Hồi 47: Mây điểm tinh kì thu tới ải – Gió truyền còi trống tối qua quan

Một hôm, thuyền tới Đường Cô. Đoàn người bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ lên bộ đi tiếp, qua Thiên Tân tới Bắc Kinh. Vi Tiểu Bảo vào tới cửa kinh đô, quả có cảm giác như vừa qua kiếp khác, trong lòng mừng rơn, lập tức vào yết kiến hoàng đế.

Khang Hy đang trong Thượng thư phòng, lập tức truyền kiến. Vi Tiểu Bảo bước tới trước mặt Khang Hy, quỳ xuống dập đầu, còn chưa đứng lên, trong lòng vui buồn xen lẫn, nhịn không được phục luôn xuống đất buông tiếng khóc lớn.

Khang Hy thấy Vi Tiểu Bảo tới, trong lòng nửa mừng nửa giận, nghĩ thầm “Thằng tiểu tử này vô pháp vô thiên, lại dám trái chỉ. Lần này tuy phái y đi làm việc nhưng cũng phải răn dạy y một phen, để y khỏi được sủng ái mà kiêu căng, lại không quản thúc được”. Nào ngờ Vi Tiểu Bảo vừa gặp mặt đã khóc lớn, Khang Hy trong lòng cũng mềm ra, cười nói “Con mẹ nó, thằng tiểu tử ngươi gặp lão tử, tại sao lại khóc?”.

Vi Tiểu Bảo khóc nói “Nô tài chỉ cho rằng suốt đời suốt kiếp không được thấy mặt hoàng thượng nữa. Hôm nay lại được gặp, quả thật rất vui mừng”. Khang Hy cười nói “Đứng lên đi, đứng lên đi! Để ta nhìn ngươi nào”. Vi Tiểu Bảo bò dậy, trên mặt đầy nước mắt nước mũi, nhưng khóe miệng lại hé nụ cười.

Khang Hy cười nói “Con mẹ nó, thằng tiểu tử ngươi cũng cao lên đấy”. Đột nhiên nổi ý trẻ thơ, bước xuống ngự tọa, nói “Chúng ta đo đo xem rốt lại là ngươi cao hơn hay ta cao hơn”, rồi bước tới đứng sóng vai với y. Vi Tiểu Bảo nhìn thấy y cao suýt soát mình, nhưng hoàng thượng muốn so cao thấp, há lại có thể cao hơn hoàng thượng, lập tức hơi khuỵu gối xuống một chút.

Khang Hy đưa tay đo đo trên đầu hai người, thấy mình cao hơn khoảng không đầy một tấc, cười nói “Chúng ta cao bằng nhau”, rồi bước ra mấy bước, cười nói “Tiểu Quế tử, ngươi sinh được mấy đứa con rồi?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài rất vô dụng, chỉ sinh được hai trai một gái”. Khang Hy hô hô cười rộ, nói “Thế thì ta hơn ngươi nhiều, ta đã có bốn con trai, ba con gái rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng hùng tài đại lược, tự nhiên… tự nhiên rất cao cường”. Khang Hy cười nói “Mấy năm không gặp nhau, học vấn của ngươi cũng chẳng tiến bộ chút nào. Chuyện sinh con thì có liên quan gì với hùng tài đại lược chứ?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Chu Văn vương trước kia có một trăm con trai, phàm là hoàng đế tốt thì nhất định đông con”. Khang Hy cười hỏi “Sao ngươi biết?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng phái nô tài đi câu cá, chúng ta cũng giống như Chu Văn vương và Khương Thái công. Chuyện Chu Văn vương tự nhiên nô tài phải hỏi rõ, để lúc gặp hoàng thượng không đến nỗi không biết lấy gì mà trả lời”.

Mấy năm nay Khang Hy bận rộn lo đánh Ngô Tam Quế, ngày đêm vất vả lo lắng việc nước, bên cạnh không có gã bầy tôi thiếu niên Vi Tiểu Bảo này để cười đùa giải muộn, có lúc cũng cảm thấy rất tịch mịch, lúc ấy vua tôi trùng phùng, vô cùng vui mừng, nói chuyện phiếm hồi lâu, hỏi cuộc sống của y trên đảo Thông Ngật, lại hỏi tới phong thổ dân tình Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo nói “Đài Loan đất đai màu mỡ, khí hậu ấm áp, có nhiều sản vật, bách tính sống rất sung sướng, biết hoàng thượng chuẩn cho họ được ở lại Đài Loan, ai cũng cảm kích hoàng ân hạo đãng, đều nói hoàng thượng đúng là Điểu Sinh Ngư Thang không bớt không trừ”. Khang Hy gật đầu nói “Làm chính sự thì lấy việc không quấy nhiễu dân làm đầu. Bách tính đã an cư lạc nghiệp ở Đài Loan, nếu bắt họ phải dời vào nội địa quả là quấy nhiễu dân rất lớn. Các đại thần trong triều không biết rõ tình hình Đài Loan, nghị luận bừa bãi, suýt lỡ mất việc lớn. Ngươi và Thi Lang ra sức can ngăn, công lao không nhỏ”.

Vi Tiểu Bảo phịch một tiếng quỳ xuống, dập đầu nói “Nô tài nhiều lần trái chỉ, có chém mười bảy mười tám cái đầu cũng đáng tội, bất kể có công lao gì cũng xin hoàng thượng không cần nhớ tới. Chỉ xin hoàng thượng ra ơn, tha mạng cho nô tài, cho ta được hầu hạ bên cạnh người”.

Khang Hy mỉm cười nói “Ngươi biết là chém mười bảy mười tám cái đầu cũng đáng tội, nhưng tiếc là ngươi không có mười tám cái đầu, nếu không thì ta nhất định đã chém mười bảy cái rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng. Nô tài cũng không cần có nhiều đầu, chỉ cần giữ được một cái, có cái miệng để nói chuyện ăn cơm thì trong lòng cũng thỏa mãn rồi”. Khang Hy nói “Cái đầu này có giữ được không thì còn phải xem từ nay trở đi ngươi có trung thành không, dám trái chỉ không”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài Để chữ trung lên đầu, Lòng trung rỡ rỡ, Mật đỏ lòng trung, Tận trung báo quốc”.

Khang Hy nói “Ngươi nhớ được nhiều thành ngữ có chữ trung đấy, còn gì nữa không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài trong lòng chỉ có một chữ trung, tự nhiên là nhớ rất nhiều. Ví dụ như… ví dụ như Trung quân ái quốc, Trung thần không sợ chết, sợ chết chẳng trung thần, còn có Trung hậu thành thật…”. Khang Hy nói “Thôi đứng lên đi. Ngươi mà trung hậu thành thật thì trên đời không còn kẻ điêu ngoa xảo trá nữa”.

Vi Tiểu Bảo đứng lên, nói “Bẩm hoàng thượng, ta chỉ trung với một mình người thôi. Đối với người khác thì không trung gì lắm, có lúc biết đâu cũng gian gian một chút. Tính nô tài có chút lưu manh, chuyện đó hoàng thượng rất biết mà. Có điều ta đối với hoàng thượng rất biết trung thành, đối với bằng hữu thì rất biết nghĩa khí, lúc trung nghĩa đôi bề không thể trọn vẹn thì nô tài chỉ đành co đầu rụt cổ, câu cá trên đảo Thông Ngật thôi”.

Khang Hy nói “Ngươi không cần lo, không cần nói trước, ta không bắt ngươi đánh Thiên Địa hội đâu”. Rồi chắp tay sau lưng, đi đi lại lại, thong thả nói “Ngươi đối với bằng hữu rất biết nghĩa khí, đó là nết tốt, ta cũng không trách ngươi. Bậc thánh nhân hiểu rõ đạo trung thứ, chữ trung ấy cũng không chỉ nói chuyện thờ vua, mà hết lòng hết sức với bất kỳ ai cũng đều là trung. Hai chữ trung nghĩa, vốn là một mà hai, hai mà một. Ngươi thà chết không chịu phản bạn, không chịu vì vinh hoa phú quý mà bán đứng bạn bè, cũng kể là hiếm có, rất có phong thái cổ nhân. Ngươi đã không chịu phản bạn, tự nhiên sẽ không phản ta. Tiểu Quế tử, ta tha tội cho ngươi không phải chỉ vì những công lao trước đây của ngươi, không phải chỉ vì hai chúng ta từ nhỏ đã rất hợp nhau, mà còn vì ngươi coi trọng nghĩa khí thì hoàn toàn không có gì xấu”.

Vi Tiểu Bảo cảm kích rơi lệ, nghẹn ngào nói “Nô tài… nô tài chuyện gì cũng không biết, chỉ biết người khác thật lòng đối xử tốt với ta, thì quả thật… quả thật không thể… không thể có lỗi với y”.

Khang Hy gật gật đầu, nói “Nhiếp chính nữ vương nước La Sát đối với ngươi cũng không kém đâu, ta phái ngươi đi đánh thị thì thế nào?”.

Vi Tiểu Bảo phì một tiếng bật cười, nói “Cô ta bị ngươi ta giam cầm, suýt nữa không giữ được tính mạng, nô tài xúi cô ta dùng súng gây loạn, đoạt được ngôi cao, cũng tính là tốt với cô ta rồi. Cô ta phái quân định tới xâm chiếm giang sơn cẩm tú của hoàng thượng thì ngàn vạn lần không tha thứ cho cô ta được. Cô gái này tính tình lẳng lơ, hôm nay lẹo tẹo với người đàn ông này, ngày mai lẹo tẹo với người khác, không thể coi là thật lòng. Chỉ tiếc nước La Sát quá xa, nếu không nô tài đem một đội quân đi bắt nữ vương ấy về cho hoàng thượng xem thì cũng thú vị”.

Khang Hy nói “Năm chữ Nước La Sát quá xa rất quan trọng, chỉ bằng vào năm chữ ấy thì trận này chúng ta sẽ nắm chắc phần thắng. Nước La Sát tuy có hỏa khí lợi hại, kỵ binh kiêu dũng, nhưng họ ở xa, chúng ta ở gần. Họ vạn dặm xa xôi xuống nam, quân lính, ngựa chiến, súng ống, đạn dược, lương thực, quần áo, cái gì cũng không dễ tiếp tế. Hiện ta đã phái Thượng thư bộ Hộ Y Tang A tới Ninh Cổ Tháp xây dựng hai thành Ái Hồn, Hô Mã Nhĩ, tích trữ lương thảo đạn dược, lại đặt mười dịch trạm để việc cung ứng lương thực quân nhu được thông suốt, ùn ùn không dứt. Hôm trước lại đã truyền chỉ cho Mông Cổ sai không được buôn bán với người La Sát. Lại sai Tướng quân Hắc Long Giang là Tát Bố Tố phái kỵ binh túa ra các nơi, nếu thấy xe lương thảo của người La Sát thì phóng hỏa đốt con mẹ nó đi, thấy ngựa chiến của quân La Sát thì lập tức giết con mẹ nó đi”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nói “Hoàng thượng điều động như thế, đúng là cái gì trong cái gì mà cái gì ngoài ngàn dặm, trận này đã nắm chắc bảy tám phần thắng rồi”.

Khang Hy nói “Không phải như thế. La Sát là nước lớn, theo Nam Hoài Nhân nói thì địa giới còn rộng lớn hơn cả Trung Quốc chúng ta, quyết không thể khinh địch. Nếu chúng ta thua trận, Liêu Đông mà mất, gốc nước sẽ lung lay. Họ mà thua thì cũng không quan hệ gì tới đại cuộc, chẳng qua là lui về phía bắc mà thôi. Vì thế trận này chỉ được thắng không được thua, nếu ngươi thua thì ta sẽ dẫn quân ra ngoài cửa quan thân chinh. Chuyện đầu tiên sẽ là chém đầu ngươi đấy”, lúc nói câu này thanh âm rất nghiêm khắc.

Vi Tiểu Bảo nói “Xin hoàng thượng yên tâm. Nếu cái đầu trên cổ của nô tài không giữ được thì cũng để quân La Sát chém, chứ quyết không để hoàng thượng chém đâu”. Khang Hy nói “Ngươi biết rõ như thế thì tốt. Binh là việc dữ, đánh là việc nguy, ai cũng khó nắm chắc phần thắng. Ta chỉ là dặn ngươi ngàn vạn lần không được khinh suất, đánh nhau không phải là chuyện mồm mép trơn tuột đâu”. Vi Tiểu Bảo cung cung kính kính nói “Vâng”.

Khang Hy lại nói “Nếu chỉ nói việc hành quân đánh nhau thì vốn cũng không cần tới ngươi. Có điều lần này đánh nhau với nước La Sát hoàn toàn không phải là muốn tiêu diệt họ, chỉ là muốn họ biết khó mà lui, không dám tới xâm lấn đất đai của chúng ta là được rồi. Vì thế phải dùng cả ân uy, muốn họ mang ơn đội đức, hai nước vĩnh viễn giao hiếu. Chứ nếu chỉ biết cắm đầu đánh giết, vua nước La Sát thẹn quá hóa giận, dốc cả nước tới đánh, thì cho dù chúng ta có thắng cũng binh lửa liên miên, kết oán với người, cái được không bù được cái mất. Có thể hòa thì hòa, không đánh mà khuất phục được người, đó mới là điều hay nhất. Nếu ngươi có thể nói để Nhiếp chính nữ vương nước La Sát ra lệnh lui quân, hai nước giảng hòa, mới là công lao lớn”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài gặp tướng quân của nước La Sát sẽ đem lới thánh luận của hoàng thượng chỉ giáo cho y, bảo y báo lại cho Nhiếp chính nữ vương nước La Sát”.

Khang Hy nói “Ta đã cho gọi vài giáo sĩ Tây dương tới, hỏi rõ lai lịch các triều, phong thổ địa lý, việc quân việc dân của nước La Sát…”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, đúng. Hoàng thượng đã biết họ lại biết mình như thế, sẽ trăm trận trăm thắng”. Khang Hy cười khẽ một tiếng, nói “Các giáo sĩ ấy nói, người La Sát khinh người lành mà sợ kẻ ác, nếu chỉ nói ngọt với họ, họ sẽ được đằng chân lân đằng đầu, càng lúc càng hung hăng, cần phải tỏ rõ ra cho họ biết chúng ta không dễ chơi. Vì thế chúng ta một mặt phát động đại quân, chuẩn bị đầy đủ, cần đánh lả đánh, mặt khác phải tỏ rõ ra chúng ta là nước lễ nghĩa, Trung Hoa thượng quốc, hoàn toàn không tùy tiện cậy mạnh khinh người”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài hiểu rồi. Chúng ta có lúc bôi mặt đỏ, rút đao múa may con mẹ nó, có lúc thì bôi mặt trắng, cười hì hì vuốt ve họ mấy cái. Cũng giống như Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch, phải cho y thua tới mức khép nép vâng dạ, từ đó không dám làm phản nữa”.

Khang Hy cười ha hả, nói “Đúng là thế đấy”. Vi Tiểu Bảo thấy vẻ mặt y cười rất khác lạ, vừa xoay chuyển ý nghĩ đã hiểu rõ lý do, liền cười nói “Cũng như Vạn tuế gia bảy lần bắt Tiểu Quế tử, khiến nô tài vừa cảm kích vừa sợ hãi, từ đó không dám giở trò gì nữa. Tiểu Quế tử lại giống như Tôn Ngộ Không, rốt lại không sao nhảy ra khỏi lòng bàn tay Phật Như Lai của Vạn tuế gia”.

Khang Hy cười nói “Ngươi lớn thêm vài tuổi, càng lớn càng khiêm tốn. Nếu ngươi muốn nhảy ra khỏi lòng bàn tay ta, thì đúng là ta không bắt được ngươi đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài ở trong lòng bàn tay của hoàng thượng rất thoải mái, cần gì phải nhảy ra?”.

Khang Hy nói “Việc đánh dẹp Ngô Tam Quế nói ra thì công lao của ngươi cũng không nhỏ, chuyến ấy ngươi lại không đi được. Bây giờ ta phái ngươi thống lĩnh ba quân thủy bộ đánh dẹp La Sát. Thành Nhã Khắc Tát ở núi Lộc Đỉnh, ta phong ngươi làm Tam đẳng Lộc Đỉnh công, Phủ viễn đại tướng quân. Bên võ thì có Đô thống Bằng Xuân, Tướng quân Hắc Long Giang Tát Bố Tố, Tướng quân Ninh Cổ Tháp Ba Hải, bên văn thì có Sách Ngạch Đồ giúp ngươi. Trước tiên chúng ta phát ra bốn vạn quân mã bộ, năm ngàn quân thủy, nếu không đủ thì cần bao nhiêu sẽ có bấy nhiêu. Tất cả ngựa chiến quân nhu đều đã chuẩn bị đủ, quân lương tích trữ ở Ái Hồn, Ninh Cổ Tháp đủ cho đại quân dùng trong ba năm. Pháo dã chiến có ba trăm năm mươi khẩu, pháo công thành có năm mươi khẩu. Như thế đủ chưa?”.

Khang Hy nói một câu, Vi Tiểu Bảo tạ ơn một câu, đợi y nói xong, vội vàng quỳ xuống dập đầu lia lịa.

Khang Hy nói “Quân La Sát ở Nhã Khắc Tát và Ni Bố Sở bất quá chỉ có sáu ngàn quân mã bộ. Chúng ta lấy số quân đông gấp bảy tám lần đối phó, là thế sấm sét ngàn cân, chỉ mong ngươi đừng làm mất oai phong của Trung Hoa chúng ta mới được”.

Vi Tiểu Bảo nói “Trận này là nô tài đi đánh thay hoàng thượng, chúng ta chỉ cần hơi thua thiệt cũng đã bị người La Sát coi thường rồi. Xin hoàng thượng yên tâm”. Khang Hy nói “Tốt lắm. Ngươi còn cần gì nữa không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài có mang năm trăm quân khiên mây từ Đài Loan về kinh, họ từng đánh nhau với người Hồng Mao, giỏi chống cự hỏa khí, nô tài muốn mang họ đi đánh La Sát”.

Khang Hy mừng rỡ nói “Vậy thì tốt quá, bộ thuộc cũ của Trịnh Thành Công từng đánh bại quân Hà Lan, ngươi mang họ đi đánh quân La Sát, chúng ta lại nắm chắc thêm ba phần. Ta vốn lo quân La Sát hỏa khí lợi hại, e tướng sĩ của chúng ta bị thương vong nhiều”. Vi Tiểu Bảo nói “Khiên mây có thể đỡ được đạn, quân khiên mây thì lăn tròn dưới đất xông vào dùng đại đao chém chân quân địch”. Khang Hy cả mừng, luôn miệng khen “Tuyệt diệu, tuyệt diệu!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài có người tiểu thiếp, năm xưa từng cùng tới Mạc Tư Khoa, biết tiếng La Sát. Xin hoàng thượng ân chuẩn cho nàng theo quân làm việc”. Theo quy củ nhà Thanh, lúc ra quân mang theo gia quyến trong quân là tội rất lớn, vì thế phải xin trước.

Khang Hy gật gật đầu, nói “Được rồi. Ngươi cố gắng lập công đi”.

Vi Tiểu Bảo dập đầu cáo từ, lúc lui ra tới cửa, Khang Hy hỏi “Nghe nói Trần Vĩnh Hoa sư phụ ngươi bị Trịnh Khắc Sảng giết chết, phải không?”. Vi Tiểu Bảo sửng sốt, ứng tiếng “Vâng”. Khang Hy nói “Trịnh Khắc Sảng đã quy hàng triều đình, ta đã ưng thuận với y sẽ bảo toàn tất cả con cháu họ Trịnh, ngươi đừng làm khó y”. Vi Tiểu Bảo chỉ đành vâng dạ.

Lần này y tới kinh, đã sớm chuẩn bị tìm dịp Trịnh Khắc Sảng rủi ro, nào ngờ Khang Hy đã đoán được bèn dặn dò như thế, nếu lại tới kiếm chuyện với y thì là trái chỉ, nghĩ thầm “Chẳng lẽ mối đại thù thằng tiểu tử này hại chết sư phụ mình lại bỏ qua à?”. Y cúi đầu chậm rãi bước ra, chợt nghe có người nói “Vi huynh đệ, chúc mừng ngươi”.

***

Vi Tiểu Bảo nghe thấy giọng nói rất quen, ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy người trước mặt thân cao lưng rộng, cười hề hề nhìn mình, chính là Tổng quản Ngự tiền thị vệ Đa Long, vô cùng hoảng sợ. Hôm ấy y trốn ra khỏi cung, rõ ràng đã một kiếm đâm chết Đa Long trong phòng mình, hay là hồn y tới đòi mạng?”, Trong lúc nhất thời chỉ hoảng sợ tới mức toàn thân run lên, đã định quay người bỏ chạy, lại định quỳ xuống xin tha mạng, nhưng hai chân như bị đóng đinh xuống đất, không sao nhích được nửa bước, nửa người dưới trước sau đều căng ra, suýt nữa là són đái vãi phân luôn tại chỗ.

Đa Long bước tới gần, nắm tay y cười nói “Hảo huynh đệ, nhiều năm không gặp, ca ca rất nhớ ngươi. Từ khi chia tay đến nay chắc mọi việc đều được như ý. Nghe nói ngươi câu cá cho hoàng thượng ở đảo Thông Ngật, hoàng thượng thỉnh thoảng lại thăng tước cho ngươi, ta nghe được cũng rất mừng”.

Vi Tiểu Bảo cảm thấy bàn tay y ấm áp, ánh nắng mặt trời soi vào hành lang, bên cạnh y cũng có cái bóng, tựa hồ không phải ma quỷ, cũng bớt sợ hãi, lẩm bẩm “Vâng, vâng”, lại sợ y nhớ tới thù xưa, muốn tính nợ cũ, chỉ là rõ ràng nhát chủy thủ ấy đã đâm đúng vào bối tâm y, tại sao y vẫn không chết, đang lúc hoảng loạn, làm sao nghĩ ra được?

Đa Long lại nói “Hôm ấy ca ca bị ám toán trong phòng huynh đệ, may là huynh đệ đánh đuổi được thích khách, cái mạng của ta mới còn giữ được. Chuyện này trước nay chưa đích thân gặp ngươi cám ơn được, trong lòng vẫn thường nghĩ tới. Ngươi lại dặn Thi Lang đem lễ vật từ Đài Loan về tặng ta, quả thật không biết phải nói thế nào”.

Vi Tiểu Bảo thấy y thái độ thành thật, quyết không phải là cố ý nói ngược, nghĩ thầm “Y là Tổng quản Ngự tiền thị vệ, cận thần bên cạnh hoàng thượng. Lần ấy Thi Lang tới tặng lễ vật, tự nhiên là y có phần. Chắc y hỏi thăm Thi Lang về mình, Thi Lang bèn thuận nhân tình, nói trong số lễ vật có một phần là mình tặng để tiện tỏ ra có giao tình sâu đậm với mình, người ngoài nể mặt mình cũng không làm khó y. Chỉ là tại sao y nói mình đánh đuổi thích khách, chuyện này quả thật không hiểu được”.

Đa Long thấy y sắc mặt lúc trắng lúc xanh, dáng vẻ bồn chồn, chỉ cho là y bị Khang Hy trách phạt, bèn an ủi “Gần đây tâm tình hoàng thượng có lúc không được tốt, có quá nửa là vì bọn La Sát khinh người quá đáng, huynh đệ không cần lo lắng. Đợi hết phiên trực, chúng ta uống rượu một bữa, nói chuyện một phen”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng ơn đức như trời cao đất dày, mới rồi lại thăng chức cho ta. Huynh đệ trong lòng cảm kích, thật không biết làm sao để báo đáp ơn vua”, Đa Long cười nói “Chúc mừng, chúc mừng. Huynh đệ làm việc có tài, có thể chia sẻ được mối lo với hoàng thượng, được thăng quan tiến tước là chuyện đương nhiên”, thái độ ngưỡng mộ hiện rõ ra mặt.

Vi Tiểu Bảo thấy lời lẽ thái độ của y vừa thân thiết vừa cung kính với mình, vốn biết y là hán tử thành thật, không biết giả trá, nỗi sợ trong lòng tiêu tan hết, cười nói “Đa đại ca, xin ngươi chờ một lúc, huynh đệ mắc tiểu quá. Hoàng thượng truyền kiến, dặn dò rất nhiều, huynh đệ nhịn lâu quá, quả thật không nhịn được nữa”.

Đa Long hô hô cười rộ, biết hoàng đế triệu kiến bề tôi, nếu không tỏ vẻ triệu kiến đã xong thì bề tôi không được cáo từ. Kẻ bề tôi mà buồn đi tiểu, quả là một chuyện vô cùng khó khăn. Chỉ có điều cũng chỉ có loại bề tôi được sủng ái như Vi Tiểu Bảo thì hoàng đế mới nói chuyện với y lâu như thế. Các đại thần khác thì chỉ nói năm câu ba chuyện là sai lui ra, cũng không tới lượt họ buồn đi tiểu. Đa Long và Vi Tiểu Bảo trước nay thân thiết, hôm nay xa cách lâu ngày gặp lại, trong lòng rất vui vẻ, lập tức kéo tay y, dắt y tới cửa nhà xí, đứng ngoài cửa chờ y rửa tay xong trở ra.

Hôm ấy Vi Tiểu Bảo để cứu mạng sư phụ và các huynh đệ trong Thiên Địa hội, không biết làm sao đành đâm Đa Long, nhưng nghĩ tới lúc ngày thường y đối xử với mình rất tốt, trong lòng cũng rất xấu hổ, không ngờ y vẫn không chết, lại không có chút gì trách móc mình, đi tiểu xong cảm thấy vô cùng sảng khoái, ra khỏi nhà xí, bèn hỏi han chuyện hôm ấy.

Đa Long nói “Hôm ấy lúc ta tỉnh dậy, thì đã nằm trên giường ba ngày bốn đêm. Quan Thái y nói may là tim ta nằm lệch về một bên, nhát đao ấy của thích khách chỉ đâm vào phổi chứ không trúng tim. Y nói loại người tim nằm lệch về một bên như ta thì trong mười vạn người cũng không có một người”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thật xấu hổ, té ra là thế”, bèn cười nói “Trước nay ta chỉ nói đại ca là hảo hán có gan ruột, nào ngờ đại ca là người tim lệch. Đại ca tim lệch là đặc biệt sủng ái tiểu di thái hay thiên lệch với con cái thế?”. Đa Long sửng sốt, cười nói “Huynh đệ mà không nói thì ta cũng không nghĩ ra đâu. Ta đối với người tiểu thiếp thứ tám có thương yêu hơn một chút, chắc là vì tim ta nằm lệch”.

Hai người cười ầm một lúc. Vi Tiểu Bảo nói “Thích khách ấy võ công rất cao cường, y tới ám toán đại ca, trước đó huynh đệ cũng không phát giác được gì”. Đa Long nói “Đúng thế”, rồi hạ giọng nói “Vừa khéo lúc ấy công chúa Kiến Ninh điện hạ tới thăm huynh đệ. Chuyện ấy bọn ta làm nô tài thì không dám hỏi nhiều. Ta dưỡng thương ba tháng mới bình phục. Hoàng thượng xuống dụ, nói Vi huynh đệ ra sức cứu ta, chính tay giết chết thích khách. Những tình tiết bên trong, huynh đệ cũng không cần nói nữa, nói tóm lại là ca ca rất cám ơn ngươi”.

Vi Tiểu Bảo mặt dày tính ra cũng thứ nhất thứ nhì trong niên hiệu Khang Hy nhưng nghe mấy câu ấy cũng không khỏi hơi đỏ mặt, mới biết là hoàng đế che giấu cho mình. Một là hoàng đế đích thân nói ra, Đa Long tự nhiên tin cậy không hề ngờ vực, hai là có dính líu tới chuyện riêng tư của công chúa, người trong cung ai cũng biết rõ là càng ít nói tới càng hay, cho dù có mối nghi ngờ to bằng trời cũng chỉ đành giấu kín trong lòng. Nếu không như thế thì phải bịa ra một câu chuyện để che giấu, lại càng hao tổn tâm lực.

Vi Tiểu Bảo trong lòng xấu hổ, cảm thấy phải báo đáp cho con người trung hậu thành thật này một phen, liền nói “Huynh đệ có mang từ Đài Loan về một ít thổ nghi, để về tới nhà sẽ sai người đưa qua phủ đại ca”, Đa Long xua xua tay nói “Không cần đâu, không cần đâu. Chúng ta là người nhà, cần gì phải khách sáo như thế? Lần trước Thi Lang mang lễ vật của huynh đệ tới, đã quá nhiều rồi”.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên nghĩ tới một chuyện “Chuyện này thì đúng là làm ơn mà không mất tiền, cho dù hoàng thượng biết được cũng không thể trách mình trái chỉ”. Bèn hỏi “Đa đại ca, sau khi thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng quy hàng, sống ở Bắc Kinh thế nào?”. Đa Long nói “Hoàng thượng đối đãi với y không tệ, phong y làm Nhất đẳng công. Thằng tiểu tử ấy chẳng ra cái gì, nhờ vào phúc của ông cha mà tước vị còn cao hơn huynh đệ”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hôm trước chúng ta đùa giỡn, vu cáo y thiếu các thị vệ một vạn lượng bạc, do huynh đệ trả lại. Chuyện ấy đại ca còn nhớ không?”. Đa Long hô hô cười rộ, nói “Nhớ chứ, nhớ chứ. Cô nương thân thiết ấy của huynh đệ về sau thế nào? Nếu vẫn theo Trịnh Khắc Sảng, thì chúng ta đi cướp về”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Cô nương ấy đã là vợ ta rồi, sinh được con trai rồi”.

Đa Long cười nói “Chúc mừng, chúc mừng. Nếu không thì thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng ấy đang ở trong kinh, mặc mẹ y là Nhất đẳng công hay Nhị đẳng công, cũng chỉ là một gã Tước gia không quyền không thế, chúng ta mà tìm tới chắc thằng tiểu tử ấy cũng không dám đánh rắm lấy một cái đâu. Loại phiên vương quy thuận đầu hàng ấy thì suốt ngày run run rẩy rẩy, sợ hoàng thượng nghi ngờ là trong lòng không phục, lại định tạo phản”.

Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta cũng không cần hà hiếp y. Chỉ có điều giết người phải đền mạng, thiếu nợ phải trả tiền, đó là chuyện thiên kinh địa nghĩa. Đừng nói y chẳng qua chỉ là Nhất đẳng công, cho dù là thân vương bối lặc cũng không thể mắc nợ mà chảy ra không trả”. Đa Long nói “Đúng, đúng. Hôm ấy y thiếu huynh đệ một vạn lượng bạc, không ít người trong bọn Ngự tiền thị vệ chúng ta đều nhìn thấy, chúng ta tới đòi nợ thôi”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Thằng tiểu tử ấy rất không ra sao. Nếu chỉ là một vạn lượng bạc thì là chuyện nhỏ. Về sau y còn liên tiếp hỏi mượn không ít tiền của ta, có viết giấy nợ hiện trong tay ta. Họ Trịnh y ba đời làm vương gia ở Đài Loan, tiền bạc châu báu tích lũy được còn ít à? Nhất định đều phải mang cả tới Bắc Kinh. Trịnh Thành Công và Trịnh Kinh là người tốt, chắc không đến nỗi liếm láp máu mỡ của bách tính, nhưng chẳng lẽ thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng này lại khách khí sao? Y làm vương gia một ngày ít nhất cũng liếm láp một trăm vạn lượng, hai ngày là hai trăm vạn, ba ngày là ba trăm vạn. Y làm vương gia tất cả bao nhiêu ngày, ngươi tính thử xem nào!”, Đa Long há miệng đớ lưỡi, nói “Lợi hại thật, lợi hại thật!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Huynh đệ về nhà lấy giấy nợ đưa qua đại ca. Món tiền này thì riêng huynh đệ cũng không cần…”. Đa Long vội nói “Chuyện đó ngàn vạn lần không được, ca ca đòi nợ giúp ngươi, đảm bảo ngươi không thiếu một đồng bạc. Ta dắt bọn thị vệ thủ hạ tới cửa ngồi đòi nợ, cho dù y có gan to bằng trời cũng không dám không trả”. Vi Tiểu Bảo nói “Món nợ này lớn đấy, năm ấy thằng tiểu tử này trời hoa đất rượu, tiêu tiền như nước. Muốn trả hết một lần cũng không phải dễ đâu, thế này đi, đại ca dắt người đi đòi, nếu mười bữa nửa tháng y vẫn không trả thì cứ cho y biến nợ chẵn thành nợ lẻ, chia ra viết thành nhiều giấy nợ, chỗ tên chủ nợ cứ ghi tên của các anh em thị vệ. Mỗi tờ viết một ngàn lượng cũng được, hai ngàn lượng cũng được. Thị vệ nào đòi được, là của người ấy”.

Đa Long nói “Như vậy không được! Bọn thị vệ ai cũng là thuộc hạ cũ của ngươi, đi đòi nợ cho thượng ty cũ là chuyện nhỏ mà lại đòi thưởng thì còn ra gì nữa?”. Vi Tiểu Bảo nói “Họ đều là thuộc hạ cũ của ta, là anh em tốt, bạn bè tốt, mấy năm nay huynh đệ ngựa tốt thêm roi thăng quan tiến chức, mà trước nay không có gì hay đem cho mọi người, nghĩ lại cũng áy náy. Mấy trăm vạn lượng bạc này, các anh em thị vệ cứ chia nhau thôi”.

Đa Long giật nảy mình, run lên nói “Cái… cái gì mà có mấy… mấy trăm vạn lượng bạc?”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Tiền vốn thì cũng không bao nhiêu, trong đó có thêm tiền lãi, có thêm tiền này nọ, lãi mẹ đẻ lãi con, con số không nhỏ. Món tiền này, đại ca cứ lấy vài phần”. Đa Long vẫn không tin, lẩm bẩm “Mấy trăm vạn lượng à? Như… như thế không khỏi quá nhiều sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Cho nên muốn y chia ra viết làm nhiều giấy nợ, đòi cũng tiện hơn”. Rồi hạ giọng nói “Chuyện này đừng lôi ta vào. Nếu để các quan Ngự sử biết được, dâng một tờ tâu, nói huynh đệ giao kết với ngoại phiên, cho vay lấy lãi, không lớn thì nhỏ cũng là có tội. Nhưng nếu các Ngự tiền thị vệ đòi nợ y, mỗi người đòi một ngàn hai ngàn lượng bạc thì hoàn toàn không hề gì. Nếu đại ca sợ Ngự tiền thị vệ ăn một mình quá lớn chuyện, thì không ngại gì hẹn với quan quân trong Kiêu kỵ doanh cùng đi. Họ cũng là thuộc hạ cũ của ta, cũng nên cho họ một ít cái hay”. Đa Long luôn miệng khen phải, quyết định chủ ý, nếu đòi được món nợ này, ít nhất cũng phải trả hơn một nửa cho Vi Tiểu Bảo, tuy y khảng khái rộng rãi nhưng không thể để y không thu hồi được chút tiền vốn nào.

Vi Tiểu Bảo mười phần đắc ý, nghĩ thầm Đa Long mà dắt bọn Ngự tiền thị vệ và quan quân Kiêu kỵ doanh như sói như cọp tới đòi nợ thì Trịnh Khắc Sảng không khỏi không đau đầu. Tuy ngại vì hoàng thượng đã dặn dò trước, không thể tự mình tới làm khó Trịnh Khắc Sảng để báo thù cho sư phụ, nhưng giở trò thế này, ít nhất cũng phá tán được một nửa gia sản của y. Chuyện này thì Trịnh Khắc Sảng có quá nửa giống như thằng câm ăn phải ớt, không dám la lớn, cho dù bị người ta biết được thì cũng là Ngự tiền thị vệ và quan quân Kiêu kỵ doanh đòi nợ, chỉ là chuyện riêng, người ta chỉ có thể nói Trịnh Khắc Sảng là hạng tử đệ khố gấm, hành sự không cẩn thận, tới kinh sư vẫn còn cờ bạc bừa bãi, không ai có thể trút tội lên đầu Vi Tiểu Bảo y.

***

Vừa ra khỏi cung, các đại thần Mãn Hán là bọn Khang thân vương Kiệt Thư, Lý Úy, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ, Lặc Đức Hồng, Đỗ Lập Đức, Mã Phổ, Đồ Hải, Vương Hy, Hoàng Cơ, Ngô Chính Trị, Tống Đức Nghi đã chờ ngoài cửa cung, nhao nhao bước tới chúc mừng, đưa y về Đồng Mạo Nhi Hồ đồng.

Về tới trước ngõ, chỉ thấy một tòa phủ đệ to lớn sừng sững ở đó, so với phủ bá tước cũ còn lớn hơn nhiều. Trên cổng lớn treo một tấm biển ngạch sơn đen, nhưng không có chữ nào. Vi Tiểu Bảo thì chữ to bằng quả dưa cũng không biết được một gánh, nhưng trên tấm biển không có chữ nào rốt lại vẫn nhận ra được, không kìm được ngẩn ra.

Khang thân vương cười nói “Vi huynh đệ, ân trạch của hoàng thượng đối với ngươi thật như trời cao đất dày, năm ấy phủ bá tước của ngươi bị phát hỏa, ngươi lại không ở kinh, hoàng thượng biết được liền sai ca ca xây cho ngươi một phủ đệ khác. Trong thánh chỉ không nói là chi bao nhiêu tiền, chỉ nói cần bao nhiêu thì cứ vào kho mà lãnh. Đây là hoàng thượng thưởng cho ngươi, ca ca lẽ nào lại tiết kiệm cho hoàng thượng? Tự nhiên là cứ vung tay chi tiền. Huynh đệ, ngươi nhìn xem có vừa ý không?”, nói xong vuốt râu mỉm cười.

Vi Tiểu Bảo vội vàng cảm ơn. Từ cổng lớn đi vào, quả nhiên càng vào càng lộng lẫy, không kém phủ Khang thân vương bao nhiêu, các quan tặc lưỡi khen ngợi, chỗ nào cũng hoàn hảo.

Khang thân vương nói “Tòa phủ đệ này xây xong đã lâu, vẫn chờ huynh đệ ngươi tới ở, chỉ là không biết hoàng thượng sẽ ra ơn thế nào, sẽ phong ngươi làm chức quan gì, vì thế biển ngạch trên cổng vẫn bỏ trống chưa viết. Bốn chữ Lộc Đỉnh công phủ, còn xin Lý Đại học sĩ của chúng ta vung bút viết cho”.

Lý Úy là Bảo Hòa điện Đại học sĩ kiêm Thượng thư bộ Hộ, học vấn uyên bác nhất trong các đại học sĩ, là người đứng đầu, lúc ấy cũng không chối từ, cầm bút viết bốn chữ đại tự Lộc Đỉnh công phủ. Bọn tùy tùng bưng xuống, sai thợ đúc thành chữ vàng, gắn lên tấm biển.

Tối hôm ấy trong phủ Lộc Đỉnh công mở tiệc lớn, khoản đãi các vị đại thần tới chúc mừng. Bọn hàng thần Đài Loan là Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm cũng đưa lễ vật tới, nhưng không đích thân tới mừng.

Tiễn khách về xong, Vi Tiểu Bảo lại mở gia yến, bảy vị phu nhân nâng chén chúc mừng. Vi Tiểu Bảo nói chuyện mang Song Nhi cùng bắc chinh, sáu người còn lại đều không chịu, nói y quá thiên vị. Vi Tiểu Bảo đành hoa ngôn xảo ngữ, nói là hoàng đế hạ chỉ, biết Song Nhi từng qua nước La Sát, biết tiếng La Sát, đây là phái nàng theo quân hiệu lực. Sáu vị phu nhân đành phải thôi. May là Song Nhi tính tình ôn nhu khiêm hòa, thân thiết với cả sáu vị phu nhân, nên mọi người cũng không ghen tỵ với nàng, chỉ có công chúa Kiến Ninh cậy là ngự muội của hoàng thượng, cành vàng lá ngọc mà lại không bằng một a hoàn xuất thân hèn hạ, trong lòng rất tức giận. Có điều bảy vị phu nhân nếu lúc bình thời có chuyện cãi cọ thì sáu người kia nhất định sẽ liên minh chống lại công chúa. Công chúa Kiến Ninh một mình lẻ loi, Vi Tiểu Bảo lại không che chở cho nàng, nên mấy năm nay tính nết đã hòa hoãn hơn nhiều, không dám khinh suất gây sự.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo sai Song Nhi lấy tờ giấy nợ của Trịnh Khắc Sảng viết bằng máu trên đảo Thông Ngật năm trước ra, mời Đa Long tới đưa cho y. Đa Long cả mừng, nói “Đã có giấy nợ ở đây thì có là đầu bằng đá bọn ta cũng vắt ra được dầu. Thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng mà dám lớn mật chây ra không trả, thì Ngự tiền thị vệ và Kiêu kỵ doanh bọn ta cũng không cần phải ở trong kinh nữa làm gì”.

***

Sau đó vài hôm, Khang Hy liên tiếp triệu Vi Tiểu Bảo vào cung, đưa cho y một tấm bản đồ rất lớn, tiến quân thế nào, tiếp ứng thế nào, vây thành trì thế nào, đánh viện binh thế nào, nhất nhất chỉ thị chi tiết, dùng bút son chia ra vẽ rõ trên bản đồ.

Vi Tiểu Bảo nói “Trận này là hoàng thượng đích thân cầm quân đánh nhau, nô tài không dám đưa ra chủ trương gì cả, cứ tuân theo lời hoàng thượng phân phó mà làm là được. Nếu không thì dù thắng hoàng thượng cũng không vui”.

Khang Hy mỉm cười gật đầu, Vi Tiểu Bảo nói câu ấy rất hợp ý y. Y lúc nhỏ học võ nghệ, không có cách nào thi triển, chỉ còn cách đánh nhau với Vi Tiểu Bảo, về sau không ngừng sai Vi Tiểu Bảo ra ngoài làm việc, trong thâm tâm đều cho rằng y là hóa thân của mình. Vi Tiểu Bảo nhỏ tuổi hơn mình, võ công mưu trí, học vấn kiến thức không gì bằng mình, y làm việc thành công thì tự nhiên mình càng thành công dễ hơn.

Nghĩ tới việc hoàng đế Chính Đức nhà Minh tự phong là Oai vũ đại tướng quân Trấn quốc công, đích thân cầm quân xuất chinh, cũng chỉ là không chịu nổi cảnh tịch mịch, muốn bộc lộ thân thủ một lần mà thôi. Khang Hy không làm nhộn như hoàng đế Chính Đức, nhưng sai Vi Tiểu Bảo đi làm việc, trong lòng cũng cảm thấy thỏa mãn, năm xưa Ngô Tam Quế tạo phản, y là mãnh tướng thân trải trăm trận, không phải tầm thường, phải có bậc túc tướng đại thần đối phó, nếu để Vi Tiểu Bảo cầm quân nhất định hỏng việc. Lần ấy đánh nhau mấy năm, Khang Hy tuy không đích thân ra trận, nhưng mỗi trận đánh đều hỏi han tỉ mỉ, chuyện lợi hại được mất đều nắm vững như trong lòng bàn tay, học được binh pháp qua thực tế chiến tranh. Lúc ấy đánh nhau với nước La Sát, bất kể chuyện lớn nhỏ gì cũng đã sắp xếp ổn thỏa, đại quân còn chưa rời kinh mà đã đoán trận này ắt thắng, so với lúc đánh nhau với Ngô Tam Quế năm xưa lúc nào cũng nơm nớp lo sợ quả thật khác hẳn.

Vi Tiểu Bảo phải lập tức xuất chinh, không dám tới gọi các huynh đệ trong Thiên Địa hội, nghĩ thầm “Hoàng thượng không bảo mình đi tiêu diệt Thiên Địa hội, đó là y đầu hàng mình, đã nể mặt mình nhiều rồi. Nếu mình không biết điều, lại tụ họp với bọn Lý Lực Thế, Từ Thiên Xuyên, để hoàng thượng biết được, lại nhắc tới chuyện cũ, đó là Vi Tiểu Bảo tự vác đá đập chân mình, làm người đã quá chậm hiểu lại còn ngu lâu”.

Khâm thiên giám chọn ngày hoàng đạo cát nhật, đại quân bắc chinh. Hôm ấy Khang Hy ban yến ở cửa Thái Hòa, ngoài Ngọ môn bày đủ nghi vệ, dưới bệ giăng lều vải vàng, đặt ngự tọa, bày sắc ấn, vương công bá quan đều tụ họp. Khang Hy lên bục, Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo dẫn bọn võ tướng xuất chinh là Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Lang Thân, Lâm Hưng Châu, quan vận lương là Sách Ngạch Đồ quỳ xuống. Đại thần nội viện đọc sắc thư bằng ba thứ tiếng Hán Mãn Mông, trao sắc ấn đại tướng quân, ban cho áo giáp, ngựa chiến, cung tên, bội đao. Các tướng xuất chinh chia nhau ngồi phía bắc cầu Kim Thủy, hai bên tấu nhạc diễn trò. Khang Hy gọi đại tướng quân tới trước ngự tọa dặn dò phương lược, đích thân ban cho ngự tửu, đại tướng quân quỳ xuống đón lấy uống cạn, bọn Đô thống, Phó Đô thống nối nhau tiến vào, hoàng đế sai thị thần ban rượu, sau đó sai bá quan mời rượu các tướng, ban cho tiền lụa. Bá quan và chúng tướng tạ ơn, đại quân lên đường, Khang Hy đích thân tiễn ra cửa Ngọ môn. Đại tướng quân và các tướng quỳ xuống xin hoàng đế hồi giá, sau đó thủy lục đại quân theo đường lên bắc.

Các đại thần nhìn thấy Vi Tiểu Bảo thân mang giáp trụ mà miệng cười toe toét, không hề có nửa điểm oai vũ của đại tướng quân thống soái, vốn biết người này bất học vô thuật, là một gã vô lại ở chợ búa, mang quân xuất chinh có quá nửa sẽ làm hỏng việc lớn, làm mất thể diện quốc gia, nhưng biết Khang Hy rất sủng ái y, ai dám khuyên can nửa câu? Không ít vương công đại thần ngoài mặt tươi cười, trong lòng lo lắng. Đúng là:

Thừa tướng ngu ngơ lo giữ hốt,

Tướng quân nhảy nhót bước lên đàn.

***

Vi Tiểu Bảo vâng lệnh hoàng đế làm việc, trước nay chưa lần nào oai phong như thế này, trong lòng đắc ý thế nào không cần phải nói, biết lần này việc có quan hệ rất lớn, trong quân cố gắng kìm chế, không dám mở sòng bạc, dọc đường lúc buồn bực, cũng chẳng qua mời mấy viên đại tướng tới gieo xúc xắc vài ván, người thua bị phạt rượu mà thôi.

Một hôm, đại quân ra tới Sơn Hải quan, tiến lên Liêu Đông phía bắc. Đây là nơi Vi Tiểu Bảo từng đi qua, chỉ là năm xưa cùng Song Nhi trong rừng bắt hươu để ăn, trốn đông núp tây, vô cùng thảm hại, làm gì có oai phong ra ải bắc chinh như hôm nay?

Lúc ấy khí thu mát mẻ, trời quang muôn dặm, đại quân dần dần đi lên phía bắc, gió bấc ngày càng mạnh. Hôm ấy còn cách thành Nhã Khắc Tát hơn một trăm dặm, tiên phong Hà Hựu tới đại doanh bẩm báo quân xích hậu được bách tính ở địa phương cho biết, quân La Sát đổ ra bốn phía quấy nhiễu nhân dân, giết người đốt nhà, cướp bóc hãm hiếp, không chuyện ác nào không làm, cứ qua mười ngày lại kéo ra một lần, chắc vài hôm nữa sẽ lại ra cướp bóc.

Vi Tiểu Bảo đã được Khang Hy chỉ thị cơ nghi, cho đại quân đóng lại không tiến, sai Hà Hựu thống suất mười đội một trăm quân chia ra mai phục cách thành Nhã Khắc Tát ba mươi dặm. Nếu đại quân La Sát kéo ra thì núp kín tránh không giao chiến, nếu gặp toán nhỏ ít người thì hoặc giết hoặc bắt, tiêu diệt tất cả, không cho tên nào về thành. Hà Hựu vâng lệnh kéo quân đi.

Qua vài hôm, trước giờ Ngọ nghe ở xa văng vẳng có tiếng súng nổ, chỗ này lắng xuống chỗ kia vang lên, hồi lâu không dứt, đoán là đội tiên phong đã giao chiến với quân La Sát. Đến sau giờ Ngọ, Hà Hựu sai người về đại doanh báo tiệp, nói là giết được hai mươi lăm tên, bắt được mười hai tên quân La Sát. Vi Tiểu Bảo được tin cả mừng. Đến xế chiều, tướng tiên phong giải hai mươi tên tù binh La Sát vào đại doanh.

Vi Tiểu Bảo lên trướng, đích thân thẩm vấn. Mười hai tên quân La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát vô cùng kinh ngạc, nhưng người nào cũng mười phần quật cường, nói là bị trúng mai phục, quân Thanh đông người, có thắng cũng không vinh dự.

Vi Tiểu Bảo cả giận, gọi hai tên quân La Sát tới, móc xúc xắc trong bọc ra, nói “Hai người các ngươi gieo xúc xắc đi!”.

Trò gieo xúc xắc này, ở Tây dương từ xưa đã có, trong mộ cổ ở Ai Cập cũng đã khai quật được, cũng không khác gì xúc xắc ở Trung Quốc, quân La Sát cũng quen chơi, hai tên quân La Sát nhìn nhau ngạc nhiên, không biết vị tướng quân trẻ nhà Thanh này giở trò gì, nhưng cũng theo lời gieo xúc xắc. Hai người gieo xúc xắc, một người được bảy điểm, một người được năm điểm.

Vi Tiểu Bảo chỉ tên quân La Sát gieo được năm điểm nói “Ngươi thua rồi, tử man cơ!”. Trong tiếng La Sát “Tử man cơ” là có ý “tử vong”. Y quay đầu gọi thân binh “Lôi ra chém!”, bốn tên thân binh kéo tên quân La Sát ấy ra ngoài trướng, một đao chém chết, đem thủ cấp vào dâng lên. Mười một tên còn lại vừa nhìn thấy, ai cũng biến sắc.

Vi Tiểu Bảo chỉ hai tên La Sát khác nói “Hai người các ngươi ra gieo xúc xắc”, hai người này đời nào còn dám gieo, không hẹn mà cùng nói “Ta không gieo!”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, các ngươi không gieo”, nói với thân binh “Lôi cả hai ra chém!”, trong khoảnh khắc lại giết chết hai người.

Vi Tiểu Bảo lại chỉ vào hai tên La Sát nói “Hai người các ngươi ra gieo”, hai người biết nếu không gieo sẽ lập tức bị giết, gieo xúc xắc một lần thì còn một nửa cơ hội sống sót. Một người run rẩy cầm xúc xắc lên đang định gieo, người kia giơ tay giật lấy nói với Vi Tiểu Bảo “Ta gieo với ngươi!”, thần sắc vô cùng ngạo mạn.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Giỏi lắm, ngươi lại lớn mật dám khiêu chiến với ta. Ngươi gieo trước đi”. Tên La Sát ấy gieo được bảy điểm, Vi Tiểu Bảo gieo được mười điểm, cười nói “Thế nào?”. Tên La Sát ấy thần sắc thê thảm, nói “Ta không may, chẳng có gì để nói cả”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi tới Trung Quốc bọn ta, đã giết bao nhiêu người Trung Quốc rồi?”. Tên La Sát ấy ngang nhiên nói “Không nhớ rõ, nhưng ít nhất cũng là mười bảy mười tám người. Ngươi giết ta đi, dù sao ta cũng không bị thiệt”. Vi Tiểu Bảo sai kéo y ra chém, rồi chỉ vào một tên La Sát nói “Ngươi gieo đi”.

Tên La Sát ấy cầm lấy xúc xắc, bàn tay run lên, hai hạt xúc xắc một trước một sau rơi xuống bàn, ra mười một điểm, cơ thắng rất lớn. Vi Tiểu Bảo muốn giở trò để gieo ra mười hai điểm, nào ngờ lâu quá không luyện tập, thủ pháp không linh, hai hạt xúc xắc mặt sáu đều không lật lên mà cùng úp xuống, biến thành chỉ có hai điểm. Y sửng sốt rồi hô hô cười rộ, nói “Ta thắng rồi!”. Tên La Sát kia vội nói “Ta được mười một điểm, ngươi chỉ có hai điểm, tại sao lại là ngươi thắng?”. Vi Tiểu Bảo nói “Lần này điểm ít hơn là thắng, điểm nhiều hơn là thua”. Tên La Sát kia không phục, nói “Tự nhiên điểm lớn là thắng, quy củ của người La Sát bọn ta trước nay là thế”. Vi Tiểu Bảo làm mặt lạnh, nói “Đây là đất Trung Quốc hay đất La Sát?”. Tên La Sát kia nói “Là… là đất Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Đã là đất Trung Quốc, tự nhiên là phải theo quy củ Trung Quốc. Ai bảo các ngươi tới Trung Quốc làm gì? Lần sau nếu ta tới đất La Sát, lại gieo xúc xắc với ngươi, thì sẽ tuân theo quy củ của nước La Sát là được. Ngươi tử man cơ!” rồi quay qua gọi thân binh “Lôi ra chém!”.

Y lại gọi một tên quân La Sát ra, tên này tâm tư cũng tinh tế, trước hết là hỏi rõ “Theo quy củ Trung Quốc thì lần này điểm nhiều hơn là thắng hay điểm ít hơn là thắng?”. Vi Tiểu Bảo nói “Theo quy củ Trung Quốc thì người Trung Quốc thắng. Người Trung Quốc điểm nhiều hơn thì điểm nhiều thắng, người Trung Quốc điểm ít hơn thì điểm ít thắng”. Tên La Sát ấy tức tối nói “Ngươi thật quá ngang ngược, không biết đạo lý”. Vi Tiểu Bảo nói “Quân La Sát các ngươi tới Trung Quốc giết người cướp của chứ không phải người Trung Quốc bọn ta tới nước La Sát giết người cướp của, rốt lại người Trung Quốc ngang ngược hay người La Sát ngang ngược?”. Tên La Sát ấy im lặng. Vi Tiểu Bảo nói “Gieo mau đi, gieo mau đi!”. Tên La Sát ấy nói “Dù sao ta cũng thua, còn gieo làm gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không gieo thì tử man cơ! Lôi ra chém!”.

Y lại gọi một tên quân La Sát ra, tên này thân hình cao lớn, trên mặt đầy râu, cao giọng nói “Thằng tiểu tử Trung Quốc, ngươi không cần giở trò, cứ sảng khoái giết ta là được. Lần này các ngươi đông người, mai phục trong tuyết, đột nhiên xông ra, có thắng cũng không vinh dự. Quân nước La Sát bọn ta tới, sẽ giết hết tất cả các ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi bị ta bắt, thua cũng không phục, phải không?”. Tên quân La Sát ấy nói “Tự nhiên là không phục!”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu bọn ta số người bằng nhau, đối diện giao phong, thì các ngươi nhất định thắng, phải không?”.

Tên La Sát ấy ngạo nghễ nói “Cái đó tự nhiên. Người La Sát bọn ta một người đánh thắng năm người Trung Quốc, nếu không thế bọn ta đã không tới Trung Quốc. Ta đánh cuộc với ngươi, các ngươi gọi năm người ra đây đánh nhau với ta. Các ngươi mà thắng thì cứ giết ta, nếu ta thắng thì phải lập tức thả ta ra”. Tên này là dũng sĩ nổi tiếng trong quân La Sát, sinh ra có thần lực, nhìn thấy tướng sĩ thân binh trong doanh Vi Tiểu Bảo so với y đều thấp hơn ít nhất là một cái đầu, lấy một chống năm thì mình vẫn nắm nhiều phần thắng hơn.

Song Nhi nãy giờ vẫn đứng bên cạnh, lúc ấy nghe y nói năng ngạo mạn, liền nói “Người La Sát vô dụng. Phụ nữ Trung Quốc cũng thắng được ngươi”, nói xong bước ra đứng bên cạnh Vi Tiểu Bảo. Tên La Sát ấy thấy nàng thân hình thấp nhỏ, dung mạo xinh đẹp, nhịn không được cười phá lên, nói “Ngươi muốn tỷ võ với ta à?”. Vi Tiểu Bảo sai thân binh cởi trói cho y, mỉm cười nói “Song Nhi ngoan, cho y biết phụ nữ Trung Quốc chúng ta lợi hại đi”. Tên La Sát kia nói “Nữ nhân Trung Quốc lại biết tiếng La Sát, giỏi lắm, giỏi lắm!”.

Tiếng La Sát của Song Nhi so với Vi Tiểu Bảo thì kém xa, nói ra lời không tỏ được ý, không muốn nói nhiều với y, tay trái vung ra, đánh hờ vào mặt y một chưởng. Tên La Sát ấy vội ngửa đầu ra, vung tay đỡ gạt. Song Nhi chân phải phi ra, chát một tiếng đá trúng bụng dưới y. Tên La Sát ấy bị đau, gầm lớn một tiếng, hai quyền cùng phát. Y là hảo thủ quyền thuật của nước La Sát, ra quyền mau lẹ, lực đạo trầm trọng. Song Nhi thấy lợi hại, lách người ra sau lưng y ra chiêu Tả hữu phùng nguyên, chát chát hai tiếng, đá trúng eo lưng y hai đá. Tên quân La Sát ấy đau quá ngồi thụp xuống, kêu lên “Ngươi dùng chân, phạm quy, phạm quy!”. Nguyên là người La Sát đấu quyền, quy định không được dùng chân.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đây là đất Trung Quốc, đánh nhau cũng phải theo quy củ Trung Quốc”.

Song Nhi kêu lên “Người La Sát, ta thắng rồi” rồi lách người chuyển ra trước mặt y, quyền phải đánh vào bụng dưới y, tên quân La Sát ấy vung tay gạt ra. Song Nhi một quyền ấy là hư chiêu, không chờ y đỡ, quyền phải đã rút lại, chưởng trái đã đánh vào ngực y, tên La Sát ấy lại vung tay gạt ra. Song Nhi trái một quyền, phải một quyền, liên tiếp đánh ra mười hai quyền, quyền nào cũng là hư chiêu, chiêu này trong võ thuật Trung Quốc có một cái tên gọi là Hải thị thần lâu, ý tứ đều là hư ảo, chỉ vì chiêu nào cũng không đánh thật, không để lâu, nên so với quyền pháp bình thường còn nhanh hơn mấy lần.

Tên La Sát kia đỡ liên tiếp mấy cái đều gạt vào khoảng không, hô hô cười rộ cười nói “Con gái đùa giỡn, chỉ vô dụng…”. Câu nói chưa dứt, chát chát hai tiếng, hai má liên tiếp bị trúng hai chưởng. Tên La Sát ấy lớn tiếng quát tháo, hai tay đánh thẳng ra.

Song Nhi đảo người tránh qua, ngón trỏ tay phải phóng ra đã điểm trúng huyệt Thái dương bên phải của y. Tên La Sát choáng váng, thân hình lảo đảo. Song Nhi sấn lên, vung chưởng chém trúng huyệt Ngọc chẩm sau gáy y, đây là đại huyệt trên thân thể con người, tên La Sát ấy tuy to khỏe nhưng cũng không chi trì được, ngã vật xuống đất không bò dậy nổi.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nắm tay Song Nhi, đá vào gáy tên La Sát ấy một đá, hỏi “Ngươi có phục hay không?” tên La Sát ấy mơ mơ hồ hồ nói “Nữ nhân Trung Quốc… dùng yêu pháp… là bà đồng…”. Vi Tiểu Bảo chửi “Con heo thối tha, yêu pháp cái gì? Lôi ra chém! Bọn La Sát các ngươi có ai không phục, muốn ra tỷ võ nữa không?”.

Năm tên tù binh La Sát còn lại ngớ mặt nhìn nhau, nhìn thấy đại lực sĩ như thế còn thua thì mình quyết không phải là đối thủ, không ai dám lên tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi nhận thua đầu hàng thì sẽ tha không giết, nếu không thì tới đây gieo xúc xắc với ta, mọi người theo quy củ Trung Quốc, thắng được ta thì sống, thua thì tử man cơ!”, nói xong vung tay phải một cái ra hiệu chém đầu. Năm người kia đều nghĩ “Theo quy củ Trung Quốc thì bất kể đổ được bao nhiêu điểm cũng phải thua y”. Liền có một người khom lưng nói “Đầu hàng!”. Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói “Tốt lắm! Mang rượu thịt ra thưởng cho y”. Bọn thân binh đi vào sau trướng bưng ra một bát rượu lớn, một bát thịt lớn, cởi trói cho tên La Sát ấy, cho y ăn uống.

Nước La Sát khí hậu lạnh lẽo, ai cũng thích rượu. Vi Tiểu Bảo tuy không thích uống rượu, nhưng trong quân có sẵn rượu cao lương cực phẩm, vừa bưng ra lập tức bốc mùi thơm phức cả trướng. Bốn người còn lại vừa ngửi thấy mùi rượu, đã sớm chảy nước bọt, lại nhìn thấy tên La Sát kia uống rượu rất vui vẻ, trong lòng ngứa ngáy không sao chịu nổi, từng người lần lượt nói “Đầu hàng, đầu hàng! Muốn uống rượu”.

Vi Tiểu Bảo sai cởi trói cho bốn người, bảo thân binh lấy bốn phần rượu thịt ra chia cho họ. Quân La Sát uống hết rượu cũng chưa thỏa mãn, Vi Tiểu Bảo lại sai thưởng thêm cho mỗi người một phần rượu. Năm tên tù binh La Sát uống đến lúc ngà ngà say, nắm tay nhau hát, hát được một lúc, nghĩ tới giữa cái chết lại được sống, lại còn được ăn to uống lớn vui vẻ thế này, đều khom người tạ ơn Vi Tiểu Bảo.

Sau đó vài hôm, tiên phong Hà Hựu không ngừng giải tù binh La Sát về, nhiều thì mười sáu mười bảy người, ít thì một hai người. Bọn tù binh này nói chuyện với năm người đầu hàng trước tiên xong, biết nếu gieo xúc xắc với vị tướng quân thiếu niên Đại Thanh này ắt sẽ phải chết không còn nghi ngờ gì nữa, nếu đầu hàng sẽ được khoản đãi rượu thịt, lập tức đều đầu hàng. Đám quân La Sát này vốn là bọn vô lại vong mạng, nếu không phải trộm cướp cũng là tội phạm đi đày, trong mười người có đến tám chín là bọn không điều ác nào không làm, mạo hiểm xuống nam, chẳng ai có ý tốt. Lúc đầu hại chết thường dân Trung Quốc mười phần thuận lợi, lại càng có ý khinh thường người Trung Hoa, nên tuy bị bắt vẫn ngạo nghễ tự đại. Đến lúc Vi Tiểu Bảo chém chết mấy tên ra oai, số còn lại mới biết sợ. Bọn người này ngang tàng hung dữ, khinh người lành sợ kẻ ác, thấy đối phương ngang tàng hơn hung dữ hơn, chỉ còn cách lập tức ngoan ngoãn đầu hàng.

***

Lúc ấy Tổng đốc Cao La Tân đã phụng mệnh công chúa Tô Phi Á triệu về Mạc Tư Khoa, thăng chức cao hơn. Tổng binh đại tướng ở thành Nhã Khắc Tát tên Đồ Nhĩ Bố Thanh (Alexi Tolbusin). Quân La Sát từng toán nhỏ ra ngoài cướp bóc liên tiếp mấy ngày bị thất tung, Đồ Nhĩ Bố Thanh sai người nghe ngóng, thủy chung cũng không thấy về báo, biết là không hay, lúc ấy điểm một nửa binh mã trong thành, tất cả hơn hai ngàn người, đích thân suất lãnh kéo ra ngoài thành.

Đồ Nhĩ Bố Thanh dọc đường đi không thấy dấu vết địch nhân, thấy nhà ở của nông dân Trung Quốc là hạ lệnh phóng hỏa đốt hết, nam nữ bách tính đều nhất loạt giết chết, đi được hơn hai mươi dặm chợt nghe tiếng vó ngựa vang lên, một toán quân mã xông tới.

Đồ Nhĩ Bố Thanh ra lệnh cho bộ ngũ tản ra, chỉ thấy một đội kỵ mã quân Thanh thúc ngựa phóng tới, khoảng năm trăm người, tên bắn rào rào. Đồ Nhĩ Bố Thanh hô hô cười rộ, nói “Bọn Man tử Trung Quốc chỉ biết bắn tên, làm sao chống lại được hỏa thương ghê gớm của người La Sát chúng ta?”. Bèn quát một tiếng ra lệnh, quân sĩ cùng nổ súng, mười mấy kỵ binh quân Thanh ngã ngựa.

Trong quân Thanh có tiếng thanh la vang lên, quân Thanh quay đầu ngựa lại chạy về phía nam, Đồ Nhĩ Bố Thanh ra lệnh đuổi theo, đội quân Thanh này toàn cưỡi ngựa tốt tuyển chọn đặc biệt, phóng đi rất nhanh, nhất thời không sao đuổi kịp. Đuổi được bảy tám dặm, chỉ thấy cạnh khu rừng phía trước dựng một lá cờ vàng, quân La Sát phóng mau tới, thấy là bảy tám doanh trướng của quân Thanh. Quân La Sát nổ súng ầm ầm, trong doanh trướng có mấy trăm quân Thanh chạy ra, bắn vài loạt tên rồi cưỡi ngựa phóng về phía nam. Đội tiên phong của quân La Sát xông vào doanh trướng, thấy quân Thanh đã chạy sạch.

Đồ Nhĩ Bố Thanh xuống ngựa vào trướng, chỉ thấy trên bàn bày rượu thịt, hơi nóng còn bốc nghi ngút, dưới đất vứt đầy vàng bạc, quần áo, châu báu. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng, nói “Đây là đại tướng của bọn Man tử Trung Quốc, vội vàng bỏ chạy, ngay cả vàng bạc cũng không kịp mang theo hết. Mọi người lên ngựa đuổi mau! Bắt được đại tướng của bọn Man tử sẽ có trọng thưởng. Đại tướng của bọn Man tử nhất định mang rất nhiều vàng bạc châu báu trong người, mọi người đuổi theo mà cướp”.

Đám quân tướng thấy vàng bạc châu báu đã sớm ngươi giành ta cướp, có người lấy rượu thịt trên bàn ăn uống, nghe chủ tướng hạ lệnh đều lớn tiếng reo hò, đổ ra khỏi trường, nhao nhao lên ngựa, theo vết chân ngựa đuổi về phía đông nam, dọc đường chỉ thấy vàng bạc, đao thương, cung tên rải rác bên vệ đường. Đám binh tướng đều nói quân Trung Quốc thấy đại quân La Sát kéo tới đã sợ vãi cứt vãi đái, ngay cả binh khí cũng ném đi không cần tới nữa.

Lại đuổi một lúc, chỉ thấy trên đường có mấy đôi hài, mấy cái nón chóp đỏ. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Nguyên soái tướng quân của bọn Man tử Trung Quốc cải trang chạy trốn, có quá nửa là cải trang thành binh sĩ. Đừng để y qua mặt”. Bọn tùy tùng đều nói “Tướng quân đoán việc như thần, nhất định là thế”, Đồ Nhĩ Bố Thanh sai nhặt hài và mũ, nói “Bắt được bọn Man tử Trung Quốc thì bất kể binh sĩ hay phu phen cũng bảo đội mũ mang hài thử, nếu vừa vặn thì có quá nửa chính là đại tướng”. Bọn bộ thuộc đều ca ngợi tướng quân thông minh trí tuệ, mọi người không sao bằng được.

Lại đuổi thêm vài dặm, lại cướp được một doanh trại khác của quân Thanh, chỉ thấy dưới đất ngoài vàng bạc binh khí còn có rất nhiều quần áo phụ nữ màu hồng màu lục, màu sắc tươi đẹp, ngoài doanh trướng còn có những vật trang sức của phụ nữ như phấn sáp nước hoa, khăn tay thoa vòng. Đám quân tướng lửa dục bừng lên, cùng reo hò “Đuổi mau, đuổi mau, bọn Man tử Trung Quốc có mang theo phụ nữ”.

Cứ thế suốt đường đuổi theo, liên tiếp cướp được bảy nơi doanh trại, nghe phía trước văng vẳng có tiếng kêu la hoảng sợ vang lên. Đồ Nhĩ Bố Thanh đứng lên yên ngựa, lấy kính thiên lý nhìn ra, chỉ thấy cách vài dặm có một toán quân Trung Quốc đang nhao nhao chạy trốn, cờ xí nghiêng ngả, hàng ngũ rối loạn. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng kêu lên “Đuổi mau!” rồi tuốt mã đao ra, chém gió trên không, quát lớn “Xông lên, giết!”. Y suất lãnh binh tướng xông mau tới, dọc đường nhìn thấy hơn hai mươi con ngựa của quân Thanh ngã chết trên đường. Bọn binh tướng mừng rỡ kêu lên “Ngựa của bọn Man tử kiệt sức rồi!”. Bèn ra sức thúc ngựa, càng đuổi càng gần, nhìn thấy quân Thanh chạy vào một đường sơn đạo nhỏ hẹp.

Đồ Nhĩ Bố Thanh đuổi tới cửa núi, thấy địa thế hiểm trở, thoáng sửng sốt “Nếu quân địch mai phục ở đây thì rất không hay”. Chợt nghe trong sơn cốc phía trước có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Bọn Man tử Trung Quốc, các ngươi đầu hàng rồi, tốt lắm, tốt lắm!”, lại có người kêu lên “Hô hô, lần này bọn Man tử Trung Quốc thảm bại rồi”, đúng là tiếng của quan binh bản quốc, không hề sai chạy. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng, lúc ấy càng không nghi ngờ gì nữa, thúc ngựa xông vào, hơn hai ngàn kỵ binh cũng theo sau xông vào sơn cốc. Đồ Nhĩ Bố Thanh quát lớn “Phía trước là đội nào đấy? Các ngươi ở đâu thế?”. Chỉ nghe sau vách núi có hơn mười người đồng thanh kêu lên “Bọn ta ở đây! Bọn Man tử Trung Quốc đầu hàng rồi!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Hay quá!”, vừa giật cương ngựa, chợt nghe sau lưng có tiếng súng nổ ầm ầm.

Đồ Nhĩ Bố Thanh giật nảy mình, quay lại nhìn, chỉ thấy chỗ cửa sơn cốc khói bay mù mịt, trong rừng cây trên vách núi hai bên đường sơn đạo ánh lửa lóe lên, hàng loạt hỏa thương bắn xuống. Binh tướng La Sát hoảng sợ kêu la. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Quay ngựa lại, lui ra khỏi sơn cốc”.

Chợt nghe hai bên vách núi có tiếng mấy ngàn người đồng thanh quát lớn “Quân La Sát, đầu hàng đi, đầu hàng đi!”, kế đó có vô số đá lớn, lôi mộc lăn xuống, trong khoảnh khắc đã lấp tắc đường sơn đạo. Quân La Sát đều bị vướng trong đường sơn đạo nhỏ hẹp, ngươi xô ta đẩy, người kêu ngựa hí, ầm ầm một tràng. Quân Thanh trên cao đánh xuống, cung tên súng đạn không ngừng bắn ra.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thầm kêu khổ, biết đã trúng kế địch nhân, thấy đường về đã bị chặn, chỉ còn cách quay ngựa lại, quát lớn “Mọi người xông về phía trước!”. Vừa xông lên được vài trượng, chợt nghe bình bình vang rền, đạn pháo bắn tới, giết chết mấy mươi binh sĩ. Đồ Nhĩ Bố Thanh hoảng sợ hồn phi phách tán, không ngờ hỏa khí của quân Thanh lại lợi hại như thế, mà trong chỗ đường núi gập ghềnh này lại mai phục được đại pháo. Y vội nhảy xuống ngựa, kêu lên “Bỏ hết ngựa, tập trung hỏa lực, theo đường cũ xông ra”.

Quân La Sát nhao nhao xuống ngựa, bò lên mớ cây đá lấp đường sơn đạo, hậu đội bắn lên vách núi hai bên để yểm hộ. Hỏa lực súng ống của quân La Sát rất lợi hại, bắn đi rất xa, cũng bắn chết không ít quân Thanh. Nhưng quân Thanh đại pháo không ngừng bắn xuống, thế rất mãnh liệt.

Mấy trăm binh tướng La Sát bò qua khỏi mớ cây đá lấp đường, đột nhiên ầm một tiếng vang rền, dưới đất nổ tung lên, mấy trăm binh tướng tung lên mười mấy trượng, có người đứt đầu cụt tay, máu thịt bắn tung tóe, số may mắn không chết vội vàng bò trở lại.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy trước sau đều không có đường, bó tay không còn cách nào. Một tên binh sĩ rất kiêu dũng, suất lãnh mấy mươi tên cảm tử leo lên vách núi phía bắc, định mở đường máu. Nhưng vách núi dựng đứng, lại nhẵn bóng không có chỗ đặt chân, leo lên được vài trượng đã có hơn mười tên ngã xuống, không chết thì bị thương. Lúc ấy quân Thanh lại không ngừng bắn đại pháo xuống, trên vách núi vang lên tiếng quân La Sát kêu gào thê thảm.

Nhìn thấy nếu lại qua một lúc nữa, thế ắt toàn quân tan vỡ, Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Đừng đánh nữa, ngừng bắn, ngừng bắn!”, nhưng tiếng pháo và tiếng binh sĩ kêu la át mất tiếng y. Bọn quân sĩ đứng gần y đồng thanh kêu lớn “Ngừng bắn, ngừng bắn!”. Số quân còn lại cũng kêu lên theo.

Pháo của quân Thanh ngừng bắn, có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Ném hết súng ống đao kiếm xuống, tất cả cởi hết quần áo ra!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, quát lớn “Chỉ ném võ khí xuống, không cởi quần áo đâu!”. Quân Thanh có người quát “Ném hết súng ống đao kiếm xuống, cởi hết quần áo ra, sợ gì bị cười chứ! Ra ngoài uống rượu. Không cởi quần áo, thì tử man cơ!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Không cởi quần áo đâu!”.

Câu ấy vừa buông ra, tiếng ầm ầm vang lên, đại pháo của quân Thanh lại bắn tới. Trong quân La Sát có nhiều kẻ sợ chết, lập tức nhao nhao vứt súng ống xuống, bắt đầu cởi quần áo. Đồ Nhĩ Bố Thanh giơ súng ngắn lên, bắn chết một tên binh sĩ đang cởi áo, quát “Ai cởi quần áo đều bị xử tử!”. Nhưng dưới làn đạn pháo của quân Thanh ầm ầm bắn xuống, chỉ đành không đếm xỉa gì tới nghiêm lệnh của tướng quân, hơn mười tên binh sĩ trần truồng như nhộng, bò lên đống gỗ đá chặn đường. Quân Thanh hai bên vách núi vỗ tay cười lớn, kêu lên “Cởi quần áo ra mau!”. Đám binh sĩ cởi quần áo để được sống sót càng lúc càng nhiều, Đồ Nhĩ Bố Thanh súng ngắn liên tiếp bắn ra, lại bắn chết hai người, nhưng làm sao cản được?

Đại pháo của quân Thanh tạm ngừng bắn, trên đỉnh núi có người quát “Muốn sống thì mau cởi quần áo ra”. Lúc ấy binh tướng La Sát đã không còn lòng dạ nào đánh nhau, mười người có tới tám chín cởi giày ra.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thở dài một tiếng, kề miệng súng vào thái dương đang định tự sát. Viên Phó quan đứng bên cạnh đè khẩu súng trong tay y xuống, nói “Tướng quân, không được! Chim ưng già giữ lại lông cánh, mới có thể bay qua núi cao”. Câu này là thành ngữ La Sát, cũng có ý nghĩa như câu “Non xanh còn giữ được, lo gì thiếu củi đun” của Trung Quốc.

Chỉ nghe trong quân Thanh có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Mọi người cởi hết quần áo của Đồ Nhĩ Bố Thanh ra, thì tất cả cùng ra, nếu không sẽ nổ pháo”, câu ấy nói bằng tiếng La Sát rất đúng giọng, chính là quân La Sát đầu hàng phát thoại.

Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận không sao nén được, chỉ thấy mấy tên bộ thuộc trợn mắt nhìn mình, rõ ràng không có ý tốt, bèn đưa tay rút bội đao đeo ở lưng ra. Ngón tay y vừa chạm vào chuôi đao, một tên quân sĩ sau lưng đã sấn tới cặp cổ y, năm sáu người khác cùng xông vào đè y xuống đất, bảy tay tám chân lập tức cởi hết quần áo của y, vác lên bước ra.

Quân tướng La Sát cứ một người bước ra là có hai tên quân Thanh bước tới, trói quặt hai tay ra sau lưng, giải đi vài dặm, tới một bãi đất rộng. Trận ấy hơn hai ngàn quân La Sát ngoài sáu bảy trăm người chết và bị thương, hơn một ngàn tám trăm người còn lại đều bị trói quặt hai tay ra sau lưng, trần truồng đứng xếp hàng, gió thu nổi lên, không kìm được run lên cầm cập.

Quân Thanh áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh tới đứng phía trước hàng quân La Sát. Quân tướng La Sát vốn ai cũng cúi đầu rũ rượi, trong lòng run sợ, đột nhiên thấy vị tướng quân lúc bình thời oai nghiêm dữ tợn lại trở thành như thế, đều cảm thấy buồn cười, trong đó có mấy mươi người nhìn thấy cái mông nhồng nhộng của chủ tướng, nhịn không được bật cười. Tiếng cười càng lúc càng lan ra, không bao lâu hơn một ngàn quan binh đều cười ha hả.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, quay lại cao giọng quát “Đứng thẳng, nghiêm! Cười cái gì?”. Y trên người không có một mảnh vải mà làm ra vẻ oai nghiêm như thế, lại càng vô cùng buồn cười. Đám quan binh ngày thường tuy rất sợ sệt y, nhưng lúc bấy giờ làm sao nhịn cười được?

Trong tiếng cười lớn, đột nhiên có tiếng súng bình bình bình, trống hiệu vang lên, một đội quân Thanh từ sau núi xông ra, giương cờ vàng đứng xếp hàng ở phía đông, kế đó lại có ba đội quân Thanh mang cờ ba màu đỏ, trắng, lam chia đứng ở ba phía nam, tây, bắc, vây quân La Sát vào giữa. Quân La Sát thấy quân Thanh người cầm trường thương, người cầm đại đao, người giương cung tên, người chĩa hỏa thương, giáp trụ sáng loáng, binh khí sắc bén, mình thì trên người không mảnh vải, liền cảm thấy bị khí thế của địch quân uy hiếp, không ai dám cười nữa, trong lòng vô cùng run sợ.

Quân Thanh xếp hàng xong, sau núi lại vang lên ba tiếng pháo lớn, kế đó nhã nhạc trỗi lên, hai lá cờ giương lên tiến ra, lá bên trái đề “Phủ viễn đại tướng quân Vi”, lá bên phải đề “Đại Thanh Lộc Đỉnh công Vi”, mấy trăm đao thủ xúm xít đưa một vị tướng quân trẻ cưỡi ngựa đi tới. Vị tướng quân trẻ này đầu đội mũ chóp đỏ, thân khoác áo choàng vàng, vẻ mặt rạng rỡ, hai mắt láo liên, tay trái phẩy nhẹ quạt lông, giống hệt Gia Cát Lượng, tay phải cắp ngược đại đao, giống hệt Quan Vân Trường, chính là Vi công Vi Tiểu Bảo.

Y thúc ngựa xông ra trước, hô hô hô ngẩng đầu lên trời cười lớn ba tiếng, bắt chước Tào Tháo trên sân khấu, chỉ tiếc bên cạnh thiếu mất một người đưa đẩy, không ai hỏi câu “Tại sao tướng quân lại cười?”.

Lúc ấy Đồ Nhĩ Bố Thanh nỗi giận đầy lòng không nơi phát tiết, đã sớm nảy ý ương ngạnh, đặt việc sống chết ra ngoài, cao giọng mắng “Thằng tiểu quỷ Trung Quốc, ngươi dùng quỷ kế bắt được ta, không phải là anh hùng. Muốn giết thì giết, tại sao còn làm nhục ta thế này?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta làm nhục ngươi cái gì?”. Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận nói “Ta… ta như thế này, chẳng lẽ… chẳng lẽ không phải bị làm nhục à?”. Vi Tiểu Bảo cười hỏi “Quần của ngươi là ai cởi thế?”. Đồ Nhĩ Bố Thanh lập tức nghẹn lời, quần áo của mình đều bị thuộc hạ của mình đè xuống cởi ra, tựa hồ không thể đổ cho tên tướng quân tiểu quỷ này. Y trong lúc cuồng nộ, khuôn mặt đỏ bừng, xông mau tới định liều mạng với Vi Tiểu Bảo. Bốn tên thân binh bên cạnh Vi Tiểu Bảo xông ra, nhấc trường thương lên, mũi thương sáng loáng chĩa vào người y. Đồ Nhĩ Bố Thanh chỉ còn cách dừng lại, không kìm được hai tay vung lên che trước mặt, quân tướng hai bên nhìn thấy thế đều cười ầm lên.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi đã đầu hàng, nên quy thuận Đại Thanh, tới Bắc Kinh dập đầu lạy hoàng đế Trung Quốc đi!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh nói “Không hàng, có băm làm muôn mảnh ta cũng không hàng”. Vi Tiểu Bảo cao giọng hỏi quân La Sát “Các ngươi có đầu hàng không?”. Quan binh La Sát đều cúi đầu im lặng. Vi Tiểu Bảo bèn chỉ lá cờ trắng phía tây, nói “Ai đầu hàng thì qua đứng bên kia!”, đám quan binh ngẩn ra bất động, có vài người muốn hàng, nhưng thấy không ai bước ra, cũng không dám bước ra trước.

Vi Tiểu Bảo nói “Được, các ngươi không ai đầu hàng cả! Nhà bếp ra đây!”. Phía sau bọn thân binh có mười tên đầu bếp bước ra, nửa người trên cởi trần, tay cầm đao nhọn xiên sắt, bước tới khom người nghe lệnh. Vi Tiểu Bảo nhìn Đồ Nhĩ Bố Thanh nói “Nước La Sát các ngươi có một món ăn gọi là Hà thư ni khắc, năm trước lúc ta ở Mạc Tư Khoa đã ăn qua, mùi vị rất không kém, bây giờ ta lại muốn ăn”. Rồi quay lại mười tên nhà bếp nói “Làm món Hà thư ni khắc!”. Mười tên nhà bếp ứng tiếng “Tuân lệnh!”. Liền có hai mươi tên quân sĩ đẩy mười cái lò sắt ra, trong lò đốt lửa đỏ rực. Quan binh La Sát ngớ mặt nhìn nhau, không biết vị tướng quân Trung Quốc này giở trò ma gì.

Vi Tiểu Bảo vẫy tay một cái, liền có hai mươi tên thân binh kéo mười tên quân La Sát ra. Vi Tiểu Bảo nói bằng tiếng La Sát “Cắt thịt trên người chúng, nướng món Hà thư ni khắc!”.

