Tiếng hú của Kiều Phong làm Đơn Chính muốn điếc cả tai, đầu óc lùng bùng, chân lảo đảo đứng không vững, quần hùng bất giác cũng lùi lại mấy bước. Đơn Tiểu Sơn đứng gần đó lập tức xông lên giơ đao đâm tới. Mũi đao chỉ còn cách ngực Kiều Phong chừng một thước mà chàng không hề có ý tránh né. Bọn Ngô trưởng lão, Bạch Thế Kính của Cái Bang đều nhắm mắt lại không nỡ nhìn cảnh tượng bi thảm.
Đột nhiên từ trên không nghe vụt một tiếng, một người nhào xuống cực kỳ nhanh nhẹn, rơi ngay vào sống đao của Đơn Tiểu Sơn. Y không gượng nổi, phải hạ thấp tay đao xuống. Quần hùng đang la lên những tiếng kinh ngạc, thì từ trên không lại nhào xuống một người nữa, đầu xuống trước, chân xuống sau, cũng thật là mau lẹ. Nghe bốp một tiếng, đầu gã này va vào đầu Đơn Tiểu Sơn, cả hai cái đầu liền vỡ nát.
Quần hùng định thần nhìn lại thì hai người nhào xuống đều là hảo hán đứng trên mái nhà canh chừng Kiều Phong đào tẩu, chắc là bị ai bắt dùng làm ám khí ném xuống. Trong sảnh lập tức đại loạn, tiếng người xôn xao ầm ĩ. Từ trên mái nhà tung xuống một sợi dây thừng, lướt ngang đầu mọi người như một cây nhuyễn tiên, quần hùng tới tấp đưa binh khí lên đỡ. Sợi thừng liền vòng trở lại, quấn vào hông Kiều Phong rồi kéo vụt lên.
Ba vết thương của Kiều Phong đều đang tuôn máu, tay trái vẫn còn ôm A Châu nhưng không còn chút sức lực nào, khi chàng bị sợi dây thừng cuốn đi, A Châu lập tức tuột ra. Mọi người nhìn theo sợi thừng, thấy đầu dây kia đang nằm trong tay một đại hán cao to mặc quần áo đen, mặt bịt khăn đen chỉ lộ đôi mắt, đứng trên mái nhà.
Đại hán cắp Kiều Phong vào nách, sợi dây lại tung ra quấn ngay vào cây cột cờ ngoài cổng Tụ Hiền Trang. Quần hùng kêu la ầm ĩ, lập tức cương tiêu, tụ tiễn, phi đao, thiết chùy, phi hoàng thạch, súy thủ tiễn đủ loại ám khí đều nhắm vào Kiều Phong cùng đại hán kia ném tới. Đại hán áo đen níu sợi dây thừng nhẹ nhàng đu người ra, đáp xuống đỉnh cột cờ. Lúc đó mới nghe chát chát, lách cách liên tiếp, mấy chục món ám khí bắn vào cây cột. Sợi dây thừng lại tung ra, quấn lấy một cây to cách xa bảy tám trượng, đại hán cắp Kiều Phong đu ra bay vượt qua cả cái cây, cách cột cờ đến hơn mười trượng mới rơi xuống. Y lại quăng dây lần nữa quấn vào một cái cây ở xa hơn, cứ thế vài lần đã biến mất không tăm tích, dĩ nhiên không để lại cả dấu chân.
Kiều Phong tuy bị thương nặng song thần trí vẫn tỉnh táo. Đại hán quăng dây thừng cứu chàng thoát hiểm, nhất cử nhất động chàng đều nhìn rõ, Chàng hết sức cảm kích cái ơn cứu mạng, lại nghĩ thầm: “Quăng dây chuẩn xác như thế ta cũng làm được, thế nhưng dùng sợi dây làm nhuyễn tiên sử chiêu Thiên Nữ Tán Hoa đánh dạt cả mấy chục người, ta chưa đến trình độ đó.”
Đại hán áo đen đặt Kiều Phong lên lưng ngựa, hai người cưỡi chung một con chạy thẳng về hướng bắc, vừa chạy y vừa lấy thuốc ra rịt vào ba chỗ vết thương cho Kiều Phong. Kiều Phong bị mất máu quá nhiều nên cực kỳ hư nhược, mấy lần suýt ngất đi. Nhưng mỗi khi sắp ngất, chàng hít mạnh một hơi, nội lực lưu chuyển rồi tinh thần lại trấn tĩnh. Đại hán phóng ngựa thẳng phía tây bắc, đường đi càng lúc càng hiểm trở. Về sau không còn đường lối nữa, con ngựa phải len lỏi vào những bãi đá chất chồng.
Thêm nửa giờ nữa thì không còn đi ngựa được. Đại hán ôm Kiều Phong trong tay, xuống ngựa trèo lên đỉnh núi. Kiều Phong thân thể nặng nề mà y bồng cứ nhẹ như không, tuy ở nơi cheo leo hiểm trở mà vẫn chạy nhảy như bay. Về sau đến những vách đá dựng đứng không có chỗ để chân, đại hán lại ném dây thừng quấn vào cây bên kia vực mà nhảy qua. Y cứ thế mà qua tám cái khe núi, rồi trèo xuống một cái vực sâu, đứng dưới nhìn lên không thấy trời xanh, lúc đó mới dừng lại để Kiều Phong xuống.
Kiều Phong gắng gượng đứng lên nói: “Đại ân không thể dùng lời mà cảm tạ, chỉ xin ân huynh cho Kiều Phong này được thấy chân diện.”
Đại hán đưa cặp mắt sáng rực nhìn đi nhìn lại mặt Kiều Phong, một lát sau mới nói: “Trong sơn động có nửa tháng lương khô, đủ dùng trong lúc ngươi dưỡng thương. Địch nhân không có cách nào tìm đến đây được.” Kiều Phong nói “Xin vâng!” rồi nghĩ thầm: “Nghe thanh âm người này hình như tuổi không còn trẻ.” Đại hán áo đen xem xét chàng một hồi nữa, bỗng vung tay phải lên tát Kiều Phong bốp một cái. Y ra tay cực kỳ mau lẹ, Kiều Phong tuyệt nhiên không ngờ ân nhân lại ra tay đánh mình, phát thưởng đó thủ pháp cũng kỳ dị, thành thử không sao tránh được.
Đại hán lại toan tát cái thứ hai. Hai cái tát chỉ cách nhau trong chớp mắt, nhưng Kiều Phong đã có chuẩn bị rồi, đời nào để bị đánh trúng nữa. Thế nhưng y là ân nhân cứu mạng nên Kiều Phong không có ý đối địch, cũng không có hơi sức để tránh né, chỉ đưa tay trái lên má, chĩa một ngón đón lấy chưởng tâm.
Ngón tay đó trở đúng vào huyệt Lao Cung trong lòng bàn tay đại hán, nếu y tiếp tục đánh xuống, chưa chạm tới mặt Kiều Phong thì huyệt đạo đã bị ngón tay đâm trúng rồi. Bàn tay y còn cách má Kiều Phong độ một thước, lập tức biến chiêu thật lẹ, xoay lưng bàn tay đánh vào, Kiều Phong cũng nhanh nhẹn xoay ngón tay trỏ vào huyệt Nhị Gian trên lưng bàn tay y.
Đại hán cười một tràng dài, tay phải giật về, tay trái liền chém tới. Ngón tay bên trái Kiều Phong lập tức dựng lên chỉ thẳng vào huyệt Hậu Khoát ở cạnh bàn tay. Y hơi đưa tay lên cao, nhưng vẫn tiếp tục đánh tới không chậm chút nào, Kiều Phong lại di động ngón tay hướng vào huyệt Tiền Cốc ở cổ tay đối phương. Chỉ trong khoảnh khắc, đại hán vũ lộng song chưởng biến chiêu hơn chục lần, còn Kiều Phong chỉ thủ mà không công, thủy chung vẫn đưa ngón tay nhằm vào huyệt đạo chống đỡ để đối phương không đánh tới được. Đại hán chỉ xuất kỳ bất ý tát được chàng một cái lúc đầu, sau đó không thể nào đánh trúng được nữa. Hai người kẻ đánh, người đỡ dù chỉ hời hợt trên không, nhưng đều sử dụng võ công thượng thừa.
Được khoảng hai chục chiêu, đại hán thấy Kiều Phong tuy đã trọng thương mà vẫn biến chiêu thần tốc, nhận huyệt chuẩn xác, y thu chưởng về, nhảy lùi lại nói: “Ta không ngờ ngươi ngu xuẩn đến thế. Lẽ ra ta chẳng nên cứu ngươi làm chi.” Kiều Phong đáp: “Kiều mỗ xin kính cẩn nghe ân công giáo huấn.” Đại hán mắng: “Ngươi là đồ con lừa! Đã luyện võ công đến mức vô địch thiên hạ, sao lại vì một đứa con gái lưu lạc giang hồ mà bỏ mạng? Con bé đó đã không thân thích lại không ơn nghĩa gì với ngươi, cũng chẳng phải là giai nhân nghiêng nước nghiêng thành, chỉ là một con thị tì hạ lưu chứ là gì đâu. Trong thiên hạ sao lại có kẻ điên rồ như ngươi?” Kiều Phong thở dài một tiếng rồi đáp: “Ân công dạy phải lắm. Kiều Phong này đem thân hữu dụng mà làm chuyện vô ích, quả là sai lầm. Chỉ vì nhất thời bồng bột, nóng giận bực tức, tính dã man hung dữ nổi lên nên không kịp suy xét đến hậu quả.”
Đại hán kia nói: “Ha ha! Tính dã man hung dữ nổi lên…” Y ngửa mặt lên trời, cất tiếng cười một tràng dài. Kiều Phong thấy trong tiếng cười đầy vẻ thê lương, không khỏi ngạc nhiên. Thốt nhiên đại hán đứng phắt dậy, nhảy vọt ra xa, thân hình lạng đi một cái đã khuất sau một tảng đá lớn. Kiều Phong gọi với theo: “Ân công! Ân công!” Chỉ nghe tiếng chân nhảy luôn mấy bước nữa, rồi mỗi lúc một xa. Kiều Phong cũng toan chạy theo, nhưng người lảo đảo muốn ngã, phải vịn vào vách núi mới đứng được.
Chàng định thần quay lại, quả nhiên sau vách đá có một sơn động. Kiều Phong men theo vách núi, chầm chậm đi vào trong hang, thấy trên mặt đất để đầy thịt nướng, gạo rang, trái cây khô, đậu phộng, cá muối, toàn là lương thực để lâu được, tuyệt diệu nhất là có cả một vò rượu lớn. Chàng mở nắp ra, một mùi hương ngào ngạt xông lên mũi, vội thò tay vào cốc rượu ra uống thử, quả là loại mỹ tửu thượng đẳng. Kiều Phong cảm kích vô cùng, nghĩ thầm: “Sao ân công chu đáo đến thế, biết ta thích rượu, lại dự bị sẵn nơi đây. Đường núi hiểm trở khó đi, mang được vò rượu lớn thế này xuống đây, quả thật phí nhiều công sức.”
Thứ thuốc đại hán nọ bôi lên vết thương cho chàng thật là công hiệu, lúc này đã cầm máu rồi, chỉ mấy giờ sau cơn đau đã giảm. Kiều Phong thân thể tráng kiện, nội công thâm hậu, mà vết thương chỉ ở ngoài da thịt, chỉ bảy tám ngày đã liền da đến non nửa.
Trong bảy tám ngày đó, chàng chỉ nghĩ đến hai việc: “Cừu nhân ta là ai? Ân nhân ta là ai?” Cả hai người đều có bản lĩnh ghê gớm, xem ra chẳng kém gì mình. Trong võ lâm, những người thân thủ như thế chỉ đếm được trên đầu ngón tay, chàng liệt kê cả ra, nhưng nghĩ qua nghĩ lại cũng không thấy ai phù hợp. Cừu nhân chàng chưa hề thấy, chẳng thể nào đoán được thì cũng đành, thế nhưng vị ân nhân đã trao đổi đến hơn hai chục chiêu mà cũng không thể nào đoán được gia số môn phái. Chiêu thức thật là bình thường, nhưng trong cái đơn giản chất phác chứa đựng tinh túy cao siêu chẳng khác gì chàng sử Thái Tổ Trường Quyền ở Tụ Hiền Trang, không bộc lộ lai lịch chút nào.
Mới hai ngày, Kiều Phong đã uống sạch vò rượu không còn một giọt. Chàng cố đợi đến ngày thứ hai mươi thì mấy chỗ vết thương đã khỏi bảy tám phần, nổi cơn thèm rượu không sao nhịn nổi. Chàng liệu chừng đã có đủ sức trèo núi vượt khe, bèn ra khỏi sơn động, trở lại giang hồ.
Kiều Phong nghĩ bụng: “A Châu rơi vào tay bọn chúng, nếu chết thì đã chết rồi, nếu sống được thì mình cũng chẳng cần lo liệu cho cô ta. Việc quan trọng trước mắt là phải điều tra xem mình là giống người nào. Song thân và sư phụ cùng chết một ngày, thân thế ta lại càng mơ hồ chẳng biết hỏi ai, thôi thì phải ra Nhạn Môn Quan xem bài di văn trên vách núi.”
Tính toán xong, Kiều Phong đi về hướng tây bắc đến một thị trấn, việc đầu tiên là tìm vào hàng rượu uống hai chục bát. Chàng còn mấy lạng bạc vụn, chỉ uống ba ngày đã hết sạch.
Bấy giờ nhà Đại Tống làm chủ Trung Nguyên, chia thiên hạ ra thành mười lăm lộ, đặt kinh đô ở Đại Lương, gọi phủ Khai Phong là Đông Kinh, Lạc Dương ở Hà Nam là Tây Kinh, Tống Châu là Nam Kinh, Đại Danh là Bắc Kinh, tổng cộng tứ kinh, Khi đó Kiều Phong đang ở Nhữ Châu thuộc lộ Tây Kinh, đến Lương Huyện thì tiền bạc hết nhẵn, chàng bèn chờ đến đêm lẻn vào huyện đường, trộm mấy trăm lượng bạc trong công khố. Thế là nhà Đại Tống phải đài thọ cuộc hành trình của chàng, trên đường đi tha hồ ăn uống phủ phê, cao lương mỹ tửu. Chẳng bao lâu đã đến Đại Châu thuộc lộ Hà Đông.
Ải Nhạn Môn Quan ở trên núi Nhạn Môn, cách Đại Châu ba mươi dặm về phía Bắc. Năm xưa trên đường hành hiệp giang hồ, Kiều Phong đã từng đến đây, nhưng khi đó đang có việc gấp nên chỉ đi qua, không để ý đến. Đến Đại Châu thì đã đầu giờ Ngọ, ghé vào uống một hơi mười bát rượu, ăn một bữa thật no rồi mới ra khỏi thành đi về hướng bắc.
Kiều Phong cước trình nhanh nhẹn, chưa tới nửa giờ đã hết ba chục dặm đường. Chàng trèo lên núi, thấy hai rặng núi dựng đứng hai phía Đông Tây, giữa chỉ có một lối đi quanh co gập ghềnh, quả là cực kỳ hiểm trở. Kiều Phong nghĩ bụng: “Chim nhạn mỗi khi di cư xuống phương Nam tránh rét rồi trở về phương Bắc không thể vượt qua hai dãy núi cao, đều phải bay vào khe núi, thành thử mới gọi là Nhạn Môn. Hôm nay Kiều mỗ ở phương Nam đến đây, giả tỷ mà di văn khắc trên núi đá chứng tỏ ta là giống Khất Đan, thì sau khi ra khỏi ải Nhạn Môn Quan sẽ vĩnh viễn thành người phương Bắc, không bao giờ quay lại nữa. Thật không bằng loài chim nhạn, mỗi năm một lần vào nam ra bắc, tự do qua lại cửa quan.” Nghĩ đến đó chàng không khỏi bùi ngùi trong dạ.
Nhạn Môn Quan là trọng trấn của nhà Đại Tống ở phương bắc, kiên cố hùng vĩ nhất trong hơn bốn chục cửa ải suốt cõi Sơn Tây. Chỉ ra khỏi cửa ải này vài mươi dặm là thuộc địa phận nước Liêu, trong ải có đặt trọng binh trấn giữ. Kiều Phong nghĩ rằng nếu theo cửa quan mà ra thì thể nào cũng bị binh lính tra hỏi, chàng bèn theo dãy núi cao phía tây mà đi vòng qua quan ải.
Lên đến đỉnh núi cao nhất, chàng đưa mắt nhìn bốn phía thấy toàn là núi. Phía đông có núi Ngũ Đài cao vọt lên, phía tây là dãy Ninh Võ, phía nam có những ngọn Chính Dương, Thạch Cổ, còn phía bắc là Sóc Châu, Mã Ấp. Núi non chập chùng đến tận chân trời, cảnh tượng lạnh lẽo tiêu điều. Kiều Phong nhớ lại, năm xưa qua Nhạn Môn Quan đã nghe người bạn đồng hành kể chuyện rằng, đại tướng Lý Mục nước Triệu thời Chiến Quốc cùng đại tướng Chất Đô đời Hán từng trấn thủ Nhạn Môn Quan để chống giữ quân Hung Nô xâm lược. Nếu quả thực mình là dòng giống Khất Đan, hậu duệ Hung Nô, thì té ra hàng nghìn năm nay, bọn vào xâm lấn Trung Nguyên đều là tổ tiên mình cả.
Chàng lại đưa mắt nhìn về hướng bắc nghĩ thầm: “Ngày trước Uông bang chủ cùng bọn Triệu Tiền Tôn phục kích bọn võ sĩ Khất Đan ở bên ngoài Nhạn Môn Quan, hẳn là sẽ chọn vị trí thuận lợi không xa quá mười dặm. Địa thế tốt thì phải ở sườn núi phía tây bắc kia, mười phần thì chắc đến tám chín, bọn họ mai phục ở chỗ đó.”
Kiều Phong nghĩ thế, liền chạy xuống để sang sườn núi bên kia, trong lòng đột nhiên dậy lên một nỗi bi phẫn không biết từ đâu đưa tới. Chàng để ý thấy chỗ sườn núi đó có một khối đá lớn, Trí Quang đại sư kể là quần hùng Trung Nguyên ẩn nấp sau khối đá mà ném ám khí tẩm độc ra, xem chừng chính là chỗ này.
Ngoài sơn đạo chừng vài bước là vực thẳm, mây mù che phủ không nhìn thấy đáy. Kiều Phong nghĩ thầm: “Mấy lời của Trí Quang đại sư không sai, khi má má ta bị bọn họ giết chết rồi, gia gia ta đứng đây nhảy xuống sơn cốc tự tận. Gia gia nhảy xuống vực mới phát hiện ta còn sống, không nỡ để ta phải chết theo nên mới vứt ta trở lên, rơi trên mình Uông bang chủ. Gia gia… gia gia đã viết gì trên vách đá nhỉ?”.
Chàng quay đầu về phía trái, quả nhiên thấy một vách đá tự nhiên phẳng phiu nhẵn nhụi, nhưng chính giữa có một khoảng lớn đầy vết búa chém vào trông rất rõ. Rõ ràng đã có người cố ý xóa hết tự tích của người võ sĩ Khất Đan.
Kiều Phong đứng ngẩn ngơ trước vách đá, đột nhiên lửa giận bốc lên, chỉ muốn vung đao chém giết một phen. Đột nhiên chàng nhớ lại: “Khi ta rời Cái Bang đã từng bẻ gãy thanh đao của Đơn Chính mà thề rằng: Dù ta là người Hán cũng vậy, mà là người Khất Đan cũng vậy, quyết không bao giờ tàn hại người Hán. Thế nhưng ở Tụ Hiền Trang, ta đã giết bao nhiêu người Hán? Bây giờ ta lại muốn giết người nữa, có phải là trái lời thề chăng? Than ôi! Sự việc xảy ra như thế, mình không giết người, người cũng giết mình. Nếu bó tay chịu chết để mặc người khác băm vằm thì còn gì là phong độ của bậc trượng phu nữa?”.
Kiều Phong rong ruổi ngàn dặm chỉ cốt điều tra rõ ràng thân thế mình, rút cục chẳng được việc gì. Chàng càng nghĩ càng thêm bực bội, lớn tiếng gầm lên: “Ta không phải người Hán! Không phải người Hán! Ta là mọi rợ Khất Đan! Mọi rợ Khất Đan!” Chỉ nghe bốn bề sơn cốc vang dội thanh âm vọng lại:“Không phải người Hán… Không phải người Hán… Mọi rợ Khất Đan… Mọi rợ Khất Đan…”
Trong lòng Kiều Phong bao nhiêu uất ức, thịnh nộ không có chỗ phát tiết, cứ hết chưởng này đến chưởng khác đập vào vách đá, tưởng chừng như muốn đem bao nhiêu oan khuất của một tháng qua trút cả lên đấy. Đá vụn bay tứ tung, mãi đến khi bàn tay ứa máu, tảng đá in những dấu tay màu đỏ, chàng vẫn chưa ngừng.
Bất thình lình có tiếng trong trẻo của một cô gái vang lên từ sau lưng: “Kiều đại gia ơi! Đại gia đập nữa đi! Không chừng ngọn núi này đổ xuống mất thôi.” Kiều Phong giật mình quay đầu nhìn lại, thấy một thiếu nữ mặc áo hồng đứng tựa vào một cây hoa bên cạnh sườn núi, miệng mỉm cười. Đó chính là A Châu.
Hôm trước chàng ra tay cứu A Châu là vì nỗi lòng nghĩa hiệp lại phấn khích nhất thời, thực ra chưa quan tâm đặc biệt gì đến cô tiểu a đầu này. Về sau ngay cả chuyện nàng còn sống hay đã chết, chàng cũng không còn rảnh rang mà nghĩ đến. Ngờ đâu nàng lại xuất hiện ở nơi này, Kiều Phong cũng thấy hoan hỉ, mỉm cười tiến đến nói: “A Châu! Xem ra cô đã mạnh khỏe rồi!” Có điều chàng đang cuồng nộ bỗng chuyển sang vui mừng, nụ cười trên môi có phần miễn cưỡng.
A Châu hỏi lại: “Kiều đại gia? Đại gia cũng khỏe chứ?” Nàng ngơ ngẩn nhìn Kiều Phong một hồi, đột nhiên nhảy vào lòng chàng, nức nở mà nói: “Kiều đại gia! Tiểu nữ… tiểu nữ chờ ở đây đã năm ngày năm đêm, lúc nào cung phập phồng không biết đại gia có đến không, quả nhiên bây giờ lại được gặp nhau. Cảm ơn Trời Phật phù hộ, đại gia vẫn bình yên vô sự.”
Nàng nghẹn ngào nói lẫn trong tiếng khóc, nhưng thanh âm đầy vẻ vui mừng, an ủi. Kiều Phong vừa nghe đã biết ngay nàng chân tâm lo lắng cho mình, cảm thấy xúc động trong lòng, liền hỏi lại: “Cô nương đây chờ ta đã năm ngày, năm đêm rồi ư? Cô… cô nương làm sao biết được là ta sẽ đến đây?”
A Châu chậm rãi ngửng đầu lên, chợt nhớ ra mình đang gục vào lòng một người đàn ông, bất giác mặt thẹn đỏ bừng, lùi lại hai bước. Nàng nghĩ đến việc mình ôm chầm lấy chàng trong cơn xúc động, mặt càng đỏ như gấc chín, đột nhiên quay phắt đi chạy nấp vào sau một gốc cây.
Kiều Phong hốt hoảng gọi theo: “A Châu, A Châu! Cô nương làm sao thế?” A Châu không trả lời, chỉ thấy tim đập loạn lên, một lúc lâu sau mới bước ra nhưng vẻ mặt vẫn còn bẽn lẽn, ấp úng không nói nên lời. Kiều Phong thấy vẻ mặt nàng khác lạ liền hỏi: “A Châu, cô nương có chuyện gì nan giải cứ việc nói cho ta nghe. Chúng ta đã hoạn nạn chi giao, đồng sinh cộng tử, thì còn có điều chi phải e dè?” A Châu lại đỏ mặt, nhỏ nhẹ nói: “Không có chuyện gì.”
Kiều Phong nhẹ nhàng đặt tay lên vai cô gái, xoay mặt nàng ra hướng mặt trời, thấy dung nhan hãy còn tiều tụy nhưng trong màu xanh xao đã ẩn sắc hồng, không còn xám xịt như lúc đang bị trọng thương nữa. Chàng lại đưa tay xem mạch nàng, vừa chạm vào tay A Châu lập tức nàng run bắn lên, Kiều Phong vội hỏi: “Sao thế? Cô chưa bình phục hẳn hay sao?” A Châu lại càng thẹn thùng, vội đáp: “Không phải! Không… không có gì hết.” Kiều Phong thấy mạch nàng đã có sức lực, bèn khen: “Nghệ thuật diệu thủ hồi xuân của Tiết Thần Y quả thật danh bất hư truyền.”
A Châu nói: “Cũng nhờ vị hảo bằng hữu Bạch Thế Kính của đại gia truyền cho bảy chiêu Triền Ti Cầm Nã Thủ, Tiết Thần Y mới chịu trị bệnh cho tiểu nữ. Vả lại bọn họ cũng muốn tra vấn xem tung tích vị tiên sinh áo đen kia ở đâu, nếu như tiểu nữ chết đi dĩ nhiên bọn họ không biết hỏi ai nữa. Thương thế mới đỡ một chút, ngày nào cũng có bảy tám người đến hỏi: Ác tặc Kiều Phong liên hệ với cô nương thế nào? Y chạy đi đâu? Tên áo đen cứu y là ai? Những chuyện đó tiểu nữ đâu có biết, nhưng khi nói thật là không biết thì bọn họ lại bảo là nói láo, đe dọa sẽ không cho ăn uống, sẽ dùng cực hình tra khảo, Thành thử tiểu nữ phải bịa đặt đủ thứ chuyện cho họ nghe, hoang đường nhất là chuyện về tiên sinh áo đen, bữa nay thì bảo là ông ta từ núi Côn Lôn đến, ngày mai lại bảo là ông xuất thân ở Đông Hải, toàn nói nhăng nói cuội mà bọn họ lại nghe lọt tai mới là kỳ.” Nàng kể tới đây, nhớ lại mấy bữa đó thuận mồm đặt chuyện mà bịp bợm được vô số anh hùng hào kiệt nổi danh, bất giác cảm thấy khoan khoái trong lòng, miệng cười tươi như hoa nở.
Kiều Phong mỉm cười hỏi: “Thế bọn họ có tin lời cô nương không?” A Châu đáp: “Có người thì tin, có người lại không tin, phần lớn thì bán tín bán nghi. Tiểu nữ đoán chắc chẳng một ai biết lai lịch của tiên sinh áo đen, mình có nói dối bọn họ cũng không cãi được. Bởi thế mà câu chuyện càng nói càng ly kỳ cổ quái khiến cho bọn họ không biết đường nào mà mò, ai nấy sợ mất vía.” Kiều Phong thở dài: “Quả thực ta cũng không biết vị tiên sinh áo đen đó lai lịch thế nào. Không chừng ta mà nghe cô bịa chuyện cũng phải nửa tin nửa ngờ.”
A Châu lấy làm kỳ, hỏi: “Đại gia cũng không biết ông ta là ai ư? Thế sao ông ta lại xông vào nơi đầm rồng hang cọp cứu đại gia ra? À phải rồi, những bậc đại hiệp cứu người trong cơn hoạn nạn đều như thế cả.”
Kiều Phong thở dài nói: “Ta chẳng biết đi kiếm ai mà báo thù, cũng chẳng biết đi kiếm ai mà trả ơn. Ta là người Hán hay người Hồ, hành vi của ta đúng hay sai, ta cũng không tự biết. Kiều Phong hỡi Kiều Phong! Ngươi quả thật không đáng làm người!”.
A Châu thấy Kiều Phong chán chường đau khổ, bất giác thò tay ra nắm lấy tay chàng an ủi: “Kiêu đại gia tự làm khổ mình làm gì? Mọi việc rồi cũng có lúc rõ ràng, chỉ cần đại gia vấn tâm không hổ thẹn, hành sự hợp lẽ trời, thế là đủ rồi.” Kiều Phong nói: “Thế nhưng ta tự vấn tâm có điều hổ thẹn, thế mới đau lòng. Hôm đó nơi rừng hạnh, ta đã từng búng gãy thanh đao thề rằng sẽ không tàn hại người Hán, ngờ đâu… ngờ đâu…” A Châu đáp: “Bọn người ở Tụ Hiền Trang không biết phân biệt trắng đen, vây đánh đại gia một cách hồ đồ. Nếu đại gia không trả đòn, không lẽ để yên cho họ chặt ra thành mười bảy hay hai mươi tám miếng hay sao? Trên đời này làm gì có chuyện vô lý đến thế?”
Kiều Phong đáp: “Cô nói phải lắm.” Chàng vốn dĩ là một hảo hán tính tình sảng khoái, ít để tâm chuyện gì, có đau lòng cảm thán cũng chỉ một lúc. Chàng gác vấn đề đó sang một bên, nói: “Trí Quang đại sư và Triệu Tiền Tôn đều nói rằng trên vách đá này có viết chữ, không biết kẻ nào đã phá hủy mất rồi.” A Châu đáp: “Đúng thế! Tiểu nữ cũng đoán là đại gia sẽ ra ngoài Nhạn Môn Quan để xem lại di văn trên vách núi, nên vừa thoát hiểm là đến đây chờ đại gia ngay.”
Kiều Phong hỏi: “Làm sao cô nương thoát hiểm được? Có phải Bạch trưởng lão lại giúp cô nương nữa không?” A Châu mỉm cười: “Không phải đâu. Đại gia còn nhớ hôm tiểu nữ giả trang thành nhà sư chùa Thiếu Lâm không? Ngay cả sư huynh đệ của y cũng không nhận ra.” Kiều Phong nói: “Đúng thế! Cái trò tinh nghịch của cô quả là ghê gớm.” A Châu nói: “Một hôm thương thế của tiểu nữ đã đỡ nhiều, Tiết Thần Y bảo không cần phải điều trị thêm nữa, chỉ cần nghỉ ngơi bảy tám ngày là phục hồi được như cũ. Câu chuyện tiểu nữ bịa ra càng lúc càng nhiều sơ hở, mà cũng chán ngấy rồi. Tiểu nữ lại lo lắng không biết đại gia ra sao, nên đến tối bèn cải trang thành một người…” Kiều Phong sửng sốt hỏi: “Lại cải trang! Thành ai thế?” A Châu đáp: “Tiểu nữ cải trang thành Tiết Thần Y.”
Kiều Phong giật mình hỏi: “Cô nương làm thế nào mà hóa trang giống Tiết Thần Y được?” A Châu đáp: “Ngày nào lão ta cũng gặp tiểu nữ, nói năng cũng nhiều, nên thần thái cùng thanh âm của lão đã thuộc lòng, mà lão lại thường đến một mình. Đêm hôm đó tiểu nữ giả vờ ngất đi, lão bèn tới chẩn mạch, tiểu nữ bèn lật tay lại nắm đúng mạch môn khiến lão không còn cục cựa gì được, đành để cho tiểu nữ bố trí.”
Kiều Phong không nhịn cười được, nghĩ thầm: “Lão Tiết Thần Y kia chỉ lo trị bệnh, có biết đâu mắc mưu con nhãi ranh này.”
A Châu tiếp: “Tiểu nữ điểm huyệt lão ta, lột sạch cả áo lẫn giày. Công phu điểm huyệt của tiểu nữ tầm thường, sợ lão ta tự mình giải huyệt được, nên xé một cái chăn ra trói luôn chân tay, đặt lên trên giường trùm lại. Nếu ai ở ngoài cửa sổ nhìn vào chỉ tưởng tiểu nữ đang đắp chăn nằm ngủ, không nghi ngờ gì hết. Tiểu nữ mặc áo, đi giày, đóng khăn của lão vào, trên mặt nhồi thêm mấy nếp nhăn. Thế là mười phần đã giống đến bảy, chỉ còn thiếu bộ râu nữa là hoàn toàn…”
Kiều Phong kêu lên: “Ồ, bộ râu của Tiết Thần Y hoa râm nửa đen nửa trắng, không dễ gì mà làm giả được.” A Châu nói: “Râu giả thì khó mà giống, chi bằng dùng râu thật.” Kiều Phong ngơ ngác hỏi: “Râu thật ư?” A Châu đáp: “Đúng vậy, dùng râu thật. Tiểu nữ lục trong hộp thuốc ra một con dao nhỏ, cạo sạch chòm râu của ông ta không chừa một sợi, gắn hết lên mặt mình, hình dáng màu sắc hoàn toàn giống hệt. Lão Tiết Thần Y tức đến chết được nhưng chẳng biết làm sao. Lão ta trị thương có phải do lòng tốt đâu, tiểu nữ có cạo râu ông ta cũng không thể nói là lấy oán báo ơn được. Huống chi lão cạo sạch râu rồi trông trẻ ra đến chục tuổi, mặt mày anh tuấn đáo để.”
Nói đến đây hai người nhìn nhau cùng phá lên cười. A Châu tiếp tục: “Tiểu nữ giả làm Tiết Thần Y, đường hoàng ra khỏi Tụ Hiền Trang chẳng một ai dám hỏi han gì. Tiếu nữ còn sai người chuẩn bị ngựa, lấy tiền bạc rồi mới đi, rời khỏi trong ba chục dặm bèn nhổ bộ râu đi, lại biến thành một chàng thanh niên. Chắc là sáng hôm sau bọn chúng phát giác ra, thế nhưng trên đường tiểu nữ cải trang thêm mấy lần nữa, chúng có đuổi theo cũng vô phương tìm kiếm.”
Kiều Phong vỗ tay khen: “Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!” Đột nhiên chàng nhớ lại cảm giác bất an khi thoáng nhìn thấy bóng sau lưng mình trong tấm gương đồng ở Bồ Đề Viện nơi chùa Thiếu Lâm, lúc đó chàng thấy hồi hộp mà không biết tại sao. Bây giờ nghe A Châu kể chuyện cải trang thoát hiểm, cái tâm trạng bất an ấy lại nổi lên, còn mạnh hơn cả lần trước. Kiều Phong trầm ngâm rồi bảo: “A Châu, cô quay người lại để ta xem nào.” A Châu không hiểu chàng muốn gì nhưng cũng nghe lời xoay lưng lại.
Kiều Phong chăm chú nhìn, rồi cởi chiếc áo ngoài khoác lên người cô gái. A Châu bẽn lẽn xoay đầu lại, đôi mắt đầy vẻ ôn nhu, đắm đuối nhìn chàng mà nói: “Tiểu nữ không lạnh đâu…”
Kiều Phong nhìn nàng khoác chiếc áo choàng của mình, lập tức hiểu ra, lật bàn tay nắm chặt lấy cổ tay cô gái, hậm hực nói: “Thì ra là ngươi! Ai sai khiến ngươi, nói cho mau đi.” A Châu hoảng hốt hỏi: “Kiều đại gia! Có chuyện gì thế?” Kiều Phong nói: “Ngươi đã từng giả trang giống ta, mạo nhận làm Kiều mỗ, phải không?”.
Thì ra khi đó chàng chợt hiểu ra, trên đường chạy đến Thiên Ninh Tự cứu huynh đệ Cái Bang, chàng đã thoáng thấy sau lưng một người. Lúc đó không để ý, đến khi nhìn thấy bóng sau lưng mình trong tấm gương đồng, trong vô thức mới nhận ra người đó nhìn sau lưng giống hệt mình không sai một mảy. Cảm giác bất an từ đó mà nảy sinh, có điều chàng cứ mơ hồ không hiểu do đâu.
Hôm đó Kiều Phong chạy tới nơi thì mọi người đã thoát hiểm, ai cũng bảo là vừa mới gặp chàng. Tuy chàng nhất định bảo là không phải, nhưng chẳng ai tin. Lúc ấy Kiều Phong chẳng hiểu ra sao, nghĩ bụng trừ phi có người mạo nhận mình thì không còn cách giải thích nào khác. Thế nhưng nếu có ai giả mạo, chẳng lẽ bọn Bạch Thế Kính, Ngô trưởng lão kề cận mình cả ngày đêm lại không nhận ra ư? Mặc dù lúc này A Châu không độn bông, thân hình nhỏ bé khác hẳn tấm thân vạm vỡ của chàng, nhưng nhìn thấy sau lưng nàng khoác chiếc áo của mình, chàng liền tỉnh ngộ. Giả mạo làm bang chủ mà đánh lừa được toàn thể Cái Bang, thiên hạ ngoài cô ta ra thì còn ai giả trang tuyệt diệu như vậy nữa đâu?
A Châu không sợ hãi gì, cười lên khanh khách nói: “Thôi được, để tiểu nữ cung khai vậy.” Rồi nàng đem chuyện cải trang thành Kiều Phong thế nào, đem thuốc giải đến cứu quần hào Cái Bang ra sao, nhất nhất thuật lại. Kiều Phong bỏ tay nàng ra, gay gắt hỏi: “Ngươi giả làm ta đi cứu người là có dụng ý gì?” A Châu kinh ngạc đáp: “Tiểu nữ chỉ tinh nghịch cho vui, chứ có dụng ý gì đâu. Tiểu nữ cùng A Bích được đại gia cứu khỏi tay người Tây Hạ, đều rất lấy làm cảm kích. Tiểu nữ lại nghĩ bọn ăn mày đối xử tệ bạc như thế, nếu giả làm đại gia đến đưa thuốc giải độc khiến cho họ phải thấy ăn năn hổ thẹn, cũng là việc hay.” Nàng lại thở dài, tức mình nói tiếp: “Ngờ đâu ở Tụ Hiền Trang, họ vẫn tàn nhẫn với đại gia đến vậy, chẳng nhớ gì tới ân nghĩa ngày xưa.”
Kiều Phong vẻ mặt mỗi lúc một thêm nghiêm trọng, nghiến răng hỏi: “Vậy sao người lại đến giết song thân ta? Sao lại mạo xưng ta lẻn vào chùa Thiếu Lâm ám hại cả sư phụ ta?” A Châu giật nảy người, kêu lên: “Sao lại thế được? Ai bảo tiểu nữ giết song thân cùng sư phụ của đại gia?”
Kiều Phong đáp: “Sư phụ ta bị đánh trọng thương, người vừa trông thấy ta đến liền bảo là chính ta hạ độc thủ. Không phải ngươi thì còn ai vào đây?” Nói tới đây, Kiều Phong mặt đầy sát khí, từ từ giơ tay phải lên, chỉ chờ A Châu nói một câu ấp úng là đập xuống, dẫu đến mười A Châu cũng chết ngay tức khắc.
A Châu thấy đôi mắt chàng tóe lửa, khiếp sợ vô cùng, hốt hoảng lùi lại hai bước. Nàng chỉ lùi thêm hai bước nữa là rơi ngay xuống vực sâu vạn trượng. Kiều Phong nghiêm giọng quát: “Đứng lại! Không được nhúc nhích!” A Châu sợ quá, nước mắt nhỏ ròng ròng, giọng run run đáp: “Tiểu nữ không… không giết song thân đại gia, cũng chẳng… chẳng giết sư phụ đại gia. Bản lĩnh sư phụ đại gia ghê gớm đến mức nào, làm sao tiểu nữ… ám hại được người?”
Câu cuối cùng của nàng quả là có sức thuyết phục. Kiều Phong hồi tâm nghĩ lại, biết ngay mình trách oan. Lập tức chàng đưa vụt tay trái ra nhanh như chớp, giữ lấy vai nàng kéo vào vách đá cho khỏi sẩy chân rơi xuống vực, rồi mới nói: “Phải rồi! Phải rồi! Sư phụ ta chắc chắc không phải do cô nương ám hại.” Sư phụ Huyền Khổ đại sư là sư huynh đệ với các vị cao tăng Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Nạn, đáng gọi là cao thủ bậc nhất võ lâm. Người viên tịch không phải do trúng độc, cũng chẳng phải do gươm đao hay ám khí đả thương, mà do chưởng lực trầm trọng đánh nát tạng phủ. A Châu là một cô gái nhỏ tuổi làm gì có nội lực thâm hậu đến thế? Nếu nội lực nàng có thể đánh chết được Huyền Khổ đại sư thì Đại Kim Cương Chưởng của Huyền Từ quyết không thể đánh cho nàng chín phần chết một phần sống được.
A Châu đang giàn giụa nước mắt cũng phá lên cười, đấm nhẹ vào ngực chàng nói: “Đại gia kỳ cục, nói năng vô lý làm tiểu nữ sợ muốn chết. Nếu tiểu nữ có bản lãnh đánh chết được vị đại sư đó, thì ở Tụ Hiền Trang đã giúp đại gia giết sạch bọn khốn kiếp kia rồi.”
Kiều Phong thấy nàng giận dỗi, trong lòng cũng thấy hổ thẹn, nói: “Mấy bữa nay thần trí ta hoang mang bất định thành ra ăn nói lăng nhăng, xin cô nương đừng trách.” A Châu cười đáp: “Ai mà thèm trách đại gia? Nếu tiểu nữ giận thật thì đời nào còn nói chuyện với đại gia nữa.” Nàng bỗng nghiêm trang lại, nhỏ nhẹ nói: “Kiều đại gia, dù đại gia đối xử thế nào thì suốt đời tiểu nữ cũng không bao giờ giận đại gia đâu.”
Kiều Phong lắc đầu, bình thản nói: “Ta đã cứu mạng cô nương thật, nhưng cô nương cũng đừng để tâm làm gì.” Chàng ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên lại hỏi: “A Châu! Ai dạy cho nàng cái tuyệt kỹ hóa trang đó? Sư phụ nàng có còn đệ tử nào khác không?” A Châu lắc đầu: “Không có ai dạy hết. Tiểu nữ từ nhỏ đã thích bắt chước làm người này người khác cho vui, rồi càng tập luyện càng thêm giống, làm gì có sự phụ nào? Không lẽ chuyện chơi nghịch mà cũng phải tầm sư học đạo hay sao?”
Kiều Phong thở hắt ra, nói: “Thế này thì lạ thật! Không lẽ trên đời này lại có người giống hệt như ta để sư phụ phải nhầm hay sao?” A Châu nói: “Đã có cái đầu mối đó thì cũng dễ. Chúng ta chỉ cần đi tìm người đó, khảo đả hỏi cho ra lẽ là xong.” Kiều Phong đáp: “Đã đành rằng thế. Nhưng trời đất mênh mông, biết tìm đâu ra y. Không chừng y cũng như cô, có tài nghệ hóa trang giống hệt người khác.”
Chàng bước lại gần vách núi, xem kỹ những vết búa đẽo, nhưng nhìn đi nhìn lại cũng không nhận ra chữ nào, bèn nói: “A Châu cô nương! Ta muốn đi tìm Trí Quang đại sư, hỏi xem trên vách đá đã viết những chữ gì. Chưa tra xét rõ ràng thì thật ta ăn ngủ không yên được.” A Châu nói: “Tiểu nữ sợ ông ta không chịu nói.” Kiều Phong nói: “Nếu ông ta không nói thì mình bức bách van nài bằng được, chứ ta nhất định không bỏ cuộc.” A Châu trầm ngâm nói: “Trí Quang đại sư xem ra kiên cường không sợ chết, dẫu có bức bách van nài cũng chẳng đến đâu. Chi bằng…” Kiều Phong gật đầu: “Đúng rồi! Chỉ còn cách đi hỏi Triệu Tiền Tôn. Úi chà, gã này lại càng không sợ chết, chẳng khuất phục đâu, Nhưng ta đã nghĩ ra một cách đối phó với gã rồi.”
Chàng nói tới đây, lại quay sang nhìn xuống vực thẳm rồi tiếp: “Ta định xuống đó xem.” A Châu giật nảy người, nhìn xuống vực chỉ thấy mây che mù mịt, bất giác run chân vội lùi thêm hai bước nữa, nói: “Không được! Không được! Đại gia muôn vạn lần không nên xuống. Dưới đó có gì để coi đâu?” Kiều Phong đáp: “Ta là người Hán hay người Khất Đan, chuyện đó cứ quanh quẩn mãi trong đầu không yên được. Dù sao ta cũng xuống tìm hiểu cho minh bạch, xem cái xác của người Khất Đan đó ra sao.” A Châu nói: “Người đó nhảy xuống đã ba chục năm rồi, nhiều lắm là còn vài nắm xương trắng, có gì để mà xem?” Kiều Phong đáp: “Chính là ta muốn xuống xem nắm xương tàn của y. Nếu quả đó là phụ thân sinh ra ta, thì phải xuống đem lên an táng cho tử tế mới phải đạo làm con.”
A Châu sợ quá, kêu lên: “Không thể! Không thể như vậy? Đại gia nhân từ hiệp nghĩa, sao lại là dòng dõi Khất Đan tàn bạo ác độc được?” Kiều Phong nói: “Cô nương cứ ở đây chờ ta một ngày một đêm. Nếu giờ này ngày mai ta chưa lên thì khỏi phải chờ thêm nữa.” A Châu kêu lên một tiếng, khóc òa nói: “Kiều đại gia! Đại gia đừng xuống!”
Kiều Phong tính tình cứng cỏi, không động lòng chút nào, tủm tỉm cười nói: “Bao nhiêu anh hùng hảo hán ở Tụ Hiền Trang còn chưa giết ta được, chẳng lẽ cái sơn cốc này lấy được mạng ta hay sao?” A Châu quýnh quáng không tìm được lời ngăn trở, đành nói: “Không chừng dưới đó có rắn độc, trùng độc, hay quái vật hung dữ thì sao? “
Kiều Phong cười ha hả, vỗ nhẹ lên vai nàng, nói: “Nếu quả có quái vật thì tốt quá. Ta sẽ bắt lên cho cô nương tha hồ nghịch ngợm.” Chàng xem xét bốn phía hang núi, định tìm chỗ sườn núi nào dễ trèo xuống nhất.
Giữa lúc ấy, phía đông bắc văng vẳng tiếng vó ngựa phi về hướng nam, nghe âm thanh phải đến hai chục con. Kiều Phong lập tức chạy vòng qua sườn núi, nhìn về phía có tiếng chân ngựa. Chàng đứng trên cao nhìn rõ hơn hai chục kỵ sĩ áo vàng giáp vàng đều là quan binh nhà Đại Tống, đi một dãy theo sơn đạo ở sườn núi bên dưới.
Kiều Phong xem rõ rồi, không coi bọn họ vào đâu, nhưng chỗ chàng và A Châu đang đứng lại là độc đạo hiểm yếu từ ngoài ải tiến vào Nhạn Môn Quan. Năm xưa quần hùng Trung Nguyên chọn nơi này phục kích võ sĩ Khất Đan chính là vì thế, Kiều Phong nghĩ thầm: “Đây là nơi biên phòng hệ trọng, quan binh nhà Đại Tống gặp người lạ mặt thể nào cũng tra hỏi lôi thôi. Chi bằng mình tránh đi cho khỏi phiền phức,” Kiều Phong quay lại chỗ cũ, kéo A Châu nấp đằng sau tảng đá, nói: “Đó là quan binh nhà Đại Tống.”
Chẳng bao lâu, hơn hai chục kỵ binh chạy lên núi. Kiều Phong từ chỗ nấp nhìn ra đã thấy tên quân sĩ đi đầu, không khỏi xúc động lẩm bẩm: “Năm xưa bọn Uông bang chủ, Trí Quang đại sư, Triệu Tiền Tôn hẳn cũng mai phục đằng sau tảng đá này, thấy bọn võ sĩ Khất Đan cưỡi ngựa chạy ngang yếu lộ. Hôm nay đá núi vẫn trơ trơ ra đó, mà các võ sĩ Tống Liêu năm nào đã biến thành xương trắng gần hết rồi.”
Kiều Phong còn đang bâng khuâng nghĩ ngợi, bỗng nghe tiếng trẻ con kêu khóc, chàng giật mình như người nằm mơ sực tỉnh, tự hỏi: “Tại sao lại có trẻ nít khóc?” Tiếp theo lại nghe tiếng đàn bà kêu rú lên. Chàng thò đầu ra nhìn bọn quan binh Đại Tống, thấy tên nào cũng bắt được mấy người đàn bà, trẻ con ăn mặc theo lối du mục Khất Đan. Nhiều tên còn đưa tay sờ nắn bọn đàn bà con gái Khất Đan trông thật thô bỉ khả ố, người nào chống cự lại lập tức bị quát mắng đánh đập. Kiều Phong lấy làm kỳ lạ không hiểu nguyên do, chỉ thấy cả bọn vượt ngang qua tảng đá lớn, đi thẳng về phía Nhạn Môn Quan.
A Châu hỏi: “Kiều đại gia! Sao bọn họ lại làm thế?” Kiều Phong lắc đầu nghĩ thầm: “Quan quản trấn thủ biên cương sao lại càn rỡ thế này.” A Châu lại nói: “Bọn quan binh này chẳng khác gì đạo tặc.”
Kế đó, lại có thêm một đoàn khoảng ba chục tên quan binh khác đi về, dẫn theo một đàn bò cừu đến vài trăm con và mười mấy phụ nữ Khất Đan nữa. Một tên nói: “Lần này thu hoạch chẳng ra gì, không biết đại soái có nổi giận không?” Một tên quan quân khác nói: “Kể ra thì không lấy được nhiều bò cừu của bọn Liêu cẩu. Nhưng trong đám đàn bà có mấy đứa mặt mày không đến nỗi tệ, đem về cho hầu hạ đại soái thì ngài sẽ bớt giận ngay.” Gã thứ nhất lại nói: “Được có ba chục đứa đem về, làm sao đủ chia tới phần chúng mình? Đành phải vất vả thêm một ngày, mai lại đi thu hoạch.” Một tên cười nói: “Bọn Liêu cầu nghe tin chắc trốn sạch rồi. Muốn đi thu hoạch phải chờ mấy tháng nữa.”
Kiều Phong nghe tới đây lửa giận xông lên, nghĩ bụng: “Hành vi của lũ quan binh này còn tệ hại hơn bọn đạo tặc hạng bét trên giang hồ.” Đột nhiên một đứa con nít đang được bế trong lòng mẹ khóc thét lên. Người phụ nữ Khất Đan gạt tay tên quân Đại Tống đang sờ soạng ra, vỗ về đứa nhỏ đang khóc. Y nổi giận, nắm lấy đứa nhỏ quật xuống đất rồi cho vó ngựa xéo lên, lập tức ruột gan đứa nhỏ lòi ra. Người đàn bà Khất Đan như chết đứng, không khóc nổi thành tiếng. Bọn quan binh cất tiếng cười rộ, vẫn tiếp tục rầm rập chạy qua.
Kiều Phong đã từng chứng kiến vô số cảnh tàn bạo hung ác, nhưng công nhiên tàn sát con nít để làm trò đùa thì mới thấy lần thứ nhất. Chàng cực kỳ phần nộ, nhưng cố nén lại không phát tác ngay.
Đoàn quan quân đó qua rồi, lại có thêm một toán hơn chục tên nữa hùng hổ đi tới, Những tên lính Đại Tống ngồi trên lưng ngựa, giơ cao trường mâu, đầu ngọn giáo nào cũng có bêu một cái thủ cấp máu chảy đầm đìa. Sau yên ngựa lại buộc một sợi dây dài, trói năm người đàn ông Khất Đan. Kiều Phong nhìn cách ăn mặc thấy cũng toàn là dân chúng chăn nuôi tầm thường. Hai người đã già đầu tóc bạc phơ, còn ba người kia là thiếu niên mười lăm, mười sáu tuổi. Chàng hiểu ngay, khi thấy bọn quan binh Đại Tống này qua cướp bóc, những người du mục Khất Đan tráng niên mạnh khỏe đều chạy thoát, chỉ có đàn bà con trẻ và người già yếu là bị bắt.
Bỗng thấy một tên quan binh cười nói: “Chặt được mười bốn cái thủ cấp, bắt sống được năm con chó Liêu, công lao không lớn nhưng cũng không nhỏ. Bọn ta được thăng một cấp, thưởng một trăm lượng bạc là cái chắc rồi.” Lại một người khác nói: “Cao huynh đệ! Có một thị trấn Khất Đan cách đây năm mươi dặm về phía tây, ngươi có dám đến đó thu hoạch không?” Gã họ Cao liền đáp: “Có quái gì mà không dám? Ngươi khinh ta là lính mới chăng? Chính vì ta mới đến, đang cần lập chút công lao đây.” Bọn chúng vừa nói chuyện vừa đi đến gần tảng đá lớn.
Một ông già Khất Đan trông thấy xác đứa trẻ vỡ bụng nằm dưới đất, đột nhiên gào to lên đầy vẻ bị thương, xông tới ôm lấy nó hôn hít không ngừng. Kiều Phòng không hiểu tiếng Khất Đan, nhưng chỉ nhìn cũng biết đứa bé bị ngựa xéo chết kia hẳn là thân nhân của ông lão. Tên lính đang nắm sợi dây trói ông già bèn ra sức giật liên hồi, kéo ông ta đi. Ông già Khất Đan như phát điên lên, nhảy xổ vào y. Tên lính kinh hãi, vung đao chém xuống người ông lão, lão còn cố sức giật mạnh một cái, kéo y ngã từ trên lưng ngựa xuống đất rồi há mồm cắn luôn vào cổ. Lúc đó một tên lính Đại Tống khác đang ngồi trên ngựa bèn vung đao chém phập vào lưng ông lão, lại cúi xuống xách cổ lão lôi ra, tên lính ngã dưới đất mới đứng dậy được. Hắn tức quá, lại vung đao chém liên tiếp mấy nhát vào người ông già, lão loạng choạng rồi té lăn xuống đất. Bọn quan binh đứa cầm trường mâu, đứa cầm đoản đao bu lại vây quanh.
Ông lão Khất Đan đột nhiên đứng phắt dậy quay về hướng bắc, cởi phanh áo ra, ưỡn ngực cất tiếng hú lên, thanh âm thê lương bi thảm tựa như tiếng chó sói tru. Cả bọn quan quân đều lộ vẻ kinh hãi.
Kiều Phong trong lòng thảng thốt, bỗng nhiên có cảm giác ông lão Khất Đan kia với mình có điều gì gần gũi tự sâu thẳm trong lòng. Chàng nghe tiếng hú như sói tru kia, bất giác nhớ lại hoàn cảnh lúc mình trúng mấy nhát đao tại Tụ Hiền Trang, cha con Đơn Chính dùng đao đâm tới. Khi đó biết mình sắp chết, trong lòng bi phẫn không sao nhịn được, đã rống lên như mãnh thú cùng đường.
Mấy tiếng hú của lão già Khất Đan đã gợi lên trong lòng Kiều Phong một tâm tình thân cận. Chàng không nghĩ ngợi gì nữa, nhảy vọt từ đằng sau tảng đá ra, vươn tay chộp từng đứa từng đứa quan binh Đại Tống ném xuống vực sâu. Kiều Phong càng đánh càng hăng, phóng chưởng đẩy cả mấy con ngựa chúng cưỡi xuống thâm cốc, tiếng ngựa hí người kêu nổi lên ầm ĩ một lúc rồi ngừng bắt.
A Châu và bốn người Khất Đan sống sót thấy chàng thần uy như vậy, ai nấy đứng thộn mặt ra mà nhìn. Kiều Phong giết sạch hơn chục tên quan binh rồi, cất tiếng hú lên một tràng dài, vang động cả khe núi. Chàng thấy ông lão Khất Đan kia trúng mấy nhát đao mà vẫn đứng sững như trời trồng, trong bụng kính trọng lão là một tay hảo hán, bước đến trước mặt thấy lão đã tắt thở chết rồi, vẫn hướng về phương bắc, ngực áo phanh ra. Kiều Phong nhìn vào ngực ông già bỗng hoảng hốt la lên một tiếng, lùi lại một bước, loạng choạng suýt ngã.
A Châu cả kinh vội hỏi: “Kiều đại gia? Đại gia… làm sao thế?”, Nghe roạc roạc mấy tiếng, Kiều Phong đã xé toạc áo mình ra, để lộ bộ ngực đầy lông đen. A Châu nhìn vào thấy trên ngực chàng có xăm hình đầu một con chó sói xanh lè, há miệng nhe nanh, coi rất hung dữ. Nàng nhìn lại ông già Khất Đan, thấy ngực ông ta cũng có hình đầu chó sói giống hệt như của Kiều Phong. Cả bốn người Khất Đan kia cũng kêu lên những tiếng lạ lùng.
Kiều Phong từ lúc ba tuổi có chút hiểu biết, đã thấy trên ngực mình có hình đầu con sói xanh, nhưng vì từ nhỏ đã có nên không coi là chuyện lạ. Đến khi lớn lên mới hỏi song thân, vợ chồng Kiều Tam Hòe bảo là xăm hình cho đẹp, trầm trồ khen ngợi một lúc, nhưng không nói rõ lai lịch vết xăm. Về thời Bắc Tống, xăm hình trên người là chuyện bình thường, có người xăm hết từ đầu đến chân. Nhà Đại Tống thừa kế giang sơn của họ Sài nhà Hậu Chu. Vị hoàng đế khai quốc nhà Hậu Chu là Quách Uy, nơi cổ có xăm hình một con chim sẻ, vì thế người ta thường gọi là Quách Tước Nhi. Huynh đệ trong Cái Bang thì mười người đến chín có thích hoa văn, nên Kiều Phong cũng chẳng nghi ngờ gì cả.
Nhưng hôm nay chàng nhìn thấy lão già Khất Đan bị giết trên ngực có hình đầu chó sói xanh giống y hệt như mình, không khỏi cực kỳ kinh ngạc, Bốn người Khất Đan kia vây quanh chàng, vừa nói gì đó vừa chỉ vào ngực chàng. Kiều Phong ngơ ngẩn không hiểu họ nói gì. Ông già đột nhiên cởi áo mình ra, để lộ bộ ngực, trên đó cũng có xăm hình đầu chó sói. Ba gã thiếu niên cũng cởi áo, đứa nào cũng có xăm hình y hệt.
Kiều Phong không còn nghi ngờ gì nữa, biết chắc mình là dòng giống Khất Đan. Hình đầu sói trước ngực, nhất định là ký hiệu một bộ tộc Khất Đan, người ta thích vào từ lúc sơ sinh. Chàng trước nay vẫn thống hận người Khất Đan, cho rằng họ tàn ác đê tiện, không giữ tín nghĩa, tàn sát người Hán cực kỳ thê thảm. Bây giờ chàng phải thừa nhận mình chính là giống người không bằng cầm thú kia, trong lòng đau khổ khôn cùng.
Kiều Phong đứng sững một hồi, đột nhiên gầm lên một tiếng thật to rồi cắm đầu chạy vào rừng núi như nổi cơn điên. A Châu vội gọi: “Kiều đại gia! Kiều đại gia!” rồi lật đật chạy theo.
Nàng chạy hơn mười dặm mới thấy chàng ngồi ôm đầu dưới một gốc cây, sắc mặt nhợt nhạt, những đường gân xanh nổi vặn cuồn cuộn trên trán. A Châu chạy đến ngồi cạnh chàng.
Kiều Phong co rút người lại, ngồi nhích ra, nói: “Ta là giống mọi rợ Khất Đan không bằng con heo con chó. Từ đây trở đi, cô nương chẳng nên nhìn mặt ta nữa.”
A Châu vốn dĩ cũng như bao nhiêu người Hán khác, thống hận người Khất Đan tận xương tủy. Nhưng trong lòng nàng Kiều Phong thật chẳng khác gì một vị thiên thần phải tôn thờ, Đừng nói chàng là người Khất Đan mà là mãnh thú, ma quỷ hay là gì đi nữa, nàng cũng không muốn bỏ chàng mà đi. A Châu nghĩ bụng: “Lúc này trong lòng Kiều đại gia vô cùng đau đớn, ta càng phải ôn nhu an ủi nhiều hơn.” Nàng bèn nhỏ nhẹ nói: “Bất luận dân Hán hay dân Khất Đan cũng có người tốt người xấu. Kiều đại gia, đại gia chả nên quan tâm làm gì.Tính mạng A Châu này đã được đại gia cứu thoát thì dù đại gia là người Hán hay người Khất Đan cũng vậy, A Châu không phân biệt chi hết.”
Kiều Phong lạnh lùng đáp: “Ta không cần cô nương an ủi, thực ra trong lòng cô nương chẳng coi ta vào đâu, bất tất phải giả vờ tìm câu nói lấy lòng. Ta cứu mạng cô nương cũng chẳng phải do bản tâm đâu, chẳng qua chỉ nhất thời hiếu thắng tranh cường. Chuyện đó từ nay xóa hết, cô nương mau mau đi đi.”
A Châu trong lòng bồn chồn, nghĩ thầm: “Kiều đại gia đã biết mình là người Khất Đan, không chừng sẽ đến sa mạc bắc phương, từ nay không trở lại Trung Nguyên nữa.” Nàng hốt hoảng, vội đứng lên năn nỉ: “Kiều đại gia! Nếu đại gia nhất định bỏ đi, tiểu nữ sẽ nhảy xuống vực thẳm tự tận. A Châu này biết rồi, đại gia là anh hùng hảo hán Khất Đan, không coi đứa a hoàn hạ tiện người Hán vào đâu, chi bằng đi tìm cái chết là hơn.”
Kiều Phong nghe giọng nàng cực kỳ thành khẩn, trong lòng đâm ra cảm động. Chàng vẫn nghĩ mình đã là giống mọi rợ thì bao nhiêu người Hán trong thiên hạ đều coi như rắn rết chỉ muốn tránh xa, ngờ đâu A Châu đối với mình vẫn không khác chút nào. Kiều Phong bất giác đưa tay ra nắm lấy tay nàng, dịu dàng nói: “A Châu! Nàng là thị tì của Mộ Dung công tử chứ nào phải của ta, ta… ta nào có dám coi thường nàng?”
A Châu đáp: “Tiểu nữ không cần đại gia an ủi, thực ra trong lòng đại gia chẳng coi tiểu nữ vào đâu, bất tất phải giả vờ tìm câu nói lấy lòng.” Nàng nhại lại mấy câu Kiều Phong vừa nói, thanh âm giọng điệu cũng giống hệt, nhưng trong ánh mắt đầy vẻ nghịch ngợm tinh ranh. Kiều Phong thốt nhiên cười ha hả, chàng đang buồn bực đến cùng cực, gặp được một cô gái thông minh lanh lợi an ủi như thế này, phiền não cũng khuây khỏa bớt.
A Châu bỗng nghiêm nét mặt nói: “Kiều đại gia, tiểu nữ phục thị Mộ Dung công tử thì có, nhưng không phải đã bán mình cho công tử đâu. Chỉ vì tiểu nữ từ bé không cha không mẹ bơ vơ lưu lạc, một hôm bị người ta hiếp đáp, gặp được Mộ Dung lão gia cứu đem về. Tiểu nữ không nơi nương tựa, mới ở lại nhà ông ta làm một đứa a hoàn. Thực ra Mộ Dung công tử cũng không coi tiểu nữ như đầy tớ, lại còn mua cho mấy đứa nô tì phục thị nữa kìa. A Bích muội tử cũng thế, được phụ thân cô ta gửi vào nhà Mộ Dung lão gia ở Yến Tử Ổ để lánh nạn. Năm xưa, Mộ Dung lão gia và phu nhân có nói rằng, ngày nào thiếp và A Bích muốn rời khỏi Yến Tử Ổ, Mộ Dung gia trang sẽ vui vẻ để bọn thiếp đi…” Nàng kể đến đây, khuôn mặt bẽn lẽn. Thực ra khi đó Mộ Dung phu nhân nói rằng: “Ngày nào A Châu, A Bích về nhà chồng, toàn thể gia trang nhà Mộ Dung sẽ làm lễ vu qui, dùng kiệu hoa đưa ra khỏi cửa, không khác gì gả con gái cho người ta”. Nàng ngừng lại một chút rồi nói với Kiều Phong: “Từ nay trở đi tiểu nữ sẽ phục thị đại gia, làm kẻ nữ tì. Mộ Dung công tử không trách cứ gì đâu.”
Kiều Phong xua tay lia lịa, nói: “Không được! Không được! Ta là một gã người Hồ man mọi, làm gì mà có nữ tì? Cô nương sống với gia đình phú quí đất Giang Nam đã quen, theo ta chỉ tổ phiêu lưu khổ sở, có gì là thú? Cô nhìn xem, một gã hán tử thô lỗ như ta liệu có đáng để cô nương phục thị không?”
A Châu thản nhiên cười đáp: “Thế thì đại gia cứ coi tiểu nữ là một đứa nô tì đi cướp về được, vui vẻ thì thưởng cho một nụ cười, bực mình thì tha hồ đánh đập mắng nhiếc. Đại gia đã vừa lòng chưa?” Kiều Phong mỉm cười, nói: “Ta chỉ đánh ra một quyền là cô chết ngay tức khắc,” A Châu nói: “Vậy thì xin đại gia đánh nhè nhẹ thôi, đừng ra tay quá nặng.” Kiều Phong cười ha hả nói: “Đánh nhè nhẹ thì thà không đánh còn hơn. Thế nhưng ta chẳng cần nô bộc làm quái gì.” A Châu đáp: “Đại gia là một vị anh hùng Khất Đan, đi bắt vài cô gái người Hán về làm nô lệ có gì mà không được? Chính mắt đại gia cũng trông thấy quan binh nhà Đại Tống đi bắt người Khất Đan đấy thôi.”
Kiều Phong lẳng lặng không nói gì nữa. A Châu thấy chàng nhíu mày, ánh mắt u uẩn, lại lo rằng mình nói câu gì thất thố để chàng phải buồn phiền.
Một hồi sau, Kiều Phong mới chậm rãi nói: “Trước nay ta tưởng chỉ có người Khất Đan hung ác tàn bạo, sát hại người Hán, nhưng hôm nay chính mắt thấy quan binh Đại Tống cũng tàn nhẫn giết hại những kẻ già cả yếu đuối, đàn bà trẻ con người Khất Đan. Ta… ta… A Châu ơi! Ta là người Khất Đan, nhưng từ nay không lấy thế làm thẹn mà cũng không nghĩ làm người Hán là vinh nữa.”
A Châu nghe nói thế, biết chàng đã gỡ được nỗi u uất trong lòng, vô cùng hoan hỉ mà nói: “Thì tiểu nữ đã nói bất luận dân Hán hay dân Khất Đan cũng có người tốt người xấu mà. Người Hồ không giảo hoạt bằng người Hán, có khi lại còn ít kẻ xấu hơn.”
Kiều Phong nhìn xuống vực thẳm lại nhớ chuyện năm xưa, nói: “A Châu! Song thân ta bị người Hán vô cớ sát hại, thù này không thể không trả.” A Châu gật gật đầu, trong lòng không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Nàng hiểu rằng mấy chữ đơn giản “thù này không thể không trả” hàm chứa những cuộc ác đấu rùng rợn, máu chảy thây phơi.
Kiều Phong lại chỉ xuống vực thẳm, nói: “Năm xưa mẫu thân ta bị bọn họ sát hại, phụ thân ta đau xót không muốn sống nên đã nhảy xuống vực sâu cạnh tảng đá ban nãy. Trong khi đang rơi lưng chừng, vì không muốn ta phải chết theo, nên đã ném ta trở lên, Kiều mỗ mới có ngày hôm nay. A Châu ơi! Thế thì phụ thân ta yêu ta biết là dường nào, có phải vậy chăng?” A Châu nước mắt rưng rưng đáp: “Vâng!”.
Kiều Phong lại tiếp: “Mối huyết hải thâm cừu của song thân ta, không lẽ quên đi không báo? Trước kia ta không biết, nhận thù làm bạn, nghĩ lại thật là bất hiếu. Nếu từ nay không đi tìm giết hung thủ sát hại song thân, Kiều mỗ còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Không hiểu thủ lĩnh đại ca của bọn họ là ai. Y có ký tên dưới bức thư viết cho Uông bang chủ, nhưng Trí Quang hòa thượng đã xé ra nuốt mất rồi. Gã thủ lĩnh đại ca này chắc hẳn còn sống, nếu không bọn họ đâu cần phải che đậy giấu giếm làm chi?”
Chàng cứ tự hỏi rồi tự trả lời, biết rằng A Châu không giúp gì được mình trả mối đại cừu, nhưng có người nghe mình nói cũng đỡ phiền não ít nhiều. Chàng lại tiếp: “Gã thủ lĩnh đại ca kia suất lãnh được hào kiệt Trung Nguyên, hẳn phải là một nhân vật võ nghệ tuyệt luân, tiếng tăm vang dậy. Hắn gọi Uông bang chủ là Kiếm Nhiêm huynh đệ, mối giao tình không phải tầm thường, mà xem chừng khoảng sáu bảy chục tuổi. Một nhân vật lẫy lừng mà tuổi già như vậy tưởng cũng không khó tìm. À phải! Được xem phong thư kia thì chỉ có Trí Quang hòa thượng, Từ trưởng lão và Mã phu nhân của Cái Bang cùng Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính. Gã Triệu Tiền Tôn kia cũng biết y là ai. Triệu Tiền Tôn thể nào cũng kể với sư muội y là Đàm bà, mà chắc Đàm bà cũng không giấu ông chồng đâu, Trí Quang hòa thượng và Triệu Tiền Tôn cũng là đồng lõa giết hại song thân ta, đương nhiên là ta phải giết, còn cái thằng khốn nạn Thủ lĩnh đại ca kia, hừ, hừ, ta… ta phải giết sạch nhà nó từ già chí trẻ, con gà con chó cũng không tha.”
A Châu sợ nổi da gà, đã toan nói: “Đại gia giết một mình gã thủ lĩnh đại ca cũng đủ rồi, tha cho gia đình người ta.” Thế nhưng nàng thấy Kiều Phong thần uy lẫm liệt không dám nói gì trái ý, câu nói ra đến cửa miệng lại nuốt vào.
Kiều Phong lại tiếp: “Trí Quang hòa thượng vân du bốn bể, Triệu Tiền Tôn phiêu lưu vô định, hai người này khó lòng tìm được. Lão Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính kia không tham gia giết hại song thân ta, ta đã giết hai đứa con của lão rồi, đứa con út cũng vì ta mà chết, không nên tìm y nữa. A Châu: Chúng ta lên đường đi tìm Từ trưởng lão của Cái Bang trước!”
A Châu nghe hai chữ “chúng ta” vui mừng khôn xiết, có nghĩa là chàng đã bằng lòng cho mình đi cùng. Nàng lặng lẽ nở một nụ cười, nghĩ thầm: “Dù đại gia có đến chân trời góc biển, tiểu nữ cũng nguyện đi theo”.
Hai người trở về hướng nam, lại đi vòng qua Nhạn Môn Quan đến một thị trấn nhỏ, tìm một khách điếm. A Châu không chờ Kiều Phong mở miệng đã bảo tiểu nhị lấy hai mươi cân rượu. Tên tiểu nhị thấy hai người không ra vợ chồng, cũng chẳng phải anh em đã lấy làm lạ, nghe đòi lấy hai mươi cân rượu, lại càng thêm ngạc nhiên. Gã đứng ngẩn ra nhìn hai người, không đi lấy rượu cũng chẳng trả lời. Kiều Phong trừng mắt nhìn gã, không giận mà tự nhiên sinh uy. Tên tiểu nhị hoảng hồn vội lật đật quay vào, lẩm bẩm: “Đòi lấy những hai mươi cân rượu, để tắm hay sao?”
A Châu cười nói:“Kiều đại gia! Bọn ta đi tìm Từ trưởng lão, xem ra chỉ chừng hai ngày là bị phát giác. Lúc đó đại gia vừa đi đường vừa đánh giết tuy cũng vui thật, nhưng Từ trưởng lão nghe hơi gió đã chạy mất dép thì làm sao bắt ông ta được?”
Kiều Phong cười ha hả nói: “Cô đừng có đưa ta lên mây. Giả tỷ trên đường gặp ai đánh nấy, địch nhân mỗi lúc kéo đến một đông mà mình chỉ có hai người, tất bị toi mạng.” A Châu nói: “Nếu chỉ nguy hiểm thì cũng không đến nỗi, nhưng bọn chúng cúp đuôi chạy trốn hết thì mới là hỏng bét.” Kiều Phong nói: “Vậy có tính thế nào? Hay là chúng ta ngày nghỉ đêm đi, có được chăng?”
A Châu mỉm cười nói: “Muốn bọn họ không nhận ra mình cũng chẳng khó gì. Có điều Kiều đại hiệp danh vang khắp thiên hạ, không biết có chịu cải trang hay không?” Nàng nói tới nói lui, cũng có hai chữ “cải trang” Kiều Phong cười nói: “Ta không phải người Hán, đã không muốn mặc bộ Hán phục này nữa rỗi. Thế nhưng ở Trung Nguyên mà mặc y phục Khất Đan thì đi lại thật bất tiện. A Châu! Cô bảo ta cải trang thế nào đây?” A Châu đáp: “Đại gia oai phong tuấn tú, ai thấy cũng chú ý. Tốt nhất là cải trang thành một nhân vật giang hồ tầm thường, bộ dạng không có gì đặc biệt. Người ta đi một ngày đường phải gặp cả trăm người như thế, chẳng ai thèm để ý đến.” Kiều Phong vỗ tay khen: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Uống rượu xong cô cứ cải trang cho ta.”
Chàng uống hết hai mươi cân rượu rồi, A Châu liền bắt tay vào việc. Nàng vừa nhồi vừa dán đủ loại bột mì, hồ dán, a dao, bao nhiêu điểm khác người trên mặt Kiều Phong đều biến mất, lại thêm cho chàng một bộ ria mép. Kiều Phong được hóa trang xong lấy gương soi, thì chính mình cũng không nhận ra mình nữa. Sau đó A Châu cũng tự cải trang thành một hán tử trung niên. Nàng vừa cười vừa nói: “Tướng mạo của đại gia đã thay đổi rồi, thế nhưng khi nói năng hay uống rượu là người ta nhận ra ngay.” Kiều Phong gật đầu: “Ừ! Thế thì ta nói ít đi, uống ít rượu là xong.”
Từ đó trên đường xuôi nam, Kiều Phong hết sức giữ ý, ít khi mở miệng, mỗi bữa cơm cũng chỉ uống hai ba cân rượu.
Một hôm đến Tam Giáp Trấn ở Tấn Nam, hai người ghé vào một tiệm mì, bỗng nghe ngoài cửa có hai gã ăn mày nói chuyện với nhau. Một gã nói: “Từ trưởng lão chết thê thảm quá, gân cốt trước ngực sau lưng đều đứt hết. Chắc lại là gã ác tặc Kiều Phong hạ độc thủ.” Kiều Phong rùng mình nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi sao?” Chàng liền đưa mắt về phía A Châu.
Lại nghe một gã khác nói: “Ngày mai phát tang tại thành Vệ Huy tỉnh Hà Nam, các trưởng lão cùng huynh đệ trong bang đều đến phúng điếu, chắc sẽ bàn cách bắt Kiều Phong.” Gã ăn mày lại nói mấy câu tiếng lóng, nhưng Kiều Phong nghe cũng hiểu ngay. Y nói là Kiều Phong thanh thế rất lợi hại, không thể nói năng lung tung để thủ hạ của y nghe được.
Kiều Phong cùng A Châu ăn mì xong liền rời Tam Giáp Trấn. Ra khỏi thị trấn, Kiều Phong mới nói: “Bọn ta thử đến Vệ Huy xem sao, không chừng nghe ngóng được chút manh mối.” A Châu đáp: “Phải rồi, cố nhiên ta phải tới đó. Nhưng những người đến phúng điếu Từ trưởng lão đều là cố nhân của đại gia. Đại gia nhớ phải cẩn thận cử chỉ ngôn ngữ, chở để lộ hình tích.” Kiều Phong gật đầu, nói: “Cái đó đã hẳn.” Hai người liền quay sang hướng đông, đi về phía thành Vệ Huy.
Hôm sau hai người đã đến Vệ Huy, trong thành đầy nghẹt đệ tử Cái Bang. Đứa thì vào nhà hàng ngồi ăn uống, đứa thì mổ heo giết chó trong ngõ hẻm, có đứa vừa xin xỏ vừa cướp giật ngay ở ngoài đường. Kiều Phong đau xót trong lòng, thấy đại bang đệ nhất trên giang hồ này chẳng còn qui củ gì. Còn đâu kỷ luật nghiêm minh, còn đâu bộ mặt hưng vượng khi mình nắm quyền bang chủ, mới chẳng bao lâu đã bị người đời coi rẻ. Vẫn biết Cái Bang với chàng này đã đổi bạn ra thù, nhưng chàng không khỏi luyến tiếc bao nhiêu năm tâm huyết của mình, chỉ một ngày tan thành mây khói.
Kiều Phong chợt nghe mấy đệ tử Cái Bang nói mấy câu tiếng lóng với nhau, biết được linh vị của Từ trưởng lão đặt tại một khu vườn hoang phía tây thành. Kiều Phong và A Châu mua ít nhang đèn, vàng mã và đồ lễ tam sinh đi theo người ta đến khấu đầu trước bài vị Từ trưởng lão.
Linh bài của Từ trưởng lão bôi đầy máu tươi, đó là thể lệ của Cái Bang, biểu thị người quá cố bị ám hại mà chết, bản bang phải trả thù rửa hận. Trong linh đường ai nấy thống mạ Kiều Phong kịch liệt, chẳng ngờ chàng đang ở ngay bên cạnh. Kiều Phong thấy chung quanh toàn là nhân vật đầu não của Cái Bang, sợ lộ hành tung nên không dám nấn ná, lập tức sóng vai A Châu đi ra. Chàng nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi, trên đời này lại bớt đi một người biết Thủ lĩnh đại ca.”.
Bỗng nhiên ở đầu hẻm tít đằng xa có một bóng nữ nhân cao to thấp thoáng lướt qua. Kiều Phong nhanh mắt nhận ngay ra Đàm bà, nghĩ bụng: “Hay quá, chắc là mụ đi viếng Từ trưởng lão đây, ta khỏi phải đi tìm” Lại thêm một người nữa vụt qua, khinh công cực cao, chính là Triệu Tiền Tôn.
