Trình Linh Tố tắt cây nến, lẳng lặng bỏ vào bọc, không nói một lời.
Hồ Phỉ hỏi:
– Linh cô nương! Còn vị lệnh huynh là Mộ Dung Cảnh Nhạc thì tính sao đây?
Trinh Linh Tố chỉ “hứ” một tiếng chứ không trả lời. Sau một lúc, Hồ Phỉ lại hỏi nhưng Trình Linh Tố lại “hứ” chứ chẳng nói gì.
Hồ Phỉ khẽ hỏi:
– Sao? Trong lòng cô nương khó chịu lắm ư?
Trình Linh Tố buồn rầu đáp:
– Tiểu muội đã dặn dò mà đại ca chẳng để tâm một câu nào.
Hồ Phỉ sửng sốt, chợt nhớ lại nàng đã có ba điều giao ước mà mình không tuân thủ. Chàng tự nhủ:
– Cô dặn ta không được nói với ai mà ta chẳng những đã nói với họ lại còn khai cả họ tên ra. Cô dặn ta không được động võ thì ta đã đánh hai người. Cô bảo ta không được dời xa cô ba bước, mà ta, chậc, lại xa cô đến mười bước…
Hồ Phỉ càng nghĩ càng hối hận, chàng nói:
– Tại hạ thực có điều lầm lỗi. Vì thấy ba người kia hung dữ quá chỉ sợ họ làm tổn thương đến cô nương, trong lúc vội vã, tại hạ quên sạch những lời dặn dò.
Trình Linh Tố cười hích hích, thanh âm trở lại ôn hòa, cô nói:
– Thế ra đại ca hoàn toàn vì tiểu muội! Bản thân mình quên sạch sành sanh, lại đi đổ lỗi cho người khác thực khôn ngoan quá! Hồ đại ca, sao đại ca lại báo họ tên với người ta? Đôi vợ chồng nhà này thù dai lắm. Họ sẽ theo dõi đại ca như âm hồn bất tán, bám riết không tha. Ngoài sáng họ không đánh lại đại ca thì sẽ ngấm ngầm hạ độc. Họ có trăm phương nghìn kế xuất quỷ nhập thần, đại ca khó mà đề phòng cho xiết được.
Hồ Phỉ nghe cô nói không khỏi sởn da gà, biết rằng lời nói cô không phải là khoa trương cường điệu, nhưng chuyện đã lỡ rồi, có sợ hãi cũng vô ích.
Trình Linh Tố lại hỏi:
– Sao đại ca nói họ tên cho vợ chồng y biết?
Hồ Phỉ chỉ cười mát chứ không trả lời. Trình Linh Tố hỏi:
– Đại ca đánh hai người rồi sợ họ kiếm tiểu muội trả thù phải không? Đại ca muốn tự mình gánh hết trách nhiệm. Hồ đại ca, sao đại ca lại tốt với tiểu muội như vậy?
Hồ Phỉ đáp bằng giọng rất thành khẩn:
– Cô nương đã tử tế với tại hạ, giúp tại hạ tránh được nguy nan. Lấy tấm lòng đối đãi nhau dĩ nhiên tại hạ phải coi cô là hảo bằng hữu.
Trình Linh Tố rất cao hứng cười hỏi:
– Đại ca coi tiểu muội là hảo bằng hữu thực ư? Vậy tiểu muội hãy cứu mạng đại ca rồi hẵng nói.
Hồ Phỉ kinh hãi hỏi:
– Sao?
Trình Linh Tố đáp:
– Bật lửa lên. Cái đèn lồng đâu rồi?
Cô cúi xuống tìm cái đèn lồng mà Tiết Thước còn bỏ lại, nhưng trời tối quá không tìm thấy. Chẳng hiểu mụ bỏ nó trong bụi cỏ nào.
Hồ Phỉ hỏi:
– Trong bọc cô hãy còn nửa khúc nến đó thôi?
Trình Linh Tố vừa cười vừa hỏi lại:
– Hồ đại ca có muốn bảo toàn tính mạng hay không? Cây nến đó là dùng chất “Thất tâm hải đường” chế ra đấy… à, à nó đây rồi!
Cô mò được cái đèn lồng trong bụi cỏ, quẹt lửa châm vào. Trong rừng tối một vầng ánh sáng vàng nhạt lập tức tỏa ra, bao phủ lấy hai người. Hồ Phỉ đã nghe vợ chồng Khương Thiết Sơn và Mộ Dung Cảnh Nhạc nhắc tới mấy lần bốn chữ “Thất tâm hải đường”, dường như đó là một độc vật cực kỳ lợi hại.
Dưới ánh đèn lồng, Mộ Dung Cảnh Nhạc vẫn nằm phủ phục dưới đất không nhúc nhích, tựa hồ một xác chết. Hồ Phỉ chợt tỉnh ngộ “à” lên một tiếng rồi nói:
– Nếu tại hạ không ra tay lỗ mãng thì vợ chồng Khương Thiết Sơn cũng bị cô nương chế phục rồi.
Trình Linh Tố mỉm cười đáp:
– Đại ca có một phần hảo tâm vì tiểu muội. Hồ đại ca, tiểu muội phải ghi nhớ món ân tình đó.
Hồ Phỉ nhìn cô vóc người nhỏ nhắn, gió thổi muốn bay thì trong lòng hổ thẹn, nghĩ thầm:
– Cô này còn nhỏ hơn ta mấy tuổi mà mưu kế sâu xa. Ta tự phụ thông minh thật là uổng, so với cô chưa được nửa phần.
Bây giờ chàng mới hiểu rõ đạo lý bên trong của vụ này. Cây nến của Trình Linh Tố làm bằng chất kịch độc, thắp lên rồi vẫn chẳng có mùi vị, lại không phun khói đặc, vì thế bọn Mộ Dung Cảnh Nhạc ba người đều là những đại hành gia về sử độc cũng bị rơi vào bẫy mà không phát giác được. Nếu chàng không ra tay thì vợ chồng Khương Thiết Sơn còn phải ngửi phải độc khí ở cây nến thêm một ít nữa rồi cũng ngất đi. Nhưng lúc ấy hai người cùng giáp công Trình Linh Tố, ra tay tàn độc, e rằng chúng chưa ngất đi cô đã bị bại rồi.
Trình Linh Tố dường như đã đoán ra ý nghĩ của chàng, liền nói:
– Đại ca thử đụng đầu ngón tay vào vai áo tiểu muội coi.
Hồ Phỉ không hiểu cô có dụng ý gì, nhưng cũng khẽ đặt ngón tay trỏ lên vai cô. Đột nhiên chàng cảm thấy ngón tay như bị bỏng lửa, bất giác toàn thân giật bắn lên.
Trình Linh Tố thấy tình trạng chàng rất tội nghiệp, liền cười ngặt nghẽo một trận rồi nói:
– Vợ chồng y mà nắm lấy áo tiểu muội thì cũng được nếm mùi vị này.
Hồ Phỉ giơ ngón tay trỏ lên không, vẫy mấy lần đảo mấy vòng vẫn chưa hết đau, liền hỏi:
– Cái cô này! Trên áo cô bỏ thứ thuốc gì mà độc ghê gớm vậy?
Trình Linh Tố đáp:
– Đó là “Xích yết phấn”, song cũng chưa đáng kể vào đâu.
Hồ Phỉ giơ ngón tay trỏ soi gần vào đèn lồng thấy nổi lên những bọt nhỏ, bèn nghĩ thầm:
– Trong bóng tối may mà ta chưa chạm vào áo cô, không thì nguy to.
Trình Linh Tố nói:
– Hồ Đại ca! Đại ca đừng trách tiểu muội lừa đại ca vào bẫy. Tiểu muội muốn cho đại ca hay để lần sau có chạm trán mấy vị sư huynh sư tỷ này thì phải cẩn thận để phòng. Võ công của đại ca dĩ nhiên cao hơn bọn họ nhiều, nhưng đại ca thử nhìn lại bàn tay coi.
Hồ Phỉ xòe bàn tay xem, không thấy có gì khác lạ. Trình Linh Tố nói:
– Đại ca cứ đến gần lồng đèn mà xem cho kỹ.
Hồ Phỉ xòe bàn tay ra trước đèn lồng thấy có một lớp hắc khí ẩn, trong lòng kinh hãi, hỏi:
– Bọn… bọn họ đã luyện qua “Độc sa chưởng” rồi ư?
Trình Linh Tố bình thản đáp:
– Đã là đệ tử của Độc Thủ Dược Vương, thì lẽ nào lại không luyện “Độc sa chưởng”?
Hồ Phỉ “à” lên một tiếng rồi hỏi:
– Té ra tôn sư Vô Sân đại sư mới chính là Độc Thủ Dược Vương. Lão nhân gia qua đời rồi ư? Sao mấy vị sư huynh sư tỷ của cô nương lại vô tình bất nghĩa đến thế?
Trình Linh Tố khẽ buông tiếng thở dài. Cô bước tới cây đại thụ nhổ cành ngân châm cùng mũi Thấu cốt đinh và hai tờ huấn dụ của sư phụ cất vào áo. Bây giờ trên tờ dụ thứ nhất có ánh sáng, nét đã nhạt đi, không còn thấy gì, chỉ còn lộ hai hàng chữ đen “Trì danh bất cụ”.
Hồ Phỉ hỏi:
– Tờ giấy này có phải do cô nương viết ra hay không?
Trình Linh Tố đáp:
– Phải! Đại sư huynh có nhiều thủ bút sao lục dược kinh ở nơi sư phụ, nên tiểu muội quen nét chữ của y lắm. Có điều mấy hàng chữ này tiểu muội chưa học đến nơi, nó chỉ giống về hình thức chứ chưa đạt về tinh thần. Thư pháp của y nổi tiếng là cứng cáp tuấn dật.
Hồ Phỉ tuy võ công cao cường, nhưng từ thuở nhỏ không ai dạy đọc sách, đối với những thứ thư pháp gì đó chàng chẳng hiểu chút gì, cho nên nghe cô nói vậy, chẳng tiếp thu được câu nào.
Trình Linh Tố lại nói:
– Trước nay sư phụ vẫn dùng loại nước phèn sa đã qua ba lần luyện để viết thủ dụ (lời huấn dụ viết trên giấy). Khi có ánh đèn soi vào mới nổi chữ lên. Tiểu muội dùng tủy xương hổ bôi đi một lượt, trong đêm tối nó mới phát ra ánh sáng lấp loáng. Đại ca hãy coi đây.
Cô tắt đèn đi, quả nhiên trên mặt giấy lấp loáng hiện ra bút tích của phụ trong tờ thủ dụ. Khi thắp đèn lồng lên, nét chữ sáng lại mất hết, chỉ còn lại hàng chữ ngắn ngủi của Trình Linh Tố. Hàng chữ này viết xen kẽ vào giữa hai hàng của tờ thủ dụ, vì thế mà trên cùng một tờ giấy, khi có ánh sáng thì ra những chữ của Trình Linh Tố, mà trong bóng tối lại hiện ra những lời thủ dụ.
Dù chẳng có gì ly kỳ bí kiểm, nhưng bọn Mộ Dung Cảnh Nhạc đang để hết tinh thần vào việc kịch đấu, đột nhiên nhìn thấy thủ dụ của sư phụ xuất hiện ở trên cây, làm sao không khỏi giật mình kinh hãi? Trình Linh Tố cầm cây nến đi ra, trong lúc nhất thời, bọn họ chỉ nghĩ tới pho “Dược Vương thần biên” của sư phụ để lại. Dù có thận trọng đến đâu, họ cũng không đề phòng cây nến ở trên tay cô tỏa ra hơi độc.
Những chuyện kỳ bí được phanh phui từng điều một khiến Hồ Phỉ tỉnh ngộ, trên mặt lộ vẻ vui mừng.
Trình Linh Tố cười hỏi:
– Đại ca đã trúng “Độc sa chưởng”, mà sao còn cao hứng như vậy?
Hồ Phỉ cười đáp:
– Cô nương đã hứa lời cứu mạng cho tại hạ. Có cao đồ của Dược Vương ở đây thì tại hạ còn lo gì nữa.
Trình Linh Tố nhoẻn miệng cười, đột nhiên cô thổi mạnh một hơi tắt đèn lồng, rồi đi tới bên cái giỏ. Chỉ nghe mấy tiếng lách cách khẽ vang lên, không hiểu cô bắt vật gì ở trong giỏ. Sau một lúc cô trở lại thắp đèn lồng lên. Trước mắt Hồ Phỉ sáng lòa. Chàng thấy cô đã đổi một bộ quần lam áo trắng.
Trình Linh Tố cười nói:
– Quần áo này không có độc phấn, đại ca khỏi hồi hộp. Chỉ sợ đại ca không cẩn thận chạm phải quần áo của tiểu muội.
Hồ Phỉ thở phào một cái nói:
– Việc gì cô nương cũng lo nghĩ rất chu đáo. Cái tuổi của tại hạ đúng là sống trên lưng chó, chỉ cần có được một phần trí thông minh của cô nương tưởng cũng đã hay lắm rồi.
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội học cách dùng độc, suốt ngày phải suy nghĩ tính toán hạ độc cách nào cho người ta không phát giác, lại còn đề phòng người ta hạ độc ngược lại mình. Tiểu muội phải vắt nát óc để suy nghĩ những chuyện này, chậc, bì thế nào được với đại ca tâm trí thảnh thơi, thênh thang như trời cao biển rộng?
Cô nói rồi khẽ buông tiếng thở dài. Cô kéo tay mặt Hồ Phỉ, dùng cây ngân châm đâm một lỗ nhỏ trên từng ngón tay của chàng. Cô lại dùng hai ngón tay cái vuốt từ lòng bàn tay đến ngón tay chàng cho huyết dịch theo các lỗ nhỏ chảy ra, quả nhiên máu đã tím đen, cô châm kim rất vừa vặn bộ vị nên chàng chẳng thấy đau đớn chi hết. Ngón tay cô nặn máu rất nhẹ nhàng khéo léo. Chẳng bao lâu máu đổi thành màu hồng tươi.
– Vừa rồi tại hạ gánh lão đi thì lão như người chết nên tại hạ chẳng biết chi hết. Lão đã cứng đờ đúng như xác chết cứng đờ, còn tại hạ ngu ngốc đúng là thực sự ngu ngốc.
Trình Linh Tố mỉm cười đáp:
– Đại ca cứ mồm năm miệng mười bảo mình ngu ngốc, thì đúng là chẳng ngu ngốc tí nào.
Sau một lúc, Hồ Phỉ lại hỏi:
– Các vị đó nhắc lại cuốn “Dược Vương thần biên” gì đó, phải chăng là một pho sách thuốc?
Trình Linh Tố đáp:
– Phải rồi! Gia sư đã hao phí tâm huyết một đời người mới làm ra được bộ sách này. Tiểu muội lấy cho đại ca coi!
Cô liền thò tay vào trong áo trước ngực lấy cái bọc nhỏ, mở tấm vải dầu bọc ngoài. Bên trong còn lần giấy dầu nữa rồi mới đến một cuốn sách giấy vàng dài sáu tấc, rộng bốn tấc. Trình Linh Tố dùng cây ngân châm để tật trang sách. Bên trong đầy những chữ viết theo lối tiểu khải to bằng đầu ruồi. Không cần nói cũng biết những trang sách này đều có chất kịch độc. Người nào không biết cứ sờ tay vào lật là lập tức trúng độc, hôn mê ngay.
Hồ Phỉ thấy cô đối với mình hết mực chân thành, cả những điều bí mật trọng đại cũng không giấu giếm, nên trong lòng rất hoan hỷ. Có điều nhìn thấy bộ độc kinh chàng không khỏi sởn da gà, dường như chàng hiểu rằng xem nhiều đôi mắt có thể bị trúng độc, bất giác đem lòng úy kỵ.
Trình Linh Tố lại gấp sách bọc cẩn thận cất vào áo rồi lấy ra một cái bình màu vàng, đổ một chút phấn xoa vào những lỗ kim châm trên ngón tay Hồ Phỉ. Cô nắm bóp đốt xương tay mấy cái, bột phấn liền theo lỗ kim châm thấm vào.
Hồ Phỉ cả mừng nói:
– Đại quốc thủ! Thần kỹ này suốt đời tại hạ chưa từng thấy qua.
Trình Linh Tố cười nói:
– Cái đó ăn thua gì? Nếu đại ca thấy gia sư mổ bụng người, tiếp cốt nối gân mới đáng gọi là thần kỹ.
Hồ Phỉ bỗng la lên:
– Phải rồi! Tôn sư tuy giỏi dùng độc nhưng chắc cũng giỏi trị bệnh cứu người, không thì tại sao người ta lại tôn là “Dược Vương”?
Trình Linh Tố lộ vẻ hân hoan đáp:
– Nếu sư phụ được nghe đại ca nói mấy câu này chắc lão nhân gia hoan hỷ lắm và sẽ bảo đại ca là thiếu niên tri kỷ. Hỡi ôi! Đáng tiếc lão nhân gia đã qua đời.
Cô nói tới đây bất giác vành mắt đỏ hoe.
Hồ Phỉ nói:
– Lệnh sư tỷ lưng còng bảo sư phụ có lòng thiên ái, chỉ thương yêu tiểu đồ đệ. Y nói thế không phải là quá đáng. Tại hạ nhận ra chỉ có một mình cô nương là thương nhớ đến sư phụ.
Trình Linh Tố đáp:
– Tiên sư bình sinh thu nhận bốn đồ đệ, mà tối nay đại ca đã gặp hết. Mộ Dung Cảnh Nhạc là đại sư huynh. Khương Thiết Sơn là nhị sư huynh. Tiết Thước là tam sư tỷ. Sư phụ định không thu nhận thêm đồ đệ nữa, nhưng thấy ba vị sư huynh sư tỷ làm nhiều chuyện sai quấy, lão nhân gia sợ sau khi người trăm tuổi, không ai kiềm chế được ba người này để họ mặc sức làm càn, gây chuyện hại người không ít, nên lúc lão nhân gia tuổi già lại thu tiểu muội làm ấu đồ.
Cô dừng lại một chút rồi tiếp:
– Bản tính của ba vị sư huynh sư tỷ nguyên trước không đến nỗi tệ hại. Chỉ vì tam sư tỷ thành hôn với nhị sư huynh rồi, mà đại sư ca kết mối thâm thù. Ba người chẳng ai chịu nhường ai, về sau càng đi đến chỗ không sao vãn hồi được nữa.
Hồ Phỉ gật đầu nói:
– Có phải đại sư huynh của cô nương cũng muốn lấy tam sư tỷ không?
Trình Linh Tố đáp:
– Những việc xảy ra lâu rồi, tiểu muội không nhớ rõ. Chỉ biết đại sư ca đã có sư tẩu, tam sư tỷ lại yêu mến đại sư ca nên liền đánh thuốc độc cho sư tẩu chết đi.
Hồ Phỉ “ủa” một tiếng, cảm thấy học công phu dùng độc lợi ít mà hại nhiều, tự nhiên người tử tế biến thành người tàn nhẫn.
Lại nghe Trình Linh Tố nói tiếp:
– Đại sư ca tức quá, cho tam sư tỷ uống thứ độc dược thành lưng gù, chân què. Nhị sư ca ngấm ngầm thương yêu tam sư tỷ, tuy mụ đã thành tàn phế, y cũng không đem lòng rẻ rúng mà kết hôn với mụ. Không hiểu tại sao sau khi hai người thành hôn, đại sư ca lại nhớ đến những điểm tốt của tam sư tỷ nên đâm ra quấn quít với mụ. Gia sư bị ba người làm cho phiền não, nhưng có giáo huấn cách nào đi nữa, ba người vẫn lằng nhằng mắc mứu mãi không sao gỡ ra được. Nhị sư ca là người tương đối chính phái, đối với vợ con chung thủy một lòng. Hai người đến bên hồ Động Đình dùng sắt đúc một tòa Dược Vương trang. Ngoài trang còn trồng thứ “Huyết nụy lật” để đề phòng đại sư ca gây rắc rối. Về sau vợ chồng y gây nhiều thù oán trên chốn giang hồ, tòa Dược Vương trang lại biến thành nơi ẩn lánh của họ.
Hồ Phỉ gật đầu nói:
– Té ra là thế. Thảo nào trên chốn giang hồ người ta đồn đại về Độc Thủ Dược Vương mỗi người một khác. Người thì bảo Dược Vương là lão nho sinh, kẻ lại nói Dược Vương là đại hán thô hào, có người bảo là một mụ đàn bà lưng gù, lại còn có người nói là một lão hòa thượng.
Trình Linh Tố đáp:
– Độc Thủ Dược Vương chân chính thực ra không phải là ai trong số những người đó cả. Gia sư vốn không thích cách xưng hô này. Lão nhân gia bảo “Ta sử dụng độc vật là để trị bệnh cứu người. Ai gọi ta là “Dược Vương”, ta lấy làm hổ thẹn không dám nhận. Bên trên thêm hai chữ “Độc Thủ” thì hóa ra lão hòa thượng Vô Sân này có thể tùy tiện giết người hay sao?”. Vì gia sư nổi danh sử dụng độc vật, mà ba vị sư huynh sư tỷ lại lạm dụng quá mức, có khi hại lắm người tử tế nên bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” đồn đại vang dội trên chốn giang hồ. Gia sư không cho ba vị sư huynh sư tỷ tiết lộ họ tên cùng lai lịch của người. Do đó, ở đâu có xảy ra vụ án mạng hạ độc ly kỳ, người ta cũng đổ lên đầu bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương”. Đại ca bảo có oan uổng hay không?
Hồ Phỉ hỏi:
– Lẽ ra tôn sư nên ra mặt biện minh cho thiên hạ biết!
Trình Linh Tố thở dài đáp:
– Vụ này biện minh hay không cũng…
Cô nói tới đây thì đã nắn bóp và buộc thuốc xong cho năm ngón tay Hồ Phỉ. Cô đứng dậy nói tiếp:
– Đêm nay chúng ta còn lại hai việc khẩn yếu phải làm. Nếu không…
Đột nhiên cô ngưng nói miệng tủm tỉm cười.
Hồ Phỉ nói theo:
– Nếu tại hạ không làm trái lời cô nương thì hai việc này dễ dàng quá rồi, nhưng hiện giờ không khỏi tốn công rất nhiều.
Trình Linh Tố cười đáp:
– Đại ca biết vậy là hay. Chúng ta đi thôi.
Hồ Phỉ trỏ vào Mộ Dung Cảnh Nhạc nằm dưới đất hỏi:
– Lại mời ông bạn này vào giỏ hay sao?
Trình Linh Tố cười đáp:
– Xin phiền đại ca.
Hồ Phỉ liền xách Mộ Dung Cảnh Nhạc bỏ vào trong giỏ, quảy trên vai gánh đi. Trình Linh Tố đi trước dẫn đường tiến về phía tây nam. Đi chừng ba dặm thì đến trước căn nhà nhỏ. Cô cất tiếng gọi:
– Vương đại thúc! Đi thôi!
Một hán tử toàn thân đen sì quảy gánh, mở cửa bước ra. Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Lại thêm một chuyện kỳ quái nữa đây.
Nhưng chàng đã kịp rút kinh nghiệm không dám hỏi nhiều, cứ cắm cúi theo sau Trình Linh Tố không dời xa cô ba bước. Trình Linh Tố quay lại mỉm cười tỏ ý khen ngợi. Hán tử kia theo sau hai người không nói nửa lời. Trình Linh Tố quay về phía bắc. Hết canh tư thì ba người tới ngoài Dược Vương trang.
Cô lấy trong giỏ ra ba bó hoa lam lớn, chia cho Hồ Phỉ và hán tử mỗi người một bó. Ba người vượt qua hàng cây Huyết nụy lật, đến gần tòa nhà tròn bằng sắt đúc. Trình Linh Tố cất tiếng hỏi:
– Nhị sư ca! Tam sư tỷ! Có mở cửa cho không?
Cô hỏi ba câu vẫn không thấy trong tòa nhà có phản ứng gì, liền nhìn hán tử gật đầu. Hán tử đặt gánh xuống. Một đầu đòn gánh là cái bễ thợ rèn. Hán tử thổi bễ đốt than đỏ, để làm cho thép chảy ra. Đúng là một gã thợ rèn. Hồ Phỉ trông thấy lấy làm kỳ quái.
Chỉ trong khoảnh khắc, hán tử đã nung sắt chảy ra nước rồi sờ kẽ nứt trên nóc nhà sắt mà rưới vào. Té ra đây là cửa sổ thông gió, bây giờ đã bị gắn kín lại. Khương Thiết Sơn, Tiết Thước tuy ở trong nhà nhưng úy kỵ Trình Linh Tố nên không dám ra ngăn cản.
Trình Linh Tố thấy những kẽ hở trong tòa nhà sắt mười phần đã bịt kín đến tám, chín. Người trong nhà chẳng còn cách nào đột phá vòng vây để ra được nữa. Cô liền nhìn Hồ Phỉ vẫy tay. Hai người vượt qua đầu cây Huyết nụy lật, rồi tiến về phía tây bắc mấy chục trượng, chỉ thấy toàn những tảng đá lớn nằm ngổn ngang trên mặt đất.
Trình Linh Tố vừa cất bước vừa đếm. Cô đi về phía bắc mấy bước lại qua hướng tây mấy bước rồi nói khẽ:
– Đây rồi!
Cô thắp đèn lồng lên soi thì thấy giữa hai tảng đá có một cái huyệt động lớn bằng miệng bát. Trên động lại có một tảng đá gác lên. Trình Linh Tố khẽ nói:
– Đây là lỗ thông hơi của họ.
Cô thắp nửa cây nến còn lại, đặt ở cửa động rồi cùng Hồ Phỉ lùi ra xa đứng trông. Cây nến được thắp lên rồi, những tỉa khói nhẹ mầu nhạt theo làn gió hiu hiu lan tỏa vào trong động. Hồ Phỉ nhìn tình trạng này đem lòng kính sợ thủ đoạn của Trình Linh Tố. Chàng nghĩ bụng không hiểu những người trong nhà sắt hít phải khói độc này liệu còn sống được chăng, bất giác không khỏi nảy lòng lân mẫn.
Chàng tự nhủ:
– Làn khói nhẹ này khó mà phát giác được, dù cho kịp thời phát giác thì lỗ thông hơi đã bị bít rồi, sẽ bị nghẹt thở mà chết, chỉ khác nhau ở chỗ chết mau hay chết chậm mà thôi. Chẳng lẽ ta nhìn thấy hành động tàn độc tuyệt diệt toàn gia mà không ra tay ngăn cản?
Lại thấy Trình Linh Tố cầm cái quạt nhỏ khẽ quạt cho làn khói nhẹ theo khe hở bay cả vào trong huyệt động. Hồ Phỉ không nhịn được nữa đứng phắt dậy hỏi:
– Linh cô nương! Giữa sư huynh sư tỷ và cô có mối thù không cởi được hay sao?
Trình Linh Tố đáp:
– Không có đâu.
Hồ Phỉ lại hỏi:
– Phải chăng lệnh sư để di mệnh sai cô nương thanh lý môn hộ?
Trình Linh Tố đáp:
– Hiện giờ chưa tới mức này.
Hồ Phỉ ngập ngừng:
– Thế thì… thế thì…
Trong lòng quá xúc động, chàng không biết hỏi sao nên nhất thời không thốt ra được lời nào.
Trình Linh Tố quay đầu lại hờ hững hỏi:
– Chuyện gì vậy? Sao đại ca có vẻ cấp bách như thế?
Hồ Phỉ định thần lại đáp:
– Nếu lệnh sư ca, sư tỷ… chưa đến mức phạm tội đại ác không giết không được, thiết tưởng cô nương cũng nên mở cho họ một con đường để họ cải ác tòng thiện.
Trình Linh Tố nói:
– Phải rồi! Gia sư cũng bảo vậy.
Cô dừng lại một chút rồi tiếp:
– Đáng tiếc đại ca chưa gặp được gia sư, không thì một già một trẻ nhất định ý hợp tâm đầu.
Miệng cô nói mà tay vẫn không ngớt quạt khói.
Hồ Phỉ gãi đầu, trỏ vào cây nến, ngập ngừng hỏi:
– Khói độc này… khói độc này có làm chết người không?
Trình Linh Tố đáp:
– Ủa! Té ra Hồ đại ca của chúng ta phát tâm đại từ bi. Tiểu muội đang muốn cứu mạng người chứ không phải làm việc thương thiên hại lý.
Cô nói rồi quay lại nhoẻn miệng cười, vẻ mặt rất yêu kiều khả ái. Hồ Phỉ đỏ mặt lên, tự thẹn vì mình lại làm thêm một trò ngu ngốc. Tuy chàng không hiểu tại sao quạt khói độc vào lại là cứu người, nhưng trong lòng chàng cũng cảm thấy cực kỳ khoan khoái.
Trình Linh Tố đưa ngón út ra, dùng móng tay khắc vào cây nến một vết, rồi bảo Hồ Phỉ:
– Đại ca coi chừng giùm đừng để gió thối tắt cây nến. Khi nào cháy tới đường vạch là thổi tắt nến đi.
Cô đưa cây quạt cho Hồ Phỉ, đứng lên quan sát bốn mặt lắng nghe động tĩnh. Hồ Phỉ bắt chước theo cô, khẽ quạt khói vào huyệt động, Trình Linh Tố đi quanh một vòng ở ngoài xa hơn mười trượng không thấy có gì khác lạ. Cô ngồi xuống một tảng đá tròn, nói:
– Người dẫn chó sói đến xéo nát vườn hoa của tiểu muội đêm ấy là con trai của nhị sư ca tên là Tiểu Thiết.
Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng hỏi:
– Gã cũng ở dưới này ư?
Chàng vừa nói vừa trỏ vào lỗ thông hơi trong kẽ đá.
Trình Linh Tố cười đáp:
– Phải rồi! Chúng ta phải phí công phu mới cứu gã được. Trước hết làm cho sư ca sư tỷ ngất đi thì hành động mới không vướng bận chân tay.
Hồ Phỉ “ồ” một tiếng bụng bảo dạ:
– Té ra là thế.
Trình Linh Tố nói tiếp:
– Nhị sư ca và tam sư tỷ có một kẻ đối đầu họ Mạnh. Hắn đến Động Đình hồ đã nửa năm, kiệt tận tâm cơ mà không sao giải được chất độc ở cây Huyết nụy lật, nên không đánh vào được Dược Vương trang. Hai kẻ chết bên bờ Động Đình hồ, mười phần hết chín là người của Mạnh gia. Giống hoa lam do tiểu muội trồng là một thứ khắc tinh của Huyết nụy lật. Vợ chồng nhị sư ca vẫn không hay biết gì hết. Mãi đến lúc đại ca cùng Chung nhị gia cài hoa lam tiến vào mà không sợ chất độc, y mới kinh hãi mà phát giác ra.
Hồ Phỉ chợt nhớ điều gì nói:
– Phải rồi! Tại hạ cùng Chung nhị ca lúc tới nơi đây, văng vẳng nghe trong nhà sắt có tiếng người la hoảng chắc là vì thế.
Trình Linh Tố gật đầu đáp:
– Độc tính của giống Huyết nụy lật không có thuốc nào giải được, chỉ người nào thường ăn những hạt dẻ mới không bị chất độc ở cây dẻ xâm hại. May mà giống Huyết nụy lật tuy độc nhưng khó lòng hại được người và súc vật, vì lẽ nơi nào chỉ cần có một cây đã mọc lớn là trong vòng mười bộ cây cỏ không mọc được, sâu kiến cũng tuyệt tích, hễ nhìn là biết ngay.
Hồ Phỉ nói:
– Thảo nào xung quanh Dược Vương trang này không có lấy một tấc cỏ. Tại hạ đã bịt mõm hai con ngựa rồi mà cũng không tránh được chất độc. Nếu tại hạ không được cô nương tặng hoa lam…
Chàng nói tới đây lại nhớ đến những chuyện xảy ra không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ:
– Chả trách trên chốn giang hồ mỗi khi nhắc tới Độc Thủ Dược Vương ai cũng biến sắc. Chung nhị ca hết sức đề phòng chẳng phải là không có nguyên nhân.
Trình Linh Tố nói tiếp:
– Hoa lam của tiểu muội là một thứ giải dược được trồng thử, may mà đại ca không rẻ rúng, giữa đường không vứt đi.
Hồ Phỉ mỉm cười đáp:
– Thứ hoa này rất đẹp, trông rất thích mắt.
Trình Linh Tố nói:
– May mà hoa đẹp, nếu nó không đẹp chắc đại ca đã vất đi rồi, phải không?
Hồ Phỉ nhất thời không biết đáp thế nào, cứ ấp úng:
– Cái đó… cái đó…
Chàng nghĩ thầm:
– Giả tỷ đóa hoa lam đó mà xấu xí thì chưa chắc mình đã cất vào trong bọc? Phải chăng vì nhờ bông hoa xinh đẹp mới cứu được tính mạng mình và Chung nhị ca?
Ngay lúc đó, một trận gió thổi tới, Hồ Phỉ mải suy nghĩ, không đưa quạt ra che gió, ngọn nến chập chờn rồi tắt ngay. Chàng hốt hoảng khẽ la “Úi dà!” rồi vội móc hỏa tập toan quẹt lên thắp nến, bỗng nghe Trình Linh Tố ở trong bóng tối lên tiếng:
– Thôi được! Ngần đó cũng tạm đủ rồi.
Hồ Phỉ nghe giọng nói của cô có ý không vừa lòng, chàng tự trách: Cô bảo ta làm việc gì ta cũng không làm cho ra hồn, tựa hồ nước đổ đầu vịt.
Chàng cảm thấy áy náy bèn nói:
-Tại hạ thành thực xin lỗi. Chẳng hiểu tại sao đêm nay tại hạ cứ như người mất hồn.
Trình Linh Tố lẳng lặng không nói gì. Hồ Phỉ lại nói:
– Tại hạ đang nghĩ tới câu nói của cô, không ngờ lại có cơn gió đột ngột thổi đến. Linh cô nương, lúc cô cho hai bông hoa lam, tại hạ hoàn toàn không biết đó là vật cứu mạng, nhưng đã là vật mà người ta có lòng tốt tặng cho, dĩ nhiên mình phải trân trọng giữ gìn.
Trình Linh Tố nghe Hồ Phỉ nói giọng rất thành khẩn, bèn “à” một tiếng rồi không nói gì.
Trong bóng tối hai người ngồi đối diện một lúc. Hồ Phỉ lại lên tiếng:
– Tại hạ mồ côi cha mẹ ngay từ thuở nhỏ, hiếm khi được ai cho cái gì.
Trình Linh Tố đáp:
– Phải rồi! Tiểu muội cũng không có gia gia má má từ thuở nhỏ, chẳng phải vẫn sống được đến ngày nay đấy ư?
Nói xong, cô lại thắp đèn lồng lên rồi nói:
– Đi thôi!
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn trộm thấy dường như cô không có ý tức giận, chàng không dám hỏi nữa, cứ việc lẽo đẽo theo sau. Hai người quay về đến trước nhà sắt, thấy gã thợ rèn ngồi dưới đất đang hút thuốc lá. Trình Linh Tố nói:
– Vương đại thúc! Phiền đại thúc đục những kẽ hở ra.
Những chỗ nàng chỉ đều là những chỗ lúc nãy nàng bảo gã thợ rèn bịt lại. Gã thợ rèn không hỏi gì cả, lấy búa và đục sắt đập choang choảng. Trong khoảng thời gian chừng ăn chưa xong một bữa cơm, hắn đã đục xong kẻ hở. Trình Linh Tố bảo hắn:
– Mở ra đi!
Người thợ rèn dùng búa sắt đục bên này mấy cái, bên kia mấy cái rồi lật ngược cái búa lại, dùng cán búa nạy lên. “Choang” một tiếng. Một tấm cửa sắt lớn rớt xuống để lộ cái cửa cao sáu thước rộng ba thước. Gã vươn tay đến mép cửa kéo ra một cái thang sắt nhỏ từ trên cửa thông vào bên trong. Trình Linh Tố nói:
– Chúng ta bỏ hoa lam ở bên ngoài.
Ba người cùng cầm các bó hoa lam bỏ xuống đất. Trình Linh Tố khoa chân toan theo thang sắt đi xuống, bỗng cô hít nhẹ một hơi rồi hỏi:
– Hồ đại ca! Sao trong mình đại ca còn hoa lam? Đừng đem vào trong nữa.
Hồ Phỉ “ồ” một tiếng rồi móc trong bọc ra cái túi vải. Chàng vừa mở túi vừa nói:
– Mũi cô nương thính quá. Tại hạ để hoa trong bọc mà cô còn ngửi thấy.
Trong bọc vải đựng cả “Quyền kinh đao phổ” cùng những đồ vặt vãnh. Đóa hoa lam Trình Linh Tố cho chàng bỏ vào đây hằng nửa ngày, bây giờ đã héo khô. Hồ Phỉ lấy ra đặt cả xuống tấm cửa sắt.
Trình Linh Tố thấy chàng cất bông hoa trịnh trọng, biết những lời chàng vừa nói không phải là giả trá, trong lòng rất đỗi hoan hỷ, nhìn chàng nhoẻn miệng cười đáp:
– Đại ca quả không lừa gạt ai!
Hồ Phỉ ngơ ngác nghĩ bụng:
– Ta lừa gạt cô mà làm gì?
Trình Linh Tố trỏ vào tấm cửa của ngôi nhà sắt, nói:
– Người trong tòa nhà này ngày thường ăn Huyết nụy lật quen rồi. Hoa lam là khắc tinh khiến họ chịu không nổi.
Cô cầm đèn lồng tiến vào trong nhà. Hồ Phỉ cùng Vương Thiết Tượng cũng đi theo. Đi hết cây thang sắt thì đến một thông đạo hẹp, lại chuyển qua hai khúc quanh nữa thì tới một tòa tiểu sảnh đường. Trên tường treo những bức thư họa cùng câu đối. Bàn ghế trong nhà bằng trúc Tương Phi. Cách bài trí rất trang nhã.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Khương Thiết Sơn tướng mạo thô lỗ mà ở căn nhà như của một vị tú tài.
Trình Linh Tố chân không dừng bước đi thẳng vào phía sau. Hồ Phỉ theo cô vào đến căn phòng giống như nhà bếp. Cảnh tượng trước mắt khiến chàng giật mình kinh hãi: Khương Thiết Sơn và Tiết Thước nằm lăn dưới đất, không hiểu còn sống hay đã chết rồi. Lúc quạt khói ngọn nến chế bằng “Thất tâm hải đường” để khói bay vào chàng đã tiên liệu nhất định xảy ra tình trạng này nên chẳng lấy chi làm lạ. Lạ ở chỗ có một thanh niên ngồi ở trong chảo đầy nước nóng. Gã này thân thể lõa lồ, mà hơi nước trong chảo lại bốc lên nghi ngút, dù nước chưa sôi nhưng cũng nóng lắm, không chừng gã đã chết rồi.
Hồ Phỉ cất bước lại gần toan kéo thanh niên ra khỏi chảo nước thì Trình Linh Tố la lên:
– Đừng động vào gã! Đại ca xem thử… xem thử người gã còn có áo quần không đã?
Hồ Phỉ thò đầu nhìn vào trong chảo đáp:
– Y chỉ mặc một cái quần đùi.
Trình Linh Tố hơi đỏ mặt lên, cô gật đầu tiến lại gần sờ mũi gã, rồi nói:
– Đại ca cho thêm củi vào bếp!
Hồ Phỉ giật bắn người lên, nhìn lại thanh niên kia, nhận ra gã chính là kẻ đã dẫn bầy sói đến xéo nát vườn hoa lam. Đôi mắt gã nhắm nghiền, miệng há hốc ra, bộ ngực tráng kiện hãy còn thoi thóp. Quả nhiên gã chưa chết nhưng đã ngất đi không biết gì nữa. Chàng hỏi:
– Phải chăng y là Tiểu Thiết, con của hai người này?
Trình Linh Tố đáp:
– Phải, tệ sư ca và sư tỷ muốn trục độc khí ra khỏi người gã nhưng không có phấn hoa “Thất tâm hải đường” thì không trị được.
Bây giờ Hồ Phỉ mới yên lòng. Chàng thấy lửa trong bếp cháy yếu, liền chất thêm củi, nhưng vẫn sợ nước nóng quá, Tiểu Thiết không chịu nổi nên không dám cho nhiều. Trình Linh Tố cười nói:
– Cho thêm ít củi nữa, đun không kỹ, hầm thịt không chín được.
Hồ Phỉ theo lời lại bỏ mấy thanh củi nữa vào bếp. Trình Linh Tố thò tay vào trong chảo để coi nước nóng lạnh thế nào. Cô lấy trong bọc ra một bình thuốc nhỏ đổ chút phấn vàng ra bôi vào mũi Khương Thiết Sơn và Tiết Thước. Sau một lúc, hai người hắt hơi mấy cái rồi mở bừng mắt ra thấy Trình Linh Tố tay cầm gáo, múc nước nóng trong chảo đổ ra ngoài, rồi lại múc nước lạnh trong lu đổ vào chảo.
Hai vợ chồng Khương Thiết Sơn đưa mắt nhìn nhau. Ban đầu khi vừa tỉnh lại, hai người vừa kinh hãi vừa tức giận, nhưng sau lộ vẻ vui mừng biết rằng Trình Linh Tố đã ra tay giải cứu thì đứa con độc nhất của họ có thể thoát chết.
Hai người lẳng lặng đứng lên, không nói gì mà trong lòng nổi lên nhiều ý nghĩ khôn tả:
– Đứa con yêu của mình rõ ràng đã trúng phải độc thủ của y, bây giờ y lại đến giải cứu. Tạ ơn y là không đáng, nhưng nếu y không giải cứu thì con mình không sống được. Hơn nữa y chẳng qua chỉ là tiểu sư muội, còn nhỏ tuổi hơn cả thằng con mình. Ai ngờ sư phụ lòng dạ riêng tây, truyền thụ cho y một bản lĩnh cao thâm hơn vợ chồng mình. Cả một đêm bị y kiềm chế như người bị cột trói chân tay, không còn đất để trả đũa.
Trình Linh Tố thấy nước bốc hơi nhiều, lại lấy gáo múc nước nóng ra cho nước lạnh vào, để trục hết khí độc trong người Tiểu Thiết ra.
Trình Linh Tố đột nhiên nhìn lão thợ rèn họ Vương, nói:
– Nếu không động thủ thì không trả được thù.
Vương thợ rèn “vâng” một tiếng lượm một thanh củi nhằm đầu Khương Thiết Sơn bửa xuống.
Khương Thiết Sơn cả giận quát:
– Ngươi làm gì thế?
Hắn nắm lấy thanh củi toan đánh trả. Tiết Thước vội la lên:
– Thiết Sơn! Bữa nay chúng ta phải cầu cạnh sư muội mà không chịu nổi mấy đòn ư?
Khương Thiết Sơn thộn mặt ra, tức giận quát:
– Được!
Hắn buông tay ra. Vương thợ rèn cầm thanh củi đánh xuống. Khương Thiết sơn không né tránh cũng không đỡ gạt, lại nghênh đâu lên cho hắn đánh mạnh hơn.
Vương thợ rèn thóa mạ:
– Ngươi chiếm đoạt ruộng đất của lão gia, ép buộc lão gia phải đúc tòa nhà sắt này, lại còn đánh lão gia gãy ba rẽ xương sườn, phải nằm liệt giường hàng nửa năm. Quân chó đẻ kia, không ngờ lại có ngày nay!
Hắn thóa mạ một câu lại cầm thanh củi quật mạnh một cái. Hắn làm thợ rèn nện sắt đã gần mười năm. Tuy không hiểu võ công nhưng cánh tay hắn sức lực cực kỳ mãnh liệt, nên vừa quật một cái thanh củi cứng đã gãy đôi. Khương Thiết Sơn thủy chung không trả đòn, nghiến răng chịu đựng.
Hồ Phỉ nghe tên thợ rèn họ Vương thóa mạ biết là hắn đã bị vợ chồng Khương Thiết Sơn áp bức khổ sở. Bữa nay Trình Linh Tố xử đạo công bằng cho hắn trút hận. Đây là một hành động khiến lòng người khoan khoái.
Vương thợ rèn đánh gãy ba thanh củi, thấy Khương Thiết Sơn máu me đầy mặt, vẫn nghiến răng chịu đựng không rên một tiếng. Gã vốn là người lương thiện, nay thấy vậy đã hả được cơn giận. Tuy ngày trước bị cha con họ Khương đánh đập thê thảm hơn thế này nhiều, nhưng gã thấy trả đòn như vậy là đủ. Gã ném thanh củi đi, quay sang nhìn Trình Linh Tố chắp tay nói:
– Trình cô nương! Bữa nay cô nương giúp tại hạ trút được nỗi hận, ơn đức này tiểu nhân khó lòng báo đáp.
Trình Linh Tố đáp:
– Đại thúc bất tất phải đa lễ.
Cô quay lại hỏi Tiết Thước:
– Tam sư tỷ! Các vị trả lại ruộng đất cho Vương đại thúc, xin nể mặt tiểu muội mà đừng kiếm y để báo thù có được không?
Tiết Thước cất giọng trầm trầm đáp:
– Bọn ta vĩnh viễn không đặt chân vào tỉnh Hồ Nam nữa. Vả lại, hạng người này không đáng cho bọn ta phải để bụng làm gì.
Trình Linh Tố nói:
– Hay lắm! Vậy xin cứ thế. Vương đại thúc! Cứ về trước đi, ở đây không còn việc gì cho đại thúc nữa đâu.
Vương thợ rèn vẻ mặt hả hê, gã lượm nửa thanh củi gãy ở dưới đất lên, nghĩ bụng:
– Tên ác bá này ngày trước hành hạ lão gia rất thảm khốc. Nay lão gia giữ lại nửa thanh củi gãy này để làm vật kỷ niệm.
Gã nhìn Hồ Phỉ thi lễ rồi quay gót. Hồ Phỉ thấy gã vẻ mặt thuần hậu giống như một đứa trẻ con, chợt động tâm nhớ tới tấn thảm kịch ở miếu Bắc Đế trấn Phật Sơn. Ngày đó tên ác bá Phụng Thiên Nam bị chàng kiềm chế nên để mặc cho Chung A Tứ chửi mắng chứ không dám mở miệng nói một lời, thế mà chàng chỉ rời trong khoảng thời gian ngắn, cả nhà Chung A Tứ đã phải phơi thây giữa điện thờ. Nay vợ chồng Khương Thiết Sơn hung ác không kém gì Phụng Thiên Nam, bọn chúng vị tất đã giữ lời, chỉ e rằng khi Trình Linh Tố vừa đi khỏi là chúng lập tức hạ độc thủ với gã thợ rèn họ Vương.
– Vương đại thúc! Vợ chồng họ Khương không phải là hạng người tử tế. Đại thúc nên bán gấp cửa nhà, ruộng đất mà đi cho xa, đừng chần chờ ở đây nữa. Thủ đoạn của bọn chúng rất tàn độc.
Vương thợ rèn ngẩn người ra, vì gã thấy quyến luyến chốn làng mạc mà gã đã ở gần chục năm. Gã hỏi:
– Bọn họ đã hứa lời vĩnh viễn không bước chân đến địa giới tỉnh Hồ Nam nữa kia mà?
Hồ Phỉ hỏi lại:
– Lời hứa của hạng người này mà tin được ư?
Vương thợ rèn tỉnh ngộ, đáp luôn miệng:
– Phải! Phải! Sáng mai tại hạ đi ngay!
Gã bước chân ra cửa còn quay lại hỏi:
– Thiếu hiệp quý tính là gì?
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ họ Hồ.
Vương thợ rèn nói:
– Hay lắm! Hồ gia! Chúng ta có ngày tái ngộ. Hồ gia nên đối xử hết dạ với Trình cô nương.
Bây giờ đến lượt Hồ Phỉ sửng sốt. Chàng hỏi:
– Đại thúc bảo sao?
Vương thợ rèn cười ha hả đáp:
– Hồ gia, Vương thợ rèn này có ngu ngốc đâu, chẳng lẽ không thấy gì ư? Trình cô nương người đã thông minh, lòng dạ lại tử tế. Cái đó khỏi cần phải nói. Người ta đối với Hồ gia bằng cả tấm chân tình, vậy Hồ gia cũng nên nghe lời cô.
Dứt lời y lại nổi lên tràng cười ha hả. Hồ Phỉ nghe Vương thợ rèn nói biết là chắc có nguyên nhân nhưng không tiện hỏi nhiều nên chỉ ậm ừ cho qua chuyện rồi đáp:
– Hẹn ngày tái ngộ.
Vương thợ rèn nói:
– Hồ gia, hẹn ngày tái ngộ, hẹn ngày tái ngộ!
Rồi y quảy gánh lên đi luôn. Vương thợ rèn đi được mấy bước, đột nhiên cất giọng ồm ồm hát bản tình ca bên hồ Động Đình:
Tiểu muội tử đãi tình lang
Ân tình thâm
Nễ mạc phụ liễu muội tử
Nhất ban tình
Nễ kiến liễu tha điện thời
Yếu đãi tha hảo
Nễ bất kiến tha diện thời
Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải
tại tâm!
(Tiểu muội tử chờ tình lang
Tấm lòng chờ đợi chứa chan ân tình
Chàng ơi, chớ phụ cô mình
Gặp nhau hãy giữ ân tình cho nhau
Rủi mai nước chảy xuôi cầu
Tấc lòng canh cánh, nỗi sầu khôn khuây)
Giọng gã nghe ồ ồ như vịt đực, nhưng giữa đêm khuya thanh vắng, bài hát đó vẫn khiến người nghe bồi hồi tấc dạ. Hồ Phỉ đứng ngay cửa lắng nghe tiếng hát xa dần đến khi mất hẳn mới quay lại trong nhà bếp.
Khương Tiểu Thiết đã hồi tỉnh, đứng dưới đất. Toàn thân gã ướt đẫm nhưng đã khoác áo dài. Nhà họ Khương ba người đối với Trình Linh Tố vừa úy kỵ, lại vừa tức giận, nhưng đối với thần kỹ dùng thuốc của cô thì trong lòng hết sức khen ngợi. Cả ba đứng đó, vẻ mặt lạnh lùng, không nói lời cảm ơn mà cũng chẳng biểu lộ ý gì.
Trình Linh Tố lấy trong bọc ra ba nắm dược thảo khô màu trắng đặt trên bàn, nói:
– Khi các vị ra khỏi nhà, thế nào bọn người nhà họ Mạnh cũng theo dõi chặn đường. Đây là ba bó “Đề hồ hương” chế luyện bằng “Thất tâm hải đường” có thể đẩy lui địch, mà không phải giết người làm tăng thêm cừu hận.
Khương Thiết Sơn nghe nói thế, nỗi vui mừng lộ ra ngoài mặt. Hắn nói:
– Trình sư muội! Đa tạ sư muội đã giúp cho ta thật chu đáo.
Hồ Phỉ lẩm bẩm:
– Cô ta cứu mạng cho con hắn, hắn không có được một lời cảm ơn. Bây giờ có giúp hắn đẩy lui địch thủ hắn mới cảm ơn, đủ thấy kẻ địch rất là lợi hại. Nếu không thì tại sao cả nhà họ Khương đều là những tay anh hùng hảo hán, lại không đám dùng thủ đoạn hạ độc mà đành phải ru rú ẩn náu trong căn nhà sắt này?
Trình Linh Tố hỏi:
– Tiểu Thiết, hai người trúng chất kịch độc “Quỷ biển bức” có phải là người nhà họ Mạnh không? Ngươi hạ thủ tàn độc quá lắm!
Lúc cô nói, mắt không nhìn Tiểu Thiết. Khương Tiểu Thiết giật nảy người lên tự hỏi: “Sao y lại biết”. Gã ấp úng:
– Tiểu điệt… tiểu điệt…
Khương Thiết Sơn đỡ lời:
– Tiểu sư muội! Tiểu Thiết có lỗi lắm trong vụ này. Ngu huynh đã trách phạt gã rồi.
Hắn nói rồi lại vén áo Tiểu Thiết lên, xoay người gã lại, chỉ cho thấy trên lưng gã đầy vết roi lằn dọc lằn ngang, huyết sắc tím bầm, đều là những vết roi mới cả. Trình Linh Tố khi chữa độc cho gã đã thấy những lằn roi này, nhưng cô nghĩ đến việc hạ độc người khác bằng chất kịch độc không có thuốc giải là điều đại kỵ của bản môn, nên buộc phải nhắc lại. Sở dĩ cô biết hai người kia bị Tiểu Thiết hạ độc là vì cô thấy những lằn roi mà suy ra vụ này.
Cô nhớ lại lời tiên sư là Vô Sân đại sư căn dặn môn đồ:
– Bản môn chuyên về dùng độc, người khác không hiểu cho là tuyệt ác, kỳ thực việc hạ độc cũng giống như việc sử dụng binh khí hay quyền cước, mà lại còn từ bi hơn một bậc. Sau khi hạ độc rồi mà thấy đối phương tỉnh ngộ xin tha, lập thệ ăn năn hối cải hoặc thấy hạ độc nhầm người thì đều có thể giải cứu. Đối phương dù là hạng đại gian đại ác đi nữa, ta cũng nên chừa một con đường để họ hồi đầu hối cải.
Cô lại nghĩ:
– Đại giới luật này của bản môn nhị sư ca và tam sư tỷ nhất định đã nói cho Tiểu Thiết hay, sao gã còn dám lớn mật phạm quy?
Có điều cô thấy trên lưng gã chằng chịt vết roi, chắc là gã đã bị cha mẹ đánh đập, lại bị ngâm nước nóng cực kỳ khổ sở, đó cũng là sự trừng phạt nặng nề rồi nên cô bèn khom lưng thi lễ, nói:
– Sư ca sư tỷ, tiểu muội có nhiều điều đắc tội. Chúng ta rồi sẽ có ngày tái ngộ.
Khương Thiết Sơn chắp tay đáp lễ. Tiết Thước chỉ đằng hắng một tiếng chứ không đoái hoài gì đến. Trình Linh Tố cũng không để bụng, đưa mắt ra hiệu cho Hồ Phỉ rồi cùng nhau ra cửa.
Hai người vừa nhớm bước ra khỏi cửa lớn, Khương Thiết Sơn rượt theo gọi lớn:
– Tiểu sư muội!
Trình Linh Tố quay lại thấy hắn lộ vẻ ấp úng, muốn nói lại thôi, biết ý hắn ngay, liền cười hỏi:
– Nhị sư ca có điều chi dạy bảo?
Khương Thiết Sơn đáp:
– Ba bó “Đề hồ hương” này cần được ba người công lực ngang nhau vận khí thi hành thì mới có thể cự địch, mà Tiểu Thiết công lực non nớt. Tiểu huynh muốn nhờ sư muội…
Hắn nói đến đây, dù trong lòng rất mong Trình Linh Tố lưu lại để tương trợ, nhưng thấy không thể nói ra được, nên mới nói đến mấy chữ “muốn nhờ sư muội” là phải bỏ dở không sao nói tiếp nổi.
Trình Linh Tố trỏ cái giỏ tre để ngoài cửa, nói:
– Đại sư ca ở trong giỏ, tiểu muội để lại phấn hoa hải đường đủ để giúp đại sư ca giải độc. Nhị sư ca sao không nhân cơ hội này khéo nói với y để có được một tay trợ lực giỏi?
Khương Thiết Sơn cả mừng. Lâu nay hắn bị đại sư ca gây lắm chuyện phiền não, không ngờ cô tiểu sư muội này sắp đặt diệu kế thành ra nhất cử lưỡng tiện, vừa có thể lui được cường địch lại giải được mối hiềm khích bấy lâu giữa sư huynh sư đệ. Hắn vội tạ ơn không ngớt, rồi đem cái giỏ vào nhà.
Hồ Phỉ lượm bông hoa lam đã khô ở trên cánh cửa bỏ vào bọc. Trình Linh Tố liếc mắt nhìn chàng rồi vẫy tay từ biệt Khương Thiết Sơn. Cô nói:
– Nhị sư ca! Đầu mặt sư ca chảy máu nhiều, độc khí trong người cũng tan theo, đừng trách tiểu muội vô lễ.
Khương Thiết Sơn ngẩn người ra rồi hắn đột nhiên tỉnh ngộ, nhủ thầm:
– Y bảo Vương thợ rèn đánh ta cố nhiên là để trừng phạt thói hung tàn của ta ngày trước nhưng không phải là không có thiện ý. Độc khí trong người Thước muội còn chưa tiêu tan, cũng cần phải làm cho chảy máu ra mới được.
Hắn nghĩ tới mọi việc đều nằm trong vòng tính toán của vị tiểu sư muội, hắn không thể nào là đối thủ. Hắn liền dứt khoát bỏ ý niệm tranh đoạt pho “Dược Vương thần biên” của sư phụ để lại.
Trình Linh Tố cùng Hồ Phỉ trở về căn nhà tranh. Chung Triệu Văn hãy còn say ly bì chưa tỉnh. Suốt một đêm bôn ba cực nhọc, bây giờ trời đã sáng rõ, Trình Linh Tố lấy thuốc giải ra bảo Hồ Phỉ cho Chung Triệu Văn uống. Đoạn hai người cầm cuốc ra vườn đào sạch những cây hoa lam mà đêm qua chó sói chưa xéo tới, đem vùi cả xuống đất. Trình Linh Tố nói:
– Ban đầu tiểu muội thấy bầy chó sói đến tập kích lại tưởng là người Mạnh gia kéo đến phá hoa lam. Sau thấy ở cổ Tiểu Thiết có đeo một bó dược thảo mới biết dụng ý của gã.
Hồ Phỉ hỏi:
– Gã làm sao lại trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”? Trong bóng tối tại hạ không nhìn thấy rõ.
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội dùng cây Thấu cốt đinh có bôi chất độc “Thất tâm hải đường” đâm gã một cái. Cây đinh này lại cắm lá thơ giả của đại sư ca, hẹn vợ chồng nhị sư ca gặp nhau tại rừng cây. Thấu cốt đinh là ám khí độc môn do đại sư ca tự đúc ra, nhị sư ca và tam sư tỷ thoạt nhìn là nhận ra ngay nên không còn nghi ngờ gì nữa.
Hồ Phỉ hỏi:
– Ám khí của đại sư ca, cô nương lấy ở đâu ra?
Trình Linh Tố cười đáp:
– Đại ca thử đoán coi.
Hồ Phỉ ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
– A, phải rồi! Khi ấy đại sư ca đã bị cô nương bắt giữ, ngồi hôn mê trong giỏ tre. Ám khí đó từ trong người y mà ra.
Trình Linh Tố cười đáp:
– Phải rồi! Đại sư ca nhìn thấy hoa lam của tiểu muội liền sinh nghi. Đại ca và Chung nhị gia lại hỏi đường nơi y. Y liền theo đõi hành tung đến đây, thế là tự chui đầu vào giỏ tre.
Hai người nói chuyện cao hứng, cùng chống cuốc mà cười rộ lên. Bỗng phía sau có thanh âm cất lên hỏi:
– Làm gì mà cười lắm thế?
Hai người quay đầu nhìn lại thấy Chung Triệu Văn mặt mũi bần thần đã ở dưới thềm, mặt còn đỏ bừng chưa hết say rượu. Hồ Phỉ run lên đáp:
– Linh cô nương! Miêu đại hiệp bị thương trầm trọng, bọn tại hạ cần về gấp. Cách dùng thuốc giải thế nào xin cô nương chỉ bày cho.
Trình Linh Tố hỏi:
– Miêu đại hiệp bị thương ở mắt, đó là chỗ mềm nhất trong cơ thể. Cách dùng thuốc nặng hay nhẹ cần phải châm chước. Tiểu muội chưa hiểu thương thế y ra sao?
Hồ Phỉ có ý muốn mời cô đi giải cứu, nhưng nghĩ mình với cô xưa nay không có liên quan gì, người ta lại là một thiếu nữ nhỏ tuổi, khiến Hồ Phỉ cũng giống Khương Thiết Sơn ban nãy, muốn thỉnh cầu mà khó mở miệng nói ra.
Trình Linh Tố mỉm cười nói:
– Nếu đại ca mở miệng yêu cầu tiểu muội, tiếu muội cũng bằng lòng đi, nhưng đại ca phải ưng chịu một điều kiện.
Hồ Phỉ cả mừng vội hỏi:
– Chịu ngay, chịu ngay! Điều kiện gì vậy?
Trình Linh Tố cười đáp:
– Bây giờ thì chưa biết, sau này tiểu muội sẽ nói cho đại ca hay. Chỉ sợ khi đó đại ca lại chối cãi.
Hồ Phỉ nói ngay:
– Tại hạ mà chối cãi thì thành cái giống rùa đen.
Trình Linh Tố tươi cười nói:
– Tiểu muội thu xếp và thay áo xong là chúng ta đi ngay.
Hồ Phỉ thấy người cô bé nhỏ gầy nhom, khẽ nói:
– Một đêm không ngủ, e rằng cô đã mệt quá rồi.
Trình Linh Tố lắc đầu, nhẹ nhàng đi vào phòng.
Chung Triệu Văn có biết đâu nửa đêm qua mình ngủ say mà đã xảy ra biết bao biến cố. Trong lúc nhất thời Hồ Phỉ cùng chưa kịp thuật chuyện cho hắn biết cặn kẽ. Chàng chỉ nói thuốc giải tìm được rồi. Trình Linh Tố là một hảo thủ về trị độc, cô đã nhận lời cùng đi chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng.
Chung Triệu Văn muốn hỏi nữa thì Trình Linh Tố ở trong phòng ra. Lưng cô đeo một cái bọc nhỏ, tay bưng một chậu hoa nhỏ. Lá giống như lá cây hải đường bình thường, không có gì đặc biệt. Cánh hoa bám sát vào cành, hoa lại cứng như thép. Trên mỗi cánh hoa đều có bảy điểm chấm nho nhỏ màu đỏ.
Hồ Phỉ hỏi:
– Phải chắng đây là thứ “Thất tâm hải đường” lừng lẫy tiếng tăm?
Trình Linh Tố đưa chậu hơa đến trước mặt Hồ Phỉ. Chàng giật bắn cả người, bất giác lùi lại một bước.
Trình Linh Tố cười hích hích, nói:
– Thứ hoa này cả rễ, thân, nhánh, lá đều có chất kỳ độc tuyệt luân, nhưng chưa chế luyện thì không làm hại người ta được. Chỉ cần đại ca đừng ăn vào là không phải chết.
Hồ Phỉ cười hỏi:
– Cô cho tại hạ là trâu dê hay sao mà bảo ăn cỏ sống, hoa sống?
Chàng đưa tay đón lấy chậu hoa. Trình Linh Tố đóng cửa lại. Ba người cùng đi lên thị trấn Bạch Mã Tự, Hồ Phỉ vào tiệm thuốc lấy lại mấy món binh khí gửi trước. Chung Triệu Văn bỏ tiền ra mua ba con ngựa, không dám chần chờ, lập tức theo đường cũ trở về. Bạch Mã Tự là một trấn nhỏ, mua được ba con ngựa không phải chuyện dễ, mà chẳng phải là giống lương câu tuấn mã gì hết, mãi tận tối mới đi được hai trăm dặm. Ba người tranh thủ thời gian, mải mê rong ruổi quên cả ngủ, nhưng thấy ba con ngựa đã kiệt lực không đi được nữa đành dừng lại ngủ giữa trời trong khu rừng cây nhỏ.
Trình Linh Tố cũng mệt quá không chống chọi nổi, cô ngã ngay xuống đống cỏ khô mà Hồ Phỉ lót cho cô nằm, chỉ một lúc là ngủ ngay. Chung Triệu Văn giục Hồ Phỉ đi ngủ cho lại sức, bảo rằng đêm qua hắn đã ngủ rồi, đêm nay có thể thức để canh chừng.
Hồ Phỉ ngủ tới nửa đêm bỗng nghe mé đông văng vẳng tiếng hổ gầm chàng giật mình tỉnh giấc. Tiếng hổ gầm chẳng bao lâu lại xa dần. Hồ Phỉ thấy khó lòng ngủ trở lại liền nói:
– Chung Nhị ca! Nhị ca ngủ đi. Tiểu đệ không ngủ được nữa. Xin ngồi canh chừng.
Chàng ngồi một lúc nghe Trình Linh Tố cùng Chung Triệu Văn hơi thở đều đặn, biết cả hai đã ngủ say. Chàng tự nghĩ:
– Lần này lo chuyện bao đồng làm chậm trễ mất mấy ngày, việc Phụng Thiên Nam càng không dễ chút nào. Chẳng hiểu hắn có đến tham dự đại hội các chưởng môn không?
Chàng nghĩ hết việc nọ đến việc kia không sao tĩnh tâm được. Hồ Phỉ thò tay vào người, lấy bọc vải ra, rồi cất bông hoa lam vào bọc lại. Chợt nhớ tới khúc tình ca của Vương thợ rèn, chàng động tâm tự hỏi: “Chẳng lẽ y đối với ta quá tốt mà ta không nhận ra?”. Chàng đang ngơ ngẩn xuất thần bỗng nghe tiếng Trình Linh Tố cười hỏi:
– Trong cái bọc này đại ca giấu giếm bảo bối gì? Cho tiểu muội coi được chăng?
Hồ Phỉ quay lại, dưới ánh trăng lờ mờ thấy cô ngồi trên đống cỏ. Không hiểu cô tỉnh giấc từ lúc nào. Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ cho là bảo bối, nhưng cô nương coi thì có lẽ không bõ một tiếng cười.
Chàng cầm bọc mở ra, đưa đến trước mặt Trình Linh Tố, nói tiếp:
– Đây là thanh tiểu trúc đao của Bình tứ thúc cho tại hạ ngày còn nhỏ. Còn đây là đóa hoa hồng của vị huynh trưởng là Triệu tam ca tặng tại hạ. Đây là cuốn “Quyền kinh đao phổ” tổ truyền của tại hạ.
Khi trỏ vào con ngọc phụng của Viên Tử Y tặng cho, Hồ Phỉ ngập ngừng một chút rồi nói:
– Cái này là đồ chơi của một vị bạn hữu tặng.
Con ngọc phụng dưới bóng trăng phát ra ánh sáng lấp lánh dịu dàng, Trình Linh Tố nghe giọng nói chàng có điều khác lạ, liền ngửng đầu lên hỏi:
– Người bạn này phải chăng là một vị cô nương?
Hồ Phỉ đỏ mặt lên đáp:
– Phải.
Trình Linh Tố cười nói:
– Vật này há chẳng phải là bảo bối đáng giá liên thành ư?
Nói xong cô tủm tỉm cười trả lại cái bọc vải cho Hồ Phỉ, lại nằm xuống ngủ. Hồ Phỉ ngẩn người ra hồi lâu, chẳng biết nên vui hay nên buồn. Bản tình ca của gã thợ rèn họ Vương cứ văng vẳng bên tai.
Sáng sớm hôm sau, ba người lại cưỡi ngựa lên đường. Khi đi, ngựa chạy nhanh nên chỉ mất một ngày là đã tới nơi. Nhưng lần trở về, phải đến tận khuya mới tới ngoài căn nhà nhỏ của Miêu Nhân Phụng.
Chung Triệu Văn thấy dưới gốc cây buộc bảy con ngựa cao lớn. Hắn động tâm khẽ nói:
– Hai vị hãy chờ đây một chút. Tại hạ vào trước xem sao.
Hắn quành ra sau nhà chợt nghe mấy người đang lớn tiếng nói chuyện. Hắn rón rén đến dưới cửa sổ dòm vào, thấy Miêu Nhân Phụng bịt mắt bằng tấm băng vải, đứng rất ngang nhiên. Ngoài cửa sảnh đường mấy hán tử tay cầm binh khí, dáng điệu rất hung dữ. Chung Triệu Văn nhìn quanh trong nhà chẳng thấy huynh trưởng Triệu Anh và tam đệ Triệu Năng đâu, tự hỏi: “Hai người lãnh trách nhiệm bảo vệ Miêu đại hiệp mà sao lại bỏ đi đâu?”. Trong lòng hắn không khỏi sinh nghi lo lắng.
Bỗng nghe một người trong năm hán tử lên tiếng:
– Miêu Nhân Phụng! Ngươi mù mắt rồi, có sống thêm ở thế gian cũng chỉ thêm tội tình. Hãy nghe ta nói đây, chi bằng ngươi tự kết liễu đời mình để các đại gia đây khỏi phải ra tay mất công.
Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng chứ không nói gì. Một hán tử khác nói:
– Ngoại hiệu của ngươi là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”, trên chốn giang hồ đã cuồng ngạo mấy chục nằm trời. Bữa này ngươi ngoan ngoãn bò dưới đất dập đầu mấy cái trước các vị đại gia, không chừng các vị để ngươi sống thêm mấy năm nữa.
Miêu Nhân Phụng cất giọng trầm trầm hỏi:
– Điền Quy Nông đâu? Sao hắn không dám nói thẳng với ta?
Tên cầm đầu bọn hán tử cười đáp:
– Để phát lạc một kẻ đui mù như ngươi hà tất Điền đại gia phải ra tay?
Miêu Nhân Phụng hỏi:
– Điền Quy Nông không đến ư?
Giữa lúc ấy, Chung Triệu Văn cảm thấy có người khẽ vỗ vai, hắn giật mình kinh hãi tung người nhảy về phía trước ra xa nửa trượng. Hắn quay đầu nhìn lại thấy Hồ Phỉ và Trình Linh Tố mới yên tâm.
Hồ Phỉ đi tới bên hắn, trỏ về phía tây, khẽ nói:
– Chung đại ca và Chung tam ca đã bị bọn tặc tử vậy hãm bên kia. Nhị ca mau qua đó tiếp viện. Tiểu đệ ở đây chiếu cố Miêu đại hiệp.
Chung Triệu Văn biết chàng bản lãnh cao thâm, trong lòng lại đang lo cho huynh đệ, liền rút phán quan bút bên hông ra chạy lẹ qua mé tây. Hắn tung mình vọt đi. Trong nhà đã phát giác. Một người lớn tiếng quát:
– Ai ở bên ngoài đó?
Hồ Phỉ cười đáp:
– Một vị y sinh và một tên đồ tể.
Người kia tức giận quát:
– Y sinh, đồ tể nào?
Hồ Phỉ cười đáp:
– Y sinh chữa mắt cho Miêu đại hiệp, còn đồ tể thì giết heo mổ chó.
Người kia phẫn nộ chửi tục một câu toan nhảy ra. Một tên hán tử khác cầm đầu liền nắm cánh tay hắn giữ lại, khẽ nói:
– Đừng mắc kế “Điệu hổ ly sơn” của chúng. Điền đại gia dặn chúng ta chỉ giết lão họ Miêu này, còn việc khác đừng có quan tâm.
Người kia cổ họng òng ọc mấy tiếng rồi dừng chân lại. Nguyên Hồ Phỉ sợ Miêu Nhân Phụng mắt không thấy gì nên dễ bị kém thế, muốn dẫn dụ địch nhân ra ngoài hạ từng tên một, nào ngờ chúng không mắc bẫy.
Miêu Nhân Phụng hỏi:
– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã về đấy ư?
Hồ Phỉ dõng dạc đáp:
– Tại hạ đã mời Độc Thủ Dược Vương lão nhân gia tới đây, đôi mắt của đại hiệp chắc chắn sẽ được chữa lành.
Chàng nói “Độc Thủ Dược Vương” đến để hư trương thanh thế nhằm hăm dọa địch nhân. Quả nhiên cả năm hán tử trong nhà đều biến sắc, chúng nhất tề quay đầu nhìn ra thì thấy hai người đứng ngoài cửa chỉ là một thiếu niên thô tráng và một cô bé gầy nhom, chứ làm gì có Độc Thủ Dược Vương?
Miêu Nhân Phụng nói:
– Năm con chó nhỏ này đâu đáng để tiểu huynh đệ phải quan tâm. Tiểu huynh đệ hãy mau mau đi tương trợ cho Chung thị tam hùng. Bọn giặc này không ít người đâu, chúng ỷ vào số đông để thủ thắng.
Hồ Phỉ chưa kịp đáp đã nghe sau lưng có tiếng bước chân vang lên. Một thanh âm dõng dạc nói lớn:
– Miêu huynh liệu sự như thần! Bọn ta quả nhiên đã ỷ đông người để thủ thắng.
Hồ Phỉ quay đầu lại liền giật mình kinh hãi khi thấy mười mấy hán tử kẻ cao người thấp, trong tay lăm lăm binh khí, từ từ đi tới. Ngoài ra còn mười mấy tên nô bộc cầm đuốc giơ cao. Chung thị tam hùng đều bị bắt trói thúc ké hai tay ra sau.
Một đại hán trung niên, đeo trường kiếm ngang hông, đi trước mọi người.
Hồ Phỉ thấy nhân vật này mi thanh mục tú, khí vũ hiên ngang. Chính là Điền Quy Nông mà chàng đã gặp mấy năm trước ở Thương gia bảo. Ngày ấy chàng còn là đứa con nít vàng võ gầy còm, mà hiện nay tướng mạo cùng thân hình chàng biến đổi rất nhiều nên hắn dĩ nhiên không nhận ra được.
Miêu Nhân Phụng ngửa mặt lên cười ha hả nói:
– Điền Quy Nông! Nếu người chưa giết được ta thì vẫn ăn không ngon ngủ không yên. Bữa nay ngươi đem người đến đông lắm nhỉ?
Điền Quy Nông đáp:
– Bọn tại hạ là lương dân, chỉ lo an phận thủ thường, khi nào dám hại mạng người. Bọn tại hạ đến đây chẳng qua là để cung thỉnh Miêu đại hiệp về tệ xá để hàn huyên mấy bữa, cho thỏa tình cố cựu giữa chúng ta mà thôi.
Hắn nói mấy câu một cách hời hợt, nhưng trong giọng nói nghe đầy vẻ dương dương tự đắc. Hôm nay Chung thị tam hùng khét tiếng vùng Tương Ngạc cũng bị bắt rồi, Miêu Nhân Phụng thì lại mù mắt, ngoài ra không còn tay cao thủ nào tương trợ nữa thì còn tìm đâu được cơ hội thoát thân? Còn Hồ Phỉ, Trình Linh Tố đứng ngoài cửa thì hắn chẳng coi vào đâu, tựa hồ không có hai người này vậy.
Hồ Phỉ thấy địch đông mà mình ít. Chung thị tam hùng đều bị bắt sống, xem ra đối phương rất nhiều cao thủ, việc đẩy lùi địch cứu người không phải là chuyện dễ. Chàng đảo mắt quan sát tình thế bên địch, thấy đằng sau Điền Quy Nông có hai phụ nữ. Ngoài ra còn một lão già gầy nhom khô đét, tay cầm cây điểm huyệt quyết và một hán tử trung niên tay cầm thiết bài, cặp mắt lấp loáng tinh quang. Xem ra đây là hai tay kình địch. Ngoài ra còn bảy, tám hán tử kéo hai sợi xích sắt rất dài và nhỏ không hiểu dùng làm gì.
Chàng trầm ngâm một chút đột nhiên tỉnh ngộ lẩm bẩm:
– Phải rồi. Bọn chúng sợ Miêu đại hiệp tuy mù mắt mà vẫn lợi hại vô cùng. Hai sợi đây xích sắt kia cốt để ngáng chân y. Chúng lừa y mắt không nhìn thấy, bảy tám tên cầm xích sắt đứng xa từ từ bao quanh kéo lại. Võ công Miêu đại hiệp quá cao cường nên chúng phải tìm cách giật cho y ngã xuống mới yên tâm.
– Mi đã quyến rũ vợ người ta. Miêu đại hiệp đã độ lượng tha cho, vậy mà còn bày ra hết độc kế này đến độc kế khác, chỉ muốn ép người ta vào chỗ chết mới cam lòng. Độc ác như mi thực chẳng khác chi loài cầm thú.
Kỳ thực, tuy Điền Quy Nông vốn là con người thâm độc nhưng hắn cũng có chỗ bất đắc dĩ không nói ra được. Từ ngày vợ Miêu Nhân Phụng là Nam Lan tư bôn theo hắn, hắn luôn nghĩ nàng là vợ của một tay cao thủ đệ nhất thiên hạ nên ngày nào hắn cũng ăn không ngon ngủ không yên. Mỗi khi gió thổi cỏ lay là lại nghĩ Miêu Nhân Phụng đến tầm cừu.
Ban đầu Nam Lan say mê hắn đến cực điểm, nhưng sau thấy hắn cứ ngày đêm nơm nớp lo sợ chồng cũ của mình thì không khỏi sinh lòng khinh bỉ, vì nàng coi Miêu Nhân Phụng chẳng có chi đáng sợ cả. Trong thâm tâm, nàng thấy chỉ cần hai người yêu nhau chân tình là đủ, dù có chết dưới kiếm của Miêu Nhân Phụng cũng chẳng có gì ghê gớm. Nàng nhận ra Điền Quy Nông quý tính mạng hắn hơn hẳn tình yêu đối với nàng. Nàng đã bỏ chồng con, bỏ cả danh tiết đi theo hắn, mà hắn lại không coi đó là những thứ trân quý nhất trên đời.
Điền Quy Nông vì quá lo sợ Miêu Nhân Phụng nên bao vẻ phong lưu tiêu sái biến đâu mất. Hắn không còn thấy hứng thú với cầm kỳ thi họa cũng ít khi nhìn nàng ngồi trang điểm trước bàn phấn nữa. Hắn để dành phần lớn thời gian cho việc rèn luyện võ công.
Cô tiểu thư nhà quan này vốn rất ghét những người tập đao múa kiếm, vì nàng nghĩ võ công dẫu có đạt đến trình độ cao thâm như Miêu Nhân Phụng đi nữa thì được cái gì. Huống chi nàng dù không biết võ công, nhưng cũng hiểu được rằng Điền Quy Nông vĩnh viễn không thể luyện được bản lĩnh như Miêu Nhân Phụng.
Điền Quy Nông biết rằng Miêu Nhân Phụng không chết thì mọi cuộc mưu đồ của hắn đều biến thành một trường mộng ảo. Bao nhiêu ước mơ có tài sản châu báu giàu nhất thiên hạ, quyền thế trùm hết cõi giang hồ, những thứ đó sẽ chỉ còn là chuyện mò trăng đáy nước mà thôi. Bởi thế dù hắn có lỗi với Miêu Nhân Phụng, nhưng buộc lòng phải giết cho bằng được họ Miêu.
Hiện giờ Miêu Nhân Phụng đã mù mắt, ba tay cao thủ trợ lực cho y đều bị bắt rồi. Trong nhà đã có năm tên cao thủ của Điền Quy Nông đang chờ hiệu lệnh để ra tay. Bên ngoài cũng hơn chục cao thủ chuẩn bị ngăn chặn. Huống chi còn hai sợi xích sắt dài lê thê mà Miêu Nhân Phụng không thể thấy được.
Từ nãy tới giờ, Trình Linh Tố đứng lẳng lặng bên Hồ Phỉ không lên tiếng nhưng có đã nhận rõ toàn bộ tình thế. Cô từ từ thò tay vào bọc lấy khúc nến cháy dở. Cô lại lấy hỏa tập ra, chỉ cần thắp nến lên là trong khoảnh khắc, bao nhiêu người xung quanh đều trúng độc ngã ra hết. Cô xoay lưng lại che cho mọi người khỏi trông thấy rồi châm lửa vào ngọn nến. Cô lại khều bấc lên cho dễ cháy hơn. Ban đêm thắp nến là chuyện thường nên chẳng ai để ý. Không ngờ sau lưng đột nhiên nghe đánh “vù” một tiếng. Mũi ám khí bắn tới. Mũi ám khí này phát ra từ chỗ gần đó lại rất chuẩn xác. Trình Linh Tố thảng thốt không kịp đề phòng, để khúc nến bị ám khí bắn đứt làm hai đoạn rớt xuống đất. Cô giật mình kinh hãi quay đầu, nhìn lại thấy một cô bé chừng mười lăm, mười sáu tuổi quát lớn:
– Ngươi đứng cho nghiêm chỉnh lại, đừng có giở trò quỷ ra nữa.
Mọi người đều đổ dồn ánh mắt nhìn Trình Linh Tố lộ vẻ kinh dị. Trình Linh Tố thấy ám khí là một cây thiết chùy, liền hững hờ hỏi:
– Làm trò quỷ gì nào?
Trong lòng cô không khỏi bồn chồn tự hỏi:
– Sao con bé kia lại khám phá ra âm mưu của ta? Vụ này khó xoay xở rồi đây.
Điền Quy Nông chỉ liếc mắt trông qua chứ không để ý. Hắn hỏi:
– Miêu huynh, hãy theo bọn tiểu đệ đi thôi!
Một hán tử thủ hạ của hắn đẩy mạnh vào vai Hồ Phỉ, quát hỏi:
– Ngươi là ai? Tránh ra! Ở đây chẳng có gì vui mà coi.
Gã thấy Hồ Phỉ và Trình Linh Tố tướng mạo tầm thường, liền cho là người ở gần đến coi chứ không dính líu gì tới Miêu Nhân Phụng. Hồ Phỉ cũng không trả đòn, giả vờ ngơ ngác tránh ra một bước.
Miêu Nhân Phụng nói:
– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đi lẹ lên, đừng lo gì đến ta nữa! Chỉ cần nghĩ cách nào cứu thoát Chung thị tam hùng là Miêu mỗ này vinh viễn không quên ơn đức.
Hồ Phỉ và Chung thị tam hùng trong lòng vô cùng cảm động nghĩ thầm:
– Miêu đại hiệp nhân nghĩa hơn người. Tuy y lâm vào tuyệt địa mà chỉ lo cho người ngoài, chứ chẳng kể gì đến mình.
Điền Quy Nông động tâm liếc mắt nhìn Hồ Phỉ tự hỏi:
– Chẳng lẽ gã tiểu tử này lại có bí quyết gì chăng?
Hắn hô lớn:
– Mời Miêu đại hiệp lên đường!
Câu này vừa hô khỏi cửa miệng, năm hán tử trong nhà đồng loạt giờ đao thương lên đâm vào năm chỗ hiểm yếu trên mình Miêu Nhân Phụng. Trong sảnh đường chật hẹp, trước mặt lại bị sáu người án ngữ, xem chừng Miêu Nhân Phụng không còn đường né tránh. Không ngờ y vung song chưởng lên xuyên giữa hai người tiến ra. Cả năm cây binh khí đều đâm vào chỗ không.
Mấy tiếng “rắc rắc” vang lên. Một cái ghế bị hai thanh đơn đao chém thành mấy mảnh. Miêu Nhân Phụng xoay mình lại, thần oai lẫm liệt đứng ngay ở cửa, chỉ có tay không, mắt lại băng bó, mà đứng án ngữ ngay trước cửa không cho năm địch nhân trốn đi. Hồ Phỉ toan xông vào giúp, nhưng thấy Miêu Nhân Phụng xoay mình đứng đó biết là y chẳng sợ hãi gì dù không thắng thì nhất thời cũng chưa đến nỗi thua ngay.
Năm hán tử đều nghĩ thầm:
– Bọn mình năm người liên thủ mà bữa nay không hạ nổi một gã mù thì còn mặt mũi nào bôn tẩu trên chốn giang hồ?
Miêu Nhân Phụng lại giục:
– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ chưa đi thì còn đợi đến bao giờ?
Hồ Phỉ đáp:
– Miêu đại hiệp cứ yên tâm. Lũ chó nhỏ này không ngăn cản được tại hạ đâu!
Miêu Nhân Phụng nói:
– Hay lắm, thiếu niên anh hùng. Hậu sinh khả úy!
Y nói mấy câu này rồi đột nhiên xông vào bọn người kia, múa tít hai bàn tay sắt, chân vung ra đá, uy phong mãnh liệt, không ai dám chống cự. Năm hán tử trong nhà đều không phải là hạng tầm thường, vậy mà khi thấy chưởng lực của Miêu Nhân Phụng cực kỳ hùng hậu đều phải lùi lại đứng tựa vào vách để chờ cơ hội tấn công. Trong lúc hỗn loạn, bàn phế nghiêng đổ, trong nhà đèn nén tắt hết. Bên ngoài hai người giơ cao ngọn đuốc tiến lại trước cửa. Miêu Nhân Phụng hai mắt đã mù, có lửa hay không cũng vậy, nhưng năm hán tử chiếm phần tiện nghi.
Đột nhiên một người gầm lên vung thương đâm tới bụng dưới Miêu Nhân Phụng. Thế thương vô cùng tàn độc. Miêu Nhân Phụng khoa chân phải bước tạt ngang vươn tay ra toan bắt lấy đầu thương. Không ngờ ở góc tây nam có người lặng lẽ mai phục, hắn huơ đao lên chém, nghe “phập” một tiếng, lưỡi đao đã chém trúng đùi Miêu Nhân Phụng.
Nguyên tên này cũng trí kế đa đoan. Hắn biết Miêu Nhân Phụng mù mắt không nhìn thấy gì, chỉ toàn nghe tiếng gió để đối phó với địch nhân. Hắn nín thở cúi xuống mà đi. Miêu Nhân Phụng đang hăng say chiến đấu, không hiểu hắn ngồi chỗ nào. Hắn chờ Miêu Nhân Phụng đưa chân phải tới trước mặt mới vung đao chém xuống. Cả người bên trong lẫn bên ngoài thấy Miêu Nhân Phụng bị thương đều đồng thanh hoan hô dữ dội.
Chung Triệu Anh quát lên:
– Tiểu huynh đệ. Vào giải cứu Miêu đại hiệp mau lên. Chỉ lát nữa là không kịp đâu.
Giữa lúc ấy vai bên trái Miêu Nhân Phụng lại trúng một roi. Y nghĩ thầm trong bụng:
– Tình thế bữa nay rất nghiêm trọng. Nếu tay không binh khí thì khó lòng phá nổi vòng vây.
Hồ Phỉ cũng đã nhìn rõ cục diện. Chàng tính thầm nếu như ném đơn đao vào cho Miêu Nhân Phụng thì y may ra mới có cơ thủ thắng. Nhưng kình địch bên ngoài cửa cũng không phải là ít, nếu mình không binh khí thì cũng khó bề chống cự. Trong lúc nhất thời, chàng loay hoay không tính được kế trọn vẹn cả hai bề. Đến lúc thấy tình thế cấp bách, chàng không kịp suy nghĩ gì nữa liền hô lên:
– Miêu đại hiệp đón lấy đao!
Chàng vận nội lực ném đơn đao vào đánh “véo” một tiếng. Luồng lực đạo rất mãnh liệt. Năm gã trong nhà mà vươn tay ra đón lấy tất bị chặt đứt tay. Chàng tiên liệu chỉ một mình Miêu Nhân Phụng mới có thể chụp được. Ngờ đâu lúc này Miêu Nhân Phụng giơ bả vai trái về phía tây nam để dụ địch, chờ khi gã kia vung đao chém tới, y liền xoay tay lại cướp được đơn đao. Y lắng nghe Hồ Phỉ ném đơn đao vào, liền giơ đao lên đón. Hai sống đao đã đụng nhau đánh “choang” một tiếng tia lửa bắn tung tóe. Thanh đao ném vào lại văng ra.
Miêu Nhân Phụng hô:
– Tiểu huynh đệ, hãy đứng đó coi ta mắt mù giết giặc.
Trong người y bị thương hai chỗ, nhưng tay đã có binh khí, tình thế lập tức thay đổi, không giống như trước nữa. Y chém veo véo hai đao bức bách địch nhân phải lùi lại tựa vào tường. Năm hán tử trong nhà đã biết uy danh Miêu gia kiếm, nhưng chúng nghĩ người tinh thông kiếm thuật thường sử đơn đao rất kém, nên cho rằng dù Miêu Nhân Phụng có đoạt được đơn đao đi nữa cũng chưa chắc đã hơn gì tay không. Cả bọn cùng quát to một tiếng rồi cầm binh khí xông vào.
Bỗng thấy ngoài cửa có ánh sáng lấp loáng, lại một thanh đao nữa được ném vào. Nhưng lần này là ném cho gã hán tử đã bị Miêu Nhân Phụng đoạt mất đơn đao. Hán tử vươn tay đón lấy, hắn vừa bị mất đao lấy làm vô cùng hổ thẹn, nếu không lập công thì khó mà vãn hồi thể diện. Hắn múa đao tấn công, chém vào mặt Miêu Nhân Phụng.
Miêu Nhân Phụng đứng yên không nhúc nhích, y nghe rõ trước mặt có đao chém tới, bên trái có cương tiên quật vào vẫn không né tránh hay đón đỡ. Y chờ khi đao, tiên còn cách mình không đầy nửa thước, mới xoay người vung đao chém một nhát trúng vào cánh tay phải hán tử sử tiên làm gã rống lên một tiếng rất thê thảm. Cây cương tiên rớt xuống đất. Người cầm đao sợ giật nảy mình, nằm phục xuống lăn người ra xa để tránh.
Hồ Phỉ động tâm tự hỏi:
– Chiêu “Kê tử phiên thân đao” rõ ràng là của “Hồ gia đao pháp”, sao Miêu đại hiệp cũng sử được, mà lại có phần tinh diệu hơn ta?
Lại thấy Miêu Nhân Phụng thi triển đơn đao, ánh hàn quang lấp loáng nhanh như gió. Bốn hán tử trong nhà sững sờ cả người, một tên la lên:
– Tên họ Miêu mù cũng biết sử đao.
Điền Quy Nông chợt nhớ ngày trước Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng truyền dạy kiếm pháp và đao pháp cho nhau, lại còn trao đổi binh khí để tỷ võ, trong lòng cả kinh, vội hô lớn:
– Y sử “Hồ gia đao pháp” đó, khác hẳn “Miêu gia kiếm pháp” anh em phải cẩn thận.
Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng đáp:
– Không sai! Bữa nay lũ chuột nhắt các ngươi sẽ biết “Hồ gia đao pháp” lợi hại thế nào!
Y tiến lên hai bước ra chiêu “Hoài trung bảo nguyệt” xoay đao lướt một cái. Đó chỉ là hư chiêu. Tiếp theo y sử chiêu “Bế môn thiết phiến”. Thanh đơn đao đẩy ra rồi quét ngang. Lại một tên trúng đao vào hông ngã lăn xuống đất.
– Quả nhiên y sử “Hồ gia đao pháp” của nhà mình. Té ra hai chiêu này hư hư thực thực lại biến hóa đến thế!
Nên biết Miêu Nhân Phụng đã được chính miệng Hồ Nhất Đao chỉ điểm cho những yếu chỉ tinh diệu trong đao pháp. Căn bản võ công của y lại cao minh, nên so với Hồ Phỉ chỉ căn cứ vào đao phổ để tự mò mẫm luyện tập thì dĩ nhiên sở đắc của y phải tinh thâm hơn nhiều. Y vừa quát vừa ra chiêu “Sa Tăng bái Phật”, một người bị chặt gãy cây hoa thương và bả vai cũng bị chém lìa. Tiếp theo là chiêu “Thương bộ trích tinh đao”, lại một người nữa gãy chân té nhào.
Điền Quy Nông la lên:
– Tiền tứ đệ, ra đây! ra đây!
Hắn thấy Miêu Nhân Phụng đại triển thần uy, mà lúc này trong nhà chỉ còn một người sử đao là Tiền tứ đệ, dù có người xông vào tương trợ đi nữa cũng tất đã thắng địch, liền quyết ý dụ Miêu Nhân Phụng ra ngoài rồi dùng xích sắt bắt lấy.
Nhưng Miêu Nhân Phụng đứng chắn ngay cửa thì gã họ Tiền làm sao ra được? Miêu Nhân Phụng biết gã này đã dùng thủ pháp thâm độc để chém chân mình, nên quyết chẳng để gã trốn thoát một cách dễ dàng. Y vung đao lên, ánh cương đao lắp loáng buộc gã phải lùi vào góc nhà, rồi đột nhiên ra chiêu “Xuyên thủ tàng đao” chém xuống.
“Choang” một tiếng vang lên. Gã kia tuột mất đơn đao, nhưng gã cực kỳ xảo quyệt, thừa thế lăn dưới đất chui vào gầm bàn. Gã cho là Miêu Nhân Phụng mắt mù không nhìn được, dễ bề tìm đường trốn ra khỏi nhà. Miêu Nhân Phụng tiện tay chụp một cái ghế dài ném thật mạnh ra. Gã kia đang lúc ra khỏi gầm bàn, bỗng nghe đánh “rầm” một tiếng, cái ghế gỗ đã ném trúng ngực gã. Luồng lực đạo này cực kỳ mãnh liệt, lập tức cả ghế lẫn xương sườn của gã đều gãy hết, rồi gã chết giấc tại chỗ.
Chỉ trong khoảnh khắc, Miêu Nhân Phụng hạ năm tên liền. Y biết những người này hoàn toàn nghe lệnh Điền Quy Nông chứ chẳng có thù oán gì với mình nên y không hạ sát thủ, mà chỉ đánh họ trọng thương mà thôi. Những người bên ngoài không khỏi khiếp vía, ai cũng nghĩ thầm:
– Thằng cha này ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” quả nhiên ghê gớm. Nếu hắn không mù mắt thì e rằng bữa nay mình chết chẳng có đất chôn.
Điền Quy Nông cười sang sảng nói:
– Miêu huynh! Võ công của đại ca càng ngày càng cao thâm. Tiểu đệ vô cùng khâm phục. Nào, hãy ra đây! Tiểu đệ dùng “Thiên long kiếm pháp” để lãnh giáo “Hồ gia đao pháp” của Miêu huynh!
Hắn lại đưa mắt ra hiệu cho bọn hán tử cầm xích sắt tiến lên mấy bước, còn những người khác lùi lại.
Miêu Nhân Phụng đáp:
– Được lắm!
Y cũng tiên liệu Điền Quy Nông tất có mưu kế thâm hiểm nhưng trong tình thế này, không ra ngoài động thủ không xong.
Hồ Phỉ đột nhiên lên tiếng:
– Hãy khoan! Họ Điền kia, các hạ muốn lãnh giáo “Hồ gia đao pháp” thì hà tất phải Miêu đại hiệp thân hành động thủ. Để tại hạ chỉ điểm mấy đường cũng đủ rồi!
Điền Quy Nông thấy thủ pháp và kình lực của Hồ Phỉ khi ném đao thì biết không phải là hạng tầm thường, những hắn cũng chẳng quan tâm. Hắn liếc mắt nhìn chàng cười lạt hỏi:
– Ngươi là ai mà đám ăn nói ngông cuồng trước mặt Điền đại gia?
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ là bằng hữu của Miệu đại hiệp. Vừa rồi Miêu đại hiệp thi triển “Hồ gia đao pháp” khiến tại hạ rất khâm phục, liền nhớ lại mấy chiêu muốn diễn thử chơi một phen. Các hạ trong tay đã có kiếm, xin cảm phiền đại giá, hãy để tại hạ tặng cho vài chiêu!
Điền Quy Nông giận tím cả mặt, chưa nói gì, Hồ Phỉ đã hô:
– Xem đao đây!
Chàng ra chiêu “Xuyên thủ tàng đao” chém mạnh vào ngực Điền Quy Nông. Chính là chiêu số Miêu Nhân Phụng vừa mới sử dụng để đánh rớt binh khí trong tay gã họ Tiền. Điền Quy Nông giơ kiếm lên gạt đánh “choang” một tiếng. Đao kiếm đụng nhau. Người Điền Quy Nông lảo đảo. Hồ Phỉ cũng phải lùi lại một bước.
Điền Quy Nông là chưởng môn Thiên Long môn phe Bắc tông. Hắn đã luyện “Thiên Long kiếm pháp” từ thuở nhỏ, đến nay đã bốn mươi năm, công lực cao thâm hơn Hồ Phỉ nhiều. Hai người dùng nội lực tỷ thí thì dĩ nhiên Hồ Phỉ phải thua một bậc. Nhưng Điền Quy Nông không ngờ chàng còn nhỏ tuổi mà tý lực lại hùng hậu đến thế. Hắn đinh ninh rằng nhát kiếm vừa rồi sẽ hất tung thanh đơn đao đi và khiến đối phương phải chấn động nội tạng mà thổ huyết. Ngờ đâu Hồ Phỉ chỉ lùi lại một bước, sắc mặt bình thản như không, khiến hắn không khỏi ngấm ngầm kinh dị.
Miêu Nhân Phụng đứng ngay ở sau cũng nghe rõ Hồ Phỉ tiến lên, tiếng đao phong chém tới, hai bên đao kiếm chạm nhau rồi Hồ Phỉ lùi lại. Y liền nói:
– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ sử chiêu “Xuyên thủ tàng đao” không sai trật một ly. Nhưng yếu chỉ “Hồ gia đao pháp” là ở chiêu số tinh kỳ chứ không phải ở chỗ lấy sức chọi sức. Xin tiểu huynh đệ hãy tránh ra để ta thu thập hắn!
Hồ Phỉ nghe hai câu “Yếu chỉ của Hồ gia đao pháp là ở chiêu số tinh kỳ chứ không phải ở chỗ lấy sức chọi sức” thì động tâm nghĩ thầm:
– Hai câu này của Miêu đại hiệp đã khai thông được chỗ tối tăm cho ta. Dùng sức để chống cự là sở đoản của mình, mà lại là sở trường của địch.
Chàng lại nhớ tới hồi ở Thương gia bảo, những lời chỉ điểm của Triệu Bán Sơn về chỗ tinh yếu của võ học cũng phù hợp với cách thức của Miêu Nhân Phụng, bất giác trong lòng hớn hở, liền la lớn:
– Hãy khoan! Vừa rồi Miêu đại hiệp sử dụng đao pháp, tại hạ mới thử một chiêu còn mấy chục chiêu nữa muốn thử nốt.
Chàng quay đầu lại nhìn Điền Quy Nông, hỏi:
– Chiêu “Xuyên thủ tàng đao” đó, các hạ đã nếm mùi lợi hại chưa?
Điền Quy Nông quát lên:
– Thằng lỏi con kia! Đừng để ta phải đuổi đi.
Hồ Phỉ đáp:
– Được lắm! Các hạ không phục thì tại hạ sẽ đem “Hồ gia đao pháp” thi triển từng chiêu. Nếu tại hạ sử không đúng, đánh không lại các hạ, tại hạ sẽ dập đầu nhận thua. Nhưng nếu như các hạ thua thì sao?
Điền Quy Nông giận tím cả ruột, quát lớn:
– Thì ta cũng dập đầu lạy ngươi!
Hồ Phỉ cười nói:
– Đâu cần phải thế. Nếu các hạ không địch lại “Hồ gia đao pháp” thì chỉ cần buông tha Chung thị tam hùng. Ba vị này võ nghệ cao minh hơn tại hạ nhiều lắm. Nếu đơn đả độc đấu, nhất định các hạ không phải là địch thủ của ba vị đâu. Các hạ ỷ vào số đông thủ thắng thì còn chi là anh hùng?
Chàng nói mấy câu này một là để chọc giận đối phương, hai là rửa hận cho Chung thị tam hùng. Ba anh em họ Chung hai tay bị cột nghe chàng nói vậy trong lòng lấy làm cảm kích.
Điền Quy Nông trước nay hành động rất ung dung; bị Hồ Phỉ châm chọc, hắn không dằn lòng được, nghĩ thầm:
– Mi tưởng thua rồi chỉ dập đầu lạy ta là xong ư? Làm gì có chuyện dễ dàng như thế! Bữa nay mi đừng hòng trốn khỏi lưỡi kiếm của ta.
Hắn phất tay áo một cái, tay phải nắm kiếm quyết bước chênh chếch ba bước. Trong lòng hắn tuy nóng giận, nhưng không tấn công lỗ mãng, mà sử đúng “Nhất tự kiếm pháp” của Thiên Long môn chính tông.
Mọi người thấy thủ lãnh ra tay liền lùi cả lại, cầm đuốc giơ cao lên thành một vòng tròn sáng rực. Hồ Phỉ hô:
– “Hoài trung bảo nguyệt” nguyên là hư chiêu. Tiếp theo đến chiêu “Bế môn thiết phiến”.
Chàng miệng hô tay phóng đơn đao rồi quét ngang một cái, giống hệt như Miêu Nhân Phụng vừa rồi. Điền Quy Nông nghiêng người né tránh, quét kiếm đâm tới. Hồ Phỉ lại lớn tiếng hỏi:
– Miêu đại hiệp! Chiêu dưới làm sao? Tại hạ đối phó không xong rồi!
Miêu Nhân Phụng nghe chàng hô tên hai chiêu “Hoài trung bảo nguyệt và “Bế môn thiết phiến” thì biết cũng chẳng có chi quái dị, vì “Hồ gia đao pháp” xem bề ngoài về chiêu số cũng chẳng khác gì mấy các đường đao pháp trong võ lâm, nó chỉ hay ở chỗ biến hóa kỳ diệu. Khi công thì thế đao cực kỳ lợi hại, khi thủ thì môn hộ vô cùng kín đáo, trong công có thủ, trong thủ có công thâm sâu khôn lường khiến đối thủ không biết đường đâu mà lần. Bây giờ y nghe Hồ Phỉ hỏi gấp, bèn chau mày hô:
– Sa Tăng bái Phật!
Hồ Phỉ theo lời vung đao chém tới. Điền Quy Nông huơ xéo trường kiếm đâm vào cổ tay Hồ Phỉ. Miêu Nhân Phụng lại hô:
– Diêu thủ phiên thân!
Y chưa dứt lời, Hồ Phỉ đã sử chiêu “Diêu thủ phiên thân” chém tới. Điền Quy Nông giật mình kinh hãi vội lùi một bước. “Soạt” một tiếng, trường bào của hắn đã bị mũi đao cắt đứt một góc. Mặt hắn hơi đỏ lên, hắn phóng liền ba kiếm cực kỳ thần tốc và tự nhủ:
– Chẳng lẽ Miêu Nhân Phụng còn chỉ điểm kịp cho mi ư?
Miêu Nhân Phụng cả kinh, thầm kêu khổ trong bụng. Bỗng nghe Hồ Phỉ cười hỏi:
– Miêu đại hiệp, tại hạ đã tránh khỏi ba kiếm, bây giờ phản kích bằng cách nào?
Miêu Nhân Phụng thuận miệng hô lớn:
– Quan Bình hiến ấn!
Hồ Phỉ đáp:
– Hay lắm!
Quả nhiên chàng ra chiêu “Quan Bình hiến ấn”. Thanh đao chém tới, kình phong rít lên, uy lực vô cùng lợi hại. Nhưng Miêu Nhân Phụng đã hô lên trước, mà Điền Quy Nông lại là chưởng môn nhân của một phái lớn trong võ lâm, sở học đã tinh thâm, thân thủ lại linh hoạt thì dĩ nhiên biết đường né tránh. Tiếp theo Hồ Phỉ ra chiêu “Dạ Xoa thám hải”, thế đao đã sử nửa vời, Miêu Nhân Phụng mới hô:
– Dạ Xoa thám hải!
Qua lại mười mấy chiêu, Điền Quy Nông đã bị bức bách tay chân luống cuống lâm vào thế hạ phong. Hắn liếc mắt nhìn người đứng xem, thấy ai nấy đều lộ vẻ kinh dị, liền biến đổi kiếm pháp đánh ráo riết. Hồ Phỉ cũng thi triển sở học bình sinh, dùng khoái đao chống lại khoái kiếm. Miêu Nhân Phụng hô liên tiếp:
– Thượng bộ sang đao! Lượng đao thế, Quan Âm tọa liên, Lãng tử hồi đầu…
Mọi người thấy Hồ Phỉ phóng đao rất phù hợp với lời hô của Miêu Nhân Phụng thì chẳng ai là không sinh lòng khiếp sợ.
Thực ra cũng chẳng có chi kỳ lạ. Cuối đời nhà Minh sang đầu nhà Thanh, Trung Quốc có bốn nhà đều nổi tiếng về võ công đó là Hồ, Miêu, Phạm, Điền.
Miêu Nhân Phụng là đại hiệp một thời, tinh thông kiếm thuật, thuộc lòng cả “Thiên Long kiếm pháp” nữa. Bây giờ Điền Quy Nông và Hồ Phỉ tỷ đấu với nhau, tuy mắt y không nhìn được. Nhưng nghe tiếng gió cũng biết được hai bên sử dụng chiêu số gì.
Hồ Phỉ cứ theo sở học bình sinh của mình mà dốc toàn lực để thi triển đao pháp, nếu phải nghe Miêu Nhân Phụng chỉ điểm rồi mới phát chiêu thì trong cuộc đấu sinh tử, sống chết nằm trong đường tơ kẽ tóc như thế này làm sao ra chiêu cho kịp? Có điều “Hồ gia đao pháp” của chàng với đao pháp của Miêu Nhân Phụng cùng xuất phát từ một nguồn, chẳng có gì khác nhau. Lời hô của Miêu Nhân Phụng và chiêu thức của Hồ Phỉ ăn khớp với nhau một cách hoàn hảo như áo trời không thấy đường may, giống như hai người đã tập luyện với nhau rất thành thục, rồi bây giờ đem ra biểu diễn cho mọi người xem.
Điền Quy Nông nghĩ thầm:
– Phải chẳng gã này là đệ tử của Miêu Nhân Phụng? Hay Miêu Nhân Phụng chưa mù mắt, chỉ giả vớ lấy vải buộc lại nhưng thực ra hắn vẫn trông thấy rõ ràng?
Hắn nghĩ tới đây bất giác sinh lòng khiếp sợ. Hồ Phỉ múa đơn đao càng lúc càng mau lẹ.
Đến lúc này. Miêu Nhân Phụng không có cách nào nghe rõ chiêu số của hai người được nữa, liền dừng lại không hô tiếp. Y tính thầm:
– Chàng thiếu niên này đao pháp tinh kỳ, không hiểu y là đệ tử của cao nhân nào?
Nếu như y sáng mắt, thấy Hồ Phỉ sử dụng “Hồ gia đao pháp” rất tinh thuần thì đã đoán ra chàng là truyền nhân của Hồ Nhất Đao rồi!
Vòng vây mỗi lúc một rộng thêm ra, ai cũng sợ mũi đao lưỡi kiếm đụng vào. Hồ Phỉ xoay mình thấy Trình Linh Tố đứng trong vòng vây, vẻ mặt lộ vẻ rất quan tâm lo lắng, không hiểu sao giữa lúc kịch đấu thế này, trong đầu óc chàng lại chợt nhớ đến khúc tình ca Vương thợ rèn hát cho chàng nghe lúc ra đi, bất giác trên môi khẽ nở một nụ cười.
Đột nhiên chàng quay đầu lại, hô lớn:
– “Hoài trung báo nguyệt” vốn là hư chiêu!
Tiếng hô chưa dứt bỗng nghe đánh “choang” một tiếng. Thanh trường kiếm của Điền Quy Nông đã rớt xuống đất, cánh tay hắn máu chảy đầm đìa. Hắn loạng choạng lùi lại, người lảo đảo hai cái, miệng hộc máu tươi.
Nguyên “Hoài trung bảo nguyệt” vốn chỉ là hư chiêu, rồi mới đến chiêu “Bế môn thiết phiến”. Hai chiêu này một hư một thực. Miêu Nhân Phụng và Hồ Phỉ đã sử dụng qua một lần rồi. Điền Quy Nông tận mắt thấy rõ. Đang lúc kịch đấu, hắn vừa nghe hô “Hoài trung bảo nguyệt” vốn là hư chiều. Theo phản xạ tự nhiên liền đề phòng chiêu tiếp theo “Bế môn thiết phiến”.
Không ngờ “Hồ gia đao pháp” tuyệt diệu ở chỗ hư mà biến thành thực, hốt thực hốt hư. Chiêu “Hoài trung bảo nguyệt” đột nhiên biến thành thực chiêu, Hồ Phỉ xoay đao chém vào cổ tay Điền Quy Nông đồng thời chàng vung chưởng kèm theo đao, đánh trúng ngực hắn một chưởng thật trầm trọng. Hồ Phỉ cười hỏi:
– Sao các hạ nóng tính thế, không chịu nghe hết lời của tại hạ? Tại hạ hô “Hoài trung bảo nguyệt” nguyên là hư chiêu, biến thành thực chiêu làm sao mà đỡ? Các hạ mới nghe một nửa phần trên, không nghe phần dưới.
Điền Quy Nông nghe ngực nhộn nhạo, tựa hồ muốn hộc máu ra nữa. Hắn biết bữa nay bị thua liểng xiểng, mà còn sợ Miêu Nhân Phụng chưa chắc đã mù mắt thực sự. Hắn miễn cưỡng vận khí chịu đau, trỏ vào Chung thị tam hùng ra hiệu cho bọn thuộc hạ cởi trói, rồi vẫy tay một cái, xoay mình đi luôn. Hắn không nhịn được nữa, lại thổ thêm một búng máu tươi.
Vị cô nương phóng chùy là Điền Thanh Vân, con gái người vợ trước của Điền Quy Nông, thấy phụ thân bị thương trầm trọng, vội lại đỡ hắn, khẽ hỏi:
– Gia gia, chúng ta về thôi chứ?
Điền Quy Nông gật đầu. Bọn thuộc hạ của hắn như rắn mất đầu, nên dù đông người nhưng chẳng ai còn ý chí chiến đấu nữa. Miêu Nhân Phụng chụp năm người bị thương ở trong nhà ném ra từng tên một. Bọn thủ hạ Điền Quy Nông đón lấy rồi trở gót đi ngay.
Trình Linh Tố gọi lớn:
– Tiểu cô nương! Đem cây thiết chùy này về nhà đi:
Cô giơ tay lên một cái. Cây thiết chùy bay về phía Điền Thanh Văn. Điền Thanh Văn không quay đầu, xoay tay trái ra phía sau bắt lấy. Thủ pháp thị cực kỳ lanh lẹ. Đâu dè thị vừa cầm lấy thiết chùy, toàn thân giật bắn người lên, lập tức ném ngay cây thiết chùy xuống đất, tay trái vung vẩy liên hồi, tựa hồ bị cây thiết chùy làm cho bỏng tay.
Hồ Phỉ cười khanh khách la lên:
– Xích yết phấn!
Trình Linh Tố đáp lại bằng một nụ cười. Quả nhiên cô đã rắc “Xích yết phấn” vào cây thiết chùy. Trong khoảnh khắc bọn Điền Quy Nông bỏ đi hết sạch. Trước căn nhà nhỏ lại tối đen như mực.
Chúng Triệu Anh dõng dạc lên tiếng:
– Miêu đại hiệp! Bữa nay bọn tặc tử thua chạy rồi, chắc không dám trở lại nữa. Anh em tại hạ bảo vệ bất lực, thực lấy làm xấu hổ. Mong rằng cặp mắt của đại hiệp chóng bình phục
Hắn quay lại nói với Hồ Phỉ:
– Tiểu huynh đệ. Bọn Chung mỗ may mắn được kết bạn với tiểu huynh đệ. Sau này có việc gì sai khiến, bọn Chung mỗ xin nguyện hết sức!
Đoạn ba người chắp tay từ biệt rảo bước lên đường. Hồ Phỉ biết bọn họ lỡ tay bị bắt trong lòng hổ thẹn, chàng cũng không tiện nói gì nữa. Miêu Nhân Phụng trong lòng ân oán phân minh, ông không thích nói nhiều, chỉ vòng tay đáp lễ. Y lắng nghe bọn Điền Quy Nông đi về phía bắc, Chung thị tam hùng đi về phía nam.
Trình Linh Tố nói:
– Hai vị võ công kinh nhân, quả thực tiểu muội bữa nay được mở rộng tầm mắt. Miêu đại hiệp! Xin đại hiệp vào nhà để tiểu nữ xem thử cặp mắt.
Ba người liền tiến vào trong nhà. Hồ Phỉ sắp xếp lại những bàn ghế đã bị ngã đổ ngổn ngang, rồi thắp đèn lên. Trình Linh Tố khẽ cởi tấm vải buộc mắt Miêu Nhân Phụng, tay cầm ngọn nến chăm chú quan sát vết thương.
Hồ Phỉ không nhìn vào mắt Miêu Nhân Phụng mà chỉ nhìn vẻ mặt Trình Linh Tố. Chàng biết chỉ cần nhìn thái độ của cô là có thể đoán xem thương thế của Miêu Nhân Phụng còn có thể chữa được không. Nhưng Trình Linh Tố cặp mắt long lanh sâu thẳm như một làn nước trong vắt, ngưng thần quan sát, trên mặt không lộ vẻ lo ngại cũng chẳng có biểu hiện vui mừng, khiến người ta không sao đoán được. Miêu Nhân Phụng và Hồ Phỉ đều là những người cực kỳ gan dạ, mà lúc này trong lòng lại hồi hộp bất an, hơn cả khi thân bị hãm vào trùng vây của kẻ địch. Qua một hồi lâu, Trình Linh Tố vẫn ngưng thần quan sát, không nói một tiếng nào.
Miêu Nhân Phụng mỉm cười lên tiếng:
– Loại độc dược này lợi hại quá, mà lại đã qua nhiều ngày. Nếu không chữa được, cô nương cũng cứ nói rõ, đừng ngại chi hết.
Trình Linh Tố đáp:
– Nếu chữa cho người thường thì chẳng khó gì, nhưng Miêu đại hiệp không phải người thường.
Hồ Phỉ lấy làm kỳ hỏi:
– Thế là nghĩa làm sao?
Trình Linh Tố đáp:
– Miêu đại hiệp được người ta tôn vinh là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”. Võ công đã tinh thâm như vậy thì mục lực cũng không phải tầm thường. Hơn nữa nội lực đã thâm hậu thì mục quang tất lấp loáng có thần, phát ra uy phong lẫm liệt. Nếu tiểu muội trị theo cách phổ thông làm tổn thương đến thần quang, há chẳng đáng tiếc lắm ư?
Miêu Nhân Phụng cười ha hả, nói:
– Cô nương ăn nói bất phàm, dĩ nhiên thủ đoạn cực cao. Nhưng tại hạ chưa hiểu cô xưng hô Nhất Sân đại sư bằng gì?
Trình Linh Tố hỏi lại:
– Té ra đại hiệp là cố nhân của tiên sư…
Miêu Nhân Phụng sửng sốt, hỏi:
– Nhất Sân đại sư qua đời rồi ư?
Trình Linh Tố đáp:
– Phải.
Miêu Nhân Phụng đứng bật dậy hỏi:
– Tại hạ có lời cần nói cho cô nương hay.
Hồ Phỉ thấy thái độ y có điều khác lạ, trong lòng lấy làm kỳ, nghĩ thầm:
– Sư phụ của Trình cô nương là Độc Thủ Dược Vương có pháp danh Vô Sân đại sư, sao Miêu đại hiệp lại hô là Nhất Sân?
Lại nghe Miêu Nhân Phụng nói tiếp:
– Ngày trước tôn sư cùng tại hạ có chuyện xích mích nho nhỏ, tại hạ vô lễ đã làm tổn thương đến tôn sư.
Trình Linh Tố la lên:
– Ủa! Tay trái của tiên sư mất hai ngón, là do Miêu đại hiệp đã dùng kiếm chặt đứt ư?
Miêu Nhân Phụng đáp:
– Đúng thế! Tuy nhiên, chuyện xích mích đó tôn sư đã trả đũa ngay. Thế là hòa cả làng, chẳng bên nào chịu thiệt. Đêm trước tiểu huynh đệ đây lúc ra đi cầu cứu tôn sư, tại hạ tưởng không ăn thua, chỉ một phen uổng phí tâm cơ. Bữa nay cô nương lại đến, tại hạ đã tưởng cô vâng lệnh tôn sư để dĩ đức báo oán, trong lòng cảm kích vô cùng. Nhưng tôn sư đã qua đời, chắc cô nương chưa hiểu rõ chuyện cũ.
Trình Linh Tố lắc đầu đáp:
– Tiểu nữ không biết.
Miêu Nhân Phụng vào nội thất, bưng cái hộp đưa cho Trình Linh Tố, nói:
– Đây là di vật của tôn sư. Cô nương cứ xem rồi sẽ rõ.
Cái hộp sắt này vuông vắn chừng tám tấc, sắt đã han rỉ mọi chỗ vì để lâu năm quá rồi. Trình Linh Tố mở hộp ra xem, chỉ thấy bên trong có xác một con rắn nhỏ đã khô và một cái bình nhỏ có khắc hai chữ “Xà dược”. Cô nhận ra bình thuốc này là vật thường dùng của sư phụ, nhưng không hiểu cái xác rắn kia có dụng ý gì. Miêu Nhân Phụng thản nhiên cười nói:
– Lệnh tôn sư cùng tại hạ nói năng có điều không hợp rồi hai bên xảy cuộc động thủ. Hôm sau, lệnh tôn sư sai người đưa cái hộp sắt này cho tại hạ và dặn “Nếu có gan hãy mở hộp ra xem, bằng không cứ vất xuống sông là xong”. Tại hạ khi nào lại chịu được lời nói khích đó, liền mở nắp hộp ra xem. Con rắn nhỏ này nhảy ra cắn vào mu bàn tay. Nọc nó độc vô cùng, nửa cánh tay tại hạ lập tức đen lại. Nhưng trong hộp sắt tôn sư còn để bình thuốc rắn, tại hạ uống thuốc rồi, không có điều gì đáng ngại đến tính mạng, nhưng phải một phen đau khổ cơ hồ chịu không nổi.
Y nói rồi nổi lên tràng cười ha hả, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cũng nhìn nhau cười, cùng nghĩ đến hành động đùa cợt của Độc Thủ Dược Vương.
Miêu Nhân Phụng lại nói:
– Tại hạ đã nói rõ cả, họ Miêu này quyết chẳng ngấm ngầm chiếm phần tiện nghi của ai. Cô nương vì hảo tâm chữa cho tại hạ chứ không phải bản ý của Nhất Sân đại sư. Tại hạ đã làm phiền cô nương phải một phen lặn lội, xin thành thực đa tạ.
Y nói rồi, đứng bên cửa chắp tay xá dài ra chiều tiễn khách. Hồ Phỉ rất khâm phục con người hành động theo di phong của cổ nhân, quả không thẹn với hai chữ “Đại hiệp”.
Trình Linh Tố vẫn ngồi yên nói:
– Miêu đại hiệp! Tiên sư sau này không còn là Nhất Sân nữa.
Miêu Nhân Phụng hỏi:
– Cớ sao vậy?
Trình Linh Tố đáp:
– Trước khi tiên sư đi tu, tính nết rất mực nóng nảy. Khi xuất gia, lão nhân gia lấy pháp danh là Đại Sân. Về sau lão nhân gia tu tâm dưỡng tính có nhiều tiến bộ, đổi pháp hiệu là Nhất Sân. Khi Miêu đai hiệp động thủ với tiên sư, nếu lão nhân gia chưa đổi pháp danh là Nhất Sân, hãy còn là Đại Sân thì trong cái hộp này chỉ có rắn độc chứ làm gì có thuốc giải.
Miêu Nhân Phụng “ủa” lên một tiếng rồi khẽ gật đầu.
Trình Linh Tố nói tiếp:
– Hồi lão nhân gia thu tiểu nữ làm đồ đệ, pháp danh đã đổi thành “Vi Sân”. Ba năm trước đây, lão nhân gia đổi thành “Vô sân”. Miêu đại hiệp! Đại hiệp đã coi thường tiên sư quá rồi.
Miêu Nhân Phụng lại “ủa” lên một tiếng.
Trình Linh Tố nói:
– Khi lão nhân gia buông tay về cõi Tây Thiên đã đại triệt đại ngộ, thành Vô Sân Vô Hỷ, đâu còn để tâm đến những mối ân oán nhỏ ngày xưa?
Miêu Nhân Phụng cả mừng, vỗ đùi đánh đét một cái, nói:
– Rõ rồi! Tại hạ quả đã đánh giá sai cố nhân. Cách biệt nhau hơn mười năm, người ta đâu có như Miêu Nhân Phụng chẳng tiến bộ được một mảy may. Quí tính cô nương là gì?
Trình Linh Tố bưng miệng cười, đáp:
– Tiện nữ họ Trình.
Rồi cô mở bọc ra lấy một cái hộp gỗ. Cô mở hộp gỗ, lấy ra một con dao nhỏ và một mũi kim, rồi nói:
– Miêu đại hiệp, xin đại hiệp buông lỏng hết huyệt đạo toàn thân đi.
Miêu Nhân Phụng đáp:
– Được rồi!
Hồ Phỉ thấy Trình Linh Tố cầm dao kim đến trước mặt Miêu Nhân Phụng, chàng chợt nghĩ:
– Giữa Miêu Nhân Phụng và Độc Thủ Dược Vương đã có thù oán. Lòng người trên cõi giang hồ lại thâm hiểm khôn lường. Nếu họ an bài độc kế sai Trình cô nương mượn tiếng trị thương để hạ độc thủ thì há chẳng phải Hồ Phỉ này đưa cho người khác mượn đao để giết người lần thứ hai? Lúc Miêu đại hiệp đã buông lỏng huyệt đạo toàn thân, chỉ khẽ đâm một mũi kim trúng huyệt đạo cũng đủ chết rồi.
Chàng còn đang ngần ngừ thì Trình Linh Tố đã quay đầu lại, cầm con dao nhỏ đưa cho chàng, nói:
– Đại ca cầm dùm cái này cho tiểu muội.
Cô chợt trông thấy sắc diện chàng có điều khác lạ, liền hiểu ý ngay, cười hỏi:
– Miêu đại hiệp đã yên lòng, chẳng lẽ đại ca dạ vẫn còn lo?
Hồ Phỉ đáp:
– Giả tỷ cô nương trị thương cho tại hạ thì tại hạ rất đỗi yên lòng.
Trình Linh Tố hỏi:
– Đại ca cho tiểu muội là người tử tế hay là người tồi bại?
Hồ Phỉ không nghĩ ngợi gì đáp ngay:
– Dĩ nhiên cô nương là người tử tế.
Trình Linh Tố hoan hỉ nhìn chàng mỉm cười. Cô gầy ốm vàng vọt, không lấy gì làm đẹp, nhưng khi cười, mặt mũi tươi như đóa hoa xuân chớm nở. Hồ Phỉ không nghi ngờ gì nữa, đáp lại bằng nụ cười.
Trình Linh Tố hỏi:
– Hồ đại ca đã thực lòng tin được tiểu muội rồi chứ?
Mặt cô hơi đỏ lên, cô quay đi chỗ khác, không dám chạm vào mục quang của chàng nữa. Hồ Phỉ co ngón tay lên gõ vào trán mấy cái rồi cười nói:
– Phải đánh đòn gã tiểu tử hồ đồ này!
Chàng chợt động tâm tự hỏi:
– Sao khi cô hỏi “Đại ca đã thực lòng tin được tiểu muội rồi chứ?” thì mặt cô lại đỏ lên?
Mấy câu hát của Vương thợ rèn bỗng nhiên lại vang lên trong chàng:
Tiểu muội tử đãi tình lang
Ân tình thâm
Nễ mạc phụ liễu muội tử
Nhất ban tình
Nễ kiến liễu tha diện thời
Yếu đãi tha hảo
Nỗ bất kiến tha diện thời
Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải tại tâm!
Trình Linh Tố cầm kim khẽ đâm vào ba huyệt đạo Miêu Nhân Phụng là huyệt “Dương bạch” ở trên mắt, huyệt “Tinh minh” ở bên mặt, huyệt “Thừa khấp” ở dưới mắt và dùng dao cắt đi một chút da ở dưới huyệt “Thừa khấp”. Cô lại đổi kim đâm vào huyệt đó. Cô vừa dùng ngón tay cái đè vào đuôi kim thì thấy có máu đen chảy ra. Nguyên mũi kim này rỗng ở giữa. Máu đen chảy ra không ngớt, dần dần biến thành máu tía, rồi chuyển thành máu đỏ.
Hồ Phỉ tuy không hiểu gì nhưng cũng biết chất độc ra hết rồi, liền cất tiếng hoan hô:
– Hay lắm!
Trình Linh Tố hái bốn lá “Thất tâm hải đường”, bóp nát ra rịt vào mắt Miêu Nhân Phụng. Miêu Nhân Phụng da mặt hơi cử động, rồi cái ghế y đang ngồi bỗng vang “rắc” một tiếng.
Trình Linh Tố nói:
– Miêu đại hiệp! Tiểu nữ nghe Hồ đại ca nói đại hiệp có vị thiên kim tiểu thư rất khả ái. Hiện giờ cô ấy ở đâu?
Miêu Nhân Phụng đáp:
– Nơi đây không bình yên, tại hạ đưa sang gửi nhà hàng xóm rồi.
Trình Linh Tố lại dùng tấm khăn vải buộc mắt cho Miêu Nhân Phụng nói:
– Được rồi! Ba ngày sau hết đau thì lại ngứa ngáy khó chịu, khi ấy mở băng vải ra là không việc gì nữa. Bây giờ xin mời đại hiệp hãy vào nằm nghỉ. Hồ đại ca, chúng ta đi làm cơm.
Miêu Nhân Phụng đứng dậy hỏi Hồ Phỉ:
– Tiểu huynh đệ! Ta hỏi huynh đệ một câu. Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao là bá phụ hay là thúc phụ của huynh đệ?
Nên biết Hồ Phỉ dùng “Hồ gia đao pháp” đánh bại Điền Quy Nông, Miêu Nhân Phụng tuy không nhìn rõ nhưng nghe cũng biết đao pháp chàng đã đến trình độ không phải tầm thường. Nếu không được đích thân Hồ Nhất Đao truyền thụ thì quyết chẳng thể luyện đến trình độ này. Miêu Nhân Phụng còn biết Hồ Nhất Đao sinh được một đứa con, mà đứa nhỏ đó cũng bị người ta giết chết vất xác dưới sông, vì thế y đoán Hồ Phỉ là cháu Hồ Nhất Đao.
Hồ Phỉ bật tiếng cười khô khan, đáp:
– Vị Liêu Đông đại hiệp chẳng phải là bá phụ mà cũng không phải là thúc phụ của tại hạ.
Miêu Nhân Phụng rất lấy làm lạ, nghĩ bụng:
– “Hồ gia đao pháp” không truyền cho người ngoài, huống chi chàng thiếu niên này cùng họ Hồ.
Y lại hỏi:
– Hồ đại hiệp có họ hàng thân thích gì với tiểu huynh đệ?
Hồ Phỉ trong lòng rất khó xử, vì chàng không hiểu Miêu Nhân Phụng rốt cuộc có mối quan hệ thế nào với phụ thân. Chàng hỏi lại:
– Hồ đại hiệp ư? Lão qua đời đã lâu năm. Tại hạ làm gì có được phúc phận họ hàng với lão?
Miêu Nhân Phụng trong lòng buồn bã, ngơ ngẩn hỏi lâu, khẽ lắc đầu rồi vào phòng trong nằm nghỉ.
Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ mặt mày ủ rũ, muốn làm cho chàng vui vẻ liền nói:
– Hồ đại ca! Đại ca vất vả hàng nửa ngày trời rồi, hãy ngồi nghỉ một lát.
Hồ Phỉ lắc đầu đáp:
– Tại hạ không nhọc mệt gì cả.
Trình Linh Tố nói:
– Đại ca ngồi xuống đây. Tiểu muội có điều muốn nói.
Hồ Phỉ theo lời ngồi xuống, bỗng thấy mông đặt vào chỗ không, lại nghe “rắc” một tiếng, cái ghế gãy làm bốn, năm mảnh.
Trình Linh Tố vỗ tay cười, nói:
– Con bò mộng năm trăm cân cũng không nặng bằng đại ca.
Công phu hạ bàn của Hồ Phỉ rất vững. Tuy chàng ngồi vào chỗ trống không, song hai chân đứng vững lại ngay, không đến nỗi té nhào, trong lòng rất lấy làm lạ.
Trình Linh Tố lại nói:
– Lá “Thất tâm hải đường” rịt vào da thịt còn đau hơn gấp mười lần dao cắt. Nếu là đại ca, chỉ e đại ca réo đến cả tên má má của tiểu muội ra nữa là đằng khác.
Hồ Phỉ phì cười. Bây giờ chàng mới biết lúc nãy Miêu Nhân Phụng nhịn đau, tuy nét mặt thản nhiên, nhưng đã vận nội kình chịu đựng làm cho cái ghế dập nát. Hai người thổi nồi cơm, xào nấu ba món xong, mời Miêu Nhân Phụng ra cùng ăn.
Miêu Nhân Phụng hỏi:
– Tại hạ có ăn được không?
Trình Linh Tố đáp:
– Được tất, không phải cữ chi cả.
Miêu Nhân Phụng lấy ra ba bình rượu trắng, để trước mặt mỗi người một bình, nói:
– Chúng ta tự rót lấy mà uống, bất tất phải khách sáo.
Y nói rồi rót ra lưng chung ngửa cổ uống cạn. Hồ Phỉ cùng uống rượu được, bồi tiếp nửa chung. Trình Linh Tố không biết uống rượu, cô đổ chén rượu trắng vào chậu “Thất tâm hải đường”. Cô nói:
– Thứ hoa này phải tưới bằng rượu, nếu tưới nước là chết. Khi tiểu muội trồng “Đề hồ hương” mới ngộ ra cái đạo lý này. Mấy vị sư huynh, sư tỷ của tiểu muội không hiểu nên vất vả mười mấy năm mà trồng không được.
Nửa chung rượu còn lại, cô đổ vào chung của hai người, rồi tự mình xới cơm ăn cùng. Miêu Nhân Phụng lại uống nửa chung nữa, đã thấy trong lòng rất hào hứng, lên tiếng hỏi:
– Hồ huynh đệ! Ai đã dạy đao pháp cho huynh đệ?
Hồ Phỉ nói:
– Không có ai dạy cả. Tại hạ theo đồ hình và lời hướng dẫn trong một cuốn đao phổ mà tự luyện lấy.
Miêu Nhân Phụng “ồ” một tiếng.
Hồ Phỉ nói tiếp:
– Về sau tại hạ gặp Triệu tam đương gia ở Hồng Hoa hội, truyền cho mấy yếu quyết về Thái Cực quyền.
Miêu Nhân Phụng vỗ đùi một cái, lớn tiếng hỏi:
– Có phải Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn Triệu tam gia không?
Hồ Phỉ đáp:
– Chính thị!
Miêu Nhân Phụng nói:
– Thảo nào, thảo nào…
Hồ Phỉ đáp:
– Thảo nào là sao?
Miêu Nhân Phụng lại nói:
– Tại hạ ngưỡng mộ Trần tổng đà chủ ở Hồng Hoa hội là người hào hiệp trượng nghĩa, các vị đương gia đều là anh hùng nổi tiếng. Đáng tiếc những nhân vật này ẩn náu tại Hồi Cương nên Miêu mỗ không có cơ duyên gặp gỡ. Thật là điều ân hận cả đời!
Hồ Phỉ thấy y cực kỳ trọng vọng Triệu Bán Sơn cũng hoan hỷ trong lòng.
Miêu Nhân Phụng rót hết bình rượu ra chén uống cạn rồi đứng dậy sờ lấy thanh đơn dao đặt trên kỷ trà, nói:
– Hồ huynh đệ! Ngày trước tại hạ được gặp Hồ Nhất Đao đại hiệp. Y truyền cho tại hạ mấy đường “Hồ gia đao pháp”. Bữa nay tại hạ dùng nó đánh lui được cường địch. Hồ huynh đệ cũng dùng nó để đả bại Điền Quy Nông. Đao pháp đó, hà hà, quả đúng là hảo đao pháp!
Đột nhiên y ngửa mặt hú lên một tiếng thật dài, nhảy ra ngoài cửa tay cử đao đứng sững để thi triển “Hồ gia đao pháp”. Hồ Phỉ thấy bộ pháp vững vàng, đao phong lượn múa, có lúc khoan thai nhàn nhã, có khi cương mãnh thần tốc. Mỗi chiêu mỗi thức kình phong đều rít lên vù vù. Hồ Phỉ ngưng thần theo đõi, chàng nhận ra những chiêu số này đúng như chiêu số ghi trong đao phổ, có điều thế đao so với chàng thong thả hơn nhiều. Hồ Phỉ cho là y cố ý thi triển chậm chạp để chàng nhìn cho rõ.
Miêu Nhân Phụng đi hết đường đao pháp, cầm ngang thanh đao dừng lại, nói:
– Tiểu huynh đệ, trình độ đao pháp của huynh đệ thắng được Điền Quy Nông thì có dư, nhưng đợi khi ta lành mắt, muốn đấu ngang ngửa với ta thì vẫn còn chưa đủ.
Hồ Phỉ đáp:
– Dĩ nhiên là thế, vãn bối đâu phải là địch thủ của Miêu đại hiệp?
Miêu Nhân Phụng lắc đầu đáp:
– Nói thế là lầm. Ngày trước Hồ đại hiệp đã dùng đao pháp này cùng ta tỷ đấu năm ngày ròng rã, thủy chung vẫn không phân thắng bại. Y sử đao còn thong thả hơn ta nhiều.
Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:
– Té ra là thế ư?
Miêu Nhân Phụng đáp:
– Phải rồi. Để cho khách lừa chủ đâu bằng dùng chủ để phạm khách, non trẻ hơn già nua, chậm chạp hơn gấp gáp. Các bí quyết “triền, hoạt, giảo, sát, trừu, triệt” mạnh hơn “triền, mạt, câu, thích, phách”.
Nguyên “chủ lừa khách, khách phạm chủ” đều là những thế đao. Dùng mũi đao đẩy khí giới bên địch gọi là “nộn”’, đến gần dùng mũi đao để đẩy khí giới bên địch gọi là “lão”. Xuất chiêu thong thả gọi là “trì”, dùng đao trước thế công của địch gọi là “cấp”. Còn các yếu quyết “triền, hoạt, giảo, sát”… đều là cách thức sử đao.
Miêu Nhân Phụng thu đao về, cầm đũa và hai miếng cơm, rồi nói:
– Huynh đệ từ từ giác ngộ diệu lý này thì ngày sau ắt có thể xưng hùng trong võ lâm, vùng vẫy khắp giang hồ.
Hồ Phỉ “ồ” một tiếng, cầm đũa toan gắp mà không gắp, chàng mải suy nghĩ về mấy câu đao quyết nên dừng đũa ở lưng chừng.
Trình Linh Tố dùng đũa khẽ gõ vào đũa của chàng, cười hỏi:
– Không ăn cơm đi à?
Hồ Phỉ đang nghiền ngẫm đao quyết, bất giác kình lực toàn thân phát ra cánh tay phải. Đôi đũa của Trình Linh Tố vừa gõ vào, đôi đũa của chàng tự nhiên phát sinh ra một luồng kình lực phản chấn, hất ra đánh “chát” một tiếng, làm đôi đũa của Trình Linh Tố bị chấn động, gãy thành bốn đoạn!
Trình Linh Tố khẽ “a” lên một tiếng, rồi cười hỏi:
– Đại ca muốn khoa trương bản lãnh ư?
Hồ Phỉ vội cười giả lả, đáp:
– Xin lỗi cô nương. Tại hạ mải ngẫm nghĩ mấy câu nói của Miêu đại hiệp thành ra ngớ ngẩn.
Đoạn chàng đưa đôi đũa trong tay mình cho cô. Trình Linh Tố đón lấy tiếp tục ăn cơm.
Hồ Phỉ miệng lẩm bẩm:
– Non trẻ thắng già nua, chậm chạp thắng gấp gáp, để cho khách lừa chủ đâu bằng…
Chàng ngửng đầu thấy Trình Linh Tố dùng đôi đũa của mình để ăn cơm rất tự nhiên, chẳng ngại ngùng gì cả, bất giác đỏ mặt lên. Chàng muốn lấy lại để lau cho sạch thì đã không kịp nữa. Chàng định nói mấy câu xin lỗi, nhưng thấy như thế lại quá khách sáo, liền xuống bếp lấy đôi đũa khác.
Hồ Phỉ và mấy miếng cơm ăn rồi thò đũa vào để gắp rau thì đũa của Miêu Nhân Phụng cũng thò ra khẽ đụng nhau một cái đẩy đũa của chàng đi. Y nói:
– Đây là khẩu quyết về chữ “Triệt”.
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng thế!
Chàng lại cầm đũa đưa lên, nhưng đôi đũa của Miêu Nhân Phụng lại phòng giữ nghiêm mật dị thường. Bất luận chàng giơ lên cao hay hạ xuống thấp, thủy chung cũng không thò đũa vào trong đĩa được.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Khi động đao tỷ đấu, tuy mắt y chẳng nhìn thấy vật nhưng có thể thính phong biện khí, nghe tiếng gió của binh khí để xác định chiêu số của kẻ địch. Bây giờ đôi đũa nhỏ bé này của ta đưa ra chẳng có tiếng gió mà không hiểu sao y cũng phát giác được?
Hai người tiến thoái công thủ mấy chiêu. Hồ Phỉ đột nhiên tỉnh ngộ. Thì ra những chiêu số của Miêu Nhân Phụng toàn sử dụng yếu quyết “Hậu phát chế nhân”, tuy ra tay sau mà kiềm chế được người. Y chờ cho đũa của đối phương chạm vào rồi mới tùy cơ ứng biến. Đó là đạo lý “dĩ khách phạm chủ”, “trì thống ư cấp”. Khi hiểu ra đạo lý này rồi, Hồ Phỉ không đưa đũa vào đoạt rau nữa mà giơ đũa lên không, hai mắt chăm chú nhìn đũa của Miêu Nhân Phụng, đồng thời từ từ hạ đũa của mình xuống đĩa rau.
Đến lúc này, thủ pháp chàng biến đổi mau lẹ tuyệt luân. Chàng gắp một đũa rau đưa vào miệng ăn. Miêu Nhân Phụng không nhìn thấy đũa chàng đưa lên hay đưa xuống dĩ nhiên không cản trở được. Y đặt đũa xuống bàn cười ha hả.
Từ lúc Hồ Phỉ gắp được miếng rau ăn mới thực sự bước vào cảnh giới của hạng nhất lưu cao thủ. Chàng nhớ lại vừa rồi mình phải mất nhiều khí lực mới thắng nổi Điền Quy Nông, trong khoảnh khắc này, vừa thấy hoan hỷ, lại vừa thẹn thùng. Trình Linh Tố thấy chàng đoạt được rau ăn, cười hích hích nhìn chàng. Trong lòng cô cũng vô cùng cao hứng.
Miêu Nhân Phụng lên tiếng:
– Thế là từ nay “Hồ gia đao pháp” lại có truyền nhân rồi. Hồ đại ca hỡi Hồ đại ca!
Y nói tới đây, âm thanh đầy vẻ thê lương.
Trình Linh Tố nhận ra giữa Hồ Phỉ và Miêu Nhân Phụng dường như có mối oán kết khó lòng cởi mở. Cô không muốn Hồ Phỉ nhắc tới chuyện này nữa liền hỏi:
– Miêu đại hiệp! Giữa đại hiệp và tiên sư tại sao lại xảy chuyện kết thù? Đại hiệp kể cho bọn tiểu nữ nghe được chăng?
Miêu Nhân Phụng thở dài đáp:
– Vụ đó đến nay tại hạ cũng chưa rõ ràng. Mười tám năm về trước, tại hạ ngộ sát một vị hảo bằng hữu, chỉ vì trên lưỡi binh khí có bôi chất kịch độc gặp máu là làm tắc mạch ngay, không sao cứu chữa được. Tại hạ nghĩ rằng loại chất độc ghê gớm như thế, ắt quá nửa phải có liên quan đến tôn sư. Vì thế tại hạ liền tìm tới tôn sư để chất vấn. Tôn sư phủ nhận tất cả, bảo rằng không hiểu gì hết. Một là tại hạ ăn nói vụng về, hai là trong lòng quá đau xót không khỏi có điều đắc tội với tôn sư, rốt cuộc hai bên xảy ra cuộc động thủ.