“Hà thư ni khắc” là thịt bò xỏ qua xiên sắt nướng lên, là một món ăn nổi tiếng ở nước La Sát.

Mười tên nhà bếp bước tới trước mặt mười tên quân La Sát, đao nhọn trong tay sáng loáng giơ lên hạ xuống. Mười tên quân La Sát cùng bật tiếng la thảm. Bọn thân binh kéo mười tên quân La Sát ra sau núi, chỉ thấy trên mặt đất máu tươi vương vãi. Mười tên nhà bếp trên xiên sắt trong tay trái đã xâu một khối thịt, đặt lên lò nướng. Quân La Sát nhìn nhau hoảng sợ. Trong khung cảnh yên lặng chỉ nghe tiếng than nổ lách tách, tiếng mỡ nhỏ xuống lửa xèo xèo.

Vi Tiểu Bảo quát “Kéo mười tên La Sát khác ra đây làm món Hà thư ni khắc!”, hai mươi tên thân binh lại bước qua bắt người.

Trong mười tên quân La Sát bị kéo ra, có bốn tên la lên “Đầu hàng, đầu hàng!”. Vi Tiểu Bảo nói “Được! Đầu hàng thì kéo qua bên kia”. Thân binh kéo bốn tên ấy tới dưới lá cờ trắng, liền có người đem rượu thịt ra cho ăn. Bọn thân binh trở lại kéo bốn tên khác. Bốn tên này nhìn thấy đầu hàng được khoản đãi rượu thịt, không hàng thì bị khoét thịt trên người nướng món Hà thư ni khắc, tuy không nhìn thấy thịt bị cắt là ở chỗ nào, nhưng thấy ánh mắt quân Thanh cứ nhìn tới nhìn lui vào hạ thể của mình, dấu hiệu rất không hay, trong lòng hoảng sợ, bất giác cũng la lớn “Đầu hàng!”. Sáu tên quân La Sát cứng cỏi lúc đầu đến lúc ấy cũng mất hết khí thế, đều la lên “Đầu hàng!”.

Đã có người đầu hàng, số quân binh còn lại cũng không dám khoe khoang dũng cảm, có người không chờ thân binh tới kéo ra, đã bước qua dưới lá cờ trắng, trong giây lát, hơn một ngàn tám trăm quan binh La Sát đều đầu hàng, chỉ còn một mình Đồ Nhĩ Bố Thanh đứng sừng sững ở đó.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi có đầu hàng không?”. Đồ Nhĩ Bố Thanh nói “Thà chết không hàng!”, Vi Tiểu Bảo nói “Được! Ta tha ngươi về Nhã Khắc Tát”. Rồi sai Hồng Triều suất lãnh năm trăm quân hộ tống y về thành Nhã Khắc Tát. Đồ Nhĩ Bố Thanh chỉ nghĩ mình quật cường như thế thì nhất định viên tướng quân nhà Thanh này sẽ giết, nhưng y lại chịu tha về, vô cùng bất ngờ, nói “Ngươi đã tha ta, thì trả lại quần áo cho ta!”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Quần áo thì không trả được”, rồi dặn Hồng Triều “Ngươi đưa y về dưới thành Nhã Khắc Tát, truyền lệnh của ta tạm thời ngừng công thành, dắt vị tướng quân La Sát cởi truồng này đi quanh thành ba vòng, rồi thả y vào thành”

Hồng Triều nhận tướng lệnh, lúc ấy trong tiếng cười tiếng thét ầm ĩ huyên náo của quân Thanh, dắt quân áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh trần truồng như nhộng đi.

***

Lâm Hưng Châu nói “Xin hỏi đại soái, đã bắt được tướng quân La Sát, sao lại thả ra? Chỗ ảo diệu trong đó, xin đại soái chỉ giáo”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hôm nay chúng ta giành được toàn thắng, ngươi có biết là dùng kế sách gì không?”. Lâm Hưng Châu nói “Đây là đại soái thần cơ diệu toán, thuộc hạ khâm phục sát đất”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Đây không phải là ta thần cơ diệu toán, mà là mưu kế của hoàng thượng an bài. Hoàng thượng nói năm xưa Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch, kế sách rất hay, bảo ta học theo. Ngươi xem vở Thất cầm Mạnh Hoạch chưa? Nếu chưa xem, thì cũng đã nghe kể rồi chứ? Gia Cát Lượng sai Ngụy Diên ra đánh, chỉ cho thua không cho thắng, thua liên tiếp mười lăm trận, bỏ cho Mạnh Hoạch chiếm được bảy trại, dụ y tiến vào hang Bàn Xà, sau đó hỏa thiêu quân giáp mây. Hôm nay là chúng ta sử dụng mưu kế của Gia Cát Lượng”. Các tướng đều khâm phục.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Hoàng thượng lòng dạ nhân từ, nói Gia Cát Lượng hỏa thiêu quân giáp mây quá tàn nhẫn, đến nỗi bị giảm thọ. Nếu quân La Sát chịu đầu hàng, thì nên tha mạng cho họ”. Phó Đô thống Lang Thân nói “Nếu không phải đại soái dùng kế Hà thư ni khắc, cắt thịt mười tên quân La Sát ra nướng, dọa cho chúng hồn phi phách tán, thì đám quan binh La Sát này vô cùng cứng cổ, e là không chịu đầu hàng. Kế sách này thật hơn cả Gia Cát Lượng”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Mười tên nhà bếp đã giấu sẵn mười tảng thịt bò trong người, chẳng qua chỉ rạch vài nhát trên đùi mười tên quân La Sát kia cho chúng la ầm lên. Thịt nướng trên lò thì là thịt bò, mùi vị thế nào, các vị đừng ngại nếm thử”. Các tướng bật tiếng cười rộ, sai đám nhà bếp đưa lên mười tảng thịt Hà thư ni khắc, cắt ra chia nhau ăn, quả nhiên vừa thơm vừa mềm, vô cùng ngon ngọt.

Các tướng lại hỏi “Đại soái đã bắt được tù trưởng quân địch, lại thả cho y về, cũng là muốn bảy lần bắt bảy lần tha khiến từ nay trở đi y không dám phản nữa phải không?”, Vi Tiểu Bảo nói “Không phải thế. Chuyện này lúc ở Bắc Kinh ta đã thỉnh vấn hoàng thượng. Ta nói hoàng thượng là Điểu Sinh Ngư Thang, lòng dạ khoan hồng độ lượng, chúng ta có nên học Gia Cát Lượng, bắt được nguyên soái La Sát thì tha y bảy lần không? Hoàng thượng nói: Như thế không đúng. Học Gia Cát Lượng là phải vận dụng linh hoạt, không thể cứ nhất nhất làm theo. Mạnh Hoạch là tù trưởng Man tử, y nói không phản là vĩnh viễn không phản. Chúng ta thì chỉ bắt được tướng quân nguyên soái của La Sát, y nói không phản cũng vô dụng, Sa hoàng và Nhiếp chính nữ vương nước La Sát sẽ lại phái nguyên soái khác đem quân tới xâm phạm cương giới của chúng ta”. Các tướng gật đầu khen phải. Vi Tiểu Bảo nói “Thành Nhã Khắc Tát quân sĩ hung hãn, hỏa pháo lợi hại. Nếu chúng ta giết chết nguyên soái La Sát, quan binh trong thành sẽ suy cử thống soái khác, đánh nhau lại càng hung hãn, bây giờ chúng ta lột truồng nguyên soái La Sát, dắt y đi quanh thành ba vòng, từ nay trở đi quan quân trong thành sẽ coi thường y. Y không có oai phong, thì trở đi ban bố mệnh lệnh cũng không có hiệu quả gì”.

Chư tướng đồng thanh khen phải. Lâm Hưng Châu hỏi “Là hoàng thượng chỉ dạy, bảo lột truồng tù trưởng địch quân à?”, Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Hoàng thượng đâu lại làm nhộn như thế? Hoàng thượng chỉ bảo ta nghĩ cách nuôi dưỡng lòng hăng hái của quân ta, làm giảm oai phong của quân La Sát. Hoàng thượng nói: Quân La Sát cao lớn, toàn thân đầy lông, giống như người rừng, hỏa khí lại mười phần lợi hại. Lúc ra trận giao phong, quân ta thấy dáng vẻ của họ như thế, có quá nửa đã sợ sệt trong lòng, mất hết nhuệ khí, rất khó đánh nhau. Hoàng thượng nói: Tiểu Quế tử, ngươi rất nhiều trò hoa dạng, phải làm sao để quân ta từ trên xuống dưới đều coi thường quân Man tử. Ta không nghĩ ra cách nào hay, một hôm đột nhiên nghĩ tới chuyện ta đánh bạc lúc nhỏ”.

Các tướng đều nghĩ “Chuyện ngươi đánh bạc lúc nhỏ thì có liên quan gì tới quân La Sát?”.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Lúc nhỏ ta ở Dương Châu đánh bạc với người ta, kỹ thuật gieo xúc xắc kém cỏi, lúc thua sạch túi chỉ còn cách giở trò vô lại, muốn đánh nhau thì đánh nhau, ta cũng không sợ. Có một lần bị người ta đánh cho thê thảm, người thắng còn bắt ta lột quần trừ nợ, để ta cởi truồng về nhà, mọi người lớn nhỏ trên phố đều chỉ trỏ cười cợt. Từ đó trở đi, kỹ thuật gieo xúc xắc của ta tiến bộ không ít”. Các tướng đều cười ầm. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hoàng thượng nói điều quan trọng trong việc đánh trận là phải biến hóa linh hoạt, hoàng thượng chỉ có thể chỉ giáo phương lược đại kế, còn khi làm thì ta phải tự mình động não. Ta nghĩ năm ấy ta còn rất nhỏ mà đã sợ bị người ta lột truồng thì quân La Sát lẽ nào lại không sợ, quả nhiên vừa bị lột mất quần, mọi người đều ngoan ngoãn đầu hàng”. Các tướng đồng thanh ca ngợi, vô cùng khâm phục. Có người nghĩ thầm “Lối lột quần này, trong Tôn tử binh pháp cũng chưa có. Bộ Vi tử binh pháp này quả thật lợi hại”

Lúc ấy Vi Tiểu Bảo sai hàng binh La Sát mặc trang phục quân Thanh, sai một viên Tham tướng suất lãnh hai ngàn quân Thanh áp giải hàng binh về Bắc Kinh dâng tù binh cho hoàng thượng. Trong doanh giữ lại hai trăm tên hàng binh to mồm để dùng vào việc quát tháo. Sư gia trong đại doanh viết một tờ tấu chương, nói Phủ viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tuân theo phương lược hoàng thượng chỉ dạy, kỳ khai đắc thắng, quân La Sát ngưỡng mộ Trung Hoa thượng quốc, rửa lòng quy thuận, quả thật hoàng thượng ta thánh đức như trời, cảm hóa được cả bọn Man Di, vân vân.

Đêm ấy Vi Tiểu Bảo khao thưởng ba quân. Sáng hôm sau đích thân suất lãnh chư quân kéo tới thành Nhã Khắc Tát. Chỉ thấy trên thành khói lửa mù mịt, trong thành ngoài thành quân sĩ đôi bên quát tháo vang trời, tiếng súng ầm ầm không ngớt.

Chủ tướng chỉ huy quân công thành là Bằng Xuân vào đại doanh bẩm báo hỏa pháo trong thành bắn rất dữ dội, sĩ tốt quân ta công thành thương vong không ít. Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta bắc đại pháo lên, bắn con mẹ nó đi”. Bằng Xuân ra lệnh, không bao lâu hai phía đông nam tây bắc tiếng pháo cùng nổ ran, ầm ầm ầm ầm bắn vào thành. Nhưng người La Sát xây dựng thành Nhã Khắc Tát đã lâu, công sự mười phần kiên cố, quân tướng đều núp sau lũy bền. Đại pháo của quân Thanh tuy nhiều, đạn pháo bắn sập không ít nhà cửa, nhưng quân La Sát giữ lũy không ra, cũng không làm gì được họ.

Đánh được vài ngày, Hà Hựu suất lãnh một ngàn dũng sĩ xông sát leo lên thành, trên thành hỏa thương bắn xuống rào rào, quân Thanh lập tức bị chết ba bốn trăm người. Bằng Xuân thấy tình hình bất lợi, khua chiêng thu quân. Quân La Sát đứng trên thành vỗ tay cười lớn, lại có mấy trăm tên cởi quần đứng trên thành đái xuống, cực kỳ ngạo mạn.

Tướng quân Hắc Long Giang Tát Bố Tố cả giận, đích thân dẫn quân công thành. Đội hỏa thương trên thành bắn xuống, Tát Bố Tố trúng đạn ngã ngựa, quân Thanh lập tức rối loạn. Cửa thành chợt mở toang, mấy trăm quân La Sát xông ra. Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây lăn tròn dưới đất xông vào, đại đao vung lên. Quân La Sát vội nhảy lên tránh né. Đội quân khiên mây này là do Lâm Hưng Châu đích thân huấn luyện, rất thành thục Địa Đường đao pháp, lăn tròn dưới đất xông tới, tay trái cầm khiên mây đỡ đạn chì của quân địch, tay phải cầm đại đao nhằm vào chân quân La Sát mà chém. Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy tình thế không hay vội hạ lệnh thu quán. Lâm Hưng Châu cứu Tát Bố Tố trở về. Tát Bố Tố bị trúng đạn vào trán phải, may là chưa vào tới óc, tuy bị thương nặng nhưng không đáng lo về tính mạng. Trận này đôi bên đều bị tổn thất, nhưng quân Thanh tử thương nhiều hơn.

Vi Tiểu Bảo dẫn thầy thuốc trong quân đích thân vào trướng Tát Bố Tố thăm hỏi an ủi, lại trọng thưởng cho Lâm Hưng Châu. Rồi hạ lệnh lui quân năm dặm hạ trại, đêm ấy hội họp các tướng trong trướng bàn cách công thành.

Các tướng có người nói hôm nay quân khiên mây lập được công lớn, ngày mai cứ dụ quân La Sát ra thành để quân khiên mây chém chân chúng, có người nói quân La Sát đã mất nhuệ khí, e sẽ không dám ra đánh, không bằng cứ xây lũy dài bao vây bốn phía cho chúng chết đói trong thành, lại có người nói đào địa đạo dưới đất tiến vào công thành.

Dùng địa đạo đánh thành vốn là cách thức lâu đời của Trung Quốc, câu ấy lập tức thức tỉnh Vi Tiểu Bảo, nhớ tới thành Nhã Khắc Tát vốn có địa đạo, năm trước mình đã ôm được bắp chân của công chúa Tô Phi Á trong địa đạo, hiện nàng đã là Nhiếp chính nữ vương, chấp chưởng đại quyền quân chính của nước La Sát, còn mình lại đánh nhau với quân sĩ thuộc hạ của nàng ở đây. Lại nghĩ “Nếu lúc này thị đích thân chỉ huy trong thành Nhã Khắc Tát, mình từ địa đạo lỏn vào thành, bò lên giường thị, sờ một cái, sờ hai cái, sờ cho thị toàn thân nhũn ra, thì con nhãi lẳng lơ này không la lớn đầu hàng không xong”.

Các tướng thấy Vi Tiểu Bảo trầm ngâm không nói, trên mặt thoáng nét tươi cười, cho rằng y đã có diệu kế, lập tức im bặt chờ nghe đại soái phân phó, nào ngờ lúc ấy y đang nghĩ tới việc sờ mó da thịt của công chúa Tô Phi Á toàn thân đầy lông vàng. Chỉ thấy y hai mắt như nhắm mà không phải nhắm, lẩm bẩm “Đĩ quá, cao cường, không thắng được thị”. Các tướng ngớ mặt nhìn nhau, lại nghe đại soái nói “Con mẹ nó, một cước đá mình trên giường rơi xuống”, các tướng càng không hiểu gì, chỉ nghe y nói tiếp “Con nhãi La Sát lẳng lơ này tuy lợi hại nhưng lão tử cũng có cách đối phó với thị”. Bằng Xuân nói “Đại soái nói rất đúng. Bọn quỷ La Sát có lợi hại hơn, chúng ta cũng có cách đối phó”.

Vi Tiểu Bảo ngẩn ra, mở to hai mắt, ngạc nhiên nói “Chúng ta à? Ngươi cũng tới sờ à?”, kế đó hô hô cười rộ, nói “Đúng rồi, đúng! Địa đạo ấy rất hẹp, chỉ có thể từng người một bò vào, chỗ ra là phòng tướng quân, chắc bây giờ cũng đã lấp lại rồi. Chúng ta phải đào một địa đạo khác”. Các tướng càng không biết nên nói gì. Vi Tiểu Bảo đứng lên, nói “Kế sách của các vị tướng quân đều rất hay, chúng ta ăn hết các cửa Thanh long, Bạch hổ, Thiên môn. Sáng sớm ngày mai mọi người chia nhau đi đắp lũy, đào địa đạo, đồng thời bắn đại pháo dụ cho họ ra đánh, cho quân khiên mây chém chân”. Các tướng thấy kế sách của mình đề nghị đều được đại soái thu nạp, vui vẻ bước ra.

Sáng sớm hôm sau, các tướng đều dẫn bộ thuộc của mình chia nhau làm việc, Bằng Xuân đốc suất quân sĩ gánh đất đắp lũy, Lang Thân chỉ huy bắn pháo, Ba Hải lo đào địa đạo. Hồng Triều suất lãnh năm trăm quân sĩ học bọn hàng binh La Sát những câu chửi người, đứng dưới thành ngoác miệng chửi lớn. Chỉ tiếc là người La Sát thô lậu ít văn, những câu chửi người rất có hạn, quân sĩ chửi bới tuy lớn tiếng, nhưng ý nghĩa lại rất tầm thường, trở đi trở lại cũng chỉ có mấy câu như “Ngươi là con heo thối tha”, “Ngươi ăn cứt”, làm sao bằng được lời chửi của Trung Hoa thượng quốc nhiều màu nhiều vẻ, biến hóa vô cùng? Vi Tiểu Bảo nghe được một lúc, cảm thấy chán ngắt.

Quân La Sát hôm trước đã nếm mùi đau khổ bị chặt chân, nhìn thấy quân Thanh thanh thế rất lớn nên cố thủ không ra, cứ núp sau tường đất trên thành chửi trả. Đại pháo của quân Thanh bắn vào thành cũng không làm tổn thương bao nhiêu. Đại pháo thời ấy nhồi thuốc đạn vào nòng súng, châm lửa bắn ra, chỉ là đẩy đạn chì bắn đi, người bị trúng đạn thì đứt gân gãy xương, nhưng nếu rơi xuống đất thì không có gì đáng lo.

Bách tính chung quanh bị quân La Sát hà hiếp hơn mười năm nay, nhà tan người chết không biết bao nhiêu mà kể, được tin hoàng thượng phát binh tới đánh bọn quỷ La Sát, ai cũng mừng rỡ như điên, lúc ấy lại mang rượu thịt tới thăm hỏi quan quân, có người mang cuốc xẻng quang gánh tới giúp quan quân đắp lũy. Tin tức truyền ra, cả bách tính cách đó vài mươi dặm cũng tới giúp sức.

Đồ Nhĩ Bố Thanh trên thành nhìn xuống, chỉ thấy đầu người như kiến, một dãy lũy dài bao vây ngoài thành càng lúc càng cao, xem ra tình thế không xong, chỉ mong quân La Sát ở thành Ni Bố Sở phía tây sớm tới cứu viện, trong ngoài giáp công mới có hy vọng thắng. Y đâu biết Khang Hy vốn đã dự liệu tới chuyện này, đã sai một đội kỵ binh tới đánh để kìm chân quân La Sát ở Ni Bố Sở, tướng giữ thành Ni Bố Sở hàng ngày cũng mong Đồ Nhĩ Bố Thanh mang quân tới cứu viện.

Súng đạn của quân La Sát có thể bắn xa, quân Thanh không dám tới gần đánh thành. Thành Nhã Khắc Tát là nền tảng kinh doanh về phía đông của người La Sát, người La Sát dã tâm sôi sục, đã định sau khi chiếm cứ được vùng đất rộng lớn ở một dải Hắc Long Giang, Tùng Hoa Giang xong sẽ xâm lược phía nam, chiếm cứ toàn bộ Trung Quốc nhập vào bản đồ của mình, muốn hàng ngàn ngàn vạn vạn người đều phải thuần phục, trở thành nông nô, vì thế thành Nhã Khắc Tát tường vách kiên cố, đạn dược đầy đủ, lương thảo chất cao như núi, cho dù bị bao vây năm ba năm cũng không sợ thiếu. Trong thành đào giếng sâu, không thiếu nước uống, Đồ Nhĩ Bố Thanh sợ người Trung Quốc trong thành làm nội ứng, đều đem hết đàn ông Trung Quốc lên thành giết chết, ném xác xuống dưới, quân dân người Trung Quốc trong thành ngoài thành nhìn thấy, ai cũng căm giận chửi mắng.

Lúc ấy địa đạo đã dần dần đào tới cạnh thành. Vi Tiểu Bảo nghĩ núi Lộc Đỉnh là nơi có long mạch của hoàng đế, nếu đào đứt long mạch, hại chết Khang Hy, thì rất không yên tâm, bèn ra lệnh không được đào địa đạo vào trong thành, chỉ cần đào tới dưới chân thành, chôn thuốc súng phá hủy tường thành, đại quân có thể xông vào. Hôm ấy giếng trong thành đột nhiên cạn nước, Đồ Nhĩ Bố Thanh giỏi việc dùng binh, sau khi được tin ngưng thần ngẫm nghĩ, đoán là quân địch đào địa đạo, đến nỗi nguồn nước dưới đất theo địa đạo chảy ra ngoài, lập tức đo đạc phương vị, đặt thuốc nổ trên địa đạo của quân Thanh đốt, ầm một tiếng lớn giết chết mấy trăm quân Thanh đang đào địa đạo, địa đạo cũng lập tức bị lấp kín.

***

Nhất thời không hạ được thành Nhã Khắc Tát, khí trời ngày một lạnh lẽo. Ở vùng phía bắc lạnh giá này, vừa đến cuối mùa thu đã rét thấu xương, đến mùa đông, thì càng lạnh, một giọt nước vừa rơi xuống đã đông thành băng, chỉ cần không giữ gìn cẩn thận, lỗ mũi vành tai sẽ bị lạnh cóng rụng luôn xuống, còn như đầu ngón tay cứng đờ rụng xuống, tay chân bị lạnh mà thành tàn phế, lại càng là chuyện bình thường. Tuyết rơi được mấy ngày, bách tính giúp đỡ công thành đã không chịu nổi, nhao nhao từ biệt quan quân, nói đầu mùa hè năm sau băng tan sẽ lại tới giúp, lại khuyên quan quân lui về phía nam, để khỏi bị chết cóng giữa trời băng đất tuyết.

Bọn tướng quân Tát Bố Tố, Ba Hải đã trấn thủ ở phía bắc lâu năm, đều biết cục diện lúc vào đông vô cùng nguy hiểm, nếu buổi tối bị hơi lạnh xâm nhập, thì trong một đêm quan quân bị chết cóng một nửa cũng không phải là chuyện lạ. Quân La Sát trú trong phòng ốc, tường dày có thể ngăn được hơi lạnh, quân Thanh thì đóng trong lều trại ngoài đồng trống, cho dù có đốt lửa sưởi cũng không được việc gì. Lúc ấy bèn đề nghị Vi Tiểu Bảo tạm lui quân về phía nam để tránh rét.

Vi Tiểu Bảo nghĩ hoàng thượng sai mình bắc chinh, ngay cả một tòa thành cũng hạ không được, nếu lui quân thì không khỏi quá bị thịt, do dự mấy ngày, rốt lại vẫn không quyết định được chủ ý. Bộ tướng tới báo, có mấy trăm quân sĩ bị thương không chịu lạnh nổi đã chết cóng. Vi Tiểu Bảo đang rầu rĩ chán nản, đột nhiên có thánh chỉ tới.

Trong chỉ dụ của Khang Hy nói “Phủ viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo ra quân đắc lợi, rất đáng khen ngợi. Nay đã sai hàng tướng La Sát phụng lãnh sắc thư Đại Thanh, tới Mạc Tư Khoa tuyên dụ cho quốc chủ nước La Sát, bảo y bãi binh lui quân, hai nước vĩnh viễn hòa hiếu, đến nay khí trời rất lạnh, tướng sĩ vất vả, dầm sương dãi tuyết, trẫm rất thương xót. Vi Tiểu Bảo có thể rút quân về đóng ở hai thành Ái Hồn, Hô Mã Nhĩ để tướng sĩ dưỡng sức, đến mùa xuân năm sau nếu quân La Sát vẫn chống cự, không tuân vương hóa thì sẽ tiến quân, một trận quét sạch. Nay ban cho Phủ viễn đại tướng quân và các Tướng quân, Đô thống, Phó tướng cho tới quân sĩ thuộc hạ quần áo, vàng bạc, rượu thịt có thứ bậc khác nhau. Các tướng quân thống lĩnh nên tuân theo ý trẫm, thương yêu sĩ tốt, đừng tham mau lẹ lập công. Vương sư bắc chinh, vốn là vì thương dân, mà quân vốn cũng là dân vậy. Kính đấy”.

Vi Tiểu Bảo và chư tướng nhận chỉ tạ ơn. Các tướng đều nói Vạn tuế gia thương yêu tướng sĩ, hoàng ân hạo đãng, chỉ là nghĩ tới một lần triệt thoái không khỏi bao nhiêu công lao trước đây đều vứt đi hết, lại đều thấy tiếc. Khâm sai truyền chỉ đi tới các doanh tuyên chỉ ban thưởng, quân sĩ vui mừng reo hò như sấm.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo sai Tát Bố Tố dẫn quân lui trước, sai Ba Hải và Lâm Hưng Châu mang quân đoạn hậu, nếu quân La Sát dám ra thành đuổi theo, sẽ đánh giết cho họ như hoa rơi nước chảy.

Quân La Sát thấy quân Thanh rút lui, trong thành tiếng reo hò vang lên ầm ầm, hơn một ngàn quân La Sát lại lên trên mặt thành đái xuống. Vi Tiểu Bảo cả giận, hạ lệnh quân sĩ nhất tề đái lên thành. Quân Thanh hàng vạn cột nước tiểu cùng phun, xem ra cũng rất tráng quan. Trên thành dưới thành tiếng cười tiếng chửi râm ran ầm ĩ. Chỉ là quân La Sát trên cao đái xuống, nước tiểu bắn xuống dưới thành, quân Thanh lại không bắn lên tới trên, trong trận đánh nhau bằng nước tiểu này bị đại bại. Dưới thành khắp nơi đều là nước tiểu, gió lạnh thổi qua, trong khoảnh khắc đông thành một lớp băng nước tiểu vàng vàng trong suốt.

Vi Tiểu Bảo cơn tức ấy nuốt không trôi, sai chỉ lên đầu thành chửi lớn. Viên Khâm sai tới tuyên chỉ khuyên “Quân La Sát như dã thú, đại soái không cần so đo với chúng”, Vi Tiểu Bảo nói “Không được, chịu thua thì mất mặt lắm!” bèn sai lấy thủy long tới.

Thủy long là vật dùng cứu hỏa, trong quân đề phòng thất hỏa nên hành quân đóng trại nhất định phải mang theo, bọn thân binh kéo hơn mười giá thủy long tới, Vi Tiểu Bảo sai kéo lên lũy đất, lúc ấy nước sông đã đóng thành băng, không có nước mà dùng, bèn sai quân nhà bếp đun băng tuyết trong chảo lớn, đổ nước nóng vào thủy long. Vi Tiểu Bảo cởi quần ra, đái vào nước nóng, rồi quát sai thân binh “Phun lên thành!”.

Bọn thân binh thấy chủ soái nghĩ ra diệu kế này, đều vui mừng nhảy nhót, nhất tề hăng hái xúm vào thôi động đòn cán thủy long, vừa đổ vừa nén, nước nóng trong ống nước liền phun thẳng lên thành. Đám thân binh quát lớn “Vi đại soái thưởng nước đái cho bọn quỷ La Sát”.

Nước nóng phun tới, quân La Sát nhao nhao chửi mắng tránh né. Các tướng có người kêu thầm trong bụng “Làm nhộn quá”, có người muốn lấy lòng đại soái, lại đứng cạnh hò hét trợ oai. Chỉ là khí trời quả thật rất lạnh, nước nóng trong thủy long không bao lâu đã kết lại thành băng, lại thêm nước nóng vào.

Vi Tiểu Bảo vô cùng cao hứng, tự khen ngợi mình “Gia Cát Lượng hỏa thiêu hang Bàn Xà, Vi Tiểu Bảo đái tưới núi Lộc Đỉnh, đều oai phong như nhau!” Phó Đô thống Lang Thân đứng cạnh khen “Một bầu nước tiểu của đại soái, đã bẻ gãy nhuệ khí của quân La Sát”.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên ngẩn người, hai mắt trố ra, ngơ ngẩn xuất thần, rồi òa một tiếng nhảy bật lên, hô hô cười rộ, kêu lên “Tuyệt diệu, tuyệt diệu!”.

***

Vi Tiểu Bảo sai thúc trống lên trướng, tập họp chư tướng, hỏi “Trong doanh của chúng ta có tất cả bao nhiêu giá thủy long?”. Tham tướng chưởng quản việc quân nhu bẩm “Bẩm đại soái, tất cả có mười tám giá”. Vi Tiểu Bảo cau cau mày nói “Quá ít, quá ít! Tại sao không mang nhiều hơn?”. Viên Tham tướng ứng tiếng “Dạ!”, nghĩ thầm “Quân doanh bị thất hỏa không phải là chuyện thường xảy ra, mười tám giá thủy long cũng quá đủ rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta cần một ngàn giá thủy long để dùng, hãy tức khắc sai người tới các thành trấn xung quanh đây trưng thu điều động, lúc nào thì có đủ?”.

Vùng ấy ở biên thùy cực bắc, đất rộng người thưa, thành trấn gần nhất cũng cách đó vài trăm dặm, mỗi thành trấn chỉ lơ thơ vài trăm hộ gia đình, cư dân nghèo khổ, chưa chắc đã có thủy long, muốn trưng tập một ngàn giá thủy long, quyết không sao làm được. Viên Tham tướng kia trên mặt có vẻ khó khăn, nói “Bẩm đại soái, một ngàn giá thủy long, ở quan ngoại e không tìm được, phải vào cửa quan, tới Bắc Kinh, Thiên Tân chở tới”. Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Nói như đánh rắm! Đi Bắc Kinh, Thiên Tân chở thủy long tới thì mất bao nhiêu thời gian? Chuyện chiến trận mà chậm nửa ngày đã không được rồi!”. Viên Tham tướng kia luôn miệng vâng dạ, biến hẳn sắc mặt, nghĩ “Lần này thì cái đầu của mình không khéo bị rơi xuống rồi”.

Viên Khâm sai ngồi bên cạnh, nhịn không được bèn khuyên “Đại soái, quý nước tiểu của ngươi đã bắn lên thành La Sát rồi. Cái này… cái này cốt tinh không cốt nhiều, trận này chúng ta đã thắng rồi. Theo thiển kiến của huynh đệ dường như nên Giặc cùng… Giặc cùng chớ đái”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không được! Không có một ngàn giá thủy long thì không làm được việc lớn này”. Viên Khâm sai kia nghĩ thầm “Đại soái ngươi làm nhộn như thế, bắn nước đái tranh đua với nhau, là chuyện ngẫu nhiên đùa giỡn, cũng không làm tổn thương sự văn nhã, há lại có thể mở cờ gióng trống mà làm? Hoàng đế thiếu niên ưa thích tướng quân thiếu niên, vua tôi họ hợp nhau, người ngoài cũng không dám nhiều lời. Nhưng nếu làm nhộn quá đáng, không còn thể thống gì, lại không khỏi để thiên hạ chê cười”, đã định khuyên nữa thì nghe Vi Tiểu Bảo nói “Các vị tướng quân, vị nào có thể nghĩ ra diệu kế, ngay lập tức tìm được một ngàn giá thủy long thì đó là công lao không gì lớn bằng”.

Bằng Xuân nói “Xin hỏi đại soái, cần một ngàn giá thủy long là dùng để… là dùng để bắn nước tiểu lên thành phải không?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chúng ta mà có được một ngàn giá thủy long, nếu bắn nước tiểu lên thành, thì phải có bao nhiêu người đái? Một trăm vạn quân cũng không đủ đâu”. Bằng Xuân nói “Đúng thế. thuộc hạ rất ngu xuẩn, xin đại soái chỉ giáo”.

Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi ta thấy quý nước tiểu của bản soái phun lên thành lập tức đông thành băng. Nếu chúng ta dùng một ngàn giá thủy long, suốt ngày suốt đêm phun nước vào thành thì sẽ như thế nào?”.

Các tướng ngẩn người ra, mấy người đầu óc mau lẹ nhất reo ầm lên, kế đó mọi người cũng đều minh bạch, trong trướng ầm ầm như sấm, các tướng đồng thanh kêu lên “Diệu kế, diệu kế! Nước tưới Nhã Khắc Tát, băng đóng Lộc Đỉnh sơn!”.

Qua một lúc, tiếng reo hò ngớt dần, có người nói “Tính ra phải về Bắc Kinh, Thiên Tân lo liệu, một ngàn giá thủy long phải suốt ngày suốt đêm chở tới”. Lúc ấy liền có mấy viên Phó tướng, Tá lãnh khoe khoang hăng hái, xin sai mình đi trưng tập thủy long.

Hồng Triều chức vụ thấp kém, ngồi ở sau cùng, lúc ấy khom lưng nói “Bẩm chủ soái, mạt tướng có thiển kiến, xin chủ soái định đoạt”, Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói đi!”. Hồng Triều nói “Mạt tướng là người Phúc Kiến, xứ ấy rất nghèo khổ, không chế tạo được thủy long, nếu trong thôn bị thất hỏa thì mọi người dùng thủy thương bắn nước cứu hỏa. Loại thủy thương bắn nước ấy dùng một cây tre to đục thủng các đốt, một đầu khoét lỗ to bằng đồng tiền, đầu kia dùng gỗ làm một cái nút có thể chạy lên chạy xuống. Lúc cứu hỏa thì nhúng đầu có lỗ nhỏ xuống nước, rút nút gỗ lên, ống tre lập tức hút đầy nước, rồi dùng sức đẩy cái nút, nước trong ống tre sẽ phun ra”.

Vi Tiểu Bảo ờ một tiếng, ngưng thần ngẫm nghĩ về loại thủy thương này.

Hà Hựu nói “Bẩm chủ soái, loại thủy thương này có thể lớn có thể nhỏ, lúc ty chức còn nhỏ đã thấy bạn bè chơi đùa, dùng thủy thương bắn nhau, cũng rất thú vị. Đáng tiếc là ở đây không có tre lớn, muốn làm thủy thương lớn, thì loại tre lớn ấy phải qua sông Trường Giang mới có”.

Vi Tiểu Bảo hỏi Hồng Triều “Ngươi có cách nào không?”. Hồng Triều nói “Mạt tướng nghĩ ở vùng này không có loại tre ấy, thì cây tùng lớn, cây sam lớn cũng có rất nhiều. Chúng ta chặt những cây lớn, khoét rỗng trong ruột, có thể làm thủy thương lớn”. Vi Tiểu Bảo nói “Muốn khoét rỗng ruột cây tùng lớn thật không phải dễ”.

Một viên Phó tướng họ Ban xuất thân là thợ mộc người Sơn Tây nói “Bẩm chủ soái, chuyện đó không khó. Trước tiên cứ xẻ dọc cây gỗ lớn làm hai, mỗi mảnh khoét nửa hình tròn, bào cho nhẵn nhụi, sau đó ghép vào nhau sẽ có một cây gỗ rỗng ruột, lúc ghép nếu muốn thật khít thì dùng đai sắt siết lại, nếu chỉ cần qua loa thì dùng đinh ghép lại cũng được”. Vi Tiểu Bảo cả mừng, kêu lên “Tuyệt diệu! Thế làm một khẩu thủy thương lớn như vậy mất bao nhiêu thời gian?” Ban Phó tướng nói “Nếu tiểu tướng đích thân ra tay thì một ngày có thể chế tạo được một khẩu, nếu làm cả đêm thì có thể được hai khẩu”. Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Chậm quá, chậm quá. Ngươi đi các doanh chọn người giúp việc, tất cả cùng làm, ngươi làm sư phụ, lập tức chỉ dạy đồ đệ. Đây chỉ là làm thô, không phải thùng xí sơn đen sơn đỏ cho cô dâu mới, cũng không phải quan tài bằng gỗ nam mộc của nhà giàu, vỏ cây bên ngoài thủy thương cũng không cần bào, chỉ cần bắn được nước vào thành là được. Các tướng quân, lập tức động thủ, hạ cây chế tạo thủy thương đi!”.

Các tướng tuân lệnh, chia nhau mang quân sĩ bộ thuộc lập tức xuất phát, vào rừng chặt gỗ, đồng thời tung khoái mã phóng đi trưng tập hỏi mượn rìu búa cưa bào để dùng.

Ở quan ngoại khắp nơi đều có tùng sam, nhất là ở một dải Cổ Nạp Hà thì chỗ nào cũng là rừng rậm, những cây gỗ hàng trăm năm cao chọc trời nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Đại quân quân Thanh ra tay, không đầy nửa ngày đã hạ được mấy ngàn cây gỗ lớn, trong quân có hơn một trăm người từng làm thợ mộc, Ban Phó tướng bèn điều động tất cả, lại chọn bốn năm trăm quân sĩ khéo tay giúp đỡ, làm việc suốt đêm, gấp rút chế tạo thủy thương.

Ban Phó tướng làm trước một khẩu làm mẫu, khẩu thủy thương ấy đường kính hai thước, dài hơn một trượng, cuối cái nút gỗ đóng một cây gỗ ngang, dùng sức kéo đi kéo lại, nước nóng từ thủy thương phun ra, bắn xa hơn hai trăm bước.

Vi Tiểu Bảo xem làm thử, luôn miệng khen ngợi, nói “Đây không phải là hỏa thương mà là thủy thương, chúng ta phải đặt cho nó một cái tên hay, gọi là… gọi là Bạch long thủy pháo”. Rồi lấy vàng bạc ra thưởng cho Ban Phó tướng và các quan binh chế tạo, sai gấp rút chế tạo suốt ngày suốt đêm.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy quân Thanh đã rút đi lại quay lại, đứng trên thành nhìn ra, thấy trong doanh quân Thanh chất vô số cây gỗ, nghĩ thầm “Bọn Man tử Trung Quốc hạ gỗ định đốt lửa sưởi ấm, xem ra muốn vây thành không chịu bỏ đi. Hừ, đợi nửa tháng nữa gió tuyết nổi lên xem các ngươi chịu nổi không, có đốt lửa to hơn cũng không chống nổi âm phong hàn khí trong cái địa ngục này”. Y xuống thành, sai thân binh đốt lò sưởi trong phòng, rót rượu mạnh La Sát ra, gọi hai thiếu nữ Trung Quốc bị bắt tới hầu rượu.

Bằng Xuân, Hà Hựu sai kỵ binh chia nhau đi mượn nồi sắt chảo sắt của bách tính trong vòng một trăm dặm mang về đại doanh, đào đất làm lò. Củi cành, băng tuyết chất đống như núi, những khẩu Bạch long thủy pháo đã chế tạo xong đều dùng cành cây che kín để khỏi bị quân La Sát phát giác.

Qua vài hôm, Ban Phó tướng bẩm báo đã chế tạo xong ba ngàn khẩu Bạch long thủy pháo. Hôm sau là ngày hoàng đạo cát nhật, giờ Mão Vi Tiểu Bảo lên trướng thúc trống tập hợp chư tướng, hạ lệnh đem thủy pháo lên lũy đất, chĩa miệng pháo vào thành. Chiêng trống trong quân cùng khua, pháo hiệu nổ bình bình bình vang rền chín tiếng. Tướng sĩ các doanh nhất tề động thủ, xúc tuyết đổ vào chảo, đun cho tan ra.

Đồ Nhĩ Bố Thanh đang ngủ say trong chăn ấm, chợt nghe tiếng pháo nổ ran ngoài thành, vội nhảy bật dậy, hớt hải mặc quần áo, khoác áo da điêu lên thành xem, lúc ấy gió tuyết đang lớn, sắc trời mờ mịt, chỉ lờ mờ nhìn thấy trên lũy đất của quân Thanh dày đặc những gốc cây lớn, còn đang kinh ngạc, chợt nghe quân Thanh đồng thanh reo hò như trời long đất lở, trong mấy ngàn cây gỗ lớn đột nhiên có nước phun ra, bốn phương tám hướng phun nước vào thành.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cả kinh, chỉ kêu lên một tiếng “Trời ơi!”, một luồng nước nóng đã phun tới ngực. Tính ra trời rất lạnh, nước nóng bắn tới thì đã nguội đi rất nhiều, nhưng cũng khiến y chân đứng không vững, loạng choạng ngã xuống, thân binh bên cạnh vội tới đỡ lên. Chỉ nghe bốn phía đều có tiếng hò hét quát tháo, trên thành tia nước rơi xuống rào rào, từng cột nước như rồng trắng bay vào thành. Trong khoảnh khắc, thành Nhã Khắc Tát mờ mịt hơi nước, là hơi nước nóng gặp khí lạnh kết thành.

Đồ Nhĩ Bố Thanh trong lòng hoảng sợ, kêu lên “Bọn Man tử Trung Quốc lại dùng yêu pháp!”, giữa cây gỗ lớn lại có nước phun ra, tự nhiên là yêu pháp không còn nghi ngờ gì nữa. Y trong lúc hoảng sợ, quát tớn “Mọi người nổ súng, đừng để bọn Man tử xông lên thành”.

Từ hôm y bị quân Thanh bắt sống lột hết quần áo, giải quanh thành ba vòng, uy tín giảm hẳn, ra hiệu lệnh thì bộ thuộc đã không nghiêm túc tuân thủ như trước nữa. Chỉ là quân Thanh đánh thành rất gấp, quân tướng La Sát đều sợ nếu thành bị hạ thì không ai may mắn được sống sót mới miễn cưỡng đánh nhau, lúc ấy biến cố lớn đột nhiên xảy ra, mấy ngàn cột nước phun vào thành, quân tướng chạy tứ tán, còn ai đếm xỉa tới y?

May mà quân Thanh chỉ bắn nước chứ không thừa cơ đánh thành, quân La Sát rối loạn một lúc, bắt đầu định thần lại, nhưng thấy mặt đất nước đóng thành băng, trên đầu thì những cột nước vẫn trút xuống như rót như đổ, tiếp tục tưới xuống.

Đàn ông Trung Quốc trong thành Nhã Khắc Tát đã bị giết hết, chỉ còn một số phụ nữ trẻ tuổi làm doanh kỹ , cung đốn dâm nhạc. Trong thành ngoài binh tướng La Sát, còn có các quan viên văn chức do Mạc Tư Khoa phái tới, giáo sĩ truyền giáo, thương nhân theo quân đội buôn bán và bọn vong mệnh đầu trộm đuôi cướp định tới phương đông kiếm chác. Trong khoảnh khắc, người nào cũng ướt đẫm như gà rơi vào nồi nước, lúc đầu nước còn ấm, không bao lâu thấm qua áo ngoài lạnh dần, lại qua một lúc, áo ngoài đã bị đóng băng, mọi người cả sợ, nhao nhao cởi áo quần giày tất ra, đều biết áo ngoài mà đóng băng dính vào da thịt, lúc ấy ngón tay sẽ bị cứng đờ không sao cởi ra được nữa. Cho dù có người giúp đỡ thì cởi được áo quần giày tất da cũng bị lột ra theo, quả thật không gì nguy hiểm bằng.

Nước dưới đất đọng lại cao dần, từ từ đông lại, biến thành sền sệt như cháo, người La Sát đi chân không trên đó, băng lạnh thấu xương, nhịn không được nhảy nhảy rối lên, kêu lớn “Lạnh chết mất thôi, lạnh chết mất thôi”. Mọi người tranh nhau chạy lên chỗ cao, có người trèo lên nóc nhà.

Đồ Nhĩ Bố Thanh khoác áo lông điêu, tay trái cầm dù, cưỡi một con ngựa cao to đi đi lại lại quan sát, nghe có người la lớn “Đầu hàng” bèn tức giận lớn tiếng quát “Ai làm rối loạn lòng quân ở đây? Bọn gian tế! Lôi ra bắn chết đi”.

Mọi người thấy Đồ Nhĩ Bố Thanh mặc áo da có thể đỡ nước, trong người ấm áp, đứng đó quát tháo chửi mắng, người bên cạnh đều lạnh chết đi sống lại, ai cũng không nhịn được, lập tức có người bốc tuyết ném vào y. Đồ Nhĩ Bố Thanh giơ súng ngắn lên đoàng một tiếng bắn vào đám đông, lập tức bắn chết hai người. Những người còn lại bốc tuyết ném bừa vào y, có người xông lên kéo y xuống ngựa. Bọn vệ binh vung đao chém, nhưng làm sao ngăn chặn được?

Đang lúc hỗn loạn, một toán quân kỵ phóng tới, loạn dân La Sát la một tiếng chạy tứ tán, Đồ Nhĩ Bố Thanh dưới đất bò lên, vừa khéo trên đầu bị hai cột nước rót xuống, lập tức khiến y toàn thân ướt đẫm. Y hai chân nhảy rối lên, lớn tiếng chửi rủa, chỉ đành sai vệ binh giúp mình cởi áo cởi giày.

Quân Thanh nhìn thấy tình trạng thảm hại của quân La Sát trong thành, đứng trên lũy đất hò hét như sấm, Nam xoang Bắc điệu, hát ví ru em, trong đó tự nhiên cũng không thể thiếu bài Thập bát mô “Sờ một cái, sờ hai cái” của Vi Tiểu Bảo.

Bọn Bằng Xuân lo việc chỉ huy. Ban Phó tướng suất lĩnh đám thợ mộc sửa chữa những khẩu pháo bị hỏng. Đội đun nước thêm củi, xúc tuyết đổ vào chảo, đội chuyển nước đưa từng thùng từng thùng nước nóng đổ vào miệng pháo. Khi miệng pháo đầy nước, thì “Một, hai, ba, bắn!”, sáu người pháo thủ ra sức đẩy cái nút về phía trước, một tia nước từ miệng pháo vọt ra, bắn vào trong thành.

Nước nóng trong thủy pháo của quân Thanh lúc bắn ra thì dựng đứng thành cột nước, nhưng khi rơi xuống thành thì tan ra thành thủy châu, như mưa lớn rào rào đổ xuống, có khi rơi xuống rất nhẹ, có khi ngưng tụ không tan, nhắm đúng vào người bắn thẳng tới. Thủy pháo tinh thô khác nhau, có khẩu lực đạo rất mạnh, bắn đi rất xa, có khẩu bắn rất gần, rất nhiều khẩu bắn vài lần thì thân pháo tách ra, lại làm không ít các “pháo thủ” của quân Thanh bị bỏng.

Ba ngàn khẩu thủy pháo bắn hơn một giờ đã có hơn sáu trăm khẩu bị hỏng. Đồng thời đun tuyết thành nước nóng cũng không kịp cho pháo bắn, “Đạn dược” về sau đã không tiếp tế kịp. Lại bắn thêm nửa giờ, pháo hỏng càng nhiều, nước nóng càng thiếu, chỉ còn tám chín trăm khẩu thủy pháo tiếp tục bắn, uy lực giảm hẳn.

Vi Tiểu Bảo đang cảm thấy chán nản, chợt thấy cổng thành mở toang, mấy trăm người La Sát tràn ra, la lớn “Đầu hàng, đầu hàng!”.

Tát Bố Tố lúc ấy vết thương trên trán đã khỏi được quá nửa, lập tức suất lãnh một ngàn kỵ binh phóng tới, quát “Ai đầu hàng thì ngồi xuống đất!”, người La Sát ngớ mặt nhìn nhau không hiểu ý tứ. Một viên Bả tổng quân Thanh ngồi xuống đất kêu lên “Ngồi xuống, ngồi xuống!”.

Đúng lúc ấy cổng thành chợt đóng lại, trên thành có mấy loạt súng bắn xuống, bắn chết mấy mươi người La Sát. Số người La Sát đầu hàng còn lại bỏ chạy tứ tán. Thủy pháo của quân Thanh nhắm thật chuẩn vào binh tướng La Sát trên thành, bắn qua tới tấp, quân La Sát nhao nhao ngã xuống.

Lúc ấy nước trong thành đã đọng lại hơn hai thước, đều đã đóng thành băng, nếu lấy nước rót cho toàn thành đóng thành một tòa thành bằng băng lớn thì ít nhất cũng phải mất mười bữa nửa tháng, nhưng quân La Sát không áo không giày, lại không đốt lửa được, người nào cũng lạnh run cầm cập, sắc mặt tái ngắt. Có khi mấy người đứng ôm lấy nhau, dùng hơi ấm của cơ thế để sưởi cho nhau.

Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn lớn tiếng quát tháo, đốc thúc quân tướng giữ thành. Đám quân sĩ đều quay đầu không đếm xỉa gì tới. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, vung tay đánh một tên võ quan, tên võ quan ấy xoay người tránh qua, Đồ Nhĩ Bố Thanh đuổi theo, đột nhiên trượt chân trên băng một cái, ngã xuống dưới thành. Một tên quân sĩ bên cạnh tiện tay xô một cái, đẩy y vào một hố nước. Đồ Nhĩ Bố Thanh ra sức giãy giụa nhưng tay chân cứng đờ không bò lên được, la lớn “Cứu ta với, cứu ta với!”. Đám binh tướng người nào cũng tỏ vẻ khinh bỉ, đều xúm lại vây quanh hố nước đứng nhìn. Qua không bao lâu, nước trong hố đông lại thành băng, giữ chặt Đồ Nhĩ Bố Thanh dưới đó, y nửa người trên vẫn còn ngoài hố, vẫn còn thở nhưng ngực đã bị băng đông cứng, giống như bị chôn sống.

Lúc ấy mọi người tâm ý tương đồng, mở toang cửa thành kêu lên “Đầu hàng” rồi chạy túa ra.

***

Vi Tiểu Bảo mừng rỡ như điên, hoa tay múa chân, ăn nói bừa bãi, hiệu lệnh phát ra không ai hiểu gì cả. May là các tướng lĩnh trong quân Thanh đều là bậc túc tướng thân trải trăm trận, miệng thì hô lớn “Tuân lệnh!”, nhưng tự đi lo các việc nhận hàng, vào thành giam trói, dọn dẹp, tất cả đều đâu vào đấy, hoàn toàn không có quan hệ gì với lệnh của Vi đại soái.

Lúc đầu bắn nước vào thành, chỉ sợ không đủ nhiều, lúc bấy giờ thấy trong thành quá nhiều nước, nước tràn ra cả ngoài thành, rất khó đi lại, chỉ còn cách thuận theo tự nhiên. Lang Thân đốc thúc quân sĩ dọn dẹp phủ Tổng đốc sạch sẽ, mời Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và Khâm sai vào ở, sau đó tới kho thuốc súng, kho vũ khí, kho vàng bạc niêm phong cẩn thận, sai quân canh giữ. Lúc ấy nhà Thanh thế nước đang mạnh, kỷ luật trong quân rất nghiêm. Đại quan như bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ thì không khỏi có lúc thừa cơ phát tài lớn, nhưng quan quân binh sĩ thì một vật cũng không dám lấy bừa.

Trong thành ngoài thành giết bò giết dê, mở tiệc mừng lớn. Bọn Sách Ngạch Đồ ra sức tâng bốc, nói Vi đại soái dùng quân như thần, cho dù Tôn Ngô ngày xưa phục sinh cũng không bằng được. Viên Khâm sai nói “Huynh đệ lần này rời kinh, hoàng thượng cứ dặn đi dặn lại, nói Vi đại soái không nên sát thương quá nhiều. Hôm nay Vi đại soái hạ thành Nhã Khắc Tát vốn là kỳ công, nhưng chuyện khó hơn còn là không hề dùng tới đao thương kiếm kích, cung tên hỏa khí, mà quân ta không hề bị thương vong một binh một tốt. Trong vòng một ngày khống chế đại địch, chiếm được thành lớn mà không mất một viên tướng sĩ, xưa nay chỉ có một mình Vi đại soái mà thôi. Đây không những là trước kia không có, mà nhất định sau này cũng không có”.

Vi Tiểu Bảo đắc ý nghênh ngang, ra sức khoe khoang “Muốn hạ thành Nhã Khắc Tát vốn cũng không phải chuyện khó. Khó là ở chỗ hoàng ân hạo đãng, thể tuất tướng sĩ, không muốn thương vong quá nhiều, vì thế huynh đệ phải chờ đến hôm nay mới dùng kế sách này, để Khâm sai đại thần chính mắt nhìn thấy, bọn ta làm việc cho hoàng thượng, đánh nhau thắng trận thì cũng thôi, ai cũng làm được, chẳng có gì lạ. Nhưng ngẩng tuân thánh ý của hoàng thượng, thắng trận mà không chết người nào, đó mới là chuyện khó”.

Chúng tướng đều cảm thấy y tuy khoe khoang hơi nhiều, nhưng muốn thắng trận mà bên mình không chết người nào quả thật là chuyện rất khó, lúc ấy ai cũng gật đầu.

Sách Ngạch Đồ nói “Đó là hồng phúc của hoàng thượng, kỳ tài của Vi đại soái”. Vi Tiểu Bảo nói “Hôm nay từ sáng đến chiều, người nào cũng có công rất lớn. Nếu không có Khâm sai đại nhân và Sách đại nhân đích thân xông lên, hăng hái đốc chiến thì bọn ta cũng không thắng trận được dễ dàng như vậy”. Khâm sai và Sách Ngạch Đồ cả mừng, vô cùng cảm kích. Lúc đánh nhau mới rồi hai người văn quan bọn họ ở xa xa phía sau, chỉ sợ tên rơi đạn lạc làm bị thương, làm gì có chuyện “Đích thân xông lên, hăng hái đốc chiến”? Nhưng Vi Tiểu Bảo đã nói như thế, thì trong tập tâu báo tin thắng trận nhất định mình cũng có một phần công lao. Nhà Mãn Thanh ban thưởng quân công là trọng hậu nhất, hơn hẳn tất cả những công lao khác.

Lời tục có câu “Kiệu hoa lộng lẫy người khiêng người”. Vi Tiểu Bảo hiểu rõ cách thức làm quan, dâng cho Khâm sai một phần công lớn, bản thân mình làm ơn mà không tốn tiền, không mất chút gì. Lần này Khâm sai về tới Bắc Kinh, nhất định trước mặt hoàng thượng sẽ ra sức khen ngợi mình, năm phần công lao nói lên thành mười phần, thì mình trong quân nếu có chuyện gì phạm lỗi quá phận, Khâm sai và Sách Ngạch Đồ cũng nhất định ra sức che giấu cho, thủ khẩu như bình.

Mọi người ăn uống một lúc, thuộc hạ của Tát Bố Tố được quân La Sát bẩm báo đã mang Đồ Nhĩ Bố Thanh trong hố băng ra, khiêng lên trước bục. Lúc ấy Đồ Nhĩ Bố Thanh đã chết cứng, toàn thân xanh tím. Vi Tiểu Bảo thở dài nói “Người này cái tên thật không hay, nếu không gọi là Đồ Nhĩ Bố Thanh mà là Đồ Nhĩ Bố Tài, thì đã không xanh tím thế này mà phát tài to rồi”, rồi sai người lấy quan tài chôn cất y.

Kiểm tra số lượng hàng binh, tài vật khí giới trong thành xong, ba người Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và Khâm sai cùng liên danh làm tờ tâu, sai phi kỵ đưa mau về Bắc Kinh báo tiệp cho hoàng đế.

Hồi 48: Ngọc Môn không đặt quan Đô hộ – Đồng trụ còn nêu cột tướng quân

Đêm ấy Vi Tiểu Bảo và Song Nhi nghỉ lại trong phòng ngủ ở phủ Tổng đốc, lò sưởi đốt thật lớn, chăn đơn nệm gấm, lai láng tình xuân.

Đây là nơi y từng đi qua, mở nắp cái rương lớn cạnh giường lên nhìn, thấy trong rương có quân phục và súng. Song Nhi mỉm cười nói “Tướng công nhìn tới cái rương, lại mong công chúa La Sát chui ra, phải không?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Cô là công chúa Trung Quốc, so với công chúa La Sát còn hay hơn nhiều”. Song Nhi cười nói “Đáng tiếc là công chúa Trung Quốc đang ở Bắc Kinh chứ không phải ở đây”. Vi Tiểu Bảo nói “Song Nhi ngoan, hôm nay chúng ta có tính là đại công cáo thành chưa?”. Song Nhi nhoẻn miệng cười, hai má đỏ lên, nàng tuy làm vợ chồng với Vi Tiểu Bảo đã lâu nhưng lúc chồng nói đùa vẫn có ý xấu hổ.

Vi Tiểu Bảo ôm chặt lưng nàng, hai người cùng ngồi lên giường. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cô chắp tấm bản đồ, tốn không ít tâm huyết, rốt lại chúng ta cũng đã tới núi Lộc Đỉnh, hoàng thượng phong ta làm Lộc Đỉnh công, tòa thành này có quá nửa cũng sẽ giao cho ta thống quản. Dưới núi này có cất giấu vô số vàng bạc châu báu, chúng ta thong thả đào lên, Vi Tiểu Bảo ta có thể đổi tên là Vi Đa Bảo rồi”. Song Nhi nói “Tướng công đã có rất nhiều vàng bạc, dùng mấy đời cũng không hết, có nhiều châu báu hơn cũng chỉ vô dụng. Ta thấy thôi cứ làm Vi Tiểu Bảo cũng được”.

Vi Tiểu Bảo khẽ hôn lên má nàng một cái, nói “Đúng, đúng! Trong mấy hôm nay ta đã quyết định chủ ý, nếu muốn đào lấy châu báu, chỉ sợ đào đứt long mạch của người Mãn Châu, hại chết hoàng đế. Trước nay hoàng đế đối xử với ta rất tốt, nếu hại chết y thì không khỏi có chỗ không phải với y. Nếu không đào thì lại cảm thấy tiếc. Thôi thế này, chúng ta tạm thời không đào kho báu lên, chờ khi nào hoàng thượng ngự giá lên trời, chúng ta lại thiếu cơm ăn, lúc ấy hãy đào cũng không muộn”.

Nói tới đó chợt nghe trong chiếc rương gỗ có tiếng lách cách khẽ vang lên. Hai người đưa mắt nhìn nhau, chăm chú nhìn vào cái rương nhưng qua một lúc cũng không thấy có động tĩnh gì. Vi Tiểu Bảo khẽ vỗ vào tay Song Nhi ba cái, Song Nhi bước ra mở cửa phòng, bốn tên thân binh canh cửa khom người nghe lệnh. Vi Tiểu Bảo chỉ vào cái rương gỗ, hạ giọng nói “Trong đó có người!”.

Bốn tên thân binh giật nảy mình, sấn tới cạnh cái rương, giở nắp ra, nhưng thấy trong rương chứa đầy đồ vật quần áo. Vi Tiểu Bảo lấy tay ra hiệu, bọn thân binh bới đồ vật ra, bới tới đáy rương thì lộ ra một miệng hang, đúng lúc ấy bình một tiếng vang rền, dưới hang có một phát súng bắn ra. Một tên thân binh a một tiếng, vai bị trúng đạn, ngã ngửa ra phía sau.

Song Nhi vội kéo Vi Tiểu Bảo một cái ra phía sau mình. Vi Tiểu Bảo chỉ chỉ cái lò sưởi, ra hiệu lật lại. Một tên thân binh bước qua bưng cái lò sưởi lên, trút luôn xuống miệng hang.

Chỉ nghe trong hang có người la lên bằng tiếng La Sát “Đừng trút than xuống, đầu hàng!”, kế ho sặc sụa không ngớt. Vi Tiểu Bảo dùng tiếng La Sát nói “Vứt súng lên trước, rồi bò lên sau”, trong miệng hang có một khẩu súng ngắn vứt lên, kế đó một tên quân La Sát thò đầu lên. Một tên thân binh nắm tóc y kéo lên, một tên thân binh khác đưa đao kề vào cổ y, tên lính ấy hàm râu bị cháy vẫn chưa tắt, rát quá kêu be be ầm lên, vô cùng thảm hại bò ra. Vi Tiểu Bảo nói “Ở dưới còn có ai không?”, dưới hang có người kêu lên “Còn một người nữa! Đầu hàng, đầu hàng”. Vi Tiểu Bảo quát “Ném võ khí lên” ở miệng hang bạch quang chớp lên, một thanh mã đao ném ra, kế đó một đám than lửa nhô lên, nguyên là tên lính La Sát ấy đầu tóc bị cháy.

Bọn thân binh bảo vệ ngoài cửa nghe trong đại soái có chuyện, lại mấy người nữa chạy vào. Bảy tám tên thân binh giữ chặt hai tên quân La Sát, phủi tắt lửa trên tóc trên râu hai người, trói quặt hai tay ra sau lưng.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên chỉ vào một tên quân La Sát kêu lên “Ồ, ngươi là Vương Bát Tử Kê”, tên quân ấy trên mặt lộ vẻ vui mừng, nói “Vâng, vâng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là Hoa Bá Tư Cơ”, tên La Sát còn lại cũng kêu lên “Đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta… ta là Tề Lạc Nặc Phu”. Vi Tiểu Bảo nhìn y chăm chú hồi lâu, thấy bộ râu của y bị cháy lỗ chỗ, trên mặt của bị bỏng vừa đỏ vừa sưng, nhưng cuối cùng cũng nhận ra được, cười nói “Phải rồi, ngươi là Trư La Nhụ Phu!”, Tề Lạc Nặc Phu cả mừng kêu lên “Đúng, đúng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là bạn cũ của ngươi”.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là vệ sĩ của công chúa Tô Phi Á. Năm trước họ cùng đi với Vi Tiểu Bảo từ thành Nhã Khắc Tát lên Mạc Tư Khoa.

Hai người cùng quân hỏa thương trong Lạp cung tạo phản, lập được công lao không nhỏ. Sau khi công chúa Tô Phi Á chấp chưởng quốc chính, ban thưởng cho họ, tất cả vệ sĩ của mình đều được thăng làm Đội trưởng, trong đó có bốn người tới phương đông định lập công cướp bóc. Lúc thua quân mất thành, một người chết trận, một người chết cóng. Còn lại hai người rón rén chui vào địa đạo, định ra thành bỏ trốn, nào ngờ miệng địa đạo ngoài thành đã bị lấp kín, hai người tiến thoái đều khó, rốt lại hình tích bị bại lộ. Năm xưa Vi Tiểu Bảo gọi hai người bọn họ là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu(1). Hai người làm sao biết được ý tứ, chỉ nói là trẻ con Trung Quốc phát âm không đúng, gọi thì cũng lên tiếng. Nghe công chúa gọi y là “Trẻ con Trung Quốc”, lúc đầu cũng gọi theo như thế, đến khi Vi Tiểu Bảo lập công, công chúa phong tước vị cho y, các vệ sĩ lại gọi y là “Đại nhân trẻ con Trung Quốc”.

Vi Tiểu Bảo hỏi rõ chuyện đã qua, sai thân binh cởi trói, mang rượu thịt ra khoản đãi.

Bọn thân binh sợ dưới địa đạo còn có gian tế, bèn xuống lục soát một lượt, biết rõ trong phòng ngoài chỗ này ra thì không còn địa đạo tường đôi nào khác, lúc ấy mới lui ra. Đội trưởng thân binh trong lòng sợ sệt, luôn miệng nhận tội, nghĩ thầm quả là may mắn bằng trời, nếu hai tên quân La Sát này nửa đêm từ địa đạo chui ra định trốn, đâm chết Vi đại soái, thì mình không bị cả nhà chết chém tịch biên gia sản không xong.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Lạc và Tề Lạc Nặc Phu hai người tới hỏi han tình hình của công chúa Tô Phi Á gần đây. Hai người nói công chúa điện hạ tổng lý triều chính, vương công đại thần, tướng quân chủ giáo toàn nước La Sát ai cũng không dám chống đối. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, mọi chuyện đều nghe lời chị. Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ rất nhớ đại nhân trẻ con Trung Quốc, dặn bọn ta nghe ngóng tin tức của ngươi, bảo bọn ta gặp được ngươi thì mời ngươi tới Mạc Tư Khoa chơi, công chúa sẽ có trọng thưởng”.

Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ không biết đại nhân trẻ con Trung Quốc đem quân tới đây đánh nhau, nếu không thì mọi người thân thiết, là bạn bè tốt, trận này cũng không cần đánh nhau nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi bịa đặt, lừa dối!”. Hai người đều thề thốt, nói đó là sự thật, quyết không phải giả.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hoàng thượng vốn muốn mình nghĩ cách giảng hòa với nước La Sát, không ngại gì sai hai thằng đầy tớ này về nói với công chúa Tô Phi Á”. Bèn nói “Ta muốn viết một lá thư, các ngươi đưa về cho công chúa, có điều ta không biết chữ La Sát ngoằn ngoèo như con giun, các ngươi viết thay ta thôi”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngớ mặt nhìn nhau, đều có vẻ khó khăn, hai người bọn họ chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn nói tới việc cầm bút viết chữ thì cũng một khiếu không thông. Tề Lạc Nặc Phu nói “Đại nhân trẻ con Trung Quốc muốn viết thư tình, thì hai người bọn ta không làm được. Bọn ta… bọn ta đi tìm giáo sĩ viết giúp”, Vi Tiểu Bảo ưng thuận, sai thân binh dắt hai người đi tìm trong bọn tù binh La Sát.

Qua không bao lâu, hai người dắt một giáo sĩ râu quai nón xồm xoàm tới. Lúc ấy phần lớn quân lính La Sát đều không biết chữ, giáo sĩ theo quân ngoài việc cầu nguyện Thượng đế, khích lệ sĩ khí, còn có một chức trách trọng yếu khác là viết giúp thư gửi về nhà cho tướng sĩ. Viên giáo sĩ kia mặc trang phục quân Thanh, quần áo quá chật, bó sát vào người, trông rất buồn cười. Y sợ sệt run rẩy, theo hai viên Đội trưởng tham kiến Vi Tiểu Bảo, nói “Thượng đế ban phúc cho đại tướng quân đại tước gia Trung Quốc, cầu cho đại tướng quân Trung Quốc cả nhà bình an”.

Vi Tiểu Bảo cho y ngồi, nói “Ngươi viết cho ta một lá thư, gửi công chúa Tô Phi Á của các ngươi”. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ. Thân binh đã bày văn phòng tứ bảo ra trên bàn. Viên giáo sĩ cầm bút lông, giở giấy ra, cong cong queo queo viết chữ La Sát lên, nhưng cảm thấy bút lông quá mềm, nét bút lúc to lúc nhỏ, nói không hết sự khó khăn, nhưng không dám có nửa câu bình luận về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị tướng quân Trung Quốc này nổi giận.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi viết thế này: Từ sau khi chia tay, thường nghĩ tới công chúa, chỉ mong cưới được công chúa làm vợ…”. Viên giáo sĩ hoảng sợ giật nảy mình, bàn tay lỏng ra, ngọn bút lông quẹt lên tờ giấy một vệt mực lớn. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vị đại nhân trẻ con Trung Quốc này rất được công chúa điện hạ Tô Phi Á ưa thích. Công chúa điện hạ rất yêu thương y, thường nói người tình Trung Quốc hơn người tình La Sát gấp hàng trăm lần”. Y muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo, không khỏi có chỗ nói tăng thêm lên. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ, nói “Vâng, vâng, hơn gấp hàng trăm lần, hàng trăm lần”. Y tâm thần bất định, văn tứ bế tắc, nhưng lại không dám cầm bút ngẫm nghĩ, chỉ đành dùng lối ăn nói sáo rỗng thường ngày viết ra, đều là lời lẽ lẳng lơ của tướng sĩ La Sát gởi cho vợ con, người tình ở quê thường ngày. Nào là “Quả tim thân yêu”, “Đêm qua anh mơ thấy em”, “Hôn em một vạn cái”, không như nhau mà đầy đủ.

Vi Tiểu Bảo thấy y ngòi bút chạy như bay, vô cùng thỏa mãn, nói “Quân La Sát cô tới chiếm đất đai Trung Quốc, giết chết rất nhiều bách tính Trung Quốc. Đại hoàng đế Trung Quốc rất tức giận, sai ta đem quân tới, bắt sống hết quân tướng của cô. Ta muốn chặt họ ra từng mảnh từng mảnh, nướng lên làm món Hà thư ni khắc…”. Viên giáo sĩ lại giật nảy mình, a một tiếng, nói “Lạy Chúa tôi!” Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Có điều nể mặt công chúa cô, tạm thời không cắt không nướng. Nếu cô ưng thuận từ nay về sau quân La Sát không xâm phạm cương giới Trung Quốc ta nữa, Trung Quốc và La Sát sẽ làm bạn tốt. Nếu ngươi không nghe lời, ta sẽ sai quân tới giết sạch đàn ông La Sát, cô sẽ không còn có người đàn ông La Sát nào để ngủ chung nữa. Cô muốn có đàn ông ngủ chung, thì thiên hạ chỉ có người Trung Quốc thôi”.

Viên giáo sĩ trong lòng rất không cho là đúng, nghĩ thầm “Thiên hạ ngoài đàn ông La Sát không phải chỉ có đàn ông Trung Quốc, câu này rất không có lý”. Lại cảm thấy loại ngôn ngữ vô lễ như thế quyết không thể nói với công chúa, quyết ý đổi viết thành mấy câu vừa cung kính vừa thân mật, đoán là vị tướng quân Trung Quốc này cũng không sao biết được. Nhưng y là người cẩn thận, sợ bị nhìn ra chỗ sơ hở, nên mấy câu ấy đều viết thành tiếng Lạp Đinh, viết xong bất giác trên mặt lộ nét tươi cười.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Bây giờ ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu đưa thư này tới cho cô, lại tặng lễ vật cho cô. Cô muốn làm tình nhân hay địch nhân của ta, là do tự cô quyết định thôi”.

Viên giáo sĩ lại sửa câu cuối cùng thành cực kỳ cung kính, viết “Tiểu thần Trung Quốc nhớ nhung ngưỡng mộ hậu ân của điện hạ, kính cẩn dâng cống vật, để tỏ lòng trung. Tiểu thần còn sống năm nào, cũng đều là bề tôi trung thành của điện hạ. Chỉ mong hai nước hòa hiếu, những quân dân La Sát bị bắt làm tù binh được trở về nước cũ, thì đó là ân đức vô lượng của điện hạ”. Câu cuối cùng là xuất phát từ lòng riêng của y, nghĩ nếu hai nước hòa nghị không thành, thì mình và đám hàng quân La Sát thế ắt chết nơi đất khách quê người, vĩnh viễn không được về nước.

Vi Tiểu Bảo đợi y viết xong, nói “Hết rồi. Ngươi đọc lại một lượt cho ta nghe”. Viên giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đọc, đọc tới những câu mình sửa vẫn nói theo nguyên ý của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo vốn cũng chỉ biết tiếng La Sát rất có hạn, nghe ra tựa hồ cũng không sai gì lắm, đâu ngờ tới việc y dám tùy ý sửa đổi? Bèn gật gật đầu nói “Tốt lắm”. Rồi lấy ấn vàng “Phủ viễn đại tướng quân chi ấn” ra đóng mực son lên lá thư. Lá thư này là thư tình không ra thư tình, công văn không ra công văn hợp thành.

Vi Tiểu Bảo sai giáo sĩ ra ngoài lãnh thưởng, sai sư gia trong đại doanh cho lá thư vào phong bì, trên phong bì viết tên công chúa Tô Phi Á bằng chữ Trung Quốc. Viên sư gia kia chấm đẫm mực ngòi bút, dòng thứ nhất viết “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi phụng thư”, dòng thứ hai viết “Ngạc La Tư quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố luân trưởng công chúa điện hạ”. Hai chữ “La Sát” trong kinh Phật là ma quỷ, dùng gọi nước Nga là có ý khinh thường, nên trong văn thư đều gọi là “Ngạc La Tư”. Viên sư gia kia lại biết ba chữ “Tô Phi Á” rất không trang nhã, chữ Phi kia khiến người ta nghĩ tới câu “Phương thảo phi phi” (Cỏ thơm bời bời), tựa hồ châm chọc nàng toàn thân đầy lông, vì thế viết thành Tô Phi Hà, đã hợp với điển “Lạc hà dữ cô vụ tề phì” (Ráng chiều và cò lẻ cùng bay), lại có nghĩa “Phi hà phốc diện” (Ráng bay trùm mặt). “Cố luân trưởng công chúa” là phong hiệu tôn quý nhất của các công chúa nhà Thanh, chị hoàng đế là trưởng công chúa, con gái hoàng đế là công chúa, cô gái này là Nhiếp chính vương, lại là chị của hai vị Sa hoàng, tự nhiên là công chúa đứng đầu. Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo cười nói “Công chúa La Sát có một chuyện với ta, mấy năm không gặp, không biết cô ta ra sao?”. Viên sư gia liền viết sau phong bì hai hàng “Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phúc dã. Như lạc chi hòa, vô sở bất giai, thỉnh dữ tử lạc chi” (Phàm hòa với Nhung Địch, là phúc của nước vậy. Nếu vui chuyện hòa, không gì không hay, xin cùng người cùng vui), nghĩ đây là câu trong Tả truyện, chỉ tiếc La Sát là nước Nhung Địch, chưa chắc đã hiểu được kinh truyện của Trung Hoa thượng quốc mình, ý nghĩa song quan trong đó lại càng không hiểu được, lông mày đẹp cho thằng mù ngó, không khỏi có chỗ đáng tiếc ngọc sáng vứt ra chỗ tối.

Vi Tiểu Bảo không những không hiểu được hàm nghĩa của chữ Trung Quốc trong câu “Ngạc La Tư quốc Cố luân trưởng công chúa Tô Phi Hà”, mà ngay cả câu “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi”, ngoài chữ Vi họ của mình và chữ Đại thì không biết chữ nào, thấy viên sư gia viết sau phong bì hai hàng chữ, bèn nói “Đủ rồi, đủ rồi. Ngươi viết chữ rất đẹp, hơn cả gã râu xồm La Sát”.

Y dặn viên sư gia chuẩn bị một phần lễ vật trọng hậu, may là đều lấy được trong thành Nhã Khắc Tát, không phải tốn kém gì. Lại gọi hai viên Đội trưởng Hoa Bá Tư Cơ, Tề Lạc Nặc Phu tới bảo họ chọn trong đám hàng binh La Sát lấy một trăm người làm hộ vệ, lập tức đưa thư về Mạc Tư Khoa. Hai viên Đội trưởng mừng rỡ quá lòng mong mỏi, không ngừng khom lưng cám ơn, lại nắm tay Vi Tiểu Bảo, liên tiếp hôn vào mu bàn tay y. Vi Tiểu Bảo mu bàn tay bị râu hai người cọ vào vừa nhột vừa ngứa, nhịn không được hô hô cười rộ.

Thành Nhã Khắc Tát nhỏ, không đủ cho đại quân đóng, lúc ấy Vi Tiểu Bảo bàn bạc với Khâm sai và Sách Ngạch Đồ, sai hai người Lang Thân, Lâm Hưng Châu dẫn hai ngàn quân giữ thành, đại quân kéo về nam chia đóng ở hai thành Ái Hồn và Hô Mã Nhĩ chờ chỉ dụ. Vi Tiểu Bảo lúc lên đường trịnh trọng dặn hai tướng Lang Thân, Lâm Hưng Châu quyết không được đào giếng, đào địa đạo trong thành Nhã Khắc Tát.

Đại quân về nam. Bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở thành Ái Hồn, Tát Bố Tố suất lãnh một cánh quân khác đóng ở thành Hô Mã Nhĩ. Vi Tiểu Bảo sai hàng binh La Sát đổi mặc trang phục quân Thanh, sai người dạy tiếng Trung Quốc cho, bắt họ học thật thuộc những câu “Hoàng đế vạn tuế vạn vạn tuế”, “Thánh thiên tử vạn thọ vô cương”, “Hoàng đế Trung Quốc đức ban bốn bể, hoàng ân hạo đãng”, sau đó sai quân áp giải về Bắc Kinh, muốn họ hô lớn trên đường phố ở kinh thành, lúc triều kiến Khang Hy lại càng phải lớn tiếng reo hò, nói nếu hô càng vang rền, hoàng thượng ban thưởng càng trọng hậu.

Qua hơn hai mươi ngày, Khang Hy ban chiếu thư xuống, khen ngợi tướng sĩ xuất chinh, thăng Vi Tiểu Bảo làm Nhị đẳng Lộc Đỉnh công, các tướng sĩ còn lại đều được thăng thưởng. Khâm sai truyền chỉ đưa một cái hộp gỗ sơn đen cho Vi Tiểu Bảo, là hoàng thượng ngự tứ. Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở nắp hộp ra, không kìm được ngẩn người. Trong hộp là một cái bát ăn cơm bằng vàng, trên khắc bốn chữ “Công trung thể quốc”, chính là cái bát năm xưa Thi Lang tặng y, chỉ là hoa văn vết chữ đều bị sứt mẻ, lại được tu sửa hoàn chỉnh.

Vi Tiểu Bảo nhớ năm xưa cái chén vàng này để trong phủ Bá tước ở Đồng Mạo Nhi Hồ đồng, đêm ấy lúc hoảng sợ chạy trốn hoàn toàn không mang theo, vừa ngưng thần nhớ lại đã hiểu lý do. Nhất định là đêm ấy sau khi phủ Bá tước bị pháo bắn tan nát, quân sĩ Tiền phong doanh đã lập biên bản thu nhặt những đồ vật trong phủ trình lên hoàng đế. Cái bát vàng này tuy bị hư hại nhưng chưa vỡ nát. Khang Hy sai thợ tu bỗ, lại ban cấp cho y, ý tứ tự nhiên là nói: Cái bát vàng của ngươi đã bị vỡ một lần, lần này phải bưng cho khéo, đừng để vỡ nữa. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đối với mình rốt lại cũng có nghĩa khí, chúng ta có qua có lại, mình cũng không đào long mạch của y”. Đêm ấy mở đại yến khoản đãi Khâm sai, các tướng cùng ngồi bồi tiếp, ăn tiệc xong đánh bạc.

Lại qua hơn một tháng, Khang Hy lại có thượng dụ gởi tới, lần này thì nghiêm khắc quở phạt, nói Vi Tiểu Bảo làm việc bậy bạ, muốn quân La Sát hô lớn “Vạn thọ vô cương” thì rất vô vị. Trong thượng dụ nói “Làm bậc nhân quân chăn dân phải thể theo lòng trời, yêu thương lê dân. La Sát tuy là nước man di ngoài giáo hóa, nhưng tiểu dân cũng là người, đã hàng phục quy thuận, không nên khinh khi làm nhục. Ngươi là đại thần, phải khuyên nhà vua nhân đức thương dân. Nếu trẫm có ban ơn cho mọi người thì không đáng gọi là minh quân, nhưng nếu kiêu nịnh tàn ngược, thì vạn thọ vô cương chỉ làm khổ thiên hạ mà thôi. Đại thần xiểm nịnh, đặt nhà vua vào chỗ bất đức thì không tội gì lớn hơn, nên lấy đó làm răn”.

Vi Tiểu Bảo lần này vỗ mông ngựa lại thành sờ dái ngựa, rất là mất mặt, may là y da mặt dày, cũng không để ý gì, trước mặt viên Khâm sai truyền chỉ lớn tiếng chửi mình đáng chết, nghĩ thầm “Thiên hạ lại có người không thích đội mũ cao à? Nhất định lần này quân La Sát nói tiếng Trung Quốc không hay, hoàng thượng nghe thấy lăng líu không ra sao, nên y mới tức giận”. Bèn gọi mấy viên giáo thụ dạy tiếng Hoa cho quân La Sát tới chửi cho một trận. Sau khi chửi xong lại mở sòng đánh bạc với họ, gieo được vài ván xúc xắc, đã quên hết những lời giáo huấn của Khang Hy.

Thấm thoắt vài tháng, đông qua xuân tới. Vi Tiểu Bảo đóng quân ở thành Ái Hồn tuy thoải mái, nhưng nhớ bọn vợ con là A Kha, Tô Thuyên và Hổ Đầu, nhiều lần sai thân binh đưa lễ vật về nhà. Sáu vị phu nhân cũng đều gởi quần áo thức ăn tới. Mọi người biết y không biết chữ, nên cũng không gửi thư, chỉ sai thân binh nhắn miệng, nói trong nhà lớn nhỏ đều bình an, mong đại soái sớm khải hoàn trở về.

***

Hôm ấy trong kinh lại có thượng dụ ban xuống, sai Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ làm Nghị hòa đại thần, bàn bạc ký kết hòa ước với nước La Sát, lại phái Đô thống Hán quân Liêm Hoàng kỳ Nhất đẳng công Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A Nhĩ Nê, Tả Đô Ngự sử Mã Tề bốn người cùng tới giúp đỡ.

Đông Quốc Cương tuyên chỉ xong, lại lấy ra một tờ công văn tuyên đọc, chính là quốc thư của hai vị tiểu Sa hoàng nước La Sát gởi Khang Hy, lúc ấy đã được giáo sĩ Hà Lan truyền giáo ở Bắc Kinh dịch ra chữ Hán. Trong quốc thư nói:

“Kính phụng thượng quốc Hoa Hạ, hoàn vũ mênh mông, suất lãnh hiền thần cùng lo trị nước, chia vạch cương thổ, Mãn Hán kiêm quản, thanh danh lẫy lừng, đại thánh hoàng đế nói: Trước đây giao cho A Liệt Khắc Tịch Mễ Hãn La làm đại hãn, từng sai bọn Ni Quả Lai mang thư và lễ vật tới thông hiếu với thiên triều, vì không biết điển lễ Trung Quốc, lời lẽ cử chỉ thô lậu không văn nhã, đã khoan hồng tha tội cho. Còn như ca ngợi hoàng đế, thì sơ xuất thất lễ, cũng vì là người ở xa, điển lễ vốn chưa nhìn thấy, may không trách tội. Thư của hoàng đế ban cho ngày trước, hạ quốc không ai hiểu được, chưa hiểu lý do. Đến khi bọn Nê Quả Lai trở về hỏi lại, chỉ nói đại thần thiên triều không chịu trả bọn Căn Đặc Mộc Nhĩ bỏ trốn, lại kết tội quấy nhiễu biên cảnh. Gần đây nghe hoàng đế ra quân, nhọc nhằn tới biên giới, có chỗ mất ý thông hiếu. Nếu quả dân ở biên giới của hạ quốc gây hấn làm loạn, thiên triều sai sứ tỏ ý, tự nhiên sẽ nghiêm trị tội ấy, cần gì phải nhọc công dấy động can qua? Nay được chiếu chỉ mới hiểu rõ đầu đuôi, đã ra lệnh cho tướng sĩ hạ quốc phái đi đến lúc ấy không được giao phong. Kính xin trả lại những người làm loạn ở nước tôi, sẽ mang về chính pháp, sai sứ thần tới bàn việc phân định biên giới, trước hết sai bọn Mạt Khởi, Phật Nhi Ngụy Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa ngày đêm mang lễ vật và thư tới. Xin triệt thoái quân đang vây thành Nhã Khắc Tát, viết thư rõ ràng, hiểu dụ cho hạ quốc, thì mọi sự êm đẹp, vĩnh viễn hòa mục. Đại thần thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ, năm xưa có quen biết với Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á điện hạ hoàng tỷ của ta, giá lâm tới kinh sư Mạc Tư Khoa, giúp đỡ dẹp loạn, có công lớn với hạ quốc, đó là ơn huệ của thượng quốc, vua tôi hạ quốc thật không dám quên. Kính dâng đại thánh hoàng đế bệ hạ lễ vật trọng hậu, lễ vật kém trọng hậu hơn thì dâng cho đại thần Vi Tiểu Bảo các hạ, để tỏ ý thành tín hòa mục của hạ quốc” (2).