Kiều Phong ngạc nhiên: “Hai người này thậm thụt với nhau, chắc có tình ý gì đây.” Chàng biết hai vị sư huynh muội này đã có một đoạn tình sử dây dưa đến nay chưa dứt, nghĩ thầm: “Cả đôi đều sáu bảy chục tuổi rồi, chẳng lẽ còn lén lút tư tình hay sao?”. Bản tính Kiều Phong vốn không ưa dính líu vào chuyện riêng tư của người khác, nhưng Triệu Tiền Tôn biết Thủ lĩnh đại ca là ai, mà chắc Đàm công Đàm bà cũng biết. Chàng nghĩ, nếu mình khám phá được bí ẩn bên trong, không chừng sẽ bức bách được họ phải thổ lộ ra, bèn ghé tai A Châu dặn nhỏ: “Nàng cứ ở khách điếm chờ ta.” A Châu gật đầu, Kiều Phong lập tức đuổi theo hướng Triệu Tiền Tôn vừa chạy.
Triệu Tiền Tôn hành tung có vẻ bí mật, hết núp dưới góc tường phía đông lại nép vào chái nhà phía tây, tiến ra phía cửa đông thành. Kiều Phong bám theo xa xa, không hề bị phát giác. Thấy y chạy đến bờ sông, khom người chui vào khoang một chiếc thuyền gỗ lớn, Kiều Phong liền đề khí chạy tới, chỉ nhô lên thụt xuống mấy cái đã đến bên thuyền, rồi nhẹ nhàng nhảy lên mui nằm phục xuống, ghé sát tai nghe lỏm.
Trong khoang thuyền, Đàm bà thở dài một tiếng rồi nói: “Sư ca! Chúng ta đã già rồi, chuyện ngày xưa có hối hận thì cũng đã muộn, nhắc lại làm gì?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Cuộc đời ta coi như bỏ đi rồi, hối hận mà làm gì? Tiểu Quyên ơi, ta hẹn nàng ra đây cũng chẳng có ý gì quan trọng, chỉ mong được nghe lại mấy khúc hát năm xưa nàng vẫn thường hát mà thôi.” Đàm bà thở dài nói: “Trời ơi! Sao sư huynh si tình đến thế? Lang quân của muội tới Vệ Huy thấy sư ca đã không lấy gì làm vui, y lại đa nghi, sự ca không nên lại gần tiểu muội là hơn.” Triều Tiên Tôn đáp: “Sợ quái gì cơ chứ? Chúng ta là sư huynh sư muội quang minh lỗi lạc, đến đây nhớ lại chuyện xưa, có gì mà không được?” Đàm bà lại thở dài một tiếng, nhỏ nhẹ nói: “Mấy khúc hát năm xưa, mấy khúc hát năm xưa…”
Triệu Tiền Tôn thấy bà đã động lòng, lại cố năn nỉ tiếp: “Tiểu Quyên! Hôm nay chúng ta gặp nhau, không biết bao giờ mới lại trùng phùng. Lỡ mà mạng ta chẳng được dài, nàng có muốn hát thì ta cũng chẳng có phúc được nghe nữa.” Đàm bà nói: “Sư ca chớ có nói gở như thế. Nếu sư ca thật sự muốn nghe, thì để tiểu muội hát thầm một khúc cho sư ca nghe.” Triệu Tiền Tôn vui mừng nói: “Hay quá! Tiểu Quyên ơi, đa tạ sư muội.”
Đàm bà liền thầm thì hát:“Năm xưa thiếp ra sông giặt áo, Chàng trên cầu nhẹ gót theo sau…”
Mới hát được hai câu, nghe có tiếng lách cách, cửa khoang thuyền bị mở tung, một đại hán xông vào. Kiều Phong đã cải trang nên Đàm bà và Triệu Tiền Tôn không nhận ra. Hai người đang hoảng hốt, thấy không phải là Đàm công nên cũng hơi yên tâm, quát hỏi: “Ngươi là ai?” Kiều Phong lạnh lùng nhìn hai người, nói: “Một tên khinh bạc vô hạnh, dụ dỗ phụ nữ có chồng, một tên dâm đãng vô sỉ, trốn chồng đi gặp tình nhân…”
Chàng chưa nói hết câu, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn đã ra tay, hai bên tả hữu cùng đánh tới. Kiều Phong né người đi một chút, xoay tay một cái chộp vào cổ tay Đàm bà, lại thúc khuỷu tay tấn công vào sườn bên trái Triệu Tiền Tôn. Triệu Tiền Tôn và Đàm bà đều là cao thủ hạng nhất, những tưởng chỉ một chiêu là hạ được đối phương. Ngờ đâu con người tướng mạo tầm thường kia lại có võ công cao siêu đến thế, vừa ra tay đã chuyển thủ thành công. Trong chỗ chật hẹp, hai người không thể thi triển tài nghệ, còn Kiều Phong đánh xa đánh gần gì cũng giỏi. Khoang thuyền rộng chưa đầy một trượng, chàng sử dụng toàn cầm nã thủ và đòn nhập nội cực kỳ linh động. Đến hiệp thứ bảy thì hông Triệu Tiền Tôn bị trúng một chỉ, Đàm bà luống cuống chậm tay một chút, bị một chưởng vào lưng, quỳ xuống ván thuyền.
Kiều Phong lạnh lùng nói: “Hai vị cứ ở đây nghỉ ngơi. Ở khu vườn hoang trong thành Vệ Huy đang có rất nhiều anh hùng hảo hán đến viếng Từ trưởng lão, ta đi mời họ tới đây bình phẩm vụ này sai đúng thế nào.”
Triều Tiền Tôn và Đàm bà cả kinh, cố gắng vận khí nhưng huyệt đạo đã bị phong tỏa, ngay cả đầu ngón tay cũng không động đậy được. Hai người đều đã cao niên, thực ra cũng không làm điều gì càn rỡ quá mức, hẹn nhau ở đây chẳng qua để kể lể tình xưa nghĩa cũ mà thôi. Thế nhưng bấy giờ là thời Bắc Tống, ai cũng coi lễ giáo là hệ trọng, nhất là anh hùng hảo hán mà phạm vào nữ sắc lại càng bị giang hồ đàm tiếu. Một nam một nữ lén lút chui vào khoang thuyền gặp gỡ, ai mà tin nổi hai người chỉ nói chuyện tầm phào, hát cho nhau nghe? Nếu mọi người kéo đến bình phẩm thì còn ra gì nữa? Nhất là Đàm công, chắc chắn mất hết thể diện.
Đàm bà vội nói: “Vị anh hùng kia, chúng ta không có gì đắc tội với các hạ. Nếu có thể dung tình một chút, ta… ta xin báo đáp.” Kiều Phong nói: “Báo đáp thì không cần, tại hạ hỏi một câu. Hai vị chỉ thành thật trả lời ba chữ là tại hạ lập tức giải khai huyệt đạo, phủi tay đi thẳng, vĩnh viễn quên hết việc hôm nay.” Đàm bà nói: “Nếu bà lão này biết được, sẽ xin nói thật.”
Kiều Phong hỏi: “Có người được gọi là Thủ lĩnh đại ca, viết thư cho Uông bang chủ Cái Bang nói về Kiều Phong. Người ấy là ai?”
Đàn bà ngần ngừ chưa đáp, Triệu Tiền Tôn đã vội kêu lên: “Tiểu Quyên! Không được nói! Nghìn vạn lần không được nói!” Kiều Phong trừng mắt nhìn y, hỏi lại: “Ngươi không chịu nói, chấp nhận thân bại danh liệt hay sao?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Lão gia thà chết. Vị Thủ lĩnh đại ca có ân với ta, ta nhất quyết không nói ra.” Kiều Phong lại hỏi: “Ngươi bất chấp luôn cả thanh danh của Tiểu Quyên bị tiêu tan, phải không?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Nếu Đàm công biết chuyện hôm nay, ta lập tức tự vẫn trước mặt y, lấy cái chết tạ tội, thế là xong hết.”.
Kiều Phong quay sang Đàm bà nói: “Người đó chưa chắc đã có ân nghĩa gì với bà. Vậy bà nói ra đi, không những mọi người đều vui vẻ mà còn bảo toàn được danh dự cho lang quân cùng tính mạng của sư ca nữa.” Đàm bà nghe chàng dọa giết Triệu Tiền Tôn, không khỏi rùng mình nói: “Được! Để ta nói cho các hạ nghe, người đó là..” Triệu Tiền Tôn thét lên: “Tiểu Quyên! Sư muội chớ có nói ra, nhất định chớ có nói ra. Ta van xin muội, khẩn khoản van xin muội. Gã này chắc là thủ hạ của Kiều Phong, chúng ta mà nói ra thì Thủ lĩnh đại ca nguy mất.”
Kiều Phong đáp: “Kiều Phong chính thị là ta! Các ngươi không chịu nói thì hậu họa không biết đâu mà lường.” Triệu tiền Tôn giật mình nói: “Thảo nào bản lĩnh của ngươi ghê gớm quá! Tiểu Quyên! Suốt cuộc đời ta chưa cầu xin nàng việc gì, đây là điều duy nhất ta xin nàng mà nàng cũng không bằng lòng ư?”
Đàm bà nghĩ thầm: “Sư ca thương yêu mình mấy chục năm qua, tình sâu nghĩa nặng, bị mình phụ bạc đã nhiều. Phen này y không tiếc mạng chỉ muốn bảo vệ cho ân nhân, ta không thể nào làm hỏng nghĩa cử của y được.” Bà liền đáp:“Kiều bang chủ, việc ngày hôm nay các hạ muốn thiện hay ác cũng được. Sư huynh muội chúng ta tự vấn lương tâm không có gì đáng thẹn, có đất trời chứng giám. Việc các hạ muốn biết, xin miễn thứ cho bà lão này không thể trả lời.” Mấy câu nói của bà ta tuy lễ độ nhưng rất cương quyết, nhất định không thổ lộ. Triệu Tiền Tôn vui mừng nói: “Tiểu Quyên! Đa tạ nàng, đa tạ nàng.”
Kiều Phong biết có bức bách nữa cũng vô ích, chỉ hừ một tiếng rồi thò tay rút chiếc trâm ngọc trên đầu Đàm bà, nhảy ra khỏi khoang thuyền, chạy về thành Vệ Huy tìm Đàm công. Chàng hóa trang nên dọc đường không ai nhận ra. Đàm công, Đàm bà ngụ tại Như Quý khách điếm, ai cũng biết nên hỏi được ngay.
Đàm Công đang chắp tay sau lưng, bước lui bước tới trong phòng, xem ra cực kỳ bồn chồn. Kiều Phong vào đến khách điếm đưa tay ra, lòng bàn tay nắm sẵn chiếc trâm ngọc của Đàm bà.
Từ lúc phu phụ Đàm công đến Vệ Huy, Triệu Tiền Tôn cứ bám theo như hình với bóng. Đàm công trong dạ đã chẳng an, bây giờ thấy vợ mình biến đâu mất nửa ngày lại càng băn khoăn không hiểu bà ta đang ở chỗ nào, Lão vừa thấy cây trâm của Đàm bà thì nửa sợ nửa mừng, hỏi ngay: “Các hạ là ai? Phải chăng tệ nội nhờ các hạ đến đây dạy bảo việc gì?” Lão vừa nói vừa đưa tay cầm chiếc trâm ngọc. Kiều Phong để ông ta lấy chiếc trâm rồi mới đáp: “Tôn phu nhân bị người ta bắt, ngay đến nơi rồi.” Đàm Công cả kinh nói: “Tệ nội võ công cũng khá, sao lại bị bắt dễ dàng như thế được?” Kiều Phong đáp: “Bị Kiều Phong bắt.”
Đàm công nghe thấy tên Kiều Phong liền hết nghi ngờ, lại càng băn khoăn lo lắng, vội hỏi: “Kiều Phong ư? Ôi chao, nếu vậy thì nguy hiểm quá. Nội nhân ta… đang ở chỗ nào?” Kiều Phong đáp: “Các hạ muốn tôn phu nhân sống thì cũng dễ, mà muốn tôn phu nhân chết thì lại càng dễ hơn.” Đàm công tính tình trầm ổn, tuy nóng nảy trong lòng mà vẻ mặt vẫn bình thản, hỏi lại: “Xin được chỉ giáo.” .
Kiều Phong nói: “Kiều Phong có một việc muốn hỏi Đàm công, nếu các hạ nói thật thì lập tức thả tôn phu nhân ra, không rụng một sợi tóc. Còn nếu các hạ không nói, Kiều Phong chỉ còn cách đem phu nhân xử tử, rồi đem thi thể phu nhân cùng thi thể Triệu Tiền Tôn chôn chung một chỗ.”
Đàm công nghe câu cuối cùng không nhịn được nữa, quát lên một tiếng, vung chưởng đánh vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong nghiêng người hơi lùi lại một chút, chưởng đó đánh chệch vào quãng không. Đàm Công cả kinh nghĩ thầm: “Phát chưởng của mình nhanh như điện chớp, ghê gớm đến thế mà y né dễ như chơi.” Lão lại phóng hữu chưởng đánh xéo qua, đồng thời tả chưởng tạt ngang. Kiều Phong thấy trong phòng chật hẹp không dễ gì tránh né được, liền dựng thẳng tay phải lên chịu đòn. Nghe bịch một tiếng, phát chưởng đó đánh trúng cánh tay, Kiều Phong vẫn đứng không nhúc nhích, thuận đà vung tay ra, đè xuống bả vai Đàm công.
Đàm công lập tức cảm thấy vai mình như bị một tảng đá nghìn cân đè lên, vội vàng vận kình chống đỡ nhưng đầu vai như đụng phải một ngọn núi, xương sống kêu răng rắc như muốn gãy, đầu gối khuỵu dần xuống. Lão cố đứng thẳng, không chịu lộ ra vẻ khiếp nhược, nhưng không tự chủ được nữa, hai khớp xưởng đầu gối không chịu được sức nặng ngàn cân, không quì không được.
Kiều Phong cố ý làm nhụt ngạo khí của lão ta nên lại gia tăng kính lực ép xuống, tới lúc lưng Đàm công cong như cánh cung, trán chạm đất trông như khấu đầu lạy lục. Đàm công đỏ mặt tía tai, ra sức vùng vẫy, dồn hết sức lực đẩy người lên. Đột nhiên Kiều Phong buông tay, sức nặng nghìn cân trên vai Đàm công biến mất. Lão ta thu sức về không kịp, người vọt lên cao hơn một trượng, đầu va vào xà nhà đánh rầm một tiếng khiến cây gỗ gãy ra làm đôi.
Kiều Phong không đợi lão rơi lại xuống đất, đưa tay ra chộp lấy ngực. Cánh tay Kiều Phong thật dài mà Đàm công thân hình nhỏ thó, bất luận lão đấm đá thế nào cũng không chạm tới người đối phương. Hơn nữa, hai chân lơ lửng trên không thì dù võ công cao siêu đến đâu cũng khó bề thi thố. Đàm công chợt tỉnh ngộ quát to: “Thì ra ngươi chính là Kiều Phong.” Kiều Phong đáp: “Không sai, Kiều Phong chính thị là ta!”
Đàm công giận dữ nói: “Ngươi… Ngươi… Mẹ kiếp! Sao ngươi lại nói phu nhân ta có dính dáng đến cả thằng khốn kiếp Triệu Tiền Tôn?” Lão giận nhất là câu dọa giết Đàm Bà rồi đem chôn chung với thi thể Triệu Tiền Tôn vào một huyệt.
Kiều Phong nói: “Mụ vợ ngươi dính dáng đến y thì có liên can gì đến ta đâu? Ngươi có muốn biết Đàm bà lúc này đang ở đâu không? Có muốn biết mụ ta đang nói chuyện ngả ngớn, hát xướng tình tang với ai không?” Đàm công nghe nói thế, biết vợ mình đang là lơi với Triệu Tiền Tôn. Lão không dằn lòng được nữa, liền hỏi dồn: “Mụ ta ở đâu? Ngươi dẫn ta đến đó.”
Kiều Phong cười khẩy: “Thế người đã làm gì cho ta chưa? Tại sao ta lại phải dẫn ngươi đi?”
Đàm công nhớ lại lời Kiều Phong yêu cầu mình, liền hỏi: “Ngươi vừa bảo có việc cần hỏi ta. Việc gì vậy?” Kiều Phong đáp: “Hôm trước ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Từ trưởng lão có đưa ra một lá thư gửi cho bang chủ tiền nhiệm Cái Bang là Uông Kiếm Thông. Lá thư đó do ai viết?”
Đàm công chân tay run rẩy, lúc này lão đang bị Kiều Phong nhấc lơ lửng, chỉ cần chàng nhả nội lực ra là lão lập tức mất mạng. Thế nhưng trời sinh lão bản tính cương cường, vẫn đáp: “Người đó có thù giết cha ngươi, ta nhất quyết không thể tiết lộ tính danh. Nếu không, người thể nào cũng tìm ông ấy để báo thù, chẳng hóa ra chính ta hại mạng ông ấy hay sao?” Kiều Phong nói: “Ngươi không chịu nói tức là tự hại mạng mình trước.” Đàm công cười ha hả đáp: “Ngươi coi Đàm mỗ là hạng người nào? Là hạng tham sinh úy tử, bán rẻ bạn bè hay sao?”
Kiều Phong thấy lão gắng bảo toàn nghĩa khí, trong lòng rất kính phục. Giả tỷ là chuyện khác thì chắc chàng không truy vấn nữa, nhưng mối thù giết cha mẹ há phải tầm thường? Kiều Phong bèn hỏi lại: “Ngươi không tiếc mạng mình đã đành, chẳng lẽ cũng không tiếc mạng vợ? Thanh danh Đàm công Đàm bà từ đây trôi theo dòng nước để thiên hạ cười chê, ngươi cũng không sợ ư?”
Trong võ lâm thì danh dự là quan trọng nhất, hảo hán trên giang hồ coi thanh danh trọng hơn tính mạng.
Đàm công nghe mấy câu đó bèn nói: “Đàm mỗ ngồi không nghiêng đứng không ngả, bình sinh không làm chuyện có lỗi với bạn bè, làm gì có chuyện thanh danh trôi theo dòng nước để thiên hạ cười chê?” Kiều Phong thản nhiên đáp lại: “Thế nhưng Đàm bà chưa hẳn đã ngồi không nghiêng đứng không ngả, còn Triệu Tiền Tôn chưa hẳn đã không làm chuyện có lỗi với bạn bè.”
Mặt Đàm Công liền đỏ bừng rồi chuyển sang xanh xám. Lão trừng mắt hầm hầm nhìn Kiều Phong.
Chàng buông tay thả lão xuống đất, quay gót đi ngay. Đàm Công không nói một lời, lập tức bước theo. Hai người kẻ trước người sau ra khỏi thành Vệ Huy. Trên đường gặp vô số giang hồ hào khách nhận ra Đàm công, ai cũng cung kính thi lễ nhường lối, lão chỉ ậm ừ có lệ rồi chạy vụt qua. Chẳng mấy chốc hai người đã đến bên chiếc thuyền gỗ.
Kiều Phong tung mình nhảy lên thuyền, chỉ vào trong khoang, nói: “Ngươi vào mà xem cho rõ!” Đàm công nhảy lên theo, nhìn vào trong khoang, thấy vợ mình cùng Triều Tiên, Tôn tựa gối kề vai ngồi nép trong một góc. Lão điên tiết lên, phóng chưởng đánh vào đầu Triệu Tiền Tôn nghe “binh” một tiếng. Triệu Tiền Tôn chỉ lắc lư, không trả đòn cũng không né tránh. Bàn tay Đàm công vừa chạm vào đầu Triệu Tiền Tôn, lão đã phát giác ra có điều kỳ dị, vội vàng đưa tay sờ vào mặt vợ thì thấy giá lạnh như băng, té ra mụ đã chết từ lúc nào rồi. Đàm công run bắn người lên, đặt tay lên mũi bà ta cũng thấy chẳng còn chút hơi thở nào. Lão ngơ ngẩn, đưa tay sờ trán Triệu Tiền Tôn thấy cũng lạnh ngắt, bị phẫn khôn tả, hầm hầm nhìn Kiều Phong bằng cặp mắt tóe lửa.
Kiều Phong thấy Đàm bà cùng Triệu Tiền Tôn bỗng nhiên chết bất đắc kỳ tử thì kinh dị vô cùng. Lúc ra khỏi thuyền, chàng chỉ điểm huyệt hai người, sao hai tay cao thủ này lại chết bất ngờ như thế? Chàng nhấc Triệu Tiền Tôn lên, xem qua không thấy vết thương nào, cũng không có dấu máu, liền giật tung áo trên ngực y nghe soạt một tiếng, thấy một vết bầm thật lớn, hiển nhiên đã trúng chưởng lực rất nặng. Lạ lùng nhất là vết bàn tay hung thủ giống hệt bàn tay chàng.
Đàm công ôm Đàm bà lên, xoay lưng lại, cởi áo bà ta ra xem vết thương trên ngực thấy cũng y hệt Triệu Tiền Tôn. Lão muốn khóc nhưng nước mắt không chịu chảy, nghiến răng nói với Kiều Phong: “Ngươi thật là mặt người dạ thú, cùng hung cực ác!”.
Kiều Phong kinh ngạc không biết phải nói sao, chỉ nghĩ: “Không biết ai ra tay đánh chết Đàm bà và Triệu Tiền Tôn? Kẻ này công lực thâm hậu ghê gớm, không lẽ cũng chính là kẻ đối đầu với mình? Làm sao hắn biết hai người này đang ở trên thuyền?”
Đàm công đau lòng vì vợ yêu chết thảm, vận kình lên hai cánh tay, dốc toàn lực xông vào Kiều Phong. Chàng tránh qua một bên, chỉ nghe tiếng lách cách, chưởng lực của Đàm công đã đánh gãy một bên khoang thuyền. Kiều Phong liền vươn tay ra chộp lấy vai lão, nói: “Đàm công, tôn phu nhân không phải do ta giết, ông có tin thế không?” Đàm công hỏi lại: “Không phải người thì còn ai?” Kiều Phong nói: “Hiện giờ mạng ông ở trong tay ta. Kiều mỗ giết ông dễ như trở bàn tay, nói dối để làm gì?” Đàm công nói: “Ngươi vì muốn tra xét cho ra kẻ giết cha mà ra tay tàn độc. Đàm mỗ tuy võ công không bằng ngươi, nhưng đâu chịu để ngươi coi như thằng ngốc?” Kiều Phong nói: “Được lắm! Ông cho ta biết danh tánh kẻ đã giết cha ta, ta sẽ nhận trách nhiệm báo thù kẻ giết tôn phu nhân”
Đàm công vẻ mặt thê thảm, cười sặc sụa như điên khùng, mấy lần cố vận kình lực để giật khỏi tay Kiều Phong, nhưng chàng vẫn giữ được vai lão một cách nhẹ nhàng. Đàm công giãy giụa mạnh lên thì kình lực của đối phương lại tăng theo, thủy chung vẫn không thoát được. Đàm công đã quyết chí, bèn thè lưỡi ra, hai hàm răng nghiến mạnh một cái tiện đứt đầu lưỡi, miệng đầy máu tươi phun thẳng vào mặt Kiều Phong. Chàng vội buông tay né tránh, Đàm công liền xông tới, đem hết tàn lực giơ chân đạp cái xác của Triệu Tiền Tôn qua một bên, hai tay ôm lấy thi thể Đàm bà, đầu ngoẹo xuống, tắt thở chết ngay.
Kiều Phong nhìn thảm trạng này, trong lòng không khỏi bồi hồi đau xót. Phu phụ họ Đàm và Triệu Tiền Tôn tuy không phải chính tay chàng giết, nhưng cũng vì chàng mà chết. Giả tỷ Kiều Phong muốn hủy diệt vết tích thì chỉ giẫm chân một cái đạp thủng đáy thuyền cho nước chảy vào, mấy cái thi thể chìm xuống đáy sông là xong. Nhưng chàng nghĩ thầm: “Nếu ta che giấu ba cái xác này đi, chẳng hóa ra có tật giật mình hay sao?” Kiều Phong ra khỏi khoang thuyền, nhảy lên bờ tìm xem có dấu chân hay manh mối gì chăng, nhưng tuyệt nhiên không thấy một chút tăm tích.
Chàng rảo bước về khách điếm. A Châu đang đứng ngóng ngoài cửa, thấy Kiều Phong trở về bình yên thì mừng rỡ ra mặt. Nàng nhìn kỹ thấy chàng thần thái bất định, biết ngay việc đuổi theo Triệu Tiền Tôn và Đàm bà chẳng được tích sự gì, bèn hạ giọng hỏi nhỏ: “Đại gia! Thế nào?” Kiều Phong đáp: “Chết sạch rồi!” A Chậu rùng mình hỏi lại: “Cả Đàm bà lẫn Triệu Tiền Tôn ư?” Kiều Phong đáp: “Luôn cả Đàm công nữa, hết thảy ba người.”
A Châu tưởng là chàng giết, trong bụng tuy không hài lòng nhưng không tiện trách cứ, đành nói: “Triệu Tiền Tôn có tham gia sát hại phụ thân đại gia, có giết cũng… cũng là phải.” Kiều Phong lắc đầu đáp: “Không phải ta giết đâu.” A Châu thở ra, nói: “Nếu không phải đại gia giết thì tốt lắm. Tiểu nữ vẫn nghĩ rằng Đàm công, Đàm bà chưa đắc tội với đại gia, có thể tha được. Vậy thì ai giết họ thế?” Kiều Phong lắc đầu: “Ta cũng không biết.” Chàng bấm ngón tay tính toán rồi nói: “Bây giờ chỉ còn có ba người biết tên chính phạm đại ác kia. A Châu! Chúng ta phải hành động thật nhanh, đừng để kẻ địch ra tay trước, việc nào cũng phải chiếm thượng phong.” A Châu đáp: “Đúng thế! Mã phu nhân thì căm giận đại gia thấu xương, dù gì cũng không chịu nói ra đâu, Huống chi áp bức tra hỏi một quả phụ đâu phải là hành vi của bậc đại trượng phu? Còn chùa của Trí Quang hòa thượng thì ở tận Giang Nam. Thôi, mình đến Thái An đất Sơn Đông tìm nhà họ Đơn vậy.”
Kiều Phong khóe mắt lộ vẻ thương xót, nói: “A Châu! Mấy hôm nay nàng quả là cực khổ.” A Châu lớn tiếng gọi: “Chủ quán, mau tính tiền!” Kiều Phong lấy làm lạ hỏi: “Để sáng mai hãy tính, vội gì?” A Châu đáp: “Không được! Chúng ta phải đi suốt đêm, đừng để kẻ địch nhanh hơn lần nữa.” Kiều Phong cảm kích trong lòng, chầm chậm gật đầu.
Đến tối, hai người ra khỏi thành Vệ Huy, trên đường đã nghe thiên hạ bàn tán xôn xao về chuyện Kiều Phong – con quỷ Khất Đan khát máu hạ độc thủ giết chết phu phụ Đàm công và Triệu Tiền Tôn. Những người đó vừa nói chuyện vừa lấm lét nhìn quanh chỉ sợ Kiều Phong bất thần xuất hiện. Họ có biết đâu chàng ở ngay bên cạnh, nếu muốn giết thì chỉ động ngón tay là xong, trốn đâu cho thoát?
Kiều Phong cùng A Châu thuê ngựa, chạy suốt ngày đêm về hướng đông. Cưỡi ngựa ròng rã hai ngày, tuy A Châu chẳng hề than mệt, nhưng mắt nhắm mắt mở suýt ngã mấy lần. Kiều Phong biết nàng không chịu nổi nữa, liền bỏ ngựa thuê xe. Hai người ngồi trên xe ngủ được ba bốn giờ, tinh thần hơi tỉnh táo lại bỏ xe đi ngựa cho nhanh. A Châu vui vẻ nói: “Lần này Tên Đại Ác kia không thể nhanh hơn mình được.” Cả nàng lẫn Kiều Phong đều không biết họ tên kẻ địch, mỗi khi đề cập đến hắn lại gọi là Tên Đại Ác.
Trong lòng Kiều Phong vẫn ngấm ngầm lo âu, thấy Tên Đại Ác này lần nào cũng nhanh hơn mình một bước. Võ công y không kém gì mình, còn mưu lược thì hơn mình xa. Huống gì tới lúc này mình vẫn chưa tìm ra manh mối, còn mình làm gì kẻ địch đều biết rõ. Trong đời Kiều Phong chưa bao giờ gặp một đối thủ lợi hại như vậy, may mà chàng vẫn hào khí ngất trời, không chút sợ hãi.
Gia trang của Thiết diện phán quan Đơn Chính ở ngoài cửa đông huyện thành Thái An, tỉnh Sơn Đông, ai ai cũng biết, Kiều Phong và A Châu đến Thái An thì trời đã xế chiều, hỏi rõ đường đi rồi lập tức băng qua thành tới Đơn gia trang. Hai người ra khỏi cửa đông chừng một dặm bỗng thấy khói bốc ngụt trời, thanh la đánh vang dậy, văng vẳng có tiếng người kêu: “Cháy nhà, cháy nhà! Mau đi cứu hỏa.” Kiều Phong không để ý, cứ phóng ngựa chạy nhanh, càng lúc càng gần đám cháy. Lại nghe tiếng người la lối: “Cứu hỏa mau, cứu hỏa mau! Nhà của Thiết diện Đơn gia đó!”
Kiều Phong và A Châu cùng hoảng hốt ghìm ngựa lại, đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm: “Chẳng lẽ Tên Đại Ác lại đi trước một bước?” A Châu tìm lời an ủi: “Đơn Chính võ công cao cường, dẫu bị cháy nhà cũng không việc gì đâu.”
Kiều Phong lắc đầu. Từ khi chàng giết chết nhị hổ của Đơn gia đã kết oán sâu xa. Lần này đến Thái An tuy không có ý giết người, nhưng chàng biết chắc Đơn Chính cùng anh em con cháu ông ta tất chẳng chịu tha mình, đã chuẩn bị một cuộc đại chiến. Ngờ đâu mình chưa đến được trang viên, đối phương đã bị hỏa tai, trong lòng chàng không khỏi cảm thấy bùi ngùi.
Càng đến gần Đơn gia trang càng thấy hơi lửa nóng táp vào mặt, ánh lửa chiếu đỏ một góc trời, thật là một vụ hỏa hoạn lớn. Dân chúng quanh vùng đổ xô tới chữa lửa, kẻ thì tạt nước, người thì xúc cát hất vào. May mà chung quanh Đơn gia trang đều có hào sâu nên lửa không cháy lan ra chung quanh.
Kiều Phong và A Châu đến gần đám cháy liền xuống ngựa đứng xem. Bỗng nghe một hán tử than thở: “Đơn lão gia là đại hảo nhân, mấy chục năm nay cứu tế chẩn bần đã tích biết bao công đức, thế mà không những cháy nhà, toàn gia hơn ba chục người cũng không một ai thoát ra được.” Một người khác đáp: “Nhất định là kẻ thù phóng hỏa rồi giữ chặt cửa không cho ai chạy ra. Nếu không phải thế, trong Đơn gia đến cả đứa trẻ lên năm cũng biết võ, lẽ nào lại không thoát được?” Người kia bèn nói: “Nghe nói Đơn đại gia, Đơn nhị gia, Đơn ngũ gia đều bị một tên ác tặc tên là Kiều Phong gì gì đó giết hại ở Hà Nam. Lần này đến đây sát nhân phóng hỏa, chẳng phải tên đại ác đó thì còn ai nữa?”
A Châu cùng Kiều Phong mỗi khi đề cập tới kẻ đối đầu đều gọi là Tên Đại Ác. Lúc này nghe mấy người nhà quê cũng gọi mình là tên đại ác, không khỏi đưa mắt nhìn nhau.
Người trẻ tuổi hơn nói: “Nhất định là Kiều Phong rồi!” Y nói đến đây liền hạ giọng xuống, tiếp: “Hẳn là y đưa vô số thủ hạ xông vào trang viện, giết sạch cả nhà họ Đơn không chừa con gà con chó. Trời ơi! Trời không có mắt!” Người lớn tuổi hơn nói: “Thằng cha Kiều Phong kia tội ác ngập đầu, sau này nhất định chết thảm gấp trăm lần các vị đại gia nhà họ Đơn.”
A Châu nghe bọn họ rủa Kiều Phong, tức mình giơ tay vỗ vào cổ ngựa một cái, con ngựa giật mình, phóng chân trái ra đá trúng mông gã kia. Y kêu lên một tiếng, ngã sấp xuống. A Châu hỏi: “Cái miệng dơ bẩn của ngươi nói gì lắm thế?” Gã bị ngựa đá đau, lại nghĩ đến thủ hạ tên đại ác kia hẳn là đông lắm, sợ mất vía không dám có ý kiến gì nữa, vội vàng lủi mất.
Kiều Phong mỉm cười buồn bã, cùng A Châu đến bên đám cháy. Mọi người xôn xao bàn tán, đều nói nam phụ lão ấu nhà họ Đơn hơn ba chục người không ai thoát chết. Kiều Phong ngửi thấy mùi xác người cháy khét lẹt bốc ra, biết là họ nói không sai, cả nhà Đơn Chính chết cháy cả.
A Châu khẽ nói: “Tên Đại Ác này quả là tàn nhẫn. Y giết cha con Đơn Chính đã đành, sao lại phải giết toàn gia, đốt luôn cả trang viện?” Kiều Phong hừ một tiếng nói: “Cái đó kêu bằng nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nếu là ta, thì ta cũng đốt nhà.” A Châu kinh hãi hỏi lại: “Sao thế?” Kiều Phong đáp: “Hôm ở rừng hạnh, Đơn Chính có nói mấy câu: Tại hạ và người viết thư kết bạn lâu năm, trong nhà còn giữ nhiều thư từ của người đó nên lập tức dẫn Từ trưởng lão và Mã phu nhận về tệ xá lấy những lá thư cũ ra so, bút tích quả nhiên giống hệt. Chắc cô còn nhớ.” A Châu thở dài: “Phải rồi! Nếu Tên Đại Ác chỉ giết Đơn Chính thì đại gia cũng đến Đơn gia trang lục ra mấy bức thư kia mà biết họ tên y, nên y phóng hỏa đốt nhà cháy rụi, chẳng thư tín nào còn lưu lại được nữa.”
Khi đó người đến cứu hỏa mỗi lúc một đông, nhưng thế lửa đang mạnh, bao nhiêu nước dội vào chỉ khoảnh khắc là bốc hơi hết, Những luồng hơi nóng bốc lên thổi dạt mọi người ra. Đám đông vừa thở than vừa chửi rủa Kiều Phong, dân quê mùa nắng nhiếc thô tục thật là khó nghe.
A Châu chỉ sợ Kiều Phong nghe những lời nhục mạ vô lý đó, nổi cơn thịnh nộ chém giết thì thật là thê thảm cho dân làng này, Nàng len lén nhìn, thấy mặt chàng lộ ra một vẻ kỳ lạ, vừa như đau lòng, vừa như hối hận, nhất là thương cho đám dân quê ngu dốt không đáng giết. Lát sau Kiều Phong thở dài sườn sượt rồi nói: “Thôi, mình lên núi Thiên Thai.”
Phải đến núi Thiên Thai là việc vạn bất đắc dĩ. Trí Quang đại sư tuy năm xưa có tham gia sát hại song thân chàng, nhưng về sau đại phát từ bi, lặn lội đến những nơi xa tít tìm các loại cây cỏ đem về chế thuốc chữa bệnh ngã nước cho bách tính vùng Triết Mân, Lưỡng Quảng cứu sống được vô số người. Chính đại sư vì thế mà nhiễm trọng bệnh, khi khỏi bệnh lại mất hết võ công. Hành vi cứu nhân độ thế này, trên giang hồ không ai không kính trọng. Nói đến Trí Quang đại sư ai cũng tán tụng là Vạn Gia Sinh Phật. Kiều Phong nếu không vì bế tắc trong việc tìm kiếm manh mối sự thật thì không bao giờ đến làm phiền nhiễu ông ta.
Hai người rời huyện Thái An tìm đường đi xuống phía nam. Lần này Kiều Phong không chạy thục mạng nữa, nghĩ thầm nếu như mình đi thong thả không chừng lại giữ được tính mạng cho Trí Quang đại sư. Nếu cứ gấp rút khẩn trương như lần trước, khi đến núi Thiên Thai biết đâu chỉ còn thấy thi thể nhà sư giữa hoang tàn tro bụi. Huống chi Trí Quang vân du vô định, bốn biển là nhà, chưa chắc gì đang ở tại chùa.
Núi Thiên Thai ở Triết Đông, Kiều Phong cùng A Châu từ Thái An đi về hướng nam. Lần này hai người chẳng khác gì du sơn ngoạn thủy, vừa đi vừa đàm luận những chuyện giang hồ, nếu trong bụng không lo âu thì quả là một chuyến du lịch thú vị.
Một hôm đến Trấn Giang, hai người lên chùa Kim Sơn xem phong cảnh. Kiều Phong, nhìn nước sông cuồn cuộn xuôi mãi về Đông sực nghĩ ra một việc, nói: “Không chừng gã Thủ lĩnh đại ca và Tên Đại Ác là một.” A Châu vỗ tay, nói: “Đúng rồi! Sao mình chưa nghĩ tới chuyện đó nhỉ?” Kiều Phong nói: “Nếu là hai người thì họ phải liên quan mật thiết với nhau, còn không thì việc gì Tên Đại Ác phải dùng thiên phương bách kế để che giấu gã Thủ lĩnh đại ca? Thế nhưng đến như Uông bang chủ cũng còn theo phò tá, thì gã Thủ lĩnh đại ca kia phải là một nhân vật ghê gớm lắm, cả Tên Đại Ác cũng phải như vậy. Trên đời này làm gì có hai cao nhân thân thiết như một mà ta lại không biết? Suy luận như thế, dĩ nhiên hai người này là một. Ta chỉ cần giết được Tên Đại Ác là coi như trả xong mối thù giết hại song thân rồi.”
A Châu gật đầu khen phải, nói tiếp: “Kiều đại gia, hôm đó nơi rừng hạnh bọn họ kể lại chuyện ngày xưa, tiểu nữ e rằng… e rằng…” Nói tới đây giọng nàng bất giác run lên. Kiều Phong tiếp lời: “E rằng Tên Đại Ác có mặt tại đó phải không?” A Châu run run đáp: “Đúng vậy. Hôm ở khu rừng hạnh, Thiết diện phán quan Đơn Chính chỉ nói mấy câu mà hôm nay toàn gia cháy mất xác… Ôi chao, tiểu nữ càng nghĩ càng thấy sợ.” Nàng run rẩy nép vào Kiều Phong.
Chàng nói: “Tên này độc ác trên đời khó gặp. Triệu Tiền Tôn chấp nhận thân bại danh liệt, không chịu thổ lộ chân tướng của y. Đơn Chính với y có giao tình lâu năm, thế mà y đang tâm hạ độc thủ cả hai người. Đêm đó nơi rừng hạnh, làm gì có nhân vật nào lợi hại đến thế?” Chàng suy nghĩ một chút, nói tiếp: “Ta còn thấy một chuyện rất quái lạ!” A Châu hỏi: “Chuyện gì thế?” Kiều Phong bâng khuâng nhìn chiếc thuyền buồm trên sông, nói: “Tên Đại Ác thông minh mưu trí hơn ta một bực, võ công cũng vì tất đã kém ta. Nếu y muốn lấy mạng ta, e rằng cũng chẳng khó gì. Thế sao y không hạ thủ, lại còn sợ ta biết y là ai?” A Châu nói: “Kiều đại gia cũng không nên quá khiêm nhường. Tiểu nữ nghĩ rằng Tên Đại Ác kia tuy võ công có cao siêu thật, nhưng y đang sợ đòi mạng. Gần đây y cứ nơm nớp sợ đại gia biết được mà đến báo thù. Nếu không, y việc gì phải giết phu phụ Kiều lão, Huyền Khổ đại sư, Triệu Tiền Tôn, Đàm bà, rồi toàn gia Thiết Diện Phán Quan nữa.” Kiều Phong gật đầu nói: “Chắc là như thế.” Chàng quay sang nhìn A Châu tủm tỉm cười, nói: “Y đã không dám đến hại ta, thì tất nhiên cũng chẳng dám đến gần cô, chẳng việc gì phải sợ” Ngừng một lúc, Kiều Phong lại thở dài:“Tâm cơ gã này quả là ghê gớm. Kiều mỗ mang tiếng anh hùng thật uổng, bị kẻ khác coi như đồ chơi mà không làm gì được.”
Hai người vượt sông Trường Giang, chẳng mấy chốc lại vượt sông Tiền Đường, đến huyện Thiên Thai. Kiều Phong và A Châu nghỉ lại khách điếm một đêm. Sáng hôm sau Kiều Phong vừa dậy, đang định hỏi đường lên núi thì chưởng quĩ hấp tấp chạy vào nói: “Kiều đại gia! Có một vị sư phụ ở chùa Chỉ Quán trên núi Thiên Thai xin được bái kiến.” Kiều Phong giật mình vì khi thuê phòng chàng đã xưng là họ Quan, bèn hỏi lại: “Sao ngươi lại gọi ta là Kiều đại gia?” Gã chưởng quĩ đáp: “Sư phụ chùa Chỉ Quán tả tướng mạo Kiều đại gia cho tiểu nhân hay, không khác chút nào.” Kiều Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau, trong lòng hồi hộp. Hai người đã hóa trang khác hẳn lúc còn ở huyện Thái An tỉnh Sơn Đông, thế mà vừa đến Thiên Thai đã bị người ta nhận ra ngay. Kiều Phong nói: “Thôi được, mời vị đại sư đó vào đây.”
Chưởng quĩ trở gót đi ra, chẳng bao lâu đã đưa một nhà sư lùn mập chừng ba mươi tuổi vào phòng. Nhà sư đó chắp tay thi lễ với Kiều Phong, nói: “Gia sư thượng Trí hạ Quang, sai tiểu tăng là Phác Giả đến đây mời Kiều đại gia cùng Nguyễn cô nương lên tệ tự vãn cảnh.” Kiều Phong thấy y biết cả A Châu họ Nguyễn, lại càng lấy làm kỳ dị. Chàng hỏi: “Không hiểu tại sao sư phụ lại biết được họ của bọn tại hạ?” Nhà sư Phác Giả đáp: “Gia sư dặn tiểu tăng đến khách điếm Khuynh Cái huyện Thiên Thai, đón Kiều anh hùng cùng Nguyễn cô nương lên núi. Các hạ là Kiều đại gia, còn Nguyễn cô nương không biết đang ở đâu?”
A Châu đang hóa trang thành một người đàn ông trung niên nên hòa thượng Phác Giả không nhìn ra, lại tưởng Nguyễn cô nương không có ở đây.
Kiều Phong lại hỏi: “Bọn tại hạ mới đến đây tối hôm qua, sao tôn sư lại biết sớm thế? Phải chăng người là bậc tiên tri?” Phác Giả chưa kịp trả lời, gã chưởng quĩ đã xen vào: “Trí Quang lão thần tăng ở Chỉ Quán Thiền Tự thần thông quảng đại, chỉ bấm độn là biết được Kiều đại gia sắp đến. Đừng nói gì một hai ngày, việc năm trăm năm sau lão nhân gia cũng biết được sáu bảy phần mười.”
Kiều Phong biết Trí Quang đại sư tiếng tăm vang dội, dân chúng coi ông như thần thánh nên không muốn nói nhiều, đáp ngay: “Nguyễn cô nương sẽ đến sau. Bây giờ nhờ hòa thượng đưa bọn tại hạ lên bái kiến tôn sư trước.” Nhà sư Phác Giả nói: “Xin vâng.” Kiều Phong gọi thanh toán tiền trọ, gã chưởng quĩ liền nói: “Đại gia đã là khách của lão thần tăng ở Chỉ Quán Thiền Tự mà ghé đến đây, tiểu nhân thật là vinh hạnh Mấy đồng tiền cơm tiền trọ quả không dám nhận.” Kiều Phong nói: “Thế thì xin cám ơn vậy.” Chàng nghĩ thầm: “Trí Quang thiền sư thi ân bố đức cho dân đến thế, ta gác lại mối thù sát hại song thân, quyết không rửa hờn nữa. Chỉ mong đại sư cho biết danh tính Thủ lĩnh đại ca và Tên Đại Ác là ta mãn nguyện rồi.” Hai người cùng Phác Giả ra khỏi huyện thành, đi về hướng núi Thiên Thai. Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hán lạc vào núi Thiên Thai gặp tiên, đủ biết phong cảnh thanh u đẹp đẽ dường nào, đường lên núi khuất khúc như rắn bò thật khó mà nhớ được.
Kiều Phong theo sau nhà sư Phác Giả, thấy y cước trình mau lẹ, nhưng rõ ràng không hiểu võ công. Mặc dù vậy, chàng vẫn không chủ quan, nghĩ thầm: “Đối phương đã biết rõ lai lịch mình, lẽ nào không phòng bị nghiêm ngặt? Trí Quang thiền sư là bậc cao tăng đức độ, nhưng những người xung quanh vị tất đã được như thế.”
Tuy có ý cảnh giác, nhưng đường lên chùa Chỉ Quán bình an vô sự. Trên núi Thiên Thai có ngôi Quốc Thanh Tự vang danh thiên hạ, vị cao tăng Trí Khải đời Tùy đã từng tu tại đây, phát triển Thiên Thai Tông là một tông pháp Phật môn đã mấy trăm năm qua. Tuy nhiên trong võ lâm thì chùa Chỉ Quán lại lừng danh hơn Quốc Thanh Tự, hóa ra chỉ là một cái miếu nhỏ tầm thường, tường vách loang lổ. Giả tỷ Kiều Phong và A Châu tự mình tìm tới, chắc không tin được đây là ngôi chùa Chỉ Quán nổi tiếng giang hồ.
Phác Giả hòa thượng đẩy cửa miếu vào, lên tiếng gọi to: “Sư phụ ơi! Kiều đại gia đã đến rồi đây.” Có tiếng Trí Quang đại sư vọng ra: “Quí khách từ xa đến, lão nạp không kịp nghênh tiếp.” Đại sư vừa nói vừa bước ra cửa chắp tay thi lễ.
Trong lòng Kiều Phong vẫn lo sợ Tên Đại Ác lại hạ sát Trí Quang đại sư trước khi mình đến, bây giờ thấy mặt mới yên tâm. Chàng cùng A Châu bỏ hóa trang, trở lại chân tướng vào bái kiến. Kiều Phong cung kính xá dài, nói: “Quấy nhiễu việc thanh tu của đại sư, trong lòng tại hạ thật bất an.” Trí Quang nói: “Thiện tại, thiện tại! Kiều thí chủ! Thí chủ vốn ở họ Tiêu, tự mình đã biết chưa?”
Kiều Phong run rẩy toàn thân. Tuy chàng đã biết mình dòng giống Nhất Đan, nhưng chưa rõ phụ thân họ gì. Bây giờ nghe Trí Quang đại sư bảo mình họ Tiêu, chàng tự dưng lạnh toát, biết rằng thân thế mình đã bắt đầu bộc lộ, khom lưng nói: “Kẻ bất hiếu này đến đây chính là cầu mong đại sư chỉ điểm.” Trí Quang gật đầu nói: “Mời hai vị ngồi.”
Ba người vừa ngồi xuống ghế thì Phác Giả bưng trà lên. Y thấy tướng mạo hai vị khách biến đổi đột ngột, nhất là A Châu trở thành nữ nhân, thì kinh dị vô cùng, nhưng vì có sư phụ ngồi đó nên không dám hỏi nhiều.
Trí Quang nói tiếp: “Lệnh tôn lưu lại tự tích trên vách đá ngoài Nhạn Môn Quan, tự xưng họ Tiêu, tên gọi Viễn Sơn. Trong di văn có gọi thí chủ là Phong nhi, bọn ta vẫn giữ nguyên tên đó. Chỉ vì phải gửi Kiều Tam Hòe nuôi dưỡng nên lấy theo họ của y.” Kiều Phong nước mắt như mưa, đứng lên nói: “Hôm nay tại hạ mới được biết danh tính phụ thân. Xin đại sư nhận một lạy để tỏ lòng cảm tạ ân đức.” Nói xong chàng liền phục xuống lạy, A Châu cũng đứng lên, Trí Quang chắp tay đáp lễ nói: “Bần tăng không dám nhận hai chữ ân đức.”
Quốc tính nước Liêu là Gia Luật, bao nhiêu triều đại đều lập hoàng hậu ở họ Tiêu. Vì thế mà Tiêu gia công khanh đầy triều, có quyền thế lớn tại Liêu quốc. Những khi vị Liêu chúa còn thơ ấu thì Tiêu thái hậu chấp chính, uy thế Tiêu gia lại càng lừng lẫy. Kiều Phong đột nhiên biết mình thuộc một thế gia vọng tộc của Khất Đan, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Chàng đứng ngẫm nghĩ một hồi, quay sang nói với A Châu: “Từ nay trở đi ta là Tiêu Phong, không phải là Kiều Phong nữa.” A Châu đáp: “Đúng thế, Tiêu đại gia.”
Trí Quang nói: “Tiêu đại hiệp! Đại hiệp đã xem qua tự tích trên vách đá ngoài Nhạn Môn Quan chưa?” Tiêu Phong lắc đầu đáp: “Chưa đâu. Khi tại hạ ra ngoài ải, chữ trên vách đá đã bị ai đẽo hết, tuyệt không còn dấu vết.” Trí Quang thở dài nói: “Sự tình đã trải bấy lâu, đến tự tích trên vách đá cũng đã mất, mấy chục sinh linh không biết đã đầu thai đến cõi nào.” Nhà sư lấy trong tay áo ra một tấm vải cũ rất lớn, nói: “Tiêu thí chủ! Đây là bản rập bức di văn trên vách đá.”
Tiêu Phong tay run bần bật, đón lấy mảnh vải mở ra xem, hóa ra đây là rất nhiều mảnh quần áo rách khâu lại với nhau, chữ trắng hiện trên nền đỏ máu chung quanh. Nét chữ vừa hùng mạnh vừa cứng rắn như dao đục búa chém, hình dáng kỳ lạ, tuy cũng giống chữ Hán nhưng không phải, chàng biết đây là chữ Khất Đan. Tiêu Phong cố tưởng tượng ra cảnh phụ thân cầm đao khắc trên vách đá lúc sắp ôm mẫu thân và mình nhảy xuống vực tự tận, bất giác lệ tuôn từng giọt rơi xuống mảnh vải. Chàng nói: “Mong đại sư dịch nghĩa cho.”
Trí Quang đại sư lại nói: “Năm xưa bọn ta sau khi rập được bản khắc trên vách đá, đem về Nhạn Môn Quan nhờ người biết chữ Khất Đan giải thích cho. Hỏi luôn mấy người đều dịch cùng một ý, xem ra không phải là sai. Tiêu thí chủ! Ý nghĩa bản văn này là: Phong nhi tròn một tuổi, ta cùng hiền thê sang ăn tiệc bên nhà ngoại công. Giữa đường bỗng gặp lũ đại đạo Nam Triều…” Tiêu Phong nghe tới đó, trong lòng chua xót. Trí Quang đại sư tiếp tục giải thích: “… Việc xảy ra bất ngờ. Ái thê bị cường đạo giết chết, ta cũng không muốn sống làm chi nữa. Thụ nghiệp ân sư của ta là người Hán, ta đã tuyên thệ trước mặt sư phụ là không giết người Hán, ngờ đâu hôm nay lâm sự hạ sát hơn mười người. Ta vừa xấu hổ vừa đau xót, chết xuống âm ti chẳng còn mặt mũi nào nhìn thấy ân sư được nữa, Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút.”
Tiêu Phong nghe nhà sư Trí Quang đọc xong, cung kính xếp mảnh vải lại, nói: “Đây là di ngôn của tiên phụ Tiêu mỗ. Xin đại sư ban cho.” Trí Quang nói: “Đương nhiên bần tăng giao tặng cho thí chủ.” Tiêu Phong đầu óc bấn loạn, tưởng tượng lúc phụ thân mình vì đau khổ mà nhảy xuống vực thẳm tự tận, không những vì thương mẫu thân mình thảm tử mà còn vì hổ thẹn với sư môn đã hạ sát bấy nhiêu người Hán, vi phạm lời thề.
Trí Quang chậm rãi thở dài một tiếng, nói: “Ban đầu bọn ta vẫn tưởng lệnh tôn thống lĩnh võ sĩ Khất Đan sang chùa Thiếu Lâm để đoạt kinh sách. Đến khi đọc được di văn trên vách núi mới biết là mình lầm lẫn, hành động sai trái. Lúc sắp nhảy xuống vực sâu tự tận, quyết không có lý nào lệnh tôn còn viết lời giả dối lừa người. Hơn nữa, nếu người sang chùa Thiếu Lâm để đoạt kinh sách, lẽ đâu lại đưa theo phu nhân chẳng hiểu võ công, lại bồng bế một đứa bé mới đầy năm? Về sau bọn ta tra xét cái tin người Liêu đến cướp kinh chùa Thiếu Lâm từ đâu mà ra, hóa ra từ miệng một kẻ dối trá. Kẻ đó chủ tâm đùa giỡn Thủ lĩnh đại ca, bắt ông ta xông pha ngàn dặm để làm trò cười chơi.”
Tiêu Phong nói: “Trời ơi! Chỉ là chuyện đùa cợt mà ra ư? Gã kia sao lại làm thế?” Trí Quang nói: “Thủ lĩnh đại ca tra xét rõ ràng rồi, trong bụng căm giận đến cực điểm. Nhưng tên nói láo kia đã trốn biệt, không thấy bóng dáng đâu nữa. Đến nay cũng đã ba mươi năm rồi, chắc y không còn sống trên đời.”
Tiêu Phong nói: “Đa tạ đại sư cho biết rõ tiền nhân hậu quả, khiến Tiêu Phong này được hiểu rõ lai lịch, tìm lại cội rễ. Tiêu mỗ chỉ muốn hỏi đại sư một điều nữa thôi.” Trí Quang đại sư hỏi: “Tiêu thí chủ còn muốn hỏi điều chi?” Tiêu Phong hỏi: “Vị Thủ lĩnh đại ca đó là ai?” Trí Quang nói: “Lão tăng nghe nói Tiêu thí chủ vì muốn tra xét chuyện này mà đã giết chết Từ trưởng lão của Cái Bang, Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn bốn người, lại giết thêm cả nhà Thiết diện pháp quan Đơn Chính, đốt Đơn gia trang thành bình địa, nên biết rằng sớm muộn gì Tiêu thí chủ cũng sẽ đến đây. Thí chủ hãy chờ một chút, lão tăng sẽ cho thí chủ xem một việc.” Nói xong ông đứng lên.
Tiêu Phong đang định thanh minh là mình không hề giết Từ trưởng lão và những người kia, thì Trí Quang đã đi thẳng vào hậu đường không quay đầu lại. Một lát sau, nhà sư Phác Giả đi vào phòng khách nói: “Sư phụ tiểu tăng mời hai vị vào thiền phòng nói chuyện.” Tiêu Phong và A Châu đi theo y qua một con đường mòn, hai bên trồng trúc um tùm, đến trước một căn nhà nhỏ. Phác Giả hòa thượng đẩy cửa, nói: “Xin mời.” Hai người liền tiến vào.
Căn nhà nhỏ này lâu ngày không ai quét tước nên bụi đóng thật dày. Trí Quang đại sư ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn, nhìn Tiêu Phong mỉm cười, thò ngón tay viết lên lớp bụi mấy hàng chữ: “Vạn vật nhất bàn, Chúng sinh bình đẳng, Thánh hiền súc sinh, Nhất thị đồng nhân, Hán nhân Khất Đan, Diệc huyễn diệc chân, Ân oán vinh nhục, Câu tại khôi trần.” (Vạn vật là một, Chúng sinh ngang nhau, Thánh hiền loài vật, Có khác gì đâu, Hán nhân Khất Đan, Như giả như chân, Ân oán vinh nhục, Như đám bụi trần.)
Viết xong, đại sư nở một nụ cười rồi từ từ nhắm mắt lại.
Tiêu Phong nhìn tám câu kệ dưới đất, ngơ ngẩn xuất thần, nghĩ bụng: “Theo thuyết nhà Phật thì chẳng những không phân biệt người thiện kẻ ác, mà cả súc sinh, ngã quỷ hay đế vương cũng như nhau. Ta là người Khất Đan hay là người Hán, cũng chẳng có gì phải suy nghĩ. Tên Đại Ác giết ân sư ta hay ân sư ta giết Tên Đại ác, cũng chẳng có gì phải phân biệt. Nhưng ta có phải đệ tử nhà Phật đâu, làm sao tự giải thoát được đến mức này?” Chàng hỏi lại: “Đại sư Thủ lĩnh đại ca là ai? Xin đại sư chỉ điểm.” Hỏi liền mấy câu, Trí Quang đại sư chỉ mỉm cười không đáp.
Tiêu Phong nhìn kỹ lại, bất giác cả kinh, thấy mặt nhà sư vẫn cười, nhưng cứng đờ không rung động. Chàng gọi liên tiếp: “Trí Quang đại sư! Trí Quang đại sư” nhưng nhà sư vẫn trơ trơ không nhúc nhích, đặt tay lên mũi xem, thì ra đại sư đã viên tịch rồi. Tiêu Phong buồn bã không nói gì được nữa, quì xuống lạy mấy lạy rồi quay sang vẫy A Châu nói: “Chúng ta đi thôi.”
Hai người lủi thủi ra khỏi chùa Chỉ Quán, cúi đầu lặng lẽ quay về huyện thành Thiên Thai. Đi được mươi dặm, Tiêu Phong mới hỏi: “A Châu! Ta hoàn toàn không có ý gia hại Trí Quang đại sư. Sao ông ta… Ông ta lại phải khổ đến vậy?” A Châu đáp: “Vị cao tăng đó đã nhìn thấu lẽ tử sinh, đại giác đại ngộ chẳng còn phân biệt đâu là sống đâu là chết.” Tiêu Phong nói: “Cô nương thử nghĩ xem, tại sao đại sư lại biết chúng ta tìm đến chùa Chỉ Quán?” A Châu đáp: “Tiểu nữ cho rằng đây cũng là tác phẩm của Tên Đại Ác kia.” Tiêu Phong nói: “Ta cũng đoán thế. Có lẽ Tên Đại Ác đã đến bảo Trí Quang đại sư là ta đang tìm đến báo thù. Trí Quang đại sư nghĩ là không sao thoát khỏi độc thủ của ta, nên nói chuyện xong xuôi liên uống thuốc độc tự tận.”
Hai người nhìn nhau không nói gì nữa. Hồi lâu A Châu thốt nhiên nói: “Tiêu đại gia! Tiểu nữ không rõ phải trái, có mấy câu muốn nói ra, xin đại gia đừng trách.” Tiêu Phong đáp: “Sao cô nương lại khách sáo như thế? Dĩ nhiên là ta không trách cô nương.” A Châu nói: “Tiểu nữ nghĩ rằng mấy câu kệ của Trí Quang đại sư rất có lý. Hán nhân Khất Đan, Như giả như chân, Ân oán vinh nhục, Như đám bụi trần. Đại gia là người Hán hay là người Khất Đan cũng vậy, có gì mà phân biệt? Chắc đại gia cũng ngán ngẩm chuyện đao kiếm ở chốn giang hồ rồi, chi bằng từ nay ra ngoài Nhạn Môn Quan săn bắn chăn nuôi, không ngó ngàng tới những chuyện ân oán vinh nhục của võ lâm Trung Nguyên nữa.”
Tiêu Phong thở dài nói: “Quả thật ta chán cái việc sống trên đao kiếm lắm rồi. Từ nay ra ngoài biên ải săn chồn đuổi thỏ, không băn khoăn gì nữa thì quả là thoải mái biết bao! A Châu, khi ta ra ngoài quan ải rồi, cô có đến thăm ta không?” A Châu thẹn thùng khẽ đáp: “Tiểu nữ đã nói là săn bắn chăn nuôi đấy thôi. Đại gia săn chồn đuổi thỏ, tiểu nữ thả bò chăn cừu.” Nàng nói đến đây liền cúi mặt xuống.
Tiêu Phong tuy là một hán tử thô hào, nhưng hiểu ngay ý tứ mấy câu nói của A Châu. Rõ ràng nàng muốn sống cùng mình suốt đời ngoài biên tái, không về Trung Nguyên nữa. Ban đầu Tiêu Phong cứu nàng chẳng qua chỉ vì khí khái nhất thời, đến khi nàng tìm theo ra ngoài Nhạn Môn Quan, rồi qua Vệ Huy, Thái An, Thiên Thai đường sá xa xôi bao nhiêu sóng gió, ngày đêm kề cận mới dần dần thấy nàng thật là ôn nhu thân thiết. Lúc này nghe nàng thẳng thắn giãi bày tâm sự, chàng không khỏi bồi hồi, đưa bàn tay to tướng ra nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của nàng, nói: “A Châu! Nàng đối với ta thật tốt, chẳng vì ta là người Khất Đan hèn mạt mà đem lòng rẻ rúng ư?” A Châu đáp: “Người Hán cũng là người, người Khất Đan cũng là người, làm gì có chuyện sang hèn? Thiếp… thiếp thích người Khất Đan, đó là chân tâm thành ý, tuyệt không miễn cưỡng chút nào.” Tiếng nàng mỗi lúc một nhỏ đi, sau cùng chỉ thoảng nhẹ như tiếng muỗi kêu, dường như không thể nghe thấy.
Tiêu Phong cả mừng, đột nhiên đưa tay ra nắm lấy lưng nàng tung bổng lên trời. Khi nàng rơi xuống, chàng nhẹ nhàng đón lấy đặt xuống đất, vừa cười ha hả vừa nhìn nàng ra chiều hãnh diện, lớn tiếng nói: “A Châu, từ nay nàng theo ta cưỡi ngựa săn bắn, thả cừu chăn bò, không hối hận chứ?” A Châu nghiêm mặt nói: “Dẫu có theo đại gia giết người đốt nhà, ăn trộm ăn cướp, thiếp cũng không hối hận. Được đi theo đại gia thì dù gian nan khổ sở, trăm cay nghìn đắng, thiếp cũng vui lòng.”
Tiêu Phong dõng dạc nói: “Tiêu mỗ có được ngày nay, đừng nói trở về làm bang chủ Cái Bang, dù được làm hoàng đế nhà Đại Tống cũng không thèm. A Châu! Bây giờ chúng ta đến Tín Dương tìm Mã phu nhân, bà ta chịu nói thì tốt, mà không chịu nói cũng thôi, đây là người cuối cùng mình đi tìm. Ta chỉ hỏi một câu, sau đó cùng nàng ra ngoài ải bắc săn bắn chăn nuôi.”
A Châu nói: “Tiêu đại gia…” Tiêu Phong ngắt lời: “Từ nay trở đi, nàng đừng gọi ta là đại gia nhị gia gì nữa, chỉ được gọi là đại ca thôi!” A Châu mặt đỏ bừng, nói: “Thiếp đâu dám thế?” Tiêu Phong nói: “Nàng có chịu gọi ta bằng đại ca hay không thì bảo?” A Châu mỉm cười: “Nghìn lần chịu, vạn lần chịu, đâu có dám trái ý.” Tiêu Phong cười nói: “Vậy nàng gọi ta nghe thử nào!” A Châu rụt rè khẽ gọi: “Đại… đại ca!” Tiêu Phong cười ha hả nói: “Thế mới được! Từ nay Tiêu mỗ không còn cô đơn, bị mọi người khinh bỉ vì mang dòng máu mọi rợ. Trên đời này, ít ra cũng có một người… cũng có một người…” Chàng ngắc ngứ chưa tìm được từ để nói, A Châu bèn tiếp lời: “Cũng có một người kính trọng đại ca, khâm phục đại ca, thương yêu đại ca, nguyện ý đời đời kiếp kiếp theo bên mình đại ca, vĩnh viễn cùng đại ca chia sẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no.” Nàng nói những câu đó cực kỳ thành khẩn.
Tiêu Phong nổi lên một tràng cười vang cả núi rừng, chàng hiểu rằng A Châu biết rồi đây sẽ còn nhiều chông gai nhưng quyết không hối hận. Lòng chàng xiết bao cảm kích, miệng thì cười mà bất giác hai dòng lệ chảy dài trên má.
Nguyên phó bang chủ Cái Bang là Mã Đại Nguyên ở tại Tín Dương, tỉnh Hà Nam. Tiêu Phong cùng A Châu từ núi Thiên Thai ở Giang Nam đi đến Tín Dương muôn dặm xa xôi, không phải ngày một ngày hai là đến được.
Hai người từ khi ở núi Thiên Thai đã ý hợp tâm đầu, tơ tình quấn quít, nên thường thả lỏng dây cương để vừa đi vừa thưởng ngoạn phong cảnh đẹp đến mê hoặc lòng người. A Châu không thích uống rượu, nhưng thỉnh thoảng cũng cố uống vài chung để trợ hứng cho Tiêu Phong, đôi má đỏ bừng lên lại càng thêm duyên dáng. Tiêu Phong tuy trong lòng còn đây phẫn uất, nhưng được A Châu cười nói dí dỏm bên mình, phiền não cũng giảm được quá nửa. Hành trình từ Giang Nam ngược lên trung châu, so với hôm trước từ Nhạn Môn Quan vội vã trở về Sơn Đông, chàng cảm thấy trong lòng khác hẳn, khoan khoái hơn nhiều. Chặng đường mấy nghìn dặm này đối với Tiêu Phong quả mơ mơ hồ hồ, lúc đầu là ác mộng, về sau lại là một cơn mộng đẹp, đẹp đến nỗi nếu không có nàng A Châu kiều diễm ở bên mình thì chắc chàng đã tin rằng đó là một giấc mơ thật sự.
Một hôm đi đến Quang Châu, chỉ còn cách Tín Dương hai ngày đường, A Châu hỏi: “Đại ca! Đại ca định hỏi Mã phu nhân cách nào cho tiện?”
Ở rừng hạnh và Tụ Hiền Trang, Mã phu nhân từ lời nói cho đến nét mặt đều lộ vẻ căm hờn Tiêu Phong. Chàng chẳng vui gì, nhưng nghĩ rằng bà ta buộc tội mình sát hại phu quân, có oán hận mình thì cũng là lẽ thường, nếu không oán hận mới bất hợp lý. Chàng lại nghĩ bà ta là một quả phụ không biết võ công, nếu mình dùng bạo lực tra hỏi, nạt nộ uy hiếp thì không phải là hành động của người hào kiệt. Bây giờ nghe A Châu hỏi thế, Tiêu Phong trù trừ không trả lời được, ngẩn ra một lát rồi đáp: “Ta nghĩ, chúng ta chỉ nên nói năng lịch sự cho Mã phu nhân hiểu rõ đen trắng, đừng đổ oan cho ta đã giết Mã đại ca nữa. A Châu, hay là nàng đến hỏi chuyện có tốt hơn chăng? Nàng mồm mép linh lợi, lại là phụ nữ với nhau cũng dễ thông cảm. Mã phu nhân mà thấy mặt ta, oán hận nổi lên là hỏng bét.”
A Châu tủm tỉm cười: “Thiếp đã có kế, chỉ sợ đại ca không chịu.” Tiêu Phong vội hỏi: “Kế gì thế?” A Châu nói: “Đại ca là đại anh hùng, đại trượng phu không thể bức bách bà ta được. Để thiếp đến đánh lừa bà ta, có nên chăng?”
Tiêu Phong cả mừng nói: “Nếu đánh lừa được cho bà ta thổ lộ chân tình thì còn gì bằng. A Châu! Nàng cũng biết ta ngày đêm khắc khoải, chỉ mong được chính tay đâm chết kẻ đại cừu để trả mối thù giết chết song thân. Tên Đại Ác kia giúp Tiêu mỗ hiểu được gốc gác Khất Đan, giúp Tiêu mỗ biết được tổ tông là ai, ta phải cảm ơn mới phải. Thế nhưng sao y lại giết hại dưỡng phụ dưỡng mẫu cùng ân sư của ta? Y lại ép ta tàn hại bằng hữu, mang tiếng đại ác, biến thành kẻ thù của hết thảy anh hùng thiên hạ. Ta không băm vằm y ra, thì không thể yên tâm cùng nàng ra ngoài quan ải cưỡi ngựa săn thú, chăn bò thả cừu.” Chàng càng nói, thanh âm càng quả quyết. Gần đây tâm thần Tiêu Phong không còn u uất như trước, nhưng mối cừu hận Tên Đại Ác không giảm chút nào.
A Châu nói: “Tên Đại Ác kia ám hại đại ca đến thế, thiếp cũng mong được chém y mấy nhát cho đại ca hả dạ. Chúng ta bắt được y rồi sẽ tổ chức một anh hùng yến, mời hết thảy hào kiệt trong thiên hạ, trình bày mọi nỗi oan khuất, hồi phục thanh danh trong sạch cho đại ca” Tiêu Phong thở dài nói: “Bất tất phải như thế. Ta ở Tụ Hiền Trang đã giết quá nhiều người, kết mối thâm cừu với anh hùng thiên hạ, chẳng mong gì họ lượng tình cho mình nữa. Tiêu mỗ chỉ mong kết thúc được chuyện này để tâm hồn thanh thản, sau đó cùng nàng rong ruổi bên ngoài biên ải, chúng ta suốt đời chung sống với hổ lang bò cừu, không gặp lại anh hùng hảo hán Trung Nguyên nữa.” A Châu vui mừng nói: “Thiếp cũng tạ trời tạ đất, chỉ cầu được như vậy thôi.” Nàng tủm tỉm cười, nói tiếp: “Đại ca! Thiếp định cải trang thành một người khác, đến đánh lừa Mã phu nhân nói danh tính Tên Đại Ác ra.”
Tiêu Phong vỗ đùi reo lên: “Phải lắm! Phải lắm! Sao ta lại không nghĩ ra? Thuật cải trang của nàng trên đời có một không hai, dùng vào việc này thì tuyệt diệu. Thế nàng định giá làm ai?” A Châu đáp: “Việc đó phải hỏi đại ca. Khi xưa Mã phó bang chủ giao thiệp với ai trong Cái Bang thân thiết nhất, thiếp sẽ giả làm người đó. Mã phu nhân tưởng là hảo bằng hữu của trượng phu, chắc sẽ không giấu giếm đâu.”
Tiêu Phong nói: “Ồ, trong Cái Bang mà thân thiết với Mã huynh đệ thì có Vương đà chủ, Toàn Quan Thanh, Trần trưởng lão. Ngoài ra Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính cũng có giao tình rất hậu với y” A Châu nghiêng đầu, hình dung lại tướng mạo thần thái những người đó. Tiêu Phong lại tiếp: “Mã huynh đệ là người điềm đạm nghiêm cẩn, không thích rượu chè náo nhiệt như ta, vì thế ít khi cùng ta chè chén cười đùa. Toàn Quan Thanh, Bạch Thế Kính là những người giống tính y, nên thường gặp nhau ngồi đàm luận võ công.”
A Châu nói: “Trong những người này thì thiếp không biết Vương đà chủ. Trần trưởng lão thường xách cái túi chứa toàn rắn rết, thiếp mới nghĩ tới đã sợ hết hồn, giả mạo không giống được. Toàn Quan Thanh thì cao lênh khênh, giả làm y rất tốn công. Chúng ta phải ở trong nhà Mã phu nhân khá lâu để từ từ dò hỏi, e rằng dễ bị bại lộ. Tốt nhất là để thiếp cải trang thành Bạch trưởng lão. Ông ta có nói chuyện với thiếp mấy lần ở Tụ Hiền Trang, bắt chước ông ta dễ hơn cả.”
Tiêu Phong mỉm cười nói: “Bạch trưởng lão đối với nàng thật đã hết lòng, năn nỉ Tiết Thần Y trị thương cho. Bây giờ nàng hóa trang thành lão để đi lừa gạt người ta, thật có điều bất tiện.” A Châu cười nói: “Thiếp giả mạo Bạch trưởng lão để làm chuyện tốt, đâu có làm chuyện xấu hại đến thanh danh của lão, có gì là bất tiện?”
Công việc bắt đầu ngay trong khách điếm. Tiêu Phong được A Châu cải trang thành một tên đệ tử Cái Bang năm túi tùy tòng Bạch Thế Kính, lại dặn chàng càng ít nói càng tốt, để đề phòng Mã phu nhân tinh tế nhìn ra chỗ sơ hở. Tiêu Phong thấy A Châu hóa trang thành Bạch trưởng lão rồi, mặt lạnh như băng, không giận mà oai, đúng là một vị Chấp Pháp trưởng lão mà mấy vạn đệ tử Cái Bang vừa sợ vừa kính. Không chỉ tướng mạo hình dáng bên ngoài mà cả ngôn ngữ cử chỉ cũng giống hệt Bạch Thế Kính, khiến Tiêu Phong thân thiết với ông ta cả chục năm mà cũng không nhìn ra chỗ nào không đúng.
Hai người lên đường đến Tín Dương. Mỗi khi gặp anh em Cái Bang, Tiêu Phong đều dùng tiếng lóng nói chuyện, dò la tình hình các nhân vật đầu não trong bang, rồi báo tin Bạch trưởng lão đến Tín Dương để họ truyền đến tai Mã phu nhân. Khi bà ta biết tin, tất là có sẵn ấn tượng trong lòng, lỡ nếu A Châu cải trang có gì sơ hở cũng ít để ý.
Nhà Mã Đại Nguyên ở phía tây Tín Dương, cách thành chừng ba mươi dặm. Tiêu Phong hỏi thăm bọn đệ tử Cái Bang cho biết đường đi, rồi cùng A Châu đến Mã gia. Hai người đi thong thả, cố ý để gần tối mới tới nơi. Dù sao thì ban ngày mọi việc cũng rõ ràng, còn đêm đến cảnh vật lờ mờ, việc cải trang khó bại lộ hơn.
Hai người đến trước Mã gia, thấy một con rạch nhỏ lượn quanh ba gian nhà ngói, bên nhà có hai cây thùy dương, trước cửa là một khu đất bằng phẳng tựa hồ như cái sân để nhà nông phơi thóc, nhưng bốn bề đều có hào sâu, Tiêu Phong hiểu rõ võ công gia số của Mã Đại Nguyên, biết những hào sâu này là chỗ để y luyện công. Chàng nghĩ tới người anh em nay đã âm dương đôi ngả, không khỏi cảm thấy đau lòng. Chàng đang định gọi cửa, đột nhiên cánh cổng mở ra nghe kẹt một tiếng, một người đàn bà mặc toàn màu trắng bước ra, chính là Mã phu nhân.
Mã phu nhân liếc Tiêu Phong một cái, rồi khom lưng thi lễ với A Châu, nói: “Bạch trưởng lão quang lâm tệ xá, quả thật bất ngờ. Xin mời vào dùng trà.” A Châu nói: “Tại hạ có việc cần thương lượng với phu nhân, vì thế mà đường đột tới đây. Xin phu nhân thứ lỗi.”
Nét mặt Mã phu nhân tựa như cười mà không phải cười, khóe miệng dường như có điều u uẩn, hợp với con người toàn thân mặc tang phục. Khi đó mặt trời đã ngả về sau núi, chiếu lên khuôn mặt nàng một sắc nhợt nhạt. Tiêu Phong gặp nàng hai lần trước đều trong lúc tâm thần khích động, không nhìn kỹ. Bây giờ ông mới thấy nàng khóe mắt đầu mày đã mờ mờ vết nhăn, độ chừng ba lăm ba sáu tuối, mặt không nhồi phấn mà nước da trắng nõn chẳng kém gì A Châu.
Hai người theo Mã phu nhân vào nhà, thấy phòng khách hơi nhỏ, chính giữa chỉ đặt cái bàn và bốn cái ghế mà chẳng còn trống bao nhiêu. Một bà vú già bưng trà lên. Mã phu nhân hỏi đến danh tính Tiêu Phong, A Châu thuận mồm bịa ra một cái tên.
Mã phu nhân hỏi: “Bạch trưởng lão đại giá quang lâm, không biết có điều chi dạy bảo?” A Châu đáp: “Từ trưởng lão qua đời ở Vệ Huy, hẳn phu nhân đã biết.” Mã phu nhân đột nhiên ngẩng đầu lên, ánh mắt hơi khác lạ, nói: “Dĩ nhiên là tiện thiếp đã biết.” A Châu lại tiếp: “Bọn ta đều nghi là Kiều Phong hạ độc thủ. Sau đó ba vị tiền bối Đàm công, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn bị ám hại bên ngoài thành Vệ Huy, rồi đến nhà của Thiết diện phán quan Đơn lão gia ở Thái An, Sơn Đông bị cháy rụi. Mới đây không lâu, ta đi Giang Nam điều tra một tên đệ tử bảy túi vi phạm bang qui, trên đường lại nghe tin Trí Quang lão hóa thượng ở chùa Chỉ Quán núi Thiên Thai đột nhiên viên tịch.” Mã phu nhân run lên, mặt biến sắc hỏi: “Phải chăng chuyện… chuyện đó cũng do Kiều Phong gây ra?”
A Châu nói: “Ta đã đích thân lên chùa Chỉ Quán tìm hiểu, tuy không có manh mối gì, nhưng mười phần thì đến tám chín là do Kiều Phong làm. Dĩ nhiên phu nhân là người kế tiếp bị y đến gây chuyện. Vì vậy ta vội vàng đến đây, khuyên phu nhân lánh đi nơi khác mấy tháng hay một năm để khỏi bị tên ác tặc họ Kiều gia hại.” Mã phu nhân rưng rưng lệ, buồn bã nói: “Từ khi trượng phu không may gặp nạn, tiện thiếp thấy sống cũng bằng thừa. Nếu gã họ Kiều kia tới gia hại thì cũng là việc đáng mừng, còn lánh đi làm gì nữa.”
A Châu nói: “Sao phu nhân lại nói thế? Mối đại cừu hạ sát Mã huynh đệ chưa trả xong, thủ phạm còn chưa bắt được, thì phu nhân còn phải mang trách nhiệm nặng nề. Ôi! Linh vị Mã huynh đệ đặt ở đâu, để ta đến lạy một lạy.” Mã phu nhân đáp: “Không dám.” Nhưng nàng vẫn dẫn hai người đi vào hậu đường. A Châu lạy trước, Tiêu Phong cũng cung kính khấu đầu trước linh vị, trong bụng khấn thầm: “Mã đại ca ơi! Đại ca có linh thiêng thì xui khiến phu nhân nói ra danh tính hung thủ, để tiểu đệ báo thù rửa oán cho đại ca.”
