Hồi 32: Người câm trổ tài hùng biện, nhà sư lãnh phái Tiêu Dao

Hư Trúc ra khỏi căn nhà gỗ bỗng giật mình, thấy giữa bãi đất trống có một đám lửa lớn, dưới đất có bảy tám thân cây tùng bị đánh gãy nằm ngổn ngang. Y không ngờ mình mới vào căn nhà gỗ chưa bao lâu mà bên ngoài đã xảy ra những biến cố trời long đất lở. Chắc những cây tùng này đã đổ xuống lúc Hư Trúc ngất đi nên y chẳng hay biết gì.

Mọi người bên ngoài đã chia thành hai phe. Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà ngồi ở đầu bên phải, bọn Huyền Nạn, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa… đứng đằng sau lão. Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu ngồi đầu bên trái, sau lưng lão có tên đầu sắt Du Thản Chi cùng bọn đệ tử phái Tinh Tú. Còn bọn Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự, Cưu Ma Trí, Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần thì đứng ở xa xa mà xem.

Giữa Tô Tinh Hà và Đinh Xuân Thu đang có một cây cột lửa cháy rực trời, hai lão đều vận chưởng lực để đẩy sang đối phương. Lúc này cây cột lửa đang từ từ lấn sang phải, rõ ràng Đinh Xuân Thu đang chiếm thượng phong.

Không ai để ý đến Hư Trúc từ trong nhà đi ra, vì mọi người đều chăm chú nhìn cây cột lửa. Đương nhiên Vương Ngữ Yên chỉ quan tâm đến biểu huynh là Mộ Dung Phục, còn Đoàn Dự thì để hết tâm trí vào Vương Ngữ Yên. Hai người này chẳng thèm đưa mắt nhìn Hư Trúc lần nào, mà hình như cả cây cột lửa đang cháy rực trời họ cũng không nhìn thấy.

Hư Trúc đi vòng sau lưng mọi người qua bên phải, đứng bên sư bá tổ Huyền Nạn. Y thấy cây cột lửa cứ nhích dần sang phải. Tô Tinh Hà đang vận động chân khí, áo lão phồng lên trông như cánh buồm căng gió, hai tay không ngớt phóng chưởng đẩy ra.

Bên kia Đinh Xuân Thu vẫn cười nói tự nhiên, tay áo phất phơ nhẹ nhàng như đang ngồi hóng mát. Bọn đệ tử phái Tinh Tú đang thi nhau tâng bốc sư phụ. Nào là: “Tinh Tú Lão Tiên nhắc vật nặng cũng nhẹ như không, thần thông trên đời có một. Bữa nay các ngươi sẽ được mở rộng tầm mắt.” “Sư phụ ta còn muốn giáo huấn nên chỉ từ từ thúc đẩy thần công, khi nào lão nhân gia quyết định tru diệt lão họ Tô thì chỉ đẩy mạnh một cái là xong.” “Kẻ nào chưa chịu khuất phục thì cứ lấy một chọi một nếm thử thần công của phái Tinh Tú.” “Thiên thư đã ghi rõ phái Tinh Tú là thiên hạ vô địch. Kẻ nào lớn mật giở trò châu chấu đá xe thì cũng như tự sát mà thôi.”

Giả tỉ bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh nghe chúng khoác lác mà ngứa tai xuất thủ tấn công Đinh Xuân Thu thì Tinh Tú Lão Quái bản lĩnh tới đâu cũng không chống nổi. Song bọn Cưu Ma Trí cũng chẳng có thiện cảm gì với Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà, nên chẳng giải nguy cho lão làm gì, vả lại ai cũng sợ người khác nhân lúc mình sơ hở mà hạ thủ. Vì vậy mà mặc kệ bọn đệ tử phái Tinh Tú bốc thơm sư phụ chúng lên tới mây xanh, bọn Cưu Ma Trí chỉ tủm tỉm cười chứ không nói gì.

Đột nhiên cây cột lửa lướt tới, lửa liếm vào người Tô Tinh Hà, mấy chòm râu dài của lão bị cháy bay mùi khét lẹt. Tô Tinh Hà phải cố gắng lắm mới đẩy được cây cột lửa ra cách người lão không đầy hai thước. Hư Trúc kinh hãi nghĩ thầm: “Ta không nhìn nhận lão họ Tô kia là sư huynh, nhưng ít nhiều cũng có liên hệ. Bây giờ lão sắp bị đốt chết, ta biết làm thế nào cho phải?”.

Bỗng nghe tiếng “tùng tùng beng beng” nổi lên ầm ĩ, thì ra bọn đệ tử phái Tinh Tú lôi ra nào trống, nào thanh la não bạt, khua lên để tán dương oai phong của sư phụ. Lại còn mấy gã phất cờ xanh vàng đỏ tím đủ màu, lớn tiếng reo hò. Trước nay cao thủ đấu nội lực, chưa có ai đem trống chiêng cờ xí để trợ oai bao giờ, việc này thật là hi hữu trong võ lâm. Cưu Ma Trí cười ha hả nói: “Tinh Tú Lão Quái thật là mặt dày cổ kim hiếm thấy!”

Giữa những tiếng chiêng trống om sòm, một tên đệ tử phái Tinh Tú lấy ra một tờ giấy, lớn tiếng xướng lên một đoạn văn biền ngẫu để ca ngợi Tinh Tú Lão Tiên dương oai ở Trung Nguyên. Không hiểu tên đồ gàn nào đã soạn ra bài này để tán tụng công đức của Tinh Tú Lão Quái, thật là vừa huênh hoang vừa ngu xuẩn, nếu Hứa Do cùng Sào Phủ nghe xong mà tại chưa điếc thì phải dẫn nhau ra biển rửa mới sạch nổi.

Chẳng hiểu Tinh Tú Lão Quái có cần đến những lời tán dương vô sỉ đó không, nhưng nội lực của lão quả là dạt dào như sóng cồn. Giữa tiếng chiêng trống pha lẫn những lời nịnh hót vang lừng, cây cột lửa lại tiến lên nửa thước.

Đột nhiên có tiếng bước chân, rồi hơn hai chục đại hán từ sau nhà chạy ra đứng chắn trước mặt Tô Tinh Hà, Đây là những gã câm điếc đệ tử của lão, mới đây đã khiêng bọn Huyền Nạn lên núi. Đinh Xuân Thu vận thêm kình lực, đẩy cây cột lửa tới đốt bọn đại hán đó, lập tức da thịt cháy xèo xèo mà hơn hai mươi người vẫn đứng yên không nhúc nhích, mặc cho lửa cháy. Họ lại bị câm, không lên tiếng kêu réo gì, thành ra tấn kịch lại càng bi tráng. Ai nhìn thảm cảnh này cũng không khởi động lòng. Chỉ trong khoảnh khắc, cây cột lửa đã đốt một số gã câm điếc cháy thành than.

Đoàn Dự la lên: “Không được tàn nhẫn như thế!” Chàng vung tay phải ra toan dùng Lục Mạch Thần  Kiếm để đánh Đinh Xuân Thu, nhưng nội lực đầy rẫy mà chỉ chuyển qua chuyển lại chứ không theo đầu ngón tay phóng ra ngoài được. Đoàn Dự trán toát mồ hôi, cất tiếng gọi lớn: “Mộ Dung huynh! Huynh mau xuất thủ cứu bọn kia đi!” Mộ Dung Phục đáp: “Có Đoàn huynh ở đây, tiểu đệ không dám múa rìu qua mắt thợ. Đoàn huynh thi triển Lục Mạch Thần Kiếm đi!”

Đoàn Diên Khánh đến sau, không nhìn thấy Đoàn Dự phóng Lục Mạch Thần Kiếm. Lão vừa nghe Mộ Dung Phục nói bất giác run lên, liếc mắt nhìn Đoàn Dự để xem chàng có hiểu môn thần công đó của họ Đoàn Đại Lý thật không, nhưng chỉ thấy chàng đưa ngón trỏ bên phải ra điểm điểm vạch vạch rất có phương pháp, mà nội lực không phát huy được chút nào. Lão không hiểu Đoàn Dự không có căn bản võ công nên không sử dụng theo ý muốn được, bèn lẩm bẩm: “Có Lục Mạch Thần Kiếm quái gì đâu mà mình phải sợ? Chắc thắng lỏi này chỉ hư trương thanh thế dọa người. Họ Đoàn ta tuy có môn Lục Mạch Thần Kiếm thật, nhưng đã có ai luyện được đâu?”

Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự không chịu xuất thủ, lại nghĩ rằng chàng có ý giấu giếm. Y là người tâm cơ sâu sắc, không chịu hành động khinh suất, bèn đứng yên để xem diễn biến.

Sau một lúc nữa, hơn hai chục tên đại hán câm điếc đã bị cây cột lửa đốt cháy thành than đến một nửa, một nửa còn lại đều bị trọng thương. Bỗng nghe chiêng trống khua vang lên, Đinh Xuân Thu phất tay áo bào hai cái, cây cột lửa vượt qua đám đại hán câm điếc, tiến đến sát Tô Tinh Hà.

Tiết Mộ Hoa hô to: “Chớ hại sư phụ ta!”, rồi tung mình nhảy đến trước cây cột lửa. Tô Tinh Hà tay phóng một chưởng đẩy gã ra, miệng bảo: “Đừng chết vô ích”, rồi vận hết toàn lực vào tay trái đánh tới cây cột lửa. Nhưng lúc này nội lực của lão đã hao tổn rất nhiều, phát chưởng này chỉ ngăn cản được một chút, toàn thân liền nóng bỏng, trước mắt ngọn lửa cháy đỏ rực. Khi xưa lão phát thệ giả câm giả điếc để được sống thêm ba mươi năm, công lực của lão đã tiến triển rất nhiều, song Đinh Xuân Thu càng tiến bộ mau lẹ hơn, so với ba mươi năm trước thì võ công sư huynh sư đệ lại càng chênh lệch. Lúc này Tô Tinh Hà chẳng khác nào ngọn đèn hết dầu, chắc chắn không thoát khỏi độc thủ của Đinh lão quái. Tô Tinh Hà lại nghĩ đến Đinh Xuân Thu giết xong mình rồi sẽ sấn vào nhà giết nốt sư phụ. Dường như trong lòng lão lại còn nóng bỏng hơn cả da thịt bên ngoài đang bị cây cột lửa táp tới gần.

Hư Trúc thấy tình hình cực kỳ nguy cấp mà Tô Tinh Hà vẫn đứng nguyên tại chỗ không lùi nửa bước. Y không nhịn được nữa, tiến lại nắm lấy lưng Tô Tinh Hà gọi: “Chết cũng vô ích, tránh đi cho mau!” Thật là đúng lúc, Tô Tinh Hà đang phóng chưởng ra nhưng chưởng lực rất suy yếu chẳng còn công hiệu gì, bỗng dưng lão cảm thấy sau lưng có luồng nội lực hùng hậu vô cùng truyền vào, mà lại đúng hệt như nội lực trong người lão. Thế là kình lực của phát chưởng tăng gia không biết mấy lần, những tiếng vù vù vang lên, cây cột lửa chạy ngược trở lại Đinh Xuân Thu, bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng bên cũng bị lửa táp vào người.

Lúc này tiếng chiêng trống loạn xạ cả lên, mất cả nhịp nhàng. Những câu chúc tụng “Phái Tinh Tú uy chấn Trung Nguyên” “Tinh Tú Lão Tiên thiên hạ vô địch” bỗng bị trộn lẫn với những tiếng chửi bới tục tằn, tiếng gọi nhau kêu cứu.

Đinh Xuân Thu giật bắn người. Thực ra thì nội lực Hư Trúc hợp với chưởng phong của Tô Tinh Hà cũng chưa chắc đã thắng nổi, nhưng Tinh Tú Lão Quái đang nắm vững phần thắng thì bị phản kích bất ngờ nên mới sợ hãi bủn rủn chân tay. Đồng thời lão quái phát giác ra chưởng phong của đối phương bao hàm nội lực mãnh liệt hơn của sư huynh Tô Tinh Hà nhiều, mà hiển nhiên là công phu bản phái. Lão tự hỏi: “Sư phụ hiển linh nhập vào sư huynh để đòi nợ mình chăng?” Thế là thần hồn nát thần tính, lão run lẩy bẩy, không ngưng tụ nội lực được nữa, cây cột lửa đã tới sát bên mình mà không còn sức đẩy ra.

Hòa trong tiếng hoan hô cùng tiếng kêu cứu của bọn đệ tử Tinh Tú, lại thêm tiếng Đinh Xuân Thu la lên: “Thiết diện đồ nhi! Xuất thủ mau lên!”

Du Thản Chi không suy nghĩ gì nữa, vội tung mình nhảy ra, phóng cả song chưởng đẩy vào cây cột lửa. Những tiếng xèo xèo vang lên, luồng khí âm hàn cực độ dập cây cột lửa tắt ngấm lập tức, cả luồng khói xanh cũng tiêu tan rất mau. Dưới đất chỉ còn lại những khúc gỗ thông to lớn đã cháy thành than.

Râu cùng lông mày Đinh Xuân Thu bị cháy mất một nửa, y phục cũng thủng lỗ chỗ, vẻ mặt cực kỳ hoảng hốt. Trong lòng lão vẫn đang sợ âm hồn sư phụ hiển linh báo phục, bèn cất tiếng gọi: “Đi thôi!”. Lão lạng người một cái đã ra xa đến bảy tám trượng.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú cũng cúp đuôi chạy theo thầy, không kịp lượm nào trống, nào chiêng, thanh la, não bạt ngổn ngang dưới đất. Bài văn phú lục ca tụng phái Tinh Tú oai chấn Trung Nguyên chưa đọc xong đã bị cháy một miếng lớn, mảnh còn lại bay qua bay lại trên mặt đất, tựa hồ như chế nhạo công cuộc dương oai của Tinh Tú Lão Quái là chuyện đầu voi đuôi chuột.

Bỗng nghe xa xa có một tiếng rú lên thảm khốc, một tên đệ tử phái Tinh Tú bay vọt lên không rồi rớt xuống bất động. Mọi người nhìn nhau, cùng đoán Tinh Tú Lão Quái đại bại nên giận cá chém thớt, tên đồ đệ này chắc là vỗ mông ngựa không khéo nên bị ngựa đá, nịnh bợ khó nghe nên bị lão đánh chết rồi.

Bọn Huyền Nạn, Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí đều nghĩ rằng Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà dùng khổ nhục kế, nhử cho Đinh Xuân Thu hao tổn công lực để đốt cháy bọn đồ đệ câm điếc của mình, rồi bất thình lình đánh ra một đòn như sấm sét khiến đối phương không kịp đề phòng, cúp đuôi chạy mất. Lung Á lão nhân là tay bản lĩnh phi thường, lắm mưu nhiều trí, nổi danh lừng lẫy trên chốn giang hồ. Vừa rồi lão khai diễn cuộc ác đấu cùng Tinh Tú Lão Quái đã đánh bật gốc một cây tùng rất lớn đường kính đến hơn một thước, mọi người đều kinh hồn động phách. Vì thế mà quần hùng yên trí rằng lão thi triển thần công đuổi Tinh Tú Lão Quái chạy dài, cũng không lấy chi làm lạ.

Huyền Nạn nói: “Tô tiên sinh công lực thâm hậu, đuổi được lão quái chạy dài. Chắc là từ đây lão phải táng đởm kinh hồn không dám vào Trung Nguyên một bước. Chuyến này tiên sinh tạo phúc cho võ lâm không phải là ít!”

Tô Tinh Hà liếc mắt thấy chiếc nhẫn đá đen của sư phụ đang đeo ở ngón tay Hư Trúc, hiểu rõ mọi việc ngay, vừa đau khổ lại vừa hoan hỉ. Lão nhìn lại thấy đệ tử của mình chết cháy đến tám chín phần, còn lại đều bị trọng thương, trong lòng đau đớn vô kể. Tô Tinh Hà nghĩ ngay đến sự an nguy của sư phụ, quay lại nói với bọn Huyền Nạn, Mộ Dung Phục mấy câu khách sáo, rồi nắm tay Hư Trúc nói: “Tiểu sư phụ! Xin mời đi theo lão phu vào trong này!”

Hư Trúc đưa mắt nhìn Huyền Nạn hỏi ý kiến. Huyền Nạn nói: “Tô tiền bối là cao nhân trong võ lâm, người dạy bảo điều gì ngươi đều phải nhất nhất tuân theo!” Hư Trúc “Vâng” một tiếng, rồi theo Tô Tinh Hà chui qua lỗ trên vách ván đi vào. Tô Tinh Hà thuận tay kéo tấm ván gãy chắn ngang lỗ vách.

Bên ngoài đều là những người lịch duyệt giang hồ, thấy thế biết ngay Tô Tinh Hà không muốn người ngoài thám thính, nên đều giữ ý không tò mò đến việc của lão. Người ít kiến văn nhất trong đám này là Đoàn Dự, thì lại dồn hết tâm trí vào Vương Ngữ Yên, không hề biết Tô Tinh Hà cùng Hư Trúc vào trong nhà lúc nào nữa.

Tô Tinh Hà dắt Hư Trúc vào trong, chui qua hai lần lỗ vách. Vào tới nơi thì thấy lão già nằm dưới đất, Tô Tinh Hà đưa tay đặt lên mũi sư phụ thì thấy lão chết rồi. Họ Tô đã đoán trước tám chín phần mười, mà cũng không dằn nổi mối bi ai tận đáy lòng, bèn phục xuống dập đầu trước thi hài sư phụ, vừa khóc vừa nói: “Sư phụ, sư phụ! Thế là đệ tử không còn được nghe sư phụ giáo huấn nữa rồi.”

Hư Trúc nghĩ thầm: “Quả nhiên lão già này đúng là sư phụ Tô tiền bối.” Tô Tinh Hà gạt nước mắt đứng dậy, đặt thi thể sư phụ ngồi ngay ngắn, tựa vào vách ván, rồi lại dắt Hư Trúc đến ngồi bên cạnh.

Hư Trúc cả kinh nghĩ thầm: “Tô tiền bối đặt mình ngồi ngang thi thể sư phụ y để làm gì? Chẳng lẽ… lão bắt ta phải chết theo?” Y thấy nổi da gà, muốn đứng dậy nhưng không dám. Một là y vẫn kính nể Tô Tinh Hà, hai là sư bá tổ Huyền Nạn đã dặn y nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của họ Tô.

Tô Tinh Hà kéo ngay ngắn lại cái vạt áo đã bị đốt cháy mất một nửa, rồi đột nhiên quỳ xuống trước mặt Hư Trúc, dập đầu lạy, nói: “Đệ tử bất tiếu phái Tiêu Dao là Tô Tinh Hà xin làm lễ bái kiến chưởng môn bản phái!” Hư Trúc sợ đến luống cuống chân tay, lẩm bấm một mình: “Lão này điên mất rồi! Lão này điên mất rồi!” Y vội vã quỳ xuống dập đầu lạy trả Tô Tinh Hà, vừa lạy vừa nói: “Lão tiền bối thi hành đại lễ thế này, tiểu tăng tổn thọ mất!”.

Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói: “Sư đệ! Sư đệ đã được sư phụ ta thu nạp làm đệ tử kế nghiệp, tức là chưởng môn của bản phái. Ta tuy là sư huynh, nhưng dĩ nhiên cũng phải dập đầu trước chưởng môn sư đệ!” Hư Trúc ấp úng: “Việc này… việc này…” Bây giờ y biết không phải Tô Tinh Hà phát điên, nhưng như vậy lại càng khó xử hơn.

Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ! Vừa rồi sư đệ cứu được mạng ta, chắc chắn sư phụ đã thành toàn cho sư đệ rồi, vậy sư đệ nhận mấy lạy của ta là đáng lắm. Phải chăng sư phụ đã bảo sư đệ khấu đầu chín cái làm lễ bái sư? Sư đệ đã dập đầu chưa?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng dập đầu rồi, nhưng lúc ấy chưa biết là lễ bái sư. Tiểu tăng đã là đệ tử Thiếu Lâm, không thể gia nhập phái khác được.” Tô Tinh Hà nói: “Dĩ nhiên sư phụ hiểu sư đệ là môn đệ Thiếu Lâm, nhất định người hóa giải võ công của sư đệ trước, rồi mới truyền võ công bản phái sau. Phải chăng sư phụ đã trút hết một thân công lực của người vào nội thể sư đệ?” Hư Trúc gật đầu nói: “Đúng thế!” Tô Tinh Hà lại nói: “Cái nhẫn đá đen kia là biểu tượng của chưởng môn bản phái. Phải chăng sư phụ đã đeo vào ngón tay cho sư đệ?” Hư Trúc đáp: “Chính thế! Có.điều… tiểu tăng không hiểu đó là biểu tượng gì gì hết…!”

Tô Tinh Hà ngồi xuống đất nói: “Sư đệ! Phúc trạch sư đệ cực kỳ thâm hậu! Ta cùng Đinh Xuân Thu mong mỏi cái nhẫn đá đen đó mấy chục năm trời, thủy chung vẫn không được! Vậy mà sư đệ mới gần gũi sư phụ một giờ đã được trao nhẫn cho”. Hư Trúc vội nói: “Thế thì tiền bối cứ lấy đi, cái nhẫn này tiểu tăng không dùng làm gì được!” Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói: “Sư đệ! Chắc hẳn sư đệ đã nhận lời ủy thác của sư phụ lúc lâm tử, cố lý đâu lại chạy trốn trách nhiệm? Phải chăng sư phụ đã dặn sự đệ phải trừ diệt Đinh Xuân Thu?” Hư Trúc nói: “Chính thế! Nhưng tiểu tăng đạo hạnh thô thiển, làm sao đương nổi trọng trách đó?”

Tô Tinh Hà thở dài, nhìn cái nhẫn trên ngón tay Hư Trúc mà nói: “Sư đệ! Trong vụ này còn nhiều điểm sư đệ chưa biết, để ta nói cho nghe. Phái Tiêu Dao trước đây đã có lệ: Khi chưởng môn qui tiên thì không nhất định là đại đệ tử kế vị, mà đệ tử có võ công cao cường nhất trong bản phái sẽ nhận chức chưởng môn.”

Hư Trúc mừng quá nói ngay: “Vâng, vâng! Tiểu tăng võ công thấp kém…” Tô Tinh Hà không lý gì đến y, cứ nói tiếp: “Trước kia sư phụ chỉ nhận hai đồ đệ là ta và Đinh Xuân Thu. Nhưng sở học của sư phụ rất phức tạp nên có qui định ai muốn làm chưởng môn thì phải giỏi hết mọi môn, không những tỉ võ mà phải đi thí cả cầm kỳ thi họa nữa. Đinh Xuân Thu ngoài võ công ra thì chẳng biết gì hết, y tự biết không có hy vọng giành được chức chưởng môn, bèn hạ thủ trước, đánh sư phụ rơi xuống vực thẳm, lại đánh ta bị trọng thương!”

Hư Trúc từ lúc ở dưới địa động trong nhà Tiết Mộ Hoa đã nghe chuyện này. Y vẫn chưa hiểu một chuyện, bèn hỏi: “Sao Đinh Xuân Thu lại không giết tiền bối đi?” Tô Tinh Hà đáp: “Sư đệ đừng tưởng y để ta sống vì lòng nhân nghĩa. Một là nhất thời hắn không phá được trận thế kỳ môn độn giáp do ta dùng ngũ hành bát quái sắp đặt. Hai là ta có nói với hắn: “Đinh Xuân Thu! Ngươi ám toán sư phụ, đánh thắng sư huynh, nhưng còn nhiều môn võ công uyên thâm của phái Tiêu Dao ngươi chưa biết tí gì. Kinh sách Bắc Minh Thần Công ngươi có muốn xem không? Khinh công Lăng Ba Vi Bộ ngươi có muốn học không? Còn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì sao? Tiểu Vô Tướng Công thì sao?”

“Đó là những môn võ công thượng thừa của bản phái, ngay cả sư phụ của ta vì phân tâm theo đuổi nhiều môn tạp học, nên cũng chưa luyện tới nơi. Đinh Xuân Thu nghe vậy thì thèm đến run người, liền bảo ta: “Ngươi giao sách ra đây, ta sẽ tha mạng cho ngươi.” Ta đáp: “Ta đâu có giữ mấy pho sách này mà đưa ra, cũng chưa chắc biết nơi sư phụ cất giấu. Ngươi muốn giết ta thì cứ việc hạ thủ!”. Đinh Xuân Thu lại nói: “Dĩ nhiên bí kíp cất giấu ở Tinh Tú Hải, sao ta lại không biết?” Ta nói: “Đúng thế. Bí kíp ở Tinh Tú Hải, ngươi có giỏi thì tự đi mà tìm lấy!”. Hắn tính toán một lúc, biết rằng chu vi Tinh Tú Hải rộng đến mấy trăm dặm, tìm mấy pho sách nhỏ xíu không phải chuyện dễ dàng, liền bảo: “Được rồi! Hôm nay ta không giết ngươi, nhưng từ đây trở đi ngươi phải giả câm giả điếc, không tiết lộ bí mật bản phái ra ngoài.”

“Hắn mà không muốn giết ta ư? Hắn lưu mạng ta lại để bắt phải cung khai, biết rằng sau khi ta chết thì khắp thiên hạ không ai tìm được bí kíp cho hắn nữa. Thực ra những bí kíp này không ở Tinh Tú Hải, mà ba vị sư bá, sư phụ, sư thúc chia nhau ra giữ. Mấy chục năm nay Đinh Xuân Thu ở Tinh Tú Hải, chắc là y đã lột hết từng cục đá lên mà cũng không thấy tờ kinh sách nào. Mấy lần y đến đây, đều bị ta bày cơ quan thổ mộc và dàn trận kỳ môn độn giáp thoát khỏi. Lần này chắc là hắn tuyệt vọng rồi, muốn giết ta cho hả dạ.”

Hư Trúc nói: “May mà tiền bối…” Tô Tinh Hà ngắt lời: “Sư đệ là chưởng môn của bản phái, sao lại gọi ta là tiền bối, gọi là sư ca mới phải chứ!” Hư Trúc nghĩ thầm: “Chuyện này thật là rắc rối, ta chưa thể nói huỵch toẹt ra được.” Y nghĩ vậy liền đáp: “Tiền bối có phải sư huynh tiểu tăng hay không, chưa bàn đến vội. Giả tỉ tiền bối là sư huynh thì cũng có thể gọi là tiền bối chứ sao?” Tô Tinh Hà gật đầu nói: “Sư đệ nói cũng có lý. Vừa rồi sư đệ định nói may mà cái gì?” Hư Trúc nói: “May mà tiền bối giấu được công lực tinh nhuệ của mình, chờ đến lúc tối hậu mới đột nhiên xuất kỳ chiêu trả đòn, khiến Tinh Tú Lão Quái thua liểng xiểng phải bỏ chạy.”

Tô Tinh Hà xua tay lia lịa nói: “Sư đệ! Đó là kỳ công của sư đệ mà! Rõ ràng sư đệ truyền thần công của sư phụ vào giúp sức, cứu được tính mạng cho ta, sao còn khiêm tốn không chịu nhận? Ta tuy là sư huynh, song ngôi chưởng môn đã định rồi, ta phải tôn kính chưởng môn nhân. Huống chi sư phụ đã mượn bàn tay sư đệ cứu mạng ta, từ đây sư đệ đừng coi ta như người ngoài nữa.”

Hư Trúc lấy làm lạ hỏi: “Tiểu tăng đã giúp tiền bối gì đâu? Việc cứu mạng gì gì đó không nên nói đến nữa.” Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Cũng có thể là sư đệ vô tâm, nhưng nhờ sư đệ đặt tay lên lưng ta nên thần công của bản môn mới truyền vào được, ta mới chuyển bại thành thắng.” HưTrúc nói: “Thế ư? Nếu vậy thì tiền bối được lệnh sư cứu mạng, chứ không phải tiểu tăng đâu.” Tô Tinh Hà nói: “Thì ta cũng nói sư phụ đã mượn bàn tay sư đệ cứu mạng ta mà, sư đệ chịu rồi chứ?” Hư Trúc không cãi được, gật đầu nói: “Tiền bối nói vậy là hợp lý, tiểu tăng không chịu cũng không được.”

Tô Tinh Hà lại nói: “Vừa rồi thần công của sư đệ đánh cho Đinh Xuân Thu kinh sợ chạy đi, chỉ là nhờ xuất kỳ bất ý thôi. Thật ra hai sư huynh đệ chúng ta hợp lực chưa chắc đã địch nổi hắn, nếu không thì sư phụ đã giúp ta thu thập tên phản đồ này từ lâu rồi, hà tất phải khổ sở đến thế. Ba mươi năm nay ta đã thử nhiều phương pháp, rốt cuộc vẫn không tìm thấy ai đủ tư cách kế thừa võ công của sư phụ. Sư phụ thì ngày càng già yếu, người thừa kế lại ngày càng khó tìm, không những phải có ngộ tính cực cao, còn phải là thiếu niên anh tuấn…”

Hư Trúc lại nghe Tô Tinh Hà nói mấy chữ “thiếu niên anh tuấn”, không khỏi chau mày tự hỏi: “Luyện võ công thì cần gì đến bộ mặt đẹp hay xấu? Hai thầy trò lão này cứ ráng tìm người anh tuấn để truyền võ công là tại vì sao?” Bỗng y thấy Tô Tinh Hà liếc mắt nhìn mình thở dài, bèn nói: “Tiểu tăng mặt mũi xấu xí, không đủ tư cách làm truyền nhân của tôn sư. Vậy lão tiền bối đi tìm một vị thiếu niên phong lưu anh tuấn về đây, tiểu tăng sẽ chuyển giao lại thần công cho chàng, thế là yên chuyện.”

Tô Tinh Hà sửng sốt nói: “Thần công bản phái có liên quan đến khí huyết cùng tim mạch. Thần Công còn thì người còn, thần công mất thì người chết. Sư phụ truyền thần công cho sư đệ rồi quy tiên ngay, chẳng lẽ sư đệ không thấy sao?”

Hư Trúc dậm chân liên tiếp, rồi nói: “Trời ơi! Biết làm thế nào đây? Tiểu tăng làm lỡ đại sự của lệnh sư cùng tiền bối mất rồi!”

Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ! Trách nhiệm đã trút lên vai sư đệ rồi. Sư phụ đặt ra thế cờ Trân Lung là cốt để kiểm tra ngộ tính của những người đến phá giải. Thế cờ đó khó vô cùng, ta khổ sở mấy chục năm trời mà không sao phá giải được, chỉ có mình sư đệ giải khai được mà thôi. Vậy thì ngộ tính của sư đệ cực cao, là hợp thức rồi.”

Hư Trúc nhăn nhó cười nói: “Thực ra thì không hợp thức đâu, thế cờ đó không phải tiểu tăng phá được.” Rồi y thuật lại mọi việc sư bá tổ Huyền Nạn dùng phép Truyền Âm Nhập Mật ngấm ngầm chỉ điểm.

Tô Tinh Hà nửa tin nửa ngờ nói: “Huyền Nạn đại sư mắc phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, mất hết công lực toàn thân thì làm sao thi triển được phép Truyền Âm Nhập Mật nữa?” Lão ngừng một lát rồi nói tiếp: “Nhưng phái Thiếu Lâm là một phái võ chính tông đứng đầu thiên hạ, không chừng Huyền Nạn đại sư chỉ giả vờ mất công lực, ta chỉ là ếch ngồi đáy giếng không hiểu được. Sư đệ ơi, ta đã khổ công mời mọc bao nhiêu nhân vật đến đây phá thế cờ. Mộ Dung công tử ở Cô Tô mặt đẹp như ngọc, lại hiểu hết tuyệt kỹ võ công trên thiên hạ. Y chính là nhân vật đủ tư cách nhất trong chuyện này, nhưng khốn nỗi lại không phá được thế Trân Lung.”

Hư Trúc nói: “Đúng rồi! Mộ Dung công tử quả là đẹp trai gấp trăm lần tiểu tăng. Lại còn vị Đoàn công tử nước Đại Lý cũng là tay phong lưu tuyệt thế.”

Tô Tinh Hà nói: “Ôi chao, gã này không nên đề cập đến. Ta từng nghe Trấn Nam Vương nước Đại Lý là Đoàn Chính Thuần rất tinh thâm về thần kĩ Nhất Dương Chỉ, lại là người phong lưu trên đời hiếm có. Bất luận là khuê nữ hay thiếu phụ trong võ lâm mà gặp phải y là thần hồn điên đảo, không sao tự chủ được nữa. Ta cũng đã sai đệ tử đi mời y đến đây, nói cho y biết Cô Tô Mộ Dung muốn phá phép Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia, ngờ đâu y chẳng đến mà chỉ có cậu con trai ngớ ngẩn đến thôi.”

Hư Trúc mỉm cười nói: “Dường như cặp mắt của Đoàn công tử lúc nào cũng đăm đăm chiêm ngưỡng Vương cô nương!”

Tô Tinh Hà lắc đầu nói: “Tội nghiệp, tội nghiệp! Phụ thân gã là Đoàn Chính Thuần thì nổi danh là tay phong lưu đệ nhất võ lâm, lại có cậu con chẳng giống cha chút nào, làm mất cả mặt. Gã cố sống cố chết theo đuổi Vương cô nương, mà Vương cô nương lại không thèm để ý gì đến gã, thật là tức cười chết đi được!” Hư Trúc nói: “Đoàn công tử là kẻ thâm tình, thì tư cách chàng còn hơn bọn phong lưu. Sao tiền bối lại chê trách chàng?” Tô Tinh Hà đáp: “Gã là một tên ngờ nghệch không biết tán gái, chúng ta không thể dùng gã được.” Hư Trúc đáp: “Vâng.” Nhà sư mừng thầm nghĩ bụng: “Té ra bọn này muốn kiếm một chàng thiếu niên anh tuấn là để đối phó với nữ nhân. Nếu vậy thì tuyệt diệu, nhất định họ không dùng đến kẻ trọc đầu xấu xí như ta!”

Tô Tinh Hà lại hỏi: “Sư đệ! Sư phụ có dặn sư đệ đi kiếm người nào không?” Hư Trúc sửng sốt, biết rằng chuyện này rắc rối, đã toan nói dối. Những nhà sư đã được các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm dạy dỗ từ nhỏ, kẻ xuất gia không được nói dối, nên ngượng nghịu không dối được. Y ấp úng đáp: “Cái đó… cái đó…”

Tô Tinh Hà đáp: “Sư đệ là chưởng môn bản phái, hỏi gì thì ta phải trả lời, nếu không thì sư đệ có thể dùng quyền chưởng môn mà xử tử ta. Còn ta hỏi sư đệ điều gì, sư đệ muốn trả lời thì tốt, còn không muốn trả lời thì có thể cấm ta không được hỏi nhiều.”

Tô Tinh Hà nói vậy, song Hư Trúc không dám hỗn láo, liền khoát tay nói: “Tiểu tăng không dám ngông cuồng tự đại. Tiền bối, lệnh sư đã giao cái này cho tiểu tăng.” Nói xong, y lấy cuốn trục trong bọc ra, chỉ thấy vẻ mặt Tô Tinh Hà cực kỳ cung kính, lão không dám đưa tay đụng tới cuốn trục. Nhà sư liền tự tay chầm chậm mở ra. Cuốn trục vừa mở, cả hai cùng ngẩn người, la lên một tiếng kinh ngạc. Thì ra cuốn trục này không vẽ bản đồ mà cũng không vẽ phong cảnh chi hết, chỉ vẽ một thiếu nữ ăn mặc kiểu cung phi, nhan sắc tuyệt vời. Hư Trúc nói: “Đây chính là Vương cô nương ở ngoài kia.”

Cuốn trục này bằng lụa đã vàng ố, nét vẽ cũng đã phai màu, ít ra cũng đến ba bốn chục năm, rõ ràng là một bức vẽ nhân vật đời trước. Chẳng lẽ họa sĩ mấy chục hay mấy trăm năm trước đã tưởng tượng mà vẽ ra dung mạo Vương cô nương hiện nay, thật là không thể tin được. Nét vẽ trong đồ hình linh hoạt phi thường, người trong bức vẽ sinh động như thật, tựa như Vương Ngữ Yên co nhỏ người lại rồi chui vào bức tranh.

Hư Trúc kinh hãi, nhìn qua Tô Tinh Hà thì thấy lão đang thò ngón tay ra vẽ vẽ vạch vạch, dường như cố bắt chước nét vẽ trong bức họa. Lão vừa vẽ vừa tấm tắc khen ngợi hồi lâu, rồi đột nhiên như người đang mơ chợt tỉnh, cất tiếng nói: “Sư đệ đừng ngạc nhiên mà cũng đừng trách tiểu ca. Chẳng qua tiểu ca nhìn nét đan thanh tuyệt diệu của sư phụ, bất giác lại ngứa nghề, xuất thần muốn học vẽ một phen. Ôi! Bá nghệ bá tri vị chi bá láp, cái gì ta cũng muốn học nên không học được gì đến nơi đến chốn, mới bị Đinh Xuân Thu đánh cho thảm hại.” Lão vừa nói vừa vội vã cuộn cuốn trục lại, chỉ sợ coi nữa sẽ lại bị nét bút quyến rũ làm cho mê mẩn. Tô Tinh Hà nhắm mắt dưỡng thần, lại lắc lắc đầu tựa như để xua đuổi những nét vẽ trong đồ hình ra khỏi tâm trí. Hồi lâu lão mới mở mắt ra hỏi: “Lúc sư phụ trao cuốn trục này cho sư đệ, người đã dặn gì?”

Hư Trúc đáp: “Lệnh sư nói là hiện giờ công phu của tiểu tăng chưa đủ trừ diệt Đinh Xuân Thu, phải  theo cuốn trục này đi đến núi Vô Lượng ở Đại Lý, tìm kiếm kinh thư võ học để luyện thêm. Lệnh sư còn nói đồ hình này vẽ nơi người đã hưởng phúc thanh nhàn khi trước. Tiểu tăng cứ tưởng trong đồ hình phải vẽ một nơi non thanh thủy tú, hoặc một phong cảnh thanh tịch u nhã, ngờ đâu lại là hình ảnh Vương cô nương. Hay là lệnh sư đưa nhầm cuốn trục?”

Tô Tinh Hà nói: “Hành động của sư phụ khó mà lường được. Ngộ tính của sư đệ rất cao, chắc là lúc gặp việc tự nhiên sẽ hiểu. Sư đệ phải cố mà tuân lệnh sư phụ, kiếm sách học thêm để trừ diệt Đinh Xuân Thu.” Hư Trúc ấp úng: “Việc này… việc này… Tiểu tăng là đệ tử Thiếu Lâm, bây giờ phải trở về phục mệnh ngay. Khi đã về chùa rồi thì không biết còn ra lại nữa không.”

Tô Tinh Hà giật mình la lên một tiếng, rồi buông tiếng khóc ròng. Lão sụp xuống trước mặt Hư Trúc, vừa lạy như tế sao vừa khẩn cầu: “Chưởng môn! Trời ơi! Chưởng môn không tuân theo đi huấn, thế ra sư phụ tự sát chết oan chứ còn gì nữa?”

Hư Trúc cũng quì xuống vừa lạy trả vừa nói: “Tiểu tăng đã vào cửa Không, một lòng giới sân giới sát. Trước đây tiểu tăng đã chịu lời tôn sư đi trừ diệt Đinh Xuân Thu, lúc này nghĩ lại hối hận vô cùng. Qui củ bản phái nghiêm minh, dù sao thì tiểu tăng cũng không dám qui đầu phái khác, làm điều càn rỡ.” Bất luận Tô Tinh Hà khóc lóc van vỉ, dỗ ngon dỗ ngọt, hay uy hiếp cưỡng bách, Hư Trúc vẫn một mực không chịu. Lão không biết làm thế nào được, vừa thương tâm vừa tuyệt vọng, nhìn thi thể sư phụ vừa khóc vừa nói “Sư phụ ơi! Chưởng môn sư đệ không chịu tuân theo di mệnh, tiểu đồ kém cỏi không làm gì được, đành đi theo sư phụ thôi!” Lão nói xong nhảy vọt lên, hai chân đưa lên trời, trở đầu toan đập xuống thềm đá.

Hư Trúc hốt hoảng la lên: “Không được!”, rồi nhảy tới ôm chặt lấy Tô Tinh Hà. Hiện giờ nội lực y thâm hậu, chân tay mau lẹ hơn trước nhiều. Tô Tinh Hà bị Hư Trúc ôm chặt không nhúc nhích được. Lão hỏi: “Sao sư đệ không cho tiểu huynh tự tận?” Hư Trúc đáp: “Người xuất gia lấy từ bi làm gốc, dĩ nhiên tiểu tăng không nỡ thấy tiền bối hủy mình.” Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ buông ta ra. Tiểu huynh nhất quyết không muốn sống nữa!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng nhất định không buông.” Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ ôm ta thế này mãi được chăng?” Hư Trúc thấy lão nói đúng, liền đảo người lão lại cho đầu lên trên chân xuống dưới rồi buông ra nói: “Được rồi! Tiểu tăng buông tiền bối, nhưng nhất quyết không chịu để tiền bối tự tận” .

Tô Tinh Hà trong lòng chợt động, nói ngay: “Sư đệ không cho tiểu huynh tự tận ư? Dĩ nhiên tiểu huynh phải tuân lệnh của chưởng môn. Hay lắm! Chưởng môn ơi, thế là chưởng môn đã chịu làm chưởng môn bản phái rồi!” Hư Trúc lắc đầu quầy quậy: “Không đâu! Tiểu tăng chịu làm chưởng môn hồi nào?” Tô Tinh Hà cười ha hả nói: “Chưởng môn! Bây giờ chưởng môn lại muốn cãi thì không kịp nữa rồi! Chưởng môn đã ra lệnh, tại hạ đã tuân theo, từ giờ không dám tự tận nữa. Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà này là hạng người nào? Trừ chưởng môn bản phái, ngoài ra chẳng ai dám ra lệnh cho ta nữa. Chưởng môn không tin thì cứ hỏi Huyền Nạn đại sư phái Thiếu Lâm xem có đúng thế không? Ngay cả phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng không dám ra lệnh cho ta.”

Hư Trúc cũng biết Lung Á lão nhân oai danh lừng lẫy giang hồ, lão nói không ai dám ra lệnh cho lão là đúng sự thực. Nhà sư nói: “Tiểu tăng không dám ra lệnh cho tiền bối. Tiểu tăng nói vậy là để khuyên tiền bối giữ gìn tính mệnh không nên hủy hoại, đó chỉ là hảo ý mà thôi.”

Tô Tinh Hà đáp: “Ta không đủ tư cách xem xét ý kiến của chưởng môn là hảo ý hay ác ý. Chưởng môn bảo ta chết thì ta phải chết, chưởng môn bảo ta không được chết thì ta không dám chết nữa. Chuyện sống hay chết là chuyện lớn nhất ở đời, giả tỉ sư đệ không phải là chưởng môn thì không có quyền bắt tiểu huynh phải sống.”

Hư Trúc đuối lý bèn xuống giọng năn nỉ: “Thì ra tiểu tăng đã lỡ lời, xin rút lại câu nói đó vậy.” Tô Tinh Hà nói: “Được lắm! Chưởng môn đã rút lệnh không cho ta tự tận, tức là ngầm bảo ta phải tự tận đi. Tiểu huynh xin tuân lệnh, lập tức tự tận ngay.”  Cách tự sát của lão thật là cổ quái, lại nhảy giơ chân lên trời, đầu chúc xuống toan đập vào thềm đá.

Hư Trúc lại giơ tay ra ôm lấy, nói: “Không được, không được! Tiểu tăng có bảo tiền bối tự tận đâu!” Tô Tinh Hà lại nói: “Vâng! Chưởng môn đã không cho tự tận, tại hạ kính cẩn tuân lệnh chưởng môn!” Hư Trúc hạ người Tô Tinh Hà xuống, không biết nói sao, cứ vò đầu bứt tai mãi, giả tỉ cái đầu của y còn sợi tóc nào thì e rằng cũng rụng hết.

Tô Tinh Hà có ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh vì lão biện bác rất giỏi. Suốt ba mươi năm trời lão phải giả câm giả điếc, hôm nay mới được múa lưỡi lý luận như thông reo nước chảy. Hư Trúc đã nhỏ tuổi lại kém mồm miệng, thì tranh luận với lão thế nào được? Thực ra Hư Trúc không cho lão tự tận thì không thể qui ra là bắt lão tự tận, nhưng Tô Tinh Hà biện luận hùng hồn nói đâu ra đấy, y không biết nói sao đành đứng ngẩn ra. Hồi lâu Hư Trúc mới thở dài nói: “Tiền bối! Tiểu tăng không cãi nổi, nhưng dù sao cũng không thể tuân mệnh tiền bối mà gia nhập quý phái.”

Tô Tinh Hà lại vặn hỏi: “Lúc chúng ta vào đây, Huyền Nạn đại sư đã dặn sư đệ điều gì? Lời nói của Huyền Nạn đại sư thì sư đệ có tuân mệnh hay không?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Sư bá tổ đã dặn tiểu tăng… phải… nghe lời… lão tiền bối.”

Tô Tinh Hà đắc ý cười ha hả nói: “Phải rồi! Huyền Nạn đại sư bảo sư đệ phải nghe lời tiểu huynh, mà tiểu huynh đã khuyên sư đệ tuân theo di mệnh của sư phụ mà làm chưởng môn bản phái. Thế thì nếu sư đệ tuân lời của Huyền Nạn đại sư thì phải làm chưởng môn phái Tiêu Dao. Giả tỉ sư đệ không tuân lời Huyền Nạn đại sư cũng vẫn hợp lý, vì chưởng môn phái Tiêu Dao bất tất phải nghe lệnh của Huyền Nạn đại sư.” Tô Tinh Hà đưa ra lý luận nào Hư Trúc nghe cũng có lý, nhà sư lúng túng không biết nói gì nữa.

Tô Tinh Hà lại tiếp: “Sư đệ! Huyền Nạn đại sư cùng mấy vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm đã trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, nếu không tìm cách cứu chữa thì tính mạng nguy trong chốc lát, mà hiện nay trên thế gian chỉ có một mình sư đệ là cứu được. Ta nói vậy thôi, còn cứu hay không là tùy ý sư đệ.” Hư Trúc cả kinh hỏi: “Sư bá tổ của tiểu tăng trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, tiền bối bảo tiểu tăng có thể… có thể cứu được ư? Vậy phải làm thế nào mới cứu được họ?”

Tô Tinh Hà mỉm cười nói: “Sư đệ! Bản phái không chỉ sở trường về võ học mà bất luận môn gì, y bốc tướng số hay cầm kỳ thi họa đều bao quát hết. Sư đệ có một tên sư điệt là Tiết Mộ Hoa, gã học y thuật, chưa đến đâu mà người trên chốn giang hồ đều gọi gã là Tiết Thần Y, lại còn được thiên hạ tặng cho cái ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, thật là buồn cười đến nẻ ruột. Huyền Nạn đại sư trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu, vị sư phụ mặt vuông thì bị gã đầu sắt dùng Băng Tằm Chưởng đánh bị thương, còn vị sư phụ cao cao gầy gầy thì bị Đinh Xuân Thu đá vào cạnh sườn bên tả cách ba tấc, làm tổn thương kinh mạch.”

Tô Tinh Hà cứ thao thao bất tuyệt kể rõ nguyên do và thương thế từng người. Hư Trúc vừa kinh ngạc vừa bội phục, nói: “Tiền bối! Tiểu tăng tưởng tiền bối chỉ chuyên tâm về kỳ thuật, không ngờ cũng hiểu rõ chuyện chẩn mạch chữa thương đến như vậy.”

Tô Tinh Hà đáp: “Nhân vật võ lâm bị thương do đánh nhau thì chỉ trông qua là biết, nếu đã biết thì chữa trị chẳng có gì là khó. Những bệnh thiên nhiên như suy nhược, phong tà hay thương hàn, còn khó đoán hơn nhiều. Trong mình sư đệ đã có bảy mươi năm thần công phái Tiêu Dao của sư phụ truyền cho, nếu đem ra trị bệnh thì rất hiệu quả. Muốn khôi phục lại công lực cho Huyền Nạn đại sư thì không phải là chuyện dễ, nhưng muốn chữa thương bảo toàn sinh mạng cho đại sư thì chỉ giơ tay một cái là xong.” Tô Tinh Hà nói xong bèn dạy cho Hư Trúc cách vận khí thúc vào huyệt đạo, cùng phép tiêu trừ hàn độc. Mỗi người bị thương khác nhau đều phải dùng thủ pháp khác nhau để chữa trị, rất là phức tạp.

Hư Trúc ráng học đến thuộc lòng những thủ pháp mà Tô Tinh Hà dạy cho, nhưng chỉ biết cách chữa mà không hiểu gì đạo lý bên trong. Tô Tinh Hà thấy Hư Trúc diễn lại vài lần đã thuần thục, liền khen rằng: “Quả nhiên chưởng môn sư đệ ngộ tính hơn người, vừa học đã nhớ ngay.” Lão vừa nói vừa cười cười đầy vẻ bí hiểm.

Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà cười có vẻ cổ quái, dường như có ẩn ý không hay, bất giác sinh nghi hỏi: “Sao tiền bối lại cười?” Tô Tinh Hà không cười nữa, giữ vẻ mặt nghiêm trang nói: “Tiểu huynh vô lễ, xin chưởng môn tha tội!” Hư Trúc nóng lòng trị thương cho mọi người, không để ý đến nữa, liền bảo: “Chúng ta ra ngoài đi.” Tô Tinh Hà “Vâng” một tiếng rồi cùng Hư Trúc ra khỏi căn nhà bí mật.  Mọi người bị thương đều ngồi xếp bằng dưới đất, nhắm mắt dưỡng thần. Mộ Dung Phục vận dụng nội lực để tiếp sức cho Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đỡ đau khổ, Vương Ngữ Yên thì săn sóc cho Công Dã Càn. Tiết Mộ Hoa mồ hôi đầy mặt, chạy tới chạy lui, thấy ai nguy khốn nhất thì chạy đến cấp cứu, nhưng người này hơi khỏe thì người khác lại la gọi rồi. Y thấy Tô Tinh Hà trở ra thì trong lòng cảm thấy vững tin, liền chạy tới gọi: “Sư phụ! Lão nhân gia mau mau tìm cách chữa trị cho bọn họ.”

Hư Trúc đến bên Huyền Nạn, thấy đại sư đang nhắm mắt vận công, liên thõng tay đứng chờ, không dám mở miệng. Huyền Nạn từ từ mở mắt ra, khẽ thở dài một tiếng rồi nói: “Sư bá tổ ngươi bất tài, trúng độc thủ của Đinh Xuân Thu làm tổn thương uy danh bản phái, thật là xấu hổ. Ngươi về bẩm với phương trượng rằng ta… ta cùng sư thúc tổ ngươi là Huyền Thống… không còn mặt mũi nào trở về chùa nữa!”

Hư Trúc trước nay thấy sư bá tổ lúc nào cũng trang nghiêm, không giận mà uy, chưa dám nhìn thẳng mặt bao giờ, thế mà bây giờ lão tăng mặt mày thảm đạm, đầy vẻ thê lương như anh hùng đến bước đường cùng, giọng nói lại đầy vẻ chán nản tựa hồ có ý tự sát. Y bèn nói: “Sư bá tổ! Lão nhân gia đừng quá lo buồn. Những người học võ như chúng ta, không nên để tâm vào việc giận dữ, hơn thua, thắng bại hay được mất…” Mấy câu này là trước đây sư phụ dạy cho, y đã thuộc nằm lòng, bây giờ thuận miệng xổ ra trước mặt sư bá tổ, đến khi thấy mình nói không đúng chỗ, gấp rút ngưng lại thì đã lỡ tuôn ra một tràng rồi.

Huyền Nạn mỉm cười, đáp lại: “Ngươi nói không sai, nhưng nội lực của sư bá tổ đã mất, sức để thiền định cũng không còn nữa.” Hư Trúc nói: “Vâng, vâng. Đồ tôn không biết nặng nhẹ, ăn nói thật là bừa bãi.” Y đang muốn ra tay trị thương, bỗng nhớ đến cái cười đầy vẻ xảo trá trên mặt Tô Tinh Hà, trong lòng không khỏi kinh nghi tự hỏi: “Lão dạy ta phóng chưởng đánh vào yếu huyệt trên đỉnh đầu sư bá tổ, là có ý hại người hay chăng? Sư bá tổ đã mất hết công lực, giả tỉ ta đánh chết người thì biết làm thế nào?”

Huyền Nạn nói: “Ngươi về bẩm với phương trượng là bản tự sắp có đại nạn, cần phải gia tăng cảnh giới. Đi đường phải chú ý đề phòng. Ngươi thiên tính thuần phác, hai mặt Trì Giới và Thiền Định thì không phải lo gì, nhưng sau này phải dụng tâm nghiên cứu bốn quyển Kinh Lăng Già để thêm phần chữ Tuệ. Ái chà! Tiếc rằng sư bá tổ không thể ở bên mà chỉ điểm cho ngươi được.”

Hư Trúc “Dạ, dạ” rồi chợt nghĩ ra điều gì, lại nói: “Sư bá tổ! Bản tự sắp gặp đại nạn, thì lão nhân gia lại càng phải bảo trọng lấy thân, về chùa hiệp lực với phương trượng để ngăn đại địch!” Huyền Nạn nhăn nhó, cười nói: “Ta… ta trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu đã thành phế nhân rồi, nói gì đến chuyện hiệp lực với phương trượng để chống địch nữa?” Hư Trúc bèn đáp: “Sư bá tổ! Thông Biện tiên sinh có dạy cho đệ tử mấy phép chữa thương, đệ tử không tự lượng sức mình, muốn thử chữa cho Tuệ Phương sư bá. Sư bá tổ xem có nên chăng?”

Huyền Nạn cũng không ngạc nhiên lắm, lão tăng vốn biết Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà là sư phụ của Diêm Vương Địch Tiết Thần Y, tất nhiên y thuật phải cao minh, chỉ không hiểu sao lão không tự ra tay, hay bảo Tiết Mộ Hoa động thủ. Đại sư liền bảo Hư Trúc: “Những phương pháp Thông Biện tiên sinh truyền thụ cho ngươi tất nhiên phải rất cao minh.” Huyền Nạn lại liếc nhìn Tô Tinh Hà một cái, bảo Hư Trúc: “Ngươi cứ theo đó mà chữa thử.” Hư Trúc chạy tới bên Tuệ Phương khom lưng nói: “Sư bá! Đệ tử vâng lệnh của sư bá tổ đến chữa thương cho sư bá đây.” Tuệ Phương mỉm cười gật đầu một cái. Hư Trúc bước xéo sang trái một bước, xoay tay phóng ngược lại một chưởng, trúng vào sườn bên tả Tuệ Phương.

Tuệ Phương kêu “Ối” lên một tiếng, lảo đảo người, thấy cạnh sườn mình bị đục thủng một lỗ, máu tươi cuồn cuộn chảy ra, tuy thấy trong người suy nhược, nhưng cái đau khổ do Hàn Băng Độc Chưởng của Du Thản Chi bỗng tiêu tan trong khoảnh khắc. Thì ra phép trị thương của Hư Trúc không phải dùng nội lực bản thân để khu trừ hàn độc trong người bị thương,mà lại dùng thần công bảy mươi năm của phái Tiêu  Dao đánh thủng người để mở đường tiết khí hàn độc ra ngoài. Phương pháp này cũng giống như khoét chỗ bị thương của người bị rắn cắn để nặn chất độc ra. Có điều so với dùng dao cắt thì phóng chưởng đục thủng thân thể khó hơn nhiều, bộ vị phải chính xác tuyệt đối thì chất độc mới tiết ra được. Hơn nữa, giả tỉ người chữa không đủ nội lực để đánh thấu vào kinh mạch, thì khí độc không tiết ra mà lại dồn ngược vào phủ tạng, bệnh nhân sẽ chết ngay lập tức.

Hư Trúc tuy quyết tâm phóng chưởng ra, nhưng trong lòng vẫn kinh sợ không yên tâm chút nào. Y chăm chú nhìn thấy Tuệ Phương chỉ lảo đảo một cái rồi ngồi thẳng lại, chỉ chau mày đau khổ một chút rồi vẻ mặt lại biến thành khoan khoái dễ chịu. Biến chuyển này chỉ trong khoảnh khắc, mà Hư Trúc tưởng như lâu đến mấy giờ. Sau một lúc nữa, Tuệ Phương thở phào một cái, tủm tỉm cười nói: “Hảo sư điệt, phát chưởng vừa rồi của ngươi thật là công hiệu phi thường.”

Hư Trúc cả mừng nói: “Đệ tử không dám!”, rồi quay sang hỏi Huyền Nạn: “Sư bá tổ! Đệ tử lại xin phép trị liệu cho mấy vị sư bá sư thúc nữa, được chăng?” Huyền Nạn nhìn sang mấy tên thủ hạ của nhà Mộ Dung, lắc đầu đáp: “Không được! Ngươi phải chữa trị cho người ngoài trước, trị cho người nhà sau.”

Hư Trúc rùng mình đáp: “Vâng!”, nghĩ thầm: “Lo cho người trước, lo cho mình sau mới đúng là bản sắc đại từ đại bi của nhà Phật.” Y thấy Bao Bất Đồng đang run rẩy toàn thân, răng khua lập cập, liền đến gọi: “Bao tam tiên sinh! Thông Biện tiên sinh dạy cho tiểu tăng phương pháp trị chứng hàn độc, tiểu tăng mới học, chưa được thông suốt mà cả gan dám thử, nếu có gì sai trái thì xin Bao tam tiên sinh lượng thứ cho.” Y nói xong liền áp tay vào ngực Bao Bất Đồng.

Bao Bất Đồng cười hỏi: “Ngươi làm cái trò gì thế?”  Hư Trúc đưa hữu chưởng lên, đánh “binh” một phát vào trước ngực gã, Bao Bất Đồng tức quá liền mở miệng thóa mạ: “Hòa thượng…” Còn chữ “thúi” chưa kịp nói ra miệng, đột nhiên y thấy hàn độc lưu cữu trong mình đã lâu ngày bỗng theo vết thương trên ngực tuôn ra ào ào. Thế là y ngậm miệng lại không mắng tiếp, đúng là nuốt “thúi” vào bụng.

Hư Trúc đánh cho mọi người tiết hàn độc ra hết, rồi lại cứu trị cho những người bị độc thủ của Đinh Xuân Thu. Bọn này bị thương không giống nhau, người bị Hóa Công Đại Pháp làm tiêu tan nội lực thì Hư Trúc phóng chưởng vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu hoặc vào huyệt Linh Đài ở trước ngực để giữ vững nguyên khí. Người nào bị thương về độc công phái Tinh Tú thì Hư Trúc dùng ngón tay đâm vào để hóa giải chất độc. Hư Trúc quả là nhớ dai, Tô Tinh Hà vừa chỉ điểm thương thế mỗi người ra sao, trị bằng cách nào, y nhớ rành mạch hết. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, mọi người đang đau đớn khổ sở đều được Hư Trúc giải trừ. Lung Á lão nhân là sư phụ của Tiết Thần Y, quả nhiên y thuật không phải tầm thường.

Sau cùng Hư Trúc đến trước mặt Huyền Nạn nghiêng người nói: “Sư bá tổ! Đệ tử lớn mật, xin phóng chưởng đánh vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu sư bá tổ.” Huyền Nạn đại sư mỉm cười nói: “Ngươi lọt vào mắt xanh Thông Biện tiên sinh, được người dạy cho phương pháp trị thương tuyệt diệu thế này, phúc trạch thật là thâm hậu. Ngươi cứ phóng chưởng vào huyệt Bách Hội trên đầu ta đi.”

Hư Trúc khom lưng nói: “Thế này thì đệ tử càn rỡ quá!” Lúc y ở chùa Thiếu Lâm, mỗi lần muốn thấy Huyền Nạn đều phải đứng xa xa nhìn vào. Những lúc Huyền Nạn hội họp tăng chúng để giảng giải tâm pháp võ công, Hư Trúc cũng phải đứng sau các vị khác, chứ chưa được đứng gần lão tăng bao giờ. Lần này nhà sư trẻ phóng chưởng đánh vào đầu sư bá tổ, tuy là để chữa thương, nhưng không khỏi hồi hộp trong lòng. Y trấn tĩnh lại rồi nói thêm: “Đệ tử mạo phạm, xin sư bá tổ tha tội”, rồi mới tiến lên một bước, nhắm huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu Huyền Nạn từ từ phóng chưởng ra, không nhanh không chậm mà cũng không nhẹ không nặng, thật là vừa cẩn thận vừa chính xác vô cùng.

Phát chưởng của Hư Trúc vừa chạm vào đầu Huyền Nạn, đột nhiên trên mặt đại sư hiện ra một nụ cười cổ quái, la lên một tiếng “Ôi chao!”, rồi gục xuống đất, cựa quậy mấy cái rồi nằm yên không nhúc nhích nữa.

Mọi người đều kinh hoảng la lên, Hư Trúc sợ hãi quá, tim đập ầm ầm, cứ nghĩ mình quá tay đánh chết sư bá tổ. Tuệ Phương cũng chạy vội đến, thấy miệng Huyền Nạn vẫn hiện một nụ cười quái dị, tuyệt khí chết rồi. Hư Trúc hốt hoảng la gọi: “Sư bá tổ!… Sư bá tổ làm sao vậy?”

Bỗng nghe tiếng Tô Tinh Hà la lên: “Chuyện gì thế? Ra sao rồi?”. Lão từ hướng Đông Nam nhảy vọt tới, nét mặt lộ vẻ sợ hãi nói: “Có người ở phía sau ám toán. Thân pháp y mau lẹ phi thường, không nhìn rõ là ai.” Tô Tinh Hà cầm tay Huyền Nạn xem mạch, rồi chau mày nói: “Huyền Nạn đại sư bị ám toán, lại đã mất hết công lực không còn sức để chống đỡ, nên viên tịch rồi!”

Hư Trúc đau lòng muốn ngất đi, khóc rống lên: “Sư bá tổ! Sư bá tổ… làm sao vậy?” Y bỗng nhớ lại lúc còn ở trong căn nhà gỗ, Tô Tinh Hà đã cười rất quái dị, bèn tức giận hỏi: “Thông Biện tiên sinh? Tại sao sư bá tổ lại chết? Phải chăng là tiên sinh cố ý hãm hại, mau nói thực đi!”

Tô Tinh Hà quì hai gối xuống đất nói: “Thưa chưởng môn, Tô Tinh Hà này không dám để chưởng môn làm chuyện bất nghĩa đâu. Huyền Nạn đại sư bị người ám toán nên mới viên tịch một cách đột ngột.” Hư Trúc hỏi: “Thế thì lúc ở trong nhà gỗ, tại sao tiên sinh lại cười một cách kỳ cục?” Tô Tinh Hà cả kinh hỏi lại: “Tiểu ca đã cười ư? Chưởng môn phải cẩn  thận, có người…” Lão chưa nói dứt câu đột nhiên ngừng lại, khóe miệng lại lộ ra một nụ cười khó hiểu.

Tiết Mộ Hoa la lớn: “Sư phụ!”, rồi vội móc trong bọc ra một bình thuốc giải độc, mở nắp lấy ba viên nhét vào miệng Tô Tinh Hà. Nhưng Lung Á tiên sinh đã vĩnh viễn câm điếc thật rồi, mấy viên thuốc nghẹn trong miệng không nuốt xuống được nữa. Tiết Mộ Hoa khóc rống lên nói: “Sư phụ bị Đinh Xuân Thu hạ độc chết rồi. Lão tặc Đinh Xuân Thu…!” Lão khóc nấc lên, nghẹn ngào không nói tiếp được.

Khang Quảng Lăng nhảy chồm lại toan ôm lấy Tô Tinh Hà. Tiết Mộ Hoa vội nắm lấy sau lưng đại sư huynh kéo lại, vừa khóc vừa nói: “Đừng có… đụng vào người sư phụ!” Phạm Bách Linh, Cẩu Độc, Ngô Lãnh Quân, Phùng A Tam, Thạch Thanh Lộ, Lý Quỷ Lỗi đều nhất tề quì xuống trước di thể sư phụ, nét mặt vừa đau thương vừa giận dữ.

Khang Quảng Lăng theo Tô Tinh Hà đã lâu ngày nên biết rõ lề luật bản môn hơn. Lúc lão thấy sư phụ mình quì xuống trước mặt Hư Trúc gọi bằng chưởng môn, thì mười phần đã đoán ra đến tám chín, bây giờ lại chú ý nhìn vào tay Hư Trúc, quả nhiên thấy cái nhẫn bảo thạch màu đen liền nói: “Các vị sư đệ, mau theo ta lại tham kiến chưởng môn sư thúc của bản phái.” Nói xong y quì xuống trước mặt Hư Trúc, dập đầu lạy. Bọn Phạm Bách Linh đều hiểu ra, liền quì xuống lạy theo.

Hư Trúc ruột rối như tơ vò, cất tiếng nói: “Đinh… Đinh Xuân Thu thật là độc ác, đã gia hại sư bá tổ ta, lại làm chết cả sư phụ các vị!” Khang Quảng Lăng nói: “Việc trừ diệt kẻ gian ác để báo cừu tiết hận, hoàn toàn trông vào chưởng môn sư thúc chủ trương đại cuộc.”

Hư Trúc chỉ là một nhà sư trẻ chưa hiểu việc đời, tuy về kiến thức, võ công cùng danh vọng trên giang hồ thì bọn này ai cũng hơn y xa, nhưng lúc này y chẳng để ý gì nữa. Trong đầu y chỉ còn một ý niệm duy nhất: “Không báo thù cho sư bá tổ không được. Không báo thù cho Thông Biện tiên sinh không được. Không báo thù cho lão tiền bối trong căn nhà gỗ cũng không được.” Hư Trúc bất giác lớn tiếng la lên: “Không giết chết Đinh Xuân Thu… ác nhân Đinh Xuân Thu…  ác tặc Đinh Xuân Thu không được.”

Khang Quảng Lăng lại dập đầu nói: “Chưởng môn sư thúc đã nhận lời báo thù cho sư phụ, bọn sư điệt cảm tạ đại ân đại đức vô cùng.” Bọn Phạm Bác Linh, Tiết Mộ Hoa đều dập đầu lạy theo. Hư Trúc vội quỳ xuống đáp lễ nói: “Không dám, không dám! Xin các vị đứng dậy.” Khang Quảng Lăng nói: “Thưa sư thúc! Tiểu điệt có việc muốn bẩm, nhưng ở đây đông người không tiện, mời sư thúc vào trong kia để tiểu điệt trình bày.” Hư Trúc nói: “Được!” rồi đứng dậy, mọi người cũng đứng dậy theo.

Hư Trúc cùng Khang Quảng Lăng vừa định đi vào trong căn nhà gỗ, Phạm Bách Linh vội nói: “Khoan đã! Sư phụ vừa bị độc thủ của Đinh lão tặc trong nhà, chưởng môn sư thúc cùng đại sư huynh chớ nên vào đó. Tên lão tặc này rất nhiều quỷ kế, nhất định phải đề phòng.” Khang Quảng Lăng gật đầu nói: “Ngươi nói đúng lắm! Chưởng môn sư thúc là bậc yếu nhân, không thể để bị nguy hiểm được.” Tiết Mộ Hoa nói: “Hai vị nói phải lắm. Để bọn tiểu đệ đi xem xét bốn mặt, đề phòng Đinh lão tặc lại giở ngụy kế gì nữa chăng?” Nói xong y chạy đi luôn, bọn Phùng A Tam, Lý Quỷ Lỗi cũng ra xa đến ngoài mười trượng. Nghĩ mà tội nghiệp, bọn huynh đệ này chỉ còn sót Tiết Mộ Hoa là vô sự, còn lại thì không mất hết công lực cũng bị trọng thương. Mang tiếng là đi cảnh giới, nhưng giả tỉ Đinh Xuân Thu quay lại tập kích thật, họ chỉ còn cách hô hoán chứ không còn sức kháng cự nữa.

Bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, thấy bọn họ lùi ra xa cũng đều lảng đi chỗ khác. Bọn Cưu Ma Trí, Đoàn Diên Khánh tuy thấy sự tình cổ quái nhưng không phải chuyện của mình, cũng rời đi mỗi người một hướng.

Khang Quảng Lăng lại nói: “Sư thúc!…” Hư Trúc ngắt lời: “Ta không phải là sư thúc của các vị, mà cũng chẳng phải chưởng môn gì gì hết. Ta chỉ là một hòa thượng Thiếu Lâm, không có liên can gì đến phái Tiêu Dao của các vị.” Khang Quảng Lăng lại hỏi: “Sư thúc! Sao sư thúc lại không chịu nhận? Theo lề luật bản môn thì ba chữ Phái Tiêu Dao, người ngoài môn phái quyết không được nghe. Giả tỉ có ai vô tình hay hữu ý nghe thấy thì phải hạ sát ngay, dù phải đuổi theo đến góc biển chân trời cũng giết cho kỳ được để bịt miệng.” Hư Trúc sợ run lên, nghĩ thầm: “Qui củ như vậy thì không phải là chính phái. Nếu ta không chịu gia nhập phái này thì họ phải giết ta ư?”

Khang Quảng Lăng lại nói: “Thủ pháp mà sư thúc vừa trị thương cho mọi người chính là nội công chính thống của bản phái. Nếu sư thúc không gia nhập bản phái thì khi nào sư tổ lại truyền thụ môn đó? Mà tiểu điệt không dám hỏi nhiều, không chừng gia sư đã thay mặt sư tổ để thu đồ đệ, truyền chức chưởng môn cũng nên. Dù sao, chiếc nhẫn Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn đã đeo ở trên ngón tay của sư thúc, gia sư lúc lâm tử lại gọi sư thúc bằng chưởng môn, thì sư thúc đừng chối làm gì nữa.”

Hư Trúc nhìn sang trái thấy bọn Tuệ Phương đã khiêng thi thể Huyền Nạn đặt qua một bên, lại thấy xác Tô Tinh Hà vẫn quỳ dưới đất, khóe miệng vẫn còn một nụ cười bí mật, thì chua xót trong lòng, nói: “Chuyện này nhất thời không thể nói rõ được. Hiện giờ, cấp bách nhất là phải làm sao biết Đinh Xuân Thu để báo thù cho sư phụ các vị và sư bá tổ ta, đồng thời trừ hại cho võ lâm, Lão tiền bối…”

Khang Quảng Lăng lập tức quì xuống nói: “Sư thúc xưng hô như vậy thì giết tiểu điệt đi còn hơn.” Hư Trúc chau mày nói: “Thôi được! Đứng dậy đi!” Khang Quảng Lăng vâng lời đứng dậy. Hư Trúc nghĩ sao lại buột miệng nói: “Lão tiền bối!…” Ba chữ này vừa ra khỏi miệng, Khang Quảng Lăng lại quỳ mọp xuống đất. Hư Trúc nói: “Ta quên mất, không được xưng hô thế nữa. Đứng dậy đi!” Hư Trúc lấy cuốn trục của Tiêu Dao lão nhân, mở ra nói: “Sư phụ ngươi bảo ta theo cuốn trục này để tìm cách học võ công, mới trừ diệt được Đinh Xuân Thu.”

Khang Quảng Lăng thấy cuốn trục vẽ hình một mỹ nữ cung trang thì lắc đầu nói: “Tiểu điệt không hiểu được bức vẽ này, sư thúc hãy cất đi đừng để cho người ngoài trông thấy. Lúc gia sư còn sống đã nói gì, xin sư thúc cứ theo lời người mà hành động. Tiểu điệt xin nói rõ, chất độc gia sư trúng phải gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, vô hình vô sắc. Người trúng độc không hay biết gì hết, chỉ có nét mặt tựa như mỉm cười một cách cổ quái, cười đến lần thứ ba là tắt thở chết.”

Hư Trúc cúi đầu nói: “Thật là xấu hổ. Lúc lệnh sư trúng độc, quả là có cười một cách khó hiểu. Ta lại đem bụng dạ tiểu nhân mà đoán càn, nghi lệnh sư có ý nghĩ không tốt. Nếu lúc ấy mà hỏi ngay, thì chắc còn cứu kịp, không đến nỗi thảm tử.”

Khang Quảng Lăng lắc đầu nói: “Ai đã trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì khó mà cứu được, Đinh lão tặc hoành hành trong võ lâm, nhờ vào Tam Tiếu Tiêu Dao Tán mà chẳng sợ ai. Hóa Công Đại Pháp thì nổi tiếng hơn, vì người trúng Hóa Công Đại Pháp mất hết công lực nhưng không chết. Còn ai trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì đừng hòng sống sót, dĩ nhiên không kể cho người khác nghe được.”

Hư Trúc gật đầu nói: “Quả là kịch độc! Lúc đó ta đứng cạnh tôn sư mà không phát giác được Đinh lão tặc đã hạ độc cách nào. Mà sao Đinh lão tặc không hạ độc thủ giết nốt ta, còn dung tha cái mạng nhỏ bé này làm gì?” Khang Quảng Lăng đáp: “Chắc lão thấy võ công sư thúc tầm thường, không cần hạ độc. Chưởng môn sư thúc, theo tiểu điệt thì sư thúc còn nhỏ tuổi, bản lĩnh chưa có gì cao thâm. Sư thúc được sư phụ truyền thụ cho phép trị thương kỳ diệu, nhưng bản lĩnh so với Đinh Xuân Thu thì chưa thấm gì. Có lẽ vì thế mà Đinh lão quái không để ý gia hại sư thúc.” Đột nhiên y nghĩ ra mình ăn nói vô lễ, vội vàng nhận lỗi: “Chưởng môn sư thúc! Tiểu điệt quen nói thật tình, sư thúc trách phạt thì tiểu điệt cũng xin chịu. Sự thực võ công sư thúc chưa được cao cường lắm.”

Hư Trúc nói: “Ngươi nói không sai chút nào, võ công ta quả là thấp kém. Đinh lão tặc… Ôi chao, tội lỗi, tội lỗi! Tiểu tăng xưng hô khinh bạc, phạm vào ác khẩu giới, thật không đáng làm đệ tử nhà Phật. Đinh Xuân Thu thí chủ quả là không muốn giết tiểu tăng.”

Hư Trúc thì bụng dạ chất phác, Khang Quảng Lăng thì không hiểu nội tình, đều không nghĩ ra được lúc Đinh Xuân Thu đột nhập vào nhà gỗ, nghe thấy Tô Tinh Hà đang truyền pháp môn trị hàn độc cho Hư Trúc, không phải không muốn ám toán Hư Trúc, cũng không phải cho rằng y võ công thấp kém mà không đáng giết. Lý do chỉ vì Tam Tiếu Tiêu Dao Tán là loại thuốc độc phải dùng nội lực đẩy vào thân thể của đối phương. Đinh Xuân Thu trong nhà gỗ đã phát xạ Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào Tô Tinh Hà và Hư Trúc, ra ngoài lại ám toán Huyền Nạn. Tô Tinh Hà thì sau trận ác chiến đã kiệt lực, Huyền Nạn thì đã mất hết nội lực, nên trước sau đều trúng độc. Còn Hư Trúc vừa nhận được bảy mươi năm thần công, nội lực kèm chất độc của Đinh Xuân Thu nhắm vào y đều bị hất ra ngoài, vô tình lại chuyển sang thân của Tô Tinh Hà, còn Hư Trúc không trúng mảy may. Bởi thế mà trước nay Đinh Xuân Thu cùng người chiến đấu, không dám sử dụng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán trước mặt vì sợ đối phương nội lực cao cường hất trở lại mình.

Khang Quảng Lăng nói: “Sư thúc nói không đúng rồi. Phái Tiêu Dao không phải Phật mà cũng chẳng phải Đạo, muốn đi đâu thì đi, muốn đến đâu thì đến, có phải tiêu dao tự tại biết chừng nào không? Sư thúc là chưởng môn bản phái, chẳng phải nghe lời ai cả, nên sớm bỏ áo cà sa, để tóc dài, lấy cô vợ mười bảy mười tám, mặc kệ Phật môn hay chẳng Phật môn, ác khẩu giới thiện khẩu giới chi chi hết.”

Y cứ nói một câu là Hư Trúc niệm một tiếng “A Di Đà Phật!”. Y dứt lời, Hư Trúc bèn nói: “Trước mặt ta, ngươi đừng nói những câu phỉ báng Phật môn nữa. Người còn điều chi muốn nói nữa không?” Khang Quảng Lăng la lên: “Hỏng bét! Tiểu điệt thật là đáng chết, nói lăng nhăng hàng nửa ngày vẫn chưa đi vào chính đề. Thưa chưởng môn sư thúc, tiểu điệt thỉnh cầu sư thúc một việc lớn, xin sư thúc gia ơn phê chuẩn cho.”

Hư Trúc đáp: “Sao lại kêu ta phê chuẩn, ta không dám đâu!” Khang Quảng Lăng nói: “Ôi! Đại sự trong bản môn mà không cầu chưởng môn phê chuẩn thì còn biết cầu ai nữa? Bọn sư huynh sư đệ tiểu điệt cả thảy tám người, trước kia đã bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái. Không phải là bọn tiểu điệt phạm lỗi gì, chỉ vì sư phụ sợ Đinh lão tặc gia hại đến bọn tiểu điệt, lại không nỡ chọc màng tai, cắt đầu lưỡi cho bọn tiểu điệt thành câm điếc, nên phải dùng đến hạ sách này. Bây giờ sư phụ đã thu hồi mệnh lệnh, cho bọn tiểu điệt gia nhập trở lại sư môn, nhưng chưa bẩm lên chưởng môn để thi hành đại lễ, như thế vẫn chưa được kể là đệ tử chính thức. Vậy bọn tiểu điệt thỉnh cầu chưởng môn chuẩn y thu nhận. Nếu không, tám người bọn sư điệt vẫn là vô môn vô phái, chẳng khác gì bọn cô hồn dã quỷ vật vờ trên chốn giang hồ, thật là đau khổ.”

Hư Trúc nghĩ thầm: “Nếu mình quyết không nhận làm chưởng môn phái Tiêu Dao, thì lão già này còn quấy rầy mãi không chịu thôi. Thôi thì ta cứ vờ vịt cho xong chuyện rồi tính sau.” Y liền nói: “Lệnh sư đã bằng lòng thì các ngươi tự nhiên lại là đệ tử trong môn phái, còn thắc mắc gì nữa?”

Khang Quảng Lăng cả mừng quay lại hô to: “Các vị sư đệ, sư muội! Chưởng môn sư thúc đã ưng thuận cho bọn ta quay lại bản môn rồi!” Bảy người còn lại trong Hàm Cốc Bát Hữu đều hoan hô ầm ĩ! Lão nhị mê cờ là Phạm Bách Linh, lão tam đồ gàn là Cẩu Độc, lão tứ vẽ giỏi là Ngô Lãnh Quân, lão ngũ là Diêm Vương Địch Tiết Mộ Hoa, lão lục thợ khéo là Phùng A Tam, lão thất là thiếu phụ Thạch Thanh Lộ, lão bát kép hát là Lý Quỷ Lỗi, cả bọn đều đến khấu đầu lạy tạ chưởng môn sư thúc đã gia ơn cho trở về bản phái.

Hư Trúc lại càng băn khoăn, thấy mỗi việc xảy ra lại kéo mình vào danh vị chưởng môn sư thúc sâu thêm một nấc. Mình là đệ tử danh môn chính phái, là hòa thượng Thiếu Lâm mà lại đi chấp chưởng một tà môn ngoại đạo thì còn ra gì nữa? Nhưng y thấy bọn Phạm Bách Linh đang mừng rỡ đến chảy nước mắt, nếu mình lại từ chối danh vị chưởng môn thì thật là quá tàn nhẫn. Y không biết làm thế nào cho phải, đành lắc đầu nở một nụ cười đau khổ. Hư Trúc ngoảnh đầu lại, nhưng mọi người Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, sáu nhà sư chữ Tuệ, đến cả thi thể Huyền Nạn đều không thấy đâu nữa, trong rừng tùng chỉ còn lại chín người phái Tiêu Dao mà thôi.

Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Ôi chao! Mọi người đi đâu hết rồi?” Ngô Lãnh Quân đáp: “Mộ Dung công tử cùng các vị cao tăng phái Thiếu Lâm thấy chúng ta bàn luận lâu quá, đều đi cả rồi.” Hư Trúc la lên: “Trời ơi!”, rồi nhún chân nhảy vọt đi, định bụng đuổi theo bọn Tuệ Phương để cùng về chùa Thiếu Lâm, hỏi ý sư phụ xem có nên đi nữa không. Trong lòng y nóng nảy, không nghe cả những tiếng hô hoán của bọn sư điệt phía sau.

Hư Trúc chạy như bay chừng nửa giờ, càng về sau càng nhanh hơn mà vẫn không thấy sáu vị sư bá sư thúc hàng chữ Tuệ đâu. Y không ngờ nhờ vào thần công bảy mươi năm của Tiêu Dao lão nhân truyền cho, nên khinh công mau lẹ phi thường, vượt xa sáu nhà sư hàng chữ Tuệ. Y hốt hoảng rượt theo, ngờ đâu trong lúc băng qua một thung lũng, y chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ sáu nhà sư lại phía sau mà không hay biết.

Hư Trúc chạy một mạch đến chiều tối vẫn chẳng thấy sáu nhà sư đâu, trong lòng rất kinh ngạc, tưởng là mình chạy lạc đường. Y liền quay đầu chạy ngược lại chừng hai mươi dặm, vừa chạy vừa hỏi thăm những người qua đường, nhưng chẳng ai biết. Đến lúc trời tối y chạy tới một thị trấn, bụng đã đói meo liền tìm vào phạn điếm, bảo nhà hàng nấu hai bát miến chay.

Hư Trúc ngồi đợi nấu miến mà lòng dạ bồn chồn, không ngớt đưa mắt nhìn ra ngoài, hết ngó đông lại ngò tây. Đột nhiên y nghe một thanh âm vừa trong trẻo vừa dõng dạc hỏi: “Phải chăng hòa thượng đang muốn kiếm ai?” Hư Trúc ngoảnh lại nhìn thì thấy ở hướng tây có một chàng thiếu niên mặc áo xanh ngồi bên cửa sổ, mày thanh mắt sáng, nước da trắng mịn, tướng mạo tuấn nhã đang cười hì hì nhìn mình. Gã này mới chừng mười bảy mười tám tuổi. Hư Trúc nói: “Đúng thế! Tiểu tướng công có thấy sáu hòa thượng qua đây không?” Thiếu niên đáp: “Sáu hòa thượng thì không thấy, chỉ thấy một thôi!” Hư Trúc hỏi: “Thế ư? Tướng công thấy vị hòa thượng đó ở đâu?” Thiếu niên đáp: “Ở trong phạn điếm này.”

Hư Trúc nghĩ thầm: “Một hòa thượng thì chắc là không phải, bọn Tuệ Phương sư bá cùng đi chứ đâu phải một người? Nhưng ta cứ thử hỏi xem, may ra có được tin tức gì chăng?” Y liền hỏi: “Không hiểu vị hòa thượng đó trông thế nào, độ bao nhiêu tuổi và đi hướng nào, tiểu tướng công có để ý không?” Chàng thiếu niên mỉm cười đáp: “Hòa thượng đó trán dô tai vểnh, miệng rộng môi dày, lỗ mũi huếch lên trời, độ chừng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi. Nhà sư đó đang trong phạn điếm để chờ ăn hai bát miến, chưa biết sẽ đi hướng nào!”

Hư Trúc phì cười đáp: “Té ra tiểu tướng công đang nói đến bần tăng.” Chàng thiếu niên nói: “Tướng công là tướng công, sao lại còn tiểu vào đấy? Ta vẫn gọi là hòa thượng, có gọi tiểu hòa thượng đâu?” Giọng nói của gã vừa trong trẻo vừa uyển chuyển, nghe rất êm tai. Hư Trúc cười nói: “Phải rồi! Gọi bằng tướng công thì đúng hơn!”

Hai người đang nói chuyện thì tiểu nhị bưng miến lên. Hư Trúc cười nói: “Tướng công! Bần tăng ăn miến đây.” Thiếu niên nói: “Ăn chay không có chút dầu mỡ nào thì sao nuốt nổi? Hòa thượng lại đây dùng thịt béo gà quay với ta.” Hư Trúc nói: “Tội lỗi! Tội lỗi! Suốt đời bần tăng không đụng đến thịt cá, xin tướng công cứ tùy tiện.” Nói xong, nhà sư cúi xuống ăn miến, thấy chàng thiếu niên ăn thịt nên không muốn nhìn lâu.

Nhà sư đang đói meo, nuốt hết nửa bát miến trong nháy mắt. Bỗng nghe thiếu niên la lên: “Ôi chao! Cái gì thế này?” Hư Trúc ngoảnh lại xem thì thấy gã cầm thìa canh chưa đưa vào miệng, vẻ mặt kinh ngạc như đột nhiên trông thấy một vật kỳ dị. Gã thò tay trái ra nhặt lấy vật gì đó trên bàn rồi đứng dậy, một tay vẫn cầm thìa canh, một tay cầm vật kia đến bên Hư Trúc hỏi: “Hòa thượng! Hòa thượng coi con sâu này có kỳ lạ không?”

Hư Trúc nhìn kỹ vật trên tay gã, thì ra chỉ là một con bọ nhỏ màu đen rất thông thường, ở đâu cũng có. Y bèn hỏi: “Không hiểu nó kỳ dị ở chỗ nào?” Chàng thiếu niên đáp: “Hòa thượng nhìn kỹ mà xem, vỏ nó đen sì mà sáng bóng, tựa như có bôi dầu.” Hư Trúc nói: “Ôi chà, đó chỉ là con bọ thôi, con nào cũng vậy.” Thiếu niên nói: “Thế ư?”, rồi vứt con bọ xuống đất, lấy chân dẫm chết, xong trở lại bàn mình. Hư Trúc thở dài nói: “Tội nghiệp! Tội nghiệp!”, rồi lại cúi xuống ăn miến.

Cả ngày nay nhà sư chưa có gì vào bụng nên ăn có vẻ rất ngon lành, húp cạn cả nước, chỉ còn lại bát không. Hư Trúc lại bưng bát miến thứ hai lên cầm đũa toan gắp ăn, đột nhiên gã thiếu niên cười ha hả nói: “Hòa thượng! Ta thấy người bề ngoài nghiêm cẩn, cứ tưởng là hòa thượng tốt, ngờ đâu cũng là hạng khẩu thị tâm phi, giả bộ tu hành!” Hư Trúc hỏi lại: “Bần tăng khẩu thị tâm phi ở chỗ nào?” Thiếu niên đáp: “Hòa thượng nói suốt đời không đụng tới thịt cá, thế mà húp sạch bát thang gà một cách ngon lành!” Hư Trúc nói: “Tướng công nói giỡn rồi. Rõ ràng là một bát miến chay chỉ có rau, sao lại bảo là thang gà? Bần tăng đã dặn chủ quán đừng cho giọt dầu mỡ nào.”

Thiếu niên mỉm cười nói: “Hòa thượng nói là không biết ăn thịt cá, thế mà húp nguyên bát thang gà cũng chẳng thấy gì. Để ta lại múc một thìa mỡ gà đổ vào bát miến cho hòa thượng ăn nữa nhé!” Gã nói xong, múc một thìa mỡ trong đĩa gà quay rồi đứng lên.

Hư Trúc cả kinh nói: “Tướng công! Vừa rồi… vừa rồi…” Thiếu niên cười đáp: “Phải rồi! Lúc nãy ta múc một thìa mỡ gà cho vào bát miến, chẳng lẽ hòa thượng không thấy hay sao? Ái chà chà! Chắc chắn là hòa thượng nhắm mắt vờ như không biết ta cho mỡ gà vào, như thế vừa được ăn ngon vừa không phải tự mình ra tay. Không hiểu Phật tổ có trách phạt hòa thượng không?”

Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức giận, bấy giờ y mới hiểu ban nãy gã thiếu niên gạt mình nhìn vào con sâu là để thừa cơ đổ thìa mỡ gà vào bát miến của mình. Nhà sư nghĩ lại lúc ăn bát canh miến quả thấy thơm ngon hơn, chỉ vì suốt đời chưa từng nếm qua nên không nhận được mùi vị, Hư Trúc không hiểu đã lỡ nuốt mỡ gà vào bụng rồi thì phải làm thế nào, có nên nôn ra không. Y ngẩn ra hồi lâu, chưa biết tính sao.

Gã thiếu niên lại hỏi: “Phải chăng hòa thượng đang tìm sáu nhà sư? Có phải mấy vị đang đi ngoài kia không?”

Hư Trúc cả mừng bước ra cửa, ngó qua ngó lại cũng chẳng thấy bóng người nào. Y biết là lại bị lừa gạt thì bực bội trong lòng, nhưng là người xuất gia thì không nên oán giận, bèn cố nhịn không nói năng gì, lại quay vào ăn miến.

Hư Trúc nghĩ thầm: “Tiểu tướng công này còn nhỏ tuổi mà tính tình tinh nghịch, thích chọc ghẹo người khác.” Y lại cầm đũa ăn như rồng cuốn đến hơn nửa bát. Đột nhiên lưỡi nhà sư chạm phải vật gì trơn trơn, nhưng vì ăn lẹ quá nên không hãm kịp, nuốt luôn vào bụng. Hư Trúc giật mình nhìn vào bát miến, thấy một miếng thịt lớn, biết ngay vừa rồi mình đã nuốt một miếng thịt rồi. Y vứt đũa xuống bàn, than thở: “Khổ rồi! Khổ rồi!”

Gã thiếu niên cười nói: “Hòa thượng! Ăn miếng thịt ngon lành thế kia mà lại còn kêu khổ ư?” Hư Trúc tức giận nói: “Thì ra ngươi lừa ta chạy ra cửa để bỏ thịt vào bát miến của ta. Ta… ta đã hai mươi ba tuổi, chưa ăn một chút đồ tanh nào… Ta bị hại vì tay ngươi rồi!”

Chàng thiếu niên mỉm cười hỏi lại: “Miếng thịt béo đó mà không ngon gấp mười rau xanh đậu hũ ư? Trước nay hòa thượng không chịu ăn cá thịt thì thật là ngu ngốc.” Hư Trúc cau mày đầy vẻ đau khổ, đưa tay lên gãi đầu, nhất thời chưa biết làm thế nào cho phải, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng nhốn nháo, một đám đông người đang tiến vào phạn điếm.

Y nhìn ra, thì chính là bọn đệ tử phái Tinh Tú, kinh hãi than thầm: “Ôi chao, nguy rồi! Bọn chúng mà bắt được ta thì còn chi là sinh mạng?” Hư Trúc vội vàng chạy ra sau để tìm chỗ trốn, ngờ đâu vừa đẩy cửa tiến vào, thì đây là một buồng ngủ. Phạn điếm này nhỏ quá, phòng ngủ của nhà chủ liền với phòng khách ngồi. Hư Trúc toan trở ra, bỗng nghe có tiếng gọi: “Chủ quản! Mau mau đem rượu thịt ra đây!” Bọn đệ tử phái Tinh Tú đã vào đến phòng khách.

Hư Trúc không dám ra ngoài nữa, đứng trong phòng khép cửa lại. Bỗng nghe một người nói: “Kiếm chỗ cho nhà sư mập nằm!” Thanh âm đó rất quen thuộc, chính là của Đinh Xuân Thu. Một tên đệ tử phái Tinh Tú đáp: “Vâng!”, rồi có tiếng chân bước nặng chịch đi lại phía phòng ngủ. Hư Trúc cả kinh, bèn cúi xuống chui vào gầm giường. Đột nhiên y đụng phải vật gì đó rồi có tiếng kêu khẽ, thì ra đã có một người nằm ẩn dưới gầm giường. Hư Trúc giật mình, đang muốn chui ra thì một tên đệ tử phái Tinh Tú đã bồng nhà sư Tuệ Tịnh tiến vào buồng ngủ, đặt lên giường rồi trở ra ngoài.

Hư Trúc lại nghe người nằm bên cạnh mình hỏi nhỏ: “Hòa thượng! Lúc nãy ăn thịt có ngon không? Hòa thượng sợ quái gì?” Hư Trúc nghĩ thầm: “Gã này chân tay mau lẹ, chui vào nấp dưới gầm giường trước cả mình.”, bèn nói: “Ngoài kia có một bọn ác nhân, tướng công chớ có lên tiếng.” Thiếu niên hỏi: “Sao hòa thượng biết bọn chúng là ác nhân?” Hư Trúc đáp: “Bần tăng có gặp qua bọn này, chúng vô cớ giết người không hề chớp mắt.”

Chàng thiếu niên đang định bảo Hư Trúc nói nhỏ lại, thì đột nhiên Tuệ Tịnh nằm trên giường la lên: “Gầm giường có người! Gầm giường có người!” Hư Trúc cùng gã thiếu niên cả kinh, đồng thời chui ra. Đinh Xuân Thu đang đứng sừng sững trước cửa phòng cười nhạt, vẻ mặt lão vừa đắc ý vừa ác độc.

Gã thiếu niên mặt mày tái mét cắt không ra máu, quì ngay xuống đất, hô lớn: “Sư phụ!” Đinh Xuân Thu cười nói: “Hay lắm, hay lắm! Đưa đây!” Thiếu niên đáp: “Đệ tử không để bên mình.” Đinh Xuân Thu hỏi: “Để ở đâu?” Thiếu niên đáp: “Đệ tử cất ở Nam Kinh, nước Liêu.” Đinh Xuân Thu mắt lộ hung quang, gằn giọng nói: “Mi còn dám lừa gạt ta ư? Ta sẽ để mi muốn sống không sống được, mà muốn chết cũng không chết được!” Thiếu niên đáp: “Đệ tử không dám lừa gạt sư phụ!” Đinh Xuân Thu đảo mắt nhìn Hư Trúc, rồi hỏi thiếu niên: “Sao mi lại ở với hắn một nơi?” Thiếu niên đáp: “Đệ tử mới gặp y trong phạn điếm này.” Đinh Xuân Thu hừ một tiếng, quát: “Mi nói láo!” Hai mắt lão hầm hầm nhìn hai người, rồi quay trở ra. Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú bèn tiến lại gần vây lấy hai người.

Hư Trúc vừa kinh hãi vừa hối hận, nói: “Té ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú!”

Gã thiếu niên hằn học đáp: “Chỉ tại ngươi mà lộ chuyện, còn trách ta nữa ư?” Một tên đệ tử phái Tinh Tú hỏi: “Đại sư tỉ! Lâu nay vẫn bình yên chứ?” Giọng nói của gã ra chiều mai mỉa, bộ mặt đầy vẻ khoái chí khi thấy người khác gặp tai họa.

Hư Trúc kinh ngạc hỏi: “Cái gì? Ngươi… ngươi…” Gã thiếu niên mắng luôn: “Tên trọc ngu ngốc này, tên trọc thối tha này! Dĩ nhiên ta là nữ nhân, chẳng lẽ ngươi không nhận ra hay sao?”

Thiếu niên này chính là A Tử cải trang. Nàng ở trong thành Nam Kinh nước Liêu, tuy vinh hoa phú quý hưởng không hết được, nhưng bản tính hiếu động, lâu ngày đâm chán. Tiêu Phong thì công việc bận rộn, không thể ngày nào cũng đưa nàng đi săn bắn du ngoạn được. Một hôm nàng thấy trong lòng buồn bã, liền một mình ra ngoài chơi, lúc đầu nghĩ là đến tối sẽ trở về, không ngờ gặp chuyện hứng chí, đuổi theo một người càng lúc càng xa, đến lúc giết được người đó thì đã xa Nam Kinh quá rồi. Nhân đó nàng bèn xuống Trung Nguyên du ngoạn khắp nơi, hôm nay ma dẫn lối quỷ đưa đường thế nào lại gặp cả Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu. A Tử gạt Hư Trúc ăn mặn phá giới, chỉ là để đùa chơi. Hễ thấy người ta bối rối phiền não là nàng khoái chí, thật ra không có ý tứ sâu xa gì.

A Tử tưởng sư phụ nàng cứ ở Tinh Tú Hải đến hết tuổi già, không bước chân tới Trung Nguyên nữa, nào ngờ trong phạn điếm nhỏ xíu nơi thị trấn này lại oan gia gặp mặt trong ngõ hẻm. Ngoài mặt A Tử tỏ ra thản nhiên vô sự, nhưng nàng đã sợ đến xiêu hồn bạt vía, to tiếng mạt sát Hư Trúc chỉ là để tự trấn an mình. Giọng nói của nàng cũng bắt đầu run rẩy, cố gượng trấn tĩnh nhưng không được nữa. A Tử bèn ngồi xuống mép giường, tính kế thoát thân. Nàng nghĩ thầm: “Chỉ có tỉ phu may ra mới có thể cứu được mình, còn bất luận ai khác cũng không địch nổi sư phụ. Bây giờ chỉ còn đường sống duy nhất là gạt sư phụ đến Nam Kinh, mượn tay tỉ phu giết phắt lão đi. Cũng may mà mình để Thần Mộc Vương Đỉnh lại Nam Kinh, chắc sư phụ không bỏ bảo vật đó được.”

Nàng đã thấy hơi hơi yên lòng, nhưng lại nghĩ tiếp: “Giả tỉ sư phụ tra khảo hành hạ mình, phế hết võ công rồi mới giải đến Nam Kinh, thì còn đau khổ gấp mười lần bị giết chết ngay.” Nghĩ vậy nàng sợ quá, mặt không còn chút huyết sắc.

Lúc ấy, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi tới cửa phòng cười hì hì gọi: “Đại sư tỉ ơi, sư phụ mời ra nói chuyện.”A Tử chẳng khác gì chuột nghe mèo gọi, xương cốt mềm nhũn ra, hồn phi phách tán, chỉ còn biết theo chân tên này ra phòng khách.

Chỉ một mình Đinh Xuân Thu ngồi, trên bàn đã bày sẵn rượu thịt. Bọn đệ tử đều thõng tay đứng xa xa, thái độ cực kỳ cung kính, không ai dám thở mạnh. A Tử bước đến gọi: “Sư phụ!”, rồi quỳ mọp xuống. Đinh Xuân Thu hỏi: “Thực sự mi để ở đâu?” A Tử đáp: “Đệ tử không dám lừa gạt sư phụ. Vật đó đang ở trong thành Nam Kinh nước Liêu.” Đinh Xuân Thu lại hỏi: “Chỗ nào trong thành Nam Kinh?” A Tử đáp: “Trong vương phủ của Nam Viện Đại Vương nước Liêu.” Đinh Xuân Thu chau mày hỏi: “Tại sao lại để lọt vào tay bọn chó má Khất Đan đó?” A Tử đáp: “Không lọt vào tay chúng đâu. Đệ tử lên miền bắc, vừa sợ làm thất lạc bảo bối của sư phụ, vừa sợ lỡ tay đánh rơi làm xây xát, liền vào vườn hoa phía sau vương phủ Tiêu đại vương đào lỗ chôn giấu. Nơi đó rất là hẻo lánh, hoa viên của Tiêu đại vương lại rộng đến sáu ngàn mẫu, trừ đệ tử ra thì không còn ai tìm thấy vương đỉnh được nữa. Xin sư phụ cứ yên tâm.”

Đinh Xuân Thu lạnh lẽo cười nói: “Hừ! Chỉ có mi mới tìm được phải không? Ái chà, con này đáo để thật. Mi tưởng ta sợ tìm không ra vương đỉnh mà không dám giết mi ư?” A Tử toàn thân run rẩy, ấp úng nói: “Giả tỉ sư phụ không chịu dung tha cho đứa đệ tử ngu xuẩn này, mà đem phế bỏ công lực, cắt gân bứt mạch, hoặc chặt chân tay, thì đệ tử thà chết còn hơn, nhất quyết không nói ra vương đỉnh… vương đỉnh hiện đang giấu ở đâu.” Nàng sợ đến đứt hơi, mấy chữ cuối nói không ra tiếng.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói: “Con lỏi này lớn mật dám mặc cả với ta! Trong phái Tinh Tú thì mi là lợi hại nhất, chỉ vì ta không để ý phòng bị mà mi qua mặt được Tinh Tủ lão tiên!”

Một tên đệ tử đột nhiên lớn tiếng nói: “Tinh Tú lão tiên nhìn xa vạn dặm, người biết rõ số kiếp của Thần Mộc Vương Đỉnh phải trải qua mấy cuộc nguy nan, nên mới mượn tay A Tử để giũa mài thêm cho bảo bối.” Một tên đệ tử khác nói: “Thần toán của lão tiên bao trùm thiên hạ, lời nói lại khiêm nhường, bọn đệ tử thật không thể nào theo kịp.” Một tên khác lại nói: “Bữa nay Tinh Tú lão tiên mới thi triển một chút công phu đã hạ sát được tên Huyền Nạn là cao thủ Thiếu Lâm, đồng thời tru diệt luôn mười mấy tên đệ tử của Lung Á lão nhân, quả là đệ nhất thiên hạ từ cổ chí kim, Đại La Kim Tiên cũng chưa bằng được!” “Con lỏi A Tử kia! Mi xảo quyệt thế nào cũng không ra khỏi vòng trù tính của lão tiên được đâu! Dù mi van xin hay kháng cự, cũng vô ích như nhau.” Tiếng gã này dõng dạc, Đinh Xuân Thu ngồi gật đầu mỉm cười, vuốt vuốt chòm râu ra vẻ thích thú.

Hư Trúc đứng trong phòng ngủ nghe rõ hết, nghĩ thầm: “Quả nhiên sư bá tổ cùng Thông Biện tiên sinh đều bị lão sát hại. Hỡi ôi! Nói chi đến chuyện báo cừu tiết hận? Ngay cả cái mạng nhỏ nhoi của ta cũng khó mà giữ nổi.”

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thi nhau khuyến cáo A Tử mau mau thành thật cung xưng, giọng điệu vừa sợ hãi, vừa tán dương oai đức của Tinh Tú lão tiên. Cả những câu tưởng chỉ nói cho A Tử nghe cũng đều ngụ ý xu nịnh Đinh Xuân Thu.

Bình sinh Đinh Xuân Thu có tật thích nghe nịnh bợ, ai càng nịnh khéo thì lão lại càng thích. Bọn đồ đệ này đã tán dương lão mấy chục năm trời, lão nghe quen tai, yên trí rằng chúng nói thật lòng, tên nào không biết ca tụng thì lại bị lão nghi ngờ là không trung thành. Đối với kẻ ác độc như Đinh Xuân Thu, tên nào lỡ làm mất lòng sư phụ thì không thể bảo toàn tính mạng được. Bọn đệ tử đều biết thế,  nên cứ gặp cơ hội là chúng chụp ngay lấy để tán dương. Nói thật tình thì không phải hết thảy đệ tử phái Tinh Tú đều mặt dày vô sỉ, nhưng một là vì tình thế bắt buộc phải nịnh bợ sư phụ để tồn tại, hai là chúng đi theo sư phụ lâu ngày, những câu nịnh bợ nghe đã quen tai, rồi cứ thuận miệng xì ra, chẳng thấy gì là đáng xấu hổ nữa.

Đinh Xuân Thu ngồi nghe bọn đệ tử ca tụng, mỉm cười vuốt râu, hai mắt híp lại, khoái chí vô cùng. Bộ râu dài của lão lúc tỉ thí nội công cùng sư huynh là Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một mảng lớn, nhưng chỗ còn lại cũng đủ để vuốt chơi. Về sau lão đã ngấm ngầm tung Tam Tiếu Tiêu Dao Tán ra lấy mạng Tô Tinh Hà, thế là thắng trận chung kết, thua mất một ít râu ở vòng trước cũng chẳng đáng nhớ tới nữa.

Lão tính toán trong bụng: “Con nha đầu A Tử hôm nay có mọc cánh cũng không thoát khỏi tay của lão tiên, còn tên tiểu hòa thượng ở phòng trong thì phải cẩn thận hơn. Rõ ràng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán không giết được hắn, nhưng một lát nữa ta sẽ tìm cơ hội để thi triển Hủ Thi Độc hay Hóa Công Đại Pháp là ăn chắc, Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn của chưởng môn bản phái nhất định vào tay ta rồi. Thật là đáng mừng!”

Sau thời gian chừng ăn xong bữa cơm, bọn đệ tử phái Tinh Tú im lặng dần. Còn mấy gã đang thao thao tràng giang đại hải thì chuyện cũng đã nhạt thếch, Đinh Xuân Thu bèn giơ tay ra hiệu bảo im đi. Bọn đệ tử lại đồng thành hô: “Công đức sư phụ rộng lớn như trời biển. Bọn đệ tử ngu dốt, vạn phần không nói lên được một”, rồi mới im lặng hết. Đinh Xuân Thu lại gật đầu mỉm cười, quay sang A Tử hỏi: “A Tử! Mi còn điều gì muốn nói nữa không?” A Tử động tâm nghĩ thầm: “Trước kia sư phụ thương mình nhất cũng chỉ vì mình khéo ca tụng lão, đưa ra những lời tán dương mới lạ, còn bọn kia kém thông minh, chỉ nhai đi nhai lại những câu cũ mèm.” Nàng bèn lên tiếng: “Sư phụ! Đệ tử lấy cắp Thần Mộc Vương Đỉnh cũng là có lý do riêng.”

Cặp mắt Đinh Xuân Thu long lên sòng sọc, hỏi: “Lý do gì?” A Tử thưa: “Thời kỳ sư phụ còn ít tuổi, công lực chưa đến tột đỉnh mới cần Thần Mộc Vương Đỉnh để giúp luyện công. Nhưng hai năm nay, ai chưa mù mắt đều thấy thần thông sư phụ lệch đất nghiêng trời, thần sầu quỷ khốc. Thần Mộc Vương Đỉnh chỉ có khả năng kêu gọi trùng độc, so với thủ pháp của sư phụ thì nó chẳng đáng vào đâu. Trời đất còn biến chuyển thì pháp thuật của sư phụ còn tiến triển vô bờ bến, chuyện năm xửa năm xưa nhắc đến làm gì. Sư phụ có luyến tiếc cũng chỉ vì coi cái đỉnh đó như vật kỷ niệm mà thôi. Thế mà các vị sư huynh không biết gì lại đi hoảng hốt, tưởng chừng sư phụ không có cái đỉnh đó không xong, mất cái đỉnh là việc vô cùng trọng đại. Thế thì các vị thật là ngu xuẩn hết chỗ nói, lại còn có ý coi rẻ thần thông của sư phụ.”

Đinh Xuân Thu gật đầu lia lịa khen: “Ừ! Ừ! Nói có lý! Nói có lý!”.

A Tử lại nói tiếp: “Đệ tử còn nghĩ rằng võ công phái Tinh Tú chúng ta cao cường nhất thiên hạ, mà sư phụ là bậc đại nhân đại lượng không thèm tranh hơi với bọn võ lâm Trung Nguyên, vì bản lĩnh thấp kém của chúng chẳng đáng để sư phụ bận tâm. Cũng vì thế mà bọn người ngu xuẩn cứ ngồi ở đáy giếng, tưởng trời to bằng nắp vung, rồi đâm ra tự tôn tự đại. Họ biết sư phụ không thèm lý gì đến, lại càng làm già, gọi nhau nào là võ học danh gia, nào là đương thế cao nhân, thật là mặt dày vô sỉ hết chỗ nói. Bọn chúng chỉ giỏi diễu võ dương oai ở Trung Nguyên, chẳng tên nào dám bén mảng đến phái Tinh Tú mà lĩnh giáo mấy chiêu. Kể ra thì chúng cũng thừa biết võ công sư phụ cao thâm, nhưng chẳng biết cao đến mức độ nào. Thế rồi nhà Mộ Dung ở Cô Tô lên mặt, phái Thiếu Lâm ở Hà Nam cũng tự xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu, rồi nào là Lung Á tiên sinh, nào họ Đoàn nước Đại Lý đều tự coi mình là những nhân vật phi thường. Sư phụ nghĩ xem có đáng buồn cười không?”

Thanh âm nàng đã trong trẻo, uyển chuyển dễ nghe, mà ý tứ lại thông minh, gãi đúng chỗ ngứa của Đinh Xuân Thu, so với kiểu đồng thanh hộ khẩu hiệu của bọn đệ tử kia thì siêu hơn nhiều. Bộ mặt Đinh Xuân Thu càng lúc càng tươi tỉnh, lão khoan khoái đến lờ đờ như người say thuốc.

A Tử lại tiếp: “Đệ tử vẫn còn trẻ con, bèn nảy ra ý nghĩ muốn mời sư phụ xuống Trung Nguyên để thi triển tuyệt kỹ thần thông cho bọn chúng mở rộng tầm mắt, cho bọn chúng biết rằng phía trên mặt đất còn có bầu trời, phía trên bọn võ lâm cao thủ bình thường còn có những vị lão tiên mà chúng không mơ thấy nổi. Nhưng nếu mời sư phụ một cách bình thường thì không phải lẽ, địa vị của sư phụ là vô tiền khoáng hậu khác với người thường thì dĩ nhiên cách cung thỉnh sư phụ cũng phải đặc biệt. Vì thế mà đệ tử lấy chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh là cố ý rước đại gia sư phụ đến Trung Nguyên”.

Đinh Xuân Thu cười ha há rồi nói: “Như thế thì ngươi lấy vương đỉnh cũng chỉ vì tấm lòng hiếu thuận ư?” A Tử đáp: “Chuyện đó thì không phải nói nữa, nhưng ngoài tấm lòng hiếu thuận cũng có một chút tư tâm” Đinh Xuân Thu chau mày hỏi: “Lại còn tư tâm gì nữa?”

A Tử mỉm cười đáp: “Xin sư phụ tha thứ. Con là đệ tử phái Tinh Tú, rất mong muốn cái danh bản phái vang lừng thiên hạ, để con đi đâu cũng được mọi người kính nể. Tư tâm nhỏ mọn của đệ tử là ở chỗ đó.” Đinh Xuân Thu cười ha hả khen: “Nói hay lắm, nói hay lắm! Trong môn phái ta rất nhiều đệ tử, mà chẳng ai có tâm cơ linh mẫn như ngươi. Té ra ngươi lấy cắp Thần Mộc Vương Đỉnh là để làm nổi danh cho ta. Ha ha! Ngươi thật là thông minh sáng tạo, giết đi kể cũng đáng tiếc, bên mình ta sẽ thiếu mất một đứa nói chuyện có duyên để giải buồn. Nhưng giả tỉ ta bỏ qua việc này không xét tới nữa…” A Tử vội ngắt lời: “Nếu thế thì sư phụ thật là khoan hồng với đệ tử, bản môn từ trên xuống dưới ai nấy đều cảm kích tấm lòng đại lượng của sư phụ, càng tận tâm tận lực phụng sự sư môn, tan xương nát thịt cũng cam lòng.”

Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi có thể đánh lừa người khác, nhưng đối với ta thì vô ích. Ta đâu có hồ đồ đến thế? Hừ! Ngươi đã nói giả tỉ ta phế bỏ công lực ngươi, cắt gân bứt mạch ngươi…”

Chưa biết lão muốn nói gì, bỗng nghe một thanh âm dõng dạc vang lên: “Điếm gia! Dọn chỗ ngồi cho ta!” Đinh Xuân Thu đảo mắt nhìn qua thì thấy một chàng thanh niên công tử mình mặc hoàng bào, lưng đeo trường kiếm, ngồi ngay bàn bên cạnh, không biết vào đây từ lúc nào, chính là Mộ Dung Phục mà lão đã gặp nơi kỳ hội, võ thuật gia truyền lừng danh võ lâm. Đinh Xuân Thu đang mải nghe A Tử tán dương, để chàng đột nhiên vào ngồi cạnh mà không để ý, quả là sơ hở rất lớn. Giả tỉ Mộ Dung Phục ra tay ám toán thì chắc lão phải khốn đốn rồi. Đinh Xuân Thu giật mình một cái, hơi biến sắc mặt, nhưng lại trấn tĩnh được ngay.

Hồi 33: Đẩu Chuyển Tinh Di, trấn áp hồ quần cẩu đảng

Mộ Dung Phục đưa tay vẫy Đinh Xuân Thu, lên tiếng: “Tiền bối! Thì ra cõi nhân sinh chẳng rộng lớn gì. Chúng ta vừa mới chia tay, bây giờ lại gặp nhau rồi.” Đinh Xuân Thu cười đáp: “Lão phu thật là có duyên với công tử.” Lão lại nghĩ: “Ta đã đả thương mấy tên đại tướng dưới tay hắn, hôm nay trong kỳ hội lại suýt lấy được cái mạng nhỏ xíu của hắn, làm sao hắn bỏ qua ta được? Nghe đồn võ công nhà Mộ Dung ở Cô Tô uyên bác siêu quần, võ lâm không ngớt ca tụng môn Gậy ông đập lưng ông của nhà gã rất nhiều, chắc không phải là vô lý. Lúc hắn ném quân cờ đã thi triển công phu ném ám khí đến mức tuyệt diệu. Nhưng lúc hắn ngẩn ra nhìn cuộc cờ, người khác mà không kịp cứu thì ta đã thừa cơ trừ khử rồi. Thế thì thằng lỏi này võ công tuy cao, nhưng chưa chắc đã hiểu các pháp thuật khác.” Lão quay sang bảo A Tử: “Ngươi bảo giả tỉ ta phế bỏ công lực, cắt gân bứt mạch, hoặc chặt chân tay của ngươi, thì ngươi thà chết lập tức chứ không cũng chịu nói ra cái đó ở đâu. Có phải thế không?”

A Tử sợ tái mặt, run run đáp: “Sư phụ đại lượng, chẳng nên.., chẳng nên lưu tâm mấy câu hồ đồ loạn ngữ của đệ tử làm gì.” Mộ Dung Phục cười nói: “Đinh tiên sinh! Niên kỷ tiên sinh cũng đã cao rồi, chấp nhặt với đứa con nít làm chi? Lại đây, lại đây, chúng ta cạn ba chén rượu rồi đàm văn luận võ có phải hơn không? Trước mặt người ngoài mà đem việc trong môn hộ ra thanh toán, thì coi sao tiện?”.

Đinh Xuân Thu chưa trả lời, một tên đệ tử phái Tinh Tú đã nổi giận quát lên: “Thằng lỏi này không biết trên biết dưới. Sư phụ ta là bậc võ lâm chí tôn, sao lại thèm đàm văn luận võ với tiểu tử hậu sinh như ngươi được? Ngươi có tư cách gì mà đòi đàm luận với sư phụ của ta?”.

Lại có tên hùa theo: “Nếu ngươi muốn thỉnh giáo sư phụ ta thì phải biết kính cẩn dập đầu, may ra Tinh Tú lão tiên thương yêu kẻ hậu bối mà chỉ điểm cho một hai điều. Mi dám mở miệng đòi đàm văn luận võ với Tinh Tú Lão Tiên thì người ta phải cười mi đến trẹo quai hàm. Ha ha!” Gã cười hai tiếng, vẻ mặt đột nhiên hơi sương lại, sau một lúc gã lại cười mấy tiếng khô khan, rồi há hốc miệng ra mà không nói gì nữa, nhưng vẻ mặt vẫn cười cợt một cách bí hiểm.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú biết bạn đồng môn trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán tắt hơi rồi, đều không khỏi kinh sợ mà im bặt, cúi đầu xuống không dám nhìn sư phụ nữa. Bọn chúng tự hỏi: “Không hiểu gã này lỡ miệng xúc phạm chỗ nào mà sư phụ bực tức đến mức hạ thủ giết y?”

Còn Đinh Xuân Thu thì vừa tức giận vừa sợ hãi. Lão vừa đối thoại với A Tử vừa khẽ phẩy tay áo, ngấm ngầm vận nội lực tung Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào Mộ Dung Phục. Thứ phấn độc này không hương không sắc, lại cực kỳ mịn hạt không tài nào nhìn rõ được, lão tin chắc võ công Mộ Dung Phục cao đến đâu cũng không thể phát giác ra. Nào ngờ Mộ Dung Phục dùng thủ đoạn gì không hiểu, hất Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào người gã kia, chết mất một gã đệ tử chẳng có gì đáng tiếc, nhưng Mộ Dung Phục đang cười cười nói nói, chẳng giơ tay nhấc chân gì mà hất được phấn độc qua người khác, thì công lực này quả là phi thường quá sức tưởng tượng. Đinh Xuân Thu là người kiến văn quảng bác, nhớ ngay đến thủ pháp “gây ông đập lưng ông” vốn là sở trường của Mộ Dung Phục. Thủ pháp này tương tự như thủ pháp chụp ám khí để phóng lại, bây giờ gã lại đón lấy phấn độc để tung ra. Nhưng phấn độc nhỏ li ti vô hình vô sắc mà sao không có chút nào dính vào người, lại bị gã hất hết ra ngoài được?

Đinh Xuân Thu lại nghĩ: “Tam Tiếu Tiêu Dao Tán do mình phóng ra, sao gã dùng thủ pháp gây ông đập lưng ông mà không hất trở về mình? Hừ! Chắc là thằng lỏi con này úy kỵ lão tiên nên không dám vuốt râu hùm.” Lão nghĩ đến ba chữ “vuốt râu hùm”, bèn đưa tay lên vuốt thì chỉ thấy bảy tám sợi râu bị cháy dở chỉ còn ngắn chùn ngũn. Trong lòng lão không lấy thế làm buồn mà lại mừng thầm, lẩm bẩm: “Tô Tinh Hà cùng với tên sư già Huyền Nạn nội lực cao thâm khó lường, rút cục vẫn chết về tay lão tiên, thì thằng lỏi Mộ Dung Phục miệng còn hôi sữa có chi đáng kể?” Đinh Xuân Thu bèn nói: “Mộ Dung công tử, chúng ta thật là có duyên với nhau. Lại đây, lại đây! Để ta mời công tử chén rượu.” Nói xong lão búng ngón tay một cái, chén rượu trước mặt lão bay sang bàn Mộ Dung Phục, không rớt ra ngoài nửa giọt.

Bình thời thì bọn đệ tử đã thi nhau tán tụng, nhưng vừa rồi một gã đồng môn mới nói mấy câu đã bị thảm tử, nên chúng sợ hãi quá, chẳng ai dám mở miệng nói nhiều để lộ chỗ sơ hở. Song ít ra cũng phải reo lên một tiếng tán thưởng, nếu không tất bị sư phụ hành hạ thảm khốc, Chén rượu vừa đáp xuống trước mặt Mộ Dung Phục, bọn đệ tử đồng thanh hô một tiếng: “Tuyệt diệu!” như sấm vang. Trong bọn đệ tử có ba tên đặc biệt nhát gan không dám hoan hô, khi thấy bọn đồng môn reo hò, mới sực nhớ ra mình chưa lên tiếng. Ba tên này vội kêu lên “tuyệt diệu!” nhưng đã chậm mất một chút, nghe có vẻ không nghiêm chỉnh, chúng thấy bọn đồng môn liếc mắt quở trách thì vừa hổ thẹn vừa sợ hãi vô cùng.

Mộ Dung Phục nói: “Chén rượu này của Đinh tiên sinh, vãn bối xin chuyển sang mời lệnh cao đồ!” Nói xong gã thổi phù một cái, chén rượu lại bay đến trước mặt một tên đệ tử phái Tinh Tú ngồi bên trái.

Một bên búng ngón tay vào chén rượu, một bên lấy hơi thổi chén rượu bay đi, thật ra cũng chưa thể phân biệt được nội lực hơn kém. Nhưng nhìn qua thì ai cũng có cảm tưởng như thủ pháp của Mộ Dung Phục xảo diệu hơn, mà nội lực cũng mạnh hơn Đinh Xuân Thu.

Gã đệ tử phái Tinh Tú thấy chén rượu bay đến trước mặt, hốt hoảng không kịp suy nghĩ, bất giác đưa tay trái ra đón lấy mà nói: “Sư phụ mời công tử mà!” Gã định dùng chưởng lực đẩy chén rượu lại Mộ Dung Phục, thì đột nhiên rú lên một tiếng thê thảm, ngã ngửa ra sau rồi không nhúc nhích gì nữa. Bọn đệ tử hiểu ngay lúc sư phụ búng chén rượu đã để thuốc kịch độc bám quanh cái chén. Mộ Dung Phục bất tất phải uống rượu, chỉ cần cầm đến chén cũng đủ mất mạng như gã đệ tử này rồi.

Đinh Xuân Thu biến sắc mặt, căm giận vô cùng. Lão biết rằng lần này không che mắt được bọn đệ tử, chúng đều biết mình dùng phấn độc ám hại Mộ Dung Phục, lại bị gã trả miếng làm mất mạng đệ tử phái Tinh Tú. Lão dùng cả hai tay nâng một chén rượu khác, từ từ đứng lên nói: “Mộ Dung công tử! Lão phu mời công tử một chén, đừng từ chối mà bẽ mặt lão phu!” Lão vừa nói vừa đi tới phía Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục thấy trong chén rượu trắng có ẩn sắc xanh, rõ ràng có pha thuốc kịch độc. Đinh Xuân Thu đi tới chỉ còn cách một cái bàn, Mộ Dung Phục liền vận nội công hít mạnh một hơi. Rượu trong chén Đinh Xuân Thu đang cầm đột nhiên bay lên thành một sợi dây nước xanh lè.

Đinh Xuân Thu kêu thầm: “Lợi hại quá!”, biết đối phương hít mạnh cho rượu vọt lên, rồi sẽ thổi ra để rượu bắn về phía mình. Tuy lão không sợ rượu độc, nhưng để khắp người rượu ướt đầm đìa thì thật khó coi, bèn vận nội lực nhắm vào dây rượu thổi mạnh trước. Tia rượu bay đến cách mũi Mộ Dung Phục nửa thước, đột nhiên chuyển hướng sang trái, lượn vòng qua sau gáy y rồi bay vào đến miệng một tên đệ tử phái Tinh Tú.

Gã này đang há miệng sắp hoan hô, chữ “Tuyệt diệu” chưa kịp thốt ra thì tia rượu độc đã bắn vào miệng gã rồi chui xuống bụng. Đầu óc gã còn chậm chạp hơn tia rượu, không kịp nghị vẫn hô: “Tuyệt diệu!”, rồi mới giật mình kêu lên: “Chết rồi!” Gã ngã gục ngay xuống đất, trong chớp mắt mặt đã sạm đen lại, mất mạng tức khắc. Mộ Dung Phục thấy thuốc độc ghê gớm như vậy không khỏi rùng mình nghĩ thầm: “Ta bôn tẩu giang hồ bấy lâu, chưa thấy chất độc nào ghê gớm đến thế.”

Hai người tỉ đấu chưa xong, nhưng phái Tinh Tú đã chết mất ba tên đệ tử, như vậy rõ ràng Đinh Xuân Thu lép vế.

Đinh Xuân Thu cả giận, đặt chén rượu xuống bàn rồi phóng chưởng ra. Mộ Dung Phục từng nghe tiếng Hóa Công Đại Pháp, gia tâm đề phòng rất cẩn thận. Đinh Xuân Thu phóng veo véo luôn ba chưởng, Mộ Dung Phục đều dùng thân pháp để né tránh, không để cho tay lão chạm vào.

Trong phạn điếm nhỏ bé bàn ghế ngổn ngang, lối đi chật hẹp, mà hai người tiến thoái không một tiếng động. Hai bên xuất chiêu nhanh như chớp nhưng quyền chưởng không hề chạm nhau, bàn ghế cũng không bị xô đẩy chút nào.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ biết sợ hãi đứng sát vào tường, không ai dám trốn ra ngoài vì sợ phạm tội đại bất trung, sau này tất bị sư phụ nghiêm trị. Chúng biết rõ tình thế nguy hiểm vô cùng, chỉ chạm phải một chút chưởng phong là có thể nguy hại đến tính mạng, tên nào cũng cố ép người mỏng như tờ giấy dán vào tường. Mộ Dung Phục thủ nhiều công ít, tuy chưởng pháp tinh thục nhưng không dám đối chưởng với Đinh Xuân Thu, thành ra bị trói chân trói tay ở thế hạ phong.

Tinh Tú Lão Quái vừa trao đổi mấy chiêu, thấy Mộ Dung Phục không dám đối chưởng, biết ngay gã sợ Hóa Công Đại Pháp, lão liền nảy ra ý định tỉ thí nội lực. Nhưng Mộ Dung Phục thân pháp kỳ ảo, chiêu thức vừa mau lẹ vừa khó đoán được phương hướng, lão muốn đối chưởng cũng không phải chuyện dễ. Một lúc sau Đinh Xuân Thu nảy ra một kế, dùng hữu chưởng đánh như gió bão để uy hiếp đối phương, giả vờ sử dụng tay trái không được tinh nhuệ, lại còn cố ý giấu giếm sợ đối phương khám phá ra.

Nhãn quan Mộ Dung Phục sắc bén vô cùng, nhìn ra ngay đối phương có nhược điểm. Gã lạng người đi nửa vòng, rồi đột nhiên phóng hai chưởng mãnh liệt nhằm đánh vào sườn trái Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu khẽ kêu lên một tiếng, lùi lại tránh né, tựa như không dám đưa tay trái ra đón đồ. Mộ Dung Phục cả mừng nghĩ thầm: “Chắc hẳn lão quái này đã bị nội thương gì ở nửa người bên trái.” Gã bèn giả vờ tấn công dữ dội vào bên phải, chờ bên trái đối phương lộ sơ hở mới dùng hết sức đánh một chiêu.

Hai bên đấu hơn hai chục chiêu nữa, Đinh Xuân Thu rút tay trái về giấu trong tay áo, hữu chưởng biến thành trảo chụp xuống Mộ Dung Phục. Gã bèn nghiêng người lách qua, phóng quyền đánh thẳng vào sườn trái. Đinh Xuân Thu chỉ chờ có vậy, bèn phất tay áo bên trái nghe vù vù để cuốn lấy tay phải đối phương.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Tụ phong của ngươi có lợi hại gấp mười cũng đừng hòng đả thương nổi ta.” Gã không chịu thu quyền về, lại vận thêm kình lực vào cánh tay để đón lấy tụ phong của đối phương. Nghe “soạt” một tiếng, tay áo bên phải Mộ Dung Phục bị rách toạc một miếng, gã giật mình, lại gia tăng kình lực cho phát quyền hung hãn hơn, đột nhiên đầu quyền bị bàn tay Đinh Xuân Thu nắm lấy.

Chiêu thức này vượt ngoài dự liệu của Mộ Dung Phục. Y kinh hãi nghĩ thầm: “Thì ra lão quái này giả vờ bị thương nửa người bên trái là kế dụ địch, ta mắc bẫy rồi.” Rồi gã hối hận nghĩ: “Mình tự cao quá, coi Tinh Tủ Lão Quái vang danh thiên hạ không vào đâu. Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, hà tất ta phải căm giận nhất thời, chưa tính toán kỹ đã mạo hiểm khiêu chiến với lão.” Mộ Dung Phục không còn đường rút lui nữa, liền huy động nội lực toàn thân phóng ra đầu quyền. Nhưng nội kình gã xuất ra chỉ như cục đá chìm xuống biển, không hiểu mất đi đâu hết. Mộ Dung Phục kêu thầm một tiếng: “Ôi chao!” Lúc gã đến gây sự với Đinh Xuân Thu đã định bụng không để Hóa Công Đại Pháp của lão chạm được vào mình, nhưng cuối cùng lại không tránh khỏi. Lúc này Mộ Dung Phục tiến thoái lưỡng nan, nếu tiếp tục vận nội kình để kháng cự, thì nội lực cứ bị hóa tán dần đi, chỉ trong khoảnh khắc là mất hết công lực biến thành phế nhân. Gã cũng không dám dùng thủ pháp Bảo Nguyên Thủ Nhất rút nội lực về, vì Đinh Xuân Thu nổi tiếng dụng độc ghê gớm, không chừng thuốc độc của lão có thể theo đường chân khí rút về mà chui vào nội thể, rồi xâm nhập đến tạng phủ.

Lúc này Mộ Dung Phục nghĩ không ra phương kế gì nữa, tình trạng vô cùng nguy ngập. Bỗng sau lưng gã có người lớn tiếng nói: “Sư phụ bày mưu xảo diệu vô cùng, hãm tên tiểu tử này vào tuyệt địa.” Mộ Dung Phục lùi lại hai bước, không quay đầu lại, chỉ nghe tiếng nói mà xoay tay trái nắm trúng ngực tên đệ tử phái Tinh Tú đang ngoác mồm nịnh hót.

Nhà Cô Tô Mộ Dung có phép cầm nã tuyệt diệu gọi là Đẩu Chuyển Tinh Di, cũng là một kỹ thuật mượn sức người để đánh người. Người ngoài không biết rõ, cứ tưởng nhà Mộ Dung hiểu biết sâu xa tuyệt kỹ của các môn phái khắp thiên hạ, không sót một môn nào, do đó mới có chủ trương “Gậy ông đập lưng ông”, muốn hạ sát ai thì dùng chính môn tuyệt kỹ thành danh của người đó. Thực ra trong võ lâm có tới hàng ngàn hàng vạn môn tuyệt kỹ, cho dù nhà Mộ Dung có thông minh đến đâu cũng không học hết được, mà đã gọi là tuyệt kỹ thì cũng không phải luyện trong một sớm một chiều mà thành. Đúng ra nhà Mộ Dung chỉ có thuật Đẩu Chuyển Tinh Di là xảo diệu, chuyển phương hướng chiêu thức của đối phương phản kích vào chính người đã ra chiêu.

Người quen dùng Tỏa Hầu Thương, thì nhân vật nhà Mộ Dung sẽ dùng thuật Đẩu Chuyển Tinh Di kéo mũi thương quay trở lại tự đâm vào cổ. Người nào giỏi về Đoạn Tí Đao thì đi đến kết quả tự chém đứt cánh tay mình. Chưa ai tận mắt trông thấy nhà Mộ Dung thi triển môn Đẩu Chuyển Tinh Di, chỉ thấy cũng binh khí ấy, cũng chiêu thức ấy, nên không đoán được là chính người đó mất mạng về chiêu thức của mình, thực ra là tự sát. Người nào võ công càng cao thâm, thì cái chết lại càng ly kỳ. Trước nay nhà Mộ Dung ở Cô Tô nếu không lấy một chọi một, hay không chắc thắng đối phương cả trăm phần trăm thì không bao giờ dùng đến thuật Đẩu Chuyển Tinh Di, nên tiếng tăm vang lừng khắp giang hồ mà không ai hiểu được đạo lý bên trong.

Dùng thuật Đẩu Chuyển Tinh Di để di chuyển phương hướng những vật hữu hình như khí giới quyền cước thì còn dễ, chứ di chuyển những thứ vô hình như nội lực, khí công thì khó vô cùng. Mộ Dung Phục luyện thuật này chưa đạt đến mức tinh vi, gặp phải Đinh Xuân Thu là cao thủ bậc nhất, gã tự biết không thể dùng phép Đẩu Chuyển Tinh Di để lại chính đối phương được. Vì thế mấy lần chàng thi triển thuật Đẩu Chuyển Tinh Di chỉ di chuyển sang người thứ ba, kẻ lãnh nạn là đệ tử phái Tinh Tú. Đinh Xuân Thu dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, quăng chén để rải phấn độc và thổi tia rượu độc, Mộ Dung Phục đều kiếm được kẻ chết thay cho mình một cách dễ dàng.

Bây giờ Đinh Xuân Thu dùng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục không biết làm gì nữa, nghe thấy một tên đệ tử phái Tinh Tú há miệng tung hô sư phụ ở ngay sau lưng, trong lúc cấp bách gã cũng không nghĩ kỹ, liền nắm ngay lấy tên này để thay thế cho mình, không ngờ cuộc mạo hiểm này hiệu quả vô cùng. Bản ý Tinh Tú Lão Quái là hóa giải công lực của Mộ Dung Phục, ngờ đâu đệ tử bản môn lãnh nạn.

Mộ Dung Phục thí nghiệm thành công, chẳng khác nào được cải tử hoàn sinh. Y quyết không để Đinh Xuân Thu kịp suy nghĩ, liền đẩy tên đệ tử này cho chạm vào người một tên đệ tử khác. Tên đệ tử thứ hai cũng bị Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu hóa giải mất công lực.

Đinh Xuân Thu thấy Mộ Dung Phục mượn gió bẻ măng, làm hại đệ tử của mình thì căm hận vô cùng. Nhưng lão lại nghĩ: “Nếu mình muốn giữ mạng cho mấy tên đệ tử vô dụng này mà thả hắn ra thì không biết bao giờ mới gặp được cơ hội. Thằng lỏi này mà chạy thoát thì mình mất năm tên đệ tử để chỉ xé được nửa cái tay áo của hắn, thế là phái Tinh Tú đại bại rồi. Tinh Tú Lão Tiên còn mặt mũi nào mà diễu võ dương oai ở Trung Nguyên nữa?” Lão bèn quyết định không buông đầu quyền của Mộ Dung Phục ra.

Mộ Dung Phục lại lùi mấy bước, dính tên đệ tử này vào tên đệ tử khác cho Đinh Xuân Thu hóa giải công lực. Chỉ trong khoảnh khắc ba tên đệ tử phái Tinh Tú đã kiệt quệ chân khí như bị ma cà rồng hút máu, thân thể khô kiệt dính vào với nhau không sao gỡ ra được. Đám đệ tử còn lại cả kinh, thấy Mộ Dung Phục lùi dần về phía mình, đều thất thanh la hoảng.

Mộ Dung Phục rung tay một cái, chuỗi ba tên đệ tử phái Tinh Tú bị hất tung lên, lại trúng vào một tên khác. Tên này đang hô hoán chưa kịp ngậm miệng lại thì người đã mềm nhũn ra. Thế là bốn người dính liền nhau như một xâu cá.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú chưa bị dính vào đều chỉ mong Đinh Xuân Thu buông tha Mộ Dung Phục. Đinh Xuân Thu thi triển Hóa Công Đại Pháp thần kinh quỷ khốc, đều bị gã mượn sức người để hại người, hóa tán công lực của đệ tử phái Tinh Tú. Những tên còn ở ngoài chỉ lo đến lượt mình dính vào, nhưng chúng không dám phóng ra cửa, chỉ chạy lui chạy tới quanh quẩn bên trong phạn điếm, cố né tránh để khỏi mắc độc thủ.

Căn phạn điếm này nhỏ hẹp, Mộ Dung Phục cứ vung tay một cái là lại chạm vào một tên đệ tử phái Tinh Tú, trong chớp mắt đã câu được thêm bốn tên, thế là xâu chuỗi dài tới tám người. Bây giờ gã cầm cây “bát tiết côn” vừa lớn vừa dài như vậy, muốn tìm kẻ chết thay cho mình thật dễ như chơi. Lúc này rõ ràng Mộ Dung Phục đang chiếm thượng phong, nhưng y vẫn lo sợ, vì bọn đệ tử phái Tinh Tú tuy nhiều nhưng dùng mãi cũng phải hết, đến lúc Đinh Xuân Thu hóa giải công lực hết thảy bọn chúng rồi, thì tất phải đến lượt mình. Y nghĩ vậy nên lúc nào cũng cố tìm cơ hội thoát khỏi tay Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu thấy bọn môn đồ mình cứ từng tên một dính mãi vào, chẳng khác gì một cành liễu xâu đàn cá. Bấy giờ bọn còn ở ngoài vòng chỉ lo tìm đường né tránh, chẳng tên nào hoan hô Đinh Xuân Thu nữa. Lão vừa thẹn vừa tức, nhất quyết nắm giữ đầu quyền Mộ Dung Phục không buông, nghĩ thầm: “Mất hết lũ đệ tử vô dụng này cũng không sao, rốt cuộc ta hủy được công lực của Mộ Dung Phục là Tinh Tú Lão Tiên thắng Cô Tô Mộ Dung, vụ này sẽ chấn động thiên hạ.” Lão bèn không giận dữ nữa, lại ra vẻ ung dung.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ mong sư phụ ném chuột sợ vỡ đồ, buông tha Mộ Dung Phục để mình khỏi chết oan, bây giờ thấy Đinh Xuân Thu trở lại bộ mặt tiên phong đạo cốt thì biết rằng hết hy vọng rồi. Gã nào cũng la ó rầm trời, nhưng chưa dám chạy trốn, cũng chưa có tên nào dám mở miệng van xin Đinh Xuân Thu thả Mộ Dung Phục ra.

Đinh Xuân Thu liếc mắt nhìn quanh thì trong đám đệ tử chỉ có hai người không lẩn tránh. Một người là Du Thản Chi, đang ngồi ủ rũ trong góc nhà, hai tay ôm lấy cái đầu sắt, nửa như sợ hãi vô cùng, nửa như chán đời không thèm trốn tránh. Còn người kia là A Tử, mặt mày tái mét, ngồi co ro trong góc nhà đối diện.

Đinh Xuân Thu gọi to: “A Tử!” A Tử đang ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên nghe tiếng sư phụ gọi, bèn giật mình nói: “Sư phụ! Sư phụ đại triển thần oai…” Nàng chỉ nói được nửa câu rồi ngượng nghịu gượng cười. Đúng là Đinh Xuân Thu đang thi triển thần oai, nhưng hại toàn là đệ tử mình. A Tử thông minh lanh lợi nhưng lúc này cũng nghĩ không ra lời ca tụng nào cho hợp lý.

Đinh Xuân Thu không làm gì được Mộ Dung Phục đã bực lắm rồi, lại thấy giọng cười của A Tử có vẻ trào phúng, lão nổi điên lên, phất tay áo bên trái cuốn hai chiếc đũa trên bàn phóng vọt tới cặp mắt của A Tử.

A Tử la lên: “Trời ơi!”, vội vàng đưa tay lên gạt đôi đũa nhưng đã chậm một chút, đầu đũa đã trúng vào trong mắt. Nàng thấy vừa tê vừa ngứa, vội lấy tay áo dụi mắt, lúc mở mắt ra chỉ thấy những đốm trắng nhảy múa. Chốc lát thì những đốm trắng này cũng biến mất, trước mắt nàng chỉ còn một tấm màn đen kịt.

Hồn vía A Tử bay mất hết, bất giác la lên: “Ta.. Mắt của ta… Ta không thấy gì hết.” Bỗng nhiên nàng cảm nhận có một làn gió lạnh buốt thổi qua, rồi một cánh tay choàng ngang hông, có người kéo mình chạy đi. A Tử vẫn kêu gào: “Mắt của ta…”, đột nhiên nghe một tiếng “Bình, sau lưng có hai người đối chưởng. Rồi nàng thấy thân thể bay lên như đằng vân giá vũ, mơ hồ còn nghe tiếng Mộ Dung Phục kêu to: “Thôi thôi, ta đi trước đây! Tinh Tú Lão Quái! Sau này…”

A Tử thấy lạnh buốt tới xương, bên tai nghe tiếng gió vù vù, một người lạnh như băng đang ôm nàng chạy nhanh. Hai hàm răng nàng khua lách cách, rên rỉ: “Lạnh quá… Mắt của ta… Lạnh, lạnh quá!” Người kia nói: “Phải, phải! Chúng ta chạy đến bên kia rừng, Tinh Tú Lão Quái không tìm được đâu.” Miệng gã nói mà chân vẫn chạy không chậm lại chút nào. Một lúc sau A Tử cảm thấy gã dừng lại rồi để nàng xuống, dưới chân có tiếng xào xạc tựa như một đám lá khô. Người đó hỏi: “Cô nương! Mắt của cô ra sao rồi?”

A Tử chỉ thấy hai mắt đau buốt, cố gắng trợn đến rách khóe ra mà vẫn không thấy gì, cả trời đất vũ trụ chỉ như một khối màu đen. Nàng hiểu rằng đôi mắt của mình đã bị độc dược của Đinh Xuân Thu làm cho đui mù, đột nhiên khóc òa lên, vừa khóc vừa la: “Ta… Mắt của ta mù rồi! Ta mù rồi!”

Người kia dịu dàng an ủi: “Không chừng sẽ chữa khỏi.” A Tử cả giận đáp: “Độc dược của Đinh lão quái lợi hại vô cùng, làm sao mà trị được? Ngươi gạt ta! Mắt ta mù rồi! Mắt ta mù rồi!” Nàng càng khóc lớn tiếng. Người kia lại nói: “Bên kia có một khe suối nhỏ, chúng ta qua đó thử xem, không chừng rửa sạch được chất độc dính trong mắt cô nương.” Gã nói xong liền nhẹ nhàng nắm tay A Tử, kéo nàng đứng dậy.

A Tử thấy tay người đó lạnh buốt, bất giác rụt tay lại, gã liền buông ra. A Tử bước được hai bước, vấp một cái suýt ngã. Gã khẽ la lên: “Cẩn thận!”, rồi lại nắm lấy tay nàng. A Tử không rút về nữa, để gã nắm tay dẫn đi. Gã nói: “Cô nương đừng sợ, đến cạnh khe suối rồi đó.”

A Tử quì xuống, dùng hai tay vốc nước lên rửa mặt. Nước suối mát rượi, nàng thấy cơn đau mắt từ từ dịu đi, nhưng trời đất vẫn tối đen, trước mắt không thấy chút ánh sáng nào. Nàng vừa tuyệt vọng, vừa thương tâm, vừa phẫn nộ, vừa không thấy ai giúp mình được. Rất nhiều cảm giác cùng ùa đến, nàng ngồi bệt xuống đất, khóc òa, giẫm chân liên hồi, nấc lên: “Ngươi gạt ta! Ngươi gạt ta! Mắt ta mù rồi! Mắt ta mù rồi!”

Người kia nói: “Cô nương đừng đau buồn quá. Tại hạ không rời cô nương đâu, cô nương cứ yên tâm đi.” A Tử cảm thấy được an ủi, bèn hỏi: “Ngươi… ngươi là ai?” Người đó đáp: “Tại hạ… tại hạ là…” A Tử lại nói: “Thật là không phải, xin lỗi nhé. Đa tạ các hạ đã ra tay cứu mạng, xin hỏi tôn tính đại danh là gì?” Người đó ấp úng đáp: “Tại hạ… Tại hạ… Cô nương không biết tại hạ đâu.” A Tử đáp: “Ngay cả tên họ ngươi cũng không nói ra, lại còn nói dối là không rời ta nữa ư? Mắt của ta mù rồi, ta… ta chết đi còn hơn.” Rồi nàng lại thút thít khóc.

Người đó cuống quít kêu lên: “Cô nương nhất định không được chết. Tại hạ… tại hạ nhất định vĩnh viễn không rời xa cô nương, chỉ cần cô nương đồng ý cho tại hạ ở bên mình là được.” A Tử la lên: “Ta không tin! Ngươi gạt ta, ngươi lừa gạt không cho ta chết, ta lại càng muốn chết. Mắt ta mù rồi, làm người thế nào được nữa?” Người đó nói: “Tại hạ không lừa dối cô nương. Nếu tại hạ bỏ cô nương mà đi thì sẽ không được chết yên lành.” Giọng nói của gã nghe vừa lo lắng vừa chân thành. A Tử hỏi lại: “Thế thì ngươi là ai?” Người đó nói: “Tại hạ… tại hạ ở Tụ Hiền Trang… không phải, không phải, ta ở họ Trang, tên là Trang Tụ Hiền.”

Người cứu A Tử chính là thiếu trang chủ Du Thản Chi của Tụ Hiền Trang.

A Tử đáp: “Thì ra là Trang… Trang tiền bối. Tiểu nữ đa tạ tiền bối đã cứu mạng.” Du Thản Chi vội đáp: “Ta cứu được cô thoát khỏi độc thủ của Tinh Tú Lão Tiên là mừng lắm rồi, không cần cô phải đa tạ. Ta cũng không phải là tiền bối chi hết, chỉ lớn hơn cô mấy tuổi thôi.” A Tử bèn nói: “Ồ, thế thì ta phải gọi huynh là Trang đại ca mới phải.” Du Thản Chi vui sướng vô hạn, run giọng đáp: “Chuyện này… thật là không dám.”

A Tử nói: “Trang đại ca, ta muốn cầu xin huynh một việc.” Du Thản Chi đáp: “Cô nương đừng nói tới hai chữ cầu xin. Cô nương sai bảo việc gì thì cứ nói, ta sẽ xả thân tận lực mà làm cho bằng được.” A Tử mỉm cười hỏi lại: “Chúng ta chưa từng quen biết, sao huynh lại tốt với ta như thế?” Du Thản Chi đáp: “Đúng… đúng là chưa quen biết. Ta chưa từng gặp cô nương, cô nương cũng chưa từng thấy ta. Hôm nay chúng ta mới gặp mặt lần đầu.” A Tử khẽ nói: “Không phải là ta chưa từng thấy huynh, phải nói là ta vĩnh viễn không thể thấy huynh mới đúng.” Nàng nói rồi, không kìm lòng được lại tuôn nước mắt ra.

Du Thản Chi vội nói: “Không sao đâu. Cô nương không nhìn thấy ta thì lại càng tốt.” A Tử hỏi: “Sao lại thế?” Du Thản Chi đáp: “Ta… tướng mạo ta rất khó coi, nếu cô nương thấy ta nhất định sẽ không vui.” A Tử cười nói: “Huynh lại gạt ta nữa rồi. Người nào càng cổ quái, ta lại càng thích nhìn. Trước kia ta có một tên đầy tớ bị chụp một cái mặt nạ sắt không tháo ra được. Hắn mới là khó coi nhất trong thiên hạ. Nếu huynh nhìn thấy hắn, chắc chắn phải cười đến ba ngày ba đêm mới nín được. Huynh có muốn xem hắn không?” Du Thản Chi run rẩy đáp: “Không, không! Ta không muốn xem.” Gã nói xong, bất giác lui lại hai bước.

A Tử nói: “Lúc nãy huynh ôm ta chạy nhanh như bay, võ công thật là tuyệt diệu, giống hệt tỉ phu của ta. Thế mà lá gan của huynh lại nhỏ xíu, không dám nhìn cả người đầu sắt. Gã đầu sắt ấy thật là ngoan ngoãn, ta sẽ kêu hắn nhào lộn nhảy múa cho huynh xem. Ta đã kêu hắn đút cái đầu sắt vào chuông cho sư tử cắn thử, lại còn kêu thuộc hạ cột dây vào người hắn đem thả cho bay lên như diều, chuyện đó mới là thú nhất.”

Du Thản Chi bất giác run rẩy, nói: “Ta không muốn xem, thật tình ta không muốn xem.” A Tử than thở: “Thôi được. Vừa rồi huynh nói, bất kể ta muốn huynh làm chuyện gì, huynh cũng xả thân làm cho được, thì ra toàn là chuyện lừa gạt.” Du Thản Chi đáp: “Không, không! Ta quyết không lừa dối cô nương. Cô nương muốn ta làm chuyện gì?” A Tử bảo: “Ta muốn về với tỉ phu, hiện ở Nam Kinh nước Liêu. Trang đại ca! Huynh đưa ta đi nhé.”

Du Thản Chi thấy đầu óc rối như mớ bòng bong, trong giây lát không nói được tiếng nào. A Tử lại hỏi: “Thế nào? Huynh không muốn hay sao?” Du Thản Chi lắp bắp cố đáp: “Không… không phải. Ta… ta không phải… không… muốn đi Nam Kinh nước Liêu.” A Tử nói: “Ta muốn huynh đi xem tên hề đầu sắt cho vui, huynh không chịu đi. Ta nhờ huynh dẫn ta về gặp tỉ phu, huynh cũng không dẫn. Để ta đi một mình vậy.” Nàng nói xong, chầm chậm đứng dậy, rồi đưa hai tay ra trước quờ quạng tìm đường bước đi.

Du Thản Chi la lên: “Ta đưa cô nương đi! Cô nương đi một mình… thế nào được?” Thế là Du Thản Chi nắm lấy bàn tay mềm mại của A Tử, dẫn nàng ra khỏi rừng, trong lòng nghĩ: “Giả tỉ ta cứ được nắm tay nàng đi chầm chậm thế này, dẫu là đi xuống mười tám tầng địa ngục cũng thấy hoan hỉ vô hạn.”

Vừa ra tới đường lớn, gã bỗng thấy phía trước có một đám ăn mày. Gã nhận ra người đi đầu thân thể cao lớn, tướng mạo thanh tú, chính là Toàn Quan Thanh, đà chủ của Đại Trí phân đà trong Cái Bang, bèn nghĩ thầm: “Hôm trước người này bị sư phụ ta đả thương, thế mà chưa chết.” Gã không muốn đối mặt bọn này, liền nắm tay A Tử rời khỏi đường lớn, đi vào một bãi đất trống. A Tử cảm thấy dưới chân không bằng phẳng, liền hỏi: “Chuyện gì thế?” Du Thản Chi chưa trả lời, Toàn Quan Thanh đã thấy hai người bèn chạy tới ngăn lại, quát hỏi: “Các ngươi lén lén lút lút làm cái gì thế? Ngươi… ngươi đội cái gì kỳ vậy?”

Du Thản Chi cả kinh nghĩ thầm: “Hắn mà nói ra hai chữ Đầu Sắt là A Tử cô nương lập tức biết ta là ai, nhất định sẽ không thân cận với ta nữa. Cho dù nàng có sai ta đưa về Nam Kinh, cũng nhất định không cho ta nắm tay nàng”, không tự chủ được, đột ngột quì xuống sụp lạy, rồi đưa tay cố ra hiệu cho Toàn Quan Thanh hiểu rằng không nên nói ra chân tướng của mình.