Đông Quốc Cương đọc xong quốc thư, sư gia giải thích ý tứ trong lá thư cho Vi Tiểu Bảo và các tướng. Đây là thông lệ trong quân, văn thư qua lại, chữ nghĩa có lúc sâu sắc khó hiểu, có nhiều tướng lĩnh cầm quân không biết chữ, cho dù học hành vài năm thì hiểu biết cũng rất có hạn, văn thư qua lại trong quân lại có liên quan tới quân cơ đại sự, nếu hiểu lầm thì can hệ rất lớn, vì thế trong quân chế Mãn Châu có quy định chức sư gia giải thích văn thư.

Đông Quốc Cương cười nói “Vị nữ vương Nhiếp chính nước La Sát này rất nhớ tình nghĩa cũ của Vi đại soái, lễ vật gởi tới quả không ít. Hoàng thượng sai huynh đệ mang theo ở đây, giao cho đại soái thu nạp”, Vi Tiểu Bảo chắp tay nói “Đa tạ, đa tạ”, lại nói “Người La Sát không hiểu lễ tiết, không nói lễ vật của mình nhỏ mọn mà lại khoe khoang nói lễ vật rất trọng hậu, lễ vật tặng cho hoàng thượng rất trọng hậu, lễ vật tặng ta thì không trọng hậu bằng, cũng không sợ người ta chê cười”.

Đông Quốc Cương nói “Vâng. Bọn hàng binh La Sát mà Vi đại soái dâng về kinh, hoàng thượng đích thân tra hỏi, phát hiện trong bọn quân sĩ có một viên quan lớn La Sát…”. Vi Tiểu Bảo a một tiếng, kêu lên “Có chuyện đó à?”. Đông Quốc Cương nói “Người này mười phần giảo hoạt, trà trộn trong đám quân sĩ, hoàn toàn không động thanh sắc. Hôm ấy hoàng thượng thẩm vấn đám hàng binh, có một giáo sĩ truyền giáo người Hà Lan làm thông dịch, hỏi tới đoạn sau, hoàng thượng nói mấy câu bằng tiếng Lạp Đinh với viên giáo sĩ. Trong bọn hàng binh La Sát có một tên trên mặt đột nhiên có vẻ kinh ngạc. Hoàng thượng hỏi y có biết tiếng Lạp Đinh không, tên quân ấy không ngừng lắc đầu. Hoàng thượng dùng tiếng Lạp Đinh nói: Lôi tên này ra chém đầu. Tên lính ấy biến sắc, quỳ xuống xin tha, nhận là biết tiếng Lạp Đinh”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Tiếng Lạp Đinh là tiếng gì? Lời người La Sát bọn họ nói lúc kéo trang đinh (3) gánh quân lương thì làm sao hoàng thượng biết được?”. Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thông minh trí tuệ, không gì không biết. Lời người La Sát nói lúc kéo trang đinh cũng biết”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao tiếng người La Sát nói lúc bình thời thì hoàng thượng không biết, mà lúc họ kéo trang đinh hoàng thượng lại biết?”.

Đông Quốc Cương không sao trả lời, cười nói “Đạo lý ở trong đó thì chúng ta đều không hiểu. Lần sau đại soái triều kiến hoàng thượng, cứ tự mình dập đầu thỉnh vấn thôi”. Vi Tiểu Bảo gật gật đầu, hỏi “Vậy người La Sát ấy về sau thế nào?”, Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn tỉ mỉ, người ấy cuối cùng không sao che giấu, lần lượt thổ lộ tất cả. Nguyên là người ấy tên Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, là Đô Tổng đốc của cả hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát”.

Mọi người nghe thấy đều không kìm được cùng a một tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Chức quan của thằng đầy tớ ấy không nhỏ đâu”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Trong những quan lại nước La Sát phái tới phương đông thì y là lớn nhất. Hôm thành Nhã Khắc Tát bị hạ, nhất định là y đổi mặc y phục quân sĩ, đến nỗi bị y qua mặt”, Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói “Hôm hạ thành Nhã Khắc Tát, tướng quân, quân sĩ, quan lớn, quan nhỏ người La Sát đều cởi hết quần áo, nhìn đi nhìn lại thì người nào cũng thế, quả thật không có gì khác nhau. Không biết được là làm quan lớn nhỏ thế nào, nói năng cũng như nhau. Huynh đệ… huynh đệ không nhận ra được đại quan của họ, cũng không phải là lỗi lầm của bọn ta”.

Các tướng hô hô cười rộ, giải thích cho Đông Quốc Cương biết tình hình hôm hạ thành Nhã Khắc Tát.

Đông Quốc Cương cười nói “Té ra là thế, thế thì cũng không trách được. Hoàng thượng nói: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô Tổng đốc hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát, công lao không nhỏ, có điều y lại cho rằng người này là quân sĩ bình thường, làm việc cũng quá hồ đồ, lấy công trừ tội, chuyện này không thưởng cũng không phạt”. Vi Tiểu Bảo đứng lên, cung kính nói “Ân điển của hoàng thượng, nô tài vô cùng cảm kích”

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn A Nhĩ Thanh Tư Cơ, hỏi liên tiếp sáu ngày, quân chính đại sự, cương vực vật sản của nước La Sát đều hỏi tỉ mỉ. Hoàng thượng quả thật là trời sinh anh minh, lại phát hiện được trên người A Nhĩ Thanh Tư Cơ một bí mật. Theo Vi đại soái nói, người ấy lúc bị bắt, trên không có mảnh vải nào, không ngờ y lại có cách giấu giếm một văn kiện bí mật”.

Vi Tiểu Bảo chửi “Con bà nó, con gà chết này thật là quỷ kế đa đoan, lần sau mà gặp y, không nhìn kỹ y không được. Văn kiện bí mật ấy là cất giấu ở chỗ nào, chẳng lẽ ở… ở…”.

Đông Quốc Cương nói “Trước khi hàng binh La Sát triều kiến hoàng thượng, tự nhiên đều bị Ngự tiền thị vệ lục soát khắp người, râu tóc đều bị sờ hết, tất cả quần và giày cũng đều phải cởi ra. Người Phiên bang lòng dạ khó lường, nếu giấu giếm hung khí trong người, thì làm sao được? Gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ này đương nhiên cũng bị lục soát, trên thân thể cũng không có vật gì lạ. Nhưng hoàng thượng quan sát tỉ mỉ, thấy trên vai phải y có một khối lồi lên, lại thỉnh thoảng liếc mắt vào đó, bèn hỏi y trên tay trái có vật gì. A Nhĩ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên, trên tay băng bó, nói là bị thương lúc ở thành Nhã Khắc Tát. Hoàng thượng bảo y bước tới gần, dùng sức bóp cánh tay y một cái. A Nhĩ Thanh Tư Cơ ối chao một tiếng, nhưng trong thanh âm lại không tỏ vẻ đau đớn gì lắm”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Thú vị thật, thú vị thật! Vậy thì gã La Sát ấy bị thương chỉ là giả”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Hoàng thượng lập tức sai thị vệ cởi lớp băng trên cánh tay y ra. A Nhĩ Thanh Tư Cơ mặt xám như tro, hoảng sợ run bắn cả người. Vi đại soái, ngươi đoán trong lớp băng là giấu vật gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi vừa nói là văn kiện bí mật, chẳng lẽ là bó trong lớp băng ấy sao?”. Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói “Đúng thế. Chẳng trách hoàng thượng thường khen ngươi thông minh, quả nhiên đoán một lần là đúng ngay. Dưới lớp băng của gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ rõ ràng là một văn kiện, là mật dụ của Sa hoàng nước La Sát gởi y. Hoàng thượng bảo giáo sĩ Hà Lan dịch ra, phó bản của bản sao ở đây”, rồi rút trong bọc ra một tờ công văn, cao giọng đọc:

“Ngươi nên nói với hoàng đế Trung Quốc: Đại quân chủ hoàng đế thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư kiêm đại vương nhiều nước Nga hoàng bệ hạ, oai danh vang tới nơi xa, đã có quân vương nhiều nước chịu thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Hoàng đế Trung Quốc y cũng nên xin nhận ân huệ của đại quân chủ thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Đại hoàng đế bệ hạ nhất định sẽ thương yêu hoàng đế Trung Quốc trong hoàng ân hạo đãng, lại che chở cho, để khỏi bị địch nhân xâm chiếm, hoàng đế Trung Quốc y cứ một mình thần phục đại quân chủ bệ hạ, chịu ở dưới sự thống trị tối cao của Nga hoàng bệ hạ, vĩnh viễn không thay đổi, tiến cống phú thuế cho đại quân chủ, đại quân chủ hoàng đế bệ hạ sẽ ưng chuẩn cho những người thần thuộc tự do buôn bán ở Trung Quốc và trong hai nước, vì thế hoàng đế Trung Quốc y nên để cho sứ thần của đại hoàng đế bệ hạ đi lại không ngăn trở, lại gửi thư phúc đáp cho đại hoàng đế bệ hạ” (4).

Đông Quốc Cương đọc một câu, Vi Tiểu Bảo chửi một tiếng “Đánh rắm!”. Đến khi y đọc xong, Vi Tiểu Bảo đã chửi hơn mười tiếng “Đánh rắm”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng: Người La Sát dã tâm sôi sục, rất là vô lễ. Hoàng đế gởi đạo mật dụ ấy là cha của hai Sa hoàng hiện nay, y đã chết rồi. Lúc ấy y không biết người Trung Quốc chúng ta lợi hại. Bây giờ người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không còn dám ngông cuồng như trước nữa. Có điều lúc họ nghị hòa, nhất định sẽ vừa cứng vừa mềm, không thể coi thường”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Hoàng thượng đã dặn dò rồi, chúng ta hung dữ đánh vài tát, đá vài cước, rồi sẽ vỗ vỗ vai, vuốt vuốt lưng họ”. Đông Quốc Cương nói “Nhiếp chính nữ vương gì đó rất giảo hoạt, cô ta giả như không biết thành Nhã Khắc Tát đã bị chúng ta hạ, nói đã hạ lệnh cho quân La Sát không được giao phong với chúng ta. Nhưng trong quốc thư lại để lòi đuôi, xin hoàng thượng giao lại những người La Sát bị bắt cho họ chính pháp”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Làm gì có chuyện tiện nghi như thế? Cô ta đưa tới cho ta mấy tấm da điêu, mấy viên bảo thạch, mà lại muốn chúng ta thả hết quan quân của cô ta à?”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dặn người La Sát đã xin giảng hòa thì nghị hòa với họ cũng không hề gì, có điều chúng ta phải mang đại quân tới, thề ước dưới thành”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cái gì là thề ước dưới thành?”. Đông Quốc Cương nói “Hai nước giao binh, quân chúng ta bao vây thành trì Phiên bang, Phiên bang cầu hòa, soạn thảo hòa ước ngay dưới thành, như thế gọi là thề ước dưới thành. Bọn Phiên bang tuy nói đầu hàng nhưng vẫn không chịu nhận thua đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Thật ra nếu chúng ta ra quân đánh thành Ni Bố Sở, cũng không phải chuyện khó”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng đánh thắng La Sát thêm vài trận nữa vốn là việc đã nắm chắc. Có điều La Sát là nước lớn hiện nay, thống hạt rất nhiều nước nhỏ. Nếu họ thua to ở phương đông, mất hết oai phong, các nước nhỏ thần thuộc sẽ không phục. Đến lúc ấy thì nước La Sát không mang đại quân tới báo thù không xong, sẽ chiến tranh liên miên, gây ra tai họa, không biết đánh nhau đến năm nào tháng nào mới xong. Hoàng thượng tra hỏi Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, biết phía tây nước La Sát có một nước lớn khác, gọi là Thụy Điển, hiện có thế đụng nhau là đánh lớn với nước La Sát. Nếu nước La Sát đồng thời đánh nhau với cả hai phía đông tây thì rất đau đầu. Chúng ta nhân cơ hội này buộc họ ký hòa ước thì nhất định có thể chiếm phần tiện nghi, ít nhất cũng có thể giữ cho phương bắc thái bình được một trăm năm”.

Vi Tiểu Bảo sau khi đại thắng, rất muốn một hồi trống thừa thế hạ luôn thành Ni Bố Sở, nghe hoàng thượng ưng thuận cho La Sát cầu hòa, thấy không thỏa mãn, nhưng đây là quyết sách của hoàng đế, cũng là anh vợ mình, y muốn cái gì đó trong cái gì đó mà cái gì đó ngoài vạn dặm, mình cũng khó có thể trái chỉ, lại xoay chuyển ý nghĩ “Ngươi là cậu hoàng thượng, cũng là cậu vợ ta, tính vai vế thì là bậc trưởng bối của ta, ngươi là Nhất đẳng công, ta chỉ là mới được thăng Nhị đẳng công. Lần này nghị hòa với La Sát, hoàng thượng lại phái ngươi làm phó cho ta, thì hoàng thượng đã cho ta có thể diện nhiều lắm rồi”.

Đông Đồ Lại cha Đông Quốc Cương là cha Hiếu Khang hoàng hậu mẹ ruột Khang Hy, là người Hán, vì thế huyết thống của Khang Hy là nửa Mãn nửa Hán. Lúc ấy Đông Đồ Lại đã chết, Đông Quốc Cương được tập phong là Nhất đẳng công. Đông Đồ Lại năm xưa đã sớm quy phục nhà Mãn Thanh ngoài cửa quan, thuộc đạo Liêm Hoàng kỳ, quân công hiển hách, oai vọng lẫy lừng, Vi Tiểu Bảo lại nghe sai tên y là Đổ Lại, Đổ Lại nói rõ là đánh bạc thua thì muốn giở trò vô lại, đường đường là quốc trượng mà như thế thì có gì hay? Tối hôm ấy sau tiệc tiếp khách, các đại thần dưới sự đề xướng của Vi đại soái đánh bạc vài ván. Đông Quốc Cương quả nhiên thua, nhưng đẩy ngân phiếu sáu trăm lượng bạc ra không hề để ý, hoàn toàn không có ý muốn giở trò vô lại. Vi Tiểu Bảo thấy y thua rất sảng khoái, không hề có phong thái của cha, không kìm được vô cùng kinh ngạc, lúc trở về phòng, lên giường đi ngủ mới sực nghĩ ra “Y tên Đông Cốt Quang, nói rõ là chơi bài xương thì phải thua sạch. Người này phẩm chất cờ bạc rất tốt, có thể kết giao với y” (5).

Hôm sau Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần, mọi người nói nếu đã phải thề ước dưới thành thì không ngại gì đem quân tới đó, dĩ dật đãi lao. Vi Tiểu Bảo gật đầu khen phải, ra lệnh hai đạo quân ở thành Ái Hồn và thành Hô Mã Nhĩ cùng xuất phát, hội sư dưới thành Ni Bố Sở. Lúc ấy đã vào mùa hè, trời ấm tuyết tan, hành quân rất tiện.

Hôm ấy tới cạnh sông Hải Lạp Nhĩ Hà, quân tiên phong báo về là có một toán quân La Sát nhỏ kéo tới, hai viên Đội trưởng đứng đầu xin ra mắt đại soái. Vi Tiểu Bảo truyền kiến, té ra là hai người Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu. Vi Tiểu Bảo mừng nói “Hay lắm, hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu”. Hai người khom lưng làm lễ, dâng thư trả lời của công chúa Tô Phi Á.

Viên giáo sĩ La Sát lúc ấy vẫn còn trong đại doanh quân Thanh để chờ khi cần tới. Khang Hy vì việc soạn thảo văn kiện nghị hòa, lại phái thêm một giáo sĩ Hà Lan tới giúp đỡ. Vi Tiểu Bảo truyền gọi hai viên giáo sĩ vào trướng, bảo họ dịch thư trả lời của công chúa.

Viên giáo sĩ La Sát hôm trước sửa đổi nguyên ý lá thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc ấy trong lòng hồi hộp, chỉ sợ trong thư trả lời của công chúa để lộ ra, vội cầm lá thư đọc qua một lượt, lúc ấy mới yên tâm. Viên giáo sĩ Hà Lan lập tức dịch chữ La Sát trong thư ra tiếng Hoa.

Trong thư nói: Từ khi chia tay đến nay, vẫn thường tưởng nhớ, mong sau khi hòa ước đã thành, Vi Tiểu Bảo sẽ tới Mạc Tư Khoa một chuyến để tâm tình với cố nhân. Vi Tiểu Bảo được vua hai nước sủng ái, nên nói rõ những chuyện hiểu lầm bên trong, xóa bỏ ngăn cách, xây dựng nền tảng cho sự hòa hiếu giữa hai nước hiện nay. Trong thư lại nói: Trung Quốc và La Sát chia ở hai phía đông tây, đều là nước lớn, nếu liên thủ kết minh thì có thể cầm quyền thiên hạ, cho dù nước nào cũng không thể kháng cự. Nếu hòa nghị không thành, chiến tranh kéo dài thì không khỏi lưỡng bại câu thương. Vi thế mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến hoàn thành việc này, đối với Trung Hoa dĩ nhiên là lập được công lớn, nhưng nước La Sát cũng sẽ có báo đáp trọng hậu. Lại xin Vi Tiểu Bảo tâu với hoàng đế Trung Quốc thả các tướng sĩ La Sát bị bắt về cho họ được đoàn tụ cùng gia đình vân vân.

Viên giáo sĩ Hà Lan dịch xong, Vi Tiểu Bảo thấy hai người Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu liên tiếp đưa mắt ra hiệu, biết còn có chuyện khác, lúc ấy sai hai viên giáo sĩ lui ra, hỏi “Các ngươi còn có lời gì muốn nói?”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ muốn bọn ta nói với đại nhân trẻ con Trung Quốc là công chúa điện hạ rất nhớ người, đàn ông La Sát không tốt, chỉ có đại nhân trẻ con Trung Quốc tốt nhất trên đời, mời người nhất định phải tới Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo hừ một tiếng, nghĩ thầm “Đây là thuốc mê La Sát, ngàn vạn lần không tin được”.

Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ còn có mấy việc muốn nhờ đại nhân trẻ con Trung Quốc thu xếp. Đây là công chúa điện hạ gởi cho người”. Nói xong lấy trên cổ ra một cái vòng đồng, dưới cái vòng có buộc một cái bao da, Hoa Bá Tư Cơ cũng làm như vậy. Chắc là hai người lặn lội đường xa, sợ bị thất lạc nên dùng vòng đồng đeo bao da vào cổ. Miệng hai cái bao da đều dùng khóa đồng khóa chặt. Hoa Bá Tư Cơ lấy ở hông ra một cái chìa khóa bước tới mở khóa trên cái bao da của Tề Lạc Nặc Phu, Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy ra một cái chìa khóa mở khóa trên cái bao da của Hoa Bá Tư Cơ. Hai người cung cung kính kính đặt cái bao da lên cái bàn trước mặt Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo trút ngược cái bao da, tiếng leng keng vang lên, mấy mươi viên bảo thạch lăn ra, màu sắc hình dạng khác nhau, rực rỡ lấp lánh, đều là hồng bảo thạch, lam bảo thạch, hoàng bảo thạch cực lớn, trong cái bao kia thì đựng đầy toàn thạch và phỉ thúy. Lập tức cả trướng sáng ngời, thật mờ cả mắt.

Vi Tiểu Bảo bình sinh đã nhìn thấy vô số châu báu, nhưng rất nhiều viên bảo thạch lớn cùng ở một chỗ thế này thì chưa từng thấy qua, cười nói “Công chúa tặng ta lễ vật trọng hậu thế này, quả thật không thể nhận được” (6).

Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ nói nếu đại nhân trẻ con Trung Quốc làm xong việc lớn, sẽ còn có lễ vật quý trọng hơn tặng cho người, lại có gái đẹp mười nước Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Ca Tát Khắc, Đạt Đán, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Nhật Nhĩ Man, Đan Mạch, mỗi nước một người, người nào cũng trẻ tuổi xinh đẹp, người nào cũng là xử nữ, quyết không phải là gái góa, nhất tề tặng cho đại nhân trẻ con Trung Quốc”.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Bảy người vợ của ta đã ứng phó không xong, lại thêm mười cô gái đẹp nữa thì đại nhân trẻ con Trung Quốc sẽ lập tức một mạng ô hô”, Hoa Bá Tư Cơ luôn miệng nói “Không sao đâu, không sao đâu, mười xử nữ xinh đẹp, công chúa điện hạ đã chuẩn bị rồi, bọn ta đã chính mắt nhìn thấy, người nào dung mạo cũng như hoa mai côi, da trắng như sữa, giọng nói như tiếng chim oanh”. Vi Tiểu Bảo đột nhiên động tâm, hỏi “Công chúa điện hạ muốn ta làm chuyện gì?”.

Tề Lạc Nặc Phu nói “Chuyện thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định biên giới công bằng, từ nay không đánh nhau nữa”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đang muốn như thế, chuyện này thì làm được”, liền cau cau mày, nói “Phía tây nước La Sát các ngươi có nước Thụy… Thụy gì đó phái sứ giả tới muốn bọn ta cùng xuất binh, đông tây giáp công La Sát, chia đôi nước các ngươi. Lúc ấy thì các loại mỹ nữ Nga La Tư lớn, Nga La Tư nhỏ, Nga La Tư vừa vừa không lớn không nhỏ, Nga La Tư đen, Nga La Tư trắng, Nga La Tư đủ màu lốm đốm gì đó muốn bao nhiêu là có bấy nhiêu, cũng không cần công chúa điện hạ các ngươi tặng nữa. Huống hồ mỗi loại chỉ tặng có một người, thật nhỏ mọn quá!”.

Hai viên Đội trưởng La Sát vừa nghe thấy đều giật nảy mình. Lúc ấy vua Tra Lý thứ mười một của Thụy Điển là một nhà vua trẻ tuổi anh minh có tài, chỉnh đốn quân đội chấn hưng võ bị, rất có ý đông chinh đánh nước La Sát, hàng ngày quân mã ùn ùn tiến về phía đông. Đại thần văn võ trong triều đình Mạc Tư Khoa đang lo lắng chuyện ấy, không ngờ Thụy Điển lại nghĩ tới việc muốn liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy mạnh, nhưng nếu trước mặt sau lưng đều thù địch, thì vô cùng nguy hiểm.

Vi Tiểu Bảo nhìn sắc mặt hai người, biết mình ra hư chiêu đã có hiệu quả, liền nói “Nhưng ta và công chúa điện hạ là bạn thân, làm sao ưng thuận bọn Man tử nước Thụy gì đó được? Hiện hoàng đế Trung Quốc bọn ta còn chưa quyết định chủ ý, nếu quả thật nước La Sát thật lòng cẩu hòa, thì ta có thể đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về nước”.

Hai viên Đội trưởng cả mừng, luôn miệng nói “Nước La Sát mười phần thật lòng, không có chút nào giả trá. Xin đại nhân trẻ con Trung Quốc mau đuổi sứ giả Thụy Điển về, hay tốt nhất là cứ một đao chém đầu y đi”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Đầu sứ giả thì không chém được. Huống chi y đã tặng ta rất nhiều bảo thạch, mười mấy mỹ nữ, nhát đao ấy cũng không chém được, đúng không?”. Hai viên Đội trưởng luôn miệng khen phải, nghĩ thầm “Té ra nước Thụy Điển cố ý lấy lòng, đưa hàng trước, thu tiền sau, chiêu này còn khôn ngoan hơn bọn mình”. Lại nghĩ “May mà đại nhân trẻ con Trung Quốc là người tình của công chúa bọn mình, nếu không thì chuyện này quả thật hỏng bét”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Công chúa điện hạ còn muốn ta làm chuyện gì nữa?”. Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười nói “Chuyện công chúa điện hạ thật lòng muốn đại nhân trẻ con Trung Quốc làm là muốn mời người tới làm việc trong tẩm thất của công chúa ở cung Khắc Lý Mụ Lâm tại Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo cười hắc lên một tiếng, nghĩ thầm “Đây là thuốc mê La Sát, nói tắt là thuốc La Sát, uống được không tin được”. Bèn cười nói “Té ra đàn ông La Sát các ngươi đều vô dụng”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Cũng không phải là đàn ông La Sát vô dụng, chẳng qua là công chúa điện hạ đặc biệt nhớ nhung đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Lại một chén thuốc La Sát nữa”. Liền hỏi “Nếu thế thì công chúa không còn chuyện gì khác muốn ta làm phải không?”.

Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ muốn xin hoàng đế bệ hạ Trung Quốc ưng thuận cho thương nhân hai nước có thể qua lại hai nước, tự do thông thương”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Thương nhân hai nước qua lại thường xuyên, công chúa cũng tiện thỉnh thoảng gởi thư tặng quà cho đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Con mẹ nó, lại một chén nữa”, rồi nói “Nói thế thì hai nước thông thương là công chúa vì chuyện riêng chứ không phải vì chuyện công à?”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vâng, vâng, hoàn toàn là vì đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta đã không phải là trẻ con, các ngươi không được gọi là đại nhân trẻ con Trung Quốc gì đó nữa”. Hai người nhất tề khom lưng thật thấp, nói “Vâng, vâng, đại nhân các hạ Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo cười khẽ một tiếng, nói “Được, các ngươi lui ra nghỉ ngơi đi. Bọn ta định tới Ni Bố Sở, các ngươi đi cùng là được”.

Hai người cùng giật nảy mình, nhìn nhau một cái, nghĩ thầm “Đại quân Trung Quốc tới Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ là tới đánh thành sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi yên tâm. Ta đáp ứng công chúa, hai nước hòa hiếu, không đánh nhau nữa là được”. Hai người nhất tề khom lưng, nói “Đa tạ đại nhân trẻ…, không phải, các hạ Trung Quốc”.

Hoa Bá Tư Cơ lại nói “Công chúa nghe nói cầu ở Trung Quốc xây dựng rất tốt, bất kể mặt sông lớn rộng thế nào cũng có thể dùng đá lớn xây cầu, bên dưới không cần trụ đá. Công chúa yêu thích đại nhân các hạ Trung Quốc, cũng yêu thích đồ vật của Trung Quốc, nên xin đại nhân phái vài kỹ sư giỏi xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây vài chiếc cầu đá Trung Quốc thần kỳ. Công chúa điện hạ hàng ngày nhìn thấy cầu đá Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu, cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thuốc La Sát cứ đổ hết chén này tới chén khác, uống nữa thì mình phải ói ra mất. Công chúa đặc biệt vừa ý cầu đá Trung Quốc chúng ta, vì lý do gì? Trong này ắt có chuyện kỳ lạ, không thể mắc lừa con hồ ly La Sát này được”. Liền nói “Công chúa nhớ nhung ta thì không cần xây cầu đá, công trình lớn quá. Để ta gởi cô ta mấy cái chăn, mấy cái gối bằng gấm Trung Quốc là được, cho cô ta hàng đêm ôm ấp nằm ngủ, giống như đêm nào cũng có đại nhân các hạ Trung Quốc bầu bạn với cô ta”.

Hai viên Đội trưởng La Sát nhìn nhau một cái, trên mặt đều có vẻ nhăn nhó. Tề Lạc Nặc Phu nói “Như thế… giống như…”. Hoa Bá Tư Cơ đầu óc mau lẹ hơn, nói “Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh, ôm chăn ôm gối Trung Quốc ngủ cũng rất hay. Có điều chăn gối bằng gấm qua vài năm sẽ cũ rách, không vững chắc bằng cầu đá, vì thế mới xin đại nhân phái kỹ sư tới xây dựng cầu đá”.

Vi Tiểu Bảo nghe khẩu khí của hai người thì triều đình La Sát có nhu cầu rất cấp thiết về kỹ sư xây dựng cầu đá, đoán ắt là có âm mưu quỷ kế. Y không biết đương thời kỹ thuật xây cầu của Trung Quốc đứng đầu thiên hạ, người ngoại quốc tới Trung Quốc nhìn thấy cầu đá quy mô bề thế ắt tặc lưỡi khen lạ, tán thưởng không thôi, làm sao có thể bắc cầu qua mặt sông rộng mà phía dưới không cần trụ cầu, càng cảm thấy thần kỳ không lường được. Người La Sát mong mỏi học được cách thức xây cầu ấy rốt lại là xuất phát từ lòng hâm mộ khoa học kỹ thuật Trung Quốc chứ hoàn toàn không có âm mưu gì. (7)

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi càng cần thì lão tử càng không cho”, bèn nói “Biết rồi, lui ra đi!”

Hai viên Đội trưởng không dám nói nữa, làm lễ lui ra.

***

Chẳng bao lâu, Khâm sai đại thần nước La Sát là Phí Yếu Đa La ở thành Ni Bố Sở được tin quân Thanh kéo tới, vội sai người đưa thư, xin quân Thanh đóng lại ở chỗ cũ, y sẽ lập tức tới gặp (8).

Vi Tiểu Bảo nói “Không cần khách khí, cứ để bọn ta tới chào khách thôi!”. Quân Thanh ùn ùn cuồn cuộn kéo tới dưới thành Ni Bố Sở. Tát Bố Tố, Bằng Xuân, Mã Lạt chia nhau thống lãnh người ngựa, đi vòng quanh đóng giữ các đường yếu đạo phía bắc, phía nam, phía tây thành Ni Bố Sở, đã chặn đường rút lui của quân La Sát, lại cản trở viện binh phía tây. Vi Tiểu Bảo đích thân thống lãnh trung quân đóng ở phía đông thành. Pháo lưu tinh trong trung quân bắn lên không, pháo hiệu bốn phía cùng vang lên ầm ầm.

Đại thần, võ quan, sĩ tốt La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh đông nghịt như mây vây thành, quân dung hùng tráng, không ai không mất hết khí thế. Phí Yếu Đa La lập tức sắp xếp lễ vật sai người đưa tới quân Thanh, lại gởi thư cho Khâm sai đại thần Trung Quốc nói hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, lần này gặp nhau cốt để bàn định hòa ước, quân đội hai bên không nên cách nhau quá gần, để tránh dẫn tới xung đột, làm tổn thương tới ý hòa hiếu của hai nước.

Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần. Mọi người đều nói Trung Hoa thượng quốc không thể ngang ngược, phải nên tiên lễ hậu binh. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo ra lệnh lui lại vài dặm, đóng từ sông Thập Nhĩ Khách qua phía đông, lại sai quân Thanh ở ba phía bắc, tây, nam thành Ni Bố Sở lui vào rừng núi chờ lệnh.

Phí Yếu Đa La thấy quân Thanh lui lại, cũng hơi yên tâm, lại viết một văn thư đề ra bốn điều kiện khi hội kiến: thứ nhất là chỗ hội kiến phải ở giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khách, thứ hai là hôm hội kiến Khâm sai mỗi nước đều dắt theo bốn mươi tùy viên, thứ ba là hai nước đều đem năm trăm quân ra, quân Nga đóng ở ngoài thành Ni Bố Sở, quân Thanh đóng ở bờ sông Thập Nhĩ Khách, thứ tư là thân binh tùy tùng nghi vệ của Khâm sai mỗi nước mang theo chỉ giới hạn trong số hai trăm sáu mươi người, ngoài đao kiếm không được mang theo hỏa khí. Sở dĩ y đề ra bốn điều kiện ấy, vì quân Thanh thế mạnh, quân Nga ít người, nếu hai bên không giới hạn nhân số, thì quân Nga sẽ rơi vào thế hạ phong. Nhưng hỏa khí của quân La Sát lợi hại, nếu so sánh đôi bên thì quân Nga chiếm ưu thế, đoán là đối phương không chịu, nên đề ra trước, quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm. Trong văn thư lại đề nghị hôm sau sẽ hội kiến.

Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần xong, đều thấy là được, lập tức tiếp nhận, sai quân liền đêm dựng trướng làm chỗ hội kiến.

Sáng sớm hôm sau, bọn Khâm sai Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn các tùy viên, mang theo hai trăm sáu mươi quân khiên mây tới chỗ hội sở. Chỉ thấy chỗ cổng thành Ni Bố Sở mở ra, có hơn hai trăm kỵ binh Ca Khắc Tát cầm trường đao hộ tống một đám quan viên La Sát phi ngựa tới.

Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm lẫm, quân khiên mây Trung Quốc đều là bộ binh, so ra thanh thế kém xa.

Đông Quốc Cương chửi “Con bà nó, bọn quỷ La Sát giảo hoạt thật, bước đầu tiên chúng ta đã mắc lừa rồi. Đã nói rõ là mỗi bên chỉ mang theo hai trăm sáu mươi vệ binh, chỉ là quên nói kỵ binh hay bộ binh. Họ nhiều hơn chúng ta hai trăm sáu mươi con ngựa”. Sách Ngạch Đồ nói “Chuyện này nhắc nhở chúng ta, lúc bàn bạc với người La Sát phải dốc hết hai trăm vạn phần tinh thần, chỉ sơ suất nửa phần là mắc lừa đấy”.

Trong lúc nói chuyện, quân La Sát đã phi ngựa tới. Đông Quốc Cương nói “Chúng ta tuân lời hoàng thượng dặn dò, chuyện gì cũng phải nghĩ tới Trung Hoa thượng quốc là nước lễ nghĩa, mọi người xuống ngựa đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, mọi người xuống ngựa”. Mọi người nhất tề xuống ngựa, chắp tay đứng nghiêm. Khâm sai La Sát Phí Yếu Đa La nhìn thấy tình hình như thế, lập tức ra lệnh một tiếng, các quan viên cũng đều xuống ngựa, khom lưng làm lễ, đôi bên đi tới gần nhau.

Phí Yếu Đa La nói “Khâm sai Nga La Tư Phí Yếu Đa La, phụng mệnh Sa hoàng, kính chúc hoàng đế nước Đại Thanh thánh thể an khang”. Vi Tiểu Bảo bắt chước y, cũng nói “Khâm sai nước Đại Thanh Vi Tiểu Bảo, phụng mệnh đại hoàng đế, kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang”, lại thêm một câu “Lại chúc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á công chúa điện hạ xinh đẹp sung sướng”. Phí Yếu Đa La cười khẽ một tiếng, nghĩ thầm “Hoàng đế Đại Thanh chúc công chúa của bọn mình xinh đẹp sung sướng, câu chúc này kể cũng kỳ lạ hiếm có, có điều nếu công chúa nghe được, chắc sẽ rất vui vẻ”. Hai bên chúc tụng qua lại xong, giới thiệu Phó sứ. Người phiên dịch của hai bên dịch ra.

Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát nghiêm trang kính cẩn đứng nghe, lễ số cũng đầy đủ, nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc vẫn ngang nhiên ngồi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao, bày thành đội hình có dáng vẻ từ trên nhìn xuống, thấp thoáng có thế uy hiếp, càng nhìn càng tức giận, nói “Bọn vệ binh của các ngươi vô lễ quá, nhìn thấy đại nhân các hạ Trung Quốc, tại sao không xuống ngựa?”. Y nói đảo lộn ngữ pháp tiếng La Sát, từ ngữ lầm lẫn, nhưng trong cơn tức giận, không kịp chờ người phiên dịch, tiếng La Sát tuôn luôn ra miệng. Phí Yếu Đa La nói “Theo quy củ của tệ quốc, kỵ binh trong đội hình, cho dù gặp Sa hoàng bệ hạ, cũng không cần xuống ngựa”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đây là đất Trung Quốc, tới Trung Quốc thì phải theo quy củ Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La lắc đầu nói “Xin lỗi, các hạ lầm rồi. Đây là lãnh địa của Sa hoàng Nga La Tư, không phải là đất Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Đây rõ ràng là đất Trung Quốc, là các ngươi dùng sức mạnh chiếm đoạt thôi”. Phí Yếu Đa La nói “Xin lỗi, Khâm sai đại thần Trung Quốc các hạ lầm rồi. Đây là lãnh địa của Sa hoàng Nga La Tư. Thành Ni Bố Sở là người Nga La Tư xây lên”.

Lần này hai nước họp bàn vốn là để chia vạch địa giới, chỗ ấy thuộc Trung Quốc hay Nga La Tư có quan hệ then chốt rất lớn. Hai viên Khâm sai đại thần vừa gặp mặt, còn chưa vào trướng bắt đầu đàm phán, đã tranh cãi rồi.

Vi Tiểu Bảo nói “Người La Sát các ngươi xây một ngôi thành trên đất Trung Quốc là nơi ấy kể như của các ngươi, trên đời có đạo lý nào như thế không?”. Phí Yếu Đa La nói “Đây là đất Nga La Tư, người Nga La Tư xây thành ở đây, người Trung Quốc không xây thành ở đây, điều đó chứng minh đây là thuộc nước Nga. Khâm sai đại thần Trung Quốc các hạ nói đây là đất Trung Quốc, không biết có chứng cứ nào không?”.

Một dải Ni Bố Sở trước nay không ai cai quản, biên giới hai nước Trung Nga cũng chưa từng phân chia rạch ròi, rốt lại thuộc Trung Quốc hay Nga La Tư, vốn không ai có chứng cứ gì. Vi Tiểu Bảo nghe y hỏi câu ấy không kìm được nghẹn lời, đã định cãi bừa, khổ nỗi nói tiếng La Sát không diễn đạt được ý mình, trò chuyện bình thường cũng đã cảm thấy khó khăn, mà muốn khéo léo biện bác thì làm sao được? Trong lòng cả giận, liền nói “Đây là đất Trung Quốc, có rất nhiều chứng cứ”. Kế đó dùng giọng Dương Châu chửi “Mẹ kiếp, ta chửi tổ tông mười bảy mười tám đời bọn quỷ La Sát nhà ngươi”. Câu ấy buông ra xong, những câu chửi người thô tục ở Dương Châu thao thao bất tuyệt tuôn ra như suối, chửi từ bà cao tổ, bà tằng tổ cho tới bà nội, mẹ, chị em gái, bà ngoại, các dì, các cô của Phí Yếu Đa La tới mức tối mày tối mặt. Những người đàn bà họ Phí nước La Sát không ai thoát nạn.

Quan viên hai bên Trung Nga thấy đại thần Khâm sai Trung Quốc nổi giận, ai cũng hoảng sợ. Chỉ là y nói như pháo nổ liên thanh một tràng, đừng nói Phí Yếu Đa La không hiểu gì, ngay cả quan viên Trung Quốc và phiên dịch của đôi bên cũng ngơ ngác không hiểu. Những câu chửi người ấy của Vi Tiểu Bảo đều là những lời thô tục của bọn vô lại đầu đường xó chợ ở Dương Châu, các thân sĩ thục nữ ở Dương Châu cũng chưa chắc đã hiểu được hai ba phần, bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương hoặc là người Bát kỳ, hoặc là võ quan ở phương bắc lâu ngày, cũng làm sao hiểu được?

Vi Tiểu Bảo chửi mắng một tràng xong, trong lòng thoải mái, nhịn không được hô hô cười rộ.

Phí Yếu Đa La tuy không hiểu lời y, nhưng qua dáng vẻ giọng nói, đoán ắt là y nổi giận, chợt thấy y buông tiếng cười rộ, lại càng không hiểu gì, hỏi “Xin hỏi thiên lý luận dài của quý sứ là chỉ giáo chuyện gì thế. Lời lẽ của quý sứ sâu sắc kín đáo, tệ nhân học vấn nông cạn, không sao hiểu được, xin ngươi thong thả nói lại từng câu một lượt, để tiện lãnh giáo”. Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi ta nói ngươi quá không hiểu đạo lý. Ta muốn làm người tình, làm chồng của bà nội ngươi”.

Phí Yếu Đa La mỉm cười nói “Bà nội ta là mỹ nhân nổi tiếng ở Mạc Tư Khoa, là con gái Bá tước Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ. Té ra đại nhân các hạ Trung Quốc cũng nghe tiếng của bà nội ta, tệ nhân thật vinh hạnh khôn xiết. Chỉ tiếc là bà nội ta đã qua đời ba mươi tám năm rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì ta muốn mẹ ngươi làm người tình của ta, làm vợ của ta”.

Phí Yếu Đa La mặt mày rạng rỡ, lại càng vui vẻ, nói “Mẹ ta là con nhà danh môn vọng tộc, da dẻ vừa trắng trẻo vừa mịn màng, bà biết làm thơ bằng tiếng Pháp. Trong thành Mạc Tư Khoa có không ít các vương công tướng quân rất sùng bái bà. Nước Nga bọn ta có một vị đại thi nhân từng làm mấy mươi bài thơ ca tụng mẹ ta. Năm nay bà đã sáu mươi ba tuổi mà tướng mạo vẫn như các thiếu phụ hơn ba mươi tuổi. Sắp tới đại nhân các hạ Trung Quốc tới Mạc Tư Khoa, nhất định tệ nhân sẽ giới thiệu làm quen với mẹ ta. Muốn kết hôn thì e không được, còn muốn làm người tình, thì chỉ cần mẹ ta ưng thuận chắc cũng được thôi”. Nguyên theo phong tục người Tây dương, nếu có người khen ngợi mẹ mình, vợ mình xinh đẹp, thì không những không phật lòng, mà còn cảm thấy rất vinh dự, còn vui vẻ hơn là khen ngợi chính y.

Vi Tiểu Bảo lại cho rằng người này sợ mình, rõ ràng đã đem mẹ ruột dâng cho mình, có ý nhận mình làm cha nuôi, lửa giận đầy lòng lập tức tắt ngấm, cười nói “Tốt lắm, tốt lắm. Sau này nếu tới Mạc Tư Khoa, nhất định sẽ tới làm khách ở phủ ngươi” rồi kéo tay y, đi vào trong trướng.

Phó sứ và tùy viên đôi bên cũng vào theo. Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi một hàng phía đông, bọn Phí Yếu Đa La ngồi một hàng phía tây.

***

Phí Yếu Đa La nói “Nhiếp chính nữ vương công chúa điện hạ tệ quốc dặn dò, lần này bàn bạc chuyện phân chia ranh giới chúng ta phải hết sức thành thật, đôi bên đều phải công bằng, không được lấn lướt đối phương. Vì thế tệ quốc đề xuất, hai nước lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, phía nam sông thuộc về Trung Quốc, phía bắc sông thuộc về Nga La Tư. Chia vạch biên giới xong, quân Nga La Tư không được qua sông xuống bờ nam, quân Trung Quốc cũng không được qua sông lên bờ bắc”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Thành Nhã Khắc Tát là ở nam hay ở bắc sông?”. Phí Yếu Đa La nói “Là ở bắc sông. Thành này là do người Nga La Tư bọn ta xây lên, đủ thấy phía bắc Hắc Long Giang đều là thuộc nước ta”.

Vi Tiểu Bảo vừa nghe thấy, lại lên cơn tức giận, hỏi “Trong thành Nhã Khắc Tát có một hòn núi nhỏ, ngươi biết tên là gì không?”. Phí Yếu Đa La quay lại hỏi tùy viên, rồi đáp “Là núi Cao Thư Lược”. Vi Tiểu Bảo biết trong tiếng La Sát Cao Thư Lược có nghĩa là Lộc, liền nói “Trong tiếng Trung Quốc bọn ta gọi là núi Lộc Đỉnh. Ngươi biết ta được phong tước gì không?”. Phí Yếu Đa La nói “Các hạ là Lộc Đỉnh công, nói theo tiếng La Sát của bọn ta thì là Công tước Cao Thư Lược”. Vi Tiểu Bảo nói “Như thế, thì ngươi có ý không tốt với ta rồi. Đã biết ta là Lộc Đỉnh công, lại muốn chiếm núi Lộc Đỉnh của ta, há không phải là muốn ta không làm được công tước nữa phải không?”. Phí Yếu Đa La vội nói “Không, không, quyết không có ý ấy”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Ngươi là tước gì?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân là Hầu tước Lạc Mạc Nặc Sa Phạt”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, vậy thì Lạc Mạc Nặc Sa Phạt là thuộc đất Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, lập tức mỉm cười nói “Lạc Mạc Nặc Sa Phạt đất phong của tệ nhân ở phía tây Mạc Tư Khoa, làm sao là đất Trung Quốc được?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói đất phong của ngươi gọi là Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp…”(9). Phí Yếu Đa La nói “Lạc Mạc Nặc Sa Phạt”. Vi Tiểu Bảo không đếm xỉa gì tới y, tiếp tục nói “Từ kinh thành Bắc Kinh của bọn ta tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp tất cả bao nhiêu đường đất, phải đi trong bao lâu?”. Phí Yếu Đa La nói “Từ Lạc Mạc Nặc Sa Phạt tới Mạc Tư Khoa tất cả hơn năm trăm dặm, đi mất năm ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh, tất cả phải đi hơn ba tháng”. Vi Tiểu Bảo nói “Nói như thế thì từ Bắc Kinh tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp thì phải đi ba tháng năm ngày, đường đi thật là xa quá”. Phí Yếu Đa La nói “Rất xa, rất xa”. Vi Tiểu Bảo nói “Đường sá như thế thì Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp tất nhiên không thuộc Trung Quốc ta rồi”. Phí Yếu Đa La mỉm cười nói “Lời công tước thật không gì đúng hơn”.

Vi Tiểu Bảo nâng chén rượu lên, nói “Mời uống rượu”. Người La Sát thích rượu như tính mạng, chén rượu đặt trước mặt Phí Yếu Đa La đã lâu, mùi rượu từng trận từng trận bốc lên, chủ nhân chưa bưng chén nên y không dám tùy tiện, lúc ấy thấy Vi Tiểu Bảo nâng chén trong lòng cả mừng, vội vàng uống cạn một hơi.

Tùy viên bên phía nước Thanh rót rượu cho y, lấy thức ăn trong hộp ra, đều là do các đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng. Lúc ấy nước La Sát khai hóa chưa lâu, phải tới về sau lúc Bỉ Đắc đại đế lớn lên, giành được quyền lực từ tay công chúa Tô Phi Á chị mình, giam Tô Phi Á vào nhà tu kín, sau đó mới tiến hành du nhập văn hóa Tây Âu rầm rộ. Thời Vi Tiểu Bảo tất cả khí vật chế độ, văn minh giáo hóa của nước La Sát đều thua kém Trung Quốc rất xa, còn như sự nấu nướng tinh tế thì đến hiện nay nước Nga vẫn còn thua Trung Quốc mười vạn tám ngàn dặm. Năm ấy ở ngoài thành Ni Bố Sở, Phí Yếu Đa La lần đầu tiên được nếm món ngon Trung Hoa, tự nhiên là trợn mắt há miệng, cơ hồ nuốt luôn cả lưỡi của mình vào bụng. Vi Tiểu Bảo bồi tiếp y nếm qua mấy món thức ăn, giải thích thế nào gọi là vây cá, thế nào gọi là yến sào, làm sao để biến chân vịt thành món ngon, làm sao để biến gân gà thành mỹ vị, chỉ khiến Phí Yếu Đa La vui mừng tán thưởng, vô cùng thích thú.

Vi Tiểu Bảo thuận miệng hỏi “Lần này quý sứ rời khỏi Mạc Tư Khoa hôm nào?”. Phí Yếu Đa La nói “Ngày mười hai tháng tư tệ nhân vâng lời dụ của công chúa điện hạ, lên đường từ Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay lắm. Nào, uống thêm chén nữa. Vị Đông công gia kia của bọn ta tửu lượng rất cao, hai người các ngươi uống với nhau vài chén”. Lúc ấy Đông Quốc Cương hướng về phía Phí Yếu Đa La mời rượu, uống liền ba chén.

Vi Tiểu Bảo nói “Quý sứ tới thành Ni Bố Sở trong tháng này à?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân tới đây ngày mười lăm”. Vi Tiểu Bảo nói “Ờ, từ ngày mười hai tháng tư đến ngày mười lăm tháng bảy, đi đường mất hơn ba tháng”. Phí Yếu Đa La nói “Vâng, đi mất hơn ba tháng. May mà trời ấm, trên đường cũng không khó đi lắm”. Vi Tiểu Bảo giơ ngón tay cái lên, khen ngợi “Hay lắm! Lần này quý sứ nói rất thành thật, rốt lại đã thừa nhận Ni Bố Sở không phải thuộc đất La Sát”.

Phí Yếu Đa La uống hơn mười chén rượu, đã hơi ngà ngà, ngạc nhiên nói “Ta… ta thừa nhận lúc nào?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Từ Bắc Kinh tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp đi hơn ba tháng, đường đi rất xa, vì thế Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp không thuộc đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa tới Ni Bố Sở, ngươi cũng đi hơn ba tháng, đường đi cũng rất không gần, Ni Bố Sở tự nhiên cũng không thuộc đất La Sát”.

Phí Yếu Đa La mở tròn mắt, nhất thời không biết trả lời thế nào, ngẩn ra suốt nửa ngày mới nói “Nước Nga La Tư bọn ta rất rộng lớn, chuyện này khác chứ”. Vi Tiểu Bảo nói “Nước Đại Thanh bọn ta cũng không nhỏ đâu”. Phí Yếu Đa La cười gượng nói “Quý sứ hay nói đùa quá, hai… hai chuyện này là… là không thể coi như nhau được”.

Vi Tiểu Bảo nói “Quý sứ nhất định nói Ni Bố Sở là đất La Sát, vậy chúng ta đánh đổi một phen. Để ta tới Mạc Tư Khoa, xin công chúa phong ngươi làm Bá tước Ni Bố Sở, phong ta làm Công tước Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp. Thành Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp ấy kể như thuộc đất Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La mặt mũi đỏ bừng, vội nói “Như thế… như thế thì làm sao được?”, không kìm được vô cùng lo sợ, nghĩ thầm công chúa là người tình của y, nếu bị y đổ thuốc mê Trung Quốc trên gối lại đồng ý trao đổi thì thật hỏng bét. Lại nghĩ “Đất Lạc Mạc Nặc Sa Phạt của mình là ấp phong tổ tiên truyền lại, sản vật giàu có, nếu lại bị công chúa đổi phong ở Ni Bố Sở, chỗ này khí hậu lạnh lẽo, nhân đinh thưa thớt, thì xong cái mạng già của mình rồi. Huống hồ hiện tại mình là hầu tước, đổi phong là bá tước Ni Bố Sở, há không phải là bị giáng sao?”

Vi Tiểu Bảo thấy y có vẻ vô cùng lo lắng, cười nói “Ngươi muốn chiếm cả thành Nhã Khắc Tát đất phong của ta, cho ta không làm được Lộc Đỉnh công, thì ta còn cách nào? Chỉ có cách đi làm Công tước Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp. Tuy tên đất phong của ngươi rất là khó nghe, cái gì mà mèo già kéo phân, chó con vãi đái, nhưng cũng chỉ còn cách gắng chịu gắng chịu thôi”.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Trung Quốc ngươi định chiếm Lạc Mạc Nặc Sa Phạt của ta à? Có điều Vi Tiểu Bảo ngươi đã nhận tước phong của đế quốc Nga La Tư bọn ta, nếu lại tính cướp đất phong của ta thì cũng phiền phức. Bọn ta cũng không thật sự muốn có thành Nhã Khắc Tát, Nhã Khắc Tát đã bị các ngươi chiếm rồi, nếu muốn các ngươi rút lui, tất nhiên không chịu”. Lúc ấy lộ vẻ tươi cười, nói “Nếu thành Nhã Khắc Tát đã là đất phong của quý sứ, thì bọn ta có thể nhường một bước, lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, có điều thành Nhã Khắc Tát và khu vực mười dặm quanh thành là thuộc Trung Quốc. Đây là hoàn toàn vì nể mặt quý sứ, đã nhượng bộ rất nhiều rồi”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi thua trận, lại còn ra vẻ. Nếu trận này người La Sát các ngươi mà thắng, chỉ e ngay cả thành Bắc Kinh cũng muốn chiếm làm đất của các ngươi luôn rồi”. Bèn nói “Chúng ta đánh nhau một trận, không biết các ngươi thắng hay bọn ta thắng?”. Phí Yếu Đa La cau mày nói “Mới đụng độ nhỏ, cũng không thể nói ai thắng ai thua. Công chúa điện hạ của bọn ta đã sớm có nghiêm lệnh, là để chu toàn sự hòa hiếu giữa hai nước, không cho đánh nhau, vì thế lúc quân đội của quý quốc tấn công, tướng sĩ của tệ quốc đều không đánh trả. Nếu không thì cục diện đã khác hẳn rồi”. Vi Tiểu Bảo nghe thấy cả giận, nói “Té ra quân La Sát súng ống cùng bắn, không phải là đánh trả à?”. Phí Yếu Đa La nói “Bọn họ chẳng qua chỉ là bảo vệ đất đai của bản quốc, không thể kể là đánh trả. Người La Sát mà đánh nhau thật sẽ không có chuyện chỉ thủ mà không công. Nếu hai nước đại chiến thì hỏa thương thủ và kỵ binh Ca Tát Khắc của nước La Sát có thể tiến chiếm cả thành Bắc Kinh kia”.

Vi Tiểu Bảo giận quá, nghĩ thầm “Con bà ngươi, con quỷ lông vàng nhà ngươi lại còn lớn lối dọa người. Ta mà bị ngươi dọa, thì ta theo họ ngươi, làm con ngươi, chứ không phải là Vi Tiểu Bảo, mà gọi là Tiểu Bảo Phí Yếu Đa La”. Y từng qua Mạc Tư Khoa, biết tập quán của người La Sát gọi tên trước gọi họ sau, nhưng Phí Yếu Đa La là tên chứ không phải họ, y lại không biết, nói “Như vậy rất hay, chào đại nhân. Hầu tước đại nhân, ngươi có biết trong lòng ta mong mỏi điều gì nhất không?”.

Phí Yếu Đa La nói “Chuyện đó thì không biết, xin chỉ giáo”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta là công tước, trong lòng chỉ mong được thăng quan tiến tước, phong làm quận vương, thân vương”. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Gia quan tấn tước, thì ai lại không muốn?”. Bèn mỉm cười nói “Công tước đại nhân tinh minh tài cán, rất được hoàng đế quý quốc tin yêu, chỉ cần lập thêm vài công lao, thì chuyện được phong làm quận vương thân vương quả thật không còn gì phải nghi ngờ nữa. Tệ nhân thành tâm thành ý kính chúc ngươi sớm thành công”. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Chuyện này phải nhờ ngươi giúp đỡ mới xong, nếu không thì e là không làm được”. Phí Yếu Đa La kinh ngạc, nói “Tệ nhân tự nhiên phải ra sức, chỉ có điều không biết là làm thế nào?”.

Vi Tiểu Bảo ghé miệng vào tai y, khẽ nói “Theo quy củ nước Đại Thanh bọn ta, chỉ cần thắng trận, lập được quân công mới có thể được phong vương. Hiện nay nước ta thái bình vô sự, bọn phản tặc đều đã bị tiêu diệt, chờ thêm hai ba mươi năm nữa cũng e không có đánh nhau, ta muốn phong vương quả thật rất khó. Lần này nghị hòa bàn chuyện chia vạch biên giới, chỉ cần các ngươi chuyện gì cũng không nhượng bộ, tốt nhất là phái quân tới khiêu chiến với bọn ta, giết đi một hai đại thần bọn ta ở đây. Hai nước chúng ta đánh lớn một trận. Ngươi phái quân hỏa thương, kỵ binh Ca Tát Khắc tới đánh Bắc Kinh. Bọn ta liên minh với nước Thụy Điển, phái quân tới đánh Mạc Tư Khoa, chỉ đánh nhau khói lửa mịt mù, máu chảy thành sông, lúc ấy ta sẽ được phong vương, xin gởi gắm, xin gởi gắm, ngàn vạn lần nhờ ngươi giúp đỡ cho. Ngươi nói khẽ thôi, đừng để người khác nghe thấy”.

Phí Yếu Đa La càng nghe càng sợ, nghĩ thầm gã thiếu niên này lớn mật làm càn, vì muốn được phong vương mà không tiếc khơi lên cuộc chiến tranh giữa hai nước, lại còn muốn liên minh với Thụy Điển, trận đánh nhau này mà xảy ra, tương lai ai thắng ai bại tuy là không biết, nhưng lúc ấy họ đông mình ít, số quân hai bên chênh lệch, thì trước mắt nhất định phải chịu thua thiệt, trong lòng rất hối hận, quả thật không nên lên tiếng dọa dẫm, nói nào là quân hỏa thương, nào là kỵ binh Ca Tát Khắc đánh chiếm Bắc Kinh, gã thiếu niên này tưởng là thật, không những không sợ, mà lại mừng mừng rỡ rỡ, thế này thật là khéo quá hóa vụng, nhưng nếu để lộ ý khiếp nhược thì không khỏi bị y coi thường, nhất thời bất giác luống cuống.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Mạc Tư Khoa cách đây rất xa, quân Đại Thanh mở cuộc tấn công, quả thật không nắm chắc, biết đâu sẽ bị thua trận, hoàng thượng lại trách phạt ta…”. Phí Yếu Đa La vừa nghe có cơ hội xoay chuyển lại, trên mặt lộ vẻ mừng rỡ, vội nói “Đúng, đúng. Xin các hạ đừng nên mạo hiểm là hơn”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta chỉ là muốn lập công phong vương, chứ không muốn tiêu diệt nước La Sát, đất đai quý quốc rất rộng, ta cũng không có bản lãnh mà tiêu diệt được”. Phí Yếu Đa La lại luôn miệng khen phải. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Thế này đi, ngươi phát binh đánh Bắc Kinh, ta sẽ phát binh đánh Ni Bố Sở, hai chúng ta mỗi người đánh một nơi, đánh được Bắc Kinh là công lao của ngươi, đánh được Ni Bố Sở là công lao của ta. Ngươi thấy kế sách ấy có hay không?”.

Phí Yếu Đa La ngấm ngầm kêu khổ, trong tay mình chỉ có hơn hai ngàn người ngựa, muốn đánh chiếm lại thành Nhã Khắc Tát cũng không đủ sức lại còn nói tấn công thành Bắc Kinh, nghĩ thầm nếu không nhận là sai, biết đâu gã thiếu niên này sẽ lộng giả thành chân, chỉ đành cười gượng nói “Xin công tước đừng để bụng. Mới rồi ta nói quân hỏa thương và quân Ca Tát Khắc tấn công Bắc Kinh không phải là thật, là ta nói sai, xin rút lời lại”.

Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Lời nói đã ra miệng làm sao rút lại được?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân năn nỉ công tước đại nhân, xin ngươi quên câu ấy đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Nói như thế là quân La Sát các ngươi không tấn công thành Bắc Kinh à?”. Phí Yếu Đa La nói “Không, nhất định không”. Vi Tiểu Bảo nói “Còn thành Ni Bố Sở các ngươi nhất định không cần phải không?”. Phí Yếu Đa La sửng sốt, nói “Thành Ni Bố Sở là lãnh địa của Sa hoàng bọn ta. Xin công tước đại nhân bỏ qua”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Người Tô Châu nói Ra giá trên trời, trả giá sát đất. Mình đòi Ni Bố Sở thì không đòi được. Cứ đòi y vùng đất từ thành Ni Bổ Sở qua phía tây, xem y nói thế nào”. Liền nói “Lần này chúng ta nghị hòa, nhất định phải mua bán sòng phẳng, già trẻ không lừa, không ai phải chịu thiệt, đúng không?”. Phí Yếu Đa La gật đầu nói “Đúng thế. Hai nước thành tâm thành ý chia vạch cương giới, xây dựng nền hòa bình vĩnh viễn”. Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì tốt quá. Nếu đường biên giới này quá gần Mạc Tư Khoa, thì người La Sát các ngươi chịu thiệt, nếu quá gần Bắc Kinh, thì người Trung Quốc bọn ta chịu thiệt. Cách tốt nhất là vạch ra ở giữa. Cứ chia năm năm”.

Phí Yếu Đa La hỏi “Chia năm năm là thế nào?”. Vi Tiểu Bảo nói “Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh đại khái đi khoảng ba tháng, có đúng không?”. Phí Yếu Đa La nói “Đúng”. Vi Tiểu Bảo nói “Ba tháng chia đôi là bao nhiêu thời gian?”. Phí Yếu Đa La không hiểu ý y, bèn thuận miệng đáp “Là một tháng rưỡi”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng rồi. Chúng ta không cần bàn nhiều nữa, mọi người cứ trở về kinh thành nước mình. Sau đó ngươi từ Mạc Tư Khoa lên đường đi về phía đông, ta từ thành Bắc Kinh lên đường đi về phía tây, mỗi bên đi một tháng rưỡi, tự nhiên là sẽ gặp nhau, có phải không?”. Phí Yếu Đa La nói “Phải. Nhưng không biết đại nhân làm như thế là có dụng ý gì?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đó là cách chia vạch biên giới công bằng nhất đấy. Chỗ chúng ta gặp nhau, chính là biên giới giữa hai nước. Chỗ đó cách Mạc Tư Khoa một tháng rưỡi ngày đường, cách Bắc Kinh cũng một tháng rưỡi ngày đường. Các ngươi không chiếm tiện nghi, bọn ta cũng không chiếm tiện nghi. Nhưng trận này giữa chúng ta kể như đánh suông. Tính ra thì các ngươi vẫn còn chiếm tiện nghi, đúng không?”.

Phí Yếu Đa La mặt mày đỏ bừng, nói “Cái này… cái này… cái này…”, rồi đứng lên.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi cũng cảm thấy cách này rất công bằng, đúng không?”. Phí Yếu Đa La xua tay lia lịa, nói “Không, không, tuyệt đối không thể được. Nếu chia vạch biên giới như thế, há không phải là một nửa đất đai đế quốc Nga La Tư phải cắt cho các ngươi à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không tới một nửa đâu. Từ Mạc Tư Khoa qua phía tây, các ngươi còn nhiều đất đai lắm, chỗ đất đai ấy không cần chia năm năm với Trung Quốc, cần gì phải khách khí?”.

Phí Yếu Đa La tức giận tới mức thở phì phì, qua một lúc lâu mới nói “Công tước đại nhân, nếu ngươi thành tâm nghị hòa, thì lẽ ra phải đề ra chủ trương thông tình đạt lý, chứ… chứ cách thức thế này, lại muốn cắt một nửa đất đai nước ta, vậy thì… vậy thì khinh người quá lắm”. Nói xong tức giận thở hồng hộc ngồi xuống ghế ầm một tiếng.

Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Thật ra chuyện nghị hòa chia vạch biên giới chẳng có gì hay, chúng ta cứ đánh nhau một trận trước, ngươi nói có hay không?”.

Phí Yếu Đa La không ngừng thở hổn hển, nhịn không được đập bàn đứng lên, cao giọng nói “Đánh nhau thì đánh nhau!”, nhưng nghĩ đánh nhau một trận xong, hậu quả quả thật rất nghiêm trọng, bên mình không có hy vọng thắng được, chỉ đành cố nhịn, im lặng không nói gì nữa.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên đưa tay đập bàn một cái, cười nói “Có cách rồi, có cách rồi, ta có một cách thức công bằng khác”. Rồi đưa tay vào bọc, lấy ra hai hạt xúc xắc, thổi một hơi vào gieo xuống mặt bàn, nói “Ngươi muốn đánh nhau chứ không muốn chia năm năm, chúng ta cứ gieo xúc xắc. Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa cứ tính là một vạn dặm, chúng ta chia làm mười phần, mỗi phần một ngàn dặm, ta và ngươi gieo xúc xắc mười ván, mỗi ván đánh bằng một ngàn dặm đất đai. Nếu ngươi may mắn thắng được hết cả mười ván, vậy thì đất đai cho tới thành Bắc Kinh cũng đều thuộc người La Sát”. Phí Yếu Đa La hừ một tiếng, nói “Thế nếu ta thua cả mười ván thì sao?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Vậy thì tự ngươi nói đi”. Phí Yếu Đa La nói “Chẳng lẽ núi sông ngàn dặm phía đông Mạc Tư Khoa đều thuộc về Trung Quốc cả à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta đoán là ngươi cũng không rủi ro quá như thế, trong mười ván cũng không đến nỗi không thắng được ván nào. Ngươi chỉ cần thắng được một ván là giữ gìn được một ngàn dặm đất đai, thắng hai ván thì giữ được hai ngàn dặm, nếu thắng sáu ván là chiếm tiện nghi rồi”. Phí Yếu Đa La tức giận nói “Chiếm tiện nghi cái gì? Từ Mạc Tư Khoa về phía đông sáu ngàn dặm vốn là thuộc nước ta, bảy ngàn dặm tám ngàn dặm cũng đều thuộc nước ta”.

Vi Tiểu Bảo và Phí Yếu Đa La hai người không ngừng trao đổi, giáo sĩ người Hà Lan làm phiên dịch bên cạnh không ngừng hạ giọng dịch ra tiếng Trung Quốc. Bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ nghe thấy, lúc đầu cảm thấy Phí Yếu Đa La ngang ngược vô lý, lại đòi lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, lấn sát tới đất Liêu Đông của Trung Quốc, đây là đất long hưng của người Mãn Châu, làm sao có thể để cho Di Địch tới gần? Trong lòng đều cảm thấy tức giận, về sau nghe Vi Tiểu Bảo nói muốn đánh nhau lập công để được cắt đất phong vương, sứ thần nước Nga lập tức tỏ vẻ khép nép, không dám khoe khoang, lại nghe Vi Tiểu Bảo lôi đông kéo tây, nào là đánh đổi đất phong, nào là chia năm năm, nào là gieo xúc xắc chia vạch biên giới, mỗi ván là một ngàn dặm đất đai, rõ ràng là ăn nói bừa bãi, nhất định đối phương sẽ không ưng thuận, nhưng Phí Yếu Đa La khí thế đã bị giảm sút, đều nghĩ “Người La Sát ương ngạnh đúng là danh bất hư truyền, nếu đàm phán đứng đắn với họ, thì không rơi vào thế hạ phong không xong. Hoàng thượng lại phái Vi Công tước tới chủ trì hòa nghị, quả thật sáng suốt biết người, gã phiên bang này là người ngang ngược, thì cũng chỉ có loại lưu manh đầu đường xó chợ bất học vô thuật như Vi Tước gia mới có thể đối phó với y, lấy ngang ngạnh trị ngang ngạnh”.

Bọn đại thần Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ ngoài mặt đối với Vi Tiểu Bảo tuy mười phần cung kính khách khí nhưng trong lòng quả thật không coi y ra gì, đều cảm thấy y chẳng qua chỉ là một thằng hề được hoàng thượng sủng ái, ngôn ngữ cử chỉ hàng ngày vẫn thường để lòi cái xấu, lại cứ điềm nhiên không biết nhục, khoe khoang đắc ý, lần này mà chịu nhục với sứ thần nước ngoài trên tiệc, khó mà không để ngoại bang chê cười, làm mất thể diện quốc gia, nào ngờ hoàng thượng chọn tài mà dùng, lại dám sai y, nếu không sai một nhân vật mặt dày như y đi làm chuyện sai sử này thì trong các đại thần văn võ trong triều quả thật tìm không ra được người thứ hai. Các đại thần càng nghe càng khâm phục, càng thấy hoàng thượng anh minh duệ trí, các bề tôi không sao bằng được.

Sách Ngạch Đồ nghe tới đó, đột nhiên chen vào “Mạc Tư Khoa vốn là đất Trung Quốc bọn ta”.

Giáo sĩ Hà Lan dịch câu ấy ra. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, nghĩ thầm “Gã thiếu niên này ăn nói bừa bãi thì cũng thôi, sao lão già như ngươi cũng mặt dày nói bừa, nói Mạc Tư Khoa kinh thành nước ta là đất Trung Quốc các ngươi?”.

Sách Ngạch Đồ lại nói “Theo cách nói của quý sứ, thì chỉ cần đất đai mà người La Sát tạm thời chiếm được thì tính là đất La Sát rồi, có phải không?”. Phí Yếu Đa La nói “Vốn là phải như thế đấy. Quý sứ lại nói Mạc Tư Khoa là đất của quý quốc, ha ha, thật là buồn cười”. Sách Ngạch Đồ nói “Nhân dân nước La Sát có người Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, lại có người Ca Tát Khắc, Đạt Đán vân vân, đó đều là người La Sát”. Phí Yếu Đa La nói “Không sai chút nào, nước ta đất đai rộng lớn, nhân dân rất đông. Sách Ngạch Đồ nói “Bách tính nước ta cũng rất nhiều chủng loại, có người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hán, người Miêu, người Hồi, người Tạng vân vân”. Phí Yếu Đa La nói “Đúng thế. Nước ta là lớn, Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước chúng ta là lớn nhất trên đời hiện nay”.

Sách Ngạch Đồ nói “Vệ binh quý sứ mang theo lần này dường như đều là kỵ binh Ca Tát Khắc”. Phí Yếu Đa La mỉm cười một tiếng, nói “Kỵ binh Ca Tát Khắc anh dũng vô địch, là dũng sĩ lợi hại nhất trong thiên hạ”. Sách Ngạch Đồ nói “Kỵ binh Ca Tát Khắc lợi hại hơn người Nga La Tư à?”. Phí Yếu Đa La nói “Cũng không thể nói như thế. Ca Tát Khắc là người La Sát, Nga La Tư cũng là người La Sát, không hề phân biệt. Cũng như người Mãn Châu là người Trung Quốc, người Mông Cổ, người Hán cũng là người Trung Quốc, không hề phân biệt”. Sách Ngạch Đồ gật đầu nói “Vậy thì đúng rồi. Vì thế nên Mạc Tư Khoa là thuộc đất Trung Quốc bọn ta”.

Vi Tiểu Bảo nghe hai người bọn họ nói tới đó, cũng không hiểu rõ dụng ý của Sách Ngạch Đồ, y biết rõ Mạc Tư Khoa cách đó hàng vạn dặm xa xôi, quyết không phải là đất Trung Quốc, nhưng nghe Sách Ngạch Đồ trò chuyện giống như có ý e dè, mà Phí Yếu Đa La thì trán nổi gân xanh, mặt lúc xám xanh lúc đỏ bừng, rõ ràng trong lòng giận dữ như điên, liền chen vào “Mạc Tư Khoa là đất Trung Quốc, chuyện đó thì nửa điểm cũng không sai, Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng, cho các ngươi Lưu Bị mượn Kinh Châu, một lần cho mượn thì mãi mãi không chịu trả”.

Phí Yếu Đa La tự nhiên không biết “Lưu Bị mượn Kinh Châu” là ý gì, chỉ cảm thấy bọn Man tử Trung Quốc này không biết lý lẽ, ăn nói hoàn toàn không giống người văn minh, cười nhạt nói “Trước đây ta nghe nói Trung Quốc có lịch sử lâu đời, người Trung Quốc rất có học vấn, nào ngờ… ha ha lại chuyên thích nói những chuyện không có bằng cứ”.

Sách Ngạch Đồ nói “Quý sứ là đại thần nước La Sát, cho dù không có học vấn gì thì chắc cũng biết lịch sử nước La Sát chứ?”. Phí Yếu Đa La nói “Lịch sử nước ta đều có sách vở làm bằng chứng, viết ra rõ ràng trên giấy trắng mực đen, quyết không phải là dựa vào lời người ta thuận miệng nói bừa”. Sách Ngạch Đồ nói “Vậy thì tốt lắm, Trung Quốc trước đây có một vị hoàng đế gọi là Thành Cát Tư Hãn…”.

Phí Yếu Đa La nghe tới bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác “Ái chà” một tiếng, trong lòng kêu thầm “Hỏng bét, hỏng bét, tại sao mình lại hồ đồ, quên mất chuyện lớn này nhỉ?”.

Sách Ngạch Đồ nói tiếp “Vị Thành Cát Tư Hãn này, Trung Quốc chúng ta gọi là Nguyên Thái tổ, vì y là Thái tổ khai sáng nhà Nguyên. Y là người Mông Cổ. Quý sứ vừa nói qua, người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hán đều là người Trung Quốc, không hề phân biệt. Lúc ấy kỵ binh Mông Cổ tây chinh, từng đánh nhau với quân La Sát mấy trận. Lịch sử quý quốc có sách vở làm chứng, tất cả đều có ghi chép rõ ràng, quyết không thể là dựa vào lời người ta thuận miệng nói bừa. Trận đánh nhau lớn ấy không biết là người Trung Quốc bọn ta thắng hay là người La Sát quý quốc thắng?.

Phí Yếu Đa La im lặng không nói, qua một lúc lâu mới nói “Là người Mông Cổ thắng”. Sách Ngạch Đồ nói “Người Mông Cổ là người Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La hai mắt trợn lên suốt nửa ngày rồi từ từ gật đầu.

Vi Tiểu Bảo không biết trước đó có chuyện gì, nhưng vừa nghe thấy thế, lập tức tinh thần phấn chấn, nói “Người Trung Quốc đánh nhau với người La Sát, nhất định người La Sát phải thua không còn nghi ngờ gì nữa. Bản lãnh của các ngươi quả thật kém lắm, lần sau đánh nhau bọn ta chỉ dùng một tay là được. Nếu không đôi bên chênh lệch quá nhiều, đánh nhau chẳng có gì thú vị”.

Phí Yếu Đa La trừng mắt nhìn, nghĩ thầm “Nếu không phải là công chúa đã có nghiêm lệnh là lần này chỉ được hòa không được đánh, thì bằng vào mấy câu ngươi hạ nhục người La Sát bọn ta, ta cũng phải quyết đấu với ngươi”.

Vi Tiểu Bảo cười hì hì hỏi Sách Ngạch Đồ “Sách đại ca, Thành Cát Tư Hãn đánh bại quân La Sát thế nào?”.

Sách Ngạch Đồ nói “Năm ấy Thành Cát Tư Hãn phái hai đội quân tây chinh, tất cả hai vạn người ngựa, đánh bại liên quân La Sát mười mấy vạn người. Cháu nội Thành Cát Tư Hãn là Bạt Đô cũng là một vị đại anh hùng, suất lãnh quân đội đánh quân La Sát như nước chảy hoa rơi, chiếm được Mạc Tư Khoa, đánh thẳng tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, qua sông Đa Não. Sau đó mấy trăm năm, vương công quý tộc La Sát đều phải nghe lời người Trung Quốc chúng ta. Lúc ấy anh hùng Mông Cổ Trung Quốc chúng ta đóng trong lều trướng dát vàng. Đại công tước Mạc Tư Khoa thường tới dập đầu với người Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn đánh vào mông là đánh vào mông, muốn tát vào mặt là tát vào mặt, người La Sát còn cười hì hì nói là đánh rất hay, nếu không thì không làm được công tước”(10).

Vi Tiểu Bảo nghe tới mức mặt mày rạng rỡ, đập bàn khen lớn “Ông chủ rồng ngoan ngoãn! Té ra Mạc Tư Khoa quả nhiên là thuộc Trung Quốc”.

Phí Yếu Đa La mặt lúc xanh lúc trắng, lời Sách Ngạch Đồ đúng là sự thật, hoàn toàn không phải giả trá, chỉ là người La Sát trước nay không thừa nhận người Mông Cổ là người Trung Quốc. Lúc ấy Mông Cổ thuộc Trung Quốc, từ đó suy ra nói Mạc Tư Khoa từng thuộc về người Trung Quốc cũng không phải là không có bằng cứ.

Vi Tiểu Bảo nói “Hầu tước các hạ, ta thấy chúng ta không cần bàn chuyện biên giới nữa, xin ngươi trở về hỏi công chúa, lúc nào thì trả Mạc Tư Khoa lại cho Trung Quốc. Ta cũng phải về gấp Bắc Kinh mua da bò và vàng để tiện may mấy cái lều chóp vàng, sau đó đập tan cung Khắc Lý Mụ Lâm, dựng Kim trướng lên, mời công chúa Tô Phi Á tới ngủ, hô hô, hô hô!”.

Phí Yếu Đa La nghe tới đó, không nhịn được nữa, đứng phắt lên bỏ ra ngoài trướng, chỉ nghe y giận dữ quát tháo như sấm, lớn tiếng ra lệnh, kế đó có tiếng vó ngựa rầm rập, hơn hai trăm kỵ binh nhất tề xông tới.

***

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, kêu lên “Ái chà, gã này muốn đánh nhau, chúng ta tháo thân là quan trọng”.

Đông Quốc Cương thân trải trăm trận, vô cùng trầm tĩnh, quát “Vi Công gia đừng sợ, muốn đánh thì đánh, ai sợ họ chứ”.

Chỉ nghe kỵ binh Ca Tát Khắc đồng thanh reo hò ngoài trướng. Vi Tiểu Bảo sợ tới mức toàn thân run bắn lên, cúi đầu chui xuống gầm bàn. Đông Quốc Cương và Sách Ngạch Đồ ngớ mặt nhìn nhau, trong lòng không kìm được hoảng sợ.

Cửa viên môn mở tung, một viên tướng sải chân bước vào, chính là Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây, cao giọng nói “Bẩm đại soái…”, nhưng không thấy đại soái đâu. Vi Tiểu Bảo dưới gầm bàn nói “Ta… ta… ta ở đây. Mọi người phải mau… mau mau chạy trốn thôi”. Lâm Hưng Châu ngồi xổm xuống, nói với Vi đại soái dưới gầm bàn “Bẩm đại soái, quân La Sát khí thế hung hăng, chúng ta không thể tỏ ra khiếp nhược, muốn đánh thì đánh con mẹ nó luôn”.

Vi Tiểu Bảo nghe y nói rất cương dũng, tâm thần lập tức trấn tĩnh, lúc ấy bò ra khỏi gầm bàn, mới rồi chuyện xảy ra bất ngờ đến nỗi núp xuống gầm bàn, thật ra y cũng không phải chỉ có khiếp sợ, vỗ ngực nói “Đúng, muốn đánh thì đánh con bà nó luôn, lão tử đích thân đi đầu quân sĩ, dũng cảm xông lên không… không tiền. Không đúng, dũng cảm xông lên đáng tiền” (y tưởng dũng cảm xông lên mới đáng tiền(11), không dũng cảm xông lên không đáng tiền) rồi nắm tay Lâm Hưng Châu bước ra ngoài trướng.

Vừa ra tới cửa trướng, chỉ thấy hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc giơ trường đao, cỡi ngựa khỏe phóng quanh trướng diễu võ dương oai, một vòng tròn không ngừng phi nhanh. Phí Yếu Đa La ra lệnh một tiếng, bọn kỵ binh phóng ra xa xa, cách hơn hai trăm trượng lại xếp thành đội ngũ, hai trăm sáu mươi con ngựa một hàng, một hàng kỵ binh xếp ngay ngắn, đột nhiên quát tháo ầm ĩ, phóng mau về phía Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Mẹ ơi!”, đang định chui trở vào trướng, chợt xoay chuyển ý nghĩ “Nếu bọn quỷ La Sát muốn giết mình, thì có chui vào trướng cũng bị họ lôi ra, mà lại rất mất mặt”. Lúc ấy toàn thân run bắn lên, mặt xám như tro, nhưng vẫn đứng yên bất động.

Lâm Hưng Châu quát “Quân khiên mây bảo vệ đại soái! Tới đây!”.

Hai trăm sáu mươi quân khiên mây đồng thanh ứng tiếng “Dạ”. Rồi rảo chân bước tới đứng trước mặt Vi Tiểu Bảo và các đại thần.

Vi Tiểu Bảo rút thanh chủy thủ trong ống giày ra, nghĩ thầm “Nếu bọn quỷ La Sát muốn động võ thật, thì mọi người liều mạng đánh nhau một trận, cũng không thể không nghĩ tới nghĩa khí”. Rồi rảo chân bước tới đứng trước mặt Sách Ngạch Đồ, kêu lên “Sách đại ca đừng sợ, ta sẽ bảo vệ ngươi”.

Sách Ngạch Đồ là văn quan, đã sớm sợ tới mức hồn bất phụ thể, nói “Toàn… toàn nhờ cậy vào huynh đệ”.

Nhìn thấy mười hàng kỵ binh Ca Tát Khắc xông tới, còn cách quân Thanh năm trượng, viên Đội trưởng đi đầu vung trường đao chém hờ, quát lớn một tiếng, đám kỵ binh đều kìm ngựa lại, hai trăm sáu mươi con ngựa đồng thời đứng im bất động. Viên Đội trưởng kia lại quát một tiếng, đám kỵ binh chia làm hai, một trăm ba mươi con ngựa rẽ qua phía bắc, một trăm ba mươi con ngựa rẽ qua phía nam, phóng ra vài mươi trượng, lượn quanh một vòng, lại quay lại đứng cách trướng hơn hai trăm trượng, đội hình hoàn toàn không chút rối loạn, hai trăm sáu mươi người ngựa mà như một người một ngựa, quả nhiên là tinh binh được huấn luyện rất thuần thục.

Phí Yếu Đa La hô hô cười rộ, cao giọng gọi “Công tước đại nhân, ngươi thấy quân La Sát bọn ta thế nao?”.

Vi Tiểu Bảo đến lúc ấy mới biết y chẳng qua chỉ thị uy, trong lòng cả giận, quát “Đây là bọn khỉ diễn trò trên ngựa, chứ đem đánh nhau thì hoàn toàn vô dụng”.

Phí Yếu Đa La tức giận nói “Bọn ta lại xông tới đấy!”, nghĩ thầm “Lần này cứ xông tới trước mặt ngươi, xem ngươi có bỏ chạy hay không?”, quát “Giật hết mũ của quân Trung Quốc”. Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc quát một tiếng, hai trăm sáu mươi tên kỵ binh xông mau tới.

Vi Tiểu Bảo quát “Chém chân ngựa!”. Lâm Hưng Châu kêu lên “Tuân lệnh! Chém chân ngựa, không đả thương người!”.

Chỉ nghe tiếng vó ngựa như sấm, hai trăm sáu mươi con ngựa dần dần phi tới gần, trường đao trong tay kỵ binh Ca Tát Khắc lấp lóe ánh mặt trời, nhìn thấy đã phóng tới trước mặt còn cách ba mươi trượng, hai mươi trượng, mười trượng… Vẫn chưa dừng lại, lại phóng lên bốn năm trượng nữa. Lâm Hưng Châu quát “Cổn Đường đao, xông lên!”. Hai trăm sáu mươi quân khiên mây nhất tề tiến lên, lăn tròn xuống đất. Hai trăm sáu mươi người này đều là hảo thủ Địa Đường đao do Lâm Hưng Châu đích thân huấn luyện, thân pháp đao pháp đều rất thuần thục, lăn tròn tới trước, dùng khiên mây che kín người, không hề lộ ra một chút bóng đao.