Hồ Phỉ lẳng lặng ngồi nghe, một lúc sau mới hỏi:
– Theo lời đại hiệp thì chính tay đại hiệp đã làm chết vị hảo bằng hữu kia ư?
Miêu Nhân Phụng đáp:
– Đúng thế!
Hồ Phỉ hỏi:
– Còn phu nhân của vị kia thì sao? Đại hiệp nhổ cỏ tận gốc cũng giết luôn cả chứ gì?
Trình Linh Tố thấy chàng tay cầm chuôi đao, sắc mặt xám xanh. Cô nhận ra tiệc rượu đang vui vẻ chỉ trong chớp mắt có thể biến thành cục diện gió tanh mưa máu. Cô hoàn toàn chẳng hiểu ai phải ai quấy, nhưng trong lòng không còn ngần ngừ gì nữa:
– Nếu hai người sát phạt nhau thì ta lập tức phải giúp y vậy?
Chữ “y” ở đây dĩ nhiên là trỏ Hồ Phỉ. Lúc này trong lòng cô đã quyết định dứt khoát rồi.
Miêu Nhân Phụng cất giọng cay đắng, từ từ đáp:
– Vị phu nhân đó tự vẫn theo chồng ngay tại đương trường.
Hồ Phỉ hỏi:
– Thế là cái mạng đó cũng do đại hiệp hại chết phải không?
Miêu Nhân Phụng buồn rầu đáp:
– Đúng thế!
Hồ Phỉ đứng dậy sa sầm nét mặt, hỏi:
– Vị hảo bằng hữu của đại hiệp tên họ là gì vậy?
Miêu Nhân Phụng hỏi lại:
– Tiểu huynh đệ thực tình muốn biết hay sao?
Hồ Phỉ đáp:
– Vãn bối cần biết lắm.
Miêu Nhân Phụng nói:
– Được rồi! Tiểu huynh đệ hãy đi theo ta
Y rảo bước tiến vào hậu đường. Hồ Phỉ đi theo y, Trình Linh Tố cũng vội bám theo sát gót.
Bỗng thấy Miêu Nhân Phụng mở cửa sương phòng. Trong phòng có kê một cái bàn gỗ bạch mộc. Trên bàn đặt hai tấm linh vị. Một tấm đề “Nghĩa huynh Liêu Đông đại hiệp Hồ công Nhất Đao chi linh vị”. Còn một tấm đề “Nghĩa tẩu Hồ phu nhân chi linh vị”.
Hồ Phỉ nhìn linh bài hai vị, chân tay giá lạnh, toàn thân phát run. Từ lâu chàng vẫn nghi ngờ cái chết của song thân mình tất có liên quan trọng đại với Miêu Nhân Phụng, nhưng thấy y là người khẳng khái hào hiệp, nên chỉ mong mối nghi ngờ của mình sai trật. Nhưng bây giờ y thẳng thắn công nhận chẳng uý kỵ gì. Có điều khi y nói câu “Tại hạ lỡ tay ngộ sát một vị bằng hữu” thì sắc diện cùng giọng nói đều lộ vẻ khổ đau vô hạn. Chàng không biết phải làm thế nào cho phải.
Miêu Nhân Phụng quay lại, hai tay chắp để sau lưng nói:
– Tiểu huynh đệ đã không chịu nói mối liên quan với Hồ đại hiệp thì ta cũng không truy vấn nữa. Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã nhận lời chiếu cố cho con gái ta thì nên nhớ kỹ. Thế là đủ rồi. Tiểu huynh đệ muốn trả thủ cho Hồ đại hiệp thì cứ việc động thủ đi.
Hồ Phỉ giơ đao lên dừng lại trên không nghĩ bụng:
– Ta chỉ cần dùng yếu quyết “Dĩ khách phạm chủ” mà y vừa dạy từ từ hạ đao xuống là y quyết không tránh khỏi, thế là ta trả xong mối đại cừu cho song thân.
Nhưng chàng thấy nét mặt y bình thản, đã không lộ vẻ thương tâm lại không ra chiều sợ sệt thì hạ đao thế nào được?
Đột nhiên chàng kêu to một tiếng rồi xoay mình chạy đi. Trình Linh Tố tay bưng chậu “Thất tâm hải đường”, vai khoác hai túi vải tùy thân chay theo. Hồ Phỉ chạy như điên như cuồng một mạch hơn mười dặm, rồi đột nhiên ngã lăn ra gào khóc. Trình Linh Tố bị tụt lại rất xa ở đằng sau. Mãi một lúc lâu cô mới chạy đến nơi. Cô thấy tình cảnh bi thương của Hồ Phỉ biết lúc này khuyên giải không được, đành lặng lẽ ngồi một bên để chàng tha hồ mà khóc đặng phát tiết hết nỗi bi thương trong lòng. Hồ Phỉ khóc hết nước mắt mới dừng lại nói:
– Linh cô nương! Y giết gia gia và má má của tại hạ. Thù này chẳng đội trời chung.
Trình Linh Tố ngẩn người ra hồi lâu mới hỏi:
– Vậy chúng ta chữa mắt cho y đã là một việc sai lầm.
Hồ Phỉ đáp:
– Việc chữa mắt cho y không có gì sai lầm cả. Chờ y sáng mắt trở lại tại hạ mới kiếm y để trả thù.
Chàng dừng lại một chút rồi tiếp:
– Nhưng võ công y cao hơn tại hạ quá nhiều, tại hạ cần phải luyện võ nghệ trước mới được.
Trình Linh Tố đáp:
– Y đã dùng binh khí bôi chất độc sát hại lệnh tôn, thì chúng ta cũng dùng cách này để đáp trả.
Hồ Phỉ thấy cô hết lòng hết dạ ủng hộ mình, bất giác sinh lòng cảm kích. Nhưng chàng nghĩ tới việc cô dùng chất kịch độc để đối phó với Miêu Nhân Phụng thì tự nhiên trong lòng lại sợ run lên, điều đó quả thật là kỳ. Chàng nghĩ thầm trong bụng: “Vị cô nương này tài trí thông minh gấp mười ta, võ công cô cũng không phải hạng tầm thường, nhưng suốt ngày cô cứ kề cận với độc vật, vậy thì…”. Chính bản thân chàng cũng chưa hiểu “Vậy thì…” cái gì nhưng chỉ cảm thấy có điều bất ổn.
Sau khi khóc lóc một hồi, mối uất ức phiền muộn trong lòng đã vơi đi nhiều. Chàng thấy trời tờ mờ sáng, có thể lên đường được rồi. Nhưng vừa đứng dậy, Hồ Phỉ bỗng la lên một tiếng:
– Hỏng rồi!
Nguyên tâm thần chàng bị kích động, từ nhà Miêu Nhân Phụng chạy đi ngay, bỏ lại cái bọc đeo bên mình. Chàng không biết làm sao quay lại lấy vì không muốn chạm mặt Miêu Nhân Phụng nữa.
Trình Linh Tố cất giọng buồn buồn nói:
– Cái gì mất cũng được nhưng chẳng thể để mất tấm ngọc phụng hoàng kia.
Hồ Phỉ bị cô nói trúng tâm sự, bất giác đỏ mặt lên nói:
– Cô hãy chờ ở đây một chút. Tại hạ quay lại lấy cái bọc không thì ngay bữa cơm tối nay cũng chẳng có tiền trả.
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội có bạc rồi, cả vàng cũng có nữa.
Cô lấy trong bọc ra hai đỉnh vàng nhỏ.
Hồ Phỉ lại nói:
– Điều trọng yếu nhất là cuốn “Quyền kinh đao phổ” gia truyền quyết không thể mất được.
Trình Linh Tố lại thò tay vào bọc đưa cuốn “Quyền kinh đao phổ” ra, hờ hững hỏi:
– Có phải cuốn này không?
Hồ Phỉ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, đáp:
– Cô nương thật là tinh tế, việc gì cũng trông nom giúp tại hạ.
Trình Linh Tố nói:
– Chỉ đáng tiếc là tấm ngọc phụng hoàng bị tiểu muội đánh rơi dọc đường, thật là áy náy.
Hồ Phỉ thấy cô vẻ mặt trịnh trọng, tựa hồ không phải đùa giỡn mình thì trong lòng nóng nảy, vội đáp:
– Để tại hạ quay lại tìm, có khi thấy được cũng nên.
Dứt lời, chàng quay người toan đi thì Trình Linh Tố vội la lên:
– Ô hay! Cái gì lấp loáng thế kia?
Cô thò tay vào trong đám cỏ xanh lượm lên một vật trang sức sáng lấp loáng. Chính là con ngọc phụng.
Hồ Phỉ cả mừng, cười nói:
– Cô nương quả là Nữ Gia Cát, Tiểu Trương Lương, tiểu nhân đành cam bái hạ phong.
Trình Linh Tố đáp:
– Đại ca thấy con ngọc phụng mà hí hửng quá chừng. Tiểu muội trả cho đây.
Cô liền đưa cuốn “Quyền kinh đao phổ” và con ngọc phụng cho chàng rồi nói:
– Hồ đại ca! Chúng ta hẹn ngày tái ngộ!
Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:
– Cô nương giận rồi ư?
Trình Linh Tố hỏi lại:
– Tiểu muội tức giận ai được cơ chứ?
Cô nói vậy nhưng mắt đỏ hoe, hai dòng nước mắt muốn trào ra, phải quay đầu đi.
Hồ Phỉ ấp úng:
– Cô… cô nương đi đâu bây giờ?
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội cũng không biết.
Hồ Phỉ hỏi:
– Sao lại không biết?
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội đã không cha không mẹ, sư phụ lại chết rồi, cũng chẳng ai cho ngọc phụng hoàng hay ngọc kỳ lân gì gì cả, thì tiểu… tiểu muội còn biết đi đâu bây giờ?
Cô nói đến đây, đôi dòng lệ chảy ròng ròng trên má. Hồ Phỉ từ ngày gặp cô, thấy tâm tư cô rất thân mật, chỗ nào cô cũng chiếm thượng phong hơn người, gặp việc khó khăn gì cô cũng giải quyết được. Thế mà bây giờ thấy cô đứng lặng yên trong làn gió sớm, dưới ánh trăng tàn chênh chếch chiếu, chiếc lưng hơi rung động, chàng không khỏi sinh lòng thương xót, liền nói:
– Linh cô nương. Tại hạ đưa cô một đoạn đường.
Trình Linh Tố vẫn đứng xoay lưng lại, kéo áo lên lau nước mắt, đáp:
– Tiểu muội đã không biết đi về đâu thì đại ca tiễn cái gì? Đại ca bảo tiểu muội đi chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng, tiểu muội đã làm xong rồi.
Hồ Phỉ muốn làm cho cô vui lên, liền nói:
– Nhưng còn một việc cô nương chưa làm.
Trình Linh Tố quay lại hỏi:
– Việc gì?
Hồ Phỉ đáp:
– Lúc tại hạ cầu cô nương chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng, cô bảo cũng yêu cầu tại hạ một việc. Việc đó là việc gì, cô nương vẫn chưa nói.
Trình Linh Tố dù sao cũng là cô gái nhỏ tuổi, mặt cô đang đầm đìa nước mắt, đột nhiên lại phá lên cười, hỏi:
– Đại ca không nhắc thì tiểu muội quên mất. Cái đó gọi là tự mình làm nên tội nghiệt tất không sống nổi. Được rồi, tiểu muội yêu cầu việc gì đại ca cũng làm theo phải không?
Hồ Phỉ quả thực tâm tình nguyện làm cho cô bất cứ việc gì, liền ngang nhiên đáp:
– Chỉ cần sức tại hạ làm được thì bất luận việc gì cũng xin tuân lệnh.
Trình Linh Tố xòe tay ra nói:
– Hay lắm! Đại ca cho tiểu muội con ngọc phụng đó.
Hồ Phỉ ngẩn người, trong lòng lấy làm khó nghĩ, nhưng chàng là người biết giữ lời hứa liền đưa ngọc phụng ra.
Trình Linh Tố không đón lấy lại nói:
– Tiểu muội lấy cái này làm gì? Chỉ yêu cầu đại ca đập nát nó ra.
Việc này cả ngàn vạn lần Hồ Phỉ không sao làm được. Chàng đứng thộn mặt ra tại chỗ, hết đăm đăm nhìn Trình Linh Tố rồi lại nhìn con ngọc phụng hoàng trong tay, không biết phải làm thế nào. Hình ảnh kiều diễm của Viên Tử Y chính trong sát na đó đột nhiên hiện ra vương vấn trong lòng Hồ Phỉ.
Trình Linh Tố từ từ bước lại gần, cầm lấy con ngọc phụng nhét vào bọc cho chàng, rồi mỉm cười nói:
– Từ nay về sau đại ca đừng hứa với người khác một cách khinh suất. Trên đời rất nhiều việc miệng đã hứa hẹn mà vô phương thực hiện. Thôi, được rồi, bây giờ chúng ta lên đường!
Trong lòng Hồ Phỉ thấy ngậm ngùi bâng khuâng khôn tả. Chàng bưng chậu “Thất tâm hải đường” đi theo Trình Linh Tố.
Đến trưa thì hai người tới một thị trấn lớn. Hồ Phỉ hỏi:
– Chúng ta hãy tìm phạn điếm ăn cơm rồi hãy đi mua đôi ngựa.
Chàng chưa dứt lời đột nhiên một hán tử trung niên mặc áo trường bào bằng gấm đoạn ra vẻ là một thương gia, tiến lại chắp tay hỏi:
– Phải chăng đây là Hồ gia?
Hồ Phỉ chưa từng gặp người này, chàng thi lễ đáp:
– Không dám! Chính là tại hạ. Xin hỏi quý tính đại danh của huynh đài? Sao huynh đài lại biết tại hạ?
Người kia mỉm cười đáp:
– Tiểu nhân vâng lệnh gia chủ chờ Hồ gia ở đây đã lâu. Mời Hồ gia qua bàn này dùng sơ qua bữa điểm tâm.
Hán tử nói rồi cung kính dẫn hai người vào một tòa tửu lâu. Trong tửu lâu, bọn tiểu nhị không chờ người kia sai bảo đã bày ngay rượu thịt ra, tuy người nói bữa điểm tâm sơ sài nhưng thực là là một bữa tiệc thịnh soạn. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều cảm thấy kỳ quái nhưng gã thương gia kia ngồi xuống tiếp khách mà không nhắc gì tới ai là người đón mời. Hai người cũng không hỏi lại, cứ ung dung ngồi ăn uống.
Cơm rượu xong, thương gia kia nói:
– Mời hai vị qua bên này nghỉ ngơi.
Mấy người xuống lầu đã thấy gia nhân dắt tới ba con ngựa cao lớn. Cả ba người lên ngựa, gã thương gia đi trước dẫn đường, ruổi ngựa ra ngoài thị trấn. Đi chừng năm, sáu dặm thì đến trước một đại trang viện. Quanh trang viện trông toàn thùy dương, tường quét trắng, cửa sơn đen, khí thế không phải nhỏ.
Trước cửa trang viện có sáu, bảy tên gia đinh đứng đó. Chúng vừa thấy gã thương gia tới liền thõng tay đứng nghiêm. Gã thương gia mời Hồ Phỉ và Trình Linh Tố vào đại sảnh dùng trà. Trên bàn bày đầy trái cây rất đẹp mắt.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Nếu ta có hỏi y sao lại tiếp đãi thế này, thì chưa chắc y đã chịu nói. Vậy cứ để y giở đủ hết mọi trò ra rồi ta sẽ tùy cơ ứng biến là xong.
Chàng liền cùng Linh Tố nói chuyện phong cảnh dọc đường, không đoái hoài gì đến người kia. Gã thương gia chỉ kính cẩn mời mọc chứ không xen vào câu chuyện giữa hai người.
Dùng điểm tâm xong, gã thương gia lại nói:
– Hồ gia và cô nương đi đường mệt nhọc, xin vào nhà trong tắm rửa thay áo.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Nghe giọng lưỡi y dường như y chưa hiểu lai lịch Linh cô nương. Như vậy càng hay. Nếu y quả dám hạ độc đệ tử của Độc Thủ Dược Vương thì chính là tự rước khổ vào mình.
Chàng liền theo gia đinh vào nội đường Trình Linh Tố đã có bọn bộc phụ đưa vào lầu sau tắm gội. Hai người tắm rửa nghỉ ngơi xong, lại quay ra nhà đại sảnh. Người nọ nhìn người kia đều thay đổi y phục mới tinh. Trình Linh Tố mỉm cười khẽ nói:
– Hồ đại ca, sang năm mới rồi chăng? Ăn mặc thế này quả thật chỉnh tề!
Hồ Phỉ thấy mặt cô thoa một lớp phấn mỏng, con người đã thanh tú lại thêm phần kiều diễm, chàng cười nói:
– Cô nương có vẻ một vị tân nương tử.
Trình Linh Tố đỏ mặt lên quay đầu ra chỗ khác, chẳng lý gì tới. Hồ Phỉ ngấm ngầm hối hận vì đã lỡ lời. Nhưng chàng liếc trộm thấy cô không có vẻ gì là giận dữ, trong khóe mắt lại lộ vẻ tinh quái, lại ra chiều e thẹn.
Lúc này trên nhà khách lại bày tiệc rượu. Gã thương gia mời Hồ Phỉ ba chung rồi quay vào nhà trong bưng ra một cái khay. Trên khay đặt một gói vải đỏ. Y mở gói ra thấy một cuốn số viền chỉ vàng, ngoài bìa đề hàng chữ “Kính trình Hồ đại gia thu nạp”.
Gã thương gia hai tay nâng quyển sổ đưa tới trước mặt Hồ Phỉ, nói:
– Tiểu nhân phụng mệnh chủ nhân dâng Hồ đại gia chút lễ mọn này,
Hồ Phỉ không đón lấy cuốn sổ, hỏi lại:
– Quý chủ nhân là ai? Cớ sao lại tặng lễ vật cho tại hạ?
Gã thương gia đáp:
– Chủ nhân căn dặn không được nhắc đến danh tự người. Sau này, tự nhiên Hồ gia sẽ hiểu.
Hồ Phỉ rất lấy làm lạ, đón lấy quyển sổ bọc gấm, mở ra coi thì thấy trên trang đầu viết “Thượng đẳng điền bốn trăm mười lăm mẫu bảy phân”. Phía dưới ghi chú vị trí ruộng tiếp giáp thế nào, tọa lạc ở đâu, tá điền là ai, mỗi năm đóng thóc tô bao nhiêu…
Hồ Phỉ càng ngạc nhiên tự hỏi:
– Ta lấy bốn trăm mẫu ruộng này làm gì?
Chàng lật qua trang thứ hai thấy viết “Một tòa trang viện gồm năm lớp trên lầu có mười hai phòng, dưới đất bảy mươi ba phòng”. Phía dưới chú thích bằng chữ nhỏ đông tây tứ cận cùng tên các căn phòng, nào là vườn hoa, sảnh đường, sương phòng; cả đến nhà bếp, phòng chứa củi, tàu ngựa… cũng đều ghi rất rõ ràng. Chàng lại lật xuống thấy ghi tên các tỳ bộc trong trang viện, cùng những thứ nhật dụng, kim ngân, lương thực, súc vật, xe kiệu, đồ dùng, quần áo, chẳng thiếu thứ gì.
Hồ Phỉ coi qua một lượt rất đỗi hoang mang, cầm cuốn sổ đưa lại cho Trình Linh Tố, bảo:
– Cô nương coi đi.
Trình Linh Tố coi qua một lượt cũng không đoán ra được họ có dụng ý gì. Cô cười, nói:
– Cung hỷ phát tài! Cung hỷ phát tài!
Gã thương gia kia nói:
– Trong lúc thảng thốt, chủ nhân chuẩn bị không được chu đáo, thật chưa đủ lòng thành kính.
Y dừng lại một chút rồi tiếp:
– Lát nữa tiểu nhân đưa Hồ đại gia đi coi các phòng xá.
Hồ Phỉ hỏi:
– Quý tính huynh đài là gì?
Gã thương gia kia đáp:
– Tiểu nhân họ Trương. Những ruộng đất cùng nhà cửa này tạm thời tiểu nhân cai quản thay cho Hồ đại gia. Hồ đại gia thấy có điều chi không ổn, xin cứ dạy bảo. Bao nhiêu văn tự khế ước của ruộng nương cùng phòng ốc hậu cứ đều ở trong này. Xin Hồ đại gia thu nhận cho.
Y nói rồi lại trình lên rất nhiều giấy tờ khế ước. Hồ Phỉ đáp:
– Ông bạn hãy thu cất. Người ta thường nói: “Vô công bất thụ lộc”, chưa có công lao thì không được hưởng lộc. Món hậu lễ này tại hạ không thể tiếp nhận được.
Gã thương gia kia nói:
– Hồ đại gia khiêm nhượng quá. Tệ chủ nhân đã nói món lễ mọn này không đáng gì nên trong lòng lấy làm áy náy.
Hồ Phỉ từ nhỏ đã phiêu bạt giang hồ, những chuyện kỳ lạ, quái dị đã từng nghe thấy không phải là ít, nhưng đột nhiên được nhận hậu lễ thế này, người tặng lại tránh không chịu ra mặt thì việc này quả chưa từng gặp qua. Cử chỉ của quản gia họ Trương nhất định là không hiểu võ công, mà lời ăn tiếng nói cũng chẳng giống nhân vật võ lâm chút nào. Xem ra hắn chỉ làm theo lệnh của người khác chứ không hiểu rõ nội tình.
Cơm nước xong, Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố vào thư phòng nghỉ ngơi. Trên bốn bức vách thư phòng, treo toàn tranh vẽ. Trên giá bày dao cầm, bàn cờ, trông rất thanh nhã. Một tên thư đồng đưa trà vào rồi lui ra ngay. Trong thư phòng chỉ có Hồ Phỉ và Trình Linh Tố.
Trình Linh Tố cười hỏi:
– Hồ viên ngoại! Không ngờ đại ca trở nên lão gia rồi.
Hồ Phỉ nghe nói không khỏi bật cười. Nhưng rồi chàng lại chau mày hỏi:
– Tại hạ xem ra người tặng lễ nhất định có chuyện mưu đồ mà nghĩ mãi không ra người này là ai? Hành động của họ không hiểu có dụng ý gì?
Trình Linh Tố hỏi lại:
– Phải chăng là Miêu Nhân Phụng?
Hồ Phỉ lắc đầu đáp:
– Tuy tại hạ và y có mối thù bất cộng đái thiên, nhưng tại hạ nhận thấy y là một hán tử chân chính, hành động quang minh lỗi lạc, quyết chẳng chịu làm chuyện úp mở giấu giếm thế này.
Trình Linh Tố nói:
– Đại ca giúp y đánh lui kẻ dịch. Y tặng phần hậu lễ này, một cách để tạ ơn, hai là mong hóa giải mối cừu hận, thì e rằng đây cũng là một mỹ ý.
Hồ Phỉ đáp:
– Hồ mỗ há phải kẻ coi trọng tiền bạc ruộng đất mà quên mối thù của song thân? Không! Không phải đâu! Miêu Nhân Phụng chẳng khi nào coi thường tại hạ đến thế.
Trình Linh Tố thè lưỡi ra, nói:
– Thế ra tiểu muội coi thường đại ca rồi.
Hai người bàn tán hàng nửa ngày mà vẫn chẳng tìm ra chút manh mối nào, quyết ý ngủ ở đây một đêm để thám thính xem có tìm ra được điều gì không? Đến tối Hồ Phỉ nghỉ trong phòng lớn tại hậu đường. Phòng của Trình Linh Tố bố trí ở trên lầu cạnh vườn hoa. Hồ Phỉ suốt đời chưa từng được trong căn nhà to lớn tráng lệ như thế này, mà lại là nhà của mình, quả là điều ngoài sức tưởng tượng.
Chàng ngủ tới canh hai rồi khẽ mở cửa sổ chuồn ra nhảy lên mái nhà, cúi mình nhìn thấy ở hậu viện phía tây còn ánh đèn sáng. Chàng liền thi triển khinh công chạy về phía đó. Chàng móc chân vào mái hiên thi triển thân pháp “Đảo quyền châu liêm”, nhìn qua khe cửa sổ vào trong nhà thấy gã Trương đang gảy bàn toán lách cách để tính số. Bên cạnh y là một lão bộc già. Họ Trương viết mấy chữ và nói với lão kia mấy câu toàn là chuyện bếp núc trong nhà.
Hồ Phỉ nghe hồi lâu mà chẳng ra manh mối gì toan trở gót về phòng, bỗng thấy trên nóc nhà phía đông có tiếng động nhẹ. Chàng uốn lộn người đứng thẳng, tay nắm đốc đao, nhưng người tiến lại là Trình Linh Tố. Cô giơ tay ra hiệu, Hồ Phỉ tung mình vọt lại.
Trình Linh Tố khẽ hỏi:
– Tiểu muội đã xem kỹ trước sau mà không thấy có điều chi khác lạ. Đại ca có phát hiện ra điều gì không?
Hồ Phỉ lắc đầu. Hai người chia tay về phòng. Suốt đêm cả hai cùng đề phòng nên cứ trằn trọc lo nghĩ, không sao ngủ yên được. Sáng sớm hôm sau, đứa đồng bộc bưng thang yến sào vào, tiếp theo đưa bánh điểm tâm tới, phần Hồ Phỉ còn có thêm một hồ rượu Trạng nguyên hồng.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Có Linh cô nương bầu bạn trò chuyện cũng đỡ tịch mịch. Ở đây lại không phải lo nghĩ gì, yên hưởng tiêu dao khoái lạc.
Nhưng chàng chợt nghĩ:
– Tên ác bá họ Phụng đã thảm sát cả nhà Chung A Tứ, ta không rửa được mối oan này cho họ thì còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất nữa?
Chàng nghĩ tới đây, bầu máu nóng trào lên, liền nhìn Trình Linh Tố hỏi:
– Chúng ta đi thôi chứ?
Trình Linh Tố không hỏi đi đâu, nhưng cũng đáp:
– Phải rồi! Lên đường là vừa.
Hai người vào phòng thay đổi y phục, mặc quần áo cũ vào. Hồ Phỉ bảo gã quản gia họ Trương:
– Chúng ta đi đây!
Dứt lời chàng rảo bước đi luôn.
Gã quản gia họ Trương vô cùng kinh ngạc, lắp bắp nói:
– Sao… sao Hồ đại gia lại lên đường vội thế? Hồ đại… Hồ đại gia để tiểu nhân chuẩn bị hành trình cùng tiền lộ phí.
Chờ đến khi gã bưng ra một mâm bạc lớn thì Hồ, Trình hai người đã đi xa rồi. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố rảo bước tiến về phía bắc. Khoảng giờ ngọ thì đến một thị trấn, hỏi thăm mới biết đêm qua ngủ ở Nghĩa Đường trấn. Hồ Phỉ liền lấy tiền mua đôi ngựa. Hai người ngồi trên lưng ngựa bàn tán không ngớt những chuyện kỳ dị đêm qua.
Trình Linh Tố nói:
– Chúng ta đã ăn không uống không, cả ngủ trọ cũng chẳng mất nửa xu, mà xem ra chủ nhân dường như cũng chẳng có lòng dạ gì đen tối.
Hồ Phỉ đáp:
– Nhưng tại hạ cảm thấy vụ này có điều chi quái dị, có vẻ như tà môn.
Trình Linh Tố cười đáp:
– Tiểu muội lại thích gặp tà môn kiểu này, dọc đường chỗ nào cũng gặp chuyện quái dị như thế thì hay quá! Này, Hồ đại gia! Đại gia định đâu đấy
Hồ Phỉ hỏi lại:
– Tại hạ muốn lên Bắc Kinh. Cô nương cùng đi để thưởng ngoạn phong cảnh, có được không?
Trình Linh Tố cười đáp:
– Được thì được rồi, nhưng e có điều bất tiện.
Hồ Phỉ hỏi:
– Có gì mà bất tiện?
Trình Linh Tố cười đáp:
– Hồ đại gia đi thăm vị cô nương tặng ngọc phụng còn muốn đem con nha đầu này đi theo bên mình làm chi?
Hồ Phỉ nghiêm nghị nói:
– Không phải. Tại hạ đang truy sát một kẻ thù. Người này tuy võ công không cao thâm lắm nhưng rất nhiều tai mắt, lại giảo quyệt đa đoan. Mong cô nương giúp tại hạ một tay.
Chàng liền đem việc Phụng Thiên Nam thảm sát toàn gia Chung A Tứ ở trấn Phật Sơn ra sao, rồi khi vào tòa cổ miếu để nấp mưa gặp lại hắn, rồi hắn trốn thoát ra sao, nhất nhất kể lại cho cô nghe.
Trình Linh Tố nghe nói đến cuộc gặp gỡ trong tòa cổ miếu, lúc Phụng Thiên Nam nhân đêm tối tẩu thoát có vẻ chưa hết sự thực, liền hỏi:
– Vị cô nương tặng đại ca ngọc phụng cũng ở trong tòa cổ miếu phải không?
Hồ Phỉ sửng sốt, thấy cô thông minh tuyệt đỉnh, nhưng nghĩ lại trong lòng chẳng có gì mờ ám nên không cần giấu giếm cô nữa. Chàng bèn đem chuyện gặp Viên Tử Y trong trường hợp nào, nàng đoạt chức chưởng môn của ba phái ra sao, rồi lại tương trợ Phụng Thiên Nam như thế nào để thuật lại từ đầu đến cuối.
Trình Linh Tố lại hỏi:
– Viên cô nương đẹp lắm phải không?
Hồ Phỉ hơi ngẩn người, mặt đỏ lên, đáp:
– Kể cũng khá đẹp.
Trình Linh Tố hỏi:
– So với con xú nha đầu là tiểu muội thì Viên cô nương đẹp hơn nhiều, có phải không?
Hồ Phỉ không ngờ cô hỏi thẳng thừng câu này, bất giác cảm thấy bẽn lẽn, bèn đáp:
– Ai bảo cô là xú nha đầu? Viên cô nương hơn cô mấy tuổi, dĩ nhiên là y cao lớn hơn.
Trình Linh Tố cười nói:
– Năm tiểu muội tám tuổi, lấy gương của má má soi. Tỷ tỷ của tiểu muội liền bảo: “Xú bát quái! Đừng soi nữa. Soi lui soi tới vẫn là xú nha đầu”. Hừ! Tiểu muội chẳng thèm để ý gì đến y. Về sau ra làm sao đại ca thử đoán được không?
Hồ Phỉ sợ run lên nghĩ thầm:
– Chỉ mong cô đừng hạ độc tỷ tỷ là may lắm rồi.
Rồi chàng đáp:
– Tại hạ không biết.
Trình Linh Tố nghe giọng Hồ Phỉ hơi run, dường như đoán được ý nghĩ của chàng. Cô hỏi:
– Đại ca sợ tiểu muội hạ độc tỷ tỷ phải không? Hồi ấy tiểu muội mới có tám tuổi mà. Hừ! Hôm sau trong nhà không còn thấy một cái gương nào nữa.
Hồ Phỉ hỏi:
– Cái đó mới là kỳ!
Trình Linh Tố cười đáp:
– Chẳng có chi mà kỳ. Tiểu muội ném xuống giếng cả rồi.
Cô ngừng một lát rồi nói tiếp:
– Nhưng tiểu muội bỏ hết gương đi rồi lại hiểu ngày mình sinh ra vốn đã là xú nha đầu thì dù không còn gương soi nữa cũng vẫn xấu. Mặt nước dưới giếng tròn phẳng như một tấm gương, tiểu muội soi xuống thấy chân tướng mình rõ ràng. Lúc đó tiểu muội muốn đâm đầu xuống giếng mà chết đi cho rồi.
Cô nói tới đây đột nhiên quất roi tới tấp vào mông ngựa cho nó lao nhanh về phía trước. Hồ Phỉ phóng ngựa rượt theo. Hai người chạy liền một hơi hơn mười dặm đường, Trình Linh Tố mới chịu dừng cương ngựa.
Hồ Phỉ thấy có vành mắt đỏ hoe, hiển nhiên cô vừa mới khóc. Chàng không dám nhìn cô nhiều, bụng bảo dạ:
– Linh cô nương tuy không đẹp bằng Viên Tử Y, nhưng quyết chẳng phải xú nha đầu. Huống chi con người ta nhân phẩm là thứ nhất, tài trí là thứ nhị còn tướng mạo đẹp hay xấu là do trời sinh, hà tất phải thương tâm? Việc gì cô cũng tỏ ra thông minh rất mực, mà sao không hiểu ra được điểm này?
Chàng trông con người cô mảnh dẻ ốm yếu, trong lòng thấy thương cảm, cất tiếng hỏi:
– Tại hạ có điều yêu cầu, chẳng hiểu cô nương có ưng thuận chăng, cũng không hiểu tại hạ có với cao quá chăng?
Trình Linh Tố toàn thân chấn động, cất giọng run run hỏi:
– Đại ca… đại ca bảo sao?
Hồ Phỉ từ đằng sau nhìn tới thấy cô mặt đỏ đến mang tai. Chàng hỏi:
– Cô nương cũng như tại hạ đều không cha mẹ thân thích. Tại hạ muốn cùng cô kết bái huynh muội, cô bảo có nên chăng?
Trình Linh Tố trong chớp mắt nét mặt biến thành xanh mướt, lớn tiếng cười, đáp:
– Hay lắm! Sao lại không được? Tiểu muội có vị huynh trưởng như đại ca cầu còn không được nữa là.
Hồ Phỉ nghe giọng nói cô có vẻ trào phúng thì không khỏi bối rối, liền nói:
– Đó là tấm chân tình của tại hạ.
Trình Linh Tố hỏi:
– Chẳng lẽ tiểu muội lại giả ý ư?
Dứt lời, cô liền xuống ngựa, dùng đất bên đường nắn thành hương, chân quỳ xuống. Hồ Phỉ thấy cô mau lẹ cũng quỳ xuống theo, ngửng đầu lên trời lạy mấy lạy rồi cả hai cùng dập đầu hành lễ. Trình Linh Tố nói:
– Người ta đều nói kết nghĩa chi lan là bát bái chi giao. Vậy chúng ta cũng phải dập đầu cho đủ tám cái. Nào, một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám… Ồ! Tiểu muội là em phải lạy thêm hai lạy.
Quả nhiên cô dập đầu thêm hai cái nữa rồi đứng lên. Hồ Phỉ thấy hành động và lời nói của cô đột nhiên đâm ra phóng túng nên chàng cũng không giữ được, liền nói:
– Từ giờ trở đi tại hạ gọi cô nương là nhị muội.
Trình Linh Tố đáp:
– Phải, tiểu muội kêu lại bằng đại ca. Sao chúng ta lại không uống máu ăn thề, rồi nói có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia gì gì đó…
Hồ Phỉ đáp:
– Kết nghĩa cốt quý ở lời thề trong lòng, có nói hay không cũng vậy thôi.
Trình Linh Tố nói:
– À, té ra là vậy.
Nói rồi cô nhảy lên ngựa. Từ lúc đó cho đến chiều tối, thủy chung cô không nói với Hồ Phỉ một câu nào.
Chiều hôm ấy, hai người đến An Lục. Vừa cưỡi ngựa vào thị trấn, một tên điếm tiểu nhị đã ra đón đầu ngựa nói:
– Vị này là Hồ đại gia phải không? Xin mời đại gia vào tiểu điếm nghỉ ngơi.
Hồ Phỉ lấy làm lạ hỏi:
– Sao ngươi lại biết ta?
Điếm tiểu nhị cười đáp:
– Tiểu nhân chờ ở đây đã nửa ngày rồi.
Đoạn gã đi trước dẫn đường, mời hai người vào một khách điếm, loại phòng tốt đã dành sẵn một phòng, bây giờ lại lấy thêm một phòng nữa. Trà nước, cơm rượu không cần gọi mà cứ tự nhiên đưa ra tới tấp.
Hồ Phỉ hỏi điếm tiểu nhị:
– Ai bảo ngươi đón chờ ta?
Điếm tiểu nhị cười đáp:
– Hồ đại gia ở Nghĩa Đường trấn, ai lại không biết?
Sáng sớm hôm sau, Hồ Phỉ tính tiền phòng, chưởng quỹ chỉ khom lưng kính cẩn nói là đã tính toán xong xuôi đâu vào đấy cả rồi. Hắn chỉ nhận mấy đồng tiền thưởng cho tiểu nhị mà thôi. Mấy ngày liền đều như vậy, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố tuy là những người cực kỳ thông minh cơ trí nhưng chưa đủ lịch duyệt, nên vẫn chưa nhìn ra những âm mưu trong chốn giang hồ. Đến ngày thứ tư lên đường rồi, Trình Linh Tố nói:
– Đại ca! Mấy bữa nay tiểu muội rất lưu tâm chú ý nhưng vẫn không thấy có ai đi sau theo dõi chúng ta. Tất có người chạy trước nói tướng mạo của đại ca để người ta chờ đón. Vậy chúng ta hãy thay hình đổi dạng để dò xét, không chừng tìm ra được chân tướng vụ này.
Hồ Phỉ cả mừng khen:
– Quả là diệu kế!
Hai người liền vào thị trấn mua mấy bộ quần áo, giày mũ rồi tìm một khu rừng vắng để cải trang. Trình Linh Tố cắt tóc làm râu giả gắn trên cằm Hồ Phỉ để chàng hóa trang thành hán tử trung niên lối bốn mươi tuổi. Phần cô cũng mặc áo trường bào, đầu đội mão nhỏ biến thành một gã thiếu niên gầy ốm. Hai người trông nhau cả cười. Vừa đến trước thị trấn, hai người lại đổi ngựa cưỡi lừa. Hồ Phỉ giấu đơn đao vào bọc, lại mua một cái dọc tẩu hút thuốc. Chàng hút thuốc nhả khói tự nhiên, dù là người tinh mắt cũng không nhận ra được.
Chiều tối hôm ấy, hai người đến Quảng Thủy thấy hai tên điếm tiểu nhị đang giương cổ dòm đông ngó tây. Hồ Phỉ biết bọn chúng đang chờ mình, không khỏi cười thầm, bèn đi thẳng vào trong điếm. Chưởng qũy thấy hai người ăn mặc nghèo nàn, chẳng thèm chào hỏi, rồi cho hai cái phòng bên. Hai tên điếm tiểu nhị chờ cho đến lúc trời tối mịt mới trở về. Hồ Phỉ gọi một tên vào muốn dò la tin tức. Chàng vừa nói mấy câu vớ vẩn bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, mà không phải chỉ có một người.
Điếm tiểu nhị lộ vẻ vui mừng nói:
– Hồ đại gia đến rồi.
Dứt lời y chạy lẹ ra ngoài cửa điếm. Hồ Phỉ thầm nhủ:
– Hồ đại gia đã đến từ sớm và nói chuyện với ngươi mà ngươi vẫn chưa hay.
Chàng liền ra ngoài phòng lớn để coi nhiệt náo thì thấy tiếng người huyên náo. Gã điếm tiểu nhị nọ lớn tiếng bảo:
– Không phải Hồ đại gia. Đây là Đạt quan gia ở tiêu cục.
Tiếp theo một tên chạy cờ cầm tiêu kỳ cắm ở trước khách điếm. Hồ Phỉ nhìn tiêu kỳ không khỏi ngạc nhiên, vì lá cờ nền vàng viền đen có thêu một con tuấn mã cánh mọc trên lưng. Ngày trước ở Thương gia bảo chàng đã nhìn thấy tiêu kỳ này một lần, là cờ hiệu của Phi Mã tiêu cục. Chàng nhớ lại chủ nhân tiêu cục này là Bách thắng thần quyền Mã Hành Không đã chết cháy tại Thương gia bảo, không hiểu bây giờ do ai làm tổng tiêu đầu. Chàng coi lại thấy lá cờ đã rách mướp, hiển nhiên lâu ngày chưa thay đổi. Người chạy cờ là một lão già ốm yếu, chẳng có vẻ tinh lanh chút nào, tựa hồ như gần đây Phi Mã tiêu cục không còn hưng thịnh nữa.
Tiếp theo tiêu đầu tiến vào. Đó là một hán tử khí phách hiên ngang, nhưng trên mặt chằng chịt những vết sẹo. Hồ Phỉ nhận ra hắn là Từ Tranh, đồ đệ Mã Hành Không. Đi sau hắn là một thiếu phụ mặc võ phục, hai tay dắt hai đứa con trai nhỏ tuổi. Thiếu phụ này chính là Mã Xuân Hoa, con gái Mã Hành Không. Hồ Phỉ cùng nàng lâu năm không gặp, hiện nay tuy rằng nàng còn xinh đẹp, nhưng trên khuôn mặt không che giấu nổi vẻ phong sương tiều tụy. Hai đứa con nhỏ ước chừng bốn tuổi, nước da trắng trẻo coi rất khả ái, tướng mạo lại giống hệt nhau. Hiển nhiên là hai anh em sinh đôi.
Bỗng nghe một đứa nhỏ nói:
– Má má, hài nhi đói rồi, cho hài nhi ăn mì đi nhé!
Mã Xuân Hoa cúi xuống bảo nó:
– Được rồi! Chờ gia gia rửa mặt xong rồi cả nhà ta cùng ăn một thể.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Té ra sư huynh sư muội bọn họ đã thành thân và sinh hạ được hai đứa nhỏ này.
Ngày trước chàng ở Thương gia bảo bị Thương lão thái bắt và Thương Bảo Chấn đánh nhừ đòn. Mã Xuân Hoa từng ra sức năn nỉ gã tha cho chàng. Việc này chàng luôn ghi nhớ trong lòng. Bữa nay gặp nhau ở chốn tha hương nếu chàng không muốn để cho người ta nhận ra chân tướng thì đã lại chào hỏi rồi.
Những khách điếm xưa nay không dám đắc tội với tiêu cục, tuy họ thấy Phi Mã tiêu cục chỉ có một xe tiêu và mọi người ăn mặc quần áo cũ mèm, chắc chẳng xơ múi được gì mấy, nhưng chưởng quỹ cũng ra tiếp đãi ân cần. Từ Tranh nghe nói phòng tốt đã hết rồi không khỏi chau mày, muốn nói mấy câu thì người chạy cờ ở phía trong đi ra hỏi:
– Hai gian phòng tốt ở phía nam rõ ràng chẳng phải còn trống đó ư? Sao lại bảo hết rồi?
Chưởng quỹ cười cầu tài, đáp:
– Đạt quan gia lượng thứ cho. Hai gian phòng này người ta đã đưa tiền đặt từ hôm trước, nói là đêm nay sẽ dùng tới.
Mấy năm nay Từ Tranh thời vận xui xẻo, nghề bảo tiêu thường thua lỗ, vì thế mà gã đành chịu ủy khuất. Gã nghe chướng quỹ nói vậy, bèn vỗ tay xuống quầy đánh “chát” một tiếng, toan phát tác. Mã Xuân Hoa vội kéo tay áo gã, nói:
– Thôi mà! Ngủ tạm cho qua một đêm, thế nào cũng được.
Từ Tranh nghe lời vợ, nhưng còn hằm hằm nhìn chưởng quỹ một lần nữa rồi mới bỏ đi vào căn phòng nhỏ ở hướng tây.
Mã Xuân Hoa dắt hai thằng nhỏ đi theo, khẽ nói:
– Món tiêu này thù lao kém quá, nếu không khéo tính thì lại lỗ vốn. Không ở phòng tốt thì bớt được chút tiền càng hay.
Từ Tranh đáp:
– Nàng nói thế cũng phải, nhưng ta thấy bọn chó má khinh người không khỏi tức mình.
Nguyên sau khi Mã Hành Không chết rồi, chẳng bao lâu Từ Tranh cùng Mã Xuân Hoa thành hôn. Hai người kế nghiệp làm chưởng quản Phi Mã tiêu cục, nhưng võ công cùng uy danh của Từ Tranh dĩ nhiên không bằng sư phụ, tính tình lại nóng nảy thẳng thắn, ít kết giao được với bằng hữu trên giang hồ. Ba bốn năm liền gặp phải mấy phen xiểng liểng, mỗi lần như vậy may mà có Mã Xuân Hoa khéo léo mới đắp điếm được phần nào. Có điều từ đấy công việc kinh doanh của Phi Mã tiêu cục như rớt xuống hố sâu muôn trượng, không sao vực lên được nữa.
Chuyến này một thương gia buôn muối yêu cầu đưa món hàng lên bắc tới phủ Bao Định, tỉnh Trực Lệ. Tổng số chỉ có chín ngàn lạng. Các tiêu cục lớn chê thù lao ít quá mới nhường cho Phi Mã tiêu cục. Vợ chồng Từ Tranh trước nay vẫn đi bảo tiêu. Mã Xuân Hoa ở nhà chẳng có thân nhân nhờ cậy được, nàng không yên tâm gởi hai đứa nhỏ nên phải đưa đi theo. Ai nấy đều nghĩ rằng món tiêu ngân chỉ vọn vẹn có chín ngàn lạng bạc thì trên đường cũng chẳng gặp nguy hiểm gì.
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn xe tiêu rồi chạy vào phòng Trình Linh Tố nói:
– Nhị muội! Vợ chồng tiêu đầu này là chỗ quen biết cũ của tiểu huynh.
Hồ Phỉ liền thuật sơ lại việc chàng đã gặp bọn họ ở Thương gia bảo cho Trình Linh Tố nghe.
Trình Linh Tố nói:
– Đại ca có chịu nhìn nhận bọn họ không?
Hồ Phỉ đáp:
– Để sáng mai lên đường gặp chỗ vắng vẻ không người sẽ nhìn nhận nhau.
Trình Linh Tố cười nói:
– Chỗ vắng vẻ không người ư? Cái đó không được rồi. Bọn họ thấy bộ râu của đại ca tất cho là cường đạo đến cướp tiêu.
Hồ Phỉ cũng cười đáp:
– Món hàng này không đáng để Hồ đại trại chủ ra tay. Trình nhị trại chủ! Nhị trại chủ thấy thế nào?
Trình Linh Tố cười nói:
– Xem ra bọn tiêu khách trong mình không có tiền, rất đỗi nghèo nàn. Anh em ta làm cường đạo cũng phải có đạo lý. Đâu phải cứ cưỡi ngựa tới tặng vàng là xong đâu.
Hồ Phỉ cười hà hà. Quả thực chàng có ý tặng vợ chồng họ một ít vàng bạc nhưng chưa biết tính cách nào cho ổn thỏa, làm sao lúc tặng vàng khỏi mất đi sự tương kính.
Hai người ăn cơm tối xong, Hồ Phỉ vào phòng mình nằm ngủ. Đến nửa đêm bỗng nghe trên nóc nhà có tiếng động rất khẽ. Tuy chàng đang lúc mơ ngủ nhưng vẫn giật mình tỉnh giấc. Chàng xoay mình ngồi dậy bước xuống nghe thấy trên nóc nhà có hai người. Hai người kia khẽ vỗ tay một tiếng rồi nhảy xuống.
Hồ Phỉ đứng trước cửa sổ, tự hỏi:
– Hai người này là hạng người nào mà dám lớn mật, không xem ai ra gì như vậy?
Chàng dùng ngón tay chọc thủng giấy dán cửa sổ, nhìn ra ngoài thấy chúng đều mặc trường bào, tay không cầm binh khí, đẩy cửa gian phòng hướng nam tiến vào.
Tiếp theo ánh lửa thấp thoáng, họ đã châm đèn lên. Hồ Phỉ lẩm bẩm:
– Té ra hai người này quen với chủ quán chứ không phải hạng trộm cướp.
Chàng vừa trở về giường nằm lại nghe tiếng giày lạo xạo. Gã điếm tiểu nhị tới cửa phòng lớn tiếng quát hỏi:
– Ai đó? Sao canh khuya không đi cửa lớn mà lại mò vào đây?
Gã vừa hô hoán vừa chạy đến cửa phòng. Chân gã vừa bước lên đã la một tiếng “úi chao”. Tiếp theo nghe “huỵch” một tiếng, rồi có tiếng la:
– Con mẹ nó, nó đánh chết người ta rồi!
Thì ra gã bị người ta hất văng ra, té nhào xuống sân một cái rõ đau. Trận huyên náo này khiến cho bao nhiêu người trong điếm đều tỉnh giấc.
Một trong hai người khách mặc trường bào đứng cửa phòng lớn tiếng hô:
– Chúng ta vâng mệnh Vương đại trại chủ ở núi Kế Công đêm nay đến cướp tiêu, chỉ tìm kiếm Từ tiêu đầu ở Phi Mã tiêu cục. Còn người ngoài không có liên can, hãy mau trở về phòng ngủ đi, để khỏi uổng mạng.
Từ Tranh và Mã Xuân Hoa đã tỉnh giấc rồi, nghe hắn hô vậy bất giác vừa sợ vừa giận, nghĩ thầm:
– Dù quân cường đạo có lợi hại đến đâu đi nữa cũng không thể ngang nhiên sấn vào khách điếm, Quang Thủy này chẳng phải là địa phương nhỏ bé, mà sao lại có hạng vô pháp vô thiên đến thế? Thật là điều chưa từng thấy.
Từ Tranh lớn tiếng đáp:
– Từ mỗ ở đây. Xin hai vị để tính danh lại.
Người kia cười hô hố đáp:
– Ngươi đem chín ngàn lạng bạc, một cây tiêu kỳ, hai tay dâng cho đại gia là xong, còn hỏi tên họ của đại gia làm gì? Bọn ta đang chờ ngươi phía trước đó.
Dứt lời hắn vỗ tay bốp bốp hai tiếng. Hai người liền phi thân vọt lên nóc nhà. Từ Tranh vung tay phải ném hai mũi cương tiêu lên. Người kia xoay tay lại bắt lấy rồi ném xuống, nghe “bộp” một tiếng, cách mình Từ Tranh chừng một thước, hỏa quang bắn tứ tung. Hai mũi cương tiêu đều cắm vào phiến đá xanh trong sân, kình lực đã mãnh liệt, thủ pháp lại chuẩn đích, Từ Tranh không thể bì kịp. Hai người trên nóc nhà cười hô hố, tiếp theo tiếng vó ngựa vang lên chạy về hướng bắc.
Chủ quán và khách trọ trong điếm chờ cho hai người kia đi rồi mới bàn tán nhao nhao cả lên. Người thì bảo đi báo quan, người thì khuyên Từ Tranh nên đi đường vòng là hơn. Từ Tranh lẳng lặng không nói gì, nhổ hai mũi cương tiêu trở về phòng. Vợ chồng khẽ thương nghị với nhau, đều nhìn nhận hai người kia võ công quả thật bất phàm, nhất định là nhân vật nổi danh trong võ lâm, mà sao lại dòm ngó món tiêu ngân nhỏ này? Tuy hai người biết con đường trước mặt chẳng được yên lành, nhưng theo quy củ thì một khi xe tiêu ra khỏi cửa chỉ tiến chứ chẳng thể quay về, bằng không thì coi như là tự mình hạ chiêu bài dẹp tiệm.
Từ Tranh phẫn hận nói:
– Bọn hắc đạo càng ngày càng khinh người quá lắm. Từ nay chén cơm của chúng ta có còn giữ nổi không? Ta có liều cái mạng này cũng chẳng cần gì nhưng còn hai đứa con…
Mã Xuân Hoa ngắt lời:
– Bọn mình vốn không có thù oán với phe hắc đạo, quá lắm thì chỉ mất bạc là cùng, chứ chưa can hệ gì đến tính mạng, có đưa cả hai đứa nhỏ đi cũng không sao.
Tuy miệng nàng nói vậy mà lòng rất hối hận, vì hiểu rằng không nên cho con nhỏ theo cha mẹ dấn thân vào trường phong ba nguy hiểm trên chốn giang hồ.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đứng cạnh cửa sổ đã nhìn rõ hết, trong lòng rất lấy làm lạ và nhận thấy có nhiều điều mình chưa hiểu được. Hai ngươi đã tưởng sau khi hóa trang là tránh khỏi cuộc truy tung, ngờ đâu ngay ngày đầu tiên đã gặp vụ kỳ quái này của Phi Mã tiêu cục.
Sáng sớm hôm sau, xe tiêu của Phi Mã tiêu cục lên đường. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố lập tức đi theo sau. Từ Tranh thấy hai người thủy chung cứ bám mãi theo xe tiêu liền cho rằng càng đi tới là càng có nhiều điều bất lợi. Gã tưởng hai người này cùng phe với bọn cướp, nên thỉnh thoảng cứ quay lại giương cặp mắt tức giận lên nhìn hai người. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố vẫn lờ đi như chẳng thấy.
Đến trưa hai người ăn cơm cùng một quán với bọn Phi Mã tiêu cục. Đi đến lúc xế chiều, còn cách ải Võ Thắng chừng bốn chục dặm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, có hai người cưỡi ngựa từ phía trước mặt lao tới. Khách kỵ mã mặc trường bào màu xám lướt qua cạnh xe tiêu, đi thẳng đến bên Hồ Phỉ và Trình Linh Tố, sóng vai đi song song với nhau rồi cùng nổi lên tràng cười ha hả, đúng là thanh âm của hai tên bạo khách đêm qua.
Hồ Phỉ nói:
– Cứ chờ cho chúng quay lại rượt theo được vài dặm rồi hãy động thủ.
Chàng chưa dứt lời, lại nghe tiếng vó ngựa phía trước vang lên. Lại hai người cưỡi ngựa lướt qua. Những người trên ngựa đều vũ dũng hiên ngang rõ ràng là các nhân vật võ lâm.
Hồ Phỉ lẩm bẩm:
– Kỳ quái thật!
Đi chưa được vài dặm, bỗng thấy có hai người cưỡi ngựa chạy ngược chiều đi lướt qua, rồi tiếp theo lại có hai người nữa.
Từ Tranh thấy khí thế cường địch rất mạnh, gã đâm liều, không giận mà lại cười khanh khách nói:
– Sư muội! Ta nghe sư phụ thường nói những đại trại chủ hạng nhất trong lục lâm một khi đã lao sư động chúng là cướp hàng hạng nhất, mà cũng chỉ phái sáu tay hảo thủ đi do thám. Bữa nay cả trước sau có đến tám vị cao nhân, bên cạnh còn có hai âm hồn bất tán bám theo nữa, thì e rằng chuyến bảo tiêu của chúng ta không phải chín ngàn lạng mà là chín trăm vạn hay chín ngàn vạn lạng.
Mã Xuân Hóa không sao đoán được vì lẽ gì địch nhân lại mở cờ giong trống để đối phó với chuyến hàng nhỏ mọn chẳng có chi đáng kể này. Vì càng không hiểu nên lại càng lo lắng, nàng nhìn Từ Tranh và lão chạy cờ nói:
– Lát nữa mà liệu tình thế không ổn thì chúng ta bồng hai đứa nhỏ chạy trốn là việc khẩn yếu. Chín ngàn lạng tiêu ngân cũng chẳng lấy chi làm lớn, mình cứ dành dụm rồi bồi thường sau cũng được.
Từ Tranh ngang nhiên đáp:
– Sư phụ một đời nổi tiếng anh hùng mà để thanh danh tiêu tan trong tay đứa đệ tử bất tài này được ư?
Mã Xuân Hoa buôn rầu đáp:
– Mình cần giữ lấy hai thằng nhỏ đã rồi từ nay quay về làm ruộng, ăn miếng cơm cực nhọc cũng được, chứ không phải động đến đao kiếm và liều mạng thế này.
Nàng nói tới đây bỗng nghe phía sau có tiếng vó ngựa dồn dập, liền quay đầu nhìn thì thấy tám tên kỵ mã từ phía sau lao ngựa tới. Nghe “vù” một tiếng, một mũi tên bay qua đỉnh đầu. Tiếp theo phía trước mặt cũng có tám con ngựa nữa chạy tới.
Hồ Phỉ nói:
– Coi tình thế này thì dường như bọn chúng vì chúng ta mà kéo tới.
Trình Linh Tố gật đầu đáp:
– Bọn Điền Quy Nông!
Hồ Phỉ nói:
– Chúng ta cải trang cũng không xong nên bị nhận ra rồi.
Lúc này phía trước có tám người cưỡi ngựa, phía sau cũng có tám người đồng thời dừng cương đứng lại, bao vây cả tiêu xa lẫn Hồ, Trình vào giữa.
Từ Tranh tung người nhảy xuống ngựa, rút đơn đao ra, chắp tay nói:
– Tại hạ là Từ…
Gã mới nói được mấy tiếng thì một lão già trong tám người kỵ mã phía trước đột nhiên nhảy xuống ngựa, lao thẳng tới, trong tay cầm một thứ binh khí hình thù quái dị, chẳng nói chẳng rằng đánh ngay vào mặt Từ Tranh. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố dừng ngựa đứng bên thấy trong tay lão cầm một thứ binh khí rất cổ quái. Phía trước là một cái đòn ngang uốn cong như con rắn, sau đòn ngang là cán tay cầm hình chữ đinh, hai đầu đòn ngang đều nhọn hoắt giống như cái cày hình mỏ hạc biến dạng ra.
Hồ Phỉ không biết là thứ gì, bèn hỏi Trình Linh Tố:
– Cái đó là cái gì?
Trình Linh Tố chưa kịp đáp thì một tên đại đạo ở phía sau cười rộ, đáp:
– Lão tiểu tử, để ta dạy khôn cho, cái đó gọi là “Lôi chấn đáng”.
Trình Linh Tố nói ngay:
– Lôi chấn đáng mà không dùng chung với thiểm điện chùy thì võ công cũng chỉ bình thường.
Tên đại đạo kia ngẩn người ra không nói năng gì, liếc mắt nhìn Trình Linh Tố bụng bảo dạ:
– Thằng nhỏ ốm tong này mà cũng biết đến thiểm điện chùy ư?
Nguyên lão già sử dụng lôi chấn đáng là sư huynh của tên đại đạo này, còn gã sử dụng thiểm điện chùy. Sư phụ của hai người này tay phải sử thiểm điện chùy, tay trái sử lôi chấn đáng, một tay công một tay thủ, biến hóa vô cùng kỳ điệu. Hai cây binh khí này một ngắn một dài, lúc sử dụng hai tay cùng hỗ trợ, uy lực cực kỳ mãnh liệt, nhưng sử như vậy rất khó khăn nên sư huynh sư đệ gã được sư phụ chia ra truyền thụ cho mỗi người một ngón, thủy chung họ không sử dụng được cả hai cây cùng lúc.
Hai người này ở ngoài quan ải từ thuở nhỏ, vào đến Trung nguyên chưa được bao lâu. Cây thiểm điện chùy gã lại giấu trong tay áo chưa lấy ra, không ngờ Trình Linh Tố nói rõ lai lịch khiến gã không giấu được vẻ kinh ngạc. Gã có ngờ đâu Vô Sân đại sư, sư phụ của Trình Linh Tố kiến văn rất quảng bác. Ngày thường ông hay giảng cho cô tiểu đồ đệ yêu về võ công các gia phái, nên cô dù chưa thấy cây lôi chấn đáng nhưng vừa nghe tên đã biết ngay phải có cây thiểm điện chùy đi theo.
Lão già kia vung binh khí cho bật lên những tiếng ầm ầm như sấm nổ, quả nhiên uy thế kinh người. Đao pháp của Từ Tranh tuy không đến nỗi yếu kém, nhưng gã bị cây lôi chấn đáng khống chế, dần dần không còn có thể triển khai bản lĩnh được nữa.
Bỗng nghe mười lăm tên đại đạo cả mặt trước mặt sau, mỗi người nói một câu, cùng lên tiếng chế nhạo:
– Cái gì mà Phi Mã tiêu cục? Ngày trước Mã lão tiêu đầu đi bảo tiêu mới dùng đến hai chữ “Phi Mã”, chứ đến tay gã họ Từ kia thì nên đổi thành “Cẩu Ba tiêu cục” là hơn!
– Thằng lỏi này học được mấy miếng võ mèo quào sao không ở nhà ẵm con, còn đi giương mặt ra với đời làm gì?
– Này, gã họ Từ kia! Mau chạy lại dập đầu ba cái thì bọn đại ca chúng ta sẽ tha cho cái mạng chó của ngươi.
– Bảo tiêu gì mà ngu xuẩn thế, có chín ngàn bạc cũng lãnh. Sao bằng đi bán đậu hũ còn hay hơn!
– Thần quyền vô địch Mã lão tiêu đầu ngày trước oai danh lừng lẫy trong võ lâm chẳng ai là không kính phục, không ngờ thằng lỏi bị thịt này không bì nổi sư phụ.
– Ta coi vợ gã còn giỏi hơn gã gấp mười lần. Thật là bông hoa lài cắm bãi phân trâu, khiến người ta nhìn vào phải nổi nóng!
Hồ Phỉ nghe bọn chúng mồm năm miệng mười, nhao nhao thóa mạ cảm thấy bọn cường đạo này biết rất rõ gốc gác của Từ Tranh. Chẳng những chúng hiểu rõ cả lai lịch sư thừa mà còn biết gã lãnh món hàng bao nhiêu bạc nữa. Chúng nhục mạ Từ Tranh bằng những lời lẽ cực kỳ khắc bạc, nhưng lại không hề mảy may xúc phạm tới Mã Xuân Hoa cùng phụ thân quá cố của nàng, thậm chí chúng còn tỏ ra rất tôn kính nữa.
Hồ Phỉ dù chưa hề biết tới lôi chấn đáng, nhưng thấy lão già kia công lực rất thâm hậu mà ra tay vừa tàn độc lại vừa chuẩn xác, bất giác tự nhủ:
– Lão này tuy chưa thể là hạng nhất lưu cao thủ trên chốn giang hồ, nhưng võ công của lão như vậy thì nhất định là một nhân vật thành danh. Xem hành động của bọn này thì chắc chắn không phải vì món tiêu ngân chín ngàn lượng nhỏ xíu này. Nhưng nếu bọn chúng do Điền Quy Nông phái tới để làm khó dễ cho ta, thì việc gì phải hao phí sức lực để đối phó với Từ Tranh?
Mã Xuân Hoa đứng bên, trong lòng rất đỗi bồn chồn. Nàng đã sớm biết chồng mình không phải là đối thủ của bọn kia, nhưng nàng có xông vào trợ lực thì giỏi lắm cũng chỉ đẩy lui được một tên địch, chẳng những không ích gì cho cuộc đấu, mà để hai đứa con không người chiếu cố tất lọt vào tay bọn cướp. Nàng đành giương mắt nhìn thấy chồng mỗi lúc một đi dần vào chỗ nguy khốn.
Đột nhiên lão già kia phóng nhanh binh khí hình con rắn về phía trước rồi xoay một vòng khiến thanh đơn đao của Từ Tranh tuột khỏi tay bay lên, Mã Xuân Hoa liền la hoảng lên một tiếng. Lão già đưa chân quét ngang một cái, Từ Tranh vội nhảy lên né tránh. Giữa lúc ấy thanh đơn đao từ trên không rớt xuống. Một tên trong bọn cướp cưỡi ngựa vung thanh trường kiếm chém một cái. Thanh cương đao lập tức đứt làm hai đoạn. Thân thủ hắn rất mau lẹ, lại khoa kiếm quét hai nhát, hai đoạn đao gãy chưa kịp rơi xuống đất đã bị chặt gãy thành bốn đoạn. Chẳng những thanh bảo kiếm trong tay hắn cực kỳ sắc bén mà hắn ra tay vô cùng thần tốc khiến người nhìn thấy phải lóa mắt. Bọn cường đạo hoan hô ầm ĩ cả lên.
Xem tình thế lúc này thì việc đối phó với Từ Tranh để chặn đường cướp tiêu chỉ là một trò đùa. Chỉ một tên đại đạo tay cầm trường kiếm cũng thừa sức đánh bại hai vợ chồng Từ Tranh, huống chi cả bọn mười sáu người có vẻ đều là cao thủ? Bọn chúng tên nào cũng cười nói ung dung, chẳng khác gì mười sáu con mèo lớn nhằm bắt bốn con chuột nhắt, chúng muốn giỡn chơi rồi mới chia nhau ăn thịt.
Từ Tranh cặp mắt đỏ ngầu, hai tay vung lên, thi triển toàn những chiêu quyền thí mạng, nhưng thanh lôi chấn đáng của lão già kia dài hơn bốn thước thì gã làm sao sấn vào gần được? Sau mấy chiêu bỗng nghe đánh “toạc” một tiếng. Mũi lôi chấn đáng đã xả rách ống quần của Từ Tranh. Máu tươi ở đùi chảy ra lênh láng, Tiếp theo lại nghe đánh “binh” một tiếng, vai trái của Từ Tranh lại bị trúng cây lôi chấn đáng. Lão già liền phóng cước đá Từ Tranh ngã lăn xuống đất.
Lão giẫm chân lên người Từ Tranh cười nhạt nói:
– Ta không cần giết ngươi mà chỉ cần phế bỏ mấy chiêu thức vừa rồi của ngươi, để phạt ngươi cái tội có mắt không tròng, hồ đồ quá đáng.
Từ Tranh vừa khiếp sợ lại vừa phẫn nộ, uất khí xông lên nghẹn cổ không nói ra lời.
Mã Xuân Hoa la lên:
– Các bạn hữu muốn lấy tiêu thì lấy đi là xong. Giữa chúng ta cùng các vị ngày trước chẳng có oán, gần đây cũng không có thù, hà tất phải đuổi cùng giết tận?
Tên đại đạo sử dụng trường kiếm đáp:
– Mã cô nương, cô nương là người tốt, bất tất can thiệp vào việc không đâu này.
Mã Xuân Hoa hỏi:
– Sao lại bảo can thiệp vào việc không đâu? Y là chồng của tiện thiếp mà.
Lão già sử lôi chấn đáng đáp:
– Bọn lão phu nhận thấy gã không xứng đáng chút nào. Một người tài mạo song toàn như Mã cô nương mà phải chịu ủy khuất, khiến bọn tại hạ phải bôn ba từ xa xôi vạn dặm tới đây. Cái đó gọi là ôm mối bất bình mà không giải tỏa là không được!
Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố càng nghe càng lấy làm lạ, nghĩ thầm:
– Quân đại đạo này xen vào việc vợ chồng nhà người ta mà lại bảo can thiệp vào chuyện bất bình, quả thật buồn cười.
Hai người đưa mắt nhìn nhau, khoé mắt đều có ý cười thầm. Giữa lúc ấy lão già vung cây lôi chấn đáng lên đâm vào mặt Từ Tranh. Mã Xuân Hoa la lên một tiếng, chạy lại trợ lực. Bỗng nghe “vèo” một tiếng, một tên đại đạo phóng cây hoa thương từ trên cao đâm xuống để ngăn nàng lại.
Hai đứa nhỏ la hoảng:
– Gia gia!
Rồi chúng chạy đến bên Từ Tranh.
Đột nhiên bóng xám thấp thoáng, lão già kia thấy cổ tay tê chồn, vội xoay cây lôi chấn đáng nghinh địch, nhưng bỗng thấy cánh tay nhẹ hẫng, té ra binh khí trong tay không hiểu đã biến đi đằng nào. Lão vừa giận vừa sợ ngửng đầu lên nhìn thì bóng xám đã nhảy lên mình ngựa. Binh khí độc môn của lão là cây lôi chấn đáng người kia đã đoạt mất và đang múa thành những vòng bạch quang lấp loáng. Người xông tới chớp nhoáng, và chỉ trong nháy mắt đã lên ngựa xuống ngựa, lại tay không đoạt lấy cây lôi chấn đáng của lão chính là Hồ Phỉ.
Quần đạo nhìn nhau kinh hãi. Chỉ trong khoảnh khác, tất cả đều yên lặng như tờ, chẳng ai nói một câu. Diễn biến trước mắt khiến mọi người ngẩn cả người ra. Sau một lúc mới nghe tiếng quần đạo hô hoán vung đao chống trượng chạy về chỗ Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ quát lớn:
– Trên tờ giấy là chữ “cáp” phải không? Gió gấp lên, hãy xé toang ra, cửa hoa mau vào lọ cổ, con thỏ ba đao hãy đến đây, râu tóc hãy xổ tung ra. Tài thần Bồ Tát thượng sơn!
Bọn đạo tặc lại thêm một phen sửng sốt, nghe chàng đọc thần chú không ra thần chú, không hiểu bảo xé toang cái gì. Lão già bị đoạt lôi chấn đáng cả giận hỏi:
– Bằng hữu! Bằng hữu ở phe phái nào? Dấn thân vào chỗ nước đục này làm chi?
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ chuyên làm nghề buôn bán không vốn, thấy chín ngàn lạng tiêu ngân của Phi Mã tiêu cục dễ ăn nên đi theo. Ai ngờ dọc đường lại chạm trán mười sáu vị Trình Giảo Kim. Các vị đòi chia phần, hỏi ai mà chẳng đau lòng?
Lão già cười lạt nói:
– Hừ! Bằng hữu đừng giả vờ nữa. Muốn tử tế thì hãy lưu danh tính lại.
Từ Tranh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, vội lại dắt hai đứa nhỏ. Mã Xuân Hoa đứng bên gã, dương cặp mắt nhìn sững Hồ Phỉ. Trong lúc nhất thời nàng chưa nhìn rõ trước mắt đã xảy ra chuyện gì. Nàng cứ ngỡ Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cũng là phường trộm cướp, ngờ đâu chàng lại sinh sự với lão già kia.
Bỗng thấy Hồ Phỉ đưa tay lên vuốt chòm râu trên mép, ngậm cây dọc tẩu, nói:
– Thần quyền vô địch Mã Hành Không là sư đệ ta. Đây là việc của sư điệt, lão nhân gia đây chẳng thể không can thiệp.
Hồ Phỉ vừa nói câu này, Mã Xuân Hoa giật mình kinh hãi tự hỏi:
– Vị sư bá này ở đâu ra? Ta chưa từng nghe gia gia nói đến bao giờ, vả lại người này nhỏ tuổi hơn gia gia nhiều, sao lại làm sư bá ta được?
Trình Linh Tố đứng một bên coi chàng làm bộ làm tịch không nhịn được phải bật cười. Có điều cô thấy chàng đứng trước mặt đại địch, thân bị hãm vào trùng vây mà vẫn cười nói tự nhiên thì không khỏi khâm phục chàng là một tay gan dạ.
Lão già kia bán tín bán nghi hừ một tiếng, rồi hỏi:
– Tôn giá là sư huynh của Mã lão tiêu đầu ư? Về tuổi tác thì dường như chẳng phải mà bọn tại hạ chưa từng nghe nói Mã lão tiêu đầu có vị sư huynh nào cả.
Hồ Phỉ đáp:
– Sư môn ta không kể tuổi nhiều tuổi ít, chỉ xét ai nhập môn trước mà thôi. Mã Hành Không là nhân vật cỡ nào mà ta phải mạo xưng làm sư huynh của y?
Trong võ lâm, nhiều môn phái có quy củ hễ ai nhập môn trước là sư huynh. Lão già kia liền đưa mắt nhìn Mã Xuân Hoa để dò xét thái độ của nàng, rồi quay lại hỏi Hồ Phỉ:
– Lão phu vẫn chưa thỉnh giáo tôn tính đại danh của tôn giá?
Hồ Phỉ ngửa mặt lên trời đáp:
– Sư đệ ta là Thần quyền vô địch Mã Hành Không, tại hạ là Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền.
Câu này hiển nhiên là lời bịa đặt để nhạo người. Lão già thấy chàng tay không đoạt khí giới của mình nên mới đối đáp với chàng mấy câu, nếu không thì đã động thủ rồi. Bản tính lão cực kỳ nóng nảy, lại nghe bà chữ “Ngưu Canh Điền” thì không nhịn được nữa, liền gầm lên một tiếng, rồi xông tới Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ giật cương ngựa né tránh, cây lôi chấn đáng rung động, lão già trong tay đột nhiên có một vật, liền giơ lên nhìn, thì ra là cây lôi chấn đáng của mình. Vật về chủ cũ, đáng lẽ lão hân hoan mới đúng, nhưng đằng này không phải lão tự đoạt mà lại do đối phương nhét vào tay, khiến lão chưa nhìn rõ, binh khí đã trở về tay một cách lạ lùng.
Quần đạo đồng thanh hoan hô:
– Chử đại ca bản lãnh tuyệt diệu!
Chúng đều tưởng lão dùng công phu “Không thủ nhập bạch nhẫn” để đoạt lại binh khí. Lão họ Chử tự biết rõ sự việc khác nào nuốt phải bồ hòn miệng ngậm đắng mà không nói ra dược.
Lão sửng sốt hỏi:
– Tôn giá can thiệp vào vụ này rốt cuộc để làm gì?
Hồ Phỉ đáp:
– Lão huynh đây đã nói rồi. Vợ chồng tệ sư điệt đang sống êm ấm, việc gì các vị lại phải can thiệp vào chuyện bất bình?
Lão già họ Chử nói:
– Can thiệp vào chuyện không đâu chẳng lợi ích gì cho tôn giá. Tại hạ có lời khuyên tôn giá nên đường ai nấy đi là hơn!
Quần đạo rất đỗi ngạc nhiên tự hỏi:
– Chử đại ca bình nhật nóng như lửa mà sao bữa nay lại đằm tính thế?
Hồ Phỉ cười khanh khách đáp:
– Các hạ nói đúng lắm. Dính dáng vào việc người là điều vô ích. Chúng ta cứ ai đi đường nấy. Xin mời!
Lão già họ Chử lùi lại ba bước quát:
– Tôn giá đã không chịu nghe lời nói phải, có phải muốn bắt buộc tại hạ phải lãnh giáo mấy cao chiêu?
Lão nói rồi đưa cây lôi chấn đáng che trước ngực.
Hồ Phỉ nói:
– Đơn đả độc đấu thì có gì là thú vị? Nhưng nhiều người quá cũng rối beng bất tiện. Bây giờ thế này, một mình Ngưu Canh Điền đấu với ba vị.
Dứt lời chàng cầm cái dọc tẩu trỏ vào hán tử cầm trường kiếm, lại trỏ vào tên sư đệ của lão già.
Hán tử sử kiếm tướng mạo hiên ngang, thái độ ngạo mạn, ngửa mặt lên trời, cười nói:
– Lão tiểu tử kia thật là cuồng vọng.
Nhưng lão họ Chử đã biết Hồ Phỉ không phải hạng dễ ăn. Nếu đơn đả độc đấu với chàng thì không nắm chắc được phần thắng. Nay chàng đã tự nguyện khiêu chiến với cả ba người là một điều mong còn không được, lão liền hô:
– Nhiếp hiền đệ! Thượng Quan sư đệ! Y đã tự chuốc lấy cái chết thì không oán ai được nữa. Vậy ba chúng ta cùng bỡn với y một phen.
Hán tử họ Nhiếp không thích, đáp:
– Xem chừng lão tiểu tử kia đâu phải là đối thủ của Chử đại ca? Đâu cần phải đến hai huynh đệ của đại ca cùng ra tay, hãy để anh em chiêm ngưỡng tuyệt kỹ “Lôi điện giao tác” ngoài quan ải.
Quần đạo hoan hô như sấm dậy.
Hồ Phỉ lắc đầu đáp:
– Hạng người ít tuổi thành ra nhỏ mật. Đáng tiếc ơi là đáng tiếc!
– Xin Chử đại ca hãy lùi lại, để một mình tiểu đệ cho tên cuồng đồ này một bài học.
Hồ Phỉ hỏi:
– Tiểu huynh đệ! Ngươi muốn cho Oa quyền vô địch Ngưu Canh Điền ta một bài học cũng được, nhưng ta cần nói trước: Nếu ta thua ngươi, thì ngươi muốn giết muốn mổ thế nào tùy ý, nhưng nếu tiểu huynh đệ lỡ tay thất bại thì làm thế nào?
Hán tử họ Nhiếp cười lạt đáp:
– Đó là ngươi cuồng tâm vọng tưởng, mơ mộng hão huyền.
Hồ Phỉ mỉm cười nói:
– Biết đâu nhờ trời giúp đỡ, tiểu huynh đệ nhà ngươi có mệnh hệ gì thì làm thế nào?
Hán tử họ Nhiếp quát lên:
– Ai thèm nói nhăng nói cuội với ngươi? Nếu ta thua thì để tùy lão tiểu tử ngươi xử trí.
Hồ Phỉ nói:
– Tùy ý xử trí thì không dám, tại hạ chỉ xin các vị khoan hồng đại lượng đừng xen vào việc nhà của vợ chồng tệ sư điệt, còn mối bất bình đó, bọn ta đừng để tâm tới nữa là xong!
Gã họ Nhiếp không nhẫn nại được nữa, hắn vung trường kiếm lên, hàn quang lấp lánh, quát lớn:
– Cứ thế là được!
Hồ Phỉ đảo mắt nhìn bọn cường đạo hỏi:
– Lời của Nhiếp gia tiểu huynh đệ đây có thể tin được chăng? Nếu y thua thì các vị có can thiệp vào chuyện bất bình này hay không?
Trình Linh Tố nghe tới đây không nhịn được nữa phải phì cười. Cô nghĩ đến Hồ Phỉ còn nhỏ tuổi mà cứ mở miệng ra là gọi người ta một điều tiểu huynh đệ, hai điều tiểu huynh đệ, không cho bọn kia vì cái vụ “Bông hoa lài cắm bãi phân trâu” mà huy động đông người đến can thiệp, thì chuyện này thật tức cười, nhưng chàng lại nhúng tay vào vụ này một cách ngang ngược thì quả là điều ngoài sức tưởng tượng.
Quần đạo vốn biết hán tử họ Nhiếp kiếm thuật tinh kỳ, trong tay lại có bảo kiếm chặt sắt như cắt bùn. Nếu hắn ra tay đấu với lão già nhà quê lún phún râu trê kia thì nhất định sẽ thắng. Bọn chúng đi chuyến này chẳng qua là một cuộc mua vui, giữa đường lại gặp được trận đấu cực kỳ thú vị thế này thì đúng là cầu còn chẳng được, bèn nhao nhao lên đáp:
– Lão lún phún râu trê kia mà thắng y một chiêu nửa thức là bọn ta phủi đít đi ngay, cái chuyện bất bình này nhất định không can thiệp nữa!
Hồ Phỉ nói:
– Lời các vị toàn nói tiếng người thì nhớ giữ lấy lời. Còn việc có can thiệp vào chuyện bất bình được không thì hãy xem chút bản lĩnh của lão gia ta đây.
Đột nhiên chàng cầm dọc tẩu cài vào cổ áo, tung mình xuống ngựa lóng cóng suýt té. Quần đạo nghe chàng hô “Coi chiêu đây!”, lại thấy chàng vung dọc tẩu lên đều tưởng chàng dùng nó làm binh khí, không ngờ chàng lại cắm vào cổ áo, rồi thấy chàng nhảy xuống ngựa, thân pháp rất vụng về khiến mười lăm tên đại đạo đứng coi thì mười ba tên phải cười ồ lên.
Hán tử họ Nhiếp quát hỏi:
– Lão tiểu tử kia dùng binh khí gì sao không lấy ra?
Hồ Phỉ đáp:
– Trâu cày ruộng chỉ quen dùng lưỡi cày! Chử đại trại chủ! Vật đại trại chủ cầm trong tay cũng có cái đó giống cái lưỡi cày, hãy cho tại hạ mượn đỡ.
Chàng vừa nói vừa xòe tay về phía lão già họ Chử để mượn cây lôi chấn đáng. Lão già vẫn có lòng úy kỵ Hồ Phỉ, vội lùi lại hai bước, tức giận đáp:
– Không được! Xem chừng tôn giá không biết sử dụng:
Hồ Phỉ vẫn xòe bàn tay phải giữ nguyên tư thế xin đồ vật, hỏi tiếp:
– Cho mượn một chút thì đã hề gì?
Đột nhiên chàng vươn tay trái ra, lão già kia vung cây đáng lên đỡ, không hiểu tại sao chỉ còn tay không. Cây lôi chấn đáng đã lọt vào tay Hồ Phỉ rồi.
Lão già cả kinh nhảy lùi lại hơn trượng, da mặt co rúm như người thấy quỷ mị. Nên biết công phu “Không thủ đoạt bạch nhận” của Hồ Phỉ là một tuyệt kỹ mà viễn tổ chàng là Phi Thiên Hồ Ly đã dày công nghiên cứu. Ngày trước Phi Thiên Hồ Ly phò tá Sấm vương Lý Tự Thành dấy binh đánh thiên hạ, nhờ bản lãnh này mà đã đoạt được không biết bao nhiêu binh khí trong tay các anh hùng hảo hán. Thật là một tuyệt kỹ biến ảo vô cùng, thần xuất quỷ nhập kỳ dị tuyệt luân. Bốn chữ “Phi Thiên Hồ Ly” quá nửa là từ đó mà ra.
Hán tử họ Nhiếp thấy Hồ Phỉ đã có binh khí trong tay, liền cầm kiếm đâm vào sau lưng chàng. Hồ Phỉ nghiêng mình tránh, cầm đáng xoay lại phản kích, từ mé tả đánh hất lên, cây lôi chấn đáng xoay một vòng rồi đâm ngang. Lão họ Chử nhìn thấy miệng há hốc ra không ngậm lại được.
Nguyên những chiêu số Hồ Phỉ sử dụng đúng là những chiêu thuộc về sáu mươi tư đường “Oanh thiên lôi chấn đáng pháp” mà lão đã được sư phụ đích thân truyền thụ, chẳng sai một chút nào. Sư đệ lão họ Thượng Quan lại càng kinh ngạc vì hắn nghe rõ Hồ Phỉ không hiểu cả cái tên lôi chấn đáng là gì, mà lúc sử đáng lại giống hệt sư ca.
Hai người đâu ngờ rằng Hồ Phỉ đã có một căn bản rất sâu xa về võ công, lại thông minh tuyệt đỉnh. Chàng vừa coi lão già đấu với Từ Tranh đã thuộc lòng mọi chiêu số. Huống chi những chiêu số chàng sử dụng tuy giống về hình thức, nhưng cách vận dụng kình lực và biến hóa bên trong lại hoàn toàn chẳng có liên can.
Hán tử họ Nhiếp không dám khinh thường nữa, đường kiếm nhẹ nhàng linh hoạt và thân thủ cũng di chuyển mau lẹ. Hồ Phỉ dùng binh khí đã không thuận tay, lại muốn làm lóa mắt mọi người, từng chiêu số sử dụng đúng như võ công của lão già họ Chử nên càng bị câu thúc. Chàng thấy thanh trường kiếm của đối phương phóng ra hàn quang lấp loáng, kiếm pháp cũng không phải tầm thường.
Hồ Phỉ vừa đánh vừa nghĩ:
– Xem chừng mười sáu địch nhân đều là tay chẳng vừa, nếu họ xông cả vào thì dù ta cùng nhị muội có thể thoát thân được, nhưng cả nhà Từ Tranh bốn người tất bị tai họa. Mình cần thắng gã này để bọn họ không động thủ được mới là thượng sách.
Đột nhiên trường kiếm của địch nhân bổ xuống, chàng biết là không ổn, đang nghĩ cách biến chiêu thì đã nghe “choang” một tiếng. Một đầu cây lôi chấn đáng bị lưỡi kiếm chặt đứt. Quần đạo thấy cử chỉ của Hồ Phỉ có vẻ tà môn, trong lòng không khỏi hồi hộp, đột nhiên thấy hán tử họ Nhiếp thắng lợi liền đồng thanh hoan hô. Hán tử họ Nhiếp phấn khởi tinh thần, tiến dần lên từng bước đánh rất rát.
Hồ Phỉ học được mấy chiêu vẻ đáng pháp cúa lão họ Chử đã sử hết rồi, liền thầm nghĩ nếu còn đánh thế này mãi tất bị lộ tẩy. Chàng thấy lôi chấn đáng bị hớt một đầu, trong lòng chợt nảy ra một ý, liền xoay đáng lại, đâm chênh chếch tới. Địch nhân chuyển trường kiếm một vòng. Lại một tiếng “choang” nữa vang lên. Đầu kia cây đáng bị hớt nốt.
Hồ Phỉ la lên:
– Hay lắm! Ngươi đã không nể mặt Chử đại gia, phá hủy cây binh khí đã thành đanh của y thì thật chẳng còn tình bằng hữu chi nữa!
Hán tử họ Nhiếp ngớ người vì hắn nghĩ lời nói của đối phương rất có lý.
Đột nhiên lại thêm một tiếng “choang” vang lên. Hồ Phỉ cầm nửa cây đáng gãy đập vào lưỡi kiếm. Trong tay chàng chỉ còn một khúc ngắn dài chừng hơn thước. Chàng lại hô lớn:
– Biết sử lôi chấn đáng mà không sử được thiểm điện chùy thì võ công cũng tầm thường thôi.
Chàng nói rồi cầm khúc đuôi cây đáng đâm ra như đang sử cây “phá giáp chùy”. Tên đại đạo họ Thượng Quan nghe chàng nói tới thiểm điện chùy thì không khỏi kinh hãi, nhưng thấy chàng đi mấy đường chùy quét ngang đâm thẳng hoàn toàn không đúng cách mới hơi yên dạ.
Gã cười ha hả, hỏi:
– Thiểm điện chùy đó thuộc môn phái nào?
Hồ Phỉ đáp:
– Chùy pháp của các hạ không đúng, của tại hạ mới đúng.
Chàng nói rồi lại phóng cây đáng đâm liền mấy nhát. Kỳ thực ngoài thanh đơn đao ra chàng chẳng biết sử dụng một món binh khí nào khác. Chùy pháp chàng sử dụng chỉ là đồ giả, điểm lợi hại toàn nằm ở tay trái, khi đánh gần thì tay trái vung ra như lưỡi câu để khống chế đối phương. Cái đó đúng là “gần một tấc thì nguy hiểm một tấc”.
Gã họ Nhiếp tuy có lợi kiếm trong tay nhưng không cản trở được cây đáng, gã bị Hồ Phỉ tấn công phải lùi lại liên tục. Chợt gã rú lên một tiếng, cả hai người đồng thời nhảy lùi lại. Bỗng thấy trước mặt Hồ Phỉ ánh tinh quang lấp loáng, thanh bảo kiếm đã lọt vào tay chàng. Hồ Phỉ quỳ chân trái xuống lượm một tảng đá bên đường nặng chừng hai chục cân. Tay phải chàng cầm kiếm, mũi kiếm chấm đất, thân kiếm nằm chếch ngang, tay trái cầm tảng đá gơ cao lên cười nói:
– Lưỡi bảo kiếm này cực kỳ sắc bén, tại hạ thử đập mấy cái xem có gãy không?
Chàng nói rồi làm bộ như dùng tảng đá lớn đập vào thân kiếm. Kiếm trong thiên hạ dù có sắc bén đến đâu đi nữa, nhưng hễ dùng đá đập ngang vào thân thì tất nhiên phải gãy.
Hán tử họ Nhiếp quý thanh bảo kiếm này hơn cả tính mạng, nhìn thì tình trạng này cả kinh thất sắc, la lên:
– Tại hạ xin chịu thua là xong.
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ thấy thanh kiếm này rất tốt, đập một cái vị tất đã gãy?
Chàng nói xong, lại giơ cao tảng đá lên. Hán tử họ Nhiếp lớn tiếng la:
– Tôn giá có thích thì cứ lấy đi, đừng làm hư hại báu vật.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Gã này quả là người có tình. Chẳng thà để kiếm lọt vào tay địch chứ không muốn để kiếm gãy.
Rồi chàng cười hì hì, hai tay cầm bảo kiếm nâng lên đưa tới trước mặt nói:
– Tiểu đệ vô lễ, thật là đắc tội.
Hán tử họ Nhiếp hoàn toàn không ngờ tới điều này. Gã yên trí dù Hồ Phỉ không hủy thanh kiếm thì cũng lấy đi. Nên biết thanh lợi kiếm thế này là vật hiếm có trong đời, có được thanh kiếm này khác nào công phu được tăng thêm gấp bội, người trong võ lâm ai lại chẳng thích điều này? Gã liền đưa tay ra đón lấy nói:
– Đa tạ! Đa tạ!
Trong lúc thảng thốt, vẻ mặt gã không giấu được nỗi hớn hở vui mừng. Hồ Phỉ biết đêm dài lắm mộng, không nên chần chờ, liền xoay người nhảy lên mình ngựa, nhìn quần đạo, chắp tay nói:
– Đa tạ các vị huynh đài đã nương tay. Tiểu đệ xin có lời cảm tạ.
Chàng nói mấy câu đó cực kỳ thành khẩn, rồi quay sang Từ Tranh và Mã Xuân Hoa giục:
– Đi thôi!
Vợ chồng Từ Tranh chưa hết kinh hãi, vội chạy lại tiêu xa, tung mình lên ngựa đi ngay. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đi sau áp tải, không quay mặt nhìn vì sợ lại sinh chuyện, tai còn nghe quần đạo nói nhỏ thương nghị với nhau, nhưng chúng không phóng ngựa đuổi theo. Bốn người đi một mạch hơn mười dặm, thủy chung vẫn không thấy bọn cường đạo truy kích. Từ Tranh dừng ngựa lai nói:
– Tôn giá ra tay giải cứu, tại hạ vô cùng cảm kích, nhưng sao lại mạo nhận là sư bá của tại hạ?
Hồ Phỉ nghe giọng nói của gã có ý trách móc, liền mỉm cười đáp:
– Nàng đã nhìn ra chòm râu giả, nhưng không hiểu đã nhận ra ta là ai chưa?
Từ Tranh thấy thái độ chàng như vậy liền cho là chàng thấy vợ gã xinh đệp nên cứ bám theo hoài, hẳn là có ý đồ bất chính. Gã bị quần đạo vũ nhục đủ điều, tâm trí thất thường, chỉ muốn chết cho xong, thấy ai cũng là thù nghịch bèn lớn tiếng quát:
– Các hạ võ nghệ cao thâm, có muốn giết ta thì hạ thủ đi!
Dứt lời gã cúi xuống, rút lấy thanh đơn đao đeo bên hông lão chạy cờ, dừng ngựa cầm ngang đao, ngạo nghễ nhìn Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không hiểu tâm tình toan giải thích, bỗng nghe sau lưng có tiếng vó ngựa dồn dập phi tới.
Một người cưỡi con khoái mã đang lao vun vút tới. Con ngựa này tuy không phải là loại thần tuấn như bạch mã của Viên Tử Y, nhưng cũng là một loại danh câu. Chỉ trong khoảnh khắc nó đã chạy lướt ngang bên đội xe tiêu. Hồ Phỉ nhanh mắt nhận ra người ngồi trên ngựa là một trong mười sáu tên đại đạo.
Trình Linh Tố nói:
– Chúng ta đi thôi, chẳng hơi đâu mà can thiệp vào chuyện bất bình.
Không ngờ câu này làm xúc động lòng đố kỵ của Từ Tranh, mắt gã long lên sòng sọc, phóng ngựa tới toan liều mạng. Mã Xuân Hoa vội la lên:
– Sư ca! Sư ca hồ đồ nữa rồi!
Từ Tranh ngẩn người ra. Trình Linh Tố cầm roi quất vào mông ngựa của Hồ Phỉ, cả hai con vọt về hướng bắc.
Hồ Phỉ quay lại la lớn:
– Mã cô nương! Còn nhớ chuyện Thương gia bảo không?
Mã Xuân Hoa bỗng đỏ mặt lên, miệng lẩm bẩm:
– Thương gia bảo! Thương gia bảo! Sao ta lại không nhớ?
Nàng rúng động tâm thần, mơ màng nghĩ lại chuyện cũ. Nhưng trong đầu óc chẳng có chút gì hình ảnh Hồ Phỉ, mà chỉ tơ tưởng tới một người sang trọng thanh nhã khác là vị công tử gia…
Hồ, Trình hai người đi được ba, bốn dặm, Trình Linh Tố nói:
– Đại ca, bọn can thiệp chuyện bất bình lại rượt theo rồi.
Hồ Phỉ đã sớm nghe thấy tiếng ngựa dồn dập trên đường, cả thảy có đến mười mấy con. Chàng đáp:
– Nếu phải động thủ thật sự thì chúng ta ít người không địch nổi số đông, lại không hiểu bọn này lai lịch thế nào?
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội coi bọn chúng chưa hẳn đã là cường đạo.
Hồ Phỉ gật đầu nói:
– Vụ này có nhiều điểm rất cổ quái mà trong lúc nhất thời mình không nghĩ ra được.
Giữa lúc ấy một trận gió tây cuốn tới trên đường, trong tiếng gió nghe cả tiếng binh khí chạm nhau. Hồ Phỉ kinh hãi nói:
– Chúng đuổi tới nơi rồi.
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội coi tâm ý bọn chúng thì Mã cô nương chắc không có điều gì đáng ngại. Bọn họ cũng không hại mạng Từ Tranh đâu, bất quá cũng chỉ để cho gã nếm mùi đau khổ.
Hồ Phỉ suy nghĩ nát óc, chau mày nói:
– Tiểu huynh thật không sao hiểu được.
Giữa lúc ấy nghe tiếng vó ngựa vang lên chạy chếch về hướng tây bắc chứ không phải trên đường lớn. Đồng thời văng vẳng có tiếng phụ nữ kêu gào vọng lại. Hồ Phỉ cho ngựa chạy lên cái gò nhỏ bên đường, đưa mắt nhìn ra xa thì thấy hai tên đại đạo cưỡi khoái mã, mỗi tên ôm một đứa nhỏ.
Mã Xuân Hoa chạy bộ rượt theo, đầu tóc rũ rượi, có vẻ như đang gào lên:
– Trả con cho ta! Trả con cho ta!
Vì cách xa quá nên nghe không rõ. Hai tên đại đạo giơ binh khí lên, đột nhiên chia ra chạy theo hai ngả. Mã Xuân Hoa đứng thộn mặt ra, cả hai đứa nhỏ đều là cốt nhục, nên nhất thời nàng không biết phải chạy theo hướng nào.
Hồ Phỉ thấy thế cả giận nghĩ thầm:
– Bọn cường đạo này ác độc quá chừng.
Chàng gọi lớn:
– Nhị muội! Chạy nhanh lên!
Chàng biết mình ít người không địch nổi số đông, nếu nhúng tay vào thì vụ này rất nguy hiểm. Nhưng đã thấy chuyện bất bình rồi thì chẳng thể không can thiệp. Chàng liền phóng ngựa rượt theo, có điều quãng cách quá xa mà ngựa chàng lại không chạy nhanh bằng hai con khoái mã của bọn đại đạo, nên khi chàng tới cạnh Mã Xuân Hoa thì hai tên đại đạo bồng hai đứa nhỏ chạy mất hút không biết về hướng nào.
Mã Xuân Hoa đứng ngây người, không khóc nổi nữa.
Hồ Phỉ la lên:
– Mã cô nương đừng nóng nảy. Tại hạ nhất định giúp cô nương đoạt hai đứa về cho.
Đúng ra phải gọi là “Từ phu nhân”, nhưng trong lòng Hồ Phỉ chỉ có ấn tượng về “Mã cô nương” nên cứ thuận miệng mà gọi như thế chứ không đổi được.
– Tiện thiếp rượt theo hài tử, y bị người ta bao vây.
Trình Linh Tố phóng ngựa chạy đến bên Hồ Phỉ, nói:
– Mặt bắc lại có địch nhân.
Hồ Phỉ hỏi:
– Có phải địch nhân không?
Chàng nhìn qua hướng bắc quả thấy cát bụi tung bay, lại tám, chín, ngựa chạy tới. Hồ Phỉ nói:
– Địch nhân cưỡi toàn ngựa tốt, chúng ta không tránh được, hãy tìm một chỗ ẩn thân trước đã.
Chàng đảo mắt nhìn ra bốn phía toàn đồng không mông quạnh, chẳng có chỗ nào ẩn nấp được, chỉ ở mé tây bắc có một rừng cây nhỏ.
Trình Linh Tố cầm roi ngựa trỏ về phía đó, nói:
– Qua bên kia!
Rồi cô hướng về Mã Xuân Hoa nói:
– Lên ngựa đi!
Mã Xuân Hoa nhìn cô đáp:
– Đa tạ cô nương.
Rồi nhảy lên lưng ngựa ngồi phía sau Trình Linh Tố. Trình Linh Tố cười nói:
– Nhãn quang của phu nhân hay quá. Trong lúc nguy cấp mà còn nhận ra được tiểu muội là gái giả trai.
Ba người cưỡi hai ngưa chạy về phía khu rừng. Mới chạy được một quãng thì quần đạo đã phát giác. Bỗng nghe những hồi còi nổi lên, mé nam hơn chục kỵ mã, mé bắc cũng tám, chín người, hai mặt đổ dồn lại. Hồ Phỉ phóng ngựa chạy trước, xông vào rừng cây, thấy phía sau rừng có bảy, tám gian nhà nhỏ. Chàng nghĩ rằng nếu mình còn tiếp tục chạy nữa tất bị đuổi kịp. Chỉ còn cách tạm lánh mình trong mấy gian nhà này. Chàng liền giục ngựa chạy tới, thấy ở khoảng giữa có một tòa thạch thất khá lớn, hai bên đều là nhà tranh.
Hồ Phỉ đưa tay đẩy cửa tòa thạch thất, thấy bên trong có một lão phu nhân bệnh nằm trên giường. Mụ nhìn thấy Hồ Phỉ khiếp sợ quá không nói nên lời, chỉ khẽ ú ớ mấy tiếng.
Trình Linh Tố thấy những gian nhà tranh đều là cửa phên đóng kín, bốn bức vách lại không cửa sổ, dường như không phải nhà ở. Cô đạp cửa mở ra, thấy bên trong chất đống củi khô cùng rơm cỏ, một gian khác chứa toàn đá, Trình Linh Tố lấy hỏa tập bật lửa lên, châm vào hai gian nhà tranh, đoạn kéo Mã Xuân Hoa vào thạch thất, rồi cài chặt cửa lại. Những gian nhà tranh cách thạch thất chừng ba, bốn trượng. Rơm củi cháy lên rồi, người trong thạch thất tuy bị nóng bức khó chịu nhưng cũng ngăn cản địch nhân được một lúc. Vả lại những gian nhà tranh bên cạnh thạch thất cháy hết rồi, địch nhân không còn chỗ ẩn nấp, muốn tấn công vào cũng không dễ. Mã Xuân Hoa thấy cô nhỏ tuổi mà xử trí tình hình mau lẹ, liền khen ngợi:
– Cô nương thật là thông minh!
Những gian nhà tranh vừa bốc lửa thì quần đạo đã tới tấp chạy vào rừng cây. Lũ ngựa nhìn thấy lửa không dám tới gần, chỉ đứng vây quanh. Mã Xuân Hoa vào thạch thất rồi vẫn còn kinh hãi, lại nghĩ tới con mình lọt vào tay cường đạo không hiểu sống chết thế nào. Dù có là con gái của một võ sư tiếng tăm lừng lẫy, từ thuở nhỏ đã theo phụ thân rong ruổi giang hồ, đã gặp không ít cảnh phong ba hung hiểm, nhưng lòng mẹ thương con vốn vô bờ bến, bất giác lệ chảy đoanh tròng.
Nàng lấy tay áo lau nước mắt, nhìn Trình Linh Tố nói:
– Muội tử! Ta cùng muội tử vốn chưa từng quen biết, sao lại mạo hiểm cứu nhau?
Nàng hỏi câu này quả là tình thật. Nên biết bọn đại đạo cướp tiêu đều là những tay võ nghệ cao cường, nhân số rất đông. Dù là phụ thân nàng Thần quyền vô địch Mã Hành Không gặp trường hợp này ắt cũng hiểu ngay không sao chống cự nổi. Hai người này không thân thích lại không quen biết mà tự chuốc lấy trách nhiệm vào mình thì có khác chi đi nạp mang? Còn Hồ Phỉ tự xưng là Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền dĩ nhiên nàng biết là tên giả để trêu chọc quần đạo. Võ công của phụ thân nàng do tổ phụ truyền cho, lão chẳng có sư huynh sư đệ đồng môn nào hết.
Trình Linh Tố mỉm cười trỏ vào sau lưng Hồ Phỉ hỏi:
– Phu nhân có nhận ra được y không? Y đã nhận ra phu nhân rồi đó.
Hồ Phỉ đang ở trong thạch thất nhìn qua cửa sổ ra ngoài, nghe Trình Linh Tố nói vậy quay lại mỉm cười rồi xoay người, chìa tay qua cửa sổ đón lấy một mũi cương tiêu, một mũi suất thủ tiễn ném xuống đất, nói:
– Bọn ta không đem theo ám khí, đành mượn của địch nhân vậy. Một hai, ba, bốn… năm, sáu… mé nam có cả thảy sáu tên.
Chàng lại chuyển qua cửa sổ khác nhìn ra, nói:
– Một, hai, ba… phía bắc có bảy tên. Đáng tiếc hai phía đông tây không nhìn thấy được.
Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy trong góc thạch thất có một cái bếp đá. Chàng chợt nảy ra một ý, bèn cầm lấy cái chảo trên bếp, tay phải cầm lấy quai chảo, tay trái cầm nắp chảo rồi đột nhiên nhoài người thò đầu ra ngoài cửa để nhìn hết bên đông lại ngó bên tây, vì thế mà nửa người lộ ra để địch nhân phóng ám khí tập kích. Cái chảo và cái nắp biến thành hai lá mộc che chắn hai bên. Một loạt âm thanh “bộp bộp, leng keng, cách cách” vang lên. Hồ Phỉ co người lại cười khanh khách. Chỉ thấy trên nắp chảo cắm năm mũi ám khí, trong lòng chảo cũng đựng năm mũi, nào là thiết liên tử, nào là tụ tiễn, nào là phi chùy, nào là táng môn đinh. Cái chảo đã mẻ một miếng lớn vì bị phi hoàng thạch ném trúng.
Hồ Phỉ nói:
– Cả trước sau và hai bên, tổng cộng có hai mươi mốt tên. Tại hạ không nhìn thấy Từ huynh và hai đứa nhỏ đâu, nghĩ lại mới nhớ ra còn hai người của chúng đối phó với Từ huynh và hai tên bồng hai đứa nhỏ đem đi. Như vậy đối phương cả thảy là hai mươi lăm tên.
Trình Linh Tố nói:
– Nếu hai mươi lăm tên đều là hạng tầm thường cả thì chẳng có chi đáng ngại, nhưng bọn này…
Hồ Phỉ ngắt lời, hỏi:
– Nhị muội! Nhị muội có biết lai lịch của tên sử dụng cây lôi chấn đáng không?
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội có nghe sư phụ nhắc tới thứ binh khí ngoại môn này. Lão nhân gia còn bảo những người chuyên sử dụng lôi chấn đáng đều thuộc phái Bạch gia bảo ở Tái Bắc. Nhưng người sử kiếm thì hiển nhiên là kiếm thuật của Kỳ gia ở Triết Đông. Một tên ở Tái Bắc, một kẻ ở Triết Đông. Ồ! Đại ca! Đại ca có nghe rõ khẩu âm của chúng không?
Mã Xuân Hoa tiếp lời:
– Phải rồi! Có người nói tiếng Quảng Đông, có người nói tiếng Hồ Nam, Hồ Bắc lại có cả khẩu âm miền Sơn Đông, Sơn Tây nữa.
Trình Linh Tố nói:
– Trong thiên hạ quyết không có bọn cường đạo nào lại hội họp được nhiều hảo thủ từ bốn mặt tám phương để cướp tiêu ngân chỉ vỏn vẹn có chín ngàn lạng bạc.
Mã Xuân Hoa nghe nói tới “chỉ vỏn vẹn có chín ngàn lạng bạc” thì bất giác hơi đỏ mặt lên. Phi Mã tiêu cục từ ngày sáng lập đến nay, quả chưa bao giờ lãnh món hàng nhỏ như vậy.
Hồ Phỉ nói:
– Trước hết chúng ta cần điều tra cho rõ ý định của địch nhân, để xem chúng tới đây vì anh em tại hạ hay nhắm vào Mã cô nương.
Ban đầu chàng thấy thanh thế bên địch như vậy liền cho là phe Điền Quy Nông, nhưng hành vi của bọn cường đạo chỗ nào cũng nhằm vào vợ chồng Từ Tranh và Mã Xuân Hoa, hiển nhiên không liên quan gì đến Miêu Nhân Phụng và Điền Quy Nông.
Mã Xuân Hoa đáp:
– Dĩ nhiên bọn chúng có ý đối phó với Phi Mã tiêu cục. Cho hỏi quý tính đại ca đây là gì? Xin lượng thứ tiện thiếp mắt kém không nhận ra.
Hồ Phỉ đưa tay lên gỡ tấm râu giả ra cười hỏi:
– Mã cô nương không nhận ra tại hạ ư?
Mã Xuân Hoa thấy trong vẻ tráng kiện của chàng gương mặt hãy còn non choẹt, nhưng không nhớ ra đã gặp chàng ở đâu. Hồ Phỉ cười nói:
– Thương thiếu gia! Xin thiếu gia tha mạng cho A Phỉ đừng làm khó dễ gì gã.
Mã Xuân Hoa sửng sốt, mấp máy môi nhưng không nói. Hồ Phỉ lại nói tiếp:
– A Phỉ bị thiếu gia treo lên thật là đáng thương. Thiếu gia hãy tha cho gã trước rồi tiểu muội sẽ để thiếu gia nắm tay được không?
Ngày trước Hồ Phỉ bị Thương Bảo Chấn cột lại treo lên xà nhà đánh đập cực kỳ thảm khốc. Mã Xuân Hoa thấy vậy sinh lòng thương xót, khẩn cầu Thương Bảo Chấn tha cho chàng. Thương Bảo Chấn có cảm tình với nàng, nên tuy gã căm hận Hồ Phỉ mà vẫn ưng thuận, đáp lại hắn sẽ được nàng cho cầm tay. Mã Xuân Hoa cũng đồng ý. Tuy lúc ấy Hồ Phỉ đã tự mình thoát khỏi dây trói, nhưng khi nấp trên cây chàng đã nghe rõ từng lời Mã Xuân Hoa năn nỉ cho mình, nên vô cùng cảm kích. Mãi cho đến giờ phút này, Hồ Phỉ vẫn không lúc nào quên.
Nay để đền đáp mối ân tình ngày trước, dẫu có bỏ mạng, Hồ Phỉ chẳng từ nan. Hiện giờ chàng đang ở nơi hiểm địa mà trong lòng lại rất cao hứng, thuở nhỏ đã từng có một cô nương nài nỉ giùm mình trong cơn khốn khó mà giờ đây chàng lại được tận tâm báo đáp nàng trong lúc nguy nan.
Mã Xuân Hoa nghe tới mấy câu đó liền đỏ mặt lên, miệng hô:
– Ủa! A Phỉ đấy ư? A Phỉ ở Thương gia bảo ngày trước?
Nàng dừng lại một chút rồi nói:
– Huynh đệ là con đại hiệp Hồ Nhất Đao, Hồ Phỉ huynh đệ!
Hồ Phỉ mỉm cười gật đầu, những nghe nàng nhắc tới tên của phụ thân, lòng chàng se lại. Mã Xuân Hoa nói:
– Hồ huynh đệ! Huynh đệ… huynh đệ… cố cứu lấy hai đứa con nhỏ của tiện thiếp.
Hồ Phỉ đáp:
– Dĩ nhiên tiểu đệ phải tận lực.
Rồi chàng xoay người qua giới thiệu:
– Đây là Trình Linh Tố cô nương, cô em mới kết nghĩa của tiểu đệ.
Mã Xuân Hoa vừa cất tiếng gọi “Trình cô nương” thì đột nhiên nghe đánh “sầm” một tiếng. Cánh cửa nhà thạch thất bị một vật rất lớn ném trúng, bụi cát từ trên nóc nhà rớt xuống rào rào. May mà cánh cửa rất dày, then cửa cũng kiên cố nên chưa bị gãy toang ra. Hồ Phỉ nhoài người qua, nhìn thấy bốn tên đại đạo cưỡi trên lưng ngựa, dùng dây lôi một đoạn cây lớn từ phía xa chạy tới. Khi còn cách cánh cửa chừng hơn một trượng, bốn tên đồng thời vung tay phóng mạnh khúc cây vào cửa đánh sầm lên một tiếng.
Hồ Phỉ nghĩ thầm: “Nếu cửa lớn bị phá vỡ, bọn đại đạo kéo ùa cả vào thì mình không chống nổi”.
Tay chàng cầm một mũi táng môn đinh, một mũi suất thủ tiễn, chờ cho bốn tên đại đạo tung ngựa đi xa rồi quay đầu lại, mới lớn tiếng quát:
– Lão tiểu tử còn lưu tình, chỉ bắn chết ngựa chứ không bắn chết người.
Chàng thấy bốn con ngựa đã chạy ra ngoài đến ba, bốn trượng liền giơ tay phải lên, hai mũi ám khí veo véo bay ra nhanh như điện chớp, bắn trúng đầu hai con ngựa đứng trước khiến chúng hí lên một tiếng rồi ngã quay ra chết liền. Hai tên đại đạo ngồi trên lưng ngựa xoay mình nhảy xuống. Hai con ngựa đi sau vướng phải cành cây cũng té nhào. Hai tên cưỡi ngựa vội tung mình vọt lên nên không bị đè.
Bọn cường đạo bên ngoài đều bật tiếng la hoảng. Chúng chạy lại coi thì thấy hai mũi ám khí cắm sâu vào óc ngựa. Chỗ ám khí bắn vào chỉ còn một cái lỗ, cả chuôi tên cũng không lộ ra. Thủ kình kinh hồn này quả thật ít khi nhìn thấy. Quần đạo đều là những tay hảo thủ làm gì chẳng biết lão già râu kia ra tay còn lưu tình, nếu bắn trúng bất cứ chỗ nào trên đầu thì làm gì còn tính mạng? Bọn cường đạo còn đang sửng sốt, bỗng nghe hồi còi rít lên, liền lui ra xa hơn mười trượng. Chúng thấy ở chỗ này ám khi của đối phương không thể bắn tới, mới tụ tập lại thì thầm thương nghị.
Vừa rồi Hồ Phỉ trong lúc xuất kỳ bất ý, phóng ám khí ra, nếu nhắm vào thân thể của quần đạo thì ít ra cũng có ba bốn kẻ tử thương, cục diện có thể hòa hoãn được ngay, nhưng chàng không hiểu lai lịch đối phương không muốn giết người một cách khinh suất để kết mối thâm thù. Huống chi hai đứa con của Mã Xuân Hoa đã rơi vào tay địch, còn Từ Tranh chưa biết sống chết ra sao, nếu hai bên đi được đến chỗ điều đình ổn thỏa mới là thượng sách.
Quần đạo rút lui rồi, Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy cánh cửa đã bị nứt một kẽ lớn, thầm nghĩ nếu bọn cường đạo phá vỡ hai chỗ rồi xông vào tấn công thì không cách gì ngăn cản được.
Mã Xuân Hoa nói:
– Hồ huynh đệ, Trình gia muội tử, hai vị tính sao đây?
Hồ Phỉ nhíu mày đáp:
– Cô nương có nhận ra ai trong bọn này không?
Mã Xuân Hoa lắc đầu đáp:
– Không biết.
Hồ Phỉ nói:
– Nếu bảo đây là cừu nhân của lệnh tôn thuở sinh tiền thì sao trong cách ăn nói, bọn chúng lại tỏ ra kính trọng lệnh tôn đến vậy? Còn nếu chúng muốn gây khó dễ cho cô nương nên bắt hai đứa nhỏ đi cũng không đúng, một là có nương chẳng biết một ai trong bọn chúng cả, hai là bọn chúng đối với cô nương chưa hề có nửa lời bất kính. Chỉ có đối với Từ đại ca là chúng tỏ ra mười phần vô lễ, nhưng nếu muốn đối phó với Từ đại ca thì việc gì bọn chúng phải huy động nhiều người đến thế?
Mã Xuân Hoa nói:
– Đúng vậy. Bọn chúng chẳng có một kẻ nào quen mặt, mà võ công người nào cũng cao hơn sư ca của tiện thiếp, chỉ cần một người ra tay cũng đủ rồi.
Hồ Phỉ nói:
– Vụ này thật cổ quái, nhưng Mã cô nương đừng có quá lo lắng. Tại hạ xem hành vi của bọn này hoàn toàn chẳng có ý muốn gây thương tổn đến mạng người, mà tựa hồ chỉ muốn bỡn cợt Từ đại ca thôi.
Mã Xuân Hoa chợt nhớ đến câu “Bông hoa lài cắm bãi phân trâu” bất giác đỏ mắt lên. Trong lúc hai người đang bàn bạc thì Trình Linh Tố đến an ủi vỗ về bà già nằm bệnh trong thạch thất, rồi cô nhóm lửa nấu cơm. Ba người ăn uống xong, lại theo khe cửa nhìn ra ngoài, chỉ thấy người qua lại lăng xăng, nhưng vì bị cây che khuất nên không hiểu bọn họ đang làm gì.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố khẽ thì thầm bàn bạc một hồi mà vẫn chưa tìm ra cách gì. Trình Linh Tố nói:
– Vụ này liệu có liên can gì đến tài chủ họ Hồ ở Nghĩa Đường trấn không?
Hồ Phỉ đáp:
– Quả tình tiểu huynh không hiểu một chút gì.
Chàng dừng lại một chút rồi tiếp:
– Ta cứ ngồi trong xó tối này mà lo lắng thì chi bằng cứ để lộ chân tướng cho họ biết. Nếu hai việc có liên quan với nhau tất chúng ta sẽ có cách ứng phó, để cho gia đình Mã cô nương khỏi phải vô can mà chuốc lấy tại họa.
Trình Linh Tố gật đầu. Hai người liền mở rộng cửa. Bọn cường đạo thấy có người ra, sợ vòng vây bị phá, mười mấy người cưỡi ngựa ở bốn phía lập tức cùng tiến gần tới trước căn thạch thất.
Hồ Phỉ lớn tiếng hô:
– Nếu các vị vì Hồ mỗ mà tới đây thì Hồ mỗ cùng nghĩa muội Trình Linh Tố ở cả trong này, các vị không nên làm liên lụy đến người ngoài!
Đoạn chàng bẻ dọc tẩu đánh “rắc” một tiếng gãy làm hai đoạn, lại bỏ hết bộ râu giả cùng đồ hóa trang trên mặt đi. Trình Linh Tố cũng lôi mũ ra để rủ mái tóc đen nhánh cho lộ hết bộ mặt con gái. Bọn cường đạo ai nấy đều lộ vẻ kinh dị. Chúng không thể tưởng nổi con người võ công phi thường như thế lại là chàng thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi. Bọn cường đạo ngơ ngác nhìn nhau, trong lúc nhất thời chưa tìm ra chủ ý.
Đột nhiên một người tiến ra, dáng người cao mặt trắng, chính là gã đại đạo họ Nhiếp sử trường kiếm. Gã nhìn Hồ Phỉ chắp tay nói:
– Tôn giá có ơn trả kiếm, tại hạ vĩnh viễn không quên. Công việc của bọn tại hạ tuyệt không liên quan gì đến hai vị. Xin hai vị tùy tiện, tại hạ kính cẩn đưa chân.
Dứt lời gã nhảy xuống ngựa, khẽ vỗ vào mông nó một cái. Con ngựa chạy đến trước mặt Hồ Phỉ rồi dừng lại. Xem ra tên đại đạo cũng nhường cả ngựa cưỡi cho chàng. Hồ Phỉ chắp tay đáp lễ hỏi:
– Còn Mã có nương thì sao? Các vị đã ưng thuận không can thiệp vào chuyện bất bình nữa kia mà?
Gã họ Nhiếp đáp:
– Can thiệp chuyện bất bình thì không dám. Anh em tại hạ chỉ mời Mã cô nương lên phương bắc một chuyến, quyết chẳng dám đụng đến một chân lông sợi tóc.
Hồ Phỉ cười nói:
– Nếu đã có hảo ý mời khách thì hà tất phải làm náo loạn như vậy?
Chàng quay lại nói lớn:
– Mã cô nương! Người ta mời cô làm tân khách, cô nương có đi không?
Mã Xuân Hoa bước tới cửa, nói:
– Tiện thiếp cùng các vị vốn chưa từng quen biết thì các vị mời đi làm chi?
Trong quần đạo có tên cười đáp:
– Dĩ nhiên anh em bọn tại hạ không biết Mã cô nương, nhưng có người quen biết.
Mã Xuân Hoa lớn tiếng:
– Còn những đứa con của tiện thiếp? Mau trả chúng lại cho!
Gã họ Nhiếp đáp:
– Hai vị lệnh lang bình yên vô sự. Xin Mã cô nương cứ yên dạ. Bọn tại hạ dốc toàn lực bảo vệ mà còn e có phần sơ suất, khi nào dám để hai vị thiên kim công tử phải sợ hãi?
Trình Linh Tố liếc mắt nhìn Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Tên cường đạo này ăn nói mỗi lúc một khách khí. Từ Tranh bất quá chỉ là một gã tiêu đầu, thì con y làm gì mà xem là tiểu công tử đáng giá ngàn vàng?
Mã Xuân Hoa bỗng đỏ mặt lên, nói:
– Tiện thiếp không đi! Mau trả lại con cho tiện thiếp!
Nàng không chờ quần đạo trả lời đã trở gót đi vào thạch thất. Hồ Phỉ thấy hành động kỳ lạ của Mã Xuân Hoa càng sinh lòng ngờ vực, nói:
– Giữa Mã cô nương và tại hạ có mối giao tình sâu nặng, bất luận là việc gì, tại hạ quyết chẳng thể tụ thủ bàng quan.
Gã họ Nhiếp nói:
– Võ công của tôn giá tuy cao cường, nhưng song quyền nan địch bốn tay. Bọn tại hạ cả thảy hai mươi lăm người, đến chiều còn có thêm cường viện tới nữa.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Số lượng người gã này nói ra đúng với điều ta phỏng đoán, quả gã không lừa gạt ta. Không cần biết bọn cường viện là ai, ta há có thể bỏ Mã cô nương mà đi được? Nhưng không thể để nhị muội vô duyên vô cớ vì nàng mà uổng mạng.
Nghĩ vậy, chàng liền khẽ nói:
– Nhị muội! Nhị muội hãy cưỡi con ngựa đó mà phá vòng vây đi trước, một mình tiểu huynh chiếu cố cho Mã có nương ắt dễ hơn nhiều.
Trình Linh Tố biết chàng lo cho mình, liền hỏi lại:
– Lúc chúng ta kết bái thì thề với nhau là “có hoạn nạn cùng gánh vác” hay là “gặp hoạn nạn thì trốn đi trước”?
Hồ Phỉ đáp:
– Nhị muội với Mã cô nương chưa từng quen biết thì cần chi phải vì nàng mà mạo hiểm? Còn tiểu huynh thì không thể thế được.
Ánh mắt Trình Linh Tố thủy chung vẫn không nhìn chàng, mà hỏi lại:
– Đúng thế! Tiểu muội việc gì phải mạo hiểm vì Mã cô nương, những giữa tiểu muội và đại ca chẳng lẽ cũng chưa từng quen biết?
Hồ Phỉ trong lòng cảm kích. Suốt đời chàng, những người cam tâm cùng chết với mình thì có Bình tứ thúc và Triệu Bán Sơn, đến nay có thêm một cô nương trẻ tuổi đang bình thản đứng bên cạnh mình nữa. Chàng không ngần ngừ gì nữa, nói ngay:
– Vậy thì chúng ta sống cùng sống, chết cùng chết!
Gã họ Nhiếp chờ một lúc, liền nói tiếp:
– Bọn tại hạ quyết không dám làm tổn thương đến Mã cô nương một mảy may, hai vị chẳng còn phải lo gì nữa. Vậy thì hà tất hai vị phải vô cớ dấn thân vào nơi nguy hiểm? Tôn giá hành động rất quang minh lỗi lạc, bọn tại hạ khâm phục vô cùng. Ngày sau còn nhiều dịp gặp nhau, bữa nay nên tạm biệt ở đây chăng?
Hồ Phỉ hỏi lại:
– Các hạ buông tha Mã cô nương hay không?
Gã họ Nhiếp lắc đầu toan khuyên giải nữa, nhưng trong bọn cường đạo có mấy tên đã lớn tiếng quát tháo:
– Gã tiểu tử này không biết điều, Nhiếp đại ca việc gì phải phí lời với gã?
– Cái này gọi là “thiên đường có nẻo không chịu tới, địa ngục không đường lại sấn vào”.
– Ngốc tiểu tử! Ngươi có bản lãnh nghiêng trời hay sao mà một mình lại dám chống cự?
Đột nhiên ánh bạch quang lấp loáng. Một mũi ám khí bắn vút tới Hồ Phỉ. Tên đại đạo họ Nhiếp tung người lên nắm lấy, thì ra là một lưỡi phi đao.
Hồ Phỉ nói:
– Hảo ý của tôn giá, tại hạ xin tâm lãnh. Kể từ lúc này chúng ta không còn nợ nhau nữa.
Dứt lời, chàng nắm tay Trình Linh Tố xoay mình tiến vào thạch thất. Bỗng nghe sau lưng tiếng gió rít lên, mấy món ám khí bắn tới. Hồ Phỉ liền đóng cửa lớn lại. Mấy tiếng “bộp bộp” vang lên, những mũi ám khí đã cắm cả vào cánh cửa. Quần đạo lớn tiếng hô hoán, xông đến trước cửa.
Hồ Phỉ vội chạy đến bên cửa sổ, cầm mấy mũi cương tiêu để trên bàn nhắm tên đại đạo gần nhất phóng ra. Chàng không muốn hạ sát thủ nên chỉ nhắm bả vai của hắn phóng tới. Tên đại đạo kia “ối” lên một tiếng, vai bị trúng tiêu nhưng hắn vẫn cực kỳ hung hãn, không lùi lại, hô lớn:
– Các vị huynh đệ! Bữa nay không thu thập nổi một thằng lỏi thì chúng ta còn mặt mũi nào mà quay về?
Bọn cường đạo quát thét ầm ĩ, bốn mặt xông cả vào. Bỗng nghe tường đá mặt đông và mặt tây phát ra những tiếng đập phá ầm ầm. Do hai mặt này không có cửa sổ, quần đạo không sợ Hồ Phỉ bắn ám khí, nên dùng những vật nặng đập phá tường để xông vào. Hồ Phỉ liên tiếp phóng ám khí ra. Quần đạo ở hai mặt nam, bắc phải lùi lại, nhưng tiếng đập phá tường ở hai mặt đông tây vang lên không ngớt.
Trình Linh Tố lấy cây nến chế bằng “Thất tâm hải đường”. Cô lại đưa thuốc giải cho Hồ Phỉ và Mã Xuân Hoa cùng bà lão nằm trên giường bệnh, bảo mọi người ngậm vào miệng. Cô chờ địch nhân xông vào là đốt nến lên để đánh ngã cả bọn. Chất độc của cô đối phó với thiểu số địch nhân dĩ nhiên ứng nghiệm như thần, nhưng nếu địch nhân xông vào quá đông thì không khỏi nguy khốn. Cô chuẩn bị đốt nến cũng chỉ là làm cho hết sức mình, bớt được một tên là lực lượng địch nhân giảm đi một phần, còn chuyện có ra khỏi được trùng vậy hay không, cô chẳng nắm chắc chút nào.
Giữa lúc ấy, một tiếng “uỳnh” vang lên. Vách đá mặt tây bị phá một lỗ hổng, song quần đạo vẫn sợ Hồ Phỉ lợi hại, không ai dám tiến vào một mình. Nếu lỗ hổng bị phá lớn thêm thì chúng có thể kéo ùa cả vào. Hồ Phỉ thấy tình thế cấp bách, ám khí lại chẳng còn, liền đảo mắt nhìn quanh thạch thất xem còn vật gì có thể đả thương kẻ địch hay không.
Trình Linh Tố bỗng la lên:
– Đại ca! Cái này hay lắm đây.
Cô cúi xuống gầm giường của bà lão nằm bệnh, thò tay bốc ra hai nắm vôi trắng. Nguyên người dân quê ở đây làm vôi nên trong thạch thất có rất nhiều.
Hồ Phỉ cũng reo lên:
– Tuyệt lắm!
Chàng xé áo trường bào đánh “roạt” một tiếng, lấy một mảnh gói vôi lại, rồi co người theo lỗ hổng trên tường xông ra ngoài. Chàng nhắm mắt vung tay phải lên ném gói vôi bột về phía địch nhân, rồi chuồn vào ngay. Bọn cường đạo đang bàn định kế hoạch đánh vào nhà cách nào, làm sao để chui qua lỗ hổng mà không bị Hồ Phỉ đả thương. Chúng đâu ngờ nổi Hồ Phỉ lại lật ngược thế cờ, phản khách vi chủ, từ lỗ hổng chui ra tấn công đột ngột.
Gói vôi lớn tung ra bốn phía, bột trắng bay mù mịt. Ba tên đại đạo đứng gần nhất bị vôi ném trúng mắt, nước mắt lập tức chảy ra, đau rát không chịu nổi đều gào lên thất thanh.
Hồ Phỉ tập kích thành công, vừa xoay mình thì Trình Linh Tố đưa cho chàng hai gói vôi nữa. Chàng reo lên:
– Hay lắm!
Chàng bước lên phiến đá lớn trên bếp, giơ cao tay trái tung mình nhảy lên. Nghe “bình” một tiếng, nóc nhà bị thủng một lỗ lớn. Lần này Hồ Phỉ chuồn qua lỗ hổng nóc nhà, ném hai gói vôi bột ra. Bọn cường đạo bật tiếng la hoảng. Trình Linh Tố tiếp tục gói vôi bột, bỏ vào chảo sắt, đưa lên nóc nhà. Hồ Phỉ ném ra bốn mặt đông tây nam bắc. Bọn cường đạo lại kêu la chửi bới, rồi rút chạy cả vào trong rừng. Sáu, bảy tên cường đạo bị trọng thương.
Hai bên cứ giằng co như thế một hồi lâu. Bọn cường đạo không dám xông vào, mà bọn Hồ Phỉ cũng không dám xông ra, chỉ sợ mất căn thạch thất làm điểm tựa thì chẳng tài nào kháng cự được.
Hồ Phỉ và Trình Lình Tố còn có lúc nói cười. Hai người cùng nhau trải qua những cơn hoạn nạn nên ngày càng thêm thân mật. Mã Xuân Hoa thì cứ ngơ ngẩn xuất thần, cúi đầu lặng yên, suy nghĩ. Nàng không nhìn ra bọn địch nhân, mà đối với câu chuyện giữa Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nàng cũng tựa hồ chẳng nghe thấy gì.
Hồ Phỉ nói:
– Chúng ta cố giữ đến đêm, hoặc giả có thể nhờ bóng tối để trốn thoát được. Nhược bằng đêm nay mà không trốn thoát là làm lụy đến tính mạng của nhị muội rồi, còn cái mạng già của Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền tiểu lão tử này thì… hà hà!
Chàng nói tới đây đưa tay lên trỏ vào mép, vừa cười vừa nói tiếp:
– Nếu biết sớm vụ này không liên quan gì đến gã họ Ngưu này thì đã chẳng bỏ chòm râu đi.
Trình Linh Tố mỉm cười khẽ hỏi:
– Đại ca! Nếu lát nữa chạy không thoát thì đại ca cứu tiểu muội hay cứu Mã cô nương?
Hồ Phỉ đáp:
– Cứu cả hai người.
Trình Linh Tố hỏi:
– Tiểu muội hỏi trường hợp chỉ có thể cứu được một người, còn một người phải chết, thì đại ca cứu ai?
Hồ Phỉ trầm ngâm một lát rồi đáp:
– Tiểu huynh cứu Mã cô nương rồi cùng chết với nhị muội!
Trình Linh Tố quay lại khẽ hô:
– Đại ca!
Cô nắm lấy tay chàng, Hồ Phỉ trong lòng chấn động, nghe bên ngoài có tiếng chạy rầm rập liền dòm qua khe cửa, đột nhiên chàng la lên:
– Trời ơi! Không xong rồi!
Chàng thấy quần đạo từ trong rừng tới tấp nhảy ra, tên nào trên tay cũng kéo cành cây hoặc cỏ khô, không ngớt đem đến ném chung quanh thạch thất. Coi tình thế này hiển nhiên chúng định đánh hỏa công. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố tay cầm tay, đưa mắt nhìn nhau và cả hai cùng thầm hiểu tình thế đã đến lúc vô vọng.
Đột nhiên Mã Xuân Hoa đến bên cửa sổ, cất tiếng hỏi:
– Này! Thủ lãnh các ngươi là ai? Ta muốn nói mấy câu với y.
Một lão già nhỏ bé gầy nhom trong bọn cường đạo đáp:
– Mã cô nương có điều chi cần nói xin cứ dặn dò tiểu nhân là được!
Mã Xuân Hoa nói:
– Ta ra đó nói với lão, nhưng lão không được giữ ta lại!
Lão già đáp:
– Ai dám lớn mật ngăn giữ cô nương?
Mã Xuân Hoa nét mặt ửng hồng, khẽ nói:
– Hồ huynh đệ! Trình muội tử! Tiện thiếp ra nói với họ mấy câu rồi trở lại ngay.
Hồ Phỉ vội hỏi:
– Ồ, không được đâu! Bọn đạo tặc làm gì có tín nghĩa? Mã cô nương hành động như vậy có khác gì tự đưa mình vào miệng cọp.
Mã Xuân Hóa đáp:
– Cứ hãm mình ở đây mãi cũng không giải quyết được việc gì. Cao nghĩa của hai vị, tiện thiếp suốt đời không quên.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Mã cô nương muốn tự mình gánh lấy trách nhiệm để khỏi liên lụy ta và nhị muội, nhưng cô nương đi một mình dĩ nhiên lành ít dữ nhiều. Cứu người không cứu đến nơi đến chốn đâu phải là hành vi của bậc đại trượng phu?
Chàng thấy Mã Xuân Hoa lộ vẻ kiên quyết liền rút then cửa ra, nói:
– Để tại hạ đi theo cô nương.
Mã Xuân Hoa lại đỏ mặt lên, đáp:
– Không cần đâu.
Trình Linh Tố không sao đoán được vì lẽ gì Mã Xuân Hoa phải mấy phen đỏ mặt không lẽ nàng lại có tình ý với Hồ đại ca? Cô nghĩ đến đây bất giác cũng đỏ mặt lên, Hồ Phỉ nói:
– Được rồi! Đã thế thì tại hạ đi bắt một tên vô đây làm con tin.
Mã Xuân Hoa đáp:
– Hồ huynh đệ, bất tất…
Nàng chưa dứt lời, Hồ Phỉ tay phải cầm đơn đao, tay trái đẩy cửa xông ra. Quần đạo đồng thanh la lên. Hồ Phỉ thi triển khinh công chạy thật nhanh. Quần đạo cùng hét ầm lên:
– Gã tiểu tử định chạy trốn kìa!
– Trong thạch thất còn có người, vây kín bốn mặt đi.
– Coi chừng! Phải đề phòng thằng lỏi con dùng ngụy kế.
Giữa những tiếng quát tháo ầm ĩ, thân hình Hồ Phỉ lướt nhẹ như sợi khói, xông vào giữa đám cường đạo. Hai tên đại đạo cầm đao xông lại cản đường. Hồ Phỉ cúi đầu xuống luồn qua giữa hai thanh đao, tay trái chàng móc lại toan nắm lấy cổ tay gã đứng bên phải. Không ngờ gã này thủ cước rất mau lẹ, gã vung đơn đao quét ngang một cái buộc Hồ Phỉ phải đưa đao lên gạt, thành thử không nắm được. Vừa chậm lại một chút, ba tên đại đạo nữa xông tới. Hai tên cầm cương tiên, một tên cầm liên tử thương vây Hồ Phỉ vào giữa.
Hồ Phỉ quát lên một tiếng, vung đao chém mạnh một nhát. Ba tiếng “choang choang” vang lên, hai cây cương tiên rớt xuống, còn cây liên tử thương bị đứt làm hai đoạn. Ba nhát đao này, Hồ Phỉ đã vận kình lực cực kỳ cương mãnh nên tuy đánh rớt binh khí bên địch, nhưng lưỡi đơn đao của chàng cũng bị quăn lại, không dùng được nữa.
Quần đạo thấy chàng thần dũng phi thường, không tự chủ được phải dạt ra hai bên. Lão già lớn tiếng quát:
– Để ta tiếp vị anh hùng hảo hán!
Vừa dứt lời, lão đã cong người lạng tới, hai tay không cầm binh khí.
Hồ Phí kinh hãi nghĩ thầm:
– Thân thủ lão này trầm ổn, đúng là một tay kình địch.
Chàng giơ tay trái lên miệng hô:
– Xem tiêu đây!
Lão già dừng chân, ngưng thần chờ kim tiêu ném tới. Ngờ đâu Hồ Phỉ chỉ ra hư chiêu, chân trái chàng điểm xuống, bất ngờ tung người lên vượt qua đầu hai tên đại đạo, tay phải vươn ra lôi một tên xuống ngựa. Chàng chụp vào huyệt “Mạch môn” của gã rồi tung mình lên ngựa, từ giữa đám đông cưỡi ngựa xông ra. Con ngựa bị Hồ Phỉ đá vào bụng, đau không chịu nổi bèn lao tới trước.
Quần đạo la ó quát mắng om sòm. Kẻ cưỡi ngựa, người đi bộ rượt theo. Con ngựa chạy được vài trượng, Hồ Phỉ nghe phía sau có tiếng gió vội cúi đầu xuống. Hai cây thiết chùy bay qua đỉnh đầu, thế đi rất mạnh. Người phóng thiết chùy đúng là một tay cao thủ.
Hồ Phỉ ngồi trên lưng ngựa xoay mình lại, chàng đặt tên đại đạo trước ngực làm lá chắn, miệng hô:
– Phóng ám khí đi, càng nhiều càng tốt!
Tên đại đạo bị giữ huyệt “Mạch môn”, toàn thân nhũn ra không nhúc nhích được. Hồ Phỉ cười ha hả, thúc ngược chân vào bụng ngựa. Mới thúc chân một cái, con ngựa đã ngã quay ra. Nguyên trước khi chàng xoay mình, mông ngựa đã trúng một mũi thiết chùy xuyên vào bụng. Hồ Phỉ tung mình nhảy xuống xách ngang người tên đại đạo, đi giật lùi từng bước trở về thạch thất.
Quần đạo sợ chàng gia hại đồng bạn không dám sấn tới. Hơn hai chục tay hảo thủ mà chịu để một mình Hồ Phỉ xông xáo dọc ngang, đã không đả thương chàng được một mảy chân lông mà còn bị bắt mất người. Chúng nhìn nhau vẻ mặt buồn rầu, trong lòng cố nhiên phẫn nộ nhưng vẫn ngấm ngầm bội phục chàng.
Mã Xuân Hoa reo lên:
– Hảo thân thủ! Hảo bản sự!
Nàng từ từ đi vào đám quần đạo, tay không binh khí. Quần đạo thấy nàng tiến lại gần liền tới tấp xuống ngựa nhường lối. Mã Xuân Hoa tiếp tục tiến về phía trước. Khi đến ven rừng cách xa thạch thất chừng hai chục trượng, nàng mới dừng lại. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố nhìn qua cửa sổ, thấy Mã Xuân Hoa xoay lưng về phía thạch thất nói chuyện với lão già. Trình Linh Tố hỏi:
– Đại ca! Đại ca thử nói tại sao Mã cô nương lại đi xa thế? Nếu xảy ra chuyện bất trắc thì làm sao cứu viện?
Hồ Phỉ “ồ” một tiếng. Chàng biết Trình Linh Tố hỏi vậy mà thực ra trong thâm tâm cô đã tìm ra đáp án.
Quả nhiên cô nói tiếp:
– Chắc y muốn nói gì với tay thủ lĩnh đó mà không muốn để chúng ta nghe thấy.
Hồ Phỉ lại “ồ” một tiếng. Chàng biết Trình Linh Tố đã đoán đúng nhưng không hiểu rồi còn làm gì nữa? Hồ Phỉ và Trình Linh Tố không nghe Mã Xuân Hoa cùng tên thủ lĩnh nói gì, chỉ nhìn qua khe cửa sổ mà thấy loáng thoáng thái độ của hai người.
Trình Linh Tố lại nói:
– Đại ca! Tên thủ lĩnh nói năng với Mã cô nương thái độ rất kính cẩn tuyệt không dám lên mặt chút nào.
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng thế! Lão thủ lĩnh này dày công phu hàm dưỡng, quả là tay kình địch.
Trình Linh Tố nói:
– Tiểu muội coi chừng không phải vì lão dày công phu hàm dưỡng, mà thái độ tựa hồ kẻ tôi đòi bẩm báo việc gì với chủ nhân.
Hồ Phỉ đã nhận thấy điều này, trong lòng chàng cảm thấy có điều uẩn khúc, nhưng nghĩ vụ này thật bẽ bàng nên không muốn tự miệng mình, nói ra.
Trình Linh Tố nhìn một lúc lại nói:
– Mã cô nương lắc đầu không chịu đi theo tên thủ lĩnh, nhưng sao cô lại…
Đột nhiên cô quay lại nhìn mặt Hồ Phỉ, dường như trong lòng cảm nhận điều gì, cô lại quay ra ngoài cửa sổ.
– Tiểu muội không hiểu có nên hỏi đại ca hay thôi. Chỉ sợ câu hỏi này làm đại ca phải nổi nóng.
Hồ Phỉ nói:
– Nhị muội! Ta cùng nhị muội tại nơi đây đồng sinh cộng tử thì giữa chúng ta có gì mà không nói được? Bất cứ điều gì ta cũng không giấu nhị muội.
Trình Linh Tố hỏi:
– Hay lắm! Tại sao lúc Mã cô nương nói với tên thủ lĩnh không có vẻ tức giận, mà lại đỏ mặt lên? Cái đó cũng chưa lạ, lạ ở chỗ tại sao đại ca cũng đỏ mặt nữa?
Hồ Phỉ đáp:
– Trong lòng tiểu huynh nghi ngờ một điều nhưng không có chứng cớ, hiện giờ chưa tiện nói rõ. Nhị muội, đại ca của nhị muội là người quang minh lỗi lạc, quyết chẳng có điều gì lại không dám đối diện cùng người. Nhị muội có tin được tiểu huynh không?
Trình Linh Tố thấy vẻ mặt chàng rất thành khẩn thì trong lòng vô cùng cao hứng. Cô mỉm cười nói:
– Vậy đại ca thẹn thay cho Mã cô nương. Chuyện của người ta, tiểu muội không tiện dính vào. Chỉ cần đại ca tử tế là hay lắm rồi.
Hồ Phỉ nói:
– Lúc ta mới biết Mã cô nương chỉ là thằng nhỏ mười ba, mười bốn tuổi vắt mũi còn chưa sạch. Nàng thấy tình trạng ta đáng thương nên mới năn nỉ giùm…
Chàng nói tới đây ngửng đầu trông ra ngơ ngẩn xuất thần, thấy bên trời ráng chiều đỏ ối, khẽ nói:
– Có phải thế hay không thì đại ca không rõ, nhưng ta vẫn tin cô là người tốt. Lương tâm cô rất tốt.
Giữa lúc ấy, đột nhiên tên đại đạo khẽ rên lên một tiếng. Hiển nhiên những huyệt đạo bị điểm lên cơn đau đớn không chịu nổi. Hồ Phỉ quay lại khai huyệt “Chương môn” và huyệt “Thiên trì” cho gã rồi nói:
– Vì sự bất đắc dĩ mà phải đắc tội, xin miễn trách. Cao tính đại danh tôn giả là gì?