Mã phu nhân quỳ bên linh vị hoàn lễ, dòng châu lã chã tuôn rơi. Tiêu Phong lạy xong đứng dậy, thấy trong linh đường có treo những câu đối điếu tang của Từ trưởng lão, Bạch trưởng lão và mấy người khác, còn câu đối của mình gửi tới không thấy đâu. Những vuông vải trắng trong linh đường đã bám đầy bụi bặm, càng làm tăng vẻ thê lương, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mã phu nhân chưa có con cái, suốt ngày chỉ có một mụ vú già bầu bạn, chắc là nỗi buồn thảm cô đơn kể sao cho xiết!”.
A Châu cất tiếng khuyên nhủ: “Phu nhân nên bảo trọng thân thể, mối oan cừu của Mã huynh đệ là của chung mọi người. Nếu phu nhân có gì khó khăn cứ nói thẳng cho ta nghe, ta sẽ chủ trương cho…” nghe ra vẻ lão thành kẻ cả. Tiêu Phong khen thầm trong bụng: “Cô ả này thật là đáo để. Bang chủ Cái Bang bị trục xuất, phó bang chủ qua đời, Từ trưởng lão bị ám sát, Truyền Công trưởng lão bị ta giết, tính ra bây giờ Bạch trưởng lão là người địa vị tối cao trong bản bang. Cô nàng nói toàn giọng điệu bang chủ vỗ về thuộc hạ, quả là hợp lý.” Mã phu nhân tỏ lời cảm tạ, nhưng giọng lưỡi cực kỳ lạnh nhạt. Tiêu Phong âm thầm lo lắng, thấy bà ta chẳng còn sinh khí, thần thái như kẻ mất hồn, chắc là từ khi mất trượng phu đã mất cả ý niệm sinh tồn. Chàng chỉ sợ Mã phu nhân tuẫn tiết theo chồng, người phụ nữ này tính khí cương cường, chuyện gì cũng có thể làm được.
Mã phu nhân đưa hai người trở lại phòng khách, chẳng bao lâu bà vú đã dọn cơm ra, trên bàn có bốn món đồ chay gồm cải xanh, cải củ, đậu phụ, dưa leo và ba bát cơm bốc hơi nghi ngút, không có rượu. A Châu liếc nhìn Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay không có rượu cho đại ca uống.” Tiêu Phong thản nhiên bưng bát cơm lên ăn. Mã phu nhân nói: “Từ khi tiên phu qua đời, tiện thiếp ăn chay, chỗ hẻo lánh lại không có rượu thịt, tiếp đãi hai vị đạm bạc thật là đắc tội.” A Châu thở dài nói: “Mã huynh đệ chết rồi không thể sống lại được, phu nhân đừng tự làm khổ mình như thế.” Tiêu Phong thấy Mã phu nhân đối với tiên phu quả thật có tình có nghĩa, trong lòng rất kính trọng.
Cơm nước xong, Mã phu nhân nói: “Bạch trưởng lão lặn lội đường xa đến đây, đáng lý tiện thiếp phải lưu người nghỉ lại, chỉ hiềm thân phận góa bụa nên có điều không tiện. Không biết trưởng lão còn có điều chi dạy bảo?” Rõ ràng câu này ngụ ý đuổi khách về. A Châu nói: “Lần này ta đến Tín Dương cốt để khuyên phu nhân tạm dời đi nơi khác lánh nạn ít lâu, chưa hiểu phu nhân quyết định ra sao?” Mã phu nhân thở dài đáp: “Gã Kiều Phong đã ám hại Mã đại gia, nếu đến đây giết nốt tiện thiếp, thì cũng là giúp nhanh xuống suối vàng sum họp với trượng phu. Chẳng giấu gì Bạch trưởng lão, tiện thiếp tuy chân yếu tay mềm, nhưng không sợ chết thì còn sợ gì nữa?” A Châu nói: “Nếu thế, phu nhân quả không bằng lòng rời nhà lánh nạn hay sao?” Mã phu nhân đáp: “Đa tạ Bạch trưởng lão đã quan tâm. Tiện thiếp thật không đành rời khỏi căn nhà cũ của Mã đại gia.”
A Châu lại thở dài nói: “Bản ý ta muốn ở gần đây ít ngày để bảo hộ cho phu nhân. Bạch mỗ tự biết không phải là địch thủ của Kiều Phong, nhưng trong lúc cần kíp cũng đỡ được một tay. Ngờ đâu dọc đường ta lại vừa nhận được tin tức cơ mật thật là trọng đại.” Mã phu nhân thản nhiên hỏi: “Ồ, chắc là việc quan trọng lắm?” Nữ nhân thường có tính hiếu kỳ, nghe nói đến một việc cơ mật trọng đại, dù chẳng liên quan gì đến mình cũng muốn hỏi chơi. Ngờ đâu Mã phu nhân vẫn thờ ơ, mặc cho đối phương muốn nói thì nói, không nói thì thôi, tưởng chừng phu quân đã chết rồi thì trên đời này chẳng còn điều gì đáng phải động tâm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người ta vẫn so sánh lòng người quả phụ như cây héo tro tàn, nếu nói về Mã phu nhân thì không sai chút nào.”
A Châu bỗng khoát tay bảo Tiêu Phong: “Ngươi ra ngoài đợi. Ta có điều cơ mật thương lượng với phu nhân.” Tiêu Phong gật đầu đi ra ngoài, thấm khen: “A Châu quả là thông minh, nàng hiểu rằng muốn người khác thổ lộ chuyện bí mật cho nghe thì phải nói chuyện bí mật của mình trước. A Châu giả vờ nói chuyện cơ mật, ngay cả kẻ tâm phúc của mình cũng không được nghe, chính là làm cho Mã phu nhân tin tưởng.”
Tiêu Phong ra khỏi cửa, bên ngoài trời tối, vắng lặng không một tiếng động, chỉ nghe tiếng lách cách từ dưới bếp vọng lên, chính là bà vú đang rửa bát. Chàng bèn đi vòng qua góc tường, nép vào ngoài cửa sổ phòng khách, nín thở lắng tai nghe. Giả tỷ Mã phu nhân không nói ra danh tính kẻ thù, ít nhất cũng lộ ra chút đầu mối để biết đường lần theo, còn hơn mù mờ như hiện nay. Huống chi vị Bạch trưởng lão này chẳng quản xa xôi ngàn dặm đến đây cảnh báo đã là thi ân với bà ta rồi, khi sắp từ biệt lại cho biết một chuyện cơ mật. Không lẽ Mã phu nhân lại cảnh giác tuyệt đối mà giấu giếm một vị đầu não bản bang hay sao?
Hồi lâu mới nghe Mã phu nhân thở dài một tiếng, u uẩn nói: “Trưởng lão… trưởng lão còn đến làm gì nữa đây?” Tiêu Phong sợ bị phát giác làm hỏng đại sự, không dám thò đầu vào xem tình hình trong phòng khách thế nào. Chàng rất lấy làm kỳ, tự hỏi: “Mã phu nhân hỏi câu này là có ý nghĩa gì?”. Chỉ nghe A Châu nói: “Ta quả thật nghe tin Kiều Phong có ý gia hại phu nhân nên tới báo tin.” Mã phu nhân nói: “Đa tạ hảo ý của Bạch trưởng lão.” A Châu hạ giọng nói: “Mã phu nhân! Từ khi Mã hiền đệ chẳng may qua đời, có mấy vị trưởng lão bản bang nhớ đến công đức người quá cố, muốn mời phu nhân đảm nhiệm chức trưởng lão trong bản bang.”
Tiêu Phong nghe giọng nàng nói cực kỳ trịnh trọng không khỏi tức cười, nhưng trong bụng cũng phải khen thầm nàng mưu kế thật cao. Giả tỷ Mã phu nhân bằng lòng, Bạch trưởng lão lập tức trở thành thượng cấp của bà, có điều muốn hỏi thì dĩ nhiên phải trả lời. Còn nếu phu nhân không bằng lòng thì cũng thấy mình được Cái Bang coi trọng, thể nào cũng hân hoan trong dạ.
Mã phu nhân đáp: “Tiện thiếp có tài đức gì mà dám đảm nhiệm chức trưởng lão? Tiện thiếp làm đệ tử Cái Bang còn chưa xong, huống chi địa vị trưởng lão có thể nói là cách bậc muôn trùng.” A Châu đáp: “Ta cùng Ngô trưởng lão đã cực lực tiến cử, nghĩ rằng nếu có Mã phu nhân tham gia lo liệu thì việc bắt giết Kiều Phong dễ dàng hơn nhiều. Lại còn có một tin tức trọng đại liên quan đến việc Mã huynh đệ bị giết.” Mã phu nhân hỏi lại: “Thế ư?” Giọng nói bà ta vẫn có vẻ thờ ơ.
A Châu tiếp: “Hôm đó ta đến thành Vệ Huy điếu tang Từ trưởng lão, có gặp Triệu Tiền Tôn. Y nói với ta là y biết hung thủ sát hại Mã huynh đệ.”
Đột nhiên nghe choang một tiếng, một cái tách trà rơi xuống vỡ tan. Mã phu nhân hoảng hốt kêu lên, rồi lắp bắp nói: “Trưởng lão!… Trưởng lão đùa giỡn gì thế?” Thanh âm ra chiều phẫn nộ, nhưng cũng có mấy phần kinh hoàng. A Châu đáp: “Đây là một việc trọng đại, làm sao ta dám nói đùa? Chính miệng Triệu Tiền Tôn nói cho ta nghe, y biết rõ hung thủ giết Mã Đại Nguyên huynh đệ. Theo y thì hung thủ không phải là Kiều Phong, cũng chẳng phải Cô Tô Mộ Dung.”
Mã phu nhân run run hỏi: “Làm sao y biết? Làm sao y biết? Trưởng lão chỉ nói hồ đồ, có khác gì thấy quỉ giữa ban ngày?” A Châu đáp: “Phu nhân đừng nóng ruột, ta sẽ từ từ nói cho biết. Gã Triệu Tiền Tôn kia nói rằng Trung thu năm ngoái…” Nàng nói chưa dứt câu, Mã phu nhân đã rú lên một tiếng, ngất xỉu ngay tại chỗ. A Châu hốt hoảng gọi: “Phu nhân! Phu nhân!” Nàng lấy tay day vào nhân trung ở môi trên, Mã phu nhân dần dần tỉnh lại, u oán nói: “Sao trưởng lão… trưởng lão lại dọa tiện thiếp?” A Châu đáp: “Ta chẳng dọa phu nhân làm gì. Chính Triệu Tiền Tôn nói thế, tiếc rằng gã chết rồi, không thì ta gọi gã tới đây đối chứng. Gã kể ngày Trung thu năm ngoái, Đàm công Đàm bà đến hội họp tại nhà Thủ lĩnh đại ca, có cả hung thủ giết Mã huynh đệ cũng đến.”
Mã phu nhân thở ra một tiếng, hỏi lại: “Có thật gã nói thế không?” A Châu đáp: “Đúng thế. Ta hỏi hung thủ là ai, y bảo là không tiện nói ra. Ta đi hỏi Đàm công thì y hầm hầm nhìn ta không nói một tiếng, Đàm bà thì bảo là đúng thế, chính bà ta nói với Triệu Tiền Tôn. Ta cũng không trách Đàm công nổi cáu, chắc là y giận vợ mình chuyện gì cũng nói cho Triệu Tiền Tôn nghe. Còn Triệu Tiền Tôn không chịu nói tên hung thủ, chắc sợ liên lụy đến Đàm bà.” Mã phu nhân hỏi: “Thế thì đã sao? “ A Châu nói: “Triệu Tiền Tôn bảo là, ai cũng nghi Kiều Phong và Mộ Dung Phục giết chết Mã huynh đệ, còn hung thủ đích thực thì lại nhởn nhơ tiêu dao tự tại. Mã huynh đệ ở dưới suối vàng mà biết được, ắt càng oán hận muôn đời muôn kiếp không tan.” Mã phu nhân nói: “Đúng thế! Tiếc là Triệu Tiền Tôn lại chết rồi. Thế Đàm công, Đàm bà đã nói cho trưởng lão hay chưa?” A Châu đáp: “Họ cũng không chịu nói. Ta chỉ còn cách đi hỏi Thủ lĩnh đại ca thôi.” Mã phu nhân đáp: “Phải lắm, trưởng lão đến đấy hỏi là ra hết.” A Châu nói: “Nói ra cũng buồn cười, vị Thủ lĩnh đại ca đó là ai, nhà ở đâu, bọn ta làm sao mà biết.” Mã phu nhân nói: “Ồ, hóa ra trưởng lão cứ vòng vo nói qua nói lại, chẳng qua chỉ vì mục đích hỏi cho ra danh tính Thủ lĩnh đại ca.” A Châu nghiêm mặt đáp: “Nếu phu nhân thấy bất tiện thì không cần cho ta hay. Tự bọn ta sẽ điều tra cho minh bạch rồi đi tìm hung thủ thực sự thanh toán món nợ này.” Tiêu Phong hiểu A Châu lấy thoái làm tiến, cố làm bộ bất cần để Mã phu nhân khỏi nghi, nhưng trong lòng cô nàng chắc là nóng nảy lắm rồi.
Mã phu nhân vẫn lãnh đạm nói: “Danh tính Thủ lĩnh đại ca mà lộ ra, lọt đến tai Kiều Phong thì thể nào hắn cũng tìm đến để báo mối đại cừu sát hại song thân. Nhưng giấu ai thì giấu, chứ còn Bạch trưởng lão là chỗ thân tình, tiện thiếp giấu làm gì? Người đó chính là…”
Tiêu Phong đứng ngoài hết sức lắng tai, dường như nghe được cả tiếng tim mình đập, nhưng vẫn không thấy Mã phu nhân nói tiếp. Một lát sau mới nghe bà ta thở dài nói tiếp: “Trăng trên trời thật là tròn, thật là sáng” Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy mây đen che phủ, nghĩ thầm: “Hôm nay mới mồng hai, dẫu có trăng thì cũng đâu có tròn, bà ta nói thế là sao nhỉ?” Lại nghe A Châu nói: “Đến ngày rằm thì trăng thể nào chẳng tròn, chẳng sáng? Ôi, đau xót thay, Mã huynh đệ chẳng bao giờ còn được thấy trăng tròn nữa.” Mã phu nhân hỏi thêm: “Trưởng lão thích ăn bánh trung thu nhân mặn hay nhân ngọt?” Tiêu Phong lại càng ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Dường như tâm thần Mã phu nhân bất thường, có lẽ do Mã đại ca chết thảm.” A Châu đáp: “Bọn ăn mày chúng ta lẽ đâu còn kén chọn bánh mặn hay bánh ngọt? Mà ngày nào chưa tìm ra hung thủ để báo thù cho Mã huynh đệ, dẫu có sơn hào hải vị mà ăn cũng chẳng thấy mùi vị gì nữa.”
Mã phu nhân lại lặng yên, một lúc lâu sau mới lạnh lùng đáp: “Bạch trưởng lão hết lòng điều tra hung thủ để báo thù rửa hận cho huynh đệ, tiện thiếp cực kỳ cảm kích.” A Châu đáp: “Đó là bổn phận của bọn ta. Mấy vạn bang chúng Cái Bang chẳng ai là không nghĩ đến mối thù này.” Mã phu nhân nói: “Vị Thủ lĩnh đại ca này địa vị cực cao, thế lực cực lớn, một lời nói có thể điều động mấy vạn người. Ông ta lại rất thủy chung với bạn bè, nếu quả đã có giao tình với hung thủ, trưởng lão hỏi không được đâu.”
Tiêu Phong mừng rỡ nghĩ thầm: “Dù sao thì chuyến đi này cũng không đến nỗi vô ích. Giả tỷ Mã phu nhân không nói rõ ra, chỉ dựa vào một câu này, ta cũng có thể đoán được rồi. Trong võ lâm, liệu có mấy ai địa vị thanh thế được như vậy?”
Chàng còn đang nghĩ xem người đó là ai, đã nghe A Châu lên tiếng: “Trong võ lâm mà một lời nói có thể điều động mấy vạn người, thì trước đây chỉ có bang chủ Cái Bang. Ồ, Thiếu Lâm cũng có đệ tử khắp thiên hạ, phương trượng chưởng môn phái Thiếu Lâm mà nói ra một câu thì cũng có hàng vạn người phải nghe theo…” Mã phu nhân ngắt lời: “Trưởng lão khoan hãy suy đoán lung tung. Để tiện thiếp nói thêm một ý, người đó ở về hướng tây nam.” A Châu trầm ngâm nói: “Hướng tây nam? Hướng tây nam làm gì có người nào oai quyền như thế? Ta chẳng thấy ai cả.”
Mã phu nhân thò ngón tay chọc thủng giấy dán trên cửa sổ nghe roạc một tiếng, sát trên đầu Tiêu Phong. Bà ta lại nói tiếp: “Tiện thiếp không biết võ công, còn Bạch trưởng lão chắc là hiểu biết bao trùm thiên hạ. Ai là người giỏi nhất về công phu này?” A Châu đáp: “Hừ! Công phu dùng chỉ pháp điểm huyệt ư? Hiện thời thì Kim Cương Chỉ của phái Thiếu Lâm và Đoạt Phách chỉ của Trịnh gia ở Thường Châu tỉnh Hà Bắc là ghê gớm hơn cả.”
Tiêu Phong kêu thầm trong bụng: “Sai rồi, sai rồi. Về công phu điểm huyệt thì họ Đoàn Đại Lý là số một trong thiên hạ, mà bà ta cũng đã bảo ở hướng tây nam kia mà.” Quả nhiên nghe Mã phu nhân nói: “Bạch trưởng lão kiến văn quảng bác, sao lại không nghĩ ra chuyện này? Chắc là tại đường xa nhọc mệt, đầu óc rối mù, không nhớ đến cả môn Nhất Dương Chỉ lừng lẫy nhất thiên hạ.” Trong giọng nói xem ra có ý giễu cợt. A Châu đáp: “Dĩ nhiên ta chẳng lạ gì Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia, có điều họ xưng đế ở Đại Lý, đã lâu nay không đi lại với võ lâm Trung Nguyên. Nếu bảo vị Thủ lĩnh đại ca kia có liên hệ với họ Đoàn, xem chừng có chỗ không đúng.”
Mã phu nhân nói: “Họ Đoàn là chúa tể Đại Lý nhưng Đoàn gia không phải chỉ có một người. Người không làm vua Đại Lý vẫn thường lai vãng Trung Nguyên. Vị Thủ lĩnh đại ca chính là em ruột của đương kim hoàng đế Đại Lý, Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần.”
Tiêu Phong nghe Mã phu nhân nói đến ba chữ “Đoàn Chính Thuần” lập tức toàn thân run bắn lên. Ông ruổi rong muôn dặm, hết sức tìm kiếm mấy tháng nay mới được nghe cái tên này.
A Châu hỏi tiếp: “Vị vương gia này quyền cao chức trọng là thế, sao còn tham gia vào chuyện ân oán giang hồ làm gì?” Mã phu nhân đáp: “Chuyện ân oán giang hồ tầm thường thì dĩ nhiên Đoàn vương gia không dính dáng đến. Nhưng nếu chuyện có liên quan đến sự tồn vong của giống nòi cùng vương triều nước Đại Lý, trưởng lão nghĩ xem họ có thể nhắm mắt bỏ qua hay không?” A Châu đáp: “Nếu là chuyện quan hệ trọng đại thì đương nhiên họ phải nhúng tay vào.” Mã phu nhân nói: “Tiện thiếp có nghe Từ trưởng lão nói rằng, Đại Tống là bình phong che mặt bắc cho Đại Lý, Khất Đan một khi diệt xong Đại Tống rồi, thể nào cũng thôn tính nốt Đại Lý. Thành thử Đại Lý và Đại Tống như răng với môi, môi hở thì răng lạnh, cố nhiên Đại Lý không muốn Đại Tống diệt vong dưới tay Liêu quốc.” A Châu đáp: “Quả đúng như thế thật.”
Mã phu nhân nói: “Từ trưởng lão còn kể, năm xưa vị vương gia đó sang chơi tổng đà Cái Bang, đang uống rượu đàm luận kiếm pháp với Uông bang chủ, thì nghe tin báo võ sĩ Khất Đan đang kéo sang đoạt kinh văn của chùa Thiếu Lâm. Đoàn vương gia vì nghĩa lớn liền thống lĩnh mọi người ra Nhạn Môn Quan đón đánh, tuy là việc của Đại Tống nhưng thực ra cũng vì Đại Lý. Nghe nói vị vương gia này khi đó tuổi còn trẻ nhưng võ công cao cường, mà đối với ai cũng cực kỳ nhân nghĩa. Ở Đại Lý thì ông chỉ dưới một người mà trên muôn người, tính nết hào phóng vung tiền như rác. Bằng hữu chỉ hé miệng một câu là ông ta lập tức tặng hàng ngàn lạng bạc ngay. Trưởng lão nghĩ xem, quần hùng Trung Nguyên không đặt ông ta lên địa vị thủ lĩnh thì còn ai hơn nữa? Ông ta địa vị tôn cao, là hoàng để tương lai của Đại Lý, bọn giang hồ thảo mãng làm sao dám ra lệnh cho bậc đế vương được?”
A Châu nói: “Thì ra Thủ lĩnh đại, ca chính là Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Bao nhiêu người chết chỉ để bảo vệ cho ông ta.” Mã phu nhân đáp: “Bạch trưởng lão, chuyện cơ mật đó chở nên tiết lộ với ai. Đoàn vương gia với bản bang giao tình chẳng phải tầm thường, nếu chuyện lộ ra thì tai họa khôn lường. Mặc dù họ Đoàn Đại Lý uy chấn một góc trời nam, thế lực ghê gớm, nhưng giả tỷ gã Kiều Phong kia nuôi chí phục thù ấn nhẫn mười năm, thì Đoàn Chính Thuần không yên ổn được đâu.”
A Châu đáp: “Phu nhân nói phải lắm, ta quyết không tiết lộ với ai.” Mã phu nhân nói: “Bạch trưởng lão tuyên thệ đi, để tiện thiếp được yên tâm!” A Châu nói: “Được lắm! Bạch Thế Kính mà đem chuyện Đoàn Chính Thuần là Thủ lĩnh đại ca tiết lộ với ai thì sẽ bị thảm họa phân thây muôn đoạn, thân danh tan nát, người đời thóa mạ.” Lời thề của nàng nghe ra thật là nghiêm trọng, nhưng cực kỳ giảo quyệt, mồm năm miệng mười đổ hết lên đầu Bạch Thế Kính. Phân thây muôn đoạn đã có Bạch Thế Kính chịu, thân danh tan nát, người đời thóa mạ cũng Bạch Thế Kính hứng lấy, không liên quan gì đến A Châu.
Mã phu nhân nghe thề độc, xem chừng rất vừa lòng mà nói: “Thế là được rồi!” A Châu nói: “Nếu vậy ta phải đi Đại Lý bái kiến Trấn Nam Vương, dò hỏi xem Tết Trung Thu năm ngoái có những khách nào đến vương phủ của ông ta, là sẽ điều tra được hung thủ giết hại Mã huynh đệ. Thế nhưng trong thâm tâm ta vẫn cho là Kiều Phong. Triệu Tiền Tôn, Đàm công, Đàm bà ba người dở dở ương ương, lời nói chưa chắc đã đáng tin.”
Mã phu nhân đáp: “Hoàn toàn trông cậy vào Bạch trưởng lão điều tra hung thủ.” A Châu đáp: “Mã huynh đệ với ta tình như ruột thịt, ta thể nào cũng hết lòng hết dạ.” Mã phu nhân rầu rầu nét mặt nói: “Bạch trưởng lão tình nghĩa thâm trọng như thế, vong phu ở dưới suối vàng nếu mà biết được hẳn là cảm kích vô vàn.” A Châu đáp: “Phu nhân cố gắng bảo trọng, tại hạ xin cáo biệt.” Đoạn đứng lên đi ra. Mã phu nhân đáp lễ, nói: “Tiện thiếp thân phận góa bụa, đêm hôm không tiện tiễn chân, xin Bạch trưởng lão miễn thứ cho.” A Châu cũng đáp: “Được rồi, được rồi! Phu nhân chớ nên khách khí”.
A Châu ra đến cửa đã thấy Tiêu Phong đứng đợi, hai người nhìn nhau không nói một lời, lên đường đi ngay. Mảnh trăng non mông lung chiếu trên con đường trở về Tín Dương. Hai người sóng vai mà đi, đến hơn mười dặm Tiêu Phong mới thở phào, nói: “A Châu! Đa tạ nàng.”
A Châu gượng cười không nói gì. Tuy mặt nàng đang hóa trang thành Bạch Thế Kính đầy vết nhăn, nhưng Tiêu Phong nhìn trong khóe mắt vẫn thấy vẻ lo âu, liền hỏi: “Hôm nay việc lớn đã thành, sao nàng có vẻ không vui?”
A Châu đáp: “Thiếp nghĩ đến họ Đoàn nước Đại Lý người nhiều thế mạnh. Đại ca thân cô thế cô, qua đó tầm cừu thực là nguy hiểm vô cùng.” Tiêu Phong đáp: “À, thì ra nàng lo lắng cho ta. Nàng cứ yên tâm, ta ở trong tối, họ ở ngoài sáng, ba năm năm năm chưa báo thù được thì như Mã phu nhân nói đó, mười năm ắt phải xong. Thế nào cũng có ngày ta chặt Đoàn Chính Thuần ra mười bảy mười tám khúc vứt cho chó gặm.” Nói tới đây, chàng nghiến hai hàm răng ken két, bộc lộ tấm lòng căm phẫn đến cực điểm.
A Châu nói: “Đại ca phải hết sức cẩn thận mới được.” Tiêu Phong đáp: “Cái đó đã hẳn. Ta mất mạng còn là chuyện nhỏ, mối huyết thù của song thân không báo được mới là chuyện lớn, có chết cũng không nhắm được mắt.” Chàng chậm rãi đưa tay ra nắm lấy bàn tay A Châu, nói: “Nếu ta chết vào tay Đoàn Chính Thuần thì ai đưa nàng ra ngoài Nhạn Môn Quan hưởng thú săn bắn chăn nuôi đây?” A Châu đáp: “Ôi chao, sao thiếp vẫn băn khoăn, dường như trong vụ này có chuyện gì không ổn. Vị Mã phu nhân kia ra vẻ… ra vẻ băng thanh ngọc khiết là thế, mà sao thiếp có cảm giác vừa kinh sợ, vừa chán ghét.” Tiêu Phong mỉm cười nói: “Người đàn bà đó tinh minh tài giỏi, nàng sợ bà ta khám phá ra chuyện giả trang, nên trong lòng hồi hộp đó thôi.”
Hai người về đến khách điếm trong thành Tín Dương, Tiêu Phong lập tức gọi mười cân rượu uống một phen cho thỏa dạ, trong bụng nghĩ cách báo thù. Chàng nghĩ đến họ Đoàn Đại Lý, tự nhiên nhớ lại người em kết nghĩa kim lan là Đoàn Dự, bất giác rùng mình, cầm chén rượu ngồi ngây ra không uống nữa, sắc mặt biến đổi khác thường.
A Châu tưởng chàng phát giác ra chuyện gì, nàng đưa mắt ngó quanh chẳng thấy chi khác lạ, liền hỏi nhỏ: “Đại ca, có chuyện gì thế?” Tiêu Phong giật mình đáp: “Không… không có gì cả”, nói rồi nâng chén lên uống một hơi cạn sạch. Rượu vào đến cổ họng, bỗng dưng chàng nghẹn thở ho sù sụ, phun rượu ra ướt cả vạt áo. Tửu lượng của Tiêu Phong vô địch thiên hạ, nội công lại thâm hậu, uống rượu mà bị sặc phải phun ra là chuyện chưa từng có. A Châu không khỏi ngấm ngầm lo lắng, nhưng không dám hỏi nhiều,
Thực ra Tiêu Phong đang uống rượu bỗng nhớ đến hôm trước uống thì cùng Đoàn Dự tại thành Vô Tích, chàng sử dụng khí công thượng thừa trong phép Lục Mạch Thần Kiếm, dồn rượu chảy ra đầu ngón tay hết. Thần công như thế, Tiêu Phong biết mình không thể bì kịp. Đoàn Dự rõ ràng không biết võ công mà nội công đã ghê gớm đến thế, kẻ đại đối đầu kia là Đoàn Chính Thuần, một nhân vật rường cột nước Đại Lý, so với Đoàn Dự chắc hẳn phải ghê gớm gấp mười. Mối đại cừu giết cha mẹ không biết đến bao giờ trả được? Tiêu Phong không biết rằng Đoàn Dự hữu duyên mà được thần công, ngẫu nhiên hút nội lực người khác. Về nội lực thì chàng đã hơn phụ thân không biết bao nhiêu lần, về công phu Lục Mạch Thần Kiếm thì trên đời ngoài Đoàn Dự ra không còn người thứ hai nào sử dụng được đầy đủ. Họ Đoàn là quốc tính nước Đại Lý, chẳng khác gì họ Triệu bên Đại Tống, họ Lý bên Tây Hạ, họ Gia Luật bên nước Liêu, trong nước Đại Lý có đến hàng nghìn hàng vạn người họ Đoàn. Đoàn Dự trước nay chưa đề cập tới thân thế mình, A Châu và Tiêu Phong đều quen biết chàng rất thân, nhưng có ngờ đâu anh chàng đồ gàn đó lại là lá ngọc cành vàng?
A Châu không hiểu nỗi lòng uẩn khúc của Tiêu Phong, nhưng cũng đoán chàng đang lo nghĩ việc trả thù, liền nói: “Đại ca! Báo thù là việc lớn, không phải một sớm một chiều. Chúng ta bàn định mưu kế rồi sẽ hành động. Dù địch đông ta ít không đủ sức đánh, chẳng lẽ không biết dùng mưu trí mà đánh hay sao?”
Tiêu Phong nghe nàng nói bỗng đổi sầu làm vui, chàng biết A Châu cơ biến khôn ngoan, quả là một trợ thủ đắc lực, lập tức rót thêm một chén, uống một hơi cạn sạch, rồi nói: “Thù này không đội trời chung. Để báo mối thù giết song thân, chẳng cần để ý tới qui củ đạo nghĩa giang hồ, thủ đoạn ác độc đến đâu cũng có thể thi hành. Đúng thế, mình không đủ sức đánh, thì phải dùng mưu.”
A Châu lại tiếp: “Đại ca! Ngoại trừ huyết thù của phụ mẫu thân sinh, lại còn của dưỡng phụ dưỡng mẫu đại ca là phu phụ Kiều lão, của sư phụ đại ca là Huyền Khổ đại sư” Tiêu Phong Vỗ bàn một cái, lớn tiếng nói: “Phải đó! Oán thù chồng chất, nào chỉ có một thời đâu?”
A Châu lại nói: “Ngày trước đại ca học nghệ nơi Huyền Khổ đại sư, hẳn còn nhỏ tuổi nên chưa học hết nội công tinh diệu của phái Thiếu Lâm. Nếu không thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý chưa chắc đã lợi hại hơn Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ. Thiếp từng nghe Mộ Dung lão gia bàn luận võ công thiên hạ, nói là võ công lợi hại nhất của họ Đoàn Đại Lý không phải là Nhất Dương Chỉ mà là Lục Mạch Thần Kiếm gì gì đó.”
Tiêu Phong nhíu mày đáp: “Phải rồi! Mộ Dung tiên sinh là bậc kỳ nhân trong võ lâm, quả nhiên kiến thức hơn đời. Vừa rồi ta lo âu không phải vì Nhất Dương Chỉ mà vì Lục Mạch Thần Kiếm.”
A Châu nói: “Hôm đó Mộ Dung lão gia và Mộ Dung công tử bàn luận võ công thiên hạ, thiếp đứng hầu trà, nghe được mấy câu. Mộ Dung lão gia nói: Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, môn nào cũng có chỗ tinh diệu. Muốn khắc địch chế thắng thì chỉ một tuyệt kỹ là đủ, chẳng cần tới bảy mươi hai làm gì.” Tiêu Phong gật đầu: “Mộ Dung tiền bối luận rất đúng.”
A Châu nói tiếp: “Khi đó Mộ Dung công tử nói: Gia gia dạy chí phải. Vương cô mẫu cùng biểu muội vẫn tự khoe mình là biết võ công rộng nhất thiên hạ nhưng rộng mà không tinh phỏng có ích gì? Mộ Dung lão gia nói: Nói đến chữ tinh, không phải dễ dàng. Tuyệt học chân chính của phái Thiếu Lâm chỉ có một bộ Dịch Cân Kinh, luyện cho tinh thuần bộ kinh này thì những thế võ tầm thường đến đâu cũng biến thành kỳ diệu.”
Căn cơ vững chắc, nội công thâm hậu, thì bất luận chiêu thức tầm thường nào cũng phát huy được uy lực mãnh liệt, Tiêu Phong đã hiểu thế từ lâu. Hôm trước ở Tụ Hiền Trang độc đấu quần hùng, chàng chỉ dùng một pho Thái Tổ Trường Quyền ai cũng biết, mà các cao thủ hạng nhất thiên hạ đều phải khoanh tay bái phục. Lúc này ông nghe A Châu nhắc lại lời Mộ Dung tiên sinh, không khỏi nổi hứng uống luôn hai chén nữa, rồi nói: “Thật hợp ý ta! Thật hợp ý ta! Tiếc rằng Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, không thì Tiêu Phong thể nào cũng tìm đến bái kiến bậc kỳ nhân trong thiên hạ.”
A Châu tủm tỉm cười đáp: “Ngày Mộ Dung lão gia còn tại thế, lão gia không chịu tiếp kiến người ngoài, song đối với đại ca thì khác.” Tiêu Phong ngẩng đầu lên mỉm cười, ông biết câu “Đối với đại ca thì khác” phải hiểu là: “Đại ca là người yêu của thiếp, không phải người ngoài.” A Châu bắt gặp ánh mắt của Tiêu Phong, thẹn thùng cúi đầu, vừa bẽn lẽn vừa sung sướng.
Tiêu Phong lại uống cạn một chén nữa, hỏi: “Khi Mộ Dung lão gia qua đời, tuổi cũng chưa cao lắm, phải không?” A Châu đáp: “Mới ngoại ngũ tuần, chưa thể gọi là già.” Tiêu Phong nói: “Ồ, lão gia nội công thâm hậu, ngoại ngũ tuần chính là thời kỳ võ công tiến triển mau lẹ, không hiểu tại sao đột nhiên qua đời?” A Châu lắc đầu nói: “Lão gia bị bệnh gì mà thác, tôi tớ trong nhà chẳng ai biết. Sự tình rất nhanh, buổi sáng nghe nói bị bệnh, đến chiều đã thấy công tử khóc rống lên, báo với mọi người là lão gia đã từ trần.”
Tiêu Phong nói: “Không biết lão gia bị bệnh gì cấp tính. Đáng tiếc, đáng tiếc! Tiếc là Tiết Thần Y không ở gần, không thì giá nào cũng phải mời ông ta đến cứu mạng cho Mộ Dung tiên sinh.” Chàng và họ Mộ Dung chưa từng quen biết, chỉ nghe nói về ngôn ngữ cử chỉ của hai cha con mà sinh lòng hâm mộ, nay có A Châu lại càng cảm thấy liên quan thân thiết.
A Châu lại tiếp: “Hôm đó Mộ Dung lão gia cùng công tử đàm luận rất lâu về Dịch Cân Kinh. Lão gia nói: Ta chưa được xem bộ Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ, nhưng lấy đạo lý võ học mà suy, phái Thiếu Lâm nổi tiếng phải là vì pho Dịch Cân Kinh ấy. Bảy mươi hai tuyệt kỹ đều có chỗ lợi hại, nhưng dựa vào đó mà lãnh đạo quần hùng, đứng đầu võ lâm thiên hạ thì chưa xứng. Lão gia lại dặn dò công tử chở ỷ vào võ học tổ truyền mà coi thường đệ tử Thiếu Lâm. Trong Thiếu Lâm Tự đã có pho kinh ấy, biết đâu có vị tăng nhân thiên tư đĩnh ngộ có thể luyện thành?”
Tiêu Phong gật đầu khen phải, nghĩ thầm: “Họ Cô Tô Mộ Dung danh trùm thiên hạ, vậy mà không kiêu ngạo tự cao, quả là không dễ.”
A Châu nói: “Lão gia còn bảo, bình sinh đã đọc gần hết võ công trong thiên hạ, chỉ chưa được thấy Lục Mạch Thần Kiếm Phổ của họ Đoàn Đại Lý và Dịch Cân Kinh của phái Thiếu Lâm, quả là đáng tiếc. Đại ca, Mộ Dung lão gia đã đặt hai môn võ công này ngang nhau, vậy thì muốn đối phó với Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn phải có Dịch Cân Kinh của chùa Thiếu Lâm. Nếu như ta ăn trộm được Dịch Cân Kinh trong Bồ Đề Viện của Thiếu Lâm Tự, sau đó luyện tập vài năm, thì Lục Mạch Thần Kiếm hay Thất Mạch Quỉ Đạo gì gì đi nữa cũng chẳng có chi đáng kể.” Nàng nói đến đây, vẻ mặt trông như cười mà không phải cười.
Tiêu Phong nhảy dựng lên, nói: “Tiểu quỉ đầu! Nàng… nàng…” A Châu cười nói: “Đại ca! Thiếp lấy cắp pho kinh này định đưa về cho công tử xem, rồi đem thiêu hóa trước mộ lão gia để người được hoàn thành tâm nguyện. Bây giờ thì dĩ nhiên thiếp đưa cho đại ca.” Nói xong nàng lấy trong bọc ra một chiếc túi vải dầu, để vào tay Tiêu Phong.
Tối hôm đó chính Tiêu Phong thấy nàng hóa trang thành nhà sư Chỉ Thanh, lấy trộm một cái gói đằng sau tấm gương đồng trong Bồ Đề Viện, có biết đâu rằng đó chính là pho Dịch Cân Kinh bí truyền của phái Thiếu Lâm. A Châu bị quần hào bắt được ở Tụ Hiền Trang, mọi người nghĩ nàng là phận nữ nhi nên không lục soát trong người. Các vị cao tăng Thiếu Lâm như Huyền Tịch, Huyền Nạn cũng không thể ngờ kinh sách trong bản tự lại mất về tay cô gái này.
Tiêu Phong lắc đầu nói: “Nàng mạo hiểm cửu tử nhất sinh vào chùa Thiếu Lâm trộm kinh sách, bản ý là tặng cho Mộ Dung công tử, có lý đâu ta lại chiếm lấy?” A Châu đáp: “Đại ca nói thế là sai bét rồi.” Tiêu Phong lấy làm kỳ hỏi: “Sao lại thế?” A Châu đáp: “Bộ kinh này là tự ý thiếp đi ăn trộm chứ có phải vâng mệnh Mộ Dung Công tử đâu, thiếp thích cho ai thì cho. Vả lại sau khi đại ca xem rồi, chúng ta lại đưa tặng công tử cũng không muộn. Mối thù giết phụ mẫu chẳng đội trời chung, chỉ cốt sao trả được là hay. Dù phải dùng thủ đoạn ác độc, hèn hạ xấu xa cũng chẳng từ, huống chi là mượn xem một bộ kinh, có gì mà phải dùng dằng câu nệ?”.
Mấy câu thuyết lý của A Châu khiến Tiêu Phong khâm phục, quay sang nàng vái dài mà nói: “Hiền muội trách ta là phải. Đã làm việc lớn mà còn câu nệ tiểu tiết sao được?” A Châu dẩu môi cười, nói tiếp: “Đại ca vốn là đệ tử Thiếu Lâm, dùng võ công phải Thiếu Lâm để rửa thù cho ân sư Huyền Khổ là danh chính ngôn thuận, có gì không phải đâu nào?”
Tiêu Phong luôn mồm khen phải, vừa cảm kích vừa vui sướng, liền mở gói giấy dầu ra xem, chỉ thấy một cuốn sách mỏng giấy đã vàng ố, ngoài bìa viết những chữ ngoằn ngoèo kỳ lạ. Chàng bất giác kêu lên: “Không được rồi!”, mở thử trang đầu ra xem, thấy chữ dày chi chít, nhưng văn tự kỳ lạ, toàn là vòng tròn với móc câu, đến nửa chữ cũng không đọc được.
A Châu cũng la lên một tiếng “Ôi chao!” rồi nói: “Thì ra pho kinh này viết bằng chữ Phạn, thật là hỏng bét! Thiếp định đem về thiêu hóa trước mồ lão gia, từ lúc lấy được kinh văn vẫn chưa hề mở ra xem. Ôi, thảo nào mấy tên lừa trọc thấy võ công bí kíp bị trộm mà cứ thờ ơ không tiếc, hóa ra chẳng tên nào hiểu được kinh thư…” Nói xong nàng thở dài, cực kỳ thất vọng.
Tiêu Phong an ủi: “Việc đời có được có mất, nàng chẳng nên quá để tâm.” Chàng gói pho Dịch Cân Kinh lại, đưa trả A Châu. Nàng xua tay nói: “Đại ca cứ giữ lấy. Không lẽ giữa chúng ta còn phân biệt của chàng của thiếp nữa hay sao?” Tiêu Phong mỉm cười, cất pho kinh vào trong bọc. Chàng lại rót đầy một bát rượu toan uống, đột nhiên ngoài cửa có tiếng chân người, rồi tiếng kêu rống lên. Tiêu Phong ngạc nhiên, vội bước ra cửa, thấy trên đường có một đại hán người dính đầy máu, hai tay cầm hai chiếc búa lớn, đang múa lên loạn xạ.
Đại hán đó râu ria tua tủa, thần thái uy mãnh nhưng đôi mắt ngờ nghệch, hành động như điên cuồng, rõ ràng là đang mất trí. Tiêu Phong thấy đôi đại phủ trong tay y đúc bằng thép ròng rất nặng. Thế mà y vung lên nhẹ nhàng, công thủ đúng phép tắc, rõ ràng có phong độ danh gia. Tiêu Phong biết rất nhiều nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên nhưng không nhận ra người này là ai, nghĩ thầm: “Thủ pháp của gã này khá lắm, sao mình chưa nghe thấy tiếng tăm bao giờ?”
Đôi búa của người kia vung lên mỗi lúc một nhanh, miệng kêu rầm lên: “Mau! Mau đi bẩm báo chúa công, địch nhân đã tới rồi.” Y đứng ngay giữa đường phố đông đúc, đôi phủ sáng choang vung ngang chém dọc, khiến người đi đường đều tránh cho xa, không ai dại dột đến gần. Tiêu Phong thấy y thần sắc hoảng hốt, đường búa xem chừng đã kiệt lực nhưng vẫn cố chống chọi, miệng cứ kêu: “Các vị huynh đệ tránh ra, để mặc ta, mau mau chạy đi bẩm báo chúa công.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này trung nghĩa hết lòng vì chủ, quả là một hảo hán, nhưng tinh lực tổn hao như thế, chắc là nội thương rất nặng”. Chàng bèn đi tới trước mặt người kia nói: “Lão huynh, dừng tay một chút uống chén rượu được chăng?” Đại hán kia trừng mắt nhìn, đột nhiên kêu lớn: “Tên đại ác! Đừng hòng hại chủ nhân ta.” Y vung búa lên chém vào đầu Tiêu Phong. Người chung quanh thấy nguy hiểm, ai nấy kêu toáng cả lên. Tiêu Phong nghe thấy ba chữ “tên đại ác” cũng chột dạ: “Ta và A Châu đang đi tìm Tên Đại Ác để báo thù, hán tử này cũng gọi địch thủ là tên đại ác, nhưng chưa chắc là kẻ mình đang tìm. Thôi thì cứ cứu y trước rồi sẽ tính sau.” Ông nghĩ thế, bèn lẻn vào sát người y, giơ tay điểm vào mạng sườn.
Không ngờ thần trí gã hôn mê nhưng võ công chưa mất, chiếc búa bên phải liền xoay ngược lại, thúc cán búa vào bụng dưới Tiêu Phong. Chiêu đó vừa tinh xảo vừa bất ngờ, giả tỷ võ công Tiêu Phong không cao cường gấp bội y thì thế nào cũng bị đánh trúng. Lập tức chàng vươn tay trái ra, chộp được cán búa rồi giằng lấy. Đại hán kia gân cốt đã rũ rượi, làm sao mà gượng nổi? Toàn thân gã rung chuyển, rồi lập tức ngã nhào vào người Tiêu Phong. Xem ra gã không màng sống chết, muốn đồng qui ư tận.
Tay phải Tiêu Phong lại vươn ra ôm chặt lấy gã, rồi hơi vận kình cho gã hết cục cựa. Những người đứng ngoài thấy Tiêu Phong đã khống chế được gã điên khùng, đều reo hò ầm ĩ. Tiêu Phong ôm gã đại hán lôi xệch vào quán rượu, ấn y ngồi xuống rồi nói: “Lão huynh! Uống vài chén rượu rồi nói chuyện.” Nói xong, chàng gọi tửu bảo đem rượu đến.
Đại hán nọ giương đôi mắt điên khùng nhìn Tiêu Phong trừng trừng một hồi lâu mới hỏi: “Ngươi… ngươi là hảo nhân hay là ác nhân?” Tiêu Phong nhất thời chưa biết nói sao cho phải.
A Châu cười nói: “Ông ta dĩ nhiên là người tốt, ta cũng là người tốt. Chúng ta là bằng hữu, cùng đi đánh Tên Đại Ác.” Đại hán giương mắt nhìn nàng một hồi, lại quay sang nhìn Tiêu Phong một hồi, dường như nửa tin nửa ngờ, một lúc sau mới hỏi lại: “Đánh tên… tên đại ác ư?” A Châu nhắc lại: “Chúng ta là bằng hữu, cùng đi đánh Tên Đại Ác.”.
Người kia đột nhiên đứng phắt dậy, lớn tiếng nói: “Không Không! Tên đại ác ghê gớm lắm, mau mau đi bẩm với chúa công để người tìm đường tránh đi. Ta ở đây chặn tên đại ác lại, còn ngươi đi báo tin.” Y vừa nói vừa cầm đôi búa toan xông ra.
Tiêu Phong đưa tay ra ấn vai gã xuống, hỏi: “Này lão huynh! Tên Đại Ác chưa đến, vội gì? Chúa công của lão huynh là ai? Đang ở nơi nào?” Đại hán cứ kêu lên: “Tên đại ác kia! Mau lại đây quyết đấu ba trăm hiệp, đừng hòng gia hại chúa công ta.”
Tiêu Phong nhìn A Châu không biết phải làm thế nào, A Châu đột nhiên la to: “Chao ôi! Không xong rồi! Chúng ta phải mau đi báo với chúa công. Chúa công đang ở đâu? Chúa công đi hướng nào, chớ để cho tên đại ác biết.” Đại hán liền hùa theo: “Phải lắm, phải lắm! Ngươi mau mau đi báo tin. Chúa công đến Phương Trúc Lâm ở Tiểu Kính Hồ, ngươi… ngươi mau đi Phương Trúc Lâm ở Tiểu Kính Hồ bẩm báo chúa công. Đi đi, đi đi!” Gã giục luôn mồm cuống quít cả lên.
Tiêu Phong và A Châu còn chưa biết tính sao, bỗng nghe tên tửu bảo nói: “Đi Tiểu Kính Hồ ư? Đường khá xa đấy.” Tiêu Phong thấy quả đúng có địa danh Tiểu Kính Hồ, vội hỏi: “Ở chỗ nào? Cách đây bao xa?” Gã tửu bảo nói: “Ví như quí khách hỏi người khác thì chưa chắc đã có ai biết. May mà hỏi đúng tiểu nhân, thật là may mắn. Quê tiểu nhân chính ở ngay bên cạnh Tiểu Kính Hồ. Trên đời này thật khó mà có chuyện trùng hợp như vậy, đúng là…”
Tiêu Phong nghe tên tửu bảo mồm miệng liến thoắng, nói mãi chẳng vào chính đề liền giơ tay đập bàn một cái, quát: “Ngươi nói mau lên!” Gã tửu bảo vốn định vòi chút tiền thưởng rồi mới nói, bị Tiêu Phong nạt một cái không dám vòng vo thêm, vội đáp: “Ối chà, sao vị đại gia này nóng tính thế? Hì hì, nếu không gặp tiểu nhân thì có vội cách mấy cũng đâu có được, phải không nào?” Y định nói bông phèng mấy câu nhưng liếc thấy mặt Tiêu Phong có vẻ chẳng hiền lành gì, liền tiếp: “Tiểu Kính Hồ ở phía tây bắc. Quý khách ở quán này ra trước hết đi về hướng tây, đi được chừng bảy dặm rưỡi thì đến một khu trồng chừng mươi cây liễu, mỗi hàng bốn cây, cả thảy bốn hàng, một hàng là bốn, hai hàng là tám, ba hàng là mười hai, bốn hàng là mười sáu, cả thảy mười sáu cây liễu lớn, thì đi lên hướng bắc. Đi thêm chín dặm rưỡi nữa, thấy một chiếc cầu bằng đá xanh, phải nhớ kỹ đừng qua cầu này, nếu qua sẽ bị lạc đường. Nhưng không qua cầu thì làm thế nào qua được bên kia? Quý khách cũng phải đi qua, không đi qua chiếc cầu đá xanh ở mé tả mà phải qua cây cầu gỗ ở mé hữu. Qua chiếc cầu gỗ rồi thì có một ngã ba, một đường rẽ qua hướng tây, một đường đi lên hướng bắc, phải đi con đường hướng tây mới đúng. Đi như thế hai mươi mốt dặm rưỡi nữa thì gặp một cái hồ mặt nước sáng như gương, đó chính là Tiểu Kính Hồ. Ai cũng bảo là tổng số chừng bốn mươi dặm, thực ra chính xác chỉ có ba mươi tám dặm rưỡi, nói bốn mươi dặm là không đúng đâu.”
Tiêu Phong cố nhẫn nại ngồi nghe gã tửu bảo nói cho xong. A Châu cười bảo: “Ôi chà, vị đại ca này nói năng rành mạch quá, Một dặm đường thì một đồng tiền thưởng, đáng lẽ chúng ta lì xì đại ca bốn mươi đồng, nhưng như thế là không chính xác, chi bằng đừng cho, nhưng lại không cho không được. Tám lần một là tám, hai lần tảm là mười sáu, ba lần tám là hai mươi bốn, bốn lần tám là ba mươi hai, năm lần tám là bốn mươi, bốn mươi dặm đường trừ đi một dặm rưỡi thế là ba mươi tám dặm rưỡi, quy ra ba mươi tám đồng rưỡi.” Nàng đếm ba mươi chín đồng tiền, cầm một đồng lên khía vào lưỡi búa cho có vết, rồi bẻ ra làm đôi, đưa cho gã tửu bảo ba mươi tám đồng rưỡi.
Tiêu Phong không nhịn cười được, nghĩ thầm: “Cô tiểu a đầu này gặp cơ hội lại tinh nghịch đùa giỡn một phen”.
Đại hán kia mắt vẫn trừng trừng nhìn Tiêu Phong cùng A Châu, miệng không ngớt giục: “Mau đi báo tin, chậm là không kịp đâu. Tên đại ác ghê gớm lắm.” Tiêu Phong hỏi lại: “Thế chủ nhân của huynh đài là ai?” Đại hán kia ấp úng nói: “Chúa công ta là… là… không thể cho người ngoài biết được. Thôi ngươi đừng đi nữa” Tiêu Phong lớn tiếng hỏi: “Thế còn huynh đài họ gì?” Gã kia buột miệng đáp: “Ta họ Cổ, ối trời, ta không phải họ Cổ.”
Tiêu Phong đem lòng ngờ vực, tự hỏi: “Không lẽ tên này giở trò ma giáo, cố ý dụ mình đến Tiểu Kính Hồ chăng? Sao lại họ Cổ rồi lại không phải họ Cổ?”. Chàng nghĩ lại: “Giả tỷ như kẻ địch dụ ta tới đó thì cũng tốt, ta đang muốn đi kiếm y đây. Dù Tiểu Kính Hồ là nơi đầm rồng hang cọp chăng nữa, Tiêu mỗ phỏng có sợ gì?”. Chàng quay sang A Châu bảo: “Chúng ta đến Tiểu Kính Hồ xem có động tĩnh gì không. Nếu như chủ nhân của vị huynh đài này có ở đó, thì mình thế nào cũng kiếm được.”
Gã tửu bảo lại xen vào nói: “Chung quanh Tiểu Kính Hồ toàn là nơi hoang dã, chẳng có gì để xem cả. Hai vị nếu như muốn du sơn ngoạn thủy, ngắm phong cảnh đẹp thì nên đi đến các đình đài phủ các ở đây, có thế mới mở rộng tầm mắt…” Tiêu Phong xua tay bảo y đừng nhiều chuyện nữa, nói với đại hán kia: “Lão huynh mệt lắm rồi, hãy ở đây nghỉ ngơi. Để tại hạ thay mặt đi báo với lệnh chủ nhân là Tên Đại Ác sắp tới.”
Người kia mừng rỡ: “Đa tạ! Đa tạ ! Cổ mỗ cảm kích vô cùng. Để tại hạ ở đây ngăn cản tên đại ác.”Y nói xong đứng dậy, định cầm đôi búa lên nhưng khí lực kiệt quệ, hai tay đau đớn như dần, cầm cán búa mà không sao nhấc lên được.
Tiêu Phong nói: “Lão huynh phải nghỉ một lúc để lấy sức đã.” Chàng thanh toán tiền khách điếm xong liền cùng A Châu rảo bước đi ra, theo lời dặn của tên tửu bảo đi về hướng tây chừng bảy tám dặm, quả nhiên thấy ở bên đường có bốn hàng mỗi hàng bốn cây, cả thảy mười sáu cây dương liễu. A Châu cười nói: “Tên tửu bảo đó tuy mồm miệng liến thoắng, song cũng có cái hay. Thế này thì không thể nào nhầm được, phải không đại ca? Ồ, cái gì thế kia?” Nàng đưa tay chỉ một cây liễu, dưới gốc cây có một gã nông phu ngồi tựa lưng, chân thò xuống cái rãnh bùn bên cạnh. Cảnh tượng đó rất thông thường ở nhà quê, nhưng người nông phu đó máu me đầy mặt, vai lại vác một cây thục đồng côn sáng loáng, phân lượng không phải là nhẹ.
Tiêu Phong đi đến trước mặt gã nông phu đó, thấy y thở hổn hển, hiển nhiên đã bị nội thương khá nặng. Chàng liền hỏi: “Này đại ca! Vị bằng hữu sử búa nhờ bọn ta đến Tiểu Kính Hồ nhắn tin. Xin hỏi đây có phải là đường đi Tiểu Kính Hồ không?” Nông phu ngẩng lên hỏi lại: “Huynh đệ sử búa còn sống hay chết rồi?” Tiêu Phong đáp: “Y hao tổn nhiều khí lực, nhưng không đáng ngại.” Nông phu thở phào một cái, nói: “Tạ ơn trời đất. Xin nhị vị đi về hướng bắc, cái ơn đưa tin quyết chẳng dám quên.” Tiêu Phong nghe y nói năng lịch sự, quyết không phải hạng nhà quê tầm thường, bèn hỏi: “Tôn tính lão huynh là gì? Có phải là bạn của người sử búa chăng?” Nông phu đáp: “Tại hạ họ Phó. Xin các hạ mau mau đến Tiểu Kính Hồ, tên đại ác đã vượt qua đây rồi. Tại hạ không ngăn nổi y, nói ra thật là hổ thẹn.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này bị thương nặng không phải giả vờ. Nếu quả kẻ đối đầu thuê y để dụ ta vào rọ thì phải bỏ ra không ít tiền.” Chàng bèn hỏi: “Phó đại ca! Tên đại ác dùng khí giới gì đả thương đại ca nặng như vậy?” Nông phu đáp: “Y dùng thiết trượng.”
Tiêu Phong thấy máu tươi trên ngực y chảy ra không ngớt, vội vạch áo ra xem, thấy trên ngực có một cái lỗ sâu hoắm to bằng ngón tay. Chàng giơ tay điểm vào mấy đại huyệt chung quanh, giúp y cầm máu, bớt đau. A Châu xé áo y ra, băng bó vết thương lại.
Hán tử họ Phó nói: “Đại ân của hai vị, Phó mỗ không thể lấy lời mà cảm tạ được. Chỉ xin hai vị mau đến Tiểu Kính Hồ, đưa tin cho chủ nhân của chúng tôi.” Tiêu Phong hỏi: “Thế chủ nhân của đại ca tên là gì, tướng mạo ra sao?”
Người kia đáp: “Các hạ đến bên Tiểu Kính Hồ, sẽ thấy bên phía tây có một rừng trúc, cây trúc hình vuông. Giữa rừng có mấy gian nhà tre, xin đến bên ngoài nhà gọi to mấy tiếng: Thiên hạ đệ nhất đại ác nhân đã đến, mau mau tránh đi. Như thế là được, tốt nhất là nhị vị đừng vào trong nhà. Tên họ của chủ nhân, xin thứ lỗi Phó mỗ chưa thể nói ra.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Thiên hạ đệ nhất ác nhân ư? Không lẽ đó là Đoàn Diên Khánh, tên đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân hay sao? Hình như người này không muốn nói nhiều, ta cũng chẳng nên hỏi nữa”. Thế nhưng bây giờ chàng không còn nghi kỵ nữa, nghĩ bụng: “Nếu quả là kẻ địch dụ ta vào tròng thì mỗi câu mỗi chữ phải cho hợp tình hợp lý, không để nghi ngờ. Người này ấp a ấp úng, không dám nói thực, tuyệt không có lòng đen tối.” Chàng bèn nói: “Được rồi, xin theo lời dặn dò của các hạ.” Đại hán kia cố gượng đứng lên rồi quỳ xuống cảm ơn. Tiêu Phong nói: “Hai chúng ta tuy mới gặp nhau lần đầu mà tựa hồ quen đã lâu. Phó huynh bất tất phải đa lễ.” Chàng đỡ người kia dậy, đưa tay lên xoa mặt một cái, bỏ hết những đồ hóa trang để lộ bộ mặt thật của mình, nói: “Tại hạ là Tiêu Phong người Khất Đan, sau này có phen tái ngộ.” Không đợi hán tử trả lời, chàng nắm tay A Châu rảo bước đi ngay.
A Châu hỏi: “Chúng ta không cần cải trang nữa ư?” Tiêu Phong đáp: “Không hiểu sao, ta bỗng dưng cảm mến hán tử thô hào kia, muốn cùng y kết giao. Thành thử ta không muốn dùng bộ mặt giả để đối xử với người ta.” A Châu nói: “Được lắm! Vậy để thiếp mặc lại quần áo nữ nhân.” Nàng đi đến bên khe suối, vã nước lên rửa mặt, cởi mũ ra để lộ mái tóc mềm óng như tơ, cởi bỏ áo bào rộng khoác ngoài, bên trong là y phục phụ nữ.
Hai người đi một mạch chín dặm rưỡi, nhìn xa xa thấy một chiếc cầu xây bằng đá xanh. Đến gần thêm chút nữa đã thấy một thư sinh nằm phục ngay giữa cầu, trước mặt trải một tờ giấy, dùng đá lát cầu làm nghiên, mài một vũng mực lớn. Thư sinh tay cầm bút, viết lên tờ giấy. Tiêu Phong và A Châu rất lấy làm kỳ, ai ngờ trên một chiếc cầu ở nơi hoang dã thế này lại có một người lôi giấy mực ra viết chữ?
Hai người tiến gần lại chút nữa mới biết không phải y đang viết mà là đang vẽ cảnh vật chung quanh, chiếc cầu nhỏ trên khe suối, cây cổ thụ trên núi biếc xa xa đều có cả. Y nằm phục trên cầu, mặt quay về phía Tiêu Phong và A Châu, nhưng lạ lùng ở chỗ cảnh trong tranh cũng quay về phía hai người, thì ra mỗi nét bút đều là vẽ ngược chiều.
Tiêu Phong thì mù tịt về thư họa, còn A Châu đã trong nhà Mộ Dung công tử lâu năm, các loại bút thiếp cùng hội họa xem đã nhiều, thấy thư sinh chưa đến mức đan thanh tuyệt bút, nhưng vẽ ngược mà được như thế đã là khó rồi. Nàng đang toan tiến lên hỏi mấy câu thì Tiêu Phong đã kéo nhẹ áo, lắc đầu, đi qua chiếc cầu gỗ phía bên phải.
Thư sinh thốt nhiên hỏi: “Nhị vị trông thấy tại hạ vẽ ngược sao không để mắt đến? Chẳng lẽ cái công phu nhỏ mọn của tại hạ làm bẩn mắt nhị vị hay sao?” A Châu đáp: “Khổng Phu Tử thấy chiếu trải không ngay thì không ngồi, thịt cắt không vuông thì không ăn. Chính nhân quân tử lẽ nào lại xem vẽ ngược bao giờ?” Người kia cười ha hả, cuộn tờ giấy lại nói: “Lời cô nương quả hữu lý, xin mời qua cầu.”
Tiêu Phong đã đoán được dụng ý của y đem giấy trải trên cầu cốt để cho người khác chú ý, trước là kéo dài thời gian, sau là lấy hư làm thực, cố ý dụ người ta đi qua chiếc cầu đá. Chàng bèn nói: “Bọn tại hạ muốn đến Tiểu Kính Hồ, nếu qua cầu đá là sai đường.” Thư sinh đáp: “Qua cầu đá là đi đường vòng, xa thêm năm sáu chục dặm rồi cũng đến nơi. Nhị vị cứ lên cầu đá, chẳng sao cả.” Tiêu Phong hỏi lại: “Tại sao không đi đường thẳng mà phải đi thêm năm sáu chục dặm?” Thư sinh kia cười nói: “Dục tốc bất đạt, không lẽ hai vị không biết ư?”
A Châu cũng biết gã này cố tình kéo dài thời gian nên không lôi thôi với y nữa, bước ngay lên chiếc cầu gỗ, Tiêu Phong cũng đi theo. Hai người đi đến giữa cầu, đột nhiên dưới chân nghe lách cách mấy tiếng, ván cầu gãy đôi, cả hai tựa hồ. sắp rơi xuống sông. Tiêu Phong vươn tay trái ôm ngang lưng A Châu, chân phải điểm vào tấm ván đang rơi mượn tức nhảy vọt tới trước, bay qua tới bờ bên kia, lại tiện tay phóng ngược lại một chưởng đề phòng kẻ địch đánh lén phía sau.
Thư sinh kia cười ha hả nói: “Hảo công phu! Nhị vị vội vã đến Tiểu Kính Hồ chẳng hay có chuyện gì?” Tiêu Phong nghe giọng cười của y có vẻ sợ sệt, nghĩ thầm: “Thằng cha này mặt mày thanh nhã mà lại là đồng đảng với Tên Đại Ác.” Chàng không lý gì tới y, cứ tiếp tục cùng A Châu đi thẳng.
Được mấy trượng lại nghe thấy tiếng chân người phía sau, quay đầu nhìn lại chính là thư sinh đó đang đuổi theo. Tiêu Phong xoay hẳn người lại, sa sầm nét mặt hỏi: “Dục tốc bất đạt. Các hạ có điều chi dạy bảo?” Thư sinh đáp: “Tại hạ cũng định đến Tiểu Kính Hồ, muốn được cùng đi với nhị vị cho có bạn.” Tiêu Phong đáp: “Thế thì tốt lắm.” Nói rồi ôm vòng ngang hông A Châu, đề khí kéo nàng đi vèo vèo, lướt êm ru, chân không tung bụi. Thư sinh nọ cắm cổ chạy theo, nhưng mỗi lúc cách hai người một xa. Tiêu Phong thấy y võ công bình thường không coi vào đâu, cứ tiếp tục chạy tới, tuy phải kéo theo A Châu nhưng vẫn nhanh hơn người kia nhiều. Chỉ khoảng một bữa cơm đã không thấy bóng dáng y đâu nữa.
Qua khỏi cây cầu gỗ đường càng lúc càng hẹp, có đoạn cỏ mọc đến ngang lưng thật khó mà nhìn ra đường lối. Giả tỷ không được gã tửu bảo chỉ rành mạch rõ ràng thì không thể nào tìm được. Lại chạy thêm nửa giờ nữa thì thấy một hồ nước. Tiêu Phong đi chậm lại, đến bên cạnh thấy nước hồ trong như ngọc, mặt lặng như gương, thật không thẹn với ba chữ Tiểu Kính Hồ.
Chàng đang định đi tìm khu rừng trúc vuông, bỗng nghe bên trong bụi hoa bên cạnh có tiếng cười khúc khích, rồi một viên sỏi bắn ra. Tiêu Phong nhìn theo hướng viên sỏi, thấy bên bờ hồ có một ngư phủ đội nón lá đang ngồi đó. Cần câu của y vừa giật được một con cá xanh biếc, viên sỏi bắn trúng ngay sợi dây câu không sai một li, nghe “phựt” một tiếng dây câu đứt đôi, con cá lại rơi tõm xuống hồ.
Tiêu Phong hơi kinh ngạc nghĩ thầm: “Thủ kình người này thật là cổ quái. Dây câu vừa mềm vừa dai, nếu phóng phi đao hay tụ tiễn để cắt đứt thì chẳng nói làm gì. Nhưng dùng một viên sỏi tròn ném đứt được dây câu thì phải dùng kình lực âm nhu, hình như không có ở Trung Thổ.” Người bắn viên sỏi đó võ công chưa chắc đã cao nhưng đầy tà khí, thủ pháp rõ ràng là của bàng môn tả đạo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc y là đệ tử hay thuộc hạ của Tên Đại Ác, nghe tiếng cười dường như là một cô gái nhỏ tuổi”.
Lúc ngư phủ thấy dây câu bị viên sỏi cắt đứt, y giật mình lên tiếng hỏi: “Ai đùa cợt với Chử mỗ đấy? Xin ra mặt coi nào!” Có tiếng sột soạt, một cô gái rẽ bụi hoa bước ra, toàn thân vận quần áo màu tím, chỉ chừng mười lăm mười sáu tuổi, nhỏ hơn A Châu một chút, đôi mắt đen láy đầy vẻ tinh nghịch. Cô chợt nhìn thấy A Châu, không để ý đến ngư phủ nữa, chạy đến trước mặt nàng, nắm tay cười nói: “Tỷ tỷ xinh đẹp quá, muội thích tỷ tỷ ghê.” Cô gái phát âm nghe hơi lơ lớ, tựa như người nước ngoài học tiếng Trung Thổ.
A Châu thấy cô gái hoạt bát ngây thơ, cười nói: “Sau này muội tử lớn lên cũng xinh lắm. Tỷ cũng thích muội.” A Châu ở Cô Tô đã lâu, bây giờ nói giọng quan thoại thật là dịu dàng, nhưng cũng không chuẩn xác lắm.
Ngư phủ đang bực mình, nhưng thấy chỉ là một thiếu nữ hoạt bát dễ thương, vui tính, lửa giận bỗng tiêu tan hết. Gã nói: “Cô bé này nghịch ngợm quá. Nhưng công phu đánh đứt dây câu quả là giỏi thật.”
Cô bé nói: “Câu cá có gì thích đâu, đợi lâu chán chết đi được. Nếu ông thích ăn cá, lấy cái cần câu mà đâm có phải tiện hơn không?” Nói rồi, cô cầm lấy chiếc cần trong tay ngư phủ, thuận tay đâm xuống nước một cái rồi rút lên, đầu cần câu đã xỉa trúng một con cá. Khi cô nhấc lên nó vẫn còn giãy giụa, máu từ vết thương trên cái bụng trắng hếu nhỏ xuống ròng ròng, màu đỏ loang trên mặt nước biếc, trông thật là đẹp đẽ nhưng đầy vẻ tàn nhẫn.
Tiêu Phong thấy khi cô gái vung tay đâm xuống, tay phải thoạt đầu hơi nghiêng đi một chút, vạch thành một vòng nhỏ, rồi mới từ bên phải phất xuống dưới. Thủ pháp xảo diệu, tư thế đẹp đẽ, nhưng để ứng chiến khi lâm địch thì có phần chậm trễ. Chàng không sao đoán được cô ta ở môn phái nào.
Cô gái cứ nhấc cần câu lên lại đâm xuống, liên tiếp viên trúng sáu con cá bạc thành một chuỗi, sau đó rung tay một cái hất cả sáu con xuống dưới hồ, vẻ mặt vẫn tươi cười. Mặt ngư phủ lộ sắc không vui, nói: “Ngươi còn nhỏ tuổi mà đã hành sự tàn ác. Nếu ngươi muốn bắt cá thì không nói làm gì, nhưng đâm chết cá mà không ăn, vô cớ sát sinh thì còn đạo lý gì nữa?”
Cô gái vỗ tay reo lên: “Ta vô cớ sát sinh thì ngươi làm gì được ta nào?” Hai tay cô dùng sức định bẻ gãy chiếc cần của ngư phủ, ngờ đâu chiếc cần đó cực kỳ chắc chắn, bẻ không gãy được. Ngư phủ cười nhạt, nói: “Ngươi tưởng bẻ gãy được chiếc cần của ta ư? Đâu có dễ như thế.” Cô gái chỉ về phía sau lưng ngư phủ, hỏi: “Ai đến thế kia?” Ngư phủ quay đầu lại nhìn không thấy ai, biết là mắc mưu vội vàng xoay lại, nhưng đã chậm mất rồi. Chiếc cần của ông bị ném vụt ra ngoài mấy trượng, nghe tõm một tiếng đã chìm xuống giữa hồ, biến mất không còn tăm tích gì nữa. Gã nổi giận quát lên: “Con nhãi mất dạy này ở đâu tới đây?” Y vừa quát chộp vào vai cô gái.
Cô gái vừa cười vừa kêu lên: “Cứu mạng! Cứu mạng!” Rồi nấp sau lưng Tiêu Phong. Ngư phủ chạy vòng qua đuổi bắt, thân pháp rất mau lẹ. Chỉ trong nháy mắt, Tiêu Phong đã thấy cô gái móc đâu ra một vật không hiểu là cái gì, dường như là một mảnh vải trong suốt rất khó nhìn thấy. Ngư phủ đang nhảy xổ tới, không biết tại sao bỗng trượt chân một cái lăn ra đất, thân hình co lại thành một cục. Tiêu Phong bấy giờ mới nhìn rõ, vật mà cô gái cầm trong tay là một cái lưới đan bằng tơ cực mảnh. Sợi tơ trong suốt, nhỏ như sợi tóc nhưng chắc chắn dị thường, đụng vào vật gì liền rút lại. Ngư phủ bị mắc trong cái lưới, càng giãy giụa chiếc lưới càng thắt chặt thêm, chỉ trong giây lát y đã bị bó tròn như khúc giò không nhúc nhích được nữa.
Ngư phủ lớn tiếng quát mắng: “Con nhãi ma quỷ kia, ngươi dám giở trò yêu pháp tà thuật để bắt ta.”
Tiêu Phong ngấm ngầm kinh hãi, biết cô gái này không dùng yêu pháp tà thuật gì, nhưng chiếc lưới cá kia mới thật là yêu tà.
Ngư phủ chửi mắng om sòm không ngớt miệng. Cô gái cười nói: “Ngươi mà còn chửi nữa là ta đánh vào đít cho té đái vãi phân.” Gã giật mình, vội vàng nín bặt nhưng mặt tím lại.
Bỗng bên phía tây hồ có tiếng người nói: “Chử hiền đệ! Có chuyện gì thế?” Từ con đường nhỏ bên cạnh hồ một người thoăn thoắt đi tới. Tiêu Phong nhìn thấy người kia mặt vuông chữ quốc, tuổi ngoại tứ tuần, tướng mạo uy võ nhưng trang phục có vẻ tiêu sái nhẹ nhàng.
Người kia đến gần, thấy ngư phủ bị trôi bèn kinh ngạc hỏi: “Sao thế?” Ngư phủ đáp: “Cô bé này sử dụng yêu pháp…” Người trung niên quay sang nhìn A Châu, Cô bé kia cười nói: “Không phải tỉ tỉ đó, là ta đây.” Người trung niên.“Ủa” một tiếng, cúi xuống nhấc tấm thân to lớn của ngư phủ lên nhẹ như không, giơ tay toan tháo chiếc lưới ra, Ngờ đâu cái lưới thật là cổ quái, càng kéo mạnh thì lại càng thắt chặt vào, loay hoay cách nào cũng không gỡ ra được. Cô gái kia cười nói: “Chỉ cần y nói ba lần: Xin đầu hàng cô nương, thì ta sẽ thả y ra.” Người trung niên nói: “Ngươi đắc tội với Chử huynh đệ của ta, kết quả ra sao cô có biết không?” Cô gái lại cười: “Có thật không? Kết quả càng tệ hại thì lại càng hay”
Người kia vươn tay trái ra, chụp lấy vai cô gái. Thiếu nữ co người lại, lách qua né tránh, ngờ đâu cô ta tuy nhanh nhưng người kia lại còn nhanh hơn, hất tay theo đã nắm ngay được cô ta.
Thiếu nữ cố giật ra những bàn tay của người kia tựa hồ như dính chặt lấy vai, liền kêu lên oai oái: “Bỏ tay ra!” Cô ta vung tay lên định đánh nhưng quyền mới đưa ra chừng một thước thì cánh tay đã kiệt lực, xuôi ngay xuống. Thiếu nữ kinh hãi kêu lên: “Ngươi dùng yêu pháp tà thuật gì đó? Mau buông ta ra!” Người đàn ông mỉm cười: “Vậy cô nói ba lần: Xin đầu hàng tiên sinh, sau đó mở cái lưới cho vị huynh đệ kia, thì ta sẽ thả cô ra.” Cô gái giận dữ nói: “Ngươi đắc tội với bản cô nương, kết quả ra sao ngươi có biết không?” Người trung niên mỉm cười: “Có thật không? Kết quả càng tệ hại thì lại càng hay.”
Thiếu nữ lại hết sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được, thấy toàn thân ê ẩm, bèn cười nói: “Chỉ biết bắt chước người ta, thật là xấu hổ. Thôi được rồi, để ta nói: Xin đầu hàng tiên sinh, xin đầu hàng tiên sinh, xin đầu hàng tiên sinh.” Cô hô liền ba câu, nhưng giở trò quỷ quái gọi chữ “tiên” lơ lớ thành chữ “súc”, nghe mang máng như “Xin đầu hàng súc sinh”. Thế nhưng người trung niên kia không phát giác, buông tay khỏi vai cô gái rồi nói: “Mau mở lưới ra!” .
Cô gái cười nói: “Cái đó dễ lắm.” Rồi đi tới cạnh ngư phủ, cúi xuống vờ như tháo tấm lưới đang quấn chặt lấy ông ta, tay trái hơi đưa lên, một lằn sáng lấp lánh màu xanh biếc xẹt tới người đàn ông trung niên. A Châu kinh hoảng kêu lên, thấy thủ pháp bắn ám khí của cô ta cực kỳ độc địa, cự ly lại quá gần, xem ra thể nào cũng trúng. Thế nhưng Tiêu Phong chỉ mỉm cười. Chàng biết người đàn ông trung niên này vừa ra tay đã chế ngự ngay được cô gái hết cục cựa, hiển nhiên nội lực thâm hậu, võ công cao cường. Mũi ám khí nhỏ bé đó làm sao đả thương ông ta được? Quả nhiên người kia phất tay áo một cái, một luồng kinh lực phát ra thổi dạt đám kim lả tả rơi xuống vũng bùn bên cạnh hồ.
Người trung niên vừa nhìn thấy màu những cây kim kia, đã biết ngay có tẩm thuốc độc ghê gớm thuộc loại kiến huyết phong hầu, chạm vào máu là người chết ngay lập tức, Y tự hỏi: “Mình cùng cô bé này mới gặp nhau lần đầu, không thì không oán, sao lại hạ độc thủ đến thế?” Ông ta cực kỳ bực tức, định tâm cho con nhãi này một bài học, liền vung tay áo bên phải, tụ lực hất cô gái tung lên, nghe tõm một cái đã rơi ngay xuống dưới hồ. Sau đó ông nhún chân nhảy vọt vào một chiếc thuyền nhỏ ở dưới gốc cây liễu, cầm giầm chèo mấy cái đã đến chỗ cô gái rơi xuống, đợi cô ta trồi lên sẽ nắm tóc kéo lên thuyền.
Không ngờ cô gái chỉ kêu được một tiếng ” Ối chao!” rơi xuống hồ rồi mất tăm luôn. Thông thường người chết đuối bao giờ cũng trồi lên hụp xuống mấy lần, uống no nước rồi mới chìm hẳn không trồi lên nữa. Thế nhưng cô gái này chẳng khác gì một cục đá, rơi xuống rồi chìm nghỉm, chờ mãi không thấy nhô lên,
Người đàn ông trung niên kia càng lúc càng nóng ruột, ông vốn không có ý định đả thương, chỉ vì thấy cô ta tuổi nhỏ mà hành sự độc ác nên muốn răn dạy một phen. Nếu cô ta chết đuối thật thì quả thực y rất ân hận. Gã ngư phủ bơi lội rất giỏi, có thể nhảy xuống hồ cứu người, nhưng lại đang bị mắc trong lưới không cách nào thoát ra được. Tiêu Phong và A Châu đều không thạo thủy tính nên cũng không biết làm cách nào. Người trung niên kêu to: “A Tinh! A Tinh, ra đây mau!”
Từ trong khu rừng trúc xa xa có tiếng đàn bà truyền ra: “Chuyện gì vậy? Thiếp chẳng ra đâu.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này thanh âm trong trẻo nhưng lại có ba phần ngang ngạnh, cùng với A Châu và cô gái mới rơi xuống hồ đúng là một bộ ba.”
Người trung niên lại kêu lên: “Có người chết đuối, ra vớt mau lên!” Người đàn bà lại nói ra: “Có phải chàng chết đuối không?” Người trung niên gắt lên: “Đừng đùa nữa, nếu ta chết đuối sao lại còn nói được? Mau ra cứu người đi nào!” Người đàn bà lại nói: “Nếu chàng chết đuối thì thiếp cứu, còn như ai khác thì mặc xác, cứ đế thế cho vui.” Người trung niên hỏi gặng: “Nàng có ra hay không thì bảo?” Ông ta vừa nói vừa dậm dậm chân xuống ván thuyền, ra chiều nóng nảy. Người đàn bà lại nói: “Nếu là nam nhân thì thiếp mới cứu, còn nữ nhân thì chết đuối càng nhiều càng thích, thiếp chỉ vỗ tay reo hò, không cứu đâu.” Giọng nói mỗi lúc nghe một gần, một loáng đã ra đến bờ hồ.
