là lối đi lát đá, hai bên trồng toàn hoa Mai Côi, hương thơm sực nức. Con đường đá này khúc khuỷu, quanh co xuyên qua một cái cổng tò vò. Đoàn Dự cứ theo đường đá đi mãi vào trong, thấy hai bên đều có người đứng rải rác. Chàng chợt nghe trên cao có tiếng ho, ngẩng lên nhìn đầu tường cũng có tới bảy tám người tay cầm gươm đao sáng loáng. Trời tối trông ánh gươm đao lại càng ghê rợn. Đoàn Dự tự hỏi: Tòa nhà này xem chừng không to là mấy, làm gì có nhiều người ở, vậy mà chúng kéo đến làm gì lắm thế? Phải chăng chúng định giết sạch cả nhà người ta?

Tuy trời tối nhưng Đoàn Dự thấy tên nào cũng nhìn mình trừng trừng, vẻ mặt hung dữ, có đứa tay lăm lăm cầm đốc gươm thị uy. Chàng cố gượng trấn tĩnh, nhìn vào tận cùng đường đã thấy một tòa đại sảnh, ánh đèn trong nhà qua khe cửa lọt ra ngoài. Đoàn Dự đi thẳng đến trước cửa dõng dạc lên tiếng: “Tại hạ là Đoàn Dự có việc xin vào ra mắt chủ nhân.”

Trong nhà có tiếng khàn khàn quát hỏi: “Ai? Vào trong này!” Đoàn Dự cảm thấy bực mình, đẩy mạnh của bước vào. Chàng đưa mắt nhìn thấy đứng ngồi có đến mười bảy, mười tám người, không khỏi kinh ngạc. Trên ghế tựa giữa nhà, một người áo đen ngồi xoay lưng ra ngoài. Tuy không rõ mặt nhưng trông dáng dấp cùng mớ tóc đen nhánh, óng mượt rủ xuống thì biết ngay là một thiếu nữ. Ngoài hai bà già ngồi trên ghế bành phía đông là tay không, còn hơn chục người khác ai cũng cầm binh khí. Bên dưới hai mụ già có một người nằm lăn dưới đất, đã chết rồi nhưng máu tươi trên cổ còn chảy ròng ròng, chính là gã Lai Phúc Nhi đã đưa Đoàn Dự sang mượn ngựa. Đoàn Dự nghĩ gã này đối với mình cung kính lễ độ, ngờ đâu phút chốc đã tử nạn, cũng vì mình mà ra nông nỗi, trong lòng thương xót không sao kể xiết.

Bà già ngồi trên tóc đã bạc trắng, dáng người bé nhỏ, giọng khàn khàn quát: “Thằng nhỏ kia! Mi đến đây có việc gì?”

Ngay từ lúc mới bước chân vào, Đoàn Dự đã định sẵn chủ ý: mình dấn thân vào nơi hiểm địa nếu tìm được kế thoát thân là nhất, còn không thì coi như đi nhằm giờ xấu, năn nỉ đám côn đồ cũng chẳng ích gì. Vào trong sảnh lại thấy Lai Phúc Nhi chết nằm đó, chàng đâm ra phẫn nộ ngang nhiên trả lời: “Bà bất quá sống lâu hơn ta vài tuổi, làm gì mà gọi thằng nọ thằng kia, ăn nói vô lễ thế?”

Mụ già đó mặt ngắn chùn chùn, đầy vết nhăn, lông mày trắng rủ xuống, đôi mắt nhỏ lóe hung quang, đưa mắt đánh giá Đoàn Dự là hạng người nào. Mụ già ngồi bên dưới bèn quát: “Thằng nhỏ thối tha kia, thật ngươi chẳng biết trời trăng gì? Thụy bà bà đích thân mở miệng hỏi là coi trọng ngươi lắm rồi. Ngươi có biết vị lão bà bà này là ai không? Thật mi có mắt mà không thấy núi Thái Sơn.”

Bà già đó người to béo, cái bụng ưỡn ra như có chửa bảy tám tháng, đầu tóc hoa râm, mặt nung núc những thịt, giọng nói còn khó nghe hơn đàn ông con trai, hai bên hông đeo hai thanh đoản đao bản rộng, một thanh còn dính đầy máu tươi. Hiển nhiên Lai Phúc Nhi đã bị mụ ta giết chết.

Đoàn Dự trông thấy thanh đao nhuốm máu đó, nối căm tức xông lên, lớn tiếng nói: “Nghe giọng mụ là người ở phương xa, sao dám đến Đại Lý giết người bừa bãi? Đại Lý tuy là nước nhỏ nhưng cũng có vương pháp, Thụy bà bà lai lịch thế nào tại hạ không biết, nhưng dẫu có là Hoàng thái hậu nước Đại Tổng cũng không thể đến đây tùy tiện ra tay giết người được.”

Mụ già mập giận dữ, đứng phắt lên vùng hai tay ra, mỗi tay cầm một thanh đoản đao, quát lớn: “Để ta giết người xem ai làm gì nào? Nước Đại Lý chẳng ai tốt lành, đáng giết hết.” Đoàn Dự ngẩng đầu cười ha hả nói: “Ngang ngược vô cớ, tức cười thật!” Mụ già mập tiến lên hai bước, đao bên tay trái chém luôn vào cổ Đoàn Dự.

Nghe keng một tiếng, một cây thiết trượng phóng ra gạt đao đi, chính là Thụy bà bà ra tay ngắn trở. Mụ nói nhỏ: “Bình bà bà hãy hượm đã, hỏi y cho rõ ràng rồi giết cũng không muộn.” Nói xong dựng trượng vào bên ghế hỏi Đoàn Dự: “Ngươi là ai?”

Đoàn Dự đáp: “Ta là người Đại Lý. Mụ mập này nói người Đại Lý ai cũng đáng chết, vậy thì ta cũng đáng chết.” Bình bà bà bực tức nói: “Ngươi gọi ta là Bình bà bà là được rồi, cần gì phải mập hay ốm?” Đoàn Dự cười: “Mụ thử sờ bụng xem mập hay ốm thì biết.”

Bình bà bà mắng liền: “Con bà ngươi!” Mụ vung đao chém nhứ hai nhát cách mặt chàng mấy tấc, tiếng gió vù vù. Đoàn Dự sợ đến toát mồ hôi lạnh, tim đập thình thịch nhưng trên mặt cố làm ra vẻ thản nhiên.

Thụy bà bà nói: “Tên tiểu tử bảnh bao này chắc là bạn trai của tiểu tiện nhân chứ gì?” Nói xong mụ giơ tay chỉ cô gái áo đen đang quay lưng lại. Đoàn Dự đáp: “Vị cô nương này ta chưa hề gặp bao giờ. Thế nhưng Thụy bà bà này, ta khuyên mụ ăn nói lịch sự một chút, ai đời mở miệng là chửi rủa người ta. May mà vị cô nương này đại nhân đại lượng nên không đôi co làm chi, chứ mụ cũng nào có cao quí gì.” Thụy bà bà hừ một tiếng nói: “Thằng nhãi này bây giờ lại dạy ngược lại ta. Nếu ngươi không quen biết với con tiểu tiện nhân thì đến đây làm gì?”

Đoàn Dự đáp: “Ta đến đây là để báo tin cho chủ nhân hay.” Thụy bà bà hỏi: “Báo tin gì?” Đoàn Dự thở dài đáp: “Ta đến chậm một chút, thành ra có báo cũng như không.” Thụy bà bà hỏi dồn: “Báo tin gì nói ngay cho ta hay!” Giọng mụ càng lúc càng gay gắt.

Đoàn Dự nói: “Ta chỉ cần gặp chủ nhân nhà này, nói với ngươi làm gì?” Thụy bà bà cười khẩy, một hồi sau mới nói: “Nếu ngươi muốn gặp mặt y mới nói thì nói liền cho kịp! Lát nữa thì xin mời nhị vị xuống âm phủ mà nói chuyện.” Đoàn Dự hỏi: “Vị nào là chủ nhân? Tại hạ cảm tạ đã cho mượn ngựa.”

Câu đó vừa nói ra, ai nấy đều quay lại nhìn người thiếu nữ áo đen ngồi trên ghế. Đoàn Dự ngạc nhiên: “Không lẽ cô nương này là chủ nơi đây? Nàng ta là một cô gái mảnh mai, lại bị đông đảo cường địch vây quanh thế này, thật là nguy quá”. .

Chỉ nghe cô gái chậm rãi nói: “Ta nể mặt người khác nên cho ngươi mượn ngựa, có chi mà phải tạ ơn? Ngươi không đi cứu người còn trở lại đây làm gì?” Nàng miệng nói vậy nhưng không quay đầu lại, vẫn nhìn vào phía trong.

Đoàn Dự đáp: “Tại hạ ngồi trên lưng Hắc Mai Côi, giữa đường gặp hai tên phục kích, chúng tưởng lầm tại hạ là cô nương, mở miệng nói những câu vô lễ. Tại hạ xem chừng không ổn, không về báo không được.”

Thiếu nữ lại hỏi: “Ngươi báo tin gì?” Tiếng nàng trong vắt nhưng giọng nói tẻ ngắt, chẳng thân thiện chút nào khiến người nghe không được êm tai, dường như ở đời tuyệt không còn có điều gì đáng làm cho nàng quan tâm cả. Có thể nàng ngán ngẩm cuộc đời vô vị, hay nàng coi hết thảy mọi người đều là thù địch, những mong đem loài người giết cho kỳ hết.

Đoàn Dự nghe nàng nói năng vô lễ, kể ra cũng hơi bất mãn, song chàng lại nghĩ rằng hiện nàng đang bị bao vây giữa đám cường đồ, đứng trước một cảnh tượng vô cùng nguy hiểm, tâm thần hoang mang âu cũng là chuyện thường nên chàng không lấy làm khó chịu. Chàng ôn tồn đáp: “Tại hạ biết hai tên cường đồ đó có ý gia hại cô nương. Sở dĩ tại hạ thoát được bọn chúng là nhờ ở con thần mã của cô nương. Nhưng tại hạ nghĩ chắc cô nương chưa biết có cừu nhân đang rình rập nên chạy về báo tin để cô nương biết mà lánh đi, chẳng ngờ về chậm một chút, cừu nhân đã kéo đến bao vây, tại hạ ân hận vô cùng.”

Thiếu nữ cười lạt hỏi: “Ngươi đưa chuyện làm quà để cầu cạnh ta điều gì chăng?” Đoàn Dự tức quá lớn tiếng đáp: “Tại hạ cùng cô nương vốn không quen biết. Chỉ vì thấy người muốn ám hại, không đành nhắm mắt làm ngơ. Sao cô nương lại nói đến hai chữ cầu cạnh?” Thiếu nữ lại hỏi: “Ngươi có biết ta là ai không?” Đoàn Dự đáp: “Chưa biết!”

Thiếu nữ tiếp: “Ta nghe Lai Phúc Nhi nói, ngươi không biết chút võ nghệ nào mà dám vào hang Vạn Kiếp mạt sát động chúa, thực là to gan. Bây giờ ngươi lại dấn thân vào cạm bẫy này để làm gì?” Đoàn Dự rùng mình đáp: “Tại hạ tưởng quay lại báo tin cho cô nương hay xong rồi lập tức ra đi.” Đoạn chàng thở dài tiếp: “Xem chừng cô nương khó lòng thoát khỏi tai ương mà Đoàn Dự này cũng gặp vạ lớn. Song chưa rõ vì sao mà cô nương kết nối thâm thù với bọn này?”

Thiếu nữ áo đen lại cười lạt, hỏi: “Ngươi muốn biết để làm gì?” Đoàn Dự có vẻ bẽn lẽn đáp: “Nếu là chuyện riêng của cô nương thì thôi, tại hạ chẳng dám thóc mách làm gì. Mục đích của tại hạ chỉ là đến báo tin mà thôi. Giờ cô nương đã biết rồi, tại hạ không còn ân hận điều gì nữa.” Thiếu nữ áo đen lại hỏi: “Chắc ngươi không ngờ rằng trở lại đây sẽ bị mất mạng? Ngươi hối hận lắm đấy nhỉ?” Đoàn Dự nghe nàng hỏi có vẻ châm biếm, tức mình nói lớn: “Bậc đại trượng phu thấy việc nghĩa nên làm là làm, rồi đến đâu thì đến, sao lại hối hận?”

Cô gái hừ một tiếng nói: “Tài cán cỡ như người mà cũng dám xưng là đại trượng phu sao?” Đoàn Dự đáp: “Anh hùng hảo hán hay không há phải ở chỗ võ công cao hay thấp? Những kẻ võ nghệ tuyệt luân mà hành vi bỉ ổi đốn mạt, đâu có xứng đáng là bậc đại trượng phu?” Cô gái áo đen cười: “Ha ha, ngươi giữa đường gặp chuyện bất bình, trượng nghĩa đến đây báo tin, chẳng qua mong được làm đại trượng phu một chút. Đến lúc đại trượng phu bị người ta chặt ra làm mười bảy, mười tám mảnh lại biến thành… nát bét trượng phu!”

Bình bà bà đột nhiên cất giọng ồm ồm: “Con tiện nhân kia! Mi đừng kéo dài thời gian nữa! Đứng lên động thủ đi thôi!” Mụ vung song đao đập vào nhau, tiếng choang choang nghe chói cả tai.

Cô gái áo đen cười khẩy nói: “Ngươi chán sống rồi chăng? Con mụ Vương ác phụ ở Tô Châu sao không đích thân tới đây cùng ta động thủ lại sai bọn đầy tớ chúng bay đến làm trò?”

Thụy bà bà nói: “Phu nhân bọn ta tôn quí dường ấy, con tiểu tiện nhân muốn gặp phu nhân một lần cũng đã khó bằng lên trời rồi. Ngươi có khôn hồn thì ngoan ngoãn đi theo chúng ta, rập đầu tạ tội với phu nhân, không chừng phu nhân chúng ta khoan hồng đại lượng, tha mạng cho ngươi, chuyện đào tẩu thì chớ có tư tưởng đến. Sư phụ ngươi đâu?”

Cô gái áo đen kêu rít lên: “Sư phụ ta ở sau lưng các ngươi chứ đâu.” Thụy bà bà, Bình bà bà cả bọn giật mình kinh hãi cùng quay lại. Thế nhưng sau lưng nào có ai.

Đoàn Dự thấy cả bọn ai nấy tưởng thật, hoảng hồn thất sắc, nhịn không nổi cười lên khanh khách. Bình bà bà hầm hầm nói: “Cười cái gì?” Đoàn Dự nói: “Buồn cười quá! Buồn cười quá!” Bình bà bà hỏi lại: “Cái gì mà buồn cười?” Đoàn Dự đáp: “Ha ha, buồn cười quá đỗi!” Bình bà bà hỏi thêm: “Cái gì mà buồn cười quá đỗi?” Đoàn Dự đáp: “Hì hì, buồn cười quá đỗi, buồn cười đến chết mất thôi!” Bình bà bà bực mình: “Cái gì mà buồn cười đến chết mất thôi?”

Thụy bà bà nói: “Bình bà bà, mặc xác thằng lỏi thối tha đó.” Mụ quay sang cô gái áo đen nói: “Cô nương từ Giang Nam chạy tới Đại Lý, bọn ta vạn dặm xa xôi đuổi tới tận đây, liệu cô nghĩ chúng ta có bỏ qua không? Bọn ta dẫu có chết hết trong tay cô nương cũng phải làm quỉ bắt cô đem về. Thôi, ra tay đi.”

Đoàn Dự nghe giọng Thụy bà bà có vẻ e ngại cô gái này, không khỏi lạ lùng, thấy trong sảnh mười bảy mười tám người phùng mang trợn mắt, tay cầm binh khí, nhưng không một ai dám xông lên trước. Bình bà bà hai tay hai đao, mấy lần tiến đến sau lưng cô gái rồi lại rụt về.

Cô gái áo đen nói: “Này, anh chàng đưa tin kia, bấy nhiêu người toan xông vào đánh một mình ta, ngươi tính sao đây?” Đoàn Dự đáp: “Con Hắc Mai Côi đang ở bên ngoài, nếu cô phá vòng vây chạy ra được thì cưỡi ngựa chạy đi. Con ngựa này chạy nhanh lắm, bọn họ không đuổi kịp được.” Cô gái hỏi lại: “Thế còn ngươi thì sao?” Đoàn Dự trầm ngâm một lát rồi đáp: “Ta và bọn chúng chưa từng quen biết, lại không thù oán, chắc họ chẳng làm khó dễ gì với ta.”

Thiếu nữ áo đen cười lạt đáp: “Nếu bọn chúng hiểu biết lẽ phải như người nói đã chả kéo cả bè cả lũ đến đây vây đánh một mình ta. Cái mạng nhỏ xíu của ngươi không sống nổi với chúng đâu. Giả tỷ may mà ta chạy thoát, ngươi có muốn dặn ta điều gì không?”

Đoàn Dự thấy nao nao trong dạ đáp: “Chung cô nương bị bọn Thần Nông Bang bắt giữ ở núi Vô Lượng. Mẫu thân nàng có đưa cho ta cái hộp nhỏ bảo đem về trao cho gia gia ta để người tìm kế cứu nàng. Ví bằng chạy thoát được, cô nương làm thay ta việc này thì ta cảm kích vô cùng.” Nói xong chàng cầm cái hộp bằng vàng bước tới trịnh trọng đưa. Chàng đứng chỉ cách nàng không đầy hai thước, chợt có mùi hương thoảng đưa vào mũi, mùi thơm nhẹ nhàng như lan mà không phải lan, ngây ngất như xạ mà không phải xạ. Một mùi thơm dìu dịu như có như không, nhưng làm cho người ngửi thấy phải mê ly, phải rùng mình.

Thiếu nữ áo đen chưa đón lấy cái hộp, hỏi lại chàng: “Chung cô nương đẹp lắm, nàng có phải là ý trung nhân của ngươi chăng?” Đoàn Dự đáp: “Không phải đâu! Chung cô nương còn nhỏ tuổi, tính tình chất phác ngây thơ, ta đâu dám có ý nghĩ ấy.” Bấy giờ thiếu nữ áo đen mới với tay về phía sau đón lấy cái hộp. Đoàn Dự thấy tay nàng xỏ trong bao lụa mỏng dính sắc đen, không để hở da thịt chỗ nào.

Nàng bỏ chiếc hộp vào túi nói: “Lão họ Chúc kia, mau cút đi.” Một ông già râu tóc bạc trắng run run hỏi lại: “Ngươi nói sao?” Cô gái gằn giọng: “Ta bảo mi cút ra khỏi nhà này, hôm nay ta không muốn giết mi.” Ông già kia vung kiếm đâm ra, quát lên: “Ngươi không được khinh khi ta quá thế!” Giọng nói run run, vì căm tức thì ít mà vì sợ hãi thì nhiều. .

Thiếu nữ áo đen dằn giọng: “Ngươi không phải thủ hạ của ác bà nương họ Vương, chẳng qua bị hai mụ già này rủ lại đây coi trò vui. Trên đường đi người đối với ta có chiều nể nang, tên khốn kiếp kia toan giở mạng che mặt ta ra xem, ngươi liên tiếp ngăn trở. Hừ, người xem ra không đáng chết, vậy mau cút ra khỏi đây ngay.” Ông già kia sắc mặt nhợt nhạt, mũi kiếm trên tay từ từ hạ xuống.

Đoàn Dự khuyên: “Cô nương, cô bảo ông ta đi ra cũng đủ rồi, đâu cần phải dùng chữ cút. Cô nói năng chẳng nể nang chút nào, Chúc lão gia sao không khỏi bực tức?”

Ngờ đâu ông già họ Chúc vẻ mặt lúc thì do dự, lúc thì hoảng hốt, đột nhiên ném thanh trường kiếm xuống đất đánh choang một tiếng, hai tay ôm mặt chạy đi. Y vừa giơ tay đẩy cửa sảnh, Bình bà bà vung tay phải, một ngọn đoản đao phóng vụt ra trúng ngay giữa lưng. Ông già té nhào xuống đất, giãy giụa lăn đi đến hơn một trượng rồi nằm im tắt thở.

Đoàn Dự giận dữ nói: “Hừ, mụ mập kia, vị lão gia đó cũng là đồng bọn với ngươi, sao ngươi nỡ hạ độc thủ?”Câu hỏi của Đoàn Dự dường như mụ không để vào tai. Trong sảnh đường, người nào cũng lăm lăm tay cầm gươm đao, tựa hồ như họ chỉ chờ một tiếng hô là xông vào băm vằm thiếu nữ áo đen.

Đoàn Dự thấy vậy bất giác nổi cơn thịnh nộ đến cực điểm, quát to lên rằng: “Bọn người đông như thế mà vây đánh một người con gái yếu ớt, tay không khí giới thì trên cõi đời này không còn nghĩa lý gì nữa.” Nói xong chàng xông lại đứng đỡ phía lưng cho thiếu nữ áo đen và quát lớn: “Bọn người có giỏi thì vào đây!” Đoàn Dự tuy không biết chút võ nghệ nào nhưng chính khí bốc lên ngùn ngụt đầy vẻ oai phong.

Thụy bà bà thấy chàng có vẻ ngang tàng như thế, trong bụng lại đâm hoang mang, liệu rằng gã thanh niên này nếu không phải thân mang tuyệt nghệ cố ý giả vờ thì hẳn có kẻ nào ghê gớm lắm đứng đằng sau. Mụ ta phụng mệnh dẫn đồng bọn từ Giang Nam đuổi theo cô gái áo đen tới tận Đại Lý, ở chốn đất khách quê người, thực không muốn gây thêm rắc rối, bèn nói: “Các hạ nhất định can thiệp vào vụ này?” giọng điệu thật là khách khí. Đoàn Dự đáp: “Đúng! Ta quyết không để các ngươi cậy mạnh hiếp yếu, lấy thịt đè người.” Thụy bà bà lại hỏi: “Các hạ có họ hàng quen biết gì với con tiện nhân vô liêm sỉ này? Ai sai các hạ đến đây để tiếp tay cho nó?”

Đoàn Dự lắc đầu đáp: “Ta cùng cô nương đây chẳng phải họ hàng, cũng không quen biết, chỉ vì thấy việc bất bằng không thể bỏ qua. Ta khuyên các ngươi nên thôi đi, cậy đông người để hiếp đáp một cô gái sao đáng mặt anh hùng?” Chàng lại nói khẽ: “Cô nương trốn mau đi! Để ta kiếm cách ngăn chặn bọn này.”

Thiếu nữ áo đen khẽ hỏi lại chàng: “Ngươi vì ta mà mất mạng, vậy có ân hận gì không?” Đoàn Dự khảng khái đáp: “Chết cũng không hối hận.” Thiếu nữ áo đen lại hỏi: “Ngươi không sợ chết à?” Đoàn Dự thở dài đáp: “Ai mà không sợ chết? Nhưng… nhưng…”

Thiếu nữ áo đen đột nhiên lớn tiếng bảo: “Sức ngươi không trói nổi con gà thì anh hùng hảo hán cái gì?” Nàng vẫy tay phải một cái, tung hai sợi dây ra trói chân tay chàng lại. Thụy bà bà, Bình bà bà thấy cô ta bất thình lình tấn công Đoàn Dự, quả thực ngoài dự tính, ai nấy còn đang kinh ngạc thì tay trái của cô gái liên tiếp vung lên. Từ lúc đó bên tai Đoàn Dự chỉ còn nghe tiếng reo hò cùng tiếng “huỳnh huỵch” thân người ngã xuống. Trước mắt tối đen như mực, chỉ có ánh kiếm lập lòe, đèn lửa đều bị dập tắt. Thân thể chàng bị đẩy lên cao, và bị giữ trên không trung.

Những biến cố xảy ra cực kỳ mau lẹ. Chớp mắt Đoàn Dự đã không biết mình hiện ở nơi nào, tứ phía tiếng người hô hoán: “Đừng để con tiện nhân chạy thoát! Đừng sợ tên độc của y! Phóng phi đao! Phóng phi đao!” Rồi nào tiếng binh khí chạm nhau chát chúa, nào tiếng leng keng phát ra do những mũi tên đụng vào gươm đao. Bất thình lình người chàng như bị tung lên, kế đến tiếng vó ngựa dồn dập, thì ra chàng đã ở trên lưng con Hắc Mai Côi. Chân tay chàng bị trói không nhúc nhích được chút nào.

Chàng cảm thấy cổ mình để tựa vào người ai, mũi thoang thoảng mùi hương ngào ngạt, chàng biết ngay đó là mùi hương từ cô thiếu nữ áo đen. Tiếng vó ngựa vẫn khua giòn, chạy rất nhanh mà vẫn êm ru. Tiếng người reo hò đuổi theo mỗi lúc một xa. Con tuấn mã Hắc Mai Côi lông đen tuyền, y phục cô thiếu nữ cũng tuyền một màu đen, đêm khuya trời lại tối, mùi hương ngào ngạt phảng phất từng cơn càng tăng thêm vẻ huyền bí.

Con ngựa chạy một hồi thì tiếng gào thét của địch nhân không còn nghe thấy nữa, Đoàn Dự nói: “Cô nương ơi! Ta không ngờ bản lãnh cô nương ghê gớm đến bậc này. Cô cởi trói cho ta đi!” Thiếu nữ áo đen chỉ hừ một tiếng không trả lời. Đoàn Dự đã bị trói chặt, mỗi bước ngựa chạy dây trói lại xiết thêm làm cho tay chân chàng mỗi lúc một đau dữ, đầu chàng mỗi lúc một tụt xuống thấp như bị treo ngược. Tâm thần choáng váng, mắt hoa lên, không thể chịu được. Chàng lại la ầm lên: “Cô nương buông ta ra mau!”

Bỗng nghe đánh bốp một cái, chàng bị thiếu nữ tát vào má rồi có tiếng lạnh lùng bảo: “Im cái mồm! Không được léo nhéo! Cô nương không hỏi thì ngươi không được nói.” Đoàn Dự tức giận hỏi: “Tại sao vậy?” Lại “bốp bốp”, chàng bị hai cái tát mạnh hơn trước, tai bên hữu ù hẳn đi, cơ hồ như bị thủng màng nhĩ.

Đoàn Dự vốn tính bướng bỉnh không chịu khuất phục ai, kêu ầm ĩ: “Làm gì mà ngươi đánh ta? Ngươi buông ta ra đi! Ta không theo ngươi nữa.” Bỗng nhiên chàng thấy thân mình bị nhấc bổng lên rồi bị quẳng xuống đất, chân tay vẫn bị trói, một đầu dây thiếu nữ cầm trong tay. Chàng bị ngựa lôi đi xềnh xệch.

Cô gái quát một tiếng nhỏ ra lệnh cho con ngựa đi chậm lại, hỏi: “Ngươi đã chịu hàng phục chưa? Đã chịu vâng lời ta chưa?” Đoàn Dự quát to: “Ta không hàng phục, ta không vâng lời! Dù chết đến nơi ta cũng chả sợ, giờ ngươi mới hành hạ ta một chút, ta sợ… ta sợ…” Chàng định nói “ta sợ cóc gì?” nhưng thân chàng bị kéo qua hai mô đất nổi trên đường, liên tiếp bị hai lần tung lên quật xuống nên hai tiếng “cóc gì” còn nghẹn trong cổ chưa thốt ra được.

Thiếu nữ cười khẩy hỏi: “À, ra ngươi biết sợ rồi phải không?” Nàng liền kéo chàng lên lưng ngựa. Đoàn Dự gân cổ cãi: “Ta muốn nói ta sợ cóc gì, lẽ dĩ nhiên là không sợ, mau thả ta ra. Ta không muốn để ngươi lôi đi như thế này nữa.” Cô gái hừ một tiếng: nói: “Trước mặt ta kẻ nào dám nói bướng, ta quyết làm cho phải điêu đứng, sống dở chết dở, đâu chỉ hành hạ chút xíu thế này thôi?” Nói xong lại quăng Đoàn Dự xuống đất.

Đoàn Dự căm tức vô cùng, nghĩ thầm: “Bọn kia hễ mở miệng thì mắng ngươi là tiểu tiện nhân, kể cũng có lý”. Đoạn chàng la inh ỏi: “Ngươi không buông ta ra, ta mắng cho bây giờ.” Thiếu nữ đáp: “Ngươi có giỏi thì mắng đi! Đời ta bị thiên hạ mắng còn chưa đủ hay sao?”

Đoàn Dự nghe thiếu nữ nói hai câu này có vẻ rất thê lương, nên chàng toan cất miệng mắng “tiểu tiện nhân” lại cảm thấy trong dạ bùi ngùi, không mắng nữa.

Thiếu nữ chờ một lúc không thấy chàng lên tiếng, liền nói: “Ta biết rằng người không dám mắng ta.” Đoàn Dự gân cổ lên cãi: “Ta nghe ngươi nói thương tình nên không mắng nữa, chứ có phải ta sợ ngươi đâu?”

Thiếu nữ giục ngựa chạy mau. Con Hắc Mai Côi lên nước đại, phi như gió làm cho Đoàn Dự đau đớn ở chề. Chân tay mặt mũi bị cát bám đầy, có lúc chạm phải gạch đá, máu chảy đầm đìa. Thiếu nữ quát: “Ngươi đã chịu đầu hàng chưa?” Đoàn Dự lớn tiếng mắng lại: “Ngươi điên rồ, không biết điều!” Thiếu nữ ngắt lời: “Ta là kẻ điên rồ thì phải rồi, dù ngươi không nói ta cũng tự biết mà! Nhưng sao ngươi bảo ta không biết điều?” Đoàn Dự đáp: “Ta… ta… đối với người một lòng thành thật…” Chưa dứt lời, đầu chàng va phải khối đá bên đường đau quá ngất đi…

Không biết bao lâu, bỗng chàng thấy mát lạnh rồi hồi tỉnh lại. Miệng bị nước tràn vào, chàng vội ngậm miệng lại nhưng một cơn ho nổi lên, nước lại vào đầy cả miệng, cả mũi, sặc sụa… Nguyên từ lúc thiếu nữ áo đen thấy chàng ngất đi liền bắt ngựa chạy xuống khe suối, để nước mát lạnh thấm vào cho tỉnh lại. May mà dòng suối hẹp, con Hắc Mai Côi đi mấy bước đã qua. Đoàn Dự bị ướt hết quần áo, bụng uống đầy nước chướng lên, lại bị thương tích khắp mình mẩy, nỗi đau đớn kể sao cho xiết?

Thiếu nữ lại hỏi chàng: “Bây giờ ngươi đã chịu hàng phục chưa?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Trên đời này sao lại có đứa con gái ngang ngạnh không biết điều đến thế, quả đúng là số kiếp mình đen đủi nên mới rơi vào tay cô ta, có nói thêm nữa cũng bằng thừa”. Thiếu nữ thấy chàng không đáp, hỏi luôn mấy câu: “Ngươi đã phục tùng chưa? Ngươi đã nếm đủ mùi điêu đứng rồi chứ?” Đoàn Dự vẫn nín thinh giả vờ như không nghe thấy gì. Thiếu nữ tức mình gầm lên: “Ngươi điếc à? Ta hỏi sao lại không đáp?” Đoàn Dự vẫn chẳng nói chẳng rằng.

Thiếu nữ dừng ngựa lại xem chàng đã hồi tỉnh chưa. Lúc đó gần sáng, chân trời phía đông đã ửng màu mỡ gà, nàng nhìn thấy rõ Đoàn Dự mắt mở thao láo, bất giác nổi giận đùng đùng, trừng mắt lên quát: “Ngươi gớm thật! Rõ ràng người vẫn tỉnh như sáo mà giả chết để thi gan với ta. Vậy bây giờ ta đập vào xác ngươi thử xem ngươi ghê gớm hay là ta ghê gớm.” Nói xong nàng nhảy xuống ngựa, rồi lại vọt lên cây, bẻ lấy một cành trỏ vào mặt Đoàn Dự.

Lúc đó Đoàn Dự mới nhìn thẳng mặt nàng được che kín bằng vải đen thẫm, chỉ để hở đôi mắt đen láy, sáng như điện. Chàng tủm tỉm cười nghĩ thầm: “Dĩ nhiên ngươi ghê gớm hơn, con đàn bà độc ác này, ai còn lợi hại hơn người được nữa?”.

Cô gái hỏi: “Đến nước này mà người còn cười được ư? Ngươi cười gì?” Đoàn Dự nhìn nàng, nhăn mặt trêu chọc rồi lại cười. Thiếu nữ giơ cành cây lên quất chàng bảy tám roi, Đoàn Dự không kể gì đến sống chết, cứ mặc kệ cho nàng đánh thế nào thì đánh. Nhưng ác thay thiếu nữ cứ nhằm những chỗ nhạy cảm mà quất. Có lúc chàng chịu không nổi, tưởng chừng phải la lên nhưng rồi lại cố nhịn được.

Thiếu nữ thấy chàng quật cường như vậy, trầm ngâm một lát rồi nói: “Được lắm, người giả điếc ư? Ta làm cho người điếc thật.” Nàng thò tay vào bọc, móc cây trủy thủ ra, lưỡi dao dài chừng bảy tấc, ánh dao lấp loáng ghê người. Nàng hùng hổ bước đến trước mặt Đoàn Dự cầm trủy thủ nhằm tai bên trái chàng quát to lên: “Ngươi không nghe ta nói gì phải không? Ngươi có muốn giữ cái tai này thì bảo ta.” Đoàn Dự vẫn làm thinh, mắt thiếu nữ long lên sòng sọc lộ ra những tia hung dữ, toan hạ lưỡi trủy thủ xuống định cắt tai bên trái Đoàn Dự.

Đoàn Dự hoảng quá kêu lên: “Này, người định đâm thật hay sao chứ? Ngươi đâm điếc tai ta, liệu có tài chữa cho khỏi hay không thì bảo?” Cô gái hứ một tiếng nói: “Cô nương giết người vẫn làm cho sống lại được, ngươi không tin thì thử cho biết.” Đoàn Dự vội đáp: “Ta tin, ta tin, khỏi cần thử làm gì.”.

Cô gái thấy chàng mở mồm nói, xem chừng khuất phục mình rồi nên không hành hạ thêm nữa, nhấc Đoàn Dự lên để lên yên ngựa, chính nàng ta cũng nhảy lên yên nhưng lần này để đầu cao chân thấp tử tế hơn một chút. Đoàn Dự không còn bị treo ngược đầu, tay chân tuy vẫn còn đau vì bị trói chặt, nhưng so với bị kéo lê dưới đất đã là một trời một vực nên không dám mở mồm chọc cho nàng ta nổi cáu nữa.

Chạy được chừng hơn nửa giờ, Đoàn Dự mắc tiểu quá, muốn nói cô gái cho mình đi giải nhưng tay bị trói không cách nào ra hiệu, hơn nữa dẫu tay có tự do cũng không biết diễn tả làm sao cho cô ta hiểu được nên đành phải nói: “Ta đau bụng, xin cô nương thả ta ra một chút.” Cô gái đáp: “Hay lắm, thế là bây giờ ngươi hết câm rồi? Có còn gì để nói nữa không?” Đoàn Dự nói: “Đành rằng thân lươn bao quản lấm… quần, nhưng cô nương là hương mỹ nhân, mà để ta biến thành xú tiểu tử thì đâu có hay ho gì.” Cô gái không nhịn được phải phì cười. Nàng nghĩ bụng: “Đã đến thế này đành phải tha y ra”. Đoạn nàng rút kiếm cắt đứt dây trói, đẩy Đoàn Dự xuống đất, đoạn nàng cũng xuống ngựa, bỏ đi ra chỗ khác.

Đoàn Dự bị trói đến quá nửa ngày, chân tay ê ẩm tê liệt, nằm co duỗi hồi lâu mới đứng lên được. Chàng thấy con Hắc Mai Côi đang gặm cỏ gần đó, có vẻ hiền lành ngoan ngoãn, lại không thấy thiếu nữ thì nghĩ bụng: “Không nhân cơ hội này trốn đi thì còn đợi đến bao giờ?”. Nghĩ vậy chàng nhảy tót lên lưng ngựa. Con Hắc Mai Côi tuyệt không phản kháng, chàng liền gò cương cho nó phi nước đại, trông về hướng bắc mà tiến.

Cô gái nghe tiếng vó ngựa lốp cốp vội rượt theo. Tuy nàng khinh công giỏi, nhưng ngựa chạy quá mau không tài nào đuổi kịp. Đoàn Dự quay lại chắp tay nói: “Cô nương! Non xanh trơ đó, nước biếc vẫn đây, còn ngày tái ngộ.” Mới nói được bấy nhiêu thì con Hắc Mai Côi đã chạy xa hơn hai chục trượng, bóng thiếu nữ đã khuất sau rừng. Đoàn Dự thoát khỏi độc thủ của con người quỷ quái, trong lòng khoan khoái vô cùng, luôn miệng dỗ ngựa: “Hắc Mai Côi ơi! Ngoan lắm! Chạy lẹ lên! Chạy lẹ lên!”

Hắc Mai Cổi chạy được chừng một dặm, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mình lằng nhằng mất một ngày, không biết có còn kịp cứu Chung cô nương nữa hay không? Nếu mình chạy suốt, không ăn không ngủ, không kể sống chết, chẳng biết Hắc Mai Côi chịu nổi hay không?”. Chàng còn đang suy tính, bỗng nghe một tiếng huýt sáo từ xa vẳng lại, tiếng ngân rất dài, lan tỏa cả khu rừng.

Con Hắc Mai Tôi nghe tiếng huýt sáo lập tức quay đầu trở về, Đoàn Dự cả kinh, vội dỗ dành: “Hắc Mai Côi ngoan ơi! Hắc Mai Côi giỏi ơi! Đừng chạy trở về nghe!” Rồi chàng hết sức gò cương bắt nó quay đầu lại, không ngờ con thần mã bây giờ lại bất kham, muốn gò cương thế nào thì gò, nó cứ đứng dựng thẳng lên quay trở lại chứ không chịu nghe lời Đoàn Dự chỉ huy.

Chớp mắt con Hắc Mai Côi đã chạy về đến trước mặt cô gái rồi dừng lại không nhúc nhích. Đoàn Dự không biết nên cười hay nên khóc, nét mặt chàng trông cực kỳ thảm hại. Cô gái kia lạnh lùng hỏi: “Ta vốn chẳng muốn giết người, thế nhưng người lén bỏ trốn, lại còn ăn cắp con Hắc Mai Côi của ta, thế có phải là đại trượng phu chăng?”

Đoàn Dự nhảy xuống ngựa, ngang nhiên đáp: “Ta không phải là nô lệ của cô, muốn đi đâu thì đi, làm gì có chuyện lén bỏ trốn? Hắc Mai Côi là cô cho ta mượn, ta đã trả lại đâu, sao lại gọi là ăn cắp được? Cô muốn giết ta thì giết, có sao đâu. Ta tự mình quay lại, có gì mà không phải đại trượng phu?”

Cô gái tay cầm cán kiếm, rút ra nửa chừng nói: “Ngươi tưởng ngươi to gan lớn mật, ta không dám giết ngươi sao? Ngươi cậy vào kẻ nào mà dám bướng bỉnh với ta?” Đoàn Dự đáp: “Ta đối với cô không có điều chi hổ thẹn, cần gì phải mượn thế lực ai?”

Đôi mắt thu ba của cô gái lóe ra những tia sáng chiếu thẳng vào mặt Đoàn Dự, Chàng cũng nhìn chằm chặp vào mắt nàng, tuyệt không tỏ chút chi sợ hãi. Hai người nhìn nhau một hồi rồi “soạt” một tiếng, cô gái lại tra kiếm vào vỏ quát: “Ngươi cút đi! Bản cô nương hãy tạm gửi cái đầu trên cổ ngươi, lúc nào cao hứng sẽ lại lấy!” Đoàn Dự vốn dĩ coi như mình chắc chết rồi, không ngờ nàng ta lại thả cho mình đi, hơi ngạc nhiên nhưng không dám nói thêm, quay mình cà nhắc bước đi.

Đoàn Dự đi vài mươi trượng vẫn không nghe tiếng vó ngựa, quay đầu nhìn lại, thấy cô gái vẫn đứng đó ngơ ngơ ngẩn ngẩn thì nghĩ thầm: “Có lẽ nàng còn có chủ ý gì cay độc đây, hẳn sắp giở trò mèo vờn chuột chán chê rồi mới cắn chết. Ta thoát chết hay không là tùy ở nàng”.

Chàng rẽ luôn qua mấy con đường nhánh, bấy giờ mới thấy hơi yên tâm, những vết thương trên đầu cổ chân tay lúc này mới thấy đau, nghĩ thầm: “Ôi, tính tình cô này thật là kỳ quặc! Hay là cha mẹ nàng chết cả rồi, đời nàng đã trải bao nhiêu bước đường cay đắng? Hay là nàng xấu xa, nên phải che kín không muốn để ai nhìn thấy mặt? Như vậy thì nàng cũng thật đáng thương… Chao ôi! Cái hộp vàng của Chung phu nhân đưa cho ta nay ở trong tay nàng rồi”. Chàng muốn quay lại đòi nhưng không dám, nghĩ thầm: “Ta gặp cha ta, cùng lắm là bằng lòng học võ công, cha ta thể nào cũng đi cứu Chung cô nương, còn như nếu cha ta không tự đi mà cử người khác đi thì cũng được, cái hộp đó cũng chẳng công dụng bao nhiêu. Nhưng ta không có ngựa cưỡi, tình cảnh này chưa về đến Đại Lý thì nửa đường đã bị chất độc phát tác chết rồi. Chung cô nương chờ đợi mỏi mòn, một ngày dài như một năm, nàng không thấy ta quay lại, cha nàng cũng không tới, chắc lại tưởng mình không đưa tin. Chi bằng mình quay lại núi Vô Lượng, cùng nàng chết chung một nơi để cho nàng biết ta không có ý phụ nàng.”

Chủ ý đã quyết, Đoàn Dự nhìn nhận phương hướng, nhằm thẳng phía núi Vô Lượng mà đi. Bờ sông Lan Thương thật quá hoang vu, có khi đi đến mấy chục dặm đường mà không gặp một nóc nhà. Suốt ngày hôm đó, chàng đành kiếm trái cây trong rừng ăn cho đỡ đói. Tối đến tìm chỗ cao ráo, ngủ một giấc.

Hôm sau quá trưa, lại đến một chiếc cầu làm bằng xích sắt, qua trở lại bờ sông bên kia, đi hơn ba chục dặm đến được một cái thị trấn nhỏ. Tiền bạc chàng giắt trong lưng đã bị rơi mất sau khi nhảy xuống hồ. Trong bụng đói quá, chàng nhìn lại quần áo rách tả tơi, chỉ còn viên ngọc bích đính vào mũ là vật quý liền lấy ra tìm đến tiệm bán gạo. Tiệm này không phải nơi mua bán vàng ngọc, nhưng cả thị trấn chỉ có cửa hàng này là lớn hơn cả. Chủ tiệm thấy chàng phong độ hiên ngang, không dám khinh thường nhưng không biết ngọc quý, chỉ chịu mua với giá ba lượng bạc. Đoàn Dự cũng chẳng kèo nài, cầm tiền định đi mua áo mũ, nhưng thị trấn nhỏ quá không có chỗ bán y phục nên đành đến quán mua cơm ăn.

Chàng vừa ngồi xuống ghế, hai đầu gối theo chỗ rách thò ra, trường bào vạt trước vạt sau rách mất cả rồi, quần thì sau đũng cũng có mấy cái lỗ lớn, lộ cả mông ra, gió thổi mát hiu hiu, nghĩ thầm: “Cái cảnh lòi da lòi thịt thế này trông thật bất nhã, phải tìm cách nào che đi mới được”. Gã chủ quán mang đồ ăn lên nói: “Hôm nay không gặp ngày, chẳng có cá thịt gì hết, xin tướng công ăn ít rau đậu qua bữa vậy.”

Đoàn Dự đáp: “Không sao? Không sao!” Nói xong liền cầm đũa lên ăn ngay. Chàng con nhà quyền quí, hôm nay ăn mặc rách rưới hở cả mông, ngồi ăn cơm bụi mấy món bình dân, nhưng vì mấy ngày qua không có hạt cơm nào vào bụng, tuy chỉ rau đậu nhưng ngon miệng vô cùng.

Chàng ăn đến bát thứ ba bỗng nghe ngoài cửa tiệm có tiếng người nói: “Nương tử, ở đây có cái quán nhỏ, vào xem có gì ăn không nào?” Có tiếng một người đàn bà ỏn ẻn: “Gớm, chẳng bao giờ thấy chàng no cả.” .

Đoàn Dự nghe thấy thanh âm quen thuộc, nhận ra ngay đó là Can Quang Hào của phái Vô Lượng Kiếm cùng với Cát sư muội của y, trong bụng hoảng hốt, vội vàng quay mặt vào tường, nghĩ thầm: “Sao y lại gọi là nương tử nhỉ? Ồ, thế ra họ đã thành vợ chồng. Ta xủ phải quẻ Vô Vọng, hào lục tam: Kẻ kia buộc con bò, người qua đường lấy trộm, dân trong xóm bị oan (Vô Vọng chi tai, hoặc hệ chì ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai). Can lão huynh được vợ, Đoàn công tử vạ lây.”

Lại nghe Can Quang Hào cười hì hì nói: “Vợ chồng mới cưới, có biết thế nào là no?” Cô nàng Cát sư muội kia bèn hứ một cái, tủm tỉm cười nói nhỏ: “Đồ chết tiệt! Thế chắc đến lúc hai đầu gối lỏng lẻo hết chàng mới biết no chăng?” Giọng thị nghe đầy vẻ lẳng lơ. Hai người vào quán ngồi xuống, Can Quang Hào liền gọi: “Chủ quán đâu, đem rượu thịt ra đây, có thịt bò thì lấy ra một bát trước. Ủa…”

Đoàn Dự nghe thấy tiếng bước chân ở đằng sau, một bàn tay to lớn chộp vào vai phải, xoay ngược chàng lại, đối diện với Can Quang Hào. Đoàn Dự cười gượng: “Can lão huynh, Cát đại tẩu, kính chúc hai vị trăm năm hòa hợp, đầu bạc răng long, hai phái Đông tông, Tây tông của Vô Lượng Kiếm nay hợp làm một.”

Can Quang Hào cười ha hả, quay đầu liếc nhìn Cát sư muội của y một cái: Đoàn Dự thuận thế nhìn theo, thấy ở Cát sư muội này mặt trái xoan, má bên trái có mấy nốt rỗ hoa, nhưng trông cũng khá xinh xắn. Ánh mắt y thị ban đầu kinh ngạc, nhưng dần dần chuyển thành hung quang, gằn giọng hỏi: “Hỏi nó cho rõ ràng làm sao đến được nơi đây? Chung quanh có người nào của Vô Lượng Kiếm không?”

Vẻ tươi cười trên mặt Can Quang Hào liền biến mất, y hầm hầm hỏi: “Vợ ta nói gì ngươi có nghe không? Nói mau!” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta phải nói nhăng nói cuội một phen, dọa cho chúng bỏ chạy, nếu không thể nào hai đứa này cũng giết mình để bịt miệng”. Chàng bèn nói: “Quí phái có bốn vị sư huynh tay cầm trường kiếm, vừa mới hấp tấp chạy qua đây, đi về hướng đông, dường như đang đuổi theo ai đó.”

Can Quang Hào thất sắc, nói với Cát sư muội: “Thôi đi.” Mụ vợ y liền đứng lên, tay phải ra hiệu. Can Quang Hào gật đầu, rút phắt trường kiếm, nhắm ngay cổ Đoàn Dự chém tới một nhát thật nhanh. Đoàn Dự thấy ả Cát sư muội kia ra hiệu biết là không xong, vội rụt người về sau nhưng làm sao tránh kịp, chỉ thấy một làn bạch quang vụt tới cổ mình. Đột nhiên nghe bụp một tiếng nho nhỏ, Can Quang Hào ngã ngửa ra, trường kiếm tuột khỏi tay rơi xuống. Lại nghe bụp một tiếng nữa, ở Cát sư muội kia đang toan chạy ra, nghe tiếng Can Quang Hào kêu lên, chưa kịp quay đầu lại nhìn thì cũng đã gục ngay bên ngạch cửa. Hai người chỉ kịp oằn oại mấy cái rồi nằm yên, trên cổ Can Quang Hào cắm một mũi tên nhỏ màu đen, còn Cát sư muội kia thì trúng đằng sau ót. Hai tiếng bụp bụp đó chính là tiếng mà cô gái áo đen tối hôm qua bắn ám khí dập tắt nến, giết địch nhân để tháo lui.

Đoàn Dự vừa mừng vừa lo, quay đầu nhìn ra thấy đằng sau không có ai cả, nhưng nghe bên ngoài cửa quán có tiếng ngựa hí đã thấy cô gái cưỡi con Hắc Mai Côi chầm chậm chạy ngang.

Đoàn Dự kêu lên: “Đa tạ cô nương cứu mạng.” Chàng chạy vội ra, cô gái không thèm liếc mắt nhìn chàng, cứ giục ngựa chạy tiếp. Đoàn Dự nói: “Nếu không nhờ hai mũi tên của cô thì lúc này đầu ta không còn trên cổ nữa rồi.” Cô gái cũng không buồn trả lời.

Gã chủ quán đuổi theo kêu lên: “Tướng… tướng công, giết… giết người rồi, đâu có bỏ đi được.” Đoàn Dự đáp: “Ôi chao, ta chưa trả tiền cơm.” Chàng mò tay vào túi lấy tiền nhưng thấy con Hắc Mai Côi đã đi xa mấy trượng vội kêu: “Trong túi người chết có tiền định làm đám cưới, ngươi lấy mà dùng.” Nói rồi chàng đuổi theo con ngựa.

Cô gái cho ngựa chạy chậm lại, cả hai chẳng mấy chốc đã ra khỏi thị trấn. Đoàn Dự lẽo đẽo theo sau, nói: “Cô nương, cô đã làm ơn thì làm ơn cho trót, nhờ cô đi cứu Chung cô nương luôn thể.” Cô gái lạnh lùng nói: “Chung Linh là bạn ta, ta vốn định đi cứu. Có điều ta rất ghét ai xin xỏ. Người cầu ta cứu Chung Linh, đã thế ta không đi cứu nữa.” Đoàn Dự vội nói: “Được, thế thì ta không cầu nữa.” Cô gái nói: “Thế nhưng người đã cầu rồi.” Đoàn Dự nói: “Thôi thì những gì ta nói cô đừng tính đến.” Cô gái hỏi: “Hừ, ngươi là nam tử hán đại trượng phu, nói rồi lẽ nào lại không tính?”.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lúc trước ta nhất định làm lại trượng phu nàng đã biết rồi, thôi để cứu mạng Chung cô nương, mình không được làm đại trượng phu cũng đành chịu vậy”. Chàng bèn nói: “Ta không phải là nam tử hán đại trượng phu, cái… cái mạng giun dế của ta… toàn là do cô nương cứu.”

Cô gái bật cười, đưa mắt nhìn chàng xem nói thật lay đùa: “Ngươi đối với con tiểu quỉ Chung Linh tốt quá nhỉ? Hôm qua ngươi thà chết chứ nhất định phải là đại trượng phu, sao hôm nay lại chịu làm giun dế? Hừ, ta không cứu Chung Linh đâu.”

Đoàn Dự vội nói: “Thế… thế thì phải làm sao đây?” Cô gái đáp: “Sư phụ ta có bảo rằng đàn ông con trai trên đời này chẳng có ai tử tế cả, toàn là đầu môi chót lưỡi để đánh lừa đàn bà con gái, còn trong bụng thì toan tính chuyện xấu xa. Loại nam nhân các ngươi một câu cũng không tin nổi.” Đoàn Dự nói: “Cái đó cũng không phải là hoàn toàn đúng, chẳng hạn… chẳng hạn…” Chàng nhất thời chưa nghĩ ra ai, bèn nói: “Chẳng hạn như phụ thân của cô nương, chắc phải là người tử tế chứ?” Cô gái đáp: “Sư phụ ta bảo rằng, cha ta cũng không phải là người tốt.”

Đoàn Dự thấy cô gái thúc ngựa chạy mỗi lúc một nhanh hơn, mình không thể nào đuổi kịp bèn gọi: “Cô nương, chậm lại.” .

Đột nhiên bóng người thấp thoáng, từ khu rừng bên cạnh bốn người xông ra chặn đường. Hắc Mai Côi liền ngừng vó, lùi lại hai bước. Cả bốn người đều là con gái còn trẻ, ai nấy đều khoác áo màu xanh biếc, tay cầm song câu, người đứng giữa quát lớn: “Các ngươi hai người, hẳn là Can Quang Hào và Cát Quang Bội của Vô Lượng Kiếm, đúng không?”

Đoàn Dự đáp: “Không phải, không phải. Can Quang Hào và Cát cô nương, hai người đã… đã…” Cô gái kia hỏi: “Đã đã cái gì? Các ngươi một nam một nữ, tuổi trẻ đi chung với nhau, trông dớn dác đúng là dẫn nhau đi trốn, sao lại không phải là hai đứa bạn đồ Can Cát của Vô Lượng Kiếm?” Đoàn Dự cười nói: “Cô nương nói sai rồi. Cát Quang Bội trên mặt có mấy nốt rỗ hoa, còn cô nương đây hoa nhường nguyệt thẹn đâu có giống chút nào.” Cô gái quay sang quát nữ lang áo đen: “Bỏ khăn che mặt xuống!”

Bỗng tách tách tách tách, cô gái áo đen đã bắn ra bốn mũi tên ngắn. Keng keng hai tiếng, hai người đã giơ câu ra gạt được, còn hai người kia trúng tên ngã xuống. Bốn mũi tên bắn ra không có một dấu hiệu gì, thế đi thần tốc vậy mà cũng trật hết hai mũi. Cô gái áo đen lập tức nhảy khỏi lưng ngựa, còn đang trên không đã rút phắt trường kiếm, chân trái vừa chấm đất, chân phải đã vọt lên soạt soạt đâm luôn hai nhát, tấn công hai cô gái kia. Hai cô gái cũng mua câu xông lên, một người chống đỡ cô gái áo đen, còn một người đâm vào Đoàn Dự.

Đoàn Dự kêu “Ối giời!” một tiếng, chui tọt xuống dưới bụng con Hắc Mai Côi. Cô gái kia ngạc nhiên, không ngờ người này lại xuất chiêu quái dị đến thế, đang toan đuổi theo đâm Đoàn Dự, bỗng lưng đau nhói, lập tức ngã xuống. Thì ra cô gái áo đen đã thừa cơ bắn một mũi tên, thế nhưng vì phải phân tâm, cánh tay trái của cô ta đã bị địch nhân móc phải, soạt một tiếng rách mất một nửa tay áo, để lộ cánh tay trắng như tuyết, trên tay cũng bị rạch một đường dài cả thước, máu túa ra.

Cô gái áo đen liền múa kiếm tấn công, nhưng người con gái sử câu kia võ nghệ ghê gớm quá, song câu huy động toàn những chiêu số xảo diệu, đấu thêm một hồi thì đùi cô gái áo đen lại trúng câu, bị rạch rách cả quần. Nàng liên tiếp bắn ra hai mũi tên nhưng đều bị đối phương gạt ra được. Người con gái kia luôn mồm quát hỏi: “Ngươi là ai? Kiếm pháp của ngươi không phải Vô Lượng Kiếm.” Cô gái áo đen không trả lời, kiếm chiêu càng lúc càng tấn công gấp rút hơn. Đột nhiên nàng “A” lên một tiếng, trường kiếm bị một thanh câu móc trúng, địch nhân liền xoay cổ tay một cái, thanh kiếm cầm không vững bay tung lên trời, nàng vội vàng nhảy lên theo. Người sử câu lập tức liên tiếp đâm luôn mấy nhát nhưng nàng đều tránh được.

Đoàn Dự đứng coi trong lòng bồn chồn, khổ nỗi không có tài ba gì để xông vào giúp đỡ, thấy cô gái áo đen nguy cấp đến nơi, không nghĩ ngợi thêm, ôm luôn một cái xác dưới đất bồng lên như một cây bổng lớn xông tới húc vào cô gái cầm song câu.

Nàng ta giật mình, thấy vật húc tới lại chính là đầu của chị em bên mình, trong lòng đau đớn, lấy câu đâm luôn vào mặt Đoàn Dự nhưng vì vướng cái xác chết nên còn cách xa đến cả nửa thước, nghe bình một tiếng, ngực đã bị cái đầu xác chết đụng vào. Ngay lúc đó, một mũi đoản tiễn đã bắn ngay vào mắt phải, nàng ngã lăn ra chết ngay.

Đoàn Dự thấy cô gái áo đen khuỵu đầu gối vội kêu: “Cô nương, cô… cô có sao không?” Chàng chạy đến bên cạnh giơ tay đỡ, cô gái kia đứng dậy, ngờ đâu Đoàn Dự trong cơn hoảng loạn vẫn còn vác cả cái xác chết, húc ngay đầu tử thi vào ngực nàng. Cô gái giơ tay đẩy đầu xác chết ra, Đoàn Dự kêu “ối” một cái ngã lăn cù, cái xác kia liền đè lên người chàng.

Cô gái thấy chàng vụng về lúng túng như thế bật cười khúc khích, nghĩ lại cuộc chiến vừa qua nguy hiểm vạn phần, nếu lúc đầu không bất ngờ ra tay giết được hai người, lại không được Đoàn Dự đứng bên cạnh ra tay giúp, e rằng chỉ một người cầm song câu nàng đã không chống nổi. Không biết bốn thiếu nữ này lai lịch ra sao, võ công lại cao cường đến thế? Nàng kêu lên: “Chàng ngốc ơi! Ngươi cứ ôm cái xác đó làm gì thế?”

Đoàn Dự lồm cồm ngồi dậy, bỏ cái xác xuống, nói: “Tội nghiệp! Tội nghiệp? Ôi, quả thật ta có lỗi. Các ngươi nhận lầm người, cứ thong thả hỏi han cho ra lẽ, sao lại nói năng lếu láo để cô nương phải nổi giận đến nỗi chết oan. Cô nương ơi! Đúng ra cô đâu cần giết họ làm gì, cứ mở khăn ra cho họ coi một tí thì đâu có sao.”

Cô gái hậm hực quát: “Câm mồm! Ta phải đợi đến ngươi dạy dỗ nữa hay sao? Ai bảo chúng nói hai đứa mình dẫn nhau… cái gì… cái gì đó.” Đoàn Dự đáp: “Đúng thế, đúng thế! Chính là họ nói năng tầm bậy, nhưng cô nương cũng chẳng nên giết người làm gì. A, cô… vết thương của cô phải buộc lại chứ.” Chàng thấy đùi nàng hở da trắng nõn, không dám nhìn lâu, vội quay đầu sang chỗ khác.

Cô gái bị chàng lải nhải trách cứ chuyện giết người, bực bội toan tiến lên vả cho chàng mấy cái, nghe đề cập đến vết thương mới thấy tay và đùi đau đớn, cũng may cả hai vết thương chỉ ngoài da thịt không chạm đến gân cốt, vội vàng lấy kim sang đắp lên, xé chiếc áo khoác của kẻ địch buộc đùi lại.

Đoàn Dự kéo mấy cái xác vào trong đám cỏ nói: “Đúng ra mình nên chôn cất họ cho tử tế, thế nhưng nơi đây không có cuốc xẻng. Ôi, bốn cô gái tuổi còn thanh xuân, dung mạo tuy không nói là đẹp, nhưng cũng chẳng đến nỗi xấu…”.

Cô gái nghe chàng nói đến mặt mũi xấu đẹp liền hỏi: “Này, sao anh biết ta mặt không bị rỗ, lại bảo cái gì nguyệt thẹn hoa nhường là sao?” Đoàn Dự cười nói: “Cái lý đương nhiên đấy thôi.” Cô gái hỏi: “Cái lý, đương nhiên là thế nào?” Đoàn Dự đáp: “Cái lý đương nhiên có nghĩa là đương nhiên phải như thế.” Cô gái nói: “Chỉ đoán mò. Ngươi có nằm mơ cũng không biết được mặt mũi ta ra sao, mặt ta rỗ như bánh tráng mè.” Đoàn Dự đáp: “Không đâu, không đâu! Cô đừng quá khiêm nhường.”

Cô gái thấy quần áo mình bị móc rách nên lột một chiếc áo khoác của xác chết choàng lên người. Đoàn Dự kêu lên: “Chao ôi!” nghĩ đến quần mình cũng bị toạc mấy lỗ lớn, mông đít lòi cả ra trước mặt cô gái này, còn ra thế thống gì nữa? Chàng không dám quay lưng về phía cô ta, vội vàng đi giật lùi, bắt chước lột lấy một cái áo choàng trên xác chết, khoác lên mình. Cô gái bật cười, Đoàn Dự mặt đỏ như gấc, nghĩ đến quần mình rách một mảng lớn, xấu hổ không tả xiết.

Cô gái nhổ mấy mũi tên ngắn trên người những xác chết bỏ vào túi, lại đá luôn mấy cái vào kẻ đã móc trúng cô ta. Đoàn Dự nói: “Đoản tiễn của cô kiến huyết phong hầu (thấy máu là tắt thở) thật là độc địa. Ta khuyên cô nương từ nay về sau chỉ trừ khi vạn bất đắc dĩ, chớ có nên dùng làm gì, làm tổn thương nhân mạng là phạm đến đức hiếu sinh…” Cô gái quát: “Ngươi lải nhải hoài, liệu có muốn nếm mùi kiến huyết phong hầu hay chăng?” Tay phải nàng vung lên, nghe vút một tiếng, một mũi độc tiễn xẹt ngang người Đoàn Dự cắm thẳng xuống đất.

Đoàn Dự mặt xanh như tàu lá, không dám nói gì thêm. Cô gái nói: “Chắc ta phải phong luôn yết hầu ngươi cho hết lải nhải.” Nói xong nàng đi đến nhổ mũi tên lên, giơ tay nhứ nhứ về phía Đoàn Dự. Chàng sợ quá nhảy vọt ra phía sau.

Cô gái cười khanh khách, bỏ mũi tên vào túi, trừng mắt nhìn chàng nói: “Ngươi khoác cái áo đó, phải kéo cái áo choàng lên che đầu mà giả gái. Lỡ có gặp ai, người ta không bảo là mình một nam một nữ bỏ…” Đoàn Dự nói: “Đúng lắm! Đúng lắm!” Chàng nghe lời, cởi chiếc mũ nho sinh trên đầu xuống bỏ vào trong túi, kéo áo choàng lên che. Cô gái vỗ tay cười khanh khách.

Đoàn Dự thấy nàng dáng thật ngây thơ, nghĩ thầm: “E rằng nàng còn ít tuổi hơn ta, sao lại ra tay giết người tàn độc đến thế”. Chàng thấy chiếc áo khoác của nàng trên ngực có thêu một con chim thứu màu đen ngửng đầu nhìn chằm chằm, thần thái uy mãnh, trên ngực mình cũng có một con y như thế, bèn lắc đầu thở dài: “Con gái có thêu thì thêu hoa, thêu bướm, ai lại thêu hình một con chim hung tợn thế này, xem ra có vẻ giang hồ quá.” Nói xong chàng lại lắc đầu quầy quậy.

Cô gái trừng mắt nói: “Ý ngươi muốn nói ta đấy chăng?” Đoàn Dự vội đáp: “Không đâu, không đâu. Không dám thế, không dám thế.” Cô gái vặn lại: “Thế thì ngươi không đâu hay là không dám?” Đoàn Dự đáp: “Không dám đâu.” Cô gái không nói thêm nữa.

Đoàn Dự hỏi: “Vết thương cô có đau lắm không? Mình nghỉ một chút nhé?” Cô gái đáp: “Đã là vết thương dĩ nhiên phải đau. Để ta cắt trên người ngươi vài dao, xem ngươi có đau không nào?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ngang ngược chua ngoa đến vậy là cùng”. Cô gái lại hỏi: “Có thực sự ngươi lo lắng cho ta hay không? Trên đời này làm gì có người con trai nào tốt đến thế? Có phải người mong ta mau mau đi cứu Chung Linh nhưng không nói ra chứ gì? Thôi đi!” Nói xong nàng đi đến bên con Hắc Mai Côi, nhảy lên lưng ngựa, chỉ tay về hướng tây bắc nói: “Kiếm Hồ Cung của Vô Lượng Kiếm ở phía đó phải không?” Đoàn Dự đáp: “Dường như là thế.”

Hai người chầm chậm đi về hướng tây bắc. Được một lúc, cô gái lại hỏi: “Trong cái hộp vàng có ngày sinh tháng đẻ là của ai thế?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thì ra cô ả đã mở ra coi rồi”, Chàng bèn nói: “Ta không biết.” Cô gái hỏi: “Của Chung Linh phải không?” Đoàn Dự đáp: “Quả thực ta không biết.” Cô gái nói: “Sao ngươi còn giấu ta? Chung phu nhân hứa gả con gái cho ngươi, có phải không? Nói thật cho ta nghe đi.” Đoàn Dự đáp: “Không đâu, quả là không có. Đoàn Dự này nếu như nói láo cô nương, cô cứ việc cho ta nếm mùi kiến huyết phong hầu.”

Cô gái lại hỏi thêm: “Ngươi họ Đoàn đấy ư? Tên là Đoàn Dự à?” Đoàn Dự đáp: “Đúng thế! Chữ Dự là danh dự.” Cô gái nói: “Hừ, thế danh dự ngươi có ra gì không, sao ta chẳng thấy?” Đoàn Dự cười đáp: “Trong câu danh dự bại hoại cũng có chữ dự.” Cô gái nói: “Thế thì đúng rồi.” Đoàn Dự hỏi: “Còn tôn tính của cô nương?” Cô gái nói: “Sao ta lại phải nói cho người nghe? Tên ngươi tự miệng nói ra chứ ta đâu có hỏi.”

Chạy một đoạn nữa, cô gái lại hỏi: “Đến khi mình cứu. được Chung Linh ra rồi, con nhãi đó mà gọi tên ta ra, ngươi không được nghe đấy nhé.” Đoàn Dự cố nhịn cười: “Được rồi, ta không nghe đâu.” Cô gái xem chừng câu trả lời đó không thật thà, nói thêm: “Nếu như ngươi lỡ nghe thì cũng không được nhớ.” Đoàn Dự đáp: “Được rồi, nếu như có lỡ nhớ thì ta cũng phải tìm cách quên đi.” Cô gái nói: “Hứ, ngươi định nhạo báng ta, tưởng ta không biết hay sao?”

Trong khi nói chuyện, trời tối dần, chẳng bao lâu mặt trăng đã nhô lên ở phương đông, hai người nhờ có ánh trăng nên tìm đường đi khá dễ dàng. Đi được chừng hai canh, nhìn xa xa nơi triền núi có những đốm lửa lập lòe, ở phía đông có một ngọn núi vươn lên cao, dưới chân núi là mươi gian nhà lớn, chính là Kiếm Hồ Cung của Vô Lượng Kiếm. Đoàn Dự chỉ vào những ngọn lửa nói: “Thần Nông Bang ở phía bên kia, bọn mình lẳng lặng tới đó, cướp lấy Chung Linh rồi chạy, có được chăng?”

Cô gái lạnh lùng hỏi: “Chạy cách nào?” Đoàn Dự đáp: “Cô và Chung Linh hai người cưỡi con Hắc Mai Côi chạy cho nhanh, Thần Nông Bang đuổi không kịp đâu.” Cô gái hỏi: “Còn ngươi thì sao?” Đoàn Dự đáp: “Ta đã bị Thần Nông Bang ép phải uống đoạn trường tán, Tư Không Huyền nói là sau bảy ngày, chất độc phát tác sẽ chết, thành thử ta phải làm cách nào lừa chúng cho thuốc giải trước rồi mới chạy được.”

Cô gái nói: “Thì ra người đã bị chúng ép uống thuốc độc rồi. Sao không tìm cách giải độc cho xong lại chạy về báo tin cho ta làm gì?” Đoàn Dự đáp: “Ta vẫn nghĩ con Hắc Mai Côi chạy nhanh như thế, có quay trở về báo tin cũng chẳng mất bao nhiêu thời gian.” Cô gái hỏi vặn lại: “ Trời sinh ra ngươi là người tốt bụng hay là một chàng ngốc?” Đoàn Dự cười: “E rằng mỗi thứ một nửa.”

Cô gái hừ một tiếng nói: “Làm sao đánh lừa lấy được giải dược đây?” Đoàn Dự trù trừ rồi nói: “Giá như có thuốc giải thiểm điện điêu đem tới đổi cho chúng lấy thuốc giải đoạn trường tán là tốt nhất. Bọn chúng không có thuốc giải thiểm điện điêu thì thuốc giải đoạn trường tán thật khó mà đánh lừa để có được. Cô nương, cô có cách gì không?” Cô gái đáp: “Đàn ông con trai mới giỏi đánh lừa người khác, ta làm gì có cách nào để lừa thiên hạ. Chỉ có cách ép chúng phải vừa thả Chung Linh, vừa đưa thuốc giải.”

Đoàn Dự rợn người biết rằng nàng lại toan giết mấy chục mạng, nghĩ thầm: “Hay nhất… hay nhất…”. Thế nhưng cái hay nhất ấy thế nào, chàng vẫn nghĩ không ra.

Hai người sánh vai đi về phía đống lửa. Đi đến chỗ còn cách đống lửa to nhất chừng vài mươi trượng, trong bóng tối đột nhiên có hai người nhảy ra, tay cầm cuốc xẻng giơ ngang ngực. Một người quát hỏi: “Ai đó? Đến có việc gì?” Cô gái đáp: “Tư Không Huyền đâu? Mau bảo y ra gặp ta!”

Dưới ánh trăng hai người đó thấy cô gái và Đoàn Dự đều khoác áo choàng gấm màu xanh biếc, trên ngực thêu chim thứu đen, liền hoảng hồn lập tức quì xuống. Một người nói: “Vâng, vâng! Tiểu nhân không biết sứ giả Linh Thứu Cung giá lâm, quả… quả là mạo phạm, mong thánh sứ tha tội cho.” Giọng y run run hiển nhiên cực kỳ sợ hãi.

Đoàn Dự lấy làm lạ: “Cái gì mà sứ giả Linh Thứu Cung?” nhưng hiểu ngay: “À, đúng rồi, họ nhận lầm người là do cái áo choàng này”. Chàng nhớ lại mấy hôm trước nghe Chung Linh kể lại, Tư Không Huyền nghe hiệu lệnh của Thiên Sơn Đồng Mỗ của Linh Thứu Cung núi Phiêu Diểu đến chiếm cho bằng được Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng. Thần Nông Bang đã là bộ thuộc của Linh Thứu Cung, thảo nào bọn này sợ hãi đến thế.

Cô gái dĩ nhiên không hiểu nguyên do, hỏi lại: “Cái gì Linh…” Đoàn Dự sợ nàng làm lộ chuyện với vàng quát át đi: “Mau gọi Tư Không Huyền ra đây!” Hai người kia vội vàng vâng dạ, đứng lên, lùi lại mấy bước rồi quay mình chạy về phía đống lửa.

Đoàn Dự nói nhỏ với cô gái: “Linh Thứu Cung là chủ của bọn họ.” Chàng kéo cái áo khoác lên che kín mồm mũi, chỉ để lộ hai con mắt.

Cô gái toan hỏi thêm, Tư Không Huyền đã chạy tới, lớn tiếng nói: “Thuộc hạ Tư Không Huyền cung nghinh thánh sứ, không kịp ra xa đón tiếp, xin tha tội.” Y chạy đến trước mặt, quì xuống khấu đầu nói: “Thần Nông Bang Tư Không Huyền cung chúc Đồng Mỗ vạn thọ thánh an.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Đồng Mỗ là hạng người nào? Đâu phải hoàng đế, hoàng thái hậu, cái gì mà vạn thọ thánh an, thật chẳng ra gì”. Chàng bèn gật đầu nói: “Đứng lên đi!” Tư Không Huyền đáp: “Vâng.” Y lại dập đầu thêm hai cái nữa mới đứng dậy. Lúc này sau lưng y đã quì đầy người, đều là bang chúng Thần Nông Bang.

Đoàn Dự hỏi: “Chung tiểu cô nương đâu? Mau đưa ra đây!” Hai tên bang chúng không đợi Tư Không Huyền ra lệnh đã chạy ngay về phía đống lửa dẫn Chung Linh ra. Đoàn Dự tiếp: “Cắt dây trói.” Tư Không Huyền đáp: “Vâng.” Y rút truy thủ cắt hết dây trói chân tay Chung Linh, Đoàn Dự thấy nàng an toàn không thương tích gì trong lòng mừng rỡ, cố gắng giả giọng nói: “Chung Linh, lại đây!” Chung Linh hỏi: “Ngươi là ai?” Tư Không Huyền gằn giọng quát: “Trước mặt thánh sứ không được vô lễ. Lão nhân gia gọi ngươi là ngươi phải đến.” Chung Linh nghĩ thầm: “Ta cóc cần biết lão nhân gia, tiểu nhân gia gì ráo. Có điều ngươi không để cho người khác trói ta, lão râu dê kia lại sợ ngươi một phép, thà nghe lời ngươi còn hơn”. Nghĩ thế nàng bèn đi đến trước mặt Đoàn Dự.

Đoàn Dự giơ tay ra nắm lấy tay Chung Linh, kéo lại bên mình, cào cào lòng bàn tay nàng, nhưng biết nàng không thể hiểu được nên thôi, bèn nói với Tư Không Huyền: “Đem thuốc giải đoạn trường tán ra đây!”

Tư Không Huyền lấy làm lạ, nhưng vội sai thuộc hạ: “Lấy hòm thuốc của ta ra, mau lên!” Y hơi trầm ngâm lập tức suy đoán: “Chắc là tên họ Đoàn đi năn nỉ được sứ giả Linh Thứu Cung”. Hòm thuốc đem đến nơi, y mở nắp, lấy ra một cái bình sứ, cung kính dâng lên, nói: “Thỉnh thánh sứ thu dùng. Thuốc giải này uống liên tiếp ba ngày, mỗi ngày một lần, mỗi lần một đồng cân là đủ.” Đoàn Dự mừng lắm cầm ngay lấy.

Chung Linh vội hỏi: “Này, lão râu dê kia, ngươi có còn thuốc giải không? Ngươi bằng lòng giải độc cho Đoàn đại ca, nếu như đưa cho người ta hết rồi, một khi Đoàn đại ca đưa cha ta tới thì ngươi lấy gì mà đưa?” Đoàn Dự trong lòng cảm kích, lại khều khều tay nàng. Tư Không Huyền nói: “Cái đó… cái đó…” Chung Linh vội vã nói: “Cái đó, cái đó là sao? Ngươi không giải độc được cho Đoàn đại ca, ta không bảo gia gia ta giải độc cho ngươi đâu.”

Cô gái áo đen ngứa tai không chịu nổi quát lên: “Chung Linh, không được lắm lời, Đoàn đại ca của ngươi không chết đâu.”

Chung Linh nghe giọng quen tai, “ồ” một tiếng quay sang nhìn, liền nhận ra ngay, vui mừng nói: “A! Mộc…” Nàng lập tức nghĩ ra, vội vàng giơ tay bịt miệng lại.

Tư Không Huyền lòng đầy lo âu, vội quỳ xuống nói: “Khải bẩm hai vị thánh sứ, thuộc hạ bị con thiểm điện điêu của tiểu cô nương đây cắn phải, độc tính thật lợi hại, xin nhị vị khai ân.” Đoàn Dự nghĩ thầm, nếu như mình không cho y thuốc giải, chỉ sợ y đường cùng liều mạng nên quay sang nói với cô gái áo đen: “Tỉ tỉ, cho y một chút linh đơn thánh được của Đồng Mỗ.” Tư Không Huyền nghe nói linh đơn thánh được của Đồng Mỗ, trong bụng mừng quá, liên tiếp dập đầu xuống đất binh binh nói: “Đa tạ Đồng Mỗ đại ân đức, thánh sứ ân đức, cả thảy mười chín người bọn thuộc hạ bị độc điêu cắn phải.”

Cô gái nghĩ thầm: “Ta làm gì có linh đơn thánh dược của Đồng Mỗ? Có điều ta đang bị thương cả tay lẫn chân, muốn lo cho cả hai người này không phải dễ. Chi bằng nghe lời Đoàn tiểu tử mà đánh lừa lão râu dê một chuyến”. Nàng lấy trong túi ra một cái bình nhỏ nói: “Đưa tay đây!” Tư Không Huyền vội đáp: “Vâng, vâng.”Y xòe tay ra, mắt nhìn xuống không dám nhìn thẳng. Cô gái đổ lên bàn tay y một ít bột màu xanh nói: “Uống một chút là giải độc.” Nàng nghĩ thầm: “Phấn thơm xoa mặt của ta chế tạo đâu có dễ, không thể cho ngươi nhiều được”.

Khi nàng vừa mở bình, Tư Không Huyền đã thấy hương thơm sực nức bay xông lên mũi. Y cả đời nghiên cứu thuốc men nhưng cũng không đoán ra loại dược vật này, đến khi bột thuốc để lên tay rồi, mùi thơm bốc ra khiến toàn thân thư thái, nghĩ bụng Thiên Sơn Đồng Mỗ quả là thần thông quảng đại, linh đơn thánh dược này thật khác thường. Y mừng lắm, luôn mồm cảm tạ, có điều tay đang đựng thuốc bột nên không dám khấu đầu.

Đoàn Dự thấy mọi việc đã xong xuôi bèn nói: “Tỉ tỉ, chúng mình đi.” Chàng đang khoái chí, quên cả giả tiếng, cũng may bọn Tư Không Huyền không ai nghi ngờ gì.

Tư Không Huyền nói: “Khải bẩm thánh sứ, Tả Tử Mục của Vô Lượng Kiếm chẳng biết trời đất, dám ngang nhiên kháng mệnh. Thuộc hạ vì trúng độc bị thương, đứt mất một cánh tay nên việc chưa xong ngay được, thật là phụ ân đức của Đồng Mỗ, tội đáng chết muôn lần. Thuộc hạ xin lập tức thống suất bộ thuộc, tấn công vào Kiếm Hồ Cung. Xin thánh sứ ở lại đốc chiến cho.”

Đoàn Dự đáp: “Cũng chẳng cần. Kiếm Hồ Cung cũng không phải tấn công làm gì nữa, các ngươi rút lui di.”

Tư Không Huyền sợ quá, vốn biết tính nết của Đồng Mỗ, sứ giả nói năng càng dịu dàng thì sau này trừng phạt càng nặng, xem chừng mấy câu này thánh sứ trách mình hành động bất lực nên vội vàng nói: “Thuộc hạ đáng chết! Mong thánh sứ trước mặt Đồng Mỗ nói tốt cho vài câu.”

Đoàn Dự không dám nói nhiều, vẫy tay một cái, cầm tay Chung Linh đi ra, Tư Không Huyền giơ cao bàn tay chứa phấn thơm, hai gối quì xuống, lớn tiếng nói: “Thần Nông Bang cung tống hai vị thánh sứ, cung chúc Đồng Mỗ lão nhân gia vạn thọ thánh an.” Bọn bang chúng đứng đằng sau cũng nhất loạt quì xuống, đồng thanh cất tiếng: “Thần Nông Bang cung tống hai vị thánh sứ, cung chúc Đồng Mỗ lão nhân gia vạn thọ thánh an.”

Đoàn Dự đi được mấy trượng, thấy bấy nhiêu người cùng quì dưới đất không khỏi tức cười bèn lớn tiếng nói: “Linh Thứu Cung chúc Tư Không Huyền lão nhân gia vạn thọ thánh an.”

Tư Không Huyền nghe chàng nói thế, xem ra đảo ngược ý nghĩa lại càng thêm ghê gớm, sợ đến mất vía, tưởng chừng muốn lăn ra bất tỉnh. Hai tên bang chúng đằng sau thấy bang chủ lảo đảo, sợ linh đan diệu dược trong tay đổ mất, vội vàng tiến lên đỡ lấy tay y.

Đoàn Dự cùng hai cô gái đi ra ngoài mấy chục trượng rồi không còn nghe thấy bang Thần Nông lao xao gì nữa. Chung Linh huýt sáo miệng liên tiếp, gọi con chồn quay lại nhưng không thấy đâu, bèn nói: “Mộc tỉ tỉ, đa tạ hai vị đến cứu, nhưng tiểu muội muốn ở lại đây.”

Cô gái hỏi: “Ở lại đây để làm gì? Chờ con chồn của ngươi ư?” Chung Linh đáp: “Không đâu! Tiểu muội muốn ở lại đây chờ Đoàn đại ca, chàng đi mời cha muội tới giải độc cho bọn Thần Nông Bang. Nàng quay lại nói với Đoàn Dự: “Tỉ tỉ ơi, có thể cho muội một ít thuốc giải đoạn trường tán không?” Cô gái nói: “Gã họ Đoàn kia không trở lại nữa đâu.” Chung Linh hấp tấp nói: “Không đâu, không đâu! Chàng nói đến là thế nào cũng đến, dẫu cho cha muội không chịu đi, Đoàn đại ca cũng sẽ quay lại một mình.” Cô gái nói: “Hừ, đàn ông con trai chỉ giỏi lừa dối, làm sao người tin lời của y được?” Chung Linh nghẹn ngào nói: “Đoàn đại ca không lừa dối… không lừa dối muội đâu.”

Đoàn Dự cười ha hả, lột chiếc áo choàng che trên đầu nói: “Chung cô nương, Đoàn đại ca của cô quả là không lừa dối cô đâu.”

Chung Linh sững sờ nhìn chàng, mừng không biết để đâu cho hết, nhào tới ôm chặt lấy cổ chàng, kêu lên: “Huynh không lừa muội! Huynh không lừa muội!”

Cô gái kia đột nhiên nắm cổ áo, nhấc Chung Linh lên để qua một bên, lạnh lùng nói: “Không được làm thế!” Chung Linh sợ hãi, tuy trong bụng hết sức hoan hỉ nhưng không dám trái lời bèn hỏi: “Mộc tỉ tỉ, hai người làm sao mà lại gặp nhau?” Cô gái hừ một tiếng, không trả lời, Đoàn Dự nói: “Thôi mình vừa đi vừa nói chuyện.”

Chàng lo ngại Tư Không Huyền thấy thuốc không linh nghiệm sẽ đuổi theo. Cô gái nhảy lên lưng ngựa, tự mình đi trước. Đoàn Dự thuật sơ qua cho Chung Linh nghe những việc xảy ra, nhưng việc chàng bị cô gái hành hạ thì không nhắc đến, chỉ nói nàng đã cứu mạng mình mà thôi. Chung Linh lớn tiếng nói: “Mộc tỉ tỉ, chị cứu Đoàn đại ca, em thật không biết làm sao mà đền đáp.” Cô gái kia bực bội nói: “Ta cứu y thì có liên quan gì đến ngươi đâu?” Chung Linh quay sang Đoàn Dự le lưỡi, nhăn mặt làm trò.

Cô gái lại nói: “Này, Đoàn Dự, tên ta không cần phải để con tiểu quỉ Chung Linh nói cho ngươi hay, tự mình nói được rồi, tên ta là Mộc Uyển Thanh.” Đoàn Dự nói: “Ồ, họ đã hay mà tên cũng đẹp quá!” Mộc Uyển Thanh nói: “Có đẹp bằng tên ngươi, danh dự bại hoại không?” Đoàn Dự cười ha hả.

Chung Linh cầm tay Đoàn Dự, nói nhỏ: “Đoàn đại ca, huynh tốt với muội quá.” Đoàn Dự nói: “Chỉ tiếc là tìm không thấy con chồn của cô.” Chung Linh lại huýt thêm mấy tiếng nói: “Cái đó cũng không sao, đợi bọn ác nhân đi khỏi rồi, muội sẽ quay lại tìm. Huynh đi với muội, có được không?” Đoàn Dự đáp: “Được chứ!” Chàng nghĩ đến pho tượng ngọc trong sơn động, liền tiếp: “Từ nay ta sẽ thường xuyên quay lại đây.” Mộc Uyển Thanh bực bội nói: “Ngươi không cần phải đi, nó tự mình đi tìm con chồn được rồi.” Đoàn Dự quay sang Chung Linh le lưỡi, nhăn mặt, hai người cùng mỉm cười.

Ba người thôi nói chuyện, chầm chậm đi thêm mấy dặm, Mộc Uyển Thanh đột nhiên hỏi: “Chung Linh, sinh nhật ngươi là ngày mùng năm tháng hai phải không?” Nàng ngồi trên lưng ngựa, nói chuyện mà không quay đầu lại. Chung Linh nói: “Đúng đó, Mộc tỉ tỉ làm sao biết được?” Mộc Uyển Thanh giận quá, hậm hực nói: “Đoàn Dự, ngươi không nói dối thì là gì?” Nàng giật giây cương, con Hắc Mai Côi liền vọt lên trước.

Bỗng từ hướng tây bắc có tiếng người hú lên, rồi phía đông bắc có người vỗ tay bốn cái. Một bóng người vụt qua, đến cách ba người chừng bảy tám trượng, đột nhiên đứng lại, giọng khàn khàn quát lên: “Tiểu tiện nhân, xem người còn chạy đi đâu?” Nghe giọng nói, chính là Thụy bà bà. Ngay lúc đó, ở đằng sau cũng có tiếng người cười gằn, Đoàn Dự vội quay đầu lại, dưới ánh trăng sao mờ mờ thấy đó chính là Bình bà bà, hai tay cầm song đao sáng lấp loáng. Thế rồi hai bên cũng thấy có người, bên trái là một ông già râu bạc, tay cầm ngang một chiếc xẻng sắt, bên phải là một hán tử còn trẻ, tay cầm trường kiếm. Đoàn Dự chợt nhớ hai người này cũng trong số những kẻ vây đánh Mộc Uyển Thanh.

Mộc Uyển Thanh cười khẩy nói: “Các ngươi thật chẳng khác gì âm hồn bất tán, đã đuổi đến tận đây quả là có chí lắm.” Bình bà bà đáp: “Con tiểu tiện nhân có chui xuống đất, bọn ta cũng đuổi theo cho bằng được.” Nghe soẹt một tiếng, Mộc Uyển Thanh đã bắn ra một mũi đoản tiễn, gã cầm kiếm mắt tinh tay lẹ liền giơ kiếm lên gạt đi. Mộc Uyển Thanh từ trên yên tung mình nhảy lên, xông thẳng vào lão già.

Ông già đó tuổi tác đã cao nhưng ứng biến thật là nhanh nhẹn, tay phải vung lên, chiếc xẻng đã đâm nhứ vào Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh chưa rơi tới đất, chân trái đã điểm vào cán xẻng mượn sức, kiếm trên tay đâm luôn vào Bình bà bà. Bình bà bà vung dao gạt ra, nghe “cách” một cái, đầu thanh đao đã bị kiếm của Mộc Uyển Thanh chém gãy, tiếp theo kiếm quang như một làn sương mỏng lao luôn xuống. Thụy bà bà vội vàng vung thiết trượng đánh vào sau lưng Mộc Uyển Thanh, cô gái không kịp đả thương Bình bà bà, trường kiếm đập ngang, lưỡi kiếm đè vào vai Bình bà bà một cái, thân hình lại vọt trở lên. Nếu như nàng không phải tránh thiết trượng của Thụy bà bà, lưỡi kiếm thay vì tạt ngang mà đâm thẳng, Bình bà bà ắt đã bị đâm xuyên qua người.

Chung Linh ở bên ngoài giơ tay vẫy Đoàn Dự lia lịa, kêu lên: “Đoàn đại ca, mau lại đây?” Đoàn Dự chạy vội tới, hỏi: “Cái gì thế?” Chung Linh đáp: “Thôi mình chạy đi.” Đoàn Dự đáp: “Mộc cô nương đang bị người ta vây đánh, mình nỡ nào bỏ chạy?” Chung Linh đáp: “Mộc tỉ tỉ bản lãnh cao cường lắm, chị ấy sẽ có cách thoát thân.” Đoàn Dự lắc đầu: “Cô ấy vì cứu muội mà đến đây, nếu bây giờ mình bỏ cô ta mà đi, làm sao yên lòng được?” Chung Linh dậm chân nói: “Huynh thật đúng là đồ gàn. Chàng ở lại đây có giúp gì được Mộc tỉ tỉ chăng? Ôi, tiếc thay con thiểm điện điêu của ta lại chưa quay về.”

Khi đó bốn người bọn Thụy bà bà và Mộc Uyển Thanh đang đấu đến lúc hăng, thiết trượng của Thụy bà bà và thiết sản của ông già là binh khí dài, múa lên lộng gió nghe vù vù, Mộc Uyển Thanh tuy đang ác đấu nhưng vẫn nghe hết mọi phía, những gì Chung Linh và Đoàn Dự nói với nhau đều lọt vào tai. Lại nghe Đoàn Dự nói tiếp: “Chung cô nương, cô đi trước đi. Nếu như ta phụ Mộc cô nương thì không phải đạo làm người. Một khi nàng không địch lại người, ta ở bên ngoài khuyên nhủ, biết đâu lại không vãn hồi được cuộc thế.” Chung Linh nói: “Huynh ở đây chỉ chết uổng mạng thôi chứ chẳng ích gì. Thôi chạy mau, Mộc tỉ tỉ không trách huynh đâu.” Đoàn Dự đáp: “Nếu như không có Mộc cô nương tốt bụng cứu cho, cái mạng này đã không còn nữa rồi. Chết trễ nửa ngày là sống thêm được nửa ngày, không phải là không ích gì.” Chung Linh vội nói: “Huynh gàn bướng quá, cãi với huynh cũng chẳng đến đâu.” Nói xong nàng liền nắm tay Đoàn Dự lôi đi.

Đoàn Dự kêu lên: “Ta không đi! Ta không đi!” Thế nhưng chàng bị Chung Linh lội đi sềnh sệch.

Bỗng nghe Mộc Uyển Thanh cao giọng quát: “Chung Linh, ngươi mau chạy đi, đừng kéo y như thế.” Chung Linh càng kéo Đoàn Dự nhanh hơn, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, bím tóc nàng rung rung, một mũi đoản tiễn đã cắm vào. Mộc Uyển Thanh quát lên: “Nếu người không buông tay, ta sẽ bắn vào mắt ngươi đó.” Chung Linh biết Mộc Uyển Thanh nói sao làm vậy, đành phải buông Đoàn Dự ra.

Mộc Uyển Thanh quát lớn: “Chung Linh, mau cút về với cha mẹ ngươi, đi mau! Ngươi còn lẩn quẩn ở đây đợi Đoàn đại ca của ngươi, ta sẽ bắn ngươi ba mũi tên đó.” Miệng tuy nói nhưng tay không chậm lại chút nào, liên tiếp gạt những binh khí tấn công ra.

Chung Linh không dám cãi, quay sang nói với Đoàn Dự: “Đoàn đại ca, huynh phải cẩn thận.” Nói xong cô gái ôm mặt chạy vào trong bóng tối.

Mộc Uyển Thanh đuổi được Chung Linh đi rồi, lượn qua lượn lại trong vòng vây của bốn người, vết thương trên đùi ngâm ngẩm đau, đột nhiên biến đổi kiếm chiêu, từng vầng kiếm quang vùn vụt như sao băng. Bỗng ông già kêu oái lên một tiếng, bên sườn trúng kiếm, Mộc Uyển Thanh liên tiếp đâm ra ba nhát, ép cho Thụy bà bà và gã cầm kiếm phải nhảy ra khỏi vòng để tránh, mũi kiếm quay trở lại quấn chặt lấy Bình bà bà. Chỉ trong khoảnh khắc Bình bà bà đã bị ba vết thương nhưng mụ không coi vào đâu, vẫn lăn xả vào Mộc Uyển Thanh như một con hổ điên. Ba người kia quay trở lại đấu tiếp, Bình bà bà xông được vào gần bên Mộc Uyển Thanh, đoản đao trong tay đâm vào đùi nàng. Mộc Uyển Thanh giơ chân đá mụ ta lăn cù, nhưng ngay khi đó thiết trượng của Thụy bà bà phóng tới giữa hai lông mày. Mộc Uyển Thanh vội vàng thu kiếm trở về, gạt trượng ra, thuận thế đâm luôn vào giữa ngực kẻ địch.

Thụy bà bà nghiêng người tránh né, vung gậy lên gạt. Mộc Uyển Thanh thở hắt ra một hơi toan biến chiêu, đột nhiên nghe sột một cái, vai trái đau nhói. Thì ra lão già sau khi bị thương rồi không còn sử thiết sản được nữa, liền rút búa sắt thừa cơ chém một nhát vào vai Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh quật ngược lại một chưởng, đánh cho mặt lão già nát bấy, lập tức chết ngay. Bọn Thụy bà bà lúc ấy đã tiến lên giáp kích, Bình bà bà kêu lên: “Tiểu tiện nhân bị thương rồi, không cần bắt sống, giết nó cũng được.”

Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh bị thương, trong lòng hoảng hốt, lại sử dụng trò cũ, xông lên ôm xác lão già quật vào, nhưng vướng phải bốn người nên không tiến lên được, trong cơn gấp gáp, cởi chiếc áo choàng ra, xông vào múa lên chụp được lên đầu Bình bà bà. Bình bà bà không nhìn thấy gì, kinh hãi quá vội giơ tay ra gạt đi, nhưng quên mất trong tay mình đang cầm đoản đao nên tự chém phải mặt mình, kêu lên oai oái như heo bị chọc tiết.

Mộc Uyển Thanh không có thì giờ rút búa ra khỏi vai, cố nhịn đau, gấp rút công luôn hai kiếm về phía Thụy bà bà, lại đâm một nhát vào hán tử sử kiếm. Ba chiêu đó thật tuyệt diệu, bên má phải của Thụy bà bà bị rạch một đường, còn hán tử cấm kiếm cũng bị mũi kiếm xẹt ngang cổ. Hai người tuy bị thương nhẹ nhưng những nơi trúng kiếm đều là bộ vị yếu hại, trong cơn kinh hoảng, vội vàng nhảy qua một bên, giơ tay sờ thử vết thương. Mộc Uyển Thanh kêu thầm: “Tiếc quá, không giết được hai đứa này”. Nàng hít một hơi chân khí, cất tiếng hú lên, con Hắc Mai Côi liền chạy tới. Mộc Uyển Thanh nhảy vọt lên, thuận tay nắm cổ áo Đoàn Dự để lên yên, hai người cưỡi chung một con ngựa chạy vọt về hướng tây.

Chạy chưa đầy mười trượng, trong rừng bỗng có tiếng người reo hò, hơn một chục người xông ra chặn ngang đường. Đứng giữa là một lão già cao lớn quát lên: “Tiểu tiện nhân, lão gia đợi ngươi ở đây lâu rồi.” Y vung tay toan nắm dây cương con Hắc Mai Côi. Mộc Uyển Thanh tay phải vươn ra, ba mũi đoản tiễn bắn ra cùng lúc. Trong đám người ba kẻ trúng tên, lập tức ngã lăn ra. Lão già kia còn đang sững sờ, Mộc Uyển Thanh liền giật cương con Hắc Mai Côi theo chỗ trống trên hàng rào người vọt qua. Những người đó sợ độc tiễn của nàng ghê gớm, tuy chạy đuổi theo nhưng ai cũng lo múa binh khí giữ mặt nên hai bên càng lúc càng xa. Chỉ nghe đoàn người nhao nhao mắng chửi: “Tặc a đầu! Lại để nó chạy mất rồi.” “Dù cho ngươi chạy lên trời, ta cũng phải bắt cho kỳ được ngươi đem lột da, cắt gân.” “Tất cả đuổi theo!”

Trên núi Vô Lượng đường đi ngoằn ngoèo, lượn bên đông vòng bên tây, không dễ gì nhận định được phương hướng. Mộc Uyển Thanh để cho con Hắc Mai Côi ở trong núi chạy đâu thì chạy, đến một mỏm núi cao, trước mặt lại là một hang sâu bèn giục ngựa quay lại tìm đường ra. Đột nhiên ở phía trước có tiếng người: “Con ngựa chạy tới rồi đó!” “Theo hướng này đuổi!” “Tiểu tiện nhân quay lại rồi!” Mộc Uyển Thanh đã bị thương, không còn hơi sức mà đánh tiếp, vội vàng quay đầu ngựa ra phía khác, theo con đường dốc phía bên phải mà đi. Lúc này không còn đường sá mà gặp đâu theo đó, cũng may Hắc Mai Côi là loại thần mã, trên triền núi đầy đá lởm chởm mà vẫn chạy như bay. Lại đi thêm một hồi nữa, chân trước Hắc Mai Côi bất thình lình khuỵu xuống, đầu gối va vào nham thạch, chân khập khiễng, bước bắt đầu loạng choạng, chạy chậm hẳn đi.

Đoàn Dự trong bụng lo lắng nói: “Mộc cô nương để ta xuống, một mình cô dễ thoát thân hơn. Bọn họ với ta không thù không oán, dù có bắt được ta chắc cũng không làm gì.” Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng, nói: “Ngươi mà biết cái gì? Ngươi là người Đại Lý, nếu như họ bắt được ngươi lập tức chém cho mấy nhát.” Đoàn Dự nói: “Thế thì lạ lùng thật, người Đại Lý biết bao nhiêu, làm sao giết hết được? Cô nương cứ chạy trước là hơn.”

Mộc Uyển Thanh thấy trên đầu vai đau nhói từng chập, nghe Đoàn Dự cứ lải nhải mãi, cáu tiết nói: “Ngươi có câm mồm đi không? Đừng nhiều lời nữa!” Đoàn Dự đáp: “Thôi được. Cô để ta ngồi sau lưng.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Để làm gì?” Đoàn Dự đáp: “Chiếc khăn choàng của ta chụp lên đầu mụ mập kia rồi.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Thế thì đã sao?” Đoàn Dự đáp: “Quần ta bị thủng một lỗ lớn, ngồi ở trước mặt cô, hở cả… hở cả…, quả là… quả là vô lễ với cô nương.”

Mộc Uyển Thanh dường như vết thương đau không chịu nổi, nghiến răng đưa tay nắm lấy vai Đoàn Dự, bóp một cái, khớp xương kêu lên răng rắc, quát lớn: “Câm mồm!” Đoàn Dự đau quá, vội nói: “Được rồi! Được rồi, ta không nói nữa”.

Hồi 04: Lời thề độc của Mộc cô nương

Chạy được mấy dặm, Hắc Mai Côi trèo lên một dốc núi dài, thế núi hiểm trở nên con ngựa đi chậm lại. Đằng sau tiếng người hò hét đuổi theo vẫn văng vẳng truyền tới. Đoàn Dự kêu lên: “Hắc Mai Côi ơi! Hôm nay ngươi quả là khổ sở, phiền người chạy nhanh hơn một tí được chăng?” Chạy được chừng một dặm, đột nhiên khe núi hiện ra rộng tới mấy trượng, sâu thăm thẳm nhìn không thấy đáy.

Con Hắc Mai Côi hí lên một tiếng hãi hùng, đang lúc chạy vội nó bỗng đứng sững rồi lùi lại mấy bước.

Mộc Uyển Thanh thấy phía trước không còn đường chạy mà đằng sau lại có quân đuổi theo, thật là mười phần nguy ngập. Nàng hỏi Đoàn Dự: “Ta phải phóng ngựa nhảy qua khe, ngươi có dám mạo hiểm theo ta không, hay muốn ở lại đây?” Đoàn Dự nghĩ thầm:

“Lưng ngựa bớt đi một người, con Hắc Mai Côi hẳn nhảy được dễ hơn”. Rồi chàng đáp: “Cô nương hãy qua trước rồi ném dây kéo ta sang sau.” Mộc Uyển Thanh quay lại thấy những người đuổi theo chỉ còn cách chừng vài chục trượng, nói: “Như thế không kịp mất.” Rồi nàng lùi ngựa lại vài bước, ôn tồn bảo: “ Hắc Mai Côi, mi ráng nhảy qua khe nhé!” Đoạn vỗ nhẹ vào bụng ngựa hai cái.

Con Hắc Mai Côi tung bốn vó chạy ra bờ khe, đem toàn lực nhảy vọt một cái, chân trước gắng gượng bám được vào bờ bên kia. Nhưng khe núi rộng quá, đêm hôm trước nó đã phải chạy suốt đêm, chân lại đang bị thương, vó sau không tài nào mà nhoai lên được, mình cứ tụt dần xuống.

Mộc Uyển Thanh ứng biến mau lẹ, cắp ngay Đoàn Dự nhảy ra khỏi lưng ngựa. Thân Đoàn Dự chạm mặt đất trước, Mộc Uyển Thanh loạng choạng té theo. Đoàn Dự sợ nàng bị thương, giơ hai tay ra đón, ôm choàng ngay lấy. Con Hắc Mai Côi hí lên những tiếng cực kỳ thê thảm, nó rớt xuống vực sâu muôn trượng còn sống làm sao được.

Mộc Uyển Thanh vô cùng xúc động, hất tay Đoàn Dự chạy ra bờ khe, chỉ thấy sương phủ đầy vực, bóng con Hắc Mai Côi chẳng thấy đâu. Bỗng nàng thấy đầu óc choáng váng, trời đất như quay cuồng đảo lộn, chân tay rã rời, mặt mũi tối tăm, ngã quay xuống đất.

Đoàn Dự cả kinh sợ nàng lăn xuống vực thẳm vội nắm giữ lại, thấy nàng mắt nhắm nghiền, thì ra đã ngất đi. Chàng còn đang hoang mang chưa biết tính sao, chợt nghe bờ khe bên kia có tiếng hô lớn: “Bắn! Bắn! Giết chết cả hai đứa đi!” Đoàn Dự ngoảnh đầu nhìn qua bờ đối diện thấy bảy tám người. Chàng cúi xuống ôm lấy Mộc Uyển Thanh mà chạy. Đột nhiên đánh vù một tiếng, một mũi tên bay sát bên tai chàng.

Chàng đi được mấy bước, cúi thấp người xuống ẵm xốc Mộc Uyển Thanh lên để chạy thì lại một mũi tên bay vèo trên đầu. Chàng thấy mé bên trái có tảng đá lớn, liền cố chạy tới đó, nấp vào phía sau. Giây lát bên tai vèo vèo không ngớt, vô số ám khí đập vào tảng đá rồi bắn tung ra. Đoàn Dự sợ quá không dám nhúc nhích. Bỗng nhiên đánh bịch một tiếng, một hòn đá liệng tới bay qua tảng đá lớn, rớt xuống bên mình chàng. Người ném tất phải có sức mạnh ghê gớm, vì hòn đá lớn thế mà liệng xa tới mấy chục trường, chỉ vì xa quá nên không chính xác. Đoàn Dự nghĩ thầm chỗ này chưa yên thân, bèn bế Mộc Uyển Thanh lên nín hơi chạy một mạch hơn mười trượng. Liệu chừng các thứ ám khí, đoản tiễn không thể phóng tới được nữa chàng đứng lại nghỉ, thở một lúc, tìm chỗ đất có cỏ êm đặt Mộc Uyển Thanh xuống, rồi nấp vào sau những mô đá lớn quan sát.

Bờ khe bên kia, lố nhố người đang múa tay hoa chân, chỉ trỏ bàn tán ầm ỹ. Lúc thuận gió Đoàn Dự nghe rõ toàn là những tiếng chửi rủa quát tháo. Chàng liệu chừng chúng chưa có cách nào sang ngay được, nhưng lại nghĩ thầm: “Nếu chúng đi đường vòng tìm được đến đây thì hai mạng chúng ta khó thoát”.

Đoàn Dự lại ba chân bốn cẳng chạy lên đỉnh núi cao trông sang ngả khác, bất giác chàng sợ hãi bủn rủn chân tay, cơ hồ không đứng vững. Nhìn từ đỉnh núi xuống dưới thấp mấy trăm trượng, nước chảy cuồn cuộn: một con sông lớn nước xanh chảy qua. Chàng nhận ra chính là sông Lan Thương, sóng đã to nước lại chảy xiết. Về ngả này tuyệt không có cách nào trèo lên núi được, chỉ còn lo bên ngả khe núi. Chúng có thể xuống đáy vực rồi bấu víu trèo lên. Mình không có võ nghệ thì làm sao chống đỡ? Nghĩ tới đây chàng bất giác thở dài tự nhủ: chi bằng được lúc nào hãy biết lúc ấy. Sống thêm nửa ngày không phải là không được cái gì.

Đoàn Dự trở lại chỗ Mộc Uyển Thanh nằm, thấy nàng vẫn còn mê man chưa tỉnh. Chàng đang nghĩ cách cứu cấp, chợt thấy bên vai trái nàng có cắm một mũi cương chùy, máu tươi ướt đẫm một bên áo. Đoàn Dự kinh hãi, khi còn trên lưng ngựa chàng ngồi đằng trước, trong cơn hoảng hốt chạy thục mạng đâu có ngờ nàng đã bị trúng thương, hay là đã chết rồi chăng? Chàng liền lật tấm khăn che mặt lên, để tay vào mũi thăm dò, thấy hơi thở vẫn còn thoi thóp, nghĩ thầm: “Mình phải rút cương chùy ra rồi rịt lại cho máu khỏi chảy”. Chàng đưa tay cầm cán, nghiến răng nhổ mạnh, cương chùy bật ra. Chàng không né kịp, máu từ trong vết thương phun thẳng vào mặt.

Mộc Uyển Thanh đau quá kêu lên một tiếng rồi ngất lịm. Đoàn Dự cố bóp chặt chỗ vết thương cho máu khỏi trào ra nhưng máu cứ tuôn ra như suối, không tài nào bít được. Chàng không biết làm thế nào, quay ra dứt nắm cỏ xanh trên mặt đất nhai nát ra rồi đắp lên vết thương. Nhưng vừa đặt vào thì máu lại ứa ra, trôi đi. Chàng bỗng nhớ ra: “Lúc trước nàng trúng phải câu sắt bị thương đã lấy thuốc trong bọc ra bôi để cầm máu”.

Chàng nhè nhẹ thò tay vào túi nàng, trong túi có gì chàng móc ra hết: nào là lược đồi mồi nào gương đồng nhỏ, nào khăn gói phấn hồng, ngoài ra còn có ba cái hộp. Đoàn Dự thấy toàn là những vật dụng của con nhà khuê các thì ngẩn người ra, từ đó mới nghĩ nàng cũng chỉ là một cô gái, mình thò tay vào quần áo người ta thật là phi lễ. Thực ra những thứ khăn, hộp, gương, lược này chẳng phù hợp với nữ ma đầu giết người không gớm tay chút nào.

Chàng đã thấy Mộc Uyển Thanh đổ từ trong cái bình sứ một loại bột màu xanh ban cho Tư Không Huyền, giả làm thành được của Đồng Mỗ, nhưng không biết loại bột đó có cầm máu được không. Chàng bèn mở một cái hộp ra, thấy hương thơm bay lên ngào ngạt, thấy toàn là phần thoa mặt màu hồng, cái hộp thứ hai mở ra thấy còn một nửa là phấn trắng, còn cái hộp thứ ba lại là phấn vàng. Chàng đưa lên mũi ngửi, bột màu trắng không mùi vị gì, còn bột màu vàng thì cay sè, vừa ngửi phải là hắt hơi ngay. Chàng tự hỏi: phấn vàng này là thuốc trị thương hay lại là thuốc độc giết người? Dùng nhầm thì hỏng bét. Chàng liền thử véo mạnh nhân trung Mộc Uyển Thanh một cái, quả nhiên nàng từ từ mở mắt ra.

Đoàn Dự mừng quá hỏi ngay: “Mộc cô nương! Hộp nào đựng thuốc cầm máu?” Mộc Uyển Thanh yếu ớt đáp: “Hộp đỏ…” Nàng chỉ nói được hai tiếng rồi mắt lại nhắm nghiền. Đoàn Dự hỏi thêm nhưng không thấy nàng trả lời. Chàng rất lấy làm kỳ, lẩm bẩm một mình: “Lạ thật! hộp đỏ rõ ràng là đựng sáp, sao lại trị được vết thương? Nhưng thôi! nàng đã bảo vậy thì mình cũng làm thử xem chứ biết sao bây giờ?”.

Chàng móc ra ít sáp rồi nhẹ nhàng luồn ngón tay qua chỗ áo rách bôi vào vết thương. Thuốc vừa bôi, Mộc Uyển Thanh đang lúc mê man cũng biết đau, người nàng co rúm lại. Đoàn Dự ôn tồn an ủi: “Cô nương đừng sợ, đừng sợ! Cầm máu trước đã rồi sẽ tính.”

Thứ sáp đó công hiệu kỳ lạ, máu chảy rơm rớm một lát rồi ngừng hẳn, sau chỉ còn rỉ ra chút nước vàng. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thuốc gì mà trông như sáp bôi đầu. Tính tình con gái thật khiến người ta không biết đâu mà lường.”

Đoàn Dự chật vật mất nửa ngày trời, bây giờ mới hơi yên dạ. Bên kia khe núi cũng không còn nghe tiếng quát tháo nữa. Chàng lại nghĩ thầm: hay là bọn này xuống đáy vực rồi trèo lên. Nghĩ vậy chàng liền ra bờ vực để nhìn xem, trong lòng hoang mang lo lắng. Quả nhiên đúng, bờ bên kia có đến hơn mười người đang bám tụt dần xuống. Vực tuy sâu nhưng xuống mãi cũng phải đến cùng. Chúng tụt xuống đáy vực rồi sẽ bấu víu trèo lên bờ bên này, nhiều lắm là mất hai hay ba canh giờ.

Đoàn Dự tuy không hiểu võ nghệ nhưng lúc lâm vào tuyệt địa cũng nảy ra ý nghĩ tự vệ. Chàng nhìn bốn mặt xem địa thế rồi ẵm Mộc Uyển Thanh đặt vào chỗ khuất, sau một tảng đá lớn để tránh gió máy.

Xong xuôi, chàng khom lưng khuân đá ra bờ vực. Cũng may chỗ này có nhiều khối đá nho nhỏ, ngổn ngang, chẳng mấy chốc mà chàng nhặt được đến năm sáu trăm cục. Mọi việc xong xuôi, chàng trở lại ngồi bên Mộc Uyển Thanh, nhắm mắt dưỡng thần.

Chàng vừa ngồi xuống, cái mông trần chạm vào đá thấy hơi đau, nghĩ thầm: “Hai người mình đúng là nhằm quẻ Quải, hào cửu tứ: Mông không có da, đi sau khập khiễng, lùa dê không hối, nói chẳng ai tin (Đồn vô phu, kỳ hành thứ thư, khiến dương hối vong, văn ngôn bất tín). Thứ thư là người đi đứng khập khiễng, không thoải mái, quẻ này linh thật. Còn ta thì quả là “mông không có da”, nếu đổi thành “mông không có vải” thì lại càng chính xác. Nàng vẫn bảo rằng đàn ông con trai chỉ giỏi lừa người, thật đúng là “văn ngôn bất tín”. Thế nhưng nếu nàng “khiên dương hối vong” thì mình lại là con dê hay sao? Thế nhưng chẳng biết nàng có hối hận hay chăng?”

Chàng không ngủ cả đêm qua, mệt mỏi quá rồi, ngồi nghiệm quẻ Dịch liền ngáp mấy cái. Nhưng chàng biết rằng chẳng còn mấy chốc nữa quân thù sẽ tới nên không dám ngủ. Thỉnh thoảng lại ngửi thấy mùi hương ngào ngạt không phải lan mà cũng không phải xạ từ người Mộc Uyển Thanh xông ra. Vừa nãy Đoàn Dự có mở hé tấm khăn bịt mặt, để tay lên mũi nàng xem hơi thở thế nào, nhưng lúc đó lại chỉ chú ý đến hơi thở mà thôi, bây giờ đâu dám vô cớ mở khăn ra để xem mặt. Chàng chỉ nhớ mang máng rằng da nàng trắng mịn, nhưng không rõ tướng mạo thế nào.

Lúc đó Mộc Uyển Thanh cũng hãy còn mê man bất tỉnh, giả sử Đoàn Dự có mở hẳn tấm khăn bịt mặt mà ngắm, nàng cũng không thể biết được. Nhưng chàng do dự hoài, nửa muốn xem, nửa lại rụt rè. Hai luồng tư tưởng đấu tranh kịch liệt. Ta đã theo nàng tới đây cùng nhau sống chết, giờ sắp mất mạng đến nơi cũng chưa rõ mặt nàng, quả là đáng tiếc. Nhưng lỡ tướng mạo nàng xấu xí, hung dữ như quỷ sứ thì sao? Nếu dung nhan nàng bình thường thì nàng bất tất phải bịt kín để che giấu người đời. Hơn nữa xem những hành động hung ác của nàng cũng đủ biết bốn chữ “thanh tú mỹ lệ” không thể có ứng với người nàng được. Ta chẳng nên xem nữa.

Chàng nhất thời không biết tính sao, toan xủ một quẻ Dịch để giải đoán nhưng càng lúc càng mỏi mệt, nên mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.

Chàng không hiểu đã ngủ đi bao lâu, bỗng giật mình tỉnh dậy. Chàng dụi mắt, vội vàng chạy ra bờ vực thì thấy năm sáu gã đại hán đều mặc đồ đen đang bấu víu trèo lên bờ khe bên này, nhưng sườn núi dựng đứng, trèo lên cực kỳ khó nhọc. Đoàn Dự lẩm bẩm: “Nguy thật”. Chàng lấy một cục đá ném xuống, miệng la lên: “Đừng trèo lên nữa! Nếu không ta không nể đâu!”

Đoàn Dự ngồi trên cao ném đá xuống dễ như chơi. Bọn đại hán ở dưới đáy vực đang trèo lên, còn cách đến vài chục trượng, ám khí phóng cũng không tới được nên vừa nghe tiếng chàng là chúng đều dừng lại. Nhưng chúng chỉ lưỡng lự một lát rồi vừa kiếm chỗ né tránh vừa tiếp tục bấu víu trèo lên. Đoàn Dự ném liền năm sáu hòn đá xuống, nghe lại tiếng la thất thanh vang lên. Hai gã đã bị đá rớt trúng người, té xuống vực thẳm, nát ra như cám. Những người còn lại thấy không êm, lật đật trèo xuống, lại một người vội quá sẩy chân, rơi xuống chết mất xác.

Đoàn Dự từ thuở nhỏ thấm nhuần giáo lý nhà Phật nên không chịu học võ nghệ. Đây là lần đầu tiên chàng giết người, lòng chàng se lại, mặt tái mét. Mục đích chàng ném đá xuống chỉ là để hăm dọa, dè đâu làm chết ba mạng người. Dù chàng đã biết rõ rằng nếu để bọn địch trèo lên thì mình cùng Mộc Uyển Thanh sẽ bị chúng giết, vậy mà vẫn hối hận vô cùng.

Chàng đứng ngơ ngẩn một hồi, quay lại bên cạnh Mộc Uyển Thanh thấy nàng lúc này đã ngồi dậy, tựa vào tảng đá. Chàng vừa mừng vừa sợ hỏi: “Mộc cô nương… cô đã tỉnh rồi à?” Mộc Uyển Thanh không đáp, nhìn chàng trừng trừng. Hai luồng nhãn quang từ hai lỗ thủng khăn bịt chiếu ra coi rõ vẻ nghiêm khắc, Đoàn Dự ôn tồn tiếp: “Cô hãy nghĩ một lúc nữa, ta đi lấy nước để cô uống cho đỡ khát.”

Mộc Uyển Thanh hỏi: “Có người định trèo lên núi phải không?” Đoàn Dự nghe hỏi nước mắt trào ra, lấy vạt áo vừa lau vừa nghẹn ngào đáp: “Ta vừa lỡ tay giết hai người, lại… lại làm một gã sợ… sợ té chết là ba.” Mộc Uyển Thanh thấy chàng nước mắt nước mũi rất lấy làm kỳ, hỏi tiếp: “Thế thì sao?” Đoàn Dự nức nở đáp: “Thượng Đế còn có đức hiếu sinh, đằng này vô cớ mà ta… ta đã giết người. Tội… tội ác rất lớn.” Chàng dậm chân tiếp: “Ba gã đó chắc còn có cha mẹ vợ con, người nhà họ hay tin tất đau khổ vô cùng. Đối với bọn họ ta đã hối hận, đối với gia đình họ lại càng hối hận hơn.” Mộc Uyển Thanh vỡ lẽ, cười nhạt đáp: “Ngươi có cha mẹ vợ con không?” Đoàn Dự đáp: “Cha mẹ ta hãy còn, nhưng ta chưa có vợ con.”

Mắt nàng vụt ra một tia sáng kỳ lạ, nhưng tia sáng đó chỉ thoáng qua một cái rồi trở lại thái độ nghiêm khắc, sắc nhọn như dao, lạnh lùng như băng giá, hỏi chàng: “Bọn chúng lên đây liệu có giết ngươi chăng, có giết ta chăng?” Đoàn Dự đáp: “Chắc chắn là chúng giết hết.” Mộc Uyển Thanh nói: “À, thế ra ngươi định thà để người giết mình còn hơn mình giết người?”Đoàn Dự cúi đầu ngẫm nghĩ rồi đáp: “Nếu chỉ có mình ta, ta quyết không giết họ. Nhưng ta… ta không thể để chúng giết cô.” Mộc Uyển Thanh lớn tiếng hỏi: “Thế là nghĩa làm sao?” Đoàn Dự đáp: “Cô nương đã cứu ta, dĩ nhiên ta phải có bổn phận cứu cô.” Mộc Uyển Thanh nói: “Ta hỏi câu này, nếu ngươi nói sai một ly thì đoản tiễn trong tay áo này sẽ phóng ra bắn chết ngay tức khắc.” Nói tới đây nàng khẽ giơ tay phải lên thẳng về phía chàng. Đoàn Dự hỏi: “Thế ra cô nương giết bao nhiêu người toàn là phóng tên từ trong tay áo ra?”.

Mộc Uyển Thanh hỏi tiếp: “Chàng ngốc kia! Ngươi có sợ ta không?” Đoàn Dự đáp: “Cô nương có định giết ta đâu mà ta sợ?” Mộc Uyển Thanh nổi cáu hỏi: “Ngươi mà chọc giận thì đừng hòng ta tha. Ta hỏi ngươi: ngươi đã nhìn thấy mặt ta chưa?” Đoàn Dự lắc đầu đáp: “Chưa.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Thật chứ?” Nàng nói mỗi lúc một thấp giọng. Tấm khăn che trên mặt trông rõ đã ướt một mảng, tỏ ra nàng đang mệt mà dùng sức quá nhiều nên mồ hôi toát ra. Tuy nhiên giọng nói vẫn đầy vẻ nghiêm khắc.

Đoàn Dự đáp: “Ta nói dối cô làm gì?” Mộc Uyển Thanh lại hỏi: “Lúc ta mê man sao ngươi không mở khăn ra coi mặt?” Đoàn Dự vẫn lắc đầu đáp: “Ta chỉ chăm chú trị vết thương trên vai cô nương mà thôi, chứ không nghĩ tới chuyện đó.” Mộc Uyển Thanh như chợt nhớ ra điều gì, vừa bồn chồn vừa nổi nóng, thở hồng hộc nói: “Ngươi, ngươi đã nhìn thấy da thịt trên vai ta rồi chứ gì? Ngươi… ngươi đã bôi thuốc vào vết thương?” Đoàn Dự cười đáp: “Đúng vậy! Sáp bôi đầu của cô nương sao mà linh nghiệm thế? Ta không nghĩ ra đó lại là thuốc trị thương.”

Mộc Uyển Thanh bảo: “Ngươi lại đây, nâng ta dậy một chút!” Đoàn Dự đáp: “Vâng! nhưng cô nương chẳng nên nói nhiều, cần nghỉ thêm lúc nữa để rồi còn kiếm kế thoát thân.” Nói xong chàng lại định nâng nàng dậy. Chẳng ngờ chưa kịp chìa tay thì vụt một cái nàng đã tát bốp vào má chàng. Tuy nàng bị trọng thương mà tát còn mạnh ghê gớm.

Đoàn Dự mắt hoa đầu váng, người quay mòng mòng. Vừa đau vừa giận, chàng bưng mặt hỏi: “Vì sao mà cô đánh ta?” Mộc Uyển Thanh cũng cả giận nói: “Thằng giặc to gan này! Mi dám sờ vào vai ta, dám… dám ngó vào da thịt ta!”. Vì tức giận quá, nàng lại ngất đi, té lăn xuống đất.

Đoàn Dự kinh hãi, quên cả bị tát đau, lại nâng nàng dậy, thấy máu ở vết thương lại ứa ra. Miệng vết thương chưa liền, Mộc Uyển Thanh tát Đoàn Dự dùng sức quá mạnh nên lại xé ra. Đoàn Dự rùng mình lẩm bẩm: nàng giận ta vì tội mở hé da thịt nàng ra, nhưng nếu không cứu chữa, cứ để ra hết máu thì còn sống làm sao được? Đã đến thế này, âu là ta phải tòng quyền, hãy cứu chữa nàng đã, rồi sau có bị tát nữa cũng đành chịu. Chàng bèn xé áo lau hết những vết máu xung quanh vết thương. Da nàng trong như ngọc, trắng như tuyết, chàng không dám nhìn lâu, vội vội vàng vàng lấy sáp bôi vào chỗ miệng vết thương.

Lần này chẳng mấy chốc Mộc Uyển Thanh đã hồi tỉnh, đôi mắt sáng như điện quắc lên nhìn chàng, coi rất hung dữ. Đoàn Dự sợ nàng tát nữa vội tránh ra xa. Mộc Uyển Thanh hỏi: “Ngươi… ngươi lại…” Nàng cảm thấy chỗ vết thương sau vai mát rượi biết là Đoàn Dự lại mới bôi thuốc vào cho mình. Nàng hỏi chưa hết câu, Đoàn Dự đáp liền: “Ta… ta không thể thấy cô nương sắp chết mà không cứu.” Mộc Uyển Thanh thở hổn hển nói không ra hơi vì kiệt lực quá rồi.

Đoàn Dự nghe bên mé tả có tiếng róc rách liền chạy ra xem thì thấy có một khe nước trong suốt tận đáy. Chàng liền cúi xuống uống vài hơi rồi rửa sạch hai tay, chụm lại vốc nước lên chạy về chỗ Mộc Uyển Thanh nói: “Cô nương há miệng ra mà uống!” Mộc Uyển Thanh còn ngần ngừ một chút, nhưng vì máu ra nhiều, nàng khát như cháy họng, thấy nước thèm quá, vén một góc khăn bịt mặt để hở miệng ra.

Lúc đó vào khoảng giữa trưa, trên đỉnh núi ánh dương quang chiếu xuống sáng tỏ, Đoàn Dự nhìn rõ cằm nàng thon thon, da mặt trắng mịn, miệng nhỏ như đóa hoa anh đào chúm chím, đôi môi hơi mỏng, răng nhỏ mà đểu như hạt lựu. Tướng mạo tuy sắc sảo mà đoan chính. Chàng bất giác rung động tâm thần, nghĩ thầm: thực là tuyệt thế giai nhân! Đoàn Dự ghé tay cho nước chảy vào miệng Mộc Uyển Thanh. Mấy giọt nước vương ra còn đọng một bên má tựa như cánh hoa còn đọng sương mai. Chàng bủn rủn cả người không dám nhìn lâu, quay đi chỗ khác.

Mộc Uyển Thanh uống hết nước, bảo chàng: “Ta hãy còn khát, ngươi đi lấy nước nữa về đây!” Đoàn Dự đi vốc nước cho nàng uống đến ba lần mới đỡ khát. Đoạn chàng ra bờ vực nhìn sang bên kia thì thấy chỉ còn bảy tám gã đại hán, tay cầm cung tên đứng gác tại đó, mắt đăm đăm nhìn sang bên này. Chàng lại trông xuống đáy vực, không thấy còn ai trèo lên nữa. Nhưng chàng biết bọn họ chưa chịu thôi, hẳn chúng đang tìm lối khác.

Chàng lắc đầu rồi lại qua bên dòng suối múc nước uống, rửa sạch máu me từ vết thương của Mộc Uyển Thanh bắn lên, nghĩ thầm: “Thuốc giải đoạn trường tán có uống hay không thì cũng vậy, nhưng thôi mình cứ uống là hơn”. Chàng lấy cái bình sứ trong bọc ra, lấy giải được bỏ vào mồm, dùng nước suối nuốt xuống bụng, nghĩ thầm: “Thuốc giải này sao đắng quá, kém xa đoạn trường tán ngon ngọt dễ uống. Ôi! Có ngờ đâu Mộc cô nương lại xinh đẹp như thế. Đúng là hào sơ lục của quẻ Khuê: mất ngựa, gặp kẻ ác không lỗi (táng mã, kiến ác nhân vô cữu). Chàng lại nghĩ thêm: “Trên mỏm núi này tuy có nước nhưng lại không có thức ăn, địch nhân cũng chẳng cần tấn công. Chỉ vài ngày là cả hai đứa chết đói rồi”. Chàng ủ rũ về bên Mộc Uyển Thanh nói: “Trên núi này chẳng có trái cây, nếu có thì ta hái cô ăn cho đỡ đói.”

Mộc Uyển Thanh nói: “Đã thế thì còn nói làm chi vô ích. Nhưng ta hỏi đây: tại sao người lại biết Chung tiểu thư?” Đoàn Dự đem chuyện chàng ở Kiếm Hồ Cung gặp được Chung Linh thế nào, mình bị nhục được nàng cứu ra sao kể lại một lượt.

Mộc Uyển Thanh chăm chú nghe, xong cười nhạt nói: “Ngươi đã không biết võ nghệ, sao còn cứ xen vào chuyện giang hồ để mang lụy vào thân?” Đoàn Dự đáp: “Việc đã lỡ rồi, hối cũng vô ích. Ta chỉ còn ân hận một điều là làm phiền lụy đến cô nương mà thôi.”

Mộc Uyển Thanh nói: “Ngươi làm gì mà phiền lụy đến ta? Bao nhiêu thù oán với họ đều tự ta gây ra cả. Không có ngươi, bọn chúng vẫn đến vây đánh ta như thế. Có điều không vướng ngươi… thì ta cứ việc giết cho sướng tay rồi ra sao thì ra, còn hơn là ngồi chết đói trên đỉnh núi này.” Nói đến ba chữ “không vướng ngươi”, nàng cảm thấy hơi ngượng, mặt nóng bừng bừng, vì chính mình thừa nhận có lo lắng cho anh chàng này. May mà nàng bịt khăn nên Đoàn Dự không nhìn thấy nét mặt thay đổi. Còn giọng nói tuy có khác nhưng chàng không để ý, chỉ cho là vì nàng mới bị thương nên tiếng nói có phần yếu ớt. Đoàn Dự an ủi: “Cô nương hãy nghỉ thêm mấy ngày cho lành vết thương, rồi đánh xuống. Vị tất bọn chúng đã làm gì nổi cô?” Mộc Uyển Thanh, cười nhạt nói: “Sao người nói dễ nghe thế, vết thương của ta vài ngày làm sao khỏi được? Đối phương cao thủ không phải là ít…”

Bất thình lình, từ bên kia bờ vực nổi lên một tiếng hú ghê rợn vang động khắp núi rừng. Mộc Uyển Thanh vừa nghe thấy, giật mình run run nói: “Kẻ… kẻ đó là ai? Sao nội công cao thâm đến thế?” Bất giác nàng đưa tay ra nắm chặt lấy tay Đoàn Dự. Tiếng hú vẫn vang lên không ngớt, từ các hang núi nhiều tiếng dội vọng lại. Đoàn Dự nghe tiếng hú thê thảm, mỗi lúc một rú lên nhức óc, tưởng chừng như quỷ sứ đua nhau kêu gào đòi mạng lúc canh khuya, may là ban ngày ban mặt nên bớt được đôi phần rùng rợn. Chàng tưởng chừng trời đất tối sầm lại và cảm thấy tay Mộc Uyển Thanh mãi không hết run. Hồi lâu tiếng hú nhỏ dần rồi tắt hẳn.

Mộc Uyển Thanh nói: “Người này võ công thật là ghê gớm, ta không còn cách nào sống nổi. Ngươi… ngươi liệu mà trốn đi, đừng nghĩ gì tới việc của ta nữa!” Đoàn Dự mỉm cười: “Mộc cô nương, sao cô coi thường Đoàn Dự này thế? Họ Đoàn tuy “danh dự bại hoại” nhưng đâu đến nỗi tệ như thế.”

Mộc Uyển Thanh chăm chăm nhìn chàng, trong ánh mắt bừng lên vẻ thiết tha trìu mến, dịu dàng nói: “Danh dự bại hoại là tôi nói đùa anh, anh chết chung với tôi có… có ích gì đâu? Anh chạy thoát rồi, lâu lâu nhớ đến tôi một chút, như thế là đủ.”

Đoàn Dự chưa được nghe nàng nói một câu nào êm dịu như vậy. Từ lúc tiếng hú nổi lên, Mộc Uyển Thanh như đã hoàn toàn trở thành con người khác, có điều nàng không quen nói dịu dàng nên nghe hơi vấp váp. Chàng mỉm cười nói: “Mộc cô nương! Ta thích được nghe cô nói như thế, quả là một cô nương xinh đẹp ôn nhu.”

Mộc Uyển Thanh lại hứ lên, gay gắt hỏi: “Sao người biết ta xinh đẹp? Ngươi trông thấy mặt ta rồi ư?” Tay nàng bóp mạnh tay Đoàn Dự khác nào cái vòng sắt siết chặt vào: Chàng nhịn đau thở dài nói: “Lúc cô uống nước, mở hé tấm khăn để lộ nửa mặt ra ngoài. Mới có nửa mặt mà đã hoa nhường nguyệt thẹn thì dĩ nhiên cô nương đẹp nhất trần ai rồi còn gì?”

Mộc Uyển Thanh tuy hung hãn, nhưng dẫu sao vẫn là phụ nữ. Khi nghe người ca tụng mình, lòng nàng cũng thấy vui vui, huống chi trước nay mới được nghe toàn những lời tán dương võ nghệ, chưa được ai ca ngợi dung nhan. Nàng bất giác cao hứng buông tay chàng ra nói: “Ngươi đi tìm hang núi nào mà lánh đi, thấy ai đến cũng mặc kệ, chớ có bò ra. Chỉ trong giây lát là người ta lên đến rồi.”

Đoàn Dự cả kinh nói: “Thế thì ta phải đi cản địch.” Đoạn vùng chạy ra bờ vực, chàng hoa mắt lên khi trông thấy một bóng người mặc áo vàng đang từ dưới đáy vực trèo lên rất nhanh. Sườn núi cao chót vót lại dựng đứng là thế mà hắn vẫn trèo thoăn thoắt, như đi trên đất bằng, so với loài vượn hắn còn mau lẹ hơn. Đoàn Dự sợ quá, quát to: “Này này ta bảo, ngươi còn trèo lên nữa, ta quẳng đá xuống đầu bây giờ.” Người đó cười ha hả, chẳng những không tụt xuống mà còn trèo nhanh hơn trước.

Đoàn Dự thấy y vừa dứt tiếng cười đã lên thêm được mấy trượng, không thể nào để y lên núi được nhưng lại cũng không muốn giết người nên nhặt một khối đá ném xuống bên cạnh người đó cách chừng vài trượng. Viên đá tuy không lớn lắm nhưng từ trên cao rơi xuống, nghe tiếng vù vù cũng thật kinh người. Đoàn Dự lại kêu lên: “Này! Ngươi trông rõ đấy chứ? Nếu ta ném trúng đầu thì ngươi tan xác ra rồi. Xuống mau đi!” Người đó cười nhạt nói: “Thằng nhãi kia! Mi chán sống rồi sao mà dám hỗn láo với lão gia?”

Đoàn Dự thấy lão lại trèo thêm mấy trượng, mỗi lúc một nguy cấp hơn, không dám chần chừ nữa. Lần này chàng cầm mấy hòn ném thẳng xuống đầu. Ném xong chàng yên chí lão phải tan thây, nên nhắm mắt lại để khỏi trông thấy cảnh tượng bị thảm rùng rợn. Bỗng nghe hai tiếng cười rộ, chàng rất lấy làm kỳ, mở mắt ra xem thì lạ chưa, mấy viên đá rớt xuống đáy vực mà lão không hề gì cả. Chàng lại càng bồn chồn ném luôn hai ba lần nữa.

Lão chờ cho đá rớt đến đỉnh đầu, khẽ giơ tay áo phất một cái quạt bay đi. Có khi lão lẹ làng nhảy vèo qua như không. Đoàn Dự tức mình xô một lúc cả ba bốn chục hòn xuống, lão đã không bị xây xát mà cũng không chậm lại chút nào. Đoàn Dự thấy ném đá không ăn thua gì, hớt hải chạy về báo Mộc Uyển Thanh: “Mộc… Mộc cô nương, lão… lão này ghê gớm quá! Chúng ta mau trốn đi thôi!” Mộc Uyển Thanh lạnh lùng đáp: “Không kịp rồi!”

Đoàn Dự toan nói nữa thì sau lưng có luồng lực đạo đẩy tới, chàng bật lên trên không bay đi, rồi rớt đánh “uỳnh” một cái vào trong bụi cây rậm rạp. Chàng hoa mắt tưởng chừng như trời tối sầm lại, may dưới đất có nhiều cây thấp đỡ lấy, nên không đến nỗi bị thương nặng, chỉ bị xây xát xoàng ở mặt. Chàng lớp ngóp bò dậy thì thấy lão áo vàng đã đứng vững trước mặt Mộc Uyển Thanh.

Chàng sợ lão giết nàng, vội chạy lại đứng giữa hai người hỏi: “Tôn giá là ai? Sao lại định giết người?” Mộc Uyển Thanh cả kinh nói: “Ngươi… ngươi chạy đi! Đừng đứng đây nữa!”

Người kia cười lên ha hả nói: “Chạy làm sao được. Ta là Nam Hải Ngạc Thần, võ công thiên hạ đệ… đệ… Ha ha, hai đứa nhãi con chắc nghe đến tên ta rồi chứ, phải không nào?”

Tim Đoàn Dự đập mạnh e còn hơn đánh trống làng, phải gượng gạo trấn tĩnh để nhìn thẳng vào con người quái gở. Thoạt trông thấy đầu lão khác hẳn người thường. Đôi mắt tròn nhỏ như hạt đậu nhưng chiếu ra những tia sáng ghê rợn, nhìn chằm chặp vào Đoàn Dự, khiến chàng lạnh xương sống. Chàng nhìn kỹ lại thì thấy vóc người lão vào hạng trung bình, dưới cằm râu tua tủa, cứng như đinh sắt. Khó mà ước lượng được lão bao nhiêu tuổi. Lão mặc trên người một chiếc áo vàng, dài đến đầu gối, may bằng cẩm đoạn hạng nhất thật là sang trọng, nhưng bên dưới thì lại mặc một chiếc quần vải thô, ô uế lam lũ, không còn ra màu mè gì. Mười ngón tay lão vừa dài vừa nhìn trông như móng gà. Đoàn Dự vừa gặp đã thấy người này dung mạo xấu xí, nhưng càng nhìn càng thấy lão đầu mình tứ chi, ngay cả đến quần áo mặc trên người đều có điểm gì không ổn.

Mộc Uyển Thanh gọi: “Ngươi lại đây, đứng bên ta!” Đoàn Dự lại gần nàng hỏi: “Liệu lão có hại cô nương không?” Mộc Uyển Thanh cười nhạt đáp: “Cái mạng kiến ruồi của ngươi liệu có cản được Nam Hải Ngạc Thần không?” Mộc Uyển Thanh nói vậy thì nói nhưng thấy chàng quyết tâm hy sinh, ngang nhiên che đỡ cho mình, lại không khỏi cảm động.

Đoàn Dự biết lão già quái gở chỉ giơ tay một cái là thanh toán xong đời mình nên không dám chọc giận lão, đứng yên bên mình Mộc Uyển Thanh nói: “Thì ra tôn giá ngoại hiệu là Nam Hải Ngạc Thần? Võ công lão gia quả là ghê gớm! Ta quẳng đến mấy chục tảng đá xuống một lúc mà không trúng được lão gia cái nào.” Chàng nghĩ thầm: “Võ công y quả là cao cường, ta tâng bốc lão một chút cũng không phải là quá đáng.” Ở đời dễ mấy người không ưa phỉnh? Bản tính Nam Hải Ngạc Thần hung tợn là thế mà nghe Đoàn Dự xưng tụng võ công mình ghê gớm cũng thích chí. Lão cười hềnh hệch bảo: “Thằng nhỏ này bản lãnh tầm thường mà nhận xét khá đấy! Thôi mi tránh đi! Lão gia tha mạng cho mi đó!” Đoàn Dự cả mừng tiếp: “Lão gia tha luôn cả Mộc cô nương nữa chứ?” Nam Hải Ngạc Thần đôi mắt vừa tròn vừa nhỏ thoáng lộ vẻ trầm ngâm, rồi lão tiến lên một bước, luồng gió dữ dội từ tay áo lão vung ra, quét Đoàn Dự bổng lên và đẩy lui mấy bước. Lão trầm giọng bảo chàng: “Nếu mi còn lại đây nữa lão gia sẽ không tha đâu!” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bọn giang hồ nói sao làm vậy, mình đứng yên đây là hơn”.

Chỉ thấy Nam Hải Ngạc Thần trợn tròn đôi mắt nhỏ xíu ngắm nghía Mộc Uyển Thanh, hỏi: “Tiểu Sát Thần Tôn Tam Bá có phải ngươi giết không? “ Mộc Uyển Thanh đáp: “Đúng thế.” Nam Hải Ngạc Thần hỏi tiếp: “Y là đệ tử yêu của ta, ngươi có biết chăng?” Đoàn Dự trong bụng thầm kêu khổ: “Chết rồi! Chết rồi! Mộc cô nương giết đệ tử yêu của y, việc này chắc y khó mà bỏ qua được. Dù ta có tâng bốc y mười lần nữa e cũng không xong”. Mộc Uyển Thanh nói: “Lúc giết y tiểu nữ chưa hay, mãi sau mới biết.” Nam Hải Ngạc Thần hỏi: “Mi có sợ ta không?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Không sợ!”

Nam Hải Ngạc Thần cả giận, gầm lên một tiếng vang khắp cả hang núi: “Mi không sợ ta thì mi… mi to gan thật, mi… mi cậy thế ai mà dám hỗn láo với ta?”

Mộc Uyển Thanh thủng thẳng đáp: “Ta cậy thế của ông nên không sợ ai hết.” Nam Hải Ngạc Thần không hiểu, miệng há hốc ra rồi rít lên: “Mi đừng nói hàm hồ. Mi cậy thế… ta?” Mộc Uyển Thanh nói: “Ông là một trong Tứ Đại Ác Nhân, thân phận cao như thế, uy danh lớn như thế lẽ nào lại động thủ với một cô gái đang bị trọng thương?” Mấy câu này gãi đúng chỗ ngứa, lão khoái chí cười khà khà nói: “Nghe cũng có lý.”