Tên đại đạo mày rậm mắt to, thân hình cao lớn. Gã trừng mắt nhìn Hồ Phỉ lớn tiếng:
– Ta học nghệ chưa tinh bị ngươi bắt được. Ngươi muốn giết muốn mổ thế nào thì cứ việc động thủ đi, lắm lời làm gì?
Hồ Phỉ thấy gã cứng cỏi lại khâm phục là một trang hán tử, liền cười đáp:
– Giữa tại hạ và tôn giá đã không quen biết, lại không oán không thù, thì há có ý hại nhau? Có điều câu chuyện bữa nay lắm chỗ kỳ quái tại hạ không sao hiểu được, lão huynh có thể cho biết rõ hơn được chăng?
Tên đại đạo lại quát:
– Ngươi tưởng Uông Thiết Ngạc này là kẻ tiểu nhân đê hèn chăng? Dù ngươi có hoa ngôn xảo ngữ thế nào cũng đừng hòng hỏi ta được nửa câu.
Trình Linh Tố thè lưỡi ra cười nói:
– Ngươi không chịu xưng danh sao lại còn nói ra? Té ra là Uông Thiết Ngạc lão gia, vãn bối ngưỡng mộ từ lâu.
Uông Thiết Ngạc “hừ” một tiếng, rồi thóa mạ:
– Con tiểu nha đầu tóc vàng kia! Ngươi thì biết cái gì?
Trình Linh Tố không để ý đến hắn, nhìn Hồ Phỉ nói:
– Đại ca! Người này ngây ngô không hiểu, nhưng các vị tiền bối của Ưng trảo nhạn hành môn đối với tiểu muội lại có chút giao tình. Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu đối với tiểu muội rất cung kính. Đại ca đừng làm khó dễ cho y.
Cô nói rồi nheo mắt nhìn Hồ Phỉ.
Uông Thiết Ngạc rất lấy làm lạ, hỏi:
– Cô biết đại sư huynh cùng nhị sư huynh của tại hạ ư?
Giọng gã lập tức biến đổi.
Trình Linh Tố đáp:
– Sao lại không biết? Vãn bối thấy hai môn Ưng trảo công và Nhạn hành công của lão gia học chưa đến nơi đến chốn.
Uông Thiết Ngạc đáp:
– Phải!
Hắn cúi đầu xuống ra chiều xấu hổ.
Nguyên Ưng trảo nhạn hành môn là đại môn phái trong võ học ở phương bắc. Đại đệ tử Chu Thiết Tiêu, nhị đệ tử Tăng Thiết Âu nổi tiếng giang hồ đã lâu. Trình Linh Tố từng được nghe sư phụ nói tới, biết bọn đệ tử đời thứ nhất ở môn phái này phần nhiều đều lấy tên có chữ “Điểu” một bên. Khi Uông Thiết Ngạc báo danh, cô lại thấy hắn sử thanh Nhạn linh đao nên đoán đúng ngay. Còn võ công của Uông Thiết Ngạc học chưa đến nơi khỏi phải nói nhiều, vì nếu bản lãnh hắn cao thâm thì sao lại để Hồ Phỉ bắt được?
Uông Thiết Ngạc tính vốn ngây ngô, nghe Trình Linh Tố nói câu này, lập tức tin ngay. Trình Linh Tố hỏi:
– Hai vị sư ca của lão gia sao không cùng đi? Vãn bối chưa thấy các vị đó đâu?
Thực ra cô chưa từng biết mặt Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu, nhưng cô đoán uy danh hai người này khá lớn, nếu họ ở trong đám này tất phải là nhân vật đầu não, mà lão già kia cùng mấy tên trưởng toán khác đều không sử đao, nên cô đoán chắc hai lão Chu, Tăng đều không có ở đó.
Uông Thiết Ngạc đáp:
– Chu sư ca cùng Tăng sư ca đều ở lại Bắc Kinh. Chút việc nhỏ mọn này làm gì phải phiền đến đại giá hai vị đó?
Gã nói câu này ra chiều đắc ý.
Trình Linh Tố nghĩ thầm:
– Hai người kia ở lại Bắc Kinh, không lẽ bọn cường đạo này đều từ Bắc Kinh tới đây cả hay sao? Ta phải loè hắn một phen nữa mới được.
Cô liền nói một câu thật hờ hững:
– Cuộc đại hội các chưởng môn trong thiên hạ chẳng bao lâu nữa sẽ khai diễn, Ưng trảo nhạn hành môn nhất định phải có mặt. Chắc lão gia cũng sẽ về Bắc Kinh để xem náo nhiệt chứ?
Uông Thiết Ngạc đáp:
– Cái đó còn phải nói! Xong vụ công cán này, bọn ta sẽ trở về Bắc Kinh hết.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều sửng sốt, tự hỏi:
– Công cán mà hắn nói là công cán gì?
Trình Linh Tố nói:
– Các vị đương gia tại quý trại chịu chiêu an về quy thuận triều đình vì Hoàng thượng ra sức, đó là việc làm hiển hách cho tổ tiên.
Không ngờ điểm này Trình Linh Tố đã đoán sai, cô cứ ngỡ bọn chúng là đạo tặc, nếu đi làm công vụ thì tất đã chịu chiêu an quy thuận triều đình.
Ngờ đâu Uông Thiết Ngạc đảo cặp mắt lên, hỏi:
– Chiêu an cái gì? Cô nương tưởng bọn ta là đạo tặc chắc?
Trình Linh Tố la thầm trong bụng:
– Hỏng bét!
Cô lại tủm tỉm cười, đáp:
– Các vị giả làm bằng hữu phe hắc đạo, trong lòng người nào cũng đều hiểu rõ, hà tất phải nói trắng ra?
Tuy cô rào trước đón sau, tựa hồ như không để lộ một mảy may sơ suất song Uông Thiết Ngạc sinh lòng ngờ vực, cô nói gì hắn cũng chỉ trợn mắt lên nhìn chứ không thốt nửa lời.
Hồ Phỉ bỗng lên tiếng:
– Nhị muội! Nhị muội đã quen biết các vị sư ca của Uông huynh, vậy chúng ta đừng làm khó dễ. Mời Uông huynh trở về cho!
Uông Thiết Ngạc ngạc nhiên cứ đứng sững ra đó. Hồ Phỉ mở cửa thạch thất nói tiếp:
– Xin đừng trách tội, hẹn ngày tái ngộ.
Uông Thiết Ngạc không hiểu chàng giở ngụy kế gì, vẫn không dám nhấc chân.
Trình Linh Tố kéo áo Hồ Phỉ đưa mắt ra hiệu. Hồ Phỉ cười nói:
– Tiểu đệ là Hồ Phỉ, nghĩa muội là Trình Linh Tố gửi lời vấn an hai võ sư Chu, Tăng.
Dứt lời chàng khẽ đẩy sau lưng Uông Thiết Ngạc một cái cho hắn ra ngoài cửa. Uông Thiết Ngạc vẫn ngơ ngác không hiểu, ngần ngại chưa chịu cất bước. Gã quay đầu nhìn lại thấy cửa đã đóng, mới đi được vài bước đã xoay người đi ngược vì sợ Hồ Phỉ phóng ám khí sau lưng. Gã đi được chừng năm, sáu trượng vẫn không thấy trong thạch thất có động tĩnh gì mới xoay người lại, chạy vào trong rừng.
Trình Linh Tố nói:
– Đại ca! Tiểu muội buột miệng nói bừa chứ có biết Chu Thiết Kê hay Tăng Thiết Áp gì đâu. Sao đại ca lại tin thực mà tha hắn?
Hồ Phỉ đáp:
– Tiểu huynh xem chừng bọn này quyết chẳng dám gia hại Mã cô nương. Hơn nữa Uông Thiết Ngạc là con người ngốc nghếch, bọn cường đạo chưa chắc đã coi trọng gã. Nếu thực tình muốn gây khó dễ cho Mã cô nương, thì bọn chúng chắc cũng chẳng thương tiếc gì gã phải đình thủ.
Trình Linh Tố khen:
– Đại ca nghĩ rất đúng…
Cô chưa dứt lời đã nhìn thấy Mã Xuân Hoa từ từ cất bước trở về. Quần đạo cung kính đưa đến ven rừng rồi dừng lại, để nàng đi một mình về thạch thất. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nàng, có ý muốn hỏi nhưng không lên tiếng.
Mã Xuân Hoa nói ngay:
– Bọn chúng đều khen võ công của Hồ huynh đệ rất cao thâm mà lòng đầy nhân nghĩa, thực là một vị thiếu niên anh hùng…
Hồ Phỉ nói mấy câu khiêm tốn. Chàng thấy Mã Xuân Hoa ngơ ngẩn xuất thần không nói thêm câu nào cũng không hỏi nữa.
Lát sau Mã Xuân Hoa mới nói:
– Hồ huynh đệ! Trình muội tử! Hai vị đi đi thôi. Câu chuyện của tiện thiếp… hai vị không giúp được đâu.
Hồ Phỉ hỏi:
– Cô nương chưa thoát khỏi nơi hiểm địa thì tại hạ bỏ đi làm sao được?
Mã Xuân Hoa đáp:
– Tiện thiếp ở đây không có gì nguy hiểm cả, bọn chúng không dám làm gì tiện thiếp đâu.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Cô nói hai câu này có lẽ đều đúng sự thực, nhưng để cô một mình ở đây thì ta yên tâm thế nào được?
Chàng thấy mặt Mã Xuân Hoa lúc đỏ bừng, lúc tái nhợt, có lúc lại ngần ngật nước mắt, có lúc bên môi lại hé nụ cười. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố nhìn nhau ngơ ngác. Cả trong lẫn ngoài nhà thạch thất đều im lặng như tờ.
Hồ Phỉ kéo áo Trình Linh Tố đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Chàng khẽ hỏi:
– Nhị muội, chúng ta làm gì bây giờ?
Trình Linh Tố khẽ đáp:
– Bậc thiếu niên anh hùng đại nhân đại nghĩa làm sao, thì con tiểu nha đầu tóc vàng này cũng làm thế.
Hồ Phỉ hạ thấp giọng xuống, nói:
– Tiểu huynh nghi ngờ một điều, bất luận thế nào cũng cần phải đích thân hỏi Mã cô nương, chứ cứ giằng co mãi thế này cũng không xong được.
Trình Linh Tố hỏi:
– Tiểu muội thử đoán coi. Đại ca đã bảo năm xưa có gã họ Thương có ý với Mã cô nương phải không?
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng thế! Nhị muội thật thông minh. Tiểu huynh nghi ngờ bọn cường đạo này đã chịu lời ủy thác của Thương Bảo Chấn mà đến, nên chúng đối với Mã cô nương rất khách khí, mà đối với trượng phu của cô lại làm nhục đủ điều.
Trình Linh Tố nói:
– Xem ra Mã cô nương vẫn còn tình ý với gã họ Thương.
Hồ Phỉ nói:
– Vì thế nên tiểu huynh không biết mình làm thế nào cho phải.
Lúc hai người nói chuyện không nhìn nhau, chỉ thấy đôi môi mấp máy nên Mã Xuân Hoa ngồi trong góc nhà chẳng nghe được câu nào.
Ráng chiều đã nhạt dần, trời sắp tối rồi. Đột nhiên mé tây có tiếng còi rúc lên dồn dập. Lại có thêm mấy người nữa cưỡi ngựa tới. Trình Linh Tố nói:
– Viện thủ của địch nhân lại đến nữa rồi.
Hồ Phỉ lắng tai nghe rồi hỏi:
– Sao lại có một người đi bộ?
Quả nhiên lát sau có một người chạy thục mạng tới gần. Phía sau bốn người cưỡi ngựa đi thành hình cánh quạt rượt theo. Bốn người trên ngựa dường như có ý bỡn cợt nên không giục ngựa tới ngay, miệng chúng quát tháo, thổi còi, thủy chung vẫn cách xa người chạy bộ hai, ba trượng. Người chạy bộ đầu bù tóc rối chân bước loạng choạng, hiển nhiên đã kiệt sức.
Hồ Phỉ nhìn rõ mặt mũi người đó, la lên:
– Từ đại ca! Lại đây!
Dứt lời chàng mở cửa toan chạy ra tiếp ứng thì đã không kịp nữa rồi. Bốn con ngựa chạy vòng theo mé bên tiến lên trước cản đường Từ Tranh. Quần đạo ở trong rừng cùng đổ ra. Nếu Hồ Phỉ xông tới cứu viện thừa cơ sấn vào thạch thất, Trình Linh Tố và Mã Xuân Hoa sẽ bị nguy ngay. Chàng đành giương mắt lên nhìn quần đạo bao vây Từ Tranh.
Hồ Phỉ cất tiếng sang sảng, quát lớn:
– Ỷ đông thủ thắng đâu phải anh hùng hảo hán?
Hán tử cưỡi ngựa đuổi theo, một tên đáp:
– Không sai! Ta đang muốn đơn đả độc đấu với cao đồ của Thần quyền vô địch là Từ đại tiêu đầu ở Phi Mã tiêu cục.
Hồ Phỉ nghe thanh âm quen thuộc, chú ý nhìn lại bỗng la thất thanh:
– Gã là Thương Bảo Chấn!
Trình Linh Tố nói:
– Gã họ Thương quả nhiên đã đến rồi.
Cô thấy gã vẻ người đĩnh đạc, mặt mũi trắng trẻo, so với Từ Tranh mặt đầy sứt sẹo thì tỏ ra tuấn nhã gấp mười lần. Cô lại thấy gã xoay mình nhảy xuống ngựa, thân pháp rất ung dung tiêu sái, nghĩ thầm:
– Gã này quả xứng đôi với Mã cô nương, không trách gã nổi dạ bất bình nói những chuyện “bông hoa lài cắm bãi phân trâu” gì gì đó.
Dù sao cô cũng là một thiếu nữ nhỏ tuổi nên không nhịn được, liền la lên:
– Mã gia tỷ tỷ! Gã họ Thương đã tới rồi đó.
Mã Xuân Hoa chỉ ậm ừ tựa hồ không hiểu Trình Linh Tố nói gì. Lúc này quần đạo đã bao quanh Từ Tranh thành một vòng vây lớn, che mất nhãn quang của những người đứng từ trong cửa sổ nhìn ra.
Trình Linh Tố nói:
– Đại ca! Ở đây nhìn không thấy. Chúng ta lên nóc nhà coi.
Hồ Phỉ đáp:
– Phải rồi!
Hai người nhảy lên nóc nhà, nhìn thấy Từ Tranh cùng Thương Bảo Chấn quắc mắt nhìn nhau. Thương Bảo Chấn tay cầm đơn đao sống dày lưỡi mỏng còn Từ Tranh thì tay không.
Trình Linh Tố nói:
– Vụ này bất công rồi.
Hồ Phỉ chưa kịp đáp đã nghe Thương Bảo Chấn lớn tiếng nói:
– Từ gia! Thương mỗ động thủ với Từ gia đã không ỷ đông thủ thắng, mà cũng chẳng để Từ gia phải tay không. Bây giờ, Từ gia dùng đao còn tại hạ tay không, vậy là Từ gia không thua thiệt gì nữa.
Dứt lời gã cầm thanh đơn đao xoay chuôi lại nhắm Từ Tranh ném tới. Từ Tranh vươn tay ra đón lấy, miệng thở hồng hộc, nói:
– Khi còn ở Thương gia bảo, ngươi đối với sư muội ta như vậy, tưởng ta không có mắt ư? Bữa nay bọn ngươi vô cớ kéo cả bè lũ đến đây để làm gì, Từ mỗ bất tất phải nói nhiều. Thương Bảo Chấn! Ngươi lấy đao ra đi.
Thương bảo Chấn lớn tiếng đáp:
– Tại hạ dùng hai bàn tay không tỷ đấu với thanh đơn đao của Từ gia. Các vị đại ca! Nếu tiểu đệ có chết về lưỡi đao của gã cũng chỉ trách mình cuồng vọng tự đại, xin đừng ai vào trợ lực.
Trình Linh Tố hỏi:
– Sao gã lại to tiếng thế? Hiển nhiên gã có ý nói cho Mã cô nương nghe thấy. Gã tay không đấu đơn đao chẳng những muốn phô tương tài nghệ trước ý trung nhân, mà còn muốn làm cho nàng động tâm.
Hồ Phỉ buông tiếng thở dài.
Trình Linh Tố hỏi:
– Đại ca! Đại ca nói thử Mã cô nương muốn ai thắng?
Hồ Phỉ lắc đầu đáp:
– Tiểu huynh không biết.
Trình Linh Tố nói:
– Một bên là chồng, một bên là người ngoài, xem ra cả hai đều vì Mã cô nương mà liều mạng. Cô nấp trong xó nhà chẳng lý gì tới. Tiểu muội chỉ e rằng trong thâm tâm Mã cô nương lại mong cho Thương thiếu gia thắng đó.
Hồ Phỉ trong lòng cũng nghĩ như vậy nhưng chỉ lắc đầu, nói:
– Tiểu huynh không biết.
Từ Tranh thấy Thương Bảo Chấn nhất định không dùng binh khí, hắn liền cầm ngang thanh đơn đao, nói:
– Bữa nay Từ mỗ đã bị vây hãm trong trùng vi cũng không muốn sống để trở về nữa.
Võ công Thương Bảo Chấn cao hơn Từ Tranh nhiều. Năm xưa ở Thương gia bảo, gã yêu cầu Từ Tranh dạy quyền cước chỉ là giả vờ. Mấy năm nay gã theo hai vị sư bá, sư thúc là Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn khổ công rèn luyện “Bát Quái đao” và “Bát Quái chưởng”, công phu tiến bộ rất nhiều. Từ Tranh thua chạy hàng nửa ngày, sức cùng lực kiệt. Trong tay tuy có đơn đao, nhưng đấu với “Bát Quái chưởng” của Thương Bảo Chấn mới được mấy chiêu đã lâm vào thế hạ phong.
Hồ Phỉ chau mày nói:
– Gã họ Thương rất xảo quyệt.
Trình Linh Tố hỏi:
– Đại ca có muốn ra tay không?
Hồ Phỉ đáp:
– Ta vì muốn giúp Mã cô nương mà tới đây nhưng… nhưng… ta thật không hiểu ý cô ấy ra sao?
Trình Linh Tố ra chiều rất bất mãn với Mã Xuân Hoa, liền nói:
– Mã cô nương quyết không có sự gì nguy hiểm. Đại ca có lòng hảo tâm muốn giúp đỡ, chưa chắc cô đã chịu nghe. Chúng ta đi quách là hơn!
Hồ Phỉ thấy thanh đơn đao của Từ Tranh bị chưởng đạo của Thương Bảo Chấn kiềm chế phóng ra những chiêu lệch lạc, chẳng vào chưởng pháp nào hết, nhìn thấy cảnh tượng rất thê thảm. Chàng nói:
– Nhị muội! Nhị muội nói phải lắm. Vụ này chúng ta không nên can thiệp làm gì.
Chàng ở trên nóc nhà nhảy xuống, đi vào thạch thất nói:
– Mã cô nương! Từ đại ca không chống chọi được nữa rồi. E rằng gã họ Thương sắp hạ độc thủ.
Mã Xuân Hoa ngơ ngẩn xuất thần, ậm ừ một tiếng chứ không nói gì. Hồ Phỉ lửa giận bốc lên không thèm nói nữa, quay lại bảo Trình Linh Tố:
– Nhị muội! Chúng ta đi thôi.
Mã Xuân Hoa tựa hồ người trong mộng choàng tỉnh giấc, cất tiếng hỏi:
– Các vị đi ư? Đi đâu bây giờ?
Hồ Phỉ ngang nhiên đáp:
– Mã cô nương! Ngày trước cô nương đã năn nỉ giùm tại hạ, tại hạ rất cảm kích. Nhưng cô nương đối với Từ đại ca như vậy…
Chàng chưa dứt lời bỗng nghe ngoài cửa xa vang lên một tiếng rú thê thảm, chính là thanh âm của Từ Tranh. Tiếp theo là tiếng cười ha hả của Thương Bảo Chấn, trong tiếng cười lộ vẻ cực kỳ đắc ý. Quần đạo cũng hoan hô vang dội:
– Hảo Bát Quái chưởng! Hảo Bát Quái chưởng!
Mã Xuân Hoa cả kinh, la lên:
– Sư ca!
Rồi nàng lao ra ngoài.
Hồ Phỉ hậm hực nói:
– Tình nhân đánh chết trượng phu là hợp ý lắm rồi còn gì.
Trình Linh Tố thấy chàng phẫn nộ quá chừng, liền cất giọng ôn nhu an ủi:
– Vụ này dù đại ca có bản lãnh nghiêng trời cũng chẳng có cách gì can thiệp được.
Hồ Phỉ nói:
– Nếu y không yêu sư ca, hà tất phải thành thân với gã?
Trình Linh Tố đáp:
– Chắc cô bị bắt buộc phải vâng lời phụ thân.
Hồ Phỉ lắc đầu nói:
– Không phải. Phụ thân cô bị chết cháy ở Thương gia bảo từ trước rồi. Dù đã có hôn ước cũng nên hủy bỏ, còn hơn là đi đến nông nỗi này.
Bồng nghe có tiếng rên rỉ của Từ Tranh từ trong đám đông vọng ra.
Hồ Phỉ cả mừng nói:
– Từ đại ca chưa chết. Ta thử ra coi.
Chàng liền cầm tay Trình Linh Tố, rảo bước chen vào giữa đám quần đạo. Thật là lạ, trước đây chưa lâu, quần đạo cùng Hồ Phỉ bên công bên thủ, bày trận đánh nhau, nhưng hiện giờ chúng chỉ chú ý đến Mã Xuân Hoa, Thương Bảo Chấn và Từ Tranh, tuyệt không để ý gì đến Hồ Phỉ và Trình Linh Tố.
Hồ Phỉ cúi xuống nhìn Từ Tranh thấy trước ngực hắn có vũng máu lớn, hơi thở đã yếu lắm. Hiển nhiên hắn bị chưởng lực của Thương Bảo Chấn làm chấn động nội tạng, chỉ trong khoảnh khắc là tắt thở. Mã Xuân Hoa đứng ngẩn người ra trước mặt Từ Tranh, không nói câu gì. Hồ Phỉ cúi xuống khẽ nói vào tai Từ Tranh:
– Từ đại ca! Đại ca còn việc gì chưa giải quyết, tiểu đệ sẽ giúp cho.
Từ Tranh hết nhìn vợ lại nhìn Thương Bảo Chấn, hắn cười rất đau khổ, khẽ đáp:
– Không có.
Hồ Phỉ nói:
– Tiểu đệ đi kiếm hai đứa con nhỏ để nuôi chúng thành người.
Giữa chàng và Từ Tranh chưa có mối giao tình gì, nhưng chàng thấy hắn đến nông nỗi này nên nổi lòng nghĩa phẫn, không nhịn được mà đứng ra gánh vác. Từ Tranh lại cười rất đau khổ, thều thào nói một câu nhưng tiếng nhỏ quá, Hồ Phỉ không nghe rõ. Chàng áp tai vào bên miệng hắn mới nghe được mấy tiếng nhát gừng:
– Con… con… trước khi… kết hôn… đã có con rồi… không phải là của tại hạ…
Hắn thở hắt ra rồi tuyệt khí chết liền.
Hồ Phỉ đột nhiên tỉnh ngộ: “Hèn gì Mã cô nương lại thành thân với gã. Té ra sau khi Thương gia bảo bị thiêu rụi, gã họ Thương không biết đi đâu, mà cô lại mang thai, cô không lấy Từ Tranh cũng không được. Thảo nào hai thằng nhỏ trắng trẻo khả ái, chẳng giống tướng mạo Từ đại ca chút nào”.
Chàng vươn người đứng lên, không biết phải nói gì, bỗng tai lắng nghe tiếng vó ngựa vang lên. Lại có hai hán tử nữa phi ngựa tới. Mỗi hán tử đều ẵm một đứa con của Mã Xuân Hoa trong tay.
Mã Xuân Hoa hết nhìn Từ Tranh lại nhìn Thương Bảo Chấn, hỏi:
– Thương thiếu gia! Thiếu gia ra tay đánh chết trượng phu của tiểu muội rồi ư?
Thương Bảo Chấn đáp:
– Đơn đao còn ở trong tay y, tại hạ không chiếm chút tiện nghi nào cả.
Mã Xuân Hoa khẽ gật đầu, rút thanh đơn đao ở trong tay Từ Tranh ra, nói:
– Đây là thanh Bát Quái đao gia truyền của thiếu gia. Khi tiểu muội ở Thương gia bảo đã từng thấy qua.
Thương Bảo Chấn mỉm cười nói:
– Cô nương còn nhớ là hay lắm. Tại hạ chỉ mong cô nương nhớ tới.
Mã Xuân Hoa đáp:
– Tiểu muội sao lại không nhớ được? Chuyện cũ ở Thương gia bảo tựa hồ như còn hiện ra trước mắt.
Trình Linh Tố liếc mắt nhìn Hồ Phỉ thấy mặt chàng đỏ bừng, ngực nhô lên hụp xuống không ngớt, đang dằn lửa giận để khỏi phát tác.
Mã Xuân Hoa cầm thanh Bát Quái đao giơ lên khen:
– Thanh đao tốt quá!
Nàng từ từ bước lại trước mặt Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn hé miệng mỉm cười, ánh mắt đầy tình tứ, đưa tay đón lấy. Mã Xuân Hoa xoay ngược mũi đao, có vẻ như muốn đưa chuôi đao lại cho gã. Đột nhiên ánh bạch quang lấp loáng, mũi đao xoay lại đâm vào hông của Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn rú lên một tiếng. Gã phóng chưởng đánh ra đẩy Mã Xuân Hoa lùi lại mấy bước, miệng lắp bắp:
– Ngươi… ngươi… ngươi… làm sao…
Gã chưa dứt lời đã té nhào xuống, chết ngay tức khắc. Diễn biến đột ngột này không một ai ngờ đến. Nguyên Thương Bảo Chấn đánh chết Từ Tranh, Mã Xuân Hoa phải trả thù chồng, đó là điều ai cũng nghĩ tới, nhưng đối với cái chết của Từ Tranh nàng chẳng lộ vẻ thương tâm chút nào, lại cùng đối đáp với Thương Bảo Chấn tựa hồ hân hoan muốn chắp lại tình xưa, vậy mà đao quang chợt nhoáng lên, mũi đao đã đâm gục kẻ địch.
Quần đạo còn đang ngơ ngác chưa kịp bật tiếng la thì Hồ Phỉ đã khẽ đẩy sau lưng Trình Linh Tố, tay dắt Mã Xuân Hoa hấp tấp lui vào thạch thất. Quần đạo hét ầm lên, toan ngăn cản thì đã chậm mất một bước. Sự việc xảy ra quá đột ngột, quần đạo hiển nhiên còn phải bàn bạc nên không tấn công vào thạch thất ngay mà lại lui ra mở rộng vòng vây.
Hồ Phỉ nhìn Mã Xuân Hoa, vui vẻ nói:
– Lúc trước tiểu đệ đã trách lầm cô nương, nhưng cô nương không phải là hạng người như vậy.
Mã Xuân Hoa không đáp, một mình ngồi ngây người ra ở góc nhà. Trình Linh Tố bây giờ đối với nàng bằng thái độ khác hẳn. Cô ôn tồn an ủi nàng mấy câu, nhưng Mã Xuân Hoa chỉ nhìn thẳng về phía trước không nói nửa lời. Hồ Phỉ nhìn Trình Linh Tố đưa mắt ra hiệu. Hai người sóng vai đứng trước cửa sổ.
Hồ Phỉ nói:
– Mã cô nương trả thù cho chồng, hạ sát địch nhân một cách bất ngờ khiến gã trở tay không kịp. Về điểm này ta càng không hiểu.
Trình Linh Tố cũng cảm thấy khó hiểu, từ lúc Thương Bảo Chấn xuất hiện thì tất cả sự việc đều hiện rõ chân tướng, nhưng tình hình lúc này lại diễn biến mười phần cổ quái. Mã Xuân Hoa tự tay hạ sát Thương Bảo Chấn, phải chăng vì nàng thấy trượng phu bị chết thảm mà đột nhiên thiện lương xuất hiện? Nếu quả bọn cường đạo đều do Thương Bảo Chấn mời đến, thì sau khi gã chết rồi bọn chúng tất nhiên phẫn nộ, la hét tấn công, nhưng sao chúng chỉ lộ vẻ kinh dị chứ không có hành động gì khác?
Hồ Phỉ ngưng thần ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Nhị muội! Trong vụ này còn nhiều chỗ khó hiểu. Hai chúng ta nếu cứ liều lĩnh can thiệp không chừng lại làm hại người tốt. Mã cô nương nhất định không chịu nói rồi. Ta đi hỏi tên thủ lãnh bọn cường đạo xem sao.
Trình Linh Tố nói:
– Chắc gì hắn đã chịu nói?
Hồ Phỉ đáp:
– Thì cứ để tiểu huynh thử xem sao!
Trình Linh Tố dặn:
– Đại ca phải thận trọng lắm mới được.
Hồ Phỉ nói:
– Tiểu huynh hiểu rồi.
Chàng mở cửa ra, từ từ đi về phía quần đạo. Quần đạo thấy chàng đi một mình, tay không cầm binh khí, đều lộ vẻ kinh dị. Hồ Phỉ còn cách quần đạo chừng sáu, bảy trượng dừng lại nói:
– Tại hạ có điều cơ mật muốn bàn với quý thủ lãnh.
Chàng nói rồi vỗ vào người mấy cái để chứng tỏ không mang binh khí. Một hán tử to lớn trong quần đạo lớn tiếng đáp:
– Bọn ta đây toàn là hảo huynh đệ, các hạ có điều chi cứ nói đừng ngại, hà tất phải lén lén lút lút.
Hồ Phỉ cười nói:
– Các vị đều là anh hùng hảo hán thì vị đầu lãnh dĩ nhiên là một nhân vật không phải tầm thường, chẳng lẽ lại không dám nói với tại hạ một câu?
Lão già gầy nhom xua tay đáp:
– Nhân vật phi thường thì không dám. Lão phu coi tiểu huynh đệ là một thiếu niên anh hùng, hậu sinh khả úy, hậu sinh khả úy!
Lão đưa mấy lời khen ngợi Hồ Phỉ, nhưng vẻ mặt lại rất ngạo nghễ. Hồ Phỉ chắp tay hỏi:
– Lão gia tử! Xin lão gia ra ngoài một bước cho tiểu đệ thưa chuyện.
Chàng nói rồi đi về phía khu rừng trống. Lão già liếc mắt lên nhìn. Vụ Mã Xuân Hoa đâm chết Thương Bảo Chấn vừa rồi còn khiến mọi người ai cũng kinh ngạc, lão vẫn chưa yên tâm vì sợ Hồ Phỉ ngấm ngầm thi hành độc kế nên không dám đi ngay, nhưng không đi lại không khỏi tỏ ra khiếp nhược. Lão tập trung hết tinh thần để đề phòng rồi từng bước tiến gần đến Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ chắp tay nói:
– Vãn bối là Hồ Phỉ. Tôn tính lão gia là gì?
Lão già không trả lời mà hỏi lại:
– Tôn giá có điều chi muốn nói?
Hồ Phỉ cười đáp:
– Cũng chẳng có chuyện gì. Vãn bối muốn thỉnh giáo mấy đường quyền cước.
Lão già không ngờ Hồ Phỉ kêu mình ra ngoài để nói câu này, đột nhiên biến sắc, xẵng giọng:
– Tiểu tử giỏi lắm! Ngươi gạt ta ra đây chỉ để nói câu này thôi ư?
Hồ Phỉ cười đáp:
– Xin lão gia đừng giận. Vãn bối muốn đánh cuộc với lão gia một phen.
Lão già hừ một tiếng rồi xoay mình bước đi. Hồ Phỉ nói:
– Vãn bối đã tiên liệu lão gia không dám! Vãn bối có đứng bất động một chỗ, lão gia cũng không đánh nổi.
Lão già tức giận hỏi:
– Ngươi bảo sao?
Hồ Phỉ đáp:
– Hai chân vãn bối ghim chặt xuống đất không di động nửa tấc, còn lão gia tha hồ chạy nhảy. Chúng ta tỷ đấu quyền cước như vậy, lão gia bảo ai được ai thua?
Lão già thấy chàng phô trương thân thủ đoạt lôi chấn đáng, bắt Uông Thiết Ngạc, đoạt kiếm trả kiếm, bắn liên tục ám khí, môn nào cũng làm người ta hoa cả mắt. Nếu đơn đả độc đấu thì quả lão có điều khiếp sợ, nhưng nghe chàng khoác lác là sẽ ghim chặt hai chân đứng yên bất động để đấu với mình, thì chuyện này chưa từng nghe trên chốn giang hồ. Lão là chưởng môn phái “Bát Cực quyền” ở phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam, tính người thận trọng, võ công lại cao cường, vì thế hơn ba chục người tới đây để lão làm thủ lĩnh. Lão nghĩ đối phương không di động hai chân thì mình ở vào thế không thể thua được, rồi dần dần sẽ chiếm thế thượng phong.
Lão nghĩ vậy nên không tức giận mà lại cảm thấy cao hứng, bèn cười nói:
– Tiểu huynh đệ đưa ra cách mới để khảo nghiệm lão phu. Hay lắm! Mấy rẻ xương già này có gãy về tay tiểu huynh đệ cũng được. Chúng ta có được dùng ám khí không?
Hồ Phỉ mỉm cười đáp:
– Đã tỷ võ giao hữu thì còn dùng ám khí làm gì?
Lão già nghĩ bụng:
– Ta nếu đánh không lại gã chỉ cần lùi lại ba bước, mà gã đã ghim chân xuống đất thì tay gã làm gì với tới được? Vậy có kém lắm cũng giữ được thế ngang ngửa.
Lão liền nói:
– Hay lắm!
Hồ Phỉ nói:
– Giữa vãn bối và lão gia vốn không quen biết. Lần này can thiệp vào chuyện không đâu thật là nhộn quá. Chỉ cần thua một chiêu nửa thức là vãn bối cùng nghĩa muội lập tức đi ngay.
Lão già bụng bảo dạ:
– Nếu gã cố tình bênh vực Mã cô nương thì vụ này cũng khó kết thúc. Còn mình ỷ số đông để tấn công tất làm hại nhiều mạng người, nếu như làm thương tổn Mã có nương lại càng không ổn, vậy dàn xếp cho êm thấm là hay hơn cả.
Lão liền đáp:
– Phải rồi! Vụ này tuyệt không liên can gì đến người ngoài. Từ nay Mã cô nương phú quý vinh hoa, địa vị cao ngất mây xanh, tiểu huynh đệ có mối giao tình với cô cũng nên mừng cho cô.
Hồ Phỉ lắc đầu nói:
– Vãn bối có điều không hiểu. Nếu lão gia có ý nhường nhịn một chiêu, thì vãn bối xin lão gia cho biết rõ nguyên ủy bên trong.
Lão già trầm ngâm một chút rồi nói:
– Được rồi. Cứ như thế đi.
Lão thấy Hồ Phỉ hai chân đứng cách nhau một thước tám tấc, vững vàng như núi, trầm ổn tuyệt luân thì không khỏi động tâm, nghĩ thầm:
– Không chừng mình thua gã thực chứ chẳng chơi.
Lão nói tiếp:
– Chúng ta cần nói rõ trước. Lão phu mà thua sẽ nói rõ sự việc cho tiểu huynh đệ hay, nhưng tiểu huynh đệ nhất định không được nói với người thứ hai nào.
Hồ Phỉ nói:
– Vãn bối có thể nói với nghĩa muội được không?
Lão già thầm nghĩ:
– Người ta thường nói “Can sài liệt hỏa hảo chử phạn, Can huynh can muội hảo tố thân”. Hai người họ là anh em kết nghĩa thì thân mật biết là chừng nào? Bây giờ miệng gã ưng thuận không nói cho ai nhưng có lý nào gã lại không kể cho nghĩa muội gã hay?”
Lão nghĩ vậy bèn nói:
– Không được nói với bất kỳ người thứ ba nào.
Hồ Phỉ nói:
– Được! Cứ như vậy đi. Nhưng chắc đâu vãn bối thắng được lão nhân gia?
Lão già nhớm người lên, mỉm cười nói:
– Xin thất lễ!
Tay trái lão phóng chưởng đánh ra, tay mặt biến thành móc câu. Đó là “Thôi sơn thức” trong “Bát cực quyền”. Hồ Phỉ thuận tay đưa lên gạt, chàng cảm thấy chưởng lực của lão rất hùng hậu liền nói:
– Chưởng lực lão gia tuyệt lắm!
Quần đạo thấy hai người kéo nhau vào rừng động thủ liền tới tấp bu lại nhưng thấy hai người đều có vẻ tươi cười, nên chúng liền đứng ngoài để quan sát. Bát cực trong “Bát cực quyền” gồm có “Phiên Thủ”, “Điệp Uyển”, “Thốn Khẩn”, “Đẩu Triển” chia làm tám thức “Lâu, Đả, Đằng, Phong, Thích, Đẳng, Tảo, Quái”, đều chú trọng ở điểm thần tốc, linh hoạt. Lão già thi triển “Phiên Thủ” rất linh hoạt, “Điệp Uyển” rất xảo diệu, “Thốn Khẩn” rất tinh thuần, “Đẩu Triển” rất thần tốc, quả đúng là phong phạm của một danh gia cao thủ.
Quần đạo đứng xem đều ngấm ngầm bội phục, ai cũng nghĩ thầm.
– Y đem “Bát cực quyền” để dương uy ở hai vùng nam bắc sông Đại Hà nổi danh đã hơn ba mươi năm nay, quả có chân tài thực học chứ hoàn toàn không chỉ là hư danh.
Lão già tiến một bước thành ba vòng, ba bước thành chín lần chuyển mười hai bước thành thế liên hoàn, đại thức biến thành tiểu thức, tiểu thức biến thành trung bàn. Lão triển khai nào “Kỵ mã thức”, “Ngư lân thức”, “Cung bộ thức”, “Ma tất thức”, nhảy nhót tung hoành bên mình Hồ Phỉ, quyền cước mỗi lúc một mau lẹ.
Hồ Phỉ vẫn một mực giữ vững, thấy thức nào hóa giải thức ấy. Quả nhiên hai chân chàng không mảy may di động. Đấu nửa chừng, lão già cảm thấy quyền chưởng của mình dần dần trì trệ, tựa hồ như có một niêm lực cứ dính vào giữa quyền chưởng của mình. Lão la thầm:
– Hỏng rồi!
Lão toan nhẩy lùi lại, đối phương không thể nhảy theo truy kích thì không phân thắng bại. Ngờ đâu tay trái lão vừa thu về thì tay phải Hồ Phỉ chụp được nắm tay phải lão, đồng thời tay trái chàng nắm lại thành quyền khẽ đánh vào khuỷu tay phải lão một cái. Lão già cả kinh, vội vận kình lực giật tay ra nhưng không thoát được, lại e mình phải gãy mất cánh tay phải. Chính lúc lão đang hoang mang thì đột nhiên Hồ Phỉ buông tay, chân bước loạng choạng, nói:
– Chưởng lực của lão gia rất hùng hậu. Bội phục! Bội phục!
Lão già hiểu rõ trong lòng, cảm kích vô cùng, vì đối phương không những tha không đánh gãy tay lão lại cố ý chân bước loạng choạng giả vờ tạo thế quân bình, để lão khỏi mất thể diện trước mặt quần đạo, bảo toàn được uy danh một đời. Ơn đức này quả thực không nhỏ. Lão liền bước tới dắt tay Hồ Phỉ, cười nói:
– Tiểu huynh đệ thật là anh hùng lỗi lạc. Chúng ta qua bên này nói chuyện.
Hai người đi sâu vào trong rừng, Hồ Phỉ thấy bốn mặt vắng người đã tưởng lão sắp nói rồi. Không ngờ lão nhảy lên cây, nhìn chàng vẫy tay. Hồ Phỉ liền nhảy lên ngồi trên cành cây. Lão già nói:
– Chúng ta ở trên này nói chuyện tĩnh mịch hơn.
Hồ Phỉ nói:
– Phải rồi.
Lão già mỉm cười nói tiếp:
– Trước đây tại hạ nghe các hạ báo tôn tính đại danh họ Hồ tên Phỉ. Không hiểu cái tên này là chữ “Phỉ” trong “Phỉ nhiên thành chương” hay chữ “Phỉ” trong “Nhất phi xung thiên” hay là chữ “Phi” trong “Thị phi phân minh” ?
Hồ Phỉ nghe lão nói văn chương liền đáp:
– Phỉ đây là chữ “Phỉ” trong “Thảo tự chi phỉ”, gồm có chữ “Văn” ở trên chữ “Phi”.
Lão già cười ha hả nói:
– Tại hạ là Tần Nại Chi, một đời bôn tẩu giang hồ, đã gặp không ít các bậc đại anh hùng, đại hào kiệt nhưng nhỏ tuổi như các hạ mà võ công đã đạt cảnh giới như thế này, quả thực tại hạ chưa hề gặp.
Lão dừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Các hạ lòng dạ trung hậu, kiến thức bất phàm, trong võ lâm thật cực kỳ hiếm có. Tiểu huynh đệ, lão hán khâm phục lắm!
Hồ Phỉ nói:
– Tần gia! Vãn bối có điều muốn thỉnh giáo.
Tần Nại Chi đáp:
– Tiểu huynh đệ bất tất phải khiêm nhượng thái quá. Tần mỗ lớn hơn một chút, gọi các hạ là tiểu huynh đệ, thì tiểu huynh đệ gọi tại hạ bằng Tần đại ca là được rồi. Tiểu huynh đệ đã dung tình giữ trọn vẹn thể diện cho ta, thì tiểu huynh đệ hỏi gì ta cũng nói.
Hồ Phỉ vội nói:
– Không dám! Không dám! Tiểu đệ thấy Tần đại ca có một chiêu hơi ưỡn người về phía sau, cố cho thấy thượng bàn không ổn, tay trái đặt lên tay phải rồi hai bàn tay cứ giao thoa luân đổi, chuyển thành dương quyền, sau đó hai tay lại biến thành âm quyền đánh ra. Chiêu này biến hóa cực kỳ tinh diệu. Suýt nữa tiểu đệ đỡ không nổi, thật lòng ngưỡng mộ.
Tần Nại Chi trong lòng rất hoan hỷ, về quyền cước lão đã thua rồi nên y lời hứa tưởng phải kể rõ ngọn nguồn sự việc cho Hồ Phỉ nghe, ngờ đâu chàng lại thỉnh giáo môn võ công đắc ý của phái lão. Chỗ Hồ Phỉ hỏi chính là một đại tuyệt chiêu nổi danh trong “Bát Cực quyền” giúp lão thành danh. Lão liền mỉm cười đáp:
– Đó là chiêu rất đắc dụng của tệ phái, gọi là “Song đả kỳ môn”.
Rồi lão giải thích những chỗ vi ảo, tinh diệu trong chiêu thức này. Hồ Phỉ bản tính hiếu võ nghe lão giảng rất thú vị, bèn hỏi thêm những chỗ chưa hiểu rõ. Trong võ lâm, bất luận môn phái nào cũng đều phải có những thành tựu độc đáo thì mới thành một nhà riêng. “Bát Cực quyền” có từ khoảng giữa các triều đại Ung Chính và Càn Long đời nhà Thanh, uy danh vang dội trong võ lâm chẳng kém gì “Thái Cực môn” hay “Bát Quái môn”.
Lúc Hồ Phỉ chiết chiêu cùng Tần Nại Chi, chàng lưu tâm đến quyền chiêu chưởng pháp của lão. Bây giờ chàng hỏi toàn những chỗ cao diệu trong “Bát Cực quyền”. Tần Nại Chi ban đầu còn e ngại việc tiết lộ chỗ bí diệu của bản môn, mười phần chỉ giảng có bảy, nhưng những câu hỏi của đối phương toàn gãi đúng chỗ ngứa mà thái độ lại vô cùng cung kính khiến lão không nhịn được, cứ nói hết ra không giấu giếm điều gì.
Lão nghĩ thầm:
– Võ công của vị tiểu huynh đệ này thực sự cao hơn ta, dẫu y có học được quyền pháp này thì bất quá cũng hơn được thêm ta một chút nữa, vậy thì có gì mà phải ngại?
Về phần Hồ Phỉ, đối với những chỗ uyên áo của “Bát Cực quyền” thì sở đắc lại càng thâm diệu như trên gấm thêm hoa.
Hai người đàm luận võ công đến quá nửa canh giờ. Quần đạo đứng xa trông thấy Tần Nại Chi hai tay chỉ trỏ sử dụng những quyền chiêu đắc ý của lão. Hồ Phỉ cũng có lúc ra tay tiến chiêu. Hai người cười nói cực kỳ thân mật, hiển nhiên là đang nghiên cứu quyền thuật võ công. Mọi người chờ hằng nửa ngày trời mà chẳng nghe thấy hai người đang nói gì, dù lấy làm lạ nhưng rồi cũng không xem nữa.
Tần Nại Chi bảo:
– Hồ huynh đệ! Quyền chiêu về “Bát Cực quyền” có nhiều chỗ tuyệt diệu, đáng tiếc là Tần mỗ không học được đến nơi đến chốn nên bị thua dưới tay tiểu huynh đệ.
Hồ Phỉ nói:
– Sao Tần đại ca lại nói vậy? Chúng ta nếu đấu lại thì cũng chưa biết ai thắng ai bại. Tiểu đệ rất khâm phục võ công của quý phái. Bữa nay, trời tối, trong lúc nhất thời tiểu đệ chưa thỉnh giáo được nhiều. Ngày sau đến Bắc Kinh, tiểu đệ nhất định sẽ thật lòng bái phỏng, cùng nhau đàm đạo mấy ngày. Bây giờ xin cáo biệt.
– Ta đã có ước hẹn trước, lẽ ra ta phải kể rõ đầu đuôi về vụ này, nhưng y chỉ đàm luận võ công với ta rồi cáo từ liền. Trong thiên hạ làm gì có cái lý đó? Phải rồi! Chàng thiếu niên này đã giữ thể diện cho ta, lại có mối giao tình thì ta há có thể không nói được ư?
Lão liền gọi giật lại:
– Tiểu huynh đệ, hãy khoan! Anh em mình không đánh nhau thì không thành quen biết. Bây giờ tại hạ nói rõ đầu đuôi vụ đó cho xong mới được.
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng rồi! Tiểu đệ có quen biết Thương Bảo Chấn, không ngờ Mã cô nương lại đột nhiên ra tay báo thù cho chồng.
Chàng liền đem những chuyện quen biết Thương Bảo Chấn và Mã Xuân Hoa tại Thương gia bảo thuật sơ lại một lượt.
Tần Nại Chi bụng bảo dạ:
– Hay lắm, ta chưa kịp nói y đã thuật chuyện rồi. Chàng thiếu niên này hành động chỗ nào cũng khiến cho người ta phải khâm phục.
Lão liền nói:
– Cố nhân mang ơn một bữa cơm mà đem ngàn vàng báo đáp. Mã cô nương đã có ơn năn nỉ cho Hồ huynh đệ. Huynh đệ không quên ơn cũ chính là bản sắc của bậc đại trượng phu. Huynh đệ không hiểu vì sao Mã cô nương đâm chết Thương Bảo Chấn chẳng chút lưu tình, lại tưởng hai đứa con nhỏ kia là con của Thương Bảo Chấn sinh ra phải không?
Hồ Phỉ gãi đầu, đáp:
– Lúc Từ Tranh lâm tử, tiểu đệ còn nghe y nói hai thằng nhỏ đó không phải con y.
Tần Nại Chi vỗ đùi, nói:
– Té ra hắn không phải là thằng ngốc.
Hồ Phỉ như người lạc vào trong mây mù.
Tần Nại Chi nói:
– Tiểu huynh đệ, lúc ở Thương gia bảo, tiểu huynh đệ có từng thấy một vị công tử quyền quý hay không?
Hồ Phỉ vừa nghe, chợt như người đang ngủ sực tỉnh chiêm bao. Ngày đó, chàng tận mắt trông thấy Thương Bảo Chấn và Mã Xuân Hoa nắm tay nhau dưới gốc cây, liền cho là hai người có tình ý với nhau. Còn vụ Mã Xuân Hoa và vị công tử quyền quý kia vừa gặp đã say đắm nhau, và trong cơn si luyến đã gây nên một trường tình duyên oan nghiệt thì chàng hoàn toàn không hay biết.
Ngày đó, sau khi Thương gia bảo bị hỏa thiêu, chàng đã thấy Mã Xuân Hoa cùng vị công tử quyền quý âu yếm chuyện trò ở ngoài đồng vắng, ánh mắt nhìn nhau chan chứa tình thâm, chàng lúc đó còn nhỏ nên dù thấy cũng không hiểu được ẩn ý bên trong, vì thế thủy chung vẫn không nghĩ tới vị công tử quyền quý nọ. Bây giờ nghe Tần Nại Chi nhắc nhở, chàng mới tỉnh ngộ nói:
– Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn…
Tần Nại Chi ngắt lời:
– Phải rồi! Khi đó Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn tháp tùng Phúc công tử đến Thương gia bảo.
Hình ảnh Phúc công tử ra sao, Hồ Phỉ chỉ nhớ lờ mờ, nhưng “Bát Quái đao” và “Bát Quái chưởng” của Vương thị huynh đệ thì chàng còn nhớ rõ như in. Chàng nói:
– Phúc công tử! Phúc công tử! À phải rồi! Vị Phúc công tử này tướng mạo thanh nhã, hao hao giống hai thằng nhỏ.
Tần Nại Chi thở dài đáp:
– Phúc công tử hưởng thụ vinh hoa phú quý. Về quyền thế, sau Hoàng thượng là đến y. Về của cải, y muốn lấy cái gì Hoàng thượng cho cái đó. Chỉ có một điều y đã đến tuổi trung niên vẫn còn một điều bất túc, đó là chưa có con để vui vầy dưới gối.
Hồ Phỉ nghe nói uy thế Phúc công tử như vậy không khỏi chấn động tầm thần, liền hỏi:
– Phúc công tử phải chăng là Phúc Khang An?
Tần Nại Chi đáp:
– Không phải y thì còn ai nữa? Đó chính là Bình Kim Xuyên đại soái. Y đã làm Chính Bạch Kỳ Mãn Châu đô thống, Thịnh Kinh tướng quân, Vân Quý tổng đốc, Tứ Xuyên tổng đốc, bây giờ làm đến Thái Tử Thái Bảo, Binh Bộ Thượng Thư, cai quản hết các bậc đại thần trong Nội vụ phủ!
Hồ Phỉ hỏi:
– Ủa, hai thằng nhỏ đó đã là cốt nhục của Phúc công tử, nên y sai người đón về phải không?
Tần Nại Chi đáp:
– Hiện giờ Phúc đại soái chưa biết mình có hai đứa con này. Vừa rồi bọn ta nghe Mã cô nương nói mới hay ra.
Hồ Phỉ gật đầu nghĩ bụng:
– Té ra lúc Mã cô nương nói chuyện với Tần Nại Chi mặt đỏ lên là vì chuyện này. Sở dĩ nàng phải thổ lộ chân tình là để bọn họ không làm tổn thương đến hai đứa nhỏ. Nàng thương con mình, nên tuy vụ này chẳng hay ho gì cũng phải nói ra.
Tần Nại Chi lại nói tiếp:
– Phúc đại soái chỉ sai bọn Tần mỗ đi coi tình hình của Mã cô nương nhưng bọn ta đoán rằng ý đại soái muốn đón tiếp cô về kinh. Bây giờ trượng phu của Mã cô nương đã qua đời, cô chẳng còn nơi nương tựa, sao không chịu đến Bắc Kinh để cùng Phúc đại soái tương tụ? Hai đứa nhỏ đó được dịp phụ tử trùng phùng, từ đây rộng mở đường mây, đại phú đại quý, chẳng hơn là lăn lóc ở trong cái tiêu cục hèn mọn kia ư? Hồ huynh đệ! Huynh đệ thử khuyên Mã cô nương coi?
Hồ Phỉ trong lòng rối bời, nghe lão bảo vậy cũng có lý, nhưng cảm thấy bên trong có điều rất bất ổn, còn bất ổn chỗ nào thì nhất thời chàng không sao nói ra được. Chàng trầm ngâm một lúc rồi nói:
– Còn Thương Bảo Chấn thì sao? Y cũng theo các vị đến đây ư?
Tần Nại Chi đáp:
– Thương Bảo Chấn được anh em họ Vương tiến cử, cũng làm đương sai trong phủ Phúc đại soái. Vì gã biết Mã cô nương nên cũng đi theo.
Hồ Phỉ sa sầm nét mặt, hỏi:
– Nói như vậy thì y đánh chết Từ Tranh đại ca là do Phúc công tử bảo hay sao?
Tần Nại Chi đáp:
– Không phải thế đâu. Phúc đại soái là người cao quý lại bận rộn công việc, làm gì biết Mã cô nương đã thành hôn với gã họ Từ? Đại soái chỉ nao lòng nhớ lại mối tình xưa mà phái mấy tên đương sai xuống phương Nam dò la tin tức. Lúc này đã có hai vị huynh đệ phi ngựa về kinh báo tin mừng. Phúc đại soái biết mình có hai vị công tử thì không nói cũng đủ biết y cao hứng đến cỡ nào?
Thế là bao nhiêu mối nghi ngờ trong đầu óc Hồ Phỉ đều được giải đáp. Chàng nhận thấy vụ này không thể oán trách Mã Xuân Hoa, mà cũng không thể oán trách Phúc Khang An. Thương Bảo Chấn giết Từ Tranh cố nhiên là không đúng, nhưng lúc này gã đã đền mạng thì chẳng còn điều gì để nói nữa.
Chàng nghĩ tới Từ Tranh là người trung hậu thật thà, biết rõ hai đứa con không phải cốt huyết của mình, mà thủy chung vẫn cứ ẩn nhẫn không nói ra rốt cuộc lại đi đến kết quả thảm khốc, thì quá đỗi đau lòng, không khỏi buông tiếng thở dài. Chàng nói:
– Tần đại ca! Vụ này đã phân tích rõ ràng, tiểu đệ can thiệp vào quả là đa sự.
Rồi chàng nhẹ nhàng nhảy xuống.
Lúc Hồ Phỉ nhảy xuống đất, Tần Nại Chi không hề có cảm giác cành cây lay động chút nào, hoàn toàn không tựa vào sức của cây, nếu không để ý thật kỹ thì không nhận ra. Lão nghĩ thầm:
– Khinh công của y quả thật cao thâm khôn lường, ta dẫu có luyện thêm chục năm nữa cũng không thể đạt đến cảnh giới đó. Không hiểu y còn nhỏ tuổi mà bản lĩnh sao lại luyện đến trình độ kinh người như vậy?
Tần Nại Chi vừa kinh dị, vừa chán nản. Lúc lão hạ mình xuống đất thì Hồ Phỉ đã vào thạch thất từ lâu rồi.
Trình Linh Tố đứng trước cửa sổ chờ lâu không thấy Hồ Phỉ trở về, trong lòng nóng nảy vô cùng. Khó khăn lắm mới thấy chàng về mà mặt buồn rượi, dường như có điều gì khó xử, nên cô cũng không hỏi, chỉ nói vài lời chuyện phiếm. Sau một lúc, Uông Thiết Ngạc đem đến một nồi cơm lớn và một chảo thịt quay, lại có thêm ba bình rượu đã hâm nóng. Hồ Phỉ rót rượu ra bát uống cạn.
Trình Linh Tố cầm cây ngâm châm toan thử rượu thịt xem có độc không thì chàng bảo:
– Đã có Mã cô nương ở đây, bọn chúng sao dám hạ độc?
Mã Xuân Hoa đỏ mặt lên, không lại ăn cơm. Hồ Phỉ cũng không mời, chàng uống hết sạch ba bình rượu để giải muộn và ăn hết một bát thịt lớn. Chàng chưa kịp ăn cơm thì đã say túy lúy, tựa vào bàn mà ngủ.
Sáng sớm hôm sau, Hồ Phỉ tỉnh dậy thấy trên lưng mình có khoác một tấm trường bào, chàng biết là Trình Linh Tố đêm qua đã đắp lên cho mình. Cô đứng bên cửa sổ, ngọn gió ban mai thổi làn tóc mây bay phơ phất. Hồ Phỉ nhìn bóng sau lưng mảnh dẻ của cô, trong lòng vừa bối rối vừa cảm kích, lại vừa thương mến. Chàng cất tiếng hỏi:
– Nhị muội!
Trình Linh Tố “ồ” một tiếng rồi quay lại. Hồ Phỉ thấy mắt cô có vẻ ngái ngủ ra chiều nhọc mệt, liền hỏi:
– Đêm qua Nhị muội không ngủ được hay sao? À, tiểu huynh quên không nói cho Nhị muội hay là có Mã cô nương ở đây, bọn họ không dám làm gì chúng ta đâu.
Trình Linh Tố đáp:
– Mã cô nương nửa đêm lén ra đi, đến giờ cũng chưa về. Cô rón rén cất bước chỉ sợ làm kinh động đại ca tỉnh giấc. Tiểu muội cũng giả vờ ngủ.
Hồ Phỉ giật mình quay đầu nhìn lại thấy chỗ Mã Xuân Hoa chỉ còn là cái ghế trống không. Hai người mở cửa đi ra. Trong rừng cây lặng lẽ không một bóng người. Cả mấy chục người ngựa đã đi hết chẳng còn một ai. Gốc cây chỉ còn buộc hai con ngựa, dường như dành cho Hồ Phỉ và Trình Linh Tố. Hai người đi thêm mấy trượng, thấy trong rừng có đắp hai nấm mộ, dù không còn tấm bia nhưng cũng biết một ngôi mộ của Từ Tranh, còn cái kia là của Thương Bảo Chấn.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Tuy một người là chồng, một người là kẻ giết chồng nhưng e rằng Mã cô nương coi hai người này không khác nhau mấy, cả hai đâu phải là người cô yêu, mà chỉ là những kẻ bất hạnh vì cô mà mất mạng.
Chàng nghĩ tới đây bất giác buông tiếng thở dài, rồi đem câu chuyện nghe được ở Tần Nại Chi thuật lại cho Trình Linh Tố hay. Trình Linh Tố nghe xong, thở dài buồn bã.
Một lúc sau cô nói:
– Té ra lão già gầy ốm đó là Tần Nại Chi, chưởng môn phái “Bát Cực quyền”. Lão mang ngoại hiệu là “Bát tý Na Tra”. Lão làm chó săn dưới trướng kẻ quyền quý, phẩm cách đê hèn, từ nay chúng ta đừng lý gì đến lão nữa.
Hồ Phỉ đáp:
– Phải rồi.
Trình Linh Tố nói:
– Mã cô nương trong lòng chỉ yêu Phúc công tử. Từ Tranh còn sống thì chỉ càng tăng thêm phần đau khổ. Hắn là một tiêu sư tầm thường thì bì thế nào được với Binh bộ thượng thư, Thống binh đại nguyên soái?
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng thế. Y chết còn yên thân hơn.
Nói xong, chàng đến trước hai ngôi mộ lạy mấy lạy, khấn vái:
– Từ đại ca! Thương công tử! Lúc sinh tiền bất luận hai vị có ơn oán gì với tiểu đệ, thì sau khi chết rồi cũng là xóa hết. Mã cô nương từ đây phú quý vô tận, hai vị dù đã chết không biết gì cũng đừng nhớ đến cô nữa.
Hai người dắt ngựa đi bộ, từ từ ra khỏi khu rừng. Trình Linh Tố hỏi:
– Chúng ta đi đâu bây giờ?
Hồ Phỉ đáp:
– Trước hết hãy tìm vào khách điếm để nhị muội ngủ nửa ngày cho lại sức rồi hẵng tính đến chuyện khác, đừng để muội tử của tiểu huynh phải vất vả.
Trình Linh Tố thấy chàng gọi mình là “muội tử của tiểu huynh” thì trong lòng vô cùng hoan hỷ, cô quay lại nhìn chàng mỉm cười rất đỗi ngọt ngào.
Trình Linh Tố ngủ trong khách điếm đến quá trưa mới tỉnh giấc. Cô một mình ra khỏi điếm, nói là đi mua mấy vật cần dùng. Lúc trở về, tay cầm hai bao giấy lớn, giơ ra cười hỏi:
– Đại ca! Đại ca thử đoán coi tiểu muội mua những gì nào?
Hồ Phỉ thấy trên giấy in nhãn hiệu “Lão cửu phúc y trang” liền hỏi lại:
– Chúng ta lại dùng râu giả để hóa trang chăng?
Trình Linh Tố mở bao giấy trắng ra, trong mỗi bao đựng một bộ quần áo mới một nam, một nữ. Bộ nam trang màu xanh nhạt, bộ nữ trang màu vàng nhạt, đều rất thanh nhã.
Ăn cơm tối xong, Trình Linh Tố bảo Hồ Phỉ mặc thử, thấy tay áo dài hơn hai tấc, chỗ nách cũng lùng thùng. Cô liền lấy kéo và kim chỉ ra, ngồi dưới đèn sửa lại.
Hồ Phỉ nói:
– Nhị muội! Chúng ta đến Bắc Kinh xem một chuyến.
Trình Linh Tố bĩu môi cười, đáp:
– Tiểu muội biết đại ca thế nào cũng muốn đi Bắc Kinh mà, nên mua hai bộ quần áo mới, không thì cô gái quê lên chốn kinh đô không khỏi bị người ta cười cho.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Nhị muội thật chu đáo. Hai kẻ nhà quê chúng ta lên kinh thành đẻ gặp gỡ những nhân vật dưới chân thiên tử, và để coi trong đại hội các chưởng môn nhân của Phúc đại soái rốt cuộc có vị anh hùng hào kiệt nào không?
Chàng nói hai câu với vẻ hờ hững nhưng trong giọng nói lại tràn đầy hào khí. Trình Linh Tố vừa khâu áo vừa hỏi:
– Đại ca có biết Phúc đại soái mở cuộc đại hội chưởng môn trong thiên hạ vì mục đích gì không?
Hồ Phỉ đáp:
– Hắn muốn thu tóm nhân tài, khiến bao nhiêu anh hùng thiên hạ đều chui hết vào trong lưới của hắn. Nhưng bậc anh hùng đại hào kiệt chưa chắc tới dự.
Trình Linh Tố mỉm cười nói:
– Những thiếu niên anh hùng như đại ca chắc cũng không tham dự.
Hồ Phỉ đáp:
– Tiểu huynh đã có gì để đáng là anh hùng? Ta muốn nói những nhân vật thành danh như Miêu Nhân Phụng chẳng hạn.
Chàng thở dài nói tiếp:
– Nếu như gia gia của đại ca còn sống thì chắc sẽ đến phá cuộc đại hội chưởng môn này cho đến trời long đất lở mới khiến cho mọi người thống khoái.
Trình Linh Tố hỏi:
– Đại ca đi quấy phá Phúc đại soái cũng chẳng hay sao? Tiểu muội đoán chừng còn một người nữa nhất định cũng đi.
Hồ Phỉ hỏi:
– Ai vậy?
Trình Linh Tố tủm tỉm cười, đáp:
– Đã biết mà còn giả vờ hỏi. Đại ca cứ ung dung nói thẳng ra là xong.
Hồ Phỉ đã sớm biết tâm ý cô, thấy không cần vờ vịt nữa, liền nói:
– Chưa chắc y đã tới.
Chàng dừng một chút, rồi tiếp:
– Viên cô nương đó là bạn hay là thù, tiểu huynh vẫn chưa rõ.
Trình Linh Tố đáp:
– Nếu mỗi kẻ thù đều tặng tiểu muội một con ngọc phụng, thì tiểu muội mong rằng khắp thiên hạ đều là kẻ thù hết.
Giữa lúc ấy, bỗng nghe ngoài cửa số có thanh âm một cô gái cất lên:
– Hay lắm! Ta cũng tặng cô một con.
Tiếng nói vừa dứt đã nghe đánh “vèo” một cái, một vật xuyên thủng qua lần giấy cửa sổ bay về phía Trình Linh Tố. Hồ Phỉ cầm cây thước gỗ đo quần áo trên bàn đập vào vật kia cho rớt xuống mặt bàn, thuận tay chàng quạt một cái để tắt đèn đi. Tiếp theo lại nghe tiếng người ngoài cửa sổ nói:
– Khêu đèn đàm đạo ban đêm, thật là tuyệt hảo!
Hồ Phỉ nghe giọng nói phảng phất giống thanh âm của Viên Tử Y, ngực chàng nóng lên, liền xông ra cửa, hỏi:
– Có phải Viên cô nương đó không?
Lại nghe tiếng bước chân lạo xạo, trong khoảnh khắc đã mất hút, Hồ Phỉ thắp đèn lên, thấy Trình Linh Tố mặt mày tái nhợt, ngồi lặng thinh không lên tiếng.
Hồ Phỉ nói:
– Chúng ta ra xem là ai.
Trình Linh Tố đáp:
– Đại ca cứ ra xem đi.
Hồ Phỉ “ồ” một tiếng nhưng không đi. Chàng cầm lấy vật rớt xuống bàn coi lại thì ra viên đá nhỏ. Chàng nghĩ thầm:
– Người này hành động xuất quỷ nhập thần. Không hiểu y đến bên cửa từ lúc nào mà mình chẳng biết gì cả.
Chàng hiểu rõ Trình Linh Tố trong lòng không vui, nhưng chàng không chịu được, bèn đẩy cửa sổ, nhảy ra ngoài coi, chỉ thấy bốn bề tịch mịch không một bóng người.
Hồ Phỉ trở về phòng ngượng ngùng không biết nói gì, thì Trình Linh Tố lên tiếng:
– Đêm đã khuya rồi, đại ca về phòng ngủ đi!
Hồ Phỉ đáp:
– Tiểu huynh chưa mệt.
Trình Linh Tố nói:
– Nhưng tiểu muội mệt rồi, cần ngủ lấy sức để sáng mai lên đường sớm.
Hồ Phỉ đáp:
– Phải rồi!
Rồi chàng về phòng. Đêm hôm ấy Hồ Phỉ trắn trọc không ngủ được. Lúc thì nghĩ tới Viên Tử Y lúc thì nghĩ tới Trình Linh Tố, có lúc Mã Xuân Hoa, Từ Tranh và Thương Bảo Chấn, đến mãi canh tư mới mơ màng ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau chàng chưa dậy, Trình Linh Tố đã gõ cửa phòng đi vào, tay cô cầm bộ quần áo mới, cười hì hì nói:
– Đại ca dậy lẹ đi. Bên ngoài có cái gì đang chờ đại ca đó.
Cô đặt tấm áo xuống bàn rồi trở gót quay ra. Hồ Phỉ trở mình ngồi dậy, mặc áo vào để thử thấy rất vừa vặn thì nghĩ thầm:
– Đêm qua lúc ta về phòng, còn một ống tay áo chưa khâu xong. Chắc lúc ta đi rồi, nàng còn ngồi lại khâu lâu lắm mới xong.
Chàng mặc áo mới ra khỏi phòng, nhìn Trình Linh Tố chắp tay, nói:
– Đa tạ nhị muội!
Trình Linh Tố hỏi:
– Đa tạ cái gì? Người ta còn đem tuấn mã đến tặng đại ca kìa.
Hồ Phỉ kinh ngạc hỏi:
– Tuấn mã nào?
Chàng ra sân, thấy một con ngựa toàn thân trắng như tuyết buộc ở đó. Chính là con ngựa Triệu Bán Sơn đã cưỡi đến Thương gia bảo ngày trước, về sau Viên Tử Y lại cưỡi con bạch mã này.
Trình Linh Tố nói:
– Sáng sớm hôm nay, tiểu muội vừa dậy đã nghe điếm tiểu nhị hô hoán om sòm, nói là có kẻ trộm mở cửa vào nhà, không hiểu đã lấy cắp vật gì. Nhưng điều tra khắp thì chẳng ai mất mát chi hết, ngoài sân lại có thêm một con ngựa. Đây là đồ vật buộc ở trên yên.
Cô vừa nói vừa đưa cái bọc lụa nhỏ, trên để hàng chữ “Hồ tướng công và Trình cô nương cùng mở coi”. Nét bút vô cùng xinh đẹp. Hồ Phỉ mở bọc lụa ra không khỏi ngẩn người. Trong bọc lại có con ngọc phụng, giống hệt con ngọc phụng của Viên Tử Y đã tặng chàng lúc trước.
Chàng tự hỏi:
– Chẳng lẽ con ngọc phụng kia của ta đã bị thất lạc hay là đã bị nàng lấy trộm rồi?
Chàng đưa tày sờ vào bọc thì thấy bàn tay mát lạnh, con ngọc phụng hãy còn nằm nguyên trên đó. Chàng lấy ra xem, hai con quả nhiên được chạm trổ giống hệt nhau. Chỉ khác một con quay đầu về bên trái, một con quay đầu về bên phải.
Trong bọc còn mảnh giấy trắng nhỏ. Trên giấy viết “Ngựa về nguyên chủ, phụng tặng hiệp nữ”. Hồ Phỉ lại ngẩn người ra, tự hỏi:
– Con ngựa này có phải của ta đâu, sao lại bảo là “ngựa về nguyên chủ’’? Chẳng lẽ nàng yêu cầu ta đem trả cho Triệu tam ca?
Chàng cầm tấm thiếp và con ngọc phụng đưa cho Trình Linh Tố, nói:
– Viên cô nương cũng tặng cho nhị muội một con ngọc phụng.
Trình Linh Tố coi hàng chữ trong thiếp rồi đáp:
– Tiểu muội có phải hiệp nữ đâu? Cái này không phải y tặng cho tiểu muội rồi.
Hồ Phỉ nói:
– Trên bọc đã chẳng viết rõ “Trình cô nương” là gì? Tối hôm qua, y cũng nói “Được rồi! Ta sẽ tặng cô một con” mà.
Trình Linh Tố thản nhiên đáp:
– Đã vậy thì tiểu muội cứ giữ lấy. Viên cô nương có lòng hậu ái như vậy, tiểu muội không có gì để đền đáp.
Hai người lên đường tiếp tục tiến về phía bắc. Dọc đường không gặp việc gì khác lạ. Viên Tử Y cũng không xuất hiện nhưng Hồ Phỉ và Trình Linh Tố trong lòng lúc nào cũng nghĩ đến cô. Hai người nói chuyện dưới cửa sổ cũng tưởng tượng đến Viên Tử Y bên ngoài nghe lỏm. Qua đường núi gập ghềnh, hai người cũng tưởng chừng như có nàng đang ẩn nấp bên kia sườn núi. Hai người tuyệt không nhắc đến tên nàng, nhưng cái miệng càng tránh né, thì trong lòng lại càng nghĩ đến. Hai người đều nghĩ: “Đến Bắc Kinh rồi thế nào cũng gặp cô ta”. Có lúc hai người nóng lòng mong sớm gặp được Viên Tử Y, có khi lại hy vọng gặp nàng càng muộn càng tốt.
Đường đến Bắc Kinh còn xa lắc, hai người cứ thủng thẳng mà đi. Đường xa diệu vợi lại trải gió dầm sương khiến cho Trình Linh Tố dung nhan tiều tụy. Nhưng rồi cũng đến Bắc Kinh. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cưỡi ngựa vào cửa thành.
Lúc qua cửa thành, Hồ Phỉ liếc mắt nhìn Trình Linh Tố thấy cặp mắt cô dường như long lanh ngấn lệ, nhưng cô quay đầu đi, nên chàng không nhìn rõ được khuôn mặt. Hồ Phỉ đột nhiên giật mình, tự hỏi:
– Đến Bắc Kinh lần này, là đúng hay sai đây?
Lúc này đang ở vào giai đoạn giữa đời Càn Long, bốn bề thanh bình. Đất kinh đô trù phú, bao nhiêu vinh hoa trong thiên hạ tựa hồ quy tụ cả về đó. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố theo cửa Chính Dương mà vào thành, mướn hai phòng trọ trong một khách điếm tại phía nam. Đến trưa hai người ăn mì xong, liền dắt nhau đi dạo chơi trên các đường phố. Cảnh phồn hoa rực rỡ không bút nào tả xiết. Hai người không biết đường, cứ thuận chân mà đi, không cần định hướng. Lúc dạo chơi, Hồ Phỉ mua mấy xâu kẹo cầm tay để hai người vừa đi vừa ăn.
Bỗng nghe bên đường có tiếng thanh la “beng beng” nổi lên. Lại có một người lớn tiếng quát tháo. Nguyên tại một bãi đất trống có một đám người đang diễn võ kiếm tiền. Hồ Phỉ mừng rỡ nói:
– Nhị muội! Mình lại coi chơi.
Hai người chen vào đám đông thấy một hán tử thô tráng cầm đơn đao, chắp tay nói:
– Tiểu đệ xin biểu diễn một đường “Tứ Môn đao pháp”, mong các vị đại gia chỉ giáo. Trong đao quyết có câu:
“Ngư vũ thôi phong quyết thắng cường
Thiển khai thâm nhập địch nhân thương
Đảm dục đại hề tâm dục tế
Cân tu thư hế tý tu trường
…
Công phu vi luyện phương vân thục
Thục năng sinh xảo đại danh dương”.
(Quyết đánh thắng mọi thói cương cường bức hiếp
Triển khai thì cạn nhưng vào sâu để đả thương kẻ địch
Lòng can đảm cần lớn còn tâm cần tinh tế
Gân cần thư giãn, tay thì cần phải dài
Công phu rèn luyện lâu ngày mới được gọi là thuần thục
Có thuần thục rồi thì mới dương được đại danh)
Hồ Phỉ nghe nói, nghĩ bụng:
– Mấy câu đao quyết này quả là đúng lắm. Xem chừng võ công người này vị tất đã vào hạng cao cường như vậy.
Hán tử kia đứng che môn hộ, vung đơn đao lên múa những kiểu đâm, chém, đánh, móc, lướt, hớt, từ chiêu “Đại bàng triển xí”, “Kim kê độc lập” đến những chiêu “Độc phách Hoa Sơn”, “Phân hoa phất liễu”, chiêu thức nào cũng đúng chương pháp, có điều cước bộ hời hợt, thế đao lệch lạc, công phu thực không bõ một trận cười.
Hồ Phỉ cười thầm nghĩ bụng:
– Ta thường nghe nói người đất kinh sư phần nhiều ăn nói khoa trương khoác lác. Hán tử này mồm mép trơn tru mà sử chiêu như vậy đó.
Chàng toan cùng Trình Linh Tố bỏ đi, thì trong đám đông đột nhiên có người ha hả, lớn tiếng hỏi:
– Gã hán tử cao kều kia! Ngươi sử đao pháp gì mà như chó đánh rắm vậy?
Hán tử tức giận thu đao về, nhìn người kia, đáp:
– Đường đao của ta là “Tứ môn đao” chánh tông, chẳng lẽ không đúng ư? Vậy ta muốn thỉnh giáo.
Một đại hán ở trong đám đông bước ra cười nói:
– Được lắm! Ta dạy cho ngươi.
Người này mặc sắc phục võ quan, thân thể cao lớn, tư thế hiên ngang, trông rất uy vũ. Y bước lại đón lấy thanh đơn đao trong tay hán tử mãi võ. Đột nhiên y nhìn thấy Hồ Phỉ, ngơ ngác một chút rồi lộ vẻ vui mừng hô:
– Hồ đại ca! Đại ca cũng đến Bắc Kinh ư? Ha ha! Đại ca là một tay hảo thủ về đao pháp hiện nay. Xin đại ca trổ một vài đường để gã tiểu tử này mở rộng tầm mắt và cho gã biết đao pháp là thế nào?
Lúc y ở trong vòng người bước ra, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đã nhận ra y chính là Uông Thiết Ngạc ở Ưng trảo nhạn hành môn. Ngày y vây hãm Mã Xuân Hoa giả làm cường đạo, mà thực ra là một tên võ quan có chức danh.
Hồ Phỉ biết y lòng dạ thẳng ngay, miệng lưỡi nhanh nhảu, chẳng phải hạng giảo quyệt. Chàng liền mỉm cười đáp:
– Tài mọn của tiểu đệ đã ăn thua gì? Uông đại ca! Đại ca phô trương thân thủ hay hơn.
Uông Thiết Ngạc biết mình bản lãnh còn kém Hồ Phỉ xa. Chàng đã ở đây thì làm sao y còn dám múa may? Y ném đơn đao xuống đất, cười nói:
– Lại đây! Hồ đại ca! Còn vị cô nương này họ… họ Trình. Phải rồi! Trình cô nương! Chúng ta cùng thống ẩm một trận đã. Hai vị đến kinh thành. Tại hạ phải làm chủ nhân một phen mới được.
Dứt lời y nắm tay Hồ Phỉ kéo ra khỏi đám đông. Hán tử mãi võ không dám gây gổ với võ quan, lẳng lặng lượm thanh đơn đao lên, tiếp tục biểu diễn.
Uông Thiết Ngạc vừa đi vừa nói lớn:
– Hồ đại ca! Chúng ta đúng là không đánh nhau không thành bạn hữu. Bản lãnh của đại ca, tại hạ thực tình khâm phục lắm. Ngày mai tại hạ dẫn đại ca đến giới thiệu với Phúc đại soái. Lão nhân gia mà gặp được một nhân tài như đại ca tất phải vui mừng trọng dụng. Đến khi đó, tiểu đệ còn mong được đại ca chiếu cố nữa là khác…
Nói đến đó, đột nhiên y hạ thấp giọng xuống nói:
– Còn vị Mã cô nương đó, bọn tiểu đệ đón ba mẹ con cô về kinh rồi. Hiện giờ ở trong phủ Phúc đại soái, tha hồ mà hưởng vinh hoa phú quý. Phúc đại soái cái gì cũng có hết, chỉ hiếm đường con cái. Mã cô nương biết đâu chỉ mai mốt là trở thành đại soái phu nhân. Ha ha! Lão ca mà biết nhau trước thì hôm ấy chúng ta còn đánh đấm làm gì!
Y càng lúc càng nói lớn, lại nổi lên cười ha hả, tựa hồ như trên đường phố không còn ai. Hồ Phỉ nghe y nói, trong lòng cảm thấy không vui thích gì.
Chàng nhận thấy trước khi Mã Xuân Hoa thành hôn với Từ Tranh đã có tư tình với Phúc Khang An. Hai thằng nhỏ đó là cốt nhục của Phúc Công tử mà trước mắt thì trượng phu của nàng đã chết rồi, nàng về ở với Phúc Khang An cũng chẳng có điều gì sai trái, nhưng nghĩ tới cái chết thê thảm của Từ Tranh trong rừng cây, chàng không khỏi buồn rầu.
Chuyện trò một lúc, ba người đã đến trước một tòa đại tửu lâu. Trên cửa đề ba chữ vàng “Tụ Anh lâu” dạng đại tự. Tửu bảo vừa nhìn thấy Uông Thiết Ngạc đã niềm nở chạy ra đón tiếp, mời mọc:
– Uông đại nhân! Bữa nay đại nhân đến sớm. Mời đại nhân ngồi uống mấy chung, được chăng?
Uông Thiết Ngạc đáp:
– Được! Bữa nay ta mời hai vị bằng hữu danh giá đến đây. Rượu nhắm phải đặc biệt thịnh soạn nghe chưa?
Tửu bảo cười nói:
– Cái đó cần gì đại nhân phải dặn bảo?
Gã dẫn ba người vào chỗ rất lịch sự, rồi bưng trà rượu mời mọc ân cần. Hiển nhiên Uông Thiết Ngạc là khách thường xuyên ở tửu lâu này. Hồ Phỉ thấy khách trong tửu lâu mười phần có đến sáu, bảy mặc sắc phục võ quan. Nếu không mặc sắc phục võ quan thì bọn họ phần lớn cũng đều là những hào khách anh hùng trong giới võ lâm. Xem ra tòa tửu lâu này do một võ nhân dựng nên.
Món ăn ở kinh sư quả nhiên hơn hẳn những nơi khác. Hiện thời đang mùa nóng, tửu bảo đưa lên những món ăn tinh khiết ngon lành nhưng không béo. Hồ Phỉ khen không ngớt miệng. Uông Thiết Ngạc muốn giữ thể diện nên kêu thức ăn đầy bàn. Hai người đối ẩm mười mấy chung, bỗng nghe phòng bên có toán người kéo vào. Lát sau tiếng người huyên náo ầm ĩ để mở sòng bài.
Một người lớn tiếng hô:
– Cửu điểm thiên cống! Ăn hết!
Hồ Phỉ nghe giọng rất quen, chàng hơi sửng sốt một chút. Uông Thiết Ngạc cười nói:
– Cũng là bằng hữu thân thuộc đây mà.
Rồi y lớn tiếng hỏi:
– Tần đại ca! Đại ca thử đoán coi có ai đến đây?
Hồ Phỉ lập tức nhận ra là Tần Nại Chi, chưởng môn “Bát Cực quyền”. Lại nghe y ở phòng bên kia lớn tiếng đáp:
– Ai mà biết được ngươi đem loại bạn bè chó lợn nào đến? Sang cả đây đánh mấy tay được không?
Uông Thiết Ngạc cười nói:
– Đại ca thóa mạ tiểu đệ thì không sao, nhưng đắc tội với vị hảo bằng hữu đây thì không xong đâu.
Y đứng dậy kéo tay Hồ Phỉ nói:
– Hồ đại ca! Chúng ta qua bên đó xem đi.
Hai người chạy sang, vừa hé rèm lên đã nghe Tần Nại Chi hô lớn:
– Tam điểm, mai hoa một đôi, ăn cửa thiên, chung cho nhà trên!
Lão ngửng đầu lên thấy Hồ Phỉ, ngẩn người một chút, rồi reo lên:
– Ủa! Huynh đệ đấy ư? Thật không ngờ! Thật không ngờ!
Lão đẩy các quân bài, đứng dậy, đập tay vào trán bốp bốp mấy cái cười nói:
– Đáng chết! Đáng chết! Tại hạ nói nhăng rồi. Ai mà biết đại ca giá đáo. Lại đây! Lại đây làm nhà cái đi.
Hồ Phỉ đảo mắt nhìn quanh một lượt thấy mười mấy võ quan tụ tập trong phòng, vây quanh một cái bàn bài cẩu. Tần Nại Chi làm nhà cái. Trong mười mấy người này thì quá nửa là những người giả làm đại đạo ngăn chặn Phi Mã tiêu cục và cùng chàng giao thủ hôm trước. Gã họ Chử sử lôi chấn đáng, hán tử họ Thượng Quan sử thiểm điện chùy, hán tử họ Nhiếp sử kiếm đều ở cả đây. Mọi người thấy Hồ Phỉ đột nhiên xuất hiện thì nhốn nháo một lúc, rồi yên tĩnh trở lại.
Hồ Phỉ chắp tay vái bốn mặt, cười nói:
– Đa tạ các vị đã tặng cho ngựa cưỡi.
Những người kia cũng nói khiêm tốn vài câu. Hán tử họ Nhiếp hô:
– Hồ đại ca! Đại ca làm cái đi. Có đem theo tiền bạc không? Bữa nay tiểu đệ vận hên lắm. Đại ca dùng trước đi.
Gã nói rồi đẩy ba gói bạc đến trước mặt Hồ Phỉ. Hồ Phỉ bản tính thích kết bạn, tuy chàng không có hảo cảm với bọn quan lại, nhưng những người này đối với chàng đều cực kỳ tôn trọng mà chàng lại khoái đánh bạc, liền cười đáp:
– Xin Tần đại ca tiếp tục làm cái. Tiểu đệ còn thử vận khí xem sao đã. Nhiếp đại ca! Đại ca hãy thu bạc về. Tiểu đệ thua sẽ hỏi tới đại ca.
Chàng quay lại hỏi Trình Linh Tố:
– Nhị muội! Nhị muội có đánh không?
Trình Linh Tố bĩu môi, cười đáp:
– Tiểu muội không đánh bạc, mà chỉ giúp đại ca khuân bạc về nhà.
Tần Nại Chi lại ngồi xuống chỗ nhà cái, xóc bài và gieo xúc xắc. Hồ Phỉ và Uông Thiết Ngạc đặt cửa. Bọn võ quan mới gặp Hồ Phỉ lần đầu không khỏi bỡ ngỡ, nhưng bài cẩu đã xóc rồi, thấy chàng nói cười vui vẻ, không nhắc gì đến chuyện cũ, ai nấy lại chú ý đánh bạc nên không cần giữ ý tứ gì nữa.
Hồ Phỉ bàn được bàn thua, chẳng có gì đáng kể. Chàng nghĩ thầm trong bụng:
– Nay là mồng chín tháng tám rồi, còn sáu ngày nữa là đến tiết Trung Thu. Cuộc đại hội chưởng môn này là do Phúc đại soái triệu tập, đã định ngày trung thu là mở đại yến. Tên gian tặc Phụng Thiên Nam làm chưởng môn phái Ngũ hổ dù không tới đây, ta cũng có thể dò hỏi được tin tức. Bọn này đều là thủ hạ đắc lực dưới trướng Phúc đại soái, ta có kết giao với họ cũng chẳng ngại gì. Ta chẳng làm chưởng môn gì ráo, nhưng chỉ cần họ dẫn dắt mình vào hội, bồi tiếp mình một chung rượu là được rồi.
Chàng nghĩ vậy, cứ tùy ý mà đặt tiền chẳng màng chuyện ăn thua. Nhưng Hồ Phỉ gặp vận hên, nên chẳng mấy chốc đã ăn được ba, bốn trăm lượng bạc. Đánh một hồi lâu, trời đã về chiều, tiền đặt mỗi cửa dần dần lớn lên. Đột nhiên nghe tiếng giày lạo xạo, có ba người vén cửa rèm bước vào. Uông Thiết Ngạc vừa thấy đã vội đứng lên cung kính chào hỏi:
– Đại sư ca, nhị sư ca, hai vị cũng tới đây rồi!
Đám người đang bu quanh sòng bài nhao nhao chào hỏi, người thì chào “Chu đại gia, Tăng đại gia”, kẻ thì chào “Chu đại nhân, Tăng đại nhân”, nét mặt ai cũng lộ vẻ cung kính.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nghe bọn họ chào hỏi, liền nghĩ thầm:
– Thì ra đây là Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu của Ưng trảo nhạn hành môn. Uy phong của hai người này quả không phải nhỏ.
Chu Thiết Tiêu vóc người nhỏ thó, cao không quá năm thước, ước chừng mới năm mươi tuổi nhưng tóc đã bạc trắng. Tâng Thiết Âu khoảng gần năm mươi tuổi, thân hình cao gầy, tay cầm một lọ thuốc, trên áo có đeo một sợi xích bằng vàng, ra vẻ khí phái của một viên quan quý tộc. Hồ Phỉ vừa nhìn thấy người thứ ba thì không khỏi ngẩn người một chút, thì ra người đó chính là Ân Trọng Tường của Thiên Long môn, mà năm xưa chàng đã từng gặp ở Thương gia bảo. Có điều bây giờ gã tóc đã hoa râm, có vẻ già đi không ít.
Ân Trọng Tường nhìn lướt qua mặt Hồ Phỉ, cho đó là một kẻ nhà quê nên không để ý. Nên biết lúc hai người gặp gỡ năm xưa, Hồ Phỉ chỉ là đứa nhỏ mới mười ba, mười bốn tuổi. Chàng đã cao lớn, gương mặt khác xưa nhiều thì làm sao gã nhận ra?
Tần Nại Chi đứng lên giới thiệu:
– Chu đại ca, Tăng nhị ca, tiểu đệ xin giới thiệu với hai vị một bằng hữu mới. Đây là Hồ đại ca bản lĩnh phi thường, thật là một người bạn rất tốt. Hôm nay Hồ đại ca mới đến Bắc Kinh lần đầu. Xin ba vị làm quen với nhau đi.
Chu Thiết Ngạc nhìn Hồ Phỉ khẽ gật đầu. Còn Tăng Thiết Âu thì cười nói:
– Ngưỡng mộ đã lâu!
Hai người này võ công trác tuyệt, tiếng tăm lừng lẫy ở kinh đô nên không thèm coi một gã thiếu niên nhà quê vào đâu.
Uông Thiết Ngạc nhìn Trình Linh Tố trong lòng lấy làm ngạc nhiên, tự hỏi:
– Cô này bảo quen biết đại sư ca và nhị sư ca của ta, mà sao chẳng chào hỏi gì nhau?
Y cứ ngỡ hôm ấy Trình Linh Tố nói thật. Trình Linh Tố đã đoán được ý nghĩ của hắn, tủm tỉm cười gật đầu, rồi chớp mắt mấy cái, Uông Thiết Ngạc cho là trong vụ này tất có duyên cớ nên hắn không dám hỏi nhiều.
Tần Nại Chi làm cái hai bàn nữa rồi nhường cho Chu Thiết Tiêu. Lúc này bọn Tăng Thiết Âu, Ân Trọng Tường càng đặt tiền tăng dần lên. Hồ Phỉ số rất đỏ, ăn luôn mấy bàn. Mới không đầy nửa giờ chàng đã ăn được gần một ngàn lạng bạc. Chu Thiết Tiêu làm cái xấu quá, tiền bạc đem đi mười phần thua hết bảy, tám. Hắn đánh một bàn nữa, lại chung tiền cho cả sòng, liền đẩy bài ra nói:
– Ta làm cái không được. Nhị đệ làm nhà cái đi.
Tăng Thiết Âu làm cái bàn thua bàn được, vận không đỏ cũng chẳng xấu. Hồ Phỉ vẫn vận đỏ được thêm bảy, tám trăm lạng nữa. Trước mặt chàng để đống bạc sù sụ.
Tăng Thiết Âu cười nói:
– Lão đệ nhà quê này, Đồ thần Bồ Tát đón gió cho lão đệ rồi. Lão đệ làm cái đi.
Hồ Phỉ đáp:
– Được!
Chàng xóc bài, gieo xúc xắc rồi lật bài lên. Người đầu được tám điểm, người thứ hai ít điểm hơn. Chàng ăn được hai nhà.
Chu Thiết Tiêu thua bạc mặt vẫn thản nhiên. Tăng Thiết Âu càng ung dung hơn, thỉnh thoảng lại pha trò mấy câu. Nhưng Ân Trọng Tường cáu tiết, không ngớt lảm nhảm chửi bới. Sau hắn thua hết chỉ còn hai trăm lạng, liền dốc hết đánh một canh bạc nữa. Gã đặt ở cửa Hạ môn, khi mở bài thì ba điểm ăn ba điểm, chín điểm ăn chín điểm, gã lại thua nữa. Ân Trọng Tường vẻ mặt xám xanh, đập bàn đánh binh một tiếng, bao nhiêu quân bài, tiền bạc cùng xúc xắc trên bàn đều nảy tung lên. Hắn lớn tiếng thóa mạ:
– Trong quân xúc xắc của tên tiểu tử nhà quê này có ma. Có khi nào lại kỳ dị thế, ba điểm ăn ba điểm, chín điểm ăn chín điểm. Dù bài có tốt đến đâu thì cũng chẳng thể tốt như thế được.
Tần Nại Chi vội can:
– Ân đại ca! Đại ca không nên nói bừa. Hồ đại ca đây là một hảo bằng hữu!
Mọi người hết nhìn Ân Trọng Tường lại nhìn Hồ Phỉ. Những người đã được biết thân thủ của Hồ Phỉ không khỏi nghĩ thầm:
– Ân Trọng Tường bảo y đánh bạc gian trá, y quyết chẳng chịu bỏ qua Nếu xảy ra ẩu đả thì Ân Trọng Tường lãnh đủ.
Không ngờ Hồ Phỉ tươi cười, đáp:
– Đã đánh bạc thì phải có hơn thua Ân đại ca làm cái vậy.
Ân Trọng Tường đứng phắt đậy, cởi thanh bội kiếm ở bên hông ra. Mọi người tưởng hắn sắp động thủ, nhưng cũng không khuyên can. Nên biết võ quan đánh bạc rồi dánh nhau là chuyện bình thường. Không ngờ hắn đặt thanh bội kiếm xuống bàn, nói:
– Thanh kiếm này của ta ít ra cũng đáng giá bảy, tám trăm lạng bạc. Vậy ta đặt nó cũng như đặt năm trăm bạc để đánh với ngươi.
Thanh kiếm này vỏ bọc ngoài giát vàng khảm ngọc cực kỳ hoa lệ. Nguyên một cái vỏ không thôi giá trị cũng đã không nhỏ.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Hay lắm! Phải đặt thành tám trăm lạng mới công bình!
Ân Trọng Tường cầm bộ xúc xắc lên, nói:
– Ta đánh tay đôi với gã tiểu tử nhà quê này, ta không chịu người ngoài đặt cửa, chén bạc này nhất định ăn thua!
Hồ Phỉ đếm tám trăm lạng bạc, đẩy ra, nói:
– Các hạ gieo xúc xắc đi!
Ân Trọng Tường cầm hai con xúc xắc trong tay lắc mấy cái, hà hơi thối rồi gieo xuống. Một con năm điểm, một con bốn điểm, cộng thành chín điểm. Hắn lại bắt lấy bốn con bài, coi rồi lộ vẻ vui mừng, nói:
– Tên tiểu tử nhà quê kia, lần này ngươi đừng hòng giở trò ma được nữa!
Tay trái hắn lật bài lên được chín điểm, tay phải hắn lật bài lên được một đôi “Thiên bài”. Hồ Phỉ không lật bài, dùng ngón tay sờ phía dưới rồi để trên bàn.
Ân Trọng Tường hô:
– Tiểu tử nhà quê, lật bài lên đi!
Hắn chắc mẩm ăn bàn này, vươn tay ra gom hết tám trăm lạng bạc dồn về trước mặt, Uông Thiết Ngạc la lên:
– Đừng nóng nảy, coi xong bài rồi sẽ tính!
Hồ Phỉ đưa ba ngón tay khẽ đập lên hai quân bài ở trước, đoạn lại đập lên hai quân bài ở sau, rồi chàng xóa tung các quân bài lên, cười đáp:
– Các hạ thắng rồi!
Ân Trọng Tường rất đắc ý, toan mở miệng huênh hoang thì đột nhiên bật tiếng la hoảng:
– Ô hay!
Hắn nhìn xuống bàn, mặt thộn ra. Mọi người nhìn theo mục quang của Ân Trọng Tường thì rõ ràng trên mặt bàn sơn son in rõ rệt dấu bốn quân bài, hai quân bài trước là đôi “Trường tam”, còn hai quân bài sau, một con ba điểm, một con sáu điểm, hợp lại thành “Chí Tôn Bảo”.
Hồ Phỉ chỉ dùng ba ngón tay đập lên các quân bài mà các nút điểm in hằn xuống bàn, nổi bật hẳn lên, thì hiển nhiên chàng đã vận nội lực vào các ngón tay. Bọn người đánh bạc thấy nội lực Hồ Phỉ lợi hại như vậy, không hẹn mà cùng reo hò hoan hô vang dội.
Ân Trọng Tường mặt đỏ bừng, gã đẩy cả thanh bội kiếm lẫn đống tiền đến trước mặt Hồ Phỉ rồi đứng lên trở gót toan đi.
Hồ Phỉ cầm thanh bội kiếm đưa lên, nói:
– Ân đại ca! Tiểu đệ không biết sử kiếm thì lấy kiếm của đại ca làm chi?
Chàng cầm kiếm hai tay đưa lên trả. Ân Trọng Tường không đón lấy kiếm mà hỏi lại:
– Xin hỏi quý tính đại danh của tôn giá là chi?
Hồ Phỉ chưa kịp đáp, Uông Thiết Ngạc đã cướp lời:
– Vị bằng hữu này họ Hồ tên Phỉ.
Ân Trọng Tường lẩm nhẩm nhắc lại:
– Hồ Phỉ, Hồ Phỉ?
Đột nhiên hắn giật mình, hỏi:
– À, ở Thương gia bảo tại Sơn Đông…
Hồ Phỉ cười, đáp:
– Phải rồi! Tại hạ đã có duyên cùng Ân gia gặp gỡ một lần mà Ân gia không nhớ.
Ân Trọng Tường mặt xám như tro tàn, cầm thanh bội kiếm ném xuống, nói:
– Thảo nào! Thảo nào!
Rồi vén rèm lên, rảo bước chạy ra ngoài.
Các võ quan trong phòng râm ran bàn luận. Kẻ thì khen ngợi nội lực của Hồ Phỉ, người thì chê Ân Trọng Tường thua bạc mà tỏ ra thô lỗ làm mất cả phong độ.
Chu Thiết Tiêu từ từ đứng dậy, trỏ đống bạc trước mặt Hồ Phỉ nói:
– Hồ huynh đệ, đống bạc này khoảng bao nhiêu lạng?
Hồ Phỉ đáp:
– Ước chừng bốn, năm ngàn lạng.
Chu Thiết Tiêu xoa bài trên mặt bàn, từ từ xếp lại thành bốn cọc rồi móc trong bọc ra cái túi vải lớn để xuống trước mặt, nói:
– Nào! Ta đánh với huynh đệ một ván nữa. Nếu ta thắng thì lấy bốn, năm ngàn lạng bạc này và thanh bội kiếm, nếu huynh đệ thắng thì lấy cái túi này.
Mọi người nhìn cái túi không thấy đề một chữ nào, chẳng hiểu trong đó có cái gì thì nghĩ thầm:
– Y đánh được bấy nhiêu bạc há chẳng phải chuyện dễ, khi nào lại chịu đánh một ván để thua hết sạch? Lại chẳng biết túi đựng gì, hay chỉ có mảnh giấy trắng thì hóa chẳng oan uổng lắm ư?
Ngờ đâu Hồ Phỉ chẳng nghĩ ngợi gì, đẩy cái đống tiền trước mặt ra, cũng chẳng hỏi trong túi vải đựng gì, nói ngay:
– Đặt đi!
Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu đưa mắt nhìn nhau, trên mặt lộ vẻ tán thưởng, tựa hồ như muốn nói:
– Chàng thiếu niên này tiêu sái hào sảng, khí độ không phải tầm thường.
Chu Thiết Tiêu cầm bộ xúc xắc lên gieo xuống được bảy điểm, nhường cho Hồ Phỉ rút bài trước mặt, còn lão rút tay bài thứ ba. Lão nhìn lướt qua rồi lật những quân bài bằng xương lên, vỗ xuống bàn thành hai tiếng lách cách liên tiếp. Mọi người đứng ngây cả mặt ra rồi bật tiếng hoan hô. Thì ra bốn quân bài sắp thành hai hàng rất ngay ngắn, ngập sâu xuống bàn. Mặt bài và mặt bàn bằng nhau. Dù thợ khảm có khoét lỗ đặt quân bài vào cũng không được phẳng lỳ như vậy. Tay bài của lão cùng bình thường, tiền ngũ hậu lục
Hồ Phỉ đứng lên, cười nói:
– Chu đại gia! Xin lỗi nhé, tại hạ thắng rồi!
Chàng vung tay mặt lên đánh “chát” một tiếng, cả bốn quân bài từ trên không gieo xuống cũng chia thành hai hàng tiền hậu, ngập sâu vào mặt bàn rất ngay ngắn và phẳng lỳ với mặt gỗ. Cú đập đó, Chu Thiết Tiêu đã dùng thủ kình thi triển tuyệt kỹ Ưng trảo lực của bản môn. Đó là môn ngoại môn ngạnh công mà lão đã khổ luyện mấy chục năm, tưởng là vô cùng lợi hại không ngờ Hồ Phỉ chỉ ném quân bài từ trên xuống mà cũng khảm được vào mặt bàn, thì công phu này còn cao minh hơn nhiều. Huống chi Chu Thiết Tiêu phải đập hai lần, còn Hồ Phỉ chỉ tung lên một lần. Mọi người kinh hãi đến thộn mặt ra, quên cả hoan hô.
Chu Thiết Tiêu vẻ mặt tự nhiên đẩy túi vải đến trước mặt Hồ Phỉ, nói:
– Bữa nay Hồ huynh đệ đỏ quá.
Mọi người bây giờ mới trông rõ tay bài của Hồ Phỉ là “Bát bát quan”. Tiền đạo tám điểm, hậu đạo cũng tám điểm.
Hồ Phỉ cười nói:
– Đùa giỡn chơi một chút, đâu phải là chuyện thật.
Rồi chàng kéo những gói bạc của mình về.
Chu Thiết Tiêu chau mày, nói:
– Hồ huynh đệ! Huynh đệ mà không lấy thì xem Chu mỗ đánh bạc không ra gì. Ván bài này nếu Chu Mỗ thắng thì sao phải khách khí với huynh đệ? Đây là căn nhà mà Chu mỗ mới mua hôm nay ở cửa Tuyên Võ, cũng không rộng lắm, chỉ khoảng chừng bốn mẫu.
Lão vừa nói vừa lấy trong túi ra mảnh giấy vàng khè. Đó là khế ước mua nhà. Mọi người đứng xem đều giật mình, nghĩ bụng thấy canh bạc này lớn quá, một tòa nhà trong cửa Tuyên Võ ít ra giá cũng sáu, bảy vạn lạng.
Chu Thiết Tiêu đẩy văn khế mua nhà đến trước mặt Hồ Phỉ nói:
– Bữa nay Tài thần Bồ Tát chiếu cố cho Hồ huynh đệ, chẳng còn gì để nói nữa. Sòng bạc giải tán là xong. Huynh đệ mà không lấy tòa nhà tức là coi thường Chu mỗ!
Hồ Phỉ cười, đáp:
– Đã vậy rồi mà tiểu đệ còn từ chối là bất cung. Đợi khi nào thu xếp mọi việc ổn thỏa, tiểu đệ sẽ mời các vị đại ca đến đánh một canh bạc lớn.
Quần hùng vui vẻ hoan hô rồi tán đồng. Chu Thiết Tiêu chắp tay chào rồi cùng Tăng Thiết Âu ra về. Uông Thiết Ngạc thấy chỉ trong khoảnh khắc đại sư ca đã thua mất cả tòa nhà lớn mà nét mặt vẫn không thay đổi, còn hắn thì trái tim lại đập thình thịch.
Hồ Phỉ từ biệt bọn Tần Nại Chi, Uông Thiết Ngạc, đoạn cùng Trình Linh Tố trở về khách điếm.
Trình Linh Tố cười nói:
– Trong số mạng đã ghi rõ đại ca trở nên đại tài chủ, muốn đẩy ra cũng không xong. Tại Nghĩa Đường trấn đại ca có đã có biết bao nhiêu là ruộng tốt, ai ngờ vừa tới Bắc Kinh lại được một tòa nhà lớn.
Hồ Phỉ đáp:
– Họ Chu quả là người hào khí. Coi lão hình thù bé nhỏ mà Ưng trảo lực không phải tầm thường. Ai ngờ trong đám quan trường cũng có những nhân vật như vậy.
Trình Linh Tố nói:
– Đại ca định dùng tòa nhà đó làm gì? Chúng ta đến ở hay đem bán đi?
Hồ Phỉ đáp:
– Không chừng trong canh bạc lớn ngày mai lại thua nhẵn. Chẳng lẽ thần Bồ Tát cứ đi kè kè với mình hoài?
Sáng sớm hôm sau hai người dậy, vừa dùng điểm tâm xong, điếm chủ đưa một hán tử trung niên vào, nói:
– Hồ đại gia, vị này có việc cần đại gia đó.
Hồ Phỉ thấy người đó đeo kính đen, mặc áo trường bào, y phục rất hoa lệ, móng tay để dài, chàng chưa từng gặp bao giờ. Người kia nhìn Hồ Phỉ gập gối phải xuống thỉnh an, rồi nói:
– Hồ đại gia! Chu đại nhân sai tại hạ đến hỏi lúc nào Hồ đại gia được rảnh xin mời tới cửa Tuyên Võ để coi nhà. Tiểu nhân họ Toàn, làm quản gia nhà đó.
Hồ Phỉ động tính hiếu kỳ, nhìn Trình Linh Tố nói:
– Nhị muội, chúng ta thử đi coi!
Quản gia họ Toàn cung kính dẫn đường cho hai người đến bên trong cửa Tuyên Võ. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố thấy ngôi nhà đó cánh cổng lớn sơn đỏ đóng đinh bằng đồng, bốn mặt tường vây, thêm lát đá xanh, trông rất bề thế. Từ cổng lớn vào tiền sảnh, hậu sảnh cho đến phòng bên, sương phòng, vườn hoa nhất nhất đều bài trí rất sang trọng, đầy đủ mọi thứ.
Quản gia họ Toàn nói:
– Nếu Hồ đại gia hợp ý thì xin dọn đến ở. Tăng đại nhân đã sai đặt tiệc đêm nay để mừng đại giá của Hồ đại gia về nhà mới. Chu đại nhân, Uông đại nhân cũng đến uống rượu.
Hồ Phỉ cười ha hả, đáp:
– Các vị chu đáo quá! Tại hạ xin mời hết!
Toàn quản gia nói:
– Tiểu nhân xin vâng lệnh.
Hắn khom lưng lui ra. Trình Linh Tố chờ Vương quản gia đi xa rồi nói:
– Đại ca! Tòa nhà này e rằng hai vạn lạng cũng chưa mua được. Vụ này không phải tầm thường đâu.
Hồ Phỉ gật đầu, đáp:
– Phải rồi, nhị muội xem bên trong có điều chi ngoắt ngoéo?
Trình Linh Tố mỉm cười nói:
– Tiểu muội nghĩ rằng có một nhân vật ngấm ngầm yêu mến đại ca, nên cố ý năm lần bảy lượt đưa đại lễ tới.
Hồ Phỉ biết cô cố ý nói đến Viên Tử Y, mặt hơi đỏ lên và khẽ lắc đầu. Trình Linh Tố cười, nói tiếp:
– Tiểu muội muốn đùa đại ca thôi. Đại ca của tiểu muội là người khẳng khái hào hiệp, chẳng thèm để ý đến ruộng nương nhà cửa. Nhân vật tặng lễ vật quyết chẳng phải là tri kỷ của đại ca. Nếu không thì thà tặng một con ngọc phụng còn hay hơn. Nhân vật đưa lễ vật này nếu không sợ đại ca thì không chừng có ý muốn lung lạc đại ca. Chà! Ai mà tặng nhiều thứ thế này?
Hồ Phỉ run lên hỏi:
– Hay là Phúc đại soái?
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội thấy có lẽ đúng. Thủ hạ của y rất nhiều, nhưng có một nhân vật nào bì kịp đại ca đâu? Hơn nữa, Mã cô nương được đại soái sủng ái chắc cũng đưa một phần hậu lễ. Họ đã biết đại ca tính tình thẳng thắn, không chịu nhận tài vật của nhà giàu một cách khinh suất, nên phái người lập ra cuộc đánh bạc để tặng đại ca.
Hồ Phỉ nói:
– Chà, tin tức của bọn này mau lẹ thật. Chúng ta vừa đến Bắc Kinh có một ngày mà chúng đã lập tức để ta thắng một canh bạc lớn.
Trình Linh Tố giải thích:
– Bọn ta lại không cải trang, như vậy quá nửa là mọi việc đã được sắp đặt sẵn, chỉ chờ chúng ta tới mà thôi. Việc chúng ta gặp Uông Thiết Ngạc là tình cờ, nhưng tại sòng bạc, tin tức lọt ra ngoài nên Chu Thiết Tiêu mới đem giấy tờ nhà tới.
Hồ Phỉ gật đầu nói:
– Nhị muội phỏng đoán rất hợp lý. Đêm qua tiểu huynh cùng Chu Thiết Tiêu đánh bạc, lão cố ý để thua. Nếu mình có thua chắc lão cũng lại đánh nữa, cho đến lúc nào để thua tòa nhà về tay tiểu huynh mới thôi.
Trình Linh Tố hỏi:
– Vậy đại ca định xử trí thế nào?
Hồ Phỉ đáp:
– Đêm nay ta lại cùng bọn họ mở canh bạc khác, tìm cách làm cho thua mất tòa nhà này, để họ biết Hồ Phỉ này có thủ đoạn hay không?
Trình Linh Tố cười nói:
– Hai nhà đánh bạc cùng cố ý thua, thì cuộc giao thủ này sẽ cực kỳ cam go.
Vào khoảng đầu giờ thân, Tăng Thiết Âu sai người đến bày tiệc “Ngưu thúy yến oa” cực kỳ thịnh soạn. Quản gia họ Toàn chỉ huy gia nhân bố trí đèn lửa rất huy hoàng, không khí vui vẻ ngập tràn. Uông Thiết Ngạc đến trước tiên. Hắn đi khắp mọi chỗ trong nhà, miệng không ngớt ca ngợi tòa nhà là nguy nga tráng lệ, lại trầm trồ tán tụng Hồ Phỉ hôm qua thời vận hanh thông lạ lùng.
Hồ Phỉ thầm nghĩ:
– Uông Thiết Ngạc tính tình thẳng thắn, xem ra y không hiểu những chỗ ngoắt ngoéo bên trong. Để lát nữa ta đem tòa nhà này thua vào tay y coi hai vị sư huynh của y xử trí cách nào? Thật là một màn kịch tuyệt hay.
Chẳng mấy chốc bọn Chư Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu và họ Chử, họ Thượng Quan, họ Nhiếp đến. Lúc sau, Tần Nại Chi cũng tới. Lão cười ha hả, nói:
– Hồ huynh đệ! Tại hạ đưa hai vị lão hữu đến gặp huynh đệ. Huynh đệ thử đoán xem ai?
Phía sau lão có ba người đi vào. Người đi sau cùng là Ân Trọng Tường. Sau sự việc xảy ra hôm qua mà nay hắn lại tìm đến là điều Hồ Phỉ không ngờ tới. Ngoài ra hai người nữa tướng mạo giống nhau và đều là những lão già tinh thần quắc thước, gương mặt trông rất quen thuộc. Chàng còn đang ngơ ngác, đến khi nghe cước bộ hai người đúng là công phu cực kỳ thâm hậu của Bát Quái môn thì chàng tỉnh ngộ, vội tiến lại thi lễ, nói:
– Vương đại gia, Vương nhị gia, hai vị tiền bối giá lâm, thật là chuyện không ngờ. Sau khi chia tay ở Thương gia bảo, nay thấy hai vị tinh thần càng tráng kiện hơn xưa.
Nguyên hai lão này chính là Vương Kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt ở Bát Quái môn. Mười hai người ăn uống rất vui vẻ. Dự tiệc toàn là những anh hùng hào kiệt trên chốn giang hồ. Ân Trọng Tường nhắc lại chuyện năm xưa ở Thương gia bảo, mọi người bị vây khốn trong tòa thiết sảnh bị lửa đốt ra sao, nhờ Hồ Phỉ trí dũng song toàn giải cứu thế nào. Bọn Chu Thiết Tiêu nghe xong, nức nở khen không ngớt lời.
Trình Linh Tố đưa cặp mắt long lanh như hồ nước liếc nhìn Hồ Phỉ, nghĩ bụng:
– Những sự tích anh hùng như vậy mà y chưa chịu kể cho mình nghe.
Sau khi tan tiệc, vừng trăng đã lên đến đỉnh trời. Hôm ấy là đêm mồng mười tháng tám, tuy đã lập thu mà khí trời vẫn còn nóng bức. Toàn quản gia bày trà nước, bánh trái trong lương đình giữa vườn hoa rồi mời quần hùng ra uống nước hóng mát.
Hồ Phỉ nói:
– Mời các vị uống một chén thanh trà rồi chúng ta lại mở cuộc đánh bạc.
Mọi người đồng thanh hoan hô khen phải, kéo ra ngồi trong lương đình.
Mới nói được vài câu, bỗng nghe trên hành lang có tiếng người huyên náo, lại nghe có người lớn tiếng cãi cọ với Toàn quản gia. Tiếp đến hắn la lên “Úi chao!” rồi nghe “Binh” một tiếng, dường như bị người ta đá ngã lăn ra đất.
Bỗng thấy một đại hán cao lớn như tòa thiết tháp sấn sổ tiến vào lương đình, vỗ bàn đánh “rầm” một tiếng, ấm chén rớt loảng xoảng xuống đất.
Đại hán nọ trỏ vào mặt Chu Thiết Tiêu, cất giọng ồm ồm nói:
– Chu đại ca, đại ca chơi không phải chút nào. Tòa nhà này tiểu đệ bán cho đại ca với giá một vạn hai ngàn, là vừa bán vừa tặng, trước là nể mặt Chu đại ca, sau là chỗ anh em còn tính toán với nhau làm gì. Ai hay trong nháy mắt đại ca lại chuyển tặng cho người khác. Tiểu đệ thật không chịu nổi. Các vị thử nghĩ coi có oan uổng cho Đức mỗ không?
Chu Thiết Tiêu lạnh lùng đáp:
– Ngươi không đủ tiền xài cứ nói tử tế là được. Ở trong nhà của một vị hảo bằng hữu sao ngươi lại làm ầm ỹ thế?
Đại hán đen thui kia đỏ mặt lên, gã lại đưa tay đập xuống bàn một cái nữa. Chu Thiết Tiêu cong tay trái lại như móc câu, chụp lấy hai cổ tay hắn. Không ngờ Chu Thiết Tiêu vóc người lùn thấp, đứng chưa tới vai đại hán, vậy mà hắn để Chu Thiết Tiêu chụp được hai tay như đóng đai sắt khiến hắn không cựa nổi.
Chu Thiết Tiêu kéo đại hán ra ngoài lương đình, khẽ nói mấy câu. Đại hán dường như không chịu nghe theo, cứ lải nhải nói mãi. Chu Thiết Tiêu nổi nóng đẩy mạnh hắn một cái. Đại hán đứng không vững, bị hất lùi mấy bước đụng vào gốc mai. Nghe “lắc rắc” mấy tiếng, hai cành mai bị gãy. Chu Thiết Tiêu quát lớn:
– Tên mãng phu họ Đức kia! Biết điều thì ra ngoài ngay, còn không sợ chết thì cứ vào đây mà sinh sự!
Đại hán xoa chỗ lưng bị đau, cắm đầu lủi thủi đi ra.
Tăng Thiết Âu cười khanh khách nói:
– Tên mãng phu này quen thói làm cho người ta mất hứng. Đại sư ca cho hắn một trận là phải.
Chu Thiết Tiêu mỉm cười đáp:
– Tiểu huynh thấy hắn lòng dạ cũng tử tế nên không muốn chấp trách. Hồ đại ca! Vụ này thật khiến đại ca phải tức cười.
Hồ Phỉ đáp:
– Phải rồi, phải rồi! Tòa nhà này y đã bán rẻ, tiểu đệ trả thêm tiền cho y là xong.
Chu Thiết Tiêu vội nói:
– Hồ đại ca sao lại nói thế? Vụ này để mặc tại hạ thu xếp, đại ca bất tất phải quan tâm. Thằng cha lỗ mãng đó vô ý đắc tội với đại ca, chỉ vì hắn chưa biết Hồ đại ca là bậc anh hùng thế nào. Sau vụ này chắc hắn hối hận không kịp. Để tại hạ kêu hắn tới đây rót rượu kính mời Hồ đại ca để tạ tội. Mong đại ca nể mặt tại hạ cùng các vị đây, không chấp trách mà cho hắn vào gặp được chăng?
Hồ Phỉ cười đáp:
– Hai chữ “tạ tội” xin đừng nhắc tới nữa. Y đã là bạn với Chu đại ca thì xin cho vào đây cùng uống một chung.
Chu Thiết Tiêu đứng lên, nói:
– Hồ đại ca là bậc thiếu niên anh hùng, bọn tại hạ thành tâm muốn kết làm bằng hữu. Tên mãng phu kia sinh sự, bọn tại hạ ai nấy đều sai trái, chỉ có Hồ đại ca là bậc đại nhân đại nghĩa chẳng để vào lòng.
Hồ Phỉ nói:
– Việc nhỏ mọn như vậy có đáng vào đâu? Chu đại ca lại quá khách khí rồi.
Chu Thiết Tiêu khom lưng sát đất, nói:
– Tại hạ xin có lời cảm ơn trước.
Tăng Thiết Âu và Tần Nại Chi cũng đứng dậy, chắp tay, nói:
– Bọn tại hạ đa tạ Hồ đại ca.
Hồ Phỉ vội đứng lên đáp lễ.
Chu Thiết Tiêu nói:
– Tiểu đệ đi kêu tên mãng phu kia vào đây tạ tội với đại ca.
Hắn nói rồi trở gót ra ngoài.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nhau, nghĩ bụng:
– Tên mãng phu kia tuy hành vi thô lỗ một cục, nhưng Chu Thiết Tiêu đưa lời tạ lỗi quá ư trịnh trọng. Không hiểu đại hán mặt đen kia ở môn phái nào?
Sau một lúc, tiếng bước chân vang lên. Hai người đi vào vườn. Chu Thiết Tiêu dắt tay đại hán cười ha hả nói:
– Mãng phu hỡi mãng phu! Mau kính mời Hồ đại ca ba chung rượu đi! Bọn chúng ta không đánh nhau thì không thành quen biết. Hồ đại ca đã chịu lượng thứ cho ngươi rồi. Đúng thật là bậc đại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy. Hôm nay quả là may mắn cho tên mãng phu nhà ngươi đó.
Hồ Phỉ bỗng đứng phắt dậy, phi thân ra khỏi lương đình, chân trái vừa điểm xuống, người đã lạng tới chặn đường rút lui của người kia. Nét mặt xám xanh, chàng lớn tiếng quát:
– Họ Chu kia! Ngươi bày trò quỷ gì đây? Nếu không đâm chết được tên này thì Hồ Phỉ ta cũng uổng là nam tử hán đỉnh thiên lập địa!
Người tiến vào chính là Phụng Thiên Nam, chưởng môn phái Ngũ Hổ ở Trấn Phật Sơn tỉnh Quảng Đông, kẻ đã sát hại cả nhà Chung A Tứ. Bây giờ Hồ Phi mới hiểu rõ. Nguyên Chu Thiết Tiêu bày ra cạm bẫy này, hắn sai một tên mãng phu gây rối lừa gạt cho Hồ Phỉ nhận lời tha thứ cho mãng phu. Hồ Phỉ nghĩ tới tình trạng toàn gia Chung A Tứ bị thảm tử, mắt đỏ sọc cơ hồ tóe lửa.
Chu Thiết Tiêu nói:
– Hồ đại ca! Tiểu đệ xin nói thẳng với đại ca. Bao nhiêu ruộng nương nhà cửa ở Nghĩa Đường trấn đều là của tên mãng phu này tặng cho. Cả tòa nhà này cùng bao nhiêu đồ đạc cũng do hắn mua đó. Y đã thành khẩn muốn bồi tội cùng đại ca. Bậc đại trượng phu hễ tha được thì tha đi. Hà tất để tâm đến những chuyện oán thù vặt vãnh? Phụng lão đại, hãy mau bồi tội với Hồ đại ca đi!
Hồ Phỉ thấy Phụng Thiên Nam chắp tay toan hành lễ, liền giang hai tay ra, nói:
– Hãy khoan!
Chàng quay lại bảo Trình Linh Tố:
– Nhị muội, nhị muội lại đây!
Trình Linh Tố rảo bước đến đứng bên chàng.
Hồ Phỉ dõng dạc nói:
– Hồ mỗ kết bạn với ai là vì ý khí tương đồng, thị phi phân minh. Chúng ta cùng nhau uống rượu đánh bạc, cái đó phỏng có chi đáng kể. Bọn tiểu nhân kẻ chợ lại chẳng tụ tập cùng uống rượu đánh bạc đó ư? Nhưng bậc đại trượng phu phải lấy nghĩa khí làm đầu. Dùng kim ngân lung lạc Hồ mỗ là coi Hồ mỗ không đáng một đồng.
Tăng Thiết Âu cười nói:
– Hồ đại ca hiểu lầm mất rồi. Phụng lão đại có đưa tặng chút lễ mọn cũng chỉ vì muốn bày tỏ kính ý, chớ khi nào dám xem thường lão huynh?
Hồ Phỉ xua tay đáp:
– Lão họ Phụng này tác oai tác quái ở Quảng Đông, vì mưu tranh đoạt một mảnh đất của nhà hàng xóm mà đưa toàn gia người ta vào chỗ chết một cách thảm thương. Tại hạ với nhà họ Chung chẳng hề có thân tình hay quen biết, nhưng đã nhúng tay vào việc này thì thề cùng tên ác ôn họ Phụng chẳng đội trời chung. Nếu Hồ mỗ có đắc tội với bạn hữu cũng vì thế bất đắc dĩ. Xin các vị miễn thứ cho. Chu đại ca! Xin đại ca thu lại tòa nhà này.
Chàng nói rồi móc văn khế trong bọc áo ra, khẽ vung tay một cái, tờ văn khế nhẹ nhàng bay tới trước mặt Chu Thiết Tiêu. Chu Thiết Tiêu đành đón lấy toan đưa lại cho chàng, nhưng nghĩ bản lĩnh công phu của mình chưa đủ sức để ném tờ khế ước nhẹ nhàng bay trở lại trước mặt Hồ Phỉ.
Bỗng nghe Hồ Phỉ dõng dạc nói:
– Nơi đây là đất kinh sư, dưới chân thiên tử, gã họ Phụng kia lại có không biết bao nhiêu là bạn hữu, nhưng Hồ Phỉ này đêm nay gạt tính mạng sang một bên, quyết phải giết hắn. Ai là bạn hữu của Hồ mỗ thì xin đừng cản trở, còn ai là bạn của họ Phụng thì cứ việc xông cả vào!
Chàng nói rồi chống nạnh hai tay đứng đó. Hồ Phỉ biết rõ trong thành Bắc Kinh có rất nhiều cao thủ. Phụng Thiên Nam dám ló mặt ra là hắn đã có chuẩn bị rồi. Không cần những tay trợ thủ nào khác, nguyên Vương thị huynh đệ, hai lão Chu, Tăng cũng đủ mệt rồi, nhưng vì trong lòng phẫn khái đã đến cực điểm, nên chàng gác sự sống chết ra ngoài.
Chu Thiết Tiêu cười ha hả, nói:
– Hồ đại ca đã không nể mặt thì việc hòa giải giữa chúng ta không thành rồi. Phụng lão đại, mời lão về đi thôi, chúng ta còn uống rượu đánh bạc nữa.
Hồ Phỉ phải khó khăn lắm mới tìm thấy Phụng Thiên Nam, thì dễ gì để hắn thoát thân? Chàng vươn hai tay lên, lạng người về phía hắn.
Chu Thiết Tiêu cau mày nói:
– Thế này thì quá lắm!
Tay trái hắn đưa ngang ra cản trở, tay mặt xoay thành âm chưởng ngấm ngầm phục sẵn chiêu “Đảo duệ cửu ngưu vỹ” toan chụp lấy cổ tay Hồ Phỉ để kéo chàng lại. Hồ Phỉ đã động thủ tức là tính cả bọn trợ quyền của đối phương vào trong rồi, nhưng chàng nghĩ bụng:
– Bọn họ đã giữ lễ với mình rất chu đáo, mình quyết không thể động thủ trước được.
Chàng thấy Chu Thiết Tiêu vươn tay chụp cũng không trả đòn, để lão chụp trúng cổ tay, nắm lấy huyệt “Mạch môn”. Chu Thiết Tiêu khấp khởi mừng thầm, tự nhủ:
– Tần Nại Chi và Phụng lão đại khoa trương bản lãnh thằng lỏi này ghê gớm lắm, nếu sớm biết trình độ gã chỉ có thế, thì hà tất ta phải nhường nhịn gã.
Bụng nghĩ thế, nhưng miệng hắn vẫn nói:
– Không nên động thủ.
Hắn vận kình kéo một cái, bỗng cảm thấy xương tay Hồ Phỉ cứng như sắt, kình lực đẩy ngược lại rất đột ngột và mãnh liệt. Chu Thiết Tiêu chân đứng không vững, lập tức buông tay ra, loạng choạng cúi về phía trước ba bước. Môn cầm nã thủ này là một công phu đắc ý nhất trong Ưng trảo nhạn hành môn. Hồ Phỉ đã dùng chính công phu này để đả bại vị đại sư huynh chưởng môn. Hai người mới trao đổi có một chiêu, chỉ trong nháy mắt Phụng Thiên Nam đã thừa cơ xoay mình chạy ra ngoài. Hồ Phỉ lạng người tới, vung chưởng đánh ra. Phụng Thiên Nam xoay ngược tay lại đón đỡ.
Tăng Thiết Âu la lên:
– Chúng ta đang uống rượu đánh bạc vui vẻ, sao lại làm tổn thương hòa khí?
Hắn đưa năm ngón tay cứng như sắt của bàn tay phải thành thế Ưng trảo chụp vào sau lưng Hồ Phỉ. Tựa hồ như hắn có ý khuyên giải mà thật tình lại hạ sát thủ. Nhưng Hồ Phỉ chỉ quyết tâm tiến đánh Phụng Thiên Nam, còn đối với địch nhân tập kích ở phía sau tựa như không hay biết.
Gã họ Nhiếp không nhịn được la lên:
– Hồ đại ca! Coi chừng!
Nghe “bộp” một tiếng, năm ngón tay của Tăng Thiết Âu đã chụp xuống sau lưng Hồ Phỉ, nhưng chỗ ngón tay chạm vào khác nào đụng phải khối da trâu vừa cứng vừa dày. Da thịt trên lưng chàng rung lên khiến cho năm ngón tay của hắn tuột đi.
Ân Trọng Tường thấy hai lão Chu, Tăng không cản trở được liền vung quyền đánh thẳng vào mặt Hồ Phỉ. Hồ Phỉ cúi đầu xuống, tay trái đập vào sau lưng hắn. Nghe “ối” một tiếng, người Ân Trọng Tường văng đi, xô vào sau lưng Phụng Thiên Nam. Chàng không ngờ Phụng Thiên Nam chỉ gập người xuống là đã tránh khỏi, đầu Ân Trọng Tường liền đập vào tòa giả sơn. Tình thế này không thể không vươn tay ra cứu, nhưng làm thế thì sẽ chậm lại một chút, khó lòng tẩu thoát, Phụng Thiên Nam là một tay giảo quyệt thâm độc, thấy Ân Trọng Tường vì ra tay cứu mình mà mất mạng đến nơi, hắn cũng bỏ mặc, không xem họ Ân sống chết thế nào, lại còn đạp vào vai bạn để mượn đà nhảy vọt lên tường vây.
Bỗng nghe đánh “huỵch” một tiếng, Ân Trọng Tường đụng phải hòn giả sơn, chảy máu đầm đìa, bất tỉnh nhân sự. Mọi người đứng xem đều là những tay hảo thủ làm gì chẳng nhìn ra cử động đê hèn của Phụng Thiên Nam? Vương thị huynh đệ đã định ra tay viện trợ, nhưng vẫn úy kỵ bản lãnh của Hồ Phỉ, chưa biết phải làm sao. Chính lúc đang ngần ngừ, bỗng thấy Phụng Thiên Nam chỉ mong trốn thoát một mình, chẳng lý gì đến tình bằng hữu, họ đưa mắt nhìn nhau, mặt lộ vẻ khinh bỉ, không muốn ra tay nữa.
Hồ Phỉ tính thầm nếu để tên gian tặc trốn ra ngoài tường vây thì chàng càng thêm mất công. Huống chi hắn nhất định còn có viện binh ở bên ngoài. Chàng thấy hai chân hắn sắp đặt xuống đầu tường, liền lập tức tung người nhảy lên cản lại.
Phụng Thiên Nam vừa đứng xuống đầu tường, đột nhiên thấy trước mặt hiện ra một người. Dưới bóng trăng, hắn nhìn rõ đó là Hồ Phỉ, bất giác giật mình kinh hãi không bút nào tả xiết. Hắn xoay tay mặt đưa lưỡi chủy thủ sáng loáng từ dưới lên nhằm đâm vào bụng chàng. Hồ Phỉ vội tung chân trái đá trúng cổ tay Phụng Thiên Nam. Lưỡi chủy thủ tuột tay bay đi, rớt xuống ngoài tường. Phụng Thiên Nam ra tay cũng tàn độc dị thường. Hắn đứng trên đầu tường chỉ cách Hồ Phỉ chừng hơn thước, lưỡi chủy thủ đâm sểnh, hắn liền vung tả quyền đánh tới. Hồ Phỉ không rụt tay về, phưỡn ngực ra, vận nội kình hứng lấy thoi quyền. Binh một tiếng! Phụng Thiên Nam bị quyền của mình chấn động phải lùi lại, chân đứng không vững, ngã khỏi tường vây.
Hồ Phỉ nhảy xuống, vung chân ra đạp, nhưng Phụng Thiên Nam lăn mình tránh khỏi. Phụng Thiên Nam lại vận kình lực vào hai chân nhảy vọt lên đầu tường. Lần này Hồ Phỉ không để hắn kịp đứng xuống, hai tay ra chiêu “Nhất hạc xung thiên” vọt lên, cao hơn Phụng Thiên Nam mấy thước. Lúc hạ xuống, chàng cưỡi trúng vào đầu vai đối phương, hai chân liền cặp chặt lấy cổ hắn.
Phụng Thiên Nam bị nghẹn thở, tự biết không còn cách nào thoát được đành nhắm mắt chờ chết.
Hồ Phỉ quát:
– Gian tặc! Bữa nay ngươi phải đền tội
Chàng giơ tay lên đập xuống thiên linh cái đối phương.
Đột nhiên Hồ Phỉ cảm thấy sau lưng có làn đao phong mát rượi, rồi thanh âm trong trẻo quát lên:
– Thủ hạ lưu nhân!
Tiếng quát chưa dứt, mũi đao đã đâm vào gáy chàng. Lúc ấy, Hồ Phỉ không thể vung chưởng đánh xuống mà phải nghiêng đầu để tránh mũi đao từ sau đâm tới. Chàng xoay tay lại như móc câu, chụp cổ tay địch nhân. Người kia thân thủ cũng mau lẹ phi thường, đâm một nhát không trúng lập tức biến chiêu, đâm tiếp hai nhát vào hai cạnh sườn của Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không thể xoay người lại được, chỉ còn cách tung người ra khỏi vai Phụng Thiên Nam rồi lạng người tới trước. Người kia như bóng theo hình, tiến đánh ráo riết. Chàng quay đầu nhìn lại thấy người kia tay cầm chủy thủ mình mặc áo tía da trắng như tuyết, đầu bịt khăn xanh, chính là Viên Tử Y.
Hồ Phỉ tức giận hỏi:
– Viên cô nương! Tại sao cô nương chuyên làm khó dễ tại hạ?
Dưới bóng trăng, chàng thấy nàng như nửa giận nửa cười. Viên Tử Y cất tiếng:
– Tiểu muội muốn lãnh giáo công phu “Không thủ nhập bạch nhận” của Hồ đại ca.
Hồ Phỉ hỏi:
– Ngày tháng còn dài, hà tất cô nương phải vội vàng trong lúc này.
Lúc chàng lạng người về phía Phụng Thiên Nam. Viên Tử Y cũng uốn mình nhảy lên, mũi chủy thủ chĩa vào cổ họng chàng. Hồ Phỉ chẳng thể không tự cứu, đành hạ thấp khuỷu tay đánh chênh chếch vào vai nàng. Trong khoảnh khắc, hai người đã qua lại mười mấy chiêu nhanh như chớp. Đao quang lấp loáng, bóng chưởng bay múa, chiêu nào cũng khiến người ta phải kinh tâm động phách.
Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu và Vương thị huynh đệ chưa biết Viên Tử Y, đột nhiên thấy nàng xuất hiện giải cứu Phụng Thiên Nam trong lúc nguy cấp, mà võ công lại rất cao cường, không ai là không kinh ngạc.
Hai người này ra tay cực kỳ mau lẹ, quần hào trông hoa cả mắt. Bỗng nghe Hồ Phỉ quát lên một tiếng, hai người cùng nhảy lên đầu tường rồi vọt ra ngoài. Viên Tử Y múa tít lưỡi chủy thủ phóng những chiêu tàn độc nhằm vào yếu huyệt trên người Hồ Phỉ, tưởng chừng như cuộc đấu liều mạng. Hồ Phỉ không dám lơ là phải ngưng thần tiếp chiêu, tai nghe Phụng Thiên Nam vừa cười vừa la lớn:
– Hồ gia tiểu huynh đệ! Lão ca ca xin thất lễ. Hẹn ngày tái ngộ.
Hồ Phỉ tức giận đến cực điểm, muốn tung mình rượt theo, nhưng bị Viên Tử Y bám riết không sao thoát được. Trong lòng oán hận, chàng quát hỏi:
– Viên cô nương. Giữa tại hạ và cô nương không thù không oán…
Chàng nói chưa dứt lời bỗng thấy bạch quang lấp loáng, lưỡi chủy đâm tới bên mình. Những cao thủ tỷ đấu, sống chết chỉ trong chớp mắt nên vạn lần không thể nóng nảy được. Võ công của Hồ Phỉ chỉ hơn Viên Tử Y một chút, nhưng một người tay không và một người cầm đao thì rơi vào thế ngang ngửa nhau.
Hồ Phỉ giương mắt lên nhìn cừu nhân chạy đi, không khỏi một chút phân tâm liền bị đao đâm trúng vai. Nghe “roạc” một tiếng, vai áo đã bị mũi chủy thủ vạch một đường. Lúc này Viên Tử Y thuận thế cho tay phải thấp xuống thì chàng lập tức bị tổn thương đến gân cốt. Ngờ đâu cổ tay nàng lại lật chếch lên.
Hồ Phỉ thấy trên vai mát lạnh mà không bị thương chút nào, không khỏi sửng sốt, tự hỏi:
– Sao cô ta hạ thủ còn lưu tình?
Viên Tử Y cười khanh khách rất tươi rồi xoay ngược chuôi chủy thủ ném về phía Hồ Phỉ. Đồng thời nàng rút cây nhuyễn tiên cuốn bên hông, cười nói;
– Hồ đại ca! Chúng ta tỷ đấu bằng khí giới một phen.
Hồ Phỉ toan vươn tay đón lấy chủy thủ, bỗng nghe Trình Linh Tố đứng trên đầu tường hô lớn:
– Dùng đơn đao đi!
Rồi cô ném đao xuống về phía Hồ Phỉ. Nguyên Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ đấu bằng tay sợ chàng thất lợi, nên chạy vào phòng lấy khí giới ra cho chàng.
Viên Tử Y hô lớn:
– Hảo muội tử!
Đột nhiên nàng vung nhuyễn tiên quét lên tường. Trình Linh Tố vội tung người nhảy vào trong. Viên Tử Y áp đầu roi vào tường, lấy đà nhảy vọt lên như con chim khổng lồ tiến vào. Dưới ánh trăng, tà áo nàng phất phới như tiên tử bay giữa không trung. Người nàng chưa hạ xuống đất đã vung tiên nhằm quất xuống Trình Linh Tố, đánh vút một tiếng, miệng hô:
– Trình gia muội tử! Hãy tiếp nhận ba chiêu.
Trình Linh Tố cúi đầu né tránh. Nhưng tiên pháp của Viên Tử Y biến chiêu cực kỳ mau lẹ, lướt từ mé trái cuốn qua mé phải, lập tức bóng roi trùm cả lên người cô. Hồ Phỉ biết Trình Linh Tố không phải là địch thủ của Viên Tử Y. Lúc này nếu chàng rượt theo Phụng Thiên Nam lại sợ Viên Tử Y hạ sát thủ nên dù phải bỏ mất cơ hội cũng đành chịu.
Chàng nhảy vào trong vườn, vung đao lên hô:
– Cô nương muốn tỷ thí thì tỷ thí!
Viên Tử Y la lên:
– Hảo đại ca ngoan quá!
Nàng cuốn roi toan quấn lấy mũi đao của Hồ Phỉ. Bây giờ hai người trong tay đều có binh khí, cuộc chiến đấu khác hẳn lúc trước. Hồ Phỉ thi triển đao pháp gia truyền trong cương có nhu, trong nhu có cương, lúc mau lẹ như sấm dậy điện chớp, lúc trầm ổn như núi cao sừng sững. Tiên pháp của Viên Tử Y cũng tung hoành linh động, đúng phong phạm của một cao thủ. Chỉ trong khoảnh khắc hai người đã chiết giải ngoài ba chục chiêu. Roi vung như linh xà lượn múa, đao chém như mãnh hổ vồ mồi.
Bọn Tần Nại Chi, Chu Thiết Tiêu, Vương thị huynh đệ đứng xem đều kinh hãi, nghĩ bụng:
– Hai nhân vật này còn nhỏ tuổi mà không hiểu võ công sao lại cao thâm đến thế!
Thực ra hai người lúc tỷ đấu bằng khí giới, chỉ mới phát huy sáu, bảy phần công phu. Hồ Phỉ thấy Viên Tử Y gặp những cơ hội khẩn yếu vẫn không cố ý hạ sát thủ nên chàng cũng nhường nhịn mấy phần. Chàng vừa chiến đấu vừa nghĩ thầm:
– Nàng đối với ta như vậy, rốt cuộc không hiểu có dụng ý gì?
Vừa rồi Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu, Tần Nại Chi ba người đã ra tay đối phó với Hồ Phỉ đều kém thế, họ biết nếu đơn đả độc đấu thì không phải là đối thủ của chàng. Chúng thấy Viên Tử Y bám riết Hồ Phỉ chính là cơ hội tốt để hạ thủ, liền đưa mắt ra hiệu, giả vờ ngưng thần quan chiến, đồng thời tản ra xung quanh rồi từ từ tiến lại gần để hợp kích Hồ Phỉ.
Đã là những tay cao thủ võ học thì lúc động thủ đều mắt nhìn bốn mặt, tai nghe tám phương. Thái độ của bọn Chu Thiết Tiêu không lọt ra ngoài tầm mắt của Hồ Phỉ. Chàng nghĩ thầm:
– Bọn này mà xông cả vào thì ta muốn thoát thân cũng chẳng khó gì, nhưng không thể chìa tay để chiếu cố cho nhị muội được.
Chàng liếc mắt thấy Trình Linh Tố đứng một bên, vẻ mặt thản nhiên, liền bụng bảo dạ:
– Bây giờ chỉ có cách đánh lui Viên cô nương rồi sẽ đối phó với bọn kia.
Nghĩ tới đây, chàng vung đao đánh veo véo liền ba chiêu, đều là những gia số lợi hại trong Hồ gia đao pháp. Viên Tử Y vừa né tránh vừa đỡ gạt, miệng khen ngợi:
– Hảo đao pháp!
Đột nhiên nàng thu cây trường tiên về, không đỡ gạt mũi đao của Hồ Phỉ đang đâm tới bên hông, mà lại ra chiêu “Phụng hoàng tam điểm đầu” đánh tới trước mặt ba người Tăng Thiết Âu, Chu Thiết Tiêu và Tần Nại Chi. Chiêu này đánh quá sức đột ngột, ba người vội nhảy lùi lại phía sau. Tăng Thiết Âu chậm một chút bị ngọn roi quét trúng cổ, lằn lên một vết máu tím bầm.
Lúc này mũi đao của Hồ Phỉ chỉ còn cách hông Viên Tử Y không đầy một thước. Chàng thấy nàng đột nhiên xoay roi đánh lui địch nhân giúp mình liền dừng tay lại ngay tức khắc. Thanh đơn đao không phóng tới cũng không lùi lại, mà đứng nguyên bất động mới thật là tuyệt diệu. Thế đao đang đi gấp mà dừng được ngay lại, như đóng đinh giữa khoảng không, còn khó hơn phóng tới đâm địch nhân gấp mười lần.