Trong khoảnh khắc, hàng kỵ binh thứ nhất đã gặp quân khiên mây, đột nhiên đàn ngựa hí ran, nhao nhao đổ xuống. Quân khiên mây đao sắc chém ra, một nhát đao chém đứt một chân ngựa, khiên mây che người không ngừng lăn tròn qua. Trong tiếng người kêu ngựa hí của quân La Sát, quân khiên mây đã lăn qua mười hàng kỵ binh, chém đứt một trăm bảy tám mươi cái chân ngựa, bày thành đội ngũ phía sau quân La Sát. Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây rảo chân chạy mau trở về, lại dàn hàng trước mặt bọn Vi Tiểu Bảo. Trong hai trăm sáu mươi người chỉ có hơn mười người bị ngựa giẫm bị thương, nhưng thương thế đều nhẹ, người bị thương gắng gượng nhịn đau, vẫn đứng thẳng trong đội hình.

Hai trăm sáu mươi kỵ binh Ca Tát Khắc có quá nửa ngã ngựa, có người bị ngựa đè, nằm dưới đất kêu gào rên rỉ, chỉ có vài mươi người nhảy ra khỏi ngựa, phần lớn đều đứng dưới đất, tay chân luống cuống. Đám kỵ binh này cả đời sống trên lưng ngựa, chỉ có cưỡi trên lưng ngựa mới ngang tàng kiêu dũng, nhưng hai chân vừa chạm đất lại như cá ra khỏi nước, không có gì để nhờ cậy.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Chia một nửa quân bao vây đại quan La Sát”. Lâm Hưng Châu ra lệnh, liền có một trăm quân khiên mây sấn lên vây chặt mười mấy viên quan bọn Phí Yếu Đa La, một trăm thanh đại đao kết thành một vòng, mũi đao chớp chớp, chỉ cần một tiếng ra lệnh, một trăm thanh đại đao đồng thời phóng tới, bọn Phí Yếu Đa La lại không trở thành nhân bánh bao La Sát sao?

Viên Chánh Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc thấy tình hình như thế, sải chân chạy tới, kêu lên “Không được đả thương người, không được đả thương người!”.

Vi Tiểu Bảo quay đầu nhìn Song Nhi cải trang làm thân binh đứng bên cạnh “Qua điểm huyệt bọn họ đi!”. Song Nhi nói “Được!”, rồi vọt người ra, nghiêng người sấn vào sau lưng viên Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc, vươn tay điểm vào huyệt đạo trên lưng y, kế đó lại điểm huyệt viên Phó Đội trưởng.

Một tên Tiểu Đội trưởng thò tay vào bọc, rút ra một khẩu đoản thương, quát “Không được động đậy!”. Song Nhi chụp một tên quân La Sát kéo ra che trước mặt, sấn tới vài bước. Viên Tiểu Đội trưởng kia không dám nổ súng, lại quát “Không được động đậy!”. Song Nhi nhấc tên lính La Sát kia ném vào y. Viên Tiểu Đội trưởng giật mình, nghiêng người tránh qua, Song Nhi đã vọt ra, điểm vào huyệt đạo trên ngực và hông y, vươn tay giật khẩu đoản thương của y chĩa lên trời bóp cò bình một tiếng.

Vi Tiểu Bảo lớn tiếng nói “Hay lắm, đôi bên đã nói rõ là không được mang hỏa khí, bọn quỷ La Sát các ngươi thật không biết giữ chữ tín”. Rồi bước lên mấy bước, nói với Phí Yếu Đa La “Này, ngươi bảo thủ hạ buông hết đao kiếm, tất cả xuống ngựa xếp hàng, móc tất cả hỏa khí trong người ra ném xuống”. Phí Yếu Đa La thấy trước mắt không còn cách nào kháng cự, bèn theo lời ra lệnh.

Kỵ binh Ca Tát Khắc chỉ đành ném hết đao kiếm, xuống ngựa đứng xếp hàng. Vi Tiểu Bảo sai một trăm sáu mươi quân khiên mây bao vây bốn phía, lục soát người quân La Sát. Trong người hai trăm sáu mươi người, lục soát được hai trăm tám mươi khẩu đoản thương, có người một mình mang hai khẩu.

Quân La Sát dưới thành Ni Bố Sở nhìn thấy tình thế ở xa có biến, từ từ tiến lên. Quân Thanh ở phía đông cũng lục tục kéo tới. Đôi bên còn cách nhau vài trăm bước, bày trận đối diện. Quân La Sát thấy chủ soái bị bao vây, chỉ đành ngấm ngầm kêu khổ, không dám làm gì.

Vi Tiểu Bảo hỏi Phí Yếu Đa La “Hầu tước đại nhân, ngươi mang rất nhiều hỏa khí tới để làm gì vậy?”. Phí Yếu Đa La buông tay cúi đầu, nói “Rất xin lỗi, bọn vệ binh của ta không tuân mệnh lệnh, ngầm mang hỏa khí, lúc trở về ta sẽ trừng phạt thật nặng”. Vi Tiểu Bảo gọi “Quân khiên mây, cởi áo ra cho họ nhìn xem các ngươi có mang hỏa khí không?”. Hai trăm sáu mươi quân khiên mây ném khiên mây xuống, dùng tay trái cởi áo, tay phải vẫn giơ cao đại đao đề phòng đối phương có hành động gì khác. Mọi người cởi áo ra, để lộ ngực trần, nhảy lên mấy cái, quả nhiên không ai mang theo hỏa khí. Phí Yếu Đa La trong lòng xấu hổ, cúi đầu không nói gì.

Vi Tiểu Bảo dùng tiếng La Sát cao giọng nói “Người La Sát làm việc không biết xấu hổ, lột hết quần áo của họ ra, xem họ có mang hỏa khí hay không?”. Phí Yếu Đa La cả kinh, vội nói “Công tước đại nhân, xin ngươi ra ơn. Ngươi… nếu ngươi lột quần áo của ta, thì ta… ta chỉ còn cách tự sát thôi”. Vi Tiểu Bảo nói “Quần thì không lột ra không được”. Phí Yếu Đa La nói “Xin ngươi tha thứ cho một lần, tất cả mọi chuyện nhất thiết đều theo ngươi phân phó”. Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi kỵ binh của ngươi xông qua, làm ta hoảng sợ chui vào gầm bàn, mất hết thể diện của công tước đại nhân, chuyện ấy tính sao?”. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Là ngươi nhát gan, ta làm thế nào được?”. Nhưng mũi đao của quân Thanh đang chớp chớp trước mặt, chỉ đành nói “Tệ nhân tình nguyện bồi thường tổn thất”.

Vi Tiểu Bảo trong lòng vui sướng, tự nhủ “Cái ống tre La Sát tự tới cửa rồi”. Nhưng nhất thời không nghĩ ra là đòi y bồi thường thế nào, liền ra lệnh “Cắt hết thắt lưng của quan lớn lính nhỏ La Sát”.

Quân khiên mây lớn tiếng đáp “Tuân lệnh!”, rồi nhấc mũi đao lẽn rọc vào thắt lưng người La Sát, lưỡi đao hướng ra ngoài, kéo xuống một cái, thắt lưng lập tức bị cắt đứt.

Từ Phí Yếu Đa La trở xuống, người La Sát ai cũng hoảng sợ hồn bất phụ thể, hai tay giữ chặt lưng quần, chỉ sợ tuột xuống. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, ra lệnh “Áp giải người La Sát, đắc thắng về dinh!”.

Lúc ấy quan binh La Sát người nào cũng sợ quần bị tuột xuống, không hề kháng cự, theo quân Thanh xếp hàng đi về phía đông.

Đông Quốc Cương cười nói “Diệu kế của Vi đại soái quả thật khiến người ta khâm phục, cắt đứt thắt lưng, chỉ trong khoảnh khắc mà trói chặt hai tay của hai trăm sáu mươi quan binh La Sát”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đàn ông La Sát sợ bị cởi quần, đàn bà La Sát lại không sợ, như thế không kỳ quái à?”. Bọn Đông Quốc Cương đều cười hô hố.

Đoàn người họp với đại quân, quân Thanh đẩy ra hơn bốn trăm khẩu đại pháo, lột hết vải che, chĩa pháo vào quân La Sát. Lúc ấy nước La Sát tuy có hỏa khí lợi hại, nhưng ở phương đông thì không chuẩn bị chu đáo bằng Khang Hy, đã dốc hết một nửa đại pháo trong nước điều lên Ni Bố Sở, bất kể về binh lực hay hỏa lực thì quân Thanh cũng đều mạnh hơn gấp mấy lần. Quân La Sát đột nhiên thấy rất nhiều đại pháo, đều ngớ mặt nhìn nhau, vô cùng khiếp sợ. Viên tướng thống lãnh vội ra lệnh rút về thành, đóng chặt cửa thành lại. Quân Thanh cũng không đánh thành.

Lúc ấy Đội trưởng, Phó Đội trưởng và một viên Tiểu Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc bị điểm huyệt vẫn không động đậy được. Ba người vẫn như tượng đất đứng trên bãi đất trống. Lúc quân La Sát rút về thành Ni Bố Sở vô cùng hớt hải, chưa từng lưu ý, lúc ấy trên thành nhìn xuống đều thấy kinh ngạc, nhưng đều không dám ra thành để cứu. Qua hơn nửa giờ, thấy ba người vẫn cứng đờ không hề động đậy, liền có một đội kỵ binh Ca Tát Khắc ra thành tới cứu, nhưng chỉ đi được hơn mười trượng, đại pháo của quân Thanh đã bắn luôn mấy phát. Viên tướng giữ thành vội ra lệnh thổi kèn lui quân, gọi đội kỵ binh ấy trở về, sợ quân Thanh đổ tới, thì cả quân trong thành ra cứu cũng bị vây hãm.

Trên thành dưới thành, quân sĩ đôi bên nhìn thấy ba người đứng đờ ra không động đậy ở xa xa, tư thế rất kỳ dị. Quân Thanh vỗ tay cười ầm, còn quân La Sát đều vô cùng khiếp sợ.

***

Vi Tiểu Bảo mời bọn Phí Yếu Đa La vào quân trướng, chia ngôi chủ khách ngồi xuống. Vi Tiểu Bảo chỉ cười hì hì không nói gì.

Phí Yếu Đa La tức giận nói “Công tước đại nhân, ngươi không cần đem ta làm trò đùa, muốn giết thì cứ giết đi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta với ngươi là bạn bè, tại sao lại giết ngươi? Chúng ta còn phải đàm phán điều khoản về biên giới”. Y nghĩ lúc này đại thần hoạch định biên giới của đối phương đã rơi vào tay mình, bất kể mình đề ra điều kiện thế nào, đối phương cũng rất khó cự tuyệt.

Không ngờ Phí Yếu Đa La xuất thân là quân nhân, tính nết mười phần quật cường, ngang nhiên nói “Ta là tù binh của ngươi, không phải là sứ thần hoạch định biên giới ngang hàng với nhau nữa. Ta bị ngươi uy hiếp, không thể bàn bạc bất cứ điều khoản nào. Cho dù bàn xong, ký tên vào, cũng không có hiệu lực”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao không có hiệu lực?”. Phí Yếu Đa La nói “Tất cả điều khoản đều do ngươi đặt ra, còn bàn bạc gì nữa? Ngươi không thể ép ta đàm phán với ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao không thể ép ngươi đàm phán?”. Phí Yếu Đa La nói “Ta quyết không khuất phục. Ngươi vung đao chém ta, nổ súng bắn ta, cứ việc động thủ đi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Còn nếu ta sai lột quần của ngươi ra thì sao?”.

Phí Yếu Đa La cả giận, đứng phắt lên quát “Ngươi…”, chỉ nói được chữ “Ngươi”, quần đã tuột xuống, vội đưa tay giữ lại. Thắt lưng của y đã bị cắt đứt, ngồi trên ghế thì không cần dùng tay giữ, nhưng lúc thịnh nộ đứng phắt lên lại quên mất chuyện ấy, may mà kịp thời chụp được, mới không để lòi cái xấu. Đại quan tùy tùng phía quân Thanh trong trướng, ai cũng cười ầm lên.

Phí Yếu Đa La tức giận tới mức sắc mặt trắng bệch, hai tay giữ lưng quần, dáng vẻ rất thảm hại, vốn là định nói một tràng lời lẽ khảng khái kích ngang, khổ nỗi hai tay không thể vung vẩy để làm điệu bộ phụ họa thêm thanh thế, muốn khảng khái kích ngang tới mức nào cũng chỉ rất có hạn, phì mạnh một tiếng, ngồi xuống trở lại, nói “Ta là Khâm sứ của Sa hoàng bệ hạ nước La Sát, ngươi không được hạ nhục ta”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi yên tâm, ta không hạ nhục ngươi đâu. Chúng ta cứ bình tĩnh bàn chuyện hoạch định biên giới thôi”.

Phí Yếu Đa La lấy trong túi áo ra một cái khăn tay bịt miệng mình lại, thắt mối ra sau gáy, tỏ ý là quyết không đàm phán gì cả. Vi Tiểu Bảo sai thân binh đưa rượu ngon nhắm tốt lên, bày ra trên bàn, rót rượu vào chén, cười nói “Mời, mời, không cần khách khí”. Phí Yếu Đa La nghe mùi rượu thịt thơm phức, không nhịn được nữa, cởi khăn tay ra, nhấc chén rượu lên uống. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hầu tước lại dùng miệng à?”. Phí Yếu Đa La uống rượu ăn thịt, không hề trả lời, tỏ ý là chỉ dùng miệng để ăn chứ không làm việc khác. Vi Tiểu Bảo không ngừng mời rượu, nghĩ thầm đồ cho y say, hoặc giả có thể bắt y khuất phục, nào ngờ Phí Yếu Đa La uống hơn mười chén rượu, ăn mấy tảng thịt bò xong thì lấy khăn tay chùi miệng, tự bịt miệng lại như cũ.

Vi Tiểu Bảo thấy tình hình như thế cũng cảm thấy buồn cười, sai thân binh dẫn y ra sau trướng nghỉ ngơi, canh giữ cẩn thận, rồi cùng bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương bàn bạc kế sách đối phó.

Đông Quốc Cương nói “Người này quật cường như thế, kiên quyết không chịu đàm phán trong quân chúng ta, nhưng nếu cứ thế thả y về thì lại thật không cam tâm”. Sách Ngạch Đồ nói “Cứ nhốt y mười bữa nửa tháng, mỗi ngày mổ bụng một tên quỷ La Sát trước mặt y, xem y có quật cường được nữa không”. Đông Quốc Cương nói “Nếu bức tử y thì chuyện này không khỏi trở nên căng thẳng. Chúng ta dùng võ lực bắt sống đại thần hoạch định biên giới của đối phương, biết đâu hoàng thượng sẽ trách phạt”. Sách Ngạch Đồ nói “Đông công gia nói rất đúng, nếu cứ dùng biện pháp cứng rắn với y, cũng không phải cách hay”

Các đại thần bàn bạc hồi lâu vẫn không tìm được kế sách nào hay. Hôm nay bắt được Phí Yếu Đa La, tuy là một trận thắng, nhưng quyết không phải là bản ý giảng hòa của hoàng thượng, có thể nói là làm trái kế sách của triều đình, chỉ cần có một chuyện xử lý không hay là sẽ trở thành trọng tội làm trái ý chỉ, nói tới nói lui, các đại thần đều khuyên Vi Tiểu Bảo thả Phí Yếu Đa La vế.

Vi Tiểu Bảo nói “Được! Chúng ta cứ giữ y lại ở đây một đêm, sáng mai sẽ thả y về là xong”. Y trở về tẩm trướng, đi qua đi lại ngẫm nghĩ, đột nhiên nghĩ ra “Đầu tiên đã học Gia Cát Lượng hỏa thiêu hang Bàn Xà, đại thắng ở thành Nhã Khắc Tát rồi, lão tử lại học màn Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán vậy”, ngẫm nghĩ tính toán một hồi, đã có kế sách.

Y trở ra quân trướng, mời viên giáo sĩ Hà Lan làm thông dịch tới, thì thào bàn bạc với y một lúc, lại bảo y dạy cho hai mươi câu tiếng La Sát, đọc đi đọc lại thật chính xác, không lầm chữ nào, rồi truyền gọi bốn viên tướng và Đội trưởng thân binh tới, dặn dò như thế như thế. Mọi người vâng lệnh ra đi.

***

Phí Yếu Đa La ở sau trướng, trong lòng ý nghĩ cuồn cuộn dâng lên, lúc thì sợ sệt, lúc thì hối hận, làm sao ngủ được. Lăn qua lăn lại đến nửa đêm, chỉ nghe chỗ cửa trướng tiếng ngáy như sấm, ba tên thân binh canh gác đều đã ngủ say. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Nếu không đáp ứng điều khoản của thằng Man tử Trung Quốc này thì nhất định rất khó thoát thân. Sáng mai nếu thằng tiểu quỷ này lên cơn tức giận, lôi mình ra giết, há không oan uổng sao? May mà ba tên vệ binh này đều ngủ say, sao không mạo hiểm trốn đi?”. Rồi nhón chân bước xuống giường, cởi áo ra buộc vào ngang hông để quần khỏi tuột xuống, rón rén bước ra của trướng, chỉ thấy ba tên thân binh đang nằm chỗ cột lều ngay cửa trướng, đang ngủ rất say.

Y đưa tay sờ lên lưng một tên thân binh, định rút thanh bội đao, tên thân binh ấy đột nhiên hắt hơi một cái. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, vội rút tay lại, chờ qua một lúc, không thấy có động tĩnh gì, lại định tới lấy bội đao của một tên thân binh khác. Tên thân binh ấy đột nhiên ưỡn lưng một cái, nói mớ vài câu. Phí Yếu Đa La không dám chần chừ, rón rén bước ra khỏi trướng, may mà ba tên thân binh đều không hay biết gì.

Y đi tới ngoài trướng, co người trong bóng tối, thấy phía ngoài có vệ binh tay cầm đèn lồng, cầm đao tuần tra, ba phía bắc, đông, nam đều có quân đi tuần, chỉ có phía tây tối om tựa hồ không có ai. Lúc ấy bèn từng bước từng bước đi về phía đó, mỗi khi thấy quân đi tuần thì co người lại núp phía sau trướng, may mà suốt trên đường đi đều được thái bình vô sự. Vừa tới sau một ngôi trướng, đột nhiên phía tây có một toán quân đi tuần kéo tới, Phí Yếu Đa La vội núp vào phía sau trướng, nghe trong trướng có người nói chuyện, là nói bằng tiếng La Sát.

Chỉ nghe người ấy nói “Công tước đại nhân quyết ý đánh thẳng tới Mạc Tư Khoa cũng không phải không được, chỉ có điều đường sá xa xôi, mười phần nguy hiểm”. Phí Yếu Đa La cả kinh, lập tức bò rạp xuống, vén vải dưới chân trướng nhìn vào bên trong, vừa nhìn thấy, lập tức tim đập thình thịch.

Trong trướng đèn lửa soi sáng như ban ngày, Vi Tiểu Bảo thân khoác áo choàng, mặc nhung trang ngồi chính giữa, hai bên có hơn mười viên đại tướng đứng, dưới trướng có mấy mươi tên thân binh tay cầm đại đao. Cạnh bàn Vi Tiểu Bảo là viên giáo sĩ người Hà Lan làm thông dịch đang đứng, nói chuyện với y.

Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát “Chúng ta uống rượu, nói chuyện với Phí Yếu Đa La ở đây là giả, không phải là thật, có bàn bạc một tháng hai tháng, bàn lui bàn tới cũng đều là giả, đại quân cứ lặng lẽ tiến về phía tây. Công chúa La Sát thỉnh thoảng lại nhận được báo cáo của thằng ngốc Phí Yếu Đa La, nói đang đàm phán với chúng ta, cô ta không sợ, hàng ngày vẫn vui vẻ khiêu vũ, ngủ nghê. Đại quân Trung Quốc đột nhiên tới dưới thành Mạc Tư Khoa, tấn công, tấn công kỳ lạ, bắt hết hai Sa hoàng, công chúa Tô Phi Á. Người La Sát khóc lóc, quỳ xuống, đầu hàng!”. Viên giáo sĩ Hà Lan nói “Chuyện hành quân đánh nhau thì ta không biết. Có điều một mặt nghị hòa với người La Sát, một mặt lại lén tới đánh úp kinh thành của họ, như thế không phải là không giữ tín nghĩa sao? Đạo lý của Chúa dạy chúng ta không nên lừa dối, không nên bịa đặt”. Vi Tiểu Bảo nói “Hô hô, là người La Sát lừa dối người ta trước. Y cắn ta một cái, ta cắn lại y hai cái, cắn thật mạnh!”.

Viên giáo sĩ cười hắc lên một tiếng, qua một lúc lại nói “Ta khuyên công tước đại nhân không nên đánh nhau thì hay. Hai nước đánh nhau, người chết đều là con dân của Chúa…”. Vi Tiểu Bảo xua tay nói “Đừng nhiều lời nữa. Ta chỉ tin Bồ tát, không tin Chúa trời, nếu gã Phí Yếu Đa La kia đàm phán công bằng, để Trung Quốc chiếm một phần đất đai thì vốn cũng có thể nghị hòa được. Nhưng y một dặm đất cũng không chịu nhường. Đợi chúng ta hạ thành Mạc Tư Khoa xong, tất cả đàn ông La Sát sẽ lên thiên đường, tất cả đàn bà sẽ làm vợ người Trung Quốc”.

Phí Yếu Đa La càng nghe càng khiếp sợ, nghĩ thầm “Lạy Chúa tôi, thằng Man tử Trung Quốc này thật vô pháp vô thiên, lớn mật làm bậy”.

Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Hôm nay ta phái một tên thân binh dùng ngón tay xỉa mấy cái vào người ba viên Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc khiến họ không thể động đậy, ngươi nhìn thấy không?”. Viên giáo sĩ nói “Ta có nhìn thấy, đó là ma thuật gì vậy, thật là vô cùng kỳ quái”. Vi Tiểu Bảo nói “Ma thuật của Trung Quốc là do Thành Cát Tư Hãn truyền lại. Thành Cát Tư Hãn dùng cách thức này, đánh cho người La Sát phải quỳ xuống đất đầu hàng, bọn ta lại dùng cách này đánh họ, nước La Sát, lại chết rồi!”.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Năm xưa người Mông Cổ có hai vạn người ngựa, đánh thẳng tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, thiên hạ không ai ngăn chặn được, xem ra nhất định là có ma thuật. Người phương đông rất cổ quái, nếu họ lại sử dụng pháp thuật, thì… thì làm sao là tốt?”.

Chỉ nghe viên giáo sĩ nói “Nếu người La Sát từ xa nổ súng, thì ma thuật của các ngươi vô dụng”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đúng thế, vì thế nên ta phải giả đàm phán ở đây, còn quân đội thì tới đánh Mạc Tư Khoa, cũng như ăn trộm, lén vào trong thành. Ta đã tới Mạc Tư Khoa rồi, trong thành rất nhiều người Đạt Đán. Quân của bọn ta hóa trang thành mục dân Đạt Đán trà trộn vào thành, quân La Sát canh giữ nhất định không sao phát hiện được”.

Phí Yếu Đa La trên lưng toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Độc kế của thằng tiểu quỷ Trung Quốc này quả thật rất lợi hại. Quân Trung Quốc cải trang thành mục dân Đạt Đán trà trộn tiến vào kinh thành, thi triển ma thuật, thì làm sao chống cự được?”. Y không biết thuật điểm huyệt của Song Nhi là một loại võ công cao thâm, phải luyện nội công tới cảnh giới thượng thừa mới có thể sử dụng, quan binh của quân Thanh có mấy vạn người nhưng chỉ có một mình nàng biết công phu điểm huyệt mà thôi. Phí Yếu Đa La lại cho rằng ma thuật ấy chỉ cần truyền thụ qua một lần thì mọi người đều biết sử dụng, giơ ngón tay ra xỉa một cái là đối phương không sao động đậy, mấy vạn quân Trung Quốc dùng phép thuật ấy tập kích Mạc Tư Khoa thì La Sát chỉ e phải mất nước diệt chủng.

Chỉ nghe viên giáo sĩ nói “Nếu công tước đại nhân phái hai vạn quân Trung Quốc trà trộn tiến vào thành Mạc Tư Khoa, dùng ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại khống chế quân La Sát, vậy thì sẽ bắt sống được hai vị Sa hoàng và Nhiếp chính nữ vương, rõ ràng là có thể thành công. Có điều… có điều chuyện này phải mười phần bí mật, lúc đại quân tiến về phía tây, không thể để cho người La Sát biết. Công tước đại nhân, hiện nay nước La Sát đã mười phần lớn mạnh, khác hẳn với lúc người La Sát đánh nhau với Thành Cát Tư Hãn trước kia rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta từng tới Mạc Tư Khoa, tình hình nước La Sát đều hiểu rất rõ, sáng sớm ngày mai bọn ta sẽ thả Phí Yếu Đa La về, sau đó đàm phán với y, đều là giả thôi, y không chịu ưng thuận đâu. Bọn ta ở đây đàm phán thêm một ngày thì quân Trung Quốc rút ngắn được một ngày lộ trình tới Mạc Tư Khoa”. Viên giáo sĩ nói “Vâng, vâng, đại nhân nhất thiết đều nên cẩn thận, chuyện này nguy hiểm lắm đấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Biết rồi. Ngươi không được nói ra, không được để Phí Yếu Đa La nảy ý ngờ vực”. Viên giáo sĩ vâng dạ lui ra.

Vi Tiểu Bảo quát “Gọi Vương Bát Tử Kê, Trư La Nhụ Phu vào đây”. Bọn thân binh ra khỏi trướng, dắt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào. Vi Tiểu Bảo nói với hai người “Ngày mai ta sai hai đội quân tới Mạc Tư Khoa, mang rất nhiều rất nhiều lễ vật, tặng cho công chúa Tô Phi Á, trên đường rất nhiều trộm cướp, nên phải phái nhiều quan binh hộ tống”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Từ đây tới Mạc Tư Khoa, chỉ có một đoạn ngắn là có bọn cường đạo người Đạt Đán, cũng không hung dữ gì lắm, xin Công tước đại nhân cứ yên tâm”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi không biết. Bọn cướp Đạt Đán có toán tám chín ngàn người, có toán hai mươi một ngàn người, ba mươi một ngàn người”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nhìn nhau một cái, đều có vẻ không tin.

Vi Tiểu Bảo nói “Hai đoàn người của ta, chia làm hai đường nam bắc tới Mạc Tư Khoa, Vương Bát Tử Kê dẫn đường cho toán phía bắc, Trư La Nhụ Phu dẫn đường cho toán phía nam. Hai đường đi, như thế nào?”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Theo đường phía bắc thì từ đây đi qua phía tây tới Xích Tháp, qua Ô Tư Ô Đức, vòng qua đầu phía nam hồ Bối Gia Nhĩ đi về phía tây qua các thành Thác Mộc Tư Khắc, Ngạc Mộc Tư Khắc thì tới Mạc Tư Khoa”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Đường phía nam lúc bắt đầu đi cũng thế, qua hồ Bối Gia Nhĩ thì chia ra, đi về phía tây nam qua vùng người Ha Tát Khắc cư trú, thẳng về phía tây, qua các xứ Áo Tư Khắc, Ô Lạp Nhĩ Tư Khắc thì tới Mạc Tư Khoa”.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Không sai, cứ thế đi thôi. Lễ vật, thư của ta sẽ do sứ giả Trung Quốc giao cho công chúa, hai người các ngươi dẫn đường. Dẫn đường tốt, có thưởng, nhiều đấy. Dẫn đường không tốt, tướng quân Trung Quốc chém đầu các ngươi. Lui ra đi!”.

Hai viên Đội trưởng La Sát lui ra xong, Vi Tiểu Bảo cầm lệnh tiễn bằng vàng lên ban bố hiệu lệnh, các viên đại tướng Trung Quốc lần lượt khom người nhận lệnh. Phí Yếu Đa La không biết họ nói những gì, chỉ thấy các viên đại tướng Trung Quốc nhận lệnh đều dáng vẻ khảng khái kích ngang, vỗ ngực nắm tay, chỉ trời thề thốt, rõ ràng là đảm bảo với chủ soái, nói thế nào cũng sẽ phải đại công cáo thành, có người còn xòe tay chặt chặt vào cổ mình, có người rút chủy thủ đâm hờ vào ngực mình, miệng không ngừng nói “Mạc Tư Khoa, Mạc Tư Khoa”, chắc là nói nếu không hạ được Mạc Tư Khoa, thà là tự sát.

Vi Tiểu Bảo ky lý cô lô nói một tràng, bốn tên thân binh cầm một tấm bản đồ lớn trên bàn lên, vừa khéo đối diện với Phí Yếu Đa La.

Chỉ thấy ngón tay Vi Tiểu Bảo từ thành Ni Bố Sở di động về phía tây, dọc theo một đường màu đỏ, chỉ tới một vòng tròn màu đỏ. Phí Yếu Đa La tuy không biết chữ Trung Quốc trên bản đồ, nhưng nhìn vị trí, cũng biết đó là Mạc Tư Khoa. Vi Tiểu Bảo nói một hồi, ngón tay lại chỉ dọc theo một con đường tới Mạc Tư Khoa. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Thằng Man tử Trung Quốc này thật rất đáng ghét, té ra bọn họ lòng mang dã tâm, đã sớm chuẩn bị đánh Mạc Tư Khoa rồi”

Vi Tiểu Bảo lại nói một lúc, kế đó liên tiếp nói tên “Phí Yếu Đa La” các tướng vừa nghe thấy, đều cười ầm lên.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Nhất định các ngươi cười ta ngu ngốc, lừa được ta đàm phán hoạch định biên giới, kéo dài thời gian, ngấm ngầm đánh úp Mạc Tư Khoa. Hừ ta không mắc lừa đâu”. Rồi từ từ đứng lên, nghĩ thầm “Nhờ Chúa phù hộ, cho mình phát hiện quỷ kế của thằng Man tử Trung Quốc này. Đủ thấy đế quốc Nga La Tư mình được Thượng đế thương xót, nhất định vận nước sẽ hưng thịnh. Dù sao thì ngày mai y cũng sẽ thả mình, đêm nay không cần mạo hiểm bỏ trốn”. Chỉ thấy phía tây quân tuần tra đi lại không ngớt, phía đông thì tối om không người, rón rén quay trở lại, may mà quân Thanh không hề phát hiện, về tới ngoài trướng của mình, chỉ thấy ba tên thân binh vẫn đang ngủ say, lúc ấy vào trướng đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau Phí Yếu Đa La ăn sáng xong, theo thân binh tới trướng trung quân. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hầu tước đại nhân, tối qua ngủ có ngon không?”. Phí Yếu Đa La hừ một tiếng, nói “Vệ binh của ngươi bảo vệ chu đáo, tự nhiên là ta ngủ rất ngon”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hôm nay ngươi không tức giận nữa đấy chứ? Chúng ta bàn bạc về việc hoạch định biên giới được không?”. Phí Yếu Đa La không đáp, lấy khăn tay trong người ra, lại buộc lên miệng. Vi Tiểu Bảo cả giận, quát “Ngươi cứng cổ như thế, ta sẽ giết ngươi lập tức”. Phí Yếu Đa La không hề sợ sệt, nghĩ thầm “Ngươi định hôm nay thả ta ra, còn làm ra vẻ giận dữ như thế, ai sợ ngươi chứ?”.

Vi Tiểu Bảo nổi giận một lúc, thấy y thủy chung vẫn không chịu khuất phục, không biết làm sao, đành nói “Được! Ngươi can đảm như thế, ta rất khâm phục. Thả cho ngươi về thôi. Ngươi về xin cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Sau mười ngày nữa ta sẽ bàn chọn địa điểm khác để thương nghị, hoạch định biên giới”.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Ngươi ra sức kéo dài, lúc này chỉ e quân đội đánh úp Mạc Tư Khoa đã lên đường rồi. Ta quyết không mắc lừa ngươi đâu”. Liền nói “Ngươi thả ta về, thì rất cám ơn. Để bày tỏ thành ý giữa chúng ta, ta đề nghị chiều hôm nay có thể bắt đầu đàm phán, không cần chờ sau mười hôm nữa”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chuyện ấy không gấp, mọi người cứ nghỉ ngơi, từ từ đàm phán là được”. Phí Yếu Đa La nói “Vua hai nước đều mong mỏi việc đàm phán thành công sớm, cứ ký kết điều ước hoạch định biến giới trước, rồi sẽ nghỉ ngơi cũng không muộn”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng của bọn ta cũng chẳng gấp gáp gì, vậy thì sau năm ngày chúng ta sẽ đàm phán thôi”. Phí Yếu Đa La lắc đầu nói “Không cần nấn ná, cứ bàn luôn trong hôm nay”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay sau ba hôm nữa đi”. Phí Yếu Đa La nói “Không, hôm nay!”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay ngày mai nhé?”. Phí Yếu Đa La nói “Hôm nay!”.

Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nói “Ngươi kiên quyết như thế, ta chỉ còn cách nhượng bộ. Có điều ta cảnh cáo ngươi, lúc bàn tới việc hoạch định biên giới giữa hai nước, thì ta quyết không tùy tiện nhượng bộ đâu. Chúng ta sẽ ra giá trả giá về từng thước từng tấc đấy”.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Hoạch định biên giới giữa hai nước thì phải bàn kỹ từng thước từng tấc, nhưng đến khi bàn xong thì các ngươi đã đánh tới Mạc Tư Khoa rồi. Ngươi nói ta là thằng ngốc thật à?”. Lập tức đứng lên, nói “Vậy thì tệ nhân cáo từ, đa tạ Công tước đại nhân mời rượu”. Vi Tiểu Bảo đưa y ra cửa trướng, sai một đội quân khiên mây hộ tống y về thành Ni Bố Sở. Nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc thì không thả về.

Phí Yếu Đa La ra khỏi trướng, chỉ thấy chỗ trại quân đóng san sát hôm qua đã vắng vẻ không còn gì, đại đội quân Thanh đã nhổ trại kéo đi. Y ngấm ngầm hoảng sợ “Thằng Man tử Trung Quốc này nói là làm, quả thật đáng sợ”.

Đoàn người đi tới trước trướng chỗ hội đàm hôm qua, chỉ thấy ba viên Đội trưởng Ca Tát Khắc vẫn đứng ngẩn ra ở đó, tư thế vẫn giống hệt hôm qua, không hề nhúc nhích. Trong toán quân Thanh có một tên quân sĩ nhỏ thó nhảy ra, bước tới trước mặt ba viên Đội trưởng, cao giọng niệm thần chú, quát lớn “Thành Cát Tư Hãn, Thành Cát Tư Hãn”, rồi vỗ mấy chưởng vào người ba người. Ba viên Đội trưởng từ từ cử động được, chỉ là đứng suốt nửa ngày một đêm, quả thật đã rất mệt mỏi, hai chân tê dại, nhất tề ngồi phệch xuống đất. Sáu tên quân khiên mấy bước lên đỡ dậy, dìu đi vài mươi trượng, ba viên Đội trưởng mới tự mình đi được.

Phí Yếu Đa La lại càng khiếp sợ “Ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại quả nhiên vô cùng lợi hại, chẳng trách năm xưa y tung hoành thiên hạ, không ai chống nổi. May mà hiện đã phát minh ra hỏa khí, có thể không để địch nhân tới sát người, nếu không bọn giáo đồ dị giáo Trung Quốc lại muốn thống trị toàn thế giới, giáo đồ Chính thống giáo bọn ta đều phải biến thành nô lệ”.

Quân khiên mây hộ tống Phí Yếu Đa La tới trước cửa đông thành Ni Bố Sở, rồi quay trở về.

Phí Yếu Đa La hỏi ba viên Đội trưởng về tình hình bị trúng ma thuật. Ba viên Đội trưởng đều nói lúc ấy chỉ thấy hậu tâm và trước ngực tê rần lên một cái, lập tức toàn thân không sao động đậy. Phí Yếu Đa La nói “Trên người các ngươi có mang Thập tự giá không?”. Ba viên Đội trưởng cởi áo ngoài ra, đều lộ ra Thập tự giá đeo trên cổ, trong đó một người còn đeo thêm một tấm ảnh Gia tô.

Phí Yếu Đa La cau mày, nghĩ thầm “Ma thuật của Thành Cát Tư hãn quả thật lợi hại, ngay cả Thập tự giá của Gia tô Cơ đốc cũng không ngăn chặn được”. Lúc ấy lập tức viết ba đạo tấu chương, sai mười lăm tên kỵ binh chia làm ba đường, cáo cấp với Mạc Tư Khoa là quân đội Trung Quốc đã lên đường tới đánh úp, sẽ hóa trang làm mục dân người Đạt Đán, trà trộn vào kinh thành, xin tăng cường đề phòng.

Đến giữa trưa, ba toán đưa thư trước sau đều quay về, nói đường đi về phía tây đều đã bị quân Trung Quốc cắt đứt, vừa thấy kỵ binh La Sát từ xa đã bắn tên rào rào, quả thật khó mà đi lọt. Phí Yếu Đa La trong lòng lo sợ, nghĩ thầm “Chỉ có thỏa thuận điều ước hoạch định biên giới với thằng Man tử Trung Quốc này thật mau, thì họ mới triệt hồi binh mã”.

***

Đến giờ Mùi, Phí Yếu Đa La dắt mười mấy tùy viên tới chỗ sứ thần hai bên bàn bạc. Lần này y hoàn toàn không mang theo kỵ binh Ca Tát Khắc, để tỏ rõ là quyết không có ý gì khác, huống chi cho dù có mang theo vệ binh, cũng không chống đỡ được “Ma thuật Thành Cát Tư Hãn” của quân Trung Quốc, cũng là vô dụng. Phí Yếu Đa La học vấn uyên bác, làm việc tài giỏi, vốn không phải dễ dàng bị người ta đánh lừa, nhưng người La Sát đối với Thành Cát Tư Hãn có mối lo sợ thâm căn cố đế, thuật điểm huyệt của Song Nhi lại mười phần tinh diệu, y chính mắt nhìn thấy, không thể không tin.

Y tới trướng trước, không lâu sau các đại thần phía nhà Thanh là bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương cũng tới. Vi Tiểu Bảo thấy đối phương không mang theo vệ binh, liền sai quân khiên mây hộ vệ lui về.

Hai bên nói vài câu khách sáo, hoàn toàn không nhắc tới chuyện hôm qua, lập tức bàn bạc việc hoạch định biên giới. Phí Yếu Đa La muốn đàm phán thật nhanh, chuyện gì cũng nhượng bộ, khác hẳn với thái độ hôm qua. Vi Tiểu Bảo trong bụng cười thầm, biết kế sách “Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán” đã thành công, y đối với việc hoạch định biên giới thì một khiếu cũng không thông, lúc ấy bèn để Sách Ngạch Đồ qua sự phiên dịch của viên giáo sĩ bàn bạc điều khoản với đối phương.

Chỉ thấy Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La hai người trải một tấm bản đồ lớn ra bàn, ngón tay của Sách Ngạch Đồ không ngừng chỉ lên phía bắc, Phí Yếu Đa La cau mày, ngón tay cứ từng tấc từng tấc lui về phía bắc. Một tấc ấy lui lại trên bản đồ là thêm hơn mấy trăm dặm đất đai thuộc về Trung Quốc. Vi Tiểu Bảo nghe một lúc, trong lòng phát chán, bèn ngồi ra một cái bàn khác, sai thị tùng mang thức ăn ra, ngồi bắt chéo chân, từ từ nhấm nháp các thức quà bánh điểm tâm, trong mũi ư ử điệu Thập bát mô.

Phí Yếu Đa La quyết tâm nhượng bộ, Sách Ngạch Đồ sợ xảy ra biến cố, cũng không ép người quá đáng. Nhưng chữ nghĩa trong điều ước rất nghiêm ngặt, giáo sĩ hai bên nhất nhất dịch ra tiếng Lạp Đinh, trao đổi bàn bạc cũng mất rất nhiều thời gian. Đến trưa hôm thứ tư, Điều ước Ni Bố Sở gồm sáu điều đã bàn bạc ổn thỏa.

Vi Tiểu Bảo được Sách Ngạch Đồ và Đông Quốc Cương giải thích, nói nội dung điều ước này rất có lợi cho Trung Quốc, phần đất cắt về Trung Quốc rất rộng lớn, còn hơn rất nhiều so với trong chỉ dụ của Khang Hy. Điều ước có tất cả bốn bản, một bản chữ Trung Quốc, một bản chữ La Sát, hai bản chữ Lạp Đinh, có chú rõ là nếu văn tự đôi bên có chỗ nào ý nghĩa không phù hợp thì lấy bản chữ Lạp Đinh làm chuẩn.

Lúc ấy tùy tùng mài mực thật đậm, thấm đẫm ngòi bút, cung kính mời Khâm sai đại thần đứng đầu phía Trung Quốc ký tên.

Vi Tiểu Bảo biết được ba chữ tên mình, chỉ có điều có lúc nhìn chữ Chương ra chữ Vi, chữ Mãi ra chữ Bảo, ba chữ viết liền một chỗ thì không đến nỗi sai lắm, nhưng nói tới chuyện viết thì chữ Tiểu còn có thể miễn cưỡng đối phó được, chứ hai chữ kia thì bất kể thế nào cũng không viết được. Y bình sinh rất khó mà đỏ mặt, nhưng lúc ấy mặt lại đỏ như chu sa, không phải tức giận, không phải say rượu, mà quả thật là có ba phần xấu hổ.

Sách Ngạch Đồ là tri kỷ của y, liền nói “Loại văn tự hợp đồng này, chỉ cần đóng dấu hoa áp lên cũng được. Vi đại nhân cứ viết bừa một chữ Tiểu, cũng kể như đã ký tên rồi”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm viết chữ Tiểu thì mình nắm chắc trong tay, lúc ấy bèn nhấc bút lên, vẽ một hình tròn bên trái, một hình tròn bên phải sau đó sổ một nét thẳng xuống ở giữa.

Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói “Được rồi, viết rất đẹp”. Vi Tiểu Bảo nghiêng đầu ngắm nghía chữ Tiểu, đột nhiên ngẩng lên trời cười rộ. Sách Ngạch Đồ ngạc nhiên hỏi “Vi đại soái có gì mà cười?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi nhìn chữ này một con chim hai quả trứng, há không phải là như thế sao?”. Các quan lớn bên nhà Thanh không kìm được đều hô hô cười rộ, cả đám tùy tùng và thân binh cũng cười thành tiếng.

Lúc ấy Vi Tiểu Bảo đều vẽ chữ vào bốn bản điều ước, trên văn bản tiếng La Sát vẽ một nét sổ cực lớn, sau đó Phí Yếu Đa La, Sách Ngạch Đồ và Phó sứ phía Nga đều ký tên vào. Bản điều ước đầu tiên giữa hai nước Trung Nga như vậy đã ký xong.

Đây là bản điều ước đầu tiên được ký kết giữa Trung Quốc và nước ngoài, nhờ Khang Hy trù tính chu đáo, ra sức thu xếp, mà những người được sai đi đều mười phần đắc lực, nên việc hoạch định biên giới trong điều ước Ni Bố Sở thì Trung Quốc chiếm tiện nghi rất lớn. Trong điều ước quy định phía bắc lấy rặng núi Hưng An làm ranh giới, toàn bộ đất đai tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải thuộc Tô Liên ngày nay đều thuộc Trung Quốc, phía đông và đông nam thì tới biển. Lúc đôi bên hoạch định biên giới khu vực ấy vốn không thuộc về bên nào, đất đai Trung Quốc chiếm cũng không phải thuộc La Sát, mà nơi La Sát đã xây thành di dân thì sau khi ký điều ước bắt buộc phải triệt thoái, quả thật là một thắng lợi quân sự và ngoại giao của Trung Quốc. Đất đai được cắt về Trung Quốc trong điều ước lên tới khoảng hai trăm vạn cây số vuông, to hơn gấp đôi các tỉnh vùng Đông bắc Trung Quốc hiện nay. Điều ước ấy ký kết xong, khiến biên giới Trung Quốc ở phía Đông bắc được yên ổn hơn một trăm năm mươi năm, mà việc xâm lấn về phía đông của người La Sát bị cản trở, dã tâm xâm lược cũng tan tành. Sau các triều Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, các Điều ước của nhà Thanh với người ngoại quốc không gì là không mất quyền mất đất, việc đại chấn hùng phong quốc gia của Khang Hy và Vi Tiểu Bảo năm ấy về sau không còn thấy nữa (12).

Theo tập quán đương thời, đôi bên đồng thời nổ pháo, hướng lên trời lập thệ, thủ tín giữ lời. Hơn bốn trăm khẩu đại pháo của quân Thanh đồng thời nổ vang ở bốn phía đông tây nam bắc thành Ni Bố Sở, mặt đất rung chuyển. Đại pháo của bên Nga chỉ có hơn hai mươi khẩu, tiếng pháo rời rạc, mạnh yếu cách nhau không biết bao nhiêu dặm. Phí Yếu Đa La thầm lấy làm may, nếu hòa nghị không thành, chiến sự nổ ra thì phía Nga không một phen thua tan nát không xong.

Lúc ấy sứ thần hai nước tặng nhau lễ vật. Phí Yếu Đa La tặng cho bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, kính thiên lý, đồ bạc, da điêu, các loại đao kiếm. Vi Tiểu Bảo tặng sứ thần đối phương ngựa, yên cương, chén uống rượu bằng vàng, quần áo gấm đoạn, the lụa, ngoài ra còn tặng mỗi kỵ binh Ca Tát Khắc hai mươi lượng bạc để bồi thường việc bị quân Thanh cắt đứt thắt lưng.

Đếm ấy mở tiệc lớn, ăn mừng đã ký kết xong điều ước. Phí Yếu Đa La vẫn rất lo lắng, không biết quân Thanh đi đánh úp Mạc Tư Khoa trước đó đã được gọi về chưa, không ngừng dùng lời dò xét, nhưng Vi Tiểu Bảo chỉ làm ra vẻ không biết gì.

Qua hai hôm, Phí Yếu Đa La được tin báo có đại đội quân Thanh tứ phía tây kéo tới, y lên thành dùng kính thiên lý nhìn ra, quả thấy từng từng đội quân Thanh từ phía tây kéo tới, qua phía đông sông Ni Bố Sở hạ trại. Phí Yếu Đa La cả mừng, biết quân Thanh kéo về phía tây đã triệt thoái. Y nào biết đại đội quân Thanh ấy chỉ đóng lại cách phía tây thành Ni Bố Sở hơn hai trăm dặm chờ lệnh, vừa nghe tiếng pháo nổ, đã lập tức nhổ trại từ từ rút về.

Lại qua vài hôm, trụ đá cắm mốc ranh giới đã làm xong. Trên trụ đá có năm loại chữ Mãn Châu, Hán, Mông Cổ, Lạp Đinh và La Sát.

Bia cắm mốc ranh giới chia dựng ở bờ phía đông sông Cách Nhĩ Tất Tề, bờ nam sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp, cho tới các nơi trong rặng núi Uy Y Khắc A Lâm Đại phía đông bắc. Trên bia khắc rõ hai nước lấy sông Cách Nhĩ Tất Tề làm ranh giới “Lên tới tận vùng núi non không có cây cỏ ở thượng lưu, có tên là Đại Hưng An cho tới bờ biển, phàm tất cả những sông ngòi chảy vào sông Hắc Long Giang phía nam núi đều thuộc Trung Quốc, tất cả những sông ngòi phía bắc núi, đều thuộc Nga La Tư”, lại viết rõ “Lấy sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp chảy vào sông Hắc Long Giang làm ranh giới, bờ nam sông thuộc về Trung Quốc, bờ bắc sông thuộc về Nga La Tư. Quân phòng trú của Nga La Tư ở cửa sông Mi Lặc Nhĩ Khắc ở bờ nam, dời lên bờ bắc”, lại viết rõ “Tất cả người Nga La Tư cư trú ở thành Nhã Khắc Tát đều phải rút về đất Sát Hãn Hãn”, lại viết rõ “Phàm những người đi săn bắn không được vượt qua ranh giới, nếu có ai tụ họp cầm khí giới giết người cướp của sẽ lập tức bắt về chính pháp, không để chuyện nhỏ làm hỏng việc lớn, để việc giao hảo giữa hai nước chúng ta không phát sinh tranh chấp”.

Khâm sai hai nước sai phái thuộc hạ tra xét địa hình không lầm lẫn, cắm bia nêu ranh giới. Những đất cắm bia ấy vốn phải là ranh giới bất di bất dịch giữa hai nước Trung Nga, nhưng hơn một trăm mấy mươi năm sau, nước Nga nhân Trung Quốc suy yếu, từng bước tằm ăn dâu xâm chiếm, không đếm xỉa gì tới biên giới đã hoạch định năm ấy, thôn tính một vùng đất màu mỡ rộng lớn của Trung Quốc. Người sau đọc sử tới đó, thường ngậm ngùi than rằng “Làm sao dựng được Khang Hy, Vi Tiểu Bảo dưới đất lên, để đánh đuổi người La Sát tham lam lấy lại đất đai của chúng ta?”.

Dựng bia cắm mốc biên giới xong, Khâm sai hai nước làm lễ từ biệt, cùng lên đường về kinh phục mệnh.

Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu tới, bảo hai người dâng lễ vật lên công chúa Tô Phi Á, trong đó có chăn gấm, lại có gối thêu hoa. Phương bắc hoang vu thô lậu, những sản vật này không tìm đâu ra, đều là vật của Song Nhi. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu công chúa quả thật nhớ tới ta, thì cứ ôm những chăn gối này mà ngủ”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Tình ý của công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ là thiên trường địa cửu, chăn gấm gối bông rất dễ hư nát, xin đại nhân cứ phái vài kỹ sư xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây cầu đá, như thế thì vĩnh viễn không hư hỏng”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta đã nghĩ tới chuyện ấy, các ngươi không cần chót chét”. Rồi sai thân binh vác ra một cái rương gỗ lớn, dài tám thước rộng bốn thước, giống như một cái quan tài lớn, tám tên thân binh dùng kiệu lớn khiêng ra, rõ ràng bên trong rất nặng, phía ngoài rương có dây sắt buộc chặt, dán dấu niêm phong, dùng sơn đen gắn lại. Vi Tiểu Bảo nói “Lễ vật này không phải tầm thường, các ngươi phải giữ gìn cho tốt, không được để hư hỏng, công chúa nhìn thấy nhất định sẽ vui lòng, tình ý thiên trường địa cửu ấy cũng bền vững như cầu đá Trung Quốc vậy”.

Hai viên Đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, nhận lãnh cái rương gỗ ra đi. Cái rương gỗ ấy nặng cả ngàn cân, từ Ni Bổ Sờ xa xôi chờ tới Mạc Tư Khoa, trên đường đi vô cùng vất vả.

Công chúa Tô Phi Á nhận được mở rương ra, thì là một pho tượng Vi Tiểu Bảo khỏa thân bằng đá, tươi cười rạng rỡ, sinh động như thật.

Nguyên Vi Tiểu Bảo sai thợ làm bia đá cắm mốc biên giới tạc bức tượng ấy, lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết mấy chữ La Sát “Ta mãi mãi yêu cô” khắc trước ngực pho tượng. Công chúa Tô Phi Á vừa nhìn thấy, dở khóc dở cười, nghĩ tới thằng nhỏ Trung Quốc này quỷ quái khôn ngoan, đàn ông La Sát không sao bằng được, bất giác tình ý miên man, hồn bay vạn dặm.

Pho tượng đá ấy cất trong cung Khắc Lý Mụ Lâm, về sau Bỉ Đắc đại đế phát động chính biến, đuổi công chúa Tô Phi Á ra khỏi cung, đập nát pho tượng đá ấy, chỉ có một phần tàn khuyết được quân sĩ mang ra, các phụ nữ La Sát ngu dốt trong dân gian tới đó cầu khấn xin con, vuốt ve hạ thể của pho tượng đá, nghe nói rất là linh nghiệm.

(1) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Vương Bát Tử Kê” có nghĩa là “Gà chết khốn khiếp”, “Trư La Nhụ Phu” có nghĩa là “Thằng hèn con heo”, đây là Vi Tiểu Bảo có ý trêu chọc xỏ xiên.

(2) Xét : Đây là sao chép từ sử tịch trong văn kiện giao thiệp với Nga La Tư tại Đồ thư quán, chính xác không sai, duy đoạn cuối cùng có liên quan tới Vi Tiểu Bảo thì e là lời của nhà tiểu thuyết, có khi chưa thể tin được.

(3) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Lạp Đinh” là phiên âm tiếng Hoa từ “Latin”, Vi Tiểu Bảo lại hiểu là “kéo trang đinh”.

(4) Xét : Đây là văn kiện có thật, năm ấy Khang Hy bắt được sứ thần nước Nga, giam cầm nửa tháng rồi cho giải về nước, tịch thu được văn kiện này cất ở hồ sơ trong cung. Bức ảnh bản kiện này xem trong “Cố cung Nga văn sử liệu”.

(5) Ở đây có chỗ chơi chữ rất khó dịch, Vi Tiểu Bảo nghe “Đồ Lại” thành “Đổ Lại”, và hiểu là “đánh bạc thua thì muốn giở trò vô lại”, “Quốc Cương” thành “Cốt Quang” và hiểu là “chơi bài xương thì phải thua sạch”.

(6) Xét: Theo Lưu Tuyển Dân trong bài Trung Nga tảo kỳ mậu dịch khảo trên Yên Kinh học báo số 25, nước Nga phái đại sứ Phí Yếu Đa La Quả La Văn đàm phán việc phân định biên giới, hoạt động thông thương với Trung Quốc. Quả La Văn dọc đường qua phía đông, lại nhận được mật chỉ của triều đình ra lệnh, trịnh trọng chỉ thị : Nếu có thể giành được mối lợi thông thương với Trung Quốc thì không ngại gì nhường thành Nhã Khắc Tát cho Trung Quốc, ngoài ra trong phạm vi hoàn toàn không làm tổn thương sự oai nghiêm của Sa hoàng, cứ bí mật tặng biếu hối lộ thật hậu cho đại biểu Trung Quốc.

(7) Xét : Năm Khang Hy thứ mười lăm, nước Nga phái Tư Ba Tháp Lôi N. G. Spatuary làm Khâm sai, dẫn theo các chuyên gia về bảo thạch và dược liệu tới Bắc Kinh, đề xuất nhiều yêu cầu, trong đó có một điều là “Trung Quốc ưng thuận cho Nga quốc mượn kỹ sư xây câu”. Nhưng vì viên Khâm sai này không chịu dập đầu lạy Khang Hy, nên bị triều đình nhà Thanh đuối về nước.

(8) Xét : Khâm sai nghị hòa của nước La Sát tên Phí Yếu Đa La Quả La Văn Fedor A. Golovin, đương thời không biết tập quán người phương Tây là tên trước họ sau, nên sử sách Trung Quốc gọi là Phí Yếu Đa La.

(9) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Lão Miêu Lạp My Pháp” trong tiếng Hoa có nghĩa là “Cách mèo già giàu cứt”, ở đây Vi Tiểu Bảo đặt ra để xỏ xiên chế nhạo viên Khâm sứ người Nga

(10) Xét : Năm 1238 đại tướng Mông Cổ Bạt Đô công hãm Mạc Tư Khoa và Cơ Phụ, trong hai trăm bốn mươi năm từ 1240 đến 1480 người Mông Cổ thống trị lãnh thổ rộng lớn của Nga Ba Tư, xây dựng Kim trướng Hãn quốc. Đại Anh bách khoa toàn thư ghi chép về từ Nga La Tự như sau “Vương công tử tước ở Mạc Tư Khoa đều phải tới thành Tát Lai ở cửa sông Phục Nhĩ Gia triều kiến Khả hãn Mông Cổ trong hoàng kim trướng, tiếp nhận phong hiệu. Họ thường phải chịu đựng đủ chuyện nhục mạ, sau khi triều bái trở về Mạc Tư Khoa, thì có thể nộp thuế cho người Thát Đát, khinh rẻ các chư hầu nước nhỏ chung quanh”.

(11) Ở đây có chỗ chơi chữ rất khó dịch. Nguyên thành ngữ này là “Dũng vãng bất tiền” (Dũng cảm xông lên, không ai đi trước được mình), Vi Tiểu Bảo lại tưởng chữ “tiền” (trước) là “tiền” (tiền bạc) nên sửa lại như thế.

(12) Xét : Chữ ký của Vi Tiểu Bảo trên điều ước kỳ lạ không thế nhận ra được, các sử gia đời sau chỉ biết được chữ ký của Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La, các nhà khảo cổ học như bọn Quách Mạt Nhược biết giáp cốt văn, mà không biết trong Điều ước Ni Bố Sở có thêm chữ Tiểu, nên đại danh của Vi Tiếu Bảo đến nay bị mai một. Sử sách đời sau đều nói người ký kết Điều ước Ni Bố Sở là Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La. Từ xưa đến nay, chỉ có độc giả sách Lộc Đỉnh ký mới biết trên đời có Vi Tiểu Bảo thôi. Việc ký kết và nội dung Điều ước Ni Bố Sở thuật trong sách này, ngoài nhân vật Vi Tiểu Bảo bổ sung cho những điều thiếu sót trong sử sách thì đều căn cứ vào những ghi chép trong thư tịch.

(*) Chú : “Đô hộ” là chức Tổng đốc quân chính do nhà Hán đặt ra để thống trị các nước Tây Vực, “Ngọc Môn quan” là đường yếu đạo thông qua tây vực thời Hán, câu “Ngọc Môn không đặt” ý nói cương vực rộng lớn, Ngọc Môn đã không thể trở thành cửa ải hiểm yếu. “Đồng trụ còn nêu” là nói việc sau khi Mã Viện nhà Đông Hán chinh phục Giao Chỉ (An Nam), khai thương thác thố, dựng cột đồng làm ranh giới, có ý là cắm mốc biên giới khác có lợi cho Trung Quốc.

Hồi 49: Khí sắc quan to xe ngựa đẹp – Tâm tư khách lẻ cố nhân ngờ

Vi Tiểu Bảo khải hoàn về kinh. Đại quân vừa tới ngoài thành Bắc Kinh, các đại thần trong triều đã ra ngoài cửa thành đón tiếp. Vi Tiểu Bảo suất lãnh bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ, Mã Lạt, A Nhĩ Nê, Mã Tề, Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Lang Thân, Ba Hải, Lâm Hưng Châu vào triều kiến Khang Hy. Hoàng đế ôn tồn khen ngợi, hạ chiếu phong Vi Tiểu Bảo là Lộc Đỉnh công nhất đẳng, bọn đại thần Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ cho tới tướng sĩ đều được thăng thưởng.

Sau đó vài hôm, Khang Hy lại liên tiếp triệu kiến Vi Tiểu Bảo, hỏi kỹ tình hình tấn công thành Nhã Khắc Tát, ký kết điều ước vạch rõ cương giới. Vi Tiểu Bảo cứ theo sự thật tâu trình, hoàn toàn không có chút gì khoe khoang, Khang Hy rất vui vẻ, khen y tiến bộ rất nhiều, phong tặng cho bảy vị phu nhân và hai con trai y.

Hôm ấy Khang Hy ban yến cho Phủ viễn đại tướng quân, Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo và các bề tôi có công trong chiến dịch vừa qua. Trong tiệc Khang Hy làm hai bài thơ, các Hàn lâm học sĩ trong tiệc đều kính cẩn họa lại, ca ngợi công đức. Tan tiệc, Vi Tiểu Bảo mang các bảo vật ngự tứ đắc ý nghênh ngang ra khỏi cửa cung, tùy tùng tiền hô hậu ủng dẹp đường về phủ, chợt nghe cạnh đường có tiếng người kêu lớn “Vi Tiểu Bảo, ngươi là thằng cẩu tặc vong ân phụ nghĩa!”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, lại nghe giọng nói ấy rất quen, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một đại hán tử mái hiên sấn ra giữa đường, chỉ vào y ngoác miệng chửi lớn “Vi Tiểu Bảo, thằng tiểu tặc đáng băm vằm ngàn đao muôn kiếm, rõ ràng là người Hán lại đi đầu hàng Mãn Thanh, làm nô tài chó săn cho Thát Đát. Ngươi hại chết sư phụ, giết chết anh em, hôm nay hoàng đế Thát Đát phong ngươi làm công hầu, ngươi vinh hoa phú quý, oai vệ sang trọng. Con bà ngươi, lão tử đao trắng đâm vào đao đỏ rút ra, chém thằng tiểu tặc ngươi mười bảy hăm tám đao, xem ngươi còn làm được Lộc Đỉnh công, Giáp quy công nữa không?”. Đại hán này nửa người trên cởi trần, ngực đầy lông đen, mày rậm mắt to, dáng vẻ hung dữ, chính là Mao Thập Bát ngày trước đưa Vi Tiểu Bảo lên Bắc Kinh.

Vi Tiểu Bảo còn đang ngẩn ra, đã có mấy mươi tên thân binh sấn lên bao vây. Mao Thập Bát rút đoản đao ở đùi ra định chống cự, bọn thân binh đã nhất tề động thủ, người kề đao vào cổ, người đoạt đao trên tay, đè y xuống đất trói lại. Mao Thập Bát vẫn không ngớt chửi lớn “Vi Tiểu Bảo, thằng tiểu tặc con gái điếm, năm xưa lão tử đưa ngươi tới Bắc Kinh, đúng là rất sai lầm, ta có lỗi với Trần Cận Nam Trần Tổng đà chủ, có lỗi với các anh hùng hảo hán trong Thiên Địa hội. Lão tử hôm nay cũng không cần sống nữa, mà muốn cho mọi người trong thiên hạ đều biết rõ Vi Tiểu Bảo ngươi là thằng cẩu tặc bán bạn cầu vinh, quên ơn phụ nghĩa, ngươi chỉ muốn thăng quan phát tài, làm chó săn cho hoàng đế Thát Đát…”. Đám thân binh vả vào miệng y, nhưng y thủy chung vẫn chửi mắng không ngớt. Vi Tiểu Bảo vội quát đám thân binh ngừng tay, không được lỗ mãng. Một tên thân binh lấy khăn tay ra nhét vào miệng Mao Thập Bát. Mao Thập Bát vẫn ư ư không ngớt, chắc là vẫn không ngừng chửi mắng.

Vi Tiểu Bảo sai thân binh “Mang người này về phủ canh giữ cẩn thận, đừng làm khó y, đem rượu thịt cho y ăn uống, lát nữa ta sẽ đích thân thẩm vấn”.

Vi Tiểu Bảo về tới phủ, dọn tiệc trong thư phòng, mời Mao Thập Bát lên gặp, nhưng sợ y lỗ mãng động võ, bèn bảo Tô Thuyên và Song Nhi giả làm tùy tùng đứng hầu bên cạnh. Thân binh áp giải Mao Thập Bát vào, Vi Tiểu Bảo sai cởi xiềng khóa cho y, rồi bảo thân binh lui ra.

Vi Tiểu Bảo tươi cười bước lên đón tiếp, nói “Mao đại ca, lâu quá không gặp, ngươi khỏe chứ?”. Mao Thập Bát tức giận nói “Ta có gì mà khỏe với không khỏe. Từ khi quen biết thằng tiểu tặc nhà ngươi, vốn là rất khỏe cũng trở thành không khỏe”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời Mao đại ca ngồi xuống đã, để huynh đệ mời người ba chén rượu cho bớt giận trước. Huynh đệ đắc tội với đại ca chỗ nào, ngươi uống rượu xong nói ra cũng không muộn”. Mao Thập Bát sải chân bước tới, quát lớn “Ta đánh chết thằng tiểu tặc nhà ngươi trước rồi sẽ uống rượu”. Rồi vung nắm tay to bằng cái bát, vù một tiếng đánh vào giữa mặt Vi Tiểu Bảo.

Tô Thuyên bước mau lên, vươn tay trái chụp cổ tay Mao Thập Bát kéo nhẹ một cái, tay phải vỗ xuống đầu vai y hai cái. Mao Thập Bát lập tức toàn thân tê rần, bất giác không tự chủ được ngồi xuống ghế. Y vừa sợ vừa giận, vận kình nhảy bật lên chửi “Tiểu tặc…”. Tô Thuyên đứng sau lưng y, hai tay đánh vào huyệt Kiên trinh trên hai vai y, lại khẽ đè xuống một cái, Mao Thập Bát không chống cự nổi, đành ngồi xuống như cũ. Y thân hình cao lớn, ít nhất cũng phải to gấp đôi Tô Thuyên, nhưng bị nàng võ công cao thâm chế phục, trói tay buộc chân, chỉ đành ngoan ngoãn ngồi xuống, lại càng căm giận, lớn tiếng nói “Lão tử hôm nay đón đường chửi thằng tiểu Hán gian ngươi, vốn đã quyết ý không cần sống nữa, chỉ là muốn tất cả người đời biết ngươi hèn hạ vô sỉ lừa thầy phản bạn…”.

Vi Tiểu Bảo nói “Mao đại ca, ta làm việc cho hoàng thượng là đi đánh người La Sát, không phải giết người Hán, không thể nói là Hán gian được”. Mao Thập Bát nói “Vậy… vậy tại sao ngươi giết Trần Cận Nam sư phụ ngươi?”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Tại sao ta lại giết hại sư phụ ta chứ? Sư phụ ta rõ ràng là bị thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng giết chết mà”. Mao Thập Bát tức giận nói “Đến bây giờ mà ngươi còn chối sao? Trong thánh chỉ con mẹ nó của hoàng đế Thát Đát nói rất rõ ràng”. Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Trong thánh chỉ của hoàng thượng… sao… sao lại nói là ta hại chết sư phụ?”. Trong lòng mờ mịt, quay đầu nhìn qua Tô Thuyên.

Tô Thuyên nói “Mấy hôm trước hoàng thượng thăng ngươi làm Lộc Đỉnh công nhất đẳng, trong cáo mệnh kể lại công lao của ngươi, cũng không biết là do ai viết, trong đó nói ngươi Tiến cử tướng giỏi, bình định nghịch tặc họ Ngô, thu Đài Loan về đồ bản, cầm quân ra trận, hạ thành Khắc Tát La Sát, nêu oai nước ở biên cương, đó đều đúng. Nhưng lại có hai câu Bắt giết đầu đảng Thiên Địa hội là bọn Trần Cận Nam, Phong Tế Trung, khiến bọn phản nghịch trong thiên hạ suy sụp không gượng dậy được, nghịch tặc loạn đảng rửa mặt thay lòng, thì không đúng”.

Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Cái gì mà rửa mặt cắt tim, rốt lại là nói chuyện gì?”. Tô Thuyên nói “Trong cáo mệnh nói người bắt giết Trần Cận Nam, Phong Tế Trung, khiến người trong Thiên Địa hội sợ hãi, không dám làm phản nữa”. Vi Tiểu Bảo nhảy dựng lên, la lớn “Làm… làm gì có chuyện ấy? Đó không phải là oan uổng cho người ta sao?”. Tô Thuyên chậm rãi lắc đầu, nói “Phong Tế Trung làm gian tế, đúng là do chúng ta giết, lời trong thánh chỉ không sai, chỉ thêm ba chữ Trần Cận Nam”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Trần Cận Nam là ân sư của ta, tại… tại sao ta lại giết lão nhân gia người chứ? Đạo… đạo thánh chỉ ấy của hoàng thượng… ờ… cô thấy thánh chỉ sao không nói với ta?”. Tô Thuyên nói “Bọn ta bàn với nhau, là trong thánh chỉ thừa ba chữ Trần Cận Nam, nếu ngươi biết được nhất định sẽ không vui”. Vi Tiểu Bảo biết cái gọi là “Bọn ta bàn với nhau” chính là bảy vị phu nhân bàn bạc với nhau, bèn quay nhìn Song Nhi, Song Nhi gật gật đầu.

Vi Tiểu Bảo nói “Mao đại ca, sư phụ ta đích xác không phải do ta hại. Phong Tế Trung là phản đồ của Thiên Địa hội, y… y lén lút báo tin cho hoàng đế…”. Mao Thập Bát cười nhạt nói “Vậy thì ngươi là người tốt chứ gì?”.

Vi Tiểu Bảo ngồi phệch xuống mép ghế, nói “Ta sẽ đi phản biện với hoàng thượng, xin y sửa lại… sửa lại… sửa lại…”. Y nói liên tiếp ba chữ “Sửa lại”, nhưng biết Khang Hy nhất định không vì thừa ba chữ “Trần Cận Nam” mà chịu đưa ra tờ thượng dụ khác, nghĩ thầm “Không biết là thằng cẩu tặc nào lắm mồm, nói với hoàng thượng là mình hại chết sư phụ. Đối với hoàng thượng thì như vậy là mình trung thành, nhưng… nhưng Vi Tiểu Bảo mình còn xứng đáng là con người không?”. Y trong lòng quẫn bách, đột nhiên òa một tiếng bật khóc, kêu lên “Mao đại ca, Thuyên tỷ tỷ, hảo… hảo Song Nhi, ta không có hại chết sư phụ mà!”.

Ba người thấy Vi Tiểu Bảo đột nhiên khóc lớn, đều giật nảy mình. Tô Thuyên vội bước qua ôm chặt vai y, dịu dàng nói “Trịnh Khắc Sảng hại chết sư phụ ngươi trên đảo Thông Ngật, chúng ta đều chính mắt nhìn thấy”. Nói xong lấy khăn tay ta lau nước mắt cho y.

Mao Thập Bát lúc ấy mới nhận ra, tên “thân binh” võ nghệ cao cường này vốn là phụ nữ, không kìm được kinh ngạc.

Vi Tiểu Bảo nghĩ tới một việc, nói “Mao đại ca, thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng cũng đang ở Bắc Kinh, chúng ta tới chất vấn y, chắc y không dám chối đâu. Đúng, đúng, chúng ta đi ngay thôi!”.

Vừa nói tới đó, chợt nghe thân binh ngoài cửa lớn tiếng nói “Thánh chỉ tới. Ngự tiền thị vệ Đa Tổng quản phụng sắc tuyên chỉ. Vi Tiểu Bảo đứng lên ra cổng đón, chỉ thấy Đa Long đã cười hề hề bước vào. Vi Tiểu Bảo hướng về phía bắc quỳ xuống, kính cẩn thỉnh an.

Đa Long đợi y lạy xong, nói “Hoàng thượng phân phó, muốn bắt tên phản tặc chửi người trên đường để đích thân thẩm vấn”.

Vi Tiểu Bảo hoảng sợ, nói “Người… người ấy à? Huynh đệ bắt y về, đã tra hỏi kỹ càng, té ra là một thằng điên, luôn miệng xưng là Ngọc Hoàng đại đế, Thái thượng lão quân, ăn nói bậy bạ. Huynh đệ không hỏi được gì, đánh y một trận no đòn, đã thả y ra rồi. Hoàng thượng làm sao biết được chuyện này thế? Thật ra cũng chẳng có gì quan trọng…”.

Mao Thập Bát nghe tới đó không nhịn được nữa, đập mạnh lên bàn một cái, chén bát tung lên rơi xuống đất loảng xoảng vỡ nát, lớn tiếng chửi “Con mẹ nó Vi Tiểu Bảo, ai là thằng điên? Người chửi hoàng đế Thát Đát trên đường hôm nay chính là lão tử! Lão tử ngàn đao muôn kiếm cũng không sợ, chẳng lẽ lại sợ hoàng đế Thát Đát con mẹ nó à?”.

Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm kêu khổ, chỉ mong qua mặt được Đa Long sẽ lập tức thả Mao Thập Bát ra, nào ngờ y hoàn toàn không hiểu ý mình bao che cho lần này, lại công nhiên nhục mạ hoàng thượng như thế, Mao Thập Bát cho dù quả thật có mười tám cái đầu cũng không giữ được.

Đa Long thở dài một tiếng, nói với Vi Tiểu Bảo “Huynh đệ, ngươi đối đãi với bằng hữu trên giang hồ rất có nghĩa khí, ta cũng rất khâm phục. Chuyện này ngươi đã làm hết sức, tính ra cũng đã trọn nhân trọn nghĩa rồi. Chúng ta đi thôi”. Mao Thập Bát sải chân bước ra cửa, đột nhiên quay đầu phun một bãi nước bọt vào Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo đang lo nghĩ, không kịp tránh né, bụp một tiếng, bị trúng ngay giữa hai mắt. Mấy tên thân binh rút yêu đao ra xông vào Mao Thập Bát. Vi Tiểu Bảo xua xua tay, buồn rầu nói “Được rồi, đừng làm khó y”. Bọn thuộc hạ Đa Long dẫn theo lấy khóa tay ra khóa tay Mao Thập Bát lại.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hoàng thượng đích thân thẩm vấn Mao Thập Bát, hỏi chưa tới ba câu là nhất định sẽ kéo y ra chém đầu. Mình phải lập tức tới gặp hoàng thượng, bất kể thế nào cũng phải nghĩ cách cứu người”. Bèn nói với Đa Long “Ta muốn đi cầu kiến hoàng thượng để bẩm rõ nội tình, đừng để hán tử thô lỗ này xúc phạm hoàng thượng”.

***

Đoàn người tới hoàng cung. Vi Tiểu Bảo nghe nói hoàng đế đang trong Thượng thư phòng, bèn xin ra mắt. Khang Hy liền triệu y vào. Vi Tiểu Bảo dập đầu xong đứng lên.

Khang Hy nói “Kẻ chửi ngươi, lại chửi cả ta trên phố hôm nay là bạn tốt của ngươi phải không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng thấy rõ vạn dặm, chuyện gì cũng không cần phải đoán tới lần thứ hai”. Khang Hy nói “Y là người Thiên Địa hội à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Y chưa chính thức vào hội, có điều y quen biết không ít người trong hội. Y rất khâm phục sư phụ ta. Trong thánh chỉ của hoàng thượng nói ta giết chết sư phụ, y nghe thế giận sôi lên nên tới chửi mắng ta một trận. Còn đối với hoàng thượng thì y muôn vạn lần không dám có nửa phần bất kính”.

Khang Hy mỉm cười nói “Ngươi và Thiên Địa hội đã một đao cắt đứt, từ nay trở đi không đi lại nữa phải không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng. Lần này đi đánh bọn quỷ La Sát, nô tài không mang người Thiên Địa hội cùng đi”. Khang Hy hỏi “Sau này nếu bạn cũ trong Thiên Địa hội tìm tới, thì ngươi tính sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài nhất định không gặp mặt, để mọi người tránh được sự bất tiện”.

Khang Hy gật đầu nói “Vì thế trong tờ cáo mệnh kia ta đã đích thân viết thêm tên hai người Trần Cận Nam, Phong Tế Trung để tránh cho ngươi nhiều chuyện phiền phức sau này. Tiểu Quế tử, một người không thể chân đứng trên hai thuyền mãi được. Nếu ngươi trung thành với ta, một lòng một dạ làm việc cho triều đình, thì không thể dấn thân vào vũng nước đục Thiên Địa hội nữa. Còn nếu ngươi quyết tâm làm Hương chủ của Thiên Địa hội, thì cứ một lòng một dạ phản lại ta mới phải”. Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, quỳ xuống dập đầu nói “Nô tài quyết ý sẽ không làm phản. Nô tài lúc trẻ làm việc hồ đồ, không hiểu đạo lý, hiện giờ hiểu rõ đại nghĩa, rửa mặt thay lòng, khác hẳn ngày trước rồi”.

Khang Hy gật đầu cười nói “Vậy thì rất tốt. Gã điên chửi bới trên phố hôm nay, sáng mai ngươi đích thân làm giám trảm, chém đầu y đi”. Vi Tiểu Bảo dập đầu nói “Hoàng thượng minh giám, nô tài tới được Bắc Kinh, có thể nhìn thấy long nhan, toàn là nhờ người này. Nô tài còn chưa báo đáp được ơn y, nên lớn mật xin hoàng thượng tha cho y, thà là… thà là bao nhiêu công lao đánh La Sát của nô tài lần này hoàng thượng cứ cách hết, nô tài làm Lộc Đỉnh hầu cũng được”. Khang Hy chợt sa sầm mặt, nói “Việc phong tước của triều đình mà ngươi coi như trò đùa của trẻ con à? Thưởng cho ngươi tước Lộc Đỉnh công nhất đẳng là ân điển của ta. Ngươi lại lấy cáo phong tước lộc ra mua bán với ta, cò kè trả giá, thật là to gan!”.

Vi Tiểu Bảo dập đầu lia lịa, nói “Nô tài ra giá trên trời, hoàng thượng cứ trả giá sát đất. Giáng xuống tước Lộc Đỉnh hầu không được thì giáng xuống tước Thông Ngật bá, Thông Ngật tử cũng được mà”.

Khang Hy vốn định dọa y một phen cho y biết quy củ của triều đình, nào ngờ người này sinh ra là tiểu nhân nơi chợ búa, tuy làm tới tước công nhất đẳng, Đại tướng quân mà tính nết vô lại vẫn không hề thay đổi, bất giác vừa tức giận vừa buồn cười, quát “Con mẹ nó, ngươi đứng lên đi!”. Vi Tiểu Bảo dập đầu một cái rồi đứng lên.

Khang Hy vẫn làm mặt lạnh, nói “Con bà ngươi, lão tử trả giá sát đất với ngươi. Ngươi muốn ta tha tên phản nghịch kia, thì cứ cắt đầu ngươi mà đổi đầu y”.

Vi Tiểu Bảo mặt mày nhăn nhó, nói “Hoàng thượng trả giá thấp quá, xin người trả thêm giá nữa”. Khang Hy nói “Được, ta nhường ngươi một bước. Ngươi tự thiến đi, vào cung làm thái giám thật cũng được”. Vi Tiểu Bảo nói “Xin hoàng thượng trả thêm giá nữa”. Khang Hy nói “Không thêm nữa. Ngươi không đi giết người kia là bất trung với ta. Một người trung thành là trung thành, bất trung là bất trung, chuyện đó thì có giá nào mà nói được?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài với hoàng thượng thì trung, với bạn bè thì nghĩa, với mẫu thân thì hiếu, với vợ con thì ái…”.

Khang Hy hô hô cười rộ, nói “Thằng đầy tớ nhà ngươi rõ ràng trung hiếu tiết nghĩa, cái gì cũng trọn vẹn. Giỏi, bội phục, bội phục. Giờ này ngày mai cứ đem một cái đầu tới đây là xong, nếu không phải là đầu thằng phản nghịch kia thì là đầu ngươi”. Vi Tiểu Bảo không biết làm sao, đành dập đầu lui ra.

Khang Hy thấy y ra tới cửa, liền nói “Tiểu Quế tử, ngươi lại định bỏ trốn à?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Lần này thì không dám. Nô tài về tới nhà sẽ lên giường gối đầu nằm cao nghĩ cách, tốt nhất là vừa làm hoàng thượng vui vẻ, vừa trọn vẹn được nghĩa khí với bạn bè, mà cái đầu này của nô tài vẫn dính chặt trên cổ”.

Khang Hy cười khẽ nói “Hay lắm. Ta và công chúa Kiến Ninh lâu quá không gặp, rất nhớ cô ta, nên đã sai đón vào cung”. Y ngừng một lúc rồi nói tiếp “Sáu vị phu nhân kia của ngươi cũng theo công chúa vào cung triều kiến thái hậu. Thái hậu nói ngươi có nhiều công lao, muốn ban thưởng cho vợ con ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Đa tạ ân điển của thái hậu và hoàng thượng, nô tài quả thật có tan xương nát thịt cũng không báo đáp được”. Y lùi lại hai bước, không nhịn được bèn nói “Hoàng thượng, trước kia nô tài từng nói người là Phật Như Lai, ta là Tôn Ngộ Không, nô tài nói thế nào cũng không nhảy ra khỏi bàn tay của người”. Khang Hy mỉm cười nói “Ngươi thần thông quảng đại, cần gì khách sáo chứ?”.

***

Vi Tiểu Bảo ra khỏi Thượng thư phòng, bất giác thở dài một hơi, nghĩ thầm “Hoàng thượng giữ hết bảy người vợ, ba đứa con của mình, cho dù mình bỏ trốn cũng không bỏ họ được”.

Đi tới hành lang, thấy Đa Long bước tới đón, cười nói “Quế huynh đệ, thái hậu triệu kiến phu nhân, công tử, tiểu thư của ngươi, nhất định sẽ ban thưởng rất nhiều. Xin chúc mừng ngươi”. Vi Tiểu Bảo chắp tay nói “Nhờ phúc của ngươi, nhờ phúc của ngươi”. Đa Long cười khẽ nói “Trước lúc huynh đệ mang quân xuất chinh có dặn ta đòi nợ giúp, đến nay đã đòi được bảy tám phần. Ngân phiếu hai trăm sáu mươi mấy vạn lượng bạc, khi trở về ta sẽ đưa tới quý phủ”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đa đại ca bản lĩnh không nhỏ, đã đòi được bấy nhiêu”, rồi lập tức căm hờn nói “Thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng hại chết sư phụ ta, đến nay vẫn còn làm ta rất đau đầu. Con bà nó, hôm nay thằng điên kia trên phố chửi người, há chẳng phải do Trịnh Khắc Sảng gây tai họa sao?”. Càng nghĩ càng tức giận, nói “Đại ca, xin ngươi mang theo nhiều người, chúng ta tới đó đòi nợ”.

Đa Long nghe nói lại tới Trịnh phủ đòi nợ, đó là chuyện vui vẻ hạng nhất, hôm nay lại có Phủ viễn đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh công Vi công gia dẫn đầu, đi đòi nợ lại càng không cần úy kỵ , lập tức luôn miệng vâng dạ, dặn Phó Tổng quản Ngự tiền thị vệ trực ban trong cung, dẫn theo một trăm thị vệ đưa Vi Tiểu Bảo tới Trịnh phủ.

Trịnh Khắc Sảng tuy cũng được phong tước công, nhưng so với tước công của Vi Tiểu Bảo thì khác xa một trời một vực, một người là phiên vương phản nghịch quy hàng, một người là đại sủng thần, đại công thần của hoàng đế. Cũng là phủ công tước nhưng lớn nhỏ khí phái lại khác hẳn nhau, bốn chữ “Hải Trừng công phủ” trên biển ngạch sơn đen, không như bốn chữ “Lộc Đỉnh công phủ” ở nhà Vi Tiểu Bảo là mạ vàng. Vi Tiểu Bảo vừa nhìn thấy đã có mấy phần vui vẻ, nói “Bảng hiệu ở cổng của thằng tiểu tử này không bằng bảng hiệu chữ vàng của ta”.

Bọn Ngự tiền thị vệ cứ ba ngày thì có hai ngày tới phủ Hải Trừng công đòi nợ, vốn đã quen nếp, cũng không chờ người giữ cổng thông báo, cứ xồng xộc đi luôn vào phủ. Vi Tiểu Bảo ngồi vào ghế giữa trong đại sảnh. Đa Long ngồi bên cạnh.

Trịnh Khắc Sảng nghe nói Phủ viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tới, đây là khắc tinh đệ nhất trong đời y, bất giác tay chân luống cuống, nhưng lại không dám không gặp, chỉ đành thay mặc triều phục, run rẩy ra đón, bước tới vòng tay làm lễ, kêu lên “Vi đại nhân!”.