Đoàn Dự nghe tới Tứ Đại Ác Nhân mới biết rằng lão chính là bằng hữu của Chung Vạn Cừu. Như người sắp chết đuối vớ được phao, khi nghe y nói “Nghe cũng có lý” chàng vội vàng nói chen vào: “Trên giang hồ vẫn thường đồn đại Nam Hải Ngạc Thần là đại anh hùng đại hào kiệt, đừng nói không hiếp đáp dàn bà con gái bị thương mà ngay cả đến đàn ông con trai bị thương cũng không thèm đánh. Ai ai cũng nói rằng, Nam Hải Ngạc Thần nếu thấy người nào đi một mình cũng không đánh, đối thủ càng đông thì càng cao hứng, có thế mới thấy võ công của lão nhân gia cao cường.”

Đôi mắt nhỏ của Nam Hải Ngạc Thần lờ đờ như say thuốc, y cười hì hì, gật đầu liên tiếp hỏi thêm: “Nghe cũng có lý. Ngươi nghe ai nói thế?” Đoàn Dự đáp: “Thì Tả Tử Mục của Đông tông Vô Lượng Kiếm, Tân Song Thanh của Tây tông Vô Lượng Kiếm, bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền, cốc chủ Vạn Kiếp Cốc Mã vương thần Chung Vạn Cừu, rồi phu nhân của y là Tiếu dược xoa Cam Bảo Bảo, rồi cả Thụy bà bà, Bình bà bà ở Giang Nam đến, ha ha, nhiều lắm nhiều lắm, ta đã gắng sức mà đâu có nhớ hết được.”

Nam Hải Ngạc Thần gật gù nói: “Tiểu tử quả là có ý tứ. Lần sau nếu nghe ai nói lão tử anh hùng kiệt xuất, phải ghi nhớ cho kỹ tên tuổi họ.” Lão quay sang nói với Mộc Uyển Thanh: “Ta nghe người võ công không phải kém, sao lại bị trọng thương? Ai đả thương ngươi?”

Mộc Uyển Thanh cay cú trả lời: “Đó là vì bốn người đánh một. Nam Hải Ngạc Thần thì địch nhân càng đông càng tốt, còn ta đâu được thế.”

Nam Hải Ngạc Thần nói: “Nghe cũng có lý. Bốn người đánh một cô nương, thật không biết nhục.” Đoàn Dự vội nói: “Đúng, kẻ anh hùng hảo hán chân chính, dẫu đơn đả độc đấu cũng còn chưa làm, sao lại có trò bốn người đánh một bao giờ? Tiếc rằng lão nhân gia lúc đó không trông thấy, nếu không ông cho mỗi đứa một đòn đứt gân gãy xương hết.” Nam Hải Ngạc Thần nói: “Không đúng! Không đúng! Không đúng!”

Y nói một câu “không đúng”, cái đầu to lại lắc lư một cái. Đoàn Dự trong bụng chột dạ, y nói ba câu “không đúng”, tim thót lên ba lần, không biết mình nịnh dở chỗ nào. Nghe y nói tiếp: “Ta đâu có bao giờ đánh người đứt gân gãy xương, chỉ lốp cốp một tiếng là bẻ gãy cái cổ rùa của bọn chúng. Đánh đứt gân gãy xương chưa chắc đã chết, đâu có tuyệt hay, cũng chẳng dễ coi. Còn như bẻ cổ, con rùa đó làm sao sống được? Nếu như ngươi không tin, để ta thử bẻ cổ ngươi thì biết.”

Đoàn Dự vội nói: “Tôi tin, tôi tin, khỏi cần thử làm gì!” Chàng chợt nhớ ra, gia nhân của Chung Vạn Cừu là Tiến Hỉ Nhi tiếp đãi Nhạc lão nhị trong Tứ Đại Ác Nhân, chỉ vì gọi lỡ một câu “Tam lão gia”, lại bảo y là “người thật là tốt” nên bị y bẻ gãy cổ, vậy thì chính là gã này, bèn nói: “Đúng rồi! Ông là người ác không ai sánh bằng, người ta thường gọi ông là Nhạc lão nhị nhưng ta bảo ông phải là Nhạc lão đại mới đúng. Nhạc lão đại bẻ cổ người ta thì còn ai sống nổi.”

Nam Hải Ngạc Thần mừng quá, chộp ngay đầu vai y lắc lắc liên hồi, cười nói: “Đúng đó! Đúng đó: Tiểu tử thông minh thật, biết ta là người ác không ai sánh bằng. Nhạc lão đại thì không được đâu, lão nhị là đúng rồi.”

Đoàn Dự bị y nắm vai đau thấu trời xanh, cố gượng cười, nói: “Ai nói thế? Ba chữ Nhạc lão đại nói ra đúng là không biết thẹn.”

Chàng trong bụng thẹn thầm: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, chỉ vì ngươi muốn cứu Mộc cô nương mà ăn nói vô sỉ, bợ đỡ người ta chẳng có chút cốt khí nào. Bao nhiêu sách vở thánh hiền ngươi đọc để làm gì?” Thế nhưng chàng lại tự an ủi: “Nếu như chỉ vì bản thân ta, một nửa câu hèn hạ đó ta cũng chẳng nói, tham sống sợ chết thì còn gì là đại trượng phu? Cũng chỉ vì Mộc cô nương nên đành phải chịu ép một bề. Kinh Dịch có nói rằng: Nhu thuận lợi trinh, quân tử tu hành, đó chính là đạo nhu khắc cương”. Chàng nghĩ thế mới thấy hơi yên bụng.

Nam Hải Ngạc Thần buông Đoàn Dự ra, quay sang nói với Mộc Uyển Thanh: “Nhạc lão nhị là anh hùng hảo hán, không giết đàn bà con gái đang bị thương…” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Y trước sau vẫn không dám tự xưng lão đại, không biết đại ca đó ác tới cỡ nào?” Chàng sợ đắc tội với y nên không dám hỏi thêm. Lại nghe y nói tiếp: “Đợi đến bao giờ bọn ngươi người đông thế mạnh, lúc đó ta giết cũng được, hôm nay tha cho. Ta hỏi mi câu này: ta thấy họ đồn rằng mi lấy khăn bịt kín mặt để người đời khỏi ngó thấy. Ai lột được khăn bịt mà mi không giết chết mới chịu lấy làm chồng, có phải thế không?”

Đoàn Dự giật mình, lại thấy Mộc Uyển Thanh gật đầu, chàng càng kinh hãi ngẩn ngơ.

Nam Hải Ngạc Thần hỏi: “Vì sao mi lại lập ra lệ ấy?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Đó là sự phụ ta bắt phải thề như vậy. Nếu không nghe, người không chịu truyền dạy võ nghệ.” Nam Hải Ngạc Thần hỏi: “Sư phụ mi là ai? Thằng cha nào mà quái ác lạ đời thế?” Mộc Uyển Thanh ngang nhiên phản đối: “Ta kính trọng ông, tôn xưng một điều lão gia, hai điều lão gia mà ông lại khinh mạn sư phụ ta, nói thuần những lời khiếm nhã, như thế không được!”

Nam Hải Ngạc Thần lấy cườm tay bổ xuống tảng đá lớn bên cạnh, tức thì tảng đá vỡ tan ra, bay tung lên. Mấy hạt nhỏ xíu đập vào mặt Đoàn Dự mà cũng làm cho chàng đau nhói, Chàng nghĩ thầm: sao lại có người võ công ghê gớm đến mức này? Cườm tay đập vào đá còn nát ra như cám, nếu đánh vào da thịt người thì còn như thế nào? Chàng nhìn đôi mắt sâu thẳm của Mộc Uyển Thanh, thấy nàng vẫn thản nhiên chẳng mảy may xúc động trước thần lực của Nam Hải Ngạc Thần.

Nam Hải Ngạc Thần nhìn nàng trừng trừng hỏi: “Nghe cũng có lý, vậy lão phu xin thỉnh giáo danh hiệu lệnh tôn sư.” Mộc Uyển Thanh đáp: “Sư phụ ta tên là U Cốc Khách.” Nam Hải Ngạc Thần ngẫm nghĩ rồi lẩm bẩm: “U Cốc Khách? Ta chưa nghe đến, không có tiếng tăm gì.” Mộc Uyển Thanh đáp: “Sư phụ ta ấn cư nơi hoang dã nên mới gọi là U Cốc Khách. Làm sao so sánh được với một người danh tiếng lừng lẫy như ông được?”.

Nam Hải Ngạc Thần gật gù: “Nghe cũng có lý.” Đột nhiên y cao giọng, quát lên: “Tên học trò ta Tôn Tam Bá có phải muốn coi mặt người nên ngươi giết y phải không?” Mộc Uyển Thanh thong thả đáp: “Biết trò không ai bằng thầy. Lão gia đã hiểu thấu tâm khảm y. Nếu võ công y chỉ học được một thành của ông thì ta cũng không giết nổi.”

Nam Hải Ngạc Thần vốn biết gã đệ tử quý báu tham sắc nên bỏ mạng, lão chẳng lạ gì. Song phái Nam Hải có lệ chỉ được truyền võ nghệ cho một đệ tử mà thôi. Tôn Tam Bá chết, thế là mười năm tâm huyết đã trôi theo dòng nước. Lão càng nghĩ càng căm, rít lên một tiếng hãi hùng.

Mộc Uyển Thanh cùng Đoàn Dự thấy mặt lão đột nhiên sa sầm, đều sợ hết hồn. Bỗng nghe lão gầm lên: “Ta phải báo thù cho đồ đệ ta.”

Đoàn Dự nói: “Nhạc nhị gia, ông đã nói không giết cô ta rồi, hơn nữa, học trò ông chưa học được một thành võ công của ông, có chết cũng tốt, còn hơn sống ở trên đời chỉ tổ làm cho ông mất mặt.” Nam Hải Ngạc Thần gật gù: “Nghe cũng có lý. Nhạc lão nhị không thể nào để cho mất mặt được.” Y quay sang hỏi Mộc Uyển Thanh: “Đồ đệ ta đã nhìn rõ mặt ngươi chưa?” Mộc Uyển Thanh nghiến răng đáp: “Chưa!” Nam Hải Ngạc Thần nói: “Tôn Tam Bá chết cũng không nhắm mắt, vậy ta phải thay gã mà coi mặt ngươi xấu như quỷ dữ hay đẹp như thần tiên.”

Mộc Uyển Thanh sợ hãi rụng rời, nghĩ mình đã phát lời thề độc. Giả tỷ lão thò tay ra lột khăn bịt, giết lão thì không giết nổi, chẳng lẽ lại lấy lão làm chồng hay sao? Nàng liền đáp: “Ông là bậc võ lâm cao nhân, có đâu lại làm việc đê hèn này?”

Nam Hải Ngạc Thần cười nhạt nói: “Ta là ác nhân không ai ác hơn, làm việc gì càng ác càng thích. Bình sinh lão gia chỉ tránh có một điều là giết kẻ không đủ sức chống lại mình, còn ngoài ra bất luận điều gì ta cũng dám làm. Vậy mi tự mở khăn ra đi để lão gia khỏi phải động thủ!” Mộc Uyển Thanh run lập cập hỏi: “Lão nhất định đòi xem mặt ta ư?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Nếu mi mà la lối om sòm thì không những lão gia chỉ bóc khăn bịt mặt ra thôi mà còn lột hết quần áo để mi trần như nhộng nữa. Lão gia không vặn cổ ngươi thì bẻ hai tay, hai chân cũng được chứ sao.”

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ta không giết nổi y, chỉ đành tự tận” liền đưa mắt ra hiệu cho Đoàn Dự trốn đi nhưng Đoàn Dự chỉ lắc đầu. Nàng thấy hàm râu cứng như đinh của Nam Hải Ngạc Thần rung rung rồi lão hứ lên một tiếng, giơ năm ngón tay móng nhọn hoắc ra, toan móc khăn bịt mặt của nàng.

Nàng vung tay áo một cái, “vút vút vút” ba mũi tên ngắn phóng ra nhanh như chớp, đều trúng vào bụng Nam Hải Ngạc Thần. Nào ngờ tiếp luôn ba tiếng “bộp bộp bộp”, rồi ba mũi tên đều rớt xuống đất. Mộc Uyển Thanh rùng mình một cái lại phóng ra ba mũi tên độc: hai mũi bắn vào ngực và một mũi bắn thẳng vào mặt lão. Hai mũi bắn vào ngực chẳng khác gì bắn trúng da cá sấu, kêu bồm bộp lại bật ra rơi xuống đất. Đến mũi tên bắn vào mặt thì Nam Hải Ngạc Thần giơ ngón tay giữa ra búng một cái, mũi tên bay bổng lên không rồi mất hút.

Mộc Uyển Thanh rút trường kiếm ra, giơ lên cửa ngay vào cổ nhưng vì mới bị thương nên nàng ra tay không nhanh, Nam Hải Ngạc Thần vươn tay ra giật kiếm vứt xuống đất, cười khẩy mấy tiếng nói: “Ta chỉ giết kẻ nào không đủ sức chống lại. Đằng này mi động thủ trước ta, phóng ra sáu mũi ám tiễn. Bây giờ ta xem mặt mi rồi sẽ giết. Mi chở trách ta quên lời hứa.”

Đoàn Dự kêu lên: “Sai rồi!” Nam Hải Ngạc Thần hỏi: “Mi nói sao?” Đoàn Dự đáp: “Ông là anh hùng hảo hán, không được hiếp đáp một cô gái đang bị trọng thương.” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Cô ta bắn ta liên tiếp sáu mũi tên ngươi không thấy sao? Đó là cô gái bị thương nặng hiếp đáp anh hùng hảo hán, chứ nào phải anh hùng hảo hán ăn hiếp cô gái đang bị trọng thương.” Đoàn Dự nói: “Thế cũng chưa đúng.” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói: “Còn chưa đúng gì nữa? Thối lắm!” Đoàn Dự nói: “Lão tiền bối đã có lời đoan ước: không giết kẻ không đủ sức chống lại, có phải đúng như vậy không?” Nam Hải Ngạc Thần giương đôi mắt nhỏ xíu đáp: “Phải rồi!” Đoàn Dự nói: “Lão tiền bối có chịu giữ bất di bất dịch tám chữ đó không?” Nam Hải Ngạc Thần tức mình đáp: “Nửa chữ cũng không đổi.” Đoàn Dự hỏi: “Những kẻ đã có lời hứa mà còn thay đổi thì lão gia cho là hạng gì?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Là đồ rùa đen, là quân đê tiện.”

Đoàn Dự nói: “Nếu vậy hay lắm! Lão gia chưa đánh Mộc cô nương, cô đã phóng ám tiễn trước rồi, đâu có phải chống lại? Giả tỷ để lão gia ra tay trước, mới gọi là nàng chống lại. Nàng hạ thủ trước, thế là nàng đánh lén chứ không chống lại. Nếu lão gia giết nàng tức là lão gia đã thay đổi lời hứa. Lão gia thay đổi lời hứa tức là đồ rùa đen, là quân đê tiện.”

Chàng đọc sách từ bé, biện thuyết chi li, những gì “ngựa trắng không phải là ngựa” từng nghiên cứu rất tường tận, nay lúc khẩn cấp liền lôi ngay câu của Nam Hải Ngạc Thần ra bắt bẻ.

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ rống lên một tiếng, chộp lấy hai tay chàng, quát: “Sao ngươi dám chửi ta là đồ rùa đen, là quân đê tiện?” Y vươn tay ra toan nắm lấy cổ chàng.

Đoàn Dự đáp: “Nếu như ông thay đổi qui củ thì mới là đồ rùa đen, là quân đê tiện. Ông làm đồ rùa gì là quân đê gì, là do ông có thay đổi qui củ hay không.”

Mộc Uyển Thanh thấy chàng gan liều coi cái chết như không, gặp lúc lâm vào tình trạng nguy hiểm này mà vẫn dám mắng Nam Hải Ngạc Thần thậm tệ, nàng chắc thế nào lão cũng nổi hung bẻ cổ. Bất giác nàng động mối thương tâm, trào nước mắt, ngoảnh mặt đi chỗ khác, không nỡ nhìn cảnh tượng đau lòng.

Ngờ đâu mấy câu đó cản được Nam Hải Ngạc Thần. Y nghĩ rằng: nếu mình đánh chết thằng nhãi này thì ra mình giết người không có sức chống trả, quả là đồ rùa đen, là quân đê tiện. Nghĩ vậy lão dừng tay lại, trợn đôi mắt nhỏ ti hí nhìn chằm chặp vào Đoàn Dự. Tay trái lão bóp tay chàng mạnh hơn. Cơ hồ sắp gãy xương, chàng đau điếng người nhưng vẫn lớn tiếng mắng nhiếc: “Ta chả có chút sức lực nào để chống lại ngươi cả, ngươi giết quách ta đi!” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Ta không mắc hợm ngươi đâu, ngươi muốn ta thành đồ rùa đen, thành quân để tiện chứ gì?” Nói rồi lão xách bổng Đoàn Dự lên, quăng xuống đất một cái, chàng tối tăm mặt mũi, tưởng chừng như lục phủ ngũ tạng tan nát hết.

Nam Hải Ngạc Thần quẳng Đoàn Dự rồi miệng lắp bắp: “Ta không mắc hỡm! Ta không giết hại tên tiểu quỷ này.” Y giơ tay nắm ngay chiếc áo choàng trên người Mộc Uyển Thanh, soạt một tiếng đã giật tung ra. Mộc Uyển Thanh kinh hoảng kêu lên thất thanh, rụt người lại. Nam Hải Ngạc Thần vung tay ra, chiếc áo choàng bay vụt theo gió chẳng khác nào một chiếc lá sen lớn bay xuống dưới sông Lan Thương, bập bềnh trôi xuôi dòng. Nam Hải Ngạc Thần cười gằn nói: “Ngươi không chịu bỏ khăn che mặt xuống, lão tử sẽ lột quần áo ngươi ra.”

Mộc Uyển Thanh không thể chần chừ được nữa, quay ra gọi Đoàn Dự: “Ngươi lại đây!” Đoàn Dự khập khiễng đến trước mặt nàng, buồn bã lắc đầu. Mộc Uyển Thanh quay đầu nhìn chàng, lưng hướng về phía Nam Hải Ngạc Thần, nói nhỏ: “Chàng là người đàn ông đầu tiên trên đời này được thấy mặt em!” Nàng chầm chậm mở chiếc khăn ra.

Đoàn Dự bỗng thấy bàng hoàng, khuôn mặt nàng tươi sáng như trăng thượng huyền, thanh khiết như tuyết đọng trên hoa, xinh đẹp vô cùng. Có điều làn da hơi xanh xao, không một chút huyết sắc, hẳn là vì lâu nay dùng khăn che mặt. Đôi môi mỏng cũng chỉ đậm màu hơn da mặt một chút. Đoàn Dự thấy nàng dịu dàng mềm mại, còn đâu một nữ ma đầu giết người không chớp mắt?

Mộc Uyển Thanh bỏ khăn bịt mặt rồi quay ra nói với Nam Hải Ngạc Thần: “Nếu lão gia muốn nhìn mặt tiểu nữ xin hỏi trước lang quân tiểu nữ đã!” Nam Hải Ngạc Thần chưng hửng nói: “Ô hay! Mi có chồng rồi sao? Chồng mi là ai?”

Mộc Uyển Thanh trỏ vào Đoàn Dự nói: “Tiểu nữ đã có lời thề độc: chỉ có chàng trai nào được nhìn thấy mặt mà tiểu nữ không ra tay hạ sát mới chịu lấy làm chồng. Đoàn lang đã nhìn mặt tiểu nữ mà tiểu nữ không giết chàng, vậy tiểu nữ thuận cùng chàng gá nghĩa trăm năm.”

Đoàn Dự hoảng hồn ấp úng: “Cái đó… cái đó…”

Nam Hải Ngạc Thần ngẩn ngưởi ra, quay lại nhìn Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy cặp mắt hạt đậu của lão nhìn mình từ trên đầu xuống gót chân rồi nhìn ngược lại từ chân lên đến đầu. Chàng phát khiếp, mình sởn gai ốc, chỉ sợ lão điên tiết lên là hết đời. Bỗng thấy lão chắc lưỡi hoài rồi khen rằng: “Tuyệt quá! Tuyệt quá! Mi lại gần đây!” Đoàn Dự không dám chống cự, riu riu đến bên lão. Nam Hải Ngạc Thần lại khen: “Hay tuyệt! Hay tuyệt! Mi giống ta lắm! Giống như hệt.”

Đoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ. Về võ công lão đã đến bậc tuyệt đỉnh, về tướng mạo lão lại xấu xí đến cùng cực, không biết chàng giống lão ở chỗ nào?

Nam Hải Ngạc Thần xích lại gần hơn, hết sờ sau gáy lại nắn cả chân tay Đoàn Dự. Lúc sờ đến sau lưng lão bóp luôn mấy cái rồi cười ha hả: “Mi quả giống ta, không khác tí nào.” Đoạn lão nắm tay Đoàn Dự bảo: “Theo ta đi thôi!” Đoàn Dự chẳng hiểu ra sao, hỏi: “Lão tiền bối bảo đi đâu bây giờ?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Thì đi với ta, mau mau khấu đầu xin ta thu người làm đệ tử. Ngươi chỉ mở miệng xin là ta thuận ngay.” Đoàn Dự sửng sốt, miệng ấp úng: “Việc này, việc này…”

Nam Hải Ngạc Thần múa tay khoa chân tựa hồ bắt được vật báu nói: “Chân tay dài rộng, xương hậu chẩm nhô ra, sống lưng mềm xèo là căn cốt của người thông minh mẫn tiệp, ngươi đã tính tình cao ngạo lại còn ít tuổi, rất có thể trở nên bậc võ học kỳ tài. Ngươi trông đây này, xương hậu chẩm mi có giống ta không?” Đoàn Dự nhìn lại, quả hậu chẩm lão cũng giống mình, thì ra lão nói mình giống hệt lão là ở điểm này.

Nam Hải Ngạc Thần cười hềnh lệch nói: “Lề luật của phái ta xưa nay, mỗi đời chỉ được truyền cho một người. Đệ tử cũ của ta là Tiểu sát thần Tôn Tam Bá xương hậu chẩm có được như mi đâu? Gã mới học được hai phần võ nghệ của ta mà thôi. Nay gã chết rồi thật là may cho ta, ta khỏi phải ra tay giết y để thu mi làm đồ đệ.”

Đoàn Dự không khỏi ghê sợ, nghĩ thầm: lão này tính tình đơn bạc, không nghĩ gì đến nghĩa thầy trò. Ai lại thấy kẻ khác đủ tư cách hơn mà toan giết trò cũ đi để thu trò mới? Đừng nói ta kiên quyết không chịu học võ, nếu ta thành tâm muốn học cũng không chịu thờ lão làm thầy. Nhưng giờ nếu ta cự tuyệt tất mang đại họa, Chàng còn đang do dự chưa biết cách nào đối phó thì Nam Hải Ngạc Thần bỗng nhiên quát: “Bọn chúng bay lấp ló cái gì thế? Có cút đi không thì bảo.”

Chỉ thấy trong những bụi cây chui ra đến một chục người, có cả Thụy bà bà, Bình bà bà, gã sử kiếm. Nguyên sau khi Nam Hải Ngạc Thần lên rồi, Đoàn Dự không liệng đá xuống vực nữa, bọn này mới trèo lên được, nấp vào trong bụi rậm. Tuy họ im hơi lặng tiếng nhưng làm sao qua được tai mắt Nam Hải Ngạc Thần? Vì vớ được Đoàn Dự, Nam Hải Ngạc Thần coi như một báu vật, trong lòng hí hứng vô cùng, chưa nổi nóng với chúng, chỉ cười hì hì liếc mắt nhìn bọn Thụy bà bà quát: “Bọn ngươi đến đây có chuyện chi? Phải chăng đến mừng ta vừa thu được gã đồ đệ tuyệt hảo?”

Thụy bà bà chỉ vào Mộc Uyển Thanh nói: “Bọn ta lên đây tróc nã con tiểu tiện nhân này báo thù cho bạn.” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói: “Tiểu cô nương đây là vợ của học trò ta, đứa nào dám bắt? Con mẹ nó, cút hết!” Cả bọn đều sửng sốt, lơ láo nhìn nhau.

Đoàn Dự đánh bạo nói: “Ta không bái ông làm thấy được. Ta có sư phụ rồi.” Nam Hải Ngạc Thần cả giận nói: “Sư phụ mi là ai? Bản lãnh y còn hơn ta nữa sao?” Đoàn Dự nói: “Công phu của thầy ta xem chừng ông không biết một chút nào. Quái Tượng, Hệ Từ trong kinh Dịch, ông có biết không? Ý nghĩa của Minh Di, Vị Tế ông nói cho ta nghe xem nào!”

Nam Hải Ngạc Thần gãi đầu gãi tai, cái gì mà Quái Tượng, Hệ Từ, Minh Di, Vị Tế, chưa thấy cũng chưa nghe, không biết là loại võ công thần kỳ gì.

Đoàn Dự thấy y có vẻ hoang mang, bèn nói tiếp: “Xem ra những công phu cao siêu đó ông chưa biết. Thành thử hảo ý của lão anh hùng, tại hạ chỉ đành tâm lãnh. Ta xin về mời gia sư đến cùng lão gia so tài cao thấp. Nếu lão tiền bối thắng được gia sư, khi đó ta sẽ tôn lão làm thầy cũng chưa muộn.”

Nam Hải Ngạc Thần cả giận hét lên: “Sư phụ mi là ai? Ta đâu có sợ lão? Vậy đến bao giờ tỷ thí?”

Đoàn Dự nói vậy tưởng để làm kế hoãn binh, không ngờ lão bắt ước hẹn ngày đấu võ. Chàng còn đang ngần ngừ chưa biết trả lời thế nào, bỗng nghe một tiếng gầm từ xa vượt qua mấy dãy núi vọng lại ầm ầm. Tiếng gầm này cũng lan ra khắp các khe núi chẳng kém gì tiếng hú của Nam Hải Ngạc Thần lúc nãy, chỉ khác ở chỗ là tiếng hú cực kỳ thê thảm còn tiếng gấm âm điệu lại hòa bình.

Nam Hải Ngạc Thần vừa nghe tiếng gầm giơ tay lên vỗ vào sau gáy mình kêu lên: “Chà chà! Lão ấy sắp đến nơi rồi, ta không rảnh nói nhiều, chỉ hỏi mi bao giờ sư phụ mi sẽ đấu võ với ta và đấu ở đâu? Nói mau!”

Đoàn Dự ấp úng: “Cái đó… cái đó phải đợi ta gặp sư phụ rồi mới hỏi được. Nhưng ông đi khỏi rồi bọn người này lập tức giết chúng ta ngay, ta làm sao… làm sao mà quay về báo cho sư phụ được?” Nói xong chàng giơ tay chỉ về phía bọn Thụy bà bà.

Nam Hải Ngạc Thần không thèm quay lại, tay trái vung ra chộp luôn vào ngực hán tử sử kiếm, kéo qua bên phải, năm ngón tay phải nắm luôn đầu y vặn qua bên trái, hai bàn tay ngược chiều nhau, nghe lốp cốp một tiếng đã bẻ gãy cổ người đó rồi. Người đó đầu quay ngược nhìn về sau lưng, tay phải rút kiếm ra mới được nửa chừng thì chết tốt.

Hán tử đó khi đấu với Mộc Uyển Thanh nhanh nhẹn phi thường, từng vung kiếm gạt được mấy mũi tên độc của nàng, thế mà bị Nam Hải Ngạc Thần bẻ cổ nhanh như chớp, không thi triển được chút công phu nào. Người bên ngoài ai nấy đều sợ đến hồn xiêu phách lạc. Nam Hải Ngạc Thần thuận tay hất ra, vứt xác y sang một bên. Ba người thủ hạ của Thụy bà bà gầm lên một tiếng, xông lên. Nam Hải Ngạc Thần chân phải đá luôn ba cái, ba đại hán đó bay vụt lên rơi tòm xuống vực sâu, tiếng kêu thảm khốc vọng lên nghe mà nổi da gà. Bọn Thụy bà bà ai nấy sợ hãi tháo lui. Nam Hải Ngạc Thần cười nói: “Bẻ cổ nghe lách cách, đã tai thật! Lão tử bẻ một đứa chưa thỏa, phải thêm đứa nữa. Đứa nào chạy chậm, lão tử bẻ cổ đứa đó.”

Thụy bà bà, Bình bà bà cả bọn sợ bay cả hồn vía, vội vàng chạy đến bên bờ vực, hốt hoảng trèo xuống.

Nam Hải Ngạc Thần cười một tràng quái dị quay sang nói với Đoàn Dự: “Sư phụ ngươi có giỏi được như thế chăng? Ngươi bái ta làm thầy, ta lập tức dạy ngươi chiêu đó. Vợ ngươi võ công cũng khá, nhưng nếu nó không nghe lời ngươi, chỉ lách cách một tiếng là xong ngay…”

Đột nhiên tiếng còi sắt lại nổi lên tít tít, tiếng ngắn nhưng liên tiếp không ngừng. Nam Hải Ngạc Thần kêu lên: “Đến đây! Đến ngay đây! Con bà nó, làm gì mà giục gấp thế?” Y quay sang Đoàn Dự: “Ngươi ngoan ngoãn ngồi đây chờ, đừng chạy đi đâu.” Y hấp tấp chạy ra nhảy xuống vực.

Đoàn Dự nửa mừng nửa lo; “Y nhảy như thế không chết hay sao?” Chàng chạy tới bên bờ vực nhìn xuống thấy y đang nhảy nhót, từ trên rơi xuống, mỗi lần rơi chừng vài trượng lại giơ tay ấn vào vách núi một cái, thân hình vọt lên, rồi lại rơi xuống, chẳng mấy chốc đã lẫn vào trong đám mây trắng lững lờ giữa sơn cốc.

Đoàn Dự le lưỡi, quay lại bên cạnh Mộc Uyển Thanh, cười nói: “Cũng may cô nương nhanh trí, lừa được tên đại ác nhân.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Lừa y cái gì?” Đoàn Dự đáp: “Cô nương nói rằng ai là người đầu tiên thấy mặt thì sẽ… thì sẽ…”

Mộc Uyển Thanh đáp: “Ai bảo là lừa? Thiếp đã thề độc rồi. Từ nay trở đi, chàng là chồng thiếp. Thế nhưng thiếp không cho chàng bái gã ác nhân đó làm thầy để học cái trò vặn cổ đâu.”

Đoàn Dự ngẩn người ra, nói: “Ta tưởng…cô nương nói vậy để đánh lừa lão Nam Hải Ngạc Thần trong cơn nguy cấp, đâu phải chuyện thật? Ta làm chồng cô nương thế nào được?” Mộc Uyển Thanh tức run lên bần bật, vịn vào phiến đá đứng dậy hỏi dồn: “Ngươi không thèm lấy ta? Có thật ngươi ruồng bỏ ta chăng?”

Đoàn Dự thấy nàng căm giận đến cực điểm vội đấu dịu: “Xin cô nương giữ mình làm trọng, mấy câu nói giỡn cô để tâm làm chi?” Mộc Uyển Thanh tiến lại tát Đoàn Dự một cái thật mạnh, nhưng chân nàng nhũn ra, không đứng vững, té nhào ngay vào lòng chàng. Đoàn Dự giơ tay ra đón lấy.

Mộc Uyển Thanh bị chàng ôm vào lòng, nghĩ đến đây là chồng mình không khỏi toàn thân rạo rực, nộ khí tiêu tan nói: “Mau bỏ ta ra!” .

Đoàn Dự đỡ Mộc Uyển Thanh ngồi dậy để nàng tựa lưng vào vách đá, nghĩ thầm: “Tính tình nàng vốn dĩ thật là kỳ lạ, sau khi bị thương lại càng lộn xộn, chi bằng mình cứ chiều ý nàng ta, nàng nói gì, mình cứ đồng ý là được. Cái quẻ “khốn” này có nói “hữu ngôn bất tín” đấy mà! Nếu đã gặp phải quẻ “khốn”, thì nói chẳng ai nghe. Nói gì chăng nữa, thế là mình sẽ thành đồ đệ của đại ác nhân, trượng phu của ác cô nương. Đoàn Dự từ nay thành ra ác công tử mất rồi!” Chàng nghĩ đến đó không khỏi cười thầm, lại dịu giọng an ủi nàng: “Thôi cô đừng giận, để ta đi kiếm cái gì cho cô ăn.”

Mộc Uyển Thanh nói: “Chốn này núi trọc, còn có chi mà ăn? Thiếp nghỉ lúc nữa rồi lấy sức cõng chàng xuống núi.” Đoàn Dự xua tay liên tiếp nói: “Không được đâu. Cô đi một mình còn chưa xong, làm sao cõng ta?”

Mộc Uyển Thanh giọng kiên quyết nói: “Chàng thà chết chứ không nỡ phụ thiếp. Lang quân chàng ơi! Mộc Uyển Thanh này tuy là gái giết người không ghê tay nhưng cũng nguyện hy sinh cho chồng.”

Đoàn Dự đỡ lời: “Đa tạ cô nương, cô cứ nghỉ ngơi đi đã rồi hãy tính. Thế từ nay trở đi cô đừng đeo khăn che mặt nữa, có được không nào?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Chàng bảo đừng đeo, thì thiếp không đeo nữa.” Nói rồi nàng cởi khăn che mặt ra.

Bất thình lình Đoàn Dự nổi cơn đau bụng kịch liệt. Không chịu nổi, chàng kêu lên một tiếng “úi chao!”, ruột đau tựa như có mũi dao lốc vào cắt ra từng đoạn. Chàng hai tay ôm bụng nhăn nhó, mồ hôi nhỏ giọt trên trán.

Mộc Uyển Thanh sợ hết hồn, hỏi: “Lang quân làm sao vậy?” Đoàn Dự rên rỉ trả lời nhát gừng: “Cải… cái món đoạn trường tán… đoạn trường tán…” Mộc Uyển Thanh nói: “Chao ôi! Chàng chưa uống thuốc giải hay sao?” Đoàn Dự đáp: “Ta có uống rồi.” Mộc Uyển Thanh nói: “Hay là phân lượng chưa đủ?” Nàng lấy trong túi chàng cái bình sứ, lấy giải dược ra cho Đoàn Dự uống, nhưng thấy chàng đau đến chết đi sống lại nên đỡ chàng ngồi bên cạnh mình, hỏi: “Bây giờ ra sao rồi?” Đoàn Dự đau đến tối tăm mặt mũi, rên rỉ nói: “Càng lúc càng đau… càng đau, Hay thuốc này là… thuốc giả…”.

Mộc Uyển Thanh giận dữ nói: “Gã Tư Không Huyền đưa thuốc giả hại người, bọn mình sẽ tới giết sạch Thần Nông Bang không còn một mống.” Đoàn Dự nói: “Chúng mình… chúng mình cũng cho họ… thuốc giả. Tư Không Huyền ăn miếng trả miếng, cũng không… không đáng trách.”

Mộc Uyển Thanh nổi cáu: “Không đáng trách là sao? Mình cho họ thuốc giả thì không sao, sao chúng lại dám đưa cho mình thuốc giả?” Mộc Uyển Thanh lấy vạt áo lau mồ hôi cho chàng. Nàng lòng đau như cắt, hai hàng lệ nhỏ, nức nở nói: “Lang quân ơi! Chàng không sống được sao?” Rồi áp mặt vào mà chàng run run nói: “Lang… lang quân đừng chết!”

Từ thuở nhỏ, Đoàn Dự chưa gần gũi cô gái nào đến thế! Má chàng được bộ mặt mỹ miều thơm tho áp vào, bên tai nghe giọng não nùng một điều lang quân, hai điều lang quân, trách nào tâm hồn chàng chẳng như bay bổng lên không? Ngay lúc đó, cơn đau trong bụng dần dần dịu xuống. Thì ra thuốc của Tư Không Huyền đưa cho là thật, có điều đoạn trường tán là một loại thuốc độc cực kỳ bá đạo, lúc này đã gần thời hạn phát tác. Tuy uống thuốc giải chất độc sẽ dần dần tiêu trừ, nhưng trong bụng sẽ phải đau một trận kịch liệt. Những triệu chứng đó Tư Không Huyền biết cả nhưng lúc đó không dám nói ra, e rằng sứ giả Linh Thứu Cung nổi giận.

Mộc Uyển Thanh không nghe chàng rên rỉ nữa, hỏi: “Bây giờ chàng đỡ đau chưa?” Đoàn Dự lắp bắp: “Có bớt một chút nhưng mà… nhưng mà…” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Nhưng mà làm sao hở lang quân?” Đoàn Dự đáp: “Nhưng mà nàng đừng rời ta. Nàng rời ta, ta sợ nó đau trở lại.” Mộc Uyển Thanh có vẻ thẹn thùng, khẽ đẩy chàng ra làm mặt dỗi nói: “Thế ra chàng đau giả vờ.”

Đoàn Dự bấy giờ thẹn chín người, không biết trốn đi đâu, bỗng trong bụng lại nổi cơn đau, nhịn không nổi lại rên lên một tiếng.

Mộc Uyển Thanh cầm tay chàng, nói: “Lang quân ơi! Nếu chàng chết thì em cũng không muốn sống nữa. Đôi ta cùng về âm phủ lại kết thành vợ chồng.” Đoàn Dự không muốn cho nàng tuẫn tiết liền nói: “Không được! Nàng phải sống để trả thù cho ta và hàng năm quét tước, thắp hương trên mộ. Ta mà được nàng tảo mộ ba chục năm, bốn chục năm mới nhắm mắt được.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Sao kỳ vậy? Người đã chết rồi còn biết gì nữa? Em có quét tước, cúng tế phần mộ hay không phỏng có ích gì cho chàng?”

Đoàn Dự nói: “Vậy nàng chết theo ta phỏng được ích gì? Ta nói để nàng nghe: mỗi năm nàng tảo mộ ta một lần, nếu ở dưới suối vàng ta còn hay biết, thỉnh thoảng được nhìn khuôn mặt sắc nước hương trời của nàng cũng mát ruột lắm chứ sao! Còn nàng chết theo thì cả đôi biến thành nắm xương tàn xấu xí.”

Mộc Uyển Thanh nghe chàng tán dương sắc đẹp mình cũng thấy thỏa dạ. Song nghĩ lại mình chọn mãi đến nay mới được một vị lang quân như ý, vậy mà chỉ trong khoảnh khắc nữa thôi, chàng sẽ phải lìa trần, bất giác lệ rơi lã chã.

Đoàn Dự thò tay ra ôm ghì lấy chiếc lưng thon, cảm thấy lưng nàng mềm mại ẻo lả, cơ hồ như chẳng có xương, lòng chàng bất giác lại một phen rung động, cúi xuống hôn lên mặt nàng một cái. Chàng lần đầu trong đời hôn một người con gái nên không dám hôn lâu, ngửa đầu về sau, nhìn khuôn mặt xinh đẹp của nàng mà ngơ ngơ ngẩn ngẩn, thở dài: “Tiếc là ta thọ mệnh không dài, chẳng mấy chốc sẽ không thấy khuôn mặt mỹ lệ của nàng được nữa.”

Mộc Uyển Thanh được chàng hôn một cái, trái tim như nhảy lên trong lồng ngực, đôi má thiếu ánh mặt trời nay ửng hồng càng tăng thêm vẻ kiều diễm, nàng nói: “Chàng là người đầu tiên được nhìn rõ mặt thiếp. Sau khi chàng chết rồi, thiếp sẽ rạch mặt cho xấu xa, quyết không để cho gã đàn ông nào khác được nhìn thấy cái mặt nguyên vẹn này.”

Đoàn Dự toan kiếm lời ngăn cản thì cơn ghen đâu bỗng nổi lên, quả chàng không muốn cho gã nào khác được nhìn bộ mặt họa nhường, nguyệt thẹn này. Câu nói đã đến cửa miệng mà không sao thốt ra được. Chàng xoay sang chuyện khác nói: “Tại sao nàng có lời thề độc như vậy?”

Mộc Uyển Thanh đáp: “Bây giờ thiếp đã cùng chàng nên đạo vợ chồng, thuật lại chàng nghe cũng không ngại gì. Thiếp là người không cha không mẹ, khi vừa lọt lòng đã bị đem bỏ ở góc rừng. May nhờ được sư phụ cứu sống, đem về nuôi nấng, lớn lên người lại truyền dạy võ nghệ. Sư phụ thiếp thường nói rằng: đàn ông ở thế gian này toàn là phường khinh bạc. Nếu để họ nhìn thấy mặt tất họ sẽ tìm trăm phương ngàn kế dụ dỗ cho mắc vào tròng, sau khi mình thất thân rồi, họ sẽ giở thói phũ phàng nên sư phụ bảo thiếp lấy khăn bịt mặt đi. Mười tám năm qua thiếp chỉ cùng sư phụ ở nơi thâm sơn cùng cốc, vốn dĩ ..”

Đoàn Dự xen vào: “Thì ra nàng mười tám tuổi, kém ta một tuổi.” Mộc Uyển Thanh gật đầu nói tiếp: “Mùa xuân năm nay có một người đến ngọn núi thiếp ở, là do sư thúc Tiếu dược xoa Cam Bảo Bảo sai mang thư đến…” Đoàn Dự lại chen vào: “Tiếu dược xoa Cam Bảo Bảo? Là mẹ của Chung Linh hay sao?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Đúng đó. Bà ta là sư muội của sư phụ thiếp.” Đột nhiên mặt nàng sầm xuống nói: “Thiếp không muốn chàng nhớ tới con nhãi Chung Linh. Chàng là chồng thiếp, chỉ được nhớ tới một mình thiếp thôi.” Đoàn Dự le lưỡi, nhăn mặt trêu nàng.

Mộc Uyển Thanh giận dỗi nói: “Chàng có nghe không? Thiếp là vợ của chàng, chỉ biết một mình chàng thôi, những người đàn ông khác thiếp coi như heo, như chó, chỉ là súc sinh.” Đoàn Dự mỉm cười: “Ta không làm được đâu.” Mộc Uyển Thanh giơ tay dọa đánh, gay gắt hỏi lại: “Sao thế?” Đoàn Dự cười: “Mẹ của ta, sư phụ của nàng chẳng phải là đàn bà con gái khác hay sao? Làm sao ta coi họ là súc sinh được?” Mộc Uyển Thanh ngạc nhiên nhưng rồi gật đầu nói: “Thế nhưng chàng không được nghĩ đến con bé Chung Linh đâu nhé.” Đoàn Dự nói: “Ta có nghĩ gì đâu, chẳng qua nàng đề cập đến Chung phu nhân nên ta mới nhớ đến Chung Linh. Thế lá thư gửi cho sư phụ nàng viết những gì?”

Mộc Uyển Thanh đáp: “Thiếp cũng không biết nữa. Sư phụ coi xong lá thư rồi, có vẻ bực tức lắm, xé tan lá thư đó ra, nói với người đưa thư: “Ta biết cả rồi, ngươi về đi.” Người đó đi rồi, sư phụ khóc mấy ngày liền, cơm không ăn, thiếp khuyên bà chớ nên phiền não, bà chẳng nghe, cũng không nói nguyên do, chỉ nói có hai người đàn bà đối với bà ta chẳng ra gì. Thiếp nói: “Sư phụ đừng giận làm chi. Hai người đàn bà tồi tệ đó làm hại sư phụ, mình kiếm họ giết đi là xong”. Sư phụ nói: “Phải lắm!” Thế là hai thầy trò thiếp hạ sơn để đi giết hai người đàn bà đốn mạt đó. Sư phụ nói rằng bao lâu nay bà nào có biết, thì ra hai con đàn bà tồi bại đó làm cho bà ra nông nỗi này, cũng may Cam Bảo Bảo cho bà hay, lại chỉ cả nơi chốn của hai người đó.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chung phu nhân tính tình có vẻ ngây thơ, yểu điệu ôn nhu, ngờ đâu cũng thật là tâm kế. Cái đó đúng là mượn dao giết người rồi. Bà ta hận hai người kia nhưng lại nhờ sư phụ nàng ra tay giết họ”.

Mộc Uyển Thanh kể tiếp: “Lúc thiếp hạ sơn, sư phụ bắt lập lời thề độc: ai được nhìn mặt thiếp mà thiếp không giết mới được lấy làm chồng. Nếu gã không chịu lấy mình làm vợ, hay lấy xong ít lâu rồi lại ruồng bỏ thì chính thiếp phải ra tay hạ sát con người bạc hạnh ấy: Nếu không theo đúng, một khi người biết ra sẽ tự vẫn chết trước mặt thiếp.”

Đoàn Dự trong bụng kinh hãi: “Trên đời này ai lại lấy mình ra để dọa bao giờ. Sư phụ nàng đem chuyện tự vẫn ra uy hiếp, lời thề đó quả là không thể nào vi phạm.”

Mộc Uyển Thanh nói tiếp: “Sư phụ coi thiếp như con đẻ, ơn nặng tầy non. Người đã bảo điều gì thiếp đâu dám chẳng tuân theo? Huống chi những lời người căn dặn đều bổ ích cho mình nên thiếp không cần đắn đo nữa, quỳ ngay xuống tuyên thệ. Sau khi xuống núi, hai thầy trò liền đi đến Tô Châu tìm giết con mụ họ Vương. Thế nhưng bà ta ở một nơi cực kỳ quái lạ, vòng qua vòng lại toàn là sông rạch ao hồ, thiếp và sư phụ giết được một số thủ hạ của con mụ tồi bại kia nhưng vẫn không tìm đâu ra mụ đó. Về sau sự phụ thiếp nói: Hai người chia ra hai đường đi tìm, nếu một tháng sau không gặp lại nhau thì quay sang đi về Đại Lý, tìm người đàn bà đốn mạt kia. Ngờ đâu dưới tay mụ họ Vương không ít cao thủ, Thụy bà bà và Bình bà bà là hai đầu não của bọn chúng. Thiếp một mình không địch lại được số đông, vừa đánh vừa chạy về đến Đại Lý, tìm được Cam sư thúc. Bà ấy cho thiếp ở trong trang viện bên ngoài Vạn Kiếp Cốc, nói là đợi sư phụ thiếp tới nơi sẽ cùng đi kiếm người đàn bà đốn mạt ở Đại Lý. Ngờ đâu sư phụ thiếp chưa tới, Thụy bà bà và bọn nô tài kia đã tới rồi. Chuyện về sau ra sao chàng đã biết cả.”

Nàng nói tới đây đã mệt, nhắm mắt dưỡng thần một lát rồi nói tiếp: “Lúc đầu thiếp tưởng chàng cũng giống bao nhiêu đàn ông con trai trong thiên hạ như sư phụ từng nói, đều là một bọn vô tình vô nghĩa, ngờ đâu chàng mượn con Hắc Mai Côi đi rồi, lại còn quay lại báo tin, việc đó quả không phải là dễ. Bọn nô tài kia vây đánh thiếp, chàng không biết võ công vậy mà vẫn có lòng bảo bọc cho thiếp. Thiếp…thiếp cũng đâu phải là kẻ vô tâm, trong lòng tự nhiên cảm kích.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cô kéo lê ta đằng sau ngựa, lôi qua khe suối, hơi một tí là tát tai, thì ra là bởi trong lòng cảm kích. Đúng rồi! Nếu như nàng không cảm kích ắt là bắn ta một mũi độc tiễn chết rồi.”

Mộc Uyển Thanh nói tiếp: “Chàng trị thương cho thiếp, đã nhìn thấy lưng thiếp rồi, thiếp cũng thấy cái mông trần của chàng. Thiếp vẫn thường nghĩ nếu không lấy chàng chắc không xong. Về sau Nam Hải Ngạc Thần ép uổng, thiếp đành phải để chàng thấy mặt”. Nàng nói đến đây quay sang chăm chăm nhìn Đoàn Dự, ánh mắt đầy vẻ thiết tha trìu mến.

Đoàn Dự trong lòng chợt động: “Không lẽ cô nàng phải lòng mình thật sao?” Chàng nói: “Nàng thấy cái… cái… mông trần của ta, cũng đừng để tâm làm gì. Chẳng qua là sự thế bức bách, nàng không cần phải nhất mực theo lời thề đó.”

Mộc Uyển Thanh cả giận lớn tiếng nói: “Ta đã phát thệ lẽ nào còn thay đổi? Cái mông đít của người xấu ơi là xấu, tưởng đẹp lắm hay sao? Nếu ngươi không chịu lấy ta thì nói mau đi! Ta quyết giết ngươi cho vẹn lời thề.”

Đoàn Dự toan nói nữa bỗng lại nổi cơn đau kịch liệt, chàng hai tay ôm bụng rên la oai oái. Mộc Uyển Thanh giục: “Ngươi có bằng lòng lấy ta không? Nói mau!” Đoàn Dự vẫn la: “Trời ơi! Ta đau… quá, đau bụng quá!” Mộc Uyển Thanh lại giục: “Ngươi phải trả lời dứt khoát: có hay không?” Đoàn Dự nghĩ mình chết đến nơi rồi, còn để nàng đau lòng ôm hận suốt đời làm gì nữa, Chàng bèn gật đầu đáp: “Ta…ta bằng lòng lấy nàng làm vợ.”

Mộc Uyển Thanh tay đã để lên lò xo cơ quan bắn độc tiễn, nghe chàng nói vậy, lòng mừng hớn hở, nở một nụ cười tươi như hoa xuân, ôm chặt lấy chàng thủ thỉ: “ Hảo lang quân! Để thiếp xoa bụng cho nhé!” Đoàn Dự vừa rên vừa đáp: “Không! Không… được! Chúng ta chưa làm lễ thành hôn! Nam nữ thọ thọ bất thân… mà!” Mộc Uyển Thanh đáp: “Hứ, thế sao hồi nãy chàng hôn thiếp?” Đoàn Dự đáp: “Tại ta thấy nàng đẹp quá, nhịn không nổi. Thôi ta xin lỗi.” Mộc Uyển Thanh cười nói: “Chàng đâu cần phải xin lỗi. Được chàng hôn, thiếp thật là sung sướng.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nàng quả là ngây thơ thật, còn Chung phu nhân thì giả vờ. Chung Linh tuổi còn nhỏ chắc cũng là thật”.

Mộc Uyển Thanh như sực nhớ ra, nói: “Phải rồi, chàng bị đói lâu quá nên càng đau dữ đây mà! Để thiếp cắt thịt gã kia chàng ăn.”

Đoàn Dự kinh hãi vô cùng, quên cả đau đớn, gọi to lên bảo nàng: “Thịt người không ăn được. Ta thà chết, nhất định không ăn thịt người.” Mộc Uyển Thanh lấy làm kỳ hỏi: “Sao không ăn được? Lúc thiếp còn ở với sư phụ, thấy người ăn cả thịt hùm, thịt beo. Cứ như lời chàng nói thì cũng không được sao?” Đoàn Dự đáp: “Thịt hùm, thịt beo hay bất cứ thịt gì mà chẳng ăn được, duy thịt người là không ăn được mà thôi.” Mộc Uyển Thanh ngớ ngẩn hỏi lại: “Thịt người có nọc độc chăng? Thiếp không có biết” Đoàn Dự đáp: “Không phải tại thịt người có nọc độc đâu. Nhưng ta là người, nàng là người, hán tử đó cũng là người, người lại ăn thịt người bao giờ” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Sao thế? Thiếp thấy giống lang sói lúc đói ăn thịt cả đồng loại mà!” Đoàn Dự thở dài nói: “Đúng! Nếu người ăn thịt người thì khác chi loài lang sói.”

Từ nhỏ Mộc Uyển Thanh theo liền bên sư phụ như hình với bóng, chưa từng giao thiệp với người thứ hai nào, mà sư phụ nàng tính tình lại quái gở, không nói chuyện đời cho nàng nghe bao giờ. Vì thế mà nàng chẳng biết tý gì về khuôn mẫu đạo đức cũng như lễ nghĩa luật pháp ở đời. Bây giờ nàng thấy Đoàn Dự bảo người không được ăn thịt người thì lại bản tín bán nghi, cho là một sự lạ lùng.

Đoàn Dự tiếp: “Nàng giết người bừa bãi, cũng là sai đó. Tử viết: “Chuyện gì mình không muốn, đừng làm cho người” (Kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân). Nàng không muốn người khác giết mình, thì cũng đừng giết người khác. Khi thấy ai bị hoạn nạn khổ sở, mình ra tay cứu giúp mới là phải đạo.”

Mộc Uyển Thanh nói: “Thế sao khi thiếp gặp nguy nan khổ sở, có ai ra tay giúp đỡ đâu? Trừ sư phụ và chàng ra, ai ai cũng chỉ muốn giết hại, ức hiếp thiếp, chẳng ai đối với thiếp tử tế hết. Hổ báo muốn cắn thiếp, thiếp giết chúng nó. Người muốn giết thiếp, thiếp cũng phải giết họ chứ? Có gì khác đâu?”

Mấy câu đó khiến Đoàn Dự cứng họng không sao trả lời được, đành nói: “Thì ra việc đời nàng chẳng biết gì cả.” Mộc Uyển Thanh nói: “Chàng không biết võ công, sao cũng xen vào chuyện võ lâm? Thiếp xem ra chàng cũng chẳng biết việc đời hơn thiếp bao nhiêu.” Đoàn Dự gật gù, cười gượng nói: “Nghe cũng có lý.”

Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói: “Cái gì mà…nghe cũng có lý? Chàng chưa bái sư, đã học được cách nói của thầy rồi.” Đoàn Dự cười nói: “Nam Hải Ngạc Thần cũng còn biết cái gì có lý, cái gì không, xem ra cũng chưa đáng làm đại ca.”.

Bỗng nghe Mộc Uyển Thanh “A” một tiếng kinh hoàng, sà vào lòng Đoàn Dự, kêu lên: “Y… y lại đến rồi kìa.”

Đoàn Dự quay đầu lại, chỉ thấy bên bờ vực một bóng vàng thấp thoáng, Nam Hải Ngạc Thần đã nhảy lên.

Y trông thấy Đoàn Dự, ngoạc mồm ra cười nói: “Ngươi chưa dập đầu bái sư ta thật không yên bụng, chỉ sợ có đứa khốn kiếp mặt dày nào đến thu người làm đồ đệ. Lão đại nói là, trên đời này việc gì cũng tiên hạ thủ vi cường, món gì quý giá còn trong tay thì là của mình, để người ta cướp mất rồi muốn giựt lại quả không phải dễ. Lời lão đại không sai, ta đánh không lại y, phải nghe lời y. Này, tiểu tử, khấu đầu bái sư cho lẹ.”

Đoàn Dự nghĩ gã này tính tình hiếu thắng, thích phô trương, ưa nịnh bợ nhưng thua lão đại thì nhận ngay không che giấu, thấy y mắt trái tím bầm, bên khóe miệng cũng rách một đường chắc là bị lão đại đánh cho. Trên đời này còn có người võ công giỏi hơn y kể cũng lạ. Bái sư thì nhất định là không, chàng đành phải nói hươu nói vượn: “Có phải lão đại thổi còi gọi ông đến để đánh nhau một trận phải không?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Đúng vậy.” Đoàn Dự nói: “Chắc là lão đại bị ông đánh cho chạy dài, có đúng không?” Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu: “Không phải, không phải! Võ công y cao hơn ta nhiều. Nhiều năm nay không gặp, ta vẫn tưởng lần này nếu không đánh thắng y để giành được chức lão đại trong Tứ Đại Ác Nhân thì ít ra cũng chịu được một hai trăm hiệp, ngờ đâu chỉ mới vài ba ngọn quyền cước, y đã đánh ta nằm thẳng cẳng không dậy nổi. Thôi không làm lão đại thì làm lão nhị cũng được rồi. Có điều khi ta đá vào hạ bộ y một cái rõ mạnh, y nói: “Nhạc lão tam, chú mày võ công tiến bộ lắm đó”. Lão đại khen ta võ công tiến bộ, nói không sai chút nào.”

Đoàn Dự nói: “Ông là Nhạc lão nhị, đâu phải Nhạc lão tam.” Nam Hải Ngạc Thần mặt lộ vẻ sượng sùng nói: “Lâu năm không gặp, lão đại buột miệng gọi lung tung, chắc tại y quên đó.” Đoàn Dự nói: “Lão đại nói không sai chút nào, lẽ đâu lại gọi nhầm thứ tự?”

Ngờ đâu câu đó chính là chọc phải vết thương lòng của Nam Hải Ngạc Thần, y rống lên một tiếng, giận dữ nói: “Ta là lão nhị, không phải lão tam. Ngươi mau quì xuống, năn nỉ ta thu làm đồ đệ, ta giả vờ không chịu, ngươi cầu tới cầu lui hai ba lần, dập đầu thật mạnh, ta mới giả vờ miễn cưỡng bằng lòng, thực ra trong lòng mười phần hoan hỉ. Cái đó là qui củ của phái Nam Hải ta, về sau ngươi thu đệ tử cũng phải như thế, đừng có quên nghe chưa?” Đoàn Dự hỏi: “Cái qui củ đó có thay đổi được không?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Đương nhiên là không.” Đoàn Dự hỏi: “Nếu như thay đổi thì ông là đồ rùa đen, là quân đê tiện chứ gì?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Đúng thế!”

Đoàn Dự nói: “Qui củ đó quả thật là hay, nhất định không thể nào sửa đổi, thay đổi thì là đồ rùa đen, là quân đê tiện.” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Hay lắm, ngươi quì xuống khấu đầu xin ta đi.” Đoàn Dự lắc đầu: “Ta không quì xuống khấu đầu, cũng chẳng năn nỉ xin ông thu làm đồ đệ.”

Nam Hải Ngạc Thần giận quá, khuôn mặt y biến thành vàng khè, ngoác cái mồm rộng đầy răng nhọn ra tưởng chừng toan xông lên ăn thịt người. Lão kêu lên: “Ngươi không dập đầu năn nỉ ta ư?” Đoàn Dự đáp: “Không dập đầu, không năn nỉ.” Nam Hải Ngạc Thần tiến lên một bước, quát lớn: “Ta bẻ cổ ngươi.” Đoàn Dự đáp: “Ngươi cứ bẻ cổ đi, ta không có sức chống trả.” Nam Hải Ngạc Thần vươn tay trái ra chộp ngay ngực chàng, tay phải nắm ngay đỉnh đầu. Đoàn Dự nói: “Ta không có sức chống trả, ngươi giết ta thì ngươi là gì?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Thì là đồ rùa đen, là quân đê tiện.” Đoàn Dự đáp: “Đúng đó.”

Nam Hải Ngạc Thần không biết tính sao, nghĩ thầm: “Ta quả không giết được y mà y cũng không chịu cầu xin ta, khó thực!”. Lão chợt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh vẻ mặt lo lắng, chợt nảy ra một ý, nhảy vọt tới, chộp cổ cô ta giơ lên cao, nhảy lùi lại đến sát bên bờ vách. Chân trái lão không chấm đất, đứng một chân phải theo thế “Kim kê độc lập”, lão lảo đảo mấy vòng trên bờ vực thẳm, mà sườn núi lại dựng đứng, tựa hồ như cùng Mộc Uyển Thanh sắp rớt xuống vực.

Đoàn Dự thấy vậy biết đâu rằng lão phô trương tuyệt kỹ, chỉ sợ cho tính mạng Mộc Uyển Thanh nên vội la lên: “Ông phải cẩn thận, té xuống thì chết cả.”

Nam Hải Ngạc Thần nhe răng cười đáp: “Này tiểu tử, sao mi giống ta quá. Thế nào ta cũng phải thu mi về làm đồ đệ. Ta phải lên trên đỉnh núi bên kia đợi mấy người nữa…” Vừa nói y vừa chỉ lên một ngọn núi cao ở xa xa, tiếp tục: “Mi mau đến đó cầu khẩn ta thu làm đồ đệ, ta sẽ tha cho vợ mi. Nếu không nghe lời ta thì đừng trách đấy.” Vừa nói hai tay lão vừa làm bộ bẻ cổ Mộc Uyển Thanh. Đột nhiên lão chuyển mình, quay mặt về phía vực thẳm, tay phải chống vào sườn núi, tay trái túm lấy Mộc Uyển Thanh tụt xuống.

Đoàn Dự kêu lên: “Này, này… Cẩn thận đấy!” Chàng chạy đến bên bờ vực đã thấy y cùng Mộc Uyển Thanh tuột xuống mấy chục trượng rồi. Đoàn Dự đột nhiên ngồi thụp xuống, cơn đau bụng lại nổi lên.

Nam Hải Ngạc Thần một tay túm sau lưng áo Mộc Uyển Thanh, một tay tì vào sườn núi, tụt xuống rất nhanh. Có chỗ sườn núi trơn nhẵn, xuống nhanh quá thì nàng lại cảm thấy như cả hai người cùng dừng lại một giây giữa không gian. Có lẽ lão phóng chưởng để giảm sức rơi. Đừng nói Mộc Uyển Thanh hết sức phản kháng, giả tỷ nàng còn sung sức thì lúc này cũng không dám nhúc nhích. Nàng sợ quá phải nhắm mắt lại. Lúc sau Mộc Uyển Thanh chợt thấy người nảy lên một cái, thì ra đã chạm đáy vực. Chân vừa chấm đất, lão không chần chừ chút nào, lại liền cất bước. Thân hình lão cũng chỉ tầm thước, không cao không thấp. Mộc Uyển Thanh lại là hạng nữ nhân cao lớn, nếu hai người đi ngang hàng thì cũng gần bằng nhau. Thế mà lão xách nàng lên nhẹ nhàng tựa như xách con gà, chẳng khó nhọc gì.

Y nhấp nhô trong bãi đá lởm chởm, hơi nước mông lung, chỉ giây lát đã qua khỏi lòng chảo đến bờ bên kia. Y nói lớn: “Ngươi là vợ của học trò ta nên ta tạm thời không làm khó. Nếu thằng nhãi đó không chịu bái ta làm thầy, hà hà, lúc đó nó đâu có phải là học trò ta, ngươi cũng đâu có phải là vợ của học trò ta. Nam Hải Ngạc Thần thấy con gái đẹp là tiên gian hậu sát, xưa nay không bỏ qua ai?”.

Mộc Uyển Thanh nghe mà rùng mình, nàng nói: “Lang quân tiểu nữ chẳng biết tí võ nghệ nào. Chàng ở đỉnh núi bên kia, làm sao mà xuống được? Chàng nhớ thương tiểu nữ, thế nào cũng liều mình tìm đến lão gia xin làm đồ đệ, nhưng chỉ trượt chân một cái, rớt xuống vực thẳm là nát ra như cám. Thế là lão gia mất đồ đệ, còn tìm đâu được người đủ tư cách như chàng?”

Nam Hải Ngạc Thần lập tức dừng bước đáp: “Nghe cũng có lý. Ta quên mất là gã không biết cách xuống vực.” Lão hú lên một tiếng dài. Chẳng mấy chốc, từ bên sườn núi chạy ra hai hán tử mặc áo vàng, khom lưng hành lễ. Nam Hải Ngạc Thần lớn tiếng ra lệnh: “Sang đỉnh núi bên kia kiếm một tiểu tử. Nếu y bằng lòng bái ta làm thay thì lập tức cõng y qua đây gặp ta. Còn nếu y không chịu thì ở đó canh chừng nhưng đừng làm hại đến y. Gã đó là người lão tử muốn thu làm học trò, bằng mọi giá đừng để y bái người khác làm thầy, nghe chưa?” Hai hán tử đó đáp lời: “Vâng!”

Nam Hải Ngạc Thần dặn xong lại xách Mộc Uyển Thanh lên đi tiếp. Mộc Uyển Thanh đã hơi vững dạ, biết chắc rằng lão tạm thời chưa hành hung mình. Nhưng chàng là người cố chấp lại ương ngạnh, thực khó mà thờ một kẻ hung tàn làm sư phụ. Chỉ e chàng thà liều chết chứ không chịu khuất phục. Đoạn nàng lại nghĩ: hình như Đoàn lang đối với ta chỉ có tấc lòng nghĩa hiệp, chứ không có tình đằm thắm vợ chồng, lẽ nào chàng lại vì ta mà cam tâm làm đồ đệ con quỷ khát máu này? Ôi, chỉ mong chàng được bình yên, đừng nhảy từ trên đỉnh cao xuống là được rồi. Không biết chàng có còn đau bụng nữa không?”

Nàng suy nghĩ miên man, Nam Hải Ngạc Thần đã lên đến đỉnh núi lúc nào nàng cũng không hay. Nội lực lão sung mãn vô cùng, trèo lên đỉnh núi cao như thế mà không nghỉ chân tí nào. Vừa đến nơi, lão để Mộc Uyển Thanh xuống, kéo quần đi tiểu luôn ra đấy. Mộc Uyển Thanh khó chịu, lẩm bẩm: “sao lại có con người thô bỉ đến thế được? Thật chẳng khác gì giống súc sinh!” Nàng vội tránh đi chỗ khác, lấy khăn bịt mặt lại vì nàng nghĩ thầm: “nếu mình cứ để bộ mặt xinh đẹp cho lão nhìn mãi, biết đâu lão lại không nổi thú tính mà quên cả nghĩa thầy trò?”

Nam Hải Ngạc Thần vừa thắt lưng quần lại vừa nói: “Ngươi kéo khăn che lên như thế là tốt lắm, nếu để ta nhìn một hồi nữa, chỉ sợ không xong đâu.” Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ngươi cũng còn đôi phần tự biết mình”. Nam Hải Ngạc Thần lại tiếp: “Sao ngươi không nói gì cả? Lại còn nhắm mắt giả vờ ngủ là sao? Ngươi khinh ta phải không?”

Mộc Uyển Thanh lắc đầu, mở mắt ra nói: “ Đại danh lão tiền bối là gì? Rồi đây lang quân tiểu nữ sẽ là đồ đệ lão gia, tiểu nữ cần phải biết để hàng ngày tâm niệm lão gia mới phải lẽ.” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Ta là Nhạc… Nhạc… Con bà nó, tên ta chẳng hay hớm gì đâu. Gia gia ta đặt cho cái tên kỳ cục, ông ấy chẳng ra trò trống gì, thật là đồ rùa đen đê tiện”

Mộc Uyển Thanh nghe lão nói mà phải phì cười. Nàng rủa thầm: cha mi là “đồ rùa đen đê tiện” thế thì mi là cái gì? Sao lại có hạng dám mạo phạm đến cả cha mình? Thật không phải là giống người. Nàng chợt nghĩ tới mình cũng chẳng biết cha là ai, chỉ nghe sư phụ nói ông ta là một người bội bạc, e rằng cũng chẳng hơn Nam Hải Ngạc Thần bao nhiêu, lòng không khỏi se lại.

Nam Hải Ngạc Thần hết đi sang bên đông lại chạy qua mé tây, không lúc nào ngồi yên một chỗ. Mộc Uyển Thanh ruột rối tơ vò, tuy nàng nhắm mắt mà không được yên tĩnh tâm thần vì lão đi đi lại lại, gót chân cứ nện xuống đất thình thịch. Nàng nén nỗi bực tức hỏi: “Nhạc lão gia không biết mệt ư? Sao không ngồi mà nghỉ một lát?” Nam Hải Ngạc Thần quát lên: “Mi đừng hỏi lôi thôi! Ta không ngồi thì mặc ta.” Mộc Uyển Thanh chỉ đành mặc kệ y, lại nghĩ đến Đoàn Dự, trong lòng nửa thấy êm đềm nửa thấy xót xa.

Đột nhiên từ xa vẳng lại tiếng khóc, thanh âm thật là ảo não mong manh, lúc có lúc không, dường như tiếng đàn bà đang rền rĩ: “Con ơi là con ơi! Con của mẹ ơi!” Nam Hải Ngạc Thần khạc một tiếng, nhổ toẹt đờm rãi xuống đất nói: “Đám ma về đến nơi rồi.” Đoạn lão gọi to: “Đưa ma ai mà khóc lắm thế? Ta chờ đây lâu lắm rồi.” Tiếng than vãn văng vẳng nghe không rõ: “Con ơi là con, mẹ nghĩ tới con chua xót vô cùng!”.

Mộc Uyển Thanh lạ lùng hỏi: “Phải mẹ ông đến không?” Nam Hải Ngạc Thần bực bội đáp: “Cái gì mà mẹ ta? Chỉ nói tầm xàm! Mụ này là Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương. Mi thấy không, chữ ác của mụ đứng thứ hai. Nhưng một ngày kia cái ngoại hiệu Hung thần ác sát của ta phải đánh đổi cho mụ mới xong.”

Bấy giờ Mộc Uyển Thanh mới hiểu ra rằng: chữ ác đứng hàng thứ hai trong ngoại hiệu, là biết thiên hạ đệ nhị ác nhân. Nàng bèn hỏi: “Thế còn vị thứ nhất và vị thứ tư trong tứ ác ngoại hiệu là gì?” Nam Hải Ngạc Thần gắt lên: “Hỏi gì mà hỏi lắm thế? Lão tử không muốn nói chuyện với ngươi.”

Đột nhiên tiếng một người đàn bà buồn rầu nói: “Trong bọn ta thì gã thứ tư là Cùng hung cực ác, còn đại ca là Ác quán mãn doanh.”

Mộc Uyển Thanh thấy Diệp Nhị Nương hiện ra không một tiếng động báo trước, khiến cho nàng phải sửng sốt. Nàng vội quay đầu lại nhìn kỹ thì thấy mụ mặc áo dài màu xanh nhạt, da trắng tóc dài, trạc bốn mươi tuổi. Mặt mũi xinh xắn nhưng hai bên má đều có vệt máu tím bầm từ đuôi mắt rạch xuống, dường như bị ai cào. Trong tay mụ bồng một đứa con trai nhỏ, trắng trẻo mập mạp trông rất khả ái.

Mộc Uyển Thanh vẫn đinh ninh Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương là đàn chị Hung thần ác sát Nam Hải Ngạc Thần, tất mặt mũi đáng khiếp hơn, ngờ đâu mụ lại là người có chút nhan sắc. Nàng không khỏi ngạc nhiên trố mắt ra mà nhìn. Diệp Nhị Nương mỉm cười. Mộc Uyển Thanh trông thấy mụ cười mà rùng mình, cái cười như che giấu bao nhiêu là cay đắng đau thương vô bờ bến, khiến nàng cầm lòng không đậu. Nàng vội quay đi phía khác, không dám nhìn mụ nữa.

Nam Hải Ngạc Thần hỏi: “Tam muội! Tại sao đại ca và tứ đệ đến giờ còn chưa tới?” Diệp Nhị Nương rầu rầu hỏi: “Trông ngươi mắt mũi sưng vêu thế kia, chắc là bị lão đại đánh cho một trận rồi, sao còn mặt dày giả vờ hỏi sao lão đại chưa tới. Rõ ràng ngươi ở hàng thứ ba, còn là em ta, vậy mà người cố ý hạ ta xuống. Ta bảo cho ngươi hay: nếu người còn gọi câu tam muội nữa thì chị đây không nể mặt đâu.” Nam Hải Ngạc Thần tức mình đáp: “Không nể mặt thì đã sao. Bộ ngươi muốn đánh nhau chăng?” Diệp Nhị Nương cười khẩy nói: “Ngươi muốn đánh thì có ngày chị sẽ đánh cho.”

Đứa trẻ bà ta đang bồng trên tay bỗng khóc ré lên: “Mẹ ơi! Cho bé về với mẹ!” Diệp Nhị Nương dỗ dành: “Bé ngoan! Bé nín đi! Mẹ bé đây mà!” Đứa nhỏ lại càng gào to: “Mẹ ơi! Đón bé về thôi! Bà có phải mẹ đâu?” Diệp Nhị Nương bồng đứa nhỏ đung đưa, vừa hát vừa dỗ nhưng nó cứ kêu khóc hoài.

Nam Hải Ngạc Thần lăng xăng chạy đi chạy lại, đâm ra cáu kỉnh quát ầm lên: “Mụ ru cái gì? Muốn giết nó thì giết phứt đi cho rồi!” Diệp Nhị Nương cười tít mắt lại, vẫn tiếp tục ru: “Ầu ơ… Để mẹ bế sang nhà bà mua bánh…”

Mộc Uyển Thanh rùng mình, càng nghĩ càng ghê. Theo lời của Nam Hải Ngạc Thần thì Diệp Nhị Nương định vờn đứa bé cho chết, trong lòng vừa phẫn nộ, lại vừa sợ hãi. Diệp Nhị Nương vẫn tiếp tục ru: “Con ơi con ngủ cho ngoan…”

Tiếng ru đầy vẻ trìu mến khiến nàng chưa hẳn tin lời Nam Hải Ngạc Thần là thật, Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói: “Mỗi ngày mụ giết một đứa trẻ con, vậy mà còn làm bộ làm tịch, thật không biết xấu hổ.” Diệp Nhị Nương nhỏ nhẹ nói: “Ngươi đừng quát tháo nữa! Ngươi làm cho bé cưng của ta kinh hãi.”

Nam Hải Ngạc Thần vụt đưa tay toan chụp lấy đứa nhỏ quật chết tươi, để khỏi phải nghe nó khóc lâu lại thêm sốt ruột. Nhưng lão đã nhanh tay mà mụ còn lẹ hơn, xoay người nhẹ như một bóng ma, Nam Hải Ngạc Thần vồ hụt. Rồi mụ lên mặt đàn chị, bảo Nam Hải Ngạc Thần: “Trời ơi! Sao tam đệ lại vô cớ hằn học với con ta?” Nam Hải Ngạc Thần quát lên: “Ta muốn quật chết thằng tiểu quỷ đó.” Diệp Nhị Nương dịu dàng nựng đứa bé: “Cục cưng ơi, có mẹ đây, đừng sợ tam thúc xấu xí kia, y đánh không lại mẹ đâu. Con trắng trẻo mập mạp thế này, càng nhìn càng thích, mẹ đùa với con đến chiều mới giết, còn bây giờ mẹ thương con lắm.”

Mộc Uyển Thanh nghe vậy tưởng chừng muốn nôn oẹ ra, nghĩ thầm: “Quả đúng là Diệp Nhị Nương xếp hạng cao hơn Nam Hải Ngạc Thần. Nhạc lão tam chưa thể qua mặt mụ ta được.”

Nam Hải Ngạc Thần chụp sểnh đứa nhỏ, lão tự biết mình có ra tay nữa cũng chẳng ăn thua, lại đột nhiên quát lớn: “Mau ra đây! Thằng bé đó đâu? Sao không đem nó qua đây bái ta làm thầy?”

Hai gã áo vàng từ đằng sau tảng đá khép nép đi ra, đứng tránh ở xa xa, chính là hai người lúc trước Nam Hải Ngạc Thần sai đi qua bên kia đón Đoàn Dự. Một tên ấp a ấp úng.đáp: “Tiểu tiểu nhân lên đến đỉnh núi, không… không thấy có ai, Đi tìm… tìm khắp nơi vẫn không thấy.”

Mộc Uyển Thanh kinh hoảng. Nam Hải Ngạc Thần quát lên: “Hay là chúng bay đến trễ quá nên tên tiểu tử vô phúc đó rơi xuống vực chết rồi?” Hai người đó không dám đến gần, một gã lập cập nói: “Bọn tiểu nhân hai người… hai người có kiếm khắp nơi dưới Sơn cốc nhưng không thấy thi thể.”Nam Hải Ngạc Thần quát: “Thế thì nó bay lên trời hay sao? Chúng bay dám nói láo ta hả?” Hai người kia vội vàng quì xuống, dập đầu binh binh van xin tha mạng. Chỉ nghe vù vù, Nam Hải Ngạc Thần đã ném hai cục đá qua trúng hai gã này chết ngay lập tức.

Hai người đó không kiếm ra Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh vốn đã bực chúng làm không được việc, nên khi Nam Hải Ngạc Thần đánh chết chúng nàng cảm thấy hả dạ, trong chớp mắt tâm tư dâng lên dạt dào: “Chàng không có ở trên núi, dưới vực sâu cũng không có xác, thế thì đi đâu? Hay là trốn vào nơi ẩn khuất nên hai gã này tìm không ra. Hay là hai gã đó có thấy thi thể mà không dám nói?” Nàng vốn định sẵn, nếu Đoàn Dự chết nàng cũng không thiết sống nữa, huống chi lại rơi vào tay Nam Hải Ngạc Thần, nếu sợ chết ắt phải chịu không biết bao nhiêu dày vò hành hạ. Thế nhưng không thấy xác Đoàn Dự, thì vẫn còn một tia hi vọng, không thể chết một cách hồ đồ.

Nam Hải Ngạc Thần hết sức bực bội, không ngớt chửi bới: “Sao đến bây giờ mà đại ca cùng lão tứ vẫn chưa thấy đến? Phải chờ mấy con rùa này thật là nóng ruột.” Diệp Nhị Nương nói: “Ngươi dám không đợi lão đại thật chăng?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Lão đại dặn ta nói với ngươi rằng, bọn mình ở trên đỉnh núi này đợi y cho đủ bảy ngày, nếu sau bảy ngày y không đến thì tới Vạn Kiếp Cốc của Chung Vạn Cừu đợi y ở đó, chưa gặp thì không được bỏ đi.” Diệp Nhị Nương thản nhiên nói: “Ta đã bảo ngươi bị lão đại nện cho một trận sống dở chết dở, bây giờ còn chối được hay không?” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói: “Ai thèm chối? Ta đánh không lại lão đại là đúng rồi, bị y nện một trận cũng không sai, nhưng làm gì có chuyện sống dở chết dở?”

Diệp Nhị Nương nói: “Thì ra ngươi không bị nện đến sống dở chết dở… con đừng khóc, mẹ thương… à, thì ra chỉ đánh nhè nhẹ… cục cưng của mẹ…”

Nam Hải Ngạc Thần hậm hực nói: “Cũng chẳng phải là đánh nhè nhẹ. Này, lão đại muốn đánh thì liệu ngươi có chạy nổi không?” Diệp Nhị Nương đáp: “Ta đâu có mong chức Diệp đại nương, việc gì mà lão đại lại gây sự với ta? Cục cưng ngoan ơi …” Nam Hải Ngạc Thần lại chửi: “Con mẹ nó, bà đừng có gọi là cục cưng nữa có được không?”

Diệp Nhị Nương cười nói: “Tam đệ đừng có nóng. Ngươi có biết chuyện hôm qua lão tứ đi đánh nhau với người ta bị thua không?” Nam Hải Ngạc Thần ngạc nhiên hỏi: “Sao? Lão tứ bị thua ai?”

Diệp Nhị Nương nói: “Con nhãi kia trông có vẻ như không bằng lòng, chắc nó đang rủa ta sao mỗi ngày lại đùa nghịch chết một đứa nhỏ, ngươi giết nó trước đi rồi ta sẽ kể cho ngươi nghe.” Nam Hải Ngạc Thần ngần ngừ đáp: “Y là vợ đồ đệ ta, nếu giết y ta e rằng chồng y không chịu bái sư nữa.” Diệp Nhị Nương hỏi: “Thế không phải học trò ngươi rơi vào sơn cốc chết rồi sao?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Cái đó chưa chắc, nếu té xuống chết thì cũng phải còn thi thể. Chắc nó trốn ở đâu một hồi rồi sẽ đến đây lạy lục xin ta thu làm đồ đệ.”

Diệp Nhị Nương cười nói: “Vậy thì để ta động thủ giúp, đồ đệ ngươi có đến thì bảo y tới kiếm ta là xong. Con bé này có đôi mắt xinh quá, khiến cho ai trông thấy cũng phải mê mệt. Sao trời lại không cho ta đôi mắt như vậy chứ? Trước hết ta phải móc con ngươi nó ra.” Mộc Uyển Thanh sợ toát mồ hôi hột, lại nghe Nam Hải Ngạc Thần nói: “Không được! Thôi để ta điểm huyệt cho nó ngủ đi vài ngày.” Lão không chờ Diệp Nhị Nương trả lời, đưa ngón tay điểm luôn hai huyệt vào sau lưng và dưới vai Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh thấy choáng váng rồi không biết gì nữa.

Không biết nàng đã mê đi bao lâu, đến lúc tỉnh dậy thì thân thể lạnh toát, bên tai vẫn nghe những trận cười khô khan, khủng khiếp. Tuy gọi là cười nhưng chẳng khác gì tiếng dao mài trên mảnh thép, khiến người nghe phải nhức cả hai hàm răng. Mộc Uyển Thanh biết rằng nếu mình chỉ cử động một chút đối phương sẽ phát giác ngay, thể nào cũng ra tay nghiệt ngã nên tuy tê mỏi mà cũng không dám duỗi chân tay.

Nàng nghe Nam Hải Ngạc Thần nói: “Lão tứ, ngươi không việc gì phải khoa trương, tam muội nói người bị đánh tơi tả còn lấp liếm nỗi gì? Thực sự có bao nhiêu kẻ địch vây đánh ngươi thế?” Tiếng người khi the thé, khi ồm ồm kia nói: “Ta bị bảy tên vây đánh, mà toàn là những tay võ nghệ vào bậc nhất. Dù ta có bản lãnh mấy cũng không thể giết hết chúng được nên mới bỏ đi.” Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Thì ra lão tứ Cùng hung cực ác đã đến rồi.” Nàng rất muốn xem cái gã Cùng hung cực ác này hình dáng thế nào nhưng không dám quay đầu lại mở mắt ra.

Lại nghe Diệp Nhị Nương nói: “Lão tứ chỉ quen bịp bợm, rõ ràng đối phương chỉ có hai gã mà dám phịa thêm năm gã nữa. Những tay võ nghệ bậc nhất đâu mà lắm thế?” Lão tứ giận dữ nói: “Làm sao bà biết, bà có chính mắt trông thấy hay không?” Diệp Nhị Nương mỉm cười nói: “Nếu ta không chính mắt trông thấy thì làm sao biết được? Hai người đó một đứa sử cái cần câu, còn một đứa cầm đôi búa, có đúng không nào? Hì hì, ngươi thêm thắt ra năm người thì những người đó sử binh khí gì?” Lão tứ lớn tiếng nói: “Thế ra bấy giờ nhị tỷ cũng đứng đó, sao nhị tỷ không giúp ta một tay? Nhị tỷ muốn người ta giết lão tứ này mới mát ruột phải không?” Diệp Nhị Nương càng cười lớn: “Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc đã là con hạc trên mây, ai không biết ngươi giỏi khinh công trên đời có một không hai? Đánh thua người ta thì chạy chứ sao?”

Vân Trung Học nghe Diệp Nhị Nương nói vậy tức sôi lên, càng nói lớn: “Ta là lão tứ bị thua dưới tay người khác, mụ vẻ vang lắm hay sao? Bọn ta Tứ Đại Ác Nhân lần này tụ hội đâu phải chỉ để đi thí mạng cho lão bị thịt Chung Vạn Cừu? Y có đưa vợ đưa con đến ngủ với ta đâu? Lão đại có thù sâu như biển với hoàng phủ Đại Lý, y gọi chúng ta đến liên thủ xông lên. Ta mới ra quân đã bất lợi, mụ lại đứng ngoài vỗ tay, liệu ta có nên nói cho lão đại biết hay không?”

Diệp Nhị Nương cười nói: “Này tứ đệ! Ta chưa thấy khinh công ai tuyệt diệu như ngươi, quả thật danh bất hư truyền. Ngươi lướt như khói tỏa chim bay, hai gã kia chỉ còn nước ngóng bụi trông theo, đến như tỉ tỉ đây đuổi cũng còn chưa kịp. Nếu không như thế đời nào người chị này lại đứng ngoài tụ thủ bàng quan?” Dường như bà ta sợ lão tứ mách lại với lão đại nên vội vàng nói lấy lòng mấy câu. Vân Trung Hạc hừ một tiếng, xem ra nộ khí đã bớt nhiều.

Nam Hải Ngạc Thần cũng hỏi: “Lão tứ! Bọn nào mà gớm thế? Phải chăng cũng lại mấy thằng chó săn trong đám Hoàng phủ nước Đại Lý?” Vân Trung Hạc bực mình nói: “Mười phần chắc chắn là bọn chúng. Ngoài đám Hoàng phủ thì đất Đại Lý này làm gì còn cao thủ?” Diệp Nhị Nương nói: “Hai người nói gì gì đại náo hoàng phủ như trở bàn tay, cắt đầu hoàng đế Đại Lý như lấy đồ trong túi. Ta đã bảo không dễ thế đâu, bây giờ đã tin chưa?”

Vân Trung Hạc bỗng nói: “Đại ca sao mãi không thấy đến? Mất ba ngày rồi! Trước nay đại ca có sai hẹn bao giờ đâu? Hay là… hay là…” Diệp Nhị Nương nói tiếp: “Hay là xảy ra chuyện gì rồi chăng?” Nam Hải Ngạc Thần cáu, nói móc: “Hừ, lão đại bảo chúng mình đợi đủ bảy ngày, bây giờ mới có bốn hôm, sao người nôn nóng thế? Lão đại là hạng người đâu phải như ngươi đâu, đánh không lại người ta liền cụp đuôi mà chạy?” Diệp Nhị Nương đáp: “Đánh thua bỏ chạy mới là bậc tuấn kiệt thức thời. Ta chỉ sợ đại ca bị bảy tám đứa vây đánh, dù kém thế vẫn không chịu thua để cho xứng cái ngoại hiệu Ác quán mãn doanh đứng đầu tứ ác.”

Nam Hải Ngạc Thần nhổ toẹt xuống đất nói: “Xì! Lão đại hoành hành thiên hạ có sợ gì ai? Làm sao sẩy tay ở cái nước Đại Lý bé xíu này được? Con bà nó, ta đói rồi.” Vừa nói vừa cầm cái đùi bò đưa vào đống lửa nướng. Chẳng mấy chốc mùi thịt ngon lành bốc lên nức mũi.

Mộc Uyển Thanh lẩm bẩm: “Cứ nghe bọn họ nói chuyện thì mình ngủ mất ba ngày rồi, không biết có được tin tức gì về Đoàn lang chưa?” Bốn ngày nàng chưa được ăn gì, đói như cào ruột, ngửi thấy mùi thịt nướng thơm tho, bất giác nuốt nước miếng.

Chỉ có thế mà Diệp Nhị Nương đã biết rồi, mụ cười hỏi: “Cô em đói rồi phải không? Đã tỉnh giấc sao còn làm bộ ngủ say không cựa quậy? Có muốn xem mặt lão tứ Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc không?”

Nam Hải Ngạc Thần biết Vân Trung Hạc hiếu sắc hơn mạng sống, để gã nhìn thấy dung nhan Mộc Uyển Thanh thì y dù chết cũng đành chịu chứ quyết không bỏ qua. Lão liền cắt một miếng thịt lớn nửa sống nửa chín ném cho nàng và bảo: “Đem ra ngoài xa ngồi mà ăn! Đừng có nghe trộm chuyện chúng ta.”

Mộc Uyển Thanh giả giọng khàn khàn cho thật khó nghe, hỏi lại: “Chồng ta qua chưa?”

Nam Hải Ngạc Thần bực tức đáp: “Con bà nó! Ta thân hành qua bên đó, tìm khắp trên núi dưới khe mà chẳng thấy tông tích y đâu. Đích là y chưa chết nhưng không biết ai cứu, đem y đi. Ta đã chờ y ba ngày rồi, còn chờ thêm bốn ngày nữa là bảy, nếu y không đến ta sẽ đem mi ra mà nướng.”

Mộc Uyển Thanh yên dạ nghĩ thầm: “Nam Hải Ngạc Thần không phải tầm thường, lão đã nói Đoàn lang chưa chết thì nhất định đúng rồi. Ôi không biết chàng có nhớ ta mà đến đây chăng?” Nàng lượm miếng thịt bò lên, uể oải đi về phía sau núi. Vì nhịn đói lâu ngày, nàng mệt nhọc quá chừng. Ba ngày ròng rã nàng ngồi không cử động, vết thương trên vai đã khép miệng.

Diệp Nhị Nương hỏi Nam Hải Ngạc Thần: “Gã tiểu tử của tam đệ đó hay ở điểm nào mà ngươi lại luyến tiếc thế?” Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả nói: “Gã đó căn cốt giống ta như hệt, đem nghề võ phái Nam Hải truyền thụ cho chắc gã có thể theo được đến chỗ tinh vi ảo diệu. Trong thiên hạ có tứ ác, Nhạc lão nhị không đứng hàng đầu nhưng nếu nói về môn đồ, ta dám quyết không ai có được tên đồ đệ hay như ta.”

Mộc Uyển Thanh đi mỗi lúc một xa, còn văng vẳng nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần khoe học trò mình là một nhân vật thế gian hi hữu, lòng nàng nửa phần hoan hỉ, nửa phần sầu bi. Bất giác nàng lại bật cười tự nghĩ: Đoàn lang chỉ là một gã thư sinh ươn gàn, ngoài cái gan dạ phi thường chàng có hiểu võ nghệ gì đâu? Vậy mà Nam Hải Ngạc Thần coi chàng như bửu bối. Thôi, phái Nam Hải đã đến ngày lụn bại. Nàng tìm chỗ vắng vẻ kín đáo, ngồi xuống xé thịt bò ăn. Tuy đói ngấu mà miếng thịt tới ba bốn cân đó nàng chỉ ăn hết độ non nửa. Nàng ngấm ngầm suy tính: đến ngày thứ bảy mà Đoàn lang không tới, tức là chàng phụ bạc rồi, ta phải tìm cách trốn khỏi nơi này. Rồi nàng lại tự hỏi: ta thoát thân để sống mà làm gì? Rồi lại thấy chua xót trong lòng.

Cứ như thế tâm thần bất định, chẳng mấy chốc đã mấy ngày qua. Cái mùi vị ba thu gom lại một ngày kia, bây giờ nàng mới nếm mùi. Ngày ngày, đêm đêm, nàng chỉ mong dưới chân núi vọng lên một chút thanh âm, dẫu chẳng phải Đoàn Dự đến cũng còn hơn là cứ ngóng cổ trông chờ. Thêm một giờ nàng thấy khổ sở hơn một chút, lúc nào cũng canh cánh nghĩ ngợi gần xa: “Dẫu chàng có lòng đi kiếm ta thì trèo đèo vượt suối cũng đâu có dễ dàng gì, ngày một ngày hai chắc gì tới được. Đến hôm nay mà chàng chưa đến thì chắc là không đến rồi. Chàng không muốn bái gã Nam Hải Ngạc Thần kia làm thầy, chẳng lẽ cũng không một chút tình nghĩa gì với ta sao? Thế sao chàng lại ôm ta, hôn ta, bằng lòng lấy ta làm vợ?”

Mộc Uyển Thanh càng nghĩ càng chua chát, lời sư phụ nàng nói “Khắp thiên hạ chẳng có chàng trai nào là không bạc tình phụ nghĩa” lại văng vẳng bên tai. Sau nàng lại nghĩ: “Biết đâu Đoàn lang không phải hạng người này?”. Nhưng rồi nàng cho mình nghĩ như thế chẳng qua là tự dối.

Suốt trong mấy ngày này Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc và Diệp Nhị Nương đều nóng lòng chờ đại ca Ác quán mãn doanh, không ai quấy rầy đến Mộc Uyển Thanh. Tuy nhiên thân phận nàng chẳng khác chi con kiến bò trong chảo nóng, buồn bực bồn chồn. Chỗ nàng ngồi cách ba người khá xa nhưng họ tranh luận oang oang nàng vẫn nghe được lõm bõm.

Đến tối hôm thứ sáu, Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ngày mai là ngày cuối cùng rồi, gã bạc tình kia chắc là không tới, tối nay ta phải len lén trốn đi mới được. Nếu đợi đến sáng mai thì thật khó mà thoát thân”. Nàng đứng lên vặn vẹo người một hồi, sau sáu ngày nghỉ ngơi, tinh thần tuy chán nản nhưng vết thương nhờ có thuốc linh nghiệm cũng đã khỏi bảy tám phần. Nàng nghĩ thầm: “Ta phải chờ lúc ba người tranh luận sôi nổi, sẽ lánh xa đây chừng vài trăm trượng, tìm chỗ hang hốc nào ẩn náu tạm thời. Bọn họ rượt theo mình, tất chia nhau đi lùng tận đâu đâu, quyết không bao giờ nghĩ mình còn lẩn quất quanh đây. Chờ cho họ đuổi thật xa bấy giờ mình hãy ra đi mới là thượng sách.”

Thế nhưng nàng lại nghĩ: “Họ với ta không thù không oán, đuổi theo mình làm gì? Ta bỏ trốn cũng thế, không bỏ trốn cũng thế, họ đâu có để tâm”.

Ba bốn lần nàng dợm bước toan đi nhưng rồi vẫn khắc khoải nhớ tới Đoàn Dự: “Biết đâu sáng mai chàng đến? Mình mà bỏ đi, e rằng suốt đời không còn ngày tái hội. Có khi chàng đến tìm mình vẹn nghĩa đồng sinh đồng tử, thế mà mình không có mặt tại đây, tất chàng sẽ bị Nam Hải Ngạc Thần giết vì không chịu thờ lão làm thầy, chẳng hóa ra mình mang tội?”

Nàng bụng rối như tơ vò, nghĩ tới nghĩ lui đến lúc hừng sáng vẫn chưa quyết định được.

Hồi 05: Lăng ba vi bộ

Trời sáng rõ, nàng chép miệng thở dài: “Anh chàng bạc hạnh vô tình có đến hay không cũng mặc, Mộc Uyển Thanh đành chết tại đây”. Đang lúc sầu khổ giày vò, bất thình lình nàng nghe cách chừng vài chục trượng một tiếng “bịch”, có vật gì đó rơi xuống bụi rậm.

Nàng giật mình, không biết là cái gì liền nằm phục xuống để nghe ngóng. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì nữa, nàng từ từ đi tới xem.

Nàng đến bên bụi rậm, vạch đám cỏ cao nhìn vào. Khiếp quá! Sáu cái xác trẻ con, cái nằm ngang, cái nằm ngửa, quay ra đó. Mộc Uyển Thanh sợ quá, lưng toát mồ hôi lạnh ngắt. Trong đám xác chết này có cả đứa con trai mà hôm trước Diệp Nhị Nương bồng trên tay. Nàng nhớ lại lời Nam Hải Ngạc Thần, lẩm bẩm một mình:“Con mụ Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương này quả nhiên mỗi ngày giết một đứa hài nhi, không hiểu để làm gì. Trong sáu ngày qua, mụ đã giết sáu đứa nhỏ rồi.”

Trong sáu cái thi hài trẻ con này, chỉ có một đứa quần áo sạch sẽ diêm dúa, còn năm đứa kia toàn áo vải quê mùa thô kệch, ra kiểu con nhà làm ruộng, chắc là mụ bắt trộm trong các nông gia trên núi Vô Lượng. Mộc Uyển Thanh cũng vào hạng đa sát nhưng chỉ giết toàn bọn hào khách giang hồ toan xâm phạm đến nàng. Hành động tàn sát trẻ con này làm cho nàng vừa căm giận, vừa sợ hãi, bất giác run lên bần bật.

Đột nhiên trước mặt Mộc Uyển Thanh bóng xanh thấp thoáng, một người đi nhanh như bay xuống núi, cứ liên tiếp nhô lên hạ xuống như ma quỷ ẩn hiện. Đó chính là Diệp Nhị Nương, Mộc Uyển Thanh thấy khinh công của mụ mà giật mình nghĩ thầm: sư phụ ta cũng không tài nào đuổi kịp mụ. Rồi đột nhiên hai chân nàng bủn rủn, ngồi phệt xuống đất.

Mộc Uyển Thanh ngẩn người ra một lúc rồi đem đặt sáu cái xác hài nhi vào một chỗ. Nàng lấy đá và đất cát lấp lên để làm cái mộ. Bỗng phía sau một luồng gió thổi đến mát rơi. Nàng ứng biến rất mau lẹ, nhún chân trái lên một chút, đưa người về phía trước tránh khỏi. Chợt nghe phía sau nối lên một trận cười the thé như tiếng kim khí cọ xát vào nhau, kế đến tiếng gọi: “Tiểu cô nương! Chồng cô bỏ cô rồi, còn mơ tưởng làm chi nữa? Hay là cô theo ta có hơn không?”

Chính là lão Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc. Thanh âm vừa đến người đã đến theo, bàn tay vươn ra toan chụp lấy vai Mộc Uyển Thanh. Bỗng một luồng chưởng phong từ mé bên phóng đến gạt phắt tay Vân Trung Hạc, đó là Nam Hải Ngạc Thần nổi hung oang oang quát: “Lão tứ! Phải Nam Hải ta không cho mi càn rỡ thế đâu!” Vân Trung Hạc không nắm được Mộc Uyển Thanh, nhảy ra xa đến ngoài mười trượng rồi vừa cười vừa nói: “Tam ca có thu được chồng thị làm đồ đệ đâu mà nhận thị là người của phái Nam Hải?” Mộc Uyển Thanh nhìn Vân Trung Hạc người cao lêu nghêu, lại gầy như que củi, toàn thân trông như cây tre, bộ mặt dài ngoằng trông mà phát khiếp.

Nam Hải Ngạc Thần gầm lên: “Sao mi biết đồ đệ ta không tới? Phải chăng mi giết chết đồ đệ ta rồi? Chắc là mi thấy y có tư cách đặc biệt hơn đời, cũng muốn thu y làm đồ đệ. Mi bức bách song y không chịu nên mi giết đi, thế là mi phá tan sự nghiệp của ta rồi! Ta phải đập chết mi trước rồi sau sẽ hỏi tội.” Nam Hải Ngạc Thần ngang ngược hết chỗ nói, lão chẳng thèm hỏi Vân Trung Hạc xem có thật vậy hay không, cứ hùng hùng hổ hổ nhảy xổ vào.

Vân Trung Hạc kêu lên: “Đồ đệ lão mặt tròn hay méo ta đã biết đâu mà nói chuyện thu nạp hay không?” Y vừa nói vừa lẹ làng tránh khỏi hai đòn Nam Hải Ngạc Thần đánh tới nhanh như chớp. Nam Hải Ngạc Thần vẫn chửi mắng thậm tệ: “Quân chó đẻ! Ai mà tin miệng mi được? Mi đánh nhau với kẻ khác bị thua, rồi đem nỗi căm hờn trút lên đầu đồ đệ ta.” Vân Trung Hạc hỏi: “Đồ đệ lão huynh là trai hay gái?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Mi còn hỏi vẩn vơ, ta thu nữ đồ đệ về làm gì?” Vân Trung Hạc nói: “Vân Trung Hạc này chỉ bắt đàn bà con gái, chưa bắt con trai bao giờ. Lão huynh không biết sao?”

Nam Hải Ngạc Thần đang nhảy lên trên không, nghe y nói có lý vội vàng dùng thế Thiên Cân Trụy trầm người rơi xuống, chân phải đạp lên một tảng đá, quát lớn: “Thế thì đồ đệ ta đi đâu? Sao đến giờ này chưa lên đây bái sư?” Vân Trung Hạc cười nói: “Ha ha! Chuyện của phái Nam Hải ta đâu cần biết làm gì.” Nam Hải Ngạc Thần ngóng đợi Đoàn Dự đã sốt ruột bực dọc lắm rồi, cáu tiết quát lên: “Ngươi dám nói móc ta phải không?”.

Mộc Uyển Thanh đứng ngoài nghĩ thầm: ta nhận cơ hội này chọc cho hai lão đánh nhau chí mạng thì hay quá. Nàng bèn nói xen vào: “Đúng đó, ắt là gã Vân Trung Hạc này hại học trò của tiền bối rồi, nếu không chàng ở trên đỉnh núi cao như thế, làm sao xuống được? Gã Vân Trung Hạc này khinh công ghê gớm, chắc là lẻn lên trên đó đem học trò của tiền bối đến chỗ nào khuất nẻo giết đi, để phái Nam Hải mất đi một nhân tài lợi hại. Nếu không thì sao thi thể cũng không tìm thấy?”

Nam Hải Ngạc Thần vỗ trán quát hỏi Vân Trung Hạc: “Lão tứ! Mi có nghe vợ đồ đệ ta nói đó không? Mi còn kêu oan nữa thôi?”

Mộc Uyển Thanh vừa khóc vừa nói tiếp: “Đoàn lang có bảo tiểu nữ rằng: chàng gặp được một nhân vật như sư phụ thu nạp làm đồ đệ thật là đã tu mấy kiếp. Chàng sẽ cố công rèn luyện võ nghệ, làm rạng rỡ phái Nam Hải, để cái tên Nam Hải Ngạc Thần của sư phụ càng thêm nổi tiếng, để bọn Ác quán mãn doanh, Vô ác bất tác trông thấy phải thèm nhỏ dãi. Ai ngờ tên Vân Trung Hạc sinh lòng độc ác đang tay giết mất. Rồi sư phụ tìm đâu ra tên đồ đệ giống mình đến thế nữa?” Mỗi câu Mộc Uyển Thanh nói ra là Nam Hải Ngạc Thần lại vỗ trán gật đầu. Nàng tiếp: “Xương hậu chấm Đoàn lang giống hệt như sư phụ, thiên tư chàng cũng thông minh chẳng kém gì sư phụ. Nếu chàng không bị hại thì trên thế gian này quyết không còn người thứ hai thập phần hoàn hảo như chàng. Sau này phái Nam Hải tất nhiên phải nhảy lên hàng đầu võ lâm. Lão Vân Trung Hạc này vì lòng ghen tức, ngấm ngầm theo dõi để phá đại cuộc của sư phụ. Thế mà sư phụ không báo thù cho đồ đệ, tiểu nữ e rằng thiên hạ sẽ phỉ nhổ sư phụ là người hèn nhát để kẻ khác giết học trò mình, phá hoại môn phái nhà mình cũng không dám làm gì.”

Nam Hải Ngạc Thần nghe tới đây, mặt đỏ bừng, mắt nẩy lửa, hét lên một tiếng thật to, nhảy xổ vào Vân Trung Hạc. Vân Trung Hạc biết mình võ công không bằng Nam Hải Ngạc Thần. Lão lại biết rõ Nam Hải Ngạc Thần bị Mộc Uyển Thanh khiêu khích, không thể phân trần ngay được, thôi thì tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thấy Nam Hải Ngạc Thần xô tới, lão không kháng cự chi hết, cắm đầu chạy dài. Nam Hải Ngạc Thần hai chân nhún một cái cũng đuổi theo ngay.

Mộc Uyển Thanh kêu lên: “Lão tứ có tật giật mình bỏ chạy rồi! Nếu y không giết đồ đệ của lão gia, sao không đứng lại mà cãi?” Nam Hải Ngạc Thần kêu rống lên: “Đúng lắm! Nghe cũng có lý! Mi phải đền mạng cho đồ đệ ta.” Hai người một chạy trước, một đuổi sau, chớp mắt đã quanh ra phía sau núi. Mộc Uyển Thanh mừng thầm. Chốc lát lại nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần gầm lên mỗi lúc một gần. Hai người đuổi nhau vòng mé sau núi quanh về.

Khinh công Vân Trung Hạc cao hơn Nam Hải Ngạc Thần nhiều. Cái thân hình cao lêu nghêu tựa như bay loang loáng trên không, chân không chấm đất. Nam Hải Ngạc Thần đuổi sau lão một quãng khá xa, không tài nào kịp. Hai người chỉ thoáng qua trước mặt Mộc Uyển Thanh chớp mắt đã lại chuyển qua mé sau núi. Vân Trung Hạc chạy trở lại lần thứ hai thấy Nam Hải Ngạc Thần vẫn còn ở đằng xa, liền xòe bàn tay chụp lấy Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh thất kinh vẫy tay phải một cái nghe đánh “vút”, mũi tên độc phóng ra. Vân Trung Hạc né qua bên trái nửa thước tránh khỏi. Không hiểu lão chuyển mình thế nào mà quờ tay đến trước mặt Mộc Uyển Thanh. Nàng né tránh chậm một chút thấy gió thổi vào má mát rợi, thì ra tấm khăn che mặt đã bị lão giật mất.

Vân Trung Hạc thấy Mộc Uyển Thanh dung nhan tuyệt thế, ngây người ra mà nhìn, chép miệng ra vẻ thèm thuồng rồi khen bằng một giọng the thé rất khả ố: “Đẹp quá! Cô em thật là xinh, giả như lẳng lơ thêm một tí thì thật thập toàn thập mỹ…”

Chưa dứt lời, Nam Hải Ngạc Thần đuổi đến nơi, phóng ra một chưởng đánh vào phía sau, Vân Trung Hạc dừng chân, vận nội công, đánh lại một chưởng. Hai luồng điện lực chạm nhau phát ra tiếng nổ rùng rợn, sức ép của không khí làm Mộc Uyển Thanh ngạt thở. Một vùng đường kính rộng chừng hơn mười trượng đất cát bay lên mù mịt. Vân Trung Hạc mượn sức của Nam Hải Ngạc Thần nhảy vọt ra xa hơn hai trượng. Nam Hải Ngạc Thần thét lên: “Đỡ thêm ba chưởng nữa xem nào?” Vân Trung Hạc cười nói: “Lão huynh đuổi không kịp ta, mà ta đánh cũng không lại huynh, dù một ngày đêm nữa cũng chả ai làm gì được ai.”

Hai người đuổi nhau đã xa mà cát bụi vẫn còn mù mịt. Mộc Uyển Thanh nghĩ bụng: ta phải tìm cách cản đường Vân Trung Hạc, nếu cứ để mặc họ thế này thì vĩnh viễn Nam Hải Ngạc Thần không đuổi kịp. Nàng chờ cho Vân Trung Hạc vòng trở lại gần tới nơi, xông ra đón đường, phất tay phải luôn mấy cái, sáu bảy mũi tên nhằm Vân Trung Hạc phóng tới, quát to: “Đền mạng cho lang quân ta!” Vân Trung Hạc nghe trên không vang lên những tiếng “vút vút vút”, ám tiễn bay đến rất là ghê gớm, lão phải liên tiếp nhô lên cúi xuống để tránh, Mộc Uyển Thanh tuốt kiếm “soát” một cái, nhằm Vân Trung Hạc đâm luôn hai nhát, Vân Trung Hạc hiểu rõ tâm lý nàng, không rút khí giới ra đối địch, chỉ lạng người né tránh. Dù mau lẹ tới đâu Vân Trung Hạc cũng phải dừng lại giây lát đối phó với Mộc Uyển Thanh. Nhân thế mà Nam Hải Ngạc Thần đuổi tới nơi, phóng luôn cả hai bàn tay dồn dập chưởng lực chụp lấy Vân Trung Hạc.

Vân Trung Học cười gằn nói: “Lão tam! Ta nhường nhịn ngươi mấy lần là để khỏi tổn thương hòa khí của Tứ Đại Ác Nhân mà thôi, chứ ta sợ gì ngươi?” Nói rồi lão thò tay về phía sau rút cương trảo ra, hai tay cầm hai cây. Cương trảo dài ba thước, trên ngọn có bàn tay giống như tay người, ngón tay xoè ra, đầu ngón tay đều có ánh sáng lập lòe. Vân Trung Hạc cầm song trảo gác chéo che trước mình dường như để giữ thế thủ, chứ không ra kiểu tấn công.

Nam Hải Ngạc Thần hớn hở nói: “Hay lắm, bảy năm không gặp, hóa ra ngươi đã luyện thành một món binh khí cổ quái. Xem lão tử đây!” Nói rồi rút khí giới trong bọc đeo trên lưng ra.

Mộc Uyển Thanh biết mình có xông vào vòng chiến cũng chỉ vô ích, liền lui về phía sau mấy bước. Nam Hải Ngạc Thần tay phải cầm một thanh đao hai lưỡi như cái kéo, lưỡi dài có răng sáng loáng giống hàm răng cá sấu nên gọi là Ngạc chủy tiên, tay trái sử cây roi có răng cưa giống như đuôi cá sấu nên gọi là Ngạc vĩ tiên.

Vân Trung Hạc liếc mắt nhìn hai thứ khí giới khác thường của Nam Hải Ngạc Thần rồi đột nhiên giơ cây cương trảo bên hữu lên quay về phía Nam Hải Ngạc Thần bổ xuống. Nam Hải Ngạc Thần vung cây Ngạc vĩ tiên cầm nơi tay trái lên gạt đánh “chát” một tiếng. Vân Trung Hạc nhanh như chớp, trảo phải chưa về, trảo trái đã bổ theo. Bỗng nghe đánh choang một tiếng, Nam Hải Ngạc Thần đã vung cây ngạc chủy tiên lên cho răng cắn vào cây cương trảo của Vân Trung Hạc. Cương trảo này rèn toàn bằng thép tốt, cứng rắn vô cùng. Thế mà cây ngạc chủy tiên không biết đúc bằng thứ gì mà nghiến đứt được hai trong năm ngón tay ở cây cương trảo. Ấy là nhờ Vân Trung Hạc lẹ tay rút cương trảo về nhanh nên mới còn lại ba ngón. Tuy nhiên y đã luyện rất thành thục phép đánh cương trảo, cả mười ngón tay ở hai cây thì mỗi ngón có một tác dụng riêng, cụt mất hai ngón uy lực giảm hẳn. Nam Hải Ngạc Thần vừa cười vừa khoa cây ngạc vĩ tiên quất ngược lên.

Đột nhiên một bóng xanh ở đâu lẹ làng len vào giữa hai bên, té ra là Diệp Nhị Nương. Tay trái mụ khẽ đẩy cây ngạc vĩ tiên cho Vân Trung Hạc nhảy ra ngoài. Diệp Nhị Nương hỏi: “Lão tam! Lão tứ! Tại sao người trong một nhà lại đánh nhau?” Mụ liếc qua nhìn Mộc Uyển Thanh, thấy nhan sắc nàng lập tức sắc mặt đổi hẳn.

Mộc Uyển Thanh thấy Diệp Nhị Nương lại bồng trên tay một đứa con trai nhỏ chừng ba bốn tuổi, áo mũ đều may bằng gấm, mắt sáng môi hồng trông thật dễ thương. Nàng biết ngay lúc nãy mụ xuống núi là để đi bắt trẻ con về chơi. Mắt mụ phóng ra những tia sáng kỳ dị, Mộc Uyển Thanh phải quay đi chỗ khác, không dám nhìn thẳng vào mặt mụ nữa. Đứa nhỏ bỗng la inh ỏi: “Cha ơi! Sơn Sơn muốn về với cha!” Diệp Nhị Nương lại giở giọng hiền từ ra dỗ nó: “Sơn Sơn ngoan! Nín ngay đi! Chờ chút xíu nữa cha con sẽ đến mà.” Mộc Uyển Thanh nhớ đến sáu cái xác trẻ con quăng trong bụi rậm lúc nãy, giờ lại nghe cái giọng từ ái thân thiết của mụ vỗ về đứa nhỏ, chợt thấy sởn gai ốc.

Vân Trung Hạc vừa cười vừa hỏi Diệp Nhị Nương: “Nhị tỷ! Lão tam vừa luyện được thanh ngạc chủy tiên và cây ngạc vĩ tiên cực kỳ lợi hại. Ta vừa cùng lão chơi thử mấy đường, không thể nào địch lại được hai thứ khí giới ghê gớm của lão. Còn nhị tỷ trong bảy năm nay có gì mới lạ không? E rằng nhị tỷ cũng không địch lại hai thứ khí giới mới của lão đâu.” Vân Trung Hạc tuyệt không đả động gì đến chuyện Nam Hải Ngạc Thần ngờ oan cho mình đã giết đồ đệ của lão, mà chỉ nói mấy câu cốt để dụ Diệp Nhị Nương và lão Nam Hải Ngạc Thần đánh nhau.

Nhưng từ lúc đang đi lên núi, Diệp Nhị Nương đã nhìn thấy rõ hai lão đánh nhau chí mạng, đâu phải cuộc luyện võ bình thường? Mụ cười ruồi đáp: “Bảy năm nay ta chỉ luyện nội công thôi, chểnh mảng các món binh khí quyền cước, nhất định không địch nổi lão tam nữa.”

Đột nhiên từ lưng chừng núi có tiếng người quát lớn: “Bớ yêu phụ! Mi cướp con ta làm chi? Phải trả lại cho ta mau!” Thanh âm chưa dứt, người đã đến đỉnh núi, thân pháp thật là nhanh nhẹn. Người đó chừng độ trên dưới bốn mươi, mặc áo gấm đoạn màu xanh lục, tay cầm trường kiếm.

Nam Hải Ngạc Thần quát lớn: “Ngươi là đứa nào? Sao dám lên đây la lối om sòm? Đồ đệ ta có phải ngươi bắt không?” Diệp Nhị Nương cười đáp: “Vị lão sư này là chưởng môn Đông tông Vô Lượng Kiếm Tả Tử Mục tiên sinh, kiếm pháp tinh diệu đã đành mà đẻ được đứa con cũng mập mạp dễ thương quá.”

Mộc Uyển Thanh lúc này mới hiểu ra: “Thì ra Diệp Nhị Nương không kiếm được đứa trẻ con nào trong núi Vô Lượng nên bắt luôn con nhỏ của chưởng môn Vô Lượng Kiếm”.

Diệp Nhị Nương nói: “Tả tiên sinh! Ta thấy lệnh lang kháu khỉnh, mượn về chơi một bữa. Sáng mai ta sẽ đem trả mà, hà tất phải nóng nảy?” Mụ vừa nói vừa hôn hít, vuốt ve Sơn Sơn. Tả Sơn Sơn thấy cha đến vừa khóc vừa gọi to: “Cha! Cha ơi!” Tả Tử Mục bước lại gần chìa tay trái ra nói: “Tiểu nhi ngỗ nghịch lắm, chẳng có gì dễ thương đâu, xin mau đưa trả lại, tại hạ thật là cảm kích.” Y trông thấy con rồi giọng điệu đổi ra khách khí, chỉ sợ người đàn bà kia nhả kình lực giết chết con y.

Nam Hải Ngạc Thần cười nói: “Đã vào tay Hung thần ác sát Diệp Tam Nương thì đến ngay thái tử hay công chúa con hoàng đế cũng đừng hòng trả lại nữa.” Tả Tử Mục rùng mình hỏi: “Ông nói Diệp… Diệp Tam Nương nào đó? Bà ta có họ hàng thân thích gì với Diệp Nhị Nương không?” Tả Tử Mục thường nghe trong Tứ Đại Ác Nhân có Diệp Nhị Nương mỗi ngày bắt một đứa trẻ về chơi đùa, đến tối giết chết, sợ ngay Diệp Tam Nương cũng là chị em gì với Diệp Nhị Nương, nếu tính cách giống nhau thì thật là hỏng bét.

Diệp Nhị Nương hớn hở, cười tươi đáp: “Lão tam này nói chuyện tào lao chứ trên cõi đời này có ai là Diệp Tam Nương đâu? Chỉ có Diệp Nhị Nương là ta đây.”

Tả Tử Mục mặt cắt không còn hột máu. Từ lúc con lão bị bắt, lão cố sức đuổi theo mụ, trên đường đã nhận ra võ công mụ hơn mình nhiều lắm. Ban đầu lão chỉ tưởng mụ là một người đàn bà nào chưa quen biết, lại không thù oán thì dù con mình có bị bắt cũng chả đến nỗi nào. Bây giờ biết ra chính mụ là người thứ hai trong Tứ Ác, tên gọi Diệp Nhị Nương thì chẳng còn hồn vía nào nữa. Lão chẳng biết nên quát tháo hay nên năn nỉ, dường như có vật gì chẹn họng nghẹn lời không thốt ra được.

Diệp Nhị Nương tiếp: “Các người trông đây! Đứa nhỏ này nhuận da thắm thịt, huyết sắc hồng hào, da mịn óng ánh. Quả là con nhà võ học danh gia, so với bọn nông phu điền tốt thật khác nhau một trời một vực.” Mụ vừa giơ đứa nhỏ ra ánh mặt trời để ngắm nghía vừa tấm tắc khen hoài, tựa hồ như các bà đi chợ mua gà vịt chọn giống tốt, miếng ngon.

Tả Tử Mục trông thấy mụ thèm nhỏ dãi, tưởng chừng đem con mình làm thịt ăn tới nới, không khỏi vừa sợ vừa tức. Dẫu biết không thể nào địch lại nhưng y cũng thí mạng, lập tức sử chiêu Bạch Hồng Quán Nhật, mũi kiếm nhắm ngay yết hầu mụ ta đâm tới.

Diệp Nhị Nương cười khan một tiếng, nhẹ nhàng đưa Sơn Sơn ra, nhát kiếm kia của Tả Tử Mục nếu như tiếp tục đâm vào thì trúng con mình trước. Cũng may y kiếm thuật tinh thông, chiêu số chưa hoàn tất đã lập tức thu về biến chiêu, mũi kiếm ở trên không hơi rung một cái thành một đóa kiếm hoa đâm xéo xuống đầu vai Diệp Nhị Nương. Mụ cũng không thèm né tránh, lại đưa Sơn Sơn ra chặn ngay trước mặt. Chỉ trong nháy mắt, Tả Tử Mục đã đâm luôn trên dưới trái phải bốn thế liền, Diệp Nhị Nương chỉ nhàn nhã di chuyển Sơn Sơn khiến cho bốn chiêu kiếm lợi hại của Tả Tử Mục đều chỉ ra được nửa chừng rồi phải ngừng lại. Sơn Sơn sợ quá khóc òa lên.

Vân Trung Hạc bị Nam Hải Ngạc Thần đuổi mấy vòng, lại bị gãy mất hai ngón tay cương trảo, đang tức mình chưa có chỗ trút hận, đột nhiên nhảy xổ tới, tay trái cầm cương trảo bổ xuống đầu Tả Tử Mục. Tả Tử Mục hoa ngược kiếm lên, dùng thế Vạn Hủy Tranh Diễm, ánh kiếm vây bọc lấy thượng bàn để chống đỡ. Hai thứ binh khí chạm vào nhau bật ra những tiếng loảng choảng ghê người. Tả Tử Mục chuyển sang thế Thuận Thủy Thôi Chu toan đưa mũi kiếm đâm vào yết hầu địch nhân, thì bỗng nhiên bàn tay cương trảo khép lại, giữ chặt lấy lưỡi kiếm.

Tả Tử Mục không chịu buông kiếm, vội vận nội công gắng sức giật mạnh một cái, lạng hẳn người đi. Vân Trung Hạc nhanh như cắt chụp ngay cây cương trảo ở tay phải xuống, trúng ngay vai lão. Cũng may mà cây cương trảo này có năm ngón, Nam Hải Ngạc Thần đã cắt mất hai nên Tả Tử Mục mới bị thương nhẹ đi một chút nhưng cũng máu chảy đầm đìa. Ba ngón tay cây cương trào cắm vào xương vai lão. Vân Trung Hạc tiến lại, bồi thêm cho một cước, Tả Tử Mục ngã lăn xuống đất. Thế là mới mấy chiếu, một vị chưởng môn nổi tiếng đã bị loại ra ngoài vòng chiến.

Nam Hải Ngạc Thần khen ngợi: “Lão tứ giỏi đấy! Hai cây đồ chơi của ngươi vẫn còn tốt chán.”

Diệp Nhị Nương cười hỏi Tả Tử Mục: “Tả đại chưởng môn! Ngươi có gặp đại ca bọn ta không?” Vai bên hữu Tả Tử Mục bị cương trảo quặp chặt, không nhúc nhích được. Lão cố nhịn đau đáp: “Đại ca các vị là ai? Ta chưa được gặp bao giờ.” Nam Hải Ngạc Thần cũng hỏi lão: “Ngươi có gặp đồ đệ ta không?” Tả Tử Mục đáp: “Đồ đệ ngươi là ai? Ta cũng chưa gặp.” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói: “Ngươi đã bảo không biết đồ đệ ta, sao biết chưa gặp y? Quân chó đẻ này thật là khả ố. Tam muội, đem con y ra làm thịt ăn đi.” Diệp Nhị Nương đáp: “Nhị tỉ của ngươi đâu có ăn thịt trẻ con. Tả đại chưởng môn, ngươi đi đi, bọn ta không giết ngươi đâu.”

Tả Tử Mục ấp úng: “Diệp… Diệp Nhị Nương! Nếu bà tha tôi, thì trả luôn cả con lại cho tôi, tôi sẽ kiếm ba bốn đứa nhỏ khác đem đến đánh đổi. Tạ mỗ vĩnh viễn cảm tạ đại đức.” Diệp Nhị Nương cười hì hì đáp: “Vậy càng hay! Ngươi tìm tám đứa nhỏ đến đây ta đổi cho! Bọn ta đây bốn người, mỗi người bồng hai đứa, đủ dùng cho ta tám ngày. Lão tứ! Tha cho y về!”

Vân Trung Hạc mỉm cười, nhả cơ quan cho các ngón tay cương trảo mở ra. Tả Tử Mục được buông tha, nghiến răng đứng dậy vái dài Diệp Nhị Nương rồi thò tay ra toan bế con. Diệp Nhị Nương cười nói: “Ngươi cũng là nhân vật giang hồ mà sao không hiểu lề luật chi cả. Ngươi phải đem tám đứa nhỏ lại đây, ta mới đổi cho chứ?”

Tả Tử Mục thấy con mình bị Diệp Nhị Nương ôm giữ, rất lấy làm khó chịu nhưng ở vào tình thế này đành gật đầu nói: “Tôi về kiếm tám đứa nhỏ mập mạp đem đến, mong rằng Nhị Nương chăm sóc con tôi cho.”

Diệp Nhị Nương không thèm để ý gì đến y nữa, miệng ậm ừ ru: “Cháu nội ngoan ơi, bà cưng cháu lắm.” Nguyên vì Tả Tử Mục đứng ngay trước mặt, mụ ta không thể gọi đứa bé là “con” được.

Họ Tả nghe mụ gọi như thế có khác nào tự coi là mẹ mình, dở khóc dở cười, quay sang nói với con: “Sơn Sơn con ơi! Con ngoan lắm! Hãy ở đây chờ cha! Lát nữa cha trở lại ngay để đón con về.” Sơn Sơn cứ khóc ầm lên, giãy tưng tưng đòi ra với cha. Tả Tử Mục xiết bao bịn rịn, cố nhìn con thêm mấy cái, tay trái nắm lấy chỗ vai bị thương toan trở gót quay đi.

Đột nhiên từ phía sau đỉnh núi vang đến một hồi còi sắt lanh lảnh liên miên bất tuyệt. Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc đều hớn hở vui mừng reo lên: “Đại ca đến rồi!” Hai người vội vã vùng dậy nhằm phía có tiếng hú chạy nhanh như khói tỏa, chớp mắt đã khuất vào phía sau núi.

Diệp Nhị Nương coi như không thấy gì, thản nhiên dỗ dành đứa nhỏ, rồi quay sang liếc nhìn Mộc Uyển Thanh, tươi cười bảo: “Mộc cô nương, khuôn mặt xinh xắn của cô lại có đôi mắt đẹp như thế càng nhìn càng thấy tuyệt vời. Tả đại chưởng môn, người giúp ta một việc, đến móc tròng mắt của cô bé đó ra.”

Thực ra Tả Tử Mục cũng chẳng muốn sinh sự với Mộc Uyển Thanh nhưng bị Diệp Nhị Nương giữ mất đứa Con bảo bối, bất đắc dĩ phải vâng lời mụ. Lão cầm thanh trường kiếm quát lên: “Mộc cô nương! Cô nghe lời Diệp Nhị Nương đi là hơn, để khỏi bị đau đớn thêm.” Nói rồi đâm Mộc Uyển Thanh một nhát, Mộc Uyển Thanh thét lên: “Mi thật là đồ tiểu nhân vô sỉ.” Nàng vung kiếm lên chém lại. Hai thanh kiếm chạm vào nhau choang choảng. Trao đổi ba chiêu, nàng xoay mình qua mé tả rồi đột nhiên khẽ phất tay trái. “Vút vút vút” ba mũi tên bất ngờ nhằm Diệp Nhị Nương bay tới. Tả Tử Mục thoáng thấy vội kêu lên: “Đừng làm chết con ta!”

Không ngờ Diệp Nhị Nương chỉ phất tay áo một cái cuốn gọn cả ba mũi tên, hất ra một bên, tiện tay rút chiếc giày nhỏ ở chân Tả Sơn Sơn, nhằm phía Mộc Uyển Thanh liệng tới. Mộc Uyển Thanh nghe tiếng gió, quay lại vung kiếm gạt. Nàng mới bị trọng thương chưa khỏi hẳn, ra chiêu không chính xác, chiếc giày sượt qua mũi kiếm, bắn trúng vào hông nàng đánh bịch một tiếng. Phải vận nội công lên chống đỡ lại sức mạnh của cái giày ném vào, nàng đau ê cả người, thanh kiếm rời khỏi tay rớt xuống đất đánh choang một tiếng. Ngay lúc ấy, Diệp Nhị Nương rút nốt chiếc giày thứ hai ở chân Tả Sơn Sơn phóng tới, trúng vào lưng Mộc Uyển Thanh. Mắt nàng hoa lên, chân tay bủn rủn, quỵ xuống đất. Tả Tử Mục chĩa mũi kiếm vào ngực nàng, tay trái đưa ra toan móc mắt bên phải.

Mộc Uyển Thanh khẽ gọi lên một tiếng: “Đoàn lang…” rồi rướn người tới trước đón mũi kiếm của Tả Tử Mục, thà chết còn hơn chịu cái nhục bị móc mắt.

Tả Tử Mục rụt kiếm về, nhưng bỗng thấy cổ tay bị giật mạnh, trường kiếm bay lên trên không, lão lùi về phía sau hai bước. Cả ba người giật nảy mình, chẳng ai bảo ai đều nhìn lên thanh kiếm. Thì ra nó bị một sợi dây câu cuốn đi, đầu kia sợi dây là một chiếc cần sắt do một viên võ quan mặc áo vàng cầm trong tay. Người đó tuổi chừng trên dưới ba mươi, mặt đầy vẻ anh hào, miệng đang cười mỉm. Diệp Nhị Nương nhận ra ngay y là kẻ đã đấu với Vân Trung Hạc bảy hôm trước, võ công xem ra còn kém mình một chút nên không sợ hãi, có điều không biết đồng bọn của y có tới hay không. Mụ ta liền liếc mắt ngó qua, quả nhiên đã thấy một viên võ quan áo vàng khác đứng ở bên trái, bên hông đeo một đôi búa.

Mụ đang định mở lời bỗng nghe có tiếng động sau lưng, vội vàng quay lại thấy ở hai góc đông nam và tây nam đều có một người đứng đó, mặc áo vàng, đầu quấn khăn theo lối võ quan giống hệt hai người kia. Người ở phía đông nam cầm một đôi phán quan bút, còn người ở phía tây nam thì tay cầm một cây thục đồng tề mi côn, bốn người chia ra bốn góc, thành thế bao vây. Tả Tử Mục lớn tiếng nói: “Thì ra bốn vị Tứ đại hộ vệ Chử, Cổ, Phó, Chu trong cung cùng đến. Tại hạ Vô Lượng Tả Tử Mục xin kính chào. Nói xong hướng về bốn người vái một vài thật dài. Người hộ vệ tay cầm phán quan bút tên gọi Chu Đan Thần ôm quyền hành lễ, còn ba người kia không lý gì đến.

Người đến đầu tiên tên Chử Vạn Lý vẫy chiếc cần câu, thanh trường kiếm rung động trên không, lấp loáng phát quang dưới ánh nắng. Gã cười nhạt hỏi Tả Tử Mục: “Vô Lượng kiếm là một phái võ có danh trong nước Đại Lý, không ngờ chưởng môn lại đốn mạt đến thế! Đoàn công tử hiện giờ ở đâu?”.

Mộc Uyển Thanh đã quyết chịu chết, ngờ đâu gặp được cứu tinh, mừng rỡ không biết để đâu cho hết, lại nghe họ hỏi đến Đoàn công tử nàng càng chăm chú theo dõi.

Tả Tử Mục ấp úng đáp: “Đoàn… Đoàn công tử? À, mấy hôm trước tôi có gặp Đoàn công tử vài lần… bây giờ thì không biết… không biết ở đâu.”

Mộc Uyển Thanh nói: “Đoàn công tử bị đồng bọn của mụ này giết chết rồi.” Nàng vừa nói vừa trỏ vào Diệp Nhị Nương, nói tiếp: “Gã tên là Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc, thân thể gầy nhom, cao lêu nghêu như cây tre.”.

Chử Vạn Lý kinh hoàng, quát hỏi: “Có thật không? Là đứa nào?” Hộ vệ tay cầm thục đồng côn tên Phó Tư Qui nghe nói Đoàn Dự đã chết, vừa đau lòng vừa tức tối, quát lớn: “Ta phải báo thù cho Đoàn công tử.” Y vung côn nhắm ngay Diệp Nhị Nương đập xuống.

Diệp Nhị Nương nghiêng người tránh ra, gào lên: “Ối trời ôi, Tứ đại hộ vệ Chử Cổ Phó Chu của nước Đại Lý các con ơi, các con sắp chết non làm cho mẹ xót xa trong dạ! Bốn đứa con yêu quí chết non kia, các con xuống suối vàng sớm thế các con ơi!” Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người tuổi tác chỉ kém mụ vài năm mà mụ tự xưng là mẹ, cứ rền rĩ “Các con ơi!”, “Bốn đứa yêu quí chết non ơi!”.

Phó Tư Qui giận quá, thanh thục đồng côn múa lên vù vù, chỉ giây lát đã biến thành một vầng khói màu vàng, vây chặt mụ vào trong. Diệp Nhị Nương tay bồng đứa con nhỏ của Tả Tử Mục, tránh qua né lại giữa những đường côn, thủy chung vẫn không trúng đòn nào. Đứa trẻ sợ khóc ré lên, Tả Tử Mục vội kêu: “Hai vị ngừng tay! Hai vị ngừng tay!”

Người hộ vệ đeo búa ở lưng quát lên: “Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương quả nhiên đanh bất hư truyền. Để Cổ Đốc Thành này lãnh giáo cao chiêu.” Tiếng nói chưa dứt y đã xông vào vòng chiến, ra tuyệt chiêu Bàn Căn Thác Tiết Thập Bát Phủ, chém bên phải một nhát, bên trái một nhát toàn vào hạ bàn. Diệp Nhị Nương cười nói: “Thằng bé này vướng chân vướng tay, ngươi chém chết nó giúp ta.” Mụ hạ đứa bé trên tay xuống, đỡ ngay đầu búa. Cổ Đốc Thành giật mình thu búa về, ngờ đâu Diệp Nhị Nương phóng cước đá theo, trúng ngay đầu vai y. Cũng may thân thể y tráng kiện, trúng cước chỉ hơi lảo đảo, lại tiếp tục xông lên đánh nữa. Diệp Nhị Nương lấy đứa bé làm lá chắn hộ mạng, khiến cho Cổ Đốc Thành và Phó Tư Qui bị kiềm chế rất nhiều.

Tả Tử Mục hốt hoảng kêu lên: “Coi chừng thằng bé! Cẩn thận… Phó huynh, côn đó đánh hơi cao; Cổ huynh, đừng để đầu búa… đừng để đầu búa chạm vào con tôi.”

Đang lúc hỗn loạn, đằng sau núi đột nhiên vọng tới tiếng sáo vi vu réo rắt, chỉ giây lát đã đến gần. Từ sau triền núi bước ra một người đàn ông trung niên cao nhã mặc áo thụng, râu ba chòm, đang ghé môi thổi một ống sáo bằng sắt. Chu Đan Thần vội vàng bước tới bên cạnh y, hạ giọng nói mấy câu. Người kia vẫn tiếp tục thổi sáo, khúc điệu nhàn nhã, chậm rãi đi thẳng vào chỗ ba người đang đánh nhau kịch liệt. Bỗng nhiên tiếng sáo đổi sang gấp rút khiến cho ai nấy nhức cả tai, người kia dùng cả mười đầu ngón tay bịt các lỗ sáo thổi mạnh, đầu ống sáo phụt ra một làn kình phong bắn thẳng vào mặt Diệp Nhị Nương. Diệp Nhị Nương kinh hãi vội quay đầu qua né tránh, đầu sáo liền đâm ngay vào yết hầu.

Biến cố đó nhanh đến kinh người, tuy Diệp Nhị Nương ứng biến thần tốc nhưng chân tay cũng không khỏi loạng quạng, trong cơn nguy cấp nửa người trên ngửa về đằng sau hơn một thước đồng thời ném luôn Tả Sơn Sơn xuống đất, vung tay chộp luôn vào ống sáo. Người áo thụng không để thằng bé rơi xuống, tay áo phất một cái, cuốn lấy đứa trẻ. Diệp Nhị Nương tuy nắm được chiếc sáo nhưng thấy nóng bỏng như cục than hồng, kinh hãi nghĩ thầm: “Có bôi thuốc độc chăng?” rồi vội vàng buông tay, nhảy ra ngoài mấy bước. Người nọ phất tay áo, nhẹ nhàng ném Sơn Sơn cho Tả Tử Mục.

Diệp Nhị Nương thoáng thấy bàn tay phải người áo thụng đỏ chót như son, kinh hãi: “Thì ra y đem nội lực thượng thừa truyền vào ống sáo chứ không phải chất độc, chẳng khác nào vừa lấy ở trong lò đúc ra”. Mụ ta không tự chủ nổi vội lui về sau mấy bước, cười nói: “Các hạ võ công ghê gớm. Ta không ngờ trong nước Đại Lý có nhiều cao nhân đến thế! Xin cho biết tôn tính đại danh!”

Người áo thụng mỉm cười nói: “Diệp Nhị Nương giá lâm tệ xứ, ta không kịp ra xa nghênh tiếp, mong thứ lỗi! Đại Lý tuy nước nhỏ dân nghèo cũng gắng đủ nghi lễ làm chủ nhân tiếp khách.” Tả Tử Mục ôm được con rồi, vừa mừng vừa sợ, xen vào: “Phải chăng các hạ là Cao Quân Hầu?” Người lạ mặt không trả lời, quay sang hỏi Diệp Nhị Nương: “Đoàn công tử đang ở đâu, mong được cho biết!”.

Diệp Nhị Nương cười nhạt đáp: “Ta không biết, mà dù có biết cũng không thèm nói.” Chưa dứt lời, mụ đột nhiên nhảy vọt lên cao rồi phóng như bay về phía đỉnh núi. Người lạ mặt kêu lên: “Hãy đợi đấy!” rồi vùn vụt đuổi theo. Bỗng ánh vàng lấp loáng, trên không nổi lên những tiếng vi vu, bảy tám thứ ám khí bay tới tấp, nhằm những huyệt trọng yếu trước mặt phóng tới. Người áo thụng vung ống sáo gạt đi, thấy hổ khẩu tay mình đau ê ẩm thì nghĩ thầm: Mụ này gớm thật! Trông theo thấy mụ nhô lên hạ xuống thấp thoáng như ma quỷ ẩn hiện, người lạ mặt liệu chừng có đuổi cũng không kịp, nhìn lại những thứ ám khí rơi xuống đất thì toàn là những đồ vòng chân vòng tay trang sức của trẻ con. Ông lẩm bẩm: đây là những đồ vật của trẻ con bị mụ giết, nếu không trừ được thì không biết còn bao nhiêu trẻ Đại Lý bị hại về tay mụ.

Chử Vạn Lý hất chiếc cần, giật thanh trường kiếm đang nằm dưới đất bay vọt lên, xoay cán kiếm lại nhắm ngay Tả Tử Mục phóng tới, Tả Tử Mục giơ tay bắt lấy, hổ thẹn không nói được lời nào. Chử Vạn Lý quay sang hỏi Mộc Uyển Thanh: “Đoàn công tử nay ở đâu? Có thực là bị Vân Trung Hạc giết hại không?”

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: bọn này võ nghệ tuyệt luân mà xem ra đều là thân hữu với Đoàn lang, chi bằng ta thuật rõ đầu đuôi để họ kéo nhau qua đỉnh núi bên kia tìm kiếm. Nàng toan cất lời, bỗng lưng chừng sườn núi có tiếng gọi to: “Mộc cô nương… Mộc cô nương… cô đang ở đâu? Nam Hải Ngạc Thần, ta đến đây, ngươi không được làm hại Mộc cô nương! Bái sư hay không, từ từ rồi tính… Mộc cô nương! Mộc cô nương! Cô không sao chứ?” Bọn người áo thụng cùng reo lên: “Công tử đây rồi!”

Mộc Uyển Thanh đã chờ chàng ròng rã bảy ngày bảy đêm, vừa giật mình vừa mừng quá độ. Nàng xúc động mạnh, bỗng tối tăm mặt mũi rồi ngất đi. Trong lúc mê man, chợt nghe bên tai có tiếng khẽ gọi: “Mộc cô nương! Mộc cô nương! Tỉnh lại mau!” Mộc Uyển Thanh dần dần hồi phục thần trí, thấy mình nằm trong lòng một người, hai vai bị ôm chặt, muốn vùng dậy đẩy ra song chợt nhớ “Đoàn lang đã đến rồi”, từ từ mở mắt. Trước mắt nàng hiện ra cặp mắt trong như nước mùa thu, chẳng phải Đoàn lang thì còn ai vào đây nữa? Đoàn Dự cả mừng reo lên: “A ha, nàng đã hồi tỉnh.” Mộc Uyển Thanh nước mắt lã chã, giơ tay tát một cái thật mạnh vào mặt Đoàn Dự nhưng người vẫn nằm gọn trong lòng chàng không muốn vùng ra. Đoàn Dự xoa xoa má cười nói: “Động một tí là đánh người! Trên đời sao lại có hạng đàn bà con gái dữ như nàng?” Rồi chàng lại hỏi: “Nam Hải Ngạc Thần đâu rồi? Lão không ở đây đợi ta à?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Người ta chờ ròng rã bảy ngày bảy đêm rồi chưa đủ hay sao? Lão mới đi rồi.” Đoàn Dự thở phào, hớn hở nói: “Hay lắm! Ta đang lo lão cứ bức bách ta phải thờ lão làm sư phụ thì không biết nói sao.”

Mộc Uyển Thanh nói: “Chàng không chịu làm đồ đệ lão thì đến đây làm gì?” Đoàn Dự xuống giọng nói: “Ối, nàng rơi vào tay lão, nếu ta không đến tất lão sẽ gia hại nàng. Ta bỏ nàng lại sao đành?” Mộc Uyển Thanh nghe vậy đã thấy mát ruột, nhưng vẫn chưa hết trách móc: “Chàng thật là tệ, thiếp chỉ tiếc sao lúc trước không phóng cho một mũi tên. Chàng chờ lão bỏ đi mới vác mặt đến rồi ngọt nhạt dỗ dành. Ròng rã bảy ngày bảy đêm chàng ở đâu mà không đến?”

Đoàn Dự thở dài nói: “Ta cũng bị người bắt giữ, không sao trốn ra được. Suốt ngày đêm ta lo cho nàng, lòng nóng như lửa đốt. Vừa trốn thoát là ta lập tức chạy đến đây.”