Tiêu Phong và A Châu nhìn thấy một phụ nữ tuổi chừng ba mươi lăm ba mươi sáu, mặc một bộ áo chẽn màu xanh nhạt bó sát người lộ rõ chiếc eo thon. Dung nhan bà mỹ lệ, lúc nào cũng như tủm tỉm cười, đôi mắt to đen lóng lánh như ánh sao, khóe mắt cực kỳ linh hoạt, tưởng chừng chỉ một đôi mắt đã nói được muôn ngàn lời. Lúc Tiêu Phong nghe giọng nói thì tưởng nhiều lắm cũng chỉ hăm mốt hăm hai, hóa ra lại là một thiếu phụ đứng tuổi. Bộ quần áo chẽn của nàng vẫn rất chỉnh tề, chắc là khi nghe gọi đi cứu người tuy miệng thì trêu chọc, nhưng vẫn nhanh chân lẹ tay thay đổi áo quần.
Người đàn ông trung niên thấy bà ta đến thì hết sức vui mừng, kêu lên: “A Tinh! Lẹ lên! Ta lỡ tay xô một người xuống hồ, nào ngờ không thấy nổi lên nữa.” Thiếu phụ xinh đẹp nói: “Thiếp phải hỏi cho rõ đã, nam nhân thì mới cứu, còn nữ nhân thì thây kệ chàng.”
Tiêu Phong và A Châu đều cảm thấy lạ lùng, nghĩ thầm: “Giả tỷ bà ta không chịu cứu đàn ông con trai, để khỏi xảy ra chuyện đụng chạm lôi kéo dưới nước làm mất thân phận, thì là chuyện thường. Sao lại có chuyện ngược đời, chỉ cứu đàn ông không cứu đàn bà?”.
Người trung niên dậm chân, bực bội nói: “Trời ơi! Đây chỉ là cô bé chừng mười bốn… mười lăm tuổi, nàng đừng có nghĩ lẩn thẩn.” Thiếu phụ xinh đẹp đáp: “Hứ! Cô bé thì sao? Hạng nam nhân như chàng, con bé mười bốn, bà già tám chục cũng chẳng…” Nàng ta định nói “cũng chẳng tha” nhưng chợt nhìn thấy Tiêu Phong và A Châu, mặt hơi đỏ lên vội bụm miệng lại không nói hết câu, nhưng ánh mắt đầy vẻ tinh quái.
Người đàn ông trung niên đứng trên thuyền vái dài một cái, nói: “A Tinh! Nàng mau mau cứu cô ta lên, rồi nàng muốn gì ta cũng bằng lòng.” Thiếu phụ hỏi lại: “Có thật là thiếp muốn điều gì chàng cũng bằng lòng không?” Người đàn ông vội đáp: “Thật thế! Trời ơi, bây giờ mà cô bé còn chưa nổi lên, không lẽ chết thật…” Thiếu phụ lại hỏi: “Thiếp muốn chàng ở lại mãi mãi, chàng có bằng lòng không?” Người trung niên vẻ mặt sượng sùng, ấp úng nói: “Cái đó… cái đó…” Thiếu phụ nói: “Đừng nghe chàng nói, hãy nhìn chàng làm kìa. Chỉ giỏi đầu môi chót lưỡi đánh lừa người khác vui lòng trong chốc lát cho qua chuyện. Có thế mà chàng cũng không chịu.” Bà nói tới đây, đôi mắt rưng rưng, phụng phịu, pha chút nghẹn ngào.
Tiêu Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau lấy làm lạ, hai người này tuổi tác chẳng còn trẻ trung gì, mà nói năng hành động thật chẳng khác gì đôi tình nhân trẻ. Đôi này xem ra không phải vợ chồng, thế mà bà kia nói năng trước mặt người ngoài cũng chẳng cần giữ ý, trong lúc có người đang thập tử nhất sinh bà vẫn ăn nói nhấm nhẳn, chẳng gấp gáp gì.
Người trung niên thở dài một tiếng, chèo thuyền quay lại đáp: “Thôi được, chẳng cần cứu nữa. Cô bé này độc địa dùng ám khí bắn lén ta, có chết cũng đáng kiếp, Thôi, mình đi về.” Thiếu phụ xinh đep kia chưng hửng: “Sao lại không cứu nữa, thiếp phải cứu. Cô ta dùng ám khí bắn chàng ư, thế thì hay lắm. Mà sao chàng lại không chết, thật là đáng tiếc.” Bà ta cười khúc khích, nhún một cái lao luôn xuống hồ. Động tác thật là tuyệt, chỉ nghe tõm một tiếng, nước không thấy văng lên, người đã lặn xuống sâu. Tiếp đó nghe thấy tiếng nước rẽ ra, thiếu phụ thò đầu lên, hai tay nâng cô gái áo tím. Người đàn ông trung niên mừng rỡ, vội chèo thuyền lại đón.
Ông ta chèo đến gần liền giơ tay đón lấy cô gái, thấy hai mắt nhắm nghiền dường như đã tắt thở rồi, sắc mặt không khỏi lo âu. Thiếu phụ la lên: “Không được đụng vào cô ta. Chàng là con quỷ hiếu sắc, không thể tin tưởng được.” Người đàn ông làm bộ tức tối nói: “Chỉ nói bậy bạ! Trong đời ta đã bao giờ hiếu sắc đâu?” Thiếu phụ cười khúc khích, ôm cô gái nhảy vọt vào thuyền rồi nói: “Phải rồi, phải rồi! Chàng có bao giờ hiếu sắc đâu, chỉ thích hạng người xấu xí như Chung Vô Diệm thôi… Ối chao!” Bà vừa sờ vào ngực cô gái, thấy tim đã ngừng đập, mũi không còn thở nữa nhưng bụng vẫn chưa căng hiển nhiên chưa uống nhiều nước. Thiếu phụ vốn tinh thông thủy tính, vẫn tưởng rằng thời gian ngắn chưa thể chết người, ngờ đâu cô gái thân thể yếu ớt nên tắt thở rồi. Trên mặt bà không khỏi lộ vẻ ăn năn, ôm cô gái nhảy ngay lên bờ kêu rối rít: “Mau lên, mau lên! Mình phải tìm cách cứu cô ta.” Bà ta bồng cô gái chạy như bay về phía rừng trúc.
Người trung niên cũng cúi xuống ôm gã ngư phủ lên, quay sang Tiêu Phong hỏi: “Tôn tính đại danh huynh đài là gì? Không hiểu huynh đài đến đây có việc gì không?”
Tiêu Phong thấy ông ta khí độ ung dung, mắt thấy cô gái kia thảm tử nhưng vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, trong lòng ngầm kính phục liền nói: “Tại hạ vốn người Khất Đan, tên gọi Tiêu Phong, nhận lời ủy thác của hai vị bằng hữu đến đây báo một cái tin”.
Tên tuổi Kiều Phong trên giang hồ thì không ai không biết, nhưng bây giờ ông xưng tên họ thật là Tiêu Phong, lại nói trắng lai lịch người Khất Đan của mình ra. Người trung niên không biết cái tên Tiêu Phong nên vẫn thản nhiên, mà nghe đến ba chữ “người Khất Đan” cũng không lạ lùng gì, bèn hỏi: “Không hiểu vị bằng hữu nào nhắn gửi Tiêu huynh thế? Báo tin chuyện gì?” Tiêu Phong đáp: “Một người sử đôi búa, một người sử cây thục đồng côn tự xưng là họ Phó, cả hai đều bị thương…”
Người trung niên kia giật mình hỏi lại: “Hai vị đó thương thế ra sao? Hiện đang ở đâu? Tiêu huynh, hai người đó là bạn tri giao của tại hạ, xin chỉ điểm cho. Ta… ta phải đi cứu ngay mới được.” Ngư phủ đang bị trói cũng nói: “Cho thuộc hạ theo với.” Tiêu Phong thấy hai người trọng nghĩa khí, trong bụng kính phục liền nói: “Hai vị đó thương thế tuy có nặng nhưng không đến nỗi nguy đến tính mạng, đang ở thị trấn gần đây.” Người trung niên vái một cái thật sâu rồi nói: “Xin đa tạ!” Ông ta không nói nữa, tay xách ngư phủ lên, chạy về phía con đường Tiêu Phong mới tới lúc nãy.
Bỗng thiếu phụ từ trong rừng trúc gọi vọng ra: “Lại đây mau! Mau lên! Chàng xem… xem cái gì đây này.” Giọng nói ra chiều hốt hoảng lạ thường. Người trung niên dừng bước, còn đang do dự bỗng thấy một người chạy như bay từ ngoài vào, miệng kêu: “Chúa công! Có người đến sinh sự chăng?” Chính là gã thư sinh vẽ ngược trên cầu đá, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Cứ tưởng y ngăn trở ta không cho đến báo tin, hóa ra lại cùng phe với hai người sử song phủ và thục đồng côn. Chúa công của bọn họ chắc là người trung niên này.”
Khi đó gã thư sinh đã thấy Tiêu Phong và A Châu đứng cạnh người trung niên, không khỏi ngạc nhiên, đến lúc tới gần lại thấy ngư nhân bị trói chặt, vừa kinh hãi vừa tức giận hỏi: “Sao… sao thế?”
Từ trong rừng trúc, tiếng người thiếu phụ kia gọi càng thêm hoảng hốt: “Sao chàng còn chưa vào, trời ơi, thiếp… thiếp…” Người trung niên liền đáp: “Để ta vào xem chuyện gì.” Ông ta xách cả ngư phủ rảo bước đi về phía rừng trúc, bước đi nhẹ nhàng mà lại hết sức nhanh nhẹn, xem ra công lực phi phàm. Tiêu Phong đưa tay đỡ ngang hông A Châu, cũng thản nhiên đi ngang với ông ta. Người trung niên kia liếc mắt nhìn ra vẻ khâm phục.
Chỉ trong khoảnh khắc đã đến bên rừng trúc, quả nhiên những cây trúc đó thân đều hình vuông, đi thêm vài trường đã thấy ba gian nhà nhỏ cũng làm bằng tre, kiến trúc tỉ mỉ xinh xắn.
Thiếu phụ vừa nghe thấy tiếng chân người đã kêu lên: “Chàng… chàng mau lại đây mà xem, cái gì thế này?”. Trong tay bà cầm một sợi dây chuyền vàng.
Tiêu Phong nhìn thấy đó chỉ là một món trang sức tầm thường của phụ nữ, không có gì đặc biệt, hôm trước A Châu bị thương Tiêu Phong thò tay vào túi nàng tìm thuốc, cũng thấy nàng có một sợi dây tương tự như thế này. Ngờ đâu người trung niên kia vừa cầm chiếc dây chuyền, lập tức mặt biến sắc, run run hỏi: “Ở… ở đâu ra thế này?” Người đàn bà đáp: “Tháo ở cổ nó ra đấy. Trên cánh tay nó còn có cả ký hiệu thiếp vạch vào. Chàng… chàng lại mà xem.”
Người đàn ông vội vàng tiến vào trong phòng, A Châu lướt theo, còn nhanh hơn thiếu phụ một bước. Tiêu Phong cũng theo sau, vào trong thấy đây là phòng ngủ của phụ nữ, bài trí tinh nhã. Tiêu Phong không tiện nhìn kỹ, chỉ thấy cô gái áo tím kia nằm trên giường không động đậy, xem ra đã chết rồi.
Người trung niên vén tay áo cô gái lên, nhìn vào vai cô ta, rồi lập tức bỏ ngay xuống. Tiêu Phong đứng sau lưng ông ta không nhìn thấy ký hiệu gì, chỉ thấy lưng người đàn ông run lên bần bật, đủ biết y đang cảm xúc mãnh liệt.
Thiếu phụ níu áo người trung niên, vừa khóc vừa nói: “Chàng giết con rồi. Chính chàng ra tay giết chết nó! Chàng không nuôi nó lại còn giết nó! Trời ơi! Chàng thật là người cha lòng lang dạ sói…”
Tiêu Phong lạ lùng: “Cái gì thế này? Cô gái đó là con hai người này sao? À, đúng rồi, chắc là cô bé này vừa sinh ra đã đem gửi người khác nuôi, chiếc dây chuyền và ký hiệu gì đó trên vai là dấu tích cha mẹ cô ta để lại cho dễ nhận.” Đột nhiên A Châu mặt đầy nước mắt, xiêu người đi ngã xuống giường. Tiêu Phong kinh hãi, vội đưa tay ra đỡ, lúc cúi xuống thấy mi mắt cô gái nằm trên giường hơi rung rung. Đôi mắt cô ta nhắm nghiền nhưng tròng mắt chuyển động, có thể nhận ra được qua lần da mi mắt. Tiêu Phong chỉ quan tâm đến A Châu, hỏi ngay: “Sao thế?” A Châu đứng dậy lau nước mắt, gượng cười đáp: “Thiếp thấy cô bé này không may thảm tử, trong lòng đau xót.”
Tiêu Phong đưa tay ra bắt mạch cô gái, thiếu phụ lại khóc òa lên: “Tim đã ngừng đập, mũi đã tắt thở, còn cứu sao được nữa?” Chàng hơi vận nội lực dồn vào cổ tay cô gái rồi lập tức buông lỏng, thấy từ bên trong cơ thể cô ta có sức đẩy ra, hiển nhiên đang vận nội công để phòng vệ.
Tiêu Phong cười ha hả nói: “Một cô bé cứng đầu nghịch ngợm như thế này, quả thực trên đời ít thấy.” Thiếu phụ tức giận nói: “Ngươi là ai? Bước ngay! Con gái ta đã chết rồi, ngươi còn vào đây nói năng bậy bạ.” Tiêu Phong cười đáp: “Phu nhân có bằng lòng cho tại hạ cứu cô nương này sống lại không?” Chàng đưa tay điểm luôn vào eo cô gái.
Phát chỉ đó điểm trung huyệt Kinh Môn ở đầu xương sườn cụt, chàng lại dùng nội lực day đi day lại khiến cho ngứa ngáy chịu không nổi. Cô gái không chịu được, từ trên giường nhảy vọt lên, cười khanh khách, giơ tay níu vào vai Tiêu Phong.
Cô gái chết đi sống lại, trong phòng ai nấy vừa mừng rỡ, vừa ngạc nhiên. Người trung niên kia cười nói: “Hóa ra là ngươi dọa ta…” Thiếu phụ đang khóc cũng lau nước mắt, nói: “Con gái tội nghiệp của ta!” Bà giang hai tay, bước tới toan ôm lấy cô gái.
Ngờ đâu Tiêu Phong vung tay tát một phát văng cô gái ra, lại vươn tay nắm ngay cổ tay trái, cười nhạt nói: “Ranh con mà đã độc ác thế?” Thiếu phụ la lên: “Sao các hạ lại đánh con ta?” Nếu không nể mặt Tiêu Phong mới “cứu sống” con gái thì chắc bà ta đã động thủ rồi.
Tiêu Phong xoay bàn tay cô ta ra nói: “Các vị xem này!” Mọi người nhìn thấy trong kẽ tay cô gái có kẹp một mũi kim ánh xanh biếc, thoáng nhìn đã biết ngay là kịch độc. Cô ta vờ đưa tay vịn vào vai Tiêu Phong, thật ra là định đâm chiếc kim này, cũng may chàng nhanh tay lẹ mắt không trúng độc thủ, nhưng thật là nguy hiểm vô cùng.
Thiếu nữ bị tát sưng vù mặt, dĩ nhiên Tiêu Phong còn nhẹ tay chứ không thì đã vỡ đầu nát óc. Tay cô ta đã bị nắm chặt, có muốn giấu chiếc kim cũng không kịp, nửa người bên trái ê ẩm không còn hơi sức. Đột nhiên cô khóc òa lên: “Ngươi hiếp đáp ta! ngươi hiếp đáp ta!” Người trung niên kia bèn nói: “Thôi nín đi, đừng khóc nữa! Bị đánh thế là nhẹ lắm rồi. Ngươi động tí là dùng ám khí kịch độc hại người, dạy bảo cho là phải lắm.”
Cô gái vẫn khóc, nói: “Bích Lân Châm này có gì là lợi hại đâu? Ta còn nhiều loại ám khí khác chưa dùng đến.” Tiêu Phong lạnh lùng hỏi: “Sao người không dùng Vô Hình Phấn, Tiêu Dao Tán, Cực Lạc Thích, Xuyên Tâm Đinh?” Cô gái nín bặt, kinh ngạc, run run hỏi: “Sao… sao ngươi lại biết?” Tiêu Phong nói: “Ta đã biết sư phụ ngươi là Tinh Tú Lão Quái, dĩ nhiên biết rõ những loại ám khí âm độc của ngươi.”
Câu đó vừa nói ra, mọi người đều giật mình. Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu là một cao thủ tà phái trong võ lâm, là kẻ vô ác bất tác, giết người như ngóe, ai nghe tiếng cũng phải cau mày. Y chuyên sử dụng Hóa Công Đại Pháp để tiêu hủy công lực người khác, là điều đại kỵ trong võ lâm. Võ công y tuyệt cao, không ai làm gì được, nhưng cũng may lão ít khi vào Trung Nguyên nên chưa trở thành đại họa.
Người đàn ông trung niên vẻ mặt vừa thương xót, lại vừa quan tâm, ôn tồn hỏi: “A Tử! Sao con lại bái Tinh Tú Lão Quái làm thầy?” Cô gái giường đôi mắt tròn xoe, đen lay láy nhìn người trung niên, hỏi lại: “Sao ngươi lại biết được tên của ta?” Người trung niên thở dài, nói: “Chúng ta vừa nói chuyện với nhau, con không nghe gì sao?” Thiếu nữ lắc đầu, nhoẻn cười đáp: “Ta đang giả chết, tim ngừng đập, hơi ngừng thở, tai mắt đều bế tắc nên không nhìn thấy, không nghe thấy gì cả.”
Tiêu Phong buông tay cô gái ra nói: “Hừ, đó là Qui Tức Công của Tinh Tú Lão Quái.” A Tử lườm Tiêu Phong nói: “Hứ, cái gì ngươi cũng biết cả.” Cô nàng nói xong lại le lưỡi nhăn mặt trêu.
Thiếu phụ chăm chú ngắm nghía A Tử, mặt mày rạng rỡ, xem ra vui sướng không kể xiết. Người đàn ông trung niên cũng mỉm cười hỏi: “Sao con lại giả chết? Làm ta sợ hết hồn.” A Tử ra chiều đắc ý nói: “Ai bảo ngươi hất ta xuống hồ? Ngươi chẳng tử tế gì hết.” Người trung niên nhìn Tiêu Phong ra chiều bẽn lẽn, gượng cười nói: “Con nhỏ này ngang ngạnh quá!”
Tiêu Phong biết phụ tử trùng phùng, chắc phải có nhiều chuyện không muốn người ngoài nghe, bèn kéo áo A Châu đi ra rừng trúc. Chàng thấy nàng hai mắt đỏ hoe, thân hình run rẩy bèn hỏi: “A Châu, nàng không khỏe ư?” rồi đưa tay bắt mạch, thấy mạch nhảy thật nhanh đủ biết tâm thần đang xúc động mãnh liệt. A Châu lắc đầu nói: “Thiếp không sao cả” rồi lập tức tiếp ngay: “Đại ca! Chàng ra ngoài trước đi, thiếp… thiếp muốn đi tiểu tiện.” Tiêu Phong gật đầu đi ra xa.
Tiêu Phong đến bờ hồ đợi một hồi vẫn chưa thấy A Châu ra, bỗng nghe tiếng chân, có người rảo bước đi tới, trong lòng chợt động: “Phải chăng đây là Tên Đại Ác?” Chàng nhìn ra thấy ba người đi men theo đường nhỏ bên bờ hồ, trong đó hai người trên lưng có cõng người khác, còn một người thấp bé nhưng đi nhanh như bay, dường như chân không chạm đất. Y đi một quãng lại phải đứng chờ hai người kia. Hai người kia bước chân bình ổn, hiển nhiên võ công cũng khá. Họ đến gần hơn, Tiêu Phong nhìn ra hai người được cõng trên lưng chính là gã điên sử búa và đại hán họ Phó đã gặp trên đường. Người thấp bé gọi to: “Chúa công, chúa công! Tên đại ác sắp đến, chúng ta mau mau chạy đi thôi!”
Người trung niên kia một tay dắt thiếu phụ, một tay dắt A Tử từ trong rừng trúc đi ra. Hai người lớn trên mặt có ngấn nước mắt, còn A Tử thì cười hì hì, mặt nhởn nhơ như không. Kế đó A Châu cũng đi ra, đến bên cạnh Tiêu Phong.
Người trung niên buông thiếu phụ và cô gái ra, bước đến cạnh hai người bị thương đưa tay thăm mạch. Ông thấy cả hai không có gì nguy hiểm đến tính mạng, trên mặt lộ vẻ vui mừng nói: “Ba vị thật là vất vả. May mà nhị vị hiền đệ Cổ Phó không có gì đáng ngại, ta mới yên lòng.” Ba người kia khom lưng hành lễ, thần thái cực kỳ cung kính.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bọn này võ công khí độ không phải tầm thường, nếu không phải ở địa vị chúa tể một phương thì cũng phải là thủ lãnh một môn phái, sao đối với người trung niên này lại cung kính đến như vậy. Không biết lai lịch y đến thế nào.”
Hán tử thấp bé nói: “Chúa công! Hạ thần đã bố trí nghi trận bên cạnh cầu đá xanh để ngăn trở tên đại ác. Nhưng e rằng y sẽ khám phá cơ quan ngay, xin chúa công lập tức khởi giá đi nơi khác là hơn.” Người trung niên kia đáp: “Dòng họ ta chẳng may sinh ra một tên ác độc phản nghịch như thế, đã gặp y nơi đây thì có muốn tránh cũng không tránh được. Thôi đành cùng y một phen sống mái cho xong.” Một đại hán mày rậm mắt to nói: “Việc cự ác chống địch, bọn thần tử sẽ chia nhau ra đảm trách. Xin chúa công lấy xã tắc làm trọng, sớm trở về Đại Lý để hoàng thượng khỏi trông chờ.” Một người thân hình tầm thước nói: “Chúa công! Việc hôm nay không thể đem cái dũng nhất thời mà đối phó. Giả tỷ chúa công sẩy tay một tí, bọn hạ thần còn mặt mũi nào trở về Đại Lý khấu kiến hoàng thượng? Chắc phải cùng nhau tự vẫn thôi.”
Tiêu Phong nghe tới đây trong lòng hồi hộp, tự hỏi: “Họ nói những gì thần tử, chúa công, hoàng thượng, quay về Đại Lý. Không lẽ bọn này là người nhà họ Đoàn nước Đại Lý chăng?”. Tim chàng đập thình thình, nghĩ bụng: “Biết đâu lưới trời lồng lộng, hôm nay tên tặc tử Đoàn Chính Thuần lại rơi vào tay ta.”
Tiêu Phong còn đang suy nghĩ, bỗng nghe đằng xa có tiếng rống lên, rồi có tiếng loảng xoảng như kim loại chạm nhau vọng đến: “Con rùa họ Đoàn kia! Ngươi chạy không thoát đâu, mau ngoan ngoãn bó tay chịu trói. Không chừng lão gia nể mặt con người, sẽ tha mạng cho ngươi đó.”
Có tiếng một người đàn bà the thé: “Làm gì đến lượt Nhạc lão tam quyết định tha hay không tha y? Chẳng lẽ lão đại không biết đứng ra phát lạc hay sao?” Lại có một giọng lạnh lẽo nói: “Gã tiểu tử họ Đoàn kia! Nếu người biết phải quấy thì thể nào cũng dễ chịu hơn là không biết điều.” Thanh âm tên này trung khí bất túc, dường như bị thương chưa khỏi.
Tiêu Phong nghe bọn kia mở miệng ra là gọi họ Đoàn lại càng nghi thêm, đột nhiên có một bàn tay nhỏ nhắn đưa ra nắm lấy tay chàng. Tiêu Phong đưa mắt nhìn lại thì ra A Châu đứng bên cạnh mình, mặt mày trắng bệch, bàn tay lạnh ngắt đầy mồ hôi. Chàng hỏi nhỏ: “A Châu! Nàng sao thế?” A Châu run rẩy đáp: “Thiếp sợ lắm.” Tiêu Phong mỉm cười hỏi: “Nàng ở bên cạnh đại ca mà còn sợ nữa sao?” Chàng bĩu môi nhìn về phía người đàn ông trung niên, thì thầm vào tai A Châu: “Gã kia hình như là người họ Đoàn nước Đại Lý.” A Châu chỉ mấp máy môi chứ không nói gì.
***
Người đàn ông trung niên kia chính là Đoàn Chính Thuần, hoàng thái đệ nước Đại Lý. Hồi còn niên thiếu ông hay du lịch Trung Nguyên, phong lưu hoa nguyệt đi đến đâu vương tình đến đó. Thời đó những bậc phú quí thường là năm thê bảy thiếp, Đoàn Chính Thuần là một hoàng tử địa vị cao sang, đáng ra có nạp nhiều cung phi thì cũng là chuyện bình thường. Thế nhưng họ Đoàn xuất phát từ võ lâm, tuy đã xưng đến nơi Đại Lý nhưng các việc ăn uống thức ngủ vẫn tuân theo tổ huấn, không quên nguồn gốc hào kiệt Trung Nguyên. Nguyên phối của Đoàn Chính Thuần là Đao Bạch Phượng, con gái một đại thủ lãnh người Bài Di ở Vân Nam. Họ Đoàn kết thân cốt để liên kết thế lực, bảo vệ ngôi vị hoàng đế. Thời đó người Hán ở Vân Nam không nhiều, nếu không được người Bài Di ủng hộ thì ngôi vua của họ Đoàn khó mà lâu dài được. Người Bài Di vốn theo tập tục một vợ một chồng. Đao Bạch Phượng từ nhỏ vốn được tôn quí nên nhất định không cho Đoàn Chính Thuần nạp thiếp, cũng chỉ vì chuyện lang quân đi đến đâu trăng hoa đến đó, mà bà tức mình xuất gia làm một đạo cô. Đoàn Chính Thuần với mẹ của Mộc Uyển Thanh là Tần Hồng Miên, vợ của Chung Vạn Cừu là Cam Bảo Bảo, mẹ của A Tử là Nguyễn Tinh Trúc, mỗi người đều có một thiên tình sử.
Lần này Đoàn Chính Thuần phụng mệnh hoàng huynh, tới chùa Thân Giới ở châu Lục Lương tra xét xem Huyền Bi đại sư bị ám hại như thế nào. Ông thấy có nhiều điểm đáng ngờ, chưa chắc đã là Cô Tô Mộ Dung ra tay, nhưng đợi ở đó hơn nửa tháng vẫn không thấy vị cao tăng Thiếu Lâm nào đến để thương nghị. Đoàn vương gia bèn cùng Tam Công là Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch và Tứ đại hộ vệ đến Trung Nguyên điều tra hư thực thế nào, nhân tiện đến thăm Nguyễn Tinh Trúc đang ẩn cư ở Tiểu Kính Hồ. Mấy bữa nay hai người chắp lại tình xưa, vui thú chẳng khác thần tiên.
Đoàn Chính Thuần đang cùng cố nhân ôn lại tình nồng, có cả Tam công Tứ vệ chia ra bốn bề hộ giá, thì ngờ đâu đại địch thủ tìm được đến nơi. Đoàn Diên Khánh võ công lợi hại, lần lượt đả thương Cổ Đốc Thành và Phó Tư Qui, Chu Đan Thần lại tưởng Tiêu Phong là địch, ở trên cầu đá xanh ngăn lại không xong đành phải chạy về báo. Chử Vạn Lý thì lại bị cái lưới của A Tử trói lại. Còn Tư mã Phạm Hoa, Tư đồ Hoa Hách Cấn, Tư không Ba Thiên Thạch ba người cứu được Cổ, Phó xong liền quay về chung sức chống trả cường địch.
Chu Đan Thần vẫn đang cố gắng tháo Chử Vạn Lý ra, nhưng chiếc lưới này dao cắt không đứt, tay mở không xong, mồ hôi đầm đìa mà vẫn không làm gì được. Đoàn Chính Thuần quay sang nói với A Tử: “Ngươi mau thả Chử thúc thúc ra. Đại lịch sắp tới rồi, đừng nghịch ngợm nữa.” A Tử cười hỏi: “Thế gia gia thưởng cho hài nhi cái gì đây?” Đoàn Chính Thuần nhíu mày: “Ngươi không vâng lời, ta bảo mẫu thân ngươi đét vào lòng bàn tay. Ngươi mạo phạm Chử thúc thúc, còn chưa biết mau mau tạ tội?” A Tử đáp: “Gia gia vứt con xuống hồ làm con phải giả chết một hồi lâu, sao không tạ tội với con? Con kêu má mà đét vào lòng bàn tay gia gia bây giờ.”
Bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch thấy Trấn Nam Vương bỗng nhiên lại có thêm một cô con gái bướng bỉnh ngang chướng, ăn nói với phụ thân chẳng còn ra thể thống gì, ai nấy đều dè chừng nghĩ thầm: “Cô nương này không phải là con chính thất, nhưng cũng là quận chúa trong vương phủ. Nếu như ả có xúc phạm đến mình, cũng đành chịu chẳng dám làm gì, phải ráng nhịn thôi. Chử huynh đệ bị cô ta trói lâu như thế chắc là khổ sở lắm”.
Đoàn Chính Thuần giận dữ đáp: “Ngươi không nghe lời gia gia, để xem ta có còn thương ngươi nữa không?” A Tử cong cớn nói: “Trước nay gia gia có thương gì con đâu, nếu thương thì đâu có bỏ bê con mười mấy năm chẳng thèm nhìn tới?” Đoàn Chính Thuần đắng họng không biết phải nói sao, chỉ lặng lẽ thở dài. Nguyễn Tinh Trúc khuyên con: “A Tử cưng ơi, má má có cái này hay lắm. Con mau cởi trói cho Chử thúc thúc đi nào.” A Tử chìa tay ra nói: “Má má đưa con coi trước để xem có thật hay không đã.”
Tiêu Phong kính trọng Chử Vạn Lý là một trang hảo hán, đứng ngoài thấy con bé này ngang ngược hỗn láo đã bực mình, nghĩ thầm: “Ngươi là gia thần của y nên không nổi cáu được, còn ta nào phải nể nang gì?”. Chàng cúi xuống, nhấc Chử Vạn Lý lên nói: “Chử huynh! Ta xem chừng loại dây tơ này gặp nước sẽ giãn ra, để nhúng Chử huynh xuống nước thử xem.”
A Tử giận quá kêu lên: “Tên trời đánh kia! Sao cứ rắc rối xía vào chuyện người ta?” Thế nhưng cô nàng mới bị Tiêu Phong cho một bạt tai nên cũng hơi sợ, không dám ra tay ngăn cản.
Tiêu Phong xách Chử Vạn Lý đến cạnh hồ, nhúng y xuống nước. Quả nhiên cái lưới bằng tơ mềm kia liền nhũn lại, chàng đưa tay gỡ ra. Chử Vạn Lý nói khẽ: “Đa tạ Tiêu huynh giúp đỡ”. Tiêu Phong mỉm cười: “Con nhãi cứng đầu này thật là khó dạy, ta đã cho nó một cái tát để Chử huynh hả giận rồi.” Chử Vạn Lý lắc đầu ra chiều buồn bã.
Tiêu Phong cuộn chiếc lưới lại thành một cục chỉ to bằng nắm tay, thật là kỳ lạ. A Tử chạy tới chìa tay ra đòi: “Trả lại cho ta!” Tiêu Phong vung tay lên dọa đánh, A Tử sợ quá lùi luôn mấy bước. Tiêu Phong chỉ dọa cô ta thôi, nhét luôn chiếc lưới và bọc. Ông đoán chừng người trung niên kia hẳn là địch thủ của mình, A Tử là con gái y, chiếc lưới này là một món lợi hại không nên trả lại cho cô ta.
A Tử chạy đến kéo áo Đoàn Chính Thuần, kêu lên: “Gia gia! Gã kia đoạt mất tấm lưới của con rồi.”
Đoàn Chính Thuần thấy Tiêu Phong thái độ khác thường, nghĩ là ông chỉ muốn răn đe A Tử một phen, chứ người bản lĩnh như vậy lẽ nào lại tham đồ vật của trẻ con.
Đột nhiên Ba Thiên Thạch lên tiếng: “Vân huynh đến phải không? Người ta luyện võ công mỗi ngày một giỏi mà Vân huynh lại mỗi ngày một kém đi là nghĩa làm sao? Xuống ngay đi.” Nói xong gã liền phóng chưởng vào một cái cây lớn. Nghe răng rắc mấy tiếng, một cành cây bị đánh gãy rơi xuống, đồng thời một người cũng nhảy xuống theo. Người đó vừa gầy vừa cao, chính là Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc. Hôm Tụ Hiền Trang y bị Tiêu Phong đánh cho một chưởng trọng thương, tưởng đâu mất mạng. Gã chữa khỏi vết thương rồi, song công lực suy giảm rất nhiều. Trước đây ở Đại Lý y cùng Ba Thiên Thạch tỉ thí khinh công thì hơn kém không bao nhiêu, nhưng hôm nay Ba Thiên Thạch chỉ nghe tiếng bước chân đã biết khinh công của y kém trước nhiều.
Vân Trung Hạc đảo mắt trông thấy Tiêu Phong, giật mình kinh hãi, xoay lưng toan co giò chạy trốn. Từ con đường mòn bên cạnh hồ lại thêm ba người đi tới. Người bên trái đầu bù tóc rối, áo quần cũn cỡn, chính là Hung thần ác sát Nam Hải Ngạc Thần, còn bên phải là một người đàn bà bồng một đứa trẻ, chính là Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương. Người ở giữa mặc áo bào xanh, hai tay chống hai cây trượng sắt nhỏ, mặt trơ trơ như quỷ nhập tràng, chính là người đứng đầu trong Tứ Ác, tên gọi Ác quán mãn doanh Đoàn Diên Khánh.
Đoàn Diên Khánh ít khi lộ diện ở Trung Nguyên, nên Tiêu Phong không biết tên Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân này. Còn bọn Đoàn Chính Thuần đã chạm trán lão tại nước Đại Lý, biết rằng Diệp Nhị Nương cùng Nhạc Lão Tam tuy lợi hại thật nhưng không khó đối phó, đến Đoàn Diên Khánh mới thật không sao lường nổi. Y sở trường cả hai mặt chính tà, đã tinh thông Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia, lại luyện thêm công phu tà phái, chính tà ngang ngửa. Những cao thủ như Hoàng Mi Tăng còn không địch lại y, Đoàn Chính Thuần tự biết mình không phải là đối thủ.
Phạm Hoa lớn tiếng nói: “Chúa công! Tên Đoàn Diên Khánh này chẳng tử tế gì, chúa công nên lấy xã tắc làm trọng, mau mau đi mời các cao tăng của chùa Thiên Long đến đây cứu viện.” Chùa Thiên Long ở mãi tận Đại Lý, làm sao gọi cứu viện cho kịp? Chẳng qua là trước mắt chúa tôi nước Đại Lý lâm vào tình trạng thập tử nhất sinh, Phạm Hoa xin Đoàn Chính Thuần mau mau chạy trốn về Đại Lý, đồng thời hư trương thanh thế để Đoàn Diên Khánh tưởng là các cao tăng chùa Thiên Long ở gần đây mà kiêng nể. Đoàn Diên Khánh là dòng dõi chính thống họ Đoàn Đại Lý, ắt phải biết các cao tăng chùa Thiên Long lợi hại đến thế nào,
Đoàn Chính Thuần cũng biết tình hình nguy hiểm, nhưng ông là tay võ công cao nhất trong đám người Đại Lý ở đây, nếu bỏ chạy một mình thì còn mặt mũi nào nhìn anh hùng thiên hạ? Huống chi tình nhân và con gái cũng đang ở cạnh đây, ai lại để mất mặt đến thế? Ông mỉm cười nói: “Ha ha! Thật đáng tức cười. Chuyện trong nhà của họ Đoàn Đại Lý lại phải dắt nhau đến Đại Tống mà giải quyết hay sao?”
Diệp Nhị Nương cười nói: “Đoàn Chính Thuần! Mỗi lần ta gặp ngươi lại thấy mấy ả dung nhan mỹ lệ cận kề. Ngươi thật là diễm phúc.” Đoàn Chính Thuần nhếch mép cười đáp: “Diệp Nhị Nương! Dung nhan nàng cũng mỹ lệ lắm đấy chứ!” Nam Hải Ngạc Thần cả giận nói: “Con rùa kia sao hưởng phúc đã nhiều, thế mà có thằng con không chịu bái ta làm thầy, thật không biết đẻ con. Để lão gia thiến ngươi cho xong.” Lão vừa nói vừa lấy cây ngạc chủy tiên ra, xông vào Đoàn Chính Thuần.
Tiêu Phong thấy Diệp Nhị Nương gọi người kia là Đoàn Chính Thuần mà y không phủ nhận, quả là mình đã đoán trúng. Ông quay sang nói nhỏ với A Châu: “Đúng là hắn rồi.” A Châu run run hỏi: “Đại ca định… định nhân lúc người ta nguy cấp mà hai mặt giáp công chăng?” Tiêu Phong tâm tình khích động, vừa phẫn nộ lại vừa vui mừng, đáp ngay: “Mối thù phụ mẫu thân sinh, ân sư, nghĩa phụ nghĩa mẫu, lại thêm còn vì hắn mà ta chịu oan khuất bấy lâu, thật là thù sâu tựa biển. Còn phải bàn đến nhân nghĩa đạo đức, qui củ giang hồ nữa sao?” Mấy câu đó chàng chỉ nói khẽ nhưng đầy oán độc, tưởng như chém đinh chặt sắt không bằng.
Phạm Hoa thấy Nam Hải Ngạc Thần xông tới, nói nhỏ:“Hoa đại ca, Chu hiền đệ ra hiệp công gã thất phu này. Đánh thật mau thật mạnh, kết thúc lẹ chừng nào hay chừng ấy, để bẻ nanh bẻ vuốt Tên Đại Ác trước, sau đó sẽ hợp lực để đối phó với chính hắn.” Hoa Hách Cấn và Chu Đan Thần vâng lời bước ra. Hai người biết rằng lấy hai địch một thật là mất mặt, huống chi một mình Hoa Hách Cấn cũng không kém gì Nam Hải Ngạc Thần, chẳng cần ai giúp. Nhưng Phạm Hoa nói rất có lý, Đoàn Diên Khánh ghê gớm quá, lấy một đánh một thì bất luận là ai cũng không địch nổi, chỉ có cách tất cả ùa lên một lượt mới có cơ sống sót. Hoa Hách Cấn lập tức cầm cương sạn, Chu Đan Thần rung động thiết bút, chia ra đánh vào hai bên tả hữu Nam Hải Ngạc Thần.
Phạm Hoa lại tiếp: “Ba huynh đệ đến gặp gỡ ông bạn già, ta và Chử huynh đệ đối phó với con mụ kia.” Ba Thiên Thạch vâng lời tiến ra, xông vào Vân Trung Hạc. Phạm Hoa và Chử Vạn Lý cùng nhảy ra theo. Chử Vạn Lý vốn sử chiếc cần câu bằng sắt nhưng đã bị A Tử ném xuống hồ rồi, y bèn cầm cây đồng côn của Phó Tư Qui hậm hực xông lên,
Phạm Hoa lao thẳng vào Diệp Nhị Nương. Mụ thấy thân pháp của họ Phạm biết là kình địch, không dám coi thường, liền toét miệng cười ném huỵch đứa trẻ trong tay xuống đất, lúc xoay tay lại đã cầm một thanh đao vừa mỏng vừa rộng, không biết giấu sẵn ở chỗ nào.
Chử Vạn Lý la hét vang trời, lại xông thẳng vào Đoàn Diên Khánh. Phạm Hoa kinh hãi kêu lên: “Chử huynh đệ, Chử huynh đệ! Trở lại đây!” Chử Vạn Lý coi như không nghe thấy, vung cây đồng côn lên dùng hết sức quật ngang.
Đoàn Diên Khánh cười nhạt không coi vào đâu, điểm thiết trượng bên trái vào mặt y. Thế trượng đó nhẹ nhàng như không, nhưng thời khắc bộ vị không sai một mảy, tới đích trước cây đồng côn của Chử Vạn Lý. Lão hậu phát chế nhân, ra tay thật là lợi hại. Thế đó lấy công làm thủ, chỉ một chiêu đã phản khách vi chủ, Chử Vạn Lý bắt buộc phải tránh né. Ngờ đâu Chử Vạn Lý làm như không trông thấy cây trượng, đồng côn vẫn tiếp tục vụt ngang lưng địch thủ. Đoàn Diên Khánh kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ gã này điên rồi sao?”, Y không muốn cùng Chử Vạn Lý lưỡng bại câu thương, dù cây trượng có đâm chết y ngay tại chỗ nhưng lưng mình trúng một côn thể nào cũng bị thương, vội vàng điểm hữu trượng xuống đất, tung mình vọt lên tránh né.
Chử Vạn Lý liền dựng thẳng cây côn lên đâm vào bụng dưới Đoàn Diên Khánh. Cây thục đồng côn của Phó Tư Qui nặng nề, vừa dài vừa to, công phu sử dụng món binh khí này cốt ở trầm trọng ổn định. Võ công của Chử Vạn Lý lại lấy nhẹ nhàng linh hoạt làm sở trường, sử dụng đồng côn không thuận tay, huống chi lại ra tay liều lĩnh, chiêu nào cũng nhắm thẳng vào chỗ yếu hại của Đoàn Diên Khánh, việc sống chết của chính mình chẳng hề quan tâm. Người đời thường bảo “Một người liều mạng muôn người khôn địch”, Đoàn Diên Khánh võ công cao cường nhưng gặp kẻ điên khùng đánh kiểu thí mạng thế này cũng phải liên tiếp thối lui.
Đám cỏ xanh trên bờ Tiểu Kính Hồ trong chốc lát đã lấm tấm máu tươi. Thì ra Đoàn Diên Khánh tuy phải lùi nhưng vẫn liên tiếp ra chiêu, trượng nào cũng đâm trúng vào người Chử Vạn Lý thành một lỗ sâu. Thế nhưng gã này dường như không biết đau, cây đồng côn vũ lộng càng lúc càng nhanh.
Đoàn Chính Thuần kêu lên: “Chử huynh đệ lui ra, để ta đấu với tên ác đồ”. Ông đón lấy thanh kiếm trong tay Nguyễn Tinh Trúc, xông lên toan hai người đánh một mình Đoàn Diên Khánh. Chử Vạn Lý kêu lên: “Chúa công lui ra đi!” Đoàn Chính Thuần khi nào chịu nghe, vung kiếm lên đâm vào Đoàn Diên Khánh. Cây trượng bên phải của Đoàn Diên Khánh chống xuống đất, cây trượng bên trái gạt đồng côn của Chử Vạn Lý, rồi theo khe hở đâm vào giữa hai lông mày Đoàn Chính Thuần. Ông phải lạng người qua, lùi một bước.
Chử Vạn Lý gầm rống như mãnh thú bị thương, đột nhiên chuyển thế đánh, hai tay nắm một đầu côn vung tít lên thành một vòng tròn màu vàng, từ từ nhích gần tới Đoàn Diên Khánh. Lối đánh này chẳng còn ra chiêu số võ học gì nữa.
Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Chu Đạn Thần cùng lớn tiếng kêu lên: “Chử huynh đệ! Chử đại ca! Lui lại nghỉ một chút.” Chử Vạn Lý vẫn gầm lên, vung côn đập loạn vào Đoàn Diên Khánh. Lúc này cả bọn Phạm Hoa lẫn Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần thấy tình hình quái đản cũng ngưng chiến, chăm chú xem sao. Chu Đan Thần kêu lên: “Chử đại ca! Mau lui xuống!” Y xông lên toan ôm lấy Chử Vạn Lý nhưng lại bị thúc một khuỷu tay vào mặt, lập tức sưng vù lên rồi tím bầm.
Đoàn Diên Khánh cũng không muốn gặp một đối thủ liều lĩnh như thế. Lúc này y và Chử Vạn Lý đã qua lại hơn ba mươi chiêu, đâm thủng đối phương hơn chục lỗ trên người, nhưng Chử Vạn Lý vẫn gầm thét xông vào. Cả Đoàn Diên Khánh và mọi người bàng quan đều kinh hãi, thấy việc này quả thật khác thường. Chu Đan Thần biết rằng còn đánh nữa thì Chử Vạn Lý không thể nào thoát chết, bất giác dòng lệ tuôn rơi, muốn xông ra trợ chiến nhưng vừa dợm chân thì đã nghe vụt một tiếng, Chử Vạn Lý đem hết sức bình sinh phóng cây đồng côn vào kẻ địch. Thiết trượng của Đoàn Diên Khánh điểm ra thật là tinh xảo, trúng ngay giữa thân cây côn, hất nhẹ một cái bay về phía sau. Cây côn chưa rơi tới đất, mười ngón tay Chử Vạn Lý đã xòe ra nhắm thẳng vào Đoàn Diên Khánh chộp tới.
Đoàn Diên Khánh cười nhạt, nhắm giữa ngực y đâm mạnh một trượng. Đoàn Chính Thuần, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Chu Đan Thần bốn người đồng thanh kêu rú lên, toan xông vào cứu. Thế nhưng cây trượng của Đoàn Diên Khánh phóng ra nhanh quá, nghe “sột” một tiếng đã xuyên qua ngực Chử Vạn Lý từ trước ra sau. Trượng bên phải vừa rút ra thì cây trượng bên trái đã điểm xuống đất, thân hình lão đã tà tà bay ra ngoài xa mấy trượng.
Vết thương của Chử Vạn Lý vọt máu tươi ra cả trước ngực lẫn sau lưng. Y vẫn cố đuổi theo Đoàn Diên Khánh nhưng chỉ được một bước thì đã kiệt lực, quay đầu lại nói với Đoàn Chính Thuần: “Chúa công! Chử Vạn Lý thà chết không chịu nhục, đem tính mạng báo đáp ân nghĩa Đoàn gia Đại Lý.”
Đoàn Chính Thuần quì gối xuống, nước mắt lã chã: “Chử huynh đệ! Ta không biết dạy con, đến nỗi đắc tội với huynh đệ. Chính Thuần này hổ thẹn vô cùng!”
Chử Vạn Lý quay sang Chu Đan Thần gượng nở một nụ cười: “Hảo hiền đệ! Ta làm anh dĩ nhiên phải đi trước. Hiền đệ…” Y nói chưa hết câu đột nhiên ngừng lại, thì ra đã tuyệt khí chết rồi, thân hình vẫn còn đứng trơ trơ chưa chịu ngã xuống.
Mọi người nghe y lúc lâm chung nói đến “thà chết không chịu nhục”, biết rằng Chử Vạn Lý bất kể sống chết tấn công Đoàn Diên Khánh, chỉ vì bị cái nhục A Tử trói vào trong lưới, vốn đã quyết tìm cái chết rồi. Người trong võ lâm đều biết câu: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”, võ công mình thua kém người không phải là cái nhục, khổ luyện mười năm cũng có lúc báo được thù. Thế nhưng Chử Vạn Lý là gia thần của họ Đoàn, bị A Tử là con gái chủ nhân làm nhục, mãi mãi không sao rửa nhục được, thôi đành chết dưới tay ngoại địch còn hơn. Chu Đan Thần khóc òa lên. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành tuy trọng thương chưa khỏi mà cũng lăm le đứng lên thí mạng với Đoàn Diên Khánh.
Đột nhiên có một giọng thiếu nữ trong vắt nổi lên: “Gã này đúng là đồ ngốc, võ công tệ quá, toi mạng là phải rồi.” Người nói câu đó chính là A Tử.
Bọn Đoàn Chính Thuần đang đau lòng, nghe một câu ra chiều khinh bạc, ai nấy giận đến điên người. Bọn Phạm Hoa hầm hầm nhìn A Tử, có điều lại là ái nữ chúa công nên không tiện nổi khùng. Đoàn Chính Thuần tức khí xông lên, vung tay nhắm ngay mặt cô ta tát một cái. Nguyễn Tinh Trúc đưa tay ngăn cản, giận dỗi nói: “Chàng đem vứt con cho người khác mười mấy năm nay chẳng ngó ngàng gì tới, sống chết chẳng biết ra sao. Hôm nay mới được trùng phùng, chàng lại nhẫn tâm đánh nó hay sao?”
Đoàn Chính Thuần vốn dĩ cũng hổ thẹn vì đã đối xử với Nguyễn Tinh Trúc chưa hết lòng, thêm nữa, trước nay vẫn chiều chuộng nàng hết mực, Ông lại không muốn tranh chấp trước mặt người ngoài, phát chưởng sắp chạm vào tay Nguyễn Tinh Trúc bèn thu về, hầm hầm mắng A Tử: “Chử thúc thúc vì ngươi mà chết, ngươi có biết không?” A Tử nhếch mép đáp: “Bọn chúng gọi gia gia là chúa công, thì tất nhiên con là tiểu chủ nhân của chúng. Làm chết một vài tên nô bộc thì có đáng gì đâu?” Vẻ mặt cô ta tỏ ra cực kỳ khinh miệt.
Vào thời đó đạo quân thần rất nghiêm ngặt, “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Bọn Chử Vạn Lý là phận thần tử ở triều đình Đại Lý, đối với Đoàn gia cực kỳ kính trọng. Thế nhưng họ Đoàn xuất phát từ võ lâm Trung Nguyên, trước sau vẫn giữ qui củ giang hồ. Bọn Hoa Hách Cấn, Chử Vạn Lý… tuy là bầy tôi nhưng Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần vẫn coi họ như huynh đệ. Đoàn Chính Thuần thường qua lại giang hồ Trung Nguyên từ lúc còn trẻ, Chử Vạn Lý theo ông vào sinh ra tử, từng trải phong ba không biết bao nhiêu, đâu phải là một kẻ nô bộc tầm thường? Câu nói của A Tử làm bọn Phạm Hoa hết sức bất mãn. Nếu không phải ở chỗ cần nghi lễ, Bảo Định Đế đối với bọn họ vẫn thường hô huynh gọi đệ, huống chi Đoàn Chính Thuần chưa lên ngôi cửu ngũ, A Tử chẳng qua là một đứa con tư sinh, danh phận chưa rõ mà đã đối xử khinh bạc.
Đoàn Chính Thuần vừa đau lòng về cái chết của Chử Vạn Lý, lại xấu hổ với anh em vì đứa con như thế. Ông đưa trường kiếm lên thản nhiên bước ra, chỉ vào mặt Đoàn Diên Khánh mà nói: “Nếu ngươi muốn giết ta thì cứ động thủ đi. Họ Đoàn lấy nhân nghĩa trị nước, nếu tàn sát người vô tội thì dù được nước cũng chẳng bền lâu.”
Tiêu Phong cười thầm trong bụng, lẩm bẩm: “Ngươi nói thật dễ nghe quá, đến nước này còn giở trò ngụy quân tử.”
Đoàn Diên Khánh điểm cây thiết trượng xuống đất, vọt người một cái đã đến bên cạnh Đoàn Chính Thuần, nói: “Phải chăng ngươi muốn đơn đả độc đấu với ta, không liên quan đến người ngoài?” Đoàn Chính Thuần đáp: “Đúng vậy! Ngươi giết ta xong rồi hãy đến Đại Lý giết Hoàng huynh ta, xem có được như ý nguyện hay không? Thuộc hạ cùng thân thích của ta không liên quan gì đến chuyện này.” Ông biết Đoàn Diên Khánh võ công cao quá, hôm nay chắc mình mất mạng, chỉ mong y đừng làm khó Nguyễn Tinh Trúc, A Tử cùng bọn Phạm Hoa. Đoàn Diên Khánh đáp: “Thuộc hạ ngươi thì tha, thân thích ngươi thì phải giết. Năm xưa chỉ vì phụ hoàng nhân đức không giết hai anh em ngươi nên mới có cái họa soán nghịch hôm nay.”
Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: “Đoàn Chính Thuần này phải đường hoàng mà chết, không thể để người đàm tiếu”. Ông quay sang thi thể Chử Vạn Lý, chắp tay nói: “Chử huynh đệ! Hôm nay Đoàn Chính Thuần cùng huynh đệ sóng vai kháng địch.” Ông quay lại dặn Phạm Hoa: “Phạm tư mã! Sau khi ta chết hãy chôn ta ngang với Chử huynh đệ, không phân biệt chúa tôi.” Đoàn Diên Khánh cười khẩy: “Ha ha! Giả nhân giả nghĩa! Đến nước này ngươi còn cố thu phục nhân tâm, mong người ta liều chết vì ngươi nữa sao?”
Đoàn Chính Thuần không trả lời, tay trái bắt kiếm quyết, tay phải ra chiêu Kỳ Lợi Đoạn Kim, chính là chiêu mở đầu trong Đoàn gia kiếm. Đoàn Diên Khánh biết rõ biến hóa trong chiêu này, thản nhiên trả lại một trượng. Hai người xuất thủ đều sử dụng võ công tổ truyền của nhà họ Đoàn. Đoàn Diên Khánh lấy trượng thay kiếm, định bụng sẽ dùng Đoàn gia kiếm pháp để giết Đoàn Chính Thuần. Y muốn giết Đoàn Chính Thuần không phải vì thù oán riêng tư mà vì tranh đoạt ngôi vua nước Đại Lý, trước mắt có cả Tam công trong triều, nếu như y dùng công phu tà phái giết Đoàn Chính Thuần, chắc chắn quần thần Đại Lý không phục. Còn nếu y dùng bản môn công phu Đoàn gia kiếm pháp để thủ thắng, thật là danh chính ngôn thuận, không ai dị nghị được. Huynh đệ họ Đoàn tranh chấp ngôi vua không liên quan gì đến quần thần, sau này lên ngôi báu cũng tiện lợi hơn nhiều.
Đoàn Chính Thuần thấy y dùng thiết trượng sử dụng công phu bản môn, trong bụng hơi yên tâm, liền ngưng thần nín thở, bộ pháp vững vàng, kiếm chiêu nhẹ nhàng khinh khoái, chiêu nào tung ra cũng công thủ đúng phép tắc. Đoàn Diên Khánh dùng thiết trượng sử Đoàn gia kiếm pháp cũng thật tuyệt vời, chiêu số khinh linh phiêu dật không hề để mất khí tượng đế vương.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay quả là dịp may khó gặp. Ta vẫn băn khoăn không biết Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn ghê gớm đến thế nào, may sao Đoàn Chính Thuần lại có cường địch tìm đến. Đối thủ lại cùng họ với y, tuyệt kỹ của Đoàn gia đến mức độ nào, chỉ chốc lát là ta biết.”
Xem đến hai chục chiêu, cây thiết trượng trong tay Đoàn Diên Khánh dường như trầm trọng hơn, trì trệ hơn lúc đầu, mỗi khi đụng phải kiếm của Đoàn Chính Thuần, hai món binh khí dội ra càng lúc càng xa. Tiêu Phong gật gù, nghĩ bụng: “Tuyệt nghệ dần dần hiển lộ, chỉ dùng một cây thiết trượng nhẹ nhàng mảnh khảnh mà sử được như thiền trượng sáu bảy chục cân, công lực lão quả thực phi phàm”. Người võ công cao cường đều có thể “cử trọng nhược khinh”, dùng binh khí nặng một cách nhẹ nhõm, nhưng đến mức “cử khinh nhược trọng”, dùng binh khí nhẹ một cách trầm trọng thì công lực phải cao hơn một mức. Tuy nhiên, sử như nặng mà không phải nặng thật, nghĩa là phải uy mãnh như một món binh khí nặng, nhưng cũng phải giữ cái khéo léo linh hoạt của binh khí nhẹ. Tiêu Phong thấy Đoàn Diên Khánh sử dụng cây gậy nhỏ bé chẳng khác gì cương trượng, càng lúc càng như nặng thêm không biết đâu là bờ bến, phải khen thầm nội lực lão thật kinh người.
Đoàn Chính Thuần ra sức nghênh tiếp, thấy mỗi lúc thiết trượng của kẻ địch càng nặng thêm, áp lực khiến ông phải ngộp thở. Võ công họ Đoàn quan trọng nhất là nội kình, hơi thở không thông là kém thế rồi. Thế nhưng Đoàn Chính Thuần không sợ hãi chút nào, vốn đã biết mình không thắng được, tự an ủi cuộc đời hưởng phúc đã nhiều, hôm nay bỏ mạng bên Tiểu Kính Hồ cũng không uổng một kiếp người. Huống chi lại có Nguyễn Tinh Trúc xinh đẹp đứng bên cạnh nhìn mình đầy vẻ tình tứ, có chết cũng thành con quỷ phong lưu.
Ông đi đến đâu vương tình đến đó, đối với Nguyễn Tinh Trúc cũng chẳng quyến luyến gì hơn nguyên phối Đao Bạch Phượng hay những người khác. Thế nhưng tính ông ở cạnh ai cũng chân tâm đối xử, dù có phải chết vì người tình cũng không oán hận. Còn khi đã dứt áo ra đi vui vầy duyên mới rồi, thì lại là chuyện khác.
Đoàn Diên Khánh truyền nội lực vào thiết trượng mỗi lúc một nặng, hai bên qua lại hơn sáu mươi chiêu, Đoàn gia kiếm pháp đã thi triển hết rồi. Lão thấy đầu mũi Đoàn Chính Thuần đã lấm tấm mồ hôi nhưng hơi thở vẫn giữ điều hòa thong thả thì nghĩ thầm: “Ta nghe gã này là tên hiếu sắc, vô số nhân tình, vậy mà nội lực vẫn còn dai dẳng như thế. Ta không thể coi thường hắn được”. Lúc này cây thiết trượng đã phát huy nội lực đến cực độ, phát ra tiếng gió vù vù. Mỗi lần Đoàn Chính Thuần đỡ được một chiêu lại lảo đảo người một cái.
Hai người đều sử dụng những kiếm chiêu đã thuộc lòng từ hồi mười ba mười bốn tuổi, ngay như bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch coi suốt mấy chục năm cũng đã quen, thành ra trận đấu này không phải tỉ thí chiêu số, mà là tỉ thí nội lực. Bọn Phạm Hoa xem đến đây đã thấy rõ Đoàn Chính Thuần không chịu nổi, đưa mắt cho nhau, lăm lăm binh khí toan xông lên tương trợ.
Đột nhiên có tiếng thiếu nữ cười khanh khách rồi nói: “Buồn cười, thật là buồn cười! Họ Đoàn Đại Lý tự xưng anh hùng hào kiệt, vậy mà cả bọn toan xông lên lấy đông đánh ít, chẳng hóa ra tiểu nhân vô liêm sỉ hay sao?” Mấy câu đó từ miệng A Tử phát ra, thật tình mọi người không ai hiểu nổi. Người đang gặp nguy chính là phụ thân, thế mà cô ta đã không lo lắng mà còn buông lời giễu cợt chê bai.
Nguyễn Tinh Trúc giận dữ mắng con: “A Tử! Ngươi biết gì mà nói láo lếu? Cha ngươi là Trấn Nam Vương nước Đại Lý, còn địch thủ là kẻ phản nghịch của họ Đoàn. Những bằng hữu đây đều là thần tử nước Đại Lý, đều có trách nhiệm diệt quân cuồng bạo; giữ yên đất nước.” Bà ta chỉ thông thạo thủy tính, còn võ công thì bình thường, thấy tình lang gặp phải nguy cơ liền nóng ruột kêu lên: “Các vị xông vào cả đi! Đối phó với hung đồ phản nghịch còn nói gì đến qui củ giang hồ?”
A Tử cười nói: “Má má nói vậy càng đáng buồn cười! Gia gia phải là bậc anh hùng hảo hán thì con mới nhìn nhận. Nếu là hạng vô liêm sỉ, đánh nhau cần đến người tiếp sức, thì con nhìn nhận cái thứ gia gia đó làm gì?” Mấy câu đó giọng nói oang oang, ai cũng nghe rõ. Phạm Hoa và bọn Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn ai nấy bần thần, cảm thấy xông lên tương trợ thì bẽ mặt, mà đứng yên thì cũng không xong.
Đoàn Chính Thuần tuy là kẻ phong lưu đa tình, nhưng cũng thích bốn chữ “anh hùng hảo hán”. Ông vẫn thường tự nhạo mình: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan, dẫu không qua được cửa ải mỹ nhân vẫn là anh hùng. Hạng Bá Vương có Ngu Cơ, Hán Cao Tổ có Thích Cơ, Lý Thế Dân có Võ Tắc Thiên đó thì sao?”. Thành thử ông quyết không làm những việc hèn hạ tệ hại, nhút nhát khiếp nhược. Ông đang chiến đấu kịch liệt chợt nghe A Tử nói thế, lập tức lớn tiếng: “Sống hay chết, thắng hay bại phỏng có chi đáng kể? Bất cứ ai tiến lên tương trợ, là coi Đoàn Chính Thuần này chẳng ra gì.”
Ông mở miệng nói khiến nội lực gián đoạn, nhưng Đoàn Diên Khánh không thừa cơ bức bách mà lui lại một bước, chống cả song trượng dưới đất, đợi ông nói xong mới đánh tiếp. Bọn Phạm Hoa đều kinh hãi, thấy Đoàn Diên Khánh phong độ ung dung nhàn nhã, chẳng qua biết mình thắng thế nên không thèm nhân cơ hội chiếm lấy tiện nghi.
Đoàn Chính Thuần mỉm cười nói: “Ta lại xuất chiêu nữa đây.” Tay áo ông phất một cái, trường kiếm lại đâm ra.
Nguyễn Tinh Trúc nói: “A Tử! Con xem kiếm pháp gia gia lợi hại biết chừng nào, nếu quả ông ta muốn lấy mạng con quỷ nhập tràng kia thì thừa sức. Có điều cha con thân phận vương gia, nên mới giao cho thuộc hạ kết liễu hắn, không cần phải tự mình ra tay.” A Tử đáp: “Gia gia chưa chắc đã thanh toán y được. Con chỉ sợ má má mồm lim dạ sứa, ngoài miệng nói cứng mà trong bụng run như cầy sấy.” Mấy câu đó quả đúng tâm sự mẫu thân. Nguyễn Tinh Trúc hầm hầm lườm con, nghĩ thầm: “Con nhãi ranh này thực là ngu xuẩn, nói năng vô ý vô tứ.
Đột nhiên Đoàn Chính Thuần đâm ra liên tiếp ba chiêu thật nhanh, nhưng nội lực Đoàn Diên Khánh mỗi lúc một tăng, chiêu nào của ông cũng bị hất ngược lại. Chiêu thứ tư của Đoàn Chính Thuần là Kim Mã Đằng Không, trường kiếm lượn ngang qua, thiết trượng trong tay Đoàn Diên Khánh liền ra chiêu Bích Kế Báo Hiểu đón lấy, trường kiếm vừa gặp nhau lập tức dính chặt lấy. Cổ họng Đoàn Diên Khánh kêu lên ùng ục, hữu trượng điểm mạnh trên mặt đất một cái, thân hình vọt lên không, nhưng đầu tả trượng vẫn dính vào mũi kiếm của Đoàn Chính Thuần.
Tinh thế trở nên một bên hai chân bám sát xuống đất vững như núi, không chịu nhúc nhích, còn một bên toàn thân lơ lửng trên không, dật dờ vô định như cành liễu trước gió.
Người đứng chung quanh đều “Ối chà” một tiếng, biết rằng hai người đã vào giai đoạn khẩn yếu tỉ đấu nội lực. Đoàn Chính Thuần đứng dưới đất, hai chân có chỗ tựa để vận kình, như thế có lợi hơn, thế nhưng Đoàn Diên Khánh từ trên cao ép xuống, trọng lượng toàn thân dồn cả vào mũi kiếm đối phương, cũng có chỗ tiện nghi. Chỉ trong giây lát, trường kiếm từ từ cong lại biến thành hình cánh cung, còn thiết trượng vẫn thẳng băng như mũi tên.
Tiêu Phong thấy trường kiếm trong tay Đoàn Chính Thuần chỉ cong thêm chút nữa là gãy đôi, nghĩ thầm: “Tại sao cả hai vẫn chưa sử dụng tuyệt kỹ Lục Mạch Thần Kiếm? Không lẽ Đoàn Chính Thuần biết công phu của mình không bằng đối phương nên không dám phô cái vụng về ra? Nhưng xem cách y vận dụng nội lực thì hình như đã cạn vốn rồi, chẳng còn bản lĩnh nào chưa dùng đến”.
Đoàn Chính Thuần thấy trường kiếm trong tay lúc nào cũng có thể gãy đôi, vội hít một hơi dài, ngón trỏ bên trái điểm ra, chính là công phu Nhất Dương Chỉ. Công phu của ông còn chưa bằng được hoàng huynh là Đoàn Chính Minh, chỉ lực không xa quả ba thước. Trượng đang nối vào kiếm, cộng lại phải đến tám thước, phát chỉ đó không thể nào đả thương được đối phương. Ông phóng chỉ không phải nhằm vào Đoàn Diên Khánh, mà là đâm vào thiết trượng của y.
Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Xem chừng gã này không biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm, có lẽ còn kém cả nghĩa đệ ta. Chỉ pháp này chẳng qua là một môn công phu cách không điểm huyệt cao minh, có gì kỳ diệu đâu?”. Thế nhưng chỉ lực vừa đụng vào, cây trượng của Đoàn Diên Khánh rung lên, trường kiếm duỗi thẳng ra được một chút. Đoàn Chính Thuần liên tiếp điểm ra ba chỉ, trường kiếm duỗi ra được ba lần, tạm thời thẳng thắn như cũ.
A Tử lại liến thoắng nói: “Má má ơi! Gia gia đã dùng trường kiếm, lại còn phóng chỉ ra nữa, mà mới ngang sức được với một cây trượng của người ta. Giả sử đối phương sử dụng luôn cây trượng kia thì không biết gia gia làm sao mọc đủ ba tay để chống lại? Không chừng chỉ còn cách nằm xuống giơ chân đá lên, tuy khó coi cũng còn hơn để người ta đâm cho chết ngoẻo.
Nguyễn Tinh Trúc đã nghĩ đến chuyện đó, trong bụng đang lo, mà cô con gái đứng kế bên lại nói toàn những lời xúi quẩy khó nghe như chọc vào tai. Bà ta chưa kịp trả lời đã thấy hữu trượng của Đoàn Diên Khánh vung lên nghe véo một tiếng, điểm luôn vào ngón trỏ bên trái của Đoàn Chính Thuần.
Thủ pháp cùng nội lực của Đoàn Diên Khánh cũng chính là Nhất Dương Chỉ, có điều lấy trượng thay ngón tay còn lợi thế hơn. Đoàn Chính Thuần không tránh né, ngón tay đụng vào đầu trượng ê ẩm lên đến tận vai. Ông rụt tay về, đang vận nội kình chuẩn bị điểm ra tiếp, ngờ đâu cây trượng chuyển động, Đoàn Diên Khánh đã tiếp tục đâm tiếp. Đoàn Chính Thuần kinh hoàng nghĩ thầm: “Y vận nội lực nhanh đến thế, chẳng khác gì muốn sao được vậy. Công phu Nhất Dương Chỉ của lão tinh điệu phi thường, ta còn thua xa.” Ông vội vàng đâm ngón tay ra nhưng đã chậm mất một chút, thân hình lảo đảo.
Đoàn Diên Khánh thấy đánh nhau đã lâu, e rằng đêm dài lắm mộng để lâu sinh chuyện, nếu như phe địch xông cả lên thì mình lại càng hao phí hơi sức. Lão bèn vung trượng như gió cuốn, chớp mắt đã điểm luôn chín lần. Đoàn Chính Thuần hết sức chống đỡ, đến trượng thứ chín thì chân khí không liên tục nữa, nghe “sột” một tiếng, đầu trượng đã đâm vào vai. Thân hình ông lắc lư, lại nghe “cắc” một tiếng, trường kiếm bên tay phải lại gãy đôi.
Trong cổ họng Đoàn Diên Khánh phát ra một tiếng quái gở, thiết trượng bên tay phải đâm luôn vào sọ đối phương. Y sử dụng toàn lực xuất chiêu này quyết lấy mạng Đoàn Chính Thuần, tiếng gió rít vù vù.
Tam công Đại Lý là Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn thấy nguy hiểm cùng nhảy tới, chia ra hai bên tấn công Đoàn Diên Khánh. Họ muốn cứu Đoàn Chính Thuần thì không kịp nữa, chỉ còn cách vây Ngụy cứu Triệu, tấn công vào những nơi yếu hại của Đoàn Diên Khánh, ép y phải quay về tự cứu mình. Lão cũng đã tính trước chuyện đó rồi, tả trượng chống xuống đất đỡ thân mình, hữu trượng vận hết nội kình tạt ngang ra đánh giạt cả ba món binh khí, sau đó quay lại đâm vào đầu Đoàn Chính Thuần.
Nguyễn Tinh Trúc kêu lên thất thanh vội vàng nhào đến. Xem ra nếu tình lang chết ngay tại chỗ, thì nàng cũng chẳng muốn sống làm gì.
Thiết trượng của Đoàn Diên Khánh chỉ còn cách huyệt Bách Hội trên đầu Đoàn Chính Thuần chừng ba tấc, đột nhiên thân hình ông bay tạt qua một bên, phát trượng điểm vào chỗ không. Khi đó Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch lại ép cho Đoàn Diên Khánh phải thu trượng trở về. Ba Thiên Thạch động thủ chớp nhoáng, lật tay một cái nắm ngay được cổ tay Nguyễn Tinh Trúc lôi về để bà ta khỏi uổng mạng dưới tay Đoàn Diên Khánh. Lúc đó mọi người đều quay sang nhìn Đoàn Chính Thuần.
Đoàn Diên Khánh không điểm trúng đối phương, lão thấy một đại hán thò tay nắm gáy Đoàn Chính Thuần, nhẹ nhàng kéo ông ta ra trong đường tơ kẽ tóc, lực đạo đã phi thường lại vô cùng xảo diệu. Công phu đó quả thật khó lường, Đoàn Diên Khánh tuy võ nghệ tuyệt luân, mà cũng tự nghĩ mình không làm được như thế. May mà toàn bộ da thịt trên mặt lão đã bị cứng đờ, tuy hết sức kinh ngạc nhưng vẫn không biến sắc, chỉ khịt mũi một tiếng.
Người ra tay cứu Đoàn Chính Thuần chính là Tiêu Phong. Trong khi hai người họ Đoàn kịch đấu, chàng đứng bên ngoài chăm chăm quan sát. Đến khi Đoàn Chính Thuần sắp bị đối phương giết chết, chàng thấy cây trượng của Đoàn Diên Khánh mà điểm xuống thì mối huyết hải thâm cừu của mình không sao tự tay báo phục nữa. Mấy ngày qua, Tiêu Phong đã thề nguyền không biết bao nhiêu lần, dù sao cũng phải trả bằng được mối thù này. Bây giờ cừu nhân ở ngay trước mắt, lẽ nào lại để y chết về tay kẻ khác? Chàng bèn tung mình nhảy tới, túm lấy Đoàn Chính Thuần lôi vèo ra ngoài.
Đoàn Diên Khánh tâm cơ linh mẫn, không để Tiêu Phong bỏ Đoàn Chính Thuần xuống. Y vung hữu trượng như gió táp mưa sa, điểm liên tiếp vào những yếu huyệt trên người Đoàn Chính Thuần. Lão nhất quyết trừ khử vật chướng ngại trên đường lên ngôi hoàng đế, còn đối phó Tiêu Phong cách nào thì sẽ tính sau.
Tiêu Phong vẫn xách Đoàn Chính Thuần né tả tránh hữu, luôn theo những khe hở giữa hai chiêu trượng mà tránh được hết. Đoàn Diên Khánh xuất luôn hai mươi bảy chiêu mà vẫn không đụng tới chéo áo Đoàn Chính Thuần. Lão ngấm ngầm kinh hãi, biết mình không phải là địch thủ của Tiêu Phong liền hú lên một tiếng quái dị, tung người ra ngoài mấy trượng rồi hỏi: “Các hạ là ai? Sao lại xen vào việc này?”.
Tiêu Phong chưa kịp trả lời, Vân Trung Hạc đã lên tiếng: “Lão đại! Y chính là Kiều Phong, tiền nhiệm bang chủ Cái Bang. Đồ đệ của đại ca là Truy hồn trượng Đàm Thanh chết vì tên ác ôn này.” Vân Trung Hạc vừa dứt lời, không chỉ Đoàn Diên Khánh chấn động mà cả đám họ Đoàn Đại Lý cũng rùng mình. Tên tuổi Kiều Phong lừng lẫy khắp thiên hạ, Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung, trong võ lâm chẳng ai không biết. Có điều khi chàng báo danh với Đoàn Chính Thuần và Phó Tư Qui đều tự xưng là “Tiêu Phong người Khất Đan”, nên không ai biết chàng chính là Kiều Phong vang danh bốn bể. Đến bây giờ nghe Vân Trung Hạc nói thế, ai nấy đều nghĩ thầm: “Thì ra là y! Võ công tuyệt thế, giàu lòng nghĩa hiệp, quả nhiên danh bất hư truyền”.
Đoàn Diên Khánh đã nghe Vân Trung Hạc kể lại rõ ràng việc tên đệ tử đắc ý của mình là Đàm Thanh ở Tụ Hiền Trang hại người không được, lại bị Kiều Phong giết chết. Bây giờ lão nghe nói người đứng trước mặt kia là kẻ giết đệ tử mình, trong lòng vừa căm tức vừa sợ hãi, liền đưa thiết trượng ra viết lên trên nền đá xanh: “Các hạ có thù gì với ta mà đã giết đệ tử, lại đến đây làm hỏng đại sự?”
Tiếng rào rào vang lên không dứt tưởng chừng như viết lên đống cát, chữ nào cũng hằn sâu vào đá. Môn phúc ngữ của y mà đem kết hợp với nội công thượng thừa có thể làm người ta hồn phách mê man, thần trị rối loạn, là một thứ tà môn cực kỳ lợi hại. Có điều môn tà thuật này đem tâm lực khắc chế đối phương, nếu địch nhân nội lực thắng mình, thì lại bị khắc chế ngược lại. Lão đã rõ về cái chết của Đàm Thanh, lại xem thân thủ Tiêu Phong cứu Đoàn Chính Thuần, nên không dám mạo hiểm dùng thuật phúc ngữ để tự hại mình.
Tiêu Phong đợi lão viết xong, không nói một lời, tiến lên lấy gót chân di di mấy cái, xóa sạch những chữ trên nền đá. Người viết dùng thiết trượng viết trên nền đá xanh đã là khó lắm rồi, nhưng còn có thể dồn nội lực vào đầu trượng. Người xóa dùng gót chân di sạch tự tích thì đương nhiên khó khăn gấp bội. Hai người một viết một xóa, coi phiến đá xanh lót đường ven hồ chẳng khác gì bãi cát nơi bờ biển.
Đoàn Diên Khánh thấy đối phương lấy chân xóa hết chữ của mình, biết rằng ông ta một là phô trương bản lãnh, hai là tuyên bố không thù không oán, chuyện cũ bỏ qua, nếu không truy cứu thì hai bên ngừng tay. Đoàn Diên Khánh biết mình không phải đối thủ, lùi sớm đi là hơn để khỏi phải thất bại nhục nhã. Lão bèn đưa thiết trượng bên phải gạch một đường từ trên xuống dưới rồi lại móc lên một cái, một nét sổ toẹt như xóa hết mọi chuyện, sau đó điểm đầu trượng một cái, bay ngược về sau, xoay mình lặng lẽ đi mất.
Nam Hải Ngạc Thần giương cặp mắt ti hí nhìn Tiêu Phong một chặp ra chiều không phục, mắng: “Con mẹ nó, có cái quái gì đâu mà thằng chó đẻ…” Y nói chưa dứt câu, đột nhiên thân hình vọt lên trên không, rơi tõm xuống giữa hồ nước văng tung tóe, rồi chìm lỉm trong Tiểu Kính Hồ.
Thì ra Tiêu Phong giận nhất ai chửi chàng là “đồ chó đẻ”, tay trái vẫn nhấc Đoàn Chính Thuần, xông đến dùng tay phải chụp lấy Nam Hải Ngạc Thần quẳng xuống dưới nước. Chàng hạ thủ nhanh như chớp, Nam Hải Ngạc Thần không sao kháng cự được.
May mà lão sống lâu nơi Nam Hải, lại tự xưng là cá sấu thần nên bơi lội rất giỏi, hai chân đạp vào đáy hồ một cái người đã vọt lên khỏi nước, kêu lên: “Ngươi làm cách nào…” Lão mới nói một phần ba câu, thân hình lại chìm xuống dưới đáy hồ. Lão lại nhảy lên khỏi mặt nước, gào lớn: “.., ám toán lão gia…” Nói chưa hết câu lại chìm nghỉm. Đến lần thứ ba lão mới nói hết câu: “… lão gia không tha đâu.” Nam Hải Ngạc Thần tính nóng như lửa, tức quá không thể đợi đến lúc lên bờ rồi hãy mắng Tiêu Phong, nên vừa nhô lên hụp xuống vừa chửi mấy câu cho hả giận.
A Tử cười nói: “Mọi người xem kìa! Lão này trồi lên hụp xuống dưới nước, trông giống hệt một con rùa.” Vừa lúc đó Nam Hải Ngạc Thần nhảy lên khỏi mặt nước nghe thấy cô ta nói thế, liền chửi: “Ngươi mới là một con rùa…” A Tử vung tay ném ra một mũi phi chùy nghe đánh véo một tiếng.
Khi ám khí bay tới nơi, Nam Hải Ngạc Thần lại chìm mất tăm rồi. Lão bơi tới bờ hồ rồi leo lên, người ướt như chuột lột nhưng không sợ hãi cũng không xấu hổ chút nào, vác mặt đi đến trước Tiêu Phong, ngoẹo cổ giương đôi mắt ti hí nhìn chàng hỏi: “Ngươi dùng thủ pháp gì vứt ta xuống hồ thế? Công phu đó lão gia chưa biết.” Diệp Nhị Nương đứng cách bảy tám trượng kêu lên: “Lão tam đi thôi, đừng ở đây mà xấu hổ thêm.” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp: “Ta bị ném xuống hồ, mà người ta dùng thủ pháp gì cũng chưa biết, mới thật là xấu hổ. Ta phải hỏi cho minh bạch mới được.”