Toàn Quan Thanh không hiểu nổi y đưa tay ra hiệu cái gì, bèn hỏi: “Ngươi làm gì vậy?” Du Thản Chi chỉ A Tử, xua tay, rồi chỉ mặt mình, xua tay, rồi lại lạy mấy lạy. Toàn Quan Thanh nhìn lại thấy A Tử mù cả hai mắt, cũng hơi hơi hiểu rằng gã đầu sắt này muốn mình đừng nói lộ chuyện. Trong lúc đó bọn đệ tử Cái Bang đều đã đến gần.

Một tên chỉ vào đầu Du Thản Chi, cười ha hả rồi nói: “Thật là kỳ quái, gã đầu…” Du Thản Chi tức khắc nhảy vọt lên đánh ra một chưởng. Gã Cái Bang đưa tay ra đỡ, nhưng chỉ nghe răng rắc vài tiếng rồi gãy cả xương tay lẫn xương sườn, thân thể bay vọt ra sau mấy thước, rơi tới đất thì đã chết rồi.

Bon đệ tử Cái Bang vừa cả kinh vừa phẫn nộ, năm người cùng xông lên công kích. Hai tay Du Thản Chi múa lên loạn xạ, chưởng pháp thật là tệ hại, so với đệ tử Cái Bang hạng bét cũng còn thua xa, nhưng chưởng phong đi tới đâu thì ở đó vang lên những tiếng: “lắc cắc”, “binh binh”, “Ái chà”, “Trời ơi”, rồi cả năm tên Cái Bang đều văng ra mấy trượng mất mạng. Những người còn lại đều sợ hãi, chia nhau bao vây Du Thản Chi và A Tử, nhưng không dám bước lên xuất thủ nữa.

Đột nhiên Du Thản Chi lại quì xuống trước mặt Toàn Quan Thanh, lại đưa tay ra dấu, chỉ A Tử rồi lại chỉ đầu mình, xua tay không ngớt.

Toàn Quan Thanh thấy gã này chỉ cất tay đã đánh chết sáu tên Cái Bang, công lực ghê gớm trên đời hiếm thấy. Tại sao hắn không tiếp tục xuất thủ giết người bịt miệng mà lại quỳ lạy mình, thì thật không hiểu nổi. Y cũng ra dấu, chỉ A Tử, chỉ cái đầu sắt của gã, rồi lại chỉ mình, lắc lắc đầu. Du Thản Chi cả mừng, gật đầu lia lịa. Toàn Quan Thanh nghĩ: “Võ công của người này vừa cao thâm vừa cổ quái, trong lòng lại nơm nớp sợ ta làm lộ bí mật của hắn. Không chừng ta có thể nhận việc này để kìm chế hắn mà sử dụng.”, bèn quay lại ra lệnh cho bọn Cái Bang: “Các người đừng nói gì hết, không ai được mở miệng.” Du Thản Chi trong lòng cảm kích vô cùng, lại lạy hắn mấy cái nữa.

A Tử hỏi: “Trang đại ca, bọn họ là ai vậy? Huynh đã đánh chết mấy người rồi phải không?” Du Thản Chi đáp: “Họ là mấy vị bằng hữu Cái Bang, vừa rồi chúng ta có chút hiểu lầm. Vị này là đà chủ Đại Trí phân đà, nhân nghĩa hơn người, là một đại hảo nhân ta vốn rất khâm phục. Ta… ta sơ ý đả thương mấy vị huynh đệ của ông ta, thật là có lỗi.” Gã nói xong bèn chắp tay thi lễ với bọn Cái Bang.

A Tử nói: “Trong Cái Bang mà lại có hảo nhân ư? Trang đại ca! Võ công của huynh cao cường đến thế, sao không giết sạch chúng để rửa bớt hận cho tỉ phu ta?” Du Thản Chi vội đáp: “Không, không! Đó chẳng qua là chuyện hiểu lầm, ta với vị Toàn đà chủ đây vốn là hảo bằng hữu. Cô nương ở đây đợi ta một chút, để ta cùng Toàn là chủ nói cho rõ những chuyện hiểu lầm.” Gã nói xong liền quay lại Toàn Quan Thanh vẫy vẫy tay.

Toàn Quan Thanh nghe gã nói là biết mình cũng thấy ngạc nhiên, nhưng xem chừng không có ác ý, liền cùng hắn đi ra xa mười mấy trượng.

Du Thản Chi thấy đã đi đủ xa để A Tử không nghe chuyện được, lại sợ đi xa hơn nữa thì bọn Cái Bang thừa cơ khinh khi nàng, liền dừng lại chắp tay nói: “Toàn đà chủ! Được đà chủ giấu giếm cho, tại hạ không dám quên đại ân đại đức.”

Toàn Quan Thanh đáp: “Tại hạ không biết tí gì nguyên ủy bên trong. Tôn tính đại danh của huynh là gì?” Du Thản Chi đáp: “Tại hạ họ Trang, tên gọi là Tụ Hiền, bất hạnh bị người ta chụp cái thứ quỉ quái này lên đầu, nhưng không thể để cô nương đó biết được.” Toàn Quan Thanh thấy gã vừa nói vừa chăm chăm nhìn A Tử đầy vẻ chiêm ngưỡng, trong lòng đã đoán ra đến bảy tám phần: “Cô nương này thanh tú mỹ lệ, nhất định gã đầu sắt này ái mộ nàng, nhưng rất sợ nàng biết chân tướng kỳ dị của gã.” Hắn bèn hỏi: “Sao Trang huynh biết tại hạ?” Du Thản Chi đáp: “Hôm trước Đại Trí phân đà của quí bang hội họp về chuyện đề cử bang chủ, tại hạ may mắn ở cạnh đó nên nghe người ta gọi đến danh hiệu Toàn đà chủ. Hôm nay tại hạ sơ ý đả thương mấy vị huynh đệ quí bang, thật là có lỗi, mong Toàn đà chủ lượng thứ cho.”

Toàn Quan Thanh đáp: “Chỉ là chuyện hiểu lầm, huynh đừng để tâm. Trang huynh! Cái vật trên đầu huynh, tại hạ nhất định không nói ra, lát nữa cũng sẽ dặn dò thuộc hạ không để lộ đâu.” Du Thản Chi cảm kích đến rơi lệ, chắp tay không ngừng nói: “Đa tạ, đa tạ!”. Toàn Quan Thanh lại nói: “Nhưng Trang huynh cùng vị cô nương đó dắt tay nhau đi trên đường lớn sẽ gặp nhiều người, thế nào cũng có người thấy lạ mà hô hoán. Trang huynh muốn giết họ cũng không kịp đâu.”

Du Thản Chi đáp: “Phải lắm, phải lắm!” Từ lúc gã cứu được A Tử đến nay, thần hồn điên đảo, chưa hề nghĩ đến việc này. Bây giờ nghe Toàn Quan Thanh nhắc nhở, gã mất hết chủ ý, do dự nói: “Tại hạ… tại hạ chỉ còn cách… đưa nàng vào chỗ thâm sơn cùng cốc mà tránh người ta.”

Toàn Quan Thanh mỉm cười nói: “Như vậy chỉ sợ cô nương đó nghi ngờ. Hơn nữa, sau khi hai vị kết thành phu phụ, cô nàng sớm muộn gì cũng phát giác ra thôi.” Du Thản Chi nóng cả người, đáp lại: “Kết thành phu… phu phụ thì tại hạ không dám nghĩ đến, chắc không được đâu. Tại hạ… tại hạ sao dám thế? Chuyện đó… thật là khó hơn lên trời.”

Toàn Quan Thanh nói: “Trang huynh, lúc nãy huynh có gọi tại hạ là hảo bằng hữu. Đã là hảo bằng hữu thì có chuyện khó xử dĩ nhiên phải giúp nhau giải quyết. Thôi thì thế này nhé, chúng ta cùng đến thị trấn phía trước thuê một cỗ xe lớn, huynh cùng với cô nương đó ngồi trong xe thì không ai thấy được nữa.” Du Thản Chi cả mừng, nghĩ đến lúc được ngồi cùng A Tử trong xe, thật là thần tiên cũng không bằng. Gã vội đáp: “Vâng, vâng! Toàn đà chủ thật là cao kiến.”

Toàn Quan Thanh đáp: “Sau đó chúng ta mới tìm cách tháo bỏ cái chụp sắt trên đầu Trang huynh. Toàn mỗ vỗ ngực đảm bảo vĩnh viễn vị cô nương đó không biết được cái chuyện làm Trang huynh khó chịu. Huynh nghĩ xem có được không?”

Nghe phịch một tiếng, Du Thản Chi đã quì mọp xuống đất, dập đầu lạy Toàn Quan Thanh lia lịa, cái đầu sắt gõ xuống đất vang lên những tiếng boong boong.

Toàn Quan Thanh cũng quì xuống trả lễ, đáp lời: “Trang huynh dùng tới đại lễ như vậy, tại hạ thật không dám nhận. Trang huynh đã không chê bỏ, thì hai chúng ta kết nghĩa kim lan, huynh nghĩ thế nào?”

Du Thản Chi cả mừng đáp: “Thật là tuyệt diệu. Đệ thì chuyện gì cũng không hiểu, bây giờ có một vị nghĩa huynh túc trí đa mưu chỉ điểm cho, thật là cầu còn chưa được.” Toàn Quan Thanh cười ha hả nói: “Chắc ta lớn hơn mấy tuổi, thôi thì không khách sáo nữa, ta làm ca ca của hiền đệ vậy.”

***

Trong lúc Đinh Xuân Thu cùng Tô Tinh Hà đánh nhau đến trời sầu đất thảm, ánh mắt si tình của Đoàn Dự trước sau vẫn không rời khỏi Vương Ngữ Yên, còn ánh mắt ngưỡng mộ của Vương Ngữ Yên thì lại không rời biểu huynh Mộ Dung Phục chút nào. Vì thế hai luồng nhãn quang của chàng và nàng không hề gặp nhau.

Đến khi Đinh Xuân Thu thua trận chạy trốn, Hư Trúc bàn chuyện với môn hạ phái Tiêu Dao, bọn Mộ Dung Phục bỏ đi, Đoàn Dự không hiểu sao vẫn lẽo đẽo theo sau Vương Ngữ Yên.

Sau khi xuống núi, Mộ Dung Phục quay lại Đoàn Dự chắp tay nói: “Đoàn huynh! Hôm nay chúng ta may mắn gặp nhau, bây giờ xin tạm biệt, sau này còn có khi gặp lại.” Đoàn Dự đáp: “Vâng, vâng! Hôm nay chúng ta may mắn gặp nhau, bây giờ xin tạm biệt, sau này còn có khi gặp lại.” Mắt chàng vẫn chăm chăm ngắm nhìn Vương Ngữ Yên, Mộ Dung Phục lộ vẻ bất bình, hừ một tiếng rồi quay lưng bỏ đi ngay. Đoàn Dự vẫn luyến tiếc nhìn theo.

Bao Bất Đồng cũng chắp tay tiến đến chỗ Đoàn Dự, lên tiếng: “Đoàn công tử! Hôm nay công tử ra tay tương trợ Mộ Dung công tử nhà ta, Bao mỗ xin đa tạ.” Đoàn Dự đáp: “Không cần khách sáo.” Bao Bất Đồng lại nói: “Chuyện đó đã cảm ơn rồi là xong, bây giờ chúng ta không ai nợ ai nữa. Nhưng mắt của ngươi cứ trợn lên nhìn vào Vương cô nương, thật là vô lễ. Tới bây giờ vẫn còn ráng nhìn theo, lại càng vô lễ hơn. Ngươi đã là người đọc sách, có biết thế nào là Phi lễ vật thị, phi lễ vật hành (không đúng lễ không nhìn, không đúng lễ không làm) không? Lúc này Bao mỗ mất hết khí lực, trong đầu còn nhiều câu mắng người rất hay ho, nhưng không đủ sức nói ra.” Đoàn Dự thở dài một tiếng rồi đáp: “Đã vậy thì Bao huynh không đúng lễ không nói, còn ta không đúng lễ thì không theo, như thế là xong.” Bao Bất Đồng cười ha hả đáp: “Vậy thì hay lắm!”, rồi quay lưng, đi theo Mộ Dung Phục.

Đoàn Dự nhìn theo Vương Ngữ Yên đến khi nàng đi khuất vào rừng cây, rồi đứng đó ngơ ngẩn xuất thần. Chu Đan Thần tiến lại nói: “Công tử! Chúng ta đi thôi.” Đoàn Dự đáp: “Phải lắm, chúng ta đi thôi.” Nhưng nói thì nói vậy, chân vẫn không nhúc nhích, đến khi Chu Đan Thần giục đến lần thứ ba, chàng mới chậm chạp leo lên con ngựa do Cổ Đốc Thành mang tới, Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa rồi, ánh mắt vẫn dõi theo con đường Vương Ngữ Yên vừa ra đi.

Thì ra sau khi Đoàn Dự đưa thư cho Toàn Quan Thanh, chàng lập tức đi bái kiến Đoàn Chính Thuần. Phụ tử xa nhau lâu ngày, nay được trùng phùng mừng vui khôn xiết. Nguyễn Tinh Trúc đối với tiểu vương tử lại càng chiều chuộng lấy lòng. A Tử đã không từ biệt mà đi, nên huynh muội không được gặp nhau. Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc nghĩ rằng chuyện A Châu, A Tử nói ra thêm ngượng, nên cũng không kể cho chàng nghe.

Được mười mấy ngày, Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi cũng đến gặp mặt. Hai người sư thúc sư điệt này đã mất liên lạc với Đoàn Dự từ Cầm Vận Tiểu Trúc ở Tô Châu, đi khắp nơi tìm kiếm cũng không thấy tung tích chàng đầu. Sau này họ về núi Phục Ngưu ở Hà Nam, nghe người trong bản môn cho biết Trấn Nam Vương nước Đại Lý cũng đến Hà Nam, liền đến bái kiến thì thấy Đoàn Dự bình yên vô sự, lúc đó mới yên lòng.

Đoàn Dự trải qua bao nhiêu nguy hiểm, hưởng thú đoàn tụ gia đình ở bên phụ thân thật là vui sướng, nhưng lòng nhớ nhung Vương Ngữ Yên mỗi ngày lại tăng lên. Sắp đến ngày kỳ hội, chàng liền xin phép phụ thân, dẫn theo bọn Cổ Đốc Thành đi dự. Quả nhiên hoàng thiên không phụ lòng người, chàng đã gặp mặt ý trung nhân, nhưng phen này gặp xong lại càng thêm sầu não. Gặp hay là không gặp thì tốt hơn, đến bây giờ chính chàng vẫn không hiểu được.

Đoàn người đi được hơn hai mươi dặm thì thấy trước mặt có một đám bụi lớn đang cuộn tới, rồi mười mấy con ngựa chạy đến. Đó chính là tam công Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch nước Đại Lý cùng một số quân sĩ, chạy đến nơi liền xuống ngựa thi lễ với Đoàn Dự. Thì ra họ phụng mệnh Đoàn Chính Thuần đến đây tiếp ứng, e rằng trong kỳ hội này có  hung hiểm gì chăng. Mọi người nghe kể trong kỳ hội có cả Đoàn Diên Khánh đến dự thì lo ngay ngáy, thấy lão không động tới Đoàn Dự, đều cho là phen này may mắn vô cùng.

Chu Đan Thần khẽ kể cho bọn ba người Phạm Hoa biết chuyện Đoàn Dự trong kỳ hội đã gặp cô nương mỹ lệ của nhà Mộ Dung Cô Tô, ngắm nhìn cô ta không nháy mắt, ngẩn ngơ đi theo, cũng may mà bị người ta đuổi về. Bọn Phạm Hoa nhìn nhau cười thầm, trong lòng đều nghĩ: “Tiểu vương tử phong lưu thành tính, thật là gia học uyên nguyên. Nếu chàng nhờ chuyện này mà quên đi mối tương tư với cô em ruột Mộc Uyển Thanh thì thật đáng mừng vô cùng.”

Đến hoàng hôn, đoàn người ghé vào phạn điếm ăn cơm. Phạm Hoa đang kể về chuyến đi Giang Nam, bỗng dưng lại nói: “Công tử! Nhà Mộ Dung có nhiều chuyện kỳ bí, sau này nếu gặp họ thì phải để ý đề phòng.” Đoàn Dự hỏi lại: “Chuyện như thế nào?” Phạm Hoa kể: “Ba người bọn thuộc hạ vâng lệnh vương gia đi đến Yến Tử Ổ nhà Mộ Dung ở Tô Châu, xem có dấu tích gì về việc Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm bị họ sát hại không?” Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi đều hết sức chú ý, vội hỏi: “Ba vị có hỏi ra được chuyện gì không?” Phạm Hoa đáp: “Ba người chúng ta không công khai cầu kiến, chỉ ngấm ngầm điều tra. Nhà Mộ Dung không có nam nữ chủ nhân ở nhà, chỉ có mấy tên tì bộc. Một tiểu cô nương tên là A Bích đảm đương hết công chuyện cả mấy tòa trang viện.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Ô, A Bích cô nương là người tốt. Ba vị không đả thương cô ấy chứ?” Phạm Hoa mỉm cười nói: “Không đâu. Bọn thuộc hạ dò xét mấy đêm liền, lục hết trang viên nhà Mộ Dung từ trước ra sau cũng không thấy chút manh mối nào. Ba huynh đột nhiên nhớ đến chuyện tên Phiên tăng Cư Ma Trí bắt công tử từ Đại Lý đi Giang Nam, nói là đem tế điện trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh…”

Thôi Bách Tuyền ngắt lời: “Chính thế. Cũng may mấy ả nha đầu trong nhà Mộ Dung nhất định không chịu đưa tên mọi trọc đầu đó đi tế mộ, nhờ vậy mà công tử mới thoát khỏi độc thủ.”

Đoàn Dự lại gật đầu nói: “Hai vị cô nương A Châu, A Bích đối với ta rất tốt. Không biết hiện nay họ ra sao?” Ba Thiên Thạch cười cười đáp: “Bọn thuộc hạ điều tra ba đêm đều có nhìn vào cửa sổ, chỉ thấy A Bích cô nương đang may một cái áo bào của nam nhân, luôn miệng than thở: Không hiểu công tử ở bên ngoài có lạnh không? Khi nào chàng mới về đây? Có phải nàng may cái áo đó cho công tử không?” Đoàn Dự vội nói: “Không phải đâu. Đó là nàng may áo cho Mộ Dung công tử.” Ba Thiên Thạch nói: “Phải đấy. Thuộc hạ xem chừng cô tiểu a đầu này thần hồn điên đảo về công tử của nàng. Ba người bọn thuộc hạ đi tới đi lui, cô ả cũng chẳng biết gì.” Gã nói vậy, hiển nhiên muốn nhắc nhở Đoàn Dự đừng học theo phụ thân mà đi đến đâu để nợ tình đến đó, trong lòng A Bích chỉ có Mộ Dung công tử chứ không hề có Đoàn công tử đâu.

Đoàn Dự thở dài một tiếng rồi đáp: “Mộ Dung công tử tuấn tú trên đời có một, khó mà trách được nàng. Huống hồ họ là biểu huynh biểu muội, lại có tình thanh mai trúc mã từ bé với nhau.” Phạm Hoa cùng Ba Thiên Thạch ngơ ngác nhìn nhau, cùng nghĩ: “Tiểu a đầu đó với công tử của thị mà có tình thanh mai trúc mã thì cũng hợp lý, nhưng sao lại là biểu huynh biểu muội được?” Thì ra Đoàn Dự bỗng dưng chuyển qua nói về Vương Ngữ Yên.

Thôi Bách Tuyền hỏi lại: “Phạm tư mã, Ba tư không! Hai vị nghĩ tên Phiên tăng đó đòi đi tế mộ Mộ Dung tiên sinh là có ý gì? Chuyện đó có liên quan gì đến cái chết của tệ sư huynh không?” Phạm Hoa đáp: “Đúng là tại hạ đang muốn nhờ mọi người bàn cho rõ chuyện này. Hoa huynh nghe tới chữ mộ là ngứa tay liền, liền đoán rằng trong mộ của lão này có điều cổ quái, cần phải đào vào thám thính. Tại hạ cùng Ba huynh không tán thành lắm, dòng họ Mộ Dung Cô Tô danh vang thiên hạ, Đoàn gia chúng ta mà đào mả của chúng thì thật là khó giải thích. Hoa huynh lại cho rằng lén lút đào, thần không hay, quỉ không biết thì không việc gì mà sợ. Bên tại hạ cãi không lại, đành phải nghe theo. Một phần đó an táng phía sau trang viện, ở chỗ vừa thanh tĩnh vừa bí hiểm, thật là khó tìm. Ba người bọn tại hạ đào vào trong mộ, cạy nắp quan tài ra. Thôi huynh biết có gì trong đó không?” Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi cùng đứng bật dậy, hỏi dồn: “Có cái gì?” Phạm Hoa đáp: “Quan tài trống rỗng, không có xác chết.”

Hai người Thôi Quá cùng há hốc miệng ra không ngậm lại được. Qua một lúc lâu, Thôi Bách Tuyền mới vỗ đùi đánh bép rồi nói: “Cái lão Mộ Dung Bác này chưa chết đâu. Lão sai thằng con xuất hiện dương oai khắp nơi ở Trung Nguyên để bày nghi trận, còn mình thì lén lút ra ngoài ngàn dặm giết người. Sư huynh ta… sư huynh ta nhất định là bị lão ác tặc Mộ Dung Bác này sát hại.”

Phạm Hoa lắc đầu phản đối: “Thôi huynh nói vậy, có chỗ không hợp lý. Lão Mộ Dung Bác võ công cao thâm khôn lường, thiếu gì thủ đoạn giết người, hà tất phải dùng tới công phu Gậy ông đập lưng ông cho thiên hạ nghi ngờ nhà Mộ Dung Cô Tô? Còn nếu lão muốn nổi tiếng võ lâm thì phải giả chết làm gì?” Thôi Bách Tuyền lại ngồi xuống, vò đầu bứt tai mãi mà cũng chẳng nghĩ ra được cái gì.

Đoàn Dự nói: “Trong thiên hạ có cả ngàn cả vạn môn phái, muốn biết rành được hết thì khó như lên trời. Thế mà nàng hiểu rõ như trong lòng bàn tay, thật là…”

Thôi Bách Tuyền la lên: “Đúng rồi! Tuyệt chiêu Thiên Linh Thiên Liệt của sư huynh ta là độc môn bí truyền của phái Phục Ngưu, rất ít người biết, chắc là cô gái đó giết sư huynh ta chứ còn ai nữa?” Đoàn Dự lắc đầu cãi lại: “Sức nàng không trói nổi con gà, tuy là hiểu hết võ công các nhà các phái, nhưng cũng không thể ra tay giết người được.”

Mọi người ngồi nhìn nhau mãi, cũng chẳng ai đưa ra được ý kiến gì nữa.

***

Đinh Xuân Thu đánh mù mắt A Tử, không ngờ Du Thản Chi lại liều mạng cướp nàng chạy trốn. Lúc đó lão quái không khỏi phân tâm, kình lực ở ngón tay giảm sút, Mộ Dung Phục bèn nhân cơ hội xuất tuyệt chiêu Đẩu Chuyển Tinh Di. Nghe một tiếng “phập”, năm ngón tay của Đinh Xuân Thu bỗng chuyển qua nắm cổ tay một tên đệ tử. Mộ Dung Phục đánh bừa một quyền rồi phóng vọt đi, cười ha hả hô lớn: “Thôi thôi, ta đi trước đây. Tinh Tủ Lão Quái! Sau này còn có dịp gặp nhau.” Y vừa hô vừa vận khinh công chạy thẳng, không quay lại nhìn cái nào nữa.

Chuyến này Mộ Dung Phục coi như toàn thắng. Một mình y đả thương hơn hai chục tên đệ tử phái Tinh Tú, chọc Đinh Xuân Thu tức điên lên, lại còn thoát thân không mất một sợi tóc, thật là may mắn vô cùng. Trên đường chạy về, y nhớ lại trận chiến vừa qua mà bủn rủn cả người, Mộ Dung Phục cùng với Vương Ngữ Yên và bọn Đặng Bách Xuyên tìm một khách điếm ở lì bên trong để bọn Đặng Bách Xuyên dưỡng thương:

Được mấy ngày thì Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hồi phục trước, rồi dần dần Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn cũng khỏe mạnh trở lại. Sáu người bàn đến chuyện A Châu hiện không biết ở đâu, bèn quyết định đi Lạc Dương thám thính tin tức của nàng.

Đến Lạc Dương không tìm được gì, họ lại sang phía tây để điều tra. Một hôm, sáu người đi gấp nên lỡ độ đường, đến tối mịt vẫn còn trong vùng núi, chung quanh không một bóng người. Phong Ba Ác lên tiếng: “Hình như bọn mình đi lạc rồi, nãy giờ cứ quanh qua quẹo lại chẳng có vẻ gì là đúng đường cả.” Đặng Bách Xuyên đáp: “Thôi thì chúng ta tìm một hang động hay miếu hoang gì đó để trú tạm vậy.”

Phong Ba Ác rảo bước đi lên trước tìm chỗ nghỉ chân, nhưng thấy đường càng lúc càng khó đi, chung quanh toàn là đá tảng ngổn ngang. Gã thì nằm đâu cũng ngáy o o được, nhưng tìm chỗ cho Vương Ngữ Yên thì thật là khó khăn. Lúc đi vòng qua một sườn núi, bỗng thấy phía hữu có ánh đèn le lói, Phong Ba Ác mừng quá quay lại gọi to: “Bên này có nhà!”

Bọn Mộ Dung Phục nghe tiếng chạy đến, Công Dã Càn hoan hỉ nói: “Chắc đây chỉ là lều của thợ săn, nhưng cũng đủ chỗ cho Vương cô nương nghỉ một đêm.” Sáu người hướng về phía có ánh đèn mà đi khá lâu, vẫn chỉ thấy ánh đèn le lói chứ không thấy nhà đâu. Phong Ba Ác lẩm bẩm thóa mạ: “Con mẹ nó! Cái đèn kia coi bộ tà môn.” Đột nhiên Đặng Bách Xuyên khẽ gọi: “Dừng lại đã! Công tử nhìn xem, ảnh lửa kia kỳ quá!” Mộ Dung Phục ngưng thần nhìn kỹ, quả nhiên ngọn đèn đó phát ra ánh sáng xanh biếc khác thường. Cả bọn đều gia tăng cước lực đi về phía ngọn đèn, một lúc nữa thì trông đã rõ. Bao Bất Đồng kêu lên: “Thì ra bọn tà ma ngoại đạo tụ tập ở đây!”

Kể ra thì năm người này võ công cơ trí tuyệt cao, gặp phải bang phái nào trên giang hồ cũng không sợ hại gì. Nhưng họ nghĩ hôm nay cùng đi với Vương Ngữ Yên nên đừng dây dưa gây sự là hơn. Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác lâu rồi không động thủ với ai, tuy ngứa chân ngứa tay nhưng cũng tự kiềm chế. Phong Ba Ác nói: “Đi suốt ngày mệt quá. Chỗ này xem chừng không tốt, bọn ta quay lại là hơn.” Mộ Dung Phục mỉm cười nghĩ thầm: “Phong tứ ca đổi tính, thật là hay quá!” Y liền nói: “Biểu muội! Chỗ đó không yên tĩnh đâu, chúng ta quay lại thôi.” Vương Ngữ Yên chẳng hiểu gì hết, nhưng cũng vui vẻ nghe theo lời biểu huynh.

Sáu người bèn quay trở lại, mới được mấy bước, đã nghe tiếng người văng vẳng: “Các ngươi đã biết đây là chỗ ngoại đạo tà ma tụ hội, đã thành yêu ma quỷ quái chưa, sao không vào đây hội họp cho vui?” Thanh âm này chợt cao chợt thấp, lúc liền lúc đứt rất khó chịu, nhưng mọi người đều nghe rõ.

Mộ Dung Phục bất giác kêu lên một tiếng, biết rằng lời của Bao Bất Đồng vừa nói đã lọt vào tai chúng. Nghe thanh âm cũng biết người vừa nói có nội lực thâm hậu, nhưng chưa hẳn là cao thủ bậc nhất. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái nói: “Chúng ta không rảnh mà dính vào. Họ nói gì cũng mặc kệ, ta đi thôi!”

Thanh âm vừa rồi lại vang lên: “Tiểu súc sinh! Miệng thì nói giọng ngông cuồng, bây giờ lại cúp đuôi chạy trốn. Bọn mi muốn trốn thì phải quỳ xuống lạy lão tổ tôn ba trăm lạy trước đã.”

Phong Ba Ác không nhịn được nữa, dừng bước lại hạ giọng nói: “Công tử! Bọn này khinh mình quá lắm.” Mộ Dung Phục lắc đầu nói: “Họ chưa biết mình là ai đâu, cứ mặc kệ.” Phong Ba Ác đành đáp: “Vâng.”

Sáu người đi được hơn chục bước nữa thì thanh âm kia lại nói: “Bọn đàn ông đã muốn trốn thì lão tổ tôn tha cho, nhưng phải để con điếm non kia lại cho lão tổ tôn tiêu khiển!”

Năm người thấy đối phương dám xúc phạm Vương Ngữ Yên thì giận tái mặt, dừng bước rồi quay lại. Thanh âm kia lại nói: “Thế nào? Các ngươi ngoan ngoãn để con nhỏ đó lại thì lão tổ tôn…”

Y vừa nói đến chữ “tôn” thì Đặng Bách Xuyên đã đề khí từ đan điền quát lên: “Tôn… ôn… ôn” hòa vào chữ “tôn” của đối phương vang rền cả hang núi. Tai mọi người ù cả lên, nhưng cũng nghe thấy một tiếng rú thê thảm ở chỗ ngọn đèn xanh vọng ra. Giữa đêm khuya, tiếng rú này lẫn trong dư âm tiếng quát của Đặng Bách Xuyên nghe thật là dễ sợ.

Vừa rồi Đặng Bách Xuyên vận nội lực tuyệt cao quát lên làm chấn động đối phương, cứ nghe tiếng rú  thì biết gã bị thương khá nặng, không chừng mất mạng cũng nên. Tiếng rú chưa dứt, bỗng nghe “vèo” một tiếng, một mũi tên bắn lên không rồi nổ ra, ánh lửa xanh là chiếu sáng đến nửa vòm trời.

Phong Ba Ác nói: “Một vừa hai phải thôi, muốn nhịn cũng không được. Chúng ta quét sạch sào huyệt bọn yêu quái này rồi nói chuyện sau.” Mộ Dung Phục gật gật đầu nói: “Chúng ta tưởng là nhường họ một chút cho yên, bây giờ đã làm thì phải làm đến nơi đến chốn.” Sáu người chạy thẳng đến chỗ có ánh lửa xanh.

Mộ Dung Phục sợ Vương Ngữ Yên kinh hãi quá, bèn chậm bước lại đi song song với nàng. Bỗng nghe tiếng la ó om sòm, Phong Ba Ác cùng Bao Bất Đồng đã cùng người động thủ. Dưới ánh sáng lờ mờ thấy ba bóng đen vụt tới, phóng ra ba chưởng đập vào vách núi nghe ầm ầm, rõ ràng không trúng hai gã Bao, Phong.

Lúc Mộ Dung Phục tới chỗ ngọn đèn, đã thấy Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn đứng trên một cái đỉnh đồng xanh rất lớn, vẻ mặt cực kỳ nghiệm trọng. Từ đỉnh đồng có một luồng khói bốc thắng lên không, nhỏ như sợi dây mà nhanh như tên bắn. Vương Ngữ Yên nói: “Đây là phái Tang Thổ Công, động Bích Lân ở Xuyên Tây.” Đặng Bách Xuyên gật đầu nói: “Cô nương quả nhiên biết nhiều hiểu rộng.” Bao Bất Đồng quay người lại cãi: “Sao đại ca biết? Kiểu đốt khói này là cách báo tin đã có cả ngàn năm, chưa chắc đã là phái Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây…” Gã chưa nói xong, Công Dã Càn đã trỏ vào một cái chân đỉnh đồng, có ý bảo gã tự xem lấy.

Bao Bất Đồng cúi xuống thắp lửa lên nhìn kỹ thì thấy chân đỉnh có chữ “Tang”, nét khắc ngoằn ngoèo như hình mấy con rắn nhỏ xếp thành, đồng đã teng xanh lại, đúng là một cái đỉnh rất cổ. Gã biết Vương Ngữ Yên nói đúng rồi, nhưng vẫn cãi bướng chơi: “Giả tỉ đây là đỉnh đồng của phái Tang Thổ Công ở Xuyên Tây thật đi nữa, thì cũng có thể là chúng mượn về đây. Huống chi mười chiếc đỉnh cổ thì có đến chín chiếc là giả.”

Mộ Dung Phục tự hỏi: “Nơi đây cách Xuyên Tây rất xa, chẳng lẽ địa giới phái Tang Thổ Công rộng lớn đến thế?” Gã có nghe nói phải Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây là một giống rợ Miêu, chuyên về ám khí độc, hành vi khác hẳn với nhân sĩ võ lâm ở Trung Nguyên. Cũng may là bọn họ không tranh chấp với ai, miễn là đừng ai xâm nhập địa giới núi Dao Sơn đất Xuyên Tây của họ thì thôi. Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên dĩ nhiên chẳng sợ phái Tang Thổ Công, nhưng họ nghĩ rằng mình vốn không thù không oán thì tránh đi là hơn, thắng bọn tà môn ngoại đạo cũng chẳng vẻ vang gì, mà dây dưa đến họ lại thêm phiền phức.

Mộ Dung Phục trầm ngâm một lát rồi quyết định: “Chỗ này lắm chuyện thị phi, ta mau mau rời đi là hơn.” Y nhìn thấy một lão già còn thoi thóp thở nằm bên đỉnh đồng, mình mặc áo ngắn, lưng thắt dây cỏ, mắt mở trừng trừng nhìn mọi người, dĩ nhiên là người vừa hỗn láo lúc nãy. Mộ Dung Phục nhìn Bao Bất Đồng gật gật đầu, rồi liếc lão già đó một cái. Bao Bất Đồng hiểu ý, bẻ lấy cành trúc có buộc chiếc đèn sáng xanh, đập cả trúc lẫn đèn vào ngực lão già đánh chát một tiếng, ngọn đèn xanh liền tắt phụt. Vương Ngữ Yên kinh ngạc la lên một tiếng. Công Dã Càn nói: “Lượng nhỏ không phải quân tử, ít độc bất thành trượng phu! Phải giết người bịt miệng để khỏi lo về sau.” Y nói xong liền phóng chân ra đá đổ cái đỉnh đồng. Mộ Dung Phục kéo tay Vương Ngữ Yên chạy về phía bên trái.

Mới chạy được hơn mười trượng thì trong bóng tối bỗng nghe tiếng binh khí rít lên vù vù, một đao một kiếm từ trong bụi cỏ vung ra. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, mượn sức đánh sức, đao bên trái chém vào đầu người bên phải, còn kiếm bên phải đâm trúng ngực người bên trái. Chỉ chớp mắt là Mộ Dung Phục đã hạ xong hai tên đánh lén, chân vẫn bước đi. Công Dã Càn tán dương: “Công tử! Hảo công phu!”

Mộ Dung Phục chỉ mỉm cười, vượt lên phía trước phóng chưởng đánh ra trúng một địch nhân đang xông tới, gã này lăn xuống sườn núi. Tay trái Mộ Dung Phục lại phóng ra một chưởng, một tên khác đưa song chưởng lên đỡ, bỗng la lên một tiếng “úi chao” rồi phun máu tươi ra. Đột nhiên có mùi tanh hôi theo chiều gió bay đến, Mộ Dung Phục vội phóng chưởng đánh bật thứ ám khí quái lạ đó ra. Lại nghe một tiếng rú, rõ ràng địch thủ đã trúng phải ám khí kịch độc của chính mình.

Trong đêm tối đen, mọi người bị vây hãm mà không biết địch nhân nhiều hay ít. Mộ Dung Phục thuận tay giết đến người thứ sáu, ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng: “Ba người đầu thuộc phái Tang Thổ Công ở Xuyên Tây, còn võ công ba người sau rõ ràng thuộc ba phái khác nhau. Kẻ thù càng lúc càng nhiều, thật là bất lợi.”

Đặng Bách Xuyên hô lên: “Chúng ta cùng nhau đi về hướng Thính Hương Thủy Tạ.” Thính Hương Thủy Tạ là một cái trại ở hướng Tây trong Yến Tử Ổ của nhà Mộ Dung, trước kia A Châu ở đó. Đặng Bách Xuyên muốn gọi mọi người chạy qua hướng Tây, nhưng không muốn địch nhân biết mà ngăn trở.

Mộ Dung Phục nghe là hiểu ngay, nhưng lúc đó trời không trăng không sao, khó mà phân biệt phương hướng, không hiểu hướng Tây ở chỗ nào. Y ngưng thần một chút, nghe thấy ở bên phải có tiếng hai phát chưởng của Đặng Bách Xuyên, liền kéo Vương Ngữ Yên lùi lại ba bước để đi gần lại Đặng Bách Xuyên. Hai tiếng véo véo lại vang lên, Đặng Bách Xuyên lại đánh ra hai chưởng, cứ nghe cũng biết địch nhân không phải tay vừa. Đặng Bách Xuyên ngưng tụ chân khí quát lên một tiếng, Mộ Dung Phục biết ngay là y ra chiêu Thạch Phá Thiên Kinh, chắc đối phương khó lòng tránh nổi. Quả nhiên người kia rú lên một tiếng kinh hồn, tiếng rú dần dần xuống thấp tựa như người đang rơi xuống, rồi lại nghe một tảng đá lớn lăn xuống đè cành cây gãy răng rắc, Mộ Dung Phục cả kinh nghĩ thầm: “Người này sẩy chân rơi xuống vực sâu rồi! Nãy giờ ta có thấy hang động gì đâu, may mà Đặng Bách Xuyên đánh một người rơi xuống, không thì trong lúc tối đen thế này bọn mình rất dễ quờ quạng mà rớt xuống vực.”

Lúc đó phía bên trái có tiếng người hỏi: “Cao nhân phương nào đến phá quấy Vạn Tiên đại hội? Không xem ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa ra gì ư?”

Bọn Mộ Dung Phục đều la lên kinh ngạc. Họ đã nghe tiếng ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, nhưng đã là động chúa, đảo chúa thì không thuộc môn phái nào mà cũng không đi hội họp với ai bao giờ. Bọn người này võ công có kẻ hơn người kém, nhân phẩm cũng có kẻ lành người dữ, giao kết không thân thiện được nên đi đâu hay hành động gì cũng chỉ có một mình. Nhân sĩ giang hồ trước nay chẳng trọng vọng gì bọn này, chỉ biết họ ở tản mác ngoài đảo ở Đông Hải, Hoàng Hải, hoặc trong dãy Côn Luân. Lâu nay họ vẫn mai danh ẩn tích nên chẳng ai để ý đến làm gì, ngờ đâu hôm nay họ tụ tập tại đây.

Mộ Dung Phục dõng dạc lên tiếng: “Bọn tại hạ sáu người, không biết các vị tụ hội nên đi lạc vào đây. Trong đêm tối đã có hiểu lầm, mạo phạm quá nhiều, mong các vị miễn thứ mà cho bọn tại hạ lên đường.” Y nói mấy câu thật là vừa phải, không gây sự, cũng không hạ mình, lại không để lộ tông tích. Đối với việc đã ngộ sát mấy người của đối phương, y đành phải xin lỗi mấy câu.

Đột nhiên bốn mặt nổi lên những chuỗi cười ha hả, khanh khách, hô hố… Tiếng cười mỗi lúc một nhiều, thoạt đầu chỉ độ mười mấy người, rồi sau nổi lên liên tiếp khắp bốn mặt tám phương, chắc phải đến năm sáu trăm người, từ ở ngay bên cạnh đến xa ngoài mấy dặm.

Mộ Dung Phục thấy thanh thế đối phương rất lớn, lại nghe bốn chữ Vạn Tiên đại hội thì nghĩ thầm: “Xem chừng đêm nay phải có đánh nhau. Mình bước nhầm vào chỗ tụ họp của bọn bàng môn tả đạo thật là rầy rà. May mà ta chưa để lộ tên tuổi, bỏ đi là hay hơn để bớt chuyện lôi thôi. Huống chi mình ít họ nhiều, sáu người làm sao địch nổi mấy trăm người.”

Giữa lúc tiếng cười còn đang râm ran, bỗng nghe trên sườn núi cao có tiếng nói: “Ngươi ăn nói hồ đồ, việc đã đến thế này mà đám hờ hững coi chẳng vào đâu. Bọn ngươi sáu người đã ra tay đánh chết mấy vị bằng hữu của chúng ta. Nếu quần tiên trong Vạn Tiên đại hội này mà tha cho bọn ngươi đi thì ba mươi sáu động cùng bảy mươi hai đảo còn mặt mũi nào trên giang hồ nữa?”.

Mộ Dung Phục trấn tĩnh lại, nhìn quanh thì thấy bóng người trùng trùng điệp điệp khắp bốn hướng tiền hậu tả hữu, trên đỉnh núi, dưới thung lũng, chỗ nào cũng thấy. Người thì tay áo rộng thùng thình, người thì mặc áo chẽn, có ông già râu dài phất phơ, lại có cô gái búi tóc ngược lên đỉnh đầu, chẳng biết họ ở đâu mà chui ra lắm thế. Bốn người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng đứng vây quanh Mộ Dung Phục cùng Vương Ngữ Yên để hộ vệ, nhưng so với mấy trăm người vây quanh thì chẳng khác gì một con thuyền nhỏ giữa biển cả.

Mộ Dung Phục cùng bọn Đặng Bách Xuyên tuy đã từng trải vô số nguy hiểm mà lúc này cũng không khỏi kinh sợ, nghĩ thầm: “Giả tỉ bọn người cổ quái này chỉ có mươi tên thì không đáng sợ, nhưng đông đến mấy trăm thì thật khó đối phó.”

Mộ Dung Phục đề tụ chân khí vào đan điền lớn tiếng nói: “Người ta thường nói: Không biết là không có tội. Tại hạ từng nghe đại danh ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, nhất định không dám cố ý phạm lỗi. Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây, Huỳnh Long tử động Câu Long bên Tây Tạng, Chương Chu Phu tiên sinh đảo chúa đảo Huyền Minh ở Bắc Hải, chắc mấy vị tiền bối này cũng có mặt tại đây. Tại hạ vô tình phạm tội, xin các vị miễn thứ cho.”

Bỗng nghe một tràng cười ha hả, rồi có tiếng người nói: “Ngươi tưởng nhắc đến danh hiệu chúng ta là được thả ra một cách dễ dàng chăng? Ha ha!…”

Mộ Dung Phục bắt đầu khó chịu, liền nói: “Tại hạ thấy các vị là bậc trưởng bối nên phải tiên lễ hậu binh nói năng lịch sự mà thôi. Mộ Dung Phục này há sợ gì ai?”

Rất nhiều người vừa nghe thấy ba chữ “Mộ Dung Phục” liền la lên “Ái chà!”. Thanh âm khô khan lại hỏi: “Phải chăng ngươi là Cô Tô Mộ Dung chuyên môn chơi trò Gậy ông đập lưng ông?” Mộ Dung Phục đáp: “Không dám! Chính là tại hạ.” Người kia nói: “Cô Tô Mộ Dung thì không thể chỉ thấy lờ mờ. Thắp đèn lên, để mọi người được nhìn rõ mặt y.”

Gã vừa nói xong, một ngọn đèn vàng thắp lên ở hướng Đông Nam, tiếp theo hướng Tây và Tây Bắc kéo đèn đỏ. Chỉ trong chớp mắt, bốn phương tám hướng đều sáng bừng lên, chỗ thì đèn lồng hay đuốc, chỗ lại đốt củi khô, nhựa thông. Mỗi động, mỗi đảo đều dùng đèn lửa khác nhau, có nơi còn hủ lậu thô sơ, có nơi đã rất tinh vi. Ánh lửa soi rõ mặt mọi người, thật là muôn hình muôn vẻ.

Bọn này có nam, có nữ, có đẹp, có xấu, có tăng nhân, có đạo sĩ, có người tay áo phất phơ, có người áo chẽn sát mình. Có những ông già râu dài quá rốn, lại có những cô gái búi tóc cao, phục sức đều rất kỳ lạ, không giống người ở Trung Thổ chút nào. Quá nửa bọn này đều tay cầm binh khí, mà nhiều thứ binh khí hình thù quái dị không biết gọi tên là gì. Mộ Dung Phục quay qua quay lại vái chào cả bốn phía, dõng dạc lên tiếng: “Tại hạ là Mộ Dung Phục ở Cô Tô, kính cẩn thi lễ cùng các vị”. Bốn bề đều có tiếng đáp lễ, nhưng cũng có nhiều người không thèm lý gì tới y.

Ở hướng tây có người nói: “Nhà Mộ Dung Cô Tô muốn diễu võ dương oai ở Trung Nguyên thì còn được, nhưng vào Vạn Tiên đại hội mà càn rỡ không coi chúng ta vào đâu, thì quả là lớn mật! Ngươi chuyên nghề Gậy ông đập lưng ông, vậy ta hỏi: Ngươi lấy gì mà đập vào lưng ta?”

Mộ Dung Phục nhìn về phía tiếng nói, thì thấy một lão già đầu trọc lóc, không tóc cũng không râu, mặt đỏ như máu, ngồi xếp bằng trên một tảng đá lớn. Nhìn xa xa, đầu lão vừa to vừa tròn, y như một quả huyết cầu, Mộ Dung Phục ôm quyền thi lễ nói: “Không rõ tôn tính đại danh các hạ là gì?”

Người kia ôm bụng cười nói: “Lão phu chỉ muốn coi thử chân tài thực học của nhà Mộ Dung ở Cô Tô, thì ra cũng chỉ có hư danh. Ta vừa hỏi ngươi làm cách nào dùng gậy ta đập vào lưng ta, ngươi đã hỏi lại ta rồi. Thôi thôi! Người khác thì ta không biết, còn ta chẳng muốn làm khó dễ gì ngươi nữa, muốn đi đâu thì đi!”

Mộ Dung Phục xem chừng cục diện hôm nay không thể nói cho xuôi được, tất phải động quyền động cước. Y liền nói: “Đã vậy thì tại hạ xin lãnh giáo mấy chiêu, mời tiền bối ra tay trước!”

Lão kia lại ôm bụng cười ha hả đáp: “Ta muốn khảo nghiệm ngươi chứ không phải muốn ngươi khảo nghiệm ta. Nếu ngươi không giữ được năm chữ Gậy ông đập lưng ông, thì cứ đi đi!”

Mộ Dung Phục nhíu mày nghĩ thầm: “Lão cứ ngồi không nhúc nhích, mình chẳng hiểu môn phái lại không biết họ tên lão, thì làm sao biết được lão sở trường môn gì, làm sao đập vào lưng lão được?”.

Y còn đang ngẫm nghĩ thì lão già kia cười khẩy nói: “Bọn ta ở tản mát ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo khắp chân trời góc bể, ít hiểu việc ở Trung Nguyên, bây giờ mới biết trong đám đui mù kẻ chột làm vua. Một thằng lỏi miệng còn hôi sữa như ngươi đã dám tự xưng Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong gì gì thật là nghe muốn điếc cả lỗ tai! Ha ha! Thật là tức cười, thật là hèn mạt! Này này ta bảo, bữa nay mi muốn thoát thân cũng chẳng khó đâu. Tất cả có ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, ngươi phải dập, đầu lạy mỗi vị mười lạy, tổng cộng một ngàn lẻ tám chục cái lạy, là bọn ta tha cho đi ngay.”

Bao Bất Đồng ráng nhịn đã lâu, bây giờ tức đến cành hông, dõng dạc lên tiếng: “Ngươi muốn công tử ta đem tuyệt kỹ của ngươi đập vào lưng ngươi, rồi lại bảo dập đầu lạy, thì ra nghề ruột của ngươi là dập đầu lạy người. Tuyệt kỹ đó thì công tử ta học không vào. Ha ha! Thật là tức cười, thật là hèn mạt!” Gã ngưng một chút rồi quay về phía lão đầu to, lặp lại câu của lão mười lần.

Lão kia quát lên một tiếng, khạc ra một cục đờm rồi phun vào mặt Bao Bất Đồng. Bao Bất Đồng nghiêng người tránh, bất ngờ cục đờm đang lơ lửng bỗng chuyển hướng bay vòng sang trái, bắn ngay trán Bao Bất Đồng đánh “tách” một tiếng. Cục đờm đó kình lực rất mạnh, lại bắn trúng huyệt Dương Bạch trên mí mắt khiến Bao Bất Đồng đau điếng, lảo đảo suýt ngất đi. Mộ Dung Phục cả kinh nghĩ thầm: “Kình lực trong cục đờm thì chẳng đáng gì, chỉ lạ ở chỗ cục đờm của lão lại chuyển hướng giữa chừng được.”

Lão đầu to cười ha hả nói: “Mộ Dung Phục! Không cần ngươi biểu diễn, chỉ cần ngươi nói rõ được lai lịch cục đờm đó là lão phu phục lắm rồi.”

Mộ Dung Phục nghe lão hỏi về lai lịch cục đờm, nghĩ mãi chẳng được gì, không biết nói sao. Đột nhiên thanh âm trong trẻo của Vương Ngữ Yên cất lên: “Đoan Mộc đảo chúa! Các hạ luyện thành Ngũ Đẩu Mễ Thần Công chắc không phải dễ dàng, đã phải tàn sát bao nhiêu sinh mạng rồi? Công tử của ta có nhã ý tránh cho các hạ khỏi bị đồng đạo thù ghét mà không muốn nói huỵch toẹt ra, lẽ nào lại dùng công phu đó để đối phó với các hạ?”

Mộ Dung Phục vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, mấy chữ Ngũ Đẩu Mễ Thần Công quả là mình chưa từng nghe nói đến mà biểu muội lại biết, nhưng chưa hiểu nàng nói có đúng hay không.

Lão già đầu to giật mình, chỉ trong nháy mắt là khuôn mặt đỏ như máu biến thành trắng bệch không chút huyết sắc. Lão nói: “Con lỏi kia chỉ ăn nói hồ đồ, không hiểu biết chi hết. Ngũ Đẩu Mễ Thần Công là môn hại nhân lợi kỷ, nham hiểm độc ác vô cùng, ta luyện làm chi? Nhưng mi đã gọi đúng được họ của ta thì cũng không phải hạng tầm thường.”

Vương Ngữ Yên nghe vậy biết là mình đoán trúng rồi, nhưng lão không chịu thừa nhận môn võ vì sợ người ta khinh bỉ thôi. Nàng bèn nói: “Đoan Mộc động chúa ở động Xích Diệm trên núi Ngũ Chỉ tại đảo Hải Nam, trên giang hồ còn ai không biết, tiểu nữ đoán được có chi là lạ? Tuyệt kỹ vừa rồi của Đoan Mộc động chúa đã không phải là Ngũ Đẩu Mễ Thần Công, thì hẳn là một môn thần diệu do động chúa chế biến từ Địa Hỏa Công ra!”

Địa Hỏa Công vốn là tuyệt nghệ của Xích Diệm Động, các động chúa của động này đều ở họ Đoan Mộc, lão đầu to này tên gọi Đoan Mộc Nguyên. Lão nghe Vương Ngữ Yên nói rõ lai lịch mình, đã đem lòng khâm phục, lại thấy nàng giấu cho mình cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thần Công chẳng tốt đẹp gì, đâm ra có cảm tình với nàng. Huống chi động Xích Diệm vốn chẳng có tiếng tăm gì, cái môn phái nhỏ bé của lão cũng chẳng mấy ai biết, thế mà nàng lại nói là “trên giang hồ còn ai không biết” khiến cho lão càng hoàn hỉ. Lão cười nói: “Phải rồi! Phải rồi! Đó chỉ là Địa Hỏa Công biến hóa đi một chút, chẳng có chi đáng kể. Lão phu nói trước rồi, ngươi đã gọi ra đúng môn phái thì lão phu không làm khó dễ nữa đâu.”

Đột nhiên ở tảng đá đối diện có tiếng khóc thút thít rất nhỏ, nghẹn ngào như có như không. Người đó vừa khóc vừa nói: “Đoan Mộc Nguyên! Lang quân ta cùng mấy vị huynh đệ có phải đều chết về tay ngươi không? Ngươi luyện cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thần Công trời đánh ấy để sát hại bọn họ chứ gì?” Người đó nấp sau tảng đá không trông rõ tướng mạo, chỉ thoáng thấy mụ mặc áo đen, người cao, tay áo rộng thùng thình.

Đoan Mộc Nguyên cười ha hả đáp: “Nương tử là ai thế? Lão phu chẳng biết cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thân Công đó là cái gì. Nương tử đừng nghe tiểu cô nương kia nói lung tung!”

Người đàn bà quay sang Vương Ngữ Yên vẫy tay gọi: “Tiểu cô nương qua đây chơi, ta muốn hỏi cô một điều.” Tay mụ cầm một cái cần trúc dài ba thước, ở đầu cần có gắn thiết trảo. Mụ vừa vẫy tay, cái bàn tay sắt đó đã móc đúng vào thắt lưng Vương Ngữ Yên, kéo người nàng bước tới một bước. Nàng cố gượng đứng vững, nhưng mụ kia lại vẫy tay nữa.

Vương Ngữ Yên lại bị kéo tới hai bước, sợ quá la lên một tiếng. Mộ Dung Phục liền phất tay áo một cái, thi triển công phu Đẩu Chuyển Tinh Di, khiến cho kình lực đang kéo Vương Ngữ Yên xoay lại kéo mụ kia.

Mụ kia “A” lên một tiếng, chân đứng không vững, loạng choạng rồi bước ra ngoài khe đá, đến trước mặt Mộ Dung Phục chừng hơn một trượng thì kình lực mới tiêu tan, không bị kéo tới nữa. Mụ cả kinh thất sắc, sợ Mộ Dung Phục xuất thủ hại mình liền buông cần trúc, ráng sức nhảy ngược lại phía sau một trượng.

Vương Ngữ Yên gỡ thiết trảo dính trong thắt lưng của mình ra, đưa cái cần cho Mộ Dung Phục. Y bèn phất tay trái, cái cần trúc từ từ bay về phía mụ. Mụ đưa tay định đón lấy, nhưng cái cần lại đột ngột rơi xuống, cắm trên mặt đất cách mụ ba thước.

Vương Ngữ Yên nói: “Thì ra là Lê phu nhân tại đảo Na Hoa biển Nam Hải. Thái Yến Công của phu nhân thật là tuyệt diệu, tiểu nữ khâm phục vô cùng!” Thiếu phụ kia biến sắc hỏi lại: “Tiểu cô nương! Sao cô nương… lại biết họ của ta? lại biết cả Thái Yến Công của ta?” Vương Ngữ Yên đáp: “Phu nhân vừa thi triển công phu thần diệu bắt vật ở trên không, chính là Thái Yến Công lừng danh thiên hạ của đảo Na Hoa chứ còn gì nữa.” Nguyên đảo Na Hoa ở miền Nam Hải, trên đảo này có nhiều chim én làm tổ ở những hốc núi đá vừa cao vừa hiểm hóc, việc lấy tổ yến không phải dễ dàng. Nhà họ Lê ở đảo này đã mấy trăm năm, do công việc dùng cần trúc gắn móc để gỡ yến sào mà luyện thành tuyệt kỹ Thái Yến Công độc đáo của riêng mình. Tuyệt kỹ này chính là một môn chuyên bắt lấy vật trên không, về khinh công, bộ pháp cũng có chỗ đặc biệt. Vương Ngữ Yên vừa thấy thân pháp Lê phu nhân nhảy ngược ra sau rất giống như cánh én bị gió biển thổi bạt đi, nên nàng không nghi ngờ gì nữa, nói rõ ra.

Lê phu nhân thấy Mộ Dung Phục phất tay áo một cái đã lôi được mình đi thì đã kinh hãi trong lòng, bây giờ lại nghe Vương Ngữ Yên gọi ra lai lịch võ công nhà mình, bèn cho là đối phương đã biết hết sở trường của mụ. Mụ không dám ngang ngược nữa, quay lại nói với Đoan Mộc Nguyên: “Đoan Mộc lão nhi! Hảo hán thì phải dám làm dám chịu. Lang quân ta cùng mấy vị huynh đệ phải chăng đã bị hại về tay ngươi?”

Đoan Mộc Nguyên cười ha hả đáp: “Lê phu nhân là đảo chủ đảo Na Hoa ở Nam Hải, vậy cũng là hàng xóm mà lão phu không biết, thật là thất kính. Lão phu chưa gặp trượng phu của phu nhân lần nào, đừng nói đến chuyện gia hại!”

Lê phu nhân có vẻ không tin, nói: “Sau này sẽ biết rõ, chỉ mong ngươi không phải là hung thủ.” Mụ nói xong, lại ẩn vào trong khe đá.

Lê phu nhân vừa rút lui, đột nhiên từ trên ngọn cây tùng có một vật nặng rớt xuống, đụng vào một tảng đá đánh choang một tiếng. Vật đó là một chiếc đỉnh đồng rất lớn đã teng xanh lại. Mộ Dung Phục ngẩng đầu nhìn lên ngọn cây tùng để xem ai nấp trên đó, tự hỏi: “Không biết ai đã mang một vật nặng đến mấy trăm cân lên ngọn cây, rồi lại thả xuống làm gì? Cái đỉnh này trông giống như cái đỉnh đồng của động Bích Lân mà Công Dã Càn vừa đá lăn ra lúc này, nhưng lớn hơn nhiều. Chẳng lẽ Tang Thổ Công lại nấp trên ngọn cây? Gã quan sát ngọn cây thật kỹ, nhưng chẳng thấy ai.

Bỗng nghe mấy tiếng vo vo nhỏ xíu lẫn trong tiếng gió, Mộ Dung Phục tâm cơ linh mẫn vô cùng, lập tức phóng chưởng đánh ra, lúc đó mới nhìn thấy ánh sáng lập lòe, mấy nghìn mũi kim nhỏ như lông trâu bắn tung tóe ra bốn phía, Mộ Dung Phục kêu thầm: “Nguy rồi!”, vội chụp lấy lưng Vương Ngữ Yên, tung mình nhảy lên không. Công Dã Càn, Phong Ba Ác cùng mọi người xung quanh đều nhao nhao kêu lên: “Nguy rồi!” “Trời ơi, trúng phải độc châm rồi!” “Con mẹ nó! Ám khí này độc lắm đây!” “Úi chao! Ngứa đến chết người.”

Mộ Dung Phục đang lơ lửng trên không, nhìn xuống thấy nắp chiếc đỉnh đồng lớn kia nhúc nhích, rồi trong đỉnh có vô số vật nhỏ tung ra. Y không suy nghĩ gì nhiều, đặt Vương Ngữ Yên lên ngọn cây rồi nói:”Biểu muội ngồi yên!”, rồi hạ mình xuống, dùng phép Thiên Cân Trụy đạp hai chân lên nắp đỉnh, đè chặt lấy.

Mộ Dung Phục nhảy lên rồi hạ xuống, chỉ trong chớp mắt đã giữ được nắp đỉnh lại. Những tiếng la gọi vang lên tứ phía: “Mau lấy thuốc giải độc!” “Đây là Ngưu Mao Châm của động Bích Lân, chỉ trong một giờ là nghẹt thở, độc chất công thẳng vào tâm tạng rất nguy hiểm.” “Thằng giặc thối tha Tang Thổ Công ở đâu, phải tóm lấy mà đòi thuốc giải” “Thằng cha này phóng Ngưu Mao Châm bừa bãi, cả ta đây là lão bằng hữu cũng bị thương rồi!” “Lấy thuốc giải mau! Tang Thổ Công đâu?”

Những tiếng gọi tìm Tang Thổ Công, gọi lấy thuốc giải nhốn nháo cả lên. Có người trúng độc châm phải nhảy loạn lên, có người lại ôm gốc tùng mà kêu rống. Ngưu Mao Châm quả là lợi hại vô cùng, khiến người trúng phải không sao chịu nổi.

Công Dã Càn tay trái xoa ngực, tay phải ôm bụng, đang ngưng thần vận khí. Phong Ba Ác thì hai chân nhảy loạn lên quát mắng om sòm. Mộ Dung Phục biết hai gã này đã trúng ám khí, trong lòng vừa lo lắng, vừa nghi ngờ, lại vừa căm hận. Rõ ràng trong đỉnh đồng phải có người vận động cơ quan thì mới phóng độc châm ra vừa nhanh vừa nhiều đến thế. Rủi ro ở chỗ cái đỉnh rớt xuống đánh choang một tiếng, khiến mọi người phải ngửng đầu nhìn lên ngọn cây, người ngồi trong đỉnh mới thừa cơ hội phóng độc châm ra.

Giả tỉ Mộ Dung Phục không ứng biến mau lẹ, hoặc chưởng phong không mãnh liệt thì đã bị hàng ngàn hàng vạn mũi độc châm bắn vào da thịt rồi. Kẻ ngồi trong đỉnh phóng trộm ám khí lại được chiếc đỉnh che kín, những mũi độc châm bị Mộ Dung Phục vận nội kình hất ra đều bắn vào người xung quanh hoặc bắn vào đỉnh, không thể trúng gã được.

Bỗng nghe một giọng nói bán nam bán nữ lên tiếng: “Mộ Dung Phục! Ngươi không trách ai được. Ngươi quen lấy gậy ông đập lưng ông, bây giờ hất độc châm ra làm bằng hữu nhà ngươi bị nạn là đúng nghề rồi.” Tên này đứng xa, lại ẩn sau một tảng đá lớn nên không trúng phải độc châm, bèn châm biếm chơi.

Mộ Dung Phục không lý gì đến gã, nghĩ bụng: “Muốn giải được độc châm này, dĩ nhiên cần đến người ngồi trong đỉnh đã vận động cơ quan phóng độc châm ra.” Chiếc nắp đỉnh dưới chân Mộ Dung Phục không ngớt rung động, chắc hẳn người ngồi trong đỉnh toan hất nắp đỉnh để xông ra. Nhưng ba ngón tay Mộ Dung Phục đang bám vào cây tùng lớn, nắp đỉnh chẳng khác gì đã liền vào gốc cây, sức đè xuống nặng đến vạn cân. Cây tùng lớn cứ lắc đi lắc lại vang lên những tiếng kẽo kẹt, những rễ nhỏ bị đứt mất nhiều, nhưng đẩy bật gốc cây lên đâu phải chuyện dễ dàng? Người ngồi trong đỉnh muốn thoát ra chỉ có cách dùng bảo đao bảo kiếm chém vỡ đỉnh, còn cố đội nắp đỉnh lên thì không ăn thua gì.

Mộ Dung Phục định bụng chờ một lát nữa rồi sẽ đột nhiên nới tay cho đối phương vọt ra, thế nào gã cũng liệng ra một nắm độc châm để hộ thân, khi đó sẽ vung chưởng hất độc châm bắn trở lại trúng vào người hắn. Dĩ nhiên hắn phải lấy thuốc giải ra để tự cứu, lúc đó sẽ cướp lấy, dễ hơn nhiều so với việc năn nỉ gã xin thuốc giải.

Nắp đỉnh bị đẩy hai lần nữa, rồi đột nhiên không thấy động tĩnh gì. Mộ Dung Phục nghĩ rằng người ngồi trong đỉnh đang vận hết nội lực để đột ngột phóng ra một lần chót. Y định bụng lần này sẽ nới tay cho hắn ra, cũng vận nội lực sẵn sàng phóng chưởng. Ngờ đâu một lúc lâu mà người trong đỉnh vẫn không nhúc nhích, tựa như đã chết ngạt trong đó rồi.

Tiếng kêu gào chung quanh mỗi lúc một thê thảm hơn. Có người ngứa quá không nhịn được phải lăn lộn dưới đất, lại có kẻ đập đầu vào đá, hay tự đấm ngực thình thình, xem thật là dễ sợ. Bảy tám giọng cùng la lối: “Mau mau lôi gã Tang Thổ Công ra đây, bắt hắn lấy thuốc giải độc!” Giữa những tiếng la ó, mười mấy người mắt đỏ ngầu đồng thời xông về phía Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục điểm chân trái xuống nắp đỉnh, nhẹ nhàng nhảy vọt lên không. Y toan đáp xuống một cành tùng đâm ngang ra, đột nhiên nghe những tiếng vo vo, hàng trăm hàng ngàn mũi kim sáng chói bắn xéo lên.

Diễn biến thật là đột ngột. Người bắn độc châm là Tang Thổ Công hãy còn ngồi trong đỉnh, thế mà nắm độc châm này phóng ra rất mãnh liệt, rõ ràng đã được phát xạ bằng máy móc. Chẳng lẽ Tang Thổ Công còn có đồng đảng nấp gần đây để hạ độc thủ nữa chăng?

Lúc này Mộ Dung Phục đang lơ lửng trên không, khó mà tránh được. Nếu dùng chưởng lực hất xuống thì bốn người bọn Đặng Bách Xuyên đang ngồi dưới gốc cây lại bị trúng châm, như thế là làm hại đến huynh đệ. Mộ Dung Phục phất tay áo bên trái cho phồng lên như cánh buồm, mượn đà lượn trên không sang bên trái ba thước né tránh, đồng thời vung tay áo bên phải phát ra một luồng nội lực hất hàng ngàn mũi độc châm phóng lên trời. Sau đó người gã mới nhẹ nhàng hạ dần xuống.

Lúc này trên trời không có trăng sao, nhưng đèn đuốc bốn mặt chiếu sáng tỏ. Mọi người nhìn thấy thân pháp Mộ Dung Phục nhẹ nhàng như người biết cưỡi gió mà đi, đều không khỏi kinh hãi. Người thì la ó quát mắng, người thì hoan hô tán thưởng, át hẳn những tiếng rên la thê thảm.

Mộ Dụng Phục lúc còn lơ lửng trên không đã để mắt chú ý nhìn xem đám độc châm đó từ đâu bắn lên, lúc rớt xuống còn cách mặt đất hơn một trượng, chân trái liền đạp một cành cây mọc ngang để mượn đà nhảy sang mé hữu. Y đang hạ xuống từ từ, bỗng vọt đi lẹ như chim ưng, hai chân nhắm đạp xuống đầu một người vừa thấp lùn vừa béo trùng trục ngồi cạnh một phiến đá. Thì ra lúc Mộ Dung Phục đảo mắt nhìn quanh đã thấy người này ôm một cái đỉnh như đang thủ thế.

Gã lùn xoay người đi tránh ra ba thước, trông như một quả cầu lăn tròn dưới đất cực kỳ mau lẹ. Mộ Dung Phục đáp xuống chỗ trống, phóng chưởng ra đánh binh một tiếng vào lưng đối phương. Gã lùn đang muốn đứng dậy thì trúng chưởng lại ngã ra, liền mượn thế lăn luôn bảy tám trượng rồi mới đứng lên. Nhưng phát chưởng này cực kỳ mãnh liệt, gã vừa đứng lên đã lảo đảo mấy cái, hai chân nhũn ra, lại ngồi phệt xuống.

Tứ phía kia có mười mấy người cùng la lên: “Tang Thổ Công! Lấy thuốc giải ra!” rồi nhảy xổ lại. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng đều nghĩ: “Gã lùn này là Tang Thổ Công.” Hai người muốn bắt gã để lấy thuốc giải trị thương cho huynh đệ, vội vàng vừa quát vừa nhảy vọt tới.

Tang Thổ Công chống tay trái xuống đất toan đứng lên, nhưng không đủ sức. Bao Bất Đồng nhảy tới trước tiên, thò tay ra chụp lấy vai gã, ngờ đâu đòn trảo vừa trúng đích thì bàn tay đau nhức không chịu được phải rút về, xoay bàn tay lên coi thấy máu chảy đầm đìa. Thì ra trên áo Tang Thổ Công giắt đầy kim nhọn chẳng khác gì con nhím, mà những mũi châm này đều tẩm thuốc độc. Chỉ trong chốc lát, Bao Bất Đồng thấy vừa ngứa ngáy vừa đau ghê gớm, chỉ muốn chặt đứt bàn tay mà vứt đi. Bao Bất Đồng vừa sợ vừa tức liền phóng chân trái ra, xuất chiêu Kim Câu Phá Băng đá vào mông Tang Thổ Công. Gã này đang nằm quằn quại dưới đất, rõ ràng thế nào cũng bị đá trúng.

Bàn chân chỉ còn cách mông Tang Thổ Công mấy tấc, đột nhiên Bao Bất Động tỉnh ngộ: “Hỏng bét, nếu mông hắn cũng gắn độc châm thì mình lại hỏng thêm một chân, thật là ngu xuẩn.” Nhưng gã sợ rút chân về đột ngột sẽ tổn thương đến gân cốt, bèn tức tốc phóng tả chưởng xuống đất, mượn đà lộn người đi.

Bao Bất Đồng biến thế rất mau lẹ, bàn chân chỉ lướt khẽ qua quần Tang Thổ Công, cũng chẳng hiểu mông của y có gắn châm độc hay không.

Lúc ấy Đặng Bách Xuyên cùng mọi người đã nhảy tới, thấy Bao Bất Đồng.rõ ràng đã chụp được Tang Thổ Công, mà không hiểu sao lại bị thương. Bởi vậy Tang Thổ Công nằm phục dưới đất không nhúc nhích mà chẳng ai dám mạo hiểm động thủ. Chỉ có Bao Bất Đồng tính tình cố chấp, nhất định không chịu thua. Gã nhấc một khối đá nặng đến hơn hai trăm cân, quát lên: “Tránh ra! Tiểu đệ phải đập chết con rùa đen này!”

Có người vội la lên: “Không được! Đập chết gã thì lấy đâu ra thuốc giải độc? Có người lại kêu: “Thuốc giải ở trong mình hắn, cứ đập chết là lấy được.” Xem chừng bọn này tụ họp với nhau mà mỗi người vẫn có ý kiến riêng, chẳng đồng tâm hiệp lực chi hết. Bao Bất Đồng muốn đập chết Tang Thổ Công, có người phản đối lại có người đồng tình, mỗi người một phách.

Giữa lúc lộn xộn, Bao Bất Đồng xách một tảng đá lớn bước tới, quát lên: “Ta phải đập nát bét con rùa đen mình đầy độc châm này.” Lúc đó lòng bàn tay gã càng ngứa ran lên không chịu nổi, bèn giơ thẳng hai tay đập mạnh tảng đá xuống lưng Tang Thổ Công. Chỉ nghe một tiếng binh vang lên, cát bụi bay mù mịt.

Mọi người đều giật mình kinh hãi. Tảng đá đó mà trúng lưng Tang Thổ Công thì tất nhiên hắn phải rú lên thê thảm, da thịt phải tan nát, không thể có cát bụi bay mù như thế được. Ai nấy định thần nhìn lại thì lại càng ngạc nhiên hơn, chỉ thấy khối đá nằm trơ dưới đất, Tang Thổ Công đã biến đi đâu mất.

Bao Bất Đồng phóng chân hất khối đá lăn sang một bên, dưới đất hiện ra một cái hang. Trong tên Tang Thổ Công đã có chữ “Thổ”, thuật địa hành của hắn rất mực tinh thông. Lúc nãy Mộ Dung Phục đè chặt nắp đỉnh, Tang Thổ Công không có cách nào hất nắp đỉnh lên để thoát ra, hắn phải đạp dưới đáy đỉnh vận động cả chân tay đào một cái hang chui xuống đất để thoát thân. Bao Bất Đồng ngẩn ngơ, nhìn cả bốn phương tám hướng xem Tang Thổ Công ở đâu. Gã nghĩ thầm: “Thằng cha này không phải là con Xuyên sơn giáp, thì dù hắn có chui xuống đất cũng đào được mấy thước là cùng, chẳng lẽ hắn biết thuật độn thổ mà trốn được ngay?”

Bỗng nhiên Mộ Dung Phục la lên: “Hắn đây rồi!” rồi vung tay áo bên phải quét vào tảng đá một cái. Tang Thổ Công thật là một con người cổ quái, có đủ ngón che mắt bịp người, nếu nhãn lực Mộ Dung Phục không đủ tinh vi thì không thể phát giác ra tảng đá này chính là lưng gã.

Tang Thổ Công như một trái bóng thịt, bị tụ phong mãnh liệt tung lên trên không. Lúc nãy hắn trúng chưởng của Mộ Dung Phục đã bị thương khá nặng, không còn sức kháng cự, vội cất tiếng la lên: “Đừng hạ độc thủ, để tại hạ lấy thuốc giải cho!”

Mộ Dung Phục chỉ mỉm cười, lại vung tay trái, phát ra một luồng kình phong vừa tiêu trừ tụ phong bên tay phải, vừa giữ thân thể Tang Thổ Công lại cho hạ từ từ xuống.

Xa xa phía trước có tiếng hoan hô: “Cô Tô Mộ Dung, danh bất hư truyền!” Mộ Dung Phục xua tay đáp: “Chẳng đáng làm trò cười, nghĩ mà hổ thẹn.” Lúc ấy một luồng kim quang, một luồng ngân quang vụt tới bên trái đầu y nhanh như chớp, tiếng rít lên nghe rất ghê sợ. Mộ Dung Phục không dám chần chờ, vận nội lực vào hai tay áo để đón lấy. Một tiếng “ầm” vang lên, tụ phong dội ngược lại, hai luồng ánh sáng cũng lui lại ba thước. Bấy giờ Mộ Dung Phục mới nhìn rõ, đó là hai cái đai vừa dài vừa rộng, một là đai vàng, một là đai bạc.

Hai người cầm đai đều đã già, lão sử đai vàng thì mặc áo bào bạc, lão sử đai bạc lại mặc áo bào vàng. Cả áo lẫn đai đều chiếu hào quang rực rỡ, cực kỳ diễm lệ. Loại áo bào vàng bạc này tựa như phục trang trên sân khấu, không phải để mặc lúc bình thường. Lão mặc áo bạc lên tiếng: “Bái phục, bái phục! Hãy tiếp thêm một chiêu của huynh đệ ta!” Hào quang lấp loáng, đai vàng vọt thẳng tới bên trái, còn đai bạc thì vung lên không rồi chụp xuống thượng bộ Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục nói: “Hai vị tiền bối…”, mới được bốn chữ thì nghe mấy tiếng veo véo, phía dưới lại có ba thanh trường đao chém tới. Ba người này đều sử dụng Địa Đường Đao Pháp, chia nhau tấn công vào hạ bàn Mộ Dung Phục. Thế là Mộ Dung Phục bị ba mặt giáp công. Y nghĩ thầm: “Đối phương đã tự xưng là ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, người nhiều thế mạnh, nếu hỗn chiến thì nguy hiểm khôn lường. Ta phải đánh phủ đầu, khủng bố tinh thần họ trước.” Ba lưỡi đao quét tới nơi, Mộ Dung Phục mắt lẹ chân nhanh, phóng luôn ba cước, đều trúng vào cổ tay địch nhân. Ba thanh đao đều bị đá tung lên không, bạch quang lấp loáng. Mộ Dung Phục lạng người sang bên, thi triển công phu Đẩu Chuyển Tinh Di gạt vào đầu cái đai vàng, nghe đánh chát một tiếng, đai vàng và đai bạc đã cuốn vào nhau.

Lúc này ba người sử đao đã lăn vào khoảng giữa Mộ Dung Phục và Tang Thổ Công. Bọn chúng đã mất đơn đao mà không chịu lùi lại, la lối om sòm, cứ định vồ lấy chân Mộ Dung Phục. Y không dám để chúng lấn quất bên mình, lại phóng cước nhanh như gió đá trúng huyệt đạo trước ngực cả ba. Đột nhiên xuất hiện một người mặc áo đen, chân tay dài như vượn, vượt qua mọi người rồi xòe bàn tay lớn bằng chiếc quạt nắm lấy Tang Thổ Công xách đi. Không hiểu trời sinh tên này có da bàn tay dày như da voi, hay là có đeo bao tay sắt, mà y không sợ độc châm trên người Tang Thổ Công. Y nắm được Tang Thổ Công rồi nhảy lùi lại xa hơn một trượng.

Mộ Dung Phục thấy mỗi cái giơ tay cất chân của người này đều ghê gớm, rõ ràng võ công hắn cao thâm hơn bọn kia nhiều. Y kinh hãi nghĩ thầm: “Tang Thổ Công mà bị tên này xách đi thì khó lòng kiếm được thuốc giải. Tâm niệm vừa động, Mộ Dung Phục liền vọt người lên, vượt qua ba tên nằm dưới đất, phóng chưởng đánh tới người áo đen. Gã kia cười lạnh lẽo, hoành đao trước ngực, thanh quang lấp loáng.

Đó là một lưỡi quỉ đầu đao sống dày lưỡi mỏng, sắc nhọn dị thường, đao quang xanh lè. Mộ Dung Phục thấy lưỡi đao của đối phương đã đón sẵn mà vẫn đánh xuống, tưởng chừng bàn tay y sắp đập vào lưỡi đao mà đứt lìa ra. Nhưng bàn tay y còn cách lưỡi đao chừng hai tấc thì đột nhiên xoay ngang ra, quét dọc theo lưỡi đao để hớt vào tay của người áo đen.

Cườm tay của Mộ Dung Phục đã vận chân lực vào, lợi hại chẳng kém gì lưỡi quỷ đầu đao, nếu chém trúng cũng chặt đứt được tay đối phương. Gã áo đen giật mình la lên một tiếng, buông rơi thanh đạo rồi xoay tay lại đỡ. Hai người đối chưởng nghe ầm một tiếng, gã áo đen lại la lên một tiếng nữa, rồi nhảy lùi lại xa hơn một trượng. Nhưng tay trái gã vẫn nắm chặt lấy Tang Thổ Công, nhất định không chịu buông ra. Mộ Dung Phục xoay tay lại nắm lấy thanh quỷ đầu đạo đang rơi xuống, bỗng ngửi thấy một mùi tanh tưởi, biết ngay lưỡi đao này có bôi thuốc độc tà môn.

Mộ Dung Phục tuy mới xuất một chiêu đã đoạt được khí giới của đối phương, song y thấy bảy tám người bên địch đã đưa binh khí ra chắn trước mặt người áo đen, thì khó mà xông vào cướp Tang Thổ Công lại được. Y lại vừa đối chưởng với người áo đen, biết rằng công lực hắn kém mình, nhưng bên trong lại có chỗ quái dị, giả tỉ được lấy một chọi một cũng không thể thủ thắng trong chốc lát được.

Tiếng người vẫn huyên náo không ngừng: “Tang Thổ Công! Mau lấy thuốc giải ra!” “Con mẹ nó! Thứ độc châm này mà không trị thì chỉ một giờ là mất mạng.” “Ô Lão Đại! Mau mau kêu hắn lấy thuốc giải ra, ta không chịu được nữa!” Dưới ánh đèn lửa, vô số bóng người chen lấn nhau chạy tới chỗ gã áo đen Ô Lão Đại để xin gã lấy thuốc giải cho.

Lão Đại nói: “Được rồi! Lão họ Tang béo phì này, móc thuốc giải ra đi!” Tang Thổ Công đáp: “Ngươi phải buông ta ra chứ!” Ô Lão Đại nói: “Ta mà buông tay thì địch nhân lại bắt ngươi mất, buông ra thế nào được? Lấy thuốc giải ra đi!” Những người đứng cạnh đều quát lên: “Phải rồi! Lấy thuốc giải ra đi.” Có người lớn tiếng thóa mạ: “Thằng rợ Miêu này! Ngươi còn chần chờ nữa là lão gia cho một mớ lửa đốt rụi cái động Bích Lân, họ hàng nhà rùa đen cháy không còn một cái móng chân!”

Tang Thổ Công ấp úng đáp: “Ta để thuốc giải dưới đất, phải buông ra thì ta mới đi lấy được.” Mọi người đều chưng hửng, biết hắn nói thật tình. Tang Thổ Công vốn thích ở trong sơn động âm u không có bóng mặt trời, hắn giấu thuốc dưới đất là hợp lý.

Mộ Dung Phục không nghe Công Dã Càn cùng Phong Ba Ác rên la, nhưng y thấy mọi người đang ngứa ngáy quằn quại, thì nhị ca cùng tứ ca tất cũng chẳng khác gì. Y quyết định trước mắt phải dùng toàn lực để cướp lại Tang Thổ Công rồi sẽ tính tiếp, bèn quát lên một tiếng, múa tít thanh quỷ đầu đao xông vào giữa đám đông như con hổ đói xông vào giữa đàn dê, mọi người đều dạt sang hai bên. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng thì đang phải hộ vệ cho Công Dã Càn cùng Phong Ba Ác, không dám rời xa nửa bước vì sợ địch nhân ám hại.

Ô Lão Đại thấy Mộ Dung Phục hung hãn quá không dám chống đối, xách Tang Thổ Công lui ra xa. Bỗng có người kêu lên: “Các vị phải cẩn thận! Gã đang cầm Lục Ba Hương Lộ Đao, đừng để chém trúng.” Người khác lại kêu: “Trời ơi! Sao Ô Lão Đại lại để y đoạt được Lục Ba Hương Lộ Đao? Thế thì nguy to rồi!”

Mộ Dung Phục vung đao tiến vào, gặp đủ loại người. Hòa thượng cùng đạo sĩ, hán tử xấu xa cùng nữ nhân mỹ lệ, mặt ai cũng có vẻ khiếp sợ, hối hả tránh ra. Rõ ràng thanh quỷ đầu đao này có nhiều lai lịch, nhưng tanh tưởi khó ngửi mà lại gọi là Hương Lộ Đao, thật tức cười! Mộ Dung Phục nghĩ: “Ta múa thanh độc đao này chém chết mươi tên động chúa, đảo chúa gì gì đó cũng chẳng khó khăn gì, nhưng mình với bọn họ vốn không thù oán, thì giết người làm chi? Giả tỉ chúng liều chết không chịu cho thuốc giải, thì chất độc trong người nhị ca cùng tứ ca không hiểu sẽ phát tác thế nào.” Y nghĩ vậy nên tuy vung đao xông vào đám đông mà không hạ sát thủ chém chết mạng nào, chỉ điểm huyệt mấy người thôi.

Bọn người kia lúc đầu còn khiếp sợ, về sau thấy uy lực thế đạo của y không hung hãn lắm, đều trấn tĩnh lại. Chỉ trong khoảnh khắc trường kiếm, đoản đao, nhuyễn tiên… từ bốn phía tới tấp phóng ra nhằm vào người y. Mộ Dung Phục võ công cao cường, nhưng bị mười mấy người bao vây, tả xung hữu đột một lúc đã bắt đầu luống cuống. Y thấy bên ngoài vòng chiến còn ba bốn trăm người trùng trùng điệp điệp, không khỏi kinh hãi.

Mộ Dung Phục chống đỡ một lát nữa rồi nghĩ thầm: “Không hạ độc thủ thì biết đến bao giờ mới kết liễu tình thế này?” Y múa tít thanh đao, nghe hai tiếng “binh binh”, sống đao đã đánh trúng hai người bất tỉnh ngay. Bỗng nghe Đặng Bách Xuyên lớn tiếng quát: “Bọn đê tiện kia! Không được động đến cô nương!” Mộ Dung Phục liếc qua, thấy hai người đang tung mình nhảy lên ngọn cây có Vương Ngữ Yên ngồi trên, Đặng Bách Xuyên đang vừa chạy như bay tới, vừa tới tấp phóng chưởng ra ngăn trở. Mộ Dung Phục cực kỳ bối rối, lại thấy thêm ba người nữa chạy tới chỗ cây tùng đó. Y hiểu rõ ngay chủ ý bọn này, không hạ nổi mình nên nhảy lên bắt biểu muội để uy hiếp, thật là vô sỉ. Mộ Dung Phục bị vô số người bao vây, không có cách nào phân thân để chạy lại cứu Vương Ngữ Yên được, chỉ chốc lát đã thấy hai cô gái nắm tay Vương Ngữ Yên nhảy từ trên cây xuống. Một tên đầu đà tóc dài đội vòng vàng cầm giới đao kê vào cổ Vương Ngữ Yên quát lên: “Mộ Dung tiểu tử! Mi mà không chịu đầu hàng thì ta cắt đầu con bé này!”

Mộ Dung Phục ngẩn người ra, nghĩ bụng: “Bọn yêu ma này tàn ác vô cùng, chẳng kiêng nể cái gì, không chừng dám sát hại biểu muội ta thật. Biết làm thế nào đây? Tiếng tăm nhà Mộ Dung ở Cô Tô lừng lẫy võ lâm, sao lại đầu hàng được? Bây giờ mà mình mở miệng đầu hàng, thì sau này còn làm người được chăng?” Trong lòng y rối loạn mà tay chân không chậm lại chút nào, phóng ra hai chưởng vù vù, hất hai tên địch bay ra ngoài một trượng.

Gã đầu đà lại quát lớn: “Mi không đầu hàng là ta cắt cái đầu đẹp như hoa như ngọc này rớt xuống lập tức!”. Thanh giới đao vung lên, đao quang xanh lè rung động không ngớt.

Hồi 34: Núi Phiêu Diểu mây dồn gió giật

Đột nhiên từ phía sau núi có tiếng người la lên: “Không được! Nhất định không được đụng đến Vương cô nương! Ta chịu đầu hàng các ngươi là xong.” Một bóng người áo xám chạy như bay tới, bộ pháp vừa nhẹ nhàng vừa phiêu hốt như ma quỉ. Phía ngoài vòng vây có mấy người vừa quát mắng om sòm vừa xông ra ngăn lại, nhưng bóng xám đó né đông tránh tây lướt thẳng vào trong. Dưới ánh đèn lửa, mọi người đều thấy rõ, thì ra chính là Đoàn Dự.

Chàng la lên: “Muốn ta đầu hàng thì đâu phải dễ? Nhưng vì Vương cô nương thì ta chịu đầu hàng một ngàn lần, một vạn lần.” Chàng nhảy xổ đến trước mặt gã đầu đà, kêu lên: “Trời ơi! Buông tay ra đi! Các ngươi bắt Vương cô nương làm chi?”

Vương Ngữ Yên thấy chàng không hiểu võ công mà dám liều mạng xông vào cứu mình thì cảm kích vô cùng, nhẹ giọng hỏi: “Đoàn… Đoàn công tử! Là công tử đấy ư?” Đoàn Dự cả mừng đáp: “Chính là tại hạ.”

Gã đầu đà quát mắng: “Mi… mi là cái thứ gì?” Đoàn Dự đáp: “Ta là người, chứ còn là cái thứ gì nữa?” Gã đầu đà xoay tay trái phóng quyền đánh “bốp” một cái trúng quai hàm Đoàn Dự. Chàng đứng không vững, loạng choạng rồi ngã lăn ra, trán đập vào một cục đá, máu chảy đầm đìa.

Gã đầu đà nhìn chàng khinh công chạy đến, vẫn tưởng võ công chàng không phải hạng tầm thường. Thoi quyền đó chỉ là hư chiêu, gã yên trí là không trúng, sau đó phóng ra ba chiêu giới đao bên tay phải mới là sát thủ thực sự. Gã không ngờ mới đánh dứ một chiêu đã xong, không khỏi ngẩn người ra, rồi nhìn qua thấy Mộ Dung Phục vẫn đang tả xung hữu đột không ngớt, bèn la lên: “Mộ Dung tiểu tử! Mi mà không dừng tay đầu hàng, ta chém đầu con bé này thật đấy. Lão phật gia nói một là một, nói hai là hai, không biết lừa dối là gì. Một, hai, ba! Mi có hàng hay không?”

Mộ Dung Phục không biết tính sao. Nghĩ đến tình biểu huynh biểu muội thì y không thể nhẫn tâm để Vương Ngữ Yên mất mạng, nhưng bốn chữ “Cô Tô Mộ Dung” còn quan trọng hơn nhiều, giả tỉ để người uy hiếp phải đầu hàng thì thật là sỉ nhục, tên tuổi vĩnh viễn bị chôn vùi trên chốn giang hồ. Y bèn thét lên: “Tên đầu đà hổ mang kia! Ngươi muốn ta đầu hàng thì khó lắm. Ngươi đụng đến một sợi tóc của cô nương đó, mà ta không băm vằm ngươi ra muôn đoạn, thì thề chẳng làm người nữa.” Mộ Dung Phục vừa nói vừa cố xông về phía Vương Ngữ Yên, nhưng hơn hai chục người vung khí giới đâm tả chém hữu, ngăn trước đánh sau, làm sao xông tới được ngay?

Gã đầu đà tức giận quát lên: “Ta thử cắt đầu con nhỏ này, xem mi có băm vằm được lão phật gia không?” Gã bèn chụp lấy tay Vương Ngữ Yên. Hai cô gái đang nắm giữ nàng thấy vậy sợ vạ lây, liền buông tay nhảy tránh ra xa.

Đoàn Dự nhịn đau lồm cồm bò dậy, đưa tay trái lên trán xoa xoa vết thương, vẻ mặt đang bần thần, thì thấy gã đầu đà vung đao chém xuống mà Vương Ngữ Yên vẫn đứng ngây ra, hình như đã bị điểm huyệt nên không kháng cự, né tránh chi hết. Chàng hốt hoảng đến cực điểm, chân khí trong người nổi lên đầy dẫy, bèn giơ ngón tay ra thi triển công phu Lục Mạch Thần Kiếm. Mấy tiếng veo véo vang lên, rồi nghe đánh “chát” một cái. Tay phải gã đầu đà bị đứt lìa, bàn tay cùng thanh giới đao đều rớt xuống đất.

Đoàn Dự nhảy vọt tới, ôm ngang hông Vương Ngữ Yên đặt lên lưng cõng chạy, miệng la lớn: “Phải chạy trốn cho khỏi mất mạng.”

Gã đầu đà bị chặt đứt cánh tay phải, đau muốn ngất đi. Nhưng gã vốn đã hung hãn nay lại càng điên tiết, thò tay trái xuống lượm cánh tay phải, gầm lên một tiếng thật to, nhắm Đoàn Dự liệng tới. Bàn tay phải vẫn còn nắm chặt lưỡi giới đao, cả tay lẫn đao bay vèo về phía Đoàn Dự, cực kỳ nguy hiểm. Đoàn Dự lại giơ một ngón tay lên phóng “véo” ra một tiếng, chiêu Thiếu Dương Kiếm bắn đúng vào lưỡi giới đao.

Lưỡi đao bật ra rớt xuống đất, nhưng cánh tay vẫn bay tới đập vào má Đoàn Dự một cái.

Đoàn Dự bị đánh trúng phát này, mắt hoa lên, đầu nhức như búa bổ. Chàng bước loạng choạng mà miệng vẫn la lên: “Thật là lợi hại, cánh tay gãy cũng tát được người.” Chàng chỉ tâm niệm một điều là phải cứu cho được Vương Ngữ Yên ra ngoài, liền thi triển Lăng Ba Vi Bộ vượt khỏi trùng vây.

Mọi người hô hoán xúm lại ngăn cản, nhưng Đoàn Dự né tả tránh hữu, chân bước vòng vèo ra ngoài. Binh khí cùng quyền chưởng của bọn động chúa, đảo chúa nhằm vào người chàng phóng đến tới tấp, nhưng bộ pháp của chàng chẳng khác gì ma quỉ hiện hình, né tránh được hết.

Mấy ngày nay, lúc chàng thức thì nghĩ đến Vương Ngữ Yên, lúc chàng ngủ cũng mơ thấy Vương Ngữ Yên. Đêm đó chàng nói chuyện cùng Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch một lúc trong khách điếm thì mọi người đi ngủ, nhưng chàng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đến nửa đêm, chàng lẻn ra ngoài, đuổi theo hướng bọn Mộ Dung Phục đã đi. May mà sau khi Mộ Dung Phục kịch đấu với Đinh Xuân Thu, hắn phải trọ trong khách điếm để bọn Đặng Bách Xuyên dưỡng thương, nên Đoàn Dự không tốn chút sức nào cũng đuổi theo kịp. Chàng cũng thuê một phòng phía sau, không ra khỏi cửa một bước, chỉ cần cảm thấy mình ở cách Vương Ngữ Yên vài trượng là đã khoan khoái vô cùng. Đến khi bọn Mộ Dung Phục cùng Vương Ngữ Yên lên đường, chàng cũng đi theo, giữ khoảng cách xa xa.

Dọc đường chàng cứ tự trách mình không biết bao nhiêu lần: “Ta cứ theo sau nàng thế này, thật là không nên không phải. Đoàn Dự hỡi Đoàn Dự, ngươi chỉ tự làm khổ mình thôi. Vướng vào lưới tình càng sâu càng khó rút chân ra, thật là uổng cho công phu đọc sách thánh hiền. Ngươi phi ngựa đến bên vực thẳm thì phải biết dừng, ngươi đang ngụp dưới biển sâu thì phải biết hướng quay vào bờ chứ? Ngươi phải dùng Tuệ kiếm để chặt đứt tơ tình, không thì cuộc đời còn gì để sống? Ngươi phải hiểu rằng con người mỹ lệ đến đâu thì cũng là một cái túi da đựng đầy máu mủ tanh hôi, trăm năm sau chỉ còn xương trắng. Sắc là vô thường, phải biết chán ghét mà rời xa, không lạc vào vô thường mới mong được giải thoát.”

Đoàn Dự hiểu rằng nhan sắc của Vương Ngữ Yên cũng là vô thường, nhưng làm sao chán ghét mà rời xa được đây? Nghĩ thì nghĩ vậy, chân vẫn bước nhanh, chàng cứ đi theo xa xa, không hề bị bọn Mộ Dung Phục, Bao Bất Đồng phát giác. Tình hình Vương Ngữ Yên ngồi trên cây, Mộ Dung Phục nghênh địch, chàng đều thấy cả. Đến lúc gã đầu đà toan chặt đầu nàng, Đoàn Dự bèn liều mình xông vào đầu hàng thay cho Mộ Dung Phục. Đối phương ngoan cố không chịu cho chàng đầu hàng, kết quả lại đứt lìa một cánh tay.

Chỉ trong khoảnh khắc, Đoàn Dự đã cõng Vương Ngữ Yên thoát khỏi trùng vây. Chàng sợ có người rượt theo, nên chạy một mạch mấy trăm trượng nữa mới dừng bước rồi thở phào nhẹ nhõm, toan đặt Vương Ngữ Yên xuống. Vương Ngữ Yên đỏ mặt lên nói: “Không, không! Đoàn công tử! Ta bị chúng điểm huyệt không đứng vững được đâu!” Đoàn Dự đỡ lấy vai nàng đáp: “Vâng! Cô nương bị điểm huyệt nào, để tại hạ giải huyệt cho.” Vương Ngữ Yên nói: “Không, không cần! Chỉ qua một giờ ba khắc là huyệt đạo tự nhiên giải khai, công tử bất tất phải giải huyệt cho ta!” Nàng bị điểm vào huyệt Thần Phong ở ngay trên ngực, sờ vào chỗ đó mà giải huyệt thì có điều bất tiện.

Đoàn Dự không hiểu lý do, lại nói: “Chỗ này nguy hiểm, không thể ở lâu được. Để tại hạ giải khai huyệt đạo cho cô nương, rồi sẽ tìm kế thoát thân.” Vương Ngữ Yên đỏ mặt lên nói: “Không được đâu!” Nàng bỗng nghĩ tới bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên đang xung sát giữa trùng vây, lo lắng cho biểu huynh liền bảo: “Đoàn công tử! Biểu huynh ta đang bị bao vây, chúng ta phải tìm cách cứu chàng ra.”

Đoàn Dự chua xót trong lòng, biết Vương Ngữ Yên chỉ nghĩ tới Mộ Dung Phục mà thôi. Chàng cụt hứng than thầm: “Một trường tương tư đành là ảo mộng. Đoàn Dự này quyết ý hoàn thành tâm nguyện của nàng, dù phải chết vì Mộ Dung Phục cũng cam lòng.” Chàng bèn nói: “Được lắm! Cô nương ở đây, để tại hạ xông vào cứu lệnh biểu huynh.”

Vương Ngữ Yên nói: “Không, không được! Công tử không hiểu võ công, làm sao cứu người được?”

Đoàn Dự mỉm cười nói: “Lúc nãy tại hạ xông vào cứu được cô nương ra thì sao?” Vương Ngữ Yên biết Lục Mạch Thần Kiếm của chàng lúc linh nghiệm lúc không, không thể điều khiển như ý được, bèn nói:“Vừa rồi công tử vận khí rất giỏi, là vì… vì lo lắng đến ta. Nhưng công tử đối với biểu huynh ta chưa chắc đã tha thiết được như vậy, e rằng…” Đoàn Dự nói: “Cô nương đừng nghĩ thế. Tại hạ đối với cô nương thế nào thì đối với lệnh biểu huynh cũng vậy.” Vương Ngữ Yên lắc đầu nói: “Như thế thì công tử mạo hiểm quá. Không được đâu!” Đoàn Dự ưỡn ngực ra nói: “Vương cô nương! Chỉ cần cô có lòng tin cậy, tại hạ dù muốn thác cũng không chối từ.” Vương Ngữ Yên đỏ mặt lên khẽ nói: “Công tử tốt với ta như vậy, ta không dám nhận đâu!” Đoàn Dự hỏi lại: “Sao cô nương lại không dám? Cứ dám đi chứ?” Chàng liền quay người, hiên ngang tiến vào trong trận.

Vương Ngữ Yên vội la lên: “Đoàn công tử! Ta không nhúc nhích được, công tử đi rồi không còn ai trông nom. Nếu có người đến ám toán thì ta…” Đoàn Dự quay lại gãi đầu nói: “Cái này… cái này…” Bản ý Vương Ngữ Yên là muốn Đoàn Dự lại cõng mình lên lưng để đi cứu Mộ Dung Phục, nhưng xấu hổ không tiện nói ra. Nàng chỉ mong Đoàn Dự tự hiểu mình, song chàng lại không hiểu, chỉ gãi đầu dậm chân, ra chiều khó nghĩ.

Những tiếng ầm ầm, binh binh, tiếng quát tháo cùng tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng cứ vang đến, Mộ Dung Phục cùng đối phương chiến đấu mỗi lúc một khẩn cấp. Vương Ngữ Yên biết tình hình nguy hiểm, nàng nóng nảy vô cùng, đành thẹn thùng nói: “Đoàn công tử! Phiền công tử cõng ta lên lưng xông vào trận để cứu biểu huynh thì tiện hơn.” Đoàn Dự tỉnh ngộ nói: “Phải lắm! Phải lắm! Thế mà tại hạ ngu muội không nghĩ ra.” Chàng liền cúi xuống, lại đặt Vương Ngữ Yên lên lưng cõng chạy đi.

Lúc nãy Đoàn Dự đã cõng Vương Ngữ Yên, nhưng chàng dồn hết tâm trí vào việc cứu nàng thoát hiểm, không để ý gì khác. Bây giờ chàng cảm thấy người nàng vừa mềm mại vừa ấm áp tựa trên lưng mình, hai tay chàng vòng ra sau ôm lấy chân nàng, tuy cách mấy lần xiêm áo cũng cảm thấy da thịt nàng mịn màng không có gì so sánh được. Bất giác người chàng nóng lên, nhưng tự trách ngay: “Đoàn Dự hỡi Đoàn Dự! Trong lòng ngươi có ý niệm càn rỡ thì thật không bằng cầm thú! Nàng là một vị cô nương băng thanh ngọc khiết cực kỳ tôn quý, chỉ một ý nghĩ bất lương nhỏ xíu cũng là tiết mạn đến nàng rồi. Đáng đánh đòn, thật là đáng đánh đòn” Chàng nghĩ đến đấy liền giơ tay lên tự tát vào mặt mình hai cái cực mạnh, đồng thời tăng gia cước lực chạy vọt đi.

Vương Ngữ Yên ngạc nhiên hỏi: “Đoàn công tử! Công tử làm gì vậy?” Đoàn Dự bản tính thành thật, đối với vị thiên tiên Vương Ngữ Yên lại càng không dám dối trá, liền đáp: “Trong lòng tại hạ phát sinh ý nghĩ lại bất kính đối với cô nương. Thật là hổ thẹn, đáng đánh đòn!” Vương Ngữ Yên hiểu được ý nghĩ của chàng liền thẹn đỏ mặt lên.

Giữa lúc ấy, một đạo sĩ cầm trường kiếm chạy như bay tới quát mắng: “Con mẹ nó! Thằng lỏi này lại vào quấy rối!” Hắn vừa thóa mạ vừa ra chiêu Độc Long Xuất Động đâm tới Đoàn Dự. Chàng bước xéo đi đúng phép Lăng Ba Vi Bộ tránh khỏi. Vương Ngữ Yên khẽ nói: “Hắn sắp ra chiêu thứ hai đâm vào bên trái, công tử hãy bước sang phải phóng chưởng đánh vào huyệt Thiên Tôn hắn.”

Quả nhiên tên đạo sĩ đâm một kiếm không trúng, liền ra chiêu thứ hai “Thanh Khiết Mai Hoa” đâm vào ngực trái Đoàn Dự. Đoàn Dự cứ y theo lời Vương Ngữ Yên, vòng qua bên phải đưa tay vỗ đúng ngay huyệt Thiên Tôn. Đây chính là yếu huyệt của hắn, tuy phát chưởng của Đoàn Dự hời hợt không có bao nhiêu kình lực, nhưng hắn lập tức hộc máu tươi ra, rồi lăn xuống đất.

Tên đạo sĩ vừa ngã xuống thì lại có một hán tử nhảy xổ vào. Vương Ngữ Yên kiến thức bao la, võ công khắp thiên hạ môn nào cũng biết, cứ thì thầm vào tai Đoàn Dự, chỉ điểm cho chàng phương pháp động thủ, đánh gục đại hán này tức khắc. Đoàn Dự thấy thắng địch một cách dễ dàng, Vương Ngữ Yên lại kề tại thủ thỉ, hương lan thoang thoảng xông vào mũi, người ngọc ấm áp tựa trên lưng. Tuy chàng đang phải liều mạng đánh nhau mà vẫn cảm thấy sung sướng vô hạn, thực là bình sinh chưa dám nghĩ tới hạnh phúc thế này.

Đoàn Dự đánh ngã hai người rồi thì chỉ còn cách Mộ Dung Phục không đầy hai trượng. Bất thình lình nghe tiếng gió rít lên, hai bóng xanh vọt tới, hai cây nhuyễn tiên cùng đánh vào Đoàn Dự. Chàng lại bước xéo đi tránh khỏi, bỗng một cây nhuyễn tiên đang lơ lửng trên không chợt quay đầu lại chồm xuống trước mặt nhanh như chớp. Vương Ngữ Yên cùng Đoàn Dự la hoảng: “Trời ơi!” Thì ra đây không phải là binh khí mà là hai con rắn. Đoàn Dự tăng gia cước bộ muốn lướt qua mặt hai người áo xanh, không ngờ chúng thân hình bé nhỏ mà bộ pháp mau lẹ dị thường, cản được chàng luôn mấy lần. Đoàn Dự vội hỏi: “Vương cô nương! Làm thế nào đây?”

Những chiêu thức quyền cước và binh khí các môn phái khắp thiên hạ, rất ít môn Vương Ngữ Yên không biết tới, nhưng rắn cắn người thì không theo chiêu thức võ công gì hết, khó mà biết được chúng sắp mổ vào phía nào. Còn hai tên áo xanh thì nhô lên hụp xuống trông rất vụng về, nhưng lại cực kỳ mau lẹ, hình như chúng chưa hề luyện khinh công, chỉ nhanh nhẹn tự nhiên như các loài dã thú mà thôi.

Đoàn Dự phải né tránh vô cùng vất vả, lúc nào cũng thấy nguy hiểm. Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Loài rắn đớp người dĩ nhiên không theo chiêu số để mình đoán được, phải đánh vào chủ nó.” Nhưng thân pháp của chủ nhân hai con rắn độc này lại rất kỳ dị, cất tay nhấc chân đều chẳng theo quy củ, chiêu thức nào hết, giống như người không biết võ công, Vương Ngữ Yên không tài nào đoán trước họ sắp bước về phía nào hoặc sắp ra chiêu đánh vào đâu. Nàng đã mấy lần bảo Đoàn Dự đánh vào huyệt Kỳ Môn hoặc điểm huyệt Khúc Toàn đối phương, nhưng chúng tự nhiên né tránh cực kỳ linh động, không sao đánh trúng được. Tâm cơ linh mẫn cùng cử động mau lẹ của chúng hoàn toàn là tự nhiên, không theo lề lối gì hết.

Vương Ngữ Yên vừa nghĩ kế phá địch vừa lưu tâm đến chỗ biểu huynh, tai lại nghe đầy tiếng rên la kêu cứu của mấy mươi người bị trúng độc châm. Chất độc trong độc châm của Tang Thổ Công đã đến lúc phát tác, không còn ai đứng vững, đều lăn lộn quằn quại trên mặt đất.

Ô Lão Đại vẫn nắm tay Tang Thổ Công đòi lấy thuốc giải ngay, nhưng thuốc giải lại chôn ở dưới đất gần chỗ Mộ Dung Phục đứng. Ô Lão Đại sợ Mộ Dung Phục như sợ cọp, không dám tiến lại, chỉ la hét thúc giục đồng bọn đánh gấp vào, phải hạ xong Mộ Dung Phục thì mới lấy thuốc giải cứu người được. Nhưng hạ Mộ Dung Phục đâu phải chuyện dễ dàng?

Ô Lão Đại bỗng hô lên ra lệnh. Trong đám người vây quanh Mộ Dung Phục có ba gã lùi ra để cho ba người khác xông vào thay thế. Ba gã sau này đều là cao thủ, có một tên thấp lùn mà thần lực ghê gớm. Gã múa tít hai quả đồng chùy, bình phong rít lên kinh khủng, uy thế mãnh liệt vô cùng. Mộ Dung Phục vung thanh Hương Lộ Đao lên đỡ cặp chùy, chỉ một chiêu đã cảm thấy cánh tay tê nhức. Y không khỏi giật mình kinh hãi, hễ thấy cặp chùy đánh tới liền né tránh chứ không dám công nhiên đón đỡ nữa.

Giữa lúc hai bên đánh nhau loạn xạ, Vương Ngữ Yên đột nhiên hô lớn: “Biểu huynh! Ngân Đặng Vạn Trản, Phi Khâm Đương Phong.” Mộ Dung Phục biết về võ học thì biểu muội hiểu rộng hơn mình nhiều, liền không suy nghĩ gì nữa, tay mặt khoa đao lên ba vòng tròn, đao quang lấp loáng phát ra những chấm hào quang. Có điều thanh Lục Ba Hương Lộ Đao phát ra những điểm sáng xanh, nên chiêu Ngân Đăng Vạn Trản lại biến thành chiêu Lục Đăng Vạn Trản.

Đối phương đều kinh hãi la lên, rồi lùi lại ba bước. Giữa lúc ấy, Mộ Dung Phục phất tay áo lên xuất chiêu Phi Khâm Đương Phong, phát ra một luồng tụ phong cực mạnh vừa lôi vừa kéo. Gã thấp lùn đang xuất chiêu Khai Thiên Tịch Địa, một chùy từ trên bổ xuống, một chùy từ dưới hất lên thật là mãnh liệt. Bỗng một tiếng “choảng” ghê rợn vang lên nghe đến chói tai, hai quả chùy giáng mạnh vào nhau, lửa tóe ra tứ tung. Cú va chạm này mãnh liệt vô cùng, hai cánh tay gã lùn gãy nát, lăn ra đất ngất đi.

Mộ Dung Phục nhân cơ hội này phóng chưởng ra giúp Bao Bất Đồng đẩy lui hai tên cường địch, Bao Bất Đồng vội cúi xuống nhìn Công Dã Càn, thấy sắc mặt đã sạm đen, nếu không chữa ngay thì có khi nguy đến tính mạng.

Tình hình bên Đoàn Dự cũng đã biến chuyển, Vương Ngữ Yên để tâm tới Mộ Dung Phục, chỉ điểm cho y ra chiêu Ngân Đăng Vạn Trản để bức đối phương phải lùi lại, rồi chiêu Phi Khâm Đương Phong, khiến hai cánh tay của gã lùn sử song chùy phải gãy nát. Nhưng một tấm lòng không thể chia đôi, nàng đã chiếu cố cho Mộ Dung Phục, đành để mặc Đoàn Dự cho hai địch nhân công kích. Đoàn Dự nghĩ đến Vương Ngữ Yên đang ngồi trên lưng mình mà trái tim lại đặt hết bên biểu huynh, bất giác tự thương thân, đứng ngẩn ra. Đột nhiên nghe tiếng phì phì, hai con rắn độc đã chồm lên đớp trúng vai trái Đoàn Dự.

Vương Ngữ Yên la lên một tiếng thất thanh rồi gọi: “Đoàn công tử!… Công tử…” Đoàn Dự thở dài đáp: “Bị rắn độc cắn thì cũng đến chết là cùng. Vương cô nương, từ đây về sau…” Vương Ngữ Yên thấy hai con rắn này khoanh xanh khoanh vàng, đầu hình tam giác, rõ ràng là một giống rắn cực độc, sợ đến không biết làm gì nữa.

Bỗng nhiên, hai con rắn ưỡn mình thẳng ra, lắc lư hai cái rồi rơi xuống đất, chết ngay lập tức. Hai gã áo xanh cầm rắn thấy vậy sợ quá, cô li cô lô với nhau mấy câu, rồi nhoáng một cái quay lưng co giò chạy tuốt. Hai gã này vẫn quen nghề nuôi rắn độc, thấy rắn cắn trúng Đoàn Dự mà người vẫn vô sự, rắn lại lăn ra chết, chúng bèn nghĩ chàng là thần rắn hiện hình, bỏ chạy là hơn.

Vương Ngữ Yên không biết Đoàn Dự đã nuốt Mãng Cổ Chu Cáp, cứ hỏi dồn: “Đoàn công tử! Công tử làm sao vậy? Công tử làm sao vậy?” Đoàn Dự đang lúc đau lòng, bỗng nghe Vương Ngữ Yên la gọi ra chiều thân thiết, bao nhiêu hờn giận bay biến hết, tinh thần lại phấn khởi. Vương Ngữ Yên lại hỏi: “Công tử bị hai con rắn độc cắn, thấy trong mình thế nào?” Đoàn Dự đáp: “Không sao cả! Cô nương bất tất phải quan tâm!” Trong lòng chàng còn muốn nói: “Tại hạ được cô nương quan tâm như thế, thì mỗi ngày bị rắn cắn mấy lần lại càng khoan khoái”, nhưng không nói nữa, chỉ rảo bước tiến về phía Mộ Dung Phục.

Bỗng có tiếng người dõng dạc từ trên không vọng xuống: “Mộ Dung công tử cùng liệt vị động chúa đảo chúa! Các vị vốn không thù không oán, sao lại ác đấu làm chi?” Mọi người ngửng đầu nhìn về phía có tiếng nói, thì thấy một đạo nhân râu đen tay cầm phất trần, đứng trên một cành cây mềm mại, cứ dao động lên lên xuống xuống, coi bộ rất ung dung. Dưới ánh đèn lửa, ai cũng nhìn rõ diện mạo đạo nhân này rất tuấn tú, tuổi trạc ngũ tuần. Đạo nhân mỉm cười nói tiếp: “Tính mạng những người trúng độc đều đang nguy cấp, cần phải chữa ngay. Các vị nể lời tại hạ mà tạm dừng tay, nói chuyện phải trái được chăng?”

Mộ Dung Phục thấy đạo nhân này khinh công tuyệt cao thì biết là một tay bản lĩnh không vừa. Y vẫn đang lo lắng về chuyện Công Dã Càn cùng Phong Ba Ác trúng độc, liền nắm lấy cơ hội đáp ngay: “Nếu hòa giải được mối hiểu lầm này thì còn gì hay bằng? Tại hạ xin tuân lời mà ngừng chiến.” Mộ Dung Phục nói xong, giơ tay lên vạch một vòng tròn rồi hoành đao đứng yên. Y cảm thấy bàn tay phải và cánh tay trái ngâm ngẩm đau, nghĩ thầm: “Thần lực gã thấp lùn thật là khủng khiếp, tuy mình hất được song chùy ra mà bây giờ tay vẫn còn tê nhức.”

Tang Thổ Công đang bị Ô Lão Đại nắm giữ, cũng cố ngẩng đầu lên nhìn đạo nhân hỏi: “Tôn tính đại danh các hạ là gì?” Đạo nhân chưa kịp trả lời thì giữa đám đông có người lên tiếng: “Ô Lão Đại! Vị này lai lịch lớn lắm. Y là một… nhân vật… lừng lẫy tiếng tăm… Y là… Giao… Giao… Giao…” Y lặp đi lặp lại ba tiếng “Giao” rồi không nói tiếp được nữa. Người này bị tật nói lắp, lúc nóng ruột càng muốn nói nhanh thì lại càng không nói được.

Ô Lão Đại trong lòng chợt động, sực nhớ tới một người, lớn tiếng hỏi: “Có phải là Giao Vương Bình đạo nhân không?” Gã nói lắp thấy Ô Lão Đại nói giùm mình mấy chữ đang tắc nghẽn, sung sướng quá vội đáp: “Phải… Phải… Phải rồi! Y là Giao… Giao… Giao.” Gã nói đến đây lại tắt tịt. , .

Ô Lão Đại nóng ruột, không đợi gã nói nữa, ngẩng đầu nhìn lên ngọn cây, chắp tay hỏi đạo nhân: “Phải chăng các hạ là Bất Bình đạo trưởng vang danh bốn bể? Tại hạ nghe đại danh đã lâu, nay được gặp mặt thật là hân hạnh!” Lúc này mọi người đã dừng tay ngưng chiến.

Đạo nhân mỉm cười nói: “Không dám, không dám! Trên giang hồ đồn đãi bần đạo đã bỏ mạng rồi, nên tiên sinh chưa tin lắm, có phải thế không?” Đạo nhân dứt lời, nhảy ra khỏi ngọn cây rồi từ từ hạ xuống. Y huy động cây phất trần trong tay quạt xuống một luồng kình khí, phản lực giữ cho thân thể lơ lửng rồi thong thả đáp, tựa như đạp mây cỡi gió. .

Ô Lão Đại cất tiếng tán dương: “Khinh công Tiêu Dao Ngự Phong thật là tuyệt diệu!” Tiếng hoan hô vừa dứt, Bất Bình đạo nhân đã đặt chân xuống đất, nói: “Đôi bên xung đột, bần đạo đứng ngoài nhìn được rõ hơn, chuyện này chỉ do hiểu lầm mà ra. Các vị nể mặt bần đạo mà đổi thù ra bạn được chăng? Trước hết, xin Tang Thổ Công lấy thuốc giải ra để cứu cho những người bị trúng độc châm đã!” Giọng nói của đạo nhân vừa ôn hòa vừa oai nghiêm khiến người nghe khó mà khước từ được. Huống chi mấy chục người của cả hai bên đang quằn quại rên la dưới đất, chỉ mong hai bên ngưng chiến để lấy thuốc cứu chữa.

Ô Lão Đại đặt Tang Thổ Công xuống, nói: “Lão Tang! Lão phải nể mặt Bất Bình đạo trưởng mà thu xếp việc này cho yên đi.” Tang Thổ Công chẳng nói năng gì, chạy vọt đến chỗ Mộ Dung Phục. Hai tay hắn thò xuống đất, moi móc mau lẹ dị thường, nháy mắt đã khoét thành một cái hang, rồi chui xuống lấy lên một vật đen sì, chính là một cái bao vải. Tang Thổ Công mở bao lấy ra một miếng sắt đen, rồi quay lại đặt vào vết thương người bên cạnh để hút những mũi độc châm nhỏ như lông trâu ra. Thì ra miếng sắt đỏ là đá nam châm, trước hết y phải hút độc châm ra rồi mới bôi thuốc giải.

Bất Bình đạo nhân cười nói: “Tang tiên sinh! Người ta thường nói: Giúp người trước, giúp mình sau. Sao tiên sinh không chữa cho bằng hữu của Mộ Dung công tử trước đi?”

Tang Thổ Công “hừ” một tiếng rồi lẩm bẩm: “Ai trước ai sau mà chẳng thế?” Nhưng hắn cũng chữa cho Công Dã Càn cùng Phong Ba Ác trước, rồi mới chữa đến phe mình. Trông bề ngoài hắn thấp lủn thủn, béo tròn béo trục, cứ tưởng là vụng về chậm chạp, song thực ra nhanh nhẹn vô cùng. Mười ngón tay hắn to như quả chuối, rắn chắc như đồng chùy, nhưng lúc cần thì còn mau lẹ khéo léo hơn cả những ngón tay búp măng của các cô gái thêu thùa. Chỉ trong thời gian chừng ăn xong bữa cơm, Tang Thổ Công đã thoa thuốc cho những người bị thương, ai được thoa thuốc cũng hết ngứa ngáy liền. Có mấy người xấu tính, ngoạc mồm ra thóa mạ Tang Thổ Công không tiếc lời. Nhưng ai mắng chửi thế nào, hắn cũng lờ đi coi như không nghe tiếng, cũng chẳng nói năng gì.

Bất Bình đạo nhân mỉm cười nói: “Ô Lão Đại! Ba mươi sáu động chúa cùng bảy mươi hai đảo chúa tụ hội ở đây, phải chăng vì việc lão Thiên Sơn?” Ô Lão Đại sợ đến biến sắc mặt, nhưng vẫn điềm nhiên đáp: “Tại hạ không hiểu Bất Bình đạo trưởng nói gì. Bọn tại hạ mỗi người một nơi, ít khi gặp mặt nhau, nên hôm nay tụ hội ở đây để tỏ tình thân mật, ngoài ra không có ý gì khác. Không hiểu sao Mộ Dung công tử Cô Tô lại tìm đến để xảy ra chuyện đáng tiếc vừa rồi?”

Mộ Dung Phục nói: “Tại hạ chỉ tiện đường đi ngang, không biết là chỗ cao nhân tụ hội, thật là có lỗi, chỉ xin các vị lượng thứ. May được Bất Bình đạo trưởng đến đây thu xếp cho yên chuyện, tại hạ cảm kích vô cùng! Bây giờ tại hạ xin cáo biệt, sau này còn có ngày tái ngộ.” Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Bọn bàng môn tả đạo của ba mươi sáu động cùng bảy mươi hai đảo mà hội họp, tất phải có chuyện trọng đại bí mật, dĩ nhiên họ không muốn người ngoài biết. Bất Bình đạo trưởng vừa nói đến lão Thiên Sơn gì gì đó thì Ô Lão Đại đã vội lảng sáng chuyện khác, ra chiều sợ sệt vô cùng! Nếu mình không rút lui thì đúng là không biết điều, tựa như đi thám thính chuyện riêng của người ta.” Y liền chắp tay vái chào cả bốn phía, rồi quay người đi luôn.

Ô Lão Đại cũng chắp tay đáp lễ nói: “Mộ Dung công tử! Hôm nay Ô Lão Đại được gặp thêm một nhân vật anh hùng, rất lấy làm vinh hạnh. Non xanh trơ đó, nước biếc vẫn đây, còn ngày tái ngộ.” Hiển nhiên hắn không có ý lưu khách.

Bất Bình Đạo Trưởng cất tiếng hỏi: “Ô Lão Đại! Lão có biết Mộ Dung công tử là người thế nào không?” Ô Lão Đại giật mình đáp: “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Nhà Mộ Dung ở Cô Tô tiếng tăm lừng lẫy, trong võ lâm ai mà không biết?” Bất Bình đạo nhân cười nói: “Đúng là như vậy! Một nhân vật như vậy mà mình không liên kết được thì chẳng đáng tiếc sao? Thỉnh cầu được Cô Tô Mộ Dung là chuyện khó, hôm nay ông trời run rủi đưa Mộ Dung công tử tới đây, các vị không cầu khẩn công tử giúp cho thì có khác gì đã vào kho báu mà chịu về tay không?” Ô Lão Đại ngập ngừng: “Cái đó… Cái đó…”, giọng nói đầy vẻ phân vân.

Bất Bình đạo nhân cười ha hả nói: “Tiếng tăm nghĩa hiệp của Mộ Dung công tử lẫy lừng thiên hạ. Các vị suốt đời làm nô lệ cho Linh Thứu Cung ở núi Phiêu Diểu, đã bị mụ Thiên Sơn Đồng Mỗ…”

Bốn chữ “Thiên Sơn Đồng Mỗ” vừa thốt ra, mọi người bất giác “ồ” lên một tiếng. Chỉ vỏn vẹn bốn chữ mà có người giật mình, có người phẫn nộ, có người bi thương, có người nghi ngờ, lại có người sợ quá, run rẩy nổi gai ốc toàn thân.

Mộ Dung Phục cũng thầm kinh hãi: “Thiên Sơn Đồng Mỗ là nhân vật thế nào mà họ phải sợ đến thế?” Y lại nghĩ: “Hôm nay gặp nhiều người, Bất Bình đạo nhân cùng Ô Lão Đại võ công rất khá mà ta hoàn toàn không hiểu lai lịch, Thiên Sơn Đồng Mỗ lại càng bí ẩn khôn lường. Thế mới biết kiến thức của ta còn nhỏ bé lắm. Bốn chữ Mộ Dung Cô Tô lẫy lừng bốn biển, muốn giữ được uy danh này quả không phải chuyện dễ dàng.” Y nghĩ đến thế, lại càng cẩn thận thêm mấy phần.

Vương Ngữ Yên thì lại trầm ngâm tự hỏi: “Thiên Sơn Đồng Mỗ ở cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu ư? Không hiểu đó là môn phái nào, gia số võ công ra sao?”

Ai nói thì Đoàn Dự không nghe, nhưng lời của Vương Ngữ Yên thì lọt hết vào tai chàng không sót một câu nửa chữ. Chàng bèn nhớ lại lúc mình ở Vô Lượng Sơn, đã chứng kiến Thần Nông Bang đến đòi Vô Lượng Cung, phái Vô Lượng Kiếm phải đổi tên thành Vô Lượng Động, vị tỉ tỉ mặc áo xanh có thêu chim thứu màu đen trước ngực đã kêu người đưa thằng lỏi mặt trắng là mình xuống núi, tất cả đều theo lệnh Thiên Sơn Đồng Mỗ. Thắc mắc của Vương Ngữ Yên là thuần túy về võ học, chàng không biết tí gì để giải đáp, chỉ lẩm bẩm: “Thật là lợi hại! Suýt chút nữa là thằng lỏi mặt trắng bị giam đến biến thành thằng già mặt trắng, không cách gì thoát thân.”

Bất Bình đạo trưởng mỉm cười nói tiếp: “Các vị bị Thiên Sơn Đồng Mỗ áp bức hành hạ vừa nhục nhã vừa khổ sở, không còn chút gì sinh thú nữa. Hào kiệt trong thiên hạ nghe nhắc đến mụ là đều căm tức nghiến răng. Được tin các ngươi quyết nổi lên phản kháng, ai mà không muốn giúp sức? Bần đạo là kẻ bất tài còn đến tiếp tay, huống chi Mộ Dung công tử đầy lòng nghĩa hiệp, khi nào lại thõng tay đứng nhìn?

Ô Lão Đại gượng cười hỏi lại: “Không hiểu đạo trưởng nghe tin đồn thất thiệt ở đâu? Thực ra thì Đồng Mỗ lão nhân gia tuy có chút nghiêm khắc với mọi người, nhưng đều vì lòng tốt. Bọn tại hạ cảm ơn đức lão nhân gia còn chưa hết, nói gì đến hai chữ phản kháng?”

Bất Bình đạo nhân cười ha hả nói: “Ô tiên sinh nói vậy, thì hóa ra bần đạo nhiều chuyện mất rồi. Mộ Dung công tử! Chúng ta cùng lên núi Thiên Sơn để bái kiến Đồng Mỗ, nói cho lão nhân gia biết là các bằng hữu ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đều một lòng hiếu thuận, đang tụ hội ở đây để bàn việc đến chúc thọ lão nhân gia.” Lão nói xong, liền quay người như muốn bỏ đi, tay vẫy vẫy Mộ Dung Phục.

Trong đám đông có tiếng la lên: “Ô Lão Đại! Không được cho họ đi, lộ chuyện mất.” Lại có người quát: “Bắt thằng lỏi Mộ Dung lại!”, rồi khí giới lại rút ra loảng xoảng.

Bất Bình đạo nhân cười hỏi: “Các vị định giết người bịt miệng chăng? E rằng không dễ đâu!” Đột nhiên lão hô lớn: “Phù Dung tiên tử! Kiếm thần lão huynh! Ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa âm mưu phản loạn Đồng Mỗ, còn muốn giết ta để bịt miệng.” Thanh âm của Bất Bình đạo nhân truyền đi rất xa, vang vọng cả bốn mặt khe núi.

Dư âm còn chưa dứt, thì trên một đỉnh núi hướng tây có thanh âm vọng lại: “Lão mũi trâu Bất Bình kia! Ngươi đã lỡ tới đó, trốn được thì trốn lẹ đi, mà không trốn được thì chịu chết thôi. Bọn đồ tử đồ tôn của Đồng Mỗ đã vây kín mít rồi, con kiến cũng không chui lọt. Ta đến đây là để báo tin thôi, còn muốn cứu tính mạng ngươi thì khó lắm.” Người nói mấy câu này ở xa đến ngoài ba bốn dặm.

Người này vừa dứt lời thì lại nghe giọng trong trẻo của một nữ nhân ở ngọn núi phía Bắc cất lên: “Lão mũi trâu kia! Ai bảo ngươi nhiều chuyện? Vụ này tuy khó khăn thật, nhưng chắc Đồng Mỗ cũng đối phó được. Bây giờ ta đến Thiên Sơn để bái kiến Đồng Mỗ, xem lão nhân gia nói sao.” Nữ nhân này có lẽ còn xa hơn người nói trước.

Mọi người nghe thấy đều sợ hãi thất sắc. Họ nghĩ rằng: “Hai người này ở xa tới ba bốn dặm, muốn đuổi theo cũng không kịp. Xem ra Bất Bình đạo nhân trước khi nhúng tay vào việc đã bố trí cẩn thận, chỉ gọi một tiếng là có người tiếp ứng ngay. Huống chi nghe thanh âm hai người này đã biết nội công họ thâm hậu vô cùng, đuổi kịp vị tất đã làm gì được.”

Ô Lão Đại là người nhanh trí xoay chiều rất mau, liền cất cao giọng gọi: “Bất Bình đạo trưởng! Kiếm Thần tiên sinh! Phù Dung tiên tử! Nếu ba vị giúp bọn tại hạ giải thoát kiếp nạn này thì ai nấy cảm kích vô cùng. Trước mặt chân nhân không dám nói dối, ba vị đã hiểu nội tình, bọn tại hạ giấu giếm cũng vô ích. Xin mời các vị đến đây bàn bạc kế hoạch được chăng?”

Kiếm Thần đáp:”Chúng ta kính nhi viễn chi là hơn, giả tỉ có gì bất trắc thì còn chạy được. Dấn mình vào chỗ nước đục đó có chi là thú?” Người đàn bà cũng nói:”Đúng thế! Lão mũi trâu kia! Chúng ta xem chừng người sắp bị người ta nghi ngờ mà bằm ra. Chết như thế thật là oan uổng.”

Ô Lão Đại nhăn nhó cười nói: “Hai vị lại nói giỡn rồi. Chỉ vì đối phương ghê gớm quá, bọn tại hạ như chim sợ cây cong, hành sự phải cẩn thận. Bọn tại hạ chẳng phải là không biết điều, được ba vị đem lòng trượng nghĩa giúp đỡ cho, vừa rồi chưa dám nói thực, trong lòng vô cùng áy náy. Xin các vị lượng thứ.”

Mộ Dung Phục đưa mắt nhìn Đặng Bách Xuyên khẽ nói: “Bọn này có mưu đồ lớn lao, rõ ràng không muốn người ngoài tham dự vào. Bất Bình đạo nhân cùng gã Kiếm Thần gì gì đấy, miệng thì nói giúp đỡ, nhưng chắc hẳn cũng vì lợi riêng mà hành động. Chúng mình chẳng nên dấn thân vào vũng nước đục này làm chi.” Đặng Bách Xuyên gật đầu, bĩu môi một cái để tỏ ý nên đi là hơn. Mộ Dung Phục bèn nói với Ô Lão Đại: “Các vị là những người biết nhiều hiểu rộng, lại ứng biến mau lẹ, gặp việc gì cũng đối phó được ngay. Huống chi lại có bọn ba người Bất Bình đạo trưởng trọng nghĩa giúp cho, trên cõi đời này còn ai địch nổi? Thực sự bọn tại hạ có đứng bên cũng chỉ tổ vướng tay các vị, xin cáo từ thôi.”

Ô Lão Đại nói: “Khoan đã! Những việc ở đây đã bị tiết lộ. Vụ này có quan hệ đến tính mạng của ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa cùng tùy tùng hàng mấy trăm người. Mộ Dung công tử! Không phải chúng ta không tin các hạ, nhưng sự tình quá quan hệ, không dám mạo hiểm.” Mộ Dung Phục hiểu ý, hỏi lại: “Phải chăng các vị không muốn tại hạ rời khỏi nơi đây?” Ô Lão Đại đáp: “Không dám!” Bao Bất Đồng nói: “Bọn tại hạ không biết Đồng mỗ mỗ, Đồng bá bá nào hết, bảo đảm không tiết lộ ra chút nào là xong. Cô Tô Mộ Dung Phục là hạng người nào mà không giữ lời đã nói ra? Nếu các vị muốn giữ bọn tại hạ lại, thì chỉ giữ Bao Bất Đồng này là được, chẳng lẽ muốn giữ cả Mộ Dung công tử cùng Đoàn công tử ư?”

Ô Lão Đại biết gã nói thực. Hơn nữa, anh chàng Đoàn công tử kia bộ pháp rất là cổ quái, trên lưng cõng một cô gái mà chạy nhảy tựa như chân không dính đất, chẳng ai ngăn trở được. Hắn nghĩ vậy, liền quay lại nhìn Bất Bình đạo nhân hỏi ý, vẻ mặt ra chiều khó nghĩ.

Bất Bình đạo nhân nói: “Ô Lão Đại! Ngươi đang gặp cường địch ghê gớm, thêm được người nào giúp sức thì hay người đó. Nhà Cô Tô Mộ Dung võ học vượt hẳn người phàm, thi ân không cần báo đáp. Ngươi bất tất phải lo lắng đến chuyện sau này vội, trước mắt cần nhất là giết được kẻ đối đầu. Lần này mà ngươi không giết được mụ là mất hết, tình hình không cứu vãn được nữa. Mộ Dung công tử là một tay viện thủ tuyệt vời, sao ngươi không mở miệng nhờ công tử?”

Ô Lão Đại nghiến răng, quyết định chủ ý, liền chạy đến trước mặt Mộ Dung Phục vái dài một cái rồi nói: “Mộ Dung công tử! Bọn huynh đệ tại hạ ở ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo mấy chục năm nay đã chịu hành hạ khổ sở không còn ra người nữa, lần này liều mạng cố trừ khử lão ma đầu. Xin công tử hào hiệp giúp cho, thì bọn tại hạ không khác gì đang bị treo chân lên trời mà được gỡ xuống, ân đức trời bể vĩnh viễn không bao giờ dám quên.” Vạn bất đắc dĩ mà Ô Lão Đại phải cầu cứu Mộ Dung Phục, chứ bản tâm y không muốn thế, nhưng thanh âm vẫn cực kỳ thành khẩn.

Mộ Dung Phục nói: “Các vị đã có vô số cao thủ, cần chi tại hạ nữa?” Y toan nói thêm mấy câu cự tuyệt, nhưng đột nhiên động tâm nghĩ lại: “Lão Ô Lão Đại nói vĩnh viễn không quên ân đức. Trong ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo quả là nhiều cao thủ, mà công cuộc phục hưng nước Đại Yên của ta đang lo thiếu người. Nếu hôm nay mình giúp họ, sau này họ ra sức giúp mình, thì lực lượng mấy trăm tay cao thủ này thật là hùng hậu.” Nghĩ vậy y liền đổi giọng nói: “Người ta thường nói: Kiến nghĩa bất vi vô dũng giả. Tại hạ nguyện ra sức giúp đỡ chư vị, chỉ sợ…” Ô Lão Đại nghe vậy, lộ vẻ vui mừng đáp: “Hay lắm!”

Đặng Bách Xuyên đưa mắt ra hiệu cho Mộ Dung Phục nên rút lui, vì bọn này chẳng lương thiện gì, giao du với chúng chỉ có hại chứ không có lợi. Nhưng Mộ Dung Phục chỉ nhìn gã gật đầu tỏ ra hiểu ý, rồi lại nói tiếp: “Tại hạ thấy chư vị võ công cao cường lại đầy lòng nghĩa hiệp, trong lòng khâm phục mà muốn kết giao bằng hữu. Bọn ta từ nay phúc họa có nhau, hoạn nạn tương trợ. Thực ra bản lĩnh của các vị thừa sức tru diệt kẻ tàn ác, chẳng cần đến ai giúp sức. Nhưng đã là chỗ bạn hữu, Mộ Dung Phục này xin theo các vị để nghe lệnh.”

Mọi người vỗ tay hoan hô như sấm động. Vừa rồi ai cũng đã chứng kiến thân thủ của y, tiếng tăm Mộ Dung Cô Tô vang dội trong võ lâm thật là danh bất hư truyền. Họ nghe Ô Lão Đại mở miệng cầu viện y, chẳng ai tin Mộ Dung Phục nhận lời, chỉ mong y lập thệ không tiết lộ bí mật đã là tốt rồi. Ngờ đâu y lại ưng thuận ngay, mà nói năng lại cực kỳ lễ phép, những gì “Bọn ta từ nay phúc họa có nhau, hoạn nạn tương trợ”, giống như bằng hữu sinh tử chi giao khiến họ đều vừa ngạc nhiên vừa vui sướng không sao kìm nổi.

Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn cũng lấy làm lạ, nhưng bao giờ họ cũng tuân theo mệnh lệnh Mộ Dung Phục, một khi y đã quyết định điều gì là không ai dị nghị nữa. Cả Bao Bất Đồng chuyên môn cãi lại người ta mà đối với Mộ Dung công tử cũng không dám lè nhè câu cửa miệng “Sai bét, sai bét”. Bọn họ yên chí rằng Mộ Dung công tử nhận lời giúp bọn kia là đã có dụng ý, mọi người chưa hiểu mà thôi.

Vương Ngữ Yên nghe biểu huynh nàng chịu giúp bọn kia, hiển nhiên địch hóa ra bạn, bèn quay lại nói với Đoàn Dự: “Đoàn công tử! Bọn họ không đánh nhau nữa. Công tử để ta xuống thôi.” Đoàn Dự đáp: “Vâng vâng!…” rồi co chân đặt nàng xuống. Vương Ngữ Yên nét mặt ửng hồng khẽ nói: “Đa tạ công tử!” Đoàn Dự thở dài đọc khẽ: “Hỡi ôi! Trời đất lâu dài còn lúc hết, Mối hận miên man vô hạn kỳ.” Vương Ngữ Yên hỏi: “Công tử nói gì vậy? Ngâm thơ phải không?”

Đoàn Dự giật mình như người đang mơ chợt tỉnh. Lúc nãy lòng chàng miên man với bao ý nghĩ, tưởng tượng đến lúc mình đặt Vương Ngữ Yên xuống, nàng sẽ đi theo Mộ Dung Phục đến tận chân trời góc biển, không còn được gặp nữa. Còn mình phiêu bạt giang hồ thêm mấy chục năm, suốt đời u uất cho đến ngày ôm hận mà chết. Vừa rồi chàng buột miệng đọc “Trời đất lâu dài còn lúc hết, Mối hận miên man vô hạn kỳ” cũng là vì thế. Chàng nghe Vương Ngữ Yên hỏi, lúng túng đáp: “Tại hạ… Không… không… Tại hạ đang nghĩ vẩn vơ thôi.” Vương Ngữ Yên hiểu ngay hàm ý hai câu thơ này, mặt đỏ bừng lên, muốn đi ngay đến chỗ Mộ Dung Phục, chỉ vì huyệt đạo chưa giải nên không cất bước được.

Bỗng nghe Bất Bình đạo nhân lên tiếng: “Ta có lời chúc mừng các ngươi! Mộ Dung công tử đã chịu ra tay giúp đỡ thì việc lớn có thể xong được. Chưa nói tới Mộ Dung công tử vô địch thiên hạ, ngay thủ hạ y là Đoàn tướng công đây cũng là cao nhân ít người bì kịp.” Đạo trưởng thấy Đoàn Dự cõng Vương Ngữ Yên, vẻ mặt rất là cung kính thì tưởng chàng cũng là thuộc hạ Mộ Dung Phục như bọn Đặng Bách Xuyên.

Mộ Dung Phục vội nói: “Đoàn huynh đây là dòng dõi cao môn lệnh tộc nước Đại Lý, tại hạ vẫn phải kính phục.” Rồi y gọi: “Đoàn huynh! Lại đây cùng ra mắt mấy vị bằng hữu.” Đoàn Dự đứng sau lưng Vương Ngữ Yên, mũi ngửi hương thơm ngào ngạt, ghé mắt trộm nhìn người ngọc. Tuy chàng không dám nhìn thẳng mặt Vương Ngữ Yên, nhưng được nhìn bàn tay ngà ngọc của nàng cũng lấy làm mãn nguyện lắm rồi. Mộ Dung Phục gọi chàng mà chàng tựa như không nghe thấy.

Y lại gọi lần nữa: “Đoàn huynh! Xin quá bộ lại đây hội kiến cùng mấy vị bằng hữu.” Hiện giờ Mộ Dung Phục đang muốn cầu cạnh các vị anh hùng trên giang hồ, nói chuyện với Đoàn Dự cũng không kiêu ngạo như trước. Ngờ đâu tâm thần Đoàn Dự để hết vào mười ngón tay búp măng của Vương Ngữ Yên, chẳng còn nghe ai nói năng gì nữa. Vương Ngữ Yên phải lên tiếng nhắc: “Đoàn công tử! Biểu huynh ta đang gọi công tử!” Đoàn Dự như người đang mơ chợt tỉnh, vội đáp: “Vâng vâng! Y gọi tại hạ làm chi?” Vương Ngữ Yên nói: “Biểu huynh ta mời công tử lại yết kiến mấy vị bằng hữu.” Đoàn Dự thực tình không muốn rời nàng, bèn hỏi lại: “Cô nương có đi không?” Vương Ngữ Yên đáp: “Y gọi công tử chứ không gọi ta.” Đoàn Dự nói: “Cô nương không đi thì tại hạ cũng không đi.”

Bất Bình đạo nhân là một tay cao thủ bàng môn tả đạo, trước nay vốn tính kiêu ngạo, chẳng coi ai ra gì. Tuy lão thấy bộ pháp Đoàn Dự kỳ dị nhưng vẫn coi chàng là một nhân vật tầm thường, chẳng có chi đáng để ý. Bây giờ lão nghe chàng cùng Vương Ngữ Yên đối đáp với nhau, tưởng chàng khinh người không muốn hội kiến. Bất Bình đạo nhân là người lòng dạ hiểm sâu, tuy trong lòng căm hận mà ngoài mặt vẫn thản nhiên.

Vương Ngữ Yên thấy ai nấy đều nhìn chòng chọc vào mình cùng Đoàn Dự, thì không khỏi bối rối. Nàng còn sợ biểu huynh hiểu lầm, liền cất tiếng gọi: “Biểu huynh! Tiểu muội bị người ta điểm huyệt, biểu huynh lại giúp tiểu muội.”

Mộ Dung Phục không muốn lộ thái độ nhi nữ thường tình trước mắt mọi người, liền bảo Đặng Bách Xuyên: “Đặng đại ca! Đại ca lại giúp Vương cô nương đi!” Rồi lại quay sang gọi Đoàn Dự: “Đoàn huynh! Mời Đoàn huynh qua bên này!”

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự vẫn đứng trơ ra đấy, liền giục: “Biểu huynh ta mời công tử qua bên kia. Công tử sang đi!” Đoàn Dự thấy Vương Ngữ Yên gọi Mộ Dung Phục sang chiếu cố cho nàng, coi mình như người ngoài, thì trong lòng chua xót vô cùng. Chàng thẫn thờ bước đến chỗ Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục nói: “Đoàn huynh! Tại hạ đưa Đoàn huynh đi ra mắt liệt vị cao nhân. Vị này là Bất Bình đạo trưởng, vị này là Ô tiên sinh, vị này là Tang động chúa.”

Đoàn Dự chỉ dạ dạ mấy tiếng cho xuôi chuyện. Trong lòng chàng còn mải nghĩ: “Rõ ràng mình đứng ngay bên cạnh, sao nàng không bảo mình giải huyệt mà phải gọi biểu huynh? Thế là vừa rồi nàng gọi mình cõng, cũng chỉ là do nguy cấp nhất thời mà thôi. Giả tỉ biểu huynh chạy lại cõng nàng được, quyết nàng chẳng chịu để cho mình đụng đến. Nàng mà được nằm phục trên lưng biểu huynh, chắc là trong lòng tươi như hoa nở. Thậm chí bọn Đặng Bách Xuyên, Bao Bất Đồng… thuộc hạ của biểu huynh cũng được nàng coi trọng hơn mình. Mình với nàng đã không thân thích lại không quen biết, chỉ là chỗ bèo nước gặp nhau, thì khi nào nàng còn để tâm đến mình? Nàng cho ta liếc trộm mấy cái, hoặc nàng hạ cố đảo mắt lướt qua cái thân thấp hèn của ta một lượt đã là phúc lắm rồi. Nếu ta đòi hỏi gì thêm, e rằng mấy cái phúc nho nhỏ này cũng bị tước mất. Thôi, nàng không cần ta nâng đỡ nữa rồi.”

Bất Bình đạo nhân và Ô Lão Đại thấy cặp mắt lờ đờ của Đoàn Dự nhìn ra quãng không, đi hội kiến với bọn mình mà chàng hờ hững chẳng để ý gì đến ai, cặp chân mày lại còn nhăn tít đầy vẻ âu sầu, rõ ràng xã giao miễn cưỡng. Bất Bình đạo nhân cười ha hả reo lên: “Thật là hân hạnh! Thật là hân hạnh!” Rồi lão đưa tay ra nắm lấy tay mặt Đoàn Dự. Ô Lão Đại hiểu ý Bất Bình đạo nhân, cũng nắm lấy tay trái chàng, lại còn bỉ ổi hơn Bất Bình đạo nhân. Tuy dụng ý của hai người giống nhau là muốn Đoàn Dự phải đau đớn rên la, nhưng Bất Bình đạo nhân không để lộ ra ngoài mặt, còn Ô Lão Đại thì đầy vẻ ác ý, ai cũng nhìn thấy.

Hai người nắm tay Đoàn Dự rồi vận công lực xiết chặt lại. Bỗng nhiên Bất Bình đạo nhân cảm thấy chân khí trong người cuồn cuộn tiết ra. Lão cả kinh, vội giật tay ra, nhưng hiện nay nội lực Đoàn Dự đã rất thâm hậu, cố tay chàng hút chặt lấy bàn tay Bất Bình đạo nhân, lão không sao giật ra được. Một khi Bắc Minh thần công đã phát động thì nó hút nội lực của đối phương mỗi lúc một nhanh. Còn Ô Lão Đại thì quen nghề dùng độc, hắn nắm cổ tay Đoàn Dự để vận công phu độc chưởng, thúc đẩy chất độc ở bàn tay mình truyền sang Đoàn Dự. Bản tâm hắn không muốn giết chàng, chỉ muốn chàng tê nhức ngứa ngáy không chịu nổi, đợi chàng mở miệng van lơn rồi hắn sẽ cho thuốc giải độc, để ra oai cho ai nấy biết rằng chư tiên ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đều là nhân vật phi thường, ai đã gặp thì chỉ có đường xuống ngựa đầu hàng. Ngờ đâu Đoàn Dự từ khi nuốt chu cáp rồi thì bất luận chất độc gì cũng không ngấm vào người chàng được nữa. Ô Lão Đại thấy độc chưởng mình không làm gì được Đoàn Dự, mà chân khí trong người lại bị hút đi cuồn cuộn. Lão sợ hãi la lên: “Ối chao! Ngươi dùng Hóa Công Đại Pháp rồi!”

Đoàn Dự trong lòng trống rỗng chẳng biết gì, cứ than thân trách phận: “Chẳng bao giờ nàng muốn mình nâng đỡ nữa rồi. Trong cõi trời đất này ta còn sinh thú gì nữa đâu? Thôi, ta thà về Đại Lý, từ đây quyết không nhìn mặt nàng nữa. Hỡi ôi! Ta về chùa Thiên Long xuất gia đầu Phật, quy y dưới tòa Khô Vinh đại sư… Từ đây quán thân bất tịnh, rửa sạch lục căn, không nhiễm bụi trần…”

Mộ Dung Phục không hiểu xảy ra chuyện gì, y thấy Bất Bình đạo nhân cùng Ô Lão Đại bị nguy khốn chỉ cho là Đoàn Dự vận nội lực để phản kích. Y vội dùng thủ pháp mau lẹ phi thường, vận động chân lực để chặn đứng hấp lực của Bắc Minh thần công rồi vừa kéo Bất Bình đạo trưởng cùng Ô Lão Đại ra, vừa la lên: “Đoàn huynh! Xin hạ thủ lưu tình.”

Đoàn Dự giật mình trở về thực tại, liền thi triển công phu của bá phụ Đoàn Chính Minh truyền cho để thu Bắc Minh thần công lại. Ô Lão Đại cố sức giật được tay ra, lạng người về phía sau, loạng choạng mấy bước mới đứng lại được. Hắn thẹn đỏ mặt, vừa kinh hãi, vừa tức giận mà không biết làm thế nào, vẫn la lớn: “Hóa Công Đại Pháp! Hóa Công Đại Pháp!” Bất Bình đạo nhân thì kiến thức rộng hơn, biết nội lực của Đoàn Dự với Hóa Công Đại Pháp có chỗ khác nhau, chỉ lắc đầu chứ không nói gì.

Đoàn Dự tủm tỉm cười nói: “Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu là hạng đê hèn bỉ ổi, võ công của hắn so với ta thế nào được? Ngươi chẳng khác gì ếch nằm đáy giếng thấy trời bằng vung, không hiểu gì hết… Ha ha!” Chàng còn muốn chế giễu Ô Lão Đại mấy câu nữa, nhưng sực nhớ chuyện Vương Ngữ Yên coi mình như khách qua đường, bất giác lại thở dài sườn sượt.

Mộ Dung Phục nói với Bất Bình đạo trưởng cùng Ô Lão Đại: “Đoàn huynh đây là dòng dõi chính thống họ Đoàn nước Đại Lý. Tuyệt kỹ Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của nhà này thiên hạ vô song, Tinh Tú Lão Quái bì thế nào được?”

Y nói tới đây bỗng thấy tay mình mỗi lúc một sưng to lên mà không phải đau vì bị song chùy của gã lùn chấn động, trong lòng không khỏi kinh nghi. Y giơ tay lên coi thấy lưng bàn tay ẩn hiện sắc xanh, đồng thời ngửi thấy mùi tanh hôi khó chịu, chợt tỉnh ngộ ra: “Phải rồi! Tay mình bị chất độc trên Lục Ba Hương Lộ Đao thấm vào da thịt.” Y vội xoay thanh đao lại cho sống đao hướng ra ngoài, còn lưỡi đao hướng vào mình, rồi nói với Ô Lão Đại: “Ô tiên sinh! Tại hạ xin hoàn lại binh khí, xin tiên sinh tha lỗi cho!”

Ô Lão Đại giơ tay ra mà không thấy Mộ Dung Phục xoay chuôi dao về phía mình, không biết làm thế nào để đón lấy, liền cười cười nói: “Xin lỗi các hạ, lưỡi đao này có chỗ cổ quái.” Hắn vừa nói vừa móc lấy một cái bình nhỏ, mở nắp ra dốc một chút phấn vào bàn tay rồi nắm lấy lưng bàn tay Mộ Dung Phục. Chỉ trong khoảnh khắc, thuốc ngấm vào da thịt, Mộ Dung Phục cảm thấy cánh tay mát rượi. Y biết là thuốc giải hiệu nghiệm, liền tủm tỉm cười, quăng thanh quỷ đầu đao sang trả cho Ô Lão Đại.

Ô Lão Đại đón lấy dao rồi quay sang nhìn Đoàn Dự hỏi: “Đoàn huynh đối với chúng ta là bạn hay là thù? Nếu là bạn thì phải một lòng một dạ thành thực với nhau mới phải. Nếu là thù thì bất luận võ công cao đến đâu, chúng ta cũng quyết một trận tử chiến.” Hắn nói xong, giương mắt lên nhìn Đoàn Dự, vẻ mặt khẩn trương.

Đoàn Dự chẳng để ý gì đến thái độ của Ô Lão Đại, mặt vẫn buồn rười rượi. Chàng cúi đầu xuống nói: “Lòng ta phiền muộn đến cực điểm, chẳng còn tâm trí đâu mà can thiệp vào việc người khác. Ta không phải là bạn mà cũng chẳng là thù với các ngươi, công việc rắc rối của các ngươi ta chẳng bận tâm đến làm chi. Hỡi ôi! Ta chỉ là một người đau khổ nhất thiên hạ, cổ kim chưa từng có. Nghĩ trời đất rộng dài miên viễn, một mình ta giọt lệ sụt sùi. Ta chỉ biết ta đang cảm thấy gì, còn ta muốn gì ta cũng không biết nữa. Những cuộc thắng thua trên chốn giang hồ chỉ nhỏ nhoi như con sâu cái kiến, có đáng chi mà ta phải bận lòng?”