***

Hôm đó Nam Hải Ngạc Thần xách Mộc Uyển Thanh đi rồi, Đoàn Dự một mình ngồi trên đỉnh núi, băn khoăn vô cùng: “Nếu như ta không qua bên đó cầu tên ác nhân này thu làm đồ đệ, tính mạng Mộc cô nương khó mà giữ được. Thế nhưng nếu nhận gã làm thầy, học cái ngón bẻ cổ người ta kêu lách cách thì còn ra gì nữa. Y dạy ta công phu đó thể nào chẳng đi bắt người về cho ta thử, cứ giết hết người này qua người khác quả là ô hô ai tai! Cũng may tên ác nhân này ít nhiều còn biết phải quấy, ta phải tìm cách lý luận để y chịu thả Mộc cô nương mà không đặt điều kiện bắt ta phải bái y làm sư phụ”.

Chàng ngồi trên bờ vực nghĩ hoài, bụng lại ngâm ngẩm đau, đột nhiên nhớ ra: “Chao ôi, không xong rồi, ta hồ đồ quên khuấy đi mất. Khi ở trong sơn động ta đã từng bái thần tiên tỉ tỉ làm thầy, như vậy ta đã là môn đồ phái Tiêu Dao. Môn đồ phái Tiêu Dao làm sao đổi qua làm môn đồ của Nam Hải Ngạc Thần được? Đúng đó, ta phải nói làm sao cho đanh thép, cho tên ác nhân đó phải công nhận: Nghe cũng có lý.”

Chàng lại nghĩ: “Thể nào hắn cũng bắt ta phải biểu diễn võ công phái Tiêu Dao cho y xem, nhưng ta có biết gì đâu, làm sao y tin được? Thần tiên tỉ tỉ đã dặn là mỗi ngày sáng trưa chiều ba lần phải luyện thần công trong cuộn lụa, mấy hôm nay chưa luyện được chút nào, quả thật có lỗi với tỉ tỉ”. Chàng trong bụng hổ thẹn, đang định cho tay vào bọc lấy cuộn sách ra, bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người, quay đầu nhìn lại thì giật mình thấy từ ghềnh đá lục tục kéo ra đến mấy chục người.

Bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền đi đầu, phía sau là chưởng môn Đông tông Vô Lượng Kiếm Tả Tử Mục, chưởng môn Tây tông Tân Song Thanh, ngoài ra là bang chúng bang Thần Nông và các đệ tử của hai tông Vô Lượng Kiếm xen lẫn nhau. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Té ra hai bên đổi thù thành bạn, thật là tốt quá.” Mọi người đứng làm hai hàng, cung kính khom lưng ra vẻ đang chờ đợi người nào đó. Chỉ giây lát có bóng xanh thấp thoáng, từ triền núi đi ra tám cô gái, người nào cũng mang áo khoác ngoài màu xanh biếc, trên thêu một con chim thứu đen. Đoàn Dự trong bụng kêu khổ: “Đời ta tàn rồi.” Tám người con gái đó chia thành hai hàng, tiếp theo lại có một người cũng mang áo khoác màu lục khác đi tới. Người con gái đó chừng khoảng hai mươi, dung mạo thanh tú nhưng trong đầu mày cuối mắt có ẩn sát khí, đưa mắt nhìn Đoàn Dự hỏi: “Ngươi là ai? Ở đây làm gì?”

Đoàn Dự nghe hỏi thế trong bụng mừng rỡ: “Họ chưa biết mình và Mộc cô nương giết bốn người chị em đồng bọn, lại mạo xưng sứ giả của Linh Thứu Cung. Cũng may cái áo choàng của mình đã trùm lên người mụ mập Bình bà bà, còn áo choàng của Mộc cô nương thì bay xuống sông Lan Thương rồi. Bốn cô kia tử vô đối chứng, ta cứ chối phắt đi là xong.” Chàng bèn nói: “Tại hạ là Đoàn Dự người Đại Lý, theo người ta đến Vô Lượng Cung làm khách của vị Tả tiên sinh đây…”

Tả Tử Mục xen vào: “Đoàn bằng hữu, Vô Lượng Kiếm đã qui thuộc về Thiên Sơn Linh Thứu Cung, Vô Lượng Cung nay đổi thành Vô Lượng Động, xin đừng nhắc đến ba chữ Vô Lượng Cung nữa.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thì ra ngươi đánh không lại nên đầu hàng rồi, kể cũng khôn ngoan lắm”. Chàng bèn nói: “Tả tiên sinh bỏ chỗ tối tìm về chỗ sáng, thật đáng cung hỉ.”

Tả Tử Mục nghĩ thầm: “Trước đây ta có làm gì đâu mà bảo là tối? Còn bây giờ có gì là sáng?”. Y tuy nghĩ thế nhưng đời nào dám nói ra, chỉ gượng cười. Đoàn Dự nói tiếp: “Tại hạ thấy Tư Không bang chủ và Tả tiên sinh có điểm hiểu lầm nhau nên cố khuyên giải, ngờ đâu lại gây thêm rắc rối. Tại hạ phụng mệnh Tư Không bang chủ đi tìm giải dược, ngờ đâu lại gặp một tên đại ác nhân, tên là Nam Hải Ngạc Thần Nhạc lão tam. Y bảo tại hạ tư chất khá, nhất định thu làm đồ đệ, tại hạ nói tôi không thích học võ công, nhưng gã Nam Hải Ngạc Thần không hiểu lý lẽ, bỏ tại hạ trên đây để ép bái y làm thầy. Tại hạ trói gà không chặt…” Nói tới đây chàng giang tay ra làm bộ vô vọng, nói tiếp: “Đỉnh núi cao, vách đá hiểm trở thế này, tại hạ làm sao mà xuống được. Cô nương hỏi ta ở đây làm chi ư? Ở đây chờ chết chứ còn làm gì nữa.” Những câu chàng nói không có chút nào giả dối, đoạn đầu cũng đúng, đoạn sau cũng không sai, nhưng có điều khúc giữa chàng bỏ hết. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Khổng phu tử viết Xuân Thu, chỉ thuật lại mà không thêm vào, ta cắt bỏ chỗ này một khúc chỗ kia một khúc cũng đâu có vi phạm cái đạo của thánh nhân, không nói láo thì vẫn có thể là người quân tử.”.

Cô gái kia “Ồ” một tiếng nói: “Tứ Đại Ác Nhân quả đã đến Đại Lý thật rồi. Nhưng tư chất ngươi có gì đáng kể mà Nhạc lão tam muốn thu người làm đồ đệ?” Nàng không đợi Đoàn Dự trả lời, đảo mắt qua hỏi Tư Không Huyền và Tả Tử Mục: “Y không nói dối chứ?” Tả Tử Mục đáp: “Dạ, không.” Còn Tư Không Huyền trả lời: “Khải bấm thánh sứ, tiểu tử này không biết chút võ công nào nhưng làm bậy làm bạ hỏng hết mọi việc.”

Cô gái nói: “Các ngươi nói là trông thấy hai đứa tiện nhân mạo xưng bọn ta chạy về phía ngọn núi này, nay ở đâu? Đoàn tướng công, tướng công có thấy hai người phụ nữ mặc áo khoác màu xanh giống như bọn ta không?” Đoàn Dự đáp: “Không thấy, ta không thấy hai người phụ nữ ăn mặc giống như tỉ tỉ.” Chàng nghĩ thầm: “Chỉ có một nam một nữ mặc áo khoác màu xanh mạo xưng các ngươi. Ta chưa soi gương thì làm sao thấy mình được; còn Mộc cô nương thì là một người phụ nữ chứ nào phải là hai người phụ nữ.”

Cô gái gật đầu, quay sang hỏi Tư Không Huyền: “Ngươi làm thuộc hạ Linh Thứu Cung lâu rồi đấy nhỉ?” Tư Không Huyền lập cập đáp: “Đã… đã tám năm.” Cô gái kia nói: “Đến chị em bọn ta ngươi cũng không nhận ra. Hồ đồ đến thế còn làm được việc gì cho Đồng Mỗ lão nhân gia? Ngươi đừng trông mong gì thuốc giải Sinh Tử Phù năm nay nữa.” Tư Không Huyền mặt xám ngoét, quì xuống đất, liên tiếp dập đầu van xin: “Thánh sứ khai ân, thánh sứ khai ân!”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Gã râu dê này chưa chết, không lẽ thuốc giải Mộc cô nương cho y lại công hiệu sao, Hay là Linh Thứu Cung cho y linh đan diệu dược gì khác? Sinh Tử Phù là cái món gì đây?”

Cô gái đó không thèm ngó đến Tư Không Huyền nữa, nói với Tân Song Thanh: “Đưa Đoàn tướng công xuống núi. Nếu Tứ Đại Ác Nhân đến quấy rối thì bảo chúng lên Linh Thứu Cung núi Phiêu Diểu kiếm ta. Bây giờ Vô Lượng Động chịu trách nhiệm đi bắt hai đứa lớn mật mạo danh. Còn nữa, hai đứa phản đồ Can Quang Hào, Cát Quang Bội phải bắt về giết đi. Khi nào gặp bốn chị em của bọn ta thì bảo là ta ra lệnh trở về Linh Thứu Cung ngay, ta không đợi nữa.” Cô ta nói tới đâu, Tân Song Thanh dạ dạ tới đó nhưng không dám nhìn thẳng vào mặt. Cô gái nói xong, không thèm ngó ngàng gì thêm, lập tức xuống núi, tám cô thuộc hạ lẽo đẽo đi theo.

Tư Không Huyền từ nãy giờ vẫn quì dưới đất, thấy chín cô gái xuống núi rồi, vội vàng đứng lên chạy ra bờ vách kêu lên: “Phù thánh sứ, xin người về bẩm lại với Đồng Mỗ, Tư Không Huyền thật có lỗi với lão nhân gia.” Y tung mình nhảy xuống dòng sông Lan Thương sâu tít bên dưới.

Mọi người kinh hãi kêu lên, bang chúng Thần Nông Bang hối hả chạy tới bờ vách, chỉ thấy sống nổi cuồn cuộn ào ào chảy qua, không còn thấy bang chủ đâu. Có tên đấm ngực khóc òa lên. Bọn Vô Lượng Kiếm thấy số phận Tư Không Huyền bi thảm đến thế, ai nấy mặt mày ngơ ngẩn, thần sắc bàng hoàng.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cái chết của vị bang chủ Tư Không Huyền này, thật liên hệ với ta không ít”. Chàng thấy hối hận trong lòng.

Tân Song Thanh chỉ vào hai nam đệ tử bên Đông tông nói: “Hai ngươi đưa Đoàn tướng công xuống núi.” Hai người đó một người tên Úc Quang Tiêu, một người tên Ngô Quang Thắng cùng khom lưng vâng dạ.

Đoàn Dự nhờ có hai gã Úc Ngô đỡ xuống được chân núi không mấy khó khăn, thở phào một cái, quay sang Tả Tử Mục và Tân Song Thanh chắp tay nói: “Đa tạ đưa xuống núi, tại hạ xin từ biệt.” Chàng nhìn lên ngọn núi Nam Hải Ngạc Thần đã chỉ, nghĩ thầm: “Lên được ngọn núi này còn gian nan gấp mấy lần xuống núi. Xem ra bọn Vô Lượng Kiếm chẳng tử tế đến mức giúp ta thêm, đành trèo lên một mình vậy.”

Ai ngờ Tân Song Thanh nói: “Ngươi không được đi, phải theo ta về Vô Lượng Động.” Đoàn Dự vội chối từ: “Không, không? Tại hạ có việc cần phải đi gấp, không tuân mệnh được. Xin thứ lỗi.” Tân Song Thanh hừ một tiếng, vẫy tay ra hiệu. Úc Ngô hai người hai bên giữ chặt Đoàn Dự, lôi đi xềnh xệch. Đoàn Dự kêu lên: “Tân chưởng môn, Tả chưởng môn, Đoàn Dự này có làm gì đắc tội với quí vị đâu. Lúc nãy vị thánh sứ tỉ tỉ chỉ bảo đưa ta xuống chân núi, nay đến nơi rồi, các vị còn muốn gì nữa?”

Tân Song Thanh và Tả Tử Mục không thèm trả lời. Đoàn Dự bị hai gã Úc Ngô áp tải không kháng cự được, đành phải theo chúng về Vô Lượng Động. Hai gã Úc Ngô dẫn Đoàn Dự đi qua năm gian phòng rồi lại qua một vườn hoa lớn, đến trước một căn nhà ba gian. Ngô Quang Thắng mở cửa phòng, Úc Quang Tiêu đẩy Đoàn Dự nhào vào trong nhà rồi lập tức đóng cửa lại, chỉ nghe lạch cạch, bọn chúng đã khóa ở bên ngoài.

Đoàn Dự kêu lớn: “Vô Lượng Kiếm các ngươi có biết phải quấy gì không? Thế này thì ta có khác gì phạm nhân đâu? Vô Lượng Kiếm nào có phải quan phủ sao dám tự tiện bắt người?” Bên ngoài không nghe động tĩnh, dẫu chàng có gào thét cách mấy cũng chẳng ai thèm ngó ngàng gì đến.

Đoàn Dự thở dài nghĩ thầm: “Thôi thì đến đâu hay đó, mặc cho số mệnh”. Đi xuống núi rồi về đến đây chàng đã mỏi mệt lắm rồi, thấy trong phòng có giường có bàn, chàng liền trèo lên giường nằm ngủ.

Ngủ chưa bao lâu thì có người bộc dịch đem cơm đến, ăn uống cũng không tệ lắm. Đoàn Dự nói: “Nhờ ông lên bẩm với Tả Tân hai vị chưởng môn, tôi có chuyện…” Chàng nói chưa dứt câu đã nghe Úc Quang Tiêu quát tháo bên ngoài: “Họ Đoàn kia, ta cho phép ngươi nằm ngồi thoải mái, nhưng nếu còn léo nhéo, đừng trách chúng ta không lịch sự. Ngươi mà mở mồm nói một câu, ta sẽ cho ngươi một bạt tai, nói hai câu, hai bạt tai, ba câu ba cái. Ngươi biết đếm đấy chứ?”

Đoàn Dự ngậm miệng lại, nghĩ thầm: “Thằng cha côn đồ này nói sao làm vậy. Ta tuy bị Mộc cô nương tát mấy cái thật, tuy đau trên má nhưng trong bụng lại vui vui. Còn như lần này bị ăn bạt tai của tên côn đồ kia chắc chẳng vui gì!” Chàng ăn ba bát đầy rồi lại leo lên giường nằm ngủ, nghĩ thầm: “Mộc cô nương không biết ra sao rồi? Tốt nhất là nàng rình phóng tên độc giết được Nam Hải Ngạc Thần, chạy đến đây cứu mình. Ôi! Sao ta lại muốn nàng giết người?” Chàng nghĩ ngợi vẩn vơ một hồi rồi lại ngủ tiếp.

Lần này chàng ngủ mãi đến sáng hôm sau mới dậy. Căn phòng bài trí giản dị, các cửa sổ đều có song sắt, xem ra là chỗ để Vô Lượng Kiếm giam người nhưng được cái thoáng mát rộng rãi, cũng không đến nỗi tù túng. Chuyện đầu tiên chàng tính đến là tập luyện Bắc Minh thần công theo lời dặn dò của thần tiên tỉ tỉ. Chàng mở trong bọc ra quyển trục, đặt trên bàn, vừa nghĩ đến hình người khỏa thân trong cuốn lụa, tim chàng không khỏi đập thình thình, đỏ mặt tía tai, vội vàng ngồi ngay ngắn, khấn thầm: “Thần tiên tỉ tỉ, đệ tử tuân hành lời tỉ tỉ dặn dò tu tập thần công chứ không phải cốt nhìn trộm quí thể, xin đừng trách cứ.”

Chàng từ từ mở cuộn lụa ra, đọc kỹ những chữ nhỏ viết bên cạnh đồ hình thứ nhất vài lần. Chữ nghĩa ghi trên đó chàng đọc dễ như ăn cháo, chỉ lướt qua là hiểu ngay, đọc đến lần thứ hai thì đã thuộc, đọc đến lần thứ ba thì đã thông hiểu kỹ càng. Chàng không dám nhìn lâu hình vẽ người đàn bà, chỉ ghi nhớ kinh mạch và vị trí huyệt đạo rồi theo những ghi chú trong cuộn lụa mà tập luyện.

Trong văn có viết rằng: “Nội công bản môn ngược với các môn phái khác, những ai từng tu tập nội công thì phải quên hết những gì đã học để chuyên tâm tu tập công phu mới, nếu như lẫn lộn với nhau thì hai công phu chống chọi mà lập tức thổ huyết điên cuồng, các kinh mạch bị phế, cực kỳ hung hiểm.” Kinh văn nhắc đi nhắc lại điểm này, coi đây là vấn đề trọng đại nhất. Đoàn Dự trước nay chưa hề tập qua nội công nên điểm tối gian nan này chàng khỏi quan tâm, khởi đầu thật là trôi chảy.

Chỉ khoảng nửa giờ chàng đã làm được y như đồ hình, nhớ hết các kinh mạch huyệt đạo trong Thủ Thái Âm Phế Kinh, có điều trong người không có chút nội lực nào nên không sao vận chuyển chân khí trong kinh mạch. Tiếp theo chàng luyện sang Nhâm Mạch, mạch này khởi đầu từ huyệt Hội Âm nằm ở trước hậu môn, theo các huyện Khúc Cốt, Trung Cực, Quan Nguyên, Thạch Môn… đi thẳng lên qua bụng, ngực, yết hầu đến huyệt Ngân Cơ ở hàm dưới, Nhâm Mạch rất nhiều huyệt đạo nhưng mạch chạy thẳng từ dưới lên trên rất là giản dị, chỉ giây lát Đoàn Dự đã nhớ hết những vị trí và tên huyệt đạo, giơ tay sờ thử tất cả những huyệt trên người mình. Mạch này cùng luyện chiều nghịch đi từ Ngân Cơ, Thừa Tương, Liêm Tuyền, Thiên Đột chạy xuống tới Hội Âm thì ngừng.

Trong hình vẽ có ghi: “Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch là cơ sở của Bắc Minh thần công, trong đó huyệt Thiếu Thương ở ngón tay cái và huyệt Đản Trung ở giữa hai vú là hai nơi quan trọng nhất, một đằng thu vào một đằng chứa lấy. Con người có tứ hải: dạ dày là biển chứa nước và thức ăn, Xung Mạch là biển của mười hai kinh, Đản Trung là biển chứa khí, còn óc não là biển chứa tủy. Ăn uống chứa vào dạ dày, trẻ sơ sinh cũng biết nhưng người ta ăn uống chỉ không quá một ngày đã phải thải ra ngoài. Ta thu nội lực nhiều ít đều giữ lại không hề tiết ra, càng tích trữ càng nhiều, chẳng khác gì ao trời Bắc Minh đủ cho cá côn dài nghìn dặm vùng vẫy.”

Đoàn Dự cuộn trục lại nghĩ thầm: “Môn công phu này theo đường lối hại người lợi mình, đem nội lực người khác mất bao công phu luyện được thu vào tích trữ tại thân thể mình, khác nào ăn thịt uống máu người ta? Thế có khác gì kẻ tham lam vơ vét tiền tài người ta lấy làm của mình? Ta đã nhận lời thần tiên tỉ tỉ không luyện không xong, nhưng ta nhất định không đi hút nội lực của người khác”.

Nhưng rồi chàng lại nghĩ: “Bá phụ thường dạy rằng con người sống trên đời, nếu không ăn không mặc thì không thể sống được. Thế nhưng một bát cháo, một mảnh khăn cũng đều là lấy của người khác. Lấy của người khác là chuyện không thể tránh được, có điều phải báo đáp như thế nào? Nếu thu vào ít mà trả ra nhiều thì được. Nếu lấy của kẻ giàu có bất nhân để đem cho kẻ không cơm áo thì cũng không đáng thẹn, nhà nho nhân nghĩa hay nhà Phật từ bi cũng đều như thế. Bòn khố rách sắm dù sơn kiệu thì là bạo ngược; còn như buôn bán làm giàu rồi làm điều thiện cả thiên hạ, bố thí khắp mọi người thì là Phật sống. Thành thử không phải ở chuyện thu hay không thu, mà tại cách dùng thiện hay ác”. Chàng nghĩ cho rõ ràng rồi thấy việc tập luyện môn công phu này không có gì còn đáng chê trách nữa.

Chàng thấy thoải mái trong lòng, nghĩ tiếp: “Nói đúng ra, ta từ bé chỉ muốn làm điều hay, không muốn làm điều dở. Nhưng con voi to lớn mang được nghìn cân, còn con kiến nhỏ bé kia chỉ mang được một hạt cải. Sức có lớn mới làm được chuyện lớn. Bản lãnh như Nam Hải Ngạc Thần mà biết chuyên tâm làm điều tốt, há chẳng tạo phúc nhiều lắm hay sao?” Chàng nghĩ như thế rồi tự nhủ nếu phải bái Nam Hải Ngạc Thần làm thầy thì sẽ chỉ bẻ cổ những kẻ xấu, xem ra “Nghe cũng có lý”.

Trong quyển trục này còn rất nhiều phương pháp tập luyện những kinh mạch khác, tất cả đều dạy phép làm sao thu được nội lực của người khác. Đoàn Dự tuy đã hơi thông trong lòng nhưng vẫn cảm thấy việc tham lam dường như ngược lại với bản tính của mình, nên gác qua một bên chưa luyện đến vội.

Chàng giờ đến cuối cuốn trục lại gặp bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ, liền nghĩ ngay đến bài Lạc Thần Phú của Tào Thực có mấy câu: “Bước đi uyển chuyển đùa trên sóng, Thấp thoáng xiêm y phủ gót hài” (Lăng ba vi bộ, La miệt sinh trần) quả là tuyệt diệu. Chàng nghĩ thầm: “Ta luyện môn Lăng Ba Vi Bộ này trước, đây là phép chạy trốn không hại người, xem ra có hàng trăm điều lợi mà không có gì hại cả”.

Trên quyển trục vẽ rõ ràng bộ pháp, lại ghi chú rõ sáu mươi tư phương vị của Dịch Kinh. Chàng vốn rất rành Dịch lý nên cũng đỡ phần lý thuyết. Tuy nhiên trong cuốn trục có nhiều bộ pháp thật kỳ lạ, đi một bước rồi người vặn vẹo không làm sao bước được qua bước thứ hai, mãi đến khi chàng nghĩ ra phải nhảy lên trên không xoay người lại, lúc đó mới hợp với vị thế bước kế tiếp. Cũng có khi phải nhảy về trước rồi búng mình ra sau, đầu lao bên trái lắc mông qua phải mới hợp với bộ pháp trong cuộn lụa. Đoàn Dự vốn là con mọt sách, mỗi khi gặp chuyện gì khó đều ngồi suy nghĩ cho bằng được, đến khi hiểu ra rồi thì càng khó càng thấy sướng không bút nào tả xiết. Đến giờ chàng mới thấy rằng trong võ học cũng có những vấn đề thú vị vô cùng, không kém gì đọc sách tụng kinh.

Một ngày trôi qua, bộ pháp trên cuốn trục chàng đã học được hai ba thành, sau khi ăn cơm chiều lại học thêm được mươi bước rồi mới lên giường. Chàng mơ hồ nửa thức nửa ngủ, trong đầu lẩn quẩn nào là Thiếu Thương, Đản Trung, Quan Nguyên, Trung Cực các huyệt đạo rồi tới Đồng Nhân, Đại Hữu, Qui Muội, Vị Tế các quẻ Dịch.

Đoàn Dự ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe mấy tiếng oang oang như ễnh ương kêu thật lớn, lập tức tỉnh dậy. Chẳng bao lâu, lại nghe thêm mấy tiếng oang oang nữa, to như bò rống nhưng lại có phần dữ tợn, không biết là tiếng con gì. Chàng biết trong dãy núi Vô Lượng này có nhiều độc trùng quái thú, thấy tiếng rống kia ngưng rồi nên cũng không để tâm, toan ngủ tiếp.

Bỗng nghe văng vẳng phía bên kia có người nói: “Con Mãng Cổ Chu Cáp (ễnh ương màu đỏ rống to như bò) lâu lắm không xuất hiện, tối qua bỗng dưng kêu, không biết là điềm lành dữ ra sao?” Lại một người khác nói: “Đông tông chúng ta rơi vào cảnh ngộ này, làm sao bảo là điềm lành được, chỉ mong đại họa không tới cũng đã tạ ơn trời đất rồi.”

Đoàn Dự nhận ra tiếng hai tên Úc Quang Tiêu và Ngô Quang Thắng, hẳn chúng ngủ ở bên kia vách, canh chừng không cho mình trốn. Gã Ngô Quang Thắng nói tiếp: “Vô Lượng Kiếm chúng ta đầu hàng Linh Thứu Cung, tuy rằng từ nay bị chế ngự mất tự do nhưng lại được quả núi lớn này, kể ra nửa xấu nửa tốt. Chỉ tức là rõ ràng Tây tông kém Đông tông mình, tại sao vị Phù thánh sứ kia lại cho Tân sư thúc làm chủ Vô Lượng Động, sư phụ chúng ta lại phải chịu dưới quyền.” Úc Quang Tiêu đáp: “Linh Thứu Cung từ Đồng Mỗ trở xuống toàn là phái nữ cả. Họ cho rằng nam nhân trong thiên hạ chẳng ai ra gì. Vì thế mà vị Phù thánh sứ kia có bụng nâng đỡ để Tân sư thúc đứng đầu, Vô Lượng Động cũng đỡ khổ. Ngươi xem đó, Phù thánh sứ ra tay độc ác với Tư Không Huyền của Thần Nông Bang biết bao.” Ngô Quang Thắng nói: “Úc sư ca giải thích không thông. Phù thánh sứ khinh đàn ông mà sao lại lịch sự với tên tiểu tử ở vách bên kia thế? Gì mà Đoàn tướng công, Đoàn tướng công, nghe ngứa cả tai.” Đoàn Dự nghe bọn chúng nói đến mình càng cố gắng lắng tai.

Úc Quang Tiêu cười nói: “Mấy câu đó chỉ nên thì thầm ở đây thôi. Một cô gái trẻ nói chuyện ngọt ngào với một gã mặt trắng, một Đoàn tướng công, hai Đoàn tướng công…” Y nói tới ba chữ “Đoàn tướng công” cố nhái giọng con gái yểu điệu, lại thêm mấy phần õng ẹo: “… thì ngươi đoán thử là vì đâu?” Ngô Quang Thắng nói: “Không lẽ Phù thánh sứ để mắt xanh vào tên mặt trắng kia?” Úc Quang Tiêu đáp: “Nói khẽ chứ, đừng để thằng lỏi mặt trắng nghe được.” Y cười nói tiếp: “Ta đâu có ở trong bụng Phù thánh sứ, làm sao rõ thánh ý của lão nhân gia? Nhưng chắc Tân sư thúc cũng nghĩ vậy nên mới bảo bọn mình chăm sóc cho kỹ càng, đừng để y chạy mất.” Ngô Quang Thắng nói: “Thế thì phải giam y đến chừng nào?” Úc Quang Tiêu đáp: “Phù thánh sứ ở trên đỉnh núi đã dặn: Tân Song Thanh đưa Đoàn tướng công xuống núi, Tứ Đại Ác Nhân mà đến quấy rồi thì bảo họ lên Linh Thứu Cung núi Phiêu Diểu tìm ta…” Mấy câu đó y học điệu bộ của cô gái áo xanh “Thế thì đem Đoàn tướng công xuống núi để làm gì? Lão nhân gia không nói, người ngoài ai dám hỏi. Lỡ như mai mốt Phù thánh sứ sai người tới bảo là: Tân Song Thanh đưa Đoàn tướng công lên Linh Thứu Cung gặp ta, mà lúc đó mình đã đem gã họ Đoàn giết mất hay thả ra rồi thì thật là ô hô ai tai!” Ngô Quang Thắng nói: “Nếu như Phù thánh sứ không nói năng gì cả, chẳng lẽ mình cứ giữ thằng lỏi mặt trắng này, chờ tới khi nào có hiệu lệnh của Phù thánh sứ mới thôi ư?” Úc Quang Tiêu cười: “Chứ còn gì nữa?”

Đoàn Dự trong bụng than thầm: “Hỡi ôi! Phù thánh sứ tỉ tỉ gọi mình một câu Đoàn tướng công chẳng qua nể nang kẻ nho sinh vài phần, bọn chúng sợ bóng sợ gió nghĩ ra thành chuyện nọ kia. Vị Phù thánh sứ kia có ngờ đâu bọn chúng định nhốt mình cho tới khi râu tóc bạc phơ, thằng lỏi mặt trắng biến thành thằng già mặt trắng.”

Chàng còn đang rầu rĩ bỗng nghe Ngô Quang Thắng nói: “Hóa ra hai đứa mình là…” Không biết y định nói gì, đột nhiên lại nghe oang oang ba tiếng lớn, con Mãng Cổ Chu Cáp kia lại kêu lên, Ngô Quang Thắng lập tức nín bặt. Một lúc sau không thấy Mãng Cổ Chu Cáp kêu thêm nữa, y mới nói: “Mỗi khi Mãng Cổ Chu Cáp kêu thì tiểu đệ lạnh ớn xương sống, không biết lần này nó sẽ lấy bao nhiêu mạng người đây?” Úc Quang Tiêu nói: “Người ta vẫn bảo Văn Thù bồ tát cưỡi thanh sư, Phổ Hiền bồ tát cưỡi bạch tượng, Thái Thượng lão quân cưỡi trâu, còn con Mãng Cổ Chu Cáp là vua của mọi loại độc, thần thông quảng đại, độc tính rất ghê gớm, thiên hạ mới đồn nó là vật cưỡi của ôn thần nhưng chắc gì đã đúng.”

Ngô Quang Thắng nói: “Úc sư huynh đoán thử xem con Mãng Cổ Chu Cáp này là giống gì?” Úc Quang Tiêu cười đáp: “Ngươi có muốn đi xem chăng?” Ngô Quang Thắng cười: “Sư huynh đi xem trước rồi về kể cho tiểu đệ nghe.”Úc Quang Tiêu nói: “Ta vừa trông thấy Mãng Cổ Chu Cáp là độc khí xông lên mù mắt ngay, sau đó lan vào óc, e rằng không còn được về để kể cho ngươi nghe Vạn Độc Chi Vương giống như con gì. Cả hai đứa mình cùng đi có hay hơn không?” Bỗng nghe thấy bước chân người rồi tiếng mở then cửa. Y run rẩy tiến ra đóng cửa lại. Úc Quang Tiêu cười: “Ha ha, ta không dám ra xem đâu. Có người sợ đến mất vía.”Ngô Quang Thắng lập cập nói: “Thôi đừng có giỡn kiểu này, lỡ có chuyện gì thật thì sao? Thôi đi ngủ cho yên.”

Úc Quang Tiêu đột nhiên đổi đề tài: “Ngươi nghĩ xem hai đứa chó má Can Quang Hào và Cát Quang Bội chạy có thoát không?” Ngô Quang Thắng nói: “Lâu thế mà không thấy tăm hơi, chắc là chúng chạy thoát rồi.” Úc Quang Tiêu nói: “Can Quang Hào tài cán chẳng bao nhiêu, bọn ta biết rõ mà. Gã đó lười biếng hiếu sắc, luyện kiếm thì chểnh mảng, chỉ được cái tài nói ngon nói ngọt đi dụ gái. Bọn mình đã kiếm khắp nơi đông tây nam bắc, ngay cả bốn thánh sứ của Linh Thứu Cung cũng đích thân tìm, ta không tin bọn chúng thoát được.” Ngô Quang Thắng nói: “Sư ca không tin cũng phải tin.”

Úc Quang Tiêu nói: “Ta đoán chừng đôi trai gái chó má này trốn vào trong núi sâu gặp phải Mãng Cổ Chu Cáp.” Ngô Quang Thắng kêu “A” lên một tiếng, tỏ vẻ sợ hãi, Úc Quang Tiêu tiếp: “Chắc là chúng tìm những nơi thật vắng vẻ mà đi, gặp phải Mãng Cổ Chu Cáp độc khí ăn lên óc, toàn thân tan ra thành vũng máu bầy nhầy, thành thử chẳng để lại dấu vết gì.” Ngô Quang Thắng nói: “Sư ca đoán thế cũng hơi có lý.” Úc Quang Tiêu hỏi lại: “Sao lại hơi có lý? Ngoài gặp phải Mãng Cổ Chu Cáp còn có lý do gì chắc hơn nữa chăng?” Ngô Quang Thắng nói: “Không chừng hai đứa đó không biết nhịn thèm, ở nơi hoang sơn dã lãnh hứng lên, ôm nhau luyện chiêu “Lý Ngư Phiên Thân” đến trời đất quay cuồng, hí hí, không gượng được lăn xuống vực.” Hai tên cùng cười khoái chí.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mộc cô nương bắn chết Can Cát hai người ở quán ăn, không lẽ phái Vô Lượng không biết? Đúng rồi, chắc là chủ quán sợ rắc rối nên lật đật đem chôn. Dù phái Vô Lượng có đến tra hỏi, dân buôn bán thấy chúng cầm binh khí, mặt mày hầm hầm như hung thần ác sát, ai mà dám nói gì.”

Ngô Quang Thắng lại tiếp: “Đông Tây tông Vô Lượng Kiếm có hai tên đệ tử đào tẩu thì có gì to tát đâu. Thế mà vua chẳng lo đi lo thái giám, thánh sứ của Linh Thứu Cung lại gấp gáp đi bắt hai đứa về, chẳng hiểu tại sao?” Úc Quang Tiêu đáp: “Ngươi thử vắt óc ra nghĩ xem tại sao nào?” Ngô Quang Thắng trầm ngâm một hồi nói: “Sư ca biết rồi, tiểu đệ đầu óc chậm chạp, nghĩ tới nghĩ lui cũng chẳng được gì.”

Úc Quang Tiêu nói: “Ta hỏi ngươi: Linh Thứu Cung muốn chiếm Vô Lượng Cung của bọn ta là vì cớ gì?” Ngô Quang Thắng đáp: “Nghe Đường sư ca nói có lẽ là vì Vô Lượng Ngọc Bích ở hậu Sơn, Phù thánh sứ vừa đến, đã năm lần bảy lượt tra vấn chuyện tiên ảnh trên vách núi kiếm pháp như thế nào.” Úc Quang Tiêu nói: “Đúng thế! Chúng mình ai cũng phải thề độc theo lệnh của thánh sứ rằng không được tiết lậu việc tiên ảnh trên ngọc bích. Can Quang Hào và Cát Quang Bội hai đứa đó đã trốn đi trước, làm sao bắt chúng thề được?” Ngô Quang Thắng vỗ đùi kêu lên: “Đúng rồi! Đúng rồi! Linh Thứu Cung muốn giết hai người đó diệt khẩu.”

Úc Quang Tiêu quát khẽ: “Khẽ thôi, ngươi quên vách bên kia có người sao?” Ngô Quang Thắng vội đáp: “Dạ! Dạ!” Y ngừng một chút lại nói tiếp: “Gã Can Quang Hào thật là sung sướng, vớ được em mặt rỗ Cát Quang Bội trắng trẻo ngon lành, hai đứa chắc là ôm nhau trần như nhộng, chắc là… chắc là… con mẹ nó, dẫu có phải biến thành vũng máu bầy nhầy cũng còn… cũng còn…”

Hai gã tiếp tục nói chuyện, qua lại chỉ rặt những điều thô tục, Đoàn Dự không muốn nghe những tiếng cười dâm đãng từ bên kia vách vẫn vọng qua không nghe cũng không được. Chàng cố tập trung nghĩ đến các kinh mạch huyệt đạo trong Bắc Minh thần công, chẳng bao lâu tinh thần chuyên chú, âm thanh bên ngoài không lọt vào tai nữa.

Hôm sau chàng lại luyện Lăng Ba Vi Bộ theo các bộ pháp trong cuộn trục, từng bước một mà diễn tập. Bộ pháp này ẹo qua trái, nghiêng qua phải dù tiến hay thoái cũng không có bước nào đi thẳng, tuy ở trong nhà nhưng chỉ cần tránh bàn tránh ghế là hoàn toàn có thể sử dụng được. Chàng học được mươi bước rồi nghĩ thầm: “Đợi tên đưa cơm đến đây, ta chỉ cần đi mấy bước nghiêng qua xéo lại này là lập tức thoát ra khỏi, chạy luôn ra cửa chưa chắc y đã bắt được mình. Nếu không chạy trốn cho lẹ, không lẽ ở đây chờ trở thành thằng già mặt trắng? Nhưng ta phải luyện cho thật thuần thục chứ để sai nửa bước là bị y bắt được ngay. Nếu thế không chừng chân mình lại thêm một sợi dây xích có khóa nữa, lúc đó thì Lăng Ba Vị Bộ dẫu hay đến đâu, cũng chỉ đi qua đi lại trong vòng sợi dây xích, ta thành thằng già mặt trắng là chắc chắn rồi”. Nghĩ đến đó chàng đã có chủ ý rõ ràng.

Đoàn Dự đã học tất cả hơn trăm bước, chàng ôn lại một lượt từ đầu chí cuối, nghĩ thầm: “Ta phải làm cách nào không cần suy nghĩ, cứ bước là đúng. Ôi, Đoàn Dự này quả là đàn ông chẳng ra đàn ông, học theo cái lối Lạc thần Mật Phi ưỡn ẹo đùa trên mặt sóng. Ta làm gì có cái điệu thấp thoáng xiêm y phủ gót hài? Rách hết xiêm y hở cả đùi thì có.” Chàng bật cười ha hả, chân trái bước vào vị trí Trung Phu, chuyển qua Ký Tế. Ngờ đâu khi vừa bước lên vị trí quẻ Thái, xoay chân phải đạp vào vị trí Cổ, trong Đan Điền bỗng có một làn nhiệt khí xông lên, người tê đi, ngã nhào về trước, nằm gục xuống bàn không sao gượng được.

Chàng kinh hãi vô cùng giơ tay vịn vào bàn toàn đứng lên, ngờ đâu cử động không còn như ý, muốn nhúc nhích một ngón tay cũng không được, giống như người ngủ bị bóng đè, càng hoảng hốt càng bất động. Chàng đâu biết rằng Lăng Ba Vi Bộ là một môn võ công thượng thừa, sở dĩ để ở cuối quyến trục vì muốn người ta luyện xong Bắc Minh thần công, khi nội lực đã thâm hậu mới luyện tới bộ pháp này. Mỗi bước Lăng Ba Vi Bộ, cử động và nội lực có liên quan chặt chẽ, không phải cứ dẻo chân là đủ. Đoàn Dự hoàn toàn không có căn bản nội lực, trước đây cứ đi một bước lại suy nghĩ một hồi, lùi một bước lại ngưng lại một chút thành ra huyết mạch dù có trở ngại nhưng chưa đến nỗi thành chuyện lớn. Đến khi chàng tập bước nhanh, lại đột nhiên há miệng cười, chân khí trong người tán loạn, lập tức tê liệt như bị tẩu hỏa nhập ma. Cũng may chàng chỉ mới đi mấy bước nên chưa rơi vào nguy cơ đoạn tuyệt kinh mạch.

Chàng kinh hoàng cố gắng vùng vẫy, nhưng càng ra sức càng thấy khó thở, dường như muốn nôn ra mà không được. Chàng thở dài đành nằm yên phó mặc tới đâu hay đó, sức ép trên ngực lại giảm đi. Chàng nằm gục trên bàn không nhúc nhích, quyển trục mở ra ngay trước mắt, không còn nghĩ ngợi gì, nhìn đến ngay những phần chưa học, trong đầu tưởng tượng ra bộ pháp, duyệt qua một lượt từng bước một. Đến hơn nửa giờ sau, chàng đã thông suốt hơn hai chục bước sau cùng, lại gần như đã hết tức ngực khó thở.

Cho đến gần trưa, chàng ôn lại hết lượt bộ pháp, bắt đầu lại tất cả sáu mươi tư quẻ, khởi thủy từ Minh Di qua đến Bí, Ký Tế, Gia Nhân đủ hết rồi đi một vòng trở về Vô Vọng. Biết là bộ pháp mình học đã xong, chàng mừng rỡ trong lòng, nhảy nhổm lên vỗ tay kêu: “Hay quá! Hay quá!” Bốn tiếng để thốt ra chàng mới hiểu mình đã cử động lại được rồi. Thì ra nội tức của chàng theo ý nghĩ mà vận chuyển, đã đi đủ một vòng tròn nên những tắc nghẽn trong kinh mạch đều thông suốt.

Chàng vừa mừng vừa sợ, đem bộ pháp của sáu mươi tư quẻ đó ôn đi ôn lại mấy lần, sợ rằng lại theo vết xe cũ nên chậm rãi đi từng bước một, cứ mỗi bước lại nghỉ lấy hơi. Sau khi đi đủ sáu mươi tư quẻ chân cũng đi thành một vòng tròn, đầu óc khoan khoái, toàn thân đầy rẫy sinh lực, chàng không còn nhịn nổi kêu to: “Hay quá! Hay quá! Hay thật là hay!”

Úc Quang Tiêu ở ngoài cửa hầm hè quát: “Người la lối gì đó? Ta đã nói rồi, không phải giỡn chơi. Ngươi nói một câu là ăn một cái tát.” Y mở khóa bước vào nói tiếp: “Hồi nãy ngươi nói ba câu, đáng ăn ba cái bạt tai. Thế nhưng vi phạm lần đầu xử nhẹ, bợp tai ngươi một cái.” Y nói rồi bước tới giơ tay tát lên mặt Đoàn Dự.

Cái tát đó chẳng phải chưởng pháp gì tinh diệu nhưng Đoàn Dự đâu có biết chống đỡ, đầu hơi nghiêng qua, chân tự nhiên đi xéo theo bộ pháp từ quẻ Tỉnh qua quẻ Tụng, tránh được. Úc Quang Tiêu giận quá, quyền bên trái tống ra. Đoàn Dự bộ pháp chưa thuần thục, đang định chuyển bước thì bình một cái, ngực đã bị trúng một quyền ngay tại huyệt Đản Trung.

Đản Trung là đại huyệt, Úc Quang Tiêu đánh trúng một quyền bỗng thấy hối hận, sợ mình ra tay nặng quá gây nên đại họa, ngờ đâu đánh trúng Đoàn Dự rồi, cánh tay lập tức mềm nhũn vô lực, trong bụng lại thấy thót lên. Y hơi ngạc nhiên nhưng trấn tĩnh lại ngay, thấy Đoàn Dự không bị thương mới yên tâm nói: “Ngươi né được cái tát nhưng lại bị một đám cũng được rồi, coi như đủ số.” Y quay người đi ra, khóa cửa phòng lại.

Đoàn Dự bị trúng một quyền nghe thật kêu, nhưng nơi bị đấm trên ngực lại không thấy đau, trong bụng không khỏi ngạc nhiên. Chàng có biết đâu, trong quyền của Úc Quang Tiêu có bao nhiêu nội lực đều tống vào khí hải, bắt đầu tích trữ trong huyệt Đản Trung.

Thật là vừa khéo, nếu quyền đó trúng phải nơi khác thì dẫu chàng không bị thương cũng đau đến tim gan phèo phổi, còn huyệt Đản Trung chính là nơi chất chứa Bắc Minh chân khí. Chàng tu tập thần cộng chưa có chút căn cơ nào, nếu như đúng kiểu dùng huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái để hút nội lực người khác, theo Thủ Thái Dương Phế Kinh dẫn vào huyệt Thiên Đột trong Nhâm Mạch, rồi tích trữ ở huyệt Đản Trung, chàng hoàn toàn chưa có khả năng. Mà dù có tu tập thành công thì chưa chắc chàng chịu hấp thu nội lực người khác. Thế nhưng đối phương tự ý đem nội lực trút vào huyệt Đản Trung, Đoàn Dự không có khả năng kháng cự, quyền vừa đụng phải người nội lực liền xâm nhập vào, đúng là của trên trời rơi xuống. Thế nhưng chàng ngơ ngẩn nào có biết trời trăng gì, chỉ nghĩ: “Gã này quả là ngang ngược, ta nói mấy câu có đụng chạm gì đến y đâu? Tự nhiên lại đấm mình một quả”.

Nội lực từ cú đấm đó xoay vần trong khí hải của chàng, Đoàn Dự thấy tức ngực khó thở, liền thử vận hành Nhâm Mạch và Thủ Thái Âm Phế Kinh hai kinh lạc, thấy có một làn hơi ấm nhẹ nhàng chạy theo hai mạch này rồi lại quay về huyệt Đản Trung, bao nhiêu khó chịu liền biến mất. Thì ra chỉ một vòng vận hành ngắn ngủi kia, chút nội lực đó sẽ được giữ lại trong thân thể chàng không mất nữa. Từ một quyền Úc Quang Tiêu đấm chàng mà Đoàn Dự từ chỗ không có chút nội lực nào trở thành có một chút xíu nội lực.

Cũng may là Úc Quang Tiêu nội lực bình thường, cũng chưa ra tay hết sức, chứ nếu như Nam Hải Ngạc Thần mà đấm vào huyệt Đản Trung thì Đoàn Dự chưa có cơ sở nội lực, khí hải không kịp dung nạp, thể nào kinh mạch cũng đứt đoạn, hộc máu chết ngay. Về phần Úc Quang Tiêu thì nội lực mất chẳng bao nhiêu nên y cũng không phát giác.

Sau bữa cơm trưa, Đoàn Dự lại luyện Lăng Ba Vi Bộ, đi một bước lại hít vào, đi qua bước thứ hai thì thở ra, đi hết sáu mươi tư quẻ, chân tay không thấy bị tê mỏi, biết rằng nếu mình hô hấp điều hòa thì không có gì hại. Qua lần thứ hai chàng đi hai bước mới hít một hơi, hai bước nữa mới thở ra. Pho Lăng Ba Vi Bộ này có thể dùng bộ pháp để tu tập nội công, chân bước đủ sáu mươi tư quẻ thành một chu thiên thì nội tức cũng xoay đúng một vòng. Thành thử mỗi khi chàng đi hết một vòng thì nội công lại tiến bộ thêm một chút.

Thế nhưng Đoàn Dự không hề biết mình đang luyện nội công, chỉ mong bước đi thành thục, càng đi càng nhanh. Chàng nghĩ thầm: “Lúc đó lão Úc tát ta ngay mặt, ta từ vị trí quẻ Tỉnh sang vị trí quẻ Tụng, bước đó quả không sai nên đã tránh được cái tát, kế đó phải đi xéo qua vị trí quẻ Cổ, cũng có thể tránh được quyền đánh vào ngực. Thế nhưng ta vừa mới nghĩ đến chưa kịp bước đi thì đối phương đã đánh trúng rồi. Đó là do công phu còn chưa thuần thục. Nếu muốn dùng bộ pháp này để đối phương không túm được thì phải xuất bộ nhanh, không cần suy nghĩ gì hết. Quan trọng là ở chỗ không cần suy nghĩ mà vẫn bước đúng”.

Nghĩ như thế chàng càng ra sức luyện tập bộ pháp, ngày ngày từ sáng đến tối, trừ lúc ăn ngủ đại tiểu tiện ra, không lúc nào ngừng chân. Cũng có khi chàng nghĩ: “Ta nỗ lực luyện bộ pháp này chẳng qua chỉ nhằm trốn đi cứu Mộc cô nương, nào phải tuân theo lời dặn của thần tiên tỉ tỉ mà luyện Bắc Minh thần công?”

Chàng đâm ra áy náy lại luyện Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch, nhưng cũng chỉ tới mức cho yên tâm, còn những kinh mạch khác vẫn gác qua một bên chưa ngó ngàng gì đến.

Chàng luyện như thế được mấy ngày, Lăng Ba Vi Bộ tương đối đã thuần thục, dẫu có đi thật nhanh hơi thở cũng không có chỗ nào bế tắc. Bước chân càng nhịp nhàng, chàng vừa đi vừa nghĩ đến mấy câu có liên quan đến Lăng Ba Vi Bộ trong bài Lạc Thần Phú: Động không phép tắc, tưởng nguy mà an, tiến dừng khó biết, tưởng tới lại về (Động vô thường tắc, nhược nguy nhược an; Tiến chỉ nan kỳ, nhược vãng nhược hoàn).

Chàng thấy dường như mười sáu chữ sau cùng này là yếu chỉ của bộ pháp. Dù đã lãnh ngộ nhưng đạt tới mức đó thì còn phải khổ luyện không biết tới bao giờ. Còn như hiện tại, nếu như địch nhân giơ tay ra chộp thì cũng chưa biết có tránh được hay không, phải luyện thêm mươi bữa nửa tháng thì chắc ăn hơn. Thế nhưng chàng bấm ngón tay thấy chia tay Mộc cô nương đã đủ bảy ngày, nghĩ đến nàng chờ đợi ngày dài đằng đẵng, nên chàng quyết tâm hôm nay phải trốn. Đoàn Dự nghĩ thầm gã bộc dịch đưa cơm không biết võ công, việc lách qua người y mà đi chắc không lấy gì làm khó.

Chàng ngồi trên giường ôn lại bộ pháp, kiên nhẫn ngồi chờ. Một lát có tiếng mở khóa lách cách, rồi tiếng chân người đi, người đầy tớ bưng mâm cơm vào. Đoàn Dự chậm rãi đi tới, đột nhiên giơ tay hất một cái, bao nhiêu cơm canh rau dưa đổ loảng xoảng văng lên mặt gã. Gã bộc dịch vừa kêu: “Ối…” chàng đã nhanh chân lẻn ngay ra cửa. Ngờ đâu Úc Quang Tiêu đang đứng bên ngoài, nghe tiếng kêu của gã đầy tớ vội vàng chạy tới. Cửa hẹp, hai người đâm sầm vào nhau. Đoàn Dự từ bộ vị quẻ Dự bước sang quẻ Quan, đang định lẻn ngang hông y mà ra, ngờ đâu chân trái vấp ngay vào bậc cửa.

Việc xảy ra thật ngoài dự liệu. Lăng Ba Vi Bộ không chú thích rõ “khi vấp phải bậc cửa, chân cao chân thấp thì phải làm sao?” nên chàng lỡ trớn, bộ vị kế tiếp quẻ Tỉ lại giẫm lên bàn chân Úc Quang Tiêu. Cái việc “đạp lên chân người ta, đối phương kêu lên oai oái thì phải làm sao?” cũng không ghi trong bí quyết quyển trục. Chắc hẳn là do nữ thần trên sông Lạc Thủy uyển chuyển cất bước trên mặt sóng, không phải lo gì đến chuyện vấp phải ngạch cửa, hay dẫm lên chân người khác như ở trên đất liền. Đoàn Dự chưa kịp hoảng hốt đã thấy cổ tay bị nắm chặt, Úc Quang Tiêu đã lôi chàng trở vào.

Mấy ngày dự liệu ngờ đâu khi gặp việc đều sai bét, Đoàn Dự trong bụng hỡi ôi, vội vàng ra sức vùng vẫy, giằng tay ra. Thế nhưng năm ngón tay Úc Quang Tiêu nắm chặt cổ tay chàng, làm sao mà mở ra cho được?

Đột nhiên Úc Quang Tiêu kêu “Ối” một tiếng thấy ngón tay tê đi, bàn tay lỏng ra, hắn vội vàng vận kình bóp lại cho chặt nhưng rồi mềm nhũn lại ngay. Y cất tiếng chửi: “Con bà nó!”, cố gắng ra sức một lần nữa nhưng trong chốc lát bàn tay cánh tay đều tê dại. Y có biết đâu khi Đoàn Dự giơ tay ra giằng tay y ra, khéo làm sao huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái chàng lại đụng ngay huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái y, y lại vận sức siết cổ tay Đoàn Dự khiến cho nội lực ào ào chảy vào ngón tay cái của đối phương. Mỗi lần y vận kình, nội lực lại giảm sút đi một chút.

Đoàn Dự không hiểu nguyên do, chỉ thấy tay đối phương khi chặt khi lỏng, chàng cố tìm cách luồn được ngón tay vào giữa ngón tay cái của y và cổ tay mình để nạy cho ra.

Hôm trước Úc Quang Tiêu đánh chàng một quyền, nội lực từ cú đấm đó tích vào khí hải nơi huyệt Đản Trung. Một quyền đó nội lực chẳng bao nhiêu, nhưng Đoàn Dự đã dẫn được xuôi theo Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch, đả thông hai mạch này. Bây giờ nội lực của Úc Quang Tiêu cứ theo cái thông đạo đó chầm chậm đổ vào khí hải của chàng, chính là yếu chỉ Bách Xuyên Hối Hải (trăm sông đổ vào biển) trong Bắc Minh thần công. Nếu như hai người cùng không ra sức, hai ngón tay cái chỉ nhẹ nhàng chạm vào nhau, Đoàn Dự không biết Bắc Minh thần công thì không thể nào hút nội lực của y được. Thế nhưng lúc này hai bên cùng hết sức vận kình, bao nhiêu nội lực trong người Úc Quang Tiêu đẩy vào người chàng qua huyệt Thiếu Thương, tưởng như rượu trong bình rót xuống chén, cái chén không muốn chứa cũng không được.

Lúc đầu nội lực Úc Quang Tiêu hơn xa Đoàn Dự, nếu như y biết rõ nguyên do buông tay lùi lại thì cùng lắm là Đoàn Dự chạy thoát mà thôi. Thế nhưng họ Úc nhận lệnh canh gác lẽ nào lại để cho gã mặt trắng này đào tẩu? Y thấy cánh tay tê dại lại càng thúc đẩy kinh lực, một tay nắm không xong lại vươn tay trái ra chộp luôn cánh tay chàng. Như thế nội lực lại càng tuôn ra nhanh hơn, chẳng mấy chốc đến một nửa nội lực toàn thân đã trút vào người Đoàn Dự.

Một bên tăng một bên giảm, lát sau kình lực y không bằng Đoàn Dự nữa, nội lực càng chảy càng nhanh, sau cùng chẳng khác gì để bị vỡ, nước sông ào ào như thác. Đoàn Dự tuyệt nhiên không biết gì, tay vẫn nắm chặt tay đối phương, trong bụng hoang mang, đâu có ngờ rằng việc “mình nạy tay y ra” lại trở thành “mình khư khư nắm lấy tay địch”.

Úc Quang Tiêu thấy toàn thân rã rời, sợ quá kêu lên: “Ngô sư đệ, Ngô Quang Thắng! Mau ra đây!” Lúc ấy Ngô Quang Thắng đang ở trong nhà xí, nghe thấy sư ca hoảng hốt gọi, vừa kéo quần vừa chạy ra. Úc Quang Tiêu kêu lên: “Tiểu tử này định trốn, ta… ta giữ y không nổi.” Ngô Quang Thắng buông quần định xông lên tiếp tay đè Đoàn Dự xuống. Úc Quang Tiêu kêu lên: “Ngươi kéo ta ra trước đã!”, trong giọng y dường như có chen tiếng khóc.

Ngô Quang Thắng vội đáp: “Vâng!” Y giơ tay nắm hai vai sư huynh toan nhấc y lên, đồng thời hỏi: “Sư ca bị thương ư?”, trong bụng thầm nghĩ sư huynh mình võ công cao siêu lẽ nào không giữ nổi một gã thư sinh trói gà không chặt. Y vừa mở miệng lập tức thấy hai cánh tay rã rời như không còn sức, vội vàng nhấc lên lại thấy cánh tay mềm nhũn tê dại. Thì ra lúc này Đoàn Dự đã hút hết sạch nội lực của Úc Quang Tiêu, tiếp tục hút đến Ngô Quang Thắng, thân thể Úc Quang Tiêu biến thành ống dẫn.

Đoàn Dự thấy đối phương có thêm người, bàn tay Úc Quang Tiêu nắm cổ tay mình bỗng mạnh hẳn lên, trong lòng càng hoảng, ra sức bẻ ngón tay y ra. Ngô Quang Thắng thấy chân tay uể oải, người như trôi bồng bềnh, luôn mồm kêu lên: “Lạ thật! Lạ thật!” nhưng vẫn không chịu buông tay ra.

Gã đưa cơm thấy ba người đè nhau thành một đống, hai gã Úc Ngô mặt mày kinh hoàng như gặp ma, y vội vàng chạy ra ngoài gào lên: “Có ai ra ngay đây, thằng lỏi mặt trắng họ Đoàn đang tính chạy trốn.”

Các đệ tử của Vô Lượng Kiếm nghe y hô hoán, lập tức có hai người chạy đến, kế đó lại thêm ba người khác nữa, nhao nhao hỏi dồn: “Gì thế? Tiểu tử đó đâu?” Khi đó Đoàn Dự đang bị hai gã Úc Ngô đè lên nên bọn vừa chạy đến không thấy chàng.

Úc Quang Tiêu lúc này thở không ra hơi, hết nói năng gì được, còn Ngô Quang Thắng thì nội lực mười phần đã mất hết tám, hổn hển nói: “Úc sư ca đã… đã bắt được y rồi, mau… mau đến tiếp tay.”

Lập tức có hai tên xông tới, mỗi đứa cầm một bên tay Ngô Quang Thắng, vừa nắm được cánh tay liền thấy tê đi, nội lực hai người truyền qua Ngô Quang Thắng sang Úc Quang Tiêu, rồi lại từ Úc Quang Tiêu truyền sang người Đoàn Dự. Lúc này huyệt Đản Trung của Đoàn Dự đã tích trữ nội lực của hai gã Úc Ngô nên hơn hẳn hai gã vừa tới. Hai người đó vừa thấy tay chân bải hoải nên lập tức đẩy mạnh kình lực, nhưng vừa vận sức thì nội lực lại tuôn ra ào ào truyền vào người Đoàn Dự. Trong thân thể Đoàn Dự tích trữ nội lực càng nhiều, sức hút càng nhanh, lúc trước chỉ ri rỉ như mạch nước len qua kẽ đá, nay thì cuồn cuộn như Hoàng Hà.

Ba tên còn lại thấy kỳ lạ, một gã cười hỏi: “Các ngươi chơi trò gì thế? Trồng tháp người hay sao?”, giơ tay nắm lấy, vừa đụng vào hai tay liền dính chặt, kêu lên: “Tà môn! Tà môn!” Hai gã còn lại lập tức xông lên. Ba người cùng ra sức gỡ những người kia ra những cổ tay cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào cả. Bảy tên đệ tử của Vô Lượng Kiếm đè lên nhau chặn cứng cái cửa hẹp, Đoàn Dự nằm dưới không còn thở nổi. Chàng thấy không cách gì chạy thoát nên đành đầu hàng rồi tính sau, kêu lên: “Thả ta ra, ta không chạy đâu!” Thế nhưng nội lực đối phương vẫn tiếp tục tràn vào khiến cho huyệt Đản Trung chàng như bị nghẹn cứng không thể nào chịu nổi, lồng ngực như muốn nổ tung. Chàng buông tay Úc Quang Tiêu ra nhưng khổ nỗi tháp người đè lên tay y dính vào ngón tay cái của chàng không cục cựa được, chỉ tiếp tục kêu: “Đè chết ta rồi! Đè chết ta rồi!”

Úc Quang Tiêu và Ngô Quang Thắng lúc này chỉ còn thoi thóp, năm người vừa chạy đến cũng đang tá hỏa tam tinh, càng kinh hãi lại càng gắng sức nhưng cố bao nhiêu nội lực lại tuôn ra nhiều bấy nhiêu.

Tám người dồn thành một khối, trong đó hai người im lặng, sáu người kêu gào rộn cả lên, chẳng ai nghe ai. Một lúc sau chỉ còn bốn người la hét, rồi xuống còn ba. Sau cùng chỉ còn mình Đoàn Dự kêu: “Đè chết ta mất, mau thả ta ra, ta không chạy đâu!” Chàng kêu một câu thì lại bớt tức ngực một chút, nên mồm không ngớt gào thét. Tuy bị đè nặng nhưng sức chàng không kiệt, càng lúc kêu càng to.

Đột nhiên có tiếng người quát: “Con mụ kia bắt con ta chạy mất rồi, tất cả đuổi theo. Bốn người các ngươi chặn cửa chính, ba người các ngươi nhảy lên mái nhà canh chừng, còn bốn tên kia chặn cửa đông, năm tên này chặn cửa tây. Không được để con mụ đó ôm con ta trốn thoát.” Tuy y quát tháo ra lệnh nhưng nghe giọng đầy nỗi kinh hoàng.

Đoàn Dự văng vẳng nghe thấy tiếng của Tả Tử Mục, trong đầu liền nghĩ: “Sao lại có mụ đàn bà nào vào ăn trộm con y? À, chắc là Mộc Cô nương đến cứu ta, ăn trộm con y để đổi lấy ông chồng theo kiểu dắt bò đổi lấy ngựa, cách đó quả là không dở”. Chàng bèn ngừng lại không kêu la nữa. Đoàn Dự định thần được, thấy năm ngón tay Úc Quang Tiêu nắm mình đã lỏng ra, dùng sức quẫy mấy cái. Bảy người đè lên chàng lịch bịch rơi xuống.

Đoàn Dự mừng quá nghĩ: “Mộc cô nương ăn trộm mất con của sư phụ bọn chúng, ai nấy hoảng hốt không còn nghĩ tới chuyện bắt ta nữa”. Chàng bèn chui trong đống người ra, trong bụng ngạc nhiên: “Sao chúng nằm bên dưới đất thế này? Đúng rồi, chắc họ sợ sư phụ quở phạt nên giả bộ bị thương”.

Thế nhưng chàng đâu có thì giờ mà suy luận xem giả thuyết của mình có hợp tình hợp lý không, lập tức co giò bỏ chạy, có nằm mơ cũng không ngờ được rằng đã hút hết nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm.

Đoàn Dự ba chân bốn cẳng chạy ra phía sau nhà, thật chẳng còn nhớ được đang ở phương vị Ký Tế hay Vị Tế. Những gì Khinh vân tế nguyệt, Lưu phong hồi tuyết… chẳng qua chỉ là Tào Thực vẽ vời, chứ chàng thì lúc này hớt hải như chó mất chủ, bụng vừa mừng vừa sợ như cá lọt lưới, chung quanh thấy đầy đệ tử Vô Lượng Kiếm lăm lăm trường kiếm, chạy động chạy tây kêu la: “Đừng để con mụ đó chạy thoát!” “Mau đoạt lại tiểu sư đệ!” “Ngươi đuổi bên kia, ta qua bên này!” Chàng nghĩ thầm: “Cái kế dắt bò đổi ngựa của Mộc Cô nương đã chuyển thành điệu hổ ly sơn, lại càng tuyệt diệu, Thôi thì ta cứ tẩu vị thượng sách mà làm”. Chàng chui luôn vào trong bụi cỏ rậm, bò được hơn chục trượng nghĩ thầm: “Ta dùng cả chân tay, phải gọi là Lăng Ba Vi… Bò mới đúng”.

Tiếng kêu la xa dần, chàng thấy không ai đuổi theo nên đứng thẳng lên nhắm hướng rừng rậm đằng sau núi mà chạy. Hồi lâu vẫn không thấy mỏi mệt, trong bụng thấy hơi lạ, nghĩ thầm: “Ta chớ có quá sợ hãi mà kiệt sức mất”. Chàng bèn ngồi dưới một gốc cây, nhưng chỉ thấy toàn thân sinh lực tràn trề, cần gì phải nghỉ?

Chàng lại nghĩ: “Người ta khi gặp chuyện vui thì tinh thần đâm ra sảng khoái, nhưng rồi về sau mới thấy chịu không nổi. Quẻ Chấn hào lục nhị có viết là: Vật trục, thất nhật đắc (mất đừng cố đuổi, bảy ngày lại được). Hôm nay đúng là mình bị khốn khổ bảy ngày. Hai chữ vật trục phải ghi nhớ kỹ”.

Chàng bèn đem nội lực tích trữ được trong huyệt Đản Trung từ từ đẩy vào Thủ Thái Âm Phế Kinh nhưng vì nội lực quá nhiều đưa mãi không hết, lát sau bỗng thấy sợ hãi: “Việc này xem ra kỳ lạ, cố gắng quá chắc có nguy hiểm”. Ngực đã bớt tức nên chàng ngừng lại không vận khí nữa, đứng lên đi tiếp, nghĩ thầm: “Ta phải tìm gặp Mộc cô nương để cho cô ta biết là mình đã chạy được rồi, mau mà trả con của Tả Tử Mục lại để cho y khỏi lo lắng nhớ mong”.

Đi được chừng một dặm nghe thấy mấy tiếng chít chít, trước mắt thấy bóng xám tro thấp thoáng, một con thú nhanh nhẹn dị thường vụt qua. Con vật chạy nhanh quá nên nhìn không rõ, nhưng loại thú nhỏ mà nhanh như thế thì nhất định phải là con thiểm điện điêu của Chung Linh rồi. Đoàn Dự mừng lắm nghĩ thầm: “Chung cô nương đi kiếm khắp nơi, thì ra chú mày chạy tới tận đây. Để ta bồng người đem về trả lại cho chủ, cô nàng chắc là khoái lắm.” Chàng bắt chước Chung Linh huýt sáo miệng mấy tiếng.

Bóng xám vụt một cái, một con vật từ trên cao nhảy xuống trước mặt chàng chừng một trượng, đôi mắt long lanh chuyển động, chăm chăm nhìn chàng, quả đúng là con thiểm điện điêu. Đoàn Dự lại huýt thêm mấy tiếng nữa, con chồn tiến lên mấy bước, nằm phục trên mặt đất không động đậy.

Đoàn Dự kêu khẽ: “Chồn ngoan ơi! Để ta đem ngươi về với chủ nhé.” Chàng vừa huýt sáo vừa tiến lên, con thiểm điện điêu vẫn không cử động. Đoàn Dự biết rằng con chồn này chạy nhanh như gió, răng có chất độc, nhưng đối với chủ nhân thì mười phần dễ bảo. Đôi mắt linh hoạt của nó xoay chuyển không ngừng trông thật dễ thương. Chàng huýt sáo mấy tiếng, lại gần thêm mấy bước, chậm rãi ngồi xuống nói: “Điêu nhi ngoan quá!” rồi từ từ đưa tay ra vỗ vỗ lưng nó, con chồn vẫn nằm yên không cử động. Đoàn Dự vuốt nhẹ lên sống lưng mềm mại mượt mà của con vật, dịu dàng nói: “Chồn ngoan ơi, mình đi về nhà nhé!” Tay trái chàng lòn xuống bụng toàn bồng con thiểm điện điêu lên. Đột nhiên chàng thấy hai tay giật mạnh một cái, tiếp theo đùi trái đau nhói, bóng xám thấp thoáng, con chồn đã chạy vụt ra ngoài một trượng rồi dừng lại, đôi mắt nhỏ long lanh nhìn chàng. Đoàn Dự kinh hãi kêu lên: “Ối chao! Ngươi cắn ta rồi!” Chỉ thấy ống quần bị rách một lỗ nhỏ, vội vén quần lên thấy bên trong đùi có hai vết răng, máu tươi rướm ra.

Chàng nhớ lại cảnh Tư Không Huyền bang chủ Thần Nông Bang tự chặt cánh tay, sợ đến mất hết hồn vía, chỉ biết ấp úng: “Ngươi… ngươi… không biết phải quấy gì cả! Ta là bạn của chủ ngươi mà! Chết ta rồi!” Chàng thấy chân trái ê ẩm, quì phục xuống đất, hai tay bóp chặt bên trên vết thương để chặn cho chất độc khởi chạy lên. Tiếp theo chân phải chàng cũng tê đi, liền ngã lăn ra. Chàng kinh hoàng chống hai tay xuống đất toan đứng lên, nhưng cánh tay rồi cũng cứng đơ không còn hơi sức gì nữa. Chàng bò lết về trước mấy bước, con thiểm điện điêu vẫn đứng yên chăm chăm nhìn chàng.

Đoàn Dự thầm kêu khổ: “Ta quả là ẩu quá, con chồn này do Chung cô nương nuôi dưỡng, chỉ nghe một mình nàng thôi. Chắc là ta huýt sáo không đúng giọng. Thế… thế thì làm sao đây?”, Chàng biết rằng tốt nhất là học theo Tư Không Huyền, rút dao chặt luôn chân trái. Thế nhưng trong tay chàng không có đao kiếm, cũng không quyết đoán dũng cảm như y, lại vừa mới học xong Lăng Ba Vi Bộ, nếu như mất đi một chân thì chỉ có nước thi triển môn Lăng Ba Vi… Lò Cò, thật là vô vị.

Chàng tự oán trách một hồi, chân tay và thân mình dần dần cứng lại, biết rằng chất độc đã lan ra khắp người, sau cùng thì mắt cũng mở trừng trừng, mồm há hốc không ngậm lại được. Tuy nhiên thần trí chàng vẫn còn tỉnh táo, nghĩ thầm: “Ta chết như thế này, hình dáng thật là bất nhã khó coi, mồm mở toang hoác không biết giống như quỉ khờ hay quỉ đói? Thế nhưng trong trăm điều hại cũng được một điều hay, Mộc Cô nương nếu như thấy cái xác ta thè lưỡi trợn mắt lại quần rách hở mông, ghê tởm muốn mửa, lòng nhớ nhung ắt sẽ giảm đi nhiều. Như thế cũng có đôi chút lợi ích cho nàng.”

Bỗng nghe mấy tiếng oang oang rền vang, tiếp theo mấy tiếng bạch bạch, từ trong cỏ rậm nhảy ra một con vật khiến cho Đoàn Dự càng kinh hãi thêm: “Chao ôi, Vạn độc chi vương Mãng Cổ Chu Cáp đến rồi. Hai gã kia nói nếu nhìn thấy con này toàn thân sẽ hóa thành một đống máu bầy nhầy, biết làm thế nào?” Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: “Thật là dở hơi? Một đống máu với cái xác hở mông há hốc mồm có khác gì nhau, cái nào đẹp hơn cái nào? Thà là một đống máu bầy nhầy còn hơn cái xác xấu xa.”

Chàng chỉ nghe oang oang liên tiếp, con vật đã nhảy đến bên cạnh; nhưng cổ chàng cứng đơ rồi nên không sao quay đầu nhìn nó được, có muốn biến thành một đống máu ngay cũng không xong. Lại nghe mấy tiếng bạch bạch, con vật đã nhảy tới chỗ con thiểm điện điêu. Đoàn Dự kinh ngạc vạn phần, thấy đó chỉ là một con nhái nhỏ xíu, dài chừng hai tấc, toàn thân đỏ như máu, đôi mắt lấp lánh kim quang. Con nhái há mồm, làn da mỏng bên dưới cổ rung động, một tiếng oang oang như bò rống nổi lên. Con vật bé xíu mà lại kêu lớn đến vậy, nếu không chính mắt trông thấy thì chẳng ai dám tin. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cái tên của nó nghe thật đúng, tiếng kêu thì như bò mộng, thân hình thì đỏ như son, tên Mãng Cổ Chu Cáp là phải rồi. Tuy nhiên bảo là vừa thấy nó lập tức biến thành một đống máu là sai. Mang Cổ Chu Cáp hẳn là cái tên người nào đó đã từng gặp nó đặt cho. Thế nhưng nếu đã thành một đống máu thì làm sao còn đặt tên cho nó được?”

Thiểm điện điêu dường như sợ con chu cáp, quay đầu định chạy nhưng lại không dám, đột nhiên tung mình xông tới. Con nhái há mồm oang oang một tiếng, một làn hơi màu đỏ nhạt phun thẳng vào con chồn. Thiểm điện điêu đang nhảy ở trên không bị phun trúng hơi độc liền rơi xuống, lại xông lên cố đớp vào lưng con chu cáp. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hóa ra con chồn vẫn ghê gớm hơn”. Ngờ đâu chàng vừa nghĩ thế, con chồn đã ngã lăn ra, bốn chân giãy giây vài cái rồi không còn cử động gì nữa.

Đoàn Dự trong bụng kêu lên: “Chết rồi!”. Con chồn này tuy cắn chàng sắp chết, nhưng chàng hiểu lỗi ở mình chưa biết sai bảo con vật mà đường đột đụng vào nó, chứ bụng không oán trách gì con chồn dễ thương kia. Nay thấy con vật chết tươi, trong bụng xót xa: “Nếu như Chung cô nương biết được, nàng sẽ đau lòng đến chừng nào?”.

Chỉ thấy con chu cáp nhảy lên cái xác con thiểm điện điêu, ghé miệng hút má bên trái, xong lại hút má bên phải, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mãng Cổ Chu Cáp được gọi là vua của mọi loại độc, quả thật danh bất hư truyền. Răng con chồn có chất kịch độc, cắn vào người nó có khác gì tự uống thuốc độc mà chết, bây giờ con chu cáp lại đi hút túi chất độc của con điêu này. Thiểm điện điêu dĩ nhiên lanh lợi dễ thương, con chu cáp cũng thân đỏ như son, mắt vàng sáng chóe thật là đẹp đẽ. Những gì bên ngoài càng mỹ lệ, bên trong lại càng độc địa kinh hồn. Ây chết, thần tiên tỉ tỉ ơi, ta không nói tới tỉ tỉ đâu!”.

Con chu cáp nhảy từ trên mình con chồn xuống, lại oang oang mấy tiếng. Bỗng trong đám cỏ có tiếng sột soạt, chui ra một con rết lớn màu đen vằn đỏ, chân dài đến bảy tám tấc. Con nhái đỏ liền xông lên nhưng con rết kia bò thật nhanh, lập tức bỏ chạy. Chu cáp vồ luôn mấy lượt đều không trúng, liền oang oang một tiếng toan phun sương độc, con rết bỗng nhảy vọt lên rơi thẳng vào trong mồm Đoàn Dự lúc này đang há hốc.

Đoàn Dự sợ quá nhưng khổ nỗi không cử động được, ngay cả ngậm mồm lại cũng không xong, trong bụng kêu thầm: “Ôi, đây là cái miệng của ta, lão huynh lại tưởng lầm là hang rết…” Nghe sột soạt, con rết kia chẳng nể nang gì bò luôn qua lưỡi chàng chui tọt xuống. Đoàn Dự dường như muốn xỉu, chỉ thấy cổ họng rồi thực quản ngứa ngáy, con rết đã vào hẳn trong bụng chàng rồi.

Họa vô đơn chí. Mãng Cổ Chu Cáp cũng nhảy lên, ngồi chồm chỗm ngay trên lưỡi chàng, tiếp theo là cổ họng lạnh toát, con nhái cũng chui vào đuổi theo con rết. Con nhái da trơn tuột, chui xuống còn nhanh hơn. Đoàn Dự nghe như trong bụng mình có mấy tiếng oang oang, âm thanh uất nghẹn, thấy rằng trên đời này thật không còn gì bi thảm hơn, mà cũng không gì tức cười bằng, vừa muốn khóc òa lên, lại vừa muốn cười hô hố. Thế nhưng bắp thịt đã cứng đờ rồi làm gì còn phát được thanh âm? Chàng đứng yên bất động, nước mắt đầm đìa.

Chỉ trong khoảnh khắc, trong bụng chàng sôi lên sùng sục thật là khổ sở, cũng chẳng biết con nhái đã bắt được con rết chưa, chỉ biết kêu thầm: “Chu cáp nhân huynh, mau mau bắt anh chàng rết rồi chui ra đi. Ở trong bụng của tại hạ có gì vui thú đâu!” Một lúc sau, trong bụng không còn thấy lục cục gì nữa, đến tiếng oang oang cũng không nghe nhưng càng đau đớn hơn nhiều.

Thêm một lát nữa, miệng chàng bỗng ngậm lại được, răng cắn ngay phải lưỡi đau nhói, đầu lưỡi liền rụt trở vào. Chàng vừa mừng vừa sợ, kêu lên: “Chu cáp nhân huynh, xin mau mau ra cho.” Chàng há mồm cho con nhái nhảy ra, đợi một lúc lâu vẫn không nghe động tĩnh gì. Chàng lại kêu lên: “Oang oang, oang oang” dụ cho con chu cáp chui ra, nhưng không biết con nhái đó nghe mà không thèm để ý hay vì chàng lại bắt chước không đúng giọng, nó chẳng buồn trồi lên, cứ nằm yên trong bụng.

Đoàn Dự bồn chồn thò tay vào móc đi móc lại trong mồm, bỗng nhớ ra: “Té ra tay ta cử động được rồi!”. Chàng vươn vai đứng lên, cảm giác tê dại của chân tay không biết biến mất từ bao giờ. Chàng kêu lên: “Lạ thật! Lạ thật!”, lại nghĩ thầm: “Cái anh chàng vạn độc chi vương này chắc ở luôn trong bụng ta, tính chuyện sinh cơ lập nghiệp lâu dài, phải làm gì đây? Bắt buộc phải mời y dọn nhà đi nơi khác thôi”. Chàng bèn chống hai tay xuống đất, hai chân đưa lên trời tựa vào một cây to, há mồm cố sức lắc người một hồi lâu nhưng vẫn không nghe động tĩnh gì của con nhái đỏ, dường như nó đã…quyết ở lại trong bụng chàng.

Đoàn Dự không biết làm sao, đành tự nhủ: “Chắc là anh chàng vạn độc chi vương này và con rết kia đã biến thành thức ăn trong bụng ta, dĩ độc công độc, thành ra giải được chất độc của con chồn. Ta ăn phải những con vật kịch độc như thế mà không thấy đau bụng nữa, thật là lạ lùng”. Thật ra chất độc của rắn rết tan vào máu thì sẽ chết ngay, nhưng ăn vào trong bụng, nếu trong đường tiêu hóa không có vết thương thì lại không sao. Khi người ta bị rắn độc cắn vẫn có thể dùng mồm hút máu độc ra. Có điều chất độc trong thiên hạ thiên biến vạn hóa, không thể một lời mà nói hết được. Con Mãng Cổ Chu Cáp tuy là loại kỳ độc nhưng vào trong dạ dày lại bị chất dịch vị tiêu hóa. Đối với con nhái đó thì chính chất cường toan trong ruột mới thực là chất độc, biến nó thành một vùng máu bầy nhầy.

Đoàn Dự đứng lên đi tới vài bước, bỗng thấy trong bụng có một làn hơi nóng như lửa đốt, không khỏi kêu lên: “Chao ôi!” Làn hơi nóng đó chạy đông chạy tây không sao tống ra được. Chàng há miệng định nôn nhưng không được, hít một hơi dài, ra sức khạc mạnh chỉ mong chất độc con chu cáp theo đó mà ra, ngờ đâu vừa hít thì làn hơi đó biến thành một dây khí nóng, chầm chậm chui vào Nhâm Mạch. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hay thật, thôi thì một liều ba bảy cũng liều. Chu cáp lão huynh ơi, hồn ma lão huynh quấn quít tại hạ, thôi thì khí hải nơi huyệt Đản Trung của ta chắc là nơi an nghỉ nghìn thu của lão huynh rồi. Nếu như lão huynh muốn hạ độc giết ta, Đoàn Dự này cung kính không bằng tuân mạng”. Chàng theo đúng phương pháp thổ nạp, làn hơi ấm quả nhiên theo các đường kinh mạch chạy vào khí hải ở huyệt Đản Trung, cũng không thấy gì khác lạ.

Đoàn Dự loay hoay mất cả nửa ngày mà không thấy mệt mỏi, bèn kiếm đất đá vùi xác con thiểm điện điêu lại, khấn thầm: “Thiểm điện điêu tiểu đệ ơi, lần sau ta sẽ dẫn Chung cô nương tới đây tảo mộ, bắt vài con rắn độc cúng mi. Vừa rồi mi cắn ta một cái là do vô tâm, ta không mách lại với chủ ngươi đâu. Tiểu đệ cứ an tâm, đừng sợ nàng trách.”

Chàng ra khỏi khu rừng, chẳng mấy chốc đã gặp Tả Tử Mục cầm kiếm chạy thục mạng, nghĩ thầm: “Y đang đuổi theo Mộc cô nương, ta không thể đứng ngoài được”. Nghĩ thế bèn len lén đuổi theo sau, lúc này trong người chàng đã có nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm nên không mất nhiều sức đã lên được trên núi. Tả Tử Mục lo lắng cho an nguy của đứa con nên không để ý có người đuổi theo. Đoàn Dự thì sợ y quay lại bắt mình đem đến đổi chác với Mộc Uyển Thanh nên giữ khoảng cách thật xa. Đến lưng chừng núi, chàng nghĩ mình sắp gặp lại Mộc Uyển Thanh lòng không khỏi rộn ràng, lại sợ Nam Hải Ngạc Thần đợi lâu không được đã giết nàng mất rồi, nhịn không nổi bèn gọi toáng lên.

Hồi 06: Chưa kịp bái sư, sư đã…bái!

Đoàn Dự ôm Mộc Uyển Thanh vào lòng, vừa hoan hỉ, vừa lo lắng hỏi: “Mộc cô nương! Chỗ vết thương cô đã lành chưa? Lão độc ác đó có ức hiếp gì cô không?” Mộc Uyển Thanh hờn dỗi hỏi: “Thiếp là thế nào với chàng mà cứ gọi một điều cô nương, hai điều cô nương thế?”

Đoàn Dự thấy nàng giận dỗi càng tăng vẻ kiều diễm, bảy ngày qua đã trải bao nỗi nhớ nhung, liền ôm ghì lấy vai nàng nói: “Uyển muội, Uyển muội! Ta gọi như thế nàng đã vừa lòng chưa?” Nói xong ghé môi toan hôn nàng. Nàng buột miệng kêu lên: “Ô hay!” rồi thẹn quá mặt đỏ như gấc. Nàng ngồi bật dậy như cái lò xo, bực mình nói: “Chàng làm gì mà kỳ vậy? Không sợ những người chung quanh cười cho sao?” Nàng nhìn chung quanh không thấy người áo thụng và bốn vị Chử, Cổ, Phó, Chu đâu cả, Tả Tử Mục cũng đã ôm con đi rồi, chung quanh không còn một ai.

Đoàn Dự không hiểu nàng nhìn gì, đâm ra chột dạ, vẻ lo sợ lộ ra mặt, vội bảo: “Nàng ngó ai vậy? Có phải Nam Hải Ngạc Thần không?” Mộc Uyển Thanh không đáp, hỏi lại: “Chàng đến đã lâu chưa?” Đoàn Dự đáp: “Cũng chỉ mới đến thôi. Ta lên trên đỉnh núi thấy nàng ngất đi nằm đây, ngoài ra có ai khác đâu. Uyển muội ơi, chúng ta phải đi ngay, nếu để Nam Hải Ngạc Thần trở lại thì nguy to.” Mộc Uyển Thanh đáp: “Phải lắm.” Nàng lẩm bẩm: “Quái lạ thật! Mới trong khoảnh khắc mà họ đi đâu cả rồi?”

Bất thình lình nghe phía sau tảng đá lớn có tiếng ngâm nga: “Xách kiếm đi nghìn dặm, Kể gì một tấm thân” (Trượng kiếm hành thiên lý, Vi khu cảm nhất ngôn). Ngâm xong, một người tay cầm quạt đi ra. Chính gã là Chu Đan Thần, một trong Tứ đại hộ vệ. Đoàn Dự vừa trông thấy cả mừng reo lên: “Chu huynh!” Chu Đan Thần tiến lên hai bước, khom lưng hành lễ, vui mừng nói: “Công tử gia, thật may mắn công tử bình yên không sao cả. Vừa nãy cô nương đây bảo công tử bị hại về tay bọn tứ ác làm chúng tôi sợ hãi rụng rời.” Đoàn Dự cũng chắp tay đáp lễ nói: “Thì ra hai bên đã gặp nhau rồi? Chu huynh… Chu huynh sao lại tới nơi đây? Không hẹn mà gặp, thật là may quá!”

Chu Đan Thần mỉm cười: “Bốn anh em tôi vâng mệnh đi đón công tử về phủ chứ có phải tự nhiên mà gặp đâu. Công tử quả là lớn mật, một mình dám xông pha vào chốn giang hồ. Bọn tôi đến hỏi nhà Mã Ngũ Đức, rồi sang núi Vô Lượng, mấy bữa nay ai nấy đều lo ngay ngáy.” Đoàn Dự cười nói: “Ta quả cũng chịu không biết bao nhiêu khổ sở. Chắc bá phụ cùng gia gia giận ta lắm phải không?” Chu Đan Thần đáp: “Dĩ nhiên các vị không lấy gì làm hứng thú. Có điều khi chúng tôi ra đi thì hai vị đã hết giận, mấy hôm nay chắc là nóng ruột lắm. Sau Thiện Xiển Hầu nghe tin Tứ Đại Ác Nhân cùng đến Đại Lý, e rằng công tử chạm trán với bọn này, nên phải tự mình xuất mã.”

Đoàn Dự nhíu đôi lông mày hỏi: “Cao thúc thúc cũng đi kiếm ta? Ta thật áy náy vô cùng, các người kia đâu cả rồi?” Chu Đan Thần nói: “Mới rồi chúng tôi đều ở đây cả. Cao hầu gia ra tay đánh đuổi một mụ ác phụ, khi nghe tiếng công tử ai nấy mới yên dạ. Tôi được lệnh ở lại chầu chực công tử, còn mọi người rượt theo ác phụ. Bây giờ xin công tử về thành kẻo hai vị lão gia nóng ruột.” Đoàn Dự nói: “Thì ra… thì ra Chu huynh nãy giờ vẫn ở đây.” Chàng tưởng lúc mình cùng Mộc Uyển Thanh thủ thỉ với nhau chắc gã nghe cả rồi, bất giác thẹn đỏ mặt lên.

Chu Đan Thần đánh trống lảng: “Mới đây ta ngồi sau tảng đá đọc bài thơ tứ tuyệt của Vương Xương Linh: Xách kiếm đi nghìn dặm, kể gì một tấm thân, Đã làm Đại Lương khách, Há phụ Tín Lăng ân. (Trượng kiếm hành thiên lý, Vi khu cảm nhất ngôn. Tằng vi Đại Lượng khách, Bất phụ Tín Lăng ân) Vẻn vẹn có hai mươi chữ mà tỏ được hết lòng kháng khái, ai nghe cũng phải kính phục.” Nói rồi gã lấy trong bọc ra cuốn “Vương Xương Linh tập” đưa cho Đoàn Dự. Đoàn Dự gật đầu: “Người đời thường chỉ nói tới thơ thất ngôn của Vương Xương Linh, tưởng như thơ ngũ ngôn của ông ta không phải là sở trường. Thế nhưng bài ngũ ngôn này quả là hay thật. Còn như bài Tống Quách Tư Thương há chẳng tha thiết lắm hay sao?” Chàng nổi hứng ngâm lên: “Sông Hoài quanh trước cửa, Trăng sáng rọi nóc nhà, Chẳng nghĩ tình khách chủ, Nghĩa huynh đệ sâu xa.” (Ánh môn hoài thủy duyên, Lưu kỵ chủ nhân tâm. Minh nguyệt tùy lương chuyên, Xuân triều dạ dạ thâm). Chu Đan Thần vái dài tận đất nói: “Đa tạ công tử.”

Câu chuyện tha thiết yêu đương giữa Đoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh, Chu Đan Thần đều nghe rõ hết. Hai bên quyến luyến, không nỡ rời nhau, lại thấy chàng ra chiều bẽn lẽn nên gã ngâm bài thơ của Vương Xương Linh để gỡ thẹn cho chàng, dẫn tích Hầu Doanh cùng Chu Hợi đối với Tín Lăng Quân. Bài thơ gã ngâm ngụ ý dù có phải nát thân để báo đáp công tử gã cũng vui lòng. Bài thơ của Đoàn Dự thì tỏ ý chủ nhân đối với kẻ thuộc hạ như tình cốt nhục. Hai người nhìn nhau mà cười ra chiều tương đắc.

Mộc Uyển Thanh không đọc sách ngâm thơ nên nghĩ thầm: “Cái anh chàng đồ gàn này chẳng còn biết mình đang ở đâu, đàm luận đến thơ văn là quên hết. Còn gã võ quan này cũng giỏi tài nịnh bợ, đi đâu cũng mang sách vở theo”. Nàng có biết đâu Chu Đan Thần văn võ toàn tài, thường ngày cũng đam mê thơ phú văn chương.

Đoàn Dự quay lại bảo: “Mộc… Mộc cô nương, vị Chu Đan Thần Chu tứ ca đây là bạn thân nhất của ta đó.” Chu Đan Thần bước lên kính cẩn thi lễ: “Chu Đan Thần tham kiến cô nương.”

Mộc Uyển Thanh thấy gã đối với mình có vẻ trân trọng, cũng lấy làm vui vẻ, liền đáp lễ: “Chu tứ ca.”

Chu Đan Thần cười đáp: “Không dám nhận tiếng xưng hô đó.”Ý nghĩ thầm: “Cô gái này mặt mày xinh xắn, vừa mới ra tay tát công tử một cái, thủ pháp linh động, xem ra võ công cũng khá. Công tử gia bị một bạt tai vậy mà vẫn cười không giận. Anh chàng bỏ nhà đi đã lâu, lại đối với cô ta như thế, chắc hẳn say mê nàng lắm. Không biết cô này lai lịch ra sao. Công tử gia tuổi còn trẻ không hiểu chuyện hiểm ác trên chốn giang hồ, nếu như bị mỹ sắc mê hoặc có khi thân bại danh liệt.” Y cười khì khì tiếp: “Hai vị lão gia ở nhà nóng lòng mong đợi công tử. Công tử còn chờ gì mà chưa về thành? Mộc Cô nương! nếu không có việc gì gấp, xin mời về phủ công tử chơi mấy bữa.” Y sợ Đoàn Dự không chịu trở về nên mời luôn cả cô gái này cùng đi, tin rằng thể nào chàng cũng thuận.

Đoàn Dự ngập ngừng đáp: “Ta… ta biết về trình lại với bá phụ cùng gia gia ta thế nào đây?”

Mộc Uyển Thanh thẹn đỏ mặt, quay đi chỗ khác. Chu Đan Thần lại nói: “Tứ Đại Ác Nhân võ công tuyệt cao, vừa rồi Thiện Xiển Hầu đánh đuổi được Diệp Nhị Nương là bởi tấn công bất ngờ lại thêm mấy phần may mắn. Công tử thân trọng thiên kim, chẳng nên dấn mình vào nơi hiểm địa nữa. Chúng ta về thôi!” Đoàn Dự tưởng đến Nam Hải Ngạc Thần hung dữ lại sợ hãi vô cùng, gật đầu nói: “Phải đó! Chúng ta lên đường thôi! Chu tứ ca, kẻ địch ghê gớm lắm! Tứ ca đi giúp cho Cao thúc thúc một tay, để ta cùng Mộc cô nương về phủ là được rồi!” Chu Đan Thần cười nói: “Tìm thấy công tử đâu phải là chuyện dễ dàng! Tại hạ xin đưa công tử về phủ. Đã đành rằng Mộc cô nương võ công trác tuyệt, song xem khí sắc tựa hồ vết thương cô nương chưa được bình phục, Vạn nhất dọc đường gặp phải cường đồ thì nguy hiểm biết mấy? Xin cho tại hạ được lập chút công lao nhỏ mọn.”

Mộc Uyển Thanh đằng hắng rồi nói: “Tứ ca có bảo gì tôi xin đừng nói văn chương chữ nghĩa. Tôi chỉ là cô gái quê mùa, không được học hành, những lời văn vẻ chả hiểu gì mấy.” Chu Đan Thần cười đáp: “Quả thế! Tại hạ tuy là võ quan nhưng lại học đòi văn nhân, quen mất nết rồi. Xin cô nương miễn trách.”

Đoàn Dự không muốn về nhà nhưng chết nỗi Chu Đan Thần đã gặp rồi, không về không được, chỉ còn cách là đi giữa đường sẽ tìm kế thoát thân. Ba người cùng xuống núi. Mộc Uyển Thanh chỉ lăm le muốn hỏi cho ra chuyện bảy ngày bảy đêm vừa rồi Đoàn Dự đi đâu mà không đến với nàng. Nhưng bị Chu Đan Thần lúc nào cũng kèm sát bên cạnh, chưa tiện gạn hỏi, phải cố nín nhịn. Chu Đan Thần có đem lương khô bên mình, lấy ra đưa cho hai người ăn.

Ba người xuống đến chân núi lại đi thêm vài dặm nữa, thấy bên đường có năm con ngựa buộc sẵn dưới gốc cây, vốn là ngựa của bọn Cổ Đốc Thành cưỡi đến đây. Chu Đan Thần đến tháo dây cương ba con, dắt đưa cho Đoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh mỗi người một con. Hai người nhảy lên yên đi rồi, gã mới lên ngựa đi sau. Tối hôm ấy ba người vào nghỉ trong quán trọ, mỗi người ở riêng một phòng. Chu Đan Thần đi mua một bộ quần áo về, Đoàn Dự thay rồi mới thoát được cái cảnh “đít không quần”.

Mộc Uyển Thanh cài cửa phòng rồi tay chống cằm ngồi trước bàn, trên bàn có thắp một cây nến đỏ. Lòng nàng nửa mừng nửa lo, những làn sóng tư tưởng miên man nổi lên hạ xuống. Nàng nghĩ: “Đoàn lang chẳng nề nguy hiểm trở lại tìm ta đủ rõ tình ý cực kỳ thâm trọng. Vậy mà mấy bữa nay ta cứ ngấm ngầm oán trách chàng là người tệ bạc, thật là oan uổng. Lại xem Chu Đan Thần đối với chàng vô cùng kính cẩn, thì hẳn chàng chẳng con nhà phú quý cũng là dòng dõi gia thế trong võ lâm. Ta là một cô gái đương xuân, tuy cùng chàng đính ước hôn nhân nhưng cứ tự nhiên theo về nhà chàng thế nào được? Ôi thật là rắc rối! Xem chừng bá phụ và gia gia chàng đối với chàng rất là khắc nghiệt, nếu họ khinh bỉ hoặc vô lễ với ta thì biết làm thế nào? Thôi ta cũng đành phóng cho mỗi người một mũi tên, giết ráo cả đi, chỉ còn mình chàng là xong.” Nàng đang nghĩ đến giai đoạn gay go chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng gõ nhè nhẹ.

Mộc Uyển Thanh phất tay trái một cái quạt tắt ngọn nến, nghe tiếng Đoàn Dự ở bên ngoài: “Ta đây!” Mộc Uyển Thanh thấy canh khuya chàng lẻn đến phòng riêng mình gọi cửa bất giác tim đập dồn dập, mặt nóng bừng bừng khẽ hỏi: “Có chuyện chi đó?” Đoàn Dự đáp: “Nàng mở cửa ra đã, ta nói cho mà nghe.” Mộc Uyển Thanh đáp: “Thiếp không mở đâu.” Nàng một thân võ nghệ, lúc này lại e sợ một anh chàng thư sinh ốm yếu, chính mình cũng thấy lạ lùng. Bên ngoài Đoàn Dự không hiểu tại sao nàng không chịu mở cửa số, liền nói vọng vào: “Vậy thì nàng ra đây! Ta chuồn đi thôi!” Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ, lấy ngón tay chọc thủng miếng giấy che cửa sổ hỏi lại: “Sao thế?” Đoàn Dự đáp: “Chu tứ ca ngủ rồi, đừng làm y tỉnh dậy. Ta không muốn về nhà.”

Mộc Uyển Thanh mừng rơn. Nàng đang lo chuyện đối phó với cha mẹ chàng, thấy chàng không muốn về nhà thì rất đồng tình, liền mở cửa sổ nhẹ nhàng nhảy ra. Đoàn Dự khẽ bảo: “Để ta đi dắt ngựa.” Mộc Uyển Thanh ra hiệu bảo đừng, rồi thò tay nắm lấy lưng chàng, đề khí nhảy vọt lên mặt tường, rồi lại nhẹ nhàng nhảy ra bên ngoài, khẽ bảo: “Đừng đi ngựa. Một khi tiếng vó ngựa nổi lên, Chu tứ ca của chàng sẽ biết chuyện.” Đoàn Dự cũng cười khúc khích: “Nàng thật là người chu đáo!”

Hai người dắt tay nhau nhắm hướng đông mà đi. Đi được mấy dặm vẫn không thấy có người đuổi theo, đã hơi vững dạ, Mộc Uyển Thanh hỏi: “Sao chàng lại không muốn về nhà?” Đoàn Dự đáp: “Ta về bây giờ chắc sẽ bị gia gia cùng bá phụ giữ rịt không cho ra khỏi nhà nửa bước. Dù có muốn được thấy mặt nàng một lần cũng không phải là chuyện dễ.” Mộc Uyển Thanh khoan khoái vô cùng, hớn hở bảo chàng: “Chàng tính vậy cũng phải. Không về nữa là xong. Từ đây đôi ta phiêu đãng giang hồ, sống một đời tiêu dao tự tại, há chẳng vui sướng sao? Thế bây giờ hai đứa mình đi đâu đây?” Đoàn Dự đáp: “Một là tìm đường nào để Cao thúc thúc và Chu Đan Thần không biết mà đuổi theo, hai là đừng để Nam Hải Ngạc Thần bắt gặp.” Mộc Uyển Thanh gật đầu khen phải nói: “Chúng ta đi về ngả Tây Bắc tìm nhà tạm lánh ít lâu. Chừng mươi lăm ngày vết thương thiếp lành hẳn, khi ấy sẽ không sợ gì nữa.” Hai người rảo bước nhằm hướng tây bắc mà đi. Trên đường không dám dừng lại trò chuyện lúc nào, chỉ mong chóng ra khỏi khu vực núi Vô Lượng càng xa càng hay.

Đi đến lúc trời sáng, Mộc Uyển Thanh nói: “Bọn nô tài nhà họ Vương ở Cô Tô chắc cũng còn đang đi kiếm thiếp. Vậy thì để tránh tai mắt mọi người, mình đừng đi ban ngày. Ta tìm chỗ trọ ăn uống rồi ngủ một giấc, đến tối lại đi.” Chuyện trên chốn giang hồ Đoàn Dự nào có biết gì, bèn nói: “Nàng muốn tính sao thì tính.” Mộc Uyển Thanh nói: “Ăn cơm xong, chàng phải kể lại rành mạch cho thiếp nghe bảy ngày bảy đêm qua đi những đâu, nếu nói dối nửa lời, thì chàng coi chừng…” Chưa dứt lời, bất thình lình có tiếng đằng hắng.

Hai người vội trông về phía trước thấy dưới gốc liễu đã có ba con ngựa buộc sẵn. Một người ngồi trên phiến đá, tay cầm quyển sách đang gật gù ngâm nga, chẳng phải Chu Đan Thần thì còn ai nữa? Đoàn Dự cả kinh dắt tay Mộc Uyển Thanh kéo đi nói: “Chạy mau!”

Nhưng Mộc Uyển Thanh là người sáng suốt, hiểu ngay rằng đêm rồi hai người lén ra đi Chu Đan Thần đã biết cả. Y liệu chừng Đoàn Dự không biết khinh công cố nhiên đi không được mau lẹ. Y chỉ cần nhìn xem mình rẽ về ngả nào rồi lên ngựa đi quanh nẻo khác đến đây đón trước. Nàng liền chau mày bảo Đoàn Dự: “Chàng ngốc ơi! Bị y bắt được rồi còn chạy đường nào bây giờ?” Nàng bèn ngang nhiên đi tới nói: “Còn sớm thế mà tứ ca đã ra đây ngồi đọc sách rồi, định đi thi trạng nguyên hay sao?”

Chu Đan Thần cười, quay sang nói với Đoàn Dự: “Công tử đoán xem tôi đang đọc sách gì nào?” Đoạn gã cất cao giọng ngâm: “Cành cũ chim buồn hót, Núi hoang vượn hú khuya. Giá trông nghìn dặm được, Hồn vụn nát lại về. Nguy hiểm nào dám sợ, Quốc sĩ quyết báo ân. Quí Bố không hai chủ, Hầu Doanh chỉ một lời. Đời so nhau ý khí, Luận chi chuyện công danh.” (Cố mộc minh hàn điểu, Không sơn đề dạ viên. Ký thương thiên lý mục, Hoàn kinh cửu chiết hồn. Khởi bất đạn gian hiểm? Thâm hoài quốc sĩ ân. Quí Bố vô nhị nặc, Hầu Doanh trọng nhất ngôn. Nhân sinh cảm ý khí, Công danh thùy phục luận?)

Đoàn Dự đáp: “Phải chăng đây là bài Thuật hoài của Nguỵ Trưng đời Đường?” Chu Đan Thần cười đáp:“Công tử thật là người thông hiểu hết sách vở, tôi xin bái phục.” Đoàn Dự biết y dẫn bài thơ này dụng ý: nửa đêm y không ngại gian nan, ra đi truy tầm mình, vì đã chịu ơn gia gia cùng bá phụ mình nên không dám quên lời phó thác. Mấy câu sau lại có ý ám chỉ chàng đã bằng lòng trở về nhà rồi, nói ra sao không giữ lời?

Mộc Uyển Thanh đến tháo dây buộc ngựa ra, miệng hỏi: “Đi về Đại Lý đường nào nhỉ? Không biết bọn tiểu muội đi có đúng không?” Chu Đan Thần đáp: “Muốn đi ngả nào cũng được. Qua mé tây hay qua mé đông rồi cũng về tới Đại Lý cả.” Hôm qua gã nhường con ngựa chạy nhanh nhất cho Đoàn Dự, nay gã giữ lấy mà cưỡi để phòng hai người có trốn cũng còn đuổi kịp.

Đoàn Dự nhảy phốc lên yên, nhằm hướng đông gia roi. Chu Đan Thần sợ chàng bực mình, trên đường cùng chàng đàm luận thi từ ca phú, tiếc thay y không hiểu Kinh Dịch, nếu không hai người chắc nói chuyện càng thêm tương đắc. Thế nhưng Đoàn Dự thì cao hứng đàm luận thao thao, còn Mộc Uyển Thanh một câu chen vào cũng không được. Đi chưa bao lâu đã ra đến đường lớn. Ba người đi đến giữa trưa thì gặp bên đường một quán ăn nhỏ liền vào nghỉ ăn cơm,

Chợt thấy từ ngoài cửa bước vào một gã đàn ông cao lêu nghêu, gầy khắng gầy kheo. Y vừa ngồi xuống đã quát tháo: “Lấy hai bình rượu ngon, hai cân thịt bò chín cho mau!” Mộc Uyển Thanh không cần phải nhìn, chỉ nghe giọng nói lúc thì ồm ồm, lúc thì sắc nhọn cực kỳ khó nghe của y đã biết ngay chính là Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc. May mà nàng ngồi quay mặt vào phía trong nên hắn chưa trông thấy. Nàng chấm ngón tay vào bát nước canh, viết lên mặt bàn bốn chữ: “Đệ Tứ Ác Nhân”. Chu Đan Thần cũng viết: “Chạy mau, đừng chờ tôi.” Mộc Uyển Thanh liền kéo áo Đoàn Dự chạy vào phía trong quán, còn Chu Đan Thần lẻn ngay vào một chỗ khuất ở góc nhà.

Vân Trung Hạc ngồi đăm đăm nhìn ra đường, tựa hồ đang chờ đón ai. Nhưng y thoáng nghe phía sau có tiếng chân người, quay đầu nhìn lại thấy Mộc Uyển Thanh đang đi khuất vào sau bức vách liền quát hỏi:“Ai? Đứng lại ngay!” Hắn vụt dậy đuổi theo, quờ cánh tay dài ra toan túm lấy lưng Mộc Uyển Thanh.

Chu Đan Thần tay cầm bát canh miến kêu lên: “Ối chao” rồi giả vờ lỡ tay cho bát canh vừa nóng sôi hắt vào mặt Vân Trung Hạc. Hai người đứng liền nhau, Chu Đan Thần đã nhanh tay mà quán lại chật chội quá không lùi kịp, Vân Trung Hạc nghiêng người chỉ tránh được một nửa, còn một nửa ập vào mặt. Y hoa mắt lên một cái rồi nổi hung đưa tay ra móc vào bụng Chu Đan Thần toan lôi hết ruột gan ra. Nhưng Chu cũng không vừa, bát canh vừa rớt xuống, lại hất cả bàn ăn về phía Vân Trung Hạc. Chỉ nghe soạt một tiếng, năm ngón tay Vân Trung Hạc đâm ngập vào mặt bàn nhưng chén bát vẫn vùn vụt bay tới.

Trong chớp mắt bị cường địch tấn công trong cái quán nhỏ này, Vân Trung Hạc tay chân cũng rối loạn. May mà y là một tay võ nghệ ghê gớm, kịp vận nội công chống lại, hất bát đĩa ra nên không bị thương gì cả, chỉ bị nước canh hắt vào người, quả thật khó coi. Ngoài cửa quán tiếng vó câu dồn dập, Mộc Uyển Thanh và Đoàn Dự phóng ngựa chạy về phía Bắc. Vân Trung Hạc giơ tay áo lên lau mặt, bỗng thấy một luồng hơi mạnh lùa vào bụng, một vật đâm thẳng tới trước ngực. Y liền hít mạnh một hơi, ngực hóp vào nửa thước tránh khỏi, tay trái từ trên chém xuống, lật một cái biến luôn thành trảo, bốn ngón tay đã chộp được phán quan bút địch nhân điểm vào. Chu Đan Thần cả kinh vội vận nội công cướp lại. Kể về nội lực thì Chu còn kém y nhiều, không thể đoạt lại nổi, nhưng may mà tay y còn đẫm nước canh, trơn quá nắm không chặt nên Chu Đan Thần giật lại được.

Chỉ qua mấy chiêu, Chu Đan Thần biết mình gặp phải một địch thủ ghê gớm, gã lên tiếng gọi to: “Ca ca cầm cần câu và ca ca cầm búa mau mau chẹn các ngả, đừng để thằng cha cao nghệu hôm trước chạy thoát.” Y từng nghe Chử Vạn Lý và Cổ Đốc Thành kể lại, đêm hôm trước hợp lực đánh thắng một người cao lênh khênh như cò hương, bèn hư trương thanh thế giả vờ gọi đồng bọn. Vân Trung Hạc tưởng thật, lẩm bẩm: “Hỏng bét! Chúng còn hai tên mai phục ở ngoài. Bữa trước mới có hai tên đó thôi mình còn chịu thua, nay lại có những ba thì mình địch sao nổi?”. Nghĩ vậy y không dám liều lĩnh, xông ra phía sau quán, vượt tường chạy mất. Chu Đan Thần lại kêu lên: “Gã cao nghệu chạy ra phía sau, mau mau đuổi bắt!” Y chạy ra ngoài nhảy lên lưng ngựa đuổi theo Đoàn Dự.

Đoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh chạy được mấy dặm rồi lỏng buông tay khấu cho ngựa đi thong thả. Lát sau Chu Đan Thần gần tới nơi, hai người dùng ngựa lại toan hỏi chuyện vừa xảy ra, bỗng Mộc Uyển Thanh lại kêu lên: “Nguy mất! Y đuổi đến rồi!” Chỉ thấy trên đường một người nhô lên hụp xuống lênh khênh như cây tre đang vùn vụt đuổi theo.

Chu Đan Thần cả kinh nói: “Thằng cha này khinh công ghê quá.”, cầm roi quất vào mông ngựa Đoàn Dự, cả ba con mười hai vó phi nước đại, cát bụi tung trời. Chỉ trong chớp mắt, bỏ Vân Trung Hạc một quãng xa. Chạy như vậy thêm được sáu bảy dặm nữa, Mộc Uyển Thanh thấy con ngựa mình cưỡi thở phì phò, chạy càng lúc càng chậm. Nhưng nếu ngừng chân, Vân Trung Hạc thể nào cũng đuổi kịp. Đoạn đường ngắn thì gã chạy không bằng ngựa, nhưng đường dài thì sức lực miên miên bất tuyệt.

Chu Đan Thần biết rằng ngụy kế của mình đã bị khám phá, bây giờ có muốn bịp y cũng không được nữa. Tính ra còn đến hai mươi dặm đường, sao cho y không thể đuổi kịp mới yên. Một khi đã vào thành Đại Lý rồi thì dù việc to tày trời cũng không có gì đáng ngại. Thế nhưng ba con ngựa mỗi lúc một chậm, tình thế mỗi lúc một nguy ngập. Đi thêm được vài dặm, con ngựa của Đoàn Dự bỗng khuỵu hai chân trước, hất chàng tuột dần xuống. Mộc Uyển Thanh phi thân, nhảy ra khỏi yên ngựa. Đoàn Dự chưa lăn tới đất nàng đã túm được sau lưng thì vừa lúc con ngựa của nàng chạy tới nơi. Tay trái nàng vịn yên ngựa rồi xách cả Đoàn Dự nhảy phốc lên. Chu Đan Thần đang chạy theo phía sau cho tiện việc ngăn trở kẻ địch nên khi Đoàn Dự ngã xuống không cách nào cứu kịp, thấy Mộc Uyển Thanh ra tay không khỏi buột miệng khen: “Hảo thân pháp!”

Đột nhiên phía sau có hơi gió, một thứ binh khí bổ xuống. Chu Đan Thần vội vàng đưa phán quan bút lên đỡ đánh chát một tiếng, cây cương trảo của Vân Trung Hạc bị hất ra. Thuận tay y đưa năm ngón cương trảo chụp xuống mông ngựa, máu chảy đầm đìa. Ngựa bị thương đau quá, hí vang một tiếng bi thảm rồi lồng lên, lại bỏ Vân Trung Hạc một quãng khá xa. Nhưng từ lúc đó, một ngựa cõng hai người, một ngựa bị thương không còn cách nào duy trì lâu được nữa. Chu Đan Thần cùng Mộc Uyển Thanh rất đỗi bồn chồn.

Đoàn Dự chưa rõ sự thể nguy cấp, hỏi: “Thằng cha đó ghê gớm lắm phải không? Chẳng lẽ Chu tứ ca không địch nổi?” Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp: “Cả thiếp hợp lực nữa cũng không ăn thua.” Đột nhiên nàng chợt nghĩ ra một kế nói: “Để thiếp giả vờ ngã ngựa bị thương nằm xuống bên đường, chờ y đến nơi không kịp đề phòng sẽ phóng ra hai mũi tên độc, may ra thì trúng. Chàng cứ cưỡi ngựa chạy tiếp, đừng đợi thiếp.” Đoàn Dự hoảng quá, quờ tay lại đằng sau, tay trái bá cổ, tay phải ôm lưng nàng nói luôn: “Không được! Không được! Ta không bằng lòng cho nàng mạo hiểm thế đâu.” Mộc Uyển Thanh thẹn đến đôi má đỏ bừng, hờn dỗi nói: “Chàng ngốc ơi! Có bỏ người ta ra không nào, để Chu tứ ca nhìn thấy thì còn ra thể thống gì nữa?” Đoàn Dự hoảng hồn xin lỗi: “Nàng đừng trách nhé!” Mộc Uyển Thanh đáp: “Chàng đã là chồng thiếp, có gì mà phải xin lỗi”

Còn đang đối đáp, phía sau đã thấy Vân Trung Hạc ngất ngưởng đuổi tới. Chu Đan Thần không ngớt vẫy tay ra hiệu bảo chạy mau đi, gã đã xuống ngựa đứng chặn đường. Chẳng ngờ Vân Trung Hạc chỉ cố tình bắt Mộc Uyển Thanh, y rẽ xuống ruộng tránh Chu Đan Thần rồi cứ nhằm Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh mà đuổi.

Mộc Uyển Thanh gia roi quất mạnh vào mông ngựa, con vật mệt quá miệng nhả bọt dãi ra trắng phếu, hơi thở phì phì. Đoàn Dự nói: “Uyển muội ơi! Giả tỷ lúc này ta có con Hắc Mai Côi thì tên ác nhân kia không tài nào đuổi kịp.” Mộc Uyển Thanh nói: “Ai không biết thế, cần chi chàng phải nói?”.

Ngựa lượn qua sườn núi thì đến một con đường lớn thẳng tắp và quang quẻ, chả còn chỗ nào ẩn nấp được nữa. Bỗng thấy bên mé trái, giữa một rặng liễu xanh um, bên cạnh cái hồ nhỏ lộ ra bức tường vàng. Đoàn Dự cả mừng nói: “Chúng ta vào trong kia!” Mộc Uyển Thanh nói: “Đó là đất chết! Vào đó cùng đường rồi chạy đi đâu?” Đoàn Dự nói: “Nàng cứ nghe lời ta đi, không sao đâu.” Mộc Uyển Thanh giật cương cho ngựa chạy rẽ vào.

Chạy gần đến nơi, nàng ngoảnh đầu lên nhìn thì đó là một ngôi chùa hay đạo viện gì đó, trên biển có đề ba chữ “Ngọc Hư Quan”, trong bụng tính thầm: “Chàng ngốc này bảo mình chạy tới đây, hết lối thoát rồi. Chi bằng ta tìm chỗ khuất nẻo mà bắn cho tên sếu vườn kia một mũi tên”. Vừa tính toán xong, ngựa đã đến trước cửa chùa. Phía sau bỗng một chuỗi cười ha hả nổi lên, nghe rõ tiếng Vân Trung Hạc đuổi tới nơi.

Đoàn Dự bỗng cất tiếng gọi thật to: “Má má ơi! Ra đây mau mau! Má má ơi!” Mộc Uyển Thanh tức quá hét lên: “Chàng ngốc! Im đi!” Vân Trung Hạc cười ha hả nói: “Mi gọi cả nhà mi ra đây cũng không làm gì được ta đâu.” Y tung mình nhảy tới, Mộc Uyển Thanh giơ tay vận kình đấy vào lưng Đoàn Dự kêu lên: “Chạy vào trong đi.” Nàng vừa nói vừa giơ tay trái lên, một mũi tên bắn ngược về sau. Vân Trung Hạc rụt đầu tránh được, thấy Mộc Uyển Thanh đã nhảy ra khỏi yên, cương trảo trong tay trái liền tung ra, chộp vào đầu vai nàng. Mộc Uyển Thanh cơ linh mau lẹ, co người lại một cái đã chui ngay vào dưới bụng ngựa, soạt soạt soạt bắn luôn ba mũi tên. Vân Trung Hạc né đông tránh tây rồi nhảy vụt về sau tránh được.

Ngay khi đó một đạo cô từ bên trong đạo quan đi ra, Đoàn Dự liền reo lên, bà ta cũng tiến lên ôm lấy chàng cười nói: “Lại gây chuyện chi rắc rối mà gọi ầm lên thế?”

Mộc Uyển Thanh thấy đạo cô đó tuổi tác xem chừng lớn hơn Đoàn Dự một chút nhưng dung mạo xinh đẹp, đối với Đoàn Dự ra vẻ thân mật, còn chàng quàng tay ôm lấy lưng mụ miệng cười toe toét. Nàng bất giác nổi cơn tam bành, không nhớ gì đến kẻ địch lợi hại ở sau lưng nữa, nhảy xổ vào vung tay toan tát vào mặt đạo cô. Nàng gầm lên: “Sao bà lại ôm chồng ta? Mau bỏ ra!” Đoàn Dự vội kêu: “Uyển muội, chớ có vô lễ!” Mộc Uyển Thanh thấy chàng bênh đạo cô, máu ghen dâng lên tận cổ, chân chưa chấm đất nàng vận thêm nội lực vào tay định để tát cho thật mạnh. Đạo cô giơ phất trần ra, đuôi phất trần tung lên rồi sa xuống quấn lấy tay Mộc Uyển Thanh, kéo sang một bên. Mộc Uyển Thanh thấy lực đạo trên phất trần không phải nhẹ, nàng không tự chủ nổi dạt sang mấy bước mới đứng lại được. Nàng căm tức muốn lồng lên, lớn tiếng mắng: “Mi là kẻ xuất gia sao còn ôm trai, không biết xấu!”.

Vân Trung Hạc lúc mới thấy đạo cô dung nhan yểu điệu bước ra khoái quá lẩm bẩm “Hôm nay quả là số đỏ, anh hùng xạ song điêu, ta bắt luôn cả hai ả”. Đến khi đạo cô vung phất trần nhẹ nhàng hóa giải chưởng thế mãnh liệt của Mộc Uyển Thanh, y mới biết đạo cô này là tay đáo để, liền tung mình nhảy lên yên ngựa, ngồi xem biến chuyển thế nào, bụng nghĩ thầm: “Cả hai cô nàng đều xinh, tiện người nào bắt người ấy cũng được rồi”.

Đạo cô giận dữ nói: “Tiểu cô nương! Cô nói lăng nhăng gì thế? Cô là ai?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Ta là vợ của Đoàn lang, mi có buông ngay chàng ra không?”

Đạo cô đứng ngẩn người ra một lát, rồi béo tai Đoàn Dự, vừa cười vừa hỏi: “Có đúng thế không?” Đoàn Dự cười nói nước đôi: “Không đúng không sai.” Đạo cô lại béo má chàng một cái thật mạnh, cười mà mắng rằng: “Ngươi chẳng học được chút võ công nào của cha mà tính trăng hoa thì chẳng kém gì ông ấy. Ta phải đánh cho què mới xong.” Bà nói rồi đưa mắt ngắm nghía Mộc Uyển Thanh từ đầu xuống đến gót chân, nói: “Đẹp thì đẹp lắm rồi, nhưng có vẻ quê mùa, phải dạy dỗ cẩn thận mới được.”

Mộc Uyển Thanh cả giận nói: “Ta quê mùa hay không quê mùa thì việc gì đến mi? Mi không buông chàng ra thì ta bắn cho bây giờ.” Đạo cô cười nói: “Cô thử bắn ta coi!” Đoàn Dự vội la lên: “Uyển muội! Không được hỗn láo! Nàng có biết ai đây không?”

Nói rồi giơ tay ra bá cổ đạo cô. Mộc Uyển Thanh trông thấy uất lên không nhịn được nữa, phất tay áo một cái, hai mũi tên vun vút bay ra. Đạo cô đang tươi cười, trông thấy hai mũi tên độc bắn tới, bỗng nhiên biến sắc, vung cây phất trần, những sợi tơ dường như có sức hút quấn cả lấy hai mũi tên. Đạo cô quát hỏi: “Tu la đao Tần Hồng Miên với mi là người thế nào?” Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp: “Ta chẳng biết Tu la đao Tần Hồng Miên là cái cóc gì. Có thả Đoàn lang của ta ra không thì bảo?” Rõ ràng Đoàn Dự ôm bà ta chứ đâu phải đạo cô giữ chàng lại, nhưng nàng vẫn cho rằng bà ta không ra gì.

Đoàn Dự thấy đạo cô nét mặt sa sầm vội khuyên can: “Má má ơi, đừng giận mà!” Mộc Uyển Thanh thoáng nghe giật mình, tưởng mình nặng tai nên hỏi lại: “Đạo… đạo cô là… mẹ chàng ư?”

Đoàn Dự cười nói: “Từ lúc mới đến đây ta đã gọi má má ầm lên, nàng không nghe hay sao?” Chàng quay sang nói với đạo cô:”Thưa mẫu thân, đây là Mộc Uyển Thanh cô nương. Mấy bữa nay con trải qua lắm phen nguy hiểm bị bao kẻ hung tàn áp bức, may đều nhờ được Mộc cô nương cứu cho thoát chết.”

Bất thình lình bên ngoài rặng liễu có tiếng gọi to: “Ngọc Hư tản nhân xin hãy hết sức cẩn thận. Đây là một trong Tứ Đại Ác Nhân.” Một người từ ngoài cửa hớt hải chạy vào, chính là Chu Đan Thần. Nhìn thấy sắc mặt đạo cô có vẻ khác thường, tưởng đạo cô đã bị bại bởi Vân Trung Hạc, gã run run hỏi: “Tản nhân đã động thủ với y rồi ư?”

Vân Trung Hạc cười sằng sặc đáp: “Bây giờ động thủ cũng chưa muộn.” Y nói chưa dứt câu, hai chân đã đứng phắt dậy trên yên ngựa tưởng như một cái cột cờ dựng đứng. Đột nhiên y nhoài người ra phía trước, chân phải vẫn bám chặt vào yên ngựa, cương trảo chụp xuống đạo cô. Đạo cô khẽ nghiêng mình để tránh, đột nhiên thân ngả ra trước lạng đến bên mình ngựa, phất trần hất luôn hai mũi tên độc còn nằm trong đó vào người y. Vân Trung Hạc nghiêng qua né tránh, đạo cô liền xông tới dùng phất trần đánh luôn vào đùi, Vân Trung Hạc không chống đỡ, cương trảo bên trái chộp vào lưng bà ta. Đạo cô nghiêng qua tránh được, phất trần đánh ngược trở về, Vân Trung Hạc tiến lên một bước, chân trái đạp vào đầu ngựa, cương trảo bên phải từ cao đánh tạt xuống.

Chu Đan Thần tung mình nhảy lên mông ngựa quát: “Ngã này!”, phán quan bút bên trái điểm vào hông y. Khí giới của Chu Đan Thần ngắn, lại đứng sát ngay bên cạnh địch nên dễ bề sử dụng. Vân Trung Hạc hất cương trảo lại đỡ, khí giới của y dài nên đánh khó trúng. Phất trần của Ngọc Hư tản nhân lại nhằm hạ bàn y đánh tới. Một mình Vân Trung Hạc đánh với hai người, hai tay múa tít cương trảo vung lên, chụp xuống kể ra cũng chưa có gì kém thế. Mộc Uyển Thanh thấy y đứng trên mình ngựa có lợi thế không cần phòng thủ thượng bàn, liền bắn ra một mũi tên trúng mắt bên trái con ngựa. Mũi tên này độc vô cùng. Ngựa trúng tên run lên, ngã khuỵu ngay xuống. Ngọc Hư tản nhân liền cuộn phất trần quấn chặt những ngón tay cương trảo bên phải của Vân Trung Hạc, hai người giằng co cố đoạt binh khí về, còn Chu Đan Thần liều mạng xông vào, tấn công liên tiếp ba chiêu.

Vân Trung Hạc tuy nội lực mạnh hơn nhiều nhưng phải chia ra một nửa chống đỡ phán quan bút của Chu Đan Thần, lại phải đề phòng Mộc Uyển Thanh bắn tên độc, chỉ thấy cánh tay giựt mạnh, cả phất trần lẫn cương trảo cùng rời khỏi tay, bay vụt lên không. Y liệu chừng lần này không thể thắng nổi, liền chửi: “Mẹ kiếp, bọn Đại Lý các ngươi chỉ giỏi tài chó cậy gần nhà, lấy đông đánh một. Bản lãnh các ngươi ta có coi vào đâu!” Y hai chân đạp vào yên ngựa, thân hình như một mũi tên bay vọt ra, cương trảo bên trái móc vào một cành liễu, lấy đà uốn mình một cái đã ở cách xa mấy trượng. Mộc Uyển Thanh bắn theo một mũi tên cắm ngay vào cành cây, còn Vân Trung Hạc thì như cơn gió thoảng không còn thấy tung tích đâu nữa. Tiếp theo là tiếng loảng xoảng vang lên, phất trần lẫn cương trào lúc đó mới rơi tới đất.

Chu Đan Thần phục xuống lạy Ngọc Hư tản nhân, cung kính hành lễ nói: “Hôm nay Chu Đan Thần này nếu không nhờ được tản nhận ra tay thì tất bị chết về tay địch.” Ngọc Hư tản nhân mỉm cười nói: “Đã hơn mười năm nay ta không động đến binh khí, võ công kém cỏi lắm rồi còn gì nữa đâu? Chu huynh đệ có biết lại lịch y không?” Chu Đan Thần đáp: “Nghe nói Tứ Đại Ác Nhân cùng đến Đại Lý. Y xếp cuối trong bọn mà đã ghê gớm thế thì đủ biết ba tên kia còn đến mực nào. Xin tản nhân hãy về Vương phủ tạm lánh ít lâu, chờ thanh toán xong bọn tứ ác hãy hay.”

Ngọc Hư tản nhân biến sắc, có vẻ bực mình nói: “Ta còn về Vương phủ làm chi? Không địch lại bọn chúng thì đành chịu chết chứ sao?” Chu Đan Thần không dám nói nữa, đưa mắt ra hiệu cho Đoàn Dự năn nỉ.

Đoàn Dự nhặt phất trần lên, đưa cho mẹ, cầm cương trảo của Vân Trung Hạc ném vào trong hồ, nói: “Má má ơi, bốn tên này quả là hết sức hung dữ, nếu mẹ không chịu về nhà thì để con đưa sang bên bá phụ vậy.” Ngọc Hư tản nhân lắc đầu: “Ta không đi đâu hết.” Đôi mắt bà đỏ lên, rưng rưng như muốn khóc. Đoàn Dự nói: “Thôi được, nếu mẹ không về con cũng ở luôn đây.” Đoạn quay sang bảo Chu Đan Thần: “Chu tứ ca! Phiền tứ ca về bẩm với với bá phụ cùng gia gia ta rằng: ta phải ở đây hợp lực với mẫu thân đế chống lại bọn tứ ác.”

Ngọc Hư tản nhân phì cười mắng: “Mi nói mà không biết thẹn, có bản lãnh gì mà dám bảo ở đây hiệp lực cùng ta để đánh lại Tứ Đại Ác Nhân?” Tuy bà bị Đoàn Dự chọc phải bật cười nhưng rồi những giọt nước mắt vẫn tuôn xuống má, bà quay đi giơ tay áo lên lau.

Mộc Uyển Thanh thấy vậy rất lấy làm lạ, tự hỏi: Mẫu thân Đoàn lang vì lẽ gì mà xuất gia đầu Phật?” Mắt nàng trông thấy Vân Trung Hạc chạy về, thế nào y chẳng gọi ba đồng đảng đến, bèn lẩm bẩm một mình: “Nếu bốn gã đại ác đến nơi, một mình bà ta chống thế nào nổi? Vậy mà bà cố chấp không chịu về là nghĩa làm sao? À phải rồi, khắp thiên hạ, đàn ông đều là phường bạc hạnh. Phụ thân Đoàn lang tất sủng ái kẻ khác nên mẫu thân chàng giận dỗi đi tu.” Nghĩ đến đây nàng cảm thấy đồng tình với tiên tử, liền nói: “Ngọc Hư tản nhân, để tiểu nữ giúp bà cự địch.”

Ngọc Hư tản nhân nhìn kỹ lại tướng mạo nàng, đột nhiên hỏi lại: “Cô nói thực cho ta nghe, Tu la đao Tần Hồng Miên là gì của cô?” Mộc Uyển Thanh bực tức nói: “Ta đã nói rồi, từ xưa đến nay ta chưa nghe cái tên đó bao giờ, cũng chẳng hiểu Tần Hồng Miên là đàn ông hay đàn bà, là con người hay súc vật nữa.”

Ngọc Hư tản nhân lập tức an tâm, nghĩ thầm: “Nếu quả như cô ta là hậu bối của Tu La Đao tất không khi nào dám dùng hai chữ súc vật”. Tuy nghe lời nàng nói có vẻ bướng bỉnh, tiên tử vẻ mặt vẫn ôn hòa, tươi cười nói: “Cô nương đừng trách ta! Ta coi lối phóng ám tiễn của cô giống hệt một người quen với ta, mà nét mặt cô cũng hao hao như người đó nên ta mới nghi ngờ. Vậy lệnh đường tên họ là chi? Cứ xem võ công cũng đủ biết cô phải là dòng dõi danh môn.” Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp: “Tiểu nữ từ nhỏ không cha không mẹ, chỉ nhờ sự phụ nuôi dưỡng lớn khôn, thành thử không biết tên cha tên mẹ là gì.” Ngọc Hà tản nhân hỏi gặng thêm: “Vậy lệnh tôn sư là ai?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Sư phụ tiểu nữ tên là U Cốc Khách.” Ngọc Hư tản nhân trầm ngâm lẩm bẩm: “U Cốc Khách? U Cốc Khách?” Bà quay sang Chu Đan Thần, liếc mắt có ý dò hỏi.

Chu Đan Thần lắc đầu thưa: “Đan Thần vốn ở miền biên cương hẻo lánh, kiến văn hẹp hòi nên ít biết đến các bậc anh hùng tại Trung Nguyên. Vị tiền bối U Cốc Khách này hẳn là một cao sĩ ẩn dật chốn Sơn lâm.” Y nói như thế chẳng qua chỉ là muốn bảo rằng chưa từng nghe đến cái tên U Cốc Khách.

Trong khi đang trò chuyện chợt nghe bên ngoài có tiếng vó ngựa dồn dập. Một người còn ở đằng xa đã lên tiếng gọi to: “Tứ đệ ơi! Công tử bình yên đấy chứ?” Chu Đan Thần lớn tiếng đáp: “Công tử hiện ở đây, vẫn mạnh giỏi như thường. Chỉ trong giây lát, ba con ngựa đã chạy tới ngừng ngay trước đạo quan, Chử Vạn Lý, Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui cùng nhảy xuống chạy vào, hướng về Ngọc Hư tản nhân phục xuống vái lạy.

Mộc Uyển Thanh ở chốn sơn dã từ thuở nhỏ cho đến khi khôn lớn, thấy mấy người này thi lễ một cách quá thành kính, nàng không hiểu nếp tẻ gì, lấy làm bực mình, nghĩ thầm: bọn này võ công đều vào hạng giỏi, làm sao lại cứ thấy người là lạy lục?

Ngọc Hư tản nhân thấy ba người hình mạo tang thương, Phó Tư Qui trên mặt bị một vết thương, một nửa mặt buộc bằng vải trắng, Cổ Đốc Thành thì trên người đầy vết máu, còn cái cần câu của Chử Vạn Lý gãy mất một nửa, vội hỏi: “Sao vậy? Bên địch mạnh lắm à? Tư Qui bị thương có nặng lắm không?” Phó Tư Qui nghe bà ta hỏi lập tức đáp: “Tư Qui này học nghệ chưa tinh, được Vương phi có lòng thương xót hỏi đến rất lấy làm xấu hổ.” Ngọc Hư tản nhân vẻ mặt buồn thiu nói: “Ngươi còn gọi ta bằng Vương phi nữa sao? Ngươi quên hết rồi ư?” Phó Tư Qui cúi đầu nói nhỏ : “Xin Vương phi tha tội cho!” Thì ra y gọi Vương phi đã quen miệng không tài nào đổi được nữa.

Chu Đan Thần hỏi: “Còn Cao hầu gia sao không thấy về?” Chử Vạn Lý đáp: “Cao hầu gia bị chút nội thương, không tiện cưỡi ngựa chạy nhanh, chắc cũng sắp đến rồi.” Ngọc Hư tản nhân thở dài một tiếng, nét mặt có vẻ sửng sốt hỏi: “Cao hầu cũng bị thương à? Có… có nặng không?” Chử Vạn Lý đáp: “Cao hầu gia đối chưởng với Nam Hải Ngạc Thần, đang lúc kịch liệt thì Diệp Nhị Nương đánh trộm sau lưng. Hầu gia không chống chọi được cả hai mặt, sau lưng bị trúng một chưởng của con ác phụ.” Ngọc Hư tản nhân ngần ngừ một chút rồi kéo tay Đoàn Dự bảo: “Mẹ con ta ra xem Cao thúc thúc thế nào?” Hai mẹ con cùng ra rừng liễu, Mộc Uyển Thanh cũng đi theo. Bọn Chử Vạn Lý cũng buộc ngựa vào cây liễu đi theo nốt.

Từ đằng xa một con ngựa chầm chậm đi tới, một người nằm phục trên yên. Cả bọn Ngọc Hư tản nhân cùng rảo bước đi tới, người đó chính là Cao Thăng Thái. Đoàn Dự rảo bước lại gần hỏi: “Cao thúc thúc! Thúc thúc làm sao thế?” Cao Thăng Thái đáp: “Cũng chưa sao.” Ông ta ngẩng lên thấy Ngọc Hư tản nhân vội cố gượng xuống ngựa thi lễ, Ngọc Hư tản nhân nói: “Cao hầu gia đang bị thương, bất tất phải thủ lễ.” Thế nhưng Cao Thăng Thái đã xuống được ngựa, loạng choạng té phục xuống đất nói: “Cao Thăng Thái kính cẩn vấn an, bái chúc Vương phi vạn phước.” Ngọc Hư tản nhân giục Đoàn Dự: “Con đỡ thúc thúc dậy đi!” .

Mộc Uyển Thanh trong lòng nghi hoặc nghĩ thầm: “Ông họ Cao kia võ công ghê gớm là thế, cầm thiết địch đánh mấy đòn làm cho Diệp Nhị Nương phải hoảng sợ chạy trốn. Chắc ông ta cũng nổi tiếng trong võ lâm, vậy mà sao cũng phải kính cẩn mẫu thân Đoàn lang đến thế được? Còn gọi bà một điều Vương phi, hai điều Vương phi. Hay chàng là con ông vua nào chăng? Anh đồ gàn này làm chuyện gì cũng không giống ai, đâu có vẻ gì là con vua cháu chúa?”.

Bỗng lại thấy tản nhân bảo: “Cao hầu thế là tận tụy quá rồi, mau về thành tĩnh dưỡng!” Cao Thăng Thái đáp: “Tứ ác cùng vào nước Đại Lý ta, tình thế rất là nguy hiểm. Xin Vương phi hãy tạm trở về vương phủ ít bữa.”Ngọc Hư tản nhân thở dài, nói: “Ta đã nhất quyết kiếp này không trở về vương phủ nữa rồi.” Cao Thăng Thái đáp: “Nếu như thế, bọn chúng tôi đóng bên ngoài Ngọc Hư Quan canh gác vậy.” Ông quay lại bảo Phó Tư Qui: “Ngươi cấp tốc về thành trình báo Hoàng thượng cùng Vương gia.” Phó Tư Qui dạ một tiếng rồi nhảy tót lên lưng ngựa, toan đi. Ngọc Hư tản nhân nói: “Hãy khoan!” Bà cúi đầu ngẫm nghĩ, Phó Tư Qui liền ngừng bước.

Mộc Uyển Thanh thấy sắc mặt Ngọc Hư tản nhân lộ vẻ băn khoăn, tựa hồ có điều gì khó giải quyết. Ánh nắng chiều chiếu vào mặt bà rạng rỡ như châu ngọc, tuy đã vào tuổi trung niên nhưng nhan sắc chưa suy giảm, nghĩ thầm: “Mẹ của Đoàn lang đẹp quá chừng, trông thật chẳng khác gì Quan Âm bồ tát trong tranh vẽ”.

Hồi lâu bà mới ngửng đầu lên, uể oải nói: “Thôi được, tất cả chúng ta cùng về, không lẽ chỉ vì mình ta mà các ngươi phải mạo hiểm.” Đoàn Dự mừng quá nhảy lại bá lấy cổ mẹ reo lên: “Mẫu thân yêu quí…” Phó Tư Qui nói: “Tiểu nhân xin về thành báo tin trước.” Dứt lời gã gia roi cho ngựa bon bon chạy về phía bắc. Chử Vạn Lý dẫn ngựa lại để Ngọc Hư tản nhân, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh ba người cưỡi.

Cả đoàn người nhắm phía thành Đại Lý thẳng tiến. Ngọc Hư tản nhân, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh và Cao Thăng Thái bốn người cưỡi ngựa, còn Chử Vạn Lý, Chu Đan Thần, Cổ Đốc Thành đi bộ theo sau. Được chừng vài dặm, phía trước đã thấy một đội quân khinh kỵ chạy đến như bay. Chử Vạn Lý vẫy tay, nói với người đội trưởng mấy câu. Đội trưởng ra lệnh cho quân kỵ lập tức xuống ngựa, lạy phục xuống đất. Đoàn Dự cười bảo chúng: “Các ngươi bất tất phải đa lễ.” Tên đội trưởng ra lệnh nhường lại ba con ngựa cho bọn Chử Vạn Lý cưỡi, rồi chính mình suất lãnh kỵ binh đi trước mở đường, cả đoàn lộp cộp chạy về hưởng thành Đại Lý.

Mộc Uyển Thanh thấy vậy biết ngay Đoàn Dự tất không phải hạng tầm thường. Nàng đâm ra lo lắng, nghĩ thầm: “Ta vẫn tưởng chàng chỉ là một gã thư sinh phiêu bạt giang hồ muốn lấy ai thì lấy. Nếu chàng là hoàng thân quốc thích, hoặc con quan lớn trong triều, biết đâu chẳng nhìn một cô gái quê mùa như ta bằng con mắt khinh bạc? Sự phụ ta thường nói rằng: phái nam địa vị càng cao tâm địa càng vô tình. Bọn họ lấy vợ lại còn kén chỗ môn đăng hộ đối. Chà chà! Đời sao mà lắm chuyện rắc rối quá! Chàng thủy chung với ta chẳng nói làm chi, còn nếu chàng thay lòng đổi dạ, ta cứ chém cho mấy nhát. Dù chàng là con ông nào ta cũng bất chấp.” Nàng nghĩ thế nhưng trong bụng vẫn thấy không xong, giục ngựa chạy lên ngang Đoàn Dự hỏi nhỏ : “Này, chàng là hạng người gì thế? Những gì mình thề hẹn với nhau trên đỉnh núi kia, chàng còn tính đến hay không?”

Đoàn Dự thấy phía trước phía sau đầy cả người ngựa mà nàng đột nhiên nhắc tới việc hôn nhân, làm chàng bẽn lẽn quá phải gượng cười bảo nàng: “Hãy chờ về đến thành Đại Lý, thong thả ta sẽ bàn với nàng.” Mộc Uyển Thanh nói: “Nếu chàng phụ thiếp thì… thiếp… thiếp…” rồi không nói thêm được nữa. Đoàn Dự thấy mặt nàng ửng hồng, rơm rớm nước mắt càng thêm vẻ mỹ miều, lòng chàng càng thêm mê mẩn, khẽ bảo nàng: “Uyển muội ơi! Ta cầu khấn còn chưa được, có lý đâu lại phụ nàng. Nàng cứ bình tĩnh, má má cũng thương nàng lắm đó.”

Mộc Uyển Thanh sắp khóc bỗng bật cười hạ giọng: “Mẹ chàng có thích thiếp hay không phỏng được ích gì?” Ý nàng muốn bảo là “chỉ cần chàng yêu thiếp là đủ”. Đoàn Dự nghe vậy bỗng nổi sóng tình, đưa mắt thấy mẹ đang nhìn mình, vẻ mặt dường như mỉm cười mà không phải là cười. Bất giác chàng thẹn, tai đỏ bừng lên.

Đến xế chiều thì chỉ còn cách thành Đại Lý chừng hai ba chục dặm, bỗng phía trước mặt cát bụi tung trời, khoảng một nghìn kỵ binh xếp thành hàng chạy tới. Hai bên có hai lá cờ bay phất phới, một lá thêu hai chữ “Trấn Nam” màu đỏ còn một lá thêu hai chữ “Bảo Quốc” màu đen, Đoàn Dự reo lên: “Má má ơi! Gia gia thân hành đến đón kia rồi!” Ngọc Hư tản nhân “hứ” một tiếng rồi dừng ngựa lại. Bọn Cao Thăng Thái lập tức xuống ngựa, đứng tránh ra hai bên đường. Đoàn Dự phóng ngựa lên trước, Mộc Uyển Thanh do dự một chút rồi cũng phóng ngựa theo.