A Tử nghiêm nghị nói: “Được lắm! Để bản cô nương nói cho nghe. Tuyệt kỹ đó của ông ta tên là Trịch Qui Công (công phu bắt rùa).” Nam Hải Ngạc Thần nói: “Ồ, hóa ra môn đó gọi là Trịch Qui Công! Ta biết được tên công phu đó rồi, sẽ đi kiếm người dạy rồi khổ luyện một phen, sau này sẽ không bị bẽ mặt nữa.” Nói xong lão xoay người chạy đi, lúc đó Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã chạy xa rồi.
Tiêu Phong buông nhẹ Đoàn Chính Thuần xuống đất rồi lùi lại.
Nguyễn Tinh Trúc xá thật sâu, nói: “Kiều bang chủ! Bang chủ trước đã cứu con gái tôi, bây giờ lại cứu… cứu chàng, không biết lấy gì đền đáp được!” Bọn Phạm Hoa, Chu Đan Thần cũng lạy tạ cám ơn.
Tiêu Phong lạnh lùng đáp: “Tiêu Phong cứu người là vì có chuyện riêng, các vị bất tất phải cám ơn. Đoàn vương gia, ta hỏi một câu, mong tiên sinh trả lời thành thực. Năm xưa tiên sinh có một việc lầm lỗi rất đáng hổ thẹn, phải không? Tuy bản tâm tiên sinh không hẳn muốn thế, nhưng tiên sinh đã làm một đứa trẻ thơ cả đời khốn khổ, đến cha mẹ mình là ai cũng không biết, phải không?” Câu chuyện song thân chết thảm ngoài Nhạn Môn Quan, chàng càng nghĩ càng đau lòng nên không nói toạc ra trước mặt người ngoài.
Mặt Đoàn Chính Thuần lập tức đỏ bừng lên, rồi lại tái nhợt, khẽ trả lời: “Đúng thế! Mỗi khi Đoàn mỗ nghĩ đến việc này vẫn thấy trong lòng không yên. Thế nhưng tay trót đã nhúng chàm, không còn cách nào vãn hồi được nữa. Hôm nay ta được gặp lại đứa trẻ năm xưa không cha không mẹ, có điều.., có điều… ôi, ta thật là không phải.”
Tiêu Phong gay gắt nói: “Nếu ngươi biết là đã trót lầm lỗi, sao đến tận bây giờ vẫn tiếp tục làm chuyện xấu?” Đoàn Chính Thuần lắc đầu, hạ giọng nói nhỏ: “Đoàn mỗ hành sự không đoan chính, đức hạnh khiếm khuyết, những việc sai quấy trong đời kể cũng đã nhiều. Nghĩ lại càng thêm hổ thẹn.”
Từ khi Mã phu nhân ở Tín Dương tiết lộ Thủ lĩnh đại ca là Đoàn Chính Thuần, Tiêu Phong đã ngày đêm suy tính, nghĩ bụng gặp được tên này thế nào cũng lột da lóc thịt, để cho y phải điêu đứng trăm chiêu rồi mới lấy mạng. Thế nhưng đến khi gặp mặt, thấy ông ta đối bạn bè thì nhân nghĩa, đối kẻ địch thì hiên ngang, không có vẻ gì là kẻ đê tiện gian tà chuyên làm chuyện xấu. Chàng trong bụng không khỏi ngờ vực, nghĩ thầm: “Y giết cha mẹ ta ở ngoài Nhạn Môn Quan là do hiểu lầm, ai cũng có thể phạm phải những chuyện lầm lỡ hồ đồ như vậy. Thế nhưng y giết nghĩa phụ nghĩa mẫu ta là phu phụ Kiều Tam Hòe, lại ám hại ân sư Huyền Khổ đại sư là những việc ác không thể nào tha thứ được. Không lẽ bên trong còn có điều uẩn khúc hay chăng?”. Xưa nay không bao giờ Tiêu Phong hành sự cẩu thả, chàng bèn hỏi thẳng đối phương, để xem Đoàn Chính Thuần trả lời ra sao rồi mới định liệu. Đến khi thấy họ Đoàn mặt mày ngượng nghịu, đầy vẻ hối tiếc, tự nhận mình đã làm việc sai lầm, trong lòng không yên. Y còn nói hôm nay gặp lại đứa trẻ mồ côi năm trước, còn “hành sự không đoan chính, đức hạnh khiếm khuyết” nếu không phải là việc giết phu phụ Kiều Tam Hòe và Huyền Khổ đại sư thì còn là gì nữa? Tiêu Phong thấy mọi chuyện đã minh bạch, khuôn mặt sầm xuống như phủ một làn sương mỏng, hừ một tiếng.
Nguyễn Tinh Trúc bỗng xen vào: “Chàng… chàng xưa nay vẫn thế, ta… ta cũng chẳng trách cứ gì đâu.” Tiêu Phong quay sang nhìn bà ta, thấy miệng mỉm cười, mắt âu yếm nhìn Đoàn Chính Thuần, trong lòng bỗng nổi cơn lôi đình, cười mũi một tiếng nói: “Thì ra xưa nay y vẫn thế.” Chàng quay lại nói với Đoàn Chính Thuần: “Canh ba đêm nay, ta đợi các hạ ở trên cầu đá xanh, có chuyện muốn nói.”
Đoàn Chính Thuần nói: “Thể nào ta cũng đến. Đại ân của các hạ, không dám lấy lời mà cảm tạ. Có điều các hạ đường xa mệt nhọc, sao không vào tiểu xá uống mấy chén rượu tẩy trần?” Tiêu Phong hỏi lại: “Thương thế các hạ ra sao? Có cần phải điều dưỡng mấy ngày không?” Chàng bỏ ngoài tai chuyện đối phương mời vào uống rượu. Đoàn Chính Thuần cảm thấy hơi lạ lùng, nói: “Đa tạ Tiêu huynh đã quan tâm. Vết thương nhẹ đó chẳng có gì đáng ngại.”
Tiêu Phong gật đầu nói: “Thế thì hay lắm! A Châu, chúng ta đi!” Được mấy bước, bỗng chàng quay đầu lại nói với Đoàn Chính Thuần: “Những vị hảo bằng hữu của các hạ không cần đưa đi theo”. Chàng thấy bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn đều là những hảo hán một lòng trung nghĩa, nếu như cùng đi với Đoàn Chính Thuần đến cầu đá xanh, tất sẽ chết hết về tay mình, thật là đáng tiếc.
Đoàn Chính Thuần thấy người này hành sự, ăn nói có vẻ khác thường. Cái thói hoa nguyệt của ông, đến hoàng huynh biết được cũng chỉ mỉm cười. Thế mà y lại nghiêm nghị trách mắng trước mặt mọi người, thật là quá đáng. Thế nhưng ông nhớ cái ơn cứu mạng, bèn nói: “Xin theo lời dặn dò của tôn huynh.”
Tiêu Phong nắm tay A Châu, không quay về theo con đường cũ. Hai người tìm đến một nhà nông, mua gạo nấu cơm, lại mua thêm hai con gà luộc ăn cho no, tiếc rằng không có rượu nên cũng kém phần hứng thú. Chàng thấy A Châu dường như có tâm sự, từ đầu chí cuối nét mặt đăm chiêu không hề vui vẻ chuyện trò, bèn hỏi: “Ta tìm được kẻ đại thù, nàng phải vui với ta chứ?” A Châu mỉm cười nói: “Đúng thế, thiếp vui lắm.”
Tiêu Phong thấy nụ cười của nàng thật là gượng gạo, bèn nói: “Tối nay trả thù xong, chúng ta lập tức đi về phương bắc, ra ngoài Nhạn Môn Quan cưỡi ngựa săn thú, thả bộ chăn cừu, không bao giờ quay lại Trung Nguyên nữa. Ôi! A Châu, trước khi ta gặp Đoàn Chính Thuần đã từng lập thệ giết sạch nhà y không chừa con gà con chó. Thế nhưng gặp người này rồi thấy đầy nghĩa khí, ta lại nghĩ rằng ai làm nấy chịu, bất tất phải giết cả nhà y làm gì.” A Châu đáp: “Đại ca có lòng nhân như vậy thật là phúc đức, tất được báo đáp về sau.” Tiêu Phong cười rộ lên đáp: “Hai bàn tay ta đã giết vô số người rồi, còn phúc đức gì được nữa?”
Chàng thấy đôi lông mày xinh đẹp của A Châu nhíu lại ra chiều lo lắng, bèn hỏi: “A Châu! Sao nàng lại không vui? Nàng không muốn ta giết người nữa ư?” A Châu đáp: “Không phải thiếp không vui, nhưng chẳng hiểu tại sao bụng thiếp đau quá.” Tiêu Phong đưa tay ra cầm mạch nàng, quả nhiên mạch nhảy loạn xạ lúc khoan lúc nhặt, bèn dịu giọng nói: “Nàng đi đường vất vả đã nhiều, e rằng bị nhiễm phong hàn. Để ta gọi bà lão nấu một bát nước gừng cho nàng uống…”
Nước gừng nấu chưa xong, A Châu đã run như cầy sấy, lập cập nói: “Thiếp lạnh quá! Lạnh quá!” Tiêu Phong hết sức lo lắng, vội cởi áo ngoài đắp lên người nàng. A Châu nói: “Đại ca! Tối nay chàng trả được mối thù, là hoàn thành tâm nguyện bấy lâu. Thiếp cũng mong đỡ bệnh một chút để đi cùng chàng.” Tiêu Phong vội gạt đi: “Không cần! Không cần! Nàng cứ nghỉ ngơi, ngủ một giấc, lúc tỉnh dậy thì ta đã xách thủ cấp Đoàn Chính Thuần về rồi.” A Châu thở dài nói: “Thiếp thật đau lòng xiết bao! Đại ca, thiếp chắc không bồi tiếp chàng được nữa đâu! Thiếp chỉ mong được ở bên chàng, mãi mãi ở bên chàng, không lúc nào muốn xa rời. Chàng… chàng… bây giờ phải cô đơn tịch mịch, thiếp chẳng đành lòng.”
Tiêu Phong nghe giọng nàng thật thiết tha, trong lòng cảm động bèn đưa tay nắm lấy tay rồi nói: “Hai ta chỉ xa nhau một chốc, có gì phải bận tâm đâu? A Châu, nàng đối với ta thật tốt. Ân tình này ta biết báo đáp thế nào đây?” A Châu đáp: “Không phải xa nhau một chốc đâu. Thiếp biết là mình sẽ xa nhau thật lâu. Đại ca, phân ly rồi thì chàng suốt đời cô độc, thiếp cũng cô khổ lênh đênh. Tốt hơn hết là ngay bây giờ chàng đưa thiếp ra ngoài Nhạn Môn Quan, chúng ta săn bắn chăn nuôi. Để một năm nữa hãy báo oán Đoàn Chính Thuần, có được không? Để thiếp được ở bên chàng một năm nữa thôi.”
Tiêu Phong vuốt ve mái tóc óng mượt của nàng, nói: “Gặp được kẻ thù đâu phải chuyện dễ dàng? Đêm nay báo thù xong, chúng ta đi ngay không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa. Đoàn Chính Thuần võ công kém ta xa, y lại không biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm, đêm nay lấy mạng y như lấy đồ trong túi. Qua một năm nữa thì chúng ta phải tới tận Đại Lý. Ở đó hảo thủ họ Đoàn rất đông, lỡ mà gặp phải người tinh thông Lục Mạch Thần Kiếm, đại ca chưa chắc thắng nổi. Chẳng phải ta không muốn chiều ý nàng, nhưng việc này quả có chỗ nan giải.” A Châu gật đầu khẽ nói: “Đúng thế! Thiếp không thể xin chàng một năm sau hãy đến Đại Lý tìm y báo thù. Một mình đại ca vào chốn hang hùm, tất sẽ nguy hiểm vô cùng.”
Tiêu Phong cười ha hả, nâng bát cơm lên giả bộ uống một ngụm. Chàng vẫn quen uống rượu từng bát lớn, lúc này chỉ có bát không, nhưng cứ giả vờ cho có vẻ hào hứng rồi nói: “Tiêu mỗ có coi những chuyện sinh tử nguy nan vào đâu. Giả tỷ Tiêu Phong này chỉ có một mình, dù Đoàn gia Đại Lý là đầm rồng hang cọp thì cũng cứ vào. Thế nhưng bây giờ ta lại có cô bé A Châu, cần phải sống bầu bạn với cô, nên tính mạng thành ra quý lắm.”.
A Châu gục vào lòng chàng, bờ vai rung nhẹ. Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, cảm thấy trong lòng ấm áp, lẩm bẩm: “Được người vợ như thế này còn mong gì hơn nữa?”. Chỉ trong khoảnh khắc, tâm hồn chàng như lạc ra ngoài biên ải, nghĩ đến một tháng sau mình sẽ cùng A Châu cưỡi ngựa ruổi rong trên thảo nguyên bát ngát, chăn cừu săn thú, không còn đề phòng kẻ gian hãm hại, trút hết lo âu, thật là tiêu dao khoái hoạt. Tiêu Phong lại nhớ hôm trước nơi Tụ Hiền Trang được người áo đen cứu mạng, mình chưa báo đáp được, không khỏi khắc khoải trong lòng. Song chàng tự nhủ: “Bậc đại anh hùng thi ân bất cầu báo, món ân tình ấy mình nợ lại cũng không sao.”
Trời đã sụp tối, A Châu ngủ thiếp trong lòng chàng tự lúc nào. Tiêu Phong lấy ba đồng bạc đưa cho chủ nhà, bảo họ dọn cho một phòng riêng, rồi bồng A Châu đặt lên giường, đắp chăn buông màn. Sau đó chàng ra nhà ngoài ngồi nhắm mắt dưỡng thần, chẳng mấy chốc cũng ngủ nốt.
Tiêu Phong ngủ được hơn hai giờ thì tỉnh dậy, mở cửa ra sân thấy trăng non đã cao quá ngọn cây, mây đen phủ kín phía tây bắc, dường như sắp có mưa dông. Chàng khoác trường bào, đi về phía chiếc cầu đá xanh. Đi được chừng năm dặm thì đến bờ sông, tuy bóng trăng vẫn chiếu xuống khe nước, nhưng nửa bầu trời phía tây đã đầy mây đen. Thỉnh thoảng lại có một tia chớp lóe lên sáng tỏ cả bốn bề, rồi nháy mắt lại tối đen như mực. Nơi gò đống xa xa, có ánh lân tinh chập chờn lướt trên ngọn cỏ như thể ma trơi.
Tiêu Phong đi càng lúc càng nhanh, chẳng bao lâu đã đến chiếc cầu đá xanh, nhìn sao Bắc Đẩu thấy mới khoảng canh hai, bèn nghĩ bụng: “Ta sốt ruột báo thù thành thử đến sớm hơn một canh giờ.” Bình sinh chàng ước hẹn đánh nhau không biết bao nhiêu lần, đã gặp nhiều đối phương võ công hơn hẳn Đoàn Chính Thuần, mà sao đêm nay tâm thần hồi hộp, thiếu hẳn tự tin. Trước nay chưa hề như thế bao giờ.
Chàng đứng trên đầu cầu, nhìn xuống dòng nước lững lờ trôi, nghĩ thầm: “Phải rồi! Trước kia ta chỉ có một mình, không ai ràng buộc nên chẳng sợ hãi gì. Hôm nay ta còn có A Châu nên có điều lo lắng, đúng là nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản”. Nghĩ đến đây, chàng thấy ấm áp trong lòng, mỉm cười nghĩ tiếp: “Giả tỷ A Châu đang đứng cạnh mình thì còn thích thú hơn nhiều.”
Tiêu Phong hiểu rõ Đoàn Chính Thuần võ công còn kém mình xa, hôm nay chẳng phải lo gì đến chuyện thắng bại. Chàng thấy giờ hẹn cũng còn lâu, bèn ngồi xuống gốc cây bên cạnh cầu đá ngưng thần điều hòa hơi thở, dần dần tâm ý sạch không, loại hết tạp niệm.
Bỗng dưng một tia chớp lóe lên, rồi tiếng sấm ầm ầm, một luồng sét đánh xuống. Tiêu Phong giật mình mở bừng mắt ra, tự hỏi: “Chỉ chốc nữa là mưa to, không biết đã đến canh ba chưa?” Ngay lúc đó, từ con đường nhỏ bên Tiểu Kính Hồ có một người chậm rãi đi tới, áo bào rộng thùng thình, thắt đai cẩn thận, chính là Đoàn Chính Thuần. Ông ta đến trước mặt Tiêu Phong, vái một cái thật sâu rồi nói: “Kiều bang chủ gọi tại hạ đến đây, không biết có điều chi chỉ giáo?”.
Tiêu Phong khẽ nghiêng đầu liếc xéo ông ta, lửa giận bốc lên tận cổ. Chàng hỏi ngay: “Đoàn vương gia! Ta hẹn ngươi đến đây có chuyện gì, không lẽ ngươi chưa biết?”
Đoàn Chính Thuần thở dài nói: “Phải chăng vì câu chuyện ngoài Nhạn Môn Quan năm xưa, ta nghe lời kẻ gian xúi bẩy làm mất mạng lệnh đường, lệnh tôn phải tự tận. Thật là lỗi lầm to lớn.” Tiêu Phong lạnh lùng nói: “Thế sao ngươi còn sát hại vợ chồng nghĩa phụ ta là Kiều Tam Hòe, ám toán ân sư ta là Huyền Khổ đại sư?” Đoàn Chính Thuần từ từ lắc đầu, buồn bã nói: “Ta chỉ mong bưng bít được chuyện này, ngờ đâu càng lúc càng lún sâu vào vòng tội lỗi, không sao thoát ra được nữa.”
Tiêu Phong nói: “Hừ, ngươi quả là một hán tử thẳng thắn. Bây giờ ngươi tự xử lấy mình hay chờ ta động thủ?” Đoàn Chính Thuần đáp: “Nếu không được Kiều bang chủ cứu viện thì trưa nay Đoàn Chính Thuần này đã táng mạng bên Tiểu Kính Hồ rồi. Đoàn mỗ sống thêm được nửa ngày đã phải cảm tạ ân đức các hạ. Bây giờ Kiều bang chủ muốn lấy mạng tại hạ, xin cứ động thủ!”.
Khi đó sấm sét nổi ầm ầm, những giọt mưa to bằng hạt đậu bắt đầu lộp bộp rơi xuống.
Tiêu Phong nghe đối phương nói đầy hào khí, không khỏi động lòng. Chàng vẫn thích kết giao cùng anh hùng hảo hán, từ lúc thấy Đoàn Chính Thuần thẳng thắn hiên ngang, không khỏi đem lòng cảm mến. Nếu chỉ là một việc nhục nhã tầm thường, có lẽ chàng chỉ cùng uống vài mươi chén rượu rồi cười khì bỏ qua. Thế nhưng phụ thù không đội trời chung, làm sao bỏ được? Tiêu Phong giơ chưởng lên nói: “Đại thù của song thân cùng sư trưởng không thể không báo. Ngươi sát hại song thân, nghĩa phụ nghĩa mẫu và ân sư ta, cả thảy năm mạng. Bây giờ ta đánh năm chưởng. Ngươi đỡ năm chưởng rồi, bất luận còn sống hay đã chết thì mối thù cũng coi như thanh toán xong xuôi.”
Đoàn Chính Thuần gượng cười đáp: “Mỗi mạng người chỉ đổi lấy một chưởng, thế là Đoàn mỗ được xử nhẹ lắm rồi. Xin thâm cảm thịnh tình của các hạ.”
Tiêu Phong thầm nghĩ: “Võ công họ Đoàn Đại Lý nổi tiếng thật, nhưng chưa chắc đã chịu nổi một chưởng của Tiêu mỗ.” Chàng bèn nói: “Xem đây!” rồi tay trái cuộn một vòng, tay phải đánh ra nghe vù một tiếng.
Đột nhiên một tia chớp lóe lên, một tiếng sấm dữ dội trên lưng chừng trời nghe điếc cả tai. Lằn sét này tựa hồ trợ uy cho thế chưởng của Tiêu Phong, quả thực mãnh liệt đến trời long đất lở, trúng giữa ngực Đoàn Chính Thuần nghe “bình” một tiếng. Y đứng không vững, ngã khuỵu ngay xuống, nghe bịch một tiếng đã nằm nhũn ra trên lan can chiếc cầu đá xanh, không động đậy gì nữa.
Tiêu Phong ngạc nhiên tự hỏi: “Sao y không phóng chưởng ra chống đỡ? Không lẽ tệ đến thế?”. Chàng tung mình nhảy tới, nắm ngay cổ áo y nhấc lên, bất giác kinh ngạc, tai ù đi, không còn biết mưa đang hắt vào mặt nữa. Trong đầu chàng chỉ còn một ý nghĩ: “Sao y lại nhẹ bổng thế này?”.
Trưa hôm đó khi ra tay cứu Đoàn Chính Thuần, chàng đã xách y khá lâu. Con người võ công cao cường như Tiêu Phong thì trong tay chỉ sút đi nửa cân là phát hiện ngay lập tức. Thế nhưng lúc này thân thể Đoàn Chính Thuần nhẹ hẫng đi hàng mấy chục cân, trong lòng Tiêu Phong nổi lên một mối kinh hoàng không kể xiết, toàn thân toát mồ hôi lạnh đầm đìa.
Một tia chớp nữa lóe lên. Tiêu Phong đưa tay lên sờ vào mặt Đoàn Chính Thuần, thấy có gì nhão nhoẹt, chàng xoa một cái lập tức rã ra. Trong ánh chớp chàng thấy rõ ràng, thất thanh kêu lên: “A Châu! A Châu! Trời ơi! Thì ra là nàng!”
Chân tay Tiêu Phong bủn rủn không còn chút khí lực nào. Chàng khuyu xuống, ôm chặt lấy hai chân A Châu. Thế chưởng của chàng đã dụng toàn lực, dù cao thủ hạng nhất mà không chống đỡ cũng chịu không nổi, huống chi là cô bé A Châu ẻo lả thướt tha? Phát chưởng đó đánh nàng đứt hết gân cốt, ngũ tạng nát nhừ, dẫu có Tiết Thần Y ở ngay bên cũng khó lòng vãn hồi tính mạng.
Thân hình A Châu đang dựa vào thành cầu, từ từ tuột xuống, rơi vào lòng Tiêu Phong. Nàng thều thào nói: “Đại ca, thiếp… thiếp thật có lỗi với chàng. Chàng có giận thiếp không?” Tiêu Phong gào lên: “Ta không giận nàng! Ta chỉ giận mình thôi, ta chỉ giận mình thôi…” Nói xong chàng giơ tay lên đập xuống đầu luôn mấy cái. Bàn tay A Châu nhúc nhích, tựa hồ muốn ngăn ông tự đánh mình, nhưng không giơ lên nổi nữa, nói: “Đại ca phải hứa với thiếp một chuyện, vĩnh viễn không được hủy mình.”
Tiêu Phong gầm lên: “Tại sao? Tại sao nàng làm thế?” A Châu khẽ đáp: “Đại ca, chàng cởi áo thiếp ra, nhìn vào vai bên trái đi.” Tiêu Phong cùng nàng rong ruổi muôn dặm quan san, tuy cùng đi một đường, cùng trọ một nơi, mà thủy chung vẫn giữ lễ giáo. Bây giờ ông nghe A Châu bảo mình cởi áo nàng ra, không khỏi tần ngần, A Châu nói: “Thiếp vốn đã thuộc về chàng rồi, tấm thân này là của chàng. Chàng nhìn… nhìn vào vai thiếp thì sẽ rõ.”
Tiêu Phong nước mắt rưng rưng, nghe nàng nói không có vẻ gì mê loạn, bỗng nổi lên một chút hi vọng. Chàng vội vàng dùng tay trái đỡ lưng A Châu, trút chân khí cuồn cuộn vào thân thể nàng, thử xem có khắc phục được lỗi lầm chăng; tay phải từ từ cởi áo cô gái ra, để lộ vai trái.
Trên trời lại có một tia chớp ngoằn ngoèo vụt ngang, Tiêu Phong nhìn thấy bờ vai trắng như tuyết của nàng có thích một chữ “Đoàn” đỏ như máu. Tiêu Phong vừa kinh ngạc vừa thương tâm, không dám nhìn lâu, vội vàng khép áo che vai A Châu lại, nhà nhẹ ôm nàng vào lòng hỏi: “Chữ Đoàn trên vai nàng là nghĩa gì vậy?” A Châu đáp: “Khi gia gia cùng má má gởi thiếp cho người khác nuôi, có thích trên vai chữ này để về sau dễ nhận.” Tiêu Phong run rẩy nói: “Chữ Đoàn đó, chữ Đoàn đó…” A Châu đáp: “Ngày hôm nay, hai người phát hiện trên vai A Tử có một ký hiệu, nhận ra ngay đó là con gái của họ. Chàng… chàng… có thấy cái ký hiệu đó không?” Tiêu Phong đáp: “Không, ta không tiện xem.” A Châu nói: “Trên vai… trên vai A Tử muội muội cũng có một chữ Đoàn chẳng khác gì thiếp.”
Tiêu Phong chợt tỉnh ngộ, run run hỏi: “Nàng… nàng cũng là con họ ư? A Châu đáp: “Trước kia thiếp cũng không biết, sau khi nhìn thấy vai A Tử mới hay. Tử muội cũng đeo một sợi dây chuyền vàng giống hệt như sợi của thiếp, mỗi sợi có khắc mười hai chữ. Của Tử muội là: Hồ biên trúc, Doanh doanh lục. Báo bình an, Đa hỉ lạc. (Trúc bên hồ, Xanh biêng biếc, Nhiều bình an, Nhiều hạnh phúc.) Còn trên dây chuyền của thiếp thì có mấy câu: Thiên thượng tinh, Lượng tinh tinh, Vĩnh xán lạn, Trường an ninh. (Sao trên trời, Chiếu lấp lánh, Mãi xán lạn, Mãi bình an.) Thiếp… thiếp… trước nay có hiểu gì đâu, có ngờ đâu là tên của mẫu thân, chính là… Nguyễn… Tinh Trúc. Đôi dây chuyền này là của phụ thân tặng cho mẫu thân, sau khi sinh ra hai chị em mới chia cho mỗi đứa một cái đeo vào cổ.
Tiêu Phong nói: “Ta hiểu rồi. Bây giờ phải tìm cách cứu chữa cho nàng ngay mới được, câu chuyện này hãy gác lại đó rồi sẽ bàn sau cũng chưa muộn.” A Châu vội nói: “Không được, không được! Thiếp phải nói rõ cho chàng nghe, để lát nữa e không kịp. Đại ca, chàng nghe cho hết đã.” Tiêu Phong không nỡ trái ý nàng, đành nói: “Được rồi! Ta nghe đây, nhưng nàng đừng phí sức nhiều quá.” A Châu gượng cười nói: “Đại ca thật là tốt, chuyện gì cũng nghĩ đến thiếp, cưng chiều thiếp biết bao.” Tiêu Phong nói: “Từ nay trở đi, ta còn thương nàng gấp trăm lần, ngàn lần nữa.”
A Châu mỉm cười: “Đại ca thương như vậy là đủ rồi. Giả tỷ thương nhiều hơn nữa, thì sau này thiếp sẽ nằm ườn ra bắt chàng phải nấu cơm giặt giũ mất. Đại ca! Lúc nãy thiếp… thiếp nấp ở sau căn nhà tre, nghe lén song thân và A Tử muội muội nói chuyện. Hóa ra phụ thân đã có chính thất rồi, song thân thiếp không phải phu thê chính thức, năm trước sinh ra thiếp, năm sau sinh thêm Tử muội. Sau đó phụ thân muốn về Đại Lý, mẫu thân lại không cho đi, hai bên cãi nhau một trận. Mẫu thân còn đánh phụ thân, ông chỉ chịu đòn chứ không đánh trả. Về sau… về sau… không còn cách nào khác, hai vị phải chia tay. Gia pháp nhà ngoại công của thiếp rất nghiêm ngặt, nếu chuyện này mà lộ ra, thế nào mâu thân cũng mất mạng ngay. Bà không dám đưa chị em thiếp về nhà, đành chia ra đem cho người ta nuôi, nhưng vẫn hy vọng ngày sau có dịp trùng phùng, bèn thích một chữ Đoàn lên vai mỗi đứa. Người nuôi nấng thiếp chỉ biết mẫu thân họ Nguyễn, thực ra thiếp… thiếp họ Đoàn…”
Trên trời sấm sét vẫn đùng đùng không ngớt. Đột nhiên sét đánh trúng vào một cây to bên cạnh bờ sông, cái cây kêu răng rắc rồi ngã xuống. Hai người tuyệt nhiên không để ý tới bên ngoài, đất trời đại biến đến đâu cũng không hề hay biết.
A Châu lại tiếp: “Người gia hại song thân chàng lại chính là phụ thân thiếp. Ôi chao, ông trời thật là cay nghiệt, bắt đôi ta gặp cảnh éo le đến dường này. Vậy mà… vậy mà lại chính là thiếp lập kế buộc Mã phu nhân nói ra họ tên hung thủ. Giả tỷ thiếp không giả trang Bạch Thế Kính để đánh lừa thì nhất quyết bà ta không tiết lộ tên gia gia thiếp. Người ta thường nói rằng: Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định, nhất nhất việc gì cũng do trời định sẵn. Trước nay thiếp chẳng tin đâu, thế nhưng… thế nhưng… đại ca thử nghĩ xem có phải thế không?”
Tiêu Phong ngẩng mặt nhìn trời. Mây đen vần vụ che hết ánh trăng, một tia chớp ngoằn ngoèo chiếu sáng bốn bề tựa hồ thiên môn vừa mở. Chàng cúi đầu xuống, hoang mang hỏi lại: “Nàng có chắc Đoàn Chính Thuần là phụ thân không? Không nhầm đấy chứ?” A Châu đáp: “Không thể nhầm được. Thiếp thấy gia gia cùng má má ôm Tử muội khóc nức nở, kể lại chuyện bỏ rơi hai chị em như thế nào. Song thân cùng bảo rằng, giá nào cũng phải tìm cho ra thiếp. Hai người có ngờ đâu đứa con lưu lạc đang nằm phục ngay bên cửa sổ. Đại ca ơi, lúc nãy thiếp giả vờ lâm bệnh là để cải trang thành chàng đến nói với gia gia bỏ cái hẹn ở cầu đá đêm nay, bao nhiêu chuyện đã qua đều xóa bỏ hết. Sau đó lại cải trang thành gia gia, đến gặp chàng… để cho chàng… để cho chàng…” Nàng nói đến đây hơi thở chỉ còn thoi thóp.
Tiêu Phong càng gia tăng nội kình vào lòng bàn tay để giữ A Châu không tuyệt khí, sa lệ nói: “Sao nàng không cho ta biết? Nếu ta biết y là gia gia nàng…” Chàng không nói tiếp được, cũng chưa hiểu nếu mình biết Đoàn Chính Thuần là cha người mình yêu thương nhất, thì phải làm sao.
A Châu nói: “Thiếp suy đi tính lại đã nhiều, đắn đo thật lâu. Đại ca, thiếp vẫn mong được sống bên chàng ít lâu nữa, nhưng biết làm sao? Thiếp nào dám khẩn cầu chàng đừng báo thù cho năm vị thân nhân? Giả tỷ thiếp hồ đồ nói ra mà chàng ưng thuận, thì… thì suốt đời chàng làm sao yên lòng được?”
Thanh âm của nàng thì càng lúc càng nhỏ, mà trên trời tiếng sấm vẫn ì ầm không ngớt. Nhưng mỗi lời của A Châu lọt vào tai Tiêu Phong còn kinh tâm động phách hơn tiếng sấm nhiều. Chàng vò đầu bứt tai nói: “Sao nàng không bảo gia gia bỏ đi, đừng đến dây nữa? Mà giả tỷ phụ thân nàng là bậc anh hùng hảo hán, không chịu trốn đi thì nàng hãy giả làm ta, hẹn lại một nơi thật xa, một ngày thật xa gặp lại. Nàng… nàng việc gì phải khổ đến thế này?”
A Châu đáp: “Thiếp muốn chàng hiểu, một người có thể lỡ tay đánh chết một người khác, hoàn toàn chẳng do bản tâm. Có khi nào chàng tưởng đến chuyện hại thiếp đâu, nhưng chính tay chàng đánh thiếp một chưởng. Phụ thân thiếp làm chết song thân chàng, cũng chỉ vì vô ý mà nên tội tày trời.”
Tiêu Phong đăm đăm nhìn nàng. Mấy lần ánh chớp lóe lên, chàng thấy đôi mắt nàng ôn nhu vô hạn. Tiêu Phong trong lòng rung động, biết A Châu lưu luyến mình biết chừng nào, vượt xa những gì chàng đã tưởng. Chàng cũng hiểu rõ một điều: “Đoàn Chính Thuần tuy là thân sinh, nhưng nào có ơn dưỡng dục, nàng chịu hi sinh tính mạng, có phần là để mình hiểu được: lầm lỗi có thể chỉ vì vô tâm, đừng để trong lòng.” Tiêu Phong run run nói: “A Châu! Nào phải nàng chỉ muốn cứu phụ thân, cũng nào phải chỉ nhắc nhở ta rằng có những lỗi lầm chỉ vì vô ý. Nàng hy sinh chỉ vì ta đấy thôi, vì ta đấy thôi!” Chàng bế nàng lên, đứng dậy.
A Châu nhoẻn cười, thấy Tiêu Phong hiểu được thâm ý mình liền trong lòng hoan hỉ. Nàng biết đã đến lúc lâm chung, không hy vọng tình lang hiểu kịp nỗi lòng thầm kín bấy lâu, nhưng rồi chàng đã hiểu.
Tiêu Phong nói: “Nàng hoàn toàn chỉ vì ta. A Châu! Có phải thế không?” A Châu nhỏ nhẹ đáp: “Đúng thế.” Tiêu Phong gào lên: “Vì sao? Vì sao?” A Châu đáp: “Họ Đoàn Đại Lý có tuyệt kỹ Lục Mạch Thần Kiếm, nếu chàng giết Trấn Nam Vương, họ đâu có để yên? Đại ca ơi, mình có đọc được bộ Dịch Cân Kinh đâu…” Tiêu Phong giật mình tỉnh ngộ, dòng lệ nóng bỏng trào ra, ròng ròng nhỏ xuống.
A Châu nói: “Thiếp cầu xin chàng một việc, chàng có bằng lòng không?” Tiêu Phong đáp: “Đừng nói một việc, dù đến trăm việc, ngàn việc ta cũng bằng lòng.” A Châu nói: “Thiếp chỉ có một cô muội tử, hai đứa từ nhỏ đã không được ở gần nhau. Xin chàng chiếu cố đến nó, thiếp chỉ lo nó lầm đường lạc lối.” Tiêu Phong gượng cười nói: “Đợi khi nàng khỏe hắn, chúng ta sẽ đi tìm Tử muội để hai chị em đoàn tụ bên nhau.” A Châu mơ màng nói: “Đợi thiếp khỏe… ôi, đại ca ơi, chúng ta sẽ cùng ra ngoài ải Nhạn Môn Quan cưỡi ngựa đi săn, thả bò chăn cừu. Chàng nghĩ xem Tử muội có chịu đi theo không?” Tiêu Phong đáp: “Dĩ nhiên là Tử muội đi chứ, tỉ tỉ và tỉ phu bảo đi không lẽ không đi?”
Đột nhiên có tiếng cười khúc khích, từ dưới gầm cầu đá xanh một người chui ra, kêu lên: “Xấu hổ thật! Cái gì mà tỉ tỉ với lại tỉ phu? Ta không đi đâu!” Người đó thân hình mảnh mai, khoác áo tơi, chính là A Tử.
Tiêu Phong từ lúc lỡ tay đánh A Châu một chưởng, bao nhiêu tâm ý để cả vào nàng. Với bản lĩnh của chàng, làm gì không biết có người đang nấp dưới gầm cầu? Nhưng một là vì mưa to gió lớn sấm chớp dùng đùng, hai là vì tâm thần đại loạn, đến khi A Tử chui ra chàng mới phát giác. Tiêu Phong kinh ngạc kêu lên: “A Tử! Muội tử mau mau lại đây gặp tỉ tỉ.” A Tử bĩu môi đáp: “Ta nấp dưới vòm cầu, cốt để xem ngươi giao đấu với gia gia, ai ngờ ngươi lại đánh trúng tỉ tỉ. Hai người to nhỏ thầm thì ta đâu có muốn nghe, muốn tâm sự thì cứ tự nhiên, sao lại dính líu ta vào?” Cô vừa nói vừa đủng đỉnh tiến lại.
A Châu nói: “Hảo muội muội! Từ nay trở đi, Tiêu đại ca sẽ chiếu cố đến muội, muội… muội cũng nên chiếu cố cho anh ấy.” A Tử cười khanh khách nói: “Thằng cha man rợ thô lỗ kia, ta chẳng thèm đâu.”
A Châu đang nằm trong lòng Tiêu Phong bỗng giẫy nhẹ mấy cái, đầu ngoẹo xuống, mái tóc xõa ta phủ lên vai ông, rồi không còn động đậy gì nữa. Tiêu Phong thất kinh gọi lớn: “A Châu A Châu!” Chàng đưa tay xem mạch thì mạch đã dừng rồi, tưởng chừng trái tim chàng cũng dừng theo, lại để tay lên mũi thì hơi thở cũng không còn. Chàng gào lên: “A Châu! A Châu!” Dù có gọi đến nghìn vạn lần, A Châu cũng không đáp lời được nữa. Tiêu Phong vội vàng đem chân lực trút vào người nàng nhưng A Châu vẫn không hề cử động.
A Tử thấy A Châu tắt thở, cũng kinh hãi không đùa cợt nữa, hoảng hốt rú lên: “Ngươi đánh chết tỉ tỉ ta! Ngươi đánh chết tỉ tỉ ta!” Tiêu Phong đáp: “Phải rồi! Chính ta đánh chết lệnh tỉ, cô báo thù đi. Cô giết ta đi, mau lên! Mau lên!” Chàng đặt A Châu xuống, phưỡn ngực ra gào lên: “Cô mau giết ta đi!” Thực tình chàng chỉ mong A Tử rút dao ra đâm vào ngực mình, như vậy mới chấm dứt được nỗi đau vô cùng tận.
A Tử thấy Tiêu Phong nghiến răng nghiến lợi trông thật dễ sợ, kinh hãi lùi lại mấy bước kêu lên: “Ngươi… ngươi đừng giết ta.”
Tiêu Phong cũng tiến lên theo, đưa tay lên xé áo đánh roặc một tiếng, phanh ngực ra mà nói: “Cô có độc châm, độc thích, độc chùy… phóng chết ta đi.” Dưới ánh chớp, A Tử trông rõ trên ngực ông có đầu một con chó sói xanh lè, nhe nanh hung ác, lại càng khiếp vía, rú lên một tiếng rồi quay người chạy thục mạng.
Tiêu Phong đứng sững trên cầu, thương tâm cực điểm mà hối hận cũng cực điểm, đập tay vào lan can cầu đánh chát một tiếng, đá vỡ bay tung tóe. Chàng đánh hết chưởng này đến chưởng khác, muốn khóc mà không khóc được, bỗng nghe lách cách rồi một phiến đá lan can rơi tòm xuống sông. Một ánh chớp lại lóe lên soi rõ mặt A Châu, nỗi thâm tình tha thiết của nàng như vẫn còn vương trên khóe mát.
Tiêu Phong lại gào một tiếng: “A Châu!” Chàng ôm xác người yêu lên, chạy như bay vào giữa đồng không mông quạnh. Sấm chớp vẫn dùng đùng, mưa như trút nước. Chàng hết chạy lên triền núi, lại chạy xuống khe sâu, đầu óc hỗn loạn trống rỗng không còn biết gì nữa.
Sấm chớp thưa dần nhưng mưa chưa ngớt. Phương đông đã ửng đỏ, bầu trời cũng sáng dần. Tiêu Phong đã chạy điên khùng một lúc lâu mà không hề mỏi mệt, chỉ muốn tự hành hạ cho chết đi, để mãi mãi ở bên cạnh A Châu. Chàng gào rú từng hổi, chạy tràn chạy ẩu, không hiểu sao lại quay trở về chiếc cầu đá xanh.
Tiêu Phong vẫn lảm nhảm: “Ta đi tìm Đoàn Chính Thuần, bảo y giết ta đi mà báo thù cho con gái.” Chàng bèn rảo bước chạy về Tiểu Kính Hồ.
Chẳng bao lâu Tiêu Phong đã đến bờ hồ, cất tiếng gọi to: “Đoàn Chính Thuần! Ta đã giết con ngươi, ngươi ra giết ta đi! Ta không đánh trả đâu, mau ra đây giết ta đi!” Chàng ôm ngang lưng A Châu, đứng trước khu rừng trúc, đợi đã lâu mà trong rừng vẫn lặng như tờ, không thấy một ai.
Tiêu Phong tiến vào, đi đến trước căn nhà tre, đạp tung cánh cửa bước vào gọi to: “Đoàn Chính Thuần! Ngươi ra đây giết ta đi!” nhưng trong nhà trống không chẳng thấy một ai. Chàng tìm khắp cả nhà ngang, nhà sau vẫn không thấy Đoàn Chính Thuần cùng thuộc hạ, đến cả chủ nhà là Nguyễn Tinh Trúc và A Tử cũng không thấy đâu. Đồ đạc trần thiết trong nhà vẫn y nguyên, dường như mọi người hốt hoảng ra đi không kịp mang theo gì cả.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Đúng rồi! Chắc là A Tử chạy về báo là ta muốn giết Đoàn Chính Thuần để báo thù. Y dù không chịu bỏ đi, nhưng Nguyễn Tinh Trúc và bọn thuộc hạ ép y phải xa chạy cao bay. Ha ha! Ta có đến giết ngươi đâu, mà đến để ngươi giết ta đấy chứ?”. Chàng lại la lên: “Đoàn Chính Thuần! Đoàn Chính Thuần!” Thanh âm vang dội rất xa, nhưng đáp lại chỉ có tiếng gió thổi xào xạc. Bên Tiểu Kính Hồ, rừng trúc quạnh quẽ không một bóng người. Tiêu Phong tưởng chừng trời đất này chỉ còn một mình chàng. Từ lúc A Châu tắt thở đến giờ, chàng vẫn bế nàng trong lòng, cố truyền chân khí vào không biết bao nhiêu lần, chỉ mong giống như lần bị Huyền Từ phương trượng đánh trúng, bị thương nặng mà không chết. Thế nhưng lần trước Đại Kim Cương Chưởng của Huyền Từ đánh vào chiếc gương đồng trong tay Tiêu Phong, A Châu nằm trong tay kia chẳng qua chỉ bị chấn động, còn lần này phát chưởng của Tiêu Phong đánh thẳng vào giữa ngực thì nàng còn sống làm sao được? Chàng có cố gắng cách nào thì A Châu vẫn không động đậy.
Tiêu Phong ôm A Châu, ngơ ngẩn ngồi trước hiên nhà từ sáng tới trưa, rồi từ trưa tới tối. Sau cơn mưa to trời trong vắt, ánh tà dương tỏa chiếu lên thân thể hai người.
Khi chàng ở Tụ Hiền Trang bị quần hùng vây đánh, anh em trở mặt, tình thế nguy ngập nhưng không nao núng chút nào. Bây giờ chính tay mình lầm lỡ quá lớn không sửa chữa được, chàng càng nghĩ càng thấy cô đơn, thật không còn muốn sống trên đời nữa, lại nghĩ: “A Châu thế mạng cho phụ thân rồi, ta không thể đi tìm y báo thù được nữa. Thế thì còn có việc gì mà làm? Đại nghiệp của Cái Bang, hùng tâm tráng chí năm nào, cũng chẳng cần phải nghĩ đến nữa. Ta là người Khất Đan, có hùng tâm đại nghiệp gì đâu?”.
Chàng đi ra nhà sau, thấy một cái cuốc trồng hoa dựng ở góc tường bèn nghĩ thầm: “Thôi, ta vĩnh viễn ở lại đây bầu bạn với A Châu.” Tay trái chàng vẫn ôm A Châu một phút không rời, tay phải cầm chiếc cuốc đi ra ngoài rừng trúc, đào một cái huyệt xong lại đào thêm cái nữa, hai đống đất vun lại thành một.
Chàng nghĩ bụng: “Song thân nàng quay lại không biết là cái gì, thể nào cũng đào lên xem thử. Ta phải dựng bia lên mộ.” Chàng bèn bẻ một đoạn trúc, bóp vỡ đôi, quay lại nhà bếp lấy dao đẽo cho nhẵn nhụi rồi đem qua phòng phía tây. Tiêu Phong thấy trên bàn có sẵn văn phòng tứ bảo, bèn để A Châu nằm ngang trên đùi, cầm bút chấm mực viết lên một mảnh trúc: “Khất Đan mãng phu Tiêu Phong chi mộ”.
Chàng lại cảm mành trúc kia lên, trầm ngâm tự hỏi: “Phải viết gì nhỉ? Tiêu môn Đoàn phu nhân chi mộ ư? Tuy nàng với ta có đính ước phu thê nhưng chưa thành hôn, đến chết vẫn còn là một cô nương băng thanh ngọc khiết, gọi nàng là phu nhân không khỏi có điều tiết mạn.” Chàng không quyết định được, ngửng đầu lên suy nghĩ một hồi, ngẫu nhiên nhìn vào một bức bút thiếp trên tường, thuận mắt đọc xuống thì ra là một bài từ: Hàm tu ý túy bất thành ca, tiêm thủ yểm hương la. Ôi hoa ánh chúc, thâu truyền thâmý, tửu tử nhập hoành ba. Khán chu thành bích tâm mê loạn, phiên mạch mạch, liễm song nga. Tương kiến thời hi cách biệt đa. Hựu xuân tận, nại sầu hà?
Tiêu Phong không đọc sách nhiều, trong bài từ này cũng có mấy chữ không biết, nhưng đại khái cũng hiểu được đây là một bài từ tả tình yêu trai gái uống rượu dưới ánh nến trong màn lụa, tương kiến thì ít mà cách biệt lại nhiều nên trong lòng buồn bã. Chàng bâng khuâng nhìn bức thiếp, cũng chẳng có lòng dạ nào suy nghĩ ý tứ văn chương, chỉ thuận miệng đọc cho đến hết. Bên dưới còn mấy dòng lạc khoản: “Thư thiếu niên du phó Trúc muội bổ bích. Tinh mâu trúc yêu tương bạn, bất tri thiên địa tuế nguyệt dã. Đại Lý Đoàn nhị túy hậu cuồng đồ.” (Viết tặng Trúc muội để che tường trống. Có người mắt sáng lưng thon làm bạn, quên hết trời đất tháng ngày. Đoàn nhị nước Đại Lý viết nhảm trong lúc say mèm.)
Tiêu Phong lẩm bẩm: “Thằng cha này quả là khoái hoạt. Có người mắt sáng lưng thon làm bạn, quên hết trời đất tháng ngày. Đoàn nhị nước Đại Lý viết bừa sau cơn say. Đoàn nhị nước Đại Lý là ai nhỉ? Đúng rồi, đây là Đoàn Chính Thuần viết tặng tình nhân y là Nguyễn Tinh Trúc. Sao song thân A Châu lại ngang nhiên treo những chuyện phong nguyệt ở đây, không xấu hổ ư? À, thuộc hạ Đoàn Chính Thuần không được vào căn phòng này.”
Tiêu Phong không để ý đến bức thiếp đó nữa, lại nghĩ: “Ta viết gì lên mộ bia của A Châu đây?”. Chàng tự biết bụng mình quá ít văn chương, cố mãi cũng không nghĩ ra, sau cùng đành viết bốn chữ “A Châu chi mộ”. Rồi chàng bỏ bút xuống, đứng lên, định bụng đem thanh trúc cắm trước mộ, an táng A Châu xong xuôi rồi sẽ tự sát theo.
Tiêu Phong bế A Châu lên, mắt lại liếc bức thiếp trên tường một lần nữa. Đột nhiên chàng nhảy dựng lên rồi hốt hoảng la lớn: “Sai rồi! Chuyện này sai bét rồi!” Chàng bước lại gần, xem kỹ mấy dòng chữ trên bức thiếp, thấy nét bút tuấn nhã tiêu sái rõ ra chữ của con người sang trọng. Tựa hồ có ai đó quát thét vào tai ông: “Chữ viết trên phong thư Thủ lĩnh đại ca gửi Uông bang chủ không giống thế này, hoàn toàn khác hẳn.”
Tiêu Phong là người ít hiểu văn tự, đúng ra không rành phân biệt bút tích. Nhưng bức thiếp này nét chữ rắn rỏi vuông vắn, cách quãng đều đặn, còn bức thư kia chữ viết xiên xẹo, nét bút gầy guộc, chỉ liếc qua cũng biết là chữ của con nhà võ trên chốn giang hồ. Hai bên quá khác biệt, trẻ con chưa biết chữ cũng phải nhìn ra. Chàng trợn tròn mắt, nhìn chằm chằm vào bức thiếp tựa hồ như muốn tìm sau những hàng chữ kia cái âm mưu khuất khúc bên trong.
Đầu óc chàng quay cuồng, trước mắt như thấy lại cảnh tượng trong rừng hạnh ngoài thành Vô Tích đêm hôm đó, thấy lại rõ ràng phong thư Thủ lĩnh đại ca gửi cho Uông bang chủ. Trí Quang đại sư đã nuốt mất đoạn cuối lá thư nơi có chỗ ký tên, khiến chàng không sao biết được người viết, nhưng nét chữ trên bức thư đã in rõ vào đầu óc chàng. Người viết lá thư đó, với vị Đại Lý Đoàn nhị trên bức thiếp này, không thể là một, điều này chắc chắn không nghi ngờ gì nữa.
Hay là Thủ lĩnh đại ca nhờ ai viết giùm phong thư đó? Chàng ngẫm nghĩ một chút, thấy không hợp lý. Đoàn Chính Thuần viết chữ đẹp đến thế này, thể nào cũng tự mình viết thư. Huống chi một bức thư quan trọng như vậy lẽ nào lại nhờ người viết thay? Còn bài từ phong lưu lãng mạn viết tặng tình nhân, chắc chắn y cũng phải tự mình chấp bút.
Chàng càng nghĩ càng thấy khó hiểu, không ngớt tự hỏi: “Hay là Thủ lĩnh đại ca không phải Đoàn Chính Thuần? Hay là bức thiếp này không phải Đoàn Chính Thuần viết? Không có lý nào thế được! Nếu chẳng phải Đoàn Chính Thuần thì còn ai là Đại Lý Đoàn nhị viết một bài từ lãng mạn treo ở đó? Hay là Mã phu nhân nói sai? Cũng không thể được, bà ta có quen biết gì Đoàn Chính Thuần đâu, người nơi phương bắc, kẻ góc trời nam, một bên là vợ của dân thảo biền thô lỗ, một bên là vương công quí tộc, thù oán gì mà phải dựng chuyện gạt mình?
Từ lúc chàng biết Thủ lĩnh đại ca là Đoàn Chính Thuần liền hết sạch mọi nỗi nghi ngờ, đầu óc thấy thoải mái, chuyên tâm vào việc báo thù. Bây giờ nhìn thấy bức thiếp này, vô số nghi vấn lại hiện lên: “Giả tỷ phong thư kia không phải Đoàn Chính Thuần viết thì Thủ lĩnh đại ca dĩ nhiên không phải là y. Nếu vậy thì là ai? Vì cớ gì Mã phu nhân lại bịa đặt gạt mình, bên trong còn có âm mưu ngụy kế gì đây? Ta ngộ sát A Châu, nàng cam tâm chịu chết vì ta, cũng đều do sai lầm mà ra ư? Vậy là oan khuất không những chưa kết thúc mà lại chồng cao thêm nữa. Sao ta lại không nhìn thấy bức thiếp này từ trước? Chỉ vì bức thiếp này treo trong phòng riêng, làm sao ta thấy được?” Giả tỷ Tiêu Phong không đi tìm bút mà tình cờ ngó thấy bức thiếp này, an táng A Châu xong rồi tự sát, thì câu chuyện này kết thúc tại đây. Nhưng ông trời không để hai người phải chết hồ đồ như vậy.
Ánh dương quang nhạt dần, những tia nắng cuối cùng từ từ khuất sau dãy núi. Bỗng Tiêu Phong nghe thấy tiếng chân hai người đi từ bờ Tiểu Kính Hồ đến khu rừng trúc. Hai người này còn ở ngoài xa, nhưng chàng ngưng thần nghe ngóng, nhận ra đó là hai người đàn bà, liền nghĩ thầm: “Chắc hẳn mẹ con A Tử trở về. Ta phải hỏi Đoàn phu nhân cho rõ xem bức thiếp này có phải Đoàn Chính Thuần viết không. Nhưng thể nào bà ta cũng hận ta làm chết A Châu, muốn giết ta. Ta quyết… quyết…”. Chàng đang định không chống trả nhưng nghĩ lại: “Nếu thật sự A Châu chết oan, kẻ giết song thân ta là người khác thì Tên Đại Ác này lại nợ ta thêm một món huyết cừu nữa. Chẳng phải y giết chết A Châu thì còn ai? Lẽ nào ta đành chịu chết, không giữ mạng sống để báo thù?”.
Hai người đàn bà kia đi vào khu rừng trúc, càng lúc càng gần. Tiêu Phong đã nghe thấy tiếng hai người nói chuyện với nhau. Một người nói: “Phải cẩn thận! Con tiện nhân này võ công tầm thường nhưng rất nhiều ngụy kế.” Tiếng một cô gái đáp lại: “Mụ ta chỉ có một mình, mẹ con mình thể nào cũng thanh toán được.” Người lớn tuổi hơn nói: “Thôi im đi! Đừng nói gì nữa. Gặp mụ là hạ sát thủ ngay, không chần chờ gì cả.” Cô gái đáp: “Lỡ gia gia biết được…” Người đàn bà lớn tuổi gạt đi: “Hừ! Ngươi lại còn nể mặt gia gia sao?” Thế rồi hai người không nói gì nữa, rón rén đi vào. Một người đi về hướng cửa chính, còn một người thì vòng ra sau nhà, rõ ràng là tiền hậu giáp công.
Tiêu Phong rất lấy làm kỳ, nghĩ thầm: “Giọng nói hai người này không phải Nguyễn Tinh Trúc và A Tử, nhưng cũng là hai mẹ con đến đây giết một nữ nhân, ồ, chắc là định giết Nguyễn Tinh Trúc. Gia gia cô gái lại không tán thành việc này.” Chàng nghĩ như vậy nhưng chẳng để tâm tới, lại ngồi ngơ ngẩn xuất thần.
Lát sau bỗng nghe tiếng kẹt cửa, ai đó đã đẩy cửa tiến vào. Tiêu Phong vẫn không ngẩng lên, chỉ thấy một đôi bàn chân đi hài đen nhỏ nhắn đến trước mặt, cách độ bốn thước thì dừng lại. Kế đó cửa sổ bên hông mở ra, một người nhảy vào đứng bên cạnh chàng, chỉ nghe tiếng cũng biết là võ công tầm thường..
Tiêu Phong vẫn ôm A Châu không nhúc nhích, trong đầu cứ quanh quẩn mấy câu hỏi: “Thủ lĩnh đại ca có phải là Đoàn Chính Thuần không? Trong ngôn ngữ của Trí Quang đại sư có ẩn ý gì? Từ trưởng lão có ngụy kế gì? Lời của Mã phu nhân là hư hay thực?”. Quả là mờ mịt, chàng hết đoán thế này lại nghĩ thế khác, tâm thần loạn chuyển, ruột rối như mớ bòng bong.
Cô gái bỗng cất tiếng hỏi: “Ngươi là ai? Con tiện tì họ Nguyễn đâu rồi?” Thanh âm cô lạnh lẽo, giọng điệu khinh mạn cùng cực. Tiêu Phong chẳng thèm để ý, vẫn chìm sâu vào nghi vấn. Người lớn tuổi hơn hỏi: “Tôn giá liên hệ với con tiện tì họ Nguyễn kia thế nào? Cô gái này là ai? Nói ngay cho ta nghe!” Tiêu Phong vẫn không ngẩng lên. Cô gái liền xẵng giọng: “Ngươi câm hay là người điếc? Sao mãi không trả lời?” Giọng nói cô ta đầy vẻ giận dữ. Tiêu Phong vẫn mặc kệ, ngồi trơ trơ như tượng đá.
Cô gái bèn dậm chân, trường kiếm trong tay rung một cái, mũi kiếm rít lên vo vo chỉ cách huyệt Thái Dương của Tiêu Phong vài tấc, quát lên: “Ngươi còn giả vờ ngớ ngẩn thì ta cho nếm mùi lưỡi kiếm này.”
Tiêu Phong không lý gì đến nguy hiểm bên ngoài, đầu óc vẫn loay hoay giữa bao nhiêu nghi vấn. Cô gái phóng kiếm ra, sượt qua cổ chàng độ một tấc. Tiêu Phong nghe rõ đường kiếm đi trệch, vẫn thản nhiên không thèm né tránh. Hai người đàn bà thấy vậy không khỏi kinh hãi. Cô gái gọi mẹ: “Má má! Chắc gã này điên khùng. Cô gái y ôm trên tay dường như chết rồi.” Người đàn bà đáp: “Chắc y giả vờ đó. Trong nhà, con tiện nhân này làm gì có người tốt? Chém y một đao rồi khảo đả sau.” Bà chưa dứt lời, lưỡi đao trong tay trái đã nhằm bả vai Tiêu Phong chém xuống.
Đợi cho lưỡi đao còn cách nửa thước, chàng tay phải vươn ra dùng hai ngón tay kẹp lấy sống đao, thanh đao khựng lại ngay không chém xuống được nữa. Chàng vận chỉ lực đẩy về phía trước, đốc đao đập trúng yếu huyệt trên vai người đàn bà, lập tức bà ta không nhúc nhích được. Tiêu Phong tiện đà rung tay một cái, tiếng lách cách vang lên, thanh đao đã gãy đôi, Tiêu Phong quẳng luôn xuống đất, trước sau vẫn không ngẩng lên nhìn đối thủ.
Cô gái thấy mẹ bị chế ngự, cả kinh nhảy lùi lại, bắn veo véo luôn bảy mũi đoản tiễn vào Tiêu Phong. Tiêu Phong nhặt thanh đao gãy gạt được hết, lại vung tay ném ra, cán đao đập vào hông cô ta nghe bịch một tiếng. Cô gái kia rú lên, huyệt đạo cũng bị ném trúng, đứng sững như trời trồng.
Người đàn bà kinh hoảng hỏi: “Con có bị thương không?” Cô gái đáp: “Hông con đau lắm nhưng chưa đến nỗi bị thương. Má má ơi, con bị ném trúng huyệt Kinh Môn.” Người đàn bà đáp: “Ta bị điểm huyệt Trung Phủ. Người… người này võ công lợi hại quá.” Cô gái nói: “Má má! Gã này là ai thế? Y không đứng lên mà vẫn chế ngự được mẹ con mình, xem chừng có tà thuật.”
Người đàn bà không dám hung hăng nữa, đổi sang giọng dịu dàng nói với Tiêu Phong: “Mẹ con chúng tôi với tôn giả không thù không oán, vừa rồi mạo phạm ra tay càn rỡ, thật là có lỗi. Mong tôn giá rộng lượng nới tay cho.” Cô gái lập tức xen vào: “Không! Không! Ta thua thì thôi, hà tất phải năn nỉ hắn? Ngươi có giỏi thì chém chết bản cô nương đi, ta chẳng sợ đâu.”
Tiêu Phong chỉ lờ mờ nghe hai mẹ con nối, đại khái là người mẹ xin tha, còn cô con gái ngang tàng, nhưng họ nói những gì thì chàng không để vào tai. Lúc này trong nhà đã tối, một hồi nữa thì bóng đêm hoàn toàn bao phủ. Tiêu Phong trước sau vẫn bồng A Châu ngồi tại đó, không xê dịch chút nào. Bình thời chàng là người sáng suốt mẫn tiệp, gặp việc khó giải quyết đến đâu cũng quyết đoán rất mau lẹ, gặp việc không thể tra xét rõ ngay thì tạm gác một bên, không hề chần chừ do dự. Thế mà hôm nay lầm lỡ đánh chết A Châu, trong lòng chàng bị ai cực điểm, ngơ ngẩn không còn hồn vía, chẳng khác gì người điên khùng mất trí.
Người đàn bà khẽ bảo con: “Con thử vận khí tới huyệt Hoàn Khiêu xem sao, cố mà đả thông kinh mạch, giải huyệt bị phong tỏa.” Cô gái đáp: “Con đã thử rồi, chẳng ăn thua gì…” Người đàn bà đột nhiên nói: “Có người đến đó.”
Quả có tiếng chân loạt soạt, ai đó đã đẩy cửa vào, lại là một người đàn bà nữa. Người mới đến lấy hỏa đao, hóa thạch ra đánh lửa, châm ngọn đèn dầu xong, xoay người lại đột nhiên thấy Tiêu Phong, A Châu và hai người đàn bà kia, không khỏi kinh ngạc “A” lên một tiếng, chân tay bủn rủn, đồ đánh lửa rơi xuống nghe loảng xoảng. Thiếu phụ tới trước đột nhiên kêu lên: “Nguyễn Tinh Trúc, thì ra là ngươi!”
Người vào sau chính là Nguyễn Tinh Trúc. Bà ta quay đầu lại thấy một thiếu phụ trung niên, bên cạnh lại có một thiếu nữ mặc toàn đồ đen, cả hai đều khá đẹp, cô gái lại càng xinh xắn, bà chưa từng gặp bao giờ, Nguyễn Tinh Trúc nói: “Đúng đấy! Ta họ Nguyễn. Còn hai vị là ai?” Thiếu phụ bị điểm huyệt không chịu trả lời, mặt hầm hầm đầy vẻ tức tối.
Nguyễn Tinh Trúc quay lại nói với Tiêu Phong: “Kiều bang chủ! Các hạ đã đánh chết tiện nữ, lại còn tới đây làm chi? Tội nghiệp… tội nghiệp con tôi…” Bà vừa gọi vừa khóc rống lên, nhảy xổ lại ôm thi thể A Châu. Tiêu Phong vẫn ngồi thộn mặt ra mà nhìn, một lúc lâu mới nói: “Đoàn phu nhân! Ta gây nên tội nghiệt thâm trọng, xin phu nhân chém chết ta đi!” Nguyễn Tinh Trúc nói: “Ta có chém chết các hạ thì đứa con khốn khổ của ta cũng không sống lại được nữa. Kiều bang chủ! Các hạ trách ta và gia gia của A Châu đã làm một chuyện sai lầm rất đáng hổ thẹn, đến nỗi đứa trẻ phải một đời lênh đênh, không biết cả phụ mẫu thân sinh là ai. Các hạ trách thế là phải, có điều muốn tiết hận thì phải giết Đoàn vương gia, không thì giết ta, sao lại giết A Châu?”
Lúc này đầu óc Tiêu Phong thật là mê muội, phải một lúc sau chàng mới bàng hoàng hỏi lại: “Chuyện gì mà lại sai lầm rất đáng hổ thẹn?” Nguyễn Tinh Trúc vừa khóc vừa đáp: “Các hạ biết rồi sao còn hỏi tới hỏi lui? A Châu… A Châu và A Tử đều là con tư sinh của ta, không dám mang về nhà, đành phải đem cho người khác nuôi.”
Tiêu Phong run rẩy nói: “Hôm qua ta hỏi Đoàn Chính Thuần phải chăng đã làm một chuyện sai lầm đáng hổ thẹn, chính y đã thừa nhận. Chuyện đó chỉ là việc đem A Châu… và A Tử cho người khác nuôi hay sao?” Nguyễn Tinh Trúc nổi giận đáp: “Chuyện như thế còn chưa đủ đau thương ư? Ngươi nghĩ ta là thứ đàn bà tồi tệ, chuyên làm những chuyện xấu xa hơn nữa hay sao?” Tiêu Phong lại hỏi: “Hôm qua Đoàn Chính Thuần còn nói là Hôm nay ta được gặp lại đứa trẻ năm xưa không cha không mẹ. Đó là y nói về A Tử, không phải… không phải nói về ta hay sao?” Nguyễn Tinh Trúc giận dữ đáp: “Chàng nói về ngươi làm gì? Ngươi đâu có phải là đứa trẻ chàng bỏ rơi cho người ta nuôi? Ngươi… ngươi nói năng láo lếu gì thế? Ta đâu có đẻ ra cái loại súc sinh như ngươi?” Bà vừa thẹn vừa giận Tiêu Phong đến cực điểm, nhưng lại sợ võ công chàng ghê gớm nên không dám động thủ, chỉ động khẩu chửi cho sướng miệng.
Tiêu Phong nói: “Thế sao lúc ta hỏi y tại sao đến giờ phút này vẫn tiếp tục làm chuyện xấu, y lại thừa nhận hành sự không đoan chính, đức hạnh khiếm khuyết?” Nguyễn Tinh Trúc đang ràn rụa nước mắt bỗng dưng đỏ mặt, nói: “Trời sinh chàng có tính phong lưu, yêu hết người này đến người khác. Việc gì đến ngươi mà ngươi phải rỗi hơi xen vào?”
Tiêu Phong lẩm bẩm: “Sai rồi! Sai bét rồi!” Chàng lặng đi một lúc, đột nhiên giơ tay ra tát vào mặt mình luôn bốn cái thật mạnh kêu bôm bốp. Nguyễn Tinh Trúc hoảng hồn, nhảy vọt ra sau hai bước, thấy Tiêu Phong vẫn ra sức tự tát mình, chưởng nào chưởng nấy cực kỳ mãnh liệt, chỉ trong khoảnh khắc hai má đã sưng vù.
Bỗng nghe một tiếng “Ối chà” ngoài cửa, thêm một người bước vào kêu lên: “Má má đã tháo lấy bức thiếp…” Đó chính là A Tử. Nàng nói chưa dứt câu, bỗng thấy trong nhà đầy người, rồi lại thấy Tiêu Phong tay trái ôm xác A Châu, tay phải liên tiếp tự tát vào mặt, không khỏi kinh ngạc sững sờ.
Mặt Tiêu Phong sưng húp lên rồi dập vỡ ra, lập tức máu tươi văng tung tóe. Mặt mũi tay chân chàng đầy máu đã đành, ngay cả vách tường, bàn ghế, thi thể A Châu cũng vương vãi những điểm hồng.
Nguyễn Tinh Trúc không nỡ nhìn cảnh tượng ghê rợn đó, hai tay liền bưng lấy mặt, nhưng tai vẫn nghe những tiếng bốp bốp rùng rợn, nhịn không nổi bèn kêu lên: “Các hạ đừng đánh nữa, đừng đánh nữa!” A Tử cũng hét lên: “Chao ôi! Ngươi làm hỏng thủ bút của gia gia rồi, ta bắt đền đó !” Cô ta nhảy tót lên bàn, tháo bức thiếp lốm đốm máu trên tường xuống. Thì ra hai mẹ con cô ta quay trở lại chỉ cốt để đem bức bứt thiếp này đi.
Tiêu Phong giật mình, ngừng tay không tát nữa, hỏi lại: “Đại Lý Đoàn nhị viết bức thiếp đó quả thực là Đoàn Chính Thuần hay sao?” Nguyễn Tinh Trúc nói: “Không phải chàng thì còn ai vào đây nữa?” Bà ta nhắc đến Đoàn Chính Thuần, nét mặt bất giác lộ vẻ thâm tình, lại thêm mấy phần kiêu ngạo.
Lời bà ta nói đã giải quyết mấy nghi vấn trong đầu Tiêu Phong: bức thiếp này đúng là thủ bút của Đoàn Chính Thuần, phong thư gửi Uông bang chủ kia không phải của Đoàn Chính Thuần, Thủ lĩnh đại ca hiển nhiên không phải Đoàn Chính Thuần.
Trong lòng chàng liền nảy ra một ý niệm: “Mã phu nhân vu oan cho Đoàn Chính Thuần, bên trong hẳn có ẩn tình trọng đại. Nếu ta gỡ được chỗ thắt này thì mọi việc tự khắc lộ ra ngay.” Tiêu Phong nghĩ như vậy, lập tức bỏ ý định tự hủy thân mình. Vừa rồi, chàng tự tắt một hồi, tuy máu tươi chảy ra lênh láng, nhưng cũng nhờ đó mà phát tiết được đôi phần uất hận đau thương. Chàng bèn ôm xác A Châu đứng lên.
A Tử chợt thấy hai mảnh trúc ông viết để trên bàn, bật cười nói: “Ha ha! Thảo nào ngoài kia có hai cái huyệt, ta đang ngạc nhiên chưa hiểu. Thì ra ngươi định chết theo rồi chôn chung với chị ta, ái chà, quả thực cũng giống đa tình.” Tiêu Phong nói: “Ta trúng phải độc kế của gian nhân, đánh chết A Châu. Bây giờ ta phải đi báo thù cho nàng đã, sau đó mới yên tâm theo xuống suối vàng.” A Tử hỏi: “Kẻ gian đó là ai thế?” Tiêu Phong nói: “Hiện giờ ta cũng chưa biết, còn phải điều tra.” Chàng nói xong liền bước ra, tay vẫn ôm A Châu, A Tử cười nói: “Ngươi cứ ôm thi thể tỉ tỉ ta mà đi tìm kẻ gian ư?”
Tiêu Phong ngẩn người ra một lúc, chưa biết tính sao. Chàng nghĩ đến chuyện ôm xác A Châu đi xa diệu vợi hàng nghìn dặm, quả là bất tiện, nhưng bỏ nàng lại thì không nỡ. Chàng bần thần nhìn A Châu, nước mắt pha lẫn máu trên mặt nhỏ xuống thành những giọt hồng, rơi trên khuôn mặt trắng bệch của A Châu, đúng là huyết lệ đầm đìa.
Nguyễn Tinh Trúc thấy chàng thương tâm quá đỗi, bao nhiêu căm hờn đều tiêu tan hết, bèn khuyên giải: “Kiều bang chủ! Việc đã lỡ rồi, không vãn hồi được nữa. Các hạ hãy… hãy…” Vốn dĩ bà định khuyên Tiêu Phong bớt nỗi bi thương, nhưng chính mình lại nhịn không nổi khóc òa lên, nức nở nói: “Trăm điều cũng tại ta, ta thật chẳng ra gì… đứa con ngoan ngoãn thế kia sao lại đem cho người khác?”
Thiếu nữ bị Tiêu Phong điểm huyệt bỗng xen vào: “Đương nhiên là người thật chẳng ra gì! Phu phụ người ta đang vui vầy, sao ngươi lại đâm vào tranh cướp để gây nỗi chia ly?” Nguyễn Tinh Trúc ngẩng đầu lên nhìn thiếu nữ rồi hỏi: “Sao cô nương lại nói thế? Cô là ai?” Thiếu nữ đáp: “Ngươi thật là giống hồ ly yêu quái, làm má má ta khốn khổ, làm cả ta.”
A Tử xông tới vung tay toan tát vào mặt cô gái. Cô kia không cử động được, chẳng thể nào tránh né. Nguyễn Tinh Trúc giơ tay lên gạt con ra rồi nói: “A Tử, không được lỗ mãng thế!” Bà quay sang nhìn thiếu phụ kia lần nữa, thấy thanh đao trong tay bà ta, dưới đất cũng có một thanh đao gãy, lập tức hiểu ra nói: “Phải rồi! Bà sử dụng song đao, bà… bà… là Tu la đao Tần Hồng Miên… Tần tỉ tỉ.”
Thiếu phụ đó chính là Tu la đao Tần Hồng Miên, một tình nhân của Đoàn Chính Thuần. Thiếu nữ áo đen kia là Mộc Uyển Thanh, con gái bà ta. Tần Hồng Miên không oán trách Đoàn Chính Thuần ong bướm vật vờ, đi đến đâu vương tình đến đó. Bà lại thù hận những người đàn bà khác trăng hoa quyến rũ, chiếm đoạt mất tình lang. Khi được sư muội Cam Bảo Bảo cho hay tin tức, bà liền dẫn con gái Mộc Uyển Thanh đi hành thích vợ Đoàn Chính Thuần là Đao Bạch Phượng và một người tình nhân khác, kết quả chẳng được gì. Về sau bà lại biết Đoàn Chính Thuần còn một người yêu khác là Nguyễn Tinh Trúc, ẩn cư nơi Phương Trúc Lâm gần Tiểu Kính Hồ, lại dắt con gái đến tìm giết.
Tần Hồng Miên thấy Nguyễn Tinh Trúc đã nhận ra mình, bèn quát lên: “Phải đó! Ta đây là Tần Hồng Miên. Ai cho con tiện nhân kia gọi ta là tỉ tỉ?”
Nguyễn Tinh Trúc chưa hiểu Tần Hồng Miên đến đây để làm gì, lại sợ kẻ tình địch này gặp lại Đoàn Chính Thuần rồi nối lại duyên xưa, bèn cười nói: “Phải lắm, ta nói sai rồi. Ngươi còn ít tuổi hơn ta, nhan sắc nguyệt thẹn hoa nhường như thế, thảo nào Đoàn lang mê mẩn. Ngươi là muội muội của ta, không phải tỉ tỉ. Tần muội tử, Đoàn lang ghi lòng tạc dạ ngày nào cũng tưởng nhớ ngươi, ta thật thèm cái phúc phận của muội tử.”
Tần Hồng Miên nghe Nguyễn Tinh Trúc khen mình trẻ tuổi xinh đẹp, lửa giận trong bụng đã bớt được ba phần, đến khi nghe kể Đoàn Chính Thuần ngày ngày tưởng nhớ mình, lửa giận lại giảm thêm ba phần nữa, bèn nói: “Ta vốn không ưa những kẻ chuyện trò thơn thớt như ngươi, chỉ cốt cho người ta mát lòng mát dạ.”
Nguyễn Tinh Trúc lại nói: “Còn vị cô nương này có phải là lệnh ái chăng? Ái chà, thật là một vị thiên kim nhan sắc khuynh thành. Sao Tần muội tử lại sinh được cô gái xinh đẹp đến thế…”
Tiêu Phong thấy hai bà lải nhải toàn chuyện gió trăng, không muốn nghe thêm nữa. Chàng là một trang hảo hán hành động dứt khoát, không ưa dài dòng. Chuyện đau lòng đã qua, lập tức nghĩ ngay đến những việc phải làm.
Chàng ôm thi thể A Châu ra huyệt, đặt nàng xuống, đưa hai bàn tay hộ pháp ra bốc đất từ từ rắc lên người nàng, còn chừa hở mặt. Đôi mắt Tiêu Phong chăm chăm nhìn xác A Châu, chỉ vài vốc đất nữa là vĩnh viễn không còn được thấy nàng. Bên tai chàng tựa hồ còn văng vẳng lời nàng ước hẹn ra ngoài quan ải cưỡi ngựa săn thú, thả cừu chăn bò, bầu bạn với mình. Mới hôm qua, hai người còn nói với nhau những chuyện thâm tình, khi thì nghịch ngợm, lúc lại nghiêm trang đứng đắn, từ nay không bao giờ còn được nghe nữa. Giấc mơ cùng nhau chăn bò, thả cừu ở ngoài quan ải nay đã trở thành một trường ảo mộng.
Tiêu Phong quì cạnh huyệt một hồi lâu, không đủ can đảm vùi đất xuống mặt A Châu. Đột nhiên chàng đứng bật dậy, hú lên một tiếng dài, không nhìn nàng nữa, hai tay hất hết đất ở bên cạnh huyệt xuống, vun thành nấm mộ rồi quay phắt lại đi vào nhà.
Lúc này Nguyễn Tinh Trúc cùng Tần Hồng Miên đã chị chị em em nói năng ríu rít. Nguyễn Tinh Trúc tuy vừa gặp cảnh đau lòng, nhưng miệng vẫn trơn như mỡ, đưa đẩy cho Tần Hồng Miên hết sức vui lòng, bao nhiêu hiềm khích đều tiêu giải. Nguyễn Tinh Trúc quay ra nói: “Kiều bang chủ! Mẹ con vị muội tử này vô tâm mà đắc tội, xin các hạ giải huyệt cho.”
Nguyễn Tinh Trúc là thân mẫu A Châu, Tiêu Phong dĩ nhiên nể lời. Huống chi chàng đã có ý định tha cho hai người kia, bèn lại gần giơ tay vỗ vào vai Tần Hồng Miên và Mộc Uyển Thanh. Hai người thấy một luồng nhiệt khí từ bả vai xung thẳng xuống huyệt đạo bị phong tỏa, chân tay lập tức cử động bình thường. Hai mẹ con đưa mắt nhìn nhau, trong lòng không khỏi bội phục. Tiêu Phong quay sang A Tử nói: “A Tử muội tử, cho ta mượn coi bức thiếp của gia gia cô một chút.” A Tử đáp: “Ta không thích ngươi gọi ta một điều muội tử, hai điều muội tử.” Nói vậy thì nói, nhưng cô vẫn cầm bức bút thiếp đưa cho Tiêu Phong.
Chàng mở ra, lại xem kỹ bút tích Đoàn Chính Thuần mấy lượt. Nguyễn Tinh Trúc mặt đỏ bừng, thẹn thùng nói: “Có gì mà phải xem kỹ thế?” Tiêu Phong hỏi lại: “Hiện giờ Đoàn vương gia ở đâu?” Nguyễn Tinh Trúc mặt biến sắc ngay, lùi lại hai bước, ấp úng nói: “Thôi… Thôi!… Các hạ đừng đi tìm y nữa.” Tiêu Phong nói: “Ta không kiếm y để làm khó dễ, chỉ muốn hỏi mấy điều thôi.” Nguyễn Tinh Trúc không dám tin, nói: “Các hạ đã lỡ tay đánh chết A Châu là đủ rồi, đừng đi tìm y làm gì nữa.”
Tiêu Phong hiểu rằng bà ta không dám nói ra, không hỏi thêm nữa, cuộn bức thiếp lại trao trả A Tử rồi nói: “A Châu có di ngôn, nhờ ta trông nom cho em nàng là Tử muội. Đoàn phu nhân! Nếu sau này A Tử gặp chuyện khó khăn, việc gì Tiêu mỗ có thể làm được xin cứ cho biết, quyết không từ chối.”
