Kim Dung được xem là tác giả tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng và thành công nhất tới thời điểm hiện tại. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể nhiều lần thành phim truyền hình và phim điện ảnh.
– Đệ tử săn sóc vết thương cho Lệnh Hồ đại ca, đỡ đại ca ngồi lên ghế. Lệnh Hồ đại ca thều thào nói: “Cảm phiền sư muội rót cho ta một bát rượu”. Đệ tử rót đầy bát rượu đưa cho đại ca. Bỗng nhiên dưới thang lầu nghe có tiếng bước chân, rồi hai người bước lên. Một người chính là hắn.
Nghi Lâm đưa tay chỉ vào cái xác La Nhân Kiệt, đệ tử của phái Thanh Thành rồi nói:
– Còn người kia cũng ác ôn như La Nhân Kiệt. Chúng nhìn đệ tử rồi nhìn Lệnh Hồ đại ca, rồi lại quay nhìn đệ tử; ánh mắt rất vô lễ.
Mọi người nghĩ tất nhiên bọn La Nhân Kiệt thấy người Lệnh Hồ Xung đầy máu và một tiểu ni cô dung mạo mỹ miều ngồi trên tửu lâu, mà tiểu ni cô lại rót rượu cho hắn uống, dĩ nhiên cho là chuyện kỳ cục, nên chúng nhìn một cách vô lễ cũng chẳng có gì là lạ.
Nghi Lâm kể tiếp:
– Lệnh Hồ đại ca liếc nhìn La Nhân Kiệt rồi hỏi: “Sư muội, sư muội có biết sở trường tối cao của phái Thanh Thành là công phu gì không?” Đệ tử đáp: “Tiểu muội không biết, nghe nói phái Thanh Thành có nhiều công phu cao minh”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Đúng vậy, công phu cao minh của phái Thanh Thành thì rất nhiều nhưng trong đó có một chiêu cao minh nhất, hà hà… Để khỏi tổn thương hòa khí, ta không thèm nói nữa”. Đại sư ca nói xong trợn mắt nhìn La Nhân Kiệt. La Nhân Kiệt sấn sổ tiến đến quát: “Cao minh nhất là cái gì? Ngươi nói thử xem?” Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Tại hạ vốn không muốn nói ra, nhưng các hạ nhất định muốn tại hạ phải nói. Đó là chiêu Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức”. La Nhân Kiệt giơ tay đập bàn quát: “Nói tầm bậy, cái gì là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức (Chổng đít ra sau, rơi như con nhạn bay xuống bãi cát)? Trước nay, ta chưa hề nghe”.
Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Đây là chiêu thức giữ nhà của quý phái, sao các hạ lại chưa nghe qua? Các hạ quay người lại, tại hạ diễn cho các hạ xem”. La Nhân Kiệt chửi vài câu, vung quyền đánh Lệnh Hồ đại ca. Lệnh Hồ đại ca muốn đứng dậy né tránh nhưng vì bị mất máu quá nhiều, một chút khí lực cũng không còn, toàn thân loạng choạng lập tức té ngồi xuống, bị hắn đánh cho một quyền trúng mũi, máu tươi chảy ra. La Nhân Kiệt định đánh quyền thứ hai thì đệ tử vội đưa tay ra cản, nói: “Đừng đánh nữa, người này đang bị trọng thương, các hạ không thấy sao? Các hạ ăn hiếp người đã bị thương thì đâu phải là anh hùng hảo hán?” La Nhân Kiệt chửi: “Tiểu ni cô thấy tiểu tặc này đẹp trai mà động lòng phàm tục ư? Mau tránh ra. Ngươi không tránh thì ta sẽ đánh cả ngươi luôn”. Đệ tử nói: “Ngươi mà dám đánh ta, ta sẽ thưa lên sư phụ của ngươi là Dư quán chủ cho coi”. Hắn nói: “Ha ha, ngươi không giữ thanh quy, đã phạm dâm giới thì người trong thiên hạ ai cũng đánh được”. Sư phụ, hắn nói như vậy thì chết đâu có oan uổng? Hắn giơ tay trái chụp lấy đệ tử, đệ tử đưa tay ra đỡ, không ngờ đây chỉ là hư chiêu. Bỗng nhiên, tay phải của hắn đưa ra véo lên má trái đệ tử một cái rồi còn cười một cách ma quái nữa. Đệ tử vừa tức giận vừa nôn nóng liền đánh ra ba chưởng nhưng hắn né tránh được hết.
Lệnh Hồ đại ca nói: “Sư muội, muội đừng động thủ , ta vận khí một chút nữa là được rồi”. Đệ tử quay đầu nhìn đại ca thấy khuôn mặt đại ca không chút máu. Lúc đó, La Nhân Kiệt chạy đến muốn đánh đại ca. Lệnh Hồ đại ca tay trái thủ chưởng, xoay người nửa vòng, phóng cước đá trúng… mông đít của hắn. Cước này vừa nhanh vừa chuẩn xác, tuyệt diệu vô cùng. La Nhân Kiệt đứng không vững bay nhào xuống lầu.
Lệnh Hồ đại ca nói khẽ: “Sư muội, đây chính là chiêu số cao minh nhất của phái Thanh Thành, được gọi là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức. Thí cổ hướng hậu là chuyên chổng đít ra sau còn bình sa lạc… lạc… nhạn thì tiểu sư muội nhìn thấy rồi đó, có giống không?” Đệ tử muốn bật cười, nhưng thấy sắc mặt của đại ca càng lúc càng tái đi, đệ tử rất đau lòng, bèn khuyên: “Đại ca nghỉ một chút đi, đừng nói nữa”. Đệ tử thấy các vết thương của đại ca rướm máu, hiển nhiên vừa rồi đã dùng quá sức đá một cước làm cho các miệng vết thương rách ra.
Gã La Nhân Kiệt sau khi bị rớt xuống lầu lập tức chạy lên lại, tay đã cầm thanh kiếm quát: “Ngươi là Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn phải không?” Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Cao thủ của quý phái đã được ta thi triển chiêu Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức đến các hạ đã là người thứ ba, đừng trách… đừng trách…” Đại ca nói tới đó thì ho lên sù sụ. Đệ tử sợ La Nhân Kiệt hại đại ca, bèn rút kiếm ra đứng bên cạnh bảo vệ.
La Nhân Kiệt nói với gã sư đệ: “Lê sư đệ, sư đệ đối phó với tiểu ni cô này”. Gã ác nhân họ Lê liền dạ, rồi rút trường kiếm tấn công đệ tử, đệ tử xuất chiêu để đỡ. La Nhân Kiệt vung kiếm lia lia nhắm Lệnh Hồ đại ca mà đâm. Lệnh Hồ đại ca gắng hết sức giơ kiếm lên đỡ chiêu kiếm của hắn, tình thế rất là nguy cấp. Vừa đánh được mấy chiêu, trường kiếm của Lệnh Hồ đại ca đã bị đánh rớt. La Nhân Kiệt phóng trường kiếm chỉ vào trước ngực của đại ca cười nói: “Ngươi gọi ta ba tiếng “Gia gia phái Thanh Thành” thì ta sẽ tha mạng cho”. Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Được, để ta gọi! Sau khi ta gọi rồi, ngươi có chịu truyền hay không truyền cho ta chiêu thức Thí cổ hướng hậu bình sa…” Đại ca chưa dứt lời, thì bị tên ác nhân La Nhân Kiệt phóng kiếm đâm mạnh vào ngực. Tên ác nhân này thật là độc ác.
Cô nói đến đây, những giọt nước mắt long lanh chảy dài trên má rồi rơi xuống. Cô nghẹn ngào kể tiếp:
– Đệ tử… đệ tử… đệ tử thấy tình cảnh như vậy, liền nhảy vào ngăn cản nhưng lưỡi kiếm của La Nhân Kiệt đã… đã đâm vào ngực của Lệnh Hồ đại ca rồi.
Tòa hoa sảnh yên tĩnh không một tiếng động.
Dư Thương Hải cảm giác có rất nhiều ánh mắt nhìn mình với vẻ phẫn nộ và khinh bỉ. Lão nói:
– Ngươi nói những lời đó chưa chắc đúng sự thật. Ngươi nói La Nhân Kiệt đã giết Lệnh Hồ Xung rồi thì tại sao La Nhân Kiệt lại chết dưới kiếm của hắn?
Nghi Lâm đáp:
– Sau khi Lệnh Hồ đại ca bị đâm, đại ca vẫn còn cười, nói khẽ với đệ tử: “Tiểu sư muội, ta… ta có một bí mật, nói cho muội nghe. Là Tịch tà… Tịch tà kiếm phổ của Phước… Phước Oai tiêu cục ở… ở…” Đại ca nói càng lúc càng nhỏ, đệ tử không nghe được gì, chỉ thấy miệng đại ca mấp máy…
Dư Thương Hải nghe cô ta nhắc đến Tịch tà kiếm phổ của Phước Oai tiêu cục thì bất giác tâm thần chấn động, không tự chủ được, vẻ mặt vô cùng hồi hộp, bèn hỏi:
– Ở chỗ…?
Lão muốn hỏi ở chỗ nào nhưng lập tức nghĩ lại câu hỏi này vạn lần không nên nói ra trước mặt mọi người nên ngừng lại ngay, nhưng trống ngực đập loạn xạ cả lên. Lão chỉ mong Nghi Lâm còn nhỏ không biết gì sẽ nói ra hết, nếu không sau sự việc này, Định Dật sư thái sẽ hỏi thêm cho tận tường, lão ni sẽ biết được tầm quan trọng của Tịch tà kiếm phổ, thì lão không còn cơ hội để nghe điều cơ mật này nữa.
Nghi Lâm kể tiếp:
– La Nhân Kiệt đối với kiếm phổ gì đó dường như vô cùng quan tâm, liền đi đến, cúi thấp người xuống để nghe cho rõ Lệnh Hồ đại ca nói kiếm phổ đó ở chỗ nào. Bỗng nhiên, Lệnh Hồ đại ca chụp thanh kiếm ở dưới sàn nhà lên đâm vào bụng dưới của La Nhân Kiệt. Tên ác nhân này ngẩng mặt lên trời rồi té nhào, tay chân co rút lại, không bò dậy nổi nữa. Hóa ra… hóa ra… sư phụ… Lệnh Hồ đại ca cố ý lừa hắn đến gần, giết hắn để báo thù.
Nghi Lâm kể xong câu chuyện, tinh thần không chịu đựng được nữa, toàn thân lảo đảo rồi ngất xỉu. Định Dật sư thái đưa cánh tay ôm lấy lưng cô rồi nhìn Dư Thương Hải với cặp mắt không chút thiện cảm.
Mọi người mặc nhiên không nói lời nào, tưởng tượng lại cuộc đấu kinh tâm động phách ở trên gác Hồi Nhạn lâu. Trong mắt của các cao thủ Thiên Môn đạo nhân, Lưu Chính Phong, Văn tiên sinh, Hà Tam Thất, võ công của Lệnh Hồ Xung và La Nhân Kiệt tất nhiên không có gì cao cường cả, nhưng trận ác đấu biến ảo thảm khốc như thế này thì chưa từng nghe thấy trên giang hồ. Câu chuyện này lại do chính miệng tiểu ni cô Nghi Lâm yêu kiều, ngây thơ kể lại, hiển nhiên không có chút gì giả dối cả.
Lưu Chính Phong nhìn gã đệ tử phái Thanh Thành họ Lê hỏi:
– Lê thế huynh, lúc đó thế huynh cũng ở hiện trường, có tận mắt nhìn thấy đúng như vậy không?
Gã họ Lê đệ tử phái Thanh Thành không trả lời, đưa mắt nhìn Dư Thương Hải. Mọi người thấy sắc mặt của gã thì biết ngay sự tình xảy ra đúng như vậy; nếu không, Nghi Lâm chỉ cần nói dối nửa câu là gã tất đã lên tiếng cãi lại.
Dư Thương Hải đưa mắt nhìn Lao Đức Nặc, sắc mặt lão xanh lè, lạnh lùng hỏi:
– Lao hiền điệt, phái Thanh Thành của ta đã làm gì đắc tội với quý phái mà lệnh sư huynh lại vô cớ sinh sự với đệ tử phái Thanh Thành?
Lao Đức Nặc lắc đầu đáp:
– Đệ tử không biết. Đó là Lệnh Hồ đại ca và La sư huynh của quý phái có xích mích vì chuyện riêng tư chứ chẳng liên can gì đến mối giao tình giữa hai phái Thanh Thành và Hoa Sơn cả.
Dư Thương Hải cười khẩy nói:
– Tuyệt đối không có liên can gì! Hiền điệt tưởng chối là xong…
Lão nói chưa dứt lời, bỗng nghe két một tiếng, cửa sổ phía Tây mở ra, một người bay vào. Mọi người trên hoa sảnh là cao thủ, ứng biến thần tốc, né ra hai bên để tránh. Ai cũng xuất quyền, vung chưởng tự hộ thân, còn chưa thấy rõ người bay vào là ai. Lại nghe két một tiếng, thêm một người bay vào n ữa. Hai người này ngã xuống đất, nằm dài bất động. Cả hai đều mặc trường bào màu xanh, màu áo của đệ tử phái Thanh Thành. Trên áo, chỗ ngang mông còn in rõ vết chân đầy bùn.
Bỗng nghe ở ngoài cửa có tiếng một người nào đó la lớn:
– Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức! Ha ha! Ha ha!
Dư Thương Hải lạng người một cái, song chưởng đánh ra, đồng thời người lão cũng lao theo thế chưởng luồn ra ngoài cửa sổ, tay trái vin vào cánh cửa sổ làm thế nhảy lên nóc nhà, chân trái vừa đặt trên mái ngói thì đôi mắt đã quan sát bốn phương. Nhưng lão chỉ thấy trời tối đen thăm thẳm, mưa lất phất rơi, không có một bóng người nào cả. Lão nghĩ bụng: Người này quyết không thể trong nháy mắt mà biến mất không để lại dấu vết. Nhất định hắn ẩn núp ở gần đâu đây thôi.
Lão biết người này là kình địch, liền giơ tay rút thanh trường kiếm, triển khai nội lực toàn thân, chạy khắp Lưu phủ một cách thần tốc dị thường.
Thiên Môn đạo nhân tự trọng thân phận của mình, vẫn ngồi bất động trên ghế; còn Định Dật sư thái, Hà Tam Thất, Văn tiên sinh, Lưu Chính Phong, Lao Đức Nặc và những người khác đều đã nhảy lên nóc nhà, chỉ thấy một đạo nhân thân người lùn tịt nhỏ bé, cầm kiếm chạy rất nhanh. Trong đêm tối mắt mọi người thấy ánh kiếm sáng loáng, tạo thành một luồng bạch quang huyền ảo bao quanh mười nóc nhà của Lưu phủ. Ai cũng ngấm ngầm khâm phục công phu khinh thân của Dư Thương Hải.
Dư Thương Hải tuy chạy rất nhanh nhưng bốn phía các nóc nhà của Lưu phủ từ tàn cây, bụi cỏ không chỗ nào có thể lọt qua mắt lão. Không thấy có bất cứ cái gì khác thường, lão lập tức nhảy xuống hoa sảnh, thấy hai tên đệ tử của mình vẫn nằm lăn dưới đất, trên mông của chúng vẫn còn in rõ dấu chân. Lão tưởng chừng như mọi đôi mắt của bọn hào sĩ giang hồ đang cười nhạo làm phái Thanh Thành mất hết thể diện.
Dư Thương Hải đưa tay lật một tên đệ tử lại, thấy đó là Thân Nhân Tuấn. Người kia không cần lật lại nhưng từ phía sau ót vẫn thấy được bộ râu quai nón thì lão biết ngay là Cát Nhân Thông, bạn rất thân của Thân Nhân Tuấn. Lão đưa tay giải khai huyệt đạo ở hai bên ngực của Thân Nhân Tuấn rồi hỏi:
– Ngươi bị ai đá vậy?
Thân Nhân Tuấn há miệng muốn nói nhưng nói không ra tiếng. Dư Thương Hải giật mình kinh hãi. Vừa rồi, hai cái điểm giải khai huyệt đạo của lão tưởng chỉ là rất nhẹ nhàng, không dùng sức nhiều nhưng kỳ thực lão đã vận dụng hết nội lực thượng thừa của phái Thanh Thành mà huyệt đạo Thân Nhân Tuấn vẫn không giải khai được. Lão ngấm ngầm vận nội công truyền hết nội lực vào huyệt Linh đài ở sau lưng Thân Nhân Tuấn. Một lúc lâu sau, Thân Nhân Tuấn mới ú ớ nói:
– Sư… sư phụ!
Dư Thương Hải không đáp, tiếp tục truyền thêm nội lực. Thân Nhân Tuấn nói:
– Đệ… đệ tử không thấy được đối thủ là ai.
Dư Thương Hải hỏi:
– Hắn hạ thủ ở đâu?
Thân Nhân Tuấn đáp:
– Đệ tử và Cát sư đệ cùng đi ra ngoài chơi, bỗng dưng đệ tử cảm thấy sau lưng tê nhức thì mới biết đã bị tên rùa đen chó má nào đó hạ thủ.
Dư Thương Hải trầm nét mặt nói:
– Người ta là cao thủ võ lâm, không nên hồ đồ mà chửi bới.
Thân Nhân Tuấn đáp:
– Dạ!
Dư Thương Hải nhất thời không hiểu được đối phương gốc gác thế nào, lão ngẩng lên chỉ thấy Thiên Môn đạo nhân mặt lạnh như gỗ đá, đối với chuyện này dường như hoàn toàn chẳng quan tâm.
Lão nghĩ thầm: Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi, Nhân Kiệt đã giết Lệnh Hồ Xung rồi. Xem ra lão Thiên Môn này sắp cự nự ta đây.
Bỗng nhiên lão nghĩ ra: Có lẽ người hạ thủ đang ở trong đại sảnh.
Lão lập tức vẫy Thân Nhân Tuấn, chạy nhanh vào đại sảnh.
Mọi người trên sảnh đang xôn xao bàn tán, phỏng đoán ai đã hạ độc thủ gây ra cái chết bất đắc kỳ tử cho một đệ tử phái Thái Sơn, một đệ tử phái Thanh Thành. Bỗng nhiên thấy Dư Thương Hải tiến vào, có người nhận ra lão là chưởng môn phái Thanh Thành, có người không nhận ra, thấy tướng lão không quá năm thước, nhưng lại có khí phách của bậc tôn sư võ học. Lão không giận nhưng tướng mạo, cử chỉ vẫn rất oai nghiêm, nên tất cả đều im lặng.
Dư Thương Hải đảo mắt nhìn mặt từng người. Mọi người trong sảnh đều là nhân vật hạng nhì trong võ lâm, tuy lão không nhận ra nhiều nhưng nhìn vào sắc phục của từng người thì mười phần cũng đoán được tám chín họ thuộc môn phái nào. Lão đoán trong các đệ tử đời thứ hai của bất cứ môn phái nào cũng không thể có hảo thủ có nội lực thâm hậu như vậy, người này nếu ở trong đại sảnh tất nhiên phải khác hẳn mọi người. Lão nhìn từng người, từng người một rồi đột nhiên ánh mắt sắc bén như dao của lão dừng lại ở một người.
Người này hình dáng cực kỳ dị hợm, da thịt trên mặt co rúm lại, cái lưng gù lên. Hóa ra đó là một người gù.
Dư Thương Hải bỗng nhớ đến một người, bất giác sợ hãi, nghĩ thầm:
– Chẳng lẽ là hắn? Nghe nói Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong ở nơi giá lạnh, không bao giờ vào Trung Nguyên và không hề có giao tình gì với Ngũ Nhạc kiếm phái, sao lại đến tham dự lễ rửa tay gác kiếm của Lưu Chính Phong? Nếu không phải là hắn thì trong võ lâm đâu có người thứ hai đã gù lưng mà tướng mạo lại xấu xí như vậy?
Mọi người trong đại sảnh theo hướng của Dư Thương Hải cùng nhìn thẳng về phía gã lưng gù. Có mấy vị tiền bối hiểu chuyện xưa trong võ lâm đều không khỏi kinh ngạc ồ lên một tiếng. Lưu Chính Phong vội đi đến, vái dài một cái rồi nói:
– Không biết tôn giá quang lâm nên không kịp nghinh tiếp. Thật là đắc tội!
Kỳ thực người lưng gù đó nào có muốn trở thành dị nhân trong võ lâm gì đâu! Chàng chính là Lâm Bình Chi, thiếu tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục. Chàng rất sợ bị người khác nhận ra mình nên vẫn cúi đầu thấp xuống ngồi co rút trong góc đại sảnh, nếu không phải là Dư Thương Hải nhận ra tướng mạo kỳ dị của chàng thì sẽ không ai thèm chú ý đến chàng. Lúc này bỗng nhiên mọi người đưa mắt nhìn chằm chằm vào chàng. Lâm Bình Chi lúng túng, vội vàng đứng dậy đáp lễ Lưu Chính Phong, nói:
– Không dám, không dám!
Lưu Chính Phong biết Mộc Cao Phong là cao thủ người phương Bắc, nhưng trước mặt lão, người này lại nói khẩu âm phương Nam, tuổi tác thua kém rất xa nên lão không thể không hoài nghi. Nhưng biết Mộc Cao Phong hành sự xuất quỷ nhập thần, không thể phỏng đoán theo lẽ thường tình được nên lão vẫn cung kính nói:
– Tại hạ Lưu Chính Phong, không dám thỉnh giáo cao danh quý tính của các hạ…
Lâm Bình Chi không ngờ rằng có người lại hỏi đến họ tên mình, chàng ấp úng, nhất thời không đáp. Lưu Chính Phong nói:
– Các hạ cùng với Mộc đại hiệp…
Lâm Bình Chi nhạy cảm, nghĩ ra: Mình họ Lâm, tách chữ Lâm ra chỉ dùng một nửa thì xưng đại họ Mộc cũng được.
Chàng bèn buột miệng nói:
– Tại hạ họ Mộc…
Lưu Chính Phong nói:
– Mộc tiên sinh quang lâm Hành Sơn, thật là hân hạnh cho Lưu mỗ. Không biết các hạ với Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp xưng hô ra sao?
Lão thấy Lâm Bình Chi tuổi còn rất trẻ, đồng thời trên mặt lại dán mấy miếng thuốc cao, hiển nhiên là cố ý che giấu diện mạo, quyết không phải là Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong đã nổi danh mấy chục năm.
Lâm Bình Chi trước giờ chưa nghe đến mấy chữ “Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp”, chỉ nghe giọng nói của Lưu Chính Phong đối với người họ Mộc này rất tôn kính. Nhưng Dư Thương Hải đang đứng bên cạnh nhìn chàng với cái nhìn không thiện cảm nên chàng không thể để lộ tung tích, nếu để lộ thì lập tức toi mạng dưới chưởng của lão ngay. Tình thế rất cấp bách chàng đành phải thuận miệng nói qua loa cho xong:
– Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp ư? Đó là… đó là trưởng bối của tại hạ.
Chàng nghĩ người đó được gọi là “đại hiệp”, đương nhiên có thể gọi là “trưởng bối”.
Dư Thương Hải nhìn thấy trong sảnh đường không có người nào dị dạng như vậy, thì lão đoán ngay đệ tử Thân Nhân Tuấn và Cát Nhân Thông nhất định là bị người này ra tay hạ nhục. Nếu Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong thân hành đến đây thì lão cũng có chút kiêng dè, sợ sệt; gã này chẳng qua chỉ là con cháu của Mộc Cao Phong nên lão cũng không để tâm làm gì. Nhưng vì hắn muốn đến đây sinh sự với phái Thanh Thành, thì lão làm sao có thể nuốt được nỗi căm tức này?
Lão lạnh lùng hỏi:
– Phái Thanh Thành và Tái Bắc Mộc tiên sinh không có liên quan gì với nhau, không hiểu có chỗ nào đắc tội với các hạ?
Lâm Bình Chi và đạo nhân thấp lùn đứng đối diện với nhau. Chàng nghĩ những ngày qua, tiêu cục bị tàn phá, nhà tan cửa nát, phụ mẫu bị giam cầm đến nay không biết sống chết ra sao, tất cả đều do tên đạo nhân nhỏ con, lùn tịt này gây ra. Tuy biết võ công của lão cao hơn mình gấp trăm lần, nhưng bầu nhiệt huyết trong lòng sục sôi, chàng chỉ muốn rút kiếm đâm lão. Mấy ngày nay trải qua nhiều ưu phiền, lo lắng, chàng đã không còn tìm lại được những ngày niên thiếu quần lụa áo là đi săn, đá gà như hồi ở Phúc Châu nữa. Chàng nén lửa giận đang bốc lên, nói:
– Phái Thanh Thành đã làm nhiều việc tốt đẹp quá! Trên đường, Mộc đại hiệp thấy chuyện bất bình, đã ra tay. Lão nhân gia đạo cả lòng thành ra tay dẹp bọn hung tàn và giúp đỡ người yếu đuối, hà tất các hạ phải quan tâm chuyện đắc tội hay không đắc tội với lão nhân gia?
Lưu Chính Phong nghe qua, lòng không khỏi cười thầm. Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong võ công tuy cao cường nhưng nhân phẩm lại đê hèn; ba chữ “Mộc đại hiệp” chỉ vì tiện miệng gọi ra mà thôi, chứ nếu lấy con người Mộc Cao Phong ra mà luận bàn thì đừng nói đến hai chữ “đại hiệp” mà ngay chỉ một chữ “hiệp” cũng không xứng. Tính lão ưa xu phụ quyền thế, không có tín nghĩa, chỉ vì võ công của lão cao cường, người lại linh mẫn, nếu gây hấn kết thù với lão thì không biết đâu mà đề phòng. Đối với lão người trong võ lâm thường úy kỵ và muốn lánh xa, không ai có ý tôn kính lão thật sự cả.
Lưu Chính Phong nghe Lâm Bình Chi nói như vậy thì tin rằng chàng là tử điệt của Mộc Cao Phong. Lão sợ Dư Thương Hải ra tay làm tổn thương chàng gù nên lập tức cười nói:
– Dư quán chủ, Mộc huynh! Hai vị đã đến tệ xá thì đều là khách quý của tại hạ, vậy xin hai vị hãy vì Lưu mỗ cùng uống chén rượu trong hòa khí. Người đâu, mang rượu ra đây!
Bọn gia đinh dạ ran, rót rượu đem đến.
Dư Thương Hải đối với gã thanh niên lưng gù trước mặt tuy không rời khỏi mắt, nhưng lão nghĩ đến tiếng đồn nghe đầy cả hai tai về thành tích vô lại của Mộc Cao Phong trên giang hồ nên không dám mạo muội trở mặt. Thấy gia đinh của Lưu phủ rót rượu mang đến, lão không đưa tay tiếp rượu, muốn xem hành động của đối phương ra sao.
Lâm Bình Chi vừa giận vừa sợ, nhưng mối căm hận vẫn nhiều hơn. Chàng nghĩ thầm: Không chừng giờ phút này gia gia và má má của mình đã bị tên đạo nhân lùn tịt này hạ độc thủ rồi. Mình dù có thể bị lão cho một chưởng chết ngay ở đương trường cũng quyết không cùng uống chén rượu với lão.
Ánh mắt chàng bốc lên lửa giận ngùn ngụt. Chàng trừng mắt nhìn Dư Thương Hải, không thèm đưa tay tiếp ly rượu. Chàng còn muốn nhục mạ lão mấy câu nhưng lại sợ uy thế của lão nên không dám chửi ra thành lời.
Dư Thương Hải thấy Lâm Bình Chi đối với mình đầy ý thù địch, lửa giận cũng bốc lên ngùn ngụt. Lão bèn đưa tay ra thi triển cầm nã thủ pháp, nắm chặt cổ tay của Lâm Bình Chi rồi nói:
– Được. Hay lắm, hay lắm! Theo thông lệ trước mặt Lưu tam gia, không ai được vô lễ ở Lưu phủ. Mộc huynh đệ, chúng ta hãy thân cận với nhau đi.
Lâm Bình Chi dùng hết sức cựa quậy nhưng không thể rút tay ra được, chỉ nghe lão nói đến chữ “cận” thì cảm thấy đau buốt cổ tay, xương cổ tay kêu rắc rắc, dường như bị lão bẻ gãy rồi. Dư Thương Hải ngưng lại, đợi cho Lâm Bình Chi lên tiếng xin tha. Nào ngờ đối với lão Lâm Bình Chi có mối thâm thù đại hận, tuy xương cổ tay đau buốt nhưng chàng vẫn không rên lên một tiếng.
Lưu Chính Phong đứng bên cạnh thấy những giọt mồ hôi to như hạt đậu đổ ra trên trán chàng nhưng thần sắc chàng vẫn rất ngạo nghễ, không tỏ ra khuất phục tí nào. Đối với người thanh niên kiên cường này, lão không khỏi có phần khâm phục, bèn nói:
– Dư quán chủ!
Lão đang tìm lời để giải hòa đôi bên, bỗng nghe có tiếng người thét lên rất chói tai:
– Dư quán chủ, sao Dư quán chủ cao hứng mà đi bắt nạt tôn tử của Mộc Cao Phong này vậy?
Mọi người cùng quay đầu nhìn lại thì thấy ở cửa đại sảnh có một lão già lưng gù béo phị đứng đó, mặt đầy lang ben trắng bệch lấm chấm xen lẫn những cục u đen, lại thêm cái lưng gù cao lên trông thật cổ quái và cực kỳ xấu xí. Đa số người trên sảnh chưa thấy qua chân tướng thật của Mộc Cao Phong, nay nghe lão tự xưng tên họ mình, lại thấy tướng mạo cổ quái của lão, bất giác ai cũng biến sắc mặt.
Lão gù mập ú nặng nề nhưng hành động cực kỳ mau lẹ. Chỉ trong nháy mắt, mọi người đã thấy lão đứng bên cạnh Lâm Bình Chi vỗ vai chàng rồi nói:
– Hảo tôn tử! Thừa tôn nhi! Ngươi ca ngợi gia gia nào là hành hiệp trượng nghĩa, đánh dẹp lũ cường hung, giúp đỡ người yếu hèn khiến gia gia nghe sướng hai lỗ tai lắm!
Lão nói xong lại vỗ nhẹ vào vai chàng.
Khi lão vỗ cái thứ nhất, Lâm Bình Chi cảm thấy toàn thân bị chấn động. Cánh tay của Dư Thương Hải cũng nóng lên, suýt nữa phải buông ra, nhưng lập tức lão vận công lực nắm chặt lại. Một cái vỗ của Mộc Cao Phong không làm cho năm ngón tay của Dư Thương Hải buông ra; lão vừa nói với Lâm Bình Chi vừa ngấm ngầm vận nội công. Lúc lão vỗ cái thứ hai lên vai chàng, lão đã sử dụng hết mười thành công lực. Lâm Bình Chi thấy trước mặt chợt tối đen, cổ họng muốn phát nôn, máu tươi chỉ chực trào ra miệng. Chàng ngậm lại, ực một tiếng nuốt ngược vào trong bụng.
Hổ khẩu của Dư Thương Hải muốn rách, không nắm được nữa đành phải buông tay Lâm Bình Chi ra, lùi lại một bước. Lão nghĩ bụng: Thủ đoạn lão lưng gù này thật lợi hại, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão vì muốn ta phải buông tay ra mà lại làm cho cháu lão phải bị nội thương.
Lâm Bình Chi dùng hết sức cười lên ha hả, nhìn Dư Thương Hải nói:
– Dư quán chủ, võ công của phái Thanh Thành lão chẳng qua cũng chỉ tầm thường vậy thôi, so với Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp thì còn kém xa lắm. Tại hạ thấy quán chủ nên quy đầu làm môn hạ của Mộc đại hiệp, xin lão gia chỉ điểm cho mấy chiêu, cũng có thể… cũng có thể… có một chút tiến… tiến…
Người chàng bị nội thương, lúc nói một hơi dài như vậy thì tinh thần lại quá kích động nên cảm thấy lục phủ ngũ tạng dường như đảo lộn cả lên. Chàng cố nói cho hết lời nhưng không còn chút khí lực, người lảo đảo muốn té.
Dư Thương Hải nói:
– Được, ngươi bảo tại hạ quy đầu làm môn hạ của Mộc tiên sinh để học thêm một ít bản lĩnh, đó chính là điều mà Dư Thương Hải này có muốn cũng không được. Ngươi là môn hạ của Mộc tiên sinh, bản lĩnh nhất định rất cao thâm. Tại hạ xin muốn được lĩnh giáo.
Lão chỉ muốn khiêu chiến với Lâm Bình Chi nhưng lại muốn Mộc Cao Phong tụ thủ bàng quan, không được tham dự vào.
Mộc Cao Phong lùi về sau hai bước, cười nói:
– Tiểu tôn tử, ta chỉ sợ ngươi luyện tập chưa đạt đến thượng thừa, không phải là đối thủ của chưởng môn phái Thanh Thành. Ngươi mà tỷ đấu với lão tất sẽ bị uổng mạng, gia gia khó mà có được một hảo tôn tử vừa gù lưng vừa tuấn tú như vậy nên không đành để ngươi bị sát hại được. Nếu ngươi quỳ xuống dập đầu lạy gia gia, xin gia gia thay thế ngươi ra tay, thì gia gia làm ngay.
Lâm Bình Chi liếc Dư Thương Hải rồi nghĩ bụng: Nếu ta mạo muội tiến ra động thủ với lão họ Dư trong lúc lão đang nổi cơn tức giận thì chỉ cần một chiêu của lão là ta đã toi mạng rồi. Tính mạng không còn thì còn nói gì đến chuyện báo thù cho gia nương? Nhưng Lâm Bình Chi ta đường đường là đấng nam tử, sao có thể vô duyên vô cớ đi gọi lão lưng gù này là gia gia? Nếu ta quỳ trước mặt lão thì phải nương nhờ vào nhà Tái Bắc minh đà không thể tự lập được nữa.
Nhất thời tâm thần bất định, toàn thân chàng phát run, phải đưa tay chống vào chiếc bàn.
Dư Thương Hải nói:
– Ta xem ngươi chẳng ra làm sao cả! Nếu muốn nhờ người thay thế ngươi ra tay thì phải dập đầu lạy mấy câu, có gì nhục nhã đâu?
Lão đã phát hiện giữa Lâm Bình Chi và Mộc Cao Phong có mối quan hệ khác thường, rõ ràng là Mộc Cao Phong không phải là gia gia của chàng thật, nếu không thì tại sao nãy giờ Lâm Bình Chi chỉ xưng lão là “tiền bối” mà không gọi một tiếng “gia gia” nào cả? Mộc Cao Phong sẽ không bảo tôn nhi của mình dập đầu lạy, lão dường như nói vậy chỉ để khiêu khích, muốn Lâm Bình Chi nhịn không được mà tự mình ra tay, để tiện cho lão có thời gian trốn thoát.
Lâm Bình Chi chuyển đổi ý nghĩ rất nhanh. Chàng nghĩ trong những ngày vừa qua, Phước Oai tiêu cục đã bị phái Thanh Thành ức hiếp quá rồi, phải chịu biết bao sỉ nhục, trong đầu chàng chồng chất rất nhiều ưu tư. Chàng nghĩ thầm: Bậc đại trượng phu việc nhỏ không nhịn được thì sẽ hỏng việc lớn. Để ngày sau có thể mở mày mở mặt thì hôm nay phải chịu một chút nhục nhã cũng chẳng sao.
Chàng lập tức quay người lại, quỳ gối hướng về Mộc Cao Phong liên tiếp dập đầu lạy và nói:
– Gia gia, lão Dư Thương Hải này lạm sát người vô tội, cướp đoạt tài vật, trong võ lâm ai ai cũng muốn giết lão, xin gia gia chủ trì công đạo, vì đại nghĩa giang hồ mà trừ mối đại họa này.
Mộc Cao Phong và Dư Thương Hải không ngờ chàng làm vậy. Việc ấy vượt quá sự liệu định của cả hai lão. Gã thanh niên lưng gù này vừa rồi bị Dư Thương Hải nắm chặt cổ tay, dùng nội lực cưỡng bức, nhưng vẫn cứng cỏi bất khuất, có thể thấy rằng chàng rất có khí phách. Nào ngờ trước chỗ đông người như thế này chàng lại dập đầu van xin. Quần hào đều tưởng gã thanh niên lưng gù này là cháu của Mộc Cao Phong, nếu không phải là con cháu thân thích thì cũng là đồ tôn, điệt tôn. Chỉ có Mộc Cao Phong mới biết gã thanh niên này với mình tuyệt nhiên không có chút quan hệ gì; còn Dư Thương Hải tuy đã khám phá ra được phần nào chỗ sơ hở nhưng không đoán được mối quan hệ thật giữa hai người. Lão chỉ biết Lâm Bình Chi bái Mộc Cao Phong hai tiếng gia gia là rất miễn cưỡng, chắc vì chàng tham sống sợ chết mà phải gọi như vậy.
Mộc Cao Phong cười ha hả rồi nói:
– Hảo tôn nhi! Thừa tôn nhi! Thế nào, chúng ta chơi thử một cuộc được chăng?
Miệng lão tán tụng Lâm Bình Chi mà mặt lại hướng về phía Dư Thương Hải; mấy chữ “Hảo tôn nhi, Thừa tôn nhi” dường như là để đùa cợt Dư Thương Hải.
Dư Thương Hải phẫn nộ vô cùng, nhưng lão biết cuộc chiến hôm nay không những liên hệ đến sự sinh tử, tồn vong của mình mà còn liên quan lớn đến sự hưng suy, vinh nhục của phái Thanh Thành. Lão lập tức ngấm ngầm định thần chuẩn bị, cười khẩy nói:
– Mộc tiên sinh có ý muốn phô trương huyền quang công phu tuyệt thế trước mặt các vị bằng hữu khiến cho chúng ta mở rộng thêm tầm mắt thì bần đạo xin được liều mạng để bồi tiếp quân tử.
Vừa rồi, hai cái vỗ của Mộc Cao Phong đã khiến lão bị chấn động cánh tay, Dư Thương Hải biết nội công của lão gù rất thâm hậu, nội lực của lão mười phần bá đạo. Bây giờ, lão trực diện đánh nhau, nhất định sẽ mạnh như sấm sét, như dời non lấp biển. Lão nghĩ thầm: Từ trước đến nay, ta nghe nói lão lưng gù này mười phần tự phụ, nhất thời lão không thắng nổi ta, tất sẽ đi đến chỗ tâm thần phù động, sẽ vận chân khí táo bạo để tấn công. Trong một trăm chiêu đầu, ta chỉ nên thủ chớ không công, giữ cái thế không phân thắng bại. Đợi đến một trăm chiêu sau, ta sẽ có cách tìm chỗ sơ hở của lão để thủ thắng.
Ngược lại, Mộc Cao Phong thấy thân hình lão đạo nhân thấp lùn này giống như một hài đồng, lấy tay nhấc lên chỉ sợ chưa được tám mươi cân, nhưng lão đứng thủ thế vững vàng tự tin, có cái phong độ của một tôn sư đại phái, hiển nhiên nội công rất thâm hậu. Lão nghĩ bụng: Lão tiểu đạo sĩ này quả nhiên có một chút tà môn. Nhưng phái Thanh Thành đời nào cũng có danh thủ , lão mũi trâu này làm chưởng môn, quyết không phải là hạng tầm thường. Lão gù ta hôm nay nếu không thể lật thuyền trong ngòi lạch được thì thanh danh một đời sẽ trôi theo dòng nước.
Lão đăm đăm nhìn Dư Thương Hải, nhất thời chưa dám mạo muội xuất chiêu.
Giữa lúc Mộc Cao Phong và Dư Thương Hải đang thủ thế chờ cơ hội xuất chiêu, bỗng nghe tiếng kêu la, hai người từ phía sau vọt ra nghe đánh phịch một cái, rơi xuống nằm sấp dưới đất không nhúc nhích. Hai người này mặc trường bào màu xanh, chỗ mông đít còn in dấu chân đá. Bỗng nghe giọng nói trong trẻo của một cô gái nhỏ tuổi nói:
– Đây là bản lĩnh giữ nhà của phái Thanh Thành gọi là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức!
Dư Thương Hải cả giận, vội quay người lại, không kịp nhìn xem rõ là ai, bèn nhảy vọt về phía phát ra tiếng nói. Chỉ thấy một ti ểu cô nương mặc áo màu lục đứng bên bức mành sáo. Lão đưa tay nắm chặt cổ tay của cô. Cô kêu to hai tiếng má ơi rồi khóc òa lên. Dư Thương Hải giật mình sợ hãi. Lão tưởng cô ta nói ra những lời vũ nhục, trong lúc tức giận như điên không kịp suy nghĩ, liền nhận định hai tên đệ tử phái Thanh Thành bị đá nhất định có liên quan đến cô. Lão sử dụng luồng lực đạo rất mạnh nắm chặt tay cô. Khi nghe cô khóc la lên, mới hiểu ra người này chẳng qua chỉ là một tiểu cô nương, lão xử sự với cô nặng tay như vậy thì trước mặt anh hùng thiên hạ đã tự mình làm tổn thất thân phận chưởng môn của phái Thanh Thành rồi. Lão vội vàng buông tay cô ra, nào ngờ tiểu cô nương càng khóc to hơn. Cô vừa khóc vừa la:
– Lão làm gãy xương ta rồi! Má ơi! Hài nhi bị gãy tay rồi! Hu hu, đau quá, đau quá! Hu hu!
Chưởng môn phái Thanh Thành đã kinh qua trăm trận, ứng phó với vô vàn phong ba bão táp, nhưng bây giờ lại vô cùng bối rối trước một tình huống xưa nay chưa bao giờ xảy ra. Hàng trăm con mắt đang đăm đăm nhìn vào mặt lão lộ vẻ trách móc khinh bỉ. Bất giác mặt lão đỏ lên, chân tay luống cuống. Lão dỗ dành cô bé:
– Đừng khóc, đừng khóc nữa! Không gãy tay đâu! Không gãy tay đâu!
Tiểu cô nương vừa khóc vừa nói:
– Đã gãy rồi. Lão ăn hiếp người ta, người lớn mà ăn hiếp con nít xem đẹp mặt chưa! Đau quá, hu hu hu!
Mọi người thấy tiểu cô nương này chừng mười ba, mười bốn tuổi, mặc áo màu lục, da trắng nõn nà như tuyết, gương mặt trái xoan thanh tú trông rất dễ thương nên ai cũng có ý thương mến.
Có mấy người thô lỗ ngoác miệng chửi:
– Trói lão mũi trâu lại!