Viên Tử Y giương cặp mắt xinh đẹp lên nhìn Hồ Phỉ, nói:
– Sao đại ca không đâm tới?
Bỗng nghe Tăng Thiết Âu la lên:
– Cả ca ca lẫn muội muội đều ngoan quá!
Viên Tử Y sa sầm nét mặt, thu roi về quấn vào lưng rồi nhìn Hồ Phỉ hỏi:
– Hồ đại ca, đại ca hãy giới thiệu cho tiểu muội biết những vị anh hùng hảo hán này.
Hồ Phỉ đáp:
– Được! Vị này là Tần Nại Chi đại gia, chưởng môn “Bát Cực quyền”, vị kia là Chu Thiết Tiêu đại gia, chưởng môn Ưng trảo nhạn hành môn.
Tiếp theo chàng giới thiệu bọn Vương Kiếm Anh, Vương Kiếm Kiệt và bọn Tăng Thiết Âu, Uông Thiết Ngạc. Lúc này Ân Trọng Tường được Vương Kiếm Anh cứu tỉnh. Hắn không ngớt thóa mạ Phụng Thiên Nam nào là “loại người đê hèn vô sỉ như vậy thì anh em ta không thể giao du được”. Cuối cùng, Hồ Phỉ nói:
– Vị này là Viên cô nương.
Chàng động tâm sực nhớ điều gì, liền nói tiếp:
– Viên cô nương là tổng chưởng môn của Vi Đà môn thuộc phái Thiếu Lâm, Bát Tiên kiếm ở Quảng Tây, Cửu Long tiên ở Dịch Gia loan tỉnh Hồ Nam.
Mọi người nghe nói không khỏi động tâm, tuy họ biết Hồ Phỉ không nói dối, nhưng vẫn lộ vẻ không tin.
Viên Tử Y mỉm cười, đáp:
– Hồ đại ca chưa nói hết. Côn Luân đao ở phủ Hàm Đan, Thiên Cương kiếm ở phủ Chương Đức, Na Tra quyền ở phủ Bảo Định, cả ba phái này cũng mời tại hạ làm chưởng môn nhân.
Hồ Phi nói:
– Chà, té ra cô nương dọc đường lại được vinh dự nhận chưởng môn ba nhà. Cung hỷ! Cung hỷ!
Viên Tử Y cười đáp:
– Đa tạ! Chuyến này tiểu muội đến Bắc Kinh có ý định làm tổng chưởng môn mười nhà, nhưng không đánh nổi Vô Thanh lão đạo trưởng trên núi Võ Đang tỉnh Hồ Bắc, lại không dám khiêu chiến với Đại Trí thiền sư ở chùa Thiếu Lâm tỉnh Hà Nam. Thật may lại gặp ba vị chưởng môn ở đây. Này! Chử lão sư, chưởng môn của Tái Bắc Lôi điện môn là Ma lão phu tử có đến Bắc Kinh không?
Người sử lôi chấn đáng là võ sư Chử Oanh, nghe nàng hỏi tới sư phụ, liền đáp:
– Trước nay gia sư chưa từng vào vùng Trung nguyên. Nếu có việc gì đều giao cho bọn đệ tử xử lý.
Viên Tử Y nói:
– Hay lắm! Chử đại gia là đại sư huynh cũng kể như là nửa vị chưởng môn. Vậy đêm nay tại hạ muốn đoạt ba chức chưởng môn rưỡi của các vị. Làm tổng chưởng môn của mười nhà không được thì chín nhà rưỡi cũng được vậy.
Nàng vừa nói câu này, bọn Chu Thiết Tiêu đều biến sắc. Tần Nại Chi ôm quyền, cười khanh khách hỏi:
– Chưởng môn Vi Đà Môn phái Thiếu Lâm là Vạn Hạc Thành đại ca có mối giao tình mấy chục năm với tại hạ, không hiểu tại sao y lại truyền ngôi chưởng môn cho cô nương?
Viên Tử Y đáp:
– Vạn đại gia chết rồi. Sư đệ y là Lưu Hạc Chân đánh không nổi tại hạ. Ba tên đồ đệ lại càng vô dụng. Sau khi phân cao thấp bằng đao thương quyền cước, dù họ chẳng muốn nhường chưởng môn thì cũng phải nhường. Tần lão sư, bây giờ tại hạ xin lĩnh giáo công phu “Bát Cực quyền” của lão sư trước rồi sẽ chiết chiêu cùng ba vị Chu lão sư, Vương lão sư, Chử lão sư. Tại hạ có làm được tổng chưởng môn mười nhà thì đến dự cuộc đại hội các chưởng môn nhân trong thiên hạ mới thật vẻ vang.
Nàng nói mấy câu này là coi bọn Chu, Tần, Vương, Chử không vào đâu. Nghe nàng khiêu chiến kiểu đó, bọn Chu Thiết Tiêu, Vương Kiếm Anh đều là những cao thủ võ học nổi danh khắp thiên hạ thì dù có bỏ mạng tại đương trường cũng không thể lùi bước.
Chu Thiết Tiêu lên tiếng:
– Trong Ưng trảo nhạn hành môn tiên sư đã tạ thế, còn bọn đồ đệ thì không ra gì, chưa học nổi một phần mười công phu của tiên sư. Nếu cô nương chịu tứ giáo thì tệ phái từ trên xuống dưới đều lấy làm vinh hạnh. Có điều bọn sư huynh đệ của tại hạ đều là những kẻ xuẩn tài, chỉ luyện công phu của tiên sư nên không luyện võ công của phái khác.
Viên Tử Y cười đáp:
– Cái đó đã hẳn. Nếu tại hạ không hiểu võ công của Ưng trảo nhạn hành môn thì đòi làm chưởng môn phái này thế nào được? Xin Chu lão sư cứ yên tâm.
Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu giận xám mặt, lại đưa mắt nhìn nhau nghĩ bụng:
– Dù là những tay cao thủ cũng chưa một ai coi thường Ưng trảo nhạn hành môn. Con nha đầu này ỷ vào ai mà dám đến kinh thành ngang ngược như vậy?
Bọn họ đã nhận trọng lễ của Phụng Thiên Nam để đứng ra dàn xếp vụ này. Nếu không thành chẳng qua cũng chỉ một phen cụt hứng, rốt cuộc cũng chẳng có chi đáng bận tâm. Chỉ vì vị cô nương này dám ngang ngược đến đòi giành chức chưởng môn, thì sao không đối phó cho được?
Tần Nại Chi biết rằng đêm nay không động thủ không xong. Lão vừa được coi võ công của Viên Tử Y cũng tương đương với Hồ Phỉ, mà lão lại bại dưới tay Hồ Phỉ nên thấy cần tìm cách nhường nàng đấu trước với bọn Chu, Vương cho hao tổn khí lực, rồi lão mới xuất thủ để chiếm phần tiện nghi. Lão tính xong bèn lên tiếng:
– Chu lão sư, Vương lão sư, bản lãnh của hai vị cao thâm hơn tiểu đệ nhiều. Tiểu đệ xin ẩn ở phía sau!
Viên Tử Y cười nói:
– Tần đại gia không nói tại hạ cũng biết là võ công của đại gia không bằng hai vị kia, vì thế mà tại hạ cũng cần lựa người yếu đánh trước để dành sức đối phó với kẻ mạnh. Bên ngoài đất cỏ trơn trợt lắm, chúng ta vào trong lương đình tỷ đấu. Nào! Mời đại gia!
Thân hình thấp thoáng, nàng đã vọt vào trong đình, hai chân đứng vững rồi hạ thấp vai xuống, năm ngón tay chĩa ra, chưởng tâm hướng ra ngoài như đỡ hờ phía trước bụng dưới. Đó là khởi thủ thức để bắt đầu khai diễn “Bát Cực quyền” tên gọi là “Hoài trung bảo nguyệt”.
Tần Nại Chi giật mình, thầm tự hỏi:
– Võ công của bản phái xưa nay không lưu truyền rộng rãi ra ngoài, nhưng chiêu “Hoài trung bão nguyệt” này, vai trái hạ thấp, vai phải nhô cao, tả quyền chênh chếch, hữu quyền ngay ngắn, đúng là công phu chân truyền của bản phái, không hiểu thị học ở đâu ra?
Lão liếc nhìn Hồ Phỉ một cái rồi nghĩ tiếp:
– Hôm trước ta cùng gã này động thủ, rõ ràng là không dùng khởi thủ thức, rồi sau đó cùng gã này đàm luận về quyền pháp cùng không hề nhắc đến chiêu này. Như vậy là gã không truyền cho cô nương này được rồi.
Trong lòng lão rất đỗi kinh nghi, nhưng ngoài mặt vẫn điềm nhiên, lão nói:
– Đã thế thì đợi tiểu lão khuân dọn bàn ghế để cho khỏi vướng chân tay.
Viên Tử Y đáp:
– Tần lão sư nói thế là sai. Quyền pháp của bản môn gồm có bát cực là “Phiên Thủ”, “Điệp Uyển”, “Thốn Khẩn””, “Đẩu Chuyển” và tám thức là “Lâu, Đả, Đằng, Phong, Thích, Đàm, Tảo, Quái” biến hóa thành “Thiểm, Trường, Dược, Đóa, Ảo, Thiết, Bế, Bát” gọi là Bát pháp. Bốn mươi chín đường “Bát Cực quyền” diệu ở chỗ lấn lướt. Nếu còn ngại bàn ghế làm vướng chân tay thì gặp lúc chiến đấu sinh tử với địch nhân, chẳng lẽ cũng xin họ khuân dọn bàn ghế trước hay sao?
Nàng thuyết một phen giống như giọng lưỡi của chưởng môn giáo huấn đồ đệ, mà các pháp quyết trong “Bát cực quyền” lại không sai một chữ nào. Tần Nại Chi đỏ mặt lên, lẳng lặng khom lưng nhảy vào lương đình, ra chiêu “Thôi sơn thức”, vung tả quyền đánh tới.
Viên Tử Y lắc đầu, nói:
– Chiêu này không đúng!
Nàng không đỡ gạt, chỉ bước qua bên trái một bước. Trước mặt Tần Nại Chi là một cái bàn cản trở, phát chưởng của lão không đánh được tới người nàng. Nhưng lão biến chiêu rất thần tốc, phóng ra liền ba tuyệt chiêu là “Trừu bộ phiên diện chùy”, “Diêu tử phiên thân”, “Phách quái chưởng”. Viên Tử Y khẽ nhớm chân phải lên, tay trái đặt chéo trên tay phải đánh xoáy tới thành dương quyền, rồi trong chớp mắt lại biến thành âm quyền đánh ra. Đó chính là thức thứ bốn mươi tư trong “Bát cực quyền” có tên là “Song đả kỳ môn”. Nguyên đây là chiêu số rất đắc ý của Tần Nại Chi, có điều Viên Tử Y xuất chiêu thần tốc, khiến Tần Nại Chi không kịp đề phòng, phải lập tức nghiêng mình để tránh.
“Binh” một tiếng, người lão đụng vào bàn, khiến cho các chung trà trên bàn đảo qua đảo lại mấy lần.
Viên Tử Y cười nói:
– Coi chừng!
Nàng liền tấn công ráo riết cả hai bên tả hữu, song quyền vung ra không ngớt như mưa, một bước thành ba vòng, ba bước thành chín lần biền đổi đều là những chiêu số của “Bát cực quyền”. Tần Nại Chi gắng sức chống đỡ. Lão thấy chiêu số của nàng đúng là quyền pháp của bản môn, có điều nàng sử dụng chậm, lúc nghiêng trái lúc nghiêng phải, không giống công phu bản môn.
Viên Tử Y hỏi:
– Sao lão sư chỉ đón đỡ chứ không trả đòn? Lão sư đang sử dụng “Bát cực quyền chứ đâu phải là “Ai thấu quyền”!
Tần Nại Chi giận quá, bèn thóa mạ:
– Con tiểu tiện nhân!
Lão ra chiêu “Thanh long xuất thủy”, tay trái làm thành hình móc câu, tay phải nắm thành quyền đánh ra. Viên Tử Y đối phó bằng chiêu “Tỏa thủ toản quyền”. Đột nhiên khuỷu tay phải lắc một cái rồi xoay tay nắm lấy cổ tay phải của Tần Nại Chi, bẻ quặt ra sau lưng đồng thời tay trái móc lên, bốn ngón đưa ra trước, ngón cái để sau chụp trúng vào huyệt “Kiên trinh” của lão, thuận đà đẩy mạnh tới phía trước, đè lão xuống mặt bàn, đặt miệng lão vào chung trà. Nàng quát:
– Uống trà đi!
Nàng sử dụng “Phân cân thác cốt thủ” một cách bình thường chẳng có chi kỳ lạ, tưởng chừng như mọi người trong bất cứ môn phái nào cũng luyện được. Có điều nàng ra tay cực kỳ thần tốc, tay nàng vừa đụng vào cổ tay Tần Nại Chi đã làm cho toàn thân lão bị kiềm chế. Lão vừa kinh hãi vừa tức giận, không tự chủ được, lại cất tiếng thóa mạ:
– Con tiểu tiện nhân!
Hai tay Viên Tử Y tăng gia kình lực. Bỗng nghe một tiếng lách cách. Xương bả vai Tần Nại Chi liền bị trật khớp. Nàng buông cổ tay lão ra, ngồi xuống ghế tròn tủm tỉm cười lạt, hỏi:
– Lão có nhường ngôi chưởng môn hay không?
Tần Nại Chi đau điếng người, trán toát mồ hôi lạnh, không nói nửa lời, rảo bước ra khỏi đình. Vương Kiếm Anh bước tới, một tay đỡ cánh tay phải cho lão còn một tay đỡ cổ. Hắn kéo ra rồi đưa vào để nắn lại khớp xương.
Vương Kiếm Anh quay lại nói:
– Công phu “Bát Cực quyền” của Viên cô nương quả nhiên thần diệu. Bây giờ tại hạ xin lãnh giáo môn “Bát Quái chưởng” của cô.
Dứt lời hắn tiến vào trong đình.
Viên Tử Y thấy bộ pháp của hắn ngưng trọng vững vàng, thì biết ngay là kình địch. Phàm những người luyện “Du thân bát quái chưởng” tất nhiên bộ pháp nhẹ nhàng phiêu dật, bước đi tựa hồ không chấm đất, nhưng cước bộ của Vương Kiếm Anh lại cực kỳ trầm trọng làm cho cát bụi tung bay, đó chính là căn cơ lợi hại vô tỷ, gọi là “Tự trọng chính tự khinh, chí khinh phản trọng”, luyện tập bộ pháp từ lúc còn nặng nề cho đến khi chân bước nhẹ nhàng, rồi sau đó lại khổ luyện cho bộ pháp lại nặng nề như lúc ban đầu. Viên Tử Y biết lão đã luyện mấy chục năm công lực, nàng chẳng thể bì kịp.
Hồ Phỉ tiến vào trong đình bưng lấy chung trà nhấp một hớp, khẽ nói:
– Tay này lợi hại lắm, cô nương chớ khinh địch.
Viên Tử Y cúi mặt nhìn xuống, khẽ đáp:
– Tiểu muội đã nhiều phen làm hỏng đại sự của đại ca, mà đại ca không giận tiểu muội ư?
Nàng hỏi câu này, Hồ Phỉ khó trả lời. Nếu bảo rằng không giận là không đúng, vì nàng đã liên tiếp ba lần cứu thoát Phụng Thiên Nam khỏi bàn tay chàng. Còn bảo rằng giận thì nhìn đôi mắt lóng lánh như sóng hồ thu dường như vô tình mà lại tựa hữu tình của nàng, thì ai mà oán trách được?
Viên Tử Y thấy Hồ Phỉ tiến vào đình dặn mình đề phòng, khiến nàng được an ủi rất nhiều. Nàng đang lo ngại không thắng nổi vị cao thủ Bát Quái môn, đến lúc này bỗng thấy tinh thần phấn khởi, dũng khí tăng lên, liền khẽ đáp:
– Đại ca yên tâm!
Viên Tử Y dí đầu ngón chân xuống nhảy lên mặt cái ghế tròn, nói:
– Vương lão sư! Võ công của Bát Quái môn chủ yếu chân đạp phương vị Bát quái: Càn, Khôn, Tốn, Khám, Chấn, Đoài, Ly, Cấn. Chúng ta chiết chiêu ở ngay trên những cái ghế này.
Vương Kiếm Anh đáp:
– Hay lắm!
Lão từ từ bước lên ghế tròn, hai tay vòng lại, một chưởng cong về phía trước, một chưởng vòng lại sau lưng. Hồ Phỉ đưa mắt ra hiệu cho Viên Tử Y rồi lui ra khỏi lương đình.
Viên Tử Y hỏi:
– Thường nghe Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn nổi danh anh kiệt ngang nhau. Lát nữa Vương lão sư mà thất bại rồi, lệnh đệ còn đánh nữa hay thôi?
Vương Kiếm Anh bản tính trầm tĩnh nhưng nghe mấy câu này cũng không nhịn được. Theo lời nàng thì dù chưa động thủ, nhất định hắn sẽ thất bại. Hắn đã không khéo nói, lại đang cơn thịnh nộ, miệng cứ lắp bắp không nên lời.
Vương Kiếm Kiệt tức giận quát:
– Con tiểu nha đầu đừng nói nhăng nói càn, chỉ cần ngươi đỡ nổi một trăm chiêu của đại ca ta là anh em ta từ nay không sử “Bát Quái chưởng” nữa.
Nên biết Vương thị huynh đệ là hạng danh cao vọng trọng trong võ lâm, hạng võ sư tầm thường không đỡ nổi mười chiêu của họ. Vương Kiếm Kiệt đã nói tới một trăm chiêu là không dám coi thường Viên Tử Y.
Viên Tử Y đưa mắt nhìn xéo, lạnh lùng hỏi:
– Sau khi ta đánh bại lệnh huynh thì có được coi là chưởng môn của Bát Quái môn không? Ngươi còn đấu nữa hay thôi?
Vương Kiếm Kiệt đáp:
– Ngươi khoác lác gì thế? Hãy thắng được ca ca ta đã rồi hãy nói cũng chưa muộn.
– Chà! Vương lão sư đã động nộ muốn hạ sát thủ nên mới hỏi sư phụ ta trước. Oai danh sư phụ ta rất lớn, nói ra chỉ làm cho lão phải bở vía. Ta không nêu tên sư phụ ra đâu, lão cứ việc giở hết những tuyệt kỹ của Bát Quái môn ra đi. Người ta thường nói đã không biết là không có tội. Dù lão đánh chết ta, gia sư cũng không trách lão đâu.
Nàng nói mấy câu này trúng tâm sự Vương Kiếm Anh. Lão thấy nàng đã tỷ đấu với Hồ Phỉ, lại kiềm chế Tần Nại Chi, xuất thủ không phải tầm thường thì nhất định có một lai lịch rất lớn. Nếu lão nặng tay đả thương nàng thì sau này sư phụ nàng tính đến tất khó bề đối phó. Lão nghe nàng nói vậy liền bảo:
– Xin các vị nơi đây làm chứng cho!
Lão vung chưởng đánh vút ra, chưởng lực chưa đến mà thân hình đi theo chưởng tiến tới, hai chân di động phương vị, bước từ cung Khôn sang cung Ly. Thân hình lão to lớn mà khi thi triển khinh công của Bát Quái môn thì cước bộ nhẹ nhàng như chim én lướt sóng. Viên Tử Y phóng chưởng đánh chênh chếch ngăn lại, đi từ cung Cấn đuổi qua cung Chấn. Tay nàng sử dụng Bát Quái chưởng, còn chân bước theo phương vị Bát quái. Vương Kiếm Anh đánh liền mấy chưởng đều bị nàng hất đi. Hai người đi quanh cái bàn tròn, di chuyển trên mười hai cái ghế đá chẳng khác gì bọn trẻ con chơi trò trốn tìm nhưng cước lực mỗi lúc một nhanh, khiến quần áo phát ra tiếng gió phần phật.
Vương Kiếm Anh nghĩ thầm:
– Con tiểu nha đầu này tâm tư rất linh xảo, đã dụ được ta đấu chưởng trên ghế đá cách một cái bàn. Chưởng lực của thị vốn không bì kịp ta, nhưng cái bàn tròn cản trở ở giữa thì thị không còn sợ chưởng lực trầm trọng của ta nữa.
Lão lại tự nhủ:
– Võ công con nha đầu này thật là phức tạp. Thị sử được môn Bát Quái chưởng của nhà ta rất chính xác, hà tất ta phải dùng chưởng pháp thông thường để dây dưa với thị?
Đột nhiên lão hú lên một tiếng, chân bước loạn xạ, thủ chưởng xiêu vẹo. Lão thi triển môn tuyệt kỹ gia truyền “Bát trận Bát Quái chưởng” oai chấn của phụ thân Hà Sóc Vương Duy Dương. Chưởng pháp này Vương Duy Dương chỉ dạy cho hai con, còn đệ tử khác họ như Thương Kiếm Minh đều không được truyền thụ. Đó là môn Bát Quái chưởng kèm theo Bát trận đồ. Thiên trận lấy cung Càn làm Thiên môn. Địa trận lấy cung Khôn làm Địa môn, Phong trận lấy cung Tốn làm Phong môn, Vân trận lấy cung Chấn làm Vân môn, Phi long lấy cung Khảm làm Phi Long môn, Võ Dực lấy cung Đoài làm Võ Dực môn, Điểu Tường lấy cùng Ly làm Điểu Tường môn, Uyên Bàn lấy cung Cấn làm Uyên Bàn môn. Thiên Địa Phong Vân là bốn chính môn, Long Hổ Điểu Uyên là bốn kỳ môn, Càn Khôn Cấn Tốn là hạp môn, Khám Ly Chấn Đoài là khai môn. Bốn chính môn cùng bốn kỳ môn và bốn hợp môn cùng bốn khai môn, khi áp dụng vào võ học chỉ trong khoảnh khắc đã biến hóa kỳ ảo vô cùng. Tuy ở trong lương đình nhỏ xíu cũng đủ để bài bố trận chiến đấu.
Môn “Bát trận Bát Quái chưởng” này chẳng những Viên Tử Y chưa học mà còn chưa được nghe qua. Chỉ vì đây là môn tuyệt kỹ mật truyền của Vương Duy Dương, nên dù sư phụ nàng là người uyên bác vô song về võ học cũng có chỗ chưa biết đến. Nàng mới tiếp được mấy chưởng đã hoa mắt lên, bất giác ngấm ngầm kêu khổ.
Hồ Phỉ đứng ngoài lược trận biết là tình thế không ổn, nhưng Viên Tử Y lúc trước đã khoác lác đòi đoạt chức chưởng môn, nên chàng không thể ra tay tương trợ. Chàng thấy Vương Kiếm Anh mỗi lúc một chiếm thượng phong mà không biết làm sao được.
Bỗng thấy Viên Tử Y dí chân trái xuống, nhảy lên mặt bàn, nói:
– Đứng trên ghế thi triển bản lĩnh không hay. Chúng ta lên bàn tỷ đấu. Vương lão sư không được đạp bể các chén trà cùng các đĩa trái cây đâu nhé!
Vương Kiếm Anh chẳng nói chẳng rằng, cũng nhẩy lên bàn. Lúc này hai người cách rất gần nhau, Viên Tử Y không thể dùng sự khéo léo được nữa. Quyền chưởng của đối phương phóng ra nàng phải trực tiếp đón đỡ, nhưng dưới chân lại chiếm phần tiện nghi. Nguyên trên bàn có mười hai chén trà, cùng bốn đĩa trái cây để rải rác lộn xộn chẳng khác gì “Mai hoa thung” hay “Thanh trúc trận“ nên bước chân đặt xuống phải theo quy luật.
“Bát trận Bát Quái chưởng” của Vương Kiếm Anh mà thi triển dưới đất thì uy lực mãnh liệt phi thường, nhưng ở trên “Mai hoa thung” thì sự biến hóa liền bị hạn chế, khiến uy lực phải sút giảm theo. Lúc này ở trên bàn lão chỉ sợ lỡ đạp bể chén trà hay đĩa trái cây làm cho con nha đầu điêu ngoa kia chê cười. Lão cố giữ vị thế để khỏi phải di chuyển bước chân lúc huy động chưởng lực. Lão tự lượng không thể ỷ vào cước bộ hay chưởng pháp linh diệu, mà chỉ trông vào nội công thâm hậu để dùng đôi nhục chưởng đánh hạ nàng
Chưởng phong rít lên vù vù. Những bông hoa ở bên lương đình bị chưởng phong chấn động làm cho cánh hoa tung bay lả tả. Lúc Viên Tử Y nhảy lên mặt bàn nàng đã tính những điều lợi hại. Nàng thấy đối phương phóng những phát chưởng như cuồng phong sậu vũ, đành di chuyển thân hình không ngớt, lúc tránh tới trước khi lùi lại sau, chứ tuyệt nhiên không dám đối chưởng với Vương Kiếm Anh. Nàng biết chưởng lực của đối phương rất hùng hậu, chỉ cần song chưởng hai bên chạm nhau là nàng khó bề thoát thân.
Bỗng thấy Vương Kiếm Anh vung hờ hữu chưởng, tả chưởng đưa xéo lên, lúc này hữu chưởng mới đánh ra, Viên Tử Y khẽ khều chân hất một chén trà bắn vào mặt lão. Vương Kiếm Anh giật mình kinh hãi lạng mình né tránh nhưng Viên Tử Y đã lượng trước phương vị này, hai chân nàng liên tiếp móc hất các chung trà liên tiếp bắn tới. Vương Kiếm Anh tránh được ba cái, nhưng cái thứ tư, thứ năm đánh trúng đầu và vai lão kêu bốp bốp. Lão vung chưởng gạt chén trà thứ bảy thứ tám làm nước và xác trà trong chén văng tung tóe vào mặt, còn chén thứ chín thứ mười thì bắn trúng vào ngực lão, bật lên những tiếng chát chát. Nước trà bắn tung tóe đầy mặt mũi đầu tóc lão.
Vương Kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt tức giận gầm lên như sấm. Bọn người đứng xem là Uông Thiết Ngạc, Ân Trọng Tường, Chử Oanh không nhịn được cũng bật tiếng la hoảng.
Lại thấy hai cái chung trà sau cùng bắn thẳng vào hai mắt Vương Kiếm Anh. Lão phẫn nộ đến cực điểm đánh ra một chưởng thật mạnh. Viên Tử Y đá chung trà lên cốt để làm cho địch rối loạn và chờ lão phóng chưởng ra. Nàng đã gập cơ hội không thể bỏ lỡ, liền lạng mình lại vươn trảo ra chụp lấy cổ tay Vương Kiếm Anh, tay trái nắm huyệt “Khúc trì” của lão, vặn một vòng rồi đẩy mạnh ra nghe “rắc” một tiếng.
Vương Kiếm Kiệt la hoảng:
– Nguy rồi!
Xương tay Vương Kiếm Anh đã bị trật khớp. Đây vẫn là công phu “Phân cân thác cốt” tầm thường, về điểm kỳ diệu của gia số thì chẳng có chi đáng kể, nhưng Viên Tử Y ra tay nhanh như điện chớp, Vương Kiếm Anh không né tránh kịp mà phải lãnh cái nhục chung thân.
Vương Kiếm Kiệt vỗ hai tay một cái, đồng thời nhảy tới phía sau Viên Tử Y. Hồ Phỉ đánh ra một chưởng khiến gã bị chấn động phải lùi lại ba bước.
Chàng nói:
– Vương huynh hãy thong thả! Vừa nói là lấy một chọi một kia mà?
Vương Kiếm Anh sắc mặt trắng nhợt, nằm sõng soài trên bàn như xác chết. Viên Tử Y bụng bảo dạ:
– Nếu ta tha hắn một cách khinh suất, để cả hai anh em hắn quay lại khiêu chiến thì ta sao địch nổi?
Nàng liền hạ thủ chẳng nể nang gì. Nhân lúc Vương Kiếm Anh không còn sức kháng cự, nàng lại vặn trật khớp xương cánh tay trái hắn nghe lách cách, đoạn đưa ngón tay điểm vào huyệt “Thái dương”, quát hỏi:
– Ngôi chưởng môn Bát Quái môn lão có chịu nhường hay không?
Vương Kiếm Anh nhắm mắt chờ chết, không nói gì nữa Vương Kiếm Kiệt gào lên:
– Tha ngay huynh trưởng ta rồi ngươi muốn làm chưởng môn thì làm.
Viên Tử Y hỏi:
– Lão nói có chắc không?
Vương Kiếm Kiệt đáp:
– Chắc lắm! Chắc lắm!
Viên Tử Y mỉm cười nhảy xuống bàn. Vương Kiếm Kiệt đỡ người huynh trưởng ráo bước đi ngay, không ngoảnh cổ lại nữa.
Chu Thiết Tiêu nói:
– Cô nương liền một lúc đoạt ngôi chưởng môn của hai nhà, quả là bậc thông mình lanh lợi. Không hiểu cô còn lưu diệu kế gì để đối phó với Chu mỗ?
Hắn nói câu này hiển nhiên ám chỉ Viên Tử Y đã dùng ngụy kế để thắng chứ không có bản lĩnh chân thực.
Viên Tử Y đáp:
– Đối phó với Ưng trảo nhạn hành môn thì cần chi dùng đến trí kế? Bên lão ba vị sư huynh sư đệ xông vào cả một lúc, hay chỉ một mình Chu lão sư đấu với ta?
Chu Thiết Tiêu cười thản nhiên, hỏi lại:
– Viên cô nương nói vậy là nhìn người qua khe cửa, coi tất cả võ sư ở thành Bắc Kinh chẳng ra gì. Từ ngày Chu mỗ mới mười ba tuổi đến giờ vẫn đơn đả độc đấu.
Viên Tử Y nói:
– Ô! Vậy trước khi Chu lão sư được mười ba tuổi chắc không phải là anh hùng hảo hán, chuyên chơi trò hai người đánh một?
Chu Thiết Tiêu đáp:
– Hà hà, đến năm mười ba tuổi, Chu mỗ mới bắt đầu học nghệ.
Viên Tử Y nói:
– Những trang anh hùng hảo hán khi sinh ra đã là anh hùng hảo hán. Lắm tay võ nghệ cao cường mà thủy chung chỉ vẫn là đồ vất đi. Chu lão sư! Ta nói vậy không phải ám chỉ lão sư đâu nhé.
Chẳng hiểu tại sao đối với Vương Kiếm Anh, Vương Kiếm Kiệt nàng ba phần bội phục, mà đối với Chu Thiết Tiêu đầy vẻ cao ngạo nàng lại buông những lời khinh miệt. Chu Thiết Tiêu chưa từng bị nhục đến thế, trong lòng tức giận như muốn phát điên, mà ngoài miệng chỉ “hừ” một tiếng.
Uông Thiết Ngạc quát lên:
– Con tiểu nha đầu kia, nói năng với đại sư ca ta phải lịch sự một chút.
Viên Tử Y thấy lão này là người khù khờ, nàng không lý gì đến hắn, mà nhìn Chu Thiết Tiêu giục:
– Lấy ra đi! Đặt lên bàn.
Chu Thiết Tiêu ngạc nhiên hỏi:
– Cái gì?
Viên Tử Y đáp:
– Đồng ưng thiết nhạn bài!
Chu Thiết Tiêu nghe đến năm chữ “Đồng ưng thiết nhạn bài” thì dù công phu hàm dưỡng cao thâm đến đâu cũng chẳng thể giữ vẻ điềm nhiên được nữa, hắn lớn tiếng:
– Chà chà! Những chuyện của bản môn ta, ngươi hiểu biết khá nhiều đấy.
Hắn cởi cái túi gấm ở đai lưng đặt lên bàn, rồi quát lớn:
– “Đồng ưng thiết nhạn bài” ở trong này. Bữa nay ngươi cứ giết Chu mỗ đi rồi hãy lấy tấm bài này.
Viên Tử Y đáp:
– Lão sư hãy lấy ra cho ta coi đã, ai mà biết được tấm đồng bài là chân hay giả?
Chu Thiết Tiêu hai tay run lên mở túi gấm, lấy ra một tấm kim bài dài bốn tấc, rộng hai tấc. Trên mặt bài có khảm một con chim ưng bằng đồng đang vươn móng và một con nhạn bằng sắt đang bay. Đây là tấm tín bài của chưởng môn truyền đời ở Ưng trảo nhạn hành môn. Bọn đệ tử bản môn nhìn thấy tấm kim bài này cũng như nhìn thấy chính chưởng môn vậy.
Nguyên Ưng trảo nhạn hành môn là một môn phái lớn trong võ lâm về cuối đời nhà Minh, khoảng giữa hai triều đại Thiên Khải và Sùng Trinh. Chưởng môn mấy đời ở phái này đều là những tay võ công trác tuyệt, môn quy cũng rất nghiêm ngặt. Nhưng truyền đến đời Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu thì quần đệ tử đều để bọn quyền quý nhà Mãn Thanh thu dụng. Chúng nhiễm phải tính xa hoa ở kinh thành, võ công kém hẳn tiền nhân. Về sau, đến đời Gia Khánh, Ưng trảo nhạn hành món mới nảy ra được mấy nhân vật sắc sảo và bắt đầu công cuộc trùng hưng môn phái.
Viên Tứ Y nói:
– Nhìn thì rất giống của thật nhưng cũng chưa chắc.
Nguyên nàng vừa một phen kịch chiến với Vương Kiếm Anh, tuy may mà chuyển bại thành thắng, nhưng nội lực đã hao tổn rất nhiều. Bây giờ cố ý kéo dài câu chuyện, một là để chọc giận Chu Thiết Tiêu, hai là để dưỡng chân khí.
Chu Thiết Tiêu là người biết nhiều hiểu rộng làm gì chẳng rõ tâm ý của nàng? Hắn không cần nói nhiều, chỉ vung hai tay, đột nhiên nhảy vọt lên mái lương đình, nói:
– Chúng ta càng đánh càng lên cao. Chu mỗ lên nóc quán để lãnh giáo cao chiêu.
Nên biết môn phái hắn mang danh Ưng trảo nhạn hành vì một là chuyên về môn Ưng trảo cầm nã, hai là chuyên về môn Nhạn hành khinh công. Chu Thiết Tiêu nhảy lên nóc quán là cố ý giữ hiểm địa để thuận tiện thi triển khinh công, quyết cùng đối thủ một phen chiến đấu sinh tử, đồng thời khiến Viên Tử Y không còn cách nào thi triển ngụy kế, mà lúc nàng gặp nguy cấp, Hồ Phỉ cũng khó bề ra tay tương trợ. Trong lòng hắn cho rằng Viên Tử Y bản lãnh có cao thâm cũng chỉ là hạng nữ lưu, còn Hồ Phỉ mới thực sự là kình địch. Chu Thiết Tiêu có ngờ đâu cầm nã và khinh công lại chính là hai môn tuyệt kỹ sở trường của Viên Tử Y. Giả tỷ hắn được chứng kiến nàng đã thi triển môn khinh công kinh thế hãi tục để tỷ đấu bằng trường tiên với Dịch Cát trên ngọn cột buồm cao ngất, tất hắn không dám nhảy lên nóc lương đình thách đấu.
Hồ Phỉ thấy hắn tung người nhảy lên, thân pháp tuy mau lẹ nhưng chưa thể bì kịp với Viên Tử Y, nên chàng thấy yên tâm. Chàng quay lại nhìn Viên Tử Y, hai người mỉm cười với nhau. Viên Tử Y giả vờ miễn cưỡng nhảy lên nóc quán, hô lớn:
– Coi chiêu đây!
Mười ngón tay theo tư thế Ưng trảo đánh xéo tới. Nguyên trảo pháp trong quyền thuật, về cơ bản trong lộ số chia làm ba loại là Long trảo, Hổ trảo và Ưng trảo. Long trảo thì bốn ngón khép lại, ngón cái choãi ra, những đầu ngón tay quay vào lòng bàn tay. Hồ trảo thì năm ngón tay xa nhau, ngón thứ nhì và ngón thứ ba uốn cong lại hướng vào lòng bàn tay. Ưng trảo thì bốn ngón co lại, ngón cái mở rộng ra, các ngón hai và ba cũng gấp lại hướng vào lòng bàn tay. Ba loại trảo pháp này đều có chỗ sở trường, nhưng Long trảo công thì thâm ảo nhưng khó luyện hơn hết.
Chu Thiết Tiêu thấy Viên Tử Y quả nhiên dùng gia số của bản môn liền tự nhủ:
– Nếu ả dùng võ công cổ quái nào thì ta còn có phân uý kỵ, đằng này ả lại sử dụng Ưng trảo nhạn hành công là tự tìm đường chết rồi.
Hắn vươn tay thành thế Ưng trảo, lật tay như hình móc câu đánh ra. Quần hào ngửng đầu lên nhìn thấy hai người nhảy nhót nhẹ nhàng, sáp vào nhau thi triển mấy chiêu cầm nã rồi lui ra ngay. Trong bốn trận kịch đấu đêm nay thì trận này ngoạn mục hơn hết nhưng cũng là một trường hung hiểm nhất. Dưới ánh trăng, hai người chẳng khác đôi chim khổng lồ bay qua bay lại đánh nhau trên lương đình.
Đột nhiên hai người giáp lại gần nhau, rồi nghe mấy tiếng lắc rắc. Viên Tử Y quát lớn một tiếng, Chu Thiết Tiêu rú lên một tiếng thật dài, ngã xuống khỏi lương đình. Vì thủ cước hai người lẹ quá, quần hào đứng xem chỉ có Hồ Phỉ và Tăng Thiết Âu là nhìn rõ Chu Thiết Tiêu đã ngã xuống ra sao.
Trong lúc kịch đấu, Chu Thiết Tiêu dùng tuyệt chiêu “Tứ nhạn nam phi”, tung chân đá đối phương bốn ngọn cước theo thế liên hoàn. Đến ngọn cước thứ hai thì hắn bị Viên Tử Y dùng phép “Phân cân thác cốt thủ” bẻ trật khớp xương chân trái. Theo thế liên hoàn cước của hắn khi chân này vung ra đá thì chân kia hạ xuống, nhưng đến nửa đường không có cách gì thu lại được, nên chân trái đã bị thương nhưng chân phải vẫn phải đá ra, Viên Tử Y tính toán thật chính xác bèn tung chân đá vào đầu gối hắn, làm chân phải hắn bị thương trầm trọng hơn cả chân trái nữa.
Mọi người đứng xem chỉ thấy Chu Thiết Tiêu lúc té xuống, vai và lưng chạm đất rồi không dậy được nữa. Quán lương đình này không cao mấy. Căn cứ vào bản lĩnh khinh công của Chu Thiết Tiêu, đã vào hàng trác tuyệt thì dù địch không nổi Viên Tử Y, khi nhảy xuống cũng quyết không thể không dậy được. Chẳng lẽ hắn lại bị trọng thương trí mạng?
Uông Thiết Ngạc xưa nay vốn một lòng kính ái đại sư huynh, hốt hoảng la lớn:
– Sư ca!
Hắn chạy xông tới, thanh âm trong tiếng la nghe như người sắp khóc. Hắn cúi xuống đỡ Chu Thiết Tiêu đứng lên, nhưng hai đầu gối họ Chu đã trật khớp còn đứng làm sao được? Uông Thiết Ngạc vừa buông tay, Chu Thiết Tiêu rên lên một tiếng rồi lại ngã lăn ra.
Tăng Thiết Âu khẽ mắng:
– Đồ ngu!
Rồi chạy lại đỡ lên. Tăng Thiết Âu cũng là một tay hảo thủ hạng nhất trong Ưng trảo nhạn hành môn nhưng không hiểu thuật tiếp cốt, liền ôm Chu Thiết Tiêu cứ thế chạy đi. Chu Thiết Tiêu quát:
– Thu lấy Ưng nhạn bài!
Tăng Thiết Âu chợt nhớ ra, chạy vào lương đình. Lúc hắn vươn tay định lấy tấm kim bài trên cái bàn tròn thì đột nhiên có tiếng gió vút vào đầu. Tăng Thiết Âu tay mặt ôm sư huynh, tay trái chưa kịp lấy kim bài đành xoay chưởng lên nghinh đón, nào ngờ đánh vào quãng không. Bỗng trước mặt thấy bóng đen thấp thoáng, một người từ trên nóc quán nhảy xuống chộp lấy tấm kim bài trên bàn, quát lớn:
– Đánh thua rồi muốn trở mặt chăng?
Đó chính là Viên Tử Y.
Tăng Thiết Âu vừa sợ vừa tức, cứ ôm Chu Thiết Tiêu đứng ngẩn người trong quán. Hắn không biết nên liều mạng với Viên Tử Y hay là mời người cứu trị đại sư huynh.
Hồ Phỉ tiến lên một bước nói:
– Hai chân Chu huynh bị trật khớp, nếu không nắn lại ngay e rằng sẽ tổn thương đến gân cốt.
Chàng không chờ hai lão Chu, Tăng trả lời đã đưa tay ra nắm lấy chân trái Chu Thiết Tiêu kéo ra một cái rồi đẩy vào lại đánh “cộp” một tiếng là tiếp cốt xong. Chàng lại tiếp cốt chân phải và giải khai huyệt đạo cho Chu Thiết Tiêu. Hắn thấy cơn đau lập tức giảm đi rất nhiều.
Hồ Phỉ nhìn Viên Tử Y, chìa tay ra, cười nói:
– Tấm “Đồng ưng thiết nhạn bài” đó cũng chẳng có chi đẹp đẽ, cô nương nên trả lại cho Chu đại ca đi!
Viên Tử Y nghe chàng nói đến câu “cũng chẳng có chi đẹp đẽ”, nhoẻn miệng cười, cầm tấm kim bài đặt vào trong lòng bàn tay Hồ Phỉ. Hồ Phỉ hai tay nâng kim bài kính cẩn đưa tới trước mặt Chu Thiết Tiêu. Chu Thiết Tiêu vươn tay ra chụp lấy, nói:
– Lòng tốt của hai vị, Chu mỗ còn một hơi thở cũng có ngày báo đáp.
Hắn nói rồi đưa mắt nhìn Viên Tử Y và Hồ Phỉ, đoạn bám vai Tăng Thiết Âu trở gót đi ngay. Hắn nhìn Viên Tử Y bằng cặp mắt đầy vẻ oán độc, mà khi nhìn Hồ Phỉ thì ánh mắt lại biểu hiện lòng cảm kích. Viên Tử Y chẳng để ý gì.
Nàng giương cặp lông mày xinh đẹp lên nhìn người sử lôi chấn đáng là Chử Oanh hỏi:
– Chử đại gia! Nửa chức chưởng môn của đại gia có cần tỷ đấu nữa hay thôi?
Đến nước này thì Chử Oanh dù có đần độn đến đâu cũng hiểu rằng mấy môn công phu tầm thường của mình chẳng thể nào địch nổi Viên Tử Y. Hắn liền chấp tay đáp:
– Tệ phái là Lôi điện môn do gia sư chấp chưởng, tại hạ làm gì dám đại diện chưởng môn? Nếu cô nương muốn tứ giáo thì xin mời đến Tái Bắc, nhất định gia sư rất hoan nghênh.
Hắn nói câu này không kiêu ngạo cũng chẳng hèn nhát, đổ hết trách nhiệm lên đầu sư phụ.
Viên Tử Y cười hà hà vẫy tay mấy cái hỏi:
– Còn vị nào muốn tứ giáo nữa chăng?
Bọn Ân Trọng Tường chắp tay nói:
– Hồ đại gia! Hẹn ngày tái ngộ.
Đoạn trở gót ra ngoài. Ai nấy đều lòng đầy ngờ vực, không hiểu cô gái võ công cao cường đó lai lịch ra sao. Hồ Phỉ đưa chân họ đến tận cửa ngoài rồi mới quay về vườn hoa.
Bỗng nghe trên không sấm nổ, chàng ngửng đầu trông thấy mây đen kéo mù mịt đây trời che khuất cả vầng trăng.
Viên Tử Y nói:
– Đúng là trời làm phong vân bất ngờ, người có họa phúc khôn lường. Ai mà biết được Hồ đại ca hành hiệp phong trần, chỉ một chuyến đến kinh sư bỗng trở nên đại phú ông.
Nàng nhắc tới vụ này bất giác khiến cho Hồ Phỉ tức lộn ruột. Chàng đáp:
– Viên cô nương! Tòa trạch đệ này là sản nghiệp của tên gian nhân họ Phụng, tại hạ ở trong nhà thêm một khắc nào là điếm nhục thêm khắc ấy. Xin cáo từ.
Chàng quay lại bảo Trình Linh Tố:
– Nhị muội! Chúng ta đi thôi!
Viên Tử Y hỏi:
– Đang lúc nửa đêm các vị còn đi đâu? Đại ca không thấy trời sắp chuyển mưa lớn rồi ư?
Nàng vừa dứt lời thì những hạt mưa lớn bằng hạt đậu trút xuống ào ào. Hồ Phỉ tức giận đáp:
– Dù có phải ngủ nơi đầu đường xó chợ cũng còn hơn trú mưa dưới thềm nhà của tên gian tặc.
Chàng nói rồi không ngoảnh đầu lại, rảo bước ra cửa. Trình Linh Tố bước theo sau.
Bỗng nghe Viên Tử Y ở phía sau hằn học nói:
– Phụng Thiên Nam là tên gian tặc có chết đi cũng chưa đáng tội. Tiểu muội hận chẳng được chính tay mình đâm hắn mấy đao!
– Lúc này sao cô nương lại nói được mấy điều mát mẻ thế?
Viên Tử Y đáp:
– Trong lòng tiểu muội còn oán hận Phụng Thiên Nam gấp trăm lần đại ca.
Nàng dừng lại một chút, nghiến răng nói tiếp:
– Đại ca bất quá mới căm hờn hắn trong mấy tháng, còn tiểu muội oán hận hắn suốt đời!
Mấy tiếng sau cùng giọng nói bỗng nghẹn ngào. Hồ Phỉ nghe nàng ra giọng bi thiết chứ không có ý trá ngụy, rất lấy làm lạ, hỏi:
– Đã vậy tại hạ ba lần bốn lượt giết hắn, mà sao lần nào cô nương cũng giải cứu?
Viên Tử Y đáp:
– Chỉ có ba lần thôi. Quyết không có lần thứ tư nữa đâu!
Hồ Phỉ nói:
– Phải, chỉ có ba lần. Mà sao lại như thế?
Lúc hai người nói chuyện, trời mưa như trút nước, khiến cả ba người áo quần ướt đẫm.
Viên Tử Y hỏi:
– Chẳng lẽ đại ca bắt tiểu muội đứng giữa trời mưa để giải thích tỉ mỉ chăng? Đại ca không sợ mưa đã đành, nhưng lệnh muội tử yếu ớt thế kia chẳng lẽ cũng không sợ?
Hồ Phỉ đáp:
– Được rồi, chúng ta vào nhà nói chuyện.
Ba người liền vào thư phòng. Tên thư đồng thắp nến lên, dâng trà thơm lại rồi lui ra.
Trong căn phòng này cách trần thiết rất tinh tế và thanh nhã. Vách bên đông đóng hai giá sách, chứa đầy sách vở. Mé tây là cánh cửa sổ lớn, lấp lánh bóng trúc xanh, lại nghe thoang thoảng mùi hoa quế. Trên tường mé nam có treo một bức họa của Đổng Kỳ Xương, một bức đối viết theo lối hành thư của Chúc Chi Sơn, ghi hai câu thơ của Bạch Lạc Thiên:
Hồng lạp chúc di, đào diệp khởi
Tử la sam động, giá chi lai
(Lá đào trổ tựa đèn hồng lạp
Cành giá lay như áo tử la)
Hồ Phỉ trong lòng mãi ngẫm nghĩ về mấy câu nói kỳ quái của Viên Tử Y nên chẳng để tâm gì đến thư họa. Huống chi chàng lại là người ít đọc sách nên nếu có nhìn cũng chẳng hiểu gì.
Trình Linh Tố lẩm nhẩm đọc hai câu đối, mắt nhìn cây đèn hồng lạp trên bàn, rồi lại nhìn tấm áo tử la trên mình Viên Tử Y, thầm nhủ:
– Hai câu đối này tựa hồ viết ra là để tả cảnh đang bày trước mắt. Ta lẫn lộn vào đây thật chẳng ra làm sao cả.
Cả ba người đều lẳng lặng không nói, mỗi người đều có tâm sự riêng. Ngoài cửa sổ, những hạt mưa vẫn đập xuống lá trúc lộp độp, sáp nến từ từ chảy xuống. Trình Linh Tố cầm chiếc đũa bạc nhỏ bên cây đèn để khêu ngọn nến. Trong nhà yên lặng như tờ.
Hồ Phỉ phiêu bạt giang hồ từ thuở nhỏ, nay chàng ngồi yên lặng để bầu bạn với hai thiếu nữ diễm lệ chốn thư trai là lần thứ nhất trong đời. Sau một lúc lâu, Viên Tử Y nhìn những hạt mưa rơi ngoài cửa sổ, chậm rãi kể:
– Mười chín năm trước, cũng dưới trận mưa lúc đêm khuya, tại Phật Sơn trấn tỉnh Quảng Đông, một người thiếu phụ ôm một đứa con gái nhỏ đội mưa chạy trên đường. Thiếu phụ kia không biết phải đi về phương nào, vì bị người ta truy đuổi tới đường cùng. Bao nhiêu thân nhân của thiếu phụ đều bị giết chết cả rồi. Thiếu phụ đã bị người ta làm nhục không chịu nổi. Nếu trong lòng không ôm một đứa con nhỏ thì cô đã nhảy xuống sông tự tử rồi. Thiếu phụ họ Viên tên là Ngân Cô. Cái tên nghe có vẻ quê mùa, vì cô vốn là một cô gái chốn hương thôn khá đẹp, tuy nước da ngăm ngăm đen nhưng mặt mày thanh tú. Những thanh niên ở trấn Phật Sơn đặt cho cô ngoại hiệu là “Hắc mẫu đơn”. Cô sinh trưởng ở một gia đình chài lưới. Mỗi buổi sáng sớm, cô gánh cá vào bán cho các hàng cá ở trấn Phật Sơn.
Một hôm, nhà đại tài chủ Phụng Thiên Nam bày tiệc làm rượu mời khách. Thế là trời nổi phong vân bất trắc, người gặp họa phúc khôn lường. Vị cô nương đẹp như bông hoa tươi bị Phụng Thiên Nam nhìn thấy. Tên họ Phụng trong nhà đây thê thiếp nhưng lão vẫn chưa thỏa mãn, còn cưỡng bách làm nhục cô. Ngân Cô tâm thần hoảng loạn, quên cả lấy tiền cá, bỏ chạy ra khỏi Phụng phủ. Ngờ đâu cuộc nghiệt duyên này làm cho cô mang thai. Phụ thân cô hỏi rõ đầu đuôi, rồi đến phân trần tại Phụng phủ. Phụng lão gia nổi trận lôi đình sai người đánh phụ thân cô một trận, bảo rằng ông ăn nói nhăng cuội, bịa chuyện hồ đồ. Phụ thân của Ngân Cô ôm mối căm hờn về nhà, bị bệnh liệt giuờng mấy tháng rồi qua đời. Các bậc chú bác của Ngân Cô lại bảo cô đã làm chết phụ thân, không cho cô mặc hiếu phục, cũng không cho phục lạy trước quan tài. Họ còn bảo cần phải bỏ cô vào lồng heo quẳng xuống sông cho chết đi. Ngân Cô chạy suốt đêm trốn khỏi trấn Phật Sơn.
Mấy tháng sau, cô sinh được một đứa con. Hai mẹ con không có kế gì để sinh sống. Phải quay về thị trấn xin ăn. Những người ở thị trấn thương xót cô nên đều chu cấp tử tế. Ai cũng xì xầm bàn tán Phụng lão gia là kẻ ác nghiệt hại người, chỉ vì sợ thế lực quá lớn nên không ai dám nói thẳng vụ này. Trong bọn hàng cá ở thị trấn có một người thường nói chuyện với Ngân Cô, lòng y ngấm ngầm thương yêu cô. Y liền nhờ người mối lái lấy cô làm vợ, đồng thời tình nguyện nhận cả đứa con cô làm con mình. Ngân Cô rất đỗi vui mừng, hai người bèn làm lễ bái đường thành thân. Ngờ đâu một tên thủ hạ của Phụng lão gia biết việc này liền bẩm báo cho lão.
Phụng lão gia nổi giận đùng đùng, quát hỏi:
– Tên hàng cá nào lớn mật đám lấy cả người đàn bà đã qua tay ta?
Lão liền phái mười mấy tên đồ đệ đến nhà hàng cá kia, đuổi sạch những người khách tới uống rượu mừng, rồi đập phá đồ đạc tan tành. Chúng còn đuổi người hàng cá ra khỏi trấn Phật Sơn không cho trở về nữa.
Hồ Phỉ nghe tới đây đập tay xuống bàn đánh “binh” một tiếng, khiến ngọn nến trên bàn bị chấn động suýt tắt. Chàng quát lớn:
– Tên gian tặc này độc ác đến thế là cùng!
Viên Tử Y không đưa mắt nhìn chàng, mặt đầy ngấn lệ nhìn ra ngoài cửa sổ, như đắm chìm theo câu chuyện. Nàng nhẹ buông tiếng thở dài, rồi kể tiếp;
– Ngân Cô liền ôm con gái đuổi theo, ra ngoài trấn Phật Sơn. Đêm hôm ấy trời mưa tầm tã, hai mẹ con toàn thân ướt đẫm. Ngân Cô chạy dưới trời mưa, vừa chạy vừa trượt chân té ngã suốt mười mấy dặm thì thấy trên đường lớn có người nằm dưới đất. Cô tưởng là kẻ say rượu, vì lòng hảo tâm muốn đỡ y dậy. Ngờ đâu cô cúi xuống nhìn thấy người này mặt đầy máu, chết từ lâu rồi và chính là anh hàng cá đã cùng nàng bái đường thành thân.
Nguyên Phụng lão gia sai người chờ ở ngoài thị trấn để hạ thủ giết anh ta. Ngân Cô lòng đau như cắt, không muốn sống nữa. Cô lấy tay móc đất thành cái huyệt chôn vùi trượng phu rồi toan nhảy xuống sông tự tử. Nhưng đứa con nhỏ trong lòng bỗng bật tiếng khóc rất đáng thương, cô làm sao nhẫn tâm làm chết đứa con do mình rút ruột sinh ra? Nếu bỏ nó bên đường thì giữa cơn mưa này, đứa bé làm sao sống nổi? Ngân Cô suy đi nghĩ lại đành nghiến răng bồng đứa nhỏ chạy về phía trước, định bụng hãy nuôi cho khôn lớn rồi sẽ liệu.
Trình Linh Tố nghe tới đây không khỏi ngậm ngùi sa lệ. Cô thấy Viên Tử Y dừng lại không nói nữa liền hỏi:
– Viên tỷ tỷ! Về sau thế nào?
Viên Tử Y lấy khăn lau nước mắt, mỉm cười đáp:
– Cô đã kêu ta bằng tỷ tỷ thì lấy thuốc giải cho ta uống được không?
Trình Linh Tố sắc mặt đang tái nhợt bỗng đỏ lên, khẽ nói:
– Té ra tỷ tỷ đã biết rồi.
Cô rót một chung trà, rồi dùng móng tay búng ra một chút thuốc màu vàng lợt bỏ vào trong chung trà.
Viên Tử Y nói:
– Muội tử lòng dạ rất tốt, đã chuẩn bị sẵn thuốc giải trong móng tay, thật là thần không biết, quỷ không hay.
Nàng nói rồi bưng chung trà lên uống một hơi cạn sạch.
Trình Linh Tố nói:
– Tỷ tỷ không trúng phải loại thuốc độc trí mạng, mà nó chỉ khiến cho tỷ tỷ mắc bệnh mấy tháng, để khi Hồ đại ca giết Phụng Thiên Nam, tỷ tỷ không thể ra tay cứu hắn được.
Viên Tử Y cười mát, hỏi:
– Ta đã biết là trúng phải độc thủ của muội rồi, có điều muội hạ độc bằng cách nào thì thủy chung ta vẫn không nghĩ ra được. Sau khi vào nhà, ta không uống một hớp nước hay ăn một chút gì.
Hồ Phỉ trong lòng kinh hãi, nghĩ thầm:
– Té ra Viên cô nương đã hết sức đề phòng, rốt cuộc cũng không thoát khỏi tay nhị muội.
Lại nghe Trình Linh Tố hỏi:
– Lúc tỷ tỷ cùng Hồ đại ca giao đấu ở ngoài tường, tiểu muội đã ném thanh đơn đao cho đại ca. Trên lưỡi đao này có rắc một lớp độc phấn rất mỏng. Cây nhuyễn tiên của tỷ tỷ bị dính độc phấn rồi dây vào tay tỷ tỷ. Chờ lát nữa phải đem đơn đao và nhuyễn tiên rửa vào chậu nước trong.
Viên Tử Y và Hồ Phỉ đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:
– Cách hạ độc như vậy, thật khiến người ta chẳng biết đằng nào mà đề phòng.
Trình Linh Tố đứng lên khép nép thi lễ, nói:
– Viên tỷ tỷ! Tiểu muội xin lỗi tỷ tỷ. Thực tình tiểu muội không biết bên trong còn những điều ngoắt ngoéo như vậy.
Viên Tử Y cũng đứng lên đáp lễ, nói:
– Muội muội bất tất phải khách khí. Ta cảm ơn muội muội hạ thủ còn lưu tình, chưa dùng đến độc dược chết người.
Hai người nhìn nhau cười, rồi lại nhìn xuống. Hồ Phỉ ngập ngừng hỏi:
– Nếu vậy thì ra Phụng Thiên Nam là… là…
Viên Tử Y đáp:
– Phải, Ngân Cô là má má của tiểu muội còn Phụng Thiên Nam là gia phụ. Tuy lão đưa mẹ con tiểu muội vào tình trạng thê thảm như vậy, nhưng sư phụ dạy rằng “Con người không cha mẹ, làm sao có được thân này?” Lúc tiểu muội bái biệt sư phụ để xuôi về đông xuống Trung nguyên, gia sư có dặn:
– Phụ thân ngươi làm ác đã nhiều, kiếp này y tất bị thảm tử. Ngươi cứu mạng y ba lần cho hết mối tình phụ tử. Sau đó y đi đằng y, ngươi đi đằng ngươi, không liên can gì đến nhau nữa.
Hồ đại ca! Ở miếu Bắc Đế trấn Phật Sơn, tiểu muội đã cứu lão một lần. Đêm tại miếu Tương Phi, lại cứu lão lần thứ hai. Đêm nay giải cứu lão lần nữa. Về sau nếu còn gặp lại lão, tiểu muội cũng hạ sát lão để báo cừu thù tuyết hận cho người mẹ đau khổ đã quá cố.
– Má má của tỷ tỷ trốn ra khỏi trấn Phật Sơn, đi ngược về phía bắc ăn xin. Má má cho là rời khỏi trấn Phật Sơn càng xa càng tốt, vĩnh viễn khỏi nhìn thấy lại mặt Phụng lão gia, vĩnh viễn không phải nghe đến tên lão nữa. Má má lưu lạc trên đường suốt mấy tháng ròng, sau tới được phủ Nam Xương tỉnh Giang Tây, vào nhà họ Thang làm tôi tớ…
Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng, ngắt lời:
– Thang gia ở phủ Nam Xương tỉnh Giang Tây có mối liên can gì với Thang đại hiệp ở Cam Lâm Huệ thất tỉnh không?
Viên Tử Y nghe nói đến Thang đại hiệp ở Cam Lâm Huệ thất tỉnh, nàng máy môi đáp:
– Má má chết ở phủ Thang… Thang đại hiệp. Sau khi má má qua đời được ba ngày, gia sư liền đón tiểu muội đưa về Hồi Cương, tới nay đã mười tám năm rồi mới về lại Trung nguyên.
Hồ Phỉ hỏi:
– Không hiểu tôn sư danh hiệu là gì? Viên cô nương hiểu biết được hết võ công của các nhà các phái một cách tinh thâm, thì tôn sư tất là một bậc kỳ nhân hiếm có trên đời. Cả đến Miêu đại hiệp mang ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” cũng không được bản lĩnh như thế.
Viên Tử Y đáp:
– Danh húy của gia sư tạm thời chưa thể nói cho Hồ đại ca hay, vì chưa được lão nhân gia ưng thuận. Xin đại ca lượng thứ cho. Hơn nữa tên của tiểu muội cũng không phải là tên thật. Chẳng bao lâu nữa Hồ đại ca và tiểu muội tử sẽ rõ. Còn như vị Miêu đại hiệp nào đó thì khi tiểu muội ở Hồi Cương cũng đã nghe danh. Lúc bấy giờ, Vô Trần đạo trưởng trong Hồng Hoa hội không chịu phục, định tới Trung nguyên để tỷ thí với lão, nhưng Triệu Bán Sơn Triệu tam thúc…
Nàng nói tới ba chữ “Triệu tam thúc”, liền nhìn Hồ Phỉ nhoẻn miệng cười, như muốn bảo chàng:
– Đã cho đại ca chiếm phần tiện nghi rồi đó!
Nàng nói tiếp:
– Triệu Bán Sơn biết rõ nội tình bên trong, bảo rằng Miêu đại hiệp dùng ngoại hiệu này chẳng phải là cuồng ngạo tự đại mà vì một nỗi khổ tâm khác. Nghe nói lão vì lão muốn trả thù cha mà cố ý khiêu khích một tay cao thủ ở Liêu Đông phải nhập quan đến kiếm lão. Về sau trên chốn giang hồ người ta đồn đại râm ran rằng lão trả được thù cha rồi, đã mấy lần tuyên bố không dám dùng ngoại hiệu kia nữa. Lão nói:
– Cái gì mà “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”, danh hiệu đó nghe thối lắm, chẳng lọt tai chút nào. Võ công của đại hiệp Hồ Nhất Đao so với ta còn cao hơn nhiều!
Hồ Phỉ nghe lòng run lên, hỏi:
– Miêu Nhân Phụng quả đã nói câu đó ư?
Viên Tử Y đáp:
– Dĩ nhiên không phải chính tiểu muội được nghe lão nói mà là Triệu…Triệu Bán Sơn kể lại. Vô Trần đạo trưởng nghe nói vậy liền phấn khởi hùng tâm, lại muốn tìm đến tỷ thí với vị Hồ Nhất Đao nào đó, nhưng sau không biết được Hồ đại hiệp ở nơi nào nên mới chịu bỏ qua. Năm trước Triệu Bán Sơn xuống Trung nguyên gặp Hồ đại ca. Y trở về Hồi Cương ca ngợi đại ca anh hùng không tiếc lời. Nhưng khi ấy tiểu muội còn nhỏ tuổi, bọn họ nói gì cũng không hiểu. Lần này tiểu muội xuôi về đông, Văn tứ thẩm bảo tiểu muội cưỡi con ngựa trắng của bà mà đi. Bà cũng dặn: “Nếu gặp chàng thiếu niên hào kiệt họ Hồ thì tặng con ngựa này cho y”.
Hồ Phỉ hỏi:
– Vị Văn tứ thẩm đó là ai? Bà ta chưa từng quen biết tại hạ sao lại trịnh trọng tặng ngựa? .
Viên Tử Y đáp:
– Văn tứ thẩm ngày trước là một nhân vật danh vọng rất lớn trên chốn giang hồ. Bà là vợ của Bôn lôi thủ Văn Thái Lai Văn tứ thúc, tên là Lạc Băng, người ta cũng gọi là “Uyên ương đao”. Văn tứ thẩm nghe Triệu Bán Sơn thuật chuyện đại ca phá tòa thiết sảnh ở Thương gia bảo, lại nghe nói đại ca thích con ngựa trắng này, tứ thẩm liền oán trách y mà nói:
– Tam ca! Đã có nhân vật như vậy sao tam ca không tặng ngựa cho y? Chẳng lẽ tam ca kết bạn với người thiếu niên anh hùng như vậy, mà Lạc Băng này lại không kết giao được ư?
Hồ Phỉ nghe xong mới biết rõ ngày ấy Viên Tử Y để thiếp lại trong khách điếm nói “Ngựa về chủ cũ” là vì thế. Chàng sinh lòng cảm kích Lạc Băng tự nhủ:
– Con bảo mã này ngàn vàng khó kiếm. Văn tứ nương cùng ta cách xa hàng muôn dặm, chỉ nghe người ca ngợi, đã đem vật yêu quý tặng cho ta thật là tình cao nghĩa trọng. Hồ Phỉ ta thật khó mà báo đáp được.
Chàng nói:
– Chắc Triệu tam ca vẫn bình yên. Sau khi xong mọi việc ở đây, tại hạ muốn đến Hồi Cương một chuyến, một là để bái phỏng Triệu tam ca, hai là bái kiến các vị anh hùng tiên bối.
Cô ra khỏi phòng dặn thư đồng đưa vào bảy, tám bình rượu. Hồ Phỉ uống hết hai bình, nghĩ chẳng bao lâu nữa sẽ được cùng các vị anh hùng xa tương kiến, cảm thấy hào khí nổi lên, bèn hỏi ngay:
– Bao giờ bọn Triệu tam ca sẽ tới đây?
Viên Tử Y vẻ mặt trịnh trọng, đáp:
– Hồ đại ca! Còn bốn ngày nữa là tiết trung thu và cũng là ngày đại hội chưởng môn nhân trong thiên hạ. Phúc Khang An đứng ra triệu tập cuộc đại hội này. Y làm đến chức Binh bộ thượng thư, cai quản tất cả đại thần ở nội vụ phủ, chấp chưởng đại quyền coi giữ binh mã cả nước. Những vị hoàng thân quốc thích cũng thuộc quyền cai quản của y. Không hiểu sao y lại muốn kết giao với hào khách giang hồ?
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ cũng đang suy nghĩ về vụ này. Chắc là hắn định quăng mẻ lưới quét hết anh hùng hảo hán trong thiên hạ cho Thanh đình sai sử, cùng như Hoàng đế dùng các khoa thi trạng nguyên tiến sĩ để lung lạc bọn đọc sách vậy thôi.
Viên Tử Y nói:
– Không sai! Ngày trước Đường Thái Tông thấy sĩ tử kéo nhau đến trường đã vui mừng nói: “Bao nhiêu anh hùng thiên hạ đều chui vào trong “rọ” của ta rồi”.
Nàng lại hỏi:
– Phúc Khang An mở cuộc đại hội này dĩ nhiên cũng dùng công danh lợi lộc đế nhử anh hùng thiên hạ. Nhưng hắn còn cái đau khác mà người ngoài không thể biết được. Phúc Khang An từng bị nhóm Triệu Bán Sơn, Văn tứ thúc, Vô Trần đạo trưởng đày đọa một phen. Đại ca có biết vụ này không?
Hồ Phỉ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, ngửa cổ lên uống cạn một bát rượu lớn rồi đáp:
– Thú quá! Thú quá! Tại hạ chưa từng được nghe qua. Vô Trần đạo trưởng, Văn tứ gia anh hùng như vậy thật khiến cho người ta phải nghiêng người bái phục.
Viên Tử Y nhoẻn miệng cười nói:
– Cổ nhân dùng Hán thư để nhắm rượu, còn đại ca lại lấy việc khoan khoái của anh hùng hào kiệt mà nhắm rượu. Nếu nói đến những việc làm của nhóm Văn tứ thúc thì đại ca có uống cả ngàn chung cũng không say, nhưng chắc khiến đại ca phải nằm li bì ba ngày.
Hồ Phỉ rót rượu ra bát, nói:
– Xin cô nương nói đi.
Viên Tử Y đáp:
– Vụ này nói ra thì dài dòng, không thể một lúc mà kể hết được. Đại khái nhóm Văn tứ thúc biết rằng Phúc Khang An được đương kim hoàng đế là Càn Long sủng ái nên mới bắt hắn để bức bách hoàng đế trùng tu chùa Thiếu Lâm ở Phúc Kiến, và hứa lời không được gia hại anh em trong Hồng Hoa hội ở rải rác các tỉnh mới buông tha hắn.
Hồ Phỉ vỗ đùi, nói:
– Phúc Khang An tất nhiên xem đó là điều đại sỉ đại nhục nên mới chiêu tập các chưởng môn các nhà các phái võ lâm trong thiên hạ, chắc là để quyết một trận thư hùng với nhóm Văn tứ gia phải không?
Viên Tử Y đáp:
– Đúng thế! Vụ này đại ca đoán đúng quá nửa. Cuối mùa thu năm nay, Phúc Khang An tiên liệu nhóm Văn tứ thúc về đến Bắc Kinh, nên hắn triệu tập những cao thủ võ lâm các tỉnh về trước. Mười năm qua, sau khi bị một vố đau khổ nhục nhã, hắn mới biết rằng binh mã thủ hạ của mình tuy nhiều nhưng không đủ để đối địch với hào kiệt võ lâm.
Hồ Phỉ vỗ tay cười, nói:
– Cô nương đoạt chức chưởng môn của chín nhà rưỡi té ra là để dằn mặt, làm hắn mất cả oai phong.
Viên Tử Y lại nói:
– Sư phụ của tiểu muội có mối giao tình rất sâu xa với nhóm Văn tứ thúc. Còn tiểu muội chuyến này trở về Trung nguyên là vì việc riêng của mình. Tiểu muội đến trấn Phật Sơn ở Quảng Đông trước tiên để xem Phụng lão gia là nhân vật thế nào? Không ngờ cơ duyên xảo hợp, không những cứu được cái mạng lão mà còn dò hỏi được tin tức về cuộc đại hội chưởng môn nhân trong thiên hạ. Tiểu muội còn có việc chưa xong nên chẳng thể trở về Hồi Cương báo tin. Thế rồi chẳng sợ Hồ đại ca chê cười, suốt đường từ nam lên bắc tiểu muội đã gây náo loạn cho tới Bắc Kinh, để Phúc Khang An hiểu rằng cuộc đại hội chưởng môn của hắn vị tất đã nên trò trống gì.
Hồ Phỉ chợt động tâm nghĩ thầm:
– Chắc là Triệu tam ca đã khoa trương ta thái quá trước mặt mọi người khiến cô này không phục, rồi dọc đường luôn tìm cách sinh sự với ta.
Chàng trợn mắt lên nhìn Viên Tử Y nói:
– Còn nữa, cô muốn cho Triệu Bán Sơn biết rằng gã thiếu niên họ Hồ vị tất đã có bản lãnh gì.
Viên Tử Y cười khanh khách hỏi:
– Chúng ta đã tỷ đấu từ Quảng Đông cho tới Bắc Kinh, tiểu muội không thể nào chiếm được thượng phong. Hồ đại ca! Mai đây tiểu muội gặp Triệu Bán Sơn, đại ca thử đoán coi tiểu muội sẽ nói gì với y?
Hồ Phỉ lắc đầu, đáp:
– Tại hạ không biết.
Viên Tử Y vẻ mặt nghiêm chỉnh, nói:
– Tiểu muội sẽ bảo: “Triệu tam thúc, nghĩa đệ thiếu niên của tam thúc quả nhiên danh bất hư truyền, quả là một trang anh hùng hảo hán”.
Điều này hoàn toàn nằm ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ, chàng không ngờ vị cô nương luôn gây khó dễ cho mình đột nhiên lại tán dương ngay trước mặt mình, bất giác chàng thẹn đỏ mặt lên ra vẻ lúng túng, nhưng trong lòng khoan khoái vô cùng. Từ Quảng Đông đến Bắc Kinh, rong ruổi phong trần, dù đường xa ngàn dặm chẳng lúc nào đầu óc chàng rời xa được hình ảnh của Viên Tử Y. Có điều mỗi khi nhớ tới con người vừa mỹ lệ lại vừa rất điêu ngoa cổ quái này, lòng chàng bảy phần hoan hỷ, nhưng vẫn còn hai phần ngờ vực và một phần tức giận. Cuộc đàm thoại đêm nay khiến chàng trút bỏ hết được mọi nỗi hiềm khích. Chàng đã biết rõ những uẩn khúc bên trong thì trong lòng sao lại chẳng say vì rượu lại ngây vì tình?
Lúc này ngoài cửa sổ, tiếng mưa đã nhỏ dần, ngọn nến sắp tàn. Hồ Phỉ lại uống một bát rượu lớn, rồi hỏi:
– Viên cô nương, cô bảo trong mình còn có việc chưa xong, chẳng hiểu cô có chỗ nào dùng được tại hạ không?
Viên Tử Y lắc đầu đáp:
– Đại ca! Tiểu muội không muốn đại ca phải bận lòng.
Nàng thấy Hồ Phỉ lộ vẻ thất vọng, liền nói:
– Nếu tiểu muội không lo xong, dĩ nhiên phải cầu cứu đại ca cùng Trình gia muội tử. Hồ đại ca! Còn bốn ngày nữa là tới ngày đại hội chưởng môn nhân. Ba người chúng ta đến quấy phá cho tơi bời hoa lá, diễn thành vở tuồng “Tam anh đại náo Bắc Kinh thành”, đại ca bảo có thích không?
Hồ Phỉ hào khí bồng bột, reo lên:
– Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Nếu không phá rối được cuộc đại hội chưởng môn nhân này thì Triệu tam ca, Văn tứ gia, Văn tứ nương kết giao với gã tiểu tử Hồ Phỉ phỏng được ích gì?
Trình Linh Tố đứng một bên, lặng nghe không nói gì, bây giờ mới xen vào:
– “Song anh náo Bắc Kinh” cũng đủ, còn kéo cả hạng người vô dụng như tiểu muội vào làm chi?
Viên Tử Y đặt tay lên bờ vai gầy guộc của cô, đáp:
– Trình gia muội tử, đừng nói thế. Bản lãnh của tiểu muội hơn ta gấp mười. Ta phải cầu cạnh tiểu muội chứ khi nào dám đắc tội.
Trình Linh Tố lấy trong túi ra đôi ngọc phụng, nói:
– Viên tỷ tỷ, giữa tỷ tỷ và đại ca có chỗ hiểu lầm, nay nói rõ ra rồi. Con ngọc phụng này trao lại cho tỷ tỷ. Không thế thì cả đôi phụng hoàng đều đưa hết cho đại ca của tiểu muội.
Viên Tử Y sửng sốt một chút, cúi đầu nhắc lại:
– Nếu không thế thì cả đôi phụng hoàng đều đưa hết cho đại ca của tiểu muội!
Trình Linh Tố nói câu này nguyên chẳng có ý gì khác. Cô thấy Viên Tử Y võ công cũng như dung mạo đều hơn người. Vả lại dọc đường, qua lời nói, cô nhận thấy tình cảm của Hồ Phỉ đã nghiêng hẳn về nàng, chỉ vì nàng mấy lần giải cứu Phụng Thiên Nam, chàng mới sinh dạ e dè. Nay chẳng những nỗi hiềm khích đã được cởi bỏ, mà hai người lại có một quan hệ sâu xa, thì còn gì trở ngại nữa? Nhưng cô nghe Viên Tử Y nhắc lại câu nói của mình tựa hồ muốn ngụ ý hai gái thờ chung một chồng, bất giác cô đỏ mặt lên, vội đáp:
– Không không! Tiểu muội không có ý ấy.
Viên Tử Y hỏi:
– Tiểu muội không có ý gì?
Trình Linh Tố làm sao giải thích được. Cô bối rối cơ hồ sa lệ.
Viên Tử Y hỏi:
– Trình gia muội tử! Tại sao trên thanh đơn đao kia tiểu muội lại không bôi chất kịch độc trí mạng?
Trình Linh Tố nước mắt chảy quanh, hằn học nói:
– Tiểu muội tuy là đệ tử của Độc Thủ Dược Vương nhưng bình sinh chưa giết một người nào, chẳng lẽ tự nhiên lại gia hại tỷ tỷ? Huống chi… huống chi tỷ tỷ là ý trung nhân của đại ca. Suốt ngày đêm ngoài lúc ăn ngủ, bao giờ y cũng nhớ đến tỷ tỷ thì tiểu muội gia hại tỷ tỷ thế nào được?
Cô nói tới đây không nhịn được nữa, hai hàng nước mắt trào ra. Viên Tử Y ngạc nhiên đứng dậy, liếc mắt thật nhanh nhìn Hồ Phỉ, thấy mặt chàng ra chiều bẽn lẽn. Hồ Phi thấy Trình Linh Tố nói một hồi, đột nhiên thổ lộ tâm sự của mình là một điều chàng không ngờ tới nên không khỏi bối rối, nhưng trong ánh mắt lại chan chứa nhu tình.
Viên Tử Y mím môi, nhìn Trình Linh Tố, dịu dàng nói:
– Tiểu muội cứ yên tâm! Không thể đưa cả hai con phụng hoàng cho y được
Đột nhiên nàng đưa tay quạt tắt nến, rồi xuyên qua cửa sổ ra ngoài, tung mình vọt lên nóc nhà đi mất. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cả kinh, chạy đến bên cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy trời đã tạnh mưa, ánh ngân quang lấp loáng trên mặt đất, nhưng chẳng thấy Viên Tử Y đâu. Trong đầu óc hai người đều bị ám ảnh bởi câu nói của Viên Tử Y lúc bỏ đi:
– Tiểu muội cứ yên tâm! Không thể đưa cả hai con phụng hoàng cho y được!
Hai người sóng vai đứng trong bóng tối lặng lẽ hồi lâu. Bỗng nghe trên mái ngói có tiếng động lách cách. Hồ Phỉ cả mừng, cho là Viên Tử Y đi rồi trở lại. Trong lúc nhất thời chàng không tự chủ được, buột miệng la lên:
– Cô… cô nương quay trở lại đó ư?
Bỗng nghe thanh âm nam tử ở trên nóc nhà nói vọng xuống:
– Hồ đại gia, xin quá bộ ra ngoài nói chuyện.
Hồ Phỉ nghe giọng nói đúng là giọng võ quan họ Nhiếp, kẻ quý kiếm như tính mạng.
Chàng đáp:
– Nơi đây trừ tại hạ cùng nghĩa muội ra, chẳng có người ngoài nào hết. Mời Nhiếp huynh vào đây uống chung rượu đã.
Tên võ quan họ Nhiếp này tên gọi Nhiếp Việt. Bữa trước Hồ Phỉ không hủy thanh kiếm của hắn, hắn vẫn đem lòng cảm kích. Lúc Viên Tử Y tỷ đấu cùng Tần Nại Chi, Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu, hắn thấy Hồ Phỉ ngấm ngầm có ý bênh vực nàng nên thủy chung hắn không lên tiếng. Bây giờ nghe Hồ Phỉ nói vậy liền từ trên nóc nhà nhảy xuống nói:
– Hồ đại ca, một người bạn cũ của đại ca sai tiểu đệ đến mời đại ca qua đó nói chuyện.
Hồ Phỉ lấy làm lạ, hỏi:
– Bạn cũ của tại hạ ư? Ai vậy?
Nhiếp Việt đáp:
– Tiểu đệ đã vâng lệnh không được tiết lộ. Xin đại ca lượng thứ cho. Đại ca thấy mặt y sẽ biết ngay.
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn Trình Linh Tố, nói:
– Nhị muội, muội ở đây chờ. Tiểu huynh thế nào cũng trở về trước khi trời sáng.
Trình Linh Tố xoay mình lấy thanh đơn đao xuống, hỏi:
– Đại ca có đem theo binh khí không?
Hồ Phỉ thấy Nhiếp Việt không đeo bảo kiếm, liền khẽ đáp:
– Đã là bạn cũ mời gặp, cũng chẳng cần phải mang binh khí.
Hai người theo cửa lớn mà đi. Ngoài cửa đã có cỗ xe song mã chờ sẵn. Cỗ xe mạ vàng, buông rèm sa, trông rất sang trọng.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Chẳng lẽ đây lại là quỷ kế của Phụng Thiên Nam? Chuyến này mà chạm trán thì dù tay không cũng phóng chưởng đánh chết hắn.
Hai người lên xe, xa phu vung roi một cái, hai con tuấn mã cất vó chạy đi. Tiếng vó ngựa nện xuống đường phố lớn lát đá xanh vang lên lộp cộp, giữa đêm khuya yên tĩnh nghe càng rõ rệt. Nguyên trong thành Bắc Kinh ban đêm có lệ cấm không cho xe ngựa chạy, thế mà bọn binh đinh đi tuần vừa nhìn thấy ngọn đèn lồng màu hồng không để chữ treo trước cỗ xe ngựa đã vội nghiêng mình tránh sang bên đường, để cho xe vượt qua. Đi chừng nửa giờ, cỗ xe dừng lại trước một bức tường trắng rất lớn. Nhiếp Việt nhảy xuống trước, dẫn Hồ Phỉ tiến vào theo con đường nhỏ lát đá trứng ngỗng, đi tới một vườn hoa. Khu vườn này quy mô rộng lớn, cây cỏ rậm rạp, hoa lá xinh tươi, nào đình các, hành lang, nào giả sơn, ao hồ, xem không chán mắt. Giữa các tòa lâu các còn có treo đèn lồng phủ sa.
Hồ Phỉ ngấm ngầm lấy làm lạ, nghĩ bụng:
– Thằng cha Phụng Thiên Nam quả là thần thông quảng đại. Khu vườn này ít ra là phải vài trăm vạn lạng mới mua nổi. Hắn đã bóp nặn bóc lột ở trấn Phật Sơn được không ít tiền.
Rồi chàng lại chuyển ý, tự hỏi:
– Chỉ e đây vị tất đã là tên gian tặc họ Phụng. Hắn bất quá chỉ là một tên thổ hào ác bá ở Quảng Đông, thì làm sao lại sai khiến được một vị võ quan địa vị như Nhiếp Việt?
Chàng còn đang ngẫm nghĩ, Nhiếp Việt đã dẫn chàng qua tòa giả sơn lên cây cầu gỗ, tiến vào một tòa thủy các. Trong các có thắp hai ngọn đèn hồng trên bàn bày sẵn trà nước và bánh kẹo.
Nhiếp Việt hô:
– Quý hữu đã tới. Tiểu nhân xin chờ ở cửa ngoài.
Hắn nói rồi trở gót ra khỏi cửa. Hồ Phỉ thấy cách trần thiết trong tòa thủy các rất tinh vi thanh nhã, đầy vẻ phú quý. Tòa viện ở ngoài cửa Tuyên Võ đã hoa lệ rồi, nhưng so với căn tiểu các này thì hãy còn kém xa một trời.
Trên tường mé tây treo một bức “Thuyết Kiếm” của Trang Tử viết lối chữ khải, thự danh là Thanh Thân Vương, con trai Càn Long hoàng đế. Thiên văn tự này là ngụy tác của đời sau, không phải do Trang Tử viết. Hồ Phỉ không biết nhiều, bèn ngồi chờ. Được một lúc, buồn ngủ quá không biết làm gì, chàng bèn lầm nhẩm đọc. Nhờ văn tự đơn giản nên ý nghĩa cũng rõ ràng dễ đọc:
“Ngày trước Triệu Văn Vương thích kiếm, trong nhà thường có trên ba ngàn kiếm sĩ, tỷ đấu suốt ngày đêm, mấy trăm người bị thương…”
Chàng đọc tới đoạn:
“- Kiếm của thần đây: mười bước giết một người, ngàn dặm không dừng bước.
Nhà vua hài lòng, phán:
– Thiên hạ vô địch rồi vậy.
Trang Tử nói:
– Phàm kẻ học kiếm thì lấy chỗ trống để phô bày, dùng lợi để mở ra, phát ra sau mà đến trước…”
Hồ Phỉ thẩm nhủ:
– Trang Tử tự xưng “mười bước giết một người, ngàn dặm không dừngbước” mà đã cho là thiên hạ vô địch thì e rằng hơi khoác lác. Nhưng các câu “lấy chỗ trống để phơi bày, dùng lợi đế mở ra, phát ra sau trà đến trước” thì đúng là tinh nghĩa của võ học. Không chỉ có kiếm thuật mới thế mà cả đao pháp, quyền pháp cũng có khác gì?
Bỗng nghe sau lưng có tiếng bước chân nhè nhẹ, mùi hương thoang thoảng đưa vào mũi. Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thấy một thiếu phụ dung nhan xinh đẹp, mình mặc áo sa màu lục nhạt, mỉm cười đang đi tới. Chính là Mã Xuân Hoa.
Hồ Phỉ chợt tỉnh ngộ:
– Té ra đây là phủ đệ của Phúc Khang An. Sao ta lại không nghĩ ra?
Mã Xuân Hoa tiến lại chúc câu “Vạn phúc”, cười nói:
– Hồ huynh đệ! Không ngờ chúng ta lại gặp nhau ở chốn kinh sư. Mời huynh đệ an tọa.
Nàng nói rồi tự tay rót nước, lại mở hộp mấy thứ bánh kẹo đặt ở trước mặt chàng, nói tiếp:
– Ta được tin Hồ huynh đệ cũng tới Bắc Kinh, lại càng mong nhớ muốn được gặp ngay để đa tạ ơn đức huynh đệ đã bảo vệ ta.
Hồ Phỉ thấy nàng cài trên mái tóc một bông nhung trắng chắc là để tang Từ Tranh, nhưng y phục lộng lẫy, vẻ mặt vui tươi, chẳng có vẻ gì là một quả phụ vừa mới mất chồng. Chàng hững hờ đáp:
– Thực ra là tiểu đệ đa sự. Nếu sớm biết Phúc đại soái phái người đến đón Từ đại tẩu thì không cần một phen kinh hãi ở trong thạch thất.
Mã Xuân Hoa nghe chàng gọi mình là “Từ đại tẩu”, thì hơi đỏ mặt lên, hỏi:
– Dù sao nghĩa khí thâm trọng của Hồ huynh đệ cũng khiến cho ta muôn vàn cảm kích.
Rồi nàng cất tiếng gọi:
– Vú nuôi ơi, vú đưa công tử gia ra đây.
Trong cửa phía đông, hai mụ bộc phụ vâng dạ rồi dắt hai đứa nhỏ ra. Hai đứa nhỏ nhìn Mã Xuân Hoa gọi:
– Má má!
Chúng chạy tới đứng tựa bên nàng. Hai đứa nhỏ này mặt mũi giống nhau, nước da trắng trẻo, trông rất khả ái. Chúng lại mặc áo gấm, đeo xâu chuỗi ngọc, càng làm tăng thêm vẻ xinh đẹp quý phái. Mã Xuân Hoa mỉm cười bảo chúng:
– Các ngươi còn nhận được Hồ thúc thúc không? Hồ thúc thúc đã giúp đỡ chúng ta trong khi đi đường, mau dập đầu trước Hồ thúc thúc.
Hai đứa nhỏ lạy phục xuống trước chàng, miệng hô:
– Hồ thúc thúc!
Hồ Phỉ đỡ chúng đứng dậy bụng bảo dạ:
– Bây giờ các ngươi hô ta một tiếng bằng “thúc thúc”, nhưng chẳng bao lâu nữa các ngươi sẽ trở nên những vị hoàng thân quốc thích oai phong hiển hách, làm sao còn nhớ một kẻ thảo mãng như ta?
Lại nghe Mã Xuân Hoa nói:
– Hồ huynh đệ, ta có một việc thỉnh cầu, chẳng hay huynh đệ có ưng thuận chăng?
Hồ Phỉ đáp:
– Đại tẩu! Ngày ấy ở Thương gia bảo, tiểu đệ bị Thương Bảo Chấn đánh đập, đại tẩu đã hết lòng cầu xin, ơn đó tiểu đệ vẫn luôn canh cánh bên lòng, chẳng bao giờ quên. Bữa trước ở trong thạch thất tuy tiểu đệ đã vì đại tẩu ra sức chống chọi quần đạo, nhưng cái đó chẳng qua là hành động của kẻ bộp chộp hồ đồ, không bõ làm trò cười cho người khác. Dù sao trong lòng tiểu đệ cũng coi đó là một phen báo đáp ơn đức. Nếu bữa nay tiểu đệ biết trước là đại tẩu mời gặp thì tiểu đệ đã không đến. Từ đây trở đi, chúng ta sang hèn khác biệt, chẳng còn liên can gì với nhau nữa.
Mấy lời rắn rỏi tỏ ra rất bất mãn với Mã Xuân Hoa.
Nàng thở dài nói:
– Hồ huynh đệ! Mã Xuân Hoa này tuy chẳng tử tế gì, nhưng cũng không phải là hạng người xu viêm phụ nhiệt. Câu “nhất kiến chung tình” quả là duyên nghiệt kiếp trước…
Nàng nói mỗi lúc một nhỏ đi, đầu từ từ cúi xuống. Hồ Phỉ nghe tới bốn chữ “nhất kiến chung tình” chợt nghe khơi dậy nỗi lòng, những mối bất mãn trong lòng giảm đi rất nhiều. Chàng hỏi:
– Đại tẩu muốn yêu cầu tiểu đệ làm việc gì? Thật ra, Phúc đại soái còn có việc gì không làm nổi mà đại tẩu phải cần đến tiểu đệ?
Mã Xuân Hoa đáp:
– Chỉ vì hai đứa nhỏ này mà ta cầu xin huynh đệ, mong huynh đệ nhận chúng làm đồ nhi để truyền thụ cho chúng một chút võ nghệ.
Hồ Phỉ cười ha hả, hỏi:
– Hai vị công tử gia đã vinh hoa phú quý thì còn học võ nghệ làm chi?
Mã Xuân Hoa đáp:
– Luyện cho thân thể tráng kiện cũng là một điều hay.
Nàng nói tới đây bỗng nghe ngoài các có thanh âm một người đàn ông cất lên hỏi:
– Xuân muội! Bây giờ mà còn chưa ngủ ư?
Mã Xuân Hoa mặt hơi biến sắc, trỏ vào tấm bình phong bên cạnh phòng, Hồ Phỉ liền ẩn mình vào sau đó. Chàng nghe tiếng giày lẹp xẹp, rồi một người tiến vào.
Mã Xuân Hoa hỏi:
– Sao Phúc đại soái cũng chưa ngủ? Không đi bầu bạn với phu nhân còn tới đây làm chi?
Người kia cầm lấy tay nàng, cười đáp:
– Hoàng thượng mời ta vào thương nghị quân vụ, cho đến bây giờ mới xong. Nàng trách ta đêm nay đến chậm quá phải không?
Hồ Phỉ nghe nói biết là Phúc Khang An, liền tự nhủ:
– Ta ẩn ở đây thật là dơ dáng. Hai người họ nói chuyện tình tứ với nhau cứ lọt vào tai mình, không muốn nghe cũng không được. Huống chi tình hình trước mắt giống như mình lén lút tới gặp Mã Xuân Hoa tại phòng riêng, nếu bị phát giác thì cả ta lẫn Mã Xuân Hoa còn chi là mặt mũi?
Chàng liền quan sát tình thế xung quanh để tính kế thoát thân.
Bỗng nghe Mã Xuân Hoa nói:
– Khang ca! Tiện thiếp giới thiệu một người với Khang ca. Người này Khang ca đã từng gặp rồi nhưng e rằng Khang ca đã quên mất.
Đoạn nàng cất tiếng gọi:
– Hồ huynh đệ! Huynh đệ ra tham kiếm Phúc đại soái đi!
Hồ Phỉ đành xoay mình bước ra, nhìn Phúc Khang An vái chào. Phúc Khang An không ngờ phía sau bình phong lại có nam nhân ẩn nấp. Hắn giật mình kinh hãi, ấp úng hỏi:
– Đây… đây… là…
Mã Xuân Hoa cười, đáp:
– Vị huynh đệ đây là Hồ Phỉ. Tuy y nhỏ tuổi nhưng võ công trác tuyệt. Các võ sĩ thủ hạ của Khang ca không có ai bằng y đâu. Chuyến này Khang ca phái người đón tiện thiếp về kinh, Hồ huynh đệ đã giúp đỡ thiếp rất nhiều. Vì thế tiện thiếp mời y tới. Khang ca tiếp đãi y bằng cách nào?
Phúc Khang An sắc mặt biến đổi, nghe Mã Xuân Hoa nói xong mới định thần lại, đáp:
– Ồ! Nên tạ ơn lắm! Nên tạ ơn lắm!
Rồi nhìn Hồ Phỉ vẫy tay nói:
– Người cứ về đi, vài hôm nữa ta sẽ triệu kiến.
Giọng nói có vẻ không bằng lòng. Giả tỷ không ở trước mặt Mã Xuân Hoa thì hắn đã trách mắng chàng về tội vô lễ dám tự tiện vào phủ đệ mà không quỳ xuống bái kiến.
Mã Xuân Hoa nói:
– Hồ huynh đệ…
Hồ Phỉ tức đầy ruột, trở gót ra ngay, miệng lẩm bẩm:
– Tự dưng vô cớ nữa đêm tới đây để phải một phen nhục nhã.
Nhiếp Việt đứng ngoài cửa chờ đợi, thè lưỡi ra khẽ hỏi:
– Phúc đại soái vừa vào, đại ca đã thấy chưa?
Hồ Phỉ đáp:
– Mã cô nương giới thiệu tại hạ và yêu cầu Phúc đại soái tạ ơn gì đó.
Nhiếp Việt vui mừng nói:
– Chỉ cần Mã cô nương nói cho một lời tất Phúc đại soái phải nhìn Hồ huynh bằng con mắt khác. Ngày sau tiểu đệ được theo chân Hồ đại ca thực hay biết chừng nào!
Hắn rất khâm phục võ công và nhân cách của Hồ Phỉ. Mấy câu này hắn nói thật lòng. Hai người theo đường cũ đi ra. Vừa tới bên ao sen cách đại môn chưa xa, bỗng nghe tiếng bước chân vang lên, mấy người chạy nhanh đuổi theo, miệng hô:
– Xin Hồ đại gia hãy dừng bước!
Hồ Phỉ ngạc nhiên đứng lại, nhìn thấy bốn tên võ quan. Người đi trước tay cầm một cái hộp gấm dâng lên, nói:
– Mã cô nương đưa lễ vật này đến tặng Hồ đại gia. Xin đại gia thu nhận cho.
Hồ Phỉ trong lòng đang bực bội liền đáp:
– Tại hạ vô công không dám thụ lộc, không dám nhận lãnh.
Người kia nói:
– Mã cô nương đã có thịnh ý, Hồ đại gia bất tất phải khách khí làm chi.
Hồ Phỉ đáp:
– Nhờ ông bạn về trình lại Mã cô nương món hậu ý của cô, Hồ mỗ xin tâm lãnh.
Dứt lời chân trở gót đi ngay. Tên võ quan kia chạy theo, lộ vẻ bồn chồn, nói:
– Hồ đại gia! Đại gia mà không chịu thu nhận, nhất định Mã cô nương trách tội tiểu nhân. Nhiếp đại ca! Xin đại ca khuyên Hồ đại ca dùm cho. Tiểu đệ vâng lệnh của Mã cô nương…
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Coi gã này chân bước mau lẹ, bộ pháp ổn định hiển nhiên là một tay cao thủ. Tội gì vì mấy chữ công danh lợi lộc mà lại cam tâm làm nô tài cho kẻ khác?
Nhiếp Việt đón lấy cái hộp gấm ở trong tay tên võ quan. Hắn nhấc thấy cái hộp rất nặng thì chắc là bên trong dựng những món quý báu, liền tươi cười nói:
– Hồ đại ca! Những lời người anh em đây nói đều là tình thực. Nếu y bị Mã cô nương quở trách về vụ này thì rất nguy hại đến tiền đồ. Đại ca làm phước thu nhận để y về phúc trình.
Hồ Phỉ tự nhủ:
– Nể mặt ngươi, ta thu nhận món này để chu cấp cho kẻ nghèo cũng tốt.
Chàng liền mở hộp xem, thấy trong tấm đoạn hồng vuông vắn gói một vật gì đó, bốn góc có hai sợi dây buộc.
Chàng cau mày hỏi:
– Cái gì thế này?
Tên võ quan đáp:
– Tiểu nhân không rõ.
Hồ Phỉ tự hỏi:
– Phải chăng món lễ này là nguyên một khối?
Chàng liền thò tay cởi giây buộc. Đột nhiên nghe đánh “cách” một tiếng, nắp hộp đậy mạnh lại, kẹp chặt lấy hai tay Hồ Phỉ. Chỉ trong chớp mắt, Hồ Phỉ đã thấy đau thấu ông bà ông vải, xương cổ tay cơ hồ sắp gãy rời ra. Nguyên hộp này đúc bằng thép ròng, bên trong giấu một cái lưỡi gà cực mạnh và rất tinh xảo. Ngoài hộp bọc gấm nên không thể nhận ra được.
Nắp hộp xiết mỗi lúc một chặt thêm. Hồ Phỉ vội vận khí ra cổ tay để chống chọi. Nếu nội lực chàng kém một chút thì e rằng cả hai cổ tay đều bị gãy cả rồi. Hồ Phỉ chỉ còn cách nín hơi vận khí không dám lơ là.
Bốn tên võ quan thấy Hồ Phỉ trúng kế lập tức rút chủy thủ ra. Hai mũi dí vào trước ngực, hai mũi dí vào sau lưng.
Nhiếp Việt kinh hãi đến ngẩn người, vội hỏi:
– Làm… làm gì thế này?
Tên võ quan đứng đấy đáp:
– Phúc đại soái có lệnh tróc nã tên gian đồ Hồ Phỉ.
Nhiếp Việt hỏi:
– Hồ đại ca là khách quý do Mã cô nương mời đến, sao lại đối đãi bằng cách này?
Tên võ quan kia cười lạt, nói:
– Nhiếp đại ca, ngươi đi mà hỏi Phúc đại soái. Bọn ta là kẻ đương sai làm sao biết được nhiều chuyện?
Nhiếp Việt sửng sốt nói:
– Hồ đại ca cứ yên tâm, vụ này bên trong tất có sự hiểu lầm. Tại hạ chạy đi báo cho Mã cô nương hay, nhất định cô sẽ tìm cách cứu đại ca.
Tên võ quan kia vội quát:
– Dừng lại! Đây là mật lệnh của Phúc đại soái, không được tiết lộ phong thanh cho Mã cô nương hay biết. Ngươi có được mấy cái đầu?
Nhiếp Việt trán toát những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu. Hắn nghĩ bụng:
– Cái hộp gấm này do ta tự tay đưa tới Hồ đại ca, hóa ra ta thành kẻ tiểu nhân gian trá? Nhưng đây là mật lệnh của Phúc đại soái thì làm sao kháng lệnh được?
Tên võ quan khẽ đưa lưỡi chủy thủ vào một chút, mũi đao đâm rách áo Hồ Phỉ vào đến da thịt. Hắn quát lớn:
– Hãy đi theo bọn ta!
Cái hộp sắt kia là do một tên thợ Tây dương khéo tay chế ra, bên trong đặt lò xo cực kỳ tinh xảo. Lớp gấm hai bên hộp vừa bóc ra liền chia lưỡi đao rất sắc. Nguyên hai bên nắp hộp là hai thanh lợi đao.
Nhiếp Việt thấy Hồ Phi tay chảy máu tươi sắp tổn thương đến gân cốt, liền nghĩ bụng:
– Dù Hồ đại ca phạm tội tày đình cũng thể dùng thủ đoạn đê hèn này để đối phó được.
Hắn đối với Hồ Phỉ vẫn một lòng kính ngưỡng, mà bây giờ trông thấy thảm trạng do chính mình gây ra thì rất xấu hổ. Đột nhiên, hắn lách ngón tay vào khe hộp, dùng lực cạy mạnh một cái, nắp hộp mở ra, hai tay Hồ phỉ được tự do.
Tên võ quan cầm đầu thấy thế liền đâm mũi chủy thủ tới. Võ công Nhiếp Việt còn cao thâm hơn tên võ quan, nhưng vì hai tay hắn còn kẹt trong hộp sắt nên không có cách nào tránh được. Lưỡi đao đâm sâu vào ngực, Nhiếp Việt rú lên một tiếng thê thảm rồi lập tức ngã lăn ra chết.
Trong khoảng thời gian chớp nhoáng này, Hồ Phỉ hít một hơi chân khí hóp bụng co lưng vào mấy tấc rỏi nhảy vọt lên. Ba thanh chủy thủ đâm thẳng xuống. Hai lưỡi đưa vào quãng không. Còn một lưỡi đâm trúng đùi bên phải chàng thành một lằn máu. Giữa lúc tính mạng lâm nguy trong tích tắc, Hồ Phỉ còn khoan dung thế nào được? Chân phải chàng đá về phía trước, chân trái móc đằng sau. Người chàng còn lơ lửng trên không đã đá chết hai tên võ quan.
Tên võ quan đâm chết Nhiếp Việt không chờ Hồ Phỉ hạ mình xuống đất đã ra chiêu “Kinh Kha hiến đồ” đâm vào bụng Hồ Phỉ nhanh như chớp. Chiêu thức cực kỳ lợi hại. Hồ Phỉ vung chân trái ra, đằng sau đá ngược lên trúng vào ngực đối phương. Tên võ quan rớt bõm xuống ao sen, gân cốt đều gãy nát chắc không thể sống nổi.
Còn tên võ quan nữa thấy tình thế không ổn liền la hoảng “Ối cha!” rồi xoay người toan bỏ chạy. Hồ Phỉ tung mình rượt theo, nắm lấy cổ hắn nhấc bổng lên. Chàng vung chưởng toan đập xuống đỉnh đầu hắn, nhưng dưới ánh trăng chàng thấy khóe mắt hắn lộ vẻ van xin thì không khỏi mềm lòng nghĩ bụng:
– Hắn với ta không thù không oán, chẳng qua hắn vâng lệnh Phúc Khang An mà thôi. Ta hà tất phải giết hắn làm chi?
Chàng nắm cổ hắn lôi đến phía sau hòn giả sơn, khẽ quá:
– Tại sao Phúc Khang An lại muốn bắt ta?
Tên võ quan sắc mặt lợt lạt, ấp úng đáp:
– Thực… thực tình tiểu nhân không rõ.
Hồ Phỉ lại hỏi:
– Bây giờ hắn ở đâu?
Võ quan đáp:
– Phúc đại soái… ở trong thủy các của Mã cô nương đi ra… đại soái truyền lệnh cho bọn tiểu nhân rồi lại… lại quay vào.
Hồ Phỉ điểm vào á huyệt hắn, rồi bảo:
– Ta tha mạng cho ngươi. Sáng mai có người hỏi tới, ngươi hãy nói là gã họ Nhiếp do ta hạ sát. Nếu ngươi tiết lộ vụ này để liên lụy đến gia đình y, ta sẽ giết sạch toàn gia nhà ngươi không chừa một mống.
Tên võ quan không nói được, chỉ gật đầu lia lịa.
Hồ Phỉ ôm thi thể Nhiếp Việt giấu vào trong một hốc đá của hòn giả sơn. Chàng quỳ lạy bốn lạy, rồi đá hai xác chết kia vào trong bụi cỏ rậm. Chàng lại xé vạt áo buộc vết thương hai cổ tay và trên bắp chân. Vết thương trên đùi tuy không nặng lắm nhưng rất dài khiến Hồ Phỉ không nén được giận, liền lượm một thanh chủy thủ đi tới thủy các.
Hồ Phỉ biết trong phủ Phúc Khang An rất đông thị vệ, không dám coi thường. Chàng để ý nhìn sau gốc cây lớn, trong hòn giả sơn và những bụi hoa không thấy bóng người nào mới lướt nhanh tới đầu cầu. Chàng bỗng thấy hai ngọn đèn lồng đi trước dẫn đường. Tám tên vệ sĩ theo Phúc Khang An đi tới. May mà trong vườn hoa rất nhiều hang hốc có thể ẩn mình được. Hồ Phỉ co mình lại ẩn vào phía sau mõm đá.
Bỗng nghe Phúc Khang An nói:
– Ngươi đi thẩm vấn tên gian đồ họ Hồ xem gã quen biết Mã cô nương trong trường hợp nào? Mối giao tình làm sao? Vì lẽ gì nửa đêm lẻn vào phủ của ta? Vụ này ngươi không được tiết lộ ra ngoài, tra hỏi rõ ràng lập tức trở về báo cáo. Còn tên gian đồ đó thì đêm nay giết chết ngay đi. Việc này về sau không được nhắc tới nữa.
Một người đi đằng sau hắn đáp:
– Tiểu nhân hiểu rồi.
Phúc Khang An lại dặn:
– Nếu Mã cô nương có hỏi tới thì cứ nói là ta đã cho ba ngàn lạng bạc và bảo gã về nhà rồi.
Người kia lại vâng dạ.
Hồ Phỉ càng nghe càng tức giận, nghĩ thầm:
– Té ra thằng cha này chẳng qua chỉ nghi ngờ ta có tư tình với Mã cô nương mà hạ độc thủ, làm liên lụy Nhiếp Việt phải uổng mạng.
Giả sử lúc này Hồ Phỉ muốn nhảy ra đâm chết Phúc Khang An là giết hắn được ngay, nhưng dù trong lòng phẫn nộ vẫn không dám hành động lỗ mãng, vì chàng mới tới kinh sư, chưa hiểu rõ mọi việc, mà Phúc Khang An lại nắm giữ binh quyền cả nước, uy thế lừng lẫy, nên chàng không dám mạo muội ra tay hành thích. Chàng đành ẩn phía sau mỏm đá, chờ cho bọn Phúc Khang An đi xa.
Tên thủ hạ vâng lệnh đi khảo vấn Hồ Phỉ, miệng khẽ hát một bài hát ngắn chân lăng xăng đi tới. Hồ Phỉ vươn tay điểm vào hông gã một cách đột ngột. Gã chưa kịp nhìn rõ địch nhân là ai thì người đã nhũn ra, té huỵch xuống đất. Hồ Phỉ lại điểm huyệt hai chỗ khuỷu chân gã rồi bước mau rượt theo Phúc Khang An. Từ phía xa xa, chàng nghe hắn hỏi:
– Đêm khuya thế này, lão thái thái còn kêu ta đến có việc gì? Những ai ngồi với lão nhân gia?
Một tên thị vệ đáp:
– Bữa nay công chúa tiến cung, khi về phủ rồi vẫn ngồi bên lão thái thái.
Phúc Khang An “à” một tiếng, rồi không nói gì nữa. Hồ Phỉ thấy hắn xuyên qua dãy hành lang tiến vào một căn nhà xung quanh có thông xanh vây bọc. Bọn thị vệ tùy tùng canh giữ bên ngoài. Hồ Phỉ đi vòng ra sau nhà, chui qua bụi cây thấy cửa sổ mặt Bắc có ánh đèn hắt ra. Chàng len lén lần tới dưới cửa sổ, thấy cửa sổ bị che bởi một lớp sa mỏng phết hồ màu xanh lục. Hồ Phỉ chợt nghĩ ra điều gì, liền khẽ bẻ mấy cành thông nhỏ che trước mặt để nhìn vào trong, xuyên qua các kẽ lá.
Trong nhà, ngồi chính giữa là hai người quý phụ lối ngoài ba chục tuổi. Phía dưới là một lão phụ trên sáu chục tuổi. Bên trái lão phụ còn có hai phụ nhân nữa. Cả năm người đàn bà khắp mình đeo ngọc ngà châu báu, mặc toàn the lụa lượt là. Phúc Khang An quỳ gối xuống, hướng về phía hai quý phụ ngồi giữa nói lời thỉnh an, rồi quay về phía lão phụ, cất tiếng hô:
– Mẫu thân!
Còn hai phu nhân nữa thấy hắn tiến vào liền đứng dậy.
Nguyên phụ thân của Phúc Khang An là Phó Hằng, em ruột của Hiếu Hiền hoàng hậu, vợ của đương kim hoàng đế Càn Long. Vợ Phó Hằng là người đẹp nổi tiếng ở Mãn Châu. Mụ vào cung triều kiến Càn Long hoàng đế, cả hai liền nảy sinh tư tình và sinh ra Phúc Khang An. Phó Hằng vì ba tầng quan hệ về chị gái, vợ, con trai mà được nhà vua sủng ái, ra ngoài làm tướng võ, vào triều làm tướng văn. Lão giữ ngôi tể tướng yên ổn suốt hai mươi ba năm. Bây giờ lão đã tạ thế.
Phó Hằng sinh hạ bốn người con trai. Trưởng tử là Phúc Linh An được phong là Đa La ngạch phụ, từng theo Triệu Huệ đi đánh đất Hồi Cương lập nên công trạng và được thăng chức Phó đô thống đạo Bạch Kỳ ở Mãn Châu. Người này cũng đã qua đời. Con thứ hai là Phúc Long An lấy Hòa Gia công chúa, con gái vua Càn Long, được phong Hòa Thạc ngạch phụ, làm đến Binh bộ thượng thư, Công bộ thượng thư và được phong tước Công. Con thứ ba là Phúc Khang An. Hai anh hắn đều làm phò mã, hắn lại được vua Càn Long yêu quý hơn hết dù hắn không lấy công chúa. Những người không hiểu nội tình đều lấy làm lạ. Thực ra hắn là cốt nhục của Càn Long, thì còn làm nữ tế của hoàng đế thế nào được? Hiện giờ hắn giữ chức Binh bộ thượng thư, tổng quản các quan thần trong nội vụ phủ, gia hàm Thái tử thái bảo. Con thứ tư là Phúc Trường An làm Hộ bộ thượng thư, về sau được phong đến tước Hầu. Thế là toàn gia họ Phó phú quý đến cực phẩm, cả triều đình không ai bì kịp.
Những quý phụ ngồi trong nhà này là các công chúa, chị dâu của Phúc Khang An. Nhị tẩu của hắn là Hòa Gia công chúa, con gái thứ tư của vua Càn Long, đã khéo nói lại biết chiều ý người nên được vua Càn Long sủng ái từ thuở nhỏ. Cứ cách mấy ngày là nhà vua lại triệu nàng vào cung nói chuyện giải muộn. Giữa nàng và Phúc Khang An tuy là huynh muội nhưng nghĩa lại là thần quân nên Phúc Khang An thấy nàng liền thỉnh an hành lễ. Còn hai người đàn bà nữa thì một là Hải Lan thị, vợ của Phúc Khang An và một người là vợ của Phúc Trường An.
Phúc Khang An ngồi xuống cái phế phía tây rồi hỏi:
– Hai vị công chúa cùng mẫu thân sao đêm đã khuya rồi mà các vị còn chưa đi nghỉ?
Lão phu nhân đáp:
– Hai vị công chúa nghe nói ngươi đã có con trai nên mừng rỡ khôn xiết, nóng lòng muốn xem mặt hai đứa nhỏ.
Phúc Khang An liếc mắt nhìn Hải Lan thị, mỉm cười đáp:
– Nữ nhân đó là người Hán chưa học lễ nghi, vì thế không dám để nàng đến khấu bái công chúa và mẫu thân.
Hòa Gia công chúa cười nói:
– Khang lão tam xem đã vừa mắt thì còn sai trật thế nào được? Chúng ta không cần gặp người đàn bà đó, ngươi mau sai người đem hai đứa nhỏ đến đây coi. Phụ hoàng bảo mấy bữa nữa sẽ gọi ta đưa chúng vào cung bệ kiến đấy.
Phúc Khang An ngấm ngầm đắc ý, nghĩ bụng:
– Hai đứa nhỏ đẹp như ngọc. Hoàng thượng mà nhìn thấy tất nhiên hoan hỷ cưng chiều.
Hắn liền sai tên nha hoàn ra bảo người tùy tùng bồng hai vị tiểu tử đến ngay lập tức.
Hòa Gia công chúa lại nói:
– Bữa nay ta tiến cung, mẫu hậu bảo Khang lão tam hành động lén lút bên ngoài, sinh con mấy năm không đưa về, cố ý giấu giếm tất cả mọi người. Coi chừng phụ hoàng sẽ lột da lão tam đó.
Phúc Khang An cười đáp:
– Vụ hai đứa nhỏ này hạ thần cũng mới biết hơn một tháng nay.
Hắn nói tới đây thì hai người vú bồng hai đứa nhỏ sinh đôi tiến vào. Phúc Khang An bảo hai đứa nhỏ lại dập đầu lạy công chúa, lão thái thái, cùng các quý phụ. Hai đứa nhỏ nghe nói xong, dầu mắt còn đang ngái ngủ, chúng cũng y theo lời khấu đầu hành lễ. Mọi người thấy hai đứa nhỏ giống hệt nhau, khuôn mật tròn trĩnh, mi thanh mục tú.
Hòa Gia công chúa vỗ tay, cười nói:
– Khang lão tam, hai đứa nhỏ này giống ngươi như đúc. Dù ngươi có muốn chối cãi cũng không được đâu!
Hải Lan thị đối với vụ này chẳng thích thú gì, nhưng thấy hai đứa nhỏ song sinh này rất khả ái liền bồng chúng vào lòng, ra chiều rất thân thiết. Lão phu nhân cùng mấy vị công chúa đều cho lễ vật. Hai mẹ vú không ngớt dập đầu tạ ơn ban thưởng.
Hai vị công chúa cùng bọn Hải Lan thị trò chuyện một hồi rồi xin cáo từ.
Lão phu nhân cùng Phúc Khang An bồng hai đứa nhỏ tiễn ra tận cửa rồi mới quay vào.
Lão phu nhân gọi đứa a hoàn đứng hầu sau lưng, bảo:
– Mi đến báo cho Mã cô nương hay là lão thái thái rất thích hai đứa nhỏ nên lưu chúng ở lại ngủ chung, bảo y đừng chờ hai anh em chúng nữa.
Đứa a hoàn vâng dạ.
Mụ đưa tay kéo hộc bàn, lôi một cái bình bằng vàng nạm đầy bảo thạch. Mụ đặt cái bình trên bàn, rồi nói:
– Mang món sâm thang trong bình đến thưởng cho Mã cô nương, nói rằng lão thái thái nhất định sẽ chiếu cố cho hai đứa nhỏ, bảo y cứ yên tâm!
Phúc Khang An đang cầm chén trà, nghe lời nói đó thì sắc mặt đại biến, hai tay run bần bật, khiến nước trà văng ra thấm ướt cả áo. Y kinh hãi, một hồi lâu không nói tiếng nào.
Đứa a hoàn cầm bình vàng bỏ vào trong một cái hộp vàng rồi bưng đi.
Lúc này hai đứa nhỏ đã buồn ngủ, miệng không ngớt gọi:
– Má má! Má má! Má má đâu?
Lão phu nhân dỗ:
– Cháu ngoan đừng khóc nữa. Ở đây với bà rồi bà cho kẹo nhé!
Hai đứa nhỏ khóc ầm lên:
– Không cần kẹo! Không cần bà! Chỉ cần má má thôi!
Lão phụ nhân sa sầm nét mặt, vẫy tay ra lệnh mụ vú bế hai đứa nhỏ đi, rồi đưa mắt ra hiệu cho đám a hoàn lui cả ra ngoài. Trong phòng chỉ có hai mẹ con Phúc Khang An. Cả hai cùng ngồi yên chẳng nói gì. Lão phu nhân đưa mắt nhìn con chăm chú, còn Phúc Khang An thì nhìn đi chỗ khác, không dám nhìn thẳng vào mắt của mẹ.
Qua một hồi lâu, Phúc Khang An mới thở dài, nói:
– Mẫu thân, vì sao người không tha cho cô ta?
Lão phu nhân đáp:
– Ngươi còn hỏi vậy ư? Cô gái đó là người Hán ắt sẽ sinh lòng phản trắc. Huống chi thị lại xuất thân từ chốn tiêu cục, sử đao múa kiếm, võ nghệ đầy mình. Trong phủ ta có hai vị công chúa, sao có thể để hạng người đó ở chung được? Mười năm trước đây, hoàng thượng gặp cơn đại hiểm cũng chỉ vì một mỹ nữ dị tộc, chẳng lẽ ngươi quên rồi sao? Để loại đàn bà độc như rắn rết đó sống cận kề bên người, chúng ta không cách gì ăn ngon ngủ yên được.
Phúc Khang An thưa:
– Lời của mẫu thân dĩ nhiên là không sai. Thoạt đầu hài nhi không nghĩ đến việc cho cô ta vào phủ mà chỉ sai người đi tìm để tặng cô ta ít tiền. Ngờ đâu cô ta lại sinh hạ hai đứa nhỏ. Đó là cốt nhục của mình sao lại bỏ đi được?
Lão phu nhân gật đầu, đáp:
– Ngươi năm nay đã gần tứ tuần, lại không có con, nay có được hai đứa nhỏ đó dĩ nhiên là quá tốt. Ta nuôi dưỡng cho chúng lớn khôn, sau này được phong hầu tập tước, hưởng vinh hoa phú quý thì mẫu thân chúng cũng yên lòng.
Phúc Khang An trầm ngâm một lúc rồi khẽ nói:
– Theo ý của hài nhi thì nên đưa cô ta một vùng châu quận xa xôi ngoài biên tái, vĩnh viễn không gặp lại nữa. Cái đó cũng tốt, chẳng hay mẫu thân…
Lão phu nhân sa sầm nét mặt, ngắt lời:
– Ngươi ngồi ở chức vị cao thật là uổng, Những chỗ nguy hiểm bên trong đã nghĩ tới chưa? Hai đứa con của ngươi còn ở trong phủ, há thị lại không sinh sự ư? Bọn gái giang hồ tứ chiếng đó có điều gì mà không dám làm.
Phúc Khang An khẽ gật đầu. Lão phu nhân lại nói tiếp:
– Ngươi cứ sai người hậu táng cho, là xem như đã hết lòng rồi…
Phúc Khang An lại gật đầu vâng dạ.
Hồ Phỉ đứng ngoài càng nghe càng kinh hãi. Ban đầu chàng còn chưa hiểu rõ ý tứ cầu chuyện của hai mẹ con, sau nghe đến chữ “hậu táng”, chàng giật nảy mình biết không phải là chuyện nhỏ, bèn nghĩ bụng:
– Té ra hai người bày âm mưu độc kế đoạt con, tất nhiên phải giết Mã cô nương. Vụ này rất khẩn cấp, không thể chần chừ được nữa. Chi bằng nhân lúc hai mẹ con chưa kịp thi hành độc kế, ta chạy đi báo cho Mã cô nương biết và cứu cô ra khỏi phủ ngay đêm nay.
Chàng liền len lén theo đường cũ chạy về thủy các. May mà đêm khuya yên tĩnh, trong vườn không người qua lại. Cả những tên thị vệ bị hạ sát cũng chưa ai phát giác. Hồ Phỉ trong lòng nóng nảy nên chạy thật nhanh, nhưng rồi lại trù trừ, thầm nghĩ:
– Mã cô nương một dạ chung tình với Phúc Khang An. Hai người ly biệt lâu ngày nay mới được trùng phùng, tình ái đắm say, làm sao có thể chịu nghe lời ta trốn đi khỏi phủ? Ta biết nói cách gì để cô tin lời đây?
Chàng còn đang ngẫm nghĩ bất giác đã đến trước thủy các. Hồ Phỉ thấy bên ngoài có bốn tên thị vệ đứng gác, liền nhủ thầm:
– Hừ, bọn chúng đã đặt người canh giữ để đề phòng cô đào tẩu!
Chàng không dám kinh động, liền đi vòng ra phía sau, vọt qua ao nước ở ngoài thủy các. Trong nhà ánh đèn chưa tắt, chàng ghé mắt nhìn qua khe cửa bất giác ngẩn người. Mã Xuân Hoa nằm lăn dưới đất, ôm bụng rên la, đầu tóc rối bù, sắc mặt không còn chút máu. Những a hoàn bộc phụ hầu hạ cô đi đâu hết cả, chẳng còn một ai ở bên cạnh.
Hồ Phỉ vừa nhìn thấy tình trạng này, lập tức tỉnh ngộ:
– Trời ơi! Hỏng rồi! Cuối cùng ta đã chậm một bước.
Chàng vội xuyên qua cửa sổ vào trong. Lúc cúi xuống nhìn Mã Xuân Hoa chàng thấy cô thở hổn hến, da mặt xám ngắt, cặp mắt đỏ mọng cơ hồ chảy máu.
Mã Xuân Hoa vừa thấy Hồ Phỉ, nàng lắp bắp nói nhát gừng:
– Ta… ta… đau bụng lắm… Hồ huynh đệ… ngươi…
Nói đến đó thì cô kiệt lực không nói được nữa. Hồ Phỉ ghé tai cô khẽ hỏi:
– Vừa rồi cô nương ăn uống gì?
Mã Xuân Hoa đưa mắt nhìn cái bình vàng nạm đầy bảo thạch để trên kỷ trà, mà không nói được. Hồ Phỉ nhận ra cái bình kia chính là vật đựng sâm thang mà mẹ Phúc Khang An đã sai a hoàn đem đến cho Mã Xuân Hoa uống
Chàng thầm nghĩ:
– Mụ già đó tâm kế rất độc. Mụ định giết Mã cô nương, chỉ giữ lại hai đứa nhỏ, nên sai người đem chúng đi trước rồi mới đưa thang sâm tới. Nếu không thì Mã cô nương cầm lấy chén sâm thang tất nghĩ đây là thuốc cực bổ, nhất định sẽ cho chúng uống mấy hớp.
Chàng lại nghĩ:
– Ồ! Phúc Khang An vừa thấy người bưng chén sâm thang đi liền biến sắc đánh vãi cả nước trà ra áo. Lúc đó, hiển nhiên y đã biết trong sâm thang có chất độc, vậy mà không tìm cách cản trở, cũng không đến cứu. Vậy thì hắn tuy không tự tay hạ độc cũng chẳng khác gì chính hắn ra tay.
Bất giác chàng lẩm bẩm:
– Lòng dạ thật tàn độc!
Mã Xuân Hoa miệng lẩm bẩm:
– Hồ huynh đệ… mau đi báo cho… Phúc đại soái hay để y mời đại phu…đến khám…
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Nếu bảo Phúc đại soái sai người mời đại phu thì chẳng khác gì cho cô nương uống thêm thuốc độc. Hiện giờ chỉ còn cách nhờ nhị muội tìm phương cứu chữa.
Chàng liền lấy tấm đệm ghế bọc cái bình vàng, chén đựng sâm thang đút vào bọc. Chàng nghe ngoài thủy các không có động tĩnh gì liền bồng Mã Xuân Hoa dậy, mở cửa sổ chuồn ra ngoài. Mã Xuân Hoa cả kinh, kêu lên:
– Hồ…
Hồ Phỉ vội đưa tay bịt miệng nàng, khẽ nói:
– Chớ có lên tiếng. Tại hạ đưa cô nương đi mời y sinh cứu chữa.
Mã Xuân Hoa hỏi:
– Còn con ta…
Hồ Phỉ không kịp giải thích, ôm nàng nhảy qua ao toan tìm đường trốn chạy, bỗng nghe phía sau có tiếng vạt áo phất gió. Rồi hai người chạy tới quát hỏi:
– Ai?
Hồ Phỉ tiếp tục chạy nhanh về phía trước. Hai người kia đề khí rượt theo.
Hồ Phỉ đang chạy nhanh đột nhiên dừng bước. Hai người kia không ngờ chàng dừng lại một cách đột ngột nên cứ theo đà tiếp tục lao tới vọt qua mặt chàng. Hồ Phỉ vọt lên không, vung hai chân đá trúng vào huyệt “Thần đường” sau lưng chúng. Hai gã chưa kịp rú lên một tiếng đã té nhào. Nhìn y phục cũng biết chúng là vệ sĩ trong phủ đến gác ngoài thủy các.
Hồ Phỉ thấy hành tung đã bị bại lộ, chẳng thể giấu giếm được nữa, liền chạy thẳng về phía ngoài cổng phủ. Bỗng nghe những tiếng hô hoán của bọn thị vệ vang lên:
– Có thích khách! Có thích khách!
Lúc tiến vào, Hồ Phỉ đã lưu tâm nhận rõ đường nên lúc này chàng vẫn theo lối đá lát đá trứng ngỗng, dẫn ra phía cửa nhỏ, rồi nhảy qua bức tường tây. Cỗ xe ngựa vẫn còn chờ ở ngoài cổng. Hồ Phỉ đặt Mã Xuân Hoa vào trong xe, miệng quát:
– Quay về!
Tên xa phu đã nghe tiếng người la ó trong phủ, lại thấy Hồ Phỉ thần sắc có điều khác lạ toan hỏi cho biết rõ. Hồ Phỉ liền phóng chưởng đánh gã té nhào nghe “binh” một cái.
Giữa lúc ấy trong phủ đã có bốn tên vệ sĩ đuổi tới. Hồ Phỉ ngồi cầm dây cương quất roi cho ngựa chạy. Bọn vệ sĩ trượt theo mấy chục trượng không kịp liền hô ầm ĩ:
– Lấy ngựa, lấy ngựa!
Hồ Phỉ giục ngựa chạy nhanh, nhưng mới hơn một dặm đã nghe tiếng ngựa dồn dập phía sau, hơn hai chục tên phóng ngựa đuổi theo. Ngựa của bọn truy binh toàn là tuấn mã nên chạy rất nhanh.
Hồ Phỉ bồn chồn trong dạ, nghĩ thầm:
– Đây là đất kinh thành, dưới chân thiên tử chứ đâu phải chỗ tầm thường, vụ náo loạn này khiến binh mã tuần thành đuổi theo vây bắt, thì dù ta có thể thoát thân cũng không có cách nào cứu được Mã cô nương.
Trong bóng tối, những người rượt theo đều cầm đuốc trong tay. Mã Xuân Hoa nằm trong xe lúc đầu còn rên rỉ, hiện giờ không thấy động cựa gì nữa.
Hồ Phỉ lo ngại, cất tiếng hỏi:
– Mã cô nương! Cô còn đau bụng không?
Chàng hỏi liền mấy câu không thấy Mã Xuân Hoa lên tiếng liền quay đầu nhìn lại, phía sau đuốc sáng rực. Truy binh đã tiến tới gần thêm. Đột nhiên nghe gió vút một tiếng, có người ném trái phi hoàng thạch tới, nhằm đánh vào sau lưng Hồ Phỉ. Hồ Phỉ vươn tay trái đón lấy rồi xoay tay ném trở lại. Bỗng nghe tiếng rú “úi chao” rồi tiếng người ngã ngựa.
Diễn biến này khiến Hồ Phỉ chợt hiểu rằng hay hơn hết là cứ ném ám để đẩy lui truy binh. Nhưng trong mình chàng lại không mang theo ám khí. Bọn vệ sĩ đuổi theo cũng khôn ra không ném ám khí nữa.
Hồ Phỉ nóng nảy nghĩ thầm:
– Đường về đến ngoài cửa Tuyên Võ hãy còn xa, đang lúc canh khuya mà bọn truy binh cứ tiếp tục kêu réo ầm ĩ thì làm sao khỏi động đến quan binh?
Đột nhiên chàng nhớ tới cái bình vàng trong bọc liền lôi ra vận kình lực móc các viên bảo thạch khảm trên đó, làm rớt xuống tám, chín mảnh. Dưới ánh đuốc sáng rực, tay phải chàng cầm mấy viên bảo thạch ném ra từng viên một. Tám mảnh bảo thạch đánh trúng năm tên vệ sĩ. Mấy mảnh bảo thạch tuy nhỏ, nhưng thủ kình Hồ Phỉ rất mạnh nên khi ném trúng đầu cũng gây đau đón phi thường. Bọn võ sĩ không dám đuổi theo nữa.
Hồ Phỉ thở dài một tiếng, đưa tay vào trong xe xem chừng hơi thở của Mã Xuân Hoa. May sao hơi thở cô vẫn còn, nhưng da mặt đã lạnh toát. Hồ Phỉ không dám chần chờ, vung roi quất ngựa phi nước đại. Xe ngựa chạy mãi đến một ngã ba. Khách điếm Hồ Phỉ ở nằm về hướng đông, nhưng chàng lại rẽ ngựa về hướng tây. Đến một khúc quanh, Hồ Phỉ liền bế Mã Xuân Hoa lên, tay vung roi ngựa quất liền mấy cái rồi tung người nhảy lên nóc nhà. Chiếc xe ngựa tiếp tục lao về phía tây, bọn vệ sĩ đuổi theo dồn dập.
Hồ Phỉ chờ cho bọn chúng đi xa rồi, mới nhảy xuống vào nhà. Vừa bước vào đến tường vây đã nghe Trình Linh Tố lên tiếng:
– Đại ca đã về đấy ư? Có người đuổi theo đại ca không?
Hồ Phỉ đáp:
– Mã cô nương trúng chất kịch độc, nhị muội xem thử.
Chàng bế Mã Xuân Hoa đi vào trong phòng.
Trình Linh Tố thắp đèn lên, nhìn thấy mặt Mã Xuân Hoa trắng nhợt, không còn huyết sắc. Cô bóp thử mấy ngón tay cũng không còn phản xạ đàn hồi, liền lắc đầu hỏi:
– Cô ta trúng phải chất độc gì?
Hồ Phỉ móc chiếc bình vàng trong người ra, nói:
– Trúng chất độc của sâm thang trong chiếc bình này.
Trình Linh Tố mở nắp bình ra ngửi, rồi nói:
– Chất độc lợi hại quá. Chính là “Hạc đỉnh hồng”.
Hồ Phỉ vội hỏi:
– Liệu có thể cứu được không?
Trình Linh Tố không đáp, chỉ đưa tay nghe nhịp tim của Mã Xuân Hoa rồi nói:
– Nếu không phải là nhà đại phú quý thỉ chẳng thể nào có được cái bình vàng trân quý này.
Hồ Phỉ hằn học đáp:
– Đúng vậy! Người hạ độc là phu nhân của tể tướng, lại là mẫu thân của quan binh bộ thượng thư.
Trình Linh Tố hỏi:
– Ủa! Trong chúng ta sao lại hiện ra nhân vật phú quý như vậy.
Hồ Phỉ thấy cô bất động thanh sắc, tựa hồ Mã Xuân Hoa tuy trúng chất độc rất nặng, nhưng còn có cơ cứu vãn, nên chàng mới vững dạ đôi chút. Trình Linh Tố vạch mí mắt Mã Xuân Hoa lên xem, bỗng cô “ồ” lên một tiếng.
Hồ Phỉ vội hỏi:
– Gì vậy?
Trình Linh Tố đáp:
– Trong sâm thang ngoài “Hạc đỉnh hồng” còn có chất “Phiên mộc miết”.
Hồ Phỉ không dám hỏi “Còn cứu được không?” mà lại hỏi:
– Cứu y bảng cách nào?
Trình Linh Tố chau mày, đáp:
– Hai thứ độc dược này phối hợp khiến mình mất thời gian đây.
Cô trở gót vào nhà, mở rương lấy hai viên thuốc màu trắng cho Mã Xuân Hoa uống, rồi nói:
– Cần tìm một nơi mật thất thanh tĩnh, dùng kim châm vào mười ba huyệt đạo để mở đường cho thuốc giải chạy vào nội tạng. Nếu dùng phép châm cứu ngay thì có thể chữa được. Có điều trong khoảng thời gian mười hai giờ không được di động người cô.
Hồ Phỉ nói:
– Bọn vệ sĩ của Phúc Khang An chỉ trong chớp mắt sẽ tìm đến, không thể châm cứu ở đây được. Chúng ta tìm vào nơi hoang vắng trong thôn xóm.
Trình Linh Tố đáp:
– Vậy phải lên đường ngay. Hai viên thuốc vừa rồi chỉ kéo dài mạng sống của cô thêm được một giờ
Cô thở dài nói tiếp:
– Vị tể tướng phu nhân tuy lòng dạ thâm hiểm nhưng thủ đoạn hạ độc còn kém. Hai chất độc trộn với nhau, lại hòa tan trong nước sâm thang thành ra độc tính phát tác chậm lại. Nếu chỉ dùng một loại thì Mã cô nương còn chi tính mạng?
Hồ Phỉ vội vàng thu thập mấy thứ cần dùng rồi nói:
– Trên cõi đời này còn ai qua được thần kỹ của Độc Thủ Dược Vương nữa?
Trình Linh Tố từm tỉm cười toan trả lời, bồng nghe tiếng vó ngựa từ xa chạy đến gần nhà.
Hồ Phỉ rút đơn đao ra, nói:
– Cùng lắm đành phải chém giết một trận.
Nhưng trong dạ chàng bồn chồn, tự nhủ:
– Địch nhân nhất định mỗi lúc một nhiều. Đến lúc nguy cấp ta đành chiếu cố cho nhị muội, chứ không phải cứu Mã cô nương.
Trình Linh Tố nói:
– Ở đất kinh sư e rằng không được hành động lỗ mãng. Đại ca! Đại ca hãy khuân bàn ghế chất thành một cái đài cao.
Hồ Phỉ dù không hiểu ý, nhưng biết cô lắm mưu nhiều kế, mà tình thế lại cấp bách nên chàng không hỏi nữa, cứ theo lời chất đống bàn ghế lên.
Trình Linh Tố trỏ thân cây lớn ngoài cửa sổ, nói:
– Đại ca đem Mã cô nương lên cây đi.
Hồ Phi tra đao vào vỏ, ôm Mã Xuân Hoa đến gốc cây bên cửa sổ rồi tung người giấu Mã Xuân Hoa vào chỗ cành lá rậm rạp.
Lại nghe tiếng bước chân vang lên. Mấy tên vệ sĩ vượt tường vào trong, từ từ tiến gần lại. Quản gia họ Toàn chạy ra hỏi, liền bị bọn vệ sĩ lớn tiếng quát mắng.
Trình Linh Tố thổi tắt ngọn đèn, rồi lấy một cây nến ra thắp lên, cắm vào đế đèn. Cô đóng kín cửa lại rồi mới ra ngoài, nhặt lấy một cục đá, nhảy lên cây ngồi bên cạnh Hồ Phỉ.
Hồ Phi khẽ nói:
– Tất cả có mười bảy tên!
Trình Linh Tố đáp:
– Sức thuốc đủ dùng rồi!
Bỗng nghe bọn vệ sĩ lùng sục bốn phía, trong đó có cả khẩu âm của Ân Trọng Tường. Bọn vệ sĩ úy kỵ Hồ Phỉ võ công lợi hại, lại tưởng có cả Viện Tử Y nên chẳng dám lùng sục loạn xạ, mà cũng chẳng dám đi một mình. Chúng hợp thành từng tốp ba, bốn người để đi lục soát.
Trình Linh Tố đưa cho Hồ Phỉ hòn đá, khẽ bảo:
– Ném xuống đống bàn ghế!
Hồ Phỉ cười đáp:
– Tuyệt diệu!
Hòn đá bay ra chạm mạnh vào một cái bàn, chồng bàn ghế cao ngất lập tức đồ sập xuống ầm ầm.
Bọn vệ sĩ hô hoán:
– Ở đây rồi! Ở đây rồi!
Bọn chúng ỷ đông người, tranh nhau xông vào đại sảnh thì chỉ thấy bàn ghế ngả đổ ngổn ngang, tựa hồ vừa trải qua một trường ác đấu mà chẳng thấy bóng người nào. Bọn vệ sĩ còn đang ngơ ngác đột nhiên đầu óc choáng váng, chân đứng không vững, ngã lăn cả ra.
Hồ Phỉ nói:
– “Thất tâm hải đường” lại lập được kỳ công!
Trình Linh Tố rón rén tiến vào sảnh đường, cô thổi tắt ngọn nến cất vào trong bọc, rồi nhìn Hồ Phỉ vẫy tay, nói:
– Mau chạy đi thôi!
Hồ Phỉ cõng Mã Xuân Hoa vượt tường ra ngoài. Chàng chuyển qua một ngõ hẻm bất giác kêu khổ, vì thấy trước mặt ngoài đầu đường đèn lồng cùng đuốc sang rực như ban ngày. Một đội quan binh đang đi tuần tra. Chàng vội rẽ về phía nam, đi chưa đầy nửa dặm lại gặp quan binh tuần tiễu đi tới. Chàng tự nhủ:
– Vụ thích khách đột nhập vào trong phủ Phúc đại soái chắc đã truyền đi khắp kinh thành, nên bây giờ chỗ nào cũng tuần tra nghiêm mật. Mình có muốn nhân cơn hỗn loạn để chuồn ra nơi vắng vẻ ở ngoại thành xem ra cũng chẳng dễ dàng gì.
Lại nghe tiếng người huyên náo ở phía sau. Một đội quan binh nữa kéo tới. Hồ Phỉ thấy hai mặt đều có địch, không còn đường thoái lui liền đưa tay ra hiệu cho Trình Linh Tố rồi tung mình vượt tường, nhảy vào trong một căn nhà lớn bên cạnh. Trình Linh Tố cũng nhảy theo vào.
Chỗ hạ chân xuống rất mềm mại, thì ra là một lùm cỏ rậm. Trước mắt đèn đuốc sáng rực, bóng người lố nhố. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều giật mình kinh hãi vì không ngờ trong này cũng có quan binh. Lại nghe tiếng bước chân ngoài tường vang lên. Hai đội quan binh tụ hợp vào một chỗ. Chàng biết tình thế không thể vượt tường mà ra được nữa. Bỗng Hồ Phỉ thấy một hòn giả sơn ở mé trái, phía trước hòn giả sơn là bụi hoa che kín. Hồ Phỉ liền cõng Mã Xuân Hoa ẩn vào phía sau hòn núi này.
Đột nhiên sau hòn núi có người nhoài mình đứng lên. Bạch quang lấp loáng, một cây thương phóng tới đâm vào ngực Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không ngờ cả tòa giả sơn này cũng có địch nhân mai phục, tập kích đột ngột không một tiếng động. Chàng đành đặt Mã Xuân Hoa xuống, tay trái đỡ khuỷu tay địch nhân, tay phải vung quyền đánh tới. Người kia thủ cước cũng mau lẹ phi thường. Hắn xoay nghiêng khuỷu tay để tránh rồi tạt ngang thanh chủy thủ, tay phải thi triển thành hình móc câu chộp lấy cổ tay Hồ Phỉ, hóa giải thoi quyền của chàng. Điêu vô cùng kỳ lạ là ở chỗ địch nhân che mắt bằng tấm vải vàng, và thủy chung không nói nửa lời.
Hồ Phỉ nhủ thầm trong bụng:
– Ngươi không lên tiếng thì còn gì hay bằng!
Bọn quan binh hiện đang ở ngoài tường, hắn mà hô lên một tiếng thì tình thế sẽ vô cùng bất ổn. Hai người đánh giáp lá cà đều phát huy những chiêu sát thủ. Hồ Phỉ nhận ra võ công đối phương chuyên về trường quyền. Hắn ra chiêu vừa hiểm ác vừa dữ dội, bản lãnh chẳng kém gì bọn Tần Nại Chi, Chu Thiết Tiêu. Huống chi trong tay hắn còn có binh khí, nên chiếm thêm phần tiện nghi.
Sau khi chiết giải đến chiêu thứ chín, Hồ Phỉ tiến sát vào, vung tay điểm trúng huyệt “Cưu vĩ” ở trước ngực đối phương. Người kia cực kỳ kiêu dũng, dù bị điểm huyệt rồi mà vẫn còn phóng chân phải đá tới. Hồ Phỉ lại điểm vào huyệt “Trung đô” trên đùi hắn, hắn mới té xuống không nhúc nhích được nữa.
Trình Linh Tố hích vào vai Hồ Phi, trỏ về phía đèn sáng, khẽ nói:
– Dường như họ đang diễn tuồng.
Hồ Phỉ ngửng đầu nhìn thấy một hý đài rất lớn dựng trên khu đất trống. Dưới đài lố nhố người ngồi, đèn đuốc sáng rực. Trên đài, các diễn viên vẫn chưa ra sân khấu.