Giây lát hai đoàn người đến gần nhau, Đoàn Dự gọi to lên: “Gia gia! Mẫu thân đã về đến đây rồi!” Hai tên lính cầm cờ liền giạt qua hai bên, một người mặc áo bào tía, cười một con ngựa trắng cao lớn đi đến quát: “Dự nhi, mi gây chuyện rắc rối để lụy đến Cao thúc thúc bị trọng thương. Phen này ta sẽ đánh què.”

Người áo bào tía kia mặt vuông chữ quốc, thần thái uy nghiêm, mắt to mày rậm, cử chỉ đường bộ ra dáng một bậc vương giả. Ông thấy con được vô sự trở về, nét mặt chỉ ba phần giận dữ còn đến bảy phần mừng vui. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: cũng may mà Đoàn lang giống mẹ nhiều hơn giống cha, nhìn bộ mặt nghiêm trang của ông mà phát ngán.

Đoàn Dự giật cương vọt lên, tươi cười hỏi: “Bẩm gia gia! Gia gia vẫn khỏe đấy chứ?” Người áo bào tía làm mặt giận đáp: “Khỏe khỏe cái gì? Vì mi mà ta tức chết đi được.” Đoàn Dự cười nói: “Nếu như con không đi ra ngoài thì làm sao đón được mẫu thân quay về. Kỳ này nhi tử công lao hãn mã. Cha ơi, thôi thì lấy công chuộc tội, cha đừng giận con nhé.” Người áo bào tía hừ một tiếng nói: “Dù ta có không đập vào xác mi thì bá phụ cũng không tha mi đâu.” Dứt lời, hai đùi ông thúc vào sườn ngựa, con bạch mã chạy như bay đến trước mặt Ngọc Hư tản nhân.

Mộc Uyển Thanh thấy đội kỵ binh đều mặc áo gấm, giáp trụ lộng lẫy, gươm đao sáng quắc. Phía trước hai mươi người đi đầu tay cầm nghi trượng, một bên là tấm biển sơn son viết một hàng sáu chữ “Đại Lý Trấn Nam vương Đoàn”, bên kia là một tấm biển vẽ đầu hổ trên viết sáu chữ “Bảo quốc Đại tướng quân Đoàn”. Nàng bản tính không biết sợ ai, nhưng khi trông thấy uy thế nghiêm chỉnh này không khỏi nao nao trong dạ. Nàng khẽ hỏi Đoàn Dự: “Phải chăng vị Trấn Nam vương Bảo quốc Đại tướng quân đây là gia gia chàng?”

Đoàn Dự mỉm cười gật đầu, nói sẽ: “Chính là bố chồng nàng đó.” Mộc Uyển Thanh đứng ngây người ra một lúc, cảm thấy hoang mang. Nàng ngơ ngẩn hồi lâu rồi giục ngựa chạy đến bên cạnh Đoàn Dự. Trên đường trước sau trái phải đầy những người, nhưng sao trong thâm tâm nàng thấy mình cô đơn trống trải, phải ở bên Đoàn Dự mới thấy đôi chút bình an.

Trấn Nam Vương dừng ngựa trước Ngọc Hư tản nhân chừng một trượng, hai người đăm đăm nhìn nhau, không ai mở miệng trước. Đoàn Dự nói: “Mẫu thân ơi, gia gia con đích thân ra đón mẫu thân đây.” Ngọc Hư tản nhân đáp: “Con đến thưa với bá mẫu rằng: mẫu thân về bên bá mẫu tạm trú mấy bữa. Khi đuổi được địch nhân rồi ta sẽ quay về Ngọc Hư Quan” Bấy giờ Trấn Nam vương mới mỉm cười nói: “Phu nhân! Phu nhân chưa hết giận sao? Phu nhân hãy về nhà, từ từ ta sẽ bồi lễ.” Ngọc Hư tản nhân vẫn dấm dẳng: “Tôi không về nhà, tôi cứ sang bên hoàng cung.”

Đoàn Dự nói xen vào: “Hay lắm! Con cũng theo mẹ vào hoàng cung để bái kiến bá phụ, bá mẫu đã rồi sau sẽ tính. Chuyến này còn bỏ nhà đi chắc là bá phụ giận con lắm. Gia gia không chịu xin cho con rồi, nhờ má má đỡ đòn cho con mấy câu.” Ngọc Hư tản nhân nói: “Con nhà càng lớn càng hư. Để bá phụ đánh cho một chập mới mở mắt ra.” Đoàn Dự cười: “Con mà phải đòn đau mẹ cũng đứt từng khúc ruột. Thà đừng để con bị đánh là hay hơn cả.” Ngọc Hư tản nhân không thể nín cười được, nói: “Con càng phải đòn đau mẹ càng thấy mát ruột.”

Trấn Nam Vương và Ngọc Hư tản nhân hai người đang ngượng ngùng, được Đoàn Dự chen vào pha trò mấy câu, bà tươi lên cười một tiếng, bầu không khí trở nên đầm ấm. Đoàn Dự nói: “Gia gia ơi! Con ngựa của gia gia đẹp quá. Sao gia gia không nhường cho má mà cưỡi?” Ngọc Hư tản nhân vừa giật cương cho ngựa phóng vừa nói: “Ta không cưỡi đâu.”

Ngựa bà vừa chồm vó chạy, Đoàn Dự đuổi theo nắm lấy dây cương. Trấn Nam Vương xuống ngựa rồi tự mình dắt con bạch mã lại bên. Đoàn Dự cười hì hì ôm mẹ để lên yên con bạch mã, vừa cười toe toét vừa pha trò: “Má má ơi! Người đẹp tuyệt thế vô song như mẹ cưỡi trên lưng con ngựa trắng này trông càng dễ coi hơn. Thật đúng là Quan Thế Âm bồ tát hạ phàm.” Ngọc Hư tản nhân cười đáp: “Mộc cô nương của mi mới thật là người đẹp tuyệt thế vô song, Mi muốn đem bà già này ra làm trò cười đó sao?”

Bấy giờ Trấn Nam Vương mới quay sang nhìn Mộc Uyển Thanh rồi hỏi: “Dự nhi! Cô nương đó là ai?” Đoàn Dự ấp úng đáp: “Dạ nàng… nàng là Mộc cô nương. Con cùng nàng giao kết… nên… đôi bạn ý hợp tâm đầu,” Trấn Nam Vương coi vẻ mặt chàng đã biết rõ tình hình, thấy Mộc Uyển Thanh dung nhan xinh đẹp, tấm tắc khen thầm: con ta xem người quả đã không lầm. Nhưng ông nhìn kỹ lại thấy nàng đầy vẻ quê kệch, lại không biết đến bái kiến mình thì lẩm bẩm: Cô này là con nhà dân dã chẳng biết lễ giáo chi hết. Vương chợt nhớ tới Cao Thăng Thái bị thương, vội tới gần hỏi: “Cao đệ! Cao đệ bị nội thương có nặng lắm không?” Ông giơ tay bắt mạch. Cao Thăng Thái đáp: “Đốc mạch tiểu đệ bị thương, nhưng cũng không sao. Vương huynh bất tất phải quan tâm.” Nói chưa dứt câu, Trấn Nam Vương đưa ngón tay trỏ bên phải ra điểm vào hậu tâm và vào cổ, tay trái nắm chặt sau lưng Cao Thăng Thái.

Bỗng trên đỉnh đầu Trấn Nam Vương bốc lên mấy tia bạch khí. Lát sau Vương bỏ tay trái ra. Cao Thăng Thái nói: “Đại địch ở trước mặt, Thuần ca còn vì tiểu đệ mà hao tổn nguyên khí ư?” Trấn Nam Vương cười nói: “Hiền đệ bị nội thương khá nặng, trị sớm được lúc nào hay lúc đấy. Nếu về ra mắt đại ca ta, tất người không chịu cho ta trị đâu, mà để chính người ra tay trị thì sao tiện?”

Mộc Uyển Thanh lúc nãy thấy Cao Thăng Thái sắc mặt nhợt nhạt trông rất đáng sợ thế mà mới trong giây lát Trấn Nam Vương đã làm cho sắc mặt Cao hầu trở nên hồng hào thì nghĩ thầm: Phụ thân Đoàn lang nội công hùng hậu như vậy mà sao chàng lại không biết chút võ công nào mới lạ.

Chử Vạn Lý dắt một con ngựa tới, giữ cho Trấn Nam Vương lên yên. Trấn Nam Vương cùng Cao Thăng Thái thả ngựa bước một đi song song, hỏi nhỏ nhau về tình hình bên địch. Hai mẹ con Đoàn Dự nói nói cười cười đằng trước đằng sau có thiết giáp vệ sĩ tiền hô hậu ủng. Đoàn người ngựa nhằm phía thành Đại Lý rong ruổi. Mộc Uyển Thanh lúc này lại cảm thấy mình lẻ loi hiu quạnh.

Về đến cửa thành thì trời đã hoàng hôn. Hai lá cờ Trấn Nam, Bảo Quốc đi đến đâu bách tính lại hoan hô rầm rộ:”Trấn Nam Vương thiên tuế!”, “Đại tướng quân thiên tuế!”. Trấn Nam Vương liền giơ tay đáp lại.

Mộc Uyển Thanh thấy trong thành Đại Lý dân cư đông đúc, chợ búa nhộn nhịp, đường sá đều lót đá xanh. Đi qua mấy đường phố thì đến một con đường đá lớn thẳng tắp. Cuối đường hiện ra vô số cung điện. Ánh hoàng hôn chiếu lên những phiến ngói thủy tinh rực rỡ trông hoa cả mắt. Đoàn người đi đến trước cổng thành đều xuống ngựa. Mộc Uyển Thanh ngẩng đầu nhìn lên trên có tấm biển đề bốn chữ “Thánh Đạo Quảng Từ”, nghĩ thầm: đây là hoàng cung nước Đại Lý, bá phụ Đoàn lang đã ở trong này tất là một đại quan triều mà người ta thường gọi là Vương gia hay Đại tướng quân chi đó.

Qua cổng thành vào đến cửa cung trên có biển đề ba chữ vàng: “Thánh Từ cung”, một thái giám bước ra nói: “Bẩm Vương gia! Hoàng thượng cùng Hoàng hậu nương nương hiện đang ở vương phủ, xin Vương gia cùng Vương phi kíp về Trấn Nam Vương phủ tiếp giá.” Trấn Nam Vương nói: “Được rồi!” Đoàn Dự nói: “Hay lắm! Thế thì hay lắm!” Ngọc hư tản nhân tức mính, đưa mắt nguýt con rồi hỏi: “Hay cái gì?Ta ở lại hoàng cung chờ nương nương về.” Lão thái giám thưa: “Nương nương có dặn phải mời Vương phi lập tức về Vương phủ triều kiến, có việc gấp cần gặp Vương phi để bàn định.” Ngọc Hư tản nhân lẩm bẩm: “Có việc gì mà bảo là quan trọng? Chỉ bày chuyện ra thôi.” Đoàn Dự biết rõ mẫu thân chàng không muốn về Vương phủ, Hoàng hậu đến Vương phủ ngồi chờ là có mỹ ý muốn cho cha mẹ chàng đoàn tụ, trong lòng chàng vui lắm.

Cả đoàn người lại ra khỏi cổng vòm, lên ngựa quay về hướng đông, đi khoảng chừng hai dặm, đến trước một tòa phủ đệ thật lớn. Trước cổng phủ có treo hai lá cờ lớn: một đề hai chữ “Trấn Nam”, một đề hai chữ “Bảo Quốc”. Trên cổng có biển đề bốn chữ: “Trấn Nam Vương phủ”. Ngoài cổng đầy những thân binh, vệ sĩ đứng nghiêm chỉnh và im phăng phắc, cúi đầu chào Vương gia và Vương phi.

Trấn Nam Vương đi vào phủ đầu tiên, Ngọc Hư tản nhân vừa đặt chân lên bậc thềm đá, hai mắt bỗng đỏ hoe, đôi dòng lụy rưng rưng như muốn trào ra. Đoàn Dự vừa dắt vừa đẩy mẹ đến cửa lớn nói: “Gia gia ơi! Con mời được mẫu thân con về lập nên công lớn, gia gia thưởng gì cho con đây?” Trấn Nam Vương trong lòng vui sướng nói: “Ngươi hỏi xem mẫu thân muốn thưởng gì, ta cứ thế mà ban cho.” Ngọc Hư tản nhân đổi sầu làm tươi nói: “Mi muốn thưởng ư? Ta thưởng cho mấy roi nhé!” Đoàn Dự lắc đầu lè lưỡi.

Bọn Cao Thăng Thái đến đại sảnh, chia ra đứng hai bên, Trấn Nam Vương nói: “Thái đệ trên người bị thương, hãy ngồi xuống.” Đoàn Dự quay sang nói với Mộc Uyển Thanh: “Uyển muội ngồi đây chờ một lát, ta bái kiến Hoàng thượng, Hoàng hậu rồi sẽ ra với nàng.” Mộc Uyển Thanh không muốn rời chàng ra, nhưng chẳng có lý nào ngăn trở chàng được đánh phải gật đầu. Nàng ngồi phịch ngay xuống cái ghế đầu tiên. Những người còn lại ai nấy đều đứng, chờ cho vợ chồng Trấn Nam Vương và Đoàn Dự vào trong nội đường, khi ấy Cao Thăng Thái mới ngồi xuống; bọn Chử Vạn Lý, Chu Đan Thần, Cổ Đốc Thành vẫn thõng tay đứng thẳng.

Mộc Uyển Thanh chẳng để ý, đưa mắt nhìn khắp trong toà đại sảnh: chính giữa treo một tấm biển, trên viết bốn chữ: “Bang Quốc Trụ Thạch”; phía dưới tấm biển đề bốn chữ nhỏ: “Đinh Mão ngự bút”. Ngoài ra còn vô số hoành phi câu đối, nàng không xem được hết vì có nhiều chứ không biết. Bỗng có mấy tên bộc dịch bưng trà lại, quỳ xuống, hai tay nâng khay trà lên ngang đầu cực kỳ cung kính. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Những người này thật là lạ lùng”. Nàng thấy chỉ có mình và Cao Thăng Thái hai người là có trà uống, còn bọn Chu Đan Thần khi lâm địch uy phong biết bao nhiêu, bước vào Trấn Nam Vương phủ lại cung kính đến thở mạnh cũng không dám, mất cả oai phong của bậc anh hùng hảo hán.

Mộc Uyển Thanh chờ Đoàn Dự một lúc lâu không thấy trở ra, nàng nóng ruột quá không nhẫn nại được nữa, lớn tiếng gọi: “Đoàn lang! Đoàn lang! Chàng làm gì trong ấy mà mãi không ra?”.

Trong đại sảnh mọi người đứng im lặng không ai dám nói nửa câu, bỗng nghe Mộc Uyển Thanh nói lớn đều giật mình đánh thót một cái. Cao Thắng Thái thấy vậy mỉm cười bảo: “Xin cô nương chớ nên nóng nảy, lát nữa Tiểu Vương gia sẽ ra.” Mộc Uyển Thanh càng lấy làm kỳ hỏi: “Tiểu Vương gia nào?” Cao Thăng Thái chậm rãi đáp: “Đoàn công tử là thế tử của Trấn Nam Vương. Nếu không kêu bằng Tiểu Vương gia thì kêu bằng gì?” Mộc Uyển Thanh lẩm bẩm một mình: “Trời ơi! Tiểu Vương gia! Tiểu Vương gia! Anh đồ gàn đó mà cũng là Tiểu Vương gia ư?”

Chợt thấy viên thái giám ở nội đường đi ra nói: “Hoàng thượng xuống chỉ, truyền Thiện Xiển Hầu và Mộc Uyển Thanh vào triều kiến.” Cao Thăng Thái thấy viên thái giám ra đã cung kính đứng lên, còn Mộc Uyển Thanh cứ chễm chệ ngồi yên. Nàng thấy viên thái giám gọi đích danh mình trong lòng cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm: “Sao y không gọi một tiếng Mộc cô nương, lại cứ đem tên tuổi người ta ra mà réo?” Cao Thăng Thái nói: “Mộc cô nương, chúng ta cùng vào khấu kiến hoàng thượng.”

Mộc Uyển Thanh trời không sợ đất cũng không sợ, nhưng nghe nói đến vào triều kiến Hoàng đế thì không khỏi chột dạ. Nàng theo sau Cao Thăng Thái qua dãy hành lang dài đi vào nội đình, đến trước tòa hoa sảnh.

Viên thái giám vào báo: “Có Thiện Xiển Hầu và Mộc Uyển Thanh triều kiến Hoàng thượng cùng Hoàng hậu nương nương” Tấm rèm treo cửa mở lên.

Cao Thăng Thái không dám lên tiếng, đưa mắt ra hiệu cho Mộc Uyển Thanh rồi tiến vào hoa sảnh quỳ xuống trước mặt hai người một nam một nữ ngồi giữa nhà.

Mộc Uyển Thanh không quỳ, ngó thấy người đàn ông râu dài, mặc áo hoàng bào, tướng mạo tuấn tú, liền hỏi: “Ông là Hoàng đế phải không?”

Người đàn ông ngồi đó chính là đương kim hoàng đế nước Đại Lý tên gọi Đoàn Chính Minh, hiệu là Bảo Định Đế. Nước Đại Lý kiến quốc từ năm Thiên Phúc thứ hai nhà Hậu Tấn đời Ngũ Đại, còn sớm hơn Triệu Khuông Dẫn binh biến Trần Kiều tới hai mươi ba năm. Họ Đoàn nước Đại Lý vốn là người quận Võ Uy, thủy tổ là Đoàn Kiệm Ngụy, làm Thanh Bình Quan cho họ Mông nước Nam Chiếu, truyền sáu đời tới Đoàn Tư Bình thì làm chức Tiết Độ Sứ đất Thông Hải. Năm Đinh Dậu họ Đoàn chiếm được nước này xưng là Thái Tổ Thần Thánh Văn Võ Đế. Truyền được mười bốn đời hơn một trăm năm mươi năm thì tới Đoàn Chính Minh.

Đời bấy giờ ở Biện Lương vua Tống Triết Tông đang tại vị, tuổi còn nhỏ, bà Thái hoàng Thái hậu Cao thị ngồi sau màn điều khiển việc triều chính. Bà Thái hoàng Thái hậu biết dùng danh thần, loại bỏ những chính sách hà khắc khiến cho trăm họ an lạc, đất Trung Nguyên thanh bình, thật là vị nữ vương anh minh nhân hậu số một của Trung Quốc, sử gọi là “Nghiêu Thuấn nữ lưu”, Nước Đại Lý ở riêng một cõi phương nam, các vị hoàng đế đều sùng tín Phật pháp, tuy tự lập đế hiệu nhưng vẫn thần phục nhà Đại Tống nên hai bên chưa từng có việc can qua. Bảo Định Đế tại vị mười một năm đổi niên hiệu ba lần gồm Bảo Định, Kiến An, Thiên Tá. Lúc này đang vào thời Thiên Tá, bốn phương phẳng lặng, quốc thái dân an,

Bảo Định Đế thấy Mộc Uyển Thanh không quỳ lạy, lại cất lời hỏi mình có phải Hoàng đế không, bất giác bật cười đáp: “Ta là Hoàng đế đây! Ngươi xem thành Đại Lý ta có đẹp không?” Mộc Uyển Thanh nói: “Tôi vào thành là đến đây ngay, chưa được đi du ngoạn.” Bảo Định Đế mỉm cười nói: “Sáng mai ta cho Dự nhi dẫn người đi xem khắp mọi nơi phong cảnh thành Đại Lý, ngươi có thích không?” Mộc Uyển Thanh nói: “Thế thì hay lắm, ông cùng đi nhé!” Mọi người nghe đến câu này thì không sao nhịn cười được.

Bảo Định Đế quay sang nhìn Hoàng hậu, cười hỏi: “Hoàng hậu, cô bé này bảo mình dẫn cô ta đi chơi, hậu có chịu đi không?” Hoàng hậu cười chưa trả lời. Mộc Uyển Thanh lại nhìn Hoàng hậu hỏi: “Bà là Hoàng hậu nương nương đấy ư? Quả nhiên bà đẹp quá!” Bảo Định Đế cười ha hả nói: “Dự nhi! Cô nương này thiên tính ngây thơ, thật là thú vị.”

Mộc Uyển Thanh hỏi lại: “Chàng thường nhắc đến bá phụ, có phải là ông không? Chuyện này chàng trốn nhà ra đi, lúc nào chàng cũng sợ ông giận, ông đừng đánh chàng nhé!” Bảo Định Đế mỉm cười nói: “Ta tính phạt nó năm chục rồi nhưng cô nương đã xin thì ta tha cho vậy. Dự nhi đâu? Sao còn chưa tạ ơn cô nương?”

Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh làm Hoàng thượng cao hứng, chàng rất mừng, biết rằng bá phụ mình có tính khoan hòa liền quay sang Mộc Uyển Thanh vái dài một cái nói: “Cảm tạ ân đức của Mộc cô nương đã xin giùm cho.” Mộc Uyển Thanh cũng vái trả lại, nói khẽ: “Bá phụ hứa không đánh chàng rồi, thiếp mới an tâm. Chẳng cần chàng phải tạ ơn làm gì.” Nàng quay sang nói với Bảo Định Đế: “Tiểu nữ cứ tưởng Hoàng đế là con người hung ác làm cho ai cũng phải khiếp sợ. Ngờ đâu ông… ông tốt lắm mà.”

Ngoại trừ khi còn bé được phụ hoàng cùng mẫu hậu khen, hơn mười năm qua Bảo Định Đế chỉ thấy người khác cung kính sợ sệt, chưa từng nghe ai bảo “ông tốt quá”. Nay thấy Mộc Uyển Thanh ngây thơ chất phác, chưa hiểu gì đến nhân tình thế thái khen mình thì lại càng hứng thú, quay sang bảo Hoàng hậu: “Hậu có gì thưởng cho cô ấy không?”

Hoàng hậu tháo chiếc vòng ngọc ở cổ tay ra, đưa cho nàng nói: “Thưởng cho cô đây!” Mộc Uyển Thanh đón lấy xỏ vào tay mình, mỉm cười nói: “Cám ơn bà! Rồi đây tiểu nữ kiếm được cái gì đẹp sẽ đem về tặng lại bà.” Hoàng hậu mỉm cười: “Vậy thì ta cảm ơn cô trước.”

Bỗng nghe sau dãy nhà mé tây có tiếng loạt soạt, tiếp theo mái nhà kế bên cũng nghe một tiếng động khác. Mộc Uyển Thanh kinh hãi, biết là có kẻ địch đến tấn công. Người này rất giỏi khinh công, chân bước trên nóc nhà vừa mau lẹ vừa nhẹ như lá rụng. Đoạn nghe tiếng vèo vèo, mấy người nhảy lên nóc nhà, rồi tiếng Chử Vạn Lý quát lên: “Các hạ đêm hôm đột nhập vào Vương phủ là có ý gì?”

Một giọng ồm ồm như lệnh vỡ đáp: “Ta đến kiếm đồ đệ ta! Ngươi bảo y mau ra bái kiến!” Người vừa nói chính là Nam Hải Ngạc Thần.

Mộc Uyển Thanh càng kinh hãi. Tuy nàng biết rằng việc phòng vệ Vương phủ cực kỳ nghiêm mật, vệ sĩ đông như kiến, Trấn Nam Vương, Cao Thăng Thái, Ngọc Hư tản nhân và Chử Cổ Phó Chu đều võ công trác tuyệt. Nhưng Nam Hải Ngạc Thần không phải tay vừa, thêm nữa đồng bọn là Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc cũng rất lợi hại. Ấy là không kể đến tên đại ác số một mà nàng chưa biết mặt mũi nữa. Nếu cả bốn người cùng đến hợp lực cướp Đoàn lang thì khó lòng giữ nổi.

Lại nghe Chử Vạn Lý hỏi tiếp: “Cao đồ của các hạ là ai? Trong phủ Trấn Nam Vương làm gì có đồ đệ của các hạ? Mau đi ra đi.”

Bỗng “soạt” một tiếng, một bàn tay to lớn từ trên không thò xuống giật bức rèm che cửa nhà hoa sảnh rách làm đôi. Vừa thấy bóng người thoáng qua, Nam Hải Ngạc Thần đã đứng giữa nhà. Đôi mắt lão ti hí, nhỏ như hạt đậu giương lên, đảo nhìn bốn phía. Lão vừa trông thấy Đoàn Dự đã cười ha hả nói: “Lão tứ nói thế mà đúng. Quả nhiên đồ đệ ta ở đây. Mau mau cầu ta thu ngươi làm đệ tử.” Dứt lời, lão thò bàn tay móng nhọn hoắt như móng chân gà chụp xuống vai Đoàn Dự.

Trấn Nam Vương thấy Nam Hải Ngạc Thần đưa bàn tay ra mà văng vẳng có tiếng vù vù như gió thổi thì biết ngay là một tay ghê gớm, sợ lão làm tổn thương đến đứa con yêu quý của mình vội phóng chưởng ra chống đỡ. Hai bàn tay chạm vào nhau đánh “binh” một tiếng. Cả hai bên cùng cảm thấy chấn động. Nam Hải Ngạc Thần chột dạ hỏi: “Ngươi là ai? Ta đến đón đồ đệ ta, việc gì đến ngươi?” Trấn Nam Vương mỉm cười đáp: “Tại hạ Đoàn Chính Thuần. Thằng bé này là con trai ta, bái ông làm thầy từ hồi nào?”.

Đoàn Dự cười nói: “Lão này cứ bức bách hài nhi phải làm đồ đệ. Hài nhi nói là đã có sự phụ rồi nhưng lão không tin.”

Nam Hải Ngạc Thần đưa mắt nhìn Đoàn Dự, rồi lại nhìn Trấn Nam Vương nói: “Sao bố thì võ công cao cường, con thì không biết tí gì, ta không tin hai người là cha con. Đoàn Chính Thuần, thôi ta bỏ qua không bắt bẻ nhưng dẫu y có là con người thật thì hoặc là người dạy không đúng cách, hoặc là con ngươi quá chậm lụt. Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!” Đoàn Chính Thuần hỏi lại: “Sao mà đáng tiếc?” Nam Hải Ngạc Thần nói: “Con ngươi thật là giống ta, quả là một nhân tài hiếm có để học võ, chỉ cần theo ta mười năm, nhất định phải trở thành một nhân vật võ nghệ siêu quần.”

Đoàn Chính Thuần vừa bực mình vừa tức cười nhưng mới thử nhau một đòn Vương đã hiểu lão quá rồi, còn đang kiếm câu trả lời thì Đoàn Dự nói: “Nhạc lão tam! Võ công ngươi tầm thường lắm, đâu có bằng được sự phụ ta? Ngươi hãy trở về đảo Vạn Ngạc luyện thêm hai mươi năm nữa rồi hãy trở lại đây mà nói chuyện võ học.” Nam Hải Ngạc Thần nổi cáu, quát lên: “Mi biết gì mà dám chê bai võ công của ta?”

Đoàn Dự đáp: “Ta hỏi người: “Phong lôi, Ích. Quân tử di kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải” (Quân tử thấy điều thiện thì gắng làm theo, có sai lầm thì sửa đổi) là nghĩa thế nào?” Nam Hải Ngạc Thần ngây ngô chẳng hiểu gì, tức mình nói: “Mi nói nhăng nói cuội, chứ câu đó đâu có nghĩa lý gì?” Đoàn Dự nói: “Có mấy câu thiển cận như thế mà người còn không hiểu thì bàn đến võ học sao được? Ta hỏi thêm câu nữa: “Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương. Tự thượng hạ hạ, kỳ đạo đại quang” (Giảm trên tăng dưới, mọi người vui vẻ. Lấy trên làm lợi cho dưới, đạo nghĩa càng rực rỡ) là nghĩa làm sao?”

Bảo Định Đế, Trấn Nam Vương, Cao Thăng Thái nghe Đoàn Dự đem kinh Dịch ra trêu chọc Nam Hải Ngạc Thần đều không nhịn được phải phì cười. Mộc Uyển Thanh tuy chẳng hiểu Đoàn Dự nói gì nhưng nàng cũng đoán được là chàng đồ gàn đang xổ nho.

Nam Hải Ngạc Thần còn đang ngơ ngẩn, lại thấy mọi người tủm tỉm cười ra vẻ giễu cợt thì cho những câu Đoàn Dự nói có ý xỏ xiên nhiếc móc mình. Lão tức quá, gầm lên một tiếng toan giơ tay đánh. Đoàn Chính Thuần tiến lên nửa bước để ngăn cản.

Đoàn Dự lại nói: “Những câu ta nói toàn là võ công bí quyết ảo diệu vô cùng, chắc là ngươi không hiểu được. Ngươi đúng là ếch ngồi đáy giếng mà đòi làm sư phụ ta thì ai nghe chẳng phải cười vỡ bụng? Những vị sư phụ ta từng bài nếu không học vấn uyên thâm thì cũng phải là những bậc cao tăng đắc đạo. Cỡ ngươi thì dù có học thêm mười năm nữa chưa chắc ta đã thu làm đồ đệ.”

Nam Hải Ngạc Thần nổi hung gầm lên: “Sư phụ ngươi là ai? Thử gọi ra đây cho ta xem!”

Đoàn Chính Thuần thấy chỉ có một người trong tứ ác đến đây, võ công còn kém mình một chút, cũng muốn giỡn y một phen để Hoàng thượng, Hoàng hậu và phu nhân giải trí nên ông để yên cho con trêu chọc lão. Đoàn Dự thấy bá phụ cười hì hì, phụ thân cũng mặc kệ không nói gì, càng đắc ý nói: “Được lắm! Nếu ngươi có gan chờ ở đây thì ta đi mời sự phụ ta đến. Chớ có trốn chạy đấy nhé!” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp: “Ta Nhạc lão nhị một đời tung hoành giang hồ, đã sợ ai bao giờ? Đi mau, đi mau!” Đoàn Dự quay mình đi ra.

Nam Hải Ngạc Thần đưa mắt nhìn mọi người, thấy ai nấy đều mỉm cười, nghĩ thầm: “Gã học trò ta võ công dở như rắm chó, sư phụ y thì đã bằng ai? Lão tử chẳng sợ đếch gì.”

Bỗng có tiếng giày lẹp kẹp, hai người đi gần tới nơi. Đoàn Dự còn ở ngoài cửa đã lên tiếng hỏi: “Nhạc lão tam chạy mất rồi ư? Gia gia đừng để y trốn thoát. Sư phụ con đã đến đó.” Nam Hải Ngạc Thần tức quá hét lên: “Việc gì ta phải chạy trốn? Con mẹ nó chứ, gọi sư phụ người vào đây! Ngươi không chịu bái minh sư, chắc do gã ám sư của ngươi ngăn cản. Để ta bẻ cổ tên sư phụ thối tha kia trước, ngươi không có sư phụ không thể không bái ta làm thầy. Ý kiến đó thật là cao minh, nghe cũng có lý!”

Lão còn đang tự khen thì Đoàn Dự đã đưa một người vào. Mọi người trông ra không ai nhịn được, cười ồ cả lên.

Người đó đầu đội mũ vải, mặc áo bào dài lượt thượt, hai chòm râu cá chốt vàng khè, mắt đỏ ngầu, rụt đầu rụt cổ, tướng mạo thật là bệ rạc. Ngọc Hư tản nhân nhận ra là một gã phục dịch trong Vương phủ. Ai cũng gọi đùa là Hoắc tiên sinh. Lúc nào gã cũng lờ đờ như người mất ngủ, suốt ngày ham mê bài bạc với đám nô tài. Gã đang say khướt thì bị Đoàn Dự ở đâu vào cầm tay kéo đi. Đến cửa tòa hoa sảnh, gã sợ hãi dừng lại không dám tiến bước nhưng Đoàn Dự cứ lôi tuột vào. Vào trong hoa sảnh gã sụp xuống lạy Bảo Định Đế cùng Hoàng hậu. Bảo Định Đế không biết Hoắc tiên sinh là ai, liền phán: “Miễn lễ!”

Đoàn Dự lại lôi lão đến trước mặt Nam Hải Ngạc Thần nói: “Nhạc lão tam! Trong các vị sư phụ ta thì vị này kém cỏi nhất. Ngươi có thắng được vị này rồi mới đấu được với các vị khác.” Nam Hải Ngạc Thần cười hềnh lệch nói: “Nến Nhạc lão nhị này đánh ba chiều mà y không nát nhừ ra thì ta sẽ thờ mi làm thầy.” Đoàn Dự mắt sáng lên hỏi lại: “Ngươi nói có thật chăng? Đã là đại trượng phu thì phải nhất ngôn, chứ nói rồi lại nuốt lời thì là đồ rùa đen, là quân đê tiện.” Nam Hải Ngạc Thần la lên: “Lại đây! Lại đây!” Đoàn Dự nói: “Nếu chỉ đánh có ba chiêu thôi thì hà tất đến sư phụ ta phải ra tay? Để ta tiếp ngươi cũng được rồi.”

Nam Hải Ngạc Thần từ lúc được Vân Trung Hạc báo tin, lão lật đật chạy luôn sang Đại Lý chỉ cốt bắt Đoàn Dự về làm đồ đệ, truyền dạy hết võ nghệ cho để biểu dương phái Nam Hải sau này. Nhưng từ lúc cùng Đoàn Chính Thuần đối chưởng, trong bụng lão đâm lo, biết rằng ở giữa đám cao thủ này muốn bắt Đoàn Dự đem đi không phải chuyện dễ, chỉ riêng cha của đứa học trò này, xem ra cũng đánh không lại. Giờ thấy chính Đoàn Dự đòi cùng mình so tài thì còn cơ hội nào hay hơn nữa, chỉ việc giơ tay ra túm lấy hắn. Bọn Đoàn Chính Thuần dù tài giỏi đến đâu có muốn cướp lại nhưng lâm vào tình trạng “ném chuột sợ và bình” tất phải chịu giương mắt ếch ra nhìn mình xách Đoàn Dự đem đi. Nghĩ vậy lão mừng rơn nói ngay: “Thế thì hay lắm! Ngươi ra đây đỡ ta ba chiêu. Ta không vận nội lực đánh chết mi đâu mà sợ.”

Đoàn Dự nói: “Hãy khoan! Xin giao hẹn trước đã. Nếu ba chiêu mà ngươi không đánh ngã được ta thì sao?”

Nam Hải Ngạc Thần biết Đoàn Dự là một gã thư sinh trói gà không chặt, đừng nói ba chiêu, chỉ nửa chiêu gã cũng không chịu nổi rồi, liền cười ha hả đáp liền: “Trong ba chiêu nếu không đánh ngã được ngươi, ta sẽ lạy ngươi làm thầy.” Đoàn Dự cười nói: “Ở đây ai cũng nghe thấy cả rồi, liệu ngươi có cãi chối hay không?” Nam Hải Ngạc Thần tức mình nói: “Nhạc lão nhị này nói một là một, hai là hai.” Đoàn Dự nói: “Nhạc lão tam chứ?” Nam Hải Ngạc Thần vẫn cãi: “Nhạc lão nhị.” Đoàn Dự không chịu: “Nhạc lão tam.” Nam Hải Ngạc Thần nói: “Mau lại đây động thủ! cãi làm gì vô ích!” Đoàn Dự tiến ra hai bước, ngang nhiên đứng trước mặt Nam Hải Ngạc Thần.

Mọi người trong hoa sảnh từ Bảo Định Đế, Hoàng hậu trở xuống, trừ Mộc Uyển Thanh, ai cũng biết Đoàn Dự yêu văn, ghét võ. Chàng trước nay chưa từng học võ công, mới đây vì Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần ép học võ nên mới bỏ nhà ra đi. Đừng nói tới những cao thủ như Nam Hải Ngạc Thần, chỉ một tay vệ sĩ hay tên lính hạng bét, chàng cũng không chịu nổi một đòn. Ban đầu ai nấy chỉ tưởng chàng muốn trêu cợt Nam Hải Ngạc Thần, giờ thấy quả thực muốn cùng y giao đấu đều không khỏi sửng sốt. Tuy biết rõ Nam Hải Ngạc Thần chỉ nhất tâm thu chàng làm đồ đệ, không hại đến tính mạng chàng nhưng lỡ ra con người hung hãn như lão lúc điên lên thì chiếc thân cành vàng lá ngọc kia sẽ ra sao? Ngọc Hư tản nhân lo cho tính mạng con mình nhất, vội ngăn lại: “Dự nhi không được liều lĩnh! Đối với kẻ thất phu sơn dã đó, không nên mạo hiểm.” Hoàng hậu cũng ra lệnh: “Thiện Xiển Hầu đâu! Ngươi ra bắt tên cường đồ cho ta!”

Thiện Xiển Hầu tâu: “Hạ thần Cao Thăng Thái xin tuân chỉ!” Ông ta quay lại quát lớn: “Chử Vạn Lý, Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần bốn người nghe lệnh: Nương nương có chỉ dụ bắt ngay gã cuồng đồ phạm giá này.” Bốn gã cúi đầu tâu: “Chúng thần xin tuân chỉ.”

Nam Hải Ngạc Thần thấy đông người đến vây đánh liền quát to: “Các ngươi định lấy nhiều hiếp ít phải không? Lão tử sợ đếch gì. Hai tên Hoàng thượng, Hoàng hậu xông lên nốt cũng không sao.”

Đoàn Dự vội xua tay nói: “Khoan đã, khoan đã, để ta tỉ thí với y ba chiêu rồi tính sau.”

Riêng Bảo Định Đế biết cháu mình hành sự trước nay vốn khác người, y làm nhiều điều không ai nghĩ đến, tất y có cơ mưu gì đây, Nam Hải Ngạc Thần không hại tính mạng y, hơn nữa lại có cả hai anh em mình cùng Thiện Xiển Hầu ngồi đây, quyết không ngại gì. Nghĩ vậy Bảo Định Đế liền phán bảo: “Các ngươi hãy thong thả! Cứ để cho tên cường đồ kia lãnh giáo cao chiêu của Tiểu Vương tử nước Đại Lý đã.”.

Bọn bốn người Chử Vạn Lý đang xông lên nghe Hoàng thượng truyền chỉ đều dừng lại cả.

Đoàn Dự nói với Nam Hải Ngạc Thần: “Nhạc lão tam! Chúng ta phải có lời giao ước trước: nếu trong ba chiêu ngươi không đánh ngã được ta thì phải bái ta làm sư phụ. Nhưng dù vậy thì tư chất ngươi dốt nát lắm, ta không dạy võ công đâu. Ngươi có bằng lòng như thế không?” Nam Hải Ngạc Thần cả giận nói: “Ai cần ngươi dạy võ công? Ngươi biết võ quái gì mà nói?” Đoàn Dự nói: “Tốt lắm! Thế là ngươi bằng lòng. Sau khi bái sư rồi, lệnh của ta truyền ra không được vi phạm, ta đã ra lệnh, ngươi phải tuân theo. Nếu trái lệnh sư phụ là khi sư diệt tổ, không hợp qui củ võ lâm. Ngươi có chịu không thì bảo?” Nam Hải Ngạc Thần nghe nói chẳng những không giận mà lại hớn hở đáp: “Điều đó là dĩ nhiên. Sau khi ngươi đã thờ ta làm thầy cũng phải theo qui củ đó!”

Đoàn Dự nhẩm lại độ mươi bước Lăng Ba Vi Bộ đã học, xem ra muốn tránh được ba chiêu của y không phải là chuyện khó khăn, nhưng trong đời chưa từng động thủ với người nào, Nam Hải Ngạc Thần võ công lại quá cao siêu, có hiệu nghiệm hay không thật chưa thể biết được. Chàng tính thêm một đường lui cho chắc ăn, bèn nói: “Nếu đã như thế, quả thực ngươi muốn thu ta làm đồ đệ thì phải lần lượt hạ hết được các vị sư phụ ta để tỏ rõ võ công ngươi giỏi hơn tất cả, lúc ấy ta mới bái ngươi làm thầy.” Chàng nghĩ thầm: “Nếu chẳng may trong ba chiêu y bắt được ta, ta sẽ kể hết những cao thủ nhận họ là sư phụ để cho y tỉ thí một phen”, Nam Hải Ngạc Thần nói: “Cũng được! Cũng được! Nếu như ngươi không để ta tỉ thí thì thật chẳng hay chút nào. Phái Nam Hải chúng ta nói đánh là đánh, không cần rào đón.”

Đoàn Dự trỏ phía sau Nam Hải Ngạc Thần mỉm cười nói: “Một vị sư phụ của ta đã đứng sau lưng người kia…” Nam Hải Ngạc Thần quay ngoắt lại tưởng sau lưng mình có người thật. Đoàn Dự liền đi xéo lên một bước nhẹ nhàng như gió thoảng, nhanh tay chộp luôn vào huyệt Đản Trung trên ngực y, ngón tay cái bấm ngay vào chính huyệt. Thủ pháp của chàng thật vụng về nhưng trong người Đoàn Dự có ngầm chứa nội lực của bảy đệ tử phái Vô Lượng, tuy không biết cách vận dụng nhưng chộp một cái kình lực cũng không phải nhỏ. Nam Hải Ngạc Thần thấy trên ngực nhói một cái thì tay trái của Đoàn Dự đã lại chộp vào huyệt Thần Khuyết ở bên trên rốn. Bắc Minh thần công trong quyển trục vẽ rất nhiều huyệt đạo, Đoàn Dự chỉ mới luyện đến Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch, hai huyệt Đản Trung và Thần Khuyết là hai đại huyệt của Nhâm Mạch.

Nam Hải Ngạc Thần kinh hãi, vội vận nội lực giãy giụa thoát thân, đột nhiên thấy nội lực từ huyệt Đản Trung tuôn ra, người rã rời lại càng hoảng hốt. Đoàn Dự nhấc mình lão cao một chút cho đầu chúc xuống, chân giơ lên rồi hất mạnh một cái là lão phải té nhào. Cái đầu nhẫn thín dập xuống đất đánh “bịch” một tiếng, may mà nền nhà trải đệm nên không đến nổi bị thương. Lão thẹn quá hóa giận, liền dùng thế “Lý ngư đả đỉnh” vụt dậy, giơ tay trái ra chụp xuống Đoàn Dự.

Mọi người trong sảnh thấy việc xảy ra như thế, ai nấy kinh ngạc vạn phần. Nam Hải Ngạc Thần ra chiêu thật độc địa, Đoàn Chính Thuần vừa toan ra tay phản ứng đã thấy Đoàn Dự bước lệch qua bên trái, bộ pháp thật là kỳ quái, chỉ một bước đã tránh được bàn tay nhanh như điện của đối phương phóng tới, ông buột miệng khen con: “Tuyệt diệu!” Chưởng thứ hai của Nam Hải Ngạc Thần liên tiếp theo. Đoàn Dự cũng không trả đòn, lại đi xéo qua hai bước, tránh được ngay.

Nam Hải Ngạc Thần đánh hai đòn không trúng vừa ngạc nhiên vừa cáu giận, lại thấy Đoàn Dự đứng lù lù trước mặt, cách mình không đầy ba thước; lão giận quá mất khôn gầm lên một tiếng đưa cả hai bàn tay ra dùng hết sức chụp thẳng vào bụng Đoàn Dự, quên rằng nếu như chộp trúng thì người truyền nhân tương lai của phái Nam Hải kia sẽ vỡ bụng chết tươi.

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Ngọc Hư tản nhân, Cao Thăng Thái bốn người cùng cất tiếng quát lớn: “Cẩn thận!” Chỉ thấy Đoàn Dự đạp qua bên trái, chân phải rút lên nhẹ nhàng lòn ra sau lưng y, giơ tay đập lên cái đầu hói của y một cái.

Nam Hải Ngạc Thần thấy đối phương thần xuất quỉ nhập đánh trúng đầu mình, kêu thầm: “Mạng ta hết rồi”. Nhưng khi tay chàng đập xuống đến đầu lão lại không có chút nội lực nào cả, Lão đưa tay trái lên đỡ mạnh, đánh “roạc” một cái, mu bàn tay Đoàn Dự bị năm ngón tay cào trúng, toạc da năm vết rướm máu. Chàng vội tụt tay về, đòn trảo còn dư lực chộp thẳng xuống làm cho chính cổ lão cũng toạc ra năm vệt chảy máu.

Kể ra thì Đoàn Dự đã tránh xong ba chiêu của Nam Hải Ngạc Thần và thắng cuộc rồi, nhưng vì tính trẻ con nổi lên, lại đánh vào đầu Nam Hải Ngạc Thần một cái. Chàng có biết đâu nội lực của mình không phải là ít nhưng vì không biết sử dụng suýt nữa bị y bắt được. Chàng đâm ra hoảng sợ chân bước loạng choạng chạy đến núp vào sau lưng phụ thân, mặt cắt không còn hột máu.

Ngọc Hư tản nhân đưa mắt nguýt chàng, nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này gớm thật, dám dối cả ta nữa. Bá phụ và gia gia đã luyện cho những công phu kỳ diệu đến thế mà ngươi cứ giả vờ như không biết tý gì”.

Mộc Uyển Thanh la lên: “Nhạc lão tam! Ngươi đánh ba đòn không hạ được chàng mà lại té nhào. Sao không mau mau khấu đầu bái sư đi?” Nam Hải Ngạc Thần vò đầu bứt tai, thẹn quá, mặt đỏ như gấc chín, ấp úng: “Chưa phải là động thủ thực sự, bỏ đi không kể.” Mộc Uyển Thanh đưa ngón tay lên chọc chọc vào má mình lêu lêu: “Thế mà không biết nhục! Ngươi không bái sư, thì quả là đồ rùa đen, là quân khốn kiếp. Người chịu bái sư hay chịu làm đồ rùa đen khốn kiếp?” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp: “Ta không chịu cái gì hết. Ta muốn đấu với y.”

Đoàn Chính Thuần thấy bộ pháp của con mình xảo diệu dị thường, chính ông không hiểu về bộ pháp này nhưng cũng khẽ bảo con: “Con đừng có động thủ đánh lão, chỉ nhắm huyệt đạo mà nắm lấy thôi!” Đoàn Dự rỉ tai đáp: “Con sợ lắm rồi, e rằng không làm nổi nữa.” Đoàn Chính Thuần khẽ bảo: “Không việc gì phải sợ, ta đứng bên cạnh lo cho.”

Đoàn Dự được phụ thân khích lệ lại thấy hết sợ, đường hoàng bước ra nói: “Nam Hải Ngạc Thần! Ngươi đánh ba chiêu không hạ nổi ta! Mau bái sư đi!” Nam Hải Ngạc Thần gầm lên một tiếng, phóng chưởng đánh ra.

Đoàn Dự bước về phía đông bắc một bước, nhẹ nhàng tránh được ngay, nghe lách cách, chưởng của Nam Hải Ngạc Thần đập vỡ tan một cái bàn uống trà, Đoàn Dự vẫn bình tĩnh, miệng lẩm nhẩm yếu quyết: “Quan ngã sinh, tiến thoái. Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ nhân; hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân. Đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc. Bác, bất lợi hữu du vãng. Đệ dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại”. Những đòn Nam Hải Ngạc Thần đánh tới, chàng vẫn điềm nhiên như không thấy, chỉ nhìn nhận phương hướng, theo đúng bộ pháp, khi tiến chếch lên, khi lui thẳng xuống. Nam Hải Ngạc Thần chưởng pháp đánh ra vun vút mỗi lúc một mau, nội lực mỗi lúc một mạnh thêm, hất bàn ghế bay tứ tung, bình cốc vỡ loảng xoảng. Rút cục vẫn không đánh trúng Đoàn Dự được phát nào.

Chỉ chớp mắt đã hơn ba chục chiêu. Hai anh em Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh và Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần nhìn rõ bộ pháp của Đoàn Dự chỉ hời hợt, không có lấy một chút sức mạnh mà vẫn chưa biết vị cao nhân nào đã truyền thụ cho chàng bộ pháp cực kỳ thần diệu này, đi theo phương vị sáu mươi tư quẻ của Phục Hi, bước nào cũng khó mà lường được. Nếu cứ lấy thực lực mà đấu với Nam Hải Ngạc Thần thì chỉ nửa đòn chàng đã mất mạng dưới tay địch thủ rồi. Nhưng Nam Hải Ngạc Thần đánh thế nào cũng mặc, chàng cứ tiến lui theo đúng bộ pháp của mình thôi, địch dù mạnh đến đâu cũng không tài nào đánh trúng. Hai người xem thêm một hồi nữa, đưa mắt nhìn nhau, trên mặt lộ vẻ lo lắng, cùng nghĩ ra: “Giả tỷ Nam Hải Ngạc Thần đừng nhìn nhận phương hướng Đoàn Dự né tránh, cứ nhắm mắt đánh bừa, thì chỉ vài chiêu là trúng”. Nhưng Nam Hải Ngạc Thần đâu có nghĩ ra, y sắc mặt mỗi lúc một vàng, mắt mở mỗi lúc một to, đòn nào cũng nhằm Đoàn Dự đánh tới, chưởng pháp biến ảo thế nào cũng cách chàng tới một hai thước.

Nếu cuộc đấu cứ kéo dài như vậy mãi thì Đoàn Dự giữ cho khỏi bị tổn thương đã là may rồi, còn muốn đánh ngã đối phương thì đừng hòng. Bảo Định Đế xem một lát nữa, cất tiếng bảo Đoàn Dự: “Dự nhi! Con bước thong thả lại một chút, nhằm huyệt đạo trước ngực y mà nắm lấy!”

Đoàn Dự đáp “Vâng” bước chân chậm hơn xông thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần, vừa nhìn vào đôi mắt dữ tợn và khuôn mặt vàng khè của y, chàng bở vía, chân bước loạng choạng trệch ra ngoài phương vị, bị tay Nam Hải Ngạc Thần chụp trúng vào tai bên trái, máu chảy đầm đìa, bước chân khựng lại lệch mất phương vị. Đoàn Dự bị đau càng hoảng hốt, chạy lại trốn sau lưng Đoàn Chính Thuần, gượng cười thưa lại Bảo Định Đế: “Bá phụ ơi! Không xong rồi!”

Đoàn Chính Thuần cả giận quát: “Xưa nay con cháu họ Đoàn nước Đại Lý lâm trận đối địch có chạy trốn bao giờ? Mau ra đánh đi, bá phụ dạy ngươi không sai đâu.” Ngọc Hư tản nhân thương con, chen vào:”Dự nhi đã đấu với y ngoài sáu mươi chiêu rồi. Họ Đoàn có được đứa con gan dạ như thế còn chưa đủ hay sao? Dự nhi! Thế là thắng cuộc rồi, đừng ra đánh nữa!” Đoàn Chính Thuần tức mình nói: “Mình bất tất phải quan tâm. Đã có tôi bảo đảm sinh mạng cho nó.” Ngọc Hư tản nhân trong bụng xót xa, nước mắt rưng rưng dường như muốn trào ra.

Đoàn Dự thấy mẫu thân như thế, trong lòng bất nhẫn, hùng khí bừng bừng trỗi dậy, rảo bước chạy ra, quát to lên rằng: “Ta lại đấu với ngươi lúc nữa!” Lần này chàng đã quyết tâm, tiến lui đĩnh đạc, xoay chuyển ung dung, đến lúc giáp Nam Hải Ngạc Thần chàng không nhìn vào mặt lão nữa, đưa hai tay chụp xuống ngực địch thủ.

Nam Hải Ngạc Thần thấy tay Đoàn Dự chụp vừa chậm chạp vừa yếu ớt, lão cười ha hả, né đi một chút, rồi cứ giơ tay chụp xuống vai chàng. Không ngờ bước chân Đoàn Dự biến hóa khôn lường, hai người cùng xoay mình đổi phương vị thế nào lại đụng vào nhau, chàng đã chộp được ngực Nam Hải Ngạc Thần. Đoàn Dự đã nhìn kỹ đúng bộ vị các huyệt đạo, tay phải điểm đúng vào huyệt Đản Trung, tay trái đúng vào huyệt Thần Khuyết. Chàng túm được hai yếu huyệt này nhưng chẳng có chút nội lực nào. Giả tỷ Nam Hải Ngạc Thần cứ để mặc kệ cho chàng giữ thế nào thì giữ, không thèm để ý tới, thì rồi chàng cũng phải từ từ buông ra chứ chẳng làm gì được lão. Đằng này Nam Hải Ngạc Thần thấy yếu huyệt bị kiềm chế, đâm ra hoảng sợ, giơ luôn hai tay lên, chụp xuống trước mặt chàng. Chiêu đó là một phương pháp lấy công làm thủ, địch nhân không thể không quay về tự cứu mình. Ngờ đâu Đoàn Dự hoàn toàn không có chút kinh nghiệm gì về ứng biến lâm địch, bàn tay đối phương đánh qua, chàng chẳng nghĩ gì đến việc tránh né chống đỡ, hai tay vẫn khư khư nắm lấy yếu huyệt của Nam Hải Ngạc Thần.

Đúng là sai lầm này đến sai lầm khác, khí huyết trong người Nam Hải Ngạc Thần bùng lên đổ ào vào hai nơi huyệt đạo đang bị nắm, đồng thời nội lực theo huyệt Đản Trung tuôn ra, hai tay còn cách mắt Đoàn Dự chừng nửa thước thì tê liệt, không sao vươn ra được. Y hít một hơi chân khí lại vận nội lực lần nữa.

Huyệt Thiếu Thương nơi ngón tay cái của Đoàn Dự bỗng thấy một luồng lực đạo tuôn vào. Nam Hải Ngạc Thần nội lực mạnh mẽ biết bao, nội lực của bảy gã đệ tử phái Vô Lượng làm sao sánh được, vì thế Đoàn Dự lập tức lảo đảo, chân chàng cũng run rẩy không đứng vững. Chàng biết rằng bỏ tay ra lúc này tất phải táng mạng nên dù trong người khó chịu đến mức độ nào cũng phải cố gắng chịu đựng.

Đoàn Chính Thuần chỉ đứng cách Đoàn Dự vài thước, thấy mặt chàng đỏ gay, lập tức điểm ngón tay trỏ vào huyệt Đại Truy trên lưng chàng. Thần công Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý nổi danh thiên hạ, quả thực uy lực không phải tầm thường, một luồng khí ấm áp liền truyền vào kích phát nội lực có sẵn trong người Đoàn Dự. Chỉ trong giây lát, toàn thân Nam Hải Ngạc Thần run lên bần bật rồi mềm ra như bún lăn quay xuống đất. Đoàn Chính Thuần giơ tay đỡ con, Đoàn Dự nội tức liền thuận trở lại, vội vàng dẫn nội lực Nam Hải Ngạc Thần vừa truyền sang qua Thủ Thái Âm Phế Kinh đưa về khí hải dần dần hồi phục lại như thường, nhưng hồi lâu không nói được lên tiếng.

Đoàn Chính Thuần dùng Nhất Dương Chỉ ám trợ cho Đoàn Dự. Thế là cả hai cha con hợp lực mới chế phục nổi Nam Hải Ngạc Thần. Mọi người ngồi trong hoa sảnh đều hiểu như vậy nhưng cứ trông bề ngoài thì rõ ràng Nam Hải Ngạc Thần bị Đoàn Dự hạ, không còn cãi vào đâu được.

Nam Hải Ngạc Thần quả là ghê gớm, Đoàn Dự vừa buông tay ra, lão chỉ vận khí sơ sơ liền đứng dậy được ngay. Hai mắt lão nhìn Đoàn Dự chằm chặp. Trên bộ mặt cổ quái của lão lộ vẻ kinh dị, đau khổ lẫn căm hờn.

Mộc Uyển Thanh la lên: “Nhạc lão tam, ta xem ngươi không chịu bái sư; vậy chắc là cam tâm làm đồ rùa đen, làm quân để tiện rồi.” Nam Hải Ngạc Thần hậm hực nói: “Ngươi hiểu ta thế nào được? Bái sư thì bái sư chứ Nhạc lão nhị này nhất quyết không làm giống rùa đen đê tiện đâu.” Nói xong lão quỳ ngay xuống lạy Đoàn Dự, đầu dập “binh binh” tám lần xuống đất rồi kêu lên: “Sư phụ, đệ tử Nhạc lão nhị khấu đầu ra mắt.”

Đoàn Dự đứng ngây người ra mà nhìn, chưa kịp trả lời thì Nam Hải Ngạc Thần đã vụt dậy, nhảy vọt lên nóc nhà bỏ đi. Bỗng một tiếng kêu “ối” thê thảm nổi lên, rồi một người từ trên nóc nhà lăn xuống đánh “huỵch” một tiếng. Mọi người nhìn ra thì là tên vệ sĩ trong phủ Trấn Nam Vương, trước ngực máu chảy đầm đìa, trái tim gã đã bị Nam Hải Ngạc Thần móc đem đi mất, chân tay còn giãy giụa trông thật gớm ghiếc. Tên vệ sĩ này vô cùng tuy còn kém bọn Chử Vạn Lý nhưng cũng vào hạng khá, vậy mà Nam Hải Ngạc Thần chỉ giơ tay ra một cái móc mất trái tim. Tứ Đại hộ vệ đứng ngay gần bên cũng không sao cứu kịp. Mọi người nhìn nhau cả kinh thất sắc.

Mộc Uyển Thanh tức giận nói: “Lang quân! Chàng thu được tên đồ đệ hung ác, hỗn láo đến thế là cùng, dám giết cả người nhà sư phụ. Lần sau lang quân có gặp phải trừng trị y một phen cho đáng kiếp.” Đoàn Dự tim đập thình thình đáp: “Ta may mà thắng cuộc là nhờ gia gia ám trợ. Sau này gặp lão, e rằng đến trái tim sư phụ này cũng bị móc mất, nói chi đến chuyện nghiêm trị đệ tử?”

Cổ Đốc Thành và Phó Tư Qui khiêng thi thể gã vệ sĩ ra ngoài. Đoàn Chính Thuần dặn dò chôn cất trọng thể, chu cấp hậu hĩ. Gã Hoắc tiên sinh bảy phần say ba phần tỉnh kia sợ đến mất vía, người run như cầy sấy lật đật lui ra.

Bảo Định Đế hỏi Đoàn Dự: “Dự nhi, bộ pháp đó quả thật cao minh, từ phương vị trong sáu mươi tư quẻ của Phục Hi biến hóa ra, ai truyền thụ cho con đó?” Đoàn Dự đáp: “Bộ pháp đó con tự luyện quấy quá một mình trong sơn động chả hiểu có đúng không. Xin bá phụ chỉ giáo cho!” Bảo Định Đế lại hỏi: “Con tự luyện lấy ở trong sơn động đầu đuôi thế nào? Nói rõ cho ta nghe!”

Đoàn Dự lược thuật chuyện chàng bị rơi vào sơn Cốc trong núi Vô Lượng rồi đi vào sơn động tìm ra được một quyển trục có ghi bộ pháp. Thế nhưng việc chàng tìm thấy pho tượng ngọc, cùng những hình khỏa thân chàng không đề cập đến. Hình vẽ thần tiên tỉ tỉ trần truồng đâu có thể nào để cho bá phụ, gia gia cùng mẫu thân trông thấy được? Ngay đến Mộc Uyển Thanh nếu biết được chàng mê mẩn thần tiên tỉ tỉ thể nào cũng nổi cơn ghen xé nát đồ hình. Bỏ qua không kể cũng chẳng khác gì Khổng phu tử cắt xén viết kinh Xuân Thu, có bớt không thêm đấy thôi.

Nghe Đoàn Dự kể xong, Bảo Định Đế nói: “Bộ pháp sáu mươi tư quẻ này dường như ở trong có ẩn chứa một môn nội công thượng thừa. Con thử diễn lại từ đầu đến cuối cho ta coi!” Đoàn Dự vâng lời, nhẩm lại một lúc rồi bước ra biểu diễn. Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái đều là những tay nội công thâm hậu, thế mà những chỗ tuyệt diệu về nội công trong bộ pháp này cũng chỉ nhìn nhận ra được vài phần mà thôi. Đoàn Dự diễn xong sáu mươi tư quẻ thì đã thành một vòng tròn lớn, trở về nguyên vị.

Bảo Định Đế cả mừng nói: “Lăng Ba Vi Bộ này ảo diệu vô cùng, trên đời có một không hai, cháu ta quả gặp được một phúc duyên hiếm có. Nay mẹ con mới lại trùng phùng, thôi ta về để mẹ con hàn huyên với nhau, nhớ tiếp mẹ cháu uống thêm mấy chén.” Đoạn nhà vua quay sang bảo hoàng hậu: “Ta về thôi!” Hoàng hậu đứng lên, đáp lời: “Vâng!”

Bọn Đoàn Chính Thuần cung kính tiễn đưa Hoàng đế, Hoàng hậu lên kiệu hồi cung, ra khỏi cổng lớn rồi mới trở vào Vương phủ.

Hồi 07: Cha ăn mặn, con khát nước

Bọn Đoàn Chính Thuần quay trở về vương phủ, gia nhân đã bày tiệc xong. Vợ chồng Trấn Nam Vương cùng Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh ngồi một bàn có đến mười mấy tên thị nữ đứng bên hầu hạ. Mộc Uyển Thanh từ nhỏ đến lớn có bao giờ được dự bữa tiệc vinh hoa phú quý như hôm nay, những món ăn sang trọng nàng chẳng những chưa từng thấy mà cũng chưa nghe ai nói đến bao giờ. Nàng được vợ chồng Trấn Nam Vương coi như người nhà, chỉ có hai người được ngồi ăn chung quả như mở cờ trong bụng.

Đoàn Dự thấy mẹ chàng đối với cha vẫn ra chiều lãnh đạm, đã không uống rượu lại chẳng ăn các món ngon, chỉ dùng mấy món chay nhạt nhẽo, liền đứng lên rót một chung rượu nâng đến trước mặt mẹ mời: “Mẫu thân! Con xin mời mẫu thân một chung rượu này. Mừng mẹ đã đoàn tụ với phụ thân con, ba người một nhà chúng ta cùng hưởng cái vui sum họp.” Ngọc Hư tản nhân vội gạt đi: “Ta không uống rượu.” Đoàn Dự lại rót một chung, đưa mắt ra hiệu cho Mộc Uyển Thanh, rồi nói: “Mộc cô nương cũng kính mẹ một chén.” Mộc Uyển Thanh liền cầm chén rượu đứng lên.

Ngọc Hư tản nhân nghĩ mình không nên lãnh đạm quá với Mộc Uyển Thanh, liền mỉm cười nói: “Mộc cô nương! Thằng nhỏ nhà này có tính lông bông lắm đấy. Cha mẹ giữ y không được, cô nương phải giúp ta cai quản y mới xong” Mộc Uyển Thanh đáp: “Nếu chàng không nghe lời, tiểu nữ sẽ đánh cho mấy cái bạt tai.” Ngọc Hư tản nhân phì cười, đưa mắt cho trượng phu, Đoàn Chính Thuần cười nói: “Phải thế mới được.”

Ngọc Hư tản nhân đưa tay trái ra đón lấy chén rượu từ tay Mộc Uyển Thanh. Dưới ánh đèn, nàng trông rõ bàn tay bà nhỏ nhắn, trắng như tuyết, trong như ngọc nhưng trên mu bàn tay, chỗ gần cổ tay có vết bớt đỏ như son. Bất giác nàng rùng mình, run run hỏi: “Phải chăng bà… bà là Đao Bạch Phượng?” Ngọc Hư tản nhân cười nói: “Tên họ của ta thật khác thường, sao cô biết được?” Mộc Uyển Thanh run run hỏi tiếp: “Bà là Đao Bạch Phượng đấy sao? Có phải bà là người Bài Di, trước nay bà vẫn sử cây nhuyễn tiền làm binh khí phải không?” Ngọc Hư tản nhân thấy nàng biến sắc nhưng cũng không quan tâm lắm, vẫn tươi cười đáp: “Dự nhi đối với cô thật tình lắm nhỉ, đến cả khuê danh của ta cũng nói cho cô biết. Lang quân của cô có một nửa máu Bài Di nên tính tình nó mới bất kham thế đó.” Mộc Uyển Thanh gặng lần nữa: “Thực sự bà là Đao Bạch Phượng sao?” Ngọc Hư tản nhân mỉm cười: “Chính ta đây.”

Mộc Uyển Thanh kêu lên: “Ơn thầy sâu nặng, lệnh thầy phải theo.” Nàng vẫy tay phải một cái, hai mũi tên độc bắn thẳng vào ngực Đao Bạch Phượng.

Trong bàn tiệc mọi người nói nói cười cười vui vẻ trong bầu không khí gia đình, ai ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đột nhiên ra tay ám toán, Võ công Đao Bạch Phượng và Mộc Uyển Thanh không chênh lệch xa, bà ngồi gần nàng quá, lại bị bất ngờ nên không kịp đề phòng, hai mũi tên xem ra không thể nào tránh kịp. Đoàn Chính Thuần từ sau lưng Mộc Uyển Thanh, kêu lên một tiếng, giơ tay điểm ra. Đòn Nhất Dương Chỉ chế ngự được Mộc Uyển Thanh nhưng không cứu kịp phu nhân.

Đoàn Dự đã mấy lần thấy Mộc Uyên Thanh đang nói chuyện đột nhiên phóng tên giết người nhanh như chớp, đầu mũi tên có tẩm thuốc độc kiến huyết phong hầu cực kỳ lợi hại. Giờ vừa thấy nàng phất tay áo biết là nguy đến nơi rồi. Chàng đang đứng bên cạnh mẫu thân, khốn nỗi chẳng có chút võ công nào để cản trở Mộc Uyển Thanh, đành theo phép Lăng Ba Vi Bộ bước chân chéo đi, chuyển mình che đỡ cho mẹ. “Phập phập” hai tiếng, hai mũi tên cắm vào ngực chàng. Đồng thời Mộc Uyển Thanh thấy sau lưng mình nhói một cái, nàng nằm gục xuống bàn, không sao nhúc nhích được nữa.

Đoàn Chính Thuần ứng biến thật nhanh, phóng chỉ ra liên tiếp điểm vào tám chỗ huyệt đạo chung quanh nơi Đoàn Dự trúng tên cho máu độc khỏi chảy vào tim. Ông lật tay lại, đẩy lưng Mộc Uyển Thanh lên bẻ sái khớp xương hai tay, khiến tay nàng tê liệt không phóng ám tiễn được nữa rồi mới giải khai huyệt đạo cho nàng, hầm hầm quát: “Mau đưa giải dược ra đây!”.

Mộc Uyển Thanh vẫn run run nói: “Tiểu nữ chỉ muốn giết Đao Bạch Phượng, không muốn hại Đoàn lang.” Tay phải đau quá, nàng phải cố nhịn đau thò tay trái vào bọc móc ra hai bình thuốc giải nói: “Thuốc đỏ uống, thuốc trắng thoa. Mau lên! Chậm không cứu được.”

Đao Bạch Phượng nhìn nàng chăm chăm, thấy nàng thực lòng tha thiết với Đoàn Dự thì đã đoán ra mọi sự. Bà vội lấy hai viên thuốc đỏ nhét vào miệng con, nhẹ nhàng nhổ hai mũi tên ra rồi lấy thuốc tán trong bình trắng mịt vào vết thương. Mộc Uyển Thanh nói: “Cảm tạ trời phật. Tính mạng chàng không còn gì đáng ngại nữa, nếu không thì… thì ta… hóa ra…”

Ba người hết sức hốt hoảng, nào biết Đoàn Dự đã ăn phải con Mãng Cổ Chu Cáp là vạn độc chi vương rồi, các loại độc không thể nào xâm nhập, chất độc trên mũi tên của Mộc Uyển Thanh không làm gì được chàng, dù không uống giải được cũng chẳng hề chi. Có điều chàng trúng phải tên độc thấy ngực đau nhói, lại đã thấy ai nấy trúng phải chết liền nên tưởng mình phen này thể nào cũng chết, kinh hoảng quá liền ngã lăn vào lòng mẹ ngất lịm đi.

Vợ chồng Đoàn Chính Thuần mắt không rời vết thương ở ngực con, lúc đầu thấy máu đen chảy ra, sau biến ra sắc tím rồi dần dần chuyển thành sắc đỏ, bấy giờ mới thở phào một cái nhẹ nhõm, biết rằng con mình thoát chết rồi.

Đao Bạch Phượng ẵm Đoàn Dự lên đưa vào buồng nằm, đắp chăn cho con rồi bắt mạch xem. Tuy mạch chạy yếu nhưng đã điều hòa, bà yên dạ trở ra. Đoàn Chính Thuần hỏi: “Không đáng ngại chứ?” Đao Bạch Phượng không trả lời, quay sang Mộc Uyển Thanh: “Ngươi về nói với Tu la đao Tần Hồng Miên…” Đoàn Chính Thuần nghe đến sáu chữ “Tu la đao Hồng Tần Miên” liền biến sắc ngắt lời vợ: “Bà… bà…” Đao Bạch Phượng không ngó ngàng đến chồng, tiếp tục nói với Mộc Uyển Thanh: “Ngươi nói với bà ta rằng nếu muốn giết ta thì nên đường hoàng đến đây, cái trò cắn trộm chỉ tổ người ta cười cho.” Mộc Uyển Thanh đáp: “Nhưng tiểu nữ đâu có biết Tu la đao Tần Hồng Miên là ai?” Đao Bạch Phượng lạ lùng: “Thế thì ai sai người đến đây giết ta?”

Mộc Uyển Thanh đáp: “Đó là sự phụ của tiểu nữ. Sư phụ sai tiểu nữ đi giết hai người. Người thứ nhất là phu nhân, bà ấy nói trên bàn tay bà có cái bớt son, tên Đao Bạch Phượng, là người Bài Di, dung nhan rất mỹ lệ, sử cây nhuyễn tiên. Sư phụ nào có… nào có nói bà ăn mặc theo lối đạo cô. Tiểu nữ thấy bà sử dụng phất trần, lại tên là Ngọc Hư tản nhân, có ngờ đâu lại chính là bà? Khổ nỗi lại chính là mẫu thân Đoàn lang.” Nói xong hai hàng châu lệ trào ra.

Đao Bạch Phượng hỏi thêm: “Sư phụ ngươi còn sai đi giết một người nữa, có phải là Tiếu dược xoa Cam Bảo Bảo hay không?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Không! Không! Tiếu dược xoa Cam Bảo Bảo là sư thúc của tiểu nữ. Chính bà ta sai người đưa thư tới sư phụ tiểu nữ, nói rằng hai người đàn bà làm khổ đời sư phụ, thù không thể không báo…” Đao Bạch Phượng kêu lên: “À, phải rồi? Còn người kia họ Vương đang ở Tô Châu, phải không?” Mộc Uyển Thanh ngạc nhiên hỏi lại: “Đúng đó! Sao phu nhân lại biết? Tiểu nữ cùng với sự phụ đến đó giết bà ta trước nhưng người đàn bà khốn kiếp đó tay chân đầy tớ thật đông, nơi ở lại thật lạ lùng, tiểu nữ chưa giáp mặt đã bị đám thủ hạ mụ ta đuổi đến tận Đại Lý.”

Đoàn Chính Thuần cúi đầu lắng tai nghe, khuôn mặt lúc đỏ lúc xanh.

Trên má Đao Bạch Phượng lệ chảy đầm đìa, quay sang Đoàn Chính Thuần: “Mong ông trông nom cho Dự nhi. Tôi… tôi đi đây.” Đoàn Chính Thuần vội ngăn lại: “Phượng Hoàng nhi, những điều oan nghiệt dĩ vãng nàng để tâm làm chi?” Đao Bạch Phượng nét mặt rầu rầu đáp: “Ông không để tâm, tôi cũng cố không để tâm nhưng người ta vẫn để tâm thì làm sao?” Dứt lời bà đứng phắt dậy, nhảy qua cửa sổ ra ngoài.

Đoàn Chính Thuần nắm lấy áo vợ. Đao Bạch Phượng quay lại tát vào mặt chồng. Đoàn Chính Thuần vội nghiêng đầu né tránh. Nghe “roạt” một tiếng, tay áo bà ta đứt mất một nửa. Đao Bạch Phượng cả giận quay đầu lại hỏi: “Ông muốn động võ chăng?” Đoàn Chính Thuần hạ giọng: “Phượng Hoàng nhi, nàng…” Đao Bạch Phượng không đáp, lẹ làng nhảy vọt lên nóc nhà phía trước, rồi thấy bóng bà nhô lên hạ xuống mấy cái, đã cách xa mười trượng.

Xa xa có tiếng Chử Vạn Lý quát hỏi: “Ai đó?” Đao Bạch Phượng đáp: “Ta đây!” Chử Vạn Lý nói: “Ồ, thì ra Vương phi…” Rồi không thấy gì nữa. Bà đã đi xa, nhòa vào trong bóng tối.

Đoàn Chính Thuần đứng lặng hồi lâu, thở dài một tiếng rồi trở vào. Mộc Uyển Thanh sắc mặt nhợt lạt, nàng vẫn ngồi yên, không lẩn trốn đi đâu cả. Đoàn Chính Thuần lại bên, cầm hai tay nàng giật đánh “rắc” một tiếng, khớp xương tay trở lại như cũ. Nàng nghĩ thầm: mình đã phóng ám tiễn bắn vợ ông này, không biết bị hành tội cách nào đây? Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần nét mặt thiểu não, uể oải ngồi xuống ghế, nghiêng bình từ từ rót rượu, rồi nốc một hơi cạn cốc, mắt vẫn trân trân nhìn ra phía cửa sổ nơi vợ vừa bỏ đi, tâm trí nghĩ tận đâu đâu. Ông ngồi lầm lì, một lát lại rót cốc rượu khác, nốc ừng ực một hơi hết sạch. Rồi cứ rót rồi lại uống, uống rồi lại rót liên hồi đến mười mấy cốc, rót cực chậm mà uống lại rất nhanh.

Mộc Uyển Thanh thấy trong dạ mỗi lúc một bồn chồn thêm, sau nàng không nhịn được nữa la lên: “Chắc ông đang nghĩ cách gì cực kỳ thảm độc để hành hạ ta, mau mau hạ thủ ngay!”.

Đoàn Chính Thuần quay lại nhìn nàng hồi lâu, rồi tự nói dường như để mình nghe: “Giống quá! Giống quá! Thế mà ta không nhìn ra. Dáng điệu ấy, tính nết ấy!”

Mộc Uyển Thanh nghe lõm bõm không hiểu, hỏi lại: “Ông nói lung tung gì vậy?” Đoàn Chính Thuần không đáp, đột ngột đứng dậy, giơ bàn tay trái ra, quạt xéo về phía sau, gió nổi lên thổi tắt phụt một cây đèn nến ở sau lưng. Ông tiếp tục quạt tay phải chệch sang mé bên kia về phía sau, ngọn đèn thứ hai lại tắt. Cứ kiểu ấy ông quạt một lúc tắt luôn năm ngọn đèn. Mắt ông vẫn hướng về phía trước, bàn tay đưa ra rút về nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi, ung dung tiêu sái.

Mộc Uyển Thanh giật mình hỏi: “Đây là… là Ngũ La Khinh Yên Chưởng. Tại sao ông biết?” Đoàn Chính Thuần vẻ mặt thiểu não, gượng cười hỏi lại: “Sư phụ đã dạy cô chưa?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Sư phụ tôi bảo là môn chưởng pháp đó quyết không truyền cho ai, ngày sau mang xuống tuyền đài.” Đoàn Chính Thuần hỏi lại: “Nàng bảo không truyền cho ai, mai này mang xuống tuyến đài ư?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Vâng! Sư phụ chỉ luyện tập lúc vắng tôi mà thôi. Tôi phải xem trộm đấy chứ.” Đoàn Chính Thuần hỏi: “Nàng một mình vẫn thường luyện pho chưởng pháp này?” Mộc Uyển Thanh gật đầu: “Phải rồi. Mỗi khi sư phụ luyện chưởng pháp này hay mắng chửi tôi. Ông… ông làm sao biết được? Xem ra còn giỏi hơn sư phụ tôi nữa.”

Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói: “Pho Ngũ La Khinh Yên Chưởng này chính ta dạy cho sư phụ cô đó”

Mộc Uyển Thanh giật mình, không thể không tin được vì nàng thấy sư phụ nàng phải quạt hai ba chưởng đèn mới tắt, đâu có được như Đoàn Chính Thuần, quạt một cách dễ như không. Nàng lắp bắp hỏi: “Thế ra ông là sư phụ của sư phụ tôi, là thái sư phụ của tôi sao?”

Đoàn Chính Thuần lắc đầu: “Không phải vậy.” Ông lấy tay chống cằm tự nói một mình: “Mỗi khi nàng luyện chưởng là một lần nổi giận, nàng còn bảo chưởng pháp này không truyền cho ai, ngày sau mang xuống tuyền đài…” Mộc Uyển Thanh lại hỏi: “Thế thì ông…” Đoàn Chính Thuần lắc đầu ngắt lời bảo nàng đừng hỏi nữa. Một lúc sau ông đột ngột hỏi: “Năm nay cô mười tám tuổi rồi nhỉ? Có phải cô sinh vào khoảng tháng chín không?” Mộc Uyển Thanh lấy làm kỳ, giật mình đánh thót một cái hỏi lại: “Ô hay! Sao chuyện gì của tôi ông cũng biết? Ông là thế nào với sư phụ tôi?”

Đoàn Chính Thuần vẻ mặt thống khổ vô cùng, nghẹn ngào nói: “Uyển… Uyển nhi ơi! Ta… nghĩ mà thẹn với sư phụ và con lắm!” Mộc Uyển Thanh nói: “Sao vậy? Tôi coi ông là người hòa nhã, tử tế mà!”

Đoàn Chính Thuần hỏi thêm: “Sư phụ con không nói tên thực cho con nghe sao?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Sư phụ tôi bảo rằng tên bà ta là U Cốc Khách, còn tên gì họ gì tôi cũng không biết.” Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm: “U Cốc Khách! U Cốc Khách…” Ông chợt nhớ đến bài thơ Giai nhân của Đỗ Phủ, từng chữ từng chữ như đâm vào tim… “Năm xưa có giai nhân, Náu mình nơi thâm cốc. Dòng thế phiệt trâm anh, Lênh đênh như thảo mộc… Chồng bạc bẽo vô tình, Nạp thiếp xinh như ngọc, Chỉ thấy người mới cười, Nào nghe người cũ khóc.” (Tuyệt đại hữu giai nhân, U cư tại thâm cốc, Tự vân lương gia tử, Linh lạc y thảo mộc… Phu tế khinh bạc nhi, Tân nhân mỹ như ngọc. Đản kiến tân nhân tiếu, Na văn cựu nhân khốc…).

Một hồi sau, ông lại hỏi: “Bấy lâu nay sư phụ con đâu? Sinh sống thế nào?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Tôi và sư phụ ở tại một sơn cốc, mé sau một trái núi cao chót vót không ai biết tới, thành thử sư phụ mới tự gọi mình là U Cốc Khách, tới bây giờ thầy trò mới ra khỏi cốc.” Đoàn Chính Thuần hỏi thêm: “Thế cha mẹ con là ai? Có nghe sư phụ nói tới không?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Sư phụ nói rằng tôi là một đứa con hoang bị bỏ rơi, người thấy ở bên đường, nhặt về nuôi cho đến lúc khôn lớn.” Đoàn Chính Thuần gặng thêm: “Thế con có hận cha mẹ con không?” Mộc Uyển Thanh nghiêng đầu, cắn ngón tay ngẫm nghĩ.

Cử chỉ ngây thơ này khiến Đoàn Chính Thuần trông thấy đau lòng, nước mắt ứa ra, lăn xuống má hai giọt. Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ hỏi: “Sao ông lại khóc?” Đoàn Chính Thuần quay ra đằng sau, lau ráo nước mắt rồi gượng cười đáp: “Ta có khóc đâu? Hôm nay uống nhiều rượu quá, rượu bốc hơi lên đấy chứ!” Mộc Uyển Thanh cãi: “Rõ ràng tôi trông thấy ông khóc mà! Chỉ có đàn bà con gái mới khóc chứ, đàn ông con trai cũng khóc nữa hay sao? Tôi chưa từng thấy đàn ông khóc bao giờ, trừ phi là con nít.”

Đoàn Chính Thuần thấy Mộc Uyển Thanh ngây thơ không hiểu việc đời lại càng xót dạ nói: “Uyển nhi ơi! Ta sẽ đối đãi với con hết lòng từ ái để bù lại những điều lầm lỗi trước. Con muốn điều chi, cứ nói cho ta nghe, ta sẽ ráng làm cho con được vừa lòng.”

Từ lúc bắn Đoàn phu nhân, Mộc Uyển Thanh lo lắng vô cùng, giờ nghe Đoàn Chính Thuần ôn tồn nói vậy, nàng mừng quýnh hỏi: “Tôi vừa phỏng ám tiễn định sát hại phu nhân mà ông không oán trách gì sao?” Đoàn Chính Thuần nói: “Ta cũng nghĩ như con: Ơn thầy sâu nặng, lệnh thầy phải theo. Chuyện của đời trước, không can gì đến con. Ta không giận con đâu, có điều từ đây sắp tới con đừng vô lễ với phu nhân nữa nhé!” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Thế sau này sư phụ hỏi thì biết nói thế nào?” Đoàn Chính Thuận nói: “Con dẫn ta về ra mắt sư phụ, để ta giải thích giùm con.” Mộc Uyển Thanh vỗ tay reo lên: “Thế thì hay lắm.” Rồi nàng lại chau mày nói: “Nhưng sư phụ thường bảo tôi rằng phái nam trên đời toàn là phường vô tình bạc nghĩa, người không muốn gặp ai.”

Mặt Đoàn Chính Thuần thoáng vẻ ngạc nhiên hỏi: “Sư phụ con không tiếp đàn ông ư?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Đúng thế! Mỗi khi cần mua gạo mua muối, sư phụ đều sai Lương a bà đi. Một hôm mụ đau, bảo con trai đi mua thay đem đến. Sư phụ tôi giận lắm bắt y để xa xa ngoài cửa chứ không cho vào nhà.”

Đoàn Chính Thuần thở dài nói: “Hồng Miên, Hồng Miên… Sao nàng tự mình làm khổ mình đến thế?” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Ông lại nói đến Hồng Miên rồi. Hồng Miên là ai vậy?” Đoàn Chính Thuần lưỡng lự một lúc rồi nói: “Việc này không thể giấu con mãi được. Sư phụ con chính tên là Tần Hồng Miên, ngoại hiệu là Tu La Đao đó.” Mộc Uyển Thanh gật đầu nói: “Thảo nào lúc phu nhân thấy tôi vẫy tay phóng tên, cứ ngơ ngác hỏi tôi: Tần Hồng Miên đối với cô là thế nào? Lúc đó thực tình tôi chưa biết, chứ có phải tôi nói dối phu nhân đâu? Thế ra sư phụ tôi là Tần Hồng Miên, cái tên hay quá nhỉ? Sao sư phụ lại không cho tôi hay?”

Đoàn Chính Thuần hỏi thêm: “Vừa nãy ta bẻ sái tay con, bây giờ còn đau không?” Mộc Uyển Thanh thấy ông thần sắc ôn hòa từ ái, mỉm cười nói: “Đỡ nhiều lắm rồi. Thôi mình đi xem… xem chàng đã khỏe chưa? Tôi sợ chất độc trên mũi tên chưa hết hẳn.” Đoàn Chính Thuần đứng lên nói: “Hay lắm!” Ông tiếp: “Con muốn điều gì cứ nói ta nghe!”

Mộc Uyển Thanh mặt đỏ như gấc, thẹn thò hạ thấp giọng: “Con chỉ sợ… đã bắn phu nhân, người… người giận…” Đoàn Chính Thuần nói: “Thong thả rồi sẽ xin lỗi, sau này chắc người cũng bỏ qua.” Mộc Uyển Thanh nói: “Con chưa từng xin lỗi ai bao giờ cả, nhưng nay vì Đoàn lang mà phải năn nỉ bà ấy cũng không sao.” Đột nhiên nàng thu hết dũng khí nói: “Trấn Nam Vương, con nói tâm nguyện của con ra, ông… ông thực sự giúp con hoàn thành chứ?”

Đoàn Chính Thuần đáp: “Điều gì ta có thể làm được, nhất định không từ chối.” Mộc Uyển Thanh hỏi thêm: “Ông không nuốt lời đấy chứ?” Đoàn Chính Thuần mỉm cười, lại gần bên vuốt tóc nàng, tia mắt tràn trề vẻ từ ái nói: “Ta dĩ nhiên không nuốt lời đâu.” Mộc Uyển Thanh nói: “Việc hôn nhân của con và Đoàn lang xin ông tác chủ cho, đừng để chàng phụ bạc nhé!” Nàng nói xong mặt nóng bừng bừng.

Sắc mặt Đoàn Chính Thuần mỗi lúc một tái đi, từ từ rời Mộc Uyển Thanh, ngồi phịch xuống ghế lâu lắm không nói nên lời. Mộc Uyển Thanh thấy tình thế có vẻ không ổn, ngập ngừng hỏi: “Ông… ông không bằng lòng ư?” Đoàn Chính Thuận nói: “Con không thể kết hôn cùng Dự nhi được!” Giọng ông nghẹn ngào nhưng quả quyết, Mộc Uyển Thanh như bị một gáo nước lạnh dội vào người, run run hỏi: “Sao lại thế? Ông… chính miệng nói bằng lòng giúp con mà.” Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm: “Oan nghiệt! Oan nghiệt!” Mộc Uyển Thanh tiếp: “Nếu chàng không chịu lấy con… con… sẽ giết chàng rồi tự sát. Con… con đã lập trọng thệ với sư phụ rồi.” Đoàn Chính Thuần chầm chậm lắc đầu, nói: “Không được!” Mộc Uyển Thanh hấp tấp nói: “Để con đi hỏi chàng xem, vì cớ gì mà không được?” Đoàn Chính Thuần đáp: “Dự nhi… chính nó… cũng không biết.” Ông thấy Mộc Uyển Thanh thần sắc thê lương, giống hệt Tần Hồng Miên hồi được tin buồn mười tám năm về trước, ông cầm lòng không đậu buột mồm nói: “Con không thể kết hôn cùng Dự nhi mà cũng không thể giết nó được.” Mộc Uyển Thanh ngơ ngác hỏi: “Sao vậy?” Đoàn Chính Thuần đáp: “Vì… vì Đoàn Dự là… là… anh ruột con”.

Mộc Uyển Thanh tưởng mình nghe không rõ, hãi hùng giương mắt lên nhìn Đoàn Chính Thuần run run hỏi: “Sao? Ông nói sao? Đoàn lang là ca ca tôi?” Đoàn Chính Thuần buồn rầu nói: “Uyển nhi! Con có biết sư phụ con là ai không? Người là mẹ ruột con đó. Ta… ta đây là cha ruột con.”

Mộc Uyển Thanh vừa kinh khủng vừa oán hận, sắc mặt tái mét lắp bắp: “Tôi… tôi không… không thể tin được.”

Bất thình lình, ngoài cửa sổ có tiếng thở dài sườn sượt, kế đến giọng ảm đạm của một người đàn bà nói vọng vào: “Uyển nhi! Mình về đi thôi.” Mộc Uyển Thanh quay phắt lại kêu lên: “Sư phụ!” Một tiếng kẹt, cánh cửa sổ mở ra, một người đàn bà trung niên đứng bên ngoài, mặt trái xoan, lông mày dài, nhan sắc cực kỳ khả ái, có điều ánh mắt ba phần dữ tợn, ba phần ngang bướng.

Đoàn Chính Thuận thấy tình nhân cũ là Tu la đao Tần Hồng Miên đột ngột xuất hiện, phần thì ngạc nhiên, phần lại hoan hỉ lên tiếng gọi: “Hồng Miên! Hồng Miên! Bao nhiêu năm nay, ta… ta nhớ nàng biết chừng nào.”

Tần Hồng Miên gọi: “Uyển nhi ra đây! Đừng ở trong nhà con người bạc hạnh ấy một khắc nào nữa!”

Mộc Uyển Thanh thấy tình trạng giữa Đoàn Chính Thuần cùng sư phụ nàng mà lòng nguội lạnh, nàng nói: “Sư phụ ơi! Ông… ông này gạt con bảo sư phụ là mẹ, còn ông ta là gia gia con đó.” Tần Hồng Miên nói: “Mẹ con mất sớm mà gia gia con cũng chết rồi.”

Đoàn Chính Thuần bước ra cửa sổ ôn tồn nói: “Hồng Miên nàng ơi! Nàng hãy vào đây để tôi được nhìn mặt nàng một lúc đã. Từ đây nàng đừng đi đâu nữa, đôi ta vĩnh viễn sống bên nhau.” Ánh mắt Tân Hồng Miên đột nhiên rạng rỡ, vui mừng hỏi: “Chàng bảo từ nay mình vĩnh viễn bên nhau, có thật thế không?” Đoàn Chính Thuần đáp: “Thật chứ! Hồng Miên, chẳng ngày nào ta không tưởng nhớ nàng.” Tần Hồng Miên hỏi thêm: “Chàng có bỏ được Đao Bạch Phượng không?” Đoàn Chính Thuần ngần ngừ không đáp, vẻ mặt đăm chiêu. Tần Hồng Miên lại tiếp: “Nếu chàng còn thương tới Uyển nhi thì hãy đi với thiếp. Vĩnh viễn không nghĩ đến Đao Bạch Phượng, vĩnh viễn không trở về đây nữa.”

Mộc Uyển Thanh nghe hai người đối đáp, trong lòng mỗi lúc một thêm thất vọng, nước mắt đoanh tròng, chỉ thấy hình bóng của sư phụ và Đoàn Chính Thuần đều nhòe đi. Nàng biết hai người trước mặt quả đích thực là cha mẹ mình, dẫu không muốn tin cũng không được. Mấy hôm nay nàng mang nặng mối tình với Đoàn lang thì chàng lại là người anh cùng cha khác mẹ với mình. Nào đâu uyên ương liền cánh, nào đâu bách niên giai lão, mới trong giây phút đã biến thành mây bay khói tỏa.

Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói: “Có điều ta là Trấn Nam Vương của Đại Lý, nắm hết mọi việc cơ yếu văn võ trong tay, dễ gì một chốc bỏ đi ngay được?” Tần Hồng Miên hậm hực nói: “Mười tám năm trước chàng đã nói thế rồi, nay mười tám năm sau cũng lại một câu đó. Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần! Chẳng qua ông chỉ là kẻ bạc hạnh vô nghì. Tôi… tôi uất hận vô cùng!”

Bất thình lình trên nóc nhà phía đông vang lên ba tiếng vỗ tay, rồi bên nóc nhà mé tây có tiếng vỗ tay đáp lại. Đồng thời có tiếng Cao Thăng Thái và Chử Vạn Lý cùng hô lên: “Có thích khách! Có thích khách! Các anh em ở đâu yên đó, không được vọng động.”

Tần Hồng Miên quát lên: “Uyển nhi, con còn đợi gì chưa ra?” Mộc Uyển Thanh dạ một tiếng, phi thân ca ngoài cửa sổ, nhảy vọt vào lòng người vừa là ân sư vừa là từ mẫu.

Đoàn Chính Thuần gọi với: “Hồng Miên! Nàng bỏ ta mà đi thực hay sao?” Giọng nói của ông thê lương đau đớn biết chừng nào.

Giọng Tân Hồng Miên đột nhiên trở lại dịu dàng: “Thuần ca, chàng đã làm vương gia mấy chục năm rồi, chưa đủ hay sao? Chàng theo thiếp đi, từ nay về sau, chàng bảo sao thiếp nghe vậy, không dám nói nặng chàng nửa câu, không dám đánh chàng nửa cái. Đứa con gái khả ái thế này, chẳng lẽ chàng không thương nó hay sao?” Đoàn Chính Thuần trong lòng cảm động, nhảy vọt ra nói: “Được, ta theo nàng.” Tần Hồng Miên cả mừng, đưa tay phải cho Đoàn Chính Thuần nắm lấy.

Bất thình lình phía sau có tiếng người đàn bà lạnh lùng vang lên: “Sư tỉ, chị… chị lại vào tròng của y rồi. Y chỉ ôm ấp chị vài ngày, rồi lại trở về với chức vương gia!” Đoàn Chính Thuần run lên nói: “Bảo Bảo, chính nàng rồi. Nàng cũng đến ư?”

Mộc Uyển Thanh ngoảnh ra thấy người đàn bà vừa nói mặc áo lụa xanh, rõ ràng là Chung phu nhân trong hang Vạn Kiếp, sư thúc Tiếu dược xoa Cam Bảo Bảo của mình. Đằng sau bà ta có bốn người, một người là Diệp Nhị Nương, một người là Vân Trung Hạc, người thứ ba đã đi rồi giờ quay lại là Nam Hải Ngạc Thần, nhưng người thứ tư mới khiến nàng hoảng hốt, chính là Đoàn Dự. Bàn tay Nam Hải Ngạc Thần cầm ngay cổ chàng, tưởng như lúc nào cũng có thể lách cách một tiếng bẻ gãy ngay lập tức. Mộc Uyển Thanh kêu lên: “Đoàn lang, chàng có sao không?”

Đoàn Dự bị thương nằm trên giường, còn đang mơ màng thì Nam Hải Ngạc Thần sấn vào phòng ôm lấy đem ra. Chàng vốn không bị trúng độc, mũi tên của Mộc Uyển Thanh có độc là ở thuốc tẩm chứ vết thương nhỏ xíu có đáng gì đâu. Chàng kinh hãi liền tỉnh dậy, đứng bên ngoài nghe ba người: phụ thân chàng, Mộc Uyển Thanh và Tần Hồng Miên nói chuyện với nhau bên cửa sổ. Mười phần câu chuyện chàng đã hiểu đến tám chín. Bây giờ chàng thấy Mộc Uyển Thanh vẫn gọi mình bằng Đoàn lang thì trong lòng chua xót đáp: “Muội tử, từ đây trở đi, mình tương thân tương ái, là anh em ruột thịt.”

Mộc Uyển Thanh bực tức đáp: “Không, không phải như thế. Chàng là người đàn ông đầu tiên nhìn thấy mặt em.” Nàng bỗng nghĩ tới mình và Đoàn Dự cũng đều là con của Đoàn Chính Thuần, anh trai em gái làm sao lấy nhau được? Giả tỷ trên đời có bàn tay người ngăn trở việc hôn nhân của hai người thì bất luận là ai, nàng cũng phóng ám tiễn giết ngay. Nhưng đằng này không phải là người mà là lão tặc thiên ngăn cản, thì dù nàng bản lãnh tuyệt vời hay quyền thế đến đâu cũng không thể nào vãn hồi lại được. Nàng càng nghĩ càng chán ngán, lòng lạnh như tro tàn, bỗng hai chân dậm một cái nhảy vọt ra ngoài.

Tần Hồng Miên vội kêu: “Uyển nhi! Con đi đâu thế?” Mộc Uyển Thanh chẳng thèm đoái hoài đến cả sư phụ hay mẫu thân nữa, chỉ buông thõng một câu: “Bà đã làm khổ cả đời tôi rồi! Để mặc tôi đi!” Nàng đi thẳng một lèo không quay đầu lại.

Một tên vệ sĩ giang tay ra ngăn lại hỏi: “Ai?” Mộc Uyển Thanh bắn tên độc ra, trúng ngay yết hầu tên lính. Chân nàng không chậm lại chút nào, trong khoảnh khắc đã tan biến vào trong bóng đêm.

Đoàn Chính Thuần thấy con trai mình đang bị giữ, đành bỏ mặc con gái đi đâu thì đi, vội đưa ngón tay về phía Nam Hải Ngạc Thần điểm tới. Diệp Nhị Nương thấy vậy, phóng bàn tay mềm mại ra chặn ngang cổ tay Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần xoay tay lại, móc lấy tay mụ. Mụ cười khanh khách, ngón tay giữa búng ngay vào lưng bàn tay đối phương. Chỉ nháy mắt hai người đã trao đổi ba chiêu, Đoàn Chính Thuần cả kinh nghĩ thầm: “Mụ này gớm thật!”

Tần Hồng Miên thừa cơ thò tay ra nắm đầu Đoàn Dự lớn tiếng hỏi: “Đoàn Chính Thuần! Chàng muốn thằng con này sống hay chết?” Đoàn Chính Thuần đành phải dừng tay vì biết Tần Hồng Miên tính tình hung hãn, lại đang căm hận thấu xương người vợ chính thức mình là Đao Bạch Phượng. Nàng chỉ vận kình một cái là Đoàn Dự phải chết. Ông vội đấu dịu: “Hồng Miên nàng ơi! Thằng nhỏ này vừa bị con gái nàng phóng trúng tên độc, thương thế không phải nhẹ!” Tần Hồng Miền đáp: “Nó đã uống giải dược rồi, không chết đâu. Tôi tạm đem nó đi, thử xem chàng muốn làm vương gia hay muốn con toàn mạng.” Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả nói: “Thằng nhỏ này không thờ ta làm thầy không xong.” Đoàn Chính Thuần hấp tấp nói: “Hồng Miên, nàng buông con ta ra, rồi bảo sao ta nghe vậy.”

Tần Hồng Miên tuy đã xa cách Đoàn Chính Thuần mười tám năm nhưng mối tình không vì thế mà phai nhạt. Nghe Đoàn Chính Thuần nói vậy lòng nàng mềm nhũn ra, hỏi lại: “Chàng nói thật chăng? Thiếp bảo gì chàng cũng nghe nhé!” Đoàn Chính Thuần đáp: “Ta nói thật đấy!” Chung phu nhân vội xen vào: “Sư tỉ ơi! Chị còn tin lời gã bạc tình đó nữa sao? Nhạc nhị tiên sinh, chúng ta về thôi!”

Nam Hải Ngạc Thần ẵm Đoàn Dự nhảy vọt lên mái nhà phía trước mặt. Tiếp theo là tiếng huỳnh huỵch, Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã đánh hai tên vệ sĩ ngã lăn xuống đất. Chung phu nhân trêu chọc: “Đoàn Chính Thuần! Hôm nay sao không choảng nhau một mẻ?”

Đoàn Chính Thuần tuy biết lực lượng trong vương phủ hùng hậu vị tất đã không giữ được đối phương, nhưng con mình bị chúng bắt, lâm vào tình thế “ném chuột sợ vỡ bình” khó bề đem võ lực ra để thủ thắng. Huống chi hai vị sư tỉ sư muội này lại từng có quan hệ mật thiết với mình nên ông dịu dàng bảo Chung phu nhân: “Bảo Bảo, nàng… nàng cũng làm khó dễ ta sao?” Chung phu nhân đáp: “Nay ta đã là vợ Chung Vạn Cừu, ông đừng gọi lăng nhăng như thế được không?” Đoàn Chính Thuần tiếp: “Bảo Bảo, nàng có biết bấy lâu nay ta vẫn tưởng nhớ nàng không?” Chung phu nhân lại thấy mềm lòng, mắt đỏ lên nói: “Hôm Đoàn công tử đến nhà tôi, tôi nhận ngay ra con chàng, lòng xiết bao trăn trở…” Tần Hồng Miên vội kêu lên: “Sư muội ơi! Sao muội lại nghe lời đường mật của con người ấy?” Chung phu nhân cầm tay Tân Hồng Miên nói: “Phải đó! Chúng ta đi thôi!” Đoạn quay lại bảo Đoàn Chính Thuần: “Ông bưng thủ cấp con tiện nhân Đao Bạch Phượng vừa đi vừa lạy, đến Vạn Kiếp Cốc bọn tôi sẽ trao trả thằng con cho ông.”

Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm: “Vạn Kiếp Cốc”. Nam Hải Ngạc Thần đã ôm Đoàn Dự chạy mỗi lúc một xa. Cao Thăng Thái và bọn Chử Vạn Lý bốn mặt đổ ra ngăn cản. Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói: “Cao hiền đệ! Để bọn chúng đi thôi!” Cao Thăng Thái kêu lên: “Tiểu vương gia…” Đoàn Chính Thuần đáp: “Thủng thẳng rồi sẽ tính.” Vừa nói vừa nhảy vọt đến bên Cao Thăng Thái ra lệnh: “Thích khách đi rồi, tất cả về chỗ cũ.” Thoáng một cái, Đoàn Chính Thuần đã lẹ làng lướt tới bên Chung phu nhân dịu giọng hỏi: “Bảo Bảo, lâu nay nàng có được khỏe không?” Chung phu nhân buông thõng: “Có gì mà không khỏe?” Đoàn Chính Thuần lật tay một cái không nghe một tiếng động đã điểm trúng ngay huyệt Chương Môn ở bên hông bà ta. Chung phu nhân không kịp đề phòng, người mềm nhũn ngã lăn ra. Đoàn Chính Thuần đưa tay trái ra đỡ lấy rồi giả vờ kinh ngạc hỏi: “Chao ôi! Bảo Bảo, nàng… nàng sao thế này?”

Tần Hồng Miên có biết đâu là mưu kế, vội vàng chạy tới, hỏi dồn: “Sư muội, chuyện gì thế?” Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần lại tung ra, trúng ngay huyệt Chương Môn.

Tần Hồng Miên và Chung phu nhân bị điểm huyệt rồi không cựa quậy được nữa, Đoàn Chính Thuần hai tay giữ hai nàng. Hai nàng chẳng ai bảo ai đều trừng mắt lộ vẻ căm giận Đoàn Chính Thuần, tự trách mình: “Sao mình lại hồ đồ thế được? Đời đã bị y lừa, bây giờ đến đối đầu với y cũng không biết đề phòng”.

Đoàn Chính Thuần nói: “Cao hiền đệ! Hiền đệ bị thương chưa khỏi về nghỉ đi thôi! Vạn Lý, ngươi điều động anh em bốn bề phòng vệ cho nghiêm mật!” Cao Thăng Thái và Chử Vạn Lý cúi đầu vâng mệnh.

Đoàn Chính Thuần cắp hai nàng vào trong nhà, rồi truyền cho thị tỳ lại bày bàn tiệc.

Khi gia nhân lui ra cả rồi, Đoàn Chính Thuần lại điểm những huyệt Hoàn Khiêu, Khúc Tuyền trên đùi để hai nàng không đi được nữa, sau đó mới vỗ lưng giải huyệt Chương Môn. Tần Hồng Miện cả giận la lên: “Bữa nay ngươi lại lừa dối, miệt thị hai chị em ta.” Đoàn Chính Thuần quay lại vừa xá dài hai nàng một cái vừa nói: “Tôi tự biết mình có lỗi, vậy xin tạ tội.” Tần Hồng Miên vẫn bực mình nói: “Ai cần ngươi tạ tội? Mau thả bọn ta ra.”

Đoàn Chính Thuần giở giọng tán: “Ba chúng ta xa nhau mười mấy năm trời nay mới được trùng phùng, còn muôn ngàn điều muốn nói. Hồng Miên! Sao cái tính xốc nổi của nàng đến giờ vẫn không giảm được chút nào? Bảo Bảo! Nàng càng lớn tuổi càng xinh đẹp, so với hồi đó xem ra còn trẻ hơn.” Chung phu nhân chưa đáp, Tần Hồng Miền ghen tức nói: “Ngươi buông ta ra ngay! Sư muội ta càng lớn tuổi càng xinh đẹp còn ta đây càng lớn tuổi càng già càng xấu. Ngươi nhìn mặt bà già xấu xí này làm chi?” Đoàn Chính Thuần thở dài: “Hồng Miên! Nàng soi gương mà coi, nếu nàng là bà già xấu xí thì những câu văn tả bậc tuyệt thế giai nhân phải đổi lại thế này: Tư dung cá lặn chim sa, dáng dấp bà già xấu xí”.

Tần Hồng Miên đang giận mà không nín được phải phì cười. Nàng muốn giậm chân kêu lên, nhưng chân đã bị điểm huyệt không nhúc nhích được, bực quá nói: “Ai thèm giễu cợt với ngươi? Cười nói cợt nhả còn gì là thể thống vương gia nữa?” Dưới ánh đèn lung linh, Đoàn Chính Thuần thấy nàng chau đôi mày liễu, nét mặt giận dỗi càng thêm vẻ khả ái thì nhớ lại cái đêm hoan lạc ngày xưa, lửa lòng bốc lên ngùn ngụt, bước lại đặt lên má nàng một cái hôn cháy miệng. Nửa người trên còn cử động được, nàng giơ tay trái lên tát đánh “bốp” một cái vào mặt Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần muốn tránh cái tát đó cũng chẳng khó gì, nhưng cố ý để cho nàng đánh một chưởng, ghé vào tai nàng nói khẽ: “Đao tu la chém chết, làm quỷ cũng phong lưu.”

Toàn thân Tần Hồng Miên run lên, nước mắt trào ra, khóc rưng rức nói: “Sao chàng… chàng còn nhắc lại câu đó?” Nguyên trước kia Tần Hồng Miên sử cặp đao tu la vùng vẫy giang hồ mà có cái ngoại hiệu Tu la đao. Lúc nàng bị thất thân cùng Đoàn Chính Thuần cũng tát ông một cái nổ đom đóm mắt ra. Khi bị tát, Đoàn Chính Thuần đã nói câu “Đao tu la chém chết, làm quỷ cũng phong lưu”. Mười tám năm qua, hai câu “Tu la đao hạ tử, Cố quỉ dã phong lưu” văng vẳng trong đầu nàng không biết bao nhiêu nghìn vạn lần, bây giờ lại nghe chính tác giả thốt ra, trong lòng Tần Hồng Miên vừa vui sướng vừa phẫn nộ, vừa ngọt ngào vừa đắng cay, ngổn ngang trăm mối.

Chung phu nhân hạ giọng nói nhỏ :“Sư tỉ ơi! Thằng cha này lại đem lại đường mật ra nhử, khéo làm người khác vui lòng, chị đừng tin y nữa.” Đoàn Chính Thuần đi đến bên cạnh Chung phu nhân, cười tán: “Bảo Bảo, để ta hôn nàng một cái, nàng có cho phép không?”

Chung phu nhân nghiêm nét mặt đáp: “Ta là gái có chồng, nhất định không để thương tổn đến thanh danh chồng ta. Ngươi ức hiếp ta, ta quyết cắn lưỡi tự tử ngay trước mặt ngươi.”

Đoàn Chính Thuần thấy lời nàng như dao chém đá, không dám trêu cợt nữa, hỏi: “Bảo Bảo, sao nàng lại có thể lấy con người đó làm chồng được?” Chung phu nhân đáp: “Chồng ta hình dạng xấu xa, tính tình gàn dở cộc cằn, võ công không bằng ngươi, tài mạo kém ngươi, vinh hoa phú quý so với người càng không được phần nào. Thế nhưng y một lòng một dạ đối với ta, ta cũng một lòng một dạ với y. Nếu như ta có nửa phần không phải, thì xin trời tru đất diệt Cam Bảo Bảo này, vạn kiếp chẳng được siêu sinh. Để ta nói cho ngươi biết, ta cùng chồng ta ở một nơi gọi là Vạn Kiếp Cốc, cái tên đó cũng là vì lời thề độc mà ra.”.

Đoàn Chính Thuần bất giác đem lòng kính cẩn, không dám nhắc đến tình cũ nghĩa xưa, miệng tuy không nói ra nhưng thấy Cam Bảo Bảo khuôn mặt trắng hồng xinh đẹp như ngày nào, đôi môi đỏ thắm cong cong, trong lòng làm sao quên được chuyện cũ? Ông nghe nàng tiết liệt đối với chồng, lòng không khỏi xót xa, thở dài một tiếng nói: “Bảo Bảo, ta thật không may, không được nàng một lòng một dạ với ta như thế. Vẫn hay… vẫn hay ta là người đến trước, nhưng than ôi, cũng bởi ta không phải mà ra.”

Chung phu nhân nghe ông ta giọng nói thật thê lương, tình ý thật đậm đà, quyết không phải chỉ là lời ngon ngọt dối người, không khỏi rưng rưng cảm thán.

Ba người nhìn nhau, ai cũng nghĩ đến chuyện xưa, đầu mày khóe mắt, lúc thì vui lúc thì buồn. Một hồi sau, Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói: “Các người bắt con ta đi làm gì? Bảo Bảo, Vạn Kiếp Cốc của nàng ở nơi nào?”

Bất thình lình ngoài cửa có tiếng khàn khàn: “Nàng đừng cho y biết!” Đoàn Chính Thuần kinh hãi nghĩ thầm: bọn Chử Vạn Lý ở ngoài phòng vệ cẩn mật là thế, sao lại có người lạ vào được? Chung phu nhân nét mặt rầu rầu hỏi vọng ra: “Vết thương chàng chưa lành, đã đến đây làm chi?” Bỗng lại thấy có tiếng một người đàn bà trong trẻo giục: “Chung tiên sinh! Vào đi!” Đoàn Chính Thuần lại giật mình cả thẹn, mặt đỏ như gấc.

Bỗng thấy màn cửa vén lên, Đao Bạch Phượng mặt mày hầm hầm nhảy vào trước, theo sau là một người đàn ông xấu xí, mặt dài như mặt ngựa…

Thì ra Tần Hồng Miên đi đến Cô Tô hành thích không xong, hai mẹ con lại lạc nhau nên theo đúng ước định xuôi nam về Đại Lý, đến gặp nhau ở nhà sư muội. Nhà họ Vương ở Cô Tô sai bọn Thụy bà bà, Bình bà bà toàn lực đuổi theo Mộc Uyển Thanh nên Tần Hồng Miên trên đường bình an vô sự. Bà ta đến Vạn Kiếp Cốc rồi, hỏi rõ sự tình lập tức cùng Chung phu nhân đi do thám, trên đường gặp bọn Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc. Ba tên ác nhân này chính là do Chung Vạn Cừu mời đến tiếp tay đối phó với Đoàn Chính Thuần nên cho Chung phu nhân hay mọi việc xảy ra. Chuyện đáng xấu hổ của Nam Hải Ngạc Thần phải làm đệ tử Đoàn Dự, lẽ dĩ nhiên y không kể, Tần Hồng Miên được tin Mộc Uyển Thanh bị hãm ở phủ Trấn Nam Vương liền vội vàng chạy tới trước.

Chung Vạn Cừu coi vợ quý hơn cả mạng mình, lại có máu ghen, sau khi Cam Bảo Bảo ra đi y ngồi đứng không yên, lòng nóng như lửa đốt, chẳng kể gì đến vết thương chưa lành, nửa đêm lật đật đi tìm vợ. Đến ngoài phủ Trấn Nam Vương thì vừa gặp Đao Bạch Phượng đang hậm hực đi ra. Hai người oán khí không biết đổ vào ai nên gặp nhau chẳng nói chẳng rằng liền động thủ ngay. Hai bên đấu đến lúc gay go, Đao Bạch Phượng xem chừng không chống nối, đột nhiên có bóng đàn bà áo đen chạy vụt qua, tay ôm mặt khóc nức nở, chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người cùng lên tiếng gọi, Mộc Uyển Thanh chẳng nói chẳng rằng, cắm đầu chạy thẳng.

Chung Vạn Cừu bảo Đoàn phu nhân: “Ta vội đi kiếm vợ ta, không rảnh mà đánh nhau với ngươi.” Đao Bạch Phượng hỏi: “Ngươi đi đâu để tìm vợ?” Chung Vạn Cừu đáp: “Đến nhà tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần chứ đi đâu. Vợ ta mà để y thấy mặt thì hỏng bét.” Đao Bạch Phượng hỏi thêm: “Sao lại hỏng bét?” Chung Vạn Cừu nói: “Thằng đểu này khéo nói lắm, y quen lời đường mật lừa bao nhiêu phụ nữ vào cạm bẫy. Lão gia không giết thằng nhãi mặt trắng này không xong.”

Đao Bạch Phượng nghĩ thầm: “Chính Thuần đã ngoài bốn mươi, râu đầy mặt, sao lại còn là một thằng nhãi mặt trắng được? Thế nhưng y quen thói gió trăng, lời của gã mặt ngựa này cũng đáng đề phòng lắm”. Bà bèn hỏi kỹ tính danh lai lịch vợ Chung Vạn Cừu, ngờ đâu lại chính là Cam Bảo Bảo. Bà vốn biết Tiếu dược xoa Cam Bảo Bảo là một trong những nhân tình cũ của chồng thì máu ghen lại sôi lên, lập tức cùng Chung Vạn Cừu trở lại vương phủ.

Phủ Trấn Nam Vương bốn bề canh gác nghiêm ngặt nhưng vệ sĩ trông thấy Vương phi không dám ngăn trở, thành thử hai người đến bên cạnh mà vẫn chưa một ai lên tiếng báo động. Đoàn Chính Thuần lúc ấy đang cười nói chớt nhả cùng hai sư tỉ muội Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, người thì tát tai người thì cự tuyệt, bên ngoài nghe thấy cả. Đao Bạch Phượng khí tức xông lên tận cổ, còn Chung Vạn Cừu nghe được lời vợ mình kiên quyết thủy chung thì trong lòng khoan khoái vô cùng.

Chung Vạn Cừu chạy đến bên cạnh Cam Bảo Bảo, vừa cao hứng vừa thương xót cứ ôm vợ mà xoay qua xoay lại, luôn mồm nói: “Bảo Bảo, cám ơn nàng, nàng đối với ta thật tốt. Nếu như y dám ức hiếp nàng, ta quyết liều mạng với y.” Một hồi sau y mới nhớ ra là vợ mình bị điểm huyệt liền quay sang nói với Đoàn Chính Thuần: “Mau mau giải khai huyệt đạo cho vợ ta.” Đoàn Chính Thuần nói: “Con trai ta bị các ngươi bắt đi, ngươi quay về thả nó ra, lúc ấy ta sẽ giải cứu tôn phu nhân.”

Chung Vạn Cừu đưa tay vỗ lên sườn vợ, tuy nội công y hùng mạnh thật nhưng thủ pháp Nhất Dương Chỉ nhà họ Đoàn có một không hai, người ngoài không ai có thể giải được. Y vỗ đến lúc trán nổi gân xanh, còn Chung phu nhân bị y vỗ vừa đau vừa nhột, huyệt đạo nơi chân vẫn không mở được chút nào. Chung phu nhân giận dữ nói: “Chàng ngốc ơi, đừng giở xấu ra nữa!” Chung Vạn Cừu vội vàng ngừng tay, bực tức không để đâu cho hết, lớn tiếng quát tháo: “Con mẹ. nó, Đoàn Chính Thuần ngươi có giỏi thì cùng ta đấu ba trăm hiệp.” Y xắn tay áo bộ tịch tưởng như muốn xông lên đánh nhau đến nơi.

Chung phu nhân lạnh lùng nói: “Đoàn Vương gia! Quý công tử bị Nam Hải Ngạc Thần bắt đi, lang quân tôi dẫu có muốn thả, bọn ác nhân kia chưa chắc đã nghe. Vương gia để tôi cùng sư tỷ đây về tìm phương giải cứu. Nếu không cứu ra được thì ít nhất cũng giữ cho công tử bình yên.”

Đoàn Chính Thuần lắc đầu: “Ta không tin được. Chung tiên sinh! Ông hãy quay về đem con tôi đến đây đánh đổi lấy phu nhân.”

Chung Vạn Cừu cả giận to tiếng: “Phủ Trấn Nam Vương của ngươi là ổ hoang dâm vô sỉ, vợ ta để đây sao được?” Đoàn Chính Thuần mặt đỏ lên, quát lớn: “Nếu ngươi còn có một câu vô lễ nữa thì đừng trách Đoàn mỗ không lịch sự.”

Đao Bạch Phượng từ lúc vào nhà chưa nói nửa lời, bây giờ mới cất tiếng: “Ông định giữ hai người đàn bà lại là có ý gì? Vì Dự nhi hay vì ông?” Đoàn Chính Thuần than rằng: “Đến cả bà cũng không tin tôi nữa rồi!” Ông xoay tay một cái, điểm huyệt giải phóng Tần Hồng Miên, rồi lại đến gần Chung phu nhân, giơ tay ra phía sau…

Chung Vạn Cừu lạng người chắn ngang trước mặt vợ, khoát tay nói: “Ngươi là một gã lẳng lơ, đã xâm phạm bao nhiêu vợ con người ta rồi. Vợ ta đây quyết không cho ngươi đụng chạm tới.” Đoàn Chính Thuần nhăn mặt đáp: “Phép điểm huyệt của tại hạ tuy thô sơ nhưng người ngoài không giải cứu được, để lâu thêm nữa hai chân tôn phu nhân sẽ thành cố tật.” Chung Vạn Cừu hầm hầm nói: “Vợ ta như hoa như ngọc lại đang khỏe mạnh, nếu vì thằng giặc mà bị què quặt thì ta quyết đem con thằng giặc ra phân thây muôn đoạn.” Đoàn Chính Thuần cười nói: “Tôi muốn giải huyệt cho tôn phu nhân nhưng tiên sinh lại không cho tôi đụng vào người bà thì biết làm thế nào?” Chung Vạn Cừu không biết trả lời sao, bỗng nhiên y nổi giận đùng đùng, quát to: “Ai bảo người điểm huyệt vợ ta? Hỡi ôi, lúc điểm huyệt mi đã mó vào mình vợ ta rồi. Bây giờ ta cũng sờ vào vợ ngươi để bù lại.” Chung phu nhân nguýt chồng, giận dỗi nói: “Lại ăn nói càn rỡ rồi, không sợ người ta cười cho.” Chung Vạn Cừu đáp: “Cười gì mà cười? Chẳng lẽ ta chịu thua hắn sao?”

Đang lúc cãi nhau huyên náo, chợt thấy tấm rèm vén lên, một người ung dung bước vào, mình mặc áo hoàng bào, mày thanh mắt sáng, ba chòm râu dài. Đó chính là Bảo Định Đế tên gọi Đoàn Chính Minh.

Đoàn Chính Thuần cất tiếng chào: “Hoàng huynh!” Bảo Định Đế gật đầu, hơi nghiêng mình một chút, giơ một ngón tay lên trên không, nhằm vào phía ngực Chung phu nhân. Chung phu nhân thấy đan điền nóng hổi, hai luồng nhiệt khí dẫn xuống chân, tức thì huyết mạch lưu thông đứng lên ngay được.

Chung Vạn Cừu thấy thần kỹ cách không giải huyệt thì kinh dị vô cùng, há hốc miệng ra mà nhìn, không nói lên được câu nào. Nếu mắt không trông thấy, chỉ nghe nói thì ai mà tin được trên đời này lại có công phu cao siêu đến thế.

Đoàn Chính Thuần nói: “Hoàng huynh, Dự nhi bị người ta bắt cóc rồi.” Bảo Định Đế gật đầu, nói: “Thiện Xiển Hầu đã cho ta hay. Thuần đệ, con cháu nhà họ Đoàn nếu lạc vào tay người thì cha mẹ chú bác phải đi cứu lấy đem về, không có lệ giữ người làm con tin.” Đoàn Chính Thuần mặt đỏ lên, đáp lời: “Chính thế.” Mấy câu nói đó của Bảo Định Đế thật quang minh lỗi lạc, biết mình biết người, ý nói: Nếu như mình giữ người để toan đánh đổi chẳng hóa ra làm mất thanh danh của họ Đoàn Đại Lý hay sao? Chúng ta đường đường con vua cháu chúa sao lại mang ra mặc cả với phường dân dã? Ngừng lại giây lát, Bảo Định Đế nhìn Chung Vạn Cừu bảo: “Các vị tùy tiện ra về. Trong ba ngày họ Đoàn sẽ đến Vạn Kiếp Cốc để đòi người.”

Chung Vạn Cừu đáp: “Vạn Kiếp Cốc chúng tôi bí hiểm khó tìm, chưa chắc các người đã kiếm được. Có muốn chúng tôi chỉ vẽ đường đi nước bước chăng?” Y chắc rằng Bảo Định Đế thể nào cũng mở miệng hỏi thăm, lúc ấy mình sẽ không nói để làm khó ông ta một phen.

Nào ngờ Bảo Định Đế không thèm trả lời, phất tay áo một cái ra lệnh: “Tiễn khách.”

Chung Vạn Cừu tính tình nóng nảy nhưng trước mặt vị hoàng đế không giận mà oai này cũng cảm thấy chân tay luống cuống, vừa nghe ông ta nói “tiễn khách” hậm hực nói: “Thôi được, chúng ta đi thôi. Chung mỗ không ưa gì người họ Đoàn, cả họ này chẳng có một ai là người tử tế.” Nét mặt hầm hầm, y dắt vợ đi ra.

Chung phu nhân cũng kéo áo Tần Hồng Miên nói: “Chúng ta về thôi!” Tần Hồng Miên đưa mắt liếc Đoàn Chính Thuần một cái, thấy ông ta mặt lạnh như tiền không nói một lời, trong lòng nàng tê tái, hai mắt đỏ ngầu. Nàng lại trừng mắt hung dữ nhìn Đao Bạch Phượng rồi cúi đầu đi ra. Ba người nhảy vọt lên nóc nhà.

Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái đứng một bên góc nhà khẽ nghiêng mình chào: “Tiễn khách.” Chung Vạn Cừu đứng trên mái ngói nhổ nước miếng đánh toẹt một cái, hằn học nói: “Bọn vờ vịt kia! Các ngươi đều là những quân đạo đức giả, chẳng có đứa nào tử tế hết.” Nói xong, y đề khí nhảy từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, chớp mắt đã qua hết các tòa nhà trong vương phủ. Gần đến bức tường bao quanh, y tung mình nhảy lên, đưa chân đặt xuống đầu tường. Đột nhiên phía trước xuất hiện một người, áo dài đai rộng đứng ngay phía trước. Tưởng ai té ra là Cao Thăng Thái. Ông vừa tiễn Chung Vạn Cừu, không biết làm sao mà không nghe một tiếng động đã vượt qua trước mặt, đứng ngay đúng chỗ y định đặt chân.

Chung Van Cừu đang lơ lửng từ trên không rơi xuống dĩ nhiên không thể lùi lại mà muốn chuyển hướng nhảy ra chỗ khác cũng không được liền quát lên: “Tránh ra!” Y phóng cả hai bàn tay ra nhằm Cao Thăng Thái đánh tới, đinh ninh chưởng lực của mình vỡ đá tan bia, nếu đối phương cứ đứng nguyên chỗ kháng cự sẽ bị hất xuống chân tường. Dù đối phương có ngang sức mình chẳng nữa thì cũng có thể mượn sức để chuyển hướng nhảy qua bên cạnh. Song chưởng của y xem ra đánh trúng ngay ngực Cao Thăng Thái, bỗng nhiên ông ngửa người về phía sau theo thế Thiết Bản Kiều, chỉ có hai chân vẫn dính vào trường, còn toàn thân uốn cong ra ngoài như chiếc cầu lơ lửng giữa khoảng không, để tránh song chưởng Chung Vạn Cừu phóng tới.

Chung Vạn Cừu đánh không trúng than thầm: “Chết rồi”. Người y trượt qua Cao Thăng Thái, chỉ sai dịch nửa phân. Kể ra thì võ công Chung Vạn Cừu chưa chắc đã kém Cao Thăng Thái nhưng vì thất cơ một chút thành ra ngực bụng trống trải để bên địch muốn làm gì thì làm. May mà Cao Thăng Thái không thèm hạ thủ. Chung Vạn Cừu hai chân chạm đất kêu lên: “Hú vía!” Quay lại thấy Chung phu nhân và Tần Hồng Miên hai người nhẹ nhàng vượt tường nhảy qua.

Cao Thăng Thái đứng thẳng người trên mặt tường, cúi người vái chào nói: “Xin miễn thứ không tiễn xa hơn được.”

Chung Vạn Cừu hừ một tiếng, đột nhiên thấy quần tụt xuống, vội vàng đưa tay giữ lại cho khỏi ê mặt, mò tay vào mới hay dây lưng đứt tự bao giờ. Thì ra khi y bay ngang phía trên Cao Thăng Thái, đã bị Cao đưa ngón tay lên bấm đứt dây lưng. Ấy là Cao Thăng Thái không muốn tuyệt tình, nếu ông giơ một ngón tay vào huyệt Đan điền thì Chung Vạn Cừu đã biến thành cái xác không hồn. Y vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ, khạc một cái quay lại nhổ toẹt một cục đờm lên tường, nghe bộp một cái, vừa nhanh vừa mạnh.

***

Mộc Uyển Thanh bàng hoàng nửa mê nửa tỉnh từ phủ Trấn Nam Vương chạy ra. Đoàn vương phi cùng Chung Vạn Cừu vẫy gọi, nàng nghe mà như bỏ ngoài tai, cứ cắm đầu chạy một mạch, trời đất mênh mang nhưng sao không có một chỗ dung thân. Nàng cứ chạy hoài, không biết đã qua bao nhiêu quãng rừng núi hoang vu. Chạy cho đến lúc trời rạng đông thì người nàng mệt nhoài, hai chân bủn rủn, không chịu được nữa, đành phải dừng bước, tựa vào gốc cây than rằng: “Ta còn sống làm gì, thôi chết quách cho xong.”

Trong lòng nàng chứa chất bao nhiêu nỗi oán hờn mà chẳng biết trút lên đầu ai cho phải. Đoàn lang có phụ bạc gì ta đâu? Vì chàng là anh em cùng cha khác mẹ với ta, nên nỗi lỡ làng duyên kiếp. Sư phụ hóa ra chính là mẹ ruột, mười mấy năm trời phải chịu bao nhiêu nỗi cay đắng để nuôi nấng cho ta trưởng thành. Ơn đức trời biển chưa đền, dám đâu oán hận? Trấn Nam Vương hóa ra là cha ta, dù người đối với mẫu thân ta có lỗi nhưng biết đâu bên trong còn điều uẩn khúc? Người đối với ta vẻ mặt ôn hòa, đầy lòng từ ái, hỏi ta muốn điều gì sẽ hết sức làm cho được như nguyện để đền bù mười mấy năm qua đã không săn sóc tới. Thế nhưng điều ta muốn đâu phải ở sức người mà xong. Mẹ ta không được cùng cha ta nên vợ nên chồng, chắc cũng tại Đao Bạch Phượng bên trong lời ong tiếng ve nên mới sai ta giết bà ta. Nhưng ví thử ta cùng Đoàn lang vẹn mối lương duyên, dễ nào ta chịu để yên cho một người thứ hai nào đến tranh cướp hạnh phúc? Huống chi bà đã bỏ nhà đi tu thì hẳn trong lòng cũng uất hận phụ thân mà đau khổ vô cùng rồi. Ở ngoài Ngọc Hư Quan ta bắn bà ấy hai mũi tên, bà ấy không nổi giận, trong vương phủ bắn thêm hai mũi tên nữa khiến đứa con yêu quý của bà ta suýt chết, thế mà bà không thù oán ta thì bà đâu có phải là người độc ác.

Nàng nghĩ nhiều lắm, càng nghĩ càng tê tái lòng rồi tự nhủ: “Ta phải quên hẳn Đoàn lang, từ đây không nghĩ gì đến chàng nữa”. Nói vậy thì nói chứ đâu phải chuyện dễ dàng? Muốn quên chàng trong giây phút cũng không xong. Mỗi lúc tưởng đến hình ảnh khôi ngô tuấn tú của Đoàn Dự lòng nàng lại đau nhói lên như bị đánh một quyền vào giữa ngực. Sau nàng tìm lời giải thích rồi tự an ủi: “Thôi từ đây ta nhìn nhận chàng như một hảo ca ca thân ái là xong. Trước ta tủi phận mồ côi, không cha không mẹ, nay được đủ cả cha lẫn mẹ lại thêm người anh tử tế, thật còn gì sung sướng hơn, vậy mà ta còn mua não chuốc sầu thì thật là điên rồ”.

Khốn nỗi con người đã vướng mắc lưới tình, tơ tình tuy mỏng manh mà càng rút càng chặt. Khi ở trên núi Vô Lượng ròng rã bảy đêm ngày, nàng trông ngóng Đoàn Dự đã mòn con mắt, rễ tình đã ăn sâu vào tâm khảm, làm sao có thể một sớm một chiều nhổ lên được.

Tiếng nước chảy ào ào gầm thét từ xa, vọng tới khiến cho Mộc Uyển Thanh càng tuyệt vọng, đột nhiên nàng muốn tìm cái chết. Nàng vòng qua một ngọn núi thấy dòng sông Lan Thương đang cuồn cuộn chảy dưới chân, liền dừng chân lẩm bẩm: “Ta nhảy xuống đây là sạch hết mọi điều phiền não”.

Nàng men theo triền núi đến bên bờ sông, ánh triều dương chiếu trên dòng nước xanh như ngọc bích thành muôn ngàn con rắn vàng đang nhảy múa, cảnh sắc trước mặt cực kỳ mỹ lệ, nếu như nhảy một cái thì bao nhiêu cảnh sắc đẹp đẽ kia sẽ không còn bao giờ thấy nữa.

Nàng đang đứng trơ như phỗng, bao nhiêu ý nghĩ nổi lên cuồn cuộn, bỗng thấy một người ngồi trên phiến đá cách đó chừng vài chục trượng. Người này ngồi như pho tượng, không nhúc nhích, mình mặc áo bào màu xanh lẫn với mầu đá núi. Vì thế mà người đó đã đến ngồi từ bao giờ nàng không hay biết.

Mộc Uyển Thanh nhìn hồi lâu, trong bụng nghĩ thầm: “Dường như là một cái tử thi”. Từng giết người như ngóe nên đối với xác chết, nàng chẳng chút ghê rợn. Tính hiếu kỳ thúc đẩy nàng lại gần xem thì ra một ông già, râu chùng đến ngực, sợi nào cũng đen nhánh, mắt mở thao láo, chăm chú nhìn dòng nước không hề chớp mắt.

Mộc Uyển Thanh buột miệng: “Thì ra không phải là xác chết.” Nàng nhìn một lúc nữa, thấy cả con người lão vẫn trơ trơ, mắt vẫn đờ ra như không có hào quang, rõ ràng không phải người sống. Nàng liền nói: “Quả đúng là người chết.”

Nhìn lại thấy mắt tử thi dường như có chút tinh thần, sắc mặt còn hơi tươi. Nàng để tay lên mũi thấy hơi thở như có như không. Nàng lại sờ vào mặt vào cổ, thấy lúc lạnh lúc ấm, để tay lên ngực thấy trái tim lúc đập lúc ngừng. Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ lẩm bẩm: “Con người này thật là quái dị, bảo y là xác chết thì dường như y còn sống, bảo y là người sống thì lại hình như là kẻ chết rồi.”

Bất thình lình có tiếng người nói: “Ta vẫn sống đây mà.” Mộc Uyển Thanh giật mình quay đầu nhìn lại phía sau thì chẳng thấy ai. Bãi sông bát ngát toàn sỏi đá, không có chỗ nào ẩn núp được. Nàng vẫn chăm chú nhìn con người kỳ quái đó cho đến lúc có tiếng vọng lên, cũng chẳng thấy y há miệng, nhếch môi. Nàng lớn tiếng hỏi: “Kẻ nào dám cả gan trêu chọc cô nương đó? Không muốn sống hay sao?” Nàng lùi lại hai bước, quay lưng về phía dòng sông, mắt nhìn chung quanh.

Lại nghe giọng kia nói tiếp: “Ta quả là không muốn sống.” Mộc Uyển Thanh bấy giờ kinh hãi không biết để đâu cho hết, trước mắt chỉ có quái nhân kia nhưng đôi môi y mím chặt có thấy động đậy gì đâu, không thể nào là y nói được. Nàng cao giọng quát lên: “Ai nói đó?” Vẫn có tiếng đáp lại: “Mi nói đó chứ ai?” Nàng tức quá, hỏi gay gắt: “Nhưng kẻ nói với ta là người nào?” Có tiếng đáp: “Chả có người nào nói với mi hết.” Mộc Uyển Thanh quay người nhìn chung quanh mấy bận, ngoài cái bóng của chính nàng ra đâu có ai khác.

Nàng liệu chừng chính người áo xanh kia giở trò quái dị nên đến gần, thu hết can đảm đưa tay bịt mồm ông ta lại, hỏi: “Phải ông nói chuyện với tôi chăng?” Tiếng nói kia đáp: “Không phải.” Bàn tay Mộc Uyển Thanh không thấy động đậy chút nào, nàng lại hỏi: “Rõ ràng có tiếng đáp lời ta, sao lại bảo không có?” Tiếng nói kia đáp: “Ta không phải là người, ta cũng chẳng phải là ta. Trên đời này không có ta nữa.”

Mộc Uyển Thanh sợ nổi gai ốc. Nàng tự nghĩ: “Chẳng lẽ ma quỷ trêu mình?”, rồi hỏi: “Ông… Ông là ma quỷ chăng?” Tiếng nói kia đáp: “Mi đã không muốn sống nữa thì rồi sẽ thành ma quỷ, sao còn sợ ma quỷ?” Mộc Uyển Thanh cố gượng đáp: “Ai bảo ta sợ ma quỷ? Này ta bảo: đến trời đất ta còn không sợ nữa là…”

Tiếng nói kia đáp: “Thế mà mi đang sợ một điều.” Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng: “Ta chẳng sợ gì cả.” Tiếng nói kia đáp: “Có một thứ người sợ, sợ lắm. Mi đang sợ… lang quân mi biến thành ca ca mi.”

Câu đó chẳng khác gì nhát búa bổ xuống đầu nàng. Hai chân mềm nhũn, nàng ngồi bệt xuống đất, miệng há hốc ra lẩm bẩm: “Mi là quỷ, rõ ràng mi là quỷ!” Tiếng nói kia tiếp: “Ta có phép làm cho Đoàn Dự không phải là ca ca mi nữa mà biến thành lang quân mi.” Mộc Uyển Thanh run run nói: “Mi… mi đừng bịp ta nữa! Đây là chuyện ông trời đã định, thay đổi… thay đổi thế nào được.” Tiếng nói kia lại tiếp: “Lão tặc thiện đáng chết, hay sinh chuyện rắc rối. Ta không lý gì đến lão nữa. Ta thực có phép mầu, làm cho anh mi biến thành ra chồng mi được, mi có muốn thế không?

Mộc Uyển Thanh đang lúc tuyệt vọng, lòng lạnh như tro tàn, nghe nói câu đó chẳng khác chi trời ban chiếu chỉ. Dù nàng bán tín bán nghi nhưng cũng đáp: “Tôi muốn chứ!” Tiếng nói kia không còn nghe tiếp nữa.

Một lúc sau, Mộc Uyển Thanh hỏi: “Thế ông là ai vậy? Có thể cho tôi xem hình dáng được không?”

Tiếng nói kia trả lời: “Mi nhìn ta mãi từ nãy đến giờ chưa đủ hay sao?” Tiếng người đó nói cứ đều đều, không lên cao, xuống thấp, hay tiếng to tiếng nhỏ. Mộc Uyển Thanh nói: “Ông… ông là… người ngồi đó sao?” Đáp: “Ta cũng không biết ta có phải là ta nữa không?” Sau có tiếng thở dài thườn thượt tỏ ra trong lòng có điều chi đau đớn, uất ức vô cùng.

Mộc Uyển Thanh không ngờ gì nữa, đúng là ông già mặc áo xanh ngồi ngay trước mặt, liền hỏi: “Ông nói mà sao môi không mấp máy?” Tiếng nói kia đáp: “Ta là người chết rồi mà còn sống, môi miệng cứng đờ không cử động được nữa, tiếng nói chỉ ở trong bụng phát ra mà thôi.”

Mộc Uyển Thanh tuy không còn nhỏ nhưng vẫn còn tính trẻ con, nàng vừa mới thảm sầu là thế, giờ nghe lão nói không mở miệng máy môi, nàng lấy làm thú vị hỏi: “Dùng bụng cũng nói chuyện được sao? Thật là kỳ lạ!” Người áo xanh nói: “Mi sờ vào bụng ta xem thì biết.” Mộc Uyển Thanh giơ tay để lên bụng người nọ, người áo xanh nói: “Bụng ta rung động người cảm thấy chăng?” Mộc Uyển Thanh thấy da bụng lão động đậy dưới lòng bàn tay nàng thì buồn cười nói: “Ha ha, thật là cổ quái!” Nguyên lão áo xanh luyện được môn Phúc ngữ thuật, những người làm trò hát rong cũng nhiều người biết nhưng muốn nói cho được rõ ràng thật không phải dễ, không có nội công thâm hậu thì không sao làm được.

Mộc Uyển Thanh đi vòng quanh người lão xem kỹ rồi hỏi: “Mồm miệng ông không cử động được thì ông ăn uống bằng cách nào?” Lão đưa hai tay ra, một tay vạch môi trên, một tay giữ môi dưới cho miệng há ra, đoạn để hai ngón tay trái chống lên, còn tay phải bỏ cái gì đó vào mồm, nghe trệu trạo mấy tiếng rồi nuốt xuống. Lão nói: “Ta ăn như vậy đó.” Mộc Uyển Thanh thở dài: “Ôi, ông tội nghiệp quá, ăn như vậy thì còn biết mùi vị gì nữa?” Bấy giờ nàng mới hiểu rằng da thịt trên mặt y cứng đơ, mi mắt không nhắm lại được nên không tỏ ra buồn vui giận ghét, lúc mới trông ai cũng tưởng lão là cái xác chết.

Tuy nàng không còn sợ hãi nữa nhưng chợt nghĩ ra chính lão còn có bao nhiêu nỗi cay đắng giải quyết chưa xong, còn nói chi đến chuyện phản lại lề luật tạo hóa để biến anh ruột thành chồng mình được? Những câu lão vừa nói chẳng qua là chuyện bâng quơ mà thôi. Nàng trầm ngâm rồi thở dài, quay mình lặng lẽ bỏ đi. Tiếng nói kia lại vọng tới: “Ta muốn biến Đoàn Dự thành chồng mi, mi không bỏ đi được.” Mộc Uyển Thanh cười nhạt rồi cứ đi về phía tây. Được vài bước nàng dừng lại hỏi: “Tôi với ông chưa từng quen biết, sao ông lại hiểu rõ tâm sự tôi? Ông… ông đã gặp Đoàn lang chưa?”

Lão đáp: “Tâm sự ngươi thế nào ta biết chứ.” Y thò trong hai tay áo ra hai chiếc gậy sắt nhỏ đen sì, nói: “Ta đi thôi.” Gậy bên trái ấn lên tảng đá, thân hình y đã tung lên nhẹ nhàng rơi cách xa cả trượng. Mộc Uyển Thanh thấy hai chân y rời mặt đất, tuy chỉ chống một đầu gậy nhỏ bé nhưng thế thật là vững chãi. Nàng lấy làm kỳ hỏi: “Thế hai chân ông…” Lão ngắt lời: “Hai chân ta bị tàn phế đã lâu. Thôi nhé! Từ giờ trở đi ta cấm ngươi không được hỏi câu gì nữa, nghe không?”

Mộc Uyển Thanh nói: “Nếu tôi cứ hỏi thì sao?” Nàng vừa nói mấy tiếng thì đột nhiên thấy chân mình mềm nhũn, té lăn xuống đất. Thì ra người áo xanh phất tay áo ra một luồng gió cực mạnh, gậy trúc nơi tay phải lão điểm vào đầu gối nàng, còn một gậy đánh xuống. Hai chân bị đau đến xương tủy, nàng lại la to lên một tiếng “Ối”. Thiết trượng của y lại liên tiếp điểm vào giải khai huyệt đạo cho nàng, thủ pháp nhanh nhẹn thật không ngờ nổi. Mộc Uyển Thanh nhảy bật lên một cái cả giận nói: “Lão này vô lễ thật!” Nàng vẫy tay toan phóng ám tiễn ra.