Bất Bình đạo trưởng thấy Đoàn Dự dở điên dở khùng, lảm nhảm luôn miệng những gì không rõ, mắt cứ chốc chốc liếc trộm Vương Ngữ Yên. Lão đoán tâm sự chàng đã chắc bảy tám phần, liền quay lại nói với Vương Ngữ Yên: “Vương cô nương! Lệnh biểu huynh là Mộ Dung công tử đầy lòng nghĩa hiệp, đã nhận lời giúp chúng ta cử sự, bần đạo mong rằng cô nương cũng tham gia.” Vương Ngữ Yên đáp ngay: “Dĩ nhiên là thế. Biểu huynh tại hạ đã nhận lời thì tiểu nữ cũng theo sau đạo trưởng để nghe sai bảo.” Bất Bình đạo nhân tủm tỉm cười nói: “Bần đạo đâu dám thế? Cô nương dạy quá lời.” Lão lại quay sang nói với Đoàn Dự: “Mộ Dung công tử đi cùng đường với bọn bần đạo, Vương cô nương cũng đồng ý theo luôn. Nếu Đoàn công tử chịu tham gia thì bọn bần đạo cảm kích vô cùng, còn nếu công tử không lưu tâm đến chuyện này thì cứ tùy tiện ra đi.” Lão vừa nói vừa đưa tay ra hiệu tiễn khách.

Ô Lão Đại ngập ngừng: “Chuyện này… chuyện này…” Hắn thẳng như ruột ngựa, không hiểu ý tứ thâm trầm của Bất Bình đạo nhân. Hắn e rằng Đoàn Dự thấy lão đuổi khách mà bỏ đi, thì bí mật này sẽ bị tiết lộ, lăm le cây quỷ đầu đao toan ngăn trở, đâu có biết rằng, Vương Ngữ Yên đã ở lại thì có đuổi Đoàn Dự cũng không đi.

Đoàn Dự chỉ di di chân trên mặt đất, đáp lời Bất Bình đạo trưởng: “Đạo trưởng bảo ta đi đâu bây giờ? Trời đất bao la bát ngát mà Đoàn Dự này không có chỗ dung thân. Ta… ta không biết đi đâu nữa.”

Bất Bình đạo trưởng mỉm cười nói: “Đã thế thì Đoàn công tử cứ đi theo bọn ta, lúc lâm sự thì công tử cứ việc đứng nhìn cũng được, chẳng cần hỗ trợ làm gì.”

Bất Bình đạo nhân thấy Ô Lão Đại vẫn có ý nghĩ ngờ, thì đưa mắt ra hiệu rồi nói: “Ô Lão Đại! Ngươi đừng cẩn thận quá! Lại đây! Ba mươi sáu vị động chúa, bảy mươi hai vị đảo chúa thì bần đạo mới nghe đại danh đến quá nửa, chưa được gặp mặt ai. Từ nay chúng ta đã chung một kẻ thù, ngươi nên dẫn Mộ Dung công tử, Đoàn công tử cùng bần đạo đi yết kiến mọi người.”

Ô Lão Đại đáp: “Đương nhiên phải thế!” Rồi hắn gọi tên họ từng người để giới thiệu. Bọn này mỗi người hùng cứ một phương, chưa biết mặt nhau đến quá nửa. Lúc Ô Lão Đại dẫn bọn Mộ Dung Phục đi giới thiệu, chốc chốc lại có người lên tiếng: “Té ra y là động chúa động này.” “Đảo chúa đảo này oai danh lừng lẫy, hôm nay mới được gặp mặt.” Mộ Dung Phục tự hỏi: “Bọn này đã cùng lo đại sự mà sao lại không quen biết nhau, xem chừng bây giờ mới gặp nhau lần đầu.”

Tổng số có một trăm lẻ tám tay cao thủ, lúc hỗn chiến bị Mộ Dung Phục đánh chết bốn người. Bọn thuộc hạ bốn người này nhìn Mộ Dung Phục đầy vẻ căm hờn, oán thù lộ ra ngoài mặt. Mộ Dung Phục dõng dạc nói: “Tại hạ lỡ tay gia hại mấy vị bằng hữu, trong lòng hối hận, từ đây xin hết sức chuộc lại lỗi lầm. Lúc này chúng ta đang gặp đại địch, vị nào không rộng lượng tha thứ thì hãy tạm gác lại mối thù, chờ khi nào xong việc lớn tại hạ sẽ mời đến Yến Tử Ổ ở Cô Tô để giải quyết.”

Ô Lão Đại nói: “Hay lắm! Mộ Dung công tử đã nhanh nhẹn lại mau mồm miệng. Các bằng hữu ở đây nên bỏ hết oán thù để chống đại địch trước mắt. Nếu vị nào thiển cận không nghĩ tới mối thù chung, lại nhân cơ hội để báo tư thù, thì đó là hạng người thế nào?” Quần hào đều lớn tiếng nói: “Đó là con người làm hại đến toàn thể, chúng ta phải thanh toán họ trước.” “Giả tỉ bọn mình không trừ được Thiên Sơn Đồng Mỗ thì tính mệnh cũng chẳng còn, nói chi đến chuyện tư thù tư oán.” Có người lại nói: “Ổ gà đã lộn nhào thì chẳng cái trứng nào toàn vẹn. Ô Lão Đại cùng Mộ Dung công tử cứ yên lòng, không ai ngu xuẩn đến thế đâu!” Mộ Dung Phục nói: “Vậy thì hay lắm, tại hạ xin có lời tạ tội. Vị nào đối với tại hạ còn có mối hiềm khích, xin cứ nói ra cho biết.”

Bất Bình đạo nhân nói: “Ô Lão Đại! Chúng ta đã cùng nhau tham dự việc lớn, cũng như người cùng đi chung một thuyền, phải che chở cho nhau. Thiên Sơn Đồng Mỗ có gì ghê gớm, ngươi nói cho mọi người nghe. Bần đạo phải biết trước mà phòng bị, để khỏi đột ngột mất mạng một cách vô ích.”

Ô Lão Đại nói: “Các vị động chúa đảo chúa đã muốn tại hạ tạm thời chủ trương kế hoạch, nhưng Ô mỗ tài sơ trí thiển, không đương nổi trọng trách. Nay được các vị Mộ Dung Công tử, Bất Bình đạo trưởng, Kiếm Thần tiên sinh, Phù Dung tiên tử cùng giúp đỡ, trách nhiệm của tại hạ mới nhẹ đi được nhiều.”

Trong đám đông có tiếng người nói: “Thôi đừng nói dài dòng rắc rối.” Có người nóng nảy thóa mạ: “Con mẹ nó! Bọn mình ruột nóng như lửa đốt, tính mạng treo đầu sợi tóc mà hắn còn rề rà dây cà dây muống. Bọn ta có đến đây để nghe kể chuyện cổ tích đâu?”

Ô Lão Đại cười nói: “Hồng huynh đệ cứ mở miệng là nói văng mạng.” Rồi hắn ra lệnh: “Khâm đảo chúa đảo Hải Mã! Phiền đảo chúa ra giữ mặt đông nam, nếu có địch nhân đến thám thính thì phát tín hiệu cho anh em. Hoắc động chúa động Tử Nham: Phiền động chúa coi giữ mặt chính tây…” Ô Lão Đại phái tám tay cao thủ ra trấn giữ tám phương vị. Tám người này đều tuân lệnh, dẫn thuộc hạ chia nhau canh giữ.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Tám vị động chúa và đảo chúa này đều là những nhân vật vừa hung hãn vừa kiêu ngạo, thế mà tuân theo hiệu lệnh của Ô Lão Đại một cách mau lẹ. Xem thế thì đủ biết kẻ đối đầu ghê gớm, khiến cho bọn họ khiếp sợ đến cùng cực. Mình đã ưng thuận giúp bọn họ vụ này, chắc là nguy hiểm lắm, hạ thủ phải tàn độc dứt khoát mới được.”

Lão Đại đợi tám vị đảo chúa động chúa đi xa xa rồi mới nói: “Mời các vị ngồi xuống mà nghe tại hạ thuật lại những nỗi thống khổ của chúng ta.”

Bao Bất Đồng cười khẩy: “Các vị giết người, đốt nhà, hạ độc, cướp bóc, không chừng còn nhiều hơn thiên hạ ăn cơm. Vị nào cũng hung tàn độc ác, chắc đã làm không biết bao nhiêu người đau khổ, thì còn kêu khổ sở cái gì? Hai chữ thống khổ từ miệng lão huynh nói ra thì nghe không thể xuôi được.” Mộ Dung Phục nói: “Bao tam ca! Tam ca cứ nghe động chúa thuật chuyện là hơn, đừng xen vào làm mất thì giờ!” Bao Bất Đồng ấm ức đáp: “Tại hạ thấy y nói không hợp lý, không chịu được nên có mấy lời nói thẳng mà thôi.” Gã nói thì nói vậy nhưng Mộ Dung Phục đã ngăn cản, nên cũng không nói nhiều nữa.

Ô Lão Đại đau khổ cười đáp: “Bao huynh nói không sai đâu? Ô mỗ tuy bản lĩnh tầm thường nhưng tính khí lại quật cường, chỉ có mình áp bức người chứ chẳng để ai áp bức mình. Ngờ đâu, hỡi ôi!…”

Lão Đại vừa than một tiếng “Hỡi ôi” thì bên cạnh cũng có tiếng người than “Hỡi ôi!”, nghe vừa thê lương vừa vang dội hơn nhiều. Mọi người quay lại thì thấy Đoàn Dự hai tay chắp sau lưng, ngửng mặt lên trời ngâm thơ thưởng nguyệt: “Mặt trăng trong sáng, Người đẹp đoan trang, Mà ta sầu não, Không thể không phiền”. Đây là bài Nguyệt Xuất trong Kinh Thi, chung quanh hầu hết là những tay võ biền vô học thì làm sao hiểu được? Mọi người bị chàng cắt đứt câu chuyện, đều trợn mắt lên nhìn đầy vẻ căm tức.

Vương Ngữ Yên hiểu ý, nhưng chỉ sợ biểu huynh phiền lòng, liền đưa mắt liếc trộm Mộ Dung Phục. Nàng thấy y chỉ chăm chú nhìn Ô Lão Đại, chẳng để ý gì đến Đoàn Dự ngâm thơ, mới thấy yên lòng.

Ô Lão Đại lại kể tiếp: “Mộ Dung công tử cùng các vị Bất Bình đạo trưởng lúc này đã là người một nhà, ta có nói ra cũng không sợ các vị chê cười. Bọn đảo chúa động chúa chúng ta tiêu dao nơi hải ngoại, ai cũng tưởng là tự do thoải mái lắm. Nhưng thực ra ai cũng bị mụ Thiên Sơn Đồng Mỗ quản thúc, nói thẳng ra là nô lệ của mụ. Năm nào cũng có một hai lần mụ phái người đến trách mắng vuốt mặt không kịp, chẳng khác gì mắng chó mắng mèo, người nhẫn nại đến đâu cũng không chịu nổi. Chắc là Bao huynh tưởng chúng ta bị mụ thóa mạ thì phải căm giận lắm, nhưng không phải đâu. Mụ phái người đến mắng chửi càng thậm tệ bao nhiêu thì chúng ta càng lấy làm sung sướng bấy nhiêu…”

Bao Bất Đồng không nhịn nổi liền cắt lời: “Kỳ thật! Sao trong thiên hạ lại có hạng người hèn nhát đến thế, bị mắng chửi nhục nhã mà lại lấy làm sung sướng ư?”

Ô Lão Đại nói: “Bao huynh chưa hiểu. Động nào đảo nào mà phúc đức được mụ phái người đến mắng chửi cho một chặp, coi như qua khỏi một năm tai nạn, đều mở yến tiệc mấy ngày để mừng được bình yên. Hỡi ôi! Làm con người mà phải chịu nhục nhã đến thế thì quả là hèn mạt thật! Giả tỉ sứ giả của Đồng Mỗ phái đến mà không chửi chúng ta là đồ mất dạy, đồ khốn kiếp, hoặc đào bới đến tổ tiên mười tám đời ra mà thóa mạ, thì còn khổ sở hơn nữa. Bao huynh nên biết rằng nếu mụ không phái người đến chửi mắng thì cũng có nghĩa là sẽ phái người đến đánh đập. Ai bị đánh ba chục côn lớn mà may mắn không gãy cái xương nào thì cũng bày tiệc ăn mừng”

Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác đưa mắt nhìn nhau, cùng ráng nhịn để không cười rộ lên. Đã bị đánh đập đến mấy chục côn mà còn mở tiệc ăn mừng, thật là chuyện ly kỳ cổ kim chưa ai nói đến. Thế nhưng Ô Lão Đại nói bằng một giọng rất thê lương, người chung quanh đều nghiến răng căm tức, dường như đó là chuyện thực.

Đoàn Dự nhìn Vương Ngữ Yên, thấy nàng chăm chú nghe Ô Lão Đại thuật chuyện mà nét mặt lộ vẻ sợ hãi, bất giác chàng cũng để tai nghe hắn nói gì.

Chàng vừa nghe mấy câu đã không nhịn được, vỗ đùi hỏi: “Có lý nào thế được? Có lý nào thế được? Mụ Thiên Sơn Đồng Mỗ này là thần tiên hay là yêu ma quỷ quái? Mụ càn rỡ đến thế thì ra khinh người quá đáng ư?”

Lão Đại nói: “Đoàn công tử nói phải lắm! Mụ Đồng Mỗ chẳng những khinh khi chúng ta, mà còn ngược đãi không bằng chó lợn. Mụ không chỉ đánh bằng roi vọt, lại còn đóng đinh vào lưng chúng ta. Tư Mã đảo chúa! Xin đảo chúa cho mấy vị bằng hữu coi chỗ vết thương bị đánh bằng mãng tiên.”

Một lão già gầy như que củi lên tiếng: “Thật là hổ thẹn!”, rồi cởi áo ra, trên lưng có năm lằn ngang sáu lằn dọc sâu hoắm, tựa hồ bên trong vẫn còn rỉ máu, ai trông thấy cũng phải ghê rợn, hiểu rằng lúc lão chịu đòn chắc phải đau đớn đến cùng cực. Một đại hán mặt đen lớn tiếng nói: “Thế đã thấm vào đâu. Xin các vị coi lưng tại hạ bị đóng đinh.” Hắn vừa nói vừa cởi áo ra, thấy ba cây đinh sắt to tưởng dài đến bảy tấc đóng vào lưng hắn. Đầu đinh đã rỉ ra, chứng tỏ hắn bị cực hình đã lâu rồi, không hiểu sao không nghĩ cách nhổ đinh ra. Lại thấy một nhà sư lên tiếng: “Thảm hình của thí chủ có lẽ chưa bằng tiểu tăng.” Nhà sư nói xong vén vạt áo tăng bào lên, mọi người nhìn thấy trên hông lão có một sợi dây sắt xỏ qua lỗ xương tỳ bà, cột thông lên đến cổ tay. Chỉ cần cổ tay nhà sư khẽ động đậy một chút là đã chạm đến xương tỳ bà, đau thấu ông bà ông vải!

Đoàn Dự kêu lên: “Hỏng bét, hỏng bét! Sao thiên hạ lại có hạng người độc ác ghê gớm đến thế? Ô Lão Đại! Đoàn Dự này quyết tâm ra sức, chúng ta đồng tâm hiệp lực trừ cái họa lớn này cho võ lâm.”

Ô Lão Đại nói: “Đa tạ Đoàn công tử có lòng trượng nghĩa giúp đỡ.” Hắn lại quay sang nói với Mộ Dung Phục: “Những người tụ hội ở đây không một ai là chưa bị mụ Đồng Mỗ áp bức hành hạ. Bọn tại hạ gọi đây là Vạn Tiên đại hội chẳng qua là tự dát vàng lên mặt, phải gọi là Bách Quỉ đại hội mới dành chính ngôn thuận. Chúng ta chỉ như cô hồn dã quỉ chịu tội dưới A Tì địa ngục, ai cũng sợ thủ đoạn ghê gớm của mụ, nên đành nuốt giận nhẫn nại cho qua ngày tháng. Ông trời có mắt, lão tặc bà tàn ác một đời, ắt phải có ngày đền tội.”

Mộ Dung Phục bèn hỏi: “Các vị bị Thiên Sơn Đồng Mỗ áp chế mà chưa phản kháng, phải chăng võ công mụ cao cường tuyệt đỉnh, các vị động thủ với mụ lần nào cũng thất bại?” Ô Lão Đại đáp: “Võ công mụ ác tặc này dĩ nhiên là lợi hại phi thường. Có điều bản lĩnh mụ cao thâm đến mức nào thì không ai hiểu được.” Mộ Dung Phục hỏi: “Cao thâm khôn lường ư?” Ô Lão Đại gật đầu đáp: “Cao thâm khôn lường.” Mộ Dung Phục hỏi: “Các hạ nói mụ phải có ngày đền tội nghĩa là làm sao?”

Lão Đại nhướng mày lên, tinh thần phấn khởi đáp: “Hôm nay huynh đệ tại hạ tụ họp ở đây chính là vì việc này. Ngày mùng ba tháng ba năm nay, tại hạ cùng Hoắc động chúa động Tử Nham, Khâm đảo chúa đảo Hải Mã phải cung phụng đủ thứ, nào trân châu bảo bối, nào gấm đoạn lượt là, nào sơn hào hải vị, nào các thứ phấn sáp, đưa lên ngọn Phiêu Diểu núi Thiên Sơn…” Bao Bất Đồng cười ha hả ngắt lời: “Mụ ác tặc đó đã là con quỷ già, còn dùng phấn sáp làm chi?” Ô Lão Đại đáp: “Mụ đã già, nhưng thị nữ nô bộc rất nhiều, chắc có kẻ thích dùng phấn sáp. Nhưng trên núi không có nam nhân, chẳng hiểu chúng trang điểm cho ai nhìn?” Bao Bất Đồng cười nói: “Chắc là để Ô tiên sinh ngắm chứ còn ai nữa?”

Ô Lão Đại nghiêm mặt nói: “Bao huynh lại nói giỡn rồi! Bọn tại hạ lên tới ngọn Phiêu Diểu thì ai nấy phải dùng vải đen bịt mắt lại hết, chỉ được nghe chứ không được nhìn. Người trên ngọn Phiêu Diểu đẹp hay xấu, già hay trẻ, không ai biết cả.”

Mộ Dung Phục hỏi: “Như vậy thì Thiên Sơn Đồng Mỗ là người như thế nào, các vị đã ai nhìn thấy mặt chưa?” Ô Lão Đại thở dài đáp: “Kể ra thì có người thấy rồi, nhưng lại bị cực hình rất thê thảm! Trước đây hai mươi ba năm có người cả gan vén tấm khăn đen che mặt để nhìn mụ, chưa kịp kéo khăn xuống thì đã bị mụ móc cả hai mắt, còn sai cắt lưỡi, chặt cụt hai tay.” Mộ Dung Phục hỏi: “Mụ chọc mù mắt là đủ rồi, còn cắt lưỡi chặt tay làm gì nữa?” Ô Lão Đại đáp: “Chắc là mụ không muốn người đó tiết lộ chân tướng mụ với ai, cắt lưỡi để không nói được, chặt tay để không viết chữ hoặc vẽ hình mụ được.” Bao Bất Đồng lắc đầu lè lưỡi nói: “Ghê quá, ghê quá!”

Ô Lão Đại lại kể tiếp: “Tại hạ cùng bọn Hoắc động chúa, Khâm đảo chúa cả thảy chín người lên ngọn Phiêu Diểu thì ai nấy đều nơm nớp sợ mất mạng. Ba năm trước, mụ có dặn phải chuẩn bị một ít dược vật, có mấy thứ rất hiếm như trứng rùa ba trăm năm, sừng hươu dài đến năm thước, không tài gì tìm được. Thế nhưng bọn tại hạ phải tìm kiếm bằng bất cứ giá nào, nếu không muốn chuốc lấy cái họa sát thân. Ngờ đâu chín người run rẩy đưa vật phẩm lên rồi, mụ chỉ sai người ra nói: “Bấy nhiêu là đủ rồi, đuổi cổ bọn đê tiện ấy xuống núi”. Bọn tại hạ khác nào được đức hoàng thượng hạ chiếu phóng xá, nỗi mừng biết lấy chi cân, lập tức đưa nhau xuống núi. Ai cũng nghĩ ra khỏi nơi nguy hiểm này sớm được khắc nào hay khắc ấy, nhưng trong lòng vẫn lo ngay ngáy, sợ mụ lão tặc kiểm tra phẩm vật thấy không đầy đủ, sẽ bắt lại trị tội… Chín người bọn tại hạ xuống đến chân núi Phiêu Diểu, mở khăn bịt mặt ra thì thấy dưới chân núi có ba người chết. Trong đó có một người Hoắc động chúa quen mặt, là một cao thủ tại Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ, tên gọi Cửu Dực đạo nhân.”

Bất Bình đạo nhân “Ái chà” một tiếng rồi nói:  “Té ra Cứu Dực đạo nhân bị lão tặc bà này sát hại. Thế mà trên giang hồ nhiều người đồn rằng nhà Mộ Dung ở Cô Tô đã hạ độc thủ” Bao Bất Đồng không nhịn được, chửi luôn: “Thúi lắm, thúi lắm! Chúng ta chả biết Đạo nhân chín cánh hay Hòa thượng tám đuôi gì ráo, thế mà họ lại đem món nợ này đổ lên đầu.” Câu “Thúi lắm” là gã mắng bọn đồn đại trên giang hồ, chứ không phải mắng Bất Bình đạo nhân, nhưng ai nghe cũng thấy chướng tai. Bất Bình đạo nhân không ra vẻ tức tối, lại tủm tỉm cười nói: “Cây lớn thường gặp gió dữ, ai cũng nghĩ tới nhà Mộ Dung Cô Tô.” Bao Bất Đồng nói: “Thúi…” Gã mới buột miệng ra một tiếng “thúi”, liếc mắt nhìn Mộ Dung Phục rồi ngừng lại không nói nữa. Bất Bình đạo nhân nói móc: “Sao Bao huynh chỉ nói có một tiếng rồi lại nuốt vào bụng ngay?” Bao Bất Đồng vừa nghe đã biết là lão nói xỏ, liền nổi giận đùng đùng quát hỏi: “Cái gì? Ngươi mắng ta nuốt thúi ư?” Bất Bình đạo nhân cười cười đáp: “Không dám! Bao huynh muốn nuốt gì thì cứ việc nuốt.”

Bao Bất Đồng hậm hực muốn thóa mạ lão, nhưng Mộ Dung Phục đã gạt đi: “Trên đời thường có rất nhiều tiếng khen chê vô căn cứ, Bao tam ca để ý làm gì?” Rồi y quay lại hỏi Bất Bình đạo nhân: “Tại hạ nghe nói khinh công của Cửu Dực đạo nhân rất cao, mà tuyệt kỹ Nhất Thủ Lôi Công Đáng của y ba mươi năm nay cũng hiếm có địch thủ. Y cùng tại hạ trước nay chưa hề thù oán gì, mà dù có thù oán thì tại hạ cũng chưa chắc thắng được Củu Dực đạo trưởng, một nhân vật đã được thiên hạ tặng cho ngoại hiệu là Lôi Động Vu Cửu Thiên Chi Thượng.”

Bất Bình đạo nhân mỉm cười nói: “Mộ Dung công tử quá khiêm nhượng rồi. Tuy Cửu Dực đạo nhân có tuyệt nghệ Sấm Động Chín Tầng Mây, nhưng Mộ Dung công tử trả lại cho y một chiêu Sấm Động Chín Tầng Mây, thì y cũng phải đứng đó chờ sét đánh chết mà thôi.”

Ô Lão Đại nói: “Trong mình Cửu Dực đạo nhân có hai vết thương đều do mũi kiếm đâm vào. Trên giang hồ đồn đại y chết về tay nhà Mộ Dung Cô Tô, thật là hoang đường. Chính mắt tại hạ đã thấy thì còn sai sao được, giả tỉ là Mộ Dung công tử hạ thủ Cửu Dực đạo nhân thì phải dùng Lôi Công Đáng chứ!”.

Bất Bình đạo nhân hỏi: “Y chết vì kiếm ư? Mà lại có tới hai vết thương thì thật là kỳ lạ!” Ô Lão Đại vỗ đùi đánh đét một tiếng, trầm trồ khen ngợi: “Bất Bình đạo trưởng quả nhiên danh bất hư truyền, vừa nghe đã thấy chỗ không hợp lý. Cửu Dực đạo nhân chết ở chân núi Phiêu Diểu, trong mình hai chỗ kiếm thương thì không hợp lý.”.

Mộ Dung Phục tự hỏi: “Sao lại không hợp lý? Sao Bất Bình đạo nhân nghi ngờ mà mình lại nghĩ không ra?” Y nghĩ vậy, bất giác lộ vẻ ngơ ngác ra mặt.

Ô Lão Đại bèn hỏi thử Mộ Dung Phục một câu: “Mộ Dung công tử có thấy như vậy là không hợp lý không?” Mộ Dung Phục không muốn miễn cưỡng nói bừa, toan đáp: “Cái đó tại hạ không hiểu” thì thốt nhiên Vương Ngữ Yên nói: “Chắc là Cửu Dực đạo nhân bị một vết thương giữa hai huyệt Phong Thị và Phục Thổ bên chân phải, còn một mũi kiếm nữa đâm đứt xương sống ở huyệt Huyền Khu ở sau lưng, chẳng hiểu có đúng thế không?”

Ô Lão Đại cả kinh hỏi: “Lúc ấy cô nương cũng ở dưới chân núi Phiêu Diểu ư? Thế sao bọn tại hạ không… không thấy cô nương?” Thanh âm lão run run chứng tỏ đang sợ hãi vô cùng, giả tỉ lúc đó Vương Ngữ Yên có mặt thì chắc chắn nàng đã thấy hết những hành động sau đó của hắn, bí mật hắn đã bị tiết lộ rồi. Hắn lẩm bẩm: “Mình còn chưa khởi sự thì không chừng Thiên Sơn Đồng Mỗ đã biết trước.”

Giữa đám đông lại có tiếng lắp bắp hỏi: “Sao cô nương lại… biết mà… tại hạ… không thấy…” Người này đã nói lắp, trong lúc vội vàng lại càng không rõ. Y cũng là một trong chín cao thủ đi theo Ô Lão Đại lên núi Phiêu Diểu để dâng lễ vật hồi tháng ba. Tuy mồm miệng vụng về những võ công của y rất lợi hại, nên dù y nói năng lắp bắp mà chẳng ai dám cười..

Vương Ngữ Yên lạnh lùng nói: “Mùa xuân năm nay ta ở Giang Nam. Thiên Sơn lại thuộc Tây Vực, ta cũng chưa đến đó bao giờ.”

Ô Lão Đại lại càng sợ hãi, nghĩ thầm: “Nếu cô này không được mục kích, thì tức là có người đưa tin đến, việc này đã đồn đại ra giang hồ rồi ư?” Nghĩ vậy y liền hỏi: “Cô nương nghe ai nói mà biết?”

Vương Ngữ Yên đáp: “Ta đoán vậy thôi. Cửu Dực đạo nhân là một cao thủ ở Lôi Điện Môn, mỗi khi cùng ai động thủ liền thi triển khinh công, tay trái dùng thiết bài múa bốn mươi hai đường Thục Đạo Nan Bài Pháp để che đỡ trước ngực, sau lưng, bên hữu hạ bàn đều kín đáo như lồng sắt, đối phương khó lòng hạ thủ được. Cửu Dực đạo nhân chỉ có một chỗ sơ hở là mé hữu hạ bàn, đối phương dùng kiếm mà muốn đả thương y tất phải đâm vào khoảng giữa hai huyệt đạo Phong Thị và Phục Thổ ở đùi bên phải. Khi kiếm của đối phương đâm trúng chỗ này, Cửu Dực đạo nhân tất giơ thiết bài lên đỡ ngực, đồng thời sử chiêu Xuân Lôi Sa Động để đập vào bên trái đối phương, nhưng đối phương đã là cao thủ thì sẽ nhân cơ hội này chém vào lưng y. Ta đoán nếu hung thủ không dùng thế Bạch Hồng Quán Nhật thì cũng dùng thế Bạch Đế Trảm Xà, chém trúng Cửu Dực đạo nhân vào huyệt Huyền Khu trên xương sống. Cửu Dực đạo nhân phòng thủ chắc chắn, khó mà chém y bị thương được. Ai dùng phán quan bút hoặc khí giới ngắn để điểm huyệt thì tương đối dễ hơn, nhưng đã dùng kiếm thì phải ra hai chiêu đó mới hiệu nghiệm.”

Ô Lão Đại thở ra một cái, nhẹ nhõm như trút được gánh nặng trong lòng. Hồi lâu hắn mới giơ ngón tay cái lên nói: “Khâm phục! Người nhà Mộ Dung ở Cô Tô thiệt không ai kém kiến thức. Cô nương phân tích hợp lý như chính mắt mình trông thấy.”

Đoàn Dự không nhịn được, lên tiếng nói: “Vị cô nương họ Vương đây không phải là…” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Cô Tô Mộ Dung với ta là thân thích, gọi ta là người nhà Mộ Dung cũng không sai.” Đoàn Dự thấy trước mắt tối sầm lại, người chàng lảo đảo, bên tai vọng đi vọng lại câu nói “gọi ta là người nhà Mộ Dung cũng không sai” của Vương Ngữ Yên.

Người nói lắp lên tiếng: “Té ra… như…” Ô Lão Đại không chờ y nói hết câu đã ngắt lời: “Cửu Dực đạo nhân đó bị thương đúng như Vương cô nương đoán. Y bị một vết đâm ở khoảng giữa hai huyệt Phong Thị và Phục Thổ, và bị kiếm chém đứt một đốt xương sống ở huyệt Huyền Khu.” Y cũng chưa yên tâm, bèn mở miệng hỏi gặn: “Cô nương suy đoán theo đạo lý võ học chứ chẳng phải mắt thấy tai nghe ư?” Vương Ngữ Yên gật đầu, “Vâng” một tiếng.

Người nói lắp lại hỏi: “Giả tỉ bây giờ cô nương… muốn giết… Ô Lão Đại… thì làm thế nào?” Ô Lão Đại nghe y hỏi Vương Ngữ Yên cách giết mình thì nổi giận quát lớn: “Sao ngươi dám hỏi câu này?”

Nhưng rồi hắn lại nghĩ: “Cô này tuy hiểu rộng về võ học, nhưng dẫu sao cũng còn nhỏ tuổi, thực không thể tin là cô đoán về cái chết của Cửu Dực đạo nhân tuyệt diệu đến thế. Biết đâu cô ta ẩn núp ở chỗ nào dưới chân núi Phiêu Diểu, chính mắt trông thấy hung thủ ra tay. Việc này quan hệ rất lớn, ta phải hỏi cho rõ mới được.” Hắn bèn cất tiếng hỏi: “Được lắm. Xin cô nương cho biết, muốn giết tại hạ thì làm thế nào?”

Vương Ngữ Yên tủm tỉm cười, ghé vào tai Mộ Dung Phục nói nhỏ: “Biểu huynh! Lão này sở hở ở huyệt Thiên Tôn sau vai và huyệt Thanh Lãnh Uyên khuỷu tay. Biểu huynh xuất thủ đánh vào hai chỗ đó thì kiềm chế được lão ngay.”

Trước mặt mấy trăm cao thủ, làm sao Mộ Dung Phục dám để một cô thiếu nữ chỉ điểm cho mất thể diện? Y hắng giọng rồi dõng dạc nói: “Ô động chúa đã hỏi, thì biểu muội, cứ việc đàng hoàng nói ra cũng chẳng hề chi.” Vương Ngữ Yên thẹn đỏ mặt lên, nghĩ thầm: “Bản ý mình là muốn tốt cho y, ai ngờ y lại giữ phong độ đại trượng phu khiến mình phải lúng túng.” Nàng liền đáp: “Biểu huynh! Nhà Mộ Dung ở Cô Tô hiểu biết các môn võ khắp thiên hạ, biểu huynh nói cho Ô Lão Đại nghe đi!”.

Nhưng Mộ Dung Phục vốn tính cao ngạo không chịu nghe nàng chỉ điểm. Y quay sang Ô Lão Đại nói: “Ô động chúa võ công cao cường, đả thương động chúa không phải chuyện dễ dàng. Xin động chúa kể tiếp chuyện ở dưới chân núi Phiêu Diểu.”

Ô Lão Đại nhất quyết điều tra có ai ẩn nấp dưới chân núi Phiêu Diểu vào lúc đó không, liền nói: “Vương cô nương! Cô nương đã không biết cách sát hại Ô mỗ, thì dĩ nhiên những lời cô nương vừa phân tích cách hạ sát Cửu Dực đạo nhân chỉ là giả dối để tự khoe hoặc để đùa giỡn mà thôi. Ô mỗ xin hỏi lại: Tại sao cô nương biết Cửu Dực đạo nhân táng mạng thế nào? Cô nương nên nói thực đi, chuyện này quan hệ rất lớn, không thể giỡn chơi được.”

Từ lúc Vương Ngữ Yên chạy qua bên mình Mộ Dung Phục, Đoàn Dự vẫn để hết tâm trí vào nàng. Từng ánh mắt nàng âu yếm nhìn Mộ Dung Phục chàng cũng thấy, từng lời nàng kề tai nói nhỏ với Mộ Dung Phục chàng đều nghe rõ vì nội công chàng rất thâm hậu. Bây giờ Đoàn Dự nghe Ô Lão Đại ra giọng nghi ngờ Vương Ngữ Yên nói dối, chàng khó chịu vô cùng, khi nào chịu để kẻ khác đem lời khinh mạn vị thiên thần trong lòng mình? Đoàn Dự không nói gì, bước xéo chân phải, thi triển Lăng Ba Vi Bộ đánh võng vòng vèo ra phía sau Ô Lão Đại.

Ô Lão Đại cả kinh quát lên: “Ngươi làm gì…”. Đoàn Dự giơ tay phải ra đặt, vào huyệt Thiên Tôn ở vai phải Ô Lão Đại, tay trái nắm lấy huyệt Thanh Lãnh Uyên ở khuỷu tay trái hắn. Hai huyệt đạo này là chỗ nhược của Ô Lão Đại, hễ bị đánh trúng tất phải trọng thương. Khi hai bên tỉ đấu thì cần nhất là giữ kín những nhược điểm không để đối phương biết, nếu bị đánh trúng vào chỗ khác, thương thế dĩ nhiên nhẹ hơn. Đoàn Dự xuất thủ chẳng theo chiêu thức nào hết, nhưng một là bộ pháp rất tinh diệu, chàng lướt đến phía sau mà lão không kịp đề phòng, hai là Vương Ngữ Yên đã hiểu rõ võ công Ô Lão Đại, biết hai huyệt đạo này là nhược điểm của hắn, đối phương chỉ cần ấn mạnh một cái là Ô Lão Đại sẽ thành phế nhân. Thực ra Đoàn Dự nội lực thâm hậu nhưng không thể tùy ý phát huy, dù chàng có nắm được hai chỗ nhược điểm của Ô Lão Đại cũng chẳng làm gì hắn được. Nhưng Ô Lão Đại đã bị Đoàn Dự nắm trúng yếu điểm, làm sao còn dám hung hăng? Hắn gượng cười nói: “Đoàn công tử võ công thần diệu, Ô mỗ kính phục vô cùng!” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ chẳng biết chút võ công nào, hoàn toàn nhờ Vương cô nương chỉ điểm mà thôi.” Chàng nói xong liền buông tay ra, từ từ đi về chỗ cũ.

Ô Lão Đại vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, đứng ngẩn ra một lúc rồi nói: “Bữa nay Ô mỗ mới biết trời đất vô cùng, chưa chắc võ công Thiên Sơn Đồng Mỗ đã là đệ nhất thiên hạ!” Hắn nhìn theo Đoàn Dự, vẻ mặt vẫn còn kinh sợ.

Bất Bình đạo nhân nói: “Ô Lão Đại! Ngươi đã được những bậc cao nhân bản lĩnh kinh người giúp đỡ, thực là đáng mừng!” Ô Lão Đại gật đầu nói: “Vâng, vâng! Chúng ta thêm được mấy phần thắng lợi.” Bất Bình đạo nhân nói: “Cửu Dực đạo nhân trúng kiếm hai chỗ mới uổng mạng, chắc không phải là nhân vật trong cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu hạ thủ đâu.”

Ô Lão Đại nói: “Đúng lắm! Tại hạ vừa thấy đạo nhân bị hai vết kiếm thương, cũng nghĩ giống như đạo trưởng. Thiên Sơn Đồng Mỗ không thích đi xa, người thường chẳng có ai dám bén mảng đến chu vi trăm dặm quanh núi Phiêu Diểu đâu, bởi thế mà mụ ít khi có dịp thi triển võ công. Tại hạ cũng biết có lần mụ phải sai người dẫn dụ mấy tay cao thủ đến núi Phiêu Diểu để hạ thủ giết chơi. Bởi thế quanh núi Phiêu Diểu trăm dặm, nếu có ai chết thì chắc chắn do chính mụ ra tay, mà trước nay mụ giết người thì chỉ một chiêu là lấy mạng ngay, không khi nào lại phóng liền hai chiêu vào đối phương cả.”

Mộ Dung Phục nghe vậy cả kinh, nghĩ thầm: “Môn Gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung ta đã là một bản lĩnh kinh người trong võ lâm. Thế mà tại cung Linh Thứu trên đỉnh Phiêu Diểu núi Thiên Sơn còn có nhân vật ghê gớm hơn nhiều, giết người không cần đến chiêu thứ hai thì ghê gớm thật. Mình không tin nổi trên đời có người bản lĩnh tuyệt diệu đến thế!”

Bao Bất Đồng không được thâm trầm kín đáo như Mộ Dung Phục, hễ không tin là hỏi ngay: “Ô động chúa! Ngươi nói Thiên Sơn Đồng Mỗ muốn giết người không bao giờ cần đến chiêu thứ hai, chắc là đối với hạng võ công tầm thường thôi. Chẳng lẽ lão cũng chỉ dùng một chiêu mà hạ sát được những tay cao thủ tuyệt luân ư? Toàn là chuyện bịa, không thể tin được.”

Lão Đại đáp: “Bao huynh không tin thì tại hạ cũng không biết nói sao. Nhưng bọn ta đều phải chịu mụ Thiên Sơn Đồng Mỗ ức hiếp khinh khi, bảo sao nghe vậy không dám hé răng chống đối. Giả tỉ mụ không có tài năng siêu việt thì sao ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đều phải nhịn nhục chẳng hề hó hé? Sao bọn ta chịu làm nô lệ hết năm này qua năm khác, không ai dám sinh lòng đối kháng?”

Bao Bất Đồng gật đầu nói: “Chắc là bên trong có điều cổ quái, nếu không thì vị tất các vị lão huynh cam tâm làm tôi mọi cho mụ.” Tuy gã biết Ô Lão Đại nói hợp lý, nhưng vẫn cãi chơi: “Sai bét, sai bét! Ô động chúa bảo không ai dám sinh lòng chống đối, nhưng hiện giờ mọi người chẳng những sinh lòng chống đối mà còn mưu đồ phản nghịch nữa.”

Ô Lão Đại đáp: “Vụ này đương nhiên cũng có lý do. Hôm đó tại hạ thấy Cửu Dực đạo nhân bị hai vết thương liền sinh nghi, xem đến hai xác chết kia thì cũng không phải một chiêu mà mất mạng ngay, rõ ràng họ đã trải qua một cuộc ác đấu, bị nhiều vết thương khắp trên người. Lúc đó tại hạ thương nghị cùng mấy vị bằng hữu họ Hoắc, họ Khâm, nêu ra nghi vấn: Bọn Cửu Dực đạo nhân ba người có phải đã bị nhân vật trong cung Linh Thứu hạ sát không? Nếu không phải thì ai đã dám cả gan gây chuyện động trời này ngay dưới chân núi Phiêu Diểu? Bọn tại hạ tuy trong lòng mờ mịt mà cũng phải đi cho lẹ. Đi thêm mấy dặm, An động chúa đột nhiên cất tiếng hỏi: Chẳng lẽ… lão phu nhân… mắc…?” Mộ Dung Phục thấy y bắt chước kiểu nói lắp thì nghĩ thầm: “Chắc hẳn tên nói lắp đó chính là An động chúa!”

Ô Lão Đại kể tiếp: “Bọn tại hạ rời núi Phiêu Diểu chưa xa mấy, mà dù có ở ngoài vạn dặm cũng chẳng ai dám bất kính khi đề cập đến mụ lão tặc đó, vẫn gọi mụ là lão phu nhân. Lúc An huynh đệ đang nói dở câu thì mọi người chẳng ai bảo ai đều buột miệng tiếp lời: … mắc bệnh ư?”

Bất Bình đạo nhân hỏi: “Không hiểu mụ Đồng Mỗ đã bao nhiêu tuổi?” Vương Ngữ Yên nhỏ nhẹ nói: “Chắc bà ta không thể còn trẻ được.” Đoàn Dự vội đáp: “Đúng thế, đúng thế! Danh hiệu mụ đã có chữ Mỗ, dĩ nhiên không còn trẻ. Ôi chao, không phải rồi! Giả tỉ sau này cô nương có tự xưng là Mỗ Mỗ thì chắc trông vẫn tươi trẻ như thường” Chàng thấy Vương Ngữ Yên đang chăm chú nghe Ô Lão Đại, không để ý đến mình nói gì thì mất cả hứng thú, bèn nghĩ: “Giả tỉ ta để tâm lắng nghe gã Ô Lão Đại này kể, mà lúc đó Vương cô nương hạ cố hỏi đến ta, ta không biết để trả lời thì quả là phí cả cơ hội ngàn năm một thuở.”

Ô Lão Đại đáp: “Tuổi tác của Đồng Mỗ thì chẳng ai biết rõ. Bọn tại hạ ở dưới quyền mụ, kẻ ít cũng một hai chục năm mà người nhiều thì đến ba bốn chục năm rồi, chỉ trừ mấy vị ở Vô Lượng Động là mới qui thuộc về Linh Thứu Cung. Nhưng chưa một ai được thấy mặt mụ, mà cũng chẳng ai hỏi đến tuổi mụ cả.”

Đoàn Dự nghe đến đây, nhớ tới mình cùng động chúa Vô Lượng Động đã có biết nhau, nhìn tứ phía thử xem thì thấy Tân Song Thanh đang đứng đằng xa, tựa vào một tảng đá, cúi đầu trầm ngâm có vẻ lo lắng.

Ô Lão Đại nói tiếp: “Bọn tại hạ đều nghĩ rằng ai cũng phải chết. Dù Đồng Mỗ bản lĩnh có ghê gớm đến đâu chăng nữa, thì cũng chưa tu luyện thành tinh hay thành con người kim cương bất hoại. Chuyến này bọn tai hạ lên núi Phiêu Diểu dâng phẩm vật không được đầy đủ, Đồng Mỗ không trách phạt đã là chuyện lạ. Lúc ra về xuống đến chân núi, lại thấy bọn Cửu Dực đạo nhân bị hạ sát có nhiều vết thương chứ không phải một, càng khiến bọn tại hạ thêm lòng ngờ vực. Nói tóm lại bên trong vụ này tất có điều gì bí ẩn phi thường.”

“Bọn tại hạ đều nghĩ giống nhau, nhưng người này chỉ nhìn người kia, chẳng ai dám mở miệng nói gì. Người thì vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, có người âu sầu buồn bã. Ai cũng biết rằng đây là cơ hội để phá xiềng xích làm lại cuộc đời, nhưng Đồng Mỗ cai trị bọn tại hạ quá nghiêm khắc, chẳng có ai dám đề nghị đi do thám cho biết rõ thực hư. Lâu lắm, Khâm huynh đệ mới lên tiếng: An nhị ca đoán rất có lý. Nhưng… nhưng việc này rất nguy hiểm, theo ý kiến tiểu đệ thì chúng ta hãy quay về nhà bình tĩnh chờ đợi tin tức. Khi nào được tin xác thực, bấy giờ sẽ liệu cũng chưa muộn.”

“Khâm huynh đệ là người lão thành trì trọng, kể ra thì ý kiến của y rất chu đáo, nhưng… bọn tại hạ nóng ruột quá, không chờ đợi được. An động chúa lại nói: “Sinh Tử… Phù…”, không cần nói hết mà mọi người cũng hiểu ngay. Lão ác bà nắm giữ đạo bùa sinh tử về tính mạng bọn tại hạ nên không ai dám phản kháng. Giả tỉ mụ có lâm trọng bệnh chết đi thì Sinh Tử Phù lại sang tay người thứ hai, đương nhiên bọn tại hạ lại làm nô lệ cho người đó. Nếu tên này mà tàn độc hơn mụ Đồng Mỗ thì bọn tại hạ lại phải chịu cảnh nhục nhã tệ hại hơn cả bây giờ. Tình trạng lúc đó như dây cung đã giương lên, không phóng tên ra không được. Bọn tại hạ cũng biết cuộc do thám này nguy hiểm phi thường, nhưng không ráng khám phá ra sự thật thì cũng không xong.”

“Trong bọn tại hạ, nói về võ công và cơ trí thì An động chúa là số một, nhất là khinh công của y lại càng xuất sắc hơn nhiều”.

Lúc ấy cả tám người đều đưa mắt nhìn An động chúa. Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự, Đặng Bách Xuyên cùng những người chưa biết mặt mũi An động chúa đều đảo mắt nhìn xem vị động chúa nói lắp này trông như thế nào. Vừa rồi Ô Lão Đại dẫn bọn Mộ Dung Phục cùng Bất Bình đạo nhân đến ra mắt các vị động chúa, đảo chúa, nhưng không thấy An động chúa trong số đó.

Ô Lão Đại mỉm cười nói: “An động chúa tính ưa thanh tĩnh, không thích kết giao, xin các vị miễn trách. Lúc ấy mọi người đều muốn y đi xem động tĩnh ra sao. An động chúa liền nói: “Đã như thế thì không có lý nào tại hạ lại khước từ, xin đi thám thính”.

Mọi người đều biết An động chúa không nói được trơn tru như thế, nhưng Ô Lão Đại không thuật theo giọng nói của y vì sợ mọi người buồn cười, vừa rồi y không chịu ra mắt bọn Mộ Dung Phục cùng Bất Bình đạo nhân hẳn cũng vì lẽ đó.

Ô Lão Đại kế tiếp: “Bọn tại hạ chờ đợi nóng ruột cực kỳ khổ sở, quả là ba thu gom lại một ngày, chỉ lo An động chúa đã gặp chuyện gì bất trắc. Thực ra thì cái sợ An động chúa bị mụ ác tặc bắt được hạ độc thủ chỉ có một phần, mà cái sợ mụ nổi trận lôi đình đuổi theo hỏi tội bọn tại hạ còn lớn hơn nhiều. Nhưng dù có lo sợ cũng chẳng ích gì, vả lại đã phóng lao thì phải theo lao, mụ ác tặc đã muốn trừng trị thì mình cũng chẳng tài nào chạy thoát được. Chờ ròng rã ba giờ thì An động chúa trở về chỗ hẹn. Ai trông thấy y cũng vui mừng ra mặt, tựa như được cất bỏ tảng đá lớn đội trên đầu xuống. An động chúa nói ngay: “Lão phu nhân mắc bệnh không ở trên núi”. Rồi y kể lại lúc lên lên núi Phiêu Diểu, nghe lỏm được bọn thị nữ nói chuyện là mụ ác tặc mắc bệnh nặng, phải đi xa tìm thuốc điều trị.”

Ô Lão Đại kể tới đây, trong đám đông có tiếng vỗ tay hoan hô. Họ đều đã biết tin Thiên Sơn Đồng Mỗ mắc bệnh nên mới dám tụ tập ở đây, nhưng bây giờ nghe Ô Lão Đại nhắc lại vẫn thấy khoái chí, nên lại hoan hô lần nữa.

Đoàn Dự lắc đầu nói: “Nghe tin người ta mắc bệnh mà vui mừng, thật là cười trên sự đau khổ của người khác!” Cũng may tiếng hoan hô đang rầm rộ như sấm vang, nên chẳng ai để ý đến câu nói này. Ô Lão Đại lại nói: “Bọn tại hạ nghe thế, ai cũng vui lòng hả dạ, nhưng vẫn còn lo mụ ác tặc bày ngụy kế, giả bệnh để thám thính bọn tại hạ. Chín người thương nghị với nhau, hai hôm sau cùng lên núi Phiêu Diểu để nghe ngóng. Lần này, chính tại Ô mỗ nghe nói mụ lão tặc bị bệnh nặng, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng Sinh Tử Phù ở đâu thì chưa điều tra ra được.”

Bao Bất Động xen vào: “Trời ơi! Ô lão huynh, Sinh Tử Phù là cái thứ quỉ quái gì thế?” Ô Lão Đại thở dài đáp: “Chuyện này dài lắm, khó mà giải thích trong một lúc cho Bao huynh rõ được. Nói tóm tắt, chừng nào mụ ác tặc còn cầm Sinh Tử Phù trong tay, thì mụ có thể bắt bọn tại hạ phải chết bất cứ lúc nào.” Bao Bất Đồng hỏi: “Đó là một thứ pháp bảo cực kỳ lợi hại ư?” Ô Lão Đại cười khổ, đáp: “Có thể nói như vậy.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bang chủ của Thần Nông Bang là lão râu dê Tư Không Huyền cũng vì sợ hãi Sinh Tử Phù của Thiên Sơn Đồng Mỗ nên mới nhảy xuống vực sâu tự tận. Quả nhiên pháp bảo này lợi hại khôn lường.”

Lão Đại không muốn nói nhiều về Sinh Tử Phù, quay lại lên tiếng dõng dạc nói với mọi người: “Lão ác bà mắc bệnh nặng là một điều chắc chắn ngàn lần. Chúng ta phải nhân cơ hội này vùng lên để thoát khỏi xiềng xích, tại hạ tin rằng anh em ai cũng phấn khởi tinh thần, quyết liều một chuyến. Nhưng hiện giờ không thể biết được mụ ác tặc đã quay về cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu chưa, mọi việc hành động cần được toàn thể thương nghị kỹ càng. Nhất là Bất Bình đạo trưởng, Mộ Dung công tử, Vương cô nương, … Đoàn công tử, bốn vị có cao kiến gì xin nói cho nghe.”

Đoàn Dự nói: “Trước đây tại hạ nghe kể Thiên Sơn Đồng Mỗ tàn ác áp bức quí vị thật là bá đạo, trong lòng cũng bất bình, có ý lên núi Phiêu Diểu lý luận với lão phu nhân một phen. Nhưng Đồng Mỗ đang bệnh nặng, nhân lúc người ta gặp nạn mà ám toán thì đâu phải là hành động của người quân tử. Đừng nói là tại hạ chẳng có cao kiến chi hết, mà dù có cao kiến cũng không nói ra.

Hồi 35: Cứu Đồng Mỗ tiểu tăng phạm giới

Ô Lão Đại biến sắc mặt, vừa toan lên tiếng thì Bất Bình đạo nhân đưa mắt ra hiệu, rồi mỉm cười nói: “Đoàn huynh đã nói là đứng bàng quan, không giúp bên nào thì không góp ý kiến cũng là chuyện đương nhiên. Ô Lão Đại! Chúng ta muốn tiến đánh núi Phiêu Diểu thì cần nhất là phải biết rõ thực hư trong cung Linh Thứu. Bọn Ô huynh chín người đã lên núi thám thính, vậy sau khi mụ ác tặc rời khỏi cung Linh Thứu thì trong cung còn lại bao nhiêu tay cao thủ, cách bố trí thế nào? Ô huynh tuy không biết hết nhưng chắc cũng tìm hiểu được mấy phần, xin nói ra để mọi người cùng bàn định.”

Ô Lão Đại đáp: “Nói ra xấu hổ, bọn tại hạ đến dò xét cung Linh Thứu mà chẳng ai dám vào thám thính. Cả chín người chỉ lo ẩn nấp, sợ gặp phải nhân vật lợi hại nào thì nguy to. Tại hạ nấp ở vườn hoa phía sau cung, bị một đứa bé gái bắt gặp, ăn mặc theo kiểu a hoàn. Tại hạ tránh không kịp, bị nhìn rõ mặt, liền nhảy xổ tới thi triển phép cầm nã bắt nó lại, thật là bí quá phải làm liều, không kể gì đến tính mạng nữa. Nhân vật trong cung Linh Thứu không phải tầm thường, dù nó chỉ là một đứa trẻ nít, nhưng biết đâu võ công thần diệu? Lúc đó tại hạ biết phen này mình mười phần chết chín…”

Giọng y run lên, chứng tỏ nhớ đến tình trạng nguy hiểm khi đó, vẫn còn sợ hãi vô cùng. Mọi người lẳng lặng ngồi nghe Ô Lão Đại kể chuyện, thấy hắn vẫn đang bình yên vô sự, rõ ràng dù có gặp nguy hiểm thì cũng đã thoát khỏi. Nhưng bọn này hễ nghĩ đến Thiên Sơn Đồng Mỗ là người cứ run bắn lên, thế mà Ô Lão Đại dám lên tận núi Phiêu Diểu bắt người, dẫu vì tình trạng bắt buộc mà phải mạo hiểm thì cũng lớn mật vô cùng, nếu là hạng người tầm thường thì đành bó tay chịu chết. Ai cũng sinh lòng bội phục hắn.

Ô Lão Đại kể tiếp: “Tại hạ xông vào, vận dụng toàn lực thi triển Hổ Trảo Công. Lúc đó tại hạ định bụng nếu một chiêu mà không bắt được con nhỏ, để nó kịp la lên cho người ta đến cứu, thì mình nhất quyết nhảy từ núi cao trăm trượng xuống chết cho sướng thân, nhất định không để lọt vào tay mụ ác tặc để bị hành hạ dã man. Ngờ đâu, tay trái tại hạ chụp xuống vai con nhỏ, tay phải nắm chặt được cánh tay nó, mà nó tuyệt không kháng cự chi hết, ngã lăn ra ngay, tựa như người không có võ công. Lúc đó tại hạ mừng vô kể, đến nỗi bủn rủn cả chân tay. Nói ra chỉ sợ các vị cười, con nhỏ đó lăn ra rồi thì cái tên Ô Lão Đại nhát gan này cũng suýt ngã theo.”

Mọi người nghe đến đây đều cười ồ lên, đầu óc cảm thấy khoan khoái, hết cả lo lắng hoang mang. Tuy Ô Lão Đại tự cười mình nhát gan, nhưng ai nấy đều cho rằng hắn dũng cảm phi thường, dám lên tận núi Phiêu Diểu bắt người thì thật là kinh thiên động địa.

Ô Lão Đại giơ tay ra vẫy, một tên thủ hạ liền xách một cái túi vải đen chạy ra, đặt xuống trước mặt Ô Lão Đại. Ô Lão Đại cởi dây cột, kéo miệng túi xuống, để lộ ra một người. Ai nấy đều ồ lên một tiếng, người trong túi là một đứa bé gái thân hình bé nhỏ.

Ô Lão Đại dương dương đắc ý nói: “Con nhỏ này là do Ô mỗ bắt ở trên núi Phiêu Diểu đem về.” Mọi người hoan hô vang dội: “Ô Lão Đại bất hủ!” “Ô Lão Đại đáng mặt anh hùng hảo hán!” “Quần tiên ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo xin tôn Ô Lão Đại lên làm thủ lĩnh!”

Tiếng hoan hô của mọi người xen lẫn với tiếng khóc hu hu của cô bé. Nó đang ôm mặt khóc nức nở.

Ô Lão Đại nói: “Bọn tại hạ bắt được con nhỏ này rồi, vẫn sợ có người phát giác rượt theo, hấp tấp chạy xuống núi liền. Lúc tra hỏi con nhỏ này không khai thác được chút gì, đáng tiếc là nó bị câm điếc. Ban đầu bọn tại hạ tưởng nó giả vờ, đã nghĩ ra vô số biện pháp để thử thách, có lúc lại bất thình lình quát sau lưng nó một tiếng thật to thử xem nó có giật mình không. Nhưng thử gì thì thử, cũng thấy nó câm điếc thật.”

Mọi người nghe tiếng cô bé khóc thì biết nó câm thật. Giữa đám đông có người cất tiếng hỏi: “Ô Lão Đại! Nó không nghe được, thì sao không viết chữ xem nó có hiểu không?” Ô Lão Đại đáp: “Nó chẳng hiểu chi hết. Bọn ta đã dùng đủ cách, dìm xuống nước lạnh, nhúng vào nước nóng, bắt nhịn đói, chẳng còn thiếu cách gì mà xem ra nó không phải là đứa ngoan cố, chỉ là một đứa nhỏ vừa câm điếc vừa ngu ngốc.”

Đoàn Dự không nhịn được, cười hăng hắc nói: “Dùng thủ đoạn đê hèn để hành hạ một cô bé, thế mà không biết nhục ư?” Ô Lão Đại nói: “Bọn ta bị mụ Thiên Sơn Đồng Mỗ hành hạ còn thảm khốc gấp mười, mình trả oán một chút, có gì là nhục?” Đoàn Dự nói: “Các vị có báo thù rửa hận thì phải đối phó với chính mụ Thiên Sơn Đồng Mỗ mới hợp lý. Đi bắt nạt đứa con nít thì có ích gì đâu?”

Ô Lão Đại đáp: “Dĩ nhiên là có ích.” Rồi hắn lớn tiếng gọi: “Các vị huynh đệ! Hôm nay chúng ta đồng tâm hiệp lực phản lại núi Phiêu Diểu, từ giờ phút này thì phúc cùng hưởng, họa cùng chịu. Vậy chúng ta phải uống máu ăn thề, mưu đồ đại sự. Có vị nào không đồng ý thì xin cho biết.”

Lão Đại hỏi hai lần vẫn không thấy ai đáp lại. Hắn hỏi đến lần thứ ba thì một đại hán cao lớn đứng lên, lặng lẽ chạy về phía tây. Ô Lão Đại lớn tiếng gọi: “Khu đảo chúa đảo Kiếm Ngư! Ngươi đi đâu thế?” Đại hán không trả lời, cứ cắm đầu chạy như bay, chớp mắt đã vượt qua một thung lũng. Mọi người la lên: “Thằng cha này nhát gan, chưa lâm trận đã bỏ chạy. Mau chặn hắn lại!” Mười mấy người lập tức rượt theo, đều là những tay giỏi khinh công, nhưng Khu đảo chúa đã chạy xa rồi, chẳng hiểu họ có đuổi kịp hay không.

Bất thình lình một tiếng rú thê thảm từ sau núi vọng lại, mọi người đều kinh ngạc nhìn nhau, cả mười mấy người đuổi theo Khu đảo chúa cũng dừng lại. Bỗng nghe một luồng gió rít lên vù vù, một vật hình tròn như quả bóng từ sau núi bay vù tới, rớt vào giữa đám đông.

Ô Lão Đại nhảy vọt lên, giơ tay ra chụp được quả bóng đó, soi vào ánh đèn thì ra một cái đầu lâu, máu thịt bầy nhầy. Mọi người nhìn kỹ bộ mặt thủ cấp này thì thấy râu đâm tua tủa, hai mắt tròn xoe, chính là Khu đảo chúa vừa chạy trốn. Ô Lão Đại run sợ la lên: “Khu đảo chúa…” Nhất thời hắn nghĩ không ra, tại sao Khu đảo chúa vừa trốn đi đã mất mạng mau đến thế, rồi bỗng nảy ra một ý nghĩ cực kỳ khủng khiếp: “Chẳng lẽ Thiên Sơn Đồng Mỗ đã đến đây rồi?”

Bất Bình đạo nhân cất tiếng cười ha hả rồi nói: “Kiếm Thần thần kiếm quả nhiên danh bất hư truyền! Huynh canh gác thật là nghiêm mật!” Phía sau thung lũng có một thanh âm vọng lại nghe rất rõ: “Kẻ nào lâm trận mà bỏ trốn thì ai cũng có quyền giết chết. Xin các vị động chúa, đảo chúa miễn trách cho ta.”

Mọi người đang sợ hãi, bấy giờ mới hoàn hồn đồng thanh nói: “May mà được Kiếm Thần trừ diệt quân phản nghịch để đại sự của chúng ta không bị phá hoại.”

Mộ Dung Phục cùng bọn Đặng Bách Xuyên đều nghĩ bụng: “Gã này tự xưng là Kiếm Thần, thật là ngông cuồng tự đại. Dù kiếm pháp y có giỏi đến đâu chăng nữa thì cũng không nên tự xưng là thần. Trên giang hồ chưa có nhân vật nào mang biệt hiệu chối tai như vậy, không hiểu kiếm pháp gã này cao đến mức độ nào?”

Ô Lão Đại tự thấy xấu hổ vì mình nhát gan nhìn thần thấy quỉ. Hắn lớn tiếng nói: “Các vị huynh đệ hãy lấy khí giới ra, mỗi người đâm chém một nhát vào con tiểu quỷ này! Tuy nó câm điếc, nhưng cũng là nhân vật ở trong núi Phiêu Diểu, mũi đao dính máu ả tức là từ nay cùng núi Phiêu Diểu đối đầu một mất một còn. Chúng ta làm như vậy thì kẻ nào ăn ở hai lòng cũng không thể lùi bước được nữa.” Ô Lão Đại nói xong, liền rút soạt lưỡi quỷ đầu đao ra.

Mọi người đều hoan hô: “Đúng lắm, phải làm như thế mới được! Đao kiếm chúng ta đã dính máu kẻ thù thì chỉ có tiến chứ không có thoái.”

Đoàn Dự hốt hoảng la lên: “Làm thế không được, muôn ngàn lần không được! Mộ Dung huynh! Huynh nên ra tay ngăn cản, đừng để họ hành động bất nhân như vậy.” Mộ Dung Phục lắc đầu nói: “Đoàn huynh! Tính mạng của họ đều ràng buộc vào hành động này, chúng ta là người ngoài chẳng nên can thiệp vào việc không phải của mình.” Đoàn Dự động lòng nghĩa hiệp, tức giận nói: “Đã là bậc đại trượng phu, thì giữa đường gặp chuyện bất bình không thể nhắm mắt bỏ qua. Vương cô nương! Cô nương có trách mắng thì cũng đành chịu, tại hạ không thể không cứu cô bé kia được. Nhưng… nhưng sức tại hạ không trói nổi con gà, khó lòng mà cứu cô ta. Trời ơi! Đặng huynh, Công Dã huynh, sao nhị vị không động thủ đi? Bao huynh, Phong huynh, nhị vị tiếp ứng cho tiểu đệ xông vào cứu người được không?” Bọn Đặng Bách Xuyên bốn người bao giờ cũng hành động theo ý Mộ Dung Phục, thấy y không muốn can thiệp đành nhìn Đoàn Dự lắc đầu, nhưng gã nào cũng tỏ vẻ bần thần.

Ô Lão Đại thấy Đoàn Dự kêu cứu lung tung, nghĩ rằng chàng công lực rất cao thâm, nếu sinh sự thì lắm rắc rối, mình không thể chần chờ, phải động thủ lẹ cho rồi. Hắn vung lưỡi quỷ đầu đao lên, hô to: “Ô Lão Đại động thủ trước tiên!”, rồi bổ lưỡi đao xuống cô bé đứng trong túi vải.

Đoàn Dự la lên: “Hỏng bét!” Chàng vung ngón tay ra chiêu Trung Xung Kiếm phóng vào quỷ đầu đao của Ô Lão Đại. Nhưng chàng không thu phát Lục Mạch Thần Kiếm theo ý muốn được, có lúc hiệu nghiệm, có lúc không. Có khi chân khí đầy dẫy, uy lực mãnh liệt; có khi lại không huy động được một chút nội lực nào. Lúc này chàng chỉ trỏ lung tung, nhưng chân khí chỉ ra đến bàn tay rồi ngừng lại, không phát ra kiếm khí được.

Lưỡi đao của Ô Lão Đại chém xuống gần đến mình cô bé, đột nhiên một bóng đen từ phía sau một tảng đá lớn vọt ra. Bóng đen giơ tay trái lên gạt phắt lưỡi đao của Ô Lão Đại, tay phải chộp lấy túi vải đặt lên lưng, cõng cả cô bé lẫn cái túi chạy thẳng về hướng tây bắc.

Mọi người nhốn nháo, vừa la ó vừa rượt theo. Nhưng bóng đen cước lực thần tốc, chạy nhanh như biến không thể đuổi kịp. Mấy tên động chúa đảo chúa phóng ám khí theo vù vù, nhưng cũng không kịp, ám khí chưa đến đích đều hết đà rơi lả tả xuống đất.

Đoàn Dự cả mừng, mắt chàng sáng rực lên, nhận ra bóng đen là một người mình đã gặp ở kỳ hội của Tô Tinh Hà. Chàng lớn tiếng la lên: “Té ra là Hư Trúc hòa thượng chùa Thiếu Lâm, Hư Trúc sư huynh, Đoàn mỗ xin chắp tay thi lễ. Chùa Thiếu Lâm của sư huynh là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm, quả nhiên danh bất hư truyền!”

Cả bọn thấy người kia phóng một chưởng đẩy bật Ô Lão Đại ra, chân bước nhẹ nhàng, võ công thật là lợi hại; lại nghe Đoàn Dự hoan hô vang dội, gọi hắn là hòa thượng Thiếu Lâm. Danh tiếng phái Thiếu Lâm lừng lẫy xưa nay, ai cũng có ý nể sợ. Chỉ vì việc này liên quan trọng đại, cô bé đã bị cứu đi, nếu không giết nhà sư đó để diệt khẩu thì không chừng mưu đồ bị tiết lộ, đại họa tới ngay tức khắc. Mọi người láo nháo đuổi theo.

Hư Trúc chạy thẳng lên núi. Đỉnh núi này tuyết phủ trắng xóa, ẩn hiện trong mây, không phải cao thủ khinh công mà trèo lên đỉnh thì phải mất bốn năm ngày. Bất Bình đạo nhân la lên: “Đừng sợ. Hòa thượng này leo lên núi là tự vào tuyệt lộ, không lẽ hắn bay lên trời hay sao? Chúng ta chỉ cần giữ chặt các đường xuống núi là hắn không thoát được.” Mọi người nghe vậy mới yên tâm trở lại. Ô Lão Đại bèn phân chia đệ tử các phái giữ chặt các đường xuống núi ở cả bốn phía. Y sợ nhà sư Thiếu Lâm đột phá được trùng vây, nên mỗi ngả đường đều đặt đến ba chặng gác, chặng đầu giữ không được thì còn chặng giữa, chặng giữa giữ không được đã có chặng sau, ít nhất cũng đủ thì giờ hô hoán gọi tiếp ứng. Y lại sắp xếp mười mấy cao thủ tuần tra bốn mặt, sau đó Ô Lão Đại mới cùng Bất Bình đạo nhân, An động chúa, Tang Thổ Công, Hoắc động chúa, Khâm đảo chúa, cả thảy mấy chục người lên núi tìm kiếm nhà sư này để trừ khử cho dứt hậu hoạn.

Bọn Mộ Dung Phục được phân công canh giữ mặt phía đông. Phía này không hề có đường xuống núi, bề ngoài là mời giúp canh phòng, thật sự là bọn Ô Lão Đại không muốn họ tham gia. Mộ Dung Phục hiểu Ô Lão Đại còn nghi kỵ mình, chỉ khẽ cười rồi dẫn bọn Đặng Bách Xuyên qua mặt phía đông trấn thủ. Đoàn Dự chẳng sợ gì ai, không ngớt mở miệng ca tụng Hư Trúc là anh hùng hảo hán.

***

Người cướp túi vải đựng cô bé đúng là Hư Trúc. Hôm đó Đinh Xuân Thu cùng Mộ Dung Phục ác đấu kinh hồn trong phạn điếm, về sau Du Thản Chi cứu A Tử chạy đi, Đinh Xuân Thu phân tâm để Mộ Dung Phục thừa cơ giật được tay ra trốn thoát. Lúc đó Hư Trúc cũng nhân lúc lộn xộn chui từ phòng trong ra rồi cướp đường chạy trối chết. Y chạy ra khỏi phạn điếm, rồi toan đi tìm bọn Tuệ Phương sư bá sư thúc để xin chỉ thị. Từ lúc Hư Trúc phóng chưởng đánh chết sư bá tổ Huyền Nạn, y kinh hãi vô cùng, mất cả chủ ý. Y chưa có kinh nghiệm giang hồ, lại không thuộc đường lối, không dám gặp nhiều người mà cũng không dám vào quán trọ, chỉ tìm những nơi hẻo lánh mà đi.

Lúc đó ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa hẹn nhau đến hội họp tại hang núi, mỗi người đều dắt theo đệ tử nên nhân số rất đông. Hư Trúc dọc đường đã gặp bọn này, thấy nhiều nhân vật giang hồ bèn đi theo, hy vọng gặp bọn Tuệ Phương. Nhưng y thấy họ hình dung cổ quái, hành tung kỳ bí nên cũng sợ hãi, chỉ bí mật theo dõi. Hư Trúc chẳng hiểu gì về những chuyện ân oán giang hồ, nhưng bản tính nghĩa hiệp, sẵn dạ từ bi. Y thấy Ô Lão Đại vung quỷ đầu đao lên toan chém một bé gái câm điếc tuyệt không có khả năng kháng cự, liền thấy bất nhẫn vô cùng. Hư Trúc cũng chẳng hiểu ai phải ai trái, chỉ quyết cứu mạng cô bé, liền từ sau tảng đá lớn nhảy vọt ra, cướp lấy cái túi vải cõng lên lưng chạy trốn.

Hư Trúc đề khí chạy lên núi, thấy càng lên cao rừng cây càng rậm rạp. Phía sau vẫn nghe tiếng người huyên náo rượt theo nhưng mỗi lúc một xa dần. Lúc nhà sư ra tay cứu người chỉ vì lòng nghĩa hiệp nhất thời, bây giờ mới nghĩ đến bọn người này rất đông. Võ công đã ghê gớm mà thủ đoạn cũng vô cùng độc ác. Chỉ một tên trong đối phương ra tay là mình đã không địch nổi, huống chi họ đông người như thế. Nhà sư đâm ra sợ hãi, nghĩ thầm: “Bây giờ phải tìm một nơi kín đáo mà ẩn núp để họ không tìm thấy, thì tính mạng mình cùng cô bé này mới giữ được an toàn.” Lúc này y đi không cần tìm đường, cứ lựa chỗ nào cây cối rậm rạp nhất là xông vào.

Cũng may mà y đã nhận được bảy mươi năm công lực của vị lão nhân, chạy gần hai giờ mà chẳng thấy mệt nhọc chút nào. Nhà sư lại chạy một lúc nữa, trời bắt đầu sáng rõ. Mặt đất dưới chân y phủ đầy tuyết, thì ra chỗ này âm u lạnh lẽo, tuyết phủ quanh năm. Hư Trúc định thần nhìn xung quanh một lượt, tim vẫn đập thình thịch. Y tự hỏi: “Không biết mình phải chạy trốn đến chỗ nào mới yên?”.

Đột nhiên sau lưng y có tiếng quát: “Tên tiểu quỷ xấu xa kia, ngươi tưởng trốn được ư? Ta tưởng ngươi phải hổ thẹn mà chết.” Hư Trúc giật mình la hoảng: “Úi chao!”, rồi co giò chạy lên đỉnh núi như phát điên. Y chạy được mấy dặm mới dám dừng chân ngoảnh đầu lại, thì không thấy ai đuổi theo. Y yên tâm, tự nói: “Hay quá! Không có người đuổi theo.”

Y vừa dứt lời thì sau lưng lại có tiếng chế giễu: “Nam tử hán đại trượng phu gì mà nhát gan đến thế? Thật là đồ chuột nhắt mật nhỏ xíu!” Hư Trúc lại sợ cuống cuồng, cất bước chạy như bay, vẫn nghe thanh âm kia nheo nhéo ở đằng sau: “Đồ nhát gan, đồ ngu ngốc, chẳng được tích sự gì!” Dường như giọng nói chỉ cách chừng hai ba thước, người nói có thể với tay một cái là tóm được.

Hư Trúc nghĩ thầm: “Hỏng bét, hỏng bét! Võ công người này cao cường đến thế, mình nhất định không thoát khỏi độc thủ của hắn rồi!” Y nghĩ thế, nhưng vẫn gia tăng cước lực đến tột độ, mỗi lúc chạy một mau hơn. Thanh âm kia lại cất lên: “Nhát gan đến thế thì còn ra vẻ anh hùng cứu người làm chi? Ngươi định chạy trốn tới đâu?”

Lần này Hư Trúc nhận ra tiếng nói ngay sát bên tai, y sợ quá, hai chân nhũn ra suýt nữa té xuống, lảo đảo mấy bước rồi quay đầu lại nhìn. Lúc này trời đã sáng bạch, ánh mặt trời chiếu rõ cả khu rừng rậm rạp mà tuyệt không thấy bóng người. Hư Trúc nghĩ chắc người này ẩn nấp gần đấy, liền cung kính nói: “Tiểu tăng thấy người ta toan sát hại một cô bé nhỏ tuổi, nên không tự lượng sức mà xuất thủ cứu người, không dám tự nghĩ là có bụng anh hùng.”

Thanh âm kia cười nhạt rồi nói: “Ngươi hành động mà không biết tự lượng sức, thì chỉ chuốc khổ vào thân mà thôi!”

Thanh âm này tựa như ngay ở bên tai, Hư Trúc lại càng kinh hãi, hốt hoảng quay đầu nhìn lại mà phía sau nào thấy ai đâu? Nhà sư nghĩ bụng: “Thân pháp người này xuất quỷ nhập thần đến mức mình không trông thấy được, võ công y chắc chắn cao hơn mình mấy chục lần. Nếu y cố hại thì chỉ giơ tay lên một cái là lấy xong mười mạng Hư Trúc chứ đừng nói một. Nhưng nghe giọng điệu thì y chỉ trách mình bất tài nhát gan, dường như y không cùng phe với Ô Lão Đại.” Nghĩ vậy, Hư Trúc định thần lại rồi nói: “Tiểu tăng bất tài, dám xin tiền bối chỉ điểm cho.”

Người kia lại cười nhạt, nói: “Ngươi có phải là đồ tử đồ tôn gì của ta đâu mà ta phải chỉ điểm cho ngươi?” Hư Trúc đáp: “Dạ, dạ! Tiểu tăng ăn nói càn rỡ mong tiền bối tha tội cho. Bên địch rất đông người, tiểu tăng không phải là đối thủ, tiểu tăng muốn kiếm đường tẩu thoát.” Y nói xong, lại đề khí tiếp tục chạy lên đỉnh núi.

Thanh âm sau lưng lại vang lên: “Ngọn núi này là tuyệt lộ, bọn chúng canh giữ dưới chân núi cả rồi. Ngươi định chạy đi đâu cho thoát?” Hư Trúc hoang mang dừng bước, đứng ngẩn ra ấp úng: “Tiểu tăng… không biết làm thế nào, mà cũng không rõ đường đi. Xin tiền bối mở lòng từ bi chỉ điểm cho một lối thoát.” Giọng ở sau lưng lại cười hăng hắc, rồi hững hờ nói: “Hiện giờ chỉ có hai cách, một là ngươi chạy theo đường cũ xuống núi, xông vào trùng vây của địch mà giết sạch bọn yêu ma quỷ quái đó đi.” Hư Trúc đáp: “Một là tiểu tăng không đủ tài năng, hai là tiểu tăng không muốn giết người.” Thanh âm kia nói: “Vậy phải theo cách thứ hai, ngươi tung mình nhảy xuống vực sâu muôn trượng cho nát ra như cám, thì cả trăm điều cũng giải quyết xong hết!”

Hư Trúc ngập ngừng: “Cái đó…” Y quay đầu nhìn lại, trên mặt đất phủ tuyết chỉ thấy có vết chân mình, không thấy vết chân người thứ hai nào nữa. Y nghĩ thầm: “Người này đi trên tuyết mà không lộ vết chân, võ công tuyệt diệu không thể tưởng tượng được.” Thanh âm kia lại hỏi: “Ngươi tính thế nào?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng nhảy xuống vực thẳm mà chết thì cũng đành, nhưng lẽ nào để bé gái mà tiểu tăng đang cõng cũng phải chết theo. Như thế là cứu người mà lại hóa ra hại người, thật là không nỡ.”

Thanh âm kia lại hỏi: “Ngươi có liên quan gì với núi Phiêu Diểu không? Sao không tìm cách thoát thân mà còn mạo hiểm cứu người làm chi?” Hư Trúc vừa chạy tiếp lên đỉnh núi vừa cất tiếng đáp: “Núi Phiêu Diểu hay cung Linh Thứu gì gì đi nữa thì tiểu tăng cũng mới nghe thấy hôm nay, chẳng quen biết ai trên đó cả. Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, chuyến này mới vâng mệnh sư phụ xuống núi lần đầu. Bất luận là môn phái nào trên giang hồ, tiểu tăng cũng không có liên quan chi hết.” Thanh âm kia cười nhạt đáp: “Như vậy thì ngươi là một vị tiểu hòa thượng chùa Thiếu Lâm, thấy việc nghĩa mà làm phải không?” Hư Trúc đáp: “Là tiểu hòa thượng thì đúng, còn thấy việc nghĩa mà làm thì không dám nói. Tiểu tăng chẳng có kiến thức gì, nên hành động bừa bãi, hiện giờ trong lòng còn vô số vấn đề nan giải, không biết phải làm thế nào.”

Thanh âm kia nói: “Nội lực của ngươi thâm hậu hiếm có, nhưng hoàn toàn không phải nội lực phái Thiếu Lâm là nghĩa làm sao?” Hư Trúc đáp: “Chuyện này nói ra dài lắm, chính là một vấn đề đã làm tiểu tăng rối trí.” Thanh âm kia giục: “Dài ngắn cái gì? Ta không cho phép người nói lăng nhăng để bưng bít, mau mau nói thật đi!” Giọng nói đó đầy vẻ uy nghiêm, khó mà không tuân theo được. Nhưng Hư Trúc nhớ lại Tô Tinh Hà đã dặn: ba chữ Tiêu Dao Phái là bí mật, chỉ có người bản phái mới được biết, nên tuy nhà sư biết người phía sau mình là một bậc tiền bối bản lĩnh cao thâm, nhưng đến mặt mũi còn chưa trông thấy, thì không dám đem chuyện bí mật trọng đại như vậy ra kể với y. Hư Trúc nghĩ vậy liền đáp: “Xin tiền bối lượng thứ, thực tình tiểu tăng có nhiều nỗi khổ tâm không thể trình bày được.”

Thanh âm kia nói: “Được lắm! Đã thế thì ngươi đặt ta xuống thôi!” Hư Trúc giật bắn người lên, lắp bắp hỏi: “Cái… cái gì?” Thanh âm kia nhắc lại: “Ngươi đặt ta xuống đi, đừng hỏi lằng nhằng nữa.”

Hư Trúc không phân biệt rõ thanh âm này là nam hay nữ, chỉ biết là giọng nói của người già cả. Y không hiểu nổi tại sao người bí mật này lại bảo mình đặt y xuống, thực ra là ý gì. Nhà sư liền dừng bước quay đầu nhìn lại thì phía sau vẫn chẳng thấy bóng một ai, còn đang ngơ ngẩn thì thanh âm kia cất tiếng mắng: “Xú hòa thượng, mau đặt ta xuống. Ta ngồi trong cái túi vải trên lưng ngươi chứ ở đâu? Ngươi tưởng ta là ai?”

Hư Trúc hồn vía lên mây, kinh hãi quá bèn buông tay ra. Chiếc túi vải rớt xuống đất đánh “huỵch” một tiếng, người trong túi la lên: “Úi chao!” Tiếng kêu đau này cũng nghe rất già nua. Hư Trúc la lên một tiếng “Trời ơi!” rồi hỏi: “Tiểu cô nương! Là cô đấy à? Sao giọng nói của cô nghe già thế?” Y bèn cúi xuống, cởi miệng túi vải rồi đỡ cô bé dậy.

Cô này thân hình nhỏ bé, chỉ khoảng tám chín tuổi, nhưng hai mắt sáng như điện rất có thần khí, đang quắc lên nhìn Hư Trúc trông rất oai nghiêm. Y há hốc miệng ra hồi lâu, không nói nên lời. Cô bé cất tiếng: “Ngươi thấy bậc trưởng bối mà không thi lễ, thì còn ra nghĩa lý gì?” Thanh âm cô ra vẻ người già mà vẻ mặt cũng rất nghiêm nghị. Hư Trúc ngập ngừng: “Tiểu… cô nương…” Cô bé vội gắt lên: “Tiểu cô nương với đại cô nương cái gì? Ta là Mỗ Mỗ đây!” Hư Trúc mỉm cười nói: “Hiện giờ chúng ta đang bị hãm nơi tuyệt địa, cô nương chẳng nên nói giỡn. Lại đây, chui vào trong túi đi, để tiêu tăng cõng lên lưng mà trèo núi. Chỉ trong chốc lát là địch nhân đuổi đến nơi!”.

Cô bé đảo mắt nhìn Hư Trúc từ trên xuống dưới, đột nhiên thấy trên ngón tay y có đeo một cái nhẫn bảo thạch đen thì giật mình hỏi: “Ngươi… ngươi đeo cái gì thế kia? Đưa ta coi thử!” Thật ra Hư Trúc cũng không muốn đeo cái nhẫn này trên ngón tay, nhưng y biết đó là một vật rất trọng yếu không dám bỏ trong bọc, sợ sơ ý rớt mất. Nhà sư nghe cô bé hỏi tới cái nhẫn liền cười đáp: “Cái nhẫn đó không đẹp đâu.”

Cô bé đột nhiên vung tay ra, nắm lấy cổ tay trái Hư Trúc, để ý nhìn rất kỹ cái nhẫn. Cô nắm bàn tay Hư Trúc lật qua lật lại nhìn một hồi lâu. Hư Trúc cảm thấy bàn tay cô run rẩy không ngớt, bèn quay đầu lại nhìn, thấy đôi mắt vừa to vừa trong trẻo của cô đầy nước mắt. Một hồi lâu, cô bé mới buông tay y ra.

Cô bé lên tiếng hỏi: “Ngươi ăn cắp cái nhẫn này của ai?” Thanh âm cô cực kỳ nghiêm khắc, tựa như đang thẩm vấn đạo tặc. Hư Trúc có ý không bằng lòng, nói: “Kẻ xuất gia phải giữ nghiêm giới luật, sao lại trộm cắp được? Đây là vật của người ta cho tiểu tăng, sao cô lại bảo là đồ ăn cắp?” Cô bé nói: “Nói chuyện hồ đồ! Ngươi là đệ tử Thiếu Lâm thì sao người ta lại cho ngươi cái nhẫn này được? Ngươi mà không nói rõ đầu đuôi, thì bữa nay ta phải lột da róc xương để người biết thế nào là đau khổ.”

Hư Trúc bất giác bật cười, nghĩ bụng: “Nếu mình không nhìn thấy người, chỉ nghe thanh âm thì chắc phải bị cô bé này dọa cho bở vía.” Y đáp: “Tiểu cô nương!…” Ba tiếng này vừa ra khỏi miệng, đột nhiên nghe đánh “bốp” một cái, má bên trái nhà sư đã bị một cái tát, may mà cô bé yếu sức nên tát không đau lắm. Hư Trúc tức giận hỏi: “Sao cô xuất thủ đánh người? Còn bé mà đã dã man vô lễ như thế ư?”

Cô bé nói: “Pháp danh ngươi là Hư Trúc! Hừ! Linh, Huyền, Tuệ, Hư.. ngươi là đệ tử đời thứ ba mươi bảy phái Thiếu Lâm. Có phải ngươi kêu bọn tiểu hòa thượng Huyền Bi, Huyền Từ, Huyền Thống, Huyền Nạn bằng sư tổ không?”

Hư Trúc giật mình kinh hãi, lùi lại một bước. Tại sao cô bé này mới tám chín tuổi đã biết lai lịch các bậc trưởng bối phái mình, lại dám gọi các vị sư bá tổ, sư thúc tổ mình là Huyền Từ, Huyền Bi bằng tiểu hòa thượng? Cô ta nói chuyện đâu có giống như trẻ nít? Y nghĩ thầm: “Người ta vẫn đồn rằng trên đời có chuyện hồn người chết mượn xác. Hay là… có linh hồn một vị tiền bối nào nhập vào người cô bé này?”

Cô bé lại giục: “Ta hỏi ngươi, phải thì nói rằng phải, không thì nói rằng không, sao lại không đáp?” Hư Trúc liền đáp: “Cô nương nói không sai, nhưng cô gọi phương trượng đại sư bản tự bằng tiểu hòa thượng thì thái quá!” Cô bé nói: “Y chả là tiểu hòa thượng thì là gì? Ta ngang hàng với Linh Môn đại sư là sư phụ y, mỗi lần Huyền Từ gặp ta đều phải kính cẩn kêu bằng tiền bối. Ta kêu y bằng tiểu hòa thượng đã mười mấy năm nay rồi, có gì mà thái quá?” Hư Trúc lại càng kinh hãi. Linh Môn thiền sư là sư phụ Huyền Từ và là đệ tử đời thứ ba mươi tư chùa Thiếu Lâm. Những vị cao tăng nổi tiếng chùa Thiếu Lâm, Hư Trúc đều biết cả. Y càng nghe càng tin có linh hồn bậc trưởng bối nào đang nhập trong người cô này, liền hỏi: “Thế thì… thế thì cô là ai?”.

Cô bé giận dữ nói: “Ban đầu ngươi cứ mở miệng là gọi ta bằng tiền bối, ta tưởng ngươi là kẻ cung kính biết lễ. Sao bây giờ ngươi dám kêu ta bằng cô? Nếu mỗ mỗ không nghĩ đến ngươi đã có công cứu mạng thì đã phóng chưởng đánh chết tươi rồi!” Hư Trúc nghe thấy cô bé tự xưng là mỗ mỗ thì hoảng hồn đổi giọng nói: “Mỗ mỗ! Tiểu tăng không dám hỏi đến tôn tính đại danh nữa!” Cô bé hài lòng nói: “Thế mới là phải. Ta hỏi ngươi, cái nhẫn bảo thạch ngươi đeo trên ngón tay ở đâu ra?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng nói thực, đó là của một vị tiên sinh đã cho tiểu tăng. Thực ra tiểu tăng cũng không muốn nhận, vì mình là đệ tử phái Thiếu Lâm không được phép lãnh cái nhẫn này. Nhưng vị lão tiên sinh đó đến lúc lâm nguy không cho tiểu tăng phân giải…”

Cô bé đột nhiên lại thò tay ra nắm lấy cổ tay Hư Trúc, run run hỏi: “Ngươi nói… vị tiên sinh đó đến lúc… lâm nguy à? Y chết rồi ư? Không! Không! Ngươi nói đi, tướng mạo vị tiên sinh đó như thế nào?” Hư Trúc đáp: “Lão tiên sinh đó râu dài ba thước, mặt đẹp như ngọc, phong độ cực kỳ tuấn nhã.” Cô bé càng run rẩy hơn, hỏi: “Làm sao y lại lâm nguy? Bản lĩnh của y…” Đột nhiên cô tức giận, quát mắng: “Thằng trọc thối tha này! Vô Nhai Tử bản lĩnh phi thường, chưa tán công thì làm sao chết được? Người như y đâu có chết dễ dàng như vậy?” Hư Trúc gật đầu đáp: “Dạ, dạ!” Cô bé tuy còn nhỏ tuổi nhưng cái thế khiếp người, Hư Trúc vừa kính cẩn vừa sợ hãi, nên mặc dầu chẳng hiểu gì hết vẫn không dám cãi lý, mà cũng không dám hỏi lại. Y tự hỏi: “Tán công là thế nào? Người ta chết dễ như không, sao cô này lại bảo là khó?”

Cô bé lại hỏi: “Ngươi gặp Vô Nhai Tử ở đâu?” Hư Trúc hỏi lại: “Phải chăng tiền bối hỏi về lão tiên sinh mặt mũi khôi ngô, sư phụ của Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà?” Cô bé đáp: “Dĩ nhiên là ta hỏi y. Hừ! Ngươi không biết cả tên tuổi y, rõ ràng ngươi bảo y đã cho ngươi cái nhẫn này là nói dối. Ngươi không những mặt dày vô sỉ mà còn to gan lớn mật nữa.”

Hư Trúc hỏi: “Tiền bối có quen biết Vô Nhai Tử lão tiên sinh ư?” Cô bé tức mình quát lên: “Ta hỏi mi chứ có phải mi hỏi ta đâu? Mi gặp Vô Nhai Tử ở đâu? Nói mau” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng gặp lão tiên sinh đó trên một ngọn núi. Sở dĩ có cuộc gặp gỡ này là vì tiểu tăng ngẫu nhiên phá được thế cờ Trân Lung kỳ bí mà ra.”

Cô bé vung tay toan tát y, nhưng lại rụt tay về, chỉ quát mắng: “Mi ăn nói hồ đồ. Thế cờ đó bày ra đã mấy chục năm, bao nhiêu kẻ sĩ tài trí còn chưa phá được. Gã thầy chùa ngu dốt như mi mà đòi phá giải ư? Mi còn nói láo thì ta không lịch sự nữa đâu!”

Hư Trúc nói: “Tiểu tăng không có bản lĩnh phá thế Trân Lung đó đâu, chỉ vì khi đó ở vào thế cưỡi cọp, Thông Biện tiên sinh bức bách tiểu tăng phải đi một nước cờ, tiểu tăng đành nhắm mắt lại, cầm quân cờ đặt bừa xuống bàn. Ngờ đâu quân cờ đó chẹn họng chết hết một đám quân trắng bên mình, nhưng thế cờ thành trống trải rồi sau cùng phá giải được, chỉ là may mắn mà thôi. Vì tiểu tăng liều lĩnh đi một nước cờ mà rồi sau vướng phải tội lỗi không ít. Thật là tội nghiệt! Hỡi ôi! A di đà Phật! A di đà Phật!” Y chắp tay trước ngực, niệm Phật một hồi.

Cô bé bán tín bán nghi nói: “Mi nói như vậy thì cũng hơi có lý…” Chưa dứt lời thì đột nhiên dưới sườn núi có tiếng gọi nhau văng vẳng, rồi tiếng chân người nhộn nhịp. Hư Trúc la hoảng: “Ôi chao!” Y hấp tấp bỏ cô bé vào lại túi vải rồi đặt lên lưng, co giò chạy lên núi như kẻ phát điên.

Nhà sư chạy được một lúc thì tiếng la ó nghe đã xa xa. Y quay đầu lại, thấy vết chân mình in trên tuyết rõ mồn một, bất giác la hoảng lên: “Nguy rồi!” Cô bé hỏi: “Việc gì mà nguy?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng lưu vết chân lại trên mặt tuyết thì dù có chạy xa đến đâu, họ cũng theo dấu vết đuổi đến nơi được.” Cô bé nói: “Phi thân đi trên ngọn cây thì không để lại vết chân. Đáng tiếc là võ công ngươi kém cỏi quá, có cái thuật khinh công nhỏ mọn mà cũng không biết. Tiểu hòa thượng! Xem chừng nội lực ngươi cũng khá, nhảy lên thử xem.”

Hư Trúc nói: “Dạ! Để tiểu tăng thử.” Rồi y tung mình nhảy lên cao quá ngọn cây, nhưng lúc hạ xuống đáp vào cành cây thì nặng nề quá, cành cây gãy răng rắc rồi cả người lẫn cành rớt xuống. Đáng lẽ y té ngửa đè lên cái túi, nhưng tâm địa nhân từ, sợ mình đè cô bé bị thương, bèn cố lật mình té sấp xuống. “Binh” một tiếng, trán y đập vào một tảng đá rách da chảy máu, bèn la rầm lên: “Ôi chao! Ôi chao!” Rồi Hư Trúc lồm cồm gượng đứng lên, xấu hổ nói: “Tiểu tăng… ngu dốt quá, không nhảy được!”

Cô bé nói: “Ngươi chịu bị thương chứ không đè lên ta, thế là biết cung kính mỗ mỗ. Mỗ mỗ một là muốn lợi dụng, hai là muốn thưởng công, bây giờ ta dạy cho ngươi cách phi thân. Nghe cho rõ đây: Lúc tung người lên thì phải co hai đầu gối lại, đề tụ chân khí vào huyệt Đan Điền, lúc chân khí đưa người lên rồi thì thả lỏng thân thể, phong bế huyệt Ngọc Chẩm…” Cô bé giải thích từ từ, rồi lại dạy cho Hư Trúc chuyển hướng lúc người đang ở trên không, tạt ngang hay vượt lên cao hơn nữa phải làm thế nào. Cô bé dạy xong rồi nói: “Ngươi hãy theo phương pháp của ta lại nhảy lên đi!”

Hư Trúc nói: “Dạ! Để tiểu tăng thử nhảy một mình xem sao đã, sợ lúc té xuống làm đau tiền bối.” Nhà sư nói xong toan đặt cái túi trên lưng xuống. Cô bé tức giận quát lên: “Mỗ mỗ đã đem bản lĩnh dạy ngươi chẳng lẽ còn sai lầm ư? Thử làm cái quái gì? Nếu lần này ngươi lại té nữa thì mỗ mỗ lập tức giết chết ngươi đó.”

Hư Trúc sợ hãi vô cùng, bất giác nghĩ mình đang cõng một hồn ma nhập vào xác người, thì mồ hôi toát ra như tắm, toan quăng cái túi vải ra xa nhưng lại không dám. Rồi y nghiến răng vận khí theo đúng phép của cô bé vừa truyền thụ, co hai chân tung mình nhảy lên. Lần này nhà sư vận khí theo đúng lời dạy của cô bé, bế huyệt Ngọc Chẩm, nên lúc nhảy, người y từ từ đưa lên trên không.

Dù y đang lơ lửng trong không gian mà chuyển hưởng theo ý muốn cũng rất dễ dàng. Nhà sư mừng quá, la lên: “Được rồi! Được rồi!” Không ngờ y vừa mở miệng, chân khí tiết ra ngoài, người lại rớt xuống. May mà lần này rớt thẳng, hai chân đụng mạnh xuống đất chỉ thấy hơi đau, không đến nỗi ngã lăn ra.

Cô bé lớn tiếng mắng: “Đồ ngốc! Giả tỉ ngươi muốn mở miệng ra nói thì phải biết điều hòa hô hấp đã. Bước thứ nhất chưa xong đã muốn đến bước thứ năm, thứ sáu rồi!” Hư Trúc nói: “Dạ dạ! Tiểu tăng ngu ngốc!” Nhà sư lại đề khí nhảy lên, rồi nhẹ nhàng đáp xuống một cành cây. Lần này cành cây chỉ rung chứ không gãy rời.

Hư Trúc mừng thầm, nhưng không dám mở miệng hoan hô. Y theo lời của cô bé nhảy xa hơn một trượng đáp xuống cành cây thứ hai, rồi lại chuyển sang cành cây thứ ba. Càng lúc y vận khí càng thuận tiện, thân mình nhẹ nhõm, sức lực sung túc, càng nhảy càng xa. Về sau nhà sư nhảy một cái là vượt qua hai cành cây, rồi vọt từ cây nọ sang cây kia nhanh thoăn thoắt, lơ lửng trên không chẳng khác gì cưỡi gió mà đi. Y không khỏi vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Đỉnh núi đầy tuyết phủ, cây mọc dày chi chít, nhà sư nhảy chuyền từ ngọn cây này sang ngọn cây kia thì người đi dưới đất không biết dấu vết đâu mà truy tìm. Chẳng bao lâu nhà sư đã vào đến giữa khu rừng sâu thẳm.

Cô bé nói: “Được rồi! Thôi xuống đi!” Hư Trúc đáp ngay: “Vâng!”, rồi từ từ nhảy xuống, đỡ cô bé ra khỏi túi vải.

Cô bé thấy mặt nhà sư lộ vẻ vui mừng không giấu được, thì lại cất tiếng mắng: “Tên tiểu hòa thượng này chẳng ra gì, mới học được một chút công phu thô thiển mà đã vui mừng tự mãn.” Hư Trúc nói: “Dạ dạ! Tiểu tăng nhãn giới rất thiển cận. Tuyệt nghệ mỗ mỗ dạy cho tiểu tăng thật là hữu dụng…” Cô bé nói: “Ngươi mới học một lượt đã hiểu ngay, mỗ mỗ nhìn ngươi quả đã không lầm. Nhưng nội lực của ngươi không phải thuộc phái Thiếu Lâm. Vậy ngươi đã học võ công của ai? Sao ngươi còn nhỏ tuổi mà nội công đã thâm hậu đến thế?”

Hư Trúc cảm thấy trong lòng chua xót, cặp mắt bất giác đỏ hoe, đáp: “Đó là Vô Nhai Tử lão tiên sinh lúc lâm chung đã đem nội lực bảy mươi năm tu luyện truyền vào trong thân thể tiểu tăng. Thực tình tiểu tăng không dám phản bội phái Thiếu Lâm để đi theo phái khác. Nhưng khi đó Vô Nhai Tử lão tiên sinh chẳng đợi tiểu tăng nói năng gì, hóa giải ngay công lực Thiếu Lâm của tiểu tăng, rồi truyền công phu của mình sang. Tiểu tăng chẳng biết đó là phúc hay là họa. Hỡi ôi! Nhất định sau này tiểu tăng phải về lại chùa Thiếu Lâm, nhất định… nhất định…” Nhà sư cứ “nhất định” một hồi, mà chẳng biết nhất định phải làm gì.

Cô bé ngơ ngẩn không nói gì, cầm túi vải trải lên tảng đá, ngồi trầm tư một lúc rồi nhẹ nhàng hỏi: “Vậy thì Vô Nhai Tử đã truyền chức chưởng môn phái Tiêu Dao cho ngươi ư?” Hư Trúc nói: “Thì ra… thì ra mỗ mỗ cũng biết đến phái Tiêu Dao?” Y từng nghe Tô Tinh Hà nói, người ngoài phái mà nhắc đến ba chữ “phái Tiêu Dao” thì quyết không để sống, bây giờ y thấy cô bé chính miệng nói ra mới dám nói theo. Y lại càng tin chắc cô bé này là một vị tiền bối nào mượn xác để hoàn hồn, là ma quỷ chứ không phải người. Dù có muốn giết cô này cũng không biết giết phải ai?

Cô bé tức giận nói: “Ta mà lại không biết phái Tiêu Dao ư? Ta biết phái Tiêu Dao trước cả Vô Nhai Tử là khác.” Hư Trúc “Dạ dạ!”, nghĩ thầm: “Chắc bà này là hồn ma đã mấy trăm năm về trước, dĩ nhiên già hơn Vô Nhai Tử lão tiên sinh nhiều.”

Bỗng thấy cô bé lượm một cành khô vạch xuống mặt đất đầy tuyết phủ thành một bàn cờ vây, ngang mười chín hàng, dọc mười chín hàng. Hư Trúc ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm: “Cô này lại bắt mình đánh cờ thì hỏng bét.” Y thấy cô bé vẽ xong bàn cờ, lại vẽ quân cờ, khuyên tròn trống ở giữa là quân trắng, khuyên tròn có một chấm ở giữa là quân đen. Bàn cờ chi chít những quân, đến lúc cô bé vẽ xong một nửa, Hư Trúc đã nhận ra đó là thế Trân Lung bí hiểm của Vô Nhai Tử trước kia. Y nghĩ thầm: “Té ra cô này cũng biết thế cờ kỳ bí đó.” Rồi y tự hỏi: “Phải chăng ngày trước cô không phá nổi thế cờ này nên tức quá mà chết?” Y nghĩ đến đây thì ớn lạnh cả xương sống.

Cô bé vẽ thế cờ xong, cất tiếng nói: “Ngươi bảo đã giải được thế cờ này, vậy đầu tiên đi thế nào, ngươi thử diễn lại cho ta coi!” Hư Trúc đáp: “Dạ!”, rồi vẽ một con cờ vít chết một đống quân của mình. Cục diện bàn cờ lập tức cởi mở, rồi y tiếp tục diễn lại những nước được Đoàn Diên Khánh truyền âm chỉ thị, phản kích lại quân đen. Bất giác mồ hôi cô bé toát ra ướt cả trán, miệng lẩm bẩm: “Ý trời, thật là ý trời! Trong thiên hạ làm gì có ai nghĩ ra phương pháp phải tự sát trước rồi mới giết người sau?” .

Cô bé đợi Hư Trúc diễn lại xong cách phá thế Trân Lung, trầm ngâm một lúc rồi nói: “Xem ra tiểu hòa thượng là người thành thực chứ không phải ăn nói hồ đồ. Còn Vô Nhai Tử truyền cái nhẫn thất bảo này lại cho ngươi như thế nào, ngươi kể hết lại cho ta nghe. Ngươi phải nói cho thật đúng, chỉ sai nửa câu là mất mạng.”

Hư Trúc đáp: “Vâng”, rồi nhà sư kể lại từ đầu, mình được sư phụ sai xuống núi, lý do phá thế cờ bí hiểm, Vô Nhai Tử truyền công trao nhẫn, Đinh Xuân Thu ám hại Tô Tinh Hà cùng Huyền Nạn đại sư, rồi mình đi kiếm bọn sư bá Tuệ Phương. Y từ từ kể lại cho cô bé không sót mảy may.

Cô bé không nói một câu, chăm chú nghe xong mới lên tiếng: “Vậy thì Vô Nhai Tử rõ ràng là sư phụ ngươi. Thế mà ngươi không kêu y bằng sư phụ, lại kêu bằng lão tiên sinh, là nghĩa làm sao?” Hư Trúc bẽn lẽn đáp: “Tiểu tăng vốn là hòa thượng chùa Thiếu Lâm, nhất định không thể quy đầu môn phái nào khác.” Cô bé lại hỏi: “Ngươi không muốn làm chưởng môn phái Tiêu Dao ư?” Hư Trúc lắc đầu lia lịa, đáp: “Ngàn vạn lần không muốn.” Cô bé liền nói: “Vậy thì dễ lắm, ngươi trao cái nhẫn thất bảo đó lại cho ta. Ta thay ngươi làm chưởng môn phái Tiêu Dao, có được không?” Hư Trúc cả mừng đáp: “Chuyện đó tiểu tăng cầu còn chưa được.” Nói xong nhà sư tháo chiếc nhẫn bảo thạch ở ngón tay ra, trao lại cho cô bé.

Cô bé thần sắc bất định, nửa như vui nửa như buồn, đón lấy chiếc nhẫn. Ngờ đâu ngón tay cô nhỏ quá, ngón giữa và ngón vô danh không thể đeo vừa, cô đành gắng gượng đeo vào ngón cái, dường như không vừa ý. Cô bé lại hỏi: “Ngươi còn nói Vô Nhai Tử trao cho một tấm đồ hình, dặn ngươi đến Vô Lượng Sơn ở Đại Lý tìm người để học Bắc Minh Thần Công. Tấm đồ hình ấy đâu?”

Hư Trúc thò tay vào bọc lấy đồ hình ra. Cô bé mở ra xem, vừa thấy mỹ nữ cung trang trong bức đồ hình, đột nhiên cô sa sầm nét mặt, cất tiếng mắng: “Lão.. lão bảo ngươi đi tìm con tiện tì này để học võ công! Thì ra lão chết đến nơi mà vẫn không quên được con tiện tì, vẽ chân dung nó đẹp đến thế này!” Mặt cô đầy vẻ oán hận, liệng bức vẽ xuống đất, giẫm chân lên.

Hư Trúc kêu: “Trời ơi!”, rồi vội cúi xuống nhặt lên. Cô bé tức tối hỏi: “Mi tiếc ư? Hư Trúc đáp: “Bức tranh đẹp như thế, dĩ nhiên đáng tiếc.” Cô bé hỏi: “Con tiện tì đó là ai, tên tiểu tặc Vô Nhai Tử có bảo ngươi không?” Hư Trúc lắc đầu đáp: “Không!” Y nghĩ thầm: “Không hiểu sao Vô Nhai Tử lão tiên sinh đã biến thành tên tiểu tặc Vô Nhai Tử rồi?”

Cô bé vẫn hầm hầm tức giận nói: “Hừ! Tên tiểu tặc này si mê quá, đừng nói bây giờ mà ngay mấy chục năm về trước, dung mạo con tiện nhân kia cũng không xinh đẹp đến thế này.” Cô càng nói càng tức, thò tay ra toan giựt lấy bức họa, Hư Trúc vội cất ngay vào bọc. Cô bé không cướp được mỹ nhân đồ, tức quá thở lên hồng hộc, chửi mắng không tiếc lời: “Tên tiểu tặc vô lương tâm! Con tiện tì vô liêm sỉ!” Hư Trúc đứng ngẩn người ra, không hiểu vì lý do gì mà cô bé lại nổi giận. Y đoán là quỉ hồn đang nhập vào cô bé có quen biết mỹ nhân trong bức họa, hai người này có mối thù oán gì đó, nên bây giờ vừa thấy hình người trên bức vẽ là tức giận không nhịn được.

Cô bé còn đang vừa thóa mạ vừa nguyền rủa, thì bụng Hư Trúc đột nhiên kêu òng ọc một hồi. Suốt đêm qua cho tới sáng nay y mãi lo chạy trốn, chưa được hạt cơm nào vào ruột, nên đói đến sôi bụng.

Cô bé hỏi: “Ngươi đói lắm phải không?” Hư Trúc đáp: “Đúng thế! Trên ngọn núi đầy tuyết phủ này, chẳng có thứ gì ăn được.” Cô bé nói: “Sao lại không có? Trên núi này có gà rừng, có hươu nai, lại có cả sơn dương. Bây giờ ta dạy cho ngươi cách chạy nhanh dưới đất, để ngươi đi bắt gà rừng cùng hươu nai cầy cáo…” Hư Trúc không chờ cô bé nói hết vội xua tay ngắt lời: “Kẻ tu hành không thể sát sinh được! Tiểu tăng thà chịu chết đói, quyết không ăn mặn.” Cô bé tức mình mắng: “Tặc hòa thượng! Chẳng lẽ suốt đời ngươi không ăn mặn sao?”

Hư Trúc nhớ lại hôm vào quán cơm đã bị một cô gái giả trai đánh lừa ăn một miếng thịt béo và húp nửa bát thang gà, nhăn nhó đáp: “Có một lần tiểu tăng bị người ta lừa gạt ăn phải đồ mặn, nhưng đó chỉ là vô tâm không biết, chắc đức Phật không bắt tội. Còn bảo tiểu tăng tự tay sát sinh thì nhất quyết không thể được.”

Cô bé nói: “Ngươi không dám giết gà giết hươu, thế mà giết người thì còn đại ác hơn nhiều”. Hư Trúc kinh ngạc hỏi lại: “Tiểu tăng mà giết người ư? A di đà Phật! Tội lỗi, tội lỗi.” Cô bé nói: “Ngươi còn niệm Phật thì thật là buồn cười. Ngươi không đi bắt gà rừng cho ta ăn thì chỉ trong hai giờ nữa là ta phải chết, thế là ngươi giết ta đó!” Hư Trúc gãi đầu gãi tai nói: “Trên núi này chắc có rau thơm, có măng tre, để tiểu tăng đi kiếm về cho tiền bối dùng.” Cô bé sầm mặt lại, chỉ tay lên trời nói: “Lúc mặt trời lên tới đỉnh đầu mà ta không được ăn đồ huyết thực, nhất định là phải chết.” Hư Trúc cực kỳ kinh hãi, nói: “Sao tiền bối lại phải ăn đồ huyết thực?” Y nghĩ ngay tới loài quỷ hút máu, sợ đến lạnh xương sống.

Cô bé lại nói tiếp: “Ta mắc một chứng bệnh kỳ quái là hàng ngày cứ đúng giờ ngọ không được ăn đồ huyết thực thì chân khí trong người tôi lên sùng sục, phát điên lên mà chết, e rằng nguy hiểm cho ngươi.” Hư Trúc vẫn lắc đầu quây quậy nói: “Đành chịu thôi. Đệ tử nhà Phật thì phải nghiêm thủ thành quy giới luật. Tự mình dĩ nhiên không được sát sinh, mà thấy người ta có ý định sát sinh cũng phải hết sức ngăn cản.”

Cô bé quắc mắt lên nhìn, thấy y tuy ra chiều sợ hãi song rất kiên quyết, không chịu khuất phục mình. Cô liền đổi giọng cười hì hì rồi hỏi: “Ngươi tự xưng là đệ tử nhà Phật, nghiêm thủ thanh quy giới luật. Vậy có những giới luật gì?” Hư Trúc đáp: “Giới luật nhà Phật chia làm giới căn bản và giới đại thừa, hai thứ riêng biệt.” Cô bé cười khẩy hỏi: “Rắc rối nhỉ? Giới căn bản, giới đại thừa là những gì?” Hư Trúc đáp:“Giới căn bản tương đối dễ hơn và chia ra làm bốn bậc, một là ngũ giới, hai là bát giới, ba là thập giới và bốn là cụ túc giới tức là hai trăm năm mươi giới. Cư sĩ tu tại gia phải giữ gìn ngũ giới, đầu tiên là không sát sinh, thứ hai là không trộm cắp, thứ ba là không dâm tà, thứ tư là không nói dối, thứ năm là không uống rượu. Tỳ kheo xuất gia thì trước hết phải giữ bát giới rồi sang đến thập giới và cuối cùng rộng ra đến cụ túc hai trăm năm mươi giới, còn nghiêm mật hơn nhiều. Nói sao thì nói, không được sát sinh là giới cấm quan trọng nhất của đệ tử nhà Phật.”.

Cô bé trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Ta nghe nói những bậc cao tăng cửa Phật nếu muốn thành chánh quả thì phải giữ Thượng thừa giới và còn kêu bằng Thập nhân, có đúng thế không?” Hư Trúc kinh hãi đáp: “Đúng thế! Giới đại thừa phải xả thân cứu người, hành xử theo thập nhân.” Cô bé hỏi: “Thập nhân là những gì?”

Võ công Hư Trúc tầm thường, nhưng y thuộc kinh Phật làu làu, bèn đáp ngay: “Trong thập nhân thì một là cắt thịt nuôi chim ưng, hai là cúng thần cho hổ đói, ba là chặt đầu tạ cho trời, bốn là bẻ xương xuất tủy, năm là đem thân đốt thiên đăng, sau là móc mắt ra bố thí, bảy là lột da để chép kinh, tám là đâm vào tim để thề thốt, chín là đốt thân thể cúng Phật, mười là lấy máu tưới cho đất.”

Y kể một điều, cô bé cười khẩy một tiếng. Y kể xong, cô bé cười hỏi: “Cắt thịt nuôi chim ưng là thế nào?” Hư Trúc đáp: “Tiền kiếp đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy con chim ưng đói toan vồ con bồ câu, trong lòng bất nhẫn, liền giấu con bồ câu vào trong lòng. Con chim ưng đòi hỏi: “Ngài cứu tính mạng con bồ câu mà để ta chết đói, há chẳng phải hại mạng ta sao?” Đức Phật liền xẻo thịt mình cho con chim ưng ăn.” Cô bé lại hỏi: “Thế thì cái tích cúng thân cho hổ đói đại khái cũng thế thôi chứ gì?” Hư Trúc đáp: “Đúng thế!”

Cô bé lại nói: “Xem thế thì biết thanh quy giới luật của nhà Phật vừa thâm sâu vừa quảng đại, há chỉ ba chữ Không Sát Sinh mà thôi. Giả tỉ ngươi không đi bắt gà rừng cùng hươu nai cho ta ăn, thì cũng nên bắt chước Thích Ca Mâu Ni, tự lấy máu thịt trong người để cúng dường cho ta ăn uống, không làm thế thì không phải đệ tử Phật môn.” Cô bé vừa nói vừa túm lấy tay Hư Trúc, vén cao tay áo lên để lộ da thịt, rồi cười nói: “Ta ăn cánh tay này của ngươi, cũng sống được một ngày.”

Hư Trúc thấy cô bé nhe hai hàm răng trắng nhởn, tựa như muốn há miệng cắn vào cánh tay mình thì không khỏi rùng mình. Chính ra cô này chỉ mới tám chín tuổi, sức lực chả có gì đáng sợ, nhưng trong lòng Hư Trúc vẫn yên trí đó là nữ quỉ mượn xác hoàn hồn, thấy cô có ý nghĩ bất chính, bất giác hoảng hốt, la lên một tiếng thật to rồi hất tay cô bé ra, rảo bước chạy lên đỉnh núi.

Trong lúc hốt hoảng, y hét vang động một góc rừng… Bỗng thấy trên sườn núi phía xa xa có tiếng người hô hoán: “Đây rồi! Các vị mau mau qua bên này.” Tiếng hô vừa vang dội vừa dõng dạc, chính là thành âm của Bất Bình đạo nhân

Hư Trúc lẩm bẩm: “Nguy rồi! Mình hét to quá nên tiết lộ hành tung, bây giờ biết làm thế nào?” Y cũng chưa dám quay về chỗ cũ để cõng cô bé chạy, còn bỏ cô ta lại để chạy một mình thì không nỡ, liền dừng bước đứng trên sườn núi, trong lòng do dự. Y nhìn xuống thì thấy bốn năm cái chấm đen đang bò lên, tuy còn xa nhưng rồi cũng có lúc đến nơi. Cô bé kia lọt vào tay họ thì dĩ nhiên khó lòng thoát chết.

Nhà sư lại chạy xuống mấy bước gọi: “Tiền bối! Nếu tiền bối phát thệ không cắn tiểu tăng thì tiểu tăng sẽ cõng tiền bối chạy trốn.” Cô bé cười ha hả đáp: “Ngươi trở lại đây, ta nói cho mà nghe. Năm người đang trèo lên thì người đi đầu là Bất Bình đạo nhân, thứ hai là Ô Lão Đại, thứ ba là gã họ An, còn hai người nữa thì một họ La và một họ Lợi. Trước hết ta phải dạy cho ngươi mấy chiêu để đánh ngã lão Bất Bình đạo nhân.” Ngừng một lát, cô lại mỉm cười nói tiếp: “Ngươi chỉ đánh cho lão ngã ra, không hại mạng mà cũng không đả thương, như vậy không thể gọi là sát sinh hay phá giới được.” Hư Trúc đáp: “Vì cứu người mà đánh ngã cường đồ, tất nhiên là việc phải làm. Nhưng Bất Bình đạo nhân cùng Ô Lão Đại võ công phi phàm, tiểu tăng làm sao đánh ngã họ? Bản lĩnh của tiền bối tuy cao thâm nhưng trong khoảnh khắc thì tiểu tăng không thể học kịp” .

Cô bé mắng: “Đồ ngu! Vô Nhai Tử là sư phụ Tô Tinh Hà cùng Đinh Xuân Thu. Võ công hai gã Tô, Đinh thế nào ngươi cũng đã biết rõ rồi, đồ đệ đến mức đó thì bản lĩnh sư phụ có thể nghĩ ra mà biết rõ được. Y đã đem cả công lực tu luyện bảy mươi năm truyền cho ngươi, thì bọn Bất Bình đạo nhân, Ô Lão Đại bì với ngươi thế nào được? Chỉ vì ngươi ngu ngốc quá nên không biết vận dụng nội lực mà thôi. Ngươi cầm túi vải lại đây, hít mạnh một hơi, vận chân khí vào cánh tay phải rồi mở miệng túi ra. Còn tay trái thì đập vào sau lưng địch nhân…” Hư Trúc học theo cô bé, nhưng y vẫn không tin mấy thủ pháp này lại hạ được những tay cao thủ võ lâm kia.

Bỗng nghe cô bé nói tiếp: “Sau đó ngươi lấy ngón tay trỏ bên trái điểm vào những bộ vị này của địch nhân. Phải vận khí theo đúng cách thức, điểm vào bộ vị bên địch không được sai trệch chút nào, sai một ly thì đi một dặm. Lúc lâm địch, nếu không hạ được địch nhân là có thể mất mạng như chơi.”

Hư Trúc ráng nhớ thật kỹ những lời cô bé chỉ dẫn. Có điều mấy thủ pháp đó mau lẹ quá, tuy chỉ có năm sáu chiêu thức, nhưng mỗi chiêu thức lại kèm theo những thân pháp, bộ pháp, chưởng pháp đặc biệt kỳ diệu. Nào là hạ bàn phải đứng vững, thượng bàn phải chếch đi… thực là phức tạp vô cùng. Hư Trúc luyện một hồi lâu mà vẫn chưa đúng cách. May mà trí nhớ y rất tốt, cô bé dạy những gì y đều nhớ không sót một câu. Nhưng khi diễn lại tất cả các chiêu thức thì lần nào y cũng lầm lẫn, sai trật.

Cô bé dạy tới dạy lui mấy lần vẫn chưa được như ý, tức quá cất tiếng mắng: “Đồ ngu! Vô Nhai Tử chọn ngươi làm truyền nhân thì chắc là y đui mắt rồi. Giả tỉ ngươi là một gã thiếu niên tuấn tú thì còn hiểu được, đằng này ngươi lại là một thằng trọc con vừa ngu dốt vừa xấu xí. Ta không hiểu sao Vô Nhai Tử coi ngươi vừa mắt ở chỗ nào.”

Hư Trúc nói: “Vô Nhai Tử lão tiên sinh cũng kể với tiểu tăng là đã cố tìm một thiếu niên phong lưu tuấn nhã để làm truyền nhân. Lề luật của phái Tiêu Dao thật là kỳ quái. Từ đây trở đi, tiền bối giữ lấy chức chưởng môn phái Tiêu Dao…” Rồi y không nói nữa, trong lòng nghĩ: “Tiền bối chỉ là một con quỷ già nhập vào các vị tiểu cô nương, cũng chẳng phải là thiếu niên tuấn tú gì.”

Hư Trúc luyện thêm hai lần nữa, nhưng một lần thì tay phải đưa ra lẹ quá, một lần thì ngón tay điểm lệch đi một chút. Y rất kiên nhẫn, toan luyện lại nữa, thì bỗng nghe tiếng bước chân vang lên. Bất Bình đạo nhân chạy như bay, đã đuổi lên tới nơi. Lão cười nói: “Tiểu hòa thượng! Ngươi chạy lẹ quá chừng, làm ta đuổi mệt quá!” Lão điểm ngón chân xuống đất, nhảy xổ đến.

Hư Trúc tự biết mình không địch nổi, toan xoay mình chạy trốn thì cô bé lại quát lên: “Theo đúng thủ pháp mà đối phó, không được sai lầm.” Hư Trúc không suy nghĩ gì nữa, mở miệng cái túi vải ra, vận chân khí vào cánh tay rồi nhắm tới Bất Bình đạo nhân đánh ra một chưởng.

Bất Bình đạo nhân mở miệng thóa mạ: “Thằng lỏi con! Ngươi dám ngang nhiên động thủ với đạo gia ư?” Rồi lão vung chưởng lên đánh. Hư Trúc không chờ phát chưởng tới nơi, đã đưa chân ra móc, Bất Bình đạo nhân liền loạng choạng trượt về phía trước. Hư Trúc lại vòng tay trái, vận chân khí vỗ vào lưng lão. Lạ thay! Bất Bình đạo nhân là tay bản lĩnh phi thường, coi ba mươi sáu đảo chúa cùng bảy mươi hai động chúa không vào đâu, mà không chịu nổi một chưởng này của Hư Trúc, người lão lạng đi rồi chui tọt vào miệng cái túi vải. Hư Trúc cả mừng toan phóng chỉ điểm vào huyệt Ý Xá trên xương sống của lão. Hư Trúc chưa học công phu điểm huyệt, lại trong lúc vội vàng nên điểm trệch đi một chút, trúng vào huyệt Dương Võng ở phía trên huyệt Ý Xá một chút.

Bất Bình đạo nhân rú lên một tiếng, chui được ra ngoài cái túi vải, lùi lại mấy bước rồi lăn người xuống sườn núi.

Cô bé than thở liên hồi: “Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!” Rồi cô quay lại mắng Hư Trúc: “Đồ ngu! Ta biểu ngươi điểm vào huyệt Ý Xá cho y hết đường cục cựa, ngươi lại điểm huyệt Dương Võng làm chi?”

Hư Trúc vừa kinh hãi vừa mừng thầm nói: “Thủ pháp của tiền bối thật là tuyệt diệu! Tuy tiểu tăng điểm trật chỗ cũng đủ làm cho lão một phen bở vía, sung sướng lắm rồi.” Lúc đó Ô Lão Đại đã nhảy tới nơi, Hư Trúc lại giương miệng túi ra nói: “Ngươi lại đây thử xem.”

Ô Lão Đại thấy Bất Bình đạo nhân mới đánh một chiêu đã rớt xuống núi thì trong lòng nao núng. Lão giơ thanh Lục Ba Hương Lộ Đao lên, xuất chiêu Vân Nhiễu Vu Sơn chém xéo vào người Hư Trúc. Hư Trúc kinh hãi la lên: “Ôi chao, nguy rồi! Y dùng đao thì tiểu tăng không đối phó được, tiền bối chưa dạy tiểu tăng phương pháp. Bây giờ có dạy cũng không kịp nữa…”

Cô bé cũng la lên: “Ngươi lại đây ôm ta nhảy lên ngọn cây.” Lúc này Ô Lão Đại đã chém liền ba đao, may mà hắn còn sợ chưa dám sấn vào, ba nhát đao đó chỉ chém hờ bên ngoài. Thế mà Hư Trúc đã ôm đầu chạy như chuột, tình thế rất là nguy cấp. Nhà sư nghe tiếng cô bé gọi thì mừng rỡ nghĩ thầm: “Phương pháp nhảy lên ngọn cây để chạy trốn thì mình đã học được rồi.” Nhà sư đang định chạy lại ôm cô bé thì Ô Lão Đại phóng liên hoàn đao chém tới nhanh như gió bão, nhằm vào yếu huyệt đối phương. Hư Trúc hốt hoảng la lên: “Không xong rồi!”, đề khí nhảy vọt lên rồi đáp xuống một cành lớn trên ngọn cây tùng.

Cây tùng này cao đến ba trượng, thế mà Hư Trúc nhảy lên như người biết bay, khiến cho Ô Lão Đại phải kinh hãi vô cùng. Võ công hắn tuy rất tinh thâm, nhưng khinh công tầm thường, không tài nào nhảy lên được cây tùng cao như vậy. Vả lại hắn chỉ muốn bắt cô bé kia, nên cứ đứng dưới chửi đổng: “Hòa thượng chết đâm kia! Ngươi có giỏi thì cứ ngồi trên ngọn cây đó, vĩnh viễn đừng xuống nữa.” Ô Lão Đại nói xong chạy lại chỗ cô bé, thò tay ra nắm lấy sau gáy cô. Hắn muốn bắt cô bé để đồng bọn mỗi người chém một đao, lấy huyết ăn thề, khiến không ai dám sinh lòng phản phúc nữa.

Hư Trúc thấy cô bé lại bị bắt thì trong lòng nóng nảy nghĩ thầm: “Mụ bảo mình ôm mụ nhảy lên cây, mà mình lại nhảy trước. Môn khinh công này là do mụ truyền thụ, bây giờ mình bỏ mặc mụ thì thật là vong ân bội nghĩa.” Nghĩ vậy, nhà sư lại từ ngọn cây nhảy xuống, cầm chiếc túi vải trong tay. Lúc nhảy xuống y đã giương miệng túi ra sẵn, muốn chụp lấy cô bé để cứu cô thoát nạn, nhưng chụp thế nào lại trúng đầu Ô Lão Đại. Hư Trúc cả mừng, bèn giơ ngón tay trái ra điểm xuống lưng lão. Y điểm phát này cũng không đúng như cô bé đã dạy, chệch xuống huyệt Vị Thương, dưới huyệt Ý Xá chừng một tấc.

Ô Lão Đại chỉ thấy trên đỉnh đầu có một luồng gió chụp xuống rồi trước mắt tối sầm, chẳng nhìn thấy gì. Hắn kinh hãi quá giơ đao chém bừa ra, nhưng chẳng trúng ai, rồi lại bị điểm vào huyệt Vị Thương. Ô Lão Đại tuy không nhủn người ra nhưng cũng tê bại hai cánh tay, thanh Lục Ba Hương Lộ Đao rớt xuống đất đánh choang một tiếng, còn tay kia nắm gáy cô bé cũng buông ra. Ô Lão Đại hốt hoảng vừa gỡ cái túi chụp trên đầu, vừa cố lăn mình ra xa.

Hư Trúc ôm lấy cô bé, lại nhảy lên ngọn cây, vừa nhảy vừa nói: “Nguy quá! Nguy quá!” Cô bé sắc mặt nhợt nhạt, tức mình mắng: “Ngươi đúng là đồ bỏ đi! Mỗ mỗ đã dạy ngươi thủ pháp kỳ diệu, thế mà điểm trật cả hai lần!” Hư Trúc hổ thẹn đáp: “Dạ dạ! Tại hạ vụng về, điểm không trúng huyệt đạo.” Cô bé lại nói: “Ngươi coi kìa, bọn chúng lại đến đó!” Hư Trúc nhìn xuống thì quả nhiên thấy Bất Bình đạo nhân cùng Ô Lão Đại đã trèo lên đến chỗ cũ. Ngoài ra còn ba người nữa đang đứng đằng xa chỉ chỏ nhưng không dám đến gần.

Bỗng một gã béo tròn quay mà thấp lủn thủn quát lên một tiếng rồi nhảy tới. Gã múa tít đôi búa ngắn thành một làn sáng bạc bao phủ toàn thân, rồi hai tiếng “chát chát” vang lên, hai cây búa chém vào thân cây. Sức gã rất mạnh mà lưỡi búa lại sắc bén, xem chừng hắn chém chưa tới mười nhát thì cây tùng phải đổ xuống rồi.

Hư Trúc cả kinh hỏi: “Bây giờ biết làm thế nào?” Cô bé lạnh lùng đáp: “Sư phụ ngươi đã chỉ ngươi đi kiếm con tiện tỳ vẽ trên họa đồ để học võ công. Vậy ngươi đi mà kiếm nó. Con tiện tỳ đó sẽ dạy ngươi phương pháp hạ được năm tên heo chó này!” Hư Trúc kêu lên: “Trời ơi!”, nghĩ thầm: “Lúc nguy cấp này mà mụ còn ráng tranh hơi với cô gái trong họa đồ.” “Chát chát” hai tiếng nữa, gã lùn lại chém vào cây tùng hai nhát búa. Cây tùng lung lay không ngớt, cành lá rớt xuống lả tả.

Cô bé bảo: “Ngươi đề tụ chân khí vào Đan Điền rồi vận nội lực ra bả vai, chuyển xuống huyệt Kiên Tỉnh ở khuỷu tay, xuống ba huyệt Dương Khoát, Dương Cốc, Dương Tì ở cổ tay, sau cùng vận đến huyệt Quan Xung ở ngón tay vô danh.” Cô vừa nói vừa đưa ngón tay trỏ vào các huyệt đạo trên mình Hư Trúc, biết rằng y không nhận rõ được những huyệt đạo trong người. Nếu chỉ gọi tên huyệt đạo ra thì nhất định y phải hoang mang, nên cô phải trỏ tay vào chỉ.

Hư Trúc từ khi được Vô Nhai Tử truyền công lực cho, chân khí đầy rẫy trong thân thể, y vận tới đâu là được tới đó, không phải ngưng trệ chút nào. Y nghe cô bé bảo sao liền vận khí đúng như vậy. Giữa lúc ấy lại hai tiếng “chát chát” nữa vang lên, cây tùng lắc qua lắc lại. Nhà sư kinh hãi đáp: “Vận xong rồi.” Cô bé lại nói: “Ngươi hái mấy trái tùng, ném vào đầu gã thấp lùn kia, không trúng đầu thì trúng vào ngực cũng được. Ngươi dùng chân lực ở ngón tay vô danh mà búng ra.” Hư Trúc “Vâng!”, rồi hái trái tùng, để vào đầu ngón tay vô danh.

Cô bé giục: “Bắn xuống đi!” Hư Trúc bật ngón tay cái, trái tùng ở đầu ngón tay vô danh bắn xuống đánh véo một tiếng cực kỳ cương mãnh. Nhưng Hư Trúc chưa học cách phóng ám khí, nên trái tùng trúng xuống đất, cách gã lùn đến ba thước. Gã lùn giật mình kinh hãi, nhưng chỉ chốc lát lại vung búa lên chém tiếp.

Cô bé tức mình mắng Hư Trúc: “Đồ ngu! Ngươi lại búng thử xem!” Hư Trúc rất xấu hổ, lại vận khí búng xuống một trái khác. Lần này y đang run tay nên lại càng tệ hơn, trật đến năm thước.

Cô bé lắc đầu, nói: “Cây tùng bên trái xa quá, ngươi mà cõng ta thì nhảy không tới được. Tình thế nguy cấp quá rồi, ngươi chạy trốn một mình đi thôi.” Hư Trúc đáp: “Sao tiền bối lại nói vậy? Tiểu tăng đâu phải kẻ tham sống sợ chết? Nguy hiểm đến đâu cũng mặc, tiểu tăng hết sức cứu tiền bối, nếu không cứu được thì cũng phải chết chung mới phải.” Cô bé lại mắng: “Hòa thượng ngốc! Ta với ngươi vốn không thân thích lại không quen biết, sao ngươi vì ta mà liều mạng làm chi? Hừ! Bọn chúng muốn giết hết cả hai người chúng ta, nhưng không phải chuyện dễ đâu. Bây giờ ngươi hái mười hai trái tùng, mỗi tay cầm sáu trái và phải vận chân khí như thế này…” Cô vừa nói vừa dạy nhà sư cách vận khí.

Hư Trúc ghi nhớ vào lòng, nhưng chưa vận khí xong thì cây tùng lung lay dữ dội như đưa võng, rồi có mấy tiếng “rắc rắc” vang lên, thân cây xiêu hơn về hướng đông bắc sắp đổ xuống. Bất Bình đạo nhân, Ô Lão Đại, gã lùn và hai người khác lớn tiếng reo hò rồi nhảy cả lại.

Cô bé quát lên: “Liệng nắm trái tùng đó ra!” Lúc này chân khí trong lòng bàn tay Hư Trúc đang chạy vùn vụt chỉ muốn thoát ra ngoài. Nhà sư vừa giơ hai tay lên, mười hai trái tùng đã vọt ra, nghe chát chát mấy tiếng. Bên địch có bốn người ngã lăn ra, còn sót gã lùn tuy không trúng phải nhưng cũng la lên: “Ôi mẹ ơi!”, rồi quăng đôi búa chạy nhanh xuống núi. Trong năm người này thì võ công gã lùn kém nhất, sở dĩ không bị thương là vì người gã thấp, trái tùng bay qua đầu. Hư Trúc liệng mười hai trái tùng ra mau lẹ quá, không ai có thể tránh kịp. Trên mặt tuyết có những vết loang lổ đỏ tươi, chính là máu từ vết thương bốn người kia chảy ra.

Hư Trúc liệng nắm trái tung ra rồi, sợ cô bé bị ngã liền ôm chặt lấy lưng cô, nhẹ nhàng nhảy xuống đất. Đột nhiên y trông thấy bốn người kia bị thương nặng như vậy, thì không khỏi ngẩn người ra.

Cô bé cất tiếng hoan hô, nhảy vọt đến bên cạnh Bất Bình đạo nhân, ghé miệng vào vết thương lão hút máu tươi, Hư Trúc cả kinh kêu lên: “Tiền bối làm gì vậy?” Rồi y nắm lấy lưng cô nhấc bổng lên. Cô bé hỏi lại: “Dù sao y cũng bị ngươi đánh chết rồi, mỗ mỗ hút máu để chữa bệnh thì có gì mà không được?”

Hư Trúc thấy mặt cô bé vấy đầy máu, khi mở miệng ra nói chuyện trông lại càng kinh hãi. Y hỏi: “Tiểu tăng đánh… đánh chết lão rồi ư?” Cô bé đáp:“Ta nói dối làm gì?” Cô nói xong lại cúi xuống hút máu.

Hư Trúc thấy trên trán Bất Bình đạo nhân thủng một lỗ to bằng quả trứng gà thì sợ quá la hoảng: “Ối chao! Ta liệng trái tùng lọt vào óc y rồi chăng? Trái tùng vừa nhẹ vừa mềm, làm sao lại đánh gãy xương xuyên vào trong óc được?” Y lại coi ba người kia thì một người bị hai trái tùng ném trúng ngực, một người trúng vào sống mũi, đều tắt thở cả rồi. Chỉ có Ô Lão Đại bị thương ở ngoài da nên chưa chết, nhưng miệng hắn không ngớt rên la.

Hư Trúc đến bên Ô Lão Đại lạy phục xuống đất nói: “Ô tiên sinh! Tiểu tăng lỡ tay làm tiên sinh bị thương, thật không phải cố ý. Nhưng thế là tội nặng lắm rồi, tiểu tăng áy náy vô cùng.” Ô Lão Đại tức mình thóa mạ: “Ngươi, lại còn muốn… nói giỡn nữa sao? Ngươi… cầm đao chém chết ta cho rồi!… Con bà ngươi.” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng đâu dám nói giỡn với tiên sinh. Nhưng… nhưng…” Đột nhiên nhà sư sực nghĩ ra mình vừa giết chết ba mạng người, xem chừng Ô Lão Đại cũng khó lòng thoát chết. Thế là mình đã phạm vào tội sát sinh, một tội nặng nhất của nhà Phật. Y vừa đau lòng vừa kinh hãi, toàn thân run lên, nước mắt trào ra.

Cô bé uống no máu tươi rồi từ từ đứng lên, quay lại nhìn thấy Hư Trúc đang cuống quít thoa bóp vết thương cho Ô Lão Đại. Ô Lão Đại không nhúc nhích được mà miệng vẫn lớn tiếng mắng chửi không ngớt. Hắn nguyền rủa cực kỳ ác độc, mắng nhiếc xối xả vào mặt Hư Trúc. Hư Trúc tuyệt không cáu giận, chỉ ăn năn xin lỗi: “Không sai! Không sai! Quả là tiểu tăng tội lỗi không thể nói hết được. Nhưng tiểu tăng là kẻ côi cút, không biết cha mẹ là ai, thì tiên sinh mắng nhiếc cha mẹ tiểu tăng cũng vô ích mà thôi! Ô tiên sinh! Chỗ da bụng tiên sinh chắc là đau lắm, dĩ nhiên tiên sinh phải nổi nóng, tiểu tăng không dám trách đâu. Tiểu tăng chỉ thuận tay liệng ra một cái, không ngờ mấy trái tùng này ác nghiệt đến thế! Hỡi ôi! Mấy trái tùng này đúng là của tà môn, nếu không thì cũng là loại tùng bá đạo đặc biệt chứ không phải hạng tùng thông thường.”

Ô Lão Đại nguyền rủa: “Mẹ kiếp! Trái tùng này lại không giống những trái tùng khác ư? Thằng trọc thối tha kia! Sau này mi chết đi sẽ bị quẳng lên núi đao, nhúng vào vạc dầu sôi, đời đời ở dưới mười tám tầng địa ngục. Hừ! Nội lực mi cao cường thì cứ đánh chết Ô Lão Đại này, võ công Ô mỗ không bằng ngươi, dù chết cũng chẳng oán hận. Thôi mi đừng bày trò nữa. Trái tùng sao lại tà môn bá đạo? Chính Bắc Minh Chân Khí của mi mới là tà môn bá đạo…” Hắn không còn hơi sức để nói tiếp nữa, nổi lên ho sù sụ.

Hư Trúc lấy làm lạ hỏi: “Cái gì là Bắc… Bắc…?” Cô bé cười đáp: “Hôm nay là mỗ mỗ đã giúp cho tiểu hòa thượng. Thần công Bắc Minh Chân Khí của ta chính ra không truyền thụ cho ai, chỉ vì ngươi hết dạ trung thành, vì mỗ mỗ mà liều mạng, đáng được mỗ mỗ truyền tuyệt nghệ cho. Vả lại trong lúc nguy cấp cần người, không dạy ngươi thì còn ai giúp ta nữa? Ô Lão Đại! Nhãn lực ngươi khá đấy, nhận ra công phu vừa rồi của tiểu hòa thượng.”

Ô Lão Đại giương mắt lên tròn xoe, kinh hãi ngẩn người ra một lúc rồi hỏi cô bé: “Mi là ai? Mi câm kia mà? Sao bây giờ mi nói được?” Cô bé cười nhạt nói: “Thứ mi mà dám hỏi ta là ai ư?” Rồi cô móc trong bọc ra một cái bình, lấy hai viên thuốc vàng đưa cho Hư Trúc nói: “Ngươi cho hắn uống đi.” Hư Trúc đáp: “Vâng!”, nghĩ thầm: “Giả tỉ đây là thuốc chữa thương thì hay lắm, còn nếu là thuốc độc thì Ô Lão Đại còn chết lẹ hơn.” Y thấy Ô Lão Đại đang đau đớn quá, cho hắn chết lẹ lại càng dễ chịu, nên không nói gì nữa, cầm thuốc đưa vào trước miệng Ô Lão Đại.

Ô Lão Đại ngửi thấy mùi thuốc cay xè mãnh liệt, hắt hơi luôn mấy cái, trong bụng vừa kinh hãi vừa mừng thầm cất tiếng hỏi: “Phải chăng… đây là Cửu Chuyển… Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn?” Cô bé gật đầu đáp: “Phải rồi! Quả nhiên ngươi biết nhiều hiểu rộng, đáng mặt đàn anh trong ba mươi sáu động và bảy mươi hai đảo.” Ô Lão Đại dịu giọng hỏi: “Sao ngươi lại muốn cứu mạng ta?” Nhưng hắn sợ bỏ qua cơ hội nên không đợi cô bé trả lời, há miệng đớp luôn cả hai viên thuốc nuốt vào bụng. Cô bé đáp: “Một là ta cám ơn ngươi đã giúp đỡ ta, hai là về sau ta còn có chỗ dùng ngươi.” Ô Lão Đại lại càng không hiểu hỏi: “Ta có giúp đỡ ngươi bao giờ đâu? Ô mỗ lúc nào cũng chỉ mong giết ngươi cho xong, mỗi khi nghĩ đến ngươi là ta chẳng yên tâm chút nào!”

Cô bé cười nói: “Mi quả là quang minh lỗi lạc, nghĩ thế nào nói thế đấy không thèm úp mở, không uổng danh một tay hảo hán.” Cô ngẩng lên nhìn, thấy mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, bèn ngó Hư Trúc nói: “Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn chuyên trị nội thương, có thể cải tử hoàn sinh linh nghiệm vô cùng. Tiểu hòa thượng! Đã đến giờ ta phải luyện công, ngươi đứng đây hộ vệ cho ta. Nếu bất luận là ai đến quấy rầy thì ngươi lập tức thi triển Bắc Minh Chân Khí mà ta vừa truyền thụ, lấy một cục đất hay một viên đá bắn ra là xong.”

Hư Trúc lắc đầu đáp: “Nếu lại đánh chết người thì sao? Tiểu tăng không… không dám làm đâu.”

Cô bé chạy ra nhìn xuống sườn núi rồi nói: “Bây giờ chưa có tên nào lên hết, ngươi không làm thì thôi.” Cô nói xong, ngồi xếp bằng ngón trỏ bên phải chỉ lên trời, ngón trỏ bên trái chỉ xuống đất. Miệng cô khạc một tiếng, lỗ mũi phun ra hai dây khói trắng lợt.

Ô Lão Đại cả kinh la lên: “Úi chà! Đây là công phu Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn.” Hư Trúc hỏi: “Ô tiên sinh, uống thuốc xong có bớt đau không?” Ô Lão Đại vẫn còn căm giận, lớn tiếng mắng: “Thằng trọc thối tha xỏ lá kia! Ta có bớt đau hay không thì việc gì đến mi? Đừng nói dài dòng nữa.” Hắn mắng thì mắng vậy, nhưng thấy vết thương ở bụng đã bớt đau thì nghĩ thầm: “Cửu Chuyển Hàng Xà Hoàn là linh dược trị thương hiệu nghiệm như thần của cung Linh Thứu trên ngọn Phiêu Diểu núi Thiên Sơn. Thuốc này có công hiệu cải tử hoàn sinh, như vậy thì mạng ta chưa chết.” Nhưng hắn thấy cô bé luyện công thì trong lòng trăm mối nghi ngờ, từng nghe nói Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn là môn nội công cao nhất của cung Linh Thứu, ai chưa có mấy chục năm căn bản nội công thì không thể luyện được. Cô bé này tuy là người ở cung Linh Thứu nhưng cũng chỉ là trẻ nít, sao lại có nội công thượng thừa? Ô Lão Đại lại nghĩ là mình lầm, công phu cô bé đang luyện không phải môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn.

Làn bạch khí trong mũi cô bé bốc ra bao phủ lấy đầu cô, quanh quẩn mãi không tan và mỗi lúc một dày đặc thêm, thành một đám mù trắng che kín cả mặt không trông rõ nữa. Lát sau những khớp xương trong toàn thân cô kêu răng rắc như bắp rang. Hư Trúc cùng Ô Lão Đại ngẩn người ra, đưa mắt nhìn nhau chẳng hiểu ra sao. Ô Lão Đại cũng chỉ nghe đồn về công phu Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, chẳng hiểu thực tế thế nào. Tiếng răng rắc trong khớp xương cô bé mỗi lúc một thưa, đám mù trắng cũng nhạt dần đi, sau chỉ còn lại một luồng bạch khí, cô lại hít vào trong mũi. Cô bé hít hết luồng bạch khí rồi mở mắt ra, từ từ đứng dậy.

Hư Trúc cùng Ô Lão Đại đồng thời dụi mắt, tưởng mình không trông rõ, vì sau khi cô bé luyện công xong hình như ra chiều khác lạ, nhưng không nói ra được chỗ khác lạ đó như thế nào. Cô bé nheo mắt nhìn Ô Lão Đại rồi nói: “Ngươi quả nhiên có kiến thức, biết cả môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn của ta.” Ô Lão Đại hỏi: “Cô… thật tình cô là ai? Có phải là đệ tử của Đồng Mỗ không?”

Cô bé đáp: “Hừ! Mật của ngươi cũng không nhỏ.” Cô không trả lời Ô Lão Đại, lại quay sang bảo Hư Trúc: “Tay trái ngươi ẵm ta, còn tay phải nắm lấy lưng Ô Lão Đại. Ngươi vận khí theo cách ta truyền thụ để nhảy lên ngọn cây, rồi cứ chuyền cành nhảy lên đỉnh núi, phải lên cao một trăm trượng nữa.”

Hư Trúc nói: “Chỉ sợ tiểu tăng chưa đủ nội lực.” Tuy nói thế nhưng y vẫn theo lời, tay trái ẵm cô bé, tay phải xách lưng Ô Lão Đại, hết sức cố gắng mà không sao nhảy lên ngọn cây được. Cô bé tức giận hỏi: “Sao ngươi không vận khí?” Hư Trúc gượng cười đáp: “Dạ dạ! Tiểu tăng trong lúc hoang mang, quên mất.” Rồi nhà sư vận chân khí theo lối cô bé truyền thụ, lập tức người Ô Lão Đại chỉ còn nhẹ bằng một mớ bông, mà cô gái thì tựa hồ như không trọng lượng. Hư Trúc vừa nhảy tung lên đã tới ngọn cây, rồi cứ thế khoa chân bước từ cây nọ sang cây kia cách nhau hơn một trượng, tựa hồ như đi trên đất bằng chẳng khó khăn gì. Y thấy mình lướt trên ngọn cây nhẹ nhàng như vậy, trong lòng bất giác kinh hãi, vì thế mà chân khi quay về đan điền, chân bỗng nặng trịch rồi rơi người xuống. Nhưng tay y vẫn ẵm cô bé và nắm lưng Ô Lão Đại không chịu buông ra, chân vừa chấm đất lại nhảy vọt lên. Y sợ cô bé trách mắng nên không nói gì, lại băng băng chạy lên núi.

Ban đầu Hư Trúc đề khí chưa được linh động, có lúc chân bước chậm trễ, nhưng về sau chân khí trong người y chuyển vận nhẹ nhàng tựa như đang thở bình thường, trong bụng rất khoan khoái. Y không nghĩ ngợi gì nữa, tự nhiên chân khí lưu thông càng mau, đang trèo núi mà tựa như xuống dốc, muốn dừng lại cũng khó. Cô bé nói: “Ngươi mới luyện Bắc Minh Chân Khí, không nên sử dụng thái quá. Nếu muốn giữ mạng thì dừng lại nghỉ đi” Hư Trúc “Vâng”, phóng thêm mấy trượng nữa rồi mới nhảy từ trên cây xuống đất.

Ô Lão Đại vừa kinh hãi vừa thán phục, quay lại nói với cô bé: “Cô mới dạy Bắc Minh Chân Khí cho y mới một ngày mà đã ghê gớm đến thế ư? Võ công ở cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu quả nhiên sâu như biển cả. Cô còn là đứa trẻ nít mà bản lĩnh đã cao cường đến như vậy thì ghê thật!”

Cô bé thấy bốn mặt đều là cây cối um tùm, cười nói: “Bọn chuột nhắt các ngươi đi tìm ba ngày nữa chưa chắc đã đến được đây.” Ô Lão Đại buồn rầu nói: “Dĩ nhiên là bọn ta thua xiểng liểng rồi. Gã tiểu hòa thượng này mà đem Bắc Minh Chân Khí ra hộ vệ cho ngươi, thì dù cả bọn ta có tìm đến đây cũng không làm gì được.” Cô bé cười nhạt không nói gì, tựa lưng vào gốc cây nhắm mắt ngủ.

Hư Trúc sau khi chạy nhảy một hồi, trong bụng lại thấy đói meo. Y hết nhìn cô bé lại nhìn Ô Lão Đại, nói: “Tiểu tăng muốn đi tìm chút gì ăn, chỉ sợ tiên sinh còn đem lòng đen tối gia hại cô bé này, thật chẳng yên lòng chút nào. Chi bằng tiểu tăng đem cả tiên sinh đi là yên.” Hư Trúc nói xong, lại nắm lấy lưng Ô Lão Đại toan xách đi.

Cô bé trừng mắt nói: “Đồ ngu! Ta đã dạy ngươi cách điểm huyệt, chẳng lẽ bây giờ hắn nằm không nhúc nhích mà ngươi cũng điểm không trúng ư?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng sợ mình vụng về điểm không trúng huyệt, y vẫn cử động được.” Cô bé nói: “Ta giữ Sinh Tử Phù, nắm mạng hắn trong tay thì sao hắn dám làm càn?”

Ô Lão Đại vừa nghe đến ba chữ Sinh Tử Phù thì thất thanh la hoảng: “Ngươi… ngươi… ngươi…” Cô bé hỏi: “Vừa rồi ngươi nuốt mấy viên thuốc của ta?” Ô Lão Đại đáp: “Hai viên.” Cô bé hỏi: “Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn là thánh dược của cung Linh Thứu. Giống súc vật như ngươi lại uống những hai viên linh đan ư?” Ô Lão Đại trán toát mồ hôi, run rẩy nói: “Còn… một viên là… là…” Cô bé lại hỏi: “Huyệt Thiên Trì của ngươi ra sao?”

Ô Lão Đại hai tay run lẩy bẩy cởi áo ra, quả nhiên huyệt Thiên Trì ở ngực trái đã nổi lên một cái chấm đỏ như máu. Hắn kêu lên: “Trời ơi!” rồi suýt ngất đi. Hồi lâu hắn mới ấp úng: “Ngươi… ngươi là ai? Sao ngươi lại biết chỗ sinh tử của ta? Phải chăng người đã cho ta uống Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn?” Cô bé mỉm cười rồi đáp: “Ta còn có việc sai bảo, chưa thúc đẩy cho chất độc phát tác ngay đâu, ngươi đừng lo.” Nhưng hai mắt Ô Lão Đại lồi ra, vẻ mặt khủng khiếp không thể nào diễn tả được.

Hư Trúc đã thấy Ô Lão Đại kinh hãi nhiều lần, nhưng chưa bao giờ khủng khiếp như lần này. Nhà sư thấy tội nghiệp, buột miệng hỏi: “Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn là gì? Phải chăng là một thứ thuốc kịch độc?” Ô Lão Đại da mặt co rúm lại, hồi lâu không thốt ra lời. Đột nhiên, hắn trỏ vào mặt Hư Trúc chửi mắng thậm tệ: “Thằng trọc thối tha kia! Gã thầy chùa ôn vật kia! Từ ông tổ tám mươi đời nhà mi trở xuống, đàn ông đều là đồ rùa đen bỉ ổi, đàn bà toàn là hạng kỹ nữ ti tiện. Đến đời mi là tuyệt chủng, không còn mống nào thừa tự. Nếu mi mà sinh con thì con trai phải thiếu hậu môn, con gái phải ba chân bốn tay…” Ô Lão Đại chửi rủa đến sùi bọt mép, một lát sau vết thương nổi cơn đau không chịu nổi mới im miệng.