– Đánh chết đạo sĩ lùn beo đó đi!
Dư Thương Hải cuống quýt lên, biết mình phạm lỗi làm cho mọi người tức giận, không dám mở miệng chửi lại. Lão khẽ nói:
– Tiểu muội muội đừng khóc nữa! Cho ta xin lỗi, cho ta xem cánh tay của tiểu muội có bị thương không?
Lão nói xong liền vén tay áo cô bé lên. Cô bé không chịu, la lớn:
– Không, không, đừng đụng đến ta! Má má, má má, lão đạo sĩ thấp lùn này đánh gãy cánh tay của hài nhi rồi.
Dư Thương Hải đang lúc không biết phải làm sao thì trong đám đông một gã hán tử áo xanh chạy ra. Người đó chính là Phương Nhân Trí, con người cơ trí nhất của phái Thanh Thành. Gã nhìn cô bé rồi nói:
– Tiểu cô nương thật giỏi đóng kịch, tay của sư phụ ta không động đến tay áo của cô thì làm sao có thể đánh gãy cánh tay của cô được?
Tiểu cô nương la lên:
– Má má, lại có người nữa đến đánh hài nhi kìa!
Định Dật sư thái đứng bên thấy vậy cả giận, bước đến giơ tay tát vào mặt Phương Nhân Trí một cái bốp rồi quát:
– Người lớn ăn hiếp con nít mà không biết nhục ư?
Phương Nhân Trí giơ cánh tay muốn gạt nhưng tay phải của Định Dật rất nhanh nắm được tay của gã, rồi tay trái bẻ chặt cổ tay vào cánh tay. Lão ni chỉ cần vận sức thêm một chút nữa thì xương tay của Phương Nhân Trí sẽ bị gãy từng đoạn. Dư Thương Hải phóng ngón tay vào sau lưng Định Dật định điểm huyệt. Định Dật đành phải buông Phương Nhân Trí, xoay tay lại xuất chưởng chống đỡ. Dư Thương Hải không muốn đánh nhau với lão ni, bèn nói:
– Tại hạ xin lỗi!
Rồi lão nhảy lùi lại hai bước.
Định Dật cầm tay tiểu cô nương, ôn hòa nói:
– Hảo hài tử, hài tử đau ở đâu? Để ta xem rồi ta trị thương cho.
Lão ni sờ nắn cánh tay của tiểu cô nương, thấy không bị gãy, cũng yên tâm. Lão ni vén tay áo của cô bé lên thì thấy trên cánh tay trắng nõn nà như tuyết còn in rõ bốn dấu ngón tay xanh lè. Định Dật cả giận nhìn Phương Nhân Trí quát:
– Tiểu tử nói láo! Sư phụ của ngươi không đụng đến cánh tay của cô bé thì dấu bốn ngón tay này là do ai nắm vào đây?
Tiểu cô nương nói:
– Là con rùa đen nắm, là con rùa đen nắm!
Cô vừa nói vừa chỉ vào sau lưng Dư Thương Hải.
Bỗng nhiên, mọi người cười ầm cả lên; có người cười đến nỗi nước trà trong miệng văng tung tóe, có người cười bò lăn bò càng. Trong đại sảnh chỗ nào cũng có tiếng cười rần rần.
Dư Thương Hải không biết mọi người cười cái gì, bụng nghĩ tiểu cô nương này chửi mình là con rùa đen, nhưng chẳng qua là hài tử bị đau đớn nên tiện miệng thốt ra, có gì đáng cười đâu.
Nhưng lão thấy ai cũng nhìn mình mà cười thì luống cuống cả lên, xấu hổ vô cùng. Phương Nhân Trí nhảy ra, chạy đến sau lưng Dư Thương Hải, lấy ra một mảnh giấy từ trên áo của lão rồi vo tròn lại.
Dư Thương Hải tiếp lấy mở ra xem, thấy mảnh giấy vẽ một con rùa đen to, chắc là do cô bé đã dán sau lưng mình. Dư Thương Hải tức giận, nghĩ bụng: Con rùa đen này đã được vẽ từ trước rồi, nhưng người khác quyết không thể dán vào lưng mình được. Nhất định là con bé to mồ m này nhân lúc ta bối rối liền dán lên. Như vậy hẳn là trong bóng tối có người lớn chỉ dẫn cho nó rồi.
Lão đưa mắt nhìn Lưu Chính Phong một cái rồi nghĩ bụng: Con bé này chính là người của Lưu gia. Thì ra Lưu Chính Phong ngấm ngầm giở trò ma với ta.
Lưu Chính Phong bị lão liếc nhìn như vậy, lập tức hiểu ra ngay, biết lão có ý nghi ngờ mình. Lão liền tiến lên một bước, nhìn cô bé hỏi:
– Tiểu muội muội, tiểu muội muội là hài tử của nhà ai? Gia gia và má má của tiểu muội muội đâu?
Lão hỏi hai câu này, một là biểu thị lời thanh minh với Dư Thương Hải, hai là chính lão cũng hoài nghi, muốn biết tiểu cô nương này là do người nào dẫn tới.
Tiểu cô nương đáp:
– Gia gia, má má của tiểu nữ có việc đi rồi, bảo tiểu nữ ngồi ở đây cho ngoan đừng có đi lung tung và nói chút xíu nữa sẽ được coi hý kịch: sẽ có hai người bay đi nằm im không nhúc nhích, đó là bản lĩnh giữ nhà của phái Thanh Thành, gọi cái gì gì là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức. Quả nhiên kịch rất hay!
Cô nói xong liền vỗ tay. Những giọt nước mắt long lanh trên má cô vẫn còn nguyên, chưa kịp lau thì đã cười lên giòn giã.
Mọi người thấy vậy đều mừng thầm, biết rằng đó là lời xỉa xói phái Thanh Thành. Trước mắt, hai tên đệ tử củ a phái Thanh Thành vẫn còn nằm bất động, đít chổng lên trời, mông đít vẫn còn in rõ vết chân, là nỗi xấu hổ lớn nhất của phái Thanh Thành.
Dư Thương Hải giơ tay vỗ lên người đệ tử, mới phát hiện cả hai đều bị điểm huyệt đạo, cũng giống như Thân Nhân Tuấn và Cát Nhân Thông. Nếu lão vận nội lực giải khai huyệt đạo thì nhất thời bị tiêu hao công lực, không những Mộc Cao Phong đang đứng bên cạnh nhìn gườm gườm như con cọp đang rình mồi mà sẽ còn có kẻ khác ngấm ngầm tìm cách đối đầu với lão nữa. Lúc này, lão không thể giải huyệt đạo cho đệ tử để khỏi hao tổn nội công. Lão nói khẽ với Phương Nhân Trí:
– Khiêng chúng đi đi.
Phương Nhân Trí vẫy tay cho các đồng môn. Mấy tên đệ tử Thanh Thành chạy đến khiêng hai đồng môn ra khỏi sảnh.
Tiểu cô nương bỗng nhiên la lên:
– Người của phái Thanh Thành thật là đông! Một người “bình sa lạc nhạn” thì có hai người khiêng; hai người “bình sa lạc nhạn” thì có bốn người khiêng!
Dư Thương Hải sắc mặt xanh lè, nhìn tiểu cô nương hỏi:
– Gia gia của tiểu cô nương họ gì? Những câu nói vừa rồi phải chăng là gia gia dạy cho?
Lão nghĩ hai câu nói của cô bé này rất là châm chọc, nếu không phải người lớn dạy cho thì cô bé nhỏ tuổi thế này quyết sẽ không biết nói như vậy. Lão lại nghĩ: Cái gì là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn th ức? Chính là do thằng nhóc bịp bợm Lệnh Hồ Xung đặt ra. Chắc có lẽ phái Hoa Sơn không nhịn được việc Lệnh H ồ Xung bị La Nhân Kiệt giết nên tìm cách đả thương người của phái Thanh Thành ta. Người điểm huyệt này võ công rất cao cường, chẳng lẽ… chẳng lẽ… chưởng môn Nhạc Bất Quần đã ngấm ngầm giở trò ma quỷ?
Lão nghĩ đến việc Nhạc Bất Quần ngấm ngầm ám hại mình; người này không những võ công rất thâm hậu mà còn liên minh với Ngũ Nhạc kiếm phái, nếu hôm nay cùng động thủ với lão, nhất định phái Thanh Thành sẽ thất bại ê chề. Nghĩ tới đó, thần sắc lão biến đổi thấy rõ.
Trả lời câu hỏi của lão, tiểu cô nương cười nói:
– Một lần hai là hai, hai lần hai là bốn, hai lần ba là sáu, hai lần bốn là tám, hai lần năm là mười… Cô đọc thuộc lòng bảng cửu chương từ một đến chín.
Dư Thương Hải hỏi:
– Ta hỏi tiểu cô nương đó!
Giọng lão rất nghiêm khắc. Tiểu cô nương há miệng khóc òa rồi úp mặt vào lòng Định Dật sư thái.
Định Dật vỗ nhè nhẹ vào lưng an ủi cô bé:
– Đừng sợ, đừng sợ! Hảo hài tử đừng sợ!
Nói xong lão ni quay qua nhìn Dư Thương Hải nói:
– Các hạ làm bộ hung tợn như vậy để hù dọa con nít ư?
Dư Thương Hải hứ lên một tiếng, nghĩ bụng: Ngũ Nhạc kiếm phái hôm nay có thể đụng độ với phái Thanh Thành ta, cho nên ta phải thận trọng.
Tiểu cô nương từ trong lòng Định Dật thò đầu ra nói:
– Lão sư thái, hai lần hai là bốn, hai người phái Thanh Thành “Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn” có bốn người khiêng; hai lần ba là sáu, ba người “Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn” thì được sáu người khiêng; hai lần bốn là tám.
Cô bé không nói nữa, cười lên khanh khách.
Mọi người thấy tiểu cô nương này động một tí là khóc, sau khi khóc lại cười. Bỗng cười bỗng khóc là chuyện thường ngày của những đứa trẻ bảy tám tuổi, còn tiểu cô nương này xem vóc dáng cũng đã mười ba mười bốn tuổi, thân hình rất cao, huống hồ mỗi câu nói của cô bé đều nhằm xỉa xói Dư Thương Hải, rõ ràng không phải là những lời ngây thơ của trẻ con. Nhất định trong bóng tối còn có người lớn xui khiến, giật dây; điều đó không còn nghi ngờ gì nữa.
Dư Thương Hải nói to:
– Đại trượng phu hãy hành động cho quang minh lỗi lạc. Vị bằng hữu nào có điều xích mích với bần đạo xin cứ hiện thân đi chớ đừng có lén lút giấu đầu lòi đuôi, dạy cho con nít nói ra những lời vô vị như vậy thì đâu phải là phong độ bậc anh hùng hảo hán?
Lão tuy thấp lùn, nhưng lời nói phát ra từ huyệt Đan điền trung khí tràn đầy, thanh âm hùng tráng, lọt vào tai người nghe oang oang. Quần hào nghe lão nói vậy bỗng nhiên đem lòng kính trọng chứ không còn lộ vẻ khinh khi như trước nữa.
Lão nói xong đại sảnh yên lặng, không có tiếng người đáp trả.
Một lúc lâu sau, bỗng nhiên tiểu cô nương nói:
– Thưa lão sư thái, lão đó hỏi anh hùng hảo hán ở môn phái nào vậy? Phái Thanh Thành của lão không phải là anh hùng hảo hán ư?
Định Dật là nhân vật tiền bối của phái Hằng Sơn, tuy đối với phái Thanh Thành có phần bất mãn nhưng không thể công nhiên phỉ báng cả môn phái, liền trả lời mập mờ:
– Phái Thanh Thành… đời trước có rất nhiều anh hùng hảo hán.
Tiểu cô nương lại hỏi:
– Vậy ngày nay thì sao? Họ còn anh hùng hảo hán nào không?
Định Dật trề môi nhìn Dư Thương Hải rồi nói:
– Cái đó ngươi hãy hỏi Dư quán chủ đây.
Cô gái quay lại hỏi Dư Thương Hải:
– Dư quán chủ, cầm kiếm giết một người khi người đó đã bị trọng thương có phải là anh hùng hảo hán không?
Nghi Lâm nghe cô bé hỏi thì chấn động cả lòng. Bản tính cô hiền hòa, lại kính trọng người trên vì dù sao Dư Thương Hải cũng là bậc tiền bối nên không tiện hỏi. Bây giờ tiểu cô nương này lại thay cô nói ra những lời ẩn ức trong lòng; cô không kìm được nỗi đau đớn ngậm ngùi, nước mắt lã chã.
Dư Thương Hải trầm giọng hỏi khẽ:
– Ai đã dạy tiểu cô nương câu hỏi này?
Tiểu cô nương đáp:
– Có một người tên La Nhân Kiệt phái Thanh Thành là đệ tử của đạo trưởng phải không? Hắn thấy người ta bị trọng thương mà người ta lại là người tốt, chẳng những đã không cứu người ta mà ngược lại, còn đâm cho người ta một kiếm. Đạo trưởng nói xem La Nhân Kiệt có phải là anh hùng hảo hán không? Đây không phải là bản lĩnh hiệp đạo của phái Thanh Thành mà đạo trưởng đã dạy cho hắn ư?
Các câu hỏi này do chính miệng cô bé nói ra, nhưng cô nói một cách lanh lẹ, có ý bức ép dồn người vào thế bí.
Dư Thương Hải không còn biết phải trả lời thế nào, bèn la lớn:
– Rốt cuộc là ai đã chỉ bảo ngươi hỏi ta? Phụ thân của ngươi là người phái Hoa Sơn phải không?
Tiểu cô nương quay qua Định Dật hỏi:
– Lão sư thái, lão đó hù dọa ăn hiếp tiểu nữ, có phải là bậc đại trượng phu quang minh lỗi lạc không?
Định Dật thở dài đáp:
– Ta không thể trả lời được câu này.
Mọi người càng nghe càng lấy làm kỳ. Những lời nói trước đây của tiểu cô nương có lẽ do người lớn đã dạy cho, nhưng những câu hỏi vừa rồi rõ ràng là cô nắm bắt lời nói của Dư Thương Hải mà vặn lại, có ý châm chích mười phần cay độc, hiển nhiên là cô đã tùy cơ ứng biến. Họ không ngờ cô còn nhỏ tuổi mà miệng lưỡi đã sắc bén lợi hại đến như vậy.
Nghi Lâm nước mắt ràn rụa. Cô nhìn cái dáng thon thả của tiểu cô nương từ phía sau lưng bèn nhớ lại:
– Hình như ta đã gặp tiểu muội muội này ở đâu đây?
Cô nghiêng đầu suy nghĩ chợt nhớ ra:
– Đúng rồi. Ngày hôm qua trên Hồi Nhạn lâu, cô bé này có mặt ở đó.
Những hình ảnh ngày hôm qua lần lượt hiện lên trong đầu Nghi Lâm. Sáng sớm hôm qua, cô bị Điền Bá Quang bức bách lên tửu lâu thì ở đây đã có bảy tám cái bàn đầy khách ngồi uống rượu. Sau đó có hai người phái Thái Sơn khiêu chiến, rồi Điền Bá Quang đâm chết một người, các tửu khách sợ hãi bỏ chạy tán loạn; tửu bảo cũng không dám lên rót rượu. Nhưng ở trong góc tửu lâu, có một cái bàn nhỏ ngồi nhìn ra đường, một hòa thượng thân người cao to ngồi đó. Lại có hai người ngồi bên cạnh một cái bàn nhỏ khác. Cho đến lúc Lệnh Hồ Xung bị giết, cô ôm thi thể của Lệnh Hồ đại ca xuống lầu, lão hòa thượng và hai người đó vẫn chưa rời khỏi bàn. Lúc đó, lòng cô bàng hoàng kinh sợ vô cùng, mọi chuyện cứ dồn dập đến, còn lòng dạ nào để lưu tâm đến lão hòa thượng cao to và hai người kia nữa. Bây giờ, thấy hình ảnh sau lưng của cô bé cũng giống như hình bóng còn lưu lại trong trí thì cô mới nhớ rõ lại rằng ngày hôm qua, một trong hai người ngồi ở bàn nhỏ chính là tiểu cô nương này. Cô bé ngồi quay lưng về hướng cô nên cô chỉ nhớ được hình bóng sau lưng của cô bé. Ngày hôm qua, cô bé mặc áo màu vàng nhạt; bây giờ, cô lại mặc áo màu lục. Nếu như lúc này cô bé không quay lưng lại thì Nghi Lâm đã không thể nhớ ra.
Nhưng còn người kia nữa là ai? Cô chỉ nhớ chắc chắn đó là một nam tử, còn nam tử ấy già hay trẻ, ăn mặc thế nào thì cô không nhớ rõ. Cô còn nhớ được lúc lão đại hòa thượng bưng bát rượu lên uống, Điền Bá Quang bị Lệnh Hồ đại ca phỉnh gạt phải chấp nhận thất bại, lão đại hòa thượng đã cười ha hả. Lúc đó, tiểu cô nương này cũng cười theo; tiếng cười của cô ta rất giòn giã. Bên tai cô như vọng lên tiếng “đúng là cô ta, chính là cô ta!”. Lão đại hòa thượng là ai? Tại sao hòa thượng cũng uống rượu?
Toàn bộ tâm thần của Nghi Lâm đều chìm ngập trong tình cảnh ngày hôm qua. Trước mặt cô, dường như lại xuất hiện nét mặt tươi cười của Lệnh Hồ Xung. Lúc đại ca sắp chết, đã lừa La Nhân Kiệt đến gần rồi giơ kiếm đâm vào bụng dưới của địch nhân. Cô ôm thi thể của Lệnh Hồ Xung loạng choạng đi xuống lầu, lòng vô cùng hoang mang, không biết mình đang ở nơi nào. Cô lững thững ra khỏi thành Hành Dương rồi loạng choạng đi trên đường…
Cô cảm thấy thi thể Lệnh Hồ Xung đang ôm trong tay từ từ lạnh dần. Cô không cảm thấy nặng chút nào, cũng không đau lòng, lại càng không biết phải ôm cái thi thể này đến phương nào nữa.
Khi cô đến bên một đầm sen, trông hoa sen nở tươi thắm, ngực cô như bị ai đánh một chùy. Cô không chịu đựng được nữa, cả cô và thi thể Lệnh Hồ Xung cùng nhào xuống rồi cô ngất đi…
Đến khi cô tỉnh dậy, thấy mặt trời sáng tỏa, cô vội choàng tay ôm thi thể Lệnh Hồ Xung thì chẳng thấy đâu cả. Cô sợ hãi vùng dậy, thấy mình vẫn ở bên cạnh đầm sen, hoa sen vẫn tươi thắm ngọt ngào, nhưng thi thể của Lệnh Hồ Xung lại biến mất đâu rồi. Cô vô cùng kinh hoàng, chạy một vòng quanh đầm sen. Thi thể đại ca ở đâu? Cô không tìm thấy chút dấu vết gì. Cô cúi xuống nhìn những vệt máu còn lấm tấm trên áo mình, rõ ràng biết mình không phải đang nằm mơ, suýt nữa cô lại ngất đi. Nhưng cô định thần lại, tìm kiếm bốn phía thêm một lần nữa, cái thi thể như sống lại mà bay đi mất tiêu rồi. Thấy nước trong đầm sen rất cạn, cô liền bước xuống mò tìm cũng chẳng thấy tăm tích gì cả.
Cô đành thất thểu đến thành Hành Sơn, hỏi đường đến Lưu phủ để tìm sư phụ. Lòng cô lúc nào cũng canh cánh tự hỏi: Thi thể Lệnh Hồ đại ca ở đâu? Có người qua đường đã đem đi chôn cất rồi hay đã bị dã thú tha mất?
Cô nghĩ đến Lệnh Hồ đại ca đã vì cứu cô mà không màng đến tính mạng, vậy mà ngay cả thi thể của Lệnh Hồ đại ca cô cũng không chăm sóc chu toàn, nếu thự c sự bị dã thú tha mất thì chính cô không muốn sống nữa. Nhưng dù có tìm được thi thể của Lệnh Hồ Xung nguyên vẹn thì cô cũng không muốn sống nữa.
Bỗng nhiên, từ tận đáy lòng cô ẩn hiện một ý niệm, mà ý niệm đó cô không hề dám nghĩ tới. Thế nhưng cái ý niệm này cứ lướng vướng trong đầu cô suốt cả ngày. Cô cố nén nó xuống, nghĩ bụng: Tại sao ta không định tâm được? Tại sao ta lại nghĩ vớ vẩn thế này? Thật là quá vớ vẩn! Không, quyết không thể có chuyện như vậy được!
Nhưng lúc này, đầu óc cô lại không đè nén được ý niệm đó nữa, nó đang trỗi dậy mãnh liệt trong cô: Lúc ôm thi thể của Lệnh Hồ đại ca trong tay, lòng ta vô cùng bình thản, thậm chí còn cảm thấy vui vui, giống như đang ngồi luyện công, lòng không nghĩ ngợi gì cả. Dường như ta muốn được ôm thi thể đại ca để cả đời có được một người mà người đó không tùy tiện đi lại trên chốn giang hồ, vĩnh viễn không rời xa ta. Dù gì đi nữa cũng phải tìm cho được thi thể của đại ca về. Vậy thì phải làm sao? Sao có thể không đau thương được khi thi thể của đại ca bị dã thú tha mất? Không, không thể. Ta muốn ôm thi thể của đại sư ca chạy loạn trên đường, đến bên đầm sen yên tĩnh để ngơi nghỉ. Sao ta lại ngất đi? Thật là đáng chết! Thôi ta không nên nghĩ như vậy; sư phụ không cho phép, Bồ Tát cũng không tha thứ. Đây là ý niệm ma chướng, ta không nên giữ lại trong lòng. Nhưng… nhưng thi thể của Lệnh Hồ đại ca đâu rồi?
Đầu cô bấn loạn cả lên, có khi nhìn thấy Lệnh Hồ đại ca nhếch mép cười, nụ cười hồn nhiên; có lúc lại thấy đại ca chửi: “Tiểu sư muội xui xẻo” với vẻ mặt cau có khó chịu. Lòng cô đau nhói như bị dao cắt.
Giọng nói của Dư Thương Hải lại vang lên:
– Lao Đức Nặc, tiểu cô nương này có phải là người phái Hoa Sơn các ngươi không?
Lao Đức Nặc đáp:
– Không phải, đệ tử hôm nay mới gặp tiểu muội muội này lần đầu; cô không phải là người của tệ phái.
Dư Thương Hải nói:
– Được, ngươi không thừa nhận thì thôi.
Bỗng nhiên lão vung tay, ánh sáng lóe lên, một mũi phi tiêu đã bắn về hướng Nghi Lâm, miệng quát lớn:
– Tiểu sư điệt, ngươi xem đây là cái gì?
Nghi Lâm còn đang ngẩn ngơ, không ngờ Dư Thương Hải lại phóng ám khí vào mình.
Lòng cô bỗng nhiên nghĩ ra một ý tưởng rất hạnh phúc: Lão muốn giết ta thì tốt lắm. Ta vốn không muốn sống nữa, lão giết ta càng hay!
Cô không có ý muốn né tránh. Trước mắt cô, ngọn phi tiêu vù vù bay tới; mấy người hô toáng lên:
– Cẩn thận đó, ám khí!
Không hiểu sao, Nghi Lâm lại cảm thấy hạnh phúc nói không nên lời. Cô thấy sống trên đời đầy rẫy đau khổ, khó mà chịu đựng được sự quạnh quẽ thê lương này. Mũi phi tiêu giết cô chính là điều mà cô mong muốn.
Định Dật đẩy nhẹ cô bé, phóng người ra chắn trước mặt Nghi Lâm. Đừng tưởng lão ni già lụ khụ mà chậm chạp, chỉ trong nháy mắt lão ni phóng người nhanh đến kỳ lạ. Mũi phi tiêu tuy bay chậm nhưng cũng là một loại ám khí; Định Dật nhảy ra sau nhưng lại đến trước, kịp thời đưa tay ra định chụp lấy.
Định Dật sư thái đưa tay để đón mũi phi tiêu, nào ngờ phi tiêu bay đến cách lão ni hai tấc thì rơi xuống, keng một tiếng đã nằm dưới đất. Định Dật chụp hụt, vậy là đã bị thua một chiêu trước mặt mọi người. Bất giác, khuôn mặt lão ni đỏ lên nhưng không phản ứng gì. Ngay lúc đó, Dư Thương Hải lại giơ tay lên liệng cục giấy vo tròn vào mặt cô bé. Cục giấy này là từ mảnh giấy vẽ con rùa đen vo lại. Định Dật nghĩ bụng:
– Lão mũi trâu này phóng phi tiêu, thì ra là hắn muốn giương Đông kích Tây đánh lừa ta chớ không phải cố ý đả thương Nghi Lâm.
Cục giấy nhỏ liệng tới thế bay rất nhanh, còn nhanh hơn thế bay của phi tiêu vừa rồi, trong đó hàm chứa nội lực rất lớn. Nếu nó đập vào trúng mặt tiểu cô nương thì cô không khỏi bị thương. Lúc này, Định Dật đang đứng bên Nghi Lâm; sự việc xảy ra quá nhanh, nên lão ni không kịp ngăn đỡ, chỉ kêu lên được một chữ “Ngươi…”. Bỗng thấy cô bé cúi thấp người xuống đất, khóc to gọi:
– Má má! Má má! Người ta muốn đánh chết hài nhi kìa!
Cô lùi lại rất nhanh, kịp thời né tránh cục giấy. Rõ ràng cô là người có võ công, và lại muốn chọc tức họ Dư. Mọi người đều cảm thấy buồn cười. Dư Thương Hải cũng cảm thấy không nên bức bách cô bé nữa, bụng lão lại đầy mối hoài nghi, không thể lý giải được.
Định Dật sư thái thấy Dư Thương Hải lộ vẻ bối rối. Lão ni cười thầm cho rằng hôm nay phái Thanh Thành bị bêu xấu như vậy cũng đủ rồi, không nên gây thêm phiền phức cho lão nữa, bèn nói với Nghi Lâm:
– Nghi Lâm, cha mẹ của tiểu cô nương này không biết đi đâu. Ngươi dẫn cô bé đi tìm, để không có ai chăm nom dễ bị người ta hiếp đáp.
Nghi Lâm đáp:
– Dạ!
Cô nắm tay cô bé dẫn đi. Cô bé nhìn cô cười rồi cùng ra khỏi sảnh. Dư Thương Hải cười nhạt một tiếng, biết không thể cản được liền quay qua nhìn Mộc Cao Phong.
Nghi Lâm và cô bé đi ra bên ngoài sảnh. Nghi Lâm hỏi:
– Tiểu muội, quý tính cao danh của muội muội là gì?
Cô bé cười nói:
– Tiểu muội họ Lệnh Hồ, tên gọi là Xung!
Trái tim Nghi Lâm như muốn nhảy vọt ra ngoài, sắc mặt trầm xuống, cô nói:
– Ta hỏi thật tiểu muội, sao tiểu muội lại nói đùa với ta?
Cô bé cười nói:
– Sao lại nói đùa với tỷ tỷ? Lẽ nào chỉ có một mình người bạn của tỷ tỷ mới có tên là Lệnh Hồ Xung? Tiểu muội đặt tên đó không được sao?
Nghi Lâm thở dài, lòng đau xót không kìm được, hai hàng nước mắt tuôn rơi, nói:
– Vị Lệnh Hồ đại ca này là đại ân nhân đã cứu mạng ta, rốt cuộc đã vì ta mà chết. Ta… ta không đáng là bạn của đại ca.
Cô mới nói đến đây, thấy hai người lưng gù vội vàng từ dãy hành lang ngoài đại sảnh đi qua. Đó chính là Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong và Lâm Bình Chi. Cô bé cười hi hi rồi nói:
– Thiên hạ thật có lắm chuyện kỳ cục, đã có một lão lưng gù xấu đến nỗi ai nhìn cũng phải sợ, giờ lại có thêm một gã lưng gù trẻ nữa.
Nghi Lâm nghe cô bé cười nhạo người khác, lòng rất phiền não, bèn nói:
– Tiểu muội, muội tự đi tìm gia gia má má có được không? Ta đau đầu quá, trong người rất khó chịu.
Cô bé cười nói:
– Đau đầu khó chịu ư? Thật khéo giả bộ. Tiểu muội biết tỷ tỷ nghe tiểu muội mạo xưng tên của Lệnh Hồ Xung nên lòng tỷ tỷ không được vui. Tỷ tỷ, sư phụ của tỷ tỷ bảo tỷ tỷ đi với tiểu muội, tại sao không quan tâm mà đuổi tiểu muội đi? Nếu tiểu muội bị người ta hiếp đáp, sư phụ của tỷ tỷ sẽ quở trách tỷ tỷ cho coi.
Nghi Lâm nói:
– Tiểu muội bản lĩnh cao hơn ta nhiều, lại còn nhanh trí, khéo léo; ngay cả Dư quán chủ là nhân vật nổi danh khắp thiên hạ cũng phải e dè tiểu muội. Muội muội không ăn hiếp người ta thì người ta đã phải cám ơn trời đất rồi, ai mà dám đến ăn hiếp tiểu muội nữa?
Cô bé cười khanh khách, kéo tay Nghi Lâm nói:
– Tỷ tỷ cứ nói móc tiểu muội không hà. Vừa rồi nếu không phải sư phụ của tỷ tỷ bảo vệ muội muội thì lão mũi trâu đã sớm đánh tiểu muội rồi. Tỷ tỷ ơi, muội muội họ Khúc, tên là Phi Yên. Gia gia gọi muội là Phi Phi, tỷ tỷ cũng gọi tiểu muội là Phi Phi nghe.
Nghi Lâm nghe cô bé nói thật tên họ, lòng mới dịu trở lại, chỉ cảm thấy kỳ lạ là tại sao cô bé biết mình đang nhớ đến Lệnh Hồ Xung mà lấy tên của Lệnh Hồ Xung ra làm trò đùa? Cô nghĩ có lẽ lúc trong hoa sảnh, cô đã thuật cho sư phụ và mọi người nghe thì tiểu cô nương ranh mãnh này đã núp ở ngoài cửa sổ để lén nghe. Cô nói:
– Khúc tiểu muội, chúng ta đi tìm gia gia má má của tiểu muội đi. Tiểu muội đoán xem họ đã đến những chỗ nào rồi?
Khúc Phi Yên nói:
– Tiểu muội biết họ ở chỗ nào rồi. Tỷ tỷ muốn tìm thì tự đi tìm đi, tiểu muội không đi đâu.
Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:
– Tại sao muội muội lại không đi?
Khúc Phi Yên nói:
– Tiểu muội nhỏ tuổi thế này làm sao mà đi được, nhưng tỷ tỷ thì khác. Tỷ tỷ đã quá đau lòng nên sớm đi mới phải.
Nghi Lâm run lên nói:
– Tiểu muội nói gia gia má má của tiểu muội…
Khúc Phi Yên đáp:
– Gia gia má má của tiểu muội sớm đã bị người ta giết hại rồi; tỷ tỷ muốn tìm họ thì đến âm phủ mà tìm.
Nghi Lâm rất khó chịu, nói:
– Gia gia má má của tiểu muội đã mất rồi, tại sao có thể đem chuyện đó ra để đùa giỡn được? Ta không đi với muội muội nữa đâu.
Khúc Phi Yên nắm lấy tay trái của Nghi Lâm, năn nỉ:
– Tỷ tỷ ơi, tiểu muội côi cút vất vưởng một mình, không có ai chơi với tiểu muội. Tỷ tỷ đi với tiểu muội một chút đi.
– Được rồi, ta đi với tiểu muội một chút nhưng tiểu muội không được ăn nói đùa giỡn một cách vô vị nữa. Ta là người xuất gia, tiểu muội gọi ta là tỷ tỷ cũng không đúng.
Khúc Phi Yên cười nói:
– Mỗi người có một cách nghĩ khác nhau. Có những lời nói tỷ tỷ cho là vô vị nhưng tiểu muội rất lấy làm thú vị. Tỷ tỷ lớn tuổi hơn tiểu muội, tiểu muội gọi tỷ tỷ là là “tỷ tỷ” có gì đâu mà không đúng? Lẽ nào tiểu muội gọi tỷ tỷ là “muội muội”? Nghi Lâm tỷ tỷ, tỷ tỷ đừng làm ni cô nữa có được không?
Nghi Lâm không kìm được sửng sốt, thụt lùi một bước. Khúc Phi Yên buông tay cô ra rồi cười nói:
– Làm ni cô có gì hay đâu? Đã không ăn cá tôm, thịt gà, thịt vịt, thịt bò, thịt dê, suốt đời chỉ biết rau dưa. Tỷ tỷ, trời đã ban cho tỷ tỷ nhan sắc mỹ miều, mà lại phải cạo cái đầu trọc lóc làm giảm bớt dung nhan đi. Nếu tỷ tỷ giữ lại mái tóc dài óng mượt thì nhìn mới đẹp.
Nghi Lâm nghe cô bé nói quá hồn nhiên, cô cười nói:
– Ta đã gửi mình vào chốn Thiền môn, tứ đại giai không thì còn kể chi đến dung mạo bên ngoài xấu đẹp nữa.
Khúc Phi Yên nghiêng đầu ngắm nghía khuôn mặt Nghi Lâm một lúc lâu. Lúc này mưa đã tạnh, mây dần dần tan ra, ánh trăng lờ mờ soi lên mặt cô thành một làn sáng bạc mờ mờ càng tôn thêm vẻ yêu kiều diễm lệ. Khúc Phi Yên thở dài nói:
– Tỷ tỷ, tỷ tỷ thật đẹp. Thảo nào người ta tơ tưởng đến tỷ tỷ nhiều như vậy.
Nghi Lâm thẹn đỏ mặt:
– Tiểu muội nói gì vậy? Tiểu muội lại nói đùa nữa thì ta bỏ đi bây giờ.
Khúc Phi Yên cười nói:
– Được rồi, tiểu muội không nói nữa. Tỷ tỷ, tỷ tỷ cho tiểu muội xin một ít Thiên hương đoạn tục giao, tiểu muội muốn đi cứu một người.
Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:
– Tiểu muội đi cứu ai vậy?
Khúc Phi Yên cười nói:
– Người này rất quan trọng, bây giờ không thể nói cho tỷ tỷ nghe được.
Nghi Lâm nói:
– Tiểu muội muốn lấy thuốc để cứu người, đáng lý ta nên đưa cho tiểu muội, nhưng sư phụ đã có lời nghiêm huấn. Sư phụ bảo: “Thiên hương đoạn tục giao này điều chế rất khó; nếu người xấu bị thương thì không nên cứu”.
Khúc Phi Yên nói:
– Tỷ tỷ, nếu như có người vô lễ, dùng những lời khó nghe để thóa mạ sư phụ của tỷ tỷ và phái Hằng Sơn thì đó là người tốt hay xấu?
Nghi Lâm nói:
– Người nào thóa mạ sư phụ ta và phái Hằng Sơn tất nhiên là người xấu, làm sao có thể coi là tốt được?
Khúc Phi Yên cười nói:
– Thật là kỳ lạ. Có một người hễ mở miệng ra thì nói: “Gặp ni cô thật là xui xẻo, đánh bạc tất thua”. Người này đã thóa mạ sư phụ của tỷ tỷ, lại chửi cả tỷ tỷ và cả phái Hằng Sơn. Nếu loại “người xấu” đó bị trọng thương thì…
Nghi Lâm không đợi Phi Yên nói hết, mặt biến sắc, quay đầu định bỏ đi. Khúc Phi Yên lạng người đứng chặn trước mặt cô, dang hai tay ra cản đường không cho Nghi Lâm đi.
Bỗng nhiên Nghi Lâm nghĩ: Ngày hôm qua trên Hồi Nhạn lâu, cô bé này và một người đàn ông đang ngồi ở đó. Cho đến lúc Lệnh Hồ đại ca chết, mình ôm thi thể Lệnh Hồ đại ca chạy xuống tửu lâu, hình như cô bé vẫn còn ngồi ở đó, nên tất cả mọi việc cô bé đã nhìn thấy chớ không phải nghe lén mình thuật lại. Không biết cô bé có theo dõi mình không?
Nghi Lâm muốn hỏi Phi Phi một câu nhưng mặt cô đỏ bừng, nói không thành lời.
Khúc Phi Yên nói:
– Tỷ tỷ, tiểu muội biết tỷ tỷ muốn hỏi tiểu muội là “Thi thể của Lệnh Hồ đại ca ở đâu?” đúng không?
Nghi Lâm nói:
– Đúng vậy. Nếu tiểu muội biết nói cho ta hay, ta… ta cảm kích vô cùng.
Khúc Phi Yên nói:
– Tiểu muội không biết nhưng có một người biết; người này đang bị trọng thương, tính mạng rất nguy hiểm. Nếu tỷ tỷ có thể dùng Thiên hương đoạn tục giao cứu y sống lại thì y có thể sẽ nói cho tỷ tỷ biết thi thể của Lệnh Hồ đại ca hiện đang ở đâu.
Nghi Lâm hỏi:
– Tiểu muội không biết thật ư?
Khúc Phi Yên thề:
– Nếu Khúc Phi Yên này biết thi thể Lệnh Hồ Xung ở đâu thì sáng mai sẽ chết trong tay Dư Thương Hải, sẽ bị trường kiếm của lão đâm lên người mười bảy mười tám nhát.
Nghi Lâm vội nói:
– Ta tin rồi, không cần thề. Vậy người đó là ai?
Khúc Phi Yên nói:
– Người này có cứu được hay không là tùy ở tỷ tỷ và nơi mà chúng ta sẽ đến không phải là nơi tử tế gì.
Nghi Lâm vì muốn tìm thi thể Lệnh Hồ Xung thì dù có phải vượt qua núi đao rừng kiếm cô cũng không màng, sá chi nơi tử tế hay không tử tế. Nghi Lâm liền gật đầu nói:
– Chúng ta cứ đi đến đó đi.
Hai người đi đến cổng lớn thì trời đổ mưa, có mấy chục cây dù che mưa để bên cửa. Nghi Lâm và Khúc Phi Yên mỗi người lấy một cây dù, rồi ra khỏi cổng đi về góc đường hướng Đông Bắc. Trời đã vào khuya, người qua lại trên đường rất ít, hai người đi vào trong ngõ hẻm thì có tiếng chó sủa vang. Nghi Lâm thấy Khúc Phi Yên dẫn mình vào một con hẻm nhỏ hẹp nhưng lòng cô chỉ nghĩ tới nơi có thi thể Lệnh Hồ Xung nên dẫn đi đâu cô cũng không hề thắc mắc.
Đi một lúc, bỗng Khúc Phi Yên lại quẹo vào một con hẻm rất nhỏ, chỉ thấy trên cửa nhà bên trái treo một cái đèn lồng màu đỏ . Khúc Phi Yên gõ cửa ba cái, có người từ trong viện thò đầu ra xem rồi mới mở cửa. Khúc Phi Yên thì thầm vài câu vào tai người đó rồi nhét một vật gì đó vào tay gã. Người đó nói:
– Dạ, dạ, xin mời tiểu thư vào.
Khúc Phi Yên quay lại vẫy tay, Nghi Lâm theo cô bé đi vào. Người đó thấy Nghi Lâm tỏ vẻ ngạc nhiên vô cùng.
Gã đi trước dẫn đường, qua một cái sân rộng, gã vén bức mành nhà ngang phía Đông rồi nói:
– Xin mời tiểu thư và sư phụ ngồi ở đây.
Mành cửa vừa vén lên, mùi son phấn dầu thơm xông vào mũi nồng nặc. Nghi Lâm vòng ra phía sau, thấy trong phòng đặt một chiếc giường lớn, chăn gối trên giường đều thêu bằng gấm năm màu, đó chính là hàng thêu ở Hồ Nam nổi tiếng khắp thiên hạ. Trên tấm chăn gấm thêu một đôi uyên ương lượn lờ trong nước, sắc màu rực rỡ sống động như thật. Từ nhỏ Nghi Lâm đã xuất gia và sống ở Bạch Vân am, chỉ đắp chăn bằng vải bố thô sơ, cô chưa bao giờ thấy chăn đệm xa hoa lộng lẫy như vậy. Cô chỉ liếc nhìn thoáng qua rồi quay đầu đi. Trên bàn nhỏ, thắp một cây đèn đỏ; bên cây đèn đỏ là một tấm gương, một hộp son phấn; phía trước giường có hai đôi giày thêu hoa, một đôi dành cho đàn ông, một đôi dành cho đàn bà. Cả hai đôi đều sắp đặt rất ngay ngắn.
Nghi Lâm bỗng giật nẩy người. Ngẩng đầu lên, cô th ấy trước mặt xuất hiện một gương mặt trái xoan đỏ hồng, vừa bẽn lẽn, bối rối lại vừa sửng sốt. Đó chính là dung nhan của cô trong gương.
Có tiếng bước chân ở sau lưng, một nữ tỳ tươi cười bưng trà đến. Người nữ tỳ này ăn mặc rất gọn ghẽ, trông rất yêu kiều nhã nhặn. Nghi Lâm càng lúc càng thấy sợ hãi. Cô khẽ hỏi Khúc Phi Yên:
– Đây là đâu vậy?
Khúc Phi Yên tủm tỉm cười, rồi cúi mặt nói vào tai cô nữ tỳ một câu. Cô nữ tỳ đáp:
– Người con gái này làm bộ làm tịch, nhất định không phải là người đàng hoàng.
Cô lại hỏi Khúc Phi Yên:
– Tiểu muội dẫn ta đến đây để làm gì? Đây là đâu vậy?
Khúc Phi Yên mỉm cười nói:
– Đây là nơi nổi tiếng nhất trong thành Hành Sơn, gọi là Quần Ngọc viện.
Nghi Lâm lại hỏi:
– Quần Ngọc viện là gì?
Khúc Phi Yên nói:
– Quần Ngọc viện là đại kỹ viện đếm trên đầu ngón tay trong thành Hành Sơn.
Nghi Lâm nghe hai chữ “kỹ viện” thì trống ngực đập thình thịch, cơ hồ muốn ngất đi. Cô thấy cách bày biện trong phòng đã sớm ngấm ngầm cảm thấy có điều không ổn, nhưng vạn lần không ngờ đây lại là kỹ viện. Cô tuy không biết rõ kỹ viện là “viện” như thế nào, nhưng cô nghe các sư tỷ đồng môn nói kỹ nữ là đàn bà dâm dật nhất trong thiên hạ; họ bồi tiếp bất cứ người đàn ông nào, chỉ cần người đó có tiền. Khúc Phi Yên dẫn cô vào kỹ viện không chừng là muốn buộc cô làm kỹ nữ! Lòng cô bồn chồn suýt phát khóc lên.