Lão áo xanh nói: “Mi bắn ta một phát ta đánh mi một roi vào mông, bắn mười phát đánh mười roi. Mi không tin bắn thử coi.” Mộc Uyển Thanh nghĩ bụng: ta chỉ bắn trúng một phát là lão chết rồi còn đâu mà đánh? Nhưng xem ra lão này thần thông quảng đại, so với Nam Hải Ngạc Thần còn có phần hơn, khó lòng bắn trúng được lão. Còn lão nói sao là làm được thế, để y đánh vào mông thì thật hỏng bét”. Lại nghe y nói tiếp: “Mi đã không dám bắn ta thì phải ngoan ngoãn tuân theo lời ta, không được trái lệnh.” Mộc Uyển Thanh vẫn bướng: “Ta không ngoan ngoãn tuân theo lời lão thì đã sao?” Nàng tuy nói thế nhưng đã buông cơ quan bắn tên trong tay áo ra.

Người áo xanh dùng hai cây gậy sắt thay chân, chạy thẳng về phía trước. Mộc Uyển Thanh chạy theo sau thấy hai cây gậy đó đều dài bảy tám thước, một bước bằng mấy bước người thường. Mộc Uyển Thanh đề khí chạy thật nhanh, cố gắng lắm mới theo kịp. Lão áo xanh vượt qua những đỉnh núi cao chẳng khác gì đi trên đất bằng, không theo những đường mòn có sẵn, cứ nhằm thẳng phía trước mà đi, bất luận những chỗ đá núi ngổn ngang hay chông gai đầy rẫy lão cũng chỉ điểm thiết trượng một cái là vượt qua ngay. Chỉ khổ cho Mộc Uyển Thanh, quần áo vướng vào gai góc rách tướp. Nhưng bản tính quật cường, nàng không thèm mở miệng ca thán để tỏ ra khiếp nhược.

Đi qua dăm ngọn núi nhìn thấy xa xa một khu rừng rậm tối mò. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Đến Vạn Kiếp Cốc rồi” bèn lên tiếng hỏi: “Mình đến Vạn Kiếp Cốc làm gì đây?” Lão áo xanh quay phắt lại, vung thiết trượng ra, nghe vút một cái đã đánh trúng ngay chân nàng, hỏi: “Mi còn hỏi nữa thôi?” Mộc Uyển Thanh vốn tính ngang ngạnh, dù biết địch không lại vẫn không chịu để người lấn át. Nhưng nàng lại nghĩ rằng lão này bản lãnh cao cường như thế, biết đâu giúp được nàng đạt tâm nguyện thì sao, nàng chỉ nói bướng một câu: “Cô nương không sợ đâu nhé, bây giờ tạm nhường người mà thôi.”

Lão áo xanh giục: “Vào!” Y không đi theo cái cửa hang nơi gốc cây mà đi vòng qua sườn núi ở bên cạnh sơn cốc, chạy về phía sau. Đường lối trong hang Vạn Kiếp lão đã thuộc làu, mấy lần Mộc Uyển Thanh toan hỏi nhưng sợ lão đánh lại thôi. Nàng theo lão lúc rẽ bên phải, lúc vòng bên trái, đi ra phía sau động. Khi Mộc Uyển Thanh đến Vạn Kiếp Cốc thăm sư thúc Cam Bảo Bảo đã ở đây mấy hôm. Thế nhưng bữa nay lão áo xanh đưa nàng qua những nơi mà nàng chưa hề biết, không ngờ hang Vạn Kiếp lại nhiều chỗ hoang lương tịch mịch đến thế.

Đi mấy dặm nữa thì vào đến một khu rừng già, bốn bề toàn cổ thụ ngất trời. Giữa ban ngày mà ánh dương quang rực rỡ cũng không len lỏi vào được, trong rừng âm u chẳng khác gì lúc hoàng hôn. Càng vào sâu cây càng dày, sau phải lách mình mới đi được. Đi thêm vài mươi trượng thì đến trước đám cổ thụ mọc liền khít nhau như một bức tường không thể lách qua. Người áo xanh giơ gậy sắt tạt vào lưng Mộc Uyển Thanh hất một cái, người nàng bay vụt lên không rồi rơi ngay xuống một tàn cây. Lại thấy người ấy cũng bay bổng lên, cầm thiết trượng điểm vào một cây to, thân hình bay lên lần nữa vượt luôn qua bức tường. Mộc Uyển Thanh đâu có tài ba như thế, đành phải trèo qua bám vào cành cây nhảy xuống.

Một bãi đất rộng hình tròn hiện ra trước mặt nàng. Giữa bãi nổi lên một tòa thạch thất trơ trọi. Cách kiến tạo tòa thạch thất này thật là ngộ nghĩnh. Người ta lấy những phiến đá lớn nặng tới mấy ngàn cân xếp lên, chỗ lồi chỗ lõm đúng là một hòn non bộ, có để hở ra một chỗ làm cửa trông như một cái hang. Người áo xanh quát lớn: “Vào đi!” Mộc Uyển Thanh nhìn vào chỉ thấy tối om, không hiểu trong có những quái vật gì. Nàng lưỡng lự không dám tiến vào thì một bàn tay đặt lên sau lưng nàng. Nàng toan né tránh thì lão áo xanh vận hình lực đẩy mạnh một cái, Mộc Uyển Thanh không thể tự chủ được bị hất văng vào trong.

Nàng đưa tay sử thế Hiểu Phong Phất Liễu che mặt đề phòng va chạm vào vật gì chăng, thì nghe đánh sầm một tiếng, cửa thạch thất đã bị một vật cực nặng đóng sập xuống. Mộc Uyển Thanh cả kinh, chạy lại đẩy cửa, đặt bàn tay vào thấy lởm chởm mới biết là một tảng đá hoa cương rất lớn.

Nàng vận hết sức vào hai cánh tay đẩy ra, nhưng chẳng khác gì chuồn chuồn lay cột đá, Mộc Uyển Thanh hốt hoảng vội lớn tiếng hỏi: “Mi giam ta vào đây làm gì?” Bỗng nghe tiếng lão áo xanh đáp: “Mi cầu khẩn ta việc gì đã quên rồi sao?” Thanh âm theo kẽ hở của khối đá truyền vào nghe rõ ràng như thường. Mộc Uyển Thanh định thần nhìn lại thấy phía trên tảng đã có nhiều kẽ hở, chỗ nhỏ thì vài tấc, chỗ lớn độ một thước, không có chỗ nào người chui lọt.

Nàng lại la lên: “Thả ta ra! Thả ta ra!” Bên ngoài không thấy tăm hơi gì, nàng theo khe cửa nhìn ra chỉ thấy người áo xanh đã nhảy vọt lên trông chẳng khác gì một con chim xanh đang bay vượt qua bức tường cây. Nàng quay vào giương mắt nhìn khắp nhà, chợt thấy trong góc có đặt một cái giường, trên giường có một người ngồi. Nàng kinh hãi kêu lên: “Ngươi… ngươi…”

Người kia đứng lên, đi tới mấy bước kêu lên: “Uyển muội, nàng cũng vào đây ư?” Giọng nói vừa sửng sốt vừa vui mừng, chính là Đoàn Dự.

Mộc Uyển Thanh đang lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng, bỗng nhiên gặp Đoàn Dự nàng mừng quá, trái tim cơ hồ ngừng đập, vội vàng nhào tới sà vào lòng chàng. Trong nhà ánh sáng chỉ hơi lờ mờ. Đoàn Dự thấy mặt nàng nhợt nhạt, hai dòng lệ chảy dài trên má, trong lòng xiết bao thương cảm bèn ôm chặt lấy nàng. Nhìn đôi môi mấp máy chàng không thể nhịn được, cúi đầu xuống hôn. Hai người vừa định hôn nhau thì đồng thời giật mình nghĩ: Đã là anh em ruột thịt sao lại có những hành động loạn luân? Họ buông nhau ra rồi cùng lùi lại phía sau. Hai người ngồi tựa lưng vào vách đá, run run nhìn nhau. Mộc Uyển Thanh bật khóc nức nở.

Đoàn Dự dịu giọng an ủi nàng: “Uyển muội, đó là đo tạo hóa an bài, hiền muội đừng buồn phiền nữa. Ca ca có cô em gái như hiền muội cũng đủ vui mừng lắm rồi.” Mộc Uyển Thanh giậm chân, vừa khóc vừa nói: “Ta vẫn thấy đau khổ, ta không thấy vui mừng. Chàng vẫn vui mừng thì thật là không có lương tâm.” Đoàn Dự thở dài: “Mình đâu có cách nào khác? Giá như ta không gặp muội có phải hay biết bao nhiêu.”

Mộc Uyển Thanh nói: “Ta cũng chẳng muốn gặp chàng làm gì. Ai bảo chàng đến tìm ta đêm hôm ấy? Chàng chẳng trở lại báo tin thì cùng lắm là ta chết dưới tay người ta thôi. Chàng làm chết mất con Hắc Mai Côi của ta, làm cho lòng ta biết bao đau đớn, làm cho sự phụ ta hóa ra mẫu thân ta, làm cho phụ thân chàng hóa ra phụ thân ta, làm cho chính chàng hóa thành ca ca của ta. Ta không muốn thế, ta nhất định không muốn thế. Chàng làm ta bị nhốt nơi đây, ta muốn đi ra khỏi đây, ra khỏi đây ngay.”

Đoàn Dự nói: “Uyển muội, quả đúng là ta không ra gì. Muội đừng giận nữa, chúng mình thủng thẳng tìm cách trốn ra.” Mộc Uyển Thanh nói: “Ta không trốn đi đâu hết. Ta muốn chết ở chốn này. Ta chết ở trong này cũng thế mà chết ở ngoài kia cũng thế, có khác gì đâu. Ta không ra, nhất định không ra.” Nàng mới vừa gào lên “muốn ra khỏi nơi đây” đến bây giờ lại đòi “nhất định không ra”. Đoàn Dự biết rằng lòng nàng đang xốn xang quá đỗi, không thể lấy lời lẽ ngọt ngào mà dỗ nàng được nên không nói gì nữa.

Mộc Uyển Thanh đang buông cho cơn giận nổi lên, thấy Đoàn Dự không nói gì, lại càng lộn ruột hỏi: “Sao chàng lại ngồi ỳ ra không nói?” Đoàn Dự hỏi lại: “Thế muội muốn ta nói gì bây giờ?” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Chàng ở đây làm gì?” Đoàn Dự đáp: “Đồ đệ ta bắt ta giam vào đây.” Mộc Uyển Thanh ngơ ngác: “Đồ đệ chàng…” Nhưng nàng nhớ ra ngay, đang sụt sùi nước mắt nước mũi bất giác bật cười, nói: “Đúng rồi, là Nam Hải Ngạc Thần. Lão bắt chàng nhốt vào đây ư?” Đoàn Dự đáp: “Chính lão!” Mộc Uyển Thanh cười: “Thế thì chàng phải ra oai sư phụ, bảo hắn thả chàng ra chứ.” Đoàn Dự đáp: “Ta bảo lão mấy lần rồi, nhưng lão nào có nghe, ngược lại còn cứ khăng khăng một mực đòi ta lạy lão làm thầy lão mới chịu buông tha.” Mộc Uyển Thanh vừa cười vừa nói: “Thế là thầy không dạy nổi trò rồi!” Đoàn Dự than rằng: “Chắc hẳn là thế! Uyển muội, còn muội bị ai bắt đến đây thế?”

Mộc Uyển Thanh đem chuyện mình gặp người áo xanh kể lại một lượt nhưng cắt bớt đoạn mình muốn lão biến ca ca thành lang quân, không nói đến. Đoàn Dự nghe nói người này ăn không cử động môi miệng, nói từ bụng nói ra, hai chân tàn phế mà chạy nhanh như bay thì lấy làm thú vị, hỏi cặn kẽ rồi tấm tắc khen là kỳ dị.

Hai người nói chuyện một lúc lâu, bỗng nghe bên ngoài nhà có tiếng lách cách, một cái bát luồn qua lỗ hổng đưa vào, kế đến có tiếng người gọi: “Ăn cơm này!” Đoàn Dự đưa tay đón lấy, thấy trong bát là thịt quay thơm phức, kế đến đưa thêm vào độ mươi cái bánh hấp. Chàng đặt cả lên bàn rồi hỏi Mộc Uyển Thanh: “Muội liệu những món này có thuốc độc không?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Bọn họ muốn giết mình thì chỉ giơ tay lên một cái là xong, hà tất phải dùng đến thuốc độc.”

Đoàn Dự nghĩ quả thực không sai, bụng lại đói cồn cào liền nói: “Ta ăn thôi!” Chàng đem bánh kẹp thịt quay vào giữa, đưa cho Mộc Uyển Thanh ăn trước rồi tới lượt mình. Người bên ngoài nói: “Ăn xong cứ đặt bát ra lỗ hổng, sẽ có người lại lấy.” Nói rồi y đi mất. Mộc Uyển Thanh từ trong hang nhìn ra thấy gã kia trèo lên ngọn cây rồi mới nhảy qua phía bên kia, nghĩ thầm: “Người này võ nghệ cũng thường thôi”. Nàng quay lại ngồi bên cạnh Đoàn Dự, hai người cùng ăn.

Đoàn Dự vừa ăn vừa nói: “Hiền muội đừng sợ! Thế nào gia gia cùng bá phụ cũng đến cứu chúng ta ra. Bọn Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương tuy lợi hại nhưng vị tất đã địch nổi gia gia. Nếu chính bá phụ thân hành tới đây thì thật chẳng khác nào gió thổi lá rơi, sẽ đánh cho chúng một trận thất điên bát đảo.” Mộc Uyển Thanh nói: “Chà! Bá phụ chàng bất quá là hoàng đế nước Đại Lý cỏn con này, bản lĩnh đối với người ngoài đã vào đâu? Ta không tin ông ấy địch nổi quái nhân áo xanh kia đâu. Chắc lại mang mấy ngàn quân đến vây đánh chứ gì?” Đoàn Dự lắc đầu lia lịa cãi: “Không được, không được! Họ Đoàn chúng ta là phái võ, tổ tiên gốc tích ở Trung Nguyên, tuy ở Đại Lý làm vua một cõi những quyết không quên qui củ võ lâm. Nếu như ỷ thế chèn ép người, lấy động để thắng chẳng khiến anh hùng thiên hạ chê cười họ Đoàn Đại Lý hay sao?”

Mộc Uyển Thanh vẫn một giọng chế giễu: “Úi chà! Họ hàng nhà chàng tuy làm vua làm chúa vẫn không bỏ thân phận anh hùng hảo hán ư?” Đoàn Dự nói: “Bá phụ cùng gia gia thường nói rằng: làm người không nên quên nguồn gốc.” Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói: “Xì! Miệng nói toàn nhân nghĩa đạo đức mà làm toàn những việc bỉ ổi xấu xa. Tỷ như việc gia gia chàng đã có mẹ chàng rồi, sao còn tằng tịu với sư phụ ta?” Đoàn Dự chưng hửng nói: “Ô hay! Muội thóa mạ cả gia gia nữa ư? Gia gia ta không phải là gia gia muội hay sao? Hơn nữa các bậc vua chúa cùng hàng quý tộc khắp thiên hạ được mấy người một vợ? Tám bà, mười bà là ít.”

Bấy giờ vào đời Bắc Tống, ở giữa Trung Hoa là Đại Tống, phía Bắc có Khất Đan, mặt Tây Bắc có Tây Hạ, Tây Nam có Thổ Phồn, phía Nam có nước Đại Lý. Các vương công trong năm nước ngoài chính thất ra ai ai cũng có thị thiếp, nhiều thì mấy chục người, ít cũng ba bốn. Dưới một mức như tước hầu tước bá, quan to, cũng còn có vợ lẽ, nàng hầu. Từ xưa đến nay, đời nào cũng thế, người đời coi đó là chuyện đương nhiên.

Mộc Uyển Thanh nghe thế, giận sôi lên sùng sục, tát chàng đánh bốp một cái. Đoàn Dự đau quá há hốc mồm, miếng bánh ăn dở còn cầm trên tay rơi bịch xuống đất. Chàng lắp bắp: “Muội… muội…” Mộc Uyển Thanh mặt giận hầm hầm nói: “Ta không gọi ông ấy là cha nữa. Đàn ông lấy nhiều thê thiếp là không có lương tâm. Người nào lòng nọ dạ kia là vô tình vô nghĩa.” Đoàn Dự xoa xoa chỗ má sưng, xuýt xoa nói: “Ta là huynh trưởng của muội, muội là em gái của ta, phận làm em không được vô lễ với anh như thế.” Mộc Uyển Thanh uất ức chưa tan, giơ tay tát nữa.

Nhưng lần này Đoàn Dự đã kịp phòng bị, bước chân theo Lăng Ba Vi Bộ, tránh qua phía sau nàng. Mộc Uyển Thanh trở tay tát về phía sau, chàng cũng tránh khỏi. Nhà thạch thất này chỉ rộng chừng hơn một trượng vuông, vậy mà phép Lăng Ba Vi Bộ cực kỳ thần diệu khiến cho Mộc Uyển Thanh lẹ tay thế nào cũng không đánh trúng. Mộc Uyển Thanh lại càng căm tức sực nghĩ ra một kế, giả vờ kêu “ối chao”, ngã lăn xuống đất. Đoàn Dự thất kinh hỏi: “Muội làm sao thế?” Chàng cúi xuống, thò tay ra ôm nàng dậy. Tấm thân mềm mại Mộc Uyển Thanh nằm gọn trong lòng chàng. Nàng đưa tay trái ra ôm cổ chàng, ghì chặt lấy, vừa cười vừa hỏi: “Còn trốn được nữa thôi?” tay phải tát một cái vào mà chàng thật mạnh.

Đoàn Dự bị đau chỉ kêu được một tiếng “trời ơi”, rồi đột nhiên nhiệt khí từ đan điền bốc lên nóng rực cả người, sóng tình nổi lên cuồn cuộn, không thể dằn lòng được. Chàng thấy thiếu nữ đang nằm trong lòng mình thon thon xinh đẹp, hương thơm ngây ngất đưa lên từng cơn càng làm cho thần trí mê loạn, chàng liền ghé miệng hôn lên môi nàng.

Nụ hôn làm cho toàn thân Mộc Uyển Thanh rạo rực, mềm nhũn ra. Đoàn Dự ôm nàng lại đặt lên giường, đưa tay toan cởi khuy áo, Mộc Uyển Thanh khẽ nhắc: “Chàng… chàng là ca ca của thiếp mà !” Đoàn Dự tuy đang mê mẩn tâm thần nhưng câu nói của Mộc Uyển Thanh chắng khác tiếng sét nổ giữa lúc trời quang mây tạnh, chàng giật mình buông nàng ra, hai tay vung lên tự tát hai bên má mình bôm bốp mấy cái. Vừa tát vừa tự mắng: “Đáng chết thật, đáng chết thật!”

Mộc Uyển Thanh nhìn thấy hai mắt Đoàn Dự đỏ như máu, lóe ra những tia sáng khác thường, da thịt trên mặt giật liên tiếp, lỗ mũi mấp máy, kinh hoảng kêu lên: “Nguy rồi! Đoàn lang, trong thức ăn quả có thuốc độc. Ta trúng kế rồi.”

Toàn thân Đoàn Dự phát nhiệt chẳng khác nào ngồi trong lò hấp, nghe Mộc Uyển Thanh nói ăn phải thuốc độc, trong lòng lại thấy vui mừng: “Thì ra độc dược đó làm loạn bản tính mình nên mới định làm trò loạn luân với Uyển muội, không phải mình đột nhiên hóa điên hành động như loài cầm thú, uổng công đọc sách thánh hiền.”

Thế nhưng người chàng mỗi lúc một nóng thêm không thể chịu được, từng món từng món y phục cởi cả ra, sau cùng chỉ còn một chiếc quần, một chiếc áo cánh, lúc ấy mới không cởi tiếp, ngồi xuống xếp bằng, mắt nhìn mũi, tập trung tâm ý, hết sức khắc chế không để cho ý niệm loạn động. Chàng ăn phải Mãng Cổ Chu Cáp vốn dĩ vạn độc không thể nào xâm nhập, nhưng trong thịt quay lại trộn với những loại thuốc không làm hại tính mạng con người, mà chỉ là xuân dược kích phát tình dục mà thôi. Tình dục trai gái vốn là bản tính trời sinh, thuốc khích dâm này chẳng qua chỉ để thúc đẩy cái tính tự nhiên của con người khiến cho người uống phải thấy thèm khát không sao chế ngự nổi. Chất kịch độc của Mãng Cổ Chu Cáp có thể trừ mọi loại độc dược, nhưng xuân dược lại không phải độc dược nên Mãng Cổ Chu Cáp không có tác dụng gì.

Mộc Uyển Thanh người cũng nóng ran, không thể nhịn được, cởi bỏ áo ngoài ra. Đoàn Dự vội la lên: “Uyển muội không được cởi thêm nữa, dựa lưng vào vách đá cho đỡ nóng.”

Hai người ngồi tựa lưng vào vách đá, sau lưng tuy mát được một chút nhưng từ đầu, mặt, ngực, bụng, chân tay chỗ nào cũng nóng như lửa đốt. Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh hai má đỏ hồng, nhan sắc lại càng diễm lệ, đôi mắt quyến rũ ướt rượt như muốn nhảy xổ vào lòng chàng. Chàng nghĩ thầm: lúc này mình còn quyết tâm cố chống lại chất thuốc độc nhưng sức người có hạn, nếu rồi đây gây ra hành vi dâm loạn, làm mất hết thanh danh họ Đoàn thì chết trăm lần cũng không chuộc được tội lỗi. Chàng bèn bảo: “Hiền muội cho ta một mũi tên độc.”

Mộc Uyển Thanh hỏi: “Để làm gì thế?” Đoàn Dự đáp: “Ta… ta nếu như không chống nổi với sức thuốc, thì một mũi tên tự kết liễu đời mình, khỏi làm hại đời muội.” Mộc Uyển Thanh đáp: “Ta không cho chàng đâu.” Hai người có biết đâu thuốc độc trên mũi tên không giết được chàng. Đoàn Dự nói: “Uyển muội! Ca ca cầu khẩn muội một việc.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Việc gì?” Đoàn Dự nói: “Nếu ta đưa tay ra sờ vào người muội thì muội hãy bắn chết ta lập tức!” Mộc Uyển Thanh nói: “Muội không bằng lòng đâu.” Đoàn Dự nói: “Ta cầu khẩn muội việc này vì danh dự của họ Đoàn đã mấy trăm năm nay không thể để ta một lúc phá tan. Sau này ta chết xuống còn mặt mũi nào trông thấy tổ tiên nữa?”

Bất thình lình bên ngoài thạch thất có tiếng người nói: “Họ Đoàn Đại Lý vốn dĩ có ra gì đâu, đến đời Đoàn Chính Minh, ngoài mồm nhân nghĩa trong bụng sài lang, còn tưởng danh giá lắm sao?”

Đoàn Dự cả giận nói: “Mi là ai mà dám ăn nói lếu láo?” Mộc Uyển Thanh nói nhỏ : “Y chính là quái nhân áo xanh.”

Lại thấy người áo xanh nói tiếp: “Mộc cô nương, ta thỏa nguyện nàng rồi đó, biến ca ca thành lang quân. Việc đã nhờ đến ta là phải xong.” Mộc Uyển Thanh cả giận nói: “Ngươi hạ độc hại người, nào có liên quan gì đến việc ta nhờ cậy ngươi?” Người áo xanh nói: “Trong bát thịt quay kia, ta đã trộn khá nhiều Âm dương hòa hợp tán. Người nào ăn phải, nếu không cho âm dương hòa hợp, làm đôi vợ chồng thì chất thuốc mỗi ngày một phát tác cực kỳ trầm trọng, da thịt nứt ra, thất khiếu ứa máu. Đến ngày thứ tám thì dù có là Đại La thiên tiên cũng không chịu nổi.”

Đoàn Dự căm hờn nói: “Ta với mi vốn không thù oán sao mi lại thi hành kế độc này? Mi muốn cho Đoàn mỗ không còn mặt mũi nào trông thấy người đời nữa, cùng làm cho bá phụ và phụ mẫu ta suốt đời nhục nhã? Này này ta bảo, dù ta phải chết khổ chết sở cũng đành, nhất quyết không làm việc nhơ nhuốc.”

Người áo xanh nói: “Ta với ngươi không oán không thù thật nhưng ta với bá phụ ngươi thì thù sâu như bể. Nếu hai gã tiểu tử Đoàn Chính Minh và Đoàn Chính Thuần phải suốt đời ô nhục, không dám nhìn mặt người đời thì thật tốt quá rồi còn gì. Hay lắm, hay lắm! Ha ha! Ha ha!” Miệng y không cử động được, giọng cười từ cổ họng thoát ra thật là cổ quái khó nghe.

Đoàn Dự còn đang toan cãi tiếp, liếc mắt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh mặt như đóa hải đường mùa xuân mơn mởn, thân hình chẳng khác gì đóa phù dung mới nở, trái tim chàng rung động rạo rực, tựa hồ muốn nhảy ra ngoài, đầu óc mơ hồ nghĩ thầm: “Uyển muội và ta vốn có ước định hôn nhân, nếu như không về Đại Lý, thì đâu có thời ra cái chuyện là anh em ruột thịt? Oan nghiệt kia đời trước kết thành, với mình có liên quan gì đâu”. Nghĩ tới đây chàng run run đứng dậy, bỗng thấy Mộc Uyển Thanh cũng vịn tường đang từ từ đứng lên. Đột nhiên trong lòng như có ánh chớp lóe lên, chàng lại nghĩ: “Không được, không được! Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, con người khác loài cầm thú là ở chỗ này, Nghĩ sai một ly, sểnh chân một bước, không những thanh danh mình bị hoại mà còn đẩy cả bá phụ cùng gia gia vào vòng ô nhục suốt đời”. Nghĩ vậy chàng cất tiếng gọi to: “Uyển muội, ta là đại ca, cô là tiểu muội, biết chứ? Muội đã học Kinh Dịch chưa?”

Mộc Uyển Thanh đang cơn mơ mơ màng màng, đột nhiên nghe chàng hỏi, liền đáp: “Muội không hiểu Kinh Dịch là gì hết.” Đoàn Dự nói: “Nếu vậy để ta dạy cho. Kinh Dịch ý nghĩa sâu xa lắm, muội phải lắng tai nghe mới hiểu được.” Mộc Uyển Thanh lạ lùng hỏi lại: “Học cái đó làm chi?” Đoàn Dự đáp: “Biết đâu chả được việc cho mình. Có khi nhờ đó mà ta thoát khỏi cảnh ngộ khó khăn cũng nên.”

Nguyên Đoàn Dự thấy dục niệm đã nổi lên đến tột độ, thật khó mà giữ được, chẳng khác gì ngàn cân treo đầu sợi tóc, nếu Mộc Uyển Thanh sà vào lòng mình khêu gợi thì không thể nào còn chống cự được nữa, nên Đoàn Dự bày ra trò dạy Kinh Dịch để chuyên tâm vào việc khác, không nghĩ đến việc gái trai. Thế rồi chàng giảng thao thao bất tuyệt: “Cơ bản của Dịch Kinh là từ thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, Muội có biết hình vẽ bát quái như thế nào không?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Thiếp nghe chán tai lắm, chẳng hiểu gì hết. Đoàn lang! Chàng lại đây! Thiếp có chuyện muốn nói với chàng.”

Đoàn Dự đáp: “Ta là ca ca của muội, không được gọi ta là Đoàn lang mà phải gọi là đại ca. Để ta đọc ca quyết đồ hình bát quái cho cô nghe, cô cố mà ghi nhớ. “Càn ba liền, Khôn sáu khúc, Chấn chén ngửa, Cấn bát úp, Khảm giữa liền, Ly giữa đứt, Đoài trên hụt, Tốn dưới khuyết”. (Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chấn ngưỡng vu, Cấn phúc oản, Ly trung hư, Khảm trung mãn, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn)

Mộc Uyển Thanh đọc lại một lượt, hỏi: “Sao lại có cả chén bát vào đây?” Đoàn Dự đáp: “Chén ngửa, bát úp là nói về hình dáng của quẻ. Còn như nghĩa lý bên trong, bát quái ý nghĩa rất sâu rộng, bao hàm cả trời đất muôn vật. Nếu lấy gia đình mà nói thì Càn là cha, Khôn là mẹ, Chấn là con trai lớn, Tốn là con gái lớn… Hai đứa mình là huynh muội, ta là quẻ Chấn, còn muội là quẻ Tốn.”.

Mộc Uyển Thanh vênh mặt ngắt lời: “Không phải, chàng là quẻ Càn, thiếp là quẻ Khôn, hai người kết nghĩa phu thê, sinh con đẻ cái, mới sinh ra quẻ Chấn, quẻ Tốn chứ…” Đoàn Dự thấy nàng ăn nói ra chiều chớt nhả thì giật mình kinh hãi nói: “Cô chớ nên suy nghĩ lăng nhăng, nghe ta nói tiếp đây.” Mộc Uyển Thanh nói: “Chàng… chàng ngồi xích lại bên thiếp, thiếp mới nghe được.”

Bỗng bên ngoài có tiếng lão áo xanh reo lên: “Hay lắm, hay lắm! Hai đứa người thành Càn Khôn, sinh ra Chấn Tốn ta sẽ thả cho ra. Ta không giết mà lại truyền cho vợ chồng mi những môn võ nghệ tuyệt luân để dọc ngang thiên hạ.” Đoàn Dự giận dữ đáp: “Nếu đến bước đường cùng ta sẽ đập đầu vào vách đá này tự tử. Con cháu họ Đoàn Đại Lý thà chết chứ không chịu nhục, người mong dùng ta để báo thù thì đừng hòng.” Người áo xanh đáp: “Ngươi chết hay sống ta cũng chẳng cần. Có điều bọn mi mà chết, ta sẽ lột trần như nhộng cả hai đứa, viết rõ là cháu trai và cháu gái của Đoàn Chính Minh, con trai và con gái Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý, hai đứa thông gian bị người ta bắt được nên xấu hổ tự sát. Ta sẽ đem xác hai đứa bay ướp muối, treo nơi thành Đại Lý ba ngày, sau đó đem đi Biện Lương, Lạc Dương, Lâm An, Quảng Châu các nơi cho mọi người đều biết.”

Đoàn Dự căm tức đến cực điểm, thét lên: “Họ Đoàn chúng ta có tội tình gì với người mà người trả thù hiểm độc, dã man đến thế?”

Người áo xanh đáp: “Việc của ta hà tất phải nói cho thằng ranh con chưa ráo máu đầu như mi nghe.” Đến đây không còn nghe gì thêm nữa.

Đoàn Dự biết rằng nếu chàng còn nói với Mộc Uyển Thanh nữa càng thêm nguy hiểm, liền ngồi quay mặt vào tường ôn lại những điều phức tạp trong phép Lăng Ba Vi Bộ. Chàng mơ mơ màng màng hồi lâu chợt nhớ đến cho ngọc tượng trong thạch động so với Mộc Uyển Thanh còn kiều diễm hơn nhiều, rồi tự nhủ: Nếu mình có lấy vợ phải tìm người đẹp như thần tiên tỉ tỉ mới không uổng phí một đời. Đang lúc mơ màng chàng quay đầu nhìn về phía Mộc Uyển Thanh thì hoa mắt lên, từ dung nhan cho đến phục sức nàng từ từ biến thành ngọc tượng trong thạch động, bất giác chàng la lên: “Thần tiên tỉ tỉ, ta khổ sở quá, nàng cứu ta với!” Nói xong chàng quỳ mọp xuống đất, ôm lấy chân Mộc Uyển Thanh.

Bỗng bên ngoài có tiếng gọi: “Cơm chiều đây.” Y đưa vào khe hở một ngọn nến đỏ cười nói: “Mau cầm lấy, đêm động phòng của các ngươi chẳng nhẽ lại không có đuốc hoa?”

Đoàn Dự cả kinh đứng dậy. Dưới ánh nến, chàng thấy Mộc Uyển Thanh mắt gợn sóng tình, người đẹp lồ lộ, không bút nào tả xiết, liền tắt phụt cây nến đi và quát to lên: “Trong cơm có chất độc, ta không ăn đâu, mi đem về đi!”

Người kia cười nói: “Đằng nào cô cậu cũng đã trúng độc, phân lạng đủ rồi. Nay còn cho thêm làm gì?” Y nói rồi đẩy cơm và đồ ăn vào.

Đoàn Dự ngơ ngẩn cầm lấy đặt lên bàn, nghĩ thầm: “Con người ta chết là hết chuyện, tiếng thị phi trên đời còn nghĩ tới làm gì?” Song chàng lại nghĩ: “Song thân cùng bá phụ thương ta biết là nhường nào, làm sao ta lại để cho họ Đoàn bị người đời cười chê cho được?”

Bỗng thấy Mộc Uyển Thanh la lên: “Đoàn lang, thiếp muốn dùng tên độc tự sát để khỏi làm hại đến chàng.” Đoàn Dự kêu lên: “Khoan đã! Dẫu cho hai anh em mình cùng chết, con người độc ác kia cũng không buông tha. So với Diệp Nhị Nương giết trẻ con, Nam Hải Ngạc Thần vặn cổ người, tên này còn âm hiểm độc địa hơn nhiều. Không hiểu lão là ai?”

Bỗng thấy bên ngoài lão áo xanh lên tiếng đáp lại: “Thằng lỏi con quả có đôi chút hiểu biết! Lão phu đây đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân, Ác Quán Mãn Doanh là ta đây”.

Hồi 08: Ông già áo xanh là ai?

Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái trở vào báo: vợ chồng Chung Vạn Cừu cùng Tần Hồng Miên đã đi xa rồi. Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng lo cho đứa con yêu liền hỏi: “Tâu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở đâu hoàng huynh đã biết chưa?” Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đáp: “Cái tên Vạn Kiếp Cốc hôm nay ta mới nghe lần đầu, nhưng chắc cũng không xa thành Đại Lý bao nhiêu.” Đao Bạch Phượng vội vàng nói: “Cứ như lời Chung Vạn Cừu thì dường như nơi này bí mật khó lòng tìm ra được, Dự nhi nếu lọt vào tay kẻ địch lâu ngày…” Bảo Định Đế mỉm cười nói: “Dự nhi trước nay chỉ được nuông chiều chưa hiểu lòng người độc ác, để nó chịu đựng gian nan cho trải mùi đời. Âu cũng là một dịp rèn luyện cho nó, như thế cũng hay.” Đao Bạch Phượng tuy trong dạ bồn chồn nhưng cũng không dám nói gì thêm nữa.

Bảo Định Đế quay sang Đoàn Chính Thuần: “Thuần đệ, đem rượu ra đây để khao thưởng anh em.” Đoàn Chính Thuần đáp: “Vâng!” Ông vâng mệnh truyền xuống gia nhân. Lát sau một bữa tiệc lớn bày ra. Bảo Định Đế cũng ngồi vào ăn uống.

Đại Lý là một nước nhỏ ở tận cùng phương nam, trong nước có rất nhiều sắc dân, người Hán chẳng có mấy, như Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng là người Bài Di. Dân chúng chưa ảnh hưởng văn hóa Trung Nguyên bao nhiêu, lễ pháp so với Đại Tống thì giản dị hơn nhiều, Bảo Định Đế tính tình không câu nệ, ra khỏi triều đình thường không thích đa lễ. Vì thế mà vợ chồng Đoàn Chính Thuần cùng Cao Thăng Thái cũng ngồi chung bàn bồi tiếp.

Trong khi ăn uống, nhà vua tuyệt nhiên không đá động gì đến chuyện gia đình. Đao Bạch Phượng lông mày nhíu lại, ăn chẳng thấy ngon. Trời gần sáng, thị vệ vào báo: “Ba Tư không tham kiến hoàng thượng.” Đoàn Chính Minh truyền cho vào. Bức rèm vừa vén lên, một người mặt đen vừa thấp vừa lùn tiến vào cúi đầu trước Bảo Định Đế tâu: “Khải tấu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở bên kia Thiện Nhân Độ, qua chiếc cầu treo là tới, cửa vào là một cái hốc ở một cây cổ thụ.”

Đao Bạch Phượng vỗ tay reo lên: “Một khi Ba Tư không đã ra tay thì lẽ nào tìm không ra sào huyệt của địch? Nếu sớm biết thế ta đã không phải lo cả đêm.” Người mặt đen hơi nghiêng mình nói: “Vương phi quá khen, Ba Thiên Thạch này thực lấy làm xấu hổ.”

Ba Thiên Thạch tuy hình thù cổ quái nhưng là một nhân vật rất tinh tế mẫn cán. Ông từng lập được nhiều công lao cho nhà vua, hiện làm chức Tư không nước Đại Lý. Trong triều lớn nhất có ba chức: Tư đồ, Tư mã và Tư không gọi là Tam công. Ba Thiên Thạch võ công trác tuyệt, đặc biệt nhất là môn khinh công. Y vâng mệnh Bảo Định Đế đi do thám nơi chốn của địch, bí mật theo dõi Chung Vạn Cừu, quả nhiên tìm ra được Vạn Kiếp Cốc.

Bảo Định Đế phán: “Thiên Thạch, người ngồi xuống ăn thật no đi, rồi mình cùng lên đường.” Ba Thiên Thạch biết hoàng thượng không ưa người ta quỵ lụy lạy lục, đối với bầy tôi chẳng khác gì anh em bạn bè, nếu người dưới quá khúm núm ông lại không vui, nên chỉ “xin vâng” một tiếng rồi bưng cơm ăn liền. Y không uống rượu nhưng ăn như rồng cuốn, loáng cái đã hết tám bát cơm lớn. Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái chơi thân với Ba đã lâu, nên không lấy thế làm lạ.

Ba Thiên Thạch ăn xong đứng lên, lấy tay áo lau miệng rồi tâu: “Thần Ba Thiên Thạch xin dẫn đường.” Nói xong y liền đi trước. Bảo Định Đế, vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái nối gót theo sau. Ra khỏi phủ Trấn Nam Vương thấy Chử Cổ Phó Chu tứ đại hộ vệ đã dắt ngựa chờ sẵn. Ngoài ra còn hơn mười tên tùy tòng mang khí giới cho nhà vua.

Nên biết rằng họ Đoàn nguyên là dòng dõi thế gia trong võ lâm ở Trung Nguyên, sau lấy được nước Đại Lý, trải hơn trăm năm nay vẫn giữ nền nếp tổ tiên. Anh em Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần tuy phú quí đến cực điểm mà vẫn thường ăn bận theo kiểu bình dân khi ra ngoài. Đã là người trong võ lâm thì bất luận là tìm đến báo thù hay đến thăm hỏi nhà vua cũng tiếp đãi theo qui củ giang hồ chứ không ỷ thế khinh người. Cho nên lần này Bảo Định Đế ngự giá thân chinh, những người đi theo đều đã quen không ai lạ lùng gì. Từ Bảo Định Đế trở xuống, ai nấy thay đổi thường phục, nếu không biết mặt thì chỉ tưởng là một nhà phú hộ nào đó ra ngoài du ngoạn mà thôi.

Đao Bạch Phượng thấy trong đám tùy tùng của Ba Thiên Thạch có đến hai chục người mang theo búa lớn cưa dài, cười hỏi: “Ba Tư không, mình mang theo thợ mộc để cất nhà hay sao?” Ba Thiên Thạch đáp: “Để cưa cây phá nhà.”

Đoàn người cỡi ngựa tốt, chạy lẹ như gió, chưa đến trưa đã tới khu rừng bên ngoài Vạn Kiếp Cốc. Ba Thiên Thạch chỉ huy bộ thuộc chặt hết những cây to chắn đường. Đến cốc khẩu, Bảo Định Đế chỉ vào tấm biển sơn “Họ Đoàn vào đây sẽ giết không tha” trên cây, cười nói: “Chủ nhân của Vạn Kiếp Cốc thù oán nhà ta đến thế ư?” Đoàn Chính Thuần biết Chung Vạn Cừu sợ mình vào Vạn Kiếp Cốc thăm Cam Bảo Bảo, liếc mắt nhìn vợ, thấy bà ta cười khẩy.

Bốn người liền vác đại phủ tiến tới, chỉ chốc lát đã chặt ngã cái cây chu vi mấy người ôm kia.

Ba Thiên Thạch dặn mọi người dắt ngựa đứng chờ ngoài cốc khẩu, Chử, Cổ, Phó, Chu tứ đại hộ vệ đi trước, rồi đến Ba Thiên Thạch, Cao Thăng Thái, sau nữa là vợ chồng Trấn Nam Vương, Bảo Định Đế đi sau cùng. Đoàn người vào trong hang Vạn Kiếp chỉ thấy bốn bề im lặng như tờ, không ai ra nghênh tiếp. Ba Thiên Thạch theo qui củ giang hồ, tay cầm danh thiếp hai anh em Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, rảo bước đi thẳng vào trước nhà khách cất tiếng gọi: “Đoàn thị huynh đệ nước Đại Lý tới hội diện Chung cốc chủ.”

Tiếng hô vừa dứt, từ trong bụi cây mé tả chạy vụt ra một bóng người cao lêu nghêu, nhanh như chớp giơ tay chộp lấy danh thiếp trong tay Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch ứng biến mau lẹ, tránh qua ba bước quát hỏi: “Tôn giá là ai?” Người đó chính là Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc. Y chộp không trúng nhưng không bỏ cuộc, lại nhảy xổ tới Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch khinh công tuyệt cao, muốn thử thách xem tài nghệ của Vân đến mức nào, liền chạy tới ba bước. Vân Trung Hạc cũng rượt theo ba bước. Thế rồi một người thấp lủn thủn, một gã cao lênh khênh đuổi nhau. Thoáng một cái đã chạy ba vòng. Vân Trung Hạc bước dài chạy nhanh nhưng Ba Thiên Thạch cũng nhảy lẹ dị thường, thành thử hai người lúc nào cũng cách nhau mấy thước. Vân Trung Hạc không đuổi theo kịp Ba Thiên Thạch mà Ba Thiên Thạch cũng không thể chạy thoát được Vân Trung Hạc. Hai người trước nay ai cũng cho rằng mình khinh công thiên hạ không ai bằng, bây giờ gặp được kình địch, trong bụng đều kinh hãi thầm. Hai người càng chạy càng nhanh, gió thốc vào quần áo nghe phần phật, tuy chỉ có hai người chạy đua nhưng ở bên ngoài nhìn vào tưởng chừng năm sáu người cùng đuổi theo nhau. Càng về sau khoảng cách hai người càng xa, biến thành chạy vòng quanh nhà, không biết là ai đuổi ai. Nếu Ba Thiên Thạch đuổi đến sau lưng Vân Trung Hạc thì cuộc tỉ thí khinh công này y lại thắng. Thế nhưng Vân Trung Hạc cũng hết sức chạy cho nhanh thành ra Ba Thiên Thạch lại xa y đến mấy trượng:

Bỗng nghe một tiếng kẹt, cánh cửa mở toang, Chung Vạn Cừu ở trong nhà bước ra. Ba Thiên Thạch vẫn không dừng bước, ngầm vận nội công, tay phải tung ra một cái. Tấm danh thiếp bay tà tà tới trước mặt Chung Vạn Cừu.

Chung Vạn Cừu đưa tay đón lấy, cả giận hỏi: “Họ Đoàn kia, nếu như người theo qui củ giang hồ đến bái sơn, sao lại hủy mất cửa vào sơn cốc của ta?” Chử Vạn Lý quát lớn: “Hoàng thượng là bậc chí tôn, có lý đâu lại chui qua cái hang chuột của nhà ngươi mà vào.”

Đao Bạch Phượng sốt ruột vì con, không nhịn được nữa hỏi ngay: “Các ngươi giấu con ta đâu?”

Từ trong nhà nhảy ra một người đàn bà, giọng rít lên: “Mi đến trễ một chút, bọn ta đã moi gan thằng lỏi họ Đoàn vứt cho chó ăn rồi.” Hai tay mụ cầm hai lưỡi dao nhỏ như lá liễu lấp lánh sáng xanh lè, chính là cặp Tu la đao tẩm thuốc độc dính máu là chết.

Hai người đàn bà này trước đây mười tám năm đã vì ghen tuông mà kết mối thâm thù. Đao Bạch Phượng cũng biết Tân Hồng Miên nói dối, tuy nhiên câu nói ác miệng đó đối với đứa con yêu quý độc nhất của bà làm cho bà căm giận. Thù cũ hận mới bốc lên ngùn ngụt, bà lạnh lùng nói: “Ta hỏi là hỏi Chung cốc chủ, ai thèm nói chuyện với thứ đàn bà đê tiện như ngươi cho bẩn mồm”. Chỉ nghe hai tiếng leng keng, song đao của Tần Hồng Miên nhắm ngay Đao Bạch Phượng cùng chém ra nhanh như gió cuốn. Chiêu Thập Tự Khảm là tuyệt kỹ thành danh của bà ta, đã làm mất mạng bao nhiêu giang hồ hảo hán. Đao Bạch Phượng tung cây phất trần gạt đi, cán phất trần điểm luôn vào sau lưng kẻ địch.

Đoàn Chính Thuần thật buồn phiền, một người là vợ yêu, một người là tình cũ, với Đao Bạch Phượng thật là sâu đậm, còn đối với Tần Hồng Miên thì cũng khó quên. Nay thấy hai người vừa ra tay đã dùng ngay sát thủ trí mạng, bất luận bên nào bị hại, ông cũng ân hận suốt đời, bèn quát lên: “Khoan hãy động thủ!” Rồi ông xen vào giữa đưa trường kiếm gạt binh khí của hai người ra.

Chung Vạn Cừu vừa trông thấy Đoàn Chính Thuần, lửa giận bừng bừng, tay cầm đại hoàn đao khua lên loảng xoảng nhằm Đoàn Chính Thuần chém tới. Chử Vạn Lý nói: “Bất tất Vương gia phải ra tay, để tiểu nhân đối địch với hắn.” Y vung cần câu sắt ra, quật xuống đầu Chung Vạn Cừu. Chiếc cần của y vốn đã bị Diệp Nhị Nương bẻ gãy rồi, đây là chiếc mới y vừa đúc. Chung Vạn Cừu mắng: “Ta biết mà! Họ Đoàn toàn là một lũ hư danh chỉ cậy đông người.”

Đoàn Chính Thuần cũng cười nói: “Vạn Lý lui ra, ta muốn xem võ công của Chung cốc chủ.” Ông giơ kiếm lên, gạt chiếc cần sắt của Chử Vạn Lý ra, thuận thế phát theo sống thanh Đại hoàn đao rồi hớt lên mấy ngón tay Chung Vạn Cừu. Ba thức gạt ra, phất xuống rồi hớt lên liền lạc với nhau, biến chiêu không thấy kẽ hở. Chung Vạn Cừu cả kinh lẩm bẩm: Kiếm pháp thằng cha họ Đoàn này ghê thật. Hắn phải dẹp cơn phẫn nộ, hoành đao trước ngực để giữ thế thủ, không dám coi thường cường địch chút nào.

Đoàn Chính Thuần giơ kiếm lên đâm tới, Chung Vạn Cừu thấy thế kiếm lợi hại, không dám đỡ, vội vàng nhảy lùi lại ba bước. Đoàn Chính Thuần chỉ mong y không dám đấu dây dưa, lập tức vọt qua chỗ Đao Bạch Phượng và Tần Hồng Miên, thấy đao pháp Tần Hồng Miên xem ra núng thế bị Đao Bạch Phượng ép phải lùi từng bước. Bỗng nghe soạt soạt soạt ba tiếng, Tần Hồng Miên đã bắn ra ba mũi tên độc, những mũi tên đó cùng một hình dạng với độc tiễn của Mộc Uyển Thanh nhưng thủ pháp cao minh hơn nhiều, chia ra trái phải giữa khiến đối phương khó mà tránh né. Đao Bạch Phượng tung mình nhảy lên cao, ba mũi tên bay vọt dưới chân, ngờ đâu khi thân hình bà ta còn đang lơ lửng trên không, lại có ba mũi tên khác bắn tới. Mũi tên thứ nhất bắn vào dưới bụng, mũi tên thứ hai bắn vào chân còn mũi tên thứ ba bắn vào dưới bàn chân.

Đao Bạch Phượng không nhảy lên thêm được nữa, vội vung phất trần ra đỡ, cuốn được mũi tên thứ nhất, thân hình bắt đầu rơi xuống, xem ra mũi tên thứ hai và thứ ba bắn vào bụng và ngực không sao có thể tránh né hay đỡ gạt. Đột nhiên một làn ánh sáng lấp lánh, một thanh trường kiếm từ dưới gạt lên chặt hai mũi tên đó thành bốn đoạn, chính là Đoàn Chính Thuần vừa nhảy tới chặn ngay trước mặt Đao Bạch Phượng. Ví thử ông ta ra chiêu không chính xác thì những mũi tên đó đã ghim cả vào người rồi.

Biến cố đó khiến cả Đao Bạch Phượng lẫn Tần Hồng Miên đều mặt xanh như tàu lá, tim đập thình thình. Đao Bạch Phượng kêu lên: “Tôi không cần ông giúp.” Bà lạng người vọt ra trước mặt trượng phu, múa phất trần đánh tới Tần Hồng Miên lần nữa. Bà hận Tần Hồng Miên ra tay độc ác, chiêu số phất trần thật nhanh, quét xéo đâm thẳng, khiến đối phương không rảnh tay mà bắn tên độc. Còn Tần Hồng Miên mới rồi bắn tên suýt nữa trúng phải Đoàn Chính Thuần, thấy ông ta liều mạng ra tay cứu vợ, thiên vị quá đỗi, vừa hoảng hốt lại vừa đau lòng thành thử không chống đỡ nổi phất trần của đối phương. Đao Bạch Phượng sử chiêu Phượng Thê Ư Ngô đánh thẳng xuống đầu kẻ địch, Tần Hồng Miên vội tránh qua bên phải ngờ đâu tả chưởng của Đao Bạch Phượng cùng đánh ra, xem chừng thể nào cũng trúng ngực Tần Hồng Miên hộc máu. Chưởng còn cách ngực Tần Hồng Miên chừng nửa thước, bỗng có một bàn tay đàn ông gạt ra ngoài, chính là Đoàn Chính Thuần cứu người tình cũ, nói: “Phượng Hoàng Nhi, chớ có như thế!”

Tần Hồng Miên ngỡ ngàng, giận dữ nói: “Phượng với chả công, gọi nhau thân mật thế!” Đao bên trái của bà ta liền chém xuống vai Đoàn Chính Thuần. Đao Bạch Phượng cũng đang bực chồng gạt tay mình ra cứu tình nhân, nên cũng múa phất trần đánh luôn vào mặt ông ta.

Hai người đàn bà cùng tấn công Đoàn Chính Thuần, lại cùng thấy đối phương ra tay nên cùng kêu lên: “Ôi chao!” Ai cũng muốn ra tay bảo vệ cho lang quân. Phất trần của Đao Bạch Phượng chuyển hướng quay sang gạt thanh Tu la đao, còn Tần Hồng Miên thì phóng một ngọn cước vào người Đao Bạch Phượng cốt để bà ta rút phất trần về.

Đoàn Chính Thuần nghiêng người né tránh, nghe bình một tiếng, cước của Tân Hồng Miên đã đá trúng mông ông ta. Đao Bạch Phượng hậm hực quát lên: “Sao ngươi dám đá chồng ta?” Tân Hồng Miên nói: “Đoàn lang, thiếp không cố ý, chàng, chàng có đau không?” Đoàn Chính Thuần giả vờ nhăn nhó, kêu lên: “Đau quá, đau quá, đau đến chết mất!” Nói xong giả vờ ngồi thụp xuống.

Chung Vạn Cừu thấy cơ hội, giơ đạo lên chém xuống đầu Đoàn Chính Thuần. Đao Bạch Phượng kêu lên: “Ngừng tay!” Tần Hồng Miên cũng kêu lên: “Đánh hắn!” Cả Tu la đao lẫn phất trần cùng quay sang tấn công Chung Vạn Cừu. Y đành phải thu đao hộ thân, kêu lên: Tên giặc thối tha họ Đoàn để cho đàn bà ra tay cứu, quả là hảo hán mặt dày!” Đoàn Chính Thuần cười ha hả, từ dưới đất nhảy lên, loạt loạt soạt ba chiêu kiếm ép cho Chung Vạn Cừu phải lùi lại, Tân Hồng Miên ngạc nhiên giận dữ nói: “Hóa ra ông không bị thương, chỉ giả vờ.” Đao Bạch Phượng cũng tiếp lời: “Lão này chỉ chuyên đi lừa người ta, còn ai mà chẳng biết.” Tần Hồng Miên quát lớn: “Xem đao đây!” Đao Bạch Phượng cũng kêu: “Đánh cho lão một trận.” Thế là hai người đàn bà lại liên thủ xông vào tấn công Đoàn Chính Thuần.

Bảo Định Đế thấy em trai lằng nhằng mãi với hai người đàn bà, lắc đầu cười thầm, quay sang bảo Chử Vạn Lý: “Các ngươi đi tra xét xem sao.” Chử Vạn Lý đáp: “Tuân lệnh.” Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người liền chạy đến cửa vào nhà, Cổ Đốc Thành chân vừa đạp vào ngạch cửa đột nhiên thấy gió lạnh trên đầu ập xuống. Chân trái y mới để hờ lên thềm, chân phải vội búng một cái vọt trở ra, thấy một thanh đao vừa rộng vừa mỏng chém vèo xuống, chỉ cách mặt chừng vài tấc, nếu như chậm một chút dù không mất nửa đầu ít ra cũng vẹt mất mũi. Cổ Đốc Thành lưng toát mồ hôi lạnh, nhìn lại người ngấm ngầm tập kích mình là một thiếu phụ trung niên, mặt mũi xinh xắn, chính là Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương, Thanh đao của bà ta hình vuông mỏng dính, xung quanh đều sắc bén lạ thường, tay cầm chỉ là một cái cán ngắn, vừa múa lên đã thành một vòng tròn sáng loáng. Sau cơn hoảng vía, Cổ Đốc Thành định thần lại, quát lên một tiếng, vung búa chém xuống thanh bạc đao, Diệp Nhị Nương vội vàng múa tít, tránh lưỡi búa uy mãnh không dám để bổ trúng vào đao. Cổ Đốc Thành sử dụng bảy mươi hai đường Loạn Phi Phong phủ pháp, hai búa hai nơi chém trên chém dưới, Diệp Nhị Nương vận âm dương quái khí vào câu cười giọng nói. Chu Đan Thần thấy mụ ta đánh như trò chơi nhưng đao pháp biến trá khó mà lường được, sợ đánh dằng dai Cổ Đốc Thành tất bị ám toán, bèn múa cặp phản quan bút xông vào trợ chiến.

Lúc đó Ba Thiên Thạch cùng Vân Trung Hạc vẫn đang đuổi nhau chạy lòng vòng. Môn khinh công của hai người chưa ai chịu kém ai, không thể trong chốc lát mà phân thắng bại được. Ba Thiên Thạch chạy được trên trăm vòng rồi, thấy Vân Trung Hạc Công phu hạ bàn về lẹ làng thì có thừa nhưng trầm trọng thì không đủ, không được như mình, mỗi lần nhún chân đều còn để lại dư lực phòng hờ, nếu vừa chạy vừa tìm cơ hội phóng chưởng bất ngờ, tất hắn không đứng vững được. Thế nhưng Ba Thiên Thạch nhất định cùng y tỉ thí khinh công, không muốn dùng quyền cước mà thủ thắng nên cứ tiếp tục chạy vòng vèo.

Bỗng nghe tiếng ồm ồm quát mắng: “Tiên sư chúng mày làm bố mất ngủ, đứa chó nào tới đây phá rối thế?” Nam Hải Ngạc Thần tay cầm ngạc chủy tiễn ở đâu huỳnh huỵch chạy ra.

Phó Tư Qui quát lại: “Chính gia gia sư phụ mi đến đây chứ còn ai!” Nam Hải Ngạc Thần quát hỏi: “Mi bảo ai là gia gia sư phụ ta?” Phó Tư Qui chỉ vào Đoàn Chính Thuần nói: “Trấn Nam Vương đây là gia gia Đoàn công tử, Đoàn công tử là sư phụ mi, mi còn định chối hay sao?” Nam Hải Ngạc Thần tuy chuyện ác đã nhiều nhưng cũng còn được một điều tốt là đã nói thì làm. Lão vừa nghe thế, giận đến mặt vàng ệch nhưng không dám phủ nhận, chỉ mắng lại: “Ta bái ai làm thầy mặc ta, liên quan đếch gì đến thằng con rùa đen kia?” Phó Tư Qui cười: “Ta có phải con ngươi đâu mà bảo ta là thằng con rùa đen?”

Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, nghĩ một lúc mới, biết là y nói lòng vòng chửi mình là đồ rùa đen. Nghĩ ra được rồi, y gầm lên, soạt soạt soạt chém luôn ba nhát ngạc chủy tiễn. Gã tuy đầu óc chậm lụt nhưng võ công không tệ, cây ngạc chủy tiễn lại đầy những răng sắc nhọn chẳng khác chi lang nha bổng. Phó Tư Qui vung thanh thục đồng côn mới đỡ được ba chiêu đã thấy hai tay tê buốt. Chử Vạn Lý vội vàng vung cần lên, sợi dây tơ liền vụt ra chẳng khác gì nhuyễn tiên quất vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, lão phải đưa ngạc chủy tiễn gạt ra.

Bảo Định Đế nhìn cuộc thế thấy bên mình không có chỗ nào lâm nguy, bèn nói với Cao Thăng Thái: “Ngươi đứng đây lược trận.”

Cao Thăng Thái vâng lời, ung dung đứng một bên, hai tay chắp sau lưng, ngắm mây bay trên trời, tựa hồ không ngó đến ai.

Bảo Định Đế đi vào trong nhà, lên tiếng gọi: “Dự nhi, cháu có ở đây không?” Không thấy ai thưa, nhà vua đấy cửa vào phòng bên trái, lại gọi nữa: “Dự nhi! Dự nhi!” Chỉ thấy một cô gái chừng mười lăm, mười sáu từ sau cánh cửa bước ra, mặt ngơ ngác, hỏi lại: “Ông… ông là ai? Bảo Định Đế đáp: “Đoàn công tử ở đâu?” Cô bé hỏi lại: “Ông kiếm Đoàn công tử làm chi?” Bảo Định Đế đáp: “Ta đến cứu y.”

Cô bé lắc đầu nói: “Ông không cứu được đâu. Công tử bị giam trong nhà đá rất kiên cố, lại có người canh giữ bên ngoài.” Bảo Định Đế nói: “Cô đưa ta tới, ta sẽ đánh ngã người canh gác, đẩy đá cứu y ra ngoài.” Cô bé lại lắc đầu: “Không được đâu! Tôi đưa ông đến thì gia gia tôi giết tôi mất.” Bảo Định Đế hỏi: “Thế gia gia cô là ai?” Cô bé đáp: “Tôi họ Chung, cha tôi là chủ nhân của sơn cốc này.” Cô gái đó chính là Chung Linh trốn được từ núi Vô Lượng trở về đây.

Bảo Định Đế nghĩ thầm “Đối với một cô gái nhỏ tuổi như thế này, ta dụ dỗ hay uy hiếp đều mất cả thể thống. Đoàn Dự đã ở đây, sớm muộn gì mình cũng tìm ra.” Nghĩ vậy, nhà vua trở ra kiếm người dẫn đường.

***

Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh ở trong thạch thất nghe thấy người áo xanh ở bên ngoài tự xưng là thiên hạ đệ nhất ác nhân Ác Quán Mãn Doanh thì kinh hãi vô cùng, nép lại bên nhau. Đoàn Dự khẽ bảo: “Uyển muội! Anh em ta rơi vào tay kẻ ác nhất thiên hạ, vô phước mất rồi.” Mộc Uyển Thanh ú ớ dụi đầu vào lòng chàng. Đoàn Dự giơ tay vuốt tóc nàng, an ủi: “Đừng sợ”

Quần áo hai người mồ hôi ra ướt đẫm như vừa ngâm mình xuống nước. Nhiệt khí trong người bốc lên, mũi thở hơi ra càng kích thích mạnh đối phương. Một chàng trải đầy nhựa sống ngồi bên cô gái đang tuổi dậy thì, dù không bị thuốc kích động cũng khó bề dập tắt lửa lòng. Huống chi Âm Dương hòa hợp tán bá đạo vô cùng, kẻ sĩ chính trực trở nên dâm dục, gái đoan trang biến thành lẳng lơ. Chỉ một phút mê muội thì đến bậc thánh hiền cũng hóa ra cầm thú. Giờ đây chỉ còn trông chờ Đoàn Dự một điểm thiên lương, không lúc nào quên cái thanh danh của họ Đoàn mà miễn cưỡng khắc chế.

Người áo xanh cực kỳ đắc ý, cất tiếng cười quái đản nói: “Anh em mi mau mau hoàn thành hảo sự. Sinh con sớm ngày nào là thoát khỏi vòng lao lung sớm ngày ấy. Ta đi đây.” Nói xong y vượt qua bức tường cây đi mất.

Đoàn Dự kêu lớn: “Nhạc lão tam, Nhạc lão nhị! Sư phụ gặp nạn, người mau mau đến giải cứu!” Chàng gọi đến khản cổ nhưng nào thấy ai trả lời.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Trong lúc nguy cấp này thôi đành bái y làm thầy chứ biết làm sao? Thà thờ một người độc ác làm sư phụ để chịu lỡ một đời mình còn hơn liên lụy đến bá phụ cùng gia gia”, Nghĩ như thế chàng lại gào lên: “Nam Hải Ngạc Thần, ta cam tâm bái người làm thầy, tình nguyện làm kẻ truyền nhân của phái Nam Hải. Sư phụ mau mau đến cứu đồ đệ. Ta chết thì ngươi không chọn được đệ tử như ta nữa đâu.” Chàng gào rát cổ họng cũng chẳng thấy ma nào xuất hiện, chợt nghĩ ra: “Hỏng rồi! Nam Hải Ngạc Thần sợ lão đại Ác Quán Mãn Doanh một phép, dù y có nghe ta gọi chăng nữa cũng chẳng dám tới cứu.” Chàng càng thấy trong lòng bối rối.

Bỗng Mộc Uyển Thanh cất tiếng hỏi: “Đoàn lang ơi! Thiếp cùng chàng kết nghĩa phu thê, con đầu lòng chàng muốn trai hay gái?” Đoàn Dự mơ màng buột miệng đáp một tiếng: “Trai.”

Bất thình lình bên ngoài có tiếng một cô gái nói vọng vào: “Trời ơi! Đoàn công tử! Công tử là anh ruột Mộc tỉ tỉ, sao lại kết hôn được?” Đoàn Dự giật mình hỏi: “Phải… phải Chung cô nương đó không?” Cô gái đó chính là Chung Linh, nàng nói: “Muội đây, muội nghe lén người áo xanh nói mới biết công tử ở đây. Muội đang tìm cách cứu công tử và Mộc tỉ tỉ ra.” Đoàn Dự cả mừng đáp: “Nếu vậy hay! Nếu vậy hay! Cô nương mau đi lấy trộm thuốc giải độc cho ta.” Mộc Uyển Thanh giận dữ nói: “Con tiểu quỷ Chung Linh kia mau mau cút đi, ai cần người cứu?” Chung Linh đáp: “Để muội tìm cách đẩy tảng đá cứu hai người ra trước đã.” Đoàn Dự vội nói: “Đừng, đừng! Cô nương tìm thuốc mau đi. Ta… ta không chịu nổi nữa rồi. Mau… mau lên, ta muốn chết đây.” Chung Linh cả kinh hỏi: “Không chịu nổi cái gì? Công tử đau bụng lắm à?” Đoàn Dự đáp: “Không phải đau bụng.” Chung Linh lại hỏi: “Hay là nhức đầu?” Đoàn Dự đáp: “Cũng không phải nhức đầu,” Chung Linh hỏi thêm: “Thế Công tử khó chịu chỗ nào trên người?”

Đoàn Dự chỉ phải tội không ngăn nổi tình dục, nhưng biết mở miệng nói sao với một cô gái nhỏ? Chàng ấp ủng: “Ta khắp người chỗ nào cũng khó chịu, cô cứ đi trộm thuốc giải là được.” Chung Linh nhíu mày nói: “Công tử không nói rõ bệnh trạng thì muội biết lấy thuốc gì bây giờ. Gia gia thuốc gì cũng có, nhưng phải biết rõ: nhức đầu, đau bụng hay đau tim… mới được chứ.” Đoàn Dự thở dài: “Ta không đau đầu hết, chỉ có… chỉ có ăn phải thứ thuốc tên là Âm Dương hòa hợp tán mà thôi.” Chung Linh vỗ tay cười nói: “Biết được tên thuốc độc thì dễ lắm. Đoàn đại ca, để muội đi kiếm cha xin thuốc giải.”.

Nàng lật đật trèo qua bức tường cây đi kiếm phụ thân để hỏi thuốc giải Âm Dương hòa hợp tán. Đó là thuốc của người áo xanh nhưng Chung Vạn Cừu vừa nghe tên cũng biết ngay là loại gì, bộ mặt ngựa sa sầm, mắng luôn: “Con nhãi này! Mi hỏi cái đó làm chi? Còn nói lăng nhăng nữa ta lại nắm tai đánh cho một trận bây giờ.” Chung Linh hốt hoảng nói: “Đâu phải con nói lăng nhăng…”

Ngay khi đó, Bảo Định Đế và tùy tùng đã tấn công vào Vạn Kiếp Cốc, Chung Vạn Cừu vội vàng chạy ra ứng chiến, để Chung Linh ở trong phòng. Nàng nghe tiếng gươm đao loảng xoảng biết rằng hai bên đang đánh nhau kịch liệt nhưng chẳng thèm để ý, vẫn tiếp tục lục lọi trong phòng thuốc của phụ thân. Chung Vạn Cừu có đến mấy trăm chai thuốc, chai nào cũng có đề tên và chua rõ cách dùng, song tìm mãi không thấy thuốc giải Âm Dương hòa hợp tán. Nàng còn đang phân vân chưa biết tính sao bỗng nghe có người vào phòng, vội ra xem liền gặp phải Bảo Định Đế.

Bảo Định Đế chưa tìm ra ai dẫn đường bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người, quay lại thì ra Chung Linh chạy tới, bèn đứng lại chờ. Chung Linh đến gần nói: “Tôi không kiếm được thuốc giải, thôi dẫn ông đến mật thất vậy. Chẳng hiểu ông có đẩy nổi tảng đá lớn đó không”. Bảo Định Đế chẳng hiểu nàng nói gì, hỏi lại: “Cháu nói thuốc giải độc gì? Tảng đá lớn nào?” Chung Linh đáp: “Ông đi theo tôi, nhìn là biết ngay.”

Đường lối trong hang Vạn Kiếp tuy khuất khúc nhưng có Chung Linh dẫn đi, thoáng cái đã đến. Bảo Định Đế cầm tay Chung Linh, không nhún chân mà đột nhiên vọt lên nhẹ nhàng đáp xuống bức tường cây. Chung Linh vỗ tay reo lên: “Hay thật, hay thật! Tưởng chừng như ông biết bay. Ôi chao, không xong rồi!”

Ngoài thạch thất có một người ngồi gác, chính là quái khách áo xanh. Chung Linh rất sợ con người sống dở chết dở này, nói nhỏ: “Chúng ta chạy đi thôi ông ạ. Đợi lão đi rồi sẽ trở lại.” Bảo Định Đế nhìn thấy người áo xanh cũng lấy làm kỳ dị, vỗ về bảo Chung Linh: “Có ta đây, cháu đừng sợ gì hết! Phải chăng Đoàn Dự bị nhốt trong nhà đá kia?” Chung Linh gật đầu, trốn vào sau lưng ông.

Bảo Định Đế ung dung tiến lại gần nói: “Xin tôn giá tránh ra một bước.” Người áo xanh như không nghe không thấy, vẫn ngồi yên không nhúc nhích.

Bảo Định Đế nói: “Tôn giá không chịu tránh ra, thì đừng trách ta vô lễ.” Ông lách qua đặt chưởng phải lên tảng đá, đang định vận kình đẩy, bỗng từ dưới tay người áo xanh thò ra một cây thiết trượng nhỏ, điểm vào huyệt Khuyết Bồn. Cây gậy sắt đến còn cách Bảo Định Đế chừng một trượng bỗng ngừng lại, không ngớt rung động, nhưng nếu ông tiếp tục vận kình thì sẽ đâm tới ngay, không cách nào tránh kịp. Bảo Định Đế trong bụng hơi bàng hoàng: “Người này công phu điểm huyệt thật là cao minh, không hiểu là ai”. Tay phải ông hơi giơ lên vỗ luôn vào cây gậy đồng thời bàn tay trái lòn xuống dưới đặt lên tảng đá. Người áo xanh lập tức nhích cây gậy sang chỉ vào huyệt Thiên Trì. Chưởng lực Báo Định Đế chuyển nhanh như gió, liền một lúc thay đổi đến bảy phương vị, nhưng cây gậy sắt của người áo xanh cũng liên tiếp chỉ vào các nơi huyệt đạo, chế ngự cuộc thế.

Hai người liên tiếp biến chiêu, công phu nhận huyệt của người áo xanh thật chuẩn xác khiến cho Bảo Định Đế không được rảnh tay chút nào để vận nội công đẩy tảng đá. Ông thấy y với mình cũng tám lạng nửa cân, xem ra còn hơn em mình là Đoàn Chính Thuần một mức. Tả chưởng ông đánh xéo ra, đột nhiên từ chưởng biến thành chỉ, nghe véo một tiếng. Nhất Dương Chỉ điểm vào thiết trượng, tưởng chừng cây gậy thế nào cũng cong lại. Ngờ đâu cây gậy sắt cũng véo một tiếng điểm trở ra, hai luồng lực đạo chạm nhau trên không trung. Bảo Định Đế bị hất lùi lại còn người áo xanh cũng bị rung chuyển. Trên mặt Bảo Định Đế lóe ra ánh hồng quang, trên mặt người áo xanh cũng thoáng hiện một luồng thanh khí, nhưng vừa bừng lên là biến đi ngay.

Bảo Định Đế rất lấy làm kỳ, nghĩ thầm: “Võ công người này không những tuyệt cao, mà rõ ràng đối với ta có mối liên hệ chi đây. Trượng pháp của y với Nhất Dương Chỉ rõ ràng có liên quan”. Nghĩ vậy ông liền chắp tay hỏi: “Tiền bối quý tính đại danh là chi? Xin cho biết.” Bỗng nghe tiếng người hỏi lại: “Ngươi là Đoàn Chính Minh hay Đoàn Chính Thuần?” Bảo Định Đế thấy lão không nhếch mép mà nói được, lại càng rất đỗi ngạc nhiên, trịnh trọng đáp: “Tại hạ Đoàn Chính Minh.” Người áo xanh hừ một tiếng nói: “Phải chăng ngươi là đương kim hoàng đế nước Đại Lý?” Bảo Định Đế đáp: “Chính phải.” Người áo xanh hỏi: “Võ công ngươi so với ta, ai hơn ai kém?”.

Bảo Định Đế trầm ngâm giây lát đáp: “Kể về võ công thì tiền bối hơn ta chút đỉnh, nhưng đánh nhau thực sự thì ta thắng tiền bối.” Người áo xanh nói: “Ngươi nói đúng lắm! Thân thể ta tàn phế dẫu sao cũng bị thiệt thòi. Ôi, có ngờ đâu ngươi lên ngôi hoàng đế vẫn không chểnh mảng việc luyện công.” Tiếng lão tuy từ trong bụng thốt ra, vẫn lộ vẻ ảo não thất vọng.

Bảo Đinh Đế không đoán được lại lịch của y, trong bụng nảy ra bao nhiêu mối nghi ngờ. Bỗng từ trong thạch thất vọng ra một tiếng hét lớn, rõ ràng giọng của Đoàn Dự. Bảo Định Đế gọi to: “Dự nhi, cháu đấy ư? Hãy cứ yên tâm, ta đến cứu cháu đây.” Chung Linh cũng kinh hãi kêu lên: “Đoàn công tử! Đoàn công tử!”

Thì ra Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh bị xuân dược thôi thúc mãnh liệt, càng lúc càng khó mà kháng cự lại được tình dục. Về sau Mộc Uyển Thanh thần trí mơ hồ, quên mất Đoàn Dự là anh của mình, luôn mồm gọi: “Đoàn lang, ôm thiếp đi, ôm chặt lấy thiếp đi!” Nàng còn trong trắng, việc trai gái chưa từng biết đến, chỉ thấy người nóng như thiêu không chịu nổi, muốn Đoàn Dự ôm lấy mình cho hạ xuống nên xông vào ôm lấy chàng. Đoàn Dự kêu lên: “Không được đâu!” Chàng lách người tránh ra, chân tự nhiên sử dụng Lăng Ba Vi Bộ. Mộc Uyển Thanh vồ không trúng, ngã lăn lên giường ngất đi.

Đoàn Dự liên tiếp đi thêm mấy bước, nội tức trong người thuận theo kinh mạch mà vận hành, càng chạy càng nhanh khiến cho mỗi lúc càng thêm ngột thở, tưởng như không hút nổi khí trời nữa nên nhịn không nổi phải rống lên một tiếng. Nhờ tiếng gào đó mà ngực thấy dễ thở hơn, nên chàng cứ đi vài bước lại mở miệng hét lên một tiếng thật to, uất kết trong người mới nhẹ đi được đôi chút. Bên ngoài Bảo Định Đế cùng người áo xanh đối thoại, cả đến câu bá phụ bảo “hãy cứ an tâm” có lọt vào tai chàng, mà chàng chẳng hiểu gì ráo.

Người áo xanh nói: “Tên tiểu tử này định lực giỏi thật, uống phải Âm Dương hòa hợp tán của ta rồi mà còn chống chọi được đến bây giờ.” Bảo Định Đế giật mình hỏi lại: “Thứ độc dược đó là gì thế?” Người ác xanh đáp: “Không phải độc dược, chỉ là một loại xuân dược cực mạnh thôi.” Bảo Định Đế hỏi: “Ngươi cho y uống loại thuốc đó là có ý gì?” Người áo xanh đáp “Ta nhốt cả con em gái nó trong thạch thất này.”

Bảo Định Đế vừa nghe qua biết ngay âm mưu thâm độc của người nọ. Ông tu dưỡng đã dày mà vẫn nổi trận lôi đình, tay áo liền vung lên, nghe soẹt một  tiếng đã phóng ra một chỉ. Người áo xanh giơ trượng lên gạt ra, chỉ thứ hai của Bảo Định Đế đã tung ra nhắm ngay vào tử huyệt Thất Đột dưới yết hầu, liệu rằng y sẽ phải giở toàn lực ra chống đỡ.

Nào ngờ lão bật lên hai tiếng cười quái dị rồi ngồi yên chịu chết, không né tránh, cũng không chống đỡ. Bảo Định Đế trong bụng sinh nghi lập tức thu ngón tay về hỏi: “Tại sao ngươi cam tâm chịu chết?” Người áo xanh đáp: “Ta được chết dưới tay ngươi thì còn gì hay bằng, tội nghiệt nhà người lại tăng thêm một từng nữa.” Bảo Định Đế hỏi lại: “Ngươi thực sự là ai?” Người áo xanh hạ giọng nói nhỏ một câu.

Bảo Định Đế nghe qua, sắc mặt lập tức biến đổi nói: “Ta không tin.” Người áo xanh đưa gậy sang tay trái, ngón tay trỏ bên phải điểm vèo một tiếng về phía Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêng người tránh khỏi, trả lại một chỉ. Người áo xanh ngón tay giữa búng ra, Bảo Định Đế mặt mày trịnh trọng cũng lấy ngón giữa đáp lễ. Chiêu thứ ba của người áo xanh dùng ngón tay vô danh quét ngang, còn chiêu thứ tư dùng ngón út khẩy nhẹ. Bảo Định Đế từng chiêu từng chiêu đáp lại. Đến chiêu thứ năm, người áo xanh lấy ngón tay cái miết xuống, trong năm ngón ngón tay cái ngắn nhất, chậm chạp không linh hoạt nhưng lực đạo lại mạnh nhất, Bảo Định Đế không dám coi thường cũng giơ ngón cái của mình lên bật qua đối phương.

Chung Linh đứng bên nhìn thấy lạ mắt, động tính trẻ thơ quên cả sợ hãi ông già áo xanh, cười hỏi: “Hai người đang đánh đố tay chăng? Hết ông này đưa tay lại đến ông kia chìa ngón. Như vậy ai thua ai được?” Nàng vừa nói vừa lân la lại gần. Bỗng đâu một luồng kình phong lặng lẽ xô tới, Chung Linh vai trái đau nhói lên tưởng như muốn ngất đi. Bảo Định Đế hất tay nhẹ nhàng đẩy nàng ra ngoài, tiếp đó nhảy lùi về sau đỡ lấy nàng nói: “Đứng yên đừng cử động.” Chung Linh sững sờ hỏi: “Ông… ông kia muốn giết tôi ư?” Bảo Định Đế lắc đầu đáp: “Không phải đâu! Ông ấy đang cùng ta tỷ thí võ công, người ngoài chớ có đến gần” Ông giơ tay vỗ nhẹ lên lưng nàng mấy cái.

Người áo xanh hỏi: “Ngươi đã tin chưa?” Bảo Định Đế tiến lên mấy bước khom lưng nói: “Chính Minh tham kiến tiền bối.” Người áo xanh nói: “Ngươi gọi ta là tiền bối, thế là ngươi chưa tin nên mới không nhận ta:” Bảo Định Đế đáp: “Chính Minh thân làm chủ một nước, lời nói hành vi lúc nào cũng phải cẩn thận. Chính Minh không có con, dòng dõi chính thống chỉ còn một mình Đoàn Dự, xin tiền bối rộng lượng buông tha y ra.” Người áo xanh nói: “Ta đang muốn cho họ Đoàn Đại Lý loạn luân, thất đức, tuyệt diệt, đã ráng chờ cho có ngày nay, lý đâu lại nới tay dễ dãi thế được?” Bảo Định Đế gay gắt đáp: “Đoàn Chính Minh này nhất quyết không thể bằng lòng.”

Người áo xanh cười ha hả nói: “Ngươi tự xưng là hoàng đế nước Đại Lý, ta cho ngươi chỉ là kẻ loạn thần tặc tử, mưu đồ chiếm đoạt ngai vàng mà thôi. Ta thách người có giỏi thì về điều động tay chân quân lính tới đây. Bảo cho ngươi biết, thế lực ta kém xa ngươi thật nhưng muốn giết thằng giặc non Đoàn Dự thì thật dễ như trở bàn tay. Còn như bây giờ ngươi ra tay đánh với ta, trong vài trăm chiêu chưa chắc đã thẳng, muốn giết ta cũng thật khó vô cùng. Nếu ta không chết thì ngươi đâu có cứu nổi tính mạng y.”

Nét mặt Bảo Định Đế hết xám xanh lại trắng bợt. Ông biết rằng lão nói thật, đừng nói gì trở về đem binh lính tới mà chỉ cần mình có thêm một người tiếp tay là lão cũng không địch nổi rồi. Nhưng y sẽ gia hại Đoàn Dự ngay, huống chi thân phận người này mình không thể nào ra tay giết y được. Ông bèn hỏi: “Vậy tiền bối muốn thế nào mới thả y ra, xin cho biết!” Người áo xanh đáp: “Dễ lắm, dễ lắm! Ngươi lên chùa Thiên Long xuất gia làm sư, đem đế vị trả lại cho ta, ta sẽ cho Đoàn Dự uống thuốc giải, trả lại cho ngươi đứa cháu ngoan khỏe mạnh bình thường, đức hạnh vẹn toàn.” Bảo Định Đế đáp: “Cơ nghiệp của tổ tiên truyền đời để lại, đâu dám tự tiện chắp tay dâng cho người khác?”

Người áo xanh cười ha hả nói: “Thế đây là cơ nghiệp của ngươi hay là cơ nghiệp của ta? Vật trả về chủ hay là tùy tiện dâng cho người? Ta không truy cứu tội soán nghịch của nhà ngươi cũng đã là khoan hồng đại lượng lắm rồi. Nếu ngươi chấp nê không nghe thì cứ việc ngồi chờ, đợi đến bao giờ Đoàn Dự cùng với em gái y sinh được đứa con, bất luận trai hay gái ta sẽ tha ra.” Bảo Định Đế đáp: “Nếu vậy thì thà tiền bối giết y đi còn hơn.”

Người áo xanh nói tiếp: “Ngoài ra còn hai cách khác nữa.” Bảo Định Đế hỏi: “Cách gì?” Người áo xanh nói: “Một là ngươi lừa lúc ta không phòng bị, ám toán giết ta đi rồi ngươi tự ý tha nó ra.” Bảo Định Đế nói: “Tôi không thể ám toán giết tiền bối được.” Người áo xanh lại tiếp: “Nói thì nói vậy chứ ám toán ta đâu phải chuyện dễ dàng? Còn cách thứ hai là ngươi bảo Đoàn Dự đem phép Nhất Dương Chỉ ra đấu với ta, nếu thắng thì lúc ấy đi đâu chẳng được.” Nói xong lão cười sằng sặc trong cổ họng.

Bảo Định Đế nổi giận nhưng cố nén, chậm rãi nói: “Đoàn Dự không biết chút võ công nào, lại chưa từng học công phu Nhất Dương Chỉ.” Người áo xanh cười khẩy: “Cháu Đoàn Chính Minh nước Đại Lý mà lại không biết Nhất Dương Chỉ thì ai tin được?” Bảo Định Đế đáp: “Đoàn Dự từ thuở nhỏ học Thi Thư cùng kinh Phật, tâm địa từ bi, kiên quyết không chịu học võ.” Người áo xanh đáp: “Thế thì lại chỉ là một đứa giả nhân giả nghĩa, ngụy quân tử mua danh hão. Hạng ấy mà lên ngôi vua thì đâu phải là phúc cho lê dân Đại Lý, giết sớm đi là hơn.”

Bảo Định Đế gằn giọng nói: “Xin tiền bối cho biết còn đường lối nào khác nữa không?” Người áo xanh nói: “Giả tỷ năm xưa có đường lối để thoát thì ta đâu đến nỗi thân tàn ma dại thế này? Kẻ khác không cho ta lối thoát, có lý đâu ta lại mở đường cho hươu chạy?”

Bảo Định Đế cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi vẻ mặt cương quyết gọi to: “Dự nhi, ta sẽ tìm cách cứu cháu ra. Cháu chớ quên rằng mình là con cháu nhà họ Đoàn.”

Chỉ nghe từ trong nhà đá vọng ra tiếng của Đoàn Dự: “Bá phụ tiến vào dùng Nhất Dương Chỉ đâm chết cháu đi.” Lúc này chàng đã ngừng bước, ngồi dựa vào vách đá nghỉ ngơi nên nghe rõ ràng từng lời đối đáp của người áo xanh và bá phụ. Bảo Định Đế nghiêm giọng hỏi: “Thế nào? Mi làm bại hoại gia phong họ Đoàn rồi sao?” Đoàn. Dự đáp: “Không! không phải thế. Điệt nhi thấy trong lòng nóng như thiêu như đốt, không thể sống được nữa.”

Bảo Định Đế đáp: “Con người ta sinh tử hữu mệnh, cứ phó mặc Hoàng thiên” Ông nắm tay Chung Linh đi ra khoảng đất trống, nhảy lên tường cây nói: “Tiểu cô nương! Đa tạ cô đã dẫn đường cho ta, sau này sẽ có ngày báo đáp.” Ông theo đường cũ quay trở lại ngôi nhà chính.

Chử Vạn Lý và Phó Tư Qui hai người đánh với Nam Hải Ngạc Thần chưa biết bên nào thắng bên nào bại. Chu Đan Thần và Cổ Đốc Thành thì bị thanh bạc đao của Diệp Nhị Nương ép cho kém thế dường như không chịu nổi. Còn ở góc bên kia cặp giò Vân Trung Hạc tuy vẫn lanh lẹ dị thường nhưng miệng đã thở hồng hộc như bò rống, Ba Thiên Thạch vẫn nhảy lên chồm chôm, còn đang sung sức, Cao Thăng Thái chắp tay sau lưng thủng thắng đi lại ung dung như không quan tâm gì đến những trận đấu kịch liệt chung quanh. Thực ra ông mắt nhìn khắp sáu phía, tai nghe khắp tám phương, tinh thần tập trung theo dõi toàn cục, bên mình nếu như ai bị nguy hiểm gì sẽ lập tức ra tay giúp đỡ. Còn vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Tần Hồng Miên, Chung Vạn Cừu thì không thấy đâu.

Bảo Định Đế hỏi: “Thuần đệ đâu?” Cao Thăng Thái đáp: “Trấn Nam Vương đánh đuổi được Chung cốc chủ rồi cùng vương phi đi tìm Đoàn công tử.” Bảo Định Đế cao giọng truyền lệnh: “Chuyện nơi đây có nhiều khúc mắc, mọi người lui lại đã.”

Ba Thiên Thanh nghe lệnh bỗng nhiên đứng lại, Vân Trung Hạc lỡ trớn xông tới, nghe bình một tiếng, Ba Thiên Thạch đã đánh ra một chưởng. Vân Trung Hạc đưa cả song chưởng lên đỡ, thấy trên ngực khí huyết nhộn nhạo tưởng chừng hộc máu ra. Y cố gượng trấn tĩnh nhưng mắt hoa lên, nhìn không rõ chiêu số đánh tới đành phải bỏ chạy. Ba Thiên Thạch cũng không đuổi theo, chỉ cười khẩy nói: “Lãnh giáo vậy đủ rồi.”

Từ khu rừng ở bên cạnh có tiếng Đoàn Chính Thuần vọng ra: “Ở đây không thấy gì, thôi mình đi ra đằng sau xem sao.” Đạo Bạch Phượng nói: “Chẳng thấy người nào để hỏi thăm cả.” Có tiếng Tần Hồng Miên: “Sư muội ta bảo họ tránh đi cả rồi.” Bảo Định Đế nhìn Cao Thăng Thái, Ba Thiên Thạch mỉm cười, thấy Trấn Nam Vương quả là thần thông quảng đại, không biết làm cách nào mà khiến cho hai người đàn bà không đội trời chung kia cùng đi kiếm Đoàn Dự.

Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói: “Vậy thì mình đi kiếm sư muội bà hỏi thăm, thể nào nàng cũng biết Dự nhi đang ở đâu.” Đao Bạch Phượng nổi cáu nói: “Ông muốn đi kiếm Cam Bảo Bảo chắc chẳng có ý tốt lành gì.” Tần Hồng Miên cũng nói: “Sư muội ta có nói rằng từ rày về sau không bao giờ gặp lại ông nữa.”

Ba người vừa nói vừa từ đằng sau lùm cây bước ra, Đoàn Chính Thuần thấy anh bèn hỏi: “Đại ca, có cứu…có tìm được Dự nhi chưa?” Ông vốn định hỏi “có cứu được chưa” nhưng không thấy Đoàn Dự ở đó nên vội nói tránh đi, Bảo Định Đế gật đầu đáp: “Tìm thấy rồi! Ta hãy về thành rồi sẽ nói chuyện.”

Chu Đan Thần, Chử Vạn Lý thấy nhà vua hạ lệnh đình chiến cũng muốn dừng tay nhưng Diệp Nhị Nương và Nam Hải Ngạc Thần càng đánh càng hăng, không chịu bãi chiến. Bảo Định Đế chau mày nói: “Chúng ta đi thôi!”

Cao Thăng Thái nói: “Tuân mệnh.” Ông lấy thiết địch trong bọc ra, giơ lên điểm vào yết hầu Nam Hải Ngạc Thần, tiếp theo nhấc tay lật một cái, vung ra tạt vào Diệp Nhị Nương. Hai chiêu đó đều thật lợi hại nhằm toàn chỗ sơ hở của địch nhân mà tấn công. Nam Hải Ngạc Thần lập tức lộn một vòng nhảy ra bên ngoài, nghe bộp một tiếng thiết địch đã đánh trúng tay Diệp Nhị Nương, mụ ta kêu oái lên vội vàng nhảy vọt ra.

Thực ra Cao Thăng Thái võ công không giỏi hơn hai người này bao nhiêu, có điều ông ta đứng ngoài quan sát đã lâu, trong bụng đã tính toán kỹ càng cách đối phó với hai người. Hai chiêu đó tấn công Nam Hải Ngạc Thần chỉ là đánh nhứ, đột nhiên xuất kỳ bất ý đánh vào Diệp Nhị Nương trả đũa một chưởng mụ ta đánh ông hôm trước. Trông ông ra tay nhẹ nhàng như không, nhưng thực ra mỗi chiêu đều tính toán không biết bao nhiêu lần, dùng hết công lực bình sinh.

Nam Hải Ngạc Thần giương đôi mắt ti hí lên mà nhìn Cao Thăng Thái, vừa kinh hãi vừa bội phục nói:“Tiên sư nó chứ, quả là giỏi thật, trông ngươi biết thế chó nào…” Lão không thốt ra hết lời nhưng mọi người đều hiểu là “Trông ngươi đâu biết được lợi hại đến thế, xem chừng ta khó có thể thủ thắng được”.

Đao Bạch Phượng hỏi Bảo Định Đế: “Hoàng huynh, Dự nhi có sao không?” Bảo Định Đế tuy trong lòng rất lo ngại nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ thản nhiên đáp: “Không sao đâu! Thật là cơ hội rất tốt để rèn luyện cho y, chỉ mấy hôm nữa sẽ ổn thỏa. Thôi ta hãy về cung rồi sẽ nói chuyện.” Ông nói xong quay mình ra đi.

Ba Thiên Thạch vượt lên trước dẫn đường, vợ chồng Đoàn Chính Thuần đi sát ngay sau huynh trưởng, kế đến là Chử, Cổ, Phó, Chu tứ hộ vệ, sau cùng là Cao Thăng Thái. Y vừa xuất tuyệt chiêu hốt hồn kẻ địch, Nam Hải Ngạc Thần hung hãn là thế mà cũng không dám đuổi theo gây sự.

Đoàn Chính Thuần đi chừng mười trượng không nhịn được, phải quay lại nhìn Tần Hồng Miên. Tần Hồng Miên cũng đang run run nhìn theo ông. Bốn mắt gặp nhau, hai bên đều có vẻ ngẩn ngơ.

Chung Vạn Cừu tay cầm đại hoàn đao thở hồng hộc từ sau nhà chạy ra quát mắng: “Đoàn Chính Thuần, lần này ngươi không gặp vợ ta là may cho ngươi lắm đó, không thì ta cho ngươi một trận. Phu nhân ta đã thề rồi, từ rày trở đi không thèm nhìn mặt ngươi. Chẳng qua… chẳng qua nàng sợ gặp cái đồ mặt mẹt ngươi, biết đâu chừng con mẹ nó lại… Thôi, nói tới nói lui người không gặp được nàng nữa là xong.” Y đấu với Đoàn Chính Thuần được mấy chiêu biết là không cách gì thắng nổi, vội vàng quay vào canh chừng vợ, đề phòng Đoàn Chính Thuần đến tán tỉnh. Nghe phu nhân lập lời thề không nhìn mặt Đoàn Chính Thuần y mừng không biết để đâu cho hết, vội vàng chạy ra nhắc lại những câu đoạn tình đoạn nghĩa ấy cho tình địch nghe.

Đoàn Chính Thuần trong lòng bồi hồi, nhủ thầm: “Thì đã sao? Vì sao nàng lại không nhìn mặt ta nữa? Nàng nay ván đã đóng thuyền, ta lẽ nào còn làm bại hoại danh tiết nàng hay sao? Đoàn nhị nước Đại Lý tuy phong lưu hiếu sắc nhưng nào có hạ lưu vô sỉ. Nếu ta gặp lại nàng mà hai người chỉ lạnh nhạt không nói được với nhau một câu thì thà không gặp còn hơn”. Ông quay lại thấy vợ lạnh lùng nhìn mình không khỏi chột dạ, vội vàng rảo bước ra khỏi cốc.

***

Đoàn người về đến Đại Lý rồi, Bảo Định Đế nói: “Tất cả vào cung thương nghị.” Vào đến thư phòng trong hoàng cung, Bảo Định Đế ngồi trên một chiếc ghế bành lớn lót da báo ngay chính giữa, vợ chồng Đoàn Chính Thuần ngồi bên dưới còn Cao Thăng Thái và những người khác thông tay đứng hầu. Bảo Định Đế sai nội thị đem ghế lên cho mọi người cùng ngồi rồi vẫy tay cho lui ra, đem tình hình Đoàn Dự bị giam giữ thuật lại hết cho mọi người cùng nghe.

Ai nấy đều hiểu việc này mấu chốt đều ở cả trong tay người áo xanh, nghe Bảo Định Đế nói không những lão đã giỏi phép Nhất Dương Chỉ mà còn hơn ngài một bậc nên không ai dám nói gì. Nhất Dương Chỉ là công phu gia truyền của họ Đoàn, chỉ dạy cho con trai mà không dạy cho con gái. Người áo xanh đã biết công phu này tất nhiên phải là con cháu chính phái họ Đoàn. (*)

Bảo Định Đế quay sang nói với Đoàn Chính Thuần: “Thuần đệ thử nghĩ xem người này là ai?” Đoàn Chính Thuần lắc đầu đáp: “Tiểu đệ đoán không ra, không lẽ chùa Thiên Long có người nào hoàn tục cải trang chăng?” Bảo Định Đế lắc đầu: “Không phải, đó là thái tử Diên Khánh.”

Lời đó vừa nói ra, mọi người ai nấy giật mình. Đoàn Chính Thuần nói: “Thái tử Diên Khánh đã qua đời rồi. Chắc lão này mạo nhận đó thôi.” Bảo Định Đế thở dài: “Tên tuổi có thể giả mạo nhưng công phu Nhất Dương Chỉ thì giả mạo làm sao được. Dẫu có học lén thì cũng chỉ là hạng tầm thường, làm sao trộm được nội công tâm pháp? Lão đích là thái tử Diên Khánh, không còn nghi ngờ gì nữa.”

Đoàn Chính Thuận ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi tiếp: “Thế thì y dù sao cũng dòng giống họ Đoàn, vì lẽ gì lại cố làm bại hoại gia phong danh dự nhà ta? Bảo Định Đế thở dài: “Người này một thân tàn tật cho nên tính tình kỳ dị, không thể lấy lý lẽ thông thường mà lường được. Huống chi ta đang ở ngôi đế vương nước Đại Lý nên bụng y thù hận, cố tìm cách phá hoại được thanh danh anh em ta mới hả lòng.”

Đoàn Chính Thuần nói: “Đại ca lên ngôi đã lâu, thần dân kính ngưỡng, bốn cõi thanh bình. Đừng nói là thái tử Diên Khánh xuất hiện, giả tỷ Thượng Đức Đế có sống lại cũng không thể lên ngôi được.”

Cao Thăng Thái cũng đứng lên tâu: “Lời Trấn Nam Vương thật là chí lý. Thái tử Diên Khánh biết điều trao trả Đoàn công tử thì thôi, bằng không chúng ta không cần biết y là thái tử hay không thái tử, chỉ biết y là kẻ đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân, ai cũng có quyền tru diệt. Bất luận võ công ông ta cao đến mực nào cũng không thể địch lại số đông.”

Thì ra hơn mười năm trước, vào năm Thượng Đức ngũ niên, Thượng Đức Đế Đoàn Liêm Nghĩa đang trị vì nước Đại Lý bỗng sinh đại biến, nhà vua bị gian thần Dương Nghĩa Trinh giết chết. Cháu gọi vua Thượng Đức bằng bác là Đoàn Thọ Huy được các cao tăng chùa Thiên Long và trung thần Cao Trí Thăng giúp đỡ nên diệt được Dương Nghĩa Trinh, lên kế vị hiệu là Thượng Minh Đế. Thượng Minh Đế không thích làm vua nên chỉ ở ngôi một năm rồi xuất gia đầu Phật ở chùa Thiên Long, nhường ngôi cho em họ là Đoàn Chính Minh tức Bảo Định Đế. Vua Thượng Đức vốn có một người con trai là thái tử Diên Khánh nhưng khi gian thần Dương Nghĩa Trinh giết vua cướp ngôi, đất nước đại loạn, thái tử không biết đi đâu mất. Ai cũng cho là thái tử Diên Khánh bị Dương Nghĩa Trinh hạ sát rồi, ngờ đâu sau bao nhiêu năm đột nhiên xuất hiện.

Bảo Định Đế nghe lời Cao Thăng Thái tâu, lắc đầu nói: “Ngôi báu này chính là của thái tử Diên Khánh, chỉ vì khi trước không tìm thấy người nên Thượng Minh Đế mới lên kế vị, sau truyền lại cho ta. Nay thái tử Diên Khánh đã trở về, lý đương nhiên ta phải trả ngôi báu lại cho người.” Đoạn nhìn Cao Thăng Thái nói tiếp: “Giả tỷ lệnh tôn mà còn tại thế dĩ nhiên cũng nghĩ như ta.” Nguyên Cao Thăng Thái là con vị công thần Cao Trí Thăng. Hồi đó sở dĩ trừ gian diệt nịnh được toàn là nhờ công Cao Trí Thăng cả.

Cao Thăng Thái tiến lên một bước, nằm phục xuống đất tâu: “Tiên phụ của vi thần trung chúa yêu dân, nhưng quái khách áo xanh này là kẻ đứng đầu tứ ác. Giả tỷ lão lên làm vua nước Đại Lý, chăn dắt muôn dân thì trăm họ điêu linh biết bao nhiêu mà kể. Việc hoàng thượng định nhường ngôi này, kẻ vi thần là Cao Thăng Thái dù muôn thác cũng không dám tuân lệnh.”

Ba Thiên Thạch cũng phục xuống đất tâu: “Mới rồi thần Thiên Thạch nghe Nam Hải Ngạc Thần gọi người đứng đầu trong tứ ác là Ác Quán Mãn Doanh. Nếu Ác Quán Mãn Doanh không phải là thái tử Diên Khánh thì dĩ nhiên không thể lên ngôi báu, giả tỷ lão chính là thái tử Diên Khánh thì còn ác hơn Nam Hải Ngạc Thần. Chúa thượng nỡ để lão cai trị trăm họ nước Đại Lý này cho giang sơn điên đảo, xã tắc nguy vong hay sao?”

Bảo Định Đế khoát tay nói: “Hai người hãy đứng dậy. Lời các ngươi quả là có lý, có điều Dự nhi rơi vào tay họ, trừ khi ta nhường ngôi cho chúng, có cách nào đưa được Dự nhi về đâu?”

Đoàn Chính Thuần nói: “Đại ca! Từ xưa đến nay chỉ có chuyện quân phụ gặp nạn, thần tử xả thân. Dự nhi tuy được đại ca yêu thương nhưng có lý đâu vì y mà đại ca phải bỏ ngôi trời? Dù cho y có thoát nạn cũng thành kẻ đại tội ở nước Đại Lý.”

Bảo Định Đế đứng lên, tay trái vuốt chòm râu dài, hai ngón tay phải gõ nhẹ vào trán, bước thủng thỉnh đi trong thư phòng. Mọi người đều biết khi gặp việc khó giải quyết ngài thường có cử chỉ như vậy để xuất thần suy nghĩ nên không ai dám lên tiếng, để ngài được tĩnh trí. Bảo Định Đế đi đi lại lại hồi lâu rồi nói: “Thái tử Diên Khánh thủ đoạn thật là độc ác, cho Dự nhi uống Âm Dương hòa hợp tán. Chất thuốc này dược tính ghê gớm, người thường khó lòng chống chọi nổi. Chỉ sợ… chỉ sợ lúc này thuốc độc làm cho y mê muội rồi cũng chưa biết chừng. Than ôi, đây là gian kế của người ngoài chứ nào phải tại Dự nhi, mình trách thế nào được?”

Đoàn Chính Thuần cúi gằm mặt xuống, xấu hổ vô cùng. Ông tự trách: Họa này xét cho cùng chỉ tại mình phong lưu lãng mạn gây ra.

Bảo Định Đế quay trở lại chiếc ghế đang ngồi, nói: “Ba Tư không, truyền hạ ý chỉ, ra lệnh cho Hàn lâm viện thảo chiếu gia phong Hoàng đệ Đoàn Chính Thuần lên chức Hoàng thái đệ.”

Đoàn Chính Thuần cả kinh vội quỳ xuống tâu: “Hiện nay đại ca đang độ tuổi xuân còn thịnh, muôn dân đội đức cao dày, Hoàng thiên tất sẽ trông lại, con cháu đề huề. Chức Hoàng thái đệ kia xin khoan bàn đến.”

Bảo Định Đế cầm tay nâng dậy nói: “Hoàng đế cùng ta hai người như một. Giang sơn nước Đại Lý này cả hai anh em ta chấp chưởng. Đừng nói là ta không có con, dù có hoàng nam đi nữa ta vẫn truyền ngôi cho Hoàng đệ. Việc ta quyết lập Thuần đệ kế thừa cả nước đều biết. Ngày nay càng cần định rõ danh phận để thái tử Diên Khánh đừng mong gì nữa.”

Đoàn Chính Thuần từ khước ba bốn lần không được, đành phải khấu đầu tạ ơn. Bọn Cao Thăng Thái liền tiến lên chúc mừng. Bảo Định Đế không có con cái, ngôi vua về sau ắt sẽ truyền cho Đoàn Chính Thuần, việc đó ai cũng đã biết nên không ai ngạc nhiên.

Bảo Định Đế phán: “Ai nấy về nghỉ đi! Việc thái tử Diên Khánh chỉ nên cho Hoa Tư đồ, Phạm Tư mã hai người biết mà thôi, không được tiết lộ ra ngoài.” Mọi người vâng lệnh cúi đầu cáo biệt. Ba Thiên Thạch lập tức đi xuống Hàn lâm viện truyền chiếu chỉ của nhà vua.

***

Bảo Định Đế dùng cơm xong, ngủ một chốc, lúc tỉnh dậy nghe thấy ngoài cung vọng vào tiếng reo hò, âm nhạc du dương, pháo nổ rầm trời. Nội giám vào chầu chực thay áo rồi bẩm: “Bệ hạ phong Trấn Nam Vương làm Hoàng Thái Đệ, dân chúng hoan hô chúc mừng thật là náo nhiệt.” Mấy năm nay nước Đại Lý không có nạn binh đao, triều đình thanh chính, dân sự yên vui. Trăm họ rất kính phục Hoàng đế cùng Trấn Nam Vương và Thiện Xiển Hầu. Bảo Định Đế phán bảo nội giám: “Truyền ý chí của trẫm ngày mai mở hội hoa đăng, trong thành Đại Lý không phải dẹp đường, lại mở tiệc lớn khao thưởng ba quân, ban rượu thịt cho kỳ lão cô nhi.” Ý chỉ vừa ban ra, trăm họ đều mừng rỡ.

Tối hôm đó, Bảo Định Đế mặc thường phục, một mình ra khỏi cung. Ông kéo sụp mũ xuống che kín lông mày chỉ hở hai con mắt, dọc đường thấy trăm họ múa hát rất là vui vẻ. Thời bấy giờ nhân sĩ Trung Nguyên coi nước Đại Lý là đất man di mọi rợ, nghi lễ khác xa Trung thổ. Trên đường cái thanh niên nam nữ dắt nhau đi chơi, cười cợt nô đùa là sự rất thường. Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Cầu mong cho dân chúng nước Đại Lý ta đời đời kiếp kiếp được hoan lạc thế này”.

Nhà vua ra khỏi thành rồi rảo bước mau. Đi được hơn hai mươi dặm thì bắt đầu lên dốc núi. Đường sá mỗi lúc một vắng tanh, đi hết bốn khu thung lũng đến một ngôi cổ tự nhỏ, ngoài cửa có đề ba chữ: “Niêm Hoa Tự”. Phật giáo là quốc giáo của nước Đại Lý nên trong ngoài kinh thành chùa lớn cũng vài chục còn chùa nhỏ tính hàng trăm. Ngôi Niêm Hoa Tự này ở nơi hẻo lánh, ít người khói hương, ngay cả người Đại Lý phần lớn cũng chẳng ai biết đến.

Bảo Định Đế đứng ngoài cổng chùa, tĩnh tâm mặc niệm một hồi rồi tiến tới nhẹ nhàng gõ cửa ba tiếng. Một lát, cửa chùa mở, một chú tiểu chạy ra, chắp tay hỏi: “Tôn khách tới đây có việc gì?” Bảo Định Đế đáp: “Xin thông báo cho Hoàng Mi đại sư là có cố nhân Đoàn Chính Minh đến viếng.” Chú tiểu nói: “Xin mời vào.” Nói xong quay mình dẫn đường cho khách. Bảo Định Đế tiến vào trong chùa, bỗng nghe hai tiếng chuông boong boong từ hậu viện truyền ra, cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, thần trí tiêu dao.

Hai người bước trên thềm đầy lá rụng đi đến phía sau. Chú tiểu nói: “Xin tôn khách ở đây chờ một chút, để tiêu tăng độ bẩm cho sư phụ biết.” Bảo Định Đế đáp: “Được.” Ông chắp tay sau lưng đứng giữa sân nhìn lá vàng từ trên cây ngân hạnh lác đác rơi theo gió. Trong đời ông hiếm khi nào phải đứng ngoài cửa chờ người khác, thế nhưng khi bước chân vào Niêm Hoa Tự này, lòng trần tục sạch lâng lâng, tự nhiên quên cả mình là chúa tể của cả một cõi trời nam.

Chợt nghe tiếng một ông già cười nói: “Đoàn hiền đệ có điều chi nan giải?” Bảo Định Đế quay đầu nhìn lại thấy một vị lão tăng mặt mũi nhăn nheo, thân hình cao lớn đang từ trong căn nhà nhỏ bước ra. Vị sư già đó có đôi lông mày dài sắc vàng, đuôi mày rủ xuống, chính là Hoàng Mi hòa thượng.

Bảo Định Đế chắp tay nói: “Đến quấy nhiễu việc thanh tu của đại sư.” Hoàng Mi hòa thượng mỉm cười nói: “Xin mời vào.” Bảo Định Đế tiến vào trong căn nhà nhỏ thấy hai nhà sư trung niên đứng với chào, biết đó là đệ tử của Hoàng Mi nên cũng giơ tay đáp lễ rồi xếp bằng ngồi xuống chiếc bồ đoàn ở phía tây, đợi cho hòa thượng Hoàng Mi ngồi xuống bồ đoàn mé đông mới bắt đầu vào chuyện: “Tôi có thằng cháu là Đoàn Dự, lúc mới lên bảy tuổi đã từng lại đây nghe sư huynh giảng kinh.” Hoàng Mi tăng mỉm cười: “Thằng bé đó có ngộ tính khá, quả là một đứa bé ngoan, ngoan lắm.” Bảo Định Đế nói: “Nó nhờ được Phật pháp điểm hóa nên tính tình từ bi, không chịu học võ để tránh sát sinh.” Hoàng Mi tăng nói: “Không hiểu võ nghệ vẫn giết người được. Giỏi võ vị tất đã giết người.”

Bảo Định Đế đáp: “Phải lắm!” Thế rồi ông đem chuyện Đoàn Dự không chịu học võ bỏ nhà trốn đi thế nào, gặp gỡ Mộc Uyển Thanh ra sao rồi bị Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân là thái tử Diên Khánh nhốt ở đâu, nhất nhất thuật lại cùng Hoàng Mi, Hoàng Mi tăng chỉ lắng tai nghe, không nói câu nào. Cả hai vị đệ tử đứng sau lưng cũng trầm tĩnh, nét mặt không mảy may xúc động.

Chờ Bảo Định Đế nói xong Hoàng Mi tăng mới chậm rãi nói: “Thái tử Diên Khánh đã là đường huynh hiền đệ, cố nhiên là hiền đệ không tiện động thủ, mà sai thuộc hạ đến cứu người xem chừng cũng không ổn.” Bảo Định Đế nói: “Sư huynh thật là sáng suốt.” Hoàng Mi tăng nói tiếp: “Trên chùa Thiên Long cũng có người võ công giỏi hơn hiền đệ nhưng bọn họ cũng đều trong họ Đoàn mà ra, không tiện tham gia tranh chấp trong nội tộc, thành thử không thể lên đó cầu cứu được” Bảo Định Đế đáp: “Chính thế!”

Hoàng Mi tăng gật đầu từ từ đưa ngón tay giữa ra điểm vào ngực Bảo Định Đế. Bảo Định Đế mỉm cười chìa ngón tay trỏ ra, điểm vào ngón tay giữa Hoàng Mi. Cả hai cùng lắc lư một cái, thu ngón tay về. Hoàng Mi tăng nhíu đôi lông mày nói: “Đoàn hiền đệ, Kim Cương chỉ của ta không thắng nổi Nhất Dương Chỉ của hiền đệ.” Bảo Định Đế nói: “Sư huynh là bậc đại trí tuệ, bất tất phải lấy chỉ lực để thủ thắng.” Hoàng Mi tăng cúi đầu không nói gì.

Bảo Định Đế đứng dậy nói: “Năm năm trước đây, sư huynh bảo tiểu đệ miễn thuế muối cho dân Đại Lý, nhưng một là quốc dụng chưa đủ, hai là tiểu đệ muốn chờ Chính Thuần kế vị rồi mới thi hành để dân chúng hướng về y. Nay tiểu đệ nghĩ lại, sáng mai sẽ ra lệnh bãi bỏ thuế muối.”

Hoàng Mi hòa thượng đứng lên, khom lưng rồi lạy phục xuống, cung kính nói: “Hiền đệ ban phước cho dân, lão tăng cũng cảm đức vô cùng.” Bảo Định Đế cũng sụp lạy đáp lễ xong ra về ngay không nói gì nữa.

Ông về đến cung lập tức sai nội giám triệu Ba Thiên Thạch vào chầu, truyền ban sắc lệnh bỏ thuế muối. Ba Thiên Thạch khom mình tạ ơn nói: “Hoàng thượng khai ân thực là phúc của muôn dân.” Bảo Định Đế tiếp: “Mọi việc tiêu dùng trong cung nhất thiết phải tiết kiệm. Nhà ngươi cùng Hoa Tư đồ, Phạm Tư mã bàn thảo cho kỹ càng, tinh giản được chừng nào hay chừng nấy.” Ba Thiên Thạch tuân lệnh, từ biệt ra khỏi cung.

Ba Tư không lập tức hẹn với Tư đồ Hoa Hách Cấn cùng đến phủ Tư mã Phạm Hoa thông báo việc bãi bỏ thuế muối, còn việc Đoàn Dự bị bắt cóc thì Ba Thiên Thạch đã kể trước rồi.

Phạm Hoa trầm ngâm rồi nói: “Trấn nam thế tử mắc vào tay gian đảng. Hoàng thượng xuống chỉ xá thuế chắc là để cầu trời thương xót, phù hộ cho thế tử yên lành trở về. Bọn mình không biết chia sẻ mối lo cùng đấng chí tôn thì còn mặt mũi nào đứng ở trong triều đình nữa?” Ba Thiên Thạch nói: “Chính thế. Phạm nhị ca có diệu kế gì để cứu điện hạ ra chăng?” Phạm Hoa đáp: “Đối thủ lại chính là thái tử Diên Khánh thì chúa thượng nhất định không muốn chính diện đánh nhau đâu. Tiểu đệ có kế này nhưng chỉ sợ nhọc sức Hoa đại ca nên không dám nói ra.” Hoa tự đồ vội hỏi: “Việc gì mà nhọc sức ta? Nhị đệ nói ngay đi xem nào!” Phạm Hoa đáp: “Hoàng thượng đã bảo võ công thái tử Diên Khánh còn cao hơn cả ngài. Bọn ta xông vào cứu là không được rồi. Đại ca, cái nghề sinh nhai của đại ca hai mươi năm trước đây liệu còn thi thố được nữa chăng?” Bộ mặt rám nắng của Hoa Tư đồ hơi đỏ lên, cười nói: “Nhị đệ lại nói giỡn ta rồi.”

Quan Tư đồ Hoa Hách Cấn trước tên gọi A Căn, xuất thân nghèo khổ, nay làm tới chức Tam công ở Đại Lý nhưng khi chưa thành đạt thì làm nghề đào mả trộm kiếm ăn, chuyên đi đào mồ những vương công cự phủ. Người giàu có sau khi chết thường chôn theo những đồ vật quý giá, Hoa A Căn nhiều khi đào đường hầm từ nơi rất xa vào tới phần mộ để trộm.

Tuy làm thế mất nhiều công thật nhưng vì thế không ai phát giác. Có lần Hoa lấy được trong mộ một tập võ công bí quyết, đem về cứ theo đó luyện thành một tay ngoại công trác tuyệt. Rồi từ đó Hoa bỏ cái nghề mưu sinh ti tiện, theo phò Bảo Định Đế lập được nhiều kỳ công thăng lên đến chức Tư đồ. Từ khi làm quan to, Hoa thấy cái tên A Căn có vẻ khó nghe nên mới đổi là Hách Cấn. Ngoài hai người bạn chí thân là Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch, rất ít người biết rõ lai lịch của ông.

Phạm Hoa đáp: “Tiểu đệ đâu dám nói giỡn đại ca. Bọn ta phải đào một đường hầm vào trong Vạn Kiếp Cốc, thông vào thạch thất giam Trấn Nam thế tử, thần không hay, quỷ không biết mới cứu thế tử ra được.”

Hoa Hách Cấn vỗ đùi reo lên: “Thật là tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” Bản lãnh đào mả trộm của y thật là thiên tài, hơn hai mươi năm qua không còn dùng để mưu sinh nữa nhưng lắm lúc nhớ lại vẫn thấy chân tay ngứa ngáy. Khốn nỗi đã làm đến cực phẩm triều đình lại đi đào mả trộm thì còn ra thể thống gì nữa? Bây giờ y nghe Phạm Hoa đề nghị bất giác cả mừng.

Phạm Hoa cười nói: “Đại ca đừng mừng vội, bên trong còn nhiều vấn đề nan giải. Tứ ác hiện nay ở cả trong Vạn Kiếp Cốc, ngoài ra còn vợ chồng Chung Vạn Cừu, Tần Hồng Miên đều là những nhân vật cực kỳ lợi hại, qua được tại mắt bọn này đâu phải chuyện dễ dàng? Hơn nữa đích thân thái tử Diên Khánh trấn giữ cửa mật thất, lão ngồi trên mà mình đào bên dưới giữ thế nào cho lão không hay?”

Hoa Hách Cấn trầm ngâm một hồi mới nói: “Vậy ta phải đào đường hầm về phía sau mật thất, để tránh chỗ của thái tử Diên Khánh.” Ba Thiên Thạch nói: “Thế tử còn bị nhốt trong đó giờ phút nào là còn nguy hiểm giờ phút ấy. Chúng ta đào hầm công trình không phải nhỏ, e rằng không kịp chăng?” Hoa Hách Cấn đáp: “Vậy ba ta cùng phải hợp lực. Hai vị hiền đệ chịu khó học ta cái nghề đào mồ ăn trộm vậy.” Ba Thiên Thạch cười nói: “Chúng ta làm đến Tam công nước Đại Lý, nhưng quốc gia đại sự thì dù là đào mồ quật mả hay ăn trộm đi nữa cũng không thể từ nan được.” Ba người vỗ tay cả cười.

Hoa Hách Cấn nói: “Việc này không thể chậm được nữa, nói làm là làm liền.” Nói xong Ba Thiên Thạch vẽ đồ hình trong Vạn Kiếp Cốc, Hoa Hách Cấn tính toán cửa hầm và đường đi, làm cách nào để tránh tai mắt người ngoài, làm thế nào chuyên chở được đất cát đem đi đổ. Thật là một tuyệt kỹ của Hoa, trên đời có một không hai.

***

Trong một ngày một đêm qua, Đoàn Dự mỗi khi thấy trong người bứt rứt liền thi triển thân pháp Lăng Ba Vi Bộ ở trong thạch thất đi qua đi lại, chỉ cần một hai vòng là thấy dịu hẳn xuống. Thế nhưng Mộc Uyển Thanh thì người phát sốt, thần trí mơ hồ, phần lớn thời gian chỉ tựa lưng vào tường đá mà ngủ mê mệt.

Hôm sau vào khoảng giữa trưa, Đoàn Dự lại rảo bước trong căn phòng bỗng nghe bên ngoài thạch thất có tiếng một ông già giọng khàn khàn: “Mười chín đường ngang đọc, biết bao kẻ say mê. Nếu cư sĩ cao hứng thì cùng lão tăng đánh chơi một ván.” Đoàn Dự trong bụng lạ lùng vội vàng đi chậm lại, thêm mươi bước nữa rồi ngừng hẳn, ghé mắt qua cái lỗ hổng vẫn dùng để đưa cơm nhìn ra ngoài.

Chỉ thấy một nhà sư già mặt mũi nhăn nheo, lông mày vàng hoe, tay trái cầm một cái mõ to bằng miệng bát, tay phải cầm một chiếc dùi đen nhánh, gõ lên cái mõ mấy tiếng cốc cốc cốc, nghe âm thanh thì ra cái dùi đó đúc bằng sắt. Ông ta vừa niệm: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật” vừa cúi xuống phiến đá xanh ngay trước căn nhà đã dùng dùi mõ vạch, nghe sè sè bụi đá tung lên, nét vạch sâu xuống thành một đường thẳng như sợi chỉ. Đoàn Dự thấy lạ lùng, nghĩ bụng dường như mình đã được gặp vị sư già ở đâu rồi thì phải. Kình lực bàn tay ông ta mạnh thật, chỉ tiện tay vạch lên mà trên nền đá thành một rãnh sâu chẳng khác gì đục bằng dùi sắt của người thợ chạm. Dùi mõ chỉ chầm chậm vạch qua thành một đường thẳng tắp, còn nếu người thợ muốn đục được thắng như thế dĩ nhiên phải vạch trước bằng mực đen.

Trước căn nhà đá một giọng nói uất nghẹn vang. lên: “Kim Cương chỉ lực, công phu giỏi lắm.” Chính là tiếng của người áo xanh Ác Quán Mãn Doanh. Thiết trượng của y liền thò ra vạch một đường ngang thẳng góc với đường của Hoàng Mi tăng, cũng ăn sâu vào đá thẳng băng. Hoàng Mi tăng cười nói: “Thí chủ bằng lòng tứ giáo, hay lắm, hay lắm!” Ông ta liền đưa dùi lên vẽ thêm một đường thẳng nữa, người áo xanh liền về một đường ngang. Cứ như thế bên này khắc một đường, bên kia khắc một đường, hai người ngưng tụ công lực, dùi trượng càng vẽ càng chậm dần để cho đường mình sẽ không có chỗ sâu nông khác nhau hoặc nét vạch kém chính tề thẳng thắn.

Độ chừng ăn xong một bữa cơm, một bàn cờ dọc ngang mười chín đường đã ngay ngắn khắc xong, Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: “Chính Minh hiền đệ nói không sai, gã thái tử Diên Khánh này nội lực quả là cao cường”. Thái tử Diên Khánh không phải như Hoàng Mi tăng đã chuẩn bị rồi mới đến nên trong bụng cũng hãi thầm: “Ở đâu lại nhảy ra một lão hòa thượng ghê gớm đến thế này? Rõ ràng Đoàn Chính Minh mời y đến tiếp tay cho hắn. Nếu hắn thừa cơ mình ngồi đây để vào cứu Đoàn Dự thì mình đâu có thể phân thân ra đối địch?”.

Hoàng Mi tăng nói: “Đoàn thí chủ công lực cao thâm, lão tăng rất là khâm phục. Về môn cờ chắc thí chủ cũng cao gấp mười bần tăng. Bây giờ ta đánh cờ chơi, lão tăng xin thí chủ chấp cho bốn quân.” Người áo xanh ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Chỉ lực của nhà sư ghê gớm như thế hẳn là bậc cao nhân. Lão đến đây khiêu chiến, vừa mở miệng lại đòi nhường là sao?”. Y bèn nói: “Đại sư bất tất quá khiêm. Nếu đại sự muốn hơn thua thì cứ để bằng quân,” Hoàng Mi tăng nài: “Bốn quân không chấp được hay sao?”

Người áo xanh lạnh lùng đáp: “Đại sư đã tự biết mình kém nước thì bất tất phải đấu nữa.” Hoàng Mi tăng khẩn khoản: “Thế thì ba quân được chăng?” Người áo xanh đáp: “Chỉ nhường đi trước cũng đã là quá rồi.”

Hoàng Mi tăng cười ha hả nói: “Thế là lão tăng đủ biết rồi. Thí chủ còn kém lắm. Lão tăng chấp thí chủ ba quân.” Người áo xanh bình thản đáp: “Bất tất phải thế, cứ đấu ngang tay, mỗi người đi trước một lần là được rồi.” Hoàng Mi tăng càng thêm ngại ngùng nghĩ thầm: “Người này không kiêu ngạo lại không nóng nảy, quả là kình địch, dù ta có khích cách nào cũng vẫn điềm tĩnh như không”. Thì ra Hoàng Mi tăng vốn chưa nắm vững được phần thắng, biết người thích cờ thường hiếu thắng, mình mở miệng xin y chấp ba quân, bốn quân rồi đòi chấp lại để khích động đối phương. Ngờ đâu thái tử Diên Khánh không chịu chấp quân mà cũng chẳng để ai nhường mình, không xúc động mảy may, vẫn giữ được nghiêm cẩn kín đáo.

Hoàng Mi tăng nói: “Thôi thế cũng được. Nhưng thí chủ là chủ mà tôi là khách, chủ phải nhường khách đi trước.” Người áo xanh nói: “Không được, tiền chủ hậu khách, để ta đi trước.” Hoàng Mi tăng đáp: “Nếu vậy thì phải đánh đố. Năm nay lão tăng tuổi chẵn hay tuổi lẻ, nếu thí chủ đoán trúng thì đi trước, đoán sai thì phải nhường lão tăng.” Người áo xanh nói: “Ta có đoán trúng chăng nữa đại sư cũng nói là sai.” Hoàng Mi tăng nói: “Được rồi. Lão tăng đã có cách, muốn cãi chối cũng không được, Lão tăng xin hỏi: sau năm bảy mươi tuổi, tổng số ngón cả hai bàn chân lão tăng lẻ hay chẵn?”

Câu đố đó quả nhiên quái lạ, người áo xanh nghĩ thầm: “Người bình thường có mười ngón chân, đương nhiên là chẵn rồi. Y nói rõ là sau năm bảy mươi tuổi chắc là để cho ta tưởng rằng y mất đi một ngón chứ gì? Binh pháp có nói là: Thực hư hư thực. Y còn đủ mười ngón chân nhưng cố tình giở trò đánh lạc hướng, lừa mình thế nào được?”. Y bèn nói: “Số chẵn.” Hoàng Mi tăng đáp: “Sai rồi, số lẻ.” Người áo xanh nói: “Đại sư tháo giày ra cho coi!”

Hoàng Mi tăng cởi giày vớ bên chân trái ra thấy năm ngón chân hãy còn nguyên vẹn. Người áo xanh chăm chăm nhìn mặt đối phương thấy ông ta bình tĩnh tươi cười thì tưởng chân phải nhà sư chỉ có bốn ngón thật. Lại thấy nhà sư từ từ cởi giày chân phải ra, giơ tay cởi vớ, y đang định nói: “Thôi khỏi cần kiểm chứng, ông đi trước đi” thì lại chợt nghĩ: “Không thể mắc hỡm y”. Hoàng Mi tăng lại cởi nốt với chân phải, chân phải cũng đầy đủ năm ngón, có tàn khuyết gì đâu?

Trong giây phút đó bao nhiêu ý nghĩ hiện ra trong đầu người áo xanh, lão chưa đoán ra đối phương có dụng ý gì. Chỉ thấy nhà sư già giơ chiếc dùi sắt lên đánh mạnh xuống, nghe “phập” một tiếng, ngón chân út đã đứt rơi ra. Hai người đệ tử đứng sau lưng thấy sư phụ tự hủy hoại thân thể, máu chảy vọt ra nhịn không nổi kêu “ối” lên một tiếng. Đại đệ tử Phá Nghi vội lấy thuốc kim sang trong bọc ra rịt cho thầy, xé một mảnh tay áo băng lại.

Hoàng Mi tăng cười nói: “Năm nay lão tăng sáu mươi chín tuổi, có phải bảy mươi tuổi thì số ngón chân thành số lẻ rồi không?”

Người áo xanh đáp: “Đúng rồi, xin mời đại sư đi trước.” Y nổi tiếng là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, bao nhiêu thảm cảnh rùng rợn đã từng thấy cả rồi thì việc chặt đứt một ngón chân có đáng gì đâu, nhưng nghĩ thầm nhà sư này chỉ vì muốn đi trước một nước mà đã ra tay như thế đủ biết ông ta nhất định quyết thắng ván cờ này, nếu lỡ mà thua tất sẽ bị nhà sư đưa ra điều kiện khắt khe vô cùng.

Hoàng Mi tăng nói: “Xin phép.” Ông ta cầm cái dùi lên khắc xuống điểm tứ tứ ở hai góc đối diện mỗi bên một cái vòng tròn nhỏ, thế là coi như đã đi hai quân cờ trắng. Người áo xanh giơ cây gậy sắt ra ấn vào hai điểm tứ tứ còn lại mỗi bên một cái, lập tức nền đá xanh lõm xuống hai lỗ tức là đi hai quân đen. Cả bốn góc điểm tứ tứ đều có quân đen trắng thì gọi là “thế tử”, một phép đánh cổ của vi kỳ Trung Quốc, trắng đi trước đen đi sau, ngược lại với phép đánh sau này của hậu thế. Hoàng Mi tăng kế đến đặt tại Bình Vị lục tam một quân, người áo xanh bèn đi một nước nơi chỗ cửu tam. Lúc đầu hai người đi rất nhanh, nhà sư không kém sút chút nào, quả có mất một ngón chân để đi trước một nước kể cũng đáng.

Đi đến nước thứ mười bảy mười tám, cuộc cờ đã bắt đầu gay cấn. Trí lực hai bên hao tổn rất nhiều, một mặt phải dùng hết tâm trí để suy tính nước cờ, một mặt phải vận khí bồi bổ sức lực, mỗi lúc cờ đi một chậm thêm.

Nhị đệ tử của Hoàng Mi tăng Phá Sân cũng là một tay cờ khá, thấy sư phụ dùng đoản binh đấu với người áo xanh, hai bên toàn những thế kỳ lạ không khỏi bội phục ngầm. Đi đến nước thứ hai mươi bốn, người áo xanh đột ngột xuất kỳ binh, thế cờ đại biến. Nếu như nhà sư không đối phó kịp thì góc Khứ Vị thể nào cũng nguy, còn như đem một con ra cố thủ thì lại thiệt mất nước tiên.

Hoàng Mi tăng suy nghĩ một hồi lâu chưa biết phải làm thế nào bỗng trong thạch thất có tiếng vọng ra: “Phản công ở Khứ Vị thì vẫn giữ được nước tiên.” Thì ra Đoàn Dự giỏi chơi cờ vây từ nhỏ, lúc này thấy hai bên đến chỗ gay go nên buột miệng nhắc cho Hoàng Mi tăng.

Người đời thường nói: “Cờ ngoài bài trong”, người đứng xem thường sang nước hơn người đang đánh, kỳ lực của Đoàn Dự vốn đã cao hơn Hoàng Mi tăng lại đứng ngoài cuộc nên nghĩ ngay ra được những nước hay. Hoàng Mi tăng đáp: “Lão tăng đã nghĩ tới nước cờ này rồi, còn đang cân nhắc, Giờ được thí chủ đồng ý thì lão tăng không phân vân gì nữa.” Bàn đặt nơi Khứ Vị ngay chỗ thất tam một quân.

Người áo xanh lạnh lùng đọc: “Ngồi ngoài ngậm miệng là quân tử, tự ý ra quân mới trượng phu.” Đoàn Dự nghe lão đọc tức mình la lên: “Ngươi vô cớ nhốt ta vào đây thì có phải là quân tử không?” Hoàng Mi tăng cũng cười nói: “Lão tăng đây là đại hòa thượng chứ đâu phải đại trượng phu?” Người áo xanh khinh khỉnh mạt sát: “Vô sỉ, vô sỉ!” Y suy nghĩ một hồi rồi cũng đi một quân nơi Khứ Vị.

Đi mấy nước nữa Hoàng Mi tăng lại lâm vào thế bí. Phá Sân hòa thượng nóng ruột không nghe Đoàn Dự nhắc gì vội chạy đến bên nhà thạch thất khẽ hỏi: “Đoàn công tử, bây giờ đi nước nào cho phải?” Đoàn Dự đáp: “Ta đã tính ra đến bảy nước rồi nhưng nếu nói ra e rằng kẻ địch nghe được thì không còn hiệu nghiệm nữa, thành thử cứ ngần ngừ không muốn nhắc.” Phá Sân liền viết vào tay phải ba chữ: “Xin viết ra”. Rồi nhà sư luồn tay qua lỗ hổng luồn vào trong, miệng nói: “Nếu thế thì thôi, đành chịu vậy” Y biết người áo xanh nội công thâm hậu, dù cho Đoàn Dự có ghé tai nói nhỏ cũng có thể bị y nghe được.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Kế này tuyệt diệu”, liền đưa ngón tay viết vào bàn tay y bảy nước đi, miệng nói: “Tôn sư kỳ lực cao minh ắt sẽ có nước hay, chẳng cần tại hạ chỉ điểm” Phá Sân suy tính kỹ lại thì quả là những nước cờ rất cao nên quay trở lại bên sư phụ, đưa tay viết lên lưng ông. Tăng bào của y che hết bàn tay, nên người áo xanh không sao nhìn thấy y giở trò láu cá. Hoàng Mi tăng định thần một lúc hiểu cả, cứ thế ra quân.

Người áo xanh đằng hắng rồi nói: “Quả lại có kẻ ngấm ngầm mách nước, bản lãnh đại sư xem ra chưa tới mức này.” Hoàng Mi tăng cười: “Đánh cờ là trò đấu trí trong cái giả có cái thật, người giỏi phải đưa những ngón dở ra trước. Nếu lão tăng để thí chủ tỏ tường hư thực ngay từ lúc đầu thì cuộc cờ còn chỉ là ảo diệu nữa?” Người áo xanh đáp: “Chơi trò giảo hoạt, ném đá giấu tay.” Y thấy Phá Sân hòa thượng chạy qua chạy lại rồi che tay áo lên lưng Hoàng Mi đã sinh nghi, nhưng vì chú tâm vào thế cờ biến ảo thành ra chuyện chung quanh không nhìn rõ được.

Hoàng Mi tăng theo đúng lời Đoàn Dự chỉ, cứ thế mà đi. Sáu nước sau không cần phải suy nghĩ gì cả, chỉ chuyên chú vận công nên những cái lỗ do dùi đục vào đá xanh vừa sâu vừa tròn, đủ biết thần khí đầy đủ, nội lực triền miên không dứt. Người áo xanh thấy những nước cờ càng về sau càng ghê gớm, nước nào cũng phải suy nghĩ cách chống đỡ nên nét đục của thiết trường nông sâu không đều. Đến khi Hoàng Mi tăng đi xong nước thứ sáu rồi, người áo xanh xuất thần suy nghĩ một hồi đột nhiên đặt một quân vào Nhập Vị.

Quân cờ đó đi thật bất ngờ không liên quan gì đến lối tính toán của Đoàn Dự. Hoàng Mi tăng cả kinh nghĩ thầm: “Bảy nước cờ của Đoàn công tử thật là tinh vi, đi đến nước thứ bảy thì ta từ đi trước một nước đã thành hơn tới hai nước. Thế nhưng nước thứ bảy không đi được nữa rồi, chẳng hóa ra bao nhiêu nước trước thành công cốc hay sao?”, Thì ra người áo xanh thấy tình hình bất lợi ứng phó cách nào xem ra cũng không xong bèn không lý đến nữa, bỏ luôn thế thủ tiến lên công ngay một quân, đó chính là dĩ công vi thủ, quả nhiên lợi hại.

Hoàng Mi tăng nhíu mày không nghĩ ra được cách nào cho ổn. Phá Sân thấy tình thế đại biến, sư phụ khó lòng giải quyết nổi, bèn lập tức chạy lại bên thạch thất, Đoàn Dự cũng đã nghĩ chín liền viết cho y sáu nước cà rõ ràng từng nước một. Phá Sân chạy lại chỗ Hoàng Mi tăng đưa tay viết lên lưng sư phụ.

Người áo xanh đã nổi danh là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân lẽ nào lại dung cho y liên tiếp phá bĩnh mình. Thiết trượng từ tay trái liền tung vào vai Phá Sân, quát lên: “Đứa hậu sinh kia, mau đứng lại!” Thiết trượng điểm ra phát tiếng vù vù.

Hoàng Mi tăng biết là đệ tử mình không sao chống đỡ nổi thể nào cũng trọng thương, lập tức giơ tả chưởng chộp vào đầu trượng. Đầu tượng của người áo xanh liền rung động điểm luôn vào huyệt đạo dưới vú nhà sư. Hoàng Mi tăng biến trảo thành cương đao chém xuống đầu gậy, thiết trượng liền biến chiêu. Chỉ trong khoảnh khắc hại người đã trao đổi bảy tám chiêu. Hoàng Mi tăng nhận thấy cánh tay mình ngắn còn thiết trượng của địch dài, nếu tiếp tục hóa ra chỉ thủ mà không công, không có đường thắng nên vừa thấy trượng điểm tới liền tung ra một chỉ nhắm ngay đầu trượng đâm vào. Người áo xanh không rút về tránh, đầu trượng và ngón tay đụng nhau, hai người cùng dùng nội lực để đấu, lập tức cả hai bên đều đứng sững lại.

Người áo xanh nói: “Nước cờ này đại sư mãi không đi được, chịu thua quách đi cho rồi.” Hoàng Mi tăng cười ha hả nói: “Các hạ là tiền bối cao nhân, sao lại ra tay đánh trộm đệ tử của ta? Như thế có mất thân phận lắm chăng?” Tay phải cầm dùi sắt khắc một vòng tròn nhỏ dưới phiến đá. Người áo xanh cũng không nghĩ ngợi, tiện tay cũng đặt một quân. Từ đó trở đi, hai người tay thì vận nội lực không cách nào có thể lơi được, đồng thời trên bàn cờ nước nào cũng khẩn cấp, chỗ nào cũng gay go.

Năm năm trước đây, Hoàng Mi tăng vì bách tính nước Đại Lý cầu xin Bảo Định Đế bãi bỏ thuế muối, đến nay mới được nhà vua chuẩn cho. Hai người hiểu ý nhau nên ông nhất định ra tay cứu Đoàn Dự. Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: “Mình sống hay chết cũng chẳng đáng quan tâm, nhưng nếu không cứu thoát được Đoàn Dự thì còn mặt mũi nào trông thấy Chính Minh hiền đệ?” Kẻ luyện nội công cần nhất là không được có một chút tạp niệm nào, nhưng đánh cờ thì lại luôn luôn muốn hơn người một bước, trên bàn cờ ba trăm sáu mươi mốt điểm, điểm nào cũng phải nghĩ tới, quả đúng là đến một sợi tóc cũng không thể bỏ qua thì mới tính toán cho đến nơi đến chốn được. Hai điều đó gần như tương phản nhau. Hoàng Mi tăng công phu thiền định tuy cao thâm nhưng sức cờ lại không bằng đối phương, chú tâm vào việc vận nội lực kháng địch thì lại sao nhãng nước cờ, còn như tập trung nghĩ nước cờ thì nội lực lại giảm đi trở thành núng thế. Cục diện hôm nay hung hiểm lạ thường, lão tăng quyết tâm lấy cái chết báo đến người tri kỷ nên không còn nghĩ gì đến việc an nguy của mình nữa. Cổ nhân có nói: “Quân nguy thì dễ thắng”, thế nhưng Hoàng Mi tăng lúc này nguy thì có nguy còn thắng thì chưa thấy phương hướng.

***

Tam công nước Đại Lý là Tư đồ Hoa Hách Cấn, Tư mã Phạm Hoa và Tư không Ba Thiên Thạch dắt theo ba chục thuộc hạ biết võ công, đem gỗ, xẻng, đèn treo các món tiến vào khu rừng rậm trong Vạn Kiếp Cốc, chọn địa thế rồi đào đường hầm vào. Ba mươi ba người đào cả đêm đã được một con đường hầm dài đến vài chục trượng. Qua hôm sau lại đào thêm nửa ngày nữa đến xế trưa, tính toán ra không còn cách thạch thất bao xa. Hoa Hách Cấn bảo bộ thuộc lui lại phía sau để chuyển đất, chỉ còn ba người thay phiên đào. Ba người biết rằng thái tử Diên Khánh võ công rất cao cường nên khi đào chỉ nhè nhẹ ấn xẻng xuống không dám để phát ra chút thanh âm nào. Chính vì thế mà tiến triển rất chậm, có biết đâu lúc này người áo xanh đang hết sức chú tâm đánh cờ với Hoàng Mi tăng, lại đấu nội lực làm gì còn để ý đến âm thanh dưới đất.

Đào đến khoảng giờ Thân, tính ra đã đến nơi thạch thất Đoàn Dự đang bị cầm tù. Nơi này và nơi Diên Khánh đang ngồi cách nhau chỉ độ một trượng nên lại càng cực kỳ thận trọng, không dám để phát ra một tiếng động nhỏ. Hoa Hách Cấn bỏ xẻng xuống, thi triển Hổ Trảo Công dùng mười ngón tay mọi đất chẳng khác nào mười cái móc sắt, móc lên từng tảng đất lớn. Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch hai người ở sau chuyền những tảng đất y đào ra ngoài. Lúc này Hoa Hách Cấn không còn đào ngang nữa mà đã đào đứng từ dưới lên trên. Công trình đã gần xong, chỉ giây lát là biết có cứu được Đoàn Dự không, ba người không khỏi nóng ruột, trống ngực đánh thình thình.

Việc đào ngược lên dễ dàng hơn trước nhiều, chỉ động vào là đất rụng xuống. Hoa Hách Cấn đứng thẳng lên được rồi ra tay càng nhanh nhẹn, cứ đào một lát lại lắng tai nghe ngóng xem bên trên có động tĩnh gì không. Đào như thế chừng tàn hai nén hương, chỉ còn cách mặt đất chừng một thước, Hoa Hách Cấn tay liền chậm lại, gạt đất nhẹ nhàng, sau cùng đụng phải một tấm gỗ, trong bụng mừng thầm: “Dưới sàn thạch thất có lát ván xem ra càng tiện cho mình”.