Hư Trúc thở dài rồi nói: “Tiểu tăng là người tu hành dĩ nhiên không sinh con đẻ cháu, làm gì còn có con trai con gái nữa?” Ô Lão Đại lại nổi giận mắng tiếp: “Thằng ôn vật kia! Mi tưởng chỉ bị tuyệt tự mà thôi ư? Đâu có dễ dàng thế được? Mi còn phải sinh mười tám đứa con trai, mười tám đứa con gái, mà đứa nào cũng phải uống Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn. Chúng đau đớn ngồi trước mặt mi mà rên xiết kêu gào đến chín mươi chín ngày, chết chẳng chết được, sống chẳng sống cho. Rồi sau cùng chính mi cũng phải uống Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn để nếm mùi đau khổ …..” Hư Trúc giật mình hỏi: “Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn độc địa đến thế ư?” Ô Lão Đại đáp: “Gân cốt toàn thân đều đứt hết, muốn mở miệng, muốn uốn lưỡi cũng không được. Thế rồi… thế rồi…!” Hắn nghĩ đến mình đã uống phải thứ thuốc độc ác nhất thiên hạ, không nói gì nữa, cảm thấy ghê rợn hãi hùng, chỉ muốn đập đầu vào gốc cây tùng mà chết cho xong.

Cô bé mỉm cười nói: “Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn nghe lời là ta không thúc đẩy cho chất độc phát tác. Thứ thuốc này có thể giữ đến mười năm không phát động, ngươi bất tất phải sợ hãi cuống cuồng đến thế. Tiểu hòa thượng! Ngươi điểm huyệt hắn đi, cho hắn khỏi nổi điên đập đầu vào gốc cây mà tự tận.”

Hư Trúc gật đầu nói: “Đúng thế!”, rồi vòng ra phía sau Ô Lão Đại, thò tay sờ vào huyệt Ý Xá trên lưng hắn, xem xét cẩn thận cho thật đúng rồi mới điểm vào. Ô Lão Đại rên lên một tiếng rồi ngất đi. Thật ra Hư Trúc đã luyện được Bắc Minh Chân Khí rồi, y bất tất phải nhìn nhận kỹ càng, điểm vào bất luận huyệt đạo nào cũng có thể làm cho đối phương trọng thương hay ngất xỉu. Hư Trúc thấy Ô Lão Đại nằm chết giấc thì sợ hãi chân tay luống cuống, hết vuốt mũi lại xoa ngực cho hắn, hồi lâu mới cứu tỉnh lại được. Ô Lão Đại đã suy nhược đến cực điểm, chỉ còn thoi thóp thở, không còn chút khí lực nào.

Hư Trúc thấy Ô Lão Đại hội tỉnh rồi, mới đi tìm thức ăn. Trong rừng cây này chẳng thiếu gì hươu nai cầy cáo cùng dê rừng thỏ núi, nhưng làm sao y chịu sát sinh? Hư Trúc tìm kiếm hồi lâu mà chẳng thấy thứ gì ăn được, đành nhảy lên cây tùng hái quả. Nhân của trái tùng mùi vị thơm ngon, có thể ăn cho đỡ đói, nhưng nhỏ quá, y ăn hết hai ba trăm quả mà vẫn chưa no. Hư Trúc thấy mình đã đỡ đói, liền không ăn nữa, hái đầy hai túi rồi đem xuống mời bé gái và Ô Lão Đại ăn.

Cô bé nói: “Cám ơn ngươi, nhưng trong vòng ba tháng ta không thể ăn chay được. Ngươi giải huyệt cho Ô Lão Đại đi.” Rồi cô truyền phép giải huyệt cho Hư Trúc. Hư Trúc nói: “Phải đó chắc Ô Lão Đại cũng đói lắm rồi.” Y liền giải khai huyệt đạo cho Ô Lão Đại, rồi lấy một nắm trái tùng đưa cho hắn nói: “Ô tiên sinh! Tiên sinh ăn tạm mấy trái tùng này!” Ô Lão Đại hầm hầm trợn mắt lên, đón lấy bóc ăn, cứ ăn xong một trái là mắng một câu: “Thằng lỏi chết đâm chết chém này!” “Gã thầy chùa ôn vật kia!” Hư Trúc không hề tức giận, nghĩ thầm: “Mình đánh lão bị thương trầm trọng đến chết đi sống lại, lão căm tức là phải.” Cô bé nói: “Ngươi không được nói gì nữa, ăn xong trái tùng rồi ngủ đi.” Ô Lão Đại đáp: “Vâng!” Hắn không dám nhìn cô bé nữa, ăn hết chỗ trái tùng rồi ngoẹo đầu xuống ngủ.

Hư Trúc cũng ngồi xuống cạnh cô bé. Y mệt nhọc suốt ngày nên chẳng mấy chốc cũng ngủ say luôn. Sáng sớm hôm sau, nhà sư tỉnh dậy thấy trời đầy mây đen u ám, tựa như sắp có mưa giông. Cô bé nói: “Ô Lão Đại! Ngươi đi kiếm một con hươu sao hoặc một con dê rừng cũng được. Ta hẹn cho ngươi, đến giờ thìn phải đem về đây.” Ô Lão Đại đáp: “Vâng!” Hắn gượng đứng lên, nhặt một cành cây khô làm gậy chống đi, người hắn vẫn còn lảo đảo. Hư Trúc muốn lại đỡ Ô Lão Đại, nhưng nghĩ tới hắn đang đi bắt thú rừng thì luôn miệng niệm: “A di đà Phật! A di đà Phật!”, rồi lại nói: “Hươu dê thỏ gà, các loại chúng sinh, mau mau trốn xa đừng để Ô Lão Đại bắt được.” Cô bé bĩu môi cười nhạt nhưng không nói gì.

Ngờ đâu đạo cao một thước mà ma cao tới một trượng. Nhà sư cứ việc niệm kinh, còn Ô Lão Đại đang bị trọng thương mà không biết hắn có phù phép gì, chưa đến giờ thìn đã bắt được một con hươu nhỏ đem về. Hư Trúc lại càng niệm Phật không ngớt miệng.

Ô Lão Đại nói: “Tiểu hòa thượng! Mau đốt lửa lên để nướng thịt hươu ăn.” Hư Trúc nói: “Tội lỗi, tội lỗi! Tiểu tăng nhất quyết không làm chuyện tội lỗi này!” Ô Lão Đại xoay tay móc trong ống giày ra một lưỡi truy thủ sáng loáng để giết hươu. Cô bé nói: “Khoan hãy động thủ!” Ô Lão Đại đáp: “Vâng!”, rồi buông dao xuống. Hư Trúc cả mừng nói: “Hay lắm, hay lắm! Tiểu cô nương tâm địa nhân từ, sau này tất được hưởng phúc.” Cô bé chỉ cười nhạt một tiếng chứ không nói gì. Con hươu cứ tác lên không ngớt, rõ ràng đang đói. Hư Trúc chỉ muốn thả nó ra nhưng không dám.

Trời u ám nên bóng cây chỉ lờ mờ khó mà trông rõ, nhưng cũng thấy mỗi lúc một ngắn lại. Lát sau cô bé nói: “Đến giờ ngọ rồi!”. Cô giữ lấy đầu con hươu nhỏ, há miệng ra cắn vào cổ họng nó. Con hươu đau quá kêu ầm lên, cố sức giãy giụa, nhưng cô bé giữ nó thật chặt, miệng hút máu nghe ồng ộc. Hư Trúc cả kinh kêu lên: “Trời ơi! Trời ơi! Tiền bối tàn nhẫn quá!” Cô bé không lý gì đến y, vẫn ráng sức hút máu. Con hươu giãy giụa yếu dần, lát sau nó run lên bần bật rồi duỗi ra chết.

Cô bé hút máu no rồi, quăng con hươu chết xuống, một tay trỏ lên trời một tay trỏ xuống đất. Cô lại luyện môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, luồng khói trắng từ mũi phun ra quyện chung quanh đầu cô. Hồi lâu mới thấy cô bé thu làn khói trắng lại, đứng lên nói: “Ô Lão Đại! Ngươi nướng thịt hươu ăn đi.”

Hư Trúc trong lòng đau xót, lên tiếng: “Tiền bối đã có Ô Lão Đại hầu hạ. Lão hết lòng phục vụ, quyết không dám gia hại tiền bối đâu. Vậy tiểu tăng xin cáo biệt.” Cô bé nói: “Ta không cho ngươi đi!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng phải tìm các vị sư bá sư thúc, nếu không tìm thấy thì phải về chùa Thiếu Lâm phục mệnh, không thể chần chờ được.” Cô bé lạnh lùng hỏi: “Ngươi không theo lời ta, muốn tự mình bỏ đi, phải không?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng đã nghĩ ra một kế là lấy tăng bào nhét đầy cỏ khô cùng lá cây vào, giả làm một cái túi lớn đeo lên lưng mà trốn đi. Bọn người ở dưới chân núi mà trông thấy thế, tất là họ tưởng tiền bối nằm trong túi mà đuổi theo tiểu tăng. Thế là tiểu tăng có thể dẫn dụ họ đi thật xa, khi đó tiền bối cùng Ô Lão Đại nhân cơ hội để về núi Phiêu Diểu!” Cô bé nói: “Kế đó cũng không dở. Cảm ơn ngươi đã lo lắng, nhưng ta không muốn chạy trốn.” Hư Trúc đáp: “Thế cũng được! Tiền bối cứ nấp ở chỗ này. Nơi đây rừng rậm tuyết dày, bọn họ không tìm thấy được đâu. Họ có bao vây thì cũng mười ngày là phải rút đi. Tiền bối chờ họ đi rồi hãy xuống núi.”

Cô bé nói: “Mười ngày nữa thì công lực ta sẽ khôi phục lại như hồi mười tám, mười chín tuổi. Khi nào ta còn để cho chúng chạy thoát.” Hư Trúc kinh ngạc hỏi: “Sao?” Cô bé đáp: “Ngươi nhìn kỹ lại coi, ta hiện giờ so với ba hôm trước có gì khác không?” Hư Trúc ngưng thần nhìn kỹ, thấy thần sắc cô dường như lớn thêm mấy tuổi, hiện giờ cô trông như đứa nhỏ mười một, mười hai tuổi, chứ không giống đứa trẻ tám chín tuổi nữa. Nhà sư ấp úng nói: “Tiền bối… tiền bối… Hai ngày nay hình như tiền bối đã lớn thêm ba tuổi, nhưng thân hình tiền bối không cao lớn hơn trước chút nào.”

Cô bé hoan hỉ nói: “Hà hà! Nhãn lực ngươi cũng khá đấy, nhận ra ta đã lớn thêm mấy tuổi. Nhưng ngươi ngu dốt lắm. Thiên Sơn Đồng Mỗ vĩnh viễn là một nữ đồng, dĩ nhiên thân thể không bao giờ cao lớn thêm được.” Hư Trúc cùng Ô Lão Đại giật nảy mình lên, đồng thanh hỏi: “Thiên Sơn Đồng Mỗ! Cô là Thiên Sơn Đồng Mỗ ư?” Cô bé kiêu hãnh đáp: “Các ngươi tưởng ta là ai? Mỗ mỗ lúc nào cũng như một cô bé, mắt các ngươi đui rồi hay sao mà không trông thấy?”

Ô Lão Đại giương cặp mắt tròn xoe nhìn chòng chọc vào cô bé hồi lâu, miệng hắn mấp máy mà không thốt ra lời được. Một lúc sau, đột nhiên lão lăn ra tuyết kêu rên: “Ta… đáng lẽ ta phải biết sớm hơn!… Ta quả là ngu ngốc nhất thiên hạ. Ta… tưởng ngươi chỉ là một con tiểu a đầu tầm thường trong cung Linh Thứu, ngờ đâu… ngờ đâu ngươi chính là Thiên Sơn Đồng Mỗ!”

Cô bé nhìn Hư Trúc hỏi: “Còn ngươi tưởng ta là người như thế nào?”Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng tưởng tiền bối là một lão nữ quỷ nhập vào xác đứa nhỏ này để hoàn hồn.” Thiên Sơn Đồng Mỗ sa sầm nét mặt nói: “Ăn nói hồ đồ! Cái gì mà lão nữ quỉ mượn xác hoàn hồn?” Hư Trúc đáp: “Nữ thí chủ trông như một cô bé gái, mà tâm trí cùng thanh âm thì lại như bà lão, lại tự xưng là mỗ mỗ. Nếu không phải quỉ hồn một bà già nhập vào đứa trẻ nít thì sao lại như vậy?” Đồng Mỗ cười khanh khách nói: “Tiểu hòa thượng suy nghĩ thật là cổ quái.”

Rồi mụ quay sang hỏi Ô Lão Đại: “Hôm ấy ta lọt vào tay ngươi, ngươi không hạ sát ngay, chắc bây giờ hối hận lắm phải không?” Ô Lão Đại trở mình ngồi thẳng dậy đáp: “Đúng thế! Tại hạ đã lên núi Phiêu Diểu ba lần, và đã được nghe thanh âm tiền bối. Nhưng tiền bối bắt tại hạ phải bịt mặt, nên tại hạ chưa được nhìn rõ tướng mạo. Ô Lão Đại này có mắt không tròng, lại tưởng tiền bối là… là một cô bé vừa câm vừa điếc.”

Cô bé nói: “Chẳng những một mình ngươi mà trong bọn yêu quái ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo còn nhiều kẻ khác đã được nghe thanh âm ta. Nếu mỗ mỗ không giả câm thì tất bại lộ hành tung, nguy hiểm vô cùng!” Ô Lão Đại thở dài sườn sượt hỏi: “Võ công của tiền bối đã đến mực thần thông, giết người không phải dùng đến hai chiêu. Thế sao lúc bị tại hạ bắt, tiền bối lại không chống cự?”

Cô bé cười sằng sặc nói: “Ta đã cám ơn ngươi ra tay giúp đỡ, chính là vì thế. Hôm ấy cường địch sắp đến, mỗ mỗ lại thân thể bất an, khó lòng chống cự. May sao ta được ngươi dùng túi vải chụp lấy rồi cõng xuống núi, thế là tránh khỏi một kiếp nạn. Thế có phải là ta nên cám ơn ngươi không?” Cô nói tới đây, đột nhiên mắt lộ rung quang, nói tiếp: “Nhưng sau khi mi bắt được, lại bảo mỗ mỗ giả câm, rồi dùng bao nhiêu thủ đoạn vô lễ để đối phó với mỗ mỗ thì thực là tội ác ngập đầu. Nếu không như thế thì ta có thể tha mạng cho ngươi được.”

Lão Đại giật bắn người rồi quì hai gối xuống nói: “Mỗ mỗ! Người ta thường nói, không biết là không có tội. Nếu lúc ấy mà Ô Lão Đại này biết mỗ mỗ thì tất nhiên một lòng kính sợ, dù lớn mật đến đâu cũng không dám khinh mạn mỗ mỗ.” Cô bé cười nhạt nói: “Sợ ta thì có, kính ta thì chưa chắc. Ngươi tổ chức đại hội tụ tập bọn yêu ma ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo, quyết tâm phản nghịch, bây giờ còn nói gì nữa?” Ô Lão Đại trán toát mồ hôi đầm đìa, dập đầu xuống đá núi lạy lấy lại để mười mấy lạy, máu tươi trên trán chảy ra đầm đìa.

Hư Trúc nghĩ thầm: “Té ra vị tiểu cô nương này là Thiên Sơn Đồng Mỗ. Đồng Mỗ! Đồng Mỗ! Mình cứ tưởng mụ họ Đồng tên Mỗ. Ngờ đâu chữ Đồng nghĩa là trẻ con, Đồng Mỗ tức là bà cụ non. Võ công cụ đã cao thâm, lại có bao nhiêu mưu thần chước quỷ nên ai cũng sợ mụ như cọp. Thế mà mấy bữa nay mình tận lực giúp đỡ, không chừng mụ cười thầm mình không biết tự lượng sức. Ha ha! Hư Trúc ơi là Hư Trúc, ngươi đúng là một tên hòa thượng ngu xuẩn.” Y thấy Ô Lão Đại dập đầu không ngớt, không nói tiếng nào, quay người toan bỏ đi.

Thiên Sơn Đồng Mỗ quát to: “Ngươi định đi đâu? Hãy đứng lại đã!” Hư Trúc quay lại chắp tay trước ngực nói: “Ba ngày nay tiểu tăng đã làm vô số việc ngu ngốc, bây giờ xin cáo từ thôi!” Đồng Mỗ hỏi: “Những việc gì ngu ngốc?” Hư Trúc đáp: “Nữ thí chủ võ công thần diệu, oai danh vang lừng thiên hạ. Hư Trúc này có mắt mà không thấy núi Thái Sơn, lại dám ra tay giúp đỡ, nữ thí chủ có cười vào mặt thì cũng đáng. Tiểu tăng càng nghĩ bao nhiêu càng hổ thẹn bấy nhiêu, thật không còn đất dung thân nữa.”

Đồng Mỗ tiến đến bên Hư Trúc, rồi quay lại nhìn Lão Đại nói: “Ta có việc cần nói riêng với tiểu hòa thượng. Người hãy lui ra xa.” Ô Lão Đại dạ dạ mấy tiếng rồi đứng lên, bước thấp bước cao đi về hướng đông bắc, khuất sau một cây tùng.

Đồng Mỗ nhìn Hư Trúc nói: “Tiểu hòa thượng! Ba ngày nay đúng là ngươi đã cứu mạng ta, có làm gì ngu ngốc đâu? Thiên Sơn Đồng Mỗ bình sinh chưa cảm ơn ai, nhưng ngươi đã cứu mạng ta thì sau này dĩ nhiên ta phải đền đáp.” Hư Trúc xua tay đáp: “Võ công nữ thí chủ cao cường như thế, cần gì tiểu tăng giúp sức? Rõ ràng thí chủ chế giễu mà thôi.” Cô bé sầm mặt nói: “Ta nói ngươi cứu mạng ta, tức là ngươi đã cứu mạng ta thật. Ta nói thật mà ngươi lại còn ra giọng khích bác ư? Ta đã luyện thành công phu Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, uy lực ghê gớm vô cùng. Nhưng công phu này có một điều đại bất lợi là cứ ba mươi năm phải một lần phản lão hoàn đồng.” Hư Trúc lấy làm lạ, hỏi: “Đang già mà trẻ lại ư? Thế thì càng tốt chứ sao?”

Thiên Sơn Đồng Mỗ thở dài đáp: “Ngươi là một tên tiểu hòa thượng bản tính thực thà, lại có ơn cứu mạng cho ta, vậy ta nói cho ngươi nghe cũng chẳng hề chi. Ta luyện môn công phu này từ hồi sáu tuổi, đến ba mươi sáu tuổi trở lại thành trẻ nít, lần đó phải mất ba mươi ngày mới luyện lại được. Đến năm sáu mươi sáu tuổi thì luyện lại mất sáu mươi ngày. Lần này ta đã chín mươi sáu tuổi thì phải mất đến chín mươi ngày mới phục hồi được công lực.” Hư Trúc cả kinh trợn mắt lên hỏi: “Sao? Thí chủ… năm nay đã chín mươi sáu tuổi rồi?”

Đồng Mỗ đáp: “Ta là sư tỉ của Vô Nhai Tử sư phụ ngươi. Nếu Vô Nhai Tử chưa chết thì năm nay y chín mươi ba tuổi. Ta lớn hơn y ba tuổi, chẳng phải chín mươi sáu là gì?”.

Hư Trúc giương cặp mắt thao láo nhìn chằm chặp vào sắc diện cùng thân thể mụ, chẳng thấy chỗ nào giống bà cụ chín mươi sáu tuổi cả.

Thiên Sơn Đồng Mỗ nói: “Công phu Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn là một môn nội công kỳ diệu vô song, chỉ vì ta luyện môn này sớm quá. Lúc lên sáu ta đã bắt đầu luyện, mấy năm sau thì uy lực đã tiến bộ lắm rồi. Nhưng thân thể ta không lớn lên được nữa, vĩnh viễn chỉ bằng đứa trẻ nít tám chín tuổi.”

Hư Trúc gật đầu nói: “Thì ra là thế!”. Y từng nghe sư phụ nói, trên thế gian có những đứa nhỏ bảy tám tuổi đã cao bằng người lớn, cũng có những người đã mấy chục tuổi mà cao chưa tới ba thước, đó là do tam tiêu không hòa hợp mà ra. Nếu họ kịp thời luyện tập nội công thượng thừa thì cũng có hy vọng chữa khỏi. Y bèn hỏi: “Không hiểu phép luyện nội công của tiền bối có luyện tới Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh không?”

Đồng Mỗ ngẩn người, gật đầu đáp: “Không sai. Một hòa thượng nhỏ của phái Thiếu Lâm mà đã có kiến thức như vậy, võ lâm cho rằng phái Thiếu Lâm đứng đầu thiên hạ, quả là có lý.”

Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng chỉ được nghe sư phụ nói qua một ít về đạo lý của Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh, hiểu biết còn thô thiển, chỉ là buột miệng đoán bừa mà thôi.” Y lại hỏi: “Năm nay tiền bối phản lão hoàn đồng như thế nào?”

Thiên Sơn Đồng Mỗ đáp: “Lúc bắt đầu phản lão hoàn đồng thì công lực hoàn toàn mất hết. Sau một ngày tu luyện thì phục hồi lại được công lực bằng đứa nhỏ bảy tuổi: Đến ngày thứ hai công lực bằng hồi tám tuổi, ngày thứ ba bằng hồi chín tuổi… mỗi một ngày luyện tập là kéo lại một năm công lực, ngày nào đúng ngọ cũng phải uống máu tươi mới luyện công được. Hôm Ô Lão Đại lên núi Phiêu Diểu để thám thính, ta mới luyện được ba ngày. Ngươi thử nghĩ coi lúc đó ta mới có công lực bằng đứa nhỏ chín tuổi thì làm thế nào kháng cự được bọn Ô Lão Đại, An động chúa… mỗi tên có ba bốn chục năm công phu? Mấy ngày sau đó ta không được uống máu tươi, nên vẫn giữ nguyên mức đứa nhỏ tám chín tuổi. Công cuộc phản lão hoàn đồng cũng như rắn già lột da, mỗi lần thoát xác là một lần lớn lên, nhưng diễn biến đang dở dang mà bị người bắt được thì nguy hiểm vô cùng. Giả tỉ ta không được uống máu tươi thêm mấy ngày nữa, thì không tài nào luyện nội công được, chân khí trong người bành trướng lên rồi phát tác ra, điên khùng mà chết. Ta nói là ngươi đã cứu sống ta, chẳng phải là nói ngoa đâu.”

Hư Trúc lại hỏi: “Hiện giờ thí chủ đã phục hồi công lực lại bằng người mười một tuổi. Như vậy, muốn tới mức chín mươi sáu tuổi thì còn đến tám mươi lăm ngày nữa, vậy phải giết tám mươi lăm con hươu hay dê nữa hay sao?”

Thiên Sơn Đồng Mô mỉm cười đáp: “Tiểu hòa Thượng đã biết tính toán, thông minh hơn một chút. Tám mươi lăm ngày sắp tới, ta còn phải trải qua bao nhiêu gian nguy. Bọn Bất Bình đạo nhân, Ô Lão Đại chỉ là hàng chuột nhắt chẳng có chi đáng kể. Nhưng nếu đại địch biết tin này mà đến đây thì một mình ta khó lòng chống nổi, phải có ngươi hộ vệ mới được.”

Hư Trúc nói: “Võ công tiểu tăng kém cỏi, không bõ làm trò cười cho tiền bối. Tiền bối còn chưa đối phó được cường địch thì dĩ nhiên tiểu tăng chả làm gì được. Theo tiểu tăng thì tiền bối nên lánh xa đi, trốn được tám mươi lăm ngày thì công lực hoàn toàn phục hồi như cũ, chẳng phải sợ gì ai nữa.”

Thiên Sơn Đồng Mỗ nói: “Võ công ngươi tuy thấp kém, nhưng được Vô Nhai Tử đem công lực toàn thân trút sang, nội lực hiếm có trên đời. Nếu ngươi biết cách phát huy ra để vận dụng thì có thể đối phó được với cừu nhân của ta. Bây giờ chúng ta phải hợp lực giúp nhau, ta truyền cho ngươi những môn võ công tinh vi ảo diệu, người dùng võ công đó chống địch hộ vệ cho ta. Thế là hai bên cùng có lợi.” Mụ không chờ Hư Trúc ưng thuận, đã nói tiếp: “Ngươi tỉ như con nhà đại tài chủ, được tổ tiên để lại cho gia tài kếch sù, tiền bạc thừa thãi. Bây giờ ngươi không cần phải góp nhặt tiền tài mà chỉ cần đem ra xài phí. Tích tụ tiền tài mới là việc khó, còn vung tiền ra tiêu xài thì dễ ợt. Ngươi chỉ luyện một tháng là khá, luyện hai tháng thì có thể tạm chống đối được với cừu nhân của ta. Đầu tiên thì người phải học thuộc khẩu quyết. Câu đầu là: Pháp thiên thuận tự nhiên…”

Hư Trúc xua tay lia lịa nói: “Tiền bối! Tiểu tăng là đệ tử chùa Thiếu Lâm. Công phu của tiền bối tuy thần diệu vô song, nhưng tiểu tăng quyết không thể học được. Xin tiền bối miễn thứ cho.” Thiên Sơn Đồng Mỗ nổi giận nói: “Công phu phái Thiếu Lâm của ngươi đã bị Vô Nhai Tử hóa giải hết còn đâu, sao ngươi cứ nói hoài là đệ tử phái Thiếu Lâm?” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng sẽ quay về phái Thiếu Lâm luyện lại từ đầu.” Thiên Sơn Đồng Mỗ tức giận nói: “Ngươi khinh ta là bàng môn tả đạo nên không thèm học phải không?” Hư Trúc đáp: “Đệ tử nhà Phật lấy từ bi làm căn bản, lấy phổ độ chúng sinh làm tâm nguyện, cốt sao cho minh tri kiến tính. Còn luyện võ công được cao thâm thì cũng là hay, mà luyện chẳng tới đâu thì cũng không trở ngại gì đến việc tu thành chánh quả. Kẻ tu hành không thể chuyên tâm luyện võ mà xao lãng việc chính yếu là tu tâm dưỡng tính.”

Đồng Mỗ thấy mắt nhà sư nhìn xuống đất, nghiễm nhiên có khí tượng một vị cao tăng bé nhỏ thì nghĩ rằng y thật là cứng cổ, không biết phải làm sao. Mụ trầm ngâm giây lát, rồi nghĩ ra một kế, lớn tiếng gọi: “Ô Lão Đại! Ngươi lập tức đi bắt hai con hươu đem về đây, để ta ăn thịt.”

Lão Đại đang ở ngoài xa mà công lực Đồng Mỗ chưa đủ, thanh âm mụ không truyền ra xa được. Mụ gọi tới ba lần mà Ô Lão Đại vẫn chưa nghe thấy.

Hư Trúc thất kinh nói: “Sao lại phải giết hươu? Hôm nay tiền bối uống máu tươi rồi mà?” Đồng Mỗ cười đáp: “Đây là ngươi bức bách ta phải sát sinh, sao lại còn hỏi nhiều?” Hư Trúc lấy làm lạ hỏi: “Tiểu tăng… tiểu tăng bức bách tiền bối sát sinh bao giờ?” Đồng Mỗ đáp: “Ngươi không chịu giúp ta kháng cự cường địch, ắt ta phải bị hành hạ cho đến chết. Ngươi thử nghĩ coi trong lòng ta phiền não hay không?” Hư Trúc gật đầu nói: “Tiền bối nói cũng có lý. Oán Tăng Hội là một trong bảy nỗi khổ của kiếp người, tiền bối muốn thoát khỏi thì phải bỏ hết sân si.” Đồng Mỗ cười khẩy: “Hừ hừ, ngươi lại muốn giảng đạo cho ta ư? Bây giờ thì không kịp rồi. Nỗi oán hận này không biết phát tiết vào đâu, ta đành giết dê giết hươu, sát sinh cho hả dạ.” Hư Trúc chắp tay để trước ngực nói: “A Di Đà Phật! Tội lỗi, tội lỗi! Tiền bối ơi! Những con hươu con dê đó thật là tội nghiệp, tiền bối nên tha mạng cho chúng mới phải.”

Đồng Mỗ cười nhạt đáp: “Chính mạng ta cũng sắp nguy đến nơi, chẳng cần nghĩ gì đến sinh vật nữa.” Rồi mụ lại cố cao giọng hô lên: “Ô Lão Đại! Ngươi mau đi bắt hươu sao về cho ta!” Lần này Ô Lão Đại lên tiếng trả lời.

Hư Trúc hoảng hốt, không biết phải làm sao. Nếu y bỏ đi thì mang tiếng là áp bức mụ phải sát sinh, không biết còn bao nhiêu hươu nai sẽ bị chết oan uổng vào tay Đồng Mỗ. Nếu y lưu lại học võ công của mụ thì cũng không ổn chút nào.

Bản lãnh bắt hươu nai của Ô Lão Đại thật ít người bì kịp, chẳng mấy chốc hắn đã nắm sừng lôi một con hươu về. Thiên Sơn Đồng Mỗ lạnh lùng nói: “Hôm nay ta đã uống máu hươu rồi, ngươi cầm dao chém chết con hươu này đi rồi quẳng xuống núi.” Hư Trúc vội nói: “Khoan đã! Khoan đã!…” Thiên Sơn Đồng Mỗ ngắt lời: “Nếu ngươi tuân lời ta thì ta không giết con hươu này. Nếu ngươi bỏ ta mà đi thì mỗi ngày ta phải giết chục con. Giết nhiều giết ít là tùy ở ngươi. Phật tổ vì phổ độ chúng sinh đã tuyên bố: “Nếu ta không vào địa ngục thì còn ai vào nữa?” Ngươi phục vụ ta mấy ngày, kể ra cũng chưa khổ đến mức vào địa ngục, thế mà ngươi nhẫn tâm khiến cho đàn hươu phải chết oan. Như vậy thì còn đâu là lòng dạ từ bi của đệ tử nhà Phật?” Nhà sư run rẩy đáp: “Tiền bối nói đúng lắm! Xin buông tha con hươu này, Hư Trúc xin tuân lời tiền bối.” Đồng Mỗ cả mừng quay lại bảo Ô Lão Đại: “Ngươi thả con hươu đó, rồi biến ra xa di.”

Đồng Mỗ chờ cho Ô Lão Đại đi xa, rồi bắt đầu truyền khẩu quyết về phép vận dụng chân khí trong người. Mụ là sư tỉ Vô Nhai Tử, đường lối võ công giống hệt. Về nội lực thì Hư Trúc cũng là đồng môn của mụ nên tiến bộ rất mau.

Hôm sau đến giờ Ngọ, Đồng Mỗ lại luyện môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, cũng cắn cổ hươu để hút máu tươi. Nhưng lần này mụ lấy thuốc xịt vào vết thương cho nó, rồi thả cho đi. Đoạn mụ quay lại bảo Ô Lão Đại: “Vị tiểu sư phụ đây không muốn thấy người ta sát sinh. Vậy từ nay trở đi, mỗ mỗ không cho ngươi ăn thịt hươu nữa, phải dùng trái tùng làm bữa. Nếu ngươi còn ăn thịt hươu, thịt dê, hừ, mỗ mỗ sẽ giết ngươi để báo thù cho chúng.”

Lão Đại vâng dạ luôn mồm, nhưng rủa thầm đến ông tổ mười chín hai mươi đời nhà Hư Trúc. Hắn thấy Đồng Mỗ có vẻ lịch sự với Hư Trúc, nên nghĩ tới cái đau khổ vì Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn mà không dám vô lễ ra miệng với nhà sư nữa.

Lại thêm mấy ngày, Hư Trúc thấy Đồng Mỗ không giết hại hươu dê mà Ô Lão Đại cũng không ăn nói hỗn láo như trước, thì mừng thầm nghĩ: “Người ta thủ tín với mình, có lý đâu mình chẳng tận tâm tận lực với người ta?” Bởi thế mà nhà sư ráng sức tập luyện võ công, không dám chểnh mảng chút nào. Dung mạo Thiên Sơn Đồng Mỗ mỗi ngày một biến đổi, mới trong bốn năm ngày đã từ cô bé mười một mười hai biến thành thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi. Có điều thân hình mụ vẫn thấp bé y nguyên. Một hôm sau giờ ngọ, Đồng Mỗ luyện xong môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn rồi quay lại bảo Hư Trúc cùng Ô Lão Đại: “Chúng ta ở chỗ này đã lâu rồi, chắc là bọn yêu ma sắp tìm đến nơi. Tiểu hòa thượng! Ngươi cõng ta lên đỉnh núi, xách cả Ô Lão Đại đi theo, đừng để dấu vết gì trên mặt tuyết.”

Hư Trúc “Vâng” một tiếng, đưa tay toan ẵm Đồng Mỗ thì bỗng thấy mụ dung nhan xinh đẹp, khóe mắt long lanh, thực là một vị cô nương nguyệt thẹn hoa nhường. Nhà sư kinh hãi vội rút tay về, ấp úng nói: “Tiểu… tiểu tăng không dám mạo phạm.” Đồng Mỗ ngạc nhiên hỏi: “Ngươi nói mạo phạm cái gì?” Hư Trúc đáp: “Tiền bối đã trở thành một vị đại cô nương đang độ xuân thì, không phải là tiểu cô nương nữa. Nam… nam nữ thọ thọ bất thân, người xuất gia lại càng phải giữ gìn.”

Đồng Mỗ cười hì hì, vẻ mặt xinh tươi, hai má đỏ bừng, liếc mắt mỉm cười nói: “Tiểu hòa thượng lại nói chuyện hồ đồ rồi! Mỗ mỗ là một bà cụ chín mươi sáu tuổi, ngươi có cõng lên lưng cũng chẳng can hệ gì.” Mụ nói xong, toan nằm phục trên lưng Hư Trúc. Hư Trúc cả kinh nói: “Không được! Không được!”, rồi co cẳng chạy liền. Đồng Mỗ thi triển khinh công đuổi theo.

Lúc này Hư Trúc đã luyện Bắc Minh Chân Khí đến ba bốn thành, còn Đồng Mỗ mới phục hồi công lực bằng hồi mười tám tuổi, nên khinh công còn kém xa y. Hư Trúc mới vọt đi mấy cái đã bỏ mụ khá xa. Đồng Mỗ la lên: “Quay lại đã!” Hư Trúc dừng chân nói: “Để tiểu tăng nắm tay tiền bối nhảy lên ngọn cây!” Đồng Mỗ tức mình nói: “Ngươi cực kỳ hủ lậu, chẳng linh mẫn chút nào! Kiếp này ngươi tập luyện võ công thượng thừa khó mà thành được, khó mà thành được!”

Hư Trúc chưng hửng, nghĩ thầm: “Kinh Kim Cang có nói: Cái gì có tướng, tức là hư vọng. Tiểu cô nương hay đại cô nương thì cũng là hư vọng. Như Lai có nói: Thân người khi lớn lên, tuy không phải là thân lớn, nhưng gọi là thân lớn. Nếu vậy thì có thể nói: Đại cô nương cũng không phải là đại cô nương, chỉ là gọi bằng đại cô nương mà thôi.”. Y cứ nghĩ tới nghĩ lui không dứt khoát.

Đột nhiên mắt Hư Trúc hoa lên, một bóng trắng như có như không, từ đâu vọt lại trước mặt Đồng Mỗ. Thì ra đó là một người toàn thân mặc y phục trắng, lẫn vào màu tuyết thành ra chỉ thấy lờ mờ không rõ.

Hồi 36: Bóng hồng đã khép cửa thiền

Hư Trúc cả kinh tiến lên hai bước, Đồng Mỗ cũng vừa hô hoán vừa tiến về phía y. Bóng trắng khẽ cất tiếng hỏi: “Sư tỉ ở đây có mạnh giỏi chăng?”, thanh âm nữ nhân êm ái uyển chuyển rất dễ nghe. Hư Trúc lại tiến thêm hai bước, thấy nữ nhân áo trắng thân hình tha thướt, nhưng mặt được che bằng tấm lụa trắng nên không trông rõ tướng mạo. Hư Trúc nghe bà ta gọi Đồng Mỗ bằng sư tỉ, liền nghĩ rằng Đồng Mỗ đã có người nhà đến hộ vệ, sẽ không bắt mình ở lại nữa. Nhà sư mừng thầm, nhưng nhìn qua Đồng Mỗ thì thấy vẻ mặt mụ ta rất kỳ quái, nửa như kinh hãi nửa như căm hận, rõ ràng không hoan hỉ chút nào.

Đồng Mỗ lạng người đến bên Hư Trúc la hoảng: “Cõng ta lên núi cho mau!” Hư Trúc vẫn ngập ngừng: “Cái đó… tiểu tăng đã nói là không tiện mà!…” Đồng Mỗ cả giận, tát một phát vào mặt nhà sư rồi la lên: “Con tiện nhân đã đuổi tới nơi định làm hại ta. Ngươi không trông thấy hay sao?” Mụ ra tay không nhẹ, Hư Trúc mắt nổ đom đóm rồi nửa mặt sưng vù.

Người áo trắng nói: “Sư tỉ già rồi mà vẫn còn hay giận dữ ư? Người ta đã không muốn mà sư tỉ cứ ép buộc, nào đánh nào mắng là nghĩa lý gì? Tiểu muội khuyên sư tỉ, đối xử với người ta nên tử tế là hơn.” Hư Trúc xiết bao cảm kích, nghĩ thầm: “Bà này đồng môn cùng Đồng Mỗ và Vô Nhai Tử, mà sao tính tình chẳng giống Đồng Mỗ chút nào, nhã nhặn ôn hòa, thấu tình đạt lý.”

Đồng Mỗ vẫn không ngớt giục Hư Trúc: “Mau mau cõng ta chạy đi, trốn khỏi con tiện nhân này càng xa càng tốt. Ta nhất định không quên lòng tốt của ngươi, sẽ có ngày báo đáp.”

Nữ nhân áo trắng vẫn nhàn nhã bình thản, đứng yên một bên. Làn gió nhẹ nhàng lay động xiêm áo, trông bà phiêu diêu như một vị tiên. Hư Trúc tự hỏi: “Vị này hiền hòa văn nhã là thế, mà sao Đồng Mỗ lại có vẻ chán ghét sợ hãi?” Nữ nhân áo trắng lại hỏi: “Sư tỉ! Tỉ muội ta đã mấy chục năm trời chưa được gặp nhau, hôm nay mới được tái ngộ. Sư tỉ chẳng hân hoan, lại còn hốt hoảng bỏ đi là nghĩa làm sao? Tiểu muội tính ra mấy bữa nay là dịp sư tỉ phản lão hoàn đồng, trong lòng chỉ sợ bọn yêu ma quỷ quái thủ hạ của sư tỉ nhân cơ hội này làm phản, bèn đến cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu tìm sư tỉ để giúp một tay, nhưng lại không thấy sư tỉ ở đó.”

Đồng Mỗ thấy Hư Trúc không chịu cõng mình chạy trốn thì chẳng biết làm thế nào, hằn học đáp: “Ngươi tính đúng vào thời kỳ ta phải tán công mà tìm đến núi Phiêu Diểu có phải vì lòng tốt đâu? Phải chăng là để trả mối hận ngày trước? Nhưng ngươi không tính đến chuyện ông trời xui khiến cho có người đem ta xuống núi. Ngươi một phen uổng công, lại cố truy tìm đến đây phải chăng? Lý Thu Thủy! Hôm nay ngươi đến đây thì đã chậm mất mấy ngày. Tuy ta không địch lại ngươi, nhưng ngươi đừng tưởng là không mất hơi sức mà hại được thần công một đời của ta.”

Nữ nhân áo trắng đáp: “Sao sư tỉ lại nói thế? Tiểu muội lúc nào cũng nhớ sư tỉ, ngày nào cũng muốn đến cung Linh Thứu để vấn an. Nhưng mấy chục năm trước kia sư tỉ hiểu lầm tiểu muội rồi sinh dạ hoài nghi, lần nào gặp nhau sư tỉ cũng chưa kịp hỏi gì đã buông lời trách mắng. Tiểu muội một là sợ sư tỉ nổi nóng, hai là sợ sư tỉ đánh đập, nên chần chờ không dám đến thăm. Nếu sư tỉ cho rằng tiểu muội có ý bất lương, thì thật là quá đa nghi rồi.” Bà nói năng vừa giữ lễ vừa thân mật.

Hư Trúc Vốn biết tính tình Đồng Mỗ ngang ngược, bèn nghĩ rằng hai bà này một thiện một ác, chuyện hiềm khích năm xưa rõ ràng Đồng Mỗ là người sai trái.

Đồng Mỗ tức giận nói: “Lý Thu Thủy! Sự tình đã đến thế này, bữa nay ngươi đến đây hoa ngôn xảo ngữ châm chọc ta cũng chẳng ích gì! Ngươi hãy xem cái gì đây?” Nói xong mụ giơ tay trái lên, chìa cái nhẫn bảo thạch ra. Nữ nhân áo trắng tức là Lý Thu Thủy bỗng run lên, lạc giọng hỏi: “Đây là cái nhẫn thất bảo của chưởng môn… Sư tỉ lấy ở đâu ra?” Đồng Mỗ lại cười đáp: “Dĩ nhiên là chưởng môn trao lại cho ta… Ngươi đã biết rồi, còn hỏi làm gì?” Lý Thu Thủy chưng hửng một lát rồi hỏi: “Hừ! Y… y sao lại giao nhẫn cho sư tỉ? Nếu sư tỉ không ăn cắp, thì hẳn là cướp giật của y.”

Đồng Mỗ lớn tiếng nói: “Lý Thu Thủy! Chưởng môn phái Tiêu Dao truyền cho ngươi phải quì xuống nghe lệnh.”

Lý Thu Thủy nói: “Sư tỉ tự phong cho mình chức chưởng môn hay sao? Chắc là… chắc là sư tỉ đã ám hại y để cướp nhẫn thất bảo rồi.” Bà vốn là người hòa nhã, nhưng từ lúc trông thấy cái nhẫn thất bảo, không khỏi xúc động, lời nói đã ra chiều nóng nảy.

Đồng Mỗ nghiêm giọng hỏi: “Ngươi không chịu tuân theo mệnh lệnh của chưởng môn, muốn phản nghịch sư môn, có phải thế không?”

Đột nhiên một làn bạch quang lóe lên, thân hình Đồng Mỗ tung lên không rồi văng đi xa. Hư Trúc thất kinh hỏi: “Sao vậy?”, rồi bỗng thấy trên mặt tuyết có vết máu loang, một ngón tay của Đồng Mỗ bị chặt rớt xuống, cái nhẫn đã bị Lý Thu Thủy lấy được cầm trong tay. Thì ra Lý Thu Thủy dùng thủ pháp mau lẹ tuyệt luân chặt đứt ngón tay của Đồng Mỗ để đoạt chiếc nhẫn, rồi lại phóng chưởng hất mụ ra xa. Bà dùng thứ khí giới gì để chặt ngón tay Đồng Mỗ thì Hư Trúc không nhìn rõ được vì bà ra tay lẹ quá!

Bỗng nghe Lý Thu Thủy nói: “Sư tỉ đã ám hại y cách nào, nói thật cho tiểu muội nghe đi! Tiểu muội đối với sư tỉ tình nghĩa thâm trọng, quyết không làm khó sư tỉ đâu.” Bây giờ Lý Thu Thủy lấy được chiếc nhẫn bảo thạch rồi, giọng nói của bà ta trở lại ôn tồn.

Hư Trúc thấy bất nhẫn, lên tiếng nói: “Lý thí chủ! Hai vị là sư tỉ muội đồng môn, sao lại ra tay ác độc đến thế? Vô Nhai Tử lão tiên sinh không phải bị Đồng Mỗ gia hại đâu. Người xuất gia không biết nói dối, tiểu tăng không gạt thí chủ đâu.”

Lý Thu Thủy quay sang hỏi Hư Trúc: “Xin hỏi tiểu sư phụ pháp hiệu là gì? Xuất gia ở bảo tự nào? Tại sao lại biết danh hiệu sư huynh của ta?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng pháp danh là Hư Trúc, đệ tử chùa Thiếu Lâm. Vô Nhai Tử lão tiên sinh là… Ôi, chuyện này nói ra dài quá…” Đột nhiên Lý Thu Thủy phất tay áo một cái, hai đầu gối nhà sư chùn lại rồi cảm thấy tê nhức, khí huyết bỗng chạy ngược đường. Nhà sư ngã lăn ra kêu lên: “Ôi chao! Thí chủ làm gì thế? Tiểu tăng có làm gì đắc tội với thí chủ đâu, sao lại đả thương tiểu tăng?”

Lý Thu Thủy mỉm cười đáp: “Tiểu sư phụ đã là cao tăng phái Thiếu Lâm, tại hạ chỉ muốn thử công lực một chút mà thôi! Ôi! Tiếng tăm phái Thiếu Lâm lừng lẫy là thế, mà võ công phái này chỉ có thế thôi ư?”

Hư Trúc nằm dưới đất nhìn lên, thấy dung mạo Lý Thu Thủy sau tấm mạng che mặt tựa như một thiếu phụ ngoài bốn mươi tuổi, đôi mày rất xinh đẹp, nhưng trên má dường như có mấy ngấn máu, lại hình như có mấy vết sẹo to. Nhà sư sợ hãi đáp: “Tiểu tăng chỉ là một hòa thượng hạng bét tại chùa Thiếu Lâm. Tiền bối chẳng nên vì tiểu tăng bất tài mà mạt sát cả tệ phái.”

Lý Thu Thủy không lý gì đến y nữa, từ từ đến bên Đồng Mỗ, dịu dàng nói: “Sư tỉ ơi! Mấy năm nay tiểu muội nhớ sư tỉ biết chừng nào, may mà ông trời còn có mắt, tỉ muội ta còn được gặp nhau. Trước kia sư tỉ đối đãi cực kỳ tử tế, tiểu muội vẫn ghi nhớ ngày đêm…”

Đột nhiên một làn bạch quang lóe ra, Đồng Mỗ rú lên một tiếng bi thảm. Máu chảy thành vũng trên mặt tuyết, chân trái Đồng Mỗ đã bị chặt đứt lìa ra. Hư Trúc kinh hãi không sao nói hết, giận dữ quát hỏi: “Tỉ muội đồng môn mà thí chủ hạ thủ nhẫn tâm đến thế ư? Thí chủ… thí thủ thật là dã man không bằng cầm thú.”

Lý Thu Thủy từ từ quay đầu lại, kéo tấm khăn lên, để lộ bộ mặt trái xoan trắng nõn nà. Hư Trúc vừa nhìn thấy đã la lên một tiếng kinh ngạc, mặt bà bị kiếm rạch hai nét ngang hai nét dọc thành hình chữ “Tĩnh”. Vết thương đã làm cho mắt bên phải bà lồi ra ngoài, miệng méo xệch sang bên trái, bộ mặt xinh đẹp biến thành xấu xa khủng khiếp. Lý Thu Thủy nói: “Nhiều năm trước, có kẻ đã dùng mũi kiếm vạch vào mặt ta đến thế này. Tiểu sư phụ chùa Thiếu Lâm thử nghĩ xem có nên trả thù hay không?” Mụ nói xong lại từ từ kéo khăn xuống che mặt, Hư Trúc hỏi lại: “Là… là Đồng Mỗ đã hại thí chủ ư?” Lý Thu Thủy đáp: “Tiểu sư phụ hỏi y thử xem.”

Đồng Mỗ tuy máu chảy ra như suối mà vẫn không ngất xỉu, lên tiếng đáp: “Đúng rồi! Chính ta đã vạch vào mặt nó. Năm ta hai mươi sáu tuổi, luyện công sắp đến ngày thành tựu, thân thể có thể phát triển như một thiếu nữ bình thường. Nhưng lúc đó nó hại ta tẩu hóa nhập ma, thân thể vĩnh viễn thế này. Theo ngươi thì mối thù này có nên báo hay không?”

Hư Trúc ngước lên nhìn Lý Thu Thủy, nghĩ thầm: “Nếu Đồng Mỗ nói đúng sự thực, thì Lý Thu Thủy là người gây ác nghiệt trước.”

Đồng Mỗ lại nói: “Hôm nay ta đã lọt vào tay mi, nói nhiều cũng vô ích. Còn vị tiểu hòa thượng này là bạn vong niên với Vô Nhai Tử, mi không được động đến một sợi tóc. Nếu mi càn rỡ thì y không tha mi đâu.” Mụ nói xong, nhắm nghiền mắt lại, mặc cho địch nhân muốn giết muốn mổ thế nào cũng được.

Lý Thu Thủy thở dài đáp: “Sư tỉ đã lớn tuổi hơn mà cũng thông minh hơn, nhưng hôm nay muốn gạt tiểu muội thì không phải là chuyện dễ đâu. Sư tỉ đã nói y… y hiện nay hãy còn trên thế gian thì cái nhẫn thất bảo này sao lại lọt vào tay sư tỉ được? Vị tiểu sư phụ này với tiểu muội không thù không oán, vả lại tiểu muội vốn nhát gan, chẳng dám gây thù với phái Thiếu Lâm là núi Thái Sơn là sao Bắc Đẩu trong võ lâm. Tiểu muội không đả thương y đâu, sư tỉ đừng ngại gì hết. Tiểu muội có mang theo hai viên Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn, xin sư tỉ uống vào cho vết thương đừng chảy máu nữa.”

Hư Trúc nghe bà gọi một điều tỉ tỉ, hai điều tỉ tỉ, giọng nói cực kỳ thân thiết, nhưng nhớ lại lúc nãy Đồng Mỗ cũng bắt Ô Lão Đại uống hai viên Cửu Chuyển Hàng Xà Hoàn, bất giác trên lưng toát mồ hôi lạnh.

Đồng Mỗ nổi giận nói: “Ngươi muốn giết ta thì cứ việc động thủ, còn muốn ép ta uống Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn để hành hạ sỉ nhục thì đừng có nằm mơ.” Lý Thu Thủy dịu dàng đáp: “Tiểu muội một lòng kính ái mà tỉ tỉ cứ hiểu lầm hoài. Vết thương trên chân tỉ tỉ chảy máu nhiều quá xem chừng bất ổn, tỉ tỉ uống hai viên thuốc này là hơn.” Hư Trúc nhìn tay bà ta, những ngón tay tháp bút trắng như ngọc đang cầm hai viên thuốc màu vàng, giống hệt như thuốc mà Ô Lão Đại uống lúc trước. Nhà sư nghĩ thầm: “Đồng Mỗ vừa tác ác, nghiệp báo đã nhỡn tiền thật là mau lẹ.”

Đồng Mỗ la lên: “Tiểu hòa thượng! Ngươi phóng chưởng đánh vào đỉnh đầu cho ta chết đi, đừng để con tiện nhân này bắt ta phải chịu đau đớn nhục nhã nữa.” Lý Thu Thủy cười nói: “Tiểu sư phụ mệt lắm rồi, bây giờ phải nằm nghỉ một chút.” Đồng Mỗ tức quá, trong ngực đau nhói lên, thổ ra một búng máu. Lý Thu Thủy lại nói: “Sư tỉ chân dài chân ngắn, nếu để y trông thấy thì thật khó coi. Một vị mỹ nhân như sư tỉ mà bên cao bên thấp thì hóa ra lệch lạc, tất y không khỏi chán ghét. Để tiểu muội giúp sư tỉ cân đối cho hai chân bằng nhau.” Bà vừa dứt lời, ánh bạch quang lóe lên, trong tay đã cầm khí giới.

Lần này Hư Trúc nhìn rõ bà ta cầm một lưỡi trủy thủ trong suốt, dường như chế bằng thủy tinh, Lý Thu Thủy cố kéo dài cuộc hành hạ Đồng Mỗ cho thêm khủng khiếp bõ ghét, nên không ra tay mau lẹ, cứ cầm lưỡi trủy thủ nhắp lên nhắp xuống trước chân phải Đồng Mỗ.

Hư Trúc cả giận nghĩ thầm: “Mụ này thật là tàn nhẫn.” Trong lòng y khích động mãnh liệt, Bắc Minh Chân Khí trong thân thể cuồn cuộn xông lên, lập tức y cảm thấy hai chân mình tự giải khai huyệt đạo, hành động không bị trở ngại gì nữa. Hư Trúc không nghĩ gì nhiều, xông lại ẵm Đồng Mỗ lên, hướng về phía đỉnh núi mà chạy.

Lúc Lý Thu Thủy dùng kỹ thuật Hàn Tụ Phất Huyệt hất ngã Hư Trúc, bà đã biết võ công nhà sư rất tầm thường nên chẳng coi vào đâu, rồi bỏ mặc nhà sư nằm đó để quay lại hành hạ Đồng Mỗ. Lý Thu Thủy cho rằng có thêm người chứng kiến thì sự hành hạ của mình lại thêm mấy phần hứng thú, định bụng chờ đến sau cùng mới hạ sát nhà sư để diệt khẩu. Ngờ đâu nhà sư tự giải khai được huyệt đạo, bất thình lình ôm Đồng Mỗ, chạy xa tới năm sáu trượng. Lý Thu Thủy rảo bước đuổi theo, cười nói: “Tiểu sư phụ đã bị sư tỉ của ta làm cho mê mẩn tâm thần rồi chăng? Sư tỉ của ta tuy là nguyệt thẹn hoa nhường, nhưng đã chín mươi sáu tuổi rồi, không phải là một vị cô nương mười bảy mười tám đâu nhé!” Bà ỷ mình có bản lĩnh cao cường, cho là chỉ trong khoảnh khắc sẽ đuổi kịp. Bà ta vừa đuổi vừa nghĩ: “Thằng trọc con này mà có luyện công từ lúc còn trong bụng mẹ, thì cũng có hơn hai chục năm công lực là cùng.” Ngờ đâu khoảng cách chỉ chừng năm sáu trượng mà Lý Thu Thủy đuổi mãi vẫn không kịp. Bà vừa kinh ngạc vừa tức giận gọi: “Tiểu sư phụ! Nếu tiểu sư phụ không chịu dừng lại thì ta sẽ phóng chưởng đánh cho bị thương.”

Đồng Mỗ biết sư muội mình võ công biến ảo khôn lường, chỉ phóng vài phát chưởng là lấy mạng Hư Trúc ngay, rồi mình cũng lọt vào tay hắn. Mụ liền nói: “Tiểu sư phụ! Đa tạ ngươi có lòng tốt cứu ta, nhưng chúng ta không địch nổi con tiện nhân kia đâu. Ngươi quẳng ta xuống núi cho rồi, không chừng hắn không sát hại ngươi nữa.”

Hư Trúc đáp: “Không… thể nào thế được.” Nhà sư chỉ nói mấy tiếng mà chân khí đã tiết ra, chạy chậm lại một chút, nên Lý Thu Thủy đuổi đến nơi. Đột nhiên nhà sư thấy từ sau lưng thổi tới một luồng gió lạnh buốt như một khối băng áp vào da thịt, rồi lao đi không gượng được, thân thể rớt xuống khe núi. Y biết mình đã bị Lý Thu Thủy dùng chưởng lực âm hàn đánh trúng, nhưng hai tay vẫn ôm chặt Đồng Mỗ, để người rớt xuống, nghĩ thầm: “Rớt xuống đây thì xương thịt sẽ tan nát ra như một đống bùn.”

Hư Trúc còn văng vẳng nghe tiếng Lý Thu Thủy vọng từ trên núi xuống: “Chao ôi! Ta xuất thủ nặng quá, thế là khoan hồng cho mụ mất rồi.” Thì ra ngọn núi này có một cái khe, nhưng tuyết phủ lấp nên không nhìn thấy. Lý Thu Thủy chỉ dự định phóng chưởng cho Hư Trúc ngã ra, rồi bắt lấy Đồng Mỗ, dùng những phương pháp cực kỳ tàn ác để hành hạ. Không ngờ Hư Trúc trượt chân trên mặt tuyết, rồi cùng Đồng Mỗ rớt xuống khe núi.

Hư Trúc chỉ thấy người mình chơi vơi, không tự chủ được, đành để cho rơi thẳng xuống, bên tai nghe tiếng gió vù vù. Tuy khoảng thời gian này chỉ trong chớp nhoáng mà nhà sư tưởng chừng như dài vô tận, vĩnh viễn không tới nơi. Trước mắt y chỉ thấy làn tuyết trắng xóa trên sườn núi như vù vù xô tới mình nhanh đến chóng mặt, nhưng mắt y bỗng hoa lên, thấy trong đám tuyết có mấy chấm đen đang chuyển động. Nhà sư chưa kịp nhìn kỹ thì đã rơi gần đến đất.

Bất thình lình có tiếng người hỏi: “Ai đó?”, rồi một đạo kình lực chạm vào lưng Hư Trúc, đẩy ngang ra. Hư Trúc chưa chạm đất đã bắn chênh chếch ra, giật mình liếc thấy người vừa ra tay đẩy mình là Mộ Dung Phục. Hư Trúc cả mừng, toan liệng Đồng Mỗ ra cho Mộ Dung Phục nhận lấy, cứu được một mạng.

Thì ra Mộ Dung Phục thấy hai người từ trên ngọn núi té nhào xuống không biết là ai, liền xuất tuyệt kỹ gia truyền Đẩu Chuyển Tinh Di, đổi chiều đà rớt xuỗng thành tạt ngang ra. Chiêu Đẩu Chuyển Tinh Di này y vẫn chưa hết kình lực, mà lực đạo của hai người rơi xuống lại quá mãnh liệt, Mộ Dung Phục tức thì choáng váng hoa mắt, muốn ngồi thụp xuống.

Hư Trúc tuy muốn tung Đồng Mỗ ra, nhưng bị lực đạo quá mạnh đè ép nên không thể tung ra được, bay ra mười mấy trượng rồi lại rớt xuống. Đột nhiên chân nhà sư đáp vào một vật gì vừa mềm nhũn vừa đàn hồi nghe “bịch” một tiếng, thân thể lại bắn lên không. Trong nháy mắt, y nhìn thấy một người thấp lủn thủn mà béo tròn như quả bóng nằm lăn ra đó, rõ ràng là Tang Thổ Công. Chuyện ngẫu nhiên này thật là kỳ lạ! Hư Trúc lúc rớt xuống đáp hai chân vào bụng y, y lập tức vỡ bụng lòi ruột chết liền, nhưng cũng nhờ thế mà hai chân Hư Trúc không đến nỗi bị gãy nát. Hư Trúc bị hất văng ra không tự chủ được, bay ngang đi, xông vào một người lờ mờ trông như Đoàn Dự. Hư Trúc la lên: “Đoàn tướng công! Mau mau tránh ra, tiểu tăng đang bay tới đó.”

Đoàn Dự thấy Hư Trúc bay tới rất gấp, chắc mình không đỡ nổi, nhưng cũng la lên: “Để ta đỡ ngươi” rồi quay lưng lại hứng lấy, đồng thời chuyển thân sử dụng phép Lăng Ba Vi Bộ chạy về phía trước. Trong giây lát, Đoàn Dự cảm thấy trên lưng bị đè ép cơ hồ nghẹt thở, nhưng mỗi lần cất bước chân, luồng lực đạo trên lưng lại giảm bớt đi một chút, bèn cứ thế chạy hơn ba chục bước. Hư Trúc từ trên lưng Đoàn Dự nhẹ nhàng tuột xuống.

Hai người từ trên cao mấy trăm trượng rớt xuống, đầu tiên được Mộ Dung Phục ra chiêu Đẩu Chuyển Tinh Di lái chếch đi đã giảm sức mạnh được một phần, kế đó được da bụng Tang Thổ Công hất lên, cuối cùng được Đoàn Dự cõng trên lưng chạy vòng vèo, qua ba lần chuyển tiếp mới hạ xuống đất nên chẳng bị thương chút nào. Hư Trúc đứng thẳng người lên nói: “A Di Đà Phật! Đa tạ các vị đã cứu cho!” Y không biết mình vừa đạp chết Tang Thổ Công, nếu không chắc sẽ áy náy vô cùng. Bỗng thấy có tiếng la từ trên sườn núi vọng xuống. Đồng Mỗ từ lúc bị chặt chân, tuy mất máu nhiều, nhưng thần trí vẫn tỉnh táo, kinh hãi nói: “Nguy rồi! Con tiện nhân lại đuổi tới nơi. Chạy mau đi! Chạy mau đi!” Hư Trúc nghĩ đến Lý Thu Thủy lòng dạ độc ác, thủ đoạn tàn nhẫn, thì bất giác rùng mình, vội ôm xốc Đồng Mỗ lên chạy vào trong rừng.

Lý Thu Thủy theo sườn núi chạy xuống, dù khinh công bà mau lẹ vô cùng, nhưng so với Hư Trúc rớt thẳng xuống thì dĩ nhiên không bằng được. Thực ra bà còn cách rất xa, nhưng Hư Trúc sợ hãi quá, chạy như bay như biến không dám dừng lại chút nào. Chạy hơn một trăm dặm nữa, Đồng Mỗ đột nhiên lên tiếng: “Ngươi buông ta xuống, xé áo buộc vết thương lại, dừng để vết máu cho địch nhân biết đường mà đuổi. Ngươi lại điểm vào hai huyệt đạo Hoàn Khiêu và Thừa Môn cho máu ngưng chảy.” Hư Trúc đáp: “Vâng”, rồi làm theo lời mụ, vẫn nơm nớp lắng tai nghe xem Lý Thu Thủy có động tĩnh gì không. Đồng Mỗ móc trong bọc ra một viên thuốc sắc vàng uống ngay rồi nói: “Con tiện nhân kia đối với ta có một mối thù sâu tựa bể, thể nào hắn cũng không chịu buông tha đâu. Ta còn phải bảy mươi chín ngày nữa mới hoàn nguyên được, lúc đó thì không sợ gì hắn. Nhưng trong bảy mươi chín ngày này, ta trốn đâu cho được bây giờ?”.

Hư Trúc cũng gãi đầu, nghĩ: “Biết trốn ở đâu được bảy mươi chín ngày?” Bỗng nhiên Đồng Mỗ lẩm bẩm: “Chùa Thiếu Lâm là nơi ẩn náu tuyệt diệu hơn hết.” Hư Trúc nghe vậy sợ quá, giật bắn người lên. Đồng Mô tức giận nói: “Gã hòa thượng chết đâm này, sao ngươi phải sợ đến thế? Từ đây đến chùa Thiếu Lâm đường xa ngàn dặm, làm sao tới đó được?” Rồi mụ nghiêng đầu đi nói: “Từ đây đi thẳng về phía Tây, chỉ hơn trăm dặm nữa là đến nước Tây Hạ. Con tiện nhân kia có mối quan hệ sâu xa với nước này, nếu hắn quay về ra lệnh cho bọn cao thủ trong Nhất Phẩm Đường chia nhau đi lùng bọn ta, thì khó mà tránh khỏi độc thủ của chúng. Tiểu hòa thượng! Ngươi tính chúng ta trốn đi đâu cho phải?” Hư Trúc đáp: “Chúng ta tìm những sơn động nơi rừng sâu núi thẳm mà trốn thì trong vòng bảy tám chục ngày vị tất lệnh sư muội đã tìm được đến nơi.” Đồng Mỗ nói: “Ngươi chẳng có kiến thức chút nào. Con tiện nhân đó mà không tìm được chúng ta, nhất định quay về Tây Hạ gọi đàn chó săn, hơn bảy ngàn con chó ngao thính mũi vô cùng, bất luận chúng ta nấp ở đâu thì chúng cũng tìm được lôi về.” Hư Trúc nói: “Vậy thì chúng ta chạy về hướng Đông Nam, càng xa nước Tây Hạ chừng nào càng tốt chừng ấy.”

Đồng Mỗ hắng giọng nói: “Con tiện nhân kia rất nhiều tai mắt. Hướng Đông Nam chắc thị đã bố trí vô số nhân mã.” Mụ trầm ngâm một chút, đột nhiên vỗ tay nói tiếp: “Được rồi! Thế Trân Lung bí hiểm bữa trước ngươi phá được đó, nước đầu tiên tuyệt diệu ở chỗ nào?” Hư Trúc đang gặp lúc vô cùng nguy ngập, còn đầu óc nào mà nghĩ đến cách bình luận thế cờ. Nhà sư liền đáp: “Tiểu tăng nhắm mắt đặt liều con cờ xuống, lấp mất lối thoát của bên mình, tự giết mất một số lớn quân.”

Đồng Mỗ cả mừng nói: “Phải rồi! Mấy chục năm nay biết bao nhiêu bậc thông minh tài trí gấp trăm ngươi mà chẳng ai phá nổi thế cờ bí hiểm, chỉ vì chẳng ai dám lẩn vào đường chết. Tiểu hòa thượng! Ngươi cõng ta nhảy lên ngọn cây; mau mau chạy về phía Tây, thế là tuyệt diệu.” Hư Trúc hỏi: “Tiền bối định chạy tới đâu?” Đồng Mỗ đáp: “Chúng ta đi đến nơi cực kỳ nguy hiểm mà không ai ngờ tới. Phải đặt mình vào tuyệt địa thì mới sống được, cần phải mạo hiểm một phen.”

Hư Trúc nhìn chân mụ, buông một tiếng thở dài rồi lẩm bẩm: “Mụ đã không đi được nữa, mình chẳng mạo hiểm thì cũng không còn cách nào khác.” Nhà sư thấy Đồng Mỗ bị trọng thương, nên chẳng nghĩ gì đến “nam nữ thọ thọ bất thân” nữa, bèn cõng mụ nhắm hướng Tây mà chạy.

Nhà sư chạy một hơi mười dặm, chợt nghe có thanh âm uyển chuyển từ xa vọng lại: “Tiểu hòa thượng! Tiểu hòa thượng ngã xuống đã chết chưa? Sư tỉ ơi! Sư tỉ ở chỗ nào? Tiểu muội nhớ sư tỉ vô cùng! Mau mau ra đây với tiểu muội!” Hư Trúc nhận ra thanh âm Lý Thu Thủy thì sợ hãi quá, hai chân nhũn ra, suýt nữa từ trên ngọn cây té xuống.

Đồng Mỗ cất tiếng mắng: “Thằng trọc ngu ngốc vô dụng này, có gì đáng sợ đâu? Ngươi phải nghe thấy tiếng con tiện nhân mỗi lúc một xa, như vậy có phải hắn đang rượt về phía Đông mà mình đang chạy về phía Tây không?”

Hư Trúc để ý nghe kỹ, quả nhiên tiếng gọi của Lý Thu Thủy mỗi lúc một xa dần, lại càng bội phục Đồng Mỗ là người khôn ngoan tinh tế. Y ngập ngừng hỏi: “Bà ấy… sao bà ấy biết chúng ta trên sườn núi cao rớt xuống vực thẳm sâu hàng trăm trượng mà chưa chết?” Đồng Mỗ đáp: “Dĩ nhiên là hắn hỏi những người ở đó.” Mụ ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp: “Mấy chục năm nay, mỗ mỗ chỉ ở trên núi Phiêu Diểu, không hạ sơn lần nào, thành ra không biết võ học trên đời ngày nay tiến triển mau lẹ đến thế? Gã thanh niên công tử kia biết cách hóa giải thế mạnh của chúng ta từ trên cao rớt xuống, dùng phép tá lực đả lực phóng chưởng ra mượn sức người để hất đi, đã đến độ xuất thần nhập hóa. Thế rồi lại còn một thằng lỏi nữa không hiểu là ai mà lại biết phép Lăng Ba Vi Bộ…” Mụ tự hỏi mình, chứ không hỏi gì đến Hư Trúc. Hư Trúc cũng sợ Lý Thu Thủy đuổi kịp, nên chỉ đề khí cắm đầu cắm cổ chạy, chẳng buồn để lọt tai những lời bình luận của Đồng Mỗ.

Hư Trúc đã chạy dưới đất rồi, nhưng vẫn phải tìm những lối đi nhỏ hẹp. Đêm đến hai người chui vào bụi rậm mà ngủ, sáng hôm sau lại đi sớm. Đồng Mỗ vẫn chỉ về phía Tây mà chạy. Hư Trúc chợt nhớ ra, hỏi: “Tiền bối! Mình cứ chạy về phía Tây, chẳng bao lâu nữa sẽ chạy vào địa phận nước Tây Hạ thì làm thế nào? Tiểu tăng nghĩ rằng chúng ta đừng chạy về phía Tây nữa.” Đồng Mỗ cười nhạt hỏi: “Tại sao chúng ta không nên chạy về phía Tây?” Hư Trúc đáp: “Chẳng may mình chạy vào địa phận nước Tây Hạ, chẳng phải là tự chui đầu vào bẫy hay sao? Đồng Mỗ nói: “Chỗ ngươi đang chạy đây cũng là bờ cõi nước Tây Hạ rồi đó…”

Hư Trúc thất kinh la hoảng: “Sao? Chỗ này là đất Tây Hạ rồi ư? Tiền bối đã… đã nói lệnh sư muội có thế lực rất lớn ở nước Tây Hạ kia mà?” Đồng Mỗ cười đáp: “Phải rồi! Tây Hạ là nơi con tiện nhân đó mặc sức hoành hành, muốn làm mưa làm gió thế nào cũng được. Chúng ta xông thẳng vào nơi trọng địa của hắn mới là diệu kế. Không khi nào hắn đoán ra được mình ngồi yên ổn trong sào huyệt của hắn để tu luyện, hắn cứ việc đi khắp nơi mà tìm mà kiếm.” Mụ lấy làm đắc ý, bật lên một tràng cười khanh khách, rồi nói tiếp: “Tiểu hòa thượng! Đây là ta đã học được ngươi, một nước cờ ngu ngốc chẳng hợp lý chút nào mà lại thành ra nước cờ tuyệt diệu.”

Hư Trúc trong lòng bội phục, cất tiếng khen: “Tiền bối liệu việc như thần, quả nhiên không ai biết đâu mà lường được. Có điều…” Đồng Mỗ hỏi: “Có điều làm sao?” Hư Trúc đáp: “Nơi trong địa của Lý Thu Thủy chỉ sợ còn nhiều người khác. Nếu bọn họ khám phá ra hành tung của mình thì…” Đồng Mỗ đằng hắng ngắt lời: “Hừ! Nếu là chỗ không có ai thì sao gọi là mạo hiểm được? Có dấn thân vào chỗ cực kỳ nguy hiểm mới đáng mặt anh hùng hảo hán.” Hư Trúc lẩm bẩm: “Giả tỉ vì việc cứu nhân độ thế thì có dấn thân vào nơi nguy hiểm cũng chẳng sao. Nhưng mụ này cùng Lý Thu Thủy kẻ tám lạng người nửa cân, chẳng ai là người tốt. Mình mạo hiểm vì mụ thì thật là phí công vô ích!”.

Đồng Mỗ thấy vẻ mặt Hư Trúc phân vân dường như có ý hối tiếc, đoán ra ý nghĩ của y liền nói: “Ta bảo ngươi mạo hiểm cho ta, thì sẽ đền bồi cho ngươi, không để ngươi khó nhọc vô ích đâu. Ta sẽ dạy cho ngươi ba đường chưởng pháp, ba đường cầm nã thủ pháp. Hai lộ công phu này gọi chung là Thiên Sơn Chiết Mai Thủ.”

Hư Trúc nói: “Tiền bối trọng thương chưa khỏi, chẳng nên phí sức nhọc lòng, hãy nghỉ ngơi ít lâu là hơn.” Đồng Mỗ đảo mắt nhìn nhà sư rồi nói: “Ngươi chê bai công phu của ta thuộc bàng môn tả đạo nên không muốn học phải chăng?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Cái đó… cái đó… tiểu tăng không có ý nghĩ như vậy đâu. Tiền bối đừng hiểu lầm!” Đồng Mỗ nói: “Ngươi là người đích truyền của phái Tiêu Dao, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ là võ công thượng thừa của bản môn, sao ngươi không học?” Hư Trúc đáp: “Vãn bối là đệ tử Thiếu Lâm, không có can hệ gì đến phái Tiêu Dao hết.”

Đồng Mỗ nói: “Hừ! Nội lực trong người ngươi là của phái Tiêu Dao, còn nói là không liên can gì ư? Thật là ăn nói hồ đồ. Thiên Sơn Đồng Mỗ từ xưa đến nay không làm những việc lợi cho người mà không lợi cho mình. Ta dạy võ công cho ngươi là vì muốn mượn tay ngươi kháng cự cường địch. Ngươi mà không học sáu chiêu Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì chắc chắn bỏ mạng ở Tây Hạ”. Hư Trúc đáp: “Vâng.” Y thấy mụ này tuy chẳng lương thiện gì, nhưng quang minh lỗi lạc có sao nói vậy, có thể nói là chân tiểu nhân.

Đồng Mỗ bèn đem khẩu quyết của chiêu đầu tiên trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ ra dạy cho Hư Trúc. Khẩu quyết này có mười hai câu, mỗi câu bảy chữ, tổng cộng là tám mươi tư chữ. Hư Trúc có trí nhớ rất tốt, Đồng Mỗ chỉ đọc ba lượt là y đã nhớ hết. Nhưng tám mươi tư chữ này âm vận rất khó đọc, bảy chữ bình thanh lại kế đến bảy chữ trắc thanh, tựa như những bài vè để đố nhau đọc nhanh. May mà Hư Trúc đã quen đọc những câu đại loại như “Thích Bản đa, bát đản la”, “Kiết đế, kiết đế, ma ha táng kiết đế” trơn như cháo chảy nên cũng thuận lợi phần nào.

Đồng Mỗ nói: “Ngươi cõng ta nhằm phía Tây mà chạy, vừa chạy vừa đọc lại khấu quyết.” Hư Trúc làm theo lời mụ, không ngờ chỉ đọc được ba chữ đầu, đến chữ thứ tư là chữ “Phù” thì không sao thốt ra, phải dừng bước lấy hơi mới đọc lên được. Đồng Mỗ giơ tay lên vỗ vào đỉnh đầu y rồi mắng: “Hòa thượng nhóc vô dụng! Mới câu đầu mà đã đọc không ra.” Mụ vỗ không mạnh lắm nhưng trúng ngay huyệt Bách Hội, Hư Trúc lạng người đi một cái, đầu óc choáng váng. Y đọc lại khẩu quyết, lại đến chữ thứ tư thì bị vấp. Đồng Mỗ lại đập nhà sư một chưởng nữa.

Hư Trúc kinh ngạc tự hỏi: “Sao mình cứ đọc đến chữ Phù là bị vấp không nói ra được?” Y đề tụ chân khí đầy đủ, lại đọc lần thứ ba, chữ “Phù” bật ra khỏi miệng. Đồng Mỗ cười nói: “Tốt lắm! Qua được một cửa rồi!” Thì ra bài khẩu quyết này gồm toàn những cấu trúc trắc khó đọc, không nhịp nhàng theo sự hô hấp bình thường. Ngay lúc ngồi yên đã khó đọc lên, huống chi nhà sư vừa chạy vừa đọc nên càng khó phát âm hơn nữa. Học bài khẩu quyết này cũng là một phương pháp để điều hòa chân khí.

Đến giờ ngọ, Đồng Mỗ bảo Hư Trúc đặt mụ xuống. Mụ nhặt một viên đá nhỏ, bật ngón tay trỏ đánh véo một cái, bắn lên không trung trúng một con quạ rớt xuống. Mụ bắt lấy, hút máu tươi, rồi ngồi luyện môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn. Đồng Mỗ lúc này đã khôi phục công lực bằng lúc mười bảy tuổi, so với Lý Thu Thủy thì chưa vào đâu, nhưng đã đủ sức bật ngón tay bắn con quạ rơi xuống một cách dễ dàng.

Đồng Mỗ luyện công xong, lại bảo Hư Trúc cõng mình lên đọc khẩu quyết. Lúc y đọc được trôi chảy rồi, mụ bảo y đọc ngược lại. Bài khẩu quyết này đọc xuôi vốn đã khó khăn, đọc ngược lại càng không phải chuyện dễ dàng. Nhưng Hư Trúc là người nghị lực có thừa, học chưa đến tối đã xong, đọc bài khẩu quyết này bất luận xuôi hay ngược đều rõ ràng minh bạch.

Đồng Mỗ cả mừng nói: “Tiểu hòa thượng! Thế là được rồi…” Đột nhiên giọng mụ lạc đi, hai tay túm chặt lấy đầu Hư Trúc vừa lắc vừa đánh, miệng quát mắng om sòm: “Thằng giặc vô lương tâm này! Ngươi… ngươi… đã làm trò đồi bại với con tiện nhân kia rồi. Quân tiểu tặc còn định che mắt ta, lừa gạt ta ư?”

Hư Trúc cả kinh vội buông mụ xuống hỏi: “Tiền bối! Tiền bối… bảo sao?” Mặt Đồng Mỗ tím bầm lại, hét lên: “Mi đã tư thông với con tiện nhân Lý Thu Thủy rồi phải không? Mi còn cãi nữa thôi? Mi đã chịu thừa nhận chưa? Nếu không thế thì sao nó lại đem Tiểu Vô Tướng Công truyền cho mi? Đồ tiểu tặc! Mi… mi làm cho ta đau khổ biết chừng nào.” Hư Trúc không hiểu gì hết, xoa đầu hỏi lại: “Tiền bối! Tiểu Vô Tướng Công là cái gì?” Đồng Mỗ thộn mặt ra rồi định thần lại, lau ráo nước mắt, thở dài nói: “Không có gì. Sư phụ ngươi đối với ta không tốt.”

Thì ra Hư Trúc đọc bài khẩu quyết khó khăn này lưu loát khác thường, lúc tập đọc ngược lại càng trôi chảy. Đồng Mỗ bất giác tưởng y đã luyện môn Tiểu Vô Tướng Công. Tuy mụ cùng Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy ba người cùng học một thầy, nhưng mỗi người có một tuyệt nghệ riêng, sở học có nhiều điểm không giống nhau. Sư phụ chỉ truyền môn Tiểu Vô Tướng Công cho một mình Lý Thu Thủy. Đó là một môn thần công lợi hại vô cùng, Đồng Mỗ đã mấy lần ám hại, nhưng Lý Thu Thủy nhờ môn Tiểu Vô Tướng Công mà giữ được mạng. Đồng Mỗ tuy không hiểu môn này, nhưng chỗ diệu dụng của nó thế nào mụ đã biết hết. Bây giờ mụ phát giác ra trong người Hư Trúc chẳng những có thần công này mà công lực lại rất thâm hậu, bèn tưởng Hư Trúc là Vô Nhai Tử đã phản bội mình, tư thông với Lý Thu Thủy nên mới biết Tiểu Vô Tướng Công, bèn đánh mắng y một chặp. Lúc Đồng Mỗ tỉnh ra thì vừa căm giận, vừa tự thương thân mình.

Đêm hôm ấy Đồng Mỗ nặng lời thóa mạ Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy suốt đêm. Hư Trúc tuy nghe mụ chửi rủa độc mồm độc miệng, nhưng y thấy tình cảnh của mụ cũng vô cùng thống khổ nên rất thông cảm, lại đâm ra thương hại. Hư Trúc bèn kiếm lời khuyên can Đồng Mỗ: “Tiền bối! Nhân sinh vô thường, vô thường thị khổ. Người ta chịu khổ phần nhiều là do ba cái độc tham, sân, si mà ra. Giả tỉ tiền bối cố gắng tự tiêu trừ ba cái độc này, đừng nhớ đừng hận sư đệ sư muội của tiền bối nữa, thì trong lòng sẽ thấy dễ chịu hơn.” Đồng Mỗ cả giận mắng: “Ta phải nhớ đến tên sư phụ vô lương tâm của ngươi, phải hận đến tên sư thúc ti tiện không biết xấu hổ của ngươi. Ta càng nhớ càng hận thì càng phiền não, càng thấy nhẹ lòng hơn.” Hư Trúc lắc đầu, không dám nói thêm nữa.

Hôm sau Thiên Sơn Đồng Mỗ lại truyền thụ cho Hư Trúc khẩu quyết về chưởng pháp thứ hai. Đến buổi chiều ngày thứ năm, hai người bỗng thấy phía trước có một tòa thành lớn. Đồng Mỗ nói: “Đây là Linh Châu, thành đô nước Tây Hạ. Ngươi còn mấy khẩu quyết về phép cầm nã chưa thuộc hết. Đêm nay chúng ta phải tạm trú ngoài cửa Tây thành Linh Châu, sáng mai đi tiếp hai trăm dặm nữa rồi mới quay lại thành.” Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Sao chúng ta phải quay lại Linh Châu?” Đồng Mỗ đáp: “Đương nhiên phải đến Linh Châu, không thì sao gọi là vào nơi hiểm địa được?”

Lại một ngày nữa, Hư Trúc đã thuộc hết khẩu quyết về sáu chiêu Thiên Sơn Chiết Mai Thủ. Đồng Mỗ nhân lúc ở ngoài cánh đồng rộng, lại dạy cho y cách áp dụng những khẩu quyết đó, vì mụ bị đứt một chân nên phải ngồi bệt xuống đất để chỉ điểm. Thiên Sơn Chiết Mai Thủ tuy chỉ có sáu chiêu nhưng bao hàm hết tinh túy về võ học của phái Tiêu Dao. Trong chưởng pháp và cầm nã thủ lại bao gồm cách phá giải những tuyệt chiêu về kiếm pháp, đao pháp, tiên pháp, chưởng pháp, trảo pháp, cùng những binh khí khác. Vì môn này biến hóa thâm diệu rất là phức tạp nên Hư Trúc không thể trong một lúc mà học quá nhiều. Thiên Sơn Đồng Mỗ nói: “Vĩnh viễn không có ai học được hoàn toàn môn Thiên Sơn Chiết Mai Thủ của ta. Sau này nội công ngươi càng cao thì hiểu biết càng rộng, bất luận là những chiêu thức võ công nào trong thiên hạ, ngươi chỉ dùng sáu chiêu Chiết Mai Thủ là hóa giải được hết. Khẩu quyết thì ngươi đã thuộc lòng cả rồi. Từ nay trở đi, đạt tới trình độ nào là tùy ở ngươi.”

Hư Trúc đáp: “Sở dĩ vãn bối học mấy chiêu Thiên Sơn Chiết Mai Thủ là vì lý do bảo vệ cho tiền bối mà thôi. Đến khi tiền bối phục hồi toàn bộ võ công, vãn bối sẽ quay về chùa, cố gắng quên hết võ công của tiền bối dạy cho, tập luyện võ công Thiếu Lâm lại từ đầu.”

Thiên Sơn Đồng Mỗ ngó qua ngó lại khuôn mặt Hư Trúc, tựa hồ như đang thấy một quái vật gì hiếm thấy trên đời, nét mặt ra chiều kinh dị. Hồi lâu mụ mới thở dài nói: “Thiên Sơn Chiết Mai Thủ của ta so với võ công phái Thiếu Lâm còn cao thâm ảo diệu hơn nhiều. Ngươi cố gắng ghi nhớ những khẩu quyết mà ta đã dạy, sau này sẽ luyện thành vô địch thiên hạ, còn cứ khư khư giữ lấy phái Thiếu Lâm thì chẳng khác gì bỏ ngọc quý để giữ lấy một mảnh ngói tầm thường, thật là ngu dốt hết chỗ nói! Ngươi quả không phải là một tên tiểu hòa thượng vong bản, dễ dàng quên nguồn gốc. Bây giờ hãy nhắm mắt nghỉ ngơi một chút, chờ tối hẳn sẽ vào thành Linh Châu.”

Vào khoảng canh hai đêm ấy, Đồng Mỗ bảo Hư Trúc cõng mình lên vai, chạy thẳng tới thành Linh Châu. Đến nơi, nhà sư liền nhảy lên tường thành, từ từ hạ mình xuống. Trong ngoài thành đều phòng bị rất nghiêm mật, từng đội kỵ binh thiết giáp cầm đuốc đi lại tuần tiễu. Quân đội nước Tây Hạ binh cường mã tráng, uy thế cực thịnh. Chuyến này Hư Trúc ra khỏi chùa xuống núi, dọc đường đã gặp quân Tống nhan nhản, nhưng so với quân đội Tây Hạ thì thấy còn kém xa.

Đồng Mỗ thì thầm chỉ điểm, bảo y nhắm hướng tây bắc mà đi sát vào chân tường. Hư Trúc đi chừng được hơn ba dặm, bỗng thấy lầu viện cao ngất trời, nhà cửa san sát, kiến trúc cực kỳ hùng vĩ. Trên nóc nhà lợp bằng ngói lưu ly, ánh sáng chói lọi. Hư Trúc thấy những tòa nhà này cũng tương tự như những lầu viện trong chùa Thiếu Lâm nhưng rực rỡ xa hoa hơn nhiều. Y khẽ nói: “A di đà Phật! Thì ra nơi đây cũng có một ngôi chùa lớn.” Đồng Mỗ không nhịn được, bật cười nói: “Tiểu hòa thượng thật không có kiến thức chi hết. Đây là hoàng cung nước Tây Hạ, chùa ở đâu ra?” Hư Trúc giật mình hỏi lại: “Đây là hoàng cung ư? Chúng ta vào đây làm chi?”

Đồng Mỗ đáp: “Để nhờ Hoàng đế che chở cho. Lý Thu Thủy không tìm thấy thi thể ta, biết ta chưa chết, chắc sẽ tìm kiếm khắp nơi. Trong vòng hai ngàn dặm vuông, chỉ có một nơi hắn không sục đến, chính là nhà hắn.” Hư Trúc nói: “Tiền bối thật là thông minh cao kiến. Chúng ta trốn được một ngày là công lực tiền bối lại tăng thêm được một năm. Vậy chúng ta cứ tìm nhà Lý Thu Thủy mà ẩn.” Đồng Mỗ đáp: “Đây chính là nhà y… Cẩn thận, có người tới!”

Hư Trúc rút người lại, nấp vào góc tường, bỗng thấy bốn bóng người từ hướng đông đi tới, rồi hướng tây cũng có bốn người. Lúc tám người gặp nhau, họ khẽ vỗ tay một cái rồi quay trở lại, thân pháp rất mau lẹ, chắc chắn võ công không phải tầm thường. Đồng Mỗ nói: “Bọn ngự tiền thị vệ đi khỏi rồi, ngươi mau mau nhảy vào phía trong bức tường này. Lát nữa lại có bọn khác đến tuần tiễu ngay.” Hư Trúc thấy thanh thế quá lớn thì bất giác khiếp sợ, run giọng nói: “Trong hoàng cung có rất nhiều cao thủ, không chừng họ đã phát giác ra chúng ta vào đây rồi. Thật là nguy hiểm! Chúng ta mau tìm nhà Lý Thu Thủy để trốn đi thôi.” Đồng Mỗ tức giận nói: “Ta đã nói rồi, đây chính là nhà Lý Thu Thủy.” Hư Trúc hỏi: “Sao lúc nãy tiền bối lại bảo đây là hoàng cung?”

Đồng Mỗ mắng: “Hòa thượng ngu dốt! Con tiện nhân đó là Hoàng thái phi, nhà hắn chính là hoàng cung này chứ còn ở đâu nữa?” Chuyện này thật là ra ngoài dự liệu của Hư Trúc, y còn đang ngơ ngẩn thì lại thấy bốn bóng người từ phía Bắc đi tới. Hư Trúc chờ cho bọn này đi qua, liền nói: “Tiền…”, mới được một chữ thì Đồng Mỗ đã giơ tay ra bịt miệng y. Nhà sư còn đang ngơ ngác, bỗng thấy sau bức tường cao lại có bốn bóng người lặng lẽ đi tới, xuất hiện một cách đột ngột, tựa như đã nấp trong bóng tối từ lâu. Bốn người đi khỏi rồi, Đồng Mỗ vỗ lưng Hư Trúc nói: “Đi vào con đường nhỏ này!”

Hư Trúc thấy mười sáu người đi tuần vừa rồi, thì biết rằng mình đang ở chỗ cực kỳ nguy hiểm, nếu không có Đồng Mỗ chỉ điểm thì đã bị phát giác ra rối. Bây giờ nhà sư không nghĩ ngợi gì nữa, nhất nhất tuân theo lời Đồng Mỗ, cõng mụ đi vào đường hẻm. Hai bên đường hẻm này đều có tường cao, thực ra đây chỉ là khoảng trống giữa hai tòa lâu đài.

Hai người đi hết con đường nhỏ hẹp thì đến một khóm mẫu đơn, liền nấp một lúc chờ tám tên ngự tiền thị vệ đi khỏi, rồi lập tức băng qua một tòa giả sơn lớn. Tòa giả sơn này có lối đi quanh co khuất khúc dẫn về phía Bắc, dài đến năm sáu chục trượng. Hư Trúc nghe lời Đồng Mỗ chỉ điểm, mỗi lần chỉ đi mấy trượng rồi dừng bước chờ một lúc. Kỳ lạ thay, mỗi lần y dừng lại đều thấy bọn ngự tiền thị vệ đi tuần qua đó, tựa hồ như do Đồng Mỗ chỉ huy vậy. Chúng đi tuần những đâu, vào giờ nào mụ đều biết hết, không sai chút nào. Hư Trúc lúc ẩn lúc hiện đi chừng độ nửa giờ thì đến một khu toàn những gian nhà thấp bé sơ sài. Chỗ này không có bọn thị vệ tuần tiễu nữa.

Đồng Mỗ chỉ một căn nhà lớn ở bên trái phía trước, nói: “Vào đây!” Hư Trúc thấy trước căn nhà này có một khoảng đất trống khá rộng, trăng chiếu sáng tỏ, chung quanh chẳng có chỗ nào ấn núp được. Y liền hít mạnh một hơi chân khí rồi tung người nhảy về phía trước, thì thấy tòa nhà này xây bằng những phiến đá vuông đến năm thước, rất dày. Cửa tòa thạch thất này là tám cây tùng đều vuông vắn, ráp khít vào nhau. Đồng Mỗ nói: “Mau mau kéo cửa, vào trong đó đi!” Hư Trúc ngập ngừng hỏi: “Lệnh… lệnh sư muội ở đây ư?” Đồng Mỗ đáp: “Không phải! Kéo cửa vào đi!”

Hư Trúc nắm lấy cái vòng sắt đóng vào cửa kéo chệch ra một bên. Cửa mở ra, bên trong lại còn một tầng cửa nữa, hơi lạnh căm căm từ bên trong toát ra. Lúc này đã tháng ba, chỉ có đỉnh núi cao là còn tuyết đọng, dưới đất thì tuyết đã tan hết, trăm hoa đua nở trông tựa gấm thêu. Thế mà tầng cửa trong này vẫn còn đóng những mảng băng lớn. Đồng Mỗ nói: “Đẩy cửa vào trong!” Hư Trúc đưa tay đẩy. Cánh cửa từ từ mở ra, mới hở chừng một thước thì khí lạnh đã xông thẳng vào mặt hai người. Hư Trúc đẩy cánh cửa mở rộng thêm ra thì thấy bên trong chất đầy những bao vải cao đến nóc, tựa như một kho lương thực. Bên trái có lối đi vào.

Nhà sư ngạc nhiên hỏi: “Sao kho lương này lại lạnh đến thế?” Đồng Mỗ cười nói: “Đóng cửa lại đi. Chúng ta vào được trong kho nước đá này là yên ổn rồi!” Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Đây là kho nước đá chứ không phải kho lương ư?” Y vừa hỏi vừa đóng hai cánh cửa lại. Đồng Mỗ vui vẻ mỉm cười nói: “Ngươi vào mà coi!”

Cánh cửa đóng lại rồi, trong kho tối mù mịt, giơ bàn tay không trông rõ ngón. Hư Trúc mò mẫm đi về bên trái, càng vào sâu khí lạnh lại càng ghê gớm. Tay trái Hư Trúc đưa ra chạm vào một khối đá lạnh ngắt, biết ngay là một phiến băng. Lúc đó Đồng Mỗ bật lửa lên, thật là một cảnh tượng chưa từng thấy. Bốn phía toàn là những khối nước đá lớn vuông vắn như những viên gạch to, ánh lửa lập lòe phản chiếu lại lúc xanh lúc vàng, trông thật là kỳ ảo.

Đồng Mỗ nói: “Chúng ta phải xuống dưới.” Mụ lấy tay vịn vào những tảng nước đá, nhảy lò cò bằng chân phải, đi trước dẫn đường, đến một góc nhà có một cửa động lớn thông xuống đường hầm. Hư Trúc đi theo mụ, thấy sau cửa động có bậc đá để đi xuống. Đi hết bậc đá thì tới một gian nhà lớn cũng chứa nước đá. Đồng Mỗ nói: “Kho nước đá này chắc còn một tầng nữa.” Quả nhiên bên dưới tầng thứ hai lại còn một tầng hầm lớn nữa, cũng chứa đầy những khối nước đá.

Đồng Mỗ thổi tắt lửa, ngồi xuống nói: “Chúng ta đã vào tới tầng hầm thứ ba này thì con tiện nhân kia có ranh ma quỷ quái đến đâu cũng chưa chắc đã tìm đến nơi được.” Nói xong mụ thở phào một cái. Mấy bữa nay tuy ngoài mặt mụ vẫn trấn tĩnh như thường mà trong lòng rất nao núng, ráng tránh tai mắt của bọn cao thủ đông như kiến ở nước Tây Hạ, nên lúc nào cũng phải vận khí đề phòng, đầu óc căng thẳng, đến lúc này mới hơi yên lòng.

Hư Trúc thở dài nói: “Lạ thật! Lạ thật!” Đồng Mỗ hỏi: “Có chi mà lạ?” Hư Trúc đáp: “Trong hoàng cung nước Tây Hạ chứa làm gì những khối nước đá vô giá trị này?” Đồng Mỗ cười đáp: “Những khối nước đá này về mùa đông thì chẳng đáng gì, nhưng đến mùa nóng thì quý lắm. Ngươi thử nghĩ mà coi, những khi nóng bức mồ hôi đầm đìa, nếu có một vài tảng nước đá để bên mình sẽ sung sướng biết bao! Thế rồi trà sen, chè đậu hay nước bạc hà, bách hợp mà bỏ mấy viên nước đá vào, mùi vị sẽ thơm ngon biết mấy.” Hư Trúc hiểu ra, nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Nhưng đem những tảng nước đá lớn thế này vào trong kho thì tốn công không ít. Chuyện này có đáng không?” Đồng Mỗ bật cười đáp: “Hoàng đế nhất hô bách ứng thì muốn làm gì mà chẳng được, tính toán làm gì đến chuyện hao phí nhân lực?”

Hư Trúc gật đầu đáp: “Làm hoàng đế sướng thật, nhưng càng sung sướng lại càng tổn âm đức, Tiền bối đã vào đây bao giờ chưa? Mỗi khi bọn ngự tiền thị vệ tuần tra đến khu vực nào thì tiền bối đều biết hết phải không?” Đồng Mỗ đáp: “Ta tìm con tiện nhân đó để rửa hận, dĩ nhiên đã tới hoàng cung này nhiều lần chứ không phải một. Còn bọn thị vệ, thì còn cách xa mười trượng ta đã nghe rõ hơi thở của chúng rồi, có chi là lạ?” Hư Trúc đáp: “Té ra là thế! Tiền bối được trời cho một đôi thần nhĩ, người thường không thể bì kịp.” Đồng Mỗ nói: “Có phải trời cho gì đâu? Đó là do công phu luyện tập mà ra.”

Hư Trúc nghe mụ nói đến mấy chữ “công phu luyện tập”, chợt nghĩ đến trong kho nước đá này chẳng có chim muông chi hết thì lấy đâu ra máu tươi cho mụ uống mà luyện công? Y lại nghĩ dù ngoài kia có nhiều lương thực, nhưng ở trong kho băng này không có cách nào đốt lửa nấu chín được, chẳng lẽ đành ăn gạo sống?

Đồng Mỗ thấy nhà sư im lặng hồi lâu, liền hỏi: “Ngươi nghĩ gì vậy?” Hư Trúc trả lời xong, Đồng Mỗ bật cười nói: “Ngươi tưởng trong những bao tải kia là lương thực ư? Không phải đâu, đó toàn là bông gòn để giữ hơi lạnh mà thôi. Ha ha! Ngươi có thể ăn bông gòn mà sống được không?” Hư Trúc nói: “Vậy thì chúng ta phải ra ngoài tìm kiếm thức ăn ư?” Đồng Mỗ đáp: “Trong nhà bếp thiếu gì gà vịt? Có điều máu gà vịt dê lợn không được tốt bằng máu dê rừng và hươu nai trên núi tuyết mà thôi. Vậy chúng ta phải vào ngự hoa viên để bắt chim hạc, chim công hay uyên ương, anh vũ, ta hút máu, ngươi ăn thịt, thế là được rồi.”

Hư Trúc vội nói: “Không được! Không được! Tiểu tăng nào dám sát sinh hay ăn mặn,” Y nghĩ rằng Đồng Mỗ đã đến chỗ an toàn rồi, chắc chẳng cần mình hộ vệ nữa, liền nói: “Tiền bối! Tiểu tăng là đệ tử nhà Phật, không thể nhìn tiền bối sát sinh được. Vậy tiểu tăng xin cáo từ.” Đồng Mỗ hỏi: “Ngươi định đi đâu?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng về chùa Thiếu Lâm.” Đồng Mỗ cả giận nói: “Ngươi không được đi mà phải ở lại đây giúp ta. Khi nào ta luyện thần công xong, giết được con tiện nhân đó rồi, bấy giờ ta sẽ cho ngươi đi.”

Hư Trúc nghe mụ dự định luyện công để giết Lý Thu Thủy, lại càng không muốn ở gần mụ cho thêm tội nghiệt, liền đứng dậy nói: “Tiền bối! Tiểu tăng muốn khuyên tiền bối nhưng tiền bối nhất định không chịu nghe. Tiểu tăng kiến thức hẹp hòi, miệng lưỡi vụng về, chẳng có cách gì khuyên giải, chỉ nghĩ rằng oán thù nên cởi không nên buộc, lúc nào tha được thì phải tha ngay.” Y vừa nói vừa đi về phía những bậc dá.

Đồng Mỗ quát lên: “Ngươi đứng lại! Ta không cho phép ngươi đi!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng đi thôi…”, toan nói thêm: “Chúc tiền bối sớm luyện xong thần công”. Nhưng y lại nghĩ, khi mụ luyện thần công xong thì dĩ nhiên Lý Thu Thủy khó toàn tính mạng, mà cả bọn Ô Lão Đại ba mươi sáu động chúa, bảy mươi hai đảo chúa, cùng bọn Mộ Dung Phục, Đoàn Dự cũng khó thoát tai kiếp. Hư Trúc càng nghĩ càng lo sợ, không nói gì nữa, bước lên bậc đá.

Đột nhiên hai gối y nhũn ra, ngã lăn xuống đất không nhúc nhích được. Hư Trúc biết mình đã bị Đồng Mỗ điểm huyệt. Trong hầm tối mù mịt, mụ chỉ giơ tay lên không mà điểm trúng huyệt đạo. Hư Trúc biết rằng đứng trước những tay cao thủ như mụ thì mình đành chịu cho người ta an bài, chứ không tài nào kháng cự được. Y bình tĩnh trở lại, miệng đọc kinh: “Tu đạo cực khổ, Phải nghĩ kiếp trước, Bỏ gốc theo ngọn, Sinh lòng yêu ghét, Kiếp này không lỗi, Nhưng lỗi kiếp trước, Sao thì phải vậy, không nên oán trách, Gặp khổ chẳng buồn, Mới là đạt đạo.”

Đồng Mỗ cất tiếng hỏi: “Ngươi đọc kinh thổ tả gì thế?” Hư Trúc đáp: “A di đà Phật! Đó là Nhập Đạo Tứ Hành Kinh của đức Đạt Ma tổ sư.” Đồng Mỗ nói: “Đạt Ma là tổ sư phái Thiếu Lâm. Ta cứ tưởng y có tài thông thiên triệt địa, té ra chỉ là một nhà sư thối tha, tư cách đàn bà nông cạn.” Hư Trúc nói: “A di đà Phật! A di đà Phật! Tiền bối chớ nên nói càn mà mang thêm tội nghiệt vào thân.”

Đồng Mỗ đáp: “Theo cái kinh ma quỉ của ngươi vừa đọc đó, thì khi người ta chịu khổ đều là do tội ở kiếp trước, phải cam tâm chịu đựng không được oán trách. Thế thì ta có hành hạ ngươi thế nào, ngươi cũng cam tâm chịu đựng chứ chẳng oán trách phải không?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng Phật pháp hãy còn nông cạn, ngoại ma xâm lấn, nội ma cũng muốn bành trướng, chỉ lo mình không kháng cự nổi.” Đồng Mỗ nói: “Hiện nay trong mình ngươi đã mất sạch công phu Thiếu Lâm, chỉ còn một chút võ học của phái Tiêu Dao mà thôi. Thế là cái cũ mất đi, mới chưa đủ. Ngươi hãy nghe lời ta, tu luyện thần công của phái Tiêu Dao để trở thành thiên hạ vô địch, há chẳng vinh quang ư?”

Hư Trúc chắp tay trước ngực, lại niệm kinh: “Chúng sinh vô ngã, Khổ sướng tùy duyên, Nếu hưởng vinh quang, Là nhờ kiếp trước, Hết duyên lại mất, Chẳng đáng mừng gì. Vậy dù ta được vinh quang hay chịu khổ sở, cũng phải tĩnh tâm mà tùy theo duyên kiếp.”

Đồng Mỗ quát lên: “Toàn là chuyện hồ đồ bậy bạ! Võ công thấp kém thì đi đâu cũng bị khinh khi. Ngươi yếu hơn ta nên bị ta phong tỏa huyệt đạo, ta muốn đánh muốn chửi thì ngươi cũng không chống lại được. Vì thần công ta chưa luyện xong, nên phải trốn tránh trong này, để cho con tiện nhân Lý Thu Thủy ở ngoài làm mưa làm gió. Sư phụ ngươi bảo ngươi mang bức họa đồ đi tìm người để học võ công, cũng chỉ để đối phó với tên tiểu quỷ Đinh Xuân Thu. Trên đời thì kẻ mạnh áp bức, kẻ yếu chịu nhục. Ngươi muốn được an lạc, không luyện thành bản lĩnh thiên hạ vô địch thì không được.”

Hư Trúc lại niệm kinh: “Người trên thế nhân, Thường xuyên mê muội, Không bỏ tham lam, Cầu danh cầu lợi, Thiền sư giác ngộ, khác xa phàm nhân, An tịnh cõi lòng, Cảnh tùy tâm chuyển. Tam giới đều khổ, Chẳng ai được an. Kinh sách đã dạy rằng: Còn cầu cạnh thì còn khổ não, hết cầu cạnh mới được yên vui.”

Hư Trúc không có tài hùng biện, nhưng pho Nhập Đạo Tứ Hành Kinh của Huyện Lâm thiền sư chép ra thì y đọc trơn như cháo chảy. Huyện Lâm là đệ tử của Đạt Ma sư tổ, từ Nam Thiên Trúc đến. Kinh này là do Đạt Ma sư tổ dùng vi ngôn pháp ngữ đọc ra, chỉ có vài trăm chữ, tăng nhân ở chùa Thiếu Lâm ai cũng phải học. Bây giờ y thuận miệng đọc ra câu nào cũng bao hàm ý nghĩa phản bác lời nói của Đồng Mỗ.

Trời sinh Đồng Mỗ có tính ngang ngạnh hiếu thắng. Mấy chục năm nay, mụ đã mở miệng câu nào là ai cũng phải nghe, không một người nào đám cãi lại. Trong ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đầy dẫy kỳ nhân dị sĩ, thiếu gì tay ngang ngược kiêu ngạo, mà ai cũng coi mụ như một vị thiên thần. Thế mà hôm nay mụ bị một tên tiểu hòa thượng cãi lý cho cứng họng không biết nói sao. Mụ tức quá, giơ tay phải lên nhằm đánh vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu Hư Trúc. Nhưng tay mụ chưa đập tới nơi, đột nhiên lại nghĩ thầm: “Ta mà đập chết tên tiểu hòa thượng này, y chết đi cũng cho ta là thiếu lý lẽ. Ta phải làm cho y đuối lý mới được.” Mụ liền rút tay về, ngồi yên điều dưỡng công lực.

Một lúc sau, mụ bước lên bậc đá, đẩy cửa đi ra, bẻ một cành cây làm gậy chống rồi đi thẳng vào ngự viên. Hiện nay công lực Đồng Mỗ đã tiến bộ lắm rồi, tuy cụt một chân mà thân pháp vẫn nhẹ như chiếc lá, bọn ngự tiền thị vệ chẳng hề hay biết. Đồng Mỗ vào ngự viên bắt hai con hạc và hai con công, quay về kho chứa nước đá. Hư Trúc nghe rõ bước chân mụ ra đi, lúc mụ quay về lại có tiếng chim kêu. Hư Trúc không biết làm thế nào, chỉ niệm mấy câu A di đà Phật, rồi mặc kệ.

Trong kho nước đá tối om ngày cũng như đêm, nhưng lúc Đồng Mỗ thấy chân khí nhộn nhạo thì biết tới giờ luyện công, cắn cổ một con bạch hạc để hút máu. Mụ luyện xong, lại toan cắn cổ nốt con hạc kia. Hư Trúc nghe tiếng hạc kêu, liền cất tiếng: “Tiền bối! Để lại con chim này mai sẽ dùng, hà tất phải giết nhiều sinh mạng?” Đồng Mỗ cười đáp: “Ta có lòng tốt, muốn giết cho ngươi ăn.” Hư Trúc cả kinh nói:“Không, không! Tiểu tăng nhất quyết không ăn thịt.” Đồng Mỗ mặc kệ, giơ tay trái ra nắm lấy cằm y, Hư Trúc không kháng cự được đành phải há miệng ra, mụ liền dốc ngược con hạc lên cho máu chảy hết vào miệng y. Hư Trúc thấy một dòng máu nóng tuôn vào cổ mình, cố gắng không nuốt, nhưng đã bị điểm huyệt không làm gì được. Nhà sư vừa căm tức vừa bồn chồn, hai dòng lệ nóng hổi trào ra khóe mắt.

Đồng Mỗ dốc hết máu hạc vào miệng Hư Trúc rồi, liền để tay lên huyệt Linh Đài sau lưng nhà sư để giúp y vận chuyển chân khí. Mụ lại điểm hai huyệt Quan Nguyên và Thiên Đột để nhà sư không nôn ra được nữa. Mụ cười hì hì nói: “Tiểu hòa thượng! Giới luật của nhà Phật không được ăn mặn, thế là ngươi phá giới rồi phải không? Đã phá một giới rồi, thì phá luôn hai ba giới nữa cũng chẳng hề chi. Hừ! Trên đời ai đã chống lại ta, thì ta đối phó cho đến cùng. Ta quyết không cho nhà ngươi trở lại làm hòa thượng.” Hư Trúc vừa căm tức vừa đau khổ không nói lên lời.

Đồng Mỗ lại cười nói: “Kinh sách đã dạy rằng: Còn cầu cạnh thì còn khổ não, hết cầu cạnh mới được yên vui. Ngươi một lòng cố giữ Phật giới, thế là có cầu cạnh rồi đó, dĩ nhiên trong lòng đau khổ. Ngươi nên yên tâm mà chịu đựng tình thế xoay chiều, Phật giới theo được thì theo, không theo được thì thôi. Thế mới là tới chỗ vô cầu. Ha ha, ha ha!”

Lại hơn hai tháng đã trôi qua, Đồng Mỗ đã khôi phục lại được công lực như hồi năm chục tuổi, bây giờ mụ từ kho nước đá ra vào ngự hoa viên tựa hồ ma quỷ biến hình. Nếu mụ không còn úy kỵ Lý Thu Thủy thì đã rời khỏi hoàng cung nước Tây Hạ rồi. Hàng ngày, khi mụ hút máu luyện công xong đều điểm huyệt Hư Trúc, lấy thịt sống cùng màu tươi nhét vào miệng nhà sư, chờ hai giờ cho những thức đó tiêu hóa đi không nôn ra được nữa, mới giải khai huyệt đạo cho y. Hư Trúc ở trong kho nước đá tối thui bị Đồng Mỗ bức bách ăn thịt uống máu, trải qua bao nhiêu ngày không nhìn thấy mặt trời, nhà sư đau khổ đến cùng cực, miệng chỉ niệm kinh đọc kệ để cố tự an ủi.

Một hôm Đồng Mỗ nghe thấy Hư Trúc lẩm nhẩm niệm những là “Tu đạo khổ hạnh, Phải nghĩ kiếp trước” rồi “Cam tâm chịu đựng, Không nên oán trách” gì gì, mụ cười nhạt hỏi: “Ngươi đã ăn đủ thứ thịt, nào thỏ, nào hươu, nào hạc, nào công thì còn thành hòa thượng thế nào được nữa, niệm kinh hoài làm chi?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng bị tiền bối bức bách chứ không phải tự ý mình, không thể gọi là phá giới.” Đồng Mỗ cười nhạt hỏi vặn: “Nếu ta không bức bách, ngươi quyết không phá giới phải chăng?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng quyết giữ mình cho trong sạch, không vi phạm giới luật của Phật môn.” Đồng Mỗ nói: “Được lắm, để ta thử xem.” Hôm ấy mụ không bức bách Hư Trúc uống máu ăn thịt, y cả mừng, cảm tạ luôn miệng.

Hôm sau Đồng Mỗ vẫn không cưỡng ép nhà sư uống máu ăn thịt. Hư Trúc đói quá, liền nói: “Tiền bối! Thần công tiền bối đã luyện thành rồi, chẳng cần tiểu tăng chầu chực nữa. Tiểu tăng xin cáo từ thôi.” Đồng Mỗ đáp: “Ta không cho ngươi đi!” Hư Trúc lại nói: “Tiểu tăng đói quá rồi, xin phiền tiền bối kiếm cho ít rau xanh để lót dạ.” Đồng Mỗ nói:“Chuyện đó thì được!” Mụ nói xong, liền điểm huyệt cho nhà sư không đào tẩu được, rồi vọt mình đi. Chẳng bao lâu mụ đã quay về kho nước đá.

Hư Trúc bỗng ngửi thấy mùi thơm sực nức. Bụng y lại đang đói meo, bất giác nước bọt tiết ra đầy miệng. Mấy tiếng lách cách vang lên, Đồng Mỗ đặt xuống trước mặt Hư Trúc ba cái bát lớn rồi nói: “Đây là một bát thịt quay, một bát canh gà và một bát cá chép hầm. Ngươi ăn đi!” Hư Trúc cả kinh đáp: “A di đà Phật! Tiểu tăng thà chết chứ không ăn!” Mùi thơm trong ba bát thịt cá không ngớt xông vào mũi Hư Trúc, nhưng y vẫn cố nhịn được. Đến sáng hôm sau, Đồng Mỗ gắp thịt cá ăn trước mặt y, lại còn luôn miệng khen ngon, Hư Trúc vẫn lâm râm niệm Phật không nói gì.

Sang ngày thứ ba, Đồng Mỗ lại đi lấy về mấy đĩa hải sâm, tay gấu, vịt quay… mùi thơm lại càng ngào ngạt. Hư Trúc đã đói đến lả người, nhưng thủy chung vẫn không chịu ăn. Đồng Mỗ nghĩ thầm: “Chắc thằng trọc con này thấy mình ngồi đấy mà nổi lòng hiếu thắng, không chịu ăn gì.” Mụ bèn bỏ đi hàng nửa ngày không trở về, chắc mẩm thế nào Hư Trúc cũng ăn vụng rồi. Ngờ đâu, mụ bật lửa lên coi thì một giọt nước canh nhà sư cũng không đụng tới.

Cứ thế đến ngày thứ chín, Hư Trúc chỉ niệm kinh rồi nhấp chút nước đá cho khỏi khát, nhất định không chịu đụng tới thịt cá ê hề trước mặt. Đồng Mỗ tức quá, túm lấy ngực y, nhét thịt vào miệng. Nhưng mụ biết rằng mình bắt ép nhà sư ăn mặn là chịu thua rồi, tức quá vung tay tát luôn ba bốn phát rồi quát mắng: “Thằng trọc chó chết này! Mi muốn đối phó với ta chăng? Mi phải biết Đồng Mỗ là tay lợi hại nhất thế gian, đừng ngoan cố với ta vô ích.” Hư Trúc không bực tức mà cũng không cãi lại, chỉ lâm râm niệm Phật. Mấy hôm sau đó, trừ những lúc bị Đồng Mỗ bắt nuốt mấy bát cá thịt, Hư Trúc chỉ niệm kinh rồi ngủ.

Một hôm Hư Trúc đang ngủ, thốt nhiên ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt, không phải là mùi hương trước tượng Phật, cũng không phải là mùi thơm cá thịt, lại làm cho y thấy khoan khoái không sao tả xiết! Trong lúc Hư Trúc đang mơ màng, lại cảm thấy một vật gì mềm nhũn tựa vào ngực mình. Nhà sư giật mình chợt tỉnh, đưa tay sờ lên ngực thì thấy vật đó vừa êm dịu vừa mịn màng, đúng là thân thể một người không mặc quần áo, Hư Trúc thất kinh la lên: “Tiền bối!… Tiền bối làm gì thế này?”

Người đó hỏi lại: “Ta… ta đang ở đâu đây? Sao lại lạnh thế này?” Thanh âm thỏ thẻ, rõ ràng đây là một thiếu nữ chứ không phải Đồng Mỗ. Hư Trúc kinh hãi đến ngẩn người, lúng túng hỏi: “Cô.., cô là ai?” Thiếu nữ đáp: “Ta… ta… lạnh quá, còn ngươi là ai?” Cô vừa nói vừa tựa sát thêm vào người Hư Trúc.

Hư Trúc rút người lại tránh, nhưng thiếu nữ miệng vẫn ú ở như đang mơ ngủ, thân cứ áp lại gần thêm. Tâm ý nhà sư thì muốn đứng lên chạy trốn, mà tay trái bất giác lại nắm lấy vai thiếu nữ, tay phải quàng ra sau ôm lấy tấm lưng thon mềm mại. Năm nay Hư Trúc đã hai mươi bốn tuổi, trong đời chỉ mới nói chuyện với ba nữ nhân là A Tử, Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy.

Hai mươi bốn năm nay, nhà sư chỉ ở trong chùa Thiếu Lâm gõ mõ tụng kinh. Trời sinh ra con người, ai lại không thích cảnh đẹp cùng sắc đẹp? Tuy Hư Trúc nghiêm giữ thanh quy giới luật, nhưng mỗi năm khi xuân sang trăm hoa đua nở, nhà sư trẻ tuổi cũng không khỏi cảm thấy cõi lòng rào rạt, nghĩ đến tình yêu nam nữ. Nhưng y chưa biết nữ nhân ra sao, đôi khi tưởng tượng ra những cảnh quái đản ly kỳ, nhưng chẳng bao giờ dám hé miệng tâm sự cùng sư huynh sự đệ. Lúc này hai tay nhà sư chạm vào da thịt mịn màng của người thiếu nữ, trái tim y đập mạnh tựa như muốn văng lên tới miệng rồi rớt ra ngoài, thật là khó buông tay.

Thiếu nữ rên lên mấy tiếng ư ử, lại nhích vào sát thêm, hai tay ôm choàng lấy cổ nhà sư. Hư Trúc nghe hơi thở ai thơm như hoa lan, hòa vào mùi hương son phấn đưa lên từng đợt, tưởng chừng như trời đất quay cuồng, toàn thân run rẩy, miệng ấp ủng: “Cô… cô…” Thiếu nữ khe khẽ kêu lên: “Ta lạnh quá, mà sao trong lòng lại nóng bỏng.” Hư Trúc khó mà tự chủ, hai tay ôm ghì thiếu nữ vào lòng. Thiếu nữ ú ớ mấy tiếng rồi hé mở đôi môi, cả hai như lạc vào biển mộng.

Nội công phái Thiếu Lâm của Hư Trúc đã bị Vô Nhai Tử hóa giải sạch, định lực y hoàn toàn mất hết. Y là một chàng trai chưa hiểu sự đời, đây là lần thứ nhất gặp cảnh mê ly, thật là vô phương kháng cự. Lúc đó thiếu nữ ôm siết y càng chặt, tâm trí y tựa hồ như bốc hơi hết, cũng chẳng thèm biết thân xác mình đang ở xứ nào. Lửa tình thiếu nữ mỗi giây phút lại thêm nồng nhiệt, thiêu đốt luôn Hư Trúc theo mình.

Không biết bao nhiêu thời khắc trôi qua, lửa dục của Hư Trúc dần dần hạ xuống. Y kêu lên một tiếng: “Trời ơi!”, rồi toan nhảy vọt lên. Nhưng thiếu nữ vẫn siết chặt y vào lòng, nũng nịu nói: “Đừng… đừng bỏ tiểu muội mà đi!” Thần trí Hư Trúc chỉ quay về được một chút, rồi lại vụt đi. Y lại chìm vào cơn mê, ôm thiếu nữ vào lòng vuốt ve trìu mến.

Hai người quấn quít lấy nhau đến hơn nửa giờ nữa, thiếu nữ mới khẽ hỏi: “Hảo ca ca! Huynh là ai vậy?” Mỗi tiếng nàng gọi đều êm dịu ngọt ngào, nhưng vào tai Hư Trúc lại tựa như sấm nổ. thức tỉnh, run lên nói: “Ta… ta lầm lỗi mất rồi!” Thiếu nữ hỏi lại: “Huynh lầm lỗi chuyện gì?”

Hư Trúc ấp úng không biết đáp sao, chỉ nói: “Ta… ta…” Đột nhiên bên hông y tê chồn như bị người điểm huyệt, rồi một tấm chăn vứt lên người y. Thiếu nữ khỏa thân đã rời khỏi lòng nhà sư, Hư Trúc bỗng la lên: “Muội… muội đừng đi, đừng đi!” Trong bóng tối bỗng vang lên một tràng cười khanh khách, chính là tiếng Đồng Mỗ. Hư Trúc kinh hãi như muốn ngất đi, thân thể nhũn ra, đầu óc trống rỗng. Nhưng tai y vẫn nghe rõ tiếng chân Đồng Mỗ ôm thiếu nữ chạy ra ngoài kho nước đá.

Lát sau mụ trở về, cười hỏi: “Tiểu hòa thượng! Ta đã cho ngươi hưởng hết diễm phúc nhân gian, sao ngươi không cám ơn ta?” Hư Trúc ấp úng: “Tại hạ… tại hạ…” Nhà sư ruột rối tựa tơ vò, miệng thốt không nên lời. Đồng Mỗ giải huyệt cho y rồi hỏi: “Đệ tử nhà Phật có phải giữ sắc giới hay không? Vừa rồi là ngươi tự phạm giới, hay cũng tại mỗ mỗ bức bách? Ngươi thật là một gã tiểu hòa thượng phong lưu hiếu sắc, khẩu thị tâm phi. Bây giờ mỗ mỗ hỏi ngươi: ngươi thắng hay là ta thắng? Ha ha!” Giọng cười của mụ đầy vẻ đắc ý.

Dĩ nhiên Hư Trúc đã hiểu Đồng Mỗ giận mình ngoan cố thà chết chứ không chịu ăn mặn, nên đi bắt thiếu nữ về cho mình tự phạm vào sắc giới. Nhà sư vừa hối hận vừa hổ thẹn, liền đứng phắt dậy đập đầu vào một tảng nước đá đánh “binh” một tiếng rồi lăn ra đất.

Đồng Mỗ cả kinh, không ngờ nhà sư trẻ tuổi này lại cương cường đến thế, vừa tỉnh cơn xuân mộng đã toan tự tận. Mụ liền nâng y dậy, để tay lên mũi thì thấy hãy còn hơi thở thoi thóp, nhưng đầu thủng một lỗ máu chảy đầm đìa. Đồng Mỗ vội buộc vết thương, rồi cho y uống Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn. Đoạn mụ cất tiếng mắng: “Ngươi phát điên rồi ư? Nếu trong nội thể ngươi không có Bắc Minh chân khí thì chỉ đập đầu một cái như vậy là toi mất cái mạng nhỏ xíu.” Hư Trúc sa lệ nói: “Tiểu tăng tội nghiệt thâm trọng, hại người hại mình, còn làm người thế nào được nữa?” Đồng Mỗ nói: “Ha ha! Nếu tên hòa thượng nào phạm giới cũng tự sát, thì trong thiên hạ còn được mấy nhà sư nữa?”

Hư Trúc giật mình chợt nghĩ ra, nếu mình tự hủy hoại tính mệnh thì lại phạm vào một đại giới của Phật môn, mà nổi cơn tức giận cũng là phạm giới rồi.

Y ngồi lên một khối nước đá, không còn chú ý gì nữa, trong lòng vừa tự trách mình vừa lan man nghĩ tới thiếu nữ kia, cùng bao nhiêu cảm giác êm đềm khoan khoái. Đột nhiên nhà sư hỏi: “Vị… vị cô nương đó là ai?”

Đồng Mỗ ha hả cười đáp: “Cô nương đó năm nay mới mười bảy tuổi, thật là giai nhân tuyệt sắc thiên hạ vô song.”

Vừa rồi trong bóng tối đen, Hư Trúc không nhìn rõ mặt thiếu nữ, nhưng tay chạm đến da thịt mịn màng, tai nghe thanh âm uyển chuyển, y cũng chắc nàng là một tiểu mỹ nhân. Y nghe Đồng Mỗ nói nàng là một trang giai nhân tuyệt sắc thiên hạ vô song, bất giác buông tiếng thở dài. Đồng Mỗ tủm tỉm cười hỏi: “Ngươi có nhớ nàng không?” Hư Trúc không dám nói dối mà cũng không tiện thừa nhận, chỉ cúi đầu nhắm mắt thở dài.

Suốt mấy giờ sau đó, tâm trí Hư Trúc cứ mơ mơ hồ hồ. Lúc Đồng Mỗ đem vịt gà cá thịt vào bày đầy trước mặt, Hư Trúc đang tự thống trách: “Ta đã trở nên một tội nhân của Phật môn, đã gia nhập môn phái khác lại còn phạm phải sát giới, sắc giới, sao đáng là Phật môn đệ tử nữa?” Y nghĩ vậy, liền bưng thịt cá lên ăn, nhưng miệng đắng ngắt chẳng biết mùi vị chi hết, nước mắt đầm đìa trên mặt. Đồng Mỗ cười nói: “Hành động khoáng đạt như thế mới là người lớn, nếu không thì chỉ là đồ trẻ nít.”

Hai giờ sau, Đồng Mỗ lại quấn thiếu nữ khỏa thân trong chăn, đem đặt vào lòng Hư Trúc, rồi mụ bỏ lên tầng hầm thứ hai, để mặc hai người biến tầng hầm thứ ba thành đỉnh Vu sơn.

Bỗng thiếu nữ buông tiếng thở dài rồi nói: “Thật là một cơn ác mộng, khiến ta cực kỳ kinh hãi, mà lại… mà lại…”, Hư Trúc hỏi: “Mà lại làm sao?” Thiếu nữ ôm choàng lấy vai y, dịu dàng nói: “Mà lại sung sướng.” Nàng nói xong lại tựa cằm lên cổ y. Hư Trúc thấy máu dồn lên mặt nóng ran, bất giác lại động tình đưa tay ra ôm lấy lưng nàng. Thiếu nữ gọi: “Hảo ca ca? Có phải tiểu muội đang nằm mơ hay chăng? Nếu là nằm mơ thì sao tiểu muội lại biết đang được ca ca ôm trong lòng, lại sờ thấy má, thấy ngực, thấy chân tay ca ca?” Nàng nói tới đây, đưa tay sờ vào ngực Hư Trúc rồi nói tiếp: “Còn nếu không phải nằm mơ thì sao lúc nãy tiểu muội đang nằm trên giường, đột nhiên… đột nhiên lại mất sạch áo xiêm, chui vào nơi lạnh lẽo đen tối này? Mà sao nơi lạnh lẽo đen tối này lại có ca ca đang chờ đợi ta, thương yêu ta, làm ta sung sướng không sao nói hết?”

Hư Trúc nghĩ thầm: “Thì ra nàng bị Đồng Mỗ điểm huyệt bắt về đây, thần trí vẫn mơ hồ nửa tỉnh nửa mê”. Bỗng nhiên thiếu nữ lại nói: “Thường ngày, ta chỉ nghe thanh âm một chàng trai lạ nào là nổi giận ngay, thế mà sao lúc này ta lại mê mẩn tâm thần, không tự chủ được nữa? Hỡi ôi! Bảo mộng thì không mộng, mà bảo là thực cũng không phải thực. Đêm qua ta đã thấy một giấc mơ ly kỳ, chẳng lẽ bây giờ lại chìm vào giấc mơ đó lại? Hay là muội cùng ca ca có duyên nợ kiếp trước chi đây? Ca ca ơi! Ca ca là ai vậy?” Hư Trúc mất cả hồn vía, ấp úng: “Ta… ta là…” Y không tài nào thốt nổi bốn chữ “Ta là hòa thượng” ra khỏi miệng.

Thiếu nữ đột nhiên giơ tay ra bịt miệng nhà sư, khẽ nói: “Ca ca đừng nói nữa. Muội, muội sợ lắm!” Hư Trúc lại ôm chặt lấy người nàng, vuốt ve rồi hỏi: “Nàng sợ cái gì?” Thiếu nữ đáp: “Muội sợ lời đáp của ca ca sẽ làm cho mình vỡ mộng! Ca ca là tình lang của muội trong giấc mộng, vậy muội kêu ca ca là Mộng Lang. Mộng Lang! Mộng Lang! Chàng có thích cái tên đó không?” Bàn tay thiếu nữ đang bịt miệng Hư Trúc liền đưa lên sờ mũi sờ mặt, dường như vuốt ve trìu mến, lại dường như dùng tay thay mắt để tìm hiểu tướng mạo nhà sư. Bàn tay nhỏ nhắn mềm mại sờ dần dần lên lông mày, lên trán, rồi lên đến đầu.

Hư Trúc cả kinh nghĩ thầm: “Hỏng bét! Nàng sờ đến cái đầu trọc của mình rồi!” Không ngờ thiếu nữ sờ đến tóc của Hư Trúc, không phát hiện ra mình đang sờ đầu một tiểu hòa thượng. Thì ra Hư Trúc ở trong hầm nước đá đã hơn hai tháng, tóc trên đầu đã mọc dài được ba tấc. Thiếu nữ ngọt ngào hỏi: “Mộng Lang! Sao tim chàng đập mạnh thế? Sao chàng chẳng nói năng gì?”

Hư Trúc đáp: “Ta… ta cũng như nàng, vừa khoan khoái vừa sợ hãi. Ta đã làm bẩn tấm thân trong sạch của nàng, có chết đến ngàn lần cũng không đủ đền bù tội lỗi.” Thiếu nữ nói: “Mộng Lang! Chàng đừng nói vậy. Chúng ta chỉ đang nằm mộng thôi, chàng đừng sợ. Chàng kêu ta bằng gì?” Hư Trúc đáp: “Nàng là một cô tiên trong giấc mộng của ta. Vậy ta gọi nàng là Mộng Cô có được chăng?” Thiếu nữ vỗ tay nói: “Hay lắm! Hay lắm! Chàng là Mộng Lang của thiếp, thiếp là Mộng Cô của chàng. Ước gì đôi ta cứ vĩnh viễn nằm mộng như thế này, không bao giờ tỉnh lại.” Nói đến chỗ tình ái mặn nồng, hai người lại chìm đắm vào cơn say tình ái, chẳng hiểu là trong đời hay trong mộng, là ở trên trời hay ở cõi nhân gian?

Qua giấc mê ly, Đồng Mỗ lại dùng tấm chăn chiên bọc thiếu nữ đem ra. Hôm sau, Đồng Mỗ lại đưa thiếu nữ vào chỗ Hư Trúc. Hai người gặp nhau ba ngày, thần trí đã bớt hồ đồ, những gì ngại ngùng e thẹn cũng giảm đi. Hai người tận hưởng những cuộc mây mưa hoan lạc tuyệt trần, nhưng Hư Trúc vẫn không dám thổ lộ chân tướng. Thiếu nữ vẫn nghĩ là mình đang nằm mộng, cũng tuyệt không đả động gì đến những việc ngoài đời thực.

Ba ngày ân ái triền miên đủ khiến cho Hư Trúc cảm thấy thế giới cực lạc chính là hầm nước đá tối tăm lạnh lẽo này, hà tất phải quy y đầu Phật, cầu giải thoát để làm gì nữa? Đến ngày thứ tư, Đồng Mỗ lại đem cho nhà sư ăn tay gấu, thịt hươu, toàn những món cao lương mỹ vị. Ăn xong rồi, Hư Trúc tưởng mụ lại sắp đem thiếu nữ đến gặp mình, không ngờ y chờ mãi mà Đồng Mỗ vẫn ngồi yên một chỗ không nhúc nhích. Hư Trúc nóng nảy như con kiến bị rang trong chảo, ngồi đứng không yên. Đã ba lần y muốn lên tiếng hỏi, nhưng lại không dám.

Hai giờ trôi qua, Đồng Mỗ dĩ nhiên đã thấy Hư Trúc nóng nảy sốt ruột, song mụ vẫn lờ đi như không biết gì. Cuối cùng Hư Trúc không nhẫn nại được nữa, cất tiếng hỏi: “Tiền bối! Vị cô nương đó là… là cung nữ trong triều phải không?” Đồng Mỗ chỉ hừ một tiếng chứ không trả lời. Hư Trúc nghĩ thầm: “Ngươi không thèm đáp thì ta cũng không thèm hỏi nữa.” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng mỗi lần y nhớ tới thiếu nữ ôn nhu đằm thắm thì người cứ ngơ ngẩn bần thần. Nhà sư miễn cưỡng kìm hãm, nhưng rồi cũng không nhịn nổi, đành lên tiếng năn nỉ: “Tiền bối! Xin tiền bối mở lòng nhân đức nói chuyện với vãn bối.” Đồng Mỗ đáp: “Hôm nay ngươi đừng nói gì với ta, để đến mai sẽ hỏi.” Hư Trúc ruột nóng như thiêu, nhưng không dám hỏi nữa.

Cố nén một ngày, hôm sau vừa ăn cơm xong là Hư Trúc lại lên tiếng: “Tiền bối!…” Đồng Mỗ hỏi lại: “Ngươi muốn biết cô nương kia là ai, thì có khó gì? Giả tỉ ngươi muốn đoàn tụ với nàng suốt ngày suốt đêm, vĩnh viễn không rời một bước, thì cũng là chuyện dễ…” Hư Trúc cả mừng, chưa biết nói sao thì Đồng Mỗ lại hỏi: “Ngươi có muốn như vậy không?” Hư Trúc không dám trả lời thẳng, chỉ ấp úng đáp: “Vãn bối không biết lấy gì để báo đáp.”

Đồng Mỗ nói: “Ta chẳng cần người báo đáp chi hết. Nhưng môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn của ta còn mấy ngày nữa mới luyện xong. Mấy ngày này rất quan hệ, tình thế vô cùng nghiêm trọng, ta không thể lơ đãng một giây một phút nào. Ta không thể ra ngoài nên đã phải chuẩn bị thức ăn, đem vào hầm sẵn cả rồi. Giả tỉ ngươi muốn tái ngộ vị cô nương mỹ lệ đó, thì cũng ráng chờ cho đại công của ta thành tựu rồi mới được.”

Hư Trúc tuy thất vọng nhưng biết là mụ nói thực, cũng may là chỉ có mấy ngày, đành để cho bệnh tương tư hành hạ. Y liền đáp: “Vâng, cứ theo lời tiền bối.” Đồng Mỗ lại nói: “Ta luyện xong thần công thì phải lập tức đi tìm con tiện nhân Lý Thu Thủy để trả hận, một giây một phút cũng không thể hoãn được. Lúc đó thì lẽ ra con tiện nhân kia không tài nào địch nổi, nhưng chẳng may ta bị chặt đứt một chân, khí lực tổn thương rất nhiều. Mối thù này báo được hay không, ta vẫn chưa nắm chắc. Giả tỉ ta bị chết về tay hắn, thì không còn cách nào đem cô nương để lại cho ngươi nữa. Ý trời đã vậy thì đành chịu chứ biết làm sao? Trừ phi… trừ phi…” Hư Trúc nghe tim mình đập loạn lên, hỏi lại: “Trừ phi thế nào?” Đồng Mỗ đáp: “Trừ phi ngươi giúp ta một tay.” Hư Trúc hỏi: “Vãn bối võ công thấp kém, làm sao mà giúp được?”

Đồng Mỗ đáp: “Lúc ta cùng con tiện nhân kia quyết đấu thì thắng bại chỉ cách nhau một giây. Hắn muốn hại ta dĩ nhiên là việc khó, mà ta muốn giết hắn cũng chẳng dễ gì. Bắt đầu từ hôm nay, ta dạy cho ngươi môn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, ngươi cố mà luyện. Nếu ta gặp nguy cấp, ngươi chỉ cần ấn vào người con tiện nhân một cái là lập tức chân khí hắn thất tán hết, nhất định hắn phải thất bại.”

HưTrúc thấy khó xử, nghĩ thầm: “Tuy ta đã phạm nhiều giới luật, không đáng thành đệ tử nhà Phật, nhưng giúp mụ giết người là chuyện đại ác trái với lương tâm, ta quyết không thể làm được.” Y liền nói: “Giả tỉ vãn bối giúp tiền bối giết được cừu nhân thì tội nghiệt càng thêm nghiêm trọng, sau này sẽ bị chìm đắm vào bể trầm luân, muôn kiếp không được siêu sinh.”

Đồng Mỗ tức giận nói: “Hừ! Nhà sư chết đâm kia! Ngươi đã phá hết giới luật mà còn ráng giữ bụng dạ của hòa thượng làm cái quái gì? Lý Thu Thủy là kẻ tàn ác, giết hắn thì có tội lỗi gì đâu?” Hư Trúc đáp: “Dù là người đại gian đại ác thì cũng phải tìm cách cảm hóa mà giác ngộ, không nên giết càn.” Đồng Mỗ lại càng giận dữ, cao giọng nói: “Ngươi không nghe lời ta, thì quên chuyện gặp lại cô nương kia đi. Tùy ý ngươi, nghĩ sao thì cứ làm vậy.” HưTrúc buồn rầu không nói gì, âm thầm niệm Phật.

Đồng Mỗ chờ một lúc không thấy Hư Trúc cãi lại, mừng thầm hỏi: “Phải chăng ngươi đang nhớ đến cô nương xinh đẹp đó?” Hư Trúc đáp: “Vãn bối không thể giết người chỉ vì nỗi hoan lạc của riêng mình. Giả tỉ suốt đời vãn bối không được gặp lại vị cô nương đó, thì cũng là do nhân quả tiền định, túc duyên đã hết thì chẳng nên miễn cưỡng làm gì. Miễn cưỡng còn chẳng nên, huống chi làm chuyện ác để cầu cạnh?” Y nói xong, rồi lại tụng kinh: “Việc đời được mất, Chỉ tùy duyên số, Cố mà miễn cưỡng. Cũng chẳng ích gì.” Miệng thì tụng niệm, nhưng trong đầu lại nghĩ rằng từ đây không còn gặp thiếu nữ kia nữa, y không khỏi buồn phiền.

Đồng Mỗ nói: “Ta hỏi một lần nữa, ngươi có chịu luyện môn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hay không?” Hư Trúc đáp: “Vãn bối không thể tuân lệnh, xin tiền bối lượng thứ cho.” Đồng Mỗ tức giận nói: “Vậy ngươi cút đi, xa chừng nào tốt chừng nấy!” Hư Trúc đứng dậy khom lưng, lễ phép nói: “Xin tiền bối bảo trọng.” Lúc này Hư Trúc nhớ lại thời gian vừa rồi, tuy bị Đồng Mỗ dùng kế bắt mình phá giới không thể làm hòa thượng được nữa, nhưng nhờ đó mà y gặp Mộng Cô, nên trong thâm tâm thấy mụ có ơn với mình hơn là có oán. Hư Trúc không khỏi bịn rịn, lại nói: “Tiền bối cố gắng bảo trọng, vãn bối không thể phục dịch được nữa.” Rồi y quay người bước lên bậc đá.

Hư Trúc sợ Đồng Mỗ lại ra tay điểm huyệt ngăn trở, nên vừa đặt chân lên bậc đá, y liền lập tức đề tụ Bắc Minh Chân Khí phi thân nhảy vọt lên, chỉ trong chớp mắt đã lên đến tầng thứ hai của kho nước đá, rồi lại lên đến tầng thứ nhất, đưa tay toàn đẩy cửa ra. Hư Trúc vừa chạm vào cánh cửa gỗ, bỗng thấy hai vai đau nhói, biết ngay mình bị Đồng Mỗ ám toán. Y chỉ la được một tiếng “Úi chao!” đã lảo đảo, hai chân nhũn ra, rồi ngã lăn xuống đất.

Đồng Mỗ cất giọng âm hiểm hỏi: “Ngươi trúng ám khí của ta rồi, có biết không?” Hư Trúc thấy chỗ bị thương tê nhức, ngứa ngáy tựa như muôn ngàn con kiến đang bâu vào đốt, liền đáp: “Dĩ nhiên là biết.” Đồng Mỗ cười nhạt hỏi: “Ngươi có biết đó là ám khí gì không? Chính là Sinh Tử Phù.”

Hư Trúc nghe như sét đánh bên tai. Y đã biết Ô Lão Đại cùng hàng ngàn người khác đã sợ Sinh Tử Phù đến mất cả bản sắc anh hùng. Trước nay Hư Trúc vẫn tưởng Sinh Tử Phù là một loại bùa chú có ma lực, ngờ đâu lại là một thứ ám khí. Bọn Ô Lão Đại hung hãn tàn độc mà cũng bị Sinh Tử Phù kiềm chế đến nhũn như chi chi, thế thì loại ám khí này lợi hại ngoài sức tưởng tượng!

Đồng Mỗ lại nói: “Sinh Tử Phù đã xâm nhập vào thân thể rồi thì vĩnh viễn không có thuốc nào giải được. Bọn súc sinh Ô Lão Đại ở núi Phiêu Diểu sinh lòng phản trắc, không cam tâm chịu ta vĩnh viễn kiềm chế, bàn nhau đến cung Linh Thứu cướp lấy phép phá giải Sinh Tử Phù. Nhưng bọn cẩu tặc ngu ngốc đó cũng chỉ ảo vọng mà thôi. Sinh Tử Phù của mỗ mỗ há để kẻ khác phá giải được ư?”

Hư Trúc cảm thấy vết thương mỗi lúc một ngứa ngày hơn, về sau ngứa lan cả vào nội thể. Thời gian chừng uống cạn tuần trà, Hư Trúc thấy lục phủ ngũ tạng đều ngứa ran lên không chịu được, chỉ muốn đập đầu vào tường chết quách đi còn hơn. Y không nhịn được nữa, nên buột miệng lớn tiếng rên la.

Đồng Mỗ hỏi: “Trong Sinh Tử Phù thì hai chữ Sinh Tử nghĩa là gì, ngươi đã hiểu chưa? Hư Trúc nghĩ thầm: “Hiểu rồi, hiểu rồi! Muốn sinh không được, muốn tử không xong.” Y nghĩ như vậy nhưng chỉ rên la, không còn đủ khí lực để mở miệng trả lời nữa. Đồng Mỗ không thấy Hư Trúc trả lời, lại nói tiếp: “Ngươi là một thằng lỏi bất lương, vừa rồi dám bỏ ra đi. Thế mà ta không ngờ ngươi lại hai lần ân cần dặn ta bảo trọng thân thể, ra chiều quan tâm thân thiết. Huống chi ngươi đã cứu mạng ta, mà mỗ mỗ là người ân oán phân minh, thưởng phạt hợp lý, coi ngươi khác hẳn với bọn Ô Lão Đại. Vừa rồi ta gieo Sinh Tử Phù vào mình ngươi là phạt ngươi, nhưng ta sẽ truyền cho ngươi phép giải trừ Sinh Tử Phù để thưởng công ngươi đã cứu ta.

Hư Trúc vừa rên vừa nói: “Vãn bối nói trước, giả tỉ tiền bối dùng cách này để kiềm chế, bắt vãn bối làm những việc thương luân bại lý, thì thà văn bối… chịu chết, quyết không…” Y định nói “chịu chết, quyết không khuất phục” nhưng không sao nói ra miệng.

Đồng Mỗ cười nhạt: “Hừ! Ngươi quả là ngang bướng. Nhưng sao ngươi cứ ấp úng mãi mà không nói ra? Ngươi có biết tại sao tên An động chúa kia lại nói lắp không?” Hư Trúc đáp: “Ngày trước chắc y bị trúng… Sinh Tử Phù của tiền bối… đau khổ qua rồi miệng… miệng…” Đồng Mỗ ngắt lời: “Ngươi biết vậy là tốt. Sinh Tử Phù một khi đã phát tác thì mỗi ngày một tệ hại hơn. Lần đầu phải ngứa ngáy đau đớn hết chín lần chín là tám mươi mốt ngày, rồi giảm dần đi. Lại sau tám mươi mốt ngày thì lại bắt đầu đau đớn ngứa ngáy, còn khó hơn lần trước. Chu kỳ tám mươi mốt ngày tuần hoàn quanh đi quẩn lại không bao giờ hết. Mỗi năm ta đều phái người đến các đảo các động để phát thuốc ngăn ngừa đau đớn và ngứa ngáy, mỗi lần uống thuốc lại kiềm hãm Sinh Tử Phù được một năm không phát tác.”

Bây giờ Hư Trúc mới hiểu ra, bọn động chúa, đảo chúa phải kinh sợ Đồng Mỗ như bậc thần linh, chịu đánh đập hành hạ còn lấy làm sung sướng mở tiệc ăn mừng, là để được mụ phát thuốc ngăn ngừa Sinh Tử Phù phát tác trong một năm. Thế này thì mình cũng bị mụ kiềm chế suốt đời, cũng đem thân làm trâu làm ngựa cho mụ như bọn Ô Lão Đại hay sao?

Đồng Mỗ đã sống với Hư Trúc ba tháng, hiểu tính khí y bất khuất quật cường, liền nói: “Ta đã nói là không coi ngươi như bọn súc sinh Ô Lão Đại, không bắt người mỗi năm phải uống thuốc trấn áp Sinh Tử Phù. Ngươi đừng lo lắng thái quá mà ăn ngủ không yên. Ta đã gieo tới chín cái Sinh Tử Phù trong mình ngươi, nhưng chỉ cần phẩy tay một cái là trừ khử tận gốc, vĩnh viễn không để hại về sau.”

Hư Trúc lắp bắp: “Thế thì vãn bối… đa…. đa…” Y không sao nói nốt được chữ “tạ”. Đồng Mỗ cho Hư Trúc uống một viên thuốc, chỉ một lúc là hết đau đớn ngứa ngáy. Mụ lại nói: “Muốn trừ khử tận gốc Sinh Tử Phù thì phải dùng nội lực phóng chưởng. Nhưng ta còn phải luyện thần công mấy ngày nữa, lúc này không thể vì ngươi mà tiêu hao nguyên khí được. Vậy ta dạy ngươi cách vận công phát chưởng để ngươi tự hóa giải lấy.” Hư Trúc đáp: “Vâng!”

Đồng Mỗ liền truyền cho Hư Trúc cách vận Bắc Cư, Thiên Khu, Thái Ất, Long Môn, Thần Phong, Thần Tàng, rồi qua những huyệt Khúc Trì, Đại Lăng, Dương Khoái, cuối cùng ra đến lòng bàn tay. Mụ lại dạy các phép thu phát chân khí, Hư Trúc luyện trong hai ngày là thành thục hết.

Đồng Mỗ nói: “Bọn súc sinh Ô Lão Đại tuy phẩm hạnh chẳng ra gì, song võ công không phải tầm thường. Bọn hồ quần cẩu đảng giao kết với y nội lực đều khá tinh thâm, nhưng không tên nào dùng nội lực để hóa giải Sinh Tử Phù của ta được. Ngươi có biết vì sao không?” Mụ ngừng một lát, biết Hư Trúc không thể trả lời được, liền nói tiếp: “Ta gieo vào thân thể mỗi tên những đạo Sinh Tử Phù khác nhau, thủ pháp cũng không giống nhau. Giả tỉ tên nào toan dùng kình lực dương cương để hóa giải một đạo Sinh Tử Phù, thì những đạo phù chưa bị giải ở các kinh mạch Thái Dương, Thiếu Dương, Dương Minh lập tức bị lực đạo dương cương đó kích thích mà nhộn nhạo lên, xông vào đan điền rồi thâm nhập tạng phủ, lúc đó không thể cứu được nữa. Giả tỉ tên nào dùng kình lực âm nhu để hóa giải thì Sinh Tử Phù ở các mạch Thái Âm, Thiếu Âm, Khiết Âm lại phát tác. Lại còn những đạo Sinh Tử Phù có pha trộn thủ pháp âm dương phức tạp, làm sao người khác có thể hóa giải được? Chín đạo Sinh Tử Phù trong mình ngươi cũng phải có chín thủ pháp khác nhau mới hóa giải được.” Rồi mụ bèn truyền cho Hư Trúc một thứ thủ pháp, đợi y học thuộc rồi mới phân tích từng chiêu để Hư Trúc biết đường ứng phó với thứ thủ pháp phức tạp, âm độc và xảo quyệt này.

Đồng Mỗ lại dặn: “Sinh Tử Phù của núi Phiêu Diểu biến hóa vô cùng, lúc ngươi giải trừ cũng phải tùy cơ ứng biến, chỉ sai lầm một chút là lập tức bế khí mà chết, nếu may mắn thì cũng phải tàn tật suốt đời. Ngươi phải coi Sinh Tử Phù như đại dịch mà đem toàn lực ra đối phó, không thể coi thường được.”

Hư Trúc khổ công luyện tập, nhận ra pháp môn của Đồng Mỗ xảo diệu vô cùng. Bất luận thủ pháp thâm độc nào tấn công tới, pháp môn này cũng có thể biến hóa để không những giải trừ mà còn phản kích lại đối phương. Y càng luyện càng thêm bội phục, bây giờ mới hiểu Sinh Tử Phù đáng cho ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa phải kinh hồn táng đởm, quả nhiên có uy lực vô cùng. Nếu không được Đồng Mỗ đích thân truyền dạy thì trong thiên hạ chẳng ai tưởng tượng ra phép hóa giải thần diệu đến thế.

Hư Trúc luyện bốn ngày liền, cuối cùng đã thuộc hết chín pháp môn của mụ. Đồng Mỗ cả mừng nói: “Tiểu tử! Ngươi không ngu ngốc lắm đâu? Binh pháp có câu: Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Ngươi muốn chế phục được Sinh Tử Phù, thì cũng cần biết cách gieo Sinh Tử Phù. Ngươi đã hiểu Sinh Tử Phù là gì chưa?” Hư Trúc ngẩn ra đáp: “Đó là một thứ ám khí.” Đồng Mỗ nói: “Là ám khí thì dĩ nhiên rồi, nhưng ám khí gì mới được? Nó tròn như thiết liên tử, hay nhọn như phi tiêu?” Hư Trúc nghĩ thầm: “Ta trúng tới chín mũi ám khí, tuy đau nhức ngứa ngáy vô cùng mà sờ lên thì chẳng thấy gì, cũng không hiểu hình dạng nó ra sao.”

Đồng Mỗ nói: “Đây là một mũi Sinh Tử Phù, ngươi cầm lấy mà coi cho kỹ.” Nhà sư nghĩ đây là thứ ám khí tàn độc nhất thiên hạ, rón rén đưa tay ra đón lấy thì thấy nó lạnh buốt. Y nhìn kỹ, thứ ám khí này tròn trĩnh mà nhẹ như không, chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay, mỏng như giấy, cạnh sắc bén dị thường. Lòng bàn tay lạnh buốt, thoáng cái Sinh Tử Phù đã biến mất. Y không hề thấy Đồng Mỗ đưa tay ra lấy lại, bất giác cả kinh, không hiểu món ám khí đó đã đi đâu? Bất thần Hư Trúc nghĩ ra một chuyện ngoài sức tưởng tượng, la lên: “Trời ơi!” Y nghĩ thầm: “Hỏng bét! Chiếc Sinh Tử Phù này tự chui vào lòng bàn tay mình rồi.”

Đồng Mỗ hỏi: “Ngươi đã hiểu chưa?” Hư Trúc ấp úng: “Vãn bối…” Đồng Mỗ nói: “Sinh Tử Phù của ta chỉ là một miếng băng mỏng hình tròn,” Hư Trúc hiểu ra, “Ồ” lên một tiếng. Thì ra miếng băng mỏng này bị hơi ấm của lòng bàn tay làm tan ra nước. Vừa rồi Hư Trúc sợ quá nên vô tình vận nội lực vào bàn tay nóng như lửa, chút xíu nước kia cũng lập tức bốc hơi mất nên y không biết.

Đồng Mỗ nói: “Muốn học phép hóa giải Sinh Tử Phù thì cần phải biết cách phóng ra, muốn biết phóng ra thì phải học cách chế tạo trước. Chế ra miếng băng nhỏ xíu, mỏng như giấy mà xuyên thủng qua y phục chui vào nội thể người ta, không phải dễ dàng đâu. Ngươi đổ một chút nước vào lòng bàn tay, rồi vận nội lực cho phát ra hơi lạnh, làm đông cứng mấy giọt nước đó thành băng.” Rồi mụ dạy cho Hư Trúc cách vận khí ngược chiều để dương cương chuyển thành âm nhu. May mà Vô Nhai Tử đã truyền Bắc Minh chân khí cho y có cả âm lẫn dương. Trước nay Hư Trúc chỉ luyện theo hướng dương cương, nhưng bây giờ y chỉ vận chân khí theo chiều ngược lại thì thành âm nhu ngay, chẳng khó khăn gì.