Bỗng nhiên, trong phòng kế bên có tiếng đàn ông cười ha hả, mà giọng cười lại rất quen. Đó chính là ác nhân Vạn lý độc hành Điền Bá Quang. Hai chân Nghi Lâm mềm nhũn; cô ngồi phịch trên ghế, mặt không còn giọt máu.
Khúc Phi Yên sợ hãi vội hỏi cô:
– Tỷ tỷ sao vậy?
Nghi Lâm nói nhỏ:
– Điền… Điền Bá Quang!
Khúc Phi Yên cười khúc khích nói:
– Đúng vậy, tiểu muội cũng nhận ra giọng cười của hắn. Hắn là đồ đệ Điền Bá Quang ngoan ngoãn của tỷ tỷ mà.
Điền Bá Quang ở phòng bên la to:
– Ai nhắc đến tên của lão tử đó?
Khúc Phi Yên nói:
– Nầy, Điền Bá Quang. Sư phụ của ngươi đang ở đây, mau mau ra bái yết sư phụ đi.
Điền Bá Quang cả giận nói:
– Sư phụ nào? Tiểu cô nương nói càn nói bậy, ta sẽ vả tét cái miệng thúi của cô bây giờ.
Khúc Phi Yên nói:
– Khi còn ở Hồi Nhạn lâu thành Hành Dương, không phải ngươi đã bái Nghi Lâm tiểu sư thái của phái Hằng Sơn làm sư phụ sao? Cô ta đang ở đây, mau qua đây bái kiến.
Điền Bá Quang nói:
– Cô ta làm sao mà biết chỗ này. Ui chao! Ngươi… sao ngươi biết? Ngươi là ai? Ta giết ngươi bây giờ.
Giọng nói của gã có ý sợ hãi.
Khúc Phi Yên cười nói:
– Ngươi qua đây khấu đầu bái yết sư phụ của ngươi rồi hãy nói chuyện.
Nghi Lâm vội nói:
– Đừng, đừng. Tiểu muội đừng kêu hắn qua đây.
Điền Bá Quang giật mình kêu lên “Trời ơi!” một tiếng, tiếp theo một cái độp, hiển nhiên là gã đã từ trên giường nhảy xuống đất. Rồi nghe tiếng một người phụ nữ nói:
– Đại gia, đại gia làm sao vậy?
Khúc Phi Yên kêu to:
– Điền Bá Quang, ngươi đừng có mà trốn! Sư phụ của ngươi vén mùng tìm ngươi đây! Điền Bá Quang thóa mạ:
– Sư phụ, đồ nhi cái gì? Lão tử ta ngang hàng với tiểu tử Lệnh Hồ Xung. Tiểu ni cô mà bước qua đây một bước, lão tử lập tức giết ngay.
Nghi Lâm run run:
– Phải, ta không đi qua đó; ngươi cũng đừng qua đây.
Khúc Phi Yên nói:
– Điền Bá Quang, trên giang hồ ngươi cũng được coi là một nhân vật có tiếng tăm, sao đã nói mà không biết giữ lời? Bái sư phụ rồi bây giờ không thừa nhận là cớ vì sao? Mau qua đây bái yết sư phụ ngươi!
Điền Bá Quang hừ một tiếng không đáp.
Nghi Lâm nói:
– Ta không muốn hắn bái yết cũng không muốn thấy hắn. Hắn… hắn không phải là đồ đệ của ta đâu.
Điền Bá Quang vội nói:
– Đúng vậy! Vị tiểu sư phụ này vốn không muốn gặp ta.
Khúc Phi Yên nói:
– Được, thôi gạt chuyện ngươi qua một bên đi. Ta nói cho ngươi biết, lúc hai chúng ta vừa bước vào đây, có hai tiểu tặc lén lút rình rập bọn ta. Ngươi mau đi phát lạc chúng đi. Ta và sư phụ của ngươi nghỉ ở đây, ngươi ở bên ngoài canh giữ, không cho ai được phép vào đây làm phiền bọn ta. Ngươi làm tốt việc này thì chuyện ngươi bái tiểu sư phụ phái Hằng Sơn làm sư phụ sau này ta tuyệt đối không nhắc đến nữa; bằng không ta sẽ hô hoán khắp thiên hạ cho ai ai cũng biết.
Bỗng nhiên Điền Bá Quang quát:
– Tiểu tặc, to gan thật!
Chỉ nghe cánh cửa sổ kêu kẹt một tiếng, một người phóng nhanh ra. Cánh cửa sổ lại kẹt một tiếng, Điền Bá Quang đã nhảy về phòng rồi nói:
– Ta đã giết một tên là tiểu tặc phái Thanh Thành; còn một người nữa chạy thoát rồi.
Khúc Phi Yên nói:
– Ngươi thật là đồ vô dụng. Sao để một tên chạy thoát?
Điền Bá Quang nói:
– Người đó không thể giết được. Đó là… là một ni cô phái Hằng Sơn.
Khúc Phi Yên cười nói:
– Thì ra sư bá của ngươi, tất nhiên không thể giết được rồi.
Nghi Lâm giật mình sợ hãi, nói khẽ:
– Là sư tỷ của ta ư? Phải làm sao bây giờ?
Điền Bá Quang hỏi:
– Tiểu cô nương, ngươi là ai?
Khúc Phi Yên cười nói:
– Ngươi không cần hỏi, hãy ngoan ngoãn đừng nói gì nữa. Sư phụ của ngươi vĩnh viễn không đến tìm ngươi đâu.
Quả nhiên Điền Bá Quang không nói thêm một tiếng nào.
Nghi Lâm nói:
– Khúc tiểu muội, chúng ta mau đi thôi.
Khúc Phi Yên nói:
– Người bị thương còn chưa gặp mà. Không phải tỷ tỷ nói muốn nói chuyện với người ta sao? Nếu tỷ tỷ sợ sư phụ thấy sẽ trách phạt thì tỷ tỷ lập tức về đi, cũng không ai ngăn cản đâu.
Nghi Lâm trầm ngâm nói:
– Dù sao cũng đã đến đây rồi, thôi thì chúng ta… chúng ta đi xem người đó đi.
Khúc Phi Yên cười nhẹ một tiếng rồi đi đến bên giường, giơ tay đẩy bức tường phía Đông một cái. Cánh cửa từ từ mở ra, thì ra trên tường có lắp cửa ngầm. Khúc Phi Yên vẫy tay một cái rồi đi vào bên trong.
Nghi Lâm cảm thấy kỹ viện này càng lúc càng kỳ dị bí hiểm. May mà Điền Bá Quang ở trong phòng phía Tây, lòng cô cứ nghĩ càng xa cách hắn càng tốt nên cô bặm gan đi theo vào. Bên trong cũng là một gian phòng nhưng không có đèn nến gì hết, phải nhờ ánh sáng từ phòng ngoài soi vào lờ mờ mới thấy được.
Căn phòng này rất nhỏ, cũng có một cái giường, tấm màn phủ xuống, đứng ngoài chỉ thấy thấp thoáng hình như trên giường có người nằm ngủ. Nghi Lâm đến bên cửa rồi cô không dám đi vào nữa.
Khúc Phi Yên nói:
– Tỷ tỷ, tỷ tỷ lấy Thiên hương đoạn tục giao ra trị cho người ta đi.
Nghi Lâm chần chừ hỏi:
– Có thật hắn… hắn biết chỗ để thi thể của Lệnh Hồ đại ca không?
Khúc Phi Yên nói:
– Có thể biết, có thể không biết. Tiểu muội không thể nói được.
Nghi Lâm vội nói:
– Vừa rồi tiểu muội nói y biết rõ mà.
Khúc Phi Yên cười nói:
– Tiểu muội đâu phải là bậc đại trượng phu, những lời đã nói coi như không cần kể đến. Tỷ tỷ thử xem nếu không có gì trở ngại thì trị thương cho y đi; nếu không thì tỷ tỷ cứ quay về ngay, không ai ngăn cản tỷ tỷ đâu.
Nghi Lâm nghĩ thầm: Bất luận thế nào, muốn tìm được thi thể của Lệnh Hồ đại ca thì dù là cơ hội mong manh cũng không thể bỏ qua được.
Cô liền nói:
– Được, để ta trị thương cho y.
Nói rồi cô quay ra phòng ngoài cầm cây nến đi đến trước giường, vén màn lên, thấy một người đang nằm ngửa, trên mặt phủ một chiếc khăn gấm màu lục. Chiếc khăn phồng lên xẹp xuống theo nhịp thở nhè nhẹ. Nghi Lâm không thấy được mặt người này, hơi yên tâm. Cô quay lại hỏi
Khúc Phi Yên:
– Người này bị thương ở chỗ nào?
Khúc Phi Yên nói:
– Ở trước ngực, vết thương rất nặng, suýt chút nữa là vào trúng tim.
Nghi Lâm nhẹ nhàng kéo cái chăn đắp trên ngực người này ra, thấy người này ở trần, giữa ngực bị một vết thương lớn, máu đã ngừng chảy nhưng vết thương rất nặng, hiển nhiên là vô cùng nguy hiểm. Nghi Lâm định thần lại, nghĩ bụng: Bất luận thế nào ta cũng phải cứu sống tính mạng của người này.
Cô đưa cây nến cho Khúc Phi Yên cầm, rút túi lấy ra một cái hộp gỗ đựng Thiên hương đoạn tục giao, mở nắp hộp ra, đặt trên cái bàn nhỏ ở đầu giường. Cô đưa tay bóp nhẹ chung quanh vết thương người đó.
Khúc Phi Yên nói khẽ:
– Huyệt đạo của người này đã sớm bị điểm rồi, nên máu ngừng chảy, nếu không thì sao y có thể sống được đến bây giờ?
Nghi Lâm gật đầu. Cô phát hiện những huyệt đạo chung quanh vết thương của người này sớm bị phong tỏa, cách điểm huyệt vô cùng tinh xảo, cao thâm hơn mình nhiều. Cô từ từ rút miếng bông nhét miệng vết thương ra. Miếng bông vừa được lấy, lập tức máu tươi ứa ra.
Ở sư môn Nghi Lâm đã từng học qua phép cứu thương. Tay trái cô giữ miệng vết thương, tay phải lấy Thiên hương đoạn tục giao bôi vào vết thương rồi đặt miếng bông lại cho kín. Thiên hương đoạn tục giao là thần dược trị thương của phái Hằng Sơn, vừa bôi lên vết thương không bao lâu thì máu lập tức ngừng lại. Nghi Lâm nghe hơi thở người này dồn dập, không biết có thể sống nổi không, cô bèn hỏi:
– Thưa anh hùng, bần ni có chuyện xin thỉnh giáo, mong anh hùng vui lòng nói cho.
Bỗng nhiên Khúc Phi Yên nghiêng người đi, cây nến cũng nghiêng theo, ánh sáng tắt phụt. Trong phòng lúc này tối đen như mực, Khúc Phi Yên la lên một tiếng “Trời ơi” rồi nói:
– Nến bị tắt rồi.
Nghi Lâm xòe tay ra cũng không thấy gì, lòng rất hoang mang thầm nghĩ: Đây là nơi không được sạch sẽ gì, người xuất gia sao lại vào đây? Ta hỏi ngay cho rõ chỗ để thi thể của Lệnh Hồ đại ca rồi lập tức rời khỏi nơi đây ngay.
Cô run run hỏi:
– Thưa anh hùng, bây giờ anh hùng đã thấy bớt đau được chút nào không?
Người đó rên một tiếng, không đáp.
Khúc Phi Yên nói:
– Người ta đang sốt, tỷ tỷ sờ thử trán người ta xem sao lại nóng dữ vậy?
Nghi Lâm chưa kịp trả lời, tay phải đã bị Khúc Phi Yên nắm lấy r ồi đặt lên trán người bị thương. Chiếc khăn gấm phủ trên mặt người này đã bị Khúc Phi Yên giở ra rồi; Nghi Lâm chỉ cảm thấy chỗ mình chạm tay vào nóng như lửa, bất giác cô nổi lòng trắc ẩn, nói:
– Ta còn có thuốc uống để trị nội thương, phải cho y uống mới được. Khúc muội muội, phiền muội đốt sáng ngọn nến lên.
Khúc Phi Yên nói:
– Được, tỷ tỷ ở đây đợi, tiểu muội đi tìm lửa.
Nghi Lâm nghe cô bé nói muốn đi khỏi phòng, cô sợ hãi vội kéo tay áo cô bé lại rồi nói:
– Đừng, đừng, tiểu muội đừng đi. Tiểu muội bỏ ta lại đây một mình, ta biết làm sao?
Khúc Phi Yên tủm tỉm cười rồi nói:
– Tỷ tỷ, tỷ tỷ đem thuốc uống trị nội thương ra đi.
Nghi Lâm lấy trong người ra một cái bình sứ, mở nắp bình ra, đổ ra ba viên để trong lòng bàn tay rồi nói:
– Thương dược đã lấy ra rồi. Muội muội cho người ta uống đi.
Khúc Phi Yên nói:
– Tối đen như thế này đừng làm rơi mất thương dược, tính mạng con người rất hệ trọng, không phải trò đùa. Tỷ tỷ, tỷ tỷ không dám ở lại đây một mình thì tiểu muội ở lại đây đợi. Tỷ tỷ đi đốt nến đi.
Nghi Lâm nghe cô bé nói mình phải tự đi lung tung trong kỹ viện thì cô càng sợ hãi, vội nói:
– Không, không, ta không đi đâu.
Khúc Phi Yên nói:
– Đưa Phật phải đưa đến Tây Thiên, cứu người phải cứu đến nơi đến chốn. Tỷ tỷ lấy thương dược nhét vào miệng người ta, cho người ta uống vài ngụm trà có được không? Trong bóng tối, người ta không thấy được tỷ tỷ là ai, có gì mà phải sợ? Này, này, trà đây, cầm cẩn thận nghe, đừng để đổ.
Nghi Lâm từ từ đưa tay đón lấy chung trà, chần chừ một chút rồi nghĩ bụng: Sư phụ thường dạy người xuất gia lấy lòng từ bi làm gốc, cứu một mạng người còn hơn xây bảy cảnh chùa. Cứ coi như người này không biết chỗ để thi thể Lệnh Hồ đại ca nhưng tính mệnh y đang nguy cấp thì ta cũng nên cứu.
Thế là cô giơ tay phải, đặt lưng bàn tay lên trán của người đó rồi xoay bàn tay nhét ba viên Bạch vân hùng đảm hoàn trị nội thương đưa vào miệng người đó. Người đó há miệng ngậm lấy, đợi Nghi Lâm đưa chén trà đến bên miệng liền uống vài ngụm, miệng ú ớ nói: “Đa tạ”.
Nghi Lâm nói:
– Thưa anh hùng, anh hùng bị trọng thương cần được yên tĩnh nghỉ ngơi, nhưng bần ni có một chuyện gấp muốn hỏi. Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ hiệp sĩ đã bị người ta giết chết, thi thể…
Người đó nói:
– Sư phụ… sư phụ hỏi Lệnh Hồ Xung?
Nghi Lâm nói:
– Đúng vậy! Các hạ có biết di thể của Lệnh Hồ Xung anh hùng ở chỗ nào không?
Người đó mơ hồ nói:
– Cái… cái gì di thể?
Nghi Lâm nói:
– Phải rồi, các hạ có biết di thể của Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ hiệp sĩ lạc ở nơi nào?
Người đó mơ hồ nói ra mấy tiếng, giọng lại rất nhỏ nên hoàn toàn không thể nghe được. Nghi Lâm lại hỏi thêm một lần nữa rồi áp tai xuống gần mặt người đó thì nghe hơi thở của y rất dồn dập, rốt cuộc cũng không nói ra được điều gì.
Nghi Lâm đột nhiên nghĩ: Thiên hương đoạn tục giao và Bạch vân hùng đảm hoàn của bản môn rất hiệu nghiệm, dược tính lại cực mạnh; nhất là Bạch vân hùng đảm hoàn sau khi uống thì bị hôn mê cả nửa ngày. Đó chính là thuốc trị thương trong tình trạng khẩn cấp, nếu ta nhân lúc này mà thúc ép hỏi han người ta thì coi sao được?
Cô nhẹ thở dài, chui đầu ra khỏi màn, vịn vào chiếc ghế ở đầu giường ngồi xuống, nói khẽ:
– Đợi y khỏe một chút rồi hãy hỏi thăm sau.
Khúc Phi Yên nói:
– Tỷ tỷ, tính mệnh người này có còn nguy hiểm nữa không?
Nghi Lâm nói:
– Ta mong cho y bớt đau, nhưng vết thương của y rất nặng. Khúc Phi Yên, vị này là ai?
Khúc Phi Yên không đáp, một lúc sau mới nói:
– Gia gia của tiểu muội nói cái gì tỷ tỷ cũng không biết hết thì không thể làm ni cô được.
Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:
– Gia gia của tiểu muội biết ta sao? Lão… lão nhân gia sao biết được cái gì ta cũng không biết?
Khúc Phi Yên nói:
– Ngày hôm qua ở trên Hồi Nhạn lâu, gia gia và tiểu muội thấy các vị và Điền Bá Quang đánh nhau.
Nghi Lâm ồ lên một tiếng rồi hỏi:
– Người ngồi cùng với tiểu muội là gia gia của tiểu muội ư?
Khúc Phi Yên cười nói:
– Đúng vậy. Vị Lệnh Hồ đại ca của tỷ tỷ có cái miệng thật là lém lỉnh. Y nói y đánh ngồi được xếp hạng đệ nhị thiên hạ khiến tiểu muội và gia gia cũng hơi tin, còn cho là y thật sự có một bộ kiếm pháp gì đó đã luyện trong lúc đi cầu, và còn cho là Điền Bá Quang đấu không lại y nữa. Hi hi.
Trong bóng tối, Nghi Lâm không nhìn thấy được mặt cô bé, nhưng vẫn tưởng tượng ra được gương mặt cô đang cười tươi rói. Khúc Phi Yên càng vui cười hớn hở bao nhiêu thì lòng Nghi Lâm càng đau xót bấy nhiêu.
Khúc Phi Yên nói tiếp:
– Sau đó Điền Bá Quang chạy trốn, gia gia nói gã tiểu tử này chẳng ra trò trống gì, đã giao ước nếu thua thì phải dập đầu bái tỷ tỷ làm sư phụ. Vậy đúng ra hắn phải chấp nhận cúi đầu bái sư, sao lại có thể bỏ trốn?
Nghi Lâm nói:
– Lệnh Hồ đại ca vì cứu ta nên phải dùng xảo kế này, chứ thực sự đâu có thắng nổi Điền Bá Quang đâu.
Khúc Phi Yên nói:
– Tỷ tỷ, tấm lòng của tỷ tỷ tốt quá. Tiểu tử Điền Bá Quang này đã ăn hiếp tỷ tỷ như vậy mà tỷ tỷ còn nói tốt cho hắn nữa. Sau khi Lệnh Hồ đại ca bị gã họ La kia đâm chết, tỷ tỷ ôm thi thể của y chạy loạn trên đường. Gia gia tiểu muội nói: “Tiểu ni cô này cũng giống đa tình, chỉ sợ không khéo cô ta phát điên lên. Chúng ta hãy theo dõi họ xem sao”. Thế rồi hai chúng ta bám theo tỷ tỷ, thấy tỷ tỷ cứ ôm người chết đi hoài không nỡ bỏ xuống. Gia gia tiểu muội nói: “Phi Phi, ngươi xem tiểu ni cô này đau lòng biết dường nào, nếu tiểu tử Lệnh Hồ Xung không chết thì không chừng tiểu ni cô này sẽ hoàn tục để xuất giá làm vợ của y”.
Nghi Lâm thẹn thùng, mặt đỏ bừng lên. Trong bóng tối, cô cảm thấy miệng khô lưỡi ráo.
Khúc Phi Yên nói:
– Tỷ tỷ, gia gia của tiểu muội nói vậy có đúng không?
Nghi Lâm nói:
– Vì ta đã hại chết đại ca, kẻ đáng chết là ta chứ không phải là đại ca. Nếu Bồ Tát đại từ đại bi bảo ta phải chết thay cho Lệnh Hồ đại ca để đại ca được sống trở lại trên dương thế, ta… ta… ta dù có bị đày ải xuống tận mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp không thể siêu sinh cũng cam tâm tình nguyện.
Lúc này, người nằm trên giường bệnh rên nhẹ lên một tiếng.
Nghi Lâm vui miệng nói:
– Y… y đã tỉnh rồi. Khúc muội muội, muội muội hỏi người ta xem có đỡ chút nào chưa?
Khúc Phi Yên nói:
– Tại sao lại phải tiểu muội hỏi mới được? Tỷ tỷ không có miệng sao?
Nghi Lâm chần chừ một lúc rồi đi đến trước giường, đứng ngoài màn hỏi:
– Thưa anh hùng, các hạ có thấy…
Cô nói chưa hết câu, lại nghe người đó rên lên mấy tiếng. Nghi Lâm nghĩ: Lúc này y đang đau đớn, ta làm sao có thể làm phiền y được?
Cô đứng lặng yên một lúc, nghe hơi thở của người đó đã điều hòa, hiển nhiên là thuốc đã phát huy tác dụng khiến y ngủ thiếp đi.
Khúc Phi Yên nói khẽ:
– Tỷ tỷ, tại sao tỷ tỷ lại muốn vì Lệnh Hồ Xung mà chết? Có phải tỷ tỷ thật sự yêu thương anh ta phải không?
Nghi Lâm nói:
– Không, không! Khúc muội muội, ta là người xuất gia, tiểu muội đừng có nói những lời tiết mạn Phật tổ như vậy. Lệnh Hồ đại ca và ta vốn không quen biết, lại vì cứu ta mà chết. Ta… ta chỉ cảm thấy vạn lần có lỗi với đại ca.
Khúc Phi Yên nói:
– Nếu như Lệnh Hồ Xung có thể sống lại được thì bất cứ chuyện gì tỷ tỷ cũng có thể vì y mà làm không?
Nghi Lâm đáp:
– Đúng vậy, ta vì đại ca mà chết một ngàn lần cũng không một lời oán trách.
Khúc Phi Yên đột nhiên cười lên tiếng nói:
– Lệnh Hồ đại ca! Đại ca nghe rõ chưa, chính miệng Nghi Lâm tỷ tỷ nói là…
Nghi Lâm giận nói:
– Tiểu muội đùa cợt cái gì vậy?
Khúc Phi Yên tiếp tục la to:
– Tỷ tỷ nói chỉ cần đại ca không chết, bất cứ chuyện gì tỷ tỷ cũng có thể làm vì đại ca hết đó.
Nghi Lâm nghe giọng cô bé nói dường như không phải đùa cợt. Đầu cô choáng váng, mắt hoa lên, trống ngực đập thình thịch. Cô nói:
– Muội… muội…!
Chỉ nghe hai tiếng cách, cách, ánh sáng lóe lên, Khúc Phi Yên đã bật lửa đốt ngọn nến rồi vén màn lên, tươi cười nhìn Nghi Lâm vẫy vẫy tay. Nghi Lâm từ từ tiến đến gần, bỗng nhiên mắt cô hoa lên, người chúi về phía sau.
Khúc Phi Yên đưa tay đỡ lưng Nghi Lâm để cô không bị ngã, rồi cười nói:
– Tiểu muội biết trước tỷ tỷ sẽ giật mình kinh hãi. Tỷ tỷ xem người này là ai?
Nghi Lâm lắp bắp:
– Y… y…
Giọng cô yếu ớt, dường như hơi thở không thông.
Người nằm trên giường hai mắt đang nhắm lại nhưng khuôn mặt vuông chữ điền, cặp lông mày thẳng như hai thanh kiếm và đôi môi mỏng dính. Đó chính là Lệnh Hồ Xung mà cô đã gặp ngày hôm qua ở trên Hồi Nhạn lâu.
Nghi Lâm đưa tay nắm chặt cánh tay Khúc Phi Yên run run hỏi:
– Đại… đại ca còn sống ư?
Khúc Phi Yên cười đáp:
– Bây giờ thì còn sống, nhưng nếu thuốc của tỷ tỷ không công hiệu thì không chừng sẽ chết.
Nghi Lâm vội nói:
– Không chết được đâu. Đại ca nhất định không thể chết được, đại… đại ca không thể chết được!
Cô vừa mừng vừa sợ hãi, bỗng nhiên khóc òa lên. Khúc Phi Yên lấy làm lạ hỏi:
– Ô hay, Lệnh Hồ đại ca không chết sao tỷ tỷ lại khóc?
Hai chân của Nghi Lâm mềm nhũn ra, đứng không vững được nữa, ngã phục xuống trước giường. Cô khóc thút thít nói:
– Ta vui lắm! Khúc muội muội, ta cám ơn muội muội vô cùng. Thì ra, thì ra muội đã cứu… cứu Lệnh Hồ đại ca.
Khúc Phi Yên nói:
– Tỷ tỷ cứu đấy chứ, tiểu muội không có bản lãnh lớn như vậy đâu, lại không có Thiên hương đoạn tục giao nữa.
Bỗng nhiên Nghi Lâm sực nhớ ra, từ từ đứng dậy, kéo tay Khúc Phi Yên nói:
– Gia gia của tiểu muội đã cứu đại ca. Đúng là gia gia của tiểu muội đã cứu đại ca rồi.
Giữa lúc đó, bỗng nhiên bên ngoài có tiếng gọi to:
– Nghi Lâm! Nghi Lâm!
Đúng là tiếng gọi của Định Dật sư thái.
Nghi Lâm giật mình sợ hãi định thưa. Khúc Phi Yên liền thổi tắt ngọn nến trong tay, tay trái quay lại bụm miệng Nghi Lâm rồi nói khẽ vào tai cô:
– Đây là chỗ nào? Tỷ tỷ đừng lên tiếng.
Nghi Lâm nhất thời hốt hoảng lo quýnh cả lên. Cô biết mình đang ở trong kỹ viện, nơi cực kỳ nhơ nhớp, nhưng đã nghe tiếng sư phụ gọi mà không lên tiếng thưa là một việc mà suốt đời cô không bao giờ dám làm.
Lại nghe tiếng Định Dật la to:
– Điền Bá Quang, mau ra đây ta bảo! Ngươi khôn hồn thì thả Nghi Lâm ra ngay!
Điền Bá Quang từ trong phòng phía Tây cười một tràng ha hả rồi mới đáp:
– Vị này là Định Dật sư thái tiền bối ở Bạch Vân am phái Hằng Sơn phải không? Vãn bối vốn muốn ra bái kiến nhưng bên mình đang có mấy giai nhân níu kéo nên không thể thất lễ được. Xin tiền bối miễn thứ cho. Ha ha, ha ha.
Tiếp theo có tiếng phụ nữ cười lên khanh khách, giọng cười rất dâm đãng; chính là những kỹ nữ trong kỹ viện. Có ả còn lên tiếng:
– Hảo tướng công đừng thèm lý luận với mụ đó. Hãy cưng thiếp một chút nào. Hi hi, hi hi.
Mấy ả kỹ nữ càng lúc càng nói những lời dâm đãng. Hiển nhiên là Điền Bá Quang bảo bọn họ chọc tức Định Dật.
Định Dật cả giận quát:
– Điền Bá Quang, ngươi không ra đây thì ta sẽ chặt ngươi làm trăm mảnh.
Điền Bá Quang cười nói:
– Vãn bối không chường mặt ra thì bị tiền bối chặt làm trăm mảnh mà vãn bối có chường mặt ra thì cũng bị chặt làm trăm mảnh. Vậy tốt hơn là không chường mặt ra. Định Dật sư thái, nơi này không phải là nơi người xuất gia bước chân vào, xin tiền bối về đi là tốt hơn. Lệnh cao đồ không có ở đây đâu. Cô ấy là một tiểu sư phụ rất biết giữ thanh quy giới luật, sao lại có thể đến đây được? Tiền bối lão nhân gia lại đến nơi như thế này mà tìm đồ nhi há không phải là kỳ cục lắm sao?
Định Dật sư thái cả giận quát:
– Phóng hỏa, phóng hỏa! Đốt cháy ổ chó này để xem hắn có chịu chường mặt ra hay không?
Điền Bá Quang cười nói:
– Định Dật sư thái, đây là nơi nổi tiếng nhất trong thành Hành Sơn, gọi là Quần Ngọc viện. Tiền bối phóng hỏa đốt nó đi cũng không sao nhưng người ta sẽ rêu rao trên giang hồ rằng Quần Ngọc viện là chốn ăn chơi vui vẻ của tỉ nh Hồ Nam đã bị bà Định Dật sư thái ở Bạch Vân am phái H ằng Sơn đốt trụi. Nhất định có người sẽ thắc mắc: “Định Dật là vị sư thái tuổi cao đức trọng, sao lại đến nơi này? Đệ tử phái Hằng Sơn sao lại đến Quần Ngọc viện?” Cứ như thế, người này một câu, kẻ nọ một câu thì thanh danh của quý phái sẽ bị tổn thương mà chẳng lợi ích gì. Vãn bối xin nói cho tiền bối hay, Vạn lý độc hành Điền Bá Quang này không sợ trời cũng chẳng sợ đất, trên trời dưới đất chỉ sợ có mỗi một mình lệnh cao túc. Hễ thấy cô ta thì vãn bối bỏ trốn còn không kịp, sao còn dám giấu cô ta ở đây làm gì?
Định Dật suy nghĩ thấy những lời hắn nói cũng có lý. Nhưng chính đệ tử về bẩm báo với sư thái là rõ ràng đã thấy Nghi Lâm đi vào kỹ viện này; còn bị Điền Bá Quang đả thương, lẽ nào là không có thật sao? Lão ni giận đến nỗi bóp nát vụn miếng ngói đang cầm trong tay, nhất thời không biết làm thế nào.
Bỗng nhiên trên mái nhà đối diện, có tiếng người lạnh lùng hỏi:
– Điền Bá Quang, Bành Nhân Kỳ đệ tử của ta có phải bị ngươi giết không?
Người này chính là Dư Thương Hải, chưởng môn phái Thanh Thành. Điền Bá Quang nói:
– Thất kính, thất kính! Ngay cả chưởng môn phái Thanh Thành cũng đại giá giáng lâm khiến Quần Ngọc viện thành Hành Sơn từ khi thành lập đến nay mới nổi danh khắp thiên hạ, làm ăn phát đạt, không kịp tiếp khách nữa. Tại hạ có giết một tên tiểu tử kiếm pháp thuộc loại mèo què, có vài chiêu giống như chiêu số của phái Thanh Thành, còn hắn có phải là Bành Nhân Kỳ gì gì đó hay không thì tại hạ hơi đâu mà hỏi.
Bỗng nghe vù một tiếng. Dư Thương Hải đã nhảy vào phòng, tiếp theo là tiếng đao kiếm giao nhau nghe chát chúa giống như pháo liên châu nổ. Trong phòng ngủ, Dư Thương Hải và Điền Bá Quang đang giao đấu với nhau. Định Dật sư thái đứng trên nóc nhà nghe tiếng đao kiếm của hai người giao đấu dữ dội, lòng ngấm ngầm khâm phục: Quả nhiên Điền Bá Quang có bản lĩnh thực sự. Mấy chiêu khoái đao của hắn có thể đối địch ngang hàng với kiếm pháp của chưởng môn phái Thanh Thành.
Bỗng nhiên nghe một tiếng binh, tiếng đao kiếm giao nhau lập tức dừng hẳn.
Nghi Lâm nắm chặt tay Khúc Phi Yên, lòng bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi. Cô không biết Điền Bá Quang và Dư Thương Hải đấu với nhau, rốt cuộc ai thắng ai bại. Đáng lý ra, Điền Bá Quang đã mấy lần bắt nạt cô nên cô muốn hắn bị Dư Thương Hải đánh bại mới phải, nhưng bây giờ cô lại mong Dư Thương Hải bị Điền Bá Quang đánh bại để Dư Thương Hải và sư phụ của cô mau rời khỏi đây cho Lệnh Hồ Xung yên ổn dưỡng thương. Lúc này là thời khắc khẩn cấp cho sự sinh tử, tồn vong của đại ca; nếu Dư Thương Hải xông vào đúng phòng đại ca sẽ làm đại ca kinh hãi khiến vết thương bị chấn động thì có thể chết không chừng.
Lại nghe tiếng của Điền Bá Quang từ xa vọng lại rất to:
– Dư quán chủ, căn phòng này quá nhỏ, chân tay không khai triển được. Chúng ta ra ngoài khoảng đất rộng đại chiến ba bốn trăm hiệp nữa để xem cuối cùng ai lợi hại hơn. Nếu các hạ thắng thì nàng Ngọc Bảo xinh đẹp yêu kiều sẽ được nhường lại cho các hạ; còn giả sử như các hạ thua thì nàng Ngọc Bảo sẽ thuộc về tại hạ.
Dư Thương Hải giận muốn bể ngực. Những lời nói của tên dâm tặc này cho rằng lão và hắn cùng đấu với nhau vì ghen tuông muốn tranh giành một ả kỹ nữ trong Quần Ngọc viện tên là Ngọc Bảo gì gì đó. Vừa rồi đấu nhau ở trong phòng, chỉ chốc lát đã qua lại hơn năm mươi chiêu, đao pháp của Điền Bá Quang rất tinh kỳ, công thủ đều chuẩn mực. Dư Thương Hải tự biết võ công của đối phương thực sự không thua kém mình, nếu có đấu thêm ba bốn trăm chiêu nữa cũng chưa chắc đã nắm được phần thắng.
Bốn bề bỗng nhiên yên lặng. Nghi Lâm dường như nghe được tiếng đập loạn xạ của trái tim mình, cô cúi đầu xuống hỏi khẽ vào tai Khúc Phi Yên:
– Bọn… bọn họ không biết có vào đây không?
Kỳ thực tuy Khúc Phi Yên nhỏ hơn cô mấy tuổi nhưng khi tình hình khẩn cấp như thế này, Nghi Lâm hoàn toàn bị động. Khúc Phi Yên không trả lời, giơ tay bịt miệng Nghi Lâm lại.
Bỗng nghe tiếng Lưu Chính Phong nói:
– Dư quán chủ, Điền Bá Quang đã làm nhiều chuyện ác thì ngày sau tất không được chết dễ dàng đâu; chúng ta muốn thu phục hắn cũng không cần phải vội vàng lúc này. Đây là một kỹ viện ô uế, quán chủ có ý muốn tìm kiếm thì đợi Lưu mỗ bảo người đi tìm. Đại Niên, Vi Nghĩa đi vào trong lục soát cho ta, không để ai chạy thoát.
Hai gã đệ tử của Lưu môn là Hướng Đại Niên và Mễ Vi Nghĩa đồng thanh đáp dạ. Tiếp theo nghe tiếng Định Dật sư thái truyền lệnh bảo các đệ tử bao vây chung quanh kỹ viện.
Nghi Lâm càng lúc càng hoảng sợ. Chỉ nghe bọn đệ tử của Lưu môn hô hoán, lục soát từng phòng một. Lưu Chính Phong và Dư Thương Hải đang đốc thúc, bọn Hướng Đại Niên và Mễ Vi Nghĩa rượt đuổi bọn dắt mối, gái điếm và cả mèo chó; tiếng kêu la nổi lên inh ỏi. Bọn đệ tử phái Thanh Thành đập phá đồ dùng, chén bát, hũ rượu kêu loảng xoảng, bể tung tóe như hoa rơi nước đổ.
Nghe bọn đệ tử Lưu Chính Phong sắp sục sạo đến, Nghi Lâm sợ hãi muốn ngất đi, nghĩ thầm: Sư phụ đến cứu ta, ta lại không thưa, lại cùng với Lệnh Hồ đại ca chung phòng trong kỹ viện cả đêm. Tuy đại ca đang bị trọng thương, nhưng khi bọn đàn ông phái Hành Sơn và phái Thanh Thành xông vào thì ta dẫu có một trăm cái miệng cũng không sao giải thích được. Nếu ta làm liên lụy đến thanh danh của phái Hằng Sơn, ta… ta còn mặt mũi nào gặp lại sư phụ và các vị sư tỷ nữa đây?
Cô đưa tay rút cây kiếm sau lưng toan đâm vào cổ tự tử.
Khúc Phi Yên nghe tiếng rút kiếm ra khỏi vỏ, đã đoán được, liền xoay tay trái lại trong bóng tối chụp lấy tay Nghi Lâm, nói:
– Đừng làm vậy! Tiểu muội và tỷ tỷ xông ra ngoài đi.
Bỗng nghe tiếng sột soạt. Lệnh Hồ Xung từ từ ngồi dậy, nói khẽ:
– Đốt đèn sáng lên!
Khúc Phi Yên nói:
– Để làm gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta bảo ngươi đốt đèn sáng lên!
Giọng nói oai nghiêm. Khúc Phi Yên không dám hỏi nữa, lấy đá đánh cho ra lửa rồi đốt nến lên.
Nến vừa sáng, Nghi Lâm thấy sắc mặt của Lệnh Hồ Xung tái mét như người chết; cô không nhẫn nại được, khẽ kêu lên một tiếng kinh hãi.
Lệnh Hồ Xung chỉ vào cái chăn lớn trên đầu giường của mình rồi nói:
– Lấy chăn khoác… khoác lên người ta.
Nghi Lâm toàn thân run rẩy, cúi người xuống lấy chiếc chăn khoác lên người Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung kéo chiếc chăn ra phía trước để che các vết máu và vết thương ở trước ngực rồi nói:
– Cả hai cô lên giường nằm đi.
Khúc Phi Yên cười hi hi nói:
– Vui quá, vui quá!
Rồi cô kéo Nghi Lâm cùng chui vào chăn.
Lúc này mọi người ở ngoài đều đã thấy ánh sáng trong phòng, hối hả bảo nhau:
– Đến chỗ đó lục soát đi!
Bọn họ kéo ùa đến.
Lệnh Hồ Xung cố gắng lấy sức đóng cửa cài then, rồi quay người đến trước giường, vén màn lên nói:
– Cả hai chui cả vào trong chăn đi.
Nghi Lâm nói:
– Đại ca… đại ca đừng cử động, cẩn thận vết thương.
Lệnh Hồ Xung giơ tay trái đẩy Nghi Lâm chui vào trong chăn, tay phải kéo mái tóc dài của Phi Yên phủ lên trên đầu của cô. Hắn chỉ đẩy và kéo như vậy mà máu từ vết thương lại chảy ra, hai đầu gối mềm nhũn, phải ngồi trên giường.
Lúc này, trước cửa phòng đã có người đập cửa, có người quát:
– Đồ chó má, mở cửa!
Tiếp theo nghe rầm một tiếng, có người đạp tung cửa phòng ra, ba người cùng xông vào. Người đi trước chính là Hồng Nhân Hùng, đệ tử phái Thanh Thành. Gã vừa trông thấy Lệnh Hồ Xung thì vô cùng kinh hãi, quát:
– Lệnh Hồ… là Lệnh Hồ Xung…
Gã nói chưa xong thì vội nhảy lùi hai bước. Hướng Đại Niên và Mễ Vi Nghĩa không hề biết mặt Lệnh Hồ Xung nhưng nghe nói hắn đã bị La Nhân Kiệt giết rồi, bây giờ lại thấy hắn sống nhăn thì tâm thần chấn động, không hẹn mà cùng nhảy lùi về phía sau. Mọi người mở to mắt ra nhìn Lệnh Hồ Xung không chớp.
Lệnh Hồ Xung từ từ đứng lên, nói:
– Các ngươi… đến quá đông…
Hồng Nhân Hùng nói:
– Lệnh Hồ… Lệnh Hồ Xung! Thì ra… thì ra ngươi chưa chết ư?
Lệnh Hồ Xung lạnh lùng nói:
– Ta làm sao mà chết dễ dàng như vậy được?
Dư Thương Hải vượt qua mọi người tiến về phía trước nói:
– Ngươi đúng là Lệnh Hồ Xung ư? Hay lắm, hay lắm!
Lệnh Hồ Xung liếc lão một cái nhưng không trả lời.
Dư Thương Hải nói:
– Ngươi vào trong kỹ viện để làm gì?
Lệnh Hồ Xung cười ha hả, nói:
– Đã biết rồi mà còn bày đặt hỏi. Vào kỹ viện không làm việc ấy thì còn làm cái gì nữa?
Dư Thương Hải lạnh lùng hỏi:
– Ta thường nghe môn quy của phái Hoa Sơn rất nghiêm, ngươi là đại đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn, là truyền nhân chính tông của Quân tử kiếm Nhạc tiên sinh, sao lại lén lút đến kỹ viện mà chơi bời? Thật là đẹp mặt.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Môn quy của phái Hoa Sơn thế nào là chuyện của phái Hoa Sơn ta, không cần người khác xía vào.
Dư Thương Hải kiến thức sâu rộng, thấy sắc mặt của Lệnh Hồ Xung không còn chút máu, thân người run rẩy, hiển nhiên là người đang bị trọng thương. Phải chăng chuyện này có sự giả dối?
Lão lại nghĩ sang chuyện khác: Tiểu ni cô phái Hằng Sơn nói hắn đã bị La Nhân Kiệt giết, kỳ thực hắn đâu có chết. Rõ ràng là tiểu ni cô đã nói dối để gạt mọi người. Nghe cô ta nói, thì một tiếng Lệnh Hồ đại ca, hai tiếng Lệnh Hồ đại ca, tình cảm lai láng, không chừng bọn chúng nó đã kết tư tình với nhau. Có người trông thấy tiểu ni cô vào trong kỹ viện này, mà sao bây giờ lại chẳng thấy bóng dáng đâu, chắc có lẽ đã bị đem giấu đi rồi. Hừ, Ngũ Nhạc kiếm phái ỷ mình là danh môn chính phái trong võ lâm lại coi thường phái Thanh Thành của ta. Nếu ta lôi được con tiểu ni cô này ra thì không những đã làm nhục hai phái Hoa Sơn và Hằng Sơn mà cả Ngũ Nhạc kiếm phái cũng bị bẽ mặt; khiến cho chúng từ đây không thể khua môi múa mép trên giang hồ được nữa.
Lão đảo mắt nhìn bốn phía, không thấy có người khác ở trong phòng, nghĩ bụng: Xem ra tiểu ni cô này được giấu ở trên giường.
Lão nhìn Hồng Nhân Hùng nói:
– Nhân Hùng, vạch màn ra xem trên giường có cái trò gì không?
Hồng Nhân Hùng đáp:
– Dạ!