Nguyễn Tinh Trúc cả mừng nghĩ bụng: “A Tử có một người bản lĩnh như thế mà nương tựa, thì ra gặp dữ hóa lành.” Bà liền đáp: “Thế thì xin đa tạ. A Tử, mau mau tạ ơn Kiều đại ca đi.” Bà ta đổi ngay “Kiều bang chủ” thành “Kiều đại ca” để cho chàng cùng A Tử thêm phần thân thiết.
Thế nhưng A Tử chỉ bĩu môi nói: “Con chẳng cần y giúp đỡ. Sư phụ con vô địch thiên hạ rồi, lại còn vô số sư ca, con sợ gì ai khinh miệt? Y ốc không mang nổi mình ốc, việc của mình còn làm chưa xong, còn mong gì giúp con? Hứ, không chừng có y càng thêm hỏng chuyện.” Cô ta mồm năm miệng mười nói năng khoác lác, mấy lần Nguyễn Tinh Trúc đưa mắt ngăn lại, vẫn vờ như không thấy.
Bà ta dậm chân nói: “Hừ! Con nhỏ này nói năng hỗn láo chẳng biết trên dưới gì cả. Kiều bang chủ! Xin các hạ nghĩ đến A Châu, đừng để bụng làm gì.” Tiêu Phong đáp: “Tại hạ họ Tiêu, không phải họ Kiều.” A Tử lại xen vào: “Má má thấy chưa, thằng cha này đến họ mình cũng không rõ, quả đúng là điên khùng…” Nguyễn Tinh Trúc quát lên: “A Tử!…”
Tiêu Phong vài chào, nói: “Xin từ biệt.” Chàng quay lại bảo Mộc Uyển Thanh: “Đoàn cô nương! Cô đừng dùng thứ ám khí độc địa này nữa, nếu gặp phải đối thủ bản lĩnh hơn cô thì không những vô ích mà còn hại đến mình.” Mộc Uyển Thanh chưa kịp trả lời, A Tử lại chõ mỏ vào: “Tỉ tỉ đừng nghe y nói nhăng nói cuội. Ám khí phóng ra cùng lắm là không trúng đối phương, sao lại có hại được?”
Tiêu Phong không trả lời, xoay mình đi ra. Lúc chân bước qua ngạch cửa, tay áo bên phải chàng nhất một cái, kình phong quạt bảy mũi đoản tiễn lúc nãy Mộc Uyển Thanh ném còn nằm dưới đất bay vụt lên, bắn thẳng vào A Tử nhanh như chớp. Cô nàng chỉ kêu được một tiếng “Ối chao!”, không sao tránh kịp. Bảy mũi tên bay sượt qua đỉnh đầu, cổ, thân mình A Tử, cắm cả vào bức tường phía sau lút đến tận chuôi.
Nguyễn Tinh Trúc vội vàng chạy tới ôm lấy A Tử, hốt hoảng kêu lên: “Tần muội tử! Mau lấy thuốc giải ra đây.” Tần Hồng Miên hỏi dồn: “Bị thương ở đâu? Bị thương ở đâu?” Mộc Uyển Thanh vội thò tay vào bọc lấy thuốc giải, đến xem vết thương của A Tử.
Một lát sau, A Tử hoàn hồn mới nói: “Không… không bắn trúng con.” Bốn người đàn bà lúc ấy mới nhìn lên bảy mũi đoản tiễn trên tường, ai nấy cả kinh thất sắc.
Thì ra Tiêu Phong nghĩ đến A Châu di ngôn dặn chàng chiếu cố cho A Tử, nhưng nghe nàng ta nói “Sư phụ con vô địch thiên hạ rồi, lại còn vô số sư ca, con sợ gì ai khinh miệt?” nên mới phất tay áo dùng tụ phong bắn tên dọa A Tử một phen, để nàng biết trời cao đất dày, đừng khinh thường anh hùng hảo hán trong thiên hạ mà rước lấy đau khổ về mình.
Tiêu Phong ra khỏi rừng trúc, đến bên bờ hồ, tìm một cây to cành lá rậm rạp bên cạnh đường, nhảy lên ngồi nấp. Chàng muốn gặp Đoàn Chính Thuần để điều tra vì cớ gì Mã phu nhân cố ý vu oan, nhưng vì Nguyễn Tinh Trúc không cho biết, đành phải tự mình ngấm ngầm theo dõi ông ta đang ở đâu.
Chẳng mấy chốc đã thấy hai mẹ con Tần Hồng Miên đi ra trước, hai mẹ con Nguyễn Tinh Trúc theo sau, hình như đang tiễn khách. Bốn người ra đến bờ hồ, Tần Hồng Miên nói: “Nguyễn tỉ tỉ! Chúng ta mới gặp lần đầu mà như đã quen lâu, bao nhiêu hiềm khích cũ từ nay bỏ hết, thế là bớt được một mối hận lòng. Bây giờ muội muốn đi kiếm con tiện tì họ Khang, tỉ tỉ có biết ả ở đâu không?” Nguyễn Tinh Trúc ngạc nhiên hỏi lại: “Muội tử đi kiếm mụ ta làm gì?” Tần Hồng Miên hậm hực đáp: “Muội với Đoàn lang đang ân ái nồng nàn, thì bị con tiện tì yêu tinh đó giở trò mê hoặc…” Nguyễn Tinh Trúc ngẫm nghĩ rồi đáp: “Con tiện nhân… Khang… Khang Mẫn đó, ta thật không biết nó ở đâu. Nếu muội tử tìm thấy ả thì chém thêm vài đao giúp ta.” Tần Hồng Miên đáp: “Cái đó không cần phải nói, chỉ sợ khó mà tìm được. Thôi xin từ biệt, sẽ gặp lại sau. Nếu tỉ tỉ gặp Đoàn lang…” Nguyễn Tinh Trúc chột dạ hỏi: “Gặp y thì sao?” Tần Hồng Miên đáp: “Tỉ tỉ thay mặt muội tát y hai cái thật mạnh, một cái phần muội, một cái phần Uyển nhi”.
Nguyễn Tinh Trúc bật cười nói: “Ta làm sao mà tìm được cái gã chết tiệt lòng lang dạ sói đó? Nếu muội tử gặp được y, cũng đánh giùm ta hai cái, một cái phần ta, một cái phần A Tử. Không được, tát tai chưa đủ, phải đá y thêm hai cái vào mông nữa. Sinh con ra chẳng ngó ngàng gì đến, để mẹ con chúng ta cô khổ lênh đênh…” Bà nói đến đây lại sụt sùi, Tần Hồng Miên an ủi: “Tỉ tỉ đừng đau lòng nữa. Để hai mẹ con muội tìm giết được con tiện tì họ Khang rồi sẽ quay lại bầu bạn với tỉ tỉ.”
Tiêu Phong nấp trên cây, nghe rõ ràng hai người đối thoại. Chàng nghĩ thầm, Đoàn Chính Thuần võ công không tệ, đối với bạn bè có nhân có nghĩa, có điều đam mê nữ sắc, mất cả khí phách anh hùng. Chỉ thấy Tần Hồng Miên cùng Mộc Uyển Thanh hành lễ từ biệt mẹ con Nguyễn Tinh Trúc rồi ra đi, Nguyễn Tinh Trúc cũng dắt tay A Tử trở về khu rừng trúc.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc chắn là Nguyễn Tinh Trúc đi kiếm Đoàn Chính Thuần, nhưng không muốn cho Tần Hồng Miên đi theo. Lúc đầu bà ta bảo là trở lại lấy bức thiếp, Đoàn Chính Thuần chắc đang ở một nơi không xa. Ta cứ đợi ở đây là đúng.”
Bỗng trong lùm cây có tiếng động nhỏ, hai người vận y phục đen rón rén bước ra, chính là mẹ con Tần Hồng Miên quay trở lại. Tần Hồng Miên hạ giọng bảo con: “Uyển nhi! Con thật là vô tâm, mắc lừa người ta một cách dễ dàng. Trong phòng ngủ Nguyễn tỉ tỉ ở dưới gầm giường có đôi giày đàn ông, đầu mũi giày có thêu hai chữ bằng vàng, chân trái có một chữ Sơn, chân phải có một chữ Hà, chính là giày của gia gia con. Đôi giày còn mới, mà gót giày lại dính bùn chưa khô. Xem thế cũng biết ngay là gia gia con ở đâu quanh đây.” Mộc Uyển Thanh nói: “A, hóa ra bà ấy nói dối mẹ con mình.” Tần Hồng Miên nói: “Phải rồi! Đời nào bà ta dám để con người bạc bẽo kia gặp mẹ con ta?” Mộc Uyển Thanh nói: “Gia gia đã là người bạc bẽo vô lương tâm, má má chẳng cần gặp làm chi nữa!”
Tần Hồng Miên lặng lẽ hồi lâu mới đáp: “Ta muốn nhìn thấy y, nhưng lại không muốn để y nhìn thấy ta. Bao nhiêu năm qua, chắc y đã già đi nhiều, mà má má ngươi cũng già rồi còn gì.” Mấy câu nói thật là bình dị nhưng bên trong chứa chất đầy nỗi thâm tình.
Mộc Uyển Thanh đáp: “Phải đấy!” Thanh âm nàng cũng đầy vẻ thê lương. Từ khi chia tay Đoàn Dự đến nay, lòng nhớ nhung mỗi ngày một tăng, nhưng nàng biết rằng chuyện chẳng đến đâu, nên không hở ra chút tâm sự gì với mẹ.
Tần Hồng Miên nói: “Mẹ con mình mình ở đây, chắc chẳng bao lâu gia gia sẽ tới.” Nói xong, bà vạch đám cỏ cao ẩn thân vào trong, Mộc Uyển Thanh cũng nấp sau một gốc cây.
Dưới ánh sao lờ mờ, Tiêu Phong thấy khuôn mặt trắng trẻo của Tần Hồng Miên thoáng hiện sắc hồng, hiển nhiên đang xúc động. Chàng nghĩ thầm: “Tình ái quả là lụy con người”, lại chợt nhớ đến A Châu, trong lòng không khỏi tê tái.
Chẳng bao lâu lại có tiếng chân người vội vã đi tới, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Thân pháp này không phải của Đoàn Chính Thuần, có lẽ là thuộc hạ ông ta”. Quả nhiên khi đến gần, chàng nhận ra người ngồi vẽ trên cầu, chính là Chu Đan Thần.
Nguyễn Tinh Trúc cũng nghe thấy tiếng chân nhưng không phân biệt được, lại tưởng là Đoàn Chính Thuần nên vội cất tiếng gọi: “Đoàn lang! Đoàn lang!”, vừa gọi vừa chạy ra nghênh tiếp, A Tử lẽo đẽo theo sau. Chu Đan Thần cúi rạp xuống nói: “Chúa công sai thuộc hạ về bẩm báo là người có việc gấp, hôm nay không trở lại đây được.”
Nguyễn Tinh Trúc ngạc nhiên hỏi lại: “Chuyện gì mà gấp thế? Bao giờ chàng mới trở lại?” Chu Đan Thần đáp: “Việc này có liên quan đến nhà Cô Tô Mộ Dung, dường như đã phát hiện tung tích Mộ Dung công tử. Chúa công đi xa muôn dặm chỉ cốt để tìm người này. Chúa công có dặn: khi nào đại sự xong xuôi sẽ quay về Tiểu Kính Hồ đoàn tụ, phu nhân bất tất phải trông chờ.” Nguyễn Tinh Trúc nước mắt chảy quanh, nghẹn ngào nói: “Lần nào y ra đi cũng nói là quay lại ngay, mà lần nào cũng ba năm, năm năm không thấy mặt. Ta biết trông chờ đến bao giờ?”
Chu Đan Thần rất căm phẫn về việc A Tử trêu Chử Vạn Lý đến nỗi y uất lên mà liều chết, nên không muốn ở lâu, chuyển lời của Đoàn Chính Thuần xong là nghiêng mình thi lễ rồi trở gót cắm đầu đi thẳng, từ đầu chí cuối không hề nhìn đến A Tử.
Nguyễn Tinh Trúc đợi gã đi xa rồi, nói nhỏ với A Tử: “Khinh công của con giỏi hơn ta nhiều, mau mau theo dõi y. Nhớ ghi lại ký hiệu cho ta biết đường theo sau.” A Tử lại nhõng nhẽo cười nói: “Má má bảo con theo dõi gia gia, thế có thưởng gì cho con không nào?” Nguyễn Tinh Trúc đáp: “Bất luận cái gì của ta cũng là của con hết, còn gì đâu mà thưởng?” A Tử nói: “Được rồi! Con đi tới đâu sẽ viết một chữ Đoàn vào góc tường rồi vẽ một mũi tên, má má cứ thế mà theo.” Nguyễn Tinh Trúc ôm vai con vui mừng nói: “Con gái ngoan quá!” A Tử cười đáp: “Má má đa tình quá!” Cô ta nhổm dậy, chạy đuổi theo Chu Đan Thần.
Nguyễn Tinh Trúc đứng bên bờ hồ một chốc, rồi theo đường mòn mà đi. Bà ta đi đã xa rồi, mẹ con Tần Hồng Miên mới hiện thân, vỗ tay ra hiệu cho nhau, rón rén đuổi theo.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Dọc đường A Tử đã ghi ký hiệu, việc đi tìm Đoàn Chính Thuần không còn khó nữa.” Chàng bước được mấy bước, chợt thấy ánh trăng soi bóng mình dưới hồ cô đơn hiu quạnh, trong lòng lại tê tái thê lương, muốn quay lại rừng trúc ngồi bên mộ A Châu một lát. Nhưng chàng nghĩ lại, hào khí bốc lên, tung một chưởng xuống mặt hồ làm nước bắn tung tóe, bóng hình dưới nước cũng tan thành muôn mảnh. Tiêu Phong hú lên một tiếng dài rồi cất bước đuổi theo.
Ngày đi đêm nghỉ, suốt mấy ngày liền chàng uống rượu nhiều mà ăn chẳng bao nhiêu, đến thị trấn nào cũng thấy đây đó trên những góc tường có chữ “Đoàn” và mũi tên A Tử để lại. Cũng có chỗ Nguyễn Tinh Trúc xóa đi, nhưng dấu vết vẫn dễ nhận ra.
Mọi người vẫn bám theo nhau tiến về hướng bắc, tiết trời lạnh dần. Một hôm Tiêu Phong mới ra khỏi cửa thì trời đổ một trận tuyết lớn. Chàng đi đến trưa, ghé một quán rượu uống một lèo mười hai, mười ba bát vẫn chưa đã thèm nhưng rượu trong quán đã hết nhẫn. Chàng cụt hứng bỏ đi, một lúc sau đến một tòa thành lớn, Tiêu Phong tới gần liền sửng sốt, thì ra đó chính là thành Tín Dương.
Dọc đường chàng chỉ mải nhìn ký hiệu A Tử để lại, lại thêm tâm sự ngổn ngang, chẳng để ý gì đến phong cảnh cùng nhân vật chung quanh, thành thử quay lại Tín Dương lúc nào cũng không hay. Kể ra thì chàng tìm Đoàn Chính Thuần dễ như trở bàn tay, chỉ cần rảo bước nửa ngày là đủ. Thế nhưng từ khi A Châu chết đi, đầu óc chàng cứ bâng khuâng, chẳng biết làm gì cho hết ngày giờ, Tiêu Phong cứ nghĩ: “Đuổi kịp Đoàn Chính Thuần rồi làm gì? Tìm được chính phạm, báo thù xong rồi sao nữa? Một mình ta ra ngoài quan ải, săn thú chăn bò trong sa mạc hay làm gì nữa? Những việc đó không có chi là gấp rút.” Thành thử chàng cũng không quyết đuổi cho nhanh.
Tiêu Phong vào thành Tín Dương, thấy dưới chân tường có một chữ Đoàn vẽ bằng than, bên cạnh có mũi tên chỉ hướng tây. Chàng lại cảm thấy trong lòng chua xót, nhớ đến hôm nào mình sánh vai A Châu cùng đi đến phía tây thành Tín Dương tìm nhà Mã phu nhân để hỏi thăm tin tức. Hôm nay hồi tưởng lại, quả là hôm đó mỗi bước của A Châu chẳng khác gì một bước đi xuống âm ty.
Chàng ra khỏi cửa tây, đi thêm năm sáu dặm. Trên trời gió bấc từng đợt cuốn tuyết bay mù mịt.
Ký hiệu A Tử để lại vẫn chỉ hướng tây, dấu hiệu nào cũng mới viết chưa lâu. Chỗ sau cùng, cô bóc vỏ cây ra khắc chữ vào thân cây, nhựa trên vết đao hãy còn ướt. Ký hiệu này chỉ thẳng đến nhà Mã Đại Nguyên, Tiêu Phong càng lấy làm kỳ, tự hỏi: “Phải chăng Đoàn Chính Thuần biết Mã phu nhân hãm hại y nên đến tìm bà ta thanh toán? Đúng rồi! Lúc A Châu hấp hối nơi cầu đá xanh, nói chuyện với ta đã nhắc đến Mũ phu nhân, hẳn là A Tử nghe được mà kể với gia gia. Thế nhưng bọn ta chỉ nói là Mã phu nhân, làm sao họ biết chính là vị Mã phu nhân này?”.
Dọc đường chàng cứ như người mất hồn, bây giờ gặp chuyện cổ quái, lập tức phấn chấn tinh thần, khôi phục được cảm giác như sắp giao phong với kình địch. Tiêu Phong thấy bên đường có một ngôi miếu hoang, lập tức chui vào đóng cửa lại, lăn ra ngủ ba giờ liền. Vào khoảng canh hai chàng mới ra khỏi miếu, tiến về phía nhà Mã phu nhân.
Gần tới nơi, chàng nấp sau gốc cây quan sát kỹ chung quanh, bỗng nhếch mép mỉm cười. Trên mái nhà phía đông bắc có hai người nằm phục, nhìn kỹ thì ra Nguyễn Tinh Trúc và A Tử. Kế đó chàng lại phát hiện mẹ con Tần Hồng Miên nấp trên nóc nhà phía đông nam. Lúc đó bão tuyết chưa dứt, bốn người phụ nữ đều bị phủ một lớp tuyết trắng. Trong nhà, cửa sổ phòng phía đông le lói ánh sáng, nhưng tứ bề vẫn lặng ngắt như tờ. Tiêu Phong bẻ một cành cây ném về phía tây, rơi xuống nghe cạch một tiếng nhỏ. Cả bốn người đang nấp đều nhìn về phía có tiếng động, Tiêu Phong nhẹ nhàng nhảy xuống, lạng người tới bên cửa sổ phòng phía đông.
Tiết trời giá lạnh đến mức đất đông thành đá, nên cửa sổ nhà họ Mã đều đóng ván gỗ kín bên ngoài. Tiêu Phong đợi một cơn gió đập vào cửa sổ, liền nhẹ nhàng vỗ một cái, chưởng phong hòa với gió trời đập mạnh vào ván cửa lên lách cách, tấm ván liền nứt ra một khe hở, giấy dán tường bên trong cũng rách một đường. Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc tuy nấp gần đó, nhưng chưởng phong lẫn trong gió bấc nên không phát giác, nếu có người trong phòng cũng không thể biết được. Tiêu Phong ghé mắt qua khe ván nhìn vào bên trong, bất giác ngẩn ngơ, dường như không tin vào mắt mình được nữa.
Rõ ràng Đoàn Chính Thuần mặc quần áo ngủ ngồi xếp bằng trên giường, tay cầm chén rượu cười hề hề, đang nhìn một người đàn bà ngồi ở trường kỷ bên cạnh.
Người đàn bà đó mặc toàn màu trắng, trên mặt phơn phớt một lớp phấn mỏng, đầu mày cuối mắt đầy vẻ xuân tình, đôi mắt ướt rượt đang liếc xéo Đoàn Chính Thuần, tựa như cười mà không phải cười, tựa như giận mà không phải giận. Người này chính là Mã phu nhân, quả phụ của Mã Đại Nguyên.
Giả tỷ Tiêu Phong không tận mắt chứng kiến tình cảnh trong nhà, thì dù bất cứ ai kể lại chàng cũng cho là chuyện hoang đường bịa đặt. Tiêu Phong đã gặp Mã phu nhân lần đầu nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, sau đó còn gặp hai lần nữa, lúc nào cũng thấy mặt bà lạnh như băng khó mà mạo phạm, ngay cả nụ cười của bà, chàng cũng chưa thấy bao giờ. Kỳ lạ hơn nữa, chắc chắn bà ta phải có thâm thù đại hận với Đoàn Chính Thuần mới dùng lời hãm hại, thế mà trong nhà xuân ý triền miên, rượu chuốc hương nồng, bốn mắt đưa tình đầy vẻ yêu thương, có gì là thù là oán đâu?
Trên bàn có một bình hoa mai lớn, dưới giường lò than đang đỏ. Áo của Mã phu nhân không cài khuy cổ để lộ làn da trắng ngần, hở cả một nửa chiếc yếm đào. Cạnh giường đốt một đôi bạch lạp, ánh nến bập bùng chiếu lên khuôn mặt ửng hồng. Bên ngoài gió lộng tuyết rơi, nhưng trong nhà thực là tình xuân nồng đượm.
Đoàn Chính Thuần gọi: “Lại đây, lại đây! Uống với ta một chén nữa cho thành đôi thành lứa.” Mã phu nhân nũng nịu “hứ” một tiếng rồi nói: “Thành đôi thành lứa cái gì? Người ta cô đơn lạnh lẽo ở đây, đêm mong ngày nhớ, lúc nào cũng mơ tưởng đến kẻ oan gia, còn chàng… chàng… biến đâu mất dạng, có thăm hỏi người ta được câu nào đâu?” Nói đến đây, mắt nàng rưng rưng tưởng chừng sa lệ.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bà ta thật chẳng khác gì Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, chắc là dan díu với Đoàn Chính Thuần từ lâu rồi.”
Đoàn Chính Thuần dịu giọng đáp: “Ta ở Đại Lý, có ngày nào không nhớ nhung Tiểu Khang yêu quí của ta đâu? Ta chỉ hận không có cánh mà bay tới ôm nàng vào lòng, yêu nàng một lúc. Hôm nghe tin nàng thành hôn cùng Mã phó bang chủ, ta bỏ ăn bỏ ngủ mất ba ngày. Khi nàng đã có chỗ có nơi, nếu còn tới lui thăm viếng chẳng hóa ra liên lụy đến nàng hay sao? Mã phó bang chủ là một vị anh hùng thân phận tôn cao trong Cái Bang, nếu ta vẫn chàng màng với nàng thì té ra coi y chẳng ra gì, mình hóa thành kẻ tiểu nhân đê tiện.”
Mã phu nhân nói: “Ai thèm chàng đến để vui vậy? Thiếp chỉ lo lắng chẳng hiểu chàng có bình yên không, trong lòng có sảng khoái không, chuyện lớn chuyện nhỏ có xuôi chèo mát mái không? Chỉ mong chàng vô sự là thiếp yên lòng, cuộc đời còn được đôi chút ý vị. Chàng ở tận Đại Lý xa xăm, thiếp muốn nghe ngóng tin chàng đâu có dễ dàng? Thân thiếp thì tại Tín Dương, nhưng trái tim thiếp có giờ nào khắc nào không bên chàng đâu?”
Nàng ta càng nói càng thấp giọng, thanh âm vẫn ra vẻ tự nhiên không cố ý mê hoặc ai, thế mà vừa nũng nịu vừa hờn mát, vừa nhẹ nhàng lại vừa trách móc, ai nghe lọt vào tai cũng phải bần thần như kẻ mất hồn. Tiêu Phong đã từng gặp biết bao phụ nữ, nhưng không ngờ trên đời này lại có người nói chuyện quyến rũ đến thế, tuy đang kinh ngạc mà mặt cũng phải đỏ lên. Chàng đã gặp mấy cô tình nhân của Đoàn Chính Thuần, mỗi người một vẻ phong lưu, Tần Hồng Miên thẳng thắn bộc trực, Nguyễn Tinh Trúc xinh đẹp yêu kiều, còn Mã phu nhân thì lại rất ư là mềm mỏng nhu mì.
Đoàn Chính Thuần là người trong cuộc hẳn càng mê mẩn, mặt tươi như hoa, đưa tay kéo nàng vào lòng. Mã phu nhân “hứ” một tiếng, giả vờ chống cự đẩy ra.
Tiêu Phong chau mày, không muốn nhìn hai người sàm sỡ nữa, chợt nghe bên cạnh có tiếng chân người đạp lên tuyết kêu lép bép. Chàng than thầm: “Hỏng bét! Hai mụ này mà xông vào đánh ghen thì hỏng hết đại sự của ta”, Tiêu Phong lạng đi như một cơn gió ra sau bọn Tần Hồng Miên, giơ tay điểm huyệt cả bốn người.
Chưa kịp nhận ra thủ đoạn của ai thì bốn người đã không nhúc nhích được nữa. Lần này Tiêu Phong điểm luôn á huyệt cho họ không lên tiếng được. Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nằm lăn trên tuyết lạnh, nghe tình lang thù thì thủ thỉ cùng con hồ ly tinh trong phòng ấm áp, cơn ghen nổi dậy bừng bừng, nhưng chẳng làm gì được.
Tiêu Phong lại ghé mắt vào khe cửa, thấy Mã phu nhân ngồi bên cạnh Đoàn Chính Thuần, đầu tựa vào vai y, người mềm nhũn như không có xương sống, mở tóc dài đen nhánh xõa ra che nửa mặt tình lang. Bà lim dim mắt nói: “Phu quân thiếp bị người ta giết hại, chắc chàng cũng biết, thế mà không tới hỏi thăm một chút. Trượng phu thiếp không còn, chàng có phải tị hiềm gì nữa đâu?” Thanh âm vừa trách cứ vừa nhõng nhẽo.
Đoàn Chính Thuần cười nói: “Thì ta đã đến đây rồi! Ta được tin là lập tức đi suốt ngày đêm, từ Đại Lý tới đây ngựa không ngừng vó, chỉ sợ chậm mất một bước.” Mã phu nhân hỏi lại: “Đến chậm thì đã làm sao mà phải vội thế?” Đoàn Chính Thuần mỉm cười: “Ta chỉ sợ nàng không chịu nổi cô đơn tịch mịch mà vội lấy người khác, thì Đại Lý Đoàn Nhị này rong ruổi uổng công, mười năm tương tự trôi theo dòng nước.” Mã phu nhân hứ một tiếng nói: “Ái chà! Chàng lại vu cho người ta không chịu nổi cô đơn tịch mịch ư? Chàng có nhớ gì tới thiếp đâu, dám leo lẻo những gì mười năm tương tư không biết ngượng miệng hay sao?”
Đoàn Chính Thuần hai tay ôm nàng ta càng chặt thêm, cười nói: “Giả tỷ ta không nhớ nàng thì lặn lội từ Đại Lý tới đây làm gì?” Mã phu nhân mỉm cười: “Thôi được, cứ cho là chàng có nhớ thiếp đi. Đoàn lang ơi, từ nay chàng định sắp đặt cho thiếp thế nào?” Nói đến đây bà ta vòng hai tay quanh cổ Đoàn Chính Thuần, kề má mình vào mặt ông ta cọ nhè nhẹ, làn sóng tóc dài bập bềnh như sóng nước.
Đoàn Chính Thuần nói: “Hôm nay có rượu hôm nay uống, chuyện tương lai nói tới làm chi cho sớm? Nàng để ta bế thử xem mười năm xa cách có nhẹ đi tí nào không, hay lại nặng hơn?” Nói xong lại càng ôm chặt Mã phu nhân.
Bà ta hỏi: “Thế chàng không đưa thiếp về Đại Lý ư?” Đoàn Chính Thuần hơi nhíu mày, nói: “Ở Đại Lý có gì là hay đâu? Phong cảnh đã không đẹp lại nhiều lam sơn chướng khí, nàng đến đó không hợp thủy thổ, lại sinh bệnh mất thôi.” Mã phu nhân thở dài, nói nhỏ: “Ôi! Thế ra chàng đến đây dỗ dành thiếp chỉ để mua vui chốc lát thôi.” Đoàn Chính Thuần cười bảo: “Sao lại bảo là mua vui chốc lát? Ta lập tức hoan hỉ cùng nàng thực sự.”
Mã phu nhân khẽ cựa ra, đứng xuống đất, rót một chén rượu rồi nói: “Đoàn lang! Hãy uống thêm chén nữa.” Đoàn Chính Thuần nói: “Ta không uống nữa đâu, uống thế là đủ rồi.” Mã phu nhân đưa tay trái ra ve vuốt má tình lang, thỏ thẻ: “Ứ, thiếp chả chịu đâu, thiếp muốn chàng uống đến say mèm kia.” Đoàn Chính Thuần cười hỏi lại: “Say mèm ư? Say mèm thì còn làm gì được nữa?” Nhưng ông vẫn đưa tay đón lấy chén rượu uống một hơi cạn sạch. Tiêu Phong nghe hai người nói toàn chuyện phong nguyệt đã chán cả tai, thấy Đoàn Chính Thuần uống rượu chàng thèm quá, nuốt nước bọt ừng ực.
Bỗng Đoàn Chính Thuần mở miệng ngáp dài, ra chiều mỏi mệt. Mã phu nhân khẽ cười, nói: “Đoàn lang! Chàng có thích nghe thiếp kể chuyện không?” Tiêu Phong phấn chấn tinh thần, nghĩ thầm: “Mụ ta kể chuyện cũ, ắt hẳn có đầu mối gì đây”. Đoàn Chính Thuần nói: “Khoan đã! Nàng lại đây để ta cởi bớt y phục cho, nằm chung gối kề vào tai, kể ta nghe cho rõ.”
Mã phu nhân lườm một cái rồi nói: “Đoàn lang ơi! Chàng có biết không, lúc nhỏ nhà thiếp nghèo lắm, chỉ mong có quần áo mới mà gia gia cùng má má cũng không mua nổi. Thiếp chỉ ước mơ được như tỉ tỉ nhà họ Giang bên cạnh, năm nào cũng có áo hoa, giày mới.” Đoàn Chính Thuần nói: “Hồi nàng còn nhỏ chắc đã xinh lắm rồi. Một cô bé dễ thương như nàng, dẫu mặc quần áo rách đến đâu vẫn mỹ lệ như thường.” Mã phu nhân đáp: “Không đâu, thiếp cứ thích mặc áo hoa cơ.” Đoàn Chính Thuần đáp: “Nàng mặc tang phục trắng toát thế này lại càng thêm kiều mỵ, áo hoa có gì là đẹp đâu?”
Mã phu nhân nhếch mép cười, dịu dàng đáp: “Hồi thiếp còn nhỏ, cứ mơ đến quần áo mới suốt ngày suốt đêm mà thành bệnh.” Đoàn Chính Thuần hỏi: “Mãi đến năm mười bảy tuổi phải không?” Mắt Mã phu nhân sáng lên, khúc khích cười: “Đoàn lang ơi, từ đó thì thiếp lại chuyển sang bệnh tương tư chàng. Ác bệnh đó trị không dứt nọc, đến nay vẫn chưa hết. Chẳng biết kiếp này Đoàn đại phu có chữa bớt cho thiếp được chút nào không?”
Đoàn Chính Thuần ngây ngất tâm hồn, vươn tay định níu lấy nàng, nhưng hình như đã quá say nên chân tay bải hoải, cánh tay đưa lên nửa chừng lại phải hạ xuống, cười nói: “Nàng ép ta uống nhiều quá, bây giờ muốn… muốn… Tiểu Khang ơi! Rồi đến mấy năm sau nàng mới được mặc áo hoa đi giày mới?”
Mã phu nhân đáp: “Chàng được trời cho giàu sang ngay từ tấm bé, đâu có biết cái khổ của con nhà nghèo. Hồi đó, giá mà thiếp được đôi giày mới thì sung sướng biết bao. Năm lên bảy, gia gia thiếp bảo rằng đến tháng chạp sẽ đem ba con cừu, mười bốn con gà ra chợ bán để sắm tết, lúc đó sẽ mua một vuông vải hoa về cho thiếp may áo mới. Thế là suốt từ tháng tám, ngày ngày thiếp ngóng cho thời gian qua mau, chăm chỉ nuôi gà, chăn cừu…”
Hai chữ “chăn cừu” vừa lọt vào tai Tiêu Phong, chàng chạnh lòng không nhịn nổi, mắt đỏ hoe.
Mã phu nhân vẫn kể tiếp: “Mãi mới đến đầu tháng chạp, ngày nào thiếp cũng giục gia gia đi bán cừu, bán gà, gia gia chỉ bảo: Con đừng nóng ruột, đợi đến hết năm hết tháng mới bán được giá cao. Được mấy hôm, trời bỗng đổ tuyết lớn suốt mấy ngày mấy đêm. Đến một buổi chiều, đột nhiên có tiếng lạch cạch, thì ra tuyết đổ sập mất mái chuồng cừu. Cũng may mấy con vật không việc gì, gia gia mởi dắt cừu vào buộc cạnh hiên nhà, nói là sáng mai sẽ đem ra chợ bán. Ngờ đâu, đến tối bỗng nghe tiếng sói tru, cừu be be loạn cả lên. Gia gia thiếp biết là chó sói đến bắt cừu, vội xách giáo xông ra. Thế nhưng ba con cừu đã bị tha đi mất, bầy gà cũng bị ăn thịt mất hơn một nửa. Gia gia kêu ầm lên, vội đuổi theo định đoạt lại.”
“Gia gia thiếp đuổi vào tận trong núi, thiếp cứ lo ngay ngáy, không hiểu có lấy lại mấy con cừu được không. Đợi mãi mới thấy gia gia khập khiễng về, kể rằng tuyết trơn quá nên ông té xuống triền núi, bị thương ở đùi, cây giáo cũng rơi mất, đương nhiên là mấy con cừu không đoạt lại được.”
“Thiếp thất vọng hết sức, ngồi phịch xuống tuyết khóc ầm lên. Mấy tháng rồi thiếp phải đi chăn cừu, chỉ mong được bộ quần áo mới, nào ngờ rốt cuộc chẳng có gì. Thiếp vừa khóc vừa đòi luôn miệng: Gia gia mau đi bắt cừu lại, con muốn có áo mới, con không có áo mới không được.”
Tiêu Phong nghe đến đây, sa sầm nét mặt nghĩ thầm: “Mụ này tính tình bạc bẽo, gia gia ngã xuống núi bị thương, mụ chẳng lý gì đến, chỉ nhớ đến áo mới của mình, huống chi trời tối đuổi theo đàn sói đói, thật là nguy hiểm. Lúc đó mụ còn nhỏ chưa hiểu sự đời, nhưng cũng không thể như thế được.”
Lại nghe Mã phu nhân kể tiếp: “Gia gia liền dỗ: Thôi con à. Ngày mai mình nuôi mấy con cừu khác, sang năm lại bán đi mua áo hoa cho con. Thiếp khóc lại càng to, nhưng có làm gì được đâu? Nửa tháng sau là Tết, Giang tỉ tỉ bên hàng xóm mặc một cái áo đỏ hoa vàng, một chiếc quần xanh hoa vàng. Thiếp nhìn mà ghen tức đến bỏ ăn bỏ uống. Gia gia dỗ dành cách nào, thiếp cũng nhất định không thèm nghe.”
Đoàn Chính Thuần cười nói: “Giả tỷ khi đó ta biết được, nhất định sẽ gửi biếu nàng một chục, hai chục cái áo mới.” Ông ta vươn vai một cái, ánh nến lung linh chiếu lên khuôn mặt ngà ngà say.
Mã phu nhân nói: “Nếu có đến một chục, hai chục cái thì lại chẳng có chi là quý nữa. Tối giao thừa, thiếp trằn trọc trên giường, không sao ngủ được, trở dậy, len lén mò qua nhà Giang bá bá. Người lớn hãy còn thức để đón giao thừa, đèn nến sáng trưng. Thiếp thấy Giang tỉ tỉ nằm ngủ trên giường, bộ quần áo mới xếp gọn để trên bụng, ánh nến chiếu vào lại càng đẹp đẽ. Thiếp đứng ngẩn ra nhìn một hồi rồi lẻn vào trong phòng, cầm bộ quần áo mới lên…”
Đoàn Chính Thuần cười nói: “Ăn trộm áo mới ư? Trời ơi! Ta tưởng Tiểu Khang chỉ biết ăn trộm nam nhân, té ra biết cả ăn trộm y phục.”
Mã phu nhân đưa đẩy sóng tình, mỉm cười nói: “Thiếp có ăn trộm y phục đâu? Thiếp lại bàn lấy chiếc kéo trong giỏ may, cắt vụn chiếc áo mới ra, lại rọc chiếc quần thành từng sợi, không còn cách gì vá lại được. Thiếp cắt nát bộ quần áo rồi, trong lòng thỏa mãn vô cùng, sướng hơn cả chính mình có quần áo mới.”
Đoàn Chính Thuần từ nãy vẫn tươi cười, nghe tới đây biến đổi nét mặt xem chừng kém vui, nói: “Tiểu Khang ơi! Nàng đừng kể chuyện nữa, chúng ta đi ngủ thôi.”
Mã phu nhân đáp: “Không đâu! Chẳng mấy khi thiếp được cùng chàng sum họp mấy ngày, lại e rằng từ nay trở đi không còn gặp nhau nữa. Thiếp chỉ muốn nói chuyện với chàng thật nhiều cho hả dạ. Đoàn lang, chàng có biết tại sao thiếp kể câu chuyện này không? Là để cho chàng hiểu tính khí thiếp, từ bé đã vậy rồi. Hễ thiếp đã thích cái gì là ao ước có cho bằng được, nếu người khác may mắn hơn mà chiếm lấy, thì bằng giá nào thiếp cũng phải phá hủy đi. Còn bé dại thì phương pháp ngây thơ vụng về, lớn lên rồi thì thiếp khôn ngoan hơn, cách thức cũng tinh tế hơn.”
Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói: “Nàng đừng nói nữa. Ta nghe những chuyện ghê gớm ấy vào tai, xẹp cả hứng đi thì đừng trách ta nhé.”
Mã phu nhân tủm tỉm cười, từ từ đứng dậy, tháo chiếc dải trắng buộc tóc ra. Suối tóc dài xõa xuống tận hông, vừa mềm mại vừa đen nhánh. Bà cầm chiếc lược gỗ dương màu vàng, chậm rãi chải tóc, đột nhiên quay lại nhìn Đoàn Chính Thuần nở một nụ cười, vẻ mặt thật là quyến rũ. Bà nói: “Đoàn lang ơi! Chàng lại đây ôm lấy thiếp đi.” Thanh âm cực kỳ lơi lả.
Tiêu Phong tuy khinh miệt người phụ nữ này, nhưng nhìn thấy khóe thu ba long lanh trong ánh nến, nghe gọi “chàng lại đây ôm lấy thiếp đi”, cũng bất giác rung động trong lòng.
Đoàn Chính Thuần cười hì hì, chống tay xuống giường toan đứng dậy ôm lấy bà ta, nhưng không sao nhỏm dậy nổi, bèn nói: “Ối chà, mới uống có sáu bảy chén rượu mà đã say đến thế này. Tiểu Khang ơi, hình như nhan sắc của nàng làm ta say mê say mệt, chẳng khác gì uống đủ ba cân rượu mạnh. Ha ha…”
Tiêu Phong nghe vậy giật mình, nghĩ thầm: “Chỉ sáu bảy chén thì làm sao say được? Nội lực Đoàn Chính Thuần đâu phải tầm thường, tửu lượng kém như vậy thì vô lý. Phải chăng có điều gì bí ẩn bên trong?”.
Mã phu nhân lại cười khúc khích, nũng nịu nói: “Đoàn lang! Chàng lại đây! Thiếp hết cả hơi sức rồi. Chàng… chàng… lại đây ôm thiếp đi.”
Tân Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nằm lăn lóc bên ngoài nghe Mã phu nhân õng ẹo đưa tình, lửa ghen bốc lên tưởng chừng muốn vỡ cả ngực, chỉ hận không đưa tay lên bịt tai được.
Đoàn Chính Thuần chống tay trái vào thành giường, cố gắng đứng dậy, nhưng đầu gối mềm nhũn ra, lại ngồi phịch xuống rồi cười nói: “Ta cũng chẳng có chút hơi sức nào, thật là lạ quá. Ta nhìn thấy nàng chẳng khác gì chuột gặp phải mèo, toàn thân bủn rủn lập tức.”
Mã phu nhân khẽ cười: “Đoàn lang ơi, thiếp không tin đâu, mới uống có một tí rượu mà đã giả vờ say để nhũng nhiễu người ta thì sao mà nghe được. Chàng thử vận khí thúc đẩy nội lực xem có tỉnh không?”
Đoàn Chính Thuần vận công đề khí, nhưng sao đan điền trống rỗng, làm cách nào cũng không được. Ông vận khí liên tiếp ba lần, mấy chục năm công lực chẳng hiểu mất tự bao giờ, không sót lại mảy may. Bấy giờ ông mới hoang mang, biết là có biến, cũng may lịch duyệt đã nhiều nên ngoài mặt vẫn thản nhiên, cười nói: “Ta chỉ vận được nội kình Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm thôi. Say quá, thật là say tới mức chỉ biết giết người chứ không ôm người được nữa.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Gã này tuy hiếu sắc nhưng không hồ đồ chút nào. Y biết đang lâm nguy nên cố hù dọa người ta. Thực ra y chỉ biết Nhất Dương Chỉ, còn Lục Mạch Thần Kiếm y có biết đâu, chẳng qua chỉ là hư trương thanh thế. Nếu y không còn nội lực thì làm sao sử dụng Nhất Dương Chỉ được?”.
Bỗng dưng Mã phu nhân rũ người ra nói: “Chao ôi!Thiếp nhức đầu quá. Đoàn lang, hay là… hay là… chàng có bỏ cái gì vào rượu không đấy?” Đoàn Chính Thuần vốn dĩ nghi ngờ tình nhân bỏ thuốc mê vào rượu, nghe nói thế hết cả ngờ vực, vẫy tay nói: “Tiểu Khang, nàng lại đây. Ta có chuyện muốn nói với nàng.” Mã phu nhân làm ra vẻ muốn bước lại chỗ Đoàn Chính Thuần, nhưng không đứng lên nổi, lại gục xuống bàn thở hổn hển, mặt ửng đỏ lên rồi nũng nịu nói: “Đoàn lang ơi, thiếp bước không nổi nữa rồi. Chàng sợ thiếp không chiều chuộng nên bỏ xuân dược vào rượu chứ gì? Thật chẳng đàng hoàng chi hết.”
Đoàn Chính Thuần lắc đầu, chấm ngón tay vào rượu viết lên bàn: “Địch nhân ám toán, cố gắng trấn tĩnh”, miệng vẫn nói cứng: “May quá, ta lại vận nội lực được rồi. Mấy chén rượu độc kia làm sao hại ta nổi?” Mã phu nhân cũng viết lên bàn: “Thật chăng?”. Đoàn Chính Thuần lại viết: “Chớ tỏ ra khiếp nhược”. Ông lớn tiếng nói: “Tiểu Khang, địch thủ của nàng có mấy đầu mấy tay mà dám đến kiếm chuyện với chúng ta?”
Tiêu Phong đứng ngoài cửa sổ nhìn thấy năm chữ “Chớ tỏ ra khiếp nhược”, biết ngay là không ổn, nghĩ thầm: “Đoàn Chính Thuần là kẻ tinh minh đáo để, thế mà lại chết về tay con mụ này. Rõ ràng là Mã phu nhân hạ độc, mụ ta nghe ngươi hăm dọa vẫn còn biết giết người, bèn giả vờ cũng trúng độc để xem hư thực. Sao y lại dễ mắc mưu đến thế?”.
Lúc đó Mã phu nhân lộ vẻ lo lắng, lại viết trên bàn: “Nội lực mất hết là thực hay giả?” nhưng mồm vẫn nói: “Đoàn lang, nếu có tên gian tặc nào đến kiếm chuyện thì thật là hay lắm. Lúc này không biết làm gì, tóm cổ chúng để giải sầu thì thật là đúng lúc. Chàng cứ ngồi yên đó, xem chúng có dám thò mặt ra không.”
Đoàn Chính Thuần viết: “Chỉ mong thuốc sớm tan, địch đến chậm”. Ông nói: “Phải đó! Có kẻ nào vào cho mình tiêu khiển một lúc lại càng vui. Tiểu Khang, nàng có muốn xem ta cách không điểm huyệt không nào?”
Mã phu nhân cười nói: “Thiếp chưa được xem chàng thi triển tuyệt nghệ bao giờ. Nếu chàng đã khôi phục nội lực thì sử dụng Nhất Dương Chỉ điểm thủng giấy dán cửa sổ xem nào.” Đoàn Chính Thuần nhíu mày đưa mắt ra hiệu, có ý nói: “Ta mất sạch nội lực rồi, làm sao cách không điểm huyệt được? Đấy là dọa địch nhân thôi, sao nàng lại không hiểu ý?”. Thế nhưng Mã phu nhân vẫn luôn mồm thúc giục: “Mau động thủ đi! Chàng chỉ cần điểm cho mảnh giấy kia thủng một lỗ nhỏ là kẻ địch chạy mất ngay. Nếu không thì chúng nhìn thấy điểm yếu của chúng ta mất.”
Đoàn Chính Thuần lại càng chột dạ, nghĩ thầm: “Xưa nay nàng vẫn thông minh lanh lợi, sao bây giờ lại có ý ngớ ngẩn như thế?”. Ông còn đang suy nghĩ, bỗng nghe Mã phu nhân dịu dàng nói: “Đoàn lang ơi! Chàng đã trúng phải Thập Hương Mê Hồn Tán thì dẫu bản lãnh nghiêng trời cũng mất hết nội lực. Nếu chàng điểm cách không mà thủng được một cái lỗ nơi cửa sổ thì quả là kỳ diệu quá.” Đoàn Chính Thuần thất kinh hỏi: “Ta… ta trúng phải Thập Hương Mê Hồn Tán ư? Sao nàng… nàng lại biết?”
Mã phu nhân cười đáp: “Hì hì! Thật là vô ý quá, khi thiếp rót rượu cho chàng đã sẩy tay làm rơi một gói thuốc vào bình rượu. Chao ôi, thiếp vừa gặp lại chàng là thần hồn điên đảo, chân tay quýnh quáng, Đoàn lang ơi, chàng đừng giận thiếp nhé!”
Đoàn Chính Thuần gượng cười nói: “À, ra thế đấy! Thế thì có sao đâu?” Bây giờ ông hiểu rõ là mình đã bị Mã phu nhân chế ngự, có nổi nóng chửi rủa cũng chẳng ích lợi gì. Ông giả vờ không quan tâm, hết sức trấn tĩnh tâm thần để ứng phó với tình hình nguy hiểm. Ông suy đoán: “Nàng có thâm tình với ta, chắc không có ý hại mạng. Cùng lắm là bắt ta ở lại đây vĩnh viễn không trở về nhà nữa, nếu không thì ép ta đưa về Đại Lý, thành vợ thành chồng danh chính ngôn thuận. Thế thì chẳng qua bởi lòng si mê, hạ thủ có hơi quá đáng nhưng không phải do ý xấu.” Ông nghĩ như thế liền bình tâm trở lại.
Quả nhiên Mã phu nhân lại hỏi: “Đoàn lang, chàng có bằng lòng kết nghĩa phu thê với thiếp cho tới răng long đầu bạc không?” Đoàn Chính Thuần cười nói: “Ái chà! Nàng tính toán quả là lợi hại. Thôi, ta chịu thua vậy! Sáng mai chúng ta lên đường trở về Đại Lý, ta đưa nàng vào phủ Trấn Nam Vương làm một vị phi tần.”
Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe thế đều nổi tam bành, cùng nghĩ: “Con tiện nhân này có tốt đẹp gì đâu? Sao chàng không ưng thuận ta, lại nghe lời nó?”.
Mã phu nhân thở dài rồi nói: “Đoàn lang ơi! Lúc nãy thiếp mới hỏi chàng định sắp đặt cho thiếp thế nào, chàng bảo đất Đại Lý nhiều lam chướng, thiếp đến đó chỉ tổ sinh bệnh. Bây giờ chàng bị bức bách nên phải bằng lòng, chứ bản tâm có tình nghĩa gì đâu?”
Đoàn Chính Thuần cũng thở ra, nói: “Tiểu Khang nàng ơi! Ta nói cho, mà nghe, ta là hoàng thái đệ của nước Đại Lý. Vương huynh ta không có con trai, sau khi trăm tuổi rồi ta sẽ kế vị ngôi vua. Ở Trung Nguyên thì ta chỉ là một kẻ võ phu, nhưng về Đại Lý thì không phải muốn làm gì cũng được. Nàng nghĩ có phải không?” Mã phu nhân đáp: “Phải rồi! Thế thì đã sao?” Đoàn Chính Thuần nói: “Bên trong chuyện này còn nhiều chỗ khó giải quyết, nhưng nàng đã thiết tha với ta đến mức ra tay hạ độc, nên ta đành phải hồi tâm chuyển ý. Không lẽ ta không nghĩ đến cái diễm phúc ngày ngày có một mỹ nhân như nàng cận kề bầu bạn? Ta đã đồng ý đưa nàng về Đại Lý thì quyết không hối hận.”
Mã phu nhân “Ồ” một tiếng nhỏ rồi nói: “Chàng nói có lý lắm. Thế sau này chàng lên ngôi đại bảo, có phong thiếp làm hoàng hậu nương nương không?” Đoàn Chính Thuần trù trừ đáp: “Ta đã có nguyên phối, ngôi hoàng hậu thật không thể cho nàng được…” Mã phu nhân đáp: “Đúng thế! Thiếp là một bà quả phụ xui xẻo, làm hoàng hậu nương nương sao được? Nếu vậy thì hàng nghìn hàng vạn dân Đại Lý phải cười đến chết mất.” Nàng lại cầm chiếc lược lên, từ từ chải đầu, cười nói: “Đoàn lang! Câu chuyện lúc nãy thiếp kể cho chàng nghe, chàng đã hiểu ra ý tứ chưa?”
Đoàn Chính Thuần mồ hôi trân toát ra đầm đìa, cố trấn tĩnh tinh thần nhưng khổ nỗi công lực khổ luyện mấy chục năm trời biến đâu mất hết, khác nào người đang chết đuối, hai tay chới với không biết bám víu vào đâu, một cọng cỏ cũng không vớ được.
Mã phu nhân lại hỏi: “Đoàn lang! Chàng nóng bức lắm phải không? Để thiếp lau mồ hôi cho.” Nàng lấy trong túi ra một chiếc khăn tay trắng tinh, đến trước mặt ông ta nhẹ nhàng lau mồ hôi trán, ngọt ngào nói: “Đoàn lang, chàng phải chú ý giữ gìn sức khỏe. Sau khi uống rượu dễ trúng gió lắm. Nếu trong người chàng khó chịu, thiếp cũng không khỏi đau lòng.”
Tiêu ở ngoài cửa sổ, Đoàn ở trong cửa sổ, cả hai người nghe mụ nói câu này đều phát buồn nôn.
Đoàn Chính Thuần gượng cười nói: “Đêm xưa nàng toát mồ hôi đầm đìa thơm phức, ta cũng từng lau khắp người cho. Hơn chục năm nay ta vẫn giữ chiếc khăn đó bên mình làm kỷ niệm.” Mã phu nhân thẹn thùng nói nhỏ: “Chàng thật không biết xấu hổ, chuyện cũ từ đời nào mà vẫn còn nhắc lại. Đâu, lấy ra cho thiếp xem nào?”
Đoàn Chính Thuần nói là hơn chục năm qua vẫn mang theo chiếc khăn cũ trong người, tưởng là câu nói mua lòng nữ nhân, không ngờ có trong túi thật. Ông được vô số phụ nữ say mê cũng có lý do, cô nào đã từng vướng víu với ông cũng nghĩ rằng ông thực lòng yêu mình nhưng chỉ vì số kiếp long đong nên không thể trọn mối lương duyên. Ông toan lấy chiếc khăn trong bọc ra, hy vọng Mã phu nhân động tâm nghĩ lại tình xưa nghĩa cũ, ngờ đâu chỉ hơi nhúc nhích được ngón tay, còn bàn tay hoàn toàn tê dại. Độc tính của Thập Hương Mê Hồn Tán quả là ghê gớm.
Mã phu nhân lại giục: “Chàng lấy cho thiếp coi đi! Không chịu đâu, chàng lại đánh lừa người ta rồi.” Đoàn Chính Thuần nhăn nhó cười nói: “Ha ha! Ta say đến nỗi tay không cất lên được. Nàng lấy ra giúp ta đi.” Mã phu nhân nói: “Thiếp chả mắc lừa chàng đâu. Chàng định dụ thiếp đến gần, rồi dùng Nhất Dương Chỉ giết chết chứ gì.” Đoàn Chính Thuần mỉm cười đáp: “Dẫu ta có là một tên hung đồ tội ác ngập trời thì cũng chẳng nỡ dùng móng tay vạch lên khuôn mặt một vị tuyệt thế giai nhân như nàng.”
Mã phu nhân cười nói: “Có thật thế chăng? Đoàn lang ơi, thiếp vẫn chưa yên tâm. Thôi để thiếp lấy dây cột hai tay chàng lại, sau đó… sau đó, mới dùng dây tơ buộc luôn cả trái tim.” Đoàn Chính Thuần đáp: “Nàng đã buộc trái tim ta rồi đấy, nếu không ta đâu có ngoan ngoãn mò tới tận đây?” Mã phu nhân cười rộ lên nói: “Chàng thật là tử tế, chả trách cái bệnh tương tư của thiếp không sao chữa cho lành được.”
Nói xong, bà mở cái ngăn kéo bên cạnh giường lấy ra một cuộn dây gân bò.
Đoàn Chính Thuần càng thêm kinh hãi: “Té ra mụ ta đã chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, còn ta từ đầu chí cuối cứ như ở trong đám mây mù, Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, hôm nay người mất mạng nơi đây cũng đừng trách ai nữa.” Mã phu nhân nói: “Đoàn lang ơi, cho thiếp trói chân tay chàng trước. Lòng thiếp yêu thương chàng không sao kể xiết, chàng có giận thiếp không?”
Đoàn Chính Thuần biết tính Mã phu nhân hiểm độc, tuy là nữ nhân nhưng so với nam nhân bình thường còn ghê gớm hơn. Ông có chửi mắng thì mụ cũng không nổi giận, có năn nỉ thì mụ cũng chẳng hồi tâm, chỉ còn cách kéo dài thời gian, may ra có cơ hội thoát hiểm. Ông bèn cười nói: “Mỗi khi ta nhìn thấy đôi mắt long lanh của nàng là bao nhiêu giận hờn tan biến cả. Tiểu Khang ơi! Nàng lại đây, cho ta ngửi đóa hoa nhài trên tóc nàng xem có thơm không.”
Hơn mười năm trước, vì câu nói tình tứ này mà Đoàn Chính Thuần đã cùng Mã phu nhân tạo nên một mối nghiệt duyên. Bây giờ ông nhắc lại chuyện xưa, Mã phu nhân lại ngả đầu vào lòng ông thật là tình tứ, dáng điệu đầy vẻ nhu mì bẽn lẽn. Bà đưa tay ve vuốt khuôn mặt tình lang, thỏ thẻ hỏi: “Đoàn lang, Đoàn lang ơi! Tối hôm đó thiếp trao thân gởi phận cho chàng, có hỏi trước rằng, giả tỷ sau này chàng ăn ở hai lòng thì sẽ ra sao?” Mắt Đoàn Chính Thuần nổ đom đóm, những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu lăn dài trên trán. Mã phu nhân tiếp: “Hảo lang quân ơi, thân ái lang quân ơi, bạc tình lang quân ơi, chàng đã thề nguyền rồi lại quên ngay đấy ư?“
Đoàn Chính Thuần gượng cười nói: “Khi đó ta hứa sẽ để cho nàng cắn từng miếng thịt trên người.” Cái câu thề thốt kia vốn dĩ là đôi nam nữ say mê đùa bỡn trong cuộc truy hoan, nhưng bây giờ Đoàn Chính Thuần nhắc đến mà không khỏi hãi hùng.
Mã phu nhân nhoẻn cười tình tứ, nói: “Đã bao nhiêu năm chàng vẫn không quên những gì đã nói cùng thiếp, quả là thành ý. Đoàn lang, thiếp định trói tay chàng lại, chẳng biết chàng có chịu hay không? Chàng bằng lòng thì thiếp mới trói, nếu không chịu thì thôi. Thiếp xưa nay không hề trái ý chàng, lúc nào cũng chỉ mong chàng được vui lòng.”
Đoàn Chính Thuần hiểu rằng nếu mình không chịu cho trói cũng không được, mà không chừng mụ lại lấy cớ giở ra những trò cổ quái khác, đành gượng cười nói: “Nàng muốn trói thì cứ trói đi. Dưới khóm mẫu đơn mà bỏ mạng, chết thành quỷ sứ cũng phong lưu. Ta được chết dưới bàn tay của nàng cũng đã là khoái hoạt rồi.”
Tiêu Phong ở bên ngoài cửa sổ nghe thấy câu này, phải bội phục ông ta định lực hơn người, trong lúc nguy ngập như vậy mà vẫn cười nói ung dung. Chỉ thấy Mã phu nhân bẻ quặt hai tay Đoàn Chính Thuần ra sau lưng, dùng dây gân bò trói chặt rồi thắt bảy tám cái nút. Đừng nói Đoàn Chính Thuần lúc này đã mất hết võ công, mà dẫu nội lực còn nguyên, cũng không thể nào cựa thoát được.
Mã phu nhân lại cười tình tứ nói: “Thiếp còn giận cả hai cái chân chàng, mỗi lần bước ra đi là mất hút chẳng thấy bóng hình đâu nữa.” Bà ta nói xong đưa tay véo yêu vào đùi ông một cái. Đoàn Chính Thuần cười nói: “Nhưng năm xưa ta hội ngộ nàng cũng là nhờ đôi chân này mang tới. Vậy thì đôi chân này tuy có tội lớn, nhưng công cũng không nhỏ, có thể bù đắp được.” Mã phu nhân nói: “Được rồi, để thiếp trói chúng lại rồi sẽ xử sau.” Nói xong lại lấy một sợi dây gân bò nữa, trói nốt hai chân Đoàn Chính Thuần.
Bà ta lấy một chiếc kéo, từ từ cắt mấy lớp áo trên vai phải ông ta, để lộ làn da trắng trẻo. Đoàn Chính Thuần tuổi không còn trẻ nhưng cả đời vinh hoa phú quí, ăn uống sung sướng lại thêm nội công thâm hậu, da thịt trên vai vừa săn chắc vừa mịn màng.
Mã phu nhân đưa tay vuốt ve vai ông, ghé môi hôn nhè nhẹ lên má, từ từ lần xuống cổ, xuống vai, vừa hôn vừa rên ư ử cơ hồ không chịu đựng nổi nữa.
Đột nhiên Đoàn Chính Thuần rú lên một tiếng, tiếng rú kinh hồn xé tan màn đêm tĩnh mịch. Mã phu nhân ngửng đầu lên, miệng đầy máu tươi. Mụ đã cắn một miếng thịt trên vai Đoàn Chính Thuần đứt hẳn ra.
Mã phu nhân nhả miếng thịt xuống đất, nũng nịu: “Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, thiếp yêu chàng quá nên mới cắn cho thỏa. Đoàn lang, đây là chính miệng chàng nói mà, nếu chàng thay lòng đổi dạ sẽ cho thiếp cắn đứt từng miếng thịt.”
Đoàn Chính Thuần cười ha hả nói: “Đúng rồi! Tiểu Khang ơi, ta đã nói ra dứt khoát phải giữ lời. Cũng nhiều lúc ta nghĩ mãi mà không ra, sau này chết thế nào cho thú vị? Chết trên giường bệnh thì quá tầm thường. Bảo vệ đất nước mà chết tại chiến trường thì anh dũng đáng khen, nhưng chẳng được phong lưu, không hợp với Đoàn mỗ lúc bình thời. Tiểu Khang, hôm nay nàng nghĩ ra được cách này quả là cao minh. Ta được chết trong chiếc miệng anh đào của mỹ nhân đệ nhất thiên hạ, dưới những chiếc răng xinh xắn như trân châu kia, thật là thỏa chí bình sinh. Giả tỷ không phải Đoàn lang yêu quí của nàng mà là một người đàn ông khác, dẫu tặng nàng một kho châu báu cũng chưa chắc được nàng cắn cho một miếng. Tiểu Khang, có phải thế không nào?”
Hồn vía của Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc bay mất cả, biết Đoàn lang có thể mất mạng trong khoảnh khắc. Hai bà thấy Tiêu Phong vẫn đứng yên bên cửa sổ, không hề ra tay cứu viện, trong bụng mắng thầm chứ chẳng làm gì được.
Tiêu Phong vẫn chưa rõ bản ý của Mã phu nhân ra sao, chẳng hiểu mụ ta muốn giết Đoàn Chính Thuần thật, hay chỉ hăm dọa để từ rày ông ta không thay lòng đổi dạ, mà cũng có thể đây là một trò phong nguyệt mới cho thêm phần hứng thú. Giả tỷ hai người đùa cợt với nhau chốn phòng the, mà mình lại lỗ mãng xông vào là mất đi cơ hội thám thính tin tức. Chàng vẫn trầm tĩnh đứng yên xem tình hình biến chuyển thế nào.
Mã phu nhân cười nói: “Đúng thế! Thiên tử Đại Tống hay hoàng đế Khất Đan muốn giết thiếp thì dễ, chứ muốn thiếp cắn một cái thì đừng hòng. Đoàn lang ơi, thiếp định bụng cắn chàng từ từ cho tới chết, muốn cắn hàng ngàn hàng vạn miếng mới tỏ hết tình yêu, nhưng lại e thuộc hạ chàng hiểu lầm mà đến cứu. Thôi đành thế này, thiếp cắm một con dao nhỏ vào chỗ tim chàng, chỉ đâm sâu nửa tấc để chàng không chết, giả tỷ có ai phá rối, thiếp chỉ nhấn vào cán dao một cái là chàng hoàn thành tâm nguyện, không còn phải đau đớn gì nữa” Mụ vừa nói vừa lấy ra một thanh trủy thủ sáng loáng, rạch áo trước ngực Đoàn Chính Thuần, để mũi dao đúng ngay chỗ tim đập, rồi bàn tay nhỏ nhắn khẽ ấn xuống, cắm con dao vào ngực, quả nhiên chỉ nhấn vào một chút rồi thôi.
Đoàn Chính Thuần không kêu tiếng nào, thấy máu rỉ ra nơi ngực bèn nói: “Tiểu Khang ơi, mười ngón tay nàng so với hồi mười bảy tuổi còn trắng trẻo nhẵn nhụi hơn nhiều.”
Khi Mã phu nhân cầm trủy thủ đâm vào ngực Đoàn Chính Thuần, Tiêu Phong nhìn tay mụ không chớp mắt, nếu thấy ngay đến tính mạng Đoàn Chính Thuần thì lập tức phóng chưởng đánh văng mụ ra. Nhưng chàng thấy mụ chỉ ấn vào nhè nhẹ nên cứ mặc kệ.
Mã phu nhân nói: “Hồi thiếp mười bảy tuổi, ngày ngày phải giặt giũ nấu ăn, dĩ nhiên bàn tay da dẻ sần sùi. Mấy năm nay không phải làm việc nặng, da dẻ cũng mịn màng hơn, Đoàn lang! Miếng thứ hai thiếp phải cắn vào đâu? Chàng bảo cắn chỗ nào thiếp sẽ cắn chỗ đó, phục tùng chàng thật là ngoan ngoãn.”
Đoàn Chính Thuần cười nói: “Tiểu Khang, sau khi nàng cắn chết ta rồi, hồn ta sẽ luôn luôn quấn quít bên nàng.” Mã phu nhân hỏi: “Để làm gì?” Đoàn Chính Thuần nói: “Hễ vợ mà mưu sát chồng thì linh hồn chồng vất vưởng không tan, cứ loanh quanh bên vợ để giữ không cho người đàn ông khác đến vui vầy.”
Đoàn Chính Thuần chỉ định dọa cho mụ nao núng, không chừng không dám ra tay độc ác nữa. Ngờ đâu Mã phu nhân lại biến sắc mặt, quay lại nhìn sau lưng. Đoàn Chính Thuần nhân cơ hội nói: “Ồ, gã nào đứng sau lưng nàng thế kia?” Mã phu nhân hoảng hốt nói: “Làm gì có ai nào? Chàng chỉ nói lăng nhăng.” Đoàn Chính Thuần nói: “Hừ! Rõ ràng có một người đàn ông đang đứng nhìn nàng, gã đang sờ vào cổ họng, dường như đau đớn lắm. Ta chẳng biết gã là ai, chỉ thấy y phục rách rưới, nước mắt chảy không ngớt.”
Mã phu nhân vội quay lại mà có thấy ai đâu, run giọng nói: “Ngươi… nói láo, ngươi nói láo!”
Ban đầu Đoàn Chính Thuần chỉ thuận miệng nói nhăng nói cuội, nhưng thấy mụ kinh hoảng lạ thường, lập tức nghi ngờ, đoán rằng cái chết của Mã Đại Nguyên hẳn là không minh bạch. Ông biết Mã Đại Nguyên chết vì Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ nên cố ý nói người đó đau đớn ở cổ họng, chảy nước mắt, y phục rách rưới, quả nhiên Mã phu nhân càng khiếp đảm hơn. Đoàn Chính Thuần đã đoán được mấy phần, nói tiếp: “Ô hay! Lạ quá! Gã kia chớp mắt đã biến đâu mất rồi, không thấy đứng đó nữa. Hắn là ai vậy?”
Vẻ mặt Mã phu nhân hết sức kinh khủng nhưng chỉ giây lát mụ đã trấn tĩnh được, bèn nói: “Đoàn lang! Hôm nay đã đến nước này, chàng còn dọa thiếp để làm gì? Hay là chàng không rủa xả thiếp vài câu thì chết không yên? Đôi ta đã vui thú xong rồi, bây giờ thiếp sẽ tống tiễn chàng đi một cách mau lẹ khoan khoái.” Mụ vừa nói vừa bước tới một bước, đưa tay toan nắm lấy chuôi dao đâm vào.
Đoàn Chính Thuần muốn kéo dài thời gian thêm chút nữa cũng không được. Ông trợn trừng hai mắt nhìn ra sau lưng Mã phu nhân, kêu toáng lên: “Mã Đại Nguyên! Mã huynh đệ mau bóp chết mụ vợ sát phu đi!”
Mã phu nhân thấy khuôn mặt ông ta kinh hãi lạ thường, lại gọi tên Mã Đại Nguyên, bất giác giật mình, quay đầu nhìn lại. Đoàn Chính Thuần dồn hết sức húc đầu một cái, trúng ngay cằm Mã phu nhân khiến mụ ta lăn xuống đất, ngất đi.
Cái húc của Đoàn Chính Thuần hoàn toàn không có chút nội lực nào. Mã phu nhân chỉ ngất đi một chút rồi tỉnh lại ngay. Mụ đứng lên, xuýt xoa vỗ vỗ quai hàm, cười nói: “Đoàn lang ơi! Chàng nựng nịu thiếp mạnh thế, đụng phải chỗ này đau ơi là đau. Thiếp biết rồi, chàng chỉ đặt điều hăm dọa, không thèm mắc mưu nữa đâu.”
Đoàn Chính Thuần từ nay đến giờ tích tụ được bao nhiêu sức lực đã dồn hết vào cái húc, buông tiếng thở dài, nghĩ thầm: “Mạng ta đến đây là hết, chẳng còn gì để nói nữa.” Ông chợt nghĩ ra một điều, lại hỏi: “Tiểu Khang ơi, nàng định giết ta thật ư? Thế sau này người trong Cái Bang đến truy vấn cái tội mưu sát thân phu thì ta còn đâu mà giúp đỡ nàng?”
Mã phu nhân cười khúc khích nói: “Ai dám bảo là thiếp mưu sát thân phu? Chàng có phải là lang quân thiếp đâu? Nếu chàng quả là chồng thiếp, thiếp yêu thương chiều chuộng chàng còn chưa đủ, lẽ đâu lại gia hại chàng? Thiếp giết chàng rồi sẽ lập tức cao chạy xa bay, chứ nếu ở lại đây, bọn thuộc hạ Đại Lý của chàng đi tìm thì thiếp biết đối phó làm sao?” Mụ thở dài nói tiếp: “Đoàn lang, thiếp yêu chàng chân thật, thương nhớ chàng vô bờ bến, lúc nào cũng mong được ôm chàng, hôn chàng, nựng nịu chàng thôi. Chỉ vì thiếp không có được chàng, không được ăn thì đạp đổ, đó là cái tính trời sinh của thiếp chứ không còn cách nào khác.”
Đoàn Chính Thuần nói: “Ồ, thì ra lý do là thế! Thảo nào hôm trước nàng cố ý đánh lừa cô gái kia, muốn mượn tay Kiều Phong giết ta.” Mã phu nhân nói: “Đúng thế! Thằng cha Kiều Phong thật là vô dụng, có cái việc giết chàng mà gã làm cũng không xong, để chàng chạy mất.”
Tiêu Phong trong bụng không ngớt tự hỏi: “A Châu giả trang làm Bạch Thế Kính thần diệu vô song, ngay cả ta cũng nhìn không ra, Mã phu nhân cùng Bạch Thế Kính có thân thiết gì đâu, sao mụ lại phát hiện được nhỉ?”.
Mã phu nhân lại nói tiếp: “Đoàn lang ơi! Thiếp lại muốn cắn chàng một miếng nữa.” Đoàn Chính Thuần mỉm cười: “Nàng cứ cắn đi, ta sung sướng lắm.” Tiêu Phong thấy không thể chần chờ được nữa, chàng đặt bàn tay lên vách chỗ sau lưng Đoàn Chính Thuần, ngầm vận kinh lực. Bức vách đất chẳng kiên cố gì, bàn tay Tiêu Phong từ từ xuyên thủng qua không một tiếng động, rồi đặt lên lưng Đoàn Chính Thuần.
Ngay lúc đó, Mã phu nhân đã ngoạm một miếng thịt nữa trên vai Đoàn Chính Thuần, ông ta kêu rủ lên, vùng vẫy, đột nhiên thấy hai tay đã tự do. Thì ra Tiêu Phong đã cấu đứt dây trói nơi cổ tay, đồng thời dồn một luồng nội lực cực kỳ hùng hậu vào kinh mạch của ông.
Đoàn Chính Thuần giật mình, biết ngay bên ngoài có cao thủ đến giúp đỡ. Khí tùy theo ý mà chuyển, luồng nội lực ngoại viện từ sau lưng được dẫn vào cánh tay, truyền tới ngón tay, nghe xoẹt một tiếng nhỏ, thần công Nhất Dương Chỉ đã phóng ra. Mã phu nhân bị trúng chỉ vào mạng sườn, rú lên một tiếng rồi gục ngay xuống giường.
Tiêu Phong thấy Mã phu nhân đã bị chế ngự rồi, lập tức rút tay về, Đoàn Chính Thuần đang toan mở miệng tạ ơn, bỗng dưng cửa mở tung ra, một người chạy vào nói: “Tiểu Khang! Nàng không cắt đứt được mối tình xưa thật ư? Sao đến mãi giờ này vẫn chưa thanh toán xong xuôi?”
Tiêu Phong từ bên ngoài nhìn thấy gã kia, lập tức thẫn thờ, đờ người ra. Chàng vừa kinh hoàng lại vừa tức tối, bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều được giải quyết trong chớp mắt. Hôm đó tại khu rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Mã phu nhân lấy ra chiếc quạt của chàng, vu cáo chàng lẻn vào Mã gia ăn trộm thư rồi vội vã bỏ rơi. Cái quạt đó ở đâu ra? Chắc chắn phải có người ăn trộm của chàng, đó phải là người rất thân cận, là ai? Chàng là người Khất Đan, điều này đã được các vị tiền bối giấu kín bao nhiêu năm, sao lại đột nhiên bị tiết lộ? A Châu cải trang thành Bạch Thế Kính, đến chàng cũng không nhìn ra, Mã phu nhân sao lại phát hiện được?
Thì ra, kẻ vừa vào phòng chẳng phải ai xa lạ, chính là Chấp pháp trưởng lão Bạch Thế Kính của Cái Bang.
Mã phu nhân kinh hãi ấp úng: “Y… y chưa mất hết võ công, điểm… điểm huyệt ta rồi.” Bạch Thế Kính nhảy vọt tới chộp hai cổ tay Đoàn Chính Thuần, nghe lách cách mấy tiếng đã vặn trật khớp. Đoàn Chính Thuần chẳng có cách nào kháng cự, nội lực Tiêu Phong truyền vào người chỉ giữ được một tí, Tiêu Phong vừa rụt tay về là ông lại trở thành phế nhân.
Từ lúc Tiêu Phong trông thấy Bạch Thế Kính, nhất thời bao nhiêu ý nghĩ nổi lên như sóng cồn. Chàng chưa tính tới chuyện ra tay giúp Đoàn Chính Thuần, cũng không ngờ Bạch Thế Kính hạ độc thủ ngay, đến lúc nghĩ ra thì hai cổ tay Đoàn Chính Thuần đã gãy mất. Chàng nghĩ bụng: “Gã này phong lưu hiếu sắc, hôm nay cho y nếm mùi đau khổ cũng đáng kiếp. Ta nể mặt A Châu thì cũng chờ đến lúc tối hậu sẽ cứu mạng y.”
Bạch Thế Kính nói: “Họ Đoàn kia! Bản lĩnh ngươi kể cũng khá đấy, đã uống Thập Hương Mê Hồn Tán mà nội lực vẫn còn lại mấy phần.”
Đoàn Chính Thuần chưa hiểu người ở bên ngoài giúp mình là ai, nhưng biết nhân vật này có bản lĩnh ghê gớm. Tuy trước mắt có thêm cường địch, nhưng sau lưng đã có đại viện, trong lòng ông chẳng chút hoang mang. Ông biết rằng Bạch Thế Kính không hiểu có người ám trợ mình, bèn hỏi lại: “Phải chăng tôn giá là trưởng lão trong Cái Bang? Tại hạ cùng tôn giá chưa từng quen biết, sao lại hạ độc thủ đến thế?”
Bạch Thế Kính không đáp, bước tới cạnh Mã phu nhân, đưa tay xoa bóp mấy cái dưới mạng sườn. Nhưng công phu điểm huyệt của họ Đoàn cực kỳ thần diệu, Bạch Thế Kính võ công không tệ nhưng cũng không giải huyệt được. Y chau mày hỏi: “Nàng thấy trong người sao rồi?” Giọng nói cực kỳ lo lắng. Mã phu nhân đáp: “Chân tay thiếp bị tê liệt không nhúc nhích được. Thế Kính, chàng thanh toán hắn mau đi, rồi đôi ta mau thoát khỏi đây. Thiếp không muốn ở trong căn nhà này nữa.”
Đoàn Chính Thuần đột nhiên buông một tràng cười ròn rã: “Ha ha! Ha ha! Tiểu Khang! Nàng… nàng… chẳng tiến bộ chút nào cả! Ha ha! Ha ha!”
Mã phu nhân mỉm cười nói: “Đoàn lang vẫn cao hứng lắm nhỉ, chết đến gáy rồi mà vẫn còn cười sung sướng thế ư?
Bạch Thế Kính nổi sùng la lên: “Ngươi vẫn gọi y là Đoàn lang kia à? Đồ tiện nhân lăng loàn!” Y xoay tay tát Mã phu nhân một cái thật mạnh. Khuôn mặt trắng trẻo của mụ ta lập tức sưng vù, nước mắt ràn rụa.
Đoàn Chính Thuần quát lên: “Ngừng tay! Sao ngươi lại đánh nàng?” Bạch Thế Kính cười nhạt hỏi lại: “Ngươi làm gì được ta? Thị là người của ta, ta muốn đánh là đánh, muốn chửi là chửi.” Đoàn Chính Thuần nói: “Một mỹ nhân như hoa như ngọc, vậy mà ngươi nỡ giở thói vũ phu. Dẫu nàng có thuộc về ngươi, thì ngươi cũng phải đối xử sao cho nàng được vui lòng mới phải chứ?”
Mã phu nhân nhìn Bạch Thế Kính nói: “Người ta đối với thiếp như thế, còn chàng sao lại phũ phàng mà không biết thẹn?” Thanh âm mụ vẫn đầy vẻ lẳng lơ.
Bạch Thế Kính lại chửi: “Đồ dâm phụ này không trị không được. Tên họ Đoàn ngu dốt kia, ta đếch thèm tin ngưoi. Ngươi giỏi tài nịnh gái, sao để gái hại đến nông nỗi này? Thôi, ngày này sang năm là giỗ đầu của ngươi rồi.” Y nói xong hung hăng tiến tới, đưa tay định ấn sâu lưỡi trủy thủ vẫn cắm trên ngực Đoàn Chính Thuần từ trước.
Bàn tay Tiêu Phong đã thò qua lỗ hổng trên tường, chỉ đợi Bạch Thế Kính tiến thêm nửa bước là phóng chưởng ngay. Đột nhiên một cơn gió mạnh đập vào cửa, rồi một luồng kình phong thổi vù một tiếng, hai ngọn nến lập tức tắt phụt, trong phòng tối đen như mực.
Mã phu nhân kinh hãi rú lên. Bạch Thế Kính biết là có kẻ địch mới vào, lúc này không rảnh tay giết Đoàn Chính Thuần mà phải nghênh địch trước. Y bèn quát lên: “Ai đó?”, đưa song chưởng lên bảo vệ trước ngực rồi xoay người lại.
Kình phong thổi tắt hai ngọn nến rõ ràng là do một nhân vật bản lĩnh tuyệt cao phóng ra, nhưng sau khi nến tắt rồi vẫn không nghe động tĩnh gì. Cả bốn người Bạch Thế Kính, Đoàn Chính Thuần, Mã phu nhân, Tiêu Phong đều ngưng thần, lờ mờ thấy có thêm một người nữa trong nhà.
Mã phu nhân không nén nổi, kêu rú lên: “Có người! Có người!” Chỉ thấy người đó chắn ngay cửa, hai tay buông xuôi, mặt mũi không nhìn rõ, chỉ đứng sừng sững không nhúc nhích gì, Bạch Thế Kính quát hỏi: “Ai đó?” Y tiến lên một bước, người kia vẫn lặng thinh không nói cũng không cử động. Bạch Thế Kính lại quát: “Không trả lời thì tại hạ không nể mặt nữa đâu.” Bạch Thế Kính thấy người lạ quạt tắt hai ngọn nến, biết y võ công cực kỳ cao cường, không dám hấp tấp ra tay. Trong bóng đêm tối mò, người kia vẫn bất động tựa như ma quỉ.