Vi Tiểu Bảo cũng không đứng dậy, vẫn ngồi chễm chệ trên ghế, ngẩng đầu lên trời, hừ một tiếng trong mũi, quay qua nói với Đa Long, “Đa đại ca, thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng này cũng quá vô lễ. Chúng ta tới đây suốt nửa ngày rồi mà y vẫn không ngó ngàng gì tới, há không phải là coi thường người ta sao?”. Đa Long nói “Phải lắm! Giết người thì đền mạng, thiếu nợ phải trả tiền. Nếu cứ làm con rùa đen co đầu rút cổ suốt đời, rốt lại cũng có ngày không trốn núp được nữa”.

Trịnh Khắc Sảng tức giận tới cực điểm, nhưng “Đi qua hiên kẻ khác, đâu dám chẳng cúi đầu”, hai người trước mặt, một người là Đại tướng quân tay nắm binh quyền, một người là Tổng quản Ngự tiền thị vệ, mình thì không quyền không thế, tuy nói là tước vị tôn vinh chứ thật ra xử cảnh còn không bằng một người dân tầm thường, chỉ đành cố nén giận, khẽ đằng hắng một tiếng, nói “Vi đại nhân, Đa Tổng quản, chào hai ngài!”.

Vi Tiểu Bảo từ từ cúi xuống nhìn, chỉ thấy lão già trước mặt lưng còng hông vẹo, đầu tóc hoa râm, vẻ mặt vô cùng tiều tụy, nhìn kỹ lại thì người này cũng không lớn tuổi gì lắm, chỉ là mặt mày ủ rũ, đuôi mắt đầy nếp nhăn, dưới cằm để một bộ râu ngắn, cũng đã lốm đốm bạc, lại chăm chú nhìn kỹ lần nữa, không phải là Trịnh Khắc Sảng thì là ai? Vài năm không gặp mà y đã già hẳn đi hai ba mươi tuổi. Vi Tiểu Bảo đầu tiên rất ngạc nhiên, nhưng lập tức hiểu rõ ngay, là trong mấy năm nay y bị hành hạ khổ nhục, đến nỗi đột nhiên già sọm, không kìm được nảy ý thương xót, nhưng lập tức nhớ lại năm xưa y tàn độc giết chết Trần Cận Nam trên đảo Thông Ngật, nộ khí bốc lên, cười nhạt hỏi “Ngươi là ai?”.

Trịnh Khắc Sảng nói “Tại hạ là Trịnh Khắc Sảng, Vi đại nhân không nhận ra sao?”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Trịnh Khắc Sảng à? Trịnh Khắc Sảng không phải đang làm Diên Bình quận vương ở Đài Loan sao? Tại sao lại tới Bắc Kinh chứ? Ngươi là hàng giả”. Trịnh Khắc Sảng nói “Tại hạ quy thuận nhà Đại Thanh, đội ơn hoàng thượng ban cho tước lộc”. Vi Tiểu Bảo nói “Ủa, té ra là thế. Năm xưa ngươi ở Đài Loan khoe khoang khoác lác, nói sẽ đánh tới Bắc Kinh, bắt sống hoàng thượng, muốn ngắn thì ngắn, muốn dài thì dài, câu ấy nói ra còn nhớ không?”.

Trịnh Khắc Sảng toát mồ hôi lưng, nghĩ thầm “Y muốn khoác tội danh cho mình, bịa đặt nói bừa, hoàng thượng rốt lại nghe lời y chứ quyết không nghe lời mình”. Từ khi Đa Long suất lĩnh bọn Ngự tiền thị vệ và quân sĩ Kiêu kỵ doanh không ngừng tới quấy nhiễu, Trịnh Khắc Sảng quả thật thấy một ngày dài như một năm. Một gia sản lớn mang từ Đài Loan về, mười phần có tới tám chín đã bị họ vòi vĩnh hạch sách, đã phải bán hết châu báu trang sức để trả món nợ lớn hai trăm mấy mươi vạn lượng bạc. Y trong lòng hối hận không biết bao nhiêu lần, ngày xưa quả thật không nên đầu hàng. Lúc Thi Lang tấn công, nếu mang quân hết sức tử chiến cũng chưa chắc đã thua, mà cho dù không thắng thì liều mạng chết giữa chiến trường cũng không thẹn với anh linh của ông cha trên trời, không đến nỗi sau khi đầu hàng lại phải chịu khốn khổ nhục nhã tới mức này. Lúc ấy nghe Vi Tiểu Bảo nói mấy câu như thế, lại càng buồn rầu chỉ muốn chết ngay.

Vi Tiểu Bảo nói “Đa đại ca, vị Trịnh Khắc Sảng này năm xưa oai phong lắm nhé. Huynh đệ gần đây nghe nói có người muốn đón Trịnh vương gia về Đài Loan, lại lên ngôi vương. Trịnh vương gia, người tới đón ngươi nói thế nào? Huynh đệ muốn điều tra cho rõ ràng để hồi báo với hoàng thượng”.

Trịnh Khắc Sảng run lên nói “Vi đại nhân, xin người giơ cao đánh khẽ. Chuyện người nói đó, vốn… vốn hoàn toàn không có…”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ờ, thế thì lạ thật. Đa đại ca, chẳng phải là hôm qua chúng ta bắt được một tên phản tặc sao? Y ngoác miệng chửi mắng hoàng thượng, chửi luôn cả ta. Người ấy nói là bộ hạ cũ của Trịnh vương gia, nói Trịnh vương gia ở Bắc Kinh bị người ta khinh rẻ, muốn báo thù cho y, muốn giết hết bọn Thát Đát Mãn Thanh gì đó mà?”.

Trịnh Khắc Sảng nghe tới đó lại càng chi trì không nổi, hai gối khuỵu xuống quỳ luôn dưới đất, run lên nói “Xin Vi đại nhân tha mạng! Tiểu nhân trước kia tội đáng muôn chết, đắc tội với lão nhân gia người. Người đại nhân đại lượng, xin mở cho ta một con đường sống, trời sẽ phù hộ cho người công hầu vạn đại”.

Vi Tiểu Bảo cười nhạt nói “Ngày trước lúc ngươi giết sư phụ ta, chắc không nghĩ là có ngày hôm nay phải không?”.

Đột nhiên phía sau sảnh có một người rảo chân bước ra, thân hình cao gầy, dáng vẻ dữ tợn, chính là Nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm. Y sấn tới cạnh Trịnh Khắc Sảng, vươn tay ra kéo y đứng lên, rồi quay qua Vi Tiểu Bảo nói “Năm xưa giết chết Trần Cận Nam toàn là chủ ý của ta, không liên quan gì tới Trịnh gia. Ngươi muốn trả thù cho sư phụ thì cứ việc giết ta đi”.

Vi Tiểu Bảo đối với Phùng Tích Phạm vốn mười phần sợ sệt, thấy y dáng vẻ hung hăng dữ tợn, bất giác co rúm người trên ghế, run lên nói “Ngươi… ngươi định đánh người à?”. Đa Long nhảy bật dậy quát “Người đâu!”, liền có hơn mười tên thị vệ cùng sấn tới vây chặt Phùng Tích Phạm. Vi Tiểu Bảo thấy bên mình người đông thế mạnh mới yên tâm, cao giọng nói “Người này ở giữa kinh đô lại dám hành hung, bắt lấy”. Bốn tên thị vệ cùng vươn tay ra chụp vào vai Phùng Tích Phạm.

Phùng Tích Phạm cũng không chống cự, lớn tiếng nói “Bọn ta quy hàng triều đình, hoàng thượng phong cho Trịnh công gia là Hải Trừng công, phong ta là Trung Thành bá. Hoàng thượng còn nói tất cả chuyện cũ bỏ hết, không nhắc tới nữa. Vi đại nhân, ngươi muốn giả công làm tư, vu cáo người tốt, bọn ta chỉ còn cách tới trước mặt hoàng thượng để phân biện cho rõ ràng thôi”.

Vi Tiểu Bảo cười nhạt nói “Người là người tốt, ha ha, té ra Nhất kiếm vô huyết Phùng đại nhân là một người rất rất tốt, đúng là chuyện hôm nay ta mới nghe thấy lần đầu đấy”.

Phùng Tích Phạm nói “Sau khi bọn ta tới Bắc Kinh, yên phận giữ mình, trước nay không gặp người ngoài, cũng không dám phạm vào nửa điều cấm lệnh. Các vị thị vệ đại nhân này không ngừng tới đây chìa tay đòi tiền, bọn ta khuynh gia đãng sản để đáp ứng, chuyện đó cũng chưa đáng gì. Vi đại nhân, ngươi muốn khoác bừa tội danh cho bọn ta, hoàng thượng sáng suốt thấy rõ muôn dặm, chỉ e không phải tùy ý ngươi đâu”.

Người này có kiến thức có can đảm, hơn xa Trịnh Khắc Sảng, sang sảng nói mấy câu ấy khiến Vi Tiểu Bảo nhất thời cũng khó biện bác, nghĩ thầm hai người bọn họ là hàng thần Đài Loan nhưng đã được triều đình phong tước, khinh rẻ cố nhiên không khó, nhưng nếu muốn đánh đổ họ thật thì hoàng thượng chỉ cần hỏi vài câu là sẽ biết rõ ngay lập tức. Hoàng thượng đoán được là mình trả thủ cho sư phụ thì nhất định sẽ xử tội. Y trong lòng đã sợ sệt nhưng ngoài miệng vẫn cứng cỏi, nói “Hôm qua bọn ta bắt được một tên phản tặc, chính miệng y nói muốn đón Trịnh vương gia về lại Đài Loan, chẳng lẽ còn là giả sao?”.

Phùng Tích Phạm nói “Hạng người ấy mở miệng nói bừa, kể tới làm gì? Xin Vi đại nhân đưa người đó tới đây, bọn ta sẽ lên bộ Hình đối chất”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi muốn đối chất à? Vậy thì rất tốt, rất hay, rất quang quác, rất tưng tưng”. Rồi quay qua hỏi Trịnh Khắc Sảng “Trịnh vương gia, số tiền ngươi nợ ta, rốt lại lúc nào sẽ trả xong?”.

Phùng Tích Phạm nghe Vi Tiểu Bảo nhìn phải nhìn trái nói qua chuyện khác, xem mặt xét sắc, đoán là y sợ bị hoàng đế biết được, nghĩ thầm chuyện đã tới bước này bèn định lớn mật làm ầm lên với hoàng đế. Hoàng đế tuy còn nhỏ tuổi nhưng mười phần anh minh, chuyện phải trái đen trắng nhất định có thể nhận ra. Nếu không nhân cơ hội này để dứt khoát một lần, trở đi sẽ chịu lụy vô cùng. Quả thật là bị thằng tiểu tử họ Vi này bức ép tới mức không sao nhường nhịn được nữa, Chó cùng cắn giậu, người cùng làm ẩu, ngươi ép ta tới mức phải đưa cổ vào tròng, thì mọi người liều mạng với nhau một phen. Y tâm ý đã quyết, liền nói “Vi đại nhân, Đa Tổng quản, chúng ta cùng tới cáo ngự trạng thôi”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, nghĩ thầm nếu kiện cáo trước mặt hoàng thượng thì mình không có bằng chứng nào mà chạy tội, nhưng chuyện này quyết cũng không thể tỏ ra sợ sệt, bèn nói “Tốt lắm! Dắt cả gã họ Trịnh đi luôn! Trước hết cứ giải họ vào thiên lao giam lại cho họ yên ổn hưởng phúc trong đó, qua sáu tháng một năm, chúng ta sẽ thong thả tâu rõ với hoàng thượng”.

Đa Long trong lòng ngần ngừ, Trịnh Khắc Sảng được phong tước công, tới y đòi nợ vòi tiền thì không hề gì, nhưng nếu muốn bắt người thật thì không tâu lên hoàng thượng không được, hạ giọng nói “Vi đại nhân, chúng ta cứ tâu lên hoàng thượng trước, rồi sẽ tới bắt người”.

Trịnh Khắc Sảng trong lòng chợt nhẹ nhõm, vội nói “Đúng đấy, ta không phạm tội gì, sao lại bắt ta?”.

Theo gió phất cờ vốn là trò chơi quen tay của Vi Tiểu Bảo, y lập tức nói “Có phạm tội hay không thì hiện tại còn chưa biết được. Ngươi thiếu tiền của ta còn chưa trả đủ, bây giờ tính sao? Ngươi trả tiền hay đi theo bọn ta?”.

Trịnh Khắc Sảng nghe thấy khỏi phải bị bắt, luôn miệng nói lia lịa “Ta trả tiền, ta trả tiền!”. Rồi vội vàng đi vào nhà trong đem ra một tập ngân phiếu, hai tên gia đinh bưng ra một cái mâm trên đặt nữ trang vàng bạc. Trịnh Khắc Sảng nói “Vi đại nhân, ty chức dốc rương vét tủ tìm được ba bốn vạn lượng, quả thật không còn gì nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Có thật là không còn gì không? Ta không tin, huynh đệ bồi tiếp ngươi vào trong tìm thử”. Trịnh Khắc Sảng nói “Chuyện này… chuyện này… như thế e không tiện lắm”.

Phùng Tích Phạm cao giọng nói “Bọn ta không phạm vương pháp, mà Vi đại nhân lại định lục soát nhà cửa của bọn ta, là vâng thánh chỉ hay có văn thư của Hình bộ đại đường?”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đây không phải là lục soát nhà cửa. Trịnh vương gia nói không còn gì nữa, ta lại thấy y còn rất nhiều. Chỉ e vàng bạc châu báu, lại còn nhiều đao thương binh khí, long bào long ỷ gì đó của y giấu trong phòng hầm bí mật, nhất thời tìm không ra, mọi người đi tìm giúp y thôi mà”.

Trịnh Khắc Sảng vội nói “Ta… ta làm sao dám cất giấu đao thương võ khí, long ỷ long bào gì gì? Mà nói lại, ty chức chỉ là… chỉ là tước công, cách gọi vương gia ấy thật ngàn vạn lần không dám nhận”.

Vi Tiểu Bảo nói với Đa Long “Đa đại ca, nhờ ngươi đếm qua xem tất cả có bao nhiêu tiền?”.

Đa Long và hai tên thị vệ đếm số ngân phiếu, nói “Ngân phiếu có tất cả ba vạn bốn ngàn ba mươi lượng bạc, còn có một mớ nữ trang không biết đáng giá bao nhiêu”.

Vi Tiểu Bảo đưa tay vào mớ nữ trang xốc xáo vài cái, nhặt một chiếc thoa hình chim phượng lên, kinh sợ nói “Ái chà, Đa đại ca, đây là vật phạm vào cấm lệnh rồi. Hoàng thượng là rồng, chánh cung nương nương là phượng, tại… tại sao vương phi của Trịnh vương gia cũng cài phượng thoa?”.

Phùng Tích Phạm càng tức giận, lớn tiếng nói “Vi đại nhân, ngươi muốn tìm xương trong trứng gà, họ Phùng ta hôm nay liều mạng với ngươi. Các cửa hiệu bán vàng bạc nữ trang trong khắp thiên hạ có nhà nào không có phượng thoa? Nữ quyến nhà các quan trong thành Bắc Kinh người nào không cài phượng thoa?”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra Phùng đại nhân đã thấy hết nữ quyến nhà các quan trong thành Bắc Kinh, ờ, vậy ngươi nói thái thái tiểu thư nhà nào là xinh đẹp nhất thế? Chặc chặc chặc, lợi hại thật, lợi hại thật, nhìn thấy hết nữ quyến của bao nhiêu người như vậy thật nhãn phúc không nhỏ đâu. Vương phi của Khang thân vương, tiểu thư của đại nhân Minh Châu Thượng thư bộ Binh, ngươi đều thấy qua hết rồi phải không?”. Phùng Tích Phạm giận tới mức không nói được ra lời, trong lòng quả thật cũng sợ sệt, biết gã thiếu niên này chơi thân với nhiều người quyền quý trong triều, nếu lại đem câu vừa rồi thêm mắm dặm muối nói ầm lên ra ngoài, thì mình không gặp rủi ro không xong.

Trịnh Khắc Sảng khom người vái lia lịa, nói “Vi đại nhân, tất cả mọi việc xin người khoan dung, ty chức năn nỉ người mà”.

Vi Tiểu Bảo thấy mấy câu vừa rồi khiến Phùng Tích Phạm khiếp đảm không dám lên tiếng, theo gió phất cờ như thế là đủ, bèn cười ha hả, nói “Đa đại ca, thể diện của huynh đệ so với ngươi còn thua xa. Đa đại ca tới đòi nợ lấy được hơn hai trăm vạn lượng bạc, mà huynh đệ đích thân xuất mã chỉ được có một chút này”. Trịnh Khắc Sảng nói “Quả thật ty chức trong nhà không còn gì, chứ quyết không dám… quyết không dám chây nợ không trả”. Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta đi thôi. Đợi qua mười bữa nửa tháng nữa, Trịnh vương gia chở vàng bạc từ Đài Loan tới thì tới đòi nợ là được”. Nói xong đứng lên, bước ra khỏi sảnh.

Phùng Tích Phạm nghe lời lẽ của Vi Tiểu Bảo câu nào cũng vu hãm Trịnh Khắc Sảng mưu đồ chuyện bất pháp, vẫn câu kết với bộ thuộc cũ ở Đài Loan, đó là tội diệt tộc, nếu không phân biện cho rõ ràng thì suốt đời sẽ bị đè nén, khó mà làm người, bèn cao giọng nói “Bọn ta vâng lệnh giữ phép, không dám đi ngang về tắt nửa bước. Những lời mà Vi đại nhân và Đa Tổng quản nói ở đây hôm nay, bọn ta sẽ năm mười mười lăm tâu rõ với hoàng thượng, nếu không thì trời đất tuy rộng lớn, bọn ta cũng không có đất đứng chân đâu”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Cần đất đứng chân à? Có chứ, có chứ. Trịnh vương gia và Phùng tướng quân trở về Đài Loan, đó không phải là một mảnh đất đứng chân rộng lớn sao? Hai người các vị cần bàn đại sự đứng chân, bọn ta không quấy rầy nữa”. Nói xong kéo tay Đa Long, nghênh ngang ra cửa.

***

Vi Tiểu Bảo về tới phủ, lập tức mở tiệc mời bọn thị vệ uống rượu. Đa Long sai thủ hạ mang tới bốn cái rương lớn, mở nắp ra, đều là vàng bạc châu báu và từng chồng từng chồng ngân phiếu, cười nói “Đòi nợ suốt mấy tháng, gia sản của thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng có quá nửa là trong này rồi. Vi huynh đệ, ngươi kiểm lại rồi nhận đi”.

Vi Tiểu Bảo rút một tập ngân phiếu khoảng mười mấy vạn lượng, nói “Thằng cẩu tặc này hại chết sư phụ ta, nhưng hoàng thượng lại phong tước cho y, mối thù này không trả được nữa rồi. Đa tạ đại ca và các anh em trị cho y thê thảm như thế, giúp huynh đệ hả giận được một chút. Sư phụ ta không có gia quyến, huynh đệ lấy số tiền này sai người tới Đài Loan dựng một ngôi từ đường thật lớn để thờ cúng sư phụ ta. Còn bao nhiêu thì xin đại ca và các anh em cứ chia nhau thôi”.

Đa Long xua tay lia lịa, nói “Không được, không được. Đây là tiền Trịnh Khắc Sảng thiếu huynh đệ. Ngươi chỉ cần sai vài tên thân binh hàng ngày tới cửa đòi nợ cũng không sợ gì y không trả. Bọn ta được ngươi sai sử làm giúp một việc nhỏ, mọi người đều là người mình, tại sao lại đòi tiền ngươi?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không giấu gì đại ca, gia sản của huynh đệ đã nhiều tới mức không sao tiêu hết, bạn bè tốt có tiền thì mọi người cùng tiêu, còn phân biệt của người này người kia làm gì?”.

Nhưng Đa Long nói thế nào cũng không chịu nhận, hai người cãi nhau đỏ mặt tía tai, sau cùng các thị vệ nhận một trăm vạn lượng tiền “Đòi nợ phí”, hơn ba mươi vạn lượng thì đưa qua cho các anh em bên Kiêu kỵ doanh chia nhau, số còn lại Đa Long đích thân cầm lên mang vào nội đường của Vi phủ.

Bọn thị vệ kể cả số đang trực ban trong cung cùng chia thì mỗi người được vài ngàn lượng bạc. Ai cũng vô cùng cao hứng, cơm no rượu say rồi bèn mở sòng bạc lớn chơi bài cẩu, gieo xúc xắc trong hoa sảnh phủ công tước.

Đã là anh em tốt thì Vi Tiểu Bảo gieo xúc xắc cũng không giở trò. Đánh bạc đến canh hai, Vi Tiểu Bảo nhìn Đa Long nói “Đa đại ca, huynh đệ còn muốn làm phiền ngươi một chuyện”. Đa Long đánh bạc đang may, tâm tinh khoan khoái, cười nói “Được, bất kể là chuyện gì, chỉ cần ngươi phân phó thôi”. Nhưng lại lập tức nhớ tới một chuyện, bèn nói “Chỉ có một chuyện là không được! Thằng điên chửi người trên phố kia thì hoàng thượng đã dặn ta phải canh giữ nghiêm ngặt, sáng mai sẽ do ngươi làm giám trảm. Nếu ta vì tư tình mà thả ra, thì hoàng thượng sẽ chém đầu ta”.

Vi Tiểu Bảo chính là định nhờ y làm chuyện ấy, nào ngờ y nói ra từ đầu, đã từ chối trước, bèn nghĩ thầm “Hoàng thượng thần cơ diệu toán, chuyện gì cũng đoán trước được. Một trăm vạn lượng bạc mà cũng không mua được tính mạng của Mao đại ca”. Trong lòng não nộ, lại định tới nhà Trịnh Khắc Sảng đòi nợ, nhưng lại nhớ tới dáng vẻ suy sụp của Trịnh Khắc Sảng, cảm thấy đi khinh rẻ hà hiếp loại sâu bọ đáng thương ấy cũng không có gì là anh hùng, liền xoay chuyển ý nghĩ, nói “Thằng điên ấy thì hoàng thượng đã đích thân phân phó, cho dù ta gan to bằng trời cũng không dám tha y. Hôm nay chúng ta đi đòi nợ, Trịnh Khắc Sảng thì cũng thôi, nhưng gã thủ hạ Phùng Tích Phạm của y, con dê đực ấy mới thật là ghê gớm, chúng ta đều bị y coi thường. Huynh đệ nhớ lại, nỗi giận này thật là nuốt không trôi”.

Mấy tên thị vệ bên cạnh nghe thấy, cùng lên tiếng phụ họa, nói “Hôm nay bọn ta nhìn thấy, ai cũng tức giận. Vi đại nhân không cần phiền não, mọi người cứ tìm tới nhà y. Y là một tên hàng tướng thua trận, còn dám lớn mật sính cường ở Bắc Kinh, loại người vô pháp vô thiên ấy chúng ta lại tha cho à?”. Đám thị vệ càng nói càng tức giận, đều nói phải lập tức tới phá phủ bá tước của Phùng Tích Phạm.

Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta tính con rùa đen này thì không thể công khai tìm tới, nếu để quan Ngự sử biết được, dâng một tờ tâu lên, thì tiếng tăm của Ngự tiền thị vệ không được tốt lắm”. Đa Long vội nói “Phải, phải, huynh đệ lo lắng rất đúng”. Vi Tiểu Bảo nói “Đa đại ca cũng không cần đích thân xuất mã, mời Trương đại ca và Triệu đại ca dắt người đi”, rồi nhìn qua Trương Khang Niên và Triệu Tề Hiền nói “Các ngươi giả làm thủ hạ của Thái Đô thống Tiền phong doanh, nói có việc gấp mời con rùa đen Phùng Tích Phạm tới thương nghị. Y cho dù trong lòng ngờ vực cũng không dám không đi. Đi được nửa đường thì cùm tay khóa chân, bịt vải đen lên mắt, nút miệng y lại, dắt đi một vòng qua Đông thành Tây thành, sau cùng mới mang về đây. Mọi người dần cho y một trận, lột hết quần áo y, đem tới bỏ lên giường dì thái thái của Thái Đô thống”.

Bọn thị vệ cười ầm lên, luôn miệng khen là diệu kế. Ngự tiền thị vệ và quan quân Tiền phong doanh trước nay bất hòa, gặp nhau là thường xô xát, Đô thống Tiền phong doanh vốn là A Xích Tế, hôm trước bị Vi Tiểu Bảo dùng kế giam vào thiên lao, về sau tuy được thả ra nhưng Khang Hy trách y vô dụng, làm việc bất lực nên đã cách chức, Đô thống hiện nay họ Thái. Đa Long và Thái Đô thống minh tranh ám đấu đã ầm ĩ từ lâu, chỉ là chẳng ai làm gì được ai.

Đa Long lại càng trong lòng mừng rơn, nói “Thằng đầy tớ lão Thái ấy sợ vợ, cưới hầu thiếp không dám đưa về nhà. Dì thái thái thứ tám y mới cưới là ở Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng, buổi tối lão Thái không ngủ lại đó. Chúng ta lột trần truồng Phùng Tích Phạm ra đặt lên giường dì thái thái, lão Thái mà không uất ức suýt chết không xong. Cho dù y nghi ngờ chúng ta giở trò ma, nhưng chỉ cần mọi người không tiết lộ phong thanh thì y cũng không làm gì được”.

Lúc ấy bọn thị vệ tháo hết tiêu ký thị vệ trên người, hi hi hô hô ra cửa kéo đi.

***

Vi Tiểu Bảo và Đa Long uống rượu ngồi chờ trong sảnh. Thân binh thủ hạ của Vi Tiểu Bảo không ngừng đi nghe ngóng tin tức về báo: bọn thị vệ đã tới trước cổng phủ Trung Thành bá, tự xưng là người của Tiền phong doanh, gõ cửa cầu kiến, Phùng Tích Phạm ra đón vào, định mời bọn thị vệ uống trà, Trương Khang Niên nói vâng lệnh Thái Đô thống, có việc quân khẩn cấp ở Đài Loan mời y lập tức tới thương nghị, Phùng Tích Phạm đã lên kiệu, bọn thị vệ đưa tới Tây thành, bọn thị vệ đã cùm khóa Phùng Tích Phạm, bắt hết bọn tùy tùng y dắt theo, đoàn người đi tới Bắc thành, quân tuần đêm của Cửu môn Đề đốc xét hỏi, Triệu Tề Hiền lớn tiếng đáp là quan quân Tiền phong doanh, Phùng Tích Phạm trong kiệu nhất định nghe thấy rất rõ, mọi người đang trên đường về phủ…

Qua khoảng thời gian tàn một nén hương, bọn thị vệ giải Phùng Tích Phạm vào. Trương Khang Niên lớn tiếng nói “Khải bẩm Thái Đô thống, đã giải phạm quan Phùng Tích Phạm tới”. Vi Tiểu Bảo nắm chặt tay, ra hiệu đánh thật tàn nhẫn. Bọn thị vệ quát “Phạm quan Phùng Tích Phạm câu kết với bọn phản nghịch, mưu đồ làm việc bất pháp. Thái Đô thống có lệnh tra khảo thật nặng”, rồi lập tức quát tháo sấn vào y, tay đấm chân đá.

Phùng Tích Phạm võ công cực cao, tính nết cũng mười phần cơ cảnh, lúc bọn thị vệ giả mạo là quan quân Tiền phong doanh tới mời y đã nhìn thấy đường lối không đúng, nếu muốn chạy trốn thì bọn thị vệ tuy đông người cũng quyết không sao bắt được. Nhưng y sau khi đầu hàng được phong tước bá, nghĩ cho dù đối phương có ý làm hại nhưng hoàng đế anh minh, sẽ phân biện được, nếu mình lại trốn chạy thì không khỏi bị khép vào tội danh sợ tội bỏ trốn, từ đây tước lộc tôn vinh kể như trôi theo dòng nước, nên hoàn toàn không hề chống cự. Chỉ vì tham luyến giàu sang mà đến nỗi thân là cao thủ võ công trên đời lại bị bọn thị vệ đánh cho chết đi sống lại.

Nhìn thấy y miệng mũi chảy máu, nội thương rất nặng, Vi Tiểu Bảo vô cùng khoái trá, mối thù giết hại sư phụ đã trả được non nửa, nếu đánh nữa thì y sẽ chết, bèn xua tay ra hiệu ngừng lại, sai thân binh lột hết quần áo của y, cho y vào một cái bao nỉ. Lúc ấy Phùng Tích Phạm hơi thở thoi thóp, đã bất tỉnh nhân sự rồi.

Đa Long cười nói “Tới nhà dì thái thái thứ tám của lão Thái thôi”. Triệu Tề Hiền cười nói “Tốt nhất là cũng lột hết quần áo dì thái thái thứ tám của lão Thái ra, trói hai người vào nhau”. Bọn thị vệ rất vui vẻ, khen hay ầm ĩ. Đa Long muốn thấy dì thái thái thứ tám của Thái Đô thống lột hết quần áo thì ra sao, bèn nói “Lần này thì ta chỉ huy”.

Đoàn người vác Phùng Tích Phạm đang định xuất phát, chợt hai tên thân binh sải chân chạy mau vào bẩm với Vi Tiểu Bảo “Bẩm Vi Tước gia, nhà ngoài của Thái Đô thống ở Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng đang ầm ĩ long trời lở đất, có người đánh nhau”.

Bọn thị vệ giật nảy mình, đều nghĩ “Sao lại tiết lộ phong thanh ra được? Thái Đô thống đã có phòng bị, chuyện này rủi ro rồi”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Ai đánh nhau?”. Một tên thân binh nói “Tám người bọn tiểu nhân vâng lệnh đại nhân do thám ở trước sau Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng, chợt thấy một đội nương tử quân, tất cả hơn ba mươi người…”. Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Cái gì mà nương tử quân?”. Tên thân binh kia nói “Bẩm đại nhân, đại đội người này toàn là phụ nữ bàn chân to, người cầm chày giã tiêu, người cầm thước may áo, người cầm then cửa đòn gánh, xông vào nhà ngoài của Thái Đô thống, ầm ầm chát chát đập phá loạn lên, lôi một nương tử nhỏ không còn xinh đẹp ra lấy roi da đánh túi bụi”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện này mới là kỳ quái! Đi thám thính lại xem!”. Hai tên thân binh vâng dạ bước ra.

Tiếp đó toán thám tử thứ hai về báo “Bẩm đại nhân, Thái Đô thống cưỡi khoái mã, đã tới Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng. Y còn chưa kịp mặc xong quần áo, chân trái đi giày, chân phải thì không. Nguyên là người suất lãnh đội nương tử quân tấn công Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng chính là phu nhân của Thái Đô thống”.

Mọi người nghe tới đó cùng cười phá lên, mới biết phu nhân của Thái Đô thống lên cơn ghen, tới phá nhà ngoài của y.

Tên thân binh kia nói tới đó cũng không nhịn cười được, lại nói tiếp “Vị thái thái kia túm Thái Đô thống chát chát đánh hai tát tai, kế đá thêm một cước, rất là ghê gớm. Thái Đô thống khom người vái dài, luôn miệng nói: Xin thái thái bớt giận!”.

Đa Long hoa chân múa tay nói “Phen này thì lão Thái chịu khổ rồi!”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đại ca, ngươi mau suất lãnh người ngựa tới đó khuyên can. Phen này lão Thái bị ngươi túm được bím tóc, bảo đảm Tiền phong doanh của y từ nay trở đi không dám đối đầu với Ngự tiền thị vệ chúng ta nữa đâu”.

Đa Long được y một câu thức tỉnh, trong lúc cả mừng giơ tay đập mạnh vào trán mình một cái, cười nói “Ta lại ngu ngốc thế đấy! Co hội tốt thế này cũng không biết nắm lấy. Các anh em, mọi người đi xem nhiệt náo đi”, rồi suất lãnh bọn thị vệ chạy mau tới Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng.

***

Vi Tiểu Bảo nhìn Phùng Tích Phạm dưới đất, ngẫm nghĩ “Thằng đầy tớ này thì xử trí làm sao là tốt? Tha y ra xong nhất định y sẽ bẩm cáo với hoàng thượng. Cho dù không có bằng chứng gì là mình, ắt hoàng thượng cũng đoán được là mình ra tay”. Y chắp tay sau lưng, đi qua đi lại trong sảnh, lại nghĩ “Trời sáng là phải xử chém Mao đại ca, có cách nào cứu được tính mạng y không? Cướp pháp trường như trong vở Đại Danh phủ thì không được rồi. Cướp pháp trường, cướp pháp trường…”.

Đột nhiên lại nhớ tới một vở tuồng khác “Pháp trường hoán tử! Đúng rồi! Tiết Cương gây họa, cả nhà chết chém, có lão già Từ gì đó râu trắng đem con ruột mình đánh tráo đứa nhỏ Tiết gì đó trong pháp trường ra…”.

Y xem không ít tuồng hát, tên các nhân vật trong vở thì không nhớ rõ lắm, nhưng cốt truyện thì nhớ rất rõ ràng. Vừa nhớ tới vở Pháp trường hoán tử, lại nhớ tới một vở khác Sưu cô cứu cô. “Chuyện này cũng không khác lắm, có một người tên Trình Anh râu đen, đem con trai mình thay vào con chủ, để con mình bị giết mà cứu sống được con chủ. Nhưng không làm thế được, may mà Mao đại ca tuổi tác khác hẳn con mình, nếu không mà bảo mình đem Hổ Đầu, Đồng Trùy tới pháp trường giết đi, đổi Mao đại ca ra, tuy nói bạn bè nghĩa khí là trọng, nhưng những việc như thế thì mình ngàn vạn lần không sao làm được. Tốt lắm, tốt lắm!”. Y đá mạnh một cước vào Phùng Tích Phạm dưới đất, nói “Ngươi thật may mắn, Vi đại nhân nhận ngươi làm con nuôi. Con ruột thì Vi đại nhân không bỏ được, chứ con nuôi thì thương qua loa thôi”.

Lúc ấy lập tức gọi Đội trưởng thân binh vào, thì thào dặn dò một lượt, thưởng y một ngàn lượng bạc, lại đưa thêm một ngàn lượng để y chia cho số thân binh lo việc còn lại. Viên Đội trưởng khom người cảm tạ, nói “Xin đại nhân cứ yên tâm, tất cả sẽ thu xếp chu đáo, quyết không có gì sơ suất đâu”.

Vi Tiểu Bảo sắp xếp xong, đi vào nội đường. Bảy người vợ và các con đã được thái hậu triệu kiến vào cung, trong phòng vắng ngắt, y để cả quần áo nằm xuống giường một lúc, không bao lâu thì trời sáng.

Đến giờ Thìn, trong cung truyền chỉ ra nói “Giang dương đại đạo Mao Thập Bát đại nghịch bất đạo, nhục mạ đại thần, lập tức xử trảm, sai Phủ viễn đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo làm giám trảm”.

Vi Tiểu Bảo nghênh tiếp chỉ dụ, điểm thân binh ra chờ ngoài cổng phủ, chỉ thấy Đa Long suất lãnh mấy mươi tên Ngự tiền thị vệ áp giải Mao Thập Bát tới.

Mao Thập Bát mắt bầm mũi sưng, trên mặt đầy máu, hiển nhiên là bị tra khảo. Y vừa thấy Vi Tiểu Bảo là ngoác miệng chửi lớn “Vi Tiểu Bảo, thằng tiểu Hán gian vô sỉ nhà ngươi, hôm nay ngươi làm giám trảm quan chém đầu lão tử, lão tử chết đi không oan uổng chút nào. Ai bảo hôm ấy ta mù, dắt thằng tiểu Hán gian ngươi từ ổ điếm ở Dương Châu lên Bắc Kinh?”. Bọn thân binh lớn tiếng quát tháo, nhưng Mao Thập Bát càng chửi càng hung dữ.

Vi Tiểu Bảo không đếm xỉa gì tới y, hỏi Đa Long “Lão Thái thế nào?”. Đa Long cười nói “Tối qua lúc ta tới nơi, lão Thái đã bị phu nhân cào cấu tới mức máu me đầy mặt. Y vừa nhìn thấy ta, dáng vẻ vô cùng thảm hại. Ta vừa dỗ dành vừa dọa dẫm, khuyên giải phu nhân y, lại đón dì thái thái thứ tám của y về nhà ta, sai hai người tiểu thiếp làm bạn với cô ta. Lão Thái cảm ơn luôn miệng, rất là cảm kích”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Vị dì thái thái thứ tám ấy dung mạo ra sao?”. Đa Long giơ ngón tay cái lên nói “Ha ha, khá lắm!”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nhưng ngươi không được thấy sắc động tâm, nhân lúc cháy nhà xông vào hôi của đấy”. Đa Long hô hô cười rộ, nói “Huynh đệ cứ yên một trăm hai mươi cái tâm đi, đại ca của ngươi đâu lại kém cỏi thế? Tuy lão Thái đối đầu với ta, nhưng những việc như thế thì Đa đại ca ngươi không làm đâu”.

Lúc ấy hai người giải Mao Thập Bát ra pháp trường chỗ cửa chợ Thái Thị. Đa Long cưỡi ngựa, Vi Tiểu Bảo đi một chiếc xe ngựa lớn. Mao Thập Bát ngồi trong một chiếc xe bò bỏ mui, hai tay bị trói, trên cổ cắm một tấm biển gỗ viết “Khâm phạm Mao Thập Bát bị xử chém”. Chiếc xe bò từ phố lớn Loa Mã thị đi về phía tây, bách tính nhao nhao kéo ra xem. Mao Thập Bát dọc đường vừa la vừa hát, kêu lớn “Mười tám năm sau lão tử sẽ lại là một trang hảo hán. Sở dĩ ta lấy tên Mao Thập Bát vì đã sớm biết là phải bị chém đầu”. Bách tính hai bên đường lớn tiếng khen ngợi, khen y “Giỏi lắm, là một hán tử cứng cỏi”.

Tới pháp trường cửa chợ Thái Thị ở ngã tư phố lớn Loa Mã thị và phố lớn Tuyên Vũ môn, thân binh của Vi Tiểu Bảo đã dựng xong rạp và hàng rào trước sau trong đêm, canh gác cực kỳ nghiêm mật. Đa Long được Khang Hy dặn dò, sợ người Thiên Địa hội tới cướp pháp trường, đã báo cho Cửu môn Đề đốc phái hai ngàn quân tới canh giữ chung quanh.

Mao Thập Bát hiên ngang đứng giữa pháp trường, quát lớn “Chúng ta đều là bách tính Đại Hán, giang sơn tươi đẹp này lại bị người Thát Đát chiếm cứ, thế nào phải có một ngày giết sạch quân Thát Đát”.

Vi Tiểu Bảo xuống xe vào rạp, chiếc xe dừng ở cạnh rạp. Vi Tiểu Bảo lên bục, mời Đa Long ngồi bên cạnh. Đa Long cau này nói “Tên phạm nhân này toàn nói những lời đại nghịch bất đạo, kích động nhân tâm ở đây, chúng ta phải chém y mau đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng”, rồi quát “Mang phạm nhân ra”. Bốn tên thân binh giải Mao Thập Bát vào rạp, định bắt y quỳ xuống, nhưng Mao Thập Bát nói thế nào cũng không chịu quỳ. Vi Tiểu Bảo nói “Không cần quỳ”. Rồi quay đầu nói với Đa Long “Đại ca, tra nghiệm đúng người rồi, không lầm phải không?”. Đa Long nói “Không lầm!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Tra nghiệm đúng người, xử chém phạm nhân Mao Thập Bát”, cầm bút son lên khuyên một vòng tròn trên tấm bài gỗ ném ra ngoài. Một tên thân binh nhặt lên, giải Mao Thập Bát ra ngoài.

Vi Tiểu Bảo nói “Đa đại ca, ta cho ngươi xem một cái rất hay”. Nói xong lấy trong tay áo ra một xấp khăn tay, đưa qua trước mặt Đa Long, trên thêu một bức Xuân cung đồ, nam nữ trong tranh mặt mũi xinh đẹp, tư thế sinh động. Đa Long vừa nhìn thấy, ánh mắt lập tức bị hút vào đó, lật qua bức ấy, chiếc bên dưới lại thêu một bức khác, tư thế vô cùng kỳ lạ. Đa Long cười nói “Dáng vẻ thế này thật kỳ quái quá”, liên tiếp lật qua, nhân vật tư thế thêu trên các bức tiếp theo càng lúc càng lạ lùng, có bức một nam hai nữ, có bức lại hai nam ba nữ. Đa Long chỉ thấy máu trong người chảy rần rật, cười nói “Huynh đệ, bảo bối này ở đâu ra vậy? Ngươi bán lại cho ca ca một ít”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đây là huynh đệ kính biếu đại ca mà”. Đa Long như nhặt được vật chí bảo, mặt mày rạng rỡ luôn miệng cảm tạ, trân trọng cất xấp khăn tay vào bọc.

Đúng lúc ấy, bên ngoài bình bình liên tiếp ba tiếng pháo nổ, Đội trưởng thân binh bước vào bẩm “Đến giờ rồi, xin đại nhân giám trảm”. Vi Tiểu Bảo nói “Được” rồi đứng dậy kéo tay Đa Long bước ra ngoài rạp. Chỉ thấy Mao Thập Bát cúi đầu rũ rượi quỳ giữa pháp trường, giống như đã ngất đi. Quân đánh trống thúc trống ầm ầm, tiếng trống vừa ngừng đao phủ khoác áo hồng giơ cánh tay lên, thanh quỷ đầu đao trong tay hạ mạnh xuống, lập tức chém rơi đầu phạm nhân, chân trái phi lên đá cái đầu bay đi. Thân hình phạm nhân đổ vật ra phía trước, máu tươi từ cổ phun ra ồng ộc.

Đa Long nói “Việc sai sử đã làm xong rồi, chúng ta chia tay thôi, ta phải về gặp hoàng thượng phục chỉ”. Vi Tiểu Bảo nghẹn ngào nói “Đa đại ca, người này vốn có giao tình với ta, quả thật là vì có nghiêm chỉ của hoàng thượng, không cứu y được, ồ!”. Nói xong đưa tay áo lau nước mắt, nghẹn ngào sụt sịt khóc lóc. Đa Long thở dài nói “Huynh đệ rất có nghĩa khí. Ngươi cứ thu xếp chôn cất y cho chu đáo, thì cũng là rất tốt với người đã chết rồi”. Vi Tiểu Bảo dạ một tiếng, vẫn khóc lóc không thôi.

Vi Tiểu Bảo lấy tay áo lau nước mắt, thật ra là dùng gừng sống chuẩn bị sẵn trong tay áo quẹt lên hai mắt, cay tới mức hai mắt đỏ lên, nước mắt chảy ròng ròng, trong bụng thì cười thầm, may mà mưu kế đã thành công. Đa Long lại an ủi vài câu, đưa y lên xe rồi mới lên ngựa ra về. Đám thân binh xúm xít quanh xe, đưa y về thẳng phủ công tước. Mấy tên thân binh khác lấy chiếu cói bó thi thể phạm nhân, đặt vào một cái quan tài đã chuẩn bị sẵn bên cạnh, đậy nắp lại rồi đóng đinh lên.

Bách tính xem xử chém nhao nhao bàn tán, đều nói Mao Thập Bát trước lúc chết còn ngoác miệng chửi lớn, quả thật là anh hùng hảo hán, cũng có người sợ sệt thì lên tiếng trách móc, nói gã phạm nhân này đại nghịch bất đạo, quyết không được khen ngợi y, để khỏi chuốc họa vào thân.

Vi Tiểu Bảo về tới trước phủ thì xuống xe, chiếc xe ấy vẫn đi thẳng về phía nam, ra khỏi thành Bắc Kinh, vẫn đi về phía nam, hướng tới Dương Châu.

***

Vi Tiểu Bảo vào cung phục chỉ. Khang Hy lập tức triệu kiến. Y đã được Đa Long về báo, biết Vi Tiểu Bảo lúc giám trảm Mao Thập Bát chảy nước mắt không thôi, lúc ấy thấy y hai mắt đỏ hoe sưng vù, trong lòng cảm thấy hơi xấu hổ, lại nghĩ tới y trung thành vì chúa, rất là khó có, bèn ôn tồn an ủi mấy câu, nói “Tiểu Quế tử, số quân La Sát ngươi bắt được, phần lớn xin ta thả về nước, ta đã thả rồi, nhưng có hơn hai trăm tên tình nguyện ở lại Trung Quốc”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ở Bắc Kinh nhiệt náo vui vẻ hơn Mạc Tư Khoa, theo làm việc cho hoàng thượng thì vinh dự hơn nhiều so với theo làm việc cho gã tiểu Sa hoàng vô dụng kia”. Khang Hy mỉm cười nói “Ta phiên chế số quân La Sát này thành hai đội Nga La Tư Tá lãnh. Hai đội quân này cứ giao cho ngươi quản lãnh thôi. Ngươi phải quản thúc cho tốt, đừng để chúng sinh sự ở Bắc Kinh”. Vi Tiểu Bảo cả mừng, quỳ xuống tạ ơn.

Ra khỏi cung, hai đội quân La Sát đã chờ ở cạnh cầu Kim Thủy cửa Thái Hòa. Quân La Sát mặc trang phục quân Thanh vừa may, toàn thân sáng loáng, cũng rất oai vệ. Vi Tiểu Bảo sai thưởng mỗi người hai mươi lượng bạc, cho nghỉ ba ngày. Quân La Sát lớn tiếng “Hua ra” không ngớt.

Cuối đời Khang Hy, hai đội quân La Sát này vẫn phục dịch trong quân Thanh, vô cùng trung thành. Sứ thần nước ngoài tới Bắc Kinh, thấy hoàng đế Trung Quốc sai khiến quân La Sát, ai cũng kính sợ. Đến khi quân La Sát dần dần chết già, biên chế Nga La Tư Tá lãnh mới giải tán. (*)

Vi Tiểu Bảo trở về phủ, công chúa và các vị phu nhân, ba đứa con đều đã từ cung trở về, người nào cũng được thái hậu ban thưởng không ít, nhưng công chúa lại bực dọc không vui.

Vi Tiểu Bảo vừa hỏi, nguyên là thái hậu đối với bảy người nhất thị đồng nhân, tuy công chúa là con ruột nhưng bà vẫn không có nửa câu thân thiết. Vi Tiểu Bảo tự nhiên hiểu rõ nguyên cớ bên trong, nghĩ thầm “Thái hậu không đặc biệt đối xử không tốt với cô là đã nể mặt chồng cô lắm rồi”. Bèn nói “Thái hậu rất biết đại thể, chỉ sợ đối xử đặc biệt với cô, thì sáu chị em kia sẽ ghen tức”. Công chúa tức giận nói “Bà là mẹ của ta, đối xử tốt với ta, chẳng lẽ họ cũng ghen tức à?”. Vi Tiểu Bảo ôm nàng cười nói” Ta đối xử với cô đặc biệt tốt, xem họ có ghen tức không nhé”. Các vị phu nhân cười rộ. Công chúa là người thẳng tính, mọi người đùa giỡn một lúc, cũng cảm thấy thư thái trở lại.

Sau đó hơn mười ngày, vương công đại thần từng người bày yến chúc mừng Vi Tiểu Bảo, xem hát đánh bạc, không ngày nào rảnh.

Hôm ấy Đa Long tới thăm, nói Phùng Tích Phạm đã thất tung hơn mười ngày, gia nhân của y đã báo với phủ Thuận Thiên. Đa Long hạ giọng hỏi “Huynh đệ, đêm ấy chúng ta đánh y một trận, về sau ra sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Về sau đã đưa y về nhà, thằng đầy tớ ấy đi đâu rồi?”. Đa Long nói “Không phải ngươi giết y sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu ta bảo người giết y, ngươi bên cạnh nhất định cũng nhìn thấy. Đa đại ca, ngươi có nhìn thấy không?”. Đa Long vội nói “Không có, không có. Chúng ta chỉ đánh y một trận, chứ đâu có giết y?”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng đấy, huynh đệ sau khi vâng chỉ cầm quân, tuy đã giao lại chức sai sử Phó Tổng quản Ngự tiền thị vệ, nhưng chỉ cần Ngự tiền thị vệ làm việc gì, bất kể là quan hệ thế nào, huynh đệ cũng gánh vác với đại ca.

Đa Long mỉm cười nói “Làm bậy thì không có đâu. Phùng gia nhất định nói rằng đêm ấy lão Thái ở Tiền phong doanh phái người tới đón y đi, sau đó không thấy về nhà. Phủ Thuận Thiên đích thân tới gặp lão Thái, hỏi về chuyện đêm ấy. Lão Thái nhăn nhăn nhó nhó, ấp a ấp úng không muốn nói nhiều, về sau thẹn quá hóa giận, nổi nóng làm ầm lên, phủ Thuận Thiên không dám điều tra nữa”. Nói xong đứng lên, vỗ vỗ vai Vi Tiểu Bảo, cười nói “Huynh đệ, ngươi là phúc tướng. Không ngờ sự tình lại vừa khéo như thế, phu nhân của lão Thái muộn không muộn, sớm không sớm, lại đúng đêm ấy nổi cơn ghen, suất lãnh bọn nương tử quân tới đánh Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng. Như thế thì chuyện gì lão Thái cũng phải chịu rồi”. Y đoán Phùng Tích Phạm đã bị Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm giết chết, chuyện này tuy mình không dính líu gì tới, nhưng giá họa cho Đô thống Tiền phong doanh thì rất hợp ý mình.

Y nào biết phu nhân của Thái Đô thống không sớm không muộn ra quân đúng lúc ấy hoàn toàn không phải là tình cờ, mà là do Vi Tiểu Bảo tính đúng thời khắc, sai người tới báo tin cho bà ta. Y tự nhiên càng không biết Vi Tiểu Bảo đã phái thân binh dựng hai lớp vách trong rạp lúc giám trảm, giấu Phùng Tích Phạm trong đó. Đến khi tra nghiệm Mao Thập Bát xong, kéo ra ngoài rạp, Vi Tiểu Bảo lấy khăn tay thêu Xuân cung đồ ra để thu hút ánh mắt của Đa Long, bọn thân binh thủ hạ lập tức đánh tráo Mao Thập Bát và Phùng Tích Phạm. Lúc ấy Phùng Tích Phạm đã hôn mê bất tỉnh, mặt đầy máu tươi, trên người cũng mặc quần áo giống hệt Mao Thập Bát, cúi đầu quỳ xuống giữa pháp trường, lập tức bị chém đầu, diện mạo vóc dáng hai người Mao Phùng tuy khác nhau, nhưng không ai phát giác ra người bị giết thật ra là Phùng Tích Phạm.

Thân binh bọc Mao Thập Bát cho vào xe của Vi đại nhân, bịt miệng y lại, ngựa không dừng vó, đưa thẳng về Dương Châu, qua sông Hoàng Hà mới nói thật mọi chuyện với y, lại tặng y ba ngàn lượng bạc. Mao Thập Bát giữa cái chết tìm được sự sống, mất hết nhuệ khí, chỉ cảm thấy Vi Tiểu Bảo liều mạng cứu mình, hoàn toàn không phải là người không có nghĩa khí, nên cũng không nói ầm lên.

***

Vi Tiểu Bảo uống rượu mấy ngày liên tiếp, cũng hơi mệt mỏi, nhớ tới các huynh đệ trong Thiên Địa hội, nghĩ thầm hoàng đế thủ đoạn ngày càng lợi hại, mình hưởng phúc trong phủ công tước nhưng các huynh đệ trong Thanh Mộc đường thì đừng để bị hoàng đế một mẻ lưới quét sạch, phải thương lượng kế sách mới xong. Lúc ấy cải trang như công tử con nhà giàu, bảo Song Nhi giả làm tùy tùng, hai người tới Thiên Kiều, trà trộn trong đám đông nửa giờ thì thấy Từ Thiên Xuyên lưng mang rương thuốc ngồi uống trà trong một quán trà nhỏ.

Vi Tiểu Bảo lập tức bước vào quán trà, ngồi xuống đầu bàn của Từ Thiên Xuyên, hạ giọng gọi “Từ đại ca!”. Từ Thiên Xuyên đứng phắt lên, mặt đầy vẻ tức giận, sải chân bước ra ngoài. Vi Tiểu Bảo kinh ngạc, cũng bước ra theo, thấy Từ Thiên Xuyên đi vào chỗ vắng, lập tức cùng Song Nhi bám theo phía sau.

Từ Thiên Xuyên đi qua ba con hẻm, vòng qua hai phố nhỏ, tới trước một hẻm nhỏ, đầu hẻm có hai cây ngân hạnh lớn. Y bước vào hẻm, tới trước căn nhà thứ năm gõ cửa mấy cái. Chỗ cánh cửa mở có Phàn Cương bước ra. Y vừa thấy Vi Tiểu Bảo, đang sửng sốt thì trên mặt cũng đã đầy vẻ tức giận. Vi Tiểu Bảo bước lên cười nói “Phàn đại ca, chào ngươi!”. Phàn Cương hừ một tiếng, cũng không trả lời. Từ Thiên Xuyên làm mặt lạnh, hỏi “Vi đại nhân, ngươi mang binh mã tới bắt bọn ta phải không?”.

Vi Tiểu Bảo vội nói “Từ tam ca… tại… tại sao lại nói đùa như thế?”. Phàn Cương rảo chân bước ra ngoài hẻm nhìn quanh, rồi trở vào nhà, đóng cửa lại. Vi Tiểu Bảo và Song Nhi theo hai người vào viện, vào tới đại sảnh, chỉ thấy bọn Lý Lực Thế, Kỳ Thanh Bưu, Huyền Trinh đạo nhân, Cao Ngạn Siêu, Tiền Lão Bản đang tụ họp trong đó. Mọi người vừa thấy Vi Tiểu Bảo đều “A” lên một tiếng, đứng phắt cả dậy.

Vi Tiểu Bảo chắp tay nói “Các vị ca ca, mọi người đều khỏe chứ?”. Huyền Trinh đạo nhân giận dữ nói “Bọn ta còn chưa bị ngươi hại chết, tính ra cũng còn khỏe!”. Soạt một tiếng, rút bội kiếm ở lưng ra. Vi Tiểu Bảo lùi lại một bước, run lên nói “Các… các ngươi tại sao lại đối xử với ta… với ta như thế? Ta có chuyện gì không… không phải với các ngươi đâu?”.

Huyền Trinh đạo nhân cao giọng giận dữ nói “Tổng đà chủ bị ngươi hại chết, Phong nhị ca cũng bị ngươi hại chết, mấy hôm trước ngươi lại giết Mao Thập Bát! Bọn… bọn ta chỉ hận không rút gân lột da ngươi được thôi”. Vi Tiểu Bảo cả sợ, vội nói “Không… không có chuyện ấy, đó đều là giả mà”. Huyền Trinh sấn tới một bước, tay trái chụp cổ áo y, cao giọng nói “Bọn ta đang không nghĩ ra được cách nào giết ngươi, thì ngươi… thằng tiểu Hán gian ngươi hôm nay lại tới cửa nộp mạng, đúng là Tổng đà chủ trên trời khôn thiêng”.

Vi Tiểu Bảo thấy tình thế không xong, quay đầu lại định thi triển công phu Thần hành bách biến, chạy là thượng sách, lại thấy Từ Thiên Xuyên và Phàn Cương hai người tay cầm binh khí đứng sau lưng mình, đành nói “Mọi người đều là huynh đệ, cần gì… cần gì phải nóng nảy như thế?”, Huyền Trinh nói “Ai xưng huynh gọi đệ với thằng tiểu Hán gian nhà ngươi? Thằng tiểu quỷ ngươi hoa ngôn xảo ngữ, chẳng có chỗ nào đáng nghe cả. Trước hết cứ móc bộ lòng chó của ngươi ra tế Tổng đà chủ và Phong nhị ca rồi sẽ nói chuyện”. Tay trái rút lại một cái, kéo y vào sát người mình. Vi Tiểu Bảo la lớn “Oan uổng quá, oan uổng quá!”.

Song Nhi nhìn thấy nguy cấp, rút đoản thương La Sát trong bọc ra, chĩa lên nóc nhà đoàng một tiếng bắn luôn một phát, trong phòng lập tức khói bay mù mịt, kế đó chụp hậu tâm Vi Tiểu Bảo, dùng sức kéo một cái. Huyền Trinh năm xưa từng nếm mùi đau khổ vì hỏa khí Tây dương, cha anh đều chết vì hỏa khí, vừa nghe tiếng súng, trong lòng rúng động, Vi Tiểu Bảo đã bị Song Nhi giật mất.

Song Nhi nhảy lên một góc nóc nhà, đứng chặn trước mặt Vi Tiểu Bảo, chĩa súng vào mọi người quát “Các ngươi có biết nói lý lẽ không?”.

Huyền Trinh hai mắt đỏ ngầu, quát lớn “Mọi người xông lên, liều mạng với chúng đi!”. Rồi vung kiếm sấn tới, Tiền Lão Bản đưa tay kéo lại, nói “Đạo trưởng, khoan đã!”, rồi nói với Song Nhi “Ngươi có lý lẽ gì thì nói ra nghe thử”.

Song Nhi nói “Được!”. Lúc ấy bèn nói việc Vi Tiểu Bảo vì cứu Trần Cận Nam và các hảo hán mà phải xuất vong thế nào, bị Thần Long giáo bắt lên đảo Thông Ngật, Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm hai người giết chết thế nào, Phong Tế Trung mưu phản bại lộ bị mình bắn chết thế nào, nhất nhất kể lại. Nàng không phải là người mồm mép lanh lợi, nói năng rất không dễ nghe, nhưng quần hào tiếp xúc với nàng lâu ngày, biết nàng tính tình thật thà, lại thấy nàng thuận miệng kể ra, không hề có chút ngần ngừ, bao nhiêu tình tiết như thế không phải trong phút chốc có thể bịa đặt ra được, Vi Tiểu Bảo vì cứu giúp mọi người mà bị cách chức quan, phủ bá tước bị đại pháo bắn tan tành, mọi người vốn đã đích thân trải qua, lại nhớ kỹ lại việc làm của Phong Tế Trung, quả nhiên tất cả đều phù hợp, bất giác đều tin tưởng.

Huyền Trinh nói “Nếu như thế, thì tại sao trong thánh… thánh… con mẹ nó thánh chỉ của hoàng đế Thát Đát lại nói Vi Hương chủ hại chết Tổng đà chủ?”. Y đổi giọng gọi là “Vi Hương chủ”, đủ thấy trong lòng đã tin được chín phần. Song Nhi lắc đầu nói “Chuyện đó thì ta không biết”. Kỳ Thanh Bưu nói “Đây là âm mưu của hoàng đế Thát Đát, muốn Vi Hương chủ một đao cắt đứt với bản hội, từ nay trở đi dốc lòng làm quan lớn của người Thát Đát”.

Từ Thiên Xuyên nói “Lời Kỳ huynh đệ nói không sai”, rồi tra đao vào vỏ, hai gối cong lại quỳ xuống trước mặt Vi Tiểu Bảo, nói “Cả đám bọn ta rất ngu xuẩn hồ đồ lỗ mãng, đắc tội với Vi Hương chủ, đáng chết hàng vạn lần, xin cam tâm chịu phạt”. Quần hào cũng đều nhất tề quỳ xuống, Huyền Trinh tát vào mặt mình mấy cái, nói “Đáng chết, đáng chết!”.

Vi Tiểu Bảo và Song Nhi vội quỳ xuống đáp lễ. Vi Tiểu Bảo vừa định thần, nói “Xin các vị ca ca đứng lên, có câu Không biết thì không bắt tội. Nhất thời lầm lẫn thì có hề gì?”. Quần hào đứng lên, lại lên tiếng xin lỗi. Vi Tiểu Bảo lúc ấy rất đắc ý, hoa chân múa tay kể lại mọi chuyện. Y kể tự nhiên rõ ràng sinh động, chuyện gì cũng vô cùng nguy hiểm nhưng trong tai quần hào thì khó tin hơn lời Song Nhi nhiều.

Quần hào chụm đầu ghé tai bàn bạc một hồi, Lý Lực Thế nói “Vi Hương chủ, Tổng đà chủ bất hạnh bị gian nhân hại chết, Thiên Địa hội quần long vô thủ, huynh đệ mười đường đang bàn suy cử chức Tổng đà chủ. Huynh đệ trong Thanh Mộc đường chúng ta muốn suy cử ngươi làm Tổng đà chủ. Chỉ là sợ huynh đệ trong chín đường kia không phục, có khi lại có người mang lòng nghi kỵ , nên mọi người muốn mời ngươi lập một công lao”.

Vi Tiểu Bảo xua tay lia lịa, nói “Chức Tổng đà chủ thì nhất định là ta không làm được”, nhưng lại nảy ý tò mò, hỏi “Nhưng không biết các vị muốn ta lập công lao gì?”. Lý Lực Thế nói “Loạn Tam phiên đã yên, Đài Loan lại bị người Thát Đát chiếm rồi, người La Sát phía bắc cũng bị Vi Hương chủ đánh lui, đại nghiệp phản Thanh phục Minh của chúng ta càng lúc càng khó”. Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nói “Đúng thế”, nhưng trong lòng lại nghĩ “Đã là khó thì mọi người cứ ngãng ra, không làm việc phản Thanh phục Minh là xong”.

Lý Lực Thế nói “Hoàng đế Thát Đát tuy còn nhỏ tuổi nhưng mười phần tinh minh tài giỏi, lại biết thu phục nhân tâm. Bách tính thiên hạ đối với tiền triều đã dần dần lãng quên. Nếu cứ chần chừ thêm vài năm, chỉ e ngai vàng của người Thát Đát càng thêm yên ổn”. Vi Tiểu Bảo lại thở dài một tiếng, nói “Đúng thế”, nghĩ thầm “Tiểu Huyền tử ngai vàng yên ổn cũng không có gì là không tốt”. Lý Lực Thế nói “Vi Hương chủ rất được hoàng đế tin dùng, mọi người xin ngươi nghĩ cách mang các huynh đệ trà trộn vào cung hành thích hoàng đế Thát Đát”.

Vi Tiểu Bảo cả kinh, run lên nói “Chuyện… chuyện ấy không làm được đâu”. Phàn Cương nói “Xin hỏi Vi Hương chủ, không biết bên trong có chỗ nào khó khăn?”. Vi Tiểu Bảo nói “Trong hoàng cung có rất đông thị vệ, lại có Kiêu kỵ doanh, Tiền phong doanh, Hộ quân doanh, Hỏa khí doanh, Kiện nhuệ doanh, Hồ thương doanh bảo giá, không làm bừa được. Chỉ nói thị vệ thôi cũng đã có Ngự tiền thị vệ, Càn Thanh môn thị vệ, Tam kỳ thị vệ. Hôm trước Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ Quy lão gia anh hùng như thế mà còn thất thủ mất mạng, huống chi là ta? Muốn hành thích hoàng thượng thì đúng là trên chuyện khó chồng thêm chuyện khó”.

Quần hào nghe y thẳng thừng từ chối, đã rất không vui, lại nghe y nói hai chữ “hoàng thượng” đầy hơi hám nô tài, ai cũng lộ vẻ tức giận.

Phàn Cương đưa mắt nhìn mọi người một cái rồi nói với Vi Tiểu Bảo “Vi Hương chủ, hành thích hoàng đế Thát Đát dĩ nhiên rất khó, nhưng do ngươi chủ trì đại cuộc, cũng không phải tuyệt nhiên không có hy vọng thành công. Anh em bọn ta mà đã vào cung thì không ai mong còn sống trở ra, nhưng bất kể thế nào cũng phải bảo vệ cho Vi Hương chủ được bình an. Ngươi từng lập không ít công lao cho bản hội, trong mười mấy vạn huynh đệ của bản hội quả thật không có ai bằng được ngươi. Thiên Địa hội và người Thát Đát không đội trời chung, từ nay trở đi trọng trách phản Thanh phục Minh toàn nhờ vào Vi Hương chủ gánh vác”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Chuyện đó thì ta nhất định không làm. Hoàng thượng muốn ta tiêu diệt Thiên Địa hội, ta không chịu làm, đó là biết nghĩa khí. Các ngươi muốn ta hành thích hoàng thượng, ta cũng không làm, đó cũng là biết nghĩa khí”.

Huyền Trinh tức giận nói “Ngươi là người Hán mà lại biết nghĩa khí với hoàng đế Thát Đát, vậy không phải là… không phải là Hán…”. Y vốn định chửi ra hai chữ “Hán gian”, nhưng rốt lại vẫn nhịn được. Phàn Cương nói “Chuyện này mười phần trọng đại. Vi Hương chủ khó mà ưng thuận được ngay lập tức, đó cũng là chuyện thường. Xin ngươi cứ suy nghĩ kỹ , rồi sẽ sai bảo mọi người là được”.

Vi Tiểu Bảo vội nói “Được, được! Ta sẽ về suy nghĩ kỹ , ta sẽ về suy nghĩ kỹ ”.

Từ Thiên Xuyên thấy y không có chút nào thật lòng, bèn nói “Chỉ mong Vi Hương chủ đừng quên di chí của cố Tổng đà chủ, không quên thảm họa vong quốc, phàm người Hán chúng ta thì quyết không thể làm nô tài cho người Thát Đát”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, đúng, chuyện đó thì không thể quên được”. Quần hào biết y nói không thật lòng, ai cũng im lặng.

Vi Tiểu Bảo nhìn nhìn người này, ngó ngó người kia, cười nói “Các vị ca ca sao không ai nói gì cả thế?”. Quần hào cũng không ai lên tiếng. Vi Tiểu Bảo cảm thấy cụt hứng, trong lòng nhột nhạt, liền nói “Vậy hôm nay chúng ta tạm thời chia tay, để ta về suy nghĩ kỹ rồi sẽ tới bàn với các vị đại ca”, nói xong đứng dậy. Quần hào đưa y ra tới đầu hẻm, cung kính làm lễ từ biệt.

(*) Xét : về tình tiết liên quan tới việc tù binh La Sát phiên chế vào quân Thanh, xin xem Du Chính Quy, Quý Tỵ loại cảo, quyển 9 Nga La Tư Tá lãnh khảo. Tiếu Nhất Sơn trong Thanh đại thông sử nói “Tù binh về kinh sư, Huyền Hoa tha cho, phiên chế làm Tả Lãnh, là quân người Nga La Tư, con cháu hiện nay vẫn còn”. Vậy thì quân Nga La Tư có người lấy phụ nữ Trung Quốc sinh con đẻ cái.

Hồi 50: Ngạc ở đầu mây nguyên chẳng thật – Hồng bay ngoài cõi lại càng xa

Vi Tiểu Bảo về tới phủ, ngồi trong phòng buồn bã, đến sau giờ Ngọ, trong cung có chỉ truyền ra, hoàng thượng triệu kiến.

Vi Tiểu Bảo tới Thượng thư phòng khấu kiến. Khang Hy hỏi “Phùng Tích Phạm đột nhiên thất tung, rốt lại là có chuyện gì?”. Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, nghĩ thầm “Tại sao lại hỏi mình?”. Bèn nói “Tâu hoàng thượng, hôm Phùng Tích Phạm thất tung, nô tài cùng Đa Tổng quản và các Ngự tiền thị vệ cùng chơi đùa một chỗ, về sau nghe nói Thái Đô thống ở Tiền phong doanh tìm được Phùng Tích Phạm, nhưng không biết thế nào Phùng Tích Phạm đột nhiên mất hút, người Đài Loan đầu hàng cứ úp úp mở mở, hành sự rất cổ quái, biết đâu đang ngấm ngầm mưu đồ làm việc bất pháp, để nô tài đi tra xét kỹ lại”.

Khang Hy cười khẽ một tiếng, nói “Được, cứ giao ngươi tra xét cho rõ ràng nơi Phùng Tích Phạm hạ lạc rồi lập tức hồi báo. Ta đã hứa bảo vệ cho người Đài Loan đầu hàng được yên ổn. Người này đột nhiên thất tung không minh bạch, nếu không có bằng chứng thì có thể làm ta thất tín với thiên hạ”. Vi Tiểu Bảo đổ mồ hôi trán, nghĩ thầm “Hoàng thượng nặng lời quá, chẳng lẽ y biết mình giết Phùng Tích Phạm?”, chỉ đành ứng tiếng “Vâng, vâng!”.

Khang Hy lại hỏi “Sáng nay ngươi tới Ngân Hạnh Hồ đồng, chơi có vui không?”.

Vi Tiểu Bảo sửng sốt, nói “Ngân Hạnh Hồ đồng à?”. Lập tức nhớ lại đầu hẻm chỗ quần hào Thiên Địa hội trú ngụ có hai cây ngân hạnh lớn, xem ra con hẻm ấy cũng gọi là Ngân Hạnh Hồ đồng, hoàng đế ngay cả tên hẻm cũng biết thì còn gì mà giấu giếm nữa? Lúc ấy y toàn thân toát mồ hôi lạnh, hai chân nhũn ra, lập tức quỳ xuống, dập đầu nói “Hoàng thượng sáng suốt thấy rõ vạn dặm, nói tóm lại thì nô tài đối với người vẫn một tấm lòng trung”.

Khang Hy thở dài một tiếng, nói “Bọn phản tặc kia ép ngươi tới hại ta, ngươi nói thế nào cũng không chịu nghe theo, rất có nghĩa khí với ta, nhưng mà… nhưng mà Tiểu Quế tử, ngươi suốt đời suốt kiếp thủy chung vẫn hai chân đứng hai thuyền sao?”.

Vi Tiểu Bảo dập đầu lia lịa, nói “Hoàng thượng minh giám, chức Tổng đà chủ của Thiên Địa hội thì nô tài quyết ý không làm, hoàng thượng cứ yên một trăm hai mươi cái tâm”.

Khang Hy lại thở dài một tiếng, ngẩng đầu lên trời, xuất thần hồi lâu rồi thong thả nói “Ta làm hoàng đế Trung Quốc, tuy không sánh được với Nghiêu Thuấn Võ Thang nhưng cũng thương yêu bách tính, siêng năng trị đạo, trong các hoàng đế nhà Minh có ai hơn ta không? Hiện nay Tam phiên đã bình, Đài Loan đã lấy, nước La Sát không dám tới xâm phạm biên giới, từ đây thiên hạ thái bình, bách tính an cư lạc nghiệp. Bọn phản tặc Thiên Địa hội lại muốn khôi phục nhà Minh, chẳng lẽ bách tính dưới thời hoàng đế nhà Minh cai trị lại sống tốt hơn hiện nay à?”.

Vi Tiểu Bảo tự nhủ “Chuyện đó thì ta không biết”, liền nói “Nô tài nghe đám hát rong Phượng Dương hoa cổ hát cái gì Từ khi xuất hiện Chu hoàng đế, Mười năm có chín mất mùa rồi, Nhà giàu còn có ruộng để bán, Nhà nghèo chỉ biết bán con thôi. Hiện nay gió hòa mưa thuận, quốc thái dân an, hoàng thượng Điểu Sinh Ngư Thang, Chu hoàng đế còn cách người mười tám vạn dặm, vỗ ngựa cũng đuổi theo không kịp”.

Khang Hy cười khẽ một tiếng nói “Ngươi đứng lên đi”. Rồi đứng lên đi đi lại lại trong thư phòng, nói “Phụ hoàng là người Mãn Châu, Hiếu Khang hoàng hậu mẹ ruột của ta là Kỳ nhân người Hán, thì ta một nửa là người Hán. Ta đối với bách tính trong thiên hạ nhất thị đồng nhân, quyết không có chút nào coi thường người Hán, tại sao họ cứ căm hận ta, không giết ta thì không được?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Bọn phản tặc ấy đại nghịch bất đạo, rất là hồ đồ, hoàng thượng không cần để ý tới họ”.

Khang Hy lắc lắc đầu, trên mặt chợt hiện ra dáng vẻ tịch mịch thê lương, hồi lâu mới nói “Người Mãn có kẻ tốt kẻ xấu, người Hán cũng có kẻ tốt kẻ xấu. Người xấu trên đời rất nhiều, giết cũng giết không hết, mà muốn cảm hóa họ theo về nẻo chính thì ta cũng không có bản lĩnh lớn như vậy. Ồ, làm hoàng đế thật là khó quá”. Rồi ngưng thần nhìn Vi Tiểu Bảo một lúc, nói “Ngươi về đi!”.

***

Vi Tiểu Bảo dập đầu lạy chào trở ra, chỉ cảm thấy toàn thân mát rượi, nguyên là mới rồi sợ toát mồ hôi, quần áo lót đều ướt đẫm, ra khỏi cửa cung mới thở phào một hơi, ngẫm nghĩ “Trong anh em Thiên Địa hội có gian tế trà trộn vào. Giết được Phong Tế Trung lại nảy ra thêm người khác. Nếu không thế thì họ muốn mình tới hành thích hoàng thượng, tại sao y biết được chứ? Nhưng không biết ai là gian tế?”, về tới phủ, ngồi xuống ngẫm nghĩ, không tìm được chút đầu mối nào.

Lại nghĩ “Hoàng thượng giao cho mình điều tra nơi hạ lạc của Phùng Tích Phạm, xem dáng vẻ hoàng thượng thì y nghi mình ra tay, chỉ có điều không nắm chắc. Tại sao lại nảy ra chuyện này? Mới rồi ở Ngân Hạnh Hồ đồng Song Nhi nói việc mình đánh tráo trong pháp trường để cứu Mao đại ca, may là trước đó mình chưa nói với nàng là dùng Phùng Tích Phạm để đánh tráo, nếu không thì con nha đầu thật thà ấy đã thuận miệng nói ra, gã gian tế kia bẩm báo với hoàng thượng, tước Lộc Đỉnh công của mình mà không bị giáng xuống luôn mười bảy hăm tám cấp thì quả thật mình không phải họ Vi”.

Y nghĩ đông nghĩ tây, vô cùng phiền não. Lại nhớ tới trước kia vào cung, cười cười nói nói với Khang Hy, hai đứa trẻ đều rất vui vẻ, bây giờ ai cũng đã lớn, hoàng thượng ngày càng oai nghiêm, mình lại có nhiều câu ăn nói quàng xiên, hoảng sợ tới mức không nói ra lời, làm chức Phủ viễn đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh công này xem ra không có gì thú vị, lại không bằng lúc nhỏ làm một thằng hầu tiêu dao khoái hoạt trong Lệ Xuân viện.

Y tự nhủ “Các huynh đệ trong Thiên Địa hội ép mình đi hành thích hoàng thượng, hoàng thượng thì ép mình đi tiêu diệt Thiên Địa hội. Hoàng thượng nói: Tiểu Quế tử, ngươi suốt đời suốt kiếp thủy chung vẫn hai chân đứng hai thuyền sao? Con bà nó, lão tử không làm đâu! Chuyện gì cũng không làm!”. Trong lòng vừa xuất hiện năm chữ “Lão tử không làm đâu”, đột nhiên cảm thấy vô cùng thoải mái tự tại, mò trong bọc lấy xúc xắc ra gieo lên bàn một cái, miệng lẩm bẩm “Nếu có thể không làm, thì gieo được nước Mãn đường hồng!”. Bốn hạt xúc xắc xoay tròn dừng lại, ba hạt ra mặt đỏ, hạt thứ tư lại ra điểm sáu, đen tới mức không thể đen hơn. Lúc y gieo xúc xắc vốn đã động thủ cước, mà vẫn không gieo được. Y chửi một câu “Con mẹ nó!”, rồi nắm xúc xắc lên gieo lại, mãi đến lần thứ tám mới được bốn mặt toàn đỏ, vui mừng nói “Nguyên là ông trời muốn mình trước sau làm tám việc lớn cho hoàng thượng, lúc ấy mới cho không làm việc này”.

Y tự nhủ “Đã làm được bảy việc lớn rồi. Giết Ngao Bái là việc thứ nhất, cứu Lão hoàng gia là việc thứ hai, đứng chắn trước mặt hoàng thượng cứu giá trên Ngũ Đài sơn là việc thứ ba, cứu thái hậu là việc thứ tư, việc thứ năm là liên lạc với Mông Cổ Tây Vực, việc thứ sáu là phá Thần Long giáo, việc thứ bảy là bắt Ngô Ứng Hùng, việc thứ tám là tiến cử Trương Dũng, Triệu Lương Đống phá Ngô Tam Quế, việc thứ chín là tấn công Nhã Khắc Tát…, nhiều quá rồi, nhiều quá rồi, chuyện nhỏ không tính, việc lớn không nhiều không ít, vừa đúng bảy cái”. Lúc ấy cũng lười tính lại xem bảy việc nào mới là việc lớn, tóm lại là “Lão tử không làm đâu!”.

“Một là không làm quan, hai là không làm phản, vậy lão tử làm gì?”. Nghĩ tới nghĩ lui, thì trở về Dương Châu là vui nhất.

Vừa nghĩ tới việc trở về Dương Châu, bất giác trong lòng vui sướng, gọi một tiếng “Người đâu!”. Y sai thân binh mang rượu thịt lên, tự rót tự uống, tính toán nên làm thế nào mới không có hậu hoạn, để Khang Hy không phái người tới bắt mà Thiên Địa hội cũng không ép mình cùng làm phản nữa. Muốn công chúa theo mình tới Dương Châu trời hoa đất rượu thì nhất định nàng không chịu, có điều muốn về Dương Châu mở kỹ viện, chỉ e Tô Thuyên, A Kha, Phương Di, Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu đều không ưng thuận. “Được, chúng ta đi một bước tính một bước, lão tử gia sản có mấy trăm vạn lượng bạc, không mở kỹ viện cũng không chết đói, chỉ là không có gì vui thôi”.

Đến buổi tiệc tối trong phủ, bảy vị phu nhân thấy y vô cùng cao hứng, cười nói râm ran, chuyện trò vui vẻ khác hẳn dáng vẻ rầu rĩ mấy hôm gần đây, đều hỏi “Có chuyện gì mà vui vẻ thế?”. Vi Tiểu Bảo nói “Thiên cơ không thể tiết lộ”. Công chúa hỏi “Hoàng đế ca ca thăng chức cho ngươi à?”, Tăng Nhu hỏi “Đánh bạc thắng lớn phải không?”. Song Nhi hỏi “Chuyện trong Thiên Địa hội không phiền phức chứ gì?”. A Kha nói “Phì, gã khốn này nhất định lại vừa ý cô nương nhà nào, muốn cưới về làm phu nhân thứ tám rồi”. Vi Tiểu Bảo chỉ lắc đầu.

Các phu nhân hỏi riết, Vi Tiểu Bảo nói “Vốn ta không định nói, nhưng các cô nhất định muốn hỏi, đành phải nói ra thôi”. Bảy vị phu nhân dừng đũa lắng nghe. Vi Tiểu Bảo nghiêm trang nói “Ta làm quan lớn, được phong tới tước công mà một chữ cũng không biết, quả thật rất không ra gì. Ta định bắt đầu từ ngày mai học chữ làm văn, thi Trạng nguyên làm Hàn lâm”.

Bảy vị phu nhân ngớ mặt nhìn nhau rồi cười ầm lên. Mọi người đều biết vị phu quân này giết người đốt nhà, trộm cướp lừa đảo thì chuyện gì cũng làm được, nhưng trên đời có một chuyện duy nhất y không làm được là đọc sách biết chữ.

***

Sáng sớm hôm sau, phủ Thuận Thiên tới bái phỏng, nói vâng lời dụ của thượng cấp, biết hoàng thượng ủy phái Vi công gia tra xét việc Trung Thành bá Phùng Tích Phạm thất tung, nên vội tới hầu nghe lệnh.

Vi Tiểu Bảo nhướng mày hỏi “Nha môn phủ Thuận Thiên ngươi có rất nhiều bổ khoái công sai, vậy mấy hôm nay đã tra xét ra manh mối gì rồi?”.

Viên Tri phủ nói “Bẩm công gia, Phùng tước gia thất tung, sự tình mười phần nhiêu khê, ty chức mấy hôm liền đốc thúc bọn bổ khoái công khai điều tra, bí mật dò hỏi nhưng vẫn không có chút đầu mối nào, quả thật vô cùng lo lắng. Hôm nay được biết hoàng thượng có đặc chỉ khâm mệnh Vi công gia chủ trì, ty chức mừng còn hơn được thăng luôn ba cấp. Vi công gia là đại thần anh hùng tài năng đệ nhất của bản triều, lên ngựa coi quân, xuống ngựa coi dân, bất kể đại sự khó khăn tới đâu mà vào tay công gia cũng lập tức trôi chảy thông suốt. Ty chức được theo hầu công gia tra xét vụ án này, quả thật là tổ tiên tích đức. Trong nha môn của ty chức ai cũng để tay lên trán ca tụng, đều nói thế thì hay rồi, chúng ta dưới cây to có bóng mát rồi. Vi công gia xuất mã, ngay bọn quỷ La Sát cũng bị đánh tơi bời cắm đầu chạy trốn, còn sợ không tra xét ra được nơi hạ lạc của Phùng bá tước sao?”.

Vi Tiểu Bảo nghe viên Tri phủ hết lời tâng bốc, nói thật mười phần dễ nghe, nhưng thật ra là đẩy hết trách nhiệm qua vai mình, nghĩ thầm “Không biết xác Phùng Tích Phạm chôn ở đâu, tối nay phải dùng Hóa thi phấn tiêu hủy, đừng để người ta nắm được chuôi. Chỉ cần không có chứng cứ thì không ai trút tội lên đầu mình được. Lẽ ra phải tiêu hủy cái xác từ sớm rồi, vì mấy hôm nay bận quá nên không nghĩ tới chuyện này. Nhưng trước mặt hoàng thượng lấy gì mà đưa ra? Chuyện hoàng thượng sai sử, Tiểu Quế tử ta không phải khoác lác, chứ trước nay không có chuyện gì không có kết quả hồi báo”.

Viên Tri phủ lại nói “Phu nhân Trung Thành bá hàng ngày cứ sai người tới nha môn của ty chức, ngồi ỳ ra không đi, chờ để đòi người. Ty chức quả thật khó mà ứng phó. Hôm qua Phùng phủ lại tới báo, nói một người tiểu thiếp của bá gia tên Lan Hương gì đó trốn đi với một tên mã phu, cuỗm đi không ít nữ trang vàng bạc. Nếu Trung Thành bá còn không hiện thân, chỉ e tỳ thiếp nô bộc trong nhà sẽ trốn sạch không còn một ai”.

Vi Tiểu Bảo hừ một tiếng, nói “Không biết Phùng Tích Phạm trốn ở đâu để phong lưu khoái hoạt, ngươi hãy phái nhiều người tới ổ điếm các nơi tra xét. Y uống rượu đánh bạc chơi gái không chịu về nhà, vợ bé trốn theo người khác, tính ra cũng đáng kiếp”. Viên Tri phủ nói “Vâng, vâng. Theo lẽ mà nói, nếu Phùng tước gia chơi bời ở đường hoa ngõ liễu thì qua nhiều ngày rồi, cũng nên về mới phải”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện đó khó nói lắm. Thằng khốn Phùng Tích Phạm ấy là một con quỷ già hiếu sắc, không phải bậc chính nhân quân tử như lão huynh, tới ổ điếm chỉ chơi một ngày nửa buổi thôi đâu”. Viên Tri phủ vội cười lấy lòng nói “Ty chức không dám, ty chức không dám”.