Hiện nay đang thời Càn Long thịnh trị, trong thành Bắc Kinh, những nhà quan có bất kỳ cuộc liên hoan yến ẩm nào cũng đều bày trò hát xướng thâu đêm suốt sáng liền mấy ngày là chuyện bình thường, chẳng có chi là lạ.
Hồ Phỉ thở phào một cái, kéo tấm khăn vàng che mặt hán tử, thoáng thấy tướng mạo thô hào, ước chừng bốn mươi tuổi. Chàng khẽ nói:
– Hán tử này nhân lúc người ta có việc vui mừng định mò vào cắp gà trộm chó nên không dám lên tiếng.
Trình Linh Tố gật đầu, khẽ đáp:
– E rằng gã không phải là loại trộm vặt.
Hồ Phỉ mỉm cười, nói:
– Bọn trộm vặt ở kinh sư bản lãnh cũng không phải tầm thường.
Nhưng chàng lại lẩm bẩm trong bụng:
– Coi thân thủ người này quyết chẳng phải phường bắt gà trộm chó bình thường. Nếu không phải hắn có ý gây ra án mạng thì cũng đến tầm cừu giết người. Gã gặp vận xúi quẩy nên vô tình bị ta tóm được.
Trình Linh Tố khẽ nói:
– Chi bằng chúng ta tìm vào phòng chứa củi vắng vẻ trong nhà này, hoặc một lầu các nào để giấu gã mười hai giờ.
Hồ Phỉ đáp:
– Tiểu huynh thấy chỉ còn cách này. Bên ngoài bọn chúng tuần tra gắt quá làm sao mà ra được?
Giữa lúc ấy sân khấu mở màn, có một người tiến ra. Người này vẫn mặc quần áo vải thông thường, mặt không hóa trang. Y đứng trước sân khấu chắp tay thi lễ, dõng dạc lên tiếng:
– Kính chào các vị sư bá sư thúc, cùng các vị sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội.
Hồ Phỉ nghe thanh âm của y vang dội, mà vẻ mặt tựa hồ không phải là diễn tuồng.
Hán tử nói tiếp:
– Lúc này trời đã sắp sáng rồi, chớp mắt lại hết một ngày. Chỉ còn ba ngày nữa là đến kỳ đại hội các chưởng môn nhân khắp thiên hạ. Thế mà phái Tây Nhạc Hoa Quyền chúng ta cho đến bây giờ vẫn chưa suy cử xong một vị chưởng môn. Vụ này không nên kéo dài nữa. Cần phải làm thế nào xin những vị tiền bối trong các chi phái chỉ thị cho.
Trong đám đông dưới khán đài, một lão già khoác áo choàng màu đen đứng lên ho hắng mấy tiếng, rồi nói:
– “Hoa Quyền Tứ Thập Bát, Nghệ Thành Hành Thiên Hạ Nhai”. Phái Tây Nhạc Hoa Quyền chúng ta trải qua ba trăm năm chia làm năm chi phái: phái chữ Nghệ, phái chữ Thành, phái chữ Hành, phái chữ Thiên, phái chữ Nhai. Đã ba trăm năm nay, vẫn không có một vị tổng chưởng môn. Tuy rằng năm phái đều hưng vượng cả, nhưng các vị sư huynh, sư đệ hãy còn có thành kiến về môn hộ. Người thì bảo: “Ta ở chi phái chữ Nghệ”, kẻ lại nói: “Ta thuộc chi phái chữ Thành”, chứ chưa thấy ai nói mình ở Tây nhạc Hoa quyền môn cả. Không ai nghĩ tới bọn võ sư phái khác chẳng lý gì đến chữ Nghệ, chữ Thành mà chỉ gọi chung chúng ta là môn hạ Tây Nhạc Hoa Quyền môn. Môn phái ta số người đông đảo, kể từ khi lão tổ truyền thụ cho đến nay, võ công đâu phải tầm thường, cớ sao phải chịu thua xa những phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Thái Cực, Bát Quái, không vang danh như họ? Há chẳng phải vì chúng ta phân chia thành năm chi, lực lượng phân chia thành ra yếu kém, còn nói sao được nữa?
Lão già nói đặc giọng miền Giáp Bắc, lão nói tới đây lại ho mấy tiếng, rồi thở dài nói tiếp:
– Nếu không phải Phúc đại soái mở cuộc đại hội chưởng môn khăp thiên hạ thì không biết đến ngày nào Tây Nhạc Hoa Quyền môn chúng ta mới có chưởng môn nhân. May gặp thịnh hội này, cần phải gấp rút suy cử tổng chưởng môn. Bữa nay lão hủ chỉ muốn nói một câu: chứng ta suy cử vị tổng chưởng môn không những chỉ để tranh hùng trong cuộc đại hội sắp tới mà còn mong chỉnh đốn lại môn phái. Từ đây năm chi hợp nhất để cùng nhau đồng tâm hiệp lực chỉnh đốn uy phong cho Hoa Quyền môn trong võ lâm, làm tăng thêm hào khí.
Mọi người dưới đài đều nổi tiếng hoan hô, lại có nhiều người vỗ tay cổ võ.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Té ra nơi đây là chốn tụ hội của Tây Nhạc Hoa Quyền môn.
Chàng căng mắt nhìn quanh để tìm một nơi khuất vắng, nhưng chỗ nào cũng đèn lửa sáng trưng. Trong vườn tụ hội đến hơn hai trăm người, nếu bước ra ắt sẽ bị phát hiện ngay. Chàng khẽ nói:
– Chỉ mong cuộc đề cử chưởng môn của bọn họ kết thúc mau lẹ. Tây Nhạc Hoa quyền cũng hay mà Đông Nhạc Thái quyền cũng được, miễn sao giải tán càng sớm càng tốt.
Lại nghe trên đài người kia lên tiếng:
– Những lời của Thái sư bá toàn là kim thạch lương ngôn. Vãn bối ở về chi chữ Nghệ xin mạo muội thay mặt toàn thể anh em bản chi nói một câu là khi đề cử xong chưởng môn nhân, toàn thể chi phái thuộc chi chữ Nghệ sẽ toàn tâm toàn ý nghe lời vị chưởng môn nhân. Lão nhân gia nói sao nghe vậy, chi phái chữ Nghệ quyết không một lời dị nghị.
Mọi người dưới đài đều hô lớn:
– Hay lắm!
Tiếng hô kéo dài, giống như người hát trên sân khấu, khán giả ở dưới khen hay, bên trong rõ ràng có pha lẫn ý chế giễu, châm chọc.
Người đứng trên đài mỉm cười hỏi:
– Còn các chi phái khác có ý kiến gì không?
Những người dưới đài nhao nhao đứng dậy, mỗi người nói một câu:
– Chi phái chữ Thành quyết không vị bội lời nói của chưởng môn nhân.
– Lão nhân gia bảo sao, chi phái chữ Hành nhất định làm đúng như vậy.
– Chi phái chữ Thiên cũng xin tuân theo hiệu lệnh, không dám trái lời.
– Bọn đàn em chữ Nhai xin tuân theo các vị đại ca.
Người trên đài lại nói:
– Hay lắm! Các chi phái đều đồng tâm nhất trí, vậy là quá tốt, không còn điều chi bàn cãi nữa. Hiện giờ các vị chi trưởng, các bậc tiền bối sư bá, sư thúc đều hiện diện đông đủ, chỉ còn thiếu Cơ sư bá ở chi phái chữ Thiên không tới. Lão nhân gia đưa tin đã phái lệnh lang là Cơ sư huynh phó hội, nhưng chờ tới giờ này Cơ sư huynh vẫn chưa thấy đâu. Không chừng y đã đến từ sớm, nhưng không hiểu còn ẩn chỗ nào…
Gã nói tới đây thì cả trên lẫn dưới khán đài đều cười rần cả lên.
Hồ Phỉ cúi xuống ghé tai, hỏi hán tử:
– Phải chăng ông bạn họ Cơ?
Hán tử gật đầu. Mắt lộ vẻ ngơ ngác vì không hiểu Hồ Phỉ và Trình Linh Tố thuộc phe phái nào.
Người trên đài lại nói tiếp:
– Chỉ một mình Cơ sư huynh chưa tới, chúng ta đợi y suốt đêm là hết lòng rồi. Sau này Cơ sư bá cũng chẳng thể phiền trách chúng ta được. Xin các vị tiền bối sư bá sư thúc chỉ cho biết lựa chọn chưởng môn theo cách nào?
Mọi người chờ đợi suốt đêm chính là để coi màn kịch suy cử chưởng môn nhân, nên khi nghe tới đây tất cả đều cao hứng nhao nhao lên đáp:
– Cứ dựa vào võ công mà quyết định.
– Chẳng vị nào phục vị nào, nếu không dựa vào quyền cước hoặc khí giới thì còn biết căn cứ vào cái gì?
– Ai dùng thực lực bằng đao thương hay quyền cước khiến mọi người phải tâm phục thì dĩ nhiên người đó sẽ được làm chưởng môn.
Lão họ Thái lại đứng lên ho mấy tiếng, rồi nói:
– Xưa nay chức chưởng môn nhân cần dựa vào đức chứ không dựa vào lực. Bọn hậu sinh tiểu tử dẫu võ nghệ có cao minh đến đâu cũng không thể vượt qua những bậc tiền bối đức cao vọng trọng.
Lão dừng lại một chút, đảo mắt nhìn khắp mọi người một lượt, rồi nói tiếp:
– Nhưng lần này tình thế khác hẳn. Cuộc đại hội chưởng môn nhân trong thiên hạ là chỗ anh hùng tụ hội, dĩ nhiên mọi người phải phô trương tài nghệ. Giả tỷ Tây Nhạc Hoa Quyền môn chúng ta mà cử một lão già kém võ công đi phó hội thì thử hỏi có ai khen một câu “Lão đầu Hoa Quyền môn đức cao vọng trọng, già mà không chết” không?
Mọi người nghe nói đến đó đều cười rần cả lên.
Trình Linh Tố bất giác bĩu môi, cười thầm:
– Lão già này đến đây để nói chuyện tiếu lâm.
Lão họ Thái cất cao giọng nói tiếp:
– “Hoa Quyền Tứ Thập Bát, Nghệ Thành Hành Thiên Nhai”. Mấy trăm năm nay, bốn mươi tám đường quyền cước và khí giới của Hoa Quyền môn chẳng một ai dám nói là mình tinh thông hết được. Còn việc bữa nay, chỉ cần vị nào có tài cao nhất là lên chấp chưởng bản môn.
Mọi người vừa nghe tới đây bỗng từ cửa sau có tiếng trống nổi lên ầm ầm như sấm đậy.
Đang lúc sửng sốt, có người nói:
– Cơ sư huynh tới rồi đây!
Một người đi tới mở cửa. Một đội quan binh cầm đèn lồng sáng rực đi vào.
Hồ Phỉ tay phải nắm chặt chuôi đao, tay trái cầm tay Trình Linh Tố. Hai người nhìn nhau mỉm cười. Dù trong lúc nguy cấp trước mắt mà cả hai vẫn tâm ý tương thông.
Nhưng mới nhìn nhau, Trình Linh Tố bỗng cúi đầu xuống, thì ra cô chợt nhớ tới Viên Tử Y: “Ta và đại ca cùng chết nơi đây. Chẳng hay Viên cô nương có biết gì không?” Trong lòng cô cho rằng Hồ Phỉ cũng đang nghĩ tới Viên Tử Y và đang nhủ thầm: “Ta cùng nhị muội cùng chết ở đây. Chẳng hay Viên cô nương có biết gì không?”
Viên võ quan chỉ huy bước tới đám đông hỏi vài câu. Khi nghe nói phái Tây Nhạc Hoa Quyền môn đang chọn chức chưởng môn ở đây thì thái độ của y trở nên mười phần khách khí. Nhưng y vẫn giơ lồng đèn lên nhìn mặt từng người, rồi đi quanh vòng người tuần tra.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nấp trong hòn giả sơn, nhìn thấy ánh đèn lồng đi xa dần thì liền thầm nhủ:
– Không hiểu tên võ quan đó hên hay xui? Giả như cầm đèn soi vào hòn giả sơn này thì có lẽ cái đầu của y đã ăn một lưỡi đao rồi!
Bỗng nghe người trên đài hô:
– Vị nào vô công cao nhất sẽ nắm quyền chưởng môn. Câu này các vị đều nghe rõ cả. Vậy xin các vị sư bá sư thúc, sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội lần lượt lên đài phô trương tuyệt nghệ.
Tiếng hô vừa dứt, trước mắt mọi người bỗng sáng lên. Một thiếu phụ mặc áo màu hồng nhạt nhảy lên đài, nói:
– Đệ tử là Cao Vân ở phái chữ Hành, xin lĩnh giáo các vị tiền bối, sư bá, sư huynh.
Mọi người thấy thiếu phụ thi triển khinh công tư thế rất ngoạn mục, tà áo phất phới, tướng mạo lại xinh đẹp, bất giác nổi tiếng reo hò ầm ỹ.
Dưới đài liền có một thiếu niên nhảy lên, nói:
– Đệ tử là Trương Phục Long ở phái chữ Nghệ, xin Cao sư tỷ chỉ giáo.
Cao Vân đáp:
– Trương sư huynh bất tất phải khách khí.
Mụ soạc chân phải ra, duỗi chân trái về phía trước, tay phải để ngang thành chưởng, tay trái thành móc câu. Chính là chiêu thứ nhất trong Hoa quyền, gọi là “Xuất thế khóa hổ Tây nhạc truyền”. Trương Phục Long đưa gối lên, đáp lại bằng chiêu “Thương dương đăng thị cước độc huyền”. Hai nguời đều thi triển quyền chiêu của bản môn để khai diễn cuộc đấu.
Sau hơn hai chục chiêu, Cao Vân sử chiêu “Hồi đầu vọng nguyệt phượng triển xí” lạng người tới, phóng chưởng đánh Trương Phục Long rớt xuống đài.
Tên võ quan miệng không ngớt lớn tiếng khen ngợi:
– Tuyệt quá! Tuyệt quá!
Dưới đài lại một đại hán nhảy lên nói mấy câu khách khí rồi cùng Cao Vân động thủ. Lần này Cao Vân sẩy chân bị hán tử đẩy ngã lăn đi.
Tên võ quan lại tặc lưỡi:
– Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc!
Gã mất hứng không muốn đứng xem nữa, bèn dẫn đám quan binh đi tuần tra tiếp.
Trình Linh Tố thấy đám quan binh đi rồi mới thở phào nhẹ nhõm. Trên hý đài kẻ lên người xuống tiếp tục tỷ đấu hoài, không hiểu còn mất bao lâu nữa mới lựa chọn được chưởng môn. Trình Linh Tố nhìn lại Hồ Phỉ, thấy chàng vẫn ngưng thần theo dõi hai người tỷ đấu trên đài. Cô nghĩ bụng:
– Quyền cước hai người này tuy hiểm độc nhưng chưa phải là hạng cao minh, mà sao đại ca cứ nhìn đăm đăm xuất thần đến thế?
Cô khẽ nói:
– Đại ca! Đã mất nửa giờ rồi, cần mau nghĩ đến biện pháp nào mới được. Nếu không nhanh chóng châm cứu thì không kịp đâu.
Hồ Phi ừ hử một tiếng, mắt vẫn chăm chú nhìn lên đài không chớp.
Chẳng mấy chốc một người thua nhảy xuống, người khác lại vọt lên tỷ thí với kẻ thắng. Tuy đây là cuộc so tài giữa đồng môn, nhưng hai người tỷ thí dĩ nhiên là môn đồ hai chi phái khác nhau, nên dù không đến nỗi kẻ sống người chết, nhưng cuộc thắng bại lại quan hệ đến sự vinh nhục cho chi phái, nên người nào cũng dốc toàn lực tỷ đấu. Đến lúc này, những tay cao thủ chân chính vẫn chưa chịu lên đài. Những người trước mắt chưa chắc đã tranh nổi chức chưởng môn.
Nguyên năm chi phái Hoa Quyền môn lâu nay vẫn đấu tranh với nhau, khi công khai, khi lén lút, bây giờ gặp cơ hội, họ giải quyết những chuyện xích mích cũ ở ngay trên đài, nên cuộc tỷ đấu thực sự náo nhiệt.
Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ đứng coi tựa hồ đến mức ngây cả người ra, bèn tự nhủ:
– Đại ca bản tính hiếu võ. Y mãi coi cuộc tỷ thí thành ra quên hết mọi chuyện.
Cô khẽ đẩy vai chàng, nói nhỏ:
– Tình thế trước mắt rất cấp bách. Chúng ta hãy mau rời khỏi nơi đây rồi sẽ tính. Những người này toàn là hảo hán võ lâm, mang nghĩa khí giang hồ, chắc họ không thèm đi báo quan phủ làm chi.
Hồ Phỉ lắc đầu, khẽ đáp:
– Chuyện khác thì còn bỏ qua được, nhưng đây là việc Phúc đại soái thì khi nào họ chịu bỏ qua? Đây chính là cơ hội tốt để họ lập công.
Trình Linh Tố nói:
– Nếu chúng ta mạo hiểm để Mã cô nương ở đây mà cho uống thuốc, thì đến lúc trời sáng tất cũng bị người ta phát giác.
Thanh âm cô tỏ ra rất đỗi bồn chồn. Cô vốn là người bình tĩnh, nếu chẳng phải là việc cấp bách tất đã không thúc giục luôn miệng như thế. Hồ Phỉ lại ừ một tiếng mà mắt vẫn theo dõi cuộc tỷ võ trên đài không chớp.
Trình Linh Tố buông tiếng thở dài, khẽ nói:
– Đợi đến khi không cứu được Mã cô nương, đại ca đừng trách tiểu muội.
Hồ Phỉ vội đáp:
– Được rồi, nếu không coi hết thì mình phải mạo hiểm tỷ thí một phen.
Trình Linh Tố ngơ ngác hỏi:
– Đại ca bảo sao?
Hồ Phỉ đáp:
– Tiểu huynh lên đoạt chức chưởng môn Tây Nhạc Hoa Quyền môn. Nếu lòng trời phù hộ cho mình thành công, thì bọn họ nhất định phải nghe theo hiệu lệnh của tiểu huynh.
Trình Linh Tố cả mừng, lắc tay chàng mấy cái, nói:
– Đại ca, những người này đâu thể là đối thủ của đại ca. Nhất định thành công rồi! Nhất định thành công rồi!
Hồ Phỉ đáp:
– Khó là ở chỗ ta phải dùng quyền pháp của họ. Trong lúc nhất thời đâu nhớ được bao nhiêu? Đối phó hạng tầm thường thì chẳng khó gì, nhưng lát nữa những tay cao thủ lên đài, sử mấy món quyền pháp tầm thường kia nhất định không được và mình tất phải lộ mặt. Nếu bọn họ biết mình không phải đệ tử bản môn, thì dù có thắng, họ cũng không chịu suy tôn làm chưởng môn.
Chàng nói tới đây bỗng nhớ đến Viên Tử Y. Dường như võ công các phái, các nhà nàng đều tinh thông. Nếu nàng có mặt ở đây ra tay thì bên mình nắm vững phần thắng hơn nhiều. Thực ra, trong lòng chàng nghĩ nếu có Viên Tử Y ở đây thì chàng cũng chẳng cần đoạt chức chưởng môn của Hoa Quyền môn làm gì?
Bỗng nghe một tiếng “úi chao”, một người bị hất xuống đài.
Tiếp theo có người dưới đài cất tiếng thóa mạ:
– Con mẹ nó! Sao lại nặng tay thế?
Người khác cãi lại:
– Đã động thủ thì còn kể gì nặng với nhẹ? Ngươi có giỏi thì lên tỷ đấu!
Người kia xẵng giọng:
– Được rồi! Bọn ta sẽ lên tỷ thí.
Người khác lảm nhảm:
– Ta không phải là đối thủ của chưởng môn nhân mười tám đời nhà mi, chẳng dám qua chiêu với “lão nhân gia”.
Hồ Phỉ đứng lên, nói:
– Lát nữa nếu tiểu huynh không tranh được chức chưởng môn thì thị muội cứ cho thuốc và châm cứu cho Mã cô nương. Chúng ta làm được tới đâu hay đó.
Nói rồi, chàng lột cái khăn Vàng của gã hán tử bịt lên mặt mình.
Trình Linh Tố “ồ” một tiếng, mỉm cười nói:
– Người ta làm tổng chưởng môn của chín nhà rưỡi, chẳng lẽ đại ca không làm nổi chưởng môn một nhà?
Cô nói câu này rồi lại đâm ra hối hận:
– Sao ta cứ nghĩ đến Viên cô nương hoài, lại còn nhắc nhở Hồ đại ca khiến y cũng sao quên được cô ta.
Bỗng thấy Hồ Phỉ ngang nhiên bước ra khỏi hòn giả sơn, cô nhìn bóng lưng chàng, tự nhủ:
– Dù ta không nhắc nhở, chẳng lẽ đại ca lại có lúc quên được y ư?
Cô nhìn Hồ Phỉ sải bước tiến về võ đài, bất giác trong lòng cảm thấy vừa ngọt ngào, lại vừa cay đắng.
Hồ Phỉ vừa bước đến trước võ đài, bỗng thấy một người tranh vọt lên trước. Chính là đại hán vừa cãi nhau với người khác.
Chàng lẩm bẩm:
– Chờ hai người này phân thắng bại thì cũng phải mất thời gian. Mình chần chờ khắc nào là Mã cô nương càng thêm nguy hiểm khắc đấy.
Chàng vội vọt theo, người đang lơ lửng trên không đã nắm lấy lưng đại hán, nói:
– Sư huynh hãy khoan! Xin nhường cho tiểu đệ đánh trước!
Hồ Phỉ thi triển công phu “Đại cầm nã thủ” gia truyền của chàng. Ngón tay cái bấm vào huyệt “Cân xúc” là đốt thứ chín ở xương sống đại hán, ngón tay út thọc vào đốt thứ năm là huyệt “Thần đao”. Đại hán tuy vóc người to lớn nhưng lúc này còn cử động làm sao được? Hồ Phỉ thuận đà nhảy lên đứng trên võ đài, tiện tay ném đại hán xuống, để hắn rơi nhẹ nhàng vào cái ghế trống.
Hồ Phỉ phô trương võ công thượng thừa một cách đột ngột khiến tất cả mọi người dưới đài đều kinh dị, đến nửa số người đứng lên để nhìn. Họ thấy Hồ Phỉ che mặt bằng khăn vải vàng, nên không ai hiểu là người đã đã già hay còn trẻ. Có điều sau lưng chàng buông rủ bím tóc đen láy thì hiển nhiên chưa nhiều tuổi. Tuổi nhỏ mà võ công thần diệu như vậy, khiến những tay cao thủ càng biết nhiều hiểu rộng lại càng kinh dị.
Hồ Phỉ nhìn người trên đài, chắp tay nói:
– Tại hạ là Trình Linh Hồ, đệ tử chi phái chữ Thiên, xin sư huynh chỉ giáo.
Trình Linh Tố ngồi ở sát sau hòn giả sơn, nghe rõ chàng tự xưng là Trình Linh Hồ thì không khỏi mỉm cười, nhưng lập tức cô lại thấy chua chát trong lòng:
– Giả tỷ y là anh ruột ta thì đỡ được biết bao nhiêu phiền não.
Hán tử trên đài thấy thanh thế Hồ Phỉ đã bở vía rồi. Gã kính cẩn đáp lễ nói:
– Tiểu đệ học nghệ chưa tinh, xin Trình sư huynh nhẹ đòn cho.
Hồ Phỉ đáp:
– Không dám! Không dám!
Chàng không khách sáo nữa, chân phải co lại một nửa, chân trái duỗi ra, tay phải để ngang thành chưởng, tay trái thành móc câu, chính là chiêu “Xuất thế khóa hổ Tây nhạc truyền”. Người kia xoay mình, co gối duỗi tay, đáp lại bằng chiêu “Bạch viên thâu đao bái thiên đình”. Chiêu này thủ nhiều, mà công ít, tỏ vẻ toàn lo tự vệ.
Hồ Phỉ bước tới, phóng chiêu “Ngô vương thí kiếm phách ngọc chuyên” đánh ra. Người kia vẫn không dám tiếp chiêu, liền ra chiêu “Triệt thân đao bộ nhất lưu yên”. Hồ Phỉ không muốn mất nhiều thì giờ, liền sử chiêu “Tà thân lạn môn sáp thiết soan”. Chiêu này đứng theo thế “cung tiễn bộ”, tả chưởng biến thành quyền vươn thẳng ra rồi đánh mạnh xuống, hữu quyền đánh tiếp ra. Người kia thấy quyền thế của đối thủ trầm trọng vội đưa tay chống đỡ. Hồ Phỉ vận nội lực vào tay phóng ra rồi lại thu về, nhẹ nhàng đẩy gã xuống đài.
Bỗng nghe dưới đài có người gầm lên một tiếng. Chính là đại hán vừa bị Hồ Phỉ ném xuống. Gã dợm nhảy lên đài, quát lớn:
– Tổ bà nó! Ngươi là cái thá gì…
Hồ Phỉ bước tới, sử chiêu “Kim bằng triển xí đình trung thiếp”, hai cánh tay giơ ngang ra, khiến đại hán không nhảy lên dài được. Gã bị tý lực của Hồ Phỉ đẩy xuống. Lần này Hồ Phỉ giận gã ăn nói vô lễ, vận động ba phần kình lực. Bỗng nghe “rắc” một tiếng, gã đại hán kia ngã đè lên hai cái ghế trước đài làm cho gãy tan.
Chàng đả bại luôn hai người khiến quần hùng phía dưới đài tới tấp chụm đầu ghé vai, xì xầm hỏi bọn đệ từ phái chữ Thiên xem người này là môn hạ của ai, nhưng đệ tử chi phái này cũng không biết gì.
Một vị tiền bối phái chữ Nghệ lên tiếng:
– Người này chưa thuần thục võ công bản môn. Hiển nhiên y đã học nghệ từ trước rồi mới đầu sư. Mười phần hết chín, chắc là đồ đệ mới thu nạp của Cơ lão tam.
Một lão già phe chữ Thành đáp:
– Thế thì Cơ lão tam có chỗ không phải rồi. Lão phái môn đồ đã học nghệ từ trước đến tranh đoạt chức chưởng món há chẳng là phản lại võ công bản môn?
Nguyên Cơ lão tam là người đứng đầu phái chữ Thiên, võ công thuộc hạng đệ nhất ở Tây Nhạc Hoa Quyền môn, nhưng hai chân lão bị tê bại từ mười năm trước. Hiện nay, dù lão đi đứng không dễ dàng, mà uy danh vẫn rất lớn. Sư huynh đệ đồng môn nhắc tới ba chữ “Cơ lão tam” đều có lòng úy kỵ. Mọi người thấy vị “Trình Linh Hồ phe chữ Thiên” võ công cao thâm, mà người con trai được Cơ lão tam phái đến là Cơ Hiểu Phong thủy chung vẫn chưa thấy lộ diện, nên ai nấy đều tưởng chàng là môn đồ của Cơ lão tam. Họ có biết đâu Cơ Hiểu Phong đã bị Hồ Phỉ điểm huyệt đang nằm sau hòn giả sơn. Bản lãnh Cơ lão tam rất cao cường, tính tình kiêu ngạo, chẳng coi bạn đồng môn vào đâu. Sau khi hai chân tê bại, lão đóng cửa tạ khách, đem hết võ công truyền thụ cho con.
Chuyến này các cao thủ năm chi phái quần tụ ở Bắc Kinh, căn cứ vào võ công để quyết định chức chưởng môn. Cơ Hiểu Phong lập chí giành cho bằng được chức chưởng môn này. Võ công gã đã học được đến chín thành của phụ thân, nhưng về tư cách lại kém bề quang minh lỗi lạc. Gã lén lút nấp sau hòn giả sơn để nhìn rõ hư thực của mọi đối thủ, sau đó chỉ cần đánh một đòn là trúng ngay. Không ngờ ma đưa lối quỷ dẫn đường gã lại bị Hồ Phỉ kiếm chế. Cơ Hiểu Phong cho rằng đây là âm mưu của chi phái khác, ngấm ngầm mai phục cao thủ để đối phó mình. Vừa rồi gã đã cùng Hồ Phỉ chiết giải mấy chiêu, liền bị chàng điểm trúng huyệt đạo khiến cho gã một thân võ công mà không còn cơ hội để thi triển, kế hoạch của phụ thân gã chỉ trong chớp mắt đã trôi theo dòng nước. Trong lòng tức giận đến cực điểm, Cơ Hiểu Phong chỉ muốn nhảy lên đài quyết một trận sống mái với Hồ Phỉ.
Bây giờ gã thấy chàng lên đài rồi, đả bại hết mọi cao thủ các chi phái, tưởng chừng như không còn ai kiềm chế được chàng, nên gã hết sức vận khí xung phá huyệt đạo, mong chân tay mau trở lại tự do. Những Hồ Phỉ điểm huyệt gã bằng tuyệt kỹ tổ truyền khác hẳn những điều sở học của Cơ Hiểu Phong. Gã bình tâm tĩnh trí ngầm vận nội lực cũng chẳng thể tự giải khai được, huống chi lúc này gã lại đang cơn cuồng nộ? Sau khi miễn cưỡng vận nội lực, đột nhiên chân khí đi vào đường rẽ, gã lập tức ngất xỉu. Nên biết Cơ lão tam luyện công, cũng vì nóng lòng cầu tiến vượt mức mà bị tẩu hỏa nhập ma, nên dẫn đến hai chân tê bại. Bây giờ Cơ Hiểu Phong lại bước theo vết xe đổ của phụ thân, cơn nguy hiểm còn hơn thế nữa.
Trình Linh Tố để hết tinh thần theo dõi cuộc tỷ đấu trên đài giữa Hồ Phỉ cùng người khác. Cô thấy mỗi chiêu mỗi thức của chàng quả nhiên toàn là Tây Nhạc Hoa quyền vừa mới học được, liền nhủ thầm:
– Đại ca đối với võ học dường như sinh ra đã biết. Những chiêu thức Tây Nhạc Hoa quyền phức tạp là thế mà y chỉ cần xem người ta chiết chiêu là đã học được rồi.
Giữa lúc ấy bỗng nghe đại hán bên cạnh khẽ rú lên một tiếng, thanh âm ra chiều khác lạ. Cô quay đầu lại thấy gã hai mắt nhắm nghiền, lưỡi thè ra ngoài miệng bị răng cắn đến chảy máu tươi, toàn thân run bần bật như người lên cơn sốt rét. Trình Linh Tố biết gã vì gượng vận nội lực xung phá huyệt đạo đến nỗi chân khí đi vào đường rẽ. Nếu không cứu trị ngay thì nặng là tâm thần hoảng loạn, phát điên phát khùng, nhẹ cũng thành tàn phế, mất hết võ công. Cô tự nhủ:
– Giữa bọn mình với gã vốn không thù oán thì hà tất vì cứu một người mà lại hại một người.
Cô liền lấy kim ra châm vào bốn đại huyệt “Liêm tuyền” “Thiên đột”, “Kỳ môn”, “Đại hoành” trong mạch “Âm duy” của gã. Sau một lúc, Cơ Hiểu Phong dần dần hồi tỉnh, thấy Trình Linh Tố đang châm kim cứu trị cho mình, liền nói khẽ:
– Đa tạ cô nương!
Trình Linh Tố đưa tay ra hiệu cho gã đừng lên tiếng.
Bỗng nghe Hồ Phỉ ở trên đài dõng dạc hô:
– Ngôi chưởng môn cần quyết định mau chóng, nếu cứ đấu kiểu này thì biết bao giờ cho kết thúc? Các vị sư bá sư thúc, sư huynh sư đệ muốn chỉ giáo thì mời cả ba, bốn vị thượng đài cùng một lúc. Đệ tử có thất bại cũng quyết không có lời oán trách
Mọi người nghe nói đều cho là gã tiểu tử này ngông cuồng. Nếu lấy một chọi một thì không ai dám nhảy lên, bây giờ họ đều nhao nhao muốn liên thủ hợp lực tỷ đấu. Thực ra chiêu số mới học của Hồ Phỉ rất hạn chế, nếu còn đấu nữa thì tất bị lòi đuôi. Bằng nhiều người hợp thủ quần công đánh loạn xà ngầu thì có dùng tiểu xảo người ngoài cũng khó lòng nhận ra. Hơn nữa cuộc xa luân chiến tiếp diễn, nội lực chàng dầu có sung mãn bao nhiêu đi nữa cũng sẽ hao dần cho đến lúc kiệt sức. Mặt khác, việc cứu Mã Xuân Hoa lại khẩn cấp, nên chàng phải nghĩ tới cách tốc chiến tốc thắng.
Hồ Phỉ huy động chưởng lực, trong chớp mắt đã đánh ngã mấy người rớt xuống đài.
Trong năm phái ở Tây Nhạc Hoa Quyền môn, chỉ có đệ tử phái chữ Thiên đều cho là chàng vâng lệnh Cơ chi trưởng tới đây nên không ai lên đài giao thủ. Còn bốn chi phái kia, những tay hảo thủ trẻ tuổi đã bị loại hết. Chỉ một số ít cao thủ lớn tuổi tự lượng không nắm được phần thắng, lại muốn bảo toàn thanh danh mấy chục năm nên không chịu lên đài khiêu chiến.
Về sau, các tay cao thủ tráng niên trong các phái chữ Nghệ, chữ Thành, chữ Hành liên thủ thượng đài, nhưng chỉ trong vòng mười hiệp là đã thua liểng xiểng phải lui xuống. Đến lúc này, các vị danh túc tiền bối cũng như thanh niên đệ tử trong bổn phái đều ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám thượng đài nữa.
Bỗng thấy lão họ Thái khoác áo choàng màu đen đứng lên nói:
– Trình sư huynh, bản lãnh của sư huynh rất cao cường khiến cho ai nấy đều bội phục. Nhưng lão hủ xem ra thì quyền chiêu của sư huynh tựa hồ có điểm giống với võ công sở truyền của bản môn mà thực ra không phải.Chà chà! Có thể nói là “hình tự nhi thần phi”, tuy về hình thức thì có giống, nhưng về tinh thần thì tựa hồ không phải. Vụ này… vụ này quả có chỗ không ổn rồi đây.
Hồ Phỉ trong lòng run lên, nghĩ thầm:
– Nhãn quang của lão này quả nhiên lợi hại. Tuy ta sử quyền Tây Nhạc Hoa quyền, nhưng khi hất người té xuống thì vẫn dùng nội kình khác hẳn với Hoa quyền của bọn họ.
Nên biết Tây Nhạc Hoa Quyền môn nổi danh thiên hạ về võ công ngoại môn, thì chỗ tinh vi ảo diệu bên trong Hồ Phỉ đâu có thể chỉ coi mấy người chiết chiêu một lúc mà hiểu được? Huống chi chàng chưa được nhìn những tay cao thủ phái này ra chiêu, dĩ nhiên chỉ học được cái vỏ bên ngoài.
Giữa lúc căng thẳng, chàng đành liều miễn cưỡng đáp:
– “Hoa Quyền Tứ Thập Bát, Nghề Thành Hạnh Thiên Nhai”. Nếu không phải sở ngộ của mỗi người khác nhau thì sao bản môn lại chia thành năm chi phái? Đạo võ học nguyên không có phép tắc nhất định. Chi phái chữ Thiên của đệ tử hiểu về quyền lý có chỗ khác người, cũng là lẽ ấy.
Chàng chắc được bọn đệ tử ở phái chữ Thiên ủng hộ mình không đến nỗi bị cô lập. Quả nhiên bọn đệ tử phe chữ Thiên nghe chàng đề cao bản phái trong lòng rất khoan khoái. Có kẻ đứng dưới lớn tiếng phụ họa.
Lão họ Thái lắc đầu hỏi Hồ Phỉ:
– Trình sư huynh! Sư huynh có phải là môn hạ của Cơ lão tam không, hay sau khi đã mang tuyệt nghệ mới vào đầu sư? Lão hủ chưa đến nỗi mắt kém, coi công phu của sư huynh mười phần có đến chín không phái là công phu bản môn.
Hồ Phỉ đáp:
– Thái sư bá nói vậy, đệ tử không đám tán đồng bừa. Trong cuộc đại hội chưởng môn, nếu bản môn muốn tranh hùng với những phái lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Thái Cực, Bát Quái để nêu cao uy phong của Tây Nhạc Hoa Quyền môn thì cần phải dung hội quán thông, canh tân đổi mới. Sở học của đệ tử về nội kình đều là công phu của sư phụ gần mười năm bế môn suy ngẫm mới sáng tạo ra, dĩ nhiên phải có chỗ độc đáo. Nếu Thái sư bá cho rằng đệ tử không đúng thì xin mời thượng đài chỉ điểm cho một chiêu
Lão già họ Thái ngần ngừ đáp:
– Bản môn có nhân tài kiệt xuất như lão đệ đây để làm rãng rỡ tông môn, lão hủ vui mừng còn không hết, lẽ nào lại có chuyện dị nghị? Nhưng trong lòng có chỗ hoài nghi chẳng thể không nói ra. Bây giờ làm thế này quách. Xin Trình lão đệ biểu diễn một bài Hoa quyền. Đó có phải là công phu của bản môn hay không thì mười mấy vị lão huynh đệ mắt sáng như đuốc ở đây xem sẽ rõ. Nếu lão đệ tinh thông võ bản môn thì lão hủ là người thứ nhất hoan hô ủng hộ lão đệ làm chưởng môn.
Quả nhiên gừng càng già càng cay. Hồ Phỉ cùng người động thủ quá chiêu còn có thể mập mờ thi triển võ công của mình bằng những chiêu tương tự như Hoa Quyền môn, nhưng bảo chàng biểu diễn một bài quyền, trong lúc tay đấm chân đá thì giả thực đều hiện ra rõ ràng, làm sao có thể lập lờ được?
Huống chỉ những quyền chiêu chàng học lỏm được đều là cái vỏ hời hợt bên ngoài, không thành một bài quyền được, thì làm sao có thể biểu diễn quyền pháp trọn vẹn từ đầu chí cuối? Hồ Phỉ tuy là người lắm mưu nhiều kế, mà nghe lão ta nói vậy cũng không biết phải trả lời sao.
Chàng đang tìm cách thoái thác, bỗng nghe phía sau hòn giả sơn có người lên tiếng:
– Thái sư bá, sao sư bá lại gây khó dễ cho phái chữ Thiên của bọn tiểu điệt đến vậy? Trình sư huynh đây là đệ tử đắc ý nhất của gia phụ. Y nhập môn đã mười hai năm, chẳng lẽ lại không luyện hết được đường Hoa quyền?
Rồi thấy một người rảo bước đi tới trước đài. Chính là Cơ Hiểu Phong, một tay đệ tử nổi tiếng nhất ở chi phái chữ Thiên. Phàm những việc lớn nhỏ trong chi phái này thường do gã đại diện phụ thân để giải quyết và được coi như người chi trưởng, nên ai ai cũng nhận ra gã.
Cơ Hiểu Phong nhảy lên đài, chắp tay nói:
– Gia phụ đóng cửa ẩn cư, đem võ công bản thân truyền thụ hết cho Trình sư ca trong mười hai năm là để có ngày nay. Trình sư ca đây bản lãnh hơn đệ tử gấp mười lần. Các vị bá thúc đều thấy rõ, sao lại có lời dị nghị?
Mọi người nghe gã nói vậy thì không hoài nghi gì nữa. Ai cũng cho là Cơ lão tam bản tính quái dị, hiếu thắng. Lão lén lút rèn luyện một tên đồ đệ. Hành động này hợp với tính khí của lão. Hơn nữa, Cơ Hiểu Phong vốn là tay kiêu hùng mà cũng tâm phục Hồ Phỉ thì làm sao có thể giả trá được?
Lão họ Thái toan hỏi nữa thì Cơ Hiểu Phong đã dõng dạc nói ngay:
– Nếu Thái sư bá muốn khảo nghiệm vô công của phải chữ Thiên thì đệ tử xin thay mặt Trình sư ca đi một bài quyền để sư bá chỉ điểm cho.
Gã không đợi cho lão Thái trả lời đã đứng chụm chân lại, biểu diễn những chiêu “Hiểu tinh đương đầu tức tẩu quyền”, tiếp theo đến những chiêu “Xuất thế khóa hổ Tây nhạc truyền”, “Kim bằng triển xí đình trung thiên”, “Vi Đà hiến bảo tại hung tiền”, “Bả tý môn hoàng thiết soan”, “Khôn quỷ ngưỡng đẩu liên lục lan”. Hai tay gã làm thành chưởng, quyền, câu, trảo biến hóa theo mười hai thủ pháp: “Xung, Thôi, Tiệt, Thiết, Phách, Khiêu, Đinh, Giá, Sanh, Liêu, Xuyên, Dao”. Chân y bước thành “Cung tiễn bộ”, “Mã bộ”, “Phốc bộ”, “Đinh bộ” rồi biến thành “Hành bộ”, “Đảo bộ”, “Mại bộ”, “Thâu bộ”, “Đạp bộ”, “Kích bộ”, “Dược bộ”. Bộ pháp chỗ vững vàng trầm ổn thì như voi đứng hổ ngồi, lúc mau lẹ thì như chim ưng vồ thỏ.
Mọi người đứng dưới đài đều là bản môn đệ tử, chẳng ai là không thuộc lòng đường quyền pháp này, nhưng thấy bản lĩnh của Cơ Hiểu Phong thâm hậu như vậy, ai nấy đều thán phục. Cả những bậc tiền bối nổi danh các chi khác cũng không khỏi gật đầu.
Cơ Hiểu Phong biểu diễn đến những chiêu “Phụng Hoàng toàn oa hồi thân chuyển”, “Thoái đặng cửu thiên xung thiết quyền”, “Anh hùng đả hổ thu chiêu thế”, rồi đến chiêu cuối cùng là “Quyền bãi đình tiền ngũ canh thiên”, pháp độ mỗi chiêu lại càng nghiêm mật. Đúng là quyền thuật cao siêu!
Y biểu diễn xong thu tay về, dưới đài nổi lên tiếng hoan hô như sấm dậy.
Từ lúc Cơ Hiểu Phong lên đài, trong lòng Hồ Phỉ rất lấy làm lạ. Chàng không hiểu Trình Linh Tố đã dùng biện pháp gì ép được gã lên đài giải vây cho mình. Chàng coi gã luyện xong đường quyền, khen thầm trong bụng:
– Tây Nhạc Hoa Quyền quả nhiên không phải tầm thường, nếu người này bổ sung thêm phần nội lực là trở thành danh gia võ học.
Cơ Hiểu Phong đi xong nột bài quyền, lập tức hơi thở dồn dập, toàn thân run run như người bị bệnh nặng chưa khỏi, hay người bị trọng thương. Người dưới đài không ai phát giác nhưng Hồ Phỉ đứng ngay đằng sau gã nên thấy rõ mồn một. Chàng còn thấy vạt áo sau lưng gã ướt đẫm mồ hôi, điều không thể xảy ra với những tay võ công cao cường, trong lòng càng lấy làm quái lạ.
Cơ Hiểu Phong định thần lại, nói:
– Còn vị sư thúc sư bá, sư huynh sư đệ nào muốn tỷ thí với Trình sư ca xin mời thượng đài.
Y hỏi luôn ba tiếng không ai trả lời. Quần đệ từ ở chi phái chữ Thiên đều lớn tiếng hoan hô:
– Cung hỷ Trình sư ca vinh nhiệm chưởng môn phái Tây Nhạc Hoa Quyền!
Quần hào cũng hoan hô theo. Thế là vụ Hồ Phỉ lên chấp chưởng Hoa quyền môn đã định xong.
Cơ Hiểu Phong quay lại nhìn Hồ Phỉ, chắp tay nói:
– Cung hỷ! Cung hỷ!
Hồ Phỉ chắp tay đáp lễ, thấy nhãn quang y đầy vẻ oán độc, nhưng chàng đang lo về bệnh tình Mã Xuân Hoa, nên vội nói:
– Cơ sư đệ! Phiền sư đệ kiếm một gian tĩnh thất cho hai vị sư muội của chúng ta nghỉ ngơi.
Cơ Hiểu Phong gật đầu rồi nhảy xuống đài, hai chân y loạng choạng suýt té.
Hồ Phỉ đứng trước đài nói:
– Các vị đã tân khổ suốt đêm xin mời về nghỉ. Tối mai chúng ta lại thương nghị đại kế làm cho Hoa quyền môn chúng ta nổi danh thiên hạ trong cuộc đại hội chưởng môn sắp tới.
Chàng nói những lời này không phải là hoa ngôn, vì đối với Hoa quyền môn chàng thực sự có đôi phần cảm kích. Giữa lúc quan binh tróc nã, nếu không gặp được cơ duyên vượt tường nhảy vào đúng lúc họ đang suy cử chưởng môn thì chắc Mã Xuân Hoa bị chất độc phát tác làm cho chết, thây bỏ ven đường rồi. Nếu như có cơ hội tranh giành chút vinh hoa cho Hoa Quyền môn thì chàng tình nguyện hết lòng ra sức.
Quần đệ tử nghe nói tới tấp đứng dậy. Người nào cũng nghị luận võ công của Hồ Phỉ. Có kẻ ca tụng Cơ lão tam thâm mưu viễn lự, đánh một đòn làm mọi người đều kinh hãi. Có người khen đường quyền của Cơ Hiểu Phong rất cao minh. Nhất là bọn đệ tử chi phái chữ Thiên lại càng cao hứng phi thường. Mấy vị tiền bối muốn lại chuyện trò với Hồ Phỉ, nhưng chàng chắp tay thi lễ rồi theo Cơ Hiểu Phong vào nội thất. Trình Linh Tố bồng Mã Xuân Hoa trà trộn trong đám đông, bám gót theo sau.
Tòa đại trạch này là của một vị cao quan ở Hoa quyền môn đã về hưu. Nay Hồ Phỉ đã làm chưởng môn, dĩ nhiên chủ nhân đối đãi với chàng rất ân cần.
Hồ Phỉ thủy chung không cởi tấm khăn vàng che mặt. Chàng cùng Trình Linh Tố, Cơ Hiểu Phong đem Mã Xuân Hoa vào nội thất, bỏ tấm khăn che mặt ra, rồi nói:
– Cơ đại ca! Đa tạ đại ca! Ngôi chưởng môn này tiểu đệ nhường lại cho đại ca.
Cơ Hiểu Phong chỉ hắng giọng một tiếng chứ không nói gì.
Hồ Phỉ nhìn Mã Xuân Hoa thấy sắc mặt tím đen, đã hôn mê từ lâu, hơi thở đưa ra thì nhiều mà hít vô thì yếu, tính mệnh mong manh như sợi tợ. Trình Linh Tố bồng Mã Xuân Hoa đặt lên giường, lấy kim châm vào mười ba huyệt đạo qua lần áo mà vẫn chuẩn xác. Đuôi mỗi mũi kim đều quấn bông. Thủ pháp cô cực kỳ mau lẹ mà không hoang mang, vội vàng. Hồ Phỉ thấy thần sắc cô vẫn bình thường mới yên tâm đôi chút.
Sau khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà, đuôi kim từ từ cháy máu đen thấm vào miếng bông. Nguyên những mũi kim này rỗng ruột, dùng để hút chất độc ra.
Trình Linh Tố thở phào một cái, mỉm cười, cô lại lấy một viên thuốc xanh lục từ trong bình thuốc đưa cho Cơ Hiểu Phong, nói:
– Cơ đại ca, đại ca hãy về phòng nghỉ ngơi. Đại ca cứ uống mười viên thuốc này là chất độc trong người sẽ tiêu hết.
Cơ Hiểu Phong đón lấy bình thuốc, lẳng lặng ra khỏi phòng.
Bây giờ Hồ Phỉ mới hiểu Trình Linh Tố đã dùng bản lãnh chuyên môn của cô để bức bách Cơ Hiểu Phong phải nghe theo lệnh. Chàng cười, nói:
– Dược vương cô nương đi tới đâu được việc tới đó. Bản lãnh dùng độc của nhị muội chưa chắc tôn sư ngày trước đã bì kịp.
Trình Linh Tố mỉm cười không đáp. Thực ra lần này không phải cô dùng độc để bức bách Cơ Hiểu Phong, mà cô đả thông huyệt giải mạch cứu y khỏi bị tẩu hỏa nhập ma, và đưa thêm dược vật vào người gã. Dược vật này chỉ gây ngứa ngáy khó chịu, chứ chẳng tổn thương gì đến thân thể. Còn cô bảo gã uống mười viên thuốc giải, thì đó là thứ thuốc trị ngoại thương thông thường.
Cơ Hiểu Phong không bị ngoại thương thì có uống vào cũng như không uống. Nhưng gã làm sao hiểu được điều này? Gã nghe cô nói chất độc lợi hại vô tỷ nên phải cúi đầu tuân theo. Dù có nghi ngờ đi nữa thì gã cũng chẳng thể đem tính mạng mình mà thử coi chân hay giả.
Trình Linh Tố thường tự nhủ:
– Ta phát thệ trước mặt sư phụ suốt đời quyết không dùng độc dược hại người vô tội để cho thiên hạ biết Độc Thủ Dược Vương tuy thủ đoạn lợi hại, nhưng không làm việc tồi bại.
Cô lấy cái nhíp để gắp những mớ bông thấm máu độc bỏ đi, rồi khẽ nói:
– Đại ca! Đại ca cực nhọc cả đêm rồi, hãy lên giường nghỉ ngơi dưỡng thần một lúc. Đã có tiểu muội chiếu cố cho Mã cô nương, đại ca cứ yên lòng.
Hồ Phỉ quả đã mệt nhoài, chàng nằm ngay xuống giường.
Trình Linh Tố lại nói:
– Có một điều này xin chưởng môn lão sư phó phải lưu ý. Trong vòng mười hai giờ, đừng để người tiến vào quấy nhiễu Mã cô nương, cũng không cho cô mở miệng nói năng. Không thế thì nội khí chia rẽ, độc chất không hút hết ra được. Chỉ còn sót lại một tý thì bao nhiêu công lao từ trước đều thành công dã tràng cả đấy.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Tây Nhạc Hoa Quyền chưởng môn nhân là Trình Linh Hồ kính cẩn vâng lệnh Thái thượng chưởng môn Trình Linh Tố, nhất nhất tuân theo, không dám trái lệnh.
Trình Linh Tố cười hỏi:
– Tiểu muội mà làm thái thượng chưởng môn của đại ca được ư? Cái đó…
Cô nói tới đây đột nhiên dừng lại, cúi xuống coi thương thế của Mã Xuân Hoa. Một lát sau cô quay đầu nhìn lại thấy Hồ Phỉ vẫn mở mắt không ngủ. Chàng ngơ ngẩn xuất thần nhìn ra ngoài cửa sổ. Cô liền hỏi:
– Đại ca nghĩ gì vậy?
Hồ Phỉ đáp:
– Tiểu huynh đang lo về chuyện ngày mai họ thấy chân tướng mình niên kỷ không đúng thì biết ăn nói làm sao đây? Còn may là mình chỉ ở lại mười hai giờ rồi phủi tay mà đi. Làm như vậy là có điều không phải với họ, lòng rất đỗi áy náy, nhưng sự thể đã đến nước này thì cũng đành phải…
Trình Linh Tố cười, đỡ lời:
– Đành phải làm chó nhảy qua tường mà chạy.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Phải rồi! Có điều không ngờ nhảy tường vào, lại gặp chuyện kỳ quái.
Trình Linh Tố đăm đăm nhìn Hồ Phỉ một hồi, rồi lẩm bẩm:
– Hay lắm! Cứ làm như vậy đi.
Hồ Phỉ lấy làm lạ hỏi:
– Cứ làm như vậy là thế nào?
Trình Linh Tố đáp:
– Dọc đường chúng ta đã hóa trang làm tiểu hồ tử thì chuyến này giả làm một đại hồ tử (người đứng tuổi có râu). Tiểu muội gắn râu vào cho đại ca, nhuộm da mặt một chút cho già thêm hai chục tuổi nữa. Đại ca làm sư huynh của Cơ Hiểu Phong thì tuổi phải gần bốn chục mới được.
Hồ Phỉ vỗ tay cả mừng nói:
– Hay lắm! Tiểu huynh đang buồn phải chạm mặt Phúc Khang An, tưởng chừng không thể đến coi cuộc đại hội chưởng môn nhân. Nếu nhị muội hóa trang cho tiểu huynh giống hệt một gã đại hồ tử, thì Trình Linh Hồ ta sẽ đường đường chính chính dùng thân phận chưởng môn Tây Nhạc Hoa Quyền môn vào giữa cuộc đại hội mà quan sát.
Trình Linh Tố thở dài nói:
– Bất tất phải đi dự đại hội chưởng môn làm chi nữa. Chờ đến ngày mai Mã cô nương bình yên vô sự là xong việc. Còn việc dự hội đầy dẫy nguy cơ, đại ca chẳng nên mạo hiểm làm chi.
Hồ Phỉ hào khí bồng bột, hỏi:
– Nhị muội! Tiểu huynh chỉ hỏi một câu: Tiểu huynh giả làm người có râu được không?
Trình Linh Tố mỉm cười, đáp:
– Hóa trang thành người già, làm bộ râu giả thì có khó gì? Cái khó là ở chỗ cất tay nhấc chân, thái độ ăn nói phải đúng người già. Dù có là lão anh hùng tinh thần quắc thước, võ công cái thế đi nữa nhưng vẫn khác với người tuổi trẻ.
Hồ Phỉ nói:
– Tiểu huynh sẽ cố gắng hết sức, chỉ cần lừa được họ trong một lúc là xong.
Trình Linh Tố đáp:
– Hay lắm! Chúng ta cứ thử một phen. Lần này tiểu muội sẽ giả làm bà già đi theo đại ca dự đại hội chưởng môn nhân, để xem cuộc náo nhiệt.
Hồ Phỉ hứng chí cười ha hả, nói:
– Nhị muội! Hai lão huynh muội chúng ta sống đến bằng này tuổi đầu, đã sắp vào hòm rồi thì cuộc náo nhiệt đó vì lý do gì lại không tham dự?
Trình Linh Tố khẽ hạ giọng bảo nhỏ:
– Nói khẽ chứ!
Mã Xuân Hoa nằm trên giường đã cử động, may nàng chưa tỉnh giấc.
Hồ Phỉ thè lưỡi ra, co ngón tay khẽ gõ vào trán nói:
– Đáng chết lắm!
Trình Linh Tố lấy bao kim chỉ ra. Cô cầm con dao nhỏ cắt một mớ tóc đen nhánh.
Cô lại lấy một chút thuốc trong hộp hòa vào bát nước trong. Cô đặt mớ tóc vào bát nước nói:
– Đại ca nghỉ một chút đi, chờ cho những sợi tóc mềm này biến thành sợi râu cứng ngắc.
Hồ Phỉ liền nhắm mắt lại, trong lòng rất hoan hỷ về sự thông minh cơ trí của cô nghĩa muội.
Trong lúc mơ màng, chàng thấy Mã Xuân Hoa bị chất độc phát tác làm cho chết người, tình trạng coi rất khủng khiếp. Có lúc lại thấy túm được Phúc Khang An thống trách hắn lòng dạ tàn độc. Lại có lúc thấy mình bị bọn vệ sĩ bắt gặp, hết sức dãy giụa mà không sao thoát thân được.
Bỗng nghe một giọng nói ôn nhu vẳng bên tai:
– Đại ca! Đại ca đang nằm mơ gì vậy?
Hồ Phỉ đứng phắt dậy, dụi mắt ngưng thần hỏi:
– Để tiểu huynh chiếu cố Mã cô nương cho, nhị muội hay đi nghỉ một lát.
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội phải làm bộ râu giả cho đại ca xong mới yên tâm được.
Cô lấy những sợi tóc cứng ở trong bát nước ra làm, dùng nước kèn dán vào cằm Hồ Phỉ. Công việc này không mất nhiều thời gian, chỉ kéo dài gần một giờ. Khi những tia nắng hồng chiếu qua cửa sổ thì công việc đã xong.
Hồ Phỉ lấy giương soi thì không khỏi sửng sốt vì thấy bộ râu quai nón cứng đơ đâm tua tủa, chẳng những mặt mũi khác hẳn, mà còn tăng thêm phần uy võ. Trong lòng rất cao hứng, chàng cười nói:
– Nhi muội! Tướng mạo tiểu huynh bây giờ càng đẹp. Ngày sau tiểu huynh cứ để nguyên bộ râu này.
Trình Linh Tố muốn nói:
– Chỉ e ý trung nhân của đại ca không vừa lòng.
Nhưng lời nói ra tới cửa miệng cồ liền dừng lại.
Trình Linh Tố cực nhọc suốt đêm, lại thấy Mã Nuân Hoa đã yên ổn, cô không chống nổi nữa, phục xuống bàn ngủ thiếp đi.
Mười năm sau, Hồ Phỉ nhớ lại tình cảnh hôm nay, đã giữ bộ râu để làm kỷ niệm. Điều đó Trình Linh Tố không hề hay biết.
Hồ Phỉ lấy tấm chăn đơn đắp lên người cô, nhẹ nhàng bồng cô đặt nằm ngang trên giường. Chàng đắp chăn cho cô, lại lấy tấm khăn vàng bịt mặt mình, rồi tới ngoài phòng Cơ Hiểu Phong cất tiếng hỏi:
– Cơ huynh! Cơ huynh có ở trong nhà không?
Cơ Hiểu Phong đằng hắng một tiếng, hỏi lại:
– Ai đó? Có việc gì?
Hồ Phỉ đẩy cửa bước vào phòng.
Cơ Hiểu Phong đang ngồi trên ghế, vừa ngó thấy chàng liền “ủa” lên một tiếng rồi đứng dậy.
Hồ Phỉ nói:
– Cơ huynh! Tiêu đệ đến xin lỗi Cơ huynh.
Cơ Hiểu Phong vẫn đứng trơ không trả lời, khóe mắt lộ vẻ thù địch.
Hồ Phỉ lại nói:
– Có một điều tiểu đệ cần nói rõ cho Cơ huynh hay là tiểu đệ quyết không có ý đoạt chức chưởng môn quý phái. Chỉ vì cơ duyên ngẫu hợp, tiểu để lâm vào tình trạng bất đắc dĩ mà làm hư đại sự của Cơ huynh.
Đoạn chàng đem việc Mã Xuân Hoa trúng độc rồi bị quan binh vây bắt ra sao, chàng vượt tường trốn lánh thế nào, vì cứu người mà phải thượng đài tiến công, đều nhất nhất thuật lại. Chỉ có điểm Mã Xuân Hoa bị ai ám hại và người đuổi bắt chàng là bộ hạ của Phúc Khang An thì chàng chỉ đề cập lướt qua.
Cơ Hiểu Phong lẳng lặng nghe hết câu chuyện, vẻ mặt hắn hòa hoãn lại đôi chút nhưng gã chỉ “ồ” một tiếng chứ không tiếp lời.
Hồ Phỉ lại nói:
– Lời nói của bậc đại trượng phu coi nặng bằng non. Nếu trong vòng mười ngày mà tại hạ không nhường lại ngôi chưởng môn cho Cơ huynh sẽ chết dưới đao kiếm, ngàn thu để hảo hán giang hồ thóa mạ.
Người võ lâm chết dưới đao kiếm là chuyện thường tình nhưng để anh hùng thiên hạ phỉ nhổ là điều sỉ nhục vô cùng.
Cơ Hiểu Phong thấy chàng phát lời trọng thệ, liền đáp:
– Chức chưởng môn này các hạ bất tất phải nhường lại. Võ công các hạ hơn tại hạ gấp mười lần, điều đó tai hạ biết rõ. Có điều các hạ không phải người bản môn mà chấp chưởng môn hộ thì khiến lòng người bất phục.
Hồ Phỉ nói:
– Đúng thế! Chờ sau khi cuộc đại hội chưởng môn kết thúc, tiểu đệ sẽ đem sự thực trịnh trọng tuyên bố để tạ tội trước mặt các vị tiền bối của quý môn. Sau đó các đệ tử quý môn sẽ căn cứ vào võ công mà định ngôi chưởng môn. Như vậy có được không?
Cơ Hiểu Phong nghĩ thầm:
– Trong bản môn chẳng ai thắng được mình. Tranh chức chưởng môn so với việc để y nhường lại còn vinh quang hơn nhiều.
Trong lòng đã tính toán, hắn liền gật đầu đáp:
– Như vậy thì được, nhưng mà Trình đại ca…
Hồ Phỉ mỉm cười, ngắt lời:
– Tiểu đệ họ Hồ, tệ nghĩa muội mới là họ Trình.
Chàng nói rồi bỏ tấm khăn vàng che mặt ra.
Cơ Hiểu Phong thấy chàng râu quai nón đâm tua tủa, tướng mạo uy võ thì không khỏi khen thầm.
Gã nói:
– Hồ đại ca! Mấy vị tiền bối ở bản môn khó thuyết phục lắm. Ngày sau đại ca nói sự thực ra, chắc thế nào cũng xảy ra một trường sóng gió. Tuy cõ công đại ca rất cao minh chẳng sợ gì ai, nhưng dù là hảo hán cũng không địch nổi nhiều người. Tây Nhạc Hoa Quyền môn của tại hạ gặp phải đại sự trong môn hộ là chẳng khác gì âm hồn bất tán, cứ theo sát không thôi.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Điều này tiểu đệ cũng đã nghĩ tới rồi. Trong cuộc đại hội chưởng môn sắp tới đây, tiểu đệ sẽ hết sức làm vẻ vang cho Tây Nhạc Hoa Quyền môn để đem công chuộc tội. Như vậy, tất cả các vị tiền bối chắc cũng lượng thứ cho.
Cơ Hiểu Phong khẽ gật đầu, thở dài nói:
– Đáng tiếc là trong mình tại hạ trúng phải chất kịch độc, chẳng dám làm hao tổn khí lực. Nếu không thì tiểu đệ đem quyền pháp của bản môn biểu diễn vài đường cho Hồ huynh coi. Hồ huynh nhớ kỹ vào lòng thì lúc lâm sự khỏi bị bại lộ hành tung.
Hồ Phỉ cười ha hả, xá dài Cơ Hiểu Phong một cái rồi nói:
– Cơ Huynh! Tiểu đệ xin thay mặt nghĩa muội bồi tội với Cơ huynh.
Cơ Hiểu Phong đáp lễ, trong lòng cực kỳ bất mãn, tự hỏi:
– Ta bị thị hạ độc, gã còn cười cái gì?
Trong lòng nghĩ như vậy, vẻ bất mãn lộ hẳn ra ngoài mặt.
Hồ Phỉ hỏi:
– Cơ huynh! Tệ nghĩa muội hạ độc vào mình Cơ huynh, vết thương ở chỗ nào?
Cơ Hiểu Phong vén ống tay áo bên trái lên. Cánh tay gã sưng lên một chỗ lớn bằng quả trứng gà, da thịt đen xạm lại. Miệng vết thương lớn bằng đầu ngón tay, máu đen cứ ri rỉ chảy, giống như bị trúng chất kịch độc.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Cách dùng thuốc của nhị muội quả thật thần kỳ. Không hiểu y dùng dược vật gì làm cho cánh tay gã biến thành thế này? Giả như ta mà bị một vết thương như vậy, ắt cũng không ăn ngon ngủ yên được.
Chàng liền hỏi:
– Cơ huynh thấy thế nào?
Cơ Hiểu Phong đáp:
– Chỗ thịt này tê dại không cảm giác gì nữa.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Té ra y đã dùng thuốc tê cực mạnh.
Chàng liền đưa tay nắm lấy tay hắn, đưa miệng vào vết thương mà hút mạnh.
Cơ Hiểu Phong cả kinh, la lên:
– Không được đâu! Không được đâu! Hồ huynh không muốn sống nữa chăng?
Nhưng hai tay gã bị chàng nắm chặt không nhúc nhích được, trong lòng kinh nghi tự hỏi:
– Chất kịch độc này ở cánh tay còn ghê gớm như vậy mà gã hút vào miệng há chẳng chết ngay ư? Giữa ta và gã vốn chẳng thân thích lại không quen biết, sao gã lại liều mạng để cứu ta?
– Cơ huynh bất tất phải kinh nghi. Độc dược này là thuốc giả đó.
Cơ Hiểu Phong không hiểu nói:
– Huynh đệ bảo sao?
Hồ Phỉ đáp:
– Tệ nghĩa muội với Cơ huynh vốn chưa từng quen biết thì khi nào y lại tùy tiện hạ độc thủ để gia hại Cơ huynh? Y muốn trêu chọc Cơ huynh, nên cho thứ thuốc tê vô hại mà thôi. Cơ huynh cứ coi tiểu đệ hút vào miệng được là cứ yên tâm.
Cơ Hiểu Phong tuy đã uống thuốc giải của Trình Linh Tố đưa cho, nhưng trong lòng vẫn lo âu, chẳng hiểu thuốc giải có công hiệu gì không? Dù chất độc giải trừ được nhưng liệu có để lại để lại hậu họa, làm tổn thương đến gân cốt hay không? Bây giờ gã thấy Hồ Phỉ nói vậy bất giác vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, hỏi:
– Hồ huynh! Hồ huynh nói rõ cho tiểu đệ nghe… chẳng lẽ không sợ tại hạ không nghe theo lời nữa ư?
Hồ Phỉ đáp:
– Bậc đại tượng phu kết giao cốt ở sự thành tín. Tiểu đệ thấy Cơ huynh là người nghĩa khí, sao lại để Cơ huynh phải lo lắng thêm mấy ngày nữa?
Cơ Hiểu Phong cả mừng, vỗ bàn nói:
– Hay lắm! Tiểu đệ giao kết bằng hữu với Hồ huynh. Dù Hồ huynh có đắc tội với đương kim Thiên tử hay phạm tội tày trời, tiểu đệ cũng quyết vì Hồ huynh xuất lực, quyết chẳng chau mày.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Đa tạ hậu ý của Cơ huynh. Tại hạ đắc tội với một người kia dù chẳng phải là đương kim Thiên tử nhưng quyền thế cũng chẳng kém gì. Cơ huynh! Đêm qua tiểu đệ thấy Cơ huynh đi một đường Hoa Quyền trong đó có chiêu xoay người lại, đưa gối lên đánh xuyên chưởng ra, bộ pháp sau khi tiến đánh thì mới nhảy lên; cớ sao bộ pháp Cơ huynh vừa mới nhảy lên lưng chừng lại biến đổi phương hướng?
Đây là Hồ Phỉ nói về chiêu “Dã mã hồi hương toản đề hành”. Động tác trong chiêu này rất phức tạp.
Cơ tiểu Phong nghe chàng hỏi vậy, nghĩ thầm:
– Nhãn quang của gã này quả nhiên lợi hại! Đêm qua ta tập trung tinh thần biểu diễn đường Hoa Quyền từ đầu đến cuối. Có một chiêu “Dã mã hồi hương toản đề hành”, ta vừa nhảy lên, rồi chợt nhớ tới cánh tay trúng phải kịch độc, không khỏi tâm thần tán loạn. Nếu ta mà cùng gã động thủ thì gã nắm được chỗ sơ hở này ngay.
Hắn đáp:
– Nhãn quang của Hồ huynh rất đỗi cao minh. Tiểu đệ vô cùng bội phục! Thực tình chiêu đó tiểu đệ biểu diễn không được thỏa đáng.
Thế rồi hắn sử lại một lần nữa.
Hồ Phỉ gật đầu nói:
– Như vậy mới đúng. Nếu không thế, Cơ huynh sử chiêu như đêm hôm qua thì e rằng sẽ bị địch nhân thừa cơ đánh vào.
Bây giờ Cơ Hiểu Phong đã biết mình chưa bị trúng độc, gã phấn khởi tinh thần liền đem mười hai bộ Tây Nhạc Hoa quyền biểu diễn lại hết.
Hồ Phỉ học đúng chiêu thức, tuy trong lúc nhất thời chẳng thể nào nhớ hết, nhưng cũng lĩnh hội được tinh nghĩa của mỗi lộ quyền.
Chàng nói:
– Quyền pháp của quý phái quả bác đại tinh thâm. Nếu dày công khổ luyện thì uy lực vô cùng. Tiểu đệ nhận thấy chỉ cần tinh thông được một trong mười hai lộ Hoa quyền này cùng đủ dương danh thiên hạ rồi.
Cơ Hiểu Phong nghe chàng tán tụng võ công bản phái, trong lòng rất cao hứng, đáp:
– Đúng thế! Trong bản môn có hai câu khẩu quyết là: “Hoa Quyền Tứ Thập Bát, Nghệ Thành Hành Thiên Nhai”. Công phu bốn mươi tám đường quyền chia ra làm mười tám đường quyền đăng đường, mười hai đường quyền nhật thất. Ngoài ra còn có mười tám đường công phu về lộ đao, thương, kiếm, kích, côn, bổng. Đệ tử của bản môn đừng nói đến hai chữ “Nghệ thành”. Trong bốn mươi tám đường công phu, học được hết quả không có mấy.
Hai người đàm luận võ công rất ý hợp tâm đầu, đã qua giờ ngọ từ lúc nào không hay.
Bọn người hầu của chủ nhân phái đến Hồ Phỉ mấy lần định mời chàng ra ăn cơm, nhưng thấy hai người đang say sưa luyện võ, nên chỉ đứng một bên, không dám lên tiếng.
Đến lúc Cơ Hiểu Phong sử chiêu “Hoàn phong cước” tung người nhảy lên không trung rồi đá tạt ngang, ngoài cửa sổ đột nhiên có tiếng người hoan hô:
– Chiêu “Phong quyền tích lịch thượng cửu thiên” thất là tuyệt diệu.
Hồ Phỉ nhìn ra thì chính là lão già họ Thái. Chàng vội niềm nở khoanh tay tiến lại chào hỏi.
—–
Ghi chú của Kim Dung:
Thứ nhất: đời Thanh, chuyện tướng quốc phu nhân hạ độc là có thật. Trong “Tùy viên thi thoại” của Viên Mai, quyển một có nói: “Người cô lớn của tôi làm dâu nhà họ Diêu. Mẹ của Diêu có tài làm thơ, ra ngoài đi dạy học. Vào đời Khang Hy, quang tướng quốc đem nghìn vàng làm lễ vật đến mời dạy cho An công tử. Đến phủ, vào vườn hoa thấy lầu son gác tía lộng lẫy phi thường. Có hai cô gái ra lạy chào, dung nhan tuyệt tục. Nói chuyện mới biết cả hai đều là người xứ Ngô, tuổi chừng mười sau, mười bảy học đàn, học thơ đều rất thông minh. Ban đêm cùng ngủ với thầy dạy, mới hay bao nhiêu năm làm thị nữ nhưng chưa phục vụ chăn gối cho tướng công.
Một đêm kia, cả hai đều ở nội phủ ra, mắt đỏ hồng. Hỏi thì đáp: “Phu nhân cho gọi đến ban thưởng rượu”, rồi thay áo mà đi ngủ. Chưa đến canh hai, cả hai đều chui ra khỏi màn, nằm lăn dưới đất kêu la, miệng ú ớ nói không rõ lời. Được một lúc, thất khiếu đều ra máu mà chết. Khi phu nhân ban rượu, đã bỏ thuốc độc vào đấy.
Mẹ họ Diêu liền lo thu thập hành lý, nửa đêm bỏ trốn về nhà.
Thứ hai: Phúc Khang An là người rất dâm ác. Trong “Tùy viên thi thoại” có nói: “Phúc Khang An cùng dâm cực ác, gây nghiệt chướng nặng nề, lưu độc cho con cháu, có thể lấy đó làm gương để răn đe”.
Nhưng lời phê chú trên đây được viết khoảng đời Gia Khánh.
Lão già này tên gọi Thái Uy, địa vị rất cao trong Hoa Quyền Môn. Lão thấy Hồ Phỉ đã bỏ tấm khăn vàng che mặt hiển nhiên là một bộ mặt có râu quai nón. Lão nhìn kỹ chàng rồi chắp tay đáp:
– Khải bẩm chưởng môn! Phúc đại soái có văn thư đưa đến.
Hồ Phỉ run lên nghĩ thầm:
– Vụ này khó lòng bịp nữa rồi. Thử xem lão nói gì?
Chàng vẫn giữ nét mặt thản nhiên, chỉ “ủa” một tiếng.
Thái Uy lại nói:
– Văn thư này giao cho tiểu lão để hỏi bản môn đã lựa xong chưởng môn nhân chưa? Còn phụ thêm bốn tấm thiếp mời chưởng môn nhân đúng ngày rằm trung thu cùng ba đệ tử bản môn đến dự đại hội chưởng môn…
Hồ Phỉ nghe tới đây thở phào một cái, tự nhủ:
– Té ra là vậy, làm ta phải một phen hú vía. Chỉ cần một ngày một đêm Mã cô nương không di động là được. Nếu tờ văn thư này mà Phúc Khang An hạ lệnh bắt người thì tính mạng của cô lại trao vào tay hắn.
Chàng sợ Phúc Khang An còn giở trò gì, liền tiếp lấy văn thư đọc kỹ lại một lượt, rồi nói:
– Thái sư bá! Cơ sư đệ! Xin hai vị cùng đi với tại hạ, thêm tệ muội nữa. Bốn người chúng ta đi dự cuộc đại hội chưởng môn.
Thái Uy cùng Cơ Hiểu Phong cả mừng, tạ ơn không ngớt miệng.
Tên bộc thị liền vào bẩm:
– Xin mời Trình gia, Thái gia, Cơ gia ba vị ra ngoài dùng cơm.
Hồ Phỉ gật đầu, toan đi gọi Trình Linh Tố, thì đột nhiên nghe thấy trong phòng gọi:
– Đại ca! Đại ca hãy vào đây!
Hồ Phỉ nói:
– Mời hai vị ra trước, tại hạ sẽ đến ngay.
Chàng nghe thanh âm Trình Linh Tố ra chiều cấp bách, liền rảo bước vào phòng. Chàng vừa vén rèm cửa, đã nghe tiếng Mã Xuân Hoa khẽ gọi:
– Con ta đâu? Bảo hai anh em chúng vào đây… ta muốn nhìn thấy chúng. Hai anh em chúng đâu rồi?
Trình Linh Tố chau đôi mày thanh tú, khẽ nói:
– Y nhất định đòi thấy mặt con. Vụ này không ổn rồi đây.
Hồ Phỉ đáp:
– Hai con y lọt vào tay mụ già thâm độc kia rồi. Chúng ta phải tìm cách cứu ra mới được.
Trình Linh Tố nói:
– Mã cô nương rất nóng nảy muốn gặp con ngay, cô không gặp được là kêu gào la khóc rất nguy cho bệnh thể.
Hồ Phỉ trầm ngâm đáp:
– Để tiểu huynh vào khuyên giải xem sao.
Trình Linh Tố lắc đầu, nói:
– Thần trí y không được tỉnh táo khuyên can chẳng ăn thua gì. Trừ phi bồng con y vào đây, không thì trong người uất kết, máu độc cố nhiên chưa trừ được hết, dược lực cũng chẳng có cách nào vào thấu tới phủ tạng.
Hồ Phỉ rất đỗi bàng hoàng, trong lúc nhất thời không nghĩ ra diệu kế gì.
Chàng nói:
– Đành phải mạo hiểm vào phủ Phúc đại soái một lần nữa để đoạt lại hai thằng nhỏ đem về. Nhưng mau lắm cũng phải chờ tới đêm mới hành động được.
Trình Linh Tố giật nảy người, hỏi:
– Lại vào Phúc phủ ư? Đại ca định đi tống tử chăng?
Hồ Phỉ cười gượng không biết nói sao. Dĩ nhiên chàng cũng biết đêm qua đã đại náo thành chuyện long trời lở đất, tất nhiên bữa nay trong phủ Phúc Khang An đề phòng nghiêm mật. Bước đi một bước còn muôn vàn khó khăn, thì làm sao đoạt nổi hai đứa nhỏ kia? Nếu như có mấy chục tay võ nghệ cao cường đồng thời hạ thủ thì may ra mới thành công. Còn một mình chàng đơn thương độc mã, cùng lắm thêm vào Trình Linh Tố và Cơ Hiểu Phong, chẳng lẽ ba người có đủ bản lãnh nghiêng trời để mà hành động?
Sau một lúc lại nghe tiếng Mã Xuân Hoa không ngớt la gọi:
– Hài tử! Mau vào đây! Má má trong mình khó ở, hai đứa con còn đi đâu?
Hồ Phỉ chau mày hỏi:
– Nhị muội! Nhị muội tính sao đây?
Trình Linh Tố lắc đầu đáp:
– Y nhớ thương con không ngớt la gọi, như thế thì không tới ba ngày là chất độc sẽ phát tác. Chúng ta đã làm hết sức mình mà không cứu nổi thị đó là số trời.
Hồ Phỉ nói:
– Chúng ta hãy đi ăn cơm rồi sẽ tính.
Ăn cơm xong, Trình Linh Tố cho Mã Xuân Hoa uống thuốc một lần nữa. Lúc này nàng lại gọi Phúc Khang An:
– Khang ca! Khang ca! Sao Khang ca không ngó ngàng gì đến thiếp? Khang ca hãy đưa hai đứa con ngoan lại đây cho tiện thiếp bồng một lúc.
Hồ Phỉ càng nghe lại càng thêm phẫn nộ, trong bụng lại càng bồn chồn.
Trình Linh Tố kéo áo chàng vào trong căn nhà nhỏ ở bên ngoài, vẻ mặt trịnh trọng nói:
– Đại cạ! Tiểu muội đã nói rồi, đại ca có đếm xỉa đến hay không?
Hồ Phỉ rất lấy làm lạ, tự hỏi:
– Sao cô lại hỏi câu này?
Chàng lắc dầu đáp:
– Tiểu huynh không nhớ rồi.
Trình Linh Tố nói:
– Hay lắm! Tiểu muội nhắc lại cho đại ca nghe. Nếu đại ca vào phủ Phúc Khang An để cứu con Mã cô nương, thì đại ca đi mời danh y khác đến trị độc cho y, tiểu muội về phương nam ngay bây giờ.
Hồ Phỉ kinh ngạc chưa kịp trả lời, thì Trình Linh Tố đã trở gót vào phòng. Chàng biết cô nói câu đó toàn là vì mình. Cứ tình thế trước mắt mà mạo hiểm vào phủ Phúc Khang An thì chỉ uổng mạng chứ chẳng ích gì. Chàng cũng nghĩ đến điều đó nhưng vụ này lại xúc động đến lòng nghĩa hiệp. Chàng nhớ lại ngày mình bị treo đánh ở Thương Gia Bảo, Mã Xuân Hoa đã không ngớt năn nỉ cho chàng. Chịu ơn mà không báo đáp thì đâu đáng mặt trượng phu? Chàng đã quyết ý, nhưng Trình Linh Tố bỗng nhiên thốt ra câu này, mà chàng cứ liều mạng đi cứu hai đứa nhỏ, cô tức giận bỏ đi thì cũng hỏng bét.
Trong lúc thảng thốt, Hồ Phỉ cứ do dự không nghĩ ra được kế gì. Chàng thả bước trên đường phố, không hay đã gần tới phủ Phúc Khang An. Cứ cách năm, mười bước lại có hai tên vệ sĩ đứng gác, tên nào cũng gươm tuốt trần, phòng vệ cực kỳ nghiêm mật. Đừng nói chuyện tiến vào phủ, chỉ đi thêm mấy bước là bọn vệ sĩ đã giữ lại tra hỏi rồi. Hồ Phỉ trong lòng buồn bã không vui. Chàng không dám chần chừ, liền chuyển qua hai đường phố, bỗng thấy một tòa tửu lâu bèn lên lầu ngồi uống rượu một mình.
Chàng vừa uống được hai chung, bỗng nghe trong phòng bên cạnh có người lên tiếng:
– Uông đại ca! Bữa nay chúng ta uống rượu ít thôi. Lát nữa đến phiên trực, mặt đỏ bừng thì khó coi lắm.
– Việc thiên hạ sao khéo trùng hợp, mình lại chạm trán hắn ở đây.
Nhưng chàng nghĩ lại cái đó cũng chẳng có chi là lạ. Theo lời họ nói thì lát nữa họ sẽ đến phủ Phúc Khang An để đổi phiên gác. Tửu lâu này gần Phúc phủ hơn hết, nên bọn thị vệ trước khi đi gác, đến đây uống vài ba chung rượu là chuyện thường. Nếu bọn Uông Thiết Ngạc đến phiên canh mà không lại đây uống mới là chuyện lạ.
Lại nghe người khác nói:
– Uông đại ca! Đại ca bảo quen biết Hồ Phỉ, vậy hình thù gã thế nào?
Hồ Phỉ nghe hắn hỏi đến mình không khỏi run lên, liền chú ý lắng tai nghe.
Chỉ nghe Uông Thiết Ngạc thở dài, đáp:
– Hồ Phỉ nhỏ tuổi, chẳng những võ nghệ cao cường mà còn thích kết giao bằng hữu, đúng là một trang hảo hán. Chỉ đáng tiếc gã lại đối nghịch với Phúc đại soái. Đêm qua đã xông vào phủ hành thích đại soái. Thật chẳng biết vụ này phải nói sao đây?
Người kia cười nói:
– Uông đại ca! Tuy đại ca quen biết Hồ Phỉ mà chẳng được thăng quan phát tài thì chúng ta hãy uống rượu xong đi đã. Nếu ra đường mà ngẫu nhiên gặp gã, hai anh em ta cứ tóm lấy, há chẳng lập nên công lớn?
Uông Thiết Ngạc cười đáp:
– Ha ha! Ông bạn nói coi bộ dễ dàng quá! Xét về bản lĩnh như ông bạn Trương Cửu thì dù hai chục tên cũng đừng hòng bắt được gã.
– Còn lão thì sao? Phải mấy tên Uông Thiết Ngạc mới bắt được gã?
Uông Thiết Ngạc đáp:
– Ta lại càng tệ nữa. Đến bốn chục cái bị thịt như ta cũng chẳng làm được tích sự gì.
Trương Cửu cười lạt hỏi:
– Bộ gã có ba đầu sáu tay hay sao mà ghê gớm đến thế?
Hồ Phỉ nghe hai người nói chuyện chẳng ăn nhập gì với nhau, bất giác động tâm. Nhớ câu thời cơ chỉ trong nháy mắt là vụt qua, chàng không nghĩ ngợi gì nữa bèn mở rèm, cất bước chạy sang phòng bên, nói:
– Uông đại ca! Đại ca ngồi đây uống rượu ư? Này! Trương đại ca đây mà! Tiểu nhị, người dọn đồ trên bàn của ta qua dây.
Uống Thiết Ngạc và Trương Cửu thấy Hồ Phỉ đến sửng sốt tự hỏi:
– Gã này là ai? Bọn mình có quen biết gã đâu?
Uông Thiết Ngạc thoạt nghe thanh âm cũng hơi quen quen, nhưng thấy mặt chàng tua tủa râu quai nón thì làm sao có thể nghĩ đó lại là Hồ Phỉ được?
Hồ Phỉ lại nói:
– Đêm qua tiểu đệ gặp Chu Thiết Tiêu đại ca và Tăng Thiết Âu nhị ca ngồi ở Tụ Anh Lâu uống mấy chung, còn nhắc tới Uông đại ca.
Uông Thiết Ngạc chỉ ậm ừ cho xuôi chuyện, hắn vắt óc suy nghĩ xem người ngồi trước mặt mình là ai. Theo như lời nói thì người này đã quen cả Chu sư ca và Tăng sư ca, thì hiển nhiên chẳng phải người xa lạ, nhưng trong lúc nhất thời không sao nhớ được. Hắn không khỏi tự mắng thầm mình là con người hồ đồ.
Tiểu nhị bày rượu lên bàn. Hồ Phỉ nói:
– Bữa nay tiểu đệ làm chủ. Đã lâu lắm chưa được uống cùng Uông đại ca và Trương đại ca một chung nào.
Chàng móc mười lạng bạc ném cho tiểu nhị, nói:
– Còn dư cho chưởng quỹ. Phải lấy rượu ngon, thức nhắm tốt đem lên đây.
Tiểu nhị thấy chàng hào phóng liền tỏ vẻ kính cẩn, vâng dạ luôn miệng. Chẳng mấy chốc rượu và thức ăn lục tục bưng lên. Hồ Phỉ cười nói vui tươi, lại nhắc tới bọn Tần Nại Chi, Ân Trọng Tường, anh em Vương Kiếm Anh, Vương Kiếm Kiệt đều là người quen biết, khi thì bàn luận võ công, lúc lại gầy sòng đánh bạc, dường như bọn họ đều là bạn hữu tri giao của chàng.
Uông Thiết Ngạc rất áy náy, vì người ta thân thiết với mình như vậy mà còn mở miệng hỏi họ tên thì thật quá ư thất lễ. Nhưng hắn nghĩ vỡ cả óc vẫn không nhận ra người ngồi trước mặt là ai? Trương Cửu cũng cho Hồ Phỉ là bạn thân của Uông Thiết Ngạc, lại thấy chàng cư xử hào sảng liền đoán lai lịch không nhỏ, nên cũng vui lòng quấy quả một bữa.
Uống rượu một lúc, rồi đồ nhắm đưa lên hết. Uông Thiết Ngạc không nhịn được, nói:
– Xin đại ca tha thứ cho tại hạ vô lễ. Tại hạ càng sống càng hồ đồ.
Gã giơ tay lên cốc mạnh vào trán một cái, rồi nói tiếp:
– Trong lúc thảng thốt, tại hạ không nhớ được tên họ của lão ca. Thật là đáng chết!
Hồ Phỉ cười đáp:
– Uông đại ca quả là quý nhân nên hay quên mọi việc. Tối hôm qua đại ca còn ngồi ăn cơm ở nhà tiểu đệ mà cũng quên rồi ư? Chỉ đáng tiếc là gầy sòng để đánh bài cẩu mà không thành rồi đưa đến chỗ Chu đại ca cùng người ta động thủ quá chiêu, làm tổn thương hòa khí.
Uông Thiết Ngạc sửng sốt, miệng ấp úng:
– Đại ca… đại ca là…
Hồ Phỉ cười đáp:
– Tiểu đệ là Hồ Phỉ đây mà!
Chàng vừa nói câu này khiến cho Uông Thiết Ngạc và Trương Cửu giật nảy mình lên như cái lò xo, hai người kinh hãi không bút nào tả xiết.
Hồ Phỉ cười hỏi:
– Sao? Tiểu đệ chỉ đeo bộ râu giả mà Uông đại ca không nhận ra được ư?
Uông Thiết Ngạc khẽ nói:
– Nói khẽ chứ Hồ đại ca! Trong thành, khắp nơi đang truy lùng đại ca, sao đại ca lớn mật đến thế? Còn dám ngang nhiên đến đây uống rượu ư?
Hồ Phỉ cười đáp:
– Sợ cái gì? Đến Uông đại ca còn không nhận ra được tiểu đệ thì người ngoài làm sao nhận biết nổi?
Uông Thiết Ngạc hỏi:
– Đại ca không được nấn ná ở thành Bắc Kinh nữa, nên chuồn ra khỏi thành cho lẹ. Có đủ tiền lộ phí không?
Hồ Phỉ đáp:
– Đa tạ Uông đại ca đầy lòng nhiệt huyết, tiểu đệ có đủ tiền tiêu dùng rồi.
Chàng nghĩ bụng:
– Lão này tính nết thô lỗ nhưng lại là người rất trung hậu.
Trương Cửu biến sắc cúi xuống, không nói nửa lời.
Uông Thiết Ngạc lại nói:
– Bữa nay cổng thành đều tra xét rất nghiêm mật. Lúc đại ca rời thành chớ để lộ sơ hở. Hay là để Uông mỗ cùng Trương đại ca đưa Hồ đại ca ra khỏi thành thì chắc chắn hơn. Trình cô nương đâu rồi?
Hồ Phỉ lắc đầu đáp:
– Tạm thời tiểu đệ chưa đi được vì còn một món nợ chưa thanh toán với Phúc đại soái.
Trương Cửu nghe tới đây sắc mặt ra chiều khác lạ.
Uông Thiết Ngạc nói:
– Hồ đại ca! Bản lãnh Uông mỗ thua xa đại ca, nhưng có một câu nói khuyên can. Phúc đại soái quyền thế nghiêng trời. Đại ca muốn đối nghịch với lão nhân gia thì làm sao chống chọi nổi? Uông mỗ ăn chén cơm của lão nhân gia thì phải làm việc dưới trướng, cũng chẳng thể che chở cho đại ca được. Bữa nay Uông mỗ mạo hiểm đưa đại ca ra ngoài thành. Đại ca nên đi mau.
Hồ Phỉ đáp:
– Không được! Uông đại ca! Đại ca có biết vì sao tiểu đệ đắc tội với Phúc đại soái không?
Uông Thiết Ngạc đáp:
– Uông mỗ chưa rõ, đang muốn hỏi Hồ đại ca đây.
Hồ Phỉ liền thuật chuyện Phúc Khang An đến Thương gia bảo quen biết Mã Xuân Hoa, rồi nàng sanh hai đứa con ra sao, đêm qua nàng bị trúng độc thế nào nhất nhất thuật lại. Chàng lại nói cả đến việc giải cứu Mã Xuân Hoa như thế nào, và nàng vì thương nhớ hài nhi mà tính mệnh rất nguy cấp ra sao, nên dù gặp muôn ngàn nguy hiểm cũng phải đi cứu hai đứa nhỏ về cho Mã Xuân Hoa.
– Té ra lòng dạ hắn lại độc ác đến thế! Hồ đại ca! Đại ca là đấng anh hùng nghĩa hiệp khiến người ta phải kính phục. Nhưng cuộc phòng thủ trong phủ Phúc đại soái rất nghiêm mật, có không biết bao nhiêu cao thủ canh giữ khắp nơi. Việc cứu hai đứa nhỏ hãy khoan nghĩ tới. Đành phải chờ vụ này lắng xuống sẽ thong thả tìm cách khác.
Hồ Phỉ đáp:
– Tiểu đệ có kế này hãy dùng thử coi. Chúng ta mượn y phục của Trương đại ca giả làm vệ sĩ, chờ đến đêm Uông đại ca dẫn vào phủ động thủ.
Hồ Phỉ tay trái cầm chung rượu nâng lên uống một hớp, tay mặt đưa ra gắp thức ăn. Đột nhiên chàng hắt nửa chén rượu vào mắt Trương Cửu. Trương Cửu kinh hãi “ối” lên một tiếng, giơ tay vuốt mặt. Hồ Phỉ cầm đũa đâm vào huyệt “Thần tàng” và huyệt “Trung đình” ở trước ngực hắn. Trương Cửu người rũ ra, té ngay xuống ghế.
Điếm tiểu nhị nghe tiếng động chạy ra. Hồ Phỉ liền bảo gã:
– Quan gia đây say rượu, cần tìm cho y một phòng để nghỉ.
Tiểu nhị đáp:
– Cách đây năm nhà là An Viễn lão điếm. Để tiểu nhân đỡ quan gia qua đó
Hồ Phỉ nói:
– Hay lắm
Chàng lại thưởng cho gã năm đồng bạc.
Điếm tiểu nhị mừng quá đỡ ngay Trương Cửu qua khách điếm. Hồ Phỉ lấy một phòng trên gác rồi đóng cửa lại. Chàng lại điểm thêm ba huyệt đạo trên người Trương Cửu để trong vòng mười hai giờ hắn phải nằm bất động.
Uống Thiết Ngạc trong lòng bồn chồn hồi hộp, nhưng thấy Hồ Phỉ hành hiệp trượng nghĩa, cử động mau lẹ sáng suốt nên cũng không khỏi bội phục. Có điều lão thấy vụ này cực kỳ nguy hiểm, nên trong bụng cứ thấp thỏm lo âu.
Hồ Phỉ cởi áo ra, mặc y phục võ quan của Trương Cửu vào. May ở chỗ thân hình hai người tầm vóc ngang nhau nên chàng mặc rất vừa vặn.
Uông Thiết Ngạc nói:
– Uông mỗ đi nhận phiên canh, lát nữa sẽ trở lại.
Hồ Phỉ đáp:
– Uông đại ca xin cho Trương Cửu được nghỉ, nói là y bị bệnh không thể canh gác được. Tiểu đệ chờ ở đây, chừng canh hai đại ca đến dẫn đi.
Uông Thiết Ngạc ngẩn người ra một lát toan kiếm lời giải thích để từ chối, nhưng lại nghĩ nếu muốn trở thành hảo hán thì phải bỏ hết vinh hoa phú quý. Còn nếu nhất tâm nhất ý vì Phúc đại soái mà ra sức thì hóa ra chẳng biết phân biệt phải trái, trong lòng cũng thấy không ổn.
Hồ Phỉ thấy gã do dự liền nói:
– Uông đại ca! Vụ này không thể quyết định mau lẹ được. Đại ca không cần phải trả lời ngay bây giờ.
Uông Thiết Ngạc gật đầu ra khỏi điếm. Hồ Phỉ nằm xuống giường là ngủ liền. Chàng biết công việc trước mắt là một canh bạc lớn, mà người chơi lại đặt cược bằng tánh mạng.
Đến canh hai có thể Uông Thiết Ngạc sẽ lén lút đến một mình, dắt chàng trà trộn vào phủ Phúc Khang An, nhưng hành động này khiến cho cái mạng của họ Uông mười phần có đến chín là đi đứt. Giữa lão và Hồ Phỉ chưa có mối giao tình đáng kể, đối với Mã Xuân Hoa lại hoàn toàn không can hệ. Vì hai người chẳng liên can gì mà liều mình mạo hiểm, liệu Uông Thiết Ngạc có chịu làm không? Từ thuở nhỏ hắn từng được nghe Chu Thiết Tiêu dạy bảo, nên kính trọng vị đại sư huynh này như thần minh. Huống chi hắn đã làm thủ hạ Phúc Khang An lâu năm thì bốn chữ “Công danh lợi lộc” đối với hắn không phải chuyện nhỏ.
Nếu như Uông Thiết Ngạc là một tay hảo hán giang hồ tâm đầu ý hợp thì Hồ Phỉ quyết chẳng hoài nghi gì nữa, nhưng hắn chỉ là tên võ quan chất phác, bản lãnh bình thường. Bằng hắn quyết định muốn thăng quan phát tài thì chẳng những canh hai không trở lại, mà bốn mặt khách điếm sẽ có hàng trăm cao thủ bao vây, dù chàng có ra sức tử chiến cũng khó lòng thoát được.
Vụ này tựu trung không có lối thoát nào khả dĩ. Nếu Uông Thiết Ngạc không giúp được hai người, cũng chẳng tố giác Hồ Phỉ thì sau này Trương Cửu há chẳng tố cáo y hay sao? Hiện giờ trong tay Hồ Phỉ khác nào đã cầm quân bài mà chưa lật lên. Nếu chàng thua là mất mạng. Ván bài thắng hay bại hoàn toàn trông vào lương tâm của Uông Thiết Ngạc.
Chàng cũng biết Uông Thiết Ngạc chẳng phải hạng người tồi bại nhưng muốn hắn mạo hiểm thái qua là sự thỉnh cầu vượt mức mà chàng chẳng có chỗ nào hay để đền đáp cho gã. Uông Thiết Ngạc là hạng người nửa thiện nửa ác, không ai liệu trước được đem tính mạng trao vào tay người thật là nguy hiểm, nhưng ngoại trừ cách này thì chẳng còn biện pháp nào khác. Phúc Khang An đã phòng bị đến thế, nếu không có người giúp đỡ dẫn đường thì quyết chẳng thể nào vào phủ được.
Hồ Phỉ vừa ngủ đã ngáy pho pho. Lần này chàng không mơ mộng gì cả, cơ bản là chàng chẳng cần đếm xỉa đến canh bạc lớn này kết quả sẽ ra sao. Bài chưa lật lên, thì ai đã biết là quân bài nào? Có lo lắng cũng chẳng ích chi.
Hồ Phỉ ngủ chừng hơn một giờ. Đang lúc mơ màng, trong điếm có người lớn tiếng nói chuyện khiến chàng tỉnh giấc, ngồi bật dậy.
Bỗng nghe một người hỏi:
– Phải rồi! Ta muốn gặp vị quan gia tự hiệu chữ Huyền. Y say rượu ư? Ta có công việc cần tìm y. Ngươi để ta vào coi xem sao.
Hồ Phỉ nghe thanh âm người này không phải là Uông Thiết Ngạc thì trong lòng kinh hãi lẩm bẩm:
– Chà chà! Canh bạc lớn này rốt cuộc mình đã thua rồi.
Chàng cầm đơn đao khẽ đẩy cửa nhìn ra, chỉ thấy bốn bề lặng lẽ tối om. Chàng liền tung mình nhảy lên nóc nhà, nằm phục xuống chú ý lắng nghe.
Lúc Uông Thiết Ngạc ra đi, Hồ Phỉ nghĩ ngay hắn chỉ có hai đường hành động. Nếu hắn lấy điều nghĩa hiệp làm trọng, thì lúc này một mình tới đây để dẫn lén chàng vào Phúc phủ. Bằng hắn còn tiếc thân cầu lợi, thì nhất định, dẫn bọn võ sĩ ở Phúc phủ đến vây bắt. Bây giờ mà hắn không đến là cơ sự đã hỏng rồi. Nhưng bốn mặt khách điếm lại không thấy có người mai phục, điều đó nằm ngoài dự kiến của Hồ Phỉ.
Nên biết bọn võ sĩ đã không đến vây bắt Hồ Phỉ thì thôi, còn đã đến thì nhất định phải đông người. Nếu chỉ vài tay cao thủ thì có thể ẩn thân không lộ tông tích, còn nếu đông người thì có thể nghe hơi thở cũng phát hiện ra được. Hồ Phỉ thấy địch nhân không nhiều mới hơi yên dạ.
– Quan gia! Đây có một vị quan gia muốn gặp lão nhân gia.
Hồ Phỉ xoay mình chuồn qua cửa sổ vào phòng, nhảy xuống đất không một tiếng động, đáp:
– Mời y vào đây!
Điếm tiểu nhị đẩy cửa phòng bước vào, đặt cây nến xuống bàn, cười cầu tài, hỏi:
– Vị quan gia kia đã tỉnh rượu chưa? Nếu chưa thì nên mời lão nhân gia uống một bát tỉnh tửu thang.
Hồ Phỉ thuận miệng đáp:
– Không cần!
Nhãn quang chàng nhìn chằm chặp vào mặt vệ sĩ sau lưng điếm tiểu nhị. Tên vệ sĩ này lối ngoài bốn chục tuổi, khuôn mặt hơi tròn, nước da tái tái. Mặt gã vẫn điềm nhiên không lộ vẻ gì.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Tay này đáo để đây! Một mình hắn vào phòng ta mà không lộ vẻ sợ hãi chút nào. Chẳng lẽ hắn quả có bản lãnh hơn người chẳng coi ta vào đâu?
Bỗng nghe tên vệ sĩ kia hỏi:
– Phải chăng vị này là Trương đại ca? Bọn tiểu đệ chưa từng gặp mặt nhau. Tiểu đệ là Nhâm Thông Võ làm đương sai ở tả doanh.
Hồ Phỉ đáp:
– Té ra là Nhâm đại ca! Hân hạnh! Hân hạnh! Bọn mình đông người quá thành ra tiểu đệ ít khi được dịp gần gũi với Nhâm đại ca.
Nhâm Thông Võ nói:
– Phải rồi! Thượng cấp có công văn truyền xuống, bảo tiểu đệ đưa tới cho Trương đại ca.
Hắn nói rồi lấy đạo công văn trong mình ra. Hồ Phỉ đón lấy coi thấy góc bên trái công văn có in lồ lộ con dấu “Bình Võ Chính Đường” bằng chữ đỏ. Ngoài phong bì đề “Lập tức đến An Viễn khách điếm giao cho tuần bổ ở tả doanh là Trương Cửu, không được chậm trễ”. Hồ Phỉ lần trước đã mắc bẫy ở Phúc phủ, hai tay chàng bị thương vì cái hộp sắt. Lần này chàng khôn hơn không mở công văn ra ngay, mà cẩn thận bóp nắn phong thơ không thấy có gì khả nghi, lại nhớ vụ Miêu Nhân Phụng vì mở hộp thư mà bị chất độc làm mù mắt, chàng hạ tờ công văn xuống dưới bụng mới mở phong bì, rút ra một tờ giấy trắng. Chàng đưa gần cây nến để coi, trong lòng không khỏi vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc.
Nguyên trên mặt giấy không có chữ nào. Đó là tấm họa đồ, nét bút thô sơ, trong đồ vẽ một con quỷ chết treo đang trỏ tay ra hiệu, để nài nỉ một người treo cổ lên xà nhà. Theo mê tín dân gian lúc bấy giờ, người treo cổ tự tử, khi chết rồi sẽ biến thành quỷ. Con quỷ này sẽ tìm trăm phương ngàn kế để dẫn dụ người khác biến thành quỷ thế chân cho nó. Có thế nó mới có thể đầu thai kiếp khác được. Kẻ chết sau gọi là “Thế tử quỷ!”. Thuyết này tuy hoang đường vô căn cứ, nhưng người đương thời đều tin cả.
Hồ Phỉ ngưng thần ngẫm nghĩ, chợt động tâm, hỏi:
– Nhâm đại ca! Bữa nay đại ca có phiên canh ở trong phủ Phúc đại soái không?
Nhâm Thông Võ đáp:
– Có! Tiểu đệ phải đi đây.
Hắn nói rồi trở gót toan đi.
Hồ Phỉ gọi giựt lại:
– Khoan đã! Đạo công văn này của ai đưa cho Nhâm đại ca?
Nhâm Thông Võ đáp:
– Là Lâm tham tướng sai tiểu đệ đưa tới.
Bây giờ Hồ Phỉ mới hiểu rõ: Nguyên Uông Thiết Ngạc tự mình không quyết định được, nên phải tìm tới đại sư ca Chu Thiết Tiêu thương lượng. Chu Thiết Tiêu còn nhớ tới ơn Hồ Phỉ đã nối xương chân và trả thẻ bài, liền nghĩ ra kế này. Lão không muốn để Uông Thiết Ngạc mạo hiểm, liền xoay sở cho một tên “Thế tử quỷ” đi giùm. Người này sẽ dẫn Hồ Phỉ tiến vào Phúc phủ, bất luận thành công hay thất bại cũng không can thiệp gì đến sư huynh sư đệ bọn lão. Do đó trên phong thơ không thụ danh cũng chẳng lưu một bút tích gì, để phòng ngừa vạn nhất cơ sự đổ bể lại dính líu đến bọn họ.
Đạo công văn này Chu Thiết Tiêu đã kẹp vào tập công văn của Lâm tham tướng ở tả doanh. Công văn chuyển qua mấy tay, khiến không ai hiểu tự đâu phát ra.
Lâm tham tướng thấy công văn của “Binh Bộ Chính Đường” không dám chậm trễ, lập tức sai người đưa đi ngay.
Chu Thiết Tiêu đã biết toàn thể bọn vệ sĩ ở tả doanh đêm nay phải canh phòng ở Phúc phủ thì bất luận Lâm tham tướng phái ai đến đưa thư, Hồ Phỉ đều có thể theo y tiến vào.
Tuy Hồ Phỉ không biết rõ mọi chi tiết này bên trong nhưng cũng đoán được tám, chín phần. Chàng cười thầm Chu Thiết Tiêu là tay lão gian cự hoạt. Lão đã ở kinh sư mấy chục năm, quả nhiên hành động khác người thường.
– Cấp trên có thượng lệnh phái tiểu đệ theo Nhâm đại ca vào phủ canh gác.
Rồi chàng lại nói tiếp:
– Con mẹ nó! Hôm nay đến lượt mình nghỉ, ai ngờ nửa đêm còn kêu đi.
Nhâm Thông Võ cười nói:
– Trong phủ đại soái xẩy vụ thích khách, hết thẩy chúng ta ai mà chẳng thêm phần cực nhọc. Hay ở chỗ được ban thưởng cũng khá.
Hồ Phỉ cười bảo:
– Lúc quay về lãnh tiền xong, tiểu đệ xin làm chủ mời đại ca đến Tụ Anh Lâu vui chơi một trận. Nhâm đại ca! Đại ca thích uống rượu, đánh bạc hay đàn bà?
Nhâm Thông Võ cười ha hả, đáp:
– Cả bốn món tửu, sắc, tài, khí, tiểu đệ đều khoái cả.
Hồ Phỉ vỗ vai hắn ra chiều thân thiết, cười nói:
– Nếu vậy chúng ta ý hợp tâm đầu, chỉ đáng tiếc gặp nhau muộn quá. Tiểu nhị! Tiểu nhị! mau lấy rượu lại đây!
Nhâm Thông Võ ngần ngừ nói:
– Đêm nay phải đi gác, nếu tham tướng mà biết chúng ta uống rượu, e có điều bất tiện.
Hồ Phỉ khẽ đáp:
– Bọn mình uống mấy chung chơi. Tham tướng biết cóc gì!
Điếm tiểu nhị đem rượu vào. Đêm khuya chẳng có gì nhắm, gã đành thái đĩa thịt bò khô. Hồ Phỉ cùng Nhâm Thông Võ mỗi người uống ba chung. Chàng liệng hai lạng bạc xuống bàn nói:
– Còn thừa ta thưởng cho ngươi!
Điếm tiểu nhị cả mừng, toan tạ ơn lượm lấy thì Nhâm Thông Võ đã cướp trước. Hắn cười nói:
– Trương đại ca! Vụ này bất tất phải rộng rãi quá. Chúng ta làm đương sai ở phủ Phúc đại soái uống mấy chung rượu thì làm gì phải trả tiền? Đi thôi! Gần đến giờ rồi!
Tay trái hắn nắm Hồ Phỉ kéo đi, tay mặt cầm đồng bạc nhét vào túi. Điếm tiểu nhị ngó thấy tức đầy ruột mà không dám nói. Nên biết bọn vệ sĩ ở phủ Phúc Khang An mặc sức hoành hành tại Bắc Kinh. Chúng coi hát cọp, uống rượu quịt là chuyện bình thường. Dù tiện tay chúng có lấy vật gì ở trong tiệm thì bọn tiểu bách tính cũng chàng dám lên tiếng.
Hồ Phỉ cười hề hề bụng bảo dạ:
– Thằng cha này đã tham tiền hám rượu thì dễ đối phó lắm.
Hai người dắt nhau ra khỏi điếm. Bỗng nghe trên nóc nhà có tiếng động khe khẽ. Thanh âm tuy rất nhỏ nhưng cũng lọt vào tai Hồ Phỉ. Chàng là có chuyện lạ, liền hạ thấp giọng nói:
– Nhâm đại ca! Tiểu đệ còn quên cái này. Xin đại ca chờ một chút.
Chàng xoay người đi về phòng mình. Trong đêm tối, chàng thấy bóng người nhỏ bé gầy nhom vượt cửa sổ ra ngoài, thân pháp cực kỳ thần tốc, hình dạng phảng phất như Chu Thiết Tiêu.
Hồ Phỉ rất lấy làm lạ tự hỏi:
– Lão vào phòng mình làm chi?
Chàng trầm ngâm một chút rồi mở mùng, đặt tay vào mũi Trương Cửu quả nhiên hắn đã ngừng thở. Chu Thiết Tiêu điểm huyệt cho hắn chết rồi.
Chàng nghe lạnh cả người:
– Người này tâm tư quả là chu đáo mà hạ thủ lại rất tàn độc. Nếu lão không trừ khử Trương Cửu thì mưu mô của bọn sư huynh sư đệ nhà lão tất bị bại lộ. Không ngờ mình vừa bước chân ra khỏi cửa là lão lập tức hạ thủ ngay.
Việc này càng khiến chàng yên tâm hơn vì hiểu rõ Chu Thiết Tiêu đối với mình một lòng thành thực, quyết không phải dẫn dụ mình tiến vào Phúc phủ rồi sai người vây đánh.
Chàng liền xoay Trương Cửu quay mặt vào trong, đắp chăn lên tử tế rồi mới ra khỏi phòng nói:
– Nhâm đại ca! Làm phiền đại ca phải chờ đợi. Chúng ta đi thôi.
Nhâm Thông Võ đáp:
– Cùng là anh em cả, khách khí làm gì?
Hai người sóng vai đi một cách đường hoàng, tiến về phủ Phúc Khang An.
Trước cửa Phúc phủ có hơn hai chục tên vệ sĩ đứng gác. Quả nhiên cách phòng vệ nghiêm mật hơn bữa trước.
Hồ Phỉ theo chân Nhâm Thông Võ vừa tới cổng phủ thì một tên đội trưởng hô khẽ:
– Uy chấn….
Nhâm Thông Võ hô theo:
– Tứ hải!
Tên đội trưởng gật đầu, nói:
– Đêm nay anh em phải thận trọng hơn.
Nhâm Thông Võ đáp:
– Cái đó sao quên được?
Hồ Phỉ hỏi:
– Đội trưởng thử nói xem đêm nay liệu có thích khách vào phủ không?
Tên đội trưởng cười đáp:
– Trừ phi chúng nuốt gan báo, ăn tim hổ thì mới dám vào.
Hồ Phỉ cười ha hả tiến vào cổng lớn.
Lúc đến cổng giữa lại chạm trán một tiểu đội vệ sĩ đứng gác. Tên đội trưởng khẽ hô khẩu lệnh:
– Uy chấn…
Nhâm Thông Võ hô theo:
– Huyệt thành!
Tên đội trưởng lại hỏi:
– Nhâm Thông Võ! Người này lạ mặt quá, hắn là ai?
Nhâm Thông Võ đáp:
– Đây là Trương đại ca ở tả doanh. Huynh đệ chưa gặp qua ư?
Tên đội trưởng “ồ” một tiếng rồi nói:
– Bộ râu của y coi có vẻ oai phong lắm!
Hai người rẽ qua mé trái, xuyên qua hai tầng cửa biên vào đến một vườn hoa.
Trong vườn lại có một tiểu đội vệ sĩ. Khẩu hiệu ở đây biến thành “Uy chấn… thiên thu”.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Nếu mình không đi theo Nhâm Thông Võ, thì dù có vào được cổng lớn rồi cũng không thể qua được hai cửa này. Hoặc giả ta dò la được khẩu lệch “Uy chấn tứ hải” cũng không ngờ ở mỗi tầng cửa khẩu lệnh lại biến đổi khác nhau.
Tiến vào vườn hoa, Hồ Phỉ đã thuộc đường lối. Chàng e đêm dài sinh lắm mộng, cần sớm hạ thủ là hơn, để cho Mã Xuân Hoa sớm được yên tâm.
Rồi chàng lẩm bẩm:
– Nhị muội thấy ta đi lâu không về chắc cũng đoán biết ta vào Phúc phủ và đang lo lắng lắm đây.
Chàng liền bước mau đi về phía phòng ở của mẫu thân Phúc Khang An. Nhâm Thông Võ lấy làm lạ hỏi:
– Trương đại ca! Đại ca đi đâu đấy?
Hồ Phỉ đáp:
– Lệnh trên phái tiểu đệ đến bảo vệ Thái phu nhân và dặn kỹ không được để thái phu nhân kinh sợ. Nhâm đại ca chưa biết ư?
Nhâm Thông Võ nói:
– Té ra là thế!
Giữa lúc ấy, hai tên vệ sĩ tuần tra lặng lẽ đi tới. Gã ở bên trái quát khẽ:
– Báo danh đi!
Nhâm Thông Võ đáp:
– Nhâm Thông Võ ở tả doanh.
Hồ Phỉ nói theo:
– Trương Cửu ở tả doanh.
Người kia “ủa” lên một tiếng, tay cầm chuôi đao, quát hỏi:
– Sao? Ngươi là ai?
Hồ Phỉ trong lòng hồi hộp, chàng biết gã này đã quen Trương Cửu, như vậy sự tình đã bại lộ rồi. Chàng liền ghé vào tai gã, khẽ nói:
– Tại hạ là Hồ Phỉ đây.
Người kia khiếp sợ đến thộn mặt ra, chân tay luống cuống không biết làm gì. Hồ phỉ liền phóng chỉ điểm vào huyệt đạo gã, lại thuận đà huých khuỷu tay trải đánh trúng vào huyệt đạo tên vệ sĩ kia.
Nhâm Thông Võ kinh hoàng, lắp bắp hỏi:
– Đại ca… đại ca… làm gì vậy?
Hồ Phỉ lạnh lùng đáp:
– Bậc đại trượng phu đi không đổi họ, ngồi chẳng đổi tên. Tại hạ là Hồ Phỉ đây.
Chàng vừa nói vừa ném hai tên vệ sĩ bị điểm huyệt vào bụi hoa. Nhâm Thông Võ hít một hơi chân khí rút yêu đao đánh soạt một tiếng.
Hồ Phỉ cười hỏi:
– Ai cũng trông thấy đại ca dẫn tiểu đệ vào phủ. Đại ca có la lên cũng được ích gì? Chi bằng cứ ngoan ngoãn và im lặng là hơn.
Nhâm Thông Võ vừa kinh hãi, vừa khiếp sợ không biết nói sao.
Hồ Phỉ lại nói:
– Đại ca muốn bình yên thì đi theo tại hạ.
Lúc này Nhâm Thông Võ lục thần vô chủ, đành riu ríu theo sau Hồ Phỉ. Hắn nhìn thấy chàng chỉ cất tay, thúc khuỷu một cái đã đánh ngã được hai tên vệ sĩ võ công cao thâm hơn mình. Nếu hắn động thủ thì nhất định không toàn tánh mạng. Hắn chỉ cầu mong chàng đừng gây chuyện náo loạn để khỏi liên lụy đến hắn. Nhưng Hồ Phỉ đã vào phủ, có lý nào lại không gây cuộc náo loạn? Nhâm Thông Võ suy nghĩ ngây ngô như vậy, bởi lẽ gã không còn cách nào khác nên đành tự an ủi mình mà thôi.
Hồ Phỉ bước nhanh tới bên ngoài nhà tướng quốc phu nhân, lại thấy bảy, tám tên vệ sĩ đứng canh cả. Nếu chàng sấn lại chưa chắc đã hạ ngay được bọn chúng. Chàng động tâm đi quanh đến mé bên tòa nhà, rồi lớn tiếng quát:
– Nhâm Thông Võ! Ngươi làm gì vậy? Người sấn vào nhà Thái phu nhân định tạo phản chăng?
Chàng quát câu này khiến Nhâm Thông Võ càng ngơ ngác, miệng gã ấp úng:
Bọn vệ sĩ nghe chàng quát tháo giật mình kinh hãi, hối hả chạy tới.
Hồ Phỉ đưa bàn tay đặt vào lưng Nhâm Thông Võ, vung chưởng đẩy mạnh một cái. Hình thân to lớn của hắn bay đi đập vào cửa sổ đánh “binh” một tiếng. Lập tức gỗ vụn bay lả tả.
Hồ Phỉ lại hô:
– Bắt lấy nó! Bắt lấy nó! Mau lên!
Bọn vệ sĩ kéo ùa tới tróc nã Nhâm Thông Võ.
Hồ Phỉ lại hô lớn:
– Đừng làm kinh động Thái phu nhân! Tên phản tặc này quả là lớn mật.
Chàng miệng thì hồ, chân thì xông vào phòng.
Thái phu nhân hai tay đang dắt hai đứa nhỏ, kinh hãi hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Hai đứa nhỏ đang gào khóc, la gọi:
– Má má đâu rồi? Má má đâu? Con nhớ má má lắm!
Hồ Phỉ chạy vào nói:
– Có thích khách! Tiểu nhân bảo vệ Thái phu nhân cùng hai vị công tử ra khỏi đây.
Thái phu nhân là người từng trải, dù đang run nhưng trong lòng đã nảy mối nghi ngờ, bèn quát hỏi:
– Ngươi là ai? Thích khách đâu?
Hồ Phỉ không dám chần chờ, trong lòng tức giận mụ lòng dạ tàn ác, đã hạ độc giết Mã Xuân Hoa nên liền xông lại, xoay tay phóng chưởng đánh ra. Thái phu nhân địa vị cao sang, chồng làm tướng quốc, mụ lại là tình nhân của đương kim Hoàng đế, ba con mụ đều làm đến thượng thư, hai con dâu cũng đều là công chúa lá ngọc cành vàng, mà lúc này lại chịu nhục nhã ê chề. Hồ Phỉ tuy biết lòng dạ mụ tàn độc chẳng kém gì quân đại gian ác, nhưng nghĩ mụ cũng chỉ là đàn bà già nua, không muốn giết, nên phát chưởng của chàng chỉ vận có một thành khí lực. Dù đã nhẹ tay như vậy mà má bên phải mụ cũng sưng vù lên, mồm đầy máu me, lại rụng hai cái răng. Mụ vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, cơ hồ ngất xỉu.
Hồ Phỉ cúi xuống bảo hai đứa nhỏ:
– Ta đưa các cháu đi gặp má má. Má má đang nhớ các cháu lắm.
Hai đứa nhỏ mặt mày hớn hở, vươn bốn cánh tay nhỏ bé ra để Hồ Phỉ bồng về với mẹ. Hồ Phỉ vừa đưa tay trái bồng hai đứa nhỏ lên, thì giữa lúc ấy có hai tên vệ sĩ tiến vào nhà. Chàng nghĩ:
– Nếu không nắm giữ tánh mạng của Thái phu nhân thì khó bề thoát thân được.
– Thái phu nhân ở trong tay ta. Các ngươi mà sấn vào thì chúng ta cùng chết cả.
Chàng nói rồi rảo bước xông ra ngoài. Lúc này mấy tên vệ sĩ đã bắt được Nhâm Thông Võ. Chúng giương mắt lên nhìn Hồ Phỉ một tay bồng hai đứa nhỏ, một tay lôi Thái phu nhân chạy thẳng ra ngoài. Bọn vệ sĩ ném chuột sợ vỡ đồ, nào dám tiến lại động thủ? Chúng chỉ hò hét om sòm và bám sát theo Hồ Phỉ, đao kiếm giơ lên chỉ cách lưng chàng mấy tấc. Bọn vệ sĩ thấy Hồ Phỉ không có cách nào rảnh tay để chống cự, nhưng rốt cuộc cũng không dám sấn vào.
Hồ Phỉ trong lòng ngấm ngầm kêu khổ, vì bốn mặt đã có vệ sĩ bao vây đông nghẹt. Chàng đem theo một già hai trẻ, nếu cứ dùng dằng mãi thế này biết bao giờ mới ra khỏi cửa phủ? Địch nhân vẫn úy kỵ không dám tiến vào, nhưng giả tỷ trong bọn chúng có kẻ lớn mật xông tới, thì chàng cũng chẳng thể đánh chết Thái phu nhân được.
Đang lúc vô kế khả thi, Hồ Phỉ chỉ còn cách rảo bước tiến về phía trước. Hai bên thành thế giằng co. Bọn vệ sĩ cố nhiên không dám xông vào động thủ nhưng thủy chung Hồ Phỉ vẫn không thoát khỏi vòng nguy hiểm. Bọn chúng kéo tới mỗi lúc một đông khiến tình thế càng gay go thêm.
Trong lúc nhất thời Hồ Phỉ không có cách nào hay, chỉ biết gạt bỏ tánh mạng qua một bên, tiến được bước nào hay bước đó, nhưng bốn bề vang lên tiếng truyền lệnh cùng tiếng người la ó. Chàng lại một tay ôm hai đứa trẻ, một tay dắt một bà già, nên không đi mau được, đành lẩn vào bóng lối mà chạy.
Giữa lúc ấy bỗng thấy mé trái ánh lửa lập lòe. Có nguời lớn tiếng hô:
– Thích khách định hành thích công chúa! Chúng còn định đốt chết công chúa nữa! Chúng còn định đốt chết công chúa!
Hồ Phỉ sửng sốt, chàng nghe thanh âm đúng là giọng của Chu Thiết Tiêu. Lại thấy khói lửa dày đặc từ dãy nhà mé trái bốc lên không. Công chúa Gia Hòa là ái nữ của đương kim Hoàng đế. Nếu để sơ sót thì toàn bộ vệ sĩ ở phủ Phúc Khang An đều bị trọng tội.
Lại nghe Chu Thiết Tiêu hô:
– Anh em mau đến cứu hỏa. Đừng để tổn thương đến công chúa. Ta đến cứu Thái phu nhân đây.
Chu Thiết Tiêu là một thủ hạ rất có uy tín của Phúc Khang An. Bọn vệ sĩ đang kinh hoàng thất thố, nghe tiếng lão gọi uy nghiêm đều ào ào kéo đến chỗ ở của công chúa như ong vỡ tổ. Hồ Phỉ đã biết đây là kế “điệu hổ ly sơn” để mình thoát nạn, trong lòng xiết bao cảm kích. Lại thấy Chu Thiết Tiêu hăm hở chạy tới vung đao chém liền. Hồ Phỉ nghiêng mình tránh, miệng quát:
– Giỏi lắm!
Rồi đẩy Thái phu nhân về phía lão. Chu Thiết Tiêu đỡ Thái phu nhân dậy cõng lên lưng.
Hồ Phỉ một tay bồng hai đứa nhỏ, chân chạy thật nhanh.
Lại nghe Chu Thiết Tiêu đề khí hô lớn:
– Bọn thích khách rất đông! Các ngươi ở đâu đứng yên đấy để bảo vệ đại soái và hai vị công chúa, chớ có nhốn nháo mà trúng kế “điệu hồ ly sơn” của bọn chúng.
Bọn vệ sĩ nghe đến bốn chữ “điệu hổ ly sơn” đều run lên, không dám rượt theo nữa.
Hồ Phỉ chạy nhanh về phía cổng sau vườn hoa. Chàng vượt tường ra ngoài nhưng vẫn ngấm ngầm kêu khổ vì thấy hai mặt đông tây đều có vệ sĩ đứng đông nghịt. Chàng bồng hai đứa nhỏ vượt qua một khu đất trống chạy vào trong ngõ hẻm.
Bọn vệ sĩ hô hoán:
– Bắt thích khách! Bắt thích khách!
Chúng vừa hô vừa đuổi theo.
Hồ Phỉ chạy hết ngõ hẻm, chuyển tới một đường ngang, bỗng thấy trước mặt có một cỗ xe lừa đứng ngay giữa đường.
Hồ Phỉ nhảy lên xe, lớn tiếng:
– Chạy lẹ đi! Chạy lẹ đi! Ta sẽ trọng thưởng cho!
Trên chỗ xa phu có hai người ngồi sóng vai. Hán tử thân hình ốm nhom ở bên phải nghe tiếng Hồ Phỉ la, liền giật cương vung roi da một cái cho lừa kéo xe chạy.
Hồ Phỉ vừa vững tâm một chút, bỗng ngửi thấy mùi hôi thối xông lên mũi. Chàng định thần nhìn lại, thì trên cỗ xe lừa để đầy những thùng phân. Nguyên đây là xe vệ sinh đi đến từng nhà để đổi thùng phân. Chẳng tự hỏi:
– Sao nửa đêm lại có xe lấy phân đậu ở đây?
Chàng quay đầu nhìn lại thấy bọn vệ sĩ lớn tiếng hò reo đuổi tới phía sau. Chàng chợt nảy ra một ý, xách một thùng phân ném về phía sau. Cú ném đó lực đạo cực mạnh. Hai tên vệ sĩ đi đầu đụng phải thùng phân, toàn thân ướt đẫm ngã lăn ra, nhất thời không bò dậy được. Bọn vệ sĩ thấy vậy nhất tề dừng lại. Bọn này toàn là những võ sĩ khỏe mạnh gan dạ được tuyển chọn kỹ càng, chúng không sợ đao thương, nhưng trước những thùng phân ném tới, chẳng có ai trong bọn chúng dám nếm mùi hôi thối.
Cỗ xe lừa vẫn chạy bon bon về phía trước, nhưng chỉ lát sau đã nghe tiếng người văng vẳng, bọn vệ sĩ lại đuổi tới. Nên biết Phúc Khang An làm Binh Bộ Thượng thư đương triều, chấp chưởng đặc quyền coi giữ binh mã trong cả nước. Đội vệ sĩ trong phủ đều không phải tầm thường mà để Hồ Phỉ hai đêm liền vào đại náo đến trời long đất lở, thì bọn chúng còn chi là mặt mũi. Chúng thấy xe chạy xa rồi, thùng phân không thể ném tới, đành phải lội qua mặt đường đất đầy phân dơ dáy để tiếp tục truy đuổi.
Hồ Phỉ trong lòng phiền não, nghĩ bụng:
– Nếu mình quay về lại nhà thì khác nào tiết lộ chỗ ở? Mã cô nương chưa thoát khỏi cảnh hiểm nghèo thì dẫn quỷ về nhà thế nào được? Nhưng không chạy về nhà thì trốn vào đâu bây giờ?
Chàng còn đang ngẫm nghĩ, bọn vệ sĩ đã đuổi đến gần, song vì chúng sợ những thùng phân nên không dám xông lại, tên nào cũng nghĩ bụng:
– Bọn mình cứ đứng xa xa theo dõi, chẳng lẽ ở trong thành Bắc Kinh này mà gã chắp cánh bay thoát được ư?
Cỗ xe lừa chạy đến ngã tư, lại thấy một cỗ xe lừa chở phân khác đứng ở giữa đường.
Hồ Phỉ bảo xe chạy tới gần, tên xa phu nhìn Hồ Phỉ vẫy tay, hô:
– Qua bên xe kia!
Gã tung mình nhảy sang xe khác. Hồ Phỉ bồng hai đứa nhỏ nhảy theo. Trên cỗ xe trước, một hán tử đón lấy giây cương, không chút chậm trễ vội vung roi cho xe tiếp tục chạy rẽ về hướng tây. Còn cỗ xe chở Hồ Phỉ lúc nãy về hướng đông.
Quân vệ sĩ đuổi tới thấy hai cỗ xe lừa giống hệt nhau, lại mỗi xe đi mỗi ngả. Chúng chẳng hiểu thích khách ở cỗ xe nào, bèn bàn nhau chia làm hai đường đuổi theo cả hai xe. Hồ Phỉ nghe giọng nói, lại thấy hán tử thân hình gầy nhom mà thân pháp nhảy sang xe này rất mau lẹ, biết ngay là Trình Linh Tố đến tiếp ứng. Chàng mừng rỡ kêu lên:
– Nhị muội! Tưởng ai té ra là nhị muội!
Trình Linh Tố chỉ “hứ” một tiếng, chứ không trả lời.
Hồ Phỉ lại hỏi:
– Mã cô nương làm sao? Bệnh thế có biến chuyển gì không?
Trình Linh Tố xẵng giọng:
– Không biết!
Hồ Phỉ biết cô đang tức mình, cất giọng ôn nhu nói:
– Nhị muội! Tiểu huynh không nghe lời nhị muôi là có điều không phải. Xin nhị muội lượng thứ cho!
Trình Linh Tố đáp:
– Tiểu muội đã bảo không chữa bệnh cho y là không chữa. Chẳng lẽ lời tiểu muội không phải là lời nói của con người?
Giữa lúc đang nói chuyện, hài người lại tới một ngã ba đường. Giữa ngã ba lại có một có xe lừa đứng chờ. Lần này Trình Linh Tố không đổi xe, chỉ huýt sáo, vung tay ra hiệu cho hai cỗ xe lừa chở phân, chia làm hai ngả nam, bắc mà chạy.
Bọn vệ sĩ rượt tới nơi ngây người ra nhìn, rồi la lớn:
– Tà môn! Tà môn!
Rồi chúng lại chia đôi thành hai tốp đuổi theo hai hướng nam, bắc.
Đường phố Bắc Kinh chẳng khác gì bàn cờ, đường thì kéo dài suốt trục nam bắc hoặc kéo ngang suốt trục tây đông. Cứ đi một lúc lại thấy xuất hiện ngã ba đường, mà mọi ngã ba đều có một cỗ xe lừa đậu. Trình Linh Tố thấy bọn vệ sĩ đuổi tới gần, không đổi xe để khỏi phải tung người nhảy qua dễ bị phát giác. Chỉ khi nào thấy bọn vệ sĩ còn ở thật xa mới cùng Hồ Phỉ bồng hai đứa nhỏ nhảy qua xe khác, để con lừa mới sung sức chạy nhanh hơn. Tình trạng này tiếp diễn, bọn vệ sĩ mỗi lúc giảm bớt một nửa, sau cùng chỉ còn năm sáu tên đuổi theo, mà tên nào cùng chạy bở hơi tai, chân đã bước chậm lại nhiều rồi.
Hồ Phỉ khen:
– Nhị muội! Kế sách này của Nhị muội thật là tuyệt điệu. Nếu đêm khuya ta không mướn những cỗ xe phân, lại dùng xe thường đứng ở giữa đường tất khiến bọn quan binh tuần tiễu ban đêm sinh lòng ngờ vực.
Trình Linh Tố cười lạt, hỏi:
– Ngờ vực thì đã làm sao? Đại ca chẳng tiếc thân mình, thì có chết về tay quan binh cũng đáng đời.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Tại hạ có chết thì cũng đáng đời, chỉ tiếc cho cô nương phải đau lòng thành ra lại không chết được!
Trình Linh Tố cười lạt, hỏi:
– Đại ca không nghe lời tiểu muội, đem thân đi nạp mạng thì cũng chẳng có ái thương tiếc làm gì. Trừ phi đó là người đa tình đa nghĩa như Viên cô nương… sao cô không đến giúp đại ca một tay?
Hồ Phỉ nói:
– Y không hiểu tại hạ ngu ngốc đến nỗi dám xông vào phú Phúc đại soái. Trong thiên hạ chỉ có một vị cô nương biết tại hạ là kẻ hồ đồ liều lĩnh man rợ, và chỉ có cô nương đó mới quan tâm dám cứu mạng cho tại hạ.
Mấy câu này khiến Trình Linh Tố được an ủi vô cùng. Cô “hứ” một tiếng rồi đáp:
– Ngày trước người cứu mạng cho đại ca là Mã cô nương nên đại ca không lúc nào quên mà cố báo đáp ân tình.
Hồ Phỉ đáp:
– Ở trong lòng ta, Mã cô nương bì với nhị muội thế nào được?
Trong bóng tối, Trình Linh Tố mỉm cười, nói:
– Đại ca cầu tiểu muội chữa trị cho Mã cô nương nên nói dễ nghe lắm. Còn khi không cần đến người ta thì lại coi người ta như cơn gió thoảng qua tai.
Hồ Phỉ thề:
– Nếu tiểu huynh mà nói dối sẽ chẳng được chết yên lành.
Trình Linh Tố nói:
– Thật là thật, dối là dối, ai bảo đại ca thề thốt làm chi?
Cô nói câu này tỏ ra nỗi hờn giận trong lòng đã giảm đi một nửa. Lại tới chỗ đường rẽ, sau xe chỉ còn sót lại hai tên vệ sĩ.
Hồ Phỉ cười nói:
– Nhị muội hãy dừng xe lại, để tiểu huynh diễn một màn kịch chơi!
Trình Linh Tố ghìm cương cho lừa dừng lại. Hai tên vệ sĩ đuổi thêm mấy bước đã tới gần cỗ xe. Hồ Phỉ xách một cái thùng không ném mạnh tới đánh “bộp” một tiếng, cái thùng chụp trúng đầu một tên vệ sĩ. Tên kia cả kinh “ối” lên một tiếng, xoay mình chạy trốn. Trình Linh Tố thấy tình trạng rất hoạt kê không nhịn được, bật lên cười khúc khích, bao nhiêu lửa giận tiêu tan hết.
Hồ Phỉ cùng cô sánh vai ngồi trên xe, đỡ lấy dây cương. Lúc này cách nhà ở không xa, phía sau lại không có quân sĩ đuổi theo. Hai người cho xe đi một quãng nữa rồi nhảy xuống, trả xe lại cho xa phu, thưởng cho một lạng bạc, rồi bảo gã quay về. Mỗi người ôm một đứa nhỏ đi bộ về nhà trọ, vượt tường vào phòng, đến mức quỷ không hay thần không biết. Có ai ngờ hai người vừa đại náo trong phủ Phúc đại soái trở về?
Mã Xuân Hoa được găp hai con, tinh thần phấn khởi. Cô ôm chặt lấy chúng, dòng châu lã chã. Hai đứa nhỏ cũng vui sướng la lên:
– Má má!
Trình Linh Tố thấy tình cảnh này cũng rơm rớm nước mắt, khẽ nói:
– Đại ca! tiểu muội không trách đại ca nữa. Chúng ta đoạt hai đứa nhỏ về để mẹ con đoàn tụ là phải.
Hồ Phỉ đáp vui vẻ:
– Tiểu huynh không nghe lời Nhị muội dặn dò, trong lòng vẫn áy náy.
Trình Linh Tố nhoẻn miệng cười, nói:
– Ngay ngày đầu chúng ta găp nhau, đại ca đã không nghe lời tiểu muội. Tiểu muội bảo đừng rời xa tiểu muội và không được động thủ, đại ca có nghe đâu?
Mã Xuân Hoa được gặp hai con trong lòng thư thái, bệnh tình thuyên giảm rất mau, nàng lại được Trình Linh Tố châm cứu và cho uống thuốc, nên chất độc trong người giảm trừ dần dần. Nhưng còn tại sao nàng lại đến đây và vì lẽ gì không thấy mặt Phúc Khang An, thì Hồ Phỉ và Trình Linh Tố không nói rõ. Hai thằng nhỏ còn bé quá cũng không sao biết được.
Chớp mắt lại mấy ngày trôi qua, tiết trung thu đã đến. Chiều hôm ấy Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố, Thái Uy, Cơ Hiểu Phong ba người đến phủ Phúc Khang An tham dự đại hội chưởng môn nhân.
Hồ Phỉ lần này lại hóa trang khác trước. Hàm râu quai nón đã được cắt ngắn và nhuộm vàng, da mặt cũng vàng nhạt như người mắc bệnh gan, nhưng cả người áo gấm rực rỡ, miệng ngậm ống thuốc bằng phỉ thúy, nhẫn ngọc đeo tay, tay cầm cây quạt lớn hoa vàng. Cách phục sức vừa hào nhoáng lại vừa thô tục. Trình Linh Tố hóa trang làm một phu nhân đứng tuổi, lưng còng, mặt mũi nhăn nheo. Chẳng ai dám bảo y là một cô nương mới mười bảy, mười tám tuổi. Hồ Phỉ bảo Thái Uy là sư phụ dặn dò không được lộ chân tướng ở đại hội. Thái Uy chỉ vâng dạ chứ không hỏi nhiều.
Mọi người vào cổng lớn phủ Phúc Khang An thì bọn thị vệ đã rút lui hết, chỉ có tám người lễ tân đứng đón khách. Hồ Phỉ đưa văn thư lên. Bọn chúng liền kính cẩn mời bốn người vào ngồi bàn ở phía đông.
Tại bàn này còn mấy người nữa. Chào hỏi nhau mới biết họ là người của “Hầu Quyền Đại Thánh môn”. Trình Linh Tố thấy vị chưởng môn đã già, đầu cao, miệng nhọn, má đỏ tay dài, tướng mạo có phần giống khỉ thì không khỏi cười thầm.
Lúc này trong sảnh đường tân khách đã tới quá nửa, mà ngoài cửa vẫn còn người lục tục tiến vào. Những người tiếp khách trong sảnh đường đều là võ quan thủ hạ của Phúc Khang An. Có người vào hạng quan viên tam tứ phẩm, đi ra ngoài đều là những đại quan hách dịch, nhưng ở phủ đại soái thì chỉ là những tùy viên mời khách, chẳng khác gì tôi tớ hầu hạ.
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn quanh bỗng thấy Chu Thiết Tiêu và Uông Thiết Ngạc sóng vai đi tới. Hai lão mặt mày hớn hở, sắc phục và mũ đội đều đổi khác, hiển nhiên là đã thăng quan. Chu, Uông đi tới trước mặt Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nhưng không nhận ra hai người.
Chợt nghe hai tên võ quan khác nhìn Chu, Uông cười hì hì nói:
– Cung hỷ Chu đại ca và Uông đại ca, đêm qua đã lập công rất lớn.
Uông Thiết Ngạc sướng quá ngoác miệng ra cười, đáp:
– Cái đó chẳng qua là gặp may, chứ bản lãnh có gì đáng kể đâu?
Lại một tên võ quan khác tiến lại, nói:
– Một vị được thăng tổng binh, một vị đã thực sự là phó tướng. Hà hà! Hay quá! Hay quá! Trong những nhân vật may mắn ở phủ Phúc đại soái, hai vị được xem là thăng quan lẹ nhất.
Chu Thiết Tiêu cười mát, đáp:
– Bình đại ca lại nói giỡn rồi. Anh em tại hạ vô công mà hưởng lộc, bì thế nào được với Bình đại ca lập chiến công ngoài trận mạc?
Tên võ quan kia nghiêm mặt nói:
– Chu đại ca dũng cảm cứu tướng quốc phu nhân, Uông đại ca ra sức bảo vệ công nương. Đức vạn tuế gia tự miệng gia phong, tiểu đệ bì sao nổi?
Chu Thiết Tiêu và Uông Thiết Ngạc đi đến đâu bọn võ quan đều xúm nói mấy câu chúc mừng tâng bốc. Bọn chưởng môn nghe thấy cũng động tính hiếu kỳ, hỏi về vụ hai người lập công cứu chủ thế nào. Bọn võ quan bèn thêm dầu thêm mỡ để thuật lại câu chuyện cho tăng thêm phần hấp dẫn.
Hồ Phỉ đứng cách xa chỉ loáng thoáng nghe đại khái câu chuyện: Đêm hôm qua, Hồ Phỉ xông vào Phúc phủ, cướp hai thằng nhỏ. Chu Thiết Tiêu mưu mẹo sâu xa, chẳng những hóa giải được một trường tai họa, mà nghe được phong thanh từ trước nên lập mưu giành lại được tướng quốc phu nhân từ tay Hồ Phỉ, lại kêu sư đệ là Uông Thiết Ngạc đến bảo vệ công chúa.
Tướng quốc phu nhân là tình nhân của vua Càn Long, công chúa là ái nữ của Hoàng đế. Công lao giải cứu này thật dễ dàng, nhưng trong mắt nhà vua lại khó khăn hơn việc xung phong hãm trận ngoài chiến trường cả trăm lần. Vì thế hai lão được triệu vào kim điện bệ kiến, gia thăng liền mấy cấp. Tướng công phu nhân cùng Công chúa và Phúc Khang An cũng ban thưởng rất nhiều vàng bạc châu báu. Trong một đêm Chu, Uông hai người vận đã đỏ lại càng thêm đỏ. Ai cũng bảo mấy trăm tên thích khách nửa đêm xông vào tập kích Phúc phủ. Nếu không được hai vị Chu, Uông lực chiến thì tánh mạng tướng quốc phu nhân và công chúa khó nỗi bảo toàn.
Bọn vệ sĩ, để che giấu sự bất lực, khai ra bọn thích khách mỗi lúc một đông đến nỗi chúng lâm vào tình cảnh lấy ít đánh nhiều, phải liều mạng chống chọi mới bảo vệ được Phúc Khang An vô sự. Kết quả vụ này ai cũng có công. Phúc Khang An tuy mất hai đứa con, trong lòng rất phiền não, nhưng nghĩ tới mười năm trước gặp nguy nan trong tay “Hồng Hoa hội” thì đêm rồi chỉ phải một phen kinh hãi chứ không nguy hiểm, thích khách lại bị đánh lui nên ban thưởng rất nhiều cho bọn vệ sĩ. Lệ quan trường xưa nay vẫn vậy, cứ dối trên lừa dưới thì tất cả đều vui vẻ.
Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố liếc mắt nhìn nhau, không khỏi cười thầm trong bụng. Hai người đều là tay mưu kế sâu xa cũng không thể nghĩ nổi Chu Thiết Tiêu, trong một vụ bình thường như vậy, mà lại khai thác được một trường phú quí.
Hồ Phỉ lẩm bẩm:
– Lão này mưu kế sâu xa, thủ đoạn tàn độc ắt tương lai rộng mở, bước tiến thân trong chốn quan trường là vô hạn.
Nhốn nháo một lúc, bất giác mấy chục bàn đầy đủ khách ngồi. Hồ Phỉ nhẩm tính có cả thảy sáu mươi hai bàn, mỗi bàn tám người chia làm hai phái, như vậy là một trăm hai mươi bốn vị chưởng môn. Chàng nghĩ bụng:
– Những môn phái võ công trong thiên hạ không ngờ nhiều đến thế, ấy là chưa kể số được mời mà không đến cũng chẳng phải là ít.
Có một số bàn chỉ có bốn người, lại có mấy bàn bỏ trống, khiến chàng sực nhớ tới Viên Tử Y, tự hỏi:
– Chẳng hiểu bữa nay nàng có tới đây không?
Trình Linh Tố thấy chàng ra chiều nghĩ ngợi, khóe mắt chàng lộ vẻ ôn nhu, đã đoán ra chàng đang nghĩ tới Viên Tử Y thì không khỏi chua xót trong lòng.
Bỗng cô thấy da bên má chàng động đậy, vẻ mặt biến đổi, hai mắt phừng phừng lửa giận, hướng theo mục quang chàng mà nhìn thì thấy một lão già thân thể to lớn, ngồi ở bàn thứ tư về phía tây. Lão này tay cầm hai trái thiết đảm, cặp mắt lấp loáng láo liêng nhìn mọi chỗ. Hắn chính là Phụng Thiên Nam, chưởng môn phái Ngũ Hổ.
Trình Linh Tố vội kéo tay áo Hồ Phỉ. Lập tức chàng sực tỉnh quay đầu lại, bụng bảo dạ:
– Mi đã tới đây thì đừng hòng thoát khỏi tay ta. Chà! Tên ác tặc Phụng Thiên Nam, mi tưởng ta sau khi đại náo Phúc phủ, quyết chẳng dám tham dự cuộc đại hội chưởng môn, có ngờ đâu ta vẫn tới.
Giờ ngọ bắt đầu. Các bàn đâu đã vào đấy, Hồ Phỉ đảo mắt nhìn quanh thấy chính giữa đại sảnh treo một bức trướng gấm đính tám chữ lớn: “Dĩ võ hội hữu, quần anh tất chí”.
Dưới bức trướng gấm có đặt bốn cái bàn, mỗi bàn chỉ có một ghế dài phủ da hổ mà chưa có ai ngồi. Chàng chắc đây là chỗ ngồi của những bậc vương công quý nhân.
Trình Linh Tố nói:
– Y vẫn chưa tới…
Hồ Phỉ biết là cô nói Viên Tử Y, nhưng cũng thuận miệng hỏi lại:
– Ai chưa tới?
Trình Linh Tố không đáp, tự nói một mình:
– Y đã làm tổng chưởng môn chín phái rưỡi thì không thể không đến được.
Lại qua một lúc, bỗng thấy một vị tướng quân mang hàm nhị phẩm đứng dậy, cất giọng oang oang như chuông đồng, nói:
– Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch.
Bọn vệ sĩ cũng hô truyền theo nhau:
– Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch! Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch!
Quần hào trong sảnh đường đều không hiểu:
– Những nhân vật dự đại hội này, ngoài bọn đệ tử tùy tùng và những nhân viên tiếp khách bên chủ, ai cũng là chưởng môn nhân, sao lại còn phân làm tứ đại, tứ tiểu?
Lúc này trong sảnh đường đều yên lặng. Bỗng thấy hai ba vị võ quan tam phẩm đi trước dẫn bốn người tiến vào sảnh đường, đi thẳng tới bên những ghế bọc da hổ mời họ ngồi xuống.
Người đi đầu là một nhà sư già lông mày bạc trắng, tay cầm thiền trượng bằng gỗ huỳnh dương, mặt mũi hiền lành, nếu chưa đến một trăm thì cũng ngoài chín chục tuổi rồi. Nhân vật thứ hai là một đạo nhân ước chừng bảy mươi tuổi, nước da đen sì, cặp mắt lim dim nửa nhắm nửa mở, coi bộ ốm yếu. Hai người một tăng một đạo mà tướng mạo trông khác hẳn nhau. Nhà sư thì cao lớn uy nghiêm, thoạt nhìn cũng đủ biết là một vị cao tăng đắc đạo. Còn đạo nhân thì giống như một đạo sĩ tầm thường đi thí pháp hóa duyên, vẽ bùa chú bịp người. Không hiểu sao lão cũng đứng vào một trong bốn vị “Tứ đại chưởng môn nhân”?
Người thứ ba là một lão già tinh thần quắc thước, ngoài sáu chục tuổi cả, cặp mắt lấp loáng, huyệt thái dương nhô lên, hiển nhiên là nội công thâm hậu. Lão vừa bước vào đã mỉm cười chắp tay chào hỏi hết người này đến người khác, tưởng chừng trong một trăm vị chưởng môn thì có đến chín chục quen lão. Thật là một nhân vật giao du khắp thiên hạ. Người gọi lão là “Thang đại gia”, kẻ kêu bằng “Thang đại hiệp”, chỉ có mấy vị võ lâm danh túc tuổi cao đức trọng mới gọi bằng “Cam Lâm huynh”.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Vị này chắc ngoại hiệu là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh” tên gọi là Thang Bái. Má má của Viên cô nương đã được lão thu nạp. Tiếng nhân hiệp của lão truyền bá khắp nơi, người trong võ lâm đều bảo lão là bậc nhân nghĩa hơn đời. Không ngờ bữa nay lão cũng bị Phúc Khang An lung lạc.
Lão chưa ngồi vào ghế ngay, còn đi qua các bàn có những người quen biết hàn thuyên đôi lời, nào nắm tay, nào vỗ vai ra chiều cực kỳ thân thiết.
Khi lão đi qua bàn Hồ Phỉ, liền nắm lấy chưởng môn Đại thánh hầu quyền môn, cười nói:
– Lão hầu nhi, lão cũng tới ư? Hà hà! Bàn này sao lại không dự bị trước một mâm đào?
Lão chưởng môn kia cung kính, cười đáp:
– Thang đại hiệp, đã bảy năm rồi không gặp lão nhân gia. Tại hạ chưa kịp lại vấn an, thực đáng đánh đòn. Lão nhân gia càng già càng tráng kiện, thật là hiếm người có được.
Thang Bái vươn tay vỗ vai lão, cười hỏi:
– Những hầu tử hầu tôn, hầu bà hầu nữ của lão ở động Thủy Liêm trên Hoa Quả sơn đều bình yên cả chứ?
Vị chưởng môn kia đáp:
– Nhờ hồng phúc của Thang đại hiệp, cả nhà lão phu đều bình yên.
Thang Bái cười ha hả quay sang nhìn Cơ Hiểu Phong hỏi:
– Cơ lão tam không đến ư?
Cơ Hiểu Phong khom lưng thi lễ thỉnh an, rồi đáp:
– Gia phụ không đến. Thường nhật lão nhân gia vẫn nhắc tới Thang đại hiệp và bảo rằng sau khi uống viên “Nhân sâm dưỡng vinh hoàn” của Thang đại hiệp tặng, tinh thần rất sảng khoái.
Thang Bái hỏi:
– Phải chăng ngươi ở trong phủ của Văn thị lang? Sáng mai ta lại gởi cho ngươi một ít.
Cơ Hiểu Phong khom lưng tạ ơn.
Thang Bái đưa mắt nhìn Hồ Phỉ, Trình Linh Tố và Thái Uy gật đầu mấy cái rồi qua bàn khác.
Vị chưởng môn ở Đại Thánh Hầu Quyền môn nói:
– Thang đại hiệp ngoại hiệu là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh”, thực ra há phải chỉ bảy tỉnh mà thôi đâu. Có một năm lão phu bảo hộ một món tiêu ngân mười tám vạn lạng bị thất lạc trên đường Cao Lương. Cả nhà hốt hoảng còn thiếu nước nhảy xuống giếng tự tử, nếu không được Thang đại hiệp đứng ra can thiệp, dùng biện pháp vừa cứng rắn vừa mềm dẻo thì Tửu Toàn Tam Hổ đời nào trả lại món tiêu ngân đó.
Lão kể lại chuyện năm xưa một cách say sưa, phun cả nước bọt tung tóe. Nguyên lão chịu ơn sâu của Thang Bái suốt đời không quên, nên hễ gặp cơ hội là lão lại tuyên dương công đức của họ Thang.
Thang Bái tiến vào đại sảnh như một vị đại tướng quân lẫm liệt uy phong. Ai cũng chăm chú nhìn lão. Lão làm cho hình ảnh hai vị đại chưởng môn kia lu mờ hẳn đi.
Vị chưởng môn nhân thứ tư ăn mặc như võ quan, mũ mang hàm tứ phẩm. Trong nhà đại soái còn nhiều võ quan hàm cao hơn y, nhưng bộ pháp y vững vàng, khí độ oai nghiêm ra vẻ đại tôn sư một phái. Tuổi y lối năm mươi, mặt vuông tai lớn, hai hàng lông mày dựng lên. Y lẳng lặng tiến vào ngồi trên ghế thứ tư, tư thế mênh mông như biển cả, lại sừng sững như non cao, ngưng thần chuyên chú, tựa hồ như chẳng nghe chẳng thấy những việc xảy ra quanh mình.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Đây cũng là một nhân vật phi thường.
Lúc chàng mới tiến vào đại hội, trong lòng tràn ngập hùng tâm không coi ai vào đâu, nhưng từ lúc nhìn thấy bốn vị đại chưởng môn, không khỏi có phần úy kỵ, nghĩ thầm:
– Thang đại hiệp và vị võ quan kia, bất cứ vị nào ta cũng chưa chắc thủ thắng. Thế mà lão hòa thượng và đạo nhân còn ở trên hai người đó thì dĩ nhiên không phải tầm thường. Bữa nay ta quyết không để lộ thân phận. Đừng nói hàng trăm vị chưởng môn đều là cao thủ tuyệt đỉnh, mà ngay bốn vị “Tăng, Đạo, Hiệp, Quan” kia muốn chế phục ta cũng dư sức.
Hồ Phỉ sinh lòng e ngại, chỉ ngồi bốc hạt dưa cắn, chàng không dám ngang nhìn ngửa, sợ bọn thủ hạ của Phúc Khang An phát giác.
Sau một lúc, Thang Bái chào hỏi mọi người rồi trở về chỗ ngồi của mình. Lại thấy rất nhiều kẻ vãn bối hậu sinh đến trước lão dập đầu vấn an.
Thang Bái là gia tư hào phú, lại trượng nghĩa khinh tài, những môn nhân đệ tử đứng sau lưng lão đều mang sẵn những phong bao đỏ. Hễ cứ có một kẻ vãn bối chưa từng thấy mặt đến sụp lạy là lão lại thưởng cho bốn lạng gọi là lễ ra mắt. Trong phòng nhốn nháo một lúc mới xong cuộc bái kiến.
Bỗng nghe tên võ quan nhị phẩm hô:
– Rót rượu!
Những bộc dịch chầu chực các bàn đều rót rượu đầy vào các chung.
Tên võ quan kia nâng chung rượu lên, dòng dạc hô:
– Các vị chưởng môn cùng các vị tiền bối võ sư ở các bang phái lặn lội đường xa đến dự đại hội ở kinh thành, Phúc đại soái nhiệt liệt hoan nghênh. Bây giờ tại bạ xin kính mừng các vị một chung trước. Lát nữa Phúc đại soái sẽ thân hành đến chúc rượu các vị.
Hắn nói rồi uống một hơi cạn hết. Mọi người cũng cạn chung theo.
Tên võ quan lại nói:
– Bữa nay, những người có mặt đều là những bậc anh hùng hào kiệt võ lâm, thật là một thịnh sự cổ kim chưa từng có. Phúc đại soái càng cao hứng hơn nữa khi mời được bốn vị đại chưởng môn nhất tề quang lâm. Tiểu đệ xin được giới thiệu.
Y trỏ vào nhà sư già mày bạc ở ghế thứ nhất, nói:
– Đây là Đại Trí thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, tỉnh Hà Nam. Cả ngàn năm nay, phái Thiếu Lâm đã là nguồn gốc võ học khắp thiên hạ, vì thế cuộc đại hội chưởng môn này phải suy cử Đại Trí thiền sư ngồi vào ngôi thủ tịch là đúng lẽ.
Quần hào đều vỗ tay như sấm dậy.
Phái Thiếu Lâm có nhiều phân chi rất rộng lớn. Những người đến tham dự cuộc đại hội chưởng môn bữa nay thì đã có đến một phần ba bắt nguồn từ phái Thiếu Lâm, nên quần hào thấy võ quan tôn sùng vị cao tăng chùa Thiếu Lâm ai nấy đều hoan hỉ.
Tên võ quan lại trỏ vào vị đạo nhân ở ghế thứ hai nói:
– Ngoài phái Thiếu Lâm ra, dĩ nhiên phải suy tôn phái Võ Đương. Vị này là Vô Thanh Tử đạo trưởng, quán chủ Thái Hòa cung ở núi Võ Đương.
Uy danh phái Võ Đương cực kỳ hưng thịnh. Phái này là tỵ tổ môn quyền kiếm nội gia, những quần hào thấy đạo nhân vóc người thấp lùn, tướng mạo tầm thường thiếu vẻ uy phong thì trong lòng đều ngấm ngầm lấy làm lạ. Những bậc danh túc kiến văn quảng bác đều nghĩ thầm:
– Từ ngày chưởng môn phái Võ Đương là Mã Ngọc qua đời mười mấy năm trước, kế đó cao thủ là Hỏa Phán Quan Trương Triệu Trọng lại chết ở Hồi Cương, thì không nghe nói tới nhân vật nào làm chưởng môn của phải này. Cái tên Vô Thanh Tử làm quán chủ Thái Hòa cung cũng chưa từng nghe ai nhắc tới.
Vị thứ ba là đại hiệp Thang Bái nổi tiếng ai ai cũng biết, kể ra không cần giới thiệu, nhưng tên võ quan kia vẫn lên tiếng:
– Vị này là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh” Thang đại hiệp, chưởng môn phái Tam Tài kiếm. Thang đại hiệp oai danh chấn động thiên hạ, nghĩa nhân trùm đời, chẳng ai không biết. Tiểu đệ bất tất phải rườm lời.
Gã vừa mới nói mấy câu quần hào đã đồng thanh hoan hô như sấm dậy. Tình trạng này so với lúc giới thiệu Vô Thanh Tử thật khác nhau, cả Đại Trí thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng không bì kịp.
Hồ Phỉ nghe một lão già ở bàn bên cạnh nói khẽ:
– Trong võ lâm có môn phái làm rạng rỡ cho người, lại có người làm rạng rỡ môn phái. Vị Thanh gì gì đạo trưởng đó chỉ nhân làm quán chủ Thái Hòa cung núi Võ Đương mà được kể là một trong bốn vị đại chưởng môn. Lão phu coi chừng chưa chắc đã có chân tài thực học gì. Còn như Tam Tài kiếm mà không sản xuất được nhân tài như Thang đại hiệp, một nhân vật trăm năm khó kiếm, thì làm sao chiếm nổi địa vị này trong võ lâm?
Một tên tráng hán tiếp lời:
– Sư thúc dạy phải lắm.
Hồ Phỉ cũng ngấm ngầm gật đầu.
Quần hào lộn xộn một lúc rồi đưa mục quang nhìn vị võ quan ngồi ở ghế thứ tư.
Tên võ quan giới thiệu nói tiếp:
– Vị này là đấng anh hùng ở Mãn Châu, Hải Lan Bật Hải đại nhân, chưởng môn Hắc Long môn ở Liêu Đông, đồng thời là Tá Lãnh đội Kiêu kỵ doanh thuộc đạo Hoàng kỳ.
Quan chức Hải Lan Bật kể ra cũng còn kém tên võ quan, nên đến lúc tên võ quan nhị phẩm gọi tới, hắn liền đứng dậy nghiêm trang, ra vẻ kính cẩn.
Lão già ngồi gần Hồ Phỉ lại xì xầm với người cùng bàn:
– Vị này lại dùng quan chức để đề cao môn phái. Hắc Long môn ở Liêu Đông, hà hà… chưa từng nghe ai trong võ lâm nhắc tới, mà cũng là một trong Tứ đại chưởng môn ư? Có điều bốn vị đại chưởng môn mà là người Hán cả, không chen một nhân vật Mãn Châu vào thì Phúc đại soái không được đẹp mặt. Hải đại nhân đây nhiều lắm chỉ là có sức mạnh mấy trăm cân của người man di, thì bì với những danh gia cao thủ của chính phái ở võ lâm Trung nguyên thế nào được?
Tên tráng hán ngồi lại nói:
– Lời sư thúc thật chí phải.
Nhưng lần này Hồ Phỉ không cho là lão nói đúng. Chàng nghĩ bụng:
– Lão đừng coi thường vị hảo hán Mãn Châu này. Hắn anh hoa nội liễm, khí phách ngưng trọng, e rằng người như lão còn thua hắn xa.
Bốn vị đại chưởng môn đứng dậy mời rượu quần hào, mỗi người nói mấy câu khiêm tốn. Đại Trí thiền sư khí độ ung dung, quả có phong độ một nhân vật lãnh tụ. Thang Bái nói năng lưu loát, chỉ mới nói có bảy, tám câu đã khiến quần hào phải ba lần nổi lên những tràng cười rộ. Vô Thanh Tử và Hải Lan Bật ăn nói vụng về. Vô Thanh Tử nói khẩu âm Hồ Bắc rất khó nghe, quá nửa số người không hiểu lão nói cái gì.
Chàng ngấm ngầm lấy làm lạ tự hỏi:
– Vị đạo trưởng này phát âm không đủ trung khí mà sao lại làm được chưởng môn một đại môn phái như Võ Đương? Chắc là võ nghệ lão tuy tầm thường, nhưng thân phận cao mà lại có uy tín lớn nên được đệ tử bản phái khâm phục mà suy tôn lên chăng?
Đúng lúc đó nhà bếp lần lượt đưa thức ăn vào. Phúc đại soái thiết yến đãi khách quả nhiên không phải tầm thường. Nguyên những vò rượu “Trạng Nguyên Hồng” đời Thiệu Hưng để lâu trên hai chục năm đã là thứ mỹ tửu rất quý hiếm rồi.
Hồ Phỉ cứ việc rượu đưa đến là uống cạn. Chàng uống một lúc hơn hai chục chung. Trình Linh Tố thấy chàng uống rượu rất hào, chỉ biết nhếch mép mỉm cười. Thỉnh thoảng cô quay đầu nhìn Phụng Thiên Nam, sợ hắn chuồn mất.
Quần hào ăn xong bảy, tám món trên bàn tiệc, bỗng nghe đoàn thị vệ lớn tiếng hô:
– Phúc đại soái tới!
Các võ quan trong đại sảnh đều nhất tề dời chỗ ngồi, ra đứng nghiêm trang. Chỉ trong nháy mắt, ai nấy đều trông như những pho tượng đá không nhúc nhích. Chưởng môn các phái đều là hào khách võ lâm, chưa thấy kỷ luật quân thần nghiêm cẩn như thế bao giờ, đều giật mình kinh hãi bất giác cũng lục tục đứng lên.
Bỗng nghe tiếng giày lẹp kẹp, có mấy người tiến vào đại sảnh. Bọn võ quan đồng thanh hô:
– Tham kiến đại soái!
Chúng nhất tề quỳ nửa chân, khom lưng cúi mình xuống.
Phúc đại soái khoát tay nói:
– Được rồi! Các vị đứng lên đi!
Bọn võ quan đáp:
– Tạ ơn đại soái!
Mấy tiếng lách cách vang lên, bọn võ quan đứng thẳng người dậy.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Phúc Khang An trị quân nghiêm minh, quả không phải hạng tầm thường. Thảo nào hắn xuất chinh mấy lần đều đánh đâu thắng đấy.
Nhưng chàng thấy hắn mặt mày hớn hở, lại nghĩ thầm:
– Hắn thật là người chẳng có lương tâm. Hai đứa con bị cướp đi mà hắn vẫn thản nhiên như không.
Phúc Khang An sai người rót một chung rượu, rồi nói:
– Các vị võ sư tới kinh sư nên bản soái bày tiệc tẩy trần. Xin mời các vị cạn chung.
Hắn nâng chung rượu lên uống cạn, quần hào nhất loạt uống cạn theo. Lần này Hồ Phỉ chỉ để chung rượu lên môi mà không uống, vì trong lòng phẫn hận Phúc Khang An tàn ác, đã biết mẫu thân hạ độc Mã Xuân Hoa mà không giải cứu, nên chàng không muốn cạn chung với hắn.
Phúc Khang An lại nói:
– Cuộc đại hội chưởng môn khắp thiên hạ bữa nay đức Vạn tuế cũng biết rõ. Ngài mới tuyên triệu bản soái vào bái kiến và ban cho hai mươi bốn cái chung để bản soái chuyển cho hai mươi bốn vị chưởng môn nhân.
Hắn vẫy tay một cái, bọn thị vệ bưng ba chiếc hộp gấm đặt lên bàn phủ vải đoạn, rồi mở hộp lấy chung ra. Trong hộp thứ nhất đựng tám cái chung ngọc, hộp thứ nhì đựng tám cái chung vàng, hộp thứ ba đựng tám cái chung bạc, được chia làm ba hàng bày trên bàn. Ngọc khí lóng lánh, kim sắc rực rỡ, ngân quang chói lọi. Trên chung rượu chạm khắc những hoa văn lồi lõm, đứng từ xa mà nhìn chỉ biết đó là những vật cực kỳ tinh xảo. Những chung này đều do thợ khéo ở đại nội chế tạo nên đều có vẻ khác thường.
Lại nghe Phúc Khang An nói tiếp:
– Chung ngọc khắc hình rồng gọi là Ngọc Long bôi, cực kỳ trân quý. Chung vàng khắc hình chim phượng đang bay, gọi là Kim Phụng bôi, chung bạc khắc hình cá chép đang nhảy là Ngân Lý bôi.
Quần hào nhìn hai mươi bốn chung ngự bôi đều tự hỏi:
– Trong cuộc đại hội này cả thảy hơn trăm vị chưởng môn mà chỉ có hai mươi bốn chung ngự bôi thì biết ban cho những ai? Không lẽ lại rút thăm? Ngọc Long bôi quý hơn Ngân Lý bôi rất nhiều, vậy thì ai lãnh ngọc bôi, ai lãnh ngân bôi?
Bỗng thấy Phúc Khang An cầm bốn chung ngọc, tự tay trao cho bốn vị đại chưởng môn và nói:
– Các vị là những thủ lãnh võ lâm, mỗi vị lãnh một chiếc Ngọc Long bôi.
Bọn Đại Trí thiền sư đều khom lưng cảm tạ.
Phúc Khang An lại nói tiếp:
– Ở đây còn lại hai chục chiếc ngự bôi, bản soái xin mời các vị phô trương tuyệt nghệ. Bốn vị võ công cao nhất sẽ được chia nhau bốn chiếc ngọc bôi. Bốn vị này hợp với bốn môn phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Tam Tài Kiếm, Hắc Long môn xưng làm “Ngọc Long bát môn” là những môn phái lớn nhất thiên hạ. Thứ nhì đến tám vị chưởng môn chia nhau tám chung vàng, đó là “Kim Phụng bát môn”. Sau nữa là tám vị chia nhau tám chung bạc hợp thành “Ngân Lý bát môn”. Từ nay các môn phái chia thành đẳng cấp, có thứ bậc trên dưới, do đó trong võ lâm sẽ bớt đi những sự phân tranh. Bốn vị Đại Trí thiền sư, Vô Thanh Tử, Thang đại hiệp, Hải tham lãnh sẽ bình luận võ công cao thấp để định ngôi thứ. Các vị có còn điều chi dị nghị chăng?
Những vị chưởng môn có kiến thức đều nghĩ bụng:
– Làm vậy đâu có thể giảm bớt được những cuộc phân tranh? Các môn phái mà chia đẳng cấp thì trong võ lâm sẽ lập tức xảy ra nhiều họa hoạn vô cùng. Ngay hai mươi bốn chiếc Ngự chung này đã đẩy người ta vào thế tranh chấp rồi. Bọn học võ trong thiên hạ từ đây lại càng đánh nhau vì chữ danh, tự tàn sát nhau gây cảnh máu chảy đầu rơi chẳng còn ngày nào yên tĩnh nữa.
Nhưng vì Phúc đại soái đã nói vậy rồi thì còn ai dám dị nghị nữa? Nhiều người còn lên tiếng phụ họa, hoan hô ầm ĩ.
Phúc Khang An lại nói tiếp:
– Những vị được các chiếc ngự bôi này thì dĩ nhiên phải lo giữ gìn. Nếu cho các môn phái khác đoạt được hoặc lấy trộm thì danh hiệu “Ngọc Long bát môn”, “Kim Phụng bát môn”, “Ngân Lý bát môn” đã được đại hội định sẽ chẳng còn nữa!
Hắn nói lần này ý đồ đã lộ liễu thêm một mức nữa, nhưng vẫn có một ít người reo cười phụ họa.
Hồ Phỉ nghe Phúc Khang An tuyên bố tới đây liền nhớ tới ngày trước Viên Tử Y đã đoán chỗ dụng ý của hắn khi mở về cuộc đại hội chưởng môn, liền nhủ thầm:
– Ban đầu ta tưởng hắn đứng ra mời anh hùng hào Kiệt trong thiên hạ để thu dụng, ngờ đâu chỗ dụng tâm của hắn còn nham hiểm hơn nhiều. Hắn cố ý khêu gợi sự phân tranh giữa các môn phải võ lâm, làm cho những kẻ võ học chỉ vì chút hư danh mà tàn sát lãn nhau, không còn sức đâu mà nghĩ đến cuộc phản kháng nhà Mãn Thanh nữa.
Chàng vừa nghĩ tới đây, bỗng thấy Trình Lình Tố chấm ngón tay vào chung trà viết lên bàn chữ “Nhị” rồi chữ “Đào”. Viết xong có lại dùng ngón tay xóa ngay.
Hồ Phỉ khẽ gật đầu. Câu chuyện “Nhị đào sát tam tử”, chàng đã từng nghe người ta kể, nên nghĩ thầm:
– Ngày trước, Án Anh dùng kỳ kế “Nhị đào sát tam tử”, chỉ dùng hai trái đào mà khiến ba tay dũng sĩ kiệt ngạo phải tự tàn sát nhau mà chết. Bữa nay, Phúc Khang An lại học theo Án Anh, có điều dụng tâm hắn còn lớn hơn nhiều. Hắn chỉ dùng hai mươi bốn chiếc ngự bôi để triệt hạ hết bọn học võ trong thiên hạ.
Chàng đảo mắt nhìn quanh thấy bọn võ nhân tuổi trẻ lộ vẻ hăng hái, nôn nóng muốn phô trương thân thủ. Nhưng cũng có một số ít chưởng môn nhân đứng tuổi và già cả lộ vẻ bất bình. Hiển nhiên họ nghĩ tới việc tranh giành ngự bôi sẽ phát sinh hậu hoạn không ít.
Quần hào trong đại sảnh nghị luận xôn xao khiến không khí trở nên ồn ào.
Bàn bên cạnh chàng có người lên tiếng:
– Vương lão gia! Thần quyền của lão gia bạt tụy xuất chúng, trong thiên hạ ít người địch nổi, nhất định lão gia sẽ đoạt được một chiếc Ngọc Long bôi.
Người kia khiêm nhượng đáp:
– Ngọc Long bôi thì chẳng dám nghĩ tới, nếu như được chiếc Kim Phụng bôi đưa về cũng đã dễ ăn nói với bọn đệ tử.
Một người khác cười lạt, nói khẽ:
– Chỉ e đến Ngân Lý bôi cũng không sờ vào được mới thật là mất mặt.
Lão họ Vương tức giận trừng mắt nhìn, vì người nói mát mẻ vẫn thản nhiên như không, chẳng lý gì đến lão.
Trong lúc nhất thời, bàn nào cũng ghé tai thì thầm về hai mươi bốn chiếc ngự bôi.
Bỗng thấy người tùy tùng đứng bên Phúc Khang An vỗ tay ba cái, cất tiếng hô:
– Xin các vị hãy yên lặng. Phúc đại soái còn có lời muốn nói.
Những tiếng bàn tán ồn ào dần dần yên lại, vì quần hùng trước nay không chịu bó buộc như trong quân ngũ, hễ lệnh ban ra là mọi nguời phải tuân theo. Mãi một lúc sau mới hoàn toàn yên lặng.
Phúc Khang An tuyên bố:
– Xin các vị hãy uống mấy chung rượu nữa. Khi nào cơm no rượu say rồi sẽ phô trương tuyệt nghệ. Còn phương pháp tỷ thí xin các vị hãy nghe An đề đốc trình bày.
An đề đốc đứng bên cạnh Phúc Khang An là một vị tướng quân người Mãn Châu, lưng thô mình lớn, tướng mạo uy võ, cất tiếng:
– Xin các vị hãy cứ ăn uống cho thỏa thích. Yến tiệc xong, tại hạ sẽ giải thích. Nào! Xin kính các vị một chung.
Hắn rót đầy một chung rượu lớn, rồi nâng lên uống một hơi cạn sạch.
Quần hào nguyên là những tay tửu lượng rất cao, nhưng cứ nghĩ rằng sau bữa tiệc sẽ diễn ra một trường kịch đấu nên chẳng ai dám uống nhiều. Trừ một số ít cao thủ quyết định không ra tay tranh đoạt ngự bôi, còn toàn những người đưa chung lên miệng rồi lại đặt xuống.
Bữa tiệc ở Phúc phủ cực kỳ thịnh soạn, nhưng quần hào lòng đầy toan tính, chẳng ai còn lòng dạ nào để thưởng thức những món sơn hào hải vị mà chỉ chờ cơ hội động thủ. Có điều trước khi tỷ đấu cần phải ăn no, nên bao nhiêu võ sư trong đại sảnh mười phần có đến tám chín đều no cơm mà không say rượu.
Bữa tiệc kết thúc, An đề đốc kia vỗ tay ba cái. Những kẻ bộc dịch trong phủ khiêng tám cái ghế Thái sư bày ra chính giữa đại sảnh. Đông sảnh và Tây sảnh cũng đặt tám cái. Nhưng tám cái ghế trong đại sảnh đều trải đoạn thêu chỉ hồng, ghế ở đông sảnh thì đặt đệm bằng đoạn màu lục, ghế ở tây sảnh thì đặt đệm bằng đoạn màu trắng.
Ba tên vệ sĩ bưng những chiếc Ngọc Long bôi, Kim Phụng bôi và Ngân Lý bôi chia ra đặt trên ba cái kỷ trà ở đại sảnh, đông sảnh và tây sảnh.
An đề đốc thấy mọi việc đã bố trí xong xuôi liền dõng dạc hô:
– Chúng ta bữa nay “dĩ võ hội hữu”, cứ điểm tới là thôi, đừng ai oán thù gì nhau, hay hơn hết là đừng để chuyện chảy máu chết người. Có điều là trong lúc động thủ ra chiêu, thì đao thương không có mắt, khó mà tránh cho khỏi lỡ tay. Phúc đại soái đã truyền dạy, kẻ nào bị thương nhẹ sẽ được tặng năm chục lạng bạc để làm tiền thuốc thang. Bị trọng thương thì được ba trăm lạng. Bất hạnh hơn nếu táng mạng, Phúc đại soái gia ơn tặng món tiền phủ tuất một ngàn lạng. Ai lỡ tay đã thương người thì không bị trách phạt.
Quần hào nghe nói đều lạnh người, nghĩ thầm:
– Rõ ràng đây là cuộc đấu trí mạng, chứ còn gì nữa?
An đề đốc ngừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Cuộc tỷ võ sắp bắt đầu. Mời bốn vị đại chưởng môn an tọa.
Bốn tên vệ sĩ dẫn Đại Trí thiền sư, Vô Thanh Tử, Thang Bái và Hải Lan Bật vào ngồi trên bốn ghế Thái sư đặt ở đại sảnh chính giữa. Trong tám ghế, đã có bốn người ngồi, còn bỏ trống mỗi bên hai ghế.
An đề đốc lại mỉm cười nói:
– Bây giờ xin các vị chưởng môn và cao thủ các gia các phái phô trương tuyệt nghệ trước mặt Phúc đại soái. Hãy tự lượng tư cách mình có thể lãnh Ngân Lý bôi thì xin qua ngồi bên tây sảnh. Còn ai có hy vọng lãnh Kim Phụng bôi thì xin sang ngồi phía đông sảnh. Nếu ai tự tin tài nghệ mình áp đảo được đương trường sánh ngang vai với bốn vị đại chưởng môn thì xin mời đến ngồi ở chính giữa tòa đại sảnh. Sau khi hai mươi bốn vị chưởng môn đã nhập tọa rồi, vị nào không phục thì tùy theo sức mình mà khiêu chiến với từng hạng. Người thua phải rút lui cáo thoái, nhường chỗ cho người thắng, bao giờ hết người khiêu chiến mới thôi. Các vị thử nghĩ xem biện pháp này có thích hợp chăng?
Mọi người nghĩ bụng:
– Vụ này có khác gì cuộc đả lôi đài?
Tuy quần hào biết rằng diễn ra cuộc hỗn chiến thì số người thương vong không phải là ít nhưng kẻ mạnh sẽ thắng, điều đó rất công bình. Số đông võ sư đều lớn tiếng đồng ý và không có ai dị nghị.
Phúc Khang An ngồi trên một cái ghế lớn ở đầu mé tả. Hai bên có mười tám tên vệ sĩ cao thủ. Chu Thiết Tiêu và Vương Kiếm Anh cũng ở trong đám này. Cuộc hộ vệ nghiêm mật vì sợ trong đám võ sư rắn, rồng lẫn lộn, có trà trộn thích khách.
Trình Linh Tố khẽ huých khuỷu tay Hồ Phỉ và đưa môi ra phía trước. Hồ Phỉ nhìn theo ánh mắt cô thấy trong góc nhà đầy vệ sĩ sắp hàng và tay cầm binh khí. Cuộc phòng vệ trong phủ Phúc Khang An bữa này còn nghiêm mật hơn cả nội viện ở Hoàng cung. Xung quanh phủ đệ cũng đầy những vệ sĩ tinh nhuệ.
Hồ Phỉ tự nhủ:
– Bữa nay mình tìm được tông tích của tên ác tặc Phụng Thiên Nam là mãn nguyện rồi, nhưng không thể để lộ hành tích, nếu không thì khó lòng bảo toàn được tính mạng. Nếu mình giúp cho Hoa Quyền môn đoạt được một chiếc Ngân lý bôi cũng là tỏ lòng với Cơ huynh. Có điều ta càng chậm xuất thủ càng hay để mọi người khỏi chú ý.
Chàng có biết đâu mình tính vậy thì những người kia cũng cùng một chủ ý, chỉ khác ở chỗ một đằng sợ lộ chân tướng, còn một đằng mong người khác chiến đấu đến sức cùng lực kiệt rồi mình ra tay sau cùng để thủ lợi. Vì thế An đề đốc hô luôn mấy câu “mời các vị vào ngồi!” mà vẫn chẳng thấy một ai lên chiếm hai mươi chiếc ghế bỏ trống, chẳng ai tiến lên ngồi.
Ngạn ngữ đã có câu “Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”. Đã là văn nhân thì không ai dám tự hào văn chương mình đứng đầu thiên hạ, nhưng các võ sĩ, trừ những tay cao thủ dày công tu dưỡng, chẳng một ai cam chịu kém người, huống chi những người dự cuộc đại hội này đều là những người đứng đầu môn phái, xưa nay vẫn luôn quen thói tự cao tự đại. Ngay cả những người coi nhẹ chữ danh nhưng đã chấp chưởng một môn phái thì quyết không để uy danh phải tiêu tan. Nếu lỡ thua trong đại hội này thì các đệ tử của bản môn đi lại trong chốn giang hồ không dám ngẩng đầu lên, mà bản thân mình về lại bản môn cũng chẳng còn mặt mũi mà nhìn người khác.
Ai cũng nghĩ bụng:
– Nếu mình không ra tay, rồi đây còn có cớ biện minh. Bằng đã động thủ rồi thì phải đoạt Ngọc Long bôi, chứ lấy chiếc Kim Phụng bôi hay Ngân Lý bôi thì có chi đáng kể?
Vì thế các võ sư đều chăm chú nhìn vào bốn cái ghế Thái sư còn trống ở nhà đại sảnh chính giữa, chẳng ai để ý tới những chiếc Kim Phụng bôi và Ngân Lý bôi.
An đề đốc thấy tình thế căng trì còn kéo dài liền cười gằn một tiếng rồi nói:
– Các vị đều khiêm tốn hay là chờ người khác mỏi mệt rồi mới ra tay để chiếm phần tiện nghi? Như vậy tưởng không hợp với thân phận của các bậc đại sư võ học.
Hắn nói mấy câu này tựa hồ bỡn cợt, mà thực ra đã đánh vào tâm lý mọi người để khích tướng. Quả nhiên hắn vừa dứt lời, trong đám đông liền có hai người bước ra ngồi vào hai ghế bỏ trống. Một đại hán thân hình cao lớn như hộ pháp chẳng nói năng gì ngồi xuống ghế thái sư bằng gỗ tử đàn làm bật lên tiếng lách cách.
Còn người nữa thân hình tầm thước, dưới cằm có bộ râu vàng, cười hỏi:
– Lão huynh! Anh em mình bất quá chỉ liệng gạch ra để dụ kim ngọc, làm cái bung xung cho những lão võ sư và các đại cao thủ, chẳng lẽ lại hy vọng ôm Ngọc Long bôi đem về nhà được ư? Lão huynh đừng làm gãy ghế, nên lưu lại cho người khác ngồi.
Hắc đại hán kia “hừ” một tiếng, có vẻ không vừa lòng về câu nói đùa hán tử râu vàng.
Một tên võ quan đầu đội mũ tứ phẩm tiến ra, trỏ vào Hắc đại hán dõng dạc giới thiệu:
– Vị này là Hoàng Hy Tiết lão sư, chưởng môn Nhị Lang quyền.
Lại trỏ hán tử râu vàng nói:
– Vị này là Âu Dương Công Chính lão sư, chưởng môn Yến Thanh quyền.
Hồ Phỉ lại nghe lão già bàn bên cạnh nói:
– Hay quá! “Thiên Lý Độc Hành Hiệp Âu Dương Công Chính” mà cũng muốn đoạt Ngọc Long bôi.
Hồ Phỉ lòng hơi chấn động. Nguyên Âu Dương Công Chính lấy ngoại hiệu là “Thiên lý độc hành hiệp”, nhưng thực ra hắn vốn là một tên “Độc cước đại đạo”, chỉ có tiếng hiệp đạo suông mà sự thực không phải. Dù hắn có tên tuổi trong vô lâm, song thanh danh cũng chẳng tốt đẹp gì. Hồ Phỉ đã từng nghe qua tên của hắn.
Tiếp theo hai người, một đạo nhân tiến lên. Lão là Tây Linh Đạo nhân chưởng môn phái Côn Luân đao. Mặt lão tươi cười. Bên mình không đeo binh khí, dường như lão đã nắm chắc phần thắng.
Mọi người lấy làm lạ tự hỏi:
– Đạo sĩ này là chưởng môn phái Côn Luân đao mà sao không mang đơn đao?
Quần hùng chăm chăm nhìn vào một chiếc ghế nữa ở sảnh đường chính bỏ trống không biết ai sẽ là người bước ra để lên ngồi.
An đề đốc hỏi:
– Còn một chiếc Ngọc bôi, không có ai muốn lãnh ư?
Bỗng nghe trong đám đông có tiếng người hô:
– Hay lắm! Để đấy cho con ma men ta đựng rượu uống!
Một hán tử cao gầy loạng choạng bước ra, một tay cầm bầu rượu, tay kia cầm chung đi tới giữa khách sảnh, đột nhiên xoay mình trượt chân té ngã về phía sau, rơi đúng vào cái ghế trống. Thân pháp rất nhẹ nhàng, đúng là một tay võ công rất cao thâm.
Trong đại sảnh không ít người có kiến văn quảng bác, có người cất tiếng hô:
– Chiêu “Trương Quả Lão đảo kỵ lư suất tại cao kiều thượng” thật hay quá!
Nguyên người này là Thiên bôi cư sĩ Văn Túy ông, chưởng môn phái Túy Bát Tiên. Có điều nhìn gã áo quần lam lũ, lại sặc sụa hơi men nên khiến người ta khó lòng đoán được trình độ gã cao thâm đến đâu.
An đề đốc nói lớn:
– Bốn vị lão sư đây đều là những bậc kiến thức và đởm lược hơn người, đức cao vọng trọng. Nếu vị lão sư nào tự tin bản lãnh cao hơn bất cứ ai trong bốn vị này thì xin ra khiêu chiến. Bằng không còn ai khiêu chiến thì Nhị Lang quyền, Yến Thanh quyền, Côn Luân đao và Túy Bát Tiên được dự vào hàng “Ngọc Long bát môn”.
Bỗng thấy người ở mé đông bước ra nói:
– Tiểu nhân là Chu Long muốn gặp Thiên lý độc hành Âu Dương lão sư một trận.
Người này khắp mình cơ bắp nổi lên cuồn cuộn, thân hình thấp lùn mà kiêu dũng, dáng vẻ như con bò mộng. Hồ Phỉ không quen biết những nhân vật võ lâm này, nên hoàn toàn phải dựa vào những lời giải thích của lão già bên cạnh. May ở chỗ lão biết nhiều hiểu rộng, mà lão biết điều gì là nói ra ngay.
Bỗng nghe lão nói:
– Chu lão sư đây là chường môn Kim Cương quyền, mà lại là Tổng tiêu đầu Hưng Long tiêu cục ở Phủ Đại Đồng tỉnh Sơn Tây. Nghe nói Âu Dương Công Chính cướp tiêu của y, thành ra hai bên có chuyện xích mích. Lão phu xem chừng Chu lão sư ra tay lần này chủ ý không phải vì chiếc ngọc long bôi.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Những mối ân oán trong võ lâm cực kỳ phức tạp. Chẳng hạn như mình đây đến tham dự đại hội chỉ vì tên ác tặc Phụng Thiên Nam, thì giữa các môn phái kết thành cừu hận chồng chất với nhau đã mấy trăm năm cũng không phải ít. Không lẽ chỉ trong một ngày đại hội hôm này mà giải quyết hết được ư?
Nghĩ tới đây chàng không khỏi liếc mắt nhìn Phụng Thiên Nam, thấy tay hắn không ngớt chuyển động trái thiết đảm, còn thần sắc tỏ ra rất bình tĩnh.
Hồ Phỉ đại náo Phúc phủ hai đêm liền, Phụng Thiên Nam mười phần chắc chín chàng đã trốn khỏi Bắc Kinh mà cao chạy xa bay. Hắn có ngờ đâu chàng là người anh hùng gan dạ vẫn trà trộn trong cuộc đại hội chưởng môn, là nơi đầm rồng hang cọp?
Chu Long ra khiêu chiến, Âu Dương Công Chính cười hề hề, bước ra khỏi ghế hỏi:
– Chu tổng tiêu đầu, gần đây làm ăn phát tài, buôn bán thịnh vượng chứ?
Năm trước Chu Long bảo vệ món tiêu ngân trên năm vạn lạng bạc bị lão cướp mất, phải bồi thường đến khuynh gia bại sản. Tiền của gom góp mấy chục năm hết sạch trong một sớm một chiều thì trách sao gã chẳng căm hận thấu xương? Gã không nói không rằng ra ngay chiêu “Song phách song tràng” đánh liền. Âu Dương Công Chính đáp lại bằng chiêu “Thoát ngoa chuyện thản” trong Yến Thanh quyền. Hai người mở đầu trận kịch đấu. Chu Long hơn về sức mạnh, chiêu thức trầm trọng, hạ bàn vững chãi, còn Âu Dương Công Chính sở trường về quyền chiêu linh động, thân pháp nhẹ nhàng.
Chu Long chuyên khổ luyện ngoại công, thấy địch nhân vung chiêu đá tới cũng không né tránh. Đầu vai và trước ngực gã liên tiếp trúng ba quyền. Gã đằng hắng một tiếng, đột nhiên vung quyền đánh vụt ra. Đó là chiêu “Nghinh phong đả” trong Kim Cương quyền. Âu Dương Công Chính bật cười né tránh, đồng thời phóng cước đá vào đùi đối phương. Chu Long sử thân pháp “Sang bối đại tam phách” lăn mình dưới đất rồi lại đứng lên.
Hai người qua lại bốn năm chục chiêu, Chu Long đã bị trúng hơn chục chiêu quyền cước. Bây giờ gã không kịp đề phòng, mũi trúng tiếp một quyền, máu tươi đỏ ròng ròng ướt cả vạt áo.
Âu Dương Công Chính cười nói:
– Chu lão sư! Bất quá ta chỉ cướp tiêu ngân của lào sư chứ không đoạt vợ. Ta tưởng trừ mối thù giết cha cướp vợ ra thì mọi chuyện khác đều là thường không đáng kể.
Chu Long chẳng nói nửa lời nhảy xổ lại đánh nữa. Âu Dương Công Chính nhờ khinh công trác tuyệt, liền nghiêng người né tránh. Miệng lão không ngớt thốt ra những lời khinh bạc, cố ý chọc giận đối phương.
Cuộc chiến đang hăng, Chu Long lại bị trúng một cước vào giữa bụng. Tay trái hắn ôm bụng, vẻ mặt cực kỳ đau đớn. Đột nhiên tay mặt hắn ra chiêu “Kim câu quải ngọc” tiến thêm một bước phóng đòn “Một già la” đánh trúng ngực địch nhân một cú như chùy giáng. Bỗng nghe một tiếng rắc vang lên Âu Dương Công Chính bị gãy mấy rẽ xương sườn. Người lão lảo đảo, miệng phun máu tươi.
Lão biết Chu Long căm hận thấu xương, bây giờ thắng được một chiêu, tất hạ độc thủ nữa mà lúc này lão không còn sức kháng cự. Lão đành gắng gượng nhịn đau lạng người lùi lại, nhăn nhó cười gượng nói:
– Lão sư thắng rồi…
Chu Long muốn tiến đánh nữa, nhưng Thang Bái lên tiếng:
– Chu lão sư! Phân thắng bại rồi, không được động thủ nữa. Mời lão sư ngồi đây.
Chu Long nghe Thang Bái tuyên bố, không dám phản kháng, liền chắp tay đáp:
– Tiểu nhân không dám tranh đoạt Ngọc Long bôi!
Rồi hắn trở về chỗ ngồi. Phần đông bọn võ sư đều không thích tư cách của Âu Dương Công Chính nên khi thấy Chu Long khổ chiến thắng trận, liền tới tấp đến hỏi han.
Âu Dương Công Chính đầy vẻ thẹn thùng mà không dám bỏ về. Lão tự biết mình rất nhiều cừu nhân mà lúc này lão đang bị trọng thương, nếu ra khỏi Phúc phủ là lập tức bị người theo sau hạ thủ, trong đó Chu Long là người bám theo trước tiên. Lão liền lấy thuốc trị thương hòa với rượu uống, gắng gượng nhịn đau ngồi không nhúc nhích. Đối với những lời châm chọc của khách bàng quan, lão lờ đi như không nghe thấy.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Chu Long coi bộ lù đù mà thật ra rất thông minh, xét về bản lĩnh thì gã quyết chẳng thể đoạt được Ngọc Long bôi. Gã chiến thắng rồi rút lui ngay để bảo toàn danh dự. Kim Cương quyền tuy không được liệt vào hàng “Ngọc Long bát môn”, nhưng trên chốn giang hồ chẳng ai dám coi thường.
Thang Bái cất tiếng hỏi:
– Chu lão sư chí không ở chén ngọc, vậy mời vị lão sư nào lên đây ngồi.
Chiếc ghế trống này không đánh mà được đỡ phải tốn một phen khí lực. Có hai hán tử muốn chiếm tiện nghi bèn từ hai bên tả hữu chạy xông tới. Khoảng cách của hai gã đến ghế Thái Sư đều tương tự nhau, ai nhanh chân là được. Không ngờ cả hai người đều hấp tấp chạy đến trước ghế, hai vai đụng nhau mỗi người lùi lại hai bước. Giữa lúc ấy nghe vù một tiếng, một người trong đám đông bước ra, vung giang hai tay nhảy vọt tới như con chim khổng lồ, rồi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế. Y vọt ra sau mà đến trước hai hán tử kia. Khinh công quả nhiên tuyệt diệu. Mọi người cất tiếng reo hò như sấm.
Hai hán tử vừa đụng nhau, thấy có người đoạt mất ghế liền ngửa mặt lên nhìn, đều bật tiếng la:
– Ủa! Lão đấy ư?
Hai người không hẹn mà cùng xông tới đánh. Người ngồi trên ghế không đứng dậy, vung chân trái đá “binh” một cái khiến hán tử bên trái lăn long lóc. Lão vươn tay phải ra chụp cổ áo hán tử bên phải xoay một vòng rồi ném ra. Người lão vẫn ngồi yên trên ghế mà thuận tay hạ luôn hai địch nhân.
Quần hào đều kinh hãi lẩm bẩm:
– Bản lãnh người này quả nhiên lợi hại.
An đề đốc không hiểu tên họ, liền tiến lại hỏi:
– Tôn tính đại danh các hạ là gì, làm chưởng môn nhân của phái nào?
Người kia chưa kịp trả lời đã thấy hai hán tử vừa rồi lồm cồm đứng dậy miệng rống be be, buông lời thóa mạ rồi vung quyền đánh tới. Theo những lời quát tháo, thóa mạ của hai hán tử thì dường như người kia chỉ muốn trêu cợt hai gã thôi, mà đã đủ khiến chúng nếm mùi đau khổ.
Người này dùng cách tá lực dẫn lực, tay trái vung chưởng đấm vào lưng hán tử bên trái, chân phải vung ra đá “bốp” một cái vào đít hán tứ trước mặt. Hai gã không tự chủ được bèn chúi người về phía trước. May mà chúng biến thế mau lẹ, không chờ đụng đầu vào nhau đã vội giơ hai tay đón đỡ, nhưng thế đẩy mạnh quá, cả hai không đứng vững đều ngã lăn ra.
Hán tử bên trái la lên:
– Tề lão nhị! Món nợ này giữa chúng ta ngày sau sẽ tính. Bữa nay hãy chung lưng giải quyết tên kia rồi sẽ liệu.
Hán tử bên phải đáp:
– Phải lắm!
Chúng nhảy vọt lên, rút thanh chủy thủ ở bên hông ra.
Hồ Phỉ lại nghe lão già bên cạnh lẩm bẩm một mình:
– Phiên Giang Kiêu ở Áp Hình môn chết đi để lại hai gã đệ tử chẳng ra gì.
Rồi lão buông tiếng thở dài không nói thêm gì nữa. Hồ Phỉ thấy hai gã hán tử thân pháp cổ quái bất giác động tính hiếu kỳ, liền chấp tay hỏi:
– Xin hỏi tiền bối, hai vị đó ở Áp Hình môn ư?
Lão già cười hỏi lại:
– Sắc mặt các hạ sao có vẻ căng thẳng quá. Xin hỏi tôn tính đại danh?
Hồ Phỉ chưa kịp đáp thì Thái Uy đã đứng dậy nói:
– Để tại hạ giới thiệu hai vị. Vị này là chưởng môn mới nhậm chức ở tệ môn, húy danh là Trình Linh Hồ lão sư. Vị này là Quách Ngọc Đường lão sư, chưởng môn Tiên Thiên quyền. Xin hai vị làm quen nhau đi.
Quách Ngọc Đường đã quen Thái Uy. Lão biết là ở Hoa Quyền môn không hiếm nhân tải, Hoa Quyền môn là một đại môn phái ở Bắc phương về quyền thuật, nên lão nảy lòng cung kính Hồ Phỉ. Lão vội đứng dậy mời ngồi, miệng nói:
– Trình lão sư! Bàn của tại hạ chỉ có bốn người, xin mời các vị qua bên này ngồi được chăng?
Hồ Phỉ đáp:
– Hay lắm!
Chàng chắp tay xin lỗi chưởng môn giống như con khỉ của Đại Thánh môn, rồi cùng Trình Linh Tố, Cơ Hiểu Phong và Thái Uy cầm chung rượu, đưa chén sang ngồi cùng bàn với Quách Ngọc Đường.
Lai lịch Tiên Thiên quyền rất lâu đời. Phái này sáng lập từ thời nhà Đường, nhưng các vị quyền sư bao nhiêu đời truyền thụ võ thuật đều lưu lại chiêu số. Trải hơn ngàn năm không nẩy ra bậc anh tài bạt tụy, vì thế mà đến đời nhà Thanh đi dần vào chỗ suy vi.
Quách Ngọc Đường tự biết bản lãnh mình không đủ tranh thắng với những cao thủ danh gia của các môn phái khác, mà lão cũng không có ý tranh đoạt ngự bôi, nên cứ ung dung bình thản ngồi một bên uống rượu, xem cuộc tỷ đấu. Lúc này Hồ Phỉ hỏi tới, lão đáp:
– Áp Hình Quyền bộ dạng coi không đẹp mắt, nhưng mã bộ thấp vững, công phu trên mặt nước lại càng tuyệt diệu. Ngày trước Phiên Giang Phù còn tại thế đã xưng bá cả một vùng Hà Sóc. Lão chết rồi để lại hai tên đại đệ tử. Gã cầm chủy thủ tên gọi Tề Bá Đào. Gã cầm phá giáp chùy tên gọi Trần Cao Ba. Hai gã tranh nhau chức chưởng môn đã mười năm nay, chẳng ai chịu ai. Lần này Phúc đại soái mời chưởng môn các phái đến phó hội, hừ, thật đẹp mặt hai anh em tên mặt dày cùng tới cả!
Bỗng thấy Tề Bá Đào và Trần Cao Ba đều cầm khí giới ngắn chia thành hai mũi giáp công. Người kia ngồi trên ghế vẫn không đứng dậy, cất tiếng thóa mạ:
– Lũ vô dụng kia! Ở Lan Châu ta đã nói những gì? Ta đã bảo các ngươi đừng có đến Bắc Kinh, vậy mà sao các ngươi vẫn vác mặt tới?
Mọi người thấy lão đầu nhọn, gò má nhỏ cao, tay cầm cái điếu nhỏ rít thuốc sòng sọc, trên môi để hai chóp râu chuột màu vàng, ước chừng ngoài năm chục tuổi.
An đề đốc hỏi tên họ cùng môn phái mấy lần, lão vẫn chẳng lý gì đến. Hồ Phỉ thấy chân tay lão rất dài, tùy tiện đánh bên này đá bên kia, hóa giải dễ dàng những chiêu số của hai gã Tề, Trần. Bản lãnh lão dường như không cao thâm lắm, có điều chiêu thức cực kỳ quái đị. Hồ Phỉ liền hỏi Quách Ngọc Đường:
– Quách lão sư! Vị tiền bối này là ai?
Quách Ngọc Đường chau mày ấp úng:
– Cái đó… cái đó…
Có lẽ lão không biết nên không khỏi lộ vẻ bẽn lẽn. Người khác xấu hổ vì võ công không bằng người, còn lão lại xấu hổ vì không biết lai lịch của người ta.
Bỗng nghe lão kia ngồi hút thuốc, cất tiếng thóa mạ:
– Quân hạ lưu tiểu tử kia! Nếu ta không nể mặt người anh em đã quá cố Phiên Giang Phù, thì đã chẳng thèm đếm xỉa gì đến các ngươi. Phiên Giang Phù một đời nổi tiếng anh hùng mà đồ đệ lại ham chỗ nước đục này. Các ngươi có về hay không?
Trần Cao Bá phóng chùy đâm tới, quát lên:
– Sư phụ ta làm gì có hạng bằng hữu thối tha như lão? Ta làm môn hạ sư phụ đã năm sáu năm, chưa từng thấy lão khốn kiếp ngươi lần nào.
Lão già lại quát mắng:
– Phiên Giang Phù là bạn vọc bùn, bắt sâu với ta từ thuở nhỏ, ranh con như ngươi biết gì mà dám nói?
Đột nhiên lão vung tay trái đánh gã một bạt tai.
Lúc này Tề Bá Đào tấn công bên phải, lão già lại vung chân đá trúng mặt gã, quát mắng:
– Sư phụ mi chết rồi, ta phải thay y giáo huấn bọn ngươi mới được.
Quần hùng trong đại sảnh thấy ba người tỷ đấu một cách hoạt kê đều không khỏi phì cười. Nhưng Tề Bá Đào và Trần Cao Ba bản tính ngu độn, ai cũng thấy chúng không phải là đối thủ của lão già mà chúng vẫn giằng co hoài.
Lão già lại nói:
– Phúc đại soái kêu bọn ngươi đến, chẳng lẽ là vì hảo tâm ư? Y muốn khiêu khích cho bọn ngươi tàn sát lẫn nhau vì mấy cái chung rượu nhỏ không đủ để đựng nước tiểu, vậy mà cứ hùng hục đánh nhau kẻ sống người chết!
Lão nói câu này hiển nhiên để giáo huấn hai gã Tề, Trần nhưng thanh âm vang dội khiến những người trong đại sảnh ai cũng nghe rõ.
Hồ Phỉ thầm gật đầu, nghĩ bụng:
– Vị tiền bối này quả là người có kiến thức, xem ra lão phải lớn mật lắm mới dám nói vậy.
Quả nhiên An đề đốc nghe lão nói mấy câu không nhịn được, liền quát hỏi:
– Ngươi là ai mà dám đến đây hồ ngôn loạn ngữ để phá quấy?
Đó là hắn còn nể mặt quần hùng, coi lão là một tân khách được mời đến, không thì đã đánh lão một cái bạt tai rồi.
Lão già nhếch miệng cười, hỏi:
– Lão phu giáo huấn hai tên hậu bối, có liên can gì đến đại quan?
Lão vung cái tẩu hút thuốc bật ra hai tiếng choang choang đánh rớt thanh chủy thủ và cây phá giáp chùy trong tay hai gã Tề, Trần. Lão lại cài cái tẩu vào thắt lưng, tay mặt kéo tai trái của Tề Bá Đào, tay trái kéo tai mặt của Trần Cao Ba lôi đi.
Điều lạ là hai gã lại riu ríu tuân theo một phép không dám nói gì, chỉ mím môi, nhắm mắt chịu đau, vẻ mặt trông rất tức cười. Nguyên lão già kia đã dùng ngón cái và ngón trỏ nắm trái tai, còn ba ngón chĩa ra điểm vào hai huyệt “Cường giang” và “Phong phủ”, khiến chân tay chúng mềm nhũn không thể kháng cự được nữa.
Hồ Phỉ định bụng:
– Vị tiền bối này trông rõ sự việc, võ công lại cao cường. Mai sau gặp nhau trên chốn giang hồ, ta phải kết giao với lão mới được. Hai gã Tề, Trần mà được lão dạy dỗ trong mười năm, tương lai cũng không đến nỗi vô dụng như bây giờ.
An đề đốc thóa mạ:
– Quân đá cá lăn đưa đến phủ đại soái gây rối, chắc là hắn không muốn sống nữa…
Đột nhiên nghe đánh “bốp” một tiếng, một miếng thịt từ trong đám đông bay ra tống vào miệng hắn. Hắn khiếp sợ nuốt ực vào bụng, trợn mắt há miệng ngẩn cả người ra, không nói được nữa. Tuy rằng lưỡi hắn đã chạm vào mà không rõ mình vừa nuốt vật gì, cùng chẳng hiểu vật đó có chất độc không. Không ai hiểu miếng thịt đó do nhân vật nào ném ra. Việc này ai cũng thấy rõ An đề đốc há hốc miệng lộ vẻ kinh hoàng, rồi không dám thóa mạ nữa.
Thang Bái ngồi sau lưng An đề đốc nên cũng không nhìn thấy miếng thịt bay vào miệng hắn. Lão nói:
– Trên giang hồ chẳng thiếu gì kẻ sĩ ẩn dật chốn sơn lâm. Điều đó cũng chẳng có chi là lạ. Vị tiền bối này khí phách thanh cao, không muốn đi vào hàng ngũ phàm tục như chúng ta, thôi thì cũng được. Cỗ ghế còn bỏ trống này có vị lão sư nào khác muốn ngồi vào chăng?
Trong đám đông có người hô:
– Để đấy cho tại hạ!
Quần hào chỉ nghe tiếng chứ không thấy người. Sau một lúc, một người lùn từ giữa đám đông đi ra. Người này cao không tới ba thước, mặt đầy râu đâm tua tủa, tướng mạo cực kỳ hung dữ. Bọn võ sư trẻ tuổi thấy hắn lùn tịt, thân hình cổ quái, không nhịn được phải bật cười. Người lùn quay lại trợn mắt lên nhìn, nhãn quang của hắn lấp loáng trông rất oai nghiêm, mọi người không dám cười nữa.
Gã lùn đi đến trước mặt chưởng môn Nhị Lang Quyền là Hoàng Hy Tiết, ngắm nghía lão từ đầu xuống chân. Hoàng Ty Tiết ngồi sừng sững trên ghế như một tòa tháp sắt. Lão ngồi mà so với gã lùn đứng vẫn còn cao hơn nửa cái đầu. Gã lùn ngắm đối phương từ trên xuống dưới, rồi lại từ đưới lên trên, nhưng không nói gì.
Hoàng Hy Tiết hỏi:
– Nhìn gì vậy? Muốn tỷ thí với ta chăng?
Gã lùn ““hừ” một tiếng, rồi đi quanh ra sau lưng dãy ghế để ngắm gáy lão họ Hoàng. Hoàng Hy Tiết sợ gã lùn ám toán thình lình liền quay đầu lại. Gã lùn lại quanh ra phía trước và vẫn ngoẹo đầu ngoẹo cổ nhìn không chớp mắt.
Vị võ quan tứ phẩm lên tiếng:
– Vị này là Tôn Hùng lão sư, chưởng môn Địa Đường quyền ở Thiểm Tây!
Hoàng Hy Tiết bị lão dòm ngó hoài, tức mình đứng phắt dậy hỏi:
– Tôn lão sư! Tại hạ muốn lãnh giáo mấy tuyệt chiêu Địa Đường quyền của lão sư.
Ngờ đâu Tôn Hùng dí hai chân xuống, tung mình lên ngồi vào cái ghế bỏ trống bên cạnh.
Hoàng Hy Tiết cười ha hả nói:
– Lão sư không muốn quá chiêu với tại hạ càng hay.
Rồi lão lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôn Hùng lại nhảy vọt ra khỏi ghế, đến trước Hoàng Hy Tiết ngoẹo cái đầu như trái dưa nhòm vào mặt Hoàng Hy Tiết, hết đứng bên trái lại chuyển bên phải.
Hoàng Ty Tiết tức giận hỏi:
– Ngươi nhìn gì vậy?
Tôn Hùng hỏi lại:
– Vừa rồi lúc uống rượu sao ngươi ngó ta một cái rồi nổi lên cười? Phải chăng lão cười ta thân hình bé nhỏ thấp lùn?
Hoàng Hy Tiết vừa cười vừa hỏi lại:
– Thân hình ngươi thấp lùn bé nhỏ thì có can hệ gì đến ta?
Tôn Hùng cả giận quát:
– Ngươi lại muốn chiếm phần tiện nghi của ta rồi!
Hoàng Hy Tiết ngạc nhiên hỏi:
– Ô hay! Ta làm gì mà chiếm phần tiện nghi của ngươi?
Tôn Hùng đáp:
– Ngươi bảo ta thân hình bé nhỏ thấp lùn không liên can gì đến ngươi ư? Ha ha! Trời sinh ra lão gia thấp lùn bé nhỏ thì chỉ có liên can đến cha của lão gia thôi, ngươi muốn làm cha của lão gia ư? Ngươi có phải là cha của lão gia đâu mà rắc rối?
Câu này vừa nói ra, lập tức cả đại sảnh phá lên cười rộ. Phúc Khang An đang uống một ngụm nước trà không nhịn được cười làm phun cả nước ra.
Trình Linh Tố phục xuống bàn ôm bụng mà cười nắc nẻ. Hồ Phỉ sợ cười lớn khiến hàm râu giả rơi ra nên phải ráng nhịn.
Hoàng Hy Tiết cười đáp:
– Không dám! Không dám! Con lão phu so với Tôn lão sư còn tuấn tú hơn nhiều.
Tôn Hùng không nói không rằng, vung quyền đánh vào bụng dưới Hoàng Hy Tiết. Hoàng Hy Tiết đã đề phòng trước, tuy người lão to lớn mà hành động lại mau lẹ phi thường. Lão nhảy vọt sang một bên để tránh.
Nghe “rắc” một tiếng, thoi quyền của Tôn Hùng đánh xuống làm chiếc ghế bằng gỗ tử đàn gãy thành từng mảnh vụn. Thoi quyền đánh ra rồi, tiếng cười trong đại sảnh lập tức ngưng bặt. Mọi người thấy lão tuy hình thù xấu xí, ăn nói tức cười nhưng thần lực kinh người, không ai dám coi thường lão nữa.
Tôn Hùng giáng thoi quyền không trúng đối phương, liền xoay người về phía sau phóng chân đá Hoàng Hy Tiết. Hoàng Hy Tiết co chân trái đứng thành thế “Anh hùng độc lập”, trả lại một chiêu “Đả bát thức đóa tử cước”. Tôn Hùng lăn mình tới sử dụng “Địa đường quyền”, quyền cước nhất tề phóng ra, đánh vào hạ bàn đối phương.
Hoàng Hy Tiết sử mấy chiêu “Tảo đường thối”, “Thoái độ khóa hổ thế”, “Khiêu tiễn bộ”, gồm cả thế công lẫn thế thủ. Nhưng Nhị Lang quyền của lão sở trường về quyền chứ không phải về cước pháp. Nếu đấu quyền với người thường, lão sử những tuyệt kỹ “Nhị Lang đảm sơn quyền”, “Cái mã tam quyền” thì quyền nhanh mà lực mạnh, địch nhân khó lòng chống trả nổi. Còn về cước pháp, lão cũng luyện những công phu “Oa tâm thối”, “Liêu âm thối”, chỉ dùng để đá vào thượng bàn hoặc trung bàn của đối phương. Hiện giờ gặp phải Tôn Hùng cứ lăn qua lăn lại dưới đất thành ra bao nhiêu công phu rèn luyện suốt bao nhiêu năm đều biến thành vô dụng. Chẳng những quyền chưởng không đánh tới mà chân đá cũng không có chỗ thi thố. Lão chỉ còn cách nhảy nhót để né tránh. Chẳng mấy chốc lão bị Tôn Hùng liên tiếp đá trúng mấy cước vào khuỷu chân. Lão vừa đau vừa tê chồn thì hai chân Tôn Hùng đã xoắn lại, khiến lão đứng không vững, té nhào xuống đất.
Tôn Hùng tung mình nhảy tới. Ngờ dâu Hoàng Hy Tiết ngã lăn ra rồi vẫn còn phóng được quyền ra đánh trúng vào vai đối phương, hất Tôn Hùng văng ra xa hơn một trượng. Tôn Hùng lại lăn người tới tấn công. Hoàng Hy Tiết quỳ chân dưới đất, tả chưởng hữu quyền đồng thời đánh ra, khiến Tôn Hùng phải nghiêng mình lăn đi để tránh. Hai người cứ sàn người sát mặt đất mà tỷ đấu, những tiếng “binh, binh” vang lên không ngớt, người nào cũng liên tiếp bị trúng đòn. Nhưng hai nhân vật này đều thuộc loại vai u thịt bắp, đủ sức chịu đựng. Kẻ trúng quyền người trúng cước, trong lúc nhất thời khó phân thắng bại.
Tỷ đấu cách này Tôn Hùng không chiếm được phần ưu thế. Đột nhiên Hoàng Hy Tiết giả vờ sơ hở, Tôn Hùng lăn mình vào định đánh một quyền thật nặng vào trước ngực địch nhân. Hoàng Hy Tiết liền vung hai tay chộp trúng cổ Tôn Hùng, rồi xoay người đè xuống.
Tôn Hùng liền vung quyền đánh thật mạnh hông Hoàng Hy Tiết, nhưng lão này phải vất vả lắm mới nắm được chỗ yếu hại của địch nhân thì đời nào lại chịu buông ra? Tôn Hùng bị nghẹt thở, gương mặt phồng lên bầm tím, những thoi quyền đánh ra dần dần vô lực.
Quần hùng thấy hai người tỷ đấu một cách thô lỗ như hạng đầu đường xó chợ, chẳng còn chi là thân phận của chưởng môn nhân, đều lắc đầu cười thầm. Tôn Hùng dần dần chống không nổi, thì bỗng trong đám đông vọt ra một đại hán vung quyền đấm xuống lưng Hoàng Hy Tiết.
An đề đốc vội hét:
– Lui lại ngay! Không thể hai người đánh một!
Nhưng thoi quyền của người kia đã đánh trúng lưng Hoàng Hy Tiết, lão đau điếng người phải buông tay ra. Tôn Hùng liền xoay mình nhảy lên. Trong đám đông lại có một người nữa vọt tới, vung quyền đánh bừa vào hán tử lớn. Nguyên hai người này một là đại đệ tử của Tôn Hùng, còn một là con Hoàng Hy Tiết nhảy ra để trợ quyền. Lúc này trong đại sảnh biến thành hai cặp đánh nhau.
Những người bàng quan reo hò trợ oai, vỗ tay hoan hô. Thế là cuộc tỷ võ giữa các chưởng môn nhân trong võ lâm biến thành sân khấu diễn kịch chẳng còn vẻ chi là trang nghiêm nữa.
Tôn Hùng đã bị một vố, không dám cầu may thủ thắng, thận trọng thủ kín môn hộ, cùng Hoàng Hy Tiết tỷ đấu giữ thế quân bình. Nhưng con Hoàng Hy Tiết chưa đủ kinh nghiệm lâm địch, liên tiếp bị đối phương đá mấy lần lăn long lóc. Gã tức giận rút đoản đao trong giày ra đâm địch nhân. Đệ tử của Tôn Hùng giật mình kinh hãi. Gã không đem binh khí bên mình liền chụp lấy cỗ ghế thái sư còn bỏ trống bên cạnh Thang Bái vung múa đỡ đòn.
Cuộc tỷ võ này chẳng còn ra thể thống gì nữa.
An đề đốc quát:
– Các ngươi làm trò gì vậy? Cả bốn người lùi lại đi!
Nhưng bọn Tôn Hùng đang hăng máu đánh nhau, chẳng ai để ý nghe lời hắn.
Hải Lan Bật đứng dậy hỏi:
– An đề đốc nói gì các vị có nghe thấy không?
Con Hoàng Hy Tiết phóng đao đâm không trúng, Hải Lan Bật vươn tay ra chụp lấy ngực gã, tiện đà ném ra ngoài. Tiếp theo lão co tay về chụp tên đệ tử của Tôn Hùng, ném tiếp ra ngoài sân.
Quần hùng đang ngơ ngác, lại thấy Hải Lan Bật một tay xách Hoàng Hy Tiết, một tay nắm Tôn Hùng đồng thời ném ra. Bốn người ngã chồng lên nhau thành một đống. Cả bọn đều mắt hoa đầu váng ôm lấy nhau, đấm đá loạn xạ. Sau mấy tên vệ sĩ chạy lại gỡ ra, họ mới ngừng lại. Bốn người mặt mũi sưng vù, tím bầm, vẫn còn ngoác miệng chửi bới nhau không ngớt.
Hải Lan Bạt phô trương thân thủ khiến quần hùng đều kinh hãi, nghĩ thầm:
– Lão này liệt vào hàng tứ đại chưởng môn quả nhiên bản lãnh cực cao. Lão ra tay nào chụp nào ném là hai gã Tôn, Hoàng văng đi như hai bó cỏ.
Nên biết Tôn Hùng và Hoàng Hy Tiết tuy đấu như bọn vô lại, nhưng đều có bản lãnh chân thực. Trên chốn giang hồ, cả hai đều có tên tuổi, kẻ tầm thường không sánh kịp.
Hải Lan Bật sau khi ném bốn người xong liền quay về ngồi chỗ cũ.
Thang Bái lên tiếng ca ngợi:
– Hải đại nhân thân thủ phi thường, thật khiến người phải bội phục.
Hải Lan Bật cười đáp:
– Không bõ làm trò cười cho Thang đại hiệp. Bọn họ làm vậy chẳng còn ra thể thống gì.
Lúc này bọn bộc dịch đã thay cái ghế gãy rồi.
Chưởng môn Côn Luân Đao là Tây Linh đạo nhân từ nãy đến giờ chỉ mỉm cười. Nhưng khi thấy Hải Lan Bật thi triển công phu, tự biết không thể ngang hàng với lão, vậy mà dự vào hàng chưởng môn của Ngọc Long bát môn thì không khỏi thấp thỏm trong bụng.
Bên kia chưởng môn Túy Bát tiên là Thiên bôi cư sĩ Văn Túy Ông vẫn tự rót rượu uống một mình. Cặp mắt y lờ đờ tựa hồ chẳng nhìn thấy những gì xảy ra trước mắt.
An đề đốc nói:
– Phúc đại soái mời các vị đến đây là để tỷ giảo võ công, phân định cao thấp. Xin các vị ngàn vạn lần đừng đánh nhau loạn xạ như mấy vị mới đây để khỏi làm trò cười cho thiên hạ.
Bỗng nghe Tôn Hùng ngồi dưới mái hiên, quát hỏi:
– Cái gì mà làm trò cười cho thiên hạ? Ngươi có hiểu võ công hay không? Chúng ta cứ tỷ đấu một trận coi.
An đề đốc lờ đi như không nghe tiếng, lại hỏi:
– Đây còn hai cái ghế nữa. Có vị anh hùng hảo hán chân chính nào lên ngồi không?
Tôn Hùng đổ quạu, quát lớn:
– Ngươi nói vậy là chửi ta không phải chân anh hùng ư? Chàng lẽ ta lại là cẩu hùng?
Gã chẳng kể gì vừa bị Hải Lan Bật ném té nhào, cứ xăm xăm chạy về phía An đề đốc. Đột nhiên chân bước loạng choạng rồi té lăn xuống đất. Té ra có một tên vệ sĩ đưa chân ra gạt, khiến hắn té nhào. Tôn Hùng nổi nóng, quay lại nhìn xem ai đã ám toán mình, nhưng tên vệ sĩ kia đã ẩn lánh mất rồi. Hắn không tìm ra được người nào chơi khăm, đành cất tiếng chửi đổng.
Lúc này bao nhiêu con mắt đổ dồn vào hai chiếc ghế thái sư còn trống, chứ chẳng ai thèm nhòm ngó gì đến Tôn Hùng. Nguyên một nhà sư mặc tăng bào màu nguyệt bạch đã ngồi vào một chiếc ghế. Người này được tên võ quan xướng danh là Cáp Xích đại sư ở Mông Cổ. Còn một ghế trống có hai người ngồi chung. Hai người này tướng mạo giống hệt nhau. Cặp lông mày chênh chếch rủ xuống, mắt như gà chọi, hai tròng mắt như tựa vào hai bên sống mũi. Tuổi hai người ước chừng chưa qua bốn mươi, cách phục trang giống y hệt nhau, hiển nhiên là hai anh em sinh đôi. Tướng mạo của hai người này cũng chẳng có chi là khác thường, chỉ có cặp mắt như gà chọi nổi bật lên khiến gương mặt trở nên kỳ quái.
An đề đốc tủm tỉm cười nói:
– Hai vị này là chưởng môn Song Tử môn tên gọi Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu, biệt danh “Nghê thị song hùng”.
Mọi người nghe danh tự hai tên đó đều cười thầm. Họ nhìn lại thân hình cùng dung mạo hai người, giống nhau như hai giọt nước, cũng chẳng hiểu Nghê Bất Đại là anh hay Nghê Bất Tiểu là anh. Giả sử một người là “Nghê Đại”, một người là “Nghê Tiểu” thì lập tức phân biệt được ai lớn ai nhỏ ngay.
Nhưng “Bất Đại” dường như là nhỏ, mà “Bất Tiểu” lại tựa hồ là lớn. Thế cũng chưa hết: tay hai người này đều thủ trong áo, làm như trời rét quá chịu không nổi.
Quần hào chỉ trỏ bàn tán. Có người đánh cuộc với nhau Nghê Bất Đại là lớn, có người bảo Nghê Bất Tiểu là nhỏ, nhưng cũng chẳng người nào phân biệt được ai là Nghề Bất Đại, ai là Nghê Bất Tiểu. Thần sắc hai anh em cứ trơ như gỗ, bốn mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Cả hai đều không phải là người gầy, nhưng ngồi chung một ghế mà chẳng thấy khó chịu chút nào, tựa hồ như đã quen ngồi như vậy từ lúc nhỏ.
Phúc Khang An chăm chú nhìn hai gã này, nhoẻn miệng cười ra chiều hứng thú.
Quần hào còn đang nghị luận thì đột nhiên trước mặt như rực sáng. Một thiếu nữ từ trong đám đông tiến ra. Thiếu nữ mình mặc áo vàng lợt, quần xanh, chừng hai mươi mốt, hai mươi hai tuổi, nước da trắng nõn, ra chiều phong vận.
Viên võ quan báo danh hô lớn:
– Đây là Tang Phi Hồng cô nương, chưởng môn phái Ngũ Hồ ở phủ Phụng Dương.
Bọn võ sư đột nhiên thấy một vị cô nương xinh đẹp xuất hiện thì đều phấn khởi tinh thần.
Quách Ngọc Đường nhìn Hồ Phỉ nói:
– Đệ tử phái Ngũ Hồ đều làm nghề buôn bán để sinh nhai. Chưởng môn truyền đời của phái nhất định phải là nữ nhân. Còn nam đệ tử dù bản lãnh cao thâm đến đâu cũng không được làm chưởng môn. Tang Phi Hồng cô nương đây tuổi còn nhỏ quá, chưa rõ có công phu chân thực gì không?
Tang Phi Hồng đến trước mặt anh em họ Nghê, hai tay chống nạnh cười hỏi:
– Xin hỏi nhị vị Nghê gia, vị nào là lão đại?
Hai người đều lắc đầu không đáp.
Tang Phi Hồng lại cười hỏi:
– Dù là huynh đệ song sinh thì cũng có người ra trước ra sau để phân lão đại cùng lão nhị chứ?
Anh em họ Nghê vẫn lắc đầu quầy quậy như cũ.
Tang Phi Hồng nói:
– Chà, vụ này lạ đây!
Cô trỏ vào người bên trái, hỏi:
– Các hạ có phải là lão đại không?
Gã này vẫn cứ lắc đầu.
Tang Phi Hồng lại quay sang chỉ người ngồi bên phải, hỏi:
– Vậy thì các hạ chắc là lão đại?
Gã này cũng chỉ lắc đầu.
Tang Phi Hồng chau mày, nói:
– Chúng ta đều là người trong vỗ lâm, không được ăn nói dối trá.
Người ngồi bên phải mở miệng nói:
– Ai nói dối gì cô? Ta chẳng phải là ca ca của y, mà y cũng không phải là ca ca của ta.
Tang Phi Hồng hỏi lại:
– Hai vị phải chăng là anh em sinh đôi?
Hai người lại lắc đầu.
Quần hào trong sảnh đường thấy chúng lắc đầu hoài thì đều sửng sốt, hai người tướng mạo giống hệt nhau thì chẳng thể không phải là anh em sinh đôi.
Tang Phi Hồng đằng hắng một tiếng hô:
– Thế mà còn bảo không dối ư? Nếu hai vị chẳng phải huynh đệ song sinh thì cứ đem đầu ta ra mà chặt. Vậy vị nào là Nghê Bất Đại?
Gã ngồi bên trái đáp:
– Tại hạ là Nghê Bất Đại.
Tang Phi Hồng lại hỏi:
– Hay lắm! Vậy các hạ ra trước hay là y ra trước?
Nghề Bất Đại chau mày hỏi lại:
– Cô này rắc rối quá. Cô đã chẳng cầu thân với anh em ta thì hỏi cái đó làm gì?
Tang Phi Hồng đã quen bôn tẩu giang hồ, nên đối với những lời nói khinh bạc cũng không để ý, cô vỗ tay cười đáp:
– Hay lắm! Các vị đã tự thú nhận là anh em rồi đó nhé!
Nghê Bất Đại cãi:
– Chúng ta là anh em thật, nhưng không phải là huynh đệ song sinh.
Tang Phi Hồng giơ ngón tay trỏ chống vào bên má, lắc đầu nói:
– Ta không tin
Nghê Bất Đại đáp:
– Cô không tin thì mặc kệ cô. Ai cần cô tin?
Tang Phi Hồng là người cố chấp, lại hỏi nữa:
– Các vị là huynh đệ song sinh thì có gì là xấu mà lại không chịu thừa nhận?
Nghê Bất Tiểu đáp:
– Cô nhất định đòi biết rõ nguyên nhân bên trong, bọn ta nói cho hay cũng chẳng hề chi. Nhưng anh em ta đã có một quy củ, kẻ nào muốn biết điều bí mật về chỗ xuất thân của chúng ta thì phải để anh em ta đánh mỗi người ba chưởng. Nếu thấy không chịu nổi thì cứ đập đầu lạy ba cái cũng được.
Tang Phi Hồng càng động tính hiếu kỳ, nghĩ thầm:
– Bọn họ muốn đánh mình ba chưởng nhưng chưa chắc gì đánh trúng. Mình cứ nghe cho được điều bí mật này rồi hẵng hay.
Cô liền gật đầu đáp:
– Được rồi! Các vị nói đi!
Anh em họ Nghê đột nhiên đứng phắt dậy, tuyệt không có kẻ trước người sau, mà hành động đồng thời giống như một người.
Tang Phi Hồng nhơn nhơn đắc ý, nói:
– Thế mà còn bảo là không phải huynh đệ song sinh? Cái trò lừa này ai mà tin nổi!
Bỗng thấy hai người thò tay ra khỏi áo, ánh kim quang liền lấp lánh trước mắt. Nguyên mười ngón tay của hai người này đều được bọc bằng bao tay vàng vừa nhọn vừa dài. Nếu chúng dùng để chụp vào người thì đó là khí giới lợi hại khó lòng chống đỡ.
Nghê thị huynh đệ thân hình thấp thoáng, vươn tay ra nhắm Tang Phi Hồng chụp tới. Tang Phi Hồng cả kinh, tung mình nhảy lùi lại, quát hỏi:
– Các vị làm gì vậy?
Nghê Bất Đại đứng ở góc đông nam, Nghê Bất Tiểu đứng ở góc tây bắc. Cả hai người đều vươn tay ra, dùng những ngón tay bọc bao vàng nhọn hoắt dài đến sáu bảy tấc vây Tang Phi Hồng vào giữa.
An đề đốc vội can thiệp:
– Theo quy củ của đại hội, bữa nay chỉ được đơn đả độc đấu, không cho ỷ đông để thủ thắng.
Nghê Bất Tiểu giương cặp mắt gà chọi, nguyên trước ở hai bên sống mũi, đột nhiên phân ra hai bên lườm An đề đốc, lạnh lùng hỏi:
– An đại nhân! Đại nhân có biết anh em tại hạ ở môn phái nào không?
An đề đốc đáp:
– Hai vị ở Song Tử Môn tại Quý Châu.
Nghê Bất Đại hai tròng mắt cũng phân ra hai bên, nói:
– Song Tử môn của tại hạ trước nay chỉ thu đồ đệ nếu không là huynh đệ song sinh thì cũng là tỷ muội song sinh. Khi cùng người động thủ, chẳng bao giờ phải đơn đả độc đấu.
An đề đốc chưa kịp đáp, Tang Phi Hồng đã cướp lời:
– Rõ rồi! Các vị vừa nói không phải huynh đệ song sinh, bây giờ mới chịu thừa nhận.
Nghê Bất Đại không chịu, đáp:
– Chúng ta không phải là huynh đệ song sinh!
Quần hào nghe hai gã nói lằng nhằng mãi, mới biết đôi anh em quý hóa này là hạng si ngốc.
Tang Phi Hồng cười khanh khách, nói:
– Thôi đừng nói quẩn quanh nữa. Bản thân ta cũng không mong đoạt chiếc Ngọc Long bôi đâu!
Cô nói rồi toan lùi lại.
Nghê Bất Tiểu giang hai tay cản lại, nói:
– Cô đã hỏi rõ thân thế chúng ta rồi, thì muốn chịu ba phát chưởng của ta hay phải dập đầu lạy ba lạy?
Tang Phi Hồng chau mày đáp:
– Thủy chung các người vẫn không nói rõ. Lúc thì nhận là huynh đệ rồi lúc thì lại không nhận là huynh đệ song sinh. Xin mời các vị anh hùng trong thiên hạ ở đây thử bình luận lý lẽ này coi.
Nghê Bất Đại nói:
– Được rồi! Người nhất định đòi nghe thì ta nói cho hay.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Chúng ta là huynh đệ cùng một mẹ.
Nghê Bất Đại nói tiếp:
– Mẹ chúng ta sinh ra ba người!
Nghê Bất Tiểu nói tiếp:
– Chúng ta là hai người trong ba cái bào thai sinh ba đó.
Nghê Bất Đại lại nói:
– Vì thế mà chúng ta tuy là huynh đệ, nhưng không phải huynh đệ song sinh.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Đại ca ta vừa lọt lòng mẹ đã chết ngay.
Nghê Bất Đại tiếp:
– Hai chúng ta sinh cùng một lúc, không ai trước ai sau.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Cả đầu, vai và thân hình chúng ta dính liền với nhau.
Nghê Bất Đại nói:
– Một vị danh y đã dùng thần thuật tuyệt xảo tách hai huynh đệ ta ra.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Vì thế mà hai người chúng ta chẳng thể phân biệt, ai là ca ca, ai là đệ đệ.
Nghê Bất Đại nói:
– Ta mà là Bất Đại thì y cũng là Bất Tiểu.
Hai gã mỗi người nói một câu liền thành một tràng, liên tục chẳng ngừng. Giọng nói đã tương tự mà cách nói cũng giống nhau. Giả tỷ có người cách một bức vách nghe tiếng, thì quyết không thể tin được là do hai người nói.
Quần hùng trong đại sảnh nghe xong vừa kinh ngạc, lại vừa buồn cười. Ai cũng cho là vụ này cực kỳ lạ lùng, nhưng cũng chẳng phải là hoàn toàn vô lý nên tự dưng ai nấy cũng đều cảm thấy thích thú.
Tang Phi Hồng cười nói:
– Té ra là vậy. Vụ kỳ lạ trong thiên hạ này, tại hạ mới được nghe lần đầu.
Nghê Bất Tiểu hỏi:
– Ngươi có chịu dập đầu lạy không?
Tang Phi Hồng đáp:
– Dập đầu dĩ nhiên là không rồi. Các ngươi muốn đánh thì cứ việc động thủ đi. Ta không hứa lời là không trả đòn đâu đấy.
Nghê thị huynh đệ không cần hô hoán cũng hiểu ý nhau. Đột nhiên ánh vàng lấp loáng, hai chục ngón tay đeo bao vàng nhọn hoắt cùng chụp lẹ tới. Tang Phi Hồng thân pháp rất linh diệu, chuyển động thân hình tránh khỏi hai mươi ngón tay dài khoằm. Nghê thị huynh đệ từ khi lọt lòng mẹ đến nay chưa từng rời nhau phút nào. Võ công của chúng thuần theo thuật phân tiến mà hợp kích. Hai người động thủ mà chẳng khác gì một người có bốn chân, bốn tay và hai mươi ngón tay. Hai người phối hợp với nhau rất đồng bộ, nhịp nhàng. Hễ tay trái của Nghê Bất Đại vươn ra chụp thì tay phải của Nghê Bất Tiểu đã từ một bên đánh tới. Tang Phi Hồng thân pháp cực kỳ linh hoạt, nhưng hơn chục chiêu vẫn chưa phản kích được chiêu nào. Cô thấy tình thế rất đỗi nguy cấp. Cục diện này không thể kéo dài, chỉ sơ tâm một chút là cô bị thương dưới tay Nghê thị huynh đệ ngay.
Quần hùng trong đại sảnh ngồi xem, nhiều người không nhịn được, lên tiếng quát tháo:
– Hai người đánh một là anh hùng hay là cẩu hùng?
– Hai đại nam nhân hợp lực đánh một cô gái nhỏ tuổi thật là quân mặt dày
– Người ta là gái lại tay không, mà hai gã ngón tay đều đeo binh khí nữa chứ.
– Tiểu huynh đệ! Ngươi ra giúp cô một tay, không chừng cô sẽ này cảm tình với ngươi đó. Ha ha!
Đang lúc huyên náo, Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu bỗng hô “ủa” một tiếng, rồi sóng vai nhảy qua mé trái. Chúng chăm chăm nhìn Phúc Khang An, mặt lộ vẻ vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Quần hào nhìn theo ánh mắt của chúng thì thấy Phúc Khang An ngồi trên ghế đang cười hì hì. Tay hắn dắt hai đứa nhỏ, miệng đang thì thầm nói khẽ với chúng. Hai đứa nhỏ này trắng trẻo và kháu khỉnh, tướng mạo lại giống nhau như đúc. Hiển nhiên là huynh đệ song sinh. Có điều đem chúng so với Nghê thị huynh đệ thì vẻ xinh đẹp của chúng càng nổi bật thêm lên. Mọi người nhìn đều cảm thấy hứng thú.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều chấn động tâm thần. Nguyên hai đứa nhỏ này chính là con Mã Xuân Hoa, không hiểu sao chúng lại bị Phúc Khang An đoạt trở về.
Hai người đều tự nhủ:
– Hắn đã đoạt lại hai thằng nhỏ thì hành tung của mình đã bị bại lộ rồi.
Trình Linh Tố đưa mắt ra hiệu cho Hồ Phỉ tìm cơ hội chuồn sớm ra ngoài.
Hồ Phỉ gật đầu, nghĩ bụng:
– Nếu đối phương khám phá ra thì chúng đã ngầm bố trí cả rồi, có bỏ trốn cũng không thoát được, đành cứ tùy cơ ứng biến, rồi sẽ liệu.
Nghê thị huynh đệ cứ nhìn sững hai đứa nhỏ như ngây như dại.
Tang Phi Hồng cười hỏi:
– Hai đứa nhỏ này hay lắm! Các người muốn thu chúng làm đồ đệ chăng?
Câu này nói trúng vào tâm sự của Nghê thị huynh đệ. Nên biết trong võ lâm, môn đồ tầm sư là chuyện đã đành, mà thầy cũng phải đi tìm môn đồ nữa. Gặp được một bậc minh sư bản lĩnh cao thâm không phải là điều dễ dàng, nhưng thu nạp được một môn đồ thông minh đĩnh ngộ để tiếp thu được hết chân truyền sở học của thầy cũng là điều khó khăn không kém.
Võ công của Song Tử môn rất cần hai người đồng thời rèn luyện và sử dụng, thì thu nạp hai đồ đệ có tuổi tác, vóc đáng cùng tính tình tư chất suýt soát nhau để truyền nghệ là điều cần, nhưng nếu có được hai môn đệ sinh đôi là hay nhất. Vì hai anh em sinh đôi không những thần trí và vóc dáng giống nhau mà tâm ý cũng tương thông. Khi lâm địch tự nhiên phát huy được uy lực, ngoài sự tiên liệu của đối phương. Do vậy võ sư của Song Tử môn mà thu nạp được môn đồ đắc ý càng khó hơn phái khác gấp trăm lần.
Nghê thị huynh đệ vừa thấy hai đứa nhỏ song sinh trong tay Phúc Khang An mà tư chất căn cơ của chúng đều vào hàng thượng phẩm, nên trong lòng rạo rực, nói hoan hỷ không bút nào tả xiết.
Phúc Khang An cười hì hì, khẽ nói:
– Các con nhìn hai vị sư phụ kia cũng là huynh đệ song sinh đó. Tướng mạo hai vị giống hệt nhau, phải không nào? Các con thử đoán xem vị nào là ca ca?
Nguyên Phúc Khang An đoạt được hai con về, trong lòng cao hứng vô cùng. Hắn thấy Nghê thị huynh đệ hình thù quái dị, liền sai người đem hai đứa nhỏ ra xem chơi.
Hai đứa nhỏ chăm chăm nhìn Nghê thị huynh đệ. Chúng là huynh đệ song sinh nên có những cảm giác mà người ngoài không hiểu được, do đó có thể phân biệt dễ dàng ai là anh ai là em. Nhưng Nghê thị huynh đệ cùng sinh một lúc, thân thế liển nhau sau mới tách ra nên hai đứa nhỏ cũng không sao phân biệt được.
Quần hùng hết nhìn Nghê thị huynh đệ lại ngó hai đứa nhỏ, không ngớt cười khi rồi thì thầm bàn tán.
Đột nhiên Nghê thị huynh đệ đồng quát lên một tiếng, rồi chia ra bên tả hữu chạy tới trước mặt Phúc Khang An. Phúc Khang An giật mình kinh hãi, chưa kịp nghĩ tới chuyện né tránh thì hai vệ sĩ đứng bên đã xông ra nghinh địch. Ngờ đâu thân pháp Nghê thị huynh đệ cực kỳ quái dị. Đang nhảy tới nửa chừng thì Nghê Bất Đại đang ở bên trái đột nhiên chuyển qua bên phải, Nghê Bất Tiểu ở bên phải lại chuyển qua bên trái, chỉ trong chớp mắt đã bỏ hai tên vệ sĩ lại phía sau. Hai gã tập kích Phúc Khang An chỉ là hư chiêu. Một người vung chân trái, một người vung chân phải, hai chân đều đá tới đánh “binh” mội tiếng, trúng vào cái ghế ngồi của Phúc Khang An.
Phúc Khang An té nhào xuống. Bọn vệ sĩ kinh hãi la rầm lên. người thì chạy ra cản đối phương, người thì đứng bảo vệ trước mắt Phúc Khang An, kẻ thì lo đỡ Phúc Khang An dậy. Nghê thị huynh đệ mỗi người cắp một đứa nhỏ dưới nách, xoay mình nhảy ra ngoài.
Quần hùng trong đại sảnh lập tức rối loạn cả lên, chỉ nghe những tiếng binh binh và tiếng la oai oái. Bốn tên vệ sĩ chặn đường bị Nghê thị huynh đệ đá ngã nhào.
Nghê thị huynh đệ cắp hai đứa nhỏ toan chạy ra khỏi sảnh đường, bỗng bóng người thấp thoáng, hai người vọt lẹ tới, vung tay đánh vào hậu tâm Nghê thị huynh đệ. Hai người này xuất chiêu khác nhau. Hải Lan Bật chụp sau gáy Nghê Bất Tiểu vừa mau vừa chuẩn đích. Thang Bái lại phóng chưởng đánh vào hông Nghê Bất Đại. Hai chiêu cương nhu khác nhau, nhưng đều là những chiêu số cực kỳ lợi hại, khiến địch nhân chẳng thể không tự cứu.
Nghê thị huynh đệ nghe tiếng gió sau lưng rít lên, vội vàng xoay chưởng đón đỡ. Hai tiếng “bốp bốp” vang lên. Nghê Bất Đại thân hình lảo đảo. Nghê Bất Tiểu chân tay loạng choạng, miệng phun ra một búng máu tươi.
Cả hai đồng thời buông hai đứa nhỏ xuống. Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu không dám chần chừ một khắc, cùng song song nhảy lại bế hai đứa nhỏ.
Phúc Khang An vừa mới hoàn hồn đã quát lớn:
– Bọn cuồng đồ lớn mật, bắt lại cho ta!
Hải Lan Bật và Thang Bái bước tới hai bước. Một người dùng “Cầm nã thủ”, một người dùng “Tỏa cốt pháp” vung ra bắt hai anh em Nghê thị. Hai gã vừa tiếp một chưởng đã bị thương, nên lúc này không còn cách gì kháng cự được nữa.
Hải, Thang bắt xong hai địch thủ, vừa toan xoay người để đem vào trong sảnh đường, bỗng trên mái nhà có bóng người thấp thoáng rồi có hai người nhẹ nhàng phi thân xuống. Đèn đuốc trong đại sảnh sáng rực như ban ngày, quần hào vừa nhìn thấy hai người này ai nấy đều sởn gáy, giống như đêm khuya đang đi giữa vùng núi vắng bỗng gặp ma quỷ.
Hai người mới đến thân hình cao lêu khêu, cặp lông mi nhìn chếch xuống, đôi gò má vừa ốm vừa dài, giống như loại quỷ vô thường chuyến đi bắt hồn người theo truyền thuyết dân gian. Càng kỳ lạ hơn nữa là tướng mạo hai người này giống hệt nhau như là huynh đệ song sinh. Hai người thân pháp nhanh như điện, vung chưởng tấn công Hải Lan Bật và Thang Bái ngay. Hải, Thang hai người vội vung chưởng nghinh địch. Bốn chưởng vừa chạm nhau bỗng nghe xương cốt toàn thân Hải Lan Bật kêu rắc rắc, còn Thang Bái thì thân hình dao động liền mấy cái.
***
Quần hào còn đang kinh ngạc thì Túy Bát Tiên chưởng môn là Văn Túy Ông từ nãy tới giờ vẫn ngồi trên ghế thái sư, nhảy vọt ra la thất thanh:
– Hắc Vô Thường! Bạch Vô Thường!
Hai người cao gầy vừa vung tay tiếp chưởng cùng hai lão Hải, Thang, vừa đưa mắt sáng như điện nhìn vào mặt Văn Túy Ông. Người đứng bên phải lạnh lùng hỏi:
– Ngươi làm ác đã nhiều, bữa nay còn nghĩ đến chuyện trốn thoát ư?
Đột nhiên hai người kia nhả chưởng lực ra, hai lão Hải, Thang lùi lại một bước. Khi hai lão vung chưởng phản kích thì hai người kia đã cướp được Nghê thị huynh đệ rồi.
Người cao gầy bên phải nói:
– Hai gã này đối với hai anh em ta vốn vô thân vô cố, song cũng là huynh đệ song sinh nên phải cứu mạng cho chúng!
Người đứng bên trái chắp tay xoay một vòng, dõng dạc nói:
– Anh em Thường Hách Chí và Thường Bá Chí ở Hồng Hoa hội xin chào các vị anh hùng thiên hạ!
Hai lão Thang, Hải vừa đối chưởng xong đều thấy khí huyết nhộn nhạo, trong lòng đã ngấm ngầm kinh dị, vội vàng điều tức. Đúng vào lúc hai lão toan tiến lên tái đấu thì nghe đối phương xưng danh là “Thường Hách Chí” và “Thường Bá Chí”, cả hai không tự chủ được, cùng “ủa” một tiếng rồi dừng bước lại.
Thường thị huynh đệ gật đầu chào rồi cắp Nghê thị huynh đệ nhảy lên mái nhà, bỗng nghe những tiếng “bốp”, “hự”, cùng những tiếng rú “ối, ái” vang lên mỗi lúc một xa, rồi không thấy gì nữa. Đó là những vệ sĩ canh gác trên nóc nhà bị Thường thị huynh đệ đánh dạt ra hoặc hất ngã xuống.
Hải Lan Bật và Thang Bái cảm thấy bàn tay tê chồn, giơ lên nhìn lại không nhịn được khẽ “ối” lên một tiếng ra chiều kinh hãi. Nguyên hai lão thấy bàn tay mình biến thành tím đen, sực nghĩ tới “Hắc Sa chưởng” khét tiếng thiên hạ của Tây Xuyên Song Hiệp Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường. Hai lão nghe tiếng tuyệt kỹ này đã lâu, mãi đến bữa nay mới được lĩnh giáo, quả nhiên không phải tầm thường.
Phúc Khang An mở cuộc đại hội chưởng môn này, dụng ý đầu tiên là để đối phó lại quần hùng ở Hồng Hoa hội. Không ngờ dưới bao nhiêu con mắt thao láo, Thường thị huynh đệ chợt đến chợt đi như vào chỗ không người. Trong lòng hắn cực kỳ phẫn nộ, nét mặt sa sầm, chẳng nói nửa lời.
Phúc Khang An lại liếc nhìn mấy ghế thái sư thấy Đại Trí Thiền Sư chùa Thiếu Lâm cặp lông mày rủ thấp, sắc mặt vẫn điềm nhiên. Vô Thanh Tử phái Võ Đương lộ vẻ hoang mang, tựa hồ sợ sệt. Văn Túy Ông đứng sững không nhúc nhích, hai mắt trợn lên nhìn ra phía trước. Thường thị huynh đệ đi đã xa rồi mà dường như lão vẫn chưa hết kinh hãi.
Hồ Phỉ đã nhìn rõ màn kịch này, lại nghe ba chữ “Hồng Hoa hội” trống ngực chàng đập thình thình. Chàng thấy Thường thị huynh đệ nói đến là đến, muốn đi là đi, coi anh hùng thiên hạ trong đại sảnh không vào đâu, tâm thần chàng như say sưa ngây ngất, miệng lẩm bẩm:
– Có thế mới là bậc anh hùng hào kiệt.
Tang Phi Hồng vẫn đứng một bên coi náo nhiệt. Cô thấy Văn Túy Ông nói mấy câu khiến toàn thể hội trường sửng sốt, cô còn nhỏ tuổi lại hiểu sự, liền vươn tay khẽ đẩy vai lão một cái, cười nói:
– Ngồi xuống đi! Đôi Vô Thường Quỷ đi rồi!
Ngờ đầu có vừa đẩy một cái, Văn Túy Ông đã ngã quay ra không dậy được nữa. Tang Phi Hồng cả kinh. Cô giật mình kinh hãi, cúi đầu xuống thấy mặt lão xanh xám, thì ra lão sợ quá nên vỡ mật chết từ lâu rồi.
Cô liền la hoảng:
– Chết rồi! Chết rồi! Lão sợ chết khiếp rồi!
Quần hùng trong đại sảnh nhốn nháo một hồi. Lúc trước Văn Túy Ông ngồi trên ghế thái sư rót ruợu uống khề khà, chẳng coi ai vào đâu, tựa hồ mình là kẻ đệ nhất thiên hạ, chẳng ngờ Thường thị huynh đệ vừa tới, chỉ nói có một câu mà lão đã sợ chết khiếp rồi.
Quách Ngọc Đường thở dài, nói:
– Chết cũng chưa hết tội! Chết cũng chưa hết tội!
Hồ Phỉ hỏi:
– Quách tiền bối, Văn Túy Ông bình sinh phẩm hạnh không tốt ư?
Quách Ngọc Đường lắc đầu đáp:
– Há phải chỉ phẩm hạnh không tốt mà thôi đâu, lão còn gian dâm, cướp bóc, chẳng từ điều gì. Đáng lẽ lão phu không muốn nói xấu người chết, nhưng sự thực đã bày ra đó nên lão phu tiên liệu lão chẳng được chết yên lành. Có điều vì lão sợ hai anh em “Hắc Bạch Vô Thường” đến nỗi vỡ cả mật mà chết là một điều không ai nghĩ tới!
Một người khác xen vào:
– Chắc là Thường thị huynh đệ kiếm hắn đã lâu rồi, bữa nay oan gia lại chạm trán trên quãng đường hẹp.
Quách Ngọc Đường đáp:
– Chắc trước kia lão Văn đã bị Thường thị huynh đệ tóm được, không chừng lão còn phát điều trọng thệ gì đó.
Người kia lắc đầu nói:
– Tự mình làm nên tội nghiệt thì không thể sống được
Quách Ngọc Đường đáp:
– Cái đó gọi là: “Thị phi chỉ vị đa khai khẩu, phiền não giai nhân cưỡng xuất đầu”. Nếu lão tự biết mình một chút, không ham Ngọc Long ngự bôi, cứ ẩn trong đám đông thì Tây Xuyên song hiệp cũng không tìm thấy được.
Mấy người đang nói chuyện, bỗng một lão già từ trong đám đông chạy ra, sau lưng cài tẩu thuốc đen nhánh. Lão đến bên thi thể Văn Túy Ông, vừa khóc vừa nói:
– Văn nhị đệ! Không ngờ bữa nay nhị đệ lại chết về tay phường chuột nhắt.
Hồ Phỉ nghe lão thóa mạ “Tây Xuyên Song Hiệp” là lũ chuột nhắt thì trong lòng tức giận, khẽ hỏi:
– Quách tiền bối! Lão này là ai vậy?
Quách Ngọc Đường đáp:
– Lão là Thượng Quan Thiết Sinh, chưởng môn Huyền Chỉ môn ở phủ Khai Phong. Lão tự phong cho mình ngoại hiệu là “Yên Hà tản nhân” gì đó. Lão cùng Văn Túy Ông cùng một giuộc, hợp xưng là “Yên tửu nhị tiên”.
Hồ Phỉ thấy Thượng Quan Thiết Sinh mặc áo bóng loáng đầy vết khói bám, mà cây dọc tẩu cài sau lưng cũng có vẻ đặc biệt. Cái bầu để nhồi thuốc lớn bằng nắm tay, chắc là lão nghiện nặng. Chàng hừ một tiếng rồi nói:
– Loại quỷ nghiện thuốc cũng tự xưng là “tiên” được ư?
Thượng Quan Thiết Sinh ôm thi thể Văn Túy Ông khóc mấy tiếng rồi đứng đấy, quắc mắt nhìn Tang Phi Hồng hỏi:
– Ngươi làm gì mà đẩy chết Văn nhị đệ của ta?
Tang Phi Hồng ngạc nhiên đáp:
– Rõ ràng lão sợ quá mà chết, sao lại bảo do ta đẩy?
Thượng Quan Thiết Sinh nói:
– Hà hà! Một người đang mạnh khỏe sao lại sợ quá mà chết được? Nhất định ngươi đã ngấm ngầm hạ độc thủ sát hại Văn nhị đệ của ta.
Nguyên lão thấy Văn Túy Ông sợ quá chết, nếu vụ này đồn đại ra ngoài giang hồ thì mất hết thanh danh, từ nay phái Túy Bát Tiên không sao ngóc đầu lên được nữa, nên lão gán bừa cho Tang Phi Hồng đã ngấm ngầm hạ độc thủ. Nên biết những nhân vật võ lâm bị người sát hại là chuyện thường, không tổn hại gì đến thanh danh.
Tang Phi Hồng còn nhỏ tuổi, không hiểu dụng ý của Thượng Quan Thiết Sinh giá họa cho mình. Cô tức giận phân bua:
– Giữa ta với lão vốn không quen biết, thì việc gì ta lại sát hại lão? Ở đây có cả hàng trăm hàng ngàn con mắt đều thấy rõ vì lão sợ quá mà chết.
Cáp Xích đại sư người Mông Cổ từ nãy tới giờ cứ ngồi ngẩn người trên ghế thái sư bây giờ bỗng xen vào:
– Vị cô nương này không hạ độc thủ. Chính mắt lão phu cũng thấy rõ là hai tên ác quỷ vừa tới đã làm cho Văn lão gia sợ quá mà chết. Lão phụ cũng nghe tiếng Văn lão gia hô “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường”.
Giọng nói của Cáp Xích đại sư rất lớn, khi nói đến sáu chữ “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường” lão cố bắt chước cho giống giọng của Văn Túy Ông khiến âm thanh càng thêm cổ quái. Quần hùng trong đại sảnh cười rộ cả lên:
Cáp Xích đại sư không hiểu mọi người cười vì lẽ gì, liền lớn tiếng hỏi:
– Chẳng lẽ lão phu nói sai ư? Hai con quỷ vô thường đó mặt mũi hung ác xấu xa, hình thù quái dị làm cho người ta sợ chết là thường. Các hạ không nên trách cô đây.
Tang Phi Hồng hỏi theo:
– Được chưa? Đại sư đây cũng công nhận là y sợ quá mà chết, chứ có liên quan gì đến ta?
Thượng Quan Thiết Sinh rút cây dọc tẩu bên hông ra, nhét đầy sợi thuốc vào, quẹt lửa lên hút hai hơi rồi đột nhiên nhả khói trắng vào mặt Tang Phi Hồng, quát hỏi:
– Con tiện tỳ kia! Rõ ràng ngươi là hung thủ giết người, sao còn chối cãi?
Tang Phi Hồng thấy khói trắng phun tới, vội né tránh nhưng không kịp, mũi hít phải liền thấy đầu óc hơi choáng váng, lại nghe lão mở miệng mắng người, thì không nhẫn nại được liền mắng lại:
– Lão quỷ hồ đồ kia! Chẳng lẽ ta sợ ngươi ư? Ngươi bảo ta giết hắn, thì ta giết cả ngươi nữa đã sao?
Tay trái cô đánh dứ ra một chưởng, chân phải đá vào hông của lão.
Cáp Xích đại sư lớn tiếng la:
– Lão kia! Đừng đổ oan cho người ngay. Chính mắt ta trông thấy Văn lão gia rõ ràng bị hai tên ác quỷ đó làm cho sợ quá mà chết!
Hồ Phỉ thấy nhà sư tuy ngớ ngẩn nhưng tính tình ngay thẳng, có điều lão mở miệng là nói đến “ác quỷ” nghe không thuận tai chút nào. Chàng tức mình muốn tìm cách khiến lão nếm mùi đau khổ một chút.
Bỗng thấy một thư sinh trẻ tuổi từ mé tây tòa sảnh đi thẳng về hướng Cáp Xích đại sư. Thư sinh này ước chừng hai mươi lăm, hai mười sáu tuổi, thân hình bé nhỏ gầy gò, cách ăn mặc tuấn nhã, tay mặt phe phẩy cây quạt. Gã đến trước mặt Cáp Xích nói:
– Đại hòa thượng Hòa thượng nói một câu sai trật cần phải sửa lại.
Cáp Xích trợn mắt lên hỏi:
– Câu nào sai trật?
Thư sinh đáp:
– Hai vị đó không phải là “ác quỷ” mà là “Tây Xuyên song hiệp” Thường thị huynh đệ tiếng tăm lừng lẫy. Tướng mạo hai vị tuy có khác thường, nhưng võ công cao cường, chuyên hành hiệp trượng nghĩa nên trên khắp giang hồ ai ai cũng khâm phục.
Gã nói mấy câu này rất vừa lòng Hồ Phỉ. Chàng nghĩ thầm:
– Chàng thư sinh kia biết nói mấy câu này thì nhân phẩm không phải tầm thường. Ta phải giao kết với y mới được.
Cáp Xích hỏi:
– Văn lão gia đã chẳng gọi chúng là “Hắc Võ Thường, Bạch Vô Thường” đó sao? “Hắc Vô Thường” và “Bạch Vô Thường” mà không phải là ác quỷ ư?
Thư sinh đáp:
– Hai vị đó họ Thường. Còn tên một vị có chữ “Hách”, một vị có chữ “Bá”. Vì thế mà các bậc bằng hữu tiền bối gọi đùa là “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường”. Cái ngoại hiệu đó nếu chẳng phải là bậc tiền bối nổi danh thì không thể tùy tiện mà xưng hô được.
Một người trợn mắt la lối, một người dùng lời văn nhã giải thích. Bên kia Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng đã động thủ với nhau.
Đừng xem Tang Phi Hồng vừa rồi bị Nghê thị huynh đệ bức bách mà cho rằng cô chỉ có đón đỡ né tránh chứ không phản kích được. Thực ra võ công hai người hợp kích của Song Tử môn rất quái dị. Bây giờ cô trao đổi chiêu số với Thượng Quan Thiết Sinh chẳng hề rơi vào thế hạ phong chút nào. Thượng Quan Thiết Sinh coi bề ngoài tựa hồ tay không, nhưng thực ra trong tay lão cầm cây dọc tẩu bằng thép đúc, trở thành vũ khí dùng để điểm huyệt. Huyền chỉ môn sở trường về đánh vào ba mươi sáu đại huyệt, nhưng thân pháp của Tang Phi Hồng linh hoạt, thủy chung Thượng Quan Thiết Sinh vẫn không điểm trúng được. Mấy lần lão để lộ sơ hở bị cô vung chân đá trúng.
Lại nghe lão rít một hơi thuốc sòng sọc, rối nhả khói mịt mù, ống dọc tẩu bị lão rít một hơi dài, dần dần biến thành màu đỏ. Té ra trong ống có giấu than tinh chất, khi lão hít hơi vào rồi phun ra khiến ống dọc tẩu từ từ nóng đỏ lên. Sau một lúc như vậy, cái dọc tẩu bình thường biến thành một thứ khí giới cực kỳ lợi hại. Lão mới đánh tới bên người cô, Tang Phi Hồng đã cảm thấy tay và mặt mày nóng ran, gấu quần cô bị cháy xém rồi. Trong lúc cô đang hoang mang, thủ cước rối loạn thì đột nhiên bị Thượng Quan Thiết Sinh phun một làn khói trắng vào mặt. Tang Phi Hồng cảm thấy đầu óc choáng váng, người cô lảo đảo rồi ngã lăn ra.
Nguyên trong thuốc của Thượng Quan Thiết Sinh có hòa một loại thuốc mê cực mạnh. Một là lão hút quen rồi, hai là trong mũi đã có thuốc giải, nên không sao.
Gã thư sinh đối thoại với Cáp Xích hòa thượng chẳng lý gì đến chuyện đánh nhau bên cạnh, nhưng đột nhiên gã ngửi thấy mùi khác lạ, biết là một thứ mê hương của phe hắc đạo, bất giác nổi cơn thịnh nộ. Gã liếc mắt nhìn thấy Thượng Quan Thiết Sinh dùng cây dọc tẩu đỏ hồng để điểm huyệt vào gối Tang Phi Hồng. Xèo một tiếng! Khói đen bốc lên mùi khét lẹt. Quần của cô đã bị cháy thủng một lỗ. Tang Phi Hồng bị thương rú lên một tiếng. Thượng Quan Thiết Sinh lại toan đánh xuống hông cô một đòn nữa.
Thư sinh giận dữ quát lớn:
– Dừng tay!
Thượng Quan Thiết Sinh sửng sốt. Thư sinh vừa cong lưng một cái đã lột được đôi giày của Cáp Xích hòa thương, rồi xoay lại kẹp lấy cây dọc tẩu đỏ hồng của Thượng Quan Thiết Sinh. Thân thủ của thư sinh nhanh như điện chớp.
Cáp Xích hòa thượng hoảng kinh, la lên:
– Ngươi… ngươi tụt giày ta làm chi?
Lão la chưa dứt tiếng thì thư sinh đã dùng đế giày kẹp được cái dọc tẩu bằng sắt đỏ hồng. Gã xoay mình lại phía sau Thượng Quan Thiết Sinh. Tiếp theo mấy tiếng xèo xèo, tay áo Thượng Quan Thiết Sinh đã bị cháy. Tay mặt hắn đau quá phải buông ra.
Thư sinh vất cả đôi giày và dọc tẩu ra ngoài, vọt tới chỗ Tang Phi Hồng, thấy cô hai mắt nhắm nghiền, hôn mê bất tỉnh.
Hai tiếng chát chát vang lên, đôi giày của Cáp Xích rớt xuống bàn tiệc. Nước canh bắn tung tóe. Dọc tẩu bay về phía Quách Ngọc Đường, kình lực vẫn còn rất mãnh liệt. Quách Ngọc Đường rú lên một tiếng:
– Úi chao!
Lão muốn tránh nhưng dọc tẩu bay tới rất nhanh, lại quá đỗi đột ngột nên nhất thời không sao né kíp, đành trợn mắt nhìn ống tẩu đỏ hồng bay đập vào trước mặt. Hồ Phỉ đưa đôi đũa lên, vận kình lực ra đầu đũa kẹp lấy. Những diễn biến cao thâm khôn lường khiến quân hào trong đại sảnh đều ngơ ngác một lúc rồi hoan hô vang dậy.
Vị thư sinh nhìn Hồ Phỉ gặt đầu mỉm cười để tạ ơn chàng đã giúp mình tránh khỏi việc vô ý đả thương người. Gã quay lại chau mày nhìn Tang Phi Hồng không biết giải cứu bằng cách nào liền quay sang Thượng Quan Thiết Sinh quát:
– Nơi đây quần hào tỷ thí võ nghệ mà lão lại dùng thuốc mê là cớ làm sao? Mau lấy thuốc giải ra đây!
Thượng Quan Thiết Sinh vừa bị thư sinh đoạt dọc tẩu, biết gã xuất thủ cực kỳ thần tốc, trong tay lão lại không có bình khí nên không dám ương bướng, chỉ cất giọng ầm trầm hỏi:
– Ai dùng thuốc mê? Con nha đầu này định lực kém quá, xoay chuyển mấy vòng rồi ngất xỉu còn trách ai được?
Mọi người bàng quan không rõ chân tướng, nên chẳng biết ai phải ai trái. Bỗng thấy một phụ nhân đứng tuổi lưng còng từ mé tây tiến ra, tay cầm một chung rượu, mụ hớp một hớp rồi phun vào mặt Tang Phi Hồng.
Thư sinh hỏi:
– Ủa! Cái này… cái này là thuốc giải ư?
Phu nhân kia không đáp, lại phun thêm một búng rượu nữa, mụ phun đến lần thứ ba thì Tang Phi Hồng dần dần hồi tỉnh. Trong lúc nhất thời cô chưa hiểu đầu đuôi ra sao.
Thượng Quan Thiết Sinh hỏi:
– Ha ha! Con nha đầu chẳng đã tỉnh lại rồi ư? Sao ngươi dám nói càn là ta dùng thuốc mê? Ở trong phủ Phúc đại soái nghiêm trang thế này, nói năng phải cẩn thận.
Thư sinh xoay tay lại tát hắn một cái rồi quát:
– Trước hết hãy đánh tên gian đồ này một phát đã.
Thượng Quan Thiết Sinh cúi đầu thấp xuống, phát chưởng đánh không trúng.
Thư sinh ra tay rất xảo diệu, mà Yên Hà tản nhân né tránh cũng rất linh động.
Tang Phi Hồng vừa tỉnh, đưa tay lên dụi mắt, ngay lập tức nhảy xổ tới vung tay trái đánh vào ngực Thượng Quan Thiết Sinh, miệng quát mắng:
– Ngươi đã phun khói độc vào mặt ta!
Thượng Quan Thiết Sinh nghiêng mình tránh khỏi, trợn mắt nhìn phụ nhân trung niên, hắn vừa kinh hãi vừa tức giận, tự hỏi:
– Sao mụ này giải được thuốc mê độc môn của ta? Giữa ta với mụ vốn không thù oán, sao mụ lại rỗi hơi can thiệp vào việc của người khác vậy?
Tang Phi Hồng nhìn thư sinh, gật đầu nói:
– Đã tạ tướng công đã ra tay tương trợ.
Thư sinh trỏ vào phụ nhân, nói:
– Chính nữ hiệp đây đã cứu tỉnh cô đó.
Phụ nhân lạnh lùng nói:
– Không phải ta cứu cô đâu.
Mụ xoay tay đón lấy đôi đũa trong tay Hồ Phỉ, kẹp ống dọc tẩu bằng thép trao vào tay Thượng Quan Thiết Sinh, cất tiếng khàn khàn, nói:
– Lần này thì nhớ giữ cho chắc.
Gã thư sinh, Tang Phi Hồng, Thượng Quan Thiết Sinh đếu hồ đồ chẳng hiểu phụ nhân đứng về phe nào. Mụ đã cứu tỉnh Tang Phi Hồng, lại giao trả dọc tẩu lại cho Thượng Quan Thiết Sinh. Chẳng lẽ mụ là hảo nhân ba phải chỉ biết làm việc tốt mà không phân biệt phải trái?
Mọi người thấy mụ mái tóc hoa râm, da mặt vàng ủng, thể chất suy nhược, không có gì ra vẻ là người biết võ công. Sau một lúc, mụ xoay mình về lại chỗ ngồi. Phụ nhân này chính là Trình Linh Tố đã cải trang. Nên biết nếu không phải là cao đồ của Độc Thủ Dược Vương thì chỉ trong khoảnh khắc quyết chẳng thể giải được thuốc mê độc môn của Thượng Quan Thiết Sinh.
Cáp Xích lại luôn miệng la lối:
– Trả lại giày ta! Trả lại giày ta!
Nhưng mọi người trong lòng đều có những ý nghĩ riêng, chẳng ai lý gì đến lão. Cáp Xích tức quá đưa tay ra nắm lấy sau lưng thư sinh, quát hỏi:
– Có trả giày ta không thì bảo?
Thư sinh xoay mình né tránh, cười đáp:
– Đại hòa thượng! Giày của đại hòa thượng cháy mất rồi!
Cáp Xích chân không, rất đỗi ngượng ngùng, chạy lại bàn tiệc để tìm thì thấy đôi giày đã ướt đẫm, cả trong lẫn ngoài đều dính đầy dầu mỡ. Nhưng không đi giày cũng không xong, nên lão miễn cưỡng xỏ giày vào chân rồi quay lại tìm gã thư sinh để trút giận. Không ngờ chẳng thấy bóng gã đâu nữa, chỉ thấy Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng đang tỷ đấu.
Lão chạy quanh mấy vòng không tìm thấy thư sinh đâu đành quay về ngồi lại trên cỗ ghế thái sư, miệng lẩm nhẩm thóa mạ:
– Con bà nó! Bữa nay thật là xui quá. Đã gặp một cặp quỷ vô thường lại chạm trán một tên quỷ tú tài.
Lão chửi bới một hồi không ngớt miệng. Lão nhìn thấy Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng càng đánh càng hăng, khó phân thắng bại trong chốc lát, thì muốn im tiếng, nhưng cảm thấy đôi giày dưới chân dầu mỡ rất khó chịu nên không nhịn được, lại ngoác miệng ra chửi tiếp.
Đột nhiên lão nghe mọi người nổi lên cười ha hả, liền trừng mắt nhìn, không hiểu họ cười gì. Lão lại thấy mục quang mọi người ngó vào mình chằm chặp liền sờ mặt mũi rồi cúi xuống y phục thì thấy ngoài đôi giày dơ dáy, không còn chỗ nào khác lạ. Lão tức giận quát hỏi:
– Cười cái gì? Có gì mà cười?
Mọi người lại càng cười lớn hơn.
Cáp Xích bụng bảo dạ:
– Giỏi lắm! Lũ con rùa! Các ngươi cười thì mặc thây các ngươi, lão gia không thèm lý đến nữa.
Lão ngồi ngay ngắn trên ghế, nghĩ bụng mình chẳng có gì đáng để cười thì mọi người có cười một lúc rồi tự nhiên sẽ hết cười. Nào ngờ tiếng cười trong đại sảnh mỗi lúc càng vang dội. Cả Tang Phi Hồng đang chiến đấu kịch liệt, thỉnh thoảng cũng quay đầu lại toét miệng ra cười.
Cáp Xích trợn mắt há miệng, lòng dạ rối bời chẳng hiểu mọi người cười cái gì. Lão nhìn ngang nhìn ngửa, tình trạng trông rất hoạt kê.
Cuối cùng Tang Phi Hồng không nhịn được, cười ồ lên và gọi:
– Đại hòa thượng! Sau lưng lão có cái gì vậy?
Cáp Xích nhảy ra khỏi ghế, rồi quay lại nhìn thì thấy thư sinh đang ngồi chễm chệ ngay sau lưng, vung chân múa tay, biểu diễn kịch câm để chọc mọi người cười.
Nguyên gã ngồi trên lưng ghế của Cáp Xích lẳng lặng làm đủ mọi trò hề.
Cáp Xích nổi giận đùng dùng, la lớn:
– Con quỷ tú tài kia! Ngươi sao lại phá ta?
Gã thư sinh so vai, đưa tay làm hiệu, ý nói:
– Tại hạ có làm gì đại sư đâu?
Cáp Xích lại quát hỏi:
– Ngươi ngồi chỗ này để làm gì?
Gã thư sinh ngón tay chỉ vào tám chiếc phế Ngọc Long bôi trên kỷ trà, ý nói:
– Tại hạ muốn đoạt một chiếc Ngọc Long bôi.
Cáp Xích lại hỏi:
– Ngươi định tranh đoạt ngự bôi ư?
Thư sinh gật đầu.
Cáp Xích hỏi:
– Đây còn ghế bỏ trống sao ngươi không ngồi?
Thư sinh trỏ quần hào trong sảnh đường, tay trái huơ lên liên tục, tay mặt nắm thành quyền đấm dứ vào đầu mình rồi so vai rụt cổ, ra chiều khiếp sợ.
Quần hào lại ầm lên cười.
Cáp Xích hỏi:
– Ngươi sợ người ta đánh không dám ngồi, sao lại ngồi trên lưng ghế của ta?
Thư sinh vung chân đá hờ một phát, lại phóng song chưởng đánh dứ một đòn rồi tụt xuống ngồi vào ghế, ý tứ của gã hiển nhiên là muốn nói:
– Tại hạ sẽ đá văng lão đi, để chiếm lấy cái ghế của lão.
Gã vừa tụt người ngồi xuống ghế, cả sảnh đường lập tức cười ồ cả lên. Phúc Khang An, An đề đốc thấy tỷ võ trường biến thành một nơi diễn trò, mất hết ý nghĩa ban đầu thì trong lòng đều rất khó chịu, nhưng lại thấy gã thư sinh điêu ngoa cổ quái, mà Cáp Xích lại ngây ngô thật thà, hai người tựa hồ như đang diễn một vở kịch hài rất ăn khớp nhau, cũng không nhịn được phải mỉm cười.
Lúc này hai đứa nhỏ song sinh đã được Vương kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt đưa vào hậu viện, nếu không thì chúng cũng phải vỗ tay cười ha hả.
Trình Linh Tố nhìn Hồ Phỉ khẽ nói:
– Gã kia khinh công cực kỳ xảo diệu.
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng thế! Thân pháp gã đặc biệt linh hoạt tạo thành một phái riêng, suốt đời đại ca chưa từng thấy ai được như thế!
Trình Linh Tố nói:
– Dường như gã cố ý đến đây quấy phá!
Hồ Phỉ thong thả gật đầu rồi không nói nữa.
Lúc này những người có kiến thức trong đại hội đã nhận ra gã thư sinh muốn chọc phá Cáp Xích, mà thực ra là để phá rối cuộc đại hội chưởng môn của Phúc Khang An, biến cuộc đại hội anh hùng đầy vẻ trang nghiêm thành nơi diễn trò hề.
Bỗng thấy thư sinh lấy ra một cây quạt, trỏ vào Cáp Xích nói:
– Cáp Xích hòa thượng! Hòa thượng không được vô lễ với ta! Trong cái quạt này có ẩn giấu tổ tông của hòa thượng đó!
Cáp Xích nghiêng đầu dòm ngó cây quạt, chẳng thấy có gì khác lạ, liền lắc đầu đáp:
– Không thể tin lời ngươi được!
Thư sinh đột nhiên mở quạt giơ lên cho lão thấy, vẻ mặt nghiêm nghị hỏi:
– Ngươi không tin ư? Vậy ngươi thử nhìn xem!
Mọi người trông cây quạt đều lăn ra mà cười. Nguyên trên mặt cây quạt giấy vẽ một con rùa cực lớn. Con rùa này nằm ngửa bụng hướng lên trời, đang thò cổ ra cố gắng lật mình lại mà lật không được, hình dáng trông rất hoạt kê.
Hồ Phỉ không nhịn được, vừa cười vừa nhìn Trình Linh Tố. Hai người xác định chắc chắn thư sinh đã chuẩn bị để đến đây quấy phá, bất giác ngấm ngầm sinh lòng bội phục.
Nên biết ở giữa chốn long đầm hổ huyệt, lại trước mặt anh hùng thiên hạ mà dám quậy phá như vậy, tất phải là một nhân vật đởm lược hơn người.
Cáp Xích nổi giận, gầm lên như sấm:
– Ngươi thóa mạ ta là con rùa ư? Tên tú tài thối tha này không muốn sống nữa rồi!
Thư sinh thản nhiên hỏi lại:
– Làm con rùa có chi là không hay? Rùa và hạc sống rất thọ, ta muốn nói lão sống lâu trăm tuổi đó mà.
Cáp Xích nói:
– Nói bậy! Con rùa là tiếng để thóa mạ người ta. Vợ đi ngủ trộm với trai tức là làm con rùa.
Thư sinh nói:
– Thất kính! Thất kính! Té ra đại hòa thương đã có vợ! Không hiểu hòa thượng đã lấy vợ mấy lần rồi?
Thang Bái thấy nét mặt Phúc Khang An mỗi lúc một thêm vẻ bực dọc muốn ra can thiệp thì đột nhiên Cáp Xích gầm lên một tiếng, vươn tay chụp vào lưng thư sinh.
Thư sinh không né tránh kịp bị lão xách bổng người lên ném mạnh xuống đất.
Nguyên Cáp Xích đại sư vốn là một tay cao thủ về đô vật ở Mông Cổ. Kỹ thuật đánh vật của người Mông Cổ gồm đủ ba môn tuyệt kỹ: đại trảo, trung trảo, tiểu trảo, mỗi thứ đều có một tuyệt kỹ lợi hại riêng.
Cáp Xích là chưởng môn Trung Trảo môn, sở trường về sử kình ở hông và bắp đùi. Lão mà chụp vào trước ngực hay sau lưng đối phương, thì trăm phát trúng cả trăm.
Thư sinh bị lão chụp ném ra, xem chừng dập cả mặt mày. Ngờ đâu sống lưng gã hướng xuống, vậy mà lúc chạm đất thì gã lại đứng hai chân xuống trước.
Chân gã như đặt lò xo, vừa chấm đất lập tức nảy lên. Gã cười hề hề nói:
– Lão vật ta không ngã đâu.
Cáp Xích nói:
– Lại đây!
Thư sinh đáp:
– Hay lắm! Lại thì lại!
Gã đi lại gần, đột nhiên vươn hai tay chụp lấy trước ngực lão.
Quần hào đều rất lấy làm lạ vì thân hình Cáp Xích cao lớn quá cỡ, còn thư sinh lại nhỏ bé gầy nhom, huống chi Cáp Xích lại chuyên nghề đô vật. Ai cũng nhìn thấy thư sinh tỷ đấu với lão, chẳng thi triển khinh công thì cũng dùng quyền chiêu xảo diệu để thủ thắng, mà sao lúc này gã lại đem sở đoản của mình đọ với sở trường của địch?
Cáp Xích liền vươn tay chụp đầu vai thư sinh, vung chân quét ngang khiến thư sinh ngã chúi người về phía trước. Gã ôm lấy cái cổ to bè của Cáp Xích, vung hai chân cùng lúc đá vào đầu gối lão. Hai chân Cáp Xích nhũn ra, người ngã quỵ tới trước.
Cáp Xích tuy thua mà chưa loạn, xoay tay chụp lấy sau lưng thư sinh, rồi đè lên người gã.
Thư sinh la lớn:
– Không được! Không được!
Gã luồn đầu xuống dưới nách lão thò ra, lè lưỡi làm trò quỷ.
Lúc này bọn cao thủ như Hồ Phỉ, Thang Bái, Hải Lan Bật đều hiểu rõ gã thư sinh giỏi về điểm huyệt, Cáp Xích tuyệt nhiên không phải là đối thủ của gã. Còn về môn đô vật, thư sinh cũng rất thuần thục. Tuy tý lực gã không bằng Cáp Xích, nhưng chân tay linh hoạt, mỗi khi lâm vào tuyệt cảnh vẫn có thể thoát ra được. Gã không muốn đánh té Cáp Xích vì đối với lão không có ý thù địch, mà chỉ muốn mượn lão để làm trò vui khiến cho Phúc Khang An và bốn đại chưởng môn phải mất mặt.
Bên kia Tang Phi Hồng thi triển công phu tiểu xảo cùng Thượng Quan Thiết Sinh tỷ đấu không ngừng. Ngũ Hồ Môn của cô ở phủ Phụng Dương chuyên về môn “Thiết liên công”. Mũi giày bọc sắt nhọn nếu đá trúng yếu huyệt ai là có thể lấy mạng ngay.
Thượng Quan Thiết Sinh phiêu bạt giang hồ đã mấy chục năm, làm gì không biết đến sự lợi hại của cô? Mỗi khi mũi giày cô đá tới, hắn vội nghiêng mình né tránh.
Thượng Quan Thiết Sinh là nhân vật thành danh trên chốn giang hồ, đấu với cô gái nhỏ tuổi gần trăm chiêu mà vẫn không chiếm được thế thượng phong chút nào. Lão thấy cô không ngớt tung ra các thế đá nào là “Uyên ương thối”, “Quải tử thối”, “Khuyến đàn thối”, “Câu đảo thối”, nào là “Xuyên tâm thối”, “Tràng tâm thối”, “Đơn phi thối”, “Song phi thối” mỗi lúc một mau lẹ thì thấy bồn chồn trong dạ. Lão xem ra muốn thủ thắng thì chỉ còn cách dùng lại mánh khóe cũ.
Lão nghĩ vậy bèn cười ha hả, nói:
– Đá ngang đá dọc thì làm được gì?
Lão ra vẻ không cần, lại cầm dọc tẩu rít một hơi. Tang Phi Hồng thấy lão hút thuốc vội tránh ngay đầu gió, để phòng lão thở hơi ra.
Sau khi Thượng Quan Thiết Sinh rít một hơi thuốc rồi qua lại mấy chiêu. Hai mắt lão từ từ trợn trừng lên, chiếu ra những tỉa hung quang như con chó điên. Đột nhiên lão gầm lên những tiếng “ô ô” rồi về nhảy phía Tang Phi Hồng.
Tang Phi Hồng thấy bộ dạng lão như vậy trong lòng đã khiếp hãi, không dám tỷ đấu trực diện mà vội lạng mình né sang một bên.
Thượng Quan Thiết Sinh chân không dừng bước, vẫn tiếp tục xông thẳng về phía trước, miệng vẫn gầm “ô ô”, nhưng lại nhảy về phía Phúc Khang An.
Vệ sĩ đứng bên cạnh Phúc Khang An là Tăng Thiết Âu ở Ưng Trảo Nhạn Hành môn chợt thấy Thượng Quan Thiết Sinh phạm thượng làm loạn, vội nhảy tới nắm cổ tay lão hất mạnh ra ngoài.
Thượng Quan Thiết Sinh loạng choạng suýt ngã. Lão trợn ngược hai mắt lên, xông tới bàn tiệc ở mé đông, nào chộp nào đánh loạn xạ cả lên như một kẻ điên khùng.
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn Trình Linh Tố, thấy cô tựa như cười mà không phải cười, chàng liền hiểu ngay vừa rồi cô cầm dọc tẩu đưa lại cho Thượng Quan Thiết Sinh là có dụng ý. Chỉ trong khoảnh khắc, cô đã bỏ một loại thuốc mê rất lợi hại vào dọc tẩu, dùng cách gậy ông đập lưng ông, khiến cho kẻ một đời dùng mê dược hại người là Thượng Quan Thiết Sinh trúng lại phải chính mê dược đó. Khi gã hít phải mê dược này vào phổi, thần trí lập tức mê loạn, như điên như khùng, cả viên thuốc giải gã ngậm trong miệng cũng vô tác dụng.
Những cao thủ ở bàn tiệc phía Đông thấy lão xông tới cũng ra tay đối phó. Thượng Quan Thiết Sinh đang lăn mình dưới đất, đột nhiên ôm lấy chân bàn, cắn lấy cắn để.
Quần hào thấy tình trạng này đều ngấm ngầm kinh hãi, không cười ra tiếng được. Chẳng ai hiểu vì lẽ gì mà gã đột nhiên biến thành kẻ điên khùng như vậy.
Trong lúc nhất thời mọi người đều yên lặng, không ai nói gì. Trong nhà đại sảnh chỉ nghe tiếng Cáp Xích thóa mạ “Tiểu súc sinh, tặc tú tài” không ngớt.
Thư sinh kia nói:
– Ta khuyên lão không nên chửi bới nữa!
Cáp Xích giận dữ quát:
– Ta thóa mạ ngươi thì đã sao? Tặc tú tài!
Thư sinh nói:
– Chắc lão không dám thóa mạ Phúc đại soái. Lão có giỏi thì thử mắng một tiếng Tặc đại soái nghe coi.
Câu mắng chửi vừa ra khỏi miệng, lão đã biết là không ổn, vội đổi giọng:
– Không… không phải là ta thóa mạ y… mà là… thóa mạ ngươi!
Thư sinh cười hỏi:
– Ta không làm đại soái, lão lại thóa mạ ta là “Tặc đại soái” để làm chi?
Cáp Xích mắc bẫy, sợ Phúc Khang An quở trách, trán nổi gân xanh nét mặt đỏ bừng, nhảy xổ lại. Thư sinh nhân lúc tâm thần lão hoang mang, nghiêng mình né tránh, nắm lấy bả vai phải của lão mượn sức đẩy một cái, cả thân hình to lớn của Cáp Xích bị bắn tung đi.
Thượng Quan Thiết Sinh đang điên cuồng ôm chiếc bàn ngoạm lấy ngoạm để thì người Cáp Xích rơi đánh bình một tiếng, đè lên lưng gã. Thượng Quan Thiết Sinh miệng cứ gào “ô ô”, ôm chặt lấy hai vai Cáp Xích, đưa miệng ngoạm vào cái đầu trọc của lão.
Cáp Xích bị đau vung tay muốn hất ra, không ngờ Thượng Quan Thiết Sinh đang lúc thần trí hồ đồ nên sức lực rất ghê gớm. Tý lực của Cáp Xích tuy mạnh hơn hắn nhiều mà không sao thoát ra được. Lão bị hắn cắn, máu tươi đầm đìa cả đầu. Lão đau quá thét lên ầm ĩ.
Thư sinh cười hô hố reo lên:
– Hay quá! Hay quá!
Gã vừa vỗ tay vừa lùi dần về phía tám chiếc Ngọc Long bôi đặt trên kỷ trà.
Tang Phi Hồng sửng sốt. Cô vốn không quen biết thư sinh, nhưng thấy gã đối với mình rất đỗi thân thiết nên không tự chủ được, liền gật đầu rồi theo gã vọt ra ngoài.
Sáu bảy tên vệ sĩ đứng bên Phúc Khang An lớn tiếng hô:
– Bắt gian tế! Bắt gian tế!
– Chặn lại ngay!
– Phải bắt bọn giặc ăn cắp ngự bôi!
Rồi chúng ùn ùn đuổi theo như ong vỡ tổ.
Quần hùng thấy gã thư sinh trước mặt đám đông mà dám lớn mật lấy ngự bôi đem đi đều không khỏi kinh hãi.
Có người chạy theo bọn vệ sĩ quát tháo:
– Để ngự bôi lại!
– Tên nào dám náo loạn vậy?
– Hắn ở môn phái nào?
Vừa rồi Thường Hách Chí và Thường Bá Chí từ trên nóc nhà nhảy xuống xông vào giải cứu Nghê thị huynh đệ ở Song Tử môn nên bây giờ trong phủ Phúc Khang An tăng cường thêm nhiều vệ sĩ đến canh gác. Bọn chúng nghe trong đại sảnh có tiếng quát tháo ầm ĩ, mấy gã vệ sĩ cạnh cửa liền đóng cửa lại.
An đề đốc hạ lệnh cho mấy chục tên vệ sĩ bao vây gã thư sinh và Tang Phi Hồng.