Sinh Tử Phù đã chế luyện được rồi, Đồng Mỗ lại dạy cách vận thủ kình để phát xạ cho trúng huyệt đạo. Đồng Mỗ còn dạy cách pha trộn nội lực mấy phần dương cương, mấy phần âm nhu, tùy theo ý muốn của mình mà phóng ra những loại Sinh Tử Phù khác nhau. Hư Trúc lại mất thêm ba ngày mới học xong. Đồng Mỗ mở lời khen ngợi: “Ngộ tính ngươi rất tốt. Phép chế luyện và phát xạ Sinh Tử Phù của ta cực kỳ phức tạp mà ngươi học được dễ dàng như vậy. Sau này chỉ cần tập luyện thêm, để chế biến tinh vi hơn, nhận huyệt chuẩn xác hơn là được.”

Đến ngày thứ tư, Đồng Mỗ bảo Hư Trúc điều dưỡng nội lực, ngưng tụ chân lực vào hai tay, rồi nói: “Đầu gối của ngươi trúng một miếng Sinh Tử Phù ngay chỗ huyệt Âm Lăng Tuyền. Ngươi vận nội lực dương cương vào hữu chưởng, dùng thủ pháp thứ hai vỗ nhanh ba cái. Sau đó lại vận nội lực âm nhu vào tả chưởng, dùng thủ pháp thứ bảy từ từ hút ra ba lần. Như thế có thể cùng lúc hóa giải được cả hàn độc lẫn nhiệt độc trong Sinh Tử Phù.” Hư Trúc cứ thế mà làm, quả nhiên hóa giải được chỗ bế tắc ở huyệt Âm Lăng Tuyền, khoan khoái vô cùng.

Đồng Mỗ cứ tiếp tục chỉ điểm, Hư Trúc cứ theo lời mụ mà hóa giải. Khi y hóa giải xong hết chín chiếc Sinh Tử Phù, cảm thấy hoan hỉ khôn xiết. Đồng Mỗ thở dài nói: “Đến giờ ngọ ngày mai thì thần công của ta luyện thành. Nhưng luyện công thì lúc tối hậu là nguy hiểm nhất. Hôm nay ta phải định thần tĩnh dưỡng, ngươi đừng mở miệng nói chuyện với ta nữa.” Hư Trúc “Vâng” một tiếng, nghĩ thầm: “Thời gian trôi vùn vụt, thật không ngờ nổi mình đã ở với mụ tới ba tháng rồi.”

Ngay lúc đó, Hư Trúc bỗng nghe thấy một thanh âm tựa như tiếng muỗi vo ve: “Sư tỉ! Sư tỉ! Sư tỉ ở đâu? Tiểu muội nhớ sư tỉ quá. Sao sư tỉ đã đến chơi nhà tiểu muội mà không cho gặp mặt? Sư tỉ xem tiểu muội như người ngoài ư?” .

Thanh âm nhỏ xíu, nhưng tiếng nào cũng lọt vào tai rất rõ ràng. Người nói chẳng phải Lý Thu Thủy thì còn ai nữa?

Hồi 37: Cùng cười ha hả một trang, cuối đường yêu hận rõ ràng là không

Hư Trúc kinh hãi la lên: “Ôi chao! Không xong rồi! Y… Y…” Đồng Mỗ quát lên: “Sao ngươi nhát gan đến thế?” Hư Trúc hạ giọng đáp: “Y… y tìm đến đây rồi!” Đồng Mỗ nói: “Hắn chưa biết chắc ta vào hoàng cung, cũng không biết nấp ở đâu. Trong hoàng cung có cả trăm cả ngàn phòng, hắn mà kiếm từng phòng thì mười ngày nửa tháng chưa chắc đã tìm thấy.” Hư Trúc hơi yên tâm, thở ra một hơi rồi nói: “Chỉ cần đến giờ ngọ ngày mai là chúng ta không sợ y nữa.” Quả nhiên thanh âm Lý Thu Thủy lại xa dần, rồi không nghe thấy nữa.

Chừng nửa giờ sau, Hư Trúc lại nghe thấy tiếng vo ve: “Hảo tỉ tỉ! Sư tỉ còn nhớ Vô Nhai Tử sư huynh không? Hiện y đang ở trong cung tiểu muội, muốn gặp sư tỉ để nói mấy câu.”

Hư Trúc khẽ nói: “Ăn nói hồ đồ! Vô Nhai Tử tiên sinh đã quy tiên lâu rồi. Tiền bối… đừng trúng kế của y.” Đồng Mỗ nói: “Chúng ta ở trong này, có gào thét lên hắn cũng không nghe thấy. Hiện hắn đang ở rất xa, cố vận Truyền Âm Siêu Hồn Đại Pháp để ép ta ra mặt. Hắn đề cập đến Vô Nhai Tử gì gì đó chẳng qua là cốt làm cho ta rối trí, khi nào ta lại mắc vào cạm bẫy của hắn?”.

Lý Thu Thủy vẫn tiếp tục nói không biết mệt hết giờ này sang giờ khác, kể lể những chuyện cùng học võ ngày xưa. Lúc thì mụ nhắc tới những lời Vô Nhai Tử cùng mụ thề thốt yêu đương, lúc lại ngoác miệng ra mà thóa mạ Đồng Mỗ là con quỷ ác độc, con tiện nhân tàn ác vô liêm sỉ nhất thiên hạ.

Hư Trúc ráng lấy hai tay bịt tai lại mà thanh âm kia vẫn chui vào nghe rất khó chịu. Y tức tối vô cùng, la lên: “Nói láo! Nói láo! Ta không tin!”, rồi xẻ vạt áo cuộn nhỏ lại nút kín lỗ tai. Đồng Mỗ khuyên y: “Con tiện nhân kia vận nội lực cao thâm để phát ra thanh âm, ngươi không ngăn trở cho khỏi lọt vào tai được đâu. Chúng ta đang ở dưới tầng hầm thứ ba này, thanh âm bị ngăn trở rất nhiều mà còn lọt vào được, thế thì nút giẻ có ăn thua gì? Ngươi cứ bình tâm tĩnh trí đừng thèm để ý, coi lời nói của con tiện nhân như tiếng chó sủa bò rống là không sao hết.” Hư Trúc vâng lời, lẩm nhẩm: “Nhìn không vào mắt, nghe chẳng vào tai”. Nhưng công phu Thiếu Lâm của y đã mất hết, định lực của y giảm sút rất nhiều. Lát sau y nghe Lý Thu Thủy kể tội Đồng Mỗ thì không thể làm ngơ được, rồi trong lòng y sinh ra bán tín bán nghi không hiểu những chuyện mụ nói là thật hay giả.

Một lúc sau, đột nhiên Hư Trúc nghĩ ra một chuyện, liền nói: “Tiền bối! Giờ luyện công sắp đến rồi, lần này là thần công viên mãn. Thế là mụ kia đã chọn đúng lúc để quấy nhiễu, làm cho tiền bối phải phân tán tâm trí, cuộc luyện công hôm nay nguy hiểm vô cùng.” Đồng Mỗ nhăn nhó cười đáp: “Bây giờ ngươi mới biết ư? Con tiện nhân đó biết rằng thần công ta luyện xong thì hắn không địch nổi, nên lúc này y dùng hết sức lực để ngăn trở.” Hư Trúc hỏi: “Vậy có nên tạm gác việc luyện công lại chăng? Tiền bối luyện công vào lúc bị ngoại ma quấy nhiễu thì có thể… xảy ra nguy hiểm.” Đồng Mỗ nói: “Ngươi thà chết chứ không chịu giúp ta đối phó với con tiện nhân này kia mà? Sao ngươi vẫn quan tâm đến sự an nguy của ta làm gì?” Hư Trúc ngẩn ra đáp: “Vãn bối không thể giúp tiền bối hại người, nhưng cũng không thể để kẻ khác gia hại tiền bối.”

Đồng Mỗ nói: “Tâm địa ngươi rất tốt! Ta đã nghĩ kỹ lắm rồi, con tiện nhân kia vừa dùng Truyền Âm Siêu Hồn Đại Pháp nhiễu loạn tâm thần ta, vừa xua chó ngao đi tìm kiếm. Chắc chắn hắn đã bố trí bốn mặt hoàng cung này nghiêm mật như tường đồng vách sắt, không tài nào trốn ra được, mà ẩn núp thêm một ngày là nguy hiểm thêm một ngày. Hừ! May mà chúng ta vào sâu hiểm địa ngay trong nhà hắn, không thì e rằng hắn đã phát giác ra từ hai tháng trước rồi, ngày ấy công lực ta còn thấp kém, không kháng cự được chút nào. Giả tỉ vì Truyền Âm Siêu Hồn Đại Pháp của hắn mà chúng ta hốt hoảng chạy đi thì khác nào giơ tay chịu trói. Gã ngốc kia! Đến giờ ngọ rồi, mỗ mỗ bắt đầu luyện công đây!” Đồng Mỗ nói xong, cắn cổ con bạch hạc cuối cùng để hút máu tươi rồi ngồi xếp bằng vận khí luyện công.

Hư Trúc nghe tiếng Lý Thu Thủy kêu gào mỗi lúc một thêm rùng rợn, thì biết đây là lúc quyết định chuyện sinh tử tồn vong của hai vị sư tỉ sư muội này. Đột nhiên Lý Thu Thủy biến đổi giọng nói thành ôn nhu ấm áp: “Hảo sư ca! Ôm chặt lấy muội đi! Ôi… ôi…! Siết muội chặt thêm chút nữa đi!” Hư Trúc ngơ ngẩn tự hỏi: “Sao mụ lại nói như vậy?”

Bỗng y nghe Đồng Mỗ “hừ” một tiếng rồi mắng: “Đồ tiện nhân!” Hư Trúc giật mình kinh hãi, giờ phút này Đồng Mỗ đang luyện công tới lúc quan hệ vô cùng, giả tỉ mụ xúc động hay căm phẫn thì nguy hiểm không sao nói hết, chỉ sai một ly là có thể mất mạng hay tàn phế. Tiếng Lý Thu Thủy vẫn ngọt ngào quyến rũ, thốt ra toàn những câu ân ái nồng nàn với Vô Nhai Tử. Ngay Hư Trúc cũng không nhịn được, bất giác nhớ lại tình trạng mê ly hoan lạc cùng thiếu nữ kia, lửa dục bốc lên ngùn ngụt, huyết mạch chạy rần rần cả thân thể làm nóng bỏng cả da thịt.

Đồng Mỗ vừa thở hổn hển vừa mắng nhiếc: “Con tiện nhân vô sỉ kia! Sư đệ có thật sự thích mi đâu? Mi cứ mặt dày mà khêu gợi quyến rũ y, thật là khốn kiếp!” Hư Trúc kinh hãi nói: “Tiền bối! Mụ… mụ cố ý chọc giận, tiền bối đừng cho đó là chuyện thực.”

Đồng Mỗ vẫn thóa mạ: “Con tiện nhân vô sỉ! Nếu y thực lòng với mi thì sao đến lúc sắp chết còn lần mò lên núi Phiêu Diểu, đem cái nhẫn thất bảo của bản môn truyền lại cho ta? Sư đệ còn đưa cho ta coi tấm hình do chính tay y vẽ ta hồi mười tám tuổi, còn nói rằng hơn sáu mươi năm nay y bầu bạn với tấm hình đó suốt ngày đêm, một bước không rời. Hừ! Mi nghe thế có khó chịu không…”.

Đồng Mỗ huyên thuyên không ngớt, Hư Trúc cứ thộn mặt ra mà nghe. Không biết mụ nói những chuyện đó để làm gì? Hay là bà bị tẩu hỏa nhập ma, thần trí mê loạn mất rồi?

Bỗng nghe đánh “sầm” một tiếng, cửa lớn của hầm nước đá đã bị đẩy ra. Sau đó là tiếng của ngách mở kèn kẹt, rồi cửa lớn cửa ngách đều đóng sập lại. Tiếng quát tháo của Lý Thu Thủy vang lên: “Mi nói láo! Mi nói láo! Sư ca chỉ yêu một mình ta thôi. Y vẽ hình con quỷ lùn để làm cái quái gì? Con tiện nhân kia! Mi chỉ quen đặt điều bịa chuyện!…”

Sau đó, trên tầng thứ nhất hầm nước đá có mười mấy tiếng ầm ầm vang lên như sấm nổ, Hư Trúc kinh hãi vô cùng. Đồng Mỗ lại cười ha hả, la lên: “Con tiện nhân kia! Mi tưởng sư đệ chỉ yêu mình mi thì thật là ngu muội. Tuy ta thấp bé thật, nhưng khuôn mặt ta mỹ lệ, dáng dấp ta yểu điệu. Mấy chục năm trước đây sư đệ đã biết hết rồi, mi là một đứa dâm đãng, thích dẫn dụ bọn thiếu niên anh tuấn về bày chuyện trăng hoa…” Thanh âm của mụ đang ở tầng thứ nhất nhà hầm, Hư Trúc cũng không biết Đồng Mỗ đã từ tầng thứ ba lên tới đó từ lúc nào. Đồng Mỗ lại cười, nói tiếp: “Tỉ muội ta mấy chục năm không gặp nhau, bây giờ phải thân mật với nhau một lúc. Ta đóng cửa hầm lại để người khác khỏi vào quấy nhiễu. Ha ha! Giả tỉ mi muốn kêu bọn thị vệ đến đây, ỷ đông người để thủ thắng, thì mau ra mở cửa ra cho họ vào. Tuy mi hiện ở trong này, nhưng có thể truyền âm ra ngoài được đó.”

Trong giây lát, Hư Trúc nghĩ tới rất nhiều điều. Đồng Mỗ chọc được Lý Thu Thủy giận nhảy vào hầm, rồi liệng những khối nước đá lớn chặn cửa lại, quyết một trận tử sinh. Như vậy tuy thế lực của Lý Thu Thủy ở hoàng cung Tây Hạ rất lớn, nhưng cũng không thể gọi thị vệ vào tiếp tay được. Nhưng tại sao Lý Thu Thủy không phá cửa thoát ra lại? Tại sao không kêu người đến tiếp tay như Đồng Mỗ vừa nói? Chắc là vì mụ muốn phá cửa hay dùng phép truyền âm cũng phải vận nội lực, sợ Đồng Mỗ mai phục ngay bên cạnh, chờ sơ hở là đánh một đòn chí mạng. Nếu không đúng thế, thì Lý Thu Thủy kiêu ngạo không thèm mượn sức người ngoài, muốn đích thân thanh toán tình địch. Hư Trúc lại nghĩ:”Những ngày trước, lúc Đồng Mỗ luyện công thì không nói năng mà cũng không nhúc nhích, tựa như không biết chút nào những việc bên ngoài. Hôm nay bà tức không chịu nổi, phải lên tiếng cãi nhau với Lý Thu Thủy, việc luyện công chậm lại một ngày, không biết có hại gì không? Trận chiến hôm nay cũng chưa rõ ai thắng ai thua, nhưng nếu Đồng Mỗ thắng mà thoát khỏi hoàng cung, ngày mai sẽ luyện bù thì có được không?”.

Hư Trúc đang nghĩ ngợi, bỗng nghe những tiếng ầm ầm như sấm nổ, chắc là Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đang dùng nội lực ném những khối nước đá vào nhau. Hư Trúc đã ở với Đồng Mỗ ba tháng, tuy bà ta vui giận bất thường, hành động độc đoán khiến y đau khổ không ít, nhưng hôm sớm có nhau cũng nảy tình thân cận. Lúc này y chỉ sợ Đồng Mỗ bị độc thủ của Lý Thu Thủy, bất giác bước lên trên.

Y vừa lên tới tầng thứ hai đã nghe Lý Thu Thủy quát: “Ai đó?”, những tiếng ầm ầm cũng ngừng lại. Hư Trúc nín thở không dám lên tiếng. Đồng Mỗ bỗng nói: “Y là một thiếu niên phong lưu lãng tử nhất trong võ lâm Trung Nguyên, có ngoại hiệu là Phấn Diện Lang Quân Võ Phan An. Mi có muốn thấy mặt y không?” Hư Trúc nghĩ bụng: “Kẻ xấu xí như mình thì làm gì có ngoại hiệu Phấn Diện Lang Quân Võ Phan An? Hỡi ơi! Tiền bối lại đem mình ra làm trò cười!”

Lý Thu Thủy đáp: “Mi đừng nói hồ đồ. Ta đã thành bà lão mấy chục năm nay, còn muốn coi mặt bọn thiếu niên làm gì? Cái tên Phấn Diện La Sát Võ Phan An gì gì đó, nhiều phần chắc là tên tiểu hòa thượng hình dung cổ quái cõng mi chạy trốn tới trốn lui.” Rồi mụ lớn tiếng gọi: “Tiểu hòa thượng! Có phải ngươi đó không?” Hư Trúc trống ngực đánh ầm ầm, chẳng biết nên thừa nhận hay không. Đồng Mỗ lên tiếng: “Mộng Lang! ngươi là tiểu hòa thượng ư? Ha ha! Người ta kêu chàng thiếu niên anh tuấn như ngươi là tiểu hòa thượng, thật buồn cười đến chết được!”

Hai tiếng Mộng Lang vừa lọt vào tai, Hư Trúc hổ thẹn vô cùng, đỏ mặt lên nghĩ thầm: “Hỏng bét! Hỏng bét! Sao Đồng Mỗ lại biết vị cô nương kia gọi ta như thế? Những chuyện này đâu thể để cho người khác biết được? Trời ơi! Ta tâm tình với cô nương kia, chắc là… chắc là… Đồng Mỗ nghe rõ hết rồi.”

Đồng Mỗ lại giục: “Mộng Lang, ngươi có phải là tiểu hòa thượng không? Mau mau trả lời đi.” Hư Trúc đáp: “Không phải.” Tuy nhà sư chỉ nói lí nhí, nhưng Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy cùng nghe rõ.

Đồng Mỗ lại cười khanh khách: “Mộng Lang! Ngươi không việc gì phải nóng nảy, chẳng mấy chốc sẽ được cùng Mộng Cô tương kiến. Mấy bữa nay nàng tương tư ngươi đến phát điên, ăn không ngon ngủ không yên. Ngươi nói thật đi, ngươi có nhớ nàng không?”

Hư Trúc đã yêu thương thiếu nữ kia thật lòng. Mấy ngày nay tuy y phải chú tâm vào luyện cách phát xạ và hóa giải Sinh Tử Phù, nhưng lúc nào cũng nhớ nàng đến điên đảo thần hồn. Bây giờ nghe Đồng Mỗ đột ngột hỏi, y bất giác đáp luôn: “Có nhớ!”

Lý Thu Thủy chậm rãi nói: “Mộng Lang, Mộng Lang! Thì ra ngươi quả là một thiếu niên đa tình. Lại đây, để ta xem vị thiếu niên phong lưu lãng tử nhất trong võ lâm Trung Nguyên là nhân vật thế nào?”

Lý Thu Thủy tuy trẻ hơn Đồng Mỗ và Vô Nhai Tử, nhưng cũng đã đến bảy tám chục tuổi. Thế mà mụ nói câu này cực kỳ ôn nhu uyển chuyển, khiến cho trống ngực Hư Trúc đánh thình thịch, tưởng chừng trong chớp nhoáng đã biến thành tay phong lưu lãng tử đệ nhất Trung Nguyên thật. Nhưng y lập tức lại nghĩ đến chân tướng mình: “Ta thật là xấu xí, thô bỉ, vụng về, mà bảo là một chàng phong lưu lãng tử thì thật buồn cười đến chết người.” Y lại tự hỏi: “Đồng Mỗ đang có đại địch trước mắt, sao lại đem mình ra nói giỡn chơi? Chắc hẳn bà có thâm ý gì đây. À phải rồi, ngày trước Vô Nhai Tử tiền bối tìm người để truyền ngôi chưởng môn phái Tiêu Dao, đã mấy lần chê ta tướng mạo xấu xí. Sau Tô Tinh Hà tiền bối lại nói: muốn khắc chế được Đinh Xuân Thu phải tìm cho được một thiếu niên phong tư anh tuấn, ngộ tính cao. Khi đó ta không hiểu tại sao, bây giờ xem ra thì việc chọn người này tất có liên quan đến Lý Thu Thủy. Vô Nhai Tử tiền bối bảo ta đi tìm một người để xin chỉ điểm võ công, là tìm bà ta hay sao? Tô Tinh Hà tiền bối cũng từng nói là người này rất thích những thiếu niên anh tuấn.”

Y còn đang ngẫm nghĩ thì đột nhiên thấy hào quang lấp lánh, trên tầng hầm thứ nhất lóe lên một tia sáng như sao sa, tiếp theo là những tiếng vù vù ghê rợn. Hư Trúc bước lên bậc đá thì nhìn thấy một chấm trắng và một chấm đen bay lượn rất nhanh, lúc nhập lại lúc tách ra, lại nghe những tiếng lách tách như pháo liên châu. Hiển nhiên Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đang chiến đấu kịch liệt. Trên những khối băng có một bó đuốc nhỏ, chiếu sáng yếu ớt. Hư Trúc chỉ thấy hai bóng người quay cuồng quanh nhau, nhanh không thể tưởng tượng được, không phân biệt nổi đâu là Đồng Mỗ, đâu là Lý Thu Thủy.

Bó đuốc nhỏ xíu, trong chốc lát đã cháy hết, nghe một tiếng “xèo” rồi trong hầm nước đá lại tối đen như mực, chỉ còn nghe tiếng chưởng phong veo véo rít lên không ngớt. Hư Trúc xao xuyến nghĩ thầm: “Đồng Mỗ đã cụt một chân, đánh lâu tất là bất lợi, ta nên tìm cách giúp bà một tay. Nhưng Đồng Mỗ là người tàn nhẫn, nếu chiếm được thượng phong thì Lý Thu Thủy tất không toàn tính mạng, ta cũng không muốn thế. Mà hai người này võ công tuyệt cao, ta nhúng tay vào thế nào được?”

Hư Trúc bỗng nghe một tiếng “chát” rồi Đồng Mỗ kêu to lên một tiếng “úi chao!”, rõ ràng đã bị thương rồi. Lý Thu Thủy cười ha hả: “Sư tỉ! Chiêu đó của tiểu muội hay dở thế nào, xin sư tỉ chỉ điểm cho.” Đột nhiên mụ quát lên: “Đừng hòng chạy thoát!”

Hư Trúc thấy một luồng gió lạnh lướt qua mình, Đồng Mỗ vừa chạy vừa khẽ bảo: “Chiêu thứ hai, phóng chưởng.” Hư Trúc không hiểu, vừa toan hỏi lại thì thấy một luồng chưởng lực âm hàn tạt tới mặt. Y không kịp nghĩ gì nữa, liền thi triển thủ pháp thứ hai để phá giải Sinh Tử Phù mà Đồng Mỗ đã truyền cho. Trong bóng tối, chưởng lực chạm nhau, Hư Trúc run người lên, khí huyết nhộn nhạo rất là khó chịu, liền dùng thủ pháp thứ bảy để giải khai.

Lý Thu Thủy “Hừ” một tiếng rồi quát hỏi: “Ngươi là ai? Sao lại biết Thiên Sơn Lục Dương Chưởng? Ai dạy cho ngươi?” Hư Trúc ngạc nhiên hỏi lại: “Thiên Sơn Lục Dương Chưởng là cái gì?” Lý Thu Thủy đáp: “Ngươi không chịu nhận ư? Chiêu thứ hai Dương Xuân Bạch Tuyết và chiêu thứ bảy Dương Quan Tam Điệp là những tuyệt chiêu bí truyền của bản môn, sao ngươi lại học được?” Hư Trúc lại càng ngơ ngác, hỏi lại: “Dương Xuân Bạch Tuyết với Dương Quan Tam Điệp là cái gì?” Y chẳng hiểu gì, mơ hồ nhận ra mình đã mắc mẹo Đồng Mỗ gì đó.

Đồng Mỗ đứng sau lưng Hư Trúc, cười khẩy nói: “Vị Mộng Lang này đã nổi tiếng là tay phong lưu lãng tử nhất trong võ lâm Trung Nguyên, dĩ nhiên các môn cầm kỳ thi họa, y bốc tinh tướng, môn gì y cũng hiểu đến chỗ tinh vi. Vì thế y mới lọt vào mắt xanh của Vô Nhai Tử sư đệ, được thu làm đệ tử truyền nhân, giao cho trọng trách tiêu diệt tên phản đồ Đinh Xuân Thu để thanh lý môn hộ.”

Lý Thu Thủy dịu dàng hỏi lại: “Mộng Lang! Có đúng thế không?” Hư Trúc nghe hai người cùng kêu mình bằng Mộng Lang, thẹn mặt đỏ ra đến mang tai. Câu Đồng Mỗ vừa nói thì đoạn trên là giả, đoạn dưới lại là thực, nên Hư Trúc không thể nói “đúng”, mà cũng không thể nói “sai” được. Nhưng mấy chiêu vừa rồi, rõ ràng là thủ pháp Đồng Mỗ truyền thụ cho y để giải trừ Sinh Tử Phù, thế mà Lý Thu Thủy lại bảo là Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Hư Trúc nhớ lại Đồng Mỗ từng yêu cầu mình học Thiên Sơn Lục Dương Chưởng để đối phó với Lý Thu Thủy mà không được, liền tự hỏi: “Chẳng lẽ mấy thủ pháp này chính là Thiên Sơn Lục Dương Chưởng ư?”.

Lý Thu Thủy nghiêm giọng hỏi: “Sao sư thúc hỏi mà ngươi lại làm thinh?” Rồi mụ đột nhiên đưa tay ra chụp xuống vai y. Nhưng Hư Trúc đã được Đồng Mỗ dạy cho cách hóa giải, dù ở trong bóng tối cũng có thể nghe tiếng gió để phân biệt phương hướng mà đối phó. Y cảm thấy Lý Thu Thủy giơ tay lên toan chụp xuống với mình, liền hạ thấp vai, xoay người chéo đi để tránh, rồi xoay tay lại bắt cổ tay đối phương. Lý Thu Thủy vội rụt tay về cất tiếng khen: “Giỏi lắm! Chiêu Dương Ca Điếu Thiên này nội lực thâm hậu, sử kình thuần thục. Có phải Vô Nhai Tử sư huynh đã đem hết công phu truyền cho ngươi rồi không?” Hư Trúc ngập ngừng đáp: “Quả Vô Nhai Tử… tiền bối đã… đem truyền hết công lực cho tại hạ.”

Chính ra thì Vô Nhai Tử đem hết công lực của lão truyền cho Hư Trúc chứ không phải công phu. Công lực với công phu chỉ khác nhau một chữ mà nghĩa lại sai biệt rất nhiều, nhưng Lý Thu Thủy đang xúc động nên không phát hiện ra chỗ sai biệt đó. Mụ lại hỏi: “Sư huynh ta đã thu ngươi làm đệ tử, sao ngươi không kêu ta bằng sư thúc?” Hư Trúc liền gọi: “Sư bá! Sư thúc! Hai vị đã là người một nhà, sao lại không cởi mối oan cừu, cứ tranh đấu mãi? Mọi việc đã qua hãy bỏ hết đi là hơn.”

Lý Thu Thủy nói: “Mộng Lang! Ngươi còn nhỏ tuổi, không hiểu được dụng tâm của mụ già này hiểm ác vô cùng! Ngươi tránh ra một bên…” Mụ chưa dứt lời, đột nhiên la lên một tiếng “Úi chao!”, thì ra Đồng Mỗ nấp sau lưng Hư Trúc đột nhiên ám toán. Bà vận kình lực âm nhu, phát chưởng không một tiếng động. Hai người đứng gần nhau quá, Lý Thu Thủy phát giác ra, chưa kịp phản kích thì chưởng lực Đồng Mỗ đã đập trúng ngực. Mụ vội lùi lại phía sau nhưng cũng đã chậm rồi, ngực đau đến nghẹn thở, tựa như kinh mạch đã bị tổn thương. Đồng Mỗ cười cười hỏi lại: “Sư muội! Chiêu đó của tỉ tỉ hay dở thế nào, xin sư muội chỉ điểm cho!” Lý Thu Thủy lo vận khí ngăn ngừa thương thế, không dám mở miệng trả lời.

Đồng Mỗ đánh lén thành công, dĩ nhiên không để đối phương hồi phục. Cái chân còn lại của mụ nhảy tung lên, phóng chưởng đánh tới veo véo. Hư Trúc la lên: “Tiền bối! Đừng hạ độc thủ!” Rồi y dùng thủ pháp của Đồng Mỗ đã truyền thụ, hóa giải ba phát chưởng của mụ đánh tới Lý Thu Thủy. Đồng Mỗ cả giận quát mắng: “Quân tiểu tặc! Mi dùng công phu đó để đánh ta ư?” Thì ra trước kia Hư Trúc nhất quyết không chịu luyện môn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, nhưng Đồng Mỗ biết mai sau còn nhiều đại nạn, cần có trợ thủ đắc lực. Mụ bèn gieo Sinh Tử Phù vào người Hư Trúc rồi dạy y phép hóa giải, kỳ thực đó chính là Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Mụ lại cùng Hư Trúc chiết giải nhiều lần để đem những chỗ biến hóa tinh diệu truyền thụ cho kỳ hết. Lúc này Đồng Mỗ chiếm được thượng phong, làm sao mụ ngờ nổi Hư Trúc áp dụng võ công của mình để chống đỡ cho Lý Thu Thủy? Hư Trúc nói: “Tiền bối! Vãn bối khuyên tiền bối niệm tình đồng môn mà hạ thủ nhẹ tay một chút.” Đồng Mỗ lại thét lên: “Cút đi! Cút đi!”

Lý Thu Thủy được Hư Trúc xuất thủ đỡ giúp ba chiêu của Đồng Mỗ, rảnh tay điều hòa hơi thở được một lát. Mụ nói: “Mộng Lang! Ta không sao đâu, ngươi tránh ra đi!”. Tả chưởng mụ đánh ra, hữu chưởng phòng hờ để dẫn kình lực bên tay trái vòng qua người Hư Trúc, nhằm đánh Đồng Mỗ. Đồng Mỗ ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm: “Con tiện nhân này đã luyện được Bạch Hồng Chưởng Lực, đánh thẳng hay đánh cong tùy ý, thật là ghê gớm!” Rồi bà liền vung chưởng ra nghinh địch.

Hư Trúc biết rằng bản lĩnh mình còn kém, không đủ sức để can ngăn hai bà, liền thở dài một tiếng rồi lùi ra xa.

Hai người chiến đấu hồi lâu, những luồng kinh phong sắc bén tạt vào mặt Hư Trúc rát như dao cắt. Y thấy đứng đó không yên, toan lùi về tầng hầm thứ ba. Bỗng nghe đánh “sầm” một tiếng, rồi Đồng Mỗ rú lên, đã bị Lý Thu Thủy phóng chưởng đánh văng vào một khối nước đá cứng rắn. Hư Trúc la lên: “Dừng tay! Dừng tay!”, rồi lập tức phóng ra hai chiêu “Lục Dương Chưởng” để hóa giải mấy chiêu đánh bồi của Lý Thu Thủy, Đồng Mỗ nhân cơ hội nhảy xuống tầng hầm thứ ba, đột nhiên rú lên một tiếng thê thảm, rồi lăn long lóc xuống bậc đá.

Hư Trúc hỏi dồn: “Tiền bối! Tiền bối! Làm sao thế?” Y vội chạy tới nơi, đưa tay toan nâng bà ta dậy, thì cảm thấy thân thể bà đã lạnh như băng, lại sờ lên mũi thì không thấy hơi thở nữa. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa đau thương, la to: “Sư thúc! Sư thúc đánh chết sư bá rồi! Sư thúc tàn ác quá!” Rồi y không nhịn được, khóc òa lên.

Lý Thu Thủy nói: “Không chừng có chuyện gian trá. Một chưởng đó làm sao đánh chết hắn được?” Hư Trúc vừa khóc vừa nói: “Còn nói là chưa chết ư? Sư bá đã tắt thở rồi, tiền bối lại còn… Sư bá ơi! Tiểu điệt đã khuyên sư bá đừng mãi thù hận…” Lý Thu Thủy lấy trong bọc ra một cây nến nhỏ, thắp lên soi thì thấy dưới thềm đầy máu tươi. Đồng Mỗ nằm sóng sượt trên bậc đá, trước ngực vấy máu.

Mỗi khi luyện môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, Đồng Mỗ đều phải uống máu tươi. Mụ chỉ cần thổ huyết ra một chút cũng đủ chết. Lúc này trên thềm nhà và bực đá lại đầy những máu, ít ra cũng đến mấy bát lớn, Lý Thu Thủy biết rằng mối thù mấy chục năm nay đã trả xong, thế mà không thấy vui mừng, lại không khỏi bâng khuâng tịch mịch.

Hồi lâu, Lý Thu Thủy cầm cây nến trong tay, vừa đi xuống bậc đá vừa buồn bã hỏi: “Sư tỉ! Sư tỉ chết thật rồi ư? Tiểu muội chưa yên tâm đâu!” Mụ đi tới còn cách Đồng Mỗ năm thước, ánh nến thấp thoáng chiếu tới bộ mặt nhăn nheo của Đồng Mỗ, soi rõ những vết nhăn ở khóe miệng đều đọng máu tươi, trông rất ghê sợ. Lý Thu Thủy dịu dàng nói: “Sư tỉ! Một đời tiểu muội bị khổ về tay sư tỉ đã nhiều. Sư tỉ đừng giả vờ chết để lừa gạt tiểu muội.” Mụ nói xong, nhẹ nhàng vung tay trái lên nhằm đánh vào trước ngực Đồng Mỗ. Nghe mấy tiếng “rắc rắc”, dường như Đồng Mỗ gãy thêm mấy cái xương sườn.

Hư Trúc cả giận quát hỏi: “Sư bá đã chết về tay sư thúc rồi, sao còn nhẫn tâm tàn hại di thể của người?” Y thấy Lý Thu Thủy lại toan đánh tiếp, liền vung chưởng ra ngăn lại. Lý Thu Thủy liếc mắt nhìn Hư Trúc thì thấy con người được Đồng Mỗ gọi là “Trung Nguyên võ lâm đệ nhất phong lưu lãng tử” mắt to, mũi hếch, tai lớn, mồm rộng, mày rậm, nói chung tướng mạo thật là quê mùa xấu xí, biết ngay mình đã mắc lừa Đồng Mỗ. Mụ liền đưa tay phải ra nắm lấy vai Hư Trúc. Y nghiêng mình né tránh, nói: “Tiểu điệt không đánh nhau với sư thúc đâu, chỉ khuyên sư thúc đừng động đến di thể sư bá nữa.”

Lý Thu Thủy xuất bốn chiêu liền, không ngờ Hư Trúc dùng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng đỡ gạt hết, bên trong lại ngấm ngầm có uy lực phản công. Lý Thu Thủy trỏ phía sau lưng Hư Trúc hỏi: “Hừ! Ai đứng sau lưng ngươi đó?” Hư Trúc không có kinh nghiệm chiến đấu, giật mình quay đầu lại thì tức thì trước ngực đau nhói lên, đã bị Lý Thu Thủy điểm trúng huyệt đạo, rồi lại bị điểm tiếp những huyệt đạo ở vai và chân, lập tức người nhũn ra, ngã lăn xuống phía dưới chân Đồng Mỗ. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức giận la lên: “Sư thúc là bậc tiền bối, sao lại gạt người?”

Lý Thu Thủy cười khanh khách nói: “Binh bất yếm trá. Hôm nay ta dạy cho ngươi một bài học.” Mụ chỉ mặt Hư Trúc, vừa cười vừa hỏi lại: “Một tên tiểu hòa thượng xấu xí như ngươi mà cũng tự xưng là Trung Nguyên võ lâm đệ nhất phong lưu lãng tử gì gì đấy thôi.”

Đột nhiên nghe một tiếng “ầm”, Lý Thu Thủy chưa kịp la lên đã thấy huyệt Chí Dương sau lưng trúng một chưởng trầm trọng, chính là Đồng Mỗ tập kích. Rồi huyệt Đản Trung trước ngực mụ cũng trúng một quyền. Một chưởng, một quyền phóng ra quá bất ngờ, đừng nói Lý Thu Thủy không kịp chống đỡ hay né tránh, ngay cả vận khí để chịu đựng cũng không kịp. Người mụ bị phát quyền đánh văng lên nằm trên bậc đá, cây đuốc trong tay cũng văng đi.

Đồng Mỗ chuẩn bị đã lâu, dồn sức đánh một đòn, nên uy thế mãnh liệt dị thường. Cây đuốc từ tầng hầm thứ ba, bay qua tầng hầm thứ hai, lên đến tầng hầm thứ nhất mới rớt xuống. Trong tầng hầm thứ ba tối đen như mực, chỉ còn nghe thấy tiếng cười khanh khách của Đồng Mỗ, Hư Trúc vừa sợ vừa mừng, vội hỏi: “Tiền bối! Tiền bối chưa chết ư? Thế thì hay lắm!”.

Thì ra Đồng Mỗ luyện thần công chưa xong, mà khi trên đỉnh núi tuyết đã bị Lý Thu Thủy chém đứt một chân, công lực tổn thất rất nhiều. Trận quyết đấu sinh tử hôm nay đã kéo dài đến hơn hai trăm chiêu, Đồng Mỗ tự biết mình phải bại chứ không thắng được, đến lúc bà trúng một chưởng của Lý Thu Thủy thì thế kém lại càng rõ rệt. Hư Trúc lại không chịu giúp đỡ, tuy y cũng cản trở Lý Thu Thủy không cho thừa thắng truy kích, nhưng không chịu thi hành ngụy kế của bà. Đồng Mỗ biết chỉ một lúc nữa là thảm bại, liền nghiến răng chịu đau cho Lý Thu Thủy đánh một chưởng, cứ nằm giả chết. Lúc nãy máu tươi trên bậc đá cùng trước ngực bà chính là máu hươu mà bà đã chuẩn bị từ trước để dụ địch. Không ngờ Lý Thu Thủy cũng cực kỳ lợi hại, thấy Đồng Mỗ tắt hơi rồi mà vẫn phóng thêm một chưởng vào trước ngực. Mụ đã cố một thì phải cố hai, nằm yên chịu gãy thêm mấy cái xương sườn. Nếu không có Hư Trúc ngăn trở thì không chừng Lý Thu Thủy đánh bà đến nát bét ra, dĩ nhiên không còn cách nào thực hiện âm mưu. May mà một là Hư Trúc vì lòng nhân hậu đã ra tay cản trở, hai là Lý Thu Thủy trông thấy chân tướng vị“Trung Nguyên võ lâm đệ nhất phong lưu lãng tử” đang mải cười mà mất cảnh giác, ba là tuy Lý Thu Thủy biết Đồng Mỗ giảo quyệt nham hiểm, nhưng không ngờ nổi mụ nhẫn nại được đến thế.

Lý Thu Thủy bị trọng thương cả trước ngực lẫn sau lưng, nội lực tiềm tàng mấy chục năm trời đột nhiên cuồn cuộn tuôn ra như nước vỡ bờ, không kìm hãm lại được. Nội lực của phái Tiêu Dao đứng vào bậc nhất trong thiên hạ, nhưng nếu không kiềm chế được thì nó chạy nhộn nhạo trong người rồi phát tiết ra ngoài, nỗi đau khổ không thể tưởng tượng được, chỉ có người trong cảnh ngộ mới biết. Chỉ trong khoảnh khắc, Lý Thu Thủy thấy huyệt đạo toàn thân tựa như có trăm ngàn con ong độc châm đốt. Mụ hiểu rằng mình không thể chịu nổi, bèn la gọi: “Mộng Lang! Ngươi có lòng tốt thì mau mau chóng chưởng đánh vào huyệt Bách Hội trên đầu ta.”

Lý Thu Thủy giật tấm khăn che mặt xuống, lấy móng tay cào mặt cho chảy máu đầm đìa, quả là đau đớn không chịu được nữa, lại kêu gào: “Mộng Lang!… Mau vung quyền đánh chết ta đi.” Đồng Mỗ cười nhạt nói: “Mi điểm huyệt y rồi, còn kêu y giúp đỡ làm sao được? Ha ha! Đúng là mình làm mình chịu.” Lý Thu Thủy cố gượng đứng lên để giải huyệt cho Hư Trúc, nhưng toàn thân bà tê nhức, nhúc nhích một ngón tay cũng không được, còn nói gì đến chuyện đứng lên.

Hư Trúc đưa mắt nhìn Lý Thu Thủy rồi lại nhìn Đồng Mỗ, thấy mụ cũng bị thương cực kỳ trầm trọng, nằm lăn trên bậc đá, bắt đầu không nhịn nổi phải kêu rên. Lúc này cảnh vật trong hầm nước đá mỗi lúc một rõ hơn, tựa hồ được chiếu sáng dần dần, Hư Trúc lấy làm lạ, quay đầu nhìn về phía phát ra ánh sáng, bỗng thấy trên tầng thứ nhất có ánh lửa. Y cả mừng reo lên: “May quá! Có người vào đây.”

Nhưng Đồng Mỗ thì kinh hãi nghĩ thầm: “Có người vào thì chắc chắn là thủ hạ của con tiện nhân kia.” Bà gượng hít một hơi chân khí, muốn đứng dậy nhưng không được, vừa nhổm người lên thì chân đã nhũn ra, té nhào xuống đất. Bà đưa hai tay ra, cố sức từ từ kéo Lý Thu Thủy lại, định bụng nhân lúc cứu binh của kẻ thù chưa đến, phải ra tay hạ sát trước.

Bỗng mụ nghe những tiếng tí tách rất nhỏ, dường như nước từ trên bậc đá đang chảy xuống. Lý Thu Thủy cùng Hư Trúc cũng nghe tiếng nước chảy, liền quay lại nhìn thì quả nhiên thấy trên bậc đá có nước chảy xuống. Cả ba người cùng ngạc nhiên tự hỏi: “Nước đâu mà chảy xuống đây?”

Trong hầm mỗi lúc một sáng hơn, nước không nhỏ giọt nữa mà đã chảy thành dòng, tràn qua bậc đá. Hư Trúc nhìn lên tầng hầm thứ nhất thì không thấy ai, chỉ thấy lửa cháy mỗi lúc một lớn. Lý Thu Thủy “hừ” một tiếng rồi nói: “Cháy rồi! Cháy những túi bông rồi!…” Thì ra ngoài cửa hầm nước đá có xếp đầy những bao chứa bông để cách nhiệt, giữ cho nước đá lâu tan. Lúc nãy Lý Thu Thủy bị Đồng Mỗ đánh một quyền, cây đuốc trong tay văng lên tầng thứ nhất rớt vào đống bao tải chứa bông. Lập tức bông cháy lên, sức nóng làm cho nước đá tan ra chảy xuống.

Thế lửa mỗi lúc một to, băng tan mỗi lúc một nhanh, nước chảy xuống đã nghe ào ào. Chẳng bao lâu tầng hầm thứ ba đã ngập hơn một tấc và nước từ bậc đá vẫn tiếp tục chảy xuống. Mực nước mỗi lúc một cao, dần dần ngập đến thắt lưng ba người.

Lý Thu Thủy thở dài nói: “Sư tỉ! Hôm nay tỉ muội ta cùng chết tại đây. Sư tỉ hãy giải huyệt cho Mộng Lang để gã thoát ra đi.” Mọi người đều hiểu rõ, chẳng bao lâu nữa nước sẽ ngập lên tới đầu, cả ba đều chết đuối.

Đồng Mỗ cười nhạt nói: “Tự mi gây chuyện, bây giờ còn nói nhiều nữa ư? Ta đang muốn giải huyệt cho gã, nhưng mi lại làm bộ nhân đức nói vậy, ta không giải khai nữa. Tiểu hòa thượng! Thế là ngươi chết về câu nói của con tiện nhân, ngươi có biết không?” Đồng Mỗ xoay mình quay lại phía bậc đá, cố trườn lên để tạm thời khỏi bị ngập. Tuy chính bà cũng khó tránh được cái chết, nhưng được thấy Lý Thu Thủy chết trước mình thì cũng coi như đã trả được mối thù mấy mươi năm.

Lý Thu Thủy mắt thấy Đồng Mỗ nhoai dần lên, còn mình đã bị nước đá lạnh thấu xương tràn lên lấp xấp tới ngực. Chân khí trong người lại đang nhộn nhạo đau đớn vô cùng, lúc này mụ chỉ mong cho nước mau ngập đến miệng đến mũi để chết quách đi, đỡ phải chịu những cơn đau nhức như ong đốt kim châm khắp thân thể.

Bỗng nghe Đồng Mỗ la lên một tiếng, lại lăn tõm xuống nước. Thì ra mụ đang bị trọng thương, tay chân mất hết sức lực, lúc bò lên tới bậc thứ bảy thì một cục băng to bằng nắm tay trôi xuống chạm vào đầu gối. Mụ không tự chủ được, lại trượt xuống đúng vào người Hư Trúc, rồi lăn sang bên trái y, còn bên hữu y là Lý Thu Thủy. Thế là ba người nằm cạnh nhau trong vũng nước.

Đồng Mỗ thân thể nhỏ bé hơn Hư Trúc và Lý Thu Thủy nhiều, dĩ nhiên sẽ bị ngập nước đầu tiên. Lúc này bà đau khổ vô cùng, nhưng cũng có nghĩ: “Bất luận thế nào, con tiện nhân kia cũng phải chết trước ta.” Bà muốn ra tay hại Lý Thu Thủy nhưng lại bị Hư Trúc nằm chắn giữa. Tuy trong người bà nội lực tràn trề, nhưng lúc này muốn nhúc nhích cánh tay cũng không được. Bà thấy vai Hư Trúc kề vai Lý Thu Thủy, chợt nghĩ ra một cách, liền nói: “Tiểu hòa thượng! Ngươi nhất định đừng vận công chống cự, nếu không thì coi như tự sát.” Không đợi Hư Trúc trả lời, bà vận nội lực truyền sang vai y. Hành động này của Đồng Mỗ mới thực là tự sát, lúc này mụ không vận khí được, nội lực không được bổ sung mà phải tiêu hao, tất càng chóng chết. Nhưng bà vẫn liều đánh một đòn tối hậu không cần biết hậu quả, vì nếu cứ để cho nước dâng lên thì đương nhiên sẽ chết trước kẻ thù.

Lý Thu Thủy lập tức rung chuyển, phát giác ra Đồng Mỗ dùng nội lực đánh sang, liền cố gắng vận công chống lại.

Hư Trúc nằm giữa hai người, vừa thấy một luồng nhiệt khí truyền vào vai trái, lập tức lại thấy vai phải cũng có một luồng nhiệt khí dương thúc sang, chỉ trong chớp mắt là hai luồng kình khí xung đột trong người y một cách mãnh liệt. Công lực Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy vốn ngang nhau, sau khi hai người cùng bị trọng thương vẫn kẻ tám lạng người nửa cân như cũ. Vì thế mà nội lực hai người đều dừng lại chống đối nhau trong người Hư Trúc, không ai đẩy được sang tới thân thể đối phương. Hóa ra Hư Trúc lại bị tả hữu giáp công cực kỳ đau khổ, may mà Hư Trúc đã được bảy mươi năm công lực của Vô Nhai Tử truyền cho, lại chưa bị thương. Vì thế mà nếu cục diện ba người đồng môn cầm cự kéo dài, thì Hư Trúc cũng không đến nỗi mất mạng vì hai tay đại cao thủ giáp công.

Đồng Mỗ thấy mực nước lên cao dần, tới cổ, tới cằm, rồi lên đến miệng, bèn cố thôi thúc nội lực để đánh một đòn tối hậu mong hạ sát tình địch. Nhưng nội lực Lý Thu Thủy cũng còn đầy rẫy, không phải một giờ hay mấy khắc mà hao tán hết được. Tiếng nước chảy róc rách vẫn không ngừng, rồi Đồng Mỗ thấy trong miệng lạnh buốt, nước đã tràn vào. Bà kinh hãi, bất giác cố nhổm lên, nhưng không ngồi vững được, ngã ra nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Thì ra bà mất một chân nên người nhẹ đi, dễ nổi hơn người thường, thật là tìm thấy cái sống trong chỗ chết. Đồng Mỗ thả mình nằm ngửa trên mặt nước chỉ lộ mũi miệng ra để thở, trong lòng bình tĩnh nghĩ thầm: “Nước lên cao thì người mình cũng nổi cao lên. Không ngờ ở dưới nước thì mình bị mất một chân lại là lợi điểm.” Nội lực từ tay bà vẫn phóng ra không ngớt.

Hư Trúc vừa rên la vừa gọi: “Ôi chao! Sư bá! Sư thúc! Hai vị có tỉ đấu bao lâu thì cũng chẳng ai hơn ai kém, chỉ có tiểu điệt ở giữa chịu chết mà thôi.” Nhưng Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đang tỉ thí nội lực cực kỳ nguy hiểm, ai ngưng lại trước là phải táng mạng. Trường hợp này hai bên nội lực xấp xỉ nhau thì bất luận kẻ thắng người bại đều mất mạng cả, chỉ còn phân biệt được ai tắt hơi trước mà thôi. Hai bà này đều cao ngạo ghê gớm, chẳng ai chịu thua ai, hôm nay có cơ hội giải quyết xong mối cừu hận mấy chục năm trời, làm sao mà dàn xếp được nữa? Hơn nữa nội lực cả hai đang nhộn nhạo trong người không kiềm chế được, bây giờ có chỗ phát tiết ra ngoài, tuy có hại nhưng đỡ đau khổ được ít nhiều.

Thời gian chừng ăn xong bữa cơm, nước lạnh đã ngập đến miệng Lý Thu Thủy. Mụ không biết bơi nên không dám bắt chước Đồng Mỗ thả người nổi lên mặt nước, liền phong tỏa đường hô hấp theo phép Quy Tức Công để chiến đấu với địch nhân. Nước dần dần ngập đến mắt, đến mày, rồi ngập cả đầu bà, nhưng nội lực hùng hậu vẫn phát ra không ngớt.

Nước lạnh tràn vào miệng Hư Trúc ừng ực luôn ba ngụm, y la lên: “Ôi chao! Tiểu điệt… sặc nước…” Đang lúc kinh hoàng, đột nhiên hai mắt y tối sầm lại không nhìn thấy gì nữa. Hư Trúc vội ngậm chặt miệng lại, thở bằng mũi, nhưng lúc hít không khí vào, trong ngực cũng thấy khó chịu. Thì ra nhà hầm nước đá này bốn mặt kín mít, không có chỗ thông hơi. Những bao bông gòn đã cháy hàng mấy giờ, bao nhiêu dưỡng khí trong nhà đều biến thành thán khí hết, lúc này lửa không còn dưỡng khí nên tự tắt đi. Hư Trúc cùng Đồng Mỗ cảm thấy khó thở, còn Lý Thu Thủy đang vận Quy Tức Công, bế khí không hít thở nên không hay biết gì.

Lửa tắt rồi, dưới hầm lại tối đen, nhưng nước vẫn còn chảy xuống không ngớt. Hư Trúc cảm thấy nước băng đã tràn khỏi miệng, dần dần đến lỗ mũi, nghĩ thầm: “Ta sắp chết rồi! Ta sắp chết rồi!” Lúc này Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy vẫn tiếp tục thúc đẩy nội lực công kích nhau.

Chân khí trong người Hư Trúc nhộn nhạo đến mức lục phủ ngũ tạng y tựa như đổi chỗ lộn tùng phèo cả lên. Đồng thời mực nước chỉ còn cách lỗ mũi một chút, nước dâng thêm một phần nữa thì không còn cách gì thở được. Hư Trúc bị phong tỏa mấy chỗ huyệt đạo, muốn ngước lên một chút cũng không được. Nhưng lạ thay, một lúc lâu sau, nước băng không dâng thêm chút nào nữa, chỉ giữ nguyên mực đó. Thì ra từ lúc những bao bông tắt rồi, nước đá không tan ra nữa. Lại một lúc sau, Hư Trúc bắt đầu thấy đau đớn trong người, cơn đau phát xuất từ dưới lưng, dần dần đến nách, rồi lên đến ngực. Tầng hầm thứ ba chất đầy nước đá, cực kỳ giá lạnh, nước từ trên chảy xuống đã dần dần đóng lại thành băng. Sau cùng, cả ba người đều bị đông cứng lại trong nước đá.

Khi băng đã đóng chắc rồi, nội lực của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy bị cách riêng ra, không truyền qua người Hư Trúc được nữa. Nhưng hết chín phần mười nội lực của hai bà đã truyền vào trong người Hư Trúc, xung đột nhau ở đó mỗi lúc một ghê gớm hơn. Hư Trúc tưởng chừng như mình sắp nổ tung, tuy đông giữa khối băng, mà khí nóng thiêu đốt trong người bứt rứt rất khó chịu.

Không biết tình trạng này kéo dài đã bao lâu, đột nhiên toàn thân y giật bắn lên một cái. Hai luồng nhiệt khí hòa với chân khí bản thân, chạy tứ tung khắp các huyệt đạo trong người như bầy ngựa phi không dừng vó. Thì ra chân khí của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy trút vào cùng với chân lực của Vô Nhai Tử truyền cho từ trước cũng là nội lực cùng một môn phái, bây giờ đã điều hòa được với nhau. Nội lực của ba người hợp vào làm một, vô cùng mạnh mẽ không có gì chế ngự được, chạy đến đâu là huyệt đạo được đả thông tới đó.

Hư Trúc cảm thấy thân thể tự do, mới khẽ rung hai tay một cái thì khối băng bọc quanh người y đã vỡ tan. Y nghĩ thầm: “Không hiểu sư bá và sư thúc ra sao rồi? Ta hãy đưa cả hai người ra ngoài trước đã.” Hư Trúc đưa tay ra sờ thì chỉ thấy vừa lạnh vừa cứng, thì ra hai người đã biến thành hai khối băng rắn chắc. Hư Trúc kinh hãi vô cùng, không suy nghĩ gì nữa, liền ôm mỗi tay một khối, đi lên tầng hầm thứ nhất. Y mở xong hai lớp cửa gỗ thì thấy không khí trong lành tràn vào mũi, bèn hít một hơi dài, cảm thấy sung sướng không sao tả xiết. Ngoài cửa, trăng sáng vằng vặc trên trời, bóng hoa lay động dưới đất, thì ra đêm đã khuya rồi.

Hư Trúc cả mừng nghĩ thầm: “Ban đêm thì mình trốn ra khỏi hoàng cung lại càng dễ hơn.” Y liền ôm hai khối băng chạy thẳng tới chân tường, vừa đề khí nhảy một cái thì đột nhiên thấy người lơ lửng bốc lên cao khỏi mặt tường chừng một trượng, dường như còn lên cao nữa. Hư Trúc cũng không hiểu sao cú nhảy của mình lại tuyệt diệu đến thế, sợ lên cao quá, bất giác buột miệng la lên.

Bốn tên ngự tiền thị vệ đang đi tuần trong cung, chợt nghe tiếng người la liền chạy lại xem, thì thấy một vật xam xám có hai cái cánh sáng choang như hai khối thủy tinh lớn đang từ từ bay vượt qua tường. Chúng không hiểu là quái vật gì, sợ đến miệng há hốc ra không ngậm lại được nữa, mắt thấy quái vật đã bay vào rừng cây ngoài cung. Chúng la ó kêu người rượt theo, nhưng chẳng thấy tông tích đâu nữa. Bốn gã cãi nhau không ngớt, gã nghĩ là thần, gã cho là quỷ, gã tưởng là thần núi, gã bảo là ma cây.

Hư Trúc bay ra khỏi hoàng cung, hạ xuống chạy bộ. Dưới chân y là đường lát đá xanh, hai bên đường nhà cửa san sát. Y không dám dừng bước, cứ cắm đầu chạy về phía tây. Được một lúc lại đến chân tường thành, y liền đề khí nhảy lên mặt thành. Bọn lính canh võ nghệ tầm thường, chỉ thấy mắt hoa lên một cái rồi mất hút, không hiểu là vật gì.

Hư Trúc chạy hơn mười dặm nữa thì đến một nơi hoang dã, bốn phía đều không có nhà cửa. Lúc đó y mới dám dừng chân lại đặt hai khối băng xuống, nghĩ thầm: “Bây giờ phải lấy hai người ra khỏi khối băng.” Y tìm đến một khe suối, ngâm hai khối băng xuống nước. Ánh trăng soi rõ miệng mũi Đồng Mỗ đã hở ra ngoài, song hai mắt nhắm nghiền, không hiểu còn sống hay đã chết. Băng vỡ dần ra rồi trôi đi, Hư Trúc gỡ hết những miếng băng cứng còn sót quanh người Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy rồi ôm hai người lên. Y sờ trán hai bà đều thấy còn hơi nóng, liền đem để ra xa nhau, chỉ sợ hai bà vừa tỉnh dậy là tiếp tục động thủ.

Y vất vả hết nửa đêm, trời đã mờ mờ sáng, bèn dựa lưng vào một gốc cây ngồi nghỉ. Chim đang hót véo von, bỗng nghe dưới gốc cây phía bắc, Đồng Mỗ “Hừ” một tiếng, gốc cây phía nam Lý Thu Thủy cũng “A” một tiếng, cả hai hồi tỉnh cùng lúc.

Hư Trúc cả mừng nhảy đến đứng giữa hai bà, chắp tay thi lễ nói: “Sư bá! Sư thúc! Ba người chúng ta may mà thoát chết, xin hai vị ngưng đánh nhau đi thôi.” Đồng Mỗ nói: “Không được! Con tiện nhân kia chưa chết, ta chưa chịu dừng tay.” Lý Thu Thủy cũng nói: “Thù sâu tựa bể, chưa chết chưa thôi.” Hư Trúc xua tay loạn lên nói: “Ngàn lần không được, vạn lần không được!”

Lý Thu Thủy chống tay xuống đất toan nhảy xổ lại, Đồng Mỗ cũng vung tay lên chuẩn bị phòng chưởng nghênh địch. Ngờ đâu Lý Thu Thủy vừa đứng thẳng dậy, bỗng la lên một tiếng rồi lại nhũn ra té nhào xuống đất. Bên kia Đồng Mỗ vung tay lên, nhưng muốn khoanh tròn một cái cũng không được, lại tựa vào gốc cây thở hồng hộc.

Hư Trúc thấy hai bà không còn sức để đánh nhau thì cả mừng nói: “Hay lắm! Hai vị ngồi nghỉ một lúc, vẫn bối đi kiếm thứ gì ăn được. Bỗng thấy Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đều ngồi xếp bằng, lòng bàn chân lòng bàn tay hướng cả lên trời y hệt như nhau. Hư Trúc biết hai vị sư tỉ sư muội đồng môn đang đem toàn lực vận công, người nào ngưng tụ được chút ít khí lực để xuất chiêu ra trước là đối thủ không sao chống nổi. Hư Trúc bèn không dám bỏ đi, chỉ sợ lúc mình trở về thì đã thấy một hay hai xác chết nằm lăn ra đó. Y nhìn Đồng Mỗ rồi lại nhìn Lý Thu Thủy, thấy cả hai bà nét mặt nhăn nheo, dung nhan tiều tụy, liền nghĩ: “Sư bá đã chín mươi sáu tuổi rồi, sư thúc trẻ lắm cũng ngoài tám mươi. Cả hai đã già rồi mà vẫn còn nóng tính đến thế.”

Hư Trúc vừa giũ áo một cái, nghe bịch một tiếng, bức đồ hình của Vô Nhai Tử bị rớt xuống đất. Bức họa này bằng lụa tốt, ngâm nước lâu mà vẫn chưa rách, Hư Trúc liền đem trải ra phơi trên một hòn đá.

Lý Thu Thủy nghe tiếng rơi, mở hé mắt ra, thấy bức họa thì thét lên: “Đem cho ta xem! Ta không tin sư huynh lại vẽ chân dung con tiện tỳ kia.”

Đồng Mỗ cũng la lớn: “Đừng cho hắn coi! Ta phải giết chết hắn. Lỡ hắn xem xong tức uất lên mà chết, hóa ra nhẹ nhàng quá ư?”

Lý Thu Thủy cười ha hả nói: “Ta không cần xem nữa. Mi sợ ta xem bức họa, chắc chắn người trong tranh không phải là mi. Khi nào sư ca lại đem nét đan thanh tuyệt diệu để vẽ một con lùn nửa người nửa quỉ? Sư huynh vốn không thích vẽ bùa trừ quỉ, thì vẽ mi làm gì?”

Chuyện thương tâm nhất trong đời Đồng Mỗ là bà luyện công bị sai, vĩnh viễn không thành người lớn. Đó là kiệt tác của Lý Thu Thủy, ngày xưa nhằm lúc Đồng Mỗ luyện công sắp thành bất ngờ thét lên một tiếng, khiến mụ phân tâm mà chân khí chạy ngược đường, không thể nào phục nguyên được nữa. Lúc này Lý Thu Thủy lại chọc vào vết thương lòng của bà. Uất khí Đồng Mỗ bất giác nổi lên, bà lớn tiếng quát: “Đồ tiện nhân! Ta… ta…” Bà nghẹn thở, trong cổ họng phát ra những tiếng òng ọc rồi thở ra một búng máu, xây xẩm như sắp ngất xỉu. Lý Thu Thủy lạnh lùng cười hỏi: “Mi chịu thua chưa? Có cần tỉ đấu nữa không?” Rồi mụ cũng ho lên sù sụ,không nói tiếp được. Hư Trúc thấy hai người đều kiệt sức, liền khuyên giải: “Sư bá, sư thúc! Hai vị nghỉ ngơi một lát, bồi bổ thần khí lại đã.” Đồng Mỗ nổi giận nói: “Không được!”

Lúc ấy ở hướng tây nam đột nhiên có tiếng leng keng vọng lại, tựa như tiếng chuông lạc đà, Đồng Mỗ nghe thấy lập tức phấn khởi, móc trong bọc ra một cái ống ngắn màu đen, nói: “Ngươi tung cái ống này lên trời.” Còn Lý Thu Thủy nghe tiếng leng keng lại càng ho kịch liệt hơn. Hư Trúc chẳng hiểu ra sao, cầm cái ống sắt nhỏ đặt vào ngón tay giữa rồi búng lên không, bỗng nghe một hồi còi lanh lảnh từ trong ống phát ra. Lúc này chỉ lực của Hư Trúc đã đến mức phi thường, cái ống nhỏ bay lẫn vào những đám mây, vẫn nổi lên những tiếng vi vu không ngớt. Hư Trúc kinh hãi nghĩ thầm: “Nguy rồi! Chắc cái ống sáo nhỏ này là tín hiệu của sư bá gọi người đến để đối phó với Lý sư thúc.” Y bèn chạy lại trước mặt Lý Thu Thủy khẽ nói: “Sư thúc! Quân tiếp viện của sư bá sắp tới nơi, để tiểu điệt cõng sư thúc chạy trốn.”

Chỉ thấy Lý Thu Thủy nhắm mắt cúi đầu, không ho mà cũng không nhúc nhích nữa. Hư Trúc cả kinh, đưa tay sờ mũi bà không thấy thở nữa thì kinh hãi la gọi: “Sư thúc! Sư thúc!” Y gọi chán lại lay vai Lý Thu Thủy, nhưng vừa chạm vào thì bà ngã lăn ra. Thì ra bà đã chết rồi!

Đồng Mỗ cười ha hả nói: “Hay lắm! Hay lắm! Con tiện nhân kinh hãi mà chết rồi! Ha ha! Đại thù đã báo, con tiện nhân cuối cùng phải chết trước ta.” Mụ kích động đến mức nghẹn thở; phun ra một ngụm máu tươi.

Tiếng vo vo trên không trung dần dần hạ thấp, Hư Trúc giơ tay ra đón lấy ống sáo đen đang rơi xuống. Y đang toan lại gần Đồng Mỗ xem sao, bỗng nghe tiếng vó dồn dập lẫn tiếng leng keng như nhạc ngựa, mấy chục con lạc đà từ phía tây nam chạy rất nhanh, chốc lát đã đến nơi. Hư Trúc quay đầu nhìn lại, thấy đoàn lạc đà này toàn là nữ nhân cưỡi, người nào cũng mặc áo xanh nhạt, trước ngực áo thêu một con chim thứu màu đen trông rất hung dữ. Đám người này trông xa xa tựa như một đám mây xanh lơ lửng bay đến, rồi những thanh âm thiếu nữ vang lên: “Giáo chủ! Bọn thuộc hạ đến chậm, tội đáng muôn thác!”

Mấy chục người cưỡi lạc đà vừa trông thấy Đồng Mỗ, còn ngoài xa đã lập tức nhảy xuống, chạy đến trước bà ta lạy rạp xuống sát đất. Hư Trúc thấy người đi đầu là một mụ già chừng năm sáu chục tuổi, còn ngoài ra lớn có nhỏ có, từ bốn mươi đến khoảng mười bảy, mười tám tuổi. Bọn này có vẻ rất khiếp sợ Đồng Mỗ, nằm phục xuống đất không dám ngửng lên nhìn.

Đồng Mỗ hừ một tiếng rồi tức giận hỏi: “Các ngươi tưởng là ta chết rồi phải không? Thế là các ngươi tha hồ thảnh thơi vui thú, không sợ ai quản thúc nữa phải không?” Mụ già nhất đám người kia dập đầu luôn mấy cái đáp: “Không dám.” Đồng Mỗ hỏi: “Sao lại không dám? Nếu thực tình các ngươi còn nghĩ đến ta thì sao lại chỉ có chừng này người đến đây?” Mụ già đáp: “Giáo chủ! Từ hôm giáo chủ rời cung, bọn thuộc hạ đều băn khoăn lo lắng…” Đồng Mỗ tức giận ngắt lời: “Thúi lắm, thúi lắm!” Mụ già chỉ biết: “Dạ, dạ!” Đồng Mỗ lại càng căm tức, quát to: “Ngươi đã biết là thúi, sao còn dám giở giọng thúi tha đó ra trước mặt ta?” Mụ già không dám nói gì nữa, dập đầu xuống lạy lia lạy lịa.

Đồng Mỗ nói: “Các ngươi băn khoăn lo lắng suông thì được cái gì? Sao không mau mau xuống núi tìm ta?” Mụ già đáp: “Dạ! Bọn thuộc hạ cùng nhau thương nghị, lập tức xuống núi phân nhau thám thính tin giáo chủ. Thuộc hạ dẫn bộ Hiệu Thiên đi về phương Đông, còn bộ Dương Thiên đi về phía Đông Nam, bộ Xích Thiên đi về phía chính Nam, bộ Chu Thiên đi về phía Tây Nam, bộ Thành Thiên đi về phía chính Tây, bộ U Thiên đi về phía Tây Bắc, bộ Loan Thiên đi về phía Đông Bắc, bộ Quân Thiên ở lại canh giữ bản cung. Thuộc hạ bất tài nên nghênh giá chậm trễ, thật là đáng chết, đáng chết.” Mụ nói xong lại dập đầu lia lịa.

Đồng Mỗ nói: “Các ngươi đều áo xiêm rách rưới, chắc trong ba tháng qua đã gặp nhiều gian khổ.” Mụ già thấy Đồng Mỗ có ý khen thưởng công lao bọn mình thì lộ vẻ vui mừng đáp: “Bọn thuộc hạ chỉ biết vì giáo chủ mà tận tâm tận lực, dù phải nhảy vào lửa cũng không từ nan. Chút công lao nhỏ mọn này chỉ là bổn phận mà thôi.” Đồng Mỗ nói: “Ta luyện công chưa xong thì gặp cường địch bắt đi, rồi bị con tiện nhân kia chặt cụt một chân, suýt nữa mất mạng, may được sư diệt ta là Hư Trúc cứu thoát. Những chuyện gian khổ nguy hiểm không thể nói mấy câu mà hết.”

Bọn nữ nhân áo xanh vội quay lại tạ ơn Hư Trúc: “Ơn đức trời biển của tiên sinh, bọn tiện nữ dù tan xương nát thịt cũng chưa thể báo đền trong muôn một. Hư Trúc đột nhiên thấy rất nhiều nữ nhân lạy tạ mình, vội xua tay loạn lên nói: “Không dám! Không dám!”, rồi vội vàng quì xuống đáp lễ. Đồng Mỗ quát lên: “Hư Trúc đứng dậy! Bọn chúng đều là nô tì của ta, ngươi làm thế là mất cả phẩm giá.” Hư Trúc cố nói mấy câu “không dám” nữa rồi mới đứng dậy.

Đồng Mỗ nhìn Hư Trúc nói: “Chiếc nhẫn bảo thạch của chúng ta đã bị con tiện nhân kia đoạt mất. Ngươi qua đó lấy về.” Hư Trúc “Vâng” rồi chạy đến bên Lý Thu Thủy; rút chiếc nhẫn bảo thạch trong ngón tay bà ra. Chiếc nhẫn này vốn là của Vô Nhai Tử giao cho Hư Trúc, y lấy lại từ Lý Thu Thủy, trong lòng không ngại ngùng gì.

Đồng Mỗ nói: “Ngươi là chưởng môn phái Tiêu Dao. Ta lại đã truyền thụ cho ngươi các môn tuyệt học Sinh Tử Phù, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Kể từ hôm nay, ngươi là chủ nhân cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu. Nô tỳ chín bộ trong cung Linh Thứu đều do ngươi cầm quyền sinh sát, ngươi muốn cho ai sống hay chết đều tùy ý.” Hư Trúc cả kinh nói: “Sư bá! Sư bá! Việc này không được đâu.” Đồng Mỗ tức giận hỏi: “Sao lại không được? Bọn nô tỳ chín bộ này phục vụ bất lực, không kịp nghênh giá, để ta phải nhục nhã chui vào túi vải, bị bọn hồ quần cẩu đảng Ô Lão Đại ngược đãi khinh nhờn, sau cùng phải chịu cụt chân, mất mạng…”

Quần nữ đều run lên bần bật, năn nỉ: “Bọn nô tỳ đáng chết, chỉ mong giáo chủ khai ân.” Đồng Mỗ nhìn Hư Trúc nói: “Bọn nô tỳ bộ Hiệu Thiên này đã tìm được ta, có thể giảm tội một chút, còn nô tỳ tám bộ kia đều phải chặt chân tay. Việc này giao cho ngươi xử trí.” Bọn nữ nhân đều dập đầu nói: “Đa tạ giáo chủ!” Đồng Mỗ lại quát: “Sao bọn mi không lạy tạ tân giáo chủ?” Chúng lại quay sang khấu đầu bái tạ Hư Trúc. Y lại xua tay lia lịa nói: “Thôi đi, thôi đi! Ta làm chủ nhân các vị thế nào được?”

Đồng Mỗ nói: “Ta chỉ còn sống trong khoảnh khắc, nhưng được tận mắt thấy con tiện nhân chết trước, lại tìm được truyền nhân để truyền thụ sở học của mình, thật là chết được nhắm mắt. Ngươi không chịu vâng lời ư?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Chuyện này… vãn bối không làm được.” Đồng Mỗ cười ha hả hỏi: “Trong mộng ngươi đã gặp một vị cô nương, còn muốn gặp lại nàng không? Có chịu nhận lời ta làm chủ nhân cung Linh Thứu không?” Hư Trúc vừa nghe Đồng Mỗ nhắc đến cô nương trong mộng thì toàn thân run bắn lên, mặt mũi đỏ bừng, gật đầu luôn mấy cái. Đồng Mỗ cười nói: “Hay lắm! Ngươi lấy bức họa ra để ta xé đi, khi đó ta không còn lo gì nữa, có thể chỉ cho ngươi đi tìm vị cô nương trong mộng.”

Hư Trúc lấy bức họa ra, Đồng Mỗ giơ tay đón lấy, đưa lên ánh mặt trời coi, rồi bất giác “ồ” lên một tiếng, vừa kinh hãi vừa vui mừng. Bà xem kỹ lại lần nữa rồi cười ha hả, reo lên: “Không phải hắn, không phải hắn? Ha ha! Ha ha!” Trong tiếng cười rộ, hai hàng nước mắt chảy xuống gò má, rồi ngoẹo đầu ra không nói gì nữa.

Hư Trúc cả kinh giơ tay ra đỡ lấy, thì thấy xương cốt toàn thân bà mềm như bông, co rúm lại thành một đống, đã chết thật rồi.

Bọn nữ nhân áo xanh chạy ùa tới vây quanh, khóc rống lên nghe rất thương tâm. Bọn này đều từng lâm vào cảnh nguy nan, được Đồng Mỗ ra tay cứu vớt, nên tuy bà cai quản rất nghiêm khắc mà họ vẫn cảm kích, không oán hận chút nào. Hư Trúc nghĩ đến mình đã ở với Đồng Mỗ ba tháng trời không dời nửa bước, được bà truyền thụ võ công. Bây giờ thấy bà ta cười rộ lên rồi chết, y khó mà nhịn được, cũng phục xuống khóc rống lên.

Bỗng nhiên phía sau có tiếng khàn khàn cười nói: “Ha ha! Tỉ tỉ ơi, cuối cùng tỉ tỉ lại chết trước tiểu muội. Vậy thì tỉ tỉ thắng hay là tiểu muội thắng?” Hư Trúc nghe đúng là thanh âm Lý Thu Thủy thì giật mình kinh hãi, tự hỏi: “Sao người chết rồi mà còn sống lại được?” Y nhảy nhỏm lên, xoay người nhìn lại thì thấy Lý Thu Thủy đang ngồi tựa lưng vào gốc cây, nói: “Hiền điệt! Ngươi đưa bức tranh cho ta coi. Sao sư tỉ ta lại vừa khóc vừa cười rồi đột ngột từ trần?”

Hư Trúc nhẹ nhàng gỡ tay Đồng Mỗ, lấy bức họa ra. Bức họa đã bị ướt rồi được phơi khô, nét bút có nhiều chỗ lờ mờ, nhưng người trong tranh vẫn là mỹ nữ cung trang, diện mạo giống Vương Ngữ Yên như đúc, nét cười dịu dàng mỹ lệ khó tả. Hư Trúc chợt nhận ra diện mạo của mỹ nữ này có nhiều chỗ giống sư thúc, nhưng cũng cầm bức họa lại đưa cho Lý Thu Thủy.

Lý Thu Thủy đón lấy bức họa xem, bỗng dưng cười nhạt nói: “Giáo chủ các ngươi đã ác đấu với ta, cuối cùng cũng chết trước. Các ngươi như bầy đom đóm mà dám tranh sáng cùng mặt trăng mặt trời ư?”

Hư Trúc quay lại nhìn thì thấy bọn phụ nữ áo xanh đang chống kiếm, sắc mặt người nào cũng đầy vẻ bi phẫn, chỉ muốn xông vào giết Lý Thu Thủy báo thù cho Đồng Mỗ, vì chưa được lệnh của tân chủ nhân nên không dám động thủ mà thôi.

Hư Trúc nói: “Sư thúc! Người… người…” Lý Thu Thủy nói: “Võ công sư bá ngươi tuy rất cao thâm, nhưng còn nhiều chỗ sơ hở. Cứu binh của y đã đến, dĩ nhiên là ta không kháng cự nổi nên phải giả chết. Ha ha! Rút cục y phải chết trước ta. Gân cốt trong toàn thân y đã gãy nhừ, công lực tiêu tan, nhất định không phải giả chết nữa.” Hư Trúc nói: “Lúc ác chiến trong hầm nước đá, sư bá đã trá tử lừa được sư thúc một phen. Thế thì sư bá cùng sư thúc kẻ tám lạng người nửa cân, không phân cao thấp.”

Lý Thu Thủy thở dài nói: “Trong lòng ngươi vẫn thiên về sư bá nhiều hơn.” Mụ vừa nói vừa mở bức họa ra coi, thần sắc đột nhiên biến đổi, hai tay run bần bật, cả bức họa cũng rung lên. Mụ khẽ nói: “Đúng là nó, đúng là nó. Ha ha! Ha ha!” Trong tiếng cười chứa đầy nỗi đau khổ bi thương.

Hư Trúc bất giác không cầm lòng được, lên tiếng hỏi: “Sư thúc làm sao vậy?” Y nghĩ thầm: “Một bà bảo “không phải hắn”, một bà lại bảo “đúng là nó”, không hiểu người trong bức hình là ai.”

Lý Thu Thủy nhìn mỹ nhân trong bức họa hồi lâu rồi nói: “Ngươi xem đây! Người này má lúm đồng tiền, mắt bên phải có nốt ruồi đen, đúng không?” Hư Trúc nhìn lại mỹ nhân trong bức họa rồi gật đầu đáp: “Đúng!” Lý Thu Thủy buồn rầu nói: “Đó là muội tử ta.” Hư Trúc lại càng ngạc nhiên, hỏi: “Là em gái sư thúc ư?” Lý Thu Thủy đáp: “Dung mạo muội tử rất giống ta, nhưng mà có lúm đồng tiền, cạnh mắt bên phải có nốt ruồi đen, còn ta không có.” Hư Trúc “ủa” lên một tiếng. Lý Thu Thủy lại nói: “Sư tỉ gạt là sư ca họa chân dung y, sớm tối chẳng rời, dĩ nhiên ta không tin. Nhưng… nhưng ta không ngờ lại là chân dung tiểu muội ta. Hiền điệt… bức họa này ở đâu ra”.

Hư Trúc liền đem tình hình Vô Nhai Tử lúc lâm chung trao lại bức họa cho mình và dặn đến núi Thiên Sơn tìm người truyền thụ võ nghệ, tình hình lúc Đồng Mỗ nhìn thấy bức họa rồi nổi cơn tức giận, nhất nhất thuật lại hết.

Lý Thu Thủy thở dài nói: “Lúc đầu sư tỉ nhìn thấy bức họa này cứ ngỡ là ta, một là vì tướng mạo ta rất giống, hai là sư ca quý mến ta hơn! Huống chi, hồi sư tỉ cùng ta tranh đấu, thì muội tử ta mới mười một tuổi lại không hiểu võ công, nên sư tỉ ta không ngờ là nó. Lúc nóng nảy y không nhìn kỹ, đến lúc lâm tử nhận ra người trong bức họa má lúm đồng tiền và có một nốt ruồi cạnh mắt, mới nói ba chữ: “Không phải hắn” rồi cười rộ mà chết. Ôi! Tiểu muội ơi! Ngươi thật là tốt phước!” Trên hai má Lý Thu Thủy lệ chảy đầm đìa.

Hư Trúc nghĩ thầm: “Thì ra sư bá cùng sư thúc đều có mối thâm tình với sư phụ mình, mà trong lòng lão nhân gia lại có kẻ khác. Không hiểu muội tử của sư thúc còn ở nhân gian không? Sư phụ bảo mình theo bức họa đồ này đi tìm thầy học nghệ, không lẽ vị muội tử này đang ở Vô Lượng Sơn nước Đại Lý ư?” Y bèn hỏi: “Sư thúc! Lệnh muội có phải đang ở Vô Lượng Sơn nước Đại Lý không?”

Lý Thu Thủy lắc đầu, mắt nhìn xa xa, tựa như đang xuất thần nhìn lại những tháng ngày trong quá khứ. Một lúc lâu bà mới lên tiếng: “Những năm đó ta cùng sư phụ ngươi ở trong một thạch động cạnh Kiếm Hồ trên Vô Lượng Sơn, tiêu diêu khoái lạc hơn cả thần tiên. Ta đã sinh cho lão một đứa con gái rất khả ái. Hai người chúng ta đã thu thập bí kíp võ công các môn các phái trong võ lâm, nuôi mộng sáng tác ra một môn võ công kỳ ảo bao trùm thiên hạ. Nhưng có một ngày, chúng ta tìm thấy trong núi một khối ngọc thạch rất lớn, lão bèn lấy ta làm mẫu mà điêu khắc thành một pho tượng. Từ lúc khắc xong, lão cứ cả ngày ngồi nhìn ngọc tượng đến xuất thần, không đếm xỉa đến ta nữa. Ta cố nói chuyện với lão, lão cứ ậm ừ cho qua chuyện, có khi lại chẳng thèm nghe, tâm tư đặt hết vào pho tượng. Sư phụ của ngươi điêu khắc rất tinh xảo, ngọc tượng thật là đẹp đẽ, nhưng cũng là tử vật mà thôi. Huống chi tượng lại điêu khắc giống ta, rõ ràng ta đang kề cận bên mình, sao lão không để ý đến ta mà lại đem lòng yêu thương pho tượng không dứt ra được? Đó là vì sao, vì sao?” Bà cứ tự kể rồi tự hỏi, dường như quên mất cả Hư Trúc đang ngồi cạnh.

Qua một lúc Lý Thu Thủy nhẹ nhàng nói tiếp: “Sư ca! Huynh thông minh tuyệt đỉnh mà si ngốc cũng cực kỳ. Sao huynh lại yêu pho ngọc tượng do mình điêu khắc? Sao huynh lại không yêu cô sư muội biết nói, biết cười, biết cử động, biết yêu huynh? Trong lòng huynh đã coi ngọc tượng này như tiểu muội của ta, có phải vậy không? Ta vì ghen với pho ngọc tượng này mà trở mặt với huynh, ra ngoài tìm bắt những thiếu niên tuấn tú về thân ái trước mặt huynh, từ đó huynh phẫn nộ bỏ đi, không quay lại nữa. Sư ca! Huynh đừng giận lâu, những thiếu niên tuấn tú đó đều bị ta tự tay giết chết, thả xuống Kiếm Hồ cả rồi. Huynh có biết không?”

Bà đưa bức tranh lên nhìn một lúc nữa, lại gọi: “Sư ca! Bức tranh này huynh vẽ từ lúc nào? Huynh vẽ ta nên mới kêu đồ đệ đem tranh đến Vô Lượng Sơn tìm ta, nhưng trong lúc vô tình huynh lại vẽ thành tiểu muội của ta, huynh có tự biết không? Trong lòng huynh thật sự chỉ có nó mà thôi. Khi xưa huynh si tình pho tượng là vì sao, bây giờ ta đã hiểu rồi.”

Hư Trúc nghĩ thầm: “Phật tổ đã dạy, cuộc sống trên đời khó mà tránh khỏi ba thứ độc là tham, sân, si. Sư bá, sư phụ, sư thúc ba vị đều là những nhân vật xuất phàm, mà cũng bị quay cuồng trong tam độc, dù võ công tuyệt thế mà trong tâm vẫn phiền não như bọn phàm phu tục tử tầm thường.”

Lý Thu Thủy quay lại nhìn Hư Trúc nói: “Hiền điệt! Ta cùng sư phụ của ngươi có một đứa con gái, nay đã gả cho nhà họ Vương ở Tô Châu. Khi nào có rảnh…” Đột nhiên bà lắc đầu, thở dài nói: “Thôi, không cần nữa. Chẳng hiểu nó còn sống trên thế gian không, mà mỗi người đều có cuộc sống riêng…” Đột nhiên bà thét lên: “Sư tỉ! Chị em ta đều là loài sâu bọ đáng thương, đều bị con người vô lương tâm đó lừa gạt! Ha ha? Ha ha!” Lý Thu Thủy cười lớn mấy tiếng, rồi ngã ngừa về đằng sau tắt hơi.

Hư Trúc cúi xuống nhìn thì thấy mũi và miệng bà ứa máu ra, đã ngừng thở mà chết. Chuyến này y vừa thấy hai vụ giả chết, cũng phải cảnh giác, nhưng hình như lần này bà chết thật rồi. Hư Trúc nhìn hai xác chết không biết làm thế nào.

Mụ già cầm đầu bộ Hiệu Thiên nói: “Chủ nhân! Chúng ta có cần đưa di thể giáo chủ về cung Linh Thứu để an táng cho long trọng không? Xin chủ nhân chỉ thị.” Hư Trúc đáp: “Như thế là phải.” Y lại trở thi thể Lý Thu Thủy nói: “Vị này… là sư muội của giáo chủ các ngươi. Tuy trước kia có oán thù với giáo chủ, nhưng… người chết rồi thì oan cừu coi như hết. Theo ta thì nên đưa cả hai vị về an táng, các ngươi nghĩ sao?” Mụ già khom lưng đáp: “Xin vâng.” Hư Trúc thấy trong lòng thoải mái, chỉ sợ bọn đàn bà áo xanh này thù hằn Lý Thu Thủy, không chịu an táng thi hài mụ mà còn muốn đập tan xác cho hả giận, ý không ngờ họ ngoan ngoãn vâng lời, không phản đối chút nào. Thật ra bọn nữ nhân dưới trướng Đồng Mỗ kính sợ chủ nhân vô kể, tuyệt không dám trái ý. Bây giờ Hư Trúc là tân chủ nhân của chúng, y chỉ nói một lời là ai nấy răm rắp làm theo.

Mụ già chỉ huy quần nữ dùng chăn chiên bọc hai xác chết lại cẩn thận, để lên lưng lạc đà, rồi kính cẩn mời Hư Trúc cưỡi lạc đà đi trước. Hư Trúc khiêm tốn mấy câu, nghĩ rằng việc đã đến thế này, thôi thì mình cũng an táng hai vị Đồng, Lý đàng hoàng rồi sẽ trở về chùa Thiếu Lâm chịu tội. Y hỏi danh tính mụ già thì mụ đáp: “Phu quân của nô tỳ họ Dư, nên cố giáo chủ kêu bằng Tiểu Dư. Chủ nhân muốn gọi thế nào cũng được.” Đồng Mỗ đã ngoại cửu tuần, gọi mụ này bằng “Tiểu Dư” là phải. Hư Trúc không dám gọi thế, liền nói: “Dư bà! Pháp hiệu tại hạ là Hư Trúc. Chúng ta nên xưng hô ngang hàng, nếu cứ gọi là chủ nhân mãi thì tại hạ phải tổn thọ mất.”

Dư bà phục xuống đất, tuôn nước mắt nói: “Chủ nhân khai ân! Chủ nhân muốn giết muốn đánh thế nào, nô tì cũng cam tâm, chỉ khẩn cầu chủ nhân đừng đuổi nô tì khỏi cung Linh Thứu.” Hư Trúc kinh ngạc hỏi: “Làm gì có chuyện đó, tại hạ đánh người, giết người để làm chi?” Rồi y đưa tay ra đỡ mụ dậy. Cả đám nữ nhân thấy thế liền quì xuống năn nỉ: “Chủ nhân khai ân!” Thì ra Đồng Mỗ trước kia lúc nào tức giận thì mới ăn nói lịch sự, sau đó sẽ dùng thảm hình khổ sở. Bọn động chúa, đảo chúa Ô Lão Đại nếu được Đồng Mỗ phái người đến nhục mạ đánh đập thì mở tiệc ăn mừng, coi như thoát khỏi đại nạn. Bây giờ bọn nô tỳ thấy Hư Trúc lịch sự với Dư bà thì tưởng là sắp có họa lớn, nên quỳ cả xuống năn nỉ. Hư Trúc hỏi rõ nguyên do rồi an ủi mấy lần, nhưng quần nữ vẫn không yên tâm.

Hư Trúc leo lên lưng lạc đà, rồi bảo quần nữ cũng cưỡi lạc đà mà đi, nhưng chúng nhất định không dám, chỉ dắt lạc đà đi theo. Hư Trúc nói: “Chúng ta phải mau về đến cung Linh Thứu, không thì thời tiết đang nóng bức, chỉ sợ… chỉ sợ di thể giáo chủ có biến.” Bấy giờ bọn họ mới dám cưỡi lạc đà, nhưng đi theo sau cách một quãng xa. Hư Trúc muốn hỏi cho biết tình hình trong cung Linh Thứu, nhưng không tiện nên lại thôi.

Đoàn người nhắm hướng Tây mà đi gấp, được năm ngày thì gặp người đưa tin của bộ Chu Thiên. Dư bà phóng tín hiệu lên, người đưa tin liền quay về báo cáo. Chẳng mấy chốc bọn nữ nhân bộ Chu Thiên cưỡi lạc đà chạy như bay tới nơi, toàn thể bọn này đều mặc áo tía. Chúng sụp lạy trước thi thể Đồng Mỗ, rồi ra mắt tân chủ nhân. Thủ lãnh bọn Chu Thiên họ Thạch, mới ngoài ba mươi tuổi, Hư Trúc gọi bằng Thạch tẩu. Y sợ bọn nữ nhân kia sinh nghi mà sợ hãi, không dám nói chuyện lễ phép, chỉ an ủi sơ sơ, úy lạo bọn chúng dọc đường vất vả. Quần nữ bộ Chu Thiên đều cả mừng lạy tạ. Hư Trúc không dám xưng hô ngang hàng, chỉ bảo họ đừng gọi mình là “giáo chủ”, gọi là “chủ nhân” được rồi. Quần nữ đều cung kính tuân theo.

Đoàn người lại đi về hướng Tây mấy ngày nữa. Bộ Hiệu Thiên và bộ Chu Thiên phái người đi liên lạc với năm bộ Xích Thiên, Dương Thiên, Huyền Thiên, U Thiên, Thành Thiên, triệu tập đến đông đủ. Chỉ có bộ Loan Thiên là đi tìm Đồng Mỗ ở phía chính Tây, khoảng cách rất xa nên chưa liên lạc được. Cung Linh Thứu không có một nam nhân nào, một mình Hư Trúc ở với mấy trăm phụ nữ nên cực kỳ bẽn lẽn. May mà quần nữ đối với y cực kỳ cung kính, y không hỏi thì chẳng ai dám lên tiếng, thành ra cũng đỡ được nhiều điều phiền phức.

Một hôm đoàn người đang đi thì một nữ nhân áo xanh cưỡi lạc đà như bay chạy tới, chính là một thám tử của bộ Huyền Thiên đi trước dò đường. Thị cầm cây cờ xanh phất loạn lên, ra hiệu phía trước có biến cố, chạy gấp về phi báo với thủ lĩnh bản bộ.

Thủ lĩnh bộ Huyền Thiên là một cô nương chừng hai mươi tuổi, tên là Phù Mẫn Nghi. Cô được tin báo, hấp tập nhảy xuống lạc đà chạy đến trước mặt Hư Trúc nói: “Khải bẩm chủ nhân! Thám tử của nô tì báo cáo bọn thuộc hạ ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo của bản cung, nhân lúc giáo chủ bị nạn, cả gan nổi lên làm phản, tiến đánh núi Phiêu Diểu. Bộ Quân Thiên phòng thủ nghiêm mật các ngả đường lên núi, bọn tà ma kia chưa làm gì được. Nhưng mấy vị tỉ muội của bộ Quân Thiên chạy xuống núi để cầu cứu đã bị chúng giết chết.”

Hư Trúc đã biết chuyện bọn động chúa, đảo chúa tạo phản. Nhưng y tưởng bọn kia không giết được Đồng Mỗ, Bất Bình đạo nhân mất mạng, Ô Lão Đại trọng thương, cứ yên chí bọn họ thấy khó khăn mà giải tán rồi. Không ngờ đã bốn tháng nay, mà họ vẫn đang kéo nhau vây đánh núi Phiêu Diểu. Hư Trúc từ bé vẫn ở chùa Thiếu Lâm, ít hiểu nhân tình thế thái, gặp việc không biết phải đối phó ra sao. Y ngẩn ra một lúc rồi ấp úng: “Việc này… việc này…”

Lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập, hai người nữa phóng ngựa đến. Một người bộ Huyền Thiên đi trước, theo sau là một nữ nhân áo vàng nằm trên lưng ngựa, mình vấy đầy máu, tay trái bị chặt cụt. Phù Mẫn Nghi vẻ mặt bi phẫn nói: “Chủ nhân! Đây là Trình tỉ tỉ, phó thủ lĩnh bộ Quân Thiên, e rằng khó mà qua khỏi.” Thiếu nữ họ Trình đã ngất xỉu, quần nữ bèn xúm lại tìm cách cầm máu, nhưng hơi thở chỉ còn thoi thóp, dường như sắp chết đến nơi.

Hư Trúc thấy người trọng thương, bỗng nhớ tới phép trị thương mà Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đã dạy cho. Y giục lạc đà đến gần, đưa ngón tay giữa bên trái ra búng veo véo lên không năm cái để phong tỏa mấy huyệt đạo gần chỗ cánh tay bị chặt đứt, lập tức máu ngưng chảy. Hư Trúc lại sử chiêu Tinh Hoàn Khiêu Trịch của Đồng Mỗ, búng một cái thứ sáu. Một luồng Bắc Minh chân khí hùng hậu thúc vào huyệt Trung Phủ trên cánh tay của thiếu nữ bị thương. Thị bỗng “Ôi chao” một tiếng, tỉnh lại nói ngay: “Các vị tỉ muội! Mau… mau… lên núi Phiêu Diểu tiếp ứng! Bọn ta… bọn ta… không chống cự nổi.”

Hư Trúc điểm cách không, chẳng phải là muốn phô trương tuyệt kỹ, mà vì người bị thương là một thiếu nữ. Y đã không phải là hòa thượng nữa, song đệ tử nhà Phật giới sắc đã quen, không tiện đụng chạm vào thân thể nữ nhân. Không ngờ mấy cái búng tay hời hợt của y hiệu nghiệm như thần. Trong người Hư Trúc đã chứa gần hết nội lực của ba tay đại cao thủ là Vô Nhai Tử, Thiên Sơn Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy, dĩ nhiên không phải tầm thường.

Quần nữ các bộ vì tuân theo di mệnh của Đồng Mỗ mà coi Hư Trúc như tân chủ nhân, thấy y còn trẻ, nói năng hành động nhiều chỗ ngốc nghếch, chưa thành tâm kính phục. Huống chi đa số nữ nhân ở cung Linh Thứu đã bị nam nhân tàn hại đến người chết nhà tan, lại được Đồng Mẫu giáo huấn cho thù hận nam nhân như độc xà mãnh thú. Lúc này họ thấy Hư Trúc xuất thủ theo đúng công phu của cung Linh Thứu mà nội lực lại cao thâm tột độ, đều vừa kinh hãi vừa sung sướng, hoan hô ầm ĩ. Quần nữ đều lạy rạp xuống đất, kính phục Hư Trúc như một vị thiên thần. Hư Trúc thất kinh gọi: “Làm gì thế? Mau mau đứng dậy đi!”

Đã có người báo cho thiếu nữ họ Trình biết việc giáo chủ quy tiên, thanh niên này vừa là ân nhân vừa là truyền nhân của giáo chủ, là tân chủ nhân của bản cung. Thiếu nữ họ Trình tên gọi Trình Thanh Sương sáng leo xuống ngựa, đến thi lễ với Hư Trúc: “Đa tạ chủ nhân cứu mạng. Xin… xin chủ nhân đến cứu ngay các tỉ muội trên núi. Bốn tháng nay bọn nô tì cố sức chống cự, nhưng ít người không địch lại số đông, tình trạng cực kỳ nguy hiểm.” Nàng nói xong, lại phủ phục xuống đất, không ngẩng đầu lên nữa.

Hư Trúc vội nói: “Thạch tẩu, ngươi đỡ y dậy đi! Dư bà, bây giờ tính thế nào đây?” Dư bà cùng đi với tân chủ nhân mười ngày, đã biết y thực thà trung hậu ít hiểu việc đời, liền đáp: “Khải bẩm chủ nhân! Núi Phiêu Diểu còn cách đến hai ngày đường. Tốt nhất là chủ nhân hãy lệnh cho nô tỳ dẫn thuộc hạ bản bộ lập tức chạy về cứu cấp, chủ nhân thống lĩnh mọi người đi sau. Chủ nhân về đến nơi thì bọn yêu ma kia lập tức phải tan tành, không đáng lo nữa.” Hư Trúc gật đầu, nhưng lại nghĩ có điều gì không ổn, nhất thời chưa quyết định.

Dư bà quay lại bảo Phù Mẫn Nghi: “Phù muội! Chủ nhân vừa mới kế vị, chưa kịp thay đổi y phục uy nghi để hàng phục yêu ma. Muội là Châm Thần của bản cung, phải lập tức may một bộ y phục cho chủ nhân.” Phù Mẫn Nghi đáp: “Phải lắm! Tiểu muội cũng đang nghĩ thế.”

Hư Trúc sửng sốt, không hiểu vì sao đang lúc nguy ngập mà họ còn nghĩ đến việc may quần áo, thật là tính khí nữ nhân.

Quần nữ đều nhìn Hư Trúc để chờ y ra lệnh. Hư Trúc cúi đầu xuống, bỗng nhận ra mình bốn tháng áo không thay, bốn tháng không giặt giũ, tăng bào vừa rách nát vừa bẩn thỉu, chính mình cũng ngửi thấy mùi hôi nồng nặc. Giữa đám nữ nhân phục sức hoa lệ, y không khỏi hổ thẹn, huống chi mình không phải là hòa thượng nữa thì cũng không nên mặc tăng bào. Thực ra, quần nữ đã coi Hư Trúc là chủ nhân, khi nào lại quan tâm đến quần áo đẹp hay xấu? Họ chăm chú nhìn y là để chờ lệnh, nhưng Hư Trúc tự thấy mình ăn mặc rách rưới dơ bẩn, nên ra chiều ngượng nghịu.

Dư bà chờ một lúc, lại hỏi: “Chủ nhân! Nô tì đi trước được chăng?”

Hư Trúc đáp: “Chúng ta cùng đi với nhau, cứu người là gấp. Y phục của ta tuy dơ bẩn, nhưng sau sẽ giặt cũng được, không quan hệ lắm.” Y liền thúc lạc đà chạy đi, quần nữ cũng lên ngựa chạy theo rất gấp. Lạc đà rất dai sức mà chạy cũng nhanh không kém gì ngựa. Đoàn người chạy mấy chục dặm đường mới tìm chỗ nghỉ ngơi để thổi cơm.

Dư bà chỉ ngọn núi phía Tây Bắc giữa đám mây mù, nói với Hư Trúc: “Chủ nhân, đó chính là núi Phiêu Diểu. Ngọn núi này quanh năm tuyết phủ, nhìn xa xa như có như không, nên mới gọi là Phiêu Diểu.”

Hư Trúc nói: “Xem ra còn xa lắm! Chúng ta phải đến càng sớm càng tốt, ăn uống xong phải lên đường lập tức.” Quần nữ đồng thanh đáp: “Vâng! Đa tạ chủ nhân lo lắng đến tỉ muội bộ Quân Thiên.” Cơm nước xong, đoàn người lại lên đường. Cả bọn gấp rút đi suốt ngày đêm, dọc đường chết không ít lạc đà. Lúc đến chân núi Phiêu Diểu, mới là sáng sớm ngày thứ hai.

Phù Mẫn Nghi nâng một vật màu sắc rực rỡ, khom lưng trao cho Hư Trúc, nói: “Nô tỳ may vá vụng về, xin chủ nhân mặc thử.” Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Cái gì thế?”, rồi đón lấy mở ra xem, thì ra một tấm trường bào. Cái áo này may bằng gấm đoạn rất tốt, đủ màu sắc cân đối nhau, đường kim mũi chỉ khéo léo tuyệt vời. Thì ra Phù Mẫn Nghi cắt nhiều mảnh vải trên y phục của quần nữ để khâu thành tấm trường bào này.

Hư Trúc vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ nói: “Phù cô nương có ngoại hiệu Châm Thần là rất đúng, đang cưỡi lạc đà chạy nhanh mà vẫn may được cái áo đẹp thế này.” Y bèn cởi áo thầy tu, thay đổi y phục. Tấm trường bào này rất vừa vặn, viền bằng da báo lại càng thêm phần sang trọng. Chỗ da viền này cũng cắt từ áo của bọn nữ nhân ra. Hư Trúc mặc bộ áo hoa lệ này vào, tướng mạo cũng bớt mấy phần xấu xí.

Lúc này đoàn người đã đến đầu đường lên núi. Dọc đường Trình Thanh Sương đã báo cáo, cường địch đã đánh lên đến ngọn Đoạn Hồn. Núi Phiêu Diểu có tất cả mười tám ngọn hiểm trở, thì mười ba ngọn đã bị chiếm đóng. Quần nữ bộ Quân Thiên đã tử thương quá nửa, tình thế cực kỳ nguy hiểm.

Thạch tẩu vung đao hô lớn: “Núi Phiêu Diểu có chín bộ thì tám bộ đã hạ sơn, chỉ còn một bộ thủ thành. Địch nhân thừa lúc vắng người đến tập kích, thật là vô sỉ. Xin chủ nhân hạ lệnh cho toàn thể bọn thuộc hạ tấn công lên núi, quyết tử chiến với loài đạo tặc.” Dư bà nói: “Thạch muội đừng nóng nảy. Thế địch quá lớn, bộ Quân Thiên dựa vào địa thế hiểm trở mới chống giữ được hơn trăm ngày. Bây giờ chúng ta chân núi lại bị bất lợi. Địch nhân ở thế phản khách vi chủ, từ trên cao đánh xuống…” Thạch tẩu nói: “Thế thì phải làm thế nào?” Dư bà đáp: “Chúng ta âm thầm lên núi, địch nhân biết càng chậm càng hay.”

Hư Trúc gật đầu nói: “Dư bà nói đúng lắm.” Y đã lên tiếng, không ai dị nghị gì nữa. Quần nữ tám bộ chia thành từng đội, tiến lên núi không một tiếng động. Lúc trèo núi rất dễ phân biệt khinh công hay dở thế nào. Hư Trúc thấy mấy vị thủ lĩnh Dư bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi, tuy phận nữ nhi mà thân pháp mau lẹ dị thường thì nghĩ bụng: “Dưới trướng tướng giỏi không có quân hèn, thuộc hạ của sư bá quả nhiên bản lãnh không vừa.”

Mỗi nơi hiểm yếu đều vương vãi đầy binh khí gãy cùng đá vỡ ra, rõ ràng lúc địch nhân tiến đánh đã xảy ra trận chiến đấu khủng khiếp. Đi qua ngọn Đoạn Hồn, đỉnh Thất Túc, khe Bách Trượng, thì tới Tiếp Thiên Kiều. Cây cầu này vốn chỉ là một sợi xích sắt treo giữa hai vách núi cao chót vót, bây giờ đã bị địch nhân dùng bảo đao chặt đứt đôi. Hai vách núi cách nhau đến năm trượng, khó mà nhảy qua được.

Quần nữ nhìn nhau kinh hãi nghĩ thầm: “Không chừng tỉ muội bộ Quân Thiên đã bị quân phản loạn giết hết rồi.” Họ đều biết Tiếp Thiên Kiều là cửa ải hiểm yếu cuối cùng. Dưới Tiếp Thiên Kiều là vực sâu muôn trượng, toàn đá tai mèo lởm chởm. Những người được đến cung Linh Thứu đều có bản lĩnh cao siêu, khinh công thượng thặng, muốn nhảy qua bên kia thì chỉ đáp chân vào dây sắt là lướt qua chẳng khó khăn gì. Lúc Trình Thanh Sương xuống núi thì địch nhân mới tấn công tới Đoạn Hồn Nhai, còn cách Tiếp Thiên Kiều khá xa. Dĩ nhiên tỉ muội bộ Quân Thiên đã phái người canh giữ cây cầu này rất nghiêm ngặt, hễ địch tiến đánh là mở khóa cho dây xích sắt tách rời làm hai đoạn, rớt xuống hai bên. Khe núi này cũng không rộng lắm, chỉ chừng năm trượng, nhưng nếu không có dây xích giăng ngang để làm điểm dừng chân thì dù bản lĩnh nghiêng trời cũng không nhảy qua nổi. Lúc này sợi dây xích đã bị chặt đứt, rõ ràng là bị phá hoại, chắc địch nhân tấn công quá đột ngột nên bộ Quân Thiên không kịp mở khóa.

Thạch tẩu vung thanh liễu diệp đao rít lên veo véo, kêu gọi: “Dư bà! Mau mau nghĩ cách vượt qua khe núi này!” Tính mụ rất nóng nảy, khi gặp chuyện nạn giải thì không bình tĩnh được, chỉ la hoảng càng thêm rối. Dư bà đáp: “Hừ! Biết làm thế nào được? Thật là khó giải quyết.”

Mụ chưa dứt lời, phía sau núi đã nổi lên tiếng rú thê thảm, đúng là thanh âm nữ nhân. Quần nữ máu nóng như sôi, biết là mấy tỉ muội bộ Quân Thiên vừa trúng độc thủ, chỉ hận mình không có cánh để bay qua khe núi về cung Linh Thứu, cùng địch nhân một phen tử chiến. Mọi người lớn tiếng mắng chửi ồn ào, nhưng chẳng nghĩ ra cách nào để vượt qua khe núi cực kỳ hiểm trở này.

Hồi 38: Chén chú chén anh, đồng bệnh si tình thành huynh đệ

Hư Trúc nhìn xuống vực sâu, thấy không có cách nào trèo xuống được. Y nhìn bọn nữ nhân đang lo lắng, nghĩ thầm:“Bọn họ gọi ta là chủ nhân, mà gặp chuyện khó giải quyết ta lại không có kế sách gì, thì nói chuyện sao được? Kinh Phật có dạy: lục độ của Bồ Tát thì bố thí là đầu, ta còn sợ cái gì mà không xả thân giúp người?” Y bèn cởi áo bào của Phù Mẫn Nghi vừa may tặng, cất tiếng gọi:“Thạch tẩu! Cho ta mượn binh khí.” Thạch tẩu “Vâng” một tiếng, trở chuôi kính cẩn trao thanh Liễu diệp đao sang.

Hư Trúc đón lấy, vận Bắc Minh chân khí truyền vào thanh Liễu diệp đao, rung cổ tay một cái. Một tiếng “chát” vang lên, đầu xích sắt gắn vào vách núi phía bên này đã bị chặt đứt. Liễu diệp đao vừa mỏng vừa nhỏ, tuy sắc bén nhưng không phải là một thanh bảo đao, thế mà Hư Trúc vận chân khí vào lại chặt xích sắt dễ như chặt tre. Hư Trúc trả đao cho Thạch tẩu, rồi cầm lấy đoạn xích sắt đề khí nhảy vọt ra vực thẳm.

Quần nữ cất tiếng la hoảng. Dư bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi cùng kêu lên: “Chủ nhân! Đừng mạo hiểm!” Tiếng hô chưa dứt thì Hư Trúc đã nhảy đến giữa khe núi, vận động chân khí trong người, đang lơ lửng trên không chợt lộn người một cái, bay qua gần đến bờ bên kia. Thân thể y hạ thấp xuống, xem ra không khỏi rơi xuống vực nát xương. Nhưng trong lúc đang hạ xuống, Hư Trúc liền vung đoạn dây sắt ra chiêu Tần Liễu Xuân Yến, quấn được vào nửa đoạn dây xích đang treo ở vách núi bên kia, rồi y mượn đà vọt người lên một vòng, đứng vững bên kia bờ vực thẳm, Hư Trúc quay lại nói: “Mọi người đợi ở đây, để ta đi xem tình hình ra sao đã.”

Bọn Dư bà vừa sợ hãi vừa kính phục, đồng thanh đáp: “Xin chủ nhân cẩn thận.”

Hư Trúc chạy ra sau núi, tìm chỗ vừa có tiếng rú. Y chạy đến một quãng đường hẹp thì thấy xác hai nữ nhân nằm lăn ra đất, đầu lìa khỏi cổ, máu tươi vẫn còn đang chảy. Hư Trúc chắp tay nói: “A di đà Phật! Tội nghiệp! Tội nghiệp!”, rồi quì bên hai xác chết niệm một bài Vãng Sinh Chú, sau đó mới theo đường mòn chạy lên đỉnh núi. Càng lên cao sương trắng càng dày đặc che khuất cả lối đi, nhưng y chạy rất nhanh, không đầy nửa giờ đã đến đỉnh núi Phiêu Diểu. Hư Trúc cố nhìn xuyên qua đám mây mù, chỉ thấy những cây tùng to lớn, tuyệt không một tiếng người. Y ngẩn ra tự hỏi: “Quần nữ bộ Quân Thiên bị giết sạch rồi ư? Thật là oan nghiệt!” Y liền hái mấy trái tùng nhét vào trong bọc, nghĩ thầm: “Trái tùng ném ra cũng có thể chết người. Ta phải hết sức nhẹ tay, cốt để địch nhân hoảng sợ mà chạy trốn, nhất định không vô ý giết ai.”

Đường ở chỗ này lót đá xanh thật là ngay ngắn, phiến nào cũng dài tám thước, rộng ba thước. Đây là vùng núi đá, dĩ nhiên thừa thãi vật liệu, nhưng đẽo gọt cho thành một đại lộ nhẵn nhụi thì thật là công trình vĩ đại, xem chừng không phải do quần nữ thuộc hạ Đồng Mỗ làm ra. Con đường lớn lát đá xanh này dài chừng hai dặm, cuối đường có một tòa lâu đài to lớn xây bằng đá. Hai cánh cổng có khắc hai con chim thứu cao đến ba trượng, mỏ nhọn vuốt sắc trông oai phong lẫm liệt. Cánh cổng chỉ khép hờ, vẫn không thấy một bóng người.

Hư Trúc từ từ tiến vào, vượt qua hai gian đình viện, bỗng nghe tiếng người quát hỏi: “Con giặc cái cất giấu bảo vật ở đâu? Bọn mi có chịu cung khai không?” Một thanh âm phụ nữ mắng lại: “Quân cẩu tặc! Việc đã đến thế này, chúng ta còn ham sống nữa ư? Bọn mi chỉ nằm mơ thôi.” Lại có tiếng nam nhân nói: “Vân đảo chúa! Chúng ta cứ ôn tồn nói chuyện, phải nóng nảy làm gì? Vân đảo chúa đối xử với nữ nhân như vậy, không khỏi có điều thái quá.”

Hư Trúc nhận ra lời khuyên giải đó là thanh âm của Đoàn công tử nước Đại Lý. Lúc Ô Lão Đại toan loạn đao phân thây Đồng Mỗ, cũng chỉ có vị Đoàn công tử này dùng lời chính trực khuyên can. Hư Trúc nghĩ thầm: “Vị công tử này dường như không biết võ công, song khí phách anh hùng, đầy lòng nghĩa hiệp, hơn những tay cao thủ võ học nhiều. Thật khiến cho người ta phải bội phục.”

Vân đảo chúa lại nói: “Chà chà! Bọn nha đầu quỷ sứ này muốn chết thì dễ lắm, nhưng trong thiên hạ đâu có chuyện chết dễ dàng thế được? Đảo Bích Thạch của ta có mười bảy thứ hình phạt kỳ dị, để ta cho bọn mi nếm từng thứ một. Nghe nói động Hắc Thạch đảo Phục Sa cũng có nhiều hình phạt lạ lùng, còn lợi hại hơn đảo Bích Thạch của ta. Quý động cũng nên biểu diễn cho anh em được mở rộng tầm mắt.” Cả bọn hoan hô rầm trời, có người lại đề nghị: “Bây giờ chúng ta mở cuộc thi, xem đảo nào, động nào có những hình phạt hiệu nghiệm nhất.”

Chỉ nghe tiếng náo động cũng đủ biết bọn này đông đến mấy trăm người, tiếng la ó reo hò muốn chọc thủng cả màng nhĩ. Hư Trúc muốn tìm khe hở để nhìn vào, nhưng tòa đại sảnh này xây dày khít bằng những tảng đá lớn, không một kẽ hở. Y ngẫm nghĩ một lát, rồi bốc đất bùn trát lên mặt, ngang nhiên tiến vào sảnh đường.

Hết thảy bàn ghế trong đại sảnh đều có người ngồi la liệt, còn đến quá nửa không có chỗ phải ngồi dưới đất, lại còn nhiều người đi qua đi lại, cười cười nói nói. Giữa sảnh đường có hơn hai chục nữ nhân áo vàng ngồi dưới đất không nhúc nhích, rõ ràng đã bị điểm huyệt. Quá nửa bọn nữ nhân mình đầy vết máu, bị thương rất nặng, chắc chắn là thuộc hạ bộ Quân Thiên. Trong sinh đang nhốn nháo, lúc Hư Trúc bước vào cũng có mấy người đưa mắt nhìn y, nhưng thấy y không phải đàn bà thì biết ngay không phải là nhân vật cung Linh Thứu. Ai cũng tưởng y là đệ tử của động chúa hay đảo chúa nào đó, chẳng thèm để ý.

Hư Trúc ngồi xuống ngưỡng cửa, nhìn bốn phía thì thấy Ô Lão Đại đang ngồi trên cái ghế lớn nhất ở hướng Tây, vẻ mặt tiều tụy nhưng cặp mắt vẫn lộ hung quang. Một hán tử to lớn cầm roi da đứng bên bọn nữ nhân, không ngớt quát mắng để bức bách bọn này cung khai nơi cất giấu bảo vật của Đồng Mỗ, nhưng quần nữ thà chết không chịu nói.

Ô Lão Đại lên tiếng: “Bọn nha đầu này đã chết đến gáy mà còn lì lợm. Ta nói cho mà biết, Đồng Mỗ đã bị sư muội hắn là Lý Thu Thủy giết chết rồi, chính mắt ta trông thấy. Bọn mi sớm ngoan ngoãn đầu hàng là hơn, chúng ta không giết làm gì.”

Một nữ nhân áo vàng đứng tuổi thét lên: “Chỉ ăn nói hồ đồ! Giáo chủ ta võ công tuyệt thế, đã luyện thành Kim Cương Bất Hoại, còn ai làm hại lão nhân gia được nữa? Bọn mi muốn tìm bí quyết hóa giải Sinh Tử Phù, e rằng chỉ là chuyện nằm mơ. Chắc hẳn giáo chủ vẫn bình yên vô sự, trong chốc lát sẽ quay về trừng trị bọn phản nghịch. Giả tỉ người đã qui tiên, thì bọn mi cũng không cách nào hóa giải Sinh Tử Phù, trong vòng một năm sẽ đau khổ rên la cho đến chết.”

Ô Lão Đại lạnh lùng đáp: “Được lắm! Mi chưa tin, để ta cho mi xem một vật.” Hắn lấy một cái bọc nhỏ, mở ra, bên trong rõ ràng là một cái chân người. Cả Hư Trúc lẫn bọn nữ nhân cùng nhận ra cái chân và chiếc giày của Đồng Mỗ, bất giác la lên một tiếng. Ô Lão Đại nói: “Lý Thu Thủy đem Đồng Mỗ chặt làm tám khúc, quăng tứ tung dưới khe núi. Ô mỗ tiện tay lượm một khúc chân đem về chơi. Bọn người nhìn kỹ xem, có phải hàng giả không?”

Quần nữ bộ Quân Thiên sớm tối không rời Đồng Mỗ, dĩ nhiên nhận được đó là chân trái của bà. Họ biết Ô Lão Đại không nói dối, bất giác đều khóc rống lên.

Bọn động chúa, đảo chúa sung sướng nhảy lên reo hò: “Con giặc già đó chết rồi, thật là tuyệt diệu!” “Từ nay trời cao trong sáng, bốn bể yên vui, chúng ta được sống tự do nhàn hạ.” “Ô Lão Đại! Ngươi thật là láo lếu, chuyện hay như thế mà không cho chúng ta biết. Nhất định phải phạt ngươi ba bát rượu lớn!” Bỗng có người la lên đầy vẻ thê lương: “Mụ chết rồi ư? Hỡi ôi! Thế thì Sinh Tử Phù trong người chúng ta không ai phá giải được nữa.”

Đột nhiên trong đám đông có tiếng thét cực kỳ khủng khiếp, vừa giống hổ gầm vừa giống sói tru, mọi người đều cả kinh im bặt. Trong đại sảnh, trừ tiếng kêu gào của mãnh thú bị thương, tuyệt không có tiếng động nào khác. Một người béo tròn béo trục đang lăn lộn dưới đất, hết cào lên mặt lại xé áo để hở đám lông ngực đen sì, hai tay cào cấu tựa hồ muốn móc ruột gan ra. Tay gã, mặt gã, ngực gã đều chảy máu đỏ lòm, mà mỗi lúc lại cào mạnh hơn, tiếng gào thét càng về sau càng thêm ghê rợn, tưởng chừng như đang bị ma quỉ đòi mạng. Có người khẽ nói: “Sinh Tử Phù sắp lấy mạng y rồi!”

Hư Trúc từng trúng tới chín cái Sinh Tử Phù, nhưng chẳng bao lâu đã được Đồng Mỗ truyền phép hóa giải, nên chưa đau khổ mấy. Bây giờ y thấy gã béo mập muốn tự moi gan ruột ra, không khỏi kinh tâm động phách. Bọn động chúa đảo chúa bị Đồng Mỗ gieo Sinh Tử Phù vào người, khiếp hãi đến thế cũng là dễ hiểu.

Trong khoảnh khắc, quần áo gã béo ỵ đã rách mướp, da thịt chỗ nào cũng có dấu móng tay cho tới chảy máu đầm đìa. Trong đám đông bỗng có tiếng nói: “Ca ca! Ráng bình tĩnh lại một chút.” Một người vừa chạy ra vừa nói tiếp: “Để tiểu đệ điểm huyệt đã, rồi sẽ tìm phương điều trị.” Tướng mạo gã này tương tự như gã béo, nhưng nhỏ tuổi hơn, người cũng không mập bằng, chỉ nhìn cũng biết là anh em ruột. Mặt đầy vẻ sợ hãi, gã thận trọng đến gần gã béo, còn cách chừng ba thước thì đột nhiên phóng chỉ điểm vào huyệt Kiên Tỉnh. Gã béo né người đi tránh được, lại xoay tay lại ôm chặt lấy gã kia, há miệng ra cắn vào mặt. Gã kia la lên ầm ĩ: “Ca ca! Buông tay ra! Đệ đây mà!” Nhưng gã béo đã mê man, cắn loạn lên như người điên. Gã kia cố giãy giụa mà không thoát nổi, đã bị ca ca cắn đứt mấy miếng thịt trên mặt, máu chảy đầm đìa, kêu gào thảm thiết.

Đoàn Dự quay lại nói với Vương Ngữ Yên: “Vương cô nương! Phải nghĩ cách cứu họ đi chứ?” Vương Ngữ Yên nhíu cặp mày thanh tú, đáp: “Người đó phát điên rồi, sức mạnh vô cùng, lại không theo lề lối võ công chi hết, ta không có cách nào.” Đoàn Dự quay sang năn nỉ Mộ Dung Phục: “Mộ Dung huynh! Nhà Mộ Dung có thần kỹ Gậy ông đập lưng ông, có thể dùng cái bệnh của y để chữa cho y được không?” Mộ Dung Phục không đáp, mặt đầy vẻ vô tình. Bao Bất Đồng hung hăng lên tiếng: “Ngươi dám kêu công tử ta học cái chiêu Cẩu Xực Xí Quách mà tới cắn hắn một miếng ư?” Đoàn Dự băn khoăn đáp: “Đúng là đệ ăn nói bừa bãi, xin Bao huynh đừng trách”. Chàng đến gần gã béo, lên tiếng nói: “Tôn huynh! Người này là em ruột tôn huynh, mau buông ra đi!” Gã béo lại càng ghì chặt, hai anh em cùng gầm rú như đôi mãnh thú.

Vân đảo chúa túm lấy một cô gái áo vàng, hỏi: “Quá nửa số người trong đại sảnh đã trúng Sinh Tử Phù của mụ quỉ lùn, chẳng mấy chốc ai nấy đều nổi cơn điên, mấy trăm cái miệng sẽ cắn bọn mi nát ra. Mi có sợ không?” Cô gái liếc nhìn gã béo, vẻ mặt cực kỳ sợ hãi. Vân đảo chúa lại nói: “Bây giờ Đồng Mỗ đã chết rồi, mi hãy cho bọn ta biết chỗ cất giấu bí lục để cứu chữa cho mọi người. Dĩ nhiên ai cũng da tạ, không làm khó dễ bọn mi nữa.” Cô gái đáp: “Không phải là ta không chịu nói, thực tình… thực tình chẳng ai được biết. Giáo chủ hành sự không bao giờ để bọn nô tỳ chúng ta trông thấy.”

Sở dĩ Mộ Dung Phục theo bọn Ô Lão Đại lên núi, giúp họ một tay là vì muốn thu phục bọn kỳ nhân dị sĩ này, ngày sau có chỗ dùng. Y thấy Đồng Mỗ chết rồi, Sinh Tử Phù trong người bọn này không giải trừ được, lại tưởng Sinh Tử Phù là một loại kịch độc không thể dùng võ công để hóa tán, giả tỉ bọn chúng chết sạch thì cuộc mưu đồ đại sự lần này sẽ biến thành một giấc mơ xuân. Y cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn nhìn nhau lắc đầu, vô kế khả thi.

Vân đảo chúa biết cô gái áo vàng nói thực, lại bắt đầu cảm thấy huyệt đạo trong người ngấm ngầm tê nhức, tựa như triệu chứng Sinh Tử Phù sắp phát tác. Gã giận dữ quát lên: “Hay lắm, quả nhiên mi không nói. Ta đập chết con nha đầu này rồi sẽ tính tiếp.” Gã vung cây roi dài lên veo véo, quật xuống đầu thiếu nữ. Chiêu này lực đạo cực kỳ mãnh liệt, nếu đập trúng thì dĩ nhiên đầu óc cô gái kia nát bét.

Bỗng nghe “vù” một tiếng, một vật gì đó từ ngoài cửa bắn vào bức tường đá đối diện, đập vào tường rồi văng ngược lại trúng vào lưng thiếu nữ, đẩy cô ta văng ra hơn một trượng. Cây roi dài của gã họ Vân đập xuống phiến đá xanh đánh “sầm” một tiếng, vụn đá bay tứ tung. Biến cố này chỉ trong chớp mắt, chẳng ai nhìn rõ người nào phóng ám khí, chỉ thấy dưới đất có một vật tròn tròn sắc vàng đang lăn long lóc, nhìn kỹ thì ra một trái tùng. Ai nấy cả sợ kêu lên: “Dùng một trái tùng nhỏ xíu mà đẩy được cô gái ra xa hơn trượng, nội lực thật là ghê gớm, không hiểu là ai?”.

Ô Lão Đại bỗng nghĩ ra một chuyện, la hoảng: “Đồng Mỗ! Chính là Đồng Mỗ!”.

Lúc Lý Thu Thủy chém đứt chân trái Đồng Mỗ, Ô Lão Đại nấp ở sau tảng đá lớn, chính mắt trông thấy Hư Trúc cùng mụ bị đánh rớt xuống vực thẳm trăm trượng, Ô Lão Đại liền nhặt khúc chân của Đồng Mỗ gói vào tấm vải dầu dem về, đoán là Đồng Mỗ chết rồi, nhưng không tận mắt trông thấy mụ chết ra sao nên vẫn còn băn khoăn. Hôm đó Hư Trúc dùng thủ pháp của Đồng Mỗ ném trái tùng trúng bụng y, Ô Lão Đại đã bị nếm mùi đau khổ. Bây giờ hắn thấy trái tùng trong nhà đại sảnh, cứ tưởng Đồng Mỗ chưa chết trở về, hồn vía lên mây.

Mọi người nghe Ô Lão Đại la “Đồng Mỗ” đều quay ra ngoài nhìn, trong đại sảnh vang lên những tiếng “sột soạt”, “choang choảng”, “leng keng”. Mấy trăm món binh khí đồng thời rút ra, âm thanh thật là ghê rợn. Tuy ai cũng cảm binh khí trong tay, nhưng đều lùi lại.

Mộ Dung Phục lại hiên ngang tiến lên hai bước ra gần cửa để xem Đồng Mỗ là nhân vật thế nào. Thực ra hôm trước Hư Trúc cõng Đồng Mỗ rơi từ đỉnh núi xuống, y đã dùng công phu Đẩu Chuyển Tinh Di hóa giải lực rơi, từng thấy mặt mụ rồi. Nhưng y không ngờ được cô gái thân hình bé nhỏ, khuôn mặt độ mười tám mười chín tuổi, đẹp tựa hoa xuân đó chính là Thiên Sơn Đồng Mỗ mà bọn ma đầu nghĩ tới phải khiếp vía kinh hồn.

Đoàn Dự lạng người ra đứng chắn trước mặt Vương Ngữ Yên, chỉ sợ nàng bị người ta đánh nhầm. Còn Vương Ngữ Yên lại kêu: “Biểu huynh! Cẩn thận!”

Mọi người chăm chăm nhìn mãi ra ngoài cửa, hồi lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Bao Bất Đồng hô lớn: “Đồng Mỗ! Nếu mụ chê bọn khách chúng ta là bất lịch sự thì hãy xuất hiện đánh đi.” Ngoài cửa vẫn im lặng, không có tiếng đáp. Phong Ba Ác cũng nói: “Phải lắm! Để Phong mỗ lĩnh giáo Đồng Mỗ chiêu tuyệt học đầu tiên. Biết đánh không lại cũng phải đánh chơi, Phong mỗ hiếu chiến đã quen, chết cũng không chịu bỏ.” Gã nói xong bèn múa tít đơn đao che trước mặt, rồi lạng người xông ra cửa. Phong Ba Ác tuy tính tình hiếu chiến, kinh nghiệm rất nhiều, nhưng bản lĩnh chưa vào hạng nhất. Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng coi gã như ruột thịt, biết gã không phải là đối thủ của Đồng Mỗ, cũng nhất tề xông ra tiếp tay.

Bọn động chúa đảo chúa có kẻ khen bốn gã kiêu dũng hơn người, có kẻ lại cười thầm: “Bọn ngươi chưa biết Đồng Mỗ lợi hại thế nào nên mới ngông cuồng như vậy, lát nữa được nếm mùi thì hối hận cũng muộn rồi.” Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng đứng ngoài cửa, một gã giọng lanh lảnh, một gã giọng ồm ồm cứ kêu réo Đồng Mỗ khiêu chiến, nhưng trước sau vẫn không có ai đáp lại.

Người vừa ném trái tùng cứu thiếu nữ áo vàng chính là Hư Trúc. Bản tính y vốn trung thực, thấy mọi người sợ hãi hoảng loạn liền lên tiếng: “Không phải đâu, là ta đây. Đồng Mỗ đã qua đời thật rồi, các vị không cần phải nghi ngờ mà kinh hãi.” Hư Trúc thấy gã béo vẫn đang cắn xé em trai bèn chạy đến, giơ tay ra vỗ vào lưng gã. Cái vỗ này chính là một chiêu Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, một luồng khí ấm áp ôn hòa thấm vào trong người gã béo, lập tức Sinh Tử Phù trong người gã tiêu tan.

Gã béo há miệng, buông tay, ngồi dậy thở hổn hển, vẻ mặt buồn rầu nói: “Hiền đệ làm sao vậy? Ai đả thương hiền đệ tàn nhẫn đến thế? Mau mau nói đi, ca ca quyết báo thù rửa hận cho hiền đệ.” Gã kia thấy anh tỉnh táo thì cả mừng, quên hết đau đớn, lớn tiếng reo: “Ca ca khỏi rồi! Ca ca khỏi rồi!”

Hư Trúc lại đưa tay vỗ vào vai bọn nữ nhân áo vàng, hỏi: “Phải chăng các vị ở bộ Quân Thiên? Các tỉ muội bộ Dương Thiên, Chu Thiên, Hiệu Thiên,.. đã về tới, chỉ vì xích sắt bị đứt nên nhất thời chưa đến đây được. Các vị mau mau đi tìm xích sắt hay dây lớn cũng được, chúng ta ra đó làm cầu đón họ về đã.” Bắc Minh chân khí đầy dẫy trong bàn tay Hư Trúc, bất luận bọn nữ nhân bộ Quân Thiên bị phong tỏa huyệt đạo nào, y cũng vỗ một cái là giải khai được hết.

Quần nữ vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, lục tục đứng dậy nói: “Đa tạ tôn giá cứu mạng, chưa dám thỉnh giáo quý tính đại danh.” Mấy cô còn trẻ tính tình nóng nảy, chạy ra cửa hô to: “Chúng ta mau mau đi tiếp ứng cho các vị tỉ muội, rồi sẽ quay về quyết tử chiến cùng bọn phản tặc này.” Họ vừa hô vừa quay lại vẫy tay tạ ơn Hư Trúc.

Hư Trúc chắp tay nói: “Không dám! Không dám! Tại hạ chẳng có tài đức gì, không dám nghe các vị tạ ơn. Người đáng tạ ơn là một vị cao nhân khác, lão nhân gia chỉ mượn tay tại hạ mà thôi.” Ý Hư Trúc muốn nói nội lực cùng võ công của y đã được ba vị sư trưởng truyền thụ, chính là Đồng Mỗ đã cứu bọn này.

Quần nào thấy y chỉ giơ tay một cái là giải huyệt cho quần nữ xong xuôi, thật là thủ pháp kỳ diệu chưa được mắt thấy tai nghe bao giờ. Chúng nhìn Hư Trúc thấy tướng mạo tầm thường mà tuổi lại còn trẻ, nhất định không thể có công lực cao thâm đến thế. Chúng nghe nói là có cao nhân khác mượn tay để cứu bọn kia, tin chắc là Đồng Mỗ đã về tới cung Linh Thứu.

Ô Lão Đại đã ở cùng Hư Trúc mấy ngày trên đỉnh núi tuyết, bây giờ tuy nhà sư đã để tóc dài, phục sức kiểu khác, nhưng vừa mở miệng nói là hắn nhận ra ngay. Hắn nhảy xổ đến cạnh Hư Trúc, nắm lấy mạch môn bên tay phải, quát hỏi: “Tiểu hòa thượng! Đồng… Đồng Mỗ đã về tới đây rồi ư?”.

Hư Trúc đáp: “Ô tiên sinh! Bụng tiên sinh bị thương đã khỏi chưa? Tại hạ… tại hạ không phải là đệ tử nhà Phật nữa. Hỡi ơi! Những chuyện đã qua… nghĩ lại thật là xấu hổ.” Hư Trúc nói đến đây bất giác thẹn đỏ mặt lên, may mà y đã trát bùn lem luốc nên người ngoài không trông thấy.

Ô Lão Đại đã nắm được mạch môn Hư Trúc, nghĩ rằng y không có cách nào phản kháng, liền vận thêm hai thành nội lực. Hắn vừa muốn giữ Hư Trúc làm con tin vừa muốn buộc Hư Trúc mở miệng van xin, hy vọng rằng Đồng Mỗ quí trọng gã tiểu hòa thượng này, nếu muốn giết mình thì cũng phải ném chuột sợ vỡ đồ. Ngờ đâu Hư Trúc vẫn thản nhiên như không, nội lực của hắn phóng ra mất hút như hòn đá ném xuống biển. Ô Lão Đại hoảng sợ bèn không dám thúc đẩy nội lực nữa, nhưng vẫn chưa chịu buông tay.

Quần hào thấy Ô Lão Đại kiềm chế được mạch môn đối phương, đều cho rằng dù bản lĩnh Hư Trúc cao hơn Ô Lão Đại nhiều thì cũng không tài nào kháng cự được nữa. Họ lại nghĩ: “Nếu tiểu tử này đúng là cao thủ thì nhất quyết không để bị kiềm chế dễ dàng như thế.” Cả đám nhốn nháo bâu vào hỏi: “Thằng lỏi kia! Mi là ai? Ở đâu đến đấy?” “Tên họ mi là gì? Sư trưởng mi là ai?” “Ai phái mi đến đây? Có phải Đồng Mỗ không? Mụ ta còn sống hay chết rồi

Hư Trúc trả lời từng câu một, vẻ mặt rất khiêm cung: “Tại hạ đạo hiệu là Hư Trúc Tử. Đồng Mỗ đã qua đời rồi. Di thể lão nhân gia đã đem về bên kia Tiếp Thiên Kiều. Tại hạ vốn ở phái… Hỡi ôi!…. Nói ra xấu hổ, tại hạ đã lầm lỡ mất rồi, không tiện trình bày. Giả tỉ các vị không tin, thì xin  chờ lát nữa sẽ cùng hành lễ trước di hài của Đồng Mỗ lão nhân gia, tại hạ đến đây là để tham gia an táng. Phần lớn các vị vốn là thuộc hạ của lão nhân gia, tại hạ chỉ mong các vị quên đi chuyện cũ, phục lạy trước linh vị người để xóa bỏ những thù hận xưa kia thì thật là hay lắm.” Giọng điệu của y lúc thì hổ thẹn, lúc thì thương cảm, câu nọ chẳng dính với câu kia, sau cùng là mấy câu năn nỉ.

Quần hào thấy Hư Trúc nói lung tung, tựa như tâm trí không tỉnh táo, nên bớt sợ hãi, tính cuồng ngạo lại nổi lên. Chúng ngoác miệng ra mà thóa mạ: “Thằng lỏi con! Mi là cái thá gì mà dám bảo bọn ta cúi đầu lạy trước linh vị con quỷ lùn?” “Mẹ kiếp! Mụ ác tặc đó chết như thế nào? Cái chân chó này có phải của hắn không?”

Hư Trúc đáp: “Các vị vốn có thâm cừu với Đồng Mỗ, nhưng lão nhân gia đã tạ thế rồi, xin đừng ôm hận làm chi, cũng đừng thóa mạ người quá cố. Ô tiên sinh nói đúng, Đồng Mỗ đã chết dưới tay sư muội là Lý Thu Thủy. Khúc chân này đúng là di thể lão nhân gia. Hỡi ôi! Đời người như giấc mộng phải có lúc tỉnh, như hạt sương mai có lúc bay hơi. Lão nhân gia dù bản lĩnh nghiêng trời, rốt cuộc cũng công tán khí tuyệt, hóa thành bụi đất. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm bồ tát, Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát, xin tiếp dẫn Đồng Mỗ sớm trở về thế giới Tây phương cực lạc!”

Quần hào nghe Hư Trúc ăn nói trôi chảy, biết rằng Đồng Mỗ đã chết thật rồi. Bỗng có người hỏi: “Lúc Đồng Mỗ lâm tử, mi có ở bên cạnh mụ không?” Hư Trúc đáp: “Có. Tại hạ phục dịch bên mình lão nhân gia đã mấy tháng nay.” Quần hào đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ một điều: “Dứt khoát bí quyết phá giải Sinh Tử Phù phải ở trong mình thằng lỏi này.”

Bóng xanh thấp thoáng, một người vọt đến cạnh Hư Trúc, túm lấy mạch môn ở tay trái y. Ô Lão Đại cũng thấy sau gáy mát rượi, đã bị kiếm kề vào cổ. Có người lên giọng dõng dạc nói: “Ô Lão Đại! Thả y ra ngay!”

Lúc Ô Lão Đại thấy có người nắm tay trái Hư Trúc, lão tưởng rằng bằng hữu đến giúp mình. Đến khi hắn phát giác ra có người uy hiếp mình, toan phóng chưởng chống đỡ thì đã chậm mất rồi, kiếm đã kề cổ, hắn chỉ còn chờ chết. Người đứng phía sau gằn giọng nói: “Ngươi không thả y ra, thì lập tức ta cắt cái đầu ngươi xuống.” Ô Lão Đại hốt hoảng buông tay Hư Trúc ra, nhảy vọt tới mấy bước rồi mới quay lại nói: “Châu Nhai Song Quái! Ô mỗ không quên chuyện này đâu!” .

Hán tử cầm kiếm uy hiếp y nhe răng cười nói: “Ô Lão Đại! Bất luận ngươi muốn sao cũng được, Châu Nhai Song Nghĩa xin đón tiếp.” Giang hồ đặt ngoại hiệu cho hai gã này là Châu Nhai Song Quái, nhưng chúng lại tự xưng là Châu Nhai Song Nghĩa. Đại quái nắm mạch môn Hư Trúc, còn nhị quái thọc tay vào túi áo y. Hư Trúc nghĩ thầm: “Chẳng hiểu các ngươi tìm cái chi, trong người ta chẳng có gì đáng giá hết.” Nhị quái lôi ra vật đầu tiên là bức họa của Vô Nhai Tử, liền mở ra coi.

Cả mấy trăm con mắt trong đại sảnh đều đổ dồn vào nhìn! Bức họa tuy đã bị Đông Mỗ đạp lên, lại bị ướt ở trong hầm nước đã song mỹ nữ trong tranh vẫn tươi đẹp linh động khác thường, tựa như sắp từ trong bức họa bước ra. Nét đan thanh thật đã đến mức xuất thần nhập hóa. Mọi người vừa nhìn vào bức họa, lập tức lại ngó, sang Vương Ngữ Yên. Những tiếng nói: “Ồ!”, “Ái chà!”, “Hừ!” vang lên không ngớt, người thì ngạc nhiên, người thì khinh miệt.

Quần hào cứ tưởng đây là một tranh sơn thủy, hoặc bản đồ chỉ đường đi tìm bí quyết hay linh dược phá giải Sinh Tử, ngờ đâu chỉ là chân dung Vương Ngữ Yên, tất cả đều thất vọng. Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự cùng Mộ Dung Phục cũng “Ái chà!”, nhưng cảm tưởng lại khác nhau. Vương Ngữ Yên thấy Hư Trúc cất trong người bức chân dung của mình thì vừa kinh ngạc vừa thẹn thùng, mặt đỏ đến tận mang tai. Nàng tự hỏi: “Chẳng lẽ… chẳng lẽ… người này mới gặp ta một lần ở kỳ hội mà cũng để ý ghi nhớ vào tâm khảm, giống như Đoàn công tử? Nếu không thì sao y lại vẽ hình mình mà giấu trong người?” Đoàn Dự nghĩ: “Vương cô nương là tiên nữ hóa thân, dung mạo tuyệt thế. Vị tiểu sư phụ này điên đảo thần hồn cũng chẳng có chi là lạ. Hỡi ôi! Đáng tiếc là mình không có nét bút linh hoạt như y, nếu không thì cũng vẽ một bức chân dung Vương cô nương, để sau khi chia tay được sớm hôm chiêm ngưỡng, mối tương tư giảm bớt phần nào.” Mộ Dung Phục lại nghĩ: “Té ra tên tiểu hòa thượng này cũng là một con cóc ghẻ muốn sánh cùng thiên nga.”

Nhị quái liệng bức họa xuống đất rồi lại lục lọi trong người Hư Trúc. Chúng lôi ra được tờ điệp văn của chùa Thiếu Lâm cấp cho y trong lễ thế phát, một ít bạc vụn, mấy nắm lương khô, một đôi tất vải, chẳng có gì dính líu đến Sinh Tử Phù cả.

Quần hào đều sợ hai gã tìm được bí quyết hoặc linh đan sẽ chiếm làm của riêng, nên ai cũng chằm chằm nhìn chúng. Giả tỉ họ thấy hai người tìm được vật gì khác lạ là lập tức nhảy xổ lại cướp giật, chắc chắn xảy ra hỗn chiến.

Châu Nhai Đại Quái thóa mạ: “Thằng giặc thối tha này! Lúc con mụ ác tặc kia sắp chết đã nói với mi những gì?” Hư Trúc đáp: “Tiên sinh hỏi Đồng Mỗ lúc sắp chết đã nói gì với tại hạ ư? Hừ! Lão nhân gia chỉ nói: “Không phải hắn! Không phải hắn? Ha ha!”, sau đó cười ba tiếng rồi tắt thở.” Quần nào chẳng hiểu “Không phải hắn! Ha ha” là nghĩa làm sao, mấy người nóng tính mắng nhiếc om sòm.

Đại quái nói: “Con mẹ nó! Không phải hắn là sao? Mụ ác tặc còn nói gì nữa không?” Hư Trúc đáp: “Tiên sinh khi nhắc tới Đồng Mỗ lão nhân gia thì nên kính cẩn một chút, đừng thóa mạ người quá cố như vậy?” Đại quái nổi giận đùng đùng, vừa giơ tay trái lên đập xuống đỉnh đầu y vừa quát mắng: “Thằng giặc thối tha này! Ta thích thóa mạ mụ ác tặc thì đã làm sao?”

Ánh hàn quang lấp loáng, một thanh trường kiếm bỗng chĩa ngang ra trên đỉnh đầu Hư Trúc, lưỡi kiếm quay ngược lên. Giả tỉ Châu Nhai Đại Quái tiếp tục tập xuống thì bàn tay hắn phải đứt lìa chứ không trúng vào đầu HưTrúc, hắn kinh hãi vội thu chưởng về. Đà thu vội quá, người hắn bật ngửa ra sau, buông cổ tay Hư Trúc, lùi lại luôn ba bước. Nhưng hắn vẫn thấy lòng bàn tay trái hơi rát, giơ lên coi thì thấy một vệt rướm máu, nếu rút tay về chỉ chậm nửa cái nháy mắt là đứt mất bàn tay rồi! Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận, trừng mắt nhìn xem ai phóng kiếm ra, thì thấy một lão già tuổi trạc ngũ tuần, mình mặc áo xanh, râu dài phất phơ, mặt mũi thanh tú, chính là Kiếm thần Trác Bất Phàm. Chiêu kiếm vừa rồi mau lẹ phi thường lại đúng phương vị, đủ biết kiếm thuật lão đã đến mức siêu quần. Châu Nhai Đại Quái nhớ lại hôm trước, Khu đảo chúa đảo Kiếm Ngư toan chạy trốn, chỉ trong khoảnh khắc đã bị lão Kiếm Thần này chặt đầu, nên tuy hắn nóng nảy mà không dám gây chuyện với vị cao thủ này. Hắn hỏi: “Các hạ ra tay đả thương tại hạ là có ý gì?”

Trác Bất Phàm mỉm cười đáp: “Mọi người chỉ trông vào gã nói ra cách hóa giải Sinh Tử Phù. Lão huynh nóng tính đem giết gã đi, khi Sinh Tử Phù trong mình các huynh đệ phát tác thì sao?” Châu Nhai Đại Quái cứng lưỡi, chỉ ấp úng: “Cái đó… Cái đó,.” Lúc Kiếm Thần bức bách Đại Quái lùi lại, khuỷu tay cũng không biết vô tình hay hữu ý đã thúc vào bả vai Nhị Quái. Nhị Quái đứng không vững, loạng choạng lùi lại bốn bước, trong người khí huyết nhộn nhạo cả lên. Gã gượng đứng vững lại được, nhưng cũng không dám lên tiếng gây gổ.

Trác Bất Phàm nhìn Hư Trúc ôn tồn hỏi: “Tiểu huynh đệ! Lúc Đồng Mỗ lâm tử, ngoài câu “Không phải hắn! Ha ha!”, còn nói gì nữa không?”

Hư Trúc đột nhiên đỏ mặt lên, hổ thẹn cúi đầu xuống, vẻ mặt sượng sùng như đang ăn vụng bị bắt quả tang. Thì ra y nghĩ tới câu nói của Đồng Mỗ: “Ngươi lấy bức họa ra để ta xé đi, khi đó ta không còn lo gì nữa, có thể chỉ cho ngươi đi tìm vị cô nương trong mộng.” Không ngờ khi Đồng Mỗ nhìn kỹ, phát giác ra mỹ nhân trong tranh không phải là Lý Thu Thủy, bà vừa sung sướng lại vừa đau khổ,rồi nhắm mắt lại không nói nữa. Hư Trúc nghĩ rằng: “Đồng Mỗ qua đời đột ngột, khắp thiên hạ chẳng còn ai biết tông tích và cô nương trong mộng kia, kiếp này ta không thể gặp lại nàng.” Y nghĩ tới đó, không khỏi ngẩn ngơ như mất cả hồn vía.

Trác Bất Phàm thấy Hư Trúc có vẻ khác lạ, đoán rằng y đang cố giữ bí mật gì đó, liền dịu giọng nói: “Tiểu huynh đệ! Đồng Mỗ đã nói điều chi, cứ nói ra cho anh em biết. Trác mỗ không làm khó dễ gì, lại tìm cách giúp tiểu huynh đệ giải quyết khó khăn.” Hư Trúc đỏ mặt lên, lắc đầu nói: “Chuyện này tại hạ không thể… không thể nói ra.” Trác Bất Phàm lại hỏi: “Sao tiểu huynh đệ không nói được? Hư Trúc đáp: “Việc này nói ra… Ôi chao! Tại hạ không nói được, dù tiên sinh có giết cũng chịu, nhất định không thể nói.” Trác Bất Phàm, cố gắng: “Tiểu huynh đệ không nói thật ư?” Hư Trúc đáp gọn: “Không nói!”

Trác Bất Phàm chăm chú nhìn Hư Trúc, thấy vẻ mặt y rất cương quyết. Soạt một tiếng, trường kiếm ra khỏi vỏ, hào quang lấp loáng, kiếm phong veo véo, chặt chiếc bàn bát tiên thành chín mảnh theo hình chữ Tỉnh. Vạch chữ Tỉnh thì chẳng có gì khó, chỉ lạ ở chỗ cái bàn bị chặt thành chín miếng vuông vắn bằng nhau không lớn không nhỏ, tựa như đã lấy thước đo rồi mới cắt. Trong đại sảnh vang lên tiếng hoan hô như sấm động.

Vương Ngữ Yên nhẹ nhàng nói: “Tuyệt kỹ Chu Công Kiếm này là của Nhất Tư Tuệ Kiếm Môn ở Kiến Dương tỉnh Phúc Kiến. Lão tiền bối họ Trác, ngoại hiệu Kiếm Thần, thì chắc đại danh là Trác Bất Phàm, chưởng môn phái Nhất Tự Tuệ Kiếm.” Nàng nói rất rành mạch, quần hào đang reo hò mà cũng nghe rõ, liền quay lại chăm chú nhìn Kiếm Thần. Trong đại sảnh lại yên lặng như tờ.

Trác Bất Phàm cười ha hả nói: “Nhãn lực cô nương thật là ghê gớm, chẳng những biết rõ môn phái mà còn gọi ra được kiêm chiêu cùng danh tự của lão phu.” Quần hào nghĩ thầm: “Trước nay chưa nghe nói đến phái Nhất Tự Tuệ Kiếm ở Phúc Kiến. Lão này kiếm thuật tinh diệu, lẽ ra môn phái lão tiếng tăm lừng lẫy mới phải, thế mà sao không ai biết?” Bỗng Trác Bất Phàm thở dài nói: “Môn phái của lão phu chỉ có chưởng môn chứ không có đệ tử! Cả ba đời phái Nhất Tự Tuệ Kiếm tổng cộng được sáu mươi hai người, ba mươi ba năm trước đã bị Thiên Sơn Đồng Mỗ giết sạch.” Mọi người đều kinh hãi nghĩ thầm: “Té ra lão này đến cung Linh Thứu để báo đại thù của sư môn.”

Bỗng Trác Bất Phàm rung thanh trường kiếm, nhìn Hư Trúc nói: “Tiểu huynh đệ! Mấy chiêu kiếm pháp này ta muốn truyền cho tiểu huynh đệ. Tiểu huynh đệ tính sao?”

Hắn vừa nói xong, quần hùng đều lộ vẻ kinh ngạc. Người học võ nếu gặp cơ duyên, được cao nhân thương yêu truyền cho một vài tuyệt chiêu thì có thể suốt đời tiếng tăm lừng lẫy, tính mạng được bảo đảm. Nhưng trên giang hồ, những kẻ hiểm độc, lừa thầy phản bạn cũng không phải là ít, nên tìm được người dạy võ công chẳng phải dễ dàng. Ai ai cũng thấy kiếm thuật Trác Bất Phàm đã đến chỗ xuất quỷ nhập thần, thế mà lão chịu truyền thụ cho Hư Trúc, chắc cũng vì lời di ngôn của Đồng Mỗ có liên quan đến Sinh Tử Phù.

Hư Trúc chưa kịp trả lời, đột nhiên có thanh âm lạnh lùng hỏi: “Trác tiên sinh! Tiên sinh cũng bị trúng Sinh Tử Phù chăng?” Trác Bất Phàm quay nhìn, thì ra là một đạo cô trung niên, liền hỏi lại: “Sao tiên cô lại hỏi vậy?”

Đoàn Dự nhận ra vị đạo cô này chính là động chủ Tân Song Thanh của Vô Lượng Động, vốn là chưởng môn Tây Tông của Vô Lượng Kiếm, từng bị thuộc hạ của Đồng Mỗ thu phục, đổi cả danh hiệu. Chàng nhớ lại những chuyện cũ, không dám giáp mặt Tân Song Thanh cùng thuộc hạ của bà là lão Tả Tử Mục, chỉ sợ họ lôi nợ cũ ra tính sổ, bèn vội vã nấp sau lưng Bao Bất Đồng.

Tân Song Thanh đáp: “Trác tiên sinh không trúng Sinh Tử Phù thì phải dùng thiên phương bách kế để tìm cách phá giải thứ bùa đó làm gì? Giả tỉ Trác tiên sinh lại muốn kiềm chế chúng ta thì các huynh đệ ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo vừa thoát khỏi hang sư tử lại chui vào hang cọp, e rằng chẳng ai chịu cam tâm. Trác tiên sinh tuy kiếm pháp thông thần, nhưng nếu muốn dồn chúng ta vào thế cùng, thì hết thảy chúng ta phải quyết một trận sinh tử với tiên sinh!” Lời lẽ của đạo cô tuy không cao ngạo nhưng cũng chẳng thấp hèn, nói huỵch toẹt ra dụng ý của Trác Bất Phàm, thật là sắc bén vô cùng.

Trong quần hào lập tức có mấy chục người lên tiếng: “Tân động chúa nói đúng lắm.” “Tiểu tử! Đồng Mỗ có di ngôn gì ngươi hãy nói mau, không thì lập tức bị bọn ta loạn đao phân thây!” Trác Bất Phàm vung trường kiếm lên veo véo rồi nói: “Tiểu huynh đệ bất tất phải sợ. Ngươi cứ ở cạnh lão phu, xem có ai động đến được lông chân của ngươi không? Di ngôn của Đồng Mỗ, tiểu huynh đệ chỉ được nói với một mình lão phu, nếu người thứ ba nghe được thì lão phu không truyền kiếm pháp cho tiểu huynh đệ nữa.”