Đúng lúc ấy, Trung Thành bá Phùng phu nhân sai anh em bà ta đưa tám món lễ vật tới, nói muốn dập đầu lạy Vi công gia để cảm tạ Vi công gia ra sức tra án. Vi Tiểu Bảo dặn cản lại không cho vào gặp, lễ vật cũng không nhận.

Thân binh vào báo “Bẩm đại nhân, người của Phùng gia rất vô lễ, lúc về cứ không ngừng cười nhạt, nói nào là có oán báo oán, có thù báo thù, lại nói hoàng thượng đã biết được rất nhiều chuyện, cuối cùng chân tướng sẽ bộc lộ, người khác đừng mong đem hai tay che mặt trời, giấu giếm thiên tử thánh minh. Bẩm đại nhân, người ấy to gan dám tới cổng chúng ta gây sự, lúc ấy bọn tiểu nhân chỉ muốn tát y vài cái”. Hôm trước tráo người ở pháp trường, tên thân binh này cũng tham gia vào việc ấy, nghe người của Phùng phủ ăn nói ghê gớm, tựa hồ đã đoán được nội tình, nên bất giác trong lòng run sợ.

Vi Tiểu Bảo có tật giật mình, bất giác hơi biến sắc, nghĩ thầm “Vụ này vỡ lở ra, chỉ e trò lòe bịp không bại lộ không xong. Con bà ngươi, Phùng Tích Phạm đã bị lão tử giết chết, chẳng lẽ lão tử lại sợ mụ vơ của con ma chết à?”.

Đột nhiên y nghĩ ra được chủ ý, lập tức mặt mày rạng rỡ, nói với viên Tri phủ “Quý phủ đừng đi vội, cứ ngồi đây đợi ta một lúc”. Rồi quay vào nhà trong, gọi Đội trưởng thân binh tới, dặn dò như thế như thế. Viên Đội trưởng thân binh vâng dạ quay đi.

Vi Tiểu Bảo quay ra đại sảnh, nói “Hoàng thượng sai ta lo liệu chuyện này, chúng ta là nô tài, tự nhiên phải tận tâm kiệt lực, báo đáp thánh chúa. Chúng ta hãy tới Phùng gia tra xét”. Viên Tri phủ kinh ngạc, nghĩ thầm “Trung Thành bá thất tung, tại sao phải tra xét nhà y?”, nhưng ngoài miệng liên tiếp vâng dạ. Vi Tiểu Bảo nói “Vụ án này mười phần khó khăn, chúng ta hỏi kỹ từng người từng người lớn nhỏ trong Phùng gia thì có được manh mối cũng chưa biết chừng”. Viên Tri phủ nói “Vâng, ý công gia rất đúng. Ty chức thật ngu xuẩn, thủy chung không nghĩ tới”.

Thật ra với một chức Tri phủ nhỏ nhoi như y thì làm sao dám tới phủ Trung Thành bá tra xét? Đồng thời trong nha môn phủ Thuận Thiên từ trên xuống dưới ai cũng biết Phùng Tích Phạm là kẻ đối đầu với Phủ viễn đại tướng quân Vi công gia, người này thất tung, mười phần có tới tám chín là do Vi công gia sai người hại chết. Vi công gia là bề tôi được tin cậy nhất trong triều lúc bấy giờ, tay cầm binh quyền, ai dám to gan tới đập ruồi trên đầu cọp? Cho nên điều tra vụ này không ai dám làm rõ sự thật, chỉ mong kéo dài ngày tháng, sau cùng không kết thúc được thì kết thúc thôi. Lúc ấy viên Tri phủ nghĩ thầm “Vi công gia hại chết Phùng tước gia, còn muốn tới làm khó người nhà y. Phùng phu nhân cũng quá không hiểu biết, lại sai người tới cửa ăn nói bừa bãi, cũng khó trách Vi công gia nổi giận”.

Vi Tiểu Bảo hội đồng với Tri phủ Thuận Thiên, ngồi kiệu tám người khiêng tới phủ Trung Thành bá, chỉ thấy mấy trăm tên thân binh đã vây kín vòng trong vòng ngoài. Vào tới trong phủ, Đội trưởng thân binh bước lên bẩm “Bẩm đại nhân, người nhà Phùng gia tất cả có chín mươi bảy người, đều đang ở Tây sảnh chờ đại nhân tra hỏi”. Vi Tiểu Bảo gật đầu, viên Đội trưởng thân binh lại nói “Bẩm đại nhân, công đường đặt bên Đông sảnh”.

Vi Tiểu Bảo bước vào Đông sảnh, thấy bàn ghế hỏi cung đã xếp đặt đâu vào đấy, lúc ấy ngồi vào ghế giữa, bảo Tri phủ ngồi phía dưới bồi tiếp.

Thân binh dắt một cô gái trẻ tuổi vào, tuổi khoảng hai mươi ba hai mươi bốn, cũng khá xinh đẹp, tha tha thướt thướt quỳ xuống trước công đường. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cô là ai?”. Cô gái nói “Tiện thiếp là tiểu thiếp thứ năm của bá tước đại nhân”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời đứng dậy, xin mời ngồi, chứ cô quỳ trước mặt thì ta không dám nhận”. Cô gái kia ngần ngừ không dám đứng lên, Vi Tiểu Bảo bèn đứng lên, cười nói “Cô không đứng dậy, thì ta cũng phải quỳ xuống trước mặt cô”. Cô gái cười duyên một cái rồi đứng lên, Vi Tiểu Bảo mới ngồi xuống.

Viên Tri phủ nghĩ thầm “Vi công gia đối với người trong Phùng gia không hề hung dữ, có điều mê sắc thì rất không trang trọng”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Cô tên gì?”. Cô gái nói “Tôi tên Cúc Phương”. Vi Tiểu Bảo hít hít mấy cái, cười nói “Tên đẹp quá! Chẳng trách gì cô vừa bước vào, ở đây đã sực nức mùi hoa cúc”. Cúc Phương lại cười một tiếng, nũng nịu nói “Công gia nói đùa rồi”. Vi Tiểu Bảo nghiêng đầu ngoẹo cổ nhìn nàng một lúc rồi hỏi “Nghe nói trong quý phủ có một vị di nương bỏ trốn phải không?”. Cúc Phương nói “Đúng thế. Thị tên Lan Hương. Hừ, con tiện nhân ấy thật vô sĩ”. Vi Tiểu Bảo nói “Ông chồng đột nhiên không thấy đâu, trốn theo người đàn ông khác, ờ, kể ra về tình cũng có thể tha thứ, chưa chắc… chưa chắc…”, rồi quay qua hỏi viên Tri phủ “Chưa chắc cái gì sai?”. Tri phủ nói “Bẩm công gia, Chưa chắc quá sai”.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Đúng rồi, Chưa chắc quá sai. Cúc Phương tỷ tỷ, sao cô không bỏ trốn?”. Viên Tri phủ nghe thấy, lập tức cau mày nghĩ thầm “Thế này thì càng lúc càng không ra lời lẽ gì nữa, tại sao lại nói ra hai chữ tỷ tỷ ấy?”.

Cúc Phương cúi đầu, nhưng liếc Vi Tiểu Bảo một cái.

Vi Tiểu Bảo rất vui vẻ, giống như đang tới chơi trong ổ điếm, cười nói “Cô có biết hát bài Thập…”, câu nói đã ra tới miệng nhưng nuốt xuống cũng nhanh, quay qua sai thân binh “Thưởng cho cô nương Cúc Phương này hai mươi lượng bạc”. Mấy tên thân binh đồng thanh dạ ran, nói lớn “Đại nhân có thưởng. Mau tạ ơn đi!”. Cúc Phương khép nép chúc câu Vạn phúc, rồi nũng nịu nói “Đa tạ đại gia!”. Té ra cô ta vốn là kỹ nữ xuất thân, người ta vừa thưởng tiền, cô ta tập quán thành tự nhiên, gọi luôn “Công gia” là “Đại gia”.

Vi Tiểu Bảo lại gọi người nhà Phùng gia tới hỏi cung, đều là phụ nữ. Người trẻ tuổi xinh đẹp thì y hỏi lung tung một hồi, người già nua xấu xí thì y chửi xối xả một trận, nói họ không biết hầu hạ bá tước chu đáo, đến nỗi y bỏ ra ngoài phong lưu khoái hoạt, không chịu về nhà.

Hỏi được nửa giờ, viên Đội trưởng thân binh bước vào trong sảnh, tới đứng sau lưng Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo lại hỏi quấy quá thêm hai người, rồi đứng lên nói “Chúng ta đi các nơi xem xem”. Rồi dắt Tri phủ, Văn án phủ Thuận Thiên, đầu mục bổ khoái, thân binh vào từng gian sảnh đường, phòng ốc tra xét.

Tra xét hết phòng thứ ba qua phòng thứ tư, đám thân binh theo lệ dốc rương đổ hòm ra tra xét. Một tên thân binh chợt “A” một tiếng, lấy ra dưới đáy rương một lưỡi dao, trên dao có nhiều vết máu đã khô. Y quỳ một chân xuống, hai tay nâng lưỡi dao lên, nói “Bẩm đại nhân, tìm ra được một vật hung khí”.

Vi Tiểu Bảo ờ một tiếng, nói “Tiếp tục tra xét”, rồi nói với Tri phủ “Lão huynh nhìn thử xem, trên dao có phải là vết máu không?”. Viên Tri phủ đón lấy lưỡi dao đưa lên mũi ngửi ngửi, quả nhiên thoang thoảng có mùi tanh, bèn nói “Bẩm công gia, dường như là máu”. Vi Tiểu Bảo nói “Trên mũi lưỡi dao này có một chỗ khuyết, là dao gì thế?”. Viên Văn án phủ Thuận Thiên nhìn kỹ một lúc, nói “Bẩm công gia, là dao cắt cỏ, dùng trong chuồng ngựa”. Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Té ra là thế”.

Viên Đội trưởng thân binh sai thuộc hạ múc một gánh nước vào đổ xuống đất. Vi Tiểu Bảo hỏi “Để làm gì vậy?”. Viên Đội trưởng nói “Bẩm đại nhân, nếu chỗ nào đã bị cuốc lên, đất không rắn chắc, thì nước sẽ thấm xuống mau hơn”. Chưa dứt lời thì thấy nước dưới gầm giường đã mau lẹ thấm xuống đất. Bọn thân binh đồng thanh reo hò, khiêng chiếc giường ra, lấy cuốc chim và xẻng đào xuống, không bao lâu đào lên được một cái xác chết.

Cái xác này không có đầu, cũng đã thối rữa, rõ ràng đã chết nhiều ngày, trên người mặc công phục tước bá, viên Tri phủ vừa nhìn thấy liền kêu lên “Đây… đây là Phùng tước gia!”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Là Phùng Tích Phạm à? Làm sao ngươi nhận ra được?”. Viên Tri phủ nói “Vâng, vâng. Còn phải tìm ra cái đầu mới có thể định án”. Rồi quay qua nói với viên đầu mục bổ khoái “Đây là phòng của ai?”.

Viên đầu mục nói “Để tiểu nhân đi hỏi ngay”, rồi qua Tây sảnh gọi một người nhà Phùng gia ra hỏi, té ra đó là phòng của Lan Hương đã bỏ trốn. Viên đầu mục bổ khoái nói “Bẩm công gia, bẩm Phủ đài đại nhân, lưỡi dao gây án là dao cắt cỏ trong chuồng ngựa, người dắt Lan Hương bỏ trốn là mã phu trong phủ tên Hình Tứ, để tiểu nhân xuống chuồng ngựa tra xét”.

Mọi người xuống chuồng ngựa tra xét một lượt, quả nhiên đào được dưới máng cỏ một cái đầu người. Bèn mời Phùng phu nhân tới nhận xác, quả đúng là Phùng Tích Phạm không nghi ngờ gì nữa. Lúc ấy bèn lập biên bản là Phùng Tích Phạm bị người ta dùng dao giết chết, đầu một nơi thân một nẻo.

Lúc ấy người nhà Phùng phủ đều từ Tây sảnh đổ ra, trong phủ tiếng khóc vang trời, ai cũng chửi mắng Hình Tứ và Lan Hương nhẫn tâm giết chủ. Tin tức truyền ra, không đầy nửa ngày, trong thành Bắc Kinh đâu đâu cũng xôn xao bàn tán.

Viên Tri phủ vừa xấu hổ vừa cảm kích, nghĩ thầm nếu không phải là Vi công gia phá án mau lẹ, thì e tiền trình của mình khó khăn rất lớn, hết lời tạ ơn xong, một mặt phát công văn tróc nã Hình Tứ và Lan Hương “Giết chủ bỏ trốn”, một mặt báo cáo lên thượng ty.

Chỉ có viên đầu mục bổ khoái trong lòng nghi ngờ, thấy chỗ cổ bị chặt rất ngay ngắn, dường như là bị khoái đao chứ không phải dao cắt cỏ chém, lại thấy dấu đất chỗ chôn xác và chôn đầu còn rất mới, rõ ràng vừa mới đào lên, không phải đã chôn mười mấy ngày. Nhưng Vi công gia phá cho y một vụ án lớn như thế, quan trên khao thưởng hậu tứ, Phùng phủ lại đưa y không ít tiền bạc, bảo y mau lẹ kết thúc vụ án, đừng để thân nhân họ Phùng tới nha môn nói ra nói vào, y cũng đã vô cùng nghi ngờ, nhưng làm sao nói ra nửa câu? Chỉ một mình ngẫm nghĩ “Lúc tra xét trong Phùng phủ, thân binh của Vi công gia canh giữ các nơi, không cho ai đi lại, họ muốn dời xác làm bằng chứng thật quá dễ dàng. Đừng nói là chôn một cái xác xuống đất, cho dù chôn một trăm lẻ tám cái cũng không phải là khó”.

Vi Tiểu Bảo cầm tờ công văn kết thúc vụ án của Tri phủ Thuận Thiên tới gặp Khang Hy, bẩm báo tình hình phá án.

Khang Hy cười khẽ một tiếng, nói “Tiểu Quế tử, bản lĩnh phá án của ngươi thật không nhỏ, mọi người đều khen ngươi là Bao Long Đồ tái sinh đấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Đây là nhờ hồng phúc của hoàng thượng, nô tài may mắn làm được mà thôi”. Khang Hy hừ một tiếng, trừng mắt nhìn y, lạnh lùng nói “Việc di hoa tiếp mộc không liên can gì tới hồng phúc của ta cả”.

Vi Tiểu Bảo hoảng sợ nhảy dựng lên, nghĩ thầm “Tại sao hoàng thượng biết được?”, vừa xoay chuyển ý nghĩ, lập tức hiểu ra “Trong đội thân binh của mình đương nhiên cũng có mật thám của hoàng thượng phái tới”. Đang không biết trả lời thế nào là tốt, thì Khang Hy thở dài một tiếng, nói “Kết thúc như thế cũng rất hay, cũng tránh khỏi bên ngoài bàn tán. Có điều ngươi lớn mật làm càn như vậy, mà quả thật ta cũng không sao khép ngươi vào tội phạm pháp”.

Vi Tiểu Bảo trong lòng chợt nhẹ nhõm, biết hoàng đế lại tha thứ cho mình lần này, lập tức quỳ xuống dập đầu lia lịa.

Khang Hy nói “Hiện nay bốn bể thái bình, không có binh cách, hàm Phủ viễn đại tướng quân của ngươi có thể bỏ đi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng”, biết là hoàng đế trừng phạt mình về tội gây chuyện bừa bãi, lại nói “Tước Lộc Đỉnh công nhất đẳng của nô tài cũng nên giáng xuống một cấp”. Khang Hy nói “Được, vậy thì giáng xuống tước công nhị đẳng”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài làm việc bừa bãi, trong lòng không yên, xin hoàng thượng giáng xuống tước công tam đẳng”.

Khang Hy hô hô cười rộ, nói “Con mẹ nó, ngươi mà cũng trong lòng không yên thì mặt trời mọc ở phía tây”.

Vi Tiểu Bảo nghe thấy ba chữ “Con mẹ nó”, biết hoàng thượng khí giận đã tiêu tan, bèn đứng lên nói “Nô tài tuy không có nhiều lương tâm, nhưng tóm lại vẫn có”.

Khang Hy gật gật đầu, nói “Chính vì thấy ngươi còn có chút lương tâm, nếu không ta đã sớm chặt đầu ngươi, đem chôn dưới gầm giường phu nhân A Kha, Song Nhi của ngươi lâu rồi”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Cái đó thì ngàn vạn lần không được”. Khang Hy hỏi “Tại sao lại không được?”. Vi Tiểu Bảo nói “A Kha và Song Nhi nhất định không bỏ trốn theo mã phu đâu”. Khang Hy cười nói “Không trốn theo mã phu thì trốn theo…”, nói tới đó lập tức im bặt, nghĩ thầm nếu nói tiếp thì không khỏi có chỗ khinh bạc không hay, huống hồ tuy Vi Tiểu Bảo là kẻ vô pháp vô thiên nhưng rốt lại vẫn trung thành với mình, giữa vua tôi có thể nói đùa, nhưng không thể mở miệng làm nhục. Nhất thời khó nói qua chuyện khác, bèn không đếm xỉa gì tới y nữa, cúi đầu đọc duyệt tấu chương trên bàn.

Vi Tiểu Bảo buông tay đứng hầu, chỉ thấy Khang Hy hơi cau mày, có vẻ rất lo lắng, nghĩ thầm “Hoàng thượng cũng thường không vui vẻ. Hoàng đế tuy rất oai phong, nhưng nếu làm hoàng đế thật, cũng không thấy có chỗ nào hay”.

Khang Hy giở qua tấu chương một lúc, ngẩng đầu lên thở dài một tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng có chuyện gì, cứ sai nô tài đi làm là được. Nô tài lấy công chuộc tội, báo đáp long ân”. Khang Hy nói “Chuyện này thì không sai ngươi được. Thi Lang dâng tờ tâu nói Đài Loan bị bão lớn, đất bằng nước ngập bốn thước, nhà cửa bách tính tổn hại, nhà tan người chết, tình hình rất nghiêm trọng”.

Vi Tiểu Bảo thấy lúc y nói nước mắt rưng rưng, nghĩ hai người là bạn bè với nhau từ nhỏ, không thể không giúp y một lần, liền nói “Nô tài có một cách”. Khang Hy nói “Cách gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không giấu gì hoàng thượng, lúc nô tài làm quan ở Đài Loan có vớ được một khoản bổng nhỏ, gần đây nhất lại đòi được một món nợ cũ của một vị tài chủ Đài Loan. Nô tài hai tay bưng bát cơm bằng vàng đã vỡ lại lành của hoàng thượng ban cho, kiếp này nhất định không sợ chết đói, có nhiều tiền cũng không làm gì, chẳng bằng dâng lên, xin hoàng thượng lấy đó chẩn tuất cho nạn dân ở Đài Loan là được”.

Khang Hy cười khẽ một tiếng, nói “Nạn dân bị thiên tai rất nhiều, món tiền nhỏ ấy của ngươi cũng chẳng làm gì được. Ta sẽ tức khắc hạ chỉ tiết giảm cái ăn cái mặc của cung nữ và thái giám trong cung, để Nội vụ phủ tính toán, bớt ra bốn năm mươi vạn lượng bạc cứu tế nạn dân”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài tội đáng muôn chết, đúng là không thể giấu giếm”. Khang Hy hỏi “Cái gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài làm quan tham ô, lúc ở Đài Loan vớ được một trăm vạn lượng bạc. Món nợ gần đây là đòi Trịnh Khắc Sảng trả, lại có một trăm vạn lượng nữa…”. Khang Hy giật nảy mình, nói “Nhiều đến thế à?”. Vi Tiểu Bảo khẽ tát vào mặt mình, mắng “Tiểu Quế tử đáng chết”.

Khang Hy lại cười ầm lên, nói “Bản lĩnh kiếm tiền của ngươi cao minh thật đấy, ta không biết gì cả”.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Tiểu Quế tử đáng chết”, nhưng trên mặt có vẻ đắc ý, nghĩ thầm “Người làm quan thò tay lấy tiền, làm sao để cho hoàng thượng ngươi biết được? Thám tử ngươi phái tới trà trộn trong bọn thủ hạ của ta chỉ có thể tra xét xem ta có dám làm phản hay không. Em rể ngươi tay phải lấy tiền, tay trái bỏ túi, ngay em gái ngươi cũng không biết, thì ông anh vợ nhà ngươi càng ngàn vạn lần không tra xét được”. Y ngoài miệng tự xưng là “Nô tài” nhưng trong lòng thì tự coi là “Em rể”.

Khang Hy trầm ngâm một lúc, nói “Tấm lòng trung quân ái dân của ngươi lần này cũng khó mà có được. Thôi thế này, ngươi quyên một trăm năm mươi vạn lượng bạc, ta bớt cho năm mươi vạn lượng, vua tôi chúng ta góp chung được hai trăm vạn lượng. Nạn dân Đài Loan có một vạn vài ngàn hộ, mỗi nhà được hơn một trăm lượng thì cũng khá dư dật rồi”.

Vi Tiểu Bảo nhất thời khích động, khảng khái quyên tiền, trong lòng đang xót của, nghe Khang Hy bớt cho năm mươi vạn lượng, lập tức cả mừng, vội nói “Vâng, vâng. Hoàng thượng thương dân như con, trời cao sẽ phù hộ cho hoàng thượng gió hòa mưa thuận, quốc thái dân an”.

Khang Hy vì Đài Loan bị thiên tai nặng nề, suốt nửa ngày trong lòng xốn xang, lúc ấy bỗng không lại được một món tiền lớn, vô cùng vui vẻ, cười khẽ nói “Cũng phù hộ cho ngươi thăng quan phát tài, đa phúc đa thọ”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đa tạ kim khẩu của Vạn tuế gia. Nô tài thăng quan phát tài, đa phúc đa thọ, toàn nhờ hoàng thượng ân tứ. Mà nói lại thì hai khoản tiền ấy của nô tài vốn đều là của người Đài Loan, trả lại cho bách tính Đài Loan chẳng qua cũng là Ngọc bích về… về Đài thôi”. Khang Hy hô hô cười rộ, nói “Thành ngữ Ngọc bích về Triệu, con mẹ nó, lại bị ngươi sửa ra Ngọc bích về Đài”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng, Ngọc bích về Triệu, nô tài nhất thời không nhớ ra chữ Triệu. Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trần Vương. Trong Bách gia tính thì họ Triệu được kể đầu tiên, chẳng trách gì họ phát đạt, té ra Ngọc bích gì đó đều về cả họ Triệu”.

Khang Hy lại càng buồn cười, nghĩ thầm người này “bất học hữu thuật”, cũng không muốn dạy y quá nhiều, cười nói “Rất đúng, rất đúng. Có câu thành ngữ gọi là Vi biên tam tuyệt, nói họ Vi ngươi đọc sách dụng công, học vấn rất cao, họ Vi các ngươi cũng không kém đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài học vấn kém cỏi, rất có lỗi với tổ tiên họ Vi”. (*)

Khang Hy nói “Việc đi Đài Loan chẩn tai lần này…”, vốn định thuận lý thành chương phái y đi, nhưng xoay chuyển ý nghĩ, lại nghĩ “Người này quyên một món tiền lớn như thế, chẳng qua chỉ là có nghĩa khí với mình chứ chưa chắc đã thật sự có lòng thương dân, chỉ sợ vừa ra khỏi cửa cung đã lập tức hối hận. Y tới Đài Loan, chia hai trăm vạn lượng ra chẩn tuất nạn dân, có quá nửa là sẽ thu hồi tiền vốn để khỏi tổn thất, mà biết đâu còn khấu thêm một hai phần làm tiền lãi”. Y là tri kỷ của Vi Tiểu Bảo, lúc ấy lập tức đổi thành “… rất dễ dàng, không cần ngươi phải đích thân đi. Tiểu Quế tử, tước Lộc Đỉnh công nhất đẳng của ngươi cũng không cần phải giáng nữa, cứ theo như cũ thôi”.

Vi Tiểu Bảo quỳ xuống tạ ơn, dập đầu xong đứng lên nói “Nô tài quyên chút ít tiền bạc chẳng qua là Ngọc bích về… về Triệu Tiền Tôn Lý, mà hoàng thượng lại coi là công lao. Hoàng thượng giảm bớt cái ăn cái mặc, đó mới đúng là tiết giảm, mới đúng là không dễ”.

Khang Hy lắc đầu nói “Không đúng. Tất cả mọi thứ trong cung sử dụng, mỗi lượng bạc đều là của bách tính trong thiên hạ đưa tới. Ta ăn lộc của dân thì làm việc phải trung với dân. Sách cổ có câu Bốn bể khốn cùng, ắt lộc trời chấm dứt. Nếu quả bách tính khốn cùng đó chính là hoàng đế không tốt, trời cao nổi giận, ngôi hoàng đế của ta cũng không làm được nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện đó quyết không thể xảy ra, vạn vạn lần không thể xảy ra”. Khang Hy nói “Ngươi làm đại thần, là nhờ ân điển của ta. Ta làm hoàng đế, là nhờ ân điển của trời. Ngươi làm việc bất trung, thì ta chém đầu ngươi. Ta không làm hoàng đế tốt, trời cao cũng sẽ đổi một người khác làm thay. Sách Thượng thư có câu Hoàng thiên hậu thổ, thay đổi nguyên tử. Nguyên tử chính là hoàng đế, hoàng đế làm việc không tốt, trời sẽ giáng chức”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng. Người là Tiểu Huyền tử, té ra Huyền tử chính là hoàng đế”. Khang Hy nói “Chữ Huyền ấy không phải là chữ Nguyên”.

Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng”, nghĩ thầm “Bánh trôi hay sủi cảo, cũng không khác nhau lắm”, mà thật ra chữ Nguyên hay chữ Huyền y cũng không biết, cũng không hơi đâu phí sức phân biệt.

Khang Hy cầm một quyển sách trên bàn lên, nói “Tuần phủ Chiết Giang dâng một quyển sách gọi là Minh Di thị phỏng lục, do một người tên Hoàng Lê Châu ở Chiết Giang vừa soạn ra. Tuần phủ Chiết Giang tâu nói trong sách có rất nhiều lời lẽ đại nghịch bất đạo, muốn nghiêm khắc tra biện. Ta vừa đọc xong sách này, lại cảm thấy rất có đạo lý, đã phê dạy Tuần phủ Chiết Giang không cần đa sự”. Nói xong lật quyển sách ra, nói “Trong sách của y nói Làm vua là lấy một người phụng sự thiên hạ, không phải là lấy thiên hạ phụng sự một người, ý ấy rất hay. Y lại nói Điều thiên tử cho là đúng chưa chắc đã đúng, điều thiên tử cho là sai chưa chắc đã sai, cũng rất đúng. Người ta ai không có lỗi? Thiên tử cũng là người, lẽ nào cứ làm hoàng đế thì Cái gì cũng đúng, vĩnh viễn không sai sao?”. Khang Hy nói một hồi, thấy Vi Tiểu Bảo tuy luôn miệng vâng dạ nhưng trên mặt có vẻ ngơ ngác, bất giác nghẹn lời bật cười, nghĩ thầm “Mình nói chuyện đạo lý với thằng tiểu lưu manh này, làm sao y hiểu được? Có nói thêm thì chỉ e y lại phụ họa thêm thôi”. Lúc ấy phẩy tay trái một cái, nói “Ngươi về đi”, tay phải vẫn cầm quyển sách, miệng đọc “Cho rằng quyền hành lợi hại trong thiên hạ đều là ở ta, ta quy hết lấy cái lợi trong thiên hạ về mình, quy hết cái hại trong thiên hạ về người khác, cũng không có gì không được. Khiến người trong thiên hạ không dám tự tư, không dám tự lợi. Lấy điều riêng tư lớn của mình làm điều chung của thiên hạ, lúc đầu thì xấu hổ, lâu ngày thì yên lòng, coi thiên hạ là gia sản lớn nhất, truyền cho con cháu, thụ hưởng vô cùng”.

Vi Tiểu Bảo nghe thấy không hiểu hay ho chỗ nào, nhưng hoàng đế đang đọc sách, lại luôn miệng khen hay, há lại không nhân dịp tán dương? Thấy Khang Hy buông quyển sách xuống, bèn hỏi “Hoàng thượng, không biết trong sách ấy viết những gì, có chỗ nào hay?”.

Khang Hy nói “Y nói người làm hoàng đế phải làm cho người trong thiên hạ không thể tự tư, không thể tự lợi, chỉ riêng hoàng đế y là có thể tự tư tự lợi, nhưng điều riêng tư lớn của hoàng đế rõ ràng là điều chung lớn của thiên hạ. Người làm hoàng đế lúc đầu trong lòng cũng cảm thấy không đúng, có ít nhiều xấu hổ, nhưng về sau, tập quán thành tự nhiên, lại thấy mình rất đúng, người khác đều sai”. Vi Tiểu Bảo nói “Người ấy nói các hoàng đế xấu, chứ như hoàng thượng Điểu Sinh Ngư Thang, thì y nói lại không đúng”. Khang Hy nói “Ha ha! Kẻ làm hoàng đế ai cũng tự coi mình là Điểu Sinh Ngư Thang, có ai chịu nhận mình là hôn quân như Kiệt Trụ đâu? Huống chi bên cạnh các hôn quân trên đời nhất định có rất nhiều đại thần vô sỉ ca ngợi công đức, nịnh bợ hôn quân là Điểu Sinh Ngư Thang”. Vi Tiểu Bảo cười nói “May mà hoàng thượng là Điểu Sinh Ngư Thang hàng thật giá đúng, nói một thì không nói hai, nếu không thì nô tài đã trở thành đại thần vô sỉ rồi”.

Khang Hy giẫm chân trái một cái, cười nói “Ngươi rất có liêm sỉ, chỉ lăn tròn như quả trứng thôi!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng, nô tài xin hoàng thượng ban ân điển chuẩn cho nô tài nghỉ ngơi, về Dương Châu thăm mẹ”.

Khang Hy cười khẽ nói “Ngươi có hiếu như thế thì rất tốt. Mà nói lại thì phú quý không về cố hương, cũng như mặc áo gấm đi đêm, cũng nên trở về cho vinh dự mới phải. Ngươi đi mau về mau, đón mẹ lên Bắc Kinh ở đi. Ta sẽ dặn người viết chỉ dụ phong cho mẹ ngươi là Nhất phẩm phu nhân. Cha ngươi đã quá cố tên gì thì qua trình báo với bộ Lại, cũng sẽ truy tặng quan chức luôn. Chuyện này lẽ ra lần trước ngươi về Dương Châu đã phải làm rồi, lại gặp lúc Ngô Tam Quế làm phản, nên mới gác lại”. Y nghĩ Vi Tiểu Bảo có quá nửa là không biết tên cha viết thế nào, lúc ấy cũng không tra vấn. Khang Hy tuy anh minh nhưng về chuyện này thì mới biết một chứ không biết hai, Vi Tiểu Bảo cố nhiên không biết tên cha viết thế nào, nhưng thật ra cha y là ai y cũng không biết.

Vi Tiểu Bảo tạ ơn, ra khỏi cửa cung, về phủ lấy một trăm năm mươi vạn lượng ngân phiếu tới ngân khố bộ Hộ giao nộp, qua bộ Binh giao lại ấn Phủ viễn đại tướng quân, lại nhờ Tô Thuyên nghĩ ra một cái tên cho cha mình, cả tổ tiên ba đời, tất cả đều do vợ đặt tên, viết ra rõ ràng, đưa qua Lang trung ở Nghiệm phong ty chuyên quản việc phong tặng, tập ấm, thổ quan nối chức.

Mọi sự làm xong đâu đấy, thu thập lên đường. Vi Tiểu Bảo trong triều nhân duyên đã tốt, lại được nhà vua tin dùng, vương công đại thần mở tiệc tiễn hành, tự nhiên đủ sự nhiệt náo. Lúc lên đường y nhớ tới một trăm năm mươi vạn lượng bạc quyên góp lại xót của, bèn sai thân binh tới Trịnh Khắc Sảng đòi một trăm vạn lượng bạc “nợ cũ”, rồi mới rời kinh.

***

Theo đường cái tới Thông Châu, đổi xe lên thuyền, từ Vận Hà xuống phía nam, qua Thiên Tân, Lâm Thanh, qua Hoàng Hà, qua Tế Ninh. Hôm ấy sắp tới Hoài Âm, quan thuyền ghé vào bến Tứ Dương nghỉ đêm.

Vi Tiểu Bảo trong thuyền ăn cơm tối xong đang cùng trò chuyện với bảy vị phu nhân. Tô Thuyên nói “Tiểu Bảo, sáng mai chúng ta tới Hoài Âm rồi, thời cổ có một người tước phong là Hoài Âm hầu…”. Vi Tiểu Bảo nói “Ờ, quan tước của y không to bằng ta”. Tô Thuyên cười khẽ nói “Không phải thế đâu. Y được phong tước vương, phong là Tề vương, về sau hoàng đế sợ y làm phản, tước bỏ tước vương của y, đổi phong là Hoài Âm hầu. Người này họ Hàn tên Tín, rất là nổi tiếng”. Vi Tiểu Bảo vỗ đùi nói “Vậy thì ta biết rồi. Tiêu Hà dưới trăng đuổi Hàn Tín, Mười mặt mai phục, Bá vương biệt Ngu Cơ, những chuyện ấy đều có diễn trong rạp hát”. Tô Thuyên nói “Đúng thế. Người này bản lĩnh rất lớn, công lao cũng rất lớn, cả Sở Bá vương anh hùng như thế cũng phải thua dưới tay y. Chỉ tiếc là kết thúc không tốt, bị hoàng đế và hoàng hậu giết chết”. Vi Tiểu Bảo thở dài nói “Đáng tiếc, đáng tiếc! Tại sao hoàng đế lại giết y? Y định làm phản à?”. Tô Thuyên lắc đầu nói “Không, y không làm phản. Hoàng đế sợ y tài giỏi, sợ y làm phản”. Vi Tiểu Bảo nói “May là bản lĩnh của ta rất kém cỏi, hoàng thượng cái gì cũng hơn ta, vì thế không sợ ta. Ta chỉ có một chuyện hơn hoàng thượng, ngoài chuyện ấy ra cái gì cũng không sao bằng được”.

A Kha hỏi “Ngươi có chuyện gì hơn được hoàng đế?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta có bảy vị phu nhân như hoa như ngọc, có tìm khắp thiên hạ cũng không ra cô gái thứ tám nào xinh đẹp bằng. Hoàng thượng hồng phúc tề thiên, Vi Tiểu Bảo ta thì diễm phúc tề thiên. Vua tôi bọn ta hai người đều có chỗ tề thiên, đều có chỗ như nhau”. Y mặt dày khoác lác, bảy vị phu nhân cười rộ không ngớt.

Phương Di cười nói “Hoàng đế là hồng phúc tề thiên, còn ngươi là Tề thiên đại thánh”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, ta là Mỹ hầu vương ở động Thủy Liêm, suất lĩnh một bầy vợ khỉ, con khỉ, cháu khỉ tiêu dao”.

Đang lúc cười nói, người nhà ngoài khoang cao giọng nói “Bẩm công gia, có khách cầu kiến”. A hoàn cầm bốn tờ bái thiếp đưa vào. Tô Thuyên đón lấy nhìn qua, hạ giọng nói “Khách nhân là Cố Viêm Vũ, Tra Kế Tá, Hoàng Lê Châu, Lã Lưu Lương bốn vị”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu là bọn Cố Viêm Vũ tiên sinh thì ta không gặp không được”. Liền sai gia nhân đưa khách vào khoang thuyền lớn mời trà, rồi lập tức thay áo, bước qua gặp mặt.

Ba người Cố, Tra, Hoàng năm trước bị Ngô Chi Vinh bắt ở Dương Châu, suýt nữa không giữ được tính mạng, may được Vi Tiểu Bảo cứu sống. Lã Lưu Lương thì lần đầu tiên gặp nhau, sau lưng y còn có hai người trẻ tuổi khoảng hai mươi tuổi, là Lã Bao Trung, Lã Nghị Trung con y. Làm lễ ra mắt xong, chia ngôi chủ khách cùng ngồi, Lã Bao Trung, Lã Nghị Trung thì đứng sau lưng cha.

Cố Viêm Vũ hạ giọng nói “Vi Hương chủ, mấy người bọn ta lần này tới bái phỏng là có đại sự cần bàn. Ở bến Tứ Dương tai mắt rất đông, nói chuyện không tiện. Hay xin ngươi sai chèo thuyền ra vài dặm, ghé vào nơi vắng vẻ không người rồi sẽ nói chuyện?”.

Cố Viêm Vũ trong Sát quy đại hội ở phủ Hà Gian năm xưa từng được suy tôn là Tổng quân sư của anh hùng các lộ, rất nổi tiếng trên giang hồ, Vi Tiểu Bảo trước nay rất khâm phục y, lập tức ưng thuận, trở vào nói với bọn Tô Thuyên.

Tô Thuyên nói “Lòng đề phòng người không thể không có, thuyền của bọn ta cũng đi theo, nếu có chuyện gì, cũng dễ tiếp ứng”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ tới chuyện theo bọn Cố Viêm Vũ tới “nơi vắng vẻ không người”, trong lòng cũng hồi hộp, nếu có bảy vị phu nhân đi theo bảo giá thì chắc chắn hơn nhiều, luôn miệng khen hay, sai thuyền phu chèo hai chiếc thuyền lớn về phía nam, nói là muốn tìm chỗ phong cảnh thanh nhã trên Vận Hà uống rượu ngắm trăng, Vi công gia đã có nhã hứng, biết đâu còn muốn làm mấy bài thơ hay, số thuyền còn lại vẫn đậu ở bến Tứ Dương để chờ.

Vi Tiểu Bảo trở qua thuyền lớn tiếp khách. Hai chiếc thuyền đi về phía nam bảy tám dặm, nhìn thấy hai bên bờ đồng rộng mênh mông, trăng sáng trên trời, nhìn quanh không có ai, Vi Tiểu Bảo sai đậu lại, bảo phu thuyền trên thuyền lớn và tùy tùng đều qua thuyền sau, để khỏi ngăn trở thi hứng của Vi công gia và sáu vị tài tử.

Đợi đến lúc trong thuyền không còn người khác, bọn Cố Viêm Vũ mới lại tạ ơn cứu mạng năm xưa. Vi Tiểu Bảo khiêm tốn một hồi, rồi nói lại chuyện Ngô Lục Kỳ và Trần Cận Nam trước sau bị hại, mọi người nhìn nhau than thở không thôi.

Cố Viêm Vũ nói “Trên giang hồ nhao nhao đồn đại, đều nói Vi Hương chủ tham cầu phú quý, giết thầy cầu vinh. Mấy người Hoàng huynh, Tra huynh và huynh đệ thì biết nhất định không phải như vậy. Nghĩ lại ba người bọn ta và Vi Hương chủ vốn không quen biết, Vi Hương chủ lại chịu dấn thân vào chốn nguy hiểm, giết gã khốn nạn Ngô Chi Vinh cứu mạng bọn ta, tính tình nghĩa bạc vân thiên như thế thì sao lại giết hại ân sư chứ?”.

Tra Kế Tá nói “Lúc bọn ta nghe bằng hữu trên giang hồ nói tới chuyện này đều ra sức phân biện cho Vi Hương chủ. Họ còn nói trong thánh chỉ của hoàng đế Thát Đát đều nói như vậy, chẳng lẽ còn là giả? Nhưng Vi Hương chủ Thân ở doanh Tào lòng ở Hán, những việc mình làm đều không thể nói rõ với người ngoài. Xưa nay anh hùng hào kiệt đều phải gánh chuyện vất vả chịu lời chê trách. Ngay Chu Công là bậc đại thánh đại hiền còn bị Quản Sái gièm pha, huống chi người khác? Vì thế Vi Hương chủ cũng không cần phải để ý”. Vi Tiểu Bảo không hiểu y nói Chu Công Quản Sái gì gì, chỉ vâng vâng dạ dạ. Lã Lưu Lương nói “Vi Hương chủ một mình khổ tâm, mưu làm đại sự, vốn đã không cần người trong thiên hạ hiểu cho. Chỉ cần sau cùng làm được đại sự nghiệp kinh thiên động địa, mọi người sẽ tự biết trước đây đã trách lầm ngươi”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Mình thì làm được đại sự nghiệp gì kinh thiên động địa? Ái chà, không xong rồi, họ lại tới khuyên mình hành thích hoàng thượng. Làm sao từ chối đùn đẩy với họ mới hay? Mình cứ đóng cửa cài then trước đã”, bèn nói “Huynh đệ không có tài năng gì, học vấn càng không có, làm chuyện gì cũng phải lấy lòng cả hai bên. Huynh đệ lòng tàn ý lạnh, lần này là cáo lão về quê, từ nay trở về sau chuyện gì cũng không làm nữa”.

Lã Nghị Trung thấy y còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, lại nhơn nhơn nói câu “Cáo lão về quê”, nhịn không được phì cười một tiếng. Bọn Cố Viêm Vũ cũng thấy buồn cười, nhìn nhau mỉm cười.

Hoàng Lê Châu cười khẽ nói “Vi Hương chủ anh hùng thiếu niên, tiền đồ không thể lường được. Bọn người vô tri nhất thời hiểu lầm, không cần phải chấp”. Vi Tiểu Bảo nói “Vụ này phải chấp một chút. Hoàng tiên sinh, ngươi làm một bộ sách hay, gọi là… gọi là Minh… Minh cái gì hoa hoa lục lục?”. Hoàng Lê Châu vô cùng ngạc nhiên “Người này không biết chữ, sao lại biết tới bộ sách ấy của mình?”. Liền nói “Là Minh Di thị phỏng lục”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng rồi, đúng rồi. Trong bộ sách ấy ngươi có rất nhiều lời chửi mắng hoàng đế, có phải không?”.

Bọn Hoàng Lê Châu hoảng sợ, đều nghĩ “Ngay người này cũng biết, e lại có một vụ văn tự ngục lớn đây”.

Cố Viêm Vũ nói “Cũng không phải là chửi hoàng đế. Hoàng huynh làm bộ sách ấy kiến giải tinh tường, nói rõ đạo làm vua thì phải thế nào”.

Vi Tiểu Bảo nói “Phải rồi. Hôm ấy hoàng thượng đọc bộ sách của Hoàng tiên sinh suốt ngày, không ngừng khen ngươi viết rất hay, tặc tặc lưỡi, biết đâu sẽ mời ngươi thi Trạng nguyên, làm Tể tướng”. Hoàng Lê Châu nói “Vi Hương chủ nói đùa rồi, làm gì có chuyện ấy?”. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo bèn kể lại chuyện Khang Hy khen bộ Minh Di thị phỏng lục ra sao, mọi người mới yên tâm. Hoàng Lê Châu nói “Té ra hoàng đế Thát Đát cũng biết phân biệt thị phi”.

Vi Tiểu Bảo nhân dịp nói “Đúng đấy. Tiểu hoàng đế nói tuy y không phải là Điểu Sinh Ngư Thang nhưng so với tất cả các hoàng đế nhà Minh cũng không thua gì ai, biết đâu còn tốt hơn. Y làm hoàng đế, bách tính thiên hạ sống còn tốt hơn dưới thời Minh. Huynh đệ không có học vấn, không có kiến thức, cũng không biết y nói đúng hay sai”.

Cố Tra Hoàng Lã bốn người đưa mắt nhìn nhau, nghĩ lại hoàng đế các triều nhà Minh từ Minh Thái tổ khai quốc đến hoàng đế Sùng Trinh cuối cùng, nếu không tàn nhẫn bạo ngược thì là mê muội hồ đồ, có ai bằng được Khang Hy đâu? Bốn người bọn họ là bậc đại nho đương thời, hiểu rõ sử sách, không thể nói chuyện trái với lương tâm, bất giác đều im lặng gật đầu.

Vi Tiểu Bảo nói “Cho nên thế đấy. Hoàng đế là người tốt, huynh đệ trong Thiên Địa hội cũng là người tốt. Hoàng đế muốn ta đi tiêu diệt Thiên Địa hội, ta nhất định không làm. Các huynh đệ trong Thiên Địa hội muốn ta hành thích hoàng đế, ta cũng nhất định không làm. Kết quả hai bên đều trách móc ta, huynh đệ nghĩ tới nghĩ lui, quyết định cáo lão về quê”.

Cố Viêm Vũ nói “Vi Hương chủ, lần này bọn ta tới không phải là muốn ngươi hành thích hoàng đế”.

Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói “Vậy thì hay lắm, chỉ cần không phải là hành thích hoàng đế, còn chuyện gì khác thì huynh đệ nghĩa bất dung từ. Không biết bốn vị lão tiên sinh, hai vị tiểu tiên sinh có điều gì sai bảo?”. Cố Viêm Vũ mở cửa khoang thuyền nhìn ra ngoài, chỉ thấy bốn phía đều là một vùng tịch mịch, bèn quay lại nói “Bọn ta tới khuyên Vi Hương chủ tự làm hoàng đế”.

Chát chát một tiếng, chén trà trong tay Vi Tiểu Bảo rơi xuống đất vỡ nát, y cả kinh nói “Chuyện này… chuyện này không phải là đùa chứ?”.

Tra Kế Tá nói “Không phải chuyện đùa đâu. Mấy người bọn ta bàn bạc mấy tháng, đều cảm thấy khí số nhà Minh đã hết, bách tính trong thiên hạ đã không hướng về nhà Minh nữa. Quả thật các hoàng đế nhà Minh làm hại bách tính đến khổ, ai nghĩ lại cũng căm hận. Nhưng Thát Đát chiếm cứ giang sơn người Hán chúng ta, bắt người Hán trong thiên hạ giốc tóc kết bím, đổi mặc quần áo Di Địch, khẩu khí ấy quả thật nuốt không trôi. Vi Hương chủ tay cầm binh phù, lại được hoàng đế Thát Đát tín nhiệm, chỉ cần giương cao cờ nghĩa, tự lập làm vua, thì bách tính trong thiên hạ nhất định theo gió tìm tới”.

Vi Tiểu Bảo vẫn kinh sợ bất định, xua tay lia lịa, nói “Ta… ta không có phúc phận ấy, cũng không làm hoàng đế nổi”.

Cố Viêm Vũ nói “Vi Hương chủ là người trọng nghĩa, phúc trạch lại càng sâu. Nhìn khắp thiên hạ nếu không phải ngươi làm hoàng đế, thì trong người Hán không có kẻ thứ hai có được phúc khí ấy đâu”.

Lã Lưu Lương nói “Người Hán chúng ta đông gấp trăm lần người Mãn, một trăm người đánh một người của họ, lẽ nào lại không thắng? Ngày trước Ngô Tam Quế khởi sự, chỉ vì y là tên đại Hán gian bán rẻ giang sơn nhà Đại Minh, người Hán trong thiên hạ ai cũng nghiến răng căm hận y, nên mới không thể thành công. Vi Hương chủ trời cho người theo, gần đây nhất lại bình định được người La Sát, lập nên kỳ công chưa từng có cho Trung Quốc, thanh danh lẫy lừng như mặt trời giữa trưa. Chỉ cần Vi Hương chủ gật đầu một cái, bọn ta sẽ đi liên lạc với hảo hán giang hồ, cùng mưu việc lớn”.

Vi Tiểu Bảo tim đập thình thịch, y có nằm mơ cũng không ngờ có người tới khuyên y làm hoàng đế, ngẩn ra hồi lâu mới nói “Ta xuất thân là một gã tiểu lưu manh, bản lĩnh cầm tay chỉ là chửi người và đánh bạc, làm tướng quân đại quan, người khác trong lòng đã không phục, làm sao làm được hoàng đế? Chân mệnh thiên tử ấy là phúc khí to bằng trời. Bát tự của ta lại không đúng, tiên sinh xem bói đã nói qua, là chỉ cần ta làm hoàng đế thì không sống được quá ba ngày”.

Lã Nghị Trung nghe y ăn nói quàng xiên, lại kìm không được phì cười một tiếng.

Tra Lương Tá nói “Bát tự của Vi Hương chủ ra sao? Chúng ta đi tìm một vị tiên sinh xem bói cao minh suy đoán một phen”. Y biết Vi Tiểu Bảo không biết gì lắm, nếu dùng nghĩa lớn thuyết phục, thì y chỉ hiểu nghĩa nhỏ, không hiểu nghĩa lớn, nếu dùng đại thế ví dụ, thì y cũng chỉ hiểu tiểu thế, không hiểu đại thế. Nhưng nếu thông đồng với một tiên sinh xem bói, nói y là chân mệnh thiên tử, trong đời phải ngồi trên ngai vàng, thì biết đâu y sẽ tin.

Nào ngờ Vi Tiểu Bảo nói “Tám chữ ngày sinh tháng đẻ của ta chỉ có mẹ ta biết, về tới Dương Châu, ta sẽ hỏi lại”.

Mọi người biết y không thật lòng, chỉ là đùn đẩy.

Lã Lưu Lương nói “Phàm anh hùng hào kiệt, phần nhiều không câu nệ cái nết nhỏ. Hán Cao tổ khoát đạt đại độ, so với Vi Hương chủ còn tùy tiện hơn nhiều”. Y trong lòng là nói “Ngươi xuất thân tiểu lưu manh, chuyện đó không hề gì. Hán Cao tổ xuất thân đại lưu manh, y chửi người đánh bạc, làm chuyện bậy bạ còn nhiều hơn ngươi, nhưng rốt lại vẫn trở thành ông vua khai quốc của nhà Hán”.

Vi Tiểu Bảo chỉ xua tay nói “Mọi người là bạn tốt, ta nói thật với các ngươi”, vừa nói vừa sờ sờ lên đầu, nói “Thằng đầy tớ ăn cơm này còn muốn giữ chén cơm con mẹ nó vài mươi năm nữa. Thằng đầy tớ này trên mặt có hai con mắt, muốn dùng để nhìn gái đẹp, xem diễn kịch, có hai cái tai, muốn dùng để nghe kể chuyện, nghe ca hát. Nếu ta muốn làm hoàng đế, thì thằng khốn này có quá nửa là không giữ được, nếu bị chém rơi xuống thì là một trường hồ đồ rồi. Mà nói lại thì làm hoàng đế cũng chẳng có gì vui, Đài Loan bị một trận bão lớn, y phải lo lắng, Vân Nam có một người làm phản, y cũng đau đầu. Chức sai sử hoàng đế vừa khó làm vừa không vui, ta ngàn vạn lần không làm”.

Bọn Cố Viêm Vũ ngớ mặt nhìn nhau, nghĩ câu ấy quả thật không sai, y đã lòng không chí lớn, lại không muốn vì nước vì dân bước ra, nói thế nào cho y đổi ý quả là chuyện rất khó.

Qua hồi lâu, Cố Viêm Vũ nói “Chuyện lớn này nhất thời cũng không dễ quyết định…”.

Vừa nói tới đó, chợt nghe tiếng vó ngựa văng vẳng, có mấy mươi kỵ mã phóng trên bờ sông từ phía bắc xuống, đêm vắng người thưa, nghe thấy rất rõ ràng.

***

Hoàng Lê Châu nói “Đêm hôm khuya khoắt tại sao có đại đội nhân mã?”. Lã Lưu Lương nói “Hay là quan binh đi tuần ban đêm?”. Tra Kế Tá lắc đầu nói “Không phải. Quan binh đi tuần đêm phải đi thong thả, sao lại phóng ngựa mau như thế? Hay là hào khách giang hồ?”.

Đang nói chuyện, chợt nghe trên bờ phía đông cũng có mấy mươi kỵ mã phóng tới. Mặt sông Vận Hà không rộng, ngựa phi hai bên bờ, ở dưới thuyền giữa sông nghe thấy rất rõ. Phu thuyền ở thuyền sau vâng lệnh nhổ sào, đưa thuyền tới gần. Tô Thuyên và Song Nhi nhảy lên đầu thuyền. Tô Thuyên nói “Tướng công, e là người tới không có ý tốt, chúng ta họp lại ở một chỗ đi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Được! Bọn Cố tiên sinh đều đã lớn tuổi, xem ra không phải là kẻ hiếu sắc. Mọi người đều vào đi, để họ nhìn thấy cũng không hề gì”.

Bọn Cố Viêm Vũ đều nhủ thầm “Ăn nói bậy bạ!”, đều cảm thấy không tiện gặp mặt nữ quyến của Vi Tiểu Bảo, đều lui ra khoang sau. Bọn bảy người công chúa, A Kha bế con bước vào khoang trước.

Chỉ nghe trên hai bờ đông tây vang lên tiếng còi trúc, bên này ứng bên kia họa. Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói “Là tiếng còi của Thiên Địa hội”. Mấy mươi con ngựa trên bờ phóng tới cạnh quan thuyền, phía tây có người cao giọng gọi “Vi Tiểu Bảo ra đây!”.

Vi Tiểu Bảo hạ giọng chửi “Con mẹ nó, bọn này không biết trên dưới, cũng không gọi được một tiếng Vi Hương chủ nữa”, đang định bước ra ngoài khoang thì Tô Thuyên kéo y lại, nói “Khoan đã, để ta hỏi cho rõ ràng”. Rồi bước ra cửa khoang hỏi “Là anh hùng hảo hán ở đâu muốn tìm Vi Tướng công?”. Nhìn lên hai bên bờ, thấy những người ngồi trên ngựa đều khăn xanh bịt đầu, tay cầm binh khí.

Người đứng đầu trên bờ phía tây nói “Bọn ta là Thiên Địa hội”. Tô Thuyên hạ giọng nói “Tiếng lóng của Thiên Địa hội lúc gặp mặt nói thế nào?”. Vi Tiểu Bảo bước ra cửa khoang, cao giọng nói “Năm người chia nhau một bài thơ, Hồng Anh trên người không ai hay”.

Người trên ngựa kia nói “Đó là bài thơ cũ của Thiên Địa hội. Từ khi Vi Tiểu Bảo phản hội hàng giặc, hại thầy cầu vinh, tiếng lóng trong hội đã thay đổi cả rồi”. Vi Tiểu Bảo hoảng sợ nói “Ngươi là ai, sao lại nói như thế?”. Người kia nói “Ngươi là Vi Tiểu Bảo phải không?”. Vi Tiểu Bảo nghĩ né tránh không được, liền nói “Ta là Vi Tiểu Bảo”. Người kia nói “Vậy thì nói với ngươi cũng không hề gì, ta thuộc Hoằng Hóa đường Thiên Địa hội, họ Thư”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là Thư đại ca, trong chuyện này có rất nhiều sự hiểu lầm. Lý Hương chủ của quý đường có ở cạnh đây không?”. Người họ Thư căm hờn nói “Ngươi tội ác đầy trời, Lý Hương chủ bị ngươi chọc giận chết rồi”.

Mọi người trên hai bờ sông cao giọng quát “Vi Tiểu Bảo phản hội hàng giặc, hại thầy cầu vinh, Thư đại ca không cần nhiều lời với y. Hôm nay chúng ta cứ băm y thành hàng vạn mảnh, để trả thù cho Trần Tổng đà chủ và Lý Hương chủ”. Người bên bờ đông vừa nghe thấy lập tức cũng cao giọng reo hò.

Đột nhiên vù một tiếng, có người ném một viên Phi hoàng thạch tới. Vi Tiểu Bảo vội lùi vào trong khoang, ngấm ngầm kêu khổ, tự nhủ “Té ra Lý Hương chủ của Hoằng Hóa đường chết rồi, các vị huynh đệ này bất kể xanh vàng đen trắng làm bừa, làm sao là tốt?”. Chỉ nghe trên mui thuyền đốp đốp chát chát, ám khí hai bên bờ phóng ra không ngớt. Tính ra quan thuyền đậu ở giữa Vận Hà, đều cách xa hai bờ, có nhiều ám khí ném xuống sông, cho dù đánh trúng mui thuyền thì lực đạo cũng đã giảm đi rất nhiều.

Vi Tiểu Bảo nói “Đây là Thảo thuyền tá tiễn, ta… ta là Lỗ Túc, chỉ sợ phát run. Có vị Gia Cát… Gia Cát Lượng nào, mau… mau nghĩ kế đi”.

Bọn Cố Viêm Vũ và phu thuyền ở khoang sau thấy ám khí rào rào phóng tới, đều núp xuống khoang thuyền. Đột nhiên ánh lửa bừng lên, mấy mũi tên lửa bắn vào mui thuyền, mui thuyền lập tức bén lửa.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Ái chà, không bướng bỉnh được rồi, hỏa thiêu Vi Tiểu Bảo”. Tô Thuyên cao giọng gọi “Cố Viêm Vũ tiên sinh đang ở đây, các ngươi không được vô lễ”. Nàng nghĩ Cố Viêm Vũ rất nổi tiếng trên giang hồ, chắc người Thiên Địa hội không dám đắc tội với y. Nhưng trên hai bờ tiếng người huyên náo, tiếng gọi của nàng đều bị át đi.

Vi Tiểu Bảo nói “Các vị nương tử, chúng ta cùng gọi: Cố Viêm Vũ tiên sinh đang ở đây. Một, hai, ba!”.

Bảy vị phu nhân cùng Vi Tiểu Bảo đồng thanh gọi lớn “Cố Viêm Vũ tiên sinh đang ở đây!”.

Gọi tới lần thứ ba, tiếng người trên bờ sông dần dần yên tĩnh, ám khí cũng không phóng ra nữa. Người họ Thư cao giọng hỏi “Cố Viêm Vũ tiên sinh trong thuyền phải không?”.

Cố Viêm Vũ đứng ở đầu thuyền, chắp tay nói “Huynh đệ Cố Viêm Vũ đang ở đây”.

Người họ Thư “Ái chà” một tiếng, vội ra lệnh “Các huynh đệ biết bơi mau nhảy xuống nước kéo thuyền vào bờ”. Chỉ nghe đùng đùng đùng đùng vang lên không ngớt, mười mấy người hội chúng nhảy xuống Vận Hà, vừa kéo vừa đẩy quan thuyền vào bờ phía tây. Lúc ấy thế lửa trên thuyền đã rất mạnh. Song Nhi kéo Vi Tiểu Bảo nhảy lên bờ trước, những người còn lại nối nhau lên bờ. Hội chúng Thiên Địa hội tay cầm binh khí, vây họ vào giữa.

Người họ Thư ôm quyền khom lưng nhìn Cố Viêm Vũ nói “Tại hạ là Thư Hóa Long trong Hoằng Hóa đường Thiên Địa hội xin bái kiến Cố tiên sinh”. Cố Viêm Vũ chắp tay đáp lễ.

Một lão già trong đám hội chúng khom lưng nói “Trong Sát quy đại hội ở phủ Hà Gian năm xưa, anh hùng thiên hạ suy tôn Cố tiên sinh làm Tổng quân sư, tại hạ đã từng gặp Cố tiên sinh một lần. Bọn huynh đệ lỗ mãng, xin thứ tội”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Các ngươi hành sự vốn cũng rất lỗ mãng”. Lão già kia dằn giọng nói “Ta nói chuyện với Cố tiên sinh, chứ ai nói chuyện với thằng tiểu Hán gian nhà ngươi?”. Rồi vươn tay một cái chụp vào trước ngực Vi Tiểu Bảo. Tô Thuyên tay trái gạt ra, lật tay lại đã nắm được cổ tay y, mượn thế đẩy một cái, lão già kia chân đứng không vững, bị hất ra ngoài. Hai tên hội chúng Thiên Địa hội vội bước qua đỡ y đứng lại.

Cố Viêm Vũ kêu lên “Mọi người có lời gì cứ nói, đừng động võ, đừng động võ!”.

Lúc ấy lửa đã cháy tới khoang quan thuyền, ánh lửa soi mặt mũi của mọi người trên bờ rất rõ. Tô Thuyên nghĩ mình và Song Nhi võ công cao cường, muốn bảo vệ trượng phu phá vây không phải chuyện khó, hội chúng Thiên Địa hội chỉ định đối phó với một mình Vi Tiểu Bảo, nếu y thoát thân thì đám hán tử giang hồ này không đến nỗi làm khó con gái, lập tức cùng Song Nhi chia ra đứng hai bên Vi Tiểu Bảo, nhắm kỹ ba con ngựa, một khi gây chuyện sẽ lập tức động thủ cướp ngựa.

Cố Viêm Vũ kéo tay Thư Hóa Long, nói “Thư đại ca, xin bước ra đây nói chuyện”. Hai người bước ra vài trượng. Thư Hóa Long nghe Cố Viêm Vũ nói vài câu, liền cao giọng gọi sáu bảy người bước qua, xem dáng vẻ đều là thủ lĩnh của một nhóm, lão già bị Tô Thuyên hất loạng choạng cũng có trong đó, hơn bốn mươi người còn lại vẫn bao vây chung quanh bọn Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo nói “Những vật đáng tiền trong thuyền của ta không ít, các ngươi một mớ lửa đốt cháy, ha ha, Hoằng Hóa đường mà bồi thường, nhất định phải táng gia bại sản đấy”. Mọi người kẻ vung đao hăm dọa, kẻ ngoác miệng chửi mắng. Vi Tiểu Bảo cũng không đếm xỉa gì tới, đoán Cố Viêm Vũ ắt có thể nói rõ chân tướng với Thư Hóa Long.

Quả nhiên Thư Hóa Long và đám thủ lĩnh trong Hoằng Hóa đường nghe Cố Viêm Vũ giải thích xong mới biết nguyên ủy khúc chiết bên trong rất nhiều, Vi Tiểu Bảo làm quan lớn trong triều tuy vẫn không được mọi người tha thứ, nhưng Tổng đà chủ Trần Cận Nam đã không phải do y giết chết thì nỗi căm hận trong lòng cũng đã tiêu tan.

Mọi người nhất tề quay lại. Thư Hóa Long ôm quyền nói “Vi Hương chủ, chuyện mới rồi là bọn ta hiểu lầm ngươi, nếu không có Cố tiên sinh giải thích thì suýt nữa mọi người đã đắc tội rồi”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu quả thật muốn đắc tội với ta cũng không phải dễ đâu”. Nói xong nghiêng người một cái, thi triển công phu Thần hành bách biến, xông phải lách trái, nhô lên hụp xuống hai ba cái đã đứng ngoài vòng vây của Hoằng Hóa đường năm sáu trượng, nhảy lên lưng một con ngựa.

Bọn Thư Hóa Long đều giật nảy mình, ai cũng không ngờ công phu khinh công của y lại thần diệu mạc trắc như thế, người này võ công cao cường như vậy, chẳng trách y còn nhỏ tuổi mà đã làm tới Hương chủ Thanh Mộc đường của Thiên Địa hội, vốn là thầy hay ắt dạy được trò giỏi, đệ tử chân truyền của Tổng đà chủ quả nhiên không phải tầm thường. Trong Hoằng Hóa đường thì lão già kia võ công cao cường nhất, đám huynh đệ vẫn rất khâm phục, lại bị Tô Thuyên một nắm một kéo, đã không thể gượng nổi, suýt nữa bị hất ngã lộn nhào, xem ra sáu thiếu phụ còn lại người nào cũng là cao thủ, bên mình nhân số tuy đông nhưng nếu thực sự động thủ, chỉ e sẽ bị đánh cho sứt đầu mẻ trán.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta xin lỗi không thể bồi tiếp!”, giật cương một cái thúc ngựa phóng mau, chỉ thấy y phóng về phía tây hơn mười trượng, lại nhảy xuống ngựa, xông qua phía tây bắc, xuyên trái lách phải, không biết thế nào lại đã trở vào giữa vòng người, cười hề hề đứng vào chỗ cũ, không ai thấy rõ y tiến vào ra sao.

Hội chúng Thiên Địa hội ngớ mặt nhìn nhau hoảng sợ, Thư Hóa Long ôm quyền nói “Vi Hương chủ võ công cao cường, bội phục, bội phục”.

Vi Tiểu Bảo ôm quyền cười nói “Khoe cái dở thôi, khoe cái dở thôi”.

Thư Hóa Long nói “Cố tiên sinh mới rồi đã nói Vi Hương chủ Thân ở doanh Tào lòng ở Hán, định làm một việc lớn kinh thiên động địa, làm rạng rỡ cho người Hán trong thiên hạ. Lúc Vi Hương chủ cử sự, huynh đệ trong Hoằng Hóa đường bọn ta tuy không có tài cán gì, nhưng chỉ cần Vi Hương chủ có gì sai khiến thì lội vào nước sôi đạp lên lửa bỏng cũng không từ chối”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng”.

Thư Hóa Long thấy y vẻ mặt lạnh nhạt, đột nhiên đưa ngón trỏ tay phải ra, phụp một tiếng đâm vào mắt trái của mình, lập tức máu tươi chảy ròng ròng, mọi người cùng bật tiếng la hoảng.

Vi Tiểu Bảo, Cố Viêm Vũ đều kinh ngạc hỏi “Thư đại ca, ngươi… ngươi làm gì thế?”.

Thư Hóa Long hiên ngang nói “Huynh đệ mạo phạm Vi Hương chủ, phạm vào giới điều Không tôn kính bậc trưởng thượng của bản hội, vốn là phải móc cả hai mắt để trừng phạt ta về tội có mắt không tròng. Nhưng huynh đệ phải lưu lại một con mắt để xem rốt lại Vi Hương chủ sẽ làm nên chuyện lớn kinh thiên động địa gì”.

Lão già kia âm trầm nói “Nếu Cố tiên sinh và mọi người đều bị lừa, Vi Hương chủ chỉ nói mà không làm, thủy chung tham cầu phú quý, cứ làm chức quan lớn của y, vậy thì làm sao?”. Thư Hóa Long nói “Vậy thì Vi Hương chủ cũng móc mắt mình ra để bồi thường cho ta là được”. Nói xong hướng về phía Cố Viêm Vũ và Vi Tiểu Bảo khom lưng làm lễ, nói “Bọn ta chờ tin hay của Vi Hương chủ”, rồi vung tay trái một cái, mọi người nhao nhao lùi ra, lên ngựa phóng đi.

Lão già kia quay đầu gọi lớn “Vi Hương chủ, ngươi về nhà nhớ hỏi mẹ ngươi cha ngươi là người Hán hay người Mãn nhé. Làm người thì không nên quên tổ tiên của mình”.

Tiếng còi trúc vang lên, quần hào bên đông cũng thúc ngựa phi về phía nam. Trong giây lát, người ngựa hai bên bờ sông đã rút sạch, ngọn lửa trên chiếc thuyền bị cháy vẫn chưa tắt hẳn.

Cố Viêm Vũ thở dài nói “Đám huynh đệ này vẫn còn nghi ngờ Vi Hương chủ. Họ là hào kiệt thảo mãng, lời nói việc làm không khỏi có chỗ thô lỗ, nhưng tấm lòng trung nghĩa cũng khiến người ta kính phục. Vi Hương chủ, chuyện bọn ta muốn nói đã nói xong rồi, chỉ mong ngươi đừng quên mình là con cháu người Hán. Chúng ta chia tay ở đây, sau này sẽ gặp lại”. Nói xong chắp chắp tay, cùng bọn Hoàng, Tra, Lã từ biệt lên đường.

***

Vi Tiểu Bảo đứng ngẩn ra trên bờ sông, gió thu thổi tới cũng khá lạnh, lửa trên quan thuyền nhỏ dần, thỉnh thoảng phát ra tiếng nổ lép bép, ánh lửa bừng lên một cái rồi lại nhỏ xuống. Y lẩm bẩm một mình “Làm sao bây giờ, làm sao bây giờ?”.

Tô Thuyên nói “May là còn một chiếc thuyền, chúng ta cứ về bến Tứ Dương sẽ thong thả bàn kế”.

Vi Tiểu Bảo nói “Lão già kia bảo ta về nhà hỏi mẹ ta, xem cha ta là người Hán hay người Mãn, ha ha, câu ấy cũng không sai”. Tô Thuyên khuyên “Tiểu Bảo, lời lẽ hồ đồ của hạng người thô mãng ấy cần gì phải để ý? Chúng ta lên thuyền thôi”.

Vi Tiểu Bảo đứng bất động, trong lòng rối loạn, cúi đầu nhìn thấy mấy giọt máu trên mặt đất, là máu lúc Thư Hóa Long móc mắt rơi xuống, đột nhiên la toáng lên “Lão tử không làm đâu, lão tử không làm đâu!”.

Bảy vị phu nhân đều giật nảy mình. Vi Song Song vốn đang ngủ say trong lòng mẹ, bị y cao giọng quát tháo, giật mình tỉnh dậy khóc ầm lên.

Vi Tiểu Bảo cao giọng nói “Hoàng đế bắt ta đánh Thiên Địa hội, Thiên Địa hội bắt ta đánh hoàng đế. Lão tử hai chân đứng hai thuyền, không được lòng bên nào. Một bên muốn chém đầu ta, một bên muốn móc mắt ta. Một người có mấy cái đầu, mấy con mắt? Người này tới chém, người kia tới móc, lão tử còn được bao nhiêu? Không làm, lão tử nói thế nào cũng không làm!”.

Tô Thuyên thấy y dáng vẻ thất thường, dịu dàng khuyên nhủ “Làm quan trong triều cả ngày nơm nớp lo lắng, chẳng có gì hay. Chức Hương chủ của Thiên Địa hội cũng không có gì hay. Ngươi quyết tâm không làm, thật không gì tốt hơn”.

Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói “Các ngươi cũng đều khuyên ta không làm ư?”. Tô Thuyên, Phương Di, A Kha, Tăng Nhu, Mộc Kiếm Bình, Song Nhi sáu người nhất tề gật đầu, chỉ có công chúa Kiến Ninh nói “Ngươi chỉ mới làm tới tước công, sao lại định không làm quan nữa? Phải được phong vương, làm Phụ chính đại học sĩ, ra tướng văn vào tướng võ, lúc ấy mới nên cáo lão. Mà nói lại nếu bây giờ ngươi muốn từ quan thì hoàng đế ca ca nhất định không chịu đâu!”.

Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Ta mà không muốn làm quan thì không cần hoàng đế quản. Y chẳng qua chỉ là anh vợ ta, con mẹ nó, ai mà còn lằng nhằng, thì ta không cần có gã anh vợ ấy nữa”.

Không cần hoàng đế làm anh vợ tức không cần công chúa làm vợ, công chúa sợ hãi đâu dám nói gì nữa?

Vi Tiểu Bảo thấy bảy vị phu nhân đều không ai nói gì, lập tức vui vẻ lên, nói “Hoằng Hóa đường đốt thuyền của chúng ta, đúng là đốt rất hay, đốt rất khéo, đốt rất dễ thương. Chúng ta rón rén trốn đi, quan địa phương báo lên triều đình, nhất định sẽ nói ta bị giặc cướp đốt chết, ông anh vợ kia của ta từ đây trở đi nhất định cũng sẽ không tìm ta nữa”. Bọn Tô Thuyên nhất tề vỗ tay, chỉ có công chúa im lặng không nói gì.

Lúc ấy tám người bàn bạc đâu vào đấy. Vi Tiểu Bảo, công chúa, Song Nhi ba người thay đổi y phục tới khách điếm ở Hoài Âm chờ. Tô Thuyên dẫn bốn người Phương Di, A Kha, Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu về thuyền ở bến Tứ Dương thu thập vàng bạc tế nhuyễn và những vật cần thiết, sau đó sẽ phao tin ầm lên, nói quan thuyền của Vi công gia nửa đêm bị bọn giặc cướp tập kích, thuyền cháy người chết. Nhưng mấy tên phu thuyền thấy Vi Tiểu Bảo chưa chết, nhất định sẽ có hậu họa, ý Tô Thuyên là muốn giết người bịt miệng, vứt xác trên bờ sông, lại càng giống thật thêm vài phần. Mộc Kiếm Bình trong lòng bất nhẫn, nhất định không chịu giết hại kẻ vô cô.

Tô Thuyên nói “Được, Kiếm Bình muội tử có lương tâm, trời sẽ phù hộ ngươi sinh được vài đứa con trai. Tiểu Bảo, ta cầm kiếm giết ngươi, ngươi chạy vào rừng, lớn tiếng kêu la, giả như đã bị ta giết chết”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Cô là bà vợ dữ, định giết chồng à?”. Kế cao giọng la lớn “Giết người, giết người!”, rồi co chân chạy mau, chạy quanh mấy vòng rồi chui vào rừng. Tô Thuyên cầm kiếm đuổi vào trong rừng.

Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo la lớn “Cứu mạng, cứu mạng! Cứu…”, tới chữ “Cứu” đột nhiên im bặt.

Mộc Kiếm Bình biết rõ là giả, nhưng nghe Vi Tiểu Bảo kêu rất thê thảm, không kìm được tim đập thình thịch, hạ giọng nói “Song Nhi muội tử, là… là giả thôi, có phải không?”.

Song Nhi nói “Đừng sợ, tự… tự nhiên là giả thôi”, nhưng chính nàng cũng không kìm được run sợ.

Chỉ thấy Tô Thuyên cầm kiếm từ trong rừng đi ra, nói “Giết hết bọn phu thuyền đi”.

Đám phu thuyền nảy giờ ngồi xổm trên bờ, thấy hội chúng Thiên Địa hội phóng hỏa đốt thuyền, Tô Thuyên hành hung đuổi giết Vi công gia, đã sớm run lẩy bẩy, thấy Tô Thuyên cầm kiếm tới giết, lập tức bỏ chạy tán loạn, trong chớp mắt đã không thấy bóng dáng ai nữa.

Song Nhi lo lắng cho Vi Tiểu Bảo, sải chân chạy vào rừng, chỉ thấy y nằm dưới đất không động đậy. Song Nhi hoảng sợ hồn bất phụ thể, nghĩ thầm sao lại giết chết y thật, bèn nhào tới kêu lên “Tướng công, tướng công!”. Chỉ thấy Vi Tiểu Bảo thân hình cứng đờ, trong lòng càng hoảng sợ, vội đưa tay đỡ lên. Vi Tiểu Bảo đột nhiên mở hai mắt ra, ôm chặt lấy nàng, kêu lên “Đại công cáo thành, hôn một cái!”.

Tám vợ chồng Vi Tiểu Bảo theo kế mà làm, lấy hết tiền bạc cải trang trở về Dương Châu, đón mẹ xong, cả nhà cùng tới Vân Nam, từ đó ẩn tính mai danh, tiêu dao ở thành Đại Lý.

Vi Tiểu Bảo lúc nhàn rỗi vô sự nghĩ tới kho báu lớn dưới chân núi Lộc Đỉnh ở thành Nhã Khắc Tát chưa đào lên, cảm thấy mình giàu có đứng đầu thiên hạ, trong lòng thỏa mãn, chỉ là nhớ tới giao tình với Khang Hy mới không nỡ đào đứt long mạch của y.

Khang Hy quá biết tính nết bản lĩnh của Vi Tiểu Bảo, đoán rằng y quyết không khinh dị để cho giặc cướp giết hại, huống hồ lại không tìm được xác y, từ đó trở đi không ngừng phái người công khai điều tra, bí mật dò hỏi, nhưng vẫn không có kết quả.

Các sử gia đời sau chép Khang Hy sáu lần xuống Giang Nam, chủ yếu là thị sát đê sông Hoàng Hà. Nhưng vì sao trước đó y không tới Giang Nam, mà Vi Tiểu Bảo vừa thất tung, thì ngay năm ấy đã đi Giang Nam? Đi thị sát đê sông Hoàng Hà, cần gì phải tới Hàng Châu? Tại sao mỗi lần đều dừng xa giá ở Dương Châu rất lâu? Lại tại sao mỗi lần đều phái rất nhiều Ngự tiền thị vệ tới các kỹ viện, sòng bạc, quán trà, quán rượu ở Dương Châu hỏi thăm Vi Tiểu Bảo? Tra xét hỏi han không được, tại sao lại uất ức không vui? Theo khảo chứng của người sau thì Tào Dần tổ phụ Tào Tuyết cần tác giả Hồng lâu mộng nguyên là Ngự tiền thị vệ, từng là thuộc hạ của Vi Tiểu Bảo, về sau được Khang Hy phái xuống làm Chức tạo Dương Châu, lại làm Chức tạo Giang Ninh, sai ở lại vùng Giang Nam phồn hoa lâu ngày để dễ tìm kiếm Vi Tiểu Bảo.

***

Hôm ấy Vi Tiểu Bảo tới Dương Châu, dắt vợ con vào Lệ Xuân viện gặp mẹ. Mẹ con gặp mặt, khôn xiết vui mừng. Vi Xuân Phương thấy bảy người con dâu ai cũng như hoa như ngọc, nghĩ thầm “Thằng tiểu tặc Tiểu Bảo này nhãn lực chọn gái đẹp quả thật không kém, y mà mở kỹ viện nhất định sẽ phát tài to”.

Vi Tiểu Bảo kéo mẹ vào trong phòng, hỏi “Mẹ, cha của con rốt lại là ai?”. Vi Xuân Phương trừng mắt nói “Làm sao ta biết được?”. Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Trước khi trong bụng mẹ có con thì mẹ tiếp bao nhiêu người khách?”. Vi Xuân Phương nói “Lúc ấy mẹ ngươi xinh đẹp lắm, một ngày có khi phải tiếp tới mấy người khách, làm sao ta nhớ được bấy nhiêu người?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Những khách ấy đều là người Hán phải không?”. Vi Xuân Phương nói “Người Hán tự nhiên là có, quan người Mãn Châu cũng có, còn có võ quan người Mông Cổ nữa”.

Vi Tiểu Bảo nói “Không có bọn quỷ trắng ngoại quốc chứ?”. Vi Xuân Phương tức giận nói “Ngươi coi mẹ ngươi là con đĩ rạc à? Bọn quỷ trắng ngoại quốc mà cũng tiếp à?, người La Sát, người Hồng Mao mà tới Lệ Xuân viện thì lão nương dùng chổi lớn đuổi ra”. Vi Tiểu Bảo lúc ấy mới yên tâm, nói “Vậy thì tốt lắm!”. Vi Xuân Phương ngước đầu nhớ lại chuyện cũ, nói “Lúc ấy còn có một người Hồi hay tới tìm ta, y rất tuấn tú, ta thường tự nhủ cái mũi thằng Tiểu Bảo nhà mình rất đẹp, có chỗ giống y”. Vi Tiểu Bảo nói “Hán Mãn Mông Hồi đều có, vậy có người Tây Tạng không?”.

Vi Xuân Phương vô cùng đắc ý, nói “Tại sao lại không? Gã Lạt ma Tây Tạng ấy trước khi lên giường nhất định phải tụng kinh, miệng thì tụng kinh nhưng mắt thì cứ láo liên nhìn ta. Hai con mắt kẻ cướp của ngươi rất giống gã Lạt ma ấy!”.

(*) Xét : chữ Vi trong câu Vi biên tam tuyệt là chỉ dây da buộc thẻ tre, Khang Hy cố ý giải thích sai lệch để đùa với Vi Tiểu Bảo.

Lời cuối sách

Lộc Đỉnh ký bắt đầu khởi đăng trên Minh báo từ ngày 24.10.1969, đến ngày 23. 9. 1972 thì kết thúc, tổng cộng đăng liên tục trong hai năm mười một tháng. Trước nay thói quen của tôi khi viết đăng báo nhiều kỳ là mỗi ngày viết một đoạn, hôm sau đăng báo, nên bộ tiểu thuyết này cũng viết liên tục trong hai năm mười một tháng. Nếu không có chuyện bất ngờ đặc biệt (trong cuộc sống luôn luôn có chuyện bất ngờ đặc biệt), thì đây là bộ tiểu thuyết cuối cùng của tôi.

Nhưng Lộc Đỉnh ký không mấy giống tiểu thuyết võ hiệp, cũng không thể nói là tiểu thuyết lịch sử. Lúc bộ tiểu thuyết này đăng trên báo, có nhiều độc giả liên tiếp gửi thư tới hỏi Lộc Đỉnh ký có phải do người khác viết không?”. Vì họ phát giác ra rằng giữa bộ này với các tác phẩm trước đây của tôi có sự khác biệt rất lớn. Thật ra bộ này đương nhiên hoàn toàn do chính tôi viết. Rất cảm ơn người đọc đã yêu mến và khoan dung đối với tôi, lúc không thích một tác phẩm hay một đoạn văn của tôi là đoán rằng “Đây là do người khác viết thay”, dành những lời khen ngợi cho tôi, đẩy sự bất mãn vào một “người viết thay” trong tâm tưởng.

Lộc Đỉnh ký khác hẳn với những tiểu thuyết võ hiệp trước đó của tôi, đó là cố ý. Một tác giả không nên lặp lại phong cách và hình thức của mình, phải cố gắng hết sức tìm kiếm những sáng tạo mới.

***

Có những độc giả bất mãn Lộc Đỉnh ký, vì nhân phẩm của nhân vật chính Vi Tiểu Bảo quá trái ngược với các quan niệm giá trị thông thường. Độc giả tiểu thuyết võ hiệp quen đem mình thay cho anh hùng trong tiểu thuyết, nhưng Vi Tiểu Bảo thì không thể thay được. Trên phương diện này, cướp đi mất niềm vui của bấy nhiêu độc giả, tôi cảm thấy rất có lỗi.

Nhưng nhân vật chính trong tiểu thuyết không nhất định phải là “người tốt”. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của tiểu thuyết là sáng tạo nhân vật, người tốt, người xấu, người tốt có khuyết điểm, người xấu có ưu điểm vân vân, đều có thể miêu tả. Việc Trung Quốc thời Khang Hy có loại nhân vật như Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không phải là chuyện không có khả năng. Ha Mầu Lai Đặc ưu nhu quyết đoán, La Đình nói được không làm được, mục sư trong “Hồng tự” thông gian với người ta, An Ná Tạp Liệt Ni Ná phản bội chồng, tác giả chỉ là miêu tả những nhân vật như thế chứ không phải khuyến khích độc giả làm theo hành vi của họ. Độc giả Thủy hử thích nhất không phải loại người như Lý Quỳ, đánh bạc thua thì cướp tiền, cũng không phải là loại người như Tống Giang, một đao chém chết người vợ bạc tình không ngừng làm tiền. Lâm Đại Ngọc rõ ràng không phải là đối tượng mà độc giả phụ nữ hiện đại học theo, số phụ nữ có quan hệ tình dục với Vi Tiểu Bảo không nhiều hơn Giả Bảo Ngọc bao nhiêu, nhưng ít nhất Vi Tiểu Bảo cũng không đồng tính luyến ái như Giả Bảo Ngọc, đã có Tần Chung, lại có Tưởng Ngọc Hàm. Lỗ Tấn miêu tả AQ, cũng hoàn toàn không phải khuyến khích phép thắng lợi tinh thần.

Nếu nhân vật trong tiểu thuyết trọn vẹn mười phần, thì không khỏi không chân thực. Tiểu thuyết phản ảnh xã hội, trong hiện thực xã hội không có con người hoàn mỹ tuyệt đổi. Tiểu thuyết hoàn toàn không phải là sách giáo khoa đạo đức. Có điều người đọc tiểu thuyết của tôi có rất nhiều thiếu niên thiếu nữ, vậy thì cũng nên đề tỉnh với những người bạn trẻ trong trắng ấy một câu: Vi Tiểu Bảo coi trọng nghĩa khí, đó là phẩm đức tốt, còn như những hành vi còn lại, thì ngàn vạn lần đừng nên học theo.