Rồi hắn bước lên trước hai bước. Hắn đã từng ăn đòn củ a Lệnh Hồ Xung nên trong tình hình này, hắn không dám nhìn thẳng vào Lệnh Hồ Xung, nhất thời cũng không dám khua chân bước tới trước, Lệnh Hồ Xung nói:
– Ngươi không muốn sống nữa chắc?
Hồng Nhân Hùng khựng người một chút, nhưng vì có sư phụ yểm trợ phía sau nên hắn không sợ Lệnh Hồ Xung như trước nữa. Soạt một tiếng, hắn rút trường kiếm ra.
Lệnh Hồ Xung nhìn Dư Thương Hải hỏi:
– Lão muốn làm gì ở đây?
Dư Thương Hải nói:
– Một tên nữ đệ tử của phái Hằng Sơn bị mất tích, có người thấy cô ta ở trong kỹ viện này. Chúng ta muốn kiểm tra.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chuyện của Ngũ Nhạc kiếm phái thì việc gì đến phái Thanh Thành của lão mà lão phải nhọc công?
Dư Thương Hải nói:
– Chuyện ngày hôm nay phải kiểm tra cho rõ ràng mới được. Nhân Hùng, động thủ đi!
Hồng Nhân Hùng đáp:
– Dạ!
Nghi Lâm và Khúc Phi Yên ôm lấy nhau núp kín trong chăn, nghe Lệnh Hồ Xung và Dư Thương Hải đối đáp từng câu rất rõ, lòng chỉ biết than khổ, toàn thân run cầm cập. Nghe Hồng Nhân Hùng vén màn ra thì cả hai hồn xiêu phách lạc.
Tấm màn vừa được vén ra, mọi người đều đưa mắt chăm chú nhìn lên giường, chỉ thấy trong cái chăn gấm màu đỏ thêu đôi uyên ương có người nằm, trên gối có làn tóc xanh phủ dài. Cái chăn gấm không ngừng rung động, rõ ràng người ở trong chăn vô cùng sợ hãi.
Dư Thương Hải vừa thấy làn tóc dài ở trên gối thì vô cùng thất vọng. Rõ ràng người trong chăn không phải là tiểu ni cô trọc đầu, thì ra Lệnh Hồ Xung đang ngủ với kỹ nữ!
Lệnh Hồ Xung lạnh lùng nói:
– Dư quán chủ, lão tuy là người xuất gia nhưng nghe nói đạo sĩ của phái Thanh Thành có quyền lấy vợ; vợ già vợ trẻ của lão thật không ít. Lão yêu sắc đẹp như tính mạng của mình, nếu muốn nhìn rõ con gái trong kỹ viện khỏa thân thế nào sao không mau mau mở tung chăn ra mà nhìn cho sướng mắt? Hà tất lão phải lấy cớ tìm kiếm nữ đệ tử của phái Hằng Sơn làm gì?
Dư Thương Hải quát:
– Cái miệng chó của ngươi thật thối tha!
Lão hô lên một tiếng rồi vung chưởng đánh ra. Lệnh Hồ Xung nghiêng mình né tránh chưởng phong của lão, nhưng do đang bị trọng thương nên chuyển động không mau lẹ được. Phát chưởng của Dư Thương Hải rất lợi hại, Lệnh Hồ Xung bị chưởng phong của lão đánh tạt qua người nên đứng không vững nữa, ngã chúi xuống giường. Lệnh Hồ Xung cố sức chống đỡ lại đứng dậy được, miệng phun ra một ngụm máu tươi, người loạng choạng lắc lư, lại phun ra một ngụm máu nữa. Dư Thương Hải muốn ra tay lần nữa, bỗng nhiên nghe ngoài cửa sổ có tiếng người nói to:
– Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm!
Tiếng “mặt” nói chưa dứt, Dư Thương Hải đã xoay chưởng đánh về hướng cánh cửa, thân người cũng vọt theo phát chưởng đến bên ngoài cửa sổ. Ánh sáng trong phòng rọi ra, lão chỉ thấy một gã lưng gù xấu xí đang muốn trèo tường chạy trốn. Dư Thương Hải quát:
– Đứng lại!
Gã lưng gù đó chính là Lâm Bình Chi cải trang. Sau khi ở trong Lưu phủ chàng bị Dư Thương Hải chiếu tướng, nhân lúc Khúc Phi Yên xuất hiện, Dư Thương Hải chỉ lo chú ý đến cô bé này, chàng lập tức len lén rút lui.
Chàng núp ở bên góc tường, nhất thời không có ý định gì hết. Chàng chẳng biết làm sao để có thể cứu được gia gia, má má; trầm ngâm một hồi lâu mới nghĩ bụng: Ta cải trang làm người gù, mọi người trong đại sảnh đều đã thấy cả rồi, lại gặp người của phái Thanh Thành nữa, dễ mất mạng như chơi. Có nên phục hồi lại tướng mạo như cũ?
Chàng nhớ lại vừa rồi bị Dư Thương Hải tóm, toàn thân như mềm nhũn ra, không còn chút sức lực để chống cự. Tại sao trên đời lại có người võ công cao cường như vậy? Lòng chàng đã có ý sợ hãi, ngẩn người ra.
Không biết trải qua bao lâu, bỗng nhiên chàng nghe có người vỗ nhẹ lên vai. Lâm Bình Chi giật mình sợ hãi vội quay người lại. Thì ra đó là một người có cái lưng gù cao, chính là lão Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong. Lão ta cười nói: “Giả làm người gù có gì hay ho đâu? Sao ngươi phải mạo xưng là đồ tử đồ tôn của ta?”
Lâm Bình Chi biết tính khí của lão rất hung bạo, võ công lại cực kỳ cao thâm, nếu không khéo đối đáp thì dễ bị họa sát thân. Nhưng vừa rồ i ở trong đại sảnh, chàng đã lỡ khấu đầu lạy lão, còn nói lão hành hiệp trượng nghĩa, chứ chưa hề làm gì đắc tội với lão. Vậy chỉ nên ăn nói kiểu đó thì chắc lão không nổi giận được. Chàng nói:
– Vãn bối đã từng nghe rất nhiều người nói rằng Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp tiếng thơm lẫy lừng, sẵn lòng cứu giúp người hoạn nạn, nâng đỡ kẻ khốn cùng. Vãn bối vẫn một lòng ngưỡng mộ nên vô tình cải trang dáng dấp giống Mộc đại hiệp, vạn lần xin tiền bối xá tội.
Mộc Cao Phong cười ha hả rồi nói:
– Cái gì giúp đỡ người khó khăn, nâng đỡ kẻ khốn cùng. Thật là ăn nói láo toét.
Lão biết rõ Lâm Bình Chi đang nói dóc nhưng những lời nói này nghe rất êm tai, bèn hỏi:
– Ngươi tên là gì? Môn hạ của ai?
Lâm Bình Chi đáp:
– Vãn bối họ Lâm, trong lúc vô ý mạo nhận họ của tiền bối.
Mộc Cao Phong cười nhạt nói:
– Cái gì là trong lúc vô ý? Ngươi chỉ muốn đem tên của gia gia ngươi ra để làm gạt gẫm kẻ khác. Dư Thương Hải là chưởng môn phái Thanh Thành, lão chỉ giơ đầu ngón tay ra thì lập tức ngươi bị toi mạng ngay. Một tiểu tử như ngươi lại dám đụng độ với lão thì thật là to gan.
Lâm Bình Chi vừa nghe đến tên của Dư Thương Hải, máu trong ngực như muốn sôi lên, lớn tiếng nói:
– Vãn bối nếu còn một hơi thở, nhất định sẽ chém chết lão gian tặc này.
Mộc Cao Phong lấy làm lạ hỏi:
– Dư Thương Hải với ngươi có thù oán gì?
Lâm Bình Chi chần chừ rồi nghĩ bụng: “Nếu lấy sức của một mình ta thì khó cứu được gia gia má má, dứt khoát phải bái lão thêm một bái nữa, cầu xin lão ra tay giúp đỡ”.
Chàng lập tức quỳ xuống khấu đầu nói:
– Phụ mẫu của vãn bối đã rơi vào tay gian tặc, khẩn cầu tiền bối trượng nghĩa cứu giúp.
Mộc Cao Phong chau mày lắc đầu lia lịa nói:
– Việc này không có lợi gì. Mộc đà tử trước nay chẳng bao giờ làm việc vô ích. Gia gia ngươi là ai? Cứu lão rồi thì ta được lợi gì?
Đang nói đến đây, bỗng nghe bên cửa có người nói rất nhỏ, ngữ khí thật khẩn cấp:
– Mau bẩm báo sư phụ, trong kỹ viện Quần Ngọc viện, có một người phái Thanh Thành bị người ta giết, lại có người phái Hằng Sơn bị thương trốn về.
Mộc Cao Phong nói khẽ:
– Chuyện của ngươi từ từ hãy nói. Trước mắt đang có chuyện náo nhiệt đáng xem, ngươi muốn mở rộng tầm mắt thì đi theo ta.
Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Đi theo lão thì sẽ có cơ hội cầu xin lão giúp mình, lập tức đáp:
– Dạ dạ, lão tiền bối đi đâu vãn bối sẽ xin đi theo đến đó.
Mộc Cao Phong nói:
– Chúng ta nói lại cái chuyện vừa rồi. Mộc đà tử này bất luận làm chuyện gì phải có lợi thì mới làm. Nếu ngươi lại làm cho gia gia ngươi thêm phiền phức, đừng nói thì tốt hơn.
Lâm Bình Chi ấm ớ vâng dạ. Bỗng nghe Mộc Cao Phong nói:
– Họ đi hết rồi, ngươi đi theo ta.
Chàng cảm thấy cổ tay phải bị lão nắm chặt, tiếp theo thân người bị nhấc bổng lên như không chạm đất, chạy nhanh trên đường phố thành Hành Sơn.
Đến bên ngoài Quần Ngọc viện, Mộc Cao Phong và Lâm Bình Chi núp ở phía sau gốc cây, quan sát động tĩnh của mọi người trong viện. Các tình huống Dư Thương Hải và Điền Bá Quang giao đấu với nhau, bọn Lưu Chính Phong sục sạo tìm kiếm, Lệnh Hồ Xung gắng gượng đứng dậy, cả hai người đều nghe thấy rõ tất cả. Đợi đến lúc Dư Thương Hải muốn đánh Lệnh Hồ Xung, Lâm Bình Chi nhịn không được nữa buột miệng la to tám chữ “Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm”.
Lâm Bình Chi vừa kêu lên, tự biết là mình lỗ mãng. Chàng quay người toan tìm chỗ ẩn núp, nào ngờ Dư Thương Hải cực kỳ nhanh nhẹn, la lên một tiếng “Đứng lại!” thì chưởng lực đã theo âm thanh chụp phủ lên toàn thân chàng. Chỉ cần lão thúc đẩy thêm nội lực thì có thể làm chàng nát tan phủ tạng, xương cốt gãy từng đoạn. Nhưng khi lão thấy tướng mạo của chàng thì không phát thêm nội lực nữa, chỉ cười nhạt nói:
– Thì ra là ngươi.
Lão hướng tầm mắt về phía Mộc Cao Phong đứng phía sau Lâm Bình Chi hơn một trượng, nói:
– Mộc đà tử, lão đã mấy lần sai bảo tiểu bối đến làm khó dễ ta là có dụng ý gì?
Mộc Cao Phong cười ha hả, nói:
– Hắn tự nhận là tiểu bối của ta nhưng Mộc đà tử này lại không nhận hắn. Hắn họ Lâm, ta họ Mộc, tiểu tử này với ta có liên hệ gì đâu? Dư quán chủ, Mộc đà tử không phải là sợ lão, chỉ vì không muốn gây oán thù với ai mà làm cái dù che cho một tên tiểu bối vô danh. Nếu làm cái dù che cho hắn thì có lợi ích gì đâu. Ngay đến vàng bạc châu báu có ào ạt đưa tới thì Mộc đà tử cũng phải cân nhắc nặng nhẹ, tính toán xem có đáng làm hay không. Nhưng trước mắt việc mua bán lỗ vốn không có lợi ích gì cả nên ta quyết không làm.
Dư Thương Hải nghe vậy, lòng mừng thầm bèn nói:
– Gã này với Mộc huynh đã không có liên hệ gì, lại còn huênh hoang mạo xưng là đồ tôn. Bần đạo bất tất phải làm khó dễ huynh nữa.
Lão nói xong toan vung chưởng ra, bỗng nghe trong cửa sổ có người nói:
Dư Thương Hải quay đầu lại thấy một người đứng bên cửa sổ. Đó chính là Lệnh Hồ Xung. Dư Thương Hải càng tức giận nhưng tám chữ “Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm!” lại chính là câu nói khích bác hoàn toàn đúng. Võ công của hai tên này kém lão rất xa, nếu muốn giết chúng thì chỉ cần giơ tay lên một cái là xong, nhưng bốn chữ “Ỷ lớn hiếp nhỏ” dù thế nào lão cũng không tránh khỏi. Mà đã là “Ỷ lớn hiếp nhỏ” thì bốn chữ sau “cái đồ mặt mâm” ráp vào rất thuận miệng. Nhưng nếu bỏ qua thì nỗi tức giận này làm sao nuốt trôi được? Lão cười khẩy nhìn Lệnh Hồ Xung nói:
– Chuyện của ngươi sau này ta sẽ tìm sư phụ của ngươi tính sổ.
Lão quay sang Lâm Bình Chi nói:
– Tiểu tử, ngươi là người của môn phái nào?
Lâm Bình Chi cả giận quát:
– Cẩu tặc, ngươi đã hại ta nhà tan cửa nát, bây giờ còn bày đặt hỏi ta ư?
Dư Thương Hải lấy làm lạ hỏi:
– Ta có bao giờ biết một người xấu xí như ngươi đâu? Cái gì mà nhà tan cửa nát, chuyện đó ở đâu ra?
Nhưng ở chỗ này đông người, có nhiều tai mắt, lão không muốn hỏi tiếp, bèn quay qua bảo Hồng Nhân Hùng:
– Nhân Hùng, ngươi giết tiểu tử này trước rồi hãy bắt Lệnh Hồ Xung.
Lão sai đệ tử phái Thanh Thành ra tay thì không ai nói được là “Ỷ lớn hiếp nhỏ”.
Hồng Nhân Hùng đáp dạ rồi rút kiếm xông lên.
Lâm Bình Chi giơ tay định rút thanh kiếm sau lưng, nhưng vừa nhấc tay thì trường kiếm sáng loáng của Hồng Nhân Hùng đã đâm tới trước ngực chàng. Lâm Bình Chi la to:
– Dư Thương Hải, Lâm Bình Chi ta…
Dư Thương Hải giật mình kinh hãi, tay trái vội phóng chưởng, chưởng phong làm thanh kiếm của Hồng Nhân Hùng bị chấn động bay chếch ra ngoài rồi văng đi.
Dư Thương Hải hỏi:
– Ngươi nói sao?
Lâm Bình Chi nói:
– Lâm Bình Chi ta có chết thành ma quỷ thì cũng phải tìm ngươi đòi mạng.
Dư Thương Hải nói:
– Ngươi… ngươi là Lâm Bình Chi của Phước Oai tiêu cục ư?
Lâm Bình Chi biết mình không còn cách nào giấu mặt được nữa, chàng muốn ngang nhiên nhận lấy cái chết oanh liệt cho thỏa chí. Hai tay chàng xé hết những miếng thuốc dán trên mặt rồi nói to:
– Đúng vậy, ta là Lâm Bình Chi của Phước Oai tiêu cục ở Phúc Châu. Nhi tử của lão chọc ghẹo gái nhà lành là do ta giết đấy. Lão hại ta nhà tan cửa nát; gia gia và má má của ta lão… lão… lão đem giam giữ ở đâu?
Chuyện phái Thanh Thành khiêu chiến với Phước Oai tiêu cục đã lan truyền khắp giang hồ. Chuyện Trường Thanh Tử trước kia thất bại dưới kiếm của Lâm Viễn Đồ, trong võ lâm không ai không biết. Người ta đều nói phái Thanh Thành quyết chí muốn cướp đoạt Tịch tà kiếm phổ nhà họ Lâm. Lệnh Hồ Xung đã nghe qua chuyện này, nên lúc trên Hồi Nhạn lâu mới dụ được La Nhân Kiệt khom người xuống nghe và lượm kiếm đâm chết hắn. Mộc Cao Phong cũng biết được tin này, bây giờ lại nghe gã lưng gù giả này nói là “Lâm Bình Chi ở Phước Oai tiêu cục” khiến Dư Thương Hải vừa nghe gã xưng tên ra đã vội phát chưởng gạt thanh trường kiếm của Hồng Nhân Hùng đi, vẻ mặt lại vô cùng quan tâm. Xem ra Tịch tà kiếm phổ đích xác ở trong tay chàng thanh niên này.
Dư Thương Hải đưa tay trái ra nắm chặt lấy cổ tay phải của Lâm Bình Chi, kéo Lâm Bình Chi qua hướng lão. Mộc Cao Phong quát:
– Khoan đã!
Lão phóng người ra, đưa tay nắm chặt cổ tay trái của Lâm Bình Chi kéo ngược về phía mình. Hai cánh tay của Lâm Bình Chi bị hai lão dùng kình lực mạnh kéo ra hai bên; các khớp xương kêu lên rắc rắc. Chàng đau quá, muốn ngất xỉu.
Dư Thương Hải biết nếu mình tăng thêm kình lực thì Lâm Bình Chi lập tức chết như chơi. Trường kiếm trong tay phải lão giơ lên nhằm Mộc Cao Phong đâm tới rồi quát:
– Mộc huynh buông tay ra!
Tay trái Mộc Cao Phong vung lên, choang một tiếng, gạt trường kiếm ra. Trong tay của lão đã cầm một thanh loan đao sáng.
Dư Thương Hải triển khai kiếm pháp, phát ra những âm thanh veo véo không ngớt, trong khoảnh khắc đã liên tiếp tấn công Mộc Cao Phong bảy tám chiêu. Lão nói:
– Mộc huynh, huynh với ta không thù không oán, hà tất vì tên tiểu tử này mà làm tổn thương hòa khí hai bên?
Tay của Dư Thương Hải vẫn nắm chặt tay phải của Lâm Bình Chi, không chịu buông ra.
Mộc Cao Phong sử loan đao gạt đỡ từng đường kiếm của Dư Thương Hải, miệng nói:
– Vừa rồi ở trước mặt nhiều người, tiểu tử này đã dập đầu lạy ta, gọi ta là “gia gia”, mọi người đều nghe thấy cả. Tại hạ và Dư quán chủ tuy xưa nay chưa có thù oán gì, nhưng Dư quán chủ bắt giết người gọi tại hạ bằng “gia gia” là làm cho tại hạ mất mặt. Làm gia gia mà không thể che chở được cho tôn tử thì sau này còn có ai gọi tại hạ là gia gia nữa?
Hai người vừa nói vừa đánh nhau, tiếng đao kiếm loảng choảng không ngừng, càng lúc càng nhanh.
Dư Thương Hải cả giận nói:
– Mộc huynh, tên này đã giết con của ta, mối thù giết con, sao có thể không trả?
Mộc Cao Phong cười ha hả nói:
– Được, tại hạ nể mặt Dư quán chủ, giúp Dư quán chủ báo thù. Nào, nào, nào! Các hạ kéo hắn về phía trước còn tại hạ lôi hắn về phía sau. Một, hai, ba! Chúng ta cùng xé tiểu tử này ra làm hai mảnh.
Nói xong lão lại hô to:
– Một, hai, ba!
Tiếng “ba” vừa ra khỏi miệng, lão liền gia tăng kình lực, xương cốt toàn thân Lâm Bình Chi kêu lên rắc rắc.
Dư Thương Hải sợ vô cùng. Lão nghĩ rằng để báo thù thì không nên nóng ruột, kiếm phổ còn chưa lấy được, quyết không thể làm tổn thương tính mạng Lâm Bình Chi. Lão lập tức buông tay ra. Lâm Bình Chi bị lôi qua phía Mộc Cao Phong.
Mộc Cao Phong cười ha hả rồi nói:
– Đa tạ, đa tạ! Dư quán chủ thật là một hảo bằng hữu, giao tình tốt, nể mặt Mộc đà tử đến nỗi ngay cả mối thù giết con cũng bỏ qua. Trên giang hồ trọng nghĩa như vậy thật hiếm có người thứ hai.
Dư Thương Hải lạnh lùng nói:
– Mộc huynh biết vậy thì tốt rồi. Lần này tại hạ nhường một bước nhưng sau này sẽ không có lần thứ hai đâu.
Mộc Cao Phong cười hà hà nói:
– Cũng chưa chắc đâu. Dư quán chủ nghĩa khí cao tận mây xanh, không chừng lần thứ hai lại có thể nhường nhịn nữa đó.
Dư Thương Hải hừ lên một tiếng, khoát tay nói:
– Chúng ta đi thôi!
Nói xong, lão thống lãnh đệ tử bổn môn lập tức rút lui.
Lúc này Định Dật sư thái vì nóng lòng cứu Nghi Lâm, cùng với quần ni phái Hằng Sơn qua hướng Tây lục lạo tìm kiếm. Lưu Chính Phong thống lãnh bọn đệ tử qua hướng Đông. Bọn phái Thanh Thành đã đi khỏi, bên ngoài Quần Ngọc viện chỉ còn lại Mộc Cao Phong và Lâm Bình Chi.
Mộc Cao Phong cười hi hi nói:
– Ngươi không phải gù lưng mà là một tiểu tử tuấn tú. Tiểu tử, ngươi không cần gọi ta là gia gia nữa. Đà tử này rất mến ngươi, muốn thu nhận ngươi làm đồ đệ, ngươi thấy sao?
Vừa rồi, Lâm Bình Chi bị hai lão dùng nội lực thượng thừa lôi kéo, toàn thân đau đớn vô cùng. Chàng nghe Mộc Cao Phong nói vậy, bèn nghĩ bụng: Võ công của lão gù này cao thâm hơn gia gia mình gấp mười lần, Dư Thương Hải đối với lão cũng có phần kiêng kỵ. Mình muốn báo thù tuyết hận phải bái lão làm sư phụ thì mới có hy vọng. Nhưng lão thấy tên đệ tử phái Thanh Thành đó vung kiếm giết mình mà cứ lờ đi như không thấy gì hết, khi vừa nghe đến lai lịch của mình đã lập tức ra tay tranh đoạt với Dư Thương Hải. Bây giờ lão lại muốn nhận mình làm đệ tử, hiển nhiên không phải là có lòng tốt rồi.
Mộc Cao Phong thấy vẻ mặt chàng do dự, lại nói:
– Võ công, thanh danh của Tái Bắc minh đà ngươi đã biết rồi đó. Cho đến hôm nay, ta chưa từng thu nhận một tên đệ tử nào. Ngươi bái ta làm sư phụ thì sư phụ sẽ đem hết võ công tài nghệ truyền thụ cho ngươi; lúc đó, đừng nói bọn tiểu tử phái Thanh Thành quyết không phải là đối thủ của ngươi mà giả tỷ như ngươi muốn đánh bại Dư Thương Hải nào có khó gì? Tiểu tử, sao lại chẳng khấu đầu bái sư phụ?
Lão nói càng thiết tha bao nhiêu thì Lâm Bình Chi lại càng nghi ngờ bấy nhiêu. Chàng nghĩ: Nếu lão thật sự thương ta tại sao vừa rồi lại nắm chặt tay ta, dùng hết sức mà kéo, không có chút gì thương xót? Ác tặc Dư Thương Hải biết ta là kẻ đại thù sẽ giết lão về sau, mà vẫn không muốn kéo cho ta chết luôn. Rõ ràng bọn chúng vì Tịch tà kiếm phổ gì gì đó. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái có biết bao nhiêu kẻ sĩ chân chính, võ nghệ cao cường. Ta quyết không bái lão gù này làm sư phụ.
Mộc Cao Phong thấy chàng vẫn còn chần chừ thì nỗi bực tức trong lòng bốc lên, nhưng ngoài mặt vẫn cười giả lả, nói:
– Sao? Ngươi chê võ công của đà tử này quá thấp, không đáng làm sư phụ của ngươi sao?
Lâm Bình Chi thấy Mộc Cao Phong trong phút chốc nét mặt xám đen, thần sắc thật là đáng sợ. Nhưng lão chỉ giận lên một chút lại tỏ ra hiền hòa thân thiện ngay. Chàng biết mình đang ở trong hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm, nếu không bái lão làm sư phụ, không chừng lão sẽ nổi giận, lập tức giết chết mình. Chàng liền nói:
– Mộc đại hiệp, đại hiệp chịu nhận vãn bối làm đồ đệ, đó là điều mà vãn bối có cầu cũng không được. Chỉ vì vãn bối học võ công gia truyền, nếu như khấu đầu nhận minh sư khác thì phải được gia phụ ưng thuận. Điều đó một là gia pháp, hai là quy củ trong võ lâm.
Mộc Cao Phong gật đầu nói:
– Ngươi nói cũng có lý, nhưng chút võ nghệ của ngươi chỉ để chơi thôi chứ không thể nói là công phu được. Gia gia của ngươi xem ra võ công cũng có giới hạn; lão nhân gia ta hôm nay nhất thời hứng khởi trong lòng, muốn nhận ngươi làm đồ đệ, chứ sau này ta chưa chắc đã có hứng như vậy đâu. Cơ duyên này tự nhiên gặp chớ không phải cầu mà được. Tiểu tử, ta thấy ngươi dường như có vẻ lanh lợi mà sao lại hồ đồ vậy? Thôi ngươi cứ khấu đầu bái sư trước, sau này ta sẽ nói với gia gia ngươi, chắc lão cũng không dám không thuận đâu.
Lâm Bình Chi đáp:
– Mộc đại hiệp, phụ mẫu của vãn bối rơi vào tay phái Thanh Thành, chưa rõ sống chết ra sao. Vãn bối cầu xin Mộc đại hiệp cứu phụ mẫu ra; lúc đó vãn bối sẽ cảm ân báo đáp, Mộc đại hiệp có điều chi dạy bảo thì vãn bối cũng xin tuân theo.
Mộc Cao Phong cả giận nói:
– Cái gì? Ngươi mặc cả với ta à? Tiểu tử, ngươi có cái gì nào, ta còn chưa nhận ngươi làm đồ đệ mà ngươi đã ra yêu sách với ta ư? Có lý nào như vậy, có lý nào như vậy?
Lão chợt nhớ lại Dư Thương Hải trước mặt mọi người còn nhượng bộ, không chịu xé đôi kẻ thù giết con mình, tất nhiên là có mưu đồ trọng đại khác. Dư Thương Hải là một con người như vậy, sao có thể dễ dàng bỏ qua mối thù cho được? Chắc có lẽ lời truyền tụng trên giang hồ không sai. Tịch tà kiếm phổ nhà họ Lâm xác thực là rất quý báu, chỉ cần thu nhận tiểu tử này làm đồ đệ thì bộ võ học bí truyền này sớm muộn gì cũng lọt vào tay ta.
Lão nói:
– Mau dập đầu lạy ba lạy. Khi ngươi đã là đệ tử của ta, Dư Thương Hải bắt phụ mẫu của đệ tử ta thì ta cứ đến mà bắt lão thả người ra, danh chánh ngôn thuận. Ta mà đến, lão dám không thả phụ mẫu ngươi ra ư?
Lâm Bình Chi dốc lòng muốn cứu cha mẹ, chàng nghĩ bụng: Gia gia, má má đang ở trong tay gian tặc, sống một ngày bằng cực nhục cả năm. Nói gì đi nữa cũng phải mau cứu cha mẹ ra. Ta nhất thời chịu khuất phục, bái lão làm sư phụ, chỉ cần lão cứu được gia gia má má thì dù có gặp chuyện tày trời ta cũng cam chịu.
Chàng lập tức quỳ xuống toan dập đầu lạy. Mộc Cao Phong sợ chàng đổi ý, liền đưa tay đặt lên đầu chàng ấn xuống.
Lâm Bình Chi vốn đã muốn cúi đầu bái lạy nhưng bị lão dùng lực đè như vậy thì chàng lại phát sinh ý thức trái ngược, cổ của chàng cứng ngắc, không để cho lão đè xuống tiếp. Mộc Cao Phong cả giận nói:
– Hừ, ngươi không chịu dập đầu lạy sao?
Lão tăng thêm kình lực. Lâm Bình Chi vốn là người tâm cao khí ngạo, làm thiếu tiêu đầu đã quen, bình thường chỉ có người phụng thừa, trước giờ chưa chịu khuất phục ai. Giờ vì nóng lòng muốn cứu phụ mẫu nên chàng quyết ý khấu đầu bái sư nhưng Mộc Cao Phong lại ra chiều ức hiếp, khiến cho bản tính quật cường của chàng nổi lên. Chàng nói lớn:
– Khi nào tiền bối cứu được cha mẹ của vãn bối ra thì vãn bối mới bái tiền bối làm sư phụ. Bây giờ muốn vãn bối khấu đầu thì vạn lần cũng không được.
Mộc Cao Phong nói:
– Vạn lần không được ư? Thử xem, có quả thật là vạn lần không được chăng?
Lão tăng thêm một phần kình lực. Lâm Bình Chi cố sức ngay lưng ra muốn đứng dậy nhưng trên đầu như có tảng đá ngàn cân đè xuống làm sao có thể đứng dậy được? Hai tay chàng chống xuống đất, ra sức cựa quậy. Mộc Cao Phong lại tăng thêm một phần kình lực nữa. Lâm Bình Chi nghe xương cổ của mình kêu lên rắc rắc. Mộc Cao Phong cười ha hả nói:
– Ngươi có chịu lạy hay không? Ta mà tăng thêm một phần kình lực nữa thì cái cổ của ngươi gãy ngay.
Đầu của Lâm Bình Chi bị lão ấn xuống từng tấc, còn cách đất không quá nửa thước. Chàng cố sức la lên:
– Ta không lạy là không lạy!
Mộc Cao Phong nói:
– Để xem ngươi có lạy hay không?
Lão ấn tay xuống, trán của Lâm Bình Chi bị lão đè sát đất thêm hai tấc nữa.
Bỗng nhiên, Lâm Bình Chi cảm thấy trên lưng mình có luồng hơi nóng, một lực đạo ôn hòa truyền vào người chàng khiến áp lực trên đầu chàng nhẹ hẳn đi. Hai tay đang chống dưới đất dùng sức bật mạnh, đứng dậy được.
Chuyện này vượt ra ngoài sự tiên liệu của Lâm Bình Chi, riêng Mộc Cao Phong lại càng kinh hãi. Vừa rồi, một luồng kình lực xông đến tay lão, dường như là Tử hà công của phái Hoa Sơn nổi tiếng trong võ lâm. Nghe nói môn nội công này khó luyện vô cùng, nó mềm mại như mây tím nhưng lại tiềm ẩn một kình lực vô cùng thâm hậu, về sau bao phủ cả trời đất, thế lực cực mạnh không thể ngờ được. Hai chữ Tử hà cũng từ đó mà ra.
Mộc Cao Phong vô cùng kinh ngạc. Lão lại đưa tay rất nhanh đặt lên đầu Lâm Bình Chi; lòng bàn tay vừa đụng đến đỉnh đầu Lâm Bình Chi thì trên đỉnh đầu của chàng xông ra một luồng nội công ôn hòa. Hai luồng kình lực đụng nhau làm cho cánh tay của Mộc Cao Phong phát tê, ngực lão cũng ngấm ngầm đau nhức. Lão lùi ra sau hai bước, cười ha hả rồi nói:
– Nhạc huynh phái Hoa Sơn phải không? Sao lại lén núp bên chân tường đùa giỡn với đà tử?
Ở sau góc tường có tiếng cười to, một thư sinh mặc áo bào màu xanh nhẹ nhàng bước ra; tay phe phẩy cây quạt lông, tinh thần rất thoải mái, cười nói:
– Mộc huynh, nhiều năm không gặp, dáng vẻ vẫn như xưa. Thật đáng mừng!
Mộc Cao Phong thấy người trước mặt quả nhiên là Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần, chưởng môn phái Hoa Sơn. Trước giờ đối với Nhạc Bất Quần, lão rất úy kỵ. Bây giờ vừa lúc lão ra tay uy hiếp gã tiểu bối võ công bình thường này thì lại giáp mặt Nhạc Bất Quần ra tay cứu hắn. Bất giác lão lúng túng, giả bộ tươi cười, nói:
– Nhạc huynh, huynh càng ngày càng trẻ ra, đà tử thật muốn bái huynh làm sư phụ để học cái thuật Âm dương thái bổ của huynh.
Nhạc Bất Quần “hừ” một tiếng rồi cười nói:
– Đà tử ăn nói càng ngày càng tẻ nhạt, gặp mặt cố nhân không nói chuyện tâm tình mà lại nói những lời vẩn vơ. Tiểu đệ có biết gì về công phu tà môn ấy đâu!
Mộc Cao Phong cười nói:
– Huynh nói là không biết công phu thái bổ, không ai tin đâu. Tại sao huynh đã gần sáu mươi tuổi rồi mà bỗng nhiên phản lão hoàn đồng, xem ra giống như thuộc hàng con cháu của đà tử này vậy?
Lúc Mộc Cao Phong buông tay ra, Lâm Bình Chi liền nhảy lùi mấy bước, nhìn thấy một vị thư sinh có năm chòm râu dài, vẻ mặt như ngọc, đầy vẻ chính khí, lòng chàng ngưỡng mộ vô cùng. Chàng biết vừa rồi người này đã ra tay cứu mình. Nghe Mộc Cao Phong gọi người này là Nhạc huynh phái Hoa Sơn, chàng nghĩ thầm trong bụng: Nhân vật này trông như thần tiên, phải chăng là Nhạc tiên sinh, chưởng môn phái Hoa Sơn? Nhưng nhìn lão lại không quá bốn mươi tuổi, thì xem ra không phải vậy. Gã Lao Đức Nặc kia là đệ tử của lão nhưng lại già hơn lão nhiều.
Khi nghe Mộc Cao Phong khen lão có thuật trụ nhan, chàng mới nghĩ ra: Mình đã từng nghe mẫu thân nói qua, những cao thủ trong võ lâm luyện nội công đến mức tinh thâm thì không những trường thọ bất lão mà còn có thể phản lão hoàn đồng. Vị Nhạc tiên sinh này có lẽ đã luyện được công phu đến mức đó.
Lâm Bình Chi nghĩ đến đây, không kìm được sự khâm phục.
Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:
– Mộc huynh vừa gặp mặt đã chẳng có lời nào hay ho. Mộc huynh, chàng thiếu niên này là một hiếu tử, lại đầy lòng hiệp nghĩa, tất có ngày thành danh, chẳng trách Mộc huynh yêu thích hắn. Ngày nay, hắn gặp nhiều hoạn nạn cũng chỉ vì ngày trước ở Phúc Châu đã trượng nghĩa cứu giúp tiểu nữ Linh nhi mà ra. Tiểu đệ không thể không ra tay giúp hắn, mong Mộc huynh hãy nể mặt tiểu đệ mà nương tay cho hắn.
Mộc Cao Phong lộ vẻ kinh ngạc nói:
– Cái gì? Tiểu tử này bản lĩnh có chút xíu như vậy mà có thể cứu được Linh nhi điệt nữ ư? Những l ời này phải nói ngược lại mới đúng, Linh nhi điệt nữ có con mắt tinh đời như nam tử…
Nhạc Bất Quần biết lão gù này ăn nói thô tục, để lão nói tiếp nữa thì chẳng có lời hay ho nào nên chặn họng lão lại, bèn nói:
– Đồng đạo trên giang hồ gặp lúc nguy nan, ai cũng nên ra tay tương trợ, dù thịt nát xương tan cũng là cứu mà một lời nói đỡ cũng là cứu, không màng đến võ công cao hay thấp. Mộc huynh, nếu huynh quyết ý nhận hắn làm đồ đệ thì nên để cho thiếu niên này bẩm lại phụ mẫu rõ, rồi đến quy đầu làm môn hạ của quý phái, há không vẹn toàn cho cả hai bên sao?
Mộc Cao Phong thấy Nhạc Bất Quần đã nhúng tay vào thì chuyện hôm nay khó đạt như ý nguyện bèn lắc đầu nói:
– Đà tử nhất thời hứng khởi muốn nhận hắn làm đồ đệ, bây giờ thì đã mất hứng rồi. Tiểu tử này có dập đầu lạy một vạn cái thì tiểu đệ cũng không nhận nữa đâu.
Lão nói xong liền phóng chân trái đá bốp một cái, Lâm Bình Chi lộn nhào văng ra mấy trượng. Chuyện này vượt ra ngoài sự phỏng đoán của Nhạc Bất Quần, lão hoàn toàn không ngờ Mộc Cao Phong nhấc chân lên là đá, lại không có một chút dấu hiệu báo trước nên không kịp ra tay cản trở.
Lâm Bình Chi ngã nhào về phía sau rồi lập tức đứng dậy, dường như chưa bị thương tích gì.
Nhạc Bất Quần nói:
– Mộc huynh sao lại cư xử như bọn trẻ con? Tiểu đệ phải nói huynh là phản lão hoàn đồng mới đúng.
Mộc Cao Phong cười nói:
– Nhạc huynh yên tâm, đà tử này có to gan đến đâu cũng không dám đắc tội với vị… vị… của huynh… ha ha… Tiểu đệ cũng không biết vị này là cái gì của Nhạc huynh. Tạm biệt, tạm biệt, thật không ngờ uy danh lừng lẫy như phái Hoa Sơn mà vẫn còn thèm khát Tịch tà kiếm phổ.
Lão vừa nói vừa vung tay thoái lui.
Nhạc Bất Quần tiến lên, lớn tiếng nói:
– Mộc huynh, huynh nói cái gì vậy?
Gương mặt lão hiện lên sắc tía, nhưng chỉ trong khoảnh khắc những sắc tía vừa xuất hiện lại tàn đi ngay, sắc mặt trở lại như cũ.
Mộc Cao Phong thấy mặt lão đầy sắc tía, lòng không khỏi hồi hộp, nghĩ bụng: Quả nhiên là Tử hà công của phái Hoa Sơn rồi. Kiếm pháp của Nhạc Bất Quần đã cao minh, lại luyện được môn nội công thần kỳ này, đà tử ta không thể đắc tội với lão được.
Lão lập tức cười hi hi nói:
– Tiểu đệ không biết Tịch tà kiếm phổ là cái thứ gì, chỉ thấy lão Dư Thương Hải phái Thanh Thành bất chấp tính mệnh mà tìm mọi cách để chiếm đoạt nên thuận miệng nói càn vài câu. Nhạc huynh bất tất để bụng làm chi.
Lão nói xong liền xoay người vọt đi.
Nhạc Bất Quần nhìn theo Mộc Cao Phong cho đến lúc bóng y mất hút. Lão thở dài, lẩm bẩm:
– Trong võ lâm, những người có công phu như hắn rất là hiếm thấy. Vậy mà y cam tâm làm thứ…
Lão nén lại hai chữ “hạ lưu” không nói ra rồi lại lắc đầu thở dài.
Bỗng nhiên Lâm Bình Chi chạy đến, quỳ hai gối xuống đất, dập đầu lia lịa, nói:
– Kính xin sư phụ thu nhận vào môn tường. Đệ tử nguyện tuân theo lời giáo huấn, nghiêm giữ môn quy, quyết không dám có một chút phản bội sư mệnh.
Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:
– Nếu ta thâu nhận ngươi làm đồ đệ thì khó tránh khỏi bị Mộc đà tử nói lén sau lưng rằng ta cướp đoạt đồ đệ của lão.
Lâm Bình Chi khấu đầu nói:
– Đệ tử vừa thấy sư phụ lòng đã vô cùng ngưỡng mộ. Đệ tử thành tâm thành ý cầu khẩn.
Chàng nói xong, lại dập đầu liên tục.
Nhạc Bất Quần cười nói:
– Được rồi. Ta thu nhận ngươi làm đệ tử thì không khó; có điều ngươi chưa bẩm rõ với phụ mẫu, không biết hai vị có bằng lòng hay không.
Lâm Bình Chi nói:
– Nếu được ân sư thu nạp đệ tử vào môn tường thì gia phụ, gia mẫu sẽ rất vui mừng, quyết không có lý do gì mà không đồng ý. Gia phụ, gia mẫu đang bị bọn ác tặc Thanh Thành giam cầm, xin sư phụ ra tay cứu giúp.
Nhạc Bất Quần gật đầu nói:
– Đứng lên đi! Được, chúng ta đi tìm song thân của ngươi ngay.
Lão quay đầu lại gọi:
– Đức Nặc, A Phát, San nhi! Tất cả ra đây!
Từ sau góc tường, một đám đông đi ra, chính là bọn đệ tử của phái Hoa Sơn. Thì ra những người này đã đến đây từ lâu rồi; Nhạc Bất Quần bảo họ núp ở sau cho đến lúc Mộc Cao Phong bỏ đi mới xuất hiện để Mộc Cao Phong khỏi cảm thấy bẽ bàng khi gặp quá nhiều người. Bọn Lao Đức Nặc hớn hở chúc tụng:
– Chúc mừng sư phụ thu nhận thêm đệ tử.
Nhạc Bất Quần cười nói:
– Bình Chi, đây là những sư ca mà ngươi đã gặp trong quán trà nhỏ rồi. Ngươi hãy làm lễ ra mắt các vị sư ca đi.
Lão già là nhị sư huynh Lao Đức Nặc; hán tử tướng mạo cao lớn là tam sư huynh Lương Phát; gã ăn mặc như phu khuân vác là tứ sư huynh Thi Đới Tử; gã lúc nào cũng cầm bàn tính là ngũ sư huynh Cao Căn Minh. Còn lục sư huynh Lục Đại Hữu là nhân vật đặc biệt, ai thấy một lần cũng sẽ khó quên. Ngoài ra, còn có thất sư huynh Đào Điếu, bát sư huynh Anh Bạch La là hai đệ tử còn rất trẻ. Lâm Bình Chi lần lượt đến bái kiến mọi người. Bỗng nhiên sau lưng Nhạc Bất Quần vang lên một tràng cười trong trẻo:
– Gia gia, hài nhi là sư tỷ hay là sư muội của y?