Y vận nội lực vào đầu ngón tay, từ từ khoét vuông vắn mỗi bề hai thước thành cái cửa hầm vừa một người chui lọt, khoét xong cúi xuống ra hiệu cho hai ông bạn đỡ lấy rồi buông tay để tấm ván hạ xuống. Hoa Hách Cấn giơ xẻng lên khoa trên miệng hầm để đề phòng có người đột kích, chợt nghe tiếng lanh lảnh một cô gái la lên: “Trời ơi” đầy vẻ kinh hoàng.

Hoa Hách Cấn khẽ gọi: “Mộc cô nương chớ to tiếng! Người nhà đến cứu đây mà.” Y tung mình vọt từ dưới hầm lên.

Vừa đưa mắt nhìn quanh thì Hoa Hách Cấn hoảng hồn, nơi đây đâu có phải thạch thất mà là một căn phòng sạch sẽ đồ đạc tươm tất, đầy những kệ để đủ các loại bình lớn bé, một thiếu nữ mặt mày kinh hãi, nép vào một góc. Vị trí thạch thất là do Bảo Định Đế nói cho Ba Thiên Thạch nghe, Ba Thiên Thạch lại kể cho Hoa Hách Cấn, vì sợ mưu kế bại lộ nên đâu có ai dám đến tận nơi quan sát, thành thử Hoa Hách Cấn tính toán sai, cái sai một li kia tuy đi không tới một dặm nhưng cũng hết mấy chục trượng.

Nơi y đào đến đúng ngay nhà Chung Vạn Cừu, thiếu nữ kia là Chung Linh, nàng đang ở trong phòng phụ thân lục lọi tìm giải được để đi cứu Đoàn Dự. Bất thình lình ở dưới đất chui lên một người đàn ông thì làm gì mà nàng chẳng sợ mất vía?

Hoa Hách Cấn tâm linh ứng biến cực kỳ mau lẹ, nghĩ bụng: “Hóa ra mình đào lầm chỗ rồi, cố nhiên là phải đào lại nhưng đã trót lộ hình tích. Nếu giết cô gái đi để bịt miệng thì người trong Vạn Kiếp Cốc thấy xác cô ta, lập tức sẽ tra xét mọi nơi. Mình chưa vào đến nhà thạch thất đã bị khám phá ra đường hầm rồi thì hỏng bét. Chỉ còn cách là đem cô ta xuống hầm, người nào muốn tìm cô ta ắt sẽ ra ngoài sơn cốc.”

Vừa nghĩ tới đó chợt ngoài phòng có tiếng chân người đi tới. Hoa Hách Cấn bèn khoa tay trước mặt Chung Linh ra hiệu cấm nàng không được lên tiếng. Rồi giả vờ trở gót, như kiểu muốn chui xuống hầm nhưng vụt một cái Hoa nhảy phắt lại phía sau, giơ tay trái bịt miệng Chung Linh còn tay phải quờ ra sau lưng cô ta kéo lại gần cửa hầm tống xuống bên dưới. Phạm Hoa giơ tay đỡ lấy, bốc ngay một nắm đất nhét vào mồm. Hoa Hách Cấn nhảy trở vào hầm, cầm miếng gỗ vừa cắt ra để lại ngay ngắn chỗ cũ rồi ghé tai vào kẽ hở nghe ngóng.

Chỉ thấy hai người đi vào trong phòng, có tiếng đàn ông nói: “Hẳn nàng đối với hắn còn có mối dư tình chưa đứt. Nếu không thì ta muốn phá hoại thanh danh họ Đoàn, can gì đến nàng mà nàng ngăn cản?” Có tiếng đàn bà giận dữ đáp: “Chàng nói… dư… dư… chi đó? Ta cho chàng hay, ta không còn tình ý gì với người đó đâu.” Gã đàn ông lại nói: “Nếu vậy thì còn gì hay bằng”. Giọng nói đầy vẻ hớn hở vui mừng. Người đàn bà lại tiếp: “Chẳng qua Mộc Uyển Thanh là con gái sư tỷ ta, cũng là người bên mình, sao ông lại làm khó nàng ta như thế?”

Hoa Hách Cấn nghe đến đây, biết ngay đây là vợ chồng Chung cốc chủ, thấy họ bàn cãi với nhau có liên quan đến Đoàn Dự vội lắng tai nghe.

Lại thấy tiếng Chung Vạn Cừu nói: “Sư tỷ nàng lén lút đi thả Đoàn Dự, may mà Diệp Nhị Nương phát giác kịp thời. Thế thì mụ đã thành cừu địch với mình rồi, hà tất nàng còn phải quan tâm đến con gái mụ nữa? Phu nhân, khách tại đại sảnh toàn là những nhân vật thành danh trong võ lâm Đại Lý. Sao nàng chẳng coi ai ra gì, chỉ lườm họ một cái rồi bỏ xuống đây, chẳng… chẳng hóa ra mình… thiếu lễ độ quá hay sao?” Chung phu nhân vùng vằng đáp: “Ông mời bạn đó tới đây để làm gì? Những người đó với mình chẳng có giao tình gì lắm, liệu bọn họ có dám đắc tội với đường kim hoàng đế nước Đại Lý không?” –

Chung Vạn Cừu đáp: “Ta có mời họ về tiếp tay làm phản đâu mà ngại? Chẳng qua họ ở gần quanh đây nên mời đến để chứng kiến hai đứa con Đoàn Chính Thuần cùng ở trong nhà thạch thất làm chuyện loạn luân ô uế, chứ có gì đâu? Hôm nay những tân khách được mời đến có cả mấy hào kiệt từ Trung Nguyên phương bắc. Sáng sớm mai sẽ mở cửa thạch thất để mọi người coi cho rộng tầm con mắt. Các đức tính nhà họ Đoàn nổi tiếng về phép Nhất Dương Chỉ sẽ thêm lừng danh trên chốn giang hồ.” Nói xong hắn đắc ý cười ha hả.

Chung phu nhân đằng hắng một tiếng rồi xẵng giọng: “Đê hèn! Vô liêm sỉ!” Chung Vạn Cừu hỏi: “Nàng bảo ai đê hèn, vô liêm sỉ?” Chung phu nhân đáp: “Kẻ nào làm việc đê hèn vô liêm sỉ thì kẻ ấy là quân đê hèn vô liêm sỉ, cần gì phải gọi đích danh ra.” Chung Vạn Cừu nói: “Đúng rồi, thằng lỏi mặt trắng Đoàn Chính Thuần tính tình trăng gió tạo nhiều oan nghiệt, trời quả báo đến nỗi hai đứa con mình sinh ra giở thói loạn luân, đúng là đê hèn đến cùng cực.” Chung phu nhân cười nhạt không đáp. Chung Vạn Cừu lại hỏi: “Sao nàng lại cười? Quân đế hèn vô liêm sỉ nàng vừa mắng đó không phải là Đoàn Chính Thuần sao?” Chung phu nhân lại cười khẩy nói: “Mình đánh không lại họ Đoàn, cả đời chui rúc ở trong sơn cốc không dám thò đầu ra thì cũng còn được. Con người biết xấu hổ cũng đã là một điều dũng. Ngờ đâu lại đi dùng thủ đoạn để bức hại con trai con gái người ta, thiên hạ anh hùng đâu có cười y mà sẽ cười Chung Vạn Cừu.”

Chung Vạn Cừu tức quá nhảy lên chồm chồm: “Nàng… nàng thóa mạ ta là kẻ đê hèn, vô liêm sỉ ư?” Chung phu nhân ứa nước mắt nghẹn ngào nói: “Không ngờ tôi lấy phải người chồng là… là một nhân vật như thế, sao… sao tôi khổ thế này?”

Chung Vạn Cừu vừa thấy vợ ứa nước mắt, bất giác chân tay luống cuống, nói dỗ: “Được rồi, được rồi! Nàng muốn mắng ta thì cứ việc mắng cho sướng miệng.” Hắn chạy lui chạy tới trong phòng tìm lời tạ lỗi với vợ mà không nghĩ ra, chỉ nói: “Có phải chủ ý ta đâu? Đoàn Dự là do Nam Hải Ngạc Thần đem về, Mộc Uyển Thanh thì do Ác Quán Mãn Doanh bắt giữ, còn Âm Dương hòa hợp tán cũng nào phải của ta? Ta làm gì có loại dược vật hèn hạ xấu xa đó?” Lúc này y chỉ nghĩ được chuyện đổ trách nhiệm qua người khác. Chung phu nhân cười khẩy: “Nếu như ông biết được thế là hèn hạ xấu xa thì cũng tốt rồi. Nếu quả ông không tán thành chủ ý đó sao không thả Mộc Uyển Thanh ra?” Chung Vạn Cừu nói: “Không được, không được! Nếu thả Mộc Uyển Thanh ra, một mình tên tiểu quỉ Đoàn Dự thì còn làm được cái trò gì nữa?”

Chung phu nhân cười gằn: “Được rồi, ông đã đề hèn vô liêm sỉ, tôi cũng sẽ đê hèn vô liêm sỉ cho ông thấy.” Chung Vạn Cừu kinh hãi quá vội hỏi rối rít: “Nàng… nàng… nàng định làm gì thế? Nàng.. nàng lại định cùng với Đoàn… tên ác tặc Đoàn Chính Thuần tư thông ư?” Chung phu nhân giận dữ hỏi lại: “Ông bảo lại định là sao?” Chung Vạn Cừu vội vàng cười làm lành: “Phu nhân, nàng đừng giận. Ta nói sai, nàng trước nay đâu có… đâu có đi lại gì với y. Nàng bảo sẽ làm điều đê hèn vô liêm sỉ cho ta coi, chắc là… chắc là nói đùa chứ gì?” Chung phu nhân không trả lời.

Chung Vạn Cừu trong lòng thảng thốt, liếc mắt nhìn thấy trong phòng chai lọ ngổn ngang liền nói: “Cái con bé Linh nhị thật nghịch ngợm hết nước nói. Mới tí tuổi đầu mà đã hỏi tới Âm Dương hòa hợp tán làm gì? Không biết ai xúi nó vào lục tìm loạn cả lên.” Vừa nói vừa xếp những chai thuốc lại, chân bước thế nào lại trúng vào tấm gỗ miệng hầm. Hoa Hách Cấn phải vận nội lực chống cho nắp hầm khỏi nhúc nhích.

Chung phu nhân hỏi: “Linh nhi đâu rồi? Sao ông lại muốn đưa nó lên trên sảnh chào khách?” Chung Vạn Cừu cười nói: “Chúng mình sinh được đứa con xinh đẹp như thế, sao không để cho bằng hữu được thấy qua?” Chung phu nhân đáp: “Bộ ông muốn đem mỡ nhử mèo chăng? Tôi thấy cặp mắt hau háu của gã Vân Trung Hạc cứ lấm la lấm lét nhìn Linh nhi nhà này, ông phải coi chừng y đó.” Chung Vạn Cừu cười hềnh hệch nói: “Ta chỉ coi chừng mình nàng mà thôi. Con người nguyệt thẹn họa nhường thế kia, đứa nào trông thấy mà chả thèm nhỏ dãi?”

Chung phu nhân chép miệng gọi lớn: “Linh nhi! Linh nhi!” Một con a hoàn chạy lên bẩm: “Con vừa thấy tiểu thư qua đây.” Chung phu nhân gật đầu nói: “Mi đi kêu tiểu thư về đây ta bảo.”.

Chung Linh ở dưới hầm, tất cả những gì cha mẹ nói với nhau nghe rõ từng câu từng chữ. Khốn nỗi miệng bị nhét đầy đất, không sao la lên được, thật là khó chịu. .

Chung Vạn Cừu nói: “Nàng nghỉ một lát, ta ra ngoài tiếp khách.” Chung phu nhân lạnh lùng hỏi lại: “Sao ông không nghỉ để tôi ra tiếp khách” Chung Vạn Cừu đáp: “Thôi cả hai vợ chồng cùng ra vậy.” Chung phu nhân nói: “Thế khách muốn nhìn mặt hoa da phấn của tôi hay là muốn nhìn cái mặt ngựa của ông? Bao giờ đến lúc tôi nhìn ông cũng chán ngấy, ông sẽ biết ngay thế nào?

Mấy hôm nay Chung Vạn Cừu thật là xúi quẩy, nói ra cái gì cũng bị vợ cằn nhằn một chập. Hắn biết vợ trước có tư tình với Đoàn Chính Thuần, bữa nay hoa xưa ong cũ được dịp trùng phùng tránh sao khỏi bồi hồi, khiến lòng người đàn bà sinh ra bực bội. Tuy hắn căm giận vô cùng mà không dám nói lại nửa câu, chỉ cười hề hề đi ra nhà khách, vừa đi vừa nghĩ: “Không biết nàng làm cái gì mà đê hèn vô liêm sỉ cho ta thấy đây? Nàng lại nói đến lúc tôi nhìn ông cũng chán ngấy, như thế nghĩa là hiện giờ nàng chưa chán, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ sợ tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần…”

(*) (Kim Dung chú thích: Về sau tới đời Đoàn Trí Hưng tức Nhất Đăng đại sư, vì tình thế phải chế ngự Âu Dương Phong nên mới phá lệ tổ tiên đem công phu này truyền cho Vương Trùng Dương và bốn đại đệ tử Ngư Tiều Canh Độc. Xin đọc Xạ Điêu Anh Hùng truyện.)

Hồi 09: Phượng bay ra, loan vào tổ

Bảo Định Đế hạ chỉ miễn thuế muối rồi, muôn dân Đại Lý ca tụng ơn đức vô cùng. Địa hạt Vân Nam sản xuất muối rất ít, toàn cõi chỉ có chín vùng Bạch Tỉnh, Hắc Tỉnh, Vân Long… là có muối nên năm nào cũng phải mua thêm từ đất Thục, thuế muối rất cao nên những người nghèo khổ mỗi năm thường phải ăn nhạt vài ba tháng. Bảo Định Đế biết rằng một khi miễn thuế muối rồi, Hoàng Mi tăng sẽ tìm cách đi cứu Đoàn Dự để trả ơn. Ông trước nay vốn kính phục nhà sư võ công trác tuyệt lại lắm cơ mưu, hai đệ tử của ông võ công cũng không kém, ba thầy trò cùng ra tay quyết phải thành công.

Nào ngờ đã qua một ngày một đêm mà chẳng thấy hồi âm, nhà vua nóng ruột muốn phái Ba Thiên Thạch đi dò la động tĩnh, nhưng hai người đi triệu thì Ba Tư không, Phạm Tư mã, Hoa Tư đồ chẳng thấy một ai. Bảo Định Đế nghĩ thầm: chắc là thái tử Diên Khánh thủ đoạn lợi hại khiến cho ba thầy trò Hoàng Mi sư huynh cùng Tam công trong triều đều khốn đốn nơi Vạn Kiếp Cốc. Ông lập tức cho triệu Hoàng thái đệ Đoàn Chính Thuần, Thiện Xiển Hầu, Cao Thăng Thái cùng bọn Chử Vạn Lý tứ đại hộ vệ, luôn cả Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng cùng đến Vạn Kiếp Cốc lần nữa. Đao Bạch Phượng quá nóng lòng vì con, xin nhà vua đem ngự lâm quân đi san bằng Vạn Kiếp Cốc. Bảo Định Đế đáp: “Chưa phải lúc cùng đường, hãy theo lề lối giang hồ mà hành động. Chúng ta không thể vi phạm huấn thị của tổ tiên họ Đoàn mấy trăm năm nay được.”

Đoàn người vừa đến cửa Vạn Kiếp Cốc thấy Vân Trung Hạc cười khanh khách ra đón tiếp. Gã xá dài nói: “Chúng tôi Thiên Hạ Tứ Ác cùng Chung cốc chủ đoán rằng đêm nay thế nào đại giá cũng quang lâm nên tại hạ ra đây chờ đợi. Giả tỷ mà các hạ điều động quân thiết giáp tới thì chúng tôi đành chịu đánh bài tẩu mã, mang theo công tử và thiên kim của Trấn Nam Vương. Nhưng các hạ vẫn giữ lề luật giang hồ, lấy tư cách nhà võ họp bạn thì xin vào đại sảnh dùng trà.”

Bảo Định Đế thấy đối phương bình tĩnh như thường, tuyệt không lộ vẻ hoang mang, không phải như hôm trước vừa gặp mặt đã xông ra đánh ào ào cho nên không khỏi dè dặt liền chắp tay đáp lễ nói:  “Vậy thì hay lắm!” Vân Trung Hạc đi trước dẫn đường, cả đoàn người theo vào đại sảnh.

Bảo Định Đế vừa bước vào cửa đã thấy bên trong ngồi đầy những giang hồ hào kiệt. Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần cũng có trong số đó nhưng không thấy thái tử Diên Khánh nên trong bụng cũng dè chừng. Vân Trung Hạc lớn tiếng giới thiệu cùng cử tọa: “Đây là Đoàn lão sư, chưởng môn Đoàn gia ở Thiên Nam.” Y không nói “Hoàng đế nước Đại Lý” mà dùng danh hiệu võ lâm là theo quy củ giang hồ.

Đoàn Chính Minh không những là vua của một nước, còn là một tôn sư cao thủ lừng lẫy võ lâm, người người ngưỡng mộ. Quần hùng vừa nghe giới thiệu, ai nấy đứng lên răm rắp. Chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là chễm chệ ngồi yên nói đổng: “Ta cứ tưởng là ai, hóa ra là gã hoàng đế. Ông mạnh giỏi chứ?” Chung Vạn Cừu tiến lên mấy bước nói: “Chung Vạn Cừu không kịp ra xa nghênh tiếp, xin thứ lỗi.” Bảo Định Đế đáp: “Không dám! Không dám!”

Mọi người theo thứ bậc an tọa. Cuộc họp mặt này theo lề luật giang hồ nên vợ chồng Đoàn Chính Thuần cùng Cao Thăng Thái không phải giữ lễ vua tôi, ngồi gần bên Bảo Định Đế. Còn bốn người bọn Chử Vạn Lý đứng ở sau lưng nhà vua. Người nhà bưng trà lên mời. Bảo Định Đế đưa mắt nhìn một lượt, không thấy thầy trò Hoàng Mi tăng và bọn Ba Thiên Thạch trong phòng, đang nghĩ cách dò hỏi bỗng Chung Vạn Cừu lên tiếng: “Đoàn chưởng môn hai phen hạ cố, tại hạ lấy làm vinh dự. Nay lại được các vị bằng hữu tới đây đông đủ, tại hạ xin giới thiệu.” Nói rồi y nêu tên từng người trong đại sảnh, ngoài mấy người đến từ Trung Nguyên mạn tây bắc, còn lại đều là nhân vật thành danh trong nước Đại Lý, có cả Tân Song Thanh, Tả Tử Mục, Mã Ngũ Đức. Chừng quá nửa số người có mặt tại đó, Bảo Định Đế tuy chưa từng quen biết nhưng cũng đã nghe tên. Các vị giang hồ hào kiệt nhất nhất cùng Bảo Định Đế làm lễ tương kiến, có kẻ khúm núm, cũng có kẻ ngạo mạn, đa số thì lấy vai võ lâm hậu bối đến ra mắt.

Chung Vạn Cừu nói: “Chẳng mấy khi Đoàn lão sư hạ cố, xin lưu lại đây mấy hôm để anh em được học hỏi thêm.” Bảo Định Đế nói: “Xá điệt là Đoàn Dự, vì đắc tội với Chung động chúa đã bị lưu lại quý xứ, hôm nay tại hạ thân hành đến đây một là để tỏ tình thân, hai là để xin lỗi, dám mong Chung động chúa nể mặt mà tha cho đứa trẻ con không biết phải quấy, tại hạ cảm kích khôn cùng.”

Quần hùng nghe nhà vua nói, ai cũng kính phục khen thầm: “Từng nghe Đoàn hoàng gia nước Đại Lý lấy qui củ võ lâm tiếp đãi đồng đạo, quả nhiên danh bất hư truyền. Nơi đây thuộc lãnh thổ nước Đại Lý, ông ta chỉ cần sai vài trăm binh mã đến bắt người về là được, thế mà lại tự mình đến lấy lời dịu ngọt cầu khẩn”.

Chung Vạn Cừu cười ha hả, chưa kịp trả lời, Mã Ngũ Đức đã xen vào: “Thì ra Đoàn công tử đắc tội với Chung cốc chủ. Mới rồi Đoàn công tử đến tệ xá ở Phổ Nhĩ, cùng đến núi Vô Lượng du ngoạn, tại hạ săn sóc không chu đáo để sinh ra bao nhiêu rắc rối, bây giờ cũng mở lời xin một chút tình.”

Nam Hải Ngạc Thần bỗng lớn tiếng quát: “Đây là việc của đồ đệ ta, ai khiến mi chõ mõm vào?” Cao Thăng Thái cười lạt nói: “Đoàn công tử là sư phụ ngươi chứ? Người đã cúi đầu làm lễ bái sư rồi kia mà? Chẳng lẽ bây giờ ngươi định sổ toẹt đi hay sao?” Nam Hải Ngạc Thần thẹn đỏ mặt tía tai mắng lại: “Con bà nó chứ, lão gia đâu có đánh rắm cãi xóa. Hôm nay lão gia muốn giết quách gã sư phụ hữu danh vô thực đó đi. Lão gia sơ ý phải thờ một gã tiểu tử làm thầy, thẹn chết đi được!” Mọi người không hiểu đầu đuôi, đều phải sửng sốt.

Đao Bạch Phượng nói: “Chung cốc chủ! Tha hay không các hạ nói cho dứt khoát.” Chung Vạn Cừu cười đáp: “Thả chứ! Thả chứ! Tại hạ giữ lệnh lang để làm gì?” Vân Trung Hạc xen vào: “Đoàn công tử phong lưu anh tuấn, Chung phu nhân Tiếu Dược Xoa tuyệt sắc giai nhân, nếu lưu Đoàn công tử ở đây phỏng có khác chi nuôi ong tay áo. Chung cốc chủ dĩ nhiên muốn thả, không thể không thả, không dám không thả.” Quần hào nghe nói thế đều phải ngạc nhiên. Ai cũng nghĩ bụng: “Thằng cha Cùng Hung Cực Ác này ăn nói càn dở, chẳng kiêng nể gì, đến Chung Vạn Cừu mà gã cũng chẳng coi vào đâu, quả thực là hung ác cùng cực.” Chung Vạn Cừu giận quá, quay sang nói: “Vân huynh! Sau khi đã giải quyết xong vụ này tại hạ sẽ xin lãnh giáo mấy cao chiêu.” Vân Trung Hạc đáp: “Hay lắm! Hay lắm! Ta vẫn có ý định giết chồng chiếm vợ, vơ vét gia tài, chiếm luôn nhà ở.”.

Mọi người cả kinh thất sắc. Động chủ Vô Lượng động Tân Song Thanh nói: “Anh hùng hảo hán trong chốn giang hồ chưa chết hết đâu. Thiên Hạ Tử Ác các ngươi bản lãnh cao cường đến mấy cũng không thể chạy thoát công đạo được.” Diệp Nhị Nương bật lên tiếng cười the thé phản đối: “Tân đạo hữu, Diệp Nhị Nương này có xúc phạm đến bà đâu, sao lại vơ đũa cả nắm?” Tả Tử Mục nghĩ lại chuyện nụ cướp con mình bữa trước, trong bụng hãy còn nơm nớp lo âu, đưa mắt nhìn trộm mụ một cái, Diệp Nhị Nương cười khúc khích nói: “Tả tiên sinh, chắc độ này lệnh lang béo tốt trắng trẻo lắm đấy nhỉ?” Tả Tử Mục không dám không trả lời, nói nhỏ: “Bữa trước cháu bị cảm mạo phong hàn, tới nay vẫn chưa khỏi.” Diệp Nhị Nương cười nói: “Chết chửa, cũng tại ta mà ra. Lúc quay về ta sẽ đến thăm thằng cháu Sơn Sơn ngoan ngoãn nhé!” Tả Tử Mục thất kinh, vội gạt đi: “Không dám phiền đại giá quang lâm lần nữa.”

Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Thì ra bọn tứ ác hoành hành quá tệ, kết oán đã nhiều. Xem ra những hào sĩ giang hồ này không phải ai cũng về phe với họ, như thế công việc càng dễ giải quyết. Để khi cứu được Dự nhi rồi, ta phải tìm cơ hội tiêu diệt bọn chúng để trừ mối hại. Đứng đầu bọn tứ ác là thái tử Diên Khánh, ta cùng người họ Đoàn không tiện hạ thủ, nhưng nếu quả tội ác đầy rẫy thì cũng không thể dung thứ được.”

Đao Bạch Phượng thấy mọi người nói năng toàn chuyện đâu đâu, liền trở lại vấn đề. Bà đứng phắt lên nói: “Chung động chúa đã nhận lời trả tiểu nhi lại. Vậy xin cho gọi nó ra để mẫu tử được trùng phùng.”

Chung Vạn Cừu cũng đứng lên nói: “Được rồi.” Đột nhiên y quay sang hầm hầm nhìn Đoàn Chính Thuần, cay đắng nói: “Đoàn Chính Thuần! Mi đã có vợ đẹp con khôn như thế mà lòng tham vẫn chưa đủ. Hôm nay mi thanh danh tan nát, không còn mặt mũi, đó là mình làm mình chịu, đừng oán trách gì Chung Vạn Cừu này.”

Đoàn Chính Thuần ngay từ lúc đầu nghe Chung Vạn Cừu bằng lòng giao trả con mình đã nghĩ ngay: đâu dễ dàng như thế được? Tất nhiên đối phương còn có âm mưu quỷ kế gì đây. Bây giờ nghe hắn nói vậy càng thêm chột dạ, lập tức đứng lên nói: “Chung cốc chủ! Nếu ngươi còn tính chuyện hại người thì Đoàn mỗ sẽ có phương pháp đối phó khiến người cũng phải hối hận suốt đời.”

Chung Vạn Cừu thấy vương gia tướng mạo đường đường, phong độ thanh cao đài các, mình thực chẳng bén gót chân. Phần thì thẹn vì mình xấu xa, phần thì ghen tức, lửa giận bốc lên đùng đùng, lớn tiếng quát: “Sự đã đến nước này, Chung mỗ dẫu có nhà tan người chết, phân thây muôn đoạn cũng quyết ăn thua với mi đến cùng. Mi muốn lấy lại con, được lắm, theo ta vào dây!” Nói xong hùng hổ rảo bước ra ngoài sảnh đường.

Cả đoàn người đi theo Chung Vạn Cừu đến trước bức tường cây, Vân Trung Hạc muốn khoe tài khinh công, nhảy vọt qua trước. Đoàn Chính Thuần nghĩ chuyện hôm nay không thể nào giải quyết êm thắm, chi bằng ra oai trước để đối phương biết chừng mà nhượng bộ. Ông bèn hạ lệnh: “Đốc Thành! Ngươi chặt mấy gốc cây này để mở lối cho mọi người đi!” Cổ Đốc Thành đáp lời vung búa lên, chát chát mấy nhát đã đốn đứt một cây đại thụ. Phó Tư Qui hai tay đẩy ra, cái cây gãy lách cách đổ xuống một bên. Cương phủ lấp loáng vung lên liên tiếp, hết cây nọ đến cây kia ngã ầm ầm, chỉ giây lát đã chặt đứt năm cây.

Bức tường cây này Chung Vạn Cừu trồng tỉa tốn bao nhiêu tâm huyết chứ đâu phải chuyện dễ dàng, bị Cổ Đốc Thành chặt đứt mất năm cây to, trong bụng tức lắm nhưng chợt nghĩ rằng: “Họ Đoàn nước Đại Lý phen này bị nhục nhã ê chề, cái việc phá hoại nhỏ mọn này có thấm vào đâu?”. Nghĩ vậy liền theo lối trống đi vào,

Sau bức tường cây kia, Hoàng Mi tăng và người áo xanh tay trái mỗi người cầm một đầu gậy sắt, trên đầu hơi trắng bốc lên, thì ra đang đấu nội lực. Hoàng Mi tăng cầm cái dùi sắt vẽ một cái vòng trên phiến đá xanh, người áo xanh suy nghĩ một chút, thiết trượng nơi tay phải cùng điểm xuống bàn cờ. Bảo Định Đế chăm chú nhìn, bấy giờ mới rõ: “Thì ra Hoàng Mi sư huynh một mặt đánh cờ với thái tử Diên Khánh, một mặt cùng y tỉ thí nội công. Thế là vừa đấu trí vừa đấu lực, cuộc đấu lạ lùng này thật nguy hiểm khôn lường. Thảo nào sư huynh chưa thấy hồi âm, xem ra cuộc đấu này đã một ngày một đêm rồi nhưng chưa phân thắng bại”. Bảo Định Đế đưa mắt nhìn bàn cờ, thấy đã vào tàn cục, hai người đang tranh đấu đến độ một còn một mất, dường như cuộc thắng bại có quan hệ đến kiếp vận con người. Bên hòa thượng bị kém thế rõ ràng, đang chật vật gỡ cho khỏi thua. Hai người đệ tử của ông là Phá Si, Phá Sân thì nằm lăn trên mặt đất không động đậy gì được. Thì ra hai nhà sư thấy sư phụ bị nguy, ra tay tấn công người áo xanh nhưng đều bị thiết trượng của y điểm trúng.

Đoàn Chính Thuần tiến lên giải huyệt cho hai người, hô bọn Vạn Lý: “Bốn người các ngươi ra đẩy tảng đá kia thả Dự nhi ra.” Bốn người vâng lệnh, nhất tề tiến lại.

Chung Vạn Cừu thét: “Thong thả! Các ngươi có biết trong nhà đá này còn có ai nữa không?” Đoàn Chính Thuần giận dữ đáp: “Chung cốc chủ, nếu như người dùng thủ đoạn tàn độc đối xử với con ta, thì ngươi cũng nên nhớ rằng chính mình cũng có vợ con đấy.” Chung Vạn Cừu cười nhạt: “Hừ, ngươi nói đúng đó, Chung Vạn Cừu này cũng có vợ có con thật, nhưng cũng may chưa có con trai nên không đến nỗi trai gái loạn luân như loài cầm thú.” Đoàn Chính Thuần giận tím mặt quát hỏi: “Mi nói lăng nhăng gì thế?” Chung Vạn Cừu hỏi lại: “Mộc Uyển Thanh có phải là con tư sinh của mi không?” Đoàn Chính Thuần bực tức nói: “Thân thế của Mộc cô nương có liên quan gì đến ngươi mà ngươi lắm chuyện?”

Chung Vạn Cừu cười ha hả nói: “Ha ha! Chưa chắc đã là lắm chuyện đâu. Họ Đoàn nước Đại Lý làm vua một cõi trời Nam, trong võ lâm cũng danh tiếng lẫy lừng. Nay các vị anh hùng hảo hán, mở mắt ra mà coi, con trai và con gái Đoàn Chính Thuần phượng đảo loan điên thành vợ thành chồng chẳng khác gì cầm thú.” Y quay sang ra hiệu cho Nam Hải Ngạc Thần, hai người liền đưa tay đẩy tảng đá chắn trước cửa thạch thất.

Đoàn Chính Thuần vội giơ tay cản lại, nói: “Khoan đã!” Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đồng thời xuất chưởng, chia ra hai bên tập kích, Đoàn Chính Thuần đưa hai tay ngăn chặn chưởng lực của Diệp Nhị Nương còn Cao Thăng Thái thì nghiêng người bước xéo lên để cản chưởng lực của Vân Trung Hạc. Ngờ đâu Diệp Vân hai người chỉ dùng hư chiêu, tay phải rút ngay về, tay trái đánh ra trúng ngay tảng đá. Tảng đá đó tuy nặng đến mấy nghìn cân nhưng bị cả bốn người Chung Vạn Cừu, Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc cùng phóng chưởng, lập tức lăn qua một bên. Việc này bốn người đã bàn định với nhau từ trước, hư hư thực thực, Đoàn Chính Thuần biết đâu mà ngăn chặn được? Thực ra Đoàn Chính Thuần cũng nóng lòng, mong sớm được nhìn mặt con nên cũng không cố tâm ngăn cản lắm. Khối đá vừa lăn ra, mở một lối đi tối om, nhìn vào không rõ cảnh tượng bên trong.

Chung Vạn Cừu vừa cười vừa nói: “Cô nam quả nữ, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn phòng tối thế này thì còn lắm trò hay ho, làm gì còn trong trắng cho nối? Ha ha! Mọi người xem đây!”

Trong khi Chung Vạn Cừu còn đang cười sằng sặc thì một thanh niên đầu bù tóc rối, thân trên để trần xồng xộc chạy ra, chính là Đoàn Dự. Chàng chỉ mặc một cái quần cộc hở cả hai đùi, tay bồng một cô gái trên người cũng chỉ có một chiếc áo cánh, hở cả tay chân lẫn làn da trắng nõn sau lưng.

Bảo Định Đế thẹn quá mặt đỏ bừng. Đoàn Chính Thuần cũng cúi gằm mặt xuống, không dám ngửng lên. Đao Bạch Phượng hai mắt đẫm lệ, miệng lấm bẩm: “Oan nghiệt! Oan nghiệt!” Cao Thăng Thái vội cởi trường bào định choàng lên người Đoàn Dự, còn Mã Ngũ Đức muốn lấy lòng anh em họ Đoàn vội vàng tiến lên lấy thân chắn trước mặt chàng. Nam Hải Ngạc Thần quát lớn: “Thằng khốn kiếp kia, đứng tránh ra!”

Chung Vạn Cừu đang cười ha hả dương dương đắc ý, thốt nhiên ngừng bặt, nét mặt sa sầm, tiếng cười ngưng bật rồi chuyển thành tiếng kêu thất thanh: “Linh nhi! Mi đấy ư?”.

Mọi người nghe tiếng y kêu, ai cũng rùng mình giương mắt nhìn theo thì thấy Chung Vạn Cừu chạy tới trước mặt Đoàn Dự đưa tay giật lấy thiếu nữ chàng đang bồng trên tay. Bấy giờ ai nấy đều nhìn rõ mặt, thấy nàng nhỏ tuổi hơn Mộc Uyển Thanh mà vóc người cũng thon hơn, mặt chưa hết vẻ thơ ngây. Cô bé này đâu phải Mộc Uyển Thanh, chính là Chung Linh, con gái Chung Vạn Cừu.

Đoàn Dự thần trí vẫn chưa được tỉnh táo hơn, trong lúc mơ màng thấy nhiều người đứng xúm quanh trước mặt, chàng nhìn thấy có cả song thân và bá phụ, vội buông Chung Linh ra ú ớ gọi: “Má má, gia gia, bá phụ!” Đao Bạch Phượng nhào lên ôm chàng vào lòng hỏi dồn: “Dự nhi, con… con có sao không?” Đoàn Dự chân tay cuống quít đáp: “Con… con cũng không biết nữa?”

Chung Vạn Cừu không ngờ muốn làm hại người mà thành ra hại mình. Hắn ngẩn người ra một lúc rồi buông con gái xuống. Chung Linh thấy mình mặc phong phanh có mỗi bộ quần áo ngắn, thẹn quá mặt đỏ bừng. Chung Vạn Cừu cởi trường bào ra khoác vào cho con rồi thẳng tay tát một cái, làm cho cô bé sưng húp một bên má. Hắn mắng con: “Quân mặt dày! Ai cho mày ở một chỗ với thằng chó đẻ kia?” Chung Linh bị mắng oan nhưng không biết biện bạch sao được, chỉ nức nở khóc.

Chung Vạn Cừu lại nghĩ ra: “Tảng đá lớn như thế Mộc Uyển Thanh chắc không thể nào đẩy mà ra được, nhất định hãy còn ở trong, ta gọi nó ra để chia bớt cái nhục cho Linh nhi.” Y liền lớn tiếng gọi: “Mộc cô nương, mau ra đây!” Hắn gọi luôn ba tiếng mà tuyệt nhiên không thấy ai thưa. Chung Vạn Cừu tiến thẳng vào trong nhà. Căn nhà này chả rộng là mấy, không quá một trượng vuông, chỉ liếc mắt là hết mà không thấy một bóng người nào, Chung Vạn Cừu tức vỡ ngực, nhảy ra, lại đánh con gái thêm một chưởng nữa, quát mắng: “Ta phải đánh chết con bé thối tha này.”

Từ bên cạnh một người vung tay ra, ngón tay vô danh và ngón tay út phất vào cổ tay y. Chung Vạn Cừu vội rụt tay lại tránh, thấy người ngăn mình lại chính là Đoàn Chính Thuần. Hắn căm giận quát hỏi: “Ta dạy đứa con gái mất nết của ta có can dự gì đến mi?”

Đoàn Chính Thuần cười khì khì đáp: “Chung cốc chủ thực đã ưu đãi thằng nhỏ nhà tôi, sợ nó ở một mình hiu quạnh, đã để lệnh ái là một vị thiên kim tiểu thư ở chung cho có bạn. Tại hạ rất cảm kích. Bây giờ cơ sự đã đến thế này, lệnh ái đã thành người nhà họ Đoàn rồi, tại hạ không thể không can thiệp được.” Chung Vạn Cừu nổi giận hỏi: “Sao lại bảo con gái ta là người nhà họ Đoàn?” Đoàn Chính Thuần cười nói: “Lệnh ái ở trong thạch thất cùng Dự nhi bầu bạn mấy ngày mấy đêm. Cô nam quả nữ, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn phòng tối thế này thì còn lắm trò hay ho, làm gì còn trong trắng cho nổi? Con ta là thế tử của Trấn Nam Vương, tuy chưa chắc đã lấy con gái cốc chủ làm chính phi được, song làm trai năm thê bảy thiếp vẫn được chứ sao? Tại hạ với cốc chủ thế cũng là chỗ thông gia rồi còn gì?” Nói xong lại tiếp một tràng cười ha hả. Chung Vạn Cừu giận muốn phát điên, không nhịn được nữa, nhảy xổ vào vù vù đánh ra liên tiếp ba chưởng. Đoàn Chính Thuần vẫn cười ngặt nghẽo, mà đối phương xuất chiêu nào ông cũng tránh né dễ như chơi.

Quần hào ai nấy nghĩ thầm: “Họ Đoàn Đại Lý quả nhiên lợi hại. Không hiểu họ dùng cách nào mà bắt được con gái Chung Vạn Cừu nhốt vào nhà đá để đánh tráo đem Mộc Uyển Thanh đi. Chung Vạn Cừu ở trong nước Đại Lý đâu có dễ gì mà gây sự với Đoàn gia, chỉ thêm khốn khổ”.

Nguyên do vụ này là tự bọn Hoa Hách Cấn mà ra. Hoa Hách Cấn bắt Chung Linh đem xuống hầm cho khỏi lộ bí mật địa đạo, về sau nghe vợ chồng Chung Vạn Cừu đối đáp, mới hay hắn và thái tử Diên Khánh bày mưu ác độc cốt làm bại hoại thanh danh họ Đoàn. Ba người ở dưới hầm cùng nhau thương nghị, đều thấy rằng việc này quan hệ rất lớn, lại vô cùng khẩn cấp. Đợi cho Chung phu nhân đi khỏi, Ba Thiên Thạch liền lẻn ra ngoài thi triển khinh công tuyệt đỉnh, đo đạc kỹ càng phương hướng cùng khoảng cách tới thạch thất để Hoa Hách Cấn định rõ lại lộ tuyến của đường hầm. Cả bọn lại hì hục đào mải miết thêm một đêm nữa, đến sáng hôm sau thì vừa tới bên dưới căn nhà đá.

Hoa Hách Cấn khoét một lỗ từ dưới đất chui lên, thấy Đoàn Dự đang vòng vòng chạy lồng lên như người điên nên đưa tay ra tính giữ lại. Ngờ đâu thân pháp Đoàn Dự vừa nhanh nhẹn vừa quái dị, không làm sao bắt được. Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa cùng chui ra hợp lực vây dồn chàng vào giữa. Thạch thất quá nhỏ, Đoàn Dự không trốn được, Hoa Hách Cấn vừa nắm được cổ tay chàng bỗng thấy toàn thân run bắn lên một cái, chẳng khác chi chạm phải một khối than hồng. Trong lúc vội vàng Hoa dùng sức kéo mạnh, mong lôi được chàng xuống đường hầm để trốn cho mau. Ngờ đâu y vừa sử kình, chân khí trong người lập tức cuồn cuộn tuôn ra, nhịn không nổi phải kêu “ối chao” một tiếng, Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa nắm tay Hoa Hách Cấn lôi ra, ba người cùng giật mới thoát ra khỏi sức hút của Bắc Minh thần công. May mà cộng lực của Tam công nước Đại Lý so với mấy đệ tử phái Vô Lượng cao hơn mấy bậc, hơn nữa lại đều là tay cơ trí, ứng biến mau lẹ mà cũng sợ toát cả mồ hôi, trong bụng đều cho là tà pháp của thái tử Diên Khánh cực kỳ lợi hại. Rồi không ai dám đụng vào mình Đoàn Dự nữa.

Đang lúc chưa biết tính sao bỗng thấy phía ngoài nhà có tiếng xôn xao, lại nghe rõ cả Bảo Định Đế và Trấn Nam Vương cũng đã tới nơi. Chung Vạn Cừu thì đang huênh hoang giễu cợt. Phạm Hoa nảy ra ý nghĩ: “Gã Chung Vạn Cừu này thật là khả ố, mình phải cho y một trận.” Nghĩ rồi y vội cởi áo ngoài của Chung Linh ra, mặc cho Mộc Uyển Thanh, rồi ôm Chung Lình giao cho Đoàn Dự thần trí đang nửa tỉnh nửa mê đón lấy. Bọn Hoa Hách Cấn liền kéo Mộc Uyển Thanh chui vào hầm, đóng nắp lại không còn chút dấu vết nào khả nghi nữa.

Bảo Định Đế đâu ngờ việc lại xảy ra như thế, thấy cháu mình không việc gì nên cũng khoan tâm lại thêm tức cười, nhất thời không sao nghĩ ra đầu đuôi câu chuyện. Ông nhớ tới cuộc đấu cờ thí mạng giữa Hoàng Mi tăng và thái tử Diên Khánh đã đến lúc nghìn cân treo sợi tóc, chỉ sơ sẩy một chút là nguy đến tính mạng nên quay lại xem sao. Chỉ thấy nhà sư mồ hôi trên trán lớn như hạt đậu rơi tong tỏng xuống bàn cờ, còn thái tử Diên Khánh nét mặt vẫn thản nhiên. Xem qua tình thế đủ biết thắng bại sắp phân.

Đoàn Dự thần trí vừa tỉnh táo trở lại cũng quan tâm ngay tới cuộc thắng bại trên bàn cờ, vội chạy lại xem. Thế cờ Hoàng Mi tăng đã lâm vào chỗ bí, thái tử Diên Khánh chỉ đặt thêm một quân nữa là lập tức nhà sư không còn nước nào mà đi, tất phải chịu thua. Thái tử Diên Khánh đưa đầu gậy sắt điểm xuống bàn cờ, trỏ đúng điểm then chốt, chỉ đi một nước đó nữa là bên Hoàng Mi vô phương cứu vãn. Đoàn Dự trong dạ bồn chồn nghĩ thầm: “Mình phải phá rối y mới được”, chàng bèn giơ tay chộp lấy đầu cây gậy.

Thái tử Diên Khánh vừa đưa gậy trúc tới điểm lục thất, góc Thượng Vị thì thốt nhiên cảm thấy lòng bàn tay nóng ran lên, rồi nội lực trên cánh tay cuồn cuộn thoát ra ngoài. Lão kinh ngạc vô cùng, nhìn xuống thấy Đoàn Dự đưa hai ngón tay cặp vào đầu gậy. Đoàn Dự chỉ muốn đẩy đầu gậy qua một bên không để cho y đặt quân kết thúc, nhưng thiết trượng tưởng chừng như đóng chặt trên không trung, không lay chuyển chút nào. Chàng vận kình đẩy mạnh qua, nội lực của thái tử Diên Khánh theo huyệt Thiếu Thương của chàng tuôn vào cơ thể.

Thái tử Diên Khánh còn đang kinh ngạc, trong bụng nghĩ thầm: “Đây là Hóa Công đại pháp của Đinh lão quái ở Tinh Tú Hải!” Y bèn vận khí xuống đan điền, dồn sức mạnh ra cánh tay, thiết trượng lập tức phát xuất một luồng lực đạo mạnh kinh hồn, rung một cái hất văng bàn tay Đoàn Dự ra.

Đoàn Dự thấy nửa người bị tê chồn, lảo đảo muốn té xuống, phải đưa tay vịn vào phiến đá mới gượng lại được. Thế nhưng luồng nội kình hùng hậu của thái tử Diên Khánh phát ra có đến gần một nửa như hòn đá rơi vào bể cả, không biết mất tăm mất tích nơi đâu. Y trong bụng kinh hãi không biết để đâu cho hết, nội lực không còn thu phát được như ý muốn nên thiết trượng, chọc xuống vẫn còn dư kình, động vào bàn cờ. Thái tử Diên Khánh kêu thầm: “Hỏng rồi!” vội nhấc gậy lên, nhưng ngay chỗ giao điểm hai đường thất bát đã có một cái lỗ nhỏ.

Phàm cao thủ đánh cờ ai cũng theo luật hạ thủ bất hoàn, huống chi đã khắc đá làm bàn cờ, đục đá làm quân, nội lực đến đâu đá nát tới đó làm sao có thể bỏ đi không tính? Thế nhưng đi vào điểm Thượng Vị thất bát tức là tự mình lại lấp mắt mình, Ai biết đánh cờ cũng hiểu “hai mắt là sống, một mắt là chết”. Bàn cờ này thái tử Diên Khánh đang ở thế hai mắt tấn công Hoàng Mi tăng, lẽ nào lại tự lấp mù một mắt mình? Nước đi này thật không khác gì trẻ con tập đánh.

Thái tử Diên Khánh kêu thầm: “Cờ đi sai một nước đành thua cả bàn, phải chăng đây cũng là ý trời?”. Y là người thân phận tiếng tăm, không gượng gạo tranh chấp với Hoàng Mi tăng thêm nữa, lập tức đứng phắt dậy, hai tay chống bàn cờ, chú ý nhìn lại cuộc cờ hồi lâu không nhúc nhích. Quá nửa quần hào chưa từng gặp y, thấy vẻ khác thường đều chú mục nhìn vào. Thái tử Diên Khánh lặng lẽ ngó bàn cờ lúc lâu rồi đột nhiên điểm thiết trượng xuống đất, nhảy lên đi cao lênh khênh như người đi cà kheo, bước rất dài, thoáng cái đã đi khá xa.

Bất thình lình một luồng gió thổi ngược lại, phiến đá xanh rung động lắc lư vỡ ra thành bảy tám mảnh nằm ngổn ngang trên mặt đất, bàn cờ chấn động cổ kim kia tan nát. Quần hào kinh hoảng kêu lên, nhìn nhau thất sắc. Ngoại trừ Bảo Định Đế, Hoàng Mi tăng và tam đại ác nhân ra, ai nấy đều nghĩ thầm: “Không hiểu gã áo xanh nửa người nửa quỉ, sống dở chết dở này là ai mà võ công ghê gớm đến thế”.

Hoàng Mi tăng thắng cuộc một cách bất ngờ, hai tay vịn đầu gối đứng dậy, tâm thần bàng hoàng, hồi  tưởng lại tình trạng nguy nan lúc nãy vẫn còn hồi hộp chưa lấy lại được bình tĩnh. Trong bụng nhà sư vẫn băn khoăn, không hiểu tại sao thái tử Diên Khánh đã nắm vững phần thắng rồi lại thốt nhiên hạ một nước cờ kỳ cục lấp ngay một mắt. Không lẽ y thấy Đoàn Chính Minh và các cao thủ đến nên sợ bị vây đánh đành phải chịu thua đào tẩu? Thế nhưng người phe y cũng đâu phải ít, đánh chưa chắc đã thua.

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và bọn Cao Thăng Thái đều mơ hồ không hiểu ra sao, thế nhưng cứu được Đoàn Dự rồi, thanh danh họ Đoàn không tổn thất mảy may, thái tử Diên Khánh thua cờ bỏ đi, chuyện này coi như toàn thắng. Còn những chi tiết nhỏ không hiểu rõ cũng chẳng tra cứu làm gì vội. Đoàn Chính Thuần mỉm cười quay sang bảo Chung Vạn Cừu: “Chung cốc chủ, lệnh ái đã thành cơ thiếp của tiểu nhi rồi, nay mai sẽ sai người đến đón dâu. Vợ chồng tôi thế nào cũng đối đãi tử tế coi như con ruột, cốc chủ cứ yên tâm.”

Chung Vạn Cừu đang cơn tức chưa biết đổ đi đâu, nghe Đoàn Chính Thuần châm chọc, soạt một tiếng, hắn rút ngay thanh đao bên hông chém thẳng xuống đầu Chung Linh, quát lên: “Tức chết đi được! Ta giết con tiện nhân này trước rồi sau sẽ hay.”

Bỗng một người cao lênh khênh nhảy vụt đến nhanh như chớp, ôm lấy Chung Linh rồi vèo một cái như làn gió thoảng đã phi thân ra ngoài hai trượng. “Phập” một tiếng, lưỡi đao của Chung Vạn Cừu đã chém ngập xuống đất. Y thấy kẻ ôm Chung Linh chạy đi chính là Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc bèn quát hỏi: “Ngươi… ngươi làm gì thế?”

Vân Trung Hạc cười đáp: “Con gái ngươi mà ngươi không thèm nuôi nữa, muốn chém nó chết thì để tặng cho ta.” Vừa nói y vừa chạy vọt xa thêm mấy trượng. Y tự biết, nếu bàn về võ công cao thấp thì không những Bảo Định Đế, Hoàng Mi hòa thượng cao hơn một bậc, mà ngay Đoàn Chính Thuần hay Cao Thăng Thái y cũng không hơn được. Thấy tình thế không ổn, y liền ôm Chung Linh chạy luôn, thấy Ba Thiên Thạch không có ở nơi đây, mình chỉ cần thi triển khinh công là trong đám này không ai đuổi kịp.

Chung Vạn Cừu cũng biết tài khinh công của Vân Trung Hạc nên chỉ dậm chân loạn xạ, la mắng om sòm. Cả bọn Bảo Định Đế hôm trước đã thấy y cùng Ba Thiên Thạch hai người chạy vòng quanh nhà, bây giờ thấy y tay ôm Chung Linh mà nhảy đi vẫn lẹ làng như không, đều biết là vô phương đuổi kịp.

Đoàn Dự chợt động tâm kêu lên: “Nhạc lão tam! Sư phụ có lệnh truyền! Ngươi mau mau đi cướp lại Chung cô nương về đây cho ta!” Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, gắt lên: “Con mẹ ngươi chứ, nói láo gì thế?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi bái ta làm thầy, đã khấu đầu rồi định nuốt lời chăng? Lời ngươi là hơi rắm thối chăng? Ngươi muốn thành đồ khốn kiếp đê tiện chăng?” Nam Hải Ngạc Thần trợn mắt quát lớn: “Ta nói ra là phải giữ lời, ngươi là sư phụ ta thì đã sao? Ông mà điên tiết lên thì chém cả cái thứ sư phụ như ngươi đó.” Đoàn Dự nói: “Ngươi nhận thế cũng hay. Tiểu cô nương họ Chung kia là vợ ta, tức là sư nương của ngươi, mau mau đoạt lại đem về cho ta. Nếu Vân Trung Hạc làm nhục nàng tức là làm nhục sư nương ngươi, ngươi còn chi là thể diện, không anh hùng hảo hán chút nào!”.

Nam Hải Ngạc Thần ngẫm nghĩ thấy lời nói đó nghe cũng có lý. Thốt nhiên lão nghĩ tới Đoàn Dự đã nhận Mộc Uyển Thanh làm vợ mà sao Chung cô nương này cũng là vợ nữa, bèn hỏi: “Thế thì ta có cả thảy bao nhiêu sư nương?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi chớ có hỏi lôi thôi. Tóm lại nếu ngươi không cướp lại được sư nương về, tức là bị đệ tứ ác nhân làm nhục, ngươi sẽ bị giáng xuống làm đệ ngũ ác nhân, không chừng là đệ lục ác nhân.” Nếu đem tên của Nam Hải Ngạc Thần đặt dưới Vân Trung Hạc thì thà chặt đầu y đi còn hơn. Y rống lên một tiếng, co giò chạy đuổi theo Vân Trung Hạc, kêu lên: “Muốn yên thân thì bỏ sư nương ta xuống!”  Vân Trung Hạc vừa chạy vừa nói: “Nhạc lão tam! Ngươi là thằng ngốc, bị mắc hợm người ta rồi.” Nam Hải Ngạc Thần là kẻ ưa nịnh, nay trước mặt mọi người mà Vân Trung Hạc lại bảo y là đồ ngốc bị mắc hỡm người ta, lại càng nộ khí xung thiên, gào lên: “Nhạc lão nhị này có bao giờ mắc hợm ai?” Y lập tức đề khí rượt theo, hai người đuổi nhau chớp mắt đã khuất vào khe núi.

Chung Vạn Cừu tuy trong lúc cáu giận giơ đao định chém chết con gái, song bây giờ thấy Chung Linh bị gã ác nhân bắt mất, phần thì phụ tử tình thâm, phần thì nghĩ tới lúc vợ hỏi biết trả lời sao cho xuôi, ruột nóng như lửa cũng vác đao đuổi theo.

Kế đến Bảo Định Đế cùng quần hào chia tay, cả đoàn người rời Vạn Kiếp Cốc quay về phủ Trấn Nam Vương thành Đại Lý. Hoa Hách Cấn, Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch từ trong vương phủ ra tận ngoài cửa nghênh đón. Một vị nữ lang cũng theo ra, cách phục sức cực kỳ hoa lệ, vẻ kiều diễm càng nổi bật lên, đó chính là Mộc Uyển Thanh.

Phạm Hoa bẩm lại sơ qua cho Bảo Định Đế việc Hoa Hách Cấn đào địa đạo đem Chung Linh bỏ vào thạch thất, cứu được Mộc Uyển Thanh ra sao, mọi người mới hiểu lý do Chung Vạn Cừu hại người không xong lại tự hại mình, đều vỗ tay cười ha hả.

Âm Dương hòa hợp tán kia tuy dược tính mãnh liệt thật nhưng không phải là thuốc độc, Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh chỉ cẩn uống vài viên thuốc giải nhiệt, uống mấy bát nước là là tiêu trừ ngay.

Tới trưa vương phủ thiết yến, mọi người cao hứng bàn chuyện ở Vạn Kiếp Cốc, ai nấy đều đồng ý chuyến này Hoàng Mi tăng và Hoa Hách Cấn hai người công lao to hơn cả, nếu như không có Hoàng Mi tăng cầm chân được Đoàn Diên Khánh thì việc đào hầm thể nào cũng bị y phát giác.

Đao Bạch Phượng đột nhiên nói: “Hoa đại ca, tôi còn muốn đại ca cất công thêm một phen nữa.” Hoa Hách Cấn đáp: “Vương phi sai bảo gì tại hạ cũng xin tuân lệnh.” Đao Bạch Phượng đáp: “Xin đại ca sai người đi lấp cái đường hầm đó lại.” Hoa Hách Cấn ngạc nhiên không hiểu nguyên do ra sao nhưng cũng đáp: “Vâng.” Đao Bạch Phượng lườm Đoàn Chính Thuần nói: “Cái hầm đó thông vào nơi ở của Chung phu nhân, nếu không lấp đi ắt có một vị nhân huynh trong đám mình tối nào cũng theo đó mà lẻn vào.” Mọi người cười ha hả.

Mộc Uyển Thanh thì cứ chốc chốc lại liếc mắt nhìn trộm Đoàn Dự, mỗi khi bốn mắt chạm nhau, hai người cúi gằm mặt xuống buồn thiu. Nàng biết rằng kiếp này không còn cách gì có thể cùng chàng nên duyên chồng vợ, tưởng lại tình cảnh những ngày cùng chàng ở trong thạch thất không khỏi đau lòng. Mọi người bàn tiếp chuyện Chung Linh sẽ thành cơ thiếp của Đoàn Dự, tuy nàng bị Vân Trung Hạc bắt đi nhưng Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu hai người liên thủ thể nào cũng cứu nàng về được. Báo Định Đế dặn Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người xong tiệc sẽ đi thám thính tin tức Chung Linh tìm cách bảo vệ. Mộc Uyển Thanh càng nghe càng căm tức, lấy trong bọc ra chiếc hộp vàng nhỏ, chính là tín vật mà hôm trước Chung phu nhân giao cho Đoàn Dự để về nhờ phụ thân đi cứu Chung Linh. Nàng để trước mặt Đoàn Chính Thuần nói: “Cam Bảo Bảo đưa cho ông vật này”.

Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi lại: “Cái gì thế?” Mộc Uyển Thanh hậm hực đáp: “Đó là ngày sinh tháng đẻ của con nhãi Chung Linh.” Nói rồi chỉ vào Đoàn Dự: “Cam Bảo Bảo nhờ anh ấy đưa lại cho ông.”

Đoàn Chính Thuần cầm cái hộp, trong lòng chua xót, nhận ra đây chính là cái hộp ông đã tặng cho Cam Bảo Bảo đêm hôm hai người gặp gỡ. Ông mở hộp ra thấy bên trong là một mảnh giấy nhỏ màu hồng, trên viết một hàng chữ nhỏ: “Giờ Sửu, mồng năm, tháng Chạp, Ất Mùi”, nét chữ nghiêng nghiêng chính là thủ bút của Cam Bảo Bảo.

Đao Bạch Phượng lạnh lùng nói: “Thế thì tốt quá, người ta đã gửi ngày sinh tháng để đến để so tuổi rồi đó.”

Đoàn Chính Thuần lật tờ giấy lại thấy phía sau viết mấy hàng chữ thật nhỏ: “Đau lòng chờ đợi, mộng ước tan thành mây khói. Ngặt vì con không lẽ không cha, mười sáu năm xưa ngày đêm khắc khoải mong chàng, việc chẳng đặng đừng, đến tháng năm Ất Mùi về nhà họ Chung.” Nét chữ mảnh mai nếu không ghé mắt nhìn kỹ không thể đọc được. Đoàn Chính Thuần nghĩ đến mối thâm tình của Cam Bảo Bảo đôi mắt không khỏi đỏ hoe, đột nhiên chợt nghĩ ra ngay hàm nghĩa của những hàng chữ này.

Bảo Bảo tháng năm Ất Mùi lấy chồng, vậy mà Chung Linh ngày mồng năm tháng chạp năm đó đã sinh, hẳn không phải con của Chung Vạn Cừu. Bảo Bảo mòn mỏi trông chờ nhưng ta không đến, nói là “con không lẽ không cha”, lại thêm “việc chẳng đặng đừng” nên mới phải xuất giá, ắt cũng bởi vì nàng đang mang thai không thể chịu tiếng không chồng mà chửa. Thế ra Chung Linh chính là con ta, đúng rồi… đúng rồi… vào thời gian đó, mùa xuân mười sáu năm về trước ta cùng nàng vui vầy chưa đầy một tháng đã có thai con bé Chung Linh… Ông nghĩ ra việc đó buột miệng kêu lên: “Chao ôi! Không xong rồi!”.

Đao Bạch Phượng hỏi lại:“Cái gì mà không xong?” Đoàn Chính Thuần lắc đầu, cười gượng: “Gã Chung Vạn Cừu kia… tâm tính tồi bại, sắp xếp độc kế hại họ Đoàn ta, mình không thể nào… không thể nào thông gia với y được. Việc này nhất định không xong.” Đao Bạch Phượng thấy chồng ấp úng, hẳn là có điều gì muốn lấp liếm nên cầm lấy tờ giấy hồng điều trong tay ông đọc qua, chỉ hơi suy nghĩ đã hiểu ngay đầu đuôi câu chuyện, nhịn không nổi cười khẩy nói: “Thì ra… thì ra… ha ha, con bé Chung Linh cũng lại là con riêng của ông nốt.” Lửa giận bốc lên, bà lật tay tát ngay ông một cái, Đoàn Chính Thuần với nghiêng đầu né tránh.

Trong sảnh ai nấy đều sượng sùng, Bảo Định Đế mỉm cười: “Nếu quả như thế thì việc này không nên bàn tới nữa …”

Lúc đó có một tên gia tướng xăm xăm bước vào, hai tay cầm một tờ danh thiếp, chạy tới trước mặt Đoàn Chính Thuần cúi đầu nói: “Quá Ngạn Chi đại gia ở Hổ Lao Quan xin vào yết kiến vương gia.” Đoàn Chính Thuần biết Quá Ngạn Chi là đại đệ tử của Kha Bách Tuế chưởng môn phái Phục Ngưu, có ngoại hiệu là Truy Hồn Tiên, nghe nói võ công cũng khá lắm, có điều đối với họ Đoàn chưa từng qua lại giao du, bữa nay muôn dặm đến tìm không hiểu có việc gì. Ông vội vàng đứng lên quay sang nói với Bảo Định Đế: “Người này không biết đến có chuyện chi, để tiểu đệ ra xem thế nào.”

Bảo Định Đế mỉm cười gật đầu, nghĩ thầm: “Gã Truy Hồn Tiên này đến quả đúng lúc, may cho ngươi thừa cơ thoát thân”.

Đoàn Chính Thuần đi ra khỏi hoa sảnh, Cao Thăng Thái và Chử, Cổ, Phó, Chu đi theo sau. Vừa bước vào đại sảnh thấy ngay một người trung niên tầm vóc cao lớn ngồi ở chiếc ghế phía tây, mặc tang phục, đầu đội mũ vải gai, mặt mày đầy bụi bặm, hai mắt đỏ mọng sưng húp hiển nhiên mới có thân nhân tạ thế. Y thấy Đoàn Chính Thuần đi vào lập tức đứng lên cung thân hành lễ nói: “Hà Nam Quá Ngạn Chi bái kiến vương gia.” Đoàn Chính Thuần tạ lễ đáp: “Quá đại hiệp quang lâm Đại Lý mà tiểu đệ Đoàn Chính Thuần không biết để ra xa nghênh tiếp, xin miễn thứ cho.” Quá Ngạn Chi nghĩ thầm: “Ta vẫn thường nghe anh em họ Đoàn Đại Lý tuy đại phú quí nhưng không kiêu ngạo, thực là tiếng đồn không ngoa.”, bèn nói: “Quá Ngạn Chi này là kẻ thất phu ở nơi thảo dã, mạo muội cầu kiến vương gia thực áy náy vô cùng.” Đoàn Chính Thuần đáp: “Tước hiệu vương gia chẳng qua là theo thế tục đặt ra, còn Quá đại hiệp thanh danh vang dội khắp nơi, tại hạ vốn có lòng ngưỡng mộ, chúng ta nên coi như huynh đệ, bất tất câu chấp nghi lễ làm gì.” Ông nói xong, giới thiệu Cao Thăng Thái rồi phân ngôi chủ khách ngồi xuống.

Quá Ngạn Chị nói: “Vương gia! Sư thúc tại hạ ở nhờ trong vương phủ đã lâu, xin cho người báo tin giùm để tại hạ được diện kiến và trình việc gấp.” Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi lại: “Sư thúc của Quá huynh ư?” Ông nghĩ thầm: “Trong phủ ta làm gì có người của phái Phục Ngưu?”. Quá Ngạn Chi đáp: “Tệ sư thúc thay họ đổi tên tị nạn trong tôn phủ, không dám nói rõ cho vương gia hay, thực là có tội lớn, dám xin vương gia mở lượng khoan hồng miễn trách cho. Tại hạ xin tạ lỗi trước cùng vương gia.” Nói xong đứng lên vái dài, Đoàn Chính Thuần đáp lễ, quả thực không nghĩ ra được ai là sư thúc của y.

Cao Thăng Thái cũng suy nghĩ: “Ai nhỉ? Ai nhỉ?” Ông duyệt qua trong trí một loạt gia nhân chợt nhớ ra: “Chắc hẳn là y rồi!” bèn quay sang bảo tên gia đinh đứng bên: “Mi vào trình Hoắc tiên sinh rằng: Truy hồn tiên Quá đại hiệp tới đây có việc quan trọng muốn bẩm với Kim toán bàn Thôi lão tiền bối, xin mời tiên sinh ra đại sảnh nói chuyện.”.

Gã gia đinh tuân lời đi vào, chẳng bao lâu từ hậu đường có tiếng bước chân lẹp kẹp. Một người ngất nga ngất ngưởng từ hậu đường đi ra, vừa đi vừa nói lè nhè: “Ngươi làm thế này thì cái miệng của ta kể như hết chỗ ăn chực rồi.”

Đoàn Chính Thuần nghe nói đến Kim toán bàn Thôi lão tiền bối, sắc mặt hơi đổi nghĩ thầm: “Không lẽ Kim toán bàn Thôi Bách Tuyền lại ẩn náu nơi đây? Sao ta lại không biết? Sao Cao hiền đệ không cho mình hay?” Chỉ thấy một người hình dáng bệ rạc cười hì hì đi ra, chính là Hoắc tiên sinh làm tạp vụ trong vương phủ. Người này thường nhật nếu không say lúy túy thì cũng cùng bọn đầy tớ bài bạc thật là biếng nhác, chỉ được cái tiền bạc phân minh nên hơn mười năm nay vẫn để y làm ở đó. Đoàn Chính Thuần hết sức kinh ngạc: “Hoắc tiên sinh này có thực là Thôi Bách Tuyền không? Ta đúng là có mắt không tròng, để cho gã trà trộn vào đây. Cũng may Cao hiền đệ mở miệng gọi ngay y ra, Quá Ngạn Chi ắt nghĩ rằng phủ Trấn Nam Vương đã biết cả”.

Hoắc tiên sinh vẫn bảy phần say, ba phần tỉnh, vẻ mặt ngơ ngác. Nhìn thấy Quá Ngạn Chi vận tang phục lão giật mình hỏi: “Ngươi… sao lại …” Quá Ngạn Chi bước lên mấy bước, lạy sụp xuống đất, khóc òa lên nghẹn ngào đáp: “Thôi sư thúc, sư phụ… sư phụ của tiểu điệt… đã bị người ta giết chết rồi …” Thôi Bách Tuyền biến hẳn thần sắc, nét mặt đang ngơ ngác thoáng cái đã đầy vẻ lo âu, dè dặt. Lão từ từ hỏi: “Kẻ thù là ai?” Quá Ngạn Chi nức nở đáp: “Tiểu điệt bất tài nên chưa tra xét được cho minh bạch, nhưng đoán chừng là người của nhà Mộ Dung đất Cô Tô.” Thôi Bách Tuyền lộ vẻ kinh sợ nhưng chỉ thoáng qua rồi nét mặt trở nên nghiêm nghị. Ông trầm giọng nói: “Việc này phải bàn tính cẩn thận mới được.”

Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái hai người nhìn nhau cùng nghĩ: “Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung, phái Phục Ngưu mà chuốc oán với họ Mộ Dung đất Cô Tô e rằng khó mà báo thù được”.

Thôi Bách Tuyền buồn bã nói với Quá Ngạn Chi: “Quá hiền điệt, sư huynh ta bỏ mạng như thế nào, tình tiết ra sao, ngươi thuật lại cho rõ.” Quá Ngạn Chi đáp: “Thù thầy chẳng khác thù cha, ngày nào chưa báo được là tiểu điệt ăn ngủ không yên. Xin sư thúc lập tức lên đường, vừa đi tiểu điệt vừa bẩm lại để khỏi mất thì giờ.”

Thôi Bách Tuyền biết là Quá Ngạn Chi có ý e ngại đại sảnh này có nhiều tai mắt, nói ra có điều bất tiện chứ không phải là tranh thủ sớm muộn một hai thời khắc, trong bụng tính toán: “Ta ở nhờ trong phủ Trấn Nam Vương đã lâu năm không lộ hình tích, thế mà Cao Thăng Thái cũng biết rõ hành tung. Nếu ta không lên tiếng xin lỗi Đoàn vương gia tức là đắc tội với nhà họ Đoàn. Huống chi việc tìm kiếm họ Mộ Dung để báo thù cho sư huynh, sức ta không thể nào làm được. Nếu được họ Đoàn phái người tương trợ thì lực lượng sẽ mạnh hơn nhiều, thêm bạn bớt thù là quan trọng.” đột nhiên đi đến trước mặt Đoàn Chính Thuần, quì xuống dập đầu binh binh liên tiếp.

Mọi người thấy thế đều ngạc nhiên. Đoàn Chính Thuần vội đưa hai tay đỡ dậy, nhưng không ngờ thân hình Thôi Bách Tuyền vững như đóng đinh xuống đất không lay chuyển. Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: “Gã tửu quỉ này gớm thật, hóa ra võ công cao siêu như thế, dám đánh lừa ta”. Ông vận kình vào hai cánh tay nhấc lên, Thôi Bách Tuyền cũng không vận nội lực chống lại nữa, mượn đà đứng dậy. Nhưng vừa đứng được thẳng người lên, lão cảm thấy xương cốt trong mình đều đau ê ẩm, rất là khó chịu, tựa như con thuyền nhỏ ngoài khơi bị một cơn sóng gió đánh tơi bời, biết là Đoàn Chính Thuần ra tay trừng trị mình. Y nghĩ thầm nếu như mình còn vận nội lực để chống lại, Trấn Nam Vương sẽ không hả giận mà chưa biết chừng ông còn ngờ mình trà trộn vào trong vương phủ để mưu toan việc gian ác, Thôi Bách Tuyền nhân lúc chân khí trong người còn nhộn nhạo, lập tức té ngồi phệt xuống làm như đau đớn lắm, kêu lên: “Ôi chà!”.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười, đưa tay kéo Thôi Bách Tuyền dậy, đồng thời xoa luôn một cái, lập tức bao nhiêu khó chịu trong người y liền tiêu giải.

Thôi Bách Tuyền nói: “Trấn Nam vương gia! Thôi Bách Tuyền này bị kẻ thù bức bách, không còn đường chạy nên phải vác cái mặt dày tới vương phủ nương tựa uy danh vương gia sống được tới nay, vậy mà chưa từng thổ lộ chân tướng với vương gia, thật là tội đáng muốn chết.”

Cao Thăng Thái tiếp lời: “Thôi huynh bất tất phải quá khiêm. Vương gia cũng biết rõ thân thế và lai lịch các hạ từ lâu rồi nhưng để yên không nói đấy thôi. Đừng nói vương gia hiểu rõ đã đành, mà ngay những người chung quanh cũng biết cả. Hôm trước thế tử đối phó với Nam Hải Ngạc Thần chẳng đã lôi Thôi huynh ra nhận làm sư phụ đấy ư? Thế tử biết rằng trong phủ chỉ có mình Thôi huynh là khả dĩ đối phó được với tên ác tặc họ Nhạc mà thôi.” Kỳ thực hôm đó Đoàn Dự kéo Thôi Bách Tuyền ra để mạo nhận là sư phụ chẳng qua ngẫu nhiên mà trúng. Chàng thấy Thôi Bách Tuyền dáng điệu ngớ ngẩn, hình dung cổ quái nên đem lão ra làm trò cười trêu ghẹo Nam Hải Ngạc Thần. Song bây giờ Thôi Bách Tuyền nghe Cao Thăng Thái nói lại tin là thực, trong lòng không khỏi xấu hổ ngầm.

Cao Thăng Thái nói tiếp: “Vương gia trước nay vốn hiểu khách, đừng nói gì Thôi huynh tuyệt không có ác ý với nước Đại Lý chúng tôi, mà giả tỷ có ý đồ gì đi chăng nữa, vương gia vẫn đại lượng bao dung, lấy lòng thành mà đối xử. Thôi huynh bất tất phải băn khoăn.” Ông ta nói thế là có ý rằng: ngươi không có vết tích gì bất lương nên mới dung dưỡng tới ngày nay, bằng không thì chúng ta đã sửa ngươi từ lâu rồi.

Thôi Bách Tuyền nói: “Cao hầu gia minh giám, tuy vương gia đại lượng nhưng vì sao Thôi mỗ phải vào vương phủ nương náu thì trước khi cáo biệt cũng cần phải trình bày cho rõ, nếu không quả là thiếu quang minh chính đại. Có điều việc này liên quan đến nhiều người khác, Thôi mỗ xin được trình riêng cho vương gia.”

Đoàn Chính Thuần gật đầu quay lại bảo Quá Ngạn Chi: “Báo cừu cho sư phụ là việc trọng đại, Quá huynh chẳng nên hấp tấp nóng nảy, nán chờ chốc lát. Sau khi tan tiệc, chúng ta sẽ từ từ thương nghị cũng không muộn.” Quá Ngạn Chi chưa kịp trả lời, Thôi Bách Tuyền đã chen vào nói trước: “Vương gia tại bảo thế nào chúng tôi xin tuân lệnh.”

Ngay lúc đó một gia tướng lại tới ngay cửa sảnh khom lưng bẩm: “Khải bấm vương gia, phương trường chùa Thiếu Lâm phái hai vị cao tăng đến trình thư.” Chùa Thiếu Lâm từ đời Đường tới nay vẫn là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, Đoàn Chính Thuần vội ra ngoài hiên nghênh tiếp.

Chỉ thấy hai nhà sư trung niên được hai gia tướng dẫn qua sân. Một vị hòa thượng người khô như hạc khom lưng chắp tay hành lễ nói: “Tiểu tăng là Tuệ Chân, Tuệ Quan của chùa Thiếu Lâm tham kiến vương gia.” Đoàn Chính Thuần ôm quyền tạ lễ nói: “Hai vị đường xa quang lâm, quả thật mệt nhọc, xin mời vào sảnh dùng trà.”

Đến trong sảnh hai nhà sư không chịu ngồi, Tuệ Chân nói: “Bẩm vương gia, bần tăng phụng mệnh phương trượng tệ tự đến trình một phong thư cho Bảo Định hoàng gia và Trấn Nam vương gia.” Nói rồi lấy từ trong bọc ra một gói giấy dày, mở ra từng lớp từng lớp để lộ một bao thư màu vàng, hai tay dâng lên Đoàn Chính Thuần.

Đoàn Chính Thuần cầm lấy nói: “Hoàng huynh hiện cũng đang ở nơi đây, hai vị cũng may gặp được ngay.” Ông quay qua nói với Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi: “Hai vị dùng điểm tâm, đợi lát nữa sẽ nói chuyện cho kỹ càng.” Nói xong đưa Tuệ Chân, Tuệ Quan hai người vào trong.

Lúc đó Bảo Định Đế đang ở trong noãn các cùng Hoàng Mi tăng uống trà đàm luận, còn Đoàn Dự ngồi một bên lắng nghe, thấy Tuệ Chân, Tuệ Quan tiến vào đều đứng cả dậy. Đoàn Chính Thuần đưa phong thư, Bảo Định Đế mở ra coi một lượt, thấy lá thư đó gửi cho hai anh em mình, bên trên là một đoạn dài những gì “nghe danh đã lâu nhưng chưa từng gặp”, “uy chấn trời Nam, nhân đức bao trùm”, “toàn dân ngưỡng mộ, hào kiệt theo về”, “xiển hộ Phật pháp, hoằng dương thánh đạo” toàn là những câu khách sáo, khi đến chính đề thì là: “Tệ sư đệ Huyền Bi dẫn bốn đồ đệ đến thăm quí quốc, vì tình cùng kính Phật, nghĩa đồng đạo trong võ lâm, mong được chiếu cố đến.” Bên dưới ký tên là “Thích Huyền Từ chùa Thiếu Lâm chắp tay trăm lạy”.

Bảo Định Đế đứng dậy đọc thư để tỏ lòng kính trọng chùa Thiếu Lâm, Tuệ Chân và Tuệ Quan cung kính đứng thõng tay một bên. Bảo Định Đế nói: “Mời hai vị ngồi. Phương trượng chùa Thiếu Lâm nếu đã có pháp dụ, chúng tôi là đệ tử Phật môn, lại là một phái trong võ lâm, nguyện đem hết sức để tuân lệnh. Huyền Bi đại sư Phật học tinh thông, võ công cao cường, anh em chúng tôi vẫn hằng kính ngưỡng, không biết pháp giá của đại sư bao giờ mới tới? Anh em chúng tôi xin quét tháp chờ đợi.”

Tuệ Chân, Tuệ Quan đột nhiên quì xuống dập đầu binh binh rỗi cùng khóc òa lên.

Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần cùng kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ Huyền Bi đại sư cũng chết rồi”. Bảo Định Đế đưa tay đỡ lên nói: “Chúng ta võ lâm đồng đạo, không nên dùng đại lễ.” Tuệ Chân đứng lên trả lời: “Sư phụ chúng tôi viên tịch rồi.” Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Lá thư này vốn để Huyền Bi đại sư tự mình đem đến, không lẽ ông ta chết trong nước Đại Lý?”. Ông bèn nói: “Huyền Bi đại sư về cõi tây phương, cửa Phật mất đi một cao tăng, võ lâm mất đi một cao thủ, quả thực đáng tiếc. Không biết Huyền Bi đại sư viên tịch vào ngày nào?”

Tuệ Chân đáp: “Tháng trước phương trượng sư bá được tin Tứ Đại Ác Nhân định đến gây sự với Đoàn hoàng gia và Trấn Nam Vương nước Đại Lý – Họ Đoàn Đại Lý uy chấn thiên nam đâu có sợ gì bọn Tứ Đại Ác Nhân, nhưng sợ hai vị không biết mà tổn thất bộ hạ, nên phương trượng sai sư phụ chúng tôi dẫn bốn đệ tử đi đến Đại Lý bẩm trước cho hoàng gia, rồi để hoàng gia sai bảo.”

Bảo Định Đế hết sức cảm kích, nghĩ thầm: “Thảo nào phái Thiếu Lâm mấy trăm năm nay được mọi người kính phục, Huyền Từ đại sư coi việc an nguy của võ lâm như việc của mình, bọn ta tuy ở chốn xa xăm cũng được quan tâm. Trong thư nói chúng ta chiếu cố cho thầy trò Huyền Bi đại sư nhưng thực ra sai người đến trước là báo tin, sau là tiếp tay chống giữ.” Ông bèn hơi khom mình nói: “Hậu ý của phương trượng đại sư, anh em chúng tôi không biết làm sao báo đáp.”

Tuệ Chân đáp: “Hoàng gia quá khiêm tốn đấy thôi. Thầy trò chúng tôi lên đường xuôi nam, ngày hai mươi tám tháng trước ghé lại chùa Thân Giới ở châu Lục Lương nghỉ qua đêm, ngờ đâu sáng sớm ngày hai mươi chín, bốn anh em chúng tôi trở dậy, thì thấy sư phụ… sư phụ bị người ta ám toán, chết ngay trên đại điện chùa Thân Giới rồi …” Nói đến đây ông ta nghẹn ngào không thành tiếng.

Bảo Định Đế thở dài một tiếng hỏi lại: “Huyền Bi đại sư trúng phải ám khí độc hại chăng?” Tuệ Chân đáp: “Không phải.” Bảo Định Đế, Hoàng Mi tăng, Đoàn Chính Thuần lẫn Cao Thăng Thái đều tỏ vẻ ngạc nhiên, cùng nghĩ: “Cứ như võ công của Huyền Bi đại sư, nếu không trúng phải ám khí kịch độc, dẫu là địch nhân đánh lén sau lưng cũng không thể nào chết ngay không kháng cự. Trong nước Đại Lý ta có cao thủ nào bản lãnh đến như thế?”

Đoàn Chính Thuần nói: “Hôm nay mồng ba, tối ngày hai mươi tám tháng trước tức là bốn ngày rồi. Dự nhi bị bắt tại Vạn Kiếp Cốc là ngày hai mươi bảy.” Bảo Định Đế gật đầu: “Không phải Tứ Đại Ác Nhân.” Đoàn Diên Khánh mấy ngày đó ở tại Vạn Kiếp Cốc, quyết không cách nào phân thân để giết người ở Lục Lương Châu. Mà dù Đoàn Diên Khánh biết phân thân chăng nữa cũng chưa chắc đã có thể giết chết Huyền Bi đại sư không một tiếng động.

Tuệ Chân nói: “Chúng tôi để sư phụ dậy thì người lão nhân gia đã lạnh, viên tịch từ lâu, trong đại điện không có dấu vết gì chứng tỏ có động thủ. Chúng tôi chạy ra ngoài chùa tìm kiếm, các sư huynh trong chùa Thân Giới cũng theo giúp đỡ, nhưng mấy chục dặm không hề thấy một chút tung tích nào của hung thủ.”

Bảo Định Đế buồn bã nói: “Huyền Bi đại sư vì họ Đoàn ta mà viên tịch, lại bị nạn ngay trong địa giới nước Đại Lý, dù tình dù lý, huynh đệ chúng tôi nhất quyết không thể đứng ngoài.”

Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư cùng quì xuống bái tạ, Tuệ Chân nói: “Bốn huynh đệ bọn tiểu tăng cùng Ngũ Diệp đại sư phương trượng chùa Thân Giới bàn thảo xong tạm quan pháp thể của sư phụ chúng tôi lại chùa, chưa dám thiêu hóa để sau này chưởng môn sư bá có thể kiểm tra. Hai vị sư huynh quay về chùa Thiếu Lâm bẩm lại, tiểu tăng và sư đệ Tuệ Quan thì đi Đại Lý, bẩm với hoàng gia và Trấn Nam Vương.”

Bảo Định Đế nói: “Phương trượng Ngũ Diệp tuổi cao đức trọng, kiến thức uyên bác, thông hiểu nhiều chuyện trong võ lâm, vậy lão nhân gia dạy thế nào?”

Tuệ Chân đáp: “Ngũ Diệp phương trượng dạy rằng: mười phần thì có đến tám chín, hung thủ là người trong họ Mộ Dung đất Cô Tô.” Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái đưa mắt nhìn nhau, trong bụng cùng nghĩ: “Lại là Cô Tô Mộ Dung!”

Hoàng Mi tăng từ nãy đến giờ chưa mở miệng đột nhiên xen vào: “Phải chăng Huyền Bi đại sư bị trúng một đòn Đại Vi Đà Chử ngay giữa ngực mà viên tịch?” Tuệ Chân kinh ngạc đáp: “Đại sư đoán đúng lắm! Không hiểu sao… sao…” Hoàng Mi tăng đáp: “Ta từng nghe Huyền Bi đại sư chùa Thiếu Lâm có công phu Đại Vi Đà Chử là một tuyệt học trong võ lâm, đối phương bị trúng phải sẽ đứt gãy hết gân cốt. Môn đó cố nhiên là lợi hại, nhưng xét cho kỹ thì lại quá bá đạo, dường như không thích hợp cho đệ tử Phật môn… Ôi!” Đoàn Dự cũng buột miệng xen vào: “Phải rồi! Cái môn đó quả là độc địa thái quá.”

Tuệ Chân, Tuệ Quan nghe Hoàng Mi tăng bình luận sư phụ của mình, trong lòng đã thấy bất mãn nhưng còn nể ông là bậc cao tăng tiền bối không dám trả lời. Lại thấy Đoàn Dự ở bên cũng chõ mồm vào, bất giác hai người cả giận đều quắc mắt nhìn. Đoàn Dự vẫn tảng lờ như không trông thấy, chẳng lý gì đến nữa.

Đoàn Chính Thuần hỏi: “Tại sao sư huynh biết Huyền Bi đại sư chết vì trúng Đại Vi Đà Chử?” Hoàng Mi tăng thở dài: “Phương trượng chùa Thân Giới Ngũ Diệp đại sư đoán rằng hung thủ thuộc họ Mộ Dung đất Cô Tô ắt không phải là nói vô căn cứ. Đoàn nhị đệ, Cô Tô Mộ Dung có một câu rằng: Gậy ông đập lưng ông, ai giỏi môn gì thì họ lấy chính môn đó để mà hạ thủ. Chẳng hay hiền đệ có biết chăng?” Đoàn Chính Thuần trầm ngâm đáp: “Câu đó tiểu đệ đã từng nghe qua, có điều không tin lắm.” Hoàng Mi tăng lẩm bẩm: “Gậy ông đập lưng ông, hừ, gậy ông đập lưng ông…” Trên mặt ông đột nhiên lộ vẻ sợ hãi. Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần quen biết Hoàng Mi đại sư từ mấy chục năm nay chưa từng thấy ông lộ vẻ sợ hãi bao giờ. Cả lúc ông cùng thái tử Diên Khánh đấu cờ thí mạng đã trông rõ thế bại, tuy ông có bối rối mà nét mặt vẫn thản nhiên, Thế mà bây giờ ông phải sợ ra mặt đủ biết nhà Mộ Dung lợi hại đến chừng nào.

Trong noãn các bỗng nhiên lặng tanh không một tiếng động. Qua một hồi lâu, Hoàng Mi tăng chậm rãi nói: “Lão tăng nghe nói ở Cô Tô có một nhân vật tên là Mộ Dung Bác, là người giỏi số một trên thế gian. Y lấy tên là Bác vì võ công uyên bác không thể kể xiết. Tựa hồ như tuyệt kỹ của phái võ nào y đều thông hiểu. Kể cũng lạ thật, khi y muốn giết chết ai nhất định phải dùng chính cái môn tuyệt kỹ thành danh của người đó.” Đoàn Dự nói: “Thế thì không sao tưởng tượng nổi, võ công trong thiên hạ biết bao nhiêu là môn, làm sao mà y học hết được?” Hoàng Mi tăng đáp: “Hiền điệt nói không sai, nhưng quả thực nếu không dùng chính tuyệt chiêu của đối phương để giết người thì y nhất định không ra tay.”

Bảo Định Đế nói: “Ta cũng nghe thấy ở Trung Nguyên có nhân vật kỳ dị như thế. Lạc thị tam hùng đất Hà Bắc nổi tiếng về phi trùy, về sau cả ba người đều bị trúng phi trùy táng mạng. Chương Hư đạo nhân ở Sơn Đông lúc định giết ai bao giờ cũng chém cụt hết chân tay, để địch thủ phải kêu khóc hàng nửa ngày rồi mới chết được. Sau chính Chương Hư đạo nhân cũng bị thảm báo như thế. Câu tuyên bố gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung là do miệng Chương Hư đạo nhân truyền đi.” Bảo Định Đế ngừng một lúc lại nói tiếp: “Khi đó, ở Tế Nam giữa phiên chợ náo nhiệt không biết bao nhiêu người quây chung quanh xem Chương Hư đạo nhân nằm lăn lộn kêu gào dưới đất.” Ông nói tới đây dường như còn tưởng tượng ra cái thảm trạng của Chương Hư đạo nhân trước khi chết, vẻ mặt xem chừng bất nhẫn, đầy vẻ không vui.

Đoàn Chính Thuần gật đầu nói: “Thế thì đúng rồi.” Đột nhiên ông nghĩ ra một chuyện liền nói: “Tôi nghe nói Kha Bách Tuế, sư phụ của Quá đại hiệp giỏi sử dụng nhuyễn tiên, nhưng kình lực trên đầu roi lại là thuần cương, sát địch thì dùng roi đánh vào đầu đối phương nát vụn, không lẽ ông ta… ông ta …” Ông vỗ tay ba cái gọi một tên đầy tớ vào nói: “Mi đi mời Thôi tiên sinh và Quá đại hiệp tới đây để cùng ta thương nghị việc cần.” Gã kia “Vâng” một tiếng nhưng không biết Thôi tiên sinh là ai nên ngần ngừ chưa chịu ra. Đoàn Dự cười nói: “Thôi tiên sinh chính là Hoắc tiên sinh đó.” Gã đầy tớ bấy giờ mới hiểu rõ chạy đi mời.

Trong giây phút Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đã đến sảnh đường. Đoàn Chính Thuần nói: “Quá đại hiệp! Tại hạ có một việc muốn hỏi, xin đại hiệp miễn trách!” Quá Ngạn Chi đáp: “Không dám.” Đoàn Chính Thuần hỏi: “Xin hỏi lệnh sư Kha lão tiền bối bị người ta ám toán như thế nào? Vết thương trí mạng là do quyền cước hay binh khí?” Quá Ngạn Chi đột nhiên thẹn đỏ ửng cả mặt, lúng túng mãi mới trả lời được: “Gia sư bị thương vì chiêu nhuyễn tiên Thiên Linh Thiên Liệt (đầu vỡ nghìn mảnh), kình lực của hung thủ hung mãnh dị thường, dẫu chính tay gia sư cũng không thể… không thể…”

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và Hoàng Mi tăng đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều thấy bàng hoàng.

Tuệ Chân đến trước mặt Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi chắp tay vái chào nói: “Sư huynh đệ bần tăng cùng hai vị đều chung một kẻ thù. Nếu không diệt được nhà Mộ Dung ở Cô Tô…” Nói đến đây trong bụng tự nghĩ có diệt được họ Mộ Dung đất Cô Tô hay không quả thật khó nói, bèn nghiến răng: “Bần tăng nhất quyết liều mạng với họ.” Quá Ngạn Chị hai mắt rưng rưng nói: “Phái Thiếu Lâm cũng kết thâm cừu với họ Mộ Dung đất Cô Tô hay sao?” Tuệ Chân bèn đem chuyện sư phụ Huyền Bi bị chết dưới tay Cô Tô Mộ Dung như thế nào thuật lại một lượt.

Quá Ngạn Chi thần sắc bi phẫn, nghiến răng căm tức, còn Thôi Bách Tuyền chỉ cúi đầu rũ rượi chẳng nói năng gì, xem ra không để ý gì tới mối huyết cừu của sư huynh. Tuệ Quan hòa thượng buột miệng hỏi: “Thôi tiên sinh! Có phải tiên sinh sợ họ Mộ Dung ở Cô Tô chăng?” Tuệ Chân vội mắng át: “Sư đệ! Không được vô lễ.” Thôi Bách Tuyền lơ láo ngó tới ngó lui, tựa hồ sợ trong vách tường có kẻ thù ghê gớm rình rập sắp xông ra, tỏ rõ con người khiếp nhược. Tuệ Quan hừ một tiếng, lẩm bẩm một mình: “Đại trượng phu lúc đáng chết thì chết, làm gì phải sợ sệt đến thế?” Tuệ Chân cũng coi thường thái độ nhút nhát khiếp sợ của Thôi Bách Tuyền nên mặc cho sư đệ muốn nói gì thì nói, không ngăn cản nữa.

Hoàng Mi tăng khẽ đằng hắng rồi nói: “Việc này…” Lão tăng vừa nói được hai tiếng thì Thôi Bách Tuyền toàn thân run lẩy bẩy, đứng bật lên đụng phải chén nước trên khay trà rơi xuống đất, vỡ tan ra. Thôi tiên sinh định thần lại, thấy mọi người đều chú mục nhìn mình, bất giác đỏ mặt tía tai ngượng nghịu nói: “Xin lỗi! Xin lỗi!” Quá Ngạn Chi chau mày, cúi xuống nhặt những mảnh chén vỡ.

Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng: “Lão Thôi Bách Tuyền này không có một chút gan dạ nào hết”, rồi quay sang hỏi: “Sư huynh, thế nào?”

Hoàng Mi tăng hợp một ngụm trà, thủng thẳng hỏi: “Thôi thí chủ đã gặp Mộ Dung Bác rồi ư?” Thôi Bách Tuyền nghe đến ba chữ Mộ Dung Bác, giật mình kêu lên một tiếng, hai tay vịn vào ghế cho khỏi té, giọng run run đáp: “Tôi chưa từng… có… có gặp qua… không từng …” Tuệ Quan hỏi lớn: “Thôi tiên sinh đã gặp Mộ Dung Bác chưa? Xin nói rõ!” Thôi Bách Tuyền giương đôi mắt nhìn trời như kẻ mất hồn. Bọn Đoàn Chính Thuần thấy thế đều lắc đầu, ngấm ngầm thất vọng. Quá Ngạn Chi thấy sư thúc tỏ vẻ hèn nhát trước mặt mọi người lại càng cảm thấy bứt rứt khó chịu. Một lúc sau Thôi Bách Tuyền mới cất giọng run run đáp: “Chưa từng… đại khái… dường như chưa từng… chưa từng gặp …”

Hoàng Mi tăng nói: “Lão nạp đã từng có phen đích thân nếm trải, vậy xin thuật lại để các vị cùng rõ cũng chẳng hại gì. Việc xảy ra đã bốn mươi ba năm trước đây rồi. Lúc đó bần tăng còn ít tuổi, sung sức, vừa xuất thân đã có được chút thanh danh trong chốn giang hồ, khác nào trâu nghé mới sinh chưa biết sợ hổ, vẫn tưởng là khắp thế gian rộng lớn này, ngoài sư phụ ra không còn ai võ nghệ cao cường bằng mình nữa. Năm đó ta hộ tống một vị quan hưu trí cùng gia quyến trở về bản quán, đi từ Biện Lương đến Sơn Đông. Khi tới rặng núi phụ cận Thanh Báo Cương thì gặp bốn tên cường đạo. Bọn này không cướp tiền của đồ vật mà chỉ định bắt tiểu thư con vị quan đó. Bần tăng đang độ thanh niên khí khái, quyết chẳng dung tình, vừa ra tay là đã sử độc chiêu, dùng ngay Kim Cương Chỉ hạ sát luôn bốn tên cường đạo, tên nào cũng bị ngón tay đâm thủng vào tận tim, chết không kịp ngáp.

“Bần tăng đang lúc vênh vang đắc ý, quá kiêu ngạo nói phun bọt rãi, khoe khoang với vị hữu quan: Dù có tám đứa mười đứa cường đạo nữa tới, tôi cũng dùng Kim Cương Chỉ giết sạch. Lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp, hai người cỡi lừa đi ngang qua. Bỗng một người ngồi trên lưng lừa “hừ” một tiếng, nghe tựa như tiếng đàn bà. Trong cái hừ đó dường như chứa đựng đầy vẻ khinh miệt, chế giễu. Ta quay đầu lại thì thấy người ngồi trên lưng lừa là một thiếu phụ chừng ba sáu, ba bảy, còn người kia là một thiếu niên độ mười lăm mười sáu, mi thanh mục tú, hình dung tuấn nhã, cả hai đều mặc sô gai theo kiểu đại tang. Lại nghe thiếu niên kia nói: Mẹ ơi! Kim Cương Chỉ thì đã thấm vào đâu mà gã kia ở đây khoác lác.”

Thân thế lai lịch của Hoàng Mi tăng anh em Bảo Định Đế cũng không biết rõ. Thế nhưng ông ta ở trong Vạn Kiếp Cốc vạch đá thành bàn cờ, khắc đá thành quân cờ, đấu ngang ngửa với thái tử Diên Khánh, mọi người đều hết sức kính ngưỡng, Kim Cương Chỉ của ông chẳng ai không phục. Bây giờ nghe hòa thượng thuật lại lời cậu bé, ai cũng cho là đứa trẻ nít không biết gì nói bậy.

Không ngờ Hoàng Mi khẽ thở dài rồi nói tiếp: “Nghe cậu bé nói, bần tăng tuy cũng có ý tức giận, song cho là lời ngông cuồng của con nít, không đáng chấp nên chỉ lừ mắt nhìn qua, rồi cũng chẳng thèm lý đến nữa. Lại nghe người đàn bà mắng con: Kim Cương Chỉ của người ta là chính tông của Đạt Ma hạ viện ở Bồ Điền Phúc Kiến, luyện cũng tới ba thành hỏa hầu rồi, mi con nít biết gì mà nói? Mi phóng chỉ ra chưa chắc đã chính xác được bằng người ta đâu.”

“Bần tăng nghe thiếu phụ nói, vừa kinh ngạc lại vừa phẫn nộ. Nguồn gốc sư môn của bần tăng trên giang hồ ít người biết đến, người đàn bà này vừa nói ra đã đúng ngay, lại bảo Kim Cương Chỉ mới được ba thành hỏa hầu, làm sao chịu nổi. Ôi, kỳ thực bần tăng chưa hiểu trời cao đất rộng, công lực của bần tăng ngày ấy mà bảo đã luyện được tới ba thành là nói quá lên rồi, đúng ra mới được hơn hai thành mà thôi. Bần tăng liền lớn tiếng thách thức: Vị phu nhân kia tôn tính là gì? Đã coi thường Kim Cương Chỉ của tại hạ, chắc là có ý dạy cho mấy chiêu chăng?”.

“Thiếu niên kia dừng con lừa đốm lại toan trả lời, người đàn bà bỗng dưng hai mắt đỏ ngầu, rớm lệ bảo con: Gia gia mi lúc lâm chung đã dặn những gì? Mi chóng quên thế? Cậu bé kia đáp: Vâng! Hài nhi không dám quên. Hai người liên vung roi quất lừa chạy về phía trước.”

“Bần tăng càng nghe lại càng bực mình, liền thúc ngựa đuổi theo gọi: Này! Nói lăng nhăng chỉ trích võ công người khác, không tỉ thí vài chiêu đã bỏ chạy mà xong ư? Con tuấn mã của bần tăng cước lực thật nhanh, vượt qua hai con lừa, chặn ngay trước mặt hai người. Thiếu phụ quay lại bảo con: Mi xem đó. Cứ buột miệng nói bừa người ta đâu có chịu bỏ qua? Cậu bé này xem chừng đối với mẫu thân rất là hiếu thuận, không dám ngước nhìn bần tăng nữa. Bần tăng thấy họ sợ mình, nghĩ thầm có thắng mẹ góa con côi cũng chẳng hay ho nên không thèm chấp, nhưng nghe giọng điệu bà ta xem ra thiếu niên này cũng biết Kim Cương Chỉ. Môn công phu này bần tăng khổ luyện mười lăm năm mới được ba thành, vậy đứa con nít này có lý nào hiểu được? Bần tăng liền nói đồng một câu: Hôm nay ta để cho các ngươi đi, về sau thì nói năng nên cẩn thận một chút!”

“Thiếu phụ đó vẫn không nhìn bần tăng, quay lại bảo con: Thúc thúc đấy nói phải đó, về sau con nói năng nên cẩn thận một chút. Nếu câu chuyện tới đây mà thôi đi thì hai bên đều không mất thể diện. Khốn nỗi thời đó bần tăng đang độ trẻ tuổi hung hăng, kéo ngựa sang bên đường nhường cho thiếu phụ đi trước, đến lúc cậu bé vừa vỗ lừa cho cất bước, bần tăng giơ roi quất vào mông một cái và cười vang lên bảo: Chạy cho nhanh nào! Cây roi ngựa còn cách mông lừa độ chừng một thước, bỗng nghe véo một tiếng, cậu bé quay lại giơ ngón tay, chỉ lực phóng ra đánh chiếc roi của bần tăng bay vụt lên trời. Chỉ một chiêu khiến bần tăng sợ đến đờ đẫn cả người, chỉ lực của y thật ghê gớm hơn nhiều.”

“Lại nghe thiếu phụ kia nói: Đã trót ra tay thì phải kết thúc đi thôi. Thiếu niên kia đáp: Vâng! Y ghìm con lừa đốm quay lại xông vào. Bần tăng vung tay trái toan ra chiêu Lan Vân Thủ, đột nhiên nghe soẹt một tiếng tay y đã phóng ra một chỉ, bên trái ngực bần tăng đau nhói, kình lực toàn thân mất hết.”

Hoàng Mi tăng nói đến đây chầm chậm cởi tăng bào để lộ bộ ngực xương xẩu, thấy bên trái ngay chỗ trái tim có một cái lỗ sâu chừng một tấc. Cái lỗ đó tuy đã thành sẹo rồi nhưng vẫn có thể tưởng tượng vết thương năm xưa nặng biết chừng nào. Có điều ai nấy kinh ngạc là vết thương đó thủng vào sâu đến trái tim mà nhà sư vẫn không chết, còn sống được mãi tới ngày nay.

Hoàng Mi tăng chỉ vào ngực bên phải nói: “Các vị xem đây.” Mọi người thấy nơi đó phập phồng mới hay ông ta vốn có dị tướng, trái tim không nằm bên trái mà lại nằm bên phải, vì thế mà năm xưa thoát chết.

Hoàng Mi tăng xốc lại áo, thắt lại đai lưng rồi nói tiếp: “Tâm tạng nằm lệch về bên phải như thế, thực là hàng vạn người không có một. Cậu bé thấy dùng chỉ lực đánh trúng trái tim mà bần tăng vẫn không chết, vội nhảy lùi lại một bước, sắc mặt lộ vẻ kinh dị. Bần tăng nhìn lồng ngực máu cứ ồng ộc tuôn ra, cho là tính mạng không giữ được nữa nên chẳng còn kiêng nể, cất tiếng mắng tràn: Thằng giặc con kia! Mi bảo mi biết sử dụng Kim Cương Chỉ, hừ hừ, Kim Cương Chỉ của Đạt Ma hạ viện, có bao giờ đánh người đến chảy máu mà vẫn không giết được người. Thủ pháp của ngươi sai bét đâu có phải là Kim Cương Chỉ? Cậu bé nhảy lại trước mặt, toan đánh tiếp một chỉ. Lúc đó thì bần tăng hoàn toàn không còn chống cự gì được nữa, chỉ có cách bó tay đợi chết. Không ngờ thiếu phụ lại cầm roi ngựa vung ra, quấn chặt lấy cánh tay cậu bé. Trong lúc mê man, bần tăng còn nghe văng vắng tiếng thiếu phụ mắng con: Họ Mộ Dung đất Cô Tô làm gì có người nào vô dụng thế? Kim Cương Chỉ của mi đã không học được tới nơi nên không giết được y, ta sẽ phạt mi trong bảy ngày… Nghe đang dở câu thì bần tăng ngất đi không biết gì nữa, chẳng hiểu bà ta phạt con trong bảy ngày phải làm gì.

Thôi Bách Tuyền run run hỏi: “Đại… đại sư, về sau… về sau ngài có gặp lại họ không?” Hoàng Mi tăng đáp: “Nói ra càng thêm xấu hổ. Từ lúc bần tăng trải qua việc đó đâm ra chán nản, vì thấy đứa bé nhỏ xíu mà bản lĩnh đã cao siêu đến thế, dù mình có luyện võ công đến mấy cũng không tài nào bì kịp. Sau khi lành vết thương, bần tăng rời khỏi địa giới nước Đại Tống tìm đến Đại Lý, nương nhờ ở dưới quyền cai trị của Đoàn hoàng gia. Qua được mấy năm, bần tăng xuất gia đầu Phật. Bao nhiêu năm nay bần tăng tuy đã tham ngộ lẽ tử sinh, không để vinh nhục vào lòng nữa, song đôi khi nhớ lại chuyện năm xưa vẫn còn rùng mình, quả đúng là kinh cung chi điểu.”

Đoàn Dự hỏi: “Đại sư, nếu như thiếu niên đó còn sống đến hôm nay thì cũng phải trên dưới sáu mươi rồi, có phải y là Mộ Dung Bác chăng?”

Hoàng Mi tăng lắc đầu: “Nói ra thật là hổ thẹn, lão nạp cũng không biết nữa. Thực ra chỉ lực của cậu bé đó có phải Kim Cương Chỉ hay không, ta cũng đâu có nhìn rõ, nhưng xem chừng ra tay không giống hẳn. Thế nhưng phải hay không thì cũng thật là lợi hại, thật là ghê gớm …”.

Mọi người ai nấy lặng thinh, lòng khinh thị Thôi Bách Tuyền giảm đi quá nửa, nghĩ thầm võ công cao siêu như Hoàng Mi tăng mà còn úy cả Cô Tô Mộ Dung đến thế, Thôi Bách Tuyền có sợ thất thần thì cũng bình thường.

Thôi Bách Tuyền nói: “Hoàng Mi đại sư thân phận cao như thế mà chuyện ngày xưa còn không giấu diếm chút nào, họ Thôi này có đáng gì đâu mà còn sợ xấu mặt? Tại hạ vốn dĩ muốn đem chuyện trà trộn vào Trấn Nam Vương phủ nói rõ ngọn ngành cho bệ hạ và vương gia, nơi đây cũng chẳng có ai người ngoài, vậy tại hạ xin thuật lại để các vị cùng rõ.” Y nói mấy câu đó rồi, tâm tình khích động, cổ khô miệng đắng cầm chén trà lên uống ực một cái cạn sạch, lại cầm luôn cả chén của Quá Ngạn Chi uống luôn rồi mới tiếp tục: “Chuyện… chuyện này của tôi, là… là đã mười tám năm rồi …” Y nói tới đây tự nhiên nhìn ra ngoài cửa sổ.

Thôi Bách Tuyền định thần rồi nói tiếp: “Ở phủ Nam Dương, có một thổ hào họ Sái trọc phú bất nhân, hiếp đáp dân lành. Kha sư ca của tôi có một người bạn bị y hãm hại chết cả toàn gia,” Quá Ngạn Chi hỏi lại: “Sư thúc nói đến tên tặc tử Sái Khánh Đồ phải không?” Thôi Bách Tuyền đáp: “Đúng! Sư phụ ngươi mỗi khi nói đến Sái Khánh Đồ vẫn thường nghiến răng hậm hực, tuy có làm đơn kiện mấy lần đều bị họ Sái đem tiền đút lót ỉm đi. Nếu như sư phụ ngươi xách nhuyễn tiến đến giết gã đi thì thật dễ như thổi tro trong bếp. Khổ nỗi trên giang hồ thì ông ta anh hùng khí khái, nhưng ở quê hương bản quán có nhà có cửa không dám làm chuyện gì phạm pháp. Còn Thôi mỗ thì khác, trộm gà bắt chó, bài bạc trai gái, giết người phóng hỏa chuyện gì cũng làm. Đêm đó Thôi mỗ nóng tiết, mò vào nhà tên Sái Khánh Đồ, giết một hơi hơn ba chục mạng.”

“Tôi từ cửa chính giết vào đến tận hoa viên đằng sau, đến nô tì đầy tớ cũng không tha. Đến giữa vườn thấy một căn lều nhỏ trên có ánh đèn chiếu ra. Tôi chạy lên lầu, đá tung cửa vào thì ra đó là một thư phòng, bốn bề chung quanh đầy những kệ trên để toàn là sách vở, một đôi nam nữ đang ngồi đọc sách ở bàn.”

“Đôi nam nữ đó chừng trên dưới bốn mươi, tướng mạo tuấn nhã, ăn mặc theo lối thư sinh. Người đàn bà tuổi trông trẻ hơn, quay lưng lại không nhìn rõ mặt nhưng bà ta mặc áo mỏng mầu lục nhạt, dưới ánh đèn lấp lánh trông rất thanh nhã, con mẹ nó chứ …” Thôi Bách Tuyền vốn dĩ nói năng rất văn hoa, trái ngược hẳn với hành vi trong lúc bình thường. Không ngờ bây giờ lại đột nhiên ra vòng một câu chửi tục, mọi người đều lấy làm ngạc nhiên. Y không để ý, tiếp tục kể: “Tôi giết một hơi ba mươi mấy người, càng lúc càng say máu, trông thấy đôi trai gái chó má này, con mẹ nó chứ, xem ra có điều khác lạ. Trong nhà Sái Khánh Đồ toàn là một giống thô lỗ hung dữ, sao lại lọt vào một đôi nam thanh nữ tú này? Trông họ có khác gì Đường Minh Hoàng với Dương quí phi trong tuồng hát? Tôi đứng ngẩn người ra nhìn hồi lâu, không muốn ra tay hạ sát. Bỗng nghe người đàn ông nói: Nương tử, từ Qui Muội đến Võ Vương, hình như không theo thứ tự này.”

Đoàn Dự nghe nói “từ Qui Muội đến Võ Vương” nghĩ thầm: “Cái gì mà Qui Muội? Võ Vương?” Chàng suy nghĩ hiểu ngay: “À, thì ra là từ Qui Muội đến Vô Vọng, người đàn ông này nói về Kinh Dịch”, trong lòng liền phấn khởi hẳn lên.

Lại nghe Thôi Bách Tuyền nói tiếp: “Người đàn bà trầm ngâm rồi nói: Nếu như từ hướng đông bắc đi chéo xuống Đại Ca, rồi chuyển qua Tỉ Tỉ, chàng nghĩ đi thế có thông hay không?”. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hừ, Đại Ca, Tỉ Tỉ là sao? Chắc là Đại Quá và Ký Tế”. Bỗng chàng giật mình sửng sốt: Thì ra người đàn bà nói về bộ pháp trong Lăng Ba Vi Bộ, có điều vị trí hơi sai không hoàn toàn đúng hẳn. Không lẽ người đàn bà này với thần tiên tỉ tỉ trong động núi kia có liên quan?

Thôi Bách Tuyền nói tiếp: “Tôi nghe hai vợ chồng bàn tán không ngừng, gì mà Ô Qui Muội Tử, Đại Cữu Tử, Tiểu Tỉ Tỉ càng nghe càng chán nên lớn tiếng quát: Hai đứa cẩu nam nữ kia, con bà ngươi chứ, có mau cút ra không nào. Không ngờ hai người đó dường như giả điếc, không nghe ta nói gì, vẫn chăm chăm nhìn vào quyển sách. Người đàn bà nhỏ nhẹ nói: Từ chỗ này đến nhà tỉ tỉ cả thảy chín bước, không làm cách nào đi được. Tôi liền quát lên: Đi.. đi xuống cõi âm để gặp ông tổ mười tám đời nhà mi à? Dứt lời tôi toan nhảy đến, thì đột nhiên người đàn ông vỗ tay cười nói: Hay lắm, ông bà là khôn, mười tám đời, ồ, hai lần chín mười tám có thể chuyển qua vị trí khôn được. Thế là bước này nghĩ ra rồi! Y thuận tay cầm chiếc bàn toán trên bàn, không biết làm cách nào ba con toán đột nhiên bắn ra. Tôi cảm thấy trước ngực đau nhói, người mình như bị đóng đinh xuống, không nhúc nhích được nữa.”

“Hai người đó không ngó ngàng gì đến tôi, vẫn tiếp tục đàm luận chuyện tiểu ca ca tiểu súc sinh, còn tôi trong bụng sợ hãi không biết chừng nào. Tại hạ có cái hiệu là Kim Toán Bàn, luôn luôn đem theo trong người một cái bàn toán đúc bằng vàng, bên trong có giấu cơ quan, bảy mươi bảy con toán muốn lúc nào là có thể bắn ra lúc ấy. Còn cái bàn toán trên bàn kia làm bằng gỗ trông thật bình thường, mấy thanh ngang làm bằng tre, hiển nhiên y dùng nội lực chấn gãy những thanh này rồi bắn con toán ra cũng dùng nội lực, công phu đó quả con mẹ nó cao minh thật!”

“Đôi trai gái kia đàm luận càng hứng thú bao nhiêu thì tôi càng sợ hãi bấy nhiêu. Tôi ở trong nhà này giết hơn ba chục mạng người gây ra một vụ đại huyết án vậy mà đứng trơ trơ nơi đây, không nhúc nhích gì được, nói cũng không nói được. Đã đành giết người thì thường mạng, có chết cũng chẳng oan nhưng chuyện vỡ lở thì thể nào cũng liên lụy đến Kha sư huynh. Bị cầm chân hàng hai trống canh thật là cơ cực, cơ cực hơn cả hai chục năm chịu khổ hình. Mãi đến lúc bốn bề xao xác tiếng gà gáy, người đàn ông bấy giờ mới cười nói: Nương tử, hôm nay nghĩ chưa ra mấy bước kế tiếp, thôi mình đi chứ? Người đàn bà nói: Vị Kim toán bàn Thôi lão sư giúp chàng nghĩ ra được một bước thật kỳ diệu, mình phải tạ ơn y cái gì mới được. Tôi vừa mừng vừa sợ, không hiểu sao họ lại biết cả tính danh mình. Người đàn ông nói: Đã thế thì để cho y sống thêm mấy năm nữa. Lần sau gặp ta sẽ kết liễu tính mạng y. Y nói rồi cầm cuốn sách lên, tay trái đưa về sau phất nhẹ sau lưng tôi giải khai huyệt đạo. Tiếp theo đôi trai gái đó nhảy qua cửa sổ đi mất. Tôi cúi đầu xuống nhìn thì thấy vạt áo trước ngực mình bị thủng ba chỗ, ba con toán lặn vào song song một hàng và phân khoảng rất đều, tưởng lấy thước đo mà đặt vào chưa chắc đã đúng được thể. Đây các vị thử xem!” Nói xong Thôi Bách Tuyền liền cởi áo ra.

Mọi người trông thấy đều không nhịn cười được. Hai con toán gắn chặt trên hai đầu vú y, ngay chính giữa có thêm một con khác, không hiểu sao y không tìm cách lấy ra. Thôi Bách Tuyền lắc đầu, cài lại khuy áo rồi nói tiếp: “Ba con toán lặn sâu vào trong da người thật khổ cực không gì bằng. Tôi định dùng dao nhọn khoét lấy ra nhưng đây là những huyệt đạo, chỉ động tới một chút là ngất xỉu ngay tức khắc, mà phải lâu đến hàng hai giờ chưa tỉnh lại được. Còn lấy giũa hay giấy nhám mà mài dần thì cũng đau đến phải la làng. Tội nghiệt này chẳng khác gì oan hồn ám ảnh suốt đời. Mỗi khi thời tiết thay đổi, mưa gió thất thường chỗ đó lại càng đau nhức không thể nào chịu được, thật không khác gì rùa bị lột mai, tiên sư nó!” Mọi người nghe y nói vừa kinh hãi, vừa tức cười.

Thôi Bách Tuyền thở dài một tiếng nói: “Gã đó nói là lần sau gặp lại tôi sẽ lấy mạng. Mạng mình mình phải giữ, đời nào để cho y lấy? Nhưng nếu vô phúc chạm trán y thì đừng hòng sống sót. Muốn bảo toàn tính mạng chỉ còn nước duy nhất là đừng để cho hắn bắt gặp, tôi cao bay xa chạy trốn vào trong phủ Trấn Nam Vương. Tôi tính trong bụng, nước Đại Lý ở tận thiên nam hẻo lánh, những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên chẳng mấy khi đến đây, vạn nhất mà quân chó đẻ đó có đến tìm, thì nơi đây còn có Đoàn vương gia, Cao hầu gia và Chử bằng hữu, bao nhiêu tay cao thủ chẳng lẽ cứ giương mắt ra mà nhìn y giết tôi sao? Ba con toán oan nghiệt này khảm vào trong người tôi, mỗi khi đau lên chỉ còn cách uống rượu say bí tỉ mê man cho quên đi mà thôi, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, truyền tông tiếp đại vứt mẹ nó xuống sông xuống biển hết.”

Mọi người đều nghĩ rằng cuộc tao ngộ của Hoàng Mi tăng và Thôi Bách Tuyền đại khái giống nhau, một người xuất gia tu hành, một người mai danh ẩn tích.

Đoàn Dự thốt nhiên hỏi: “Hoắc tiên sinh, làm sao ông biết hai vợ chồng đó là họ Mộ Dung đất Cô Tô?” Chàng quen miệng gọi “Hoắc tiên sinh” nhất thời chưa sửa đổi được.

Thôi Bách Tuyền gãi đầu nói: “Đây là do sư huynh tôi đoán chừng vậy thôi. Tôi bị trúng ba quân bàn toán rồi liền quay về bàn với sư huynh, ông ta nói trong võ lâm chỉ có một họ Mộ Dung đất Cô Tô là có cái ngón gậy ông đập lưng ông đó thôi. Tôi quen dùng quân bàn toán đả thương người khác, y lại dùng nó đánh tôi. Họ Mộ Dung đất Cô Tô nhân số không đông, con mẹ nó chứ, cũng may nhà này ít yêu ma quỷ quái, chứ nếu như con đàn cháu đống thì trên giang hồ còn ai mà sống sốt, chắc chỉ còn mình họ Mộ Dung thôi.” Câu nói của y thật là bất kính đối với họ Đoàn nước Đại Lý nhưng cũng không ai để ý tới. Thôi Bách Tuyền lại tiếp: “Trong nhà này nổi danh thì chỉ có Mộ Dung Bác, xem ra tên thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi dùng Kim Cương Chỉ đả thương vị đại sư này bốn mươi ba năm trước, cùng gã trung niên bốn mươi tuổi ném con toán vào tôi mười tám năm trước, cũng là Mộ Dung Bác đấy thôi. Có ngờ đâu sư ca của tôi lại chết dưới tay y. Ngạn Chi, sư phụ ngươi làm sao lại gây chuyện với y vậy?”

Quá Ngạn Chi đáp: “Sư phụ cháu trước nay chỉ lo làm ăn, vẫn thường bảo là hòa khí sinh tiền, chẳng bao giờ mích lòng ai nên quyết không thể nào gây sự với họ Mộ Dung đất Cô Tô được. Mình ở Nam Dương, họ ở Tô Châu hai bên cách nhau đến mười vạn tám ngàn dặm.”

Thôi Bách Tuyền nói: “Nếu thế ắt hẳn Mộ Dung Bác thấy ta làm con rùa đen rụt đầu rụt cổ kiếm không ra nên mới tra hỏi sư phụ ngươi. Sư phụ ngươi có nghĩa khí thà chết chứ không tiết lộ ta đang trốn ở Đại Lý, nên mới trúng phải độc thủ. Kha đại ca, huynh chết vì đệ rồi.” Nói xong nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, nghẹn ngào nghiến răng: “Mộ Dung Bác, Mộ Dung Bác, ta nhất quyết lột da ngươi.” Y khóc mấy tiếng rồi quay sang Đoàn Chính Thuần nói: “Đoàn vương gia! Sự tình tôi đã bộc bạch cả rồi. Bao nhiêu năm nay được vương gia che chở, không lột mặt nạ tôi, Thôi mỗ thật là cảm kích, không biết cách gì báo đáp. Thôi chúng tôi đi Cô Tô đây!” Đoàn Chính Thuần lạ lùng hỏi: “Ngươi đi Cô Tô ư?” Thôi Bách Tuyền đáp: “Đúng thế! Sư huynh với tôi tình khác nào ruột thịt, cái thù giết anh nhất định phải báo, Ngạn Chi, ta đi thôi!” Nói xong y quay sang mọi người với một cái thật sâu rồi đi thẳng. Quá Ngạn Chi cũng chắp tay chào, đi theo y.

Việc xảy ra hoàn toàn không ai ngờ nổi, thấy y sợ sệt Cô Tô Mộ Dung Bác là thế nhưng vì mối thù sư huynh qua quyết ra đi chịu chết không chút rụt rè, ai nấy trong lòng đều kính phục ngầm. Đoàn Chính Thuần nói: “Hai vị đừng gấp. Quá huynh từ xa tới đây, đêm nay nghỉ lại đây, sáng mai đi cũng không muộn.” Thôi Bách Tuyền dừng chân quay lại nói: “Vâng! Vương gia bảo như thế, thôi thì chúng tôi xin thêm một bữa cơm vậy. Ngạn Chi, mình đi uống rượu.” Y dẫn Ngạn Chi ra ngoài.

Bảo Định Đế nói với Đoàn Chính Thuần: “Thuần đệ, sáng mai đệ cùng Hoa Tư đồ, Phạm Tư mã, Ba Tư không đến chùa Thân Giới ở châu Lục Lương, thay ta làm lễ trước linh sàng Huyền Bi đại sư,” Đoàn Chính Thuần đáp lời còn Tuệ Chân, Tuệ Quan hai người phục xuống bái tạ. Bảo Định Đế lại dặn Đoàn Chính Thuần: “Sau khi bái kiến Ngũ Diệp phương trượng rồi, hiền đệ ở lại chùa Thân Giới chờ những vị cao tăng Thiếu Lâm đến, nhờ họ trình phong thư của ta đến phương trượng Huyền Từ đại sư.” Ông quay sang nói với Ba Thiên Thạch: “Viết hai phong thư, một lá gửi cho phương trượng chùa Thiếu Lâm, một lá gửi cho phương trượng chùa Thân Giới rồi sửa soạn hai món lễ vật.” Ba Thiên Thạch khom lưng phụng chỉ. Bảo Định Đế lại nói: “Ngươi mời hai vị đại sư chùa Thiếu Lâm đi nghỉ.”

Ba Thiên Thạch dẫn Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi khỏi rồi, Bảo Định Đế mới nói: “Họ Đoàn Đại Lý nhà ta vốn từ võ lâm Trung Nguyên mà ra, mấy trăm năm qua không hề vong bản. Bằng hữu võ lâm Trung Nguyên đến Đại Lý chúng ta đều lấy lễ mà tiếp đãi. Tổ tiên họ Đoàn đã di huấn nghiêm cấm con cháu tham dự vào việc tư thù chém giết của võ lâm. Cái chết của Huyền Bi đại sư, tuy họ Đoàn chúng ta không thể thõng tay đứng nhìn, nhưng việc báo cừu thì phải do phái Thiếu Lâm tự lo liệu lấy, chúng ta không nhúng tay vào.” Đoàn Chính Thuần nói: “Đệ hiểu rồi.”

Hoàng Mi từng nói: “Không dễ gì mà biết rõ chuyện bên trong được. Chúng ta không thể không tương trợ phái Thiếu Lâm nhưng không nên xen vào chuyện thù hận chém giết. Họ Mộ Dung tuy người không đông nhưng là một thế gia trong võ lâm, bạn bè bộ thuộc không phải là ít. Phái Thiếu Lâm và họ Mộ Dung hai bên ngang nhiên kình chống là chuyện lớn, gió tanh mưa máu, sát hại không biết bao nhiêu nhân mạng. Nước Đại Lý ta mấy năm nay quốc thái dân an, nếu như chúng ta xen vào vòng tranh chấp, sau này tất có những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên tìm đến Đại Lý khiêu khích sinh sự mãi mãi, không bao giờ dứt được.”

Bảo Định Đế nói: “Đại sư nói chí phải. Chúng ta một mặt giữ chính đạo mà hành sự, mặt khác cố gắng khiêm nhường nhẫn nhịn. Thuần đệ, phải nhớ rõ bốn chữ Trì Chính Nhẫn Nhượng.” Đoàn Chính Thuần khom lưng lĩnh ý.

Hoàng Mi tăng nói: “Ta từ biệt hai vị hiền đệ, bây giờ còn phải trở lại Vạn Kiếp Cốc một lần nữa.” Mọi người ai nấy ngạc nhiên. Bảo Định Đế hỏi: “Sư huynh đến Vạn Kiếp Cốc có chuyện gì? Có cần mang theo ai không?” Hoàng Mi tăng cười ha hả nói: “Đến cả hai tiểu đồ ta cũng không cho theo. Hai vị hiền đệ đoán thử xem, ta đến Vạn Kiếp Cốc để làm gì?”. Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần thấy ông ta cười khà khà, thầm nghĩ chắc việc này không có gì nguy hiểm, nhưng không đoán ra được. Hoàng Mi tăng quay sang nói với Đoàn Dự: “Hiền điệt chắc là đoán ra.”

Đoàn Dự ngạc nhiên: “Tại sao bá phụ và gia gia đoán không ra mà mình lại đoán ra là sao?”. Chàng suy nghĩ hiểu ngay, cười nói: “Đại sư muốn đến nghiên cứu vi kỳ.” Hoàng Mi tăng cười ha hả nói: “Đúng đó! Ta thắng được thái tử Diên Khánh ván cờ đó quả thực kỳ lạ. Y đang thắng thế bỗng nhiên tự bịt một mắt là cớ gì?” Đoàn Dự lắc đầu: “Tiểu điệt cũng không hiểu nổi” Hoàng Mi tăng nói: “Hoặc giả trong thạch thất hay phiến đá có cái gì bất thường chăng? Lão nạp phải tới xem mới được.” Người mê cờ mỗi khi xong một ván, dù thua dù được bao giờ cũng suy ngẫm lại, chỗ nào mình sơ sểnh mất nước, chỗ nào chậm chỗ nào nhanh phải hiểu rõ từng nước mới thấy an tâm. Hoàng Mi tăng thắng ván cờ đó thật lạ kỳ, nếu không hiểu được lý do ắt sẽ suốt đời thắc mắc.

Kế đó Bảo Định Đế khởi giá hồi cung, Hoàng Mi tăng cũng dặn hai người học trò quay về Niêm Hoa Tự, một mình quay lại Vạn Kiếp Cốc, sắp lại chiến đá xanh đã bị Đoàn Diên Khánh đập vỡ nát, nghiệm lại từng nước từ đầu đến cuối.

Đoàn Chính Thuần tiễn đưa Bảo Định Đế và Hoàng Mi tăng đi rồi, quay về nội thất định tâm sự với vương phi. Ngờ đâu Đao Bạch Phượng vẫn còn đang tức tối chuyện ông có thêm một đứa con riêng là Chung Linh nên đóng cửa không cho vào. Đoàn Chính Thuần đứng ngoài năn nỉ một hồi lâu, Đao Bạch Phượng mới nói vọng ra: “Nếu ông không đi nơi khác, tôi lập tức quay về Ngọc Hư Quan.”

Đoàn Chính Thuần không biết làm gì hơn đành quay về thư phòng ngồi ngơ ngẩn, nghĩ tới Chung Linh bị Vân Trung Hạc bắt đi, chẳng hiểu chung Vạn Cừu và Nam Hải Ngạc Thần đuổi theo cứu được hay không, bọn Chử Vạn Lý đi nghe ngóng tin tức cũng chưa thấy quay về bẩm báo, trong bụng thắc thỏm không yên. Ông lấy trong túi ra chiếc hộp vàng của Cam Bảo Bảo xem kỹ càng, nhìn mấy hàng chữ nhỏ như đầu ruồi nàng viết, nhớ lại cảnh mười bảy năm xưa phượng đảo loan điên, lại tưởng đến nàng chờ đợi mỏi mòn không thấy mình quay lại nên đành phải lấy Chung Vạn Cừu, trong lòng thật xót xa: “Khi đó nàng mới chỉ là một cô gái mười bảy tuổi, cha và dì ghẻ chẳng tử tế gì, trong bụng lại mang giọt máu của ta, nàng còn làm gì hơn được?”

Ông càng nghĩ càng đau lòng, đột nhiên nghĩ đến khi trên bàn tiệc Đao Bạch Phượng nói với Hoa Tư đồ: “Cái hầm đó thông vào nơi ở của Chung phu nhân, nếu không lấp đi ắt có một vị nhân huynh trong đám mình tối nào cũng theo đó mà lẻn vào”. Vương gia liền gọi một tên thân binh, sai y bí mật đi triệu hai gia tướng thân tín của Hoa Tư đồ, không được tiết lộ phong thanh.

***

Đoàn Dự ngồi trong thư phòng, trong lòng miên man nghĩ đến những kỳ sự mình gặp phải trong mấy ngày qua, cùng Mộc Uyển Thanh đính ước phu thê, ngờ đâu nàng lại chính là em gái mình. Chung Linh cũng lại là em mình nốt, bây giờ bị Vân Trung Hạc bắt đi không biết có thoát hiểm hay không, trong lòng thật là bồn chồn. Chàng nghĩ tới vợ chồng Mộ Dung Bác nghiên cứu Lăng Ba Vi Bộ chẳng hiểu có dây mơ rễ má gì đến thần tiên tỉ tỉ trong hang núi hay không? Không lẽ hai người đó là đệ tử phái Tiêu Dao? Thần tiên tỉ tỉ đã dặn ta phải giết sạch bọn họ, nhưng bảo mình đi giết hai người võ công cao cường như thế, thật đúng là trò cười.

Chàng nghĩ đến những ngày bị giam trong thạch thất, không làm trò loạn luân, thật là hú vía. Bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ tập đã thuần thục hơn nhiều, nhưng công phu thần tiên tỉ tỉ dặn phải luyện thì chểnh mảng đã lâu. Nghĩ thế chàng bèn thò tay vào túi định đem quyển trục ra xem, tay vừa chạm vào đã thấy không xong, vội vàng lôi ra, kêu luôn mồm: “Chết rồi! Trời ơi!” Quyển trục kia giờ đây chỉ còn là những mẩu giẻ rách quấn lại thành một túm, có còn gì nữa đâu. Những miếng giẻ đó tối đa chỉ còn được hai ba phần, hình vẽ và chữ nghĩa không đọc được nữa. Đoàn Dự tưởng như rơi xuống hầm nước đá, trong bụng tự hỏi: “Sao lại ra… ra thế này là làm sao?”

Một lúc lâu chàng mới nghĩ ra khi bị người áo xanh nhốt trong nhà đá, trong người nóng không chịu nổi xé rách hết quần áo, sau cùng chạy như người điên tay vẫn rứt áo xé quần, trong cơn mê loạn còn phân biệt đâu là quần áo đâu là quyển trục nên cũng xé vụn vứt lung tung hết cả.

Chàng nhìn những hình người khỏa thân cái thì cụt tay cái thì cụt chân, ngơ ngẩn một hồi nhưng cũng thấy nhẹ gánh nghĩ thầm: “Quyển trục rách mất rồi, thần công của thần tiên tỉ tỉ truyền cho ta nay không sao luyện được nữa, không phải ta không luyện mà là không thể luyện. Cho nên việc giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao không tính đến nữa”. Chàng vơ những mảnh vải rách đó vứt luôn vào trong lò, châm lửa lên đốt thành một đống tro, nghĩ thầm: “Nhìn những hình người khỏa thân trong quyển trục này thật là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ, chi bằng thiêu hóa, âu cũng là ý trời”.

Trời đã tối dần, Đoàn Dự đi đến phòng mẫu thân, định chuyện trò với mẹ một lát rồi cùng ăn cơm chiều. Đến trước cửa phòng chỉ thấy cửa đóng chặt, con tì nữ hầu hạ vương phi cười hì hì nói: “Vương phi ngủ rồi, xin công tử sáng mai hãy đến.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chắc là cha ta đang ở trong đó”. Chàng quay mình đi ra định tìm Mộc Uyển Thanh nói chuyện, qua đến một hành lang chợt nghĩ lúc này nên tránh mặt, gặp nhau chỉ càng làm cho nàng thêm đau lòng. Chàng rảnh rỗi không có việc gì làm thuận chân đi ra vườn hoa sau nhà.

Khi bóng đêm đã bao trùm lên vạn vật, chàng đến ngồi trong căn nhà mát bên cạnh hồ nước, nhìn lên vầng trăng non đang mọc ở hướng đông, nghĩ bóng trăng này cũng chiếu vào ngọc bích nơi kiếm hồ trong núi Vô Lượng, một vài giờ nữa trên vách núi sẽ hiện lên thanh trường kiếm ngũ sắc, chỉ vào động phủ nơi có pho tượng thần tiên tỉ tỉ. Chàng còn đang suy nghĩ xuất thần, bỗng nghe ngoài tường có vài tiếng huýt sáo nho nhỏ, ngưng một chút lại có vài tiếng nữa. Nếu trước đây thì chàng có nghe cũng chẳng để tâm, nhưng sau mấy ngày đã thêm lịch duyệt, trong bụng hơi lạ nghĩ thầm: “Chẳng lẽ là ám hiệu của nhân vật giang hồ nào chăng?”

Một lát sau, tiếng huýt sáo lại nổi lên, có một bóng người nhanh nhẹn vụt qua bụi hoa mẫu đơn, chạy đến nhảy lên đầu tường. Đoàn Dự thất thanh kêu lên: “Uyển muội!” Người đó chính là Mộc Uyển Thanh. Chỉ thấy nàng tung mình nhảy lên vọt ra bên ngoài tường.

Đoàn Dự lại gọi: “Uyển muội!” Chàng chạy đến chỗ Mộc Uyển Thanh vừa nhảy qua, nhưng không thể nhảy lên đầu tường được, cửa sau hoa viên ngay bên cạnh đã cài then lại thêm khóa sắt đóng chặt, chỉ đành đứng đó mà réo: “Uyển muội! Uyển muội!”

Mộc Uyển Thanh ở bên ngoài nói lớn: “Huynh còn gọi tôi làm gì? Tôi vĩnh viễn không bao giờ gặp lại huynh, tôi đi theo mẹ tôi đây.” Đoàn Dự vội gọi giật lại: “Muội đừng đi, nhất định đừng đi.”

Một lát sau bên ngoài tường có tiếng một người đàn bà giọng già dặn hơn: “Uyển nhi! Thôi mình đi!” Không nghe tiếng Mộc Uyển Thanh trả lời, Đoàn Dự đoán chừng người đàn bà kia là Tần Hồng Miên bèn kêu: “Tần a di, xin cả hai người vào đây.” Tần Hồng Miên hỏi lại: “Vào làm gì? Để cho mẹ ngươi giết ta hay sao?”

Đoàn Dự cứng họng, vừa ra sức đẩy cửa hoa viên vừa kêu: “Uyển muội! Muội đừng đi, chúng mình thủng thẳng tìm cách.” Mộc Uyển Thanh nói: “Còn làm gì được nữa? Ông trời cũng không làm gì được.” Một lát sau nàng đột nhiên kêu lên: “Muội có cách rồi, huynh có dám làm không?” Đoàn Dự mừng rỡ đáp: “Hay lắm! Cách nào thế?”

Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, một thanh đao xanh biếc luồn vào khe cửa chặt đứt luôn cái khóa, tiếp theo hai tiếng bình bình, cửa hoa viên mở toang ra. Mộc Uyển Thanh đứng ngay đó, tay cầm một thanh Tu la đao, nói: “Huynh đưa cổ ra cho muội chém, sau đó muội sẽ tự sát ngay, hai đứa mình đầu thai, kiếp sau không làm anh em nữa, sẽ thành vợ thành chồng.”

Đoàn Dự sợ chết điếng, run run nói: “Cái đó… cái đó không được đâu!” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Muội làm được, sao huynh lại không làm được? Hay là chàng muốn giết em trước rồi tự sát sau?” Nói xong quay ngược thanh Tu la đao, đưa chuôi đao cho Đoàn Dự. Đoàn Dự hoảng hốt lùi lại hai bước nói: “Không đâu! Không đâu!”

Mộc Uyển Thanh từ từ quay lại cầm lấy tay mẹ, bước đi, Đoàn Dự đứng như trời trồng, ngẩn ngơ nhìn theo bóng hai mẹ con lẫn dần vào bóng tối. Mặt trăng từ từ lên cao, chàng vẫn còn đứng chết lặng.

Đột nhiên sau cổ bị ai nắm chặt, thân hình bị xách bay vọt lên, có tiếng cười bên tai: “Ngươi muốn sống hay muốn chết? Muốn làm sư phụ ta thì là sư phụ chết, còn muốn làm đồ đệ ta thì là đồ đệ sống.” Chính là giọng nói của Nam Hải Ngạc Thần.

***

Đoàn Chính Thuần dẫn hai gia tướng đắc lực của Hoa Hách Cấn giục ngựa chạy đến Vạn Kiếp Cốc. Hai tên gia tướng đó vốn có đi giúp đào đường hầm nên biết chỗ, liền vạch những lùm cây che lối vào. Một tên nói: “Tiểu nhân xin dẫn đường”

Đoàn Chính Thuần ngăn lại: “Không cần, hai người ngoài này đợi ta.” Ông đang định chui vào hầm, bỗng thấy ở phía tây đằng sau một cây to có bóng người thấp thoáng, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Đoàn Chính Thuần lập tức nhảy theo, quát nhỏ: “Ai đó?”

Đằng sau gốc cây có tiếng khẽ đáp lại: “Bấm vương gia, Thôi Bách Tuyền đây.”Y nhẹ nhàng chui ra. Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi: “Thôi huynh đến đây làm gì thế?” Thôi Bách Tuyền đáp: “Tiểu nhân nghe nói thiên kim của vương gia bị gian nhân bắt cóc nên cùng với sư điệt chia nhau đi tìm. Tiểu nhân trên đường có thấy đôi chút manh mối, đoán rằng tiểu thư chạy về phía này nhưng kẻ gian kia vẫn đuổi theo chưa chịu buông tha”. Đoàn Chính Thuần lập tức hiểu ra: “Gã Thôi Bách Tuyền này ân oán phân minh, y trốn trong nhà ta bấy nhiêu năm, chịu ơn chưa kịp báo đáp, lần này đi kiếm Cô Tô Mộ Dung báo thù, quyết ý chết dưới tay người. Y muốn giúp ta kiếm lại được Linh nhi, báo đáp cái ơn ta dung dưỡng y lâu nay”. Ông liền cúi rạp người với một cái nói: “Cao nghĩa của Thôi huynh, tại hạ cảm kích khôn cùng.” Thôi Bách Tuyền đáp: “Tiểu nhân đến bên kia tìm kiếm.” Y lắc người một cái đã lẫn vào trong rừng cây, khinh công cũng vào loại khá.

Đoàn Chính Thuần thấy hơi yên trong bụng, nghĩ thầm: “Võ công của Thôi huynh không kém gì bọn Vạn Lý, Đan Thần”. Ông quay lại cửa địa đạo tiến vào hang.

Bò được một lát, địa đạo chia làm hai nhánh. Ông đã hỏi kỹ hai tên gia tướng, biết là đường hầm phía đông bắc thông vào thạch thất giam giữ Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh, còn phía tây bắc thông vào phòng ngủ của Chung phu nhân nên liền theo phía này bò tới. Đi đến hết cái hang, ông nhè nhẹ nâng phiến gỗ đậy nắp lên mấy tấc thấy ánh sáng chiếu vào, nhìn qua khe hở thấy trên mặt đất có hai bàn chân đi giày thêu màu tím nhạt.

Đoàn Chính Thuần trong lòng chấn động, đẩy mạnh gỗ lên thêm chút nữa, nghe tiếng Cam Bảo Bảo thở dài, một lát sau mới buồn bã nói: “Nếu như chàng chẳng phải vương gia, chỉ là một người thợ cày thợ săn, hay dẫu cho có là một tên tiểu tặc trộm gà bắt chó hay cường đạo đốt nhà cướp của, thiếp cũng nguyện… nguyện theo chàng suốt đời …” Mấy giọt lệ lã chã rơi xuống mặt ván bên cạnh đôi giày hoa. Đoàn Chính Thuần nhiệt huyết dâng lên ngực, nghĩ thầm: “Ta chẳng thèm làm vương gia, chỉ mong làm tên tiểu tặc, làm tên cường đạo để nàng được mãi mãi bên ta. Cái chức vương gia nào có đáng gì?”.

Lại nghe Cam Bảo Bảo nói tiếp: “Kiếp này thiếp không được gặp lại chàng một lần nữa hay sao? Một lần không được ư? Thiếp… thiếp chết đi cho xong… Thuần ca! Thuần ca… chàng có nhớ đến thiếp không?” Mấy tiếng gọi thiết tha đó nghe thật não lòng não dạ. Đoàn Chính Thuần nhịn không nổi gọi khẽ: “Bảo Bảo, Bảo Bảo nàng ơi!”

Cam Bảo Bảo hoảng hốt, đứng phắt dậy nhưng rồi lập tức thở dài, tự nói một mình: “Thiếp lại nằm mơ nữa rồi. Có phải chàng gọi thiếp trong mộng chăng?”

Đoàn Chính Thuần nói khẽ: “Bảo Bảo! Chính ta gọi nàng đây, ta lúc nào cũng nghĩ đến nàng, cũng nhớ thương nàng.”