Mã phu nhân lại rít lên: “Chàng đốt đèn lên đi! Thiếp sợ lắm!” Bạch Thế Kính quát trả: “Con dâm phụ kia, sao mà ngu thế?” Y nói thế vì nếu quay sang thắp đèn là đưa lưng cho địch, thành thử vẫn thủ thế hai tay giữ ngực chờ kẻ địch xuất thủ trước. Ngờ đâu người kia vẫn đứng yên, mọi người cứ nhìn nhau như thế khoảng thời gian uống một chén trà. Tiêu Phong dĩ nhiên không lên tiếng, cả Đoàn Chính Thuần cũng lặng thinh. Bốn bề tĩnh mịch như tờ, nghe thấy được cả tiếng từng bông tuyết rơi chạm đất.
Sau cùng Bạch Thế Kính không nhịn nổi, kêu lên: “Các hạ đã không trả lời, ta đành phải mạo phạm.”Y ngừng lại một chút, thấy đối phương vẫn không cục cựa, bèn thò tay vào bọc lấy ra một cây phá giáp cương trùy, tung mình nhảy tới.
Trong bóng đêm chỉ thấy ánh sáng lấp loáng, cây dùi thép nhằm đâm vào ngực người kia, y nghiêng người tránh được. Đột nhiên Bạch Thế Kính thấy một luồng gió ép tới, mấy ngón tay đối phương nhằm cổ họng mình chụp xuống. Chiêu đó nhanh quá, Bạch Thế Kính chưa kịp thu cương trùy về thì năm đầu ngón tay đối phương đã đụng vào cổ họng mình. Lão hồn vía lên mây, hốt hoảng nhảy vọt ra sau tránh kịp, run run hỏi: “Ngươi… ngươi…”
Y sợ đến chết người, không phải vì đối phương võ nghệ cao cường, mà vì chiêu số vừa rồi chính là Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ. Đó là tuyệt kỹ gia truyền của Mã Đại Nguyên, ngoại trừ con cháu Mã gia không ai biết, chỉ vì Bạch Thế Kính chơi thân với Mã Đại Nguyên đã lâu nên hiểu rõ võ công gia số của y. Lưng Bạch Thế Kính toát mồ hôi lạnh ngắt, chăm chăm nhìn, chỉ thấy kẻ kia thân hình cao lớn chẳng khác gì Mã Đại Nguyên, nhưng trong bóng tối không trông rõ mặt. Người kia vẫn không hé răng, quanh y tỏa ra không khí lạnh lùng như ma như quỉ, Bạch Thế Kính thấy cổ họng ngâm ngẩm đau, chắc hẳn bị móng tay quệt phải. Y cố định thần, cất tiếng hỏi: “Phải chăng tôn giá ở họ Mã?” Người kia vẫn như câm điếc, không nói không rằng.
Bạch Thế Kính quát: “Con tiện nhân, mau đốt đèn cầy lên.” Mã phu nhân nói: “Thiếp không cử động được, chàng thắp lên đi.” Bạch Thế Kính vẫn e dè sợ sệt, không dám quay lưng cho người ta thừa cơ tấn công. Y lại nghĩ: “Rõ ràng võ công người này cao hơn ta, giả tỷ y muốn cứu Đoàn Chính Thuần thì đâu cần đợi người giúp? Sao y chỉ tấn công một chiêu rồi không truy kích nữa?”
Tất cả lại yên lặng một hồi lâu, Bạch Thế Kính đột nhiên phát giác ra một điều kỳ quái. Trong phòng không ai nói năng cử động, tiếng hô hấp mỗi người có thế nghe rõ. Mã phu nhân cũng thở, Đoàn Chính Thuần cũng thở, chính y cũng thở nhưng người đối diện lại tuyệt nhiên không phát ra hơi thở.
Bạch Thế Kính nín hơi nghe ngóng. Y nội lực cao thâm, công phu tu tập đã dày, có thể nghe được tiếng hô hấp của bất kỳ ai, nhưng người trước mặt thật sự không hô hấp gì cả. Một lúc lâu sau, người kia vẫn không thở, nếu là người sống thì làm sao có thể không hô hấp? Bạch Thế Kính bắt đầu nghe tiếng tim mình đập mỗi lúc một rõ, lồng ngực rung động mạnh, trái tim tưởng như muốn nhảy ra ngoài. Y không nhẫn nại nổi, quát lên một tiếng xông vào, vung trùy đâm tới tấp vào mặt đối phương.
Người kia vung tay trái gạt Bạch Thế Kính ra ngoài, tay phải nhanh như chớp chộp thẳng vào yết hầu y. Bạch Thế Kính đã đề phòng đối phương sử dụng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ, liền hụp đầu xuống, lòn dưới nách đối phương để tránh. Người kia không đuổi theo, vẫn đứng trơ trơ ở ngạch cửa như một bức tượng. Bạch Thế Kính lại phóng trùy đâm vào đùi đối phương, y vọt thẳng lên để tránh.
Mã phu nhân thấy người kia thân hình cứng đơ, lúc nhảy lên không co đầu gối. Bất giác mụ la hoảng: “Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!”
Gã kia nặng nề rơi xuống, chân chạm đất nghe “bịch” một tiếng. Bạch Thế Kính sợ nổi da gà, tự hỏi: “Giả tỷ người này là cao thủ võ học, lẽ nào nhảy lên rơi xuống lại vụng về như que củi? Không lẽ trên thế gian có quỉ nhập tràng thực ư?”.
Bạch Thế Kính hơi nhợn, nhưng rồi lại xông lên, chiếc trùy đâm vùn vụt luôn ba nhát vào hạ bàn. Người kia quả nhiên đầu gối cứng ngắc không gập lại được, người ngay đơ nhảy lên tránh đòn. Xem chừng y không thể bước được. Bạch Thế Kính đâm bên trái, y nhảy qua bên phải, đâm bên phải, y lại nhảy qua bên trái mà né tránh. Bạch Thế Kính phát giác được nhược điểm của đối phương rồi, trong lòng bớt sợ nhưng càng để ý càng nhận thấy đây không phải là người sống. Lão mấy lần thay đổi thế trùy cho biến ảo tinh diệu, nhưng thân pháp đối phương tuy vụng về mà vẫn không sao đâm trúng được.
Đột nhiên, Bạch Thế Kính cảm thấy sau gáy mát rượi, một bàn tay to tướng lạnh như băng đè lên cổ lão. Lão giật mình, xoay trùy đâm ngược lại. “Vèo” một tiếng, ngọn trùy đâm vào quãng không, bàn tay to lớn của người kia đã chộp được gáy lão rồi. Toàn thân Bạch Thế Kính liền mềm nhũn không còn cử động được nữa, chỉ còn thở lên hồng hộc. Mã phu nhân sợ quá la hoảng: “Thế Kính! Thế Kính! Chàng ra sao rồi?” Bạch Thế Kính chẳng còn hơi sức mà trả lời, chỉ thấy nội lực toàn thân theo bàn tay to lớn đang nắm nơi cổ mà tuôn ra.
Lại một bàn tay to tướng nữa cứng như sắt, lạnh như băng, sờ lên mặt Bạch Thế Kính, đó quả không phải tay người, không có một chút hơi ấm nào. Bạch Thế Kính nhịn không nổi, cố kêu lên: “Quỉ nhập tràng! Quỷ nhập tràng!” Thanh âm lão cực kỳ thê thảm rùng rợn. Bàn tay từ trên trán từ từ vuốt dọc xuống, đến ngang mắt thì dừng lại, hai ngón tay sờ sờ vào mí mắt. Bạch Thế Kính sợ muốn ngất đi, đối phương chỉ nhấn mạnh một chút là đôi tròng mắt bị móc ra. Thế nhưng bàn tay lạnh buốt đó lại từ từ sờ xuống dưới, đến mũi, đến miệng, lại từ từ sờ xuống dưới, sau cùng ngừng lại nơi yết hầu. Hai ngón tay lạnh ngắt kẹp vào yết hầu y, từ từ xiết lại.
Bạch Thế Kính sợ đến nửa mê nửa tỉnh, kêu lên: “Đại Nguyên huynh đệ! Tha mạng cho ta! Tha mạng cho ta!” Mã phu nhân hét lên: “Chàng… chàng nói gì thế?” Bạch Thế Kính tiếp tục năn nỉ: “Đại Nguyên huynh đệ ơi! Mọi sự đều do chủ ý của con dâm phụ này, nó bắt ta phải làm, chứ ta… chứ ta không can dự gì đến.” Mã phu nhân giận dữ nói: “Chủ ý của ta thì đã sao nào? Mã Đại Nguyên! Hồi ngươi sống trên thế gian cũng chỉ là cái bị thịt, chết đi thì làm được cái quái gì? Lão nương không sợ ngươi đâu?”
Bạch Thế Kính thấy khi mình mở miệng kể tội tình nhân thì cổ họng dễ thở một tí, nhưng vừa ngậm miệng thì bàn tay băng giá lại từ từ bóp vào. Lão nghe Mã phu nhân cũng gọi tên Mã Đại Nguyên, lại càng tin đây chính là quỉ nhập tràng, liền kêu lớn:“Đại Nguyên huynh đệ! Tha mạng cho ta! Phu nhân của huynh đệ coi trộm di lệnh của Uông bang chủ, năm lần bảy lượt kêu huynh đệ tiết lộ bí mật thân thế của Kiều Phong, huynh đệ nhất định không chịu nên mụ ta… mụ ta mới nảy ra ý gia hại.”
Tiêu Phong đứng ngoài nghe mà choáng váng. Chàng không tin thế gian này có quỉ thần, đoán rằng người bí mật kia là một cao thủ võ lâm, cố ý giả thần lộng quỉ để cho Mã phu nhân và Bạch Thế Kính khiếp sợ hoang mang, phun ra những điều ám muội. Quả nhiên Bạch Thế Kính vì khủng hoảng mà thú nhận, theo lời y thì Mã Đại Nguyên bị hai người giết hại. Mã phu nhân chủ mưu hạ sát thân phu, chính là vì mụ muốn tiết lộ thân thế chàng nhưng Mã Đại Nguyên không chịu. Rồi chàng tự hỏi: “Sao bà ta lại căm hận mình đến thế? Vì cớ gì mụ quyết lật đổ mình? Giả tỷ mụ muốn lang quân lên làm bang chủ thì sao lại giết đi?”
Mã phu nhân rít lên: “Mã Đại Nguyên! Ngươi lại bóp chết ta đi! Ta chán cái thứ vô dụng như ngươi lắm rồi, đồ tiểu quỉ chẳng làm được chuyện gì?”
Nghe thấy tiếng sào sạo nho nhỏ, chỗ xương sụn nơi cổ họng Bạch Thế Kính đã bị bóp vỡ một miếng. Bạch Thể Kính vùng vẫy hết sức nhưng không sao giãy ra được, tiếp theo lại có tiếng bùng bục, cổ họng lão đã bị bứt đứt. Lão muốn gào lên nhưng không hút khí vào phổi được, hai tay quơ loạn lên một lúc rồi tắt thở.
Người kia giết xong Bạch Thế Kính, xoay mình một cái đã biến mất không thấy hình bóng đâu nữa. Tiêu Phong chợt động tâm nghĩ thầm: “Người này là ai? Ta phải đuổi theo tìm hiểu cho minh bạch”. Chàng lập tức phóng ra cửa, thấy một bóng người lờ mờ đang lướt vun vút về hướng đông bắc dưới ánh trăng chiếu lên nền tuyết trắng xóa, nếu không phải nhãn lực cực tốt thì không sao thấy được.
Tiêu Phong lẩm bẩm: “Thân pháp thật là ghê gớm.” Chàng cúi xuống vỗ vào vai A Tử đang nằm dưới chân để giải huyệt, nghĩ thầm: “Mã phu nhân không biết võ công, tiểu cô nương này thừa sức giải cứu phụ thân.” Chàng không kịp giải huyệt cho ba người kia, vội vàng rảo bước phóng theo người bí mật.
Tiêu Phong ra sức chạy thật nhanh, đến khi khoảng cách còn hơn chục trượng mới nhìn rõ. Đây quả là một võ lâm cao thủ, bây giờ đôi chân không còn cứng đơ như quỷ nhập trang nữa, bộ pháp khinh khoái chăng khác gì lướt trên mặt tuyết. Võ công của Tiêu Phong bắt nguồn từ phái Thiếu Lâm, lại được Uông bang chủ của Cái Bang dạy dỗ, thuần túy dương cương. Khi chàng ra sức chạy nhanh, cứ mỗi bước thì thân hình vọt lên không trung rồi tung mình tới, mỗi lần xa hơn một trượng. Tư thế không tiêu sái tuấn nhã, nhưng chạy đường trường thật là hiệu quả, chàng cố đuổi một lúc khoảng tàn nửa nén nhang, cự ly chỉ còn chừng một trượng.
Tốc độ người đằng trước đột nhiên tăng vọt lên, thay đổi thân pháp chẳng khác gì cánh buồm thuận gió xuôi dòng, chốc lát đã bỏ Tiêu Phong lại một quãng xa. Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: “Người này quả là giỏi thật, phải vào hạng nhất nhì trong võ lâm, hèn gì chỉ cất tay là giết được Bạch Thế Kính.”
Tiêu Phong là một kỳ tài võ học thuộc loại trời sinh. Hai vị sư phụ của chàng Huyền Khố đại sư cùng Uông bang chủ võ công cao cường thật, song cũng chưa phải nhân vật đặc biệt. Võ công chàng vượt xa cả hai sư phụ, chẳng khác nào màu xanh xuất từ màu lam mà đẹp hơn màu lam, những chiêu thức bình thường vào tay chàng sử dụng cũng phát sinh uy lực ghê gớm. Những người biết chàng đều bảo đấy là do thiên phú, không thể do truyền thụ hay khổ luyện mà được. Bản thân Tiêu Phong cũng không hiểu tại sao, nhưng chiêu nào chàng đã học là biết, đã biết là tinh tường, đến khi lâm địch lại tự nhiên biến hóa một cách xảo diệu. Có điều ngoài võ học ra, bất cứ đọc sách hay thủ công gì gì, chàng cũng chỉ vào hạng bình thường chẳng có chi đặc biệt hơn người. Bình sinh Tiêu Phong ít gặp địch thủ, nhiều người nội lực tham hậu hơn, chiều số biến hóa hơn chàng, nhưng khi chiến đấu thật sự đến lúc khẩn yếu, đều thất bại dưới tay chàng chỉ một chiêu nửa thức. Tuy họ thua mà vẫn tâm phục khẩu phục, biết mình không phải là địch thủ, nên trước nay chưa có ai đi kiếm chàng để trả thù rửa hận.
Lúc này bỗng dưng Tiêu Phong gặp được một địch thủ khinh công cao cường như thế, bất giác hùng khí bốc lên ngùn ngụt, chàng gia tăng cước bộ vọt lên. Hai người một trước một sau chạy vùn vụt về hướng đông bắc. Tiêu Phong thủy chung vẫn không sao đuổi kịp mà người kia cũng không bứt đi được. Một giờ, rồi hai giờ sau, hai người đã chạy trên một trăm dặm nhưng khoảng cách hai bên vẫn như cũ.
Lại thêm nửa giờ nữa, trời bừng sáng, tuyết cũng đã ngưng đổ, có tiếng gà gáy xao xác. Tiêu Phong nhìn thấy xa xa dưới chân núi có một thị trấn nhà cửa san sát như bát úp. Chàng nổi cơn thèm rượu bèn cất tiếng gọi to: “Vị huynh đài chạy trước ơi! Ta mời các hạ uống hai chục bát rượu, rồi lại chạy nữa, được chăng?” Người kia không đáp, lại càng chạy nhanh hơn, Tiêu Phong cười nói: “Các hạ ra tay hạ thủ tên gian phu Bạch Thế Kính, thực là một bậc anh hùng hảo hán. Tiêu mỗ chịu thua, khinh công không bằng được. Chúng ta đi uống rượu, không tỉ thí nữa, được không?” Tuy vừa chạy vừa nói nhưng bước chân chàng vẫn không chậm lại chút nào.
Người kia đột nhiên dừng bước, nói: “Kiều Phong uy chấn giang hồ, quả nhiên danh bất hư truyền. Miệng nói mà chân khí vẫn vận dụng được như thường, thực là anh hùng, thực là hào kiệt.”
Tiêu Phong nghe thanh âm ông ta mơ hồ không rõ, nhưng dường như hơn tuổi mình nhiều, liền nói: “Tiền bối quá khen! Vãn bối trèo cao, muốn được kết giao bằng hữu, chẳng hiểu tiền bối có vui lòng chăng?” Người kia thở dài: “Ta già rồi, chẳng được việc gì nữa. Ngươi đừng đuổi nữa, chỉ chạy thêm một giờ là ta phải chịu thua.” Lão dứt lời liền chậm rãi đi thẳng.
Tiêu Phong định chạy theo nói chuyện thêm, nhưng chỉ một bước đã dừng lại, nghĩ bụng: “Y đã bảo ta đừng đuổi nữa”. Chàng nghĩ đến quần hào Trung Nguyên coi mình chẳng ra gì, e rằng người này cũng khinh bỉ dân Khất Đan, đành đứng nhìn theo bóng y dần dần mất hút vào rừng cây, trong bụng cảm thán: “Người này khinh công tuyệt diệu, nội lực có thừa. Mình chưa được thấy mặt thực là đáng tiếc.” Chàng lại nghĩ: “Thanh âm của y mơ hồ, hiển nhiên cố ý đổi giọng cho ta khỏi nhận ra. Đến cả tiếng nói y còn không cho mình biết, huống chi là nhìn mặt?”.
Tiêu Phong đứng thẫn thờ một lúc mới đi vào thị trấn, tìm một tửu điếm nhỏ gọi rượu ngồi uống, cứ một hai bát lại vỗ bàn than thở: “Hảo nam nhi? Hảo hán tử! Đáng tiếc! Đáng tiếc!”
Tiêu Phong nói “hảo nam nhi, hảo hán tử” là khen ngợi người kia võ nghệ cao cường, hạ sát tên gian nhân Bạch Thế Kính thật là gọn ghẽ, còn “đáng tiếc” là cảm khái mình không được giao kết cùng y. Xưa nay chàng quý bằng hữu như tính mạng, từ ngày ra khỏi Cái Bang, kết thâm cừu với quần hào Trung Nguyên, bao nhiêu bằng hữu trước đây mất sạch. Chàng trong bụng u uất buồn phiền, hôm nay được gặp một anh hùng võ công không kém gì mình, mà vô duyên không được kết giao, đành uống rượu tiêu sầu. Thế nhưng bao nhiêu nghi vấn tích chứa bấy lâu nay đã giải quyết gần hết, trong lòng cũng có phần nhẹ nhõm.
Tiêu Phong uống hơn hai chục bát rượu thấy cũng đã đủ, liền gọi tính tiền rồi nghĩ thầm: “Đoàn Chính Thuần không biết đã thoát hiểm chưa. Bọn Nguyễn Tinh Trúc, Tân Hồng Miên bị ta điểm huyệt không hiểu có gặp chuyện gì không, mình phải quay lại xem mới được”. Chàng liền rảo bước chạy trở về.
Lần này không dùng hết sức nên chàng chạy chậm hơn nhiều, về đến Mã gia thì đã quá ngọ. Bọn Nguyễn Tinh Trúc không còn trên bãi tuyết ngoài nhà, chắc là A Tử đã đưa họ vào. Chàng đẩy cửa bước vào, thấy thi thể Bạch Thế Kính nằm cong queo bên cạnh cửa, còn Đoàn Chính Thuần không thấy đâu. Một phụ nữ nằm phục bên cạnh giường, người đầy huyết tích, chính là Mã phu nhân.
Mụ ta nghe có tiếng chân người liền quay đầu ra, thều thào nói: “Làm ơn làm phước, mau lại giết ta đi.” Tiêu Phong thấy mặt mụ xám ngắt trông thật xấu xí, chỉ qua một đêm đã già đi đến hai ba chục tuổi. Chàng bèn hỏi: “Đoàn Chính Thuần đâu?” Mã phu nhân đáp: “Con… con ác nhân đó cứu y đi rồi. A…” Đột nhiên mụ ta kêu thét lên, thanh âm lanh lảnh nghe đến chói tai. Tiêu Phong bất ngờ, giật nảy người, lùi lại một bước hỏi: “Bà làm sao thế?” Mã phu nhân thở hổn hển, nói: “Ngươi… ngươi là Kiều… bang chủ?” Tiêu Phong gượng cười đáp: “Ta có còn là bang chủ Cái Bang đâu, chẳng lẽ bà lại không biết?” Mã phu nhân nói: “Phải rồi! Ngươi đúng là Kiều bang chủ. Làm ơn làm phước giết ta mau đi!” Tiêu Phong nhíu mày nói: “Ta không định giết bà. Bà mưu sát thân phu, sẽ có người trong Cái Bang đến xử lý chuyện này.”
Mã phu nhân năn nỉ: “Ta… ta không chịu đựng được nữa rồi. Thủ đoạn của con tiểu tiện nhân đó độc ác quá. Ta… ta thành ma quỉ sẽ không tha cho nó. Ngươi… ngươi nhìn kỹ ta đây này…”
Bà ta nằm phục trong xó tối không trông rõ, Tiêu Phong nghe nói thế bèn ra mở cửa sổ cho ánh nắng chiếu vào nhà. Chàng vừa liếc mắt nhìn Mã phu nhân đã bất giác run lên. Bả vai, cánh tay, ngực, đùi, chỗ nào cũng bị dao khoét, kiến bu đầy vào các vết thương. Tiêu Phong nhìn là biết ngay các đường gân trên tứ chi đều bị cắt đứt cả rồi, không còn cử động gì được. Giả tỷ người bị điểm huyệt, sau khi khai thông huyệt đạo lại cử động được như thường, còn gân cốt đứt hết rồi thì không chữa được, từ nay thành phế nhân. Chàng vẫn chưa hiểu sao trên các vết thương lại có kiến bâu vào.
Mã phu nhân thều thào nói: “Con tiện tì cắt đứt gân cốt tay chân ta, rồi lại lấy dao rạch khắp người, đem… đem nước đường… nước đường đổ lên, bảo là để dụ cho kiến bu vào đốt, bắt ta cực khổ mấy ngày, đế ta sống không được chết không xong, nó mới cam lòng.
Tiêu Phong biết rằng nếu mình nhìn vào vết thương của bà ta một lần nữa là sẽ nôn vọt ra ngay. Chàng không phải là người mềm yếu, nhưng có giết người đốt nhà thì cũng làm cho mau lẹ, không đành lòng hành hạ địch nhân. Chàng thở dài một tiếng, xuống bếp xách lên một thùng nước dội lên người bà ta để kiến bò đi, đỡ được cái nhức nhối bị cắn xé.
Mã phu nhân nói: “Đa tạ! Ngươi thật là tốt bụng, nhưng ta không sống được nữa đâu. Ngươi làm phước chém ta một nhát cho xong.” Tiêu Phong hỏi: “Ai hành hạ bà?” Mã phu nhân nghiến răng đáp: “Là một con tiểu tiện nhân, tuổi mới độ mười lăm mười sáu mà tâm địa cùng thủ đoạn đã độc ác đến thế!” Tiêu Phong thất kinh kêu lên: “Là A Tử ư?” Mã phu nhân đáp:“Đúng rồi! Ta nghe con giặc cái kia bảo nó giết ta đi cho xong. Nhưng cái con A Tử khốn kiếp lại muốn hành hạ ta từ từ, bắt ta chịu muôn vàn khổ sở để báo thù cho phụ thân, để cho mẫu thân tiết hận.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Lúc nãy ta chỉ sợ hai mụ Tần Nguyễn nổi cơn ghen giết mất Mã phu nhân, không còn ai để điều tra. Ngờ đâu con tiểu a đầu A Tử lại ra tay độc ác đến thế.” Chàng nhíu mày nói: “Trước kia Đoàn Chính Thuần có tình ý với bà, tuy bà muốn giết y, nhưng không lẽ y thấy con gái tàn ác như thế mà không cản hay sao?”
Mã phu nhân đáp: “Y mê man chẳng biết gì, cũng bởi… cũng bởi Thập Hương Mê Hồn Tán mà ra.”
Tiêu Phong gật đầu đáp: “Thì ra là thế. Y là một tay hảo hán trắng đen minh bạch, lẽ nào dung túng cho con gái hành sự nhẫn tâm như thế? Thế còn mấy người đàn bà kia thì sao rồi?” Mã phu nhân rên rỉ: “Đừng hỏi nữa! Mau giết ta đi!” Tiêu Phong hừ một tiếng rồi nói: “Nếu bà không trả lời tử tế, ta lại lấy mật bôi lên vết thương rồi phủi tay bỏ đi, để bà ra sao thì ra.” Mã phu nhân đáp: “Bọn đàn ông các ngươi là phường độc ác, đứa nào cũng long lang dạ thú…” Tiêu Phong hỏi lại: “Thế bà ám hại Mã đại ca, thủ đoạn không ác độc hay sao?” Mã phu nhân lạ lùng: “Sao… sao người lại biết? Ai nói với người chuyện đó?”
Tiêu Phong lạnh lùng đáp: “Ta hỏi bà, không phải bà hỏi ta. Bà năn nỉ ta, không phải ta năn nỉ bà. Nói nhanh đi!”
Mã phu nhân nói: “Được rồi! Để ta nói cho người nghe. Con tiểu tiện nhân A Tử hành hạ ta, mẹ nó luôn mồm quát mắng bảo thôi nhưng con nhãi khốn kiếp đó chỉ cười hì hì không nghe. Mẹ nó chẳng hiểu bị ai điểm huyệt, không cử động được. Lát sau có năm sáu thuộc hạ của Đoàn Chính Thuần tới nơi, A Tử ôm cha mẹ nó và mẹ con Tân Hồng Miên từng người một ra khỏi nhà, nhưng không cho ai vào để họ khỏi nhìn thấy ta. Bọn thuộc hạ của Đoàn Chính Thuần đỡ bọn chúng lên ngựa rồi đi mất.”
Tiêu Phong gật đầu, nghĩ bụng: “Té ra bọn Đoàn Chính Thuần được thuộc hạ đưa đi rồi. Còn ba người bị ta điểm huyệt, vài giờ nữa sẽ tự động giải khai, ta không cần để ý tới làm gì.” Mã phu nhân nói: “Ta nói hết rồi. Ngươi… ngươi mau mau giết ta đi.” Tiêu Phong nói: “Bà chưa nói hết đâu. Bà muốn sống thì khó lắm, mà muốn chết cũng chẳng dễ chút nào. Nói tiếp đi, vì cớ gì mà bà giết Mã đại ca?”
Cặp mắt Mã phu nhân phóng ra những tia sáng hung dữ. Mụ hỏi lại: “Ngươi không hỏi không được hay sao?” Tiêu Phong đáp: “Đúng thế, không hỏi không được! Ta là một tên nam nhi ương ngạnh, lòng dạ cứng như đá, không có chuyện thương xót bà đâu.”
Mã phu nhân hừ một tiếng rồi nói: “Ngươi tưởng ta chưa biết hay sao? Hôm nay ta đến nông nỗi này cũng do người mà ra. Ngươi ngông cuồng tự đại, là đồ súc sinh coi người bằng nửa con mắt. Bọn mọi rợ Khất Đan không bằng heo chó, sau này chết xuống mười tám tầng địa ngục tất bị ác quỉ hành hạ thảm khốc. Ngươi cứ lấy mật bôi vào vết thương ta đi, có gì mà không dám? Ngươi là đồ chó má, là quân khốn nạn…” Mụ thóa mạ mỗi lúc một độc địa, hiển nhiên trong lòng oán hận đã lâu không có dịp phát tiết, càng chửi càng tuôn ra những câu tục tĩu chướng tai, có vần có điệu, có lớp có lang, không sao tưởng tượng nổi.
Tiêu Phong từ nhỏ đã hòa mình trong Cái Bang, những lời thô tục nghe đã quen tai, mỗi khi chàng uống rượu với bọn ăn mày cũng thường nói bậy chửi càn. Nhưng chàng quả thực không ngờ con người ôn nhu văn nhã như Mã phu nhân lại biết thóa mạ tệ hại đến thế, có những câu trước nay chàng chưa từng nghe thấy bao giờ.
Tiêu Phong nín thinh chẳng nói chẳng rằng, để mặc bà ta chửi cho sướng miệng. Mặt mụ đang tái mét, chửi bới hả hê một hồi má đỏ bừng lên, ánh mắt đầy vẻ thỏa mãn. Mụ chửi thêm một chập nữa, thanh âm nhỏ dần, sau cùng nói: “Thằng chó má Kiều Phong kia! Ngươi hại ta đến nỗi này, để sau này xem quả báo thế nào.” Tiêu Phong bình tĩnh hỏi: “Bà chửi xong chưa?” Mã phu nhân đáp: “Ta nghỉ một chút rồi sẽ chửi tiếp. Ngươi là thứ chó đẻ không cha không mẹ, lão nương còn một hơi thở là còn chửi, không bao giờ xong được.”
Tiêu Phong nói: “Không sao, bà cứ chửi nữa đi. Ta gặp bà lần đầu là ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, lúc đó Mã đại ca đã bị giết rồi. Trước đó ta không hề biết bà là ai, sao bà lại bảo là ta hại bà đến nỗi này?”
Mã phu nhân hậm hực đáp: “Ái chà! Ngươi bảo lần đầu gặp ta là ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích ư? Con mẹ ngươi, ngươi là đồ tự cao tự đại, tưởng mình là người võ công số một trên đời rồi kiêu ngạo không coi ai ra gì nữa.” Rồi mụ lại thóa mạ một thôi một hồi nữa.
Tiêu Phong cứ để mặc mụ ta chửi mắng cho sướng miệng, đến khi nghe tiếng chửi nhỏ dần mới hỏi lại: “Bà chửi xong chưa?” Mã phu nhân lại hậm hực đáp: “Ta đã bảo là vĩnh viễn không xong. Ngươi… người có mắt như mù, giả tỷ người có là hoàng đế, ta cũng chẳng coi vào đâu.” Tiêu Phong đáp: “Đúng thế! Dẫu ta có là hoàng đế thì bà cũng chẳng cần phải nể nang. Mà thuở nay chẳng bao giờ ta cho rằng mình thiên hạ vô địch, ngay người… người lúc nãy võ công cũng cao hơn ta nhiều.”
Mã phu nhân chẳng cần biết chàng nói tới ai, vẫn luôn mồm thóa mạ một chập nữa rồi nói: “Ngươi bảo lần đầu thấy mặt ta là ở ngoài thành Vô Tích ư? Hứ, thế ở hội Bách Hoa trong thành Lạc Dương ngươi cũng chưa gặp ta hay sao?”
Tiêu Phong ngạc nhiên, cuộc hội Bách Hoa tại Lạc Dương diễn ra đã hai năm rồi. Chàng cùng các huynh đệ Cái Bang có đi dự hội, xai quyền làm lệnh uống rượu một bữa say sưa thoải mái, nhưng dường như đâu có gặp bà ta, liền hỏi: “Hôm ấy Mã đại ca cũng đến, nhưng có giới thiệu bà đâu?”
Mã phu nhân chửi liền: “Ngươi là cái thá gì? Chẳng qua chỉ là đầu đảng của bọn ăn mày chứ đã là gì? Hôm đó trong ngày hội Bách Hoa, ta đứng bên khóm thược dược hoa vàng, bao nhiêu anh hùng hảo hán đến dự hội, có ai không đứng ngơ ngẩn nhìn ta? Có ai nhìn ta mà không điên đảo thần hồn? Chỉ một mình ngươi tự cho là quân tử không ham nữ sắc, chẳng thèm để mắt ngó ngàng đến ta. Nếu thật sự ngươi không thấy ta thì ta cũng chẳng trách. Ngươi rõ ràng có nhìn thấy, vậy mà chỉ đảo mắt qua chẳng thèm ngừng lại chút nào, xem ta chẳng khác gì bọn con gái bình thường. Ngươi là đồ ngụy quân tử, đồ vô liêm sỉ, đồ mặt dày không biết thẹn.”
Tiêu Phong hơi nhớ ra, bèn nói: “Phải rồi! Hình như hôm đó quả có vài phụ nữ ở cạnh khóm thược dược. Lúc đó ta còn lo uống rượu, hơi đâu mà đi xem mẫu đơn thược dược với cả đàn bà con gái? Giả tỷ có bậc nữ lưu anh hiệp tiền bối, đương nhiên ta phải lại bái kiến. Còn bà là bậc chị dâu, ta không nhìn bà cũng có chi là thất lễ? Cớ sao bà lại hận ta về chuyện đó?”
Mã phu nhân hầm hầm nhìn ông nói: “Người quả là đồ có mắt không tròng. Bao nhiêu anh hùng hảo hán tiếng tăm lừng lẫy, ai cũng chăm chú nhìn ta từ đầu đến gót chân. Bao nhiêu người đức cao vọng trọng, không dám nhìn thẳng vào mặt ta thì cũng chờ lúc không ai để ý mà liếc trộm ta vài cái. Chỉ một mình ngươi, hừ, hơn một nghìn đàn ông trong hội Bách Hoa, chỉ một mình ngươi thủy chung không nhìn ta lấy một lần. Ngươi là bang chủ Cái Bang, là anh hùng hảo hán vang danh thiên hạ. Trong hội Bách Hoa thành Lạc Dương, nói về đàn ông dĩ nhiên ngươi đứng đầu, còn trong đàn bà thì ta là số một. Ngươi không thèm nhìn ta cái nào thì ta còn tự hào được là mình đẹp hay không? Còn hả lòng hả dạ được nữa hay không?”
Tiêu Phong thở dài, nói: “Từ nhỏ ta đã không thích tán tỉnh con gái, tuổi càng lớn càng ít dòm ngó nữ nhân, nào có phải chỉ mình bà đâu. Có người đẹp gấp trăm lần bà, lúc ban đầu ta không để ý đến, sau này thì lại chậm mất rồi…”
Mã phu nhân rít lên: “Sao? Có người đẹp gấp trăm lần ta ư? Người đó là ai?” Tiêu Phong đáp: “Nàng là con gái Đoàn Chính Thuần, tỉ tỉ của A Tử.” Mã phu nhân nhổ nước bọt đánh toẹt một cái, khinh khỉnh nói: “Hừ! Thứ đàn bà đê tiện nói đến chỉ bẩn mồm…” Mụ chưa dứt lời đã bị Tiêu Phong túm tóc nhấc lên liệng mạnh xuống đất, nói: “Ngươi còn dám thốt ra nửa câu bất kính với nàng, hừ, ta sẽ cho ngươi biết thế nào là thủ đoạn tàn khốc.”
Mã phu nhân bị ông ném một cái tưởng muốn ngất đi, xương cốt toàn thân kêu răng rắc. Thế mà mụ cất tiếng cười khanh khách, nói: “Thế ra… thế ra Kiều đại anh hùng, Kiều đại bang chủ cũng bị mê hoặc rồi, ha ha, ha ha, tức cười đến chết được. Ngươi mất chức bang chủ Cái Bang liền tính ngay ngôi phò mã trong phủ Trấn Nam Vương. Kiều bang chủ ơi, vậy mà ta cứ tưởng tiên nga giáng thế ngài cũng không thèm nhìn chứ.”
Tiêu Phong hai gối nhũn ra ngồi phịch xuống ghế, từ từ nói: “Ta chỉ mong được nhìn nàng lần nữa, nhưng… nhưng… không thể được.” Mã phu nhân cười khẩy nói: “Sao thế? Một thân võ công như ngươi không lẽ không giành được nó hay sao?”
Tiêu Phong lặng lẽ lắc đầu, hồi lâu chàng mới buồn rầu đáp: “Dù có bản lĩnh nghiêng trời, cũng không giành lại nàng được nữa.” Mã phu nhân khoái trá hỏi gặng: “Sao vậy? Ha ha!” Tiêu Phong khẽ đáp: “Nàng chết rồi!”
Mã phu nhân nín cười, trong lòng cũng hơi bùi ngùi, cảm thấy gã Kiều bang chủ cao ngạo này cũng có ba phần đáng thương. Nhưng lập tức mụ chuyển sang vui mừng, càng lúc càng thích chí.
Tiêu Phong thấy khuôn mặt rạng rỡ của mụ liền hiểu rằng mình càng đau lòng mụ càng khoái trá. Chàng đứng dậy nói: “Ngươi mưu sát thân phu, chết là đáng lắm. Còn muốn nói gì nữa không?” Mã phu nhân tưởng Tiêu Phong định giết mình, đột nhiên thấy sợ chết, van nài: “Ngươi… bang chủ… tha cho, xin đừng giết ta.” Tiêu Phong đáp: “Ta không cần hạ thủ giết ngươi đâu.” Nói rồi xoay người đi ra.
Mã phu nhân thấy chàng không hề quay đầu nhìn, lại tức giận lớn tiếng mắng: “Tên Kiều Phong chó má kia! Ta nói cho ngươi hay. Năm xưa ta hận ngươi không thèm nhìn ta nên mới xúi Mã Đại Nguyên khui gốc tích của ngươi ra. Mã Đại Nguyên nhất định không chịu, ta mới bảo Bạch Thế Kính giết hắn. Hôm nay ngươi… ngươi đối với ta cũng chẳng chút động tâm.”
Tiêu Phong quay mặt lại, lạnh lùng đáp: “Ngươi mưu sát thân phu chỉ vì ta không chịu nhìn ngươi ư? Hừ, chuyện vô lý đến thế ai mà tin nổi?” Mã phu nhân nói: “Ta chết đến nơi rồi, còn gạt ngươi làm gì nữa? Ngươi khinh mạn ta, ta có cách gì tiết hận đâu? Lũ ăn mày xem ngươi như thần như thánh, khắp thiên hạ còn ai dám động đến ngươi? Thế nhưng trời cao có mắt, ta thấy trong cái rương sắt của Mã Đại Nguyên có di thư của Uông bang chủ. Ta xem trộm thư rồi lại bỏ trở vào như cũ, không làm tổn thương đến dấu niêm phong, cũng chẳng khó gì. Ngươi đoán thử xem trong lòng ta có sướng không? Ha ha, thật là cơ hội bằng vàng, ta phải cho ngươi thân bại danh liệt, không còn ra vẻ ta đây anh hùng hảo hán gì nữa. Ta xúi Mã Đại Nguyên tố cáo cho mọi người biết ngươi là giống mọi rợ Khất Đan, khiến ngươi mất ngôi bang chủ Cái Bang, khiến ngươi không còn chỗ đứng ở Trung Nguyên, cái mạng chó của ngươi không chừng cũng mất nốt.”
Mụ ta không còn động đậy được nữa, rõ ràng chẳng còn cách nào hại người, nhưng Tiêu Phong nghe những lời ác độc không khỏi lạnh người. Chàng hừ một tiếng rồi nói: “Phải chăng Mã đại ca không nghe lời ngươi nên ngươi mới giết y?” Mã phu nhân đáp: “Đúng thế! Chẳng những y không nghe lời mà còn chửi ta một trận, bảo là từ nay không cho ra khỏi cửa, tiết lộ một tiếng thì sẽ băm vằm ta ra. Y trước nay coi ta còn hơn cha mẹ, có bao giờ dám nổi đóa như thế đâu? Ta có coi y ra chó gì, y dám hỗn với lão nương như thế thì chỉ tổ thiệt thân. Hơn một tháng sau Bạch Thế Kính đến chơi, hôm đó mười bốn tháng tám, lão ở lại ăn tết Trung Thu. Y liếc mắt nhìn ta một cái, lại một cái nữa, hừ hừ, lão già hiếu sắc. Ta thả cho một chút là lão mê tít ngay. Ta bảo lão giết tên vô tích sự Mã Đại Nguyên, lão không chịu, ta dọa sẽ kêu lên là bị lão cưỡng gian. Lão già dịch đó bề ngoài thì mặt sắt gan lim, thế mà với lão nương thì chuyện xấu xa bẩn thỉu tới đâu cũng làm. Ta bảo lão: Chàng giết Mã Đại Nguyên rồi, thiếp từ nay thuộc về chàng. Nếu chàng không chịu thì đánh chết thiếp đi cho xong. Đời nào lão bỏ được ta, bèn ngoan ngoãn giết Mã Đại Nguyên.”
Tiêu Phong thở dài, nói: “Bạch Thế Kính là một tay hảo hán gang thép như thế, vậy mà cũng bị hại về tay ngươi. Chắc ngươi cũng cho Mã huynh đệ uống Thập Hương Mê Hồn Tán, rồi bảo Bạch Thế Kính bóp nát yết hầu, đổ tội cho Cô Tô Mộ Dung dùng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ giết y phải không?” Mã phu nhân đáp: “Phải đó? Ha ha! Chẳng làm vậy thì làm thế nào? Có điều Cô Tô Mộ Dung gì gì đó là do thằng già ôn dịch nghĩ ra, ta đâu có biết.”
Tiêu Phong gật đầu. Mã phu nhân nói tiếp: “Ta bảo lão già hiếu sắc đứng ra tố cáo thân thế của ngươi. Ái chà, thằng cha già dịch đó còn ráng giữ nghĩa khí, bị ta ép quá, rút dao ra toan tự tận. Ta đành buông tha y, đi kiếm thằng ma cô Toàn Quan Thanh. Lão nương chỉ cho nó ngủ chung ba tiếng là bảo gì nghe nấy, hung hăng vỗ ngực tuyên bố nhất định thành công. Nhưng ta nghĩ chắc một mình thằng chó Toàn Quan Thanh không lật nổi ngươi, nên mới đi mời Từ trưởng lão ra mặt. Còn những việc về sau thì ngươi đã biết rồi, bất tất phải nói nữa.”
Nghi vấn cuối cùng trong lòng Tiêu Phong đã được giải tỏa. Chàng đã hiểu vì sao Toàn Quan Thanh chủ mưu phản mình, còn Bạch Thế Kính lại bị loạn đảng bắt giữ, chỉ hỏi thêm: “Cái quạt của ta là do Bạch Thế Kính lấy cắp phải không?” Mã phu nhân đáp: “Không phải thế. Lão già hiếu sắc nói là giá nào y cũng không làm chuyện không phải với ngươi. Đó là Toàn Quan Thanh dụ được Trần trưởng lão xiêu lòng, đợi ngươi rời khỏi nhà lẻn vào ăn cắp.” Tiêu Phong nói: “Đoàn cô nương cải trang làm Bạch Thế Kính, đến ta cũng không nhìn ra, thế mà ngươi phát hiện được là phải rồi.”
Mã phu nhân ngạc nhiên hỏi lại: “Con bé đó là con gái Đoàn Chính Thuần, là người trong mộng của ngươi đấy ư? Nó có đẹp thật không?” Tiêu Phong không đáp, ngửng đầu nhìn về phía chân trời.
Mã phu nhân nói: “Chà chà! Con ranh ấy đáo để thật, làm ta sợ đến mất vía, còn nói rằm tháng tám gì gì, chính là ngày giỗ Mã Đại Nguyên. Thế nhưng về sau ta khẽ hỏi vài mẩu chuyện phong tình. Ta nói trăng trên trời vừa tròn vừa sáng, hôm đó lão già hiếu sắc đáp lại là: Cặp bánh dầy ở trên người nàng còn tròn hơn, trắng hơn cả trăng trên trời. Ta hỏi con bé đó thích ăn bánh Trung Thu nhân ngọt hay nhân mặn, hôm đó cha già dịch nói là: Cái bánh của nàng vừa thơm tho như bánh ngọt vừa đậm đà như bánh mặn. Con nhãi kia trả lời đầu Ngô mình Sở, lập tức cơ mưu bại lộ ngay.”
Bây giờ Tiêu Phong mới hiểu tại sao hôm đó Mã phu nhân lại nhắc tới chuyện trăng tròn và bánh Trung Thu, thì ra tối hôm mười bốn tháng tám năm ngoái, mụ ta thông gian cùng Bạch Thế Kính, hai bên nói năng tục tĩu. Mã phu nhân cười sằng sặc nói: “Kiều Phong! Ngươi giả trang thật là tệ hại. Ta biết con nhãi đó là đồ giả mạo, bèn để ý tới nhà ngươi. Ha ha, làm gì mà ta chẳng nhận ra ngay là Kiều bang chủ? Ta đang muốn giết Đoàn Chính Thuần, mượn luôn tay ngươi thật là tiện lợi đủ đường.”
Tiêu Phong nghiến răng nói: “Đoàn cô nương vì ngươi mà chết, món nợ đó ta phải tính vào ngươi.” Mã phu nhân đáp: “Đó là tại nó đến gạt ta trước chứ có phải ta đi tìm nó đâu, bất quá chỉ tương kế tựu kế mà thôi. Giả tỷ nó không đến kiếm ta, ta sẽ đợi Bạch Thế Kính lên làm bang chủ Cái Bang, rồi tìm cách cho Cái Bang gây thù kết oán với họ Đoàn Đại Lý, gã Đoàn Chính Thuần chẳng chóng thì chầy cũng không thoát khỏi tay ta.”
Tiêu Phong nói: “Ngươi quả là ác độc! Phu quân của ngươi, ngươi cũng giết. Đàn ông đã từng tư tình với ngươi, ngươi cũng giết. Cả người không muốn nhìn dung mạo ngươi, ngươi cũng muốn giết nốt.” Mã phu nhân đáp: “Không nhìn mỹ nhân trước mắt thì nhìn gì nữa? Chẳng lẽ ta không đẹp hay sao? Trên đời này ta chưa thấy ai ngụy quân tử như ngươi.” Mụ nói đến chỗ đắc ý, hai má ửng hồng ra chiều phấn chấn, nhưng khí lực càng lúc càng suy, nhiều lúc phải nói nhát gừng không mạch lạc được.
Tiêu Phong nói: “Ta hỏi người một câu cuối cùng. Cái gã Thủ lĩnh đại ca viết thư cho Uông bang chủ là người nào thế? Ngươi đã đọc lá thư đó rồi, chắc chắn phải biết ai ký tên ở dưới.” Mã phu nhân cười rộ lên đáp: “Ha ha! Kiều Phong ơi là Kiều Phong, bây giờ thì ngươi năn nỉ ta hay là ta năn nỉ ngươi? Mã Đại Nguyên chết rồi, Từ trưởng lão chết rồi, Triệu Tiền Tôn chết rồi, Thiết diện pháp quan Đơn Chính chết rồi, Đàm công Đàm bà chết rồi, Trí Quang đại sư núi Thiên Thai cũng viên tịch nốt. Bây giờ chỉ còn ta và chính Thủ lĩnh đại ca biết được người đó là ai thôi.”
Tim Tiêu Phong đập càng lúc càng nhanh, chàng hạ giọng nói: “Đúng thế. Bây giờ đến lúc Tiêu mỗ phải cầu khẩn phu nhân. Xin phu nhân nói cho hay họ tên người đó.”
Mã phu nhân hỏi lại: “Ta sắp chết rồi, ngươi đền đáp ta bằng cách gì?” Tiêu Phong đáp: “Bất luận phu nhân sai bảo chuyện gì, sức Tiêu mỗ làm được thì quyết không từ chối.” Mã phu nhân mỉm cười đáp: “Ta còn mong gì nữa? Kiều Phong! Ta hận ngươi không chịu nhìn ta, từ đó gây ra bao nhiêu tai họa. Người muốn biết tên của Thủ lĩnh đại ca cũng chẳng khó gì, chỉ cần ôm ta vào lòng, chiêm ngưỡng ta một lúc là được.”
Tiêu Phong nhíu cặp lông mày, trong lòng hết sức khó chịu. Thế nhưng trên đời chỉ còn mụ ta biết được cái đại bí mật này, mối huyết hải thâm cừu của mình có báo được hay không chỉ trông vào miệng mụ nói ra mấy tiếng. Đừng nói bà ta bắt làm chuyện khó khăn nguy hiểm, mà dẫu là chuyện xấu xa bỉ ổi, chàng cũng phải miễn cưỡng mà làm. Bây giờ mụ chỉ còn thoi thóp, không biết tắt thở lúc nào, lấy uy mà bức bách, lấy lợi mà cám dỗ cũng đều vô dụng. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nếu ta khăng khăng không chịu, đến lúc mụ thở hắt ra thì kẻ đại cừu giết song thân từ nay không thể biết nữa. Ta ôm mụ lên, nhìn mụ mấy cái phỏng có hại gì?”. Chàng bèn nói: “Thôi được, ta bằng lòng.”, rồi cúi xuống bế Mã phu nhân vào lòng, đôi mắt đăm đăm nhìn vào mặt mụ.
Lúc đó mặt mụ ta đầy vết máu, dính vô số đất cát bụi bặm, lại chịu đau khổ đọa đày suốt một đêm, dung nhan tiều tụy trông rất khó coi. Tiêu Phong ôm mụ đã là miễn cưỡng, lại phải nhìn bộ mặt giống như quỷ sứ, không khỏi chau mày.
Mã phu nhân giận dữ hỏi: “Sao? Phải chăng người chán ghét không muốn nhìn ta?” Tiêu Phong đành đáp cho xuôi: “Không phải thế.” Chàng nói mấy lời này không thực lòng. Bình thời dù gặp việc nguy nan đến đâu, chàng cũng không bao giờ nói dối, nhưng tình trạng hiện tại vạn bất đắc dĩ đành phải bụng nghĩ một đằng miệng nói một nẻo.
Mã phu nhân dịu dàng nói: “Nếu thật chàng không chán ghét, thì cúi xuống hôn thiếp một cái đi.” Tiêu Phong nghiêm mặt đáp: “Không thể được! Bà là phu nhân của Mã đại ca, Tiêu mỗ biết điều nghĩa khí, khi nào dám sàm sỡ với quả phụ của huynh đệ cùng bằng hữu?” Mã phu nhân nũng nịu nói: “Ôi chao! Chàng biết điều nghĩa khí với anh em, sao lại ôm thiếp vào lòng…”
Lúc đó bên ngoài cửa sổ có tiếng cười khúc khích, rồi có thanh âm nói vọng vào: “Tên Kiều Phong quả là mặt dày! Ngươi đã giết tỉ tỉ ta rồi, lại tính chuyện ngoại tình, ôm ấp hôn hít tình nhân của gia gia ta, không biết xấu hay sao?” Người nói câu đó chính là A Tử.
Tiêu Phong tự vấn lương tâm không có điều gì đáng thẹn, chẳng thèm để ý câu nói lăng nhăng của đứa trẻ chưa hiểu việc đời. Chàng giục Mã phu nhân: “Bà nói mau đi, cho ta biết Thủ lĩnh đại ca là ai?”
Mã phu nhân hờn dỗi nói: “Sao thiếp bảo chàng nhìn mặt thiếp, mà chàng lại quay đầu đi?” Thanh âm đầy vẻ ỏn thót cám dỗ.
Lúc đó A Tử đã bước vào phòng, cười hỏi: “Ngươi còn chưa chết ư? Cái mặt ngươi bây giờ giống như ma quỉ, còn tên đàn ông nào dám nhìn nữa?” Mã phu nhân hốt hoảng: “Sao? Sao? Ngươi… ngươi bảo ta giống như ma quỉ ư? Gương đâu? Gương đâu? Đưa ta chiếc gương!” Thanh âm của mụ đầy vẻ kinh hoàng. Tiêu Phong lại giục: “Nói mau lên! Nói mau lên, rồi ta sẽ lấy gương cho bà mượn.”
A Tử tiện tay cầm lấy chiếc gương đồng sáng choang trên bàn, đưa ra trước mặt Mã phu nhân, cười nói: “Gương đây, người tự nhìn xem có đẹp hay không?”
Mã phu nhân nhìn vào trong gương, thấy khuôn mặt mình đầy máu me bụi bặm, lại đủ các vẻ hoảng hốt, dữ tợn, độc ác, oán hờn, Bao nhiêu là xấu xa khả ố hiện cả lên đầu mày khoé mắt, còn đâu là vẻ xinh tươi của một mỹ nhân sắc nước hương trời, ai gặp cũng phải điên đảo thần hồn? Bà trợn ngược mắt, rồi không sao nhắm lại được nữa. Mã phu nhân một đời tự hào về nhan sắc, ngờ đâu lúc sắp lìa trần lại thấy mình xấu xa đến thế.
Tiêu Phong nói: “A Tử! Cất gương đi, đừng chọc tức bà ta nữa.” A Tử cười khanh khách đáp: “Ta muốn mụ xem đã giống ma quỉ hay chưa.” Tiêu Phong nói: “Nếu cô chọc bà ấy tức uất lên mà chết thì thật hỡi ôi.” Chàng thấy Mã phu nhân không cử động nữa, tiếng thở hổn hển cũng im bặt, vội vàng đưa tay lên mũi mụ, hóa ra đã tắt hơi thật rồi. Tiêu Phong kinh hãi la lên: “Trời ơi! Không xong, mụ chết mất rồi!” Giọng chàng hoảng hốt, tựa như trời đang sập xuống.
A Tử bĩu môi nói: “Không lẽ ngươi thích mụ ta thật sao? Cái loại đàn bà như thế chết đi, có gì mà phải la lối om sòm.” Tiêu Phong dậm chân đáp: “Hừ! Cô còn trẻ con biết gì? Ta đang hỏi mụ một chuyện, trên đời này chỉ còn một mình mụ biết. Nếu cô không đến phá rối thì mụ đã nói ra rồi.” A Tử kêu lên: “Úi chà! Hóa ra ta làm hỏng việc của ngươi rồi phải không?”
Tiêu Phong thở dài, nghĩ bụng: “Người chết không sống lại được, ta có nổi nóng cũng chẳng đến đâu. Con nhãi ranh A Tử này mất dạy từ bé, song thân nó còn không quản được, nói chi người ngoài?” Chàng nghĩ đến A Châu bèn bỏ qua chuyện này, đành đặt thi thể Mã phu nhân xuống giường rồi nói: “Thôi vậy. Chúng ta ra ngoài!”
Tiêu Phong xem qua trong nhà thấy không còn ai, bà lão giúp việc không biết đã trốn đâu. Chàng bèn lấy đồ đánh lửa ra, xuống đốt kho chứa củi, chỉ chốc lát ngọn lửa đã bốc lên cao.
Hai người đứng ở bên ngoài nhìn những lưỡi lửa từ trong cửa sổ liếm ra. Tiêu Phong hỏi: “Sao cô không về với gia gia má má đi?” A Tử đáp: “Không được! Ta không về với gia gia má má đâu. Bọn thuộc hạ của ông ấy, tên nào gặp ta cũng trợn mắt, nghiến răng, coi bộ rất khả ố. Ta bảo gia gia giết sạch chúng đi, ông ta nhất định không thèm nghe, thật là tệ hại.”
Tiêu Phong nghĩ bụng: “Ngươi làm chết Chử Vạn Lý, dĩ nhiên bằng hữu của y phải hận ngươi. Đoàn Chính Thuần khi nào lại nghe lời ngươi mà giết đám thuộc hạ trung nghĩa được? Chính ngươi tệ hại, lại nói gia gia ngươi tệ hại, đúng là giọng lưỡi trẻ con mất nết.” Chàng bèn đáp: “Thôi! Ta đi đây!” Nói xong, trở gót đi về hướng bắc.
A Tử gọi: “Này, này! Gượm đã, chờ ta với!” Tiêu Phong dừng bước, quay lại hỏi: “Bây giờ cô đi đâu? Có về chỗ sư phụ không?” A Tử đáp: “Không đâu! Bây giờ ta không dám về chỗ sư phụ.” Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi: “Sao lại không dám? Chắc lại gây ra chuyện gì rồi ư?” A Tử đáp: “Không phải gây chuyện, mà là ta lấy một cuốn sách của sư phụ, bây giờ quay về thể nào cũng bị đòi lại. Ta phải luyện cho xong đã, rồi sư phụ có lấy lại cũng không sao.” Tiêu Phong nói: “Sách luyện võ ư? Sao cô không xin sư phụ cho đọc một chút, thể nào người chẳng bằng lòng? Hơn nữa nếu cô tự luyện nhất định sẽ có nhiều chỗ nghi vấn, có sư phụ bên cạnh chỉ điểm có phải hơn không?” A Tử bĩu môi đáp: “Sư phụ ta đã bảo không là không, có năn nỉ cũng vô ích.”
Tiêu Phong thật sự không ưa cô bé tính nết giảo quyệt này, sư phụ cô ta là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu cũng là ác ma có tiếng. Chàng không muốn dây dưa với hạng người đó, bèn nói: “Được rồi! Bây giờ cô muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi, ta không can thiệp vào việc của cô nữa.” A Tử hỏi: “Thế bây giờ ngươi đi đâu?”.
Tiêu Phong nhìn căn nhà họ Mã đang cháy đùng đùng, thở dài nói: “Ta chỉ muốn đi báo thù, nhưng lại không biết kẻ thù là ai. Suốt kiếp này, ta đành ôm hận ngàn thu, mối thù đó không trả được nữa.” A Tử kêu lên: “Ái chà! Ta hiểu rồi, chỉ một mình Mã phu nhân biết, mà mụ lại bị ta chọc tức mà chết, nên từ này ngươi không còn biết được kẻ thù là ai. Khoái quá, khoái quá! Kiều bang chủ uy danh lừng lẫy, vậy mà bị ta trói chân trói cẳng không làm gì được.”
Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô ta gieo rắc tai họa càng nhiều lại càng hớn hở đắc chí. Khuôn mặt cô bé rạng rỡ dưới ánh lửa bập bùng trông thật dễ thương, có ai ngờ đâu dưới khuôn mặt ngây thơ kia lại chỉ toàn là ác ý. Lửa giận bốc lên, chàng định tát cho con nhãi này một phát đích đáng, nhưng chợt nhớ lại A Châu lúc lâm chung chỉ cầu khẩn mình chiếu cố cho cô muội tử duy nhất. Chàng lẩm bẩm: “Cả đời A Châu chỉ xin ta một chuyện, lẽ nào ta lại không làm? Muội tử của nàng dâu là kẻ đại gian đại ác, thì ta cũng phải hết sức đưa về chính đạo, huống gì nó chỉ là một con bé ngang ngược láo lếu chưa hiểu chuyện đời”
A Tử hất mặt lên trời, hỏi lại: “Sao đấy? Ngươi định đánh chết ta ư? Sao không đánh đi? Ngươi đã đánh chết tỉ tỉ ta rồi, giết nốt ta đi cũng có sao đâu?”
Mấy câu này như mũi dao nhọn đâm vào tim Tiêu Phong. Chàng chua xót trong lòng, không còn biết nói sao, cắm đầu rảo bước đi trên con đường tuyết phủ, không ngoảnh cổ lại nữa.
A Tử cười nói: “Này! Khoan đã, ngươi đi đâu thế?” Tiêu Phong đáp: “Ta không thể sống ở Trung Nguyên nữa, mối thù giết cha giết mẹ cũng không còn báo được. Bây giờ ta ra ngoài biên ải, từ nay không quay lại nữa.” A Tử nghiêng đầu hỏi: “Ngươi định đi đường nào?” Tiêu Phong đáp: “Ta ra Nhạn Môn Quan.” A Tử vỗ tay reo lên: “Hay lắm! Ta định đi Tấn Dương, thì ra cùng đường với ngươi.” Tiêu Phong hỏi lại: “Cô đi Tấn Dương để làm gì? Đường xa ngàn dặm, một cô gái bé nhỏ không nên đi một mình.” A Tử cười đáp: “Hừ, đường sá xa xôi có gì mà sợ? Ta từ Tinh Tú Hải về đến đây còn xa hơn nhiều. Mà ta đi cùng ngươi, sao lại bảo là đi một mình?” Tiêu Phong lắc đầu đáp: “Ta không đi với cô đâu.” A Tử hỏi: “Sao thế?” Tiêu Phong đáp: “Ta là nam nhân, còn cô là con gái ít tuổi, ngày đi đêm ngủ có điều bất tiện.” A Tử đáp: “Ngươi nói chuyện tức cười. Ta không khó chịu thì thôi, việc gì ngươi lại thấy bất tiện? Ngươi cùng tỉ tỉ ta, cũng là một nam một nữ ngày đi đêm ngủ, đường xa muôn dặm có sao đâu?”
Tiêu Phong hạ giọng đáp: “Ta cùng tỉ tỉ cô đã ước định hôn nhân, không phải quan hệ tầm thường.” A Tử vỗ tay cười nói: “Trời ơi, thế mà ta nghĩ không ra! Ta cứ tưởng A Châu tỉ tỉ giữ gìn nghiêm ngặt lắm, có ngờ đâu ngươi chẳng khác gì gia gia, tỉ tỉ chẳng khác gì má má, chưa kết nghĩa phu thê đã ăn ở với nhau rồi.” Tiêu Phong giận dữ quát lên: “Cô không được nói bừa. Tỉ tỉ cô cho đến chết vẫn là một cô nương băng thanh ngọc khiết. Ta đối với nàng vừa kính vừa trọng, một mực thủ lễ.” A Tử thở dài, nói: “Ngươi la lối quát mắng phỏng có ích gì? Tỉ tỉ ta có thanh khiết hay không thì cũng bị ngươi đánh chết rồi. Thôi, chúng ta đi.”
Tiêu Phong lại nghe nhắc đến chuyện mình lỡ tay đánh chết A Châu, trong lòng đau như cắt. Chàng ôn tồn dỗ dành A Tử: “Thôi, cô về Tiểu Kính Hồ với má má đi. Nếu không thì kiếm chỗ nào tĩnh mịch mà luyện thành công phu trong sách, rồi về với sư phụ. Đi Tấn Dương chơi có gì thích thú đâu?” A Tử nghiêm mặt đáp: “Chẳng phải ta đi chơi đâu, có chuyện trọng đại phải làm đấy chứ?
Tiêu Phong vẫn lắc đầu nói: “Ta không đi với cô.” Nói xong, chàng rảo bước đi thẳng. A Tử thi triển khinh công đuổi theo, vừa chạy vừa gọi: “Đợi ta với! Đợi ta với!” Tiêu Phong không lý gì đến cô nàng, cứ lầm lì mà chạy.
Một lúc sau, gió bấc bắt đầu thổi mạnh, tuyết lại rơi xuống. Tiêu Phong xông pha gió tuyết mà đi, nhớ đến mối thù sâu tựa biển không còn cách nào trả được, trong lòng uất hận vô cùng nhưng lực bất tòng tâm, đành gác bỏ không nghĩ tới.
Tiêu Phong đi chừng hơn mười dặm, thấy một cái miếu nhỏ bên cạnh đường liền ghé vào, ngồi dựa vào vách ngủ một giấc. Đến hơn hai giờ chàng mới tỉnh dậy, hết cả mệt mỏi, lại tiếp tục đi về hướng bắc, thêm bốn chục dặm nữa thì đến một thành trì quan trọng của miền bắc là Trường Đài quan.
Việc đầu tiên là chàng đi kiếm một tửu điếm, vào gọi mười cân rượu, hai cân thịt bò, một con gà quay, ngồi ăn uống một mình, uống hết mười cân lại gọi thêm năm cân nữa. Đang uống bỗng nghe có tiếng chân người vào quán, chính là A Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Con ranh này đến đây làm mình hết cả hứng uống rượu.” Chàng liền quay mặt đi, giả vờ không nhìn thấy.
A Tử tủm tỉm cười, ngồi ngay vào bàn đối diện với chàng, hô to: “Đem rượu cho ta!” Một tên tửu bảo lật đật chạy đến, cười nói: “Tiểu cô nương! Cô cũng uống rượu ư?” A Tử quát luôn: “Cô nương là cô nương, sao lại phải thêm chữ tiểu vào? Ta mà không uống rượu được ư? Mau dọn cho ta mười cân rượu, hai cân thịt bò, một con gà quay, nhớ chuẩn bị năm cân rượu nữa đề phòng ta gọi thêm. Mau lên!”
Tên tửu bảo rụt đầu lè lưỡi, kêu lên: “Ối mẹ ôi! Cô nương nói thật hay nói chơi đấy? Cô bé bỏng thế này làm gì mà ăn uống được nhiều thế?” Y vừa nói vừa liếc Tiêu Phong, nghĩ thầm: “Chắc cô nương này đang trêu chọc ông ta, gọi đồ ăn uống giống hệt.”
A Tử hỏi lại: “Ngươi không có mắt hay sao mà bảo ta còn bé? Hay là người sợ ta không có tiền trả?” Nói xong, nàng móc ra một đĩnh bạc, vứt lên bàn cạch một tiếng, nói: “Ta ăn uống không hết, còn thừa thì cho chó ăn. Việc gì đến ngươi mà phải lôi thôi?” Gã tửu bảo cười cầu tài, nói: “Vâng! Vâng!” Gã liếc Tiêu Phong một cái, nghĩ thầm: “Cô này đang kiếm chuyện, nói bóng gió để mắng ông đó”.
Lát sau rượu thịt đã dọn lên, gã tửu bảo lấy một cái bát lớn đặt trước mặt cô gái, cười nói: “Cô nương! Để tiểu nhân rót rượu cho nhé!” A Tử gật đầu nói: “Được lắm!” Tên tửu bảo rót đầy một bát rượu, nghĩ thầm: “Cô nàng uống hết bát rượu này mà không lăn kềnh ra sàn nhà thì mới là chuyện lạ.”
A Tử bưng bát rượu lên, kê vào môi nhắp một chút, nhăn mặt nói: “Cay quá! Cay quá! Thứ rượu này uống tệ quá lắm. Giả tỉ trên đời không có mấy tên bợm nhậu ngu ngốc thì rượu các ngươi biết bán cho ai?” Tên tửu bảo lại liếc trộm Tiêu Phong một cái, thấy chàng vẫn mặc kệ không nhìn đến, không khỏi cười thầm.
A Tử lại xé chiếc đùi gà, cắn một miếng rồi la lên: “Trời ơi! Thịt hôi quá!” Tên tửu bảo cãi ngay: “Con gà vừa béo vừa thơm nức mũi thế này, hồi sáng còn kêu cục cục, thịt tươi nguyên nóng sốt, sao lại hôi được?” A Tử nói: “Hừ! Thế thì thân thể ngươi hôi, nếu không thì khách khứa trong quán này hôi thối.” Lúc đó ngoài trời tuyết đang bay trắng xóa, trên đường chẳng có ai, trong tửu điếm chỉ có hai người khách là Tiêu Phong và A Tử. Tên tửu bảo vội cười: “Là tiểu nhân hôi thối, đương nhiên là tiểu nhân hôi thối. Cô nương ăn nói nên cẩn thận, kẻo vô ý đắc tội với người ta.”
A Tử đáp: “Đắc tội thì đã sao? Không lẽ người ta đánh ta một chưởng chết ngay ư?” Nói xong, nàng lại cầm đũa gắp thịt bò cắn một miếng, chưa kịp nhai đã nhổ toẹt xuống sàn, kêu lên: “Trời ơi, thịt này cũng hôi quá, không phải thịt bò mà đúng là thịt người. Đây đúng là hắc điếm!”
Tên tửu bảo luống cuống vội nói: “Chao ôi, cô nương làm ơn đừng có la to như thế. Đây là thịt bò tươi, sao cô lại bảo là thịt người? Thịt người gì mà thớ to như thế? Màu sắc đâu được đỏ tươi như thế này?” A Tử nói: “Thì ra ngươi biết cả màu sắc lẫn thớ thịt ngươi, giỏi lắm! Ta hỏi thật, hắc điếm này đã giết bao nhiêu người khách rồi?” Gã hầu bàn gượng cười đáp: “Vị cô nương này thích nói đùa quá. Trường Đài quan phủ Tín Dương là một thị trấn lớn, bọn tiểu nhân mở quán đã trên sáu chục năm, làm gì có chuyện giết người bán thịt?”
A Tử nói: “Được rồi! Nhưng nếu không phải thịt người thì cũng là thịt con gì hôi không chịu nổi, chỉ có mấy tên điên khùng mới ăn được. Ái chà, đi ngoài trời tuyết, giày mau dơ quá.” Nói rồi cô ta cầm một miếng thịt bò xào đang bốc hơi thơm phức, chà lên chiếc giày bên trái. Mũi giày đầy bùn được cô ta lau một cái liền sạch trơn, bóng lộn mỡ màng.
Gã tửu bảo thấy cô gái đem miếng thịt to tướng đã nấu nướng công phu để lau giày, xót ruột quá, đứng một bên không ngớt thở dài. A Tử hỏi: “Ngươi ấm ức gì thế?” Tên tửu bảo đáp: “Từ trước tới nay, thịt bò xào của tiểu điếm vẫn được coi là món ngon nhất Trường Đài trấn, trong vòng một trăm dặm, ai ai nhắc tới cũng giơ ngón tay cái lên ca ngợi rồi nuốt nước miếng ừng ực. Thế mà cô nương lại đem lau giày, thế là… thế là…” A Tử trừng mắt hỏi: “Thế là sao?” Gã tửu bảo đáp: “Thế là cô nương coi khinh quá.” A Tử nói: “Ngươi bảo ta coi khinh đôi giày ư? Thịt cũng là thịt bò, da đóng giày cũng là da bò, có bên nào khinh bên nào trọng đâu? Quán này còn món gì ngon nữa không, nói nghe thử xem nào.” Tên tứu bảo đáp: “Món ngon thì dĩ nhiên là có, nhưng chỉ đắt tiền thôi.” A Tử lấy trong bọc ra một đĩnh bạc nữa, quăng lên bàn kêu cạch một tiếng, hỏi lại: “Đã đủ chưa?”
Tên tửu bảo thấy đĩnh bạc đó nặng tới năm lượng, dư tiền hai mâm rượu thịt, vội vàng cười nịnh: “Đủ rồi, đủ rồi, dư nữa là khác. Những món nổi tiếng của tiểu điếm có cá chép hấp rượu, thịt cừu nướng xắt lát, thịt heo chưng tương…” A Tử ngắt lời: “Tốt lắm, làm cho ta mỗi thứ ba đĩa.”
Tên tửu bảo nói: “Nếu cô nương muốn nếm qua, thì mỗi thứ gọi một đĩa cũng đủ rồi.” A Tử sầm mặt xuống nói: “Ta bảo lấy ba đĩa, thì ngươi cứ lấy ba đĩa, việc gì phải nói tới nói lui?” Tửu bảo vội đáp: “Vâng! Vâng!” Rồi y ngân nga gọi xuống nhà bếp: “Cá chép hấp rượu ba đĩa… a… Thịt cừu nướng xắt lát ba đĩa… a…”
Tiêu Phong ngồi bên cạnh vẫn thản nhiên. Chàng biết cô nàng này kiếm chuyện với tên tửu bảo chỉ cốt đợi mình can thiệp, nên cứ tỉnh bơ như không nghe không thấy, ngắm tuyết phơi phới bay mà uống rượu.
Một lúc sau, nhà bếp bưng ba đĩa thịt cừu thơm phức lên. A Tử nói: “Ngươi để đây một đĩa, đem một đĩa qua mời vị huynh đài bên kia, còn một đĩa để ở bàn trống bên cạnh. Bàn đó cũng sắp đũa bát, để sẵn rượu ngon cho ta.” Tên tửu bảo hỏi lại: “Cô nương còn có khách sắp đến hay sao?” A Tử trừng mắt nói: “Ngươi thật là lắm chuyện, coi chừng ta cắt lưỡi đó.” Gã tửu bảo thè lưỡi ra cười, đùa lại: “Chỉ e cô nương không đủ bản lĩnh cắt cái lưỡi của tiểu nhân.”
Tiêu Phong không khởi động lòng, liếc y một cái nghĩ thầm: “Ngươi dám trêu vào con tiểu ma đầu này, muốn tìm cái chết hay sao?”
Tửu bảo bưng một đĩa thịt cừu qua đặt lên bàn Tiêu Phong, chàng chẳng nói năng gì, cầm đũa gắp ăn. Lát sau, cá chép hấp rượu cùng thịt heo chưng tương cũng đem lên mỗi thứ ba đĩa, một đĩa cho Tiêu Phong, một đĩa cho A Tử, còn một đĩa để ở bàn trống bên cạnh. Tiêu Phong không từ chối, hễ dọn lên là ăn uống tự nhiên. A Tử chỉ nếm mỗi đĩa một miếng rồi chê: “Hôi quá, thịt hôi thối quá, chỉ đáng cho chó ăn.” Rồi lại gắp thịt cừu, cá chép, thịt heo xát vào đôi giày. Tên tửu bảo nhìn mà xót ruột, nhưng không làm gì được.
Tiêu Phong nhìn ra cửa sổ, nghĩ thầm: “Con tiểu ma đầu này thật là khó chịu, nó cứ bám theo mình thì hậu hoạn không biết đến đâu mà kể. A Châu dặn ta chiếu cố cho nó, nhưng con quỷ sứ này đã thành tinh rồi, tự lo cho mình thừa sức, chẳng cần đến ta phải nhọc lòng. Ta cứ làm như không thấy ả, tránh đi trước là hơn.”
Vừa nghĩ đến đây, bỗng chàng thấy trên con đường đầy tuyết một người đang đi tới. Trời lạnh ngắt mà y chỉ mặc phong phanh một mảnh áo đơn bằng vải gai màu vàng, tưởng chừng không biết lạnh là gì, chỉ chốc lát đã đến gần. Tiêu Phong thấy y trạc bốn mươi tuỗi, đeo hai cái khuyên tai lớn bằng vàng sáng choang, mũi to như mũi sư tử, miệng rộng đến mang tai. Tướng mạo y vừa dữ dằn vừa kỳ quái, rõ ràng không phải người Trung Nguyên,
Hắn đến trước cửa quán, vén màn bước vào, nhìn thấy A Tử thì có vẻ ngạc nhiên rồi lại mừng rỡ. Dường như gã định nói gì lại thôi, ngồi vào một cái bàn trống. A Tử bảo: “Sẵn rượu thịt đấy, sao không ăn đi?” Người kia thấy một chiếc bàn bày đầy thức ăn nhưng không có người, liền nói: “Sư muội để dành cho ta đấy ư? Đa tạ nhé.” Gã nói xong đi đến bàn đó ngồi xuống, lấy trong bọc ra một lưỡi dao nhỏ cán vàng, cắt thịt bò ra rồi lấy tay bốc ăn, cứ ăn vài miếng lại uống một bát rượu lớn, tửu lượng hình như cũng khá.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Thì ra gã này cũng là đồ đệ của Tinh Tú Lão Quái”. Chàng vốn không ưa tướng mạo cùng cử chỉ của tên này, nhưng thấy y uống rượu không tệ nên lại thấy không hoàn toàn chán ghét.
A Tử thấy y uống hết một bình rượu, bèn nói với gã tửu bảo: “Đem bát rượu này qua cho vị huynh đài kia.” Cô nói xong, thò hai tay vào bát rượu trước mặt, rửa hết dầu mỡ dính trên tay, rồi đẩy cái bát ra. Tên tửu bảo nghĩ thầm: “Bát rượu này làm sao uống được nữa?”.
A Tử thấy y ngần ngừ không dám bưng bát rượu đi, liền giục: “Mau bưng đi! Bên kia người ta đang đợi mi đó.” Gã tửu bảo cười: “Cô nương lại nói giỡn rồi. Bát rượu này ai mà dám uống?” A Tử vênh mặt lên nói: “Không uống được ư? Ngươi chê tay ta bẩn ư? Đã thế thì người uống một hớp, ta cho ngươi một đĩnh bạc.” Cô nói xong, cho tay vào bọc lấy ra một đĩnh bạc chừng một lượng, ném xuống bàn. Tên tửu bảo cả mừng, nói: “Uống một hớp rượu được một lượng bạc, thế thì lời quá. Đừng nói bát rượu này cô nương mới rửa tay, mà dẫu có rửa cái gì tiểu nhân cũng dám uống.” Nói xong gã bưng bát rượu lên, hớp một ngụm lớn.
Ngờ đâu rượu vào trong mồm chẳng khác nào một cục sắt nung đỏ gí vào lưỡi, gã tửu bảo đau rát không chịu nổi, rống lên một tiếng rồi há hốc mồm phun rượu ra tung tóe, hai chân nhảy chồm chồm, vừa giãy giụa vừa la: “Trời ơi! Ối cha ơi! Ối mẹ ơi!” Tiêu Phong thấy vậy cũng giật mình, tiếng la của y càng lúc càng khó nghe, tựa hồ đầu lưỡi đã sưng lên rồi.
Mọi người trong quán từ chưởng quĩ đến đầu bếp, hỏa công, cùng những tên tửu bảo khác chạy cả ra, rối rít hỏi: “Cái gì vậy? Cái gì vậy?” Tên tửu bảo không nói được nữa bèn thè lưỡi ra, ai cũng thấy đầu lưỡi sưng to gấp ba lần bình thường, đen sạm lại. Tiêu Phong lại càng kinh ngạc, lẩm bẩm: “Tựa hồ gã bị trúng phải kịch độc. Con tiểu ma đầu chỉ thò tay vào bát rượu một lúc mà rượu đã độc đến thế.”
Mọi người thấy tình hình quái dị như vậy, ai cũng bở vía, nhốn nháo cả lên: “Trúng phải chất độc gì vậy?” “Có phải bị rết cắn không?” “Đừng chần chờ nữa, mau mau đi gọi thầy thuốc!”
Tên tửu bảo đưa tay trỏ vào A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt cô ta, quỳ mọp xuống dập đầu lạy binh binh, A Tử cười nói: “Ta không dám! Ngươi cầu xin ta chuyện gì?” Gã ngẩng lên, trỏ tay vào miệng mình, rồi lại dập đầu lạy tiếp. A Tử cười hỏi: “Có phải ngươi muốn ta chữa trị không?” Tên tửu bảo đau đến toát mồ hôi hột, hai tay cào khắp mình mẩy, rồi chắp tay lại dập đầu lạy tiếp.
A Tử thò tay vào bọc lấy ra một cây dao nhỏ cán vàng, giống hệt như dao của gã mũi sư tử, một tay nắm gáy tên tửu bảo, tay phải vung dao soẹt một tiếng, cắt đứt một khúc lưỡi của y. Mọi người bàng quan đều la hoảng, máu trong miệng tên tứu bảo phun ra như suối. Ban đầu gã vừa đau đớn vừa kinh hãi, nhưng chất độc theo máu chảy ra, đầu lưỡi giảm đau được vài phần, vết sưng cũng xẹp xuống. A Tử lại lấy trong bọc một chiếc bình nhỏ, mở nắp ra, dùng móng tay khều một chút bột vàng búng lên đầu lưỡi tên tửu bảo, vết thương hết chảy máu ngay.