Hư Trúc lắc đầu đáp: “Di ngôn của Đồng Mỗ chỉ liên quan đến một mình tại hạ, các vị có biết cũng chẳng ích gì. Hơn nữa, dù sao tại hạ cũng không thể nói ra. Kiếm pháp của các hạ tuyệt diệu đến đâu, tại hạ cũng không muốn học.”

Quần hào hoan hô vang dội: “Hay lắm! Hay lắm! Hảo tiểu tử, ngươi thật là có cốt khí. Ngươi học kiếm pháp của lão để làm gì?” “Kiếm pháp của lão chẳng có chi kỳ dị, một tiểu cô nương xinh đẹp tha thướt cũng nói huỵch toẹt ra được!”. Lại có người nói: “Cô nương kia đã biết lai lịch kiếm pháp, chắc cũng có cách phá giải. Tiểu huynh đệ đã cất kỹ hình ảnh của cô nương trong người, ha ha, phải bái cô nương đó làm sư phụ mới đúng.”

Lúc Trác Bất Phàm nghe Vương Ngữ Yên nói toạc môn phái của mình đã lấy làm căm giận, bây giờ nghe bọn này gièm pha thì không chịu được nữa. Lão liếc nhìn Vương Ngữ Yên, chỉ thấy nàng nhìn Mộ Dung Phục đến xuất thần, chẳng thèm để ý đến ai. Lão bèn nghĩ: “Người ta bảo nàng biết cách phá giải kiếm pháp của mình, nàng không lập tức phủ nhận ngay, thế thì tự coi là biết phá giải thật.” Kỳ thực Vương Ngữ Yên đang để hết tâm hồn vào Mộ Dung Phục. Thấy chàng có vẻ thẫn thờ, nàng tự hỏi: “Sao biểu huynh lại buồn phiền? Chàng bực bội vì ta chăng? Ta đắc tội với chàng chỗ nào? Không lẽ… không lẽ vì vị tiểu sư phụ kia đã vẽ chân dung ta cất giấu trong mình, nên chàng lấy làm tức giận?”. Mọi người bàn tán lao xao, nàng tuy có nghe nhưng không hiểu chi hết.

Trác Bất Phàm thấy Vương Ngữ Yên không nói gì, căm tức đến cực điểm. Đột nhiên lão nhìn đến bức họa, nghĩ thầm: “Thằng hỏi này vẽ chân dung con ranh kia cất giấu trong người, dĩ nhiên có tình ý tha thiết với thị. Ta muốn bắt gã nói ra di ngôn của Đồng Mỗ, phải bắt lấy con nhãi kia để uy hiếp mới xong.” Lão cuộn tấm đồ hình nhét trả vào bọc Hư Trúc, cười ha hả: “Tiểu huynh đệ! Tâm sự của tiểu huynh đệ lão phu đã biết cả rồi. Ha ha! Trai tài gái sắc, ông trời đã ghép sẵn thành đôi! Nhưng có người phá đám, tiểu huynh đệ muốn được như nguyện cũng không phải chuyện dễ. Thôi thôi, bây giờ lão phu nhất quyết đứng ra tác thành hảo sự, để cô nương kia kết duyên cùng tiểu huynh đệ, lập tức bái thiên địa rồi động phòng tại cung Linh Thứu này ngay đêm nay, Tiểu huynh đệ tính sao?” Lão vừa nói vừa cười ha hả, trỏ vào Vương Ngữ Yên.

Khi phái Nhất Tự Tuệ Kiếm bị Đồng Mỗ giết sạch, Trác Bất Phàm không ở Phúc Kiến nên mới thoát nạn. Lão trốn lên vùng núi Trường Bạch hoang vu lạnh lẽo để nghiên cứu kiếm pháp, một hôm vô tình tìm được một bộ kiếm phổ của cao thủ đời trước để lại. Lão luyện tập ba mươi năm mới thành tựu, đã tự tin kiếm pháp mình thiên hạ vô địch. Kỳ này lão vừa xuống núi đã giết được mấy tay cao thủ hắc đạo lừng lẫy tiếng tăm ở Hà Bắc, liền sinh cuồng vọng làm bá chủ võ lâm. Lão tưởng rằng kiếm pháp của mình đủ khuất phục tất cả anh hùng thiên hạ, nói ra một câu là ai cũng phải theo.

Hư Trúc thẹn đỏ mặt lên, vội đáp: “Không, không! Tiên sinh hiểu lầm rồi!” Trác Bất Phàm nói: “Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng là chuyện thường tình, sao tiểu huynh đệ lại hổ thẹn?” Hư Trúc lại càng ngượng ngùng, ấp úng đáp: “Cái đó… cái đó… không phải…”

Trác Bất Phàm lại rung trường kiếm, xuất một lúc hai chiêu Thiên Như Cùng Lư và Bạch Vu Mang Mang, toan vây Vương Ngữ Yên vào trong vòng kiếm quang, bắt nàng để uy hiếp, buộc Hư Trúc phải lộ bí mật.

Vương Ngữ Yên vừa thấy Trác Bất Phàm thi triển hai chiêu kiếm liền nghĩ: “Thiên Như Cùng Lư phối hợp với Bạch Vu Mang Mang thì đến chín phần hư, chỉ có một phần thực. Chỉ cần xông thẳng vào lão là lão phải hoang mang thu chiêu về lập tức, không phải đánh cũng phá được thế kiếm.” Nhưng nàng chỉ biết lý thuyết về kiếm pháp, không rèn luyện thân pháp thủ pháp để thực hành, thấy kiếm quang lấp loáng chụp xuống đầu chỉ biết kinh hoàng la lên một tiếng.

Mộ Dung Phục nhận ra hai chiêu kiếm của Trác Bất Phàm không có ý đả thương Vương Ngữ Yên thì nghĩ thầm: “Ta đừng vội xuất thủ, thử xem lão mũi trâu này định giở trò gì. Không chừng thằng trọc con kia vì say mê biểu muội ta mà phải khai ra bí mật.”

Nhưng Đoàn Dự thấy Trác Bất Phàm xuất chiêu tấn công Vương Ngữ Yên liền cả kinh, hoảng hốt thi triển Lăng Ba Vi Bộ xông tới chặn trước mặt Vương Ngữ Yên, lấy thân che chở cho nàng. Kiếm chiêu của Trác Bất Phàm tuy mau lẹ, nhưng bộ pháp của Đoàn Dự cực kỳ tinh diệu, còn nhanh hơn một chút. Không hiểu Trác Bất Phàm không muốn hay không kịp thu chiêu về, chỉ thấy kiếm quang lóe lên, kiếm phong rít lên một tiếng, từ cổ đến bụng Đoàn Dự đã bị rạch một đường dài hơn một thước không những rách áo mà còn trầy da nữa. May mà Trác Bất Phàm chỉ muốn bức bách Hư Trúc khai ra bí mật, không có ý giết người gây oán, nên chiêu kiếm này lão phóng nhẹ tay. Mũi kiếm chỉ sượt vào da Đoàn Dự chừng một hai ly, vết thương tuy dài nhưng không nguy hiểm chút nào. Thế mà Đoàn Dự kinh hãi ngẩn người ra, rồi cúi xuống nhìn ngực mình thì thấy máu chảy đầm đìa. Chàng tưởng mũi kiếm đã rạch vào đến ruột, sắp chết đến nơi, bèn vội la lên: “Vương cô nương! Cô nương… lánh mau đi để tại hạ cố ngăn trở y.”

Trác Bất Phàm lạnh lẽo cười: “Mạng ngươi còn chưa tự giữ được, thế mà còn đòi bảo vệ cho người khác, thật là không biết lượng sức mình.” Lão quay nhìn Hư Trúc nói: “Tiểu huynh đệ! Xem chừng cô nương này có nhiều người theo đuổi. Để lão phu hạ thủ giết bớt một tên tình địch cho tiểu huynh đệ.” Trường kiếm trong tay lão chỉ cách ngực Đoàn Dự chừng một tấc, mũi kiếm rung lên không ngớt, chỉ cần phóng thêm một chút nữa là đâm thủng trái tim.

Hư Trúc cả kinh la lớn: “Không được! Nhất định không được!” Y sợ Trác Bất Phàm giết Đoàn Dự, liền vươn tay ra dùng ngón tay út điểm nhẹ vào huyệt Thái Uyên ở cổ tay phải Trác Bất Phàm. Lão liền thấy cổ tay tê buốt, năm ngón tay nắm chuôi kiếm không chặt phải buông ra, Hư Trúc tiện tay liền đoạt lấy kiếm. Đây là một chiêu thức tuyệt cao trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, trông thì tầm thường chẳng có chi kỳ dị, thực ra ngón tay út đã vận Tiểu Vô Tướng Công phóng ra cực kỳ mãnh liệt. Trác Bất Phàm đã có ba bốn chục năm công lực mà vẫn bị đoạt kiếm dễ dàng mau lẹ không ngờ. Hư Trúc nói: “Trác tiên sinh! Đoàn công tử là người tốt, đừng hại mạng chàng.” Rồi y nhét lại trường kiếm vào tay Trác Bất Phàm, cúi xuống xem vết thương Đoàn Dự.

Đoàn Dự thở dài nói: “Vương cô nương! Tại hạ sắp chết rồi, chỉ còn mong cô nương cùng Mộ Dung huynh cử án tề mi, bách niên giai lão. Gia gia, má má ơi! Con…” Thực ra vết thương chàng chẳng có chi trầm trọng, nhưng chàng cứ nghĩ mình đã lòi ruột, không sống được nữa, bèn thở hắt ra, ngã ngửa về phía sau.

Vương Ngữ Yên vội đỡ lấy chàng, sa lệ nói: “Đoàn công tử! Huynh chỉ vì ta mà…” Hư Trúc đã được Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà dạy phép trị thương, tuy y xuất thủ không thuần thục bằng Tiết Thần Y, nhưng chớp nhoáng đã điểm vào huyệt đạo phía trái vết thương của Đoàn Dự. Y ngó lại vết thương rồi yên tâm cười nói: “Đoàn công tử! Vết kiếm thương không nặng, chỉ ba bốn ngày là khỏi.”

Đoàn Dự được Vương Ngữ Yên nâng đỡ, lại thấy nàng khóc vì mình, bất giác thần hồn bay mất, sung sướng tột cùng, lên tiếng nói: “Vương cô nương! Cô nương… khóc vì tại hạ ư?” Vương Ngữ Yên gật đầu, nước mắt lại lăn từng giọt xuống đôi má ngọc. Đoàn Dự nói: “Đoàn mỗ có được ngày nay, thì dù bị chém mấy chục nhát kiến, chết đến mấy trăm lần cũng thấy vui lòng.” Hư Trúc nói gì, chàng hoàn toàn không nghe thấy. Vương Ngữ Yên trong lòng vô cùng cảm kích, khó mà tự chủ. Còn Đoàn Dự thấy ý trung nhân sa lệ vì mình, thì chàng chẳng coi cái chết của mình vào đâu nữa.

Hư Trúc đoạt kiếm rồi trả kiếm chỉ trong nháy mắt. Trừ Mộ Dung Phục trông thấy rõ ràng, và chính Trác Bất Phàm tự biết, còn ai nấy đều cho là Trác Bất Phàm hạ thủ lưu tình không giết Đoàn Dự. Trác Bất Phàm vừa kinh hãi vừa căm hận không thể hình dung nổi. Lão nghĩ thầm: “Mình may mắn nhặt được kiếm kinh của cao thủ tiền bối ở núi Trường Bạch, khổ công luyện tập ba chục năm trời, cứ tưởng trên đời không ai địch nổi, ngờ đâu sơ ý để thằng lỏi này điểm trúng huyệt Thái Uyên. Hay đó chỉ là chuyện ngẫu nhiên? Giả tỉ gã cố ý đoạt kiếm của mình thì sao phải trả lại? Thằng lỏi này mới sống mấy năm, bản lĩnh bao nhiêu mà đoạt được trường kiếm trong tay Trác mỗ?” Lão nghĩ tới đây, hào khí lại phát sinh, bèn nói: “Tiểu tử! Ngươi thật là lắm chuyện!” Rồi lão đưa mũi kiếm kề vào sau lưng áo Hư Trúc, định đâm rách áo và ấn sâu thêm một chút vào lớp da y, giống như đâm Đoàn Dự.

Ngờ đâu Bắc Minh chân khí đang chuyển vận trong người Hư Trúc, mũi kiếm của Trác Bất Phàm vừa đâm tới liền bị chân khí đẩy lại làm quằn cả mũi kiếm, trượt qua bên mình y. Trác Bất Phàm giật mình, biến chiêu cực kỳ mau lẹ, lập tức thu kiếm về quét ngang ra, chém vào sườn Hư Trúc. Đây là chiêu Ngọc Đới Vi Yêu, tấn công chí mạng vào ba phía trước, sau và bên phải. Lão đã biết Hư Trúc võ công cao cường ngoài dự liệu, không dùng toàn lực tấn công thì không được.

Hư Trúc “Ái chà” một tiếng, lạng người né tránh, không hiểu tại sao Trác Bất Phàm vừa ăn nói ngọt ngào lại đột nhiên dùng sát thủ? “Soạt” một tiếng, mũi kiếm sượt qua dưới nách Hư Trúc, đâm rách cái áo mới một miếng to. Trác Bất Phàm xuất chiêu thứ hai vẫn không trúng, thì năm phần kinh ngạc, năm phần sợ sệt. Lão bèn đảo người đi nửa vòng, dựng thanh kiếm lên, đột nhiên mũi kiếm lóe ra ánh sáng xanh lè. Trong quần hào có mấy chục người kinh hãi la lên: “Kiếm Mang! Kiếm Mang!” Thanh kiếm lúc này rất giống một con rắn dài duỗi ra co lại. Trác Bất Phàm cười một cách hung dữ, hít một hơi chân khí vào đan điền, vận toàn lực vào thanh kiếm. Kiếm quang xanh lè lại càng chiếu sáng hơn, mũi kiếm nhằm thẳng ngực Hư Trúc đâm vào.

Hư Trúc chưa thấy ai vận nội lực vào binh khí để phát thanh quang, lại nghe quần hào la hoảng, thì biết ngay đây là một môn võ công rất lợi hại. Y sợ mình không đối phó nổi, liền thi triển bộ pháp né tránh. Trác Bất Phàm đã dùng toàn lực phóng chiêu này, không thể biến thế nửa chừng được. Nghe một tiếng “chát”, mũi kiếm đã đâm vào cột đá, cây cột này làm bằng đá hoa cương rất cứng rắn, thế mà thanh trường kiếm mềm mại kia đâm sâu vào được đến một thước, đủ biết Trác Bất Phàm đã vận nội lực vào lưỡi kiếm đến mức phi thường. Quần hào lại không nhịn được, bật lên tiếng reo hò.

Trác Bất Phàm vận kình lực vào tay để giật kiếm ra, lại vung kiếm lên đuổi theo Hư Trúc, quát hỏi: “Tiểu huynh đệ! Ngươi chạy đi đâu?” Hư Trúc trong lòng kinh hãi, chỉ còn biết né tránh.

Đột nhiên bên trái có tiếng người cười khanh khách rồi nói: “Tiểu hòa thượng, nằm xuống đi!” Thanh âm này là của nữ nhân. Sau đó hai luồng bạch quang lấp loáng, hai mũi phi đao bay vèo tới Hư Trúc, Hư Trúc đã được Đồng Mỗ truyền dạy khinh công, bây giờ nội lực trong mình y có thể nói là đệ nhất thiên hạ, dĩ nhiên khinh công nhanh nhẹn khôn lường. Phi đao lao đến rất nhanh mà Hư Trúc vẫn né được nhẹ nhàng. Lúc đó y mới thấy một thiếu phụ xinh đẹp mặc áo hồng nhạt, hai tay điều khiển hai lưỡi phi đao. Lòng bàn tay thiếu phụ dường như có sức hút, phi đao đã phóng ra cũng có thể hút trở về.

Trác Bất Phàm khen ngợi: “Thần kỹ phóng phi đao của Phù Dung Tiên Tử thật khiến cho Trác mỗ được mở rộng tầm mắt.”

Hư Trúc chợt nhớ lại cái hôm bọn này bàn chuyện tấn công núi Phiêu Diểu, Kiếm Thần và Phù Dung Tiên Tử cùng đi với Bất Bình đạo nhân. Y đã lấy trái tùng ném chết Bất Bình đạo nhân trên đỉnh núi tuyết, nghĩ bụng lúc này Phù Dung Tiên Tử đến đây là để giết mình, báo thù cho đồng bọn. Hư Trúc liền hối hận, dừng chân quay lại, chắp tay xá Phù Dung Tiên Tử rồi nói: “Tại hạ đã phạm lỗi rất lớn, thật là đáng chết. Lúc đó tại hạ vô tình chứ không cố ý, hỡi ơi, dù sao cũng không còn cách nào cứu vãn được nữa. Bây giờ hai vị muốn đánh muốn mắng thế nào, tại hạ… tại hạ cũng không dám trốn tránh.”

Trác Bất Phàm cùng Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm: “Thằng lỏi này sợ rồi!” Thực ra hai người này không biết Bất Bình đạo nhân đã chết về tay Hư Trúc, mà dù có biết thì cũng không phải đến đây để giết y báo thù. Hai người tiến lại gần Hư Trúc, mỗi người nắm lấy một bên cổ tay y.

Hư Trúc nghĩ tới Bất Bình đạo nhân chết thảm, trong lòng hối hận vô cùng, không ngớt năn nỉ: “Tại hạ đã phạm lỗi, hết sức ăn năn. Xin hai vị cứ trách phạt nặng nề, tại hạ cam tâm chịu tội, dù có bị giết để đền mạng thì cũng không dám trái ý.”

Trác Bất Phàm nói: “Ngươi muốn ta không giết cùng chẳng khó gì, chỉ cần thuật lại di ngôn của Đồng Mỗ lúc lâm tử, ta sẽ tha cho.” Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa mỉm cười hỏi: “Trác tiên sinh! Tiểu muội có thể nghe được không?” Trác Bất Phàm đáp: “Chúng ta chỉ cần tìm được cách hóa giải Sinh Tử Phù là mọi bằng hữu ở đây đều được hưởng lợi, không phải một mình tại hạ.” Hắn không nói rõ là cho Thôi Lộc Hoa cùng nghe hay không, nhưng hiển nhiên có ẩn ý độc chiếm thành quả.

Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa mỉm cười nói: “Tiểu muội không tốt bụng như thế đâu. Thằng lỏi này coi chẳng thuận mắt chút nào.” Tay trái mụ xiết chặt cổ Hư Trúc, tay phải vung lên toan đâm hai ngọn phi đao vào trước ngực y.

Đồng Mỗ đã chết rồi, Trác Bất Phàm coi như đã báo thù xong, chỉ còn âm mưu lấy được bí quyết phá giải Sinh Tử Phù, để khống chế quần hào làm oai làm phước. Còn dụng ý của Thôi Lộc Hoa thì lại khác hẳn. Huynh trưởng nàng bị ba tên động chúa liên thủ hạ sát, nàng quyết báo thù, chỉ mong bọn động chúa này vĩnh viễn không bao giờ hóa giải được Sinh Tử Phù. Muốn vậy cần phải giết chết Hư Trúc để chẳng còn ai nghe được di ngôn của Đồng Mỗ nữa, vì thế nàng đột ngột hạ độc thủ. Thôi Lộc Hoa xuất thủ cực kỳ mau lẹ trong lúc Trác Bất Phàm đã tra kiếm vào vỏ rồi, lão rút kiếm ra thì đã chậm mất một giây.

Hư Trúc kinh hãi không nghĩ gì nhiều, theo phản xạ vung cả hai tay lên. Nội lực y đẩy Trác Bất Phàm cùng Thôi Lộc Hoa ra mấy bước.

Thôi Lộc Hoa quát lên một tiếng, phi đao đã phóng ra. Mụ đã phải lùi mấy bước, nhưng tuyệt kỹ phóng ám khí chẳng ảnh hưởng gì. Trác Bất Phàm sợ Hư Trúc chết, liền vung kiếm lên gạt phi đao đỡ cho Hư Trúc, nhưng Thôi Lộc Hoa đã dự định trước rồi. Mụ vừa phóng ra hai ngọn phi đao, lại phóng thêm mười ngọn nữa, trong đó có ba ngọn phóng vào Trác Bất Phàm để bắt lão tự cứu mình, còn bảy ngọn kia thì nhắm vào Hư Trúc. Trước mặt, yết hầu, ngực bụng Hư Trúc đều bị phi đao vây phủ.

Hư Trúc vung hai tay loạn lên, thi triển tuyệt kỹ Thiên Sơn Chiết Mai Thủ để bắt phi đao. Mụ ném đến đâu y bắt đến đó, ném xuống đất vang lên những tiếng leng keng. Chốc lát đã có mười ba món binh khí rơi dưới chân Hư Trúc, gồm mười hai ngọn phi đao của Thôi Lộc Hoa và một thanh trường kiếm của Trác Bất Phàm. Hư Trúc chẳng cần biết đối thủ là ai, cứ thấy binh khí tới gần là thi triển Chiết Mai Thủ bắt lấy, thuận tay đoạt luôn cả trường kiếm của Trác Bất Phàm.

Y đoạt hết mười ba món binh khí mới quay ra nhìn thì thấy Trác Bất Phàm sắc mặt nhợt nhạt. Y lại ngoảnh đầu nhìn Thôi Lộc Hoa thì thấy mụ cũng hoảng sợ đến mất cả hồn vía. Y nghĩ thầm: “Hỏng bét! Hỏng bét! Mình lại phạm lỗi với họ rồi!” Y liền xin lỗi: “Xin hai vị miễn thứ, tại hạ hành động thật là lỗ mãng.” Hư Trúc nói xong, ôm cả mười ba món khí giới đưa đến trước mặt Thôi, Trác hai người. Thôi Lộc Hoa tưởng Hư Trúc chế giễu mình, bèn vận nội lực lên sóng chưởng đánh vào ngực Hư Trúc. Hai tiếng chát chát nổi lên, phản lực cực kỳ mãnh liệt hất Thôi Lộc Hoa văng ra sau, đập lưng vào tường đánh huych một tiếng. Mụ la lên một tiếng rồi thổ ra hai búng máu tươi.

Ba người Trác Bất Phàm, Bất Bình đạo nhân, Thôi Lộc Hoa thường ấn chứng võ công với nhau, nội lực Trác Bất Phàm chỉ hơn hai người kia một chút. Lúc này lão thấy Hư Trúc hai tay đang ôm binh khí, mà nội lực tự nhiên phản kích hất Thôi Lộc Hoa văng ra trọng thương, thì biết mình còn kém y xa lắm, nhất định không phải là đối thủ. Lão bèn tìm cách lấy lòng, chắp tay nói: “Bội phục, bội phục! Sau này mong ngày tái hội.”

Hư Trúc đáp: “Tiền bối nhận lại kiếm đi. Tại hạ chỉ vô ý mạo phạm, xin tiền bối đừng để bụng. Tiền bối muốn rửa hận cho Bất Bình đạo trưởng thì cứ việc, đánh mắng thế nào tại hạ cũng quyết không phản kháng.”

Mấy câu thành thực của Hư Trúc lọt vào tai Trác Bất Phàm lại biến thành những lời mai mỉa. Mặt lão cắt không còn giọt máu, rảo bước đi khỏi sảnh đường. Bỗng có thanh âm phụ nữ lạnh lùng nói: “Đứng lại! Cung Linh Thứu không phải là nơi muốn vào thì vào muốn ra thì ra thoải mái như vậy.” Trác Bất Phàm giật mình, đưa tay toan rút kiếm nhưng không thấy, lúc đó mới nhớ ra thanh kiếm của mình đã bị Hư Trúc đoạt mất. Lão quay lại xem ai nói, nhưng chẳng thấy người nào, chỉ thấy cửa lớn đã bị chắn bằng một tảng đá hoa cương rất lớn, cao hai trượng rộng một trượng. Không hiểu phiến đá này đã ở đó từ lúc nào mà không phát ra một tiếng động.

Quần hào thấy vậy, biết ngay mình đã bị hãm vào tuyệt địa trong cung Linh Thứu. Lúc chúng tấn công, hễ thấy nữ nhân áo vàng là giết hoặc bắt hết, khi tiến vào đại sảnh cũng đã để ý quan sát, tuyệt không thấy quân mai phục. Nhưng sau đó có người bị Sinh Tử Phù phát tác, ai nấy đều mất vía, rồi lại bao nhiêu biến cố tiếp diễn, chẳng còn ai nghĩ đến việc mình đang ở nơi nguy hiểm. Bây giờ thấy cửa lớn đã bị tảng đá bít chặt, ai cũng kinh hãi nghĩ thầm: “Hôm nay sống sót ra khỏi cung Linh Thứu, thật không phải là việc dễ.”

Trên trời lại có thanh âm nữ nhân: “Bốn nữ tì hầu cận Đồng Mỗ xin tham kiến Hư Trúc tiên sinh.” Hư Trúc ngẩng đầu nhìn lên, thấy gần nóc đại sảnh có chín tảng đá lồi ra, tựa như chín cái bình đài nhỏ, trên bốn tảng đá có bốn thiếu nữ mười tám mười chín tuổi đang thi lễ với mình. Mấy cái bình đài đó cao đến bốn trượng, thế mà bốn thiếu nữ nhảy xuống, tay cầm trường kiếm lướt đi trông như tiên nữ giáng trần. Mọi người nhìn thân pháp bốn thiếu nữ đã đến mực phi thường, ai nấy không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Bốn thiếu nữ này, một áo hồng, một áo trắng, một áo xanh và một áo vàng, đồng thời hạ xuống đất, chạy tới quì trước mặt Hư Trúc nói: “Nô tỳ nghênh giá chậm trễ, xin chủ nhân thứ tội.” Hư Trúc trả lễ, đáp: “Bốn vị tỉ tỉ bất tất phải đa lễ.”

Bốn thiếu nữ ngửng đầu lên, mọi người lại một phen kinh ngạc, dáng vóc cùng tướng mạo cả bốn đều giống hệt nhau. Cô nào cũng mặt trái xoan, mắt đen láy, dung nhan thanh tú, chỉ khác nhau màu áo. Thiếu nữ áo hồng đáp: “Bốn nô tì là tỉ muội sinh tư. Đồng Mỗ đặt tên cho tiểu tì là Mai Kiếm, còn ba muội tử là Lan Kiếm, Trúc Kiếm và Cúc Kiếm. Vừa rồi bọn nô tì đã gặp các tỉ muội ở bộ Hiệu Thiên, Chu Thiên, đã biết mọi việc. Bây giờ bọn nô tì đã đóng cổng đại sảnh lại rồi, chúng ta nên xử lý bọn nô tài kia ra sao, xin chủ nhân phát lạc.”

Quần hào biết bốn cô này là tỉ muội sinh tư, mới hiểu tại sao cả bốn tướng mạo tầm vóc giống nhau. Mấy cô này dung nhan mỹ lệ, giọng nói thanh tao khiến ai cũng có cảm tình, nhưng Mai Kiếm hỏi Hư Trúc nên xử lý bọn nô tài kia ra sao thì thật là khinh người thái quá. Hai hán tử sấn lại, một người sử đơn đao, một người sử phán quan bút, đồng thanh quát lên: “Mấy con nhãi ranh chưa ráo máu đầu mà đã…”

Thanh quang lấp lánh, Lan Kiếm và Trúc Kiếm đã vung trường kiếm lên. Nghe “phập phập” hai tiếng, cổ tay hai hán tử bị chặt đứt, cả bàn tay lẫn binh khí đều rớt xuống đất. Kiếm pháp của hai nàng mau lẹ tuyệt luân, hai hán tử không phản ứng kịp vẫn mắng tiếp: “… ngang ngược! Trời ơi!” Lúc đó chúng mới nhảy lùi lại, máu đã đầy mặt đất.

Hai cô gái vừa xuất thủ đã chặt đứt hai cái cổ tay. Trong đại sảnh dĩ nhiên có nhiều người võ công cao hơn hai hán tử kia, nhưng không ai dám thử. Huống chi bốn vách đại sảnh này đều bằng đá hoa cương kiên cố, không chừng còn ẩn chứa những cơ quan lợi hại, nên mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không ai lên tiếng.

Tình hình đang khẩn trương, đột nhiên trong đám đông lại có tiếng gầm rú khủng khiếp. Sinh Tử Phù lại phát tác đòi mạng một người.

Quần hào thất sắc, thấy một đại hán nhảy ra, hai mắt đỏ ngầu, xé ngực áo rách tứ tung. Mấy người hốt hoảng la lên: “Cát Đại Bá, đảo chúa đảo Thiết Ngao.” Cát Đại Bá gầm thét như mãnh hổ bị thương, vung cánh tay cứng như côn sắt đập xuống đánh “sầm” một tiếng, một chiếc kỷ trà lập tức vỡ tan. Y lại nhảy xổ vào Cúc Kiếm.

Cô nàng thấy hắn trông như thú dữ bất giác khiếp đảm, quên cả kiếm pháp mình cao cường, rú lên một tiếng rồi rúc ngay vào lòng Hư Trúc. Cát Đại Bá lại giơ bàn tay to như chiếc quạt, chụp tới Mai Kiếm. Bốn cô gái sinh tư này tâm ý tương thông, Cúc Kiếm run sợ thì Mai Kiếm cũng sợ run. Nàng thấy Cát Đại Bá nhảy xổ đến, liền la lên một tiếng kinh hoàng rồi chui ra trốn sau lưng Hư Trúc.

Cát Đại Bá chụp không trúng ai, liền xoay lại tự móc mắt mình. Quần hào đều kinh hồn, biết hắn cực kỳ đau đớn không chịu được nữa, sinh ra mê loạn. Hư Trúc la lên: “Đừng làm vậy!” Rồi y phất tay áo một cái, Cát Đại Bá thõng ngay tay xuống. Hư Trúc lại nói: “Sinh Tử Phù trong thân thể huynh đài đang phát tác, để tại hạ phá giải giúp cho.” Y bèn ra chiêu Dương Ca Thiên Điếu trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng vỗ vào huyệt Linh Đài ở sau lưng, Cát Đại Bá run lên một cái, nhũn người ra ngồi phệt xuống đất.

Thanh quang lấp loáng, Lan Kiếm, Trúc Kiếm cùng phóng trường kiếm đâm tới Cát Đại Bá. Hư Trúc la lên: “Không được!”, rồi vươn tay ra đoạt lấy song kiếm. Miệng y lẩm bẩm: “Hỏng bét, hỏng bét! Không hiểu y trúng Sinh Tử Phù ở chỗ nào?” Hư Trúc tuy biết phép phá giải, song kiến thức hãy còn nông cạn nên nhìn không ra Sinh Tử Phù đã cấy vào chỗ nào trong mình Cát Đại Bá. Chiêu Dương Ca Thiên Điểu vừa rồi y phóng ra quá mạnh, Cát Đại Bá tuy tỉnh lại nhưng không tự chủ được phải ngã lăn xuống đất.

Cát Đại Bá vội đáp: “Trúng… trúng ở huyệt Huyền Khu, Khí… Hải,… Hư Không Trúc…” Hư Trúc ca mừng nói: “Huynh đài biết vị trí Sinh Tử Phù thì hay lắm.” Y vận chân khí thuần dương, chiếu theo phép phá giải của Đồng Mỗ đã truyền thụ, dùng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng vỗ vào ba huyệt Huyền Khu, Khí Hải và Hư Không Trúc. Ba đạo Sinh Tử Phù lạnh như băng trong người Cát Đại Bá liền tiêu tan trong chớp mắt.

Cát Đại Bá đứng dậy múa may, mừng rỡ đến phát cuồng, đột nhiên phục xuống đất dập đầu lạy Hư Trúc, nói: “Ân công! Tính mạng Cát Đại Bá này là do lão nhân gia đã ban cho. Từ đây về sau, ân công có điều gì sai khiến, Cát Đại Bá có phải nhảy vào đống lửa cũng không ngần ngừ một chút.” Hư Trúc bản tính khiêm cung, thấy Cát Đại Bá hành đại lễ, cũng vội vàng dập đầu lạy trả rồi nói: “Tại hạ không dám nhận trọng lễ, huynh đài còn lạy nữa thì tại hạ cũng còn phải khấu đầu.” Cát Đại Bá lớn tiếng nói: “Ân công mau mau đứng lên, nếu làm như vậy thì tiểu nhân phải tổn thọ.” Y cảm kích quá, lại dập đầu thêm mấy cái nữa, Hư Trúc cũng dập đầu đáp lễ.

Hai người phục dưới đất lạy nhau mãi chưa thôi. Đột nhiên mấy trăm người la lên: “Giải Sinh Tử Phù cho ta.” Quần hào trúng Sinh Tử Phù đổ xô lại như ong vỡ tổ, vây lấy hai người. Một lão già túm lấy vai Cát Đại Bá nói: “Thôi đừng dập đầu nữa, để bọn ta xin ân công giải độc cứu mạng.”

Hư Trúc thấy Cát Đại Bá ngừng lạy, mới dám đứng lên nói: “Các vị đừng nóng nảy, để tại hạ nói một câu.” Lập tức đại sảnh yên lặng như tờ. Hư Trúc nói: “Muốn phá giải Sinh Tử Phù cần phải biết chính xác vị trí. Vậy các vị có biết không?”

Mọi người lại náo loạn cả lên. Người nói: “Tại hạ biết.” Có người nói: “Tại hạ trúng ở huyệt Ủy Trung và huyệt Nội Đình.” Lại có người nói: “Tại hạ bị đau mỗi tháng một chỗ khác, dường như Sinh Tử Phù chạy loạn khắp trong cơ thể.”

Đột nhiên có người lớn tiếng quát lên: “Mọi người phải yên lặng. Ai cũng la hét thì Hư Trúc Tử tiên sinh còn nghe được cái gì?” Người quát lên chính là thủ lãnh quần hào Ô Lão Đại. Mọi người đều bình tĩnh trở lại.

Hư Trúc nói: “Tại hạ đã được Đồng Mỗ dạy cho phép phá giải Sinh Tử Phù…” Bảy tám người nghe tới đó không nhịn được lại reo lên: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” “Vậy là ta thoát chết rồi.” Hư Trúc lại tiếp: “.. nhưng hãy còn nông cạn, chưa nhận xét được Sinh Tử Phù đã gieo vào bộ vị nào. Nếu vị nào không biết rõ thì chúng ta sẽ cố gắng tìm kiếm. Trong quý vị nếu có vị nào tinh thông về y thuật, hãy hợp sức cùng tại hạ nghiên cứu, nhất định phải chữa cho bằng được.”

Quần hào lại nổi lên tiếng hoan hô, vang rền cả đại sảnh. Sau một lúc lâu tiếng hoan hô mới dần dần nhỏ đi rồi tất cả rơi vào im lặng.

Mai Kiếm đột nhiên cất tiếng lạnh lẽo nói: “Chủ nhân ta từ bi quảng đại, ưng thuận phá giải Sinh Tử Phù cho các ngươi. Nhưng bọn mi dám cả gan làm phản, buộc Đồng Mỗ rời cung xuống núi, đến phải quy tiên. Bọn mi lại tiến đánh núi Phiêu Diểu, sát hại vô số tỉ muội bộ Quân Thiên. Bọn mi định trả món nợ đó như thế nào?”

Nàng dứt lời, quần hào ngơ ngác nhìn nhau, trong lòng sợ hãi vô cùng. Rõ ràng Mai Kiếm nói đúng sự thực, Hư Trúc là truyền nhân của Đồng Mỗ thì dĩ nhiên y không thể bỏ qua những trọng tội của họ. Có người muốn khẩn cầu, nhưng nghĩ kỹ lại tội bắt Đồng Mỗ rời cung mà chết, và tội làm phản kéo nhau đến đánh cung Linh Thứu đều cực kỳ thâm trọng, lẽ nào chỉ nói mấy cầu năn nỉ mà xong? Vì thế chẳng ai dám lên tiếng.

Ô Lão Đại nói: “Cô nương trách thật là chí lý. Bọn tại hạ đã phạm trong tội, cam chịu để Hư Trúc Tử tiên sinh định đoạt.” Hắn biết Hư Trúc là người trung hậu lại không tàn ác như Đồng Mỗ. Nếu để Mai Lan Cúc Trúc tứ kiếm phán xử thì hậu quả không thể lường được. Hắn bèn quay sang Hư Trúc khẩn cầu.

Quần hào nghe Ô Lão Đại nói, lại nhao nhao lên: “Không sai! Bọn ta đã gây tội nghiệt, Hư Trúc Tử tiên sinh trách phạt thế nào cũng xin cam chịu.” Có nhiều người chứng kiến Sinh Tử Phù đòi mạng cực kỳ ghê gớm, sợ đến mất cả chủ ý, không biết làm gì liền quỳ gối xuống lạy như tế sao.

Hư Trúc cũng chẳng biết phải làm gì, quay sang hỏi Mai Kiếm: “Mai Kiếm tỉ tỉ, bây giờ phải xử thế nào?” Mai Kiếm đáp: “Bọn này không phải người tốt, đã tàn hại rất nhiều tỉ muội ở bộ Quân Thiên, không bắt chúng đền mạng không được.”

Phó động chúa Vô Lượng Động là Tả Tử Mục xá Mai Kiếm một cái rồi nói: “Cô nương! Bọn tại hạ trúng Sinh Tử Phù, thảm khổ không biết đến đâu mà nói. Khi được tin Đồng Mỗ lão nhân gia không ở trên núi thì bọn tại hạ đều hoang mang, cũng vì sự sống mà gây nên tội lỗi, hối hận không kịp. Chỉ xin cô nương đại nhân đại nghĩa, xin giúp Hư Trúc Tử tiên sinh!”

Mai Kiếm nghĩ một chút rồi đáp: “Các ngươi phạm tội giết người, tự chặt cánh tay mặt là phạt nhẹ lắm rồi!” Nàng vừa nói ra, biết ngay mình ra lệnh là không đúng lễ, liền quay lại hỏi Hư Trúc: “Chủ nhân, như vậy được chăng?” Hư Trúc cảm thấy phạt như vậy là nặng quá, nhưng không muốn trái ý Mai Kiếm, nên ngập ngừng đáp: “Như thế… Như thế…”.

Bỗng có một người rẽ đám đông đi ra, chính là vương tử nước Đại Lý, tên gọi Đoàn Dự. Tính chàng ưa can thiệp việc người, thích bàn chuyện đúng sai, bây giờ nhìn Hư Trúc chắp tay cười nói: “Nhân huynh! Lúc các vị bằng hữu tiến đánh núi Phiêu Diểu, tiểu đệ đã không tán thành, nhưng nói rát cổ cũng chẳng ai nghe. Bây giờ họ gây đại họa, nhân huynh trách phạt là phải lắm. Xin nhân huynh giao cho tiểu đệ trách phạt chư vị bằng hữu được chăng?”

Hư Trúc cũng biết hôm trước quần hào toan giết Đồng Mỗ để uống máu ăn thề, Đoàn Dự đã hết sức ngăn cản. Y biết vị công tử này bác ái nghĩa hiệp, vẫn đem lòng kính trọng. Khi y cõng Đồng Mỗ bị Lý Thu Thủy đánh rớt từ núi cao ngàn trượng xuống mà sống sót được, một phần cũng nhờ công sức của chàng. Lúc này y đang lúng túng chưa biết phải xử lý ra sao, nghe chàng nói vậy liền chắp tay nói: “Tại hạ kiến thức hẹp hòi, không quen xử sự. Được Đoàn công tử đứng ra xử lý, tại hạ cảm kích vô cùng.”

Quần hào nghe Đoàn Dự kể tội, lại đòi trách phạt họ thì làm sao nhịn được? Có người nóng nảy đã toan cất tiếng thóa mạ. Nhưng lúc nghe Hư Trúc chấp thuận, họ vội rụt lưỡi lại không dám nói nữa.

Đoàn Dự đáp: “Vậy thì hay lắm!” Chàng quay người lại nhìn quần hào, lớn tiếng nói: “Các vị đã phạm lỗi lầm nghiêm trọng, dĩ nhiên không thể phạt nhẹ. Hư Trúc Tử tiên sinh đã giao cho tại hạ xử lý, các vị đều phải nghe theo, nếu ai phản kháng thì e rằng tiên sinh không giải Sinh Tử Phù nữa. Ha ha! Điều thứ nhất, các vị phải đến trước vong linh Đồng Mỗ kính cẩn dập đầu tám lạy, mặc niệm hối lỗi. Lúc hành lễ, ai ngấm ngầm mạo phạm Đồng Mỗ sẽ bị phạt nặng thêm một bậc.”

Hư Trúc cả mừng khen: “Phải lắm, phải lắm! Hình phạt trong điều thứ nhất rất tốt!”

Quần hào chưa hiểu tên đồ gàn này còn đưa ra những hình phạt cổ quái gì nữa, ai cũng chưa yên tâm. Nhưng họ nghe y bắt cúi đầu lạy trước vong linh Đồng Mỗ thì nghĩ thầm: “Người chết phải tôn trọng, dập đầu lạy trước linh vị có chi là lạ? Mà giả tỉ mình oán hận Đồng Mỗ, vừa lạy vừa âm thầm thóa mạ thì làm sao gã biết được?” Mọi người đồng thanh ưng thuận.

Đoàn Dự thấy mình tuyên bố điều thứ nhất mọi người đều đồng ý thì tinh thần phấn chấn, dõng dạc tuyên bố tiếp: “Điều thứ hai, Chư vị phải cúi đầu hành lễ trước những vị tỉ muội bộ Quân Thiên đã tử nạn. Vị nào đã giết người thì phải dập đầu lạy và mặc niệm sám hối, lúc hành lễ phải chít khăn trắng, mặc tang phục. Vị nào không giết người thì chỉ xá dài hành lễ là đủ, sau đó sẽ được Hư Trúc Tử nhân huynh giải độc cho.”

Phần lớn quần bào lên núi Phiêu Diểu không tự tay giết người, ưng thuận ngay lập tức. Còn những người đã hạ sát thủ thấy việc phải đội khăn tang dập đầu hành lễ còn nhẹ gấp trăm lần so với hình phạt chặt tay của Mai Kiếm, dĩ nhiên cũng không phản đối.

Đoàn Dự lại tuyên bố: “Điều thứ ba, các vị phải vĩnh viễn phục tùng Linh Thứu cung, không được phản trắc. Hư Trúc Tử tiên sinh đã ra lệnh thì ai nấy đều phải tuân theo. Chẳng những phải cung kính Hư Trúc Tử tiên sinh, còn phải kính nể các vị tỉ muội Mai Lan Cúc Trúc, đổi thù ra bạn, không được động đao thương. Còn vị nào không phục thì cứ bước ra tỉ đấu với Hư Trúc Tử tiên sinh ba chiêu hai thức, xem thử ai hơn ai kém.”

Quần hào nghe Đoàn Dự nói xong đều hoan hô rầm rộ: “Phải lắm! Phải lắm!” Có người cẩn thận hỏi lại: “Công tử phạt nhẹ như vậy, không hiểu còn có điều chi dạy bảo nữa không?”

Đoàn Dự xoa tay đáp: “Chỉ có thế!” Rồi chàng quay lại hỏi Hư Trúc: “Tiểu đệ quy định ba điều như vậy đã được chưa?” Hư Trúc chắp tay đáp: “Đa tạ! Đa tạ! Thế là được lắm rồi.” Rồi y lại quay sang nhìn bọn Mai Kiếm, nét mặt ra vẻ băn khoăn. Lan Kiếm đáp: “Chủ nhân là chúa tể cung Linh Thứu, bất luận chủ nhân nói gì bọn nô tì đều phải vâng theo. Chủ nhân khoan hồng đại lượng tha thứ cho bọn phản loạn, bất tất phải băn khoăn làm chi.” Hư Trúc cười nói: “Không dám! Ồ! Còn việc này… tại hạ muốn nói… chẳng biết… chẳng biết có nên không?”.

Ô Lão Đại lên tiếng: “Ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đều là thuộc hạ núi Phiêu Diểu. Giáo chủ dạy bảo điều gì cũng không ai dám kháng cự. Nếu ba điều hình phạt của Đoàn công tử là quá khoan hồng, giáo chủ muốn bổ sung thì bọn thuộc hạ cũng cam tâm lãnh chịu.”

Hư Trúc nói: “Tại hạ nhỏ tuổi ít học, bất quá được Đồng Mỗ chỉ điểm cho mấy môn võ công, nghe gọi là giáo chủ gì gì đó, thực lấy làm hổ thẹn, xin các vị tiền bối nghĩ lại. Tại hạ còn hai điều muốn nói, không biết có nên… có nên…” Hư Trúc từ nhỏ đến lớn chỉ quen nghe sai khiến, chưa bao giờ phải tự mình quyết định chủ ý. Bây giờ đứng trước đông người y không khỏi lúng túng, giọng nói vừa ấp úng vừa khiêm tốn quá mức. Bốn cô Mai Lan Cúc Trúc nghĩ thầm: “Không hiểu sao chủ nhân đối với bọn nô tài kia lại khách khí như vậy.”

Ô Lão Đại đáp: “Giáo chủ đại lượng khiêm hòa như vậy, bọn thuộc hạ có phải gan óc lầy đất cũng không đủ báo đền trong muôn một. Giáo chủ có mệnh lệnh gì xin cứ ban ra!”

Hư Trúc nói: “Phải, phải! Tại hạ nói xong xin các vị đừng cười, chỉ muốn xin hai việc. Việc thứ nhất có vẻ tư tâm. Tại hạ… tại hạ xuất thân là một tiểu hòa thượng chùa Thiếu Lâm, xin từ đây khi các vị bôn tẩu giang hồ đừng làm khó dễ đệ tử phái Thiếu Lâm, bất luận là tăng hay tục. Đây chỉ là ý muốn của tại hạ, không dám nói là mệnh lệnh.”

Ô Lão Đại lớn tiếng hô: “Giáo chủ có lệnh, từ đây trở đi, các huynh đệ đi lại giang hồ nếu gặp đại sư, hòa thượng hay bằng hữu tục gia thuộc phái Thiếu Lâm đều phải cung kính, nếu thất lễ sẽ bị nghiêm trị.” Quần hào đồng thanh đáp: “Tuân lệnh!”

Hư Trúc thấy mọi người đều ưng thuận, y mạnh dạn hơn, chắp tay nói: “Đa tạ, đa tạ! Việc thứ hai là xin các vị vì lòng hiếu sinh của trời đất mà đừng giết người bừa bãi. Tốt nhất là đừng giết mọi sinh vật, dù nhỏ như ong kiến. Các vị cũng không nên ăn những đồ huyết thực, nhưng… nhưng chuyện đó khó quá, vì chính tại hạ cũng đã ăn mặn mất rồi. Mà tại hạ khuyên các vị đừng giết người cũng thấy tự xấu hổ, vì tại hạ cũng đã… đã… giết người. Nhưng… nhưng… các vị cũng cố tránh giết… giết…”

Ô Lão Đại lớn tiếng hô: “Giáo chủ có lệnh, các huynh đệ dưới trướng cung Linh Thứu từ nay không được giết người vô tội, không được sát sinh một cách bừa bãi, nếu bất tuân sẽ bị nghiêm trị.” Quần hào lại đồng thanh đáp: “Tuân lệnh!”

Hư Trúc xoa tay nói: “Tại hạ… tại hạ được nghe như vậy, thật thấy an ủi vô cùng. Từ nay các vị bỏ ác làm thiện, thật là công đức vô lượng.” Rồi y quay sang Ô Lão Đại cười nói: “Ô tiên sinh! Tiên sinh tuyên bố thật là rõ ràng, tại hạ thực không thể sánh bằng. Tiên sinh… trúng Sinh Tử Phù ở chỗ nào, để tại hạ giải trừ cho.”

Sở dĩ Ô Lão Đại mạo hiểm cầm đầu mưu phản cũng chỉ vì mối lo canh cánh Sinh Tử Phù ở trong người. Bây giờ lão nghe Hư Trúc chịu phá giải, vừa mừng rỡ vừa cực kỳ cảm kích, quì mọi ngay xuống để lạy tạ. Hư Trúc cũng quì xuống trả lễ, rồi hỏi: “Ô tiên sinh, tiên sinh bị trái tùng đả thương ở bụng đã khỏi chưa? Tiên sinh lại đã uống Đoạn Trường Hủ Cốt Hoàn của Đồng Mỗ, từ từ chúng ta sẽ tìm cách hóa giải chất độc.”

Lúc này bốn chị em Mai Kiếm đã chuyển động cơ quan, mở cổng cho nữ nhân chín bộ tiến vào đại sảnh.

Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng lớn tiếng hô hoán, cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn cũng tiến vào đại sảnh. Lúc nãy bọn này chạy ra tìm Đồng Mỗ để tỉ đấu, nhưng gặp phải quần nữ tám bộ đưa di thể Đồng Mỗ về đến ngoài cung Linh Thứu. Bao Bất Đồng ăn nói lỗ mãng, còn Phong Ba Ác bản tính hiếu chiến, hai bên cãi nhau rồi động thủ, một lát sau Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn cũng đến giúp. Bản lãnh bốn người này cao cường, nhưng không thể chống nổi số đông, vừa đánh vừa chạy, bị thương khắp chỗ. Nếu cửa mở chậm một khắc, và Mai Lan Trúc Cúc không lên tiếng can ngăn, thì bốn gã này không mất mạng cũng bị bắt.

Mộ Dung Phục thấy mình vô duyên liền dẫn bọn Đặng Bách Xuyên cáo từ xuống núi. Trác Bất Phàm cùng Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa cũng không lời từ biệt bỏ đi.

Hư Trúc thấy bọn Mộ Dung Phục muốn đi bèn toan giữ lại. Mộ Dung Phục nói: “Tại hạ đã đắc tội với núi Phiêu Diểu, tự thấy bẽ bàng. May mà được huynh đài bỏ qua không trị tội, khi nào còn dám quấy rầy?” Hư Trúc đáp: “Không dám, không dám! Hai vị công tử văn võ kiêm toàn, anh hùng xuất chúng, tại hạ vô cùng ngưỡng mộ, muốn… được hai vị công tử chỉ giáo. Tại hạ… tại hạ thật tình, không biết phải nói sao?”

Bao Bất Đồng cùng quần nữ giao chiến đã bị thương mấy chỗ, đang bực bội trong người. Gã nghe Hư Trúc nói chuyện ấp úng thì nhớ đến trong người y có chân dung Vương Ngữ Yên, liền rủa thầm: “Thằng trọc này giả nhân giả nghĩa, đã là đệ tử nhà Phật mà còn sinh lòng ám muội với biểu muội của công tử. Hiển nhiên y là một gã dâm tăng, không giữ giới luật thanh tu.” Gã liền nói: “Tiểu sư phụ ngưỡng mộ anh hùng chỉ là giả, ngưỡng mộ mỹ nhân mới là thực. Sao không nói trắng ra là muốn lưu Vương cô nương ở lại núi Phiêu Diểu.”

Hư Trúc ngạc nhiên hỏi lại: “Tiên sinh… nói sao? Tại hạ muốn lưu mỹ nhân nào?” Bao Bất Đồng đáp: “Tiểu hòa thượng còn ráng giấu giếm, chẳng lẽ nhà Mộ Dung ở Cô Tô đều si ngốc cả ư? Thật là tức cười!” Hư Trúc đáp: “Tại hạ thật sự không hiểu tiên sinh muốn nói gì. Có chi tức cười đâu?”

Bao Bất Đồng đang ở chỗ dầm rồng hang cọp, nhưng khí tức đã nổi lên, chẳng coi sống chết vào đâu nữa, lớn tiếng nói: “Thằng trọc con kia! Mi là hòa thượng phái Thiếu Lâm lừng danh thiên hạ, sao còn gia nhập tà phái, cấu kết với bọn yêu ma quỷ quái? Mỗi lần ta nhìn thấy ngươi lại phải bực mình. Ngươi là hòa thượng, đã bức bách mấy trăm phụ nữ về làm vợ lớn vợ bé, còn chưa đủ hay sao mà lại để ý đến Vương cô nương nhà ta? Ta cho ngươi hay, Vương cô nương là người nhà Mộ Dung công tử, ngươi chỉ là con cóc ghẻ muốn sánh đôi với thiên nga, phải dẹp ngay ý nghĩ mờ ám đó càng sớm càng tốt!” Bao Bất Đồng lửa bốc đến đỉnh đầu, khoa chân múa tay, chỉ trỏ vào mặt Hư Trúc thóa mạ không tiếc lời.

Hư Trúc chẳng hiểu gì, cứ ấp úng: “Tại hạ… Tại hạ…” Bỗng hai tiếng veo véo rít lên, Ô Lão Đại vung thanh Lục Ba Hương Lộ quỉ đầu đao, còn Cát Đại Bá vung ngọn thiết chùy nặng hơn sáu mươi cân, hai người vừa quát lớn vừa nhảy xổ lại tấn công Bao Bất Đồng.

Mộ Dung Phục biết rằng Hư Trúc đã nhận lời giải Sinh Tử Phù, tất nhiên quần hào liều chết vì y, nếu hỗn chiến thì nguy hiểm vô cùng. Y vừa thấy Ổ Lão Đại cùng Cát Đại Bi nhảy tới, liền xông ra thi triển công phu Đẩu Chuyển Tinh Di cho quỷ đầu đạo chém tới Cát Đại Bá, thiết chùy đập sang Ô Lão Đại. Hai món binh khí chạm nhau đánh choang một tiếng, tóe lửa ra bốn phía. Mộ Dung Phục lại xoay, tay nắm lấy vai Bao Bất Đồng, kéo lùi ra xa hơn trượng rồi quay lại nhìn Hư Trúc chắp tay nói: “Xin thứ lỗi, tại hạ xin cáo biệt.”Y lạng người đi một cái, gấp rút vọt ra khỏi cửa đại sảnh, chỉ sợ quần nữ lại vận động cơ quan cho phiến đá lớn nổi lên cản đường.

Hư Trúc vội nói: “Công tử đừng chạy nữa. Tại hạ… không có ý gì… Tại hạ…” Mộ Dung Phục nhíu mày quay lại, lớn tiếng hỏi: “Phải chăng các hạ tự coi là thiên hạ vô địch, muốn chỉ giáo mấy chiêu?” Hư Trúc xua tay lia lịa nói: “Không… không dám…” Mộ Dung Phục hỏi: “Tại hạ vô cớ đến đây, các hạ nhất định muốn bắt lại để trị tội chăng?” Hư Trúc lắc đầu đáp: “Không… không phải… Ôi!”.

Mộ Dung Phục đứng ngay cửa, ngạo nghễ nhìn quần hào ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo, lại nhìn sang Mai Lan Cúc Trúc tứ kiếm và quần nữ chín bộ Cửu Thiên. Mọi người thấy y oai phong lẫm liệt, không ai dám tiến lại. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, nói: “Đi thôi!” Rồi y ngang nhiên ra khỏi cửa lớn, Vương Ngữ Yên cùng bọn Đặng Bách Xuyên cũng đi ra.

Ô Lão Đại cả giận nói: “Giáo chủ! Nếu để gã sống sót mà xuống núi Phiêu Diểu thì bọn ta còn làm người thế nào được? Xin giáo chủ hạ lệnh bắt chúng lại.” Hư Trúc lắc đầu nói: “Thôi! Tại hạ… tại hạ không hiểu vì sao mà y nổi cơn thịnh nộ. Hỡi ôi! Thật là khó hiểu!…” Ô Lão Đại lại nói: “Xin để bọn thuộc hạ đi mời vị Vương cô nương kia trở lại.” Hư Trúc vội nói: “Không được, không được!” .

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự chưa ra khỏi tòa đại sảnh thì quay lại nói: “Đoàn công tử! Tái kiến” Đoàn Dự giật mình, trong lòng chua xót, miễn cưỡng đáp: “Vâng. Tái… tái kiến… Tại hạ không đi theo cô nương nữa.” Chàng đứng nhìn Vương Ngữ Yên đi mỗi lúc một xa, bên tai cứ văng vẳng câu nói của Bao Bất Đồng, nghĩ thầm: “Vương cô nương là người nhà Mộ Dung công tử, phen này thật sự lòng ta đã chết, mình chỉ như con cóc ghẻ đòi sánh cùng thiên nga. Mộ Dung công tử vừa đứng trước cửa đại sảnh, oai phong lẫm liệt, anh hùng khí khái, chỉ giơ tay một cái là đả bại hai cao thủ, bản lĩnh cao thâm không kể xiết. Sức lực ngươi không trói nổi con gà thì lọt vào mắt xanh của nàng thế nào được? Lúc này Vương cô nương nhìn biểu huynh nàng đầy tình tứ, vừa ngưỡng mộ vừa thương yêu. Đoàn Dự này quả nhiên chỉ là con cóc ghẻ mà thôi!”

Một lúc sau, trong đại sảnh chỉ còn lại hai chàng thanh niên. Hư Trúc thì bâng khuâng ngồi cúi đầu như ngây như dại, còn Đoàn Dự thì đau xót buồn rầu như kẻ mất hồn. Hai người ngơ ngẩn nhìn nhau như hai chàng ngốc.

Hồi lâu, Hư Trúc buông một tiếng thở dài. Đoàn Dự cũng thở dài theo, rồi nói: “Nhân huynh cùng tiểu đệ đồng bệnh tương lân, nỗi tương tư chôn tận đáy lòng, biết làm sao phai nhạt?”. Hư Trúc bất giác thẹn đỏ mặt, tưởng Đoàn Dự đã biết vị cô nương trong mộng của mình, ấp úng hỏi: “Đoàn… Đoàn công tử! Sao huynh lại biết?”

Đoàn Dự đáp: “Ai không thấy Tử Đô đẹp thì người đó không có mắt. Ai không thấy nàng đẹp thì không phải là con người nữa. Lòng yêu cái đẹp, ai ai cũng có. Nhân huynh cùng tiểu đệ cũng một loại người, không cần nói cũng hiểu nhau”. Rồi chàng lại buông tiếng thở dài. Thì ra Đoàn Dự thấy trong bọc Hư Trúc Có chân dung Vương Ngữ Yên nên tưởng y cũng yêu nàng như mình, mà vừa rồi y xích mích cùng Mộ Dung Phục dĩ nhiên cũng chỉ vì Vương Ngữ Yên mà ra. Đoàn Dự lại nói: “Nhân huynh võ công tuyệt đỉnh, nhưng cơ duyên không hợp thì bất luận làm sao cũng không được.”

Hư Trúc lẩm bẩm: “Phải lắm! Cơ duyên không hợp… Cơ duyên phải tự nhiên mà gặp… đâu phải cầu mà được? Phải lắm! Một khi từ biệt, trời đất mênh mông, biết đâu mà tìm nàng được?” Hư Trúc nói về cô nương trong mộng, nhưng Đoàn Dự tưởng y nói về Vương Ngữ Yên. Hai chàng ngốc nghếch, không hiểu việc đời, mỗi lúc càng ý hợp tâm đầu.

Quần nữ cung Linh Thứu đặt tiệc mừng, Hư Trúc cùng Đoàn Dự nắm tay nhau cùng ngồi. Bọn động chúa đảo chúa đều là thuộc hạ cung Linh Thứu, dĩ nhiên không ai dám ngồi cùng bàn với Hư Trúc. Hư Trúc không hiểu gì về việc tiếp khách, thấy ai cũng chẳng thèm chào hỏi, cứ mải chuyện trò với Đoàn Dự.

Đoàn Dự vì Vương Ngữ Yên mà điên đảo thần hồn, khen nàng không tiếc lời, nào là tính nết dịu dàng, nào là dung mạo thoát tục. Hư Trúc tưởng chàng khen cô nương trong mộng của mình, lại không dám hỏi sao chàng lại biết nàng, mà cũng không dám hỏi đến lai lịch của nàng. Trái tim y đập loạn lên, trong bụng nghĩ thầm: “Mình cứ tưởng Đồng Mỗ chết rồi, thiên hạ không còn ai biết Mộng Cô ở nơi đâu. Thế mà Đoàn công tử lại biết nàng, quả là ông trời có mắt. Khốn nỗi Đoàn công tử cũng đem lòng ái mộ nàng. Nếu mình kể lại đoạn ân tình dưới hầm nước đá, dĩ nhiên chàng nổi cơn thịnh nộ, bỏ tiệc ra đi thì mình không được nghe ai nói về nàng nữa.” Hư Trúc thấy Đoàn Dự trầm trồ khen ngợi cô nương đó, cũng phụ họa bằng cả tấm lòng thành thực.

Hai người cùng nói về tình nhân của mình mà chẳng ai nói rõ, thành ra hai vị tình lang cứ tưởng mình cùng yêu một vị cô nương. Hư Trúc nói: “Nhân huynh! Nhà Phật đã dạy mọi việc đều từ chữ “duyên” mà ra. Đạt Ma tổ sư có nói: “Chúng sinh vô ngã; Không tự biết mình; Đau khổ vui mừng; Đều do duyên kiếp”. Con người vui vẻ hay buồn phiền cũng là duyên nợ ở kiếp trước, khi duyên phận hết rồi thì vui vẻ hay buồn phiền cũng trở thành không, chẳng có gì đáng mừng hay đáng tủi.” Đoàn Dự đáp: “Phải lắm! Những chuyện được mất đều tùy ở cơ duyên, không nên vì được vì mất mà thay lòng đổi dạ.”

Phật học tại nước Đại Lý rất hưng thịnh, Đoàn Dự từ nhỏ đã đọc kinh Phật. Người này dẫn một câu trong kinh Kim Cương, người kia lại nêu một câu trong kinh Pháp Hoa, rồi cùng nhau than thở cho bớt nỗi tương tư. Bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc rót rượu mời, Đoàn Dự uống một chén thì Hư Trúc cũng uống một chén, cứ thế đến nửa đêm. Quần hào đứng dậy cáo từ, được quần nữ cung Linh Thứu hướng dẫn đến một khu riêng biệt để ngủ. Hư Trúc cùng Đoàn Dự mười phần đã say đến chín, mà vẫn vừa uống vừa nói chuyện không chịu nghỉ.

Hôm trước Đoàn Dự đấu tửu với Tiêu Phong ngoài thành Vô Tích, đã vận nội công đẩy rượu ra đầu ngón tay nên chàng không say. Đêm nay chàng uống thực sự nên đã say khướt, bèn nói: “Nhân huynh! Tiểu đệ có một vị huynh trưởng kết nghĩa kim lan họ Kiều tên Phong, thật là đại anh hùng, đại hào kiệt. Võ công cũng như tửu lượng của y thật là có một không hai, nếu nhân huynh gặp y tất cũng đem lòng ái mộ. Giá mà y có ở đây, ba chúng ta kết nghĩa đệ huynh thì thật là thỏa chí bình sinh.”

Hư Trúc trước nay chưa từng uống rượu, nhưng nội công tinh thâm nên vẫn chưa say, tuy cũng thấy hơi mơ mơ hồ hồ, nói năng mạnh dạn hơn, không rụt rè cố chấp như lúc tỉnh. Y cảm thấy hào khí bồng bột liền đáp: “Đoàn công tử mà không… không chê tiểu đệ ngu ngốc thì hai ta kết nghĩa huynh đệ trước, sau này tìm được Kiều đại ca sẽ kết bái lần nữa là xong” Đoàn Dự cả mừng nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Huynh trưởng bao nhiêu tuổi?”

Hai người so tuổi, Hư Trúc lớn hơn ba tuổi, Đoàn Dự liền hô: “Nhị ca! Xin nhận của tiểu đệ một lạy!” Rồi chàng bước ra khỏi bàn, lạy phục xuống đất. Hư Trúc vội vàng đáp lễ nhưng chân mềm như bún, té bịch xuống đất.

Đoàn Dự thấy Hư Trúc ngã, vội vàng đưa tay đỡ dậy. Lúc này Đoàn Dự cũng đã say khướt, chân đứng không vững, đột nhiên hai người ôm chặt lấy nhau nằm lăn ra đất, cùng nổi lên một tràng cười, Đoàn Dự nói: “Nhị ca! Tiểu đệ chưa say đâu, hai ta lại ngồi uống thêm trăm chén nữa.” Hư Trúc đáp: “Tiểu huynh dĩ nhiên phải bồi tiếp tam đệ uống đến say mèm.” Đoàn Dự nói: “Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, Mạc tử kim tôn không đối nguyệt (Lúc đắc ý phải say cho thỏa, Chén vàng chớ để rỗng dưới trăng). Ha ha! Chúng ta phải cạn thêm ba trăm chén nữa!” Hai người càng nói càng mơ hồ, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Hồi 39: Vải thưa che mắt thánh, bốn chín gặp năm mươi

Hôm sau Hư Trúc tỉnh dậy thì phát hiện mình đang nằm trên giường nệm rất êm, mở mắt nhìn ra ngoài màn thì thấy phòng ngủ rất rộng, cũng ít đồ vật như một thiền phòng trong chùa Thiếu Lâm. Trong phòng bài trí rất trang nhã, mấy cái đỉnh đồng, bình sứ cũng tương tự như chuông đồng lư hương trong chùa. Y nhìn cảnh tượng trước mắt mà mơ mơ hồ hồ mất một lúc, không hiểu mình đang ở đâu.

Một thiếu nữ bưng khay đến bên giường, chính là Lan Kiếm. Nàng nói: “Chủ nhân đã dậy chưa? Xin chủ nhân súc miệng.” Hư Trúc chưa hết hơi men, miệng đắng ngắt, khát khô cổ. Y thấy trong khay có chén nước trà liền bưng lên uống, chỉ thấy vừa ngon vừa ngọt, bèn uống một hơi cạn sạch. Cả đời Hư Trúc chưa uống sâm thang bao giờ, làm sao nhận ra được? Y chẳng biết là thứ trà gì, rụt rè cười nói: “Đa tạ tỉ tỉ! Tại hạ… tại hạ muốn dậy, xin tỉ tỉ ra ngoài!”

Lan Kiếm chưa kịp đáp thì ngoài cửa phòng lại có một thiếu nữ bước vào, chính là Cúc Kiếm. Nàng mỉm cười nói: “Hai tỉ muội nô tì xin giúp chủ nhân thay áo.” Rồi nàng lại đầu giường, với lấy một bộ quần áo lót màu xanh nhạt, đặt vào trong chăn Hư Trúc.

Hư Trúc sợ quá, then đỏ mặt nói: “Không, không ta… ta không cần hai vị tỉ tỉ giúp. Ta không bị thương mà cũng chẳng bệnh tật chi hết, chỉ uống rượu quá say mà thôi. Hỡi ôi, ta lại phạm thêm vào giới tửu rồi! Kinh Phật có dạy, uống rượu có ba mươi sáu điều hại. Từ nay nhất định không uống nữa. Tam đệ đâu? Đoàn công tử đâu? Y đi đâu rồi?”.

Lan Kiếm tươi cười đáp: “Đoàn công tử xuống núi rồi. Lúc công tử ra đi có dặn nô tì bẩm lại với chủ nhân, khi chủ nhân sắp xếp yên ổn việc ở cung Linh Thứu thì nhớ đến Trung Nguyên để gặp nhau.”

Hư Trúc la lên một tiếng “Trời ơi!” rồi nói: “Ta còn có việc muốn hỏi y, sao y đã vội đi ngay?” Hư Trúc trong lòng nóng nảy, lật đật nhảy xuống giường toan đuổi theo Đoàn Dự để hỏi tên họ cùng địa chỉ của cô nương trong mộng. Đột nhiên y thấy mình đã mặc áo lót màu trắng rất sạch sẽ thì la lên một tiếng kinh ngạc, vội kéo chăn đắp lên mình rồi hốt hoảng hỏi: “Ta thay áo từ bao giờ?” Lúc Hư Trúc rời khỏi chùa Thiếu Lâm chỉ có một bộ áo lót, đã nửa năm chưa thay đổi. Bây giờ y thấy quần áo lót nhẹ nhàng sạch sẽ, tuy chẳng biết là lụa là hay gấm đoạn, nhưng cũng biết là đồ quí.

Cúc Kiếm cười nói: “Đêm qua chủ nhân say rượu, bốn tỉ muội nô tì đã phục thị thay đổi y phục, chủ nhân không biết thật ư?” Hư Trúc cả kinh ngẩng đầu lên nhìn, thấy Lan Kiếm, Cúc Kiếm người đẹp như ngọc, cười tươi như hoa, trái tim bất giác đập thình thình. Y lại giơ tay lên thì thấy cánh tay mình trắng trẻo mịn màng, rõ ràng bao nhiêu cáu ghét đã được cọ rửa sạch sẽ hết. Y chỉ còn một tia hy vọng, gượng cười nói: “Hôm qua ta say quá, may là còn nhớ tắm rửa sạch sẽ rồi mới đi ngủ.” Lan Kiếm cười đáp: “Đêm qua chủ nhân say túy lúy, ngủ li bì. Bốn tỉ muội nô tì đã tắm gội cho chủ nhân đó.” Hư Trúc la hoảng một tiếng suýt ngất đi, rồi lại nằm xuống lẩm bẩm: “Hỏng bét! Thật là hỏng bét!”

Lan Kiếm, Cúc Kiếm không khỏi giật mình, đồng thanh hỏi: “Chủ nhân! Chủ nhân có điều chi không ổn?” Hư Trúc cười đau khổ, đáp: “Ta là nam nhân, lại bộc lộ thân thể trước mặt bốn vị tỉ tỉ… lại còn không hỏng bét ư? Huống chi thân thể ta dơ bẩn lâu ngày, hôi thối nồng nặc, sao các vị tỉ tỉ lại làm cái việc ô uế đó?” Lan Kiếm nói: “Bốn tỉ muội đã là nô tì của chủ nhân, dù phải vì chủ nhân mà tan xương nát thịt cũng không dám oán hận. Bọn nô tì đã phạm tội gì, xin chủ nhân trách phạt.” Nói xong, cả hai cô lạy phục xuống đất, miệng không ngớt xin tha tội.

Hư Trúc thấy hai nàng sợ sệt, nhớ bọn Dư bà, Thạch tẩu mỗi khi thấy mình lịch sự là run rẩy, nghĩ chắc Lan Kiếm, Cúc Kiếm cũng coi mình như Đồng Mỗ khi trước, cứ ăn nói hiền từ hay nét mặt ôn hòa là sắp sửa đưa ra hình phạt ghê gớm. Y bèn nói: “Hai vị tỉ… Hừ! Các ngươi ra ngoài cho ta thay áo, không cần phải phục vụ.” Hai nàng Lan, Cúc đứng dậy, nước mắt chảy quanh, lui ra ngoài phòng. Hư Trúc rất làm kỳ hỏi: “Ta có gì lầm lỗi với các ngươi? Sao các ngươi lại không vui? E rằng ta đã nói sai gì chăng? Cái đó…”.

Cúc Kiếm đáp: “Chủ nhân đuổi bọn nô tì ra ngoài, không cho phục vụ gội rửa thay áo thì nhất định… là ghét bỏ bọn nô tì…” Cô chưa dứt lời, nước mắt đã lã chã rơi xuống. Hư Trúc khoát tay lia lịa nói: “Không, không phải thế. Ôi chao, ta không biết nói thế nào cho rõ được. Ta là nam nhân, các ngươi là nữ nhân, … cái đó… không tiện… chút nào. Ta không có ý gì khác đâu! Có Phật tổ chứng minh, người xuất gia không biết nói dối. Ta không gạt các ngươi đâu?”

Lan Kiếm, Cúc Kiếm thấy Hư Trúc vừa nói vừa vung tay chỉ trỏ, có vẻ vừa nóng nảy vừa thành thực, bất giác phá lên cười rồi đồng thanh nói: “Chủ nhân đừng nghĩ ngợi gì. Trong cung Linh Thứu vốn không có nam nhân. Chủ nhân là trời, bọn nô tì là đất, làm gì có chuyện phân biệt nam nữ?” Thế rồi hai người lại gần phục thị Hư Trúc thay áo đổi giày. Lát sau Mai Kiếm, Trúc Kiếm cũng bưng gương lược tới, một cô chải đầu, một cô rửa mặt cho Hư Trúc. Y sợ quá, không dám nói tiếng nào, mà cũng không dám bảo họ lui ra đừng phục vụ.

Hư Trúc biết Đoàn Dự đã đi xa, rượt theo cũng không kịp, lại nghĩ tới chưa giải trừ Sinh Tử Phù cho quần hào các đảo các động thì không tiện bỏ đi. Dùng điểm tâm xong, Hư Trúc ra đại sảnh gặp quần hào, đã thấy hai người đang bị Sinh Tử Phù phát tác hành hạ đau đớn khổ sở.

Giải trừ Sinh Tử Phù chỉ nhờ vào chân lực để thi triển Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Trong người Hư Trúc nội lực đầy rẫy, dù có giải trừ cho mười người một lúc cũng không biết mệt. Có điều Đồng Mỗ gieo Sinh Tử Phù mỗi người một chỗ, nghĩ ra cách giải trừ cũng phức tạp. Hư Trúc hiểu biết về kinh mạch huyệt đạo rất nông cạn, nên không dám động thủ bừa bãi, nếu có chỗ sai trật thì càng làm hại thêm. Đến giờ ngọ y mới trị được hai người, phải vào ăn cơm trưa rồi nghỉ ngơi một chút.

Mai Kiếm thấy y vì tìm cách giải Sinh Tử Phù mà hết chau mày lại vò đầu ra chiều mệt trí, liền nói: “Chủ nhân! Trong hậu điện cung Linh Thứu có nhiều họa đồ do chủ nhân mấy trăm năm trước khắc vào vách đá. Nô tì đã nghe Đồng Mỗ nói những bức họa đồ đó có liên quan đến Sinh Tử Phù. Chủ nhân thử tới đó coi để nghiên cứu phép giải trừ cho mau chóng hơn.” Hư Trúc cả mừng nói: “Hay lắm!”

Bốn cô Mai, Lan, Cúc, Trúc dẫn Hư Trúc đi vào hoa viên, xoay một hòn non bộ để lộ ra một cửa hầm. Mai Kiếm cầm đuốc đi trước dẫn đường, cả năm người cùng tiến vào. Thỉnh thoảng Mai Kiếm lại phải bấm nút ngăn chặn cơ quan, vì trong đường hầm có bố trí rất nhiều cạm bẫy ám khí cùng độc dược. Đường hầm này khúc khuỷu quanh co, có nhiều chỗ rất rộng rãi, rõ ràng là địa đạo thiên nhiên. Công trình to lớn này mà dùng sức người xây cất thì e rằng mấy trăm năm cũng không xong.

Đi hơn hai dặm trong lòng đất, Mai Kiếm giơ tay ra đẩy một khối đá bên phải, rồi nép sang bên nói: “Chủ nhân tiến vào đi. Bên trong là một gian thạch thất, bọn nô tì không vào được.” Hư Trúc hỏi lại: “Sao các cô không vào? Trong ấy nguy hiểm lắm hay sao?” Mai Kiếm đáp: “Không có gì nguy hiểm, nhưng đó là trọng địa của bản cung, bọn nô tì không được phép vào.” Hư Trúc bèn nói: “Chúng ta cùng vào đi, có gì là quan hệ đâu? Đứng ngoài này vừa chật hẹp vừa khó chịu.” Bốn tỉ muội nhìn nhau, vẻ mặt vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ.

Mai Kiếm nói: “Chủ nhân! Trước kia Đồng Mỗ có bảo rằng: Nếu bốn tỉ muội nô tì hết lòng phục vụ người không phạm lỗi lầm, thì từ năm bốn mươi tuổi, mỗi năm người sẽ cho bọn nô tì vào thạch thất này một ngày để nghiên cứu võ công trên vách đá. Đó là một ân huệ rất lớn, theo lời Đồng Mỗ trước kia thì bọn nô tì phải hai mươi năm nữa mới được vào.” Hư Trúc nói: “Phải chờ những hai mươi năm, há chẳng buồn đến chết ư? Lúc đó các cô đã già cả rồi thì còn học võ công làm gì nữa? Chúng ta cùng vào thôi!”  Bốn cô cả mừng, lạy phục xuống tạ ơn, Hư Trúc vội nói: “Dậy đi! Dậy đi! Nơi đây chật hẹp, nếu ta trả lễ thì đè lên nhau mất.”

Bốn người tiến vào thạch thất thì thấy vách đá bốn phía đều mài nhẵn nhụi, có vô số vòng tròn đều nhau, đường kính chừng hai thước. Trong mỗi vòng tròn đều khắc nhiều đồ hình, cái khắc hình người, cái khắc hình thú vật, có cái khắc văn tự không đủ nét, lại có cái khắc ký hiệu và những đường nét ngoằn ngoèo. Vòng tròn nào cũng ghi số thứ tự bằng những chữ Giáp nhất, Giáp nhị… Tí nhất, Tí nhị… tổng số nếu không đến một ngàn thì cũng tám chín trăm vòng tròn, nhất thời làm sao xem hết được?

Trúc Kiếm nói: “Chúng ta hãy xem vòng Giáp nhất trước. Chủ nhân thấy có đúng không?” Hư Trúc gật đầu khen phải. Năm người bèn giơ đuốc lên soi vào vòng tròn đánh số Giáp nhất. Hư Trúc lập tức nhận ra vòng tròn này vẽ thủ pháp đầu tiên trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, bèn nói: “Đây là Thiên Sơn Chiết Mai Thủ.” Xem đến đồ hình Giáp nhị, quả nhiên là chiêu thứ hai trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ. Lần lượt xem xuống dưới, hết Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì đến các đồ hình Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Những ca quyết bí hiểm đều có chép rõ trong các vòng tròn.

Hết Thiên Sơn Lục Dương Chưởng thì đến đồ hình vẽ các loại võ công mà Hư Trúc chưa biết. Y bèn căn cứ theo đồ hình để vận động chân khí, mới học được vài chiêu đã thấy thân thể nhẹ nhàng như muốn bay bổng lên không, tựa như có chỗ sai lầm một chút nên mới không bay lên thật sự.

Hư Trúc đang để tâm trí vào đồ hình, không quan tâm gì đến bên ngoài, bỗng nghe hai tiếng la hoảng. Y cả kinh quay lại nhìn thì thấy hai cô Lan Kiếm, Trúc Kiếm ngã lăn xuống đất, còn hai cô Mai, Cúc cũng vịn vào vách đá, sắc mặt nhợt nhạt, lảo đảo muốn té. Hư Trúc vội chạy lại đỡ hai cô Lan, Trúc dậy rồi hỏi: “Chuyện gì thế?” Mai Kiếm run rẩy đáp: “Chủ… chủ nhân! Công lực bọn nô tì kém cỏi, không thể ở đây xem được… xin ra ngoài đợi!” Bốn cô dắt díu nhau, vịn vào vách đá, lần mò ra khỏi thạch thất.

Hư Trúc ngẩn ra một chút rồi chạy ra xem, thì thấy bốn cô ngồi xếp bằng trong đường hầm, cô nào cũng run bần bật, nét mặt cực kỳ đau khổ. Y biết là các cô đã bị nội thương trầm trọng, bèn vận Thiên Sơn Lục Dương Chưởng vỗ vào lưng mỗi người mấy cái. Một luồng khí dương hòa hùng hậu truyền vào cơ thể, sắc mặt bốn cô trở lại bình thường, rồi chẳng bao lâu đã toát mồ hôi, mở mắt ra nói: “Đa tạ chủ nhân đã hao phí công lực để trị thương.” Các cô sụp lạy tạ ơn, Hư Trúc đỡ dậy rồi hỏi: “Chuyện… chuyện gì thế? Sao bỗng dưng các cô lại bị thương?”

Mai Kiếm thở dài đáp: “Chủ nhân! Đồng Mỗ bảo khi bọn nô tì đủ bốn mươi tuổi mới được vào thạch thất mỗi năm một lần để xem đồ hình, lão nhân gia thật đã suy nghĩ kỹ càng. Những đồ hình này khắc toàn võ công vi diệu, bọn nô tì không biết tự lượng, đã chiếu theo đồ hình Giáp nhất luyện tập, nhưng nội lực chưa đủ nên chân khí lập tức chạy loạn lên trong kinh mạch. Nếu chủ nhân không cứu giúp thì bọn tỉ muội nô tì vĩnh viễn không tỉnh lại.” Lan Kiếm tiếp lời: “Chắc Đồng Mỗ cũng mong tỉ muội nô tì mau đủ bốn mươi tuổi để tập luyện võ công thượng thặng. Nhưng… nhưng bọn nô tì tư chất kém cỏi, luyện tập hai mươi năm nữa cũng chưa chắc đã dám vào lại thạch thất này.”

Hư Trúc đáp: “Thì ra là thế! Đó là lỗi của ta, không nên để các vị tỉ tỉ vào đây mới phải.” Tứ Kiếm lại lạy phục xuống đồng thanh nói: “Sao chủ nhân lại nói thế? Đó là chủ nhân gia ân, đáng trách là bọn nó tì càn rỡ không biết lượng sức mình.”

Cúc Kiếm nói: “Công lực chủ nhân hùng hậu, rèn luyện những môn võ công cao thâm này chắc cũng dễ. Trước kia Đồng Mỗ đôi khi ở trong thạch thất hàng tháng không ra ngoài, chắc là để nghiên cứu tập luyện những đồ hình trên vách đá.” Mai Kiếm lại nói: “Bọn nô tài ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đến đánh cung Linh Thứu, bức bách các tỉ muội bộ Quân Thiên phải chỉ nơi cất giấu bảo vật của Đồng Mỗ, nhưng mọi người một dạ trung thành, thà chết không khuất phục. Bọn nô tì đã chuẩn bị, nếu chúng tìm được đường hầm thì phát động cơ quan phá hủy, không để chúng tìm đến thạch thất, học được tuyệt kỹ võ công cung Linh Thứu trên vách đá mà gây họa lớn cho võ lâm. Giả tỉ bọn nô tì sớm biết thế này, thì để chúng vào đây lại còn tốt hơn.”

Hư Trúc gật đầu đáp: “Đúng là như thế. Người không đủ nội lực mà xem những đồ hình này thì còn tệ hại hơn trúng độc dược hay ám khí, May là họ chưa tiến vào đây.” Lan Kiếm mỉm cười nói: “Chủ nhân thật là người tốt. Bọn nô tì lại muốn để chúng vào luyện công mà chết, mình thấy càng sướng mắt.”

Hư Trúc nói: “Ta mới luyện xong mấy chiêu, thấy tinh thần phấn chấn, nội lực đầy rẫy, bây giờ trở ra giải trừ Sinh Tử Phù cho họ. Các cô cũng nên ra ngoài để nghỉ ngơi.” Năm người lại theo đường hầm đi ra, Hư Trúc vào đại sảnh giải trừ Sinh Tử Phù cho ba người nữa.

Sau đó, mỗi ngày Hư Trúc tiếp tục dùng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng giải trừ Sinh Tử Phù cho quần hào, mỗi khi thấy tinh thần mỏi mệt thì lại vào thạch thất rèn luyện võ công thượng thặng. Bổn nữ tì cũng đi theo, nhưng chỉ đứng ngoài chờ đợi chứ không dám tiến vào nửa bước. Mỗi khi Hư Trúc rảnh rỗi lại chỉ điểm võ công cho bốn cô cùng quần nữ chín bộ.

Cứ thế hai mươi ngày, việc giải trừ Sinh Tử Phù cho quần hào mới xong. Hàng ngày Hư Trúc đều nghiên cứu đồ hình để tập luyện võ công trong thạch thất nên bản lĩnh y tiến bộ rất mau, vượt xa lúc mới lên núi Phiêu Diểu.

Quần hào trước kia phải phục tùng Đồng Mỗ vì mụ gieo Sinh Tử Phù vào người để kiềm chế. Nay cung Linh Thứu đã đổi chủ, Hư Trúc lấy lòng thành mà đối đãi, lấy lễ mà cư xử, tuy họ vốn ngang tàng song đã cảm ơn mến đức, thực lòng kính phục.

Các động chúa đảo chúa dần dần tạ từ cáo biệt, trên núi Phiêu Diểu chỉ còn mình Hư Trúc là nam nhân. Y nghĩ thầm: “Mình vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, nhờ các vị sư phụ trong chùa Thiếu Lâm nuôi dạy nên người, nếu không quay về chùa Thiếu Lâm thì thật là vong ân phụ nghĩa. Ta phải về chịu tội trước phương trượng cùng sư phụ mới là đúng lý.” Hư Trúc bèn nói cho bốn nữ tì cùng quần nữ chín bộ hiểu rõ nguyên do, tỏ ý muốn xuống núi ngay, mọi việc trong cung Linh Thứu giao cho thủ lĩnh chín bộ là bọn Dư bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi… xử lý.

Bốn nữ tì muốn đi theo phục vụ, nhưng Hư Trúc nói: “Bây giờ ta quay về chùa Thiếu Lâm làm hòa thượng. Trong thiên hạ làm gì có nhà sư nào đem tì nữ theo?” Hư Trúc nói hai ba lần, bốn cô vẫn không chịu nghe, y liền lấy dao tự cạo đầu láng bóng. Bốn cô không biết làm sao, đành cùng quần nữ chín bộ tiễn chân Hư Trúc xuống núi, gạt lệ chia tay.

Hư Trúc mặc lại tăng bào, chạy nhanh về núi Tung Sơn. Dọc đường y không động chạm đến ai, mà y mặc áo thầy chùa thì dù gặp đạo tặc cũng chẳng ai đánh y làm chi. Y về đến chùa Thiếu Lâm bình an vô sự.

Hư Trúc vừa trông thấy mái ngói cổ kính của chùa Thiếu Lâm, trong lòng rộn lên bao điều vừa cảm khái vừa áy náy. Y nghĩ tới mấy tháng nay, mình đã phạm vào vô số thanh quy giới luật, nào là sắc giới, sát giới, huân giới, tửu giới, quả là “Ba La Di đại giới” không thể tha thứ được. Trong lòng y vô cùng hổ thẹn, chẳng hiểu phương trượng và sư phụ có tha thứ mà cho mình trở lại Phật môn hay không.

Vào cửa sơn môn rồi, Hư Trúc tìm đến bái kiến sư phụ Tuệ Luân. Tuệ Luân thấy y trở về đột ngột thì vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, cất tiếng hỏi: “Phương trượng sai mi xuống núi đưa thư, sao mãi hôm nay mới trở về?” Hư Trúc nằm phục xuống đất, trong lòng tê tái, bất giác khóc rống lên nói: “Sư phụ! Đệ tử… đệ tử thật là đáng chết, không biết giữ gìn, đến nỗi… đến nỗi không theo được lời giáo huấn của sư phụ.” Tuệ Luân biến sắc hỏi: “Sao, sao?… Ngươi đã ăn những thứ tanh hôi rồi ư?” Hư Trúc đáp: “Vâng, nhưng đệ tử không phải chỉ ăn mặn mà thôi!” Tuệ Luân cả giận nói: “Đáng chết, đáng chết! Mi… mi uống rượu rồi ư?” Hư Trúc đáp: “Đệ tử chẳng những đã uống rượu, mà còn uống đến say như chết.” Tuệ Luân thở dài sườn sượt, hai dòng lệ tuôn rơi nói: “Ta thấy mi vốn thực thà trung hậu, thế mà chẳng bao lâu đã chìm đắm trong thế giới phù hoa. Hỡi ôi!…” Hư Trúc thấy sư phụ thương tâm thì lại càng sợ hãi, nói: “Sư phụ ơi, đệ tử thật là tội lỗi, lại còn phạm…” Y chưa kịp nói phạm sát giới, sắc giới thì đột nhiên hai hồi chuông khánh nổi lên, đó là hiệu lệnh triệu tập chư tăng hàng chữ Tuệ.

Tuệ Luân lập tức đứng lên, lau nước mắt nói: “Mi phạm giới nhiều quá, ta không che chở cho mi được. Mi… mi tự đến Giới Luật Viện mà chịu tội đi! E rằng chính ta cũng phải vì ngươi mà chịu trách nhiệm. Hỡi ôi…” Tuệ Luân lật đật đi ngay.

Hư Trúc đến trước Giới Luật Viện khom lưng bẩm: “Đệ tử là Hư Trúc đã vi phạm giới luật Phật môn, xin trưởng lão xử phạt.” Y gọi hai lần mới có nhà sư đứng tuổi trong viện bước ra, lạnh lùng nói: “Thủ tòa trưởng lão cùng các vị sư thúc chưa rảnh để nghe ngươi nói. Ngươi hãy quỳ xuống đó mà chờ.” Hư Trúc “Vâng” một tiếng rồi quì ngay xuống, từ giữa trưa đến chiều tối mà chẳng ai hỏi tới. May mà nội công y thâm hậu, quì nửa ngày trời chẳng ăn uống gì vẫn chưa mỏi mệt.

Tiếng chuông chiều văng vẳng, khóa cúng Phật buổi tối đã bắt đầu, Hư Trúc lẩm nhẩm tụng kinh sám hối. Bỗng một nhà sư trung niên đi tới nói: “Hư Trúc! Trong chùa đang có nhiều việc trọng đại, các vị trưởng lão chưa rảnh để xử ngươi. Ngươi quỳ mọp niệm kinh có vẻ chân thành sám hối, thôi thì hãy tạm thời đến vườn rau giúp gánh nước bón phân. Khi nào các vị trưởng lão rảnh việc sẽ kêu ngươi đến hỏi tội, tùy theo nặng nhẹ mà xử phạt.” Hư Trúc kính cẩn đáp: “Dạ. Đa tạ sư thúc từ bi.” Y chắp tay thi lễ rồi mới dám đứng lên, nghĩ bụng: “Mình chưa lập tức bị đuổi khỏi chùa thì hãy còn hy vọng.”

Hư Trúc đến vườn rau, tìm đến tăng nhân coi vườn nói: “Sư huynh! Tiểu tăng là Hư Trúc phạm giới luật bản môn, được sư thúc ở Giới Luật Viện bảo ra đây gánh phân bón rau.”

Tăng nhân coi vườn tên là Duyên Căn, chưa được xuất gia làm hòa thượng Thiếu Lâm nên không được xếp vào hàng đệ tử các chữ “Huyền Tuệ Hư Không”. Tư chất y tầm thường, chẳng lĩnh hội được nghĩa thiền, mà luyện võ công cũng không tiến bộ, chỉ thích làm những việc vặt. Khu vườn rau này rộng tới hai trăm mẫu, có đến ba bốn chục nhân công. Y cai quản cả bọn này một cách hống hách, mỗi khi gặp nhà sư nào bị Giới Luật Viện xử phạt vào vườn rau làm tạp vụ thì lại càng oai phong láo xược. Y vừa nghe Hư Trúc nói đã cả mừng, hỏi ngay: “Ngươi phạm giới luật gì?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng phạm rất nhiều giới cấm, một lời không thể nói hết được.” Duyên Căn tức giận nói: “Sao lại không nói hết được? Ngươi phải mau mau kể thật cho ta biết. Đừng nói ngươi chỉ là một tên tiểu hòa thượng nhỏ xíu, ngay cả thủ tòa Đạt Ma Viện hay La Hán Đường, hễ bị phạt đến vườn rau làm tạp vụ thì ta cũng hỏi cho biết rõ, chẳng ai dám bướng. Ta thấy ngươi hồng hào béo tốt, nhất định đã lén ăn thịt cá, có phải thế không?”

Hư Trúc đáp: “Phải.” Duyên Căn nói: “Hừ! Ta đoán không sai mà! Không chừng ngươi còn uống rượu nữa. Ngươi đừng nói láo, gạt ta không phải dễ đâu!” Hư Trúc nói: “Phải. Một hôm tiểu tăng uống rượu say mèm đến không biết gì nữa.” Duyên Căn cười nói: “Ha ha, thật là lớn mật! No say rồi tất nảy lòng hươu dạ vượn, quăng mất tám chữ “sắc tức thị không, không tức thị sắc” ra sau lưng. Chắc ngươi còn nghĩ tới nữ sắc phải không, mà không phải một lần, không chừng nghĩ đến bảy tám lần.” Giọng nói hắn rất sắc bén. Hư Trúc thở dài đáp: “Tiểu tăng không dám giấu sư huynh, chẳng những nghĩ tới mà lại còn phạm vào sắc giới nữa.”

Duyên Căn vừa ngạc nhiên vừa thấy khoái, lớn tiếng quát mắng: “Tiểu hòa thượng thật là lớn mật, dám làm bại hoại đến danh dự của chùa Thiếu Lâm ta. Trừ sắc giới, ngươi còn phạm tội gì nữa không? Có ăn cắp tiền bạc không? Có đánh nhau cãi nhau với ai không?” Hư Trúc cúi đầu đáp: “Tiểu tăng đã giết người, mà không phải chỉ giết một người.”

Duyên Căn giật bắn người, mặt tái mét, lùi lại ba bước. Y quen bắt nạt người hiền lành mà sợ hãi kẻ hung ác, vừa nghe Hư Trúc nói đã giết người mà lại còn giết nhiều người, bất giác sợ run lên bần bật, chỉ lo Hư Trúc nổi điên động thủ thì mình không địch nổi. Y cố trấn tĩnh, niềm nở cười nói: “Công phu của bản tự là đệ nhất thiên hạ, ngươi đã luyện võ thì khó mà giữ khỏi lỡ tay giết người. Chắc bản lĩnh của sư đệ đã đến mức phi thường.” Hư Trúc đáp: “Nói ra xấu hổ, võ công bản môn của tiểu đệ đã tiêu tan hết. Hiện giờ trong mình tiểu đệ không còn một chút nào công phu Thiếu Lâm nữa.”

Duyên Căn cả mừng nói: “Hay lắm, hay lắm! Thật là tuyệt diệu!” Y nghe Hư Trúc nói mất hết công phu bản môn, thì cho là các vị trưởng lão đã xử phạt phế bỏ võ công. Hắn đã toan trở mặt, nhưng rồi lại nghĩ: “Giả tỉ võ công gã còn sót lại chút ít, thì mình cũng khó đối phó.” Duyên Căn bèn nói: “Sư đệ đã đến vườn rau làm tạp vụ để sám hối, thế là hay lắm. Nhưng ở đây có lệ, hễ ai vi phạm giới luật, bàn tay đã dính máu tanh, lúc làm việc đều phải đeo xiềng khóa. Đó là quy củ của tổ tôn truyền lại, chẳng hiểu sư đệ có chịu không? Nếu không chịu thì ta sẽ lên Giới Luật Viện bẩm với thủ tòa định đoạt.” Hư Trúc nói: “Luật lệ đã như vậy, dĩ nhiên tiểu tăng phải tuân theo.”

Duyên Căn mừng thầm, lấy xiềng khóa ra đeo vào chân tay Hư Trúc. Thiếu Lâm Tự truyền dạy võ công đã mấy trăm năm, không khỏi có những nhà sư làm điều càn rỡ. Phần nhiều những sư phạm pháp lại võ công cao cường khó lòng chế phục, nên Sám Hối Đường trong Giới Luật Viện cùng các khu vườn rau đều chuẩn bị xiềng xích đúc bằng sắt thép. Duyên Căn thấy Hư Trúc đeo xiềng xích xong, hắn lại yên tâm, lớn tiếng thóa mạ: “Tặc hòa thượng! Mi còn nhỏ tuổi mà đã lớn mật làm càn, vi phạm hết mọi giới luật. Hôm nay mà ta không dùng trọng phạt thì không sao hả được lòng căm tức.” Hắn liền bẻ một cành cây vụt tới tấp xuống đầu Hư Trúc.

Hư Trúc thu chân khí lại, không dám vận nội lực chống đối, để mặc cho Duyên Căn đánh. Chỉ trong khoảnh khắc, cả đầu lẫn mặt y đầm đìa máu tươi, nhưng y chỉ niệm Phật, tuyệt không oán hận.

Duyên Căn thấy Hư Trúc không né tránh, cũng không chống đối thì nghĩ thầm: “Quả nhiên tên tiểu hòa thượng này đã mất hết võ công, ta tha hồ hành hạ.” Hắn nghĩ tới Hư Trúc đã được ăn thịt cá phè phỡn, uống rượu say túy lúy, lại hưởng thứ khoái lạc trên đời, còn chính mình đã ngoài bốn mươi tuổi vẫn chưa được nếm mùi vị nữ sắc, thì lòng ghen ghét lại sôi lên sùng sục. Hắn đánh lại càng mạnh tay, gãy luôn ba cành cây mới dừng tay, rồi hùng hổ nói: “Mỗi ngày mi phải gánh một trăm thùng nước phân để bón rau, nếu thiếu một thùng thì ta sẽ dùng côn sắt đánh mi què cả hai giò.”

Hư Trúc bị đánh mắng lại thấy yên lòng, nghĩ thầm: “Mình đã phạm rất nhiều giới luật, dĩ nhiên phải chịu trong phạt. Hình phạt càng nặng thì tội nghiệt của mình càng nhẹ đi.” Y kính cẩn “Vâng!” một tiếng, rồi đi lấy thùng gánh phân tưới rau. Hư Trúc chẳng chút than phiền, gánh gánh tưới tưới đủ một trăm thùng nước phân rồi mới tìm kho chứa củi lăn ra ngủ.

Tờ mờ sáng hôm sau, Duyên Căn đã đến đập y dậy, lại còn nặng lời thóa mạ: “Tặc hòa thượng, dậy mau! Trời đã sáng bạch mà còn nằm ngủ ở đây. Mau mau dậy đi đốn củi!” Hư Trúc chỉ “Vâng!” một tiếng, rồi im lặng vào rừng đốn củi. Cứ thế sáu bảy ngày, Hư Trúc ban ngày đi đốn củi, tối về gánh phân tưới rau trăm bể cực khổ, lại bị đánh thương tích đầy người, thật là thảm hại.

Sáng sớm ngày thứ tám, Hư Trúc tưới rau chưa xong thì Duyên Căn đến địu dàng cười hỏi: “Sư huynh vất vả quá nhỉ?” Rồi hắn lấy chìa khóa mở xiềng xích cho Hư Trúc. Hư Trúc nói: “Tiểu đệ chưa mệt lắm.” Duyên Căn nói: “Sư huynh đừng để ý, cứ vào ăn cơm đã. Mấy bữa nay tiểu tăng đắc tội thật là đáng chết, mong được sư huynh tha thứ.”

Hư Trúc thấy hắn đột nhiên thay đổi thái độ thì rất lấy làm kỳ, ngẩng lên nhìn thì thấy mặt mũi hắn sưng bầm, rõ ràng vừa bị đánh rất nặng tay. Duyên Căn lại nhăn nhó nói: “Tiểu tăng có mắt mà không thấy Thái Sơn, dám đắc tội với sư huynh. Nếu sư huynh không tha thứ cho thì tiểu tăng… tiểu tăng gặp đại họa đến nơi rồi.” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng mình làm mình chịu, sư huynh trách phạt như thế là đáng lắm.”

Duyên Căn biến sắc giơ tay lên, tát trái tát phải bôm bốp vào mặt mình bốn cái thật mạnh rồi năn nỉ: “Sư huynh, sư huynh! Xin sư huynh rộng lượng, đại nhân không chấp tiểu nhân. Tiểu tăng… Tiểu tăng…” Hắn nói chưa dứt lời lại giơ tay lên tự tát thêm mấy cái nữa. Hư Trúc cả kinh hỏi: “Sao sư huynh lại làm thế?

Duyên Căn quì cả hai gối xuống đất, nắm vạt áo Hư Trúc nói: “Nếu sư huynh không chịu tha thứ cho thì tiểu tăng… tiểu tăng phải mất cặp mắt.” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng thật tình không hiểu một chút nào.” Duyên Căn nói: “Nếu được sư huynh tha thứ, tiểu tăng mới khỏi bị móc mắt, kiếp sau xin làm thân trâu ngựa để báo đền đại ân đại đức của sư huynh.” Hư Trúc hỏi: “Sư huynh nói chuyện gì vậy? Tiểu tăng có nói gì tới chuyện móc mắt sư huynh đâu?” Duyên Căn mặt xám xịt như đất, đáp: “Nếu sư huynh nhất định không chịu tha thứ, thì tiểu tăng có mắt không tròng, đành tự xử lý còn hơn.” Hắn nói xong, đưa hai ngón tay lên toan móc cặp mắt ra.

Hư Trúc vội giữ tay Duyên Căn lại hỏi: “Ai bắt sư huynh phải móc mắt?” Duyên Căn toát mồ hôi trán, ấp úng đáp: “Tiểu tăng… Tiểu tăng không dám nói. Nếu tiểu tăng nói ra thì… sẽ bị họ lấy mạng.” Hư Trúc liền hỏi: “Là phương trượng ư?” Duyên Căn đáp: “Không phải.” Hư Trúc lại hỏi: “Hay là thủ tòa Đạt Ma Viện? Thủ tòa La Hán Đường? Thủ tòa Giới Luật Viện?” Duyên Căn không dám trả lời, chỉ đáp: “Sư huynh! Tiểu tăng không dám nói đâu, chỉ khẩn cầu sử huynh tha thứ cho. Các vị ấy dặn tiểu tăng muốn giữ cặp mắt thì phải được chính miệng sư huynh tuyên bố tha thứ cho.” Hắn nói xong, liếc mắt nhìn sang một bên, vẻ mặt cực kỳ sợ hãi.

Hư Trúc nhìn theo ánh mắt Duyên Căn thì thấy bốn nhà sư đang ngồi quay mặt vào tường, mặc áo đội mũ đều màu xám, không trông rõ mặt. Hư Trúc nghĩ thầm: “Chắc là bốn vị sư huynh kia được phái đến để trừng phạt Duyên Căn cái tội chuyên quyền tác oai tác quái, đánh đập những nhà sư phạm giới.” Y liền nói: “Tiểu tăng không oán trách sư huynh, đã sớm tha thứ rồi.” Duyên Căn mừng rỡ khôn xiết, quì ngay xuống dập đầu lạy tạ. Hư Trúc vội trả lễ rồi nói: “Sư huynh mau đứng dậy đi.”

Duyên Căn lóp ngóp đứng lên, kính cẩn mời Hư Trúc vào phòng ăn, tự tay bưng cơm rót nước hầu hạ. Hư Trúc không thể từ chối được, xem chừng nếu hắn không phục vụ mình thì phải gặp đại họa, nên đành để mặc hắn muốn làm sao thì làm.

Duyên Căn khẽ hỏi nhỏ: “Sư huynh muốn dùng rượu không? Nếu muốn dùng thịt chó thì tiểu tăng cũng có thể tìm được!” Hư Trúc kinh hãi đáp: “A di đà Phật, tội lỗi, tội lỗi! Sao lại làm thế được?” Duyên Căn nháy nháy mắt nói: “Bao nhiêu tội nghiệt đều do tiểu tăng gánh chịu. Tiểu tăng đi kiếm nhanh nhanh để sư huynh dùng.” Hư Trúc khoát tay nói: “Không được, không được! Dứt khoát không được!”

Duyên Căn cười nói: “Nếu sư huynh không có hứng ăn nhậu trong chùa, thì cứ việc tự do xuống núi. Giả tỉ trong Giới Luật Viện có ai hỏi, tiểu tăng sẽ nói là phái sư huynh đi tìm vật dụng, hết sức giấu giếm, bảo đảm vô sự.” Hư Trúc nghe Duyên Căn nói càng lúc càng nhảm nhí, lắc đầu đáp: “Tiểu tăng thành tâm sám hối tội lỗi, quyết chí giữ nghiêm giới luật không tái phạm. Sư huynh đừng nói những chuyện đó nữa.”

Duyên Căn “Vâng!” một tiếng, tuy ngoài mặt lễ phép nhưng trong bụng mắng thầm: “Mi là thầy tu phá giới đam mê tửu sắc, lại còn khéo giả vờ ư?” Hắn không dám nói nhiều, hầu hạ Hư Trúc dùng cơm xong, lại mời y về phòng của mình để nghỉ ngơi. Từ hôm ấy Duyền Căn hết sức chiều chuộng Hư Trúc, không dám bất kính nửa lời.

Ba ngày sau, lúc Hư Trúc đang ăn trưa thì Duyên Căn bưng một bình trà Long Tỉnh tới nói: “Mời sư huynh dùng trà.” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng là kẻ phạm tội, được sư huynh hậu đãi như vậy, thật là áy náy.” Rồi y đứng lên, hai tay đỡ lấy bình trà.

Bỗng nhiên chuông khánh vang lên liên hồi không ngớt, đó là hiệu lệnh gọi toàn thể tăng chúng trong chùa. Trước nay, trừ ngày Phật Đản và sinh nhật Đạt Ma tổ sư, còn trong chùa rất ít khi triệu tập toàn thể như thế này. Duyên Căn có vẻ kinh ngạc nói: “Phương trượng đã nổi hiệu chuông tụ tập tăng chúng, chúng ta phải đến điện Đại Hùng ngay.” Hư Trúc đáp: “Phải lắm”. Hai người và mười mấy nhà sư khác trong vườn rau cùng lật đật chạy đến Đại Hùng bảo điện.

Trong điện đã có hơn hai trăm nhà sư tụ tập, lại còn vô số tăng chúng đang lục tục kéo đến. Chỉ trong khoảnh khắc, toàn bộ hơn ngàn tăng chúng trong chùa đã đến đông đủ, chia thứ bậc ra ngồi, tuy rất đông người mà vẫn im lặng như tờ.

Hư Trúc đứng vào chỗ các nhà sư hàng chữ Hư. Y ngẩng lên nhìn thì thấy vẻ mặt những cao tăng tiến bối đều cực kỳ nghiêm trọng, chột dạ nghĩ thầm: “Không chừng vì mình phạm tội quá nặng nên phương trượng triệu tập toàn thể tăng chúng để trừng phạt đặc biệt mà răn đe kẻ khác. Không chừng mình sẽ bị đuổi ra khỏi chùa thì biết làm thế nào?”. Hư Trúc còn đang lo sợ, bỗng ba hồi chuông vang lên, chư tăng đều niệm Phật hiệu: “A di đà Phật! A di đà Phật!”

Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư cùng ba vị cao tăng hàng chữ Huyền và bảy nhà sư khác, từ hậu điện thong thả đi ra. Chư tăng trong điện nhất tề khom lưng thi lễ. Huyền Từ cùng bảy nhà sư kia phân ngôi chủ khách ngồi xuống.

Hư Trúc ngẩng lên nhìn thì thấy bảy nhà sư này đều đã lớn tuổi, sắc phục không giống của bản tự, đúng là ở chùa khác mới đến. Nhà sư ngồi đầu bên khách tuổi độ bảy mươi, thân hình vừa bé nhỏ vừa thấp lùn, hai mắt thần quang loang loáng, dáng điệu rất oai nghiêm.

Huyền Từ quay mặt về phía tăng chúng bản tự dõng dạc giới thiệu: “Vị này là Thần Sơn Thượng Nhân, phương trượng chùa Thanh Lương trên núi Ngũ Đài, mọi người hãy làm lễ ra mắt.” Quần tăng đều sửng sốt, ai cũng lộ vẻ kinh ngạc. Oai danh Thần Sơn Thượng Nhân lừng lẫy trong võ lâm, cùng Huyền Từ đại sư là hai vị la hán Hàng Long, Phục Hổ, người ta đồn võ công Thần Sơn Thượng Nhân có phần trội hơn Huyền Từ đại sư. Chỉ vì Thanh Lương Tự là một chùa nhỏ, không thể so với Thiếu Lâm Tự được, nên danh vọng lão mới không bằng Huyền Từ. Quần tăng đều nghĩ thầm: “Nghe nói Thần Sơn Thượng Nhân rất tự cao, hay dính líu vào những việc trần tục trong võ lâm, thế là đi vào đường lối Hạ thừa. Trước nay lão không liên can gì tới chùa Thiếu Lâm, hôm nay thân hành tới đây tất có việc gì quan trọng lắm.” Mọi người đều khom lưng hướng tới Thần Sơn Thượng Nhân thi lễ.

Huyền Từ đưa tay chỉ sau nhà sư bên khách, giới thiệu từng người: “Vị này là Quán Tâm đại sư chùa Đại Tướng Quốc phủ Khai Phong, vị này là Đạo Thanh đại sư chùa Phổ Độ tỉnh Giang Nam, vị này là Giác Hiền đại sư chùa Đông Lâm núi Lô Sơn, vị này là Dung Trí đại sư chùa Tịnh Cảnh tại Trường An, vị này là Thần Âm đại sư tại chùa Thanh Lương núi Ngũ Đài, cũng là sư đệ của Thần Sơn Thượng Nhân.” Bốn vị đại sư Quán Tâm, Đạo Thanh, Giác Hiền, Dung Trí đều đến từ những chùa nổi tiếng, nhưng trước nay các chùa này trọng Phật pháp mà xem nhẹ võ công. Các vị này tuy nổi tiếng trong võ lâm nhưng không thuộc hàng cao cấp trong bản tự. Quần tăng Thiếu Lâm đều khom lưng thi lễ, các vị tăng khách cũng cúi mình trả lễ.

Huyền Từ phương trượng lại đưa tay chỉ vị Hồ tăng giới thiệu: “Đại sư này đến từ Phật quốc Thiên Trúc, pháp danh là Triết La Tinh.” Quần tăng cùng nhất tề đứng dậy thì lễ. Triết La Tinh trả lễ rồi nói: “Chùa Thiếu Lâm thật là lớn, có thật nhiều lão hòa thượng, trung hòa thượng, tiểu hòa thượng.” Lão phát âm lơ lớ, dùng những từ trung hòa thượng, tiểu hòa thượng gì gì đầy vẻ coi thường.

Huyền Từ lại nói: “Bảy vị đại sư này đều là những bậc đại đức trong cửa Phật. Hôm nay bảy vị đồng thời giáng lâm, thật là vẻ vang cho bản tự, vì thế mà bần tăng triệu tập đông đủ chư tăng bản tự tới đây tham kiến. Bản tăng rất mong bảy vị đại sư khai đàn thuyết pháp để hoằng dương Phật đạo, toàn thể tăng chúng bản tự đều được thụ giáo cho thêm phần đạo đức.”

Thần Sơn Thượng Nhân nói: “Không dám!” Thân hình lão bé nhỏ thấp lùn, không ngờ thanh âm vang dội như sư tử rống, chúng tăng không khỏi kinh hãi. Lão không cố ý nói to, cũng không vận nội lực để uy hiếp, thật là trời cho thanh âm ít thấy. Lão lại nói tiếp: “Thiếu Lâm bảo tự là chốn trang nghiêm, tiểu tăng sùng kính đã lâu. Sáu mươi năm về trước, tiểu tăng đã đến đây xin thọ giới, song bị cự tuyệt không vào được sơn môn. Sáu mươi năm sau trở lại, cảnh cũ vẫn như xưa mà nhân sự không giống trước, thật là đáng buồn!” Chúng tăng nghe đều phải động lòng, giọng điệu lão đầy vẻ gây hấn. Chẳng lẽ lão quay lại để rửa hận?

Huyền Từ đáp: “Thì ra sư huynh ngày trước đã từng đến chùa Thiếu Lâm để xuất gia. Tự viện khắp thiên hạ đều là một nhà, hôm nay sư huynh từ Thanh Lương Tự tới đây, đã là Phật môn đệ tử ai cũng kính ngưỡng. Ngày trước chùa Thiếu Lâm không tiếp nạp nên đắc tội với sư huynh, tiểu tăng xin nghiêng mình tạ lỗi. Song cũng vì thế mà sư huynh tạo lập một cơ sở khác để phổ độ chúng sinh, tạo công đức rất lớn cho cửa Phật. Chuyện xưa cũng chỉ là một đoạn nhân duyên.” Huyền Từ nói xong, chắp tay trước ngực cung kính thi lễ.

Thần Sơn Thượng Nhân đáp lễ rồi nói: “Trước kia tiểu tăng đến bảo tự để cầu giới, dĩ nhiên rất ngưỡng mộ bảo tự đã đứng đầu võ lâm suốt mấy trăm năm. Thiên hạ đồn rằng chùa Thiếu Lâm vốn nghiêm minh, xử sự công bằng ngay thẳng…” Lão đảo mắt nhìn quanh, rồi ngẩng đầu nhìn lên tượng Phật trên Đại Hùng Bảo Điện, lạnh lùng tiếp: “Ngờ đâu trên đời, hư danh ít khi đi kèm sự thực. Nếu sớm biết thế này thì năm xưa tiểu tăng đến chùa Thiếu Lâm làm gì cho mất công.”

Hơn ngàn nhà sư mặt đều biến sắc, nhưng chùa Thiếu Lâm giới luật rất nghiêm, tuy ai cũng căm phẫn mà chẳng ai dám lên tiếng.

Huyền Từ phương trượng đáp: “A di đà Phật! Sao sư huynh lại nói vậy? Nếu trong tệ tự từ trên xuống dưới có ai làm việc sai quấy thì xin sư huynh cứ nói rõ. Có tội phải chịu trừng phạt, có lỗi lầm thì phải sửa đổi. Sư huynh hạ thấp danh dự chùa Thiếu Lâm như vậy, có thái quá chăng?” Thần Sơn Thượng Nhân hỏi lại: “Xin hỏi phương trượng sư huynh, Phật môn là cửa quan hay là ổ cướp?” Huyền Từ đáp: “Tiểu tăng chưa hiểu ý sư huynh, xin nói rõ hơn.” Thần Quang nói: “Cửa quan thì bắt người để xử tội, còn ổ cướp thì bắt người để lấy tiền chuộc, đó là việc bình thường. Chùa Thiếu Lâm chẳng phải cửa quan, lại không là ổ cướp, sao lại tự ý bắt giam người ngoài không thả cho về? Xin hỏi sư huynh, chùa Thiếu Lâm làm những việc cường hung bá đạo như vậy thì có xứng đáng với bốn chữ Phật Môn Thiện Địa không?”

Huyền Từ đưa mắt nhìn vị Hồ tăng Thiên Trúc là Triết La Tinh, đã hiểu vì sao bảy vị tăng này cùng đến chùa Thiếu Lâm, bèn nói: “Thượng Nhân chỉ trích bản tự là cường hung bá đạo, bốn chữ này thật quá nặng lời.”

Thần Sơn đưa mắt nhìn tượng Như Lai nói: “Phật tổ chứng minh, nói dối là trọng giới của Phật môn.” Rồi y quay sang nhìn Huyền Từ, nói tiếp: “Xin hỏi phương trượng, có phải quí tự đã giam giữ một vị cao tăng Thiên Trúc hay chăng? Sư đệ của sư huynh Triết La Tinh là Ba La Tinh đại sư, có phải đã bị giam cầm chùa Thiếu Lâm mấy năm chưa được thả về hay không?” Thần sắc y rất nghiêm trang, giọng điệu đầy vẻ uy hiếp đối phương.

Huyền Từ quay sang bảo Huyền Tịch đại sư, thủ tòa Giới Luật Viện: “Huyền Tịch sư đệ! Hãy nói nguyên ủy vụ này cho các vị cao tăng cùng nghe.” Huyền Tịch “Vâng” một tiếng rồi bước lên hai bước. Vị lão tăng này vốn chủ trì giới luật, trước nay thiết diện vô tư, tăng chúng trong chùa gặp lão đều có ba phần sợ hãi. Lúc này Hư Trúc không dám nhìn lão cái nào.

Huyền Tịch đại sư dõng dạc nói: “Bảy năm trước đây, một vị cao tăng Thiên Trúc là Ba La Tinh sư huynh có đến bản tự, từ phương trượng sư huynh trở xuống đều rất hoan hỉ, cung kính tiếp đãi, Ba La Tinh sư huynh có nói rằng mấy trăm năm nay ở Thiên Trúc ngoại đạo thịnh hành, Phật pháp yếu kém, kinh sách thất lạc mất nhiều, vì vậy sư huynh của ông ấy là Triết La Tinh sai đến Trung Thổ cầu kinh. Phương trượng bản tự có bảo, Kinh Phật của Trung Nguyên đều bắt nguồn từ Thiên Trúc, hiện nay Phật quốc lại sang Đông Thổ lấy kinh thì thật là nhân duyên to lớn, chúng ta được báo Phật ân, vinh hạnh vô cùng. Phương trượng sư huynh bèn đích thân đưa Ba La Tinh đến Tàng Kinh Các, nói rằng không dưới bảy ngàn cuốn kinh sách ở đây cũng là tam tạng kinh văn đưa từ Thiên Trúc sang, các vị cao tăng đại đức đời trước đã phiên dịch ra. Các bản gốc tiếng Phạn cũng còn không ít, nếu đã có bản sao thì Ba La Tinh sư huynh có thể lấy đi một bản, còn quyển nào chỉ còn một bản thì bản tự sẽ phái ba mươi tăng nhân giúp sao chép lại. Phương trượng còn bảo từ đây sang Thiên Trúc xa xôi vạn dặm, kinh sách lại nhiều, e rằng dễ thất thoát, khi Ba La Tinh lấy kinh về nước thì bản tự sẽ phái mười tăng nhân theo hộ tống, cốt sao để kinh điển về đến Phật quốc Thiên Trúc được bình an.”

Đạo Thanh đại sư ở chùa Phổ Độ chắp tay nói: “Thế thì phương trượng sư huynh thật là công đức vô lượng, với Cưu Ma La Thập đại sư và Huyền Trang đại sư cùng tỏa hào quang.”

Huyền Từ cúi mình đáp: “Đó là việc đương nhiên phải làm, sư huynh quá tán dương, thật là thẹn không dám nhận.”

Huyền Tịch lại kể tiếp: “Vị Ba La Tinh này ở lại Tàng Kinh Các xem kinh sách. Sư huynh Huyền Sám của bản tự phụng mệnh phương trượng mà chỉ huy chúng tăng chép kinh, không dám trễ nãi chút nào. Không ngờ chỉ bốn tháng sau, Huyền Sám sư huynh phát giác vị Ba La Tinh này đêm nào cũng lẻn vào bí các trong Tàng Kinh Các để xem trộm võ công bí kíp của bản môn.”

Bốn vị Quán Tâm, Đạo Thanh, Giác Hiền, Dung Trí kinh ngạc, không hẹn mà cùng “Ồ” lên một tiếng. Huyền Tịch lại tiếp: “Huyền Sám sư huynh bèn bẩm cáo lên. Phương trượng sư huynh khuyến dụ Ba La Tinh, nói rằng võ công bí kíp ở đây là do cao tăng đời trước của bản tự biên soạn, hoàn toàn không phải truyền từ Thiên Trúc sang, cũng không liên can gì đến Phật pháp. Qui củ mấy trăm năm của bản tự không cho phép người ngoài xem võ công bí kíp. Ba La Tinh sư huynh đã lỡ xem thì thôi cũng bỏ qua, mong rằng từ nay đừng đến bí các nữa. Lúc đó Ba La Tinh ưng thuận ngay, tỏ lời xin lỗi, nói rằng không biết qui củ chùa Thiếu Lâm, từ nay quyết không xem trộm võ công bí kíp nữa. Nào ngờ chỉ được mấy tháng, y lại giả vờ mắc bệnh, lén đào địa đạo vào bí các xem trộm. Mấy năm sau Huyền Sám sư huynh mới phát giác y đã xem trộm không ít kinh văn võ học, bèn động thủ ngăn trở. Té ra Ba La Tinh không những đã xem trộm mà còn tập lén võ công bản tự, đã luyện xong ba môn trong số bảy mươi hai tuyệt kỹ.”

Bốn vị đại sư Quán Tâm… đều “A” một tiếng, nhìn Triết La Tinh ra vẻ trách móc. Huyền Tịch quay sang nhìn Thần Sơn rồi kể tiếp: “Phương trượng bèn triệu tập các hòa thượng đời chữ Huyền để thương nghị. Mọi người đều cho rằng võ công phái Thiếu Lâm tuy chỉ bình thường không có chi kỳ ảo, nhưng theo qui củ liệt tổ liệt tông thì không được truyền cho người ngoài phái. Theo qui củ ngàn năm nay trong võ lâm thì lén học trộm võ công phái khác là chuyện cấm kỵ, huống hồ võ công của Trung Thổ ta mà truyền ra Thiên Trúc, không chừng có hậu hoạn vô lường. Việc làm của vị Ba La Tinh này tuyệt nhiên không phải hành động của đệ tử Phật môn, không chừng y không phải là Thích tử mà là tà môn ngoại đạo. Chuyện này bất lợi cho chùa Thiếu Lâm, cũng bất lợi cho võ lâm Trung Thổ, lại càng bất lợi cho Phật môn ở Thiên Trúc. Các vị sư huynh đệ đề ra nhiều chủ trương khác nhau, cuối cùng phương trượng sư huynh cho rằng tệ tự không có cách nào điều tra lai lịch chân chính của Ba La Tinh sư huynh, mà nếu thật là tà môn ngoại đạo thì cũng không thể quá nghiêm khắc. Tệ tự bèn giữ hắn lại để giáo dục theo Phật pháp, một là mong hắn ngộ được chính đạo, hai là tránh được hậu hoạn về sau. Mấy năm nay tệ tự đối xử với Ba La Tinh nhất mực cung kính, chỉ yêu cầu không ra khỏi chùa mà thôi.”

Bốn vị Quán Tâm đều gật gật đầu. Thần Sơn bèn lên tiếng: “Lời của Huyền Tịch sư huynh chỉ là ý kiến một bên chùa Thiếu Lâm, khó mà phân biệt là thật hay giả. Nhưng chắc chắn là chùa Thiếu Lâm đã giam giữ cao tăng Thiên Trúc trong chùa bảy năm không thả. Triết La Tinh sư huynh có kể với lão nạp, ông ta ở Thiên Trúc đã mấy năm không được tin của Ba La Tinh sư đệ, có phái hai đệ tử sang Trung Thổ hỏi thăm, nhưng chùa Thiếu Lâm cũng không cho họ gặp Ba La Tinh. Việc này có thật hay chăng?” Huyền Từ gật đầu đáp: “Không sai. Ba La Tinh sư huynh đã học lén võ công bản tự, chắc chắn không thể để y đem truyền cho người khác.”

Thần Sơn cười ha hả, chấn động cả mái ngói, ngay cả đại hồng chung trên điện cũng rền lên u u hồi lâu chưa dứt.

Huyền Từ thấy thần sắc y cực kỳ ngạo mạn, nhưng cũng không giận dữ, chỉ nói: “Sư huynh! Lão nạp có một việc chưa hiểu rõ, mong sư huynh chỉ giáo. Giả tỉ có người đến chùa Thanh Lương trên Ngũ Đài Sơn xem trộm Phục Hổ Quyền Phổ, năm mươi mốt chiêu Phục Ma Kiếm Kinh, cùng Tâm Ý Khí Hỗn Nguyên Công, Phổ Môn Trượng Pháp cực kỳ ảo diệu của quý tự thì sư huynh xử trí ra sao?”

Thần Sơn Thượng Nhân mỉm cười nói: “Võ công cao thấp là do từng người tu luyện, quyền kinh kiếm phổ chỉ là hàng thứ yếu. Giả tỉ có vị anh hùng hảo hán nào đến Thanh Lương Tự cướp bí kíp đem đi, thì bọn lão nạp chỉ tự trách mình bất lực chứ không biết nói gì nữa. Chẳng lẽ ai nhìn vào sách vở võ công một cái cũng bị lấy mạng hay xử tù chung thân sao? Ha ha, như vậy thì vô lý thật!”.

Huyền Từ chỉ khẽ cười, đáp: “Nếu là những võ công bí lục tầm thường chẳng có chi kỳ bí, dù công bố ra khắp thế gian cũng chẳng ngại gì. Nhưng gặp trường hợp quyền kinh kiếm phổ tinh diệu được võ lâm ngưỡng mộ, nếu để người ta lấy cắp truyền ra ngoài, lọt vào tay bọn cuồng vọng tự đại, tâm địa hẹp hòi thì hậu họa vô cùng, nhất định không phải là phúc của võ lâm.” Giọng nói hết sức ôn hòa, nhưng mấy chữ “cuồng vọng tự đại, tâm địa hẹp hòi” hiển nhiên là chỉ Thần Sơn Thượng Nhân. Mọi người biết ngay Huyền Từ vạch ra tâm địa của Thần Sơn, phen này đến đòi thả Ba La Tinh chỉ vì mục đích dòm ngó võ công bí lục của phái Thiếu Lâm. Thần Sơn nghe liền biến sắc. Mấy câu nói của Huyền Từ đã trúng ngay vào tâm sự của hắn.

Năm Thần Sơn mười bảy tuổi, y từng tới chùa Thiếu Lâm xin học. Phương trượng chùa Thiếu Lâm hồi đó là Linh Môn đại sư, trong lúc tiếp kiến đã thấy diện mạo cùng tia mắt y lộ ra vẻ ngạo mạn hẹp hòi, ngày sau không thể truyền y bát được. Nếu để làm một nhà sư tầm thường trong chùa thì y nhất định không chịu ở lâu dưới quyền người khác sai bảo, ngày sau ắt sinh họa hoạn. Vì thế Linh Môn đại sư đã tìm lời uyển chuyển để cự tuyệt, Thần Sơn bèn đến chùa Thanh Lương, năm ba mươi tuổi thì võ nghệ trở thành số một trong chùa, nhảy lên chức phương trượng. Thần Sơn Thượng Nhân tư chất thông minh, kiến thức siêu việt, có thể gọi là một bậc kỳ tài trong võ lâm, chỉ đáng tiếc là võ học uyên nguyên của chùa Thanh Lương hãy còn kém chùa Thiếu Lâm xa. Quyền kinh, kiếm phổ, nội công bí kíp trong chùa đã ít ỏi mà lại thô thiển, không thể liệt vào hạng công phu bậc nhất. Y rèn luyện đã bốn mươi năm, nội lực càng lúc càng cao thâm, công phu quyền kiếm đã vượt qua kinh sách bí lục của đời trước chùa Thanh Lương truyền lại. Nhưng chính lão tự thấy không đầy đủ, mỗi lần nghĩ đến bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm lại thấy vừa thèm thuồng vừa phẫn hận.

Một hôm gặp chuyện tình cờ, sư đệ của hắn là Thần Âm dẫn một vị Hồ tăng Thiên Trúc về chùa Thanh Lương, chính là Triết La Tinh. Triết La Tinh đúng là đệ tử nhà Phật, là cao thủ hạng nhất trong võ lâm Thiên Trúc. Có lần y đánh thua người khác, nghĩ đến chùa Thiếu Lâm ở Đông Thổ có bảy mươi hai tuyệt kỹ, liền sinh ra một kế, phái sư đệ Ba La Tinh là người có trí nhớ phi thường đến chùa Thiếu Lâm, danh nghĩa là cầu kinh Phật, nhưng thật ra là âm mưu ăn cắp bí lục võ công. Không ngờ hành vi Ba La Tinh bị phát giác, rồi bị chùa Thiếu Lâm giữ lại. Triết La Tinh có sai đệ tử sang dò xét, nhưng cũng không được gặp mặt Ba La Tinh. Vì thế phen này Triết La Tinh đích thân sang Đông Thổ, chỉ mong nhận lại sư đệ, còn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm lấy không được thì cũng đành chịu.

Hắn vào Đông Thổ, đi thẳng về hướng chùa Thiếu Lâm. Dọc đường hắn gặp một vị lão tăng cầm thiền trượng đúc bằng thép ròng, chăm chú nhìn hắn có vẻ ngạo mạn. Triết La Tinh không hiểu mấy về võ lâm Trung Thổ, cứ thấy hòa thượng biết võ công đều cho là ở phái Thiếu Lâm. Y đang tức tối, liền thét bảo lão tăng kia nhường lối, lời lẽ rất vô lễ. Vị lão tăng kia liền mắng trả, hai bên đấu khẩu một lát rồi chuyển sang đấu võ. Cuộc đấu kéo dài đến một giờ không phân cao thấp. Công lực hai người đều có chỗ sở trường, mà đánh nhau bằng binh khí cũng chẳng ai hơn ai.

Đến lúc hoàng hôn thì lão tăng quát bảo dừng tay rồi nói: “Phiên tăng kia! Võ công của ngươi rất cao, đáng tiếc là nóng tính, kém công phu hàm dưỡng.” Triết La Tinh mắng lại: “Ngươi với ta kẻ bảy lạng người nửa cân, chẳng lẽ tính khí người tốt hơn ta ư?”

Mấy câu tiếng Hoa y nói sai bét, đáng lý phải nói “kẻ tám lạng người nửa cân” thì hắn lại nói “kẻ bảy lạng người nửa cân”. Vị lão tăng rất lấy làm kỳ bèn hỏi: “Kẻ bảy lạng người nửa cân là sao?” Triết La Tinh đỏ mặt lên nói: “A, ta nói nhầm rồi. Phải kẻ nửa lạng người tám cân mới đúng.”

Vị lão tăng liền cười ha hả nói: “Ta dạy cho ngươi hay: Tám lạng mới là nửa cân. Có một câu nói thông thường của người Trung Nguyên chúng ta mà người còn chưa rành. Về chịu khó học thêm mấy năm nữa rồi sẽ đến nói chuyện bằng Hoa ngữ với ta cũng chưa muộn.” Triết La Tinh bèn đáp: “Biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết, chính là biết vậy.” Vị lão tăng cười đáp: “Thì ra ngươi cũng có đọc sách ít nhiều, khoe khoang chữ nghĩa, thế mà không biết nửa cân có tám lạng.” Thì ra Tiết La Tinh và Ba La Tinh cố ý đến Trung Nguyên để ăn cắp võ công bí lục, nên ráng học tiếng Trung Hoa. Nhưng chúng chỉ học theo sách vở, còn những câu thành ngữ ai cũng biết như “tám lạng nửa cân” chẳng hạn thì chỉ nhớ bập bõm không rành mạch, nên mới nhầm lẫn như thế.

Hai nhà sư đánh nhau nửa ngày, sinh ra mến tài nhau bèn giới thiệu tên họ. Vị lão tăng đó pháp danh là Thần Âm, cũng là sư đệ Thần Sơn phương trượng chùa Thanh Lương. Triết La Tinh biết ông ta không phải ở phái Thiếu Lâm thì lại càng hết nghi kỵ. Thần Âm lại hỏi hắn qua Trung Thổ có việc gì? Triết La Tinh bèn kể vụ sư đệ hắn là Ba La Tinh qua chùa Thiếu Lâm, không hiểu vì lẽ gì lại bị chùa Thiếu Lâm bắt giữ, không thả cho về. Thần Âm là người hiếu sự, thấy uy danh chùa Thiếu Lâm vang dội khắp nơi thì trong lòng không phục. Hắn lại còn có ý khoe khoang với bằng hữu mới kết giao, liền nói: “Sư huynh ta là Thần Sơn Thượng Nhân bản lĩnh thiên hạ vô địch, chẳng coi chùa Thiếu Lâm vào đâu. Bây giờ ta đưa ngươi đến yết kiến sư huynh ta, chắc chắn y sẽ có cách cứu được sư đệ cho ngươi.” Thần Âm liền dẫn Triết La Tinh về chùa Thanh Lương để gặp Thần Sơn.

Thần Sơn biết phương trượng Huyền Từ chùa Thiếu Lâm vốn rộng rãi hiền hòa, sao lại bắt giữ Ba La Tinh, hẳn có nguyên nhân trọng đại chi đây. Y liền trọng đãi Triết La Tinh, lựa lời thăm hỏi dần dần. Chưa đầy nửa tháng thì Triết La Tinh đã kể hết ra, chỉ có điều vẫn giấu chuyện trộm bí kíp võ công, chỉ nói là muốn xem kinh Phật để hoằng dương Phật pháp tại Thiên Trúc mà thôi.

Thần Sơn nghĩ thầm: “Ba La Tinh đến chùa Thiếu Lâm cốt để ăn cắp kinh sách, nếu lộ chuyện thì cũng bị lấy kinh lại là cùng. Hiện nay chùa Thiếu Lâm bắt hắn giam giữ không chịu thả, thì không những hắn đã ăn cắp được kinh, mà không chừng đã thuộc lòng hết rồi. Nếu lão Phiên tăng chỉ muốn trộm kinh sách về Phật pháp, thì chùa Thiếu Lâm chẳng những không làm khó dễ, lại còn sao chép, dịch ra để gửi tặng nữa là khác. Hắn đã bị nhốt bảy năm, nhất quyết không phải là ăn cắp kinh Phật mà là bí lục võ công.” Thần Sơn nghĩ tới những bí lục võ công của Thiếu Lâm thì lại càng ngứa ngay trong lòng. Sau mấy ngày y bèn quyết định chủ ý: “Bây giờ ta cứ ra mặt giúp hắn đến đòi Ba La Tinh. Dù trong chùa Thiếu Lâm có nhiều cao thủ, nhưng việc trong thiên hạ phải lấy lý lẽ làm đầu. Phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm, cũng là đệ tử nhà Phật, chẳng lẽ lại cậy thế mạnh để uy hiếp người ư? Khi mình nắm được Ba La Tinh rồi, thế nào hắn cũng chia sẻ với mình những bí lục võ công của chùa Thiếu Lâm.”

Y liền sai đệ tử cầm danh thiếp mời bốn vị cao tăng trọng vọng là Quán Tâm đại sư chùa Đại Tướng Quốc phủ Khai Phong, Đạo Thanh đại sư chùa Phổ Độ tỉnh Giang Nam, Giác Hiền đại sư chùa Đông Lâm núi Lô Sơn và Dung Trí đại sư chùa Tịnh Ảnh thành Trường An, cùng đến chùa Thiếu Lâm cãi lý đòi thả người.

Huyền Từ nghĩ bụng: “Nếu mình kiên quyết không cho Ba La Tinh ra gặp thì rõ ràng chùa Thiếu Lâm đuối lý, mấy vị cao tăng ở chùa Phổ Độ, Đông Lâm.. đem lòng bất phục.” Đại sư liền truyền lệnh: “Mời Ba La Tinh sư huynh ra đây!”

Chấp sự tăng truyền lệnh ra ngoài, chẳng bao lâu bốn vị lão tăng đưa Ba La Tinh lên điện. Hắn nhìn thấy sư huynh thì vừa bi thương vừa vui mừng, nhảy lại ôm chầm lấy, nước mắt đầm đìa. Hai người nghẹn ngào nói với nhau bằng tiếng Thiên Trúc một hồi. Người ngoài nghe chẳng hiểu gì hết, nhưng cũng đoán là Ba La Tinh kể lại chuyện lấy kinh bị bắt, rồi chùa Thiếu Lâm không chịu thả về.

Triết La Tinh gật đầu lia lịa rồi dùng tiếng Hoa nói lớn: “Phương trượng chùa Thiếu Lâm bịa chuyện. Ba La Tinh sư đệ của tiểu tăng không hề lấy cắp bí lục võ công, chỉ xem lén kinh sách nhà Phật. Kinh sách nhà Phật vốn là của nước Thiên Trúc chúng tôi truyền sang, xem đến cũng là phạm luật ư? Hơn nữa Đạt Ma tổ sư cũng là người Thiên Trúc đã truyền võ công cho các vị, mà các vị lại giam cầm người Thiên Trúc, thì thật là vong ơn bội… bội gì gì đó, thế là không tốt.”

Hắn nói tiếng Hoa tuy không trôi chảy, nhưng đầy đủ lý lẽ khiến tăng chúng chùa Thiếu Lâm không sao cãi được. Ba La Tinh cũng nhất quyết không thừa nhận đã lấy cắp kinh sách về võ học, không có tang chứng thì thực khó mà buộc hắn phải thú nhận.

Huyền Từ nói: “Người xuất gia không được nói dối. Ba La Tinh sư huynh không sợ khi xuống địa ngục bị rút lưỡi ư?” Ba La Tinh đáp: “Ta không nói dối.” Huyền Từ hỏi: “Ngươi đã xem trộm pho Đại Kim Cương Quyền Kinh của bản tự chưa?” Ba La Tinh cãi: “Không có! Ta chỉ mượn coi bộ Kim Cương Kinh thôi.” Huyền Từ lại hỏi: “Pho Bát Nhã Chưởng Pháp của chùa Thiếu Lâm, ngươi đã xem trộm chưa?” Ba La Tinh lại cãi: “Không có! Ta chỉ mượn bộ Tiểu Phẩm Bát Nhã Kinh để xem qua.” Huyền Từ nói: “Thế thì Ma Ha Chỉ Quyết của phái Thiếu Lâm, chẳng lẽ ngươi cũng chưa coi trộm? Hôm ấy năm vị sư đệ bắt gặp ngươi vào Tàng Kinh Các coi lén bộ chỉ quyết này, rồi từ Tàng Kinh Các trốn ra. Ngươi bảo sao?”

Ba La Tinh đáp: “Tiểu tăng vào Tàng Kinh Các chỉ để mượn coi bộ Ma Ha Tăng Chí Luật, Đời nhà Tần, năm Long An thứ ba, cao tăng Pháp Hiền sang nước Thiên Trúc chúng tôi, đã thỉnh được rất nhiều kinh sách, trong đó có bộ Ma Ha Tăng Chỉ Luật. Tiểu tăng mượn pho đó để xem, không hiểu đã phạm vào giới luật gì của quý tự?” Ba La Tinh đã thông minh cơ trí lại học vấn uyên thâm, nên mới được sư huynh giao cho trọng trách đi lấy cắp kinh sách. Bây giờ hắn chối hết những chuyện xem trộm bí lục võ công, xem chừng chùa Thiếu Lâm hoàn toàn đuối lý.

Huyền Từ chau mày, khẽ cất tiếng niệm: “A Di Đà Phật!”. Bỗng nhiên một luồng gió nhẹ thổi lướt qua. Nhân ảnh thấp thoáng, có người phóng quyền ra đánh vào sau lưng Ba La Tinh, quyền phong vừa thần tốc vừa mãnh liệt, nhằm đúng huyệt Chí Dương.

Thoi quyền này phóng ra đột ngột, tựa như không có cách nào giải cứu. Ba La Tinh bỗng xoay tay lại, tay trái che huyệt Thần Đạo, tay phải nắm lấy huyệt Cân Xúc, lòng bàn tay đều hướng ra ngoài, tức thời nhả chưởng lực ra. Huyệt Thần Đạo ở trên huyệt Chí Dương, huyệt Cân Xúc ở dưới huyệt Chí Dương, song chưởng kết lại thành một tấm bình phong để che đỡ chỗ huyệt Chí Dương, thủ pháp cực kỳ xảo diệu.

Những cao thủ trên Đại Hùng bảo điện thấy y xuất chiêu mau lẹ, giải phá được thế đánh bất ngờ, tựa như sư huynh sư đệ đồng môn chiết chiêu luyện tập. Chưởng pháp y phô diễn thật là tuyệt diệu. Nhiều người không nhịn được, bất giác reo lên: “Hảo chưởng pháp!”

Ba La Tinh vừa dùng song chưởng để cản trở thoi quyền, người kia liền biến quyền thành chưởng chém vào sau cổ Ba La Tinh. Lúc này mọi người đã nhìn rõ người đánh lén là một nhà sư trung niên ở chùa Thiếu Lâm mặc áo cà sa đỏ. Nhà sư đó biến chiêu thần tốc tựa như đã biết Ba La Tinh sẽ dùng song chưởng để đỡ quyền như thế nào. Ba La Tinh lại phóng ngón tay trái ra đâm vào cườm tay đối phương. Nếu nhà sư kia không thu chiêu về thì sẽ bị điểm vào huyệt Hậu Khoát, giả tỉ Ba La Tinh vận nội lực toàn thân vào đầu ngón tay thì không chừng bàn tay nhà sư kia phải tàn phế. Phát chỉ này mới trông rất bình thường chẳng có chi kỳ dị, nhưng thật ra tuyệt diệu vô cùng. Lại có người reo lên: “Hảo chỉ pháp!”

Nhà sư kia lập tức thu chưởng về, rùn người xuống, đảo sang mé tả Ba La Tinh phóng song quyền như chày máy, chỉ trong chớp mắt đã đánh luôn bảy quyền. Bảy quyền này chia ra đánh vào trán, cằm, cổ, ngực và lưng Ba La Tinh một cách thần tốc phi thường. Ba La Tinh không còn cách nào né tránh được, cũng phóng luôn bảy quyền đáp lại. Chỉ nghe bảy tiếng binh binh liên tiếp, bảy quyền của Ba La Tinh đỡ trúng bảy quyền của nhà sư trong chớp nhoáng. Rõ ràng quyền pháp này y đã tập luyện tinh thục vô cùng, nếu không thì dù võ công cao thâm đến đâu cũng không thể đón đỡ thần tốc như vậy.

Ba La Tinh vừa đỡ xong bảy quyền, đột nhiên nhớ ra một việc, “Ồ” lên một tiếng rồi nhảy lùi lại phía sau. Nhà sư trung niên cũng không tấn công nữa, lùi lại ba bước, chắp tay quay về phía Huyền Từ cùng Thần Quang thi lễ rồi nói: “Tiểu tăng vô lễ, xin được thứ tội.”

Huyền Từ cười ha hả, chắp tay đáp lễ. Thần Quang thì giận dữ “Hừ” một tiếng, không nói gì. Huyền Từ quay về phía bốn vị cao tăng Quán Tâm, Đạo Thanh, Giác Hiền và Dung Trí nói: “Xin bốn vị sư huynh chủ trì công đạo.” Đại điện tức thời im bặt, không một tiếng động.

Từ lúc Thần Sơn Thượng Nhân nhắc đến việc chùa Thiếu Lâm bắt giữ Ba La Tinh, Hư Trúc biết chuyện hôm nay không liên quan gì đến mình, đã thấy yên tâm. Lát sau y lại thấy một vị sư thúc tổ trong bản tự tấn công, Ba La Tinh hóa giải được hết. Y không hiểu sao hai người chỉ trao đổi ba chiêu rồi lại lùi ra, cũng chưa thi triển võ công thượng thặng, cũng không hiểu vì sao mà phương trượng bản tự vui tươi, còn đối phương bực tức. Y thấy ba chiêu vừa rồi Ba La Tinh chưa lép vế chút nào.

Quán Tâm đại sư đằng hắng một tiếng rồi hỏi: “Ý kiến ba vị nên thế nào?” Đạo Thanh đại sư đáp: “Vừa rồi Ba La Tinh sư huynh sử ba chiêu, dường như chiêu thứ nhất là Thiên Y Vô Phùng trong Bát Nhã Chưởng, chiêu thứ hai là Di Dật Đãi Lao trong Ma Ha Chỉ, chiêu thứ ba là Thất Tinh Tụ Hội trong Kim Cương Quyền.”

Thần Sơn Thượng Nhân cười ha hả rồi nói: “Phật môn ở Trung Thổ quả nhiên đã chịu nhiều ơn huệ của Thiên Trúc. Dĩ nhiên Đạt Ma tổ sư đã sáng lập các tuyệt kỹ từ Thiên Trúc, đem về đây lập ra Thiếu Lâm Tự. Những tuyệt kỹ đó cũng được Thiên Trúc lưu truyền đến ngày nay. Hai vị cao tăng Thiếu Lâm cùng Thiên Trúc ra chiêu rất xứng hợp với nhau. Bát Nhã, Ma Ha vốn là tiếng Phạn, Kim Cương cũng là danh từ Phật học, vậy thì đông tây là một, vạn pháp cùng nguồn. Ha ha, đủ thấy võ học trong thiên hạ chẳng nên phân biệt xuất xứ làm gì. Ha ha, ha ha!”.

Quần tăng chùa Thiếu Lâm nghe câu này đều lộ vẻ tức giận. Vừa rồi Ba La Tinh nhất quyết không chịu thú nhận đã xem trộm bí lục võ công của chùa Thiếu Lâm. Nhà sư trung niên vừa rồi pháp danh là Huyền Sinh, sư đệ Huyền Từ, võ công cao cường, tính khí lại cương trực. Huyền Sinh đã tính sẵn, bất ngờ tập kích Ba La Tinh bằng những chiêu số bắt buộc Ba La Tinh phải dùng Bát Nhã Chưởng, Ma Ha Chỉ và Kim Cương Quyền để giải khai. Giả tỉ Ba La Tinh chưa học qua những môn đó, dĩ nhiên phải đem công phu bản môn ra hóa giải, nhưng mấy năm nay y toàn suy nghĩ và luyện tập công phu của phái Thiếu Lâm, nên trong lúc không kịp suy nghĩ đã tiện tay dùng ba chiêu tiện lợi nhất để đối phó. Ngờ đâu Thần Quang lại cưỡng từ đoạt lý, cho đó là võ công Thiên Trúc. Thực ra thì võ công phái Thiếu Lâm đúng là bắt nguồn từ Đạt Ma tổ sư. Đạt Ma là một vị tăng Thiên Trúc, qua Trung Thổ để giảng luận Phật pháp cho Lương Võ Đế. Hai bên nói chuyện không hợp nên Đạt Ma tổ sư mới dựng chùa Thiếu Lâm, truyền dạy tâm pháp Thiền tông cùng võ công tuyệt thế. Chuyện này khắp thiên hạ ai ai cũng biết. Thần Sơn Thượng Nhân thông minh cơ trí, cãi luôn rằng mấy môn Bát Nhã Chưởng, Ma Ha Chỉ, Kim Cương Quyền của phái Thiếu Lâm cũng từ Thiên Trúc truyền sang. Thế thì Ba La Tinh biết sử dụng mấy môn đó là chuyện bình thường, không thể vì thế mà kết luận hắn đã ăn cắp bí lục của chùa Thiếu Lâm được.

Huyền Từ bình thản nói: “Phật pháp cũng như võ công của bản tự đều do Đạt Ma tổ sư truyền lại, đó là chuyện thực. Thế thì trả kinh sách của Thiên Trúc về cho Thiên Trúc là hợp tình hợp lý. Giả tỉ Ba La Tinh sư huynh đến để đòi lại những kinh văn của Đạt Ma tổ sư, bản tự sẽ kính cẩn hoàn trả. Nhưng Bát Nhã Chưởng do phương trượng đời thứ tám của bản tự là Nguyên Nguyên đại sư sáng chế, Ma Ha Chỉ do bốn mươi năm tâm huyết của Thất Chỉ Đầu Đà trong bản tự nghiên cứu, còn Đại Kim Cương Quyền Pháp thì sáu vị cao tăng bản tự đời thứ mười một cùng hao tổn công phu trong ba mươi sáu năm mới hoàn thành. Ba môn này là võ công thuần túy Trung Nguyên, không dính líu gì đến Thiên Trúc. Các sư huynh đều võ học cao thâm, chỉ nhìn là biết, lão nạp bất tất phải nói nhiều.”

Quán Tâm đại sư và Dùng Trí đại sư biết Huyền Từ nói đúng, liền quay lại hỏi Thần Sơn Thượng Nhân: “Sư huynh nghĩ sao?” Thần Sơn Thượng Nhân mỉm cười đáp: “Ý kiến của phương trượng Thiếu Lâm tất nhiên là cao minh, nhưng không khỏi phân biệt những môn phái ở Trung Thổ cùng Thiên Trúc. Thật ra theo nhãn quan nhà Phật thì chẳng có gì khác nhau, Trung Thổ cùng Thiên Trúc chỉ là giả danh hư vọng. Hôm trước Triết La Tinh sư huynh cùng tiểu tăng bàn luận về võ Công Thiên Trúc và Trung Hoa giống khác thế nào, cũng đã nhắc đến các chiêu số của Bát Nhã Chưởng, Ma Ha Chỉ và Đại Kim Cương Quyền. Y bảo chiêu Thiên Y Vô Phùng trong tiếng Phạn gọi là A Phạt Hi Gia, nghĩa là “không thể mệnh danh”. Chiêu này hữu chưởng nhẹ nhàng mà thực, tả chưởng trầm trọng mà hư. Hư thực khó mà phân biệt, địch nhân không để ý rất dễ bị lừa. Phương trượng sư huynh! Triết La Tinh sư huynh nói vậy chẳng hiểu có đúng không?” Huyền Từ hơi biến sắc rồi bình tĩnh đáp: “Nhãn quang của sư huynh thật là tinh tế. Bội phục, bội phục!”.

Thần Sơn Thượng Nhân vừa thông minh vừa uyên bác, vừa trông Ba La Tinh cùng Huyền Sinh, đối nhau một chưởng đã hiểu được chỗ sâu sắc của chiêu Thiên Y Vô Phùng, liền bịa ra lời phân tích của Triết La Tinh để chứng minh những chiêu thức đó là của Thiên Trúc. Từ lúc Thần Quang được thấy Ba La Tinh cùng Huyền Sinh trao đổi ba chiêu, trong lòng lão lại càng ngứa ngáy khó chịu, thèm khát võ công phái Thiếu Lâm. Lão nghĩ bụng: “Bọn hòa thượng Thiếu Lâm hiện nay đều tư chất tầm thường, e rằng chỉ lĩnh hội được vài phần các môn võ học cao minh của tiền bối truyền cho. Nếu mình được nghiên cứu thì trở thành thiên hạ vô địch chẳng khó khăn gì.”

Huyền Từ cũng biết lão chỉ xem chiêu số của Ba La Tinh rồi nhận xét, còn câu nói của Triết La Tinh chỉ là bịa đặt lừa dối mọi người. Nhưng lão nhìn thoáng qua mà thấy được chỗ ảo diệu của chưởng pháp, thì thật là thông minh tuyệt thế, nhãn lực phi thường trên đời ít có. Huyền Từ đại sư trầm ngâm một chút rồi bảo: “Huyền Sinh sư đệ! Phiền sư đệ đến Tàng Kinh Các, lấy bí lục ba môn võ công vừa rồi cho các vị sư huynh xem.”