***

Tôi viết tiểu thuyết võ hiệp tổng cộng có mười hai bộ trường thiên, ba bộ đoản thiên. Từng dùng mười bốn chữ đầu tên sách làm một đôi câu đối “Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc, Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên” (Bay tuyết liền trời bắn hươu trắng, Cười sách thân hiệp dựa uyên xanh)(*), bộ Việt nữ kiếm viết sau cùng không có trong đó.

Bộ Thư kiếm ân cừu lục viết sớm nhất năm 1955, bộ Việt nữ kiếm viết cuối cùng tháng 1.1970. Mười lăm bộ tiểu thuyết dài ngắn viết trong mười lăm năm. Công việc sữa chữa bắt đầu từ tháng 3. 1970, đến giữa 1980 thì kết thúc, tất cả trong mười năm. Đương nhiên trong khoảng thời gian ấy tôi còn làm nhiều việc khác, chủ yếu là biện lý tờ Minh báo và viết xã luận trên Minh báo.

Lúc gặp các độc giả gặp nhau lần đầu, câu hỏi mà tôi thường gặp nhất là “Ông thích bộ tiểu thuyết nào của mình nhất?”. Câu hỏi này rất khó trả lời, nên tôi thường không trả lời. Còn nếu bàn về “mình thích”, thì tôi thích mấy bộ có tình cảm mãnh liệt hơn như Thần điêu hiệp lữ, Ỷ thiên Đồ long ký, Phi hồ ngoại truyện, Tiếu ngạo giang hồ. Lại thường có người hỏi “Theo ông bộ tiểu thuyết nào của mình là hay nhất?”, thì bộ này là hay nhất. Có điều rất nhiều độc giả hoàn toàn không đồng ý. Tôi rất thích sự không đồng ý của họ.

Ngày 22.6.1981

(*) Đây là một câu đối chơi chữ nên không thể dịch thật chính xác. Mười bốn chữ trên là chữ đầu tên mười bốn bộ Phi hồ ngoại truyện, Tuyết Sơn phi hồ, Liên thành quyết, Thiên long bát bộ, Xạ điêu anh hùng truyện, Bạch mã khiếu tây phong, Lộc Đỉnh ký, Tiếu ngạo giang hồ, Thư kiếm ân cừu lục, Thần điêu hiệp lữ, Hiệp khách hành, Ỷ thiên Đồ long ký, Bích huyết kiếm, Uyên ương đao của Kim Dung.

Hồi 1: Thành Phúc Châu sinh trọng án

Làn gió mát ru êm cành liễu

Hương hoa thơm say đắm lòng người

Tiết trời vào xuân, ánh xuân quang rực rỡ khắp miền Nam. Trên con đường rộng lát đá xanh trải thẳng đến cửa Tây phủ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, tọa lạc một tòa nhà có lối kiến trúc rất hùng vĩ. Trước tòa nhà có hai trụ đá đứng hai bên; trên đầu mỗi trụ cắm một cột cờ cao đến hai trượng. Lá cờ bên phải thêu hình một con sư tử bằng chỉ vàng đang nhe nanh múa vuốt, thần thái dũng mãnh. Khi lá cờ bay, hình ảnh con sư tử trông sống động như thật. Trên đỉnh đầu sư tử, hai bên thêu một cặp dơi bằng tơ ngũ sắc đang tung cánh bay lượ n. Lá cờ bên trái thêu bốn chữ “Phước Oai tiêu cục” bằng chỉ đen, đường cong nét thẳng mạnh mẽ phi phàm, cổng chính của tòa nhà sơn đỏ, những chiếc đinh đồng lớn bằng chén uống trà được đính vào tỏa ánh sáng lấp lánh. Trên nóc cổng treo bức hoành phi sơn son thiếp vàng cũng đề b ốn chữ “Phước Oai tiêu cục”, bên dưới có chua thêm hai chữ nhỏ “Tổng hiệu”. Phía trong cổng bày hai chiếc trường kỷ. Tám hán tử ngồi phân ra hai bên; tất cả đều vai nở lưng ngay, thể hiện khí phách dũng mãnh.

Bỗng có tiếng vó ngựa rộn ràng phía hậu viện. Tám vị hán tử nhất tề đứng dậy chạy ra, thấy ở cửa Tây tiêu cục có năm kỵ mã đang xông thẳng đến trước cổng chính. Dẫn đầu là một con bạch mã, yên ngựa và bàn đạp đều gắn lục lạc rung lên leng keng, trên yên là một chàng thiếu niên mặc áo gấm khoảng mười tám, mười chín tuổi. Trên vai trái chàng đậu một con chim ưng dùng để đi săn, lưng đeo bảo kiếm, vai khoác trường cung. Theo sau chàng là bốn kỵ mã đều mặc áo ngắn màu xanh. Cả năm người cùng cưỡi ngựa phóng ra cửa tiêu cục. Ba trong tám hán tử cùng thốt lên:

– Thiếu tiêu đầu lại đi săn rồi!

Chàng thiếu niên cười ha ha, vung roi ngựa lên đánh vụt một tiếng trong không trung. Con bạch mã ngẩng cao đầu hý vang, phóng nhanh trên con đường rộng lát đá xanh. Một hán tử dặn với theo:

– Hôm nay, Sử tiêu đầu phải đem cho được cái đầu heo rừng về để anh em đánh chén một trận túy lúy nhé!

Một hán tử khoảng bốn mươi tuổi cười, nói thêm:

– Một sợi lông đuôi cũng không thể thiếu nha, bằng hữu. Nhưng trước tiên đừng có uống nhiều rượu, hãy để bụng mà ăn thịt heo rừng cho đã!

Mọi người cùng cười ồ. Năm kỵ mã đã chạy xa rồi.

Năm kỵ mã cùng ra khỏi thành. Thiếu tiêu đầu Lâm Bình Chi nhẹ nhàng thúc hai đùi vào hông ngựa. Bốn vó bạch mã phi nhanh cuồn cuộn, phóng thẳng về phía trước; trong chốc lát, bốn kỵ mã đã bị bỏ xa phía sau.

Lâm Bình Chi cho ngựa đi dọc sườn núi, thả chim ưng bay thẳng vào rừng. Một cặp thỏ phóng ra.

Chàng lấy trường cung trên vai xuống, móc một mũi tên ở trong túi da đeo bên yên ngựa, giương cung lắp tên bắn nghe so ạt một phát. Một con thỏ lông vàng trúng tên ở đầu ngã lăn ra, còn con kia lập tức chạy trốn vào bụi rậm không thấy đâu nữa. Trịnh tiêu đầu ruổi ngựa đến, trầm trồ:

– Thiếu tiêu đầu, hảo tiễn pháp!

Bỗng nghe tiếng gã cầm cờ hiệu Bạch Nhị ở trong mé trái khu rừng gọi lớn:

– Thiếu tiêu đầu, lại đây mau! Chỗ này có gà rừng!

Lâm Bình Chi phóng ngựa đến, chỉ thấy một con dã kê ở trong rừng bay ra. Nó thấy chàng đuổi theo liền cắm đầu bay nhanh. Chàng bắn theo một phát nhưng không trúng. Lâm Bình Chi liền vung roi ngựa đánh vút một cái vào khoảng không. Con gà rừng bị trúng roi rơi xuống, những sợi lông ngũ sắc rụng bay lả tả trong gió. Cả năm người cùng cười rộ. Sử tiêu đầu tấm tắc khen:

– Đừng nói là gà rừng, đến chim đại bàng cũng phải nhào xuống với phát roi này của Thiếu tiêu đầu.

Năm người cùng ở trong rừng truy đuổi chim thú. Sử, Trịnh hai vị tiêu đầu và Bạch Nhị, Trần Thất hiểu Thiếu tiêu đầu đang cao hứng nên đuổi muông thú đến gần chàng để chàng tha hồ săn bắn, họ có cơ hội tốt cũng không xuống tay. Cuộc săn kéo dài hơn hai canh giờ . Lâm Bình Chi săn thêm được hai con thỏ và hai con gà rừng nữa, nhưng chưa săn được con thú lớn nào như heo rừng, hươu nai nên lòng chưa thỏa mãn, bèn nói:

– Chúng ta đến ngọn núi phía trước để lùng tiếp đi!

Sử tiêu đầu nghĩ thầm: Qua núi bên kia, với bản tính hiếu thắng của Thiếu tiêu đầu thì có săn đến tối mịt cũng chưa chịu dừng. Chúng ta tìm cách quay về thôi kẻo lại phải nghe phu nhân quở trách. Lão bèn nói:

– Trời sắp tối rồi, núi bên kia lại có nhiều đá lởm chởm sợ làm hư vó của con bạch mã mất. Để đến sáng mai chúng ta dậy sớm, lại tiếp tục đi săn heo rừng.

Lão biết dù nói như thế nào cũng khó lay chuyển được tính khí của Thiếu tiêu đầu, nhưng chàng lại vô cùng yêu quý con bạch mã nên không thể để nó bị tổn thương. Đây là giống ngựa danh tiếng của nước Đại Uyển, món quà do bà ngoại của Lâm Bình Chi ở Lạc Dương tặng nhân sinh nhật lần thứ mười bảy của chàng ta cách đây hai năm.

Quả nhiên, khi nghe chuyện có thể tổn thương chân ngựa, Lâm Bình Chi liền vỗ vào đầu ngựa, nói:

– Con Tiểu tuyết long của ta thông minh lắm, không dẫm phải đá nhọn đâu, nhưng sợ bốn con ngựa của các ngươi thì không được như vậy. Được, chúng ta quay về thôi kẻo mông của gã Trần Thất lại no đòn.

Năm người cùng cười rộ, quay đầu ngự a lại. Lâm Bình Chi cho ngựa phóng nhanh, nhưng không đi theo đường cũ, mà đi về hướng Bắc. Chàng để ngựa phi nhanh một mạch cho thỏa thích rồi mới ghìm cương cho đi thong thả. Bỗng thấy bên vệ đường phía trước có treo một tấm biển chào mời khách uống rượu. Trịnh tiêu đầu đề nghị:

– Thiếu tiêu đầu, chúng ta vào uống mấy bát rượu được không? Có thịt thỏ, thịt gà rừng tươi mà nướng lên nhắm với rượu thì tuyệt vời.

Lâm Bình Chi cười nói:

– Té ra ngươi đi săn với ta là chuyện giả, còn uống rượu mới là chuyện thật. Nếu không cho ngươi uống thỏa thích thì ngày mai lại vênh mặt không chịu đi với ta nữa.

Chàng nhảy phóc xuống khỏi yên ngựa rồi khoan thai bước vào quán rượu.

Bình thường, lão chủ quán rượu họ Thái đã sớm chạy ra đón lấy dây cương từ tay chàng rồi đưa lời tâng bốc:

– Hôm nay Thiếu tiêu đầu lại săn được nhiều thịt rừng. Đúng là một tay thiện xạ, thế gian hãn hữu!

Nhưng lần này đến trước cửa tiệm vẫn thấy bên trong vắng lặng. Chàng chỉ thấy một thiếu nữ mặc áo xanh đứng bên lò cất rượu, đầu thắt hai bím tóc và cài hai cây thoa, mặt hướng vào phía trong, biết có người đến cũng không buồn quay ra nhìn. Trịnh tiêu đầu gọi:

– Lão Thái đâu? Sao không ra buộc ngựa?

Bạch Nhị, Trần Thất kéo gh ế dài ra, dùng tay áo phủi bụi, mời Lâm Bình Chi ngồi. Hai tiêu đầu Sử , Trịnh ngồi phía dưới để bồi tiếp; hai gã cầm cờ Bạch Nhị, Trần Thất ngồi sang một bàn khác. Bên trong quán bỗng có tiếng người ho húng hắng. Một lão già râu tóc bạc phơ bước ra, chào khách:

– Khách quan, xin mời ngồi. Có dùng rượu không?

Giọng nói của lão mang âm sắc phương Bắc. Trịnh tiêu đầu gằn giọng:

– Không uống rượu, chẳng lẽ lại uống trà à? Trước hết, hãy mang ba cân Trúc diệp thanh ra đây. Lão Thái đi đâu rồi? Sao? Tiệm rượu này đổi chủ rồi à?

Lão già nói:

– Dạ, dạ. Uyển Nhi! Đem ra ba cân Trúc diệp thanh.

Lão nói tiếp:

– Không giấu gì các vị khách quan, tiểu lão họ Tát, vốn là người ở đây nhưng từ nhỏ đã phải tha phương cầu thực. Con trai và con dâu đều chết cả rồi. Lòng lão buồn vô hạn khi nghĩ tới câu “Lá rụng về cội” nên mới dẫn đứa cháu nội trở về quê cũ. Xa quê đã hơn bốn mươi năm rồi, bà con bạn bè không còn ai nữa. Vừa may, lão Thái không muốn buôn bán nữa nên đã sang tiệm rượu này lại cho lão với giá ba chục lạng bạc. Ôi, rốt cục quay về cố hương; nghe nhiều người kể chuyện quê nhà, tiểu lão không còn thích thú, lòng hổ thẹn vô cùng. Tiểu lão thật không biết nói gì hơn.

Thiếu nữ mặc áo xanh cúi mặt xuống, bưng một cái bàn gỗ đặt trước mặt bọn Lâm Bình Chi. Nàng sắp chén đũa và ba hũ rượu lên bàn rồi cúi đầu quay gót, không hề liếc mắt nhìn các vị khách dù chỉ một lần.

Lâm Bình Chi thấy thân hình thiếu nữ thướt tha, nhưng nước da đen đúa, mặt lại rỗ chằng rỗ chịt, dung mạo rất xấu. Chàng nghĩ đây là lần đầu tiên cô làm nghề bán rượu nên cử chỉ còn cứng nhắc, rồi không để ý đến nữa. Sử tiêu đầu cầm một con gà rừng và một con thỏ đưa cho lão Tát và bảo:

– Đem mổ và rửa cho thật sạch rồi làm thành hai món.

Lão Tát gật đầu:

– Dạ, dạ! Các vị muốn uống rượu, trước tiên xin dùng tạm một ít thịt bò, đậu phộng, đậu răng ngựa.

Không đợi ông ra lệnh, Uyển Nhi đi lấy ngay các thứ thịt bò, đậu phộng, đậu răng ngựa đặt lên bàn.

Trịnh tiêu đầu giới thiệu:

– Lâm công tử là Thiếu tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục, một bậc thiếu niên anh hùng, hành hiệp trượng nghĩa, coi tiền như rác. Nếu lão làm hai món nhắm này hợp với khẩu vị của Thiếu tiêu đầu, thì vốn liếng ba mươi lạng bạc của lão không đợi đến hai tháng cũng thu hồi đủ.

Lão Tát nói:

– Dạ, dạ. Đa tạ, đa tạ!

Rồi lão xách con gà rừng và con thỏ đi. Trịnh tiêu đầu rót rượu vào bát của Lâm Bình Chi, Sử tiêu đầu và bát của mình, nâng bát rượu lên ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, thè lưỡi liếm mép rồi khen:

– Quán đổi chủ nhưng rượu thì không đổi mùi.

Gã rót thêm một bát nữa định uống, bỗng nhiên nghe có tiếng vó ngựa. Hai kỵ mã từ phía Bắc quan đạo chạy đến.

Hai con ngựa phi nhanh, chẳng mấy chốc đã đến ngoài quán rượu. Một người lên tiếng:

– Nơi đây có quán rượu, vào uống mấy bát đi!

Sử tiêu đầu nghe giọng nói biết là dân Tứ Xuyên, quay đầu nhìn ra thì thấy hai gã hán tử. Họ buộc cương ngựa vào gốc cây dong trước quán rượu rồi bước vào trong, liếc mắt nhìn qua bọn Lâm Bình Chi rồi ngồi xuống một cách ngổ ngáo.

Đầu hai gã hán tử quấn khăn trắng, mình mặc áo bào xanh trông ra vẻ nho nhã, nhưng hai chân thì rất nở nang, lại mang giày đỏ. Sử tiêu đầu biết người Tứ Xuyên đều phục sức như vậy. Sở dĩ trên đầu họ quấn khăn trắng là vì họ vẫn giữ tục lệ để tang Gia Cát Lượng. Gia Cát Võ Hầu được người dân Tứ Xuyên kính yêu sâu sắc, cho nên dù ông đã chết hơn một ngàn năm qua, họ vẫn để tang. Lâm Bình Chi lấy làm lạ về cách phục sức của họ, nghĩ bụng: Hai người này văn không ra văn, võ không ra võ, trông dáng vẻ kỳ dị, cổ lai chưa thấy.

Gã hán tử trẻ tuổi gọi:

– Đem rượu lại đây! Đem rượu lại đây! Núi Lão Tử tỉnh Phúc Kiến còn xa lắm, cứ để cho ngựa được nghỉ ngơi thêm.

Uyển Nhi cúi đầu, đi đến trước bàn của hai người khẽ hỏi:

– Quý khách dùng rượu gì ạ?

Tuy cô nói nhỏ nhưng giọng nói trong trẻo, dễ nghe. Gã hán tử trẻ cười hô hố, đột nhiên giơ tay trái nâng cằm Uyển Nhi lên, nói:

– Đáng tiếc. Quả thật đáng tiếc!

Uyển Nhi sợ hãi, vội vàng lùi lại. Gã hán tử kia cười nói:

– Dư huynh đệ, thân hình nở nang của cô nương này trông hấp dẫn lắm. Nhưng nếu nhìn vào bộ mặt cộm sẹo, rỗ chằng rỗ chịt của cô ta, sẽ nghe mùi xú uế như bùn dưới đế giày. Nó sẽ chuyển thành da vỏ lựu, các “lão tử” thấy sẽ ớn da gà ngay.

Gã họ Dư bật cười hô hố.

Lâm Bình Chi giận cành hông, vỗ tay xuống bàn đánh chát một cái, quát:

– Đồ láu cá! Hai con chó có mắt không tròng, dám đến phủ Phúc Châu của chúng ta mà giở thói ngông nghênh.

Gã hán tử trẻ tuổi họ Dư cười đáp:

– Giả lão nhị, người ta đang chửi đấy. Ngươi đoán thử “con thỏ già” đang chửi ai vậy?

Lâm Bình Chi có khuôn mặt rất giống mẹ, mày xanh mắt sáng, trông rất bảnh trai. Bình thường, hễ gã nào trộm nhìn chàng thì phải ăn ngay một cái bạt tai. Bây giờ, nghe gã hán tử gọi mình là “con thỏ già” thì làm sao chàng nhịn cho được? Chàng cầm lấy hũ rượu trên bàn ném qua phía hai gã hán tử. Hán tử họ Dư né được, hũ rượu bay thẳng ra ngoài đám cỏ trước cửa, rượu đổ bung xòe. Sử tiêu đầu và Trịnh tiêu đầu đứng phắt dậy, đến bên hai gã hán tử.

Gã họ Dư cười nói:

– Gã tiểu tử này mà lên sân khấu làm đào hát thì có thể sẽ thu hút nhiều khán giả nhưng nếu tham gia đánh nhau thì không được đâu!

Trịnh tiêu đầu quát:

– Đây là Lâm thiếu tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục. Các ngươi to gan lắm mới dám đến đây vuốt râu Thái Tuế!

Chưa nói dứt lời, lão đã vung tay trái đánh một quyền thật m ạnh vào gã họ Dư. Hán tử họ Dư giơ tay nắm được huyệt Mạch môn của Trịnh tiêu đầu, dùng sức đẩy mạnh một cái. Trịnh tiêu đầu loạng choạng ngã chúi xuống bàn. Gã hán tử họ Dư dùng cùi chỏ trái đè mạnh xuống gáy của Trịnh tiêu đầu. Lão la oai oái, gục xuống bàn rồi nguyên cả người đổ xuống.

Trong Phước Oai tiêu cục, Trịnh tiêu đầu tuy không được xem là cao thủ, nhưng cũng không phải là hạng kém cỏi. Sử tiêu đầu thấy lão bị gã kia mới đánh có một chiêu mà đã ngã nhào, liền biết đối phương không phải là hạng tầm thường, bèn hỏi:

– Tôn giá là ai? Đã là đồng đạo võ lâm, lẽ nào lại coi Phước Oai tiêu cục không ra gì?

Gã hán tử họ Dư cười nhạt, đáp:

– Phước Oai tiêu cục ư? Trước nay ta chưa hề nghe tới! Cái đó chuyên làm trò gì?

Lâm Bình Chi nhảy ra, quát:

– Cái đó chuyên đánh quân chó má!

Tay trái chàng đánh ra một quyền, không đợi sử hết chiêu thức thì tay phải đã xuyên qua tay trái, xuất chiêu Vân lý càn khôn trong Phiên thiên chưởng tổ truyền.

Gã họ Dư nói:

– Ở đây có đến hai con đào hát chứ không phải một.

Hắn vung chưởng lên gạt, tay phải chụp vào vai trái Lâm Bình Chi. Lâm Bình Chi trầm vai trái xuống, tay trái tung ra. Gã họ Dư né đầu, không đoán được tay trái của Lâm Bình Chi tung ra đột ngột. Quyền biến thành chưởng, chuyển từ thế đánh thẳng sang thế quét ngang. Đó là chiêu Vụ lý khán hoa, tát vào mặt gã họ Dư một cái nảy đom đóm. Gã họ Dư giận dữ, đá Lâm Bình Chi một cước. Lâm Bình Chi né sang phải, đá trả lại một cước.

Lúc này, Sử tiêu đầu cũng xáp vào giao thủ với gã họ Giả. Bạch Nhị đến đỡ Trịnh tiêu đầu dậy.

Trịnh tiêu đầu ngoác miệng ra thóa mạ ầm ĩ rồi định nhảy vào đánh xáp lá cà với gã họ Dư.

Lâm Bình Chi bảo:

– Hãy qua giúp Sử tiêu đầu. Con chó này cứ để ta trị cho.

Trịnh tiêu đầu biết tánh chàng hiếu thắng, không muốn ai đứng bên cạnh hỗ trợ. Thuận tay lão vơ lấy cái chân bàn, quay sang đánh gã họ Giả.

Hai tên cầm cờ hiệu vội chạy ra ngoài cửa, một tên giở yên ngựa của Lâm Bình Chi ra lấy cây trường kiếm; còn tên kia rút cây hãn liệp xoa chỉ chỏ vào gã họ Dư mà chửi bới. Những tên chạy cờ trong tiêu cục võ nghệ thì tầm thường nhưng việc cầm cờ, hô hiệu là “nghề của chàng” nên tiếng chửi rủa của chúng nghe rất bài bản. Cả hai chửi bằng thổ ngữ Phúc Châu, hai gã Tứ Xuyên kia chẳng hiểu ất giáp mô tê gì, nhưng biết chắc đó không phải là những lời đẹp đẽ.

Lâm Bình Chi được phụ thân truyền dạy Phiên thiên chưởng nay mới có dịp thi thố. Bình thường, chàng đã đem những chiêu thức này ra chiết giải cùng với các tiêu sư trong tiêu cục. Một là chưởng pháp được tổ truyền rất phi phàm; hai là đối với thiếu chủ nhân, vị tiêu sư nào cũng nhân nhượng vài ba phân, không ai đem hết công lực của mình ra giao đấu với chàng cả. Tuy chàng được chỉ giáo nhiều kinh nghiệm lâm trận nhưng giao đấu thực sự thì lại rất ít. Ở thành Phúc Châu, đôi khi chàng cũng động thủ với vài gã lưu manh bằng vài ba chiêu xoàng xĩnh nhưng chúng làm sao có thể địch lại tuyệt nghệ của nhà họ Lâm được? Chàng không cần dùng đến ba chiêu là đã đánh cho bọn chúng mặt mày sưng húp, phải chuồn ngay kẻo toi mạng. Lần này chỉ đấu được hơn mươi chiêu, tính kiêu ngạo của Lâm Bình Chi đã bị khuất phục, cảm thấy đối phương là một tay kình địch vì chàng đã triển khai chưởng pháp chiết giải đến chỗ lâm ly biến ảo mà miệng hắn vẫn thốt ra những lời thối tha:

– Tiểu huynh đệ, ta càng nhìn càng thấy ngươi không phải là đàn ông mà là một đại cô nương cải trang. Má tiểu huynh đệ trắng hồng, hãy cho ta thơm một cái nào. Mình đừng choảng nhau nữa, được không?

Lâm Bình Chi phẫn nộ, liếc mắt nhìn hai tiêu đầu Sử, Trịnh; thấy cả hai đang liên thủ đánh gã họ Giả nhưng vẫn bị kém thế.

Mũi của Trịnh tiêu đầu bị đánh một quyền khá mạnh, máu văng tung tóe nhuộm đỏ cả vạt áo. Lâm Bình Chi càng xuất chiêu nhanh hơn. Bỗng nhiên nghe một tiếng “bốp”, gã họ Dư lại bị tát một cái tóe lửa. Đây là một chiêu thâm hậu trong Phiên thiên chưởng. Gã họ Dư giận dữ, quát:

– Đồ rùa đen không biết thế nào là phải trái. Ta thấy ngươi xinh xắn như một đại cô nương nên đùa với ngươi một chút chơi, sao rùa con lại dám thẳng tay đánh ta?

Nói xong, gã biến đổi quyền pháp, đột ngột đánh ra như cuồng phong sậu vũ. Cả hai mê trận, đấu dần ra ngoài quán. Lâm Bình Chi thấy đối phương vung quyền đánh thẳng vào giữa, chàng liền nhớ đến bí quyết chữ “Tá” mà phụ thân đã dạy, lập tức vung tay trái gạt ra. Chàng đã dùng hết sức lực ra quyền, không ngờ thể trạng của gã họ Dư này quá mạnh nên chẳng ăn thua gì, giữa ngực bị trúng một quyền nghe “bịch” một tiếng. Lâm Bình Chi lảo đảo người, cổ áo bị tay trái đối phương nắm được, tay phải gã dùng sức đè khiến cho nửa người Lâm Bình Chi gập xuống. Gã xuất chiêu Thiết môn hạm đè lên gáy của chàng, cười ha hả rồi nói:

– Thỏ con ơi, ngươi dập đầu lạy ta ba cái rồi gọi ba tiếng “hảo thúc thúc” thì ta mới tha cho!

Hai tiêu đầu Sử, Trịnh kinh hãi định chạy đến cứu Lâm Bình Chi nhưng bị gã họ Giả phóng cước đá tới tấp không để cho hai gã tháo chạy. Tên cầm cờ Bạch Nhị cầm cây hãn liệp xoa nhằm lưng gã họ Dư đâm tới, miệng la:

– Ngươi có mấy cái đầu mà chưa chịu buông tay?

Sau lưng gã họ Dư như có mắt. Chân trái gã đá ngược về sau khiến cây hãn liệp xoa văng xa ra mấy trượng; chân phải gã đá thêm một cước liên hoàn khiến gã Bạch Nhị lăn lông lốc bảy tám vòng, không đứng dậy nổi. Trần Thất ngoác miệng chửi:

– Tiên sư quân rùa đen! Mẹ quân lộn giống! Bà nội các ngươi đẻ ra toàn đứa có mắt không tròng!

Hắn chửi cứ một câu thì thụt lùi một bước, chửi liền một hơi tám chín câu thì thụt lùi tám chín bước.

Gã họ Dư cười nói:

– Đại cô nương, nàng có chịu lạy không?

Gã lại đè mạnh thêm, làm đầu của Lâm Bình Chi càng lúc càng thấp xuống gần chạm đất. Lâm Bình Chi cố đấm vào bụng gã nhưng tay vẫn không chạm được tới bụng. Chàng cảm thấy xương cổ đau đớn tưởng chừng như gãy ra từng đoạn, mắt hoa tai ù. Hai tay chàng huơ loạn cả lên, bỗng nhiên đụng phải một vật gì cứng cứng ở dưới bắp chân mình. Không kịp suy nghĩ, chàng thuận tay rút luôn lưỡi dao ra, đâm ngược vào bụng dưới hán tử họ Dư.

Gã hán tử họ Dư rú lên một tiếng rồi buông hai tay ra, lùi lại sau hai bước, thần sắc đầy vẻ kinh hãi. Lưỡi dao cắm vào bụng gã sâu đến tận chuôi. Mặt gã hướng về phía Tây, bóng tịch dương chiếu vào chuôi dao bằng vàng sáng lấp loáng. Gã cố há miệng nói nhưng không ra lời, đưa tay định rút dao ra nhưng không được. Lâm Bình Chi cũng hoảng sợ, trái tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, vội vàng lùi mấy bước. Hai tiêu đầu Sử, Trịnh và gã họ Giả ngừng tay không đấu nữa, nhìn hán tử họ Dư kinh ngạc khác thường. Gã họ Dư loạng choạng mấy cái, giơ tay phải cố dùng sức rút lưỡi dao. Máu tươi chảy lênh láng ra ngoài, mấy người lớn tiếng la hoảng. Gã họ Dư lắp bắp:

– Giả…  Giả… Nói với gia gia… báo… báo thù cho ta…

Gã hất tay về sau, quăng lưỡi dao cho gã họ Giả. Gã họ Giả thét lên:

– Dư huynh đệ! Dư huynh đệ!

Rồi vội vàng chạy đến. Gã họ Dư ngã nhào xuống đất, toàn thân co giật mấy cái rồi bất động.

Sử tiêu đầu nhắc khẽ:

– Chuẩn bị “đồ chơi” đi, anh em!

Rồi chạy đến bên ngựa rút cây cương đao ra. Hắn vốn già dặn kinh nghiệm giang hồ, mắt hướng về cảnh náo loạn vừa qua, đề phòng gã họ Giả đánh liều mạng.

Gã họ Giả nhìn Lâm Bình Chi một cái rồi cầm cây dao găm, chạy đến bên ngựa nhảy phốc lên yên. Không kịp tháo dây cương, gã lấy đoản đao cắt đứt dây, hai đùi thúc mạnh phóng ngựa lao về hướng Bắc. Trần Thất bước tới chỗ gã họ Dư nằm, đá một cước, thi thể gã họ Dư lật ngửa lên, máu ở chỗ vết thương chảy ra không ngừng. Gã nói:

– Ngươi đắc tội với Thiếu tiêu đầu của chúng ta là không muốn sống nữa rồi. Ngươi chết là phải!

Trước nay, Lâm Bình Chi chưa hề giết người nên bây giờ mặt chàng không còn chút máu. Chàng ấp úng nói:

– Sử… Sử tiêu đầu. Làm… làm thế nào đây? Ta đâu… đâu có muốn giết hắn.

Sử tiêu đầu nghĩ bụng: Phước Oai tiêu cục đã ba đời đi khắp giang hồ. Việc giết người là chuyện khó tránh khỏi nhưng chỉ giết những nhân vật hắc đạo trong rừng sâu núi thẳm. Sau khi giết xong đem xác đi chôn. Việc giết người này chỉ là giết những tên đạo tặc, và mấy ai đã dám thưa kiện Phước Oai tiêu cục lên phủ huyện. Nhưng lần này người bị giết không phải là đạo tặc, lại bị giết ngay tại ngoại thành Phúc Châu giữa ban ngày ban mặt thì không phải là chuyện nhỏ. Đừng nói là Thiếu tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục, dẫu là con của quan tổng đốc, tuần phủ đi nữa cũng không thể được coi là nhẹ tội.

Hắn chau mày nói:

– Chúng ta mau đem cái xác này vào trong quán rượu. Ở đây gần quan đạo, dễ bị người ta nhìn thấy, đợi đến lúc chạng vạng không còn người đi hãy hay.

Bạch Nhị, Trần Thất khiêng cái xác vào trong quán. Sử tiêu đầu nói khẽ:

– Thiếu tiêu đầu có đem vàng bạc theo đó không?

Lâm Bình Chi vội đáp:

– Có, có, có!

Chàng móc ra hai chục lạng bạc đưa cho Sử tiêu đầu. Sử tiêu đầu nhận bạc, đi vào trong quán, đặt lên bàn, hướng về lão Tát nói:

– Này Tát lão đầu, có người đến trêu chọc cháu gái của lão, Thiếu tiêu đầu của ta đã ra tay giúp đỡ, bất đắc dĩ mới giết hắn. Mọi người đều thấy rõ cả. Việc này một phần cũng là trách nhiệm của lão, hễ làm ầm ĩ lên thì ai cũng bị liên lụy. Trước hết, lão hãy cầm số bạc này. Phải chôn cất cái xác trước đã rồi từ từ nghĩ cách che lấp việc này đi.

Lão Tát gật đầu:

– Dạ. Dạ. Dạ.

Trịnh tiêu đầu nói:

– Phước Oai tiêu cục chúng ta đi khắp giang hồ, diệt nhiều lục lâm đạo tặc là chuyện bình thường. Hai con chuột Tứ Xuyên này là bọn đầu trâu mặt ngựa, ta thấy nếu không là bọn giang dương đại đạo thì cũng là thái hoa dâm tặc, đến Phúc Châu chỉ để gây án. Thiếu tiêu đầu của chúng ta mưu trí sáng suốt nên mới trừ khử một tên để bảo đảm sự bình an cho phủ Phúc Châu. Việc này có thể đến quan phủ lãnh thưởng, nhưng Thiếu tiêu đầu không muốn phiền phức và cũng không cầu hư danh. Lão Tát nên kín mồm kín miệng, đừng để chuyện này lọt ra ngoài. Chừng đó chúng ta sẽ nói hai tên đạo tặc này là do lão dẫn đến vì ta nghe giọng nói của lão không giống người ở đây chút nào. Lão mở quán rượu là chuyện giả, còn làm tai mắt cho chúng mới là chuyện thật. Nếu không thì tại sao hai gã này trước đây không đến mà nhè đúng cái ngày lão khai trương quán rượu mới đến? Trong thiên hạ sao lại có chuyện ngẫu nhiên như thế được!

Lão Tát vội nói:

– Không dám nói! Không dám nói!

Sử tiêu đầu cùng hai tên Bạch Nhị, Trần Thất khiêng cái xác đem chôn trong vườn rau phía sau quán rượu rồi dùng cuốc phớt sạch những vệt máu trước cửa quán.

Trịnh tiêu đầu quay vào bảo lão Tát:

– Nội trong mười ngày, nếu bọn ta không nghe tin tức thẩm lậu ra ngoài thì sẽ đưa thêm cho lão năm chục lạng bạc nữa để làm vốn. Nếu cái miệng của lão mà bép xép thì lưỡi dao của Phước Oai tiêu cục dù chưa giết tới một ngàn tặc tử nhưng cũng đã được tám trăm. Nay có giết thêm một già một trẻ nhà lão thì bất quá chỉ vùi thêm hai cái xác trong vườn rau nữa mà thôi.

Lão Tát nói:

– Đa tạ. Đa tạ! Không dám nói. Không dám nói.

Hồi 2: Tổng Tiêu đầu mở cuộc điều tra

Mọi việc xong xuôi thì trời đã tối mịt. Lâm Bình Chi chỉ tạm yên dạ, về đến tiêu cục vẫn còn thấp thỏm. Chàng bước vào đại sảnh, thấy phụ thân ngồi trên ghế thái sư đang nhắm mắt trầm tư. Lâm Bình Chi vẻ mặt thất thường, lên tiếng gọi:

– Gia gia!

Lâm Chấn Nam thấy con về, vui vẻ hỏi ngay:

– Đi săn hả? Có được con heo rừng nào không?

Lâm Bình Chi đáp:

– Không có.

Lâm Chấn Nam tay cầm tẩu thuốc bất ngờ gõ xuống vai chàng, cười quát:

– Trả chiêu đi!

Lâm Bình Chi biết phụ thân thường bất ngờ ra chiêu để kh ảo nghiệm công phu của mình. Nếu là ngày thường thấy phụ thân xuất chiêu Lưu tinh phi trụy là chiêu thứ hai mươi sáu trong Tịch tà kiếm pháp, chàng lập tức chiết giải bằng chiêu thứ bốn mươi sáu Hoa khai kiến Phật. Nhưng lần này tâm thần chàng bất định, cho rằng việc giết người trong quán rượu đã bị phụ thân biết rõ nên dùng cái tẩu thuốc để đánh mình. Chàng không dám né tránh, chỉ la lên:

– Gia gia!

Lâm Chấn Nam cầm tẩu thuốc quật xuống bả vai của con trai chỉ còn cách ba tấc thì sựng lại, hỏi:

– Nhi tử sao vậy? Trên giang hồ nếu gặp kình địch mà ứng biến ngơ ngẩn như vậy thì còn gì là bả vai của ngươi nữa?

Lời nói tuy có ý quở trách nhưng nét mặt vẫn tươi cười.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ.

Chàng hạ thấp vai trái xuống rồi xoay mình vòng qua sau lưng phụ thân, thuận tay nắm lấy cây chổi lông trên bàn trà nhằm lưng phụ thân đâm tới. Đó chính là chiêu Hoa khai kiến Phật.

Lâm Chấn Nam gật đầu cười nói:

– Phải rồi.

Lão xoay tay dùng tẩu thu ốc trả chiêu Giang thượng lộng địch. Lâm Bình Chi phấn ch ấn tinh thần, lại xuất chiêu Tử khí đông lai. Sau khi hai cha con xuất thủ hơn năm chục chiêu, Lâm Chấn Nam phóng nhẹ cái tẩu thuốc xuống dưới ngực con trai. Lâm Bình Chi đỡ đòn không kịp, cảm thấy vai phải ê ẩm, cây chổi lông trên tay rơi xuống đất.

Lâm Chấn Nam cười nói:

– Tốt lắm, tốt lắm! Trong vòng một tháng nay, ngày nào ngươi cũng tiến bộ. Hôm nay lại chiết giải được hơn bốn chiêu.

Rồi lão quay lại ghế ngồi, lấy thuốc nhét vào tẩu, nói:

– Bình nhi, ta nói cho hài nhi biết: hôm nay tiêu cục của chúng ta có một chuyện đáng mừng.

Lâm Bình Chi đánh lửa mồi thuốc cho phụ thân rồi hỏi:

– Gia gia lại nhận được một món tiêu hàng lớn ư?

Lâm Chấn Nam lắc đầu cười nói:

– Chỉ cần tiêu cục của chúng ta có nhiều người tài giỏi thì lo gì việc làm ăn không đến? Ta chỉ e khi thời vận đến mà chúng ta lại không kham nổi.

Lão phà một làn khói dài rồi nói tiếp:

– Trương tiêu đầu từ Hồ Nam đưa tin đến, báo rằng Dư quán chủ Tùng Phong quán phái Thanh Thành ở Tứ Xuyên đã nhận được lễ vật mà chúng ta gởi tặng.

Lâm Bình Chi nghe đến mấy chữ “Tứ Xuyên” và “Dư quán chủ”, giật nẩy người, hỏi:

– Nhận lễ vật của chúng ta ư?

Lâm Chấn Nam nói:

– Trước nay, ta không nói công việc trong tiêu cục cho hài nhi biết, nên hài nhi không rõ. Nhưng nay hài nhi đã trưởng thành, gánh nặng của gia gia sẽ từ từ đặt lên vai của hài nhi. Từ đây về sau, hài nhi nên quan tâm đến những công việc trong tiêu cục một chút. Tiêu cục của chúng ta đã trải qua ba đời; một là nhờ uy danh của tổ phụ để lại, hai là nhờ vào công việc của chúng ta rõ ràng, làm đâu ra đó nên mới có được như ngày nay, một đại tiêu cục đứng đầu Giang Nam. Trên giang hồ đã có bốn chữ “Phước Oai tiêu cục”, nhưng ta không muốn ai tôn xưng: “Hảo phúc khí! Hảo oai phong”. Hài nhi nên nhớ rằng danh tiếng chỉ hai phần, võ công chỉ hai phần, sáu phần còn lại là dựa vào sự yểm trợ của anh em hắc bạch giang hồ. Tiêu xa của Phước Oai tiêu cục đi khắp mười tỉnh, nếu mỗi chuyến đi đều đưa gia nhân theo hộ vệ để chém giết thì bao nhiêu tính mạng phải mất đi dù cho ta đánh thắng. Người ta thường nói: Giết được một ngàn người thì mình cũng tử thương hết tám trăm. Ngay món tiền bồi thường cho gia đình các tiêu sư bị thương vong tốn biết bao nhiêu vàng bạc cho đủ. Gia đình chúng ta lúc đó chẳng còn gì cả! Chúng ta đã ăn bát cơm bảo tiêu, trước hết phải nể mặt các bạn hữu giang hồ, nên dang rộng tay đón lấy hai chữ “giao tình”. Hai chữ này còn mạnh hơn cả gươm đao nữa.

Lâm Bình Chi trả lời:

– Dạ.

Nếu như trước đây nghe phụ thân nói đến việc giao trọng trách của tiêu cục lại cho mình, thì lòng chàng đã mười phần hưng phấn. Phụ thân chàng nói không ngừng nhưng lúc đó chỉ lọt vào tai chàng bảy tám phần. Chàng chỉ nghĩ tới mấy chữ “Tứ Xuyên” và “Dư quán chủ”.

Lâm Chấn Nam lại rít một hơi thuốc rồi nói tiếp:

– Gia gia của con võ công còn thấp, không sánh nổi tằng tổ cũng không bì được với nội tổ của con, nhưng giải quyết những việc trong tiêu cục có thể nói là hơn cả nội tổ và tằng tổ rất nhiều. Từ Phúc Kiến đi về phía Nam đến Quảng Đông, đi về phía Bắc đến Triết Giang, Giang Tô, cơ nghiệp của bốn tỉnh này là do tổ phụ gây dựng nên. Còn sáu tỉnh Sơn Đông, Hà Bắc, Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây và Quảng Tây là do một tay ta gầy dựng. Vậy đó là bí quyết gì? Con nói đi. Chẳng qua là tám chữ “Đa giao bằng hữu, thiểu kết oan gia” (thêm bạn bớt thù) mà thôi. Phước Oai, Phước Oai! Trên là chữ “Phước”, dưới là chữ “Oai” nghĩa là phước khí hơn cả oai phong. Phước khí cũng là từ tám chữ “Đa giao bằng hữu, thiểu kết oan gia” mà ra, nếu như đảo lại thành “Oai Phước”, thì trở thành nơi tác oai tác phúc mất rồi. Ha ha ha!

Lâm Bình Chi cười theo cha nhưng tiếng cườ i của chàng không được sảng khoái cho lắm. Lâm Chấn Nam chưa phát giác ra nỗi lòng bất an của con, lại nói tiếp:

– Cổ nhân nói: “Được voi đòi tiên”. Gia gia của con đã được đất Ngạc lại muốn có thêm đất Thục nữa. Con đường bảo tiêu của chúng ta từ Phúc Kiến đi về hướng Tây phải qua Giang Tây, Hồ Nam đến Hồ Bắc, chẳng lẽ dừng lại sao? Sao chúng ta không ngược dòng Trường Giang mà đi xa về phía Tây để đến Tứ Xuyên? Tứ Xuyên là đất bờ xôi ruộng mật, rất trù phú. Đường qua Tứ Xuyên, phía Bắc lên Thiểm Tây, phía Nam xuống Vân Nam, Quý Châu, việc làm ăn được thêm cả ba thành nữa. Có điều tỉnh Tứ Xuyên là đầm rồng hang cọp, cao nhân rất nhiều. Tiêu xa của Phước Oai tiêu cục muốn đi qua Tứ Xuyên thì phải giao hảo với hai phái Thanh Thành và Nga Mi mới được. Từ ba năm nay, mỗi năm vào hai tiết Xuân-Thu, ta thường phái người đem hậu lễ tặng Tùng Phong quán phái Thanh Thành và Kim Đỉnh tự phái Nga Mi, nhưng chưởng môn hai phái này không bao giờ nhận cả. Kim Quang thượng nhân phái Nga Mi còn chịu tiếp kiến tiêu đầu của ta, nói vài câu cảm ơn và mời ăn một bữa cơm chay rồi sau đó đưa lễ vật mang về không động đến. Còn Dư quán chủ ở Tùng Phong quán thì khắt khe hơn. Tiêu đầu của chúng ta đến tặng lễ vật chỉ lên đến giữa núi thì bị từ chối không tiếp. Họ nói rằng Dư quán chủ bế môn tọa quan, không tiếp khách. Họ còn nói trong chùa có đủ cả, không nhận lễ vật. Tiêu đầu của chúng ta, đừng nói đến gặp mặt Dư quán chủ, ngay cả cổng Tùng Phong quán hướng Nam hay hướng Bắc cũng không biết nữa. Lần nào tiêu đầu đi tặng lễ vật cũng thở hào hển chạy về, nói rằng vì ta đã ra nghiêm lệnh bất luận đối phương vô lễ như thế nào cũng phải cung kính, nên họ đành chịu nuốt giận, còn không thì dù có là trời đất, những lời tục tĩu nào chúng cũng chửi được cả. Chỉ sợ chúng đánh nhau sẽ làm mất đi cơ hội tốt mà thôi.

Nói đến đây, Lâm Chấn Nam mười phần đắc ý. Lão đứng lên nói tiếp:

– Nào ngờ, lần này Dư quán chủ bỗng nhiên lại nhận lễ vật của chúng ta, lại còn nói sẽ gởi bốn đệ tử đến Phúc Kiến đáp lễ…

Lâm Bình Chi nói:

– Bốn chứ không phải hai sao?

Lâm Chấn Nam nói:

– Phải rồi, bốn đệ tử. Hài nhi nghĩ coi, Dư quán chủ rất coi trọng việc này, Phước Oai tiêu cục cũng vẻ vang lắm chứ? Vừa rồi, ta đã phái người phi ngựa đi thông báo các tiêu cục ở Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc rằng đối với bốn vị đệ tử của phái Thanh Thành phải ân cần tiếp đãi như thượng khách.

Lâm Bình Chi hốt hoảng nói:

– Gia gia, có phải người Tứ Xuyên chỉ gọi người khác là “Quy nhi tử” (con rùa con) và tự xưng là “Lão gia” không?

Lâm Chấn Nam cười nói:

– Ở Tứ Xuyên, những người thô bỉ mới nói như vậy. Hạng người thô bỉ này ở đâu mà không có? Những người này nói năng văng mạng. Hài nhi đã biết những tên cầm cờ trong tiêu cục chúng ta lúc đánh bạc luôn thốt ra những lời thật khó nghe. Mà tại sao hài nhi lại hỏi ta câu này?

Lâm Bình Chi đáp:

– Không có gì đâu ạ!

Lâm Chấn Nam nói:

– Khi bốn đệ tử phái Thanh Thành đến, hài nhi nên thân thiện với họ để học hỏi phong cách, khuôn phép của danh gia. Kết giao được với bốn người bạn này thì về sau có lợi vô cùng.

Hai cha con ngồi nói chuyện với nhau nhưng Lâm Bình Chi vẫn lưỡng lự không biết có nên đem chuyện giết người nói cho gia gia nghe hay không. Cuối cùng chàng nghĩ bụng nên cho má má hay trước rồi mới nói với gia gia sau.

Gia đình Lâm Chấn Nam có ba người, sau khi ăn tối xong, ở lại hậu sảnh nói chuyện. Lâm Chấn Nam bàn với phu nhân mua quà tặng con trai nhân ngày một tháng sáu, ngày sinh của chàng. Nhưng món quà giá trị nhất luôn luôn là món quà của ông ngoại chàng, Kim Đao vương gia ở Lạc Dương.

Chuyện vãn đến đây, bỗng nhiên có tiếng bước chân người ở ngoài đại sảnh ồn ào náo động. Mấy người vội vã chạy đến. Lâm Chấn Nam cau mày quát:

– Không còn ra cái thể thống gì cả!

Ba tên cầm cờ hiệu chạy vào. Tên đến trước vội quỳ sụp xuống, nói:

– Tổng… Tổng tiêu đầu…

Lâm Chấn Nam quát:

– Chuyện gì mà run dữ vậy?

Gã cầm cờ Trần Thất đáp:

– Bạch… Bạch Nhị chết rồi!

Lâm Chấn Nam kinh ngạc hỏi:

– Ai giết nó? Các ngươi chơi bài rồi ẩu đả nhau phải không?

Lão trầm ngâm suy nghĩ rồi nói:

– Bọn này phiêu bạt giang hồ đã quen, thật khó mà khép chúng vào khuôn khổ. Đụng một tí là đao đâm quyền đánh. Án mạng xảy ra trong phủ Phúc Châu này thì phiền phức to đây!

Trần Thất nói:

– Không phải. Hồi nãy Tiểu Lý đi giải, thấy Bạch Nhị nằm trong vườn hoa bên cạnh nhà cầu, trên người không có một vết thương, thân lại lạnh cứng, không biết vì sao mà chết. Tiểu nhân sợ là phát sinh bệnh gì.

Lâm Chấn Nam thở phào nhẹ nhõm nói:

– Để ta đi coi!

Lão đi ra phía vườ n rau, Lâm Bình Chi theo sau. Bảy vị tiêu sư và tên cầm cờ đang đứng chung quanh, thấy Tổng tiêu đầu đến, họ bèn nép qua nhường chỗ.

Lâm Chấn Nam xem thi thể của Bạch Nhị, thấy quần áo của gã bị rách nhưng trên người không một vết máu, liền hỏi Chúc tiêu đầu đứng bên cạnh:

– Không có thương tích gì ư?

Chúc tiêu đầu đáp:

– Thuộc hạ đã kiểm tra kỹ rồi. Toàn thân không bị một vết thương nhỏ nào nhưng xem ra cũng không phải là trúng độc.

Lâm Chấn Nam gật đầu nói:

– Thông báo cho Chẩn phòng Đổng tiên sinh, nói với lão lo liệu hậu sự cho Bạch Nhị, đưa cho người nhà của gã một trăm lạng bạc.

Tên cầm cờ vì sao mà chết, Lâm Chấn Nam cũng không thể yên tâm được. Lão đi về phía đại sảnh, nhìn con trai hỏi:

– Hôm nay Bạch Nhị có cùng ngươi đi săn không?

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ có! Nhưng lúc trở về gã vẫn bình thường, không hiểu tại sao bỗng nhiên lại phát bệnh.

Lâm Chấn Nam nói:

– Ấy, những việc trên thế gian này thường bỗng nhiên mà đến. Ta cũng muốn mở con đường về Tứ Xuyên nhưng chỉ sợ phải bỏ công ra mười năm. Bỗng nhiên, Dư quán chủ có lòng thu nhận lễ vật của ta rồi còn phái bốn đệ tử vượt nghìn dặm xa xôi đến đáp lễ.

Lâm Bình Chi nói:

– Gia gia, phái Thanh Thành tuy là một môn phái lớn trong võ lâm nhưng Phước Oai tiêu cục và oai danh của gia gia trên giang hồ cũng không vừa. Năm nào chúng ta cũng đi Tứ Xuyên tặng lễ vật, Dư quán chủ phái người đến đây cũng chẳng qua là có đi có lại mà thôi.

Lâm Chấn Nam cười nói:

– Hài nhi nghĩ sao mà nói vậy? Hai phái Nga Mi và Thanh Thành ở Tứ Xuyên đã tồn tại mấy trăm năm, môn hạ tài giỏi không ai bì kịp. Tuy không sánh bằng hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang nhưng Thanh Thành so với Ngũ Nhạc kiếm phái là Tung Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn, Hằng Sơn coi như ngang nhau. Ngươi có biết tằng tổ Viễn Đồ Công lập ra bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm pháp, uy chấn giang hồ, đáng được tôn xưng thiên hạ vô địch, nhưng truyền đến đời tổ phụ của ngươi thì uy danh không bằng Viễn Đồ Công nữa. Gia gia của ngươi lại e còn kém hơn. Võ công ba đời nhà họ Lâm chúng ta đều truyền theo một tuyến, ngay cả sư huynh sư đệ cũng không có một người. Nội tổ và gia gia không bì kịp người ta bởi họ thế mạnh người đông.

Lâm Bình Chi nói:

– Còn anh hùng hảo hán trong mười tỉnh của tiêu cục chúng ta hợp lại, lẽ nào không địch lại Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Thanh Thành và Ngũ Nhạc kiếm phái?

Lâm Chấn Nam cười nói:

– Hài tử nói với gia gia câu này thì không sao, nhưng nếu lọt vào tai người ngoài thì lập tức sẽ gặp chuyện phiền phức. Mười tiêu cục của chúng ta có tám mươi bốn vị tiêu đầu tinh thông võ nghệ, nếu hợp lại tất nhiên sẽ không thua. Nhưng đánh thắng người ta có được gì đâu? Người ta thường nói “Hòa khí sinh tài”. Chúng ta ăn bát cơm tiêu hành, càng phải nhường nhịn người ta một bước. Mình tự lùi xuống một bước nhường cho người ta trổ tài xưng hùng xưng bá cũng chẳng mất mát gì cả.

Bỗng nhiên có tiếng một người la lên:

– Trịnh tiêu đầu chết rồi!

Hai cha con Lâm Chấn Nam đều kinh hoàng. Lâm Bình Chi nhảy thót lên, sợ hãi nói:

– Chúng kéo đến báo…

Chữ “thù” chàng nói không thành tiếng, bèn lùi lại ghế ngồi. Kỳ thực, Lâm Chấn Nam đã đoán được lời trong miệng con nhưng lão không lưu tâm. Tên cầm cờ Trần Thất chạy đến thở hổn hển, sụp xuống lắp bắp:

– Tổng… Tổng tiêu đầu. Không xong rồi! Trịnh tiêu đầu… Trịnh tiêu đầu lại bị ác quỷ Tứ Xuyên đánh chết rồi!

Lâm Chấn Nam nét mặt sầm xuống nói:

– Cái gì ác quỷ Tứ Xuyên? Ăn nói bậy bạ!

Trần Thất đáp:

– Dạ, dạ! Ác quỷ Tứ Xuyên đó… còn rất trẻ, khi sống là hạng người ỷ mạnh hiếp yếu, chết rồi lại càng thêm lợi hại…

Trần Thất thấy Tổng tiêu đầu trợn mắt nghiêm khắc nhìn mình, không nói thêm nữa. Hắn nhìn qua Lâm Bình Chi. Thần sắc chàng buồn thảm, trông thật đáng thương.

Lâm Chấn Nam hỏi:

– Ngươi nói Trịnh tiêu đầu chết rồi ư? Thi thể ở đâu? Tại sao chết?

Lúc đó lại có vài tên tiêu đầu, tên cầm cờ chạy vào đại sảnh. Một tiêu sư cau mày nói:

– Trịnh huynh đệ chết ở trong chuồng ngựa, giống y như gã Bạch Nhị, trên người cũng không có một vết thương, thất khổng không bị chảy máu, mặt không bị xanh tái hay sưng húp. Phải chăng… phải chăng vừa rồi theo Thiếu tiêu đầu đi săn… Thật đúng rồi. Ngày xui tháng rủi mới gặp phải ác quỷ.

Lâm Chấn Nam khẽ nói:

– Đời ta đã quấy động khắp giang hồ nhưng chưa bao giờ gặp quỷ ma. Các ngươi nhìn kỹ đi!

Nói xong, lão cất bước ra khỏi đại sảnh đi về phía chuồng ngựa. Trịnh tiêu đầu nằm dưới đất, hai tay nắm yên ngựa, chứng tỏ lúc lão đang tháo yên ngựa thì bỗng nhiên ngã xuống chết, chắc chắn là không đánh nhau với ai.

Lúc này trời đã tối. Lâm Chấn Nam bảo người đem đèn lồng để bên cạnh, tự tay cởi quần đùi của Trịnh tiêu đầu, xem xét tỉ mỉ. Quả nhiên không có một vết thương, xương cốt của Trịnh tiêu đầu vẫn y nguyên, ngay cả xương ngón tay một lóng cũng không gãy. Lâm Chấn Nam từ trước đến giờ không tin chuyện quỷ thần. Bạch Nhị bỗng nhiên chết cũng có thể chấp nhận được, nhưng cái chết của Trịnh tiêu đầu lại giống hệt cái chết của Bạch Nhị. Chuyện xảy ra thật kỳ quặc. Nếu là bệnh dịch tại sao toàn thân lại không có những hạt lấm tấm đỏ đen?

Lão nghĩ bụng: Vụ này chắc chắn có liên quan đến chuyện đi săn hôm nay của con trai.

Lão quay lại hỏi Lâm Bình Chi:

– Hôm nay theo hài nhi đi săn, ngoài Trịnh tiêu đầu và Bạch Nhị còn có Sử tiêu đầu và Trần Thất nữa phải không?

Vừa hỏi lão vừa chỉ tay về phía Trần Thất. Lâm Bình Chi gật đầu. Lâm Chấn Nam nói lớn:

– Hai ngươi theo ta.

Rồi quay sang dặn hai tên cầm cờ:

– Mời Sử tiêu đầu đến sương phòng phía Đông nói chuyện.

Ba người đến sương phòng. Lâm Chấn Nam hỏi con trai:

– Rốt cuộc là chuyện gì?

Lâm Bình Chi bèn kể lại chuyện đi săn về đến quán rượu, uống rượu ở quán ra sao; hai người Tứ Xuyên trêu chọc thiếu nữ bán rượu như thế nào, vì sao mà hai bên lời qua tiếng lại rồi gây chuyện động thủ; hán tử càn quấy dùng sức mạnh bắt chàng quỳ lạy ra sao, chàng rút dao găm trong đôi ủng giết gã, chôn cất gã trong vườn rau như thế nào… Chàng lần lượt kể hết sự thật cho phụ thân nghe.

Lâm Chấn Nam càng nghe càng biết sự việc không đáng lo. Cùng người tỉ thí và giết người xứ khác đến chẳng phải là chuyện chi long trời lở đất. Lão nghe con trai kể xong, trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

– Hai hán tử không xưng ra môn phái hay bang hội nào ư?

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ không.

Lâm Chấn Nam hỏi:

– Trong lời nói, cử chỉ của chúng có cái gì khác thường không?

Lâm Bình Chi nói:

– Hài nhi thấy cũng không có gì khác thường nhưng gã hán tử họ Dư…

Chàng nói chưa dứt, Lâm Chấn Nam hỏi tiếp:

– Gã hán tử ngươi giết là người họ Dư phải không?

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ. Hài nhi nghe gã kia gọi hắn là “Dư huynh đệ”, nhưng không biết người chết họ Dư hay là họ Du, vì gã kia nói giọng phương Bắc nên hài nhi nghe không chính xác lắm.

Lâm Chấn Nam lắc đầu tự nói:

– Không, không thể có chuyện như vậy! Dư quán chủ nói sẽ phái người đến, sao họ lại có thể đến phủ Phúc Châu nhanh vậy? Chẳng lẽ họ mọc thêm cánh ư?

Lâm Bình Chi run sợ hỏi:

– Gia gia, hai người đó có phải là người phái Thanh Thành không?

Lâm Chấn Nam không trả lời, đưa tay ra vạch một đường hỏi:

– Hài nhi dùng chiêu thức Phiên thiên chưởng đánh gã ấy, gã ấy chiết giải thế nào?

Lâm Bình Chi đáp:

– Gã không chiết giải mà tát hài nhi.

Lâm Chấn Nam cười nhẹ, nói:

– Rất tốt! Rất tốt! Rất tốt!

Bầu không khí trong phòng đang khẩn trương nhưng khi nghe Lâm Chấn Nam cười như vậy, Lâm Bình Chi cũng cười theo. Lòng mọi người cảm thấy nhẹ nhàng hơn một chút.

Lâm Chấn Nam lại hỏi:

– Ngươi dùng chiêu thức này đánh gã, gã đánh lại như thế nào? Vừa nói lão vừa ra một chiêu.

Lâm Bình Chi đáp:

– Lúc đó hài nhi quá tức giận nên không nhớ rõ. Dường như hài nhi sử chiêu đó, hắn vung quyền đánh trúng ngực hài nhi.

Nét mặt Lâm Chấn Nam càng hiền hòa nói:

– Được. Chiêu này phải đánh trả lại như thế này. Ngay cả một chiêu chiết giải hắn cũng không biết thì quyết không phải là con cháu của Dư quán chủ ở Tùng Phong quán phái Thanh Thành lừng danh thiên hạ.

Lão nói tiếp:

– Rất tốt!

Đây không phải lão khen đường quyền ngọn cước của con, mà là lão cảm thấy yên tâm. Một tỉnh Tứ Xuyên có không biết bao nhiêu người h ọ Dư, mà gã họ Dư này bị con lão giết võ nghệ chắc không cao, nhất định không liên quan đến phái Thanh Thành.

Lão đưa ngón giữa bên phải trỏ lên mặt bàn, không gõ mà hỏi:

– Gã làm sao mà nhấn được đầu của ngươi xuống?

Lâm Bình Chi đưa thẳng cánh tay vạch một đường và giải thích chàng đã bị gã nắm chặt không nhúc nhích được.

Trần Thất thu hết can đảm nói chen vào:

– Bạch Nhị lấy cây hãn liệp xoa đâm, bị hắn phản cước đá văng cây hãn liệp xoa, tiếp theo lại bị đá lộn nhào.

Lâm Chấn Nam tâm thần chấn động, hỏi:

– Hắn đá văng cây hãn liệp xoa trong tay Bạch Nhị rồi sau đó đá văng Bạch Nhị. Cách đá như thế nào?

Trần Thất nói:

– Dường như hắn đá thế này.

Hai tay gã nắm lấy lưng ghế, chân phải đá ngược lại một cái, thân người nhảy lên, chân trái lại đá ngược một cái nữa. Hai cái đá này coi ra rất vụng về như con ngựa đá người.

Lâm Bình Chi thấy gã đá thật khó coi không nhịn được, cười nói:

– Gia gia, nhìn gã đá kìa…

Nhưng chàng lại thấy mặt phụ thân hiện ra vẻ khiếp đảm nên câu nói phải ngắt ngang.

Lâm Chấn Nam nói:

– Hai chiêu thức này có phần giống Vô ảnh ảo thoái, tuyệt chiêu của phái Thanh Thành. Bình nhi, tóm lại đường quyền của hắn đánh ra thế nào?

Lâm Bình Chi đáp:

– Lúc đó hài nhi bị hắn nắm chặt, không thấy được hắn đánh ra sao.

Lâm Chấn Nam nói:

– Phải hỏi Sử tiêu đầu mới được.

Lão đi ra khỏi cửa cất tiếng gọi to:

– Người đâu? Sử tiêu đầu đâu? Tại sao mời lâu rồi mà chưa thấy đến?

Hai tên cầm cờ nghe gọi, chạy lại thưa rằng đã đi khắp nơi tìm Sử tiêu đầu nhưng không gặp. Lâm Chấn Nam đi qua đi lại trong hoa sảnh, dáng trầm ngâm: Hai chiêu phản kích nếu như chỉ là Vô ảnh ảo thoái thì hán tử này dù không phải con cháu của Dư quán chủ cũng có liên quan đến phái Thanh Thành. Vậy chúng là ai? Mình phải tự đi xem xét mới được.

Lão nói:

– Mời Thôi tiêu đầu và Lý tiêu đầu đến đây.

Thôi, Lý tiêu đầu vốn là hai tay lão luyện, dày dạn kinh nghiệm, trong công việc luôn được Lâm Chấn Nam tín nhiệm. Cả hai thấy Tr ịnh tiêu đầu chết một cách đột ngột mà Sử tiêu đầu lại không có nên đã đợi ngoài đại sảnh từ lâu để chờ sai bảo. Vừa nghe Lâm Chấn Nam gọi, lập tức họ đi vào đại sảnh.

Lâm Chấn Nam nói:

– Chúng ta đi làm một việc. Hai vị Thôi, Lý, hài nhi và Trần Thất theo ta.

Năm người cưỡi ngựa lập tức ra khỏi thành đi về hướng Bắc. Lâm Bình Chi cho ngựa chạy trước dẫn đường. Không bao lâu, cả năm người dừng ngựa trước quán rượu nhỏ. Cửa quán đóng im ỉm.

Lâm Bình Chi gõ cửa, gọi:

– Lão Tát! Lão Tát! Mở cửa ra mau!

Chàng gõ cửa gọi một lúc nhưng vẫn không có tiếng trả lời. Thôi tiêu đầu nhìn Lâm Chấn Nam, đưa hai tay ra làm dấu phá cửa. Lâm Chấn Nam gật đầu. Thôi tiêu đầu vận song chưởng đánh ra. Chỉ nghe tiếng rắc rắc, then cửa gãy từng đoạn, hai cánh cửa bung ra rồi lập tức tự đóng lại, rồi lại mở ra; cứ như vậy lắc lư đóng mở, đóng mở phát ra tiếng kêu kèn kẹt. Thôi tiêu đầu vừa đẩy cửa ra, liền kéo Lâm Bình Chi lách sang một bên. Lão lắng nghe trong nhà không có động tĩnh gì, tro bếp nguội ngắt, bèn đi vào trong nhà, đốt cây đèn dầu ở trên bàn sáng lên rồi đốt thêm hai cây đèn lồng nữa. Cả bọn tìm khắp trong ngoài một lượt cũng chẳng thấy ai. Riêng chăn đệm, hòm xiểng và các thứ đồ đạc trong nhà vẫn nguyên vẹn, chưa kịp đem đi.

Lâm Chấn Nam gật đầu nói:

– Lão Tát lo chuyện giết người xảy ra ở đây, xác chết lại chôn ở trong vườn sau của lão, sợ bị quan nha tra hỏi phiền phức nên đã bỏ đi rồi.

Lâm Chấn Nam ra sau vườn, chỉ cây cuốc dựa ở bức tường bảo:

– Trần Thất, quật tử thi lên cho ta xem.

Trần Thất yên trí đây là việc ma quỷ đến đòi mạng nên chỉ cuốc được hai cái thì tay chân đã rụng rời, muốn quỵ xuống đất.

Lý tiêu đầu quát:

– Đồ vô dụng! Ngươi không xứng đáng ăn bát cơm bảo tiêu!

Một tay lấy cây cuốc, tay kia đưa đèn lồng cho Trần Thất cầm, lão bổ cuốc xuống đất. Không bao lâu thì quần áo của xác chết lộ ra. Lão lại cu ốc thêm vài cuốc nữa, rồi đưa lưỡi cuốc luồn dưới xác chết, dùng sức hất mạnh xác lên. Trần Thất quay đầu đi không dám nhìn. Bỗng nghe tiếng la hốt hoảng của bốn người kia, Trần Thất giật mình sẩy tay đánh rơi đèn lồng. Đèn tắt, trong vườn tối như mực.

Lâm Bình Chi sợ hãi nói:

– Cái xác chúng ta chôn rõ ràng là người Tứ Xuyên. Tại sao… tại sao…

Lâm Chấn Nam nói:

– Đốt đèn mau lên!

Trước đó, Lâm Chấn Nam vẫn rất bình tĩnh nhưng lúc này, tiếng nói của lão có chút sợ hãi. Thôi tiêu đầu đốt đèn lồng lên. Lâm Chấn Nam khom lưng xuống quan sát tử thi một hồi lâu rồi nói:

– Trên người cũng không bị thương, kiểu chết giống nhau như đúc.

Trần Thất lấy hết can đảm liếc nhìn về phía xác chết, bỗng nhiên la to:

– Sử tiêu đầu! Sử tiêu đầu!

Xác chết quật lên lại là xác Sử tiêu đầu. Xác của gã hán tử Tứ Xuyên không biết biến đi đâu.

Lâm Chấn Nam nói:

– Lão họ Tát này nhất định có cái gì đó rất cổ quái!

Lão giật cây đèn lồng chạy vào trong quán quan sát tỉ mỉ từ những vò rượu, nồi chảo, ông táo cho đến bàn ghế trong phòng khách, chẳng thấy có gì khác lạ. Thôi, Lý hai vị tiêu đầu và Lâm Bình Chi cũng chia nhau đi quan sát. Bỗng tiếng của Lâm Bình Chi la lên:

– Úi chao! Gia gia. Gia gia lại đây mà xem.

Lâm Chấn Nam nghe tiếng con gọi liền chạy đến, thấy chàng đang đứng trong phòng của thiếu nữ, tay cầm một chiếc khăn tay màu lục. Lâm Bình Chi nói:

– Một cô con gái nhà nghèo làm gì có được cái khăn tay này?

Lâm Chấn Nam cầm chiếc khăn, thoảng nghe một làn hương nhè nhẹ truyền vào mũi. Chiếc khăn rất mềm mại, bóng láng được dệt bằng tơ, quan sát kỹ thấy bốn biên ngoài của khăn được viền ba đường tơ màu lục. Ở trên góc khăn thêu một cành san hô nhỏ màu đỏ, mũi thêu cực kỳ tinh xảo.

Lâm Chấn Nam hỏi:

– Hài nhi tìm ra cái khăn này ở đâu?

Lâm Bình Chi đáp:

– Nó rơi xuống góc gầm giường. Có lẽ họ vội vàng bỏ đi, lúc thu dọn đồ đạc không nhìn thấy.

Lâm Chấn Nam cầm đèn lồng cúi người xuống gầm giường quan sát, không thấy vật gì cả. Lão ngẫm nghĩ rồi nói:

– Hài nhi nói cô gái bán rượu đó tướng mạo rất xấu, quần áo may bằng vải thường. Hài nhi nghĩ rằng cô không phải là con nhà trâm anh, nhưng có phải cách ăn mặc mười phần chỉnh tề không?

Lâm Bình Chi đáp:

– Lúc đó con không lưu tâm nhưng cũng không thấy mùi hôi hám. Nếu như quần áo hôi hám thì lúc cô ta rót rượu, con đã biết ngay.

Lâm Chấn Nam hỏi Thôi tiêu đầu:

– Lão Thôi! Lão nghĩ sao về chuyện này?

Thôi tiêu đầu đáp:

– Thuộc hạ thấy cái chết của Sử tiêu đầu, Trịnh tiêu đầu và Bạch Nhị cùng với ông cháu nhà này có liên quan với nhau. Không chừng hai ông cháu nhà này còn là tai mắt của bọn chúng.

Lý tiêu đầu nói:

– Vậy thì hai gã Tứ Xuyên kia có lẽ cùng bọn với hai ông cháu. Nếu không, tại sao họ lại đem cái xác kia đi?

Lâm Bình Chi nói:

– Rõ ràng là gã họ Dư động tay động chân làm nhục cô gái đó. Nếu không thì ta đã chẳng việc gì động thủ với gã. Họ không phải đồng bọn đâu.

Thôi tiêu đầu nói:

– Thiếu tiêu đầu chưa biết đó thôi. Người trên giang hồ tâm địa hiểm ác, họ thường giăng sẵn cạm bẫy, đợi người mắc vào. Hai người cùng phe giả vờ đánh nhau để dụ người thứ ba đến can gián, rồi bất ngờ hợp sức lại đánh người thứ ba đó. Cái trò này thường thấy lắm!

Lý tiêu đầu nói:

– Tổng tiêu đầu nhận định thế nào?

Lâm Chấn Nam trả lời:

– Lão Tát và cô gái bán rượu này nhất định là manh mối giúp ta tìm ra sự thật nhưng không biết họ với hai gã hán tử Tứ Xuyên có phải là đồng bọn hay không?

Lâm Bình Chi nói:

– Gia gia! Gia gia nói Dư quán chủ Tùng Phong quán phái bốn người đến. Họ… không phải là… bốn người sao?

Nghe con nói, Lâm Chấn Nam sực tỉnh, ngây người một lát rồi trầm ngâm nói:

– Phước Oai tiêu cục rất nể trọng phái Thanh Thành, từ trước đến nay không hề gây sự với họ. Vậy mà Dư quán chủ phái người tìm đến trả oán nghĩa là làm sao?

Bốn người nhìn lão, lão nhìn lại bốn người, không ai nói với ai một lời. Mãi một lúc sau Lâm Chấn Nam mới nói:

– Đem xác Sử tiêu đầu vào trong nhà rồi hãy bàn. Sự việc hôm nay không ai được tiết lộ để khỏi làm phiền đến quan nha, sinh thêm nhiều rắc rối. Ôi! Họ Lâm đối với người rất trượng nghĩa, không muốn đắc tội với bạn bè nhưng cũng không phải là lũ hèn yếu không dám đánh trả.

Lý tiêu đầu nói lớn:

– Tổng tiêu đầu! Nuôi binh ngàn ngày, dùng trong một chốc. Tất cả anh em chúng tôi nguyện hết sức để không làm tổn hại oai danh tiêu cục của chúng ta.

Lâm Chấn Nam gật đầu đáp:

– Đa tạ!

Năm người thả ngựa về thành. Sắp đến tiêu cục, Lâm Chấn Nam nhìn thấy ngoài cổng đèn đuố c sáng trưng, nhiều người tụ tập. Lòng không yên, Lâm Chấn Nam thúc ngựa chạy tới trước. Mọi người hô lên:

– Tổng tiêu đầu về rồi!

Lâm Chấn Nam xuống ngựa, chỉ thấy vợ lão là Vương phu nhân, gương mặt tái xanh, nói:

– Trượng phu nhìn kìa! Ôi, người ta ức hiếp mình như vậy đó!

Hai cây cột cờ bị gãy nằm dưới đất, cả hai lá cờ cũng bị liệng xuống. Chỗ đoạn cột cờ gãy bằng phẳng chứng tỏ đã bị bảo đao lợi kiếm chặt.

Vương phu nhân không mang kiếm bên mình, rút trường kiếm từ sau lưng chồng ra. “Chát, chát” hai tiếng, bà đã chặt đứt hai phần cột còn lại, gom lại một đống rồi đi vào cổng. Lâm Chấn Nam dặn Thôi tiêu đầu:

– Ngươi đem hai cây cờ này vứt đi! Ôi, muốn chống lại Phước Oai tiêu cục cũng không phải dễ đâu!

Thôi tiêu đầu đáp:

– Dạ!

Lý tiêu đầu chửi đổng:

– Mẹ kiếp! Lũ chó má đê hèn thừa lúc Tổng tiêu đầu không có nhà lén lén lút lút đến làm những việc mờ ám.

Lâm Chấn Nam vẫy tay gọi con trai, cả hai đi vào nhà. Lão chỉ nghe Lý tiêu đầu ngoác miệng đanh đá chửi:

– Quân chó má thối tha!

Hai cha con đến sương phòng phía Đông, thấy Vương phu nhân trải hai lá cờ lên m ặt bàn. Trên lá cờ thêu hình con sư tử đã bị ai đó khoét hai mắt lộ ra hai cái lỗ trố ng rỗ ng. Trên lá cờ thêu bốn chữ “Phước Oai tiêu cục” thì chữ “Oai” cũng bị khoét đi. Lâm Chấn Nam dù đằm tính đến đâu cũng không nhịn được nữa. “Rầm” một tiếng, lão đưa tay đập mạnh xuống bàn. Chiếc bàn lê hoa bát tiên bị chấn động kêu “rắc rắc”, gãy mất một chân.

Lâm Bình Chi hốt hoảng nói:

– Gia gia! Con đã… sai rồi. Cái đại họa này là do con gây ra!

Lâm Chấn Nam lớn tiếng nói:

– Họ Lâm chúng ta giết người thì giết, có sao đâu! Quân đốn mạt nầy nếu lọt vào tay ta thì ta cũng giết thôi.

Vương phu nhân hỏi:

– Giết người nào?

Lâm Chấn Nam nói:

– Bình nhi, nói cho má má biết đi!

Lâm Bình Chi kể lại các tình huống giết gã hán tử Tứ Xuyên thế nào, Sử tiêu đầu bị chết như thế nào. Vương phu nhân đã biết việc Bạch Nhị và Trịnh tiêu đầu chết đột ngột, nay bà nghe nói Sử tiêu đầu lại chết rất ly kỳ, không kìm được phẫn nộ, cũng đập bàn đứng lên nói:

– Đại ca! Phước Oai tiêu cục há chịu để cho người ta làm nhục ư? Chúng ta tập hợp người lại, đến Tứ Xuyên cùng phái Thanh Thành làm cho ra lẽ. Mời cả gia gia của tiểu muội và các huynh đệ cùng đi!

Từ thuở bé, tính khí Vương phu nhân đã nóng nảy, đến khi trở thành thiếu nữ khuê các, vẫn động một tý là rút đao động thủ. Ai cũng nể mặt phụ thân của bà là Kim Đao vô địch Vương Nguyên Bá nên nhường nhịn bà vài phần. Nay con trai của bà đã lớn nhưng tính nóng nảy của bà vẫn không giảm.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đối thủ là ai? Trước mắt chưa xác định được, chưa chắc là phái Thanh Thành. Ta nghĩ bọn chúng không chỉ muốn dừng lại ở chỗ chặt phá hai cây cờ, giết hai tiêu đầu…

Vương phu nhân hỏi xen vào:

– Bọn chúng còn muốn làm gì nữa?

Lâm Chấn Nam liếc nhìn con trai. Vương phu nhân hiểu rõ suy nghĩ của chồng, trống ngực đập thình thịch, mặt biến sắc.

Lâm Bình Chi đáp:

– Việc này do hài nhi gây ra. Bậc đại trượng phu dám làm dám chịu. Hài nhi cũng… cũng không sợ đâu.

Miệng chàng nói không sợ nhưng giọng chàng run run, không giấu được nỗi lo âu tiềm ẩn trong lòng.

Vương phu nhân nói:

– Hừ, trừ khi chúng giết má má, nếu không thì đừng hòng đụng đến một sợi lông của hài nhi. Cây cờ Phước Oai tiêu cục của Lâm gia đã dựng lên được ba đời, từ xưa đến nay chưa chịu mất một chút oai phong nào.

Bà quay sang Lâm Chấn Nam nói:

– Nói như thế, nếu làm không được, chúng ta không còn mặt mũi nào mà làm người nữa!

Lâm Chấn Nam gật đầu nói:

– Bây giờ ta phái người đi khắp trong ngoài thành xem xét coi có tên giang hồ nào lạ mặt xuất hiện và phái thêm người đi tuần tra trong ngoài tiêu cục. Nương tử và Bình nhi ở đây chờ ta, đừng để nó đi lung tung!

Vương phu nhân nói:

– Dạ, thiếp biết rồi.

Cả hai vợ chồng đều biết rõ kẻ địch tiến thêm một bước nữa là nhắm vào con mình mà hạ thủ. Địch ở trong bóng tối mà mình ở ngoài ánh sáng, Lâm Bình Chi chỉ cần ra khỏi Phước Oai tiêu cục một bước lập tức gặp tai họa chết người ngay.

Hồi 3: Tồi Tâm Chưởng giết người không vết

Lâm Chấn Nam về đến đại sảnh, triệu tập tiêu sư, phân công người đi tuần tra nghe ngóng. Các tiêu sư đã biết được tin cột cờ của Phước Oai tiêu cục bị người ta chặt gãy, chẳng khác nào mỗi người bị tát một cái tóe lửa. Ai nấy đều căm giận và đồng tâm quyết trả thù, nên mang sẵn binh khí chuẩn bị, đợi Tổng tiêu đầu ra lệnh là lập tức xuất phát.

Lâm Chấn Nam thấy trong tiêu cục lớn nhỏ đều đồng tâm hợp lực chống địch nên cảm thấy yên tâm. Lão quay vào nội đường dặn con:

– Bình nhi, mẫu thân con mấy hôm nay trong người khó chịu, tối đến con ngủ ở giường ngoài phòng gia má để bảo vệ mẫu thân khi có địch đến.

Vương phu nhân cười nói:

– Ấy, thiếp muốn nó…

Bà nói được nửa câu thì đột nhiên hiểu ra. Trượng phu muốn nhi tử bảo vệ mình là giả, thực ra hai ông bà muốn con ở gần để bảo vệ con bởi con trai yêu quý của bà tính khí cao ngạo. Nói không chừng, nếu chàng ấm ức trong lòng chạy ra ngoài tìm địch nghênh chiến thì vô cùng nguy hiểm. Bà liền đổi giọng:

– Đúng vậy. Bình nhi, mấy hôm nay má má bị chứng tê thấp, tay chân tê rần. Gia gia của ngươi phải trông nom cả tiêu cục, không thể suốt ngày ở bên ta, nếu địch đột nhập vào nội đường, má má chỉ sợ chống trả không nổi.

Lâm Bình Chi đáp:

– Hài nhi luôn ở bên má má là được rồi!

Tối đó, Lâm Bình Chi ngủ trên chiếc giường ngoài phòng cha mẹ. Vợ chồng Lâm Chấn Nam mở cửa phòng, lấy vũ khí để sẵn bên gối; ngay cả áo quần, giày ủng cũng không tháo ra, trên người chỉ đắp một tấm chăn mỏng, đợi có động tĩnh là lập tức bật dậy nghênh địch.

Nhưng một đêm trôi qua bình an vô sự. Sáng sớm hôm sau, có người ở ngoài cửa gọi khẽ:

– Thiếu tiêu đầu! Thiếu tiêu đầu!

Lâm Bình Chi nửa khuya mới ngủ được nên lúc này đang ngon giấc. Lâm Chấn Nam hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Người đứng bên ngoài thưa:

– Con ngựa của Thiếu tiêu đầu… chết rồi!

Lâm Bình Chi rất yêu mến con bạch mã này. Khi thấy ngựa chết, tên mã phu chăm sóc con ngựa này rất đỗi hoang mang, vội chạy đến báo tin. Lâm Bình Chi trong lúc mơ màng nghe nói ngựa chết liền bật người dậy, vội nói:

– Để ta đi xem.

Lâm Chấn Nam biết có chuyện cổ quái, cùng bước nhanh về phía chuồng ngựa, chỉ thấy con bạch mã nằm xoài dưới đất, chết khá lâu rồi, trên thân cũng không có một vết thương nào.

Lâm Chấn Nam hỏi:

– Đêm qua ngươi có nghe tiếng ngựa hí không? Có tiếng động gì không?

Tên mã phu đáp:

– Dạ không!

Lâm Chấn Nam kéo tay con trai nói:

– Không nên thương tiếc nữa. Gia gia sẽ cho người đi tìm mua một con tuấn mã khác cho hài nhi.

Lâm Bình Chi vuốt xác con ngựa, xót xa, lệ rơi lã chã.

Bỗng nhiên, gã cầm cờ Trần Thất hớt hơ hớt hải chạy đến. Gã thở hổn hển quỳ xuống thưa:

– Tổng… Tổng tiêu đầu. Không… không xong rồi! Mấy vị tiêu đầu… bị ác quỷ tấn công chết cả rồi!

Lâm Chấn Nam và Lâm Bình Chi hoảng hốt hỏi:

– Sao?

Trần Thất chỉ đáp:

– Chết rồi, chết hết rồi!

Lâm Bình Chi giận dữ quát:

– Cái gì chết hết?

Chàng giơ tay túm lấy cổ áo hắn lắc mạnh mấy cái. Trần Thất lắp bắp:

– Thiếu… Thiếu tiêu đầu… chết rồi!

Lâm Chấn Nam nghe hắn nói “Thiếu tiêu đầu chết rồi”, lòng nặng trĩu nỗi buồn phiền nói không được. Nhưng nếu vì lý do này mà chửi mắng hắn thì càng biểu lộ tâm trạng sợ hãi của mình. Lại nghe tiếng người bên ngoài xôn xao. Một người hỏi:

– Tổng tiêu đầu đâu? Mau bẩm báo cho lão gia hay.

Người khác nói:

– Con ác quỷ này lợi hại quá. Làm sao đây?

Lâm Chấn Nam lớn tiếng quát:

– Ta ở đây, có chuyện gì?