Lâm Bình Chi ngây người ra, nhận ra đó là tiếng nói của thiếu nữ bán rượu ở thành Phúc Châu mà các môn hạ phái Hoa Sơn đều gọi cô ta là “tiểu sư muội”. Thì ra cô ta là con gái của sư phụ. Chỉ thấy phía sau áo bào xanh của Nhạc Bất Qu ần ló ra nửa khuôn mặt trái xoan trắng như tuyết; con mắt bên trái đen tròn lúng liếng nhìn chàng từ đầu đến chân rồi lại ẩn vào phía sau lưng Nhạc Bất Quần. Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Thiếu nữ bán rượu dung nhan thật xấu xí, mặt đầy vết sẹo đậu mùa, tại sao lại trở thành xinh đẹp như vậy? Cô ta ló đầu ra rồi lại thụt vào, trời lại còn tối, trăng sáng mờ mờ nên không cách nào nhìn rõ được. Nhưng thiếu nữ này dung nhan xinh đẹp là điều không thể nghi ngờ gì nữa.
Chàng lại nghĩ: Cô ta nói là cô ta cải trang đến ngoại thành Phúc Châu bán rượu; Định Dật sư thái lại nói cô ta cải trang thành một người xấu xí. Vậy thì cái bộ dạng xấu xí đó là do cô ta cố ý cải trang mà ra.
Nhạc Bất Quần cười nói:
– Các vị sư huynh nhập môn sau hài nhi đều gọi hài nhi là tiểu sư muội. Số phận làm sư muội của hài nhi đã được định rồi, vậy thì tất nhiên hài nhi cũng là tiểu sư muội thôi.
Thiếu nữ cười nói:
– Hài nhi không chịu đâu. Từ nay về sau, hài nhi phải làm sư tỷ. Gia gia, Lâm sư đệ phải gọi hài nhi là “sư tỷ”; sau này gia gia có thâu nhận thêm một hay hai trăm đệ tử nữa cũng đều phải gọi hài nhi là sư tỷ hết.
Cô vừa nói vừa cười, từ sau lưng Nhạc Bất Quần đi ra. Dưới ánh trăng mờ ảo, Lâm Bình Chi thấy thấp thoáng khuôn mặt vô cùng khả ái, đôi mắt đen láy nhìn đăm đăm vào mặt chàng. Lâm Bình Chi xá dài rồi nói:
– Nhạc sư tỷ, tiểu đệ hôm nay được ân sư mở lòng thâu nhận làm môn hạ. Người nào vào môn hạ trước là lớn, tiểu đệ tất nhiên là sư đệ của sư tỷ rồi.
Nhạc Linh San vui mừng quay người lại phụ thân nói:
– Gia gia, y tự nguyện gọi hài nhi là sư tỷ chứ không phải do hài nhi ép buộc đâu.
Nhạc Bất Quần cười nói:
– Người ta mới nhập môn mà hài nhi lại nói đến hai chữ “ép buộc”. Nếu người nào trong môn hạ ta đều giống như hài nhi, ỷ lớn hiếp nhỏ, há không làm cho y sợ sao?
Nghe lão nói vậy, bọn đệ tử cùng cười rần lên. Nhạc Linh San nói:
– Gia gia, đại sư ca ẩn vào nơi này để dưỡng thương lại bị lão đạo sĩ thối tha Dư Thương Hải đánh cho một chưởng e rằng vô cùng nguy hiểm. Chúng ta mau đi xem đại ca ra sao.
Nhạc Bất Quần chau mày, lắc đầu nói:
– Căn Minh, Đới Tử! Hai ngươi đi khiêng đại sư ca ra đây.
Cao Căn Minh và Thi Đới Tử cùng đồng thanh dạ một tiếng rồi nhảy qua cửa sổ vào phòng. Lát sau cả hai gã đều nói:
– Sư phụ, đại sư ca không có ở đây, phòng trống trơn.
Tiếp theo, ánh sáng xuyên qua cửa sổ. Hai người đã đốt đèn lên. Nhạc Bất Quần cau tít cặp chân mày. Lão không muốn bước vào kỹ viện là nơi ô uế bẩn thỉu, bèn bảo Lao Đức Nặc:
– Đừng quấy rầy! Hài nhi không được phép vào những nơi như thế này.
Nhạc Linh San sốt ruột đến muốn khóc, nói:
– Nhưng… nhưng đại ca đang bị trọng thương… e rằng tính mạng của đại ca nguy hiểm.
Nhạc Bất Quần nói nhỏ:
– Đừng đau lòng. Hắn đã được bôi Thiên hương đoạn tục giao của phái Hằng Sơn, không chết đâu mà lo.
Nhạc Linh San vừa sợ hãi vừa vui mừng, hỏi:
– Gia gia! Gia gia làm sao mà biết được?
Nhạc Bất Quần nói:
– Nói nhỏ thôi, đừng có nhiều lời.
Lệnh Hồ Xung đã bị trọng thương, lại bị thêm một chưởng của Dư Thương Hải khiến vết thương càng thêm đau đớn. Hắn hộc ra hai ngụm máu, nhưng thần trí vẫn còn tỉnh táo. Hắn nghe Mộc Cao Phong và Dư Thương Hải giao đấu với nhau, rồi khi mọi người ra đi, lại biết được có sư phụ tới. Lệnh Hồ Xung không sợ trời không sợ đất, chỉ sợ có sư phụ thôi. Hắn nghe tiếng Mộc Cao Phong và sư phụ đối đáp với nhau, liền nghĩ: Mình đã gây thù oán với nhiều người, không biết sư phụ sẽ trách phạt ra sao.
Nhất thời quên đi vết thương đang đau nhức, hắn quay người về phía giường nói khẽ:
– Đại họa rồi! Sư phụ ta đến, chúng ta phải trốn cho mau.
Lệnh Hồ Xung nói xong lập tức vịn tường đi ra khỏi phòng.
Khúc Phi Yên kéo Nghi Lâm từ từ chui ra khỏi chăn đi theo Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung lảo đảo, hai người vội chạy lại đỡ. Lệnh Hồ Xung cắn chặt răng, đi xuyên qua dãy hành lang, thầm nghĩ tai mắt của sư phụ rất linh mẫn, chỉ cần đi ra thì lập tức sư phụ phát giác ngay.
Hắn thấy bên mé phải có một gian phòng lớn, lập tức lẻn vào rồi nói:
– Đóng… đóng cửa sổ lại.
Khúc Phi Yên nghe lời đi đóng cửa sổ. Lệnh Hồ Xung không gắng gượng được nữa liền ngã người lên giường, thở dồn dập.
Cả ba người im thin thít. Một lúc sau, mới nghe giọng nói của Nhạc Bất Quần từ xa:
– Hắn không có ở đây, chúng ta đi thôi.
Lệnh Hồ Xung thở phào nhẹ nhõm, lòng cảm thấy yên ổn.
Lại qua một lúc nữa, bỗng nghe có tiếng bước chân người từ trong sân đi tới, gọi khẽ:
– Đại sư ca, đại sư ca!
Đó là Lục Đại Hữu. Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Xét cho cùng, chỉ có Lục hầu nhi là tốt với ta nhất.
Lệnh Hồ Xung muốn lên tiếng đáp lại, chợt thấy tấm màn trên giường rung động. Thì ra Nghi Lâm nghe tiếng có người gọi tìm, sợ hãi run lên. Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Ta lên tiếng trả lời thì sẽ làm liên lụy đến thanh danh của vị tiểu sư muội này.
Nghĩ vậy, hắn không lên tiếng, lắng tai nghe Lục Đại Hữu đi ngang qua cửa sổ, vừa đi vừa gọi khẽ: “Đại sư ca, đại sư ca”. Tiếng gọi xa dần, xa dần rồi không còn nghe thấy nữa.
Khúc Phi Yên bỗng nói:
– Chao ôi, Lệnh Hồ Xung đại ca chết chưa?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Ta làm sao có thể chết được? Nếu ta chết thì sẽ làm tổn thương danh dự của phái Hằng Sơn, rất có lỗi với họ.
Khúc Phi Yên lấy làm lạ hỏi:
– Tại sao vậy?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Linh dược trị thương của phái Hằng Sơn ta đã được trong uống ngoài thoa. Nếu trị không hết, Lệnh Hồ Xung này vô cùng có lỗi… có lỗi với vị sư muội của phái Hằng Sơn.
Khúc Phi Yên cười nói:
– Đúng vậy, nếu đại ca mà chết đi thì quá tội lỗi với người ta đấy.
Nghi Lâm thấy Lệnh Hồ Xung bị thương nặng như vậy mà còn nói đùa được, cô khâm phục sự gan dạ của hắn và cũng an tâm hơn một chút. Cô nói:
– Lệnh Hồ đại ca, lão Dư quán chủ lại đánh đại ca một chưởng. Để tiểu muội xem lại vết thương của đại ca ra sao.
Lệnh Hồ Xung hoàn toàn kiệt sức, có muốn ngồi dậy cũng không nổi, đành phải nằm dài trên giường.
Khúc Phi Yên thắp ngọn nến lên. Nghi Lâm thấy áo của Lệnh Hồ Xung đầy máu. Không kiêng kỵ gì nữa, cô nhẹ cởi trường bào của Lệnh Hồ Xung ra, lấy chậu rửa mặt và khăn tay treo trên giá giặt cho sạch sẽ rồi lau chùi vết máu trên người của Lệnh Hồ Xung. Cô lấy Thiên hương đoạn tục giao trong người ra bôi hết lên vết thương. Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Linh dược quý báu này đem dùng một cách lãng phí cho tại hạ, thật là đáng tiếc.
Nghi Lâm nói:
– Lệnh Hồ đại ca vì tiểu muội mới bị trọng thương như vậy, đừng nói dược vật nhỏ nhoi này, mà cả… mà cả…
Cô nói đến đây thì cảm thấy khó nói hết được, ấp úng một lúc rồi nói tiếp:
– Ngay cả sư phụ của tiểu muội cũng khen đại ca là thiếu niên anh hùng, có nghĩa khí, dũng cảm cho nên sư phụ mới sinh sự với Dư quán chủ.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tại hạ không muốn được khen ngợi, chỉ mong sư thái lão nhân gia tha thứ, không trách mắng tại hạ thì đã cám ơn trời đất lắm rồi.
Nghi Lâm nói:
– Sư phụ của tiểu muội sao… sao lại trách mắng đại ca được. Đại ca nên tịnh dưỡng mười hai canh giờ, vết thương không bị chấn động thì không có gì đáng lo nữa.
Cô lại lấy ra ba viên Bạch vân hùng đảm hoàn đưa cho Lệnh Hồ Xung uống. Khúc Phi Yên bỗng nhiên nói:
– Tỷ tỷ, tỷ tỷ ở đây chăm sóc đại ca, đề phòng có người xấu đến hãm hại. Gia gia đang đợi tiểu muội, tiểu muội phải đi đây.
Nghi Lâm vội nói:
– Đừng, đừng! Tiểu muội đừng đi. Một mình ta ở đây làm sao được?
Khúc Phi Yên cười nói:
– Lệnh Hồ Xung không phải đang ở đây sao? Đâu phải chỉ một mình tỷ tỷ.
Cô nói xong liền quay người đi ngay. Nghi Lâm hốt hoảng nhảy lên phía trước, chụp tay trái Khúc Phi Yên lại. Cô sử cầm nã thủ của phái Hằng Sơn, nắm chặt tay Khúc Phi Yên rồi nói:
– Tiểu muội đừng đi!
Khúc Phi Yên cười nói:
– Chao ôi! Tỷ tỷ muốn động võ ư?
Nghi Lâm đỏ mặt, buông tay ra rồi năn nỉ:
– Hảo tiểu muội, tiểu muội ở lại đây với ta đi.
Khúc Phi Yên cười nói:
– Được rồi, được rồi. Tiểu muội ở lại đây với tỷ tỷ được chưa. Lệnh Hồ Xung đâu phải là người xấu, tỷ tỷ làm sao sợ đại ca đến như vậy?
Nghi Lâm an tâm một chút nói:
– Xin lỗi Khúc muội muội. Ta chụp tiểu muội có đau không?
Khúc Phi Yên nói:
– Tiểu muội đâu có đau, nhưng Lệnh Hồ Xung thì đau lắm đó.
Nghi Lâm nghe vậy kinh hãi, chạy đến mở màn ra xem, thấy hai mắt Lệnh Hồ Xung nhắm lại, đã ngủ từ lúc nào. Cô đưa tay lên mũi Lệnh Hồ Xung, cảm thấy hơi thở đều đặn, nên rất yên tâm.
Bỗng nghe Khúc Phi Yên cười khanh khách rồi có tiếng cửa sổ mở. Nghi Lâm vội quay người lại thì Khúc Phi Yên đã phóng qua cửa sổ đi rồi.
Nghi Lâm vô cùng kinh hãi, nhất thời không biết làm thế nào, bèn chạy đến trước giường gọi:
– Lệnh Hồ đại ca! Lệnh Hồ đại ca! Cô ấy… cô ấy đi rồi.
Nhưng lúc này dược lực đang phát tác, Lệnh Hồ Xung hôn mê ngủ li bì, không trả lời được. Toàn thân Nghi Lâm run cầm cập, sợ hãi khôn xiết. Một hồi lâu, cô mới đi đóng cửa sổ lại, nghĩ bụng: Đại ca bị trọng thương nguy hiểm như vậy, bây giờ chỉ một đứa nhỏ cũng có thể giết chết đại ca. Tại sao ta không ở lại chăm sóc đại ca mà định bỏ đi?
Trong đêm tối, chỉ nghe tiếng chó sủa từ những ngõ hẻm xa xa vọng lại, rồi tất cả lại chìm trong tĩnh mịch. Mọi người trong kỹ viện đã trốn hết rồi. Cô tưởng chừng như trên thế gian này, ngoài Lệnh Hồ Xung đang ngủ trong màn ra thì không còn người nào khác nữa.
Nghi Lâm ngồi trên ghế không dám nhúc nhích, một lúc lâu sau nghe tiếng gà gáy vang lên bốn phía. Trời sắp sáng, Nghi Lâm lại sốt ruột, thầm nghĩ: Trời sáng rồi sẽ có người đến, ta biết làm sao đây?
Cô xuất gia từ thuở nhỏ, tất cả mọi việc đều do Định Dật sư thái lo liệu hết nên cô không có một chút kinh nghiệm ứng biến. Bây giờ, ngoài sự sốt ruột ra, cô không nghĩ được cách nào khác. Trong cơn hoảng loạn, cô bỗng nghe có tiếng bước chân người đi qua đường hẻm. Tiếng bước chân nghe rất rõ vì bốn bề rất yên ắng, tĩnh mịch. Mấy người này đi đến trước cửa Quần Ngọc viện thì dừng lại.
Một người nói:
– Hai người tìm kiếm phía Đông, ta và hai người tìm kiếm phía Tây. Nếu thấy Lệnh Hồ Xung thì bắt sống hắn; hắn bị trọng thương không chống cự nổi bọn ta đâu.
Lúc đầu, Nghi Lâm nghe có tiếng người đến đã vô cùng hoảng sợ, giờ lại nghe hắn nói đến chuyện bắt Lệnh Hồ Xung, lập tức cô nảy ra ý nghĩ: Bằng mọi cách ta phải bảo vệ Lệnh Hồ đại ca chu toàn, quyết không để đại ca rơi vào tay bọn bất lương này.
Quyết định chủ ý rồi, nỗi sợ hãi của cô vụt tan biến, đầu óc cô hoàn toàn tỉnh táo. Cô chạy đến bên giường, kéo cái chăn đơn quấn lấy Lệnh Hồ Xung rồi ôm xốc lên, thổi tắt ngọn nến, nhè nhẹ mở cửa phòng trốn ra ngoài.
Cô không cần phân biệt phương hướng, cứ chạy ngược hướng với nơi phát ra tiếng người. Trong khoảnh khắc, cô đã vượt qua vườn rau đến cửa sau. Cánh cửa khép hờ, thì ra mọi người trong Quần Ngọc viện hốt hoảng chạy đi, mở cửa sau rồi quên không đóng lại. Cô ôm ngang Lệnh Hồ Xung chạy ra khỏi cửa, chạy hết đường hẻm thì đến bên tường thành. Nghi Lâm nghĩ thầm: Ta phải ra khỏi thành vì trong thành Hành Sơn này, Lệnh Hồ đại ca có rất nhiều kẻ thù.
Cô men theo tường thành chạy thật nhanh, đến cửa thành liền vội chạy ra ngoài.
Nghi Lâm chạy một mạch bảy tám dặm rồi rẽ vào một vùng hoang sơn cho đến khi không còn đường đi nữa thì đã đến trước một sơn động. Lòng an định lại, cô cúi xuống nhìn Lệnh Hồ Xung thì thấy Lệnh Hồ Xung đã tỉnh, mặt hắn lộ vẻ tươi cười đang nhìn mình đăm đăm. Thấy vẻ mặt tươi cười của Lệnh Hồ Xung, lòng cô đột nhiên hoang mang, hai tay phát run lên, sẩy tay đánh rơi Lệnh Hồ Xung xuống. Cô kêu lên “chao ôi!” một tiếng rồi vội sử chiêu Kính phụng bảo kinh cúi mình xuống đưa tay nâng Lệnh Hồ Xung lên.
Cô sử chiêu thức này rất nhanh, không để Lệnh Hồ Xung rơi xuống đất. Nhưng hạ bàn cô không vững, người loạng choạng, liền chạy về phía trước mấy bước rồi mới đứng lại được. Cô nói:
– Xin lỗi đại ca, vết thương đại ca có đau không?
Lệnh Hồ Xung mỉm cười đáp:
– Không đau! Tiểu sư muội nghỉ một chút đi!
Vừa rồi Nghi Lâm vì phải chạy trốn sự truy nã của bọn đệ tử phái Thanh Thành, tâm ý của cô chỉ nghĩ làm sao cho Lệnh Hồ Xung thoát nạn, không lọt vào bàn tay độc ác của đối phương nên cô hoàn toàn không thấy mệt nhọc. Giờ cô đã định thần, cảm thấy tứ chi rã rời, nhè nhẹ đặt Lệnh Hồ Xung xuống trên đám cỏ rồi đứng không vững nữa. Cô ngồi phịch xuống đất, thở hồng hộc.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Tiểu muội chỉ có lo chạy, lại quên không điều vận hơi thở. Đó là điều… điều… đại… đại kỵ của người học võ. Cứ như thế thì rất dễ… dễ bị tổn thương lắm.
Nghi Lâm đôi má ửng hồng, nói:
– Đa tạ Lệnh Hồ đại ca chỉ dạy. Sư phụ tiểu muội cũng đã có dạy qua rồi nhưng tiểu muội nhất thời hoang mang nên quên mất.
Cô ngưng lại một chút rồi hỏi:
– Vết thương của Lệnh Hồ đại ca thế nào rồi?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không còn đau nữa, chỉ thấy hơi ngưa ngứa thôi.
Nghi Lâm vui mừng nói:
– Hay quá, hay quá! Vết thương bị ngứa là hiện tượng thuyên giảm, thật không ngờ lại mau lành như vậy.
Lệnh Hồ Xung thấy cô vui mừng thì lòng cũng có chút cảm động, bèn cười nói:
– Đó là nhờ sự công hiệu từ linh dược của quý phái.
– Chỉ đáng tiếc là ta bị trọng thương để cho bọn chuột nhắt khinh nhờn. Vừa rồi, nếu ta bị lọt vào tay mấy tên tiểu tử phái Thanh Thành thì chết cũng không sợ, chỉ sợ bị chúng làm nhục.
Nghi Lâm nói:
– Thì ra đại ca nghe thấy hết rồi ư?
Cô nghĩ đến việc mình đã ôm Lệnh Hồ đại ca chạy lâu như vậy mà cũng không biết đại ca mở mắt nhìn mình từ lúc nào, bất giác mặt cô lại đỏ lên như ráng chiều.
Lệnh Hồ Xung không biết tại sao cô lại mắc cỡ. Hắn cho là vì cô chạy quá lâu, hao tổn nhiều sức lực, bèn nói:
– Sư muội, sư muội ngồi xuống đây một chút, dùng tâm pháp của quý phái điều hòa nội tức để khỏi bị nội thương.
Nghi Lâm dạ một tiếng, lập tức ngồi xếp bằng rồi vận dụng tâm pháp. Sư phụ đã truyền cho cô tâm pháp để điều hòa nội tức, nhưng tâm ý cô bồn chồn, không có cách nào an tịnh được. Không bao lâu, cô mở mắt liếc nhìn Lệnh Hồ Xung, xem thương thế của y biến chuyển ra sao, rồi lại xem đại ca có nhìn mình không. Khi Nghi Lâm liếc nhìn lần thứ tư thì đúng lúc Lệnh Hồ Xung mở mắt nhìn cô. Cô giật nẩy người, vội vàng nhắm mắt lại. Lệnh Hồ Xung cười lên ha hả.
Nghi Lâm hai má ửng hồng, bẽn lẽn hỏi:
– Tại… tại sao cười?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không có gì. Sư muội còn nhỏ tuổi, công phu còn non nớt, nhất thời không định thần được, bất tất phải miễn cưỡng. Định Dật sư bá nhất định đã dạy cho tiểu muội lúc luyện tập mà tinh tiến dũng mãnh quá thì cũng đáng ngại. Việc điều hành nội tức nên bình tâm tĩnh trí mới thực hiện được.
Lệnh Hồ Xung nghĩ một chút rồi nói tiếp:
– Tiểu muội an tâm, nguyên khí của ta đang từ từ hồi phục, bọn tiểu tử phái Thanh Thành có đuổi theo đến đây, chúng ta cũng không sợ chúng nữa. Ta sẽ cho bọn chúng từng tên một Thí cổ hướng hậu…
Nghi Lâm mỉm cười nói:
– Từng tên phái Thanh Thành bình sa lạc nhạn.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đúng vậy. Thật là tuyệt diệu. Cái gì Thí cổ hướng hậu… nói ra thì hơi bất nhã. Chúng ta gọi nó là Bình sa lạc nhạn thức của phái… Thanh Thành nghe hay hơn.
Lệnh Hồ Xung nói những tiếng sau cùng thì nổi lên một cơn ho dài, dường như muốn nghẹt thở.
Nghi Lâm nói:
– Đại ca đừng nói nhiều, hãy ngủ thêm một chút nữa đi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sư phụ của ta đã đến thành Hành Sơn rồi! Ta hận mình không đứng dậy đi được để đến phủ Lưu sư thúc xem cuộc náo nhiệt này.
Nghi Lâm thấy đôi môi Lệnh Hồ Xung khô rang, hai mắt ráo hoảnh. Cô biết Lệnh Hồ Xung mất máu quá nhiều, cần phải uống nhiều nước, bèn nói:
– Tiểu muội đi tìm một ít nước cho đại ca uống. Nhất định đại ca khát nước lắm phải không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta thấy trên đường ở mé trái đám ruộng có nhiều dưa hấu. Tiểu muội đi hái mấy trái đi! Nghi Lâm đáp dạ một tiếng rồi đứng dậy sờ lên người. Một đồng cũng không có.
Cô liền hỏi:
– Lệnh Hồ đại ca, đại ca có tiền không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Để làm gì?
Nghi Lâm nói:
– Để đi mua dưa.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Mua cái gì? Tiện tay thì hái. Gần đó không có người, người trồng dưa nhất định ở rất xa, tiểu muội hỏi ai mà mua?
Nghi Lâm chần chừ rồi nói:
– Không cho mà lấy là… trộm cắp rồi. Đây là giới cấm thứ hai trong ngũ giới, không được đâu. Nếu không có tiền thì xin một trái, chắc họ cũng cho.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy khó chịu nói:
– Tiểu…
Lệnh Hồ Xung định mắng cô ta là “Tiểu ni cô lẩn thẩn” nhưng nghĩ đến cô vừa tận lực cứu mình, nên vừa nói ra chữ “Tiểu” thì lập tức nín lại.
Nghi Lâm thấy sắc mặt Lệnh Hồ Xung không vui, nên cô không dám nói nữa. Cô đành nghe lời đi tìm. Cô đi hơn hai dặm quả nhiên thấy mấy đám dưa hấu, từng dây lúc lỉu những trái. Trên ngọn cây, tiếng ve kêu râm ran, bốn bề không có một bóng người. Cô nghĩ thầm: L ệnh Hồ đại ca muốn ăn dưa hấu, nhưng vật có chủ, làm sao ta có thể tùy tiện trộm cắp của người ta được.
Nghi Lâm đi thêm hơn một dặm nữa, đứng bên một gò cao rồi nhìn bốn phía vẫn không thấy một bóng người; ngay cả một ngôi nhà của nông dân cũng không có. Cô đành quay về đứng trong ruộng dưa. Chần chừ một lúc, toan đưa tay hái một trái nhưng lại thụt tay về. Nghi Lâm nhớ lại giới luật sư phụ đã dạy, quyết không thể ăn trộm đồ của người khác. Cô đã muốn bỏ đi nhưng trong đầu lại hiện lên vẻ mặt tiều tụy, miệng đắng môi khô của Lệnh Hồ Xung. Nghi Lâm bặm miệng, chấp hai tay lâm râm khấn nguyện:
– Bồ Tát từ bi xin chứng giám cho đệ tử. Đệ tử không dám có ý ăn trộm nhưng vì Lệnh Hồ đại ca… Lệnh Hồ đại ca muốn ăn dưa hấu…
Nhưng rồi cô chợt nghĩ lại tám chữ “Lệnh Hồ đại ca muốn ăn dưa hấu” không phải là lý do chính đáng, lòng cô rất nóng nảy, hai dòng lệ tự nhiên tuôn trào. Cô cúi xuống, hai tay ôm trái dưa lên; cuống dưa đứt lìa. Cô thầm nghĩ: Người ta đã cứu tính mạng ngươi thì ngươi có vì người ta mà đọa xuống địa ngục, vĩnh viễn chịu đau khổ trong luân hồi cũng chẳng hề hấn gì. Chuyện ta làm thì ta chịu. Nghi Lâm này đã phạm vào giới luật chứ Lệnh Hồ đại ca không có liên can gì đến cả.
Nghi Lâm ôm trái dưa hấu chạy về bên Lệnh Hồ Xung.
Trước nay, Lệnh Hồ Xung chẳng hề để ý đến lễ pháp giáo điều của thế tục, thấy Nghi Lâm đi một lúc lâu mới hóa duyên trái dưa hấu của người ta, hắn chỉ cho rằng tiểu ni cô này còn nhỏ tuổi không hiểu việc đời. Hắn không ngờ rằng cô ta vì hái trộm một trái dưa mà trong thâm tâm đã nổi lên một cuộc đấu tranh tư tưởng dữ dội, phải chịu đựng nhiều điều ấm ức. Thấy cô ôm trái dưa về, hắn vui mừng cất tiếng khen:
– Hảo sư muội, sư muội thật là một cô nương ngoan ngoãn.
Nghi Lâm thình lình nghe Lệnh Hồ Xung khen mình như vậy, lòng chấn động, suýt làm rơi trái dưa. Cô vội túm trái dưa vào trong vạt áo. Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Sao sư muội lại hoang mang như vậy? Tiểu muội ăn trộm dưa bị người ta rượt theo ư?
Má Nghi Lâm lại đỏ lên, nói:
– Không, không ai rượt theo tiểu muội cả.
Cô nói rồi từ từ ngồi xuống.
Trời vừa sáng, mặt trời mọc lên ở phía Đông. Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm vẫn ngồi trong bóng núi, ánh mặt trời không thể chiếu tới được. Sau cơn mưa cây cối quanh núi cành lá xanh tươi, ngọn gió thanh lương thật dễ chịu.
Nghi Lâm đã định thần lại, rút cây kiếm gãy sau lưng ra, nhìn chỗ đầu kiếm bị gãy, nghĩ thầm: Tên ác nhân Điền Bá Quang võ công thật lợi hại. Nếu hôm đó không có Lệnh Hồ đại ca xả thân cứu ta thì bây giờ làm sao ta có thể bình yên mà ngồi ở đây.
Cô liếc nhìn Lệnh Hồ Xung, thấy hai mắt hắn sâu hoắm, khuôn mặt trắng bệch không còn giọt máu. Cô tự nhủ: Vì đại ca, dẫu ta có phạm thêm nhiều đại ác nghiệp cũng không hề hối hận, chỉ mới ăn trộm một trái dưa thì có sao đâu?
Cô nghĩ đến đây thì những điều bất an trong lòng sau khi phạm giới vụt tan biến hết. Cô dùng vạt áo lau sạch lưỡi kiếm gãy rồi xẻ trái dưa ra; mùi thơm man mác xông lên mũi.
Lệnh Hồ Xung ngửi thấy mùi thơm, kêu lên:
– Dưa ngon quá!
Rồi hắn nói:
– Sư muội, ta chợt nhớ ra một câu chuyện vui. Rằm nguyên tiêu năm nay, bọn sư huynh sư muội ta tụ tập để uống rượu. Linh San sư muội đưa ra một câu đố, cô nói: “Bên trái là một con chó, bên phải là một trái dưa, hãy đoán xem đó là chữ gì?” Lúc đó ngồi bên trái cô ta là Lục Đại Hữu Lục sư đệ, người sư đệ tối hôm qua đã vào kỹ viện tìm ta; còn ta thì ngồi bên phải cô.
Nghi Lâm mỉm cười nói:
– Cô ta đưa ra câu đố là để trêu đại ca và vị Lục sư huynh kia rồi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy. Câu đố này không khó đoán, đó là chữ “Hồ” trong cái tên Lệnh Hồ Xung của ta. Cô ta đưa ra câu đố vui như vậy là do lấy từ sách mà ra. Hay là chỗ Lục Đại Hữu ngồi ở bên trái còn ta thì ngồi ở bên phải. Thật là trùng hợp, bây giờ bên cạnh một bên ta là con chó nhỏ, bên kia là một quả dưa to.
Lệnh Hồ Xung vừa nói vừa chỉ vào trái dưa rồi chỉ vào Nghi Lâm, nét mặt tươi cười. Nghi Lâm mỉm cười, nói:
– Hiểu rồi, đại ca nói vòng vo là để ám chỉ tiểu muội là một con chó nhỏ.
Nghi Lâm cắt trái dưa ra thành từng miếng, bỏ vỏ rồi lần lượt đưa cho Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung nhận dưa cắn một miếng, cảm thấy mùi dưa thơm ngọt, bèn ăn hết một miếng lớn. Nghi Lâm thấy đại ca ăn một cách ngon lành, lòng cô rất vui sướng, lại thấy hắn nằm ăn khiến nước dưa nhỏ ướt cả vạt áo trước, nên cô cắt miếng dưa sau ra thành từng cục nhỏ, đặt vào tay hắn. Lệnh Hồ Xung cho gọn vào miệng, nước dưa không nhỏ lên áo nữa. Thấy đại ca ăn dưa, mỗi lần đưa tay lên không tránh khỏi làm động đến vết thương, cô không đành lòng, bèn đút từng miếng dưa nhỏ vào miệng Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung ăn gần hết nửa trái dưa mới nghĩ đến Nghi Lâm chưa ăn miếng nào, bèn nói:
– Tiểu muội nên ăn một chút đi.
Nghi Lâm nói:
– Đợi đại ca ăn no xong, tiểu muội mới ăn.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta ăn đủ rồi, tiểu muội ăn đi.
Nghi Lâm cảm thấy khát nước từ lâu, lại đút thêm cho Lệnh Hồ Xung vài miếng nữa rồi mới cắt một miếng nhỏ ăn. Cô thấy Lệnh Hồ Xung nhìn mình không chớp mắt, mắc cỡ quay người lại, lưng hướng về Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung đột nhiên khen:
– A! Thật là đẹp!
Giọng nói của Lệnh Hồ Xung đầy ý tán thưởng. Nghi Lâm mắc cỡ, không hiểu tại sao đại ca bỗng nhiên khen mình đẹp. Cô muốn đứng dậy chạy trốn nhưng nhất thời lại bỏ ý định đó, chỉ cảm thấy toàn thân nóng ran. Cô mắc cỡ đến nỗi ngay cả cái cổ cũng đỏ lên.
Lệnh Hồ Xung lại nói:
– Tiểu muội nhìn kìa, thật là đẹp! Tiểu muội có thấy gì không?
Nghi Lâm từ từ xoay người nhìn theo hướng tay Lệnh Hồ Xung đang chỉ về phía Tây, thấy xa xa có một cầu vồng xuất hiện phía sau rừng cây với bảy sắc màu biến ảo vô cùng rực rỡ. Bấy giờ, cô mới biết Lệnh Hồ Xung nói “Thật là đẹp” là để khen cầu vồng. Vừ a rồi cô đã hiểu lầm, bất giác cô lại mắc cỡ. Nhưng lần mắc cỡ này hàm chứa một chút thất vọng, so với lúc trước là cái tâm tình thẹn thùng ngấm ngầm vui sướng thì có chỗ bất đồng.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu muội lắng tai thử có nghe thấy gì không?
Nghi Lâm nghiêng tai lắng nghe. Từ nơi xa xa hướng cầu vồng mọc vọng lại tiếng nước chảy. Cô nói:
– Dường như có thác nước.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy. Trời mưa mấy ngày liền, trong khe núi nhất định có thác nước. Chúng ta đi đến đó xem đi.
Nghi Lâm nói:
– Đại ca… đại ca còn phải tịnh dưỡng thêm nhiều nữa.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chỗ này toàn là đá lởm chởm, phong cảnh không đẹp chút nào. Chúng ta đi xem thác nước hay hơn.
Nghi Lâm không nỡ làm trái ý đại ca, bèn đỡ hắn đứng dậy. Khuôn mặt cô lại b ỗng nhiên đỏ bừng. Cô nghĩ: Ta đã ôm đại ca hai lần rồi, lần thứ nhất đại ca đã chết, lần thứ hai thì đang bị trọng thương nguy hiểm đến tính mạng nên ta phải ôm chạy. Lúc này, đại ca tuy đang bị trọng thương nhưng thần trí rất tỉnh táo, ta làm sao dám ôm đại ca thêm một lần nữa? Ý đại ca muốn đến bên thác nước đó, phải chăng… phải chăng… muốn ta…
Trong lúc cô ta do dự thì Lệnh Hồ Xung đã lượm một khúc cây làm gậy, chống xuống đất, chầm chậm bước đi về phía trước. Thì ra cô đã nghĩ sai.
Nghi Lâm vội chạy đến, đưa tay dìu Lệnh Hồ Xung, lòng tự trách: Ta làm sao vậy? Lệnh Hồ đại ca là một chính nhân quân tử, hôm nay sao tâm trí ta lại thất thường, ý nghĩ lại chao đảo như vậy? Dù sao, một mình ta ở bên cạnh một nam tử thì cũng phải đề phòng cẩn thận. Nhưng đại ca và Điền Bá Quang tuy cùng là nam tử lại khác nhau một trời một vực. Sao ta có thể ghép cả hai người một duộc như nhau?
Lệnh Hồ Xung tuy bước không vững nhưng vẫn cố tự chống chọi mà đi. Được một quãng, thấy một tảng đá to, Nghi Lâm dìu Lệnh Hồ Xung đến đó ngồi xuống nghỉ ngơi. Cô nói:
– Ở đây cũng đẹp vậy. Đại ca nhất định muốn đi xem thác nước ư?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu muội nói ở đây đẹp thì ta với tiểu muội ở đây ngắm cảnh một chút.
Nghi Lâm nói:
– Được rồi. Phong cảnh ở bên kia đẹp, đại ca muốn tới đó thưởng thức, lòng khoan khoái thì vết thương sẽ lành nhanh hơn.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười, đứng lên.
Hai người đi chầm chậm đến một thung lũng thì nghe tiếng nước chảy róc rách; lại đi thêm một đoạn nữa, tiếng nước chảy nghe càng rõ hơn. Sau khi đi xuyên qua một rừng tùng, họ thấy một thác nước giống như con bạch long từ vách núi đổ xuống. Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:
– Bên Ngọc Nữ phong của Hoa Sơn ta cũng có một thác nước lớn hơn thác nước này, hình dạng cũng gần giống như vậy. Linh San sư muội và ta thường đến bên thác nước luyện kiếm. Có lúc cô ấy nghịch ngợm, còn chui vào trong thác nước nữa.
Nghi Lâm nghe Lệnh Hồ Xung nhắc đến “Linh San sư muội” lần thứ hai bỗng nhiên cô tỉnh ngộ: Đại ca bị trọng thương, lại nhất định muốn đến bên thác nước không phải để thưởng ngoạn phong cảnh mà là để nhớ đến Nhạc Linh San sư muội của đại ca.
Không hiểu sao, tim cô nhói đau giống như bị ai đánh một chùy thật mạnh. Lệnh Hồ Xung lại nói:
– Có một lần luyện kiếm bên thác nước, cô ấy bị sẩy chân trượt ngã suýt chút nữa té xuống dòng nước sâu. May mà ta chụp được y lại, thật là nguy hiểm.
Nghi Lâm lạnh lùng hỏi:
– Đại ca có nhiều sư muội không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Phái Hoa Sơn ta tổng cộng có bảy nữ đệ tử; Linh San sư muội là con gái của sư phụ. Bọn chúng ta đều gọi y là tiểu sư muội; còn sáu người kia đều là đệ tử của sư mẫu.
Nghi Lâm nói:
– Ờ. Thì ra cô ta là tiểu thư của Nhạc sư bá. Cô ta… cô ta… cô ta và đại ca thân nhau lắm phải không?
Lệnh Hồ Xung từ từ ngồi xuống, nói:
– Ta là một đứa bé côi cút không cha không mẹ, mười lăm năm về trước được ân sư và sư mẫu thâu nhận làm môn hạ. Lúc đó, tiểu sư muội mới có ba tuổi. Ta lớn tuổi hơn nhiều, thường ẵm tiểu sư muội đi hái trái rừng, đi bắt thỏ, sống chung một nhà từ nhỏ đến lớn. Sư phụ sư mẫu không có con trai nên coi ta như con ruột, tiểu sư muội chẳng khác nào em ruột của ta.
Nghi Lâm ồ một tiếng rồi một lúc sau mới nói:
– Tiểu muội cũng là một đứa bé côi cút không cha không mẹ, từ ấu thơ được ân sư nuôi dưỡng nên xuất gia từ nhỏ.
– Nếu như tiểu muội không phải là môn hạ của Định Dật sư bá thì ta sẽ cầu xin sư mẫu nhận tiểu muội làm đệ tử. Sư huynh, sư đệ, sư muội, sư tỷ của chúng ta rất đông, có đến hai mươi mấy người; mọi người rất vui vẻ. Sau giờ luyện công, bọn ta cùng nhau kết bạn đi chơi; sư phụ sư mẫu cũng không quản lý. Tiểu muội mà gặp tiểu sư muội của ta nhất định sẽ rất thích và có thể hai người sẽ trở thành đôi bạn thân.
Nghi Lâm nói:
– Đáng tiếc là tiểu muội không có được cái phước như vậy, nhưng sống trong Bạch Vân am, sư phụ và các sư tỷ đối với tiểu muội rất tốt. Tiểu muội… tiểu muội… tiểu muội cũng sống rất vui.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Phải, phải. Ta nói sai rồi. Kiếm pháp của Định Dật sư thái rất thần diệu. Lúc sư phụ và sư mẫu ta bàn luận đến kiếm pháp của các phái, đối với sư phụ của tiểu muội thì hai vị rất khâm phục kiếm pháp của lão nhân gia. Phái Hằng Sơn đâu có thua gì phái Hoa Sơn ta?
Nghi Lâm nói:
– Lệnh Hồ đại ca, hôm đó đại ca nói với Điền Bá Quang là đánh đứng thì Điền Bá Quang đứng thứ mười bốn trong thiên hạ, còn Nhạc sư bá đứng thứ tám. Vậy thì sư phụ của tiểu muội đứng hàng thứ mấy?
Lệnh Hồ Xung cười lên rồi nói:
– Đó là ta nói gạt Điền Bá Quang, làm gì có chuyện ấy? Võ công mạnh hay yếu đều thay đổi mỗi ngày, có người ngày càng tiến bộ, có người tuổi già sức yếu thì ngày càng suy thoái, làm sao có thể sắp đặt thứ bậc trong thiên hạ được? Điền Bá Quang tuy võ công cao cường nhưng nói là đứng thứ mười bốn trong thiên hạ thì chưa chắc. Ta cố ý xếp hắn vào hạng cao một chút cốt để hắn vừa lòng.
Nghi Lâm nói:
– Thì ra đại ca gạt hắn.
Nghi Lâm nói xong, ngẩn ngơ nhìn thác nước một lúc rồi lại hỏi:
– Đại ca thường nói gạt người ta lắm sao?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Còn phải tùy tình hình chứ không phải “thường” đâu. Có những người có thể gạt được, có những người không thể gạt được. Sư phụ và sư mẫu hỏi chuyện gì, ta tất nhiên không dám lừa dối.
Nghi Lâm ồ lên một tiếng rồi nói:
– Vậy còn trong sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội đồng môn của đại ca thì sao?
Ý cô muốn hỏi: “Đại ca có lừa dối Linh San sư muội của đại ca không?” nhưng không hiểu sao cô lại không dám hỏi thẳng ra như vậy. Lệnh Hồ Xung cười đáp:
– Điều đó còn phải tùy người tùy việc. Bọn ta thường đùa giỡn với nhau, nói chuyện mà không bịp nhau thì còn chi là thú vị nữa?
Cuối cùng Nghi Lâm hỏi:
– Ngay cả Linh San tỷ tỷ, đại ca cũng gạt ư?
Lệnh Hồ Xung từ trước tới giờ chưa nghĩ qua chuyện này. Hắn chau mày, trầm ngâm một lúc, nghĩ lại trong cuộc đời mình từ trước đến giờ có việc nào đã lừa gạt cô ấy, rồi nói:
– Nếu là việc quan trọng thì dĩ nhiên không thể gạt y được, nhưng lúc giỡn chơi, nói dối để làm trò cười thì thế nào cũng phải có.
Nghi Lâm sống trong Bạch Vân am, sư phụ giữ giới luật rất nghiêm, không cho phép đùa giỡn bao giờ; các vị sư tỷ ai cũng lạnh nhạt ít nói. Tuy mọi người rất thương yêu đùm bọc nhau nhưng không ai nói đùa lấy một câu, chuyện vui nhộn thì càng rất hiếm thấy. Môn hạ của hai vị sư bá Định Tĩnh và Định Nhàn có không ít đệ tử tục gia còn trẻ, nhưng họ cũng hiếm khi cùng với người xuất gia đồng môn nói cười. Từ lúc còn nhỏ, Nghi Lâm đã sống nơi tịch mịch lạnh lẽo này, ngoài giờ luyện võ ra là gõ mõ tụng kinh. Bây giờ nghe Lệnh Hồ Xung nói bọn đồng môn phái Hoa Sơn náo nhiệt như vậy, cô bất giác cao hứng, nghĩ bụng: Nếu mình có thể cùng với đại ca đi đến Hoa Sơn chơi thì thích thú biết mấy.