Huyền Sinh “Vâng” một tiếng rồi chuyển thân vọt đi, chỉ chốc lát đã trở về cầm bí lục trao cho Huyền Từ. Đại Hùng Bảo Điện cách Tàng Kinh Các đến ba dặm, thế mà chỉ trong khoảnh khắc Huyền Sinh đã lấy được sách về thì đủ biết thân pháp y mau lẹ phi thường. Người ngoài không biết nội tình thì không để ý, nhưng tăng chúng chùa Thiếu Lâm ai cũng khen thầm.

Ba quyển kinh sách kia giấy đã ngả màu chỗ vàng chỗ đen, rõ ràng đã rất lâu năm. Huyền Từ cầm kinh sách để lên bàn nói: “Mời các vị sư huynh xem thử. Ba pho kinh này đều có ghi rõ thời gian cùng danh hiệu người sáng lập. Các vị sư huynh có thể không tin lời lão tăng, nhưng chẳng lẽ những phương trượng và cao tăng đạo đức đời trước của chùa Thiếu Lâm cũng đều có hành động vô sỉ, bịa chuyện lừa dối hay sao?”

Thần Sơn Thượng Nhân vờ như không hiểu ẩn ý ngoài lời nói, cầm lấy cuốn Bát Nhã Chưởng Pháp mở ra xem. Quán Tâm đại sư xem cuốn Ma Ha Chỉ Bí Yếu, còn Đạo Thanh đại sư đọc cuốn Đại Kim Cương Quyền Thần Công. Quán Tâm và Đạo Thanh chỉ đọc bài tựa rồi trao cho Giác Hiền, Dung Chí. Bốn vị cao tăng này đều biết đây là võ công bí mật của phái Thiếu Lâm, còn mình là cao thủ phái khác, mà Huyền Từ đại sư là cao tăng đời này quyết không giả dối, nếu xem kỹ thì tỏ ra mình ngờ vực Huyền Từ đại sư, như vậy thật là bất kính.

Nhưng Thần Sơn Thượng Nhân lại xem rất kỹ, lật từng trang một, tựa như cố tìm ra những chỗ sơ hở để bài bác Huyền Từ. Trong đại diện chỉ có tiếng hô hấp nhẹ nhàng và tiếng lật sách loạt soạt, ngoài ra không còn tiếng động gì khác, không khí tĩnh lặng phi thường.

Quần tăng chùa Thiếu Lâm chăm chú nhìn Thần Sơn Thượng Nhân, xem thử lão có tìm ra được chứng cớ gì trong ba bản kinh sách để cãi nữa không, nhưng mặt lão vẫn trơ như gỗ đá, không vui mừng mà cũng không thất vọng chi hết. Sau cùng, lão gấp cuốn Đại Kim Cương Quyền Thần Công trả lại Huyền Từ phương trượng, nhắm mắt lại ngẫm nghĩ không nói câu gì.

Huyền Từ thấy thế cũng không đoán được lão đang nghĩ gì.

Sau một lúc lâu, Thần Sơn Thượng Nhân mở mắt ra, nhìn Triết La Tinh rồi nói: “Sư huynh! Ngày trước sư huynh đã đọc những yếu quyết về Bát Nhã Chưởng bằng tiếng Phạn cho tiểu tăng nghe. Tiểu tăng còn nhớ mấy câu: “Nhân khổ nãi la ti, Bát nhã cam nhi tinh, Kha la ba cơ tư tinh, binh na tư ni, phạt nhĩ bất thân la…”, dịch sang Hoa ngữ nghĩa là: “Ban đêm tịch mịch nghĩ vẩn vơ thì làm cách nào để chế phục?”. Yếu quyết đầu tiên về nội công của Bát Nhã Chưởng là ở chỗ đó, có đúng thế không?” Triết La Tinh ngẩn ra một chút rồi hiểu ý, liền đáp: “Đúng rồi! Sư huynh dịch rất chính xác!”

Quần tăng chùa Thiếu Lâm ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng kinh hãi thất sắc. Cả những tiểu tăng hậu bối cũng lắng tai nghe.

Thần Sơn lại nói lý lố một hồi tiếng Phạn rồi tiếp: “Những câu tiếng Phạn như thế, tiểu tăng tạm dịch như sau: Chuyện phức tạp thì phải đem ý nghĩ phức tạp mà suy nghiệm. Suy nghiệm ra được thì chẳng còn ý nghĩ phức tạp nữa. Quay lại tự hỏi lòng mình thì biết suy nghiệm vào đâu? Không suy nghiệm vào đâu được thì lòng mình thành mờ mịt. Mờ mịt mà không phải mờ mịt, thì không thể để mờ mịt. Muốn soi sáng cũng không có chỗ để soi sáng. Cảnh trí mờ mịt thì lo nghĩ sẽ yên. Bên ngoài không tác động thì bên trong tất phải yên. Trong ngoài đều yên thì tính tình cũng phải yên. Đó là yếu quyết về luyện nội công của Bát Nhã Chưởng.”

Bây giờ Triết La Tinh đã hiểu hoàn toàn dụng ý của y, vội đáp ngay: “Phải lắm! Phải lắm! Hôm ấy tiểu tăng cùng sư huynh đàm luận Phật pháp tại chùa Thanh Lương núi Ngũ Đài, rồi bàn luận sang võ công. Yếu quyết luyện nội công Bát Nhã Chưởng của Thiên Trúc đúng là như vậy.”

Thần Sơn Thượng Nhân lại nói: “Hôm ấy sư huynh cũng có nói về yếu chỉ của Đại Kim Cương Quyền và Ma Ha Chỉ, tiểu tăng cũng còn nhớ.” Đoạn lão lại đọc ra mấy tràng, thao thao bất tuyệt.

Huyền Từ cùng các cao tăng Thiếu Lâm đều sợ tái mặt, vì Thần Sơn Thượng Nhân đọc thuộc không sai một chữ, đúng là bí quyết ghi trong ba pho kinh sách đó. Không ai ngờ được, lão chỉ giở sách một lần mà thuộc lòng ngay được. Vừa rồi lão lẳng lặng lật từng trang xem kỹ là để học thuộc lòng các yếu quyết võ học trong ba bộ bảo kinh. Thần Quang vốn tinh thông Phạn ngữ, lão dịch những yếu quyết đó ra tiếng Phạn, rồi lại đọc thuộc lòng kinh văn bằng tiếng Hoa, tựa như những pho sách này gốc ở Phạn văn, rồi có người dịch sang Hoa văn. Thế là không những lão phủi sạch tội Ba La Tinh ăn trộm kinh sách, mà lại tố cáo Nguyên Nguyên đại sư, Thất Chỉ Đầu Đà cùng mấy vị cao tăng tiền bối chùa Thiếu Lâm cái tội lén dịch sách rồi ký tên mình vào. Giả tỉ phái Thiếu Lâm tiếp tục cãi lý về việc này, thì cũng khó mà thắng nổi tài ăn nói của Thần Quang. Lửa giận của Huyền Từ đã bốc lên, nhưng nhất thời đại sư chưa biết phải đối phó thế nào.

Huyền Sinh lại từ đám đông bước ra, nhìn Triết La Tinh nói: “Đại sư có nói những môn Bát Nhã Chưởng, Ma Ha Chỉ và Đại Kim Cương Quyền đều do Thiên Trúc truyền lại cho bản tự, chắc đại sư đã tinh thục lắm rồi. Muốn xem việc này thực hay giả cũng không khó. Bây giờ tiểu tăng xin lãnh giáo đại sư mấy cao chiêu, nhất quyết tiểu tăng chỉ thi triển ba môn đó, cũng xin đại sư chỉ điểm trong phạm vi ba môn đó mà thôi.”

Huyền Từ tự thấy xấu hổ: “Mình ngốc thật! Như vậy là rõ trắng đen ngay, thế mà mình không nghĩ ra.” Thần Quan Thượng Nhân không khỏi run lên:“Biện pháp này thật là lợi hại. Dĩ nhiên Triết La Tinh không hiểu Bát Nhã Chưởng, bây giờ hắn biết trả lời ra sao?”

Triết La Tinh giả vờ hổ thẹn đáp: “Võ công nước Thiên Trúc bao la bát ngát, chỉ những môn nổi tiếng đã có đến ba trăm sáu mươi tuyệt kỹ. Tiểu tăng tuy có biết qua đại khái, nhưng không thể tinh thục hết được. Tiểu tăng nghe nói chùa Thiếu Lâm có bảy mươi hai tuyệt kỹ, vậy xin hỏi sư huynh: Sư huynh có tinh thông hết bảy mươi hai tuyệt kỹ không? Nếu tiểu tăng chỉ định ba môn cho sư huynh diễn thử, sư huynh có dám nhận lời không?”

Quả nhiên Huyền sinh nghe vậy phải ngẩn người ra. Phái Thiếu Lâm có bảy mươi hai tuyệt kỹ, nhưng mỗi vị cao tăng chỉ học được năm sáu môn, nếu phải chỉ định ba môn bất kỳ thì bất luận là ai cũng không biểu diễn được. Huyền Sinh tuy võ công tinh thâm, hiểu biết rộng rãi, nhưng trong bảy mươi hai tuyệt kỹ thì y chỉ biết sáu môn. Câu hỏi của Triết La Tinh rất hữu lý, khó mà ứng đối được.

Bỗng nghe một giọng nói dõng dạc từ xa xa vọng lại: “Đại đức Thiên Trúc cùng cao tăng Trung Thổ tụ hội tại chùa Thiếu Lâm để đàm luận võ công, thật là hảo sự. Tiểu tăng may mà gặp dịp, có thể vào nghe hai bên cao luận chăng?” Từng chữ đều rành mạch lọt vào tai mọi người, thanh âm lại nghiêm nghị, bình hòa. Nói được như vậy đã phải có nội lực cao thâm, người này ở xa mà lại nghe rõ được câu chuyện trong đại điện thì không chừng nội công của y đã luyện đến mức Thiên Nhĩ Thông của nhà Phật.

Huyền Từ đại sư hơi kinh ngạc, vận nội lực trả lời: “Cùng là Phật môn đồng đạo, xin mời đại sư quang lâm.” Rồi lại nói: “Xin hai vị sư đệ Huyền Minh và Huyền Thạch đại diện cho ta ra đón khách.” Huyền Minh, Huyền Thạch cúi người “Vâng” một tiếng, vừa toan quay ra thì người kia đã cất tiếng nói: “Không dám để các vị nghênh tiếp. Hôm nay được diện kiến các vị cao tăng, thật may mắn vô cùng.”

Y cứ nói một tiếng là lại đến gần thêm mấy trượng, hết câu thì đã xuất hiện trước cửa đại điện. Mọi người nhìn ra, thì thấy một nhà sư trung niên vẻ mặt trang nghiệm, hai tay chắp trước ngực, tươi cười nói: “Sơn tăng nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí xin tham kiến phương trượng chùa Thiếu Lâm.”

Quần tăng thấy thân pháp y đã kinh dị, khi nghe báo danh thì đồng thanh “Ồ” lên một tiếng, nghĩ thầm: “Thì ra Đại Luân Minh Vương quốc sư nước Thổ Phồn giá lâm!”

Huyền Từ đứng dậy, tiến lên hai bước, chắp tay nghiêng mình nói: “Quốc sư từ xa xôi giá lâm Đông Thổ, thật là có cơ duyên. Hôm nay tệ tự có một việc khó giải quyết, mong được quốc sư chủ trì công đạo, phân biệt đúng sai.” Huyền Từ nói xong, liền giới thiệu Thần Sơn, huynh đệ Triết La Tinh, cùng bọn Quán Tâm đại sư.

Mọi người làm lễ tương kiến xong, Huyền Từ sai đặt ghế chính giữa điện mời Cưu Ma Trí ngồi. Cưu Ma Trí khiêm tốn mấy câu rồi cũng ngồi xuống, ngay phía trên Thần Sơn. Người khác thì thấy là chuyện dĩ nhiên, nhưng Thần Sơn tức tối mắng thầm: “Tên Phiên tăng này giả thần lộng quỉ, chưa chắc đã có bản lĩnh chân thực. Lát nữa ta phải thử xem.”

Cưu Ma Trí nói: “Phương trượng muốn tiểu tăng chủ trì công đạo để phân biệt đúng sai, tiểu tăng không dám. Chỉ vì lúc nãy tiểu tăng tình cờ dừng chân trên sườn núi, được nghe Huyền Sinh đại sư cùng Triết La Tinh đại sư đàm luận võ công, nghĩ rằng cả hai vị đều có chỗ phi lý.”

Quần tăng đều bực tức nghĩ thầm: “Lão này ăn nói lớn lối quá.” Huyền Sinh lên tiếng: “Kính xin quốc sư chỉ điểm.”

Cưu Ma Trí mỉm cười đáp: “Vừa rồi Triết La Tinh sư huynh chất vấn đại sư, nói rằng bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm không có ai tinh thông hết được, câu đó không đúng. Còn đại sư nói rằng những môn Ma Ha Chỉ Bát Nhã Chưởng, Đại Kim Cương Quyền là bí truyền của phái Thiếu Lâm, trừ đệ tử chính tông của quý phái còn người ngoài không ai biết, câu đó cũng sai lầm.” Lão chê trách cả hai người một lúc, quần tăng đều ngơ ngẩn, không ai hiểu lão đang muốn gì.

Huyền Sinh dõng dạc hỏi: “Theo lời quốc sư thì có người tinh thông hết bảy mươi hai tuyệt kỹ của tệ phái ư?” Cưu Ma Trí gật đầu đáp: “Không sai!” Huyền Sinh hỏi: “Xin hỏi quốc sư, vị đại anh hùng đó là ai?” Cưu Ma Trí đáp: “Thật không tiện nói ra.” Huyền Sinh biến sắc hỏi: “Là quốc sư chăng?” Cưu Ma Trí gật đầu, chắp tay nghiêm trang đáp: “Chính phải!” Hai chữ này vừa ra khỏi miệng, quần tăng đều biến sắc nghĩ thầm: “Lão này khoác lác quá, chẳng hiểu có bị điên khùng không?”

Bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì có môn luyện về hạ bàn, có môn chuyên về khinh công, có môn tập quyền chưởng, có môn phóng ám khí. Lại còn những tuyệt kỹ luyện đao luyện kiếm, sử côn sử bổng, mỗi môn đều có đặc điểm riêng. Nói chung ai chuyên dùng trường kiếm thì không thể sử thiền trượng, người chuyên về đại lực thần quyền thì lại không giỏi thu phát ám khí. Tuy có người tinh thông được năm sáu môn, nhưng phải là những môn không xung khắc nhau. Tương truyền đời trước có một vị cao tăng luyện được mười ba môn, được xưng tụng là Thập Tam Tuyệt Thần Tăng. Phái Thiếu Lâm đã sáng lập mấy trăm năm, mới có được một người như vậy. Một người tuyên bố kiêm luyện hết bảy mươi hai tuyệt kỹ thì không thể tin được, quần tăng Thiếu Lâm, kể cả Thần Sơn, Đạo Thanh… đều phải lắc đầu.

Trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm lại có mười ba, mười bốn môn cực kỳ khó luyện, dù là bậc thiên tư cực cao, suốt đời khổ luyện một môn chưa chắc đã thành tựu. Hiện thời tổng số tăng nhân chùa Thiếu Lâm có đến hơn ngàn, cả ngàn hòa thượng hợp lại cũng chưa tinh thục được hết bảy mươi hai tuyệt kỹ. Cưu Ma Trí mới ngoại tứ tuần thì giả tỉ y vừa chui ra khỏi bụng mẹ đã bắt đầu luyện võ công, rồi mỗi năm luyện được một môn, thì cũng chưa đủ số bảy mươi hai tuyệt kỹ. Mà đã gọi là tuyệt kỹ thì môn nào cũng phức tạp phi thường, làm thế nào mà một năm luyện được mấy môn?

Huyền Sinh cười thầm, nhưng vẫn cố cung kính nói: “Quốc sư không phải là người trong phái Thiếu Lâm, vậy mà cũng tinh thông những môn Ma Ha Chỉ, Bát Nhã Chưởng, Đại Kim Cương Quyền chăng?” Cưu Ma Trí cười đáp: “Không dám! Mong Huyền Sinh đại sư chỉ giáo cho.” Y nghiêng người đi một chút, tay trái đưa ngang ra, quyền bên phải đánh ra vù một tiếng. Chiếc đỉnh đồng đặt trước bàn thờ Phật bỗng kêu boong boong rồi bật tung hẳn lên. Đó là một Lạc Chung Đông Ứng trong Đại Kim Cương Quyền. Quyền không đụng vào mà đỉnh đồng phát ra tiếng cũng chưa khó, chỉ xảo diệu ở chỗ quyền phong đánh ngang ra phía trước mà đỉnh đồng lại bật thẳng lên, đúng là đã luyện đến chỗ bí ảo của Đại Kim Cương Quyền.

Cưu Ma Trí không chờ cái đỉnh đồng rớt xuống, lại phóng tay trái đánh ra một chiêu Nhiếp Trượng Ngoại Đạo trong Bát Nhã Chưởng. Một tiếng choang vang lên, trong đỉnh đồng có một vật rớt ra, tàn hương trong đỉnh đồng tung tóe mù mịt nên không nhìn rõ là vật gì. Lúc này dư lực của chiêu Lạc Chung Đông Ứng đã hết, đỉnh đồng bắt đầu rớt xuống. Cưu Ma Trí lại đưa ngón tay cái ra bật một cái, chỉ lực đẩy chiếc đỉnh đồng trệch đi nửa thước. Cưu Ma Trí lại bật ngón tay luôn hai cái nữa, đỉnh đồng lui xa thêm một thước rưỡi rồi mới rớt xuống đất.

Các vị cao tăng Thiếu Lâm đều phải thán phục. Ba cái bật ngón tay của Cưu Ma Trí coi rất tầm thường, thế mà bên trong chứa đựng nội kình đến độ siêu phàm nhập thánh. Đó là một chiêu trong Ma Ha Chỉ, tên là Tam Nhập Địa Ngục. Cái tên này ý nói muốn luyện xong một cái bật ngón tay phải chịu khổ sở như một lần vào địa ngục.

Lúc này tàn hương đã lắng xuống dần dần, vật rơi xuống đất đã lộ ra, quần tăng trông thấy bất giác lại la lên. Thì ra vật đó là một miếng đồng hình bàn tay năm ngón rất rõ, viền ngoài thì sáng lấp loáng như vàng, bề mặt lại màu xanh xám.

Cưu Ma Trí phất tay áo một cái rồi cười nói: “Chiêu Cà Sa Phục Ma Công này tiểu tăng luyện chưa được tinh thục, mong phương trượng sư huynh chỉ giáo cho.” Y vừa dứt lời, chiếc đỉnh đồng ở phía trước cách chừng bảy thước đột nhiên nhúc nhích mấy cái, lúc đứng yên lại thì đã quay nửa vòng, mặt trong bây giờ hướng ra ngoài. Chính giữa thân đỉnh đã bị khoét mất một miếng hình bàn tay, chỗ đỉnh đồng bị cắt lấp loáng ánh vàng. Bấy giờ những hòa thượng võ công bình thường mới hiểu Cưu Ma Trí vừa sử chiêu Nhiếp Phục Ngoại Đạo trong Bát Nhã Chưởng, chưởng lực sắc bén như bảo đao cắt đỉnh đồng ra một miếng hình bàn tay. Kỳ lạ nhất là chỗ bị cắt lại không ở phía đối diện Cưu Ma Trí mà lại ở phía sau.

Huyền Sinh thấy Cưu Ma Trí xuất thủ ba lần, hiển lộ bản lĩnh cao thâm không tưởng nổi, bất giác chán nản nghĩ thầm: “Không chừng vị thần tăng này nói thật, bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm là từ Thiên Trúc truyền đến. Y luyện tập đúng từ gốc, lại còn ảo diệu cao thâm hơn võ công ở Trung Thổ nhiều.” Huyền Sinh bèn chắp tay nghiêng người nói: “Hôm nay thần kỹ của quốc sư đã cho tiểu tăng được mở rộng tầm mắt. Bội phục, bội phục!”

Cái phất tay áo sau cùng của Cưu Ma Trí là một chiêu Cà Sa Phục Ma Công. Môn công phu này chính Huyền Từ đã tốn không biết bao nhiêu thì giờ để luyện tập, vì nó mà trễ nãi cả việc tu luyện thiền học. Đại sư vẫn thường hối hận về chuyện này, thực là cái được không đủ bù cái mất, nhưng nghĩ rằng mình đã luyện được môn tụ công đệ nhất thiên hạ thì cũng thấy tự an ủi. Bây giờ Huyền Từ thấy Cưu Ma Trí phất tay áo một cách nhẹ nhàng, vẻ mặt vẫn tươi cười, miệng vẫn nói mà không sợ chân khí phát tiết ra ngoài, thật mình không sao bằng được. Đại sư bất giác đau lòng vô kể.

Lúc này trong đại điện không một tiếng động, ai nấy đều bị thần công của Cưu Ma Trí trấn áp. Sau một lúc lâu, Huyện Từ thở dài nói: “Hôm nay lão tăng mới biết, ngoài trời còn có trời, trên người còn có người. Lão tăng khổ học mấy chục năm trời nhưng chưa đủ làm trò cười trong mắt quốc sư. Ba La Tinh sư huynh! Chùa Thiếu Lâm như đầm cạn không đủ để rồng vùng vẫy, địa phương phúc bạc chẳng dám lưu quý khách. Xin sư huynh tự tiện.”

Huyền Từ vừa nói ra, Triết La Tinh cùng Ba La Tinh lộ vẻ vui mừng. Thần Sơn Thượng Nhân thì nửa vui nửa buồn, vui là vì quả thực Ba La Tinh đã tinh thông mấy tuyệt kỹ Thiếu Lâm và đã được Huyền Từ phương trượng đồng ý cho về. Còn lão buồn là vì vụ này lão chẳng có bao nhiêu công trạng, nhờ vào thần kỹ của Cưu Ma Trí là phần lớn. Cưu Ma Trí võ công cao thâm khôn lường, khống chế cục diện, thì Thần Sơn muốn được Ba La Tinh dạy cho mấy tuyệt kỹ Thiếu Lâm cũng còn là chuyện khó.

Nét mặt Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên, chắp tay trước ngực nói: “Thật là phúc đức! Phương trượng sư huynh hà tất phải quá khiêm.”

Quần tăng chùa Thiếu Lâm đều cúi đầu buồn bã. Huyền Từ vừa bị ép buộc phải nói mấy câu thừa nhận võ công phái Thiếu Lâm không bằng người khác. Phái Thiếu Lâm tiếng tăm lừng lẫy, mấy trăm năm là thủ lĩnh võ lâm Trung Nguyên, chưa bao giờ mất thể diện như hôm nay. Phen này chẳng những phái Thiếu Lâm nhục nhã, các phái võ Trung Nguyên đều mất mặt với người ngoại quốc. Mấy vị Quán Tâm, Đại Thanh, Giác Hiền, Dung Trí, Thần Âm cũng buồn bã ra mặt, sự việc diễn biến ngoài dự liệu của họ khi lên chùa Thiếu Lâm.

Huyền Từ đại sư đã suy nghĩ tới ba lần mới nói Thiếu Lâm Tự giam giữ Ba La Tinh cốt để các môn tuyệt học không bị tiết lộ ra ngoài. Bây giờ đại sư thấy Cưu Ma Trí đã kiếm thông bảy mươi hai môn tuyệt kỹ, có giữ Ba La Tinh lại cũng chẳng ích gì. Ba La Tinh thuộc lòng nhiều lắm là bảy tám môn, so với Cưu Ma Trí chưa thấm vào đâu. Võ công của Cưu Ma Trí thì trong bản tự dĩ nhiên không ai địch nổi, giả tỉ cả ngàn nhà sư cùng nhảy vào tấn công, lấy số đông để thủ thắng thì đâu có phải hành vi của phái Thiếu Lâm vang danh thiên hạ? Hôm nay Ba La Tinh xuống núi, chỉ trong một tháng là trên giang hồ sẽ có lắm chuyện đồn đại, phái Thiếu Lâm không còn là lãnh tụ võ lâm, Huyền Từ cũng không còn mặt mũi nào làm phương trượng chùa Thiếu Lâm nữa. Nhưng nếu đại sư không xử sự như vậy, thì còn cách xử sự nào khác đâu?

Những việc xảy ra Hư Trúc đều thấy rõ hết, đến lúc phương trượng nói mấy câu sau cùng, các vị tiền bối bản tự đều sầu thảm, sư phụ Tuệ Luân chảy nước mắt như mưa, lại có mấy vị sư thúc đấm ngực khóc rống lên. Hư Trúc không hiểu rõ chi tiết trong chuyện này, nhưng cũng biết đại khái Cưu Ma Trí biểu diễn võ công, bản tự không có ai địch nổi, đành thả Ba La Tinh đi.

Cưu Ma Trí sử Đại Kim Cương Quyền, Bát Nhã Chưởng, Ma Ha Chỉ chiêu thức trúng hay trật, Hư Trúc chưa học qua thì không có cách nào hiểu được. Nhưng nội lực trong quyền pháp, chưởng pháp, chỉ pháp thì Hư Trúc nhìn rất rõ ràng, đúng là Tiểu Vô Tướng Công, nên rất thắc mắc.

Hư Trúc đã được Vô Nhai Tử truyền cho Tiểu Vô Tướng Công. Về sau, Thiên Sơn Đồng Mỗ dạy y ca quyết của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, phát giác ra y có công phu Tiểu Vô Tướng Công thì rất đỗi thương tâm, vì công phu này sư phụ bà ta chỉ truyền cho một mình Lý Thu Thủy, mà Hư Trúc lại học được ở Vô Nhai Tử. Thế thì rõ ràng giữa Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy đã thân thiết với nhau, nên bà ta nổi cơn ghen tức. Lát sau Đồng Mỗ hết giận, có nói cho y nghe về phép vận dụng Tiểu Vô Tướng Công, nhưng hiểu biết của bà cũng có giới hạn. Khi về cung Linh Thứu, Hư Trúc nghiên cứu đồ hình trong thạch thất, đã hiểu Tiểu Vô Tướng Công tới chỗ ảo diệu.

Tiểu Vô Tướng Công là võ học của Đạo gia. Đạo gia dạy phải giữ lòng dạ thanh tĩnh, thần trí phiêu diêu, so với lý thuyết vô sắc vô tướng của nhà Phật, mới nhìn thì giống nhau, bên trong lại khác hẳn. Lúc Cưu Ma Trí còn ở ngoài sơn môn đã dùng trung khí để truyền tiếng nói ra xa, Hư Trúc nghe đã biết ngay người này luyện Tiểu Vô Tướng Công đến mức cao thâm, bèn đem lòng kinh ngạc. Về sau Cưu Ma Trí thi triển quyền pháp, chưởng pháp, chỉ pháp, tụ pháp, bề ngoài biến ảo khôn lường, nhưng bên trong hoàn toàn là Tiểu Vô Tướng Công. Lúc sư thúc tổ Huyền Sinh và Ba La Tinh sử chiêu Thiên Y Vô Phùng từ trong đến ngoài đều là công phu của Phật môn. Bát Nhã Chưởng có nội công của Bát Nhã Chưởng, Ma Ha Chỉ có nội công của Ma Ha Chỉ, Đại Kim Cương Quyền cũng có nội công của Đại Kim Cương Quyền, mỗi môn đều rành mạch phân minh, không pha trộn chút nào.

Bây giờ Hư Trúc nghe Cưu Ma Trí tự xưng tinh thông hết bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, song lúc thi triển chiêu thức Bát Nhã Chưởng, Ma Ha Chỉ, Đại Kim Cương Quyền thì rõ ràng đã sử dụng Tiểu Vô Tướng Công uy mãnh đến cực điểm để trấn áp mọi người hiện diện. Những người chưa hiểu Tiểu Vô Tướng Công đều phải tin là hắn đã tinh thông tuyệt kỹ Thiếu Lâm, thật là khó mà phân biệt. Thực ra thì uy lực của Tiểu Vô Tướng Công cũng chẳng kém gì những tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, nhưng hắn đã chỉ hươu mà nói ngựa để lừa gạt mọi người. Hư Trúc rất ngạc nhiên ở chỗ Cưu Ma Trí sử dụng Tiểu Vô Tướng Công giả mạo làm tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, mà cả ngàn nhà sư từ Huyền Từ phương trượng trở xuống chẳng ai lên tiếng phản đối.

Hư Trúc không hiểu được cốt lõi vấn đề, Tiểu Vô Tướng Công đã quảng đại tinh thâm lại là võ học của Đạo gia. Những người trong đại điện toàn là Phật môn đệ tử, dù võ công cao đến đâu cũng chưa từng luyện nội công của Đạo gia. Huống hồ Tiểu Vô Tướng Công đã lấy vô tướng làm yếu chỉ, không có hình tướng thì còn vết tích đâu mà lần? Nếu không phải là cao thủ đã luyện qua thì không thể nhận ra được. Huyền Từ và Huyền Sinh cũng có thấy nội công của Cưu Ma Trí không hoàn toàn đúng là nội công Thiếu Lâm, nhưng nghĩ rằng võ học ở Thiên Trúc và Trung Thổ cũng phải có chỗ sai biệt, về không gian thì xa nhau vạn dặm, về thời gian thì cách nhau mấy trăm năm, tuyệt kỹ ở chùa Thiếu Lâm lại đã được cao tăng đời trước biến hóa cải cách ít nhiều, nếu giống hệt nhau thì mới là đáng ngạc nhiên. Vì thế mà hai vị cao tăng đều không nghi hoặc gì.

Hư Trúc thấy mỗi vị cao tăng đều có tâm sự, nhưng y mới là hòa thượng đời thứ ba trong chùa, làm sao dám tự tiện bước ra? Khi thấy tình hình xấu đi rất nhanh, các vị sư trưởng vừa buồn vừa giận mà không làm gì được, rõ ràng bản tự đang gặp phải kiếp nạn trọng đại, y cũng muốn tiến ra để nói rõ võ công của Cưu Ma Trí không phải tuyệt kỹ Thiếu Lâm. Nhưng y ở chùa Thiếu Lâm hai mươi năm nay chưa dám nói một câu nào với người trên, huống chi không khí trong đại điện cực kỳ thâm nghiêm, câu nói chưa ra tới miệng đã lại nuốt vào.

Bỗng nghe Cưu Ma Trí lại lên tiếng: “Phương trượng đã nói như vậy, tức là nhìn nhận bảy mươi hai tuyệt kỹ của quý phái chính thức không phải do quý phái sáng lập ra. Thế thì sao gọi là “tuyệt” được?”. Huyền Từ im lặng không nói gì, ruột đau như dao cắt.

Một vị lão tăng cao lớn hàng chữ Huyền hằn học lên tiếng: “Quốc sư đã chiếm được thượng phong, phương trượng bản tự cũng để nhà sư Thiên Trúc tự tiện rời đi, sao quốc sư còn không nể mặt mà cố đẩy người vào bước đường cùng?”

Cưu Ma Trí mỉm cười nói: “Tiểu tăng bất quá chỉ xin phương trượng tuyên bố một câu để truyền bá cho đồng đạo võ lâm khắp thiên hạ. Theo ý tiểu tăng thì chùa Thiếu Lâm nên giải tán, các vị cao tăng sẽ chia nhau gia nhập vào các chùa Thanh Lương, Phổ Độ… phấn đấu làm lại tiến độ, chẳng hơn cố bám lấy danh hiệu đệ tử Thiếu Lâm cho yên thân ư?”

Y vừa dứt lời thì quần tăng chùa Thiếu Lâm không thể nhẫn nại được nữa, nhao nhao cả lên. Bây giờ ai nấy mới hiểu rõ, hôm nay Cưu Ma Trí lên núi Thiếu Thất là muốn lấy sức một người trấn áp phái Thiếu Lâm, không những để lưu danh thiên cổ mà từ nay võ lâm Trung Nguyên như rắn không đầu, thật là chuyện tốt đối với nước Thổ Phồn.

Y lại dõng dạc nói tiếp: “Tiểu tăng một mình đến Trung Thổ thăm chùa Thiếu Lâm, bản ý là học hỏi phong độ của Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, đinh ninh sẽ được mở rộng tầm mắt. Nhưng bây giờ nghe lời nói cùng cử chỉ của các vị cao tăng thì… ha ha, tựa hồ kém cả Thiên Long Tự ở nước Đại Lý xa tít phương Nam! Ôi thôi, tiểu tăng thất vọng không thể tưởng!”

Một vị đại sư hàng chữ Huyền lên tiếng: “Khô Vinh đại sư cùng Bản Nhân phương trượng ở Thiên Long Tự nước Đại Lý quả nhiên Phật pháp cao thâm, đã là Thích tử thì ai cũng ngưỡng mộ. Người xuất gia không quan niệm chuyện hơn thua, quốc sư nói chùa Thiếu Lâm không bằng Thiên Long Tự thì cũng có sao đâu?” Đại sư vừa nói vừa từ từ tiến ra, sắc diện hồng hào, chụm ngón giữa và ngón cái bên tay hữu vào nhau. Miệng đại sư thoáng một nụ cười, thần sắc rất ôn hòa.

Cưu Ma Trí cũng tươi cười nói: “Công phu Niêm Hoa Chỉ của Huyền Độ đại sư đã luyện tới chỗ xuất thần nhập hóa, tiểu tăng hâm mộ đã lâu. Hôm nay được nhìn thấy, thật là may mắn.” Y nói xong cũng chụm ngón cái và ngón giữa bên tay hữu vào nhau, tựa như đang cầm một bông hoa. Tay trái cả hai nhà sư đồng thời từ từ đưa ra, búng về phía đối phương ba cái.

Ba tiếng veo véo rít lên, chỉ lực đụng nhau. Huyền Độ đại sư rung người lên một cái rồi ba tia máu vọt từ ngực ra, bắn xa đến mấy thước. Thì ra chỉ lực của Huyền Độ không địch nổi, bị ba luồng chỉ lực sắc nhọn như đao của Cưu Ma Trí đâm vào trước ngực.

Huyền Độ đại sư là người rất ôn hòa, được hết thảy các nhà sư hậu bối kính mến. Năm Hư Trúc mười sáu tuổi đã được phục vụ hầu trà Huyền Độ trong tám tháng, Huyền Độ đối xử rất thân thiết, lại chỉ điểm La Hán quyền cho y. Về sau Huyền Độ đóng cửa tham thiền, Hư Trúc ít khi gặp mặt nhưng bản tính y vốn trung hậu, vẫn không quên tình cảm ngày xưa. Bây giờ Huyền Độ bị chỉ lực Tiểu Vô Tướng Công của Cưu Ma Trí đả thương. Hư Trúc biết rằng nếu cứu chậm một chút là nguy đến tính mạng. Y đã được Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà dạy phép trị thương, rồi lại được học bí quyết phá giải Sinh Tử Phù, nên rất rành việc cứu thương giữ mạng. Hư Trúc thấy máu tươi trước ngực Huyền Độ đang phun ra, không nghĩ ngợi gì nhiều, lạng người một cái ra trước mặt Huyền Độ rồi phóng ra một chưởng.

Ba tia máu đang vọt ra chưa kịp rớt xuống đất, lập tức được chưởng lực của y đẩy vào lại trong ngực Huyền Độ. Tay trái Hư Trúc búng mấy cái như gảy đàn tì bà, điểm hờ ra khoảng không, chớp mắt đã phong bế mười một chỗ huyệt đạo quanh vết thương của Huyền Độ, máu tươi không phun ra nữa. Hư Trúc lại lấy một viên Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu nhét vào miệng đại sư.

Ngày trước Hư Trúc được Đoàn Diên Khánh chỉ điểm phá thế Trân Lung của Vô Nhai Tử, Cưu Ma Trí đã gặp y một lần. Lúc này y từ đám đông tiến ra, điểm cách không để phong bế huyệt đạo cho Huyền Độ, chỉ pháp đã tuyệt diệu mà công lực lại càng thâm hậu. Bình sinh Cưu Ma Trí chưa từng thấy ai bản lĩnh như vậy, không khỏi giật mình kinh hãi.

Ngày trước, sáu nhà sư bọn Tuệ Phương thấy Hư Trúc vung chưởng đánh chết Huyền Nạn, lại thấy y làm chưởng môn phái khác, chẳng biết làm thế nào đành đem thi hài Huyền Nạn về chùa Thiếu Lâm. Huyền Từ phương trượng cùng các vị cao tăng đã xem kỹ thì biết Huyền Nạn chết về Tam Tiếu Tiêu Dao Tán kịch độc của Đinh Xuân Thu. Các vị chờ mãi không thấy Hư Trúc về, lại phái mười mấy nhà sư Thiếu Lâm đi tìm kiếm mà thủy chung vẫn chẳng thấy tông tích.

Lúc Hư Trúc về tới chùa Thiếu Lâm thì lại đang xảy ra biến cố trọng đại. Bang chủ Cái Bang là Trang Tụ Hiền đưa thiếp đến phái Thiếu Lâm, ý muốn xưng làm minh chủ của võ lâm Trung Nguyên. Huyền Từ cùng những vị đại sư vào hàng chữ Huyền, chữ Tuệ thương nghị mấy ngày liền, chẳng ai biết Trang Tụ Hiền là hạng người nào, chưa từng nghe tên trên giang hồ. Cái Bang là bang hội lớn nhất võ lâm, thực lực hùng mạnh, nổi tiếng nghĩa hiệp, vốn cùng phái Thiếu Lâm giúp đỡ nhau làm điều hiệp nghĩa, chủ trì công đạo cho võ lâm. Thế mà đột nhiên Cái Bang đòi ngồi trên phái Thiếu Lâm, các vị cao tăng đều không biết phải đối phó như thế nào. Sư phụ Hư Trúc là Tuệ Luân, thấy phương trượng cùng các sư bá sư thúc đang bận tâm giải quyết đại sự nên không dám nói đến chuyện Hư Trúc về chùa, dĩ nhiên cũng chưa báo cáo những việc y phạm giới. Vì thế mà Hư Trúc gánh phân tưới rau, các vị cao tăng không hề hay biết. Bây giờ đột nhiên y thi triển thân thủ tuyệt diệu, quạt được máu tươi Huyền Độ quay về nội thể, ai nấy đều hết sức ngạc nhiên.

Hư Trúc nói: “Sư bá tổ đừng vận khí, để vết thương khỏi ứa máu ra.” Rồi y xé áo mình băng bó vết thương trước ngực. Huyền Độ nhăn nhó cười nói: “Niêm Hoa Chỉ… của Đại Luân Minh Vương… tinh diệu… tinh diệu vô cùng. Lão tăng bội… bội phụ…” Hư Trúc nói: “Đại sư bá! Đó không phải Niêm Hoa Chỉ, mà cũng không phải võ công của Phật môn.”

Quần tăng nghe vậy đều kinh ngạc. Chỉ pháp của Cưu Ma Trí giống y như Huyền Độ, vẻ mặt hai người cũng ôn hòa tươi cười như nhau, thế mà không phải tuyệt kỹ Niêm Hoa Chỉ của phái Thiếu Lâm thì là gì nữa? Mọi người đều biết Cưu Ma Trí là hộ quốc pháp sư nước Thổ Phồn, được sắc phong Đại Luân Minh Vương, cứ năm năm một lần lại khai đàn thuyết pháp ở chùa Đại Luân trên Đại Tuyết Sơn. Cao tăng, cư sĩ bốn phương đến nghe rất đông đảo, ai cũng khen hắn Phật pháp uyên thâm, quả là một vị cao tăng cửa Phật vang danh thiên hạ. Thế mà Hư Trúc lại bảo võ công của hắn không phải là võ công của Phật môn, mọi người đều không khỏi sửng sốt.

Cưu Ma Trí lại càng kinh hãi, tự hỏi: “Sao gã tiểu hòa thượng này lại biết chiêu thức của mình không phải là Niêm Hoa Chỉ? Không phải võ công nhà Phật?” Sau một lúc, hắn nghĩ thầm: “Phải rồi! Niêm Hoa Chỉ là một công phu bình hòa nhân ái, cốt để điểm huyệt kiềm chế địch nhân chứ không phải để giết người. Lúc nãy ta nóng lòng thủ thắng nên phóng chỉ lợi hại quá, đâm lão tăng kia thủng ba lỗ trước ngực, không đúng với bản ý Niêm Hoa Vi Tiểu của Gia Diệp tôn giả. Chắc vì thế mà gã tiểu hòa thượng này nhận ra.”

Trời sinh hắn thông minh cơ trí, từ thuở nhỏ đã gặp kỳ duyên, chưa từng thua ai bao giờ. Hắn vừa rời Thổ Phồn đến chùa Thiên Long nước Đại Lý đã đánh bại mấy cao thủ là Khô Vinh, Bản Nhân, Bản Tướng. Hôm nay Cưu Ma Trí đơn thương độc mã đến chùa Thiếu Lâm, muốn đem một thân võ công mà đánh gục ngôi chùa cổ kính ngàn năm này. Hắn thấy Hư Trúc xuất chiêu Luân Chỉ Phong Huyệt đến chỗ tuyệt diệu, nhưng chỉ chừng hai mươi tuổi, thì nghĩ rằng võ công cũng chưa có gì đáng kể, bèn mỉm cười hỏi: “Tiểu sư phụ bảo chiêu Niêm Hoa Chỉ của ta không đúng đường lối Phật môn, thế thì những tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm theo đường lối nào?”

Hư Trúc không biết cái lý, chỉ ấp úng đáp: “Chiêu Niêm Hoa Chỉ của Huyền Độ sư bá tổ dĩ nhiên đúng là của nhà Phật… Còn… cái đó… của… Minh Vương… không phải…” Hư Trúc vừa nói vừa giơ tay trái lên bắt chước Huyền Độ búng ba cái, phát động công phu Tiểu Vô Tướng Công. Y không dám vô lễ búng thẳng vào Cưu Ma Trí, mà hướng ra chỗ không người. Quả chuông đồng trên đại điện kêu ba tiếng boong boong rất lớn. Thì ra ba đạo chỉ lực của Hư Trúc đều trúng phải chuông, mạnh chẳng khác gì cầm dùi mà đánh vào.

Cưu Ma Trí la lên: “Hảo công phu! Hãy tiếp một chiêu Bát Nhã Chưởng của ta!” Lão bèn chắp hai bàn tay như để hành lễ, nhưng hai bàn tay không khép lại. Một tiếng “vù” rít lên, chưởng lực giữa hai bàn tay xô về phía Hư Trúc. Đó chính là chiêu Giáp Cốc Thiên Phong trong Bát Nhã Chưởng.

Hư Trúc thấy luồng chưởng lực cực kỳ hung hãn, bắt buộc phải chống đỡ. Y bèn xuất một chiêu Thiên Sơn Lục Dương Chưởng để hóa giải chưởng lực của đối phương.

Cưu Ma Trí thấy chưởng phong của mình mất tăm mất tích, rõ ràng trong chưởng lực của Hư Trúc có sức hút, đã huy động Tiểu Vô Tướng Công đến tột độ. Hắn ngấm ngầm sợ hãi, nhưng vẫn cố tươi cười hỏi: “Tiểu hòa thượng! Chiêu thức của ngươi có phải là theo đường lối Phật môn không? Hôm nay ta đến đây để lĩnh giáo thần kỹ phái Thiếu Lâm, sao ngươi lại thi triển những công phu bàng môn tả đạo? Chẳng lẽ phái Thiếu Lâm đứng nhất nhì Đại Tống chỉ có hư danh, bắt buộc phải dùng võ công phái khác để chống đỡ hay sao?” Cưu Ma Trí quả là xảo quyệt, mới một chiêu đã biết nội công của Hư Trúc có điểm đặc biệt. Hắn không nắm chắc phần thắng nên dùng lời nói mỉa mai, bắt buộc đối phương phải dùng võ công Thiếu Lâm.

Hư Trúc không hiểu dụng ý của hắn, bèn đáp: “Tiểu tăng tư chất ngu muội, nên võ công bản phái mới học được hai môn La Hán Quyền và Vi Đà Chưởng. Đó là những công phu vỡ lòng lúc nhập môn, thì làm sao chống đỡ nổi chiêu thức của quốc sư?” Cưu Ma Trí cười ha hả nói: “Nói vậy thì ngươi đã tự biết mình không phải là đối thủ của ta. Mau mau rút lui đi!” Hư Trúc đáp: “Vâng! Tiểu tăng xin rút lui.” Y bèn chắp tay thi lễ, rồi lui về chỗ chư tăng hàng chữ Hư.

Huyền Từ phương trượng là người rất tinh minh, tuy không hiểu nguồn gốc võ công của Hư Trúc, nhưng vừa thấy y thi triển mấy chiêu thức xảo diệu mà nội lực lại rất thâm hậu, có thể đối chọi được với Cưu Ma Trí. Phương trượng biết hôm nay chùa Thiếu Lâm gặp đại nạn quan hệ đến sự vinh nhục tồn vong, nên để Hư Trúc đánh thử một trận, nếu thua thì Cưu Ma Trí cũng phải tổn thất nội lực, bớt kiêu ngạo phần nào. Huyền Từ nghĩ vậy liền nói: “Quốc sư tự xưng là tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, tài cao vô kể, mọi người phải bội phục, chắc quốc sư chẳng coi những môn võ nông cạn lúc nhập môn của đệ tử tệ phái vào đâu. Pháp danh của tăng chúng trong bản tự đặt theo bốn chữ Huyền Tuệ Hư Không. Hư Trúc! Ngươi là đệ tử hàng thứ ba trong bản phái, vốn không đủ tư cách để động thủ với quốc sư nước Thổ Phồn, nhưng quốc sư chẳng quản đường xa muôn dặm tới đây, thật là cơ duyên ít gặp. Vậy ngươi đem La Hán Quyền và Vi Đà Chưởng ra nhờ Minh Vương chỉ điểm cho!” Huyền Từ nghĩ rằng Hư Trúc chỉ là một gã tiểu hòa thượng hàng chữ Hư, nếu thua Cưu Ma Trí thì uy danh phái Thiếu Lâm cũng chẳng sứt mẻ gì. Đại sư chỉ mong Hư Trúc ráng chống đỡ được một vài khắc thì sẽ ra lệnh dừng tay, lúc đó Cưu Ma Trí cũng chẳng còn mặt mũi để ra oai nữa.

Dĩ nhiên Hư Trúc phải tuân lệnh phương trượng, liền khom lưng đáp: “Vâng!” rồi tiến lên mấy bước, chắp tay nói: “Xin quốc sư hạ thủ lưu tình.” Y nghĩ rằng đối phương là cao nhân tiền bối, dĩ nhiên không ra chiêu trước, liền giơ hai tay lên lạy xuống. Đó là chiêu Linh Sơn Lễ Phật, chiêu khởi điểm trong Vi Đà Chưởng. Hư Trúc đã ở chùa Thiếu Lâm mười mấy năm trời, cứ nửa ngày niệm kinh nửa ngày luyện võ, nên đã thuộc lòng La Hán Quyền và Vi Đà Chưởng. Linh Sơn Lễ Phật vốn là một chiêu để thi lễ, chỉ để tỏ lòng kính cẩn địch thủ, chứng minh đệ tử nhà Phật lấy lễ nhượng làm đầu, không phải là hạng hung hăng hiếu dũng. Không ngờ Hư Trúc đã thừa hưởng nội lực của ba tay đại cao thủ phái Tiêu Dao, được Đồng Mỗ tận tâm truyền dạy, lại còn học được mấy tháng trong thạch thất ở cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu, nên chiêu thức xã giao này lại biến thành uy lực phi thường. Hai tay Hư Trúc vừa lạy xuống, tăng bào trên người liền bật lên những tiếng phành phạch, chân khí trong người lưu chuyển để hộ vệ toàn thân.

Hồi 40: Biết lúc nào bỏ được lòng si?

Cưu Ma Trí thấy gã tiểu hòa thượng đã động thủ, không thể lùi bước được bèn gượng cười rồi phóng chưởng đánh ra. Trong tiếng chưởng phong rít lên lại có pha những tiếng nổ lụp bụp, thủ pháp cùng tư thức chính là công phu thượng thừa của Bát Nhã Chưởng Pháp.

Vi Đà Chưởng là một môn vỡ lòng của phái Thiếu Lâm. Đệ tử Thiếu Lâm mới nhập môn đều phải học đầu tiên là La Hán Quyền, đến Vi Đà Chưởng là môn thứ hai. Bát Nhã Chưởng lại là một chưởng pháp rất tinh diệu, thông thường từ Vi Đà Chưởng tuần tự học đến Bát Nhã Chưởng phải mất ba mươi bốn năm công phu. Bát Nhã Chưởng lại là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, chưởng lực càng luyện càng mạnh, chiêu thức càng luyện càng tinh, không biết đâu là bờ bến. Từ ngày sáng lập ra chùa Thiếu Lâm đến nay, chưa bao giờ Vi Đà Chưởng đối chọi với Bát Nhã Chưởng, vì trình độ cách nhau vời vợi. Tiền bối cao nhân đã luyện Bát Nhã Chưởng dĩ nhiên không động thủ với đệ tử nhập môn mới biết Vi Đà Chưởng. Ngay cả thầy trò rèn luyện võ công cũng vậy, sư phụ đã sử đến Bát Nhã Chưởng thì đệ tử ít nhất cũng phải đối phó bằng Đạt Ma Chưởng, Phục Hổ Chưởng hay Như Lai Thiên Thủ Chưởng.

Hư Trúc thấy chưởng lực đối phương đánh tới, bèn né người tránh khỏi rồi đưa song chưởng ra, xuất chiêu Sơn Môn Hộ Pháp cũng thuộc Vi Đà Chưởng. Chiêu thức này rất tầm thường nhưng nội lực y cực kỳ hùng hậu. Cưu Ma Trí nhích động thân ảnh, phóng ra hai chiêu Tụ Lý Càn Khôn và Vô Tướng Kiếp Chỉ, Hư Trúc lại nghiêng mình né tránh. Cưu Ma Trí đã tính trước phương hướng, phóng Đại Kim Cương Quyền trúng vào vai y đánh binh một tiếng. Hư Trúc loạng choạng lùi lại hai ba bước. Cưu Ma Trí cười ha hả hỏi: “Tiểu sư phụ đã chịu phục chưa?” Hắn tin chắc thoi quyền tan bia vỡ đá này phải đánh gãy xương vai đối phương, ngờ đâu trong người Hư Trúc đã có Bắc Minh chân khí hộ thế, vai chỉ hơi ê ẩm một chút. Hư Trúc lạng người đi một cái, hai tay song song đưa từ trái sang phải. Chiều thức này gọi là Hồng Thủy Quy Hải, chân khí từ hai bàn tay y tuôn ra cuồn cuộn như sông lớn đổ ra Đông Hải.

Cưu Ma Trí thấy Hư Trúc trúng quyền mà vẫn thản nhiên, không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Hắn phải vận toàn lực phóng chưởng ra đỡ, đồng thời tung người nhảy lên đá liên hoàn cước. Chỉ nháy mắt hắn đã tung ra bảy cước đều trúng ngực Hư Trúc, vang lên những tiếng bốp bốp. Đó cũng là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm, gọi là Như Ảnh Tùy Hình Cước. Cước này vừa tung ra thì cước thứ hai lại phóng tới như bóng theo hình, khi cước thứ hai biến thành hình thì cước thứ ba lại như bóng đuổi theo. Cưu Ma Trí đá xong bảy cước thì Hư Trúc đã phải lùi lại mấy trượng.

Lão không để cho đối phương kịp thở, lại phóng veo véo ra hai chỉ, đó là Đa La Chỉ Pháp. Hư Trúc xuống tấn kiểu cưỡi ngựa bắn cung, xuất chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm trong La Hán Quyền đánh trả. Chiều quyền này quá thông thường, nhà sư nào cũng biết, nhưng nó chứa đựng công phu Tiểu Vô Tướng Công, lập tức hóa giải tiêu tan hai phát Đa La Chỉ mãnh liệt thủng vàng vỡ đá của đối phương.

Cưu Ma Trí đã bắt đầu nóng nảy, lập tức thu Đa La Chỉ về rồi biến thế, vung một cánh tay ra, chém xuống thần tốc phi thường theo Nhiên Mộc Đao Pháp. Đao pháp này khi đã luyện thành, chém vào cây khô thì phát ra sức nóng đốt cháy cây. Năm trước sư phụ Tiêu Phong là Huyền Khổ đại sư có luyện tuyệt kỹ này, nhưng từ ngày đại sư viên tịch không còn ai biết nữa. Cưu Ma Trí chém xuống một đao trúng vào tay phải Hư Trúc đánh chát một tiếng. Hư Trúc la lên: “Nhanh quá!” rồi vung tay trái đánh ra, quyền chưa tới đích thì tay trái lại trúng một đao. Cưu Ma Trí dùng chưởng làm đao chẳng kém gì đao thật, có thể cắt đứt đầu chặt lìa tay, thế mà Hư Trúc trúng hai đao vẫn chẳng sao, phản lực lại làm cho cườm tay lão ngấm ngầm đau nhức.

Cưu Ma Trí kinh hãi nghĩ thầm:”Giả tỉ tên tiểu hòa thượng này đã luyện được công phu Kim Chung Trảo Thiết Bố Sam cũng không thể chịu nổi đòn của mình, mà sao hắn lại không việc gì? Hừ, chắc là trong tăng bào hắn còn mặc bảo giáp để hộ thân.” Lão nghĩ vậy, liền liên tiếp xuất chiêu nhắm vào mắt, mũi, cổ họng Hư Trúc, liên tiếp sáu bảy loại thần công phái Thiếu Lâm, nào là Đại Trí Vô Định Chỉ, Khử Phiên Não Chỉ, Tịch Diệt Trảo…

Cưu Ma Trí tấn công khiến cho Hư Trúc chân tay luống cuống phải lùi lại liên tiếp. Lúc này ngay cả Vi Đà Chưởng y cũng không thi triển được được nữa, cứ đánh tới đánh lui toàn là chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm trong La Hán Quyền. May mà chiêu quyền nào cũng buộc Cưu Ma Trí lùi  lại nửa thước, vì thế mà những chiêu thức xảo diệu của lão không sao chạm được đến da thịt đối phương.

Chỉ trong khoảnh khắc Cưu Ma Trí đã thi triển đến mười sáu mười báy tuyệt kỹ Thiếu Lâm khác nhau. Quần tăng chỉ đứng xem cũng đủ hoa mắt, ai cũng nghĩ thầm:”Người này tự xưng là kiêm thông hết bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, thật không phải nói khoác.” Còn Hư Trúc chỉ đối phó bằng một môn La Hán Quyền. Từ khi bị đối phương tấn công chớp nhoáng, y lại càng rối trí, không đủ bình tĩnh để biến chiêu, chỉ sử dụng có mỗi chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm. Quyền pháp y lại vụng về, e rằng một võ sư tầm thường xem cũng không nín cười được. Một bên tinh xảo, một bên vụng về, thật là hai thái cực, thế mà cái tinh xảo không thắng nổi cái vụng về. Kình lực trong chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm của Hư Trúc mỗi lúc một gia tăng, khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một xa. Cưu Ma Trí phóng chỉ, phóng trảo đều cách mặt Hư Trúc đến hơn một thước.

Cưu Ma Trí sớm đã phát giác, Hư Trúc phóng quyền đã vận công phu Tiểu Vô Tướng Công, mà còn thâm hậu hơn mình, chỉ vì chiêu thức y vụng về nên không thể phát huy uy lực. Lúc ấy Cưu Ma Trí lại thấy Hư Trúc sử chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm đánh tới, đột nhiên lão vung cả hai tay túm được nắm đấm của y. Đó chính là một chiêu Long Trảo Thủ của phái Thiếu Lâm. Tay trái lão nắm được ngón út, còn tay phải nắm được ngón cái của Hư Trúc, liền vận toàn lực vặn mạnh một cái.

Hư Trúc bị túm chặt hai ngón tay, không thể ra chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm để giải khai nữa. Ngón tay bị đau đớn kịch liệt, y bất giác sử một chiêu Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, tay phải xoay một vòng rồi lật ngược lại, nắm được cổ tay trái Cưu Ma Trí.

Cưu Ma Trí túm được ngón tay đối phương còn chưa kịp mừng, ngờ đâu cổ tay mình đột nhiên lại bị đối phương dùng thủ pháp cực kỳ cổ quái nắm lấy. Võ học lão rất uyên thâm, nhưng hoàn toàn không hiểu lai lịch môn Thiên Sơn Chiết Mai Thủ này. Cưu Ma Trí cực kỳ kinh hãi, chỉ cảm thấy cổ tay trái mình như bị khóa trong một chiếc vòng sắt, khó mà thoát ra được. Tiếc là Hư Trúc đang lúc hoang mang chỉ mong tự cứu, không nghĩ đến chuyện phản công. Y chộp lấy cổ tay Cưu Ma Trí chỉ vì muốn lão không bỏ ngón tay mình được, nên quên nắm lấy huyệt mạch môn đối phương cách đó chỉ có ba phân. Vì thế Cưu Ma Trí đề tụ được nội lực, đột nhiên giật mạnh một cái, toan làm cho Hư Trúc phải toạc hổ khẩu.

Hư Trúc thấy tay tê nhức, sợ Cưu Ma Trí gỡ được tay tất sẽ dùng thủ pháp lợi hại để đánh mình, liền vận kinh lực, Bắc Minh Chân Khí cuồn cuộn như nước thủy triều. Cưu Ma Trí vận kinh lực ba lần vẫn không thoát được, không khỏi kinh hãi, liền giơ tay phải lên phóng chưởng đập vào đầu Hư Trúc. Tới lúc cấp bách, lão không kịp thi triển võ công phái Thiếu Lâm, phát chưởng này thi triển đúng công phu bản môn ở Thổ Phồn. Cự ly quá gần, thế đánh cực kỳ mãnh liệt. Hư Trúc thấy nguy hiểm bèn vung tay trái lên, bất giác xuất một chiêu Thiên Sơn Lục Dương Chưởng để giải khai. Cưu Ma Trí liên tiếp phóng chưởng đều bị Hư Trúc thi triển Lục Dương Chưởng hóa giải được hết.

Lúc này hai người đứng sát nhau, nghe rõ cả tiếng thở của đối phương, người này phóng chưởng chỉ cách đỉnh đầu người kia bảy tám tấc. Càng gần thì chưởng lực càng mãnh liệt, chưởng phong của Cưu Ma Trí rít lên veo véo tạt vào mặt quần tăng rát như dao cứa, hơi lạnh căm căm tựa như đỉnh núi cao tuyết phủ, cuồng phong thổi ào ào ra bốn phía chung quanh. Các hòa thượng tầm thường trong chùa Thiếu Lâm không chịu nổi, đều phải lùi ra sau đứng dựa vào tường. Các vị cao tăng hàng chữ Huyền tuy không sợ chưởng phong quạt tới, nhưng cũng phải vận nội lực để kháng cự.

Hư Trúc vì muốn giải trừ Sinh Tử Phù cho quần hùng ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo, đã ra công nghiên cứu Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, bao nhiêu chỗ biến ảo đều đã thuộc lòng, hiểu thấu chỗ ảo diệu bên trong. Chỉ vì y chưa hề dùng chưởng pháp này để đánh nhau thực sự, nên sử dụng chưa được thuần thục. Bây giờ y phải quyết đấu sinh tử cùng cao thủ hạng nhất là Cưu Ma Trí. Đối thủ chưởng pháp cực cao, nội lực y cực mạnh, nên y chỉ vận dụng Lục Dương Chưởng được hai ba thành mà thôi.

Chưởng lực Cưu Ma Trí mỗi lúc một ghê gớm, Hư Trúc chỉ mong tự vệ được là tốt, chiêu nào cũng giữ thế thủ. Y không hề có ý đả bại Cưu Ma Trí, yên trí rằng võ công của đối phương cao gấp mười mình, chỉ dùng một tay để tấn công mà đã ghê gớm đến thế, giả tỉ lão dùng cả hai tay thì mình mất mạng ngay lập tức. Bởi thế mà y liều chết giữ chặt cổ tay trái đối phương, chỉ để lão không thể tấn công bằng cả hai tay. Ý nghĩ tự ti của Hư Trúc lại rất hữu dụng. Cưu Ma Trí chỉ tự do một tay, nên không thể thi triển những thế chưởng liên hoàn biến hóa tuyệt diệu, còn chưởng pháp Hư Trúc không được thuần thục thì y sử dụng đơn chưởng lại thấy tiện lợi hơn song chưởng. Vì thế mà mười thành chưởng pháp của Cưu Ma Trí chỉ phát huy được bốn năm thành, mà hai ba thành của Hư Trúc lại phát huy được đến bốn năm thành. Thời gian lâu chừng tàn nén hương, hai bên trao đổi đã đến mấy trăm chiêu, cục diện vẫn chưa thay đổi.

Huyền Từ, Huyền Độ, Thần Sơn, Quán Tâm, Triết La Tinh cùng các vị cao tăng đều thấy Cưu Ma Trí bị nắm giữ tay trái không giật ra được, nhưng Hư Trúc phải dùng tay trái nên kém thế, chỉ có sức chống đỡ mà không có sức phản kích, hai bên đều có chỗ được chỗ mất. Các vị cao tăng kiến văn quảng bác bình sinh cũng chưa từng thấy cuộc tỉ đấu nào ly kỳ như thế này. Đa số tăng chúng vừa kinh dị vừa hoài nghi, Hư Trúc ở trong chùa từ nhỏ đến lớn, phen này y mới rời chùa lần đầu tiên, không hiểu sao chỉ trong một năm mà y đã luyện được bản lĩnh ghê gớm đến thế. Họ lại không hiểu vì sao Hư Trúc đã nắm được địch nhân mà không kiềm chế nổi, vẫn để Cưu Ma Trí phóng ra những phát chưởng mãnh liệt có thể dứt gân bẻ xương, dù là nội gia cao thủ mà trúng phải cũng đứt hơi bỏ mạng lập tức.

Lúc này bất cứ nhà sư Thiếu Lâm nào chỉ đánh nhẹ một chiêu là Cưu Ma Trị mất mạng ngay. Nhưng trận đấu này không phải để giết người rửa hận, mà cốt để giữ danh dự cho môn phái, nên không ai can thiệp vào. Quần tăng tuy trong lòng hồi hộp, tay ướt đẫm mồ hôi, mà chỉ đứng nhìn hai người tỉ đấu.

Hơn một trăm chiêu nữa, Hư Trúc đã bớt lo lắng, thi triển Thiên Sơn Lục Dương Chưởng mỗi lúc một thuần thục hơn, trong mười chiêu chỉ còn chín chiêu phòng thủ, phản kích được một chiêu. Cưu Ma Trí buộc phải chống đỡ đòn phản kích này, thế công của lão đã bắt đầu giảm bớt. Lúc này Hư Trúc vẫn yếu thế, nhưng càng về sau càng có lợi. Sau thời gian chừng ăn xong bữa cơm, Hư Trúc đã có thể phản công đến ba trong mười chiêu, quần tăng Thiếu Lâm đã bớt lo lắng, bắt đầu hoan hỉ.

Từ lúc Cưu Ma Trí xuất hiện, trong lòng Thần Sơn Thượng Nhân nảy ra những ý nghĩ mâu thuẫn nhau. Lão vừa mong Cưu Ma Trí hủy diệt được oai danh phái Thiếu Lâm, vừa lại không muốn thấy một nhà sư dị tộc vào Trung Thổ hoành hành chẳng sợ gì ai, nhưng lại không đủ sức để đả bại Cưu Ma Trí. Bây giờ lão thấy Hư Trúc cùng Cưu Ma Trí ở thế giằng co thì lại muốn hai bên chết hết, mình làm ngư ông thủ lợi. Giả tỉ Ba La Tinh không truyền cho lão các tuyệt kỹ khác của phái Thiếu Lâm, thì lão cũng đã thuộc lòng kinh điển ba môn Ban Nhược Chưởng, Ma Ha Chỉ, Đại Kim Cương Quyền, sau này nghiên cứu kỹ càng, luyện tập đúng phép, cũng đủ xưng bá võ lâm. Lão còn tự tin mình có thể xào nấu ba môn võ công này cho khác biệt đi, coi như sáng chế được ba tuyệt kỹ riêng biệt cho chùa Thanh Lương, trở thành một bậc tôn sư võ học danh lưu hậu thế. Ba La Tinh lại suy nghĩ theo một hướng khác. Hắn đã lén vào Tàng Kinh Các để nghiên cứu những môn võ công các vị cao tăng Thiếu Lâm đời trước truyền lại, càng nghiên cứu càng thấy tinh thâm ảo diệu vô cùng, rồi đi đến chỗ say mê. Hôm nay sư huynh Triết La Tinh đến đón, được trở về cố hương Thiên Trúc dĩ nhiên là mừng, nhưng hắn nghĩ tới chỗ võ học Thiếu Lâm bao la bát ngát, mình chỉ nhớ được một phần nhỏ xíu, một khi đã ra khỏi sơn môn thì chẳng bao giờ còn được nghiên cứu nữa, lại thấy luyến tiếc vô cùng. Lúc này xem Hư Trúc tỉ đấu cùng Cưu Ma Trí, hắn thấy hai bên đều nội lực cao cường, chiêu thức kỳ tuyệt, tự biết mình chẳng bằng ai. Ba La Tinh không biết rằng võ công mà Hư Trúc đang sử dụng không phải của phái Thiếu Lâm, chỉ thấy nhà sư mới hai mươi tuổi mà đã ghê gớm đến thế thì lại buồn rầu. Hắn nghĩ rằng mình vào được Tàng Kinh Các không phải dễ dàng, tuy thuộc được mấy pho bí lục võ học, không đến nỗi tay trắng về làng, nhưng chắc rằng mình chưa học được những môn quý giá nhất, e rằng phải hối hận suốt đời.

Đạo lý bên trong võ học cũng mênh mông như cầm kỳ thi họa hay Phật học, không có bờ bến, càng nghiên cứu thì càng say mê, dù người học đến cảnh giới nào vẫn cảm thấy có thể cao thâm hơn nữa. Ba La Tinh cũng là cao tăng đại tài đại trí, từ Thiên Trúc đến chùa Thiếu Lâm ban đầu chỉ có ý định tìm thiên phương bách kế ăn cắp bí lục võ công đem về mở mang võ học nước Thiên Trúc. Đến lúc hắn thấy võ học chùa Thiếu Lâm sâu rộng như biển thì đem lòng quyến luyến, không muốn bỏ đi nữa.

Lúc này Hư Trúc đã có thế phản kích bốn trong mười chiêu, tuy vẫn công ít thủ nhiều, nhưng nội lực đã phát sinh, bất giác sử dụng một chiêu cực kỳ hiểm độc trong võ học phái Tiêu Dao. Mọi người đứng xem đều giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: “Ta mà gặp phải chiêu này thì không khỏi mất mạng một cách thảm khốc.” Mấy trăm năm nay, đệ tử phái Thiếu Lâm không có nữ nhân, truyền xuống bao nhiêu đời đều theo đường lối dương cương. Võ công cửa Phật vốn hòa bình, cốt để kiềm chế đối phương chứ không phải để giết người, ngược hẳn với những chiêu thức của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy. Các cao tăng Thiếu Lâm thấy Hư Trúc sử những chiêu thức âm hiểm độc địa, đều bất giác chau mày.

Cưu Ma Trí đã ba lần vận kình toan giật tay trái ra để tiện thi triển tuyệt kỹ Hỏa Diệm Đao. Nhưng lão càng gia tăng kình lực thì chỉ lực của Hư Trúc càng mạnh thêm, thật không biết nội lực của đối phương cao thâm đến mức độ nào. Tình hình nguy cấp, sát khí nổi lên, lão bèn phóng veo véo luôn ba chưởng, Hư Trúc vung tay lên hóa giải. Cưu Ma Trí rụt tay về, rút thanh trủy thủ trong giày ra, đâm vào vai Hư Trúc.

Hư Trúc chỉ học những chiêu thức tay không, đột nhiên thấy bạch quang lấp loáng, truy thủ trong tay địch nhân đâm tới. Y không biết chống đỡ cách nào, liền vung tay chụp xuống cổ tay trái Cưu Ma Trí, đây là một chiêu cầm nã trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, vừa mau lẹ lại vừa chuẩn xác. Ba ngón tay Hư Trúc chạm vào cổ tay đối phương, ngón cái và ngón út liền rít chặt lại. Lúc ấy kình lực trong bàn tay Cưu Ma Trí xô ra, trủy thủ bay khỏi tay lão, mà cả hai tay Hư Trúc đều bận giữ lấy cổ tay đối phương, không né gạt gì được. Nghe sột một tiếng, lưỡi dao đã cắm phập vào vai Hư Trúc ngập đến chuôi.

Quần tăng đứng xem la ó om sòm. Các vị Quán Tâm… đều bất giác lắc đầu, nghĩ thầm: “Thân phận của Cưu Ma Trí mà không thắng nổi một tiểu hòa thượng Thiếu Lâm thì đã ê mặt lắm rồi, lại còn sử dụng binh khí đánh lén thì thật không còn chút thể diện nào.”

Đột nhiên thanh quang lấp loáng, trong đám đông có bốn nhà sư vung trường kiếm lên, đều nhằm đâm vào cổ họng Cưu Ma Trí. Bốn nhà sư đồng thời vọt ra động thủ, bốn thanh trường kiếm cùng nhằm một chỗ, kiếm pháp cực kỳ mau lẹ, lại hiểm độc vô cùng. Cưu Ma Trí vận sức vào hai chân toan nhảy ra sau, nhưng vẫn bị Hư Trúc giữ chặt nên không tránh né được. Cổ họng lão đau nhói, bốn mũi kiếm đâm thủng da y. Bốn nhà sư đồng thanh quát lên: “Đồ không biết liêm sỉ, nộp mạng đi!” Kỳ lạ thay, thanh âm bốn nhà sư này trong trẻo tựa như thiếu nữ.

Hư Trúc nhìn lại, thì ra là tứ kiếm Mai Lan Trúc Cúc giả trang, trên đầu đội tăng mạo để che kín mái tóc, mình khoác tăng bào của chùa Thiếu Lâm. Y kinh hãi vô kể, la lên: “Không được giết y!” Tứ Kiếm đồng thanh đáp: “Vâng!”, nhưng mũi kiếm vẫn kề vào cổ Cưu Ma Trí.

Cưu Ma Trí cười ha hả nói: “Thiếu Lâm Tự chẳng những lấy số đông để thủ thắng, lại còn lén chứa nữ nhân. Bây giờ ta mới biết mấy trăm năm danh dự là thế này đây!”

Hư Trúc hoang mang không biết làm sao, bất giác buông cổ tay Cưu Ma Trí ra. Cúc Kiếm rút thanh thủy thủ trên vai y ra, máu tươi phun lên như suối, cô lại thò tay vào bọc lấy ra một tấm khăn, buộc vết thương cho y. Còn ba cô Mai Lan Trúc vẫn chĩa mũi kiếm vào cổ Cưu Ma Trí. Hư Trúc hỏi: “Các… các ngươi đến đây làm chi?”

Cưu Ma Trí vung tay phải lên, thần công Hỏa Diệm Đao phát xuất. Choang choang ba tiếng, ba thanh trường kiếm gãy đôi, ba cô gái giật mình nhảy lùi hơn trượng, nhìn lại trường kiếm thì chỉ còn một khúc. Cưu Ma Trí ngửa mặt cười dài, rồi quay sang hỏi Huyền Từ: “Phương trượng sư huynh, nói gì đi chứ?”

Huyền Từ sắc mặt xám xanh đáp: “Việc này lão tăng chưa hiểu, phải điều tra cho rõ rỗi xử trí theo giới luật bản tự. Quốc sư cùng các vị sư huynh đường xa mệt nhọc, xin mời quý vị ra nhà khách dùng bữa cơm chay đā.”

Cưu Ma Trí nói: “Quả thật đã làm phiền!”. Lão nói xong chắp tay thi lễ, Huyền Từ cũng đáp lễ. Hai tay Cưu Ma Trí đang chắp bỗng phóng ra hai bên, ngầm vận thần công Hỏa Diệm Đao. Nghe mấy tiếng xoẹt xoẹt, rồi bốn cô Mai Lan Cúc Trúc la hoảng, bốn chiếc tăng mạo không gió mà rớt xuống để lộ bốn mái tóc mây đen nhánh, lại cả hàng trăm mớ tóc rơi xuống lả tả.

Cưu Ma Trí thi triển thần công hất mũ cắt tóc mà không giết người, chẳng những để khoe bản lĩnh mà còn ngụ ý hạ thủ lưu tình, đồng thời làm rõ chân tướng bốn thiếu nữ ra khiến cho quần tăng Thiếu Lâm hết cãi.

Huyền Từ gắng gượng cất tiếng: “Xin mời các vị sư huynh.” Các cao tăng Thần Sơn, Quán Tâm, Dung Trí thấy trong chùa Thiếu Lâm lại xuất hiện mấy cô thiếu nữ thì ai cũng kinh dị. Đừng nói Thiếu Lâm là danh sơn cổ tự, ngay cả những chùa thông thường cũng không thể chấp nhận những vụ vi phạm giới luật thế này. Nhưng khi nghe Huyền Từ phương trượng lên tiếng mời khách thì ai cũng đứng dậy, rồi được tri khách tăng mời ra khách sảnh dùng chay.

Mấy vị khách tăng vừa quay đi, còn chưa ra khỏi đại điện thì Mai Kiếm đã lên tiếng: “Chủ nhân! Bọn thuộc hạ tự tiện xuống núi, đến đây phục vụ chủ nhân, xin chủ nhân miễn trách cho.” Lan Kiếm tiếp: “Nhà sư Duyên Căn kia dám vô lễ với chủ nhân, bọn thuộc hạ đã đánh y một trận nhừ tử cho biết thân. Ôi chao! Không ngờ lão hòa thượng Tây Vực này lại đả thương chủ nhân.”

Hư Trúc “Ồ” một tiếng rồi hiểu ra Duyên Căn kính cẩn với mình là do mấy cô này uy hiếp, thế thì họ giả làm sư nấp trong chùa đã lâu. Y bất giác giậm chân nói: “Rắc rối quá!”, rồi đến quì trước tượng Phật Như Lai, khấn vái: “Đệ tử kiếp trước tội nghiệt thâm trọng, kiếp này lại không giữ giới luật thanh quy, gây ra họa lớn cho bản tự. Kính xin phương trượng phạt thật nặng.”

Cúc Kiếm nói: “Chủ nhân đừng làm hòa thượng cho mệt, chúng ta về núi Phiêu Diểu là hơn. Nơi đây ăn uống nhạt nhẽo lại bị người ta quản thúc, có gì là tốt đâu?” Trúc Kiếm trỏ vào mặt Huyền Từ nói: “Lão hòa thượng! Lão mà mạo phạm đến chủ nhân thì bốn tỉ muội chúng ta không nể mặt đâu. Lão cố mà đối xử cho cẩn thận!” Hư Trúc giậm chân lia lịa: “Các ngươi không được vô lễ, sao lại gây chuyện rắc rối trong chùa? Trời ơi, đừng nói nữa!”

Nhưng bốn cô cứ thi nhau nói, giọng điệu coi Huyền Từ chẳng vào đâu. Tăng chúng chùa Thiếu Lâm nhìn nhau kinh hãi, rồi lại liếc nhìn thử mấy cô gái thì thấy y hệt nhau: mày thanh mắt sáng, xinh đẹp hoạt bát, đều chẳng biết sợ trời sợ đất là gì. Chẳng ai biết bốn cô từ đâu đến chùa.

Bốn cô này vốn là con một nhà nghèo ở chân Đại Tuyết Sơn, mẫu thân đã sinh tới bảy con gái, rồi lại sinh thêm một lượt bốn chị em này. Nhà nghèo không nuôi nổi, bà mẹ liền đem bỏ vào rừng tuyết. Lúc đó Đồng Mỗ đang lên Đại Tuyết Sơn hái thuốc, nghe tiếng con nít khóc bèn lại xem thử, thấy bốn đứa bé sơ sinh tướng mạo giống hệt nhau thì lấy làm thú vị. Mụ liền đem về cung Linh Thứu, nuôi cho khôn lớn rồi truyền thụ võ công. Bốn cô này tuy gọi là thị tỳ của Đồng Mỗ, nhưng thực ra được mụ thương yêu như con đẻ. Bốn cô chưa xuống núi Phiêu Diểu bao giờ, làm sao hiểu được nhân tình thế thái cùng thứ bậc cao thấp? Các cô chỉ biết nghe lệnh Đồng Mỗ, đến khi Hư Trúc làm chủ nhân cung Linh Thứu thì lại hết mình phụng sự Hư Trúc. Nhưng Hư Trúc hiền hậu khiêm tốn, thiếu vẻ oai nghiêm nên các cô không sợ y mấy.

Huyền Từ nói: “Trừ các vị sư huynh sư đệ hàng chữ Huyền, còn tăng chúng từ hàng chữ Tuệ trở xuống ai về phòng nấy. Tuệ Luân quỳ xuống đây.” Chúng tăng đều vâng lời lục tục đi ra, trong khoảnh khắc trên Đại Hùng Bảo Điện chỉ còn lại khoảng ba mươi vị lão tăng hàng chữ Huyền, Hư Trúc cùng sư phụ là Tuệ Luân, và bốn thiếu nữ cung Linh Thứu.

Tuệ Luân hòa thượng quì trước tượng Phật, cất tiếng: “Đệ tử không biết cách dạy dỗ, để nảy ra tên nghiệt đồ này. Xin phương trượng trọng phạt.”

Trúc Kiếm cười hăng hắc nói: “Ngươi công phu thấp kém thế này mà đòi làm sư phụ của chủ nhân ta ư? Đêm hôm kia, người che mặt đã trói ngươi trên cây tùng là nhị tỉ ta đó. Ta nói thật, võ công người còn tầm thường lắm!” Hư Trúc sợ hãi kêu thầm: “Hỏng bét, hỏng bét! Mấy cô này dám trêu cả đến sư phụ ta!” Lại nghe Lan Kiếm cười nói: “Duyên Căn nói ngươi là sư phụ của chủ nhân ta, nên ta đến xem thử. Hôm nay mà tam muội không nói ra, e rằng ngươi vĩnh viễn không biết ai đã trêu ghẹo ngươi. Ha ha! Thú quá, thật là thú quá!”

Huyền Từ nói: “Huyền Tâm, Huyền Quý, Huyền Niệm, Huyền Tĩnh! Bốn vị sư đệ lại xin bốn vị nữ thí chủ đừng nói năng hành động bừa bãi.” Bốn lão tăng khom người đáp: “Vâng!”, rồi quay lại nói với bốn cô: “Phương trượng có pháp chỉ, xin bốn vị đừng nói năng hành động bừa bãi.”

Mai Kiếm cười đáp: “Chúng ta lại thích nói năng hành động bừa bãi, ngươi làm gì được nào?” Bốn nhà sư đồng thanh đáp: “Vậy thì xin đắc tội!” Dứt lời, bốn vị phất áo tăng bào phủ lên bàn tay, đưa tay ra nắm lấy tay bốn cô. Huyền Tâm sử Long Trảo Thủ, Huyền Quý sử Hổ Trảo Công, Huyền Niệm sử Ưng Trảo Công, Huyền Tĩnh sử Thiếu Lâm Cầm Nã Thập Bát Đả, đều là những môn võ tinh diệu phái Thiếu Lâm. Trong bốn cô thì trừ Cúc Kiếm ra, ba cô đã bị Cưu Ma Trí chặt gãy mất trường kiếm. Cúc Kiếm liền vung trường kiếm lên để hộ vệ cho ba tỉ tỉ. Ba cô Mai Lan Trúc cũng vung kiếm gãy, phối hợp với Cúc Kiến đánh ra. Hư Trúc vội la lên: “Bỏ kiếm! Bỏ kiếm! Không được động thủ!”

Tứ Kiếm nghe chủ nhân hô hoán đều sửng sốt, binh khí trong tay không phát huy được toàn lực. Võ công bốn cô vốn đã kém xa bốn vị cao tăng hàng chữ Huyền, lại để mất tiên cơ nên bị bắt ngay. Mai Kiếm cố sức giãy giụa mà không thoát nổi, liền tức giận nói: “Bọn ta tuân lệnh chủ nhân nên mới nể mặt các người. Ôi chao, đau đến chết người! Sao ngươi nặng tay thế?” Lan Kiếm cũng la lên: “Tên tiểu tặc! Mau buông ta ra!” Huyền Quý đại sư đầu tóc bạc phơ, tuổi đã ngoại thất tuần mà nàng dám gọi là tên tiểu tặc. Trúc Kiếm mắng: “Ngươi mà không chịu buông tay thì ta phải thóa mạ đến tam đại ngươi.” Cúc Kiếm thét lên: “Ta phải nhổ nước bọt vào mặt ngươi!” Rồi cô nhổ thật, Huyền Tĩnh né đầu tránh khỏi, lại xiết tay mạnh hơn. Cúc Kiếm đau quá, “Ôi chao! Trời ơi!” luôn miệng. Đại Hùng Bảo Điện vốn là nơi thánh địa trang nghiêm, bỗng đầy tiếng nữ nhân kêu la thóa mạ thánh thót như chim hót.

Huyền Từ nói: “Bốn vị nữ thí chủ hãy bình tĩnh lại, nếu còn la ó thì các sư đệ sẽ điểm vào á huyệt.” Bốn cô nghe nói đến điểm á huyệt liền bĩu môi ra, lườm nguýt nhưng không dám nói gì nữa. Bốn vị đại sư liền buông tay bốn cô ra, đứng một bên để canh giữ.

Huyền Từ nói: “Hư Trúc! Ngươi kể hết những việc đã qua, không được giấu giếm chút nào.” Hư Trúc đáp: “Vâng! Đệ tử xin thành tâm bẩm báo.” Rồi y kể từ chuyện vâng lệnh phương trượng xuống núi đưa thư, giữa đường gặp bọn Huyền Nạn, Tuệ Phương, rồi đi bừa một nước cờ mà phá được thế Trân Lung bí hiểm, trở nên chưởng môn nhân phái Tiêu Dao. Y kể tiếp vụ Huyền Nạn chết về kịch độc của Đinh Xuân Thu, bị A Tử gạt ăn mặn phá giới, gặp Thiên Sơn Đồng Mỗ, chui vào hẩm nước đá trong hoàng cung Tây Hạ, rồi làm chủ nhân cung Linh Thứu. Sự tình vô cùng phức tạp mà Hư Trúc ăn nói vụng về, ấp úng mãi, mất rất nhiều thì giờ. Y nói dài dòng lê thê, nhưng được cái không bỏ sót chỗ nào. Đặc biệt là đoạn phạm sắc giới với Mộng Cô trong hầm nước đá, y lại càng lắp bắp, vừa nói vừa thở hổn hển.

Chúng tăng càng nghe càng thích thú ngạc nhiên, rõ ràng tên tiểu hòa thượng này đã gặp những chuyện kỳ ngộ tới mức võ lâm trước nay chưa từng nghe thấy. Mọi người đã thấy bản lĩnh Hư Trúc lúc tỉ đấu với Cưu Ma Trí, bây giờ nghe y thuật chuyện thì không nghi ngờ gì nữa. Ai cũng nghĩ thầm: “Nếu y không tiếp thu được thần công của ba cao thủ phái Tiêu Dao, lại không có cơ duyên nghiên cứu những tuyệt kỹ võ công trên vách của thạch thất cung Linh Thứu, thì làm sao chống nổi với một tay tuyệt thế thần thông là quốc sư nước Thổ Phồn?”

Hư Trúc kể xong xuôi, quì trước tượng Phật dập đầu lia lịa nói: “Đệ tử ngu muội lại không trì giới, vừa gặp phải ngoại ma tâm thần liền bất định, phạm vào tửu giới, sát giới, sắc giới, tập luyện võ công bàng môn tà đạo, lại gây ra vụ bốn vị cô nương vào chùa gây rối làm thương tổn đến thanh danh bản môn. Đệ tử thấy mình tội ác ngập đầu, trừng phạt thế nào cũng chưa đáng tội, chỉ cầu xin Phật tử từ bi, phương trượng từ bi.” Y càng nói càng thấy đau khổ, rồi khóc rống lên.

Mai Kiếm và Cúc Kiếm đằng hắng một tiếng, toan khuyên y đừng làm hòa thượng nữa. Hai vị lão tăng Huyền Tâm, Huyền Tĩnh bèn đưa ngón tay ra, cách áo nắm lấy mạch môn. Hai cô không làm gì được, đành im lặng, nhưng cũng đảo mắt sắc như dao cạo liếc ngang liếc dọc hai lão tăng, vừa lườm nguýt vừa rủa thầm: “Thằng trọc chết đâm này! Tên giặc thối tha kia!”

Huyền Từ trầm ngâm hồi lâu mới nói: “Các vị sư huynh sư đệ! Câu chuyện của Hư Trúc quá khác thường. Vụ này có quan hệ đến thanh danh ngàn đời của bản tự, bản tòa không dám chuyên quyền tác chủ. Xin các vị cho ý kiến trước đã.”

Huyền Sinh lớn tiếng nói: “Bẩm phương trượng! Hư Trúc tuy có tội nặng, nhưng cũng có công không nhỏ. Nếu trong lúc nguy cấp mà y không ra tay ngăn chặn lão Phiên tăng, bản tự còn đứng được trong võ lâm không? Phiên tăng đã bảo chúng ta phải giải tán để xin vào những chùa Thanh Lương, Phổ Tĩnh nương thân, thật là vô cùng nhục nhã, nhờ một mình Hư Trúc mà cứu vãn được. Theo ý tiểu đệ thì phải bắt y vào Đạt Ma Viện để hối cải mà nghiên cứu võ nghệ, từ đây không cho ra khỏi chùa, không được hỏi đến việc ngoài.” Thật ra chỉ có hàng tăng lữ đáng kính nhất, võ công tuyệt cao mới đủ tư cách vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ công. Hiện giờ trong số hơn ba mươi vị cao tăng hàng chữ Huyền, chỉ có tám vị được vào Đạt Ma Viện. Huyền Sinh cũng nằm trong số này, lão đề nghị cho Hư Trúc vào Viện Đạt Ma không phải là phạt mà lại là thưởng rất hậu.

Thủ tòa Giới Luật Viện là Huyền Tịch lên tiếng: “Nếu chỉ xét về bản lĩnh thì y đủ tư cách vào Đạt Ma Viện. Nhưng võ công của y chỉ toàn là của bàng môn thì Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm có thể dung nạp được hay không? Huyền Sinh sư đệ đã nghĩ tới chỗ này chưa?”.

Quần tăng nghe vậy đều nhận ra đề nghị của Huyền Sinh chưa được thỏa đáng. Huyền Sinh hỏi: “Theo ý sư huynh thì nên thế nào?”

Huyền Tịch đáp: “Ôi! Việc này thật khó mà quyết định. Hư Trúc vừa có công vừa có tội, có công thì khen thưởng, có tội thì trừng phạt. Bốn vị cô nương này cải trang thành sư để xâm nhập vào bản tự, không phải là bản ý của Hư Trúc. Chuyện này chúng ta chỉ cần thuyết minh với các vị Cưu Ma Trí, Thần Sơn là đủ, họ tin thì tốt mà không tin thì cũng không sao. Chúng ta không tự hổ thẹn với lòng là được, không cần kể đến những lời dị nghị sai lầm của người ngoài. Nhưng Hư Trúc đã bội phản bản môn, học võ công phái khác, e rằng chùa Thiếu Lâm không thể dung tha y được.” Rõ ràng Huyền Tịch tỏ ý muốn đuổi Hư Trúc khỏi chùa, đó là một cách trừng phạt thuộc loại nặng nhất trong Phật giáo. Quần tăng nghe vậy đều kinh hãi.

Huyền Tịch lại tiếp: “Hư Trúc dựa vào võ công để phạm nhiều giới luật, lẽ ra phải phế bỏ võ công rồi mới đuổi khỏi sơn môn. Nhưng võ công bản phái của y đã bị người ngoài hóa giải, công phu trong người y hiện nay không phải là của bản môn, dĩ nhiên chúng ta không được quyền tước bỏ.”

Hư Trúc rơi lệ nói: “Phương trượng! Các vị sư bá tổ, sư thúc tổ! Trước tượng Phật tổ, xin các vị từ bi mở cho đệ tử một con đường để hối lỗi quay về chính đạo. Bất luận hình phạt nặng đến đâu đệ tử cũng cam tâm nhận lấy, miễn là không bị trục xuất khỏi sư môn.”

Các vị lão tăng nhìn nhau không biết quyết định thế nào, đều biết Hư Trúc thành khẩn hối lỗi. Đã có câu “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”, “Bể khổ mênh mông, quay lại thấy bờ”. Cửa Phật luôn mở rộng để từ bi phổ độ cho chúng sinh, đối với những kẻ cùng hung cực ác, chấp mê không tỉnh cũng phải tìm trăm phương ngàn kế để cảm hóa mà cứu vớt. Huống chi Hư Trúc đã thoát khỏi đường mê trở lại chính đạo, lại là đệ tử xuất gia từ nhỏ, sao lại nỡ tuyệt đường không cho y quay về nẻo thiện? Chùa Thiếu Lâm vốn thuộc Thiền tông, trọng về giác ngộ. Giả tỉ không có người ngoài thì chúng tăng thấy y thành khẩn, chắc chắn không trục xuất. Nhưng sự việc trước mắt liên quan đến bọn Hồ tăng Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, lại còn dính líu đến chùa Thanh Lương, Phổ Độ ở Trung Nguyên. Có một người ngoài mà trách phạt Hư Trúc không nghiêm thì tất nhiên họ sẽ coi phái Thiếu Lâm không còn uy tín, sẽ cho rằng chùa Thiếu Lâm bao che đệ tử bất chấp thị phi, chỉ trọng võ công mà không quan tâm đến giới luật. Câu chuyện này đồn đại ra ngoài thì thanh danh pháp Thiếu Lâm sẽ bị hủy diệt.

Ngay lúc ấy, một vị lão tăng được hai đệ tử nâng đỡ từ hậu viện đi ra, chính là Huyền Độ. Lão bị Cưu Ma Trí đả thương, phải về tăng phòng điều dưỡng, nhưng vẫn quan tâm đến cuộc tỉ đấu ngoài đại điện, phái đệ tử liên tục báo rõ tình hình chiến sự. Lúc này Huyền Độ nghe tin Cưu Ma Trí tạm thời rút lui, quần tăng đang chất vấn Hư Trúc, lại toan trách phạt nặng nề. Thế là lão tăng ôm vết thương ra Đại Hùng Bảo Điện, lên tiếng: “Phương trượng! Cái mạng già này đã được Hư Trúc cứu cho. Ta có một câu, chẳng biết nên nói hay không.”

Huyền Độ đã cao niên lại rất đức độ, được cả chùa cung kính. Huyền Từ phương trượng vội nói: “Sư huynh hãy ngồi xuống rồi từ từ nói, cẩn thận kẻo đụng đến vết thương.”

Huyền Độ nói: “Cái mạng già này có cứu hay không thì chẳng kể làm chi, nhưng hãy còn sáu việc lớn chưa giải quyết ổn thỏa. Nếu giữ Hư Trúc lại chùa thì rất có ích, còn đuổi y đi thì… thì khó lắm!” Huyền Tịch hỏi: “Sáu việc lớn mà sư huynh nhắc đến, chắc việc thứ nhất là Cưu Ma Trí chưa rút lui, hai là Ba La Tinh trộm võ kinh của bản tự, ba là Trang Tụ Hiền tân bang chủ Cái Bang muốn làm minh chủ võ lâm. Còn ba việc nữa là gì?”

Huyền Độ thở dài đáp: “Đó là tính mạng của bốn vị sư đệ Huyền Bi, Huyền Khổ, Huyền Thống, Huyền Nạn.” Lão vừa nhắc đến bốn nhà sư này, quần tăng đều chấp tay niệm: “A di đà Phật!”

Quần tăng đã biết Huyền Khổ chết về tay Kiều Phong, còn Huyền Thống, Huyền Nạn bị Đinh Xuân Thu ám hại, chỉ vì đối thủ quá mạnh mà chưa trả đại thù được. Còn hung thủ sát hại Huyền Bi đại sư thì chưa rõ là ai, chỉ biết lão trúng một đòn Vi Đà Chử trước ngực mà chết. Vi Đà Chử chính là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, Huyền Bi đã khổ luyện bốn mươi năm mới thành tựu. Trước kia ai nấy đều nghĩ đó là công phu Gậy ông đập lưng ông của nhà Cô Tô Mộ Dung, nhưng bọn Tuệ Phương, Tuệ Kính đã hỏi Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn thì họ dứt khoát không thừa nhận. Dù sao thì nhà Mộ Dung cũng là thế gia trong võ lâm Trung Nguyên, mà từ Mộ Dung Phục đến bọn thủ hạ đều có vẻ nghĩa hiệp quang minh, không phải là kẻ tiểu nhân hiểm độc ám toán người. Lúc này mọi sự nghi ngờ lại đổ dồn sang con người đã tự xưng am hiểu hết bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm chính là Cưu Ma Trí, mà nếu không phải y thì cũng là người khác. Như vậy bốn cao tăng Thiếu Lâm do ba người hạ thủ, đó chính là ba việc lớn mà Huyền Độ nhắc đến.

Huyền Từ nói: “Lão nạp ở ngôi phương trượng bản tự, không giải quyết được sáu việc lớn này thật lấy làm xấu hổ, nhưng bản lĩnh của Hư Trúc đều là võ công phái Tiêu Dao, chẳng lẽ… chẳng lẽ việc lớn của chùa Thiếu Lâm…”

Huyền Từ nói đến đây rồi ngừng lại, nhưng quần tăng cũng đã hiểu ý. Võ công Hư Trúc cao cường, nhưng toàn là công phu phái khác. Giả tỉ y đứng ra giải quyết những việc lớn này, thì những người hiểu biết đều cho rằng phái Thiếu Lâm phải mượn sức người, không khỏi sứt mẻ oai danh bản phái. Dù có thể giấu nhẹm cho người ngoài không biết, nhưng các bậc cao tăng đắc đạo sao lại có thể dối mình dối người?

Quần tăng yên lặng mất một lúc, rồi Huyền Độ hỏi: “Theo ý phương trượng thì nên làm thế nào?” Huyền Từ đáp: “A di đà Phật! Theo ý kiến lão nạp thì chúng ta đã thừa hưởng y bát của tổ tiên, hôm nay đã gặp đại nạn thì phải theo chính đạo mà hành sự, ngọc nát còn hơn giữ ngói lành. May ra nhờ phúc đức của liệt tổ mà tất cả sư huynh đệ chúng ta có thể hết sức hết lòng bảo toàn danh dự cho chùa Thiếu Lâm. Mấy trăm năm nay bản tự đã tạo phúc cho thiên hạ không phải là ít, thiện duyên đã thâm hậu thì dù có nhất thời gãy vỡ, nhưng nhất định không đến nỗi tan tành, sau này vẫn có hy vọng phục hưng.” Thanh âm của Huyền Từ đầy vẻ hòa bình chính khí.

Quần tăng nghe xong đều nghiêng người đáp: “Phương trượng cao kiến, xin tuân pháp chỉ.”

Huyền Từ quay lại bảo Huyền Tịch: “Sư đệ! Hãy thi hành giới luật cho bản tự” Huyền Tịch đáp: “Vâng!”, rồi quay lại bảo bọn tri khách tăng: “Mời quốc sư Thổ Phồn cùng các vị cao tăng vào.” Bọn tri khách tăng kính cẩn vâng lời.

Huyền Độ, Huyền Sinh âm thầm thở dài. Hai vị cao tăng này có ý che chở Hư Trúc, nhưng phương trượng đã lấy lại nghĩa làm trọng, nên hai vị không dám vì ý kiến nhất thời mà năn nỉ giúp y nữa, sợ làm tổn thương đến oai danh bản tự. Mọi người ai cũng biết rõ ràng, nếu tha tội cho Hư Trúc thì thắng mà hóa bại, còn giữ đúng công đạo thì dù bại vẫn giữ được thanh danh, hôm nay chùa Thiếu Lâm có tan tành thì cũng còn ngày trùng hưng lại.

Hư Trúc cũng tự biết việc này khó nỗi vãn hồi, dù khóc lóc năn nỉ cũng vô ích. Y nghĩ thầm: “Mọi người đều phải lấy danh dự bản tự làm trọng. Mình đã gây nên tội nghiệt thì phải cắn răng mà chịu, không nên tỏ vẻ khiếp nhược rụt rè trước mặt người ngoài, nếu không họ sẽ coi thường hòa thượng Thiếu Lâm”

Chỉ một lúc sau bọn Cưu Ma Trí, Thần Sơn, Triết La Tinh… đã tiến vào đại điện. Một hồi chuông nổi lên, các nhà sư hàng chữ Tuệ, chữ Hư, chữ Không xếp thành đội ngũ theo thứ tự, kéo vào đứng hai bên.

Huyền Từ chắp tay lên tiếng: “Thổ Phồn quốc sư sư huynh cùng các vị sư huynh! Trong phái Thiếu Lâm có một tên đệ tử hàng chữ Hư là Hư Trúc đã phạm vào huân giới, tửu giới, sát giới, sắc giới là bốn điều giới luật. Y lại còn học võ công ngoài phái, tự tiện nhận chức chưởng môn một phái khác. Thủ tòa Giới Luật Viện là Huyền Tịch phải chiếu luật trừng trị, không được khoan dung!”

Cưu Ma Trí và bọn Thần Sơn nghe vậy đều rất ngạc nhiên. Họ chỉ thấy bốn cô Mai Lan Trúc Cúc giả trang làm hòa thượng, cho rằng Hư Trúc lén giấu nữ nhân trong chùa, phạm vào sắc giới. Không ngờ Huyền Từ phương trượng lại tuyên bố những tội trạng còn nặng hơn nhiều.

Đạo Thanh đại sư ở chùa Phổ Độ đến tuổi trung niên mới xuất gia làm sư, rất thông hiểu nhân tình thế sự, tính nết lại khoan dung hiền hậu, thích làm chuyện phúc đức, bèn cất tiếng nói: “Phương trượng sư huynh! Bốn vị cô nương kia mày rủ lưng ngay, cổ thon mũi thẳng, hiển nhiên còn giữ mình như ngọc trắng. Vừa rồi bốn cô động thủ với quốc sư đã dùng kiếm công của xử nữ, người học võ như chúng ta chỉ nhìn qua là biết. Hư Trúc tiểu huynh chắc hẳn chưa có hành vi quá đáng, dùng hai chữ Sắc Giới mà khép tội tưởng cũng hơi nặng!”

Huyền Từ đáp: “Đa tạ sư huynh chỉ điểm. Hư Trúc phạm sắc giới không phải là nói về bốn vị cô nương này. Y đã qui đầu phái khác, làm chủ nhân cung Linh Thứu trên Đại Tuyết Sơn. Bốn cô này là thị tỳ của chủ cũ cung Linh Thứu, lẻn vào bản tự là có ý phụng thị chủ nhân mới, Hư Trúc tuyệt nhiên không biết. Chùa Thiếu Lâm phòng vệ sơ hở, tự thấy xấu hổ, không bắt tội Hư Trúc về việc này.”

Đồng Mỗ tuy bản lĩnh cao cường nhưng mụ chưa hề vào Trung Nguyên, chỉ giao thiệp với bọn đảo chúa động chúa ở hải ngoại. Vì thế nên quần tăng không hiểu gì về cung Linh Thứu, chỉ có Cưu Ma Trí ở nước Thổ Phồn đã nghe nói tới, nhưng cũng không biết rõ lắm.

Đạo Thanh đại sư nói: “Nếu đã như thế, người ngoài chẳng nên can dự nhiều làm gì.” Cưu Ma Trí, Triết La Tinh và bọn Thần Sơn Thượng Nhân tuy chẳng ưa gì chùa Thiếu Lâm, nhưng cũng thấy Huyền Từ chí công vô tư, không bao che tội lỗi. Người ngoài chẳng biết Hư Trúc phạm phải những giới luật gì, mà đại sư cũng tuyên bố công khai, họ bất giác kính phục phần nào.

Huyền Tịch tiến ra một bước, dõng dạc nói: “Hư Trúc! Phương trượng đã luận tội, ngươi có công nhận không? Có muốn giải thích gì nữa không?” Hư Trúc đáp: “Đệ tử thừa nhận đã phạm trong tội, mong sư thúc tổ chiếu luật mà trừng trị. Đệ tử không giải thích được gì nữa.”

Quần tăng nghe vậy đều xao xuyến trong lòng, đưa mắt nhìn Huyền Tịch chờ xem lão xử trí thế nào. Huyền Tịch dõng dạc tuyên bố: “Hư Trúc phạm vào bốn giới luật: Huân Tửu Sắc Sát, xử phạt một trăm côn. Ngươi có tâm phục không?” Hư Trúc biết đánh đòn một trăm côn không phải là nhẹ, nhưng y cũng chịu nổi, vội đáp: “Sư thúc tổ từ bi, Hư Trúc tâm phục.” Huyền Tịch lại tiếp: “Ngươi không được chưởng môn phương trượng và sư phụ cho phép mà dám đi học võ nghệ phái khác. Ta xử phạt ngươi phải phế bỏ toàn thể võ công phái Thiếu Lâm, từ hôm nay không kể là đệ tử bản phái nữa. Ngươi có tâm phục không?”

Hư Trúc đau xót vô cùng, nhưng biết rằng chuyện này không thể vãn hồi được nữa, liền đáp: “Đệ tử phạm tội đáng chết. Sư thúc tổ phán xử rất công bằng.”

Những cao tăng phái khác vừa xem Hư Trúc tỉ đấu cùng Cưu Ma Trí, thấy y chỉ dùng Vi Đà Chưởng và La Hán Quyền là hai môn võ công nhập môn của phái Thiếu Lâm đã trổ thần oai, nhưng họ chưa biết võ công Hư Trúc thực ra không phải của phái Thiếu Lâm. Cưu Ma Trí tự xưng thông suốt hết bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, nhưng lão chỉ hiểu về chiêu thức bên ngoài, còn nội công Thiếu Lâm thì lão biết rất ít. Vừa rồi Hư Trúc cùng lão tỉ đấu đã thi triển nhiều loại công phu, Tiểu Vô Tướng Công thì dĩ nhiên lão biết, nhưng mấy môn Bắc Minh chân khí, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ hết sức cao thâm, lão vẫn tưởng là võ công của phái Thiếu Lâm. Bây giờ lão nghe Huyền Tịch tuyên bố phế võ công Thiếu Lâm của Hư Trúc thì cả mừng nghĩ thầm: “Các ngươi có trường thành mà tự phá đi, ta thật là bỏ được mối lo trong gan ruột, chẳng còn gì hay hơn nữa.” Mấy vị cao tăng Giác Hiền, Đạo Thanh thì âm thầm than thở: “Đáng tiếc, đáng tiếc!”

Huyền Tịch lại tiếp: “Hư Trúc! Ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao, chủ nhân cung Linh Thứu, bắt buộc phải hoàn tục, không được làm Phật môn đệ tử. Bắt đầu từ hôm nay ngươi không phải là tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa. Ngươi có tâm phục không?”

Hư Trúc không cha không mẹ, vào chùa từ lúc mới sinh, được chùa nuôi dưỡng đến khôn lớn nên người. Phật pháp thì y chưa lĩnh hội được nhiều, nhưng chùa Thiếu Lâm là nơi thân thiết nhất trên đời của y. Y nghe tuyên bố mình bị trục xuất thì trong lòng vô cùng thê thảm, nước mắt chảy xuống như mưa, phục xuống đất khóc nức nở một hồi rồi nghẹn ngào đáp: “Tại chùa Thiếu Lâm, từ phương trượng đại sư cho đến các vị sư bá tổ, sư thúc tổ, sư phụ, sư bá, sư thúc, ai đối với đệ tử cũng đều ân thâm nghĩa trọng. Đệ tử bất hiếu, thật đã phụ công dạy dỗ của các vị.”

Đạo Thanh đại sư không nhịn được nữa, lại lên tiếng năn nỉ: “Phương trượng sư huynh! Huyền Tịch sư huynh! Như lão tăng thấy thì rõ ràng vị tiểu huynh đây đã rời khỏi bến mê, quay về chính đạo, thực tâm hối cải. Sao các vị không mở cho y một con đường sám hối?”

Huyền Từ đáp: “Sư huynh chỉ điểm rất chí lý, nhưng cửa Phật mênh mông, chỗ nào y cũng có thể dung thân. Hư Trúc! Chúng ta phạt ngươi phải rời bản tự, không phải là do ác tâm. Những tự viện trang nghiêm trong thiên hạ có đến hàng ngàn hàng vạn. Nếu ngươi còn có ý niệm qui y tam bảo, thì sau khi hoàn tục vẫn có thể xin vào chùa khác để thí phát quy y, bái cao tăng khác làm thầy, thanh tĩnh thân tâm, đến bờ giác ngộ. Nếu ngươi không muốn xuất gia thì vẫn có thể làm một vị cư sĩ tại gia, chuyên làm điều thiện, một lòng theo chính đạo, vẫn có thể đại giác đại ngộ thành Phật.” Thanh âm của Huyền Tịch càng về sau càng hiền từ, khuyên răn đầy vẻ ân cần. Hư Trúc ngậm ngùi thi lễ rồi đáp: “Lời của phương trượng sư bá tổ đã dạy, đệ tử không dám quên.”

Huyền Tịch lại nói: “Tuệ Luân nghe đây!” Tuệ Luân tiến ra mấy bước rồi chắp tay quì xuống. Huyền Tịch nói: “Tuệ Luân! Ngươi là sư phụ của Hư Trúc mà không chăm lo giáo huấn, để đồ đệ chưa sạch tam nghiệp lục căn, đến nỗi gây ra tai vạ ngày nay. Phạt đòn ngươi ba mươi côn lớn, rồi vào Giới Luật Viện diện bích ba năm để sám hối, ngươi có tâm phục không?” Tuệ Luân run giọng đáp: “Đệ tử tâm phục.”

Hư Trúc cất tiếng: “Sư bá tổ! Đệ tử xin chịu thay ba mươi côn cho sư phụ.” Huyền Tịch gật gật đầu nói: “Như thế cũng được, vậy Hư Trúc phải chịu một trăm ba mươi côn. Chưởng hình đệ tử, chuẩn bị thi hành. Lúc này Hư Trúc còn là hòa thượng Thiếu Lâm, chúng ta phải xử phạt nghiêm minh, không được khinh suất chút nào. Sau khi Hư Trúc ra khỏi chùa thì y là chưởng môn phái khác, không can dự gì đến bản tự nữa, đệ tử bản phái từ trên xuống dưới đều phải kính nể y.”

Bốn tên chưởng hình đệ tử lãnh mạng đi ra, chỉ chốc lát đã trở lại đại điện, mỗi tên xách một cây côn lớn. Huyền Tịch toan hạ lệnh thi hành án, đột nhiên một nhà sư hốt hoảng chạy vào giữa điện, hai tay cầm một tập danh thiếp, kính cẩn trao cho Huyền Từ rồi nói: “Bẩm phương trượng, quần hào ở Hà Sóc đến bái sơn.”

Huyền Từ liếc mắt xem qua tập danh thiếp, thấy có hơn ba chục tấm, toàn là của những anh hùng hào kiệt nổi tiếng ở phương Bắc, chưa nghĩ ra họ đến đột ngột về chuyện gì. Ngoài kia có tiếng người xôn xao, quần hào đã đến cổng chùa. Huyền Từ liền bảo: “Huyền Sinh sư đệ, mau ra cửa đón khách!” Đại sư lại nói: “Các vị sư huynh! Bản tự có khách đến thăm, việc thanh lý môn hộ phải tạm hoãn lại một chút để tỏ lòng kính khách phương xa”. Huyền Từ nói xong liền đứng dậy, ra trước thềm đại điện đứng chờ.

Chỉ một lúc đã thấy mấy chục người được Huyền Sinh cùng tri khách tăng đưa đến trước đại điện.

Các vị Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Sinh… là những cao tăng Phật pháp uyên thâm, nhưng cũng là hảo thủ võ học, mỗi khi gặp võ lâm đồng đạo đều đối xử thân thiện. Lúc này đột nhiên có nhiều vị anh hùng tới thăm, tuy giữa lúc thanh lý môn hộ, đầu óc hết sức nặng nề, nhưng mấy vị cao tăng cũng bất giác phấn khởi trong lòng. Quần tăng chùa Thiếu Lâm xuống núi hành đạo cũng kết giao bạn hữu rất nhiều, trong quần hào đến đây có nhiều người là bằng hữu chi giao với các vị sư hàng chữ Huyền, chữ Tuệ. Mọi người gặp nhau tay bắt mặt mừng, ôn lại chuyện xưa, rồi chủ đón khách vào đại điện, dẫn đến chỗ Cưu Ma Trí, Triết La Tinh… giới thiệu. Thần Sơn, Quán Tâm… đều uy danh lừng lẫy, quần hào ai chưa gặp mặt thì cũng đã ngưỡng mộ từ lâu.

Huyền Từ đang muốn hỏi quần hào đến có việc gì, thì tri khách tăng lại vào báo có mấy chục nhân vật võ lâm ở vùng Sơn Đông và Hoài Nam đến bái sơn. Huyền Tâm liền bước ra nghênh tiếp. Một hán tử mặt đen lớn tiếng nói: “Trang bang chủ ở Cái Bang mời bọn ta đi coi vụ náo nhiệt, mà chính y lại chưa đến là sao?” Một giọng nói đầy âm khí trả lời: “Lão huynh làm sao vậy? Chúng ta đến đây coi vụ náo nhiệt thì cứ từ từ mà đợi, vội gì? Dĩ nhiên chúng ta là những vai làm rộn sân khấu thì phải đến trước, còn những vai chính thì phải từ từ xuất hiện.”

Huyền Từ niềm nở nói: “Chư vị không hẹn mà giá lâm, tệ tự thật là vinh hạnh. Nếu tiếp đãi có chỗ nào khiếm khuyết thì xin chư vị miễn thứ.” Quần hào cùng đáp: “Không dám, không dám! Phương trượng bất tất phải khách khí.”

Lúc ấy những tay hào kiệt có kết giao với chư tăng chùa Thiếu Lâm đã nói lý do đến chùa lần này. Thì ra quần hào đều nhận được anh hùng thiếp của bang chủ Cái Bang là Trang Tụ Hiền. Trong thiếp nói Thiếu Lâm và Cái Bang là hai phái ngang hàng Trung Nguyên, chưa có phái nào phụ thuộc phái nào. Trang Tụ Hiền mới nhậm chức bang chủ Cái Bang, có ý muốn lập một vị minh chủ của võ lâm Trung Nguyên, để ra hiệu lệnh cho võ lâm đồng đạo. Trang Tụ Hiền hẹn ngày rằm tháng sáu sẽ thân hành đến chùa Thiếu Lâm để thương thuyết cùng Huyền Từ phương trượng về việc này. Quần hào kể xong lại lấy anh hùng thiếp đưa cho xem. Lời lẽ trong thiếp tuy rất khiêm tốn nhưng rõ ràng có ngụ ý, minh chủ võ lâm ngoài hắn thì còn ai nữa? Vậy thì Trang Tụ Hiền đến chùa Thiếu Lâm là có ý định dùng võ công để đánh bại quần tăng chùa Thiếu Lâm, áp đảo oai phong lừng lẫy mấy trăm năm của phái này.

Trong thiếp không nói gì đến chuyện mời quần hùng tới chùa Thiếu Lâm để xem tỉ đấu, nhưng phần lớn nhân vật võ lâm đều hiếu động chứ không hiếu tĩnh. Lần này hai phái lớn là Cái Bang và Thiếu Lâm long tranh hổ đấu, ai mà không muốn đi xem tận mắt? Vì thế, quần hào chẳng ai bảo ai đều lục tục kéo đến. Câu cửa miệng của mọi người lúc này là: “Trang Tụ Hiền là ai?” Ai cũng hỏi mà chẳng ai trả lời.

Phương trượng Huyền Từ cùng các sư huynh đệ đã bàn luận mấy ngày, cho rằng gã Trang Tụ Hiền này chắc hẳn là Kiều Phong đổi tên. Với võ công cơ trí của hắn, muốn giết mấy trưởng lão đối nghịch để đoạt lại ngôi bang chủ Cái Bang thì chẳng khó gì. Nếu không phải hắn, thì trước nay Cái Bang cùng Thiếu Lâm đời đời giao hảo, sao lại có cuộc khiêu chiến này? Thiên hạ đều biết cuộc đại chiến của Kiều Phong ở Tụ Hiền Trang, hắn lấy tên là Trang Tụ Hiền là đã rõ lai lịch lắm rồi.

Chẳng bao lâu, quần hào từ Lưỡng Hồ, Giang Nam, ở Xuyên Thiểm, rồi ở Lưỡng Quảng đều có mặt tại chùa Thiếu Lâm. Quần hùng hai phương Nam Bắc cách xa ngàn dặm mà đều đến trong một ngày, đủ biết bọn Cái Bang chuẩn bị từ lâu, họ đã gửi anh hùng thiếp đi các nơi từ trước đây một hai tháng. Huyền Từ cùng các vị lão tăng tuy không nói gì, nhưng trong lòng vừa phẫn nộ vừa lo lắng, hành động này của Cái Bang thật là vô lễ. Mấy hôm trước Trang Tụ Hiền đã cho người đưa thư nói về việc lựa chọn minh chủ võ lâm, trong thư chỉ nói hắn sẽ kính cẩn đến bái sơn để nghe phương trượng Huyền Từ chỉ giáo, không định rõ kỳ hạn mà cũng không nói gì đến chuyện mời anh hùng thiên hạ. Đột nhiên quần hào kéo đến nơi, khiến cho chùa Thiếu Lâm phải bối rối không kịp chuẩn bị. Cái Bang chuẩn bị vụ này đã lâu, thế mà phái Thiếu Lâm giao du rất rộng trên giang hồ cũng chưa hay biết gì, chưa bắt đầu tỉ thí mà phái Thiếu Lâm đã kém thế. Dường như Cái Bang đã nắm chắc phần thắng, không nói rõ là mời quần hào tham dự là vì muốn tránh tiếng tự đưa mình lên chức minh chủ võ lâm, nhưng họ tự động gửi thiếp đi khắp thiên hạ thì cũng chẳng khác gì đã mời mọi người đến đây. Quần tăng đều nghĩ thầm: “Cái Bang không mời bọn ta đến tổng đà của họ, ngoài mặt là Trang bang chủ muốn giữ lễ độ nên đích thân đến đây, nhưng thực ra là muốn bọn ta trở tay không kịp.”

Huyền Sinh quay sang hỏi vị hảo hữu ở Hà Bắc là Thần đàn tử Gia Cát Trung: “Hay lắm! Gia Cát lão nhi, lão đã biết tin mà sao không báo cho ta? Thế là mối giao tình ba mươi năm của chúng ta coi như sổ toẹt.” Gia Cát Trung đỏ mặt giải thích: “Ta… ta nhận được thiếp mới có ba ngày, bỏ cả bữa cơm chưa kịp ăn, đi suốt ngày đêm. Ta chỉ sợ lỡ kỳ hạn, không kịp đến tiếp tay cho lão trọc thối tha, mà phi đến chết hai con tuấn mã dọc đường. Thế mà lão trọc còn trách ta nữa ư?” Huyền Sinh bật cười đáp: “Lão đến đây là có lòng tốt lắm rồi!” Gia Cát Trung nói: “Lại còn không tốt ư? Võ công phái Thiếu Lâm của ngươi vốn đã cao cường, ca ca đến đây reo hò trợ oai cũng được chứ sao. Phương trượng của ngươi có gửi anh hùng thiếp hẹn đến mùng chín tháng chín lên Thiếu Lâm Tự họp bàn vụ đối phó với nhà Mộ Dung, thế là ca ca coi như đi sớm mấy tháng.”

Huyền Sinh nghe vậy đã biết lão rất chân thành, chỉ vì đường sá xa xôi nên không báo tin kịp. Lão tăng lại đi hỏi các vị anh hào, thì ra ai ở xa Cái Bang gửi thiếp trước, ai ở gần họ gửi thiếp sau, nên ai cũng chạy suốt ngày đêm, ngựa không dừng vó mới đến kịp. Bọn Cái Bang định kế hoạch rất chính xác, tính đúng lộ trình, không ai có thể tới sớm dù chỉ một ngày, vì thế mà tất cả bằng hữu của phái Thiếu Lâm đều không kịp đưa tin. Nhưng bang chủ cùng bang chúng Cái Bang chưa tới ngay mà đợi cho quần hào đến trước một lúc, muốn thiên hạ biết họ không phải là người gây sự. Thật không hiểu bọn chúng còn âm mưu lợi hại nào khác nữa không.

Rằm tháng sáu, tiết trời nóng nực, hôm nay quần tăng Thiếu Lâm phải ứng phó với bọn Thần Sơn Thượng Nhân cùng Triết La Tinh, phải tỉ đấu với Cưu Ma Trí, lại phải xét xử Hư Trúc, mọi người đều hao tổn tinh thần. Đột nhiên quần hùng nhất tề kéo đến chùa, tuy tăng lữ rất đông nhưng sự việc quá bất ngờ nên ai nấy không khỏi cuống quít. May mà thủ tòa Tri Khách Viện là Huyền Tĩnh đại sư có tài quán xuyến, vật liệu trong chùa cũng tích trữ nhiều, nên việc tiếp đãi quần hào không đến nỗi khiếm khuyết.

Bọn Huyền Từ tiếp khách rất bận rộn, không rảnh chút nào để thương nghị đại sự, ai cũng hoang mang. Bỗng tri khách tăng lại vào báo: “Trấn Nam Vương nước Đại Lý là Đoàn điện hạ giá lâm.”

Về vụ Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm trúng Vi Đà Chử mà chết, Đoàn Chính Thuần đã vâng lệnh hoàng huynh đi bái kiến Huyền Từ phương trượng rồi. Họ Đoàn ở Đại Lý vốn là bạn của phái Thiếu Lâm, lúc này đến giúp một tay thật là đúng lúc, Huyền Từ cả mừng hỏi lại: “Đoàn vương gia nước Đại Lý còn ở Trung Nguyên ư?” Rồi phương trượng vội dẫn quần tăng ra nghênh tiếp. Huyền Từ tái hội cùng Đoàn Chính Thuần và bọn thuộc hạ Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần… chào hỏi mấy câu rồi dẫn vào đại điện giới thiệu với quần hùng.

Người được giới thiệu đầu tiên là Cưu Ma Trí, quốc sư nước Thổ Phồn. Đoàn Chính Thuần đột nhiên biến sắc, chắp tay nói: “Khuyển tử là Đoàn Dự đã được Minh Vương ưu ái dẫn đi du ngoạn. Khuyển tử có kể dọc đường đã được Minh Vương giáo huấn rất nhiều điều bổ ích. Đoàn mỗ cảm kích vô cùng, xin có lời cảm tạ.” Cưu Ma Trí mỉm cười đáp: “Không dám! Đoàn công tử có đến đây không?” Đoàn Chính Thuần đáp: “Khuyển tử không biết đang ở đâu, cũng không hiểu có lọt vào tay tên ác tăng nào nữa không, xin quốc sư chỉ giáo.” Cưu Ma Trí lắc đầu lia lịa, đáp: “Chuyện của Đoàn công tử, tiểu tăng có được biết. Ôi! Đáng tiếc ơi là đáng tiếc!”.

Đoàn Chính Thuần trống ngực đánh thình thình, tưởng là Đoàn Dự đã gặp chuyện gì bất trắc, vội hỏi: “Minh Vương nói vậy là có ý gì?” Ông đã từng trải bao nguy hiểm, nhưng nghĩ đến con mình gặp nguy hiểm, bất giác giọng nói lạc hẳn đi.

Mấy tháng trước hai cha con đã gặp nhau sau vụ Lung Á Lão Nhân tổ chức kỳ hội, nhưng sau đó. Đoàn Dự lại nửa đêm trốn đi. Đã mấy tháng nay Đoàn Chính Thuần không thấy dấu tích gì của chàng, một chút tin tức phong thanh cũng không nghe. Ông cứ lo sợ con trai lại rơi vào độc thủ của bọn Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí hay Đinh Xuân Thu, chẳng lúc nào được yên tâm. Phen này ông được tin tân bang chủ Cái Bang là Trang Tụ Hiền gây sự với chùa Thiếu Lâm về ngôi minh chủ võ lâm, bèn nghĩ rằng chỗ quần hùng tụ hội ắt dễ nghe tin tức con trai. Vả lại họ Đoàn ở Đại Lý cũng là một võ lâm thế gia, đối với vụ Cái Bang cùng Thiếu Lâm tranh ngôi minh chủ võ lâm cũng phải quan tâm.

Cưu Ma Trí đáp: “Khi tiểu tăng đến Thiên Long bảo tự có được bái kiến Khô Vinh đại sư, Bản Nhân phương trượng cùng lệnh huynh, thấy vị nào cũng thần định khí nhàn, trang nghiêm trầm tĩnh, thật là những bậc cao sĩ. Trấn Nam Vương oai danh lừng thiên hạ, sao lại cưng chiều công tử chẳng khác nữ nhân?”

Đoàn Chính Thuần trấn định tâm thần, nghĩ thầm: “Giả tỉ Dự nhi đã gặp chuyện bất trắc thì mình hoang mang cũng vô ích, chỉ khiến lão Phiên tăng này coi thường.” Ông bèn đáp: “Thương yêu con cái là lẽ thường tình, nếu người đời chẳng ai sinh con đẻ cái, nuôi dưỡng nâng niu thì e rằng chẳng còn người nào nữa. Bọn tại hạ là phàm phu tục tử, làm sao so được với quốc sư là một bậc cao tăng từ bi đức độ, tứ đại giai không?”

Cưu Ma Trí mỉm cười nói: “Lúc mới gặp, tiểu tăng thấy lệnh lang tướng mạo phi thường, những tưởng sẽ làm rạng rỡ Đoàn môn, trở thành một vị minh quân của Đại Lý, tạo phúc cho trăm vạn lê dân ở cõi Thiên Nam.” Đoàn Chính Thuần đáp: “Không dám!”, nghĩ thầm: “Lão trọc này thật là khả ố, ruột mình nóng như lửa đốt mà lão toàn nói chuyện đâu đâu.”

Cưu Ma Trí thở dài nói: “Hỡi ơi, thực là đáng tiếc! Ai mà ngờ được Đoàn quân lại kém bề phúc đức…” Lão thấy Đoàn Chính Thuần sợ tái mặt, lại mỉm cười nói tiếp: “Lệnh lang khi đến Trung Nguyên đã gặp một cô nương xinh đẹp, rồi từ đó bám gót không rời, bao nhiêu hùng tâm tráng chí đều tiêu tan hết. Cô nương kia đi hướng Đông là lệnh lang đi hướng Đông, cô nương kia đi hướng Tây là lệnh lang đi hướng Tây. Ai thấy vậy cũng trách lệnh lang là kẻ du tử phong lưu, là hạng tử đệ khinh bạc không chịu lo sự nghiệp. Như vậy còn chưa đáng tiếc ư?”

Bỗng nghe có tiếng cười của một thiếu phụ, nhưng mọi người nhìn xem ai cười thì lại là một hán tử trung niên mặt mũi dữ tợn. Người này chính là Nguyễn Tinh Trúc, mấy tháng nay bà được kề cận Đoàn Chính Thuần, lần này cũng theo ông đến Thiếu Lâm Tự. Qui củ của chùa Thiếu Lâm vốn không cho nữ nhân vào chùa nên bà phải cải dạng nam trang. Bà là mẫu thân của A Châu, có tài cải trang thiên phú, lúc này giả làm nam nhân từ hình dung đến cử chỉ chỗ nào cũng giống, không như bốn cô Tứ Kiếm ở cung Linh Thứu ai nhìn kỹ cũng phát giác ngay. Nhưng bà chưa đạt tới mức như A Châu, nên lúc buột miệng cười, thanh âm lại dịu dàng uyển chuyển. Nguyễn Tinh Trúc thấy mọi người chăm chú nhìn mình, mới sửa giọng ồ ồ nói: “Tiểu vương tử của Đoàn gia nước Đại Lý đúng là gia học uyên nguyên, tướng môn hổ tử. Khá lắm, khá lắm!”

Đoàn Chính Thuần đi tới đâu gieo nợ tình tới đó, tiếng tăm đã đồn khắp giang hồ. Bây giờ Đoàn Dự điên đảo vì Vương Ngữ Yên, mụ lại mỉa mai nào là “gia học uyên nguyên” cùng “tướng môn hổ tử”, quần hùng nghe không khỏi nhìn nhau cười thầm.

Đoàn Chính Thuần cũng cười ha hả, nhìn Cưu Ma Trí nói: “Thằng nhỏ đó hư quá…” Cưu Ma Trí ngắt lời: “Y có hư đâu? Y ngoan lắm đấy chứ!” Đoàn Chính Thuần biết Cưu Ma Trí chế giễu cậu quý tử giống mình phong lưu lãng mạn, nhưng không tức tối gì mà hỏi ngay: “Không hiểu hiện giờ nó ở phương nào, nếu quốc sư biết tin tức thì xin chỉ giúp!” Cưu Ma Trí lắc đầu đáp: “Đoàn công tử không vượt nổi tù ngục ái tình, ngày đêm tương tư đau khổ. Lúc tiểu tăng gặp y thì chỉ thấy da với xương, mặt vàng như nghệ, bây giờ khó mà biết được y còn sống hay đã chết.”

Đột nhiên một nhà sư trẻ tuổi tiến ra, cung kính thi lễ với Đoàn Chính Thuần rồi nói: “Vương gia bất tất phải lo nghĩ. Đoàn tam đệ vẫn tinh thần sáng suốt, thân thể khỏe mạnh.” Đoàn Chính Thuần đáp lễ, cảm thấy ngạc nhiên. Ông thấy người này ăn mặc theo kiểu tăng nhân tiểu bối chùa Thiếu Lâm, không hiểu sao y lại gọi Đoàn Dự là tam đệ, liền hỏi lại: “Tiểu sư phụ mới gặp nó ư?” Nhà sư trẻ tuổi này chính là Hư Trúc. Y đáp: “Vâng. Hôm trước tiểu điệt cùng tam đệ ở cung Linh Thứu uống rượu say mèm…”

Đột nhiên thanh âm Đoàn Dự từ ngoài điện vang lên: “Gia gia! Hài nhi ở đây. Lão nhân gia có mạnh khỏe không?” Câu nói vừa dứt, một người chạy vọt vào trong điện, nhảy xổ vào lòng Đoàn Chính Thuần, chính là Đoàn Dự. Chàng nội công thâm hậu, mắt tinh tai thính, vừa đến cổng chùa đã nghe tiếng phụ thân đối đáp cùng Hư Trúc, không kiên nhẫn nổi liền thi triển Lăng Ba Vi Bộ để chạy vào cho lẹ.

Cha con gặp nhau, vui mừng không tả nổi. Đoàn Chính Thuần thấy con mình tuy có vẻ phong sương nhưng tinh thần cực kỳ tráng kiện, không phải “chỉ thấy da với xương, mặt vàng như nghệ” như Cưu Ma Trí vừa nói.

Đoàn Dự quay đầu lại nhìn Hư Trúc hỏi: “Nhị ca lại làm hòa thượng rồi ư?” Phen này Hư Trúc về chùa đã thành tâm sám hối, quì trước tượng Phật hàng nửa ngày trời, thế mà vừa thấy Đoàn Dự lập tức nhớ đến nữ lang trong mộng, bất giác mặt đỏ ra đến mang tai, hổ thẹn đến không dám mở miệng nói gì.

Cưu Ma Trí nghĩ thầm, nếu Vương Ngữ Yên không gần đây, thì dù Thiếu Lâm Tự có chuyện lớn tày trời cũng chẳng ai kéo nổi vị Đoàn công tử si tình này lên núi Thiếu Thất. Nhưng Vương Ngữ Yên lại có thâm tình với biểu huynh, nhất quyết chẳng chịu chia tay Mộ Dung Phục. Lão bèn vận khí gọi to: “Mộ Dung công tử! Đã lên núi Thiếu Thất, sao không vào chùa lễ Phật?”

Danh hiệu của Mộ Dung công tử thật không phải nhỏ. Quần hùng đều ngơ ngác nghĩ thầm: “Thì ra Cô Tô Mộ Dung công tử cũng đến rồi. Sao mình chưa thấy gì mà lão Phiên tăng này đã biết trước?”

Không ngờ ngoài cổng chùa vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Một lúc sau vẫn chỉ nghe tiếng dội từ vách núi xa xa vọng về: “Mộ Dung công tử… Thiếu Thất… lễ Phật…”

Cưu Ma Trí chợt nghĩ: “Thì ra lần này ta đoán sai, nếu Mộ Dung Phục đã lên núi Thiếu Thất thì nhất định hắn phải đáp lời ta.” Lão ngửa mặt lên trời cười ha hả, đang định nói mấy câu đánh trống lảng thì bỗng một thanh âm quái gở vang lên: “Mộ Dung công tử đang đánh nhau ác liệt với Đinh Lão Quái. Khi công tử giết xong lão quái sẽ lên núi Thiếu Thất lễ Phật.”

Cha con Đoàn Chính Thuần, Đoàn Dự vừa nghe đã biến sắc. Đây chính là thanh âm của Ác quán mãn doanh Đoàn Diên Khánh. Ngay lúc đó Đoàn Diên Khánh mình mặc áo bào xanh, tay chống đôi thiết trượng tiến vào đại điện. Theo sau lão là Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương, Hung thần ác sát Nam Hải Ngạc Thần, Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc, cả Tứ Đại Ác Nhân đều đến.

Huyền Từ phương trượng đón khách, bất luận thiện ác đều theo đúng lễ nghi. Thiếu Lâm Tự vốn không tiếp nữ khách, nhưng lần này Huyền Từ phương trượng thấy Diệp Nhị Nương cũng chỉ hơi giật mình, rồi chẳng nói gì nữa. Quần tăng đều nghĩ: “Hôm nay trong chùa quá đông người, việc không tiếp nữ khách chỉ là chuyện nhỏ, bất tất phải gây thêm phiền phức.”

Nam Hải Ngạc Thần vừa thấy Đoàn Dự thì thẹn đỏ mặt, quay lưng định lờ đi. Đoàn Dự cười nói: “Đồ nhi! Độ này có mạnh khỏe không?” Nam Hải Ngạc Thần nghe chàng gọi mình là đồ nhi, biết không thể trốn tránh được, liền tức giận thóa mạ: “Con mẹ nó! Gã sư phụ thối tha này vẫn chưa chết ư?” Phần lớn quần hùng trong đại điện không rõ nội tình, thấy một người nho nhã như Đoàn Dự gọi một tên hung thần là “đồ nhi” đã ngạc nhiên, khi nghe chính miệng hắn gọi Đoàn Dự là sư phụ mà ngôn từ vô lễ, lại càng thấy kỳ lạ.

Diệp Nhị Nương mỉm cười lên tiếng: “Đinh Xuân Thu đại hiển thần thông, đánh Mộ Dung công tử đến không trả đòn được. Sao bọn ta không ra đó mà xem?” Đoàn Dự la lớn: “Ôi chao!” rồi lập tức vọt ra khỏi điện.

***

Lúc Hư Trúc đã làm chủ tình hình ở cung Linh Thứu, bọn sáu người Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác, Vương Ngữ Yên cùng xuống núi Tiêu Dao. Cả bọn đều thấy mình tham gia vào vụ nổi loạn trong cung Linh Thứu đã là vô lý, nổi loạn bất thành thì lại càng chẳng hứng thú gì, mặt mày bí xị. Chỉ riêng Vương Ngữ Yên là cười nói được, khi nàng ở cạnh biểu ca thì cõi nhân gian biến thành cực lạc.

Sáu người đi theo hướng Đông trở về Trung Nguyên. Một buổi chiều, họ đang đi ngang một khu rừng rậm thì đột nhiên Phong Ba Ác la lớn: “Có mùi máu.” Y rút soạt thanh đơn đao, đi đến chỗ có mùi, nghĩ thầm: “Mười chỗ có mùi máu thì hết chín chỗ có đánh nhau.” Y chạy thẳng vào, mùi máu càng lúc càng nồng, đột nhiên thấy mười mấy thi thể ngổn ngang, binh khí tứ tán, máu đọng chưa khô, hiển nhiên chết chưa lâu. Trận đại chiến này đã kết thúc rồi. Phong Ba Ác dừng lại than: “Chao ôi! Ta lại đến chậm một bước.”

Bọn Mộ Dung Phục cũng đến nơi, thấy các thi thể đều mặc quần áo lam lũ, lưng đeo túi vải, đều là người trong Cái Bang. Công Dã Càn hỏi: “Có người là đệ tử bốn túi, có người năm túi, không hiểu sao đều chết ở đây?” Đặng Bách Xuyên nói: “Chúng ta nên chôn cất mấy cái tử thi này.” Công Dã Càn hưởng ứng: “Đúng thế. Công tử cùng Vương cô nương hãy sang bên kia nghỉ chân, để bốn người bọn thuộc hạ thu dọn chỗ này.” Y liền nhặt một cây thiết côn, bắt đầu đào hố. Bỗng nhiên trong đám thi thể có tiếng rên rỉ, Vương Ngữ Yên kinh hãi níu lấy tay Mộ Dung Phục.

Phong Ba Ác chạy đến la lên: “Lão huynh chưa chết ư?” Trong đám thi thể có một người từ từ ngồi dậy, mở miệng nói: “Ta chưa chết, nhưng… cũng… sắp chết rồi.” Đó là một lão cái trạc ngũ tuần, tóc hoa râm, mặt đầy vết máu trông rất dễ sợ. Phong Ba Ác lập tức móc ra một viên thuốc trị thương nhét vào miệng lão.

Lão cái nuốt viên thuốc, rồi lại nói: “Chắc không ăn thua gì đâu. Bụng ta trúng hai đao, không sống được nữa rồi.” Phong Ba Ác hỏi: “Ai đã ra tay hại các vị?” Lão cái lắc đầu đáp: “Nói ra xấu hổ, chính là nội loạn trong Cái Bang chúng ta.” Hai gã Phong Ba Ác. Bao Bất Đồng đều “A” lên một tiếng. Lão cái nói: “Lẽ ra không nên nói với người ngoài, nhưng tình thế đã nát bét đến thế này thì không giấu giếm được nữa. Không biết quí tính đại danh các vị là gì, đa tạ đã ra tay giúp đỡ… Đệ tử Cái Bang tự tàn sát lẫn nhau…, đồng đạo võ lâm chưa từng quen biết lại cứu giúp. Vừa rồi… nghe các vị định chôn cất thi thể bọn ta, tấm lòng nhân nghĩa đến thế, lão… lão vô cùng… cảm kích.” Bao Bất Đồng cãi: “Sai bét, sai bét! Ngươi chưa chết, không phải là thi thể. Dĩ nhiên chúng ta không định chôn ngươi, sao ngươi lại cảm kích chuyện đó?” Lão cái nói: “Huynh đệ Cái Bang… giết chúng ta, lại không thèm đắp điếm thi thể, còn nói gì là… hảo huynh đệ nữa? Thật là không bằng… giống cầm thú.” Bao Bất Đồng toan cãi là cầm thú cũng không biết đắp điếm thi thể, nhưng gã thấy Mộ Dung Phục liếc mắt bèn thôi không nói nữa.

Lão cái lại nói: “Xin quí vị báo tin cho Ngô trưởng lão của tệ bang, nói rằng tân bang chủ là thằng lỏi Trang Tụ Hiền chỉ là hình nộm, hoàn toàn để tên gian tặc Toàn Quan Thanh điều khiển. Chúng ta không phục tên họ Trang làm bang chủ, Toàn Quan Thanh liền sai người đến giết. Bây giờ chúng lại toan đi gia hại Ngô trưởng lão, xin lão nhân gia hết sức đề phòng.”

Mộ Dung Phục gật gật đầu, nghĩ thầm: “Thì ra là thế.” Y đáp: “Lão huynh cứ yên tâm, chúng ta chắc chắn sẽ đưa tin. Nhưng không biết Ngô trưởng lão hiện đang đâu?” Lão cái hai mắt đã lạc thần, nhìn trân trân ra ngoài xa, từ từ lắc đầu nói: “Ta… ta cũng không biết.”

Mộ Dung Phục lại nói: “Cũng không sao. Chúng ta chỉ cần loan tin này ra giang hồ, tự nhiên sẽ truyền đến tai Ngô trưởng lão. Không chừng bọn Toàn Quan Thanh nghe được tin đồn, lại không dám gia hại Ngô trưởng lão nữa.” Lão cái gật đầu lia lịa, đáp: “Đúng thế, đúng thế! Xin đa tạ!” Mộ Dung Phục hỏi tiếp: “Lai lịch của tân bang chủ Trang Tụ Hiền của quí bang thế nào? Bọn ta ít hiểu biết, hôm nay mới nghe thấy cái tên đó lần đầu.” Lão cái giận dữ đáp: “Thằng lỏi đầu sắt này…”

Bọn Mộ Dung Phục cùng giật mình la lên: “Là tên quái nhân đầu sắt đó ư?” Lão cái đáp: “Ta từ Tây Hạ về, cũng chưa gặp hắn bao giờ, chỉ nghe huynh đệ trong bang kể lại. Tên tiểu tử đó vốn chụp một cái mặt nạ sắt trên đầu, sau này được Toàn Quan Thanh tìm cách lột ra. Ôi chao, mặt hắn bây giờ sứt sẹo ghê tởm hơn cả ma quỉ, nhưng chuyện đó thì khỏi cần nói làm gì. Thằng lỏi này võ công lợi hại vô cùng. Mấy tháng trước bản bang mở đại hội ở Quân Sơn để cử ra bang chủ, mọi người tranh luận mãi không quyết định được, cuối cùng phải dựa vào võ công cao thấp. Thằng lỏi đầu sắt đánh chết liên tiếp mười một cao thủ trong bang, hiển nhiên giành được ngôi bang chủ. Rất nhiều huynh đệ không phục, tên gian tặc Toàn Quan Thanh bèn…” Giọng lão càng lúc càng lào phào, tựa như sắp tuyệt khi đến nơi.

Đặng Bách Xuyên bèn nói: “Lão huynh! Để bọn ta xem vết thương đã. Trị thương xong rồi hãy kể tiếp.” Lão cái đáp: “Bụng thủng rồi, ruột đổ ra rồi… Đa tạ, bất quá…” Lão nói đến đây, gắng gượng đưa tay sờ sờ trong áo, nhưng yếu sức quá rồi. Công Dã Càn hiểu ý liền hỏi: “Phải chăng tôn giả muốn lấy vật gì ra?” Lão cái gật đầu, Công Dã Càn bèn dần dần lấy đồ vật trong bọc của lão ra, để vào lòng bàn tay lão. Nào là hỏa đao, hóa thạch, ám khí, thuốc men, lương khô, bạc vụn… đủ thứ, thứ nào cũng thấm đầy máu tươi.

Lão cái nói: “Ta… ta không xong rồi. Bản văn này rất quan trọng, mong ân công nghĩ tình đồng đạo giang hồ mà giao lại cho trưởng lão nào trong Cái Bang cũng được, chỉ đừng giao cho thằng lỏi đầu sắt hay tên gian tặc Toàn Quan Thanh. Tiểu lão ở dưới cửu tuyền cũng cảm kích đời đời.” Nói xong, lão đưa tay phải ra, không ngớt run run, lấy từ tay Công Dã Càn một tờ giấy lớn màu vàng, được xếp ngay ngắn.

Mộ Dung Phục nói: “Các hạ yên tâm. Thương thế của các hạ chắc là khó trị rồi, nhưng chúng ta bảo đảm sẽ trao bản văn này cho trưởng lão quí bang.” Y bèn cầm lấy tờ giấy vàng đó.

Vị lão cái nhỏ giọng nói: “Tại hạ họ Dịch, tên là Dịch Đại Bưu, phiền túc hạ chuyển lời. Ta ở Tây Hạ về, bản văn này là thông báo của quốc vương Tây Hạ kén phò mã. Chuyện này thật không nhỏ chút nào, liên quan đến vận khí cùng an nguy của Đại Tống. Nhưng ta vừa về đến Trung Nguyên đã bị bọn gian đồ bản bang hạ thủ, chỉ mong gặp được Ngô trưởng lão mà thuật lại, nào ngờ không gặp nữa rồi. Chỉ mong túc hạ nghĩ đến ngàn vạn sinh linh… sinh linh…” Lão không nói tiếp được nữa, thở mỗi lúc một gấp, đột nhiên thổ ra một bóng máu tươi, tròng mắt trợn ngược lên. Lão nhìn bộ mặt tuấn tú của Mộ Dung Phục bỗng nhớ tới một người, vội hỏi: “Các hạ là ai? Là Cô Tô… Cô Tô…”

Mộ Dung Phục đáp: “Không sai. Tại hạ là Mộ Dung Phục ở Cô Tô.” Lão cái quát lên: “Ngươi… ngươi là cừu nhân của bản bang…” Rồi lão đem hết sức tàn để giật lấy tờ giấy vàng trong tay Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục để lão đoạt lại, nghĩ thầm: “Trước kia Cái Bang cho rằng ta giết chết phó bang chủ Mã Đại Nguyên của họ. Gần đây lời đồn đại đã giảm nhiều, nhưng người này mới ở Tây Hạ về chưa rõ tình hình, hiển nhiên vẫn coi ta là đại cừu nhân. Lão sắp chết rồi, thôi chẳng để ý làm gì nữa.”

Lão cái dùng sức cả hai tay, toàn xé bỏ tờ giấy, đột nhiên duỗi chân ra một cái, máu miệng ộc ra, đứt hơi chết rồi !

Phong Ba Ác gỡ tay lão lấy lại tờ giấy, thấy viết bằng bút son đầy chữ nước ngoài ngoằn ngoèo, dưới cùng có đóng một con dấu thật to. Công Dã Càn hiểu văn tự mấy nước, cầm lấy xem từ đầu đến cuối rồi nói: “Quả nhiên đây là bản văn của quốc vương Tây Hạ chiêu phò mã. Công chúa Tây Hạ đến tuổi cập kê, quốc vương muốn tìm một thanh niên chưa thành gia thất, khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn, đến tiết Trung Thu tháng tám năm nay sẽ mở cuộc tuyển chọn. Nhân sĩ bất luận nước nào, tự tin mình là nhân tài hạng nhất, đến trước ngày đó hãy gửi danh thiếp xin gặp, quốc vương sẽ sắp xếp tiếp kiến. Ai không được tuyển làm phò mã, cũng sẽ căn cứ vào tài đức mà thu dụng, phong cho quan tước. Dù người kém cỏi cũng được tặng thưởng vàng bạc…”

Công Dã Càn đọc chưa xong, Phong Ba Ác đã nổi lên cười ha hả rồi nói: “Vị nhân huynh Cái Bang này thật là tức cười. Y xách bản văn này từ Tây Hạ về, chẳng lẽ muốn tên ăn mày nào đi qua Tây Hạ xin làm phò mã ư?”

Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Tứ đệ chưa hiểu đấy thôi. Các vị trưởng lão Cái bang tất nhiên đều vừa già vừa xấu, nhưng đệ tử trong bang thiếu gì người văn võ song toàn, thông minh tuấn tú? Nếu đệ tử nào trúng tuyển ngôi phò mã nước Tây Hạ thì Cái Bang không vinh dự hay sao?”. Đặng Bách Xuyên chau mày nói: “Trước nay thường nghe nói hảo hán Cái Bang chẳng ai mưu cầu công danh phú quý, sao lão Dịch Đại Bưu này lại bị lợi lộc mê hoặc đến thế?” Công Dã Càn nói: “Đại ca! Lão nói việc này không phải chuyện nhỏ, có quan hệ đến vận mệnh an nguy của nhà Đại Tống, còn bảo chúng ta nghĩ đến sinh linh thiên hạ gì gì đó. Nếu lão nói đúng sự thực thì không phải là họ cầu công danh phú quý cho Cái Bang đâu.” Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét, sai bét!”

Công Dã Càn nhìn Bao Bất Đồng hỏi: “Tam đệ lại có cao kiến gì nữa?” Bao Bất Đồng đáp: “Nhị ca! Nhị ca hỏi tiểu đệ lại có cao kiến gì ư? Chữ “lại” đó tỏ ra đệ đã đưa ra cao kiến một lần rồi, nhưng đệ đã nói gì đâu? Như vậy đủ chứng minh nhị ca không tin là đệ có cao kiến chi hết, và ý tứ câu này phải hiểu là: “Bao lão tam lại nói tầm bậy gì đó?” Có phải thế không?”

Phong Ba Ác tuy ưa đánh nhau với người ngoài, song với huynh đệ thì gã không đánh. Còn Bao Bất Đồng có tính thích tranh luận, bất chấp kẻ thân người sơ, kẻ trên người dưới, ai nói gì không hợp ý là hắn cãi đến kỳ cùng. Công Dã Càn đã hiểu tính khí hắn, chỉ mỉm cười nói: “Tam đệ đã từng phát biểu vô số cao kiến. Chữ “lại” đây là thật sự mong ngươi “lại” có cao kiến.”

Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét, sai bét! Lúc nhị ca nói câu này miệng cứ cười cười, nhất định không có thành ý.” Y còn muốn nói nữa, nhưng Đặng Bách Xuyên ngắt lời, hỏi: “Tam đệ! Theo ý kiến của tam đệ thì Dịch Đại Bưu lấy bảng văn tuyển phò mã nước Tây Hạ về, nhờ chúng ta giao cho trưởng lão Cái bang, là lão có dụng ý gì? Bao Bất Đồng đáp: “Cái này… tiểu đệ không phải Dịch Đại Bưu thì làm sao mà biết được lão có dụng ý gì?”

Mộ Dung Phục nhìn sang Công Dã Càn để hỏi ý kiến gã. Công Dã Càn mỉm cười nói: “Ý kiến của ta khác hẳn với Bao tam đệ.” Gã biết trước rằng bất luận mình nói gì, Bao Bất Đồng cũng phản đối, chi bằng nói chặn đầu trước đi là hơn. Bao Bất Đồng trợn mắt nhìn Công Dã Càn nói: “Sai bét, sai bét! Lần này nhị ca đoán sai rồi. Tiểu đệ nghĩ rằng nhị ca nghĩ thế nào thì tiểu đệ cũng nghĩ đúng như thế, không sai chút nào.” Công Dã Càn cười nói: “Thế thì tuyệt diệu!”

Mộ Dung Phục hỏi: “Nhị ca nghĩ thế nào?” Công Dã Càn đáp: “Hiện nay thiên hạ phân làm năm nước Đại Liêu, Đại Tống, Thổ Phồn, Tây Hạ và Đại Lý, trừ nước Đại Lý nhỏ bé ở nơi xa lánh tại Thiên Nam là không tranh giành với ai, còn bốn nước kia đều có chí thôn tính thiên hạ..

Bao Bất Đồng nói: “Nhị ca nói vậy là không đúng rồi. Nước Đại Yên ta hiện nay tuy không có đất đai cương thổ, nhưng công tử chẳng giờ phút nào là không nghĩ tới việc phục quốc. Biết đâu ngày sau Đại Yên ta lại tiếp bước oai hùng của tổ tiên mà trung hưng cơ nghiệp?”

Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác đều đứng nghiêm chỉnh, vẻ mặt trang trọng đồng thanh nói: “Chí hướng phục quốc, nhất quyết không lúc nào quên được.” Rồi người rút đao, kẻ tuốt kiếm, vung binh khí lên ngang ngực.

Tổ tông của Mộ Dung Phục xưa kia vốn thuộc tộc Tiên Ty. Thời kỳ loạn Ngũ Hồ ở Trung Quốc, họ Mộ Dung dòng dõi Tiên Ty đánh Đông dẹp Bắc oai phong lừng lẫy, dựng ra mấy triều đại Tiền Yên, Hậu Yên, Nam Yên và Tây Yên. Về sau nhà Yên bị nhà Bắc Ngụy diệt, người họ Mộ Dung tản cư đi khắp nơi nhưng vẫn truyền đời dặn con cháu phải cố mà trung hưng phục quốc. Nhưng qua các triều đại Tùy Đường, họ Mộ Dung ngày càng suy yếu, triển vọng khôi phục Đại Yên ngày càng mờ mịt nhưng chí hướng vẫn chưa tắt hắn.

Đến cuối đời Ngũ Đại, trong họ Mộ Dung xuất hiện một nhân vật kỳ tài trăm đời cũng hiếm thấy là Mộ Dung Long Thành, sáng tạo ra tuyệt kỹ Đẩu Chuyển Tinh Di thế gian vô địch, dương danh thiên hạ. Mộ Dung Long Thành theo di huấn của tổ tông, tụ tập anh hùng, mưu toan phục quốc. Nhưng đại thế trong thiên hạ phân ly lâu ngày tất phải hợp lại, Triệu Khuông Dẫn đã dựng lên nhà Đại Tống, bốn bể thanh bình, lòng người đều mong thịnh trị. Mộ Dung Long Thành tuy võ công cao cường, rút cục cũng không làm được gì, chết trong uất hận.