Hai vị tiêu sư và ba tên cầm cờ nghe tiếng Lâm Chấn Nam liền chạy đến. Tiêu sư đi đầu nói:

– Tổng tiêu đầu, chúng ta phái các huynh đệ đi ra ngoài, không thấy một ai về cả.

Lâm Chấn Nam trước đó đã nghe xôn xao, liệu đoán được có người chết, nhưng tối hôm qua lão phái đi điều tra cả tiêu sư lẫn cầm cờ là hai mươi ba người, có lý nào tất cả đều chết hết?

Lão vội hỏi:

– Có người chết ư? Có lẽ họ còn đi dò la chưa về kịp.

Tiêu đầu đó lắc đầu đáp:

– Đã phát hiện mười bảy xác chết…

Lâm Chấn Nam và Lâm Bình Chi kinh hoảng la lên:

– Mười bảy xác ư?

Vị tiêu đầu kinh hoàng đáp:

– Đúng vậy, có mười bảy xác, trong đó có Phú tiêu đầu, Tiền tiêu đầu và Ngô tiêu đầu.

Lâm Chấn Nam không nói gì nữa, bước nhanh ra đại sảnh, chỉ thấy bàn ghế đã được dời đi, để mười bảy xác chết. Lâm Chấn Nam một đời từng trải sóng gió mà nay đột nhiên gặp tình cảnh như thế này nên chân tay lão run cầm cập, đầu gối bủn rủn, dường như đứng không vững nữa.

Lão lắp bắp hỏi:

– Vì… Vì… Vì…

Cổ họng lão khô khào, nói không thành lời. Chỉ nghe người ở ngoài đại sảnh nói:

– Chao ôi! Cao tiêu đầu là người trung hậu, không ngờ cũng bị ác quỷ đòi mạng rồi.

Lâm Chấn Nam thấy bốn năm người hàng xóm dùng cánh cửa khiêng một xác đi vào. Người đi đầu đã đứng tuổi, nói:

– Hôm nay tiểu nhân vừa mở cửa, thấy người này chết ở ngoài đường, tiểu nhân nhận ra được là Cao tiêu đầu trong quý tiêu cục. Chắc là phát bệnh dịch hay trúng tà.

Lâm Chấn Nam chấp tay nói:

– Đa tạ! Đa tạ!

Lão quay lại bảo tên cầm cờ:

– Tặng các vị lân bang này mỗi người ba nén bạc. Ngươi đến Trương phòng lấy bạc đi.

Những người hàng xóm thấy nhiều xác chết không dám ở lâu, cảm ơn rồi ra về.

Không bao lâu lại có người đưa thi thể ba vị tiêu đầu về. Lâm Chấn Nam kiểm điểm nhân số, tối qua phái đi hai mươi ba người, trước mắt đã có hai mươi hai thi thể, chỉ có thi thể của Chử tiêu đầu là chưa thấy. Nhưng những việc không ngờ tới lại xảy ra trong nháy mắt.

Lâm Chấn Nam về đến sương phòng, uống chén trà nóng, trong lòng rối loạn. Không thể nào định thần được, lão đi ra cổng lớn thấy hai cột cờ đã bị chặt mất rồi, lòng càng thêm buồn bã. Cho đến lúc này, kẻ địch đã hạ thủ giết hơn hai chục người trong tiêu cục mà vẫn chưa lộ diện, cũng chưa chính thức khai chiến. Lão quay đầu lại chăm chú nhìn biển hiệu đề bốn chữ “Phước Oai tiêu cục” trên cổng một hồi lâu rồi nghĩ bụng: Phước Oai tiêu cục lừng danh trên giang hồ mấy chục năm, không ngờ ngày hôm nay lại thất bại trong tay mình.

Bỗng nhiên có tiếng vó ngựa, một con ngựa từ từ đi đến, trên lưng ngựa có người nằm vắt ngang. Lâm Chấn Nam đã đoán được ba phần. Lão liền chạy đến xem, quả nhiên xác chết vắt ngang lưng ngựa chính là Chử tiêu đầu. Tất nhiên là lão đang đi trên đường thì bị người giết rồi đặt thi thể lại lên lưng ngựa; ngựa nhận ra được đường cũ, tự nó đi về.

Lâm Chấn Nam thở dài, nước mắt rơi xuống trên người Chử tiêu đầu. Lão bồng thi thể đi vào đại sảnh, nghẹn ngào nói:

– Chử hiền đệ! Nếu ta không trả được mối thù cho đệ thì ta thề không làm người. Chỉ đáng tiếc… Chỉ đáng tiếc… Ôi! Đệ đi quá nhanh, chưa nói được tên họ của kẻ thù.

Trong tiêu cục, Chử tiêu đầu cũng không có gì hơn người và cùng với Lâm Chấn Nam cũng không có thâm tình gì đặc biệt. Chỉ vì Lâm Chấn Nam quá xúc động, không cầm được nước mắt. Kỳ thật, lão rơi nước mắt là vì căm phẫn hơn là vì đau thương.

Vương phu nhân đang đứng trước cửa đại sảnh, tay trái cầm kim đao, tay phải chỉ ra ngoài sân, lớn tiếng chửi:

– Quân cường đạo chó má đê hèn chỉ biết lén lút phóng tên hại người. Nếu đúng là anh hùng hảo hán thì quang minh chính đại đến Phước Oai tiêu cục, chúng ta một đao một thương quyết sanh tử với các ngươi một trận. Cứ lén lén lút lút làm những chuyện mờ ám, thì võ lâm coi ra cái giống gì!

Lâm Chấn Nam nói khẽ:

– Nương tử, có thấy động tĩnh gì không?

Lão vừa hỏi vừa đặt thi thể Chử tiêu đầu xuống đất.

Vương phu nhân lớn tiếng đáp:

– Tiểu muội không thấy động tĩnh gì. Quân cẩu tặc sợ bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm ta rồi.

Tay phải bà nắm chuôi đao vạch trong không gian một vòng rồi quát lớn:

– Bọn chúng cũng sợ lưỡi kim đao trong tay lão nương nữa!

Bỗng nghe trên nóc nhà có tiếng cười nhạt. Một tiếng “véo”, một loại ám khí bắn xuống đánh trúng ngay lưỡi kim đao làm vang một tiếng “keng”. Cánh tay Vương phu nhân ê ẩm, kim đao rớt xuống nhưng dư lực không giảm, văng ra đến giữa sân.

Lâm Chấn Nam khẽ quát một tiếng, ánh thanh quang lấp loáng. Lão đã rút kiếm cầm tay, hai chân chụm lại nhảy lên nóc nhà ra chiêu Tảo đãng quần ma. Ánh kiếm như hoa phóng thẳng về phía địch nhân nơi phát ra ám khí. Mấy ngày nay, lão chịu nhiều điều buồn bực, rốt cuộc vẫn chưa thấy địch thủ xuất hiện nên bây giờ lão dùng hết sức mình ra chiêu không một chút đề phòng. Đường kiếm phóng lấp lánh trong không gian, trên nóc nhà dường như thấp thoáng có bóng người. Lão lún thấp người xuống, phóng mình lên trên đỉnh sương phòng, vẫn không thấy tung tích của địch nhân đâu.

Vương phu nhân và Lâm Bình Chi cũng cầm đao kiếm đến để tiếp ứng. Vương phu nhân lồng lộn lên quát lớn:

– Đồ cẩu tặc! Có giỏi thì ra đây quyết một trận sống mái. Cứ lén lút không dám ra mặt là cái nghĩa gì? Đồ chó lộn giống!

Bà quay lại trượng phu hỏi:

– Quân cẩu tặc đã chạy đi rồi, trượng phu tính sao đây?

Lâm Chấn Nam lắc đầu, nhẹ giọng nói:

– Đừng làm kinh động người khác.

Ba người lại tìm kiếm trên nóc nhà một lần nữa rồi mới nhảy xuống sân. Lâm Chấn Nam hỏi khẽ:

– Ám khí gì đánh trúng kim đao của phu nhân?

Vương phu nhân thóa mạ:

– Đồ cẩu tặc tử! Không biết!

Ba người tìm kiếm trong sân, không thấy có ám khí gì, chỉ thấy dưới cây hoa quế có vô số mảnh gạch vụn rải khắp mặt sân rất dễ nhìn ra. Kẻ địch đã dùng một viên gạch nhỏ đánh rớt cây kim đao trong tay Vương phu nhân. Một viên gạch nhỏ mà phát ra một kình lực mạnh như thế quả thật đáng sợ.

Vương phu nhân thóa mạ không tiếc lời:

– Đồ chó má thối tha!

Nhưng khi phu nhân thấy viên gạch nát ra như hạt gạo thì bỗng chuyển từ tức giận sang sợ hãi. Bà ngẩn người một lúc lâu, không nói câu nào rồi đi thẳng vào sương phòng. Đợi chồng và con trai vào, bà đóng cửa, nói:

– Võ công của địch rất đáng sợ. Chúng ta không phải là đối thủ của chúng. Làm sao… làm sao bây giờ?

Lâm Chấn Nam đáp:

– Đi cầu cứu bạn bè. Trong võ lâm, hoạn nạn tương trợ là chuyện bình thường.

Vương phu nhân nói:

– Bạn bè thân hữu của chúng ta cố nhiên là không ít, nhưng võ công hơn vợ chồng ta lại chẳng mấy ai. Còn những người sút kém chúng ta có mời đến cũng như không.

Lâm Chấn Nam nói:

– Nương tử nói không sai, nhưng càng nhiều người thì càng thêm nhiều ý kiến. Ta mời họ đến cùng bàn bạc cũng tốt.

Vương phu nhân đáp:

– Cũng được. Theo trượng phu, ta nên mời những ai?

Lâm Chấn Nam nói:

– Trước hết chúng ta mời những cao thủ trong ba tiêu cục Hàng Châu, Nam Xương, Quảng Châu về rồi mời thêm võ lâm đồng đạo ở bốn tỉnh Mân, Triết, Việt, Cống.

Vương phu nhân cau mày nói:

– Nếu chuyện cầu cứu gấp lan ra khắp giang hồ thì còn gì là oai danh của Phước Oai tiêu cục?

Lâm Chấn Nam lơ đãng hỏi:

– Nương tử năm nay ba mươi chín tuổi rồi phải không?

Vương phu nhân cáu kỉnh đáp:

– Hừ, lúc này mà còn hỏi tuổi của thiếp. Thiếp tuổi con cọp, trượng phu lại không biết bao nhiêu tuổi sao?

Lâm Chấn Nam đáp:

– Ta phát thiệp mời nói là làm đại sinh nhật lần thứ bốn mươi cho nương tử…

Vương phu nhân đáp:

– Tại sao lại phịa thêm một tuổi cho thiếp? Thiếp đã già lắm rồi sao?

Lâm Chấn Nam lắc đầu:

– Nương tử đâu có già. Trên đầu nương tử một sợi tóc bạc cũng không có. Ta nói làm sinh nhật cho nương tử là để mời các bạn thân đến, sẽ không ai hoài nghi. Đợi các vị khách đến, chúng ta sẽ chọn những vị thân nhất rồi ngầm cho họ biết, như thế oai danh của tiêu cục không bị tổn hại.

Vương phu nhân nghiêng đầu suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

– Được rồi, như vậy trượng phu tặng thiếp lễ vật gì nào?

Lâm Chấn Nam nói nhỏ vào tai vợ:

– Ta tặng nương tử một lễ vật lớn: sang năm lại sinh thêm một cậu con trai bụ bẫm!

Vương phu nhân “hừ” một cái, hai má ửng hồng, nói:

– Trượng phu thật kỳ cục. Đang lúc như thế này mà còn nói giỡn được.

Lâm Chấn Nam cười ha ha, đi về phòng ra lệnh cho người viết danh thiếp mời bằng hữu. Kỳ thực lòng lão buồn rười rượi, nói giỡn vài câu là cốt để giảm bớt sự lo sợ cho thê tử mà thôi. Lão thầm nghĩ: Nước xa khó cứu được lửa g ần, có lẽ đêm nay, trong tiêu cục lại có thêm chuyện xảy ra. Đợi đến lúc bạn bè đến thì không biết trên đời này còn có Phước Oai tiêu cục không nữa!

Lão đến trước cửa Trương phòng, thấy hai tên đầy tớ thần sắc hoảng loạn, lắp bắp thưa:

– Tổng… Tổng… tiêu đầu… Không… không xong rồi!

Lâm Chấn Nam quát:

– Làm sao mà không xong?

Một tên đáp:

– Vừa rồi Trương phòng tiên sinh gọi Lâm Phúc đi mua quan tài. Hắn… hắn vừa ra khỏi cửa, sắp quẹo qua con đường nhỏ thì ngã lăn ra chết!

Lâm Chấn Nam nói:

– Có chuyện này sao? Xác hắn đâu?

Tên đầy tớ đáp:

– Còn ở ngoài đường.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đi khiêng xác hắn về đây.

Lão nghĩ bụng: Giữa thanh thiên bạch nhật mà địch thủ lại dám lộng hành giết người, quả là to gan lớn mật.

Hai tên đầy tớ thưa:

– Dạ… dạ!

Nhưng cả hai vẫn đứng yên. Lâm Chấn Nam quát:

– Sao vậy?

Một tên đáp:

– Mời Tổng tiêu đầu ra… xem.

Lâm Chấn Nam biết có việc cổ quái, hừ một tiếng rồi đi ra cổng, chỉ thấy ba vị tiêu đầu, năm tên cầm cờ đứng nhìn ra ngoài, sắc mặt tái mét, vô cùng sợ hãi. Lâm Chấn Nam nói:

– Chuyện gì vậy?

Không đợi người bên cạnh trả lời, lão cũng đã biết rồi. Ngoài cổng chính, trên phiến đá viết sáu chữ lớn “Xuất môn thập bộ giả tử” (Ra khỏi mươi bước thì chết) bằng máu tươi. Cách cổng khoảng mười bước lại vạch một đường máu rộng khoảng một tấc.

Lâm Chấn Nam hỏi:

– Viết hồi nào vậy? Lẽ nào không ai nhìn thấy?

Một tiêu đầu đáp:

– Vừa rồi Lâm Phúc chết ở trên đường nhỏ, mọi người xúm nhau chạy đi xem, trước cổng không có người lạ. Không biết ai đùa giỡn viết những chữ này.

Lâm Chấn Nam cao giọng, quát:

– Lâm mỗ không thiết sống nữa, muốn đi ra khỏi cổng mười bước coi cái chết như thế nào.

Rồi lão bước ra khỏi cổng. Hai tên tiêu đầu cùng la lên:

– Tổng tiêu đầu!

Lâm Chấn Nam vẫy tay một cái, rồi bước qua vạch máu. Lão nhìn những chữ máu và vạch máu chưa khô, bước lên sáu chữ cho nét viết mờ đi rồi mới quay về cổng lớn, nhìn ba tên tiêu đầu nói:

– Đây là trò thách thức, có gì mà sợ? Ba vị huynh đệ hãy đi đến hiệu bán quan tài một chuyến, rồi đến chùa Thiên Ninh phía Tây thành mời các vị hòa thượng đến làm vài ngày pháp sự, siêu độ vong linh, trừ khử dịch bệnh!

Ba vị tiêu đầu thấy Tổng tiêu đầu bước qua vạch máu bình an vô sự liền vâng lời, mang đao xách kiếm đi ra khỏi cổng. Lâm Chấn Nam chăm chú nhìn theo. Họ đi qua vạch máu rồi quẹo qua góc đường. Một lúc sau, lão mới đi vào nhà, đến Trương phòng nói với Hoàng tiên sinh:

– Hoàng phu tử! Phu tử viết vài thiếp mời mừng thọ cho phu nhân, mời các bạn bè thân hữu đến uống rượu.

Hoàng tiên sinh đáp:

– Dạ! Không biết là ngày nào ạ?

Bỗng nghe có tiếng chân bước vội vã. Một người chạy đến. Lâm Chấn Nam quay đầu ra, nghe một tiếng “bịch”, người ấy đã ngã lăn ra đất. Lâm Chấn Nam chạy lại, thấy Địch tiêu đầu, một trong ba vị tiêu đầu phụng mệnh đi mua quan tài, nằm lăn ra đó không nhúc nhích. Lâm Chấn Nam đưa tay đỡ dậy, vội hỏi:

– Địch huynh đệ! Huynh đệ làm sao…?

Địch tiêu đầu đáp:

– Họ chết rồi, đệ… đệ chạy về được đây.

Lâm Chấn Nam hỏi:

– Địch thủ như thế nào?

Địch tiêu đầu đáp:

– Không… không biết… không biết!

Hắn co giật vài cái rồi tắt thở.

Trong khoảnh khắc, mọi người trong tiêu cục đều nghe được tin này. Vương phu nhân và Lâm Bình Chi từ trong nội đường đi ra, chỉ nghe mọi người nói lẩm bẩm sáu chữ: “Xuất môn thập bộ giả tử”. Lâm Chấn Nam nói:

– Ta đi cõng hai vị tiêu đầu về.

Trương phòng Hoàng tiên sinh lắp bắp nói:

– Tổng… Tổng tiêu đầu… đi không được, nên hạ lệnh trọng thưởng, tất có người dũng cảm đi. Ai… ai đi cõng xác chết về sẽ được thưởng ba mươi lạng bạc.

Hoàng tiên sinh nói ba lần cũng không có người nào lên tiếng. Vương phu nhân bỗng nhiên hốt hoảng la to:

– Ôi! Bình nhi đâu? Bình nhi? Bình nhi?

Tiếng cuối cùng bà quá hoảng loạn nói không được nữa. Mọi người cùng hốt hoảng la lên:

– Thiếu tiêu đầu, Thiếu tiêu đầu!

Bỗng nghe tiếng Lâm Bình Chi ngoài cổng vọng vào:

– Tại hạ ở đây.

Mọi người vui mừng, chạy ùa ra cổng, thấy cái dáng cao cao của Lâm Bình Chi đang từ góc đường đi tới, trên hai vai vác hai cái xác. Đó chính là xác của hai vị tiêu đầu. Lâm Chấn Nam và Vương phu nhân vội vàng chạy ra, tay cầm sẵn đao kiếm, vượt qua vệt máu, hộ tống Lâm Bình Chi trở về.

Các vị tiêu đầu và mấy tên cầm cờ cùng đồng thanh hô to:

– Thiếu tiêu đầu, thiếu niên anh hùng, dũng cảm hơn người!

Lâm Chấn Nam và Vương phu nhân trong lòng mươi phần vừa ý. Vương phu nhân trách yêu:

– Hài nhi đừng tùy tiện như vậy. Hai vị tiêu đầu này là người thân thiết nhưng họ đã chết cả rồi, không nên bất chấp nguy hiểm.

Lâm Bình Chi gượng cười nhưng lòng buồn khôn tả. Chàng nghĩ bụng: Tất cả đều do ta nhất thời không ghìm được tức giận, giết chết một người để nhiều người vì ta mà mất mạng. Nếu ta tham sống sợ chết, sao đáng làm người?

Bỗng nhiên sau hậu đường có tiếng người hô toáng lên:

– Hoa sư phó tốt như thế này mà cũng chết rồi!

Lâm Chấn Nam vội hỏi:

– Sao?

Vị quản sư trong tiêu cục, gương mặt ảm đạm, khúm núm chạy đến, thưa:

– Tổng tiêu đầu! Hoa sư phó đi cổng sau ra mua rau, mới bước hơn mười bước thì chết. Phía cổng sau cũng có… có sáu chữ viết bằng máu!

Hoa sư phó là đầu bếp trong tiêu cục, nấu nướng không chê vào đâu được. Các món của Hoa sư phó làm như Đông qua chung, Phật khiêu tường, tao ngư, nhục bì, bánh bao nức tiếng ở Phúc Châu. Lão là một trong những người mà Lâm Chấn Nam cần để tiếp đãi các quan lại phú thương. Lâm Chấn Nam chấn động tinh thần, thầm nghĩ: Hắn chỉ là một đầu bếp bình thường, không phải là tiêu đầu. Giang hồ có lệ lúc đánh cướp tiêu xa nhất định không được giết phu xe, phu kiệu, phu coi lừa ngựa, phu khuân vác. Kẻ địch hạ thủ độc ác như vậy là muốn tiêu diệt hết cả Phước Oai tiêu cục của ta chăng?

Lão nhìn mọi người nói:

– Mọi người không phải hoảng sợ: Mấy tên cẩu tặc này thừa lúc người ta không đề phòng mới ra tay. Tất cả chúng ta đều rõ cả rồi. Vừa rồi, Thiếu tiêu đầu và vợ chồng ta đã bước ra khỏi cổng hơn mười bước. Mấy tên cẩu tặc đó có dám làm gì đâu?

Tất cả đều vâng vâng dạ dạ nhưng không một ai dám ra khỏi cổng một bước. Lâm Chấn Nam và Vương phu nhân nhìn nhau mặt buồn rười rượi, đành chịu bó tay. Tối hôm đó, Lâm Chấn Nam cắt đặt các tiêu sư phòng thủ, nào ngờ lúc lão cầm kiếm đi tuần tra, thấy hơn mười tiêu sư ngồi vòng tròn trên sảnh, không ai đi ra ngoài canh giữ. Các tiêu sư thấy Tổng tiêu đầu đều sợ bị quở trách nên đứng cả lên nhưng vẫn không người nào dám bước ra một bướ c. Lâm Chấn Nam nghĩ bụng: Địch thủ quả là lợi hại. Tiêu cục đã chết nhiều người như vậy, chính mình cũng không nghĩ ra cách gì đối phó, nên ai ai cũng lo giữ cái mạng.

Lão an ủi mọi người vài câu, ra lệnh mang rượu đến, cùng với các tiêu sư uống rượu trên đại sảnh. Mọi người đều phiền não nên không ai nói năng gì, chỉ uống để giải sầu. Chẳng bao lâu một số người đã say, lăn ra ngủ.

Trưa hôm sau, bỗng nghe tiếng vó ngựa vọng đến, có mấy kỵ mã từ trong tiêu cục chạy ra ngoài.

Lâm Chấn Nam kiểm tra, thì ra đó là năm vị tiêu sư không nhẫn nại trước cục diện nên bỏ ra đi không từ biệt. Lão lắc đầu thở dài:

– Lúc gặp đại nạn mạnh ai nấy chạy, Lâm mỗ không đủ sức chở che các huynh đệ. Vậy ai muốn đi thì đi.

Các tiêu sư còn lại ngoác miệng ra mắng chửi lên án năm người kia không có nghĩa khí. Có mấy người không chửi mà chỉ thở dài, ngầm tính toán.

Lúc trời chạng vạng tối, bỗng nhiên năm con ngựa lại cõng năm cái xác quay về. Năm vị tiêu sư này muốn thoát khỏi nơi nguy hiểm, nhưng lại táng mạng trước. Lâm Bình Chi căm phẫn vô cùng, cầm trường kiếm lao thẳng ra cổng, đứng ngoài vạch máu ba bước, lớn tiếng la to:

– Đại trượng phu ai làm nấy chịu. Gã Tứ Xuyên họ Dư đó do Lâm Bình Chi này giết, không ai liên can đến việc đó cả. Muốn báo thù thì cứ báo thù Lâm Bình Chi này được rồi, loạn đao phanh thây, chết cũng không oán. Các ngươi cứ sát hại người lương thiện thì đâu phải là anh hùng hảo hán. Lâm Bình Chi ta đứng đây, có bản lĩnh thì cứ đến giết đi. Không dám xuất hiện là đồ trộm cướp nhát gan!

Càng lúc chàng càng la to, mở dải áo phanh ngực ra, vỗ ngực đùng đùng:

– Đường đường là nam nhi chết thì chết. Có ngon thì xuống một đao. Tại sao ngay cả nhìn ta một cái các ngươi cũng không dám? Đồ chó má nhát gan! Đồ súc sinh!

Hai mắt chàng long lên. Người đi đường chỉ dám đứng xa xa nhìn chàng, không ai dám đến gần tiêu cục.

Vợ chồng Lâm Chấn Nam nghe tiếng con la hét, cũng lao ra ngoài cổng. Mấy ngày nay hai người cũng vô cùng bực dọc, căm phẫn đầy lòng, bụng muốn nổ tung ra. Nay nghe Lâm Bình Chi gọi địch thủ khiêu chiến như vậy, hai ông bà cũng lớn tiếng thóa mạ.

Các tiêu sư ngơ ngác nhìn nhau, khâm phục khí phách của ba ngườ i, thầm nghĩ bụng: Tổng tiêu đầu rất anh hùng; phu nhân cũng là bậc nữ kiệt. Thiếu tiêu đầu tuy giống một vị đại cô nương, nhưng không sợ trời sợ đất, dám hướng về kẻ thù mà thóa mạ, thật là bội phục.

Ba người nhà Lâm Chấn Nam chửi một hồi lâu, nhưng bốn bề vẫn yên lặng. Lâm Bình Chi quát:

– Tại sao ra khỏi cửa là chết? Ta bước thêm vài bước nữa, xem các ngươi làm gì được ta?

Chàng nói xong bước thêm vài bước, cầm ngang thanh kiếm, ngạo nghễ nhìn bốn hướng.

Vương phu nhân nói:

– Được lắm! Hỡi quân cẩu tặc, các ngươi chỉ quen hà hiếp người lương thiện, sợ kẻ hung dữ, càng không dám làm gì hài nhi của ta.

Bà kéo tay Lâm Bình Chi trở vào cổng. Lâm Bình Chi tức giận đến nỗi cả người run cầm cập, sau khi về phòng nằm nghỉ, nhịn không được, úp mặt khóc nức nở. Lâm Chấn Nam vuốt đầu con nói:

– Hài nhi! Hài nhi gan dạ lắm, xứng đáng là con trai của nhà họ Lâm. Địch thủ không dám lộ diện, chúng ta biết làm thế nào được? Hài nhi hãy ngủ một giấc đi.

Lâm Bình Chi khóc một hồi rồi mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.

Sau khi ăn cơm tối xong, chàng nghe phụ thân nói khẽ với mẫu thân là có vài tên tiêu đầu trong tiêu cục có ý tưởng kỳ lạ, muốn từ hậu viên đào đường hầm đi ra ngoài thông qua khỏi vệt máu mười bước thì thoát chết. Nếu ở lại tiêu cục, không sớm thì muộn cũng mất mạng.

Vương phu nhân cười gượng nói:

– Họ muốn đào đường hầm thì để cho họ đào. Chỉ sợ… chỉ sợ… than ôi!

Cha con Lâm Chấn Nam đều hiểu ý bà muốn nói gì. Đó là bà muốn nói chỉ sợ chúng cũng mất mạng giống năm vị tiêu sư muốn đem tính mạng mình sớm dâng cho địch. Lâm Chấn Nam trầm ngâm rồi nói:

– Ta đi xem, nếu có đường thoát được, thì để cho họ đi.

Lão đi ra một lúc sau, rồi về phòng lại nói:

– Bọn họ chỉ vui miệng nói ra, thực ra không một ai dám ra tay đào hầm.

Tối hôm đó, ba người ngủ rất sớm. Mọi người trong tiêu cục đều có ý định phó thác cho mệnh trời, chẳng ai muốn đi tuần tra canh gác nữa.

Lâm Bình Chi ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe có người khều nhẹ vai mình. Chàng bật ngồi dậy, đưa tay xuống gối rút trường kiếm, chợt nghe tiếng mẫu thân nói:

– Bình nhi, ta đây mà. Gia gia của ngươi đi ra ngoài lâu rồi mà chưa thấy về. Chúng ta đi tìm gia gia.

Lâm Bình Chi giật mình kinh hãi hỏi:

– Gia gia đi đâu vậy?

Vương phu nhân đáp:

– Ta không biết.

Hai người cầm đao kiếm bước ra khỏi phòng. Trước tiên, họ đến đại sảnh, thấy trong đại sảnh đèn đuốc sáng trưng, mười mấy vị tiêu đầu đang đánh bạc. Mấy ngày nay lúc nào mọi người cũng lo sợ, nên đều cảm thấy bất lực, không thể làm gì được nên họ cũng không còn bận tâm đến chuyện sống chết nữa. Vương phu nhân nắm tay ra hiệu cho con rồi quay người đi. Hai mẹ con đi khắp nơi tìm kiếm, rốt cuộc cũng không thấy bóng dáng Tổng tiêu đầu. Hai người càng lúc càng sợ hãi mà không dám gọi, vì sợ mọi người trong tiêu cục thêm hoang mang, nếu nghe tin Tổng tiêu đầu mất tích thì khó mà làm cho họ ổn định được. Hai người tìm đến phía sau nhà. Lâm Bình Chi bỗng nghe thấy tiếng lách cách phát ra từ phòng binh khí mé trái, lại có ánh sáng xuyên qua khe cửa. Chàng vội đến bên cửa sổ, lấy ngón tay chọc thủng giấy dán cửa, nhìn vào trong rồi mừng rỡ kêu:

– Gia gia! Thì ra gia gia ở đây.

Lâm Chấn Nam đang khom lưng, mặt hướng vào tường, nghe tiếng con gọi, quay đầu lại. Làm Bình Chi thấy sắc mặt phụ thân khủng hoảng cực độ nên chàng sợ hãi vô cùng, vẻ vui mừng biến mất, lại đờ đẫn ra, há miệng líu lưỡi không nói ra lời. Vương phu nhân xô cửa vào, thấy dưới đất đầy máu. Một người nằm trên ba chiếc ghế dài xếp song song, toàn thân trần truồng, ngực và bụng đều bị mổ banh ra. Nhìn mặt tử thi, bà nhận ra là Hoắc tiêu đầu, một trong năm tiêu đầu phóng ngựa chạy trốn rồi được ngựa cõng xác quay về. Lâm Bình Chi cũng đi vào phòng binh khí, xoay tay đóng cửa phòng. Lâm Chấn Nam thò tay vào ngực tử thi móc ra một trái tim đầm đìa máu, rồi nói:

– Trái tim bị vỡ thành tám chín mảnh, quả là… quả là…

Vương phu nhân tiếp lời:

– Quả là Tồi tâm chưởng của phái Thanh Thành!

Lâm Chấn Nam gật đầu, im lặng không nói gì.

Bây giờ Lâm Bình Chi mới hiểu rõ phụ thân mổ tử thi là để kiểm nghiệm nguyên nhân dẫn đến cái chết của nhiều người. Lão đặt trái tim trở lại, rồi lấy vải dầu quấn tử thi để vào góc tường, cầm vải dầu chùi sạch vết máu, cùng vợ con quay về phòng. Lão nói:

– Đối đầu với chúng ta đích xác là cao thủ của phái Thanh Thành. Nương tử, theo nàng thì nên làm thế nào đây?

Lâm Bình Chi căm phẫn đáp:

– Chuyện này do một mình hài nhi gây ra. Ngày mai, hài nhi sẽ đi khiêu chiến và quyết sinh tử với chúng một trận. Nếu hài nhi không địch lại, bị chúng giết chết là xong.

Lâm Chấn Nam lắc đầu nói:

– Người này chỉ đánh một chưởng đã làm trái tim tan vỡ thành tám chín mảnh. Thân thể người chết lại không để lại một chút dấu vết. Như vậy võ công hắn rất cao cường, chắc trong phái Thanh Thành hắn cũng là nhân vật nhất nhì. Hắn muốn giết Bình nhi thì đã sớm giết rồi. Ta thấy địch thủ tâm địa lang sói, quyết không chịu đem ba người nhà ta ra giết chết một cách mau lẹ đâu.

Lâm Bình Chi hỏi:

– Hắn còn muốn gì nữa?

Tổng tiêu đầu đáp:

– Bọn cẩu tặc chơi trò mèo vờn chuột, vờn cho đến lúc tim gan chuột đều bị vỡ ra mà chết, mới hả dạ.

Lâm Bình Chi cả giận, nói:

– Bọn cẩu tặc này coi Phước Oai tiêu cục chúng ta không ra gì cả.

Tổng tiêu đầu đáp:

– Rõ ràng là hắn chỉ nhìn Phước Oai tiêu cục bằng nửa con mắt.

Lâm Bình Chi nói:

– Nói không chừng hắn sợ bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm pháp của gia gia, nếu không thì tại sao chẳng dám xuất hiện giao đấu một cách đường hoàng, chỉ thừa lúc người ta sơ hở mà âm thầm hãm hại như vậy?

Lâm Chấn Nam lắc đầu đáp:

– Bình nhi, Tịch tà kiếm pháp của gia gia dùng để đối phó với đạo tặc trong hắc đạo thì có thừa nhưng công phu Tồi tâm chưởng của người này quả thực gia gia của ngươi không địch nổi. Ta… ta trước nay không phục ai, nhưng thấy trái tim của Hoắc tiêu đầu thì lại… lại… Hỡi ôi!

Lâm Bình Chi thấy phụ thân tinh thần suy nhược, khác hẳn lúc bình thường, nên chàng không dám nói thêm gì nữa.

Vương phu nhân nói:

– Kẻ đối đầu lợi hại như vậy, đại trượng phu có thể khuất phục đợi đến lúc làm cho ra lẽ. Chúng ta nên tạm lánh đi là hơn.

Lâm Chấn Nam gật đầu nói:

– Ta cũng nghĩ như vậy.

Vương phu nhân nói:

– Ngay trong đêm nay, chúng ta khởi hành đến Lạc Dương. Chúng ta đã biết lai lịch của địch thủ thì quân tử báo thù mười năm không muộn.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đúng thế. Nhạc phụ giao hảo khắp thiên hạ, nhất định có cách giúp chúng ta. Ta hãy thu dọn một ít đồ tế nhuyễn rồi lập tức lên đường.

Lâm Bình Chi hỏi:

– Chúng ta đi rồi, mọi người trong tiêu cục không ai quản lý thì làm sao đây?

Lâm Chấn Nam nói:

– Kẻ địch với họ không thù không oán. Chúng ta đi rồi, mọi người trong tiêu cục sẽ bình an vô sự.

Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Gia gia nói như vậy cũng có lý. Kẻ địch đã giết chết nhiều người trong tiêu cục, kỳ thực chỉ là vì một mình ta. Ta rời khỏi đây, địch thủ quyết không làm khó dễ các tiêu đầu, các tên cầm cờ nữa.

Chàng liền quay về phòng mình thu dọn, bụng cứ nghĩ đến chuyện không chừng kẻ địch có thể đốt sạch tiêu cục. Chàng nhìn từng món đồ chơi, quần áo cảm thấy cái gì cũng không bỏ đi được, bèn lấy cả bỏ vào hai cái bao. Chàng lại cảm thấy mình để lại quá nhiều thứ, nên tay trái lấy đôi ngọc mã trên bàn, tay phải cuộn tấm da báo. Đó là con báo hoa mà chàng đã tự tay săn được.

Chàng vác bao trên lưng rồi quay về phòng cha mẹ.

Vương phu nhân thấy vậy không nhịn được cười:

– Chúng ta đi lánh nạn chứ không phải dọn nhà, hài nhi đem nhiều như vậy để làm gì?

Tổng tiêu đầu thở dài, lắc đầu nghĩ bụng: Chúng ta tuy là nhà võ học thế truyền nhưng hài nhi được nuôi dưỡng cưng chiều từ tấm bé, ngoài chuyện học được một ít võ công ra, còn lại chẳng khác gì con em nhà quyền quý. Hôm nay bỗng nhiên gặp đại nạn, nên y lật đật ứng biến, cũng không trách y được.

Tình yêu con trong lòng lão trỗi dậy. Lão nói:

– Trong nhà ngoại tổ ngươi cái gì cũng có, không cần phải mang quá nhiều đồ đạc. Chúng ta chỉ cần mang một ít vàng bạc, châu báu quý giá. Lần này đi đến Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc đều có phân cục, chẳng sợ gì thiếu ăn trên đường. Bao càng nhẹ càng tốt, người nhẹ thêm tí nào thì lúc động thủ lại càng linh hoạt hơn.

Lâm Bình Chi không có cách gì khác đành đặt bao xuống.

Vương phu nhân nói:

– Chúng ta cỡi ngựa từ cổng lớn quang minh chính đại xông thẳng ra hay là từ cửa sau nhẹ nhàng mà đi?

Lâm Chấn Nam ngồi trên ghế thái sư, nhắm nghiền hai mắt, cầm tẩu thuốc đưa lên miệng rít một hơi dài. Một lúc lâu, lão mới mở mắt ra nói:

– Bình nhi! Con đi báo cho mọi người trong tiêu cục từ trên xuống dưới hay để mọi người thu xếp, ngày mai rời khỏi đây. Bảo Trương phòng phân phát tiền bạc cho họ. Đợi “dịch bệnh” qua đi, tất cả lại quay về.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ.

Tuy vậy lòng chàng lấy làm lạ, không hiểu tại sao phụ thân bỗng nhiên lại thay đổi ý định. Vương phu nhân nói:

– Trượng phu muốn mọi người tản đi hết ư? Vậy thì lấy ai trông coi tiêu cục?

Tổng tiêu đầu đáp:

– Không cần trông coi, ngôi nhà này đã bị quỷ ám, ai dám vào đây chịu chết? Vả lại khi ba chúng ta đi rồi, những người còn lại lẽ nào không đi?

Lâm Bình Chi bước ra khỏi phòng đi thông báo, lập tức tiêu cục trên dưới náo loạn cả lên.

Tổng tiêu đầu đợi con ra khỏi phòng rồi mới nói:

– Nương tử, hai cha con ta đổi quần áo làm tên chạy cờ còn nương tử thì cải trang làm người ở. Ngày mai, hơn một trăm người cùng phân tán ra đi, địch thủ dù võ công cao cường cũng chỉ một hai tên, hắn biết đuổi bắt ai?

Vương phu nhân vỗ tay khen:

– Thật là cao kế!

Rồi bà đi lấy hai bộ quần áo dơ bẩn của người cầm cờ, đợi Lâm Bình Chi về để hai cha con mặc vào. Bà mặc một bộ quần áo vải thô màu xanh, trên đầu quấn một tấm vải hoa màu lam. Ngoài làn da trắng muốt ra, bà đã biến thành một ả đầy tớ thô kệch. Lâm Bình Chi cảm thấy bộ áo trên người dơ bẩn hôi hám, không vừa ý nhưng cũng không biết làm sao được.

Hồi 4: Bọn Thanh Thành bức hại Lâm gia

Trời vừa hừng sáng, Tổng tiêu đầu bảo người mở cửa, nhìn mọi người rồi nói:

– Năm nay thời vận của ta bất lợi, trong tiêu cục ma quỷ quấy nhiễu, đành phải tạm lánh xa. Các vị huynh đệ! Nếu còn tình nguyện đi theo bảo tiêu, mời các vị đến phủ Hàng Châu, phủ Nam Xương hoặc đến nương nhờ ở các phân cục Triết Giang, Giang Tây. Lư tiêu đầu và Dịch tiêu đầu ở các nơi đó sẽ không thờ ơ với các vị đâu. Chúng ta đi thôi!

Cùng một lúc, hơn một trăm người nhốn nháo lên ngựa, tràn ra khỏi cổng.

Tổng tiêu đầu khóa cổng lại rồi hô to một tiếng. Mười mấy kỵ mã xông qua vạch máu, không ai sợ hãi gì nữa, cảm thấy càng sớm ra khỏi tiêu cục càng an toàn. Vó ngựa dồn dập phi nhanh về cửa Bắc. Không ai suy nghĩ gì, chỉ thấy người bên cạnh chạy về hướng Bắc thì mình cũng phi ngựa theo.

Lâm Chấn Nam đứng bên góc sân giơ tay ra hiệu gọi vợ và con trai dừng lại một chút, nói khẽ:

– Để họ về hướng Bắc rồi chúng ta đi về hướng Nam.

Vương phu nhân hỏi:

– Đi Lạc Dương sao lại đi hướng Nam?

Tổng tiêu đầu đáp:

– Kẻ địch đoán rằng chúng ta đi Lạc Dương, nhất định chặn ngoài cửa Bắc. Chúng ta lại cứ đi về hướng Nam, đi một vòng rồi mới chuyển về hướng Bắc, để bọn cẩu tặc kia có muốn ngăn chặn cũng không được nữa.

Lâm Bình Chi nói:

– Gia gia!

Lâm Chấn Nam đáp:

– Thế nào?

Lâm Bình Chi im lặng, một lúc sau lại nói:

– Gia gia!

Vương phu nhân nhắc:

– Con muốn nói gì thì cứ nói ra đi.

Lâm Bình Chi nói:

– Hài nhi muốn đi về cửa Bắc. Quân cẩu tặc đã sát hại quá nhiều người của chúng ta, không cùng với chúng sanh tử một phen thì sao có thể nuốt được nỗi căm hờn này?

Vương phu nhân nói:

– Mối đại thù này tất nhiên phải trả, nhưng cái bản lĩnh nhỏ nhoi của ngươi thì địch làm sao nổi Tồi tâm chưởng của chúng?

Lâm Bình Chi giận sôi lên, nói:

– Cùng lắm là giống Hoắc tiêu đầu, bị hắn đánh cho một chưởng vỡ tim, thì có sao đâu.

Lâm Chấn Nam sắc mặt tái xanh, quát:

– Ba đời họ Lâm nhà ta nếu ai cũng bộp chộp hữu dũng vô mưu như ngươi thì Phước Oai tiêu cục không cần người đến gây hấn cũng đã sớm tự mình gục ngã rồi.

Lâm Bình Chi không dám nói thêm, theo cha mẹ đi về hướng Nam. Sau khi ra khỏi thành, quẹo về hướng Tây Nam, qua sông Mân đến Nam Đài.

Suốt nửa ngày, ngựa không dừng vó, cho đến quá trưa mới đến một quán nhỏ bên đường nghỉ chân. Lâm Chấn Nam hỏi gã bán cơm có món gì mang ra càng nhanh càng tốt. Gã bán cơm đi sửa soạn ngay. Chờ quá lâu mà không thấy động tĩnh gì, Tổng tiêu đầu sốt ruột gọi to:

– Chủ quán, đem cho ta mau lên!

Lão gọi hai lần nhưng không có tiếng trả lời. Vương phu nhân cũng gọi:

– Chủ quán…! Chủ quán…!

Vẫn không có ai trả lời. Vương phu nhân bỗng đứng dậy, mở bao lấy vội kim đao ra cầm trên tay, chạy ra sau nhà. Bà th ấy gã bán cơm ngã lăn trên đất và một người đàn bà nằm nghiêng nơi ngưỡng cửa. Đó là vợ của gã bán cơm. Vương phu nhân sờ vào mũi gã mới hay gã đã tắt thở, sờ môi gã thấy còn ấm ấm. Lúc này hai cha con Lâm Chấn Nam cũng đã rút trường kiếm ra, đi vòng quanh quán cơm. Đây là quán cơm nhỏ đơn độc nép sát sườn núi gần mộ t rừng trúc, xung quanh không có nhà. Ba người đứng trước cửa quán quan sát bốn hướng, không thấy gì khác thường.

Lâm Chấn Nam giơ kiếm ngang người, nói lớn:

– Bằng hữu phái Thanh Thành! Lâm mỗ chờ chết ở đây, xin mời hiện thân tương kiến.

Lão gọi mấy lần, chỉ nghe âm thanh từ trong núi dội lại:

– Hiện thân tương kiến, hiện thân tương kiến…

Dư âm văng vẳng, ngoài ra không có động tĩnh gì. Ba người biết rõ địch thủ đang ở gần đây ngấm ngầm theo dõi mình. Chỗ này là nơi chúng chọn để hạ thủ, lòng tuy có lo sợ nhưng biết được như vậy nên định thần lại. Lâm Bình Chi la to:

– Lâm Bình Chi đang ở đây, các ngươi đến giết ta đi! Đồ cẩu tặc thối tha! Ta biết ngươi không dám xuất hiện, cứ lén lén lút lút như là bọn đầu trộm đuôi cướp trên chốn giang hồ!

Bỗng nhiên trong rừng trúc nổi lên một tràng cười khanh khách. Lâm Bình Chi hoa mắt lên, đã thấy một người đứng trước mặt. Chàng không kịp nhìn kỹ vội vung trường kiếm xuất chiêu Trực đảo hoàng long nhằm thẳng ngực hắn đâm tới. Hắn né sang một bên. Lâm Bình Chi quơ ngang kiếm, hắn cười nhạt vòng qua tay trái Lâm Bình Chi. Tay trái chàng đánh theo một chưởng rồi quay kiếm đâm tới.

Tổng tiêu đầu và Vương phu nhân tay cầm đao kiếm chạy đến, thấy con trai liên tiếp xuất chiêu, kiếm pháp đúng phép tắc, gặp cường địch nhưng không hề lúng túng. Hai người bèn lùi lại hai bước, thấy địch thủ mặc đồ xanh, lưng đeo trường kiếm, ước khoảng hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, vẻ mặt không biểu lộ một chút thân tình nào.

Lâm Bình Chi chất chứa niềm căm phẫn đã lâu, triển khai ngay Tịch tà kiếm pháp, đâm thẳng đánh ngang, liều mạng chẳng kể đến thân mình. Gã kia hai tay không, chỉ né tránh chứ không trả chiêu. Đợi Lâm Bình Chi vung kiếm đánh hơn hai mươi chiêu, hắn mới cười nhạt nói:

– Tịch tà kiếm pháp chỉ có vậy thôi!

Hắn đưa ngón tay búng nghe “chóc” một cái. Lâm Bình Chi cảm th ấy đau buốt hổ khẩu, trường kiếm rơi xuống đất. Hắn phóng lên đá một cước, Lâm Bình Chi lộn nhào mấy vòng.

Hai vợ chồng Lâm Chấn Nam cùng đến che chở cho con trai. Lâm Chấn Nam nói:

– Quý tính đại danh các hạ là gì? Các hạ có phải là người của phái Thanh Thành không?

Gã kia cười nhạt đáp:

– Dựa vào chút võ nghệ mèo què của Phước Oai tiêu cục, ngươi không xứng đáng hỏi họ tên của ta. Nhưng hôm nay vì đến để báo thù nên ta nói cho ngươi biết: lão gia đúng là người của phái Thanh Thành.

Lâm Chấn Nam chống mũi kiếm xuống đất, tay trái gác lên tay phải nói:

– Tại hạ đối với Dư quán chủ ở Tùng Phong quán một lòng kính trọng, hàng năm đều phái tiêu đầu đến núi Thanh Thành, trước nay chưa thiếu lễ số bao giờ. Năm nay, Dư quán chủ còn phái bốn vị đệ tử đến Phúc Châu. Tại hạ không biết đã đắc tội gì với các hạ?

Gã kia ngẩng mặt lên trời lạnh lùng cười khanh khách một lúc rồi mới nói:

– Đúng. Sư phụ ta đã phái bốn đệ tử đến Phúc Châu, ta là một trong bốn người đó.

Lâm Chấn Nam nói:

– Vậy thì tốt quá. Không biết cao danh quý tính các hạ là gì?

Gã kia dường như không muốn trả lời, hừ lên một tiếng rồi mới nói:

– Ta họ Vu, tên gọi Nhân Hào.

Lâm Chấn Nam gật đầu nói:

– “Anh, Hùng, Hào, Kiệt, Thanh Thành tứ tú”, nguyên các hạ là một trong bốn đệ tử của Tùng Phong quán, không trách Tồi tâm chưởng lợi hại như thế, giết không thấy máu. Khâm phục, khâm phục! Vu anh hùng không quản đường xa, Lâm mỗ chưa kịp nghinh tiếp, thật là thất lễ!

Vu Nhân Hào lạnh lùng đáp:

– Tồi tâm chưởng gì nữa. Ngươi chưa nghinh tiếp thì hiền công tử võ nghệ cao cường của ngươi đã nghinh tiếp rồi. Ngay cả ái tử của sư phụ ta cũng bị công tử giết, vậy không thất lễ sao?

Lâm Chấn Nam nghe lạnh cả người. Lão vẫn tưởng con trai lỡ tay giết người, nếu là đệ tử bình thường của phái Thanh Thành thì có thể nhờ người có tên tuổi trong võ lâm đứng ra điều gi ải để xin lỗi rồi đền bù cho đối phương, hoặc tính đường khác xoay xở. Nhưng người chết lại là ái tử rất được cưng chiều của Dư quán chủ Tùng Phong quán. Vậy ngoài con đường liều chết ra thì không còn đường nào khác. Lão vung trường kiếm, ngẩng đầu lên cười ha ha rồi nói:

– Thật buồn cười, Vu thiếu hiệp nói đùa rồi!

Vu Nhân Hào trừng mắt quát:

– Ta nói đùa cái gì?

Lâm Chấn Nam đáp:

– Từ lâu, ai cũng ngưỡng mộ phái Thanh Thành võ thuật tinh thông, nền nếp nghiêm cẩn. Khuyển tử của ta có giết người thì chỉ giết một tên vô lại sàm sỡ gái nhà lành trong quán rượu. Vả lại, người bị khuyển tử giết võ công tầm thường. Người như vậy sao lại có thể bảo là công tử của Dư quán chủ, không phải là Vu thiếu hiệp nói đùa sao?

Vu Nhân Hào mặt trầm ngâm, không biết nói gì. Bỗng nhiên, có tiếng người trong rừng trúc nói:

– Người ta thường nói: “Song quyền nan địch tứ thủ”. Trong quán rượu nhỏ đó, Lâm thiếu tiêu đầu dẫn hai mươi bốn tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục tấn công Dư sư đệ của ta…

Hắn vừa nói vừa đi ra. Gã này mặt mũi bần tiện, tay phe phẩy cây quạt giấy. Hắn nói tiếp:

– Nếu như cầm đao cầm kiếm động thủ thì nói làm gì. Phước Oai tiêu cục có quá nhiều người nhưng toàn là quân vô lại. Lâm thiếu tiêu đầu đã bỏ thuốc độc vào rượu của Dư huynh đệ, lại còn phóng thêm mười bảy loại ám khí độc. Hà hà, con rùa nhỏ này thật đúng là ác độc. Chúng ta có hảo ý muốn đến đáp lễ, nhưng không ngờ bị người ta ám hại.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đại danh quý tính các hạ là gì?

Người kia đáp:

– Không dám, kẻ hèn này là Phương Nhân Trí.

Lâm Bình Chi cầm trường kiếm lên, đứng bên cạnh cha bừng bừng nổi giận, chỉ đợi phụ thân nói xong vài câu là tiếp tục giao đấu. Chàng nghe gã Phương Nhân Trí ăn nói hồ đồ như vậy, giận dữ quát:

– Thúi lắm! Ta với hắn không thù không oán, trước nay chưa hề gặp, càng không biết hắn là người phái Thanh Thành. Ta hại hắn để làm gì?

Phương Nhân Trí phe phẩy quạt rồi nói:

– Thúi lắm! Thúi lắm! Ngươi cùng với Dư sư đệ của ta không oán không thù, thì tại sao bày đặt hơn ba mươi tên tiêu đầu và tên cầm cờ mai phục ngoài quán rượu? Dư sư đệ của ta thấy ngươi chọc ghẹo gái nhà lành nên tỏ ra bất bình bèn dạy cho ngươi một bài học rồi tha mạng cho ngươi. Nhưng ngươi không những không biết ơn mà còn trả oán. Tại sao ngươi lại lệnh cho mấy tên cẩu tiêu đầu tấn công Dư sư đệ của ta?

Lâm Bình Chi tức điên tiết, lớn tiếng quát:

– Phái Thanh Thành các ngươi đều là lũ vô lại hung tợn, không biết phải trái!

Phương Nhân Trí cười hề hề đáp:

– Rùa con, ngươi chửi ai vậy?

Lâm Bình Chi nổi giận đáp:

– Ta chửi ngươi đó, đã sao nào?

Phương Nhân Trí gật đầu đáp:

– Ngươi cứ chửi cho đã, không liên can đến ta. Chẳng sao cả.

Lâm Bình Chi kinh ngạc khi nghe gã kia nói vì nằm ngoài dự đoán của chàng. Bỗng nhiên nghe “vù” một tiếng, có người lượn qua trước mặt chàng. Lâm Bình Chi vung tay trái lên định xuất chưởng nhưng đã chậm một bước. Một tiếng “chát” vang lên, má phải chàng bị một cái tát nẩy lửa. Chàng choáng váng muốn ngã. Phương Nhân Trí nhanh như chớp tấn công chàng một chưởng rồi lui về chỗ cũ.

Gã đưa tay xoa má phải, giả bộ nổi giận quát:

– Thằng ranh con, sao ngươi lại động thủ đánh người? Đau quá, đau quá! Hà hà.

Vương phu nhân thấy con bị làm nhục, liền vung đao hướng về gã kia xuất chiêu Đả hỏa thiên thiên, chiêu thức vừa chắc chắn vừa mạnh mẽ. Gã kia vội nghiêng mình lách qua, mũi đao chém trượt về bên phải gã cách không quá bốn tấc. Gã kinh hãi chửi:

– Hay lắm mụ già!

Gã không dám khinh địch nữa, thò tay ra sau lưng rút trường kiếm, đợi Vương phu nhân xuất đao thứ hai mới vung kiếm lên đánh lại.

Lâm Chấn Nam chống trường kiếm nói:

– Phái Thanh Thành muốn lật đổ Phước Oai tiêu cục thì vô cùng dễ dàng. Nhưng võ lâm sẽ có công luận phải trái. Xin mời Vu thiếu hiệp!

Vu Nhân Hào nắm vỏ kiếm, chỉ nghe “xoảng” một tiếng, hắn đã rút kiếm ra khỏi vỏ. Hắn nói:

– Xin mời Lâm tổng tiêu đầu!

Lâm Chấn Nam nghĩ bụng:

– Từng nghe Tùng Phong kiếm pháp của phái Thanh Thành vừa mạnh vừa linh hoạt, sở dĩ người ta nói gồm luôn hai thứ như thế là vì Tùng thì cứng chắc còn Phong thì nhẹ như gió. Ta phải chiếm tiên cơ mới có hy vọng thắng.

Lão không khách khí nữa, điểm mũi kiếm rồi vung trường kiếm tung hoành qua lại. Đó chính là chiêu Quần tà tịch dịch trong Tịch tà kiếm pháp. Vu Nhân Hào thấy thế kiếm của lão cực kỳ hung mãnh, liền tránh né. Lâm Chấn Nam chưa sử hết chiêu thứ nhất đã chuyển sang chiêu thứ hai là Chung quỳ quyết mục. Mũi kiếm đâm thẳng vào hai mắt đối phương, Vu Nhân Hào nhảy về phía sau. Lâm Chấn Nam phóng chiêu kiếm thứ ba đâm tới, Vu Nhân Hào giơ kiếm chống đỡ, chỉ nghe “choảng” một tiếng, cánh tay cả hai đều bị chấn động.

Lâm Chấn Nam nghĩ bụng: Tưởng kiếm pháp phái Thanh Thành của ngươi ghê gớm lắm nhưng cũng chỉ có vậy thôi. Dựa vào công phu nhỏ nhoi của ngươi lẽ nào ngươi lại sử được Tồi tâm chưởng lợi hại như vậy? Có lẽ ngoài ngươi ra còn có hậu thuẫn nào khác.

Lão nghĩ đến đó, trong lòng không nén được lo sợ. Vu Nhân Hào cầm trường kiếm khoanh một vòng tròn rồi đột ngột đâm tới, ánh kiếm lóe ra nhiều điểm, mũi kiếm đâm vào bảy hướng. Lâm Chấn Nam trả chiêu cực nhanh, ráng hết sức tấn công. Cả hai bên tiến bên lùi, đánh hơn hai mươi chiêu mà không phân thắng bại. Bên kia, Vương phu nhân và Phương Nhân Trí cũng đấu với nhau. Bà liên tiếp gặp nguy hiểm, kiếm pháp của đối phương cực kỳ nhanh nhẹn nên bà không nắm vững cây kim đao. Lâm Bình Chi thấy mẫu thân thất thế, vội cầm kiếm lao về hướng Phương Nhân Trí, giơ kiếm bổ xuống đỉnh đầu hắn. Phương Nhân Trí đoán được nghiêng người tránh. Lâm Bình Chi như điên như cuồ ng, lại bổ xuống. Bỗng nhiên, chàng không biết bị cái gì vướng chân, bước đi loạng choạng rồi lập tức ngã lăn ra. Chỉ nghe một người nói:

– Nằm xuống đi!

Một bàn chân đạp mạnh lên người chàng, rồi trên lưng lại bị một vật nhọn chĩa vào. Mắt chàng chỉ thấy đất cát mịt mù nhưng tai vẫn nghe được tiếng mẫu thân la thất thanh:

– Đừng giết nó! Đừng giết nó!

Chàng lại nghe tiếng Phương Nhân Trí quát:

– Ngươi cũng nằm xuống đi!

Nguyên lúc hai mẹ con Lâm Bình Chi đang giao đấu với Phương Nhân Trí, lại có một người lẻn đến phía sau lưng Lâm Bình Chi. Hắn gạt chân cho Lâm Bình Chi té nhào, rồi rút dao găm chĩa xuống lưng chàng. Vương phu nhân vốn đã không địch nổi, tâm trí hoang mang rối loạn, đao pháp lại sơ hở, bị Phương Nhân Trí thúc cho một cái cùi chỏ làm bà té ngã. Phương Nhân Trí thừa thắng điểm vào huyệt đạo hai người. Người gạt ngã Lâm Bình Chi chính là gã hán tử họ Giả, đã động thủ với hai tiêu đầu Trịnh, Sử trong quán rượu nhỏ ở ngoại thành Phúc Châu.

Lâm Chấn Nam thấy vợ và con trai bị địch thủ chế ngự, trong lòng kinh hoàng. Lão vội vung kiếm tấn công liên tục. Vu Nhân Hào cười một tràng dài, cũng liên tục xuất chiêu để đánh trả. Lâm Chấn Nam kinh hãi nghĩ bụng: Người này làm sao biết được Tịch tà kiếm pháp của ta?

Vu Nhân Hào cười nói:

– Ngươi xem Tịch tà kiếm pháp của ta như thế nào?

Lâm Chấn Nam nói:

– Ngươi… Ngươi… làm sao biết sử Tịch tà kiếm pháp?

Phương Nhân Trí cười nói:

– Tịch tà kiếm pháp của ngươi có gì ghê gớm đâu? Ta cũng biết sử.

Hắn liền vung trường kiếm, liên tiếp xuất ba chiêu Quần tà tịch dịch, Chung quỳ quyết mục, Phi yến xuyên liễu, đều là những chiêu trong Tịch tà kiếm pháp.

Lâm Chấn Nam dường như gặp phải cái gì đáng sợ nhất trên đời. Muôn ngàn lần lão không thể ngờ đến tuyệt chiêu Tịch tà kiếm pháp gia truyền của mình lại bị đối phương biết và đem ra sử dụng. Lão vội vàng luống cuống, mất hết cả lý trí. Vu Nhân Hào quát:

– Này!

Gối phải của Lâm Chấn Nam bị trúng một kiếm đau buốt, chân phải quỵ xuống. Lão lập tức nhảy lên. Vu Nhân Hào phóng trường kiếm theo, chỉ vào ngực lão. Lão nghe Giả Nhân Đạt la lớn:

– Vu sư đệ, chiêu Lưu tinh cản nguyệt thật là tuyệt!

Chiêu Lưu tinh cản nguyệt cũng chính là một chiêu trong Tịch tà kiếm pháp. Lâm Chấn Nam thở dài, quăng trường kiếm xuống, nói:

– Ngươi… ngươi… biết sử Tịch tà kiếm pháp. Hạ thủ chúng ta nhanh đi!

Nói xong, lão bỗng nghe lưng đau nhói. Phương Nhân Trí đã dùng mũi kiếm điểm vào huyệt đạo lão. Hắn nói:

– Trên đời này đâu có chuyện tùy tiện như vậy được? Rùa, vợ rùa, con rùa của Lâm gia, cả ba người cùng đi gặp sư phụ ta.

Tay trái Giả Nhân Đạt túm lấy lưng Lâm Bình Chi nhấc lên, đánh cho chàng hai bên hai cái tát tóe lửa rồi chửi:

– Đồ thỏ con! Kể từ ngày hôm nay trở đi, lão tử mỗi ngày đánh ngươi mười tám trận, từ đây đến núi Thanh Thành tỉnh Tứ Xuyên, đánh cho bộ mặt xinh đẹp như hoa của ngươi trở thành tàn tạ xấu xí.

Lâm Bình Chi tức giận như điên, liền phun nước bọt vào mặt hắn. Hai người cách nhau không quá một thước. Giả Nhân Đạt không kịp né tránh. “Phẹt” một tiếng, nước bọt đã văng trúng ngay trên mũi gã. Giả Nhân Đạt tức giận cực độ, quật chàng ngã xuống đất, rồi đá vào lưng chàng mấy cước.

Phương Nhân Trí cười nói:

– Đủ rồi, đủ rồi. Nếu đá gã chết thì trước mặt sư phụ sẽ nói thế nào đây? Gã tiểu tử này chỉ là một đại cô nương, chịu không nổi ba quyền hai cước của ngươi đâu.

Giả Nhân Đạt võ nghệ cũng bình thường, nhân phẩm lại thấp hèn, sư phụ đối với gã cũng không ưa gì, sư huynh đệ đồng môn ai cũng coi thường gã. Nghe Phương Nhân Trí nói như vậy, gã không dám đá nữa, chỉ nhổ nước bọt lên người Lâm Bình Chi cho hả giận.

Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào xách ba người nhà Lâm Chấn Nam vào trong quán cơm, vứt xuống đất. Phương Nhân Trí nói:

– Chúng ta ăn cơm xong rồi đi. Giả sư đệ, đệ nấu cơm đi!

Giả Nhân Đạt nói:

– Được.

Vu Nhân Hào nói:

– Phương sư ca hãy canh chừng ba tên này đừng để chúng trốn thoát. Võ công của lão già này không vừa đâu, sư ca hãy nghĩ kế cho chắc!

Phương Nhân Trí cười nói:

– Dễ quá. Sau khi ăn xong, ta cắt hết gân tay của bọn chúng, dùng dây thừng xuyên qua xương tỳ bà của ba con rùa, xâu thành một chuỗi như xâu cua, thì có chạy đằng trời cũng không thoát!

Lâm Bình Chi ngoác miệng chửi:

– Có ngon thì mau đem ba người chúng ta giết đi. Còn nghĩ ra những trò quỷ quyệt để hại người thì chỉ là những hành động tồi bại.

Phương Nhân Trí cười ha hả nói:

– Đồ lợn giống! Ngươi còn chửi thêm một câu nữa thì ta đem phân trâu, phân chó trám vào miệng ngươi.

Câu nói của hắn quả công hiệu. Lâm Bình Chi tuy tức đến muốn ngất đi nhưng đành câm miệng, không dám chửi một câu nào nữa.

Phương Nhân Trí cười nói:

– Vu sư đệ. Sư phụ đã dạy chúng ta bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm pháp, hai anh em ta quả nhiên sử đúng y như vậy. Lâm tiêu đầu vừa thấy thì hồn xiêu phách tán, toàn thân rũ rượi. Lâm tiêu đầu, ta đoán lão lúc đó nhất định nghĩ rằng: Phái Thanh Thành của hắn làm sao biết sử Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm ta, phải không?

Lâm Chấn Nam lúc đó rõ ràng đang nghĩ bụng: Phái Thanh Thành của hắn làm sao biết sử Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm ta?

Hồi 5: Cô bán rượu cứu thiếu tiêu đầu

Lâm Bình Chi thầm nghĩ cách để xông tới té ngã lên người Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào cho chúng giết quách mình đi nhưng sau lưng bị điểm mấy huyệt đạo, không thể nhúc nhích được. Chàng lại nghĩ nếu để chúng cắt gân tay ra từng đoạn, lại bị x ỏ dây vào xương tỳ bà thì từ đây trở thành người tàn phế, chẳng thà bây giờ chết đi còn khỏe hơn. Bỗng nhiên phía sau nhà bếp vọng lại tiếng kêu thảm thiết của gã Giả Nhân Đạt.

Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào giật nẩy mình, cầm trường kiếm xông thẳng về phía sau. Chợt thấy một bóng người thoáng qua cửa lớn, cước bộ không một tiếng động, nắm cổ Lâm Bình Chi kéo lên. Lâm Bình Chi la khẽ một tiếng, nhìn khuôn mặt người ấy, thấy toàn là vết rỗ sẹo đậu mùa. Ấy chính là cô gái bán rượu xấu xí, nguyên nhân dẫn đến tai họa cho chàng.

Cô gái xấu xí đó dắt Lâm Bình Chi ra ngoài cửa, đến nơi cột ngựa dưới gốc đại thụ, tay trái nắm chặt lưng chàng, rồi hai tay nâng chàng lên lưng ngựa. Lâm Bình Chi ngây người kinh ngạc. Chỉ thấy cô gái xấu xí rút thanh trường kiếm ra, rồi kiếm quang lấp loáng, cô đã vung kiếm cắt đứt dây cương, lại thúc kiếm nhẹ vào hông ngựa. Ngựa bị thúc, hí lên một tiếng, tung bốn vó phi thẳng vào rừng.

Lâm Bình Chi kêu lớn:

– Má má, gia gia!

Lòng chàng chợt nhớ đến cha mẹ, không muốn chạy trốn một mình. Hai tay chàng vỗ lên lưng ngựa ra lệnh dừng ngựa nhưng con ngựa cứ phi. Chàng lăn xuống ngựa, nhào mấy vòng rơi vào đám cỏ trong khi con ngựa vẫn phi nhanh về phía trước. Lâm Bình Chi nắm lấy một cành cây, muốn đứng dậy nhưng hai chân không còn khí lực. Chàng chỉ đi được một thước lập tức té ngã, lại cảm thấy hông đau dữ dội do lúc lăn xuống lưng ngựa đụng phải cục đá.

Bỗng nhiên, chàng nghe tiếng kêu la, tiếng chân bước. Có người đuổi đến, Lâm Bình Chi vội vàng núp vào đám cỏ, rồi chợt nghe tiếng đao kiếm va chạm phát ra thật lớn. Từ trong đám cỏ, Lâm Bình Chi khẽ ló đầu ra nhìn phía trước, thấy hai bên đang giao đấu. Một bên là Vu Nhân Hào và Phương Nhân Trí của phái Thanh Thành, bên kia là cô gái xấu xí. Lại có một ông già dùng vải đen che mặt, đầu tóc bạc phơ đứng lược trận. Lâm Bình Chi nhận biết đó chính là lão già họ Tát, ông nội của cô gái xấu xí.

Chàng nghĩ thầm: Trước đây ta nghĩ hai người này là người của phái Thanh Thành, nào ngờ cô gái lại cứu ta. Ôi, sớm biết võ công của cô ta tuyệt diệu như vậy thì ta đã không phải bất bình ra tay đánh đấm làm gì để phải rước đại họa vào thân!

Chàng lại nghĩ: Chúng đang đấu với nhau thật kịch liệt chính là cơ hội giúp ta đi tìm gia gia và má má. Nhưng trên lưng huyệt đạo chưa giải, có muốn cũng không nhúc nhích được.

Bỗng nghe Phương Nhân Trí quát hỏi:

– Ngươi… Ngươi là ai? Tại sao ngươi biết sử kiếm pháp phái Thanh Thành của ta?

Lão già không trả lời. Bỗng nhiên, một luồng bạch quang tỏa ra, cây trường kiếm trong tay Phương Nhân Trí rời khỏi tay bay đi. Phương Nhân Trí vội nhảy lùi về sau. Vu Nhân Hào liền huơ kiếm tiến lên. Lão già che mặt xuất một chiêu. Vu Nhân Hào quát:

– Ngươi… ngươi…

Giọng nói của gã biểu lộ sự kinh hãi. Chỉ nghe “keng” một tiếng, trường kiếm của gã cũng bị văng khỏi tay. Cô gái xấu xí tiến lên một bước, giơ kiếm đâm nhanh. Lão già che mặt giơ kiếm chặn lại rồi nói:

– Đừng làm tổn thương tính mệnh hắn!

Cô gái xấu xí nói:

– Không hạ độc thủ với chúng không được. Chúng đã giết quá nhiều người.

Lão già nói:

– Chúng ta đi thôi!

Cô gái xấu xí chần chừ một lúc. Lão già lại nói:

– Đừng quên lời dặn của sư phụ!

Cô gái đó gật gật đầu, nói:

– Thôi thì tha cho chúng.

Rồi cô đi xuyên vào rừng. Lão già bịt mặt theo sau cô ta, chẳng mấy chốc đã đi rất xa.

Hai gã Vu, Phương sợ hết hồn, nhặt trường kiếm lên mà không phân biệt được kiếm nào của mình.

Vu Nhân Hào nói:

– Đúng là tà môn! Cái đồ thập vật này làm sao mà biết sử kiếm pháp của chúng ta?

Phương Nhân Trí đáp:

– Hắn cũng chỉ biết mấy chiêu nhưng… nhưng chiêu Hồng phi minh minh, thật là khiến cho… khiến cho…

Vu Nhân Hào nói:

– Chúng đã cứu gã tiểu tử họ Lâm đi rồi…

Phương Nhân Trí nói:

– Úi chao, bọn ta đã trúng kế điệu hổ ly sơn. Vợ chồng Lâm Chấn Nam trốn mất!

Vu Nhân Hào nói:

– Phải.

Cả hai xoay mình chạy nhanh về phía quán cơm.

Một lúc sau, tiếng vó ngựa dồn dập vọng đến. Hai con ngựa song song đi vào rừng, Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào dắt ngựa. Lâm Chấn Nam và Vương phu nhân bị trói chặt trên lưng ngựa. Lâm Bình Chi muốn mở miệng kêu: Má má! Gia gia! May thay lúc đó chàng không gọi. Chàng biết nếu phát ra nửa lời thì sẽ bị uổng phí tính mạng, lại mất cơ hội cứu song thân.

Cách hai con ngựa vài trượng, một người chống gậy đi khập khiễng, đó là Giả Nhân Đạt. Trên đầu gã quấn vải trắng dính đầy máu tươi, miệng không ngớt chửi:

– Bọn quỷ ám! Các ngươi cứu được con rùa con rồi, còn hai con thỏ già này cứu không được đâu.

Lão tử mỗi ngày sẽ cho hai con thỏ già này một đao, từ đây đến núi Thanh Thành, coi xem thử chúng còn mấy cái mạng…

Phương Nhân Trí quát:

– Giả sư đệ, vợ chồng họ Lâm là “bạn thân” của sư phụ. Sư phụ đã dặn nhiều lần chúng ta phải dẫn được họ về, nếu như họ có mệnh hệ nào, khi gặp sư phụ, ngươi sẽ bị lột mấy lớp da.

Giả Nhân Đạt hừ một tiếng không dám nói bậy nữa.

Lâm Bình Chi nghe ba người phái Thanh Thành bắt song thân đi, trong lòng lại có cảm giác an ủi: Chúng đem gia gia, má má về núi Thanh Thành, đường dài nhưng không dám làm khó dễ gia gia, má má. Từ Phúc Kiến đến núi Thanh Thành tỉnh Tứ Xuyên nghìn dặm xa xôi, thế nào ta cũng nghĩ được cách cứu gia gia, má má ra khỏi tay chúng.

Rồi chàng lại nghĩ: Đến phân cục của tiêu cục gần nhất, ta sẽ phái người đi Lạc Dương đưa tin cho ông ngoại.

Chàng nằm im trong bụi cỏ không động đậy, muỗi ong đến đậu cũng không cách nào xua đi được. Trải qua mấy canh giờ, trời đã tối, mấy huyệt đạo rốt cuộc cũng được giải khai. Chàng cựa mình đứng dậy, từ từ đi về phía quán cơm.

Chàng lại nghĩ: Ta nên thay hình đổi dạng để mấy tên ác gian đó có thấy cũng không nhận ra được. Nếu không thì sẽ bị chúng giết, làm sao còn cứu được gia gia, má má?

Chàng bèn vào phòng chủ nhân quán cơm, đánh lửa đốt đèn lên, muốn tìm một bộ quần áo. Nào ngờ nhà này nghèo túng cùng cực, ngay cả một bộ đồ để thay đổi cũng không có. Chàng đi ra ngoài quán cơm, thấy xác hai vợ chồng chủ quán nằm trên đất, bèn nghĩ: Ta đành phải đổi y phục của người chết vậy.

Chàng cởi bộ đồ người chết cầm trên tay, cảm thấy mùi xú uế xông lên mũi, tính đem đi giặt rồi mới thay. Nhưng chàng lại nghĩ: Nếu ta đem bộ đồ này đi giặt sạch thì chậm mất, có khi vì thế mà lỡ việc, không cứu được gia gia, má má, phải ân hận ngàn năm!

Chàng cắn răng, cởi quần áo trên người ra, mặc bộ đồ của người chết vào. Rồi chàng đốt một bó đuố c, quan sát bốn phía, thấy kim đao của mẫu thân, trường kiếm của phụ thân và của mình đều còn ở dưới đất. Chàng liền nhặt trường kiếm của phụ thân lên, gói vào trong miếng vải rách, đeo phía sau lưng rồi đi ra khỏi quán.

Nghe tiếng ếch kêu inh ỏi từ trong khe suối vọng lại, bỗng nhiên chàng cảm thấy đau khổ tột cùng, không cầm được bèn khóc rống lên. Chàng liệng bó đuốc đi. Trong đêm tối, ánh đuốc sáng rực lên một đường rồi phụp một tiếng, bó đuốc rơi thẳng xuống một cái ao, lập tức tắt ngấm. Bốn bề lại tối đen như mực.

Chàng nhủ thầm: Lâm Bình Chi hỡi Lâm Bình Chi! Nếu ngươi không cẩn thận, không nhẫn nại, lại rơi vào tay bọn ác tặc phái Thanh Thành thì cũng tắt ngấm như bó đuốc rơi xuống cái ao kia.

Chàng giơ vạt áo lên định lau nước mắt, nhưng chưa kịp lau thì mùi xú uế đã xông lên mũi muốn nôn ọe. Chàng hét lên:

– Có chút mùi hôi thối mà cũng không chịu nổi, chẳng xứng đáng là nam tử hán đại trượng phu! Rồi lập tức cất bước đi.

Đi được mấy bước, giữa lưng lại thấy đau buốt, chàng nghiến chặt hai hàm răng, càng đi nhanh hơn nữa. Chàng chạy loạng choạng trên đường núi nhấp nhô, không biết phụ mẫu có đi qua con đường này không. Chàng đi suốt đêm đến khi trời sáng. Ánh thái dương chiếu vào mặt khiến chàng hoa cả mắt. Lâm Bình Chi run sợ tự hỏi: Hai tên ác tặc đó áp giải gia gia, má má lên núi Thanh Thành. Tứ Xuyên nằm ở phía Tây tỉnh Phúc Kiến, mà sao ta lại đi về hướng Đông?

Chàng vội vàng quay gót xoay lưng về hướng mặt trời mọc mà đi thật nhanh, rồi nghĩ thầm: Gia gia, má má đã đi được hơn nửa ngày, mà ta lại đi ngược lại đến nửa đêm. Ta và họ cách nhau đã quá xa, phải đi mua một con ngựa rượt theo mới được. Nhưng không biết phải mất bao nhiêu lạng bạc mới mua được ngựa.

Chàng thọc tay vào trong túi, bất giác kêu lên một tiếng đau khổ. Lúc ra đi, vàng bạc châu báu đều để trong cái túi treo bên yên ngựa. Bên người Lâm Chấn Nam và Vương phu nhân đều có vàng bạc, nhưng trên người chàng lúc này một xu cũng không có. Chàng đã sốt ruột lại càng thêm sốt ruột, dậm chân la to:

– Biết làm sao bây giờ? Biết làm sao bây giờ?

Chàng ngây người một lúc rồi nghĩ bụng:

– Cứu cha mẹ là việc khẩn cấp, dù có chết cũng không sợ gì cả!

Rồi co giò chạy thật nhanh xuống núi.

Đến giữa trưa, bụng đã đói cồn cào, chàng thấy bên đường có mấy cây nhãn lúc lỉu đầy trái xanh, tuy chưa chín nhưng cũng có thể ăn cho đỡ đói. Chàng đi đến dưới gốc cây, giơ tay định hái, nhưng lại nghĩ bụng: Những cây nhãn này là vật có chủ. Không xin mà hái là đạo tặc. Ba đời nhà họ Lâm ta chuyên làm việc bảo vệ tài sản tính mạng cho người khác, luôn đối đầu với bọn lục lâm đạo tặc, ta làm sao có thể làm đạo tặc được? Nếu bị người ta phát hiện, sẽ chửi ta là một tên tiểu tặc thì cũng là chửi vào mặt gia gia của ta. Gia gia của ta dạy ta làm người như vậy sao? Bảng hiệu “Phước Oai tiêu cục” lại đứng không vững nữa!

Chàng từ bé đã được dạy bảo rằng bọn đạo tặc đều do tiểu tặc mà biến thành, mà tiểu tặc lúc đầu thì chỉ ăn cắp trái dưa, trái chuối nhỏ nhặt, từ ít đến nhiều, cuối cùng như chân lún sâu xuống bùn không th ể tự rút lên được. Nghĩ đến đây, bất giác lưng đổ mồ hôi hột. Chàng nghĩ: Có một ngày, gia gia và ta gầy lại thanh danh của Phước Oai tiêu cục. Bậc đại trượng phu phải giữ vững lập trường làm người, chẳng thà ăn xin chứ không làm đạo tặc.

Chàng bước vội vàng về phía trước, không dám liếc nhìn những cây nhãn bên đường nữa.

Đi được mấy dặm, đến một thôn nhỏ, chàng bước về hướng một ngôi nhà, ấp a ấp úng xin thức ăn. Trong đời chàng, trà đưa đến tay, cơm đưa tới miệng, nào có biết cầu xin ai bao giờ nên chàng chỉ nói được vài câu thì đã đỏ mặt lên. Gặp nhà nông nầy mụ vợ vừa mới gây gổ với chồng, bị anh chồng đánh cho một trận, lòng mụ đang đầy bực tức. Nghe Lâm Bình Chi xin ăn, mụ liền ngoác miệng chửi như tát nước vào mặt rồi giơ cán chổi quát:

– Thằng tiểu tặc kia, điệu bộ lén lút không phải người đàng hoàng. Lão nương bị mất con gà mái, chắc chắn là ngươi bắt ăn rồi, còn muốn đến đây để trộm gà bắt chó nữa ư? Lão nương mà có gạo cơm thừa cũng chẳng bố thí cho cái thứ hạ lưu như ngươi. Ngươi ăn cắp con gà của nhà ta để lão trời đánh nổi trận lôi đình đánh lão nương thâm tím cả mình mẩy…

Mụ nông dân đó chửi một câu thì Lâm Bình Chi thụt lùi một bước. Mụ chửi càng lúc càng hăng, giơ cán chổi đánh vào mặt Lâm Bình Chi. Lâm Bình Chi tức giận, nghiêng người né tránh, muốn đánh cho mụ ta một chưởng, nhưng lại thầm nghĩ: Ta xin ăn không được, lại còn đánh người đàn bà quê mùa dốt nát này há chẳng phải là chuyện buồn cười sao?

Chàng nghĩ vậy liền thu chưởng lại, nhưng vì dùng sức quá mạnh nên thu chưởng về không dễ. Chàng loạng choạng, chân trái dẫm lên đống phân trâu, bị trượt một cái chổng gọng lên trời. Mụ nhà nông thấy vậy cười ha hả, rồi chửi:

– Tiểu mao tặc, ngươi đứng còn không vững nữa mà định đánh lão nương ư?

Mụ cầm chổi đánh lên đầu chàng, nhổ toẹt nước bọt lên người chàng rồi mới quay người đi vào nhà.

Lâm Bình Chi gắng chịu nhục, lòng đầy phẫn nộ nhưng không nói nên lời. Chàng lồm cồm bò dậy, mặt mũi và tay chân dính đầy phân trâu. Đang lúc khốn đốn, mụ lại từ trong nhà đi ra, tay cầm bốn trái bắp luộc đưa cho chàng, vừa cười vừa chửi:

– Tiểu quỷ kia, cầm mà ăn đi! Trời sinh ra ngươi có bộ mặt tròn trịa xinh đẹp, còn đẹp hơn cả cô dâu mới về nhà chồng. Sao ngươi không chịu học điều hay lẽ phải mà lại ngửa tay ăn xin? Thật là đồ vô dụng thối tha!

Lâm Bình Chi tức giận, muốn liệng mấy trái bắp đi. Mụ nhà nông cười nói:

– Giỏi thì ngươi liệng đi, ngươi liệng đi! Ngươi không sợ chết đói thì đem mấy trái bắp này liệng đi, đồ tiểu tặc chết đói!

Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Muốn cứu gia gia má má, trả mối đại thù, chấn hưng Phước Oai tiêu cục thì từ nay về sau ta nên trăm nhẫn ngàn nhẫn. Gặp chuyện gian nan nhục nhã cũng phải cắn răng chịu đựng, gặp kẻ hung tợn cũng phải nhẫn nhịn. Bây giờ ta bị người đàn bà quê mùa dốt nát này sỉ nhục một trận cũng có sao đâu.

Chàng bèn nói:

– Đa tạ lão nương!

Chàng há miệng cắn bắp ăn. Mụ nhà nông cười nói:

– Ta đoán ngươi không dám liệng đâu!

Mụ nói xong, quay người đi, miệng vẫn lảm nhảm:

– Tiểu quỷ này đói thảm hại. Con gà của ta xem ra không phải hắn bắt trộm. Ấy có lẽ lão già giết rồi nhưng có tên quỷ đói này để ta trút bớt cơn tức giận cũng rất hay.

Lâm Bình Chi đi đến đâu xin ăn đến đó, lúc qua nơi sơn dã thì chàng hái trái dại ăn cho đỡ đói. Cũng may, năm ấy tỉnh Phúc Kiến được mùa, lương thực dồi dào, người dân có của dư của để. Chàng tuy đã bôi mặt lem luốc, người ngợm bẩn thỉu, nhưng ăn nói nhã nhặn, được người ta cảm mến nên xin ăn cũng không khó khăn gì. Dọc đường, chàng hỏi thăm tin tức phụ mẫu nhưng không có một chút âm hao nào. Đi được tám chín ngày đã đến địa phận tỉnh Giang Tây, chàng hỏi thăm đường đến Nam Xương, lòng nghĩ ở Nam Xương có phân cục của tiêu cục Phước Oai, may ra có được vài tin tức, nếu không thì cũng có thể lấy một ít tiền lộ phí và một con ngựa. Đến thành Nam Xương, chàng hỏi thăm Phước Oai tiêu cục. Một người đi đường nói:

– Phước Oai tiêu cục ư? Ngươi hỏi để làm gì? Tiêu cục đã bị thiêu rụi làm mười mấy nhà ở gần đó cũng bị vạ lây. Cháy sạch cả rồi!

Lâm Bình Chi khổ sở vô cùng. Chàng tìm đến tiêu cục, quả nhiên chỉ thấy còn trơ nền đất trống, cột cháy đen sì, gạch ngói tan hoang. Chàng lặng người một lúc, nghĩ bụng: Việc này do bọn ác tặc phái Thanh Thành gây ra! Mối thù này mà không trả được thì ta không làm người nữa!

Chàng không thể nấn ná lại Nam Xương, bèn lập tức đi về hướng Tây.