Nhưng cô lập tức nghĩ lại: Ra khỏi Bạch Vân am lần này ta đã gặp phong ba như vậy, chắc chắn sau khi trở về am thì sư phụ không cho phép xuất môn nữa. Ta đến Hoa Sơn vui chơi cái gì, sao lại si tâm vọng tưởng như vậy được?
Lòng cô bỗng nhiên se lại, mắt đỏ lên suýt nữa rơi lệ.
Lệnh Hồ Xung hoàn toàn không để ý đến cô, nhìn thác nước rồi nói:
– Ta và tiểu muội đang nghiên cứu một bộ kiếm pháp mượn sức mạnh của thác nước mà thi triển chiêu thức. Sư muội, sư muội biết có hiệu dụng gì không?
Nghi Lâm lắc đầu đáp:
– Tiểu muội không biết.
Giọng nói của cô đã có một chút nghẹn ngào nhưng Lệnh Hồ Xung vẫn không để ý đến điều đó.
Hắn tiếp tục nói:
– Chúng ta cùng với người động thủ, nếu người đó nội công rất thâm hậu thì đao kiếm và quyền chưởng thường đi đôi với nội lực. Nội lực vô hình hữu chất, có thể đánh văng kiếm của chúng ta đi. Ta và tiểu sư muội luyện kiếm trong thác nước, mong có thể dùng lực nước để xung kích nội lực của đối phương mà còn dùng chính lực của đối phương để đánh lại đối phương.
Nghi Lâm thấy Lệnh Hồ Xung nói rất hứng khởi bèn hỏi:
– Hai vị đã luyện thành kiếm pháp ấy chưa?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Chưa, chưa được. Tự sáng chế ra một bộ kiếm pháp đâu dễ dàng như vậy? Vả lại, chúng ta đâu có sáng chế ra chiêu kiếm nào đâu mà chỉ nghĩ ra từ kiếm pháp bổn môn đã được sư phụ truyền dạy rồi chế ra thôi. Cứ coi như có một chút sáng chế mới, đó cũng chỉ để vui chơi, lúc gặp địch thủ thì chẳng hiệu dụng chút nào. Nếu không thì ta làm sao lại bị Điền Bá Quang đánh cho te tua, không còn sức chống đỡ?
Lệnh Hồ Xung đưa tay ra vạch một đường xuống đất, hớn hở nói:
– Ta lại nghĩ ra được một chiêu, đợi sau khi vết thương lành rồi, trở về sẽ cùng với tiểu sư muội chiết giải thử.
Nghi Lâm dịu dàng hỏi:
– Hai vị gọi bộ kiếm pháp này là gì?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ta đã nói rồi, bộ kiếm pháp này không thể đặt cái tên khác. Nhưng tiểu sư muội nhất định phải đặt cho nó một cái tên; gọi là Hồ – Linh kiếm pháp vì bộ kiếm pháp này do ta và sư muội cùng chế ra.
Nghi Lâm nói:
– Hồ – Linh kiếm pháp, Hồ – Linh kiếm pháp. Ôi, trong kiếm pháp này có tên đại ca và tên của cô ta, truyền đến đời sau, ai ai cũng biết là hai vị… hai vị đã cùng sáng chế ra.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu sư muội của ta tính như con nít nên mới gọi như vậy thôi chớ chúng ta một chút bản lĩnh cũng không có, chẳng có tư cách gì, làm sao tự chế ra kiếm pháp được? Tiểu muội đừng có nói với ai, nếu mà người ta biết thì chắc họ cười chúng ta đến trẹo quai hàm mất.
Nghi Lâm nói:
– Dạ, tiểu muội quyết sẽ không nói cho ai biết.
Cô ngừng lại một chút rồi mỉm cười:
– Chuyện đại ca tự sáng chế ra kiếm pháp, người ta đã biết cả rồi.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi nói:
– Sao? Linh San sư muội đã nói với người ta ư?
Nghi Lâm cười nói:
– Chính đại ca nói với Điền Bá Quang mà. Đại ca không phải nói là tự mình sáng chế ra một bộ kiếm pháp ngồi đâm ruồi nhặng sao?
Lệnh Hồ Xung cười lớn nói:
– Ta nói vớ nói vẩn với hắn mà tiểu muội cũng nhớ được ư?
Lệnh Hồ Xung cười lớn làm động đến vết thương; hắn đau quá phải chau mày lại. Nghi Lâm nói:
– Chao ôi, tiểu muội thật ngớ ngẩn đã làm cho vết thương của đại ca đau. Thôi đừng nói nữa, đại ca nên nằm ngủ một chút đi.
Lệnh Hồ Xung nhắm mắt lại, nhưng chỉ một lúc thì lại mở mắt ra nói:
– Ta chỉ biết phong cảnh ở đây đẹp nhưng bên thác nước lại không thấy cầu vồng đâu.
Nghi Lâm nói:
– Thác nước thì có cái đẹp của thác nước; cầu vồng có cái đẹp của cầu vồng.
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Tiểu muội nói thật không sai, trên đời này nào có chuyện thập toàn thập mỹ. Có người chịu trăm đắng ngàn cay để đi cầu tìm một vật, khi được vật đó rồi thì không chừng lại muốn liệng đi.
Nghi Lâm mỉm cười nói:
– Lệnh Hồ đại ca, những câu nói của đại ca ẩn chứa Thiền cơ, nhưng đáng tiếc tiểu muội tu còn nông cạn, không hiểu rõ đạo lý trong đó. Nếu sư phụ nghe được, nhất định sẽ giải thích cho tiểu muội rõ.
Lệnh Hồ Xung thở dài nói:
– Cái gì là Thiền cơ với không Thiền cơ, ta không hiểu gì hết. Ui chao, ta mệt quá!
Lệnh Hồ Xung nói xong từ từ nhắm mắt lại, dần dần hơi thở trầm xuống. Hắn đã chìm vào trong giấc mộng. Nghi Lâm ngồi cạnh bên. Cô bẻ một cành cây, nhẹ nhàng xua ruồi muỗi cho đại ca ngủ yên. Cô ngồi hơn một canh giờ, cảm thấy hơi mệt mỏi, mơ hồ nhắm mắt muốn ngủ , bỗng nhiên lại nghĩ: Đợi lúc đại ca tỉnh dậy, nhất định rất đói bụng mà ở đây lại không có gì ăn. Ta đi hái thêm mấy trái dưa nữa, để có thể vừa giải khát vừa ăn cho no.
Thế là cô nhanh bước chạy về hướng đám dưa, hái thêm một trái. Cô sợ lúc mình đi khỏi có người hay dã thú đến xâm phạm Lệnh Hồ Xung nên vội vàng chạy nhanh về. Thấy đại ca vẫn còn an giấc, cô mới yên tâm, nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung mở mắt ra, mỉm cười nói:
– Ta tưởng tiểu muội về rồi.
Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:
– Tiểu muội về đâu?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sư phụ và các sư tỷ của tiểu muội đang tìm kiếm tiểu muội đó. Họ nhất định rất nhớ tiểu muội.
Nghi Lâm không hề nghĩ đến chuyện này, nghe đại ca nói như vậy, cô sốt ruột vô cùng, lại nghĩ: Sáng mai về gặp sư phụ, không biết sư phụ lão nhân gia có trách phạt mình không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu muội, đa tạ tiểu muội đã chăm sóc cho ta nửa ngày. Cái mạng của ta đã được tiểu muội cứu sống rồi, tiểu muội nên đi về sớm một chút đi!
Nghi Lâm lắc đầu nói:
– Không, nơi hoang sơn dã lĩnh để đại ca ở một mình, không có người bên cạnh chăm sóc thì làm sao được?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu muội đến phủ Lưu sư thúc ở thành Hành Sơn, nói nhỏ với các sư đệ của ta, bọn họ sẽ đến đây chăm sóc ta.
Nghi Lâm xót xa, nghĩ bụng: Thì ra đại ca chỉ muốn tiểu sư muội của đại ca chăm sóc thôi, nên muốn đuổi ta về nhanh để mau gọi cô ta đến.
Nghi Lâm cầm lòng không được, nước mắt rơi xuống từng giọt. Lệnh Hồ Xung thấy cô ta bỗng nhiên rơi lệ, lấy làm lạ hỏi:
– Tiểu muội… tiểu muội… sao lại khóc. Tiểu muội sợ về bị sư phụ trách mắng phải không?
Nghi Lâm lắc đầu. Lệnh Hồ Xung lại nói:
– A, phải rồi, tiểu muội sợ trên đường lại đụng phải tên Điền Bá Quang. Không phải sợ, từ nay về sau hắn mà thấy tiểu muội thì chuồn ngay, không dám gặp mặt tiểu muội nữa đâu.
Nghi Lâm lại lắc đầu, nước mắt càng rơi xuống nhiều hơn. Lệnh Hồ Xung thấy cô ta càng khóc nhiều, lòng dâng trào cảm xúc, bèn nói:
– Được rồi, được rồi. Ta đã nói sai rồi, ta xin lỗi tiểu muội. Tiểu sư muội, sư muội đừng giận nữa.
Nghi Lâm nghe giọng nói của Lệnh Hồ Xung rất dịu dàng, lòng cô vơi bớt tủi buồn. Nhưng cô lại nghĩ: Đại ca nói những lời dịu dàng này rõ ràng là thói quen thường dùng để xin lỗi tiểu sư muội, lúc này y thuận miệng nói ra thôi.
Bỗng nhiên cô khóc òa lên, một lát sau mới nói:
– Tiểu muội đâu phải là tiểu sư muội của đại ca… Đại ca… lòng của đại ca chỉ nhớ đến tiểu sư muội của đại ca thôi!
Câu nói vừa thốt ra thì cô lập tức nghĩ lại: Mình là người xuất gia, sao lại có thể nói với đại ca những lời như vậy, quá trớn lắm rồi. Bất giác, mặt cô thẹn đỏ lên, quay đi hướng khác.
Lệnh Hồ Xung thấy cô bỗng nhiên đỏ mặt mà nước mắt chưa dứt, cứ tuôn rơi như những giọt nước lấp lánh nhỏ bé văng tung tóe bên thác nước, yêu kiều tươi đẹp không sao tả xiết, nghĩ thầm: Cô ta thật đẹp, không thua kém gì Linh San tiểu sư muội.
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra một lát rồi dịu dàng nói:
– Tiểu muội nhỏ tuổi hơn ta nhiều. Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta đồng khí liên chi, mọi người đều là sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội của nhau. Tiểu muội tất nhiên là tiểu sư muội của ta rồi, ta có chỗ nào lầm lỗi với tiểu muội, tiểu muội nói cho ta nghe có được không?
Nghi Lâm đáp:
– Đại ca không có điều gì lầm lỗi với tiểu muội cả. Tiểu muội biết đại ca muốn tiểu muội mau mau rời khỏi đây để đại ca khỏi nhìn thấy thêm bực mình, làm đại ca bị xui xẻo. Đại ca đã nói rồi mà hễ gặp ni cô thì đánh bạc…
Cô nói đến đây lại òa lên khóc tiếp. Lệnh Hồ Xung không nhịn được tức cười, nghĩ bụng: Thì ra cô chiêu này còn ấm ức những câu mình nói trên Hồi Nhạn lâu. Kiểu này không xin lỗi thì không xong rồi. Hắn bèn nói:
– Lệnh Hồ Xung ta thật là đáng chết, ăn nói không biết lựa lời. Ngày hôm đó ở Hồi Nhạn lâu, ta đã nói năng bậy bạ, đắc tội cùng toàn thể quý phái từ trên xuống dưới, thật đáng đánh đòn, đáng đánh đòn.
Lệnh Hồ Xung nói xong liền giơ tay tự tát vào mặt mình hai cái bốp bốp. Nghi Lâm vội quay người lại nói:
– Đừng… đừng đánh… tiểu muội… không trách đại ca. Tiểu muội… tiểu muội chỉ sợ làm liên lụy đến đại ca.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Thật là đáng đánh!
Bốp một tiếng, hắn lại tát vào mặt mình một cái tóe lửa. Nghi Lâm vội nói:
– Tiểu muội đâu có giận. Lệnh Hồ đại ca, đại ca… đại ca đừng đánh nữa.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu muội nói là không giận ta nữa ư?
Nghi Lâm lắc đầu. Lệnh Hồ Xung lại nói:
– Tiểu muội không cười, đó không phải là còn đang giận ta ư?
Nghi Lâm đành miễn cưỡng cười lên, nhưng bỗng nhiên không hiểu sao lòng cô quặn đau không tả xiết. Cô không cầm được nữa, nước mắt chảy dài trên má, lại vội quay người đi. Lệnh Hồ Xung thấy cô cứ khóc hoài, liền buông tiếng thở dài. Nghi Lâm từ từ nín khóc, sụt sùi hỏi:
– Đại ca… sao đại ca lại thở dài?
Lệnh Hồ Xung cười thầm trong bụng: Quả nhiên con cừu non này đã trúng kế mình rồi.
Lệnh Hồ Xung làm bạn với Nhạc Linh San từ nhỏ. Nhạc Linh San thỉnh thoảng hay giở tính trẻ con, lúc bực mình là òa lên khóc, khóc dai ơi là dai, bất luận nói gì hay dỗ dành thế nào cô ta cũng không nín. Những lúc như vậy, Lệnh Hồ Xung bèn làm “khổ nhục kế” giống khi nãy, khiến cô ta tò mò quay lại hỏi. Nghi Lâm từ tấm bé chưa hề có thói nhõng nhẽo với ai, nên lại càng dễ rơi vào mưu kế của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung lại thở dài, quay người đi không nói.
Nghi Lâm hỏi:
– Lệnh Hồ đại ca, đại ca giận rồi sao? Vừa rồi tiểu muội có lỗi với đại ca, đại ca… đại ca đừng để bụng.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đâu có, tiểu muội đâu có lỗi lầm gì với ta.
Nghi Lâm thấy nét mặt Lệnh Hồ Xung vẫn u sầu, nào biết trong bụng hắn đang cảm thấy tức cười mà ngoài mặt làm ra bộ buồn bã. Cô sốt ruột nói:
– Tiểu muội đã hại đại ca phải tự đánh mình, tiểu muội… tiểu muội phải đền cho đại ca.
Cô nói xong liền nhấc tay lên bốp một tiếng, tự tát vào má phải của mình một cái, cái tát thứ hai toan đánh thì Lệnh Hồ Xung vội quay người lại, giơ tay nắm chặt lấy cổ tay cô, nhưng hắn dùng lực mạnh khiến vết thương trên người đau nhói, chịu không được khẽ rên lên một tiếng. Nghi Lâm vội nói:
– Ui chao! Mau… mau nằm xuống, đừng làm vết thương bị đau.
Cô nói xong liền đỡ Lệnh Hồ Xung nằm xuống, rồi tự trách:
– Tiểu muội thật là ngu ngốc, chuyện gì làm cũng không đúng. Lệnh Hồ đại ca, đại ca… đại ca đau lắm phải không?
Chỗ vết thương của Lệnh Hồ Xung đau đến quặn người, nếu bình thường thì hắn quyết không thừa nhận, nhưng lúc này hắn lại nghĩ ra một kế: Chỉ có như vậy thì cô ta mới chịu nín khóc mà cười lên.
Cô đưa tay sờ lên trán đại ca. May thay, hắn không sốt. Qua một lúc sau, cô nhẹ nhàng hỏi:
– Có bớt đau chút nào không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Còn đau lắm.
Nét mặt Nghi Lâm rầu rĩ, không biết nên làm thế nào. Lệnh Hồ Xung lại la lên:
– Ui chao đau quá! Lục… Lục sư đệ có ở đây thì đỡ biết mấy.
Nghi Lâm nói:
– Sao? Y có thuốc giảm đau ư?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Phải đấy, cái miệng của hắn chính là liều thuốc giảm đau. Trước đây ta cũng từng bị thương, đau đớn vô cùng. Lục sư đệ nói chuyện khôi hài, ta nghe rất vui, nên quên hết mọi đau đớn. Nếu hắn có ở đây thì tốt biết mấy. Trời ơi… sao mà đau thế này… đau quá… Trời ơi là trời!
Nghi Lâm vô cùng khó xử . Là môn hạ của Định Dật sư thái, người nào cũng nghiêm mặt tụng kinh niệm Phật hay ngồi luyện công luyện kiếm, trong Bạch Vân am e rằng cả tháng hiếm khi nghe được một hai câu nói đùa. Muốn cô nói đùa một câu thì thật khó quá. Cô nghĩ bụng: Lục Đại Hữu sư huynh không có ở đây. Lệnh Hồ đại ca lại muốn nghe chuyện cười thì chỉ có mình ta kể cho đại ca nghe thôi, nhưng… nhưng… một mẩu chuyện cười ta cũng không biết.
Bỗng nhiên linh cơ xúc động, cô nghĩ ra một câu chuyện, bèn nói:
– Lệnh Hồ đại ca, nói đùa thì tiểu muội không biết nói nhưng trong Tàng kinh các, tiểu muội đã đọc qua một quyển kinh rất thú vị gọi là Bách dụ kinh. Đại ca đọc qua chưa?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:
– Chưa đọc, cái gì ta cũng không đọc, kinh Phật lại càng không đọc.
Má Nghi Lâm từ từ ửng hồng, nói:
– Tiểu muội thật là ngu, hỏi toàn lời ngớ ngẩn. Đại ca không phải là đệ tử của Phật môn, tất nhiên không hề đọc kinh sách rồi.
Cô ngừng một chút rồi nói tiếp:
– Bộ Bách dụ kinh đó là do một cao tăng ở nước Thiên Trúc soạn ra, trong đó có rất nhiều cố sự vui.
Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Hay quá, ta thích nghe những cố sự vui. Tiểu muội hãy kể vài chuyện cho ta nghe đi.
Nghi Lâm tủm tỉm cười. Trong Bách dụ kinh có vô số cố sự, bây giờ, từng câu chuyện lại hiện ra trong đầu cô. Cô nói:
– Được rồi, để tiểu muội kể câu chuyện “Dĩ lê đả phá đầu dụ” (chuyện lấy lưỡi cày đánh lên đầu). Ngày xưa có một người đầu bị hói ngay từ lúc sơ sinh, trên đầu không có một sợi tóc. Người hói đầu này và một người cày ruộng khác không biết tại sao lại tranh cãi với nhau. Người cày ruộng cầm lưỡi cày trong tay liền giơ lên đánh xuống đầu người đầu hói khiến y bị thương, chảy máu. Nhưng người đầu hói đó ngậm miệng chịu đau, không né tránh mà còn phát cười lên. Những người chứng kiến thấy vậy lấy làm kỳ lạ, hỏi sao lão không né tránh mà lại cười. Người đầu hói nói: “Tên cày ruộng này là một người ngu, thấy trên đầu ta không có sợi tóc nào cho là đầu ta cứng như đá, nên hắn dùng lưỡi cày đập lên. Nếu ta né tránh, há không phải là dạy cho hắn trở thành thông minh ư?”
Cô kể đến đây, Lệnh Hồ Xung cười to lên, rồi khen:
– Câu chuyện hay quá! Gã đầu hói này thật là thông minh, thông minh đến nỗi bị người ta đánh bất luận thế nào cũng không né tránh.
Nghi Lâm thấy Lệnh Hồ Xung cười rất tự nhiên, lòng cô cũng rất vui, bèn nói:
– Tiểu muội kể tiếp câu chuyện “Y dữ ngọc nữ dược, lệnh xuất trường đại dụ” (chuyện ông thầy thuốc dùng thuốc khiến một cô gái mau lớn). Ngày xưa có một ông vua sinh một cô công chúa. Ông vua rất nóng tính, thấy cô ta còn bé quá, muốn cho cô ta lớn nhanh lên bèn gọi ngự y vào, truyền ngự y điều chế ra một loại linh dược cho công chúa uống để công chúa lập tức mau lớn.
Ngự y tâu: “Linh dược thì có thể chế được nhưng phải tìm rất nhiều loại dược thảo, lại phải luyện chế rất công phu. Bây giờ thần xin đưa công chúa về nhà, đồng thời gấp rút bào chế thuốc, xin bệ hạ đừng nên thúc bách”. Quốc vương nói: “Rất tốt, quả nhân không thúc khanh đâu”. Ngự y liền ẵm công chúa về nhà, mỗi ngày bẩm báo với quốc vương rằng linh dược đang được luyện chế.
Qua hai mươi năm sau, ngự y tâu: “Muôn tâu bệ hạ, linh dược đã luyện chế xong rồi, hôm nay đã cho công chúa uống”. Thế rồi ngự y dẫn công chúa đến trước mặt quốc vương. Quốc vương thấy cô công chúa bé nhỏ năm xưa giờ đã lớn thành một thiếu nữ thướt tha, long tâm hớn hở, khen ngự y y đạo tinh thông, uống một liều linh dược mà có thể khiến cho ái nữ của ngài mau lớn, bèn ra lệnh ban thưởng cho ngự y vô số vàng bạc châu báu.
Lệnh Hồ Xung lại cười ha hả rồi nói:
– Tiểu muội nói quốc vương này tính tình nóng nảy nhưng kỳ thực lão không nóng nảy chút nào. Không phải lão ta đã đợi được hai mươi năm sao? Nếu ta là viên ngự y đó, ta chỉ cần một ngày công phu thì có thể đem công chúa bé nhỏ biến thành một thiếu nữ công chúa thướt tha mười bảy mười tám tuổi ngay.
Nghi Lâm mở to mắt hỏi:
– Đại ca dùng phương pháp gì?
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Bên ngoài thì bôi Thiên hương đoạn tục giao, trong thì cho uống Bạch vân hùng đảm hoàn.
Nghi Lâm cười nói:
– Đó là dược vật để trị thương, làm sao có thể khiến cho con người ta mau lớn được?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Trị hay không trị được vết thương ta không cần biết, chỉ cần tiểu muội bằng lòng giúp ta là được rồi.
Nghi Lâm cười nói:
– Đại ca muốn tiểu muội giúp ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đúng vậy, sau khi ta ẵm cô công chúa bé nhỏ về nhà, ta sẽ mời bốn người thợ may…
Nghi Lâm càng ngạc nhiên hỏi:
– Mời bốn người thợ may để làm gì?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Để may một bộ xiêm y mới. Ta muốn họ đo kích cỡ người của tiểu muội, trong một đêm phải may xong bộ xiêm y cho công chúa để sáng sớm hôm sau tiểu muội mặc vào; đầu đội mũ Linh lung phụng, mình mặc Bách hoa cẩm y, chân đi hài thêu chỉ vàng. Dáng vẻ lộng lẫy, dung nhan yêu kiều diễm lệ, tiểu muội đi tới trước Kim loan điện, tung hô vạn tuế ba lần, cúi người xuống bái lạy rồi thưa: “Muôn tâu phụ vương, sau khi hài nhi uống linh đan diệu dược của ngự y Lệnh Hồ Xung, trong một đêm đã cao lớn như thế này đây”. Quốc vương thấy công chúa vô cùng xinh đẹp, khả ái như vậy, lòng sẽ vui sướng, đâu còn hỏi công chúa thật hay giả. Ngự y Lệnh Hồ Xung ta tất nhiên sẽ được trọng thưởng.
Nghi Lâm không nhịn được, nghe hắn nói xong là cười đến lộn cả ruột, vẹo cả người, một lúc sau mới nói:
– Đại ca quả nhiên thông minh hơn vị ngự y trong Bách dụ kinh nhiều, nhưng đáng tiếc tiểu muội… tiểu muội xấu như thế này, chẳng giống công chúa chút nào.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nếu tiểu muội mà xấu thì trong thiên hạ này không còn ai đẹp cả. Từ xưa đến nay, hàng ngàn hàng vạn công chúa đâu có thấy ai đẹp như tiểu muội đâu?
Nghi Lâm nghe hắn cứ khen ngợi mình, lòng rất vui. Cô cười nói:
– Đại ca đã thấy được hàng ngàn hàng vạn công chúa rồi sao?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tất nhiên rồi, ở trong mộng ta đều gặp qua từng người.
Nghi Lâm cười nói:
– Đại ca là người gì mà sao nằm mơ chỉ thấy toàn là công chúa vậy?
Lệnh Hồ Xung cười sảng khoái, rồi nói:
– Ngày nghĩ sao, đêm chiêm bao…
Nhưng hắn lập tức nghĩ lại, không nói nữa. Nghi Lâm là một nữ ni nhỏ tuổi trong trắng hồn nhiên, hắn cứ nói đùa hoài là đã phạm vào giới luật sư môn của cô ta, sao còn dám nói với cô ta những lời cợt nhả? Hắn nghĩ đến đây, bỗng sắc mặt nghiêm nghị giả bộ ngáp dài một cái.
Nghi Lâm nói:
– Lệnh Hồ đại ca, đại ca mệt rồi, nhắm mắt ngủ một lúc đi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hay quá, câu chuyện vui của tiểu muội thật hiệu nghiệm, vết thương của ta quả nhiên không đau nữa.
Hắn muốn Nghi Lâm nói chuyện vui để cô nín khóc mà cười lên. Bây giờ, cô đã nói cười vui vẻ, xem như hắn đã thành công, liền từ từ nhắm mắt lại.
Nghi Lâm ngồi bên cạnh Lệnh H ồ Xung, cầm cành cây nhè nhẹ phe phẩy xua ruồi nhặng. Tiếng ếch nhái kêu vang từ trong khe núi xa xa vọng lại giống như khúc nhạc ru. Đến lúc này Nghi Lâm đã rất mỏi mệt, cảm thấy đôi mắt nặng trĩu mở lên không được nữa; cô mơ màng đi vào cõi mộng.
Trong giấc mộng, cô thấy mình mặc xiêm y rực rỡ của công chúa, bước vào một cung điện nguy nga tráng lệ, bên cạnh là một thanh niên tuấn tú dắt tay mình. Chàng thanh niên này từa tựa như Lệnh Hồ Xung, ở dưới chân họ có đám mây nâng hai người nhẹ bay lên không trung, cô cảm thấy hạnh phúc không sao nói được. Bỗng nhiên, có một lão ni chống gậy đuổi đến, trừng mắt giận dữ, đó là sư phụ của cô. Nghi Lâm giật mình sợ hãi khi nghe tiếng sư phụ quát:
– Tiểu súc sinh, ngươi không giữ thanh quy giới luật, lại to gan dám đi làm công chúa, còn kề cận với tên lãng tử này nữa.
Lão ni nắm chặt cánh tay cô, dùng lực kéo mạnh một cái. Lúc này trước mắt cô tối đen, Lệnh Hồ Xung biến đâu mất, sư phụ cũng chẳng thấy đâu, chỉ còn mình trong đám mây tối đen đang rơi lộn nhào xuống. Nghi Lâm sợ quá la to:
– Lệnh Hồ đại ca! Lệnh Hồ đại ca!
Cô cảm thấy toàn thân mềm nhũn, tay chân không sao nhúc nhích được.
Cô thét lên vài tiếng, giật mình tỉnh dậy, thì ra chỉ là một giấc mơ. Cô thấy Lệnh Hồ Xung đang mở to mắt nhìn mình.
Nghi Lâm thẹn đỏ cả hai má, ấp úng nói:
– Tiểu muội… tiểu muội…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu muội nằm mơ phải không?
Mặt Nghi Lâm lại đỏ lên, cô đáp:
– Tiểu muội cũng không biết có phải là nằm mơ không.
Bỗng nhiên, cô thấy thần sắc của Lệnh Hồ Xung vô cùng kỳ lạ; dường như hắn đang kìm chế sự đau đớn. Cô vội hỏi:
– Đại ca… vết thương của đại ca đau lắm phải không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không sao!
Hắn nói vậy nhưng giọng lại run run, những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu lấm tấm trên trán. Hắn có vẻ vô cùng đau đớn, không cần hỏi cũng đã biết rồi.
Nghi Lâm hoảng sợ, nói lắp bắp:
– Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?
Cô lấy khăn ra lau mồ hôi trên trán của Lệnh Hồ Xung, ngón tay của cô đụng lên trán hắn cảm thấy nóng như lửa. Cô nghe sư phụ nói sau khi người bị thương bởi đao kiếm, nếu phát sốt thì tình thế vô cùng nguy hiểm, trong lúc hoảng hốt này, cô không tự chủ được nữa, bèn cất tiếng niệm kinh:
– Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh chịu khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dẫu vào trong lửa lớn, lửa cháy chẳng đặng. Vì do sức oai thần của Bồ Tát này đặng như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát, tức thời liền đặng chỗ cạn…
Cô niệm Diệu pháp Liên hoa kinh Quán Thế Âm Bồ Tát phổ môn phẩm lúc đầu giọng còn run run, nhưng niệm một lúc thì tinh thần dần dần trở lại ổn định.
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng niệm kinh của Nghi Lâm trong trẻo mà thanh thoát, cô càng niệm càng hòa mình vào an tịnh, dường như đầy tín tâm đối với thần thông của kinh văn. Chợt nghe Nghi Lâm niệm tiếp:
– Nếu có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từng đoạn, mà được giải thoát. Nếu có quỷ Dạ xoa, La sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì các quỷ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống làm hại được? Dẫu lại có người có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy đều đứt rã, liền được giải thoát.
Lệnh Hồ Xung càng nghe càng thấy buồn cười, cuối cùng không nín được nữa, bèn hà một tiếng rồi phát cười lên.
Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:
– Đại ca cười… cười cái gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta mà sớm biết như vậy thì hà tất học võ công làm chi cho mệt. Nếu có kẻ thù muốn đến giết hại ta, ta… ta chỉ cần xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì đao gậy của ác nhân đó sẽ gãy thành từng đoạn, há không phải là bình yên… bình yên cát tường ư?
Nghi Lâm nghiêm sắc mặt nói:
– Lệnh Hồ đại ca, đại ca không được khinh thường Bồ Tát, nếu tâm không thành thì niệm kinh cũng vô ích thôi.
Nói xong cô tiếp tục cất tiếng:
– Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền đặng tiêu tan cả
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Năng cứu khổ thế gian…
Lệnh Hồ Xung nghe Nghi Lâm niệm với cả tấm lòng thành, tiếng niệm kinh tuy nhỏ nhưng biểu thị toàn tâm toàn ý cầu xin Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Dường như toàn bộ tâm linh của cô đều hướng về Bồ Tát tha thiết kh ẩn cầu, muốn Bồ Tát hiển đạt thần thông để giải thoát nỗi khổ đau của mình. Hình như cô đang nói:
– Quán Thế Âm Bồ Tát! Cầu xin ngài giải bỏ sự đau khổ trên người Lệnh Hồ đại ca, đem tất cả sự đau khổ của đại ca chuyển sang người đệ tử. Đệ tử có biến thành súc sinh hay vào địa ngục cũng cam lòng, chỉ cầu xin Bồ Tát giải thoát cho Lệnh Hồ đại ca tai qua nạn khỏi…
Đến lúc sau Lệnh Hồ Xung không còn nghe được ý nghĩa của kinh văn, chỉ nghe thanh âm từng câu từng câu cầu nguyện rất thành khẩn, rất thiết tha. Không hiểu sao mắt hắn đẫm lệ. Hắn từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, tuy sư phụ sư mẫu có ân sâu với hắn nhưng hắn quá bướng bỉnh nên bị trách phạt hơn là yêu thương; các sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội đều tôn kính hắn là đại sư huynh nên không ai dám trái ý hắn. Tuy hắn và sư muội Nhạc Linh San có mối giao tình nhưng trước nay, Linh San vẫn không lần nào quan tâm đến hắn như vậy, lại không thể tình nguyện đem ngàn vạn nỗi khổ của thế gian đặt lên người mình để cho hắn được bình yên, khoái lạc. Bất giác máu nóng trong ngực Lệnh Hồ Xung như muốn dâng tràn, trong ánh mắt hắn, dường như toàn thân Nghi Lâm ẩn hiện một vừng hào quang tinh khiết.
Tiếng niệm kinh của Nghi Lâm càng lúc càng nhẹ nhàng thanh thoát. Trước mắt cô dường như đang có một Bạch y đại sĩ tay cầm nhành dương vẫy nước Cam lồ, cứu khổ cứu nạn. Mỗi câu niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” đều hướng về Bồ Tát thành khẩn cầu nguyện cho Lệnh Hồ Xung.
Lòng Lệnh Hồ Xung vừa cảm kích vừa được an ủi. Tiếng niệm Phật dịu dàng của Nghi Lâm đã đưa hắn đi vào giấc mộng không biết tự bao giờ.
Sau khi Nhạc Bất Quần thâu nhận Lâm Bình Chi vào môn tường liền dẫn đệ tử đi thẳng đến Lưu phủ phó hội. Lưu Chính Phong nghe được tin này, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. Quân tử kiếm chưởng môn phái Hoa Sơn tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm lại thân hành giá lâm đến phủ. Lão vội ra ngoài xa nghênh đón, miệng không ngớt lời cảm tạ. Nhạc Bất Quần rất khiêm tốn hòa nhã, vẻ mặt tươi cười nói những lời chúc mừng rồi cùng Lưu Chính Phong nắm tay nhau đi vào cổng. Thiên Môn đạo nhân, Định Dật sư thái, Dư Thương Hải, Văn tiên sinh, Hà Tam Thất… cùng xuống thềm nghênh tiếp.
Dư Thương Hải lòng dạ đen tối, nghĩ bụng: Chưởng môn phái Hoa Sơn thân hành đến đây chắc không phải nể mặt Lưu Chính Phong mà vì ta mà đến. Ngũ Nhạc kiếm phái của lão người đông thế mạnh, ta không nên gây sự với lão. Nếu Nhạc Bất Quần nói những lời không khiêm nhường thì ta sẽ hỏi trước vụ đệ tử Lệnh Hồ Xung của lão ngủ với kỹ nữ trong kỹ viện là hành vi gì? Nếu lão trở mặt thì bấy giờ đành phải động thủ.
Nào ngờ khi thấy Dư Thương Hải, Nhạc Bất Quần vòng tay xá dài rồi cung kính nói:
– Dư quán chủ, đã lâu không gặp, quán chủ ngày càng khang kiện hẳn ra.
Dư Thương Hải cung tay trả lễ rồi nói:
– Nhạc tiên sinh! Kính chào Nhạc huynh!
Mọi người nói với nhau mấy câu xã giao. Trong Lưu phủ lại có các vị tân khách từ các lộ lục tục kéo đến. Hôm nay là ngày chính thức “rửa tay gác kiếm” của Lưu Chính Phong. Đến giờ Tỵ hai khắc, Lưu Chính Phong quay vào nội đường; các đệ tử môn hạ của lão lo chiêu đãi tân khách.
Gần đến giờ Ngọ, năm sáu trăm vị tân khách từ xa kéo đến như nước chảy. Phó bang chủ Cái bang Trương Kim Ngao; Hạ lão phụng sư trong Lục hợp môn ở Trịnh Châu dẫn theo ba người con rể; Thiết lão lão trên đỉnh Thần Nữ dãy Tam Hạp Xuyên Ngạc; bang chủ Phan Hống bang Hải Sa, Đông Hải; Khúc Giang, Nhi Hữu, Thần đao Bạch Khắc và Thần bút Lô Tây Tư… lần lượt kéo đến.
Trong những người này, có người đã từng quen biết, có người chỉ hâm mộ danh tiếng mà trước nay chưa từng gặp qua Lưu Chính Phong. Lúc này, trên đại sảnh, mọi người chào hỏi nhau, làm quen với nhau, không khí rất huyên náo.
Thiên Môn đạo nhân và Định Dật sư thái vào nghỉ trong sương phòng riêng biệt, không muốn chào hỏi mọi người. Cả hai cùng nghĩ bụng: Trong những vị tân khách đến hôm nay, có người cố nhiên là có danh vị trên giang hồ, cũng có những người chẳng ra sao cả. Lưu Chính Phong là cao thủ phái Hành Sơn, sao lại không biết tự trọng mà kết giao bừa bãi như vậy, há chẳng làm bại hoại thanh danh của Ngũ Nhạc kiếm phái?
Tên của Nhạc Bất Quần tuy gọi là “Bất Quần” (không thích kết bạn) nhưng lại rất thích kết giao bằng hữu. Trong những vị tân khách đến có nhiều người vô danh tiểu tốt hoặc những đồ đệ danh tánh không rõ ràng, chỉ cần chủ động đến nói chuyện với lão thì Nhạc Bất Quần cũng nói cười vui vẻ chứ không chút gì lộ vẻ ta đây là chưởng môn của phái Hoa Sơn, một cao nhân nhất đẳng trên giang hồ.
Bọn đệ tử Lưu phủ chỉ huy nhà bếp phục dịch, trong ngoài sắp đặt hai trăm bàn tiệc. Thân thích của Lưu Chính Phong là Môn Khách, Trương Phong và bọn đệ tử của Lưu môn là Hướng Đại Niên, Mễ Vi Nghĩa cung kính mời các vị tân khách nhập tiệc. Theo địa vị và danh vọng trong võ lâm thì Thiên Môn đạo nhân, chưởng môn phái Thái Sơn lên ngồi ghế chủ tiệc. Nhưng Ngũ Nhạc kiếm phái đã kết minh với nhau; Thiên Môn đạo nhân, Nhạc Bất Quần, Định Dật sư thái đều có một nửa tư cách chủ nhân nên không ai tiện ngồi trên. Các vị tiền bối đều nhường nhau, không ai chịu ngồi vào ghế chủ tiệc.
Bỗng nghe hai tiếng cồng chiêng xèng xèng, tiếp theo là tiếng nhạc xập xình, tiếng loa thét oang oang dẹp đường, hiển nhiên là có quan nha gì đó đến trước cổng. Quần hùng lấy làm ngạc nhiên, chợt thấy Lưu Chính Phong mình mặc trường bào mới toanh, vội vàng từ nội đường chạy ra. Quần hùng hoan hô chúc mừng nhưng Lưu Chính Phong cung tay vái chào qua loa rồi đi thẳng ra ngoài cổng. Một lúc sau, lão cung kính đón tiếp một vị quan viên mình mặc công phục đi vào. Quần hùng cảm thấy kỳ lạ, tự hỏi:
– Lẽ nào viên quan này cũng là một cao thủ trong võ lâm?
Họ thấy viên quan này tuy mang phẩm phục của triều đình, nhưng hai mắt lờ đờ, mặt đầy tửu khí, hiển nhiên không phải là người có võ công. Nhạc Bất Quần nghĩ bụng:
– Lưu Chính Phong là đại thân sĩ ở thành Hành Sơn, lão thường kết giao với bọn quan nha. Hôm nay là ngày đại hỷ của lão, quan viên địa phương đến mừng cũng không có gì là lạ.
Viên quan ngang nhiên đi thẳng vào, bệ vệ đứng ở giữa, nha đầu quỳ xuố ng phía sau gã, hai tay giơ cao trình lên một cái khay có phủ gấm vàng, trong khay đặt một cuốn tròn. Viên quan cúi người tiếp lấy cuốn tròn đó rồi lớn tiếng nói:
– Thánh chỉ đến, Lưu Chính Phong hãy tiếp chỉ!
Quần hùng vừa nghe đều giật mình sợ hãi, nghĩ:
– Hôm nay là ngày rửa tay vào chậu vàng của Lưu Chính Phong. Treo kiếm quy ẩn là chuyện trên giang hồ, đâu có liên can gì đến triều đình, sao hoàng đế lại hạ thánh chỉ? Lẽ nào Lưu Chính Phong có mưu đồ đại nghịch, bị triều đình phát hiện? Nếu lão có gì nguy nan, bọn ta phải ra tay tương trợ.
Mọi người không hẹn mà đều có chung ý nghĩ, đứng dậy không nói gì, tay cầm sẵn đao kiếm. Họ liệu đoán viên quan đã đến đây tuyên chỉ thì nhất định có bọn quan binh bí mật bố trí bốn phía Lưu phủ, một trận đại chiến khó tránh khỏi xảy ra. Bọn họ và Lưu Chính Phong là chỗ thâm giao, quyết không thể khoanh tay đứng nhìn được. Bọn họ đã đến Lưu phủ dự tiệc tức nhiên cũng là người trong bọn nghịch đảng, có thể thờ ơ sao được? Bọn họ chỉ đợi Lưu Chính Phong biến sắc quát mắng thì cùng nhảy vào, băm nát tên quan chó má này nát như tương.
Nào ngờ Lưu Chính Phong vẫn rất bình tĩnh. Lão quỳ gối xuống, hướng về phía viên quan khấu đầu lạy ba lạy rồi lớn tiếng nói:
– Kẻ vi thần là Lưu Chính Phong xin nghe thánh chỉ, kính chúc hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!
Quần hùng thấy vậy vô cùng kinh ngạc.
Viên quan mở cuộn vải tròn ra, tuyên đọc:
– Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết: “Theo Tuần phủ tỉnh Hồ Nam tấu, thứ dân Lưu Chính Phong ở huyện Hành Sơn chăm lo việc nghĩa, giỏi về cung mã; ở quê nhà kham tài đại dũng. Vậy phong chức tham tướng để từ nay vì triều đình gắng sức báo đáp, không phụ lòng trẫm. Khâm thử”.
Rồi lão đứng dậy hướng về viên quan khom người nói:
– Đa tạ Trương đại nhân đã chiếu cố đề bạt.
Viên quan vuốt râu mỉm cười nói:
– Chúc mừng, chúc mừng! Lưu tướng quân, từ nay tướng quân và ta đều cùng là bề tôi, hà tất phải khách khí như vậy.
Lưu Chính Phong đáp:
– Tiểu tướng nguyên là kẻ thảo dân thất phu, hôm nay được triều đình phong quan là nhờ ân trạch sâu dày của hoàng thượng, khiến cho tiểu tướng rạng rỡ tổ tông. Đó cũng là nhờ tuần phủ đại nhân và Trương đại nhân đã hết dạ tiến cử.
Viên quan cười nói:
– Không dám, không dám!
Lưu Chính Phong quay lại hỏi Phương Thiên Câu:
– Phương hiền đệ, lễ vật phụng kính Trương đại nhân đâu?
Phương Thiên Câu đáp:
– Tiểu đệ đã chuẩn bị sẵn cả rồi.
Gã nói xong liền quay người bưng ra một chiếc mâm, trên mâm đựng một bọc gấm.
Lưu Chính Phong giơ hai tay nhận lấy rồi cười nói:
– Chút lễ mọn này không đủ tỏ lòng thành, kính mong Trương đại nhân nhận cho.