Gã thư sinh cười nói:
– Kẻ nào dám xông tới là ta đập chén ngọc, coi nó có bể không?
Bọn vệ sĩ không dám mạo muội xông vào, vì sợ gã liều mạng làm càn đập bể ngự bôi, nên chúng chỉ lăm le binh khí vây kín hai người vào giữa tưởng chừng gió cũng không qua lọt.
Tang Phi Hồng đến tham dự đại hội chưởng môn chỉ vì mục đích muốn coi náo nhiệt chứ chẳng có ý gì khác. Đột nhiên cô bị tai bay vạ gió, sắc mặt lợt lạt, tim đập thình thình cơ hồ nhảy ra khỏi lồng ngực.
Hồ Phỉ nhìn Trình Linh Tố thấy cô từ từ lắc đầu. Hai người tuy có hảo cảm với thư sinh, nhưng lúc này gã bị hãm trong trùng vây, nếu mình ra tay tương trợ thì chỉ uổng thêm hai mạng nữa chứ chẳng ích gì. Cục diện này không có cách nào chống chọi được nữa.
Hải Lan Bật rảo bước tiến lại. Lão mà ra tay thì thư sinh và Tang Phi Hồng đều không chống nổi.
Gã thư sinh nâng cao chén ngọc, cười hì hì, nói:
– Tang cô nương! Lần này chúng ta phải thay đổi chủ ý. Nếu cô ném ngọc bôi đi thì không chừng chén chưa chạm đất đã có người nhanh tay lẹ chân đón lấy. Chi bằng thế này, cô hãy nghe tại hạ hô: Một hai ba. Hễ hô đến ba thì bóp bể chén ngọc trong tay nhé.
Tang Phi Hồng không tự chủ được, khẽ gật đầu, nhưng trong bụng tự mắng thầm:
– Tại sao mình không quen biết gã mà việc gì cũng để gã sai khiến?
Hải Lan Bật tiến thêm một bước. Lão chờ sẵn, hễ chén ngọc liệng ra là nhanh tay đoạt lấy. Nhưng bây giờ nghe thư sinh nói câu này lão lập tức dừng bước lại.
Thang Bái cười khanh khách, tiến đến trước mặt thư sinh hỏi:
– Tiểu huynh đệ! Quý tính đại danh là gì? Cuộc đại hội anh hùng thiên hạ bữa nay, tiểu huynh đệ mới lộ diện có một lần mà đã làm chấn động võ lâm, nếu không lưu tên họ thì còn ra thế nào nữa?
Thư sinh cười đáp:
– Tại hạ một là đã chẳng vì danh, hai là cũng không vì lợi, nhưng thấy chiếc chén này đẹp mắt muốn đem về nhà thưởng thức chơi. Xem chán rồi lại đem đến trả.
Tháng Bái cười nói:
– Tiểu huynh đệ! Võ công của tiểu huynh đệ thật là đặc dị, lão ca ca đã cố tâm quan sát cả nửa ngày trời mà vẫn không nhận ra được là võ công môn phái nào. Tôn sư là vị nào vậy? Không chừng hai bên đã có mối giao tình với nhau… Con người trẻ tuổi giở trò đùa giỡn thì có gì đâu mà làm to chuyện. Phúc đại soái có khi nể mặt ca ca, không trách tội tiểu huynh đệ cũng nên. Vậy chúng ta lại nhập tiệc uống rượu quách.
Dứt lời lão quay về bọn vệ sĩ nói:
– Anh em lùi cả lại! Huynh đệ đây là vị hảo bằng hữu muốn đùa chơi một chút. Cứ lao sư động chúng thế này, chẳng phải để mọi người cười chúng ta quá đỗi hẹp hòi ư?
Bọn vệ sĩ nghe lão nói vậy liền lùi lại hai bước.
Thư sinh cười đáp:
– Lão Thang kia! Ta không mắc vào cạm bẫy của kẻ “nam mô một bồ dao găm” như lão đâu. Lão mà tiến lại thêm một bước nữa thì ta bóp nát chén ngọc ngay lập tức. Nếu lão quả thực đại lượng thì ta mượn chén ngọc đem về nhà ngắm nghía ba bữa, rồi ta đưa đến hoàn trả.
Mọi người đều nghĩ thầm:
– Ngươi mà đem chén ngọc ra khỏi cửa, còn biết đi đâu kiếm ngươi?
– Ngươi hẹn ba ngày đem trả ai mà tin được?
Mọi người đưa mục quang nhìn Thang Bái xem lão trả lời ra sao.
Thang Bái cười khanh khách hỏi:
– Cái đó có chi quan hệ? Tiểu huynh đệ! Có điều chiếc chén ngọc trong tay tiểu huynh đệ chưa định rõ danh phận về ai. Lão ca ca nhờ ân điển của Phúc đại soái, được ban thưởng trước một chén ngọc. Cái chén này lão ca ca sẽ cho tiểu huynh đệ mượn. Tiểu huynh đệ muốn thưởng ngoạn đến bao giờ cũng được. Khi nào tiểu huynh đệ chơi chán rồi thì cứ báo tin cho lão ca ca đến lấy về.
Lão nói rồi đến trước kỷ, trước hết lấy một mảnh gấm đoạn phủ lên tay trái, sau đó mới cầm ngọc bôi đặt trên mảnh gấm, trịnh trọng đi tới trước mặt thư sinh nói:
– Tiểu huynh đệ hãy cầm lấy!
Hành động này của lão hoàn toàn nằm ngoài sự tiên liệu của mọi người. Ai cũng tưởng lão nói ngon nói ngọt để thừa cơ đoạt lại ngọc bôi trong tay thư sinh, không ngờ lão lấy ngọc bôi cho mượn thật.
Thư sinh cũng rất đỗi ngạc nhiên, cười đáp:
– Ngoại hiệu của đại hiệp là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh”, quả nhiên khảng khái hơn người. Hai chén ngọc giống hệt nhau, hà tất phải đổi nữa. Ngọc bôi của Tang cô nương đây xem ra cũng là của Hải đại nhân cho mượn. Thang đại hiệp! Nhờ đại hiệp bảo lãnh cho vụ này. Này Hải đại nhân! Xin Hải đại nhân yên tâm. Sau ba bữa mà Tang cô nương không hoàn lại chén ngọc, xin đại nhân cứ hỏi Thang đại hiệp là ra.
Thang Bái cười đáp:
– Được lắm! Cứ đem trách nhiệm đổ lên đầu Thang mỗ, Thang mỗ sẽ hết sức đảm đương. Tang cô nương! Cô nương đừng bảo Thang mỗ làm khó dễ nhé!
Lão nói rồi tiến gần đến Tang Phi Hồng thêm một bước.
Tang Phi Hồng ấp úng:
– Ta… ta…
Cô nghếch mắt nhìn thư sinh không biết đáp thế nào cho phải.
Thang Bái đột nhiên động khuỷu tay đánh vào cổ tay phải của Tang Phi Hồng. Tang Phi Hồng kinh hãi ối lên một biếng, chiếc ngọc bội tuột ra bay tung lên. Giữa lúc ấy Thang Bái tay mặt chụp lại chiếc ngọc bôi để trên tấm gấm đoạn, thì tay trái vung mảnh gấm ra chụp được thiếu niên thư sinh. Ngón tay trỏ bên phải lão cách một mảnh gấm đoạn vẫn điểm trúng ba huyệt “Vân môn”, “Khúc trì” và “Hợp cốc” trên người gã.
Tiếp theo lão vươn tay đón lấy chung ngọc trên không rớt xuống, lại vung chân trái đá ngã Tang Phi Hồng. Tiện đà lão vung đầu ngón chân điểm vào đầu gối cô.
Huyệt “Vân môn” ở bả vai, Khúc trì ở khuỷu tay, “Hợp cốc” ở ngón cái, gã thư sinh bị điểm ba huyệt đạo từ vai đến đầu ngón tay đều tê bại không còn sức, muốn bóp vỡ chén ngọc cũng không được nữa.
Mấy cử động này mau lẹ dị thường như trò ảo thuật. Quần hùng chưa ai kịp nhìn rõ mà Thang Bái đã đánh ngã hai người, tay phải cầm ba chén ngọc bôi đặt lại trên kỷ trà. Đợi đến khi lão cười hì hì ngồi vào ghế thái sư, quần hào mới cất tiếng hoan hô vang dội.
Quách Ngọc Đường sờ hàm râu, ca ngợi không ngớt lời:
– Chỉ trong chớp mắt đã đánh ngã hai người là một việc cực khó. Khó hơn nữa là ba chiếc ngọc bôi lại ở trong tay ba người, chỉ xuất thủ sai một ly thì bất kỳ là ai cũng làm hỏng các chiếc ngọc bôi, khiến cho đại hội kém phần hoàn mỹ. Võ công Thang đại hiệp cao thâm khỏi cần phải nói, về đởm lược của lão nhân gia lại càng đáng phục. Trình lão đệ! Lão đệ nghĩ có đúng không?
Hồ Phỉ gật đầu đáp:
– Thật là hiếm có!
Màn kịch vừa rồi diễn ra chớp nhoáng như sét đánh khiến chàng bất giác phấn khởi hùng tâm, tự nhủ:
– Lão họ Thang quả nhiên tài nghệ bất phàm. Nếu có cơ duyên ta phải cùng lão tỷ đấu một phen.
Chàng lại tự nhủ:
– Gã thiếu niên thư sinh kia và Tang cô nương lỡ tay bị bắt, dù có bảo toàn được tính mạng cũng phải chịu hành hạ khổ sở. Ta phải tìm cách gì cứu họ mới được.
Lúc này bọn vệ sĩ đã lấy dây thừng cột thư sinh và Tang Phi Hồng đẩy đến trước mặt Phúc Khang An để chờ hắn phát lạc.
Phúc Khang An vẫy tay truyền lệnh:
– Hãy để chúng sang một bên rồi từ từ sẽ tra hỏi sau để khỏi cản trở hứng thú của các vị anh hùng. An đề đốc! Đề đốc mời các vị tiếp tục tỉ đấu đi.
An đề đốc dạ một tiếng rồi truyền lệnh cho quần hào tiếp tục tỉ thí.
Hồ Phỉ thấy bọn người này đấu lui đấu tới mà chưa thấy ai là người kiệt xuất.
Chàng mải nghĩ tới hai đứa con của Mã Xuân Hoa không hiểu sao chúng lại bị đoạt về, không rõ Mã Xuân Hoa có gặp nguy nan gì không, nên chẳng còn tâm trí đâu mà xem người ta tỷ thí nữa.
Đã có hơn mười người tỷ đấu qua lại. Bỗng nhiên ngoài cửa có vệ sĩ lớn tiếng hô:
Quần hào nghe nói đều ngạc nhiên. Còn mọi người ở phủ Phúc Khang An thì từ trên xuống dưới đã nghe quen rồi, biết Hoàng thượng chăm lo việc triều chính, dù nửa đêm thánh chỉ cũng ban ra, chẳng có chi là kỳ lạ.
Phúc Khang An sai bày hương án. Hắn quỳ xuống trước thềm đang nhỏ mưa tí tách để tiếp thánh chỉ. Từ An đề đốc trở xuống ai cũng quỳ mọp. Hồ Phỉ trước tình trạng này cũng phải quỳ, nhưng chửi thầm trong bụng.
Bỗng nghe tiếng giày lẹp kẹp, năm người từ ngoài cửa lớn đi vào. Đi trước là một thái giám già. Phúc Khang An nhận ra lão là Lưu Chi Dư, thái giám ở cung Càn Thanh, đi sau là bốn tên túc vệ trong nội cung.
Lưu Chi Dư đến trước cửa sảnh đường chứ không tiến vào. Lão mở thánh chỉ ra tuyên đọc:
– Binh bộ thượng thư Phúc Khang An nghe chỉ! Vừa rồi bắt được đôi gian tặc một nam một nữ. Vậy lập tức đưa vào cung. Khâm thử!
Phúc Khang An liền ngơ ngác tự hỏi:
– Tin tức của Hoàng thượng sao lại mau lẹ đến thế? Ngài đòi đưa hai tên gian tặc vào cung làm gì?
Hắn ngửng đầu ngó thấy đầu mắt lão thái giám có chiều khác lạ liền nghĩ ngay tới ngày thường bọn thái giám truyền chỉ nhất định vào đứng chính giữa đại sảnh, quay mặt ra ngoài về hướng nam để tuyên đọc, đó là thủ tục tuyên chỉ trong triều. Gã Lưu Chi Dư này là một thái giám già đời trong cung quyết không thể vi phạm quy củ này được, như vậy bên trong tất có duyên cớ.
Hắn liền đứng dậy nói:
– Lưu công công! Mời công công vào ngồi dùng trà và coi các vị anh hùng hảo hán phô trương thân thủ.
Lưu Chi Dư vui vẻ đáp:
– Hay lắm! Hay lắm!
Đột nhiên lão chau mày, nói tiếp:
– Đa tạ Phúc đại soái. Lão phu không uống trà được. Hoàng thượng đang chờ hồi báo.
Phúc Khang An nhìn tình cảnh này liền tỉnh ngộ ngay. Hắn biết lão bị bốn tên thị vệ ở phía sau uy hiếp để giả truyền thánh chỉ. Bốn tên vệ sĩ kia nếu không phải bạn đồ thì cũng là người ngoài giả trá.
Hắn thản nhiên như không, mỉm cười hỏi:
– Mấy vị đại ca đi theo công công là ai vậy? Sao trông mặt có vẻ khẩn trương thế?
Lưu Chi Dư cười khổ, ấp úng:
– Cái đó… Cái đó… hà hà! … Họ ở tỉnh ngoài mới đến mà.
Phúc Khang An liền hiểu rõ ngay. Hắn biết bọn túc vệ trong nội cung ngày đêm cận kề hoàng thượng, nếu không phải là người thân quyền quý thì cũng là con em của các vị quan đã nhiều đời lập được công huân chứ bọn học võ từ tỉnh ngoài đến làm sao đảm đương được.
Hắn tự nhủ:
– Bây giờ phải ly khai bốn tên kia ra thì Lưu Thái giám mới khỏi bị chúng uy hiếp.
Hắn liền nói:
– Đã vậy thì bốn vị thị vệ đại ca dẫn tặc nhân đi cho!
Hắn vừa nói vừa trỏ vào thư sinh và Tang Phi Hồng bị trói để một bên.
Một trong bốn thị vệ tiến lại toan dắt tay thư sinh, Phúc Khang An hỏi:
– Hãy khoan! Quý tính của vị thị vệ đại ca này là gì?
Theo thường tình, Phúc Khang An vẫn giữ khách khí với bọn thị vệ, gọi chúng là “Thị vệ đại ca”, nhưng quân hàm thị vệ so với hắn rất thấp kém, tất nhiên phải bước tới thỉnh an.
Tên thị vệ này vẫn không lý gì đến hắn, chỉ đáp:
-Thuộc hạ họ Trương.
Phúc Khang An lại hỏi:
– Trương đại ca vào cung đã bao lâu rồi, sao ta không gặp bao giờ?
Tên thị về kia chưa kịp đáp, thì một tên thị vệ khác dáng người to béo đứng sau Lưu Chi Dư đột nhiên vung tay phải lên, ánh ngân quang lấp loáng, một mũi ám khí bắn tới các chiếc Ngọc Long bôi đặt trên kỷ trà. Món ám khí này bắn đi rất mạnh, tưởng chừng như sắp đánh bể một loạt tám chiếc ngọc bôi đến nơi.
Bọn vệ sĩ quát tháo om sòm. Những tay hảo thủ về ám khí đều đồng loạt phóng ra, nào tụ tiễn, phi tiêu, nào thiết liên tử, thiết lê tật, bảy tám thứ bay nhắm phía chiếc ngân thoa bắn tới. Tên thị vệ to béo lại vung hai tay bắn liền một lúc ra bảy tám món ám khí.
Chỉ nghe những tiếng “keng keng” vang lên không ngớt, đánh rớt tất cả những ám khí của bọn thị vệ xuống đất. Cây ngân thoa phóng ra trước bay tới kỷ trà liền móc lấy một chiếc Ngọc Long bôi. Lạ thay, chiếc ngân thoa đang ở trên không bỗng tự động chuyển hướng, móc được chiếc Ngọc Long bôi rồi lại chênh chếch bay vòng trở về đến tay tên thị vệ to béo.
Quần hào đứng trước tình trạng quái dị này đều sửng sốt.
Hồ Phỉ thấy thần kỹ bắn ám khí của tên thị vệ to béo quá tuyệt diệu cũng không nhịn được, reo lên:
– Triệu tam ca!
Nguyên tên thị vệ to béo đó chính là Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn hóa trang. Còn tên thị vệ đi cứu thư sinh cũng là người trong Hồng hoa hội tên là Thạch Song Anh ở Quỉ Kiến Sầu. Những người này đã chờ ở bên ngoài phủ Phúc Khang An để tiếp ứng.
Họ thấy thư sinh lỡ tay bị bắt, thì gặp lúc thái giám Lưu Chi Dư qua, liền bắt lấy để giả truyền thánh chỉ. Nhưng các hào sĩ giang hồ này không hiểu quy củ ở chốn cung đình, nên vừa vào phủ Phúc Khang An đã bị lòi đuôi.
Triệu Bán Sơn thấy vẻ mặt và lời nói của Phúc Khung An ra chiêu ngờ vực, thì không chờ hắn hạ lệnh bắt người đã hạ thủ trước. Lão ném một mũi “Phi yến ngân thoa” đoạt một chiếc Ngọc Long bôi. Mũi “Phi yến ngân thoa” này lão đã dày công chế tạo theo hình cánh cung, khi ném ra rồi có thể bay quanh trở lại.
Triệu Bán Sơn vừa đoạt được chén ngọc đột nhiên nghe người hô “Triệu tam ca” bằng thanh âm lộ vẻ chân tình chẳng khác người thân. Lão liền giương mắt lên nhìn về phía phát ra thanh âm mà chẳng thấy ai quen thuộc.
Nên biết lão chia tay Hồ Phỉ lâu năm, thân hình diện mạo chàng đã biến đổi rất nhiều. Đừng nói chàng đã hóa trang, dù có để nguyên chân tướng, khi gặp nhau chưa chắc lão đã nhận ra được.
Triệu Bán Sơn đang ở nơi đầm rồng hang cọp, liếc nhìn không thấy người quen, chẳng dám chần chờ nhìn đến lần thứ hai. Lão lại giơ hai tay lên, bỗng nghe những tiếng veo véo không ngớt. Cứ mỗi tiếng véo là một ngọn đèn tắt ngóm. Chỉ trong khoảnh khắc cả đại sảnh tối om như mực.
Bỗng nghe tiếng người hô:
– Phúc Khang An! Coi tiêu đây!
Tiếp theo là hai người rú lên thê thảm, hiển nhiên là đã trúng ám khí.
Lại nghe những tiếng binh khí đụng chạm nhau chan chát. Thì ra có hai tên vệ sĩ chặn bắt Thạch Song Anh.
Triệu Bán Sơn hô lớn:
– Đi thôi! Chớ có ham đánh!
Lão biết mình ở nơi hiểm địa, mà xung quanh cao thủ lại đông như kiến, bắn không trúng đích liền rút đi ngay. Còn việc cứu người rồi sẽ tính sau. Bây giờ nhân lúc đêm tối hỗn loạn dễ thoát thân, để lỡ thời cơ thì chính mình cũng sẽ bị hãm vào vòng nguy hiểm.
Hiện giờ Thạch Song Anh đã bị cao thủ võ sĩ bắt trói, phía sau lại có hai người tấn công đến thì đến mình cũng chưa chắc đã tẩu thoát được, nói chi đến chuyện cứu người?
Ngay từ lúc gã thư sinh bị Thang Bái bắt, Hồ Phỉ đã tính cách giải cứu, nhưng trong đại sảnh cường địch đông quá. Ngay mỗi người trong bốn đại chưởng môn ngồi trên ghế thái sư chàng cũng chưa nắm chắc được phần thắng, nên khi đột nhiên thấy Triệu Bán Sơn phóng ám khí tắt đèn đuốc, chàng không chần chờ gì nữa vọt đến bên thư sinh.
Lúc Thang Bái điểm huyệt gã. Hồ Phỉ đã nhìn rõ lão điểm vào ba huyệt “Vân môn”, “Khúc trì”, “Hợp cốc”. Chàng liền cúi xuống vỗ vào huyệt “Thiên tông” ở sau vai gã, lập tức giải khai được huyệt “Vân môn”. Chàng toan nắm huyệt “Thiên trì” thì đột nhiên cảm thấy một luồng chưởng phong tập kích trên đầu. Chàng liền xoay tay trái lên đánh trả một chưởng. Chàng thấy chưởng phong của đối phương xô tới rất gấp.
Bỗng nghe đánh chát một tiếng khe khẽ, hai chưởng đụng nhau, Hồ Phỉ bị chấn động không tự chủ được, phải lùi lại nửa bước. Chàng kinh hãi nghĩ thầm:
– Chưởng lực người này thật là hùng hậu!
Chàng phải vận toàn lực để chống cự, chỉ cảm thấy nội lực đối phương ào tới liên miên không ngớt. Hồ Phỉ ngấm ngầm kêu khổ:
– Cuộc tỉ thí chưởng lực này không thể trong khoảnh khắc mà phân thắng bại. Lát nữa đèn thắp lên thì mình không dễ gì mà thoát thân được.
Hai tay đấu chưởng, trong lòng xoay chuyển ý nghĩ đều là việc xảy ra trong chớp mắt.
Bỗng nghe thư sinh khẽ nói:
– Đa tạ các hạ đã tương trợ!
Rồi gã nhảy vọt lên. Gã vừa tung người lên, Hồ Phỉ lập tức tỉnh ngộ:
– Ta mới giải huyệt “Vân môn” cho gã, còn hai huyệt “Khúc trì” và “Hợp cốc” té ra được người đối chưởng với ta giải khai. Vậy y là bạn chứ không phải là thù.
Y nghĩ tới điểm này thì đồng thời đối phương cũng nghĩ:
– Ta mới giải huyệt “Khúc trì” và “Hợp cốc”, còn huyệt “Vân môn” chưa giải. Té ra đã được người đối chưởng với ta giải khai rồi. Vậy y là bạn chứ không phải là thù.
Hai bên tâm niệm tương đồng liền thu chưởng lực lại.
Thiếu niên thư sinh cúi xuống cắp Tang Phi Hồng vừa rảo bước chạy đi vừa hô lớn:
– Phúc Khang An bị ta giết rồi! Xin các vị hảo hán phái Thiếu Lâm đánh mặt đông, hảo hán Võ Đương đánh mặt tây! Chúng ta hãy ra tay hạ sát, hạ sát!
Trong bóng tối, chỉ nghe tiếng khí giới vang lên. Hỗn loạn khiến trong lòng ai nấy cũng hoang mang. Bọn thị vệ nghe Phúc Khang An bị hại đều sợ toát mồ hôi.
Lại nghe người hô “Hảo hản Thiếu Lâm đánh mặt đông, hảo hán Võ Đương đánh mặt tây” thì càng kinh hãi hơn, nghĩ rằng hai phái lớn này người đông, chẳng lẽ họ phản loạn cả rồi?
Bỗng nghe thanh âm của Chu Thiết Tiêu hô lớn:
– Phúc đại soái vẫn bình yên, đừng mắc lừa bọn tặc tử.
Khi bọn vệ sĩ thắp đèn lửa lên thì bọn Triệu Bán Sơn, Thạch Song Anh, thiếu niên thư sinh và Tang Phi Hồng đều không thấy đâu nữa.
Phúc Khang An vẫn ngồi trên ghế. Thang Bái và Hải Lan Bật đứng chắn ở phía trước hắn. Có hơn sáu chục tên vệ sĩ đứng dày đặc chung quanh như một bức tường người để bảo vệ hắn. Với cách phòng vệ nghiêm mật như thế này thì dù có hàng trăm hàng ngàn cao thủ đồng thời tập kích cũng chưa chắc đụng tới nửa sợi chân lông của hắn trong khoảnh khắc, chứ nói chi tới dăm ba tên thích khách lẻ tẻ? Cũng nhờ tất cả bọn vệ sĩ thủ hạ của hắn chỉ lo bảo vệ đại soái nên bọn Triệu Bán Sơn mới nhân đêm tối mà tẩu thoát. Nếu không thì bọn họ dù có võ công cao cường đến mấy cũng không dễ gì rút lui một cách bình yên được.
Mọi người thấy Phúc Khang An mỉm cười, thần sắc trấn tĩnh, cảnh ồn ào trong sảnh lập tức lắng dịu trở lại. Họ lại thấy chưởng môn phái Thiếu Lâm là Đại Trí Thiền sư và chưởng môn phái Võ Đương là Vô Thanh Tử vẫn ngồi yên trên ghế, mới biết gã thư sinh hô hoán chẳng qua là để rối loạn nhân tâm.
Phúc Khang An cười nói:
– Bọn tặc tử hô ngôn loạn ngữ, thiền sư và đạo trưởng bất tất phải để lòng.
An đề đốc tiến lại trước mặt Phúc Khang An nói:
– Ty chức bất tài để tặc tử trốn mất, xin đại soái giáng tội.
Phúc Khang An xua tay, cười đáp:
– Vụ này đều do ta mà ra, chứ nào phải vì các vị kém bản lĩnh. Ai nấy đều hết sức bảo vệ ta mà không lý gì đến bọn tiểu tặc.
Trong lòng hắn hết sức thỏa mãn, vì bọn vệ sĩ đều làm tròn trách nhiệm, ai nấy đều coi hắn làm trọng mà ra sức bảo vệ.
Phúc Khang An lại nói:
– Mấy tên tiểu mao tặc quấy rối một phen thì phỏng có chi đáng kể. Còn hai chiếc Ngọc Long bôi bị cướp đi thì, hừm, cứ để vị chưởng môn của phái nào đó sau này sẽ đoạt lại, đồng thời bắt cả hai tên tiểu tặc kia, chiếc Ngọc Long bôi sẽ thuộc quyền sở hữu của vị đó. Vụ này vừa đấu lực vừa đấu trí, so với cuộc tỷ võ ở đây, chẳng thú vị hơn ư?
Quần hào đều lớn tiếng hoan hô, ca ngợi cách an bài tuyệt diệu của Phúc đại soái.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nhau, trong lòng không khỏi bội phục Phúc Khang An giỏi tài ứng biến, đã chế lấp được cái xấu về việc để mất ngự bôi, mà còn gây mối họa tâm phúc cho Hồng Hoa hội. Trong võ lâm thiếu gì người háo danh sẽ nghĩ ra trăm phương nghìn kế để đoạt lại Ngọc long bôi. Bất luận thành công hay không, vụ này cũng gây thêm cho Hồng Hoa hội không ít cường địch.
Phúc Khang An nhìn An đề đốc nói:
– Mời các vị tiếp tục tỷ thí đi!
An đề đốc khom lưng “dạ” một tiếng, rồi quay ra dõng dạc tuyên bố:
– Phúc đại soái có lệnh, mời các vị anh hùng thiên hạ tiếp tục cuộc tỉ thí tài nghệ để xem ba chiếc ngự bôi còn lại thuộc về tay ai?
Lão đã nói “Phúc đại soái có lệnh” nhưng lại dùng thêm chữ “mời” để tỏ vẻ tôn trọng quần hào, dùng lễ chủ khách mà tiếp đãi
Phúc Khang An dặn dò:
– Dẹp bớt một chiếc ghế đi.
Một tên vệ sĩ tiến lên dẹp một cái ghế thái sư để trống. Giữa đại sảnh bây giờ còn lại ba cái ghế trống. Đến lúc này mọi người mới phát giác chưởng môn phái Côn Luân đao là Tây Linh đạo trưởng đã bỏ ghế ngồi không biết đi từ lúc nào. Ai cũng nghĩ lão thấy võ công của các nhà các phái đều cao hơn mình quá nhiều. Để bị đẩy xuống khỏi ghế, sao bằng nhường chỗ trước bỏ đi để khỏi phải phơi bày cái kém cỏi của mình ra.
Lúc này Hồ Phỉ trăm mối ngổn ngang, trong lòng ngờ vực tự hỏi: Hai đứa con song sinh của Phúc Khang An sao lại bị hắn đoạt trở lại? Mình mạo xưng chưởng môn Hoa Quyền môn đã bị hắn phát giác chưa? Đối phương cứ từ từ chưa phanh phui ra, phải chăng là đã ngấm ngầm bố trí cạm bẫy cực kỳ lợi hại? Ta vừa giải huyệt cho thư sinh đã chạm chưởng lực của một người trong bóng tối. Nội lực của người đó hùng hậu không phải tầm thường mà cũng trợ giúp thư sinh, dĩ nhiên là một trong đám quần hào tại đại sảnh, nhưng không hiểu y là ai?
Chàng biết rõ mình còn ở trong Phúc phủ lúc nào là tăng thêm phần hung hiểm lúc ấy, nhưng một là trong lòng còn nhiều mối hoài nghi chưa giải thích được, hai là Phụng Thiên Nam cũng ở đây, khó khăn lắm mới tìm dược hắn, không lẽ lại để hắn đào tẩu? Ba là chàng muốn coi ba chiếc Ngọc Long bôi còn lại sẽ về tay chưởng môn phái nào.
Thực ra đây chỉ là những nguyên nhân nghĩ trong đầu, còn nguyên nhân chính chàng chỉ ngấm ngầm nhắc nhở trong lòng: đó là Viên Tử Y thế nào cũng đến dự hội. Chàng biết nàng sẽ tới nên không chịu bỏ đi. Dẫu có nguy hiểm tày trời cũng không làm chàng sợ hãi.
Lúc này trong đại sảnh có hai cặp tỷ võ. Bốn người đều sử binh khí. Hồ Phỉ vừa liếc qua đã biết bốn người này bản lãnh cao hơn những người đấu trước.
Chẳng bao lâu người sử Tam tiết côn bị thua lui xuống, lại có người khác sử Lưu tinh chùy bước ra. Tên võ quan báo danh lão là Lưu tinh hãn nguyệt Đồng Hoài Đạo ở phủ Thái Nguyên.
Hồ Phỉ nghĩ tới mấy tháng trước cùng Chung thị Tam hùng giao đấu đã nghe bọn họ nhắc tới tên của Lưu tinh hãn nguyệt Đồng lão sư. Bản lĩnh song chùy của Đồng Hoài Đạo quả nhiên cực kỳ thâm hậu. Chỉ hơn mười hiệp, lão đã đánh bại đối thủ. Tiếp theo hai người nữa tiến ra cũng không phải đối thủ của lão.
Các bậc cao thủ so tài, nếu không tỷ đấu bằng nội lực, chỉ cần chiết giải vài chiêu thì đã phân thắng bại. Tỷ đấu bằng binh khí thì việc thương vong so với tỷ đấu bằng quyền cước còn hung hiểm hơn nhiều.
Hai bên tỷ thí đã không có thâm cừu đại oán gì, phần lớn chỉ được nghe danh chứ không quen biết, nên ai thấy bản lãnh mình đã phân cao thấp hay kém một chút là rút lui ngay, chứ chẳng ai mạo hiểm đem tính mệnh ra để quyết sống mái ăn thua.
Trong mắt của Phúc Khang An, những tay võ học mèo quào cứ sợ bị tổn thương nên chỉ đánh mấy hiệp đã rút lui, xem không hứng thú bằng những tay đánh ác liệt như bọn Hoàng Hy Tiết, Tang Phi Hồng, Âu Dương Công Chính, Cáp Xích hòa thượng.
Những người võ công cao minh thấy rõ ràng các kẻ tỷ đấu càng về sau bản lĩnh càng cao cường, muốn thủ thắng không phải là chuyện dễ dàng. Không ít những vị chưởng môn ban đầu cũng muốn nhảy ra tỷ đấu, đến lúc này đều thay đổi chủ ý, quyết định tụ thủ bàng quan.
Lắm lúc hai người tỷ đấu xem ra quá tầm thường, chẳng có chi hay ho nhưng những tay cao thủ như Thang Bái, Hải Lan Bật cũng hoan hô, khiến bọn hậu bối không hiểu lý lẽ nếu chẳng trợn mắt há miệng thì cũng đứng ngây người như khúc gỗ, rồi hùa theo lên tiếng phụ họa, ra điều ta đây biết thưởng thức.
Tuy những người ra tỷ đấu đã hết sức cẩn thận, nhưng vào đấu trường rồi thì ai cũng mong thủ thắng mà khí giới lại không có mắt, cho nên có ba vị chưởng môn chết ngay đương trường, bảy người bị trọng thương.
Chỉ vì Phúc Khang An uy thế khiếp người, nên bọn đệ tử của những người bị tử thương nhất thời chưa dám phát tác. Nhưng những mối oan oan tương báo gây ra bao cuộc gió tanh mưa máu trong võ lâm về sau đều bắt nguồn từ bữa hôm nay.
Ba triều đại Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính đời nhà Thanh liên tiếp nổ ra những cuộc khởi nghĩa phản Thanh, hơn trăm năm không thể bình định hết được. Nhưng đến trung diệp đời Càn Long về sau mới rộ lên phong trào nhân sĩ võ lâm tự tàn sát lẫn nhau, không nghĩ đến chuyện phản Thanh nữa, Thanh triều mới khỏi mối lo này. Vụ này tuy có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính nảy mầm từ đại hội các chưởng môn nhân này.
Về sau trong võ lâm cũng có kẻ sĩ giàu kiến thức ra sức điều giải những mối hiềm khích, mà cũng không sao dập tắt hết được những mối thù oán giữa các môn phái. Những người không hiểu âm mưu sâu xa của Phục Khang An đều cho rằng vận khí nhà Mãn Thanh đang thịnh, khiến anh hùng thảo mãng tàn sát lẫn nhau, đó là ý trời muốn vậy.
Lưu tinh hãn nguyệt Đồng Hoài Đạo sử cặp lưu tinh chùy không đầy nửa giờ đã đả bại liên tiếp cao thủ chưởng môn của năm phái. Những chưởng môn của phái khác đâm sợ cặp chùy tấn công linh hoạt của lão nên không ai dám khiêu chiến nữa.
Giữa lúc ấy ngoài sảnh đường có một tên võ quan ngũ phẩm hấp tấp chạy vào, đến trước mặt Phúc Khang An khẽ bẩm báo mấy câu.
Phúc Khang An gật đầu. Tên võ quan kia liền ra cửa đại sảnh, hô lớn:
– Phúc đại soái mời Điền lão sư, chưởng môn phái Bắc Tông ở Thiên Long môn vào yết kiến.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nhau, lòng hơi chấn động, thầm nhủ:
– Hắn cũng đến rồi!
Lát sau Điền Quy Nông mình khoác trường bào, miệng mỉm cười thong thả tiến vào. Theo sau hắn có tám người cao có, lùn có. Hắn tới trước mặt Phúc Khang An khom lưng thỉnh an.
– Võ công Thiên Long môn lừng danh thiên hạ hằng trăm năm. Từ cuối đời nhà Minh đến giờ, bốn nhà Hồ, Miêu, Phạm, Điền cùng nổi tiếng ngang nhau, thời nào cũng đều có những tay cao thủ. Tên họ Điền này khí phách không phải tầm thường. Phúc đại soái đối với hắn có phần trân trọng khác hẳn những môn phái khác. Không hiểu hắn thực có tài kinh nhân hay không?
Mỗi phái đều chỉ có bốn người tham gia đại hội mà Điền Quy Nông lại đem theo tám tên tùy tùng, huống chi hắn còn khệnh khạng đến muộn.
Quần hào tuy bị chấn động bởi oai danh của hắn, nhưng trong lòng đều có ý bất bình.
Điền Quy Nông nhìn chưởng môn hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương gật đầu thi lễ, xem chừng không quen thuộc lắm, nhưng đối với Cam Lâm Huệ thất tỉnh Thang Bái, hắn tỏ vẻ cực kỳ thân thiện.
Thang Bái vỗ vai hắn, cười nói:
– Hiền đệ! Ca ca đây vẫn nhớ hiền đệ, nghĩ mãi không hiểu vì lẽ gì mãi đến giờ vẫn chưa thấy tới? Giả tỷ hiền đệ đến chậm không lấy được Ngọc Long bôi, thì một mình ta đem Ngọc Long bôi về sao tiện? Thiên Long môn của hiền đệ mà không được Ngọc bôi tất có một ngày kia, hiền đệ cao hứng tìm đến ta để tỷ đấu. Khi ấy ta chỉ còn nước hai tay dâng chén ngọc chứ còn nói gì được nữa, há chẳng hỏng việc ư?
Lão nói rồi thuật lại chuyện Phúc đại soái tổ chức tỷ võ để lấy ngự bôi cho hắn hay.
Điền Quy Nông cười nói:
– Tiểu đệ sao dám tỷ thí với đại ca? Thiên Long môn của tiểu đệ nếu được Phúc đại soái gia ân, lại thêm đại ca chiếu cố cho, để phô phang cái mặt xấu xa trước anh hùng trong thiên hạ là cũng đã quá lòng mong ước rồi.
Hắn nói rồi cả hai cùng cười rộ lên. Tuy lời nói có vẻ khiêm nhượng, nhưng xem thái độ thì hắn hiển nhiên xem Ngọc Long bôi đã là vật trong túi của mình rồi.
Thang Bái tỏ ra rất thân thiện với mọi người, nhưng thái độ đối với Điền Quy Nông khác hẳn. Nghe cách hai người xưng hô thì tựa hồ như họ đã kết nghĩa đệ huynh.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Tên họ Điền kia đã giao thủ với ta. Võ công hắn tuy cao hơn bọn người ở đây, nhưng chưa chắc đã bằng Thang Bái và Hải Lan Bật. Nếu bảo hắn nhất định đoạt được Ngọc Long bôi thì không khỏi xem thường anh hùng trong thiên hạ.
Chàng nhớ tới hành động đê hèn ám toán Miêu Nhân Phụng của hắn liền định bụng:
– Hắn không đoạt được Ngọc Long bôi thì chẳng nói làm chi, bằng chẳng may hắn đoạt được thì ta phải làm cho hắn mất mặt trước quần hùng.
Chàng đã giao thủ với Điền Quy Nông ở nhà Miêu Nhân Phụng, dùng đao pháp tổ truyền đánh hắn miệng hộc máu tươi phải chịu thua mà chạy, chưa kể ngày ấy chàng chưa được Miêu Nhân Phùng chỉ điểm, chưa lĩnh hội được những yếu quyết tinh diệu trong “Hồ gia đao pháp”, giờ đây nếu chỉ luận về đao pháp thì thiên hạ cơ hồ không ai thắng được chàng. Ngày đến hạng nhất lưu cao thủ như Miêu Nhân Phụng hay Triệu Bán Sơn cũng chẳng hơn chàng được, dĩ nhiên Điền Quy Nông khó lòng địch nổi.
Lúc Điền Quy Nông bước vào, cuộc tỷ thí trong sảnh đường dừng lại một lúc, bây giờ tiếng khí giới lại chạm nhau chan chát.
Điền Quy Nông ngồi trên ghế, tay cầm chung rượu, vẻ mặt rất ung dung nhàn nhã. Mắt hắn nhìn kẻ thắng, người bại chỉ mỉm cười, chẳng để vào lòng. Có lúc hắn trò chuyện phiếm mấy câu với Thang Bái.
Quần hùng đã nhận ra thái độ của hắn làm ra vẻ như mình là cao nhân bậc nhất không thèm tranh thắng với mọi người, những thực ra hắn muốn “dĩ dật, đãi lao”, dùng nhàn đánh mệt. Hắn định chờ đến lúc tối hậu, quần hào sức cùng lực kiệt, mới thi triển toàn lực đánh một đòn.
Lưu tinh hãn nguyệt Đồng Hoài Đạo ngồi trên ghế thái sư chờ lâu không thấy ai đến khiêu chiến, đột nhiên đứng dậy đi tới trước mặt Điền Quy Nông nói:
– Điền lão sư! Đồng mỗ muốn lãnh giáo những cao chiêu của lão sư!
Mọi người đều ngạc nhiên, vì từ lúc khai diễn cuộc đấu thì toàn những nhân vật thắng trận ngồi trên ghế để người khác đến khiêu chiến, ai ngờ Đồng Hoài Đạo lại bỏ chỗ ngồi để thách đấu với Điền Quy Nông.
Điền Quy Nông cười đáp:
– Sao mà vội thế?
Tay hắn vẫn cầm chung rượu.
Đồng Hoài Đạo hỏi:
– Chẳng sớm thì muộn chúng ta cũng tỷ đấu một phen. Đồng mỗ muốn thừa lúc còn có khí lực để lãnh giáo Điền lão sư, chứ không muốn lão sư dưỡng tinh súc nhuệ để đến lúc sau cùng mới ra tay chiếm tiện nghi.
Nguyên Đồng Hoài Đạo là một người thẳng thắn mau miệng, nghĩ sao nói vậy chẳng úy kỵ gì. Trong quần hào có hơn hai mươi người lớn tiếng hoan hô. Bọn này thấy họ Điền làm bộ làm tịch đã cảm thấy bực mình.
Điền Quy Nông thấy khó lòng chối từ chối liền cười khanh khách, nhìn Thang Bái nói:
– Đại ca! Tiểu đệ xin phô trương cái dở ra vậy.
Thang Bái đáp:
– Chúc mừng hiền đệ mã đáo thành công!
Đồng Hoài Đạo quay lại tròn mắt nhìn Thang Bái, cất giọng ồm ồm nói:
– Thang lão sư! Phúc đại soái đặt lão sư vào địa vị một người trong bốn đại chưởng môn. Xin lão sư giữ gìn công đạo cho. Chỉ một chữ “công” thôi e rằng cũng không khỏi có chỗ sai lệch.
Thang Bái bị lão đập thẳng một câu, không khỏi ngượng ngùng, Lão cười gượng, hỏi lại:
– Tại hạ bất công ở chỗ nào, xin Đồng lão sư chỉ giáo.
Đồng Hoài Đạo đáp:
– Đồng mỗ chưa tỷ đấu với Điền lão sư mà lại có lòng thiên vị nói nào là “Chúc mừng hiền đệ mã đáo thành công”. Các anh hùng thiên hạ ở đây đều nghe rõ cả.
Thang Bái trong lòng phẫn nộ. Hai ba chục năm gần đây, bất kỳ ai gặp lão cũng một điều “Thang đại hiệp”, hai điều “Thang đại hiệp”, chưa một ai dám ăn nói bốp chát như vậy. Huống chi ở giữa đám đông quần hào, Đồng Hoài Đạo lại ngang nhiên chỉ trích lão. Nhưng lão là người dày công hàm dưỡng, nên vẫn mỉm cười đáp:
– Thang mỗ cũng xin chúc cho Đồng lão sư kỳ khai đắc thắng!
Đồng Hoài Đạo sửng sốt nghĩ bụng:
– Hai người tỷ đấu, lão chúc một người “kỳ khai đắc thắng”, một kẻ “mã đáo thành công”, trong thiên hạ làm gì có cái lý ấy?
Nhưng lão cũng không biện bác gì nữa, chỉ nói một câu:
– Đại ca cứ yên tâm, loại người lỗ mãng vô lễ thế này tiểu đệ nhất định sẽ cho hắn một bài học.
Hắn từ từ bước vào giữa sảnh đường, nói:
– Mời Đồng lão sư tiến lên!
Đồng Hoài Đạo thấy hắn chưa cởi trường bào, trong tay lại không có khí giới gì lại càng thêm tức tối, đáp:
– Điền lão sư muốn dùng tay không để đón tiếp cặp Lưu tinh chùy của Đồng mỗ chăng?
Điền Quy Nông tâm kế sâu xa, hành động thận trọng. Hắn tính thầm nếu trong vòng đôi ba chiêu mà đánh ngã được Đồng Hoài Đạo, đại hiển oai phong trước mặt quần hùng thì điều đó quả là tuyệt diệu. Nhưng hắn thấy Đồng Hoài Đạo thân thể to lớn, da thịt rắn như sắt, chẳng phải hạng người dễ ăn, liền cười nói:
– Đồng lão sư nổi danh khắp vùng Thiểm Tây, hảo hán trên giang hồ ai mà không biết tuyệt kỹ “Lưu tinh hãn nguyệt”. Tại hạ có sử dụng binh khí đi nữa cũng vị tất là đối thủ của lão sư.
Điền Quy Nông đưa tay phải lên vẫy một cái, đại đệ tử của hắn là Tào Vân Kỳ hai tay cầm thanh bảo kiếm dâng lên.
Đồng Hoài Đạo thấy hắn chưa rút kiếm ra khỏi vỏ, bụng bảo dạ:
– Ngươi đã cầm binh khí trong tay thì muốn lúc nào rút kiếm là việc của ngươi.
Tay lão cầm quãng giữa sợi dây xích sắt giật mạnh xuống, cặp lưu tinh chùy lập tức tung thẳng lên như hai cây thiết bổng.
Quần hào đồng thanh khen ngợi:
– Hảo công phu!
Tiếng reo chưa dứt, chùy bên trái của lão vẫn dựng lên không mà chùy bên phải đã đánh vào trước ngực đối phương. Nhưng quả chùy này còn cách ngực Điền Quy Nông nửa thước thì đột nhiên dừng lại. Quả chùy bên trái từ phía sau đánh thẳng vào bụng Điền Quy Nông mau lẹ dị thường.
Quả chùy trước chỉ là hư chiêu để dụ địch. Quả chùy sau mới dùng toàn lực để đánh. Vừa mới xuất thủ mà lão đã dùng ngay tuyệt kỹ “Lưu tinh hãn nguyệt” để tấn công.
Điền Quy Nông trong lòng cũng hơi kinh hãi lùi lại một bước, vung trường kiếm để nguyên cả vỏ đâm tới.
Đồng Hoài Đạo cả giận, nghĩ thầm:
– Hắn không rút kiếm ra, rõ ràng không coi ta vào đâu.
Lão liền tăng gia kình lực, vung cặp thiết chùy thành một vòng hắc quang. Song chùy của lão một nhanh, một chậm, một hư một thực, nhưng nhanh mà không hẳn nhanh, chậm cũng không hẳn chậm, cứ hư hư thực thực biến hóa vô cùng.
Điền Quy Nông thủy chung vẫn không rút kiếm ra khỏi vỏ, sử dụng toàn “Thiên Long kiếm pháp” để đối phó.
Hai người chiết giải ngoài ba chục chiêu, Điền Quy Nông đã hiểu rõ lộ số của đối phương. Đột nhiên hắn hươi trường kiếm điểm lẹ vào huyệt “Khúc tuyền” trên đầu gối bên trái của Đồng Hoài Đạo. Chiêu này không phải là chiêu số về kiếm pháp. Hắn đã biến trường kiếm lẫn vỏ thành phán quan bút. Đồng Hoài Đạo cả kinh, lùi lại hai bước.
Điền Quy Nông quét ngang trường kiếm đánh vào đùi lão. Chiêu này hắn lại biến vỏ kiếm thành thiết giản để ra chiêu “Liễu lâm hoán giản” trong giản pháp. Trong vòng hai chiêu hắn biến từ kiếm pháp qua bút pháp, lại từ bút pháp qua giản pháp.
Đồng Hoài Đạo trong lòng hoang mang, lão cuốn Lưu tinh chùy bên tay trái lại rồi đẩy mạnh ra. Trái thiết chùy nhắm vào huyệt “Mi tâm” của Điền Quy Nông bắn tới.
Lão sử chiêu này là phép đánh “lưỡng bại câu thương”. Lão để đùi bên trái hứng chịu vỏ kiếm đâm vào và mong thiết chùy cũng đập trúng hắn.
Điền Quy Nông chẳng ngờ đối phương không né tránh mà lại tấn công. Vỏ kiếm của hắn còn cách đùi đối thủ chỉ mấy tấc, mà hắn đã nghe kình phong quạt vào mặt do trái thiết chùy bay tới. Nếu cả hai cùng bị trúng đòn thì đối phương cùng lắm chỉ phế bỏ một chân, con hắn sẽ gặp cái họa bị chùy đập nát đầu. Trong lúc hoang mang, hắn xoay chuyển trường kiếm gạt dây chùy, chuyển công thành thủ và rơi vào thế hạ phong.
Đồng Hoài Đạo thu lưu tinh chùy về, dây xích đã cuốn lấy thanh trường kiếm giật mạnh một cái, đồng thời chùy bên phải quét ngang đánh tới. Trước mắt, Điền Quy Nông bị kiếm chế binh khí, dẫu có thoát chết thì cũng tuột mất trường kiếm.
Bỗng nghe đánh “soạt” một tiếng, ánh thanh quang lấp loáng. Trường kiếm đã rút ra khỏi vỏ. Mũi kiếm rung lên đâm trúng vào cổ tay phải của Đồng Hoài Đạo.
Thì ra sợi dây xích buộc chùy của lão quấn được trường kiếm kéo mạnh một cái làm tuột vỏ kiếm ra. Điền Quy Nông thừa cơ phóng kiếm đả thương địch thủ. Tiếp theo hắn sấn tới hai bước, phóng tay cái điểm liền vào ba huyệt đạo trước ngực đối phương.
Đồng Hoài Đạo toàn thân tê dại. Hai trái lưu tinh chùy rơi xuống đánh bể gạch dưới đất, làm bay mảnh tứ tung.
Điền Qui Nông tra kiếm vào vỏ, cười hì hì, nói:
– Cảm ơn các hạ đã nhân nhượng!
Rồi bước đến ngồi vào cỗ ghế thái sư mà Đồng Hoài Đạo vừa ngồi.
Tuy hắn đắc thắng nhưng quần hào đều cảm thấy hắn gặp may, lại có thêm chút trá ngụy chứ không phải thủ thắng bằng bản lĩnh chân thực. Vì thế trừ bọn Thang Bái mấy người nổi tiếng hoan hô, còn ngoài ra không ai khen ngợi gì.
Đồng Hoài Đạo bị điểm huyệt rồi toàn thân bất động, vẫn đứng yên theo tư thế vung chùy đánh người, mắt trừng giận giữ, bộ dạng trông rất tức cười.
Điền Quy Nông không giải huyệt cho lão, cứ ngồi trên ghế thái sư cười đùa với Thang Bái, để mặc Đồng Hoài Đạo giữ nguyên bộ dạng khó coi. Hắn lờ đi làm như không thấy.
Trong đại sảnh chẳng thiếu gì những đại hành gia chuyên nghề điểm huyệt, trong lòng đều có ý bất nhẫn, những ai cũng hiểu nếu đến giải huyệt Đồng Hoài Đạo tất làm mất lòng Thang Bái và Điền Quy Nông. Điền Quy Nông thì cũng chẳng có gì đáng kể, song Cam Lâm Huệ thất tỉnh Thang Bái oai danh lại quá lớn, mà các danh gia điểm huyệt thì mười phần hết chín đều là những bậc lão thành thận trọng, nên không muốn đắc tội với Thang Bái.
Có điều ai nấy ngó thấy Đồng Hoài Đạo dương cặp mắt tức giận đứng ngây người ra đó cũng lấy làm khó chịu.
Đột nhiên một đại hán ở bàn tiệc phía tây, tay kéo loạt soạt một cây côn sắt thô vừa dài, rảo bước đến trước mặt Điền Quy Nông, lớn tiếng quát:
– Họ Điền kia! Sao không giải khai huyệt đạo cho người ta đi, còn để lão đứng trơ ra đó làm chi?
Điền Quy Nông mỉm cười hỏi:
– Các hạ là ai?
Đại hán đáp:
– Ta là Lý Đình Báo. Người đã nghe tiếng bao giờ chưa?
Đại hán báo danh mà tiếng như tiếng sấm, làm tai mọi người đều chấn động kêu o o.
Quần hào nghe tiếng Lý Đình Báo đều không khỏi ngạc nhiên. Nguyên Lý Đình Báo là đại đệ tử của chưởng môn phái Ngũ Đài, đã mở tiêu cục ở phủ Diên An tỉnh Thiểm Tây. Y nổi tiếng thiên hạ về “Ngũ Long côn pháp”. Ngũ Long tiêu cục của y oai danh khá lớn tại bảy tỉnh miền bắc. Quần hào tưởng y đã xuất thân từ tiêu cục thì dĩ nhiên là người tinh minh mẫn cán, từng trải sự đời, không ngờ y lại hành động chẳng khác một kẻ mãng phu.
Điền Quy Nông vẫn ngồi trên ghế thái sư không đứng đậy, cũng chẳng nghiêng mình. Danh tự Lý Đình Báo ở phái Ngũ Đài dĩ nhiên hắn đã nghe qua, nhưng hắn lại giả bộ ngạc nhiên, lắc đầu đáp:
– Tại hạ chưa từng nghe nói đến. Các hạ ở môn phái nào?
Lý Đình Báo cả giận quát:
– Phái Ngũ Đài, ngươi đã nghe tới chưa?
Điền Quy Nông vẫn lắc đầu. Vẻ mặt hắn vừa ra chiều ân hận lại tỏ vẻ hoảng sợ, cất tiếng hỏi:
– Phái “Ngũ Đài” ư? Chứ không phải “Thất Đài”, “Bát Đài” à?
Hắn nói đến chữ “Bát Đài” là có ý dựa theo âm “Bát đản” trong “Vương bát đản”. Người ta thường dùng thành ngữ “Vương bát đản” để thóa mạ như “Quân khốn kiếp!”, “Đồ chó đẻ!”. Bọn tuổi trẻ trong sảnh đường không nhịn được đều phá lên cười.
May mà Lý Đình Báo không phát giác. Y nói:
– Là phái Ngũ Đài! Người ta cũng là một môn phái trong võ lâm, ngươi giải huyệt cho Đồng lão sư mau đi!
Điền Quy Nông hỏi:
– Các hạ là hảo bằng hữu với Đồng lão sư sao?
Lý Đình Báo đáp:
– Không phải! Ta với lão chưa từng quen biết, nhưng ngươi hý lộng người ta như thế thật chẳng ra thể thống gì. Ta thấy chẳng thuận mắt chút nào.
Điền Quy Nông chau mày nói:
– Tại hạ chỉ biết điểm huyệt. Ngày trước sư phụ Điền mỗ không dạy cách giải huyệt.
Lý Đình Báo đáp:
– Ta không tin!
Bọn Phúc Khang An, đề đốc nghe hai người đối đáp rất lấy làm thú vị. Chúng biết Điền Quy Nông muốn trêu cợt con người chất phác này. Những viên đại quan này coi cuộc tỷ võ làm vui cũng như coi tuồng hát hay làm xiếc. Chúng thấy sau một loạt các cuộc tỷ đấu kịch liệt lại có vai hề phụ xen vào làm trò lại càng tăng thêm hứng thú.
Điền Quy Nông liếc mắt thấy Phúc Khang An cười hì hì, vẻ mặt ra chiều thích thú liền nói:
– Bây giờ làm thế này! Các hạ cứ đá mạnh một cước vào khuỷu chân y là giải khai được huyệt đạo.
Lý Đình Báo hỏi:
– Có thật không?
Điền Quy Nông đáp:
– Ngày trước sư phụ dạy tại hạ như vậy, có điều tại hạ chưa từng thử qua
Lý Đình Báo liền giơ chân phải lên đá vào khuỷu chân Đồng Hoài Đạo. Phát đá này, lực đạo không mạnh nhưng Đồng Hoài Đạo cũng ngã lăn đi mấy vòng mà tư thế chân tay vẫn không mảy may biến đổi, chỉ chuyển từ tư thế thẳng đứng sang tư thế nằm kềnh trên mặt đất. Thế là Lý Đình Báo mắc bẫy, muốn cứu người lại thành đá ngã người.
Phúc Khang An nổi lên cười ha hả, bọn quý quan cũng cười rộ theo. Trong quần hào có mấy người muốn chỉ trích Điền Quy Nông, nhưng thấy Phúc Khang An vui cười nên không dám lên tiếng.
Tiếng cười chưa dứt, bỗng vèo vèo ba tiếng vang lên, ba chung rượu bay lên không. Mọi người nhất tề ngửng đầu lên nhìn, thấy ba chung rượu chạm vào nhau “bốp bốp” hai tiếng liền vỡ tan tành.
Mục quang mọi người nhìn theo những mảnh chung rớt xuống thì thấy Đồng Hoài Đạo đã đứng dậy rồi. Tay cầm một cái chung, lão nói:
– Vị anh hùng nào ngầm tương trợ, Đồng mỗ suốt đời không quên ơn đức.
Lão nói rồi bỏ chung rượu vào bọc, hằn học nhìn Điền Quy Nông rồi chạy thẳng ra khỏi sảnh đường.
Thì ra có người nào đó ném chung rượu lên không cho chạm nhau là để quần hào tập trung chú ý. Khi mọi người đang chăm chú nhìn ba chung rượu đụng nhau trên không, y lại ném một chung nữa ra đánh vào huyệt “Cân Xúc” sau lưng Đồng Hoài Đạo để giải huyệt cho lão.
Diễn biến che mắt được hết mọi cao thủ trong sảnh đường. Mọi người đều biết đó là công phu cực kỳ cao minh, nhưng không biết ai là người xuất thủ.
Thang Bái liền lấy hai chung rót đầy rượu, cầm đến trước bàn Hồ Phỉ, nói:
– Huynh đài đây lạ mặt quá nhỉ. Xin cho biết tôn tính đại đanh! Công phu ném chung giải huyệt của các hạ khiến tại hạ vô cùng khâm phục.
Hồ Phỉ vừa rồi nghĩ tới Đồng Hoài Đạo là bạn hữu của Chung thị tam hùng, lại thấy Điền Quy Nông làm nhục người thái quá bèn động lòng nghĩa hiệp nên dù biết mình đang ở nơi hiểm địa cũng không nhịn được, phải ra tay giải khai huyệt đạo cho lão. Nào ngờ Thang Bái mục quang vô cùng sắc bén nên nhận ra ngay.
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ họ Trình, thảo tự Linh Hồ, ở Hoa Quyền môn. Thang đại hiệp vừa nói việc ném chung giải huyệt gì đó tại hạ không hiểu.
Thang Bái cười ha hả, nói:
– Các hạ hà tất phải giấu giếm làm chi? Chẳng phải trên bàn này mất bốn cái chung rượu đấy ư?
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Xem ra chưa chắc lão đã nhìn thấy ta ném chung, chẳng qua vì thấy trên bàn thiếu bốn cái nên suy diễn mà thôi.
Chàng liền quay lại nhìn Quách Ngọc Đường nói:
– Quách lão sư! Té ra lão sư mình mang tuyệt nghệ, ném chung giải huyệt cho lão họ Đồng. Bội phục! Bội phục!
Quách Ngọc Đường vốn gan thỏ đế, lão sợ vô cớ bị liên lụy vội đáp:
– Lão phu đâu có ném chung! Lão phu đâu có ném chung!
Thang Bái quen lão đã lâu nên biết lão không đủ tài như vậy, lại nhìn hết mọi người trên bàn có Thái Uy ở Hoa Quyền môn là người nổi danh đã lâu, nhưng xưa nay công phu phóng ám khí của lão cũng rất tầm thường.
Lão nghĩ vậy liền đưa chung rượu trong tay phải cho Hồ Phỉ, cười nói:
– Trình huynh! Bữa nay may được gặp nhau, huynh đệ kính mời Trình huynh một chén!
Lão nói rồi giơ chung rượu lên cụng kẽ vào chung rượu kia. Bỗng nghe “bốp” một tiếng, chung rượu trong tay Hồ Phỉ lập tức vỡ tan. Nước rượu nóng cùng mảnh chung vỡ bắn tứ tung đập cả vào ngực chàng.
Nguyên lúc cụng chung, Thang Bái đã ngầm vận nội lực, võ công Hồ Phỉ ra sao, chỉ cần cụng chung là lão phát hiện ra ngay. Không ngờ hai chung rượu đụng nhau, chưởng môn Trình Linh Hồ của Hoa Quyền môn tựa hồ chẳng có chút nội công nào, nên để cho chung bể vụn và rượu đổ hắt vào mình. Chung rượu trên tay Thang Bái cố nhiên hãy còn nguyên vẹn, cả áo lão cũng không có một giọt rượu nào bắn vào.
Lão mỉm cười nói:
– Xin lỗi nhé!
Rồi lão trở về bàn ngồi, tự hỏi:
– Bản lãnh của tiểu lão nhị kia tầm thường lắm, không hiểu người ném chung giải huyệt là ai?
Lúc này Điền Quy Nông và Lý Đình Báo đã khai diễn cuộc đấu ở giữa sảnh đường. Điền Quy Nông tay cầm trường kiếm, thanh quang lấp loáng. Hắn rút kiếm ra, không dám coi thường như trước, Lý Đình Báo triển khai “Ngũ Lang côn pháp”, sử dụng những chiêu “Hối song vọng nguyệt”, “Bối côn tràng chung”, “Bạch viên vấn lộ”, “Hoành lạn thiên môn”. Những động tác của y nào điểm nào khuyên, nào chém, nào lướt, nào hất, nào đập, nào tát, nào sát, chiêu số cực kỳ mãnh liệt.
Quần hào đứng xem đều ngấm ngầm tâm phục và biết Ngũ Lang tiêu cục mười mấy năm gần đây uy danh vang dội, Lý tổng tiêu đầu quả nhiên tài nghệ có chỗ hơn người. “Thiên Long kiếm pháp” của Điền Quy Nông cũng là một tuyệt nghệ trong võ lâm. Sau một lần kịch đấu, hắn dần dần chiếm được thượng phong, nhưng muốn thủ thắng trong thời gian ngắn xem ra không phải là chuyện dễ.
Cuộc chiến đương hăng, Điền Quy Nông đột nhiên lật vạt áo ra. Một tiếng “soạt” vang lên, hắn đã rút một thanh đoản đao từ trường bào ra. Dưới ánh đèn lửa, ánh đao quang lấp lánh bất định, đứng xa coi như bảo thạch lại giống pha lê, như nước trong lại giống băng lạnh.
Lý Đình Báo sử chiêu “Đảo phản càn khôn” xoay tay bửa xuống. Điền Quy Nông vung tay hất vung trường kiếm lên. Lý Đình Báo phóng thẳng thiết côn về phía trước. Đó là chiêu “Thanh long xuất động” biến hóa từ “Tỏa hầu thương pháp”, cực kỳ nguy hiểm. Y sử chiêu này rất thuần thục. Điền Quy Nông không lùi lại né tránh, tay trái hắn cầm đơn đao hất ngược lên đánh choang một tiếng. Cây thiết côn bị gãy làm hai đoạn. Điền Quy Nông nhân lúc đối phương đang lòng rối loạn, tay mặt hắn vung kiếm đâm lẹ tơi, vạch một đường trên cổ tay Lý Đình Báo cứa đứt gân mạch.
Lý Đình Báo rú lên một tiếng buông cây côn xuống. Gân tay đứt rồi là cánh tay mặt thành tàn phế. Suốt đời y chỉ luyện “Ngũ Lang côn”, mà công phu về côn bổng cần cả hai tay mới sử dụng được. Tay mặt bị phế bỏ là xem như mất hết toàn bộ võ công. Trong khoảnh khắc, y nghĩ đến công phu khổ luyện một đời đã trôi theo dòng nước, tiêu cục chỉ còn cách đóng cửa. Y kiếm tiền dễ dàng nên xưa nay không dành dụm. Cả nhà già trẻ lớn bé lập tức sẽ lâm vào cảnh đói rét. Y lại nghĩ tới mình bình sinh bản tính nóng nảy, kết oán với không ít người. Đừng nói đến việc cừu nhân tìm đến trả thù đã vô phương đối phó, mà hàng ngày, ngay những tiếng mỉa mai trào lộng của bọn hậu bối tiểu nhân cũng làm sao chịu nổi? Y là người lòng dạ ngay thẳng, nhận thấy sống thêm khắc nào là nhục thêm khắc ấy. Tay trái y lượm nửa khúc côn sắt tự đập vào đầu đánh “bộp”, vỡ óc chết ngay.
Quần hào trong sảnh đường bật tiếng la hoảng, đứng phắt cả dậy. Ai cũng tưởng y lượm khúc côn gãy để liều mạng với Điền Quy Nông, không ngờ y đập đầu tự tử. Biến cố này diễn ra đột ngột khiến mọi người kinh hãi nói không ra lời.
An đề đốc hô:
– Cụt hứng! Cụt hứng!
Hắn sai người đem thi thể Lý Đình Báo ra ngoài.
Giá như Lý Đình Báo bị Điền Quy Nông đâm chết trong lúc kịch đấu, thì cái đó còn được. Nhưng hắn lại bức bách Lý Đình Báo phải tự sát, khiến cho mọi người đều phẫn uất.
Bỗng nghe trong góc tây nam một người đứng lên lớn tiếng chất vấn:
– Điền lão sư! Lão sư dùng bảo đao chặt đứt thiết côn là đã thắng rồi, sao còn cắt gân tay y?
Điền Quy Nông đáp:
– Binh khí không có mắt. Giả tỷ tại hạ học nghệ không tinh bị thiết côn của y quét trúng thì cũng uổng mạng rồi.
Người kia cười lạt, hỏi móc:
– Lão sư nói vậy thì ra học nghệ đã tinh lắm phải không?
Điền Quy Nông đáp:
– Không dám! Nếu lão huynh không phục thì xin được chỉ giáo!
Người kia đáp:
– Được lắm
Y cũng sử trường kiếm. Bước ra đấu trường, chưa thông tên họ đã phóng kiếm veo véo hai nhát đâm thẳng vào ngực Điền Quy Nông.
Điền Quy Nông vẫn tả đao hữu kiếm tiếp chiêu. Hai bên đánh nhau chưa được bảy tám hiệp, bỗng nghe đánh “choang” một tiếng, bảo đao của Điền Quy Nông đã chém gãy trường kiếm của người kia. Tiếp theo hắn phóng kiếm đâm vào ngực trái đối phương.
Quần hào thấy Điền Quy Nông hạ thủ hiểm độc, liên tiếp có mấy người khiêu chiến.
Quá nửa số này không ham đoạt Ngọc Long bôi, chỉ vì thấy Lý Đình Báo chết quá thê thảm, nên muốn làm giảm bớt uy phong của Điền Quy Nông. Nhưng bảo đao trong tay trái hắn cực kỳ lợi hại, bất luận binh khí gì chạm vào cũng đều bị chém gãy.
Rồi sau cả những khí giới quái dị như Ngũ hành luân, Độc cước đồng nhân cũng không chống lại được cây bảo đao quá bén.
Bỗng nghe người nói khích:
– Điền lão sư! Võ công của lão cũng bình thường, phải ỷ vào sức của bảo đao để thủ thắng, thì có chi đáng mặt anh hùng? Nếu lão có tài giỏi thì hãy cùng tại hạ dùng quyền cước để phân cao thấp!
Điền Quy Nông cười đáp:
– Thanh bảo đao này là bảo vật trấn môn truyền đời của Thiên Long môn. Bữa nay Phúc đại soái mời các môn phái so tài cao thấp, Điền mỗ là chưởng môn Thiên Long môn mà không dùng bảo vật trấn môn nhà mình thì dùng thứ gì?
Lúc hắn ra tay chẳng chút lưu tình, dùng bảo đao chém gãy binh khí người ta, còn thanh trường kiếm ở tay trái chém chân tay đối thủ. Hắn liên tiếp đả bại trước sau mười mấy người. Quần hào thấy ai đấu với hắn nếu không bị đứt tay gãy chân, thì cũng mình mang trọng thương. Tuy có người cậy mình bản lãnh cao thâm hơn hắn, những không nghĩ được cách gì để chống lại cây bảo đao, nên đành chịu bó tay.
Tháng Bái thấy không còn ai ra khiêu chiến nữa, liền cười ha hả, nói:
– Hiền đệ! Cuộc chiến bữa nay khiến cho Thiên Long môn uy chấn thiên hạ, tiểu huynh cũng được vẻ vang lây. Nào, lại đây! Tiểu ca mừng hiền đệ một chung!
Hồ Phỉ nhìn Trình Linh Tố thấy cô khẽ lắc đầu. Chàng tuy phẫn nộ trước hành động ngang ngược của Điền Quy Nông, nhưng một là chàng không dám để lộ thân phân, vừa rồi mới ném chung giải huyệt cho Đồng Hoài Đạo mà cơ hồ đã bị Thang Bái phát giác, hai là thanh bảo đao của hắn quá ư lợi hại, bình sinh chàng chưa từng thấy. Nếu cùng hắn tỷ đấu thì mười hết bảy đã nắm phần thua.
Hồ Phỉ lại nghĩ:
– Bữa trước hắn dẫn bọn thuộc hạ đến nhà Miêu Nhân Phụng, sao không đem theo thanh bảo đao này? Giả tỷ hôm ấy hắn cũng dùng bảo đao đó thì e rằng mình chưa chắc đã sống được đến bữa nay.
Hồ Phỉ không biết rằng thanh bảo đao đó được hai phe Bắc Tông và Nam Tông của Thiên Long môn luân phiên chấp chưởng. Hôm nay đến lượt chưởng môn nhân của phe Nam Tông nắm giữ.
Điền Quy Nông vẻ mặt nhơn nhơn đắc ý, cầm chung rượu kề vào môi. Đột nhiên nghe đánh “vù” một tiếng, một hạt thiết bồ đề bay tới. Chắc là có người ném ám khí định đánh bể chung rượu của hắn.
Điền Quy Nông làm như không trông thấy, vẫn tiếp tục uống rượu.
Tào Vân Kỳ la lên:
– Sư phụ! Coi chừng!
Điền Quy Nông chờ cho hạt thiết bồ đề bay tới trước mặt mới giơ ngón tay khẽ điểm một cái, khiến hạt thiết bồ đề văng ra cửa sảnh đường.
Quần hùng thấy Điền Quy Nông phô trương thân thủ này, tuy chẳng ưa gì tư cách của hắn, nhưng cũng không kiềm được phải reo lên:
– Hay quá!
Hạt thiết bồ đề đang bay vút ra trước cửa sảnh đường thì vừa vặn gặp người đi vào. Người này thấy hạt thiết bồ đề bay tới trước ngực liền giơ ngón tay lên búng một cái, miệng cất tiếng hỏi:
– Tiếp khách kiểu này ư?
Hạt thiết bồ đề bị búng phải, liền rít lên veo véo như xé bầu không khí, bay ngược về phía Điền Quy Nông. Chỉ cần nghe thanh âm cũng đủ biết sức đàn chỉ rất khủng khiếp, so với Điền Quy Nông còn lợi hại hơn nhiều.
Điền Quy Nông cả kinh, không dám đưa tay đón tiếp, mà vội nghiêng về bên phải để tránh.
Một tên vệ sĩ của Phúc Khang An đứng sau lưng hắn vừa nghe tiếng gió rít lên đã thấy hạt thiết bồ đề bay tới trước mặt không kịp né tránh, vội giơ tay lên đỡ. Bỗng nghe đánh rắc một tiếng, xương ngón tay gã bị gãy rời. Gã đau quá rú lên một tiếng:
– Úi chao!
Quần hào thấy hạt thiết bồ đề nhỏ tí mà đánh gãy được xương ngón tay của tên thị vệ thì quả là điều hiếm có. Ai nấy đều ngửng đầu nhìn ra thì thấy người này thân hình cao lêu khêu mà ốm tong teo, tay trái cầm một cái nhạc, trên vai đeo túi thuốc. Mình lão mặc tấm trường bào vải xanh bạc thếch, chân lê đôi giày rách nát dính đầy bùn. Cách ăn mặc chẳng khác gì thầy lang đạo ở chốn hương thôn. Chỉ có cặp mắt là lấp loáng thần quang, liếc nhanh như chớp.
Ngũ quan lão rất thô kệch: mày thô, mắt to, mũi lớn, miệng rộng, tai vểnh, lưỡng quyền nhô cao. Tướng mạo này bất cứ là ai nhìn thấy một lần sẽ vĩnh viễn không sao quên được. Mái tóc lão đã hoa râm, ít ra đã ngoài năm chục tuổi, da mặt lốm đốm tàn nhang. Hai người theo sau lão chắc là đệ tử hay tùy bộc, thái độ rất mực kính cẩn.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố thấy lão đi trước chưa hiểu là ai, nhưng vừa ngó hai người đi sau liền giật mình kinh hãi. Nguyên một người dáng vẻ thư sinh chính là đại sư huynh của Trình Linh Tố tên gọi Mộ Dung Cảnh Nhạc, còn người đàn bà chân què kia là tam sư tỷ của cô tên gọi Tiết Thước.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nhau, trong lòng rất lấy làm lạ, tự hỏi:
– Hai người này là tử thù với nhau, mà sao bữa nay lại cùng đi tới đây? Trượng phu của Tiết Thước là Khương Thiết Sơn sao không thấy?
Trình Linh Tố thấy khóe mắt Hồ Phỉ lộ vẻ hoài nghi, biết là chàng muốn hỏi thầy lang đạo kia là ai. Cô từ từ lắc đầu tỏ ý không nhận ra.
Bỗng tiếng rú thê thảm “úi chao” vang lên, tên vệ sĩ gãy xương ngón tay vừa rồi ngã xuống lăn lộn mấy vòng. Gã giơ cao bàn tay bị gãy xương lên.
Lúc đầu quần hùng lấy làm lạ, tự hỏi:
– Đã là vệ sĩ của Phúc đại soái thì ít ra phải có bản lãnh tương đối, mà sao gã mới bị gãy mấy đốt xương đã chịu không nổi?
Đến khi thấy rõ bàn tay gãy biến thành màu đen như mực mới biết gã trúng phải chất kịch độc.
Cuộc đại hội chưởng môn các phái lần này, bọn vệ sĩ trong Phúc phủ ban đầu hùng tâm bồng bột, lăm le cùng cao thủ các phái tranh đua hơn kém để mọi người biết rằng những kẻ anh hùng trong chốn quan trường ở kinh sư cũng có chân tài thực học, quyết chẳng chịu thua bọn hào kiệt thảo mãng trong thiên hạ. Nhưng những diễn biến này làm chúng không khỏi tiêu tán hùng tâm.
Tên vệ sĩ bị gãy ngón tay này thuộc quyền cai quản của Chu Thiết Tiêu. Lão thấy gã khiếp nhược như vậy, chau mày tiến lại quát:
– Đứng lên! Đứng lên! Đau một chút mà không chịu nổi, thật chẳng ra thể thống gì!
Tên vệ sĩ tỏ ra khiếp sợ Chu Thiết Tiêu, vội đáp:
– Dạ, dạ!
Gã lồm cồm gắng gượng đứng lên, nhưng người gã loạng choạng rồi lại ngã xuống ngất đi. Chu Thiết Tiêu cầm đôi đũa trên bàn gắp hạt thiết bồ đề lên coi thấy khắc chữ “Kha” liền biến sắc, lớn giọng nói:
– Kha Tử Dung tam gia ở Lan Châu! Tam gia mỗi ngày một tiến bộ. Chất độc bôi trên hạt thiết bồ đề này cực kỳ lợi hại.
Bỗng thấy một đại hán mặt rỗ đứng dậy đáp:
– Chu lão gia đừng có ngậm máu phun người. Hạt thiết bồ đề này là của Kha mỗ phát ra, điều đó không sai. Kha mỗ chỉ vì thấy người ta cuồng vọng tự đại, định đánh bể chung rượu trong tay y. Ám khí của nhà họ Kha tối kỵ là bôi chất độc vào, đời đời tương truyền đã thành lệ cấm. Kha Tử Dung này dù là kẻ bất tiếu cũng không dám phá hoại gia quy của tổ tông.
Chu Thiết Tiêu là người biết nhiều hiểu rộng. Lão đã rõ Kha gia chuyên dùng bảy loại ám khí nhưng trước nay nghiêm cấm việc dùng chất độc. Lão trầm ngâm không nói nữa tự nhủ:
– Thế này thì lạ thật!
Kha Tử Dung nói:
– Hãy để Kha mỗ coi thử!
Gã chạy vào giữa sảnh đường cầm hạt thiết bồ đề lên coi rồi nói:
– Đúng là Thiết bồ đề của tại hạ, nhưng sao lại có chất độc? …Úi chao!
Đột nhiên gã rú lên một tiếng, ném vội hạt thiết bồ đề xuống đất. Tay mặt vẩy lia lịa tựa hồ dường như sờ phải lửa bỏng. Sắc mặt gã tái nhợt như tờ giấy, gã toan đưa ngón tay vào miệng mút thì Chu Thiết Tiêu liền phóng ra một chưởng đánh trúng đầu vai gã, miệng hô lớn:
– Không mút được!
Lão ngăn cản không để Kha Tử Dung đưa ngón tay vào miệng, Khi ngó tới thì ngón trỏ và ngón cái y đã sưng vù lên, sắc da đen xạm. Kha Tử Dung toàn thân run bần bật. Trán toát những giọt mồ hôi lớn bằng hạt đậu.
Lão thầy lang dạo kia nhìn Mộ Dung Cảnh Nhạc, nói:
– Hãy chữa trị cho hai người này?
Mộ Dung Cảnh Nhạc “dạ” một tiếng rồi lấy trong bọc ra một hộp thuốc cao bôi vào tay tên vệ sĩ và Kha Tử Dung. Kha Tử Dung liền bớt run và tên vệ sĩ cũng dần dần tỉnh lại.
Quần hào bấy giờ mới tỉnh ngộ. Nguyên Kha Tử Dung dùng thiết bồ đề định đánh bể chung rượu của Điền Quy Nông, Điền Quy Nông thuận tay đẩy ra rồi lại bị thầy lang búng ngược trở lại. Nhưng khi búng hạt thiết bồ đề, lão thầy lang đã bôi vào hạt ám khí đó một chất độc cực kỳ lợi hại. Bản lãnh hạ độc này trên giang hồ e rằng chỉ biết có nổi một người. Quần hào trong sảnh đường không thiếu người len lén thì thầm:
– Độc Thủ Dược Vương! Phải chăng lão là Độc Thủ Dược Vương?
Chu Thiết Tiêu tiến đến gần nhìn thầy lang chắp tay hỏi:
– Xin các hạ cho biết tôn tính đại danh?
Người kia mỉm cười không đáp.
Mô Dụng Cảnh Nhạc tự giới thiệu:
– Tại hạ là Mộ Dung Cảnh Nhạc. Còn đây là chuyết kinh tên gọi là Tiết Thước.
Hắn dừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Vị này là Thạch tiên sinh, sư phụ của vợ chồng tại hạ. Người giang hồ tặng lão nhân gia ngoại hiệu Độc Thủ Dược Vương.
Bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” vừa thốt ra, quần hào ai nấy đều chấn động. Nên biết những nhân vật đến tham dự đại hội bữa nay nếu không phải chưởng môn một phái thì cũng là trưởng lão kỳ cựu trong một bang hội. Ai cũng biết Độc Thủ Dược Vương là hảo thủ dùng độc đệ nhất đương thời. Dù Mộ Dung Cảnh Nhạc không nói ra, mọi người cũng sớm nhận ra lão là ai rồi.
Thế nhưng bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” lọt vào tại Trình Linh Tố cùng Hồ Phỉ càng khiến hai người càng lấy làm quái dị. Trình Linh Tố căm tức vì người kia không những mạo nhận danh hiệu của tiên sư, mà tại do miệng đại sư huynh thốt ra, càng khiến cho cô không dằn nổi mối bi phẫn. Một điểm nữa khiến cô càng lấy làm kỳ quái là tam sư tỷ Tiết Thước nguyên là vợ của nhị sư ca Khương Thiết Sơn. Hai người này đã sanh con trưởng thành, sao bây giờ đại sư huynh lại gọi mụ là “chuyết kinh”? Trình Linh Tố biết trong vụ này tất đã xảy ra một biến cố cực kỳ quan trọng, khó lòng tra cứu ngay được nên vẫn lẳng lặng để coi diễn biến.
Chu Thiết Tiêu tuy là tay kiêu dũng, nhưng nghe đến bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” phải biến sắc, lão chắp tay nói:
– Tại hạ ngưỡng mộ đại danh từ lâu!
Thạch tiên sinh xòe tay ra cười nói:
– Các hạ cũng cho biết tôn tính đại danh để chúng ta cùng làm quen!
Chu Thiết Tiêu bỗng lùi lại một bước, chắp tay đáp:
– Tại hạ là Chu Thiết Tiêu, xin chúc Thạch tiền bối bình an mạnh khỏe.
Lão dù lớn mật đến đâu cùng không dám chạm vào tay Độc Thủ Dược Vương.
Thạch tiên sinh cười khà khà, tiến lại trước mặt Phúc Khung An vái chào, khom lưng nói:
– Kẻ thảo dân vùng sơn dã xin tham kiến đại soái!
Lúc này tên thị vệ đứng bên đã cho Phúc Khang An biết lai lịch của Độc Thủ Dược Vương. Hắn lại mắt thấy lão chỉ khẽ đưa móng tay búng hạt thiết bồ đề đã đả thương người, nên biết đây là tay cực kỳ lợi hại, bèn nghiêng mình đáp:
– Xin mời tiên sinh an tọa!
Thạch tiên sinh cùng vợ chồng Mộ Dụng Cảnh Nhạc ngồi xuống một bên. Quần hào đứng gần đó đều tới tấp tránh xa, chẳng ai dám đứng gần ba người này. Chỉ trong chớp mắt, bên cạnh ba thầy trò Thạch tiên sinh đã lộ ra một khoảng trống lớn.
Một tên võ quan bước tới, còn cách Thạch Tiên Sinh năm thước thì lập tức dừng lại để nói cho lão biết quy củ tranh đoạt ngự bôi giữa các chưởng môn nhân các phái. Gã vừa nói xong là lập tức lùi xa như sợ bị nhiễm độc khí trên người lão.
Thạch tiên sinh mỉm cười hỏi:
– Quý tính tôn giá là gì?
Võ quan đáp:
– Tại hạ họ Ba!
Thạch tiên sinh hỏi:
– Ba lão gia! Hà tất lão gia phải sợ lão phu như vậy. Ngoại hiệu của lão phu tuy là “Độc Thủ Dược Vương”, nhưng ngoài việc hạ độc, lão phu còn dùng độc dược để chữa bệnh nữa. Ba lão gia trên mặt có ẩn khí xanh, dường như trong bụng có rết độc. Nếu không điều trị gấp thì chỉ trong vòng mười ngày, tính mạng e khó bảo toàn.
Tên võ quan giật mình kinh hãi, trong lòng bán tín bán nghi hỏi:
– Trong bụng tại hạ sao lại có rết độc được?
Thạch trên sinh hỏi lại:
– Gần đây Ba lão gia có gây lộn với ai không?
Trong thành Bắc Kinh chuyện võ quan gây lộn với người là điều xảy ra như cơm bữa, nên dĩ nhiên điều lão hỏi là có. Võ quan họ Ba kinh hãi vội hỏi:
– Có! Chăng lẽ… chẳng lẻ tên cẩu tặc đó đã hạ độc thủ tại hạ ư?
Thạch tiên sinh lấy trong bọc ra hai viên thuốc màu xanh, nói:
– Nếu Ba lão gia tin lão phu thì cứ dùng rượu uống ba viên thuốc này, đừng ngại.
Tên võ quan nghe lão nói sởn cả da gà và cảm thấy trong bụng tựa hồ có rắn rết đang bò. Hắn không nghĩ ngợi gì nữa, cầm thuốc đổ vào miệng rồi cầm chung rượu uống ừng ực. Chẳng bao lâu hắn thấy bụng đau, trong dạ buôn nôn, liền ọe một tiếng, mửa ra rất nhiều thức ăn.
Thạch tiên sinh tiến lại ba bước, lấy tay vuốt ngực võ quan, hô lớn:
– Mửa ra hết đừng để độc vật lại trong bụng!
Tên võ quan cố sức mửa ra. Hắn cúi đầu xuống thấy trong số uế vật quả có ba con sâu dài hai tấc, đầu đỏ mình đen đang ngọ nguậy, đúng là ba con rết.
Tên võ quan lắp bắp la hoảng:
– Ba con… ba con rết độc!
Đang lúc kinh hãi, đầu óc choáng váng, gã vội quỳ xuống sụp lạy Thạch Tiên Sinh ra tay cứu mạng. Bọn bộc dịch ra lau dọn sạch sẽ, còn đám quần hùng chẳng ai là không xuýt xoa khen ngợi.
Hồ Phỉ không tin rằng trong bụng người ta lại có rết độc, nhưng chàng lại tận mắt trông thấy nên không tin cũng không được.
Trình Linh Tố kề vai Hồ Phỉ, khẽ nói:
– Đừng nói là ba con rết, chứ đến ba con thanh xà tiểu muội cũng khiến gã nôn ra như thường.
Hồ Phỉ hỏi:
– Bằng cách nào?
Trình Linh Tố đáp:
– Khi đưa cho gã uống hai viên thuốc nôn thì trong tay áo tiểu muội đã giấu sắn độc trùng rồi.
Hồ Phỉ khẽ nói:
– Phải rồi, nhân lúc độc dược phát tán, giữa lúc gã đang đau quặn ruột thì bỏ độc trùng vào đám uế vật, đố ai mà biết được?
Trình Linh Tố mỉm cười, bảo:
– Lão sấn tới vuốt ngực tên võ quan, nếu để nhìn thấy thì màn kịch hết linh ngay.
Hồ Phỉ bèn hạ thấp giạng, nói:
– Kể ra võ công của lão cũng cao minh, cần gì phải giở những trò hý lộng huyền hư như vậy.
Trình Linh Tố rỉ nhỏ vào tai Hồ Phỉ:
– Đại ca, trong tất cả những người ở trong sảnh đường này, tiểu muội chỉ khiếp sợ một mình lão mà thôi. Đại ca phải ngàn vạn lần cẩn thận mới được.
Từ ngày Hồ Phỉ quen biết Trình Linh Tố đến nay, thấy bất cứ việc gì cô cũng sắp sẵn kế sách để đối phó, chưa từng nghe cô nói đến hai chữ “khiếp sợ” bao giờ. Giờ đây cô nói đều này một cách trịnh trọng thì chàng biết ngay Thạch tiên sinh là tay lợi hại không nên dây vào. Nhưng nghĩ hắn đã mạo xưng danh hiệu của sư phụ cô, làm bại hoại thanh danh của Độc Thủ Dược Vương khiến chàng chẳng thể tụ thủ bàng quan.
Lại nghe Thạch tiên sinh cười nói:
– Lão phu tuy đã thu nạp mấy tên đệ tử những chưa lập môn phái chi cả. Bữa nay muốn học đòi theo các vị tiền bối để khai tông, lập phái, gọi là “Dược Vương môn”. Nếu may mà đoạt được chiếc Ngân Lý bôi về nhà thì cũng thêm phần vẻ vang cho bọn đệ tử.
Dứt lời, lão từ từ bước tới chiếc ghế thái sư bên cạnh Điền Quy Nông rồi khệnh khạng ngồi xuống. Dù miệng lão nói khách khí chỉ cần một chiếc Ngân Lý bôi là đủ, nhưng hiển nhiên lão muốn chiếm địa vị một trong tám đại môn phái.
Lão đã ngồi vào ghế. Dựa vào danh tiếng lừng lẫy mấy chục năm của Độc Thủ Dược Vương, lại thêm công lực búng hạt thiết bồ đề và thủ pháp hạ độc đả thương người trong nháy mắt, xem như lão đã nắm chắc một chiếc Ngọc Long bôi rồi. Chẳng còn ai nghĩ tới chuyện khiêu chiến, mà cũng không ai dám dị nghị gì lão nữa.
Trong một lúc, cả sảnh đường yên lặng như tờ, chưởng môn phái Thiếu Lâm là Đại Trí thiền sư bỗng cất tiếng hỏi:
– Thạch tiên sinh! Tiên sinh xưng hô thế nào với Vô Sân đại sư?
Thạch tiên sinh đáp với vẻ mặt rất thản nhiên:
– Vô Sân ư? Lão phu không biết!
Đại Trí thiền sư chắp tay niệm:
– A Di Đà Phật!
Thạch tiên sinh hỏi:
– Vậy là sao?
Đại Trí thiên sư lại tuyên Phật hiệu:
– A Di Đà Phật!
Thạch tiên sinh không hỏi nữa.
Từ lúc ba thầy trò lão vào đại sảnh, mục quang của Trình Linh Tố không lúc nào rời khỏi ba người. Bỗng thấy Thạch tiên sinh từ từ quay đầu nhìn Điền Quy Nông. Hai người vẻ mặt trơ như gỗ, tuyệt không lộ vẻ gì. Nhưng Trình Linh Tố lại động tâm tỉnh ngộ:
– Hai người này đã quen nhau từ trước. Điền Quy Nông đã biết danh tự sư phụ ta, biết Vô Sân đại sư mới đúng là Độc Thủ Dược Vương. Cả vị cao tăng chùa Thiếu Lâm kia cũng biết thế.
Bỗng cô lại nghĩ:
– Cỏ độc Đoạn trường thảo mà Điền Quy Nông dùng để hạ độc Miêu Nhân Phụng, té ra là do lão này đưa cho.
Điền Quy Nông thì có bảo đao sắc bén, Thạch Tiên sinh thì có độc dược lợi hại, xem ra đã ngồi yên trong hai ghế thái sư. Trong tám chiếc Ngọc Long bôi chỉ còn một chiếc chưa có chủ. Quần hào đều tự nhủ:
– Được dự vào tám đại môn phái hay không là ở nơi chiếc Ngọc Long bôi tối hậu này.
Nhiều người nghĩ vậy nên trong chớp mắt đã bảy tám người nhảy lên định ngồi vào chỗ ghế thái sư còn để trống. Họ nói với nhau một vài câu rồi chia thành bốn đôi khai cuộc tỷ đấu.
Người thua phải lui xuống, người thắng lại tiếp tục tỷ đấu với nhau hoặc ứng chiến với người mới đến. Kịch đấu một hồi lâu, bỗng nghe từ ngoài cửa tiếng trống đã điểm canh tư. Trong bốn người tỷ đấu đã có hai người phải rút lui, chỉ còn lại hai người thắng đấu với nhau.
Hai người này đều dùng chưởng lực hùng hậu để tỷ thí nội công, một hồi lâu vẫn ở vào thế giằng co. Tuy là cuộc tỷ đấu bằng võ công cao thâm nhưng bề ngoài lại có vẻ tầm thường chẳng có chi kỳ lạ. Phúc Khang An lại chán kiểu này, ngáp dài mấy cái rồi nói:
– Coi chán chết!
Tuy hắn nói rất khẽ, nhưng hai người tỷ nội công đều nghe rõ mồn một. Cả hai cùng biến sắc rút tay về, thối lui ba bước.
Một người nói:
– Chúng ta có phải làm khỉ diễn trò đâu mà vung múa chân tay để quan lão gia các người reo hò?
Người kia đáp:
– Đúng vậy! Về nhà bồng con còn hơn.
Nói xong hai người cùng cười ha hả rồi dắt tay nhau ra khỏi đại sảnh.
Hồ Phỉ thầm gật đầu nghĩ bụng:
– Hai người võ công rất cao thâm, quả nhiên kiến thức cũng cao hơn người một bậc. Đáng tiếc là trong cuộc tỷ đấu nhốn nháo, không biết được danh tính của họ.
Chàng quay hỏi Quách Ngọc Đường thì lão cùng không biết hai người có dáng vẻ quê mùa đó. Lão nói:
– Lúc họ lên tỷ đấu, An đề đốc có hỏi danh tính cùng môn phái thì họ chỉ cười chứ không đáp.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Hai vị này như con thần long, thấy đầu mà chẳng thấy đuôi. Đến cả tên tuổi cũng không lưu lại.
Đang lúc chàng thì thầm trò chuyện với Quách Ngọc Đường thì đột nhiên Trình Linh Tố khẽ đụng vào khuỷu tay một cái. Chàng ngửng đầu lên nhìn, bỗng nghe võ quan hô:
– Vị này là Phụng Thiên Nam lão sư, chưởng môn phái Ngũ Hổ!
Bỗng thấy Phụng Thiên Nam cầm cây thục đồng côn lên ngồi ghế thái sư còn để trống, cất tiếng hỏi:
– Xin mời vị nào lên chỉ giáo cho.
Hồ Phỉ cả mừng tự nhủ:
– Võ công thằng cha này chưa được đến trình độ nhất lưu cao thủ mà cũng dám mơ tưởng đến Ngọc Long bôi. Cứ để hắn phô cái kém cỏi ra trước đã, rồi ta thu thập hắn sau. Cái đó mới tuyệt diệu.
Chàng thấy Phụng Thiên Nam liên tiếp đánh bại hai người, đang nhơn nhơn đắc chí thì có một hán tử cầm đơn đao tiến lên khiêu chiến. Người này võ nghệ rất cao thâm. Y mới đánh ba chiêu, Hồ Phỉ đã nói thầm:
– Tên ác tặc kia quyết không phải là đối thủ của y!
Quả nhiên Phụng Thiên Nam gầm thét luôn miệng vì gặp hiểm chiêu. Người sử đơn đao dường như không muốn làm khó dễ hắn, chỉ mong hắn tự ý rút lui. Y định không cố ý hạ sát thủ, vì thế có mấy cơ hội để thủ thắng mà y đều ra chiêu thong thả.
Song Phụng Thiên Nam kém thế cũng chỉ lùi lại chứ không chịu thua. Đột nhiên hắn quét ngang cây đồng côn. Người sử đơn đao lún mình thấp xuống, cây đồng côn lướt qua đỉnh đầu. Y muốn thừa thế tiến chiêu, bỗng rú lên “Úi chao!” rồi ngã lăn dưới đất. Y lại nhảy tung người lên, nhưng khi vừa chạm thì chân bước loạng choạng, lại té xuống. Y tức giận quát:
– Ngươi dùng ám khí? Thực là quân mặt dày!
Phụng Thiên Nam chống cây côn, mỉm cười đáp:
– Phúc đại soái không có quy định cấm dùng ám khí. Ai lên tỷ đấu thì sử binh khí quyền cước hay dùng độc dược, ám khí đều được cả.
Người sử đơn đao vén quần lên, quả nhiên một mũi ngân châm hai tấc cắm vào huyệt “Độc tỵ” nơi đầu gối. Huyệt “Độc tỵ” nằm ở dưới đầu gối, tục gọi là “Tất nhãn” hình dạng như lỗ mũi trâu, do đó mà thành tên. Đây chính là huyệt đạo nằm ở chỗ giáp đùi và cẳng chân, nếu trúng châm thì cái chân trở thành vô dụng. Quần hào đều lấy làm lạ vì thấy hai người đang tỷ đấu rất ráo riết, Phụng Thiên Nam tuyệt không lúc nào rảnh tay để phóng ám khí, lại không thấy hắn giơ tay lên thì chưa hiểu mũi ngân châm kia từ đâu phóng tới?
Người sử đơn đao rút mũi ngân châm ra, hằn học lùi lại, thì một người sử tiên nhảy vọt ra. Tiên pháp của người này ào ạt như cuồng phong sậu vũ. Hai bên trao đổi ngoài hai chục chiêu, tiên pháp người kia đánh mỗi lúc một ráo riết hơn, khiến cho Phụng Thiên Nam không còn cơ hội để thở nữa.
Người sử tiên đã biết côn pháp của Phụng Thiên Nam chẳng lấy gì làm cao thâm lắm. Nhưng hắn sử ngân châm vô ảnh vô tung khó nỗi đề phòng, nên y tung ra những sát chiêu liên miên bất tuyệt, quyết chẳng để hắn rảnh tay phóng ám khí. Không ngờ tỷ đấu đến chiêu thứ ba mươi, Phụng Thiên Nam côn pháp đã có dấu hiệu rối loạn thì người sử tiên bỗng rú lên một tiếng “úi chao” rồi vội nhảy lùi lại, rút ở bụng ra một mũi ngân châm. Máu tươi ở miệng vết thương chảy ra như suối, thương thế cực kỳ trầm trọng.
Quần hào trong sảnh đuờng đều kinh dị cho là bản lĩnh phát xạ ám khí của Phụng Thiên Nam quả là điều bình sinh chưa từng nghe thấy. Nếu nói rằng có người ngoài ngấm ngầm tương trợ, thì trước bao nhiêu con mắt theo dõi tất phải có người phát giác.
Cả hai phen kịch đấu, Phụng Thiên Nam đang lâm vào tình thế nguy cấp đột nhiên đối thủ trúng phải ám khí. Chẳng lẽ Phụng Thiên Nam biết sử dụng tà pháp, hễ động tâm là tự nhiên có ngân châm từ trên trời rơi xuống?
Mấy người không phục, bước ra tỷ đấu với hắn. Một người để hết tinh thần phòng bị ngân châm liền bị cây đồng côn của Phụng Thiên Nam đánh trúng đầu vai, thương thế rất trầm trọng. Còn ba người khác đều bị thương về mũi vô ảnh ngân châm. Trong lúc nhất thời, quần hùng trong sảnh đường bàn tán xôn xao.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố thấy Phụng Thiên Nam dùng vô ảnh ngân châm đả thương người liền ngưng thần theo dõi, nhưng vẫn không phát giác ra được mảy may sơ hở nào.
Hồ Phỉ đã định nhân lúc Phụng Thiên Nam đang cao hứng, đột ngột xông ra hạ sát thủ, một là để trả thù cho toàn gia Chung A Tứ ở Trấn Phật Sơn, hai là làm rạng rỡ danh tiếng cho Hoa Quyền Môn, nhưng chàng không nhận ra được ám khí từ đâu phóng tới, nên đành phải tạm thời tụ thủ bàng quan. Nếu mạo muội xông ra tranh phong mà trở tay không kịp thì chẳng những tự rước nhục vào mình, mà không chừng còn mất mạng nữa.
Trình Linh Tố đoán được tâm ý chàng, bèn từ từ lắc đầu nói:
– Chiếc Ngọc Long bôi bên kia, chúng ta không cần tới có được không?
Hồ Phỉ nhìn Thái Uy và Cơ Hiểu Phong nói:
– Bản lãnh Phụng lão sư kia không đáng kể, có điều…
Cơ Hiểu Phong gật đầu đáp:
– Phải rồi! Hắn phóng ngân châm đúng là tà môn, đã vô thanh vô tức lại vô ảnh vô tung, cũng chẳng có dấu hiệu gì báo trước, chỉ nghe đối phương rú lên một tiếng thê thảm mới biết là bị trúng ám khí của hắn.
Thái Uy nói:
– Trừ phi đầu đội mũ trụ, mình mặc giáp sắt thì mới đấu với hắn được.
Thái Uy nói câu này tưởng là chuyện đùa, không ngờ trong đám võ quan ở nhà đại sảnh quả có người không chịu, sai thuộc hạ đi lấy khôi giáp đánh trận để mặc vào mình, tay cầm Khai sơn đại phủ, bước ra khiếu chiến.
Vị võ quan này tên gọi là Mộc Văn Sát. Ngày trước y đã theo Phúc Khang An viễn chinh miền Thanh Hải, đoạt cờ chém tướng, lập nhiều công lao hãn mã. Y là một viên dũng tướng nổi tiếng trong quân đội Mãn Thanh.
Mộc Văn Sát nai nịt gọn gàng, tay cầm đại phủ ra đứng giữa sảnh đường trông oai phong lẫm liệt, sát khí đằng đằng. Bạn đồng liêu đều cất tiếng hoan hô. Phúc Khang An cũng ban cho một chung rượu để úy lạo trước.
Hai người giao đấu, côn phủ đụng nhau choang choảng làm chấn động, điếc cả tai quần hào. Hai loại binh khí này đều nặng nề, khi công thủ cầm cự đều rít lên tiếng gió ào ào khiến ánh lửa chập chờn, khi tỏ khi mờ. Mộc Văn Sát mình mang giáp trụ thành ra chuyển động kém bề linh hoạt, nhưng nhờ tý lực cực mạnh nên gã vung múa cây Khai sơn đại phủ uy mãnh khôn lường.
Bọn Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu, Vương Kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt đứng trước Phúc Khang An, tay cầm bính khí, chỉ sợ cây đại phủ lớn hoặc đồng côn tuột ra khỏi tay làm tổn thương đến đại soái. Hai bên chiến đấu hơn hai chục hiệp, Phụng Thiên Nam cầm côn quét ngang một cái. Mộc Văn Sát cúi đầu xuống, thuận đà vung búa chém vào chân phải đối phương.
Bỗng nghe đánh “cách” một tiếng khe khẽ, quần hào đứng xem đồng thanh kêu “ối” lên một tiếng. Hai bên đều nhảy lùi lại mấy bước, bỗng thấy một trái nhung cầu màu đỏ rớt dưới đất, chính là cái gù ở trên chóp mũ của Mộc Văn Sát. Trên trái cầu còn cắm một mũi ngân châm sáng lấp loáng.
Đây chắc là lúc Mộc Văn Sát cúi đầu xuống vung búa chém chân đối phương, Phụng Thiên Nam đã phóng vô ảnh ngân châm ra. Vì hắn hiềm Mộc Văn Sát là ái tướng của Phúc Khang An, nên không dám đả thương đến thân thể của gã.
Trái nhung cầu được buộc vào chóp mũ bằng dây chì, phải bắn đứt dây chì, trái cầu mới rớt xuống được. Dù hai người đứng gần nhau nhưng trong lúc thảng thốt mà bắn chuẩn đích không sai một ly như vậy, thực là công phu phóng ám khí cùng cực cao minh.
Mộc Văn Sát đứng ngẩn người ra. Y biết đối phương đã thủ hạ lưu tình, nếu để mũi châm lệch xuống dưới mấy tấc thì nó đâm qua khoảng giữa hai chân mày mà xuyên vào óc thì còn gì là tính mạng. Toàn thân mũ giáp sắt phỏng có ích gì?
Y khâm phục vô cùng, liền chắp tay nói:
– Cảm ơn Phụng lão sư đã thủ hạ lưu tình.
Phụng Thiên Nam kính cẩn thỉnh an rồi đáp:
– Bản lãnh tiểu nhân còn kém đại nhân xa lắm. Chút công phu nhỏ nhặt phóng ám khí đó ở chốn sa trường cũng chỉ là vô dụng. Giả sử chúng ta đều cỡi ngựa tỷ thí thì tiểu nhân đã bị chém cho một búa ngã ngựa rồi.
Mộc Văn Sát cười nói:
– Nói hay lắm! Nói hay lắm!
Phúc Khang An nghe Phụng Thiên Nam ăn nói khiêm tốn, không dám ỷ mình tài cao mà kiêu ngạo với bộ thuộc mình, nên trong lòng rất vui, liền lên tiếng:
– Phụng lão sư này là người chơi được đây!
Phúc Khang An nói rồi cầm cái dọc tẩu bằng ngọc bích trên tay cho Chu Thiết Tiêu và bảo:
– Thưởng cái này cho y!
Phụng Thiên Nam liền tới trước mặt Phúc Khang An tạ ơn ban thưởng.
Mộc Văn Sát toàn thân giáp trụ vác búa đi ra, áo giáp của y bật lên những tiếng leng keng. Còn quần hào thì nhao nhao nghị luận. Trong đám đông bỗng có người đứng dậy dõng dạc lên tiếng:
– Công phu phóng ám khí của Phụng lão sư quả nhiên rất cao minh Tại hạ xin đến lãnh giáo.
Quần hào quay đầu nhìn lại thì chính là Kha Tử Dung mặt rỗ chằng rỗ chịt. Lúc nãy lão đã ném hạt thiết bồ đề và trúng độc bị thương. Tay gã đã bó thuốc cao, hiện giờ độc tính đã giải trừ.
Nhà họ Kha ở Lan Châu nhờ vào bảy món ám khí mà khai tông lập phái gọi là “Kha thị thất thanh môn”. Bảy loại ám khí đó là: tụ tiễn, phi hoành thạch, thiết bồ đề, thiết lê tật, phì đao, cương tiêu, táng môn đinh, gọi là “Tiễn, hoàng, đề, lê, đao, tiêu, đinh thất tuyệt”. Bảy món ám khí này đều là những vật thông thường, nhưng thủ pháp phát xạ của họ Kha không giống mọi người. Trong đao kèm thạch, trong đinh kèm tiêu, mà mấy thứ ám khí có thể chạm nhau trên không, lúc bắn ra có thể đi thẳng hoặc đi chênh chếch khiến người ta khó biết đường chống đỡ hay né tránh. Nếu tỷ đâu ở những nơi rộng rãi thông thoáng thì còn có thể tránh ra vài trượng để xác định đường đi của ám khí mà đánh rớt hoặc né tránh, chứ ở trong đại sảnh chật hẹp thì khó lòng đối phó.
Phụng Thiên Nam cầm dọc tẩu trịnh trọng gói lại đút vào bọc, tỏ lòng cực kỳ tôn kính với Phúc Khang An. Đoạn hắn dõng dạc lên tiếng:
– Kha lão sư muốn tỷ thí ám khí với tại hạ, nhưng ở trong sảnh mà ném ám khí qua lại, nếu lỡ làm tổn thương đến các vị đại nhân thì chịu tội sao cho nổi?
Chu Thiết Tiêu cười nói:
– Phụng lão sư bất tất phải quan tâm, cứ việc tận lực thi triển. Chẳng lẽ bọn vệ sĩ của tại hạ đã ăn hết cơm chủ mà lại vô tích sự ư?
Phụng Thiên Nam mỉm cười vòng tay xin lỗi:
– Tại hạ cam bề đắc tội!
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Thảo nào tên ác tặc này độc bá nhất phương, lâu nay chẳng chịu thua ai. Hắn kết giao với bọn quan phủ, quả là tâm tư chu mật, thủ đoạn rất đỗi cao minh.
Lúc này Kha Tử Dung đã cởi áo trường bào để lộ toàn thân mặc áo chẽn màu đen. Bộ quần áo của gã rất kỳ lạ. Chỗ nào cũng có miệng túi, dây đai. Túi này đựng một bao kim tiêu, đai kia cài ba mũi phi đao. Từ đầu xuống đến chân chẳng có chỗ nào lại không trang bị ám khí. Trước ngực cố nhiên có túi, mà sau lưng cũng rất nhiều túi nhỏ.
Phúc Khamg An cười ha hả, nói:
– Nhìn gã mặc thứ áo cổ quái này toàn thân giống như con nhím.
Bỗng thấy Kha Tử Dung xoay tay trái một cái, móc bên hông ra một thứ binh khí giống như cái gáo múc nước, nhưng miệng gáo sắc bén như lưỡi đao. Đây là thứ binh khí độc môn gia truyền của gã tên gọi rất là lạ “Thạch Trầm đại hải”. Món “Thạch trầm đại hải” có hai công dụng. Bản thân nó có ba mươi sáu lộ chiêu số, cách sử dụng tựa hồ đơn đao, lại giống bản phủ. Nó còn có chỗ diệu dụng khác nữa là có thể dùng để đón ám khí. Bất luận địch nhân dùng ám khí gì phóng ra, gã vung chày gáo lên là đón được như đá chìm vào biển lớn, không thấy tăm tích đâu nữa. Ngược lại, lão có thể lấy ám khí của địch nhân trong gáo ra để phản kích. “Thạch trầm đại hải” không được xếp vào hàng thập bát ban binh khí nên được xem là binh khí của bàng môn. Người giang hồ gọi là “Tá tiễn thược”, ý nói mượn tên của địch nhân mà sử dụng
Kha Tử Dung lấy cây binh khí này ra, phân nửa quần hào trong sảnh đường chưa biết được nó là vật gì.
Phụng Thiên Nam cười nói:
– Bữa nay Kha lão sư khiến bọn tại hạ được mở rộng tầm mắt.
Hồ Phỉ thầm nghĩ:
– Cùng là danh gia ám khí mà Triệu tam ca tỏ ra rất ung dung đường bệ, trên người chẳng thấy một mũi ám khí nào, nhưng lúc cần dùng, y vẫn lấy ra sử dụng liên miên bất tuyệt. Gã Kha Tử Dung này hiển nhiên khí độ tầm thường.
Bỗng thấy Kha Tử Dung xoay cái gáo sắt đập chênh chếch vào bả vai Phụng Thiên Nam. Phụng Thiên Nam nghiêng mình tránh khỏi, đánh trả một côn. Hai người khai diễn cuộc tỷ đấu. Kha Tử Dung tuy miệng nói là tỷ thí ám khí với Phụng Thiên Nam, nhưng thược pháp của lão rất tinh diệu, uy hiếp địch nhân từng bước một, chứ không phát ám khí.
Giao đấu được một lúc rồi, Kha Tử Dung bỗng hô to:
– Coi tiêu đây!
Vèo một tiếng, một mũi cương tiêu bắn ra. Phụng Thiên Nam tuy tuổi đã khá cao, nhiều năm ăn sung mặc sướng, thân lão mập ú, song công phu vẫn còn linh hoạt như thời tuổi trẻ. Hắn khẽ nghiêng mình một chút đã tránh khỏi mũi cương tiêu.
Kha Tử Dung lại hô:
– Phi hoàng thạch! Tụ tiễn!
Lần này hai thứ ám khí bắn ra cùng một lúc. Phụng Thiên Nam cúi đầu tránh khỏi một mũi, rồi dùng đồng côn gạt được mũi kia.
Kha Tử Dung lại hô lớn:
– Thiết lê tật bắn vai trái! Phi đao cắt chân phải!
Quả nhiên một mũi thiết lê tật nhằm vai trái Phụng Thiên Nam bắn tới còn một lưỡi phi đao nhằm đâm vào chân phải hắn. Phụng Thiên Nam được đối phương hô cho biết trước, nên đều lẹ làng tránh khỏi.
Quần hào tự hỏi:
– Gã Kha Tử Dung sao lại quá đỗi thật thà. Sao gã lại hô cho hắn biết trước chủng loại và đường phóng ám khí làm chi?
Ngờ đâu sau khi ném ra tám, chín thứ ám khí liền, miệng gã hô mỗi lúc một mau, còn ám khí phóng ra mỗi lúc một nhiều. Tiếng hô không phải lúc nào cũng trúng. Có lúc miệng gã hô phóng tụ tiễn vào mắt bên trái, mà lại ném phi hoàng thạch đánh vào ngực phải. Bây giờ mọi người mới hiểu lão hô hoán cốt để nhiễu loạn tâm thần địch. Gã hô đúng bảy tám lần liền, rồi đột nhiên gạt người một lần, đối phương chỉ sơ ý một chút là lập tức bị mắc bẫy. Nếu hô lần nào cũng sai trật thì đối phương sẽ không lý gì đến. Ác một nỗi là đúng nhiều mà trật ít, cứ bẩy tám lần đúng, thỉnh thoảng mới có một lần giả trá, khiến địch nhân không biết đường nào mà lần.
Quách Ngọc Đường nói:
– Công phu phóng ám Khí của “Kha thị thất thanh môn” quả nhiên có chỗ khác người. Cả tiếng hô của gã cũng rèn luyện từ nhỏ, lợi hại chẳng kém gì cương tiêu hay phi đao. “Thất thanh môn” của y nên đổi thành “Bát thanh môn” mới đúng.
Thái Uy nói:
– Lão dùng ngụy kế đa đoan như vậy, đâu phải là bản lĩnh của danh môn chính phải.
Trình Linh Tố mân mê cái dọc tẩu của Yên Hà Tản Nhân mà lúc nãy cô đoạt được nhân lúc khói mù nhốn nháo, miệng hỏi:
– Sao Phụng lão sư chưa phóng ngân châm ra? Nếu cứ tiếp diễn thế này, hắn tất mắc bẫy họ Kha mất.
Cơ Hiểu Phong đáp:
– Tại hạ xem chừng dường như họ Phụng đã sắp sẵn kế hoạch, hắn phóng ám khí chỉ cần tinh diệu chứ không phóng nhiều. Chỉ bắn ra một mũi mà trúng địch là đủ thắng rồi.
Trình Linh Tố “ồ” một tiếng rồi nói:
– Tỷ ám khí thì cứ tỷ ám khí, việc gì Kha Tử Dung phải toe toe cái miệng?
Lúc này trên đại sảnh, mười mấy thứ ám khí cứ bay qua bắn lại nguy hiểm ghê người. Bọn Chu Thiết Tiêu gia tăng phòng bị thêm phần nghiêm mật để bảo vệ đại soái. Bọn quan lớn như An đề đốc cũng có những cao thủ phòng vệ bên mình. Bọn vệ sĩ chẳng những đề phòng tụ tiễn, phi tiêu do Kha Tử Dung phát xạ lạc đường làm tổn thương, mà còn sợ thích khách trà trộn vào đám quần hào thừa cơ phóng ám khí loạn xạ để hạ thủ Phúc Khang An.
Bỗng nhiên Trình Linh Tố khẽ nói:
– Gã họ Kha làm cho mình chán ngấy, phải đùa gã một phen để làm trò cười mới được.
Bỗng nghe Kha Tử Dung hô:
– Thiết lê tật đánh vai trái!
Trình Linh Tố bắt chước giọng nói của gã, hô lớn:
– Nhân bánh bao đánh vào miệng!
Tay mặt cô cầm dọc tẩu rút một hơi, rồi thuận đà vung tay lên, quả nhiên có một món ám khí nho nhỏ nhằm miệng Kha Tử Dung bắn tới. Món ám khí này phân lạng rất nhẹ bay lướt đi không gây tiếng động, nhưng trên đầu có một tia hỏa tinh. Tục ngữ có câu: “Nhân bánh bao đánh chó, có đi không về”.
Quần hào nghe câu: “Nhân bánh bao đánh vào miệng” đã tức cười, huống hồ cô lại bắt chước y hệt giọng nói của Kha Tử Dung, khiến mấy chục người bật cười ồ lên ra tiếng.
Kha Tử Dung thấy ám khí lạ vội giơ Tá tiễn thược lên đón cho chui vào gáo. Tay trái lão thò vào lượm lên toan phóng trả, đột nhiên nghe nổ đánh “đùng” một tiếng. Quản hào cả kinh thất sắc, còn Kha Tử Dung thì nhảy vọt người lên, bỗng thấy những mẩu giấy vụn bay tứ tung, mũi ngửi mùi tiêu hoàng khét lẹt. Món ám khí đó chính là viên pháo chuột của trẻ con đốt chơi ngày tết. Quần hào ngẩn người ra một chút rồi cả sảnh đường phá lên cười.
Kha Tử Dung để hết tinh thần vào Phụng Thiên Nam vì sợ hắn lén phóng vô ảnh ngân châm. Tuy bị chơi khăm vố này, lão cũng không dám nhìn ngang nhìn ngửa để tìm kẻ ném pháo, mà chỉ cất tiếng thóa mạ:
– Có giỏi thì ra mặt tỷ đấu, ai hoài công mà chơi trò trẻ nít với ngươi?
Trình Linh Tố đứng lên cười hì hì, chạy qua phía đông lấy một cây pháo châm ngòi, miệng hô:
– Đại thạch đầu, đả nễ đích thất thốn.
Người ta có câu “đả xà đả thất thốn”. Nguyên đối với loại rắn thì cách đầu bảy tấc là chỗ trí mạng, cô nói câu này có ý so sánh gã với loài rắn độc.
Mọi người đang cười lên hô hố thì thêm một viên pháo lại được ném ra. Nhưng lần này Kha Tử Dung không mắc bẫy nữa, mà Trình Linh Tố lại ném hơi sớm một chút, Kha Tử Dung búng một mũi táng môn đinh ra, đẩy cây pháo ngược lại cho nó “đùng” khoảng giữa không.
Trình Linh Tố lại ném một viên pháo nữa, miệng hô:
– Thách thanh bản, đả nễ đích ngạnh xác.
Cô có ý bảo gã là con rùa.
Kha Tử Dung nghĩ thầm:
– Ngươi muốn chọc giận ta để lão họ Phụng thừa cơ hạ thủ, nhưng đời nào ta lại mắc lừa ngươi?
Lão lại búng ra một cây táng môn đinh đẩy ngược viên pháo trở lại, để cho nó nổ ở giữa khoảng không.
An đề đốc vừa cười vừa la lên:
– Hai bên tỷ đấu, người ngoài không được phá rối.
Hắn thấy Kha Tử Dung phóng hai cây táng môn đinh, rớt sát vào cái kỷ trà đặt Ngọc Long bôi, liền bảo tên vệ sĩ đứng cạnh:
– Ngươi lại canh giữ ngự bôi, đừng để ám khí đánh bể.
Hai tên vệ sĩ “dạ” một tiếng rồi chạy lại đứng trước kỷ trà để giữ ngự bôi.
Trình Linh Tố cười hì hì quay về chỗ ngồi. Cô nói:
– Lão này rất cơ cảnh, mắc bẫy một lần rồi, lần thứ hai lão không chịu giơ tay đón pháo nữa.
Hồ Phỉ ngấm ngầm lấy làm lạ tự hỏi:
– Nhị muội đã biết rõ Phụng Thiên Nam là đối đầu với ta, sao còn đùa bỡn họ Kha, chẳng hiểu có dụng ý gì?
Kha Tử Dung thấy vẻ mặt mọi người đều đang cười thầm, nóng lòng vãn hồi thể diện, nên ném ám khí ra mỗi lúc một nhiều. Phụng Thiên Nam chân tay luống cuống thấy khó bề chống chọi, đột nhiên hắn vươn tay kéo mạnh đầu côn một cái. Kha Tử Dung tưởng hắn sắp phát ám khí liền tung người nhảy tránh. Chỉ thấy hắn kéo ra một vật gì đó, rồi thuận đà vung một cái. Vật kia bung ra như một cái dù, biến thành tấm thuẫn. Tấm thuẫn đó cực nhẹ lại cực mỏng, tựa hồ như tấm giấy. Mặt thuẫn đen sì, không hiểu dùng tóc người hay chất liệu gì khác để kết thành. Trên mặt thuẫn vẽ năm cái đầu hổ nhe nanh, dáng vẻ rất uy mãnh.
Quần hào nhìn thấy tấm thuẫn đều nghĩ:
– Y là chưởng môn nhân của Ngũ Hổ môn. Té ra tên gọi Ngũ Hổ môn là do tấm thuẫn bài này mà ra.
Phụng Thiên Nam một tay vung côn, một tay cầm lá thuẫn khiến cho bao nhiêu ám khí của Kha Tử Dung bắn tới đều bị ngăn lại. Những mũi cương tiêu, tụ tiễn, phi đao hay phi hoàng thạch tuy thế ném rất mạnh mà không sao đâm xuyên được tấm thuẫn mềm và nhẹ kia. Xem ra lá thuẫn được chế bằng một chất liệu rất kiên cố.
Hồ Phỉ thấy Phụng Thiên Nam rút lá thuẫn nhẹ nhàng ở trong cây côn ra liền tỉnh ngộ, tự mắng mình:
– Hắn ngầm giấu cơ quan trong cây đồng côn, việc đó rất rõ ràng mà sao lúc trước mình không đoán ra được? Những mũi ngân châm dĩ nhiên hắn để trong cây đồng côn. Lúc kịch đấu, hắn chỉ cần bấm nút cơ quan, ngân châm tự động bắn thì còn ai tránh kịp? Mọi người đều cho rằng muốn phát xạ ám khí nhất định phải động vai hoặc giơ tay lên, nhưng hắn chỉ cần bấm vào một vị trí nhất định ở cây côn là ngâm châm bắn ra, nên thần không hay, quỷ không biết.
Chàng hiểu rõ điểm này liền phần khởi tính thần, không còn úy kỵ nữa. Phụng Thiên Nam vừa đánh vừa lùi dần đến một cỗ ghế thái sư, bỗng nhiên Kha Tử Dung rú lên một tiếng thê thảm, còn Phụng Thiên Nam liền nổi tràng cười rộ. Kha Tử Dung lùi lại mấy bước đưa tay ôm bụng từ từ ngồi xuống không đứng lên được nữa. Phụng Thiên Nam cười hà hà, bước lại ngồi vào cỗ ghế thái sư.
Hai tên vệ sĩ tiến lại đỡ Kha Tử Dung, thấy lão nghiến răng rút mũi ngân châm ở bụng ra. Đầu châm nhuộm đầy máu tươi. Mũi ngân châm này tuy nhỏ, nhưng đâm trúng vào yếu huyệt làm cho lão bị thương khá nặng. Lão không đi được, phải do hai tên vệ sĩ nâng đỡ, lão lảo đảo người lui xuống.
Thang Bái đột nhiên khịt mũi cười lạt, nói:
– Dùng ám tiễn hại người, đâu phải là hảo hán!
Phụng Thiên Nam quay lại hỏi:
– Phải chăng Thang đại hiệp nói tại hạ?
Thang Bái đáp:
– Lão phu bảo những ai dùng ám tiễn hại người đều không phải hảo hán. Bậc đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc, sao lại dở trò giăng bẫy?
Phụng Thiên Nam đứng phắt dậy, lớn tiếng nói:
– Bọn tại hạ đã nói rõ là tỷ đấu ám khí. Đã gọi là ám khí mà còn quang minh nữa ư?
Thang Bái hỏi:
– Phải chăng Phụng lão sư muốn tỷ đấu với lão phu?
Phụng Thiên Nam đáp:
– Thang đại hiệp uy danh chấn động khắp thiên hạ, đời nào tiểu nhân lại dám mạo phạm. Phải chăng họ Kha là chỗ thâm giao với Thang đại hiệp?
Thang Bái sa sầm nét mặt nói:
– Đúng vậy! Kha gia ở Lan Châu quả có chút giao tình với lão phu.
Phụng Thiên Nam nói:
– Đã vậy tiểu nhân đành xả thân bồi tiếp bậc quân tử. Xin đại hiệp vạch đường cho.
Hai người càng nói càng găng, xem chừng sắp động thủ đến nơi.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Thang Bái tuy giao kết với bọn quan phủ nhưng còn biết lẽ thiện ác, đúng sai.
An đề đốc liền cười nói:
– Thang đại hiệp đang duy trì công đạo cho cuộc tỷ thí, bữa nay không nên phô trương thân thủ. Vài hôm nữa, tiểu đệ làm chủ sẽ mời Thang đại hiệp biểu diễn thần công cho anh em được đại khai nhãn giới.
Thang Bái cười đáp:
– Thang mỗ xin đa tạ rượu thưởng của đề đốc đại nhân trước.
Lão quay lại lườm Phụng Thiên Nam một cái, xách chiếc ghế của mình lên đập xuống đất rồi lùi cách xa Phụng Thiên Nam hơn, tựa hồ không muốn ngồi gần hắn. Mấy chỗ ghế dời đi để lộ ra bốn lỗ sâu hoắm in trên nền gạch xanh. Dưới ánh đèn sáng như ban ngày, những người đứng gần đều trông thấy rõ. Công phu này tựa hồ như không khó lắm, nhưng thực ra đó là nội công uẩn súc của mấy mươi năm tu vi. Trong nháy mắt, cả sảnh đường nổi lên tiếng hoan hô vang đội. Những người đứng phía sau không thấy, liền hỏi cơ sự rồi chen lên trước để xem.
Phụng Thiên Nam lạnh lùng nói:
– Công phu của Thang đại hiệp quả là ghê gớm, tại hạ có luyện hai chục năm cũng không bằng. Nhưng ngoài vòm trời này còn có vòm trời khác, trên người này còn có người khác. Đối với những tay cao thủ võ học chân chính thì cái đó cũng tầm thường, chẳng có chi kỳ lạ.
Thang Bái cười nhạt:
– Phụng lão sư nói không sai. Những bậc cao thủ võ học coi cái đó không đáng một xu. Có điều lão phu chỉ cần thắng được Phụng lão sư cũng là mãn nguyện lắm rồi.
An đề đốc cười nói:
– Hai vị còn đấu khẩu nhau làm chi? Trời sắp sáng rồi. Trong bảy chiếc ngự bôi thì sáu chiếc đã có chủ. Đêm nay chúng ta nhất quyết phân định danh phận cho những chiếc Ngọc Long bôi, còn Kim Phụng bôi và Ngân Lý bôi đành để đến tối mai. Bây giờ có vị anh hùng nào muốn lên tỷ thí với Phụng lão sư không?
Hắn hô liên ba lần mà trong đại sảnh vẫn yên lặng, không có ai trả lời.
An đề đốc quay lại nhìn Phụng Thiên Nam nói:
– Cung hỷ Phụng lão sư! Chiếc Ngọc Long bôi này thuộc về lão sư!
– Hãy khoan! Tại hạ còn muốn tỷ đấu với Phụng Thiên Nam!
Rồi một trung niên mặt đầy râu vàng tua tủa, tay không cầm vũ khí, nhảy ra.
Tên võ quan xướng danh hô:
– Đây là Trình Linh Hồ lão sư, chưởng môn Hoa Quyền môn ở Tây Nhạc.
Phụng Thiên Nam đứng lên hỏi:
– Trình lão sư dùng khí giới gì?
Hồ Phỉ sa sầm nét mặt, nói:
– Cái đó khó nói lắm.
Đột nhiên chàng uốn mình vọt lại trước mặt Điền Quy Nông đang ngồi trong chiếc ghế thái sư, hai ngón tay trái dùng chiêu “Song long thương châu” đâm thẳng vào mắt Điền Quy Nông. Diễn biến này vượt ngoài sự tiên liệu của mọi người. Điền Quy Nông giật mình kinh hãi, ứng biến rất thần tốc, vung hai tay lên phong tỏa chiêu số của đối phương. Không ngờ hắn đã mau lẹ, mà Hồ Phỉ lai càng mau lẹ hơn. Hai tay chàng khoanh một vòng biến thành thế “Hoài trung bão nguyệt”, chia ra đánh vào hai bên huyệt thái dương của hắn. Điền Quy Nông không kịp đứng dậy nghinh địch, phải đưa hai tay chống đỡ hai bên.
Hồ Phỉ thừa lúc hắn đưa hai tay chống đỡ hai bên để hở dưới nách, liền xoay tay chụp thanh bảo đao bên hông hắn đánh “soạt” một tiếng. Ánh thanh quang lấp loáng, bảo đao vào tay chàng rồi, Hồ Phỉ thuận tay xoay mình, chém cây đồng côn trong tay Phụng Thiên Nam. Thanh bảo đao đã sắc bén, chàng ra chiêu lại nhanh, chỉ nghe “chát, chát, chát” ba tiếng tiếp theo là hai tiếng “loảng xoảng”, cây thục đồng côn của Phụng Thiên Nam bị đứt hai đoạn ở quãng giữa, rơi xuống đất.
Nguyên chỉ trong nháy mắt, Hồ Phỉ đã chém ba đao mà Phụng Thiên Nam chưa kịp biến chiêu, cây côn trong tay hắn gãy làm bốn đoạn. Mỗi tay hắn còn nắm một đoạn đồng côn ngắn, tiên chẳng ra tiên, giản chẳng ra giản, thực bẽ bàng hết chỗ nói.
Phụng Thiên Nam bở vía, vội tránh sang bên ba bước.
Giữa lúc ấy Uông Thiết Ngạc đứng ngoài cửa sảnh đương hô:
– Tổng chưởng môn của chín môn phái rưỡi tới!
Hồ Phỉ giật mình ngoảnh đầu nhìn ra cửa sảnh lại càng kinh hãi đến ngẩn người. Chàng thấy một vị ni cô đang tiến vào, mình mặc áo đen, chân đi giày vải, tay cầm phất trần. Chính là Viên Tử Y! Đầu nàng không còn một sợi tóc nào, lại in giới ấn. Hồ Phỉ hai mắt hoa lên, e mình nhận lầm người, liến tiến lên một bước nhìn cho rõ. Chẳng phải là Viên Tử Y thì còn ai vào đó nữa?
Viên Tử Y hai tay chắp để trước ngực, buồn rầu nói:
– Tiểu ni là Viên Tính!
Hồ Phỉ ngớ cả người! Đột nhiên huyệt “Huyền khu” và huyệt “Mệnh môn” ở sau lưng đau thấu xương. Chân chàng bước lảo đảo, rồi ngã lăn ra. Thanh bảo đao trong tay thả rơi xuống đất.
Viên Tử Y tức giận quát:
– Dừng tay!
Cô vọt người lên đến phía sau Hồ Phỉ.
Từ lúc Hồ Phỉ đoạt đao, chặt côn, rồi tổng chưởng môn của chín nhà rưỡi xuất hiện, đến lúc chàng bị thương té xuống chỉ là diễn biến trong khoảnh khắc. Quần hào trong sảnh đường còn đang ngơ ngác thì bao nhiêu biến cố kỳ dị xảy ra.
Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ bị thương, trong lòng rất nóng nảy, vội nhảy xổ tới. Viên Tử Y cúi xuống toan ôm Hồ Phỉ lên thì thấy Trình Linh Tố đã nhảy vọt tới, nàng liền rụt tay về khẽ bảo cô:
– Trình muội mau bồng y qua một bên.
Tay mặt nàng cầm cây phất trần vung lại phía sau tựa hồ để ngăn chặn ám khí, che chở phía sau cho Hồ, Trình hai người.
Trình Linh Tố nửa ôm nửa đỡ Hồ Phỉ bước vội về chỗ ngồi, nước mắt đoanh tròng, cuống quít hỏi:
– Đại ca! Đại ca có làm sao không?
Hồ Phỉ nhăn nhó cười, đáp:
– Huyệt “Huyền khu” và huyệt “Mệnh môn” ở sau lưng trúng phải ám khí.
Lúc này Trình Linh Tố không còn tị hiềm nam nữ gì nữa, vội cởi áo trường bào và áo trong, quả thấy trên huyệt “Huyền Khu” và “Mệnh môn” đều thủng một lỗ nhỏ, máu tươi ứa ra. Ám khí đã đâm vào thấu xương.
Viên Tử Y nói:
– Đó là ngân châm, không có chất độc, đại ca cứ yên tâm.
Nàng giơ cây phất trần lên, rút ra một mũi ngân châm. Rồi nàng đặt cây phất trần vào huyệt “Huyền khu” của Hồ Phỉ khẽ nhấc lên, kéo theo một mũi ngân châm. Tiếp theo nàng lại rút nốt mũi ngân châm ở huyệt “Mệnh môn”. Nguyên trong đám sợi tơ ở phất trần có một khối đá nam châm rất lớn.
Hồ Phỉ ấp úng:
– Viên cô nương! Cô nương…Cô nương…
Viên Tử Y khẽ đáp:
– Tiểu muội đã lừa đại ca, là tại tiểu muội không tốt.
Nàng dừng lại một chút rồi tiếp:
– Tiểu muội xuất gia từ nhỏ, pháp danh là Viên Tính. Tiểu muội lấy họ Viên là họ của gia mẫu. Còn “Tử Y” tức là “truy y” (Áo nâu sòng).
Hồ Phỉ ngơ ngác nhìn nàng, Chàng không muốn tin nhưng thấy Viên Tử Y trước mặt mình rõ ràng là một vị ni cô. Lát sau chàng mới ngập ngừng hỏi:
– Sao…sao cô nương lại gạt tại hạ?
Viên Tính cúi đầu, hai mắt nhìn xuống đất khẽ đáp:
– Tiểu muội vâng lệnh sư phụ từ Hồi Cường xuống đến Trung Nguyên mà đi một mình, nếu ăn mặc theo kiểu ni cô thì dọc đường chỗ ăn chỗ ngủ có điều bất tiện, nên phải hóa trang làm người phàm tục. Mái tóc trên đầu tiểu muội cũng là tóc giả, ăn uống vẫn cữ đồ tanh, chắc đại ca không nhận ra được.
Hồ Phỉ chẳng biết phải nói sao, chỉ khẽ buông tiếng thở dài.
Lại nghe An đề đốc lớn tiếng hỏi:
– Còn vị nào muốn tỉ thí với Phụng lão sư ở Ngũ Hổ môn nữa không?
Lúc này Hồ Phỉ tầm thần hoảng loạn, những tiếng hô của An đề đốc bọt vào tai, mà chẳng nghe thấy. An đề đốc hô liền ba lần vẫn không thấy ai lên tiếng khiêu chiến với Phụng Thiên Nam, liền nhìn Phúc Khang An nói:
– Bẩm đại soái! Bảy chiếc Ngọc long ngự bôi thưởng cho bảy vị lão sư này?
Phúc Khang An nói:
– Hay lắm! Hay lắm!
Lúc này trời đã bình mình, ngoài cửa sổ ảnh sáng ban mài đã lờ mờ. Qua một đêm kịch đấu, bảy chiếc Ngọc Long bôi đã được quyết định xong.
Quần hào trong đại sảnh xôn xao nghị luận, mỗi người nói một câu:
– Còn chiếc Ngọc Long bôi bị Hồng Hoa hội cướp đi, chẳng hiểu có vị chưởng môn phái nào đủ bản lãnh đoạt lại chăng?
– Hừ! Dù bản lãnh cao cường đến đâu cũng chẳng thể đấu với Hồng Hoa hội được.
– Trần tổng đà chủ ở Hồng Hoa hội võ công tuyệt đỉnh, lại thêm Vô Trần đại nhân, Triệu Bán Sơn, Văn Thái Lai, Thường thị huynh đệ, đều là những nhân vật phi thường. Kẻ nào muốn đến đoạt lại ngọc bôi là không muốn sống nữa rồi.
Lại có người nhìn Viên Tính bàn tán riêng với nhau:
– Sao vị ni cô xinh đẹp kia lại làm tổng chuởng môn chín nhà rưỡi được? Nhất định y có tà môn.
– Cái gì mà chín nhà rưỡi? Không lẽ lạ có nửa vị là chưởng môn nhân ư?
– Nếu cô ta bản lãnh cao cường, sao lại không đến đoạt một chiếc Ngọc Long bôi?
– Hừ! Khi nào cô dám dây vào ngân châm của Phụng lão sư? Dù cây đồng côn của lão gãy làm bốn đoạn, vẫn có thể phóng ngân châm chuyển bại thành thắng mới thực là tài.
Mọi người không phục nói:
– Cái đó chưa chắc! Vị lão sư râu vàng của Hoa Quyền môn nghe tin tổng chưởng môn mười ba nhà tới, giật mình kinh hãi, vì y phân tâm nên mới bị đả bại bởi tay họ Phụng không thì chưa biết ai thắng ai.
Lại có người khác nói:
– Xem chừng Điền Quy Nông còn kém lắm. Vật báu trấn môn của Thiên Long môn mà hắn để người ta tay không đoạt mất, vậy mà vẫn mặt dày lượm đao về.
– Đúng quá! Hoa Quyền môn đương nhiên đánh thắng Thiên Long Môn.
An đề đốc đến bên trường kỷ, bưng một cái khay đi ra giữa sảnh đường dõng dạc hô:
– Vạn tuế gia ân điển, khâm thưởng Ngọc Long ngự bôi cho Đại Trí thiền sư chưởng môn phái Thiếu Lâm, Vô Thanh đạo nhân chưởng môn phái Võ Đang, Thang Bái chưởng môn Tam tài kiếm, Hải Lan Bật chưởng môn Hắc long môn, Điền Quy Nông chưởng môn Thiên Long Môn.
Lão nói tới đây dừng lại một chút nhìn Thạch tiên sinh hỏi:
– Thạch lão sư, đại danh của quý phái của lão sư là gì?
Thạch tiên sinh mỉm cười đáp:
– Thảo tự của lão phu là Vạn Sân, còn môn phái thì gọi là Dược Vương môn.
Hai chữ “Tạ ơn!” vừa nói ra, bọn Phúc Khang An và các quan viên đều đứng dậy.
Trong quần hào võ lâm người nào hiểu lễ mới đứng lên, còn phần đông vẫn ngồi yên, chờ đến khi một tên vệ sĩ hô lớn:
– Hãy đứng cả dậy!
Bấy giờ quần hào mới hấp tấp đứng lên. Đại Trí Thiền sư và Vô Thanh Tử theo quy củ của tăng, đạo mà hành lễ. Còn bọn Thang Bái, Hải Lan Bật đều quỳ xuống dập đầu.
An đề đốc chờ mọi người quỳ lạy xong nói:
– Cung hỷ! Cung hỷ!
Lão bưng khay đưa tới mọi người. Bọn Đại Trí Thiền sư bảy vị mỗi người thò tay ra lấy một chiếc Ngọc Long bôi. Đột nhiên bảy người cảm thấy tay mình chẳng khác gì chạm phải mảnh sắt nung đỏ, không thể nào cầm được đành phải nhất tè buông ra. Ngọc Long bôi loảng choảng rớt xuống gạch vỡ tan tành tạo nên một loạt âm thanh trong trẻo, giòn tan.
Biến cố này chẳng những bảy người cả kinh, thất sắc, mà từ Phúc Khang An trở xuống đều không khỏi bàng hoàng, tự hỏi:
– Cớ sao vậy?
Bàn tay bảy người vừa cầm ngọc bôi đều vừa nóng bỏng vừa sưng vù, đau rát cực kỳ khó chịu. Họ không ngớt chùi tay vào áo. Hải Lan Bật đưa ngón tay vào miệng mút cho đỡ đau. Đột nhiên lão rú lên một tiếng vì đầu lưỡi đau đớn kịch liệt.
Hồ Phỉ đưa mắt nhìn Trình Linh Tố khẽ gật đầu, bây giờ chàng mới hiểu rõ sự việc. Thì ra, trong trái pháo thứ hai ném vào Kha Tử Dung, cô đã ngầm nhét các loại độc được như Xích yết phấn. Pháo nổ ở trên bảy chiếc Ngọc Long bôi, độc phấn liền tan ra rớt vào các chung rượu. Cách bố trí của cô rất sâu xa, không hề để lộ chút dấu vết nào, bây giờ mới thấy công hiệu.
Lại thấy Trình Linh Tố cứ ngồi hút thuốc và nhả khói liên tục. Trên mặt cô chẳng lộ vẻ đắc ý chút nào. Tay trái cô ngầm giấu thuốc đưa cho Hồ Phỉ và Viên Tính mỗi người hai viên, nói khẽ:
– Nuốt đi!
Hai người biết cô hành động như vậy tất có thâm ý liền nuốt thuốc xuống.
Quần hào nhìn vào đống chén bể và bảy người kia, rất đỗi kinh ngạc, trong đại sảnh im phăng phắc.
Viên Tính đột nhiên đi vào giữa sảnh đường, tay cầm phất trần trỏ Thang Bái dõng dạc nói:
– Thang Bái! Đây là Ngọc Long bôi do đức Hoàng thượng ngự ban mà lão dám lớn mật làm càn, ngầm thi hành ngụy kế cho bể tan tành hết cả. Lão còn mưu việc bất đạo ngấm ngầm câu kết với bọn Hồng Hoa hội phá hoại cuộc đại hội chưởng môn trong thiên hạ của Phúc đại soái. Lão đã làm điều đại nghịch bất đạo, mục vô quân thượng thì anh hùng thiên hạ còn dung thứ thế nào được?
Mỗi câu mỗi chữ của nàng đều ngân vang lanh lảnh. Lần này giọng nói của nàng đã oai nghiêm chứa đầy đạo lý, lại bảo lão cấu kết với Hồng Hoa hội. Tất cả mọi người đang còn hoang mang ngơ ngác, nhưng nghe lời nàng chắc chắn như chém đinh chặt sắt, đúng là “tiên nhập vi chủ”, ai vào trước là giành thế chủ động, không lời nào là không nhắm vào Thang Bái.
Phúc Khang An căm giận vô cùng, vẫy tay một cái. Bọn Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu cùng các cao thủ vệ sĩ kéo đến bao vây Thang Bái.
Thang Bái tuy suốt đời trải qua chẳng thiếu gì cảnh sóng to gió lớn mà lúc này cũng sợ tái mặt. Lão vừa kinh hãi vừa tức giận, người run bần bật quát lớn:
– Con tiểu ni quỷ quái kia, sao ngươi dám mở miệng ăn nói càn rỡ để vu khống người khác?