Cam Bảo Bảo mừng rỡ ồ lên một tiếng: “Thuần ca! Có thật là chàng đấy không?” Đoàn Chính Thuần mở tấm gỗ lên, chui ra nói nhỏ: “Bảo Bảo, ta đây!” Cam Bảo Bảo đột nhiên thấy Đoàn Chính Thuần, mặt tái mét, chạy tới mấy bước, thân hình lảo đảo. Đoàn Chính Thuần tiến lên ôm chặt lấy bà, Cam Bảo Bảo rùng mình một cái bất tỉnh nhân sự.

Đoàn Chính Thuần vội vàng xoa trên nhân trung, Cam Bảo Bảo từ từ tỉnh lại, thấy mình đang ở trong lòng Đoàn Chính Thuần, ông đang hôn trên má mình, hoan hỉ đến nỗi toàn thân tưởng như tan thành mây khói, đầu óc hoang mang, nói khẽ: “Thuần ca! Thuần ca! Thiếp… thiếp lại nằm mơ nữa rồi!” – Đoàn Chính Thuần ôm chặt thân hình mềm mại của người tình, ghé tai thì thầm: “Bảo Bảo thương, nàng không nằm mơ đâu, chính ta mới đang nằm mơ đó!”

Đột nhiên ở bên ngoài có giọng ồm ồm: “Ai? Ai trong phòng đó? Ta nghe có tiếng đàn ông.” Chính là tiếng của Chung Vạn Cừu. Đoàn Chính Thuần và Cam Bảo Bảo đều hoảng hốt, Cam Bảo Bảo lớn tiếng nói: “Tôi đây! Cái gì mà đàn ông với chẳng đàn bà! Ông lại nói năng bậy bạ nữa rồi.” Đoàn Chính Thuần ghé tai bà nói nhỏ: “Nàng đi theo ta, ta sẽ làm tên tiểu tặc, làm tên cường đạo, không làm vương gia nữa!” Cam Bảo Bảo mừng quá nói nhỏ: “Thiếp sẽ theo chàng làm vợ tên ăn cắp vặt, làm áp trại phu nhân. Rồi có ngày… như thế thật sung sướng.”

Chung Vạn Cừu chưa được vợ đồng ý đâu có dám tùy tiện tiến vào phòng, nhưng trên sóng cửa thấy bóng một người đàn ông thấp thoáng, kêu lớn: “Trong phòng nàng có đàn ông, ta… ta trông thấy rồi.” Y không chờ vợ cho phép, phóng chân đá tung cửa phòng đánh bình một tiếng.

***

Đoàn Dự bị Nam Hải Ngạc Thần chộp sau gáy, nhấc bổng lên lập tức không còn cử động gì được. Bắc Minh thần công của chàng chỉ mới luyện có một đường Thủ Thái Âm Phế Kinh, khi nào huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái động vào huyệt đạo người khác mà đối phương lại vận kình thì mới hút được nội lực người ta, còn lại các huyệt đạo khác đều không dùng được. Chàng đang định há mồm kêu cứu, Nam Hải Ngạc Thần liền giơ tay bịt miệng chàng lại, nhấc lên co giò chạy như bay, đến một nơi hẻo lánh cách xa phủ Trấn Nam Vương mới bỏ xuống, nhưng tay vẫn nắm cổ sợ chàng dùng một bộ pháp quái chiêu đào tẩu.

Đoàn Dự cười gượng: “Thì ra ngươi đổi ý không chịu làm học trò ta nữa mà chịu làm quân đê tiện, làm đồ khốn kiếp.” Nam Hải Ngạc Thần nói: “Ai bảo thế? Ngươi trước hết lạy trả ta tám cái, đuổi ta ra khỏi môn phái không chịu nhận ta làm học trò nữa, sau đó lại lạy ta thêm tám cái, bái ta làm thầy. Chúng ta rành mạch rõ ràng như thế, ta đâu có là quân đê tiện, là đồ khốn kiếp được.” Đoàn Dự bật cười, lắc đầu: “Ta không chịu. Ta lúc này bị ngươi chộp được, không có hơi sức đâu mà chống trả, ngươi cứ giết ta đi.” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Hừ, ta đâu có mắc hợm ngươi, lão gia đời nào để người ta lừa mình thành quân đê tiện khốn kiếp được. Ngươi tưởng ta ngu lắm sao?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi thông minh lắm, thật là thông minh.”

Nam Hải Ngạc Thần nghĩ ra diệu kế, chỉ mong hoàn tất thủ tục là có thể biến sư phụ thành học trò được ngay, ngờ đâu đối phương thà chết chứ không chịu dập đầu lạy mười sáu cái, mấy đêm nay suy nghĩ tính toán bây giờ hóa ra công cốc, trong lòng không khỏi hoang mang.

Đoàn Dự hỏi: “Qui củ của phái Nam Hải nhà ngươi, học trò có được giết thầy không?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Đương nhiên là không, chỉ có thầy giết trò chứ làm gì có chuyện trò giết thầy.” Đoàn Dự hỏi tiếp: “Thế thì học trò tuân lệnh thầy hay là thầy tuân lệnh học trò?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Dĩ nhiên là trò phải tuân lệnh thầy, ngươi bái ta làm thầy rồi ta sai gì ngươi phải làm nấy. “ Đoàn Dự cười đáp: “Hiện giờ ngươi đang là học trò ta, ta bảo ngươi đi đoạt tiểu sư nương về ngươi đã làm xong chưa?”

Nam Hải Ngạc Thần nói: “Con mẹ nó, ta đang đánh nhau với Vân lão tứ thì ông già của tiểu sư nương chạy đến, xách tiểu sư nương bỏ chạy.” Đoàn Dự nghe thấy Chung Linh đã thoát khỏi độc thủ của Vân Trung Hạc trong lòng thật vui mừng.

Nam Hải Ngạc Thần nói tiếp: “Về sau ta lại đánh nhau với ông già của tiểu sư nương, y đánh một hồi thì không chịu đánh nữa, tiểu sư nương tự mình chạy đâu mất. Vân lão tứ rủ ta quay lại Vạn Kiếp Cốc giết Chung Vạn Cừu.” Đoàn Dự hỏi: “Sao lại thế?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Việc đó không thể không làm, nếu không thì Nhạc lão nhị không còn ngóc đầu lên được trên giang hồ, ai ai cũng chẳng coi ta ra gì.” Đoàn Dự lạ lùng hỏi lại: “Nói thế là nghĩa làm sao? Vân lão tứ đánh lừa người đó, đừng nghe lời y làm gì.”

Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Không phải, không phải! Vân lão tứ có lòng tốt mới bảo cho ta hay, để ta chỉ cho ngươi đạo lý bên trong. Tiểu cô nương đó là sư nương của ta, vai vế đã hơn ta một bậc rồi, ông già của cô ta phải hơn ta hai bậc, con mẹ nó chứ, Chung Vạn Cừu là cái thá gì mà lại hơn ta đến hai bậc được, không giết y không xong. Vân lão tứ còn bảo, y muốn đến cướp con vợ Chung Vạn Cừu về làm vợ chỉ vì y nghĩ đến tình Tứ Đại Ác Nhân. Y hết sức vì ta, hoàn toàn vì ta, quyết phải làm không kể sống chết.”

Đoàn Dự càng ngạc nhiên hơn hỏi tiếp: “Thế là như thế nào?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Vợ của Chung Vạn Cừu là mẹ của sư nương ta, nghĩa là hơn ta đến hai bậc. Nếu như Vân lão tứ chiếm được mụ làm vợ thì mụ ta sẽ thành em dâu của Nhạc lão nhị này. Con gái của mụ sẽ thấp hơn ta một bậc, trở thành cháu của ta. Ngươi là chồng của điệt nữ ta sẽ thành cháu rể ta, vậy là dưới ta một bậc. Đến khi đó ta gọi ngươi là sư phụ, ngươi lại gọi ta là bá bá, có phải hai chúng ta người nào cũng có vai vế hay chăng? Ha ha! Nghe cũng có lý.”

Đoàn Dự không nhịn được cười ha hả. Nam Hải Ngạc Thần nói: “Thôi mau lên, mau lên! Phải làm cho xong việc này, trên đời này quyết không thể có ai cao hơn Nhạc lão nhị đến hai bậc.” Y lại xách Đoàn Dự chạy như bay về phía Vạn Kiếp Cốc.

***

Đoàn Chính Thuần nghe thấy tiếng Chung Vạn Cừu đá cửa phòng vào, trong đầu chỉ có một ý niệm: “Không nên giết y”, nhẹ nhàng gỡ tay Cam Bảo Bảo ra, chui xuống hầm đóng nắp lại.

Chung Vạn Cừu tay cầm đại đao xông thẳng vào phòng thấy trong đó chỉ có mình Cam Bảo Bảo, vội vàng mở tủ, ngó xuống gầm giường hốc cửa xem xét các nơi, chẳng thấy một người đàn ông nào, đến bóng ma cũng không, trong bụng lạ lùng. Cam Bảo Bảo giận dữ nói: “Ông nghi oan tôi mãi, một đao giết tôi cho xong đi!” Chung Vạn Cừu không kiếm thấy ai, trong bụng mừng không kể xiết vội vàng vứt đại đao đi, cười nịnh: “Phu nhân, chắc là tại tôi hoa mắt, mới rồi uống quá chén đấy mà!” Y vừa nói vừa nhìn ngang nhìn ngửa.

Đột nhiên bên ngoài có tiếng chân người rầm rập, tiếng Chung Linh hoảng hốt kêu lên: “Má má! Má má!” Nàng chạy vụt vào trong phòng, rồi có tiếng Vân Trung Hạc kêu lên: “Ngươi có chạy lên trời ta cũng đuổi lên trời.” Lập tức y chạy theo vào

Chung Linh kêu lên: “Gia gia! Tên ác nhân kia… tên ác nhân kia đuổi bắt con …” Nàng bị Vân Trung Hạc đuổi đến thở không ra hơi, cũng may đang ở trong nhà mình nên nàng thuộc đường, tránh bên đông trốn bên tây, mới chạy kịp vào phòng của mẫu thân. Vân Trung Hạc thấy vợ chồng Chung Vạn Cừu đều ở trong đó, trong bụng mừng lắm, gặp dịp giết Chung Vạn Cừu rồi bắt luôn cả Chung phu nhân lẫn Chung Linh,

Chung Vạn Cừu liên tiếp đánh ra ba chưởng nhưng Vân Trung Hạc né tránh được hết, tiếp tục chạy vòng quanh chiếc bàn đuổi bắt Chung Linh. Y nghĩ thầm: “Bắt con nhãi con điểm huyệt nó trước, sau đó giết cha bắt mẹ, nó mới không chạy thoát được”, Chung Linh kêu lên: “Thằng sếu vườn kia, ngươi còn đuổi theo ta là ta thọc lét người đó.” Vân Trung Hạc ngạc nhiên, kêu lên: “Ngươi dám thọc lét ta ư? Có giỏi thì thử xem nào?” Nói xong lại nhảy chồm tới.

***

Hôm đó Chung Linh bị Vân Trung Hạc ôm đi, nàng cố hết sức giãy giụa nhưng làm sao thoát được tay y? Trong lúc nàng sợ muốn chết thì nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần từ sau đuổi tới, kêu lớn: “Sư nương, sư nương! Mau thò tay cù dưới nách tên sếu vườn, cây tre đó sợ nhất là thọc lét.” Chung Linh nghĩ thầm: “Thọc lét ư? Chính là bản lãnh số một của ta.” Nàng liền thò tay toan thọc lét Vân Trung Hạc, ngờ đâu Vân Trung Hạc mới nghe Nam Hải Ngạc Thần nói, chưa cần Chung Linh phải ra tay, nhịn không nổi đã cười sằng sặc. Y cười không chạy nhanh được nữa, Nam Hải Ngạc Thần đã đuổi tới nơi.

Vân Trung Hạc nói: “Nhạc lão tam, người mắc hợm người ta rồi.” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Cái gì mà mắc hợm? Mau bỏ sư nương ta xuống, nếu không thì nếm thử mùi vị ngạc chủy tiễn đây.” Vân Trung Hạc không còn cách nào khác đành phải bỏ Chung Linh xuống. Chung Linh nhân lúc Vân Trung Hạc không phòng bị liền giơ tay cù vào nách y, Vân Trung Hạc gập người xuống cười như nắc nẻ đến thở không ra hơi. Chung Linh càng liên tục thọc lét khiến cho Vân Trung Hạc vừa cười khanh khách vừa ho sặc sụa. Nam Hải Ngạc Thần nói: “Sư nương tha cho y đi, nếu còn cù nữa thì y tắt thở chết mất.” Chung Linh ngạc nhiên, tên ác nhân này võ công cao cường như thế, làm sao mà thọc lét đến chết được? Nàng bèn nói: “Ta không tin, cứ thử xem sao.” Nam Hải Ngạc Thần vội nói: “Không được đâu, đừng có thử, y chết rồi không sống lại được đâu. Yếu điểm luyện công của Vân Trung Hạc là ở huyệt Thiên Tuyền dưới nách, nơi đó không thể đụng vào được.”

Chung Linh nghe y nói thế liền rút tay lại không cù y nữa. Vân Trung Hạc đứng thẳng lên, đột nhiên nhổ một bãi nước bọt vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, chửi: “Con cá sấu chết toi kia, con cá sấu thối tha kia, sao ngươi lại để cho người ngoài biết được nơi luyện công bí hiểm của ta?” Chung Linh nói: “Giỏi nhỉ, ngươi dám chửi người ta à?” Nàng lại giơ tay ra định thọc lét Vân Trung Hạc, có ngờ đâu lần này không hiệu nghiệm bị Vân Trung Hạc phóng cước đá lăn long lóc ra xa.

Nam Hải Ngạc Thần đỡ Chung Linh dậy hỏi: “Sư nương ngã có đau lắm không?” Chung Linh chưa kịp đáp đã thấy Chung Vạn Cừu từ xa cầm đao chạy tới kêu lên: “Con khốn kiếp kia, ngươi còn ở đây làm gì?” Nam Hải Ngạc Thần quay lại chửi: “Con mẹ nó chứ, ngươi chẳng biết đầu đuôi lại đến đây lải nhải.” Chung Vạn Cừu giận quá quát lại: “Ta chửi con ta, việc gì đến ngươi?” Nam Hải Ngạc Thần nổi cơn thịnh nộ, chỉ vào mặt Chung Vạn Cừu gầm lên: “Ngươi… ngươi là đồ chó má tính chơi trèo ta hả? Ta… Nhạc lão nhị này phải đập cho ngươi một trận.” Chung Vạn Cừu hỏi lại: “Sao lại bảo ta chơi trèo ngươi?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Cô ta là sư nương của ta, dĩ nhiên cao hơn ta một bậc, ấy chẳng qua việc chẳng đặng đừng, ta cũng không còn đường nào khác. Ngươi dám tự xưng là cha cô ta, cái đó… cái đó… ngươi… ngươi chẳng hóa ra trên ta đến hai bậc hay sao? Nhạc lão nhị này ở Nam Hải thật là tôn quí, ai ai cũng phải gọi ta là ông cố, ông tổ, sang đến Trung Nguyên đi đâu cũng dưới người ta một hai bậc. Lão tử đếch chịu, nhất định đếch chịu.”

Chung Vạn Cừu đáp: “Ngươi đếch chịu thì kệ ngươi. Nó là con ruột ta, lẽ dĩ nhiên ta là cha nó chứ ngươi nói tự xưng là sao?” Nam Hải Ngạc Thần ngoẹo đầu ngắm hai cha con, nói: “Ngươi đúng là tự xưng, sư nương ta xinh đẹp như thế, còn người xấu đến ma chê quỉ hờn làm sao lại sinh ra sư nương ta được? Sư nương ta nhất định là con người khác, không phải con ngươi. Ngươi là cha hờ, không phải cha thật.” Chung Vạn Cừu nghe nói thế, giận đến tím mặt, vung đao chém xuống Nam Hải Ngạc Thần, Chung Linh vội ngăn cha: “Gia gia! Người này mới cứu con, cha đừng giết y!” Chung Vạn Cừu giận đến điên người, chửi con: “Đồ thối tha, ta đã sớm nghi người không phải con ta rồi. Tên ngu ngốc này cũng còn nói thế thì còn sai làm sao được? Ta giết y trước rồi giết ngươi sau, kế đó về giết mẹ ngươi nốt.”

Chung Linh thấy hai người xông vào đánh nhau nhất thời chưa phân thắng bại, liền lớn tiếng kêu: “Này, Nhạc lão tam, ngươi không được giết cha ta đấy nhé!” Nàng lại quay sang nói: “Gia gia cũng đừng đả thương Nhạc lão tam.” Nói xong liền bỏ chạy.

Nàng về đến Vạn Kiếp Cốc thì mệt rã người, vội đến phòng mình nằm ngủ. Đến nửa đêm lại nghe tiếng Vân Trung Hạc lục lọi tìm hết phòng này sang phòng khác, Chung Linh lại vùng dậy bỏ chạy sang phòng mẫu thân. Lúc này cô biết không thể đến gần mà thọc lét Vân Trung Hạc được, chợt nhìn thấy tấm gỗ của địa đạo hôm trước bị Hoa Hách Cấn kéo vào trong, vội vàng chạy tới mở ra chui tọt ngay xuống. Vân Trung Hạc hết sức ngạc nhiên, nhào tới toan nắm lấy chân Chung Linh, Chung Vạn Cừu liền xuất chưởng ngay lưng y đánh tới. Vân Trung Hạc đưa tay ngược lại gạt ra, sợ rằng cô bé Chung Linh xinh đẹp kia chui vào địa đạo rồi không tìm được nên cũng chui theo.

Y bò được chừng một trượng trong bóng tối, cứ quờ tay chụp lung tung đột nhiên nắm được một bàn chân nhỏ nhắn, rồi nghe giọng Chung Linh thét lên: “Trời ơi!” Nàng cố giật chân ra, nhưng Vân Trung Hạc đang sướng rơn đâu cho nàng thoát được, vận kình vào cánh tay định lôi nàng ra. Ngờ đâu Chung Linh lại kêu lên: “Ôi chao!” nhưng không nhúc nhích, dường như phía trước có ai giữ lại. Ngay lúc đó, Vân Trung Hạc cũng thấy hai chân mình bị nắm chặt kéo ra, tiếng Chung Vạn Cừu quát: “Ra mau! Ra mau!”.

Đó là vì Chung Van Cừu sợ y làm hại con gái mình, cũng trườn vào trong đường hầm định kéo y ra. Chung Vạn Cừu thấy y không nhúc nhích đang định dùng sức, đột nhiên thấy gót chân mình cũng bị nắm chặt, một luồng lực đạo cuồn cuộn tuôn ra, rồi tiếng khàn khàn của Nam Hải Ngạc Thần kêu lên: “Thằng mặt ngựa, ngươi dám tự xưng là thân sinh của sư nương ta, muốn hơn ta đến hai bậc, ta thế nào cũng phải giết ngươi.”

Thì ra lúc này Nam Hải Ngạc Thần cắp được Đoàn Dự chạy tới đây, đứng ngoài phòng thấy Chung Linh, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu ba người chui vào trong đường hầm, nổi cơn bực tức nhất định phải giết cho bằng được gã “tự xưng hơn mình đến hai bậc”, nên cũng xông vào phòng rồi chui tọt xuống địa đạo, nắm lấy chân Chung Vạn Cừu.

Đoàn Dự cũng vội vàng vào trong phòng nói với Chung phu nhân: “Chung bá mẫu, mau mau cứu Chung Linh muội tử.” Chàng đang toan chui vào trong hầm đột nhiên bị ai đó xô một cái thật mạnh ngã lăn ra.

Có tiếng đàn bà kêu lên: “Nhạc lão tam, Vân lão tứ, các ngươi mau chui ra. Lão đại dặn ta không cho các ngươi tàn sát lẫn nhau.” Tiếng nói đó chính là Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương phụng mệnh Đoàn Diên Khánh đến gọi Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc. Mụ ta đến chậm một bước, nhưng còn kịp thấy Vân Trung Hạc chui vào trong hang rồi đến Chung Vạn Cừu và Nam Hải Ngạc Thần cũng vào theo, lại tưởng hai người đuối giết Vân Trung Hạc, lão tứ võ công kém hơn chắc chết, lão đại thể nào cũng trách phạt. Mụ ta gọi mấy tiếng không thấy Nam Hải Ngạc Thần ra, cũng chui vào theo, chộp được hai chân Nam Hải Ngạc Thần hết sức kéo ra.

Đoàn Dự kêu lên: “Ối ối! Các ngươi không được hại đến Linh muội, nàng trước kia là vợ chưa cưới, bây giờ thì là muội tử ta.” Trong hầm tiếng hò hét nhốn nháo, thanh âm hỗn tạp, không biết là ai gọi ai. Đoàn Dự nghĩ thầm tam đại ác nhân cùng chui vào trong địa đạo, Chung Linh ắt sẽ dữ nhiều lành ít, nàng với ta có nghĩa có tình, mình dù không biết võ công cũng phải liều mạng mà cứu, nên cũng chạy ra cửa hầm nắm hai gót chân Diệp Nhị Nương hết sức kéo ra.

Hai tay chàng nắm chặt chỗ hõm ở cổ chân Diệp Nhị Nương, đó chính là đại huyện Tam Âm Giao trong Túc Thái Âm Tì Kinh, nơi giao nhau của ba âm mạch Túc Thiếu Dương Thận Kinh, Túc Thái Âm Tì Kinh và Túc Quyết Âm Tâm Bao Kinh. Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng vừa chạm vào huyệt Tam Âm Giao của Diệp Nhị Nương, hai bên cùng sử kình, nội lực của Diệp Nhị Nương lập tức cuồn cuộn tuôn ra, chảy thẳng vào trong người Đoàn Dự.

Trong địa đạo không ai xoay ngang xoay dọc gì được, Vân Trung Hạc nắm chân Chung Linh, Chung Vạn Cừu lại nắm chân Vân Trung Hạc, Nam Hải Ngạc Thần nắm chân Chung Vạn Cừu, Diệp Nhị Nương nắm chân Nam Hải Ngạc Thần sau cùng là Đoàn Dự nắm chân Diệp Nhị Nương, ngoại trừ Chung Linh ra, cả năm người đều ráng kéo nhau ra cửa hang. Chung Linh khí lực chẳng đáng bao nhiêu, lẽ ra Vân Trung Hạc kéo nàng thật dễ dàng nhưng không biết có ai đó giữ chặt nàng lại không cho kéo đi.

Cả một dãy nắm chân nhau, huyệt Thiếu Thương; người sau chạm vào huyệt Tam Âm Giao người trước. Theo dây chuyền Chung Linh, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Nam Hải Ngạc Thần nội lực bốn người cuồn cuộn chảy qua Diệp Nhị Nương vào người Đoàn Dự. Chung Linh vốn dĩ chẳng có bao nhiêu nội lực nên cũng không sao, còn những người còn lại ai nấy sợ mất hết hồn vía, ra sức vùng vẫy, mong thoát được người đằng sau nắm chân mình, nhưng giãy giụa sao cũng không thoát, càng dụng kình nội lực tán thất càng lẹ.

Vân Trung Hạc thấy từ bàn chân Chung Linh nội lực cuồn cuộn tuôn vào, rồi lại theo gót chân mình mà chảy ra, tự hỏi sao con nhãi này nội lực lại thâm hậu đến thế, quả thực kỳ lạ, cũng may tay chân mình nội lực tuôn ra thì tay lại có nội lực đổ vào. Thành thử y sống chết cũng không dám buông chân Chung Linh ra để khỏi lâm vào cảnh chỉ có ra mà không có vào. Những người khác ai cũng nghĩ như thế, trong bụng càng thêm sợ hãi thì hai tay càng nắm chặt thêm, chẳng khác nào người đang chết đuối vớ được cái gì sống chết cũng không chịu nhả.

Cái xấu người đó ở trong địa đạo tối om không ai nhìn thấy ai, lúc đầu còn nghe la hét: “Lão đại bảo các ngươi đi ra” “Bỏ chân ta ra!” “Ông phải giết thằng tự xưng!” “Sao nắm chân ta! Có bỏ ra không nào?” “Má má! Gia gia!” nhưng càng về sau đều thấy nội lực truyền vào yếu dần đi, còn nội lực ở chân tuôn ra không giảm tí nào, càng kinh hãi không kể xiết.

Đoàn Dự nắm một hồi thấy nội lực cuồn cuộn để vào người mình, chàng hồi trên núi Vô Lượng đã có kinh nghiệm, bây giờ biết cách ứng phó, mỗi khi thấy người nóng nảy khó chịu thì lại dẫn nội lực vào khí hải nơi huyệt Đản Trung. Một lúc sau chàng cảm thấy huyệt Đản Trung của mình dường như căng phồng muốn vỡ toang ra, cảm thấy sợ hãi nhưng nghĩ tới Chung Linh đang gặp hung hiểm lại không buông tay, đành nghiến răng cố chịu.

Cam Bảo Bảo thấy không biết bao nhiêu quái sự, chân tay luống cuống, nhớ lại lúc nãy được Đoàn Chính Thuần ôm vào lòng hôn hít, ngồi nơi ghế ngơ ngẩn xuất thần, miệng lẩm bẩm: “Thuần ca! Thuần ca! Chàng gọi ta là Bảo Bảo thương, chàng ôm ta hôn ta, lần này là chuyện thật không phải nằm mơ.”

Đoàn Dự trong ngực nóng ran chịu không nổi, nội lực những người ở trong hầm quá nửa đã tuôn vào người chàng. Lực đạo trên tay Đoàn Dự càng lúc càng mạnh, chàng dần dần kéo được Diệp Nhị Nương ra khỏi miệng hang, kế đến là Nam Hải Ngạc Thần, Chung Vạn Cừu, Vân Trung Hạc, Chung Linh một xâu từ từ chui ra. Đoàn Dự nhìn thấy Chung Linh trong lòng mừng rỡ liền thả Diệp Nhị Nương, chạy đến đỡ nàng kêu lên: “Linh muội! Linh muội! Muội không bị thương chứ?”

Bọn Diệp Nhị Nương bốn người nội lực mất đến quá nửa cũng buông nhau ra ngồi trên sàn gỗ thở hổn hển.

Chung Vạn Cừu đột nhiên kêu: “Có đàn ông! Trong hầm này có đàn ông! Chính là Đoàn Chính Thuần… Đoàn Chính Thuần.” Y chợt nghĩ “Đường hầm trong phòng phu nhân ắt là do Đoàn Chính Thuần đào để gian díu với vợ mình, mới đây ở bên ngoài nghe tiến; đàn ông, thấy bóng đàn ông hẳn là Đoàn Chính Thuần không còn ngờ gì nữa”. Y nổi cơn ghen, xông tới đẩy Đoàn Dự ra, nắm cổ Chung Linh định ném nàng qua một bên để chui xuống địa đạo lôi Đoàn Chính Thuần ra ngoài.

Cam Bảo Bảo nghe y kêu lên “Đoàn Chính Thuần” lập tức trong mơ tỉnh dậy, đứng phắt lên kêu khổ thầm.

Chung Vạn Cừu không nghĩ đến mình nội lực hao tổn quá nhiều, ném Chung Linh ra không nổi, ngược lại hai chân nhũn ra, ngồi phịch xuống đất. Thế nhưng y chưa chịu thua, nhất định không buông tha Đoàn Chính Thuần được.

Y kéo thêm mấy cái, thấy từ trong hang xuất hiện hai bàn tay nắm chặt hai cổ tay Chung Linh. Chung Vạn Cừu kêu lên: “Thằng chó Đoàn Chính Thuần đây rồi! Ta phải sống chết với ngươi.”Y hết sức kéo Chung Linh ra sau, quả nhiên từ trong hang chui ra một người. Người đó quả là một gã đàn ông.

Chung Vạn Cừu kêu lên: “Đoàn Chính Thuần!” Y bỏ Chung Linh xuống, xông lên nắm ngực người kia, nhấc lên thấy nhẹ bỗng. Người này đầu dơi tai chuột, mặt mày dúm dó, so vai rụt cổ, thân hình gầy guộc khác xa Đoàn Chính Thuần, Đoàn Dự kêu lên: “Hoắc tiên sinh, sao ông lại ở đây?” Thì ra người đó chính là Kim toán bàn Thôi Bách Tuyền.

Chung Vạn Cừu gầm lên: “Không phải Đoàn Chính Thuần.” Y ngã ngửa ra nhưng bàn tay nắm Thôi Bách Tuyền vẫn chưa buông. Từ trong địa đạo lại lòi ra thêm hai bàn tay nữa đang nắm chặt cổ chân Thôi Bách Tuyền. Chung Vạn Cừu kêu lên: “Đoàn Chính Thuần!” Y cố sức lại kéo ra thêm một người nữa. Người này đầu trọc lóc có vết tàn hương, mặt mày nhăn nheo, đôi lông mày vàng úa, không những là hòa thượng mà còn già nữa. Đoàn Dự kêu lên: “Hoàng Mi đại sư, sao ông cũng ở đây?”. Đó chính là Hoàng Mi tăng.

Chung Vạn Cừu thu hết tàn lực, kéo được nhà sư ra khỏi hang nhưng dưới chân không còn ai thêm nữa. Y lại chui vào trong hang một lúc lâu, sau thở hổn hển chui ra kêu lên: “Không còn ai, trong hầm không còn ai cả.” Y trừng trừng nhìn Thôi Bách Tuyền, rồi lại nhìn Hoàng Mi tăng, nghĩ hai người này không thể nào là tình nhân của vợ mình được, yên tâm kêu lên: “Phu nhân! Ta xin lỗi, ta… ta lại nghi oan cho nàng rồi.” Lúc này tinh lực hao kiệt, y bò ra khỏi hang chỉ còn ngồi thở hồng hộc không đứng lên nổi.

Hoàng Mi tăng, Thôi Bách Tuyền, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc năm người đều ngồi xuống đất vận khí điều tức. Trong năm người Hoàng Mi tăng công lực cao hơn cả, chẳng mấy chốc đã đứng lên được quát lớn: “Ba tên ác nhân, hôm nay ta tha mạng cho các ngươi, sau này còn đến Đại Lý quấy phá thì đừng trách lão tăng vô tình.”

Không ai hiểu đầu đuôi việc trong địa đạo ra sao. Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc tam ác đều nghĩ là Hoàng Mi tăng ra tay, lão hóa thượng này thắng cả lão đại, lại vừa thu hết hơn nửa nội lực của mình, nên chẳng tên nào dám nói gì. Ba người điều tức thêm một lúc nữa, từ từ đứng lên, quay sang Hoàng Mi tăng hơi khom lưng rồi ra khỏi phòng đi mất. Lúc này tam đại ác nhân chẳng còn vẻ gì hung ác cả.

Hoàng Mi tăng, Thôi Bách Tuyền và Đoàn Dự từ biệt vợ chồng Chung Vạn Cừu và Chung Linh, đi ra khỏi cốc. Ba người đến cốc khẩu, Đoàn Chính Thuần cùng hai gia tướng còn đợi ở đó, cha con Đoàn Chính Thuần gặp nhau hết sức ngỡ ngàng.

Thì ra khi đó Đoàn Chính Thuần thấy Chung Vạn Cừu xông vào phòng, trong lòng hổ thẹn vội theo đường hầm chạy trốn, ra khỏi hang thì thấy Thôi Bách Tuyền đứng bên canh chừng. Thôi Bách Tuyền biết vương gia vốn tính phong lưu, không dám hỏi nhiều vội chui vào đường hầm thám sát để đề phòng Chung phu nhân ăn đòn của trượng phu, ngờ đâu lại gặp ngay Chung Linh đang bị Vân Trung Hạc nắm được cổ chân. Thôi Bách Tuyền lập tức nắm lấy tay nàng kéo lại, đang thấy không chịu nổi bỗng thấy chân mình cũng bị ai nắm chặt. Thì ra Hoàng Mi tăng đang ngồi suy tính nước cờ bỗng nghe dưới hầm có tiếng động khác lạ nên từ thạch thất chui vào ngách địa đạo kia, theo âm thanh lần tới, nghe giọng của Thôi Bách Tuyền bèn ra tay tương trợ. Ngờ đâu trong chuyến du địa đạo này, gần một nửa nội lực của Hoàng Mi tăng và Thôi Bách Tuyền đã truyền vào trong người Đoàn Dự.

Hồi 10: Kiếm khí dọc ngang như tường khói

Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần từ biệt vợ con. Ông nghe Đoàn Dự nói đêm hôm qua Mộc Uyển Thanh đã theo mẹ là Tần Hồng Miên đi rồi, thẫn thờ một hồi, thở dài quay sang hỏi hai người Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi thì họ cũng đã lên đường ngược bắc từ sớm. Đoàn Chính Thuần xuất lĩnh Tam công, Tứ hộ vệ vào cung từ biệt Bảo Định Đế, cùng Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi về phía Lục Lương châu, Đoàn Dự tiễn cha ra ngoài cửa đông mười dặm mới quay về.

Xế trưa hôm đó, Bảo Định Đế đang ở trong thiền phòng đọc kinh thì một tên thái giám vào bẩm: “Người trong phủ Hoàng thái đệ đến tâu rằng, Hoàng thái đệ thế tử đột nhiên bị ma ám, đã thỉnh thái y đến chẩn bệnh.” Bảo Định Đế lo quá, nghĩ rằng Đoàn Dự bị trúng độc của thái tử Diên Khánh chưa chắc đã trừ được một cách dễ dàng, lập tức sai hai người đến xem sao. Độ nửa giờ sau, hai tên thái giám quay về báo: “Thế tử bệnh không phải nhẹ, xem ra thần trí thác loạn.”

Bảo Định Đế trong bụng hơi hoảng, vội vàng xuất cung đích thân đến phủ Trấn Nam Vương thăm bệnh tình Đoàn Dự thế nào. Vừa đến bên ngoài phòng ngủ của chàng đã nghe tiếng rầm rầm, loảng xoảng, lách cách liên hồi, toàn là các loại ấm chén bị đổ vỡ. Gã nội thị ở bên ngoài thấy nhà vua liên quì xuống tiếp giá, nét mặt đầy vẻ kinh hoàng.

Bảo Định Đế gật đầu đẩy cửa bước vào, thấy Đoàn Dự đang khoa chân múa tay. Bao nhiêu bàn ghế cùng các loại đồ dùng trần thiết bị chàng vứt tung tóe. Hai quan thái y lẩn tránh chạy cuống cả lên. Bảo Định Đế tiến lại cất tiếng hỏi: “Dự nhi! Cháu làm sao vậy?”

Đoàn Dự vẫn tỉnh táo, chỉ vì chân khí trong người đầy rẫy dường như muốn xé thịt nứt da cho tràn bớt ra ngoài, có tay đấm, chân đá, đập phá đồ đạc mới hơi thư thái một chút. Chàng thấy bá phụ vào liền gọi to: “Bá phụ ơi! Cháu chết mất!” Chàng vừa gọi vừa vung tay loạn xạ.

Đao Bạch Phượng đứng một bên, nước mắt ròng ròng nói: “Đại ca, sáng sớm hôm nay Dự nhi còn khỏe mạnh bình thường, sau khi tiễn cha nó ra khỏi thành, chẳng hiểu vì sao tự nhiên lại nổi cơn điên” Bảo Định Đế an ủi: “Đệ muội chẳng nên hoảng hốt, chắc là cháu nó trúng độc ở Vạn Kiếp Cốc chưa hết hẳn, để chữa cho xong.” Ông quay sang hỏi Đoàn Dự: “Cháu thấy trong người thế nào?”

Đoàn Dự dậm chân thình thịch kêu lên: “Toàn thân điệt nhi chỗ nào cũng căng phồng lên, thật là khó chịu.” Bảo Định Đế nhìn mặt và cánh tay chàng thấy không có gì khác lạ, chẳng sưng chút nào, câu nói đó đúng là thần trí bất thường khiến ông không khỏi nhíu mày.

Thì ra hôm qua nơi Vạn Kiếp Cốc Đoàn Dự bị năm cao thủ trút gần một nửa nội lực của họ vào người, lúc đó thì không thấy gì nhưng sau khi tiễn phụ thân xong, quay về nằm ngủ, trong giấc ngủ chân khí không được dẫn lối nên chạy lung tung. Chàng nhỏm dậy, luyện Lăng Ba Vi Bộ mỗi lúc một nhanh, chân khí liền bùng lên không còn cách nào chế ngự được, bèn kêu toáng lên khiến ai nấy đều nhốn nháo.

Một tên thái y nói: “Khải tấu hoàng thượng, mạch của thế tử nhảy thật mạnh, dường như huyết khí quá vượng, theo ngu kiến của vị thần trích huyết cho ra bớt đi, không biết có được hay không?” Bảo Định Đế nghĩ bụng: “Cứ thử xem sao?” bèn gật đầu nói: “Ngươi thử lấy bớt máu ra!” Thái y vâng mệnh, mở cái hộp sành lấy ra một con đỉa. Đỉa là vật chuyên hút máu, dùng để hút máu ứ rất tiện, người bệnh lại không đau đớn gì. Y cầm chặt tay Đoàn Dự, đặt miệng con đỉa vào đúng chỗ huyết quản. Con đỉa này đặt vào tay Đoàn Dự lập tức cựa quậy không chịu nằm yên, làm thế nào nó cũng không hút máu. Quan thái y rất lấy làm lạ, phải dùng sức đè nó xuống. Nhưng chỉ được một lát, con đỉa giãy lên một cái rồi chết ngay. Quan thái y bẽ mặt trước nhà Vua, vừa thẹn vừa sợ, mồ hôi trán nhỏ xuống tong tong, vội vàng lấy con đỉa khác ra nhưng rồi cũng bị chết như con trước.

Vị thái y thứ hai tỏ vẻ lo lắng, tâu rằng: “Khải tấu Hoàng thượng! Thế tử ngộ độc dữ quá, chất độc phát ra làm chết cả đỉa.” Y có biết đâu Đoàn Dự đã nuốt con Mãng Cổ Chu Cáp vào bụng, bất luận rắn rết hay giống gì độc đến đâu cũng phải xa lánh. Dù loại rắn độc nhất cũng bị nhiếp phục, huống chi con đỉa tầm thường.

Bảo Định Đế lại càng nóng ruột, phán hỏi: “Thuốc độc gì mà ghê gớm đến thế?” Một tên thái y nói: “Theo ngu kiến của thần, mạch của thế tử dường như quá nóng, ắt là trúng phải chất độc cực nhiệt, đó là … đó là … vị thần ngu dốt.” Tên thái y kia cãi lại: “Không phải! Mạch thái tử âm hư thế là trúng hàn. Cần bốc thuốc nhiệt để điều hòa.” Trong cơ thể Đoàn Dự một bên chứa nội lực dương cương của Hoàng Mi tăng, Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu, một bên lại chứa nội lực âm nhu của Diệp Nhị Nương. Hai tên thái y mỗi người một phách không ai nói được thực sự nó là cái gì.

Bảo Định Đế thấy hai danh y giỏi nhất nước Đại Lý tranh luận, quan điểm lại khác hẳn nhau đủ biết tà độc trong người cháu mình thật là quái đản, liền đưa ba ngón trỏ, giữa và vô danh bàn tay phải để nhẹ nhàng lên huyệt Liệt Khuyết. Con cháu nhà họ Đoàn mạch không nhảy ở nơi cổ tay mà lại nhảy nơi huyệt Liệt Khuyết, y gia gọi là phản quan mạch.

Hai tên thái y thấy hoàng thượng vừa ra tay đã chứng tỏ tinh thông y đạo đều cực kỳ bội phục. Một gã nói: “Trong y thư có chép là: người nào có phản quan mạch ở tay trái chủ về quí, có ở tay phải chủ về phú, nếu có cả hai bên thì đại phú đại quí. Bệ hạ, Trấn Nam Vương, thế tử, ba vị đều có phản quan mạch.” Tên thái y kia liền cãi: “Ba vị đại phú đại quí nào phải chỉ vì có phản quan mạch mà nên.” Người kia nói: “Chứ còn gì nữa. Thế tử có mạch tượng đại phú đại quí đủ biết bệnh tuy hung hiểm thật nhưng cũng không sao cả.” Gã kia không phục nghĩ thầm: “Con cháu nhà đại phú đại quí tưởng không chết non à?”. Thế nhưng y làm sao dám nói ra câu đó.

Bảo Định Đế thấy mạch cháu mình vừa nhanh vừa mạnh, nếu cứ nhảy thế này thì tâm tạng làm sao chịu nổi? Ông hơi nhấn tay một chút định xem trong kinh mạch có gì lạ, đột nhiên nội lực trong người tuôn ra ào ào rồi biến mất không thấy gì nữa nên hoảng hồn vội vàng buông tay. Ông có biết đâu Đoàn Dự đã luyện được Thủ Thái Âm Phế Kinh trong Bắc Minh thần công mà huyệt Liệt Khuyết là một trong những huyệt đạo của mạch này. Bảo Định Đế vừa vận nội kình lập tức nội lực đổ vào người Đoàn Dự.

Đoàn Dự rùng mình kêu lên: “Chao ôi!” Người rung động mạnh run rẩy như cầy sấy.

Bảo Định Đế lùi lại hai bước hỏi: “Dự nhi, cháu đã gặp Đinh Xuân Thu ở Tinh Tú Hải chăng?” Đoàn Dự lắp bắp: “Đinh … Đinh Xuân Thu ư? Điệt nhi không biết y là ai cả.” Bảo Định Đế nói: “Nghe nói y là một ông già tiên phong đạo cốt chẳng khác gì người trong tranh vẽ.” Đoàn Dự đáp: “Cháu chưa từng gặp ông ta bao giờ.” Bảo Định Đế nói: “Người này có một môn công phu tà môn, chuyên làm tiêu hủy công lực người khác, gọi là Hóa Công Đại Pháp, có thể phế trừ được nội công cả đời tu luyện của người khác trong một lúc, người trong võ lâm ai cũng ghét cay ghét đắng. Cháu chưa từng gặp y, sao … sao lại học được tà môn đó?” Đoàn Dự vội đáp: “Điệt nhi chưa … chưa từng học bao giờ. Hóa Công Đại Pháp cùng Đinh Xuân Thu, đây là lần đầu tiên cháu được nghe nói tới.”

Bảo Định Đế xem chừng chàng không nói dối nhưng sao lại hóa tán nội lực của mình được, nghĩ một chút chợt hiểu ra: “Đúng rồi! Chắc là Đoàn Diên Khánh học môn công phu này, không biết làm sao mà đưa được tà môn đó vào người Đoàn Dự để cho nó vô ý làm hại ta và Thuần đệ. Người này đã dám xưng là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, quả thật danh bất hư truyền”.

Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay cào cấu khắp người, quần áo rách bươm, trên da đầy vết máu, gắng gượng lắm mới khỏi kêu ầm lên nhưng miệng rên rỉ không ngừng. Đao Bạch Phượng luôn mồm dỗ con: “Dự nhi, con cố chịu một chút, lát nữa sẽ bớt.” Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Thật là một vấn đề cực nan giải, chỉ còn cách lên chùa Thiên Long thỉnh thị”. Ông liền bảo: “Dự nhi, ta đưa con lên bái yết mấy vị tiền bối, thế nào các người cũng có cách chữa cho con hết bệnh.” Đoàn Dự vâng lời. Đao Bạch Phượng vội vàng lấy quần áo cho con thay. Bảo Định Đế dẫn chàng ra khỏi phủ, mỗi người cưỡi một con ngựa đi về hướng núi mờ mờ xa.

Chùa Thiên Long nằm ở ngọn phía bắc dãy núi Điểm Thương bên ngoài thành Đại Lý, tên chính thức của ngôi chùa này là Sùng Thánh Tự nhưng quen gọi là chùa Thiên Long. Chùa quay lưng vào núi cao, đối diện là sông Nhĩ, hình thế thật là uy nghi. Chùa có ba ngọn tháp kiến tạo từ đầu đời Đường, tháp lớn nhất cao hơn hai trăm thước gồm mười sáu tầng, đỉnh tháp đúc bằng sắt có ghi: “Đại Đường Trinh Quan Uất Trì Kính Đức tạo”. Tương truyền chùa Thiên Long có năm báu vật mà ba ngọn tháp đứng đầu trong ngũ bảo.

Từ xưa tới nay các vị vua họ Đoàn bỏ ngôi báu xuất gia đầu Phật đều quy y ở chùa này. Có thể nói chùa Thiên Long là chùa của hoàng gia nước Đại Lý. Kể tất cả các chùa trong nước thì chùa Thiên Long được tôn vinh hơn cả. Một khi nhà vua xuất gia rồi thì đến ngày sinh nhật, con cháu đều lên chùa làm lễ triều bái, lần nào cũng có cúng dường trùng tu. Trong chùa có ba gác, bảy ngôi lầu, chín điện và một trăm gian qui mô thật là to lớn, cấu trúc tinh kỳ; so với danh thắng ở Trung Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi là nơi có chùa chiền lớn cũng không kém gì, có điều ở mãi miền biên giới xa xăm nên không được nổi tiếng bằng.

Trên đường đi Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa, được bá phụ chỉ điểm cách trấn nhiếp nội tức đang xung đột trong cơ thể cũng bớt khó chịu, lẽo đẽo theo được Bảo Định Đế đến chùa Thiên Long. Chùa này là nơi nhà vua thường đến nên liền đi vào yết kiến phương trượng Bản Nhân đại sư.

Theo vai vế ngoài trần tục thì đại sư là thúc phụ nhà vua. Các người xuất gia không câu nệ lễ vua tôi mà cũng không cố chấp thứ bậc trong gia đình, làm lễ tương kiến một cách bình đẳng. Bảo Định Đế kể lại Đoàn Dự bị Diên Khánh thái tử bắt giữ ra sao, rồi trúng tà độc thế nào, nhiễm phải tà công hóa giải nội lực người khác kể lại một lượt.

Bản Nhân phương trượng trầm ngâm một hồi nói: “Theo ta đến Mâu Ni Đường ra mắt ba vị sư huynh, sự đệ.” Bảo Định Đế đáp: “Phiền nhiễu đến sự thanh tu của các vị đại hòa thượng, thực là lỗi lớn.” Bản Nhân phương trượng đáp: “Thế tử con Trấn Nam Vương là người kế vị sau này, thân thế y có quan hệ đến hạnh phúc của trăm họ, Kiến thức và bản lãnh ngươi còn trên ta một bậc mà phải đến đây hỏi, tất là một việc rất khó giải quyết. Một mình ta không thể quyết định, phải cùng với ba vị sư huynh đệ thương lượng mới xong.”

Hai chú tiểu đi trước dẫn đường, đi sau là Bản Nhân phương trượng, kế đến là hai bác cháu Bảo Định Đế theo Thụy Hạc môn ở bên trái tiến vào, đi qua cửa Thiên Môn, gác Thanh Đô, mỏm Ký Ký, cung Đẩu Mẫu và cung Tam Nguyên rồi Đại Sĩ viện, Vũ Hoa viện, Bát Nhã đài, đến một hành lang dài thì hai chú tiểu khom lưng đứng tránh sang hai bên không đi tiếp nữa. Ba người theo hành lang đó đi về hướng tây đến trước mấy căn nhà. Đoàn Dự đã từng đến chùa Thiên Long nhiều lần nhưng nơi đây chưa từng đến, thấy mấy gian nhà đó đều làm bằng những cây thông ghép thành, cửa nẻo cột kèo đều là cây cắt ra chưa lột vỏ thật là tự nhiên, khác hẳn những điện đài tường vàng mái ngói rực rỡ trên đường đi.

Bản Nhân phương trường vẻ mặt trịnh trọng chắp hai tay nói: “A Di Đà Phật! Bản Nhân nay có việc nghi nan khó bề giải quyết, đến quấy nhiễu ba vị sư huynh sư đệ đây.” Trong nhà có tiếng đáp vọng ra: “Xin mời phương trượng vào trong này!” Bản Nhân giơ tay chầm chậm đẩy cửa, cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt, đủ biết ngày thường ít ai lui tới. Đoàn Dự theo sau phương trượng và bá phụ đi vào. Chàng vừa nghe phương trượng bảo đến ra mắt ba vị, mà trong căn nhà lại thấy những bốn vị hòa thượng, mỗi người ngồi trên một cái bồ đoàn riêng. Ba vị ngôi quay mặt ra ngoài thì hai vị gầy đét, một vị tráng kiện khôi ngô. Hòa thượng ở phía đông ngồi quay vào trong tường lặng yên không cử động.

Bảo Đinh Đế nhận ra hai nhà sư gầy gò vàng vọt kia pháp danh Bản Quan, Bản Tướng đều là sư huynh của Bản Nhân phương trượng, còn người cao to kia pháp danh Bản Tham là sư đệ của ông ta. Nhà vua chỉ biết trong Mâu Ni Đường chùa Thiên Long có ba cao tăng Quan, Tướng, Tham, đâu ngờ rằng lại còn một vị khác, lập tức khom lưng hành lễ, ba nhà sư mỉm cười đáp lại. Nhà sư quay vào tường kia không biết đang nhập định hay đang lúc hành công khẩn yếu, không thể phân tâm được nên ai làm gì cũng mặc. Bảo Định Đế biết rằng hai chữ Mâu Ni có nghĩa là trầm lặng vắng vẻ, vậy ngồi trong Mâu Ni Đường ít nói chừng nào hay chừng ấy. Nhà vua tóm tắt bệnh trạng Đoàn Dự rồi kết luận: “Cầu bốn vị đại đức chỉ điểm cho đường sáng!”

Bản Quan trầm ngâm suy nghĩ, lại đưa mắt nhìn Đoàn Dự hồi lâu rồi hỏi: “Nhị vị sư đệ nghĩ sao?” Bản Tham nói: “Nếu bị tổn thất nội lực e rằng phương ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm.” Bảo Định Đế nghe nói đến bốn chữ Lục Mạch Thần Kiếm bất giác giật mình nghĩ thầm: “Hồi mình còn nhỏ, nghe gia gia ngẫu nhiên nói đến tổ tiên họ Đoàn ta có môn Lục Mạch Thần Kiếm uy mãnh vô cùng. Gia gia còn bảo môn này chỉ nghe truyền miệng thế thôi chứ chưa nghe nói vị nào luyện được, môn đó thần kỳ ra sao cũng chưa bậc cao nhân nào hay biết. Bản Tham đại sư đề cập tới, chắc chắn là có môn kỳ công đó rồi.” Ông chợt nghĩ: “Câu nói của Bản Tham đại sư có ý là nếu như dùng nội lực giải độc cho Dự nhi thì sẽ làm trở ngại cho việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm. Thế nhưng Dự nhi trúng phải tà độc, tà công cực kỳ quái lạ nếu không trông vào lực lượng của các vị đây thì làm sao mà trị được?”. Nhà vua nghĩ vậy, tuy trong lòng áy náy nhưng cũng không mở miệng khước từ.

Hòa thượng Bản Tướng không nói một lời, đứng dậy cúi đầu, đôi lông mày rủ xuống, tiến vào phương vị đông bắc. Bản Quan, Bản Tham cũng đứng ra hai vị trí, Bản Nhân phương trượng bước vào vị trí phía tây nói: “Thiện tai! Thiện tai!”

Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự: “Bốn vị trưởng lão không ngại tổn hao công lực trừ tà giải độc cho con. Con mau khấu đầu bái tạ đi!” Đoàn Dự nhìn thần sắc và cử chỉ của bá phụ cùng bốn vị tổ sư biết việc này cực kỳ nghiêm trọng, lập tức phục xuống lạy mỗi vị một lạy. Bốn nhà sư mỉm cười gật đầu. Bảo Định Để nói: “Dự nhi, cháu ngồi xuống xếp bằng, trong lòng đừng suy nghĩ gì cả, toàn thân không dụng lực, nếu như đau đớn hay ngứa ngáy chỉ là hiện tượng bình thường, đừng có hoảng hốt.” Đoàn Dự vâng lời ngồi xuống.

Bản Quan hòa thượng đưa ngón tay cái bên phải ra, ngưng thần một chút rồi đặt lên huyện Phong Phú sau gáy Đoàn Dự, lực đạo Nhất Dương Chỉ cuồn cuộn tuôn ra. Huyệt Phong Phú nằm cách chân tóc chừng một tấc, thuộc về Đốc Mạch. Kế đó Bản Tướng hòa thượng cũng điểm huyệt Tử Cung thuộc về Nhâm Mạch, Bản Tham thì điểm huyệt Đại Hoành thuộc Âm Duy Mạch còn Bản Nhân phương trượng điểm vào huyệt U Môn thuộc Xung Mạch và huyệt Chương Môn thuộc Đới Mạch, Bảo Định Đế điểm vào huyệt Tinh Minh trên Âm Kiều Mạch, Kỳ kinh bát mạch tổng cộng tám đường kinh mạch, năm người để lại Dương Duy, Dương Kiều hai mạch không điểm. Cả năm người đều sử dụng công phu Nhất Dương Chỉ, dùng lực thuần dương để đẩy tà độc, tà công trong người Đoàn Dự theo các huyệt đạo từ hai mạch Dương Duy, Dương Kiều ra ngoài.

Năm đại cao thủ họ Đoàn công lực suýt soát như nhau, chỉ nghe tiếng vù vù, năm nguồn thuần dương nội lực cùng dốc vào cơ thể Đoàn Dự. Toàn thân chàng run lên bần bật rồi tựa như trời rét được phơi ra ánh nắng, trong người ấm áp thư thái vô cùng. Bảo Định Đế cùng bốn nhà sư thấy nội lực của mình tuôn vào người Đoàn Dự rồi biến đâu mất không thể nào thu trở về được. Đoàn Dự chưa luyện Bắc Minh thần công đầy đủ kỳ kinh bát mạch nhưng năm cao thủ đẩy nội lực vào, người chàng không còn cách nào khác, nội lực mỗi khi truyền tới khí hải nơi huyệt Đản Trung thì lập tức tích vào đó. Năm người đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc.

Bất thình lình một tiếng quát ầm ầm vang dội, tại người nào người nấy ù cả đi. Bảo Định Đế biết đó là một công phu thượng thừa trong Phật môn tên là Sư Tử Hống, trong thanh âm chứa một nội lực cực kỳ thâm hậu có tác dụng trấn áp kẻ địch, cảnh tỉnh phe mình. Bỗng nghe nhà sư quay mặt vào vách cất tiếng nói: “Cường địch nội nhật hôm nay sẽ tới, uy danh của chùa Thiên Long mấy trăm năm lung lay muốn đổ. Thằng nhỏ miệng còn hôi sữa trúng tà trúng độc gì gì hãy bỏ đó. Lẽ nào lại vì y mà hao phí công lực ư?” Mấy câu nói đó đầy vẻ uy nghiêm.

Bản Nhân phương trượng bẩm: “Sư thúc dạy rất phải.” Dứt lời vẫy tay trái một cái, năm người đồng thời lùi lại phía sau.

Bảo Định Đế nghe phương trượng gọi ông ta là sự thúc vội vàng cáo lỗi: “Vãn bối không biết Khô Vinh trưởng lão ở đây, chưa kịp kính bái, tội nghiệt thâm trọng.” Thì ra Khô Vinh trưởng lão là vị tiền bối vai vế cao nhất trong chùa Thiên Long, diện bích đã mấy chục năm, tăng chúng trong chùa chẳng ai biết khuôn mặt thật của ông ta như thế nào. Bảo Định Đế cũng chỉ nghe tên chứ trước nay chưa hề bái kiến, nghe nói ông ta tu khô thiền một mình trong Song Thụ Viện, hơn mười năm qua không ai nhắc đến, lại tưởng là đã viên tịch rồi.

Khô Vinh trưởng lão nói: “Việc có khinh trọng, có hoãn cấp, lời ước hẹn với Đại Luân Minh Vương của Đại Tuyết Sơn chớp mắt là đến. Chính Minh, người cũng nên biết việc này.” Bảo Định Đế đáp: “Vâng.” Ông ngạc nhiên nghĩ thầm: “Đại Luân Minh Vương trên Đại Tuyết Sơn là một bậc Phật pháp uyên thâm, nhưng có dây mơ rễ má gì với bọn mình đâu?”

Bản Nhân phương trượng lấy trong bọc ra một phong thơ ánh vàng rực rỡ trao vào tay Bảo Định Đế. Nhà vua đón lấy, cầm tay nhấc thấy khá nặng rất lấy làm kỳ. Thì ra phong bì làm bằng vàng dát mỏng. Trên phong bì dùng bạch kim khảm thành mấy chữ Phạn: “Thư trình Sùng Thánh Tự trụ trì”. Ông mở phong bì vàng ra, bên trong có một lá thư bằng vàng dát cực mỏng. Thư cũng viết bằng chữ Phạn, đại ý viết: “Năm xưa có duyên gặp được Mộ Dung Bác tiên sinh, cùng nhau kết nối thâm giao, đàm luận võ công đương thời. Mộ Dung tiên sinh rất ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm của quí tự nhưng chưa từng được xem qua nên rất lấy làm ao ước. Gần đây nghe tin Mộ Dung tiên sinh đã qui tiên, rất đỗi xót thương. Để báo đáp tình tri kỷ, cầu xin quý tự quyển kinh đó để đốt trước mộ Mộ Dung tiên sinh. Trong ngày hôm nay sẽ đến lấy, xin chớ chối từ. Bần tăng xin đem báu vật đến báo đền, chẳng dám đến tay không.” Dưới thư thụ danh là “Đại Tuyết Sơn Đại Luân Tự Thích tử Cưu Ma Trí chắp tay trăm lạy”. Chữ Phạn trên lá thư cũng nạm bằng bạch kim thật là tinh tế, phải là tay thợ khéo hao phí bao nhiêu tâm huyết và thời gian mới làm được. Chỉ riêng một lá thư, một bao thư cũng đã là bảo vật hiếm có, đủ biết Đại Luân Minh Vương là tay hào phóng xa xỉ đến mức nào.

Bảo Định Đế vốn biết Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí là Hộ Quốc Pháp Vương của nước Thổ Phồn, nhưng chỉ nghe nói ông ta là kẻ đại trí tuệ, tinh thông Phật pháp. Cứ năm năm một lần Đại Luân Minh Vương lại mở đàn giảng kinh, thuyết pháp. Các vị cao tăng đại đức Thiên Trúc, Tây Vực đều đến chùa Đại Luân trên núi Tuyết Sơn hội họp để nghiên cứu kinh điển. Sau kỳ thuyết pháp ra về ai cũng hoan hỉ ca tụng Minh Vương, chính Bảo Định Đế cũng đã tính chuyện thân hành đi nghe giảng kinh. Trong thư có nói y cùng Mộ Dung tiên sinh đàm luận võ công, kết bạn tri kỷ. Vậy thì hiển nhiên Minh Vương cũng là một tay cao thủ võ lâm. Hạng người đại trí tuệ không học võ thì thôi, khi họ đã đi vào đường đó tất nhiên không phải tay vừa.

Bản Nhân phương trượng nói: “Lục Mạch Thần Kiếm Kinh là vật chí bảo của bản tự, lại là pháp yếu môn võ tối cao của họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh! Công phu tột đỉnh của họ Đoàn hiện ở chùa Thiên Long đây. Ngươi là người thế tục thì dù là con cháu trong nhà, cũng không thể tiết lộ cho ngươi biết những điều bí ẩn này được.” Bảo Định Đế đáp: “Thưa vâng! Điều đó vãn bối đã biết rồi.” Bản Quan nói: “Trong bản tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, ngay cả Chính Minh, Chính Thuần các ngươi cũng không biết, không hiểu sao họ Mộ Dung Cô Tô kia lại hay được?”

Đoàn Dự nghe đến đây đột nhiên nghĩ ra trong thạch động núi Vô Lượng, nơi Lang Hoàn Phúc Địa, trên những giá sách trống rỗng kia trên thẻ “Đại Lý Đoàn Thị” có đề “Nhất Dương Chỉ Quyết, thiếu”, “Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, thiếu” bèn nghĩ thầm: “Thần tiên tỉ tỉ thu góp võ phổ quyền kinh các nhà các phái trong thiên hạ nhưng Nhất Dương Chỉ Quyết và Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của nhà ta vẫn không cách nào kiếm ra được”. Chàng trong bụng đắc ý nhưng cũng hơi ái ngại, vì như thế hẳn là thần tiên tỉ tỉ không được vui lòng.

Bản Tham tức giận nói: “Đại Luân Minh Vương đã nổi tiếng khắp thế gian là một vị cao tăng, sao lại không thông tình lý chút nào, dám đến chùa chúng ta xin cuốn kinh đó. Chính Minh cùng phương trượng sư huynh nên biết rằng nếu họ tử tế tất không đến, mà họ đã đến là chẳng tử tế gì. Đây là một việc trong đại, bọn ta không tác chủ được, phải thỉnh Khô Vinh sư thúc đứng ra chủ trì đại cuộc.”

Bản Nhân nói: “Bản tự tuy có cuốn kinh đó thật nhưng nói ra lại thêm xấu hổ. Bọn ta đây không ai đủ tài lực để luyện thành môn võ trong kinh, cả những điều ảo diệu trong kinh cũng chưa hiểu nổi. Khô Vinh sư thúc luyện tập khô thiền, cũng là một thần công của bản tự đang vào thời kỳ sắp sửa thành tựu. Bọn ta chưa luyện thành thần công, người ngoài chưa chắc đã biết. Không lẽ Đại Luân Minh Vương ỷ thế không xem mình vào đâu, chẳng coi tuyệt học Lục Mạch Thần Kiếm ra gì hay sao?”

Khô Vinh lạnh lùng đáp: “Y không dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Theo lời trong thư y rất kính phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh ao ước pho kinh này vô cùng. Đại Luân Minh Vương đã cân nhắc lắm đấy. Y biết trong chùa này không có cao nhân siêu quần xuất chúng, sách quý mà chẳng ai luyện nổi để đó thật là uổng phí.”

Bản Tham lớn tiếng nói: “Nếu y ngưỡng mộ cuốn kinh, muốn mượn về xem qua, chúng ta kính trọng y là một cao tăng cửa Phật, cùng lắm thì cũng chỉ lựa lời từ khước thì có phải tử tế không. Đằng này y lại bảo lấy về đốt đi cho kẻ đã chết rồi, thế mới đáng giận. Có phải y coi thường chùa Thiên Long lắm hay sao?”

Bản Tướng thở dài nói: “Sư đệ không nên vì thế mà đem lòng giận dữ. Ta xem Đại Luân Minh Vương không phải là hạng người càn rỡ đâu, có lẽ y học đòi công tử Quí Trát nước Ngô treo kiếm trên mộ người xưa, đủ biết y cực kỳ khâm phục Mộ Dung tiên sinh, Hỡi ôi! Bạn hiền đã qua đời, không còn bao giờ được thấy mặt cố nhân…” Nói rồi ông chậm rãi lắc đầu. Bảo Định Đế hỏi: “Bản Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh là người thế nào không?” Bản Tướng lại lắc đầu đáp: “Ta không biết, song cứ suy Đại Luân Minh Vương là nhân vật thế nào mà còn khiêm ngưỡng cũng đủ biết Mộ Dung tiên sinh phải là bậc phi thường.” Nói xong ông lặng người đi.

Bản Nhân phương trượng nói: “Cứ lời sư thúc vừa xét đoán thì thế địch lợi hại vô cùng. Chúng ta nếu như không luyện cho xong Lục Mạch Thần Kiếm e rằng không chừng bị người ta đoạt mất bảo kinh, uy danh chùa Thiên Long tan ra mây khói, Khổ một điều là luyện môn thần kiếm này chủ chốt ở nội lực, không thể chỉ trong chốc lát mà nên. Chính Minh, không phải bọn ta thấy Dự nhi bị trúng tà độc mà thõng tay không ngó ngàng gì đến, chỉ e ai nấy nội lực đều bị tổn hại quá nhiều, cường địch lại sắp đến, không còn đủ sức lực để đối phó. Xem ra y tuy bị trúng tà độc nặng thật nhưng trong vòng vài ngày không nguy gì đến tính mạng. Hãy để y tĩnh dưỡng ở đây mấy bữa, nếu bệnh tình có biến chuyển, chúng ta sẽ liệu cách chữa trị. Chờ khi đuổi xong kẻ địch, chúng ta sẽ dùng toàn lực khu trục tà độc cho y. Vậy ngươi nghĩ sao?”.

Bảo Định Đế tuy rất lo cho bệnh tình Đoàn Dự nhưng ông là người rất biết đại thể, hiểu rằng chùa Thiên Long là căn bản của họ Đoàn nước Đại Lý, mỗi khi hoàng gia gặp hoạn nạn là chùa lại dốc hết lực lượng ra cứu viện, chuyển nguy thành yên. Năm xưa gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Thượng Đức Đế soán ngôi, trung thần Cao Trí Thăng nhờ vào chùa Thiên Long hợp sức mới dẹp yên. Họ Đoàn Đại Lý lập quốc từ năm Đinh Dậu đời Ngũ Đại Thạch Tấn Thiên Phúc thứ hai, tới nay đã một trăm năm mươi tám năm, trung gian bao lần phải chịu phong ba mà xã tắc không bị nghiêng đổ phần lớn là nhờ ở chùa Thiên Long giữ vững kinh kỳ. Hôm nay chùa lâm vào tình trạng bất an thì có khác gì hoàng thành gặp cơn nguy biến? Nhà vua nghĩ vậy liền đáp: “Phương trượng thực là nhân đức, vãn bối cảm kích vô cùng. Trong công cuộc đối phó với Đại Luân Minh Vương liệu Chính Minh này có thể góp được chút lực nào chăng?”

Bản Nhân trầm ngâm một lát rồi đáp: “Kể ra thì ngươi là tay cao thủ đệ nhất trong những người họ Đoàn còn ở ngoài đời. Thêm người vào chống địch, lực lượng sẽ tăng lên nhiều. Có điều ngươi là người thế tục mà tham dự vào tranh chấp trong chốn Phật môn thì không khỏi bị Đại Luân Minh Vương cười chùa Thiên Long ta không có người.”

Khô Vinh bỗng nói: “Việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm nếu cứ riêng biệt từng người thì chúng ta đây không ai đủ nội lực làm nổi. Ta đã nghĩ tới một cách học tắt, mỗi người chỉ luyện một mạch, sáu người cùng ra tay. Tuy rằng lấy sáu địch một có thắng cũng không thượng võ, nhưng chúng ta đâu phải tỉ võ tranh hùng mà là bảo kinh hộ tự, dẫu có một trăm người đánh một người thì cũng được như thường. Có điều chùa Thiên Long này tính đi tính lại không tìm đâu ra được sáu tay cao thủ bản lĩnh tương đương nhau. Chính Minh, ngươi đến thế là vừa vặn, nhưng ngươi phải xuống tóc, mặc tăng y vào mới được.” Trưởng lão càng nói càng nhanh, tựa hồ trong lòng người phấn khởi. Tuy nhiên giọng nói vẫn lạnh lùng.

Bảo Định Đế thưa: “Chính Minh này vốn có chí nguyện xuất gia đầu Phật. Có điều thần kiếm bí ảo, Chính Minh chưa từng thấy từng nghe, trong giây lát e rằng …”

Bản Tham nói: “Công phu cơ bản của kiếm pháp này, ngươi vốn đã biết rồi, chỉ cần ghi nhớ kiếm pháp là đủ.” Bảo Định Đế không hiểu hỏi lại: “Mong phương trượng chỉ điểm.” Bản Nhân phương trượng đáp: “Ngươi ngồi xuống đây.” Bảo Định Đế ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn.

Bản Nhân tiếp: “Phép Lục Mạch Thần Kiếm không phải là đánh kiếm thật, mà là dùng chỉ lực Nhất Dương Chỉ biến hóa thành kiếm khí, hữu chất vô hình, có thể gọi là vô hình kiếm khí. Lục mạch tức là sáu mạch trên tay bao gồm Thái Âm Phế Kinh, Quyết Âm Tâm Bao Kinh, Thiếu Âm Tâm Kinh, Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Dương Minh Vị Kinh, Thiếu Âm Tam Tiêu Kinh.” Nói rồi ông lấy từ phía sau bồ đoàn Bản Quan đang ngồi ra một quyển trục.

Bản Tham cầm lấy mở ra treo lên tường, mặt vải vì lâu ngày nên đã vàng ố, trên đó vẽ một người đàn ông khỏa thân ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch vẽ màu đen, đỏ, Bảo Định Đế là một đại hành gia về Nhất Dương Chỉ, pho Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này lại lấy Nhất Dương Chỉ làm căn bản nên ông chỉ xem qua đã hiểu ngay.

Đoàn Dự ngồi dưới đất thấy trên trục gấm vẽ hình người đàn ông lõa thể, nhớ đến cuốn kinh mình làm rách mất, nghĩ thầm: “Kinh mạch huyệt đạo trên con người nam nữ có khác gì nhau, thần tiên tỉ tỉ kể cũng lạ, tại sao lại vẽ hình đàn bà khỏa thân, mà lại vẽ tướng mạo của mình là sao?”. Chàng xem ra có điều gì không ổn, dường như thần tiên tỉ tỉ muốn đem sắc đẹp để dụ dỗ người ta, khiến người ta không thể không luyện thần công ghi trong đó, mình trong lúc thần trí mơ hồ làm hủy hoại cuốn kinh, không chừng lại làm tiêu tan một trường kiếp nạn. Có điều nếu nghĩ như thế thì quả là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ nên chỉ thoáng qua trong đầu rồi thôi, không dám nghĩ ngợi thêm nữa.

Bản Nhân nói: “Chính Minh! Ngươi làm chúa tể nước Đại Lý, việc cải trang chỉ là quyền nghi nhất thời, nếu để đối phương khám phá ra thì thật là tổn hại đến quốc thể. Được bề nọ mất bề kia, nhà ngươi tự quyết định. Đến cửa Phật, đặt cho nhà ngươi pháp hiệu Bản Trần.” Bảo Định Để chắp tay đáp: “Tạ ơn sư phụ đã ban pháp danh cho.” Trong Phật môn không kể đến vai vế ngoài đời. Bản Nhân phương trượng tuy là thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng Bảo Định Đế được Khô Vinh thế độ nên thành sư đệ của Bản Nhân. Kế đó Bảo Định Đế đi thay tăng bào, tăng hài biến ngay thành một vị cao tăng.

Khô Vinh đại sư lại nói: “Không chừng hôm nay Đại Luân Minh Vương sẽ đến. Bản Nhân, ngươi đem những bí ảo trong Lục Mạch Thần Kiếm truyền cho Bản Trần.” Bản Nhẫn đáp: “Vâng!” Ông chỉ vào đồ hình về kinh mạch treo trên tường nói: “Bản Trần sư đệ, trong sáu mạch đây, ngươi chuyên tập Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh Mạch, chân khí từ Đan Điền chạy vào các huyệt nơi cánh tay và vai, từ Thanh Lãnh Uyên đến huyệt Thiên Tỉnh nơi khuỷu tay, sau đó chạy tới Tứ Độc, Tam Dương Lạc, Hội Tông, Ngoại Quan, Dương Trì, Trung Chử, Dịch Môn, ngưng tụ chân khí từ ngón tay vô danh theo huyệt Quan Xung mà phóng ra.”

Bảo Định Đế y theo lời giảng, vận động nội lực từ ngón tay vô danh phát ra những tiếng vù vù, chân khí từ huyệt Quan Xung vọt ra mãnh liệt.

Khô Vinh đại sư vui mừng nói: “Nội lực của ngươi không phải tầm thường. Kiếm pháp này tuy biến ảo khôn lường, song kiếm khí đã thành hình thì có thể tùy ý mà vận dụng.”

Bản Nhân nói: “Cứ theo bản ý của Lục Mạch Thần Kiếm thì phải do một người cùng sự cả sáu mạch kiếm khí. Có điều bây giờ là thời mạt thế, võ học suy vi, không có ai nội lực đủ hùng hậu để làm chuyện đó, chúng ta đành phải sáu người chia ra sử dụng sáu mạch kiếm khí. Sư thúc chuyên luyện Thiếu Thương Kiếm ở ngón cái, ta luyện Thương Dương Kiếm ở ngón trỏ, Bản Quan sư huynh luyện Trung Xung Kiếm ở ngón giữa, Bản Trần sư đệ luyện Quan Xung Kiếm ở ngón vô danh, Bản Tướng sư huynh luyện Thiếu Xung Kiếm ở ngón út, Bản Tham sư đệ luyện Thiếu Trạch Kiếm ở ngón út tay trái. Việc không thể trì hoãn được nữa, chúng ta bắt đầu luyện ngay là vừa.”

Phương trượng nói xong mở hết sáu bức đồ hình treo lên bốn bức tường, hình vẽ Thiếu Thương Kiếm ngay trước mặt Khô Vinh đại sư. Trên đồ hình nào cũng vẽ vô số đường ngang đường dọc cắt nhau, đường vòng tròn, đường cánh cung. Mỗi vị đều theo đồ hình mà chăm chú luyện đường kiếm khí của mình, giơ ngón tay nào điểm nào vạch lên không.

Đoàn Dự len lén ngồi lên, lại thấy chân khí trong người dâng tràn, so với khi trước còn tệ hại hơn nhiều. Thì ra Bảo Định Đế cùng năm nhà sư chùa Thiên Long lại đem một lượng nội lực đáng kể truyền vào người chàng. Nhưng chàng thấy bá phụ và những người khác đang định thần, dụng công luyện kiếm khí nên không dám lên tiếng sợ kinh động mọi người. Chàng ngồi ngơ ngẩn một lúc lâu, thấy trong người càng thêm bứt rứt buồn tẻ, ngẫu nhiên nhìn lên đồ hình vẽ kinh mạch treo trước mặt Khô Vinh đại sư. Chàng coi một hồi bỗng thấy cánh tay phải của mình giật giật liên tiếp, tưởng như có con gì ở trong da thịt muốn chui ra ngoài. Nơi con vật muốn chui ra đó chính là huyệt Khổng Tối ghi trên đồ hình.

Đường kinh mạch Thủ Thái Âm Phế Kinh chàng đã từng luyện qua, những huyệt đạo trên tường giống hệt những huyệt ghi trên hình người đàn bà khỏa thân, nhưng phương hướng thì không giống. Chàng nhìn theo một đường dây đỏ trên bức vẽ, từ huyệt Khổng Tối đến huyệt Đại Uyên nhảy trở về Xích Trạch, rồi chạy xuống dưới tới huyệt Ngư Tế, tuy chạy ngược chạy xuôi nhưng luồng chân khí tả xung hữu đột trong cơ thể vẫn thuận theo tâm ý, chạy ngược lên đến khuỷu tay rồi chạy thẳng lên cánh tay. Chân khí thuận theo kinh mạch mà vận hành, toàn thân chàng đang bứt rứt khó chịu bỗng nhiên trở nên khoan khoái. Chàng chuyên tâm ngưng chí đem luồng chân khí chuyển vào huyệt Đản Trung.

Thế nhưng kinh mạch vận hành không giống như ở người đàn bà khỏa thân trên bức trục gấm nên luồng chân khí này không dễ dàng chạy vào huyệt Đản Trung. Một hồi sau chàng không chịu nối được nữa phải kêu lên mấy tiếng “Ôi chao!”. Bảo Định Đế chợt nghe tiếng la cấp bách vội hỏi: “Dự nhi! Con làm sao vậy?” Đoàn Dự đáp: “Cháu thấy trong người không biết bao nhiêu luồng chân khi đang chạy nhộn lên không thể chịu nổi. Cháu theo các sợi đỏ trên bức hình của thái sự bá để đưa khí về huyệt Đản Trung, nhưng chao ôi… huyệt Đản Trung càng lúc càng đầy ứ, không đưa thêm vào được. Cháu … cháu … huyệt Đản Trung của cháu muốn nổ tung ra.”

Cái cảm giác đó chỉ có tự mình mình biết, chàng thấy ngực căng phồng lên tưởng như sắp vỡ đến nơi, còn người ngoài trông chẳng thấy chi khác thường. Bảo Định Đế biết rằng tu tập nội công ắt sẽ có những cảm giác lạ lùng, nhưng thấy huyệt Đản Trung căng phồng muốn vỡ tung ra thì nội lực phải hùng hậu vô cùng, ít nhất cũng phải tu tập hai chục năm. Còn Đoàn Dự chưa từng học qua nội công, trạng thái này xuất hiện thì hẳn là do tà độc trong người đến lúc phát động. Bảo Định Đế kinh hoảng nghĩ thầm, nếu không dẫn khí vào chỗ chứa tất sinh tai vạ, nhưng lại e đưa tà khí vào sâu nội phủ sau này trục xuất còn khó khăn vạn lần. Nhà vua bình nhật giải quyết mọi vấn đề nghi nan một cách quả quyết mau lẹ, song đứng trước mối họa phúc một đời của Đoàn Dự, chỉ sai một chút là lập tức nguy hiểm đến tính mạng chàng nên không khỏi do dự. Ông thấy Đoàn Dự hai mắt hào quang tán loạn dường như sắp nối cơn điên, không còn đủ thì giờ nghĩ tới nghĩ lui được nữa, bèn quyết định tạm thời cứu nguy trước mắt rồi sẽ liệu. Ông bèn nói: “Dự nhi! Ta dạy con phép dẫn khí về nơi trống rỗng.” Ông liền truyền thụ phương pháp đạo khí qui hư này cho chàng.

Đoàn Dự không đợi ông nói xong, nghe câu nào lập tức áp dụng ngay câu ấy. Bí quyết nội công của họ Đoàn nước Đại Lý quả tinh diệu hơn đời, chàng vừa theo đó mà làm, bốn luồng chân khí đang cuồn cuộn ở bên ngoài liền tích chứa vào trong tạng phủ. Đoàn Dự đầu tiên hút được toàn bộ nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm, sau lại hút một phần nội lực của các cao thủ Đoàn Diên Khánh, Hoàng Mi tăng, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Thôi Bách Tuyền, hôm nay lại được thêm một ít của năm đại cao thủ là Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham, Bản Nhân nên chân khí trong người rất dồi dào, nội lực mạnh mẽ có thể nói trên đời ít ai bì kịp. Bây giờ chàng được bá phụ chỉ điểm, đem các luồng chân khí này tàng trữ nơi tạng phủ, cảm thấy thân thể thư thái nhẹ nhàng tựa hồ như muốn bay bổng lên không.

Bảo Định Đế thấy Đoàn Dự mặt tươi như hoa nở, trong lòng vẫn không khỏi lo ngại, chỉ sợ tà khí từ đây cố kết trong nội tạng khó lòng khu trừ tuyệt diệt mang lụy suốt đời, bất giác thở dài sườn sượt.

Khô Vinh đại sư thấy Bảo Định Đế đã truyền dạy công phu xong liền bảo: “Bản Trần! Việc đời do tiền định, họa phúc bởi lòng người. Ngươi bất tất quá lo cho người khác, mau luyện Thiếu Dương Kiếm đi.” Bảo Định Đế đáp: “Vâng!” Bảo Định Đế cố gắng trấn định tâm thần rồi tiếp tục nghiên cứu kiếm pháp.

Trong thân thể Đoàn Dự chân khí cực kỳ sung mãn, đầy rẫy khắp nơi không thể chốc lát thu về hết ngay được, song chàng đã biết phương pháp, thực hành mỗi lúc một thuần thục, về sau càng thu càng nhanh. Trong thiền phòng bảy người ai cũng lo hành công không để ý phương đông trời đã tờ mờ sáng.

Bỗng nghe tiếng gà gáy vọng lại, Đoàn Dự thấy trong người mình không còn chân khí loạn động, bèn đứng dậy cử động chân tay, vẫn thấy bá phụ cùng năm vị cao tăng chuyên tâm luyện kiếm. Chàng không dám mở cửa ra ngoài, cũng không dám lên tiếng, e làm kinh động mọi người. Không có việc gì cũng buồn, chàng lại trông lên đồ hình của bá phụ xem thử, rồi quay sang nhìn đồ hình Thiếu Dương Kiếm. Tuy chàng đã nghe thái sư bá nói là Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia tử đệ, nhưng nghĩ thầm loại kiếm pháp cao thâm thế này mình làm sao học nổi, có xem cũng chỉ xem chơi cho biết. Chàng coi đến lúc tâm thần chuyên chú, đột nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ đan điền xông đến cánh tay, thuận theo đường chỉ đỏ đến huyệt Quan Xung ở ngón tay vô danh. Chàng không biết cách vận khí phóng ra, chỉ thấy đầu ngón tay vô danh căng phồng thật khó chịu, lại nghĩ thầm: “Thôi ta phải đem luồng khí này trở về mới được”. Chàng vừa nghĩ vậy, lập tức luồng chân khí đi theo kinh mạch chạy trở về đan điền.

Đoàn Dự biết đâu mình vừa vô ý học được một phương pháp hành công thượng thừa, chỉ cảm thấy chân khí chạy tới chạy lui trên cánh tay, muốn sao được vậy, thật là thích thú. Trong ba nhà sư ở Mâu Ni Đường, chàng thấy Bản Tướng vui vẻ dễ thân cận nhất nên quay sang nhìn đồ hình Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh của ông ta. Kinh mạch này chạy từ huyệt Cực Tuyền ở dưới nách đi đến huyệt Thanh Linh ở trên khuỷu tay ba tấc, đến huyệt Thiếu Hải ở chỗ lõm dưới khuỷu, đi qua các huyệt Linh Đạo, Thông Lý, Thần Môn, Thiếu Phủ tận cùng ở huyệt Thiếu Xung nơi ngón tay út. Chàng ngẫm nghĩ, tự nhiên thấy một luồng chân khí theo kinh mạch mà vận hành, có điều nhanh chậm rộng hẹp không như ý, có khi thì được, có lúc lại không, nghĩ tại mình công lực chưa được bao nhiêu nên cũng không để ý tới nữa.

Mất nửa ngày nghiền ngẫm, Đoàn Dự đã thông suốt được hết kinh mạch trên sáu bức đồ hình. Chàng thấy tinh thần sảng khoái, cũng chẳng có việc gì làm nên lại quay qua xem hình vẽ của sáu đường kiếm pháp Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch. Chỉ thấy chỉ đen chỉ đỏ, ngang dọc giao thoa, đầu mối thật khó mà dò, nghĩ thầm: “Những điểm chiêu rắc rối thế này thì làm sao mà nhớ được? Huống chi thái sư bá đã bảo rằng, tục gia tử đệ không được học kia mà”. Chàng bèn không xem nữa, trong bụng thấy đói lại nghĩ: “Sao mãi không thấy mấy chú tiểu mang cơm chay đến? Mình phải ra ngoài tìm chút gì ăn cho đỡ đói.” Ngay lúc đó mũi chàng ngửi thấy mùi gỗ đàn hương thơm ngát, tiếp theo là tiếng tụng niệm văng vắng bằng Phạn ngữ, từ xa truyền tới tiếng được tiếng mất.

Khô Vinh đại sư buồn rầu nói: “Thiện tai! Thiện tai! Đại Luân Minh Vương đã tới. Các ngươi luyện kiếm pháp kết quả ra sao?” Bản Tham đáp: “Tuy chưa thuần thục, nhưng xem chừng cũng đủ để nghinh địch.” Khô Vinh đại sư lại bảo Bản Nhân: “Ta không đi được! Ngươi ra mời Đại Luân Minh Vương vào Mâu Ni Đường nói chuyện.” Bản Nhân vâng lời đi ra.

Bản Quan nhặt năm chiếc bồ đoàn lên xếp thành một hàng ở phía đông, bên phía tây để một cái bồ đoàn khác, rồi chính mình ngồi vào chiếc đầu, Bản Tướng thứ hai, Bản Tham thứ tư, để trống chiếc thứ ba cho Bản Nhân phương trượng. Bảo Định Đế ngồi ở chiếc đệm thứ năm. Đoàn Dự không được ngồi, đứng phía sau Bảo Định Đế. Mọi người ôn lại đổ hình một lần cuối rồi mới cuộn lại, để ở trước mặt Khô Vinh đại sư.

Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự: “Dự nhi! Lát nữa sẽ xảy ra cuộc ác chiến, trong nhà kiếm khí tung hoành khắp nơi rất là nguy hiểm. Ta không thể phân tâm ra bảo vệ con được. Con đi ra ngoài chơi thì hơn.” Đoàn Dự rất đỗi băn khoăn nghĩ bụng: “Nghe lời của mọi người thì gã Đại Luân Minh Vương này võ công cực kỳ lợi hại, mà bá phụ mình bữa nay mới luyện Quan Xung kiếm pháp lần đầu, chưa chắc đã địch được lão, nếu sơ sẩy thì biết làm sao?”. Nghĩ vậy chàng đáp: “Bá bá ơi! Cháu… cháu phải ở luôn bên cạnh bá bá. Mình bá bá ở lại đấu kiếm với họ, cháu chẳng… yên tâm chút nào.” Chàng nói đến mấy tiếng sau cùng, thanh âm nghẹn ngào. Bảo Định Đế cũng động lòng nghĩ thầm: “Thằng bé này quả là có hiếu”.

Khô Vinh đại sư gọi: “Dự nhi! Cháu lại ngồi trước mặt ta đây! Đại Luân Minh Vương có lợi hại đến đâu cũng không động đến chân lông cháu được.” Giọng nói đại sự lạnh như băng, song ngữ khí có vẻ ngạo nghễ.

Đoàn Dự vâng lời, khom lưng đến ngồi trước mặt Khô Vinh nhưng không dám ngoảnh lại nhìn, chỉ quay mặt vào vách. Thân hình Khô Vinh cao hơn chàng nhiều, che lấp hẳn chàng đi. Bảo Định Đế vừa cảm kích lại vừa yên dạ. Nhà vua nghĩ mới rồi Khô Vinh đại sư dùng Khô Thiền Công cạo đầu cho ông, thần công đó có thể nói là trên đời không ai bì kịp, muốn bảo vệ Đoàn Dự thật quả có thừa.

Sau đó Mâu Ni Đường yên lặng như tờ.

Lát sau nghe tiếng Bản Nhân phương trượng mời: “Minh Vương pháp giá đã quang lâm, xin mời quá bộ lại Mâu Ni Đường.” Rồi thấy tiếng người khác đáp: “Xin phương trượng đi trước cho tôi theo gót.” Đoàn Dự nghe giọng nói có vẻ ôn hòa, khiêm nhường đúng lễ, tuyệt không phải là hạng cường hung ác bá. Lại nghe tiếng chân có đến chục người rồi tiếng Bản Nhân phương trượng mở cửa nói: “Xin mời Minh Vương.”

Đại Luân Minh Vương cất bước tiến vào Phật đường, nói: “Xin phép.” Ông ta hướng về phía Khô Vinh chắp tay thi lễ nói: “Kẻ vãn bối bên nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí xin tham kiến tiền bối đại sư. “ Đoạn đọc luôn bốn câu kệ: “Hữu thường vô thường, Cây héo cây không, Nam Bắc Tây Đông, Không có không không.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không biết bốn câu kệ này có ngụ ý gì?” Còn Khô Vinh đại sư không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Đại Luân Minh Vương bác học tinh thâm, quả nhiên danh bất hư truyền. Y vừa mới gặp mặt lần đầu đã nói ngay được lai lịch lối tu khô thiền của ta”.

Năm xưa khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn giữa mấy cây bà la tại thành Câu Thi Na thì bốn phía đông tây nam bắc mỗi hướng có hai cây, một cây tươi, một cây khô cho nên gọi là “tứ khô tứ vinh”. Cứ theo kinh Phật chép: hai cây ở hướng đông tượng trưng cho thường và vô thường, hai cây ở phương nam tượng trưng cho lạc và vô lạc, hai cây ở phương tây tượng trưng cho ngã và vô ngã, còn hai cây ở phương bắc tượng trưng cho tịnh và vô tịnh. Những cây tươi tốt tượng trưng cho bản tướng tức là thường, lạc, ngã, tịnh; những cây khô héo tượng trưng cho thực tướng tức là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Phật Như Lai nhập diệt ở trong tám cảnh giới đó có ý là phi khô, phi vinh, phi giả, phi không.

Khô Vinh đại sư trên mười năm trời tu luyện khô thiền mới được đến cảnh giới “bán khô, bán vinh” chứ chưa được đến cảnh giới cao hơn là “phi khô phi vinh” hay “diệc khô diệc vinh”, nên vừa nghe mấy câu kệ của Đại Luân Minh Vương không khỏi giật mình đáp: “Minh Vương từ xa đến đây, lão tăng không ra đón được, xin mở lượng từ bi.”

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí đáp: “Uy danh chùa Thiên Long tiểu tăng bấy lâu ngưỡng mộ. Hôm nay được diện yết tôn nghiêm hoan hỉ vô cùng.”

Bản Nhân phương trượng nói: “Xin mời Minh Vương ngồi.” Cưu Ma Trí cảm tạ ngồi xuống.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không biết vị Đại Luân Minh Vương này hình dáng thế nào?”. Chàng len lén nghiêng đầu nhìn qua bên hông Khô Vinh đại sư thấy một nhà sự mặc tăng bào màu vàng ngồi trên chiếc bồ đoàn phía tây. Y chưa đến năm mươi tuổi, áo vải giày rơm, vẻ mặt vui tươi dường như minh châu bảo ngọc tự phát hào quang. Chàng mới thấy mặt đã sinh lòng kính cẩn, muốn được thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cửa ra ngoài thấy có tám chín hán tử, mặt mày hung dữ ghê sợ trông không phải người Trung Thổ, chắc là những người tùy tùng mà Minh Vương đem từ Thổ Phồn qua.

Cưu Ma Trí chắp tay nói: “Tuy đức Phật có dạy rằng: không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, song tiểu tăng tư chất ngu muội chưa thông suốt lẽ yêu, ghét, sống, chết. Bình sinh tiểu tăng có một người bạn tri giao, là người đất Cô Tô nhà Đại Tống, họ Mộ Dung, tên đơn là Bác. Năm xưa tiểu tăng có duyên gặp gỡ, hai bên đàm luận chuyện võ nghệ. Vị Mộ Dung tiên sinh kia võ học trong thiên hạ không môn nào không am tường, không chỗ nào không tinh thông. Tiểu tăng được ông ta chỉ điểm mấy ngày, những chỗ nghi ngờ đều được giải đáp, lại được Mộ Dung tiên sinh khảng khái tặng cho bí kíp thượng thừa, cái ơn sâu xa đó không thể nào quên được. Không ngờ bậc đại anh hùng chẳng được sống lâu, vội về cực lạc. Tiểu tăng có điều thỉnh nguyện khó nghe, xin các vị trưởng lão mở lượng từ bi cho.”

Bản Nhân phương trượng nói: “Minh Vương quen biết Mộ Dung tiên sinh cũng là nhân duyên một lúc mà thôi. Nay duyên phận đã hết thì thôi, hà tất phải miễn cưỡng làm gì. Mộ Dung tiên sinh đã về cực lạc, lễ Phật nơi tòa sen, còn để ý đâu đến chuyện võ học chốn nhân gian? Minh Vương làm việc này chẳng hóa ra vẽ rắn thêm chấn?”

Cưu Ma Trí đáp: “Phương trượng chỉ điểm quả thực là chí lý. Có điều tiểu tăng tính tình tham luyến chấp nê, bế quan bốn mươi ngày vẫn không sao quên được người tri kỷ. Năm xưa Mộ Dung tiên sinh có đề cập đến kiếm pháp khắp thiên hạ, xác nhận môn Lục Mạch Thần Kiếm tại chùa Thiên Long đứng vào bậc nhất, tiếc rằng chưa dịp thấy qua khiến phải hối tiếc cả một đời.”

Bản Nhân nói: “Tệ tự ở tận thiên nam hẻo lánh, được Mộ Dung tiên sinh quá yêu quả là vinh hạnh. Thế nhưng sao năm xưa Mộ Dung tiên sinh không thân hành tới đây mượn kiếm kinh về xem qua cho biết?”

Cưu Ma Trí thở dài não ruột, thay đổi sắc mặt, lặng yên hồi lâu rồi lại nói: “Mộ Dung tiên sinh cũng biết kinh này là vật chí bảo trấn tự, dù có đến mượn chắc cũng không được. Người còn nói rằng họ Đoàn Đại Lý tuy phú quí đến cực điểm mà không quên nghĩa khí giang hồ, có lòng yêu thương trăm họ, nhân đức thấm khắp lê dân, tiên sinh không tiện đến trao đổi hay cưỡng đoạt.” Bản Nhân tạ rằng: “Đa tạ thịnh tình Mộ Dung tiên sinh quá khen. Nếu Mộ Dung tiên sinh đã để họ Đoàn nước Đại Lý lọt vào mắt xanh như thế, Minh Vương lại là tri kỷ với tiên sinh tưởng cũng nên nghĩ tới di chí của người đã khuất.”

Cưu Ma Trí đáp: “Chỉ vì năm xưa tiểu tăng đã trót khoe với tiên sinh rằng: Tiểu tăng là quốc sư nước Thổ Phồn chưa từng quen biết họ Đoàn Đại Lý, Thổ Phồn Đại Lý hai nước cũng chưa từng có bang giao. Nếu như Mộ Dung tiên sinh không tiện thân hành đến lấy thì để tiểu tăng thay mặt làm cho. Đại trượng phu một lời nói ra, dẫu chết cũng không hối hận. Tiểu tăng đã hứa nhất quyết không dám sai lời.” Y nói xong giơ tay vỗ nhẹ ba cái. Từ ngoài cửa hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương vào, đặt dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp rương tự nhiên mở ra, bên trong có một cái hộp ánh hoàng kim chói lọi. Y cúi xuống, cầm cái hộp lên tay.

Bản Nhân nghĩ thầm: “Bọn ta đã là người thoát vòng tục lụy không lẽ còn tham lam những đồ kỳ trân, dị bảo. Hơn nữa họ Đoàn làm vua một nước đã hơn trăm rưỡi năm nay, thiếu gì kim ngân châu báu?” Cưu Ma Trị mở nắp hộp ra, chỉ có ba quyển sách cũ, Y tiện tay lật mấy tờ, bọn Bản Nhân liếc mắt nhìn qua thấy trong sách có vẽ hình viết chữ bằng mực, bằng son. Cưu Ma Trí đăm đăm nhìn ba cuốn sách thốt nhiên nước mắt đầm đìa ướt cả bầu áo, nét mặt sầu thảm vô cùng. Bọn Bản Nhân đều lấy làm lạ.

Khô Vinh đại sư nói: “Minh Vương vẫn còn nghĩ đến người bạn thuở xưa, trần duyên chưa sạch, há không thẹn với hai chữ cao tăng?

Đại Luân Minh Vương cúi đầu đáp: “Đại sư là bậc đại trí tuệ, đại thần thông, tiểu tăng bì thế nào được? Ba quyển võ công yếu quyết này do chính tay Mộ Dung tiên sinh soạn ra, ghi rõ cách tập luyện và cách phá giải bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.”

Mọi người nghe nói cả kinh nghĩ thầm: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm lừng danh thiên hạ, nghe nói từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập đến nay, trừ một vị cao tăng đầu đời Tống kiêm được hai mươi ba môn, còn chưa có người thứ hai luyện được trên hai mươi tuyệt kỹ. Nói Mộ Dung tiên sinh thông hiểu toàn bộ bảy mươi hai môn cũng đã khó tin rồi, lại còn biết cả cách phá giải thì không thể nào nghĩ tới.”

Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp: “Được Mộ Dung tiên sinh tặng cho ba cuốn kỳ thư này, tiểu tăng nghiên cứu quả thật ích lợi rất nhiều. Nay xin đưa sang đây đổi lấy Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của quí tự. Các vị đại sư có thể tất cho thì tiểu tăng mới hoàn thành được lời ước hẹn năm xưa, lòng cảm kích nói sao cho xiết!”

Bản Nhân phương trượng không nói gì, nghĩ thầm: “Nếu quả nhiên ba cuốn sách này ghi chép đầy đủ bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì chùa Thiên Long này sau khi học được, võ công không chỉ ngang hàng với phái Thiếu Lâm mà còn có phần cao hơn. Chùa Thiên Long từ nay thông hiểu tất cả tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm nhưng phái Thiếu Lâm làm sao biết được tuyệt kỹ của chùa Thiên Long?”.

Cưu Ma Tí nói tiếp: “Trước khi quí tự ban cho bảo kinh vẫn có thể để lại bản sao không thiệt hại gì, mà tiểu tăng được các đại sư gia ơn, thương xót cả đến nắm xương trắng dưới mồ. Đó là một điều lợi. Tiểu tăng bái lĩnh bảo kinh xin niêm phong lại lập tức, quyết không xem trộm, tự mình đem đến trước mộ Mộ Dung tiên sinh phần hóa. Tuyệt kỹ của quý tự không tiết lộ cho ai biết cả, đó là hai điều lợi. Các vị đại sư trong quá tự võ học uyên thâm, vốn chẳng cần đến những môn của người ngoài, nhưng khốn nỗi đá núi vẫn có thể đem đập vỡ được ngọc, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm cũng có chỗ độc đáo của nó. Trong đó có Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, và Vô Tướng Kiếp Chỉ ba loại chỉ pháp, cùng với Nhất Dương Chỉ của quý tự đây có thể bồi bổ cho nhau. Đó là ba điều lợi.”

Bọn Bản Nhân khi nhận được lá thư viết bằng vàng là của y thoạt nghĩ rằng Cưu Ma Trị mưu toan cưỡng đoạt bảo vật trấn tự của chùa Thiên Long, quả thật ngang ngược, thế nhưng đến lúc này thấy y nói năng rành rọt, xem ra có tình có lý, tựa hồ chùa Thiên Long được lợi rất nhiều mà không thua thiệt gì, lại còn được y tự tay mang đến một món lễ vật hậu hĩ. Bản Tướng đại sư vốn tính dễ dãi nhất, trong bụng đã có ý ưng thuận. Song nói về tôn ti thì trên còn có sư thúc, về địa vị phải nhường phương trượng nên không dám nói ra.

Cưu Ma Trí nói tiếp: “Tiểu tăng hãy còn ít tuổi, kiến thức hẹp hòi, lời nói chưa đủ thủ tín cùng các vị đại sư. Vậy xin đem ba môn chỉ pháp trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm ra mà vụng về phô trương trước mặt quý vị.” Ý nói xong đứng lên rào đón: “Năm xưa tiểu tăng chẳng qua nhân lúc cao hứng nên tập thử, công phu còn thô sơ lắm, mong được các vị chỉ điểm thêm. Lộ chỉ pháp này là Niêm Hoa Chỉ.” Nói xong lão đưa ngón cái và ngón trỏ bên tay phải ra, nhẹ nhàng để gần vào nhau, tựa hồ đang cầm một đóa hoa tươi. Nét mặt mỉm cười lão lại đưa những ngón tay trái ra búng nhẹ qua bên phải.

Trong Mâu Ni Đường trừ Đoàn Dự ra, còn toàn là những tay đại hành gia về chỉ pháp, thấy lối xuất thủ của Cưu Ma Trí cực kỳ nhẹ nhàng êm dịu. Mỗi lần tay trái búng ra tựa hồ gảy những hạt sương đọng trên hoa, lại tỏ vẻ không dám đụng mạnh, sợ cánh hoa rụng xuống, miệng vẫn ung dung mỉm cười thật là từ hòa sảng khoái. Nguyên kinh Phật Thiền tông có chép rằng: Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp trên núi Linh Sơn, tay cầm bông hoa ba la sắc vàng đưa lên, mọi người lặng thinh không nói, chỉ có Ca Diếp cười rạng rỡ. Đức Thích Ca biết Ca Diếp đã lĩnh ngộ được tâm pháp liền nói: “Ta có Chính Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Pháp Môn, Thực Tướng Vô Tướng, Vi Diệu Pháp Môn không chép vào sách, nay truyền cho Ca Diếp.” Tâm truyền đốn ngộ là yếu chỉ của Thiền Tông. Phái Thiếu Lâm thuộc về Thiền Tông nên môn Niêm Hoa Chỉ này lại càng nghiên cứu tinh vi.

Lúc Cưu Ma Trí búng ngón tay chưa thấy gì kỳ lạ. Lão búng liền một lúc mấy chục cái rồi giơ tay áo lên thổi thì thấy những mảnh vải tròn lớn bằng con cờ bay phất phới, tay áo lộ ra đến mấy chục chỗ thủng. Thì ra lúc lão bùng ngón tay là dùng Niêm Hoa Chỉ điểm vào tay áo cho thủng rồi. Kinh lực âm nhu cực độ, thoạt nhìn không ai biết, lúc thổi vào những mảnh áo bay tung, công lực mới lộ ra.

Bọn Bản Nhân và Bảo Định Đế thấy vậy đều lấy làm kinh dị nghĩ thầm: “Ta dùng Nhất Dương Chỉ điểm cho thủng áo thì chẳng có gì là khó. Song đưa ngón tay ra một cách mềm mại, nét mặt vẫn vui vẻ tươi cười mà vận động nội lực mạnh đến thế thì mình không làm được. Môn Niêm Hoa Chỉ này kình lực âm nhu, quả thực có chỗ độc đáo đáng học hỏi.”

Cưu Ma Trí tươi cười nói: “Xấu hổ, xấu hổ! Môn Niệm Hoa Chỉ của tiểu tăng quả vụng về, còn kém Huyền Độ đại sư chùa Thiếu Lâm xa lắm. Đến môn Đa La Diệp Chỉ, chắc lại còn sai lạc hơn nữa.” Dứt lời Cưu Ma Trí chuyển thân đi vòng quanh cái rương gỗ đặt dưới đất, mười đầu ngón tay liên tiếp điểm ra, những miếng gỗ tung lên không ngớt tựa như lá rụng hoa bay. Chớp mắt cái rương đã nát vụn, rơi xuống thành một đống.

Bọn Bảo Định Đế coi việc phá nát cái rương gỗ chẳng có chi kỳ dị, nhưng cả những đai sắt, bản lề đồng mà chỉ lực cũng đánh gãy vụn được thì không khỏi kinh hãi.

Cưu Ma Trí cười nói: “Tiểu tăng trình diễn môn Đa La Diệp Chỉ có hơi bá đạo, công phu luyện tập hãy còn thiển cận.” Y vừa nói vừa thủ tay vào trong áo, thế mà thốt nhiên mấy mảnh gỗ vỡ tự nhiên bay lên, tựa hồ có một cái gậy vô hình khuấy động. Nét mặt Cưu Ma Tí vẫn ôn hòa tươi cười, tăng bào rộng thùng thình vẫn không lay động mảy may. Thần tình chỗ chỉ lực bên trong tay áo phóng ngầm ra, tuyệt không lộ hình tích. Bản Tướng không nhịn được bất giác trầm trồ: “Vô Tướng Kiếp Chỉ quả là danh bất hư truyền. Bội phục! Bội phục!” Cưu Ma Trí lễ phép đáp: “Đại sư quá khen. Mảnh gỗ kia bay tung lên đã là hữu tướng rồi. Nếu muốn cho thực hợp với danh, luyện đến mức vô hình vô tướng thì phải hết đời chưa chắc thành tựu.” Bản Tướng đại sư hỏi: “Trong quyển kỳ thư Mộ Dung tiên sinh để lại, quả có cách phá giải Vô Tướng Kiếp Chỉ ư?” Cưu Ma Trí đáp: “Có chứ! Phép phá giải cũng có tên giống như pháp danh của đại sư.” Bản Tướng trầm ngâm một hồi rồi nói: “Ô, lấy bản tướng phá vô tướng, thực là cao minh.”

Bản Nhân, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham bốn người thấy Cưu Ma Tí thi diễn ba môn chỉ lực, ai nấy đều động lòng, biết rằng ba quyển kỳ thư này quả có chép bảy mươi hai tuyệt kỹ lừng danh thiên hạ của chùa Thiếu Lâm, liệu có nên đem Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đánh đổi hay không quả là khó nghĩ. Ai nấy đều trù trừ.

Bản Nhân nói: “Bạch sư thúc! Minh Vương từ xa tới đây quả có lòng thành. Ý kiến sư thúc thế nào xin chỉ thị cho!”

Khô Vinh đại sư hỏi: “Bản Nhân, chúng ta luyện công tập nghệ là để làm gì?” Bản Nhân phương trượng không ngờ sư thúc lại hỏi như thế, không khỏi ngạc nhiên đáp: “Cốt yếu là để hoằng dương đạo pháp, bảo vệ quốc gia.” Khô Vinh lại hỏi: “Nếu như ngoại ma đến mà đạo pháp mình hãy còn thiển cận không đủ điểm hóa, không thể không ra tay hàng phục thì phải dùng cách gì?” Bản Nhân đáp: “Nếu bất đắc dĩ phải ra tay thì phải dùng Nhất Dương Chỉ.” Khô Vinh đại sư hỏi tiếp: “Ngươi luyện Nhất Dương Chỉ đã đến bậc nào?” Bản Nhân toát mồ hôi trán đáp: “Đệ tử ngu muội lại thiếu chuyên cần nên mới luyện đến bậc thứ tư.” Khô Vinh đại sư lại hỏi: “Theo ngươi thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý so với ba loại chỉ pháp Niêm Hoa Chi, Đa La Diệp Chi, Vô Tướng Kiếp Chỉ của Thiếu Lâm ai hơn ai kém?” Bản Nhân đáp: “Chỉ pháp không có hơn kém, công phu rèn luyện có kẻ cao người thấp.” Khô Vinh đại sư nói: “Đúng lắm. Giả tỉ mà môn Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện được đến tuyệt đỉnh thì sẽ ra sao?” Bản Nhân đáp: “Đến mức đó thì uyên thâm như biển cả khôn lường. Đệ tử không dám nói càn.” Khô Vinh đại sư nói: “Tỷ dụ như ngươi thọ đến trăm tuổi, sẽ luyện được tới bậc thứ mấy?” Bản Nhân mồ hôi trán rơi tong tỏng xuống đất, run run đáp: “Đệ tử không biết.” Khô Vinh đại sự hỏi thêm: “Liệu có đến tuyệt đỉnh chăng?” Bản Nhân đáp: “Quyết không thể được.” Khô Vinh đại sư lặng thinh không nói thêm nữa.

Bản Nhân nói: “Sư thúc dạy chí phải. Môn Nhất Dương Chỉ của mình còn chưa luyện được đến nơi đến chốn thì mong muốn có thêm võ học kỳ kinh của người ngoài làm gì? Minh Vương đường xa cực nhọc đến đây tệ tự xin thết tiệc chay khoản đãi.” Câu nói đó rõ ràng có ý cự tuyệt.

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí thở dài sườn sượt nói: “Chỉ vì năm xưa tiểu tăng trót lỡ miệng một câu, không thì nay Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, việc cầu Lục Mạch Thần Kiếm Kinh có được hay không cũng chẳng quan hệ gì. Hôm nay tiểu tăng hỏi câu này thật là vô lễ: Lục Mạch Thần Kiếm nếu quả thực tinh diệu như Mộ Dung tiên sinh đã nói, e rằng quý tự đây không ai luyện nổi. Giả tỷ có người luyện thành rồi thì chưa chắc gì kiếm pháp đó đã tinh diệu như tiên sinh tưởng tượng”

Khô Vinh đại sư nói: “Lão tăng cũng có một nghi vấn mong Minh Vương chỉ điểm.” Cưu Ma Trí đáp: “Không dám!” Khô Vinh đại sư nói: “Việc tệ tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, đến ngay cả tục gia đệ tử trong họ Đoàn cũng không hay biết. Mộ Dung tiên sinh từ đâu mà nghe được chuyện này?” Cưu Ma Trí đáp: “Về võ học trong thiên hạ Mộ Dung tiên sinh cực kỳ uyên bác. Các bí kỹ võ công của các môn phái nhiều khi chính chưởng môn cũng không hiểu bằng Mộ Dung tiên sinh. Cái thuật gậy ông đập lưng ông chính là từ đó mà ra. Thế nhưng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý ông ta vẫn không thể nào biết được, thành thử cả đời uất ức mang theo mối hận xuống tuyền đài.”

Khô Vinh đại sư “hừ” một tiếng không nói thêm nữa. Bọn Bảo Định Đế đều nghĩ thầm: “Nếu như y biết Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ e y sẽ quay lại dùng chính thuật này để tiêu diệt người trong họ Đoàn”.

Bản Nhân phương trượng nói: “Trên mười năm trời sư thúc bần tăng không gặp người ngoài. Minh Vương là cao tăng đương thế, nên sư thúc chúng tôi mới phá lệ tiếp kiến. Xin mời Minh Vương.” Nói xong đứng dậy tỏ ý tiễn chân.

Cưu Ma Trí không đứng lên, chậm rãi nói: “Nếu Lục Mạch Thần Kiếm chỉ có hư danh không có thực dụng, quý tự hà tất phải coi trọng như thế, để đến nỗi tổn thương hòa khí giữa Thiên Long tự và Đại Luân tự, lại tổn thương cả đến bang giao giữa hai nước Đại Lý cùng Thổ Phồn?”

Bản Nhân sắc mặt hơi đổi, hậm hực hỏi lại: “Lời của Minh Vương phải chăng muốn nói: Chùa Thiên Long nếu không chịu giao kinh ra, hai nước Thổ Phồn, Đại Lý sẽ có chuyện can qua?” Bảo Định Đế trước nay vẫn phải đưa trọng binh đồn trú nơi biên thùy tây bắc để phòng Thổ Phồn đem quân xâm lấn, nghe Cưu Ma Trí nói thế càng hết sức lắng tai nghe.

Cưu Ma Trí đáp: “Quốc vương nước Thổ Phồn chúng tôi vốn ái mộ phong cảnh Đại Lý đã lâu, từng đòi mở cuộc săn bắn với hoàng thượng quý quốc, song tiểu tăng e rằng làm như vậy tổn thương nhân mạng quá nhiều, phạm vào lòng từ bi của Phật môn nên mấy năm nay vẫn phải hết sức ngăn trở.”

Bọn Bản Nhân nghe qua đã biết lời lão có ngụ ý uy hiếp. Nước Thổ Phồn cũng như nước Đại Lý, từ quốc vương trở xuống ai ai cũng sùng tín đạo Phật. Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn, rất được quốc vương tín nhiệm, hòa hay chiến phần lớn là do lão quyết định. Nếu vì một pho kinh mà để nhân dân hai nước phải lầm than thì thật không nên. Nhưng người ngoài mới dọa một câu đã phải hai tay mang bảo kinh trấn tự đem dâng thì còn ra thể thống gì?

Khô Vinh đại sư nói: “Nếu quả như Minh Vương không lấy bộ kinh này không được thì bạn lão nạp không dám tiếc sức. Còn việc Minh Vương muốn đem bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm ra trao đổi, tệ tự không dám nhận. Nếu như Minh Vương đã tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, lại kiêm cả võ công Đại Tuyết Sơn Đại Luân tự thì hẳn là trên đời không ai địch nổi.”

Cưu Ma Trí chắp tay hỏi: “Theo ý đại sư, phải chẳng muốn tiểu tăng phô trương bản lãnh kém cỏi của mình?” Khô Vinh đại sư đáp: “Minh Vương nói rằng Lục Mạch Thần Kiếm của tệ tự chỉ có hư danh không có thực dụng. Bọn lão tăng xin đem môn Lục Mạch Thần Kiếm lãnh giáo mấy cao chiêu của Minh Vương. Nếu quả đúng như lời Minh Vương nói, kiếm pháp này không dùng được vào đâu thì có chi là quí báu? Lúc đó Minh Vương cứ việc đem kiếm kinh đi.”

Cưu Ma Trí không khỏi chột dạ. Năm xưa y đàm luận với Mộ Dung Bác về Lục Mạch Thần Kiếm, biết sơ qua rằng đây là kiếm ý chỉ dùng toàn nội lực sử dụng kiếm khí vô hình, kiếm pháp thần kỳ cao minh, nhưng dùng nội lực của một người sử dụng một lượt sáu mạch kiếm khí thì không ai có thể làm nổi. Bây giờ nghe giọng của Khô Vinh đại sư thì không những ông ta biết sử dụng, mà dường như chư tăng ở đây cũng đã rèn luyện. Chùa Thiên Long nổi danh hơn trăm năm qua, không thể coi thường được. Thần thái Cưu Ma Trí vốn đã cung kính, nay càng nghiêm cẩn hơn, lão nghiêng mình nói: “Nếu chư vị cao tăng hiển thị tuyệt nghệ thần kiếm cho tiểu tăng được mở rộng tầm mắt thì may mắn nào bằng?”

Bản Nhân phương trượng nói: “Minh Vương dùng loại binh khí gì, xin lấy ra.”

Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một hán tử cao lớn từ ngoài cửa bước vào. Y nói mấy câu tiếng Phiên, gã kia liền gật đầu vâng lệnh, ra mở rương lấy một nắm hương đưa lại cho Cưu Ma Trí rồi lại lui ra khỏi cửa.

Ai cũng lấy làm kỳ. Những cây hương kia đụng đến là gãy, chẳng lẽ lại dùng làm khí giới được ? Chỉ thấy Cưu Ma Trí tay trái cầm lên một nén hương, tay phải vun gỗ vụn dưới đất thành một đống nhỏ cắm lên. Cứ như thế y cắm đủ sáu nén hương bày hàng chữ nhất, nén nọ cách nén kia vào khoảng một thước. Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng ở đằng sau mấy cây hương chừng năm sáu thước, đột nhiên xoa tay mấy cái rồi vung ra, đầu những cây hương cháy sáng. Thoạt tiên mọi người kinh hãi, tưởng lão nội lực hùng mạnh đến mức không tưởng tượng được. Thế nhưng lát sau bọn Bản Nhân cùng Bảo Định Đế ngửi thấy mùi lưu hoàng thoang thoảng, đoán chừng đầu những cây hương có trộn hóa dược, Cưu Ma Trí không phải dùng nội lực đốt hương, mà là dùng nội lực ma sát hỏa dược ở đầu hương cho cháy. Việc đó tuy cũng khó khăn nhưng bọn Bảo Định Đế cũng có thể miễn cưỡng làm.

Sáu nén hương cháy, sáu làn khói xanh biếc bốc thắng lên như sáu sợi dây. Song chưởng Cưu Ma Trí ôm thành hình cầu, nội lực vận ra, sáu cụm khói từ từ ngả ra ngoài, nhắm vào Khô Vinh đại sư, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Nhân, Bản Tham và Bảo Định Đế sáu người. Thế chưởng của y gọi là Hỏa Diệm Đao, tuy bay lơ lửng trên không chẳng ai nắm được nhưng có thể giết người một cách vô hình, quả thực thật là ghê gớm. Lần này y chỉ muốn đoạt kinh không cố ý giết người, cho nên mới thắp sáu cây hương để mọi người nhìn rõ đường đi của chưởng lực, trước là tỏ ra cậy tài chẳng sợ hãi gì, hai nữa có ý lấy lòng từ bi làm gốc, chỉ mong phân định võ học hơn thua chứ không phải nhằm sát hại người khác.

Sáu luồng khói biếc bay đến cách bọn Bản Nhân chừng ba thước thì dừng lại không chuyển động nữa. Mọi người thấy thế đều kinh dị. Dùng nội công để thúc đẩy luồng khói đi là việc bình thường, nhưng làm thế nào cho luồng hơi vô định kia ngưng đọng, đứng nguyên một chỗ trên không thì phải nói là khó gấp mười. Bản Tham đưa ngón tay út bên trái ra, một đường kiếm khí từ huyệt Thiếu Xung phóng vào luồng khói trước mặt. Luồng khói đó lập tức bị đẩy hất ngược trở lại, bay vụt đến còn cách Cưu Ma Trí chừng hai thước, lão liền vận thêm nội lực vào thế Hỏa Diệm Đao để chặn đứng. Cưu Ma Trí gật đầu lẩm bẩm: “Người ta bảo Lục Mạch Thần Kiếm có đường Thiếu Xung Kiếm, quả nhiên không sai.” Hai bên thúc đẩy nội lực giằng co vài hiệp nữa, Bản Tham đại sư nhận thấy nếu mình cứ ngồi lì một chỗ thì khó lòng phát huy được uy lực kiếm pháp, liền đứng dậy tiến lên ba bước, đi chênh chếch về phía bên trái. Luồng nội lực đó tức khắc từ phía bên trái tấn công chéo sang mé bên phải. Cưu Ma Trí vung tay trái ra chặn ngay lại.

Ngón tay giữa của Bản Quan đại sư đột nhiên bật lên, Trung Xung Kiếm phóng thẳng về trước. Cưu Ma Trí vung tay đỡ lại, quát lên: “Phải lắm! Quả có Trung Xung kiếm pháp.” Mình lão đánh với hai người mà chưa hề nao núng.

Đoàn Dự ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư, nghé cổ nghiêng đầu, chăm chú theo dõi cuộc đấu kiếm nghìn năm chưa có một lần trong võ lâm. Tuy chàng chưa hiểu võ nghệ, song cũng biết cuộc đấu kiếm bằng nội lực của mấy vị cao tăng đây đem so sánh với những cuộc đấu bằng gươm đao thực sự còn nguy hiểm và khốc liệt hơn nhiều. May nhờ có sáu nén hương của Cưu Ma Trí thắp lên, Đoàn Dự mới căn cứ vào những luồng khói phất phơ bay đi bay lại mà xem được kiếm chiêu đao pháp của ba người. Chàng xem được độ mươi chiêu, trong bụng chợt nghĩ: “Đúng rồi! Trung Xung kiếm pháp của Bản Quan đại sự giống hệt như nét vẽ trong đồ hình.” Đoàn Dự khẽ mở đồ hình Trung Xung Kiếm xem lại, đối chiếu những luồng khói đi quanh quẩn với những đường kiếm trong đồ phổ lập tức hiểu ngay, không còn điểm nào nan giải cả. Chàng quay qua xem Thiếu Trạch Kiếm của Bản Tham đại sư thì cũng vậy, chỉ khác nhau ở chỗ Trung Xung Kiếm thì phóng ra thu về rộng lớn, khí thế hùng mạnh, Thiếu Trạch Kiếm thì chợt qua chợt lại, biến hóa tinh vi.

Bản Nhân phương trượng thấy sư huynh và sư đệ liên thủ mà vẫn chưa chiếm được mảy may ưu thế, nghĩ thầm: “Kiếm pháp bên mình luyện chưa thành thục, kiếm chiếu chẳng mấy chốc sẽ dùng hết. Vậy sáu người phải sớm đồng thời xuất thủ là hơn. Gã Đại Luân Minh Vương này thông minh tuyệt đỉnh, hẳn là y đang quan sát kiếm pháp của Bản Quan, Bản Tham hai người, chưa đưa toàn lực ra công thủ.” Bản Nhân nghĩ vậy liền hô: “Bản Tướng, Bản Trần nhị vị sư đệ, chúng ta nhất tề động thủ.” Ngón tay trỏ búng ra, Thương Dương kiếm pháp huy động. Kế đó Thiếu Xung Kiếm của Bản Tướng đại sư và Quan Xung Kiếm của Bảo Định Đế, ba luồng kiếm khí cùng nhắm vào ba làn khói xanh tấn công.

Đoàn Dự nhìn Thiếu Xung Kiếm một lát rồi lại nhìn Thương Dương Kiếm, xem bên đông một chiêu bên tây một chiêu, đem đối chiếu với đồ hình tuy cũng hiểu, nhưng thấy rối loạn không mạch lạc nên không nhớ được. Chàng còn đang chăm chú xem đồ phổ Thiếu Xung Kiếm, bỗng thấy một ngón tay gầy đét thò ra viết lên trên đồ hình: “Chỉ học một thế kiếm, học xong hãy đổi qua thế khác”. Đoàn Dự hiểu ngay Khô Vinh đại sự chỉ điểm cho mình, quay đầu lại nhìn ông mỉm cười tỏ ý tạ ơn.

Chàng vừa nhìn ông, nụ cười liền tắt ngóm. Khuôn mặt Khô Vinh đặc biệt kỳ dị: nửa mặt bên trái hồng hào tươi nhuận, da thịt đầy đặn mũm mĩm như đứa trẻ, còn nửa mặt bên phải thì ngược lại chỉ có làn da vàng héo bọc ngoài xương, những đầu xương nhô cả ra, trông như nửa cái đầu lâu người chết phơi khô. Chàng kinh hãi vội vàng quay mặt đi, tim đập thình thình, biết rằng vị thái sư bá này tu tập Khổ Vinh thiền công đã thành tựu, có điều khuôn mặt bên héo bên tươi này ghê gớm quá, ai đã nhìn thấy cũng không thể bình tĩnh được.

Khô Vinh đại sư lại đưa ngón tay viết thêm: “Dịp may đừng bỏ lỡ, chú ý xem kiếm pháp. Tự xem, tự học, khỏi vi phạm lời dạy của tổ tiên.”

Đoàn Dự hiểu ngay: “Khô Vinh thái sư bá trước đây đã có nói với bá phụ rằng, Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia đệ tử họ Đoàn, bá phụ xuống tóc đi tu rồi mới chịu truyền thụ. Thái sư bá viết tự quan tự học, bất vi tổ huấn ắt là di huấn của tổ tiên không cấm con cháu tục gia họ Đoàn tự nghiên cứu.” Chàng gật đầu, chú ý xem Quan Xung Kiếm của bá phụ, đến lúc hiểu rõ ràng mới xem qua hai đường kiếm pháp Thiếu Xung, Thương Dương. Trong năm ngón tay của con người, ngón vô danh là vụng về nhất, còn ngón trỏ linh hoạt hơn cả, thành thử Quan Xung Kiếm thủ thắng ở chỗ vụng về chất phác, còn Thương Dương Kiếm thủ thắng ở chỗ xảo diệu, linh hoạt, biến hóa khôn lường. Thiếu Xung kiếm pháp với Thiếu Trạch kiếm pháp đều phóng ra bằng ngón tay út, song một bên tay phải, một bên tay trái nên kiếm pháp cũng khác nhau ở chỗ khéo hoặc vụng, mau hay chậm. Thế nhưng vụng mà vẫn được việc, chậm mà không giảm uy lực, còn phải phân biệt đang đánh bất ngờ hay thẳng thắn.

Đoàn Dự lúc đầu chỉ là do tính hiếu kỳ thúc đẩy, nhìn đường khói trắng bay đi bay lại, đem đối chiếu với những đường vẽ trong đồ hình, chẳng qua cũng coi như một trò chơi xem đèn đoán chữ, nhưng sau khi Khô Vinh đại sư dặn dò, chàng bèn chuyên tâm xem cho thật kỹ. Đến khi Đoàn Dự xem rõ ba lộ kiếm pháp cả rồi thì Bản Tham và Bản Quan lại sử dụng kiếm pháp đến lần thứ hai. Lần này Đoàn Dự không cần xem đồ hình nữa, chỉ để mắt nhìn đường khói mà đem những đường kiếm đã thuộc lòng ra đối chứng. Chàng nhận ra rằng những nét vẽ trong đồ hình chỉ là những đường chết mà những đường khói đi đi lại lại linh động biến hóa vô cùng, có phần phong phú phức tạp gấp bội những hình vẽ.

Chàng coi thêm một hồi nữa, kiếm pháp của Bản Nhân, Bản Tướng và Bảo Định Đế ba người cũng đã sử dụng hết. Bản Tướng đại sư búng ngón tay út, ra chiêu Phân Hoa Phất Liễu quay trở lại từ đầu, tiếp theo Bản Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng hai kiếm chiêu đã dùng. Cưu Ma Trí khẽ gật đầu rồi đột nhiên những tiếng “vu vu” phát ra, uy thế Hỏa Diệm Đao mạnh lên gấp bội, đẩy ngược kiếm chiêu của năm người dồn trở lại.

Thì ra lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ cốt để xem xét hết các chiêu thế trong Lục Mạch Thần Kiếm rồi mới phản kích. Đang thế thủ đổi sang thế công, năm luồng khói bay lượn tung hoành linh hoạt vô song, còn luồng thứ sáu vẫn ngưng lại ở phía sau Khô Vinh đại sư cách chừng ba bốn thước, đứng im không động đậy. Khô Vinh đại sư để ý nhận xét tình hình địch thủ, xem Cưu Ma Trí duy trì tình trạng “năm ngả công một ngả dừng” này được đến bao giờ. Quả nhiên lão không kéo dài được nữa, vì muốn giữ cho luồng khói thứ sáu đứng yên một chỗ như thế hao tốn rất nhiều sức lực, phải di động cho nó tiến dần từng tấc một, thẳng đến sau gáy Khô Vinh đại sư.

Đoàn Dự kinh hãi nói: “Thái sư bá, làn khói tấn công tới rồi.” Khô Vinh đại sư gật đầu mở bản đồ phổ Thiếu Thương Kiếm ra, để trước mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy đồ hình này thật chẳng khác gì một bức tranh vẽ theo lối vẩy mực, nét tung hoành mạnh mẽ tuy chỉ dọc ngang xiên chếch sơ sài nhưng tỏ ra thế kiếm mãnh liệt như phong ba bão táp, đất lở trời long. Chàng tuy mắt xem kiếm phổ nhưng vẫn để ý tới luồng khói trắng tiến lại sau gáy Khô Vinh, vừa quay đầu lại thấy luồng khói trắng chỉ còn cách độ ba bốn tấc là tới nơi, hoảng hốt kêu: “Coi chừng!”

Khô Vinh đại sư phất ngược tay lại, hai ngón tay cái cùng búng ra, tức thời hai luồng kiếm khí vù vù phát ra nhằm đánh vào trước ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Ông không đỡ đòn tấn công của kẻ địch mà lại đưa ra hai luồng kỳ binh tập kích bất ngờ, vì tin chắc rằng Cưu Ma Trí đang kìm hãm lực đạo Hỏa Diệm Đao, có muốn đả thương mình cũng phải mất một thời gian, nếu mình ra tay sau mà tới trước, ắt là đối phương không kịp trở tay.

Cưu Ma Trí cũng không phải tay vừa, tính toán chu đáo đã dự bị sẵn một đường chưởng lực phòng hờ trước ngực. Tuy nhiên lão chỉ đề phòng một thế công ác liệt của Thiếu Thương Kiếm, không ngờ Khô Vinh lại đồng thời xuất phát hai đường kiếm khí đánh vào hai chỗ khác nhau. Bàn tay Cưu Ma Trí giơ lên chặn được đường kiếm tấn công vào ngực, tiếp theo chân phải nhún một cái, nhảy vọt về phía sau. Song dù lão có mau lẹ mấy chăng nữa vẫn không nhanh bằng kiếm khí. Nghe xoẹt một tiếng nhẹ, vai trái tăng bào đã rách một mảnh, máu tươi tươm ra. Song chỉ của Khô Vinh quay tròn một vòng, kiếm khí thu về, sáu nén hương của Cưu Ma Trí đều bị đứt ngang. Bọn Bản Nhân, Bảo Định Đế đều thu kiếm khí về ngừng chiến. Những người đó ra sức đã lâu không nên công cán gì, trong bụng đang lo thầm bây giờ mới thấy yên lòng.

Cưu Ma Trí rảo bước lại vào trong nhà, mỉm cười nói: “Thần công của Khô Vinh đại sư thật là siêu việt, tiểu tăng lấy làm bội phục. Còn pho Lục Mạch Thần Kiếm quả chỉ có hư danh.” Bản Nhân phương trượng hỏi lại: “Tại sao lại chỉ có hư danh, xin được thỉnh giáo.” Cưu Ma Trí đáp: “Năm xưa Mộ Dung tiên sinh ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm là ngưỡng mộ kiếm pháp chứ không phải ngưỡng mộ kiếm trận. Kiếm trận này của Thiên Long tự quả thực uy lực rất lớn, thế nhưng xem ra cũng chỉ ngang ngửa với La Hán kiếm trận của chùa Thiếu Lâm hay Hỗn Độn kiếm trận của phái Côn Lôn, không thể gọi là thiên hạ vô song được.” Y nói là “kiếm trận” mà không phải là “kiếm pháp” là chỉ trích đối phương lấy sáu người bày ra thành trận thế cùng tấn công, chứ không phải một người sử Lục Mạch Thần Kiếm như y đơn độc sử Hỏa Diệm Đao.

Bản Nhân phương trượng thấy Cưu Ma Trí nói có lý, chưa tìm được câu trả lời thì Bản Tham đã cười nhạt, hỏi lại: “Bất luận kiếm pháp hay kiếm trận, những cuộc tỷ đao luận kiếm vừa đây thì Minh Vương thắng hay chùa Thiên Long chúng tôi thắng?”

Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt trầm tư một lát chừng uống cạn chén trà rồi mở to mắt ra đáp: “Trận đầu quí tự chiếm được thượng phong nhưng trận thứ hai tiểu tăng nắm chắc phần thắng.” Bản Nhân kinh ngạc hỏi: “Minh Vương còn muốn tỉ thí thêm một lần nữa hay sao?” Cưu Ma Trí đáp: “Đại trượng phu nói ra phải giữ lời, tiểu tăng đã hứa với Mộ Dung tiên sinh, đâu có thể ngại khó mà rút lui được?” Bản Nhân hỏi tiếp: “Nhưng sao Minh Vương biết đã nắm chắc phần thắng?”

Cưu Ma Trí song chương từ từ đẩy ra, mỉm cười nói: “Các vị đều là những bậc đại sư võ học uyên thâm, chẳng lẽ lại không suy đoán ra hay sao? Xin tiếp chiêu đây.” Cả sáu người Khô Vinh đại sư, Bản Nhân cùng bọn Bảo Định Đế người nào cũng thấy có hai luồng lực đạo không biết từ đâu tấn công tới. Cả bọn biết rằng không thể dùng Lục Mạch Thần Kiếm ra chống đỡ kịp, ai nấy giương song chưởng đỡ hai luồng lực đạo kia, chỉ riêng Khô Vinh đại sư vẫn búng hai ngón tay cái, dùng Thiếu Thương Kiếm đón tiếp nội kình của đối phương.

Cưu Ma Trí vừa đẩy hai luồng chưởng lực ra lại thu về ngay nói: “Xin lỗi!”.

Bản Nhân và Bản Quan hai người đưa mắt nhìn nhau, đều hiểu: “Một chưởng của y cùng lúc chia ra mấy luồng lực đạo, Thiếu Thương Kiếm của Khô Vinh sư thúc dẫu có phân ra hợp kích y vẫn có thể chống đỡ như thường. Còn bọn mình đành phải bỏ kiếm dùng chưởng, Lục Mạch Thần Kiếm quả là không bằng Hỏa Diệm Đao của y”.

Chợt thấy trước mặt Khô Vinh đại sư khói bốc lên ngùn ngụt, một luồng khói đen tách ra làm bốn nhằm bay về phía Cưu Ma Trí tập kích. Cưu Ma Trí vốn cũng e ngại nhà sư già từ đầu chí cuối quay mặt vào tường không nhìn trở lại này. Bây giờ y thấy khói đen tấn công tới không đoán được đối phương dụng ý ra sao, vẫn dùng Hỏa Diệm Đao chia ra bốn đường chống đỡ. Y không dám phản kích, vừa để phòng bị bọn Bản Nhân đánh ập tới, vừa để bình tĩnh quan sát xem Khô Vinh đại sư còn ngón gì lợi hại tiếp theo.

Chỉ thấy khói đen càng lúc càng dày đặc, thế công càng lúc càng mạnh mẽ. Cưu Ma Trí rất đỗi ngạc nhiên, tự hỏi: “Có câu Gió mạnh không qua buổi sáng, Mưa lớn không đổ trọn đêm. Đối phương dùng toàn lực ra đánh thì phỏng được mấy hơi? Khô Vinh là cao tăng đời nay lẽ nào không nghĩ đến? Lão dùng thủ đoạn gấp rút cương mãnh như thế tất phải có quỷ kế gì đây.” Vì nghĩ thế nên Cưu Ma Trí chỉ thủ thế thật chặt chẽ, trong lòng giữ thật bình tĩnh để tùy cơ ứng biến. Chừng uống cạn tuần trà, thì bốn luồng khói đen đó đột nhiên mỗi luồng chia ra làm hai, hai lại chia ra bốn, cộng lại tất cả mười sáu luồng ập vào tấn công Cưu Ma Trí cả bốn phương tám hướng. Cưu Ma Trí vẫn bình tĩnh cho là cung mạnh đã đến cuối tầm, không còn gì đáng kể nữa. Lão cũng chia Hỏa Diệm Đao ra thành nhiều đạo để ngăn chặn đối phương. Mười sáu luồng khói đen của Khô Vinh thốt nhiên tản ra bốn phía, chỉ trong giây lát khói tỏa ra mờ mịt khắp nhà. Cưu Ma Trí vẫn điềm nhiên không hề nao núng, phát động chân lực tới mức độ tối cao hộ vệ toàn thân.

Khói từ từ nhạt dần, trong làn không khí mông lung thấy năm nhà sư đều quỳ dưới đất coi vẻ rất trang nghiêm. Trong ánh mắt của Bản Quan và Bản Tham đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí còn đang ngạc nhiên, lập tức hiểu ra: “Hỏng rồi! Lão tặc Khô Vinh kia biết không địch nổi nên đem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm đốt đi!”

Y đoán không sai, Khô Vinh đại sư không muốn để Lục Mạch Thần Kiếm lọt vào tay Cưu Ma Trí nên một mặt dùng nội lực Nhất Dương Chỉ đốt cháy hết đồ hình, một mặt thúc đẩy những luồng khói đen đến tập kích cho lão phải ra sức chống đỡ. Tới khi khói tan thì sách đã cháy hết. Cả năm nhà sư đều là những cao thủ tinh thông Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy khói đen đã hiểu rõ nguyên do, nghĩ bụng: Sư thúc ngọc nát còn hơn giữ ngói lành, đem bảo vật trấn tự hủy đi, không chịu để lọt vào tay kẻ địch”. Sáu người chia ra mỗi người nhớ một phần kiếm pháp, đợi khi cường địch đi khỏi rồi, chỉ cần ngồi viết lại là xong, có điều đành phải hủy mất những đồ phổ tổ truyền.

Thế là từ đây giữa Thiên Long tự cùng Đại Luân Minh Vương đã kết nối oán thù, khó mà gỡ ra được nữa.

Cưu Ma Trí vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, lão vốn tự phụ mưu trí hơn người mà hôm nay hai lần liên tiếp bị bại dưới tay Khô Vinh đại sư. Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đã bị thiêu hủy hoàn toàn, thế là chuyến đi này chẳng những không thu hoạch được gì mà còn thêm mối thâm cừu. Y đứng dậy, chắp tay nói: “Khô Vinh đại sư hà tất phải cương cường đến thế. Thà gãy chứ không chịu cong, quả là cao cả. Vì tiểu tăng mà quí tự phải hủy bảo kinh, trong lòng quả thật áy náy. Nhưng xét cho cùng quyển kinh này không phải sức một người luyện được, hủy đi hay không cũng thế mà thôi. Tiểu tăng xin cáo biệt.”

Cưu Ma Trí xoay người đi một chút, không đợi Khô Vinh và bọn Bản Nhân trả lời, đột nhiên giơ tay nắm lấy mạch môn Bảo Định Đế nói: “Quốc vương tôi lâu nay vẫn ngưỡng mộ phong độ hoàng đế, ao ước được gặp một lần, xin mời bệ hạ dời gót sang Thổ Phồn du lịch một phen.”

Sự biến bất ngờ, mọi người đều giật mình. Gã phiên tăng kia tấn công đột ngột, tuy Bảo Định Đế võ công cao cường nhưng cũng không trở tay kịp, bị y nắm phải hai huyệt Liệt Khuyết và Thiên Lịch trên cổ tay, vội vận nội lực chuyển đẩy sáu bảy lần vẫn không gỡ ra được. Bảo Định Đế yếu huyệt bị y chế ngự rồi, có thể bị giết bất cứ lúc nào. Bọn Bản Nhân đều biết Cưu Ma Trí hành động như vậy là quá đê hèn, mất cả thân phận cao thủ tuyệt đỉnh, song chỉ căm phẫn ngấm ngầm chứ không có cách gì cứu gỡ được.

Khô Vinh đại sư cười nói: “Đoàn Chính Minh đã bỏ ngôi xuất gia, trước là Bảo Định Đế, nay là Bản Trần. Bản Trần đệ tử, nếu như quốc vương nước Thổ Phồn muốn gặp ngươi, ngươi cứ đi một chuyến cũng không sao.” Bảo Định Đế không biết cách nào hơn, đành đáp lời: “Vâng!” Ông biết rõ dụng ý của Khô Vinh thiền sư. Bảo Định Đế thấy mình là một vị quốc vương mà lão bắt được mới coi là hóa phẩm trân kỳ. Đằng này mình đã thoái vị đi tu, bất quá là một hòa thượng ở chùa Thiên Long, lão bắt được cũng chẳng có gì kỳ lạ. Chưa biết chừng vì thế mà lão thả ra cũng nên.

Từ khi Cưu Ma Trí vừa bước vào Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế không nói một lời, cũng không để lộ chút gì khác lạ. Nhưng muốn sử dụng dù chỉ là một thế trong Lục Mạch Thần Kiếm cũng phải là tay cao thủ bậc nhất, nội lực tinh thuần mới được. Những tay cao thủ hạng này đều biết nhau cả. Nhất là Cưu Ma Trí phen này ra đi đã chuẩn bị kỹ lưỡng, các danh gia họ Đoàn Đại Lý và các nhà sư chùa Thiên Long hình mạo tuổi tác thế nào đều đã thăm dò chu đáo, ngay cả tính khí cùng bản lãnh từng người mười phần y cũng biết được đến tám chín. Y đã biết trong chùa Thiên Long ngoài Khô Vinh đại sư ra chỉ có bốn vị cao thủ hàng chữ Bản. Bây giờ thốt nhiên xuất hiện thêm một vị Bản Trần mà nội lực võ công cũng tương đương với bốn vị hòa thượng kia, dung mạo oai nghiêm, khí sắc đầy vẻ phú quý vinh hoa thì làm gì mà lão chẳng nhận ra là Bảo Định Đế. Đến khi nghe Khô Vinh đại sư nói ông ta đã bỏ ngôi xuất gia, Cưu Ma Trí bỗng thấy chột dạ: “Ta từng nghe các đời vua họ Đoàn Đại Lý thường hay thoái vị đi tu, Bảo Định Đế xuất gia ở chùa Thiên Long cũng chẳng lấy gì làm lạ. Thế nhưng hoàng đế rời ngôi ra đi ắt có nghi lễ trọng thể toàn quốc, cúng sự lễ Phật, trùng tu tháp miếu cho nổi đình nổi đám mấy hôm, Có lý nào nhà vua lại xuất gia một cách không kèn không trống? Nước Thổ Phồn ta mà nghe được tin này thế nào cũng sai sứ sang chúc mừng tân quân kế vị. Việc này hẳn là có gì man trá.” Y bèn nói: “Bảo Định Đế xuất gia cũng tốt, mà không xuất gia cũng tốt, xin mời sang chơi Thổ Phồn một chuyến, triều kiến quốc vương tệ quốc.” Lão vừa nói vừa dắt Bảo Định Đế ra ngoài.