Gã Trương đại nhân cười nói:
– Là huynh đệ với nhau, Lưu đại nhân đừng đa lễ như vậy.
Gã nói rồi đưa mắt ra hiệu cho tên sai đầu bên cạnh tiếp lấy. Lúc sai đầu nhận chiếc mâm, hai tay hắn trĩu xuống, rõ ràng lễ vật trong mâm không nhẹ, không phải bạc mà là vàng. Trương đại nhân cười híp mắt nói:
– Tiểu đệ đang thi hành công vụ, không ở lại lâu được. Nào, nào, nào; hãy rót ba bát rượu, chúc mừng Lưu tướng quân hôm nay được phong quan nhận chức. Chẳng bao lâu tướng quân lại được thăng quan tấn tước, ân trạch của hoàng thượng rộng lớn không biết bao nhiêu mà lường.
Tả hữu rót rượu mang đến. Trương đại nhân liên tiếp uống cạn ba bát rượu rồi cung tay chào, quay người đi ra cửa. Lưu Chính Phong nét mặt hớn hở tiễn đưa ra tận cổng lớn. Tiếng chiêng trống lại vang lên, Lưu phủ ngưng lễ tiễn khách.
Màn kịch này vượt ra ngoài ý nghĩ của quần hùng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không biết nói thế nào, vẻ mặt vừa bẽn lẽn vừa kinh ngạc.
Các vị tân khách đến Lưu phủ tuy không phải là người trong hắc đạo, cũng không phải là người tác loạn phạm thượng, nhưng họ đều có danh vọng trong võ lâm, là những nhân vật tự coi mình rất cao. Đối với quan nha, họ đã không coi ra gì; giờ thấy Lưu Chính Phong xu phụ quyền thế, được hoàng đế phong chức tham tướng, chẳng qua chỉ là chức quan võ nhỏ bằng hạt mè hạt đậu mà lão đã cảm kích vô cùng, làm những điệu bộ hành vi trâng tráo, lại ngang nhiên đưa hối lộ thì lòng họ rất coi thường lão. Có người không nhịn được, vẻ khinh khi lộ rõ trên mặt. Còn những vị tân khách lớn tuổi thì nghĩ: Xem tình hình này thì áo mũ của lão nhất định là dùng vàng bạc mà mua rồi, không biết lão xài hết bao nhiêu mới mua được việc tiến cử của quan tuần phủ. Lưu Chính Phong xưa nay là người chính trực, không hiểu sao đến lúc già còn tham danh vọng, lại dùng thủ đoạn đê hèn để mua một chức quan?
Lưu Chính Phong đi đến trước quần hùng, mặt mày đầy vẻ hân hoan, chào mời các vị tân khách. Không có ai ngồi thủ tọa, chiếc ghế thái sư đó vẫn để trống, ghế đầu bên trái là Hạ lão quyền sư ở Lục hợp môn là người cao niên nhất, ghế đầu bên phải là phó bang chúa Cái bang Trương Kim Ngao. Trương Kim Ngao tuy không phải là người võ nghệ cao cường nhưng Cái bang là bang hội lớn nhất trên giang hồ. Bang chủ Cái bang là Giải Phong võ công danh vọng rất cao, nên ai cũng kính nể.
Quần hùng lục tục ngồi xuống, người của Lưu phủ đến rót rượu. Hướng Đại Niên đưa lên một trà kỷ trên phủ gấm hoa. Rồi hắn bưng một cái chậu bằng vàng sáng loáng dài khoảng nửa thước, đựng đầy nước để lên trà kỷ. Bỗng nghe ngoài cổng vang lên ba tiếng cồng bong bong bong, tiếp theo là tám tiếng nổ đùng đùng của pháo đại. Bọn hậu bối đệ tử đang ở hậu sảnh hay ngồi trong hoa sảnh đều chạy đến xem rất náo nhiệt.
Lưu Chính Phong cười hoan hỉ đi vào sảnh đường cung tay vái chào một vòng. Quần hùng đều đứng lên đáp lễ.
Lưu Chính Phong lớn tiếng nói:
– Thưa các vị tiền bối anh hùng, thưa các vị hảo hán bằng hữu, thưa các vị thanh niên bằng hữu! Các vị đã chẳng ngại đường xa đến đây, Lưu Chính Phong này hân hạnh vô cùng, cảm kích khôn xiết. Hôm nay tiểu đệ rửa tay chậu vàng, từ nay không còn hỏi han đến những chuyện trên giang hồ nữa như các vị đã biết. Huynh đệ đã chịu ân điển của triều đình, làm một chức quan nho nhỏ. Người ta thường nói: “Hưởng lộc của vua thì phải hết đạo trung quân”. Hành vi trên giang hồ xét cho cùng là vì nghĩa; còn việc quốc gia là việc công, phải tuân giữ phép nước để báo ân vua; hai con đường này gần như mâu thuẫn với nhau làm cho Lưu Chính Phong này rất lấy làm khó nghĩ. Từ nay về sau, Lưu mỗ ra khỏi võ lâm, môn hạ đệ tử của Lưu mỗ nếu muốn gia nhập vào môn phái khác đương nhiên vẫn là bạn tốt của Lưu mỗ. Bao nhiêu ân oán thị phi trong võ lâm, Lưu mỗ sẽ không hỏi han tới nữa.
Lão nói xong lại cung tay vái xuống.
Quần hùng đã liệu đoán trước là lão sẽ nói như vậy, bèn nghĩ: Thâm tâm của lão muốn làm quan; người đã có ý chí như vậy thì miễn cưỡng sao được? Dù sao thì lão cũng không có lời gì với bọn mình. Vậy thì từ nay trong võ lâm, cứ xem như không có tên của lão mà thôi.
Có người lại nghĩ: Những năm gần đây, trên giang hồ, Ngũ Nhạc kiếm phái luôn luôn hành hiệp trượng nghĩa, được mọi người ngưỡng mộ khâm phục. Lưu Chính Phong lại bày ra chuyện này, đương nhiên trước mặt người ta không dám nói, nhưng sau lưng thì không tránh khỏi sự chê cười.
Người khác lại nghĩ: Người ta nói Ngũ Nhạc kiếm phái là môn phái hiệp nghĩa, nay vừa gặp thăng quan phát tài đã vội khép nép khấu đầu trước bọn quan nha thì còn đề cao hai chữ “hiệp nghĩa” làm gì nữa?
Mỗi người đều có những suy nghĩ khác nhau, trên đại sảnh yên lặng không một tiếng động. Đáng lý ra trước tình cảnh này thì mọi người đều hỏi thăm chúc mừng Lưu Chính Phong, nào là “Phúc thọ toàn quy”; “Cấp lưu dũng thoái”; “Đại trí đại dũng”… mới phải, nhưng hơn một ngàn người trên sảnh đường không ai nói một lời.
Lưu Chính Phong quay người nhìn ra ngoài rồi lớn tiếng nói:
– Đệ tử Lưu Chính Phong được ân sư thâu nhận làm môn hạ, truyền thụ võ nghệ, chưa làm rạng rỡ được môn phái Hành Sơn, đệ tử vô cùng xấu hổ. May thay có Mạc sư ca chủ trì bổn môn, Lưu Chính Phong này bất tài vô dụng, thì có thêm một Lưu mỗ cũng không phải nhiều, mà bớt đi một Lưu mỗ cũng không phải ít. Từ nay về sau, Lưu mỗ đã rửa tay chậu vàng, chuyên tâm làm quan, quyết không dùng võ nghệ ân sư truyền cho để cầu thăng quan tiến chức; những ân oán thị phi trên giang hồ hoặc tranh chấp môn phái Lưu mỗ quyết không hỏi tới, nếu trái lời thì xin như lưỡi kiếm này.
Lão xoay tay phải rút thanh trường kiếm trong tay áo ra khỏi vỏ, hai tay bẻ “cách” một tiếng, thanh kiếm gãy thành hai đoạn. Lão bẻ trường kiếm rồi thuận tay liệng hai đoạn kiếm xuống thềm, leng keng hai tiếng nhẹ, hai phần kiếm gãy đã cắm hút vào viên gạch xanh.
Quần hùng vô cùng kinh hãi khi nghe tiếng hai đoạn kiếm gãy cắm sâu vào viên gạch xanh. Lưỡi kiếm này hiển nhiên là một loại khí giới nát ngọc tan vàng, Lưu Chính Phong vận kình lực của ngón tay bẻ gãy kiếm không có gì lạ. Đằng này lão bẻ gãy bảo kiếm một cách nhẹ nhàng, không phí một chút sức lực thì công phu nội lực của lão thật là lợi hại, xứng đáng là cao thủ số một về chỉ pháp trong võ lâm.
Văn tiên sinh thở dài nói:
– Đáng tiếc, thật là đáng tiếc!
Chẳng biết Văn tiên sinh tiếc cho lưỡi bảo kiếm hay tiếc cho Lưu Chính Phong, một vị cao thủ lại cam tâm đi làm quan cho hoàng đế.
Lưu Chính Phong vẻ mặt hớn hở, xắn hai tay áo toan nhúng vào chậu vàng. Bỗng nghe có người ngoài cổng lớn lên tiếng:
– Dừng lại! Khoan đã!
Lưu Chính Phong hơi giật mình kinh hãi, ngẩng đầu lên nhìn thấy ngoài cổng lớn có bốn gã hán tử mình mặc áo vàng. Bốn gã vừa vào đến cửa đã chia ra đứng hai bên, lại có một hán tử dáng người rất cao, mình mặc áo vàng hiên ngang đi vào. Trong tay hắn cầm một lá cờ gấm thêu ngũ sắc, trên cờ điểm xuyết đầy trân châu bảo thạch, bay phấp phới phát ra những tia sáng rực rỡ. Rất nhiều người đã nhận ra lá cờ vàng, sợ hãi la lên:
– Cờ lệnh của minh chủ Ngũ Nhạc kiếm phái đã đến!
Gã hán tử cao người đi đến trước mặt Lưu Chính Phong, giơ cờ lên rồi nói:
– Lưu sư thúc, đệ tử phụng mệnh minh chủ cầm cờ lệnh của Ngũ Nhạc kiếm phái đến đây, mong đại lễ rửa tay chậu vàng của Lưu sư thúc tạm thời dừng lại.
Lưu Chính Phong khom người đáp:
– Không biết hiệu lệnh của minh chủ có dụng ý gì?
Gã hán tử đó nói:
– Đệ tử phụng mệnh hành sự, quả thật không biết ý chỉ của minh chủ là gì. Xin Lưu sư thúc thứ tội cho.
Lưu Chính Phong mỉm cười nói:
– Bất tất phải khách khí như vậy. Hiền điệt là Thiên trượng tùng Sử hiền điệt phải không?
Mặt lão tuy lộ vẻ tươi cười nhưng giọng nói run run, rõ ràng chuyện này đến quá đột ngột. Dù lão là người đã cầm kiếm xông pha trăm trận nhưng cũng không tránh khỏi bị chấn động tâm thần.
Gã hán tử đó chính là Thiên trượng tùng Sử Đăng Đạt, đệ tử của phái Tung Sơn. Gã nghe Lưu Chính Phong biết tên tự và ngoại hiệu của mình thì vô cùng đắc ý, khom lưng nói:
– Đệ tử Sử Đăng Đạt xin bái kiến Lưu sư thúc.
Gã bước lên trước vài bước hướng về Thiên Môn đạo nhân, Nhạc Bất Quần, Định Dật sư thái… hành lễ rồi nói:
– Đệ tử môn hạ phái Tung Sơn bái kiến các vị sư bá, sư thúc.
Bốn gã hán tử áo vàng cùng cúi người hành lễ.
Định Dật sư thái rất vui mừng, nghiêng người đáp lễ rồi nói:
– Sư phụ của ngươi đứng ra ngăn cản việc này thật không có gì hay bằng. Theo ta, chúng ta là người học võ, lấy nghĩa hiệp làm trọng, giao du tự tại trên giang hồ, việc gì phải nhọc sức ra làm quan? Nhưng ta thấy Lưu Chính Phong hiền đệ đã an bài tất cả, quyết không thèm nghe lời khuyên của lão ni này nên ta cũng không rườm lời làm gì cho mỏi miệng.
Lưu Chính Phong trịnh trọng nói:
– Năm xưa Ngũ Nhạc kiếm phái chúng ta kết minh, ước định tương trợ, bảo vệ chính khí trong võ lâm, gặp việc có liên quan đến năm phái, mọi người phải nghe theo hiệu lệnh của minh chủ. Lá cờ ngũ sắc này do năm phái cùng chế ra, thấy cờ lệnh như thấy minh chủ, dĩ nhiên là như vậy. Nhưng hôm nay, rửa tay chậu vàng là chuyện riêng của Lưu mỗ, đã không vi phạm quy chế đạo nghĩa của võ lâm, càng không liên can gì đến Ngũ Nhạc kiếm phái, nên không thể nhận sự ràng buộc của cờ lệnh minh chủ. Xin Sử hiền điệt bẩm lại với tôn sư, Lưu mỗ không tuân theo cờ lệnh, mong Tả sư huynh miễn tội cho.
Lão nói xong liền đi về phía chậu vàng.
Sử Đăng Đạt lạng người một cái, vọt lên đứng chắn trước chậu vàng. Tay phải gã giơ cao lá cờ, nói:
– Lưu sư thúc, sư phụ của đệ tử dặn đi dặn lại, cố xin sư thúc hoãn việc rửa tay chậu vàng. Sư phụ của đệ tử nói Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi, mọi người vẹn tình huynh đệ. Sư phụ của đệ tử truyền cờ lệnh này là muốn vẹn toàn tình nghĩa của Ngũ Nhạc kiếm phái và cũng vì để duy trì chính khí trong võ lâm, muốn mọi điều tốt đẹp cho sư thúc.
Lưu Chính Phong nói:
– Ta không sao hiểu nổi. Thiệp Lưu mỗ báo tin vui rửa tay gác kiếm đã sớm cung kính phân công người đem đến phái Tung Sơn; ngoài ra Trương Hàm cũng đã bẩm cáo với Tả sư huynh. Nếu như Tả sư huynh thật sự có hảo ý, sao không sớm can ngăn chuyện này? Đến giờ phút này mới phát cờ lệnh ra ngăn cản không phải là muốn ta nói lời rồi lại nuốt lời trước mặt các vị anh hùng trong thiên hạ khiến cho hảo hán trên giang hồ chế nhạo ta ư?
Sử Đăng Đạt nói:
– Sư phụ đệ tử đã dặn dò rằng Lưu sư thúc là hảo hán tử lừng danh của phái Hành Sơn, nghĩa hiệp cao ngất trời xanh, đồng đạo trong võ lâm trước nay đối với Lưu sư thúc rất tôn kính. Sư phụ của đệ tử cũng vô cùng khâm phục, dặn đệ tử vạn vạn lần không được thất lễ, nếu trái lời sẽ trừng trị nghiêm khắc không tha thứ. Đại danh của Lưu sư thúc vang dội khắp giang hồ, về chuyện này sư thúc bất tất phải lo.
Lưu Chính Phong mỉm cười nói:
– Đó là Tả minh chủ quá khen thôi, Lưu mỗ có danh phận gì đâu?
Định Dật sư thái thấy hai người cứ giằng co không dứt khoát, không nhịn được nữa, bèn nói xen vào:
– Lưu hiền đệ, việc này tạm gác lại có sao đâu. Hôm nay mọi người ở đây đều là hảo bằng hữu, thì có ai mà cười sư đệ nữa? Giả sử có một hai kẻ không biết gì, nói lời giễu cợt dù hiền đệ không trách họ nhưng bần ni sẽ không buông tha chúng đâu.
Lưu Chính Phong gật đầu nói:
– Định Dật sư thái cũng nói vậy thì xin hoãn việc rửa tay chậu vàng, đến giờ Ngọ ngày mai sẽ cử hành lại. Xin các vị bằng hữu đừng ai bỏ đi, hãy ở lại Hành Sơn hàn huyên thêm một ngày, chờ tại hạ giải thích tận tường cho các vị hiền điệt phái Tung Sơn rõ.
Lúc này bỗng nghe có tiếng con gái ở hậu đường la lên:
– Úi chao, ngươi làm gì vậy? Ta thích chơi với ai thì mặc kệ ta, ngươi quản được ta à?
Quần hùng sửng sốt vì nghe giọng nói cô ta. Thì ra cô bé này chính là Khúc Phi Yên, ngày hôm qua đã công kích Dư Thương Hải.
Lại nghe tiếng nói của một nam tử:
– Ngươi làm ơn ngồi yên ở đây cho ta nhờ, đừng chạy qua chạy lại lung tung, đợi một chút nữa, ta sẽ thả ngươi đi chơi.
Khúc Phi Yên nói:
– Thật là kỳ cục, đây đâu phải là nhà của ngươi, ta muốn theo Lưu tỷ tỷ đến hậu viên sao ngươi lại cản không cho ta đi?
Người đó nói:
– Thôi được! Ngươi muốn đi thì đi một mình, xin Lưu cô nương nán lại đây một chút.
Khúc Phi Yên nói:
– Lưu tỷ tỷ thấy bộ mặt ngươi là đã phát ghét; ngươi mau tránh xa ra cho ta đi. Lưu tỷ tỷ lại không biết ngươi là ai, ai khiến ngươi ở đây gây rắc rối.
Lại nghe giọng nói một cô gái khác:
– Muội muội, chúng ta đi, đừng lý luận với hắn nữa.
– Tên cuồng đồ to gan nào dám đến phủ ta mà sỗ sàng, lại vô lễ với Tinh nhi của ta?
Đệ tử thứ hai của Lưu môn là Mễ Vi Nghĩa nghe vậy vội chạy ngay vào hậu đường, thấy sư muội và Khúc Phi Yên dắt tay nhau đứng ở trong sân, một gã thanh niên áo vàng giang hai tay ra ngăn chặn hai cô. Mễ Vi Nghĩa vừa thấy sắc phục người đó thì biết ngay là đệ tử phái Tung Sơn. Không dằn được tức giận, hắng giọng một cái rồi lớn tiếng nói:
– Vị sư huynh môn hạ của phái Tung Sơn, sao không vào đại sảnh ngồi chơi?
Gã đó ngạo nghễ nói:
– Không cần đâu. Ta phụng mệnh minh chủ đứng đây canh chừng quyến thuộc của Lưu gia, không cho một người nào trốn thoát.
Câu nói dù thanh âm không lớn nhưng lại kiêu căng khác thường; quần hùng trên đại sảnh đều nghe thấy và biến đổi sắc mặt.
Lưu Chính Phong cả giận, nhìn Sử Đăng Đạt hỏi:
– Các ngươi làm trò gì vậy?
Sử Đăng Đạt nói:
– Vạn sư đệ ra đây đi, ăn nói cẩn thận một chút. Lưu sư thúc đã đồng ý không rửa tay rồi.
Hán tử ở hậu đường đáp:
– Dạ! Vậy thì hay biết mấy.
Gã nói xong, từ hậu đường đi ra, hướng về Lưu Chính Phong khẽ khom lưng nói:
– Đệ tử Vạn Đại Bình, môn hạ phái Tung Sơn, tham kiến Lưu sư thúc.
Lưu Chính Phong giận đến run người, lớn tiếng nói:
– Phái Tung Sơn có bao nhiêu đệ tử đến đây, xin mời ra mặt hết đi!
Lão vừa nói dứt lời, trên nóc nhà, ngoài cổng lớn, trong góc sảnh, trong hậu viện, trước sau trái phải, mấy chục người đồng thanh đáp:
– Đệ tử phái Tung Sơn tham kiến Lưu sư thúc.
Giọng nói của mấy chục người đồng thời cất lên, âm thanh vang dội lại rất bất ngờ khiến quần hùng đều giật mình kinh hãi. Phía trên nóc nhà có hơn mười người mình mặc áo vàng canh giữ.
Những người trong đại sảnh đều ăn mặc đủ kiểu, hiển nhiên là bọn chúng đã sớm trà trộn vào trong hơn một ngàn tân khách ngấm ngầm theo dõi Lưu Chính Phong, nên không ai phát giác được.
Định Dật sư thái là người đầu tiên không kìm được tức giận, lớn tiếng quát:
– Đây… đây là ý đồ gì? Các ngươi khinh người quá lắm!
Sử Đăng Đạt đáp:
– Xin Định Dật sư bá thứ tội cho. Sư phụ đệ tử đã truyền hiệu lệnh dù bất cứ giá nào cũng phải khuyên răn cho được Lưu sư thúc, không thể để Lưu sư thúc rửa tay gác kiếm. Sư phụ sợ Lưu sư thúc không tuân phục hiệu lệnh nên mới đắc tội như vậy.
Tiếp đó, mười mấy người từ hậu đường đi ra, gồm phu nhân của Lưu Chính Phong, hai người con cùng với bảy tên đệ tử của Lưu phủ. Sau lưng mỗi người đều có một tên đệ tử phái Tung Sơn cầm trủy thủ chĩa vào lưng từng người.
Lưu Chính Phong to tiếng nói:
– Thưa các vị bằng hữu, không phải Lưu mỗ tự ý hành động. Hôm nay, Tả sư huynh lại uy hiếp như vậy, nếu Lưu mỗ khuất phục uy lực thì còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Tả sư huynh không cho Lưu mỗ rửa tay gác kiếm, hà hà, Lưu mỗ đầu có thể rơi nhưng ý chí không thể khuất phục.
Lão nói xong bước lên một bước, hai tay toan nhúng vào chậu vàng.
Sử Đăng Đạt liền thét to:
– Dừng lại!
Gã cầm cờ lệnh phất ra, chắn trước mặt lão. Lưu Chính Phong phóng song chỉ, đâm thẳng vào hai mắt của gã. Sử Đăng Đạt giơ tay gạt ra, Lưu Chính Phong rút tay trái lại, song chỉ tay phải lại đâm thẳng vào hai mắt của gã. Sử Đăng Đạt không sao đỡ được đành phải thối lui. Lưu Chính Phong bức gã phải lùi lại, hai tay tiếp tục nhúng xuống chậu vàng. Bỗng nghe sau lưng có tiếng gió, có hai người xông đến. Lưu Chính Phong vẫn không quay đầu lại, chân trái đá ngược về sau.
Bốp một tiếng, một tên đệ tử phái Tung Sơn đã bị đá văng xa ra. Tay phải của lão chụp ngực của một tên đệ tử khác của phái Tung Sơn rồi thuận thế nhấc bổng lên ném về hướng Sử Đăng Đạt. Chân trái lão phản cước, tay phải chụp lấy người, hai động tác này diễn ra chỉ trong nháy mắt, vị trí chuẩn xác, động tác lại nhanh nhẹn, lão đích thực là một nội gia cao thủ phi thường.
Bọn đệ tử phái Tung Sơn sửng sốt, nhất thời không ai dám tiến lên. Tên đệ tử phái Tung Sơn đứng phía sau con trai của lão la lên:
– Lưu sư thúc, nếu sư thúc không dừng tay, đệ tử sẽ giết công tử của sư thúc ngay.
Lưu Chính Phong quay đầu lại liếc nhìn con trai rồi lạnh lùng nói:
– Anh hùng thiên hạ ở đây, ngươi dám to gan đụng đến một cọng lông của hài nhi ta thì mấy chục tên đệ tử phái Tung Sơn các ngươi sẽ bị băm nát như tương.
Lão nói lời này không phải chỉ là lời hăm dọa. Nếu bọn đệ tử phái Tung Sơn thực sự làm tổn thương đến con trai của lão thì nhất định sẽ gây nên sự công phẫn; quần hùng sẽ nổi lên đánh lại thì bọn đệ tử phái Tung Sơn khó mà chạy thoát. Lão quay người, hai tay đưa về phía chậu vàng, những tưởng lần này không ai có thể cản ngăn. Bỗng nhiên, lóe sáng một cái, một ám khí nhỏ xíu bay vút đến. Lưu Chính Phong lùi hai bước, chỉ nghe keng một tiếng nhỏ, ám khí đã đánh vào thành chậu vàng. Chiếc chậu vàng bị nghiêng rồi đổ lật úp xuống đất, nước chảy ra lênh láng.
Trên nóc nhà thấp thoáng một cái bóng vàng, một người nhảy xuống, giơ chân phải đạp lên chiếc chậu khiến chậu vàng bẹp dí. Gã này khoảng bốn mươi tuổi, dáng người tầm thước, thân thể gầy đét, hai chòm râu trên môi như râu chuột, cung tay nói:
– Lưu sư huynh; tiểu đệ phụng mệnh minh chủ không cho sư huynh rửa tay gác kiếm!
Lưu Chính Phong nhận ra gã này là tứ sư đệ Phí Bân của Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn. Y là một cao thủ nổi danh trong võ lâm, có ngoại hi ệu là Đại tung dương thủ. Lưu Chính Phong biết trong tình hình này, phái Tung Sơn trước sau gì cũng đối phó với lão, không chỉ riêng gì gã đệ tứ đại đệ tử này. Chậu vàng đã bị hắn đạp dẹp, việc rửa tay gác kiếm không thể cử hành được nữa. Trước mắt chỉ có hai con đường là tận lực chiến đấu hay cam chịu nhẫn nhục. Lão lại nghĩ: phái Tung Sơn đang nắm giữ Ngũ Nhạc minh kỳ. Bọn chúng uy hiếp người như vậy, lẽ nào hơn một ngàn anh hùng hảo hán ở đây lại không ai đứng lên nói được một câu công bằng?
Lão cung tay đáp lễ, nói:
– Phí sư huynh đến đây sao không uống một bát rượu nhạt mà lại núp trên nóc nhà để phải khổ vì trời nắng thế này? Phái Tung Sơn đã đưa nhiều cao thủ bậc nhất khác đến đây, xin mời hiện thân hết đi. Nếu đối phó với Lưu mỗ thì một mình Phí sư huynh cũng đã thừa sức rồi; còn nếu muốn đối phó với các anh hùng hào kiệt ở đây thì e rằng phái Tung Sơn không đủ sức đâu.
Phí Bân mỉm cười nói:
– Lưu sư huynh sao lại nói ra những lời khiêu khích dễ xa nhau như vậy? Cứ coi như tại hạ là địch thủ của Lưu sư huynh, tại hạ cũng không chống lại được một chiêu Tiểu lạc nhạn thức vừa rồi của Lưu sư huynh. Phái Tung Sơn quyết không dám gây hấn với các vị anh hùng hảo hán ở đây, thậm chí ngay cả Lưu sư huynh cũng không dám đắc tội. Nhưng chỉ vì tính mệnh thân gia và hàng vạn đồng đạo trong võ lâm nên tại hạ cầu mong Lưu sư huynh không nên rửa tay gác kiếm.
Gã vừa nói xong, tất cả quần hùng trên sảnh đều kinh ngạc, nghĩ thầm: Lưu Chính Phong có rửa tay gác kiếm hay không thì tại sao lại có liên can đến tính mệnh của các thân gia và hàng vạn đồng đạo trong võ lâm?
Lưu Chính Phong đáp:
– Phí sư huynh nói như vậy, chẳng phải là đã quá đề cao tiểu đệ ư? Lưu mỗ chỉ là một kẻ tầm thường trong phái Hành Sơn, con cái còn nhỏ, môn hạ cũng chỉ thu được tám chín tên đệ tử không thành tài, thực sự không đủ để đánh giá hơn thua. Nhất cử nhất động của Lưu mỗ làm sao có thể liên quan đến tính mệnh thân gia và hàng vạn đồng đạo trong võ lâm?
Định Dật sư thái nói xen vào:
– Đúng vậy! Lưu hiền đệ rửa tay gác kiếm để đi làm một chức quan nhỏ như hạt đậu, thực sự mà nói, bần ni cũng thấy rất uổng phí. Nhưng mỗi người đều có chí hướng riêng, hiền đệ muốn thăng quan phát tài, chỉ cần không làm hại đến trăm họ, không làm bại hoại nghĩa khí đồng đạo võ lâm thì người ngoài cũng không thể cản trở được. Ta thấy Lưu hiền đệ cũng không có bản lĩnh to tát để có thể làm hại nhiều đồng đạo trong võ lâm.
Phí Bân nói:
– Định Dật sư thái, sư thái là người tu hành trong Phật môn tất nhiên không hiểu rõ được mánh lới ma giáo của người khác. Nếu cái mưu đồ lớn lao này mà trót lọt, không những đồng đạo trong võ lâm bị hại vô số kể mà trăm họ lương thiện trong thiên hạ còn bị vạ lây. Xin các vị nghĩ xem, Lưu tam gia phái Hành Sơn là một bậc anh hùng hào kiệt lừng danh trên giang hồ, tại sao có thể cam tâm hạ mình đi làm một cẩu quan hẹp hòi bẩn thỉu như vậy? Gia sản của Lưu tam gia lắm của nhiều tiền, còn muốn thăng quan phát tài nữa làm gì? Trong chuyện này, tất còn có nguyên nhân không thể nói cho người khác biết được.
Quần hùng nghĩ bụng: Gã nói cũng có lý. Ta đã sớm hoài nghi một con người như Lưu Chính Phong lại đi làm chức quan võ nhỏ bé như vậy thật là chẳng ra trò trống gì cả.
Lưu Chính Phong chẳng những không giận mà còn cười, nói:
– Phí sư huynh, sư huynh muốn ngậm máu phun người cũng nên xem lời nói có đúng vậy không. Các vị sư huynh khác của phái Tung Sơn xin mời hiện thân ra đi.
Chỉ nghe phía Đông, phía Tây, trên nóc nhà đồng loạt có tiếng người đáp:
– Được!
Hai cái bóng vàng thoáng qua, hai người đã đứng trước cửa sảnh đường, công phu khinh thân của họ cũng giống như Phí Bân nhảy xuống vừa rồi. Gã đứng phía Đông là một người mập mạp, cao to bệ vệ. Bọn Định Dật sư thái nhận ra gã là nhị sư đệ Thác tháp thủ Đinh Miễn của chưởng môn nhân phái Tung Sơn. Gã đứng phía Tây gầy nhom như cây tre là Tiên hạc thủ Lục Bách, ngồi ghế thứ ba trong phái Tung Sơn. Hai người cùng cung tay nói:
– Xin chào Lưu tam gia, xin chào các vị anh hùng.
Hai gã Đinh Miễn và Lục Bách trong võ lâm uy danh vang lừng, quần hùng đều đứng dậy đáp lễ. Họ thấy các tay cao thủ của phái Tung Sơn lần lượt đến thì trong lòng ngấm ngầm lo ngại, biết chuyện hôm nay không dễ gì êm xuôi được, chỉ sợ Lưu Chính Phong khó lòng tránh khỏi thất bại.
Định Dật sư thái nói với giọng tức giận:
– Lưu hiền đệ, hiền đệ không cần phải sợ hãi. Chuyện thiên hạ không thể qua được chữ “lý”, đừng nhìn người ta có thế đông người mà sợ. Lẽ nào bằng hữu các phái Thái Sơn, Hoa Sơn, Hằng Sơn đến đây lại để mặc ai muốn làm gì thì làm sao?
Lưu Chính Phong cười với vẻ khổ não, nói:
– Định Dật sư thái, chuyện này vốn là chuyện của phái Hành Sơn, nói ra thật xấu hổ, lại làm cho các vị bằng hữu phải bận tâm. Bây giờ, Lưu mỗ đã hiểu rồi. Chắc là Mạc Đại sư ca của Lưu mỗ đã đưa cáo trạng lên Tả minh chủ phái Tung Sơn, nói Lưu mỗ làm nhiều chuyện không hay không phải, để các huynh đệ phái Tung Sơn đến đây hỏi tội. Được lắm, được lắm, Lưu mỗ thất lễ nhiều với Mạc sư ca, để Lưu mỗ nhận tội với Mạc sư ca là xong.
Phí Bân đưa mắt đảo khắp đại sảnh một lượt, ánh mắt của gã tạo thành một làn tinh quang sáng chói, rõ ràng là nội công rất thâm hậu. Gã nói:
– Việc này tại sao lại có liên quan đến Mạc Đại tiên sinh? Xin mời Mạc Đại tiên sinh ra đây để cho mọi người hiểu rõ.
Gã nói mấy câu này xong, đại sảnh lặng yên như tờ, một lúc sau cũng không thấy Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh xuất hiện.
Lưu Chính Phong cười nhăn nhó nói:
– Sư huynh sư đệ Lưu mỗ bất hòa, các vị bằng hữu trong võ lâm đều biết rồi thì cũng không nên giấu giếm làm chi nữa. Tiểu đệ nhờ di sản của tiền nhân để lại, nên trong phủ tương đối sung túc, còn Mạc sư huynh thì gia cảnh lại bần hàn. Đã là bằng hữu với nhau thì tiền tài là chuyện bình thường, huống hồ lại là sư huynh sư đệ? Nhưng Mạc sư ca lại tỵ hiềm điều này, tuyệt đối không bước chân đến nhà tiểu đệ. Sư huynh sư đệ Lưu mỗ đã nhiều năm không qua lại, không gặp nhau thì hôm nay Mạc sư ca dĩ nhiên không quang lâm rồi. Lòng Lưu mỗ không phục ở chỗ là Tả minh chủ chỉ nghe lời nói một bên của Mạc sư ca mà phái nhiều vị sư huynh đến để đối phó với tiểu đệ; ngay cả hiền thê và nhi tử của Lưu mỗ cũng đều trở thành tù nhân dưới thềm kia. Vậy… vậy đây không phải là chuyện nhỏ mà xé ra to ư?
Sử Đăng Đạt đáp dạ rồi giơ cao cờ lệnh đi đến đứng bên cạnh Phí Bân. Phí Bân nghiêm nghị nói:
– Lưu sư huynh, chuyện hôm nay không có liên can gì đến Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn; sư huynh không nên kéo Mạc Đại tiên sinh vào. Tả minh chủ dặn dò bọn tiểu đệ đến điều tra để biết giữa Lưu sư huynh và Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại có ngấm ngầm câu kết với nhau không, có bày ra âm mưu gì để đối phó với Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta cũng như với các chính phái đồng đạo võ lâm không?
Gã vừa nói xong, quần hùng đều sửng sốt biến sắc, không ít người có ý sợ hãi la thầm trong bụng. Ma giáo và anh hùng trong bạch đạo xưa nay không đội trời chung với nhau, hai bên đã kết oán thù mấy trăm năm, những chuyện tranh đấu với nhau diễn ra không ngừng và mỗi bên đều có thắng có bại. Có thể nói ít nhất trong hơn một ngàn người trên đại sảnh thì một nửa đã bị bọn Ma giáo làm hại; có người phụ huynh bị giết, có người sư trưởng bị hại, nên vừa nghe đề cập đến hai chữ “Ma giáo”, ai ai cũng nghiến răng căm phẫn. Ngũ Nhạc kiếm phái kết minh với nhau mục đích lớn nhất cũng là để đối phó với bọn Ma giáo. Ma giáo thế mạnh người đông, võ công cao cường; các danh môn chính phái tuy mỗi phái đều có võ nghệ tuyệt luân nhưng cũng không phải là đối thủ của họ. Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại được tôn xưng là cao thủ đệ nhất đương thời, tên của lão gọi là Bất Bại bởi vì từ khi luyện thành tuyệt nghệ đến nay, lão chưa hề thất bại lần nào. Lão thật là một nhân vật phi thường. Quần hùng nghe Phí Bân chỉ trích Lưu Chính Phong cấu kết với Ma giáo, chuyện này xác thực có liên quan đến tính mệnh thân gia của mọi người, sự đồng cảm trước đây với Lưu Chính Phong bây giờ tiêu tan hết.
Lưu Chính Phong nói:
– Lưu mỗ chưa từng gặp qua Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại; cái gọi là cấu kết, âm mưu từ đâu mà có?
Phí Bân nghiêng đầu nhìn tam sư huynh Lục Bách, chờ gã nói. Lục Bách chậm rãi nói:
– Lưu sư huynh, lời huynh nói vừa rồi e rằng không được thành thật. Trong Ma giáo có một người hộ pháp trưởng lão tên là Khúc Dương, không hiểu Lưu sư huynh có quen biết lão hay không?
Lưu Chính Phong vốn là người rất bình tĩnh nhưng khi nghe gã đề cập đến hai chữ “Khúc Dương” lập tức biến sắc. Lão mím chặt môi, không đáp.
Gã mập Đinh Miễn từ lúc vào đại sảnh chưa nói câu nào, lúc này bỗng dưng lớn tiếng hỏi:
– Lưu sư huynh có quen Khúc Dương không?
Giọng nói của lão vang dội như bảy tám người cùng nói ra một lúc khiến mọi người ù cả tai. Gã đứng trân không nhúc nhích; thân người gã vốn đã cao to vạm vỡ kỳ lạ, bây giờ mở miệng nói ra, trong mắt mọi người dường như gã bỗng nhiên cao to hơn một thước, uy mãnh phi thường không thể tả xiết.
Lưu Chính Phong vẫn chưa đáp, hơn một ngàn người đưa mắt chăm chú nhìn vào mặt lão. Mọi người đều cho rằng Lưu Chính Phong trả lời hay không cũng như nhau, lão không nói ra tức là đã mặc nhiên thừa nhận rồi. Một lúc lâu sau, Lưu Chính Phong gật đầu đáp:
– Đúng vậy! Khúc Dương đại ca với Lưu mỗ không những quen biết mà còn là hảo bằng hữu, là tri kỷ duy nhất trong đời Lưu mỗ.
Đại sảnh nhốn nháo cả lên, quần hùng bàn tán xôn xao vì câu nói của Lưu Chính Phong vượt ra ngoài dự đoán của họ. Mọi người cứ nghĩ là nếu lão thừa nhận thì chỉ thừa nhận đã cùng với Khúc Dương có chuyện gặp nhau một lần, không ngờ lão lại nói Ma giáo trưởng lão là hảo bằng hữu, tri âm tri kỷ của lão.
Khuôn mặt Phí Bân lộ ra vẻ hớn hở, nói:
– Lưu sư huynh đã thừa nhận như vậy thì hay lắm. Bậc đại trượng phu mình làm mình chịu. Lưu sư huynh, Tả minh chủ đã vạch ra hai con đường để sư huynh lựa chọn.
Lưu Chính Phong hình như không nghe lời nói của Phí Bân, thần sắc lão vẫn điềm nhiên. Lão từ từ ngồi xuống, tay phải nhấc hũ rượu rót đầy một bát rồi đưa lên miệng chầm chậm uống cạn, tay áo không một chút rung động, đủ biết định lực của lão vô cùng cao thâm, giữa lúc khẩn cấp nghiêm trọng mà vẫn thản nhiên như không có gì xảy ra. Bản sắc và võ công của lão đã đạt đến mức thượng thừa; cả hai điều này mà khuyết một cũng không được. Mọi người càng ngấm ngầm bội phục.
Phí Bân dõng dạc nói:
– Tả minh chủ nói: Lưu Chính Phong là nhân tài hiếm có trong phái Hành Sơn, nhất thời sai lầm đi vào đường rẽ kết giao với người của tà giáo. Nếu lão có thể tự ăn năn hối cải thì ta là một hảo bằng hữu trong chánh giáo, sao không mở ra cho lão một con đường mới để quay về chánh nghĩa? Tả minh chủ dặn dò huynh đệ chuyển lời đến Lưu sư huynh như vậy. Nếu sư huynh chấp nhận con đường này, minh chủ hạn định cho Lưu sư huynh trong vòng một tháng phải giết chết Ma giáo trưởng lão Khúc Dương mang đầu về nộp thì những chuyện lầm lỡ không cần truy cứu nữa. Từ nay mọi người vẫn là hảo bằng hữu, hảo huynh đệ của nhau.
Quần hùng nghĩ bụng: Hai phe chính tà không thể đội trời chung với nhau; bọn bàng môn tả đạo của Ma giáo và các nhân vật trong chính giáo hễ gặp mặt nhau thì phải kẻ sống người chết. Tả minh chủ buộc Lưu Chính Phong phải giết Khúc Dương để tự chứng minh mình trong sạch thì yêu cầu này cũng không có gì là quá đáng.
Nét mặt Lưu Chính Phong thoáng một nụ cười thê lương. Lão nói:
– Khúc đại ca và Lưu mỗ vừa gặp nhau đã là cố nhân, dốc hết tâm sự cùng kết giao với nhau. Lão và Lưu mỗ đã gặp nhau hơn mười lần, ngẫu nhiên đề cập đến sự khác biệt về cái nhìn của các tông phái môn hộ, Khúc đại ca thở dài, cho rằng hai bên tranh đấu như vậy thật là vô vị. Lưu mỗ và Khúc đại ca kết giao với nhau chỉ để nghiên cứu thảo luận âm luật. Đại ca là cao thủ thất huyền cầm, tại hạ say mê thổi sáo; cả hai gặp nhau, phần lớn thời gian dành cho việc hợp tấu đàn sáo, trước nay không hề bàn bạc gì đến chuyện võ công.
Lão nói đến đây, tủm tỉm cười rồi nói tiếp:
– Các vị không tin thì thôi chứ trên thế gian này, Lưu Chính Phong cho là đánh đàn thì không ai bằng Khúc đại ca, mà thổi sáo thì Lưu mỗ cũng không chịu đứng vào hàng thứ hai. Khúc đại ca tuy là người trong Ma giáo nhưng qua tiếng đàn của đại ca, Lưu mỗ đã ngầm biết được tính khí cao khiết của đại ca, xứng đáng là bạn của trăng thanh gió mát. Lưu Chính Phong này đối với đại ca không những đã khâm phục mà còn ngưỡng mộ. Lưu mỗ tuy là kẻ thất phu quê mùa cũng quyết không thể làm hại người quân tử.
Quần hùng càng nghe càng lấy làm lạ, không thể tin được rằng lão và Khúc Dương lại kết giao với nhau qua tiếng đàn điệu sáo. Nhưng nghe lão nói rất thành khẩn, tuyệt không có một chút gì giả dối, thì họ cho rằng trên giang hồ có rất nhiều kẻ sĩ làm nhiều chuyện đặc biệt. Trước nay, thanh sắc khiến con người mê đắm nên chuyện Lưu Chính Phong đam mê âm nhạc cũng là chuyện bình thường. Những người biết rõ nội tình của phái Hành Sơn lại nghĩ: Cao thủ nhiều đời của phái Hành Sơn đều say mê âm nhạc, đương kim chưởng môn nhân Mạc Đại tiên sinh có ngoại hiệu là Tiêu Tương dạ vũ, cây hồ cầm không rời khỏi tay, giang hồ đã có tám chữ “Cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm âm”. Lưu Chính Phong do mê thổi sáo mà kết giao với Khúc Dương là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra.