Mấy đời sau, bao nhiêu tráng chí hùng tâm cùng võ công của Mộ Dung Long Thành dường như đã truyền cả lại cho Mộ Dung Phục. Nhưng đối với nhà Tống thì mưu đồ trung hưng Đại Yên lại là hành vi phản nghịch vô đạo, vì vậy Mộ Dung Phục chỉ ngấm ngầm tụ tập hào kiệt, tích thảo dồn lương, không lộ chút phong thanh nào ra ngoài. Trong võ lâm chỉ biết Cô Tô Mộ Dung là một thế gia võ công cực cao, hành vi kỳ bí gần như tà môn ngoại đạo, chẳng ai biết nhà Mộ Dung đang nuôi hoài bão chí lớn trong lòng. Hành động của nhà Mộ Dung khác hẳn những phái võ khác, người luyện võ tầm thường chỉ thấy Mộ Dung như cái đinh trước mắt, phái nào cũng ghen ghét. Công phu Gậy ông đập lưng ông lại càng tích thêm tiếng ác vào cho nhà Mộ Dung.

Lúc này ở nơi hoang dã bốn phía không người, Bao Bất Đồng đề cập đến chí lớn phục Yên, mọi người bất giác nổi dạ anh hào rút kiếm tuốt đao, khảng khái hiên ngang bày tỏ chí hướng.

Vương Ngữ Yên từ từ quay đi, lẳng lặng ra chỗ khác. Mẫu thân nàng vốn cho rằng chuyện xưng đế xưng vương chỉ là mộng tưởng hão huyền đã mấy trăm năm của họ Mộ Dung, việc phục quốc chẳng hy vọng gì, cái họa diệt tộc lại rõ ràng trước mắt. Vì thế mà mẫu thân nàng mới cấm cửa Mộ Dung Phục đến nhà, ẩn cư một nơi hẻo lánh ở Linh Hồ, không muốn quan hệ tới nhà Mộ Dung cho thêm rắc rối.

Công Dã Càn nhìn theo Vương Ngữ Yên một lúc, rồi nói: “Đại Liêu và Đại Tống đánh nhau đã mấy trăm năm, Đại Liêu tuy chiếm được thượng phong, nhưng muốn diệt được Đại Tống còn là chuyện khó. Tây Hạ cùng Thổ Phồn hùng cứ phương Tây, mỗi nước có đến mấy chục vạn tinh binh. Bất luận Tây Hạ hay Thổ Phồn mà chịu trợ giúp Đại Liêu thì nhà Đại Tống tất phải nguy ngập. Còn nếu một trong hai nước này giúp đỡ Đại Tống thì cái ngày diệt vong của Đại Liêu sắp đến.”

Phong Ba Ác lớn tiếng đáp: “Nhị ca nói đúng lắm. Trước nay Cái Bang vẫn trung thành với Tống triều, phen này lão Dịch Đại Bưu sang Tây Hạ lấy bảng văn về chắc là muốn nhà Đại Tống có tay thiếu niên anh hùng nào đi dự tuyển ngôi phò mã nước Tây Hạ. Giả tỉ Tống Hạ liên hôn với nhau, tất trở nên thiên hạ vô địch.”

Công Dã Càn gật đầu nói: “Nói là thiên hạ vô địch thì chưa chắc, nhưng nhà Đại Tống lương thảo phong phú của cải dồi dào, còn Tây Hạ binh cường mã tráng. Hai nước này mà liên minh với nhau thì Đại Liêu cùng Thổ Phồn đều không địch nổi, còn nước Đại Lý nhỏ xíu kia thì chẳng nhắc đến làm gì. Theo ta suy đoán, thì sau khi Tống Hạ liên minh, việc đầu tiên là họ thôn tính Đại Lý, sau đó mới đánh Liêu.” Đặng Bách Xuyên nói: “Chắc là Dịch Đại Bưu tính toán như thế, nhưng việc Tống Hạ liên minh không phải dễ dàng đâu. Các nước Đại Liêu, Thổ Phồn, Đại Lý mà biết tin này, nhất định tìm cách phá hoại.” Công Dã Càn nói: “Chẳng những họ bày kế phá hoại, mà họ đều muốn lấy công chúa Tây Hạ.”

Đặng Bách Xuyên nói: “Không hiểu công chúa Tây Hạ đẹp hay xấu, tính tình ôn nhu hòa nhã hay là ngang tàng ngỗ ngược?” Bao Bất Đồng cười ha hả nói: “Đại ca lo lắng làm chi? Chẳng lẽ đại ca muốn qua Tây Hạ ghi tên ứng tuyển để tranh ngôi phò mã hay sao?”

Đặng Bách Xuyên cười đáp: “Giả tỉ Đặng đại ca của tam đệ mới hai mươi tuổi, võ công cao gấp mười, hình mạo đẹp gấp trăm, thì ta đã lập tức bay qua Tây Hạ rồi.” Rồi gã nghiêm mặt nói tiếp: “Việc mưu đồ phục quốc của nước Đại Yên ta mấy trăm năm nay thủy chung vẫn như hoa trong gương, trăng dưới nước, không thành sự thực, xét cho cùng chỉ vì chưa được một lực lượng đáng kể nào viện trợ. Nếu họ Mộ Dung cùng nước Tây Hạ kết mối thân tình, khi chúng ta khởi nghĩa ở Trung Nguyên, Tây Hạ đưa quân viện trợ, thì đại sự làm sao mà không thành tựu?”

Công Dã Càn tán thưởng: “Đúng thế! Đời Xuân Thu, hai nước Tấn Tần liên hôn, Tấn công tử Trùng Nhĩ vong quốc chạy ra ngoài được Tần Mục Công cho quân giúp đỡ, cuối cùng xưng hiệu Tấn Văn Công lập bá nghiệp một thời.”

Bao Bất Đồng chỉ định nói chơi, thế mà nghe xong ý kiến của Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn, gã bèn gật đầu lia lịa nói: “Không sai! Chỉ mong rằng việc này giúp ích cho việc trung hưng phục quốc nước Đại Yên ta, còn công chúa Tây Hạ đẹp hay xấu, dịu dàng hay ngỗ ngược thì cũng không quan trọng. Giả tỉ quốc vương Tây Hạ chịu gả cho Bao lão tam một con heo nái, Bao lão tam cũng ráng nhắm mắt cưới làm vợ.”

Mọi người đều cười ồ, đưa mắt nhìn Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục hiểu bốn gã này muốn mình đi Tây Hạ ứng tuyển ngôi phò mã. Y nghĩ thầm: “Kể về tài mạo nhân phẩm, văn tài võ học thì hiện nay trên đời khó mà kiếm được một chàng trai đủ tư cách như mình, việc đi Tây Hạ cầu thân mười phần có thể nắm vững đến sáu bảy. Nhưng nếu quốc vương Tây Hạ tính tới gia thế thì mình tuy là dòng dõi vương tôn nước Đại Yên nhưng đã suy vong từ lâu rồi, ở Đại Tống mình chỉ là một tên bạch đinh áo vải. Nếu bốn nước Đại Tống, Đại Lý, Đại Liêu, Thổ Phồn phái vương công đến cầu hôn, thì mình không có chút danh vị nào, thua người ta là chắc chắn.” Y nghĩ đến đây, bất giác đưa mắt nhìn bảng văn.

Công Dã Càn đi theo Mộ Dung Phục đã lâu, đoán được tâm lý của y, bèn nói: “Trên bảng văn ghi rất rõ ràng. Người ứng tuyển không cần gia thế, chỉ cần nhân phẩm cùng bản lĩnh. Đã thành phò mã thì tự nhiên sẽ có tước vị, còn bản lĩnh thì không thể do vua chúa ký thánh chỉ ban tặng được. Công tử! Hùng tâm của họ Mộ Dung đã mấy trăm năm, nay đặt cả vào công tử…” Hắn nói đến đây, tâm thần kích động, âm thanh run rẩy.

Bao Bất Đồng nói: “Công tử làm Tấn Văn Công thì bốn huynh đệ chúng ta sẽ làm Hồ Mao, Hồ Yển, Giới Tử Thôi…” Y bất giác nghĩ tới Giới Tử Thôi về sau bị Tấn Văn Công thiêu sống, câu nói này quả là không nên chút nào, bèn cười rồi im bặt.

Mộ Dung Phục mặt trắng bệch ra, tay chân run rẩy. Y cũng thấy đây là cơ hội ngàn năm khó gặp, trước nay mỗi khi công chúa kiếm chồng đều do quốc vương sai đại thần làm mối mà tuyển chọn con cháu của đại quan trong nước, không hề thông cáo rộng rãi ra khắp thiên hạ để công khai lựa chọn như kiểu này. Y không tự chủ được, quay lại nhìn sau lưng Vương Ngữ Yên thì thấy nàng đứng dưới một gốc liễu, tay phải nắm lấy một cành rủ xuống, mắt nhìn xuống sông, chỉ mặc một tấm áo mỏng manh, trông thực đáng thương.

Dĩ nhiên Mộ Dung Phục biết rằng biểu muội từ nhỏ vẫn nuôi một mối thâm tình với mình. Cô mẫu cùng song thân mình có chuyện bất hòa, nhiều phen ngăn trở những cuộc gặp gỡ giữa nàng và mình, thế nhưng một cô gái yếu đuối không biết võ công mà dám phiêu bạt giang hồ tìm mình, tình ý thật là thế gian hiếm có. Y tự nhủ: “Mộ Dung Phục này bôn tẩu bốn phương, ôm một tấm lòng trung hưng phục quốc, đến võ công cũng không thể chuyên tâm rèn luyện, thì còn kể gì đến chút tình nhi nữ? Nhưng biểu muội lại thâm tình với mình đến thế, làm sao mà không động lòng được? Nếu lúc này mình đột nhiên bỏ nàng ra đi cầu hôn với một cô công chúa chưa từng gặp mặt, về lý thì không sai, nhưng về tình thì thật là bất nhẫn.”

Công Dã Càn đằng hắng rồi nói: “Công tử! Từ xưa đến nay, những người làm nên đại sự đều không câu nệ tiểu tiết. Đã là đại anh hùng, đại hào kiệt thì phải phá bỏ cửa quan tình ái.”

Bao Bất Đồng phụ họa: “Sau này khôi phục lại được nước Đại Yên, công tử lên ngôi chúa tể một nước, thì chuyện tam cung lục viện không phải nói làm gì. Khi đó công chúa nước Tây Hạ sẽ lên ngôi chánh cung nương nương, còn vị biểu muội họ Vương được phong làm Tây cung nương nương, thế là xong hết. Trong lòng công tử có sủng ái cô nàng hơn một tí thì cũng đâu có ai cấm được?” Bao Bất Đồng thường ngày chỉ ưa chặn họng người ta, nhưng bây giờ là lúc thương nghị đại sự, gã nói toàn những lời hợp đạo lý.

Mộ Dung Phục gật đầu, nghĩ thầm: “Phụ thân ta lúc sinh thời đã căn dặn, ngoài việc trung hưng Đại Yên thì thiên hạ không còn gì là đại sự nữa. Vì chuyện phục hưng đại nghiệp thì cha anh có thể giết, con em càng có thể giết, bằng hữu chí thân có thể ruồng bỏ, tình yêu trai gái càng không nên để vào lòng. Tuy Vương Ngữ Yên đối với ta một mối thâm tình, nhưng ta trước sau chỉ coi nàng như một cô biểu muội chứ đã có tình ý gì đâu mà ngại?” Trước nay y cũng nghĩ rằng sau này sẽ cưới nàng làm vợ, nhưng cho rằng đó là chuyện dĩ nhiên, không cần nghĩ ngợi gì nhiều. Bao Bất Đồng nói cùng có lý, sau này đại sự thành rồi, mình sẽ đặt nàng vào ngôi phi tần, gia tâm sủng ái một chút là xong hết.” Y trầm ngâm một lúc rồi không lý gì đến Vương Ngữ Yên nữa, lên tiếng nói: “Các vị nói rất có lý. Đây quả là một cơ hội rất tốt để mưu đồ khôi phục nước Đại Yên. Nhưng đại trượng phu không thể thất tín, ta phải đưa bảng văn này tới Cái Bang.”

Đặng Bách Xuyên nói: “Đúng thế! Đừng nói Cái Bang không có nhân vật nào so được với công tử, mà cho dù có kình địch thật sự, chúng ta cũng không thể giấu giếm bảng văn một cách đê hèn vô sỉ.” Phong Ba Ác phụ họa: “Dĩ nhiên là thế. Đại ca cùng nhị ca theo công tử qua Tây Hạ cầu thân, còn tam ca cùng tiểu đệ đem bảng văn qua Cái Bang. Từ nay đến ngày trung thu tháng tám sang năm còn lâu lắm, bọn họ có chọn người ứng tuyển cũng còn kịp chán, không thể trách bọn ta xử ép họ được.”

Mộ Dung Phục nói: “Chúng ta làm việc phải quang minh lỗi lạc. Bây giờ ta thân hành đem bức bảng văn này giao cho trưởng lão Cái bang, rồi mới đi Tây Hạ.” Đặng Bách Xuyên vỗ tay reo lên: “Công tử nói đúng lắm. Chúng ta không nên để người khác dị nghị sau lưng mình một câu nào.” Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cũng gật đầu khen phải, rồi đem an táng thi thể bọn Cái Bang.

Mộ Dung Phục gọi Vương Ngữ Yên lại nói: “Biểu muội! Bọn Cái Bang này bị giết có liên quan đến một việc lớn. Ta phải thân hành qua Tổng đà Cái Bang, tiện đường đưa biểu muội về Mạn Đà Sơn Trang trước.” Vương Ngữ Yên giật mình, kinh hãi nói: “Muội… muội không về nhà đâu. Mẫu thân thấy muội sẽ giết chết ngay.” Mộ Dung Phục cười đáp: “Cô mẫu tuy tính tình nóng nảy nhưng chỉ có mình biểu muội là con, sao lại giết chết? Nhiều lắm là người trách mắng mấy câu mà thôi.” Vương Ngữ Yên nói: “Không… không…! Muội không về nhà đâu, nhất định phải theo biểu huynh đi Cái Bang.”

Mộ Dung Phục đã quyết ý đi Tây Hạ cầu thân, nhưng đối với Vương Ngữ Yên cũng thấy khó nghĩ. Y liền nói: “Thôi đành thế này vậy. Biểu muội là một cô gái nhỏ tuổi mà đi theo chúng ta xuất đầu lộ diện trên chốn giang hồ, thật có nhiều điều bất tiện. Biểu muội đừng đi nữa, nếu không muốn về Mạn Đà Sơn Trang thì về nhà ta ở Yến Tử Ổ tạm trú. Xong việc rồi ta sẽ quay về với biểu muội, được không?”

Vương Ngữ Yên hai má ửng hồng, mừng thầm trong bụng. Nguyện vọng cả đời nàng là được kết duyên đôi lứa với biểu huynh rồi cùng ở Yến Tử Ổ. Bây giờ nàng nghe Mộ Dung Phục bảo mình về Yến Tử Ổ, tuy chưa công khai cầu hôn, nhưng sự tình đã rõ ràng lắm rồi. Nàng không nói gì, chỉ từ từ cúi đầu xuống, khóe mắt lộ ra những tia sáng hoan hỉ.

Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn nhìn nhau, cảm thấy mình đang lừa gạt một vị cô nương ngây thơ chất phác, trong lòng không khỏi áy náy. Bỗng nghe “bốp” một tiếng, Phong Ba Ác tự tát vào mặt mình một cái rất mạnh. Vương Ngữ Yên ngẩng đầu lên, ngạc nhiên hỏi: “Phong tứ ca! Tứ ca làm sao thế?” Phong Ba Ác đáp: “Tiểu huynh đánh… đánh một con muỗi đấy thôi.”

Cả đoàn sáu người lại lên đường về hướng đông. Chưa tới hai ngày thì Đoàn Dự đã từ phía sau đuổi tới, mừng rỡ chào hỏi: “Ái chà! May quá, lại gặp Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Bao tam ca, Phong tứ ca cùng Vương cô nương rồi. Mọi người cũng đi về hướng đông, thế thì chúng ta cùng đi lại càng vui vẻ.”

Tuy Bao Bất Đồng rất chán ghét Đoàn Dự, nhưng chàng đã từng cứu tính mạng của Phong Ba Ác, Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên. Vì thế đã không tiện công khai đuổi chàng đi, nhưng trên đường không khỏi có lời qua tiếng lại. Tuy nhiên Đoàn Dự bất kể là nghe thấy hay không cũng bỏ ra ngoài tai hết, ung dung tự tại, mặc ai nói gì thì nói.

Đoàn người đi dọc đường cũng nghe tin Cái Bang tranh ngôi minh chủ võ lâm với phái Thiếu Lâm. Mộ Dung Phục cùng bọn Đặng Bách Xuyên ngấm ngầm thương nghị, nếu Cái Bang cùng phái Thiếu Lâm tranh đấu thành thế lưỡng bại câu thương, nhà Mộ Dung ở giữa ngư ông thủ lợi thì không chừng đoạt được danh hiệu minh chủ võ lâm, hiệu lệnh cho hào kiệt giang hồ. Đây thật là một cơ duyên rất tốt không nên bỏ lỡ, họ bèn chuyển hướng đi đến Thiếu Lâm Tự, không ngờ vừa tới chân núi Thiếu Thất đã gặp Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu.

Mấy tháng nay, Đinh Xuân Thu mở rộng môn phái, thu nạp rất nhiều đồ đệ. Bất luận lục lâm hắc đạo hay yêu quái tà môn, ai đến quy đầu lão cũng nhận ngay. Mới vài tháng mà bọn tiểu tặc ở Trung Nguyên tranh nhau nghênh tiếp lão ở dọc đường, đông đảo như kiến bu thịt thối.

Mộ Dung Phục đã suýt bị Đinh Xuân Thu hại mạng trong kỳ hội của Tô Tinh Hà, lần đại chiến thứ hai ở phạn điếm cũng may lắm mới thoát thân. Chuyến này lại gặp nhau, Mộ Dung Phục thấy đối phương quá đông người thì không khỏi ngấm ngầm kiêng nể. Nhưng Phong Ba Ác lại là một nhân vật không sợ trời không sợ đất, mới nói qua nói lại ba câu đã xông vào đánh nhau với bọn môn đồ phái Tinh Tú. Đoàn Dự muốn đưa Vương Ngữ Yên tránh ra, nhưng Vương Ngữ Yên lo lắng cho biểu huynh nên không chịu bỏ đi. Môn đồ phái Tinh Tú tràn lên đông đúc như nước thủy triều, chỉ chốc lát đã nhấn chìm bọn Mộ Dung Phục trong biển người.

Đoàn Dự thi triển Lăng Ba Vi Bộ né tránh bọn môn đồ phái Tinh Tú, khi nghe thấy thanh âm của phụ thân liền chạy vào chùa để gặp mặt. Đến khi Diệp Nhị Nương nói Mộ Dung Phục đang bị Đinh Xuân Thu đánh cho thất điên bát đảo, chàng liền nghĩ thầm: “Ta phải mau mau chạy ra để cõng Vương cô nương thoát hiểm”, rồi vọt đi như bay.

Hồi 41: Mười tám kỵ sĩ Yên Vân, khí thế thiên binh vạn mã

Đinh Xuân Thu đã sát hại hai vị cao tăng Huyền Thống, Huyền Nạn của phái Thiếu Lâm. Quần tăng chùa Thiếu Lâm xem hắn là kẻ đại thù, phải giết được hắn mới cam tâm. Mọi người nghe nói kẻ thù đã lên núi Thiếu Thất thì nhốn nháo cả lên. Huyền Sinh hô lớn: “Hôm nay mọi người phải cố gắng bắt Đinh Lão Quái để báo thù cho hai vị sư huynh Huyền Thống, Huyền Nạn.”

Huyền Từ dõng dạc nói: “Khách ở xa đến, mình phải tiên lễ hậu binh!”. Quần tăng đồng thanh “Vâng!” một tiếng. Huyền Từ lại nói: “Các vị sư huynh! Chư vị bằng hữu! Chúng ta cùng ra xem những cao chiêu của phái Tinh Tú cùng nhà Mộ Dung tỉ đấu, có nên chăng?”

Quần hùng vốn đang chờ đại sư nói câu này, nghe xong như được gãi đúng chỗ ngứa. Những thiếu niên anh hào tính tình nóng nảy nhưng địa vị chưa cao, tức thời chạy đi như ong vỡ tổ. Theo sau là tứ đại ác nhân, hảo hán các nơi, họ Đoàn nước Đại Lý, rồi đến cao tăng các chùa lục tục rảo bước đi ra. Tiếng khí giới chạm nhau vang lên loảng xoảng, thì ra là các nhà sư Thiếu Lâm hàng chữ Tuệ đang lấy binh khí trao cho sư phụ và các vị sư thúc, sư bá.

Quần tăng Thiếu Lâm cả bốn đời Huyền Tuệ Hư Không đều cầm binh khí, xếp thành hàng ngũ kéo ra khỏi chùa. Mọi người vừa ra đến cửa sơn môn, một nhà sư chạy đến báo tin: “Phái Tinh Tú có đến hơn ngàn người, đang bao vây bọn Mộ Dung công tử ở sườn núi, ác đấu chưa ngừng.” Huyền Từ gật gật đầu, liền đứng trên một phiến đá nhìn xuống, chỉ thấy đầu người lố nhố đen ngòm.

Tiếng reo hò theo gió vang lên núi: “Hôm nay Tinh Tú Lão Tiên thân hành độc chiến, dĩ nhiên bách chiến bách thắng.” “Các ngươi chỉ là mấy tên yêu ma tiểu quỷ, dám ngang bướng chống đối thì to gan thật!” “Mau mau vứt binh khí mà xin Tinh Tú Lão Tiên tha mạng.” “Tinh Tú Lão Tiên lên núi Thiếu Thất, chỉ dùng ngón tay út điểm một cái cũng đủ làm cho chùa Thiếu Lâm phải sụp đổ.”

Bọn đệ tử mới của phái Tinh Tú chưa học võ công đã học cách nịnh sư phụ trước. Hơn ngàn người hoan nghênh nghe điếc cả tai, núi Thiếu Thất lại càng giống một nơi thánh địa để xưng tụng công đức. Cả ngàn năm nay, quần tăng Thiếu Lâm tụng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” trước Phật tượng, chưa bao giờ khí thế rầm rộ bằng bọn đệ tử phái Tinh Tú tụng niệm sư phụ lúc này. Đinh Xuân Thu vuốt chòm râu bạc ra chiều đắc ý, cặp mắt lim dim tựa như chếnh choáng hơi men.

Huyền Sinh vận khí vào đan điền, quát lớn: “Kết thành La Hán đại trận!” Năm trăm nhà sư Thiếu Lâm đồng thanh hô to: “Kết thành La Hán đại trận!” Những bóng áo đỏ, áo xám chuyển động loạn cả lên, năm trăm nhà sư chùa Thiếu Lâm, phía đông một toán, phía tây một đội, tản ra khắp một vùng núi.

Quần hùng nghe danh La Hán đại trận của phái Thiếu Lâm đã lâu, nhưng cả trăm năm nay phái này chưa phải đại chiến với người ngoài nên chỉ trong phái mới biết, còn người ngoài chẳng ai hiểu. Lúc này họ thấy quần tăng y phục đủ màu đỏ xám vàng đen, khí giới cũng đủ loại đao kiếm trượng câu, người nào cũng chạy như bay, chỉ trong chớp mắt đã vây bọn phái Tinh Tú vào giữa.

Phái Tinh Tú đông người hơn tăng lữ chùa Thiếu Lâm, nhưng phần lớn là bọn mới gia nhập nên chỉ là một toán quân ô hợp, mạnh ai nấy đánh. Nếu quần tăng lập thành trận thế hợp lực tấn công thì bọn chúng dĩ nhiên chân tay lính quính, chẳng biết ứng phó cách nào. Bây giờ tiếng ca tụng lão tiên giảm bớt đi nhiều, cũng lắm tên im lặng không lên tiếng, trong lòng đã muốn đổi bài ca xưng tụng “Tinh Tú Lão Tiên…” thành “Thiếu Lâm Thánh Tăng…”

Huyền Từ phương trượng cất tiếng: “Đinh tiên sinh phái Tinh Tú giá lâm núi Thiếu Thất, chỉ vì muốn đối địch với phái Thiếu Lâm. Vậy xin các vị anh hùng cứ đứng ngoài mà xem phái Thiếu Lâm kháng cự với cao nhân phương Tây.”

Anh hùng các lộ Hà Sóc, Giang Nam, Xuyên Thiểm, Hồ Quảng đều la ó: “Tinh Tú Lão Quái tàn hại võ lâm. Chúng ta phải coi hắn là kẻ thù chung, tru diệt cho hết.” Quần hùng đều rút binh khí ra, toan hợp sức với phái Thiếu Lâm giết địch.

Bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên đã giết được hơn hai mươi tên môn đồ phái Tinh Tú, bây giờ thấy mọi người đến, đều lùi lại mấy trượng, tạm thời ngưng đấu, nhưng bọn thuộc hạ phái Tinh Tú cũng không tiến lên đuổi đánh.

Đoàn Dự hết lạng sang đông lại vòng sang tây, đã đến đứng bên Vương Ngữ Yên. Chàng nói: “Vương cô nương! Giả tỉ tình hình nguy hiểm thì tại hạ lại cõng cô nương chạy ra.” Vương Ngữ Yên đỏ mặt đáp: “Ta không bị thương mà cũng không bị điểm huyệt, ta… ta tự đi…” Nàng nhìn sang Mộ Dung Phục một cái rồi nói tiếp: “Biểu huynh ta võ nghệ cao cường, thừa sức bảo vệ cho ta. Đoàn công tử cứ tùy tiện ra đi.”

Đoàn Dự nghe vậy không khỏi đau lòng, nghĩ thầm: “Ta có bản lĩnh gì đâu, làm sao sánh với biểu huynh nàng võ công cao cường được?” Nhưng bảo chàng bỏ ra đi, thì làm sao chàng có thể ra đi? Chàng ngượng ngùng nói: “Cái đó… cái đó… À, Vương cô nương, gia gia tại hạ đã đến đây, đang ở ngoài kia.” Vương Ngữ Yên cùng Đoàn Dự đã trải qua bao cơn hoạn nạn, đã cùng đi biết mấy dặm đường, thời gian kề cận nhau không ít, nhưng trước nay Đoàn Dự chưa bao giờ nhắc đến chuyện gia đình, mà cũng chưa từng kể đến thân thế mình trước mặt nàng bao giờ. Đối với Đoàn Dự thì Vương Ngữ Yên là một vị thiên tiên, còn mình là kẻ phàm tục dưới trần gian. Trong con mắt của thiên tiên thì vương tôn công tử hay thứ dân đâu có khác gì nhau?

Vương Ngữ Yên biết rõ Đoàn Dự đối với mình một mối chân tình, nhưng chỉ đem lòng cảm kích vì thấy chàng mấy phen hi sinh để cứu mình, ngoài ra ở con người ấy chẳng có gì khiến nàng phải động tâm. Nàng biết chàng chỉ là một gã đồ gàn, tình cờ hiểu được một bộ pháp xảo diệu cùng với một môn kiếm khí lúc linh nghiệm lúc không, so với biểu ca nàng thì thật một trời một vực. Nhưng lúc này nàng nghe nói gia gia chàng đang ở đây thì cũng hơi hiếu kỳ, liền hỏi: “Phải chăng lệnh tôn từ Đại Lý đến đây? Công tử vừa gặp lệnh tôn rồi phải không?”

Đoàn Dự cả mừng đáp: “Phải rồi. Vương cô nương! Tại hạ dẫn cô nương đến gặp gia phụ, được chăng? Gia phụ gặp cô nương chắc là mừng lắm.” Vương Ngữ Yên hai má ửng hồng đáp: “Ta không gặp.” Đoàn Dự hỏi: “Sao cô nương lại không muốn gặp gia phụ?” Chàng thấy Vương Ngữ Yên không đáp, liền cố tìm chuyện làm nàng vui, lại nói: “Vương cô nương! Nghĩa huynh tại hạ là Hư Trúc cũng ở đây, y lại quay về làm hòa thượng. Ái chà! Đồ đệ của tại hạ cũng ở đây, thật là náo nhiệt.” Vương Ngữ Yên biết đồ đệ của Đoàn Dự là Nam Hải Ngạc Thần, nhưng chưa bao giờ hỏi vì sao chàng lại thu tên đệ tam ác nhân Hung Thần Ác Sát làm đồ đệ. Nàng nghĩ đến dáng vẻ quái dị của Nam Hải Ngạc Thần, khóe miệng bất giác nở một nụ cười. Đoàn Dự thấy mình dụ được nàng mỉm cười liền cả mừng. Tuy hiện ở giữa vòng vây phái Tinh Tú, nhưng chàng được nghe Vương Ngữ Yên cười nói dịu dàng thì dù việc tày trời cũng không để ý đến nữa.

Quần tăng chùa Thiếu Lâm đã bố trí xong La Hán đại trận, tiền hậu tả hữu có thể hô ứng bảo vệ nhau dễ dàng. Bọn đồ đệ phái Tinh Tú từ phía Tây tấn công vào, mới trong chớp mắt đã bị thương mấy tên, Đinh Xuân Thu nói: “Các ngươi tạm ngừng tay, không được vọng động.” Rồi lão hô lớn: “Huyền Từ phương trượng! Phái Thiếu Lâm các ngươi tự xưng là thủ lĩnh võ lâm Trung Nguyên, nhưng ta xem ra không chịu nổi một trận.”

Bọn đệ tử cũng hò reo phụ họa: “Phải rồi! Tinh Tú Lão Tiên đã tới đây, bọn trọc đầu chùa Thiếu Lâm tất phải chết hết, không đủ chỗ mà chôn.” “Võ lâm thiên hạ đều bắt nguồn từ phái Tinh Tú. Chỉ có võ công phái Tinh Tú chúng ta mới là chính thống, ngoài ra đều là tà ma ngoại đạo.” “Bọn người không học võ công phái Tinh Tú đều là tà ma quỷ quái, sắp rước họa vong thân.” Đột nhiên có tên gân cổ xướng lên; “Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh.” Hàng ngàn người nhao lên phụ họa, có kẻ khua chiêng đánh trống, có người thổi tiêu thổi địch, khí thế thật là rầm rộ. Phần lớn quần hùng chưa được thấy cảnh tượng phái Tinh Tú kết đoàn hô khẩu hiệu, tuy có phần kinh hãi nhưng không khỏi bật cười.

Giữa những tiếng đàn sáo trống chiêng, từ dưới chân núi bỗng có tiếng vó ngựa vọng lại, mỗi lúc một rõ hơn. Chỉ chốc lát đã có bốn lá cờ vàng từ sườn núi tiến ra, rồi thấy rõ bốn con ngựa chạy tới, kỵ sĩ cầm cờ tung bay trước gió. Trên bốn lá cờ đều đề năm chữ: “Trang bang chủ Cái Bang”. Lên đến sườn núi, bọn kỹ sĩ gò cương dừng lại, xuống ngựa tìm chỗ đất cao để dựng cờ lên. Bốn kỵ sĩ này ăn mặc theo kiểu bang chúng Cái Bang, lưng đeo túi vải, tay cầm cờ hiệu, không nói một lời.

Quần hùng la lên: “Cái Bang bang chủ Trang Tụ Hiền đã đến!” Bốn lá cờ vàng chẳng có vẻ gì kiêu ngạo mà tự có thanh thế, bốn người cầm cờ tuy không nói một lời mà thân thủ nhẹ nhàng linh hoạt, so với kiểu mèo khen mèo dài đuôi của phái Tinh Tú thì làm cho người ta kính nể hơn nhiều.

Cờ vàng vừa dựng lên xong, một trăm mấy chục con ngựa chạy nhanh lên núi. Đi đầu là hơn trăm tên đệ tử sáu túi, theo sau là ba bốn chục tên bảy túi, mười mấy tên tám túi, sau đó một chút là bốn vị trưởng lão đeo chín túi trên lưng. Bọn Cái Bang đều lặng lẽ không ai nói gì, nhảy xuống ngựa, chia ra đứng hai bên. Trước nay bang chúng Cái Bang khi có chuyện quan trọng thì vẫn giữ lề lối ăn mày không đi ngựa đi xe, nhưng bây giờ phá lệ chẳng khác gì các môn phái khác trên giang hồ. Nhiều bậc kỳ túc võ lâm thấy vậy lặng lẽ lắc đầu đầy vẻ bất mãn.

Rồi lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, hai con tuấn mã lông xanh song song tiến lên. Kỵ sĩ bên trái là một thiếu nữ áo tía, rất xinh đẹp nhưng cặp mắt lờ mờ không ánh sáng. Nguyễn Tinh Trúc vừa trông thấy đã buột miệng la lên: “A Tử!” Bà lại quên mình đã cải dạng nam trang, thanh âm vẫn là giọng nữ nhân.

Kỵ sĩ bên phải mình mặc cẩm bào, nét mặt trơ trơ như xác chết. Những vị biết nhiều hiểu rộng trong quần hùng vừa nhìn là biết ngay gã đeo mặt nạ, không muốn để ai nhìn rõ bản tướng mình. Mọi người đều nghĩ: “Đây chắc là bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền, đến đây để tranh ngôi minh chủ võ lâm với phái Thiếu Lâm, nhưng tại sao lại phải giấu mặt không cho ai thấy?” Có người đoán: “Đây chắc là một nhân vật nổi tiếng võ lâm, Trang Tụ Hiền chỉ là tên giả. Đã làm đến bang chủ Cái Bang thì sao có thể là hạng vô danh tầm thường được?” Có người lại đoán: “Chắc gã không nắm chắc phần thắng nên che mặt để lỡ bị thua dưới tay quần tăng Thiếu Lâm thì rút lui cũng đỡ xấu hổ.” “Không chừng gã là Kiều Phong tiền nhiệm bang chủ Cái Bang, trở lại nắm quyền rồi đến kiếm chuyện với phái Thiếu Lâm cùng quần hùng Trung Nguyên”. Cũng có người suy từ Trang Tụ Hiền ra ba chữ Tụ Hiền Trang, những từ đó lại gợi nghĩ tới Kiều Phong. Du thị huynh đệ đã chết dưới tay Tiêu Phong, Tụ Hiền Trang cũng không hiểu đã bị ai đốt thành bãi đất trống, chẳng ai ngờ rằng tân bang chủ Cái Bang lại là Thiếu trang chủ Du Thản Chi của Tụ Hiền Trang năm trước.

A Tử nghe tiếng mẫu thân gọi, nhưng lúc này nàng đang có việc quan trọng, chưa muốn gặp mẫu thân để nói chuyện gia đình. Nàng giả vờ không nghe, bảo Trang Tụ Hiền: “Hiền ca! Chỗ này đồng người lắm phải không? Tiểu muội nghe hò hét những gì Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh. Có phải tên tiểu tử Đinh Xuân Thu dẫn đám quân tôm tép của hắn đến không?” Du Thản Chi đáp: “Không sai. Môn hạ của hắn đông lắm.” A Tử vỗ tay cười nói: “Thật là tuyệt diệu! Ta đỡ phải mất công lặn lội đến phái Tinh Tú đường xa ngàn dặm.” Lúc này bọn đệ tử Cái Bang ba túi, bốn túi, năm túi phải đi bộ cũng đã chạy lên núi, bày thành đội ngũ đứng ở phía sau Du Thản Chi cùng A Tử.

A Tử quay lại vẫy tay một cái, hai tên đệ tử Cái Bang móc trong túi ra một vật gì sắc tía rồi vung tay tung ra trước gió, thì ra là hai lá cờ lớn bằng đoạn tía. Hai gã cầm cờ nội lực rất thâm hậu, giữ hai lá cờ lớn bay phần phật trên không tựa như có cán. Trên mỗi lá cờ đều thêu sáu chữ đỏ như máu:“Đoàn chưởng môn phái Tinh Tú”.

Hai lá cờ vừa mở ra, bọn phái Tinh Tú nhốn nháo cả lên, thi nhau la ó: “Chưởng môn phái Tinh Tú là Đinh lão tiên lừng danh bốn biển. Sao lại có tên họ Đoàn nào đòi làm chưởng môn?” “Ăn nói hồ đồ không biết xấu hổ!” “Chức vị chưởng môn có lý nào tự phong lên được?” “Con tiểu yêu nào dám tự xưng là chưởng môn bản phái? Mau mau bước ra đây cho lão gia băm làm xíu mại.” Bọn to mồm thóa mạ đều là những tên mới gia nhập sau này. Còn bọn Sư Hống Tử, Thiên Lang Tử… dĩ nhiên hiểu rõ lai lịch A Tử, nghĩ đến cái bóng vĩ đại của Tiêu Phong che sau lưng nàng đều âm thầm hoảng sợ.

Các tăng lữ cũng như quần hùng thấy thêm một vị chưởng môn phái Tinh Tú nữa xuất hiện thì vừa kinh hãi vừa mừng thầm, ai cũng cho là bọn tà ma tự chống đối nhau, thật là hảo sự.

A Tử vỗ tay ba cái rồi dõng dạc nói: “Đệ tử phái Tinh Tú nghe đây! Theo qui củ của bản phái, ai có võ công cao cường sẽ được làm chưởng môn. Nửa năm trước đây, Đinh Xuân Thu tỉ đấu với ta, đã bị ta đánh cho lăn quay xuống đất, đã dập đầu lạy ta mười tám lạy, tôn ta lên làm sư phụ, rồi hai tay cung kính dâng chức chưởng môn cho ta. Chẳng lẽ hắn chưa thông báo cho các ngươi hay sao? Đinh Xuân Thu, mi thật là lớn mật! Mi là đại đệ tử của ta, lý ra phải nêu gương cho bọn sư đệ, sao lại dám khi sư diệt tổ, lừa dối bọn đàn em?” Thanh âm nàng rất trong trẻo, ai cũng nghe rõ từng chữ một.

Mọi người nghe vậy đều rất ngạc nhiên, nàng chỉ là một thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi, hai mắt lại mù lòa, sao làm chưởng môn được? Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc nhìn nhau kinh hãi. Hai người đều biết con gái mình là môn hạ của Đinh Xuân Thu phái Tinh Tú, tính nết cực kỳ cổ quái điêu ngoa, song võ công cũng chỉ tầm thường, không hiểu sao lại dám phản thầy. Nàng đã vuốt râu hùm thì chuyện này khó mà dàn xếp cho êm được. Hiện giờ nước Đại Lý vẻn vẹn chỉ có mấy người đến núi Thiếu Thất, làm sao chống nổi phái Tinh Tú để cứu nàng thoát hiểm?

A Tử ngang nhiên giương cờ chưởng môn phái Tinh Tú trên núi Thiếu Thất, hàng ngàn hàng vạn con mắt trông vào, Đinh Xuân Thu nhịn làm sao được? Lão giận muốn phát điên nhưng ngoài mặt vẫn mỉm cười đầy vẻ ôn hòa, nói: “Tiểu A Tử! Trong bản phái, ai giỏi võ công là được giữ chức chưởng môn, câu đó không sai. Ngươi dám dòm ngó địa vị chưởng môn, tất phải có bản lĩnh ghê gớm! Hãy tới đây tiếp ta ba chiêu có được chăng?”

Đột nhiên mắt lão hoa lên, trước mặt cách ba thước đã xuất hiện một người, chính là Du Thản Chi. Gã này xuất hiện cực kỳ đột ngột, Đinh Xuân Thu nhãn lực phi thường mà cũng không nhìn rõ gã đến từ lúc nào. Lão bất giác kinh hãi, lùi lại một bước dài.

Đinh Xuân Thu đã lùi xa dần đến năm thước, mà thấy Du Thản Chi chỉ cách mình ba bước, không thể hiểu nổi vì sao đối phương vọt nhanh đến thế mà không lộ vẻ gì cố gắng. Đinh Xuân Thu thấy võ công hắn ghê gớm, lại nhìn thấy bộ mặt trơ trơ vàng khè như xác chết thì càng hoảng hốt. Lão chưa kịp mở miệng chất vấn: “Ta muốn cùng A Tử tỉ thí, sao ngươi lại nhúng tay vào?”, đã vội xoay tay nắm một tên đệ tử liệng tới.

Du Thản Chi ứng biến cực nhanh, cũng lập tức xoay tay chụp lấy một tên đệ tử Cái Bang ba túi, đẩy về phía trước. Tên đệ tử ba túi này tựa như một thứ ám khí khổng lồ vọt tới trước mặt Đinh Xuân Thu, còn đang lơ lửng trên không thì đụng vào tên đệ tử phái Tinh Tú do Đinh Xuân Thu liệng ra nghe “ầm” một tiếng. Mọi người đứng xem, thấy hai luồng kình lực mạnh ghê gớm đều nghĩ thầm: “Hai tên đệ tử này đụng nhau tất phải gãy xương nát thịt mà chết.”

Ngờ đâu hai tên này không kêu la gì hết, chỉ nghe tiếng vù vù rồi mọi người đều ngửi thấy mùi hôi thối đến phải buồn nôn. Quần hùng nín thở lùi lại, người thì đưa tay lên bịt mũi, người thì lấy thuốc giải ra uống, đều biết Đinh Xuân Thu cùng Trang Tụ Hiền đã truyền chất âm độc vào thân thể đệ tử. Hai tên đệ tử chạm vào nhau đều té lăn xuống đất không nhúc nhích, chết cả rồi.

Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi trao đổi một chiêu không phân cao thấp, đều ngấm ngầm sợ hãi lùi lại mấy thước. Cả hai lại túm lấy đệ tử liệng ra, hai tên này cũng đụng nhau trên không, bay mùi tanh tưởi, mất mạng lập tức.

Hai bên đều sử một môn võ công âm độc của phái Tinh Tú là Hủ Thi Độc. Chúng nắm lấy người sống để liệng ra, nhưng vừa nắm lấy ai là người đó phải chết ngay, khắp thân thể xác chết đều đầy chất độc. Nếu đối phương dùng tay để gạt xác chết đó tất phải nhiễm độc, giả tỉ dùng khí giới để gạt thì chất độc cũng qua binh khí mà truyền vào tay người. Thậm chí đối phương có né tránh hay phóng chưởng cách không ra đỡ cũng khó mà tránh khỏi độc khí xâm nhập vào mình.

Hôm đó Du Thản Chi cùng A Tử đi theo Toàn Quan Thanh, gã đã không có kinh nghiệm giang hồ lại chẳng nghi ngờ gì, chưa tới hai ngày đã kể hết cho Toàn Quan Thanh nghe lai lịch của mình. Toàn Quan Thanh nghĩ: “Tên này nội công cao cường hiếm thấy, nhưng võ công tầm thường quá thì cũng chẳng có công dụng gì.” Y điều tra biết được A Tử là môn đồ của Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu, bèn nảy ra một kế, liền bảo Du Thản Chi theo A Tử mà học võ công phái Tinh Tú. Trước mặt A Tử thì gã tán dương võ công Du Thản Chi là thiên hạ vô song, khuyên A Tử biểu diễn võ công đã học cho Du Thản Chi chỉ điểm.

Du Thản Chi cùng A Tử đều còn trẻ tuổi, một người si mê, một người mù lòa, đều bị y thao túng dễ như nhau. A Tử biểu diễn từng chiêu, rồi lại thuyết minh rõ cách tập luyện. Công phu Hủ Thi Độc của Du Thản Chi cũng học từ đó ra. Yếu quyết của Hủ Thi Độc hoàn toàn dựa vào nội công thâm hậu và độc chất tích chứa trong mình, chộp người ta một cái là chết ngay, rồi dùng xác chết đã nhiễm độc làm ám khí, không cần chút xảo diệu nào. Môn nhân phái Tinh Tú ai ai cũng hiểu nguyên lý môn này, chỉ vì không luyện được đến nơi mà thôi. Hồi A Tử ở thành Nam Kinh đã bắt rất nhiều trùng độc rắn độc về để luyện, nhưng ngay cả độc chưởng cũng luyện chưa xong, nói chi đến môn Hủ Thi Độc cao cường.

A Tử vốn rất tinh ranh nhưng hai mắt đã đui mù, không nhìn rõ sắc mặt Du Thản Chi. Tính mạng nàng đã do Trang công tử cứu được từ tay Đinh Xuân Thu, lại nghe Toàn Quan Thanh hoa ngôn xảo ngữ thổi phồng Du Thản Chi lên. Dù nàng thông minh gấp mười cũng không đoán nổi vị Trang công tử võ công cái thế này lại đang học lén võ nghệ của mình.

Mỗi khi A Tử trình diễn chiêu nào, Du Thản Chi lại theo đúng phép mà diễn thử. Trong người gã đã có chất hàn độc của con băng tằm, lại luyện nội công thượng thừa của Dịch Cân Kinh, kiêm cả sở trường hai phái chính tà. Nội lực gã không phải tầm thường, những chiêu thức sơ đẳng ở tay y phóng ra cũng có oai lực mãnh liệt đến gãy cây, vỡ đá.

A Tử nghe bằng tai, chỉ còn biết khâm phục gã. Du Thản Chi cũng truyền thụ cho nàng một ít phương pháp tu luyện nội công thượng thừa trong Dịch Cân Kinh. A Tử theo đó mà luyện tập, tuy không tiến bộ nhiều nhưng cũng thấy thân thể nhẹ nhàng khỏe khoắn, gân cốt linh hoạt. Nàng cho là tập một thời gian sẽ có công hiệu thần kỳ.

Lúc đó Du Thản Chi đã hiểu rõ thần lực của bản thân mình có liên quan rất lớn đến những đồ hình lão tăng lõa thể trong quyển sách cổ quái kia. Vì y muốn khoe khoang trước mặt A Tử, nên ngày nào cũng tìm chỗ vắng người để chuyên cần luyện tập. Một hôm, gã đang căn cứ theo đường nét trong đồ hình để luyện công, thì nghe một luồng gió mạnh lướt qua, quyển sách bay ra mấy trượng. Lúc đó Du Thản Chi đang tập theo tư thế trồng chuối ngược, chân chống lên trên đầu cắm xuống dưới, nội tức đang luân chuyển cuồn cuộn theo mấy đường kinh mạch, vừa ngẩng đầu lên thì thấy cuốn quái thư đã nằm trong tay một nhà sư trung niên. Du Thản Chi vội la lên: “Sách của ta, mau trả cho ta…” Vì y vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, nội tức trong kinh mạch bỗng chạy loạn lên làm gã không nhúc nhích gì được. Nhà sư kia khẽ cười, chạy đi. Du Thản Chi lại càng lo lắng, trăm ngàn xương cốt trong người đều cứng đờ ra như gỗ.

Người đoạt được quyển Dịch Cân Kinh chính là Cưu Ma Trí. Gã tinh thông Phạn văn lại thông minh quán thế, so với Tiêu Phong cùng A Châu chỉ mở mắt nhìn chữ mà không hiểu, với Du Thản Chi giãy giụa lung tung làm ướt sách mới coi được đồ hình, tất nhiên gã tập luyện thuận lợi hơn nhiều.

Du Thản Chi cứng đờ ra đến sáu giờ, huyệt đạo mới giải được, thổ ra một đống máu tươi chẳng khác gì lâm trọng bệnh. May mà y đã luyện thuộc lòng đến sáu bảy phần đồ hình trong sách, nên cứ thế mà tập luyện tiếp, nội công mỗi ngày lại tăng lên.

Sau đó Toàn Quan Thanh giúp Du Thản Chi tháo cái đầu sắt ra, dùng mặt nạ da người để che diện mạo đã bị bắt nung đỏ làm biến dạng, rồi dắt đi tham dự đại hội Cái Bang ở Quân Sơn trong Động Đình Hồ. Du Thản Chi nội công thâm hậu, chiêu thức quái dị, trong Cái Bang không ai chống nổi, liền chiếm được ngôi bang chủ. Toàn Quan Thanh cũng chính thức gia nhập lại Cái Bang, được phong lên trưởng lão chín túi. Tuy Du Thản Chi làm bang chủ, nhưng sự vụ trong bang hoàn toàn do Toàn Quan Thanh điều khiển. Gã họ Toàn thấy trong bang từ trưởng lão đến đệ tử có rất nhiều người bất phục Du Thản Chi, thật là lo lắng, nhưng không thể giết hết được, bèn đưa ra đề nghị tranh đoạt ngôi võ lâm minh chủ ở Trung Nguyên với phái Thiếu Lâm. Y muốn bang chủ Trang Tụ Hiền trở thành võ lâm đệ nhất nhân, khi đó trong Cái Bang còn ai dám không phục nữa?

A Tử vốn là người hiếu thắng, tuy mắt đui mù mà tính nết vẫn không thay đổi. Toàn Quan Thanh đưa ra đề nghị này rất hợp ý nàng. Du Thản Chi không màng tới chức võ lâm minh chủ gì gì hết, nhưng A Tử cực lực tán thành nên gã cũng đồng ý làm theo. Thế rồi Toàn Quan Thanh thận trọng sắp xếp kế hoạch cực kỳ tinh vi. Việc tính đúng thời gian gửi thiệp mời, khiến cho anh hùng hảo hán khắp nơi đến tụ tập tại chùa Thiếu Lâm cùng lúc vào ngày rằm tháng sáu, chính là kiệt tác của hắn.

A Tử cho rằng mình được Trang công tử võ công đệ nhất thiên hạ che chở, thì còn sợ gì lão Đinh Xuân Thu nhãi nhép nữa? Nàng bèn tự xưng là “Đoàn chưởng môn phái Tinh Tú”, sai người may cờ hiệu, đến núi Thiếu Thất diễu võ dương oai.

Lúc bang chúng Cái Bang kéo đến núi Thiếu Thất, đã thấy rất nhiều môn nhân phái Tinh Tú tụ tập trên núi, việc này cũng không ra ngoài dự liệu của Toàn Quan Thanh. Y bèn dặn Du Thản Chi, hễ Đinh Xuân Thu vừa mở miệng thì phải lập tức tiến ra động thủ, để tránh cho A Tử khỏi phải khó xử.

Đinh Xuân Thu biết đối phương lợi hại, nên lão vừa xuất thủ đã thi triển ngay môn Hủ Thi Độc cực kỳ âm hiểm. Muốn thi triển công phu này thì mỗi chiêu phải hy sinh một tên đệ tử, bất luận đối phương né tránh hay đỡ gạt đều khó lòng thoát khỏi kịch độc. Nếu là tay võ công cao tuyệt cũng phải nhảy lùi ra xa mười trượng mới khỏi bị chất độc nhiễm vào mình, lúc đối phương ra chiêu phải lập tức thi triển khinh công tuyệt đỉnh, chạy trốn ngay mới kịp. Nhưng như thế thì đánh nhau làm sao được nữa? Không ngờ Du Thản Chi đã được A Tử chỉ bảo công phu này, y bèn hy sinh tính mạng đệ tử Cái Bang để chống lại Đinh Xuân Thu. Hai người cứ mỗi khi liệng ra một tên đệ tử, lại lùi ba bước rồi liệng tên khác ra. Chín tiếng ầm ầm vang lên không ngớt, chỉ trong khoảnh khắc hai bên đã liệng ra tổng cộng mười tám xác chết nằm lăn dưới đất, sắc mặt xanh lè trông vừa kinh tởm vừa thê thảm vô cùng.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú cực kỳ sợ hãi, chen chúc tranh nhau lùi lại, chỉ sợ sư phụ tóm được. Miệng chúng vẫn không ngớt ca tụng công đức, nhưng giọng nói run run, lời lẽ nhạt phèo, nghe chẳng hứng thú gì nữa.

Quần hùng Cái Bang thấy bang chủ đột nhiên thi triển võ công âm độc, tuy là bất đắc dĩ, nhưng họ cũng cực kỳ khó chịu, nghĩ thầm: “Hành vi của bản bang xưa nay lấy nhân nghĩa làm gốc, thế mà sao bang chủ lại thi thố môn võ công đê hèn tàn ác này trước quần hùng thiên hạ? Như vậy chẳng hóa ra làm ô danh tiên tổ, biến thành đồng loại với phái Tinh Tú ư?” Có người lại nghĩ rằng:“Giả tỉ là cựu bang chủ Kiều Phong thì nhất quyết phải dùng chính đạo chống chọi với tà thuật của Tinh Tú Lão Quái.”

Đinh Xuân Thu đang định túm lấy tên thứ mười, thì tay lại chụp vào chỗ không, quay đầu lại nhìn thì thấy bọn đệ tử mình đã tránh xa hết. Bỗng nghe đánh vù một tiếng, Du Thản Chi đã liệng người thứ mười tới. Thế là Đinh Xuân Thu tự đào lỗ để chôn mình, trong lòng vừa kinh hãi vừa tức giận, lập tức tung mình nhảy lùi vào giữa đám đông. Xác tên đệ tử Cái Bang đã bay đến nơi, bọn đệ tử phái Tinh Tú hô hoán ầm ĩ, muốn bỏ trốn cũng không kịp nữa, bảy tám gã đã bị xác chết liệng trúng. Xác chết này độc địa vô cùng, vừa chạm vào là bảy tám tên này mặt đen xạm lại, nằm lăn ra đất, giãy đành đạch mấy cái rồi chết ngay lập tức.

A Tử đắc ý cười ha hả nói: “Đinh Xuân Thu! Trang bang chủ là hộ pháp của chưởng môn phái Tinh Tú. Ngươi đánh thắng y trước rồi mới được động thủ với chưởng môn là ta đây. Bây giờ thì ngươi thua hay là ngươi thắng?”

Đinh Xuân Thu vừa căm giận vừa buồn bã. Lão thua trận phen này không phải do công phu kém cỏi. Trang Tụ Hiền tuy nội lực thâm hậu, nhưng mấy lần gã liệng xác chết đều dùng một thủ pháp giống nhau, không có chi là biến ảo tài tình. Như vậy đủ thấy gã chỉ học được một chút công phu nông cạn của bản môn do A Tử truyền cho, còn những chỗ xảo diệu biến hóa bên trong thì không biết gì. Lão thua oan chỉ vì bọn môn hạ phái Tinh Tú khiếp đảm sợ chết, không được gan dạ như bọn đệ tử Cái Bang, lúc lâm nguy thì phe ta tranh nhau lui lại để trốn tránh, còn phe địch thì vì đại nghĩa không sợ chết. Lão chợt nghĩ ra một kế, liền ngửa mặt lên trời cười ha hả.

A Tử chau mày nói: “Cười ư? Ngươi còn cười được ư? Có gì đáng cười đâu?” Đinh Xuân Thu vẫn cười không ngớt, đột nhiên nghe tiếng gió lộng vù vù, lão túm luôn tám chín tên đệ tử phái Tinh Tú liệng về phía Du Thản Chi như tên bắn liên châu.

Du Thản Chi không biết sử chiêu Liên Châu Hủ Thi Độc, chỉ nắm được ba tên đệ tử Cái Bang liệng ra, đến cái xác thứ tư do Đinh Xuân Thu liệng tới thì không kịp đón đồ. Gã buộc phải nhảy vọt lên không để tránh, chưa đến nỗi phải chạy lùi về phía sau, tức là chưa thua chiêu này. Nhưng Đinh Xuân Thu chỉ đợi gã né tránh là giơ tay trái ra vẫy một cái. Bỗng nhiên A Tử rú lên một tiếng rồi bay nhào về phía Đinh Xuân Thu.

Mọi người đứng xem đều cả kinh thất sắc. Công phu Cầm Long Công, Khống Hạc Công có cao thâm đến đâu thì cũng chỉ bắt địch nhân, hoặc đoạt binh khí trong cự ly bốn năm thước. Những tay cao thủ tuyệt đỉnh có thể dùng Cách Sơn Thần Quyền đả thương đối phương, nhưng gọi là “cách sơn” cho oai chứ cũng không thể vận nội lực để đánh người xa ngoài hai trượng được. Lúc này Đinh Xuân Thu đứng cách A Tử đến bảy tám trượng, thế mà chỉ vẫy tay một cái đã giật tung được A Tử vọt khỏi lưng ngựa rồi hút về bắt lấy, bản lĩnh này thật không thể tưởng tượng nổi. Chung quanh có không ít cao thủ đứng xem, nhưng ai thấy cái vẫy tay của Đinh Xuân Thu cũng tự cho mình còn kém lão xa lắm, nếu không kinh hãi thì cũng phải khâm phục.

Mọi người không hiểu Đinh Xuân Thu bắt được A Tử không phải chỉ nhờ vào nội lực của mình, mà còn dựa vào một trong Tinh Tú Tam Bảo gọi là Nhu Ti Sách, tức là một sợi dây bện bằng tơ của một loại tuyết tằm sống gần Tinh Tú Hải. Giống tuyết tằm nhỏ hơn tầm thường, không có chất độc nhưng nó nhả ra một thứ tơ bền chắc khác thường, chỉ một sợi cũng khó mà bứt đứt. Tiếc rằng tuyết tằm không biết kéo kén mà nhả tơ cũng rất ít, may thì gặp chứ không thể tìm mà được. Ngày trước, A Tử đã dùng một cái lưới cá trong suốt để bắt Chử Vạn Lý, làm nhục đến nỗi y xấu hổ phải tự vẫn mà chết, cái lưới đó cũng có pha tơ tuyết tằm. Sợi dây Nhu Ti Sách này của Đinh Xuân Thu bằng tơ tuyết tằm nguyên chất, rất mảnh mà lại trong suốt, ngay giữa ban ngày cũng khó nhìn thấy được. Đinh Xuân Thu liệng chín cái thây độc ra là cốt để bắt buộc Du Thản Chi phải né tránh không che chở cho A Tử được, cũng là để người ngoài phải rối mắt, ai cũng chăm chú nhìn Liên Châu Hủ Thi Độc của lão, nên chẳng ai phát giác lão quăng Nhu Ti Sách bắt A Tử.

A Tử vừa phát giác Nhu Ti Sách quấn vào người là đã bị Đinh Xuân Thu giật đi ngay. Tuy lão bắt được A Tử là nhờ bảo bối, nhưng liệng một sợi dây nhỏ xíu xa tới bảy tám trượng, mà lại không để quần hùng phát giác, thì hạng cao thủ bình thường cũng không đủ công lực làm nổi. Đinh Xuân Thu nắm lấy lưng A Tử, tiện tay điểm huyệt nàng luôn, đồng thời rút sợi Nhu Ti Sách vào trong tay áo. Liệng xác, quăng dây, vẫy tay, bắt người, bấy nhiêu động tác chỉ trong một tràng cười ha hả, lão bắt xong A Tử mà vẫn chưa dứt tiếng cười.

Du Thản Chi đang lơ lửng trên không, thấy A Tử bị bắt thì kinh hãi vô cùng, vội băng mình vọt tới trước để sáu xác chết lướt qua dưới chân cho lẹ. Gã vừa đáp xuống đất, đã nhắm Đinh Xuân Thu phóng ra một chưởng cực kỳ mãnh liệt.

Đinh Xuân Thu đưa tay trái ra, dùng A Tử để đón lấy phát chưởng tan bia vỡ đá của đối phương. Lúc này Du Thản Chi tuy võ công cao cường nhưng chưa có một chút kinh nghiệm lâm địch nào, thấy mình sắp đánh gãy xương bong gân A Tử thì hốt hoảng quá, lập tức thu chưởng lực về. Nhưng gã đã vận toàn lực để ra chiêu, cấp bách thu về thế nào được? Gặp trường hợp này dù là người võ công bình thường cũng biết xoay chưởng lực nghiêng ra phía khác để né tránh A Tử. Nhưng Du Thản Chi vì quá lo cho A Tử nên vừa thấy nguy là hấp tấp thu chưởng lực về ngay. Hành động này tựa như phóng chưởng tự đánh vào ngực mình, gã loạng choạng, oẹ lên một tiếng rồi phun ra một búng máu tươi.

Giả tỉ là tay công lực tầm thường thì động tác này là tự sát, may mà gã đã luyện Dịch Cân Kinh đến chỗ thành tựu, nên tuy đau đớn nhưng không đến nỗi bỏ mạng, chỉ cần từ từ điều vận chân khí là dễ chịu ngay. Nhưng Đinh Xuân Thu đâu có ngừng tay cho gã kịp thở, lại đánh luôn ra bốn chưởng. Du Thản Chi chưa kịp đề tụ chân khí vào đan điền, đã phải phóng chưởng ra để đỡ chưởng lực của đối phương, mỗi chưởng lại hộc máu một lần. Gã đón xong bốn phát chưởng, đã phun ra bốn ngụm máu đen. Đinh Xuân Thu vẫn không nhân nhượng, đánh luôn phát chưởng thứ năm, muốn lập tức kết liễu tính mạng đối phương.

Bỗng có mấy người quát lớn: “Đinh Lão Quái không được hành hung!”, “Ngừng tay!”, “Hãy tiếp ta một chiêu!”. Thì ra các vị cao tăng Huyền Từ, Quán Tâm, Đạo Thanh, cùng mấy vị anh hùng khác không nỡ thấy Trang Tụ Hiền, dù sao cũng là bang chủ Cái Bang, chết về tay Đinh Xuân Thu, nên vừa quát vừa toan xuất thủ đỡ giúp.

Không ngờ khi Du Thản Chi đón đỡ phát chưởng thứ năm của Đinh Xuân Thu thì người lão lắc lư rồi phải lùi lại một bước. Mấy vị cao thủ nhìn thấy chiêu này cũng làm Đinh Xuân Thu phải tổn thương, nên dừng tay lại không cứu viện nữa. Thì ra Du Thản Chi thổ ra xong bốn búng máu bầm thì thấy dễ thở hơn, đến chưởng thứ năm thì đã vận ra được chất kịch độc Băng Tằm hòa lẫn với nội lực Dịch Cân Kinh. Chưởng lực của Đinh Xuân Thu vốn yếu hơn Du Thản Chi. Nếu lão không chiếm được tiên cơ, đánh Du Thản Chi bị thương trước làm cho nội lực gã giảm đi mất nhiều, thì phát chưởng vừa rồi phải đẩy lão lui lại đến năm bước.

Hơi thở Đinh Xuân Thu đã nhộn nhạo, nhưng lão chẳng chịu cam tâm, vận đến mười thành công lực, quát lên một tiếng thật to, râu tóc dựng đứng cả lên, vung chưởng đánh ra. Du Thản Chi tiến lên một bước, vừa đấu chưởng vừa la lên: “Mau thả Đoàn cô nương ra!” Gã đánh liền ra bốn chưởng, mỗi chưởng lại tiến lên một bước. Gã tiến năm bước thì tới trước mặt Đinh Xuân Thu, chỉ với tay ra một cái là có thể đoạt được A Tử.

Đinh Xuân Thu sắp kiệt lực, lại nhìn thấy cái mặt trơ trơ như xác chết thì không khỏi ghê rợn. Nhưng lão vẫn cố mỉm cười rồi nói: “Ta lại muốn sử dụng công phu Hủ Thi Độc, ngươi phải đề phòng.” Lão nói xong, tay trái đang cầm A Tử khẽ đưa lên.

Du Thản Chi vội kêu lên: “Không! Không! Nhất… nhất định không được!” Giọng gã run rẩy, rõ ràng kinh hãi đến cực điểm, hiểu rằng nếu Đinh Xuân Thu lại thi triển Hủ Thi Độc thì A Tử lập tức biến thành thây độc.

Đinh Xuân Thu thấy đối phương hoảng hốt thì hiểu ngay, nghĩ thầm: “Thì ra mi đã điên đảo thần hồn vì con nhãi thối tha này rồi. Ái chà! Tuyệt diệu, thật là tuyệt diệu!” Khi lão bắt được A Tử, chỉ muốn xử tử nàng lập tức để trừ mầm họa tranh ngôi chưởng môn phái Tinh Tú, nhưng bây giờ hắn thấy tình trạng Du Thản Chi thì lại muốn dùng A Tử làm con tin để uy hiếp tên bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền võ công cao thâm này. Lão bèn hỏi: “Ngươi có muốn con bé này chết không?”

Du Thản Chi vội la lên: “Ngươi… ngươi… thả nàng ra! Nguy… nguy hiểm lắm!” Đinh Xuân Thu cười ha hả nói: “Ta giết nó thì không tốn chút hơi sức nào, sao lại phải tha nó? Nó là phản đồ của bản phái, không biết đến tôn trưởng là gì, không giết nó thì còn ai đáng giết nữa?” Du Thản Chi nói: “Đây là… A Tử cô nương. Bất luận thế nào ngươi cũng đừng giết nàng. Ngươi đã bắn mù hai mắt nàng. Ta xin ngươi buông tha cho nàng ra, ta… ta sẽ hậu tạ.” Gã nói năng lung tung, rõ ràng rất quan tâm đến A Tử, chẳng còn gì là phong độ một vị bang chủ Cái Bang.

Đinh Xuân Thu đã nhận ra nội công âm hàn cực độ của đối phương, thanh âm cũng rất giống gã đầu sắt lúc trước. Có điều lão không hiểu gã làm sao mà tháo được cái đầu sắt ra, lại làm thế nào mà trở thành bang chủ Cái Bang, nhưng lão không có thì giờ để suy nghĩ nhiều, bèn nói: “Muốn ta tha cái mạng nhỏ xíu của nó cũng chẳng khó gì. Chỉ cần ngươi thuận theo ta mấy điều kiện mà thôi.”

Du Thản Chi đáp ngay: “Được, được! Dù là trăm ngàn điều kiện ta cũng ưng thuận.” Đinh Xuân Thu gật đầu nói: “Thế thì hay lắm! Điều thứ nhất là ngươi lập tức phải lạy ta làm sư phụ, từ đây trở thành đệ tử phái Tinh Tú.” Du Thản Chi không ngần ngừ chút nào, lập tức quỳ xuống nói ngay: “Sư phụ! Đệ tử… đệ tử là Trang Tụ Hiền xin bái kiến sư phụ!” Gã nghĩ thầm: “Ta vốn là đệ tử ngươi từ trước, bây giờ có lạy ngươi lần nữa cũng chẳng sao”.

Gã vừa quỳ xuống là quần hùng la ó om sòm. Toàn thể bang chúng Cái Bang từ hàng trưởng lão trở xuống, chẳng một ai không căm phẫn. Họ đều nghĩ: “Bản bang là bang hội lớn nhất thiên hạ, danh tiếng hiệp nghĩa lẫy lừng, mà bang chủ lại đi lạy Tinh Tú Lão Quái làm sư phụ thì còn ra thể thống gì nữa? Bọn ta không thể để hắn làm bang chủ nữa.”

Tiếng chuông trống đàn sáo lại nổi lên điếc cả tai. Bọn môn đồ phái Tinh Tú lớn tiếng hoan hô Tinh Tú Lão Tiên vang dội cả một góc trời. Những câu xưng tụng không thể kể hết được, tưởng chừng như nhật nguyệt không sáng bằng Tinh Tú Lão Tiên, thiên địa không rộng bằng Lão Tiên! Từ đời Bàn Cổ khai thiên lập địa đến giờ, không có người thứ hai nào uy đức to tát bằng Lão Tiên. Các vị Chu Công, Khổng Tử, Lão Tử, cả đến Ngọc Hoàng Đại Đế hay Thập Điện Diêm Vương cũng cam chịu lép vế trước Lão Tiên.

Lúc A Tử bị Đinh Xuân Thu bắt được, Đoàn Chính Thuần cùng Nguyễn Tinh Trúc nhìn nhau thất sắc, nhưng tự biết bản lĩnh mình không địch nổi Tinh Tú lão quái, khó mà cứu được con gái thoát khỏi tay hắn. Khi hai người thấy Trang Tụ Hiền vì con gái mình mà quỳ lạy kẻ thù thì càng thêm sửng sốt. Nguyễn Tinh Trúc vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, khẽ bảo Đoàn Chính Thuần: “Chàng nhìn xem, tình nghĩa của y thâm trọng đến thế nào. Chàng… chàng… liệu có bằng một phần vạn của người ta không?”

Đoàn Dự liếc nhìn Vương Ngữ Yên một cái, nghĩ thầm: “Mình yêu thương Vương cô nương thắm thiết, đã tưởng là không thể hơn được nữa, nhưng so với Trang Tụ Hiền lúc này thì còn kém xa. Y mới đúng là tình thánh trên thế gian. Giả tỉ Vương cô nương bị Tinh Tú Lão Quái bắt được, liệu mình có chịu quì xuống năn nỉ không?” Nghĩ tới đây, đột nhiên chàng cảm thấy nhiệt khí bừng bừng, nổi lòng hăng hái, vì nàng mà muôn thác cũng cam tâm, chịu nhục trước mặt mọi người có đáng gì đâu? Bất giác chàng buột miệng la lên: “Chịu! Đương nhiên là chịu!” Vương Ngữ Yên ngạc nhiên hỏi: “Công tử chịu cái gì?” Đoàn Dự đỏ mặt lên ấp úng: “Ôi chao! Cái đó…”

Du Thản Chi dập đầu lạy mấy cái rồi đứng lên, thấy Đinh Xuân Thu vẫn đang nắm lấy A Tử, da mặt nàng co rúm lại tựa như đang đau khổ vô cùng. Gã vội kêu: “Sư phụ! Sư phụ mau tha nàng ra.” Đinh Xuân Thu cười nhạt đáp: “Con tiểu nha đầu này lớn mật làm càn, sao lại dễ dàng tha nó được? Ngươi phải lấy công chuộc tội, làm mấy việc cho ta.” Du Thản Chi nói: “Dạ! Dạ! Sư phụ muốn đệ tử lập công lao gì?” Đinh Xuân Thu đáp: “Ngươi ra khiêu chiến với Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm, rồi giết lão đi!”

Du Thản Chi ngập ngừng đáp: “Đệ tử với phương trượng Thiếu Lâm vốn không thù oán. Cái Bang tuy định tranh hùng với phái Thiếu Lâm, nhưng cũng không muốn giết người đổ máu.” Đinh Xuân Thu sa sầm nét mặt, tức giận nói: “Mi dám cãi lại ta, thì ra mi gọi ta là sư phụ chẳng qua giả dối!” Du Thản Chi chỉ cầu mong A Tử bình yên thoát hiểm, không đếm xỉa gì đến đạo nghĩa giang hồ hay dư luận thị phi nữa, vội đáp ngay: “Vâng! Nhưng võ công phái Thiếu Lâm rất cao thâm, đệ tử chỉ biết làm hết sức… Sư phụ… nếu đệ tử không đủ sức thì sư phụ cũng đừng gia hại A Tử cô nương.” Đinh Xuân Thu hững hờ đáp: “Giết Huyền Từ hay không là chuyện của ngươi, còn giết A Tử hay không là chuyện của ta.”

Du Thản Chi quay lại, lớn tiếng hô: “Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm! Phái Thiếu Lâm là môn phái đứng đầu các phái võ, Cái Bang là bang hội lớn nhất trên giang hồ, trước đây hai bên đứng ngang hàng ở Trung Nguyên, không bên nào lệ thuộc bên nào. Hôm nay chúng ta phải tỉ đấu để phân cao thấp, ai thắng thì làm minh chủ võ lâm, ai thua thì phải phục tùng hiệu lệnh của minh chủ, không được phản kháng.” Gã vừa nói vừa đảo mắt nhìn quần hùng một lượt, rồi lại tiếp: “Anh hùng hảo hán khắp thiên hạ hôm nay đều tụ tập ở chân núi Thiếu Thất rồi. Vị nào không phục cứ việc tiến ra, khiêu chiến với võ lâm minh chủ.” Gã nói như vậy là đã tự đặt mình lên địa vị minh chủ võ lâm.

Vừa rồi Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi nói chuyện không lớn tiếng, nhưng những người có mặt ở đây đều có nội công thâm hậu nên nghe rõ từng câu từng chữ. Quần tăng chùa Thiếu Lâm nghe Đinh Xuân Thu công khai bảo Trang Tụ Hiền, bang chủ Cái Bang ra giết Huyền Từ phương trượng, dĩ nhiên ai nấy căm hận vô cùng. Nhưng vừa rồi họ theo dõi hai bên tỉ đấu, đã thấy rõ Trang Tụ Hiền công lực cao thâm, thủ đoạn độc ác. Huyền Từ có thể địch nổi gã không, cũng khó mà biết trước được. Nếu gã thi triển độc công tà thuật thì e rằng Huyền Từ không chống nổi.

Huyền Từ không muốn động thủ, nhưng bị gã công nhiên khiêu chiến trước mặt quần hùng nên đại sư không thể thoái thác, liền chắp tay niệm Phật rồi nói: “Cái Bang đã nổi tiếng nghĩa hiệp trong võ lâm Trung Nguyên mấy trăm năm nay, anh hùng trong thiên hạ chẳng ai không biết, chẳng ai không kính ngưỡng. Tiền nhiệm bang chủ là Uông Kiếm Thông đã từng giao hảo thân thiết với tệ phái. Trang thí chủ lên ngôi bang chủ, tệ phái chưa kịp đến chúc mừng, thật là có điều sơ suất. Tuy nhiên đệ tử tệ phái cả tăng lẫn tục vẫn một niềm tôn kính quí bang, Cái Bang và Thiếu Lâm giao hảo mấy trăm năm nay chưa từng tổn thương hòa khí. Vậy mà sao hôm nay Trang bang chủ đột nhiên đem quân hỏi tội? Mong rằng bang chủ tuyên bố lý do cho anh hùng thiên hạ hiện diện ở đây đều được rõ. Đúng sai thì võ lâm sẽ có công luận, nếu tệ phái có điều chi lầm lỗi thì bần tăng sẵn sàng cúi đầu nhận tội.”

Du Thản Chi còn ít tuổi, lại bất học vô thuật, làm sao tranh luận nổi với Huyền Từ? Nhưng trước khi gã đến chùa Thiếu Lâm đã được Toàn Quan Thanh dạy cho một bài diễn thuyết, bây giờ bắt đầu đọc: “Đại Tống ta hiện nay phía Nam có nước Liêu, phía Tây có Tây Hạ, Thổ Phồn, phía Bắc có Đại Lý, tứ di nhòm ngó, Trung Nguyên. Cái đó… cái đó…” Gã học chưa thuộc, lúc này nhớ lộn xộn, đáng lý phải nói phía Bắc có nước Liêu, Nam có Đại Lý, Tây có Thổ Phồn, Tây Hạ thì gã lại nói sai phương vị, khiến mọi người phải hắng giọng, cố nín cho khỏi bật ra tiếng cười.

Gã biết mình nói sai, nhưng không sao rút lời lại được nữa, nên bẽn lẽn vô cùng, may mà có đeo mặt nạ nên người ngoài không nhìn thấy sắc diện. Gã “Ồ” một tiếng rồi tiếp: “Đại Tống ta binh vi tướng quả, thế nước chông chênh. Quốc gia chỉ hoàn toàn trông vào nghĩa sĩ võ lâm, đồng đạo giang hồ, ai nấy hết lòng phò tá mới có thể ngoài chống cường địch, trong diệt gian thần…”

Quần hùng nghe gã nói mấy câu hữu lý, đều lẩm bẩm: “Không sai! Không sai!” Du Thản Chi nghe mà phấn khởi, dõng dạc nói tiếp: “Gần đây mối lo bên ngoài ngày càng thâm trọng, trách nhiệm trên vai hào kiệt giang hồ chúng ta ngày càng nặng nề. Đáng lý võ lâm phải đồng tâm hiệp lực để đối phó với họa ngoại xâm, thế mà các môn phái, bang hội lại lo tranh đấu với nhau để tranh giành hư vị. Giả tỉ tất cả chúng ta không chung lưng đấu cật bảo vệ sơn hà xã tắc, thì e rằng chỉ một tên Liêu cẩu Kiều Phong đơn thương độc mã xâm lấn cõi bờ, hào kiệt Trung Nguyên chúng ta đều thất bại hết. Tại hạ còn nghe nói ở Tinh Tú Hải bên Tây Vực còn có Tinh Tú Lão… Tinh Tú Lão… đã đến chùa Thiếu Lâm… Cái đó…”

Thì ra Toàn Quan Thanh dạy Du Thản Chi nói: “Ở Tinh Tú Hải bên Tây Vực còn có Tinh Tú Lão Quái đã đến chùa Thiếu Lâm hạ sát hai vị cao tăng, mà phái Thiếu Lâm đành chịu bó tay.” Gã thuận miệng đọc thuộc lòng gần hết câu mới biết là hỏng, cứ ấp úng nhắc đi nhắc lại mấy chữ Tinh Tú Lão… không dám nói chữ Quái. Trong quần hùng có người la lên: “Hắn là Tinh Tú Lão Quái, còn mi là Tinh Tú Tiểu Yêu.” Mọi người nổi lên một tràng cười ha hả.

Bọn môn đồ phái Tinh Tú đồng thanh cất tiếng hát: “Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh”. Hơn ngàn người gân cổ lên mà hát, nhưng quần hùng đề khí cười rộ át hẳn tiếng hát đi.

Tiếng hát vừa dứt, trong đám đông bỗng có tiếng ồm ồm cất lên: “Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ…” Cả nhạc lẫn lời đều giống hệt bài hát của bọn môn đồ Tinh Tú. Chúng liền hoan hô vang dội, tưởng là trong phái khác cũng có người ca tụng Lão Tiên, một người ngoài phái ca tụng còn hơn là cả ngàn người bản phái tự khen, tiếng đàn tiếng sáo liền trỗi lên phụ họa. Không ngờ câu thứ tư lại biến đổi đột ngột thành “… Thối hơn rắm chó”, khiến mọi người nhìn nhau kinh ngạc. Dàn nhạc cũng không ngưng kịp, hòa với câu “Thối hơn rắm chó” nghe lại càng du dương réo rắt.

Quần hùng cười bò lê bò càng, còn môn đồ phái Tinh Tú thì ngoác miệng ra mà thóa mạ, nghe rất chối tai. Vương Ngữ Yên cũng mỉm cười nói: “Bao tam ca! Tam ca hát hay quá!” Bao Bất Đồng đáp: “Xấu hổ! Xấu hổ!” Thì ra bốn câu hát vừa rồi là kiệt tác của Bao Bất Đồng.

Du Thản Chi nhân lúc mọi người nhốn nháo, thì thầm với Toàn Quân Thanh một lúc, rồi lại dõng dạc nói tiếp: “Đại Tống ta gặp lúc nguy nan mà đồng đạo giang hồ lại không nhất tâm nhất trí, đến nỗi bị bọn Phiên bang khinh khi lấn áp. Vì thế mà Cái Bang chủ trương lập nên một vị minh chủ võ lâm để ai nấy tuân theo hiệu lệnh, phòng khi có đại sự bọn ta có thể thống nhất hành động, tránh tình trạng mạnh ai nấy đánh. Huyền Từ phương trượng có tán thành ý kiến đó chăng?

Huyền Từ chậm rãi đáp: “Ý kiến của Trang bang chủ rất hữu lý. Nhưng lão tăng còn có chỗ chưa hiểu, xin Bang chủ chỉ giáo.” Du Thản Chi hỏi: “Chỗ nào?” Huyền Từ hỏi lại: “Trang bang chủ đã bái Tinh Tủ Lão Tiên làm sư phụ, vậy bang chủ là môn đồ của phái Tinh Tú, có đúng thế không?” Du Thản Chi đáp: “Cái đó… là việc riêng của tại hạ, không liên quan gì đến phương trượng.” Huyền Từ nói: “Tinh Tú là một phái ở Tây Vực, chẳng dính líu gì đến đồng đạo võ lâm Đại Tống. Vậy võ lâm Đại Tống chúng ta có lập minh chủ hay không, cũng chẳng liên can gì đến phái Tinh Tú. Giả tỉ bằng hữu võ lâm Trung Nguyên muốn đề cử một vị minh chủ để tiện điều khiển đại cuộc của võ lâm Trung Nguyên, thì phái Tinh Tú là người ngoài, không nên tham dự.”

Các vị anh hùng đều lớn tiếng hoan hô: “Không sai!” “Phương trượng Thiếu Lâm nói đúng lắm!” “Các ngươi là bọn chó má Phiên bang, đừng có mơ làm minh chủ võ lâm Trung Nguyên.”

Du Thản Chi cứng họng không biết đáp thế nào, hết nhìn Đinh Xuân Thu lại nhìn Toàn Quan Thanh, chỉ mong nhị vị sư phụ giúp lời. Đinh Xuân Thu đằng hắng một tiếng rồi nói: “Thiếu Lâm phương trượng nói chuyện tức cười. Lão phu là người Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông, đồng hương với Đức Thánh Khổng. Tây Vực chỉ là nơi lão phu tạm thời ẩn cư mà thôi. Phái Tinh Tú là do lão phu sáng lập ra, sao lại bảo là một môn phái Phiên bang ở Tây Vực? Phương trượng bảo Tinh Tú là một môn phái Phiên bang, thì chẳng khác gì bảo Đức Khổng Tử cũng là người Phiên bang, thật là tức cười! Hơn nữa, đại sư đã nói đến Phiên bang Tây Vực, sao không nhớ đến Đạt Ma tổ sư và nguồn gốc võ công của phái Thiếu Lâm? Ngay cả Phật giáo cũng là giáo phái từ Phiên bang Tây Vực đưa đến. Theo ý kiến lão phu thì Thiếu Lâm mới chính là một môn phái Phiên bang Tây Vực.” Lão nói mấy câu này, Huyền Từ cùng quần hùng đều khó mà cãi lại.

Toàn Quan Thanh cũng dõng dạc lên tiếng: “Nguồn gốc võ công trong thiên hạ khó mà xét được. Võ công Tây Vực truyền vào Trung Nguyên cũng có, mà võ công Trung Nguyên truyền sang Tây Vực cũng có. Bang chủ tệ bang là người Trung thổ, Cái Bang là một môn phái ở Trung Nguyên. Vậy bang chủ tệ bang ứng cử làm thủ lĩnh các phái võ Trung Nguyên cũng chẳng có gì vô lý. Huyền Từ phương trượng! Hôm nay phải căn cứ vào võ công mạnh hay yếu để phân thắng bại, chứ không căn cứ vào lời nói vụng hay khéo mà định hơn thua. Cái Bang cùng phái Thiếu Lâm hễ ai mạnh là được, chỉ cần hai vị thủ lĩnh ra tay tỉ thí là có thể phân cao thấp ngay tức khắc. Nếu không tỉ thí thì dù tranh luận đến nửa ngày cũng không đi đến kết quả. Còn nếu phương trượng là người sáng suốt, biết mình biết người, nhắm không địch nổi thì nên bái phục, suy tôn Trang bang chủ lên làm minh chủ võ lâm, hai vị bất tất phải động thủ làm gì.” Câu nói của hắn hàm ý Huyền Từ tự biết không địch nổi nên khiếp đảm mà tìm lời thoái thác.

Huyền Từ thong thả tiến lên mấy bước, lên tiếng: “Trang bang chủ! Thế là bang chủ cố tình ép lão tăng phải động thủ, nếu lão tăng còn nể tình hai bên giao hảo mấy trăm năm nay mà kiên quyết không chịu vâng lời, thì tỏ ra bất kính với quí bang.” Huyền Từ đại sư đưa mắt nhìn khắp quần hùng một lượt rồi dõng dạc nói: “Các vị anh hùng! Hôm nay các vị đều thấy rõ, tệ phái quyết không có ý tranh đấu với Cái Bang, nhưng Trang bang chủ cố tình bức bách nên lão tăng hết đường thoái thác.”

Quần hùng đồng thanh nói: “Không sai! Bọn tại hạ đều thấy rõ phái Thiếu Lâm không có chỗ nào sai trái.”

Du Thản Chi chỉ lo âu đến A Tử đang nguy hiểm. Gã muốn giết Huyền Từ càng sớm càng tốt để Định Xuân Thu buông tha nàng, bèn lớn tiếng nói: “Tỉ võ thì mạnh được yếu thua, không cần biết là hợp lý hay không hợp lý. Mau mau động thủ đi!”

Du Thản Chi thuở nhỏ ham chơi biếng học, tuy không phải là người có tính nết thuần lương, nhưng cũng là một thiếu niên chậm chạp chất phác. Sau khi phụ thân chết đi, gã phiêu dạt giang hồ, chịu đựng không biết bao nhiêu khinh khi nhục nhã. Trước kia gã được gần người quang minh chính trực chỉ điểm cho điều phải trái, bây giờ lại cặp kè với A Tử. Người đời thường nói “gần mực thì đen”, huống chi gã lại nhất tâm sùng kính A Tử, nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của nàng, nên đường lối tà ma, ngoại đạo của phái Tinh Tú từ A Tử nhiễm vào gã càng lẹ. Mặc dù từ lúc gã bái Đinh Xuân Thu làm sư phụ vẫn chưa học lão một chút võ công, nhưng công phu của gã vẫn là công phu của phái Tinh Tú, toàn theo đường lối âm độc để thủ thắng. Điều xấu tiêm nhiễm hết ngày này qua ngày khác, con nhà dòng dõi nghĩa hiệp đất Trung Nguyên đã biến thành người hung bạo bất phân thiện ác, bất chấp thị phi.

Huyền Từ dõng dạc nói: “Lời nói của Trang bang chủ thật là không tương xứng với thanh danh nghĩa hiệp của Cái Bang mấy trăm năm nay.”

Thân ảnh Du Thản Chi đột nhiên nhoáng lên, vọt lại một trượng rồi nói: “Đánh thì đánh, không đánh thì chạy, nói nhiều vô ích.” Gã vừa nói vừa liếc nhìn Đinh Xuân Thu ra chiều nóng nảy.

Huyền Từ nói: “Được rồi! Hôm nay lão tăng xin được lãnh giáo hai đại tuyệt kỹ Hàng Long Thập Bát Chưởng cùng Đả Cẩu Bổng Pháp của Trang bang chủ, để anh hùng hảo hán thiên hạ được xem công phu đích truyền từ mấy trăm năm của Cái Bang.”

Du Thản Chi ngẩn ra, bất giác lùi lại hai bước. Tuy đã làm bang chủ Cái Bang nhưng chẳng biết một chiêu nào trong Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp. Gã chỉ nghe người ta nói lúc bang chủ Cái Bang truyền ngôi cho người khác tất phải truyền hai môn tuyệt kỹ trấn bang này, Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng có khi truyền cho người khác, nhưng Đả Cẩu Bổng Pháp thì nhất định là phải người kế vị bang chủ mới được truyền thụ. Mấy trăm năm nay không có một vị bang chủ Cái Bang nào là không hiểu hai môn tuyệt kỹ trấn bang đó.

Huyền Từ liền nói: “Lão tăng là phương trượng chùa Thiếu Lâm, dĩ nhiên phải thi triển Đại Kim Cương Quyền để đón tiếp Hàng Long Thập Bát Chưởng, dùng thiền trượng để đón tiếp Đả Cẩu Bổng của quí bang. Hỡi ơi! Thiếu Lâm cùng Cái Bang đời đời giao hảo, mấy môn võ này trước nay chỉ cùng nhau đối phó với người ngoài, chưa từng đối địch với nhau. Lão tăng đức bạc, thật là hổ thẹn với các vị bang chủ và chưởng môn đời trước của Cái Bang và Thiếu Lâm.” Hai tay đại sư chắp lại, chính là khởi thức của chiêu Kính Lễ Như Lai trong Đại Kim Cương Quyền. Thần sắc đại sư đầy vẻ từ hòa, nhưng tăng bào phồng ra hai bên tả hữu, đủ thấy trong chiêu thức này có ẩn tàng nội lực thiền môn rất cao thâm.

Du Thản Chi không nói gì nữa, tay trái vung lên không đánh ra một chưởng, rồi tay phải cũng tiếp tục phóng chưởng ra theo. Tả chưởng ra trước mà đến sau, hữu chưởng ra sau mà đến trước, hai luồng lực đạo so le xô tới, biến ảo dị thường. Chưởng lực hai người phát ra đến giữa đường thì chạm nhau bật một tiếng “ầm” rồi triệt tiêu mất. Chỉ nghe hai tiếng veo véo, hai đầu dây lưng của Huyền Từ đứt ra, bay ra hai bên tả hữu xa đến mấy trượng. Thì ra song chưởng lực của Du Thản Chi bao phủ một phạm vị rất rộng, tuy bị chiêu Kính Lễ Như Lai làm cho tiêu tan, nhưng hai đầu sợi dây lưng của Huyền Từ tung dài ra hai bên hông bị chưởng lực của gã quạt đứt.

Quần tăng Thiếu Lâm cùng quần hùng thấy vậy đều la ó om sòm: “Đây là võ công tà phái Tinh Tú.” “Không phải Hàng Long Thập Bát Chưởng.” “Không phải công phu của Cái Bang!” Ngay quần đệ tử Cái Bang cũng la lên: “Chúng ta tỉ võ với phái Thiếu Lâm, không thể dùng công phu tà phái được!” “Bang chủ phải thi triển Hàng Long Thập Bát Chưởng mới đúng.” “Sử dụng công phu tà phái là làm mất thể diện Cái Bang.”

Du Thản Chi nghe mọi người phản đối om sòm, bất giác thấy ngần ngại trong lòng, chiêu thứ hai không phóng ra được nữa. Bọn đồ đệ phái Tinh Tú la ầm lên: “Thần công phái Tinh Tú cao cường gấp mấy Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang, sao lại không thi triển nữa?” “Trang sư huynh tiến lên đi! Dĩ nhiên là sư huynh phải sử dụng thần công của Lão Tiên đã truyền thụ cho để giết lão hòa thượng đó.” “Thần công phái Tinh Tú là đệ nhất thiên hạ, đánh không ai đỡ nổi.”

Đột nhiên lẫn trong những tiếng phản đối và hoan hô ầm ĩ, có một thanh âm hùng tráng dưới chân núi vọng lên: “Ai dám nói võ công phái Tinh Tú cao cường hơn Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang?”

Thanh âm này tuy không lớn lắm, nhưng truyền vào tai của người nào cũng nghe rất rõ ràng. Mọi người đều im bặt, mặt đầy vẻ kinh nghi. Bỗng tiếng vó ngựa dồn dập, mười mấy người cưỡi ngựa đang chạy như bay lên núi. Kỵ sĩ đều mặc áo mỏng màu đen, trong lót vải tím, người mạnh như hổ, ngựa khỏe như rồng, oai phong lẫm liệt. Con ngựa nào cũng đầu cao, chân dài, lông đen tuyền, sải vó tới đâu là ánh hoàng kim lấp loáng đến đấy, thì ra móng ngựa đều có bịt vàng. Cả thảy chỉ có mười chín kỵ sĩ, nhưng khí thế mạnh như thiên binh vạn mã. Gần tới nơi thì mười tám kỵ sĩ đi trước rẽ ra hai bên, kỵ sĩ cuối cùng đi vào giữa, tiến lên trước.

Một số lớn bang chúng Cái Bang vừa thấy người này liền lớn tiếng reo: “Kiều bang chủ! Kiều bang chủ!” Mấy trăm bang chúng chạy vội tới trước ngựa khom lưng thi lễ.

Thì ra người này chính là Tiêu Phong. Từ khi bị trục xuất ra khỏi Cái Bang, chàng vẫn cho rằng đệ tử trong bang đều thù ghét mình, không ngờ đối với chàng họ vẫn giữ một tình cảm hết sức nồng nhiệt, bái kiến một cách chân thành. Tiêu Phong thấy nhiệt khí bốc lên nóng ran lồng ngực, đôi mắt bỗng long lanh ngấn lệ. Chàng nhảy xuống ngựa, chắp tay thi lễ nói: “Tại hạ là Tiêu Phong người Khất Đan, đã bị trục xuất không còn dính líu đến Cái Bang nữa, sao các vị lại xưng hô như cũ? Các huynh đệ lâu nay vẫn mạnh khỏe chứ?” Câu nói sau cùng của Tiêu Phong hơi lạc giọng, tỏ ra chàng cũng quyến luyến bang chúng Cái Bang.

Bọn đệ tử Cái Bang đến tham kiến Tiêu Phong phần lớn là hạng ba bốn túi. Hạng một hai túi đa số là mới gia nhập, nếu không thì cũng địa vị thấp kém, ít có cơ hội gặp gỡ Tiêu Phong. Còn hàng năm túi trở lên thì phải giữ lề luật, do lớn tuổi lại ở địa vị cao, dĩ nhiên hành xử dè dặt, không như bọn trẻ tuổi bồng bột muốn làm gì là làm ngay không cần suy tính. Mấy trăm bang chúng tiến ra thi lễ với Tiêu Phong dĩ nhiên đã vi phạm bang qui. “Kiều bang chủ” là kẻ đại thù dòng giống Khất Đan, dĩ nhiên bang chúng Cái Bang từ trên xuống dưới đều biết rõ. Thế mà Tiêu Phong vừa xuất hiện, tình cảm kính yêu trong lòng họ lại nảy sinh, nhất thời quên cả đại sự. Nghe chàng nhắc nhở, có người lặng lẽ cúi đầu lùi lại, nhưng không ít người vẫn hỏi: “Kiều… Kiều… Lão nhân gia vẫn mạnh khỏe chứ? Sau khi ly biệt, bọn tại hạ chẳng ngày nào không tưởng nhớ đến lão nhân gia.”

Từ hôm A Tử bỗng dưng bỏ đi không thấy về, mấy ngày sau cũng không có tin tức gì, Tiêu Phong hết sức lo lắng. Chàng phái rất nhiều thám tử đi tìm kiếm, mấy tháng sau mới được tin báo là nàng đang ở cùng với gã đầu sắt trong Cái Bang.

Tiêu Phong nghe vậy lại càng kinh hoảng, nghĩ rằng Cái Bang hận mình đến xương tủy, phen này bắt được A Tử nhất định sẽ giữ nàng làm con tin để uy hiếp mình. Chàng muốn cứu nàng lập tức, liền bẩm lên Liệu đế xin phép nghỉ hai tháng, đem toàn bộ công chuyện ở Nam Viện giao cho Nam Viện khu mật sứ Gia Luật Mạc Ca thay mình lo liệu, rồi đi về hướng nam.

Chuyến này Tiêu Phong xuống Trung Nguyên đã chuẩn bị sẵn sàng, chọn đem theo mười tám con tuấn mã cùng mười tám cao thủ Khất Đan, gọi là Yên Vân Thập Bát Kỵ. Lần trước, Tiêu Phong độc chiến quần hùng tại Tụ Hiền Trang, nếu không được một vị đại anh hùng đột nhiên xuất hiện cứu cho thì đã mất mạng tại chỗ, rõ ràng mãnh hổ nan địch quần hồ, dù ai võ công cao cường đến đâu cũng không thể lấy một chọi trăm. Bây giờ chàng đem Yên Vân Thập Bát Kỵ đến đây, mỗi tên có thể địch nổi mười, mà ngựa của chúng đều là tuấn mã ngày đi ngàn dặm, lỡ gặp nguy thì rút lui cũng chẳng khó gì.

Khi cả đoàn đi đến Hồ Nam, Tiêu Phong bắt được một tên đệ tử hạng bét của Cái Bang để thẩm vấn, được biết đôi mắt A Tử đã mù, nàng đang cùng tân bang chủ đi đến chùa Thiếu Lâm, không rời nửa bước, Tiêu Phong lại càng sợ hãi, nghĩ rằng A Tử đã bị người trong Cái Bang làm mù mắt, không chừng mỗi ngày còn lôi ra đánh đập hành hạ cho bõ ghét mình. Chàng bèn đổi hướng đi đến Thiếu Lâm Tự, chỉ mong dọc đường gặp bọn Cái Bang để ra tay cướp người, không muốn hội diện các vị cao tăng Thiếu Lâm làm gì.

Lúc Tiêu Phong đến chân núi Thiếu Thất, từ ngoài xa đã nghe bọn môn đồ phái Tinh Tú la ó om sòm, huênh hoang những gì võ công Tinh Tú cao cường hơn Hàng Long Thập Bát Chưởng, không khỏi lửa giận bốc lên. Tuy chàng bây giờ không còn là bang chủ Cái Bang, nhưng Hàng Long Thập Bát Chưởng là do ân sư Uông Kiếm Thông đích thân truyền thụ cho chàng, làm sao để chúng miệt thị được? Tiêu Phong giục ngựa phóng lên núi, liếc mắt thấy Đinh Xuân Thu đang nắm giữ một thiếu nữ áo tía thân hình mảnh mai, khuôn mặt trái xoan trắng như tuyết, chính là A Tử. Đôi mắt nàng lờ đờ, hai con ngươi bị hủy, dĩ nhiên đã mù lòa rồi.

Tiêu Phong vừa đau buồn, thương cảm lại vừa phẫn nộ, liền sải bước tiến đến, tay trái khoa lên một vòng, tay phải vung chưởng nhằm đánh tới Đinh Xuân Thu. Đây chính là chiêu Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Lúc chàng cất tiếng quát thì còn đứng cách Đinh Xuân Thu mười lăm mười sáu trượng, nhưng lúc chưởng lực phát ra thì chỉ còn cách chừng bảy tám trượng.

Trong thiên hạ, dù ai có chưởng lực mãnh liệt tới đâu cũng không thể đả thương người cách năm trượng. Đinh Xuân Thu có nghe nói Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung nên tuyệt nhiên không dám coi thường địch thủ, nhưng lão thấy còn xa mười lăm mười sáu trượng mà đối thủ đã phát chưởng thì không ngờ rằng phát chưởng này nhằm đánh mình. Tiêu Phong vừa phát chưởng vừa lướt tới, nháy mắt chỉ còn cách ba bốn trượng, rồi lại tiếp theo một chiêu Kháng Long Hữu Hối nữa. Chưởng sau đẩy chưởng trước, hai luồng chưởng lực hợp lại có sức mạnh tựa như bài sơn đảo hải.

Chỉ trong nháy mắt, Đinh Xuân Thu thấy nghẹt thở, chưởng lực của đối phương vừa như sóng thần xô tới mặt, vừa như một bức tường cao sắp đổ ập xuống đầu, tưởng chừng A Tử cùng lão sắp phải nát người thành một đống bùn. Đinh Xuân Thu kinh hãi quá, không còn nghĩ ra được kế gì để đối phó. Lão biết phóng đơn chưởng ra đỡ thì dĩ nhiên phải gãy tay, mà không chừng còn phải nát xương toàn thân. Trong lúc cấp bách, lão vội ném A Tử ra rồi khoa hai tay lên ba vòng để che phía trước, đồng thời vận sức xuống chân nhảy lùi ra sau.

Tiêu Phong lại phóng ra một chiêu Kháng Long Hữu Hối, chưởng trước chưa tan, chưởng sau lại đến. Đinh Xuân Thu không dám đỡ thẳng, chỉ phóng chưởng đẩy vào mé bên chưởng lực của đối phương cho lệch đi, thế mà vẫn cảm thấy cánh tay tê nhức, cơ hồ nghẹt thở. Lão nhân lúc này nhảy lui ra ba trượng, vẫn sợ Tiêu Phong rượt theo, bèn dựng bàn tay lên che trước ngực, lại ngấm ngầm ngưng tụ độc khí vào bàn tay. Tiêu Phong nhẹ nhàng vươn tay ra đón lấy A Tử vẫn đang lơ lửng trên không, chỉ chạm vào một cái là đã giải huyệt cho nàng.

A Tử tuy hai mắt đui mù không nhìn thấy gì, từ lúc bị Đinh Xuân Thu điểm huyệt cũng không nói được, nhưng những biến cố xảy ra đều nghe rất rõ ràng. Nàng vừa được giải khai huyệt đạo đã mừng rỡ lên tiếng: “Hảo tỉ phu! May có tỉ phu đến cứu tiểu muội.”

Tiêu Phong thấy trong lòng bất nhẫn, dịu dàng an ủi: “A Tử! Muội chịu đau khổ đến thế này, đều là do tỉ phu liên lụy làm khổ muội.” Chàng chỉ đoán rằng những nhân vật đầu não của Cái Bang hận mình rất sâu mà chẳng làm gì được, biết A Tử là thân nhân duy nhất của mình trên thế gian này, bèn tới Nam Kinh bắt nàng về đây để giam cầm, đày đọa cho hả giận. Chàng không ngờ toàn bộ việc này đều do A Tử tự làm tự chịu.

Lúc Tiêu Phong lên núi, quần hùng nhốn nháo cả lên. Ngày ở Tụ Hiền Trang, một mình chàng đánh chết mấy chục cao thủ, oai danh lừng lẫy thiên hạ. Quần hùng Trung Nguyên nghĩ tới vụ này vừa nghiến răng căm hận vừa khiếp đảm kinh hồn, nên thấy chàng đột nhiên xuất hiện tại núi Thiếu Thất, đều tin chắc khó mà tránh được một trận ác chiến. Những người có mặt ở Tụ Hiền Trang ngày trước, nhớ lại cảnh máu đổ thịt rơi trong đại sảnh thì lại sợ run lên. Khi Tiêu Phong chỉ một chiêu Kháng Long Hữu Hội đã đánh cho Tinh Tú Lão Quái khét tiếng giang hồ phải cắm đầu chạy trốn, ai nấy lại càng thêm phần khiếp sợ. Quần hùng trên núi đều ngơ ngác nhìn nhau không dám nói gì.

Chỉ có mấy chục tên môn đồ phái Tinh Tú lên tiếng: “Gã họ Kiều kia! Mi đã trúng phải tiên thuật của Tinh Tú Lão Tiên, chỉ mười ngày là nhũn ra mà chết.” “Tinh Tú Lão Tiên thấy mi là hạng hậu sinh tiểu tử, nhường mi đánh trước ba chiêu.” “Tinh Tú Lão Tiên đã nhẹ tay mà mi còn dám động thủ ư? Mi không mau mau năn nỉ Lão Tiên tha mạng, thì phải chết không có đất mà chôn.” Tuy chúng vẫn huênh hoang, nhưng thanh âm rõ ràng miễn cưỡng, không còn hăng hái như trước.

Du Thản Chi vừa gặp Tiêu Phong đã sợ hãi, nhưng lúc gã thấy tình cảnh hai người thân mật, chàng quàng tay ôm A Tử vào lòng, A Tử lại vui mừng rạng rỡ, thì không nhẫn nại được nữa, nhảy xổ lại nói: “Ngươi mau… mau thả A Tử cô nương ra!” Tiêu Phong đặt A Tử xuống đất rồi hỏi: “Các hạ là ai?” Khi mục quang hai người chạm nhau, Du Thản Chi bất giác bị oai khí của chàng làm cho khiếp sợ, rụt rè đáp: “Tại hạ… tại hạ là bang chủ Cái Bang… tên gọi Trang…” Trong Cái Bang có người lớn tiếng nói: “Ngươi đã gia nhập phái Tinh Tú thì còn làm bang chủ Cái Bang thế nào được?” Tiêu Phong giận dữ quát: “Sao ngươi làm mù mắt A Tử cô nương?” Du Thản Chi khiếp sợ thần oai của chàng, bất giác lùi lại hai bước rồi đáp: “Không… không phải tại hạ… thực sự không phải…” A Tử lên tiếng: “Tỉ phu! Mắt của muội bị lão tặc Đinh Xuân Thu làm cho mù lòa. Tỉ phu mau mau móc mắt của Đinh lão tặc ra báo thù cho muội.”

Tiêu Phong nhất thời khó mà hiểu rõ được đầu đuôi câu chuyện kỳ lạ này. Chàng đảo đôi mắt sáng như điện nhìn qua một lượt, chợt thấy trong đám đông có cả Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc thì trong lòng vừa chua xót vừa vui mừng. Tiêu Phong lớn tiếng nói: “Đại Lý Đoàn vương gia! Lệnh ái thiên kim đang ở đây, vương gia đưa về là tốt nhất.” Chàng bèn nắm tay A Tử dẫn lại trước mặt Đoàn Chính Thuần, khẽ đẩy nàng qua.

Nguyễn Tinh Trúc vốn đã khóc thầm, lúc này nước mắt tuôn xuống như mưa. Mụ tiến lên ôm lấy A Tử nói: “Hài tử! Mắt… mắt con làm sao vậy?”

Thấy Tiêu Phong bất ngờ xuất hiện, Đoàn Dự cả mừng toan ra tương kiến thì bỗng thấy chàng vung chưởng đánh Đinh Xuân Thu, giải cứu A Tử, rồi hội kiến Du Thản Chi, chưa có lúc nào rảnh. Đến lúc Nguyễn Tinh Trúc ôm lấy A Tử khóc rống lên, thì chàng ngạc nhiên tự hỏi: “Sao Kiều đại ca lại gọi cô bé mù kia là lệnh ái thiên kim của gia gia ta?” Nhưng rồi chàng hiểu phụ thân mình đi tới đâu vương tình tới đó, đoán ngay ra quan hệ bên trong. Chàng liền rảo bước tiến ra lớn tiếng gọi: “Đại ca mạnh khỏe chứ? Tiểu đệ nhớ đại ca muốn chết.”

Tiêu Phong đã từng đấu tửu với Đoàn Dự trong một tửu lâu ngoài thành Vô Tích, rồi kết bái huynh đệ, tuy thời gian gần nhau ngắn ngủi, song thật là ý hợp tâm đầu. Chàng bèn tiến lại nắm cả hai tay Đoàn Dự rồi nói: “Hiền đệ! Gần đây có chuyện gì không? Tiểu huynh thì nhiều chuyện lắm, một câu nói không hết được. May mà hai ta đều khỏe mạnh yên lành.”

Bỗng trong đám đông có người quát lên: “Gã họ Kiều kia! Mi giết huynh trưởng ta, nợ máu chưa trả. Hôm nay ta quyết liều mạng với mi!” Rồi lại có tiếng người khác: “Gã Kiều Phong này là quân mọi rợ Khất Đan, người người đều nên tru diệt, hôm nay quyết không để hắn còn sống mà xuống núi Thiếu Thất.” Tiếng la ó om sòm rất là huyên náo, người đòi nợ máu của con, người lại muốn trả thù cha.

Khi ở Tụ Hiền Trang, Tiêu Phong đã giết chết và đả thương rất nhiều cao thủ. Hiện giờ, trong số anh hùng đến chùa Thiếu Lâm, không ít người có thân nhân hay bạn bè đã chết dưới tay Tiêu Phong. Tuy họ vẫn sợ chàng nhưng nghĩ tới món nợ máu của thân nhân huynh đệ nên không dằn lòng được nữa, bèn lớn tiếng thóa mạ. Tiếng quát tháo, tiếng chửi rủa mỗi lúc một vang dội. Ai cũng thấy Tiêu Phong chỉ đem theo mười tám tên võ sĩ, mà chàng đã cùng Cái Bang và phái Thiếu Lâm kết mối thâm cừu. Tiêu Phong vừa đánh nhau với Đinh Xuân Thu, lại biến thành đại địch của phái Tinh Tú. Nếu bây giờ nổ ra đại chiến, giả tỉ Cái Bang nhớ tình xưa mà chỉ đứng xem, thì anh hùng thiên hạ cùng tăng lữ chùa Thiếu Lâm, lại thêm bọn môn đồ phái Tinh Tú, tất cả đến mấy ngàn người sẽ vây lại đánh. Bên Tiêu Phong chỉ có mười chín người, thì dù bản lĩnh có bằng trời cũng nhất định không thể chạy thoát. Mọi người thấy phe ta hùng hậu mà đối phương yếu thế, tinh thần đều phấn khởi vô cùng.

Quần hùng đông người lắm miệng, la ó càng lúc càng sôi nổi. Nhiều kẻ mang nặng mối thù, lúc này không kiêng dè gì nữa, mở miệng thóa mạ thô tục nghe rất chướng tai. Lại có mấy chục người rút binh khí ra, khoa đao múa kiếm, xem chừng chỉ muốn nhảy xổ vào loạn đao phân thây Tiêu Phong ngay lập tức.

Phen này Tiêu Phong dẫn mười tám kỵ sĩ Khất Đan vào Trung Nguyên không phải là để đánh nhau, chỉ muốn đưa A Tử về Nam Kinh, không ngờ lại gặp vô số kẻ thù ở đây. Từ thuở nhỏ chàng đã qua lại giang hồ, tuy không biết mặt hết các anh hùng tại đây, nhưng đã nghe danh phần lớn, hiểu rằng đa số đều là người hiệp nghĩa. Họ oán ghét chàng chẳng qua vì chàng một là dòng dõi Khất Đan, hai là vì bên trong có ai xúi bẩy để sinh chuyện hiểu lầm. Trận chiến ở Tụ Hiền Trang ngày trước, chàng phải đánh giết nhiều người chỉ để tự vệ, chứ bản tâm không muốn thế. Hôm nay nếu phải đại chiến thì chàng dù giết được nhiều người cũng phải đến lúc kiệt sức, giả tỉ trốn thoát được thì bọn Yên Vân Thập Bát Kỵ cũng khó bảo toàn tính mệnh. Chàng nghĩ thầm: “May mà hôm nay mình giao được A Tử cho song thân chiếu cố, A Châu có linh thiêng tất cũng hài lòng. Bây giờ ta mau mau rút lui là hơn, hà tất phải giết nhiều người cho thêm thù oán?”. Tiêu Phong liền quay sang bảo Đoàn Dự: “Hiền tệ! Tình hình lúc này rất nghiêm trọng, huynh đệ ta khó nói chuyện nhiều. Chúng ta chia tay thôi, núi sông còn đó thì còn ngày tái hội.” Ý chàng muốn Đoàn Dự tránh đi để rảnh tay xuống núi, khỏi phải lo lắng bảo vệ cho nghĩa đệ.

Đoàn Dự thấy mấy ngàn anh hùng thiên hạ đều muốn giết nghĩa huynh, bất giác nổi lòng nghĩa hiệp, bèn lớn tiếng nói: “Đại ca! Lúc huynh đệ ta kết nghĩa đã ước hẹn với nhau những gì? Có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, không sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày nhưng quyết chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hôm nay đại ca gặp nạn, có lý đâu tiểu đệ ham sống một mình?” Trước nay mỗi lần gặp nguy hiểm, Đoàn Dự đều thi triển Lăng Ba Vi Bộ, bất kể bao nhiêu người vây bủa cũng chạy thoát dễ dàng, nhưng lúc này lại không nghĩ gì đến chuyện trốn tránh nữa. Chàng thấy tình thế hung hiểm, bèn quyết chết chung với Tiêu Phong cho vẹn nghĩa đệ huynh.

Đa số hào kiệt chưa biết Đoàn Dự là ai, chỉ thấy chàng xưng hô với Tiêu Phong là nghĩa huynh nghĩa đệ, lại tựa như muốn hợp lực cùng Tiêu Phong chống lại mọi người. Nhưng chẳng ai thèm quan tâm đến tên đồ gàn nhỏ tuổi này, lại càng múa may hùng hổ hơn trước.

Tiêu Phong nói: “Hiền đệ! Hảo ý của đệ, tiểu huynh rất cảm tạ, nhưng bọn họ muốn giết tiểu huynh cũng không phải dễ đâu. Hiền đệ nên lui ra, không thì tiểu huynh phải phân tâm bảo vệ cho đệ, như vậy lại càng bất tiện.” Đoàn Dự đáp: “Đại ca bất tất phải bảo vệ. Bọn họ với tiểu đệ không thù không oán, họ giết tiểu đệ làm chi?” Tiêu Phong cười khổ, trong lòng cảm khái thê lương, nghĩ thầm: “Giả tỉ nếu không thù oán thì không giết nhau; không giết nhau thì trên thế gian làm gì còn có thù oán nữa?”.

Đoàn Chính Thuần khẽ bảo bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch: “Vị Tiêu đại hiệp này đã có ơn cứu mạng ta… Chúng ta thử chờ xem, nếu y gặp nguy hiểm thì phải xông vào cố mà cứu thoát.” Phạm Hoa “Vâng” rồi rút kiếm nhìn về phía mấy ngàn hào kiệt, hỏi: “Đối phương đông người quá, không hiểu chúa công có diệu kế gì không?” Đoàn Chính Thuần lắc đầu đáp: “Đại trượng phu phải ân oán phân minh, hết lòng hết sức, lấy cái chết để đền đáp!” Bọn người Đại Lý đồng thanh nói: “Đương nhiên là vậy.”

Bên kia, bọn Yến Tử Ổ cũng đang khẽ thương lượng. Công Dã Càn từ khi đối chưởng rồi uống rượu với Tiêu Phong ở Vô Tích, trong lòng rất khâm phục, cũng muốn ra tay giúp sức. Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác thì mười phân kính phục Tiêu Phong, chỉ muốn nhảy ra giúp chàng ngay lập tức, nhưng Mộ Dung Phục nói: “Các vị đại huynh! Đại sự của chúng ta là phục hưng Đại Yên, có nên vì một mình Tiêu Phong mà kết oán với anh hùng thiên hạ chăng?” Đặng Bách Xuyên nói: “Công tử nói rất đúng! Chúng ta phải làm thế nào?”

Mộ Dung Phục đáp: “Phải thu phục nhân tâm để họ giúp mình.” Đột nhiên y hú lên một tiếng dài rồi dõng dạc nói: “Tiêu huynh! Huynh là anh hùng xứ Khất Đan, coi hào kiệt Trung Nguyên chúng ta không ra gì. Hôm nay Cô Tô Mộ Dung Phục này xin lãnh giáo mấy cao chiêu của các hạ. Giả tỉ tại hạ phải chết dưới tay Tiêu huynh, thì cũng là góp một phân vào công việc chung của các bằng hữu hào kiệt Trung Nguyên, không phải là chết uổng.” Hắn nói mấy câu này hết sức rõ ràng, chỉ mong dù mình thắng hay bại thì hào kiệt Trung Nguyên cũng coi nhà Cô Tô Mộ Dung là bạn sinh tử chi giao.

Quần hùng đều muốn giết Tiêu Phong, nhưng chưa ai dám tiến ra khiêu chiến. Mọi người đều biết, sau cùng dĩ nhiên Tiêu Phong phải chết, nhưng thể nào chàng cũng giết được mấy chục mạng trong số những người xông vào trước tiên. Bây giờ họ thấy Mộ Dung Phục tiến lên, ai nấy vừa sung sướng vừa phấn khởi. Họ biết Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung hai người nổi tiếng ngang nhau, dù Mộ Dung Phục không địch nổi nhưng cũng có thể làm nhụt bớt nhuệ khí của đối phương, mà nội lực của Tiêu Phong cũng bị tiêu hao không ít. Ai nấy lên tiếng hoan hô vang dội một góc trời.

Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục đột nhiên tiến ra khiêu chiến với mình thì không khỏi kinh hãi, liền chắp tay ôm quyền thi lễ nói: “Tại hạ đã nghe anh danh của công tử đã lâu, hôm nay được gặp cao hiền thật thỏa ước vọng bình sinh.”

Đoàn Dự vội đáp: “Mộ Dung huynh không nên làm thế. Đại ca tại hạ mới gặp Mộ Dung huynh lần đầu, vốn không thù oán, huynh lại nhân lúc người ta lâm nguy mà làm khó ư?” Mộ Dung Phục lạnh lùng cười đáp: “Nếu Đoàn huynh thấy chuyện bất bình, muốn làm anh hùng hảo hán thì cứ bước lên chỉ giáo.” Hắn thấy Đoàn Dự cứ bám theo Vương Ngữ Yên nên từ lâu đã rất khó chịu, bây giờ muốn nhân cơ hội này mà nhổ một cái gai trước mắt. Đoàn Dự nói: “Tại hạ có bản lĩnh gì mà tỉ đấu với huynh? Bất quá tại hạ chỉ lấy lẽ công bằng mà nói thôi.”

Đinh Xuân Thu vừa bị Tiêu Phong đánh cho mấy chưởng, chưa thi triển được chút tuyệt kỹ nào đã phải bỏ chạy thật là nhục nhã. Lúc này lão tung mình nhảy ra, cười ha hả rồi nói: “Gã họ Tiêu kia! Lão phu thấy mi trẻ tuổi, lúc nãy nhường mi ba chiêu. Đến chiêu thứ tư thì lão phu không nhường nữa đâu.

Du Thản Chi cũng tiến ra nói: “Trang mỗ đa tạ ngươi đã cứu A Tử cô nương, chỉ vì mối thù giết cha không thể đội trời chung! Gã họ Tiêu kia! Hôm nay ta phải liều chết với ngươi.”

Huyền Sinh đại sư của phái Thiếu Lâm cũng âm thầm truyền lệnh: “La Hán Đại Trận phải giữ cẩn thận mọi con đường xuống núi. Không thể để tên ác tặc đã giết chết Huyền Khổ sư huynh còn sống mà xuống núi Thiếu Thất.”

Tiêu Phong thấy ba đại cao thủ tạo thế chân vạc để bao vây mình, lại thấy quần tăng chùa Thiếu Lâm tứ phía đều chuyển động, mới nhìn tưởng như rối loạn, mà thực ra đang bày trận pháp. Tình hình này so với cuộc chiến ở Tụ Hiền Trang ngày trước còn nguy hiểm hơn nhiều. Bỗng nghe mấy tiếng ngựa hí rất thê thảm, mười chín con tuấn mã Khất Đan tự nhiên miệng sùi bọt trắng, ngã lăn ra chết.

Mười tám tay võ sĩ Khất Đan quát tháo om sòm, vung đao phóng chưởng, chỉ chốc lát đã đánh chết bảy tám tên đệ tử phái Tinh Tú, còn mấy tên ôm đầu chạy trốn. Thì ra lúc Đinh Xuân Thu tiến ra khiêu chiến, bọn chúng chia nhau phóng độc cho đàn ngựa chết trước để Tiêu Phong không còn phương tiện thoát khỏi trùng vây.

Tiêu Phong liếc mắt nhìn thấy những con ngựa yêu quí lúc lâm tử còn cố mở mắt nhìn mình lưu luyến, bất giác xúc động. Chàng gắn bó với đàn ngựa này đã lâu ngày, đường xuôi Nam ngàn dặm ngày đêm chẳng rời yên, không ngờ hôm nay chúng lại chết về tay bọn gian nhân. Bầu nhiệt khí bốc lên tới óc, chí anh hùng rừng rực trong lòng, chàng hú lên một tiếng dài rồi nói: “Mộ Dung công tử, Trang bang chủ, Đinh lão quái! Cả ba vị cứ tiến lên, Tiêu mỗ chẳng sợ gì.” Tiêu Phong căm hận bọn Tinh Tú dùng thủ đoạn âm độc, liền phóng chương tấn công Đinh Xuân Thu trước. Đinh Xuân Thu đã được nếm mùi chưởng lực lợi hại của Tiêu Phong, liền vung cả song chưởng lên dùng toàn lực để đỡ. Tiêu Phong thuận tay xoay chưởng chênh chếch đánh vào Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục vốn chuyên về kỹ thuật Đẩu Chuyển Tinh Di, chỉ cần di chuyển phương vị là chiêu thức của đối phương đánh ngược trở lại đối phương. Nhưng phát chưởng của Tiêu Phong oai lực vô cùng, lực đạo đã hùng hậu mà phương hướng cũng biến ảo, hắn không kịp hiểu phát chưởng đánh vào vị trí nào nên không thể lái đi được. Mộ Dung Phục buộc phải ngưng tụ nội lực phóng song chưởng ra, đồng thời nhảy.lùi lại ba trượng.

Tiêu Phong né người tránh khỏi chưởng lực của Mộ Dung Phục, rồi quát lên một tiếng như sét nổ giữa trời, đánh một quyền về phía Du Thản Chi. Thân thể chàng khôi vĩ, cao hơn Du Thản Chi một cái đầu, thoi quyền nhằm giữa mặt đối phương. Du Thản Chi vốn đã khiếp sợ Tiêu Phong, nghe tiếng quát không khỏi giật mình kinh hãi. Thân thủ Tiêu Phong cực kỳ mau lẹ, thoạt tiên chàng phóng chưởng nhằm đánh vào Đinh Xuân Thu, rồi biến thế quét sang Mộ Dung Phục, lại phóng quyền đánh Du Thản Chi, mấy chiêu này liên tiếp nhau nhanh như điện chớp. Du Thản Chi chưa kịp chống đỡ thì quyền phong đã ập vào mặt. May mà gã đã luyện Dịch Cân Kinh, trong người tự nhiên phản ứng, ngửa đầu lộn ra sau hai vòng, tránh khỏi thoi quyền nặng ngàn cân của Tiêu Phong chỉ trong đường tơ kẽ tóc.

Du Thản Chi thấy quyền phong lướt trên mặt mát rượi, bỗng nghe “vù” một tiếng, vải vụn bay phấp phới như một đàn bướm. Tấm khăn che mặt của gã đã bị kình lực trong thoi quyền của Tiêu Phong quạt rách bươm. Mọi người đứng xem đều thấy mặt mũi của bang chủ Cái Bang chỗ lồi chỗ lõm, đốm đen đốm đỏ, ngũ quan đều sứt mẻ, xấu xí đến phát khiếp.

Tiêu Phong đánh ra ba chiêu đẩy lui được ba đại cao thủ, hào khí nổi lên, liền lớn tiếng gọi: “Đem rượu ra đây!” Một tên võ sĩ Khất Đan cúi xuống xác ngựa, tháo lấy cái túi da lớn đựng rượu, rảo bước chạy tới rồi hai tay bưng túi rượu dâng lên. Tiêu Phong rút nút bì rượu ra, đưa cao lên quá đầu, ngửa cổ cho rượu chảy vào miệng, nuốt ừng ực một hồi. Bì rượu này ít ra cũng phải hai mươi cân, thế mà chàng uống một hơi cạn sạch không còn một giọt. Quần hùng chỉ thấy bụng chàng hơi phình ra, còn sắc mặt vẫn ngăm đen như lúc chưa uống giọt rượu nào, đều nhìn nhau sợ hãi. Tiêu Phong lại vẫy tay một cái, mười bảy tên võ sĩ Khất Đan còn lại cũng tháo bì rượu đem đến.

Tiêu Phong nhìn mười tám tên võ sĩ nói: “ Các huynh đệ! Đoàn công tử nước Đại Lý đây là nghĩa đệ của ta. Hôm nay chúng ta bị hãm trong trùng vây, ít người không địch lại số đông, dĩ nhiên khó mà thoát được.” Vừa rồi chàng động thủ với bọn Mộ Dung Phục tuy đã chiếm được thượng phong, nhưng đối phương là ba đại cao thủ, mỗi người đều thân mang tuyệt kỹ, nếu cả ba hiệp lực liên công thì dĩ nhiên không thể địch nổi. Bên ngoài lại còn mấy ngàn người đang hầm hầm nhìn chàng, tình thế nguy ngập lại càng rõ rệt. Tiêu Phong nắm lấy tay Đoàn Dự nói: “Hiền đệ! Đệ cùng ta sống chết có nhau, thật không uổng một phen kết nghĩa. Sống cũng vậy mà chết cũng vậy, chúng ta hãy uống cho thỏa thích trước đã.”

Đoàn Dự thấy Tiêu Phong hào khí bừng bừng, cũng đón lấy một bì rượu nói: “Phải đó! Tiểu đệ cùng đại ca nên uống một phen.”

Đột nhiên trong quần tăng chùa Thiếu Lâm có một nhà sư áo xám lớn tiếng nói: “Đại ca, Tam đệ! Hai vị uống rượu sao không gọi ta?” Đấy chính là Hư Trúc. Y đứng lẫn giữa đám đông, thấy Tiêu Phong vừa xuất hiện đã oai phong lẫm liệt tựa như nhấn chìm cả quần hùng, trong lòng không khỏi cảm khái. Lúc y thấy Đoàn Dự nghĩ tình kết nghĩa cam tâm cùng chết, bỗng nhớ lại ngày trên núi Phiêu Diểu mình cùng Đoàn Dự kết nghĩa anh em, trong lời thề có đọc cả tên Tiêu Phong. Y nghĩ rằng đại trượng phu đã nói một lời thì sống chết không kể đến, lại nhớ lúc cùng Đoàn Dự say khướt ở cung Linh Thứu, bất giác nổi lòng hào hiệp khẳng khái, không nghĩ gì đến chuyện hiểm nguy sinh tử nữa. Kể cả thanh quy giới luật, y cũng quẳng hết ra sau không sót một điều.

Tiêu Phong chưa gặp Hư Trúc bao giờ, đột nhiên nghe y kêu mình bằng đại ca thì không khỏi sửng sốt. Đoàn Dự liền chạy tới nắm tay Hư Trúc, dẫn đến trước mặt Tiêu Phong rồi nói: “Đại ca! Đây cũng là nghĩa huynh của tiểu đệ, vốn pháp danh là Hư Trúc, khi hoàn tục đổi thành Hư Trúc Tử. Lúc bọn tiểu đệ kết bái có gọi cả tên đại ca vào. Nhị ca! Mau bái kiến đại ca đi!” Hư Trúc liền tiến lại, quì xuống dập đầu nói: “Đại ca! Tiểu đệ xin bái kiến.”

Tiêu Phong mỉm cười nghĩ thầm: “Đoàn nghĩa đệ thật là ngớ ngẩn, lúc kết nghĩa với người khác lại gọi cả tên mình vào. Ta sắp phải mất mạng, tình thế nguy hiểm vô cùng, thế mà nhà sư này chẳng sợ gì, trọng nghĩa khí chẳng kể thân mình, dám hiên ngang tiến lại thì rõ ràng là đại trượng phu, hảo hán tử. Tiêu Phong này được kết nghĩa huynh đệ với y thì thật là không uổng.” Chàng bèn quì xuống đáp lễ nói: “Hiền đệ! Tiêu mỗ được kết nghĩa cùng một bậc anh hùng hảo hán như hiền đệ, thật là vui sướng vô cùng!” Hai người lạy nhau tám lạy, kết nghĩa chi lan trước mặt quần hùng thiên hạ.

Tiêu Phong không biết Hư Trúc võ công tuyệt đỉnh, thấy y là một nhà sư không có cương vị gì ở chùa Thiếu Lâm thì tưởng y bản lĩnh tầm thường, nhưng nếu bảo một con người hiệp nghĩa như y tránh ra thì coi thường y quá. Tiêu Phong bèn cầm một bì rượu giơ lên nói: “Nhị vị hiền đệ! Mười tám võ sĩ Khất Đan này đối với ca ca một dạ trung thành, tình như thủ túc. Chúng ta phải uống cho thỏa thích một hồi rồi mở một trường đại sát.” Rồi chàng mở nút bì rượu uống một hơi, đoạn đưa qua Hư Trúc. Nhiệt huyết trong lòng Hư Trúc bốc lên như nước thủy triều; ngũ giới lục giới, thất giới bát giới gì gì nữa cũng không kể, nâng bì rượu lên uống một hơi rồi đưa cho Đoàn Dự. Đoàn Dự uống xong lại đưa cho một tên võ sĩ Khất Đan. Bọn võ sĩ Khất Đan cũng tuần tự nâng bì rượu lên uống.

Hư Trúc nhìn Tiêu Phong nói: “Đại ca! Tinh Tú Lão Quái đã hạ sát sư phụ, sư huynh trong môn phái sau của tiểu đệ. Mấy vị sư thúc tổ trong môn phái trước là Huyền Nạn, Huyền Thống đại sư của chùa Thiếu Lâm cũng chết về tay hắn. Tiểu đệ phải báo thù đây.” Tiêu Phong kinh ngạc nói: “Nhị đệ…” rồi dừng lại không nói nữa, Hư Trúc đã múa tít song chưởng tấn công Đinh Xuân Thu.

Tiêu Phong thấy y chưởng pháp tinh kỳ, nội lực thâm hậu thì vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, nghĩ thầm: “Té ra bản lĩnh nhị đệ cao cường đến thế, thế mà mình lại xem thường”. Chàng cũng quát lên: “Đỡ quyền!” rồi vung hai quyền phát ra những tiếng vù vù đánh tới Mộ Dung Phục và Du Thản Chi, hai tên này phải chia nhau ra đỡ. Mười tám võ sĩ Khất Đan đã hiểu ý Tiêu Phong, đứng vây quanh Đoàn Dự để bảo vệ.

Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, xoay tròn như múa, vờn quanh đối phương. Đinh Xuân Thu đã từng lẻn vào nhà gỗ phóng Tam Tiếu Tiêu Dao Tản ám toán Tô Tinh Hà cùng Hư Trúc, nhưng chỉ giết được Tô Tinh Hà, còn Hư Trúc bình yên vô sự. Vì thế mà lão phải đề phòng, không dám sử dụng độc công, chỉ sợ chẳng may độc công Hư Trúc cao thâm hơn, thì hại người chẳng được mà chính mình bị hại. Lão bèn đem chưởng pháp bản môn ra đối chiêu, nghĩ thầm: “Thằng trọc con này đã giải phá xong thế Trân Lung, rồi được lão tặc kia truyền ngôi chưởng môn phái Tiêu Dao. Lão tặc đó quỉ kế đa đoan, không chừng đã an bài độc kế để đối phó với ta, nhất định ta không thể sơ ý được.”

Võ công phái Tiêu Dao nhẹ nhàng linh hoạt, khinh khoái khó lường. Đinh Xuân Thu cùng Hư Trúc tỉ đấu, một bên đồng nhan bạch phát chẳng khác thần tiên, một bên tăng bào phấp phới như người thoát tục. Hai đối thủ vờn quanh nhau như bướm vờn hoa, chuyển động không ngừng mà vẫn ra vẻ ung dung thật đúng với hai chữ Tiêu Dao. Hầu hết quần hùng chưa được chứng kiến võ công phái Tiêu Dao, hôm nay được xem đều thấy tinh thần thư thái, nghĩ thầm: “Rõ ràng hai bên đều ra những chiêu tàn độc nhằm vào những chỗ yếu hại của đối phương, hiển nhiên quyết một mất một còn, thế mà thoạt nhìn lại nhàn nhã mỹ quan tựa như đang nhảy múa. Chưởng pháp trầm trọng mà có vẻ nhẹ nhàng, chiêu thức linh hoạt mà có vẻ ung dung. Trước nay mình chưa từng thấy, không hiểu là công phu gì, của môn phái nào?”

Bên kia một mình Tiêu Phong phải đấu với hai người là Mộ Dung Phục cùng Du Thản Chi. Mười chiêu đầu chàng chiếm được thượng phong, nhưng về sau Du Thản Chi vận khí âm hàn vào chiêu thức. Mỗi khi Tiêu Phong phải dùng toàn lực quyết đấu với Mộ Dung Phục, Du Thản Chi lại nhắm chàng phóng chưởng, tức thì chàng cảm thấy hàn khí nhập vào nội thể rất khó chịu. Trong mình Du Thản Chi có chất băng tằm kịch độc, gã lại luyện Dịch Cân Kinh thành ra chính tà hòa hợp, thủy hỏa tương giao, trở thành một thứ nội công lợi hại nhất thiên hạ. Thêm vào đó, công phu Đẩu Chuyển Tinh Di của Mộ Dung Phục cũng ảo diệu khôn lường. Lúc này Tiêu Phong tỉ đấu với hai đại cao thủ, lại còn nguy hiểm hơn ngày ở Tụ Hiền Trang phải tử chiến với hơn trăm hảo hán võ lâm. May mà chàng có thần lực trời sinh, tình thế càng bất lợi thì nội lực tiềm tàng càng phát huy dũng mãnh. Tiêu Phong liên tiếp phóng ra những chiêu Hàng Long Thập Bát Chưởng cương mãnh bậc nhất thiên hạ, khiến cho Mộ Dung Phục cùng Du Thản Chi không tiến lại gần được, chất hàn độc băng tằm trong người Du Thản Chi cũng chưa thấm được vào người chàng. Nhưng Tiêu Phong phát chưởng như vậy phải tiêu hao nội lực không phải là ít, cuối cùng cũng phải tới lúc chưởng lực yếu đi.

Du Thản Chi không có kinh nghiệm chiến đấu lại không nhìn rõ đạo lý bên trong, nhưng Mộ Dung Phục lại rất sáng suốt. Hắn biết rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì mình cùng Trang Tụ Hiền chỉ bị kém thế trong vòng một giờ, nhưng về sau sẽ ổn định rồi dần dần chiếm được thượng phong. Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung vốn nổi tiếng ngang nhau, Mộ Dung Phục thấy mình phải nhờ bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền giúp sức thì dù có đánh chết được Tiêu Phong cũng có phần mất thể diện. Nhưng hắn tính toán lại, rồi tự nhủ: “Phục quốc là việc lớn, danh vọng là chuyện nhỏ. Nếu trước mặt anh hùng thiên hạ mình trừ được đại họa cho võ lâm Trung Nguyên, thì bọn hào kiệt Đại Tống dù quen biết hay không, cũng tự nhiên mang ơn đức của mình. Ngôi minh chủ võ lâm nếu không vào tay mình thì cũng chẳng còn ai nữa, khi đó chỉ hô lên một tiếng là có thể phục hưng được nhà Đại Yên. Vả lại khi Kiều Phong chết rồi, thì Nam Mộ Dung có thua kém Bắc Kiều Phong cũng chẳng hề gì.” Rồi hắn lại nghĩ: “Nhưng sau khi giết được Kiều Phong thì Trang Tụ Hiền lại trở thành đại địch, giả tỉ để hắn đoạt mất ngôi võ lâm minh chủ, mình phải nghe theo hiệu lệnh thì nhất định chẳng tốt đẹp gì.” Thế là ngoài mặt hắn vẫn ra vẻ hết sức tấn công, nhưng mỗi khi xuất chiêu đều ngấm ngầm dành lại mấy phần nội lực. Tuy nhiên do Mộ Dung Phục thân pháp tinh kỳ nên người ngoài không ai phát hiện. Du Thản Chi phải chịu đựng phần lớn Hàng Long Thập Bát Chưởng của Tiêu Phong.

Chỉ trong khoảnh khắc, ba người đã trao đổi hơn trăm chiêu. Du Thản Chi ít kinh nghiệm chiến đấu, mấy lần bị Tiêu Phong dùng những chiêu xảo diệu để dẫn vào tròng đến suýt mất mạng, nhưng nhờ có Mộ Dung Phục đứng bên hóa giải giúp. Còn những phát chưởng mãnh liệt phi thường của Tiêu Phong thì Du Thản Chi ỷ mình có nội lực thâm hậu, ngang nhiên đón đỡ.

Đoàn Dự được mười tám võ sĩ Khất Đan vây quanh bảo vệ, chàng thấy nhị ca đang áp bức đối phương, rõ ràng chiếm được thượng phong. Còn đại ca lấy một chọi hai, tuy thần oai lẫm liệt, mỗi chưởng phóng ra đều rít lên veo véo khiến cho đá chạy cát bay, nhưng chàng cũng biết đại ca không thể chịu đựng được lâu dài. Chàng nghĩ thầm: “Miệng mình thì nói cùng hai vị ca ca gánh chung hoạn nạn, mà khi hữu sự thì trốn giữa đám đông để nhờ người ta bảo vệ, thế thì còn gì là nghĩa khí? Còn gì là đồng sinh đồng tử? Hai vị ca ca liều chết chiến đấu, lão tam ta đứng nhìn thì thật là không đáng mặt làm huynh đệ. Tuy mình không biết võ công, nhưng cũng phải thi triển Lăng Ba Vi Bộ quấy rối Mộ Dung Phục, để đại ca rảnh tay hạ thủ cho xong tên Trang bang chủ xấu xa kia trước, chắc cũng là chuyện tốt.”

Đoàn Dự nghĩ vậy, bèn lạng người thoát khỏi vòng vây bảo vệ của mười tám võ sĩ Khất Đan, rồi lớn tiếng hỏi: “Mộ Dung công tử! Công tử đã tề danh cùng đại ca ta, phải cùng đại ca ta lấy một chọi một mới phải, sao lại phải nhờ người giúp sức? Dù cho công tử ráng sức mà chống chọi được, nhưng lấy hai người đánh một thì thật là xấu mặt với thiên hạ. Lại đây, lại đây, nếu quả công tử có bản lĩnh thì cố mà đánh trúng ta một quyền!” Chàng nói xong, lạng ra sau lưng Mộ Dung Phục, giơ tay ra toan chụp vào gáy hắn.

Tuy thân pháp chàng cực kỳ cổ quái, nhưng Mộ Dung Phục chỉ xoay tay đánh một chưởng là trúng ngay. Một bên mặt Đoàn Dự lập tức sưng vù rồi chảy máu, chàng đau đến chảy nước mắt. Bộ pháp xảo diệu của chàng chỉ có thể thi triển để không bị người khác đánh trúng, không có công hiệu để tấn công. Chàng là một người không hiểu võ nghệ, vung tay chụp bừa thì làm sao trúng được một tay võ công tuyệt đỉnh như Cô Tô Mộ Dung? Hắn xoay tay đánh một chưởng, chàng không biết né tránh nên dập cả mặt mũi đau đớn khôn lường.

Nhưng Mộ Dung Phục vừa chạm tay vào má Đoàn Dự, cũng lập tức cảm thấy nội lực trong mình thất thoát ra ngoài. Bàn tay bị mất đi một ít nội lực liền cảm thấy tê tái, bất giác hắn kinh hãi nghĩ thầm: “Thằng lỏi này đã học yêu thuật tàn độc nhất thiên hạ của phái Tinh Tú, mình nhất định phải đề phòng.” Hắn liền thóa mạ: “Thằng lỏi họ Đoàn kia! Ngươi đã gia nhập vào làm môn hạ phái Tinh Tú từ bao giờ?”

Đoàn Dự hỏi lại: “Công tử nói…” Chàng đang mở miệng nói, không đề phòng gì, bị Mộ Dung Phục đá cho một cước lăn đi mấy vòng. Mộ Dung Phục cũng không ngờ mình thắng dễ dàng đến thế, cả mừng nhảy vọt tới, đạp chân trái lên ngực Đoàn Dự, quát hỏi: “Ngươi muốn sống hay muốn chết?” Đoàn Dự nằm dưới đất nhìn thấy Tiêu Phong đang tấn công Trang Tụ Hiền kịch liệt thì nghĩ rằng nếu mình nói bướng, hắn sẽ đập chết mình ngay mà rảnh tay đi giúp Trang Tụ Hiền, bất lợi cho đại ca, tốt nhất là kéo dài thêm một chút. Chàng liền đáp: “Chết có chi là thú? So ra thì được sống trên thế gian dĩ nhiên vẫn tốt hơn.”

Mộ Dung Phục không ngờ tên tiểu tử này chết đến nơi mà vẫn ăn nói ngông cuồng. Hắn sầm mặt xuống mắng: “Ngươi mà muốn sống thì phải…” Hắn đang định bắt Đoàn Dự dập đầu trăm lạy cho nhục nhã, nhưng lại nghĩ rằng nếu buông tha hắn rồi thì khó mà bắt lại được, liền đổi giọng nói: “… phải gọi ta một trăm tiếng gia gia!” Đoàn Dự cười nói: “Ngươi chỉ hơn ta có vài tuổi mà đòi làm gia gia ta, không sợ chết yểu ư?” Mộ Dung Phục quát lên một tiếng rồi phóng chưởng đánh xuống bên phải đầu Đoàn Dự, chỉ cách mấy tấc, lập tức bụi bay mù mịt, dưới đất xuất hiện một hố sâu, cái sọ dừa của Đoàn Dự suýt nữa nát ra như cám. Mộ Dung Phục lại quát: “Ngươi có chịu gọi hay không?”

Đoàn Dự nghiêng đầu đi để tránh bụi đất, chớp mắt nhìn ra xa thì thấy Vương Ngữ Yên đang đứng cạnh Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, đôi mắt đang chăm chú nhìn về phía mình, trên mặt hoàn toàn không có vẻ gì là lo lắng quan tâm. Hiển nhiên suy nghĩ trong lòng nàng chỉ là: “Không biết biểu huynh có giết Đoàn công tử không?” Nếu biểu huynh giết được Đoàn công tử, e rằng Vương cô nương cũng chẳng lấy gì làm đau lòng hay khó chịu. Đoàn Dự nhìn vẻ mặt Vương Ngữ Yên mà trong lòng chán nản vô cùng, muốn chết ngay dưới tay Mộ Dung Phục để khỏi bị tương tư giày vò triền miên. Chàng liền ủ rũ hỏi: “Sao ngươi không chịu gọi ta một trăm tiếng gia gia?” Mộ Dung Phục cả giận, vung chưởng lên đánh vào giữa mặt Đoàn Dự, đột nhiên nghe hai tiếng quát. Một người la: “Đừng hại con ta!” Người kia la: “Đừng hại sư phụ ta!” Hai người này dù thân pháp mau lẹ đến đâu cũng khó đỡ kịp phát chưởng của Mộ Dung Phục đánh xuống Đoàn Dự. Nhưng Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần đều là cao thủ võ lâm, hai phát chưởng một trước một sau đều nhằm vào yếu huyệt của Mộ Dung Phục, nếu hắn không lập tức thu chưởng lực về để tự cứu, đánh chết được Đoàn Dự thì cũng không khỏi trọng thương. Hắn liền rút tay phải về để đỡ song chưởng của Đoàn Chính Thuần, tay trái khoanh một vòng tròn sau lưng để hóa giải kình lực của Nam Hải Ngạc Thần. Chưởng lực ba người gặp nhau, ai cũng kinh hãi trong lòng, biết rằng võ công đối phương ghê gớm. Đoàn Chính Thuần nóng lòng giải cứu cho con trai, vung ngón tay điểm một phát Nhất Dương Chỉ, chiêu thức kỳ diệu, nội lực hùng hồn.

Vương Ngữ Yên la lên: “Biểu ca cẩn thận! Đó là Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý, không nên khinh địch.” Nam Hải Ngạc Thần cũng quát lên oang oang: “Con mẹ nó! Dù tên sư phụ này chẳng ra gì thì cũng là sư phụ Nhạc lão nhị. Mi đánh sư phụ ta thì cũng như đánh Nhạc lão nhị này. Giả tỉ sư phụ ta tham sống sợ chết mà gọi mi một tiếng gia gia, thì Nhạc lão nhị này còn làm người được nữa ư? Nếu thế thì ta phải kêu mi bằng gì? Chẳng lẽ mi biến thành thái sư phụ của ta ư? Nhạc lão nhị lại là đồ tôn của mi ư? Mi khinh người quá đáng, hôm nay ta phải ăn thua với mi.” Lão vừa mở miệng thóa mạ, vừa vung cặp Ngạc Chủy Tiên lên, mỗi tay một cây nhắm Mộ Dung Phục đập lia lịa. Nam Hải Ngạc Thần bình sinh có tính hiếu thắng, không muốn bị lép vế. Trong Tứ Đại Ác Nhân, lão vẫn vì chuyện lão tam hay lão nhị mà tranh chấp với Diệp Nhị Nương. Bây giờ nếu Đoàn Dự kêu Mộ Dung Phục một tiếng “gia gia” thì Nam Hải Ngạc Thần phải đứng vào hạng cháu chắt của hắn. Lão thà chịu cảnh đầu rơi máu chảy còn hơn, nhất quyết không thể làm đồ tôn Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục chẳng hiểu lão mắng nhiếc om sòm cái gì, chân phải vẫn đạp trên ngực Đoàn Dự, hai tay chia ra đối địch với hai người. Hai bên qua lại hơn chục chiêu, hắn nhận ra Nam Hải Ngạc Thần tuy có binh khí lợi hại nhưng lại dễ chống đỡ, còn Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần thì không thể coi thường. Vì thế mà hắn phải để ý đối phó với Đoàn Chính Thuần nhiều hơn, còn những chiêu ngạc chủy tiên của Nam Hải Ngạc Thần thì hắn hóa giải được dễ dàng. Trong lúc hoang mang, thỉnh thoảng Mộ Dung Phục vẫn phản kích được một hai chiêu buộc Nam Hải Ngạc Thần phải nhảy ra xa đến vài trượng để tránh né. Lúc này Đoàn Dự vẫn đang bị Mộ Dung Phục đạp chân lên ngực, chàng giãy giụa cố ngồi dậy, nhưng làm sao đủ sức?

Đoàn Chính Thuần thấy con trai yêu đang bị kiềm chế thì hoang mang vô cùng, biết rằng Mộ Dung Phục chỉ nhấn chân mạnh một cái là chàng vỡ ngực, thổ huyết mà chết. Ông nhận thấy lúc này cần phải đánh nhanh giải quyết nhanh mới có cơ hội cứu được Đoàn Dự ra khỏi nguy hiểm, liền thi triển Nhất Dương Chỉ đến tột độ, chỉ phong rít lên veo véo. Bỗng nhiên có một thanh âm đầy vẻ âm dương quái khí vang lên: “Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý khí tượng oai nghiêm, tuy uy mãnh mà vẫn ung dung thì mới không mất phong độ vương giả. Ngươi xuất chiêu liều mạng, hỗn loạn như vậy, thật không khác gì một tên đệ tử Cái Bang hạng bét, sao có thể gọi là Nhất Dương Chỉ? Ha ha! Ngươi có đáng là người ở họ Đoàn nước Đại Lý chăng?” Đoàn Chính Thuần nghe là biết ngay thanh âm của Đoàn Diên Khánh, một kẻ đại thù trong họ Đoàn. Lão nói vậy cũng không sai, nhưng đứa con yêu quí đang lâm nạn thì làm sao có thể nghĩ đến phong độ với khí tượng nữa? Bởi thế mà Đoàn Chính Thuần phóng Nhất Dương Chỉ ra mỗi lúc một nặng tay hơn, nhưng lại biến thành thâm độc thì có thừa mà trầm trọng lại không đủ. Đột nhiên một chỉ của ông bị Mộ Dung Phục tránh được, lại điểm trúng vào vai Nam Hải Ngạc Thân nghe sột một tiếng.

Nam Hải Ngạc Thần giận quá bèn chửi: “Con…”Y chưa mắng xong đã nghe xoảng một tiếng, cây ngạc chủy tiên trên tay rớt xuống đất, đập trúng vào gót chân. Nam Hải Ngạc Thần đau điếng người, đã toan ngoác miệng ra thóa mạ nặng lời hơn, nhưng lại nghĩ: “Y là gia gia của sư phụ mình, nếu mình thóa mạ y thì không khỏi mang tiếng vô lễ. Tên này chỉ được giết chứ không được chửi, sau này mình tìm cơ hội để bẻ cổ y nghe cắc một tiếng là xong.”

Lúc ấy Đoàn Chính Thuần vì ra chiêu đả thương đồng minh mà bị phân tâm, Mộ Dung Phục thừa cơ hội liền chĩa ngón tay giữa bên trái ra điểm nhanh như chớp, trung vào huyệt Trung Đỉnh trước ngực ông.

Huyệt Trung Đình chỉ ở dưới huyệt Đản Trung một tấc sáu phân, Huyệt Đản Trung là một chỗ rất xung yếu, tụ hội mọi luồng chân khí trong người, nếu bị điểm trúng sẽ lập tức nghẹt thở, kinh mạch ngừng chạy hết. Mộ Dung Phục biết bản lĩnh đối phương cao cường, thấy ông sơ hở bèn điểm vào huyệt Đản Trung, nhưng không ngờ lại điểm trệch đi một chút, trúng vào huyệt Trung Đỉnh. Tuy nhiên Đoàn Chính Thuần cũng thấy trước ngực đau đớn, nội tức đình trệ.

Vương Ngữ Yên thấy Mộ Dung Phục phóng chỉ điểm trúng đối phương, liền vỗ tay hoan hô: “Chiêu Dạ Xoa Thám Hải của biểu huynh thật là tuyệt diệu!” Thật ra chiêu này mà điểm trúng vào huyệt Đản Trung hay huyệt Khí Hải thì mới đáng gọi là Dạ Xoa Thám Hải. Nhưng nàng đối với ý trung nhân dĩ nhiên có chỗ hơi tâng bốc, dù y điểm chệch mất một tấc sáu phân, nàng cũng hàm hồ gọi là Dạ Xoa Thám Hải.

Mộ Dung Phục tự biết phát chỉ của mình điểm chưa trúng vào yếu huyệt của đối phương, lập tức bồi thêm một chiêu, vung tay phải ra đập vào ngực Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần còn nghẹt thở chưa hít vào được, không còn sức để chống trả nên lại trúng một chưởng rất mạnh, miệng phun ra một búng máu tươi. Nhưng ông nghĩ đến con nên không chịu lui, chỉ cố vận khí điều dưỡng. Lúc đó chiêu thứ hai của Mộ Dung Phục lại đánh tới.

Đoàn Dự đang nằm dưới gót chân Mộ Dụng Phục, thấy phụ thân thổ huyết mà đối phương lại phóng chưởng thứ hai ra, trong lòng bồn chồn, lập tức chàng vung ngón trỏ tay phải lên, la lớn: “Ngươi dám đánh gia gia ta ư?” Tình trạng cấp bách, nội lực đột nhiên đến được ngón tay rồi phóng ra đánh véo một tiếng, chính là Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm. Kiếm khí vô hình cắt đứt lìa tay áo của Mộ Dung Phục, rồi lại đụng vào chưởng lực của hắn. Mộ Dung Phục cảm thấy cánh tay tê nhức thì giật mình kinh hãi, vội lùi lại phía sau.

Đoàn Dự vừa được tự do liền lồm cồm bò dậy, ngón út tay trái của chàng lại phóng ra một chiêu Thiếu Trạch Kiếm đâm tới đối phương. Mộ Dung Phục vội vàng vung tay áo lên đỡ, chỉ nghe roạt roạt hai tiếng, tay áo bên trái của hắn lại bị kiếm khí cắt đứt. Đặng Bách Xuyên vội la lên: “Công tử phải cẩn thận! Đó là vô hình kiếm khí, mình phải dùng binh khí.” Hắn bèn rút kiếm ra khỏi vỏ, xoay chuôi lại rồi ném đến chỗ Mộ Dung Phục,

Từ lúc Đoàn Dự nghe Vương Ngữ Yên hoan hô Mộ Dung Phục đánh ngã phụ thân mình, trong lòng chàng đau đớn vô cùng, vì thế mà nội lực phát ra cuồn cuộn. Cùng một lúc, sáu đường Lục Mạch Thần Kiếm là Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung và Thiếu Trạch đều tung hoành nhảy múa, muốn sao được vậy, như có quỷ thần giúp sức.