Bản Nhân lên tiếng: “Hãy khoan!” Ông lắc mình một cái, cùng Bản Quan hai người đứng chắn trước cửa. Cưu Ma Trí nói: “Tiểu tăng quyết không có ý gia hại Bảo Định Đế hoàng gia nhưng nếu các vị bức bách quá thì đành vậy thôi.” Tay phải y đưa hờ ra để ngay hậu tâm Bảo Định Đế. Chưởng lực Hỏa Diệm Đao của y tối bích phá kiên, mà Bảo Định Đế mạch môn đã bị nắm chặt, đành phải để y làm gì thì làm không còn sức phản kháng. Nếu mọi người hợp lực tấn công thì e ném chuột vỡ đồ, mà cũng chưa chắc nắm được phần thắng. Cả bọn Bản Nhân đều bối rối, Bảo Định Đế là vua Đại Lý, làm sao có thể để cho kẻ địch uy hiếp như thế được?

Cưu Ma Trí lớn tiếng nói: “Đã từng nghe đại danh các vị cao tăng chùa Thiên Long, không ngờ một việc nhỏ mọn thế này mà cũng bịn rịn, bắt chước thói đàn bà con nít. Xin nhường đường thôi!”

Đoàn Dự thấy bá phụ bị y bắt giữ, trong bụng rất lấy làm lo lắng, mới đầu còn tưởng bá phụ võ công cao cường đâu có sợ y, chẳng qua tạm thời nhẫn nại đợi thời cơ sẽ có cách thoát thân. Ngờ đâu càng lúc càng cảm thấy không xong, giọng nói và nét mặt Cưu Ma Trí đầy vẻ kiêu ngạo, thần sắc bọn Bản Quan, Bản Nhân đều lộ vẻ buồn phiền phẫn nộ mà không làm gì được. Tới lúc Cưu Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế lôi ra ngoài cửa, Đoàn Dự hoảng hốt không nghĩ ngợi gì nữa, chàng la ầm lên: “Mau buông bá phụ ta ra!” Chàng từ trước mặt Khô Vinh đại sư chạy ra.

Cưu Ma Trí vốn đã thấy trước mặt Khô Vinh đại sư có một người ngồi nhưng không đoán ra được là ai, cũng chẳng hiểu ngồi đó làm chi. Bây giờ y thấy Đoàn Dự đứng dậy đuổi theo, liền động tính hiếu kỳ quay lại hỏi: “Tôn giá là ai?”

Đoàn Dự đáp: “Đừng hỏi ta là ai vội! Buông bá phụ ta ra trước rồi nói chuyện sau!” Chàng giơ tay nắm lấy tay trái Bảo Định Đế. Bảo Định Đế lật bàn tay lại, nắm lấy tay Đoàn Dự nói: “Dự nhi! Cháu không phải bận lòng vì ta nữa! Mau mau về giục phụ thân lên ngôi đại bảo, nắm việc triều chính. Còn ta bây giờ đã thành một vị lão tăng mây ngàn hạc nội, có gì phải quan tâm?”.

Đoàn Dự cố sức nắm lấy tay Bảo Định Đế kêu lên: “Có mau bỏ bá phụ ta ra không nào? Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng chạm vào huyệt đạo trên cổ tay Bảo Định Đế, vừa ra sức Bảo Định Đế toàn thân liền chấn động, cảm thấy nội lực ào ạt tuôn ra.

Cưu Ma Trí cũng đồng thời thấy chân lực trong mình cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài, vẻ mặt liền biến đổi nghĩ thầm: “Sao họ Đoàn Đại Lý lại học được Hóa Công Đại Pháp thế này?”. Y vội vàng ngưng khí vận lực để kháng lại môn tà công âm độc đó.

Bỗng nhiên Bảo Định Đế cảm thấy hai tay đồng thời có mãnh lực giằng co liền dùng ngay phương pháp tá lực đả lực dẫn hai luồng nội lực cho kháng cự lẫn nhau. Ông nhân lúc đó chỉ vùng một cái đã thoát khỏi tay Cưu Ma Trí, rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy vụt về sau, trong bụng kêu thầm: “Kể cũng đáng hổ thẹn, hôm nay mình phải nhờ đến Dự nhi cứu cho mới thoát được”.

Còn Cưu Ma Trí kinh hoàng vô cùng, nghĩ thầm: “Sao trong võ lâm lại có một đại cao thủ mà ta hoàn toàn không hay biết? Người này tuổi còn nhỏ, mới độ hai mươi trở lại mà sao bản lĩnh cao cường đến thế? Y gọi Bảo Định Đế là bá phụ, phải chăng là con em họ Đoàn Đại Lý?” Y chậm rãi gật đầu nói mỉa: “Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn nước Đại Lý xưa nay chỉ chuyên về võ học tổ truyền, không để mắt tới bên ngoài, không ngờ hậu bối hiền tài lại đi kết giao với Tinh Tú lão nhân, nghiên cứu kỳ môn võ học Hóa Công Đại Pháp. Thế thì lạ thật, quả là lạ thật!” Cưu Ma Trí tuy uyên bác nhưng cũng nhầm Bắc Minh thần công của Đoàn Dự là Hóa Công Đại Pháp. Có điều lão còn biết tự trọng không đưa lời thương tổn người khác, thành ra đổi Tinh Tú lão quái thành Tinh Tú lão nhân. Nhân sĩ Võ lâm đều gọi Hóa Công Đại Pháp là yêu công tà thuật, y lại đổi thành kỳ môn võ học. Y vừa rồi đụng chạm với Đoàn Dự thấy chàng nội lực không kém gì Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu không thể nào là đệ tử truyền nhân của ông ta được, thành thử mới dùng hai chữ kết giao.

Bảo Định Đế cũng cười nhạt nói móc: “Lâu nay bọn bần tăng vẫn ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương là bậc đại trí tuệ, kiến thức sâu xa, thế mà sao cũng ăn nói hồ đồ đến thế? Tinh Tú lão quái chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa, con cháu họ Đoàn khi nào lại liên quan với hắ?”

Cưu Ma Trí ngạc nhiên, mặt hơi hổ thẹn, Bảo Định Đế dùng chữ “chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa” chính là chỉ trích hành vi của y mới rồi.

Đoàn Dự nói: “Đại Luân Minh Vương là khách ở xa tới, chùa Thiên Long ta tiếp đãi trọng thể, thế mà cả gan xúc phạm đến bá phụ ta. Chẳng qua chúng ta thấy cũng là đệ tử nhà Phật nên mọi việc đều nhân nhượng, Minh Vương lại càng ngang ngược thêm. Người xuất gia có đâu lại không giữ thanh qui như thế?”

Mọi người nghe Đoàn Dự dùng đại nghĩa trách mắng, trong bụng ai cũng khen thầm nhưng cũng chăm chú đề phòng, chỉ sợ Cưu Ma Trí cáu tiết lên lại đột nhiên gia hại Đoàn Dự. Ngờ đâu Cưu Ma Trí sắc mặt vẫn điềm nhiên, nhã nhặn nói: “Hôm nay được biết thêm một bậc cao hiền, còn hân hạnh nào bằng? Xin đừng tiếc công chỉ giáo cho mấy chiêu, khiến tiểu tăng được thêm phần kiến thức.” Đoàn Dự đáp: “Ta không hiểu võ công, cũng chưa học võ bao giờ.” Cưu Ma Trí cười nói: “Cao minh thật! Thôi tiểu tăng cao từ.” Lão vừa nghiêng người đi một chút đã phất tay áo, bàn tay từ bên trong đánh ra lập tức bốn đường Hỏa Diệm Đao phát xuất nhằm vào Đoàn Dự.

Đoàn Dự nào có hay biết gì, vẫn đứng ì ra. Bảo Định Đế và Bản Tướng cùng tung song chỉ đỡ lấy bốn chiêu Hỏa Diệm Đao của y, đụng phải nội lực cực kỳ hùng mạnh của Cưu Ma Trí hai người đều lảo đảo. Bản Tướng oẹ lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.

Đoàn Dự thấy Bản Tướng thổ huyết mới hay là Cưu Ma Trí đánh lén mình, trong bụng tức quá chỉ ngay mặt y mà chửi: “Gã Phiên tăng kia! Mi thật không biết phải quấy là gì!” Ngón tay trỏ tay phải của chàng vừa vung ra, tâm khí tương thông, tự nhiên sử dụng một chiêu trong Thương Dương kiếm pháp.

Chàng nội lực hùng mạnh trên đời ít có ai bằng, lúc này ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư xem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm và bảy nhà sư dùng vô hình đào kiếm đấu với nhau, ngón tay vừa trỏ ra có ngờ đâu lại trùng hợp với đồ phổ. Chỉ nghe veo véo, một luồng nội hình cực kỳ hùng hậu vọt tới người Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí kinh hãi, vội vung chưởng lên dùng Hỏa Diệm Đao chặn lại.

Đoàn Dự ra tay chẳng những làm cho Cưu Ma Trí phải kinh dị mà ngay đến Khô Vinh cùng bọn Bản Nhân cũng thật ngoài dự liệu. Nhất là Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự lại càng lấy làm quái lạ. Chàng nghĩ thầm: “Việc này quả thực quái đản, ta chỉ tay quát mắng mà sao lão hòa thượng kia phải để hết tâm thần chống đỡ? Đúng rồi! Chắc là ta xuất chỉ đúng cách thức nên lão tưởng mình biết sử Lục Mạch Thần Kiếm. Ha ha! Đã thế ta phải cho lão hoảng vía một phen.” Chàng bèn lớn tiếng nói: “Một chiêu Thương Dương Kiếm đã thấm vào đâu? Để ta ra mấy đường Trung Xung Kiếm cho ngươi thêm phần kiến thức.” Nói xong chàng đưa ngón tay giữa ra điểm. Chỉ pháp tuy đúng nhưng lần này không có kinh lực tiếp theo, thành ra chỉ là điểm hờ không hiệu quả chút nào.

Cưu Ma Trí thấy ngón tay giữa của chàng đâm ra, lập tức thủ thế tiếp chiêu, ngờ đâu phát chỉ của đối phương không có kinh lực, lại tưởng chàng hư hư thực thực, còn ẩn chiếu số tiếp theo. Đến khi y thấy chàng điểm thêm một chi nữa vẫn rỗng tuếch như trước, trong bụng mừng thầm: “Trên đời này làm gì có người nào vừa biết sử dụng Thương Dương Kiếm, lại biết cả Trung Xung Kiếm? Quả nhiên tên tiểu tử này chỉ hư trương thanh thế để dọa người, làm mình sợ hết hồn.”

Lần này y đến chùa Thiên Long bị mấy phen thất thế, nghĩ thầm nếu không tỏ chút tài năng thì đại danh Đại Luân Minh Vương bị tổn thương nhiều lắm, liền giơ tả chưởng chém trái chém phải luôn mấy cái để ngăn chặn Bảo Định Đế và những người kia ra tay cứu viện, kế đó chưởng phải chém thẳng vào vai phải của Đoàn Dự. Chiêu Bạch Hồng Quán Nhật là một chiêu tinh diệu trong Hỏa Diệm đao pháp, dường như Đoàn Dự phải cụt cánh tay phải. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Tham cả bọn đồng loạt phóng chỉ điểm vào Cưu Ma Trí, đồng thời hoảng hốt kêu lên: “Coi chừng!”

Ba người xuất chiêu đều là những đòn thượng thừa, bắt buộc đối phương phải lui về tự cứu. Ngờ đâu Cưu Ma Trí đã vận nội kình phòng giữ những điểm yếu hại toàn thân, đao của y không thu về, vẫn tiếp tục chém xuống. Đoàn Dự nghe tiếng bá phụ biết là nguy đến nơi rồi, chàng vội đưa hai tay đồng thời đánh luôn hai chỉ. Trong bụng kinh hoàng, chân khí tự nhiên phát xuất, tay phải dùng Thiếu Xung Kiếm, tay trái dùng Thiếu Trạch Kiếm, song kiếm cùng đón tiếp Hỏa Diệm Đao. Dư kình vẫn còn phát ra những tiếng “vo vo”, phản kích lại Cưu Ma Trí. Lão hốt hoảng không kịp suy nghĩ gì hết, tay trái vung ra chặn đòn.

Đoàn Dự sau khi phóng mấy thế kiếm, trong lòng đã hơi hiểu bí quyết, muốn ra chiêu phải có ý niệm trước, sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay, chân khí mới vọt ra được. Chàng búng nhẹ ngón tay giữa lập tức Trung Xung Kiếm bắn ra, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu hình vẽ trên đồ phổ hiện ra trong óc, mười ngón tay liên tiếp búng ra, sau đường kiếm khí tung hoành liên miên bất tận.

Cưu Ma Trí lại càng kinh hoảng, hết sức thúc đẩy nội kính chống đỡ. Trong gian phòng kiếm khí dọc ngang xen với đao kình bay lượn, xung kích chen lẫn nhau tựa hồ sấm vang gió rít. Giao đấu được một lúc, Cưu Ma Trí nhận thấy đối phương kình lực mỗi lúc một mạnh, kiếm pháp cũng biến hóa khôn lường, Có khi còn tự sáng tạo thêm khác hẳn với Bản Nhân, Bản Tướng phải chấp nê vào kiếm chiêu, khiến y không biết đâu mà lần. Y có biết đâu Đoàn Dự nhớ không hết những chiêu thức phiền phức trong sáu mạch kiến pháp, có lúc tùy ý vung loạn lên chứ nào có phải là tự chế ra chiêu mới? Cưu Ma Trí mỗi lúc một thêm kinh hoàng hối hận, lão nghĩ thầm: “Không ngờ trong chùa Thiên Long lại có bậc cao thủ trẻ tuổi như thế. Hôm nay Cưu Ma Trí này tự mình chuốc nhục vào thân”. Đột nhiên nghe “vu vu vu”, Cưu Ma Trí đánh liền ba đao kêu lên: “Hãy ngừng tay!”

Đoàn Dự chưa thể tùy ý thu phát chân khí. Vừa nghe đối phương kêu ngừng tay, chàng luýnh quýnh không biết cách thu nội lực về, đành đưa ngón tay chỉ thẳng lên nóc nhà, bụng nghĩ thầm: “Ta khoan đánh tiếp, để xem y nói gì đã.”

Cưu Ma Trí thấy chàng mặt mày ngơ ngác, khi thu kiếm khí về chân tay luống cuống, trông rõ dáng điệu người kém võ công. Lão chợt nảy ra một ý nghĩ, lập tức tung mình nhảy tới múa chưởng đánh thẳng vào mặt chàng.

Đoàn Dự vì có nhiều cơ duyên trùng hợp nên học được môn Lục Mạch Thần Kiếm tối cao thâm, nhưng công phu quyền cước binh khí thông thường thì lại không biết gì. Chưởng của Cưu Ma Trí dù còn ẩn bảy tám chiêu biến hóa cao minh tiếp theo, nhưng so với Hỏa Diệm Đao dùng nội kình đả thương người thì hai bến nông sâu khó dễ không thể so được. Trên đời này không ai biết cái sâu mà không biết cái nông, biết cái khó mà không biết cái dễ, thế nhưng Đoàn Dự là một biệt lệ trong võ học. Chàng thấy Cưu Ma Trí múa chưởng đánh tới với ngượng nghịu đưa tay ra đỡ, Cưu Ma Trí lật bàn tay phải chộp ngay được huyệt Thần Phong trên ngực chàng. Tức khắc người chàng mềm nhũn, chân tay không cử động được nữa.

Thần Phong huyệt thuộc về Túc Thiếu Âm Thận Kinh chàng chưa luyện qua.

Cưu Ma Trí tuy đã khám phá được nhược điểm trong võ công của Đoàn Dự nhưng cũng không ngờ bắt được chàng một cách quá dễ dàng như thế. Lão vẫn còn sợ chàng giả vờ ngớ ngẩn mà dùng quỷ kế gì khác chăng, nên khi nắm được huyệt Thần Phong rồi, lập tức giơ ngón tay điểm các huyệt Cực Tuyền, Đại Truy, Kinh Môn mấy nơi đại huyệt. Rủi thay, các huyệt đạo đó thuộc những kinh mạch Đoàn Dự chưa luyện tới.

Cưu Ma Trí lùi lại ba bước rồi nói: “Vị tiểu thí chủ này trong bụng đã nhớ hết đồ hình Lục Mạch Thần Kiếm. Các đồ phổ đã bị Khô Vinh đại sư đốt đi rồi, tiểu thí chủ này là một bộ kinh sống, đem thiêu sống y trước mộ của Mộ Dung tiên sinh cũng như là đốt đồ hình.” Y giơ tả chưởng ra chém liền năm đao rồi thoáng một cái đã xách Đoàn Dự ra khỏi Mâu Ni Đường.

Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Quan mấy người vừa định rượt theo để cứu người đều bị ngũ đạo liên hoàn vây bọc, ngăn giữ không tiến lên được.

Cưu Ma Trí xách Đoàn Dự quăng ra chỗ chín tên thủ hạ đang đứng ở ngoài cửa, quát lớn: “Mau đi thôi!” Hai tên hán tử cùng giơ tay đón lấy Đoàn Dự, không đi theo đường chính mà lại chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh. Cưu Ma Trí liên tiếp huy động Hỏa Diệm Đao chém vào phía cửa Mâu Ni Đường.

Bọn Bảo Định Đế đều dùng Nhất Dương Chỉ xung kích nhưng vẫn không sao phá vỡ lưới đao vô hình của đối phương.

Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, biết rằng chín tên bộ thuộc đã đem Đoàn Dự chạy về hướng bắc, đắc ý cười một tràng dài nói: “Đốt đồ phổ chết sao bằng đốt đồ phổ sống, Mộ Dung tiên sinh có bạn ở dưới suối vàng cũng dỡ tịch mịch.” Y chém xéo chưởng phải ra, nghe lách cách mấy tiếng, chặt gãy luôn hai cây cột của tòa Mâu Ni Đường. Lão thân hình hơi lắc một cái đã phi thân như một làn khói bay thoảng vào rừng, thoắt đã biệt dạng, không biết đi đằng nào.

Bảo Đinh Đế và Bản Tham hai người cùng chạy ra, thấy Cưu Ma Trí đã đi mất hút. Bảo Định Đế nói: “Đuổi theo mau!”. Gió lộng tăng bào phần phật, ông chưa nói xong đã bay ra ngoài mấy trượng, cùng Bản Tham đại sư hai người đuổi về hướng bắc.

Hồi 11: Hai cô mỹ nữ, một chiếc thuyền con

Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí điểm huyệt không cử động gì được nữa. Mấy gã tùy tòng gác chàng ngang lưng ngựa, mặt cúi sấp xuống, chỉ nhìn thấy mặt đất chạy lùi về phía sau. Vó ngựa tung bay khiến cho mũi miệng chàng đầy cát bụi, tai nghe bọn chúng nói líu lo toàn tiếng Phiên không hiểu gì cả. Chàng đếm chân ngựa tổng cộng có đến mười con.

Chạy được hơn chục dặm đến một ngã ba, Cưu Ma Trí nói líu lo mấy câu rồi năm con ngựa đi về bên trái, còn hắn và tên áp giải chàng cùng ba người nữa đi rẽ về bên phải. Đi thêm mấy dặm nữa lại gặp một ngã ba khác, trong năm người lại có hai người chạy theo ngả kia. Đoàn Dự biết rằng Cưu Ma Trí muốn cho truy binh bối rối không biết đâu mà đuổi. Lại chạy thêm một quãng nữa, Cưu Ma Trí xuống ngựa, lấy một đoạn dây da buộc ngang lưng Đoàn Dự, tay trái lão xách ngang người chàng đi về phía rặng núi, hai gã còn lại giục ngựa chạy về hướng tây. Đoàn Dự trong bụng kêu khổ, nghĩ thầm: “Bá phụ có sai thiết giáp kỵ binh đuổi không ngừng bước, giỏi lắm cũng chỉ bắt hết được chín tên tùy tùng, không thể nào cứu được mình về.”

Cưu Ma Trí tay xách thêm một người nhưng chân vẫn nhẹ như không. Y càng lúc càng lên cao, suốt ba giờ liền toàn chạy xuyên qua rừng qua núi. Mặt trời đã ngả về phía tây, ánh nắng rọi từ bên trái tới, Đoàn Dự biết là Cưu Ma Trí đem mình về hướng bắc.

Đến lúc gần tối, Cưu Ma Trí gác Đoàn Dự lên một cành cây rồi lấy dây da trói vào, mắt cũng không thèm nhìn đến, xoay lưng lại lấy ra mấy miếng bánh khô đưa cho chàng, chỉ giải huyệt một cánh tay trái để chàng cầm được bánh mà ăn. Đoàn Dự duỗi tay trái ra, định vận khí dùng Thiếu Trạch Kiếm đả thương y, ngờ đâu các yếu huyệt trên người bị điểm, chân khí toàn thân bị phong tỏa, ngón tay điểm ra chẳng có chút nội kình nào.

Cứ như thế mấy ngày liền, Cưu Ma Trí xách chàng tiếp tục chạy về hướng bắc. Mấy lần chàng gợi chuyện, hỏi y tại sao lại bắt mình, đưa mình về phương bắc để làm gì, Cưu Ma Trí vẫn làm thinh không trả lời. Đoàn Dự trong lòng phẫn uất, nghĩ đến hôm trước bị cô em Mộc Uyển Thanh bắt giữ, tuy bị hành hạ khổ sở hơn nhiều nhưng không đến nỗi chán ngấy như thế này. Thà bị một cô gái xinh đẹp bắt giữ, hương thơm thoang thoảng, dù lâu lâu bị tát tai còn hơn ở trong tay một gã phiên tăng giả câm giả điếc, sướng khổ gì cũng phải nín chịu không nói cho ai hay được.

Đi hơn mười ngày, áng chừng đã ra khỏi biên giới Đại Lý, Đoàn Dự thấy y chuyển hướng quay qua phía đông, nhưng vẫn tránh đường lớn, vẫn chỉ đi ngoằn ngoèo trong núi non hoang dã. Hồi lâu thấy mặt đất càng lúc càng bằng phẳng, núi đồi càng lúc càng ít dần mà sông nước càng nhiều hơn, trong một ngày phải qua đò đến mấy bận. Sau cùng Cưu Ma Trí mua hai con ngựa, mỗi người cưỡi một con nhưng y vẫn không giải những huyệt đạo trên người chàng.

Có lần Đoàn Dự đi đại tiện đã tính: “Nếu như ta sử dụng Lăng Ba Vi Bộ, gã Phiên tăng này chưa chắc gì đã đuổi kịp.” Thế nhưng chàng chỉ đi được hai bước, chân khí bị chặn lại ở những huyệt bị điểm, lập tức ngã lăn ra. Chàng thở dài một tiếng, lồm cồm ngồi đậy, biết rằng cách này không thể làm được.

Tối hôm đó hai người nghỉ lại một khách điếm nhỏ trong thị trấn. Cưu Ma Trí bảo người hầu phòng mang nghiên bút giấy mực để lên trên bàn, khêu to ngọn đèn, đợi tên đó ra khỏi mới nói: “Đoàn công tử, tiểu tăng mời đại gia lên miền bắc, quả thực đắc tội, trong lòng thật áy náy không yên.” Đoàn Dự đáp: “Không dám, đại sứ quá lời.” Cưu Ma Trí nói tiếp: “Công tử có biết tiểu tăng làm thế này là có ý gì không?”

Đoàn Dự dọc đường chỉ nghĩ đến việc này, thấy trên bàn để bút nghiên giấy mực, mười phần cũng đoán được tám chín bèn nói: “Không được đâu.” Cựu Ma Trí hỏi lại: “Cái gì mà không được?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi ái mộ kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn ta, định ép ta viết ra cho ngươi chứ gì? Cái đó không thể được.” Cưu Ma Trí lắc đầu: “Đoàn Công tử hiểu lầm rồi. Năm xưa tiểu tăng có ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh, định mượn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của quí môn cho ông ta xem một lần. Lời hẹn đó chưa hoàn thành, trong lòng lúc nào cũng canh cánh lo âu. Cũng may Đoàn công tử thuộc lòng đồ hình, tiểu tăng không biết cách nào hơn đành phải đem công tử đến trước mộ ông ta thiêu sống, cho khỏi thất tín với người xưa. Thế nhưng công tử là rồng phượng trong loài người, giữa chúng ta không có oán thù gì nhau, lẽ nào tiểu tăng lại làm hại công tử? Thành ra có một kế vẹn toàn cho cả đôi bên, công tử chỉ cần đem kinh văn đồ phổ chép lại, đừng giấu giếm chút nào, tiểu tăng nhất quyết không ghé mắt qua, lập tức gói chặt đem tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh hỏa hóa để hoàn thành tâm nguyện, sau đó sẽ cung kính tiễn công tử trở về Đại Lý.”

Ý này khi Cưu Ma Trí vừa mới bước chân vào chùa Thiên Long đã nói, lúc đó bọn Bản Nhân cũng đã toan bằng lòng, cả Đoàn Dự cũng thấy xuôi tai. Thế nhưng về sau Cưu Ma Trí đánh lén Bảo Định Đế, rồi lại bắt giữ mình, ra tay chẳng có gì quang minh chính đại, khi trốn tránh truy binh thì đủ các ngụy kế, đối với sự sinh tử an nguy của chín tên bộ thuộc hoàn toàn không coi vào đâu, bao nhiêu tàn ác gian trá đã lộ cả ra rồi, Đoàn Dự làm sao mà tin nổi? Chàng trong bụng đã nghĩ bọn Nam Hải Ngạc Thần kia xưng là Tứ Đại Ác Nhân mà xem ra phẩm cách còn hơn xa gã hòa thượng Thổ Phồn đội lốt “thánh tăng” này. Chàng tuy chưa từng trải việc đời nhưng hơn hai chục ngày qua đã suy nghĩ việc này tới nơi tới chốn, bèn đáp: “Cưu Ma Trí đại sư, lời nói của ông không đánh lừa được ta đâu”

Cưu Ma Trí chắp tay nói: “A Di Đà Phật, việc này là do tiểu tăng muốn thử tín một lời năm xưa đã hứa với Mộ Dung tiên sinh, không lẽ giữ lời hứa này lại bỏ lời hứa kia hay sao?” Đoàn Dự lắc đầu nói: “Ông bảo năm xưa hứa với Mộ Dung tiên sinh, thật hay giả nào ai biết được? Ông được đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm rồi thể nào chả đọc kỹ một lần, có thật đem đốt trước mồ Mộ Dung tiên sinh không ai mà biết? Dẫu có phần hóa thật chăng nữa, người thông minh tài trí như thánh tăng, đọc đi đọc lại vài lần không lẽ không nhớ được hay sao? Có khi còn sợ nhớ sai, đem sao lại một bản rồi mới đốt không chừng.”

Cưu Ma Trí hai mắt lóe lên, hầm hầm nhìn Đoàn Dự; nhưng chỉ trong giây lát, sắc mặt trở lại từ hòa, chậm rãi nói: “Công tử với tiểu tăng đều là đệ tử Phật môn, lẽ nào lại dối trá như thế, tội nghiệt, tội nghiệt! Bất đắc dĩ mà tiểu tăng đành phải ép buộc, âu cũng chỉ vì muốn cứu mạng công tử, xin đừng trách.” Nói xong lão đưa tay trái ra, nhẹ nhàng để lên ngực Đoàn Dự nói: “Khi nào công tử không còn chịu nổi, bằng lòng chép lại kinh này, chỉ cần gật đầu một cái tiểu tăng sẽ buông tay ngay.”

Đoàn Dự gượng cười đáp: “Ta không chép kinh, ngươi sẽ không giết ta. Còn như nếu ta chép kinh cho ngươi, lúc đó đời nào người để cho ta sống nữa? Ta chép kinh có khác gì tự sát? Cưu Ma Trí đại sư, cái chỗ đó mười ba ngày trước ta đã nghĩ đến rồi.”

Cưu Ma Trí thở dài một tiếng, niệm: “Ngã Phật từ bi!” Y nhả kình lực nơi bàn tay, nghĩ thầm luồng lực đạo này truyền vào huyệt Đản Trung thì toàn thân Đoàn Dự như có kiến cắn, khổ sở khổ mà chịu nổi. Gã là công tử quen được nuông chiều, miệng thì nói cứng nhưng nếu bị hành hạ chết đi sống lại tất phải chịu thua. Ngờ đâu kình lực vừa nhả ra, lập tức biến đi đâu mất không thấy tăm hơi. Y kinh hãi lập tức thúc đẩy mạnh thêm, lần này nội lực mất mát còn nhanh hơn, tiếp theo chân khí trong người cuồn cuộn đổ ra. Cưu Ma Trí hết hồn, tay phải đẩy mạnh lên vai Đoàn Dự. Chàng “A” lên một tiếng, ngã lăn ra giường, đầu đụng mạnh vào tường.

Cưu Ma Trí vốn đã nghi Đoàn Dự học Hóa Công Đại Pháp của Tinh Tú lão quái, nhưng dù chính lão quái nếu đã bị phong tỏa yếu huyệt cũng không thể thi triển võ công được. Đằng này y vừa phát kình thì nội lực của mình liền tuôn vào huyệt Đản Trung của đối phương. Hiện tượng này chẳng khác nào hôm trước toàn thân Đoàn Dự không cử động gì được, há hốc mồm để cho con Mãng Cổ Chu Cáp chui tọt vào trong bụng, huyệt đạo trên thân thể bị đóng và Bắc Minh thần công không liên can gì đến nhau.

Đoàn Dự rên rỉ ngồi dậy hậm hực nói: “Uống cho ngươi tự xưng mình là cao tăng, cao tăng gì mà vừa ra tay đã đánh người?” Cưu Ma Trí gằn giọng: “Môn Hóa Công Đại Pháp của người do ai truyền thụ?” Đoàn Dự lắc đầu: “Hóa Công Đại Pháp tàn bạo đối với cả trời lẫn vật, khác nào đem nghìn vàng vứt dưới đất, coi vật quí giá không ra gì, chẳng nực cười ru? Ha ha?”. Mấy câu này là chàng dẫn trong quyển trục lấy được trong thạch động.

Cưu Ma Trí không hiểu ý tứ ra sao nhưng không dám đụng tới người chàng nữa. Trước đây y điểm các huyệt Thần Phong, Đại Chùy, Huyền Khu, Kinh Môn của chàng nào có thấy gì đâu, mà đây điểm huyệt Đản Trung lại phát sinh quái sự. Thằng lỏi này võ công thật là quái dị, không thể nào hiểu nổi, chắc môn công phu này từ Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm biến hóa ra, có điều chỉ mới học được chút vỏ ngoài nên không biết sử dụng. Nếu thực như thế thì võ học họ Đoàn Đại Lý càng đáng thèm thuồng hơn. Y đột nhiên giơ chưởng lên, sử một chiêu Hỏa Diệm Đao cách không, chém đứt một mảnh chiếc khăn thư sinh trên đầu Đoàn Dự, quát lớn: “Ngươi không viết thật chăng? Ngọn đao này ta chỉ cần chém thấp xuống nửa thước thì đầu ngươi có còn không?”

Đoàn Dự sợ lắm, nghĩ bụng nếu như y nổi trận lôi đình thật, lại móc một con mắt hay chặt một cánh tay mình thì biết làm sao đây? Trên đường đi chàng đã suy tính rất nhiều nên mấy câu nghĩ sẵn lập tức bật ra: “Nếu như ta bị bức bách quá đỗi thì sẽ viết bậy viết bạ, không đúng hẳn. Nếu như người làm hại đến thân thể ta, ta sẽ hận ngươi thấu xương, khi viết kiếm phổ sẽ thêm thắt đủ thứ. Nếu kiếm phổ ta chép mà ngươi niêm phong ngay không nhìn đến, đem đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh phần hóa, dù đúng dù sai cũng không liên quan gì đến ngươi. Ta có viết lăng nhăng thì cũng là đánh lừa vong hồn Mộ Dung tiên sinh thôi, y ở cõi âm rủi như luyện trật chắc cũng không đến nỗi tẩu hỏa nhập ma, đâu có trách nhà ngươi được.” Nói xong chàng làm bộ đi đến trước bàn, lấy giấy bút ra định viết.

Cưu Ma Trí giận lắm, mấy câu của Đoàn Dự vạch hết ý đồ đánh lừa để lấy kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm của y, đồng thời cũng nói rõ ràng nếu y bức bách quá, kiếm phổ viết ra sẽ thiếu đầu thiếu đuôi, lại nhiều đoạn láo lếu thì phỏng có ích gì, đọc vào chỉ thêm có hại. Y ở chùa Thiên Long đấu kiếm hai lần, chiêu thức Lục Mạch Thần Kiếm giả thật thế nào y nhìn là biết ngay. Thế nhưng yếu chỉ của lộ kiếm pháp đó là ở nội lực, khó mà phân biệt được. Y thẹn quá hóa giận, nổi điên chém ra một đòn Hỏa Diệm Đao, nghe loẹt một tiếng nhỏ, cây bút Đoàn Dự cầm trong tay bị chặt đứt đôi.

Đoàn Dự còn đang cười sằng sặc, Cưu Ma Trí bèn quát lớn: “Tặc tiểu tử, Phật gia có lòng tốt định tha mạng cho ngươi, ngươi vẫn chấp mê không tỉnh ngộ. Để ta xách ngươi tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh thiêu sống, kiếm phổ ngươi nhớ trong bụng có giả được hay chăng?” Đoàn Dự cười đáp: “Tới khi sắp chết ta sẽ cố ý nhớ sai mấy chiêu kiếm pháp. Đúng, ta cứ thế mà làm, từ giờ trở đi ta quyết nhớ sai, càng nhớ càng sai, đến khi nào chính ta cũng chẳng còn biết mình là ai.”

Cưu Ma Trí hầm hầm trừng mắt nhìn chàng, ánh mắt tóe lửa, hận không thể dùng môn Hỏa Diệm vô hình đao chém đứt cổ tên tiểu tử này cho xong. Từ đó hai người chỉ đi về hướng đông, đến hơn hai chục ngày, Đoàn Dự nghe thấy tiếng người nói trên đường đi bắt đầu thánh thót dịu dàng, gia vị trong các món ăn cũng ít cay hơn.

Hôm đó đến ngoài thành Tô Châu, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Có lẽ sắp đến nơi an nghỉ của Mộ Dung Bác rồi. Phiên tăng không ép ta chép kiếm phổ được, chắc thế nào cũng giết mình. Nhưng biết đâu trước mồ của Mộ Dung Bác, trước khi giết ta y lại chẳng hành hạ một chập khiến cho ta sống dở chết dở, y làm gì mà chẳng được”. Chàng thấy chạnh lòng không dám nghĩ thêm, ngẩng đầu lên ngắm phong cảnh. Tiết trời đang độ tháng ba, ngõ hạnh đầy hoa, ven hồ liễu rủ, gió xuân phơi phới thổi nhẹ bên mình khiến cho người chàng như say sưa ngây ngất, Đoàn Dự bất giác trong lòng sảng khoái, cất tiếng ngâm: “Sóng gợn gợn, Liễu lơ thơ, Hương cỏ xa đưa lại, Chiều xuống hoa bay mờ.” (Ba diểu diểu, Liễu y y, Cô thôn phương thảo viễn, Tủ nhật hạnh hoa phi.)

Cưu Ma Trí cười lạt nói: “Chết đến gáy mà mi vẫn còn ngâm thơ vịnh phú nhàn nhã thế ư?” Đoàn Dự cười đáp: “Sắc thân vốn là vô thường, đã còn là vô thường tức là còn khổ. Thiên hạ có ai mà không chết. Mi sống thêm mấy năm nữa có hơn ta được cái gì không?”

Cưu Ma Trí không thèm nói nữa, quay ra hỏi thăm những người qua đường Tham Hợp trang ở đâu. Thế nhưng y hỏi liên tiếp bảy tám người chẳng một ai biết cả. Hai bên ngôn ngữ bất đồng nên lại càng thêm rắc rối. Mãi sau mới có một ông già bảo: “Trong ngoài thành Tô Châu, chẳng có trang viện nào tên là Tham Hợp Trang cả. Có lẽ hòa thượng nghe lầm chăng?”

Cưu Ma Trí nói: “Lão trượng có biết Mộ Dung đại trang chúa ở đâu không?” Ông già đáp: “Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Thẩm, họ Trương, họ Chu, họ Văn… làm gì có đại trang chúa họ Mộ Dung? Tôi chưa nghe thấy bao giờ.”

Cưu Ma Trí chưa biết tính sao, bỗng nghe từ một con đường nhỏ phía tây có người nói: “Nghe nói họ Mộ Dung ngụ ở ngoài thành, đi về phía tây chừng 30 dặm, chỗ đó gọi là Yến Tử Ổ. Chúng ta tới đó xem sao.” Lại nghe một người khác nói: “Này, sắp đến nơi rồi. Ta phải cẩn thận mới được.”, giọng nói vùng trung châu Hà Nam. Hai người đó nói rất khẽ nhưng Cưu Ma Trí nội công rất cao nên nghe rõ mồn một, trong bụng tính thầm: “Phải chăng hai người này chủ tâm nói cho ta nghe? Nếu không thì sao lại trùng hợp đến thế?”. Y liếc mắt ngó qua, thấy một người khí vũ hiên ngang, vận đồ tang phục, còn một người vừa thấp lủn thủn vừa gầy đét chẳng khác gì bị ho lao.

Cưu Ma Trí vừa liếc qua biết ngay hai người này có võ công, chưa biết có nên bắt chuyện không. Bỗng Đoàn Dự lên tiếng gọi to: “Hoắc tiên sinh, Hoắc tiên sinh, ông cũng ở đây à?” Thì ra người thấp lủn thủn đó chính là Kim toán bàn Thôi Bách Tuyền, còn người kia là sư điệt ông Truy hồn thủ Quá Ngạn Chi.

Hai người đó từ Đại Lý ra đi, quyết tâm báo thù cho Kha Bách Tuế. Mặc dù họ biết rõ khó có thể địch lại nhà Mộ Dung, mối thù không đội trời chung vị tất đã trả được, nhưng cũng nhất quyết tìm đến Tô Châu. Họ dò hỏi biết được họ Mộ Dung ở tại Yến Tử Ổ nhưng Mộ Dung Bác tạ thế đã lâu, làm sao có thể sát hại Kha Bách Tuế được, hẳn là một người nào khác trong nhà Mộ Dung. Hai người thấy việc báo cừu xem ra sáng sủa hơn, đi đến bờ hồ lại gặp Cưu Ma Trí và Đoàn Dự.

Thôi Bách Tuyền chợt nghe tiếng Đoàn Dự gọi rất đỗi ngạc nhiên, vội vàng đi tới, thấy một nhà sư ngồi trên lưng ngựa, tay trái nắm dây cương con ngựa Đoàn Dự đang cưỡi, còn Đoàn Dự thì hai tay thẳng đơ xuôi theo bên mình, hiển nhiên đã bị điểm huyệt, lạ lùng hỏi: “Tiểu vương gia đấy ư? Này, đại hòa thượng, sao ông lại làm khó vị công tử này? Ông có biết đây là ai không?”

Thực ra Cưu Ma Trí chẳng coi hai người vào đâu nhưng lão đã biết khó lòng tìm ra chỗ ở của Mộ Dung tiên sinh từ lúc chưa đến Trung Nguyên. Nay có bọn này dẫn lối cho kể cũng là may, bèn nói: “Ta cũng đến chỗ Mộ Dung tiên sinh đây. Phiền hai vị dẫn đường cho!”

Thôi Bách Tuyền hỏi: “Xin hỏi pháp danh của đại hòa thượng là gì? Sao lại làm khó dễ Đoàn tiểu vương gia? Đến phủ Mộ Dung có việc gì?” Cưu Ma Trí đáp: “Tới đó tự khắc sẽ biết.” Thôi Bách Tuyền lại hỏi: “Phải chăng đại sư là chỗ bạn thân với nhà Mộ Dung?”

Cưu Ma Trí đáp: “Đúng thế, Mộ Dung tiên sinh ở Tham Hợp trang, không biết đi về ngả nào? Hoắc tiên sinh có biết thì chỉ giùm cho!” Cưu Ma Trí thấy Đoàn Dự gọi y là “Hoắc tiên sinh” cũng tưởng y họ Hoắc thật. Thôi Bách Tuyền gãi đầu, quay sang Đoàn Dự hỏi: “Tiểu vương gia, để tôi giải khai huyệt đạo trên tay tiểu vương gia rồi tính sau.” Y tiến lên mấy bước, đưa tay định giải huyệt cho Đoàn Dự.

Đoàn Dự nghĩ thầm “Cưu Ma Trí võ công ghê gớm, trên đời này sợ là không ai địch nổi. Bọn Thôi, Quá tất nhiên so với lão không thấm vào đâu. Nếu hai người này lại lớ ngớ đến cứu mình thì chẳng những không ăn thua gì mà chết uống thêm hai mạng”. Chàng muốn họ biết đường chạy trốn bèn nói: “Khoan đã, vị đại sư đây một thân một mình đánh bại bá phụ ta và năm tay cao thủ nước Đại Lý, bắt ta đem tới đây. Đại sư là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh, nay đưa ta đến hỏa thiêu trước mồ Mộ Dung tiên sinh để tế vong hồn người quá cố. Hai vị không liên quan gì đến Mộ Dung Cô Tô, mau mau tránh ra nơi khác.”

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nghe lão đại sư này đánh bại Bảo Định Đế cùng mấy cao thủ nước Đại Lý quả nhiên chột dạ, khi nghe lão là bạn với nhà Mộ Dung thì lại càng khiếp sợ. Nhưng Thôi Bách Tuyền nghĩ mình ẩn náu trong phủ Trấn Nam Vương hơn một chục năm, hôm nay tiểu vương gia bị nạn lẽ nào làm lơ không ngó ngàng đến? Vả lại đã đến Cô Tô rồi, cái mạng mình coi như đã xong, dẫu chết dưới những quân bàn toán cho đúng kiểu Mộ Dung, hay chết trong tay người khác thì có khác gì nhau. Nghĩ vậy Thôi liền thò tay vào bọc lấy ra một cái bàn tính đúc bằng hoàng kim sáng rực, giơ cao lên, lắc kêu loảng xoảng rồi bảo Cưu Ma Trí: “Đại hòa thượng, nếu Mộ Dung tiên sinh là bạn của ông thì tiểu vương gia đây cũng là bạn của ta, ta khuyên ông nên thả y ra đi.” Quá Ngạn Chi cũng lấy nhuyễn tiên quấn ở quanh bụng ra cầm trên tay, hai người cùng xông vào đầu ngựa của Cưu Ma Trí.

Đoàn Dự kêu lên: “Hai vị chạy mau lên, đánh không lại y đâu.”

Cưu Ma Trí cười nhạt nói: “Muốn động thủ thực chăng?” Thôi Bách Tuyền đáp: “Đánh thế này ta biết là vuốt râu hùm, đánh không lại thực nhưng cũng thử một phen, sinh tử… ối ối….”

Chẳng biết y định nói “sinh tử” cái gì, Cưu Ma Trí đã vươn tay giật được nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi, kế đó nghe vù một tiếng, hất ngược nhuyễn tiên lại cuốn lấy chiếc bàn toàn trong tay Thôi Bách Tuyền, vung tay một cái. Hai món binh khí cùng bay tung ra mặt hồ, tưởng đâu sẽ chìm xuống đáy nước. Không ngờ Cưu Ma Trí sử kình xảo diệu, cán của nhuyễn tiên vòng một vòng, quấn luôn vào một cành liễu rủ trên mặt nước, cả cành cây lẫn nhuyễn tiên run rẩy không ngừng. Chiếc bàn toán nhấp nhô chạm lên mặt nước thành những vòng tròn lan mỗi lúc một rộng.

Cưu Ma Trí chắp tay nói: “Phiền đại giá hai vị dẫn đường cho!” Thôi, Quá hai người ngơ ngác nhìn nhau, không biết làm thế nào. Cưu Ma Trí lại nói tiếp: “Nếu hai vị không dẫn đường thì xin chỉ cho biết Yến Tử Ổ, Tham Hợp Trang đi về ngả nào, đường lối ra sao, để tiểu tăng tự mình tìm tới cũng được.” Thôi Quá thấy võ công y vô cùng lợi hại mà vẻ mặt lại hết sức khiêm hòa, quả thực có muốn nổi giận cũng không xong mà không nổi giận thì lại càng không được.

Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng rạt rào, trên mặt hồ nước biếc một con thuyền nhỏ đang rẽ nước lướt tới. Trên thuyền một thiếu nữ áo xanh cầm đôi mái chèo khuấy nước, miệng hát véo von bài hát hái sen, tiếng hát thánh thót dịu dàng khiến người nghe phải vui lây.

Đoàn Dự khi ở Đại Lý từng đọc văn chương thơ phú của cổ nhân tán tụng phong cảnh nhân vật Giang Nam. Nay chàng được nghe khúc hát này tâm hồn bất giác lâng lâng như lạc vào cõi mộng. Chỉ thấy cô gái kia hai cánh tay nhỏ nhắn trắng muốt như ngọc, phản chiếu xuống hồ nước xanh biếc tưởng chừng như sáng lóe lên. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi tuy đại địch trước mặt mà cũng không khỏi đưa mắt nhìn cô gái mấy lần.

Chỉ có Cưu Ma Trí nhìn mà như không vào mắt, nghe mà như không lọt tai, hỏi tiếp: “Nếu hai vị không chịu chỉ Tham Hợp trang cho thì tiểu tăng đành phải cáo từ.”

Lúc đó thiếu nữ đã chèo thuyền đến gần bờ. Nàng nghe Cưu Ma Trí nói vậy liền cất tiếng: “Chẳng hay đại sư phụ muốn đến Tham Hợp trang có việc gì?” Giọng nàng cực kỳ thanh tao êm ái khiến ai nghe cũng thấy lọt tai. Cô gái đó tuổi chừng mười sáu mười bảy, nét mặt ôn nhu, thân hình thanh tú.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không ngờ con gái Giang Nam lại xinh đẹp văn nhã đến thế”. Thực ra cô gái này không đẹp lắm, so với Mộc Uyển Thanh còn kém một chút, thế nhưng mặt mũi được tám phần còn vẻ ôn nhu đến mười hai phần bù lại, nên so với những mỹ nhân mười phần xinh đẹp cũng không thua kém chút nào.

Cưu Ma Trí hỏi: “Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp Trang, liệu tiểu nương tử có thể chỉ đường cho được chăng?” Thiếu nữ mỉm cười hỏi lại: “Cái tên Tham Hợp trang người ngoài không ai biết đến. Đại sư nghe đâu mà biết?” Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu tăng là bạn phương xa với Mộ Dung tiên sinh. Hôm nay đến tế mộ tiên sinh cho vẹn lời ước năm xưa, lại cũng mong được chiêm ngưỡng Mộ Dung công tử một lần.” Cô gái ngẫm nghĩ rồi đáp: “Thế thì quả là không may. Hôm kia Mộ Dung công tử mới ra đi. Giả tỷ đại sư đến đây trước ba hôm thì gặp được.” Cưu Ma Trí nói: “Tiểu tăng vô duyên cùng công tử, nghĩ cũng đáng buồn. Song tiểu tăng từ Thổ Phồn đường xa muôn dặm lặn lội về đến Trung Nguyên, chỉ mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy hoàn thành tâm nguyện năm xưa.” Thiếu nữ đáp: “Nếu đại sư là bạn của Mộ Dung tiên sinh thì xin mời vào dùng trà, tiểu nữ sẽ vào báo tin, có nên chăng? Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Xưng hô sao cho phải phép?”.

Cô gái cười khúc khích nói: “Ôi chao! Tiểu nữ chỉ là người gảy đàn thổi sáo hầu hạ công tử, tên gọi A Bích. Xin đại sư đừng khách sáo kêu bằng đại nương tử tiểu nương tử chi hết, cứ gọi thẳng tên A Bích là được rồi.” Nàng nói giọng Tô Châu vốn dĩ khó nghe, thế nhưng là thị tì trong một đại thế gia chắc bình thời nghe tiếng quan thoại cũng nhiều, nên có xen nhiều tiếng phổ thông. Cưu Ma Trí và Đoàn Dự cố gắng cũng hiểu được. Cưu Ma Trí cung kính đáp: “Không dám.”

A Bích nói: “Từ đây vào Cầm Vận Tiểu Trúc trong Yến Tử Ổ toàn là đường thủy. Quý vị muốn vào thì xuống thuyền để tiểu nữ chở đi, có nên chăng?” Mỗi câu nói cô gái lại thêm vào “có nên chăng?”, vừa có vẻ ân cần hỏi han, lại như bàn thảo khiến cho người nghe khó mà từ chối.

Cưu Ma Trí đáp: “Thế thì xin phiền cô nương.” Y nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống, chiếc thuyền nhỏ chỉ đằm xuống một chút chứ không tròng trành chút nào. A Bích nhìn Cưu Ma Trí và Đoàn Dự mỉm cười tựa hồ thán phục võ công của hai người.

Quá Ngạn Chi khẽ hỏi Thôi Bách Tuyền: “Sư thúc, mình tính sao đây?” Hai người cốt tìm đến nhà Mộ Dung để báo thù nhưng chưa tới nơi đã xảy ra mấy vụ khó xử, vẫn còn nơm nớp.

A Bích tươi cười nói: “Hai vị đại gia đã đến Tô Châu, nếu không có việc gì gấp xin mời vào tệ xá uống chén trà nhạt, ăn chút điểm tâm. Chiếc thuyền này tuy nhỏ, nhưng thêm vài người nữa cũng không chìm đâu mà sợ.” Nàng vừa nói vừa ghé thuyền vào bên cây liễu, giơ bàn tay xinh xắn ra với lấy cây nhuyễn tiên cùng chiếc bàn toán, tiện tay nàng gẩy bàn tính nghe lách cách,

Đoàn Dự nghe vui tai buột miệng hỏi: “Cô gẩy khúc Hái dâu phải không?” Thì ra cô gái thuận tay gẩy mấy viên bàn toán, nặng nhẹ nhanh chậm cũng thành tiết tấu, nghe ra hai câu linh động trong bài “Hái dâu”. A Bích mỉm cười nói: “Công tử tinh thông âm luật, vậy đàn thử một khúc xem sao?” Đoàn Dự thấy nàng ngây thơ hồn nhiên, vui vẻ dễ thân cận cũng cười đáp: “Tôi không biết gẩy đàn bằng bàn toán.” Rồi chàng quay lại bảo Thôi Bách Tuyền: “Hoắc tiên sinh! Cái bàn toán của tiên sinh mà cô nương đây gẩy nghe cũng vui tai đấy chứ?” Thôi Bách Tuyền cũng bật cười: “Quả đúng thế! Cô nương thực là người tao nhã. Cái món đồ chơi đầy tục khí của ta vào tay cô nương lại thành ra nhạc khí được.” A Bích đáp: “Chao ôi! Quả là không phải chút nào. Cái này của Hoắc đại gia đấy sao? Chắc tiên sinh giàu có lắm, cái bàn toán cũng đúc bằng vàng. Hoắc đại gia, xin trả lại ông đây.” Nàng vừa nói vừa cầm cái bàn toán giơ lên. Thôi Bách Tuyền đứng trên bờ không với tới, y cũng không thể bỏ món vật bất ly thân, bèn nhẹ nhàng nhảy lên đầu thuyền, đưa tay ra với lấy rồi quay đầu lại trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí một cái. Cưu Ma Tri vẻ mặt vẫn đầy vẻ từ hòa, mỉm cười tuyệt không lộ vẻ gì khó chịu.

A Bích tay trái cầm cán cây nhuyễn tiên giơ lên cao, năm ngón tay phải vuốt xuôi xuống, móng tay chạm vào những đốt nổi gồ lên phát ra những tiếng tinh tang khi cao khi thấp chẳng khác gì người gảy đàn tì bà. Món binh khí đã từng ngang dọc đại giang nam bắc, chiến đấu với biết bao anh hùng hắc bạch, nay vào bàn tay trắng trẻo mềm mại của nàng lại biến thành nhạc khí.

Đoàn Dự lại reo lên: “Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Cô nương gảy khúc nữa đi!” A Bích quay sang Quá Ngạn Chi nói: “Cây nhuyễn tiên của đại gia phải không? Tiểu nữ đem ra nghịch thực vô lễ quá. Đại gia cũng xuống thuyền đi, rồi tiểu nữ bóc cho mấy củ hồng lăng tạ lỗi.” Quá Ngạn Chi nóng lòng báo cừu cho sự phụ, căm thù bè lũ nhà Mộ Dung thấu xương nhưng thấy tiểu cô nương này xinh tươi, chất phác, không có vẻ gì là nham hiểm độc ác nên tuy thù hằn đầy ruột mà không thể phát cáu. Ý nghĩ thầm: “Thị dẫn ta về nhà thật hay biết mấy, thể nào mình cũng giết được vài đứa tạm báo thù cho ân sư.” Nghĩ thế bèn gật đầu nhảy xuống thuyền.

A Bích quấn cây nhuyễn tiên lại đưa cho Quá Ngạn Chi, đoạn thả mái chèo xuống nước, quay thuyền bơi về hướng tây. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau mấy lần. Hai người cùng nghĩ bụng: “Hôm nay mình vào hang cọp, không biết sống chết thế nào. Bọn Mộ Dung thủ đoạn ác độc vô cùng. Tiểu cô nương này nhỏ nhẹ dễ thương, xem ra không phải là giả dối, nhưng biết đâu chẳng phải là kế của họ dụ cho mình phóng tâm không đề phòng rồi thừa cơ hạ thủ?”.

Thuyền đi vòng vèo vài khúc quanh thì đến cái hồ lớn rộng bát ngát, mông mênh những nước cùng trời. Quá Ngạn Chi chột dạ nghĩ thầm: “Chắc là Thái Hồ đây. Ta và Thôi sư thúc đều không biết bơi, con bé này chỉ cần lật thuyền một cái là cả hai người mình làm mồi cho cá, còn nói gì đến việc báo cừu cho sự phụ nữa?”. Thôi Bách Tuyền cũng đã nghĩ đến chuyện đó, bèn nảy ra một ý: “Giả tỷ mình cầm mái chèo trong tay thì ả này có muốn lật thuyền cũng không phải dễ”, liền nói: “Cô nương, để ta giúp cô chèo thuyền. Cô cứ chỉ đường cho ta là được. “ A Bích cười nói: “Trời ơi! Tiểu nữ đâu dám thế? Công tử mà biết được thể nào cũng trách phạt là khinh mạn tân khách.” Thôi Bách Tuyền thấy nàng từ chối lại càng ngờ vực, cười nói: “Chẳng giấu gì cô nương, chúng tôi chỉ muốn nghe thêm vài khúc Nhuyễn Tiên Cầm tuyệt kỹ nữa. Chúng tôi là người thô lỗ, không phải như Đoàn công tử đầy tinh thông cả cầm kỳ thư họa.”A Bích nhìn Đoàn Dự cười nói: “Tiểu nữ đàn có ra gì đâu, sao dám gọi là tuyệt kỹ? Đoàn công tử phong nhã như thế, nghe sẽ cười bằng thích, chả đàn đâu.”

Thôi Bách Tuyền lấy cây nhuyễn tiên trong tay Quá Ngạn Chi đưa cho A Bích, miệng bảo nàng gẩy đàn, tay đưa ra đón lấy mái chèo. A Bích cười nói: “Thôi được, tiên sinh cho tôi mượn cả cái bàn tính để đánh nhịp.” Thôi Bách Tuyền ngấm ngầm nghĩ bụng: “Thu cả hai món khí giới của bọn mình, hay là có âm mưu gì đây?”. Nghĩ thì nghĩ vậy chứ đã đến nước này không tiện từ khước, đành cầm kim toán bàn đưa cho nàng. A Bích để chiếc bàn toán lên sàn thuyền trước mặt. Tay trái nàng giữ lấy chuỗi nhuyễn tiên, chân phải dậm lên một đầu cho dựng thẳng lên, năm ngón tay phải vừa bật vừa vê đi vuốt lại, cây nhuyễn tiên phát ra tiếng leng keng, tuy không trong trẻo vang dội bằng tiếng đàn tỳ bà nhưng nghe cũng thành nhạc điệu.

Năm ngón tay của A Bích vừa gẩy nhuyễn tiên vừa thỉnh thoảng khẩy chiếc bàn toán, những hạt toán châu leng keng hòa với tiếng tình tang của nhuyễn tiên, nghe càng thêm thú vị. Giữa lúc đó đôi chim én lượn qua đầu thuyền, bay về hướng tây. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi nhà Mộ Dung ở có tên là Yến Tử Ổ, chắc hẳn chim én nhiều lắm”.

Lại nghe A Bích cất tiếng hát, âm điệu thật là ôn nhu tình tứ. Đoàn Dự nghe giọng hát du dương mà lòng những bâng khuâng như say như tỉnh. Chàng lẩm bẩm một mình: “Nếu mình suốt đời ở tận cõi thiên nam thì làm sao có được những giờ phút thần tiên như thế này? Mộ Dung công tử có người nữ tì như thế này tất không phải hạng tầm thường.”

A Bích hát xong một khúc rồi đưa bàn toàn và nhuyễn tiên trả lại cho Thôi Quá hai người, cười nói: “Hát chẳng ra gì, chỉ tổ làm trò cười cho quý khách. Hoắc đại gia, xin chèo vào con lạch nhỏ phía bên trái. Đúng rồi!”

Thôi Bách Tuyền thấy nàng trả lại binh khí cho mình mới thấy yên bụng, bèn lái mũi thuyền theo tay nàng trỏ, đi vào lạch nước đầy sen mọc. Nếu không có A Bích trỏ nẻo thì không ai ngờ giữa chỗ lá sen chi chít lại là lối thuyền đi. Thôi Bách Tuyền chèo một hồi, A Bích lại chỉ một con đường khác: “Bơi qua phía kia kìa.” Phía đó mặt nước đầy những cây và trái hồng lăng. Lẫn trong sóng biếc chập chờn, lăng đỏ lá xanh quả đẹp không thể tả. A Bích thuận tay hái hồng lăng chia cho mọi người.

Hai tay Đoàn Dự tuy vẫn cử động được nhưng sau khi huyệt đạo bị điểm rồi không có chút hơi sức nào, đến cái vỏ hồng lăng cũng không bóc được. A Bích cười nói: “Công tử không phải là người Giang Nam, không biết bóc vỏ hồng lăng, để tiểu nữ bóc cho.”

Nàng bóc luôn mấy trái đặt vào tay Đoàn Dự. Ruột loại quả này trắng bóng tinh khiết, Đoàn Dự cầm bỏ vào miệng ăn, vừa ngọt vừa thơm, chàng cười bảo A Bích: “Hồng lăng này ăn bùi mà không ngấy, ngọt ngào như khúc hát của cô nương.” A Bích hai má ửng hồng, cười nói: “Đa tạ công tử. Đem điệu hát ví với trái hồng lăng, nay tiểu nữ mới lần đầu nghe đến.”

Thuyền chưa qua khỏi lạch hồng lăng, A Bích lại chỉ đường vào một vùng có lau sậy rậm rạp. Cả đến Cưu Ma Trí cũng phải e dè, lưu tâm nhớ lấy nẻo đi, để đề phòng lúc về biết lối mà ra. Mọi người đưa mắt nhìn quanh thấy mặt hồ toàn là lá sen, lá lăng, lau sậy phất phơ trên mặt nước chỗ nào cũng giống chỗ nào. Hơn nữa chỉ một cơn gió là lá hoa trên mặt nước lại biến đổi đủ chiều, mất hết dấu vết, dù có nhở kỹ đến mấy thì chỉ chốc lát cục diện đã hoàn toàn khác hẳn. Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi ba người đều chăm chăm nhìn A Bích, xem nàng lấy gì làm mốc ghi đường, nhưng chỉ thấy nàng cứ điềm nhiên hái trái hồng lăng mà chẳng cần để ý gì. Thuyền đến chỗ quanh, chỗ rẽ là nàng thuận miệng chỉ bảo, tựa hồ những lối dọc ngang trên mặt hồ nàng rõ như lòng bàn tay, sinh ra đã biết.

Thuyền quay ngang rẽ dọc không biết bao nhiêu chỗ, vào khoảng giờ mùi thì xa xa giữa rặng liễu xanh om lộ ra một góc rèm cửa. A Bích nói: “Đến nơi rồi. Hôm nay làm nhọc sức Hoắc tiên sinh bơi thuyền đến quá nửa ngày.” Thôi Bách Tuyền cười gượng đáp: “Cứ có hồng lăng ăn, lại được nghe hát, dẫu có phải chèo thuyền mười năm tám năm cũng không mệt.” A Bích vỗ tay reo: “Tiên sinh muốn nghe hát, muốn ăn lăng thì có gì là khó? Cứ ở luôn trên hồ này không ra nữa là xong.” Thôi Bách Tuyền nghe cô ta bảo “không ra nữa là xong” bất giác giật mình, giương đôi mắt ti hí nhìn cô ta một hồi, chỉ thấy lúc nào nàng cũng tươi cười dễ dãi, không lộ vẻ tâm cơ xảo trá. Mặc dù vậy, Thôi vẫn không vững dạ chút nào.

A Bích đón lấy mái chèo, gạt thuyền vào dưới bóng liễu, đến chỗ có cành cây tùng rủ xuống mặt nước. Nàng vừa buộc thuyền xong, chợt nghe tiếng một con chim nhỏ hót líu lo, giọng rất trong trẻo và vang dội. A Bích cũng bắt chước giọng chim ríu rít vài tiếng rồi quay lại mỉm cười: “Xin mời quí khách lên bờ.”

Mọi người lên bờ, trông vào thấy lưa thưa có bốn năm gian nhà nhỏ, dựng trên một khu đất chẳng hiểu là một hòn đảo nhỏ hay bán đảo. Các phòng ốc tuy bé nhỏ nhưng rất tinh nhã, trên biển ngạch đề hai chữ “Cầm Vận”, nét bút tiêu sái. Cưu Ma Trí hỏi: “Phải chăng đây là Tham Hợp Trang trong Yến Tử Ổ?” A Bích lắc đầu đáp: “Không phải! Chỗ này công tử dựng lên cho tiểu nữ ở, chật hẹp quê mùa không đáng để tiếp khách. Đại sư bảo muốn đến tế mộ Mộ Dung lão gia, tiểu nữ đâu dám tác chủ, nên thỉnh quý vị vào đây ngồi chờ, để đi hỏi A Châu tỉ tỉ.”

Cưu Ma Trí có vẻ không bằng lòng, nét mặt sầm xuống. Lão là hộ quốc pháp vương nước Thổ Phồn, địa vị cao sang biết chừng nào. Không chỉ quốc vương nước Thổ Phồn đem lòng kính trọng, mà sang đến triều đình Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Tây Hạ, các vị vua chúa cũng phải lấy lễ thượng khách mà tiếp đãi lão. Huống chi lão là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh, vì tình nghĩa mà thân hành đến tế mộ. Mộ Dung công tử đi vắng không biết đã đành, còn những người ở nhà cũng không mời lão vào đại sảnh tiếp đãi long trọng, lại để cho đứa tiểu tỳ đưa vào nhà riêng, thực là khinh bạc. Thế nhưng y thấy A Bích luôn miệng tươi cười, tuyệt không tỏ vẻ khinh mạn nên nghĩ thầm: “Con tiểu a đầu này chẳng biết gì, mình để ý đến nó làm chi?”. Nghĩ vậy lão trở lại nét mặt ôn hòa vui tươi.

Thôi Bách Tuyền hỏi: “A Châu tỉ tỉ là ai thế?” A Bích cười đáp: “A Châu là A Châu, chị ấy lớn hơn tiểu nữ một tháng nên phải gọi bằng tỉ tỉ đấy thôi. Ai bảo chị ấy lớn hơn một tháng làm gì? Như tiên sinh thì cần gì phải gọi A Châu là tỉ tỉ, nhưng nếu cứ gọi bằng tỉ tỉ thì chị ta cùng thích lắm đó.” Cô vừa dẫn mọi người vào nhà vừa nói liến láu một hồi, giọng nói trong trẻo như người tấu nhạc.

Vào đến nội sảnh, A Bích mời mọi người ngồi sau đó có người đầy tớ bưng trà lên. Đoàn Dự vừa cầm chén trà thì một mùi thơm ngát đưa lên mũi, nước trà màu xanh nhạt, cánh trà xanh biếc, nhỏ như hạt châu, trên mặt lá có lông nhỏ li ti. Thứ trà này chàng chưa thấy bao giờ. Chàng vừa nhập thử một hớp, miệng đượm mùi thơm, lưỡi đầy vị ngọt, Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người thấy lá trà kỳ dị không dám uống. Loại trà tròn như hạt châu này là đặc sản trồng trên vùng núi cao phụ cận Thái Hồ, người sau gọi là Bích Loa Xuân. Đời Bắc Tống chưa có cái tên thanh nhã đó, dân vùng này chỉ gọi là “trà thơm phức” để ca tụng mùi hương đặc biệt. Cưu Ma Trí xưa nay chỉ ở Thổ Phồn và Tây Vực, quen uống trà sắc đen vị chát, giờ thấy thứ trà sắc xanh biếc, có lông ngờ là có chất độc.

Bốn món điểm tâm gồm có kẹo Mai Côi, bánh dẻo Phục Linh, bánh ngọt Phí Thúy, bánh bao bột hạt sen, cái nào cái nấy hình dáng tinh nhã tựa hồ như làm để bày cho đẹp chứ không phải để ăn. Đoàn Dự tấm tắc: “Mấy món điểm tâm trông đẹp thế này chắc là ngon lắm, nhưng thật chẳng nỡ lòng nào mà bỏ vào mồm.” A Bích mỉm cười nói: “Mời công tử dùng đi, trong nhà hãy còn nhiều.” Đoàn Dự án đến đâu lại trầm trồ khen ngợi đến đó, còn Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người không dám ăn. Đoàn Dự thấy vậy trong lòng sinh nghi tự hỏi: “Gã Cưu Ma Trí này tự xưng là bạn thân của Mộ Dung Bác, sao lại dè dặt đến thế? Còn người trong nhà Mộ Dung đối đãi với y tựa hồ không có vẻ trịnh trọng là nghĩa gì?”

Cưu Ma Trí thật là người rất nhẫn nại, lão đợi Đoàn Dự uống trà và ăn điểm tâm đủ thứ mất đến nửa ngày, mới cất tiếng nói: “Bây giờ xin cô nương đi mời A Châu tỉ tỉ của cô đến cho!” A Bích cười nói: “Chỗ A Châu tỉ tỉ cách đây bốn quãng chín đường thủy, hôm nay đi không kịp nữa rồi. Bốn vị hãy ở đây một đêm, sáng mai tiểu nữ sẽ đưa các vị đến Thính Hương Thủy Tạ.” Thôi Bách Tuyền hỏi lại: “Bốn quãng chín đường thủy là nghĩa làm sao?” A Bích đáp: “Một quãng chín là chín dặm, hai quãng chín là mười tám dặm, bốn quãng chín là ba mươi sáu dặm. Ông lấy bàn toán ra tính là xong ngay.” Thì ra Giang Nam tỉnh lộ trình từng chín dặm một.

Cưu Ma Trí nói: “Giá biết thế này thì cô nương đưa chúng tôi đến thẳng Thính Hương Thủy Tạ có phải hay hơn không?” A Bích cười nói: “Tiểu nữ ở đây một mình không có ai trò chuyện, buồn chết đi được. Chẳng mấy khi có khách đến chơi, thế nào cũng lưu quý vị ở lại đây một hôm.”

Từ trước tới giờ Quá Ngạn Chi chỉ ngồi lầm lì không nói một câu, đột nhiên đứng phắt dậy, quát hỏi: “Thân nhân nhà Mộ Dung ở nơi nào? Quá Ngạn Chi này đến Tham Hợp Trang không phải để uống trà ăn bánh, cũng chẳng phải đến kể chuyện vui cho người nghe giải buồn, mà là đến giết người báo thù, đổ máu cùng gây án mạng. Họ Quá này đã đến nơi đây, không mong gì sống được mà ra về. Cô nương đi bảo cho chúng hay, ta là đệ tử của Kha Bách Tuế phái Phục Ngưu, hôm nay đến đây đòi món nợ máu của sư phụ.” Nói xong y vung nhuyễn tiên nghe lách cách, đánh vỡ tan một chiếc kỷ trà bằng gỗ đàn hương cùng một cái ghế bằng trúc Tương Phi. A Bích không sợ hãi mà cũng chẳng tức giận, chỉ nói: “Các vị anh hùng hào kiệt đến chơi với Mộ Dung công tử mỗi tháng mấy lần, cũng đã nhiều vị hùng hùng hổ hổ như Quá đại gia đây. Thân phận tiện tì như tiểu nữ có gì phải sợ…” Nàng chưa nói dứt câu, từ hậu đường một ông già đầu tóc bạc phơ chống gậy bước ra hỏi: “A Bích! Ai làm gì mà ầm lên thế?” Người đó nói tiếng quan thoại, ngữ âm thật là đúng giọng.

Thôi Bách Tuyền nhảy vọt ra đứng bên cạnh Quá Ngạn Chi, quát hỏi: “Sư huynh ta là Kha Bách Tuế bị ai sát hại? Nói mau!” Đoàn Dự thấy ông già kia thân hình lọm khọm, mặt mũi nhăn nheo, không đến chín mươi thì cũng phải tám chục tuổi. Ông ta lẩm bẩm: “Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế? Đã thọ đến bách tuế thì chết còn kêu ca gì nữa?”

Quá Ngạn Chi đến Tô Châu chỉ tính chuyện tới nhà Mộ Dung chém giết một phen phi chí báo thù cho ân sư, nào ngờ gặp phải Cưu Ma Trí bị đoạt khí giới mất hết nhuệ khí, đang bực mình thì lại gặp cô gái hiền hòa khả ái A Bích, bao nhiêu thù oán không phát tiết vào đâu được. Bây giờ y vừa nghe lão già ăn nói vô lễ liền vung roi nhằm hậu tâm lão quất xuống. Y sợ Cưu Ma Trí ra tay can thiệp nên thấy Cưu ngôi phía tây liền hất ngọn roi về phía đông.

Nào ngờ Cưu Ma Trí vươn tay ra, bàn tay lão tựa hồ như có sức hút, nhuyễn tiên ở tận đằng xa cũng chộp ngay được, nói: “Quá đại hiệp! Chúng ta là khách phương xa đến, lấy lời lẽ dàn xếp là hơn, hà tất phải dùng đến võ lực?” Đoạn lão cuộn cây nhuyễn tiên lại, trao trả cho Quá Ngạn Chi.

Quá Ngạn Chi mặt đỏ gay, cầm cũng dở mà không cầm thì cũng không được, sau cùng nghĩ bụng: “Hôm nay chuyện báo thù mới là chuyện lớn, phải nén cái nhục nhất thời để có binh khí cầm trong tay”. Ý nghĩ thế bèn đưa tay ra đón lấy cây roi.

Cưu Ma Trí hỏi lão già: “Tôn tính đại danh thí chủ là gì? Là người thân thích hay bạn hữu với Mộ Dung tiên sinh?” Lão già toét miệng ra cười đáp: “Già này là lão bộc của công tử Mộ Dung, làm gì có tôn tánh đại danh? Già nghe nói đại sư là bạn thân với cố chủ nhân, không biết có điều chi dạy bảo?” Cưu Ma Trí đáp: “Bần tăng cần gặp Mộ Dung công tử rồi sẽ trình bày.” Ông già đáp: “Thế thì không may rồi! Công tử tôi mới ra đi hôm kia, không chừng một hai ngày nữa mới về.” Cựu Ma Trí lại hỏi: “Thế công tử đi đâu?” Lão già nghiêng đầu ngoẹo cổ, đưa ngón tay lên gõ trán rồi nói: “Đi đâu ư? Lão tuổi già lẫn lộn, không nhớ được rành mạch. Dường như công tử sang Tây Hạ hay Liêu Quốc gì đó, mà không chừng còn qua Thổ Phồn, Đại Lý cũng nên.”

Cưu Ma Trí hừ một tiếng, trong bụng không vui. Thời đó năm nước chia nhau thiên hạ, lão già này nói cả bốn nước bốn góc trừ Đại Tống không kể. Y biết lão già này giả bộ ngớ ngẩn liền nói tiếp: “Đã vậy thì bần tăng không thể chờ công tử được, nhờ quản gia đưa bần tăng đến mộ phần tiên sinh lạy một lạy cho trọn nghĩa cố nhân.” Ông già kia xua tay rối rít, nói: “Chuyện đó tôi không quyết định được, tôi cũng không phải quản gia đâu.” Cưu Ma Trí lại hỏi: “Vậy ai là quản gia tôn phủ? Xin mời ra đây nói chuyện?” Lão già gật đầu luôn mấy cái nói: “Được chứ, được chứ! Để tôi đi mời quản gia đến.” Lão trở gót đi ra, người run lẩy bẩy, vừa đi vừa càu nhàu: “Ta đã ngần này tuổi đầu, trên đời này chuyện ma mãnh gì ta chẳng biết? Tên này bịp bợm giả làm thầy tu đạo sĩ xin cúng dường. Việc gì lão cũng thấy cả rồi, đừng có mà tính chuyện qua mặt”.

Đoàn Dự nghe lão nói bật lên tiếng cười khanh khách. A Bích vội quay sang nói với Cưu Ma Trí: “Xin đại sư phụ đừng giận, Hoàng lão bá có tính lẩn thẩn lại phải cái tật lúc nào cũng ra vẻ sành sỏi, ai cũng chê bai.”

Thôi Bách Tuyền giật giật tay áo Quá Ngạn Chi kéo qua một bên nói nhỏ: “Cái thằng trọc này tự xưng là bạn với Mộ Dung tiên sinh, nhưng bọn này rõ ràng đâu có coi y là khách quí, hiền điệt chớ có nóng nảy, để ý xem sao rồi sẽ liệu.” Quá Ngạn Chi đáp: “Vâng!” Hai người trở lại chỗ cũ. Nhưng chiếc ghế tre Quá Ngạn Chi ngồi đã bị đập gãy nát rồi, thành ra y phải đứng. A Bích vội bê cái ghế nàng đang ngồi lại, tươi cười nói: “Mời Quá đại gia ngồi đây.” Quá Ngạn Chi gật đầu tự nhủ: “Nếu ta giết sạch được cả nhà Mộ Dung, cũng nên tha cho con tiểu a đầu này”.

Đoàn Dự thấy Hoàng lão bộc đi vào, trong lòng thắc mắc như có điều gì khang khác, nhưng đó là gì thì chàng không thể nói được. Chàng quan sát kỹ càng cái phòng khách nhỏ bé cùng đồ trần thiết trong nhà, lại nhìn mấy bức họa treo trên vách, các khóm hoa ngoài sân rồi lại nhìn A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi mà không sao tìm ra chỗ bất thường, trong bụng càng lúc càng ngờ vực.

Một lát sau có tiếng chân người, rồi từ trong nhà đi ra một gã tuổi trạc ngũ tuần, người ốm o, nước da vàng vọt, dưới cằm có một túm râu ngắn như râu dê, vẻ mặt tinh lanh, cách phục sức rõ ra một tên quản gia trong phủ Mộ Dung. Gã gầy nhom quay mặt về phía Cưu Ma Trí cùng mọi người thi lễ nói: “Tiểu nhân Tôn Tam bái kiến các vị. Đại sư phụ, nay người có thịnh ý đến tế mộ Mộ Dung lão gia chúng tôi cảm kích vô cùng. Song công tử chúng tôi vắng nhà, không ai hoàn lễ, thật không phải đạo kính khách. Vậy chờ công tử về, tiểu nhân sẽ đem thịnh ý của đại sư phụ trình lại công tử là đủ…”

Gã vừa nói đến đây thì mũi Đoàn Dự bỗng thoáng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, trong lòng chợt động: “Lạ thật! Lạ thật!”. Nguyên lúc nãy người lão bộc họ Hoàng đến, Đoàn Dự cũng đã ngửi thấy một mùi hương u nhã. Mùi hương này cũng phảng phất như mùi hương trong người Mộc Uyển Thanh tiết ra, tuy có chỗ khác nhau song vẫn là mùi hương của thiếu nữ. Thoạt tiên thì chàng cho là mùi hương ở mình A Bích tiết ra nên không để ý. Thế rồi sau khi lão bộc ra khỏi nhà khách, mùi hương đó tự nhiên đâu mất. Bây giờ gã gầy nhom tự xưng là Tôn Tam này vừa vào, Đoàn Dự lại ngửi thấy mùi hương kia. Chàng liền hiểu ra, việc mình thắc mắc chính là vì một lão già tám chín mươi lại có mùi con gái mười tám đôi mươi. Chàng nghĩ thầm: “Không lẽ sau nhà có trồng kỳ hoa dị thảo gì, nên ai từ đó bước ra thân thể cũng có mùi hương thoang thoảng? Nếu không thì cả lão bộc già nua kia lẫn quản gia gầy nhom này đều do một thiếu nữ đóng vai.”

Mùi hương đó tuy làm Đoàn Dự sinh nghi nhưng thực ra rất nhẹ, Cưu Ma Trí và hai người kia không nhận ra được. Đoàn Dự sở dĩ ngửi thấy được vì chàng đã bị giam cầm trong thạch thất với Mộc Uyển Thanh một thời gian, mùi hương thiếu nữ kia chàng đã ghi lòng tạc dạ, so với xạ hương, đàn hương, hoa hương còn đậm đà hơn nhiều. Cưu Ma Trí tuy nội công thâm hậu nhưng cả đời nghiêm thủ sắc giới, dưới mắt y má hồng tóc xanh cũng chẳng khác gì khô lâu bạch cốt, phấn dịu son thơm cũng không khác gì máu mủ tanh hôi, không phân biệt mùi con trai với con gái.

Đoàn Dự tuy nghi Tôn Tam là thiếu nữ hóa trang, song chàng ngó lui ngó tới mà không thấy chút sơ hở nào. Gã Tôn Tam này thật thần tình, từ tướng mạo cho đến cử chỉ nói năng hoàn toàn ra vẻ đàn ông, không có kẽ hở mảy may nào để lộ chân tướng. Chàng đột nhiên nghĩ ra: “Đàn bà nếu giả làm đàn ông thì chỗ dưới yết hầu không thể nào giả được”. Chàng chăm chú nhìn vào cổ Tôn Tam, nhưng chòm râu đề của y phủ xuống không nhìn thấy được cổ họng. Chàng liên đứng dậy, giả vờ thưởng ngoạn các bức thiếp và tranh vẽ treo trên tường, đi đến ngang bên Tôn Tam liếc qua nhìn lén một cái, thấy yết hầu y quả không có trái khế gồ lên, lại nhìn xuống thấy bộ ngực đầy đặn. Tuy chưa chắc đã là ngực đàn bà, nhưng gã đàn ông gầy đét quyết nhiên ngực không thể đầy thế được, Đoàn Dự phát hiện ra cái bí mật này lấy làm thú vị, nghĩ thầm: “Bọn họ thật là lắm trò. Để xem cô ả định làm gì nữa đây?”.

Cưu Ma Trí thở dài: “Bần tăng cùng quý chủ nhân năm xưa gặp nhau ở Tứ Xuyên, đàm luận võ công rồi cùng nhau ý hợp tâm đầu, kết bạn tâm giao. Ngờ đâu con tạo ghen kẻ kỳ tài, cái kẻ tầm thường như bần tăng thì trời còn cho sống, còn quý chủ nhân lại sớm về tây phương cực lạc. Bần tăng lặn lội từ Thổ Phồn xuống đến Trung Nguyên chẳng qua vì mối thâm tình với người bạn cũ, cốt sao được lạy trước mộ một lạy, có người đáp lễ hay không phỏng có chi là quan trọng, phiền quản gia dẫn đường cho.” Tôn Tam chau mày ra chiều suy nghĩ, gã ngập ngừng: “Việc này… việc này…” Cưu Ma Trí ngắt lời: “Nếu có điều chi nan giải, xin nói rõ cho biết!”

Tôn Tam nói: “Nếu đại sư phụ quả là chỗ thâm giao với lão gia tiểu nhân, hẳn biết rõ tính người lúc sanh thời. Lão gia ghét nhất là có người đến thăm, Người thường bảo rằng phàm kẻ đến nhà nếu không tầm cừu sinh sự thì cũng xin bái sư học nghệ, hay tệ nữa là đến xin xỏ tiền bạc, không chừng lại thò tay mặt đặt tay trái, nhân lúc lộn xộn cuỗm món gì rồi lỉnh mất. Lão gia nói bọn thầy chùa lại càng đáng đề phòng, ấy chết… xin lỗi…” Y nói đến đó làm bộ biết mình lỡ lời xúc phạm đến Cưu Ma Trí, vội vàng đưa tay bịt miệng.

Cử chỉ đó càng rõ ra vẻ con gái, đôi mắt đen láy như hai hạt châu ranh mãnh giương lên nhìn, tuy lập tức khép ngay mi lại nhưng Đoàn Dự vốn đã lưu tâm, tự nhiên trong lòng thấy thích thú : “Gã Tôn Tam này không những là đàn bà mà lại còn là một cô gái trẻ tuổi.” Chàng liếc qua A Bích thấy mắt nàng ta nở một nụ cười ranh mãnh, trong bụng không còn hoài nghi gì nữa, nghĩ thầm: “Gã Tôn Tam và lão Hoàng kia hai người là một, chưa biết chừng chính là A Châu tỉ tỉ.”

Cưu Ma Trí thở dài than rằng: “Người đời gian trá thì nhiều mà thật thà thì ít, Mộ Dung tiên sinh không muốn giao kết với bọn phàm phu là phải lắm.” Tôn Tam nói tiếp: “Quả vậy! Lão gia tiểu nhân có di ngôn rằng bất luận kẻ nào đến xin tế phần tảo mộ, nhất thiết không cho vào. Thậm chí người còn bảo: mấy tên lừa trọc thường không phải vì hảo tâm mà đến, chúng chỉ muốn quật mả ta lên mà thôi. Trời ơi! Đại sư phụ đừng phiền, lão gia tiểu nhân thóa mạ bọn trọc đầu là thóa mạ người khác kia, không phải có ý nói ngài đâu.”

Đoàn Dự nghe nói phải cười thầm: “Ai đời lại trước mặt nhà sư mà thóa mạ thằng trọc bao giờ? Rồi chàng lại nghĩ: “Lão Cưu Ma Trí này bị thóa mạ đến thế mà vẫn bình tĩnh, tuyệt không lộ vẻ cáu giận chút nào, phải là con người đại gian đại ác bản lãnh phi thường mới giữ được thái độ này.”

Cưu Ma Trí đáp: “Quý chủ nhân di ngôn lại mấy câu đó rất có lý. Hồi sinh thời uy danh tiên sinh lừng lẫy khắp thiên hạ, thành thử có rất nhiều kẻ thù. Tiên sinh còn sống họ không làm gì được, nên khi chết rồi tất họ cố tình tìm đến động chạm vào di thể để trả thù, đó là một điều dĩ nhiên.” Tôn Tam khẳng định: “Muốn đụng đến di thể của lão gia chúng tôi, ha ha, cái đó thì đừng hòng.” Cưu Ma Trí nói: “Ta và Mộ Dung tiên sinh vốn là chỗ tri giao, chỉ muốn đến trước mộ cố nhân lạy một lạy, ngoài ra không có ý gì khác, quản gia bất tất phải đa nghi.” Tôn Tam đáp: “Nói gần nói xa chẳng qua nói thực, tiểu nhân quả là không dám làm trái với di ngôn của lão gia. Nếu như công tử trở về tra hỏi biết được sẽ đánh tiểu nhân đến què giò. Thôi thì để tiểu nhân hỏi ý kiến lão thái thái xem sao, rồi sẽ trả lời.” Cưu Ma Trí hỏi lại: “Lão thái thái ư? Còn vị lão thái thái nào nữa?” Tôn Tam đáp: “ Mộ Dung lão thái thái là thúc mẫu của lão gia tiểu nhân, các bằng hữu của lão gia mỗi khi đến chơi đều phải khấu đầu hành lễ. Khi công tử vắng nhà thì mọi việc đều phải lĩnh ý lão thái thái.” Cưu Ma Trí đáp: “Như thế càng hay! Nhờ quản gia vào bẩm với lão thái thái là có Cưu Ma Trí ở nước Thổ Phồn tới vấn an.” Tôn Tam nói: “Đại sư phụ khách khí quá, chúng tôi không dám.” Nói xong liền quay vào nội đường.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Vị cô nương này thật là tinh quái. Không hiểu cô ta trêu cợt Cưu Ma Trí với dụng ý gì?”

Qua một lúc nghe có tiếng vòng đeo leng keng, một bà già từ nội đường đi ra, người chưa tới mà mùi hương đã thoang thoảng đưa vào mũi. Đoàn Dự không khỏi mỉm cười, nghĩ thầm: “Lần này cô ả lại biến thành một lão phu nhân”. Chỉ thấy bà lão mặc áo quần bằng đoạn màu cổ đồng, tay đeo vòng ngọc, đầu đầy châu thủy, trông thật là sang trọng, mặt thật nhiều vết nhăn, đôi mắt hấp him dường như nhìn không rõ. Đoàn Dự không khỏi khen thầm: “Cô bé này hóa trang giỏi tuyệt, trá hình ai ra người ấy, khó mà phát hiện được. Tài nhất là chỉ trong khoảnh khắc nàng đã cải trang xong, chân tay mau lẹ đến cực điểm.”

Bà già tay chống gậy, người run lẩy bẩy tiến ra tới nhà ngoài liền hỏi: “A Bích, có bạn của lão gia ngươi đến chơi đấy ư? Sao không thấy khấu đầu bài kiến ta?” Mụ nghiêng đầu nhìn bên đông lại ngoẹo cổ ngó bên tây, hai mắt như bị quáng lòa không nhận ra người nào ở chỗ nào. A Bích quay sang Cưu Ma Trí khoa tay làm hiệu, nói nhỏ: “Mau khấu đầu bái kiến đi, lão thái thái mà vừa lòng thì yêu cầu việc gì cũng được hết.” Bà lão nghiêng đầu, giơ bàn tay khum khum che tai như muốn nghe cho rõ, lớn tiếng hỏi lại: “Con ranh con! Mi nói cái gì vậy? Người ta đã khấu đầu chưa?”.

Cưu Ma Trí bèn lên tiếng: “Lão phu nhân mạnh giỏi chứ? Tiểu tăng xin thi lễ.” Đoạn lão chắp tay xá dài, kình lực từ hai bàn tay phát ra, đập xuống thềm gạch kêu binh binh nghe như là tiếng dập đầu xuống đất. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau kinh hãi: “Lão này nội kình quả là ghê gớm, mình e rằng không chịu nổi một đòn.”

Bà lão gật gù nói: “Tốt lắm, tốt lắm! Thời nay kẻ gian thì nhiều, người ngay thì ít, đến như khấu đầu cũng lắm đứa giở trò ma mãnh, làm bộ đóng kịch, tưởng lão thái thái này thong manh không thấy. Thằng bé này ngoan lắm, dập đầu nghe rõ kêu.”

Đoàn Dự không nhịn được, phì ra một tiếng cười. Bà già từ từ quay đầu lại hỏi: “A Bích, hình như có ai đánh rắm phải không?”, vừa nói vừa đưa tay lên bịt mũi. A Bích cố nhịn cười đáp: “Lão thái thái, không phải đâu. Đó là vị Đoàn công tử này cười đó.” Bà lão hỏi lại: “Đòn à? Sao lại phải đánh đòn?” A Bích đáp: “Không phải đòn, người ta họ Đoàn, công tử họ Đoàn.” Bà lão gật đầu: “Chà! Công tử gì mà lắm thế? Mi nhớ công tử của mi lắm nhỉ!” A Bích thẹn thùng nói: “Lão thái thái nghễnh ngãng, nói năng chuyện nọ xọ chuyện kia chẳng ra chi hết.”

Bà lão quay sang nói với Đoàn Dự: “Thằng bé kia, sao thấy thái thái mà chưa khấu đầu?” Đoàn Dự đáp: “Lão thái thái, tiểu sinh có câu chuyện muốn kể cho thái thái nghe.” Bà lão hỏi lại: “Ngươi muốn kể chuyện gì?” Đoàn Dự đáp: “Tiểu sinh có một đứa cháu gái thật là thông minh lanh lợi nhưng hay nghịch ngợm quậy phá. Con bé đó thích hoá trang thành người này người khác, nay giả dạng đàn ông, mai lại giả dạng đàn bà để trêu chọc thiên hạ. Lão thái thái gặp nó chắc là thích lắm. Tiếc rằng lần này không đem nó đến khấu đầu trước lão nhân gia”

Lão phu nhân đó chính là cô tì nữ A Châu trong phủ Mộ Dung giả trang. Thuật hóa trang của cô ta quả là khéo léo, chẳng những về dung mạo, mà cả ngôn ngữ cử chỉ, giọng nói điệu cười nhất nhất giống như in. Chả thế mà thông minh tuyệt đỉnh như Cưu Ma Trí, lão luyện giang hồ như Thôi Bạch Tuyền cũng không mảy may nghi ngờ. Chẳng dè Đoàn Dự nhờ có mùi hương thoang thoảng trên mình cô ta mà nhận ra.

A Châu nghe nói thế giật mình nhưng vẫn tỉnh bơ như không, giả vờ làm như người già cả lẩm cẩm, mắt mờ tai điếc nói: “Mi ngoan lắm, lại thật thông minh, ta chưa thấy đứa nhỏ nào tinh khôn được đến thế. Mi phải khôn ngoan giữ mồm giữ miệng, lão thái thái sẽ thưởng cho nghe chưa?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ý cô ta muốn mình đừng lật chân tướng ra. Cô ta ra tay đối phó với gã trọc Cưu Ma Trí, là bạn chứ nào phải là thù.” Nghĩ thế nên chàng đáp: “Xin lão thái thái cứ yên tâm! Tại hạ đã tới tôn phủ thì nhất thiết mọi điều đều do lão phu nhân sai bảo.” A Châu nói: “Mi có biết nghe lời ta mới là đứa trẻ ngoan ngoãn. Trước hết hãy cúi đầu lạy ta ba lạy đi đã! Ta thế nào cũng tử tế với ngươi.” Đoàn Dự ngẩn người ra, thầm nghĩ: “Ta đường đường là một vị thế tử con hoàng thái đệ nước Đại Lý, lẽ nào lại lạy một ả nữ tỳ?”. A Châu thấy chàng có vẻ lúng túng, cười khẩy mấy tiếng, nói: “Thằng nhỏ ngoan! Ta bảo mi đó, mi khấu đầu chào bà vài cái xem nào.”

Đoàn Dự quay sang nhìn thấy A Bích đang dẩu môi liếc mắt cười mủm mỉm, da trắng như lăng tươi vừa mới bóc, bên mép lại có một nốt ruồi nho nhỏ càng thêm duyên dáng, trong lòng không khỏi rung động, bèn cất tiếng hỏi: “A Bích tỉ tỉ, nghe nói trong tôn phủ còn một vị A Châu tỉ tỉ, cô ta… cô ta có xinh đẹp được như tỉ tỉ chăng?” A Bích mỉm cười đáp: “Ối chao! Tiểu nữ xấu xí thế này có chi đáng kể. A Châu tỉ tỉ mà nghe thấy công tử hỏi thế tất giận lắm đó. Tiểu nữ có đáng vào đâu, A Châu tỉ tỉ mỹ lệ gấp mười.” Đoàn Dự hỏi lại: “Thật vậy sao?” A Bích cười đáp: “Tiểu nữ nói dối công tử làm chi.” Đoàn Dự nói: “Đẹp gấp mười tỉ tỉ ư? Trên đời này làm gì có người như vậy? Trừ phi là… là nàng tiên ở trong thạch động kia thôi, còn người đẹp xuýt xoát như tỉ tỉ cũng đã là hiếm có lắm rồi.” A Bích hai má ửng hồng có vẻ thẹn thùng, nàng nói: “Lão phu nhân bảo công tử khấu đầu chứ có bảo công tử mồm năm miệng mười khen nịnh tôi đâu.”

Đoàn Dự đáp: “Lão phu nhân chắc vốn cũng là một bậc quốc sắc thiên hương đấy nhỉ? Nói thật với tỉ tỉ, dẫu có cho cái gì tại hạ cũng không màng, nhưng tại hạ đã từng lạy cho ngọc tượng trong động hàng nghìn lạy còn được, nay có lạy người đẹp đất Giang Nam ba lạy đã ăn thua gì?” Thế rồi chàng dập đầu xuống đất kêu “kịch kịch kịch” ba tiếng.

A Châu rất hài lòng nghĩ thầm: “Vị công tử này biết mình chỉ là một đứa a hoàn vậy mà vẫn chịu khấu đầu, quả thực khó biết bao!”. Nàng bèn nói: “Thằng nhỏ ngoan lắm! Tốt lắm! Tiếc rằng ta không mang theo tiền kiến diện để thưởng cho mi.” A Bích vội xen vào: “Lão thái thái đừng quên là được rồi. Lần sau sẽ bù cho người ta cũng được.”

A Châu đưa mắt nguýt cô ta, quay sang Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nói: “Hai vị khách này sao không khấu đầu ra mắt lão bà?” Quá Ngạn Chi hừ một tiếng, xẵng giọng hỏi: “Mụ có biết võ nghệ hay không?” A Châu đáp: “Ngươi nói gì thế?” Quá Ngạn Chi lập lại:“Ta hỏi mụ có biết võ nghệ không? Nếu là người võ công cao cường thì Quá Ngạn Chi này tình nguyện chết dưới tay Mộ Dung lão thái thái, còn nếu mụ không phải là nhân vật võ lâm thì ta bất tất nhiều lời.” A Châu vỡ nhãng tai nghe “Võ công cao cường” ra “ngô công bách cước”, lắc đầu: “Cái gì mà lại ngô công bách cước? Con rết trăm chân thì đâu mà chẳng có, nó cắn người đau lắm đấy.” Nàng lại quay sang hỏi Cưu Ma Trí: “Đại hòa thượng, nghe nói hòa thượng muốn quật mả Mộ Dung tiên sinh lên, định lấy trộm cái gì đấy?”

Cưu Ma Trí tuy không ngờ mụ là một thiếu nữ giả trang, nhưng cũng đoán chừng mụ giả điếc giả ngây, quyết không phải là một bà già đã đến mức lẫn lộn như thế, trong bụng càng thêm đề phòng, nghĩ bụng: “Mộ Dung tiên sinh đã ghê gớm như thế thì bậc trưởng bối trong nhà tất nhiên không phải hạng bản lãnh tầm thường.” Lảo liền vờ như không nghe mấy chữ “quật mả, lấy trộm” bèn đáp: “Tiểu tăng với Mộ Dung tiên sinh vốn là bạn tri giao, nghe tin buồn tiên sinh tạ thế nên từ nước Thố Phồn qua đây, muốn đến trước mộ lay một lạy. Tiểu tăng có một điều ước hẹn với tiên sinh từ lúc sinh tiền là đem kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm nước Đại Lý qua cho tiên sinh xem. Lời ước đó không thực hiện được, tiểu tăng trong lòng thật là hổ thẹn.”

A Châu và A Bích hai người nhìn nhau cùng nghĩ thầm: “Gã hòa thượng này bây giờ mới nói vào chính đề.” A Châu hỏi: “Lấy được kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm thì sao? Mà không lấy được thì sao?” Cưu Ma Trí đáp: “Năm xưa Mộ Dung tiên sinh có ước định với tiểu tăng, nếu tiểu tăng lấy được kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm cho mượn vài hôm thì sẽ cho tiểu tăng vào xem mấy quyển thiên thư ở Hoàn Thi Thủy Các trong tôn phủ.” A Châu giật mình: “Lão sư này biết được bốn chữ Hoàn Thi Thủy Các, có lẽ lão nói thực cũng chưa biết chừng.” Nàng bèn giả như nghe nhầm hỏi lại: “Cái gì mà hi phạn thủy giả? Ngươi muốn ăn cháo gà với bánh trôi ư? Cái đó dễ lắm nhưng ngươi đã xuất gia làm sao ăn được món mặn?”

Cưu Ma Trí quay sang nói với A Bích: “Lão thái thái đây không hiểu là lẫn lộn thực hay giả vờ. Song thái độ thế này là cự tuyệt người từ nghìn dặm xa xôi đến đây, chẳng khiến người ta nguội lạnh tấm lòng lắm hay sao?” A Châu đáp: “Sao, ngươi lạnh bụng à? A Bích, ngươi mau đi múc một tô cháo tiết gà nóng để đại sư ăn cho ấm ruột gan lại.” A Bích nhịn cười đáp: “Đại sư phụ có ăn mặn được đâu?” A Châu gật gù : “Thế thì đừng dùng gà vịt thật mà dùng gà vịt chay vậy!” A Bích nói: “Lão thái thái lẫn rồi, gà vịt chay thì làm gì có tiết?” A Châu phều phào: “Mình lẩn thẩn thực, thế thì biết làm sao bây giờ?”

Hai cô gái đối thoại, kẻ tung người hứng nghe thật là ăn nhịp. Người đất Tô Châu phần đông mồm miệng béo léo, nói năng hoạt bát, đời sau nơi đây kịch nghệ nổi tiếng thiên hạ cũng từ truyền thống này mà ra. Hai cô thị tì này bình thời vẫn hay tinh nghịch đùa cợt với nhau, bây giờ đem ra quấy phá khiến Cưu Ma Trí bực mình mà không làm gì được.

Lần này y tới Cô Tô vốn định khi gặp Mộ Dung công tử sẽ thương lượng một chuyện quan trọng, ngờ đâu không gặp chủ nhà lại gặp những người chẳng đâu ra đâu, cách đón tiếp hư hư thực thực khiến lão không biết đối phó thế nào cho phải. Y ngẫm nghĩ một chút đã biết ngay Mộ Dung lão phu nhân, Tôn Tam, Hoàng lão bộc, A Bích ai nấy đều có ý thoái thác không cho mình viếng mộ, dĩ nhiên không cho mình vào xem sách trong Hoàn Thi Thủy Các. Lão quyết định bất chấp đối phương nói gì thì nói, cứ đem chuyện ra trình bày minh bạch rồi sau đó nếu được thì dùng lễ mà nhân nhượng, không được thì phải cậy võ lực mà cương quyết, đằng nào mình cũng ở tay trên. Nghĩ thế y ôn tồn nói: “Kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm tiểu tăng đã có đem theo đây, vì thế mới nhắc lại lời hẹn năm xưa được vào Hoàn Thi Thủy Các trong quí phủ xem sách vở.”

A Bích nói: “Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, hòa thượng nói sao chúng tôi hay vậy chứ khẩu thuyết vô bằng biết đâu mà tin. Hơn nữa giả tỷ đại sư có mang đồ hình tới đây, chúng tôi xem có ai hiểu được đâu. Thế thì trước kia hai bên có lời giao ước với nhau thế nào, bây giờ cũng không còn thi hành được nữa.” A Châu nói: “Kiếm phổ gì thế? Ở đâu vậy? Đưa ta coi trước xem giả hay thực nào?”

Cưu Ma Trí chỉ vào Đoàn Dự đáp: “Đoàn công tử đây đã thuộc lòng kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu tăng đem y đến đây cũng như mang kiếm phổ đến.” A Bích mỉm cười nói: “Tôi lại tưởng có kiếm phổ thật, té ra đại sư nói đùa.” Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu tăng đâu dám nói đùa? Nguyên bản kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm đã bị Khô Vinh đại sư ở chùa Thiên Long nước Đại Lý đốt mất rồi, cũng may mà Đoàn công tử còn nhớ được rành mạch cả.” A Bích nói: “Đoàn công tử nhớ được là chuyện của Đoàn công tử, người được vào Hoàn Thị Thủy Các coi sách thì cũng phải là Đoàn công tử, có can dự gì đến đại sư?” Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu tăng muốn được thực hiện lời ước ngày trước, đem Đoàn công tử thiêu sống trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh.”.

Mọi người nghe nói đều thất kinh, thấy y thần sắc trấn tĩnh, xem ra nói thực chứ không phải thuận miệng nói đùa, lại càng ghê rợn. A Bích nói: “Đại sư phụ có nói đùa không đấy? Người đang sống hẳn hòi chứ có phải mớ củi đâu mà muốn đốt lúc nào thì tốt?” Cưu Ma Trí thản nhiên nói: “Tiểu tăng mà định đốt thì chắc rằng y không chống cự lại được.” A Bích mỉm cười: “Đại sư phụ bảo, là Đoàn công tử nhớ được toàn bộ kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, cũng chỉ là bịa đặt thôi. Nếu như Lục Mạch Thần Kiếm là một công phu lợi hại, mà Đoàn công tử biết kiếm pháp đó thì khi nào lại chịu khuất phục dưới tay đại sư?” Cưu Ma Trí gật gù: “Cô nương biết một mà không biết hai. Đoàn công tử đã bị tiểu tăng điểm huyệt, không vận kình được.”

A Châu vẫn lắc đầu lia lịa nói: “Ta không thể tin ngươi được. Ngươi giải huyệt cho Đoàn công tử để y thi triển Lục Mạch Thần Kiếm cho ta xem. Xem ra chín phần mười là ngươi nói dối.” Cưu Ma Trí gật đầu nói: “Được rồi! Để tiểu tăng thử cho lão thái thái coi.”

Đoàn Dự ca ngợi A Bích xinh đẹp, mê mẩn tiếng hát tiếng đàn của nàng khiến cho nàng thật đẹp ý; chàng tuy biết được A Châu cải trang vậy mà vẫn dập đầu lạy ba cái khiến cho nàng cũng vui lòng, bây giờ hai cô nghe nói Đoàn Dự bị điểm huyệt nên tìm cách bịp lão để lão chịu giải huyệt đạo cho chàng. Ngờ đâu vừa nói ra là Cưu Ma Trí bằng lòng ngay. Chỉ thấy y giơ tay vỗ hờ trên các chỗ huyệt đạo ở lưng, ngực và đùi Đoàn Dự mấy cái. Lập tức các huyệt đạo bị đóng liền thông, Đoàn Dự chỉ hơi vận khí nội tức liền chuyển động dễ dàng. Chàng lại thử theo phương pháp vận khí của Trung Xung kiếm pháp đưa chân khí vào huyệt Trung Xung, tức khắc cảm thấy ngón tay giữa nóng ran, chàng biết chỉ duỗi ngón tay là kiếm khí liền bắn ra ngay.

Cưu Ma Trí nói: “Đoàn công tử! Mộ Dung lão thái thái không tin công tử đã luyện được Lục Mạch Thần Kiếm. Xin công tử ra tay chặt đứt một cành hoa quế như tiểu tăng đây.” Y vừa nói vừa chém xéo ra, bàn tay súc tích chân lực, xuất một chiều Hỏa Diệm Đao. Bỗng nghe rắc một tiếng, một cành hoa quế trong sân không gió mà gãy ngay xuống đất, chẳng khác gì dùng đao kiếm sắc bén chặt ngang.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng thất thanh kêu lên một tiếng. Hai người tuy biết gã Phiên tăng này vô công hết sức ghê gớm, song chỉ cho là loại tà thuật bàng môn tả đạo mà thôi, bây giờ nhìn thấy lão dùng vô hình đao pháp chặt đứt cành cây mới biết nội lực lão thâm hậu hiếm thấy trên đời. .

Đoàn Dự lắc đầu: “Ta không hiểu võ công, cũng chẳng biết Lục Mạch Thần Kiếm hay Bát Mạch Thần Đao nào cả. Một cành hoa quế đẹp đẽ như thế của người ta, sao người lại chặt đi?” Cưu Ma Trí nói: “Đoàn công tử chẳng nên quá khiêm nhường, võ nghệ công tử vào bậc nhất trong họ Đoàn nước Đại Lý. Hiện nay ngoại trừ Mộ Dung công tử và tại hạ ra thì e rằng không ai địch nổi công tử. Phủ Cô Tô Mộ Dung đây là một kho tàng về võ học, công tử hãy thi thử vài chiêu để lão thái thái chỉ điểm thêm cho! Đó là một điều rất hay chứ sao?” Đoàn Dự đáp: “Suốt dọc đường người đối với ta cực kỳ vô lễ, xách lên vứt xuống, lôi kéo đến Giang Nam. Chính ta không muốn nói gì với người nữa. Nhưng ta đến đất Cô Tô thấy phong cảnh hữu tình, lại gặp mấy cô nương đẹp như tiên, oán hờn chứa chất trong lòng đã tiêu tan hết. Ta và người từ nay một đao cắt đứt quan hệ, đường ai nấy đi.” A Châu và A Bích nghe chàng nói năng như gã đồ gàn, không khỏi tức cười, nhưng chàng lại ca tụng mình hết lời nên trong bụng vẫn thầm sung sướng.

Cưu Ma Trí lại nói: “Công tử không chịu biểu diễn Lục Mạch Thần Kiếm, tức là cố ý bảo bần tăng ăn nói đặt điều hay sao?” Đoàn Dự đáp: “Chính ngươi vẫn quen ăn nói đặt điều. Nếu thực có ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh thì sao ngươi không sớm đến Đại Lý lấy kiếm kinh mà lại đợi Mộ Dung tiên sinh quy tiên rồi, không còn người đối chứng mới đến phủ Mộ Dung nói thiên hô bách sát? Ta xem chừng ngươi hâm mộ Cô Tô Mộ Dung võ công cao cường nên bịa chuyện ra đánh lừa lão thái thái cho ngươi vào tàng thư các, xem trộm quyền kinh kiếm phổ của nhà Mộ Dung, học lấy thuật gậy ông đập lưng ông. Người ta đã là nhân vật lừng danh trong võ lâm chẳng lẽ lại không hiểu cái mánh khóe trẻ con của ngươi hay sao? Nếu chỉ đem cái mồm trơn như mỡ đến nói vài câu là đánh lừa lấy cắp được bí quyết võ công của nhà Mộ Dung thì trên đời này vô khối những tên bịp bợm, đứa nào chẳng đến đây lẻo mép, còn đâu đến lượt ngươi?”

Cưu Ma Trí lắc đầu nói: “Đoàn công tử suy đoán sai rồi. Tiểu tăng và Mộ Dung tiên sinh tuy đính ước với nhau đã lâu, song tiểu tăng còn phải đóng cửa luyện chín năm không ra khỏi ngõ, vì thế mà chưa đến nước Đại Lý. Giả tỷ tiểu tăng chưa thấu đáo được môn Hỏa Diệm Đao thì lần này đâu có yên thân mà ra khỏi chùa Thiên Long?” Đoàn Dự đáp: “Đại hòa thượng ơi, ngươi tiếng tăm đã vang dội, võ công lại cao cường như thế, sao không ung dung ở yên nước Thổ Phồn làm Hộ Quốc Pháp Vương có tốt hay không? Việc gì còn phải đến tận Giang Nam đánh lừa người ta? Ta khuyên người nên quay về sớm đi là hơn!”

Cưu Ma Trí đáp: “Nếu công tử không chịu thi triển Lục Mạch Thần Kiếm thì đừng trách tiểu tăng vô lễ.” Đoàn Dự nói: “Ngươi đã vô lễ lắm rồi, chẳng lẽ lại còn cách nào vô lễ hơn thế nữa? Cùng lắm người chém ta một đao giết đi là cùng chứ gì?” Cưu Ma Trí nói: “Được lắm, coi đao đây.” Y dựng bàn tay trái lên, một luồng kình phong liền ùa tới mặt Đoàn Dự.

Đoàn Dự đã có chủ ý từ trước, biết võ công mình kém xa y, có giao đấu hay không giao đấu kết quả cũng như nhau mà thôi. Lão đã muốn chàng phải chứng minh là có biết Lục Mạch Thần Kiếm, đã thế chàng làm ngược hẳn lại. Chàng thấy đao của lão chém tới, cứ để mặc, chẳng tránh né mà cũng không đỡ gạt. Cưu Ma Trí kinh hoảng, kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm chưa nắm thì bộ sách sống này không thể giết được, tay liền nghiêng qua, một luồng gió lạnh vèo qua, xén đứt hẳn một mớ tóc trên đầu Đoàn Dự.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nhìn nhau hoảng vía, A Châu A Bích hai cô cũng đều tái mặt. Cưu Ma Trí lầm lì hỏi lại: “Đoàn công tử đành chịu chết chứ không chịu ra tay sao?” Đoàn Dự vốn đã sớm không coi chết sống vào đâu, bèn khanh khách cười đáp: “Đại hòa thượng đủ cả: tham, sân, ái, dục, si mà còn dám khoe mình là cao tăng cửa Phật, quả là chỉ có hư danh.”

Cưu Ma Trí đột nhiên vung tay chém xéo qua A Bích, miệng nói: “Dùng lời tử tế không xong thì trước hết ta phải ra oai giết một con tiểu a đầu trong phủ Mộ Dung trước đã.” Chiêu đó y đánh ra thật đột ngột, A Bích kinh hãi vội nghiêng người tránh, nghe chát một tiếng, chiếc ghế dựa sau lưng cô bị chém đứt đôi. Tay phải Cưu Ma Trí liền chém tiếp một đạo nữa khiến A Bích phải nằm phục xuống lăn dưới đất, thân pháp tuy mau lẹ nhưng thật là luống cuống. Cưu Ma Trí quát to lên một tiếng đánh luôn chiêu thứ ba ra. A Bích sợ tái mặt, không biết phải đối phó với những chiêu số vô hình vô ảnh này cách nào cho đúng. A Châu không suy nghĩ gì nữa, liền vung gậy điểm vào sau lưng Cưu Ma Trí. Lúc nàng đứng nói chuyện, hay là lúc lụm cụm bước đi trông giống như một bà già bảy tám mươi không sai một mảy, nhưng lúc nguy cấp liều mạng thì thân pháp lại cực kỳ mau lẹ.

Cưu Ma Trí thoáng nhìn đã khám phá ra chỗ giả trá, lão mỉm cười nói: “Thiên hạ lại có bà già mười bảy mười tám tuổi, ngươi định lừa bịp hòa thượng này đến bao giờ?” Nói xong lão quay lại đánh luôn một chưởng, chấn cây gậy trúc của A Châu gãy làm ba đoạn, kế đó lại phóng một đao chém bổ vào A Bích. A Bích hoảng hốt quờ tay vớ một cái bàn, nghiêng mặt bàn ra đỡ. Bỗng nghe “chát chát” mấy tiếng, chiếc bàn bằng gỗ tử đàn gãy vụn, chỉ còn trơ lại hai chân trong tay A Bích.

Đoàn Dự thấy A Bích lưng tựa vào vách, không còn đất lùi mà Cưu Ma Trí lại vung tay đánh tiếp. Lúc đó chàng chỉ nghĩ đến việc cứu người là khẩn cấp, quên rằng mình không phải là địch thủ của gã Phiên tăng, liền búng ngón tay giữa ra, kình lực từ huyệt Trung Xung bắn vụt ra kèm những tiếng kêu “vo vo”. Đó chính là Trung Xung kiếm pháp. Thực ra Cưu Ma Trí đâu có định giết A Bích, lão chỉ muốn bức bách Đoàn Dự xuất thủ, nếu không A Bích làm sao có thể tránh được những chiêu số thần diệu của Hỏa Diệm Đao? Y thấy Đoàn Dự cuối cùng phải ra tay, lại trở tay đánh luôn A Châu một chưởng. Chưởng phong vút qua làm cho A Châu lảo đảo cả người, vai áo rách toạc, nàng kinh hoàng rú lên. Thiếu Trạch Kiếm từ tay trái Đoàn Dự liền phóng ra, chặn ngay Hỏa Diệm Đao của y lại.

Hai đao của Cưu Ma Trí đều bị Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự chặn đón, chàng đã bảo vệ cho hai nàng A Châu, A Bích cùng thoát hiểm. Cưu Ma Trí chỉ cốt cho mọi người thấy Đoàn Dự biết Lục Mạch Thần Kiếm thật, cố ý để nội kình hai người chạm vào nhau, nghe vu vu không ngớt. Đoàn Dự nhờ có công lực của mấy cao thủ trong người, xem ra còn mạnh hơn cả Cưu Ma Trí. Chỉ có điều chàng không có căn bản võ công, tuy ở chùa Thiên Long nhớ hết các đường kiếm pháp nhưng không biết cách biến hóa sử dụng.

Cưu Ma Trí dẫn luồng nội lực hùng hậu của chàng chạy đông chạy tây khiến cửa sổ và vách tường bị đâm thủng lỗ chỗ khắp nơi, miệng liên tiếp khen ngợi: “Lục Mạch Thần Kiếm quả nhiên lợi hại, trách nào năm xưa Mộ Dung tiên sinh đem lòng hâm mộ.”

Thôi Bách Tuyền cũng rất lấy làm kinh ngạc, lẩm bẩm: “Ta vẫn tưởng Đoàn công tử chẳng biết võ công, nào ngờ lại có bản lĩnh đến thế. Họ Đoàn Đại Lý đúng là danh bất hư truyền. Cũng may mà mình khi ở phủ Trấn Nam vương chưa làm việc gì xằng bậy, nếu không thì cái mạng già này đâu còn được đến hôm nay.” Y càng nghĩ càng rùng mình, mồ hôi toát ra lạnh cả người.

Hai người giao đấu một hồi lâu, kỳ thực thì chiêu nào Cưu Ma Trí cũng có thể đẩy Đoàn Dự vào tử địa được. Có điều lão cố ý kéo dài cuộc đấu để đùa giỡn và phô trương tài năng. Ngờ đâu đùa giỡn càng lâu thì càng không dám coi thường, xem ra chàng nội kình cực kỳ hùng hậu không kém gì mình, nhưng không hiểu vì sao lại không biết phát huy ra, chẳng khác gì đứa trẻ lên ba trong tay có hàng vạn quan tiền mà không biết tiêu xài. Cưu Ma Trí chiết giải thêm mấy chiêu nữa bỗng dưng nghĩ khác: “Nếu lỡ ra lát nữa y phúc chí tâm linh, lãnh ngộ được võ công yếu quyết, với nội công đó và kiếm pháp đó, e rằng sẽ là một kình địch cực kỳ lợi hại”.

Đoàn Dự cũng biết là chàng sống hay chết hoàn toàn do tay Cưu Ma Trí, kêu lên: “A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ mau mau đào tẩu. Không thì không kịp đâu.” A Châu hỏi: “Đoàn công tử! Tại sao công tử lại cứu chúng tôi?” Đoàn Dự đáp: “Vì tôi ghét tên hòa thượng này ỷ mình võ công cao cường, hoành hành bá đạo, khinh khi người khác. Đáng tiếc tôi không hiểu võ công, khó lòng địch lại lão. Các cô chạy mau đi thôi!”

Cưu Ma Trí mỉm cười nói: “Không kịp nữa rồi.” Y tiến lên một bước, ngón tay trái đâm ra, điểm vào đùi Đoàn Dự. Đoàn Dự kêu lên một tiếng toan né tránh, nhưng tránh làm sao được? Ba yếu huyệt của chàng đã bị Cưu Ma Trí điểm trúng, tức thời hai chân bị tê bại, té nhào xuống đất. Chàng gọi ầm lên: “A Châu, A Bích! Chạy mau đi! Chạy mau đi!”

Cưu Ma Trí bật cười nói: “Chết đến cổ họng, thân không giữ nổi lại còn thương hoa tiếc ngọc.” Đoạn lão ung dung quay lại chỗ ngồi, nói với A Châu: “Cô nương cũng bất tất phải giở trò quỷ quái làm gì nữa. Ai là người quyết định mọi việc trong phủ này? Đoàn công tử đã thuộc lòng kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, có điều y không hiểu võ công nên không biết sử dụng đó thôi. Ngày mai ta sẽ đem hắn ra thiêu sống trước mồ Mộ Dung tiên sinh, nếu tiên sinh dưới suối vàng có linh thiêng, chắc cũng rõ người bạn cũ không lỗi lời hẹn ước năm xưa.”.

A Châu cũng hiểu rằng hiện tình trong Cầm Vận Tiểu Trúc này không có ai địch lại Cưu Ma Trí. Nàng chau đôi mày liễu, gượng cười nói: “Được rồi! Đại hòa thượng nói sao chúng tôi tin vậy. Phần mộ của lão gia cách đây chừng một ngày đường thủy. Hôm nay thì trời đã tối rồi, sáng sớm mai tỉ muội chúng tôi xin thân hành dẫn hòa thượng cùng Đoàn công tử đi tảo mộ. Xin các vị hãy nghỉ ngơi một chút để đợi dùng cơm chiều.” Nói dứt lời A Châu đứng dậy kéo tay A Bích cùng đi vào trong nhà.

Sau độ nửa giờ thì thấy một tên tớ trai ra nói: “Hai cô nương có lời mời bốn vị đến Thính Vũ Cư dùng cơm chiều.” Cưu Ma Trí cám ơn rồi nắm tay Đoàn Dự, dẫn đi theo tên đầy tớ. Đường đi trải đá trứng ngỗng quanh co độ mấy chục trượng, vòng qua mấy tòa giả sơn cùng mấy khu vườn thì đến bên bờ hồ. Dưới một gốc liễu có buộc chiếc thuyền nhỏ. Tên đầy tớ chỉ một căn nhà nho nhỏ ở giữa hồ, bốn mặt đều có cửa sổ, nói: “Ở bên kia.” Cưu Ma Trí, Đoàn Dự, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi bốn người xuống thuyền để cho tên đầy tớ chèo qua, chỉ giây lát đã tới.

Đoàn Dự theo cầu thang đóng trên cây tùng trèo lên Thính Vũ Cư, thấy A Bích đã đứng sẵn chờ khách. Toàn thân nàng mặc áo dài màu xanh nhạt, bên cạnh là một nữ lang mặc áo lụa hồng xinh tươi mơn mởn, tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhìn Đoàn Dự tựa như cười mà không phải cười, nét mặt đầy vẻ khôn ngoan lanh lợi. Mặt A Bích thì thanh nhã tú lệ, còn người con gái kia khuôn mặt trái xoan, đôi mắt linh động dễ làm người ta quyến luyến.

Đoàn Dự tới gần liền ngửi thấy mùi hương phảng phất quen thuộc, chàng mỉm cười hỏi: “A Châu tỉ tỉ! Cô là một vị tiểu cô nương xinh đẹp như thế này mà sao cải trang thành một bà lão lại giống đến thế?” Nữ lang này chính là A Châu. Nàng liếc mắt mỉm cười hỏi Đoàn Dự: “Công tử phải khấu đầu lạy tôi ba cái chắc bực mình lắm phải không?” Đoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói: “Ba lạy đó rất có ý nghĩa. Có điều tôi đoán không được trúng lắm thôi.” A Châu hỏi: “Công tử đoán thế nào mà không trúng?” Đoàn Dự đáp: “Trước tôi đã đoán cô nương và A Bích cũng như nhau, đều là mỹ nhân hiếm có ở đời. Tôi đinh ninh là hai cô chẳng khác nhau mấy, nào ngờ tới khi gặp mặt mới hay… mới hay…” A Châu cướp lời: “Phải chăng tôi còn kém A Bích xa?” Đồng thời A Bích cũng chen vào: “Công tử thấy chị ấy đẹp gấp mười tôi, nhìn thấy phải giật mình chứ gì?”

Đoàn Dự lắc đầu: “Trật hết. Tôi bấy giờ mới hay trời xanh kia quả thật tài tình, khiến cho người ta phục sát đất. Ông đã dốc tâm trí ra tạo nên một trang tuyệt sắc giai nhân là A Bích tỉ tỉ, tưởng rằng bao nhiêu linh tú ở Giang Nam đã dùng hết nhẵn rồi, nào ngờ ông lại còn tạo thêm được một vị A Châu tỉ tỉ nữa. Hai dung mạo khác nhau nhưng mỗi người đều có một vẻ ưa nhìn riêng, tôi nghĩ mãi mà chưa tìm được câu nào để diễn tả được cái vẻ diễm lệ của hai cô.” A Châu cười khúc khích: “Gớm, công tử thật là mồm mép trơn như mỡ, đã tán dương một tràng dài lại còn bảo là không tìm được câu nào.”

A Bích mỉm cười quay sang nói với Cưu Ma Trí và hai người Thôi, Quá: “Bốn vị giá lâm tệ xứ, chúng tôi đơn bạc chẳng có gì để thết, xin các vị tạm dùng ly rượu nhạt và mấy thứ món ăn ở địa phương Giang Nam có sẵn trong nhà thôi.” Nói rồi mời bốn người vào bàn, còn nàng và A Châu ngồi bên dưới tiếp khách.

Đoàn Dự thấy Thính Vũ Cư bốn mặt đều là nước, từ cửa sổ nhìn ra chung quanh mặt hồ khói sóng mờ mờ tới tận chân trời, quay đầu nhìn lại thấy chén bát trên bàn đều là đồ sứ tinh xảo, trong bụng tấm tắc khen thầm.

Một lát sau đầy tớ đem lên mấy món điểm tâm, riêng Cưu Ma Trí có bốn đĩa đồ chay, kế đó mấy món nóng sốt như lăng xào tôm, lá sen nấu măng, thịt quay nấu anh đào, thịt gà hấp trà Long Tỉnh… món nào cũng thật là đặc biệt. Các món cá tôm đều nhồi cánh hoa, trái cây càng thêm màu mè nhưng vẫn đượm mùi hương thiên nhiên. Món nào Đoàn Dự cũng gắp thử vài đũa, món nào cũng tươi ngon hợp khẩu, chàng tán dương luôn miệng: “Non sông gấm vóc thì phải có tuyệt thế giai nhân, không những thông minh lanh lợi mà còn thanh nhã khôn cùng để chế tạo những món ăn mỹ vị thanh cao.”

A Châu hỏi: “Công tử thử đoán xem các món ăn đây do tiểu nữ làm hay do A Bích làm?” Đoàn Dự đáp: “Món thịt quay anh đào, vịt ướp hoa mai, bánh dẻo bảy màu hẳn là do tỉ tỉ làm. Còn món canh măng nấu ngó sen, cá viên phỉ thúy thanh tân mượt mà kia chắc phải do tay A Bích tỉ tỉ?”

A Châu vỗ tay cười nói: “Không ngờ thầy đồ gàn đoán đúng thế. A Bích, người xem mình phải thưởng cho thầy cái gì đây.” A Bích tủm tỉm cười đáp: “Đoàn công tử sai bảo điều gì chúng ta sẽ hết sức tuân theo, chứ bọn kẻ ăn người ở như mình có gì mà thưởng?” A Châu đáp: “Chao ôi, ngươi quả là lanh mồm lanh miệng khéo nói cho vừa lòng người, thảo nào ai ai cũng bảo ngươi tốt, còn ta chẳng ra gì.” Đoàn Dự cười: “Một bên thùy mị ôn hòa, một bên hoạt bát lanh lợi, mỗi cô một vẻ riêng. A Bích tỉ tỉ, lúc ngồi thuyền tại hạ có được nghe tỉ tỉ gấy một khúc đàn bằng cây nhuyễn tiên, dư âm hãy còn văng vẳng bên tai. Vậy dám cả gan xin tỉ tỉ cho nghe một khúc bằng nhạc khí thực. Được thế thì dù ngày mai có bị vị hòa thượng này đốt thành tro cũng không uổng một đời.”

A Bích nhẹ nhàng đứng dậy nói: “Nếu như công tử không hiềm bẩn tai, tiểu nữ xin phô chút tài mọn để vui lòng quý khách.” Nói xong nàng đi ra đằng sau bức bình phong lấy một chiếc dao cầm. A Bích ngồi ngay ngắn trên chiếc cẩm đôn, để cây đàn lên chiếc bàn nhỏ trước mặt, giơ tay vẫy Đoàn Dự cười nói: “Đoàn công tử thử lại đây xem cây đàn của tôi là loại đàn gì?”

Đoàn Dự đi đến trước mặt nàng, thấy chiếc đàn đó so với thất huyền cầm thông thường thì ngắn hơn chừng một thước nhưng lại có đến chín dây, mỗi dây một màu, liền ngẫm nghĩ rồi đáp: “Loại cửu huyền cầm này tại hạ mới nhìn thấy lần đầu.” A Châu đi đến giơ ngón tay bật vào một sợi dây, nghe tưng một tiếng thật to, thì ra dây này làm bằng kim loại. Đoàn Dự ấp úng: “Tỉ tỉ, đàn này…”

Mới nói đến đó, bỗng dưng chàng thấy dưới chân hụt hẫng, nhịn không nổi kêu “Ối” một tiếng, thân hình rơi tọt ngay xuống, rớt vào vật gì mềm nhũn như bông, đồng thời tai nghe tiếng kêu “Ối chết!”, “Hỏng rồi!” liên tiếp, tiếng người rơi xuống nước lõm bõm, rồi thấy thân hình bị ai đó kéo lên. Biến cố đó đã kỳ quái lại đột ngột, chàng gượng ngồi dậy thấy mình ở trong một con thuyền nhỏ, A Châu, A Bích ngồi hai đầu, tay cầm mái giầm đang ra sức chèo. Chàng quay đầu nhìn lại thấy Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi ba người đang chơi với cố ngoi lên mặt nước. A Châu, A Bích chỉ chèo mấy cái chiếc thuyền đã cách Thính Vũ Cư mấy trượng.

Bỗng từ dưới nước một người ướt sũng vọt lên, chính là Cưu Ma Trí. Y vừa lên được Thính Vũ Cư, lập tức giơ tay chặt đứt một cây cột gỗ, nghe vù một tiếng đã cầm ném thẳng vào A Bích ngồi phía sau con thuyền, A Bích kêu lên: “Đoàn Công tử, hụp xuống mau.” Đoàn Dự cùng hai cô gái cùng nằm mọp xuống, nửa cây cột gỗ vụt qua đầu, gió mạnh đến nỗi nghe rất cả cổ.

A Châu khom người chèo mạnh mấy cái, chiếc thuyền lại vọt lên thêm cả trượng. Bỗng dưng nghe tiếng ầm ầm, bình bình vang dội, con thuyền chao đảo nhấp nhô, nước tạt vào làm cho cả ba người đều ướt sũng. Đoàn Dự quay đầu lại thấy Cưu Ma Trí đã đánh vỡ một bên vách Thính Vũ Cư, tay cầm đôn đá, đỉnh hương liên tiếp ném ra. A Bích nhắm chừng những vật nặng đó mà lách thuyền tránh né, còn A Châu vẫn cắm cúi chèo tới trước, mỗi lần vung tay, chiếc thuyền con lại vọt xa thêm mấy thước. Tuy Cưu Ma Trí vẫn liên tiếp ném theo nhưng cự ly mỗi lúc một xa, xem ra y kình lực mạnh mẽ đến đâu cũng ném không tới. Hai cô gái liên tiếp chèo chống, Đoàn Dự quay đầu lại nhìn quanh, thấy Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cũng đã bám được thang trèo trở lại lên Thính Vũ Cư. Chàng trong bụng mừng thầm nhưng lại kêu “Chao ôi” một tiếng, thấy Cưu Ma Trí vừa nhảy xuống một chiếc thuyền khác.

A Châu kêu lên: “Ác hòa thượng đuổi theo kìa!” Nàng gắng sức chèo luôn mấy cái, quay đầu nhìn lại bỗng dưng bật cười ha hả khiến Đoàn Dự cũng tò mò quay lại, thấy chiếc thuyền của Cưu Ma Trí chạy vòng tròn trên mặt nước. Thì ra tuy y võ công cao cường nhưng lại chưa biết lái thuyền.

Ba người thở phào một cái nhưng chẳng bao lâu thấy Cưu Ma Tú đã hơi biết điều khiển, cố gắng chèo thuyền đuổi theo. A Bích thở dài: “Nhà sư này quả là thông minh, việc gì cũng để ý một lát là làm được ngay.” A Châu nói: “Mình phải để y không mò ra được lối đi.” Nàng chèo mấy cái đưa con thuyền vào trong đám lá lăng um tùm. Trong Thái Hồ có hàng ngàn hàng vạn lối mòn, chiếc thuyền nhỏ chỉ cần vòng qua mấy khúc là đã chui tọt vào trong một con lạch nhỏ, Cưu Ma Trí không thể nào đuổi theo được.

Đoàn Dự nói: “Tiếc rằng huyệt đạo trên thân thể tôi chưa được giải, thành thử không thể chèo thuyền giúp hai vị tỉ tỉ được.” A Bích an ủi: “Đoàn công tử chở có lo, nhà sư kia không đuổi kịp đâu.”

Đoàn Dự nói: “Cơ quan trong Thính Vũ Cư kể cũng hay thật. Có ai mà ngờ được chiếc thuyền lại nằm ngay dưới cái ghế tỉ tỉ đánh đàn.” A Bích mỉm cười: “Đúng vậy, khi tôi mời công tử lại xem đàn, A Châu tỉ tỉ búng vào sợi dây một tiếng làm hiệu, người bên ngoài nghe thấy mở cửa hầm ra, tất cả đều rơi xuống hết.” Ba người cùng cười ha hả, A Bích vội bịt miệng lại nói: “Đừng để lão ác tăng nghe thấy.”

Bỗng nghe từ xa có tiếng văng vẳng vọng tới: “A Châu cô nương, A Bích cô nương, hai cô bơi thuyền trở lại mau! Bần tăng đã là bạn với công tủ Mộ Dung có lý đâu lại làm khó dễ các cô?” Chính là tiếng của Cưu Ma Trí, giọng điệu dịu dàng thân thiết khiến người ta bất giác không tự chủ được nữa, muốn làm theo ý lão.

A Châu bần thần nói: “Đại hòa thượng gọi chúng ta trở lại, tất không gia hại đâu.” Đoạn nàng dừng chèo không bơi nữa, trong lòng dường như có vẻ xao xuyến. A Bích cũng nói: “Vậy chúng ta quay lại thôi.” Đoàn Dự nội công vô cùng hùng mạnh nên không bị thanh âm của Cưu Ma Trí mê hoặc, vội nói: “Lão bịp đấy! Tin thế nào được?” Lại nghe giọng ôn hòa trìu mến của Cưu Ma Trí chậm rãi lọt vào tai: “Hai vị tiểu cô nương ơi! Công tử nhà các cô đã về tới, cần gặp các cô ngay, các cô mau mau bơi thuyền trở lại.” A Châu đáp: “Vâng!” rồi lái thuyền quay đầu lại.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu quả công tử Mộ Dung trở về thì chính y lên tiếng gọi A Châu A Bích, hà tất phải mượn lão gọi hộ? Đúng là lão giở phép thu hồn phách cực kỳ lợi hại ra đây.” Chàng chợt nghĩ ra, giơ tay ra ngoài thuyền, hái nấy lá lăng trên mặt nước, vo lại thành một cục nhét vào tai A Bích, sau đó lại bịt vào tai A Châu.

A Châu vừa định thần, thất thanh kêu lên: “Chao ôi! Nguy hiểm thực!” A Bích cũng kinh hoàng nói: “Gã hòa thượng đó biết phép nhiếp hồn. Ta bị lão lung lạc mất rồi.” A Châu quay đầu thuyền lại hết sức chèo, kêu lên: “A Bích, chèo mau lên, mau lên!”

Hai người ra sức chèo chiếc thuyền con đi sâu vào bãi lăng. Một hồi sau, tiếng gọi của Cưu Ma Trí nhỏ dần, sau cùng không còn nghe thấy nữa. Đoàn Dự ra hiệu cho hai cô gái bỏ lá lăng đang bịt lỗ tai ra.

A Bích xoa ngực, thở hắt ra nói: “Sợ quá mất thôi. A Châu tỉ tỉ, mình phải làm sao bây giờ?” A Châu đáp:”Mình cứ lênh đênh trên mặt hồ này, đói thì bóc hồng lăng hoặc móc ngó sen lên mà ăn, dù có ở đây mười ngày hoặc nửa tháng cũng chẳng hề gì.” A Bích mỉm cười nói: “Phương cách đó kể cũng hay, không biết ý Đoàn công tử ra sao?” Đoàn Dự vỗ tay cười đáp: “Phong cảnh trên hồ tại hạ hận không có bốn mắt mà ngắm, huống chi có hai cô làm bạn, ở đây ngao du mươi ngày, thật sướng hơn tiên.” A Bích dẩu môi cười: “Mình đi về hướng đông nam thì dưới đó sông lạch thật nhiều, trừ bọn chài lưới địa phương ra, không ai tìm được đường lối. Nếu như mình vào tới Bách Khúc Hồ, quyết nhiên gã hòa thượng kia không thể đuổi tới nơi được.

Hai cô gái thư thả chèo thuyền, Đoàn Dự nằm nhìn lên những vì sao lấp lánh trên cao, ngoài tiếng mái chèo khuấy nước và tiếng lá lăng chạm vào thành thuyền kêu loạt soạt thì bốn bề tĩnh mịch không một tiếng động, gió mát trên mặt hồ như ướp mùi hoa thơm dìu dịu, nghĩ thầm: “Nếu cứ được thế này mãi thì thật sướng biết bao”. Chàng lại nghĩ “A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ tốt bụng như thế, xem ra Mộ Dung công tử cũng không phải là hạng người hung ác. Huyền Bi đại sư chùa Thiếu Lâm và sư huynh của Hoắc tiên sinh không biết đã bị ai giết? Ôi, trong nhà ta biết bao nhiêu tì nữ phục dịch nhưng có ai sánh được với A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ?”.

Một lúc lâu sau, chàng đang nhắm mắt sắp thiu thiu ngủ bỗng nghe A Bích cười khúc khích nói: “A Châu tỉ tỉ, chị lại đây.” A Châu cũng hạ giọng hỏi nhỏ: “Gì thế?” A Bích giục: “Chị cứ lại đây rồi em nói cho nghe.” A Châu gác mái giầm, đi đến cuối thuyền ngồi xuống. A Bích ôm lấy vai nàng, ghé tai mỉm cười nói nhỏ: “Hai chị em mình làm cách nào cho khỏi mắc cỡ đây.” A Châu cười hỏi: “Chuyện gì vậy?” A Bích nói: “Nói nhỏ thôi. Đoàn công tử đã ngủ chưa?” A Châu đáp: “Không biết nữa, ngươi hỏi thử xem.” A Bích nói: “Hỏi không được. A Châu tỉ tỉ, em… em… em muốn tiểu tiện.”

Hai người nói nhỏ như muỗi kêu nhưng Đoàn Dự nội công cực kỳ hùng hậu nên nghe rõ mồn một, nhưng chàng không dám động đậy, giả vờ ngáy nhè nhẹ để hai nàng khỏi thẹn.

Chỉ nghe A Châu hạ giọng cười nói: “Đoàn công tử ngủ rồi. Ngươi cứ việc đi tiểu đi.” A Bích ngượng nghịu đáp: “Em không dám đâu, lỡ nửa chừng Đoàn công tử tỉnh dậy thì biết làm thế nào?” A Châu nhịn không nổi cười rúc rích, vội vàng đưa tay bịt miệng nói nhỏ: “Có gì mà ngượng? Ai chẳng phải đại tiểu tiện, có gì lạ đâu?” A Bích cầm tay A Châu lắc lắc, năn nỉ: “Chị ơi, nghĩ giùm em xem làm cách nào đây?” A Châu đáp: “Để ta che cho ngươi, nếu như Đoàn công tử tỉnh dậy cũng không nhìn thấy được.” A Bích nói: “Thế nhưng có tiếng động, nghe chảy xuống nước, em… em…” A Châu cười đáp: “Thế thì làm cách nào được bây giờ? Ngươi cứ đi đi, Đoàn công tử không nghe thấy đâu.” A Bích nói: “Không được đâu, có người bên cạnh, em không đi được.” A Châu đáp: “Không đi được thì càng tốt.” A Bích bí quá dường như muốn khóc, chỉ rên rỉ: “Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?”

A Châu lại cười khúc khích nói: “Cũng tại ngươi hết, ngươi không nói ra, ta cũng quên khuấy đi, bây giờ ngươi nói tới nói lui, làm ta cũng mắc đi đại tiện. Thôi đành tới phủ nhà mợ Vương chỉ cách chừng nửa quãng chín, mình chèo tới đó đi ngoài luôn cũng được.” A Bích nói: “Vương thái thái không cho chúng mình léo hánh đến đâu, Bà ấy dữ như chằn, không chừng vừa gặp đã cho mỗi đứa mấy cái tát tai.” A Châu đáp: “Có chi đâu mà sợ. Vương thái thái với lão thái thái hay cãi nhau, nhưng bà lão nay đã mất rồi. Ta với ngươi bất quá chỉ là kẻ ăn người ở, mình có làm gì đâu mà bị tát tai? Mình len lén lên bờ, đi xong lại xuống thuyền, thái thái làm sao biết được?” A Bích đáp: “Vậy cũng được.” Nàng hơi trầm ngâm bỗng nói: “Hay mình kêu Đoàn công tử lên bờ đi ngoài luôn, nếu không… nếu không anh ta tỉnh dây cười mình thì thẹn chết.”

A Châu cười khẩy nói: “Sao người chăm sóc chàng kỹ quá vậy? Không sợ công tử biết mà ghen hay sao?” A Bích thở dài nói: “Những chuyện nhỏ nhặt công tử đâu có để tâm đến làm chi. Mình chỉ là hai con tiểu a đầu, công tử có bao giờ nghĩ tới.” A Châu nói: “Nhưng ta cứ nghĩ đến thì sao? A Bích muội tử, ngươi tối ngày sáng đêm nghĩ đến công tử, việc gì phải giấu.” A Bích thở hắt ra, không trả lời. A Châu vỗ nhẹ lên vai nàng, nói nhỏ: “Ngươi vừa mắc tiểu tiện lại vừa nhớ đến công tử, hai chuyện nói chung thật tức cười quá.” A Bích cũng cười khúc khích nói: “Chị cứ nói giỡn chẳng đâu vào đâu.”

A Châu quay trở lại đầu thuyền cầm mái chèo bơi tiếp. Hai cô gái bơi một hồi thì trời bắt đầu hửng sáng.

Đoàn Dự nội công thâm hậu, huyệt đạo không bị bế lâu, trước đây cứ độ vài giờ Cưu Ma Trí phải điểm thêm mấy cái. Đến lúc này chàng cảm thấy nội tức bắt đầu thông, các huyệt bị điểm từ từ mở ra. Chàng vươn vai ngồi dậy nói: “Tại hạ ngủ được một giấc dài, còn hai vị tỉ tỉ thật là mệt nhọc. Có một việc không tiện nói, xin hai vị đừng trách, ta… ta muốn đi tiểu tiện.” Chàng nghĩ thầm mình tự ý nói ra cho hai cô gái khỏi ngượng ngập.

A Châu, A Bích hai cô cùng bật cười. A Châu nói: “Cũng chẳng còn xa, chúng ta sẽ đến nhà một người họ Vương, lúc đó công tử lên bờ cho thoải mái.” Đoàn Dự đáp: “Thế thì tiện quá.” A Châu bỗng dưng nghiêm mặt nói: “Có điều Vương thái thái tính tình rất là khó chịu, không cho đàn ông lạ lên nhà. Công tử lên bờ rồi lập tức quay trở lại thuyền ngay, đừng ở lại lâu cho khỏi phiền phức.” Đoàn Dự đáp: “Được, tại hạ hiểu rồi”.