Phí Bân nói:
– Tả minh chủ đã biết rõ Lưu sư huynh và Khúc ma đầu do âm luật mà kết giao với nhau. Tả minh chủ nói: “Lòng dạ Ma giáo ác độc khôn lường, chúng biết Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta những năm gần đây rất hưng vượng, khó mà đối kháng được nên chúng dùng trăm phương ngàn kế để phá ngay từ trong nội bộ chúng ta, gây nên sự ly gián. Chúng không từ một mặt nào hết, hoặc dùng tiền bạc, hoặc dùng mỹ sắc. Lưu sư huynh vốn là người giữ mình nghiêm cẩn, hai mặt này không phải là sở thích của Lưu sư huynh, nên chúng phái Khúc Dương là một tay giỏi âm luật đến kết bạn. Lưu sư huynh, cái đầu của Lưu sư huynh nên tỉnh táo một chút. Trước đây, Ma giáo đã giết hại quá nhiều người của chúng ta, sao Lưu sư huynh bị bọn chúng dùng mánh lới mê hoặc mà không có một chút tỉnh ngộ?
Định Dật sư thái nói:
– Phải rồi, những lời của Phí sư đệ rất đúng đắn. Ma giáo thật là đáng sợ, võ công không những âm độc mà còn trùng trùng quỷ kế khiến người ta không biết đâu mà đề phòng. Lưu sư đệ, sư đệ là bậc chính nhân quân tử, còn hắn là tên tiểu nhân đê hèn thì làm sao có thể kết bạn với nhau được? Sư đệ hãy mau chém chết tên Khúc Dương ma đầu kia thì mọi chuyện sẽ rõ ràng ngay. Ngũ Nhạc kiếm phái ta đồng khí liên chi, không thể để bị người của Ma giáo gây ra sự xích mích làm tổn thương đến nghĩa khí của đồng đạo.
Thiên Môn đạo nhân gật đầu nói:
– Lưu sư đệ, người quân tử có lỗi cũng như mặt trăng mặt trời tạm thời bị mây che khuất; ai ai cũng biết có lỗi thì có thể sửa không phải là điều tốt lành sao? Sư đệ nên giết lão ma đầu họ Khúc kia, người trong chính giáo ai cũng sẽ giơ ngón tay cái mà khen: “Lưu Chính Phong phái Hành Sơn quả nhiên là một hảo hán tử thiện ác phân minh”. Chúng ta là bằng hữu với hiền đệ cũng cảm thấy hãnh diện.
Lưu Chính Phong không đáp, hướng mắt về Nhạc Bất Quần hỏi:
– Nhạc sư huynh, sư huynh là bậc quân tử hiểu rõ điều phải trái, ở đây có nhiều vị cao thủ võ lâm đều ép tiểu đệ bán đứng bằng hữu, Nhạc sư huynh nghĩ sao?
Nhạc Bất Quần nói:
– Lưu hiền đệ, nếu đích thực là bằng hữu thì bọn người trong võ lâm có vì bằng hữu mà bị đao xuyên vào xương sườn cũng không chau mày. Có điều lão họ Khúc trong Ma giáo hiển nhiên là “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không đao”. Lão tìm mọi cách để kết giao với hiền đệ thật là hiểm độc vô cùng. Mục đích của lão là hại Lưu hiền đệ phải thân bại danh liệt, tan cửa nát nhà, tâm địa lão độc ác không sao nói hết được. Hạng người này mà cũng gọi là bằng hữu, há không phải là làm ô nhục hai chữ “bằng hữu” ư? Cổ nhân vì đại nghĩa mà giết cả người thân; người thân có thể giết đi, huống hồ đại ma đầu, đại gian tặc? Loại người này không thể xem là bằng hữu được.
Quần hùng nghe Nhạc Bất Quần nói dõng dạc như vậy liền bàn tán nhao nhao cả lên:
– Lời nói của Nhạc tiên sinh thật là minh bạch. Đối với bằng hữu tất nhiên phải có nghĩa khí, đối với kẻ địch thì phải tru diệt tận gốc, cần chi nói đến nghĩa khí nữa.
Lưu Chính Phong thở dài, đợi cho tiếng người lắng dịu xuống rồi mới chậm rãi nói:
– Lúc đầu Lưu mỗ và Khúc đại ca kết giao với nhau đã đoán được chuyện xảy ra ngày hôm nay. Gần đây ngấm ngầm theo dõi tình thế, Lưu mỗ đoán được không bao lâu nữa, giữa Ngũ Nhạc kiếm phái chúng ta và Ma giáo sẽ có một trận tranh đấu khốc liệt. Một bên là sư huynh đệ đồng minh, một bên là bằng hữu chi giao, Lưu mỗ không thể đứng về bên nào cho nên mới nghĩ ra kế sách rửa tay gác kiếm để muốn nói với đồng đạo thiên hạ rằng Lưu mỗ từ nay rút khỏi võ lâm, đặt mình ra ngoài mọi chuyện, không muốn nghe đến ân oán giết hại trên giang hồ. Chấp nhận một chức quan võ nhỏ bé như hạt mè hạt đậu, Lưu mỗ biết là đã tự làm hoen ố mình để che tai mắt của người. Nào ngờ Tả minh chủ thần thông quảng đại, nước cờ của Lưu mỗ không qua được mắt minh chủ.
Quần hùng nghe lão nói vậy mới hiểu ra, nghĩ bụng: Thì ra lão rửa tay gác kiếm vì đã ngấm ngầm có thâm ý này. Bọn ta trước đây không hiểu tại sao một cao thủ của phái Hành Sơn lại cam tâm đi làm một chức quan nhỏ xíu. Lời Lưu Chính Phong giải thích thêm khiến mọi người đều tự hào mình đã sáng suốt nhận định đúng.
Phí Bân, Đinh Miễn và Lục Bách ba người đưa mắt nhìn nhau, ra chiều đắc ý, nghĩ: Nếu không phải Tả minh chủ khám phá ra gian kế của lão để kịp thời cản ngăn, thì lão đã đạt được mục đích rồi.
Lưu Chính Phong nói tiếp:
– Ma giáo và chánh giáo chúng ta đã hơn một trăm năm tranh đấu tàn sát nhau; phải trái, đúng sai nhất thời không nói hết được. Lưu mỗ chỉ mong muốn rút khỏi những cuộc ác đấu gió tanh mưa máu, từ đây quy ẩn chốn lâm tuyền, thổi sáo dạy con, làm một lương dân an phận thủ thường. Lưu mỗ cho rằng tâm nguyện này chẳng có gì vi phạm đến quy củ của bổn môn và minh ước của Ngũ Nhạc kiếm phái.
Phí Bân cười nhạt nói:
– Nếu ai ai cũng giống như Lưu sư huynh, lúc nguy nan lâm trận đều bỏ trốn, há không phải để bọn Ma giáo tự do hoành hành trên giang hồ, làm hại nhân gian ư? Lưu sư huynh muốn đặt mình ra ngoài vòng phiền lụy, quyết không nhúng tay vào, nhưng Khúc ma đầu kia có chịu đặt mình ra ngoài vòng phiền lụy không?
Lưu Chính Phong mỉm cười đáp:
– Khúc đại ca đã sớm nói cho Lưu mỗ biết rằng đại ca đã lập lời trọng thệ trước Ma giáo tổ sư gia, từ nay về sau bất luận Ma giáo và bạch đạo có cuộc tranh đấu thế nào đi nữa thì Khúc đại ca nhất định đặt mình ra ngoài, quyết không nhúng tay vào. Người đã không xúc phạm ta thì ta cũng không xúc phạm người.
Phí Bân cười nhạt nói:
– Hay cho câu “Người đã không xúc phạm ta thì ta cũng không xúc phạm người”! Nếu người trong bạch đạo chúng ta muốn xúc phạm hắn thì Lưu sư huynh nghĩ sao?
Lưu Chính Phong đáp:
– Khúc đại ca đã nói rằng: Đại ca hết sức nhân nhượng, quyết không cùng người tranh thắng, gắng sức điều giải mối hiềm khích giữa đôi bên. Sáng sớm hôm nay, đại ca còn phái người đến báo tin cho Lưu mỗ hay rằng Lệnh Hồ Xung, đệ tử của phái Hoa Sơn vì cứu người mà bị thương nguy cấp đến tính mạng, đã được đại ca ra tay cứu sống.
Lưu Chính Phong vừa nói xong, quần hùng đều kinh ngạc, nhất là bọn người phái Hoa Sơn, phái Hằng Sơn và phái Thanh Thành. Họ chụm đầu kề tai bàn tán. Nhạc Linh San phái Hoa Sơn không nhịn được, bèn hỏi:
– Lưu sư thúc, đại sư ca của đệ tử bây giờ ở đâu? Có thật là… tiền bối… tiền bối họ Khúc đã cứu tính mạng của đại ca không?
Lưu Chính Phong đáp:
– Khúc đại ca đã nói như vậy chắc không phải là giả dối. Sau này gặp Lệnh Hồ hiền điệt, ngươi có thể trực tiếp hỏi hắn thì sẽ biết.
Phí Bân cười khẩy, nói:
– Điều đó có gì kỳ lạ đâu? Người trong Ma giáo đã tìm cách ly gián, thủ đoạn nào mà bọn chúng không dùng đến? Hắn đã tìm trăm phương ngàn kế để lôi kéo Lưu sư huynh thì tất nhiên hắn sẽ tìm trăm phương ngàn kế để lôi kéo đệ tử phái Hoa Sơn. Nói không chừng, Lệnh Hồ Xung do điều này mà đem lòng cảm kích, muốn báo đáp ơn cứu mạng của hắn, trong Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta lại có thêm một tên phản đồ.
Gã nói xong, quay sang Nhạc Bất Quần nói:
– Nhạc sư huynh, tiểu đệ nói như vậy chỉ là ví dụ, xin sư huynh đừng trách!
– Phí sư huynh, sư huynh nói “lại có thêm một tên phản đồ”, chữ “lại” là có dụng ý gì?
Phí Bân cười nhạt nói:
– Có tật thì giật mình, Lưu sư huynh đã biết rồi, hà tất phải hỏi làm chi?
Lưu Chính Phong nói:
– Hừ, Phí sư huynh chỉ thẳng Lưu mỗ ta là kẻ phản đồ của bổn phái. Lưu mỗ kết giao bằng hữu là chuyện riêng tư của Lưu mỗ, người ngoài không can thiệp vào được. Lưu Chính Phong không khi sư diệt tổ, bội phản phái Hành Sơn thì hai chữ “phản đồ” xin gói lại kính hoàn cho sư huynh.
Lưu Chính Phong vốn là người ôn tồn lễ độ như một lão nhà giàu quê mùa, vừa có tính khí của một bá hộ, lại có một chút sĩ khí. Nhưng lúc này hào khí của lão bỗng nhiên tràn trề, khác hẳn lúc bình thường. Quần hùng thấy lão ở vào tình thế vô cùng bất lợi mà vẫn biện luận sắc bén, đấu lý với Phí Bân không chịu nhường một câu đều thầm khâm phục sự gan dạ của lão.
Phí Bân nói:
– Nếu nói như vậy có nghĩa là Lưu sư huynh không chịu con đường thứ nhất, không chịu trừ gian diệt tà, giết tên đại ma đầu Khúc Dương sao?
Lưu Chính Phong đáp:
– Nếu Tả minh chủ đã có hiệu lệnh thì Phí sư huynh có thể động thủ ngay bây giờ, giết toàn gia của Lưu mỗ đi!
Phí Bân nói:
– Lưu sư huynh không nên ỷ mình thế mạnh mà không sợ. Sư huynh tưởng anh hùng hảo hán trong thiên hạ đang làm tân khách trong Lưu phủ thì Ngũ Nhạc kiếm phái của ta phải úy kỵ, không thể thanh lý môn hộ chăng?
Lão vừa nói dứt lời liền vẫy tay cho Sử Đăng Đạt rồi nói:
– Ngươi lại đây!
Sử Đăng Đạt đáp dạ rồi tiến lên ba bước. Phí Bân đón lấy cờ lệnh Ngũ Nhạc kiếm phái, giơ cao lên nói:
– Lưu Chính Phong nghe đây! Tả minh chủ có lệnh: nếu trong vòng một tháng mà ngươi không giết Khúc Dương thì Ngũ Nhạc kiếm phái đành phải lập tức thanh lý môn hộ để tránh hậu hoạn. Diệt cỏ phải diệt tận gốc quyết không dung tình. Ngươi nghĩ kỹ đi.
Lưu Chính Phong cười đau đớn nói:
– Lưu mỗ kết giao bằng hữu, quý ở chỗ chân thành với nhau, sao có thể giết hại bằng hữu để giữ thân mình được? Tả minh chủ đã không lượng thứ cho, Lưu Chính Phong này thế cô lực bạc làm sao có thể chống chọi với Tả minh chủ được? Phái Tung Sơn của sư huynh đã sớm bố trí tất cả rồi, e rằng ngay cả quan tài của Lưu mỗ cũng đã mua giùm. Phí huynh muốn động thủ thì động thủ ngay đi, còn đợi gì nữa?
Phí Bân phất cờ lớn tiếng nói:
– Thiên Môn sư huynh phái Thái Sơn, Nhạc sư huynh phái Hoa Sơn, Định Dật sư thái phái Hằng Sơn, các vị sư huynh sư điệt phái Hành Sơn! Tả minh chủ có dặn: Trước nay chính tà không thể cùng sống chung; Ma giáo và Ngũ Nhạc kiếm phái thù sâu như biển. Lưu Chính Phong kết giao tà giáo, chạy sang hàng ngũ kẻ địch, Ngũ Nhạc đồng môn ta phải ra tay trừ khử. Ai tuân lệnh xin đứng qua mé trái!
Thiên Môn đạo nhân đứng dậy, rảo bước sang mé trái, không liếc nhìn Lưu Chính Phong. Sư phụ của Thiên Môn đạo nhân năm xưa mất mạng trong tay của m ột nữ trưởng lão Ma giáo nên lão căm giận Ma giáo đến tận xương tủy. Lão vừa đi sang mé trái thì các đệ tử môn hạ cũng đi qua theo.
Nhạc Bất Quần cũng đứng dậy nói:
– Lưu hiền đệ, hiền đệ chỉ cần gật đầu một cái, Nhạc Bất Quần này sẽ vì hiền đệ lo liệu việc Khúc Dương được chăng? Hiền đệ nói đại trượng phu không thể đắc tội với bằng hữu, lẽ nào trong thiên hạ này chỉ có một mình Khúc Dương mới là bằng hữu của hiền đệ? Ngũ Nhạc kiếm phái chúng ta và nhiều vị anh hùng hảo hán có mặt ở đây đều không phải là bằng hữu của hiền đệ sao? Hơn một ngàn đồng đạo võ lâm nghe tin hiền đệ rửa tay gác kiếm đều vượt ngàn dặm đến đây, thành ý chúc mừng hiền đệ, coi như đã là mối tình giao hảo rồi. Lẽ nào tính mạng của cả nhà hiền đệ, ân nghĩa sư hữu của Ngũ Nhạc kiếm phái, mối giao tình của hơn một ngàn đồng đạo võ lâm góp lại cũng không bằng một lão Khúc Dương kia?
Lưu Chính Phong lắc đầu đáp:
– Nhạc sư huynh, sư huynh là người học nhiều, hiểu rộng, biết có những điều mà bậc trượng phu không thể làm được. Lưu mỗ cảm kích vô cùng trước những lời khuyên chân thành của sư huynh. Người ta bức bách Lưu mỗ phải sát hại Khúc Dương, Lưu mỗ vạn vạn lần không thể nào làm việc ấy. Giả sử nếu có người bức bách Lưu mỗ phải giết Nhạc sư huynh hay bất kỳ một vị bằng hữu nào ở đây thì dù cho toàn gia gặp nạn, Lưu mỗ cũng quyết không gật đầu. Khúc đại ca là bạn tri âm tri kỷ là điều chắc chắn rồi, cũng như Nhạc sư huynh là hảo bằng hữu của Lưu mỗ. Nếu Khúc đại ca nói một câu muốn ám hại một vị bằng hữu nào của Lưu mỗ trong Ngũ Nhạc kiếm phái thì Lưu mỗ sẽ khinh bỉ con người của đại ca và quyết không làm bằng hữu với đại ca nữa.
Lời nói của Lưu Chính Phong vô cùng thành khẩn khiến quần hùng không khỏi cảm động. Võ lâm lấy nghĩa khí làm trọng; Lưu Chính Phong cố bảo toàn mối giao tình với Khúc Dương, những hán tử giang hồ tuy không cho rằng như vậy là đúng nhưng lòng vẫn ngấm ngầm thán phục nghĩa khí của lão.
Nhạc Bất Quần lắc đầu nói:
– Lưu hiền đệ, hiền đệ nói như vậy là không đúng. Lưu hiền đệ muốn bảo toàn nghĩa khí bằng hữu khiến cho ai cũng khâm phục, nhưng hiền đệ không phân biệt chính tà, bất luận thị phi. Bọn Ma giáo làm nhiều chuyện ác độc, tàn hại rất nhiều chính nhân quân tử trên giang hồ và trăm họ vô tội. Lưu hiền đệ vì nhất thời đam mê tiếng đàn điệu sáo, nỡ đem tính mạng toàn gia giao cho hắn là đã hiểu sai hai chữ “nghĩa khí” rồi.
Lưu Chính Phong cười nhạt nói:
– Nhạc sư huynh, sư huynh không thích âm luật nên chưa hiểu được tấm lòng của tiểu đệ. Ngôn ngữ, văn tự có thể giả dối được nhưng tiếng đàn, điệu sáo là tiếng nói đích thực của tâm hồn, vạn vạn lần không thể giả dối được. Tiểu đệ và Khúc đại ca kết giao với nhau lấy tiếng đàn điệu sáo giao hòa nên tâm ý tương thông. Tiểu đệ xin tình nguyện lấy tính mạng của toàn gia ra bảo đảm rằng Khúc đại ca tuy là người trong Ma giáo nhưng tuyệt đối không mang tính khí tà ác của Ma giáo chút nào.
Nhạc Bất Qu ần thở dài rồi đi đến bên cạnh Thiên Môn đạo nhân. Bọn Lao Đức Nặc, Nhạc Linh San, Lục Đại Hữu đều đi theo.
Định Dật sư thái nhìn Lưu Chính Phong, hỏi:
– Từ nay về sau, ta gọi hiền đệ là Lưu hiền đệ hay là Lưu Chính Phong?
Mặt Lưu Chính Phong tràn đầy vẻ đau khổ. Lão cười tê tái, nói:
– Tính mệnh Lưu Chính Phong chỉ còn trong khoảnh khắc, sau này sư thái cũng không còn gọi đến tên Lưu mỗ nữa.
Định Dật sư thái chấp tay niệm:
– A Di Đà Phật!
Rồi lão ni từ từ bước đến bên Nhạc Bất Quần, nói:
– Nghiệp chướng nặng nề; tội lỗi, tội lỗi!
Các đệ tử môn hạ của lão ni cũng đều lần lượt đi theo.
Phí Bân nói:
– Đây là chuyện của một mình Lưu Chính Phong, không có liên can gì đến các đệ tử của phái Hành Sơn. Ai không muốn theo tên phản nghịch thì đứng sang mé trái.
Trong đại sảnh phút chốc lặng yên. Một tên trẻ tuổi nói:
– Lưu sư bá, bọn đệ tử xin đắc tội với sư bá.
Tên đệ tử trẻ vừa nói xong thì hơn ba mươi đệ tử phái Hành Sơn lũ lượt đi đến bên cạnh quần ni phái Hằng Sơn. Những người này đều là hàng sư điệt của Lưu Chính Phong, còn những đệ tử ruột của lão thì không ai đi.
Phí Bân lại nói:
– Đệ tử thân truyền của Lưu môn cũng đi qua mé trái hết đi.
Hướng Đại Niên lớn tiếng nói:
– Bọn đệ tử chịu ân trọng của sư môn, nghĩa bất tương phụ, đệ tử Lưu môn nguyện đồng sinh cộng tử với ân sư.
Lưu Chính Phong mắt tràn ngấn lệ, nói:
– Hay lắm, giỏi lắm! Đại Niên, ngươi nói vậy khiến cho sư phụ rất vui. Các ngươi đi qua đó đi. Một mình sư phụ kết giao bằng hữu, không có liên quan gì đến các ngươi cả.
Soạt một tiếng, Mễ Vi Nghĩa rút thanh trường kiếm ra nói:
– Một mình Lưu môn không thể địch lại Ngũ Nhạc kiếm phái, chuyện hôm nay chỉ còn liều chết mà thôi. Kẻ nào muốn hại ân sư của ta thì trước tiên phải bước qua xác Mễ Vi Nghĩa này.
Gã nói xong liền đứng chắn trước mặt Lưu Chính Phong.
Đinh Miễn giơ tay lên, vèo một tiếng, một làn sóng bạc phóng ra. Lưu Chính Phong giật mình, phóng nội lực đẩy mạnh vào vai phải của Mễ Vi Nghĩa. Mễ Vi Nghĩa ngã về bên trái, tia sáng bạc bay thẳng về hướng ngực Lưu Chính Phong. Hướng Đại Niên bảo vệ ân sư, vọt người đến đỡ cho sư phụ. Chỉ nghe Hướng Đại Niên la lên một tiếng, mũi ngân châm đã bắn trúng vào tim gã khiến gã chết ngay tức khắc.
Lưu Chính Phong đưa tay trái đỡ lấy thi thể của Hướng Đại Niên. Lão sờ lên mũi đệ tử thấy đã tắt thở, liền quay đầu nhìn Đinh Miễn nói:
– Đinh lão nhị, phái Tung Sơn của lão đã giết đệ tử của Lưu mỗ trước rồi.
Đinh Miễn dõng dạc nói:
– Đúng vậy, chúng ta động thủ trước thì đã sao nào?
Lưu Chính Phong nhấc thi thể của Hướng Đại Niên lên, vận kình lực muốn ném về hướng Đinh Miễn. Đinh Miễn thấy tư thế vận kình lực của lão thì biết nội công của phái Hành Sơn có chỗ độc đáo, Lưu Chính Phong là một tay cao thủ nhất đẳng trong phái Hành Sơn thì thế ném ra không phải tầm thường. Hắn ngấm ngầm chuẩn bị nội lực, định đón lấy thi thể rồi lập tức ném ngược lại phía lão. Nào ngờ Lưu Chính Phong nhấc thi thể Hướng Đại Niên lên, rõ ràng muốn ném về phía trước, đột nhiên lão nghiêng người, hai tay đưa lên ném vào ngay ngực Phí Bân. Lão cử động mau lẹ vô cùng. Gặp đòn bất ngờ, phản xạ tự nhiên của Phí Bân là đưa song chưởng vận kình lực để ngăn cản thi thể nhưng ngay lúc đó, hắn cảm thấy hai bên sườn tê tái, thì ra đã bị Lưu Chính Phong điểm trúng huyệt đạo rồi.
Lưu Chính Phong đánh một chiêu thành công, tay trái cướp lấy cờ lệnh trong tay hắn; tay phải rút trường kiếm chĩa thẳng vào yết hầu, khuỷu tay trái thúc liên tiếp phong tỏa ba huyệt đạo sau lưng hắn, để mặc cho thi thể của Hướng Đại Niên rơi xuống đất. Động tác của Lưu Chính Phong biến ảo mau lẹ vô cùng đến nỗi Phí Bân bị kiềm chế, cờ lệnh Ngũ Nhạc bị đoạt mất, mọi người mới tỉnh ngộ, hiểu ra dụng ý của Lưu Chính Phong. Lưu Chính Phong thi triển công phu này chính là tuyệt chiêu của phái Hành Sơn, gọi là Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức. Mọi người đã nghe tiếng từ lâu, nhưng đây là lần đầu mở rộng tầm mắt.
Năm xưa, Nhạc Bất Quần đã từng nghe sư phụ nói qua Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức là do một vị cao thủ đời trước của phái Hành Sơn sáng chế ra. Vị cao thủ này đi khắp giang hồ làm trò ảo thuật, bán võ nghệ để sinh nhai. Lão chuyên biến hóa đánh Đông kích Tây, hư hư thực thực, biến ảo khôn lường để che tai mắt người. Lúc về già, võ công của lão càng cao thâm, kỹ năng ảo thuật càng ngày càng xảo diệu, lại dùng công phu nội gia đưa vào trong trò ảo thuật nên khắp nơi ai xem qua cũng đều ca ngợi tán thưởng. Về sau, lão đem trò ảo thuật này đưa vào trong bản lĩnh của võ công, không ngừng xuất hiện trong Ngũ hoa bát môn. Vị cao thủ này tính tình lại rất khôi hài, khi sáng chế ra bộ võ công này chỉ để du hý làm vui cho bản thân, không ngờ lại truyền đến hậu thế, trở thành một trong ba đại tuyệt kỹ của phái Hành Sơn.
Công phu biến hóa của bộ võ công này tuy là cổ quái nhưng lúc lâm địch lại không hiệu dụng gì mấy. Khi ra chiêu, cao thủ nào cũng cảnh giác, phòng bị toàn thân không để sơ hở, mà mấy chiêu này chỉ nhằm lòe người nên việc sử dụng cũng khó thành công. Vì vậy phái Hành Sơn cũng không xem trọng công phu này, nếu thấy đồ đệ là người cao ngạo nhẹ dạ thì lại càng không truyền thụ để tránh cho chúng khỏi chuyên về biến ảo mà khiếm khuyết căn bản công phu thực sự.
Lưu Chính Phong là một người thâm trầm ít nói, nên học được công phu này từ sư phụ. Bình thường, lão chưa bao giờ sử, gặp lúc nguy cấp như hôm nay lão mới đem ra. Lão vừa tấn công lập tức đã chế ngự được một tên lừng danh là Đại tung dương thủ Phí Bân của phái Tung Sơn mà võ công thực sự của tên này quyết không thua kém lão. Tay phải Lưu Chính Phong giơ cao cờ lệnh của Ngũ Nhạc kiếm phái, tay trái cầm trường kiếm chĩa vào yết hầu của Phí Bân, lão trầm giọng nói:
– Đinh sư huynh, Lục sư huynh! Lưu mỗ to gan cướp đoạt cờ lệnh của Ngũ Nhạc, nhưng không dám uy hiếp hai vị, chỉ mong năn nỉ hai vị ban cho Lưu mỗ một ân điển.
Đinh Miễn và Lục Bách đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: Phí sư đệ đang bị lão ám toán, đành phải nghe lão nói cái gì.
Đinh Miễn nói:
– Ngươi muốn nói gì?
Lưu Chính Phong nói:
– Ta cầu xin hai vị bẩm cáo với Tả minh chủ cho phép toàn gia Lưu mỗ quy ẩn, từ nay không can dự vào bất cứ chuyện gì trong võ lâm. Lưu mỗ và Khúc Dương đại ca từ nay không gặp nhau nữa, các vị sư huynh bằng hữu cũng… cũng chia tay từ đây. Lưu mỗ dẫn gia nhân đệ tử cao chạy xa bay, ẩn cư nơi hải ngoại, còn sống ngày nào tuyệt không bước một bước vào đất Trung Nguyên.
Đinh Miễn ngần ngừ một chút rồi nói:
– Chuyện này ta và Lục sư đệ không thể quyết định được, phải về bẩm cáo với Tả sư ca, xem sư ca chỉ thị thế nào.
Lưu Chính Phong nói:
– Chưởng môn của hai phái Hoa Sơn và Thái Sơn đang ở đây; phái Hằng Sơn có Định Dật sư thái có thể thay thế chưởng môn sư tỷ. Ngoài ra các vị anh hùng hảo hán chứng kiến cũng đủ rồi.
Lưu Chính Phong đảo mắt nhìn mọi người một lượt rồi trầm giọng nói:
– Lưu mỗ cầu xin các vị để cho Lưu mỗ vẹn toàn nghĩa khí bằng hữu, bảo toàn tính mạng gia quyến và đệ tử.
Định Dật sư thái ngoài mặt thì cứng rắn nhưng bụng dạ lại hiền hòa, tính khí tuy nóng nảy nhưng tâm địa rất từ bi nên lên tiếng trước:
– Như vậy tốt rồi, khỏi phải làm tổn thương hòa khí giữa mọi người. Đinh sư huynh, Lục sư huynh! Chúng ta nên đáp ứng lời cầu xin của Lưu hiền đệ đi. Lưu hiền đệ đã không kết giao với người của Ma giáo nữa, lại còn rời khỏi Trung Nguyên, khác gì trên thế gian này không còn nữa, hà tất còn muốn tạo thêm sát nghiệp?
Thiên Môn đạo nhân gật đầu nói:
– Như vậy cũng phải. Nhạc hiền đệ, hiền đệ nghĩ sao?
Nhạc Bất Quần nói:
– Lưu hiền đệ một lời nói ra nặng như núi, hiền đệ đã nói như vậy, mọi người cũng nên tin. Nào, nào, chúng ta hãy biến can qua thành ngọc bạch. Lưu hiền đệ, hiền đệ thả Phí Bân hiền đệ ra đi. Chúng ta cùng uống một bát rượu giải hòa; sáng sớm ngày mai, hiền đệ dẫn gia nhân đệ tử rời khỏi thành Hành Sơn được rồi.
Lục Bách lại nói:
– Hai vị chưởng môn phái Thái Sơn và Hoa Sơn đều nói như vậy, Định Dật sư thái càng hết sức vì Lưu Chính Phong mà mở một lối thoát, bọn tại hạ làm sao dám trái ý các vị? Nhưng lúc này Phí sư đệ đang bị Lưu Chính Phong ám toán, nếu bọn tại hạ liền đáp ứng đầy đủ ngay các yêu cầu của Lưu Chính Phong thì người người trên giang hồ tất sẽ nói phái Tung Sơn bị Lưu Chính Phong uy hiếp, đã cúi đầu chịu thua. Nếu cứ truyền rộng ra như vậy thì phái Tung Sơn còn mặt mũi nào tồn tại nữa?
Định Dật sư thái nói:
– Lưu hiền đệ cầu xin phái Tung Sơn chứ không phải là uy hiếp bức bách. Cho nên nói “cúi đầu chịu thua” thì người cúi đầu chịu thua là Lưu Chính Phong chứ không phải là phái Tung Sơn. Huống chi các vị sư huynh đã giết một tên đệ tử của Lưu môn.
Lục Bách hừ một tiếng rồi nói:
– Địch Tu, hãy chuẩn bị!
Địch Tu, đệ tử của phái Tung Sơn đáp dạ một tiếng, đoản kiếm trong tay gã nhẹ đưa đến chạm vào làn da sau lưng trưởng tử của Lưu Chính Phong.
Lục Bách nói:
– Lưu Chính Phong, ngươi muốn cầu xin thì đi với chúng ta đến Tung Sơn gặp Tả minh chủ để chính miệng ngươi cầu xin minh chủ. Chúng ta phụng mệnh minh chủ, không thể tự quyết được. Ngươi lập tức trả cờ lệnh lại đây và thả Phí sư đệ của ta ra.
Lưu Chính Phong cười một cách đau đớn, nhìn hài nhi nói:
– Hài nhi, ngươi có sợ chết không?
Lưu công tử đáp:
– Hài nhi nghe lời gia gia, quyết không sợ!
Lưu Chính Phong nói:
– Hảo hài tử!
Lục Bách quát:
– Giết đi!
Đoản kiếm của Địch Tu đâm thẳng từ sau lưng Lưu công tử thấu vào tim. Đoản kiếm vừa rút ra, Lưu công tử ngã gục xuống đất, máu từ vết đâm sau lưng trào ra lênh láng.
Lưu phu nhân thét lên, nhào đến hướng thi thể con trai.
Lục Bách quát:
– Giết đi!
Địch Tu phát kiếm tới, lại một kiếm đâm thẳng vào sau lưng Lưu phu nhân.
Định Dật sư thái cả giận, phóng một chưởng vào Địch Tu rồi chửi:
– Đồ cầm thú!
Đinh Miễn vọt lên trước, cũng đánh ra một chưởng. Song chưởng giao nhau, Định Dật sư thái bị đẩy lùi ba bước. Lão ni cảm thấy lợm miệng, một ngụm máu tươi muốn trào ra, nhưng bản lĩnh lão ni vốn hiếu thắng, kiên cường, lão ni cố nuốt ngược máu xuống.
Đinh Miễn tủm tỉm cười rồi nói:
– Đa tạ sư thái đã nhân nhượng.
Chưởng lực vốn không phải là sở trường của Định Dật sư thái. Cho nên khi mới phát một chưởng định đánh Địch Tu, vì là người lớn đánh nhỏ nên sư thái chưa sử dụng hết công lực, một chưởng này cũng không định đánh chết hắn. Không ngờ Đinh Miễn bỗng nhiên ra tay, chưởng của hắn lại vận đến mười thành công lực. Song chưởng giao nhau, Định Dật sư thái định thúc đẩy thêm nội lực nhưng cũng không xong. Chưởng lực của Đinh Miễn như dời non lấp biển nên Định Dật sư thái bị thương thổ huyết. Lão ni cả giận định đánh chưởng thứ hai ra nhưng vừa vận công thì cảm thấy huyệt Đan điền đau như dao cắt, biết là mình đã bị trọng thương, trước mắt không có cách gì kháng cự lại được. Lão ni vẫy các đệ tử, hầm hầm nói:
– Chúng ta đi thôi!
Nói xong lão ni bước chân đi ra ngoài cổng, quần ni tiếp bước theo sau.
Lục Bách quát:
– Giết nữa đi!
Hai tên đệ tử phái Tung Sơn phóng đoản kiếm tới, lại giết thêm hai đệ tử của Lưu môn. Lục Bách nói:
– Đệ tử Lưu môn nghe đây, nếu muốn sống hãy quỳ xuống đất cầu xin, lên án Lưu Chính Phong thì ta tha chết cho.
Lưu Tinh, con gái của Lưu Chính Phong, giận dữ mắng:
– Đồ gian tặc, phái Tung Sơn của các ngươi gian ác gấp vạn lần Ma giáo.
Lục Bách quát:
– Giết!
Vạn Đại Bình giơ trường kiếm lên, chém một nhát từ vai phải thẳng xuống lưng Lưu Tinh. Sử Đăng Đạt và bọn đệ tử phái Tung Sơn cũng chém mỗi người một nhát; các đệ tử của Lưu môn đã bị điểm huyệt đạo từ trước đều bị giết hết.
Quần hùng trên đại sảnh tuy đều hạng người sống trên đầu đao mũi kiếm, từng quen với cảnh giết chóc thê thảm, nhưng thấy thảm cảnh tàn sát này cũng không khỏi kinh hoàng. Có mấy vị anh hùng tiền bối muốn đứng ra can ngăn, nhưng phái Tung Sơn động thủ quá nhanh, chỉ do dự một chút thì xác chết đã nằm ngổn ngang khắp sảnh đường. Mọi người lại nghĩ: Xưa nay tà chính không đội trời chung, hành động này của phái Tung Sơn không phải là trả thù riêng tư Lưu Chính Phong mà là nhằm đối phó với Ma giáo. Tuy họ ra tay tàn nhẫn nhưng cũng không phải là nặng tội. Hơn nữa phái Tung Sơn đã khống chế toàn cục, ngay cả Định Dật sư thái của phái Hằng Sơn cũng đã bị thương mà bỏ đi, trước mắt chỉ còn Thiên Môn đạo nhân và Nhạc Bất Quần là hai bậc cao thủ đều im hơi lặng tiếng. Đây là chuyện riêng của Ngũ Nhạc kiếm phái, mình là người ngoài nếu miễn cưỡng xuất đầu lộ diện can thiệp vào, tất khó tránh khỏi họa sát thân, nên tự bảo vệ mình là hơn.
Bọn đệ tử của Lưu môn đã bị giết sạch, chỉ còn lại ấu tử mười lăm tuổi mà Lưu Chính Phong yêu mến nhất gọi là Lưu Cần. Lục Bách nhìn Sử Đăng Đạt nói:
– Ngươi hỏi tiểu tử này xem có cầu xin không? Nếu không cầu xin thì trước tiên xẻo mũi của nó, rồi xẻo tai, rồi khoét mắt để nó chịu muôn phần đau đớn.
Sử Đăng Đạt đáp dạ rồi quay người qua Lưu Cần hỏi:
– Ngươi có van xin không?
Lưu Cần sợ hãi, sắc mặt nhợt nhạt, toàn thân run cầm cập. Lưu Chính Phong nói:
– Hảo hài tử! Ca ca, tỷ tỷ của hài nhi chết một cách oanh liệt biết bao. Chết thì chết, hài nhi sợ cái gì?
Lưu Cần run run nói:
– Nhưng… gia gia, họ muốn… xẻo mũi hài nhi, khoét… mắt hài nhi…
Lưu Chính Phong cười ha hả nói:
– Đến nước này, lẽ nào ngươi còn muốn bọn chúng buông tha chúng ta ư?
Lưu Cần đáp:
– Gia gia, gia gia… đồng ý giết Khúc… Khúc bá bá… đi.
Lưu Chính Phong cả giận quát:
– Thúi lắm! Tiểu súc sinh, ngươi nói sao?
Sử Đăng Đạt giơ thanh trường kiếm lên, lưỡi kiếm đưa tới đưa lui trước mũi của Lưu Cần rồi nói:
– Tiểu tử, ngươi không quỳ xuống van xin thì lưỡi kiếm của ta sẽ xẻo mũi ngươi ngay tức khắc. Nào một… hai…
Hắn còn chưa đếm đến “ba”, Lưu Cần đã run bần bật, quỳ mọp xuống đất tha thiết van xin:
– Đừng… đừng giết cháu… cháu…
Lục Bách cười nói:
– Tốt lắm, ngươi muốn ta tha thì không khó. Chỉ cần ngươi tố cáo những điều lầm lỗi của Lưu Chính Phong trước các vị anh hùng trong thiên hạ ở đây mà thôi.
Lưu Cần nhìn phụ thân với ánh mắt cầu xin tha thiết.
Lưu Chính Phong vốn là người rất bướng bỉnh, tuy thấy vợ con chết trước mặt mà mặt lão vẫn không hề rung động nhưng lúc này, lão không kiềm chế được phẫn nộ, quát:
– Tiểu súc sinh, ngươi hèn nhát như vậy thì còn mặt mũi nào nhìn mẫu thân của ngươi nữa?
Lưu Cần nhìn thi thể của mẫu thân, ca ca, tỷ tỷ nằm trong vũng máu, lại thấy trường kiếm của Sử Đăng Đạt không ngừng quơ qua quơ lại trước mặt. Hắn sợ đến vỡ mật, nhìn Lục Bách khẩn cầu:
– Cầu xin lão gia tha cho cháu, tha… tha cho gia gia của cháu.
Lục Bách nói:
– Gia gia của ngươi cấu kết với ác nhân trong Ma giáo, ngươi nói có đúng không?
Lưu Cần khẽ lắp bắp:
– Không… không đúng.
Lục Bách nói:
– Người như vậy có đáng giết không?
Lưu Cần cúi đầu xuống không dám trả lời. Lục Bách nói:
– Tiểu tử này không chịu nói, phóng một kiếm giết hắn đi!
Sử Đăng Đạt đáp dạ. Hắn biết Lục Bách nói câu này có ý hăm dọa, nên đưa kiếm lên, tư thế như định chém xuống.
Lưu Cần vội đáp:
– Đáng… đáng giết.
Lục Bách nói:
– Hay lắm, từ nay về sau ngươi không phải là người của phái Hành Sơn, cũng không phải là con của Lưu Chính Phong nữa. Ta tha tính mạng cho ngươi đó.
Lưu Cần vẫn quỳ mọp dưới đất, sợ hãi đến nỗi hai chân mềm nhũn không đứng dậy được nữa. Quần hùng thấy cảnh tượng này không cầm được xấu hổ, có người quay đầu đi, không dám nhìn Lưu Chính Phong.
Lưu Chính Phong thở dài, nói:
– Họ Lục kia, ngươi thắng ta rồi.
Nói xong, tay phải lão rung một cái, ném cờ lệnh Ngũ Nhạc qua cho hắn, chân trái giơ lên đá Phí Bân ra xa rồi lớn tiếng nói:
– Điều Lưu mỗ cầu xin không còn nữa, thôi cũng chẳng giết thêm người làm chi.
Tay trái lão cầm ngang thanh trường kiếm toan đâm vào cổ tự tử.
Ngay trong giây phút đó, trên hiên nhà bỗng nhiên thấp thoáng một bóng người mặc áo đen hành động nhanh như gió, vươn tay chụp cổ tay trái của Lưu Chính Phong rồi quát:
– Quân tử báo thù mười năm chưa muộn. Chúng ta đi!
Tay trái lão xoay về phía sau thành một vòng, lôi Lưu Chính Phong chạy vội ra ngoài.
Lưu Chính Phong giật mình nói:
– Khúc đại ca… đại ca…
Quần hùng nghe lão kêu ba tiếng “Khúc đại ca” thì biết người áo đen đó là Ma giáo trưởng lão Khúc Dương, họ đều giật mình sợ hãi.
Khúc Dương nói:
– Không cần nói nhiều.
Lão gia tăng kình lực, chạy được ba bước thì Đinh Miễn và Lục Bách cùng phóng bốn chưởng ra nhắm đánh vào sau lưng của hai người. Khúc Dương giục Lưu Chính Phong “Chạy mau đi” rồi lão xuất chưởng đẩy lưng Lưu Chính Phong, đồng thời vận kình lực ra sau lưng gánh chịu song chưởng của hai cao thủ Đinh Miễn và Lục Bách. Rầm một tiếng, thân người của Khúc Dương bay ra ngoài. Khúc Dương phun ra một ngụm máu tươi. Lão xoay tay lại vung lên một cái, một nắm kim đen bay ra như mưa.
Đinh Miễn la lên:
– Hắc huyết thần châm, tránh mau!
Hắn vội nép người né tránh. Quần hùng thấy Khúc Dương liệng những mũi kim đen này và họ cũng đã từng nghe đến tên của Hắc huyết thần châm Ma giáo từ lâu, nên không ai không kinh hãi. Kẻ lui, người tránh loạn xạ cả lên. Chỉ nghe:
– Chao ôi!
– Nguy rồi!
Hơn mười người cùng la hoảng lên. Người trên sảnh tụ tập rất đông mà Hắc huyết thần châm liệng ra vừa nhiều vừa nhanh, không ít người bị trúng độc châm.
Trong lúc hỗn loạn, Khúc Dương và Lưu Chính Phong đã chạy xa rồi.