Viên Tính cười lạt hỏi:
– Bần ni lại là người ăn nói càn rỡ ư?
Nàng quay lại nhìn Vương Kiếm Anh, nói:
– Bát Quái chưởng môn Vương lão sư!
Lại quay sang Chu Thiết Tiêu, hô:
– Ưng Trảo Nhạn Hành môn chưởng môn Chu lão sư! Các vị đều nhận ra tiểu ni là ai. Chức tổng chưởng môn của chín môn phái rưỡi thì tiểu ni không dám làm, nhưng tiểu ni là kẻ ăn nói càn rỡ hay là người có thân phận? Xin hai vị hãy nói cho một lời.
Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu từ lúc thấy Viên Tính tiến vào đại sảnh, trong lòng đã hồi hộp không yên. Chúng chỉ sợ nàng đem việc đoạt ngôi chưởng môn của mình nói huỵch toẹt ra. Chúng là hai vị thủ lãnh đội thị vệ kề cận Phúc Khang An có uy tín nhất, lại là những nhân vật tuyệt đỉnh của bọn võ sư trong thành Bắc Kinh. Nếu quần hùng biết rõ ngôi chưởng môn của chúng đã bị đoạt mất, thì còn mặt mũi nào?
Bây giờ nghe Viên Tính vặn hỏi mình là chưởng môn, lại nói “chức tổng chưởng môn của chín môn phái rưỡi thì tiểu ni không dám làm” là tỏ rõ đã đem những chức chưởng môn đoạt được trả về chủ cũ, họ chẳng khác gì bọn khâm phạm bị đem ra hành hình lại được hoàng thượng ban chỉ ân xá, nỗi mừng kể sao cho xiết? Viên Tính đã hỏi vậy, hai người nào dám trả lời trái ý cô. Huống hồ hai người sau khi nghe Viên Tính chỉ trích Thang Bái, cũng biết lão ngấm ngầm làm trò quỷ, không thì làm sao đột nhiên mọi người nhất tề ném bảy chiếc ngự bôi xuống đất vỡ tan?
Vương Kiếm Anh liền kính cẩn đáp:
– Lão nhân gia võ nghệ siêu quần, tại hạ rất lấy làm kính phục. Lão nhân gia còn khoan hồng đại lượng, đúng là nhân vật kiệt xuất trong võ lâm.
Chu Thiết Tiêu ngày trước bị nàng đả bại, tuy còn ôm lòng thù hận, nhưng bây giờ sợ nàng tiết lộ chuyện xấu của mình, cũng nói theo:
– Tại hạ tin rằng mọi lời nói lão nhân gia đều tin cậy, chỉ vì đại cuộc mà tôn trọng thể diện cho đồng đạo võ lâm. Trừ trường hợp bất đắc dĩ thì quyết chẳng đem tiết lộ những chuyện riêng tư của các nhân vật đã thành danh.
Lão nói mãy câu này sự thật là cầu xin nàng che giấu cho mình, nếu người ngoài nghe lại tưởng nói về Thang Bái.
Quần hùng thấy hai vị thủ lĩnh đội vệ sĩ thân tín nhất của Phúc Khang An nói vậy, thấy họ đối với vị ni cô trẻ tuổi này rất mực kính nể, một điều “lão nhân gia”, hai điều “lão nhân gia” thì còn hoài nghi gì nữa?
Phúc Khang An quát lớn:
– Bắt lấy hắn!
Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu và Hải Lan Bật đều nhất tề ra tay toan bắt Thang Bái, Thang Bái sử chiêu “Đại khuyến thủ” vận nội kình đẩy ba người ra, miệng hô lớn:
– Hãy khoan!
Rồi nhìn Phúc Khang An, nói:
– Phúc đại soái, tiểu nhân xin được cùng thị đối chất vài câu. Nếu thị đưa ra được bằng chứng chân thực, tiểu nhân cam tâm chịu tội, chết không oán hận. Bắng không thì chỉ là những lời ngậm máu phun người, tiểu nhân quyết không chịu phục.
Phúc Khang An biết Thang Bái là người có danh vọng, liền đáp:
– Được rồi! Ngươi cứ việc cùng y đối chất đi.
Thang Bái trợn mất nhìn Viên Tính, hỏi:
– Giữa ta và ngươi vốn không quen biết, sao ngươi lại cản trở vu hại ta? Thực ra, ngươi là ai?
Viên Tính đáp:
– Đúng! Ta với lão không quen biết cũng không thù oán, thì có lý nào tự nhiên vô cớ ta đổ oan cho lão? Nhưng ta có mối thâm cừu đại hận với Hồng Hoa hội. Lão đã uống máu ăn thề để gia nhập Hồng Hoa hội, lại còn trà trộn vào đại hội chưởng môn để quấy phá. Ta không vạch trần âm mưu ngụy kế của lão ra không được. Lão giao du rộng rãi kết bạn khắp thiên hạ, nhưng kết bạn với ai thì mặc, chẳng liên quan gì đến ta, còn giao kết với bọn phỉ đồ ở Hồng Hoa hội thì ta không thể dung thứ được.
Hồ Phỉ đứng một bên lắng nghe, trong lòng rất đỗi hoài nghi. Chàng đã biết Viên Tính cùng chúng anh hùng ở Hồng Hoa hội có mối quan hệ rất sâu xa, chàng lại biết rõ vụ bể ngọc bôi là do Trình Linh Tố ra tay, nhưng không hiểu tại sao Viên Tính lại vu hãm Thang Bái?
Trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, đột nhiên chàng nghĩ tới Viên Tính từng kể chuyện sau khi mẫu thân nàng bị Phụng Thiên Nam bức bách phải xa nhà ở Quảng Đông, sống nhờ ở nhà Thang Bái. Chẳng lẽ cái chết của mẫu thân nàng có liên quan đến Thang Bái?
Từ lúc con người mà Hồ Phỉ lúc nào cũng tâm niệm là Viên Tử Y biến thành Viên Tính ni cô, thì chàng thần hồn bất định, lòng dạ trăm mối ngổn ngang không sao trấn tĩnh được, cả hai vết thương đau nhói trên lưng cũng không còn nhớ tới.
Phúc Khang An mười năm trước đã từng bị quần hào ở Hồng Hoa hội bắt giữ, chịu đủ điều nhục nhã, trong lòng hắn vô cùng căm hận. Cuộc đại hội chưởng môn được tổ chức lần này cũng chính vì mục đích đối phó với Hồng Hoa hội. Hắn nghe Viên Tính nói vậy liền nghĩ ngay tới lão họ Thang thích giao kết với hào khách giang hồ, những nhân vật đầu não của Hồng Hoa hội lại là những kẻ kiệt hiệt trong võ lâm, nếu lão có kết giao với họ thì ta chẳng có chi là lạ, chứ lão không giao kết mới thật là kỳ.
Lại nghe Thang Bái bảo:
– Ngươi bảo ta giao kết với bọn phỉ đồ Hồng Hoa hội, thị có ai thấy không? Lấy gì làm bằng chứng?
Viên Tính nhìn An đề đốc, hỏi:
– Đề đốc đại nhân! Tên giặc Thang Bái kia có thư từ qua lại với bọn cầm đầu Hồng Hoa hội. Đại nhân có thể thiết pháp để điều tra xác định được bút tích chân giả chăng?
An đề đốc đáp ngay:
– Được! Được!
Hắn quay đầu dặn tên võ quan đứng bên mấy câu. Tên võ quan này chạy đến cái bàn vuông lật cuốn sách ra lấy ra một phong thư. Đây là thư của Thang Bái viết cho An đề đốc nhận lời tiến kinh phó hội và làm công chứng trong những cuộc tỷ võ ở đại hội.
Thang Bái chẳng sợ hãi gì, nghĩ thầm:
– Tuy ta kết giao rất rộng, nhưng hành động cẩn thận, cũng chẳng biết nhân vật nào ở Hồng Hoa hội. Cho dù tiểu ni cô này có giả tạo thư tín, thì bút tích chân ngụy chỉ cần đối chiếu là biết được ngay.
Hắn nghĩ vậy nên chỉ tủm tỉm cười lạt.
Viên Tính lạnh lùng hỏi:
– Cam Lâm Huệ thất tỉnh Thang đại hiệp! Trong cái mũ của đại hiệp có giấu vật gì không?
Thang Bái ngạc nhiên nói:
– Có gì à? Cái mũ là cái mũ.
Lão lấy cái mũ xuống, xem cả bên trong lẫn bên ngoài chẳng thấy có chi khác lạ. Muốn tỏ ra mình trong sạch, lão đưa mũ cho Hải Lan Bật. Hải Lan Bật coi xong lại chuyển cho An đề đốc.
An đề đốc coi kỹ rồi nói:
– Chẳng có gì cả.
Viên Tính nói:
– Xin đề đốc cắt mũ ra coi.
Theo phong tục người Mãn Châu, khi đi dự tiệc lớn, thì người ta thường mang theo dao, để gặp những miếng thịt lớn thì tự cắt lấy mà ăn. Bởi vậy An đề đốc cũng mang theo dao trong người. An đề đốc nghe nói vậy liền lấy dao ra cắt đường chỉ khâu, quả nhiên thấy trong mớ bông có giấu một lá thư. Lão “ủa” một tiếng rồi rút thơ ra.
Thang Bái tái mặt ấp úng:
– Cái này… cái này…
Lão không nhịn được muốn lại coi, nhưng Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu đã vung đao ra ngăn lại.
An đề đốc mở lá thư ra lớn tiếng đọc:
“Tại hạ là Thang Bái kính lạy dưới cờ Trần tổng đà chủ… việc được ủy thác dĩ nhiên tại hạ phải tận tâm kiệt lực, chết cũng cam lòng, nếu không thì lấy gì để báo đền ơn tri ngộ. Có điều kẻ kia mở đại hội mời chưởng môn nhân trong thiên hạ tập trung về một nơi, công cuộc phòng bị dĩ nhiên cực kỳ nghiêm mật. Nếu không may tại hạ phụ lòng ủy thác thì đành máu đổ đất kinh hoa, đem lá thư và cái mũ này để bái kiến minh công. Thuộc hạ ở kinh thành do thám được…”
Lão đọc tới đây vẻ mặt biến sắc, cầm thư đưa trình lên Phúc Khang An, Phúc Khang An đón lấy thơ coi thấy viết:
“… thân thế kẻ kia có nhiều điều bí ẩn. Khi nào tương kiến sẽ trình bày cặn kẽ đầu đuôi. Ngẩng đầu nhìn phía tây, mong chờ ngày rạng rỡ. Ngày nào bắt được y cầm tù lần nữa trên ngọn tháp Lục Hòa, lại giam kẻ kia vào Tử Cấm thành, há chẳng khoái ư!”
Phúc Khang An càng đọc càng cảm thấy tức lộn ruột. Nguyên mười mấy năm trước, Càn Long hoàng đế vi hành đến đất Hàng Châu bị quần hùng Hồng Hoa hội lập mưu bắt được, cầm tù trên ngọn tháp Lục Hòa. Sau lại bắt Phúc Khang An, giam trong Tử Cấm thành.
Hai vụ này là cái nhục lớn cho vua Càn Long và Phúc Khang An. Những quan viên cùng thị vệ ngày ấy biết vụ này đều bị nhà vua mượn cớ tru lục để diệt khẩu. Hai việc đó có quan hệ đến những điều bí mật giữa vua Càn Long và Tổng đà chủ Hồng Hoa hội là Trần Gia Lạc, nên hội này cũng giữ rất bí mật người giang hồ ít ai biết rõ hơn mười năm trời, vết thương lòng của Phúc Khang An đã nhạt dần, không ngờ trong lá thư này Thang Bái lại khui ra.
Phúc Khang An tự hỏi:
– Trong thơ hắn nói là do thám được thân thế bí ẩn của kẻ kia, không hiểu là những chuyện xấu xa gì?
Phúc Khang An là con tư sinh của vua Càn Long. Chỉ một chuyện này mà nhắc tới một câu là đủ phải mang họa sát thân diệt tộc rồi. Phúc Khang An tuy hết sức trấn tĩnh mà lúc này hắn quá tức mặt xám lại, tay run lẩy bẩy.
An đề đốc dâng lên bức thư kia của Thang Bái. Phúc Khang An tiện tay đón lấy coi lại thì nét chữ giống hệt nhau, đúng là một người viết.
Thang Bái thấy trong mũ mình giấu một lá thơ, sau một thoáng kinh hoàng liền tỉnh ngộ, biết là Viên Tính đã ngấm ngầm nhúng tay vào việc này. Chắc nàng mua một cái mũ giống hệt, nguy tạo một bức thư khâu vào trong rồi nhân lúc lão đi ngủ hoặc đi tắm rửa liền hoán đổi.
Lão nghe An đề đốc đọc nửa lá thư, sau lưng đã toát mồ hôi lạnh, biết ngay hôm nay đại họa lâm đầu. Lão lại thấy An đề đốc không dám đọc nửa sau mà đưa lại cho Phúc Khang An coi, thì không cần hỏi cũng biết là toàn những lời đại nghịch vô đạo. Lão nghĩ thầm:
– Muốn biện minh nỗi oan này chỉ có cách điều tra lai lịch của con tiểu ni cô kia.
Lão nhìn kỹ Viên Tính, bất giác cả kinh lẩm bẩm:
– Con nhỏ này coi rất quen mặt, trước nay mình đã từng gặp qua rồi.
Đột nhiên lão sực nhớ ra điều gì, ấp úng hỏi:
– Ngươi… ngươi là… con gái của Ngân Cô!
Viên Tính cười lạt đáp:
– Thế ra lão nhận được ta rồi!
Thang Bái hô lớn:
– Phúc đại soái! Cô này là cừu gia của tiểu nhân! Thị đặt cạm bẫy hãm hại tiểu nhân. Xin đại soái đừng tin thị.
Viên Tính nói:
– Không sai! Ta là cừu gia của lão. Mẫu thân ta cùng đường đến nương nhờ nhà lão. Không ngờ Thang đại hiệp mặt người dạ thú, thấy mẫu thân ta xinh đẹp liền dùng bạo lực xâm phạm tiết hạnh, khiến mẫu thân ta treo cổ lên xà nhà tự tử. Vụ này có đúng không?
Thang Bái biết mình thừa nhận việc xấu xa đó trước mặt anh hùng thiên hạ là mất hết thanh danh, không còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ. Nhưng sau khi cân nhắc, lão thấy nếu không nhận thì Phúc Khang An sẽ tin lời vu hãm của Viên Tính, nên đành gật đầu đáp:
– Đúng! Vụ đó quả có thực.
Quần hào trong đại sảnh xưa nay rất kính trọng Thang Bái, tưởng lão là tay đại hiệp cứu khốn phò nguy, giúp đỡ người trong cơn hoạn nạn. Họ nghe nói lão cấu kết với Hồng Hoa hội, nhưng quần hào trong Hồng Hoa hội đều là những bậc anh hùng mà bạn hữu võ lâm đều ngưỡng mộ, nên dù Thang Bái có gia nhập hội này cũng chẳng tổn thương gì đến hai chữ “đại hiệp”. Bây giờ nghe chính miệng lão thú nhận đã cưỡng gian nạn nữ khiến người ta phải tự tử, thì huyên náo cả lên. Không ít kẻ trực tính lập tức lên tiếng mắng nhiếc. Kẻ thì bảo lão là “ngụy quân tử”, kẻ thì bảo lão là “y quan cầm thú”! có kẻ lại bảo lão mang hai tiếng “đại hiệp” mà không biết xấu hổ.
Viên Tính chờ sự ồn ào lắng xuống, mới lạnh lùng nói tiếp:
– Ta muốn giết ngay tên cầm thú để trả thù cho vong mẫu, nhưng võ công lão mạnh quá không địch nổi, phải ngày đêm dòm qua cửa sổ hoặc ẩn trên nóc nhà dò xét hành động của lão. Ha ha! Trời cũng chiều lòng người, ta nghe được lão vẫn ngấm ngầm bàn bạc với bọn lãnh tụ phỉ đồ ở Hồng Hoa hội là Triệu Bán Sơn, Thường thị huynh đệ, Thạch Song Anh. Vừa rồi gã thiếu niên thư sinh đoạt chiếc Ngọc Long bôi là tên thư đồng Tâm Nghiễn của Tổng đà chủ Trần Gia Lạc, có đúng thế không?
Quần hùng nghe nói lại xôn xao một lúc.
Phúc Khang An lẩm bẩm:
– Gã đó đúng là Tâm Nghiễn. Gã lớn mật thật, không sợ ta nhận được!
Thang Bái hỏi lại:
– Ta nhận biết gã thế nào được? Nếu ta cấu kết với Hồng Hoa hội thì sao lại ra tay bắt gã?
Viên Tính cười khẩy đáp:
– Lão dàn xếp khôn ngoan lắm! Nếu ta không nghe được lão bí mật bàn bạc từ trước thì chẳng thể nào nghĩ tới lão mưu này. Ta thử hỏi: Thủ pháp điểm huyệt của Thang đại hiệp là môn công phu độc đáo. Mỗi khi lão ra tay điểm huyệt ai thì người ngoài không sao giải khai được. Vừa rồi lão điểm huyệt tên phỉ đồ ở Hồng Hoa hội, cớ sao đèn lửa nhà đại sảnh lại tắt sạch? Vì lẽ gì tên phỉ đồ kia được giải khai huyệt đạo rồi trốn đi?
Thang Bái há miệng quíu lưỡi, ấp úng đáp:
– Cái đó… cái đó là có người ngấm ngầm giải cứu.
Viên Tính lớn tiếng nói:
– Người ngấm ngầm giải cứu, ngoài Thang Bái đại hiệp, trong thiên hạ quyết không còn kẻ thứ hai nào. Lúc đó ngoài lão ra, có còn ai đứng bên cạnh gã thư sinh kia không?
Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh dị, bụng bảo dạ:
– Lời lẽ nàng rất sắc bén. Thang Bái có trăm miệng cũng khôn bề giải thích. Rõ ràng ta đã giải khai huyệt đạo cho gã thư sinh, nhưng ta chỉ giải khai một nửa, còn không hiểu ai đã ra tay, nhưng quyết không phải là Thang Bái.
Lại nghe Viên Tính nói tiếp:
– Phúc đại soái! Thang Bái đã ngấm ngầm bày mưu lập kế với bọn phỉ đồ Hồng Hoa hội, giả vờ bắt tên phỉ đồ Tâm Nghiễn để bên cạnh đại soái. Kế đó lại cho bọn khác quạt tắt đèn lửa để gã thư sinh thừa cơ nhốn nháo, tiến đến gần để hành thích đại soái. Chúng tiên liệu bọn vệ sĩ thấy thư sinh bị điểm huyệt không nhúc nhích được, dĩ nhiên không đề phòng gã hành thích. Không ngờ đại soái hồng phúc tầy trời, gặp hung hóa cát, bọn thị vệ lại dốc dạ trung thành, phòng vệ cực kỳ nghiêm mật. Đèn lửa tắt rồi, lập tức họ chạy đến bảo vệ đại soái thành ra gian tặc không thể thi hành gian kế được.
Thang Bái nạt lớn:
– Mi nói nhăng nói càn, làm gì có chuyện đó?
Phúc Khang An nghĩ lại tình trạng vừa qua rồi đối chiếu với những lời của Viên Tính mười phần đã tin cả mười. Hắn la thầm:
– Nguy hiểm quá!
Hắn lại nhìn Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu nói:
– Các ngươi giỏi lắm! Ta sẽ thăng quan cho!
Viên Tính thừa cơ hỏi:
– Vương đại nhân! Chu đại nhân! Có đúng gian kế của tặc tử như vậy không?
Vương kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu đều thầm nghĩ:
– Ta không thể đắc tội với vị ni cô này. Huống chi càng nói sự việc nguy hiểm thì công bảo vệ đại soái càng lớn, mình được phong thưởng càng nhiều.
Nghĩ vậy, một người liền đáp:
– Quả thực gã thư sinh muốn nhảy xổ về phía đại soái rất may là gã không thành công.
Còn người kia nói theo:
– Trong bóng tối, quả có người nhảy vọt lại, võ công rất lợi hại, bọn tiểu nhân phải liều mạng chống chọi… Không ngờ lại chính là Thang Bái, quả thật nguy hiểm phi thường.
Thang Bái không sao giải thích được, đành nhìn Viên Tính hỏi:
– Mi… mi toàn ăn nói hồ đồ! Vừa rồi mi không có mặt ở sảnh đường làm sao biết được?
Viên Tính không trả lời, quay lại nhìn Phụng Thiên Nam từ đầu đến chân. Phụng Thiên Nam là thân phụ nàng, có điều lão đã bức bách mẫu thân nàng phải điên đảo lưu ly, chịu trăm cay nghìn đắng, đến lúc chết cũng chẳng được yên lành. Nàng đã phát thệ cứu lão ba lần để trọn tình phụ tử rồi sẽ giết hắn báo thù cho vong mẫu. Nàng toan lôi cả Phụng Thiên Nam vào vụ này nhưng khi nhìn hắn thì trong lòng lại không nỡ, đâm ra do dự.
Thang Bái là một tên giảo quyệt, nhìn thấy mặt nàng lộ vẻ ngần ngại, là không ngớt nhìn Phụng Thiên Nam, liền động tâm tưởng đây là mưu của hắn.
Lão liền la lớn:
– Phụng Thiên Nam! Té ra người đã bày trò quỷ. Ngươi yêu cầu ta ngấm ngầm tương trợ lấy được Ngọc Long bôi, bây giờ lại bảo con gái ngươi đứng ra hãm hại ta.
Phụng Thiên Nam kinh ngạc hỏi:
– Con gái tại hạ ư? Thị… thị là con gái của tại hạ ư?
Quần hào nghe hai người đối đáp đều không khỏi kinh dị.
Thang Bái cưới lạt nói:
– Lão cứ giả ngây giả dại, làm như không biết đi! Lão hãy hỏi lại coi tiểu ni cô này có khác gì Ngân Cô ngày trước không?
Phụng Thiên Nam tròn mắt nhìn Viên Tính, sửng sốt không nói nên lời.
Hắn thấy Viên Tính tuy ăn mặc theo kiểu ni cô, nhưng mày thanh mắt sáng giống hệt Ngân Cô, con gái lão chài ngày trước.
Nguyên ngày trước Ngân Cô đem con gái từ trấn Phật Sơn trốn lên Hồ Bắc, vào nhà Thang Bái để làm tôi tớ. Thang Bái bề ngoài coi đạo mạo, ra dáng vẻ một bậc nhân nghĩa mà thực ra hành vi bất chính. Lão thấy Ngân Cô xinh đẹp liền cưỡng hiếp khiến nàng phẫn uất, phải treo cổ tự tử. Viên Tính được một vị ni cô có địa vị cực cao ở phái Nga Mi cứu, đưa về Thiên Sơn xuống tóc và dạy võ nghệ. Chỗ ở của vị ni cô này xa Thiên Trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu và quần hùng ở Hồng Hoa hội. Ngày ngày nàng chăm chú luyện tập võ nghệ. Thời gian cứ thấm thoát trôi qua. Viên Tính tư chất rất tốt, nguyên võ công của sư phụ truyền cho đã rất cao thâm, phức tạp, song nàng vẫn chưa lấy làm đủ. Cho nên mỗi lần gặp Viên Sĩ Tiêu, nàng cứ xoắn xít lấy vị quái hiệp này để xin học thêm một vài chiêu thức. Cả Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng cho đến Tâm Nghiễn ở Hồng Hoa hội đều truyền thụ võ công cho nàng chẳng nhiều thì ít.
Thiên Trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu tuổi già cảm thấy tịch mịch nên truyền thụ cho nàng rất nhiều. Viên Sĩ Tiêu đối với võ học trong thiên hạ có thể nói không có gì là không biết, huống gì còn có thêm gần chục vị minh sư dạy bảo, nên Viên Tính nắm rõ sở trường của các môn phái. Nàng lại là người thông mình cơ cảnh, biết dùng cái trí xảo để bù vào chỗ thiếu sót về công lực. Nếu không vì tuổi còn nhỏ, công lực tu vi còn nông cạn, thì nàng đã đạt đến trình độ của hạng nhất lưu cao thủ rồi.
Năm nay Viên Tính xin sư phụ xuống Trung Thổ để trả thù cho vong mẫu. Uyên ương đao Lạc Băng liền gửi nàng con tuấn mã để gặp Hồ Phỉ thì tặng cho chàng. Chỉ vì Triệu Bán Sơn ca ngợi Hồ Phỉ quá mức, mà Viên Tính còn đang tính thiếu niên nên không chịu phục, cho nên mới có chuyện hai người tỷ đấu mấy lần ở dọc đường. Không ngờ hai người gặp nhau rồi sinh lòng thương mến nhau, mối tình ngấm ngầm nảy nở. Viên Tính hiểu được điều này nên đâm ra kinh hãi, lòng đã rối như tơ vò, mà chẳng biết làm sao để nguôi khuây. Nàng phải tự ước thúc không dám gặp mặt chàng nhiều nữa mà chỉ ngấm ngầm theo dõi.
Sau này thấy Hồ Phỉ giao kết với Trình Linh Tố, nàng cảm thấy tự thương thân và cũng tự an ủi, vì mình đã là người ngoài vòng trần tục, suốt đời làm bạn với thanh đăng cổ Phật rồi. Ngày bái sư nàng đã lập lời trọng thệ làm người kế thừa y bát cho sư phụ. Ơn đức sư phụ sâu nặng, nàng quyết chẳng dám trái lời thề. Nàng thấy Trình Linh Tố thông minh, trí tuệ còn cao hơn cả mình, lại có mối thâm tình với Hồ Phỉ. Hồ Phỉ có cô làm bạn là điều rất tốt đẹp. Vì thế nàng lưu ngọc phụng tặng cô để thay lời nhắn nhủ xa xôi. Có điều lúc vắng người, nàng không khỏi âm thầm sa lệ.
Chuyến này nàng đông du để báo thù, mà kẻ thù chính là Can Lâm Huệ thất tỉnh Thang Bái. Nếu nàng ngấm ngầm hành thích hạ độc, thì chẳng khó gì, nhưng nàng thấy lão là người giả nhân giả nghĩa lại ham danh ham lợi, nên muốn lột mặt nạ lão trước thiên hạ anh hùng, rồi sau đó hạ sát mới hả dạ.
May gặp lúc Phúc Khang An triệu tập cuộc đại hội chưởng môn sai phái người đi khắp nơi để mời các vị chưởng môn nhân về dự hội, Viên Tính dò biết dụng ý của Phúc Khang An, một là muốn thu nạp những tay tuấn kiệt trên chốn giang hồ rồi dùng công danh, lợi lộc thao túng để đem họ đối phó với quần hùng Hồng Hoa hội, hai là tạo ra sự ly gián giữa các môn phái để họ tranh đấu lẫn nhau, không còn nghĩ đến việc phản kháng Mãn Thanh nữa.
Viên Tính trù tính kế hoạch rất chu đáo. Trước tiên là vạch trần chân tướng của Thang Bái trong đại hội chưởng môn, rồi sau đó mới giết hắn để báo thù cho mẫu thân. Nếu như trong đại hội chưởng môn mà làm náo loạn được một phen, khiến gian kế của Phúc Khang An bất thành, thì không chỉ giúp cho các vị thúc bá trong Hồng Hoa hội rảnh rỗi chân tay, báo đáp phần nào công ơn dạy dỗ, mà còn tạo phúc cho võ lâm trong thiên hạ nữa.
Tại nhà của Thang Bái ở Hồ Bắc thì môn nhân đệ tử đã đông, mà bọn hào khách vãng lai cũng không phải là ít, muốn trà trộn vào trong phủ không phải là chuyện dễ. Nhưng khi đến Bắc Kinh, Thang Bái một mình trú ở căn phòng hạng sang trong khách điếm, Viên Tính liền cải dạng nam trang ra vào, không ai để ý. Viên Tính ngấm ngầm nghe trộm, biết Thang Bái rất ham công danh, muốn thừa cơ xu phụ Phúc Khang An để mở rộng tiền đồ, nên nàng lập mưu ngụy tạo thư tín, đánh tráo cái mũ của lão.
Thêm vào Trình Linh Tố hạ thủ ngấm ngầm đưa đến vụ làm tan vỡ Ngự bôi, và Hồ Phỉ giải huyệt cho Tâm Nghiễn, khiến Thang Bái dù có miệng lưỡi của Tô Tần, Trương Nghi cũng chẳng có cách nào biện minh được.
Viên Tính toan kéo cả Phụng Thiên Nam vào vụ này để gây liên lụy cho hắn. Nhưng dẫu sao giữa hắn và nàng cũng có tình phụ tử, dù hắn là hạng người vô ác bất tác, đối với nàng chưa hề có một mảy may tình cảm, nhưng lời nói đến khóe miệng vẫn không sao thốt ra được.
Thang Bái lúc này lâm vào tình trạng kẻ sắp chết đuối, dù có vớ được nắm cỏ cũng phải giữ chẳng buông ra. Lão lớn tiếng quát hỏi:
– Phụng Thiên Nam! Ngươi hãy nói đi. Ngươi có công nhận thị là con gái không?
Phụng Thiên Nam từ từ gật đầu.
Thang Bái lại lớn tiếng:
– Phúc đại soái! Cha con y đã đặt cạm bẫy để hãm hại tiểu nhân.
Phụng Thiên Nam tức giận hỏi:
– Ta hãm hại lão để làm gì?
Thang Bái đáp:
– Vì ta bức tử vợ ngươi!
Phụng Thiên Nam cười lạt nói:
– Hà hà! Đứa con gái mà lão bức tử ai bảo là vợ ta? Phụng mỗ qua tay rồi bỏ. Hạng đàn bà như vậy…
Hắn nói tới đây, bỗng chạm phải mục quang lạnh lẽo của Viên Tính đang chăm chú nhìn, bất giác run lên không dám nói nữa.
Thang Bái hỏi:
– Được rồi! Cơ sự đã đến thế này, ta bất tất phải giấu giếm làm gì. Mũi vô ảnh ngân châm đó ngươi phóng hay ta phóng? Nếu ngươi phóng thì thử bắn ta một mũi coi.
Lão nói câu này, quần hào trong sảnh lại nhốn nháo cả lên.
Hồ Phỉ bị trúng châm sau lưng, sau khi định thần lại đã biết người phóng quyết chẳng phải Phụng Thiên Nam, vì lúc vung đao chặt đồng côn, chàng đứng đối diện với hắn, từ lúc Viên Tính tiến vào, chàng tâm thần hoảng hốt rồi sau lưng trúng phải châm, vậy nhất định là có người ở phía sau chàng bắn lén. Vừa rồi chàng nghe Thang Bái gây lộn với Phụng Thiên Nam đã nói “dùng ám tiễn hại người không phải là hảo hán” nên thủy chung không nghi ngờ lão. Chàng cho đó là hành vi của Hải Lan Bật hoặc của chưởng môn phái Võ Đương là Vô Thanh Tử. Ngờ đâu Thang Bái cùng Phụng Thiên Nam cố ý bày ra nghi trận để che tai mắt quần hùng.
Nguyên Phụng Thiên Nam từ trấn Phật Sơn chạy trốn mạn bắc. Khi qua Hồ Bắc, hắn có ở nhà Thang Bái mấy ngày. Tình cờ hắn nghe hai tên gia nhân trong nhà trò chuyện về phong thổ và tình hình ở trấn Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, bất giác khiến hắn để ý. Hắn liền thưởng chúng năm chục lạng bạc để hỏi căn do và thám thính chuyện Ngân Cô. Phụng Thiên Nam xem Ngân Cô khác nào đám mây qua mặt, xong việc rồi thôi chẳng hề để tâm đến và cũng không nói với Thang Bái.
Trên đường đến Bắc Kinh, hắn đã sắp xếp kế hoạch để lấy lòng Hồ Phỉ. Ruộng đất nhà cửa ở trấn Nghĩa Đường là của hắn tặng cho. Sau khi đến Bắc Kinh, hắn đã bỏ ra không ít tiền bạc để nhờ Chu Thiết Tiêu ra mặt hóa giải vụ này.
Nhưng Hồ Phỉ kiên trì giữ lòng nghĩa hiệp. Dù chẳng có thân thích hay quen biết gì với Chung A Tứ, chàng cũng theo dõi đến cùng không chịu bỏ dở. Phụng Thiên Nam nghĩ rằng nếu không trừ được Hồ Phỉ thì ăn ngủ không yên. Hắn liền bàn bạc với Thang Bái. Hắn sợ lão không chịu, liền thổi phồng câu chuyện, nói mục đích Hồ Phỉ đến Bắc Kinh là để quấy rối đại hội chưởng môn nhân. Ban đầu Thang Bái không chịu giúp, Phụng Thiên Nam liền nhắc lại câu chuyện Ngân Cô. Hắn nói bóng gió rằng nếu lão không chịu giúp, hắn sẽ tiết lộ vụ cưỡng bức Ngân Cô. Bằng lão chịu giúp hắn trừ khử Hồ Phỉ để hắn trở về trấn Phật Sơn chỉnh đốn lại cơ nghiệp, thì hàng năm hắn sẽ đưa tặng lão một vạn lạng bạc.
Thang Bái kết bạn rất nhiều, tiêu tiền cũng lắm. Lão muốn truyền bá tiếng nhân nghĩa, lại không thể làm tiền bằng cách mở sòng bạc hay công nhiên sang đoạt tiền tài của người khác như Phụng Thiên Nam được. Lão nghĩ Phụng Thiên Nam nói mỗi năm tặng một vạn lạng bạc thì không khỏi động tâm, lại sợ câu chuyện Ngân Cô bị lộ, liền ưng thuận giúp hắn.
Thang Bái là tay mưu kế sâu xa. Trong đế giày, lão đặt một cơ quan phóng ám khí cực kỳ tinh xảo để ngắm bắn ngân châm. Khi lão đi đường, đầu ngón chân không chấm đất, hễ đụng xuống là ngân châm phát xạ, đúng là vô ảnh vô tung không một ai hay biết.
Lão nghĩ rằng mình đã giúp Phụng Thiên Nam thì phen này giúp hắn đoạt lấy một chiếc Ngọc Long bôi đem về Phật Sơn, uy danh lừng lẫy thiên hạ, tất hàng năm hắn còn thù lao nhiều hơn chứ không phải chỉ có một vạn lạng.
Phụng Thiên Nam liên tiếp đánh bại được bao nhiêu cao thủ trong đại hội toàn là nhờ Thang Bái ngầm phóng ngân châm vào đối thủ. Mũi châm đã nhỏ, kỹ thuật phát châm bằng chân của lão xảo diệu phi thường, nên trước bao cặp mắt của quần hùng vẫn không một ai phát giác. Ngay cả Trình Linh Tố là người rất tinh tế mà cũng không sao lần ra manh mối.
Dè đâu lại xảy ra biến cố bất ngờ, bỗng dưng có một vị tiểu ni cô tiến vào đại hội. Nàng buộc chặt lão vào tội trạng không đường chối cãi. Trong lúc nguy cấp, tự nhiên lão phát giác ni cô là con gái Phụng Thiên Nam thì không suy nghĩ gì nữa, liền nói huỵch toẹt ra. Lão cho rằng việc bức tử một người đàn bà yếu ớt và ám trợ cho Phụng Thiên Nam trong lúc tỷ đấu còn là tội nhẹ, nhưng câu kết với Hồng Hoa hội, mưu đồ phản nghịch là tội cực lớn. Lão cân nhắc nặng nhẹ, liền phản kích cha con Phụng Thiên Nam.
Phụng Thiên Nam vừa nghe Thang Bái tố cáo đã biết ngay chỗ dụng tâm của lão. Hắn lớn tiếng:
– Ta biết lão cấu kết với Hồng Hoa hội, mưu đồ phản nghịch. Lão tưởng ngấm ngầm phóng ngân châm tương trợ để lấy lòng là mong ta không tiết lộ cho đại soái. Hà hà! Nhưng Phụng Thiên Nam này tấc dạ sắt son, tận trung báo quốc, có lý đâu để cho bọn gian tặc như lão mua chuộc.
Thang Bái nghe hắn quay đầu lại cắn mình, nếu còn để hắn nói nhiều thì mình càng nặng tội. Trong cơn phẫn nộ, lão dí hai chân xuống. Bốn mũi ngân châm đồng loạt bắn vào bụng Phụng Thiên Nam.
Phụng Thiên Nam rú lên một tiếng, đưa tay ôm bụng, cong gập người lại rồi té huỵch xuống.
Viên Tính vội chạy lại nâng hắn dậy, miệng la:
– Gia gia! Gia gia… có sao không?
Bọn Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu thấy lúc này mà Thang Bái còn hành hung, liền nhất tề xông lại bắt lão.
Thang Bái không phản kháng, chỉ la lớn:
– Oan uổng! Oan uổng! Oan nghiệt! Oan nghiệt!
Lão biết Khang An tính rất đa nghi. Dù có đem việc này phân rõ đầu đuôi hắn cũng không bỏ qua cho lão. Huống chi án nặng như non, có biện minh cách nào cũng không ổn. Chẳng qua đời lão làm ác đã nhiều, đến lúc này phải gặp quả báo.
Viên Tính đỡ Phụng Thiên Nam dậy, nhưng hắn nhắm nghiền hai mắt và đã tắt thở rồi. Trong sảnh đường rối loạn cả lên, chẳng ai nói ai nghe gì nữa.
Phúc Khang An nghĩ bụng:
– Thang Bái tất còn người đồng mưu. Tiểu ni cô kia biết rõ những lời trong thơ của hắn. Tuy thị đã tiết lộ gian mưu, nhưng không thể để thị sống cho tin này đồn đãi ra ngoài được.
Hắn nghĩ vậy liền khẽ bảo An đề đốc:
– Đóng hết cửa lớn lại, không cho một ai ra, để chúng ta mở cuộc điểm vấn từng người.
Hồ Phỉ thấy tình thế nguy cấp, vọt đến bên Viên Tính, khẽ bảo nàng:
– Chuồn đi cho lẹ! Nếu còn chậm trễ là hết đường thoát thân.
Viên Tính gật đầu. Hai người chạy đến bên Trình Linh Tố. Viên Tính đột nhiên đưa tay ra điểm vào dưới hông Thái Uy, rồi lại điểm hai huyệt đạo trọng yếu trên vai và sau lưng hắn. Thái Uy lập tức ngã lăn ra.
Cơ Hiểu Phong sửng sốt hỏi:
– Ngươi…
Viên Tính nói:
– Hồ đại ca! Gã này tiết lộ cơ mật, hắn ngấm ngầm đưa hai đứa con của Phúc Khang An về trả lại.
Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng, tức giận hỏi:
– Hắn khả ố đến thế ư?
Chàng giơ gót chân nện xuống lưng Thái Uy. Phát cước này tuy chưa làm hắn chết ngay nhưng bị tổn thương can mạch, không khác gì phế nhân. Đang lúc rối loạn, hai người đối phó với Thái Uy mà không ai hay.
Hồ Phỉ quay sang Cơ Hiểu Phong, nói:
– Cơ huynh mau chạy đi. Xin chân thành cảm tạ. Bọn ta sau này có ngày gặp lại.
Cơ Hiểu Phong thấy tình thế rối loạn, liền chắp tay bái biệt rồi cướp đường chạy ra phía cửa sảnh.
Bỗng nghe An đề đốc lớn tiếng nói:
– Các vị ở đâu về ngồi chỗ đó, không được náo loạn!
Trình Linh Tố cầm ống thuốc hút thở ra mấy hơi. Cô lại chạy qua mé hữu, mé tả, vừa hút vừa thở khói. Cô vừa nhả khói, lại vừa nhón chân xem cảnh náo nhiệt.
Bỗng có tiếng la:
– Trời ơi! Đau bụng quá!
Tiếng la vừa dứt thì bốn phía đều có tiếng người la theo:
Cả Thạch Vạn Sân tuy xưng là “Độc Thủ Dược Vương” cũng nổi cơn đau bụng, vội lấy một bó dược thảo đốt lên. Nguyên đây là dược thảo để giải độc. Trình Linh Tố đã tiên liệu chuyện này sẽ xảy ra. Có liền lẩn vào đám đông miệng hô:
– Độc Thủ Dược Vương phóng độc! Độc Thủ Dược Vương phóng độc!
Hồ Phỉ cũng la theo:
– Mau mau kiềm chế hắn đi! Độc Thủ Dược Vương định hạ độc giết Phúc đại soái!
Trong lúc rối ren, bọn vệ sĩ còn biết chất độc ở đâu ra? Chúng đã bị uy danh của Độc Thủ Dược Vương làm chấn động, liền cho là hắn hạ độc thật. Huống chi bọn chúng đã đau bụng không chịu nổi, lại nhìn thầy bó dược thảo trong tay lão tỏa khói nghi ngút nên cho rằng khói đó độc hại vô tỷ, hít nhầm phải chết nên không ai dám đến gần.
Những tiếng vèo vèo vang lên không ngớt. Từ tứ diện bát phương ám khí bắn vào Thạch Vạn Sân không ngớt. Bản lãnh Thạch Vạn Sân tuy rất cao thâm, nhưng chỉ trong chớp mất đã thành cái đích cho bao nhiêu mũi tên bắn vào. Trong lúc lâm nguy vẫn không rối loạn, lão lún thấp người xuống lật một cái bàn dài để ngang trước mặt. Ám khí bắn đồm độp vào mặt bàn nghe rào rào như một trận mưa đá. Lão lớn tiếng hô hô:
– Có kẻ bỏ chất độc vào trà rượu, chứ có liên quan gì đến lão phu đâu?
Trong bọn hào khách giang hồ đến phó hội, nhiều người e ngại Phúc Khang An nhân cuộc đại hội này bày ra âm mưu độc kế, quăng một mẻ lưới để quét sạch các cao thủ võ lâm. Nên biết “Nho dĩ văn loạn pháp, hiệp dĩ võ phạm cấm”, đạo quân thần xưa nay nếu không tung ra mẻ lưới quét hết nhân tài văn võ để sử dụng, thì phải dùng búa rìu mà giết sạch, để họ khỏi lưu hậu loạn trong nhân gian và làm thiên hạ phải rúng động. Nên khi Thạch Vạn Sân nói “có kẻ bỏ chất độc vào trà rượu”, thì tất cả đều sợ hãi rụng rời. Còn chính Phúc Khang An và bọn vệ sĩ có trúng độc thật không, thì người ngoài làm sao mà biết được?
Trong đại sảnh đã rối loạn càng thêm rối loạn. Nhiều người khẽ gọi:
– Chạy cho mau! Chạy cho mau! Phúc đại soái muốn hạ độc giết hết bọn ta!
– Muốn toàn mạng phải trốn ngay!
– Mau về chỗ ở tìm thuốc giải!
Trình Linh Tố hút thuốc vào thở khói độc ra, mọi người trong đại sảnh này chẳng một ai thoát khỏi. Khói độc này không đến nỗi làm chết người, nhưng hít vào là nhức đầu đau bụng đến quá nửa giờ mới hết.
Đòn này của cô thật là lợi hại. Chẳng những làm cho bọn vệ sĩ nghi Thạch Vạn Sân hạ độc, mà còn khiến quần hào tưởng là Phúc Khang An ám hại. Trong lúc đại loạn, cô cùng Hồ Phỉ và Viên Tính mới có thể thừa dịp thoát thân.
Quần hào tới tấp chạy ra cửa. Nhưng Viên Tính cùng Thang Bái lại khai diễn một cuộc trận kịch đấu.
Nguyên Thang Bái nhân lúc hỗn loạn liền đánh ngã các tên vệ sĩ giữ lão để toan đào tẩu, nhưng Viên Tính đã xông ra chặn đường. Thang Bái là người gian ác, song võ công tu vi cực cao. Lão căm hận Viên Tính đã âm mưu vu hãm mình nên vung cây thanh cương kiếm ra chiêu rất lợi hại, nhằm những yếu huyệt của Viên Tính đâm tới. Viên Tính tay trái cầm phất trần, tay mặt vung nhuyễn tiên, muốn đánh chết lão để báo thù cho mẫu thân.
Nói về võ công thì Viên Tính thắng thế nhờ tiên pháp tinh diệu nhưng nội lực của Thang Bái lại thâm hậu hơn nhiều. Trong vòng một vài trăm chiêu khó phân thắng bại, nhưng nếu trận đấu kéo dài thì Thang bái lại chiếm thế thượng phong, song Thang Bái cũng hít phải khói độc, bụng đau kịch liệt.
Lão cho là mình trúng chất độc lợi hại nên không dám kiệt lực phấn đấu, sợ độc tính phát tác mau lẹ. Huống chi lão còn bị bọn thị vệ gằm ghè, nếu chúng không đau bụng thì đã xông vào cả rồi.
Lão thấy tiên pháp của Viên Tính tinh điệu phi thường, trong lúc nhất thời không thể giết chết nàng được, trong lòng càng hoảng loạn, liền ngóng tìm đường thoát thân. Nhưng Viên Tính đời nào để lão chạy trốn?
Nàng đã được Trình Linh Tố cho uống thuốc giải trước nên không sợ khói độc. Có điều nàng vẫn sợ vô ảnh ngân chăm ở chân lão phóng ra, nên cũng có đôi phần úy kỵ. Dù trước khi đến đây nàng đã chuẩn bị. Trong cây phất trần có một viên đá nam châm rất lớn chuyên phá các loại châm bằng kim loại, nhưng ngân châm nhỏ quá mà lại phóng ra vô ảnh vô hình nên nàng không dám xáp vào gần, chỉ vung nhuyễn tiên từ xa đánh tới.
Lúc này bọn Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu đã hộ vệ Phúc Khang An vào hậu đường. Phúc Khang An hạ lệnh đóng chặt cổng phủ không cho ai ra khỏi. Một mặt hắn sai người triệu thái y tới giải độc.
Quần hào thấy bọn vệ sĩ muốn đóng cổng phủ lại càng tin là Phúc Khang An cố ý gia hại. Lúc này lâm vào cảnh sinh tử quan đầu, sống chết gần kề nhau, mọi người chẳng ai lo đến tội “phạm thượng tác loạn” nữa, mà cứ ùn ùn xông ra như ong vỡ tổ. Bọn vệ sĩ giơ binh khí lên cản lại, nhưng quần hào cũng phản kích để xông ra cửa.
Từ nhà đại sảnh đến cổng phủ phải qua ba lần cửa, mỗi lần cửa đều vang lên những tiếng động chát chúa của hai bên đánh nhau kịch liệt. Lần đại hội này tụ tập toàn những cao thủ của các môn phái, dù các bậc cao sĩ hạng nhất không phó hội, nhưng những kẻ đến dự đều không phải hạng tầm thường. Bọn họ đồng tâm hiệp lực xông ra thì bọn vệ sĩ làm sao ngăn cản nổi?
An đề đốc vừa ôm bụng vừa nhìn bọn Đại Trí Thiền sư, Vô Thanh Tử, Hải Lan Bật, Điền Quy Nông nói:
– Bọn gian nhân phá rối. Xin các vị cứ ngồi yên. Phúc đại soái quý trọng người tài, cầu hiền như khát nước. Ngài đối với các vị một lòng kính nể. Các vị chớ có hoài nghi.
Hải Lan Bật đáp:
– Lão họ Thang là kẻ đầu sỏ. Hãy bắt hắn rồi sẽ tính sau.
Lão rút cặp Hắc Long trượng ở bên mình ra bước đến giữa tòa sảnh, muốn tấn công Thang Bái.
Hồ Phỉ thấy Viên Tính đánh mãi không hạ được Tháng Bái, mà chần chờ ở trong phủ khắc nào là nguy hiểm khắc ấy. Dù trong mình bị thương, chàng chẳng nghĩ gì đến thương thế, rút đơn đao sấn lại giáp công.
Thang Bái lớn tiếng quát:
– Hãy coi ngân châm của ta đây!
Hồ Phỉ, Viên Tính, Hải Lan Bật đều kinh hãi, ngưng thần đề phòng.
Thang Bái đột nhiên nhảy lên, phá tung cửa sổ chuồn ra ngoài. Viên Tính và Hồ Phỉ tung mình vọt theo. Bỗng thấy ngân quang lấp loáng, một đám ngân châm bắn tới. Hồ Phỉ lăn mình đi tránh khỏi. Viên Tính múa cây phất trần để đón các mũi ngân châm bắn tới mình. Chỉ chậm lại có một chút mà Thang Bái đã trốn đi không biết đằng nào.
Bỗng nghe những tiếng la oai oái cùng tiếng “binh, binh”. Ba tên vệ sĩ trên nóc nhà rớt xuống. Chúng định cản trở Thang Bái nhưng bị lão đâm kiếm té nhào.
Trình Linh Tố la:
– Y là hung thủ hạ độc giết Phúc đại soái, sao các ngươi không bắt lấy?
Bọn vệ sĩ thất kinh tự hỏi:
– Phúc đại soái bị hạ độc chết rồi ư?
Trình Linh Tố kéo tay áo Viên Tính và Hồ Phỉ, khẽ nói:
– Chạy mau!
Ba người liền xông ra cửa sảnh đường.
Lúc qua cửa, Hồ Phỉ và Viên Tính bất giác quay đầu lại nhìn, thấy thi thể của Phụng Thiên Nam bị người ta dày xéo lên, Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Hắn một đời làm ác, bữa nay gặp quả báo đây.
Viên Tính trong lòng rối loạn, la thầm:
– Y làm khổ má má tội nghiệp của ta, nhưng y… y lại là… gia gia ta.
Ba người chạy đến cửa, mấy tên vệ sĩ lại cản trở. Viên Tính vung nhuyễn tiên đánh ngã một tên, Hồ Phỉ vung tay trái đánh vào vai tên kia khiến gã bay ra xa mấy trượng. Tiếp theo chàng tung chân phải đá văng nốt một tên nữa.
Lúc này trời đã sáng tỏ. Ngoài cổng phủ viện binh ùn ùn kéo đến. Ba người liền ẩn vào trong ngõ hẻm.
Hồ Phỉ hỏi:
– Mã cô nương bị cướp mất con, không biết bây giờ ra sao?
Viên Tính đáp:
– Lão họ Thái sai người đem Mã cô nương và hai đứa nhỏ giao trả Phúc Khang An. Tiểu muội gặp ở dọc đường cản lại, nhưng chỉ cứu được Mã cô nương.
Hồ Phỉ nói:
– Thế cũng là tốt lắm rồi. Đa tạ tiểu muội!
Viên Tính nói:
– Vì tiểu muội còn đem Mã cô nương đến ẩn náu ở tòa phá miếu phía Tây thành, vừa đi vừa về nên đến chậm.
Hồ Phỉ trầm ngâm, hỏi:
– Làm sao gã Thái Uy đó biết được chân tướng của Mã cô nương, chẳng lẽ chúng ta để lộ sơ hở ư?
Trình Linh Tố nói:
– Nhất định lão đã lén lút tra hỏi Mã cô nương. Mã cô nương đang lúc nửa mê nửa tỉnh nên nói cả ra.
Hồ Phỉ nói:
– Chắc là vậy. Sao Phúc Khang An không hạ lệnh bắt tiểu huynh trong đại hội?
Viên Tính nói:
– Nếu Trình gia muội tử không thi hành xảo kế thì e rằng chúng ta khó lòng bình an thoát ra cửa phủ.
Hồ Phỉ gật gù đáp:
– Bữa nay chúng ta phá rối cuộc đại hội của Phúc Khang An, khiến ý đồ của hắn tan tành mây khói, chỉ tiếc một điều là để Thang Bái chạy thoát.
Chàng quay sang Viên Tính nói tiếp:
– Tên ác tặc đó đã thân bại danh liệt, cô… cô nương đã báo thù được một nửa rồi. Chúng ta cần hợp lực truy tầm hắn đến tận chân trời góc biển.
Viên Tính vẻ mặt buồn rầu không nói gì nữa. Nàng tự nhủ:
– Ta là người xuất gia, bây giờ thân phận đã rõ ràng rồi thì làm sao cùng ở lâu với y được.
Trình Linh Tố nói:
– Lát nữa cổng thành sẽ đóng để quan quân tra xét, rất khó thoát. Chúng ta phải gấp rút đi ngay mới được.
Ba người chạy về chỗ ở, lấy đồ tùy thân và dắt con bạch mã của Lạc Băng tặng cho chạy đi.
Trình Linh Tố cười nói:
– Hồ đại gia! Đại gia được tòa nhà lớn, bây giờ đành bỏ lại cho Chu đại nhân!
Hồ Phỉ cười đáp:
– Hắn đã giúp chúng ta không ít. Để hắn thăng quan rồi phát tài luôn thể.
Tuy chàng nói cười, song thủy chung ánh mắt vẫn không dám nhìn vào Viên Tính.
Ba người biết rõ truy binh sắp kéo đến nên không dám nấn ná trong nhà nữa mà kéo nhau chạy ra cổng thành. May mà lệnh đóng cổng thành chưa truyền tới đây. Ra khỏi thành rồi, Viên Tính liền dẫn đường đến tòa phá miếu đón Mã Xuân Hoa.
Tòa phá miếu này nằm cách xa đường lớn, tường xiêu ngói bể, trông rất tồi tàn. Thần tượng trong đại điện mặt xanh đầu lõm, sau lưng đầy lá cây, tay cầm nắm cỏ xanh đút vào miệng. Nguyên đây là tượng Thần Nông nếm bách thảo.
Viên Tính nói:
– Trình gia muội tử! Đã về quê cũ của muội rồi đó. Đây là tòa Dược Vương miếu.
Ba người tiến vào sương phòng thấy Mã Xuân Hoa nằm trong đống rơm, thoi thóp thở.
Nàng nhìn ba người mà không nhận ra, miệng không ngớt gọi khẽ:
– Con ta đâu! Con ta đâu rồi?
Trình Linh Tố chẩn mạch rồi vạch mắt nàng ra xem. Đoạn ba người len lén ra khỏi sương phòng, quay lại điện thờ.
Trình Linh Tố khẽ nói:
– Không xong rồi! Y đã dao động thần trí, lại trải qua một phen kinh hãi, giờ phải chịu thêm cảnh mất con, không thể sống được đến ngày mai. E rằng gia sư có sống lại cũng không cứu được.
Hồ Phỉ nhìn Mã Xuân Hoa, dù Trình Linh Tố không nói chàng cũng biết tánh mạng nàng nguy khốn trong khoảnh khắc. Nhớ tới mối thâm tình ngày trước ở Thương gia bảo, chàng không khỏi rưng rưng nước mắt. Từ lúc thấy Viên Tử Y biến thành ni cô Viên Tính trong phủ Phúc Khang An, chàng đã uất ức nghẹn ngào. Bây giờ nước mắt trào ra, lại càng xúc động, chàng không nhịn được, bật lên tiếng khóc nghẹn ngào.
Trình Linh Tố và Viên Tính làm gì chẳng hiểu rõ mối thương tâm của chàng.
Trình Linh Tố nói:
– Tiểu muội lại vào xem Mã cô nương xem sao.
Cô từ từ cất bước đi vào.
Viên Tính nghe tiếng khóc vành mắt cũng đỏ hoe. Cô cất giọng run run nói:
– Hồ Đại ca! Đa tạ đại ca đã đối đãi với tiểu muội bằng một tấm… một tấm…lòng…
Nàng nói đến đó rồi không biết phải nói tiếp sao nữa.
Hồ Phỉ hai mắt đẫm lệ ngửng đầu lên, ấp úng hỏi:
– Cô nương…cô nương không thể… không thể hoàn tục được sao? Chờ sau khi giết lão họ Thang rồi, mối đại cừu của cha mẹ trả xong, thì chẳng cần phải làm ni cô nữa?
Viên Tính lắc đầu đáp:
– Đại ca chớ thốt ra những lời tiết mạn đức Phật. Ngày trước tiểu muội đã lập lời trọng thệ trước mặt sư phụ, quy y Phật tổ, đã gửi mình vào chốn cửa thiền mà còn nghĩ đến chuyện khác là đã phạm giới. Huống chi…
Nói tới đây, nàng buông một tiếng thở dài.
Hai người ngơ ngác nhìn nhau hồi lâu, trong lòng muốn nói hàng vạn ngàn lời nhưng không biết mở đầu ra sao. Viên Tính khẽ nói:
– Trình cô nương là người rất tốt, đại ca nên đối xử tử tế với y. Từ nay đại ca đừng nghĩ đến tiểu muội nữa. Tiểu muội cũng vĩnh viễn không nhớ tới đại ca.
Hồ Phỉ lòng đau như cắt, đáp:
– Không, tiểu huynh vĩnh viễn không quên được Viên muội.
Viên Tính nói:
– Tự rước đau khổ, nào có ích gì?
Nàng nghiến răng quay gót trở ra cửa điện.
Hồ Phỉ chạy theo, giọng run run hỏi:
– Viên… Viên muội đi đâu vậy?
Viên Tính đáp:
– Đại ca hà tất phải bận tâm đến tiểu muội. Hãy trở lại thời kỳ trước đây một năm. Đại ca không biết trên đời này có tiểu muội, tiểu muội cũng không biết trên đời này có đại ca. Như thế há chẳng hay hơn sao?
Hồ Phỉ sững sờ nhìn nàng phiêu nhiên cất bước mỗi lúc một xa dần. Thủy chung nàng không quay đầu nhìn lại. Hồ Phỉ thân hình loạng choạng không đứng vững, phải ngồi xuống phiến đá lớn ngoài miếu, chăm chăm nhìn theo hướng Viên Tính đã đi qua; chỉ thấy một con đường nhỏ um tùm cỏ dại, trên bụi vàng còn lưu thấp thoáng dấu chân nàng. Đầu óc chàng trống rỗng, tựa hồ đang nghĩ đến hàng trăm ngàn việc, mà rút cục chẳng nghĩ được việc gì.
Không hiểu thời gian trôi qua đã bao lâu, đột nhiên trên đường nhỏ phía trước văng vẳng có tiếng ngựa vọng lại. Hồ Phỉ liền đứng phắt dậy. Trong lòng chàng chợt lóe lên một ý nghĩ:
– Nàng đã quay trở lại!
Nhưng lập tức chàng nhận ra mình nghĩ vớ vẩn, vì lúc Viên Tính bỏ đi không cưỡi ngựa. Huống chi bọn kỵ mã đang tới chẳng phải chỉ một người. Tiếng vó ngựa không ra chiều cấp bách, dường như chẳng phải là truy binh.
Sau một lúc, chín kỵ mã từ phía tây đi tới. Hồ Phỉ ngưng thần nhìn ra thấy một người trong đám này tướng mạo rất tuấn tú, chưa đầy bốn mươi tuổi. Nếu không phải là Phúc Khang An thì còn ai nữa?
Hồ Phỉ vừa nhìn thấy Phúc Khang An, không kìm chế được nỗi cuồng nộ trong lòng, tự nhủ:
– Gã này nắm đại quyền binh mã trong nước. Bọn Mãn Thanh khinh khi áp bức người Hán. Trừ đương kim hoàng đế là Càn Long ra thì gã này chính là đầu sỏ của mọi tội ác. Hắn lại vô tình bạc nghĩa với Mã Xuân Hoa, đẩy nàng lại vào thảm cảnh gia phá nhân vong, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Đột nhiên hắn ra ngoài thành, bọn tùy tùng đi theo ắt toàn là cao thủ hạng nhất. Dù ta chỉ có nhị muội tương trợ cũng cần làm hắn nhụt bớt uy phong. Nếu không giết được hắn thì nhân tiện dọa hắn một phen cũng được.
Chàng liền đứng ra giữa đường, hai tay chống nạnh, trừng mắt lên nhìn Phúc Khang An. Bọn kỵ mã chín người thấy chàng đứng chặn đường liền dừng ngựa cả lại.
Nhưng Phúc Khang An vẻ mặt vẫn thản nhiên, có lẽ hắn cậy có vệ sĩ theo bảo vệ. Hắn chỉ buông thõng một câu:
– Xin cảm phiền nhường lối!
Hồ Phỉ trỏ tay vào mặt Phúc Khang An, thóa mạ:
– Ngươi làm nên những việc tử tế quá nhỉ! Ngươi còn nhớ Mã Xuân Hoa không?
Phúc Khang An trong lòng như có nhiều tâm sự, mắt đầy vẻ buồn bã lo âu, hững hờ hỏi lại:
– Mã Xuân Hoa ư? Ta không nhớ là ai!
Hồ Phỉ càng tức giận, cười khẩy hỏi:
– Hà hà, ngươi cùng Mã Xuân Hoa đã sinh hai đứa con mà không nhớ ư? Ngươi phái người sát hại trượng phu của y là Từ Tranh, cũng quên rồi chăng? Hai mẹ con ngươi đã thông đồng hạ độc để giết y mới đây, ngươi có nhớ không?
Phúc Khang An từ từ lắc đầu, đáp:
– Tiểu huynh đệ nhận lầm người rồi!
Một đạo nhân cụt tay cười khanh khách nói:
– Đây là một kẻ điên khùng nói nhăng nói càn. Cái gì mà Mã Xuân Hoa với Ngưu Thu Hoa…
Hồ Phỉ không nói nữa, tung mình nhảy vọt lên, vung tả quyền đấm ra trước mặt Phúc Khang An. Thực ra thoi quyền này chỉ là hư thế. Chàng không chờ Phúc Khang An đưa tay ra gạt, năm ngón tay mặt biến thành hổ trảo chụp vào trước ngực hắn. Chàng biết lần này mà đánh không trúng thì lập tức bọn thị vệ của hắn sẽ ra tay, nên thoi quyền vừa mau vừa mạnh như sao băng điện chớp. Chàng cả đời học võ nên tiên liệu bọn vệ sĩ của hắn dù bản lĩnh cao đến đâu đi nữa cũng quyết không thể xông tới hóa giải kịp thời chiêu “Hổ trảo cầm nã thủ” chụp tới như sét đánh không kịp bưng tai thế này.
Phúc Khang An chợt kêu “Ô hay!”. Hắn không lý gì đến thoi quyền của chàng, đột nhiên đưa ngón trỏ và ngón giữa tay phải duỗi thẳng ra điểm vào huyệt “Hội tông” và huyệt “Dương trì” ở cổ tay mặt chàng. Hắn ra tay đã cực kỳ thần tốc, mà chỉ pháp lại rất tinh kỳ. Hồ Phỉ bình sinh chưa từng thấy.
Chỉ trong khoảng thời gian chớp nhoáng, Hồ Phỉ đã chấn động tâm thần lập tức biến chiêu, năm ngón tay biến thành hình như móc câu chụp lấy ngón tay địch nhân, toan vận một cái để bẻ gãy các đốt xương. Dè đâu Phúc Khang An võ công cao siêu dị thường, hắn không rụt tay về mà duỗi cả ba ngón kia biến thành chưởng, cánh tay hắn chưa động đậy mà đã nhả chưởng lực ra rồi.
Theo lẽ thường, muốn tung quyền phát chưởng thì trước tiên phải thu tay về mới xuất kích được. Đằng này Phúc Khang An cứ để duỗi cánh tay ra chứ không cong xuống, mà vẫn nhả chưởng lực ra được. Chiêu số kỳ ảo tuyệt luân mà nội lực lại hùng hậu vô tỷ.
Hồ Phỉ cả kinh, người chàng đang lơ lửng trên không, không có cách nào mượn sức, vội phóng tả chưởng đánh gấp ra. Hai chưởng đụng nhau đánh “bình” một tiếng. Trong chớp mắt, Hồ Phỉ cảm thấy khí huyết trước ngực nhộn nhạo, liền mượn thế lùi lại hơn hai trượng. Hồ Phỉ hít mạnh rồi thở ra một hơi chân khí, ngay lúc còn lơ lửng trên không chàng đã kịp điều hòa hơi thở, rồi nhẹ nhàng hạ người xuống đứng vững trên mặt đất, thần thái ung dung, khí lực sung mãn.
Bỗng nghe tám, chín người kia đều cất tiếng hoan hô:
– Hay quá!
Phúc Khang An chỉ rung người một chút rồi ngồi vững lại trên yên ngựa. Nét mặt hắn chỉ thoáng lộ vẻ kinh ngạc, rồi lại ra chiều buồn bã như trước. Hồ Phỉ từ lúc tung người tới đánh cho đến lúc hạ người xuống đất, chỉ trong thời gian chớp choáng đó đã thi triển nào là hư chiêu, cầm nã, điểm huyệt, vặn tay, nhả chưởng, nhảy lùi, điều tức đều là những biến hóa tinh thâm trong võ học. Sau khi tiếp nhau một chưởng, tuy chưa phân thắng bại, nhưng một người đã vận toàn lực ra chiêu, còn một người tùy tiện đối phó một cách rất ung dung, hiển nhiên Hồ Phỉ còn kém đối phương một bậc.
Hồ Phỉ không ngờ võ công của Phúc Khang An lại cao siêu đến thế. Chàng đứng ngẩn người, trong lòng vừa kinh dị lại vừa khâm phục, nhưng không giấu được nỗi phẫn nộ lộ ra ngoài mặt.
Lại nghe Độc tý đạo nhân cười hỏi:
– Ngốc tiểu tử! Ngươi biết nhận lầm người rồi chứ? Sao không dập đầu tạ tội đi!
Hồ Phỉ ngoẹo đầu nhìn kỹ thì hiển nhiên người này là Phúc Khang An. Có điều mặt hắn đầy vẻ phong trần, quần áo cũ mèm nhưng khí tượng tôn quý hào hùng, chuyên ban mệnh lệnh, thủy chung vẫn không giấu được. Nếu người này tướng mạo giống hệt Phúc Khang An, thì không lẽ khí độ phong hoa của vị đại nguyên soái mà hắn cũng học được một cách thần tình như vậy?
Chàng ngẩn người một lúc rồi tự nhủ:
– Nếy giả dạng tất có âm mưu gì đó, ta không thể mắc bẫy được.
Chàng liền hỏi:
– Phúc Khang An! Bản lãnh ngươi hay lắm, ta không thể bì kịp. Nhưng ngươi làm quá nhiều việc thương thiên bại lý thì dù ta không địch nổi cũng không buông tha cho ngươi, ngươi hãy nhớ lấy.
Phúc Khang An hờ hững đáp:
– Tiểu huynh đệ! Bản lãnh của huynh đệ cũng rất cao thâm. Có điều ta không phải là Phúc Khang An. Tôn tính đại danh của tiểu huynh đệ là gì?
Hồ Phỉ tức giận hỏi lại:
– Ngươi đừng giả vờ giả vịt nữa! Chẳng lẽ ngươi lại không biết tên họ ta?
Một hán tử cao lớn ước chừng bốn mươi tuổi đứng sau Phúc Khang An dõng dạc lên tiếng:
– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ là người có khí phách, đang mặt thiếu niên anh hùng! Bội phục, bội phục!
Hồ Phỉ ngửng đầu thấy y cặp mắt lấp loáng ánh thần quang, thái độ oai phong lẫm liệt, hiển nhiên là một hảo thủ võ công cao cường. Bất giác chàng sinh lòng kính phục, liền hỏi:
– Các hạ là một nhân tài như vậy, sao lại chịu khổ vì quyền quý mà đi làm ưng khuyển cho bọn Mãn Châu?
Đại hán kia tủm tỉm cười, đáp:
– Bên thành Bắc Kinh dưới chân thiên tử mà tiểu huynh đệ dám buông lời phản nghịch, không sợ mất đầu ư?
Hồ Phỉ ngang nhiên đáp:
– Cơ sự đã đến thế này, mất đầu thì mất phỏng sợ gì!
Nên biết Hồ Phỉ là người rất cẩn thận, không phải là hạng hồ đồ sốc nổi, nhưng dù sao chàng cũng còn tuổi trẻ, khí huyết đang hăng, thấy Mã Xuân Hoa bị Phúc Khang An đẩy vào cảnh ngộ thê thảm, khiến chàng bị kích động lòng nghĩa hiệp gạt mọi thứ qua một bên, không nghĩ gì nữa.
Biết đâu do vì cô nương xinh đẹp mà chàng ngày đêm tưởng nhớ kia bỗng nhiên biến thành ni cô khiến chàng thấy cõi đời chẳng còn sinh thú, nên muốn đại náo một phen, bất quá thì chết là cùng, chứ có điều gì trọng đại hơn nữa?
Tay nắm chặt đốc đao, chàng giương cặp mắt tức giận nhìn bọn chín người ngồi trên lưng ngựa. Bỗng Độc tý đạo nhân tung mình xuống ngựa. Không thấy lão cử động cánh tay mà đã thấy ánh thanh quang lấp loáng trước mắt, tay lão đã cầm trường kiếm. Thủ pháp rút kiếm của lão thần tốc tuyệt luân, Hồ Phỉ bình sinh chưa từng thấy bao giờ.
Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh hãi thầm nghĩ:
– Sao Phúc Khang An lại thu dụng được nhiều nhân vật bãn lãnh cao cường như thế? Trong cuộc đại hội chưởng môn hôm qua, nếu có những nhân vật này tại hội trường thì khó lòng mà làm náo loạn được.
Chàng sợ Độc tý đạo nhân phóng kiếm đâm tới, liền nghiêng người rút đao ra cầm tay. Đạo nhân cười nói:
– Xem kiếm đây!
Bỗng thấy thanh quang lấp loáng, trong nháy mắt đạo nhân đã đâm tới tám chiêu liền. Thế kiếm đâm tới mau lẹ vô tỷ. Hồ Phỉ nhìn rõ được lai lộ của kiếm thế, bèn thuận thế vung đao lên gạt. “Hồ gia đao pháp” gia truyền của chàng há phải tầm thường. Tám chiêu kiếm của đạo nhân tuy mau lẹ nhưng đều bị chàng đỡ được hết. Tám chiêu kiếm đâm tới, tám nhát đao vung lên đón đỡ. Liên tiếp tám tiếng “choang” ngân vang gọn ghẽ.
Ban đầu Hồ Phỉ cảm thấy tay chân hơi rối loạn, nhưng đến chiêu thứ chín thì chàng từ thế thủ chuyển sang phản kích, xung đao chênh chếch chém ra. Độc tý đạo nhân lướt trường kiếm tới. Đao kiếm dính liền nhau không phát ra một tiếng động.
Những người ngồi trên ngựa đều lớn tiếng hoan hô:
– Hảo kiếm pháp! Hảo đao pháp!
Phúc Khang An nói:
– Đạo trưởng! Chúng ta đi thôi, không nên sinh sự nữa.
Đạo nhân không dám trái lời, liền đáp:
– Tuân lệnh!
Nhưng lão thấy đao pháp của Hồ Phỉ rất tinh kỳ lại đang cao hứng muốn tỷ đấu, nên có ý tiếc rẻ. Lão tung mình lên ngựa, miệng ca ngợi:
– Hảo tiểu tử! Đao pháp của ngươi khá lắm!
Hồ Phỉ trong lòng rất khâm phục, liền nói:
– Hảo đạo nhân! Kiếm pháp của đạo trưởng thật là tinh diệu!
Đoạn chàng cười lạt, nói tiếp:
– Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!
Đạo nhân trợn mắt lên hỏi:
– Đáng tiếc cái gì? Kiếm pháp của bản đạo có chỗ nào sơ hở?
Hồ Phỉ đáp:
– Kiếm pháp của đạo trưởng chẳng có chỗ nào sơ hở, nhưng tại hạ tiếc cho con người đạo trưởng lại có sơ hở quá lớn. Một tay cao thủ võ lâm mà cam tâm làm nô tài cho bọn quan lại ở Mãn Châu.
Đạo nhân ngửa mặt lên trời cả cười hỏi:
– Mắng hay lắm! Mắng hay lắm! Tiểu huynh đệ, ngươi có dám đấu kiếm với ta nữa không?
Hồ Phỉ đáp:
– Sao lại không dám? Nếu đấu không lại đạo trưởng thì bất quá chỉ chết là cùng.
Đạo nhân nói:
– Hay lắm! Canh ba đêm nay bần đạo chờ ngươi ở bên Đào Nhiên đình. Nếu ngươi sợ thì không đến cũng được.
Hồ Phỉ hiên ngang đáp:
– Đại trượng phu chỉ sợ bậc chính nhân quân tử, há lại đi sợ phường ưng khuyển nô tài!
Bọn người kia đều giơ ngón tay lên hô:
– Ngươi nói hay lắm!
Rồi tung ngựa đi ngay. Có người còn ngoáy đầu lại nhìn.
Lúc Hồ Phỉ cùng đạo nhân so kiếm thì Trình Linh Tố đã từ trong miếu đi ra. Nàng thấy bọn Phúc Khang An thì không khỏi giật mình, hỏi:
– Đại ca! Sao Phúc Khang An lại tới đây? Đêm nay đại ca có đến Đào Nhiên đình phó ước không?
Hồ Phỉ trầm ngâm nghĩ bụng:
– Chẳng lẽ hắn lại không phải là Phúc Khang An thật? Không thể thế được. Ta thóa mạ bọn vệ sĩ tùy tùng của hắn là phường ưng khuyển nô tài, sao chúng không nổi giận mà còn khen là ta nói đúng?
Trình Linh Tố lại hỏi:
– Đêm nay đại ca đi phó ước không?
Hồ Phỉ đáp:
– Dĩ nhiên là phải đi rồi! Nhị muội! Nhị muội ở lại đây chiếu cố cho Mã cô nương.
Trình Linh Tố lắc đầu nói:
– Mã cô nương chẳng còn gì mà chiếu cố nữa! Cô mất hết thần trí rồi, không thể nào kéo nổi mạng sống đến sáng mai. Nhưng đại ca đã hẹn đi tỷ đấu với cường địch, tiểu muội không đi theo sao được?
Hồ Phỉ nói:
– Nhị muội phá hỏng cuộc đại hội chưởng môn nhân mà Phúc Khang An đã hao tổn tâm lực để thiết kế. Chắc hiện giờ hắn đã điều tra được rõ nguyên ủy. Nhị muội đi với tiểu huynh há chẳng hung hiểm lắm ư?
Trình Linh Tố đáp:
– Đại ca một mình đi gặp kẻ địch, làm sao tiểu muội yên tâm cho được? Có tiểu muội đi theo, cũng xem như có thêm một tay trợ thủ.
Hồ Phỉ biết rõ cô đã quyết định chuyện gì thì không thể nào ngăn trở được. Chàng hiểu vị nghĩa muội tuy còn nhỏ tuổi nhưng tài trí còn vượt xa mình nên cứ để cô tùy ý.
Trình Linh Tố nhẹ nhàng hỏi:
– Viên… Viên cô nương đã đi rồi?
Hồ Phỉ gật đầu nghe trong lòng chua xót. Chàng xoay người đi vào trong miếu. Đến sương phòng, Hồ Phỉ nghe Mã Xuân Hoa cất tiếng thều thào gọi luôn miệng:
– Hài tử! Hài tử.. Phúc công tử! Tiện thiếp sắp chết rồi… muốn gặp công tử một lần nữa…
Hồ Phỉ lại nghe trong lòng thêm chua xót nhủ thầm:
– Tình ái quả là điều khó hiểu. Phúc Khang An đối xử với Mã cô nương thế đó, mà lúc lâm chung y vẫn luôn tưởng nhớ đến.
Chàng cùng Trình Linh Tố ra đi được mấy dặm tìm vào một nhà nông mua cơm canh đạm bạc ăn no một bữa, rồi quay lại Thần Nông miếu ngồi bên Mã Xuân Hoa, chờ đến canh một mới ra đi.
Hồ Phỉ bàn bạc cùng Trình Linh Tố, cho rằng bọn vệ sĩ của Phúc Khang An đã ước hẹn tỷ thí thì nhất định chẳng có ý tử tế gì, chi bằng đi sớm hơn giờ hẹn để ngấm ngầm xem đối phương bày đặt âm mưu gì không?
Đào Nhiên đình ở một nơi hoang tịch. Tuy tên gọi là Đào Nhiên, nhưng thực ra nó là một ni am, tên gọi là Từ Bi am. Trong am thờ Quan Âm đại sĩ.
Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố tới nơi, chỉ thấy bốn bề rừng lau mênh mông trắng xóa, vi vút ngọn gió tây. Bông lau nhảy múa như trời xuống tuyết. Trước mắt bày ra cảnh tượng rất thê lương. Bỗng nghe tiếng réo quang quác, một con hồng nhạn bay lướt trên trời cao.
Trình Linh Tố nói:
– Đây là con nhạn lẻ lạc đàn bay tìm đồng bọn không thấy, đã nửa đêm mà hãy còn hốt hoảng bay đi.
Lại nghe trong bụi lau có người lên tiếng:
– Không sai!
Địa tạp vạn lô xuy nhứ loạn,
Thiên không nhất nhạn tỷ nhân khinh.
(Ngàn lau phất phới gió tây,
Trên không nhạn lẻ lạc bầy kêu thương!)
Hai vị quả là người thủ tín, đến phó ước sớm quá!
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố giật mình kinh hãi nghĩ thầm:
– Mình định đến sớm để quan sát đối phương bố trí âm mưu gì, dè đâu họ đã mai phục từ trước. Người này xuất khẩu thành thi, xem chừng không phải hạng tầm thường.
Hồ Phỉ dõng dạc đáp:
– Đã nhận lời phó ước, đâu dám không đến sớm!
Bỗng thấy từ trong bụi lau có một người đứng lên.
– Hạnh hội, hạnh hội! Xin hai vị hãy chờ một chút. Tệ chủ nhân cùng các anh em đang tế lễ!
Hồ Phỉ cũng thuận miệng đáp lễ, nhưng trong lòng lấy làm lạ tự hỏi:
– Đêm hôm khuya khoắt mà Phúc Khang An còn đến nơi hoang dã này để tế lễ ai?
Lại nghe tiếng người ngâm:
Hạo hạo sầu
Mang mang kiếp
Đoản ca chung
Minh nguyệt khuyết
Uất uất giai thành
Trung hữu bích huyết
Bích diệc hữu thời tận
Huyết diệc hữu thời diệt
Nhất lũ hương hồn vô đoạn tuyệt
Thị da? Phi da?
Hóa vi hồ điệp
(Sầu dằng dặc kiếp hoang mang
Lời ca đã dứt, trăng tàn buồn tênh
Niềm u uất, tỏ khôn thành
Bao nhiêu huyết lệ kết thành ngọc châu
Ngọc kia còn thuở phai màu
Huyết lệ cũng sẽ ngày nào tàn phai
Mộng hồn vương vấn bao ngày
Tìm nhau chỉ khói hương bay ngậm ngùi
Hóa làm cành bướm bên người
Mộng trùng lai hẹn cuối trời chiêm bao)
Tiếng ngâm biến thành tiếng nức nở. Cả mười mấy người, người thì buông tiếng thở dài, người thì cất tiếng khóc nghẹn ngào, trong đó có chen lẫn tiếng khóc của phụ nữ.
Hồ Phỉ nghe bài từ ngắn ngủi mà tình ý thắm thiết triền miên. Hiển nhiên người nằm dưới mộ là một phụ nữ. Trong bài từ có chữ “huyết lệ” thì chắc người nằm dưới mộ tuẫn nạn mà chết. Mộng hồn vương vấn không nguôi nên muốn biến thành cánh bướm để tìm nhau trong cõi mộng. Thanh âm thê thiết cất lên giữa đêm khuya thanh vắng khiến người nghe đều xúc động tâm can, nên chỉ một lúc sau, không ai kiềm lòng được nữa, đều cùng òa lên tiếng khóc.
Sau một lúc thanh âm bi thiết dừng lại. Mười mấy người lục tục kéo nhau đi lên một gò đất.
Hán tử mặc áo nho sinh đứng bên Hồ Phỉ cất tiếng gọi:
– Đạo trưởng! Ông bạn của đạo trưởng đã tới rồi!
Độc tý đạo nhân đáp:
– Hay lắm! Hay lắm! Tiểu huynh đệ! Chúng ta hãy tỷ đấu ba trăm hiệp!
Dứt lời lão từ trên gò đất chạy xuống. Hồ Phỉ cũng chạy ngược lên để đón.
Đạo nhân còn cách Hồ Phỉ mấy trượng bỗng tung mình nhảy vọt lên không, rút kiếm ra mượn đà đâm tới. Nhát kiếm đâm đã thần tóc, thế lao tới lại nhanh, vô cùng uy mãnh, thật khó lòng chống đỡ.
Hồ Phỉ thấy đối phương hung hãn như vậy bất giác hào khí trỗi dậy, liền nhảy vọt lên cao rút đao ra. Hai người còn đang lơ lửng trên không đã nghe “choang choảng” bốn tiếng, đao kiếm chiết chiêu bốn lần, rồi cả hai mới hạ xuống.
Đạo nhân tấn công hai kiếm, Hồ Phỉ trả lại hai đao. Bốn chân hai người vừa chạm đất, lập tức nghe tiếng đao kiếm đụng nhau “choang choảng”. Những người đứng trên gò đất hoan hô ầm ĩ.
Kiếm pháp của Độc tý đạo nhân vừa lợi hại vừa thần tốc tuyệt luân. Trong khoảng thời gian một tay kiếm bình thường đâm một chiêu kiếm thì lão phóng ra bốn, năm chiêu.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Lão đánh mau, chẳng lẽ ta không biết đánh mau ư?
Chàng cũng thi triển “Hồ gia khoái đao” đối địch. Kiếm pháp của đạo nhân cực kỳ thần tốc, hơn được Hồ Phỉ về phần linh hoạt. Nhưng kiếm chiêu linh hoạt thì đao thế lại trầm mãnh. Đao lực của Hồ Phỉ lại hơn được lão về phần trầm trọng.
Hai người dùng khoái kiếm tỷ đấu với khoái đao, bao tuyệt kỹ công thủ biến hóa không thể tả được nữa. Dù có giương tròn mắt lên nhìn trận kịch đấu thì cũng chỉ nghe tiếng đao kiếm chạm nhau “choang choảng”, giống như tiếng nước cuồn cuộn chảy hoặc tiếng vó ngựa dập dồn, lại nghe như nhiều chiếc trống đang thúc liên hồi, âm thanh nối tiếp liên miên không dứt, mau lẹ không bút nào tả xiết.
Độc tý đạo nhân vừa đánh vừa hô:
– Đã quá, đã quá!
Kiếm chiêu mỗi lúc một khủng khiếp hơn. Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh hãi, lúc này gặp phải cường địch, bao nhiêu sở học bình sinh đều đem ra thi triển đến chỗ đắc tâm ứng thủ, thật là điều chưa từng có trong đời chàng. Những khi chàng tập luyện chẳng bao giờ đánh mau đến thế được.
Nguyên “Hồ gia đao pháp” có nhiều chỗ tinh diệu kỳ ảo, nếu không gặp phải cường địch thì chiêu số chỉ biến hóa vừa đủ để thủ thắng, nên không thấy được chỗ tinh diệu. Hiện giờ Độc tý đạo nhân đẩy chàng vào thế cấp bách thì mới phát huy được chỗ tinh xảo kín đáo trong đao pháp.
Độc tý đạo nhân bình sinh đã trải qua rất nhiều trận đánh lớn. Trong lúc kịch đấu, lão vẫn hết sức tìm ra chỗ sơ hở trong đao pháp của gã thiếu niên này, nhưng chỉ thấy các chiêu thức đều kiêm cả công lẫn thủ; không cần thủ mà cũng tự thủ, không cần công mà vẫn tấn công mãnh liệt. Sau mỗi chiêu lại có phục sẵn các chiêu tinh diệu khác, thì còn biết tìm đâu ra chỗ sơ hở?
Thực ra công lực của Độc tý đạo nhân còn thâm hậu hơn Hồ Phỉ nhiều. Nếu đây không phải là trận khoái đấu, mà hai bên cùng nhau chiết chiêu để tìm ra chỗ biến hóa, thì đến lúc này dĩ nhiên Độc tý đạo nhân đã thắng rồi. Nhưng về sau tỷ đấu mỗi lúc một nhanh. Hồ Phỉ không còn kịp suy nghĩ gì nữa, cứ đem môn khoái đao đã rèn luyện cực kỳ tinh thục ra ứng phó.
Môn “khoái đao” này do đại hiệp Phi Thiên Hồ Ly đời Minh mạt sáng tạo truyền đời đến phụ thân của Hồ Nhất Đao thì lại biến hóa tinh diệu thêm nhiều. Lúc này Hồ Phỉ dùng khoái đao tỷ đấu, so với chính Hồ Nhất Đao tự mình xuất trận cũng không khác nhau là bao. Có sai biệt là do hỏa hầu chưa đủ mà thôi.
Sau khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà mà hai bên đã chiết giải hơn năm trăm chiêu thì đủ biết xuất thủ lẹ đến mức nào. Chẳng mấy chốc Độc tý đạo nhân trán đã vã mồ hôi, còn Hồ Phỉ thì ướt đẫm lưng áo. Cả hai bên đều nghe thấy tiếng thở nặng nề của đối phương.
Lúc này cuộc đấu đang hăng, cả hai người cùng có ý mến tài nhau, nhưng đao chém kiếm đâm vẫn liên miên bất tuyệt, không ai chịu dừng tay trước.
Giữa lúc đao kiếm đang chạm nhau “choang choảng”, bỗng có người thổi lên một hồi còi dài, tiếp theo đó là tiếng binh khí chạm nhau và tiếng người quát tháo từ xa vọng lại.
Độc tý đạo nhân nổi lên tràng cười, nhảy ra ngoài vòng chiến hô lớn:
– Hãy khoan! Tiểu huynh đệ! Đao pháp của tiểu huynh đệ rất cao thâm. Nhưng ngoài cửa có địch nhân đang kéo đến.
Hồ Phỉ sửng sốt nhìn ra thấy góc đông bắc và góc đông nam thấy thấp thoáng có sáu, bảy người đang chạy tới. Trong bóng tối, ánh đao quang lấp loáng. Những người này đều tay cầm binh khí.
Chàng lại nghe sau lưng có tiếng quát tháo mỗi lúc một gần. Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thì góc tây bắc và góc tây nam cũng đều có người kéo đến, ít ra cũng tới hai chục tên.
Độc tý đạo nhân lớn tiếng:
– Thập tứ đệ quay về đi, để cho nhị ca phát lạc.
Hán tử mặc áo nho sinh vừa dẫn đường Hồ Phi lúc nãy tới, tay cầm binh khí tựa như cây đoản côn, đang cản địch ở mặt Tây Bắc, nghe Độc tý đạo nhân bảo vậy liền đáp:
– Được rồi!
Hắn vung binh khí vù vù, rồi chạy lên gò đất nhỏ, đứng sóng vai với mọi người.
Dưới ánh trăng, Hồ Phỉ trông thấy rõ Phúc Khang An đang đứng trên gò đất. Bên cạnh hắn có mười mấy người hộ vệ, trong đó ba bốn người là phụ nữ.
Hồ Phỉ cả mừng tự hỏi:
– Tứ diện bát phương đều có người đối nghịch Phúc Khang An kéo đến, không hiểu họ là những anh hùng hảo hán phương nào? Cứ coi công phu khinh thân của họ cũng đủ biết bản lãnh không phải tầm thường. Ta sẽ cùng họ đồng tâm hiệp lực bắt được tên gian tặc Phúc Khang An thì hay biết mấy.
Rồi chàng lại nghĩ:
– Nhưng tên gian tặc Phúc Khang An không ngờ võ công lại quá cao thâm, còn bọn thủ hạ của hắn cũng toàn là những tay cứng cỏi, coi bộ chúng chẳng có vẻ gì là sợ hãi cả. Hay là bọn chúng đã sắp đặt âm mưu từ trước?
Hồ Phỉ đang nghi hoặc trong lòng, thì những người từ bốn mặt đã kéo tới gần. Chàng nhìn thấy họ lại càng hoang mang không hiểu. Hơn hai chục người này, phần nửa là những nhà sư ở Tây Tạng mặc tăng bào màu đỏ. Phần còn lại đều mặc sắc phục vệ sĩ ở Thanh cung.
Hồ Phỉ tung người lại gần Trình Linh Tố, khẽ nói:
– Nhị muội! Quả là chúng ta bị hãm vào bẫy của ác tặc. Địch nhân nội ngoại giáp công, không cách gì chống trả nổi. Chúng ta phải nhằm hướng tây mà xông ra!
Trình Linh Tố chưa kịp trả lời đã thấy một tên đại hán râu đen vượt đám đông tiến đến, lớn tiếng hỏi:
– Phải chăng đạo trưởng là Vô Trần đạo nhân? Từ lâu tại hạ đã ngưỡng mộ mười hai lộ “Truy hồn đoạt mệnh kiếm” vô song thiên hạ của đạo trưởng.
Đạo nhân cười lạt một tiếng rồi nói:
– Đã biết danh của Vô Trần mà còn ra khiêu chiến thì thật là lớn mật. Các hạ là ai?
Hồ Phỉ nghe tên vệ sĩ râu đen nói vậy, bất giác buột miệng hỏi:
– Vô Trần đạo trưởng đấy ư?
Vô Trần cười đáp:
– Chính thị! Triệu tam đệ khoe tiểu huynh đệ là bậc anh hùng, quả nhiên không sai.
Hồ Phỉ cả mừng hỏi:
– Nhưng… nhưmg… Phúc Khang An… Triệu tam ca hiện ở đâu?
Đại hán râu đen trả lời Vô Trần:
– Tại hạ là Đức Bố!
Vô Trần hỏi:
– Ủa! Các hạ là Đức Bố ư? Ở Hồi Cương ta từng nghe người ta nói: Mới đây Hoàng đế kiếm được một tên ưng khuyển nanh nhọn móng sắc gọi là Đức Bố gì gì đó, hiệu xưng là Đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu gì gì đó, dùng làm Ngự tiền thị vệ gì gì đó, có phải là các hạ không?
Đạo nhân nói luôn ba tiếng “gì gì đó” khiến Đức Bố nổi giận, quát:
– Phải rồi! Ngươi đã biết tên ta sao còn dám càn rỡ dưới chân thiên tử? Quả là ngươi không muốn sống nữa rồi…
Hắn nói chưa dứt lời đã thấy hàn quang lấp loáng, mũi kiếm Vô Trần đã phóng vào ngực hắn. Đức Bố để ngang thanh kiếm gạt ra đánh choang một tiếng. Hai thanh kiếm chạm nhau tiếng o o ngân lên bất tuyệt. Hiển nhiên kình lực của hai người đều hùng hậu như nhau.
Vô Trần cất tiếng khen ngợi:
– Khá lắm!
Kiếm chiêu của Vô Trần tung ra liên miên không dứt. Kiếm chiêu của Đức Bố tuy không mau lẹ bằng, nhưng giữ môn hộ vô cùng nghiêm mật. Thỉnh thoáng hắn mới đâm trả lại một miếng nhưng cực kỳ tàn độc. Cái danh hiệu “Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ” thực không phải ngẫu nhiên mà được.
Hồ Phỉ đã nghe Viên Tính nói đến đệ nhị đương gia của Hồng Hoa hội là Vô Trần đạo nhân kiếm thuật tinh thông, thiên hạ không ai bì kịp. Không ngờ chàng đấu với lão đã ngoài trăm chiêu mà vẫn bất phân thắng bại không khỏi mừng thầm, nhưng chàng lại nghĩ: “May mà ta chưa biết lão chính là Vô Trần đạo trưởng, nếu không sẽ bị oai danh của lão trấn áp làm cho khiếp đảm thì e rằng không tới một trăm chiêu đã thất bại rồi”.
Hồ Phỉ đang chăm chú nhìn trận tỷ đấu của Đức Bố và Vô Trần thì hai tên vệ sĩ ở Thanh Cung đã tiến lại quát:
– Hạ khí giới xuống!
Hồ Phỉ hỏi:
– Để làm gì?
Một tên thị vệ hỏi lại:
– Ngươi dám chống cự chăng?
Hồ Phỉ hỏi:
– Chống cự thì sao?
Thị vệ quát:
– Tên tiểu tặc này ngang ngược lắm!
Gã vung đao chém tới. Hồ Phỉ lạng người né tránh, chém trả lại một đao. Không ngờ tên thị vệ kia tay cầm một cây thiết chùy chênh chếch đánh tới trúng vào lưỡi đao của Hồ Phỉ. Tỷ lực gã này rất mạnh mà binh khí lại cực kỳ trầm trọng. Sau khi gắng sức chiến đấu với Vô Trần, cánh tay Hồ Phỉ đã ngâm ngẩm tê chồn. Chàng cầm thanh đơn đao không chắc tuột khỏi tay bay đi. Gã kia xoay ngang ngọn chùy quét vào lưng Hồ Phỉ. Hồ Phỉ tuy mất binh khí song vẫn không bối rối. Chàng lạng người tránh rồi thuận đà huých luôn khuỷu tay vào sau lưng đối phương.
Tên thị vệ lớn tiếng la:
– Úi chao! Tiểu tử giỏi lắm!
Gã đau quá suýt buông cây thiết chùy xuống. Tiếp đó có thêm hai tên thị vệ sấn lại giáp công. Một tên cầm tiên, một tên chống cây đoản thương.
Trình Linh Tố lên tiếng:
– Đại ca! Tiểu muội lại giúp đại ca.
Cô rút thanh liễu diệp đao toan xông vào trợ chiến.
Hồ Phỉ nói:
– Không cần đâu! Hãy coi thủ đoạn “Không thủ nhập bạch nhận” của đại ca đây!
Trình Linh Tố thấy chàng xuyên qua xuyên lại giữa bốn địch nhân, tuy bề ngoài coi có vẻ nguy hiểm, nhưng thấy chàng rất ung dung tự tại. Trình Linh Tố cũng biết bản lĩnh của nghĩa huynh rất cao minh liền dừng lại, đứng một bên để canh chừng.
Hồ Phỉ thi triển “Tứ tượng bộ pháp” đã học từ nhỏ, bước qua phía đông một bước, lui lại mé tây nửa bước. Bộ pháp Tứ tượng này căn cứ vị trí bốn chòm sao mà biến hóa là Thanh Long ở hướng đông, Bạch Hổ ở hướng tây, Huyền Vũ ở hướng bắc và Chu Tước ở hướng nam. Mỗi chòm sao lại có tám vì sao, thành ra hai mươi tám vì sao gọi là nhị thập bát tú, bộ pháp căn cứ vào đó mà biến hóa thêm. Bốn kẻ địch dùng bốn thứ binh khí nặng có nhẹ có, tả công hữu kích, nhưng bộ pháp của Hồ Phỉ rất kỳ diệu, chàng né tránh mọi binh khí đánh tới chỉ trong đường tơ kẽ tóc, Trình Linh Tố ban đầu lo thấp thỏm, nhưng càng xem cô càng yên tâm, đến lúc thấy bộ pháp của chàng linh diệu tuyệt luân cô mới thở phào nhẹ nhõm.
Bốn tên thị vệ này đều là người Mãn Châu. Trước khi vào làm thị vệ ở Thanh cung, chúng đã nổi tiếng là “Liêu Đông tứ kiệt” và bản lãnh đáng liệt vào hàng nhất lưu cao thủ. Hồ Phỉ trông cậy vào “Tứ tượng bộ pháp” để bảo vệ. Thỉnh thoảng chàng vẫn thừa cơ phản công nhưng chưa lần nào đắc thủ ngược lại cứ mỗi lần phản kích là chàng đều gặp nguy hiểm nên mới ngẫm ra được lý do. Nguyên vừa rồi chàng kịch chiến với Vô Trần đạo nhân đã mất sức lực quá nhiều. Hiện giờ nguyên khí chưa phục hồi mà gặp những lúc khẩn yếu phải vận dụng chân lực nên không thể phát huy được quyền chiêu đến chỗ tinh diệu. Hiểu được điều đó, Hồ Phỉ liền bình tâm tĩnh trí trở lại, chỉ né tránh chứ không phản kích, cứ thong thả điều tức giữa vòng hợp công của bốn tên vệ sĩ.
Bên kia Vô Trần đánh ráo riết mấy chục chiêu, nhưng đều bị Đức Bố gạt đi. Lão không dằn được lòng nóng nảy, nghĩ thầm:
– Đã mười năm ta không đến Trung nguyên, bữa nay mới ra tay lần đầu đã không còn sắc bén nữa. Hay là ta đã già rồi và thành đồ vô dụng?
Thực ra bản lãnh của Đức Bố quả có chỗ hơn người, huống chi Vô Trần lại đang nóng nảy. Đức Bố lưng cũng toát mồ hôi đầm đìa. Càng đánh hắn càng sợ hãi vì nhận ra kiếm thuật của đối thủ đã đến trình độ xuất quỷ nhập thần, kiếm chiêu thần tốc đến mức tưởng chừng không phải do sức người làm nổi. Hắn nghĩ mình đã tung hoành thiên hạ, mà chưa hề gặp phải một kình địch như thế này, toan lên tiếng chịu thua. Nhưng hôm nay nếu hắn thất bại thì bao nhiêu danh tiếng nào là “Tứ Xuyên hoàng mã quải”, “Thủ lĩnh Ngự tiền thị vệ”, nào là “Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ”, “Thống lãnh đại nội thập bát cao thủ” đều tiêu tan hết. Hán nghĩ vậy liền phấn khởi tinh thần, không kể gì đến tính mạng nữa mà ra sức chống đỡ.
Vô Trần thấy Hồ Phỉ tay không mà một mình chống chọi với bốn người, còn lão chỉ có một địch nhân cũng không hạ nổi. Tính lão bình sinh vốn rất hiếu thắng, càng về già lại càng hiếu thắng hơn. Lão liền tấn công ráo riết, mỗi chiêu đều giành đoạt tiên cơ.
Đức Bố thấy địch nhân tấn công gắt gao, vội múa kiếm thành một màn kiếm quang bảo vệ quanh những yếu huyệt trên người. Hắn tự biết mình không địch nổi, đã mấy lần toan gọi thuộc hạ xông vào trợ chiến, nhưng lại nghĩ nếu năm chữ “các ngươi cùng xông lên” mà thoát ra khỏi miệng thì thanh danh cả đời trôi theo dòng nước, nên cố sức chịu đựng. Hắn nghĩ mình tuổi đang lúc tráng niên còn Độc tý đạo nhân thì niên kỷ đã cao, dù lão xuất chiêu vô cùng mãnh liệt, nhưng nếu hắn cứ cố gắng kéo dài trận đấu thì thế nào đối phương cũng sức cùng lực kiệt, đến lúc đó hắn sẽ có cơ thủ thắng.
Nào ngờ Vô Trần càng đánh càng hăng, tinh thần càng mạnh mẽ. Bọn thị vệ nhìn thấy đều sinh lòng kinh hãi. Kiếm quang của hai người cứ vọt lên như cầu vồng, không còn nhìn rõ chiêu số của ai nữa. Quần hào đứng trên gò cao yên lặng theo dõi cuộc đấu. Họ thấy Vô Trần dần dần chiếm được thượng phong, đều nghĩ thầm:
– Đạo trưởng vẫn còn uy phong như cũ, thần oai chẳng kém năm xưa, thật đáng mừng.
Đột nhiên Vô Trần quát to lên một tiếng:
– Xem đây!
Nghe “choang” một tiếng, Vô Trần phóng kiếm đâm vào trước ngực Đức Bố. Tiếp theo là những tiếng lách cách, thanh kiếm trong tay lão bị gãy rời. Nguyên Đức Bố đã mặc cương giáp hộ thân bên trong, nên tuy bị kiếm đâm trúng đã chẳng mảy may bị thương mà còn làm gãy trường kiếm của đối phương. Vô Trần đang sửng sốt thì Đức Bố phóng kiếm đâm tới trúng vai bên phải lão.
Mọi người đứng trên gò giật mình kinh hãi. Hai hán tử lao xuống cứu viện, nhưng bỗng nghe Vô Trần quát:
– Ngưu đầu trịch xoa!
Thanh kiếm gãy trong tay lão bay ra đâm vào yết hầu Đức Bố. Đức Bố la lên một tiếng, ngã người về phía sau.
Vô Trần cười ha hả nói:
– Ngươi thắng hay là ta thắng?
Đức Bố trúng kiếm ở cổ, tuy chưa đến nỗi trí mạng nhưng mất hết ý chí chiến đấu. Hắn run run đáp:
– Đạo trưởng thắng rồi!
Vô Trần cười nói:
– Ngươi đón tiếp được ngần ấy kiếm chiêu của ta, lại đâm thương ta ở bả vai quả không phải chuyện dễ dàng. Được lắm, ta tha mạng cho ngươi!
Hai tên thị vệ đỡ Đức Bố lùi sang một bên.
Vô Trần dương dương đắc ý. Tuy lão bị thương ở vai khá nặng mà chẳng quan tâm, cứ từ từ đi lên gò đất để mọi người buộc vết thương cho. Lão không ngớt chỉ trỏ, bình luận bộ pháp của Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ điều tức một lúc nhận thấy tinh lực đã phục hồi, chàng liền hít một hơi thật sâu rồi đột nhiên tấn công, tay đấm chân đá chớp nhoáng. Chỉ nghe những tiếng “úi chao”, “trời ơi!” không ngớt vang lên. Nào đơn đao, thiết chùy, cương tiễn, hoa thương, bốn món binh khí đã nối tiếp nhau mà bay ra xa. Hồ Phỉ phóng cước đá ngã hai tên, vung quyền đánh một tên ngất xỉu. Tiếp đó, tay trái chàng nhả chưởng lực đánh tên thị vệ cuối cùng miệng hộc máu tươi, ngã lăn lông lốc. Quần hào trên gò đất cất tiếng hoan hô ầm ĩ.
Thanh âm Vô Trần càng vang dội:
– Tiểu Hồ Phỉ! Ngươi đánh hay quá!
Tiếng hoan hô chưa dứt, đã có năm sáu tên thị vệ xông tới bên Hồ Phỉ, trên tay đều không cầm binh khí.
Tên thị vệ bên trái nói:
– Bây giờ chúng ta tỷ đấu tay không!
Hồ Phỉ đáp:
– Hay lắm!
Chàng vừa dứt lời, đột nhiên hai chân bị người ôm chặt. Tiếp theo một người nhảy lên lưng. Cánh tay hắn như sắt siết chặt lấy cổ chàng. Lại thêm hai người kéo hai tay chàng. Nguyên lần này “Đại nội thập bát đại cao thủ” do Đức Bố thống lãnh đều kéo đến. Mười tám tên này gồm bốn tên người Mãn Châu, năm tên người Mông và chín nhà sư ở Tây Tang, gọi là “Tứ Mãn, Ngũ Mông, Cửu Tạng tăng”. Vua Càn Long từ khi xảy chuyện với Hồng Hoa hội, không tin người Hán nữa mà lựa chọn những dũng sĩ Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng bổ sung vào đội thị vệ. Bọn “Tứ Mãn, Ngũ Mông, Cửu Tạng tăng” được lựa chọn rất kỹ càng từ những thị vệ trong đại nội.
Năm tên thị vệ người Mông Cổ chuyên nghề đô vật. Hồ Phỉ không kịp đề phòng liền bị chúng hạ thủ bất ngờ. Chàng giật mình kinh hãi, nhưng rồi lại mừng thầm, tự nhủ:
– Cầm nã thủ pháp chính là môn võ công gia truyền sở trường của nhà ta rồi.
Chằng thấy hai tay bị địch nhân nắm giữ, liền ngã ngửa người ra, thuận đà vận kình lực vào hai tay đập mạnh vào nhau đánh “binh” một tiếng, khiến hai tên thị vệ đụng đầu vào nhau, cùng ngất xỉu tức thời. Hai tay chàng tự do rồi, liền vặn tay tên thị vệ đang ghì siết cổ mình thật mạnh nghe “rắc” một tiếng, xương cổ tay gã đã bị gãy rồi. Tiếp theo chàng lại bẻ gãy xương tay hai tên đang ôm lưng mình.
Năm tên thị vệ Mông Cổ này rất tinh thông nghề đô vật. Những dũng sĩ trong năm chủng tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng rất ít người địch nổi bọn chúng. Nhưng điều quan trọng trong đô vật là quật được từng đối thủ xuống đất, đằng này Hồ Phỉ lại dùng tiểu xảo thi triển cầm nã thủ bẻ gãy xương là không đúng quy củ đô vật
Hai tên thị vệ bị gãy xương rất tức giận, tuy không còn sức tái đấu vẫn hậm hực quát lớn:
– Phạm quy! Phạm quy!
Lời lẽ nghe rất hợp lý mà điệu bộ lại hùng hổ.
Hồ Phỉ cười đáp:
– Đánh nhau mà cũng có quy củ ư? Bọn người năm tên đánh một mình ta thì có phạm quy hay không?
Hai tên thị vệ Mông Cổ nghĩ lại thấy chàng nói cũng đúng. Bọn chúng năm người đánh một là đã phạm quy trước, nên cũng không la lối nữa. Còn một tên cố chết ôm ghì hai chân Hồ Phỉ, vận hết kình lực định vật chàng té xuống.
Hồ Phỉ quát hỏi:
– Ngươi có buông tay không?
Gã kia đáp:
– Dĩ nhiên không buông.
Hồ Phỉ vươn tay trái dùng cầm nã thủ chụp vào huyệt “Đại truy” ở sau lưng gã. Lập tức toàn thân gã tê chồn mềm nhũn phải buông tay ra. Hồ Phỉ nhấc bổng gã lên ném ra ngoài xa mấy trượng, đánh “huỵch” một tiếng, nước bắn tung tóe. Hắn bị ném trúng ao bùn giữa đám lau sậy. Tên thị vệ này toàn thân ngập trong bùn, đầu óc choáng váng, miệng thét be be.
Hồ Phỉ đã chiến đấu hồi lâu với bốn tên thị vệ Mãn Châu, lại hạ năm tên Mông Cổ một cách mau lẹ gọn gàng. Những người đứng xem chỉ thấy năm tên thị vệ Mông Cổ nhất tề tiến lên ôm Hồ Phỉ vật xuống, rồi lại nghe những tiếng “binh binh”, “ối oái”, tiếng xương gãy “lắc rắc” rồi tiếng quát tháo “phạm quy” cùng tiếng thét be be nối tiếp nhau không dứt. Sau đó lại thấy bốn tên nằm trên mặt đất, còn một tên bị ném xuống ao bùn. Quần hào đứng trên gò đất không hoan hô nữa mà lại nổi lên tràng cười ha hả.
Tiếng cười chưa dứt thì chín nhà Sư Tây Tạng, như đám mây hồng di động, chống binh khí lại bao vây Hồ Phỉ. Binh khí của chín người này không giống nhau. Giới đao có, tích trượng có, lại có nhiều thứ hình thù quái dị mà Hồ Phỉ chưa từng thấy qua và không hiểu tên gọi là gì. Chín nhà sư Tây Tạng thái độ ngưng trọng, không ai nói nửa lời, đứng bao vây Hồ Phỉ. Bộ pháp chúng vừa nhẹ nhàng vừa vững chãi, đúng là những tay kình dịch. Chín nhà sư đứng rải rác mỗi người một nơi, tựa hồ đang bày thành thế trận.
Hồ Phỉ tay không binh khí, trong lòng ngấm ngầm kinh hãi. Chàng tự hỏi:
– Ta lấy đao của nhị muội, hay đoạt giới đao của địch nhân?
Bỗng nghe trên gò đất có tiếng hô:
– Tiểu huynh đệ! Tiếp đao!
Rồi một thanh cương đao từ gò đất ném xuống. Tiếng đao xé gió rít lên veo véo, đủ thấy kình lực của người ném đao quả thực ghê người. Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Những bạn hữu của Triệu tam ca quả nhiên đều là những tay võ nghệ tinh thâm. Cách ném đao này ta không làm được.
Thanh đao bay tới. Hai nhà sư Tây Tạng đứng gần nhất không dám dùng binh khí đưa lên cản lại mà phải tránh né sang hai bên. Hồ Phỉ trong lòng xoay chuyển ý nghĩ rất mau:
– Trận pháp này không biết phá bằng cách nào? Hai tên kia tránh phi đao chính là lúc thừa cơ nhiễu loạn.
Hồ Phỉ xoay chuyển ý nghĩ cực kỳ mau lẹ mà thanh đơn đao bay đến cũng rất nhanh. Tâm niệm vừa chuyển đã thấy ánh bạch quang lấp loáng, một thanh đao sống dày lưỡi mỏng xé gió bay tới, thần tốc dị thường. Hồ Phỉ không đón lấy thanh đao mà đưa ngón tay khẽ đẩy chuôi đao. Thanh đao lao tới rất mạnh gặp phải luồng lực đao mãnh liệt ngăn lại một cách đột ngột, liền chuyển hướng bay vọt lên không.
Chín nhà sư Tây Tạng lấy làm lạ, bất giác ngửng đầu lên nhìn. Hồ Phỉ liền chớp lấy thời cơ, xông lại nhà sư cầm giới đao đứng bên cạnh. Chàng chỉ vươn tay ra là cướp được giới đao và trong nháy mắt thi triển “Hồ gia khoái đao” chém một trận chớp nhoáng nhanh như gió. Lúc này chàng hạ thủ quyết chẳng dung tình. Chín nhà sư kẻ bị đứt tay người bị gãy chân, không một ai tránh thoát. Thế là chín vị Lạt Ma mình mang tuyệt nghệ chỉ vì hớ hênh một chút mà trúng kế dụ địch của Hồ Phỉ đến nỗi bị trọng thương, rú lên thê thảm rồi ngã lăn cả ra.
Cuộc thắng của Hồ Phỉ vô cùng tuyệt xảo mà cũng cực kỳ nguy hiểm. Hồ Phỉ vừa thi triển xong môn khoái đao thì thanh đao trên đỉnh đầu vừa rớt xuống. Chàng liền ném thanh giới đao đi, vươn tay đón lấy. Thanh đao nặng gấp hai, ba lần thanh đao thường, đủ thấy tý lực của chủ nhân thanh đao mạnh đến chừng nào. Dưới ánh trăng chàng nhìn thấy rõ trên chuôi đao khắc ba chữ: “Bôn lôi thủ”.
Hồ Phỉ cả mừng lớn tiếng hô:
– Đa tạ Văn tứ gia đã ném đao tương trợ!
Đột nhiên thanh âm một lão già ở phía sau la lên:
– Coi kiếm đây!
Tiếng hô chưa dứt, tiếng gió đã ập tới sau lưng.
Hồ Phỉ kinh hãi lẩm bẩm:
– Kiếm pháp người này ghê gớm quá!
Chàng vội xoay đao lại đỡ gạt. Dè đâu địch nhân đã thu chiêu về, tiếp theo lại phóng kiếm đâm tới. Hồ Phỉ lại xoay tay gạt lần thứ hai cũng đánh vào khoảng không. Chàng toan quay lại nghinh chiến, nhưng kiếm chiêu của đối phương đâm tới sau lưng dù không nhanh lắm cũng bức bách chàng không có cơ hội để xoay mình.
Hồ Phỉ kinh hãi vô cùng, liền vọt về phía trước ra xa nửa trượng. Chân trái vừa chấm đất, chàng toan xoay mình lại, không ngờ địch nhân như bóng với hình lại phóng kiếm đâm tới. Y đâm liên tiếp năm nhát, Hồ Phỉ đều gạt sểnh năm lần, mà thủy chung vẫn không thể xoay mình lại để nhìn mặt mũi địch nhân ra sao.
Chàng kịch đấu lúc nửa đêm. Ban đầu giữ được thế quân bình với khoái kiếm tuyệt luân của Vô Trần đạo trưởng. Tiếp theo đả thương được “Tứ Mãn, Ngũ Mông, Cửu Tạng tăng”, không ngờ lúc này lại bị tập kích dồn dập ở phía sau, không xoay người lại được. Ở vào thế tất bại, đang lúc khẩn cấp, chàng đành mạo hiểm cầu may. Vừa nghe chiêu kiếm bên địch phóng tới sau lưng, lần này chàng không đỡ gạt, mà nhảy xổ về phía trước nằm xuống rồi xoay mình ngửa mặt lên trời, mới hoành đao gạt thanh kiếm bên địch.
Bỗng nghe địch nhân cát tiếng khen ngợi:
– Hay lắm!
Y phóng chưởng đánh tới trước ngực. Hồ Phỉ cũng phóng chưởng đánh ra. Hai chưởng đụng nhau, chàng cảm thấy chưởng lực của đối phương nhu hòa mà hùng hậu, trong nhu hòa có ẩn giấu sát khí, liền sực nhớ ra một người, buột miệng la:
– Té ra là ngươi!
Địch nhân cũng la lên:
– Té ra là ngươi!
Nguyên hai người này thủ chưởng chạm nhau, phát giác đối phương chính là người đã đối chưởng với mình ở trong phủ Phúc Khang An để giải cứu thiếu niên thư sinh Tâm Nghiễn.
Cả hai người cùng lùi lại mấy bước. Hồ Phỉ ngưng thần nhìn kỹ thấy người này râu tóc bạc phơ, tướng mạo cổ nhã, chính là Vô Thanh Tử, chưởng môn phái Võ Đương, thì không khỏi ngẩn người, chẳng hiểu đây là bạn hay là thù.
Lại nghe Vô Trần đạo nhân cười nói:
– Phỉ Thanh huynh! Võ công của tiểu lão đệ này ra sao?
Vô Thanh Tử cười đáp:
– Y đã đấu được với Vô Trần đạo nhân năm trăm chiêu, thì thử hỏi trong thiên hạ có được mấy người? Lão đạo đúng là kẻ cô lậu quả văn mới không biết trong võ làm đã nảy ra trang thiếu niên anh hùng này.
Lão tra kiếm vào vỏ, bước lại dắt tay Hồ Phỉ ra chiều thân mật. Hồ Phỉ thấy lão lúc này tráng khí bồng bột, so với thái độ lờ đờ ngái ngủ lúc ở đại hội chưởng môn thật khác nhau xa, trong lòng rất lấy làm lạ.
Vô Trần từ trên gò đất đi xuống, cười nói:
– Tiểu lão đệ! Lão mũi trâu này trước khi xuất gia có ngoại hiệu là Miên lý tàng châm Lục Phỉ Thanh. Lão đệ gọi y một tiếng đại ca xem nào!
Hồ Phỉ giật mình kinh hãi, nghĩ bụng: “Miên lý tàng châm Lục Phỉ Thanh ngày trước uy danh chấn động thiên hạ, nổi tiếng đã mấy chục năm, không ngờ hôm nay mình được giao thủ với lão”.
Chàng vội lạy phục xuống đất, miệng hô:
– Vãn bối là Hồ Phỉ, bái kiến đạo trưởng.
Bỗng nghe phía sau có thanh âm cất lên:
– Xét về lý thì ngươi là vãn bối, nhưng Hồ huynh đệ ơi, lão là lão ca kết nghĩa của ta đó.
Hồ Phỉ đứng phắt dậy, thấy người đứng sau lưng mình mặc trường bào, thân hình mập ú. Chính là Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn. Hồ Phỉ đối với vị nghĩa huynh này ngày mong đêm nhớ, liền ôm choàng lấy mà reo lên:
– Tam ca! Tam ca làm tiểu đệ nhớ đến chết.
Triệu Bán Sơn xoay mình lại nhìn thẳng vào mặt chàng dưới ánh trăng hồi lâu rồi hớn hở nói:
– Huynh đệ! Huynh đệ thành người lớn rồi. Ca ca bữa nay lại trông thấy huynh đệ đả bại liền một lúc mười tám cao thủ đại nội, trong lòng rất hoan hỷ.
Hồ Phỉ dắt tay Trình Linh Tố lại giới thiệu với Vô Trần và Triệu Bán Sơn.
Triệu Bán Sơn nói:
– Hồ huynh đệ! Trình Ba muội tử! Ta dẫn các vị đến tham kiến Trần tổng đà chủ của ta.
Hồ Phỉ giật mình kinh hãi hỏi:
– Trần tổng đà chủ! … Lão nhân gia cũng đến đây ư?
Vô Trần cười đáp:
– Lão nhân gia vừa bị huynh đệ thóa mạ một trận, nào là thương thiên bại lý, nào là phụ tâm bạc hạnh gì gì đó. Ngươi mắng như tát nước vào mặt! Ha ha! E rằng tổng đà chủ chúng ta bình sinh chưa bao giờ bị ai thóa mạ tàn tệ đến thế!
Hồ Phỉ hoảng kinh, run giọng nói:
– Đó là… là Phúc Khang An…
Lục Phỉ Thanh cười đáp:
– Trần tổng đà chủ tướng mạo giống hệt Phúc Khang An. Đừng nói tiểu huynh đệ với y là hai người chưa từng quen biết mà cả những người giáp mặt hàng ngày cũng còn nhận lầm.
Vô Trần cười nói:
– Nhớ tới năm trước ở ngoài thành Hàng Châu, Tổng đà chủ giả làm Phúc Khang An bắt được Uy Chấn Hà Sóc Vương Duy Dương gì gì đó…
Hồ Phỉ bàng hoàng một lúc rồi nói:
– Tam ca! Tam ca mau đưa tiểu đệ đến đập đầu tạ tội với tổng đà chủ.
Triệu Bán Sơn nói:
– Không biết là không có tội. Tổng đà chủ đã tiếp tiểu đệ một chưởng, khen tiểu đệ võ công cao thâm, có khí phách anh hùng!
Hai người chưa kịp đi lên gò đất, Trần Gia Lạc đã dẫn quần hùng đi xuống.
Hồ Phỉ lạy phục xuống đất nói:
– Tiểu nhân mắt mù mạo phạm đến tổng đà chủ, thật đáng tội…
Trần Gia Lạc không chờ chàng nói hết lời đã đỡ chàng dậy nói:
– “Đại trượng phu chỉ sợ bậc chính nhân quân tử chứ không sợ phường ưng khuyển nô tài”. Bữa này ta đến Bắc Kinh được nghe hai câu thống khoái lâm ly. Tiểu huynh đệ! Nguyên hai câu này cũng đủ khiến chúng ta không uổng một phen bôn tẩu vạn dặm đường xa.
Triệu Bán Sơn giới thiệu Hồ Phỉ với tất cả quần hùng. Hồ Phỉ đã ngưỡng mộ những nhân vật này từ lâu, nay được gặp mặt lấy làm vui sướng. Chàng cung kính cầm thanh cương đao trả lại cho Văn Thái Lai đã ném đao tương trợ, tạ ơn Lạc Băng tặng bảo mã. Chàng cung kính cầm thanh cương đao trả lại cho Văn Thái Lai, rồi nhặt thanh đao của tên thị vệ bỏ lại tra vào vỏ đao của mình. Cây đơn đao của chàng đã bị thiết chùy đập oằn lưỡi, trở thành vô dụng. Tâm Nghiễn cũng tạ lại ơn chàng đã giải huyệt cho gã lúc ở phủ Phúc Khang An. Vô Trần vô cùng cao hứng vạch chân trỏ tay kể lại cuộc đấu kiếm với Hồ Phỉ và Đức Bố. Lão lấy làm sung sướng vì ít khi gặp được hai cuộc tỷ đấu như bữa nay.
Lục Phỉ Thanh cười nói:
– Đạo trưởng! Luận về võ công thì tiểu huynh đệ đây đã rất mực cao thâm. Nhưng còn một vị thiếu niên anh hùng so với y còn lợi hại hơn nhiều. Chắc đạo trưởng không địch nổi người này đâu.
Vô Trần vừa cao hứng vừa bất phục, vội hỏi:
– Người ấy là ai? Hiện giờ ở đâu?
Lục Phỉ Thanh lắc đầu, đáp:
– Nhất quyết đạo trưởng không địch nổi y, tiểu đệ khuyên đạo trưởng đừng kiếm y là hơn.
Vô Trần nói:
– Hừ! Lão ca lâu nay không gặp, bây giờ mới thấy mặt là đã nói khoác rồi. Tiểu đệ không tin có nhân vật nào lợi hại đến thế!
Lục Phỉ Thanh đáp:
– Hôm qua ở trong phủ Phúc Khang An khai diễn cuộc đại hội chưởng môn các phái. Cao thủ ùn ùn như mây, mỗi nhân vật đều có tuyệt kỹ độc đáo riêng. Có đúng thế không?
Vô Trần hỏi lại:
– Đúng thì làm sao?
Lục Phỉ Thanh đáp:
– Tâm Nghiễn lão đệ đến quấy phá đại hội, lỡ tay bị bắt. Triệu tam đệ bản lãnh là vậy mà cũng chỉ đoạt được một chiếc Ngọc Long bôi. Tây Xuyên song hiệp là Thường thị huynh đệ giá lâm cũng chỉ cứu được hai người ra. Nhưng vị thiếu niên anh hùng kia trong nháy mắt đã cướp được cả bảy chiếc Ngọc Long bôi trong tay bảy vị cao thủ, rồi ném xuống đất cho vỡ ra. Y chỉ thở mấy hơi đã khiến cho đại hội chưởng môn của Phúc Khang An tan thành mây khói. Vô Trần đạo trưởng! Đạo trưởng liệu xem có đấu nổi với vị thiếu niên anh hùng đó không?
Trình Linh Tố biết lão nói mình, mặt đỏ bừng lên, đứng nép vào sau lưng Hồ Phỉ. Nhưng trong đêm tối, quần hào mải lắng nghe Lục Phỉ Thanh nói, không ai chú ý đến cô.
Một thiếu phụ xinh đẹp lên tiếng:
– Sư phụ! Bọn đệ tử chỉ nghe cuộc đại hội chưởng môn của Phúc Khang An bị người phá vỡ, nhưng không hiểu đầu đuôi vụ này ra làm sao?
Nàng là Lý Nguyên Chỉ, vợ Kim địch tú tài Dư Ngư Đồng.
Lục Phỉ Thanh liền đem vụ “Thiếu niên anh hùng” kia dùng xảo kế làm vỡ bảy chiếc Ngọc Long bôi như thế nào, thổi khói độc làm mọi người đau bụng ra sao, do đó sinh lòng ngờ vực Phúc Khang An bày mưu hãm hại anh hùng trong thiên hạ, rồi đại náo thành cuộc hỗn loạn, nhất nhất đều thuật lại cả. Quần hào nghe nói đều tấm tắc ca ngợi.
Vô Trần hỏi:
– Lục huynh nói hàng nửa ngày trời mà vị thiếu niên anh hùng đó là ai thì vẫn chưa thốt ra lời nào.
Lục Phỉ Thanh cười đáp:
– Xa thì ở chân trời, mà gần thì ở ngày trước mắt. Vị đó chính là Trình cô nương đây:
Dứt lời, lão kéo Hồ Phỉ sang một bên để lộ Trình Linh Tố ra. Quần hung “ồ” lên một tiếng, bao nhiêu con mắt đổ dồn vào Trình Linh Tố. Nhưng chẳng một ai tin cô bé gầy ốm, văn nhã là thế lại trong khoảnh khắc quấy phá được đại hội đã được chuẩn bị cả năm của Phúc Khang An. Nhưng Lục Phỉ Thanh là một người đức cao vọng trọng trong võ lâm, khi nào lại ăn nói hồ đồ? Họ không tin cũng phải tin.
Nguyên Lục Phỉ Thanh mười năm trước gặp tai họa đồng môn. Sư huynh lão là Mã Ngọc, sư đệ là Trương Triệu Trọng đã bị thảm tử. Phái Võ Đương đi vào chỗ suy vi. Lục Phỉ Thanh lên tiếp nhận chưởng môn, có ý chỉnh đốn lại môn phái. Vì sợ triều đình nhà Thanh nghi kỵ nên lão đành phải xuất gia, lấy đạo hiệu là Vô Thanh Tử. Hơn mười năm trời lão vẫn ẩn cư, triều đình cũng không chú ý tới. Lần này Phúc Khang An mời lão dự đại hội chưởng môn, một là phái Võ Đương nổi danh ngang hàng với phái Thiếu Lâm, hai là nghĩ đến Trương Triệu Trọng ngày trước đã vì triều đình xuất lực lập nên công lớn. Họ lại không biết lai lịch của Lục Phỉ Thanh ra sao liền mời chưởng môn phái Võ Đương hạ sơn.
Lục Phỉ Thanh tuy đã già mà hùng tâm vẫn còn. Lão biết hành động lần này của Phúc Khang An đem lại điều bất lợi cho đồng đạo giang hồ. Nếu lão khước từ là rước lấy nhiều sự phiền não, nên một mình đến tham dư đại hội nhằm tìm hiểu chân tướng, rồi tùy cơ mà hành động. Đến lúc Tâm Nghiễn bị Thang Bái bắt giữ thì lão mới ngấm ngầm ra tay giải cứu.
Bọn Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng cùng quần hùng ở Hồng Hoa hội từ đất Hồi Cương xuống đến Bắc Kinh vì hôm nay là ngày giỗ Hương Hương công chúa qua đời đã mười năm. Quần hùng đến trước mộ nàng để tế lễ. Phúc Khang An thấy đại hội chưởng môn bị người ta quậy phá tan tành, lại còn kết oán với các môn phái võ lâm nữa nên phẫn nộ dị thường. Hắn phái Đức Bố thống lãnh “Đại nội thập bát cao thủ” ra ngoại thành điều tra khắp nơi, hễ thấy người khả nghi là bắt hoặc giết ngay. Không ngờ cuộc chiến bên cạnh Đào Nhiên đình, bọn Văn Thái Lai, Triệu Bán Sơn chưa ra tay mà mười tám cao thủ trong đại nội đã xếp cánh chạy dài.
Bọn Trần Gia Lạc biết rõ tập quán của đám quan trường ở Thanh đình. Bọn Đức Bố bị thua tan tác như vậy, mà những nhân vật Hồng Hoa hội chưa hề kinh động đến Hoàng thân đại quan thì nhất định bọn chúng giấu nhẹm, không ai nói tới chuyện gặp địch ở Đào Nhiên đình và quyết chẳng có chuyện điều động binh mã đến phục thù. Vậy nơi đây tuy cách kinh thành không xa nhưng vẫn có thể yên tâm nán lại.
Quần hào cùng Lục Phỉ Thanh là chỗ cố hữu trùng phùng, lại gặp bạn mới là Hồ Phỉ và Trình Linh Tố, nên mọi người còn nhiều chuyện muốn nói. Đang lúc chuyện trò, bỗng nghe hai tiếng vỗ tay từ đằng xa vọng tới, ngưng một chút lại nghe thêm ba tiếng vỗ nữa. Hán tử cải trang thư sinh là Kim địch tú tài Dư Ngư Đồng vỗ tay ba tiếng để đáp lại, ngưng một lúc rồi vỗ tiếp hai cái nữa.
Vô Trần nói:
– Ngũ đệ, lục đệ đến rồi!
Bỗng thấy hai người vọt tới nhanh như bay. Hai người này thân hình cao lều nghều. Hồ Phỉ đã gặp họ ở phủ Phúc Khang An nên biết đó là Tây Xuyên song hiệp Thương Bá Chí và Thường Hách Chí. Theo sau anh em họ còn có hai nhân vật đều bồng đứa nhỏ trong tay. Hai nhân vật này chạy tới gần mới nhận ra là Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu ở Song Tử môn. Hai đứa nhỏ dĩ nhiên là hai đứa con song sinh của Mã Xuân Hoa.
Nguyên Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu thấy hai đứa nhỏ hợp nhãn đã quyết liều mạng cướp cho bằng được. Thường thị huynh đệ cũng là huynh đệ song sinh, nghe anh em họ Nghê nói trong lòng xúc động, liền nhân lúc đại hội hỗn loạn bèn trà trọn vào nội viện Phúc phủ. Lúc này Phúc Khang An và bọn thị vệ đang đau bụng dữ dội, đều tưởng mình trúng phải chất kịch độc, nên ai nấy hốt hoảng lo uống thuốc giải. Thường thị huynh đệ là những cao thủ bậc nhất, đánh ngã bảy tám tên vệ sĩ chẳng tốn chút hơi sức, rồi đoạt lấy hai đứa nhỏ chạy đi.
Hồ Phỉ nhìn thấy hai đứa nhỏ liền nghĩ tới Mã Xuân Hoa tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, không nén được vừa mừng vừa buồn. Đột nhiên chàng như sực nghĩ ra điều gì, liền nhìn Trần Gia Lạc nói:
– Trần tổng đà chủ! Vãn bối có một ý nghĩ rất đỗi hoang đường, xin thỉnh cầu Tổng đà chủ một việc.
Trần Giá Lạc đáp:
– Hồ huynh đệ cứ nói ra đừng ngại. Chúng ta tuy mới gặp nhau lần đầu, nhưng thần giao đã lâu. Bản nhân mà làm được thì nhất quyết y theo.
Hồ Phỉ biết việc này mà mở miệng ra cũng chẳng hay ho gì, nên bất giác đâm ra bẽn lẽn, nói:
– Ý nghĩ của vãn bối rất là kỳ quặc, nói ra chỉ sợ các vị cười cho.
Trần Gia Lạc mỉm cười hỏi:
– Những hành động của chúng ta, người ngoài mà coi vào thì việc gì là chẳng hoang đường, việc gì là chẳng kỳ quặc?
Hồ Phỉ đáp:
– Tổng đà chủ đã miễn trách, vậy vãn bối xin nói!
Chàng chỉ vào hai đứa nhỏ nói:
– Hai đứa nhỏ này là con của Phúc Khang An. Mẫu thân chúng trong tình trạng hấp hối.
Đoạn chàng đem chuyện gặp Mã Xuân Hoa ở Thương gia bảo cho đến vụ Mã Xuân Hoa bị hạ độc vô phương cứu chữa lược thuật từ đầu đến cuối. Quần hùng nghe kể, huyết mạch đều căng thẳng, nổi lòng phẫn nộ đến cực điểm. Vô Trần đưa ra ý kiến là lập tức quay lại thành Bắc Kinh, cho tên vô tình bạc nghĩa Phúc Khang An một nhát kiếm xong đời.
Vị đương gia thứ bảy trong Hồng Hoa hội là Từ Thiên Hoằng, biệt hiệu là Võ Giá Cát, nói:
– Đêm qua trong thành đã xảy cuộc náo loạn động trời, mà bây giờ chúng ta mạo hiểm tiến vào Phúc phủ thì đã chẳng đâm chết được Phúc Khang An, mà chỉ e chẳng còn toàn thây mà về.
Trần Gia Lạc gật đầu đáp:
– Bây giờ cổng trước sau Phúc phủ dĩ nhiên có không biết bao nhiêu là quân mã canh giữ thì làm sao mà hạ thủ? Nội một việc trà trộn vào thành cũng đã khó khăn lắm rồi. Chuyến này ta cùng các vị huynh đệ cùng đến đây là để tế công chúa, không nên vì một chút nóng giận nhất thời mà làm tổn thương đến các huynh đệ. Hồ huynh đệ! Huynh đệ yêu cầu ta chuyện gì?
Hồ Phỉ đáp:
– Vãn bối thấy Tổng đà chủ từ Hồi Cương xuống Bắc Kinh chẳng quản đường xa vạn dặm để tế mộ một vị cô nương. Tình thâm nghĩa trọng như thế thật là hiếm có. Ngày trước tại hạ cũng chịu ơn một lời nói của Mã cô nương mà không sao báo đền được, nên trong lòng rất áy náy. Bây giờ thấy y đang lúc lâm chung, chỉ còn canh cánh hai chuyện, nếu không làm được thì thật không sao nhắm mắt. Chuyện thứ nhất là y tưởng nhớ hai đứa con yêu, may mà hai vị tiền bối Thường thị song hiệp đã mang về lại được. Lại còn chuyện nữa là y mong muốn gặp lại tên gian tặc Phúc Khang An một lần cuối cùng. Tuy y đến chết vẫn chưa tỉnh ngộ, tình trạng đáng nực cười mà cũng rất đáng thương, mối chung tình…
Chàng nói tới đây vẻ mặt buồn thiu, không biết phải nói sao nữa.
Trần Gia Lạc nói:
– Bản nhân hiểu rồi! Có phải Hồ huynh đệ muốn bản nhân đóng giả làm tên gian tặc thương thiên bại lý, vong tình bội nghĩa Phúc Khang An đến an ủi Mã cô nương đa tình đa nghĩa kia chăng?
Hồ Phỉ khẽ đáp:
– Chính thế!
Quần hùng nghe Hồ Phỉ nói ra ý nghĩ hoang đường kỳ quái đó, ai nấy đều không khỏi cười thầm.
Trần Gia Lạc đưa mắt nhìn phía xa xa, mặt buồn rười rượi, nói:
– Vị công nương ở trong mộ này mà lúc lâm tử được gặp ta thì nàng sung sướng biết chừng nào? Đáng tiếc không được như sở nguyện…
Ông quay lại nhìn Hồ Phỉ nói:
– Được rồi! Bản nhân sẽ đến gặp Mã cô nương!
Hồ Phỉ trong lòng xiết bao cảm kích nghĩ thầm:
– Trần tổng đã chủ gầm mây thét gió, anh hùng hào kiệt trong thiên hạ đều kính phục suy tôn. Mình chỉ là kẻ vãn bối vô danh, hôm nay mới gặp nhau lần đầu, mà mình đi thỉnh cầu y làm điều hoang đường hư đản, vừa nói ra đã thấy hối hận, vậy mà y lại đáp ứng ngay. Sau này Trần tổng đà chủ có bảo ta nhảy vào dầu sôi lửa bóng, ta quyết chẳng từ nan.
Quần hùng lên ngựa, để Hồ Phỉ đi trước dẫn đường. Khi về đến Dược Vương miếu thì trời đã hửng sáng. Hồ Phỉ hai tay dắt hai đứa nhỏ, dẫn Trần Gia Lạc vào miếu. Trong căn phòng nhỏ âm u lạnh lẽo, cây đèn đã khô dầu, ngọn lửa còn bằng hạt đậu le lói mà chưa tắt hẳn. Mã Xuân Hoa nằm trên bệ đất, còn thoi thóp.
Hai đứa nhỏ nhảy lên sập đất, lớn tiếng gọi:
– Má má! Má má!
Mã Xuân Hoa giương mắt lên nhìn thấy con liền phấn khởi tinh thần. Không hiểu một luồng khí lực từ đâu đưa tới khiến nàng ôm choàng hai đứa nhỏ vào lòng, miệng nói:
– Hài tử! Hài tử! Má má nhớ hai con muốn chết!
Ba người ôm nhau hồi lâu, Mã Xuân Hoa đảo mắt nhìn thấy Hồ Phỉ, liền bảo chúng:
– Từ này các ngươi đi theo Hồ thúc thúc… nghe lời thúc thúc dạy bảo… Các ngươi hãy lạy thúc thúc làm nghĩa… nghĩa…
Hồ Phỉ hiểu tâm ý nàng, liền đáp:
– Được rồi! Tiểu đệ sẽ thu chúng làm nghĩa tử! Mã cô nương cứ yên lòng.
Mã Xuân Hoa lộ vẻ vui mừng, nói:
– Mau… mau dập đầu… lạy nghĩa phụ, má má… mới… yên dạ…
Hai đứa nhỏ liền quỳ lạy trước mặt Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ để bọn chúng lạy bốn lạy rồi bồng hai đứa nhỏ lên, khẽ nói:
– Mã cô nương! Cô nương còn trăn trối điều gì nữa không?
Mã Xuân Hoa thều thào đáp:
– Sau khi tiện thiếp chết rồi… xin Hồ huynh đệ… đem thi thể ta… táng bên phần mộ Từ sư ca… Y thật đáng thương… từ thủa nhỏ y rất thương yêu tiện thiếp… mà tiện thiếp lại không thương yêu y.
Hồ Phỉ sực nhớ lại tình cảnh ngày trước ở trong thạch thất cự địch, Thương Bảo Chấn đâm chết Từ Tranh ngoài rừng thì trong lòng lại cảm thấy chua xót, liền nói:
– Được rồi! Tại hạ nhất định làm theo lời cô nương.
Chàng không ngờ lúc lâm tử nàng lại nghĩ đến trượng phu, nên trong mối thương tâm còn có một chút vui mừng. Chàng thầm hận Phúc Khang An, nên nghe Mã Xuân Hoa nhắc đến chồng chứ không nhắc đến tình lang thì thấy không còn gì hay bằng.
Không ngờ Mã Xuân Hoa thở dài thườn thượt, rồi thều thào:
– Phúc công tử! Tiện thiếp muốn gặp công tử một lần nữa!
Trần Gia Lạc từ lúc vào phòng vẫn đứng bên cửa, Mã Xuân Hoa chưa nhìn thấy ông. Hồ Phỉ lắc đầu rồi bồng hai đứa nhỏ len lén ra khỏi phòng. Trần Gia Lạc từ từ bước đến trước giường. Hồ Phỉ lúc bước chân ra ngoài, còn nghe Mã Xuân Hoa “ủa” lên một tiếng. Tiếng gọi đó dạt dào hạnh phúc, đầy vẻ vui mừng, lại chan chứa mối tình luyến ái tha thiết vô ngần. Rốt cuộc trước giờ chết nàng cũng gặp lại được người tình ấp ủ trong tim.
Hồ Phỉ bâng khuâng đi ra cổng miếu, bỗng nghe tiếng địch buồn trỗi lên. Đó là Kim địch tú tài Dư Ngư Đồng đang thổi sáo dưới gốc cây.
Hồ Phỉ trong lòng chấn động. Ngày trước ở Thương gia bảo, chàng đã loáng thoáng nghe người khác thổi khúc nhạc êm đềm réo rắt này. Đây chính là khúc nhạc mà Phúc Khang An đã thổi năm xưa, làm khơi dậy tình hoài của Mã Xuân Hoa, rốt cuộc gây ra một trường oan nghiệt. Trong tiếng sáo của Kim địch tú tài dường như đang kể lể một câu chuyện tình diễm lệ mà trong đó vừa có sự ray rức quyến luyến cùng nỗi thương tâm, lại vừa có niềm bất hạnh.
Bên ngoài miếu, ai nấy đều ngẩn người ra mà nghe, lặng im không nói, tựa hồ như tưởng nhớ lại những chuyện ngọt ngào, cùng những cảnh thê lương trong đời mình. Hồ Phr nhớ đến vị cô nương áo tía cưỡi bạch mã, hận không được nằm lăn trên đất mà khóc một trận cho thỏa lòng. Đến cả kẻ hào khí ngất trời là Vô Trần đạo trưởng cũng phải nhớ đến một việc đã lâu lắm ở một nơi xa xôi. Đó là một vị tiểu thư nhà quan người xinh đẹp nhưng lòng dạ tàn độc đã lừa lão tự chặt một cánh tay.
Tiếng địch thê lương réo rắt một hồi.
Trần Gia Lạc ở trong cửa miều từ từ cất bước đi ra nhìn Hồ Phỉ gật đầu. Hồ Phỉ biết Mã Xuân Hoa đã qua đời. Trước khi lâm tử nàng được thấy con yêu, lại được gặp mặt “tình lang”. Nhưng chàng không hiểu nàng đã nói gì với Trần Gia Lạc. Nàng thống trách con người bạc hạnh vô tình, hay nàng kể lể mối tình say đắm trọn đời? Ngoài Trần Gia Lạc, trên đời chẳng một ai hay.
Hồ Phỉ ủy thác Thường thị song hiệp và Nghê thị huynh đệ đưa hai đứa con của Mã Xuân Hoa đến Hồi Cương trước, chàng lo tang sự cho Mã Xuân Hoa xong sẽ đến Hồi Cương tụ hội. Trần Gia Lạc thống lãnh quần hùng, vòng tay cáo biệt Hồ Phỉ cùng Trình Lình Tố rồi lên ngựa đi về phía tây.
Thủy chung Hồ Phỉ không nhắc tới Viên Tính với bọn họ. Lạ hơn nữa là cả Triệu Bán Sơn, Lạc Băng cũng đều không nói đến nàng. Chàng không hiểu có phải Viên Tính đã gặp bọn họ và yêu cầu vĩnh viễn không nhắc tới tên nàng với chàng hay chăng?