Tên tửu bảo không dám oán hận mà cũng không thể tạ ơn, ngẩn ngơ một lúc rồi ú ớ: “Cô nương… cô nương…” Gã bị cắt mất đầu lưỡi, nói năng không rõ ràng được nữa.
A Tử lấy lại đĩnh bạc trên bàn, cười nói: “Ta hứa là ngươi uống một hớp, ta sẽ cho ngươi một đĩnh bạc. Hớp rượu khi nãy ngươi nhổ ra mất rồi, ta lấy tiền lại. Người muốn lấy tiền thì uống một hớp nữa đi.” Gã hầu bàn xua tay lia lịa, ấp úng nói: “Tiểu nhân không uống rượu, không lấy tiền nữa.” A Tử cất tiền vào bọc, cười nói: “Lúc nãy người nói gì? Hình như là: Chỉ e cô nương không đủ bản lĩnh cắt cái lưỡi của tiểu nhân. Rồi sau người lại dập đầu lia lịa xin ta cắt lưỡi. Thế thì cô nương có đủ bản lĩnh không?”
Tên tửu bảo bấy giờ mới tỉnh ngộ, mình chỉ lỡ lời một câu mà phải chịu bao nhiêu đau khổ. Gã tức giận đến cực điểm, toan xông lên đập cho cô ả một trận, nhưng hai bàn bên cạnh, bàn nào cũng có một người cao to hùng tráng, xem ra có quan hệ với cô ta, nên đâm ra khiếp đảm. A Tử lại hỏi: “Ngươi có uống rượu nữa không?” Gã hầu bàn giận dữ đáp: “Lão… lão gia…” Y toan thóa mạ mấy câu, nhưng lại sợ cô ta nổi nóng, quay mặt chạy vào trong nhà, không dám thò đầu ra nữa.
Mọi người đều xôn xao, hầm hầm nhìn A Tử một lúc rồi cũng ai làm việc nấy, một gã tửu bảo khác ra tiếp khách. Tên này rút được kinh nghiệm, nơm nớp đề phòng, không dám nói câu nào.
Tiêu Phong nóng mặt, lẩm bẩm: “Tên tửu bảo kia chỉ nói đùa một câu, vậy mà con tiểu quỷ này trừng trị gã đến tàn phế, suốt đời không nói năng rõ ràng được nữa. Mới tí tuổi đầu mà hành sự đã độc ác đến thế.”
A Tử lại gọi: “Tửu bảo, đem bát rượu này qua mời vị huynh đài kia.” Nói xong, nàng giơ tay chỉ vào gã mũi sư tử. Gã hầu bàn thấy nàng chỉ tay vào bát rượu, giật bắn người lên, nghe nàng bảo đem qua mời người khác uống, lại càng hoảng hốt. A Tử cười nói: “À, đúng rồi. Ngươi không chịu đem rượu cho khách uống, chắc là lên cơn thèm rượu chứ gì? Một bát chẳng đáng gì, ngươi cứ việc uống đi.” Tên tửu bảo sợ đến mặt cắt không ra máu, ấp úng: “Không, không… Tiểu nhân… tiểu nhân không uống.” A Tử nói: “Vậy thì mau bưng đi.” Tên tửu bảo đáp: “Vâng! Vâng!” Gã trịnh trọng bưng bát rượu, run rẩy đi qua bàn gã mũi sư tử ngồi, chỉ sợ sóng sánh rượu rớt ra tay. Gã vừa đi răng vừa đánh bò cạp, bát rượu đặt xuống bàn rung lên kêu lạch cạch.
Gã mũi sư tử bưng bát rượu bằng cả hai tay, quan sát thật kỹ, còn cách miệng chừng một thước thì ngừng lại không đưa lên nữa mà cũng không hạ xuống bàn. A Tử cười hỏi: “Nhị sư huynh, sao vậy? Tiểu muội mời sư huynh uống rượu, mà sư huynh không nể mặt ư?”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bát rượu này độc ghê gớm, đương nhiên gã kia không thể nghe nói khích mà mất mạng một cách hồ đồ. Dù ai có nội công ghê gớm đến đâu cũng khó mà chống nổi bát rượu độc này.” Nào ngờ gã mũi sư tử vẫn chăm chú nhìn một lúc nữa rồi đưa bát lên môi, uống ừng ực. Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Chẳng lẽ gã này nội lực thâm hậu tới mức hóa giải được chất kịch độc đó?”. Chàng còn đang ngẫm nghĩ, đã thấy y uống cạn, để bát xuống bàn, tiện tay chùi hai ngón tay cái còn ướt vào vạt áo. Tiêu Phong suy nghĩ một chút, tỉnh ngộ: “Đúng rồi, lúc nãy y bưng chén một hồi chưa uống, chắc là đã thò hai ngón tay cái vào, ngón tay có thuốc giải, hóa tán được chất độc trong rượu.”
A Tử thấy y uống hết bát rượu độc, vẻ mặt hoảng hốt, gượng cười nói: “Bản lĩnh hóa độc của nhị sư huynh tiến bộ rất nhiều, tiểu muội xin chúc mừng !” Gã mũi sư tử không đáp, lại ngồi ăn như rồng cuốn, chỉ một loáng thức ăn trên bàn đã mười phần hết chín, rồi giơ tay xoa bụng, đứng lên nói: “Đi thôi!” A Tử đáp: “Sư huynh cứ tự tiện, chúng ta còn có ngày tái ngộ.” Gã mũi sư tử trừng mắt nói: “Tái ngộ cái gì? Sư muội phải đi theo ta.” A Tử lắc đầu: “Tiểu muội không đi.” Nàng chạy đến bên Tiêu Phong, nói tiếp: “Tiểu muội đã hẹn với đại ca đây, cùng nhau đi Giang Nam một chuyến.”
Gã mũi sư tử lại trừng mắt nhìn Tiêu Phong, hỏi: “Thằng cha này là ai?” A Tử đáp: “Sư huynh phải nói năng cho lễ phép. Đây là tỉ phu của tiểu muội, là phu quân của tỉ tỉ tiểu muội, quan hệ rất thân thiết.” Gã mũi sư tử nói: “Ngươi ra đề mục, ta đã làm xong rồi, ngươi phải tuân lời ta. Ngươi quên mất lề luật của bản môn rồi chăng?”
Tiêu Phong nghĩ bụng: “Thì ra A Tử bảo y uống rượu độc, là đưa ra một đề mục khó khăn, không ngờ gã lại giải quyết được.”
A Tử đáp: “Tiểu muội ra đề mục hồi nào? Phải chăng sư huynh nói tới bát rượu vừa rồi? Ha ha, buồn cười đến chết được, bát rượu đó là tiểu muội trị tội gã tửu bảo. Đường đường một bậc cao đồ phái Tinh Tú lẽ đâu lại đi uống rượu thừa của một tên hầu bàn? Tên tửu bảo hạng bét kia uống cũng không chết, sư huynh uống được thì có gì là lạ? Tiểu muội muốn đánh đố sư huynh thì đâu có đưa ra đề mục dễ dàng đến thế?” Ai cũng biết cô nàng cãi chầy cãi cối nhưng muốn phản bác cũng không phải dễ.
Gã mũi sư tử nén giận, nói: “Sư phụ ra lệnh cho ta tìm sự muội rồi dẫn về. Ngươi muốn chống lại mệnh lệnh của sư phụ chăng?” A Tử cười đáp: “Nhị sư huynh ơi! Sư phụ thương tiểu muội lắm. Nhờ nhị sư huynh về bẩm lại với sư phụ là tiểu muội trên đường gặp tỉ phu, muốn cùng xuống Giang Nam du ngoạn ít bữa, tiện thể tìm ít món châu báu cổ vật mua biếu sư phụ, sau đó sẽ về.” Gã mũi sư tử lắc đầu nói: “Không được! Ngươi lấy trộm của sư phụ…” Nói đến đây y liếc qua Tiêu Phong, dường như sợ tiết lộ bí mật, ngừng lại một chút rồi tiếp: “Sư phụ nổi giận, ra lệnh tìm ngươi về ngay lập tức.” A Tử năn nỉ: “Nhị sư huynh đã biết sư phụ nổi giận, lại còn ép tiểu muội phải trở về, là muốn tiểu muội nếm mùi đau khổ chứ gì? Lần sau sư phụ trách phạt nhị sư huynh, tiểu muội không van xin giúp cho nữa đâu.”
A Tử nói câu này làm gã mũi sư tử phải động tâm, lập tức tỏ ra do dự. Chắc hẳn Tinh Tú Lão Quái cưng chiều cô ta, cô nói gì sư phụ cũng để vào tai. Gã trầm ngâm một lát rồi nói: “Nếu ngươi nhất định không chịu về thì đưa vật đó cho ta. Ta đem về báo cáo rồi nộp cho sư phụ, may ra lão nhân gia bớt giận.”
A Tử nói: “Sư huynh bảo sao? Vật đó là vật gì? Tiểu muội chẳng hiểu gì hết.” Gã mũi sư tử dằn giọng nói: “Này sư muội! Ta chưa động thủ mạo phạm đến ngươi là còn nghĩ đến tình nghĩa đồng môn. Ngươi phải biết phân biệt phải trái mới được.” A Tử cười đáp: “Đương nhiên là tiểu muội biết phân biệt phải trái. Tiểu muội mời sư huynh ăn uống là điều phải, còn sư huynh bức bách tiểu muội quay về là điều trái.” Gã mũi sư tử nói: “Đừng nhiều lời vô ích. Một là ngươi giao lại vật đó, hai là theo ta về.” A Tử đáp: “Tiểu muội không về, cũng chẳng hiểu sư huynh nói tới vật gì. Sư huynh muốn có cái gì để làm tin chăng? Được rồi…” Nàng rút cành kim thoa cài trên tóc, nói: “Chắc là sư huynh muốn có vật gì làm tin để về báo cáo với sư phụ, cầm cái thoa này là được.” Gã mũi sư tử tức giận nói: “Thế là ngươi buộc ta phải động thủ rồi.” Nói xong, y tiến lên một bước.
A Tử thấy y tỉnh bơ uống cạn bát rượu độc, rõ ràng bản lĩnh dụng độc cao hơn nàng nhiều, mà cả nội lực võ công, không môn gì nàng đối địch với y được. Phái Tinh Tú võ công hiểm độc tàn ác, đã ra tay là không có nể nang gì, đối phương trúng một đòn thì không chết cũng tàn phế suốt đời, cái chết cũng thảm khốc phi thường. Sư huynh đệ trong phái này chỉ khi tranh giành thứ hạng cao thấp mới phải đánh nhau, chứ chẳng bao giờ cùng đối chiêu luyện quyền, vì đã đối chiêu là có hơn thua, đã có hơn thua là có kẻ mất mạng. Ngay cả sư phụ dạy cho đệ tử cũng không thi triển công phu. Tinh Tú Lão Quái chỉ truyền thụ yếu quyết luyện công, sau đó đồ đệ tự mình tu luyện, không ai biết ai bản lĩnh cao thấp thế nào, chỉ đến khi đối địch mới biết ai hơn ai kém. Vừa rồi A Tử lấy rượu độc để thử thách sư huynh, cũng là theo môn qui của phái Tinh Tú. Giả tỉ gã mũi sư tử chịu thua thì phải để nàng sai khiến, đằng này gã tuyệt nhiên không do dự bưng bát rượu độc uống một hơi cạn sạch, A Tử phải nhất nhất nghe lời y, nếu không là gặp đại họa ngay. Cô nàng thấy tình thế nguy cấp, vội níu áo Kiều Phong kêu cứu: “Tỉ phu ơi, có người định giết muội, Tỉ phu cứu muội đi!”
Tiêu Phong thấy nàng gọi một điều tỉ phu hai điều tỉ phu thì không khỏi động lòng, nhớ tới di ngôn của A Châu, đã toan ra tay đuổi gã mũi sư tử đi ngay. Nhưng chàng nhìn qua, thấy mặt đất đầy máu tươi, lại nghĩ rằng A Tử đối phó với tên tửu bảo quá sức độc ác, phải để cô nàng chịu đau khổ ít nhiều mà rút kinh nghiệm. Chàng liền nhìn ra cửa sổ, làm như không biết.
Gã mũi sư tử cũng chẳng muốn động thủ với A Tử làm gì, chỉ muốn hăm dọa cho nàng sợ mà ngoan ngoãn theo về. Y bèn vươn tay phải ra chộp vào cổ tay trái Tiêu Phong.
Tiêu Phong liếc thấy đầu vai của y hơi chuyển động, biết ngay y định xuất thủ đánh mình, nhưng chàng chẳng thèm để ý, để cho y chộp lấy cổ tay. Lập tức cổ tay chàng nóng như lửa đốt, biết ngay bàn tay đối phương có tẩm thuốc độc, liền vận chân khí lên cổ tay, cười nói: “Sao thế? Các hạ muốn uống rượu với ta chăng?” Tiêu Phong đưa tay phải rót đầy hai bát rượu lớn, nói: “Xin mời!”
Gã mũi sư tử liên tiếp vận kình nhưng Tiêu Phong vẫn ung dung như không hay biết gì cả. Gã nghĩ thầm: “Ngươi đừng đắc ý vội, lát nữa sẽ biết độc chưởng của ta ghê gớm cỡ nào”. Y bèn nói: “Có rượu thì uống, sao lại không dám?” Y bưng bát rượu lên, hớp ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào đến cổ họng, một luồng nội khí từ dưới ngực bỗng trào ngược lên. Gã không sao nhịn được, oẹ lên một tiếng, ngụm rượu chưa nuốt đã phun ra ướt cả vạt áo đằng trước, lại còn ho sặc sụa một hồi lâu.
Tình trạng này khiến cho gã mũi sư tử phải hoảng hồn. Gã biết rằng luồng nội khí bốc ngược lên là do nội lực hùng hậu của đối phương truyền vào thân thể mình mà ra, giả tỉ đối phương muốn lấy mạng mình cũng dễ như trở bàn tay. Y kinh hãi vội buông cổ tay Tiêu Phong ra. Ngờ đâu cổ tay chàng lại hút chặt bàn tay y, muốn buông ra cũng không được. Gã sợ quá, cố sức giãy giụa, Tiêu Phong ngồi yên không nhúc nhích. Gã cố xô đẩy nhưng chẳng khác gì thạch sùng lay cột đình, chẳng ăn thua gì.
Tiêu Phong lại rót một bát rượu nữa, nói: “Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu. Uống cạn bát này đi rồi chúng ta sẽ chia tay.”
Gã mũi sư tử lại ra sức vùng vẫy mà vẫn không thoát ra được, liền vung tay trái nhắm ngay mặt Tiêu Phong đánh ra một chưởng. Chương lực chưa đến, Tiêu Phong đã nghe thấy mùi vừa tanh vừa thối như cá ươn, liền nhẹ nhàng vung tay phải lên gạt ra. Gã đã dụng toàn lực để phát chưởng, ngờ đâu nửa chừng bị đẩy xéo đi, muốn thu về cũng không được. Y biết ngay đối phương đã dùng phép tá lực đả lực, điều khiển cánh tay trái y đánh ngược về vai phải nghe một tiếng rắc, xương vai đã trật khớp rồi.
A Tử cười nói: “Nhị sư huynh có lỗi gì đâu mà tự đánh mình mạnh như thế, chẳng nhẹ đòn chút nào. Tiểu muội thật không hiểu ý tứ sư huynh ra sao.”
Gã mũi sư tử căm hận đến cực điểm, khổ nỗi bàn tay phải đã dính vào cổ tay Tiêu Phong không gỡ ra được, còn tay trái không dám đánh tiếp chưởng thứ hai. Gã giãy giụa đến lần thứ ba vẫn không thoát, bèn vận nội lực thúc đẩy chất độc trong lòng bàn tay vào cơ thể đối phương. Ngờ đâu luồng nội lực đó vừa đến cổ tay Tiêu Phong lập tức bị hất ngược về, không ngừng tại bàn tay, mà lại tiếp tục chạy lên. Gã hoảng hồn vội vàng vận nội lực để chống đỡ. Thế nhưng luồng nội khí âm độc đó chẳng khác gì sóng biển tràn vào sông, chỉ chốc lát đã lên đến khuỷu tay, rồi đến nách, rồi từ từ tràn vào lồng ngực. Gã mũi sư tử tự biết chất độc của mình lợi hại ghê gớm, truyền vào đến tim là chết ngay. Y sợ đến mồ hôi đổ ra đầm đìa, nhỏ giọt xuống sàn nhà.
A Tử lại cười, nói: “Nội lực của nhị sư huynh thật là cao cường. Mùa đông giá rét thế này, vậy mà sư huynh vẫn tuôn mồ hôi ra được, tiểu muội khâm phục vô cùng.” Gã mũi sư tử chẳng còn lòng dạ đâu mà để ý tới câu nói châm chọc của A Tử. Gã biết mình sắp chết nhưng chẳng lẽ buông xuôi, càng ra sức chống chọi, cố duy trì được lúc nào hay lúc ấy.
Tiêu Phong nghĩ bụng: “Gã này với mình không thù không oán, tuy y vô cớ xuất thủ đánh mình thật là láo xược, nhưng cũng chưa đáng giết.” Chàng bèn thu nội lực về.
Gã mũi sư tử thấy bàn tay mình đột nhiên rút về được, luồng nội lực chứa chất độc đã đến màng ngoài trái tim lập tức phóng ngược ra lòng bàn tay. Gã nửa mừng nửa sợ, lùi lại hai bước thở hồng hộc, không dám tiến đến gần Tiêu Phong nữa.
Gã mũi sư tử đúng là chết đi sống lại, chẳng khác gì đến Quỉ Môn Quan lại quay về. Tên tửu bảo chẳng biết gì hết, lật đật đến rót rượu cho y. Gã mũi sư tử phóng ra một chưởng đánh ngay mặt tên tửu bảo, tên này chỉ kêu được một tiếng rồi ngã ngửa ra ngay. Gã vội vàng nhảy vọt ra cửa, chạy như bay về hướng tây nam. Lát sau có một hồi còi lanh lảnh, thanh âm mơ hồ từ xa truyền đến.
Tiêu Phong nhìn gã tửu bảo, thấy da mặt đen xạm lại, khí đã tuyệt rồi. Chàng không khỏi tức giận, quát lên: “Thằng này quả là khả ố, mới được tha mạng đã lại vô cớ giết người”, bèn xô cái bàn ra, toan đuổi theo. A Tử kêu lên: “Tỉ phu! Tỉ phu ngồi xuống đã, để tiểu muội nói cho nghe.”.
Giả tỉ nàng chỉ gọi Kiều bang chủ hay Tiêu đại ca gì gì thì Tiêu Phong nhất định không lý gì đến, nhưng hai tiếng tỉ phu khiến chàng nhớ đến A Châu, lòng đau như cắt, liền hỏi lại: “Sao thế?” A Tử đáp: “Nhị sư huynh không khả ố đâu. Hắn xuất thủ không đả thương được tỉ phu, chất độc chưa tán phát, không giết một người không được.” Tiêu Phong có nghe nói trong võ công tà phái có một thủ pháp gọi là tán độc, chất độc tụ vào bàn tay rồi, nếu không tống được vào thân thể địch nhân thì cũng phải đánh chết bò, ngựa hay một con vật gì khác, nếu không chất độc lại chạy ngược vào mình. Chàng bèn nói: “Nếu y muốn tán độc, sao không tìm một con vật mà đánh? Sao lại vô cớ xuất thủ giết người?” A Tử nhìn thi thể tên tửu bảo nằm dưới đất, cười nói: “Những người ngu ngốc như thế có khác gì bò ngựa, giết y cũng như giết một con vật thôi.” Cô ta nói câu đó trơn tru, tựa như chuyện xảy ra tất nhiên phải thế, chẳng có gì đáng bận tâm.
Tiêu Phong phát nổi da gà, nghĩ thầm: “Con nhãi này độc ác không có tính người, mình chiếu cố đến nó làm gì nữa?”. Chàng thấy bọn chủ quán lại chạy ra, không muốn lôi thôi, liền nhảy vọt ra khỏi tửu điếm rồi chạy về hướng bắc.
Chàng nghe tiếng chân A Tử đuổi theo, lại càng gia tăng cước bộ, chỉ mấy bước đã bỏ xa. Bỗng nghe thanh âm A Tử vọng tới, thật là mềm mại ôn nhu: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu đợi muội với… muội không theo kịp.”
Vừa rồi Tiêu Phong đối diện nói chuyện với cô nàng, thấy vẻ mặt cử chỉ đều đáng ghét, mà bây giờ nghe thanh âm phía sau gọi tới êm ái chẳng khác gì giọng A Châu. Hai chị em cùng cha cùng mẹ, tuy mới sinh đã phân ly mà âm điệu cũng giống hệt nhau.
Tiêu Phong bàng hoàng trong dạ, dừng chân ngoảnh lại, đôi mắt rưng rưng mơ hồ thấy một thiếu nữ đang chạy trên mặt đất đầy tuyết phủ, chẳng khác gì A Châu sống lại. Bất giác chàng giang tay ra, khẽ kêu lên: “A Châu! A Châu!”
Trong chốc lát chàng tưởng mình cùng A Châu đang từ Nhạn Môn Quan quay lại Trung Nguyên, chuyện trò thân mật, má tựa vai kề. Bỗng một thân hình mềm mại sà vào lòng chàng, kêu lên: “Tỉ phu! Sao không đợi muội?”
Tiêu Phong chợt tỉnh giấc mơ, nhè nhẹ đẩy nàng ra, nói: “Cô đi theo ta làm chi?” A Tử nói: “Tỉ phu đuổi nhị sư huynh đi giúp muội, đương nhiên muội phải đến tạ ơn.” Tiêu Phong lạnh lùng nói: “Cô không cần phải cảm ơn ta. Ta cũng chẳng có ý giúp cô, mà vì hắn xuất thủ đánh ta, ta phải tự vệ để khỏi chết vì tay hắn mà thôi.” Chàng nói xong lại quay người bước đi.
A Tử chạy lên định nắm cánh tay chàng. Tiêu Phong hơi nghiêng người tránh, A Tử chộp hụt, loạng choạng ngã xiêu về phía trước. Kể ra thì cô nàng dư sức gượng dậy, nhưng được dịp nhõng nhẽo, té xuống nằm luôn trên tuyết, la to: “Ôi chao! Ngã đau đến chết người!”
Tiêu Phong biết nàng giả vờ, nhưng nghe giọng nói ôn nhu lại nhớ đến A Châu, cảm thấy trong lòng êm ái. Chàng quay lại đưa tay nắm cổ áo nàng kéo dậy. A Tử tủm tỉm cười, nói: “Tỉ phu ơi! A Châu tỉ tỉ nhờ tỉ phu chiếu cố cho muội, sao tỉ phu không nghe lời tỉ tỉ? Muội là một cô gái nhỏ lênh đênh cô khổ, bị bao nhiêu người ức hiếp, tỉ phu không ngó ngàng gì tới muội hay sao?”
Mấy câu đó nghe thật đáng thương. Tiêu Phong biết mười phần có đến chín là giả dối, nhưng vẫn không khỏi mềm lòng. Chàng hỏi lại: “Cô theo ta có ích gì đâu? Trong lòng ta u uất, không muốn nói chuyện với ai. Mỗi khi cô làm chuyện càn rỡ thì ta lại ngăn cản.” A Tử đáp: “Tỉ phu u uất trong lòng, thì muội đi theo giải sầu, biết đâu dần dần sẽ khuây khỏa hơn? Tỉ phu muốn uống rượu thì muội rót rượu, tỉ phu thay quần áo ra thì muội giặt giũ khâu vá. Muội mà làm gì sai quấy thì tỉ phu can thiệp cho. Song thân bỏ rơi muội từ bé, không ai nuôi nấng, không ai dạy dỗ, nên nhiều việc muội chẳng hiểu thế nào là phải thế nào là quấy…” Nói đến đây thanh âm cô nàng nghẹn lại, nước mắt ứa ra.
Tiêu Phong nghĩ bụng: “Tỉ muội cô này có tài đóng kịch, bản lĩnh gạt người lại càng ghê gớm đến mức lô hỏa thuần thanh. May mà ta sớm biết cô ta tính tình thâm độc, nhất định không để mắc mưu. Chẳng hiểu cô ta đòi theo mình là mưu tính chuyện gì? Phải chăng sư phụ cô ả tính ám hại ta?” Nghĩ tới đây, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, tự hỏi: “Hay là kẻ đại cừu của ta có liên quan đến Tinh Tú Lão Quái, có khi chính là lão không chừng. Nhưng Tiêu mỗ đường đường nam tử, không lẽ lại sợ một con bé ngấm ngầm hạ độc thủ? Chi bằng tương kế tựu kế, ta cứ cho nó theo để xem còn những trò gì, biết đâu chừng nhờ thế mà mình trả được mối thâm cừu.” Chàng liền nói: “Đã thế thì cô cùng đi với ta. Nhưng ta phải nói trước, nếu cô giết hại người vô tội thì ta không tha đâu.”
A Tử thè lưỡi ra, nói: “Nếu như người ta hại muội trước thì sao? Nếu như muội phải giết người xấu thì sao?” Tiêu Phong nghĩ thầm: “Con nhãi này giảo hoạt lắm, nếu nó hại người, thế nào cũng cãi là người ta hại nó trước; nếu nó giết người tốt, nó sẽ cãi là nhận lầm kẻ xấu.” Chàng bèn nói: “Bất luận là người xấu hay tốt, cô chẳng cần để ý làm gì. Cô đã đi cùng với ta thì không ai làm gì được cô đâu. Ta nói tóm tắt là cô không được động thủ với ai.” A Tử nói: “Được rồi! Vậy thì tiểu muội quyết không động thủ, chuyện gì cũng giao cho tỉ phu hết là xong.” Rồi cô nàng thở dài sườn sượt, nói tiếp: “Ôi chao! Tỉ phu bất quá là lang quân của tỉ tỉ mà đã quản thúc muội chặt chẽ đến thế. Nếu như A Châu tỉ tỉ chưa chết, không hiểu bị giám sát kỹ lưỡng đến đâu.”
Tiêu Phong nổi giận, đã toan la mắng mấy câu nhưng lại không nỡ. Đột nhiên chàng thấy ánh mắt tinh quái của A Tử lộ vẻ đắc ý, tự hỏi: “Sao con bé này lại hả hê như thế nhỉ?”. Chàng nghĩ một lúc không ra bèn không để bụng nữa, hăng hái bước đi, được chừng một dặm mới tỉnh ngộ, la thầm: “Chết rồi! Chắc là cô ta có đại cừu nhân đang kiếm chuyện, nên lừa gạt để mình bảo vệ cho. Ta đã bảo: Cô đã đi cùng với ta thì không ai làm gì được cô đâu, tức là nhận lời chiếu cố cô ả rồi. Nhưng dẫu cho mình không nói thế, thì cũng không thể để muội tử của A Châu bị người ta ức hiếp được.”
Đi thêm một dặm nữa, A Tử lại hỏi: “Tỉ phu ơi! Để muội hát cho tỉ phu nghe có được chăng?” Tiêu Phong đã quyết định: “Dù cô nàng muốn chuyện gì, ta cũng không nghe. Ta càng gắt gao, càng có lợi cho cô ta”. Chàng gạt đi: “Không được.” A Tử nói: “Thế muội ra câu đố để tỉ phu đoán thử, được chăng?” Tiêu Phong đáp: “Không được.” A Tử nói: “Vậy tỉ phu kể chuyện vui cho muội nghe, được chăng?” Tiêu Phong đáp: “Không được.” A Tử nói: “Thế thì tỉ phu hát cho muội nghe vậy.” Tiêu Phong đáp: “Không được.” Cô ta đề nghị luôn mười bảy, mười tám chuyện, Tiêu Phong không cần nghĩ ngợi, đều cự tuyệt ngay. A Tử lại hỏi: “Vậy muội không thổi sáo cho tỉ phu nghe, được chăng?” Tiêu Phong quen mồm đáp: “Không được.” Chàng biết ngay mình buột miệng nói hớ, cô ta muốn không thổi sáo mà mình không chịu, hóa ra là mình bắt cô ta thổi sáo rồi. Nhưng chàng đã trót nói ra miệng, đành để mặc cô ta muốn thổi sáo thì thổi.
A Tử lại thở dài nói: “Cái gì tỉ phu cũng bảo không được, thật khó chiều quá. Tỉ phu nhất định bắt muội phải thổi sáo thì muội đành phải thổi vậy.” Nàng nói xong, rút trong bọc ra một ống ngọc địch.
Cây sáo này rất ngắn, chỉ độ bảy tấc, trắng tinh, bóng lộn trông rất xinh xắn. A Tử đưa lên môi khẽ thổi, một âm thanh réo rắt vang đi thật xa. Khi nãy gã mũi sư tử bỏ đi, cũng có nổi lên một tiếng còi lanh lảnh như thế. Lẽ ra thì tiếng sáo phải nhẹ nhàng êm ái, nhưng thanh âm của cây ngọc địch này nghe chỉ có vẻ thê lương.
Tiêu Phong hiểu ngay lý do, trong bụng cười thầm: “Phải rồi! Thì ra cô nàng báo hiệu cho đồng đảng mai phục quanh đây, định tập kích ta. Lẽ nào Tiêu mỗ lại sợ cái bọn chuột nhắt này? Có điều đánh nhau với chúng chẳng có gì thú vị.”
Chàng biết bọn đệ tử Tinh Tú Lão Quái từ võ công đến tính nết đều cực kỳ âm độc, lơ là một chút là bị ám toán ngay. Tiếng địch của A Tử chuyển giọng lúc cao lúc thấp, lúc rống lên như heo bị cắt tiết, lúc thê thảm như ma quỉ kêu gào, hết sức khó nghe. Một cô gái hoạt bát dễ thương như A Tử, cầm một ống ngọc địch xinh xắn mà lại thổi ra âm điệu rùng rợn, biểu lộ đầy đủ vẻ tà ác của phái Tinh Tú.
Tiêu Phong để mặc cô ta, vẫn tiếp tục đi, chẳng mấy chốc đến một con đường nhỏ chỉ vừa một người đi trên đỉnh núi. Chàng nghĩ thầm: “Giả tỉ địch nhân phục kích thì phải chọn chỗ này”. Quả nhiên khi lên đến đỉnh núi, vừa qua một vùng đất bằng đã thấy bốn người chặn phía trước. Cả bốn gã đó đều mặc áo vải gai màu vàng, giống hệt gã mũi sư tử vừa gặp trong quán rượu. Bốn gã không đứng hàng ngang, mà kẻ trước người sau một dãy, mỗi tên cầm một cây cương trượng dài ngoằng.
A Tử không thổi sáo nữa, dừng lại gọi to: “Tam sư huynh, tứ sư huynh, thất sư huynh, bát sư huynh, bốn vị khỏe cả chứ? Sao thật khéo quá, chúng ta gặp nhau cả nơi đây.” Tiêu Phong cũng dừng bước, tựa lưng vào vách núi, nghĩ thầm: “Để xem bọn mi giở trò quỉ gì.”.
Trong bốn người, gã đứng đầu là một hán tử trung niên mập mạp, nhìn Tiêu Phong từ đầu xuống chân một hồi mới hỏi: “Tiểu sư muội cũng khỏe chứ? Mà sao ngươi lại đả thương nhị sư huynh?” A Tử giật mình hỏi lại: “Nhị sư huynh bị thương ư? Ai đả thương thế? Bị thương có nặng không?”
Gã đứng sau cùng trong bốn người lớn tiếng đáp: “Ngươi đừng giả ngây giả dại nữa. Nhị sư huynh nói là chính ngươi nhờ kẻ khác đả thương y đó.” Tên này thấp lủn thủn lại đứng sau cùng, bị ba tên đứng trước che khuất hết. Tiêu Phong không nhìn thấy y, nhưng chỉ nghe y nói năng gấp gáp cũng đủ biết tính tình nóng nảy. Cây cương trượng y cầm vừa dài vừa to đủ rõ cánh tay rất khỏe, chỉ vì trời sinh thấp lùn mà muốn tìm cách tỏ ra có chỗ hơn người.
A Tử nói: “Bát sư huynh bảo sao? Nhị sư huynh bảo là bát huynh gọi người đả thương y sao? Chao ôi, sao bát huynh nỡ làm thế? Sư phụ mà biết thì không tha cho bát huynh đâu, không lẽ huynh không sợ hay sao?” Gã lùn kia nổi cơn lôi đình nhảy chồm chồm lên, dộng cây cương trượng xuống đá núi nghe chan chát, lớn tiếng quát: “Ngươi đánh y chứ có phải ta đâu?” A Tử nói: “Sao? Ngươi đánh y chứ có phải ta đâu? Được rồi, bát sư huynh thú nhận rồi. Tam sư huynh, tứ sư huynh, thất sư huynh, ba người chính tại nghe rõ rồi nhé, bát sư huynh nói là y giết chết nhị sư huynh. Đúng rồi, chắc là bát sư huynh dùng Tam Âm Ngô Công Trảo giết chết nhị sư huynh.”
Gã lùn lại gào lên: “Ta bảo nhị sư huynh chết hồi nào? Y chưa chết, thụ thương cũng không phải do Tam Âm Ngô Công Trảo…” A Tử mồm năm miệng mười, cướp lời: “Không phải Tam Âm Ngô Công Trảo ư? Thế thì nhất định do Trừu Tủy Chưởng, nghề ruột của bát sư huynh rồi. Nhị sư huynh chắc là không cẩn thận nên bị ngươi ám toán. Ngươi… ngươi quả là độc ác thật.”
Gã lùn càng giận điên lên, quát to: “Tam sư huynh! Mau động thủ, bắt con nhãi ranh này về cho sư phụ phát lạc. Nó… nó, nói lăng nhăng láo lếu, chẳng đâu ra đâu, chẳng ai hiểu được.” Thanh âm y vốn đã khó nghe, lại đang nóng nảy càng lắp bắp, mới thật là chẳng đâu ra đâu, chẳng ai hiểu được. Gã mập liền nói: “Chưa cần phải động thủ, tiểu sư muội xưa nay vẫn ngoan ngoãn dễ bảo kia mà. Tiểu sư muội, theo bọn ta về thôi.” Gã mập đó nói năng ôn tồn, ra vẻ con người hòa nhã. A Tử cười đáp: “Được rồi! Tam sư huynh nói sao thì tiểu muội làm vậy, có bao giờ muội cãi lời huynh đâu?” Gã mập cười ha hả, nói: “Thế thì hay lắm! Chúng ta đi.” A Tử đáp: “Vâng! Các vị sư huynh cứ tùy tiện.”
Ga lùn phía sau lại gào lên: “Láo toét! Ngươi nói thế là sao? Ngươi phải đi cùng với bọn ta.” A Tử cười nói: “Các vị cứ đi trước đi, tiểu muội sẽ theo sau ngay mà.” Gã lùn nói: “Không được! Ngươi phải đi chung với bọn ta ngay bây giờ.” A Tử nói: “Tiểu muội thì đồng ý, nhưng tỉ phu của tiểu muội lại không chịu.” Nàng vừa nói vừa trỏ vào Tiêu Phong.
Gã lùn nói: “Ai là tỉ phu ngươi? Sao ta không thấy?” A Tử cười nói: “Chỉ tại bát sư huynh cao quá thôi. Cả tỉ phu tiểu muội cũng không ngó thấy bát sư huynh.” Nghe chát một tiếng, cây cương trượng của gã lùn đã giáng xuống đất, rồi cả người lẫn gậy bay vọt qua khỏi đầu ba tên đứng trước, rơi xuống trước mặt A Tử. Gã quát lên: “Theo chúng ta trở về ngay!” Vừa nói y vừa vươn tay chộp vào vai cô gái. Gã này thấp lùn nhưng hông to vai nở, nhìn ngang thì cũng khá vạm vỡ, động tác lại rất nhanh nhẹn. A Tử không né tránh, cứ mặc y chộp tới. Bàn tay to lớn của gã lùn sắp sửa chạm vào vai nàng, bỗng y ngẩn ra rồi dừng tay lại, hỏi: “Ngươi đã đem nó ra dùng rồi ư?” A Tử hỏi: “Dùng cái gì?” Gã lùn đáp: “Là Thần Mộc Vương Đỉnh…”
Bốn chữ “Thần Mộc Vương Đỉnh” vừa buột khỏi miệng, ba gã kia đồng thanh quát lên: “Bát sư đệ! Ngươi nói gì đó?” Thanh âm cực kỳ gay gắt. Gã lùn lập tức lùi lại một bước, mặt lộ vẻ hoảng hốt.
Tiêu Phong tự hỏi: “Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì nhỉ? Bốn gã này vẻ mặt cực kỳ trịnh trọng, chắc đó là một vật quan trọng chứ không phải chuyện đùa. Chúng đã mai phục nơi đây để tập kích mình, sao chưa ra tay mà còn lo cãi nhau, không lẽ sợ đánh không lại mình, phải chờ thêm ngoại viện?”.
Gã lùn đưa tay ra, nói: “Đưa đây!” A Tử hỏi lại: “Đưa cái gì?” Gã lùn đáp: “Cái Thần… Thần… đó đó.” A Tử chỉ vào Tiêu Phong nói: “Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi.” Nàng vừa nói vậy, cả bốn tên liền quay về phía Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ giận dữ.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bọn này khả ố thật, mình cũng chẳng dây dưa với chúng làm gì”. Chàng từ từ đứng dậy, bất thần búng hai chân một cái vọt người qua đầu bọn kia. Động tác đó vừa kỳ lạ vừa nhanh nhẹn, cả đám không thấy chàng lấy đà chi hết, chỉ thấy thấp thoáng trước mắt, gió thoảng trên đầu,Tiêu Phong đã ở phía sau rồi. Cả bọn hốt hoảng kêu la, quay lại rượt theo, nhưng chỉ chớp mắt Tiêu Phong đã chạy xa đến mấy trượng.
Bỗng nghe vù một tiếng, một món binh khí nặng nề bay tới sau lưng. Tiêu Phong không cần quay lại cũng biết là có tên ném cương trượng tới, bèn đưa tay trái ra phía sau đón lấy. Cả bốn tên cùng quát tháo, lại thêm hai cây cương trượng nữa ném theo, Tiêu Phong lại xoay tay bắt được. Mỗi cây trượng nặng hơn năm chục cân, chàng cầm cả ba cây trong tay cũng phải đến trăm sáu, trăm bảy cân, mà bước chân vẫn không chậm lại chút nào. Vù một tiếng, lại một cây nữa ném tới. Nghe tiếng gió cũng đủ biết cây trượng này nặng hơn hết, chắc là do gã lùn ném ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mấy thằng ngu dốt này chẳng hiểu phải quấy, ta phải cho chúng biết tay.” Chàng đợi tiếng gió bay tới sau ót còn cách chừng hai thước, liền đưa tay ra sau bắt nốt.
Bốn gã ném trượng ra đã nghĩ rằng đối phương tránh né không phải dễ, trong bốn cây trượng thể nào cũng có một hai cây trúng vào người, nếu không thì chúng đâu có để binh khí rời khỏi tay? Có ai ngờ Tiêu Phong bắt hết thản nhiên như không, cả đám vừa kinh hãi vừa tức tối, la ó đuổi theo. Tiêu Phong chờ cho chúng chạy gần lại một quãng, bất thần đứng khựng lại. Bốn gã kia đang gắng sức đuổi theo, không dừng kịp, lao cả vào người chàng, tên nào cũng thở hồng hộc.
Tiêu Phong nghe chúng phóng trượng, lại nhìn chúng đuổi theo, biết rằng võ công bọn này chỉ bình thường thôi. Chàng mỉm cười hỏi: “Các vị đuổi theo tại hạ có điều chi chỉ giáo?” Gã lùn lắp bắp: “Ngươi… ngươi là ai? Võ công ngươi thật là ghê gớm.” Tiêu Phong cười đáp: “Thường thôi, đừng quá khen.” Chàng vừa nói vừa vận kình lực vào bàn tay, cắm một cây cương trượng xuống mặt đất phủ tuyết. Con đường núi đó đất cũng rất cứng, thế mà chàng cứ nhấn cây trượng xuống dần, còn khoảng hai thước mới buông tay, đưa chân phải đạp xuống một cái, cây trượng liền ngập bằng mặt đất.
Bốn người, gã thì giương hai mắt tròn xoe mà nhìn, gã lại há hốc miệng ra không ngậm lại nữa. Tiêu Phong cứ cắm từng cây rồi đạp lún xuống ngang mặt đất. Đến cây sau cùng, gã lùn nhảy vọt lại, quát lên: “Đừng động đến binh khí của ta.” Tiêu Phong cười nói: “Được lắm! Trả lại ngươi đây.” Chàng cầm cương trượng lên, phóng thẳng vào vách núi nghe keng một tiếng, cây trượng dài tám thước đã lút vào đá phải đến năm thước. Chỗ vách đá này là loại hắc thạch cực kỳ cứng rắn, vậy mà cây trượng vẫn cắm sâu vào đá, làm cho chính Tiêu Phong cũng phải ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Mấy tháng nay ta trải qua biết bao chuyện lo phiền mà công phu không giảm sút, lại còn tiến bộ là khác. Nửa năm trước có lẽ ta ném không được mạnh đến thế.”
Bốn gã kia đồng thời kêu la ầm ĩ, vẻ mặt kinh hoàng. A Tử từ phía sau chạy tới gọi: “Tỉ phu! Võ công phu tỉ phu giỏi quá, dạy cho muội nhé!” Gã lùn giận dữ nói: “Ngươi nói sao? Đã là đệ tử phái Tinh Tú mà lại đi nhờ người ngoài dạy võ công ư?” A Tử nói: “Đó là tỉ phu của ta, đâu phải người ngoài?”
Gã lùn nóng ruột, tung mình nhảy lên, vươn tay toan nắm lấy cây cương trượng của y. Ngờ đâu Tiêu Phong đã ước lượng được khinh công của gã, chàng phóng cây trượng cắm vào vách đá ở chỗ cao hơn mặt đất một trượng bốn năm thước, gã lùn nhảy còn thấp một thước, không với tới được. A Tử vỗ tay reo lên: “Hay lắm! Bát sư huynh ơi, huynh mà nhổ được khí giới ra thì tiểu muội sẽ theo huynh về bái kiến sư phụ ngay, còn nhổ không được thì đừng hòng.” Gã lùn nhảy cái vừa rồi đã dùng hết sức bình sinh, muốn nhảy cao thêm một tấc quả là thiên nan vạn nan. Y nghe A Tử khích bác, trong bụng tức lắm, cố sức nhảy lên lần nữa, đầu ngón tay giữa đã chạm được vào cây trượng. A Tử lại cười, nói:“Chạm đến không kể, phải nhổ ra được mới tính.”
Gã lùn càng giận dữ, công lực tăng tiến đột xuất, hai chân vận hết sức tung tấm thân vừa lùn vừa mập lên, hai tay quờ quờ chộp ngay được cây gậy. Thân hình y treo lơ lửng giữa trời, đu qua đu lại. Y cứ cố lay tới lay lui, nhưng cây trượng dài tám thước đã cắm vào đá sâu đến năm thước, giả tỉ y lắc đến ba ngày ba đêm cũng chẳng ăn thua gì. Cảnh tượng đó trông thật hoạt kê.
Tiêu Phong cười, nói: “Xin lỗi nhé, Tiêu mỗ không chờ được nữa.” Nói xong chàng quay mặt bước đi. Gã lùn kia giá nào cũng không chịu buông tay, tự biết rằng vừa rồi nhảy lên chụp được cây gậy cũng là may mắn lắm rồi, nếu để rơi xuống đất thì lần sau nhảy lại chưa chắc tới được. Gã dùng cây trượng đó đã lâu, phân lượng đã vừa, kích thước quen tay, có rèn cây khác y như vậy cũng khó. Y lại cố lắc thêm mấy lần cũng không thấy chuyển động chút nào, bèn kêu lên: “Ngươi phải để Thần Mộc Vương Đỉnh lại đã, nếu không thì hậu hoạn không biết đến đâu mà lường.”
Ba tên đệ tử phái Tinh Tú cùng tiến lên một bước nói: “Võ công các hạ xuất thần nhập hóa, chúng ta bội phục. Cái đỉnh nhỏ kia bản môn coi rất trọng nhưng người ngoài chẳng dùng làm gì được, xin các hạ trả lại cho, chúng tôi xin đền đáp.”
Tiêu Phong xem bọn chúng không có vẻ giả trá, thì ra không phải mai phục nơi đây để tấn công mình. Chàng liền nói: “A Tử! Cô lấy cái Thần Mộc Vương Đỉnh đó ra, cho ta xem đó là cái gì.” A Tử nói: “Trời ơi! Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi mà, bây giờ trả lại hay không hoàn toàn là do tỉ phu. Hay là tỉ phu cứ giữ lấy cho được việc.” Tiêu Phong nghe vậy, đoán rằng cô nàng đã ăn cắp bảo vật của sư môn, bây giờ nói là đưa cho mình rồi, cốt ý là bắt mình đứng ra chịu trận. Chàng bèn tương kế tựu kế, cười ha hả nói: “Cô đưa cho ta nhiều thứ quá, ta có biết Thần Mộc Vương Đỉnh là cái nào đâu?”.
Gã lùn đang lơ lửng giữa trời cũng chõ miệng vào: “Đó là một cái đỉnh gỗ nhỏ màu vàng sậm, cao chừng sáu tấc.” Tiêu Phong kêu lên: “Ồ, thì ra là cái đó. Một món đồ chơi trẻ con như thế thì dùng làm gì được?” Gã lùn nói: “Ngươi biết gì mà bảo là đồ chơi trẻ con? Cái đỉnh gỗ…” Y chưa nói hết câu, gã mập đã quát lên: “Sư đệ! Không được nói càn!”, rồi quay sang Tiêu Phong nói :” Đó chỉ là một món đồ chơi không dùng làm gì được, nhưng là của… là của… phụ thân gia sư để lại cho lão nhân gia, vì vậy không thể để mất. Xin các hạ trả lại cho, chúng tôi cảm kích vô cùng.” Tiêu Phong đáp: “Ta vứt bừa bãi, không biết bỏ đâu mất rồi, cũng chẳng biết còn tìm lại được hay không. Nếu quan trọng thật thì ta phải trở về Tín Dương tìm thử, có điều đường sá xa xôi, quay lại thì thật là phiền quá.”
Gã lùn lại xen vào: “Quan trọng thật chứ, sao lại không quan trọng? Chúng ta mau… mau… quay về Tín Dương tìm thôi.” Y buông tay thả người rơi xuống, bỏ luôn món binh khí quí giá của mình.
Tiêu Phong đưa tay vỗ vỗ lên trán, nói: “Hừ! Mấy bữa nay ít uống rượu, đầu óc lú lẫn quá. Cái đỉnh gỗ nhỏ kia, không biết ta vứt ở Tín Dương hay ở Đại Lý… mà không chừng ở Tấn Dương cũng nên…” Gã lùn vội kêu lên: “Trời ơi! Ngươi nói gì đó? Ráng nhớ lại xem ở Đại Lý hay ở Tấn Dương? Thiên nam địa bắc, xa xôi vạn dặm không phải chuyện giỡn chơi đâu nhé.” Gã mập biết Tiêu Phong làm khó dễ, bèn nói: “Các hạ bất tất phải nói giỡn. Giả tỉ cái đỉnh đó quay về nguyên vẹn, chúng tôi thể nào cũng báo đáp, không dám sai lời.”
Tiêu Phong đột nhiên thất kinh la to: “Chết rồi! Không xong, ta nhớ ra rồi…” Cả bốn tên kinh hãi hỏi lại: “Cái gì thế?” Tiêu Phong đáp: “Cái đỉnh gỗ đó ta vứt ở nhà Mã phu nhân. Lúc đó ta quên mất, châm lửa đốt cháy rụi cả nhà. Không biết cái đỉnh đó bị lửa thiêu đốt có hỏng mất không?” Gã lùn kêu thất thanh: “Sao lại không hỏng! Cái này… cái này… tam sư huynh, tứ sư huynh, bây giờ biết làm sao? Ta không biết, sư phụ có trách phạt thì không liên quan đến ta. Tiểu sư muội, ngươi phải đích thân bẩm với sư phụ, ta không dám nói giúp ngươi đâu.”
A Tử cười nói: “Tiểu muội lại nhớ hình như không phải tỉ phu bỏ ở nhà Mã phu nhân. Các vị sư huynh! Tiểu muội xin lỗi nhé, mấy huynh ở đây nói chuyện với tỉ phu.” Nói xong nàng lạng người đi một cái, lách qua mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong quay lại giang tay chặn bốn tên kia, nói: “Nếu các ngươi nói cho rõ ràng lai lịch cùng công dụng của Thần Mộc Vương Đỉnh, không chừng ta sẽ giúp các ngươi đi tìm. Còn nếu không thì xin cáo từ.”
Gã lùn xoa tay lia lịa nói: “Tam sư huynh! Đệ thấy không còn cách nào khác, nói cho y nghe là xong!” Gã mập nói: “Được! Để ta nói cho các hạ hay…”
Đột nhiên Tiêu Phong vọt tới cạnh gã lùn, vươn tay chộp vào nách y, nói: “Chúng ta qua kia nói chuyện. Ta chỉ tin lời ngươi, không tin hắn.” Chàng biết rằng gã mập trông thì thực thà nhưng lại giảo hoạt không có câu nào thành thực, còn gã lùn thẳng tính, lại nhanh mồm nhanh miệng không biết nói dối. Chàng xách gã lùn chạy thẳng lên vách núi. Vách núi chỗ này tuy không dựng đứng nhưng cũng khó trèo, lại không có chỗ nào để bấu víu. Thế mà Tiêu Phong đề khí chạy thẳng một mạch đã lên được hơn chục trượng, tới một mỏm đá nhô ra, liền đặt gã lùn ngồi lên đó, còn mình chỉ đứng một chân, một chân đưa ra khoảng không. Chàng nói với gã lùn: “Bây giờ ngươi nói cho ta nghe đi.”
Gã lùn ở lưng chừng trời, nhìn xuống không khỏi choáng váng, vội nói: “Mau… mau buông ta xuống!” Tiêu Phong cười nói: “Ngươi tự nhảy xuống đi.” Gã lùn đáp: “Ngươi chỉ nói nhảm. Ta mà nhảy xuống thì nát ra như cám.” Tiêu Phong thấy y tính tình thẳng thắn cũng có chút thiện cảm, lại hỏi: “Người tên là gì?” Gã lùn đáp: “Ta là Xuất Trần Tử.” Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ bụng: “Cái tên thật là phong nhã, nhưng so với thân thể ngươi không xứng chút nào.” Chàng bèn nói tiếp: “Ta không rảnh nữa, xin cáo từ. Hẹn ngày tái ngộ.” Xuất Trần Tử la lên: “Không được! Không được! Trời ơi, ta… ta ngã chết mất.” Hai tay y cố vận kình bấu víu, nhưng vách đá trơn tuột, không có chỗ tựa vào. Võ công y không tệ lắm nhưng ở trên cao, lại chênh vênh ba mặt thế này, không khỏi khiếp đảm.
Tiêu Phong lại giục: “Nói mau! Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để làm gì? Nếu ngươi không nói là ta đi xuống.” Xuất Trần Tử vội hỏi lại: “Ta… ta không nói không được hay sao?” Tiêu Phong đáp: “Ngươi không nói cũng được, để lần sau gặp ta rồi sẽ nói cũng không muộn.” Xuất Trần Tử vội níu áo ông lại, nói: “Để ta nói! Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của bản phái, dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp. Sư phụ ta nói là bọn võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp đều sợ đến hồn vía lên mây. Nếu chúng mà thấy Thần Mộc Vương Đỉnh là đập nát ngay, cái đó… cái đó là một bảo vật hiếm có trên đời, không phải tầm thường.”
Tiêu Phong đã nghe đến Hóa Công Đại Pháp, biết đó là một môn tà thuật vô cùng bẩn thỉu. Bây giờ nghe nói Thần Mộc Vương Đỉnh có tác dụng như thế, không cần hỏi nữa, lại nắm lấy nách Xuất Trần Tử, chạy vèo vèo xuống.
Chạy từ vách núi dựng đứng xuống còn nguy hiểm hơn lúc chạy lên. Xuất Trần Tử kinh hãi vô cùng, hô hoán rầm lên, tiếng kêu chưa dứt thì chân đã chạm đất. Mặt y tái mét cắt không ra máu, hai đầu gối run lên bần bật. Gã mập hỏi: “Bát sư đệ! Ngươi đã nói ra chưa?” Hai hàm răng của Xuất Trần Tử vẫn còn khua vào nhau nghe lốp cốp, chưa thể nói ra lời.
Tiêu Phong quay sang A Tử, bảo: “Đưa đây!” A Tử hỏi lại: “Đưa cái gì?” Tiêu Phong đáp: “Thần Mộc Vương Đỉnh.” A Tử đáp: “Tỉ phu bảo là để ở nhà Mã phu nhân kia mà, sao còn hỏi muội?” Tiêu Phong nhìn kỹ cô nàng, thấy thân hình mảnh dẻ, lưng thon nhỏ xíu, áo quần lại mỏng mảnh, xem ra không thể giấu chiếc đỉnh cao sáu tấc trong người được. Chàng nghĩ thầm: “Con nhãi này thật là xảo quyệt. Ta đã không muốn nhúng tay vào việc nội bộ môn phái nó, mà bọn tà ma ngoại đạo này cứ như âm hồn bất tán lẩn quẩn bên mình, thật là phiền nhiễu.” Tiêu Phong liền nói: “Vật đó Tiêu mỗ chẳng dùng làm gì được, lấy làm quái gì? Các ngươi tin thì tốt, không tin cũng không sao, Tiêu mỗ cáo từ đây.” Nói xong thi triển thân pháp vọt đi, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ năm người lại khá xa. Bọn kia thấy chàng thần oai lẫm lẫm không dám đuổi theo, còn đang bàn bạc thì Tiêu Phong đã mất hút rồi.
Tiêu Phong chạy một mạch hơn bảy chục dặm đường mới tìm được một tửu điếm ghé vào ăn cơm uống rượu. Đêm đó, chàng nghỉ lại Chu Vương điếm, luyện nội công một hồi rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, chàng mơ màng nghe thấy mấy tiếng còi rít lên, lập tức tỉnh dậy. Một lát sau, phía tây nam cũng nghe mấy tiếng còi chói tai, rồi phía đông nam cũng có tiếng sáo ghê rợn đáp lại, chính là ngọc địch của phái Tinh Tú, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bọn chúng lại đến rồi, mặc kệ, ta chẳng để ý làm gì.”
Đột nhiên có hai tiếng sáo nổi lên thật gần, dường như ở ngay trong tửu điếm này. Rồi có tiếng người nói: “Dậy mau đi! Đại sư huynh đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội.” Lại một người khác nói: “Bắt được ư? Ngươi thử nghĩ xem cô ả có sống được chăng?” Tên kia đáp: “Làm sao ta biết được? Đi mau, đi mau.” Rồi có tiếng đẩy cửa sổ, hai người nhảy ra khỏi phòng.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Lại là bọn đệ tử phải Tinh Tú nữa. Té ra trong tửu điếm này lại có sẵn hai tên, chắc là bọn chúng đến trước ta, không nói năng gì nên ta không biết. Chúng hỏi nhau A Tử có sống được không, con nhãi này tuy tàn nhẫn độc ác nhưng ta cũng không thể để nó bị giết chết, nếu không thì thật không phải đối với A Châu”. Chàng nghĩ thế bèn nhảy ra khỏi phòng đuổi theo.
Tiếng địch cứ nổi lên liên tiếp gọi nhau, dần dần chuyển qua phía tây nam, Tiêu Phong theo tiếng địch mà rượt theo, chỉ một lát đã đuổi kịp hai tên từ tửu điếm đi ra. Chàng giữ khoảng cách chừng mươi trượng, lặng lẽ bám đuôi, vượt qua hai ngọn núi thì thấy có một đống lửa dưới sơn cốc. Ngọn lửa cao chừng năm thước, màu sắc xanh biếc trông có vẻ không bình thường. Hai người kia chạy thẳng đến, vừa tới nơi đã quì phục xuống vái lạy đống lửa.
Tiêu Phong rón rén lại gần, nấp sau một tảng đá nhìn vọng ra, thấy đến hơn chục người tụ tập quanh đống lửa. Bọn chúng đều mặc áo vải gai màu vàng, ánh lửa xanh biếc chiếu lên đầy vẻ ma quái. Phía bên trái đống lửa có một người mặc áo tía đang đứng, chính là A Tử. Hai cổ tay nhỏ nhắn bị khóa bằng xích sắt, khuôn mặt trắng trẻo dưới ánh lửa bập bùng trông khác hẳn đi. Cả đám không ai nói một lời, chỉ chăm chú nhìn ngọn lửa, tay trái đặt trên ngực, miệng lẩm bẩm như đang khấn khứa gì đó. Tiêu Phong nghĩ rằng đây là nghi thức quái dị của bọn tà ma ngoại đạo, chẳng thèm để ý. Lúc nãy chàng nghe hai tên đệ tử phái Tinh Tú nói chuyện với nhau có nhắc tới đại sư huynh, nhưng nhìn kỹ hơn mười người này, già có trẻ có, phục sức hoàn toàn giống nhau, không tên nào vẻ mặt cử chỉ đặc sắc ra vẻ cầm đầu.
Bỗng nghe mấy tiếng địch ôn hòa từ phía đông bắc vọng tới, mọi người đều quay lại hướng có tiếng sáo, khom lưng hành lễ. A Tử bĩu môi không thèm quay lại. Tiêu Phong cũng nhìn về phía có tiếng địch, thấy một người áo trắng vun vút đi tới, bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Y chớp nhoáng đã đến trước đống lửa, đưa chiếc ngọc địch dài chừng hai thước lên thổi vào đống lửa một cái, lửa lập tức tắt ngóm, rồi lại bùng lên thật to, vọt lên phải hơn một trượng rồi mới từ từ hạ xuống. Bọn chúng cùng hô to: “Đại sư huynh pháp lực thần kỳ, bọn tiểu đệ một phen mở mắt.”
Tiêu Phong nhìn gã đại sư huynh kia, hơi ngạc nhiên. Chàng tưởng tên này đứng đầu cả bọn thì phải già năm sáu chục tuổi, ngờ đâu chỉ là một thanh niên chừng hăm bảy hăm tám, thân hình cao gầy, sắc mặt hơi xanh lại ẩn màu vàng, trông cũng khá anh tuấn. Tiêu Phong thấy y thi triển khinh công cùng công phu thổi tắt đống lửa, biết nội lực y không phải là kém. Nhưng thổi tắt đống lửa rồi giây lát lại bùng lên, chắc chắn không phải do nội công mà là trong ống sáo có giấu dược liệu hay chất dẫn hỏa cổ quái.
Gã đó quay sang nói với A Tử: “Tiểu sư muội! Ngươi quả là kẻ to gan lớn mật, vì ngươi mà biết bao nhiêu huynh đệ phải từ Tinh Tú Hải vào tận Trung Nguyên nghìn dặm xa xôi.” A Tử đáp: “Ngay cả đại sư huynh cũng thân hành xuất mã, tiểu muội quả thực vinh hạnh. Thế nhưng tiểu muội đã có chỗ dựa, xem ra chừng này người chưa đủ.” Tên đại sư huynh hỏi: “Chỗ dựa của sư muội ư? Không biết là ai thế?” A Tử đáp: “Chỗ dựa của tiểu muội là gia gia, bá phụ, má má, tỉ phu chứ còn ai nữa.” Gã hừ một tiếng, gặng lại: “Sư muội được sư phụ nuôi dưỡng từ khi còn nhỏ xíu đến ngày khôn lớn, có thấy cha mẹ gì đâu? Sao tự nhiên xuất hiện lắm họ hàng thân thích đến thế?” A Tử đáp: “Trời ơi! Làm gì có ai không cha không mẹ, chẳng lẽ tiểu muội nứt trong hòn đá ra hay sao? Có điều danh tính của song thân tiểu muội là một điều bí ẩn, không thể cho mọi người cùng biết được.” Gã đại sư huynh hỏi: “Song thân của sư muội là ai thế?” A Tử đáp: “Chỉ sợ mọi người phải kinh hãi thôi. Sư huynh muốn tiểu muội nói ra, thì phải mở khóa cho tiểu muội trước đã.” Hắn đáp: “Sư muội muốn ta mở khóa thì có khó gì, nhưng phải giao Thần Mộc Vương Đỉnh ra trước đã.” A Tử đáp: “Vương Đỉnh ở trong tay tỉ phu tiểu muội. Tam sư huynh, tứ sư huynh, thất sư huynh, bát sư huynh không chịu ra tay đòi lại, tiểu muội đâu biết phải làm sao?”
Gã đại sư huynh đưa mắt nhìn bốn tên Tiêu Phong mới gặp lúc ban ngày, mỉm cười ra vẻ ôn hòa nhưng bốn gã kia mặt biến sắc, hiển nhiên rất sợ hãi. Xuất Trần Tử ấp úng nói: “Đại… đại sư huynh, chuyện này không liên quan gì đến tiểu đệ. Tỉ phu… của sư muội bản lĩnh ghê gớm quá, bọn đệ… đệ đuổi theo không kịp.” Gã đại sư huynh nói: “Tam sư đệ! Nói cho ta nghe.” Gã mập đáp: “Vâng, vâng!” Y liền thuật lại việc gặp Tiêu Phong thế nào, bị đón bắt bốn cây cương trượng ra sao, rồi đối phương bắt Xuất Trần Tử đem lên đỉnh núi ép phải khai ra… Y kể rõ không giấu giếm chút nào. Thường ngày lúc nào y cũng bình tĩnh thản nhiên, thế mà bây giờ giọng nói run run, tựa như họa lớn đang ập đến.
Tên đại sư huynh chờ gã kể xong, gật đầu rồi quay lại hỏi Xuất Trần Tử: “Ngươi nói với y cả rồi hay sao?” Xuất Trần Tử đáp: “Tiểu đệ… tiểu đệ…” Tên kia vẫn ôn tồn hỏi: “Ngươi đã nói những gì, cứ thuật lại cho ta nghe.” Xuất Trần Tử đáp: “Tiểu đệ… tiểu đệ nói… Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của bản môn, dùng để… để… luyện đại pháp. Đệ còn nói là sư phụ bảo bọn võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp là hồn vía lên mây, nếu như thấy cái đỉnh là đập nát lập tức. Đệ nói đó là một bảo vật trên đời hiếm có, không phải tầm thường. Vì thế… vì thế nên xin y trả lại.” Gã đại sư huynh nói: “Hay lắm! Thế rồi y bảo sao?”Xuất Trần Tử đáp: “Y… y không nói chi hết, buông tha tiểu đệ.”
Tên kia nói: “Ngươi giỏi lắm! Ngươi cho y biết Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, lại còn sợ y không hiểu Hóa Công Đại Pháp là gì, nói thêm bọn võ lâm Trung Nguyên nghe đến là hồn vía lên mây. Thế là tuyệt diệu! Không hiểu y có phải là nhân vật trong võ lâm Trung Nguyên không?” Xuất Trần Tử lắp bắp: “Tiểu đệ… tiểu đệ không biết…”
Gã đại sư huynh hỏi vặn lại: “Ngươi không biết thật, hay giả vờ không biết?” Thanh âm y thủy chung vẫn ôn hòa, nhưng gã Xuất Trần Tử ngay thẳng kia lại sợ đến mất hồn, run rẩy nói: “Tiểu đệ… đệ… không… biết… nữa.” Trong câu nói có xen những tiếng lách cách do hai hàm răng đập vào nhau, gã không tự chủ được.
Gã đại sư huynh lại hỏi: “Vậy y có sợ đến hồn vía lên mây không? Hay là chẳng sợ quái gì?” Xuất Trần Tử đáp: “Dường như… y… không sợ…” Tên kia hỏi thêm: “Theo ngươi thì vì sao y lại không sợ?” Xuất Trần Tử đáp: “Tiểu đệ đoán không ra, xin… xin đại… sư huynh cho biết.” Gã đại sư huynh trả lời: “Bọn võ lâm Trung Nguyên sợ nhất là Hóa Công Đại Pháp của chúng ta, nhưng để luyện Đại Pháp này thì phải dùng Thần Mộc Vương Đỉnh. Nay Vương Đỉnh lọt vào tay y rồi, chúng ta không luyện Hóa Công Đại Pháp được nữa, vì thế mà y không sợ” Xuất Trần Tử vội vuốt đuôi: “Phải rồi, phải rồi! Đại… đại sư huynh nhìn… nhìn xa… muôn dặm… liệu việc như thần. Tiểu… tiểu đệ còn kém xa lắm.”
Lúc ban ngày Tiêu Phong gặp bọn đệ tử phái Tinh Tú, thấy gã Xuất Trần Tử này là thẳng thắn hơn cả nên cũng có đôi chút thiện cảm. Chàng thấy y khiếp sợ đại sư huynh đến thế, đã có ý ra tay cứu. Ngờ đâu càng nghe càng chán ghét, tên lùn này cũng nịnh bợ khả ố hết mức. Tiêu Phong nghĩ thầm “Gã này không phải là hảo hán, chết hay sống ta cũng chẳng quan tâm làm quái gì.”
Gã đại sư huynh lại quay sang hỏi A Tử: “Tiểu sư muội! Tỉ phu của muội là ai?” A Tử đáp: “Tỉ phu tiểu muội ư? Nói ra chỉ sợ đại sư huynh phải giật mình.” Gã đáp: “Muội cứ nói, nếu quả là một nhân vật anh hùng lừng lẫy tiếng tăm thì Trích Tinh Tử này cũng cần biết mà lưu ý.”
Tiêu Phong nghe y tự xưng danh, nghĩ thầm: “Trích Tinh Tử! Đạo hiệu nghe lớn lối quá, toan hái sao trên trời ư? Thân pháp của y cũng khá thật, nhưng đâu có hơn được Ba Thiên Thạch nước Đại Lý hay Vân Trung Hạc trong Tứ Ác?”
A Tử hỏi lại: “Đại sư huynh! Trong võ lâm Trung Nguyên thì ai là người đứng đầu?” Trích Tinh Tử đáp: “Người ta thường nói Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Chẳng lẽ cả hai người đều là tỉ phu sư muội?” Tiêu Phong lửa giận bốc lên, nghĩ thầm: “Thằng nhãi này ăn nói càn rỡ, ta sẽ cho ngươi biết tay để bỏ thói hồ đồ.”
A Tử cười khanh khách nói: “Đại sư huynh nói chuyện kỳ quá. Tiểu muội chỉ có một tỉ nương, sao lại có hai vị tỉ phu được?” Trích Tinh Tử tủm tỉm cười đáp: “Ta đâu có biết tiểu muội chỉ có một tỉ tỉ? Ối chao, mà nếu tiểu muội có một tỉ tỉ mà hai tỉ phu, cũng có chi là lạ đâu?” A Tử nói: “Tỉ phu của tiểu muội tính tình nóng nảy, giả sử tiểu muội gặp lại mà đem câu nói của đại sư huynh kể cho tỉ phu nghe, thì sư huynh phải nếm mùi đau khổ. Nói cho mà nghe, tỉ phu của tiểu muội là Cái Bang bang chủ Bắc Kiều Phong uy chấn Trung Nguyên đó.”
Nàng vừa dứt lời, bọn đệ tử Tinh Tú từng gặp Tiêu Phong đều giật mình không nhịn được, cùng “A” lên một tiếng. Gã nhị sư huynh mũi sư tử nói: “Thảo nào! Thảo nào ta thua dưới tay y, thế thì cũng đành lòng.”
Trích Tinh Tử nhíu mày nói: “Thần Mộc Vương Đỉnh rơi vào tay Cái Bang thì khó lòng xoay sở rồi.” Xuất Trần Tử tuy đang sợ hãi lắm, nhưng không chừa được cái tật lắm mồm, cũng xen vào: “Đại sư huynh! Kiều Phong không phải bang chủ Cái Bang nữa. Sư huynh mới ở Tây Vực qua, chắc là chưa nghe thời sự mới toanh của võ lâm Trung Nguyên. Gã Kiều Phong kia bị bọn Cái Bang đuổi ra khỏi bang rồi.” Y tường thuật những việc không can hệ đến mình lại lưu loát hơn nhiều.
Trích Tinh Tử thở phào một cái, khuôn mặt giãn ra, vẻ căng thẳng hầu như biến mất. Gã hỏi lại: “Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Việc đó có thật không?” Gã mập là tam sư huynh liền đáp: “Khắp giang hồ đều nói thế. Họ còn kể y không phải người Hán mà là người Khất Đan, bọn hảo hán Trung Nguyên đều muốn giết y mới hả dạ. Nghe nói tên này giết cả song thân, sư phụ, bằng hữu, hèn hạ bỉ ổi, không chừa chuyện ác gì không làm.”
Tiêu Phong nấp sau tảng đá, nghe chúng bàn luận những chuyện bất hạnh của mình trong mấy tháng qua, không khỏi đau lòng. Mặc dù chàng võ công cái thế, đảm lược hơn người nhưng trên giang hồ mất hết thanh danh, bị anh hùng thiên hạ khinh thường, cuộc sống trở nên vô vị hết sức.
Bỗng nghe Trích Tinh Tử hỏi A Tử: “Sao tỉ tỉ của tiểu sư muội lại chịu lấy một tên như thế? Không lẽ nam tử trong thiên hạ chết hết rồi sao? Hay là bị hắn tiền dâm hậu thú, cưỡng ép phải làm vợ?” A Tử mỉm cười nói: “Vì sao tỉ tỉ của tiểu muội lại lấy y, thì tiểu muội cũng không biết, nhưng tỉ tỉ cũng bị y đánh một chưởng chết nốt.”
Cả đám nghe thế đều la lên một tiếng kinh ngạc. Bọn này lòng dạ trơ như gỗ đá, hành sự độc ác, thế mà nghe nói Tiêu Phong giết cả song thân, sư phụ, bằng hữu chưa đủ, lại giết cả thê tử, thủ đoạn tàn ác đến như thế quả là trên đời ít có. Chúng tự thấy không thể nào bằng được, đành chịu ở vào thế hạ phong.
Trích Tinh Tử nói: “Cái Bang người nhiều thế mạnh thì khó đối phó, nay Kiều Phong bị đuổi khỏi bang rồi, chúng ta còn sợ gì y nữa? Ha ha!” Y buông mấy tiếng cười rồi nói tiếp: “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì đó chẳng qua là bọn võ lâm Trung Nguyên mèo khen mèo dài đuôi. Ta không tin rằng hai tên đó chống đỡ nổi công phu kỳ diệu của phái Tinh Tú chúng ta.” Gã mập lại hùa theo: “Chính thế! Bọn tiểu đệ cũng nghĩ vậy. Đại sư huynh võ công đã đến mức siêu phàm nhập thánh, phen này vào Trung Thổ giết quách hai gã Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung kia để làm nhụt nhuệ khí võ lâm Trung Nguyên, cho chúng biết phái Tinh Tú chúng ta lợi hại đến thế nào.”
Trích Tinh Tử hỏi: “Gã Kiều Phong kia đi về hướng nào?” A Tử đáp: “Y nói là định ra ngoài Nhạn Môn Quan, chúng ta cứ đuổi theo thì sớm muộn cũng bắt gặp.” Trích Tinh Tử nói: “Phải rồi! Nhị, Tam, Tứ, Thất, Bát năm vị sư đệ vừa rồi lâm địch bại trận, các ngươi muốn lãnh tội gì?” Cả năm tên khom lưng đáp: “Xin đại sư huynh trách phạt.” Trích Tinh Tử nói: “Phen này chúng ta đến Trung Nguyên có nhiều việc phải làm, nếu cứ đúng pháp mà trị tội thì thiếu hụt nhân số. Thế thì ta đành phải…” Y chưa nói xong đã vung tay trái lên, năm đốm lửa màu xanh bay vụt từ trong tay áo ra trông như năm con đom đóm, bắn vào bả vai năm tên. Mấy đốm lửa này vừa chạm phải da thịt lập tức phát ra tiếng xèo xèo.
Tiêu Phong ngửi thấy mùi thịt cháy khét lẹt, tự hỏi: “Không lẽ thằng ác ôn này thiêu sống luôn mấy tên sư đệ hay sao?”. May mà lửa chỉ cháy giây lát rồi tắt ngủm, nhưng mặt năm tên trông càng lúc càng đau đớn khủng khiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là y vừa phóng ra hỏa dược có chất lưu hoàng, lân tinh gì đó, xem chừng còn chứa cả chất độc, nên lửa tắt rồi mà độc tính còn thấm vào da thịt khiến cho càng đau đớn hơn lên”.
Bỗng nghe Trích Tinh Tử nói: “Đây là Luyện Tâm Đan, Ta rèn luyện cho các ngươi một phen, sức chịu đựng sẽ tăng thêm. Lần sau có gặp cường địch thì không đến nỗi mới đánh đã thua, làm mất thể diện phái Tinh Tú chúng ta.” Gã mũi sư tử và gã mập đông thanh đáp: “Vâng, vâng! Đa tạ đại sư huynh giáo huấn.” Còn ba tên kia vẫn phải tiếp tục vận nội lực chống lại cơn đau, chưa mở miệng nói năng được. Chừng tàn một nén hương, tiếng rên rỉ của chúng mới nhỏ dần. Trong thời gian đó bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng nhìn đồng môn nghiến răng chịu phạt, tên nào cũng sợ hãi run lên.
Trích Tinh Tử từ từ đưa mắt nhìn sang Xuất Trần Tử, hỏi: “Bát sư đệ! Ngươi tiết lộ việc cơ mật trọng đại, khiến cho bảo vật của bản môn có nguy cơ bị phá hủy, phải chịu tội như thế nào?” Xuất Trần Tử biến sắc mặt, đột nhiên khuỵu gối xuống quì dưới đất van xin: “Đại sư huynh! Lúc đó… lúc đó tiểu đệ hoảng hốt khai ra… xin… xin sư huynh tha mạng. Từ nay… từ nay đại sư huynh có bắt tiểu đệ làm trâu làm ngựa cũng không dám nửa lời oán trách…” Nói xong y dập đầu lia lịa.
Trích Tinh Tử thở dài nói: “Bát sư đệ! Ngươi với ta là bạn đồng môn, nếu như ta đủ sức tha thì cũng muốn tha cho ngươi. Có điều… giả tỉ lần này tha cho ngươi thì sau này còn ai chịu tuân theo lệnh của sư phụ nữa? Thôi, ngươi xuất thủ đi! Qui củ của bản môn, ngươi biết rồi, chỉ cần đánh bại được người chấp pháp thì bất luận tội nghiệt gì cũng xóa hết. Đứng dậy động thủ đi.”
Xuất Trần Tử nào dám đối địch với đại sư huynh? Y vẫn tiếp tục dập đầu binh binh không ngớt. Trích Tinh Tử nói: “Ngươi không muốn xuất thủ trước thì hãy tiếp chiêu của ta.” Xuất Trần Tử rống lên một tiếng, cúi xuống nhặt hai hòn đá ném về phía Trích Tinh Tử, miệng hô to: “Đại sư huynh! Tiểu đệ xin đắc tội!” Y lại nhặt hai cục đá khác liệng ra, nhảy vọt về phía đông bắc, ném thêm hai cục đá nữa nghe vù vù. Người gã tròn quay trông chẳng khác quả cầu bằng thịt, đã bắn đi khá xa. Y tự biết võ công mình còn rất kém so với Trích Tinh Tử, chỉ mong liệng sáu cục đá, may ra cản được sư huynh trong chốc lát, tìm kế tẩu thoát rồi mai danh ẩn tích để bọn môn đồ phải Tinh Tú không lần ra được.
Ngờ đâu tay áo bên phải của Trích Tinh Tử phất lên một cái, cục đá liền quay ngược lại bắn thẳng vào sau lưng Xuất Trần Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Công phu tá lực đả lực của gã này cũng khá cao, đây là bản lĩnh chân thực chứ không phải tà pháp chi hết.”
Xuất Trần Tử nghe tiếng gió rít sau lưng, vội nhảy qua một bên tránh né. Trích Tinh Tử lại phất cục đá kế tiếp bắn tới, không để cho y dừng lại chút nào. Xuất Trần Tử vừa đặt chân xuống đất đã nghe kình phong thổi tới sau lưng, viên đá thứ ba lại tới nơi. Mỗi viên đá ép được Xuất Trần Tử nhảy qua trái một bước, gã nhảy xong sáu bước đã quay về cạnh đống lửa. Viên đá thứ sáu rơi ở xa xa nghe cạch một tiếng. Xuất Trần Tử sắc mặt nhợt nhạt, thò tay vào bọc rút lưỡi trủy thủ ra, đâm thẳng vào ngực mình. Trích Tinh Tử lại phất nhẹ tay áo, một đốm lửa xanh bắn vào huyệt đạo ở cổ tay y, nghe tiếng xèo xèo. Bàn tay Xuất Trần Tử lỏng ra, lưỡi trủy thủ rơi xuống đất. Y lớn tiếng la lên: “Xin đại sư huynh mở lòng từ bi! Xin đại sư huynh mở lòng từ bi!”.
Tay áo Trích Tinh Tử lại vung lên lần nữa, một luồng kình phong bắn vào đống lửa xanh lè. Đột nhiên từ đống lửa này có một tia lửa nhỏ xíu bật thẳng vào Xuất Trần Tử, vừa chạm phải liền bốc lên lem lém, quần áo đầu tóc liền cháy phừng lên. Y lăn lộn trên mặt đất, kêu rú thảm thiết mà không chết ngay được, mùi thịt cháy khét lẹt bay ra thật là ghê gớm. Bọn đệ tử phái Tinh Tú sợ đến nỗi không dám thở mạnh.
Trích Tinh Tử nói: “Mấy sư đệ không nói gì ư? Ái chà! Các ngươi cho rằng thủ đoạn của ta độc ác quá, Xuất Trần Tử chết oan uổng quá, có phải thế không?” Bọn chúng lập tức tranh nhau lên tiếng: “Xuất Trần Tử tội đã đáng chết, đại sư huynh giúp y luyện thân hóa cốt cho sạch sẽ mà về nơi cực lạc, quả là nhân chí nghĩa tận đối với đồng môn.” “Đại sư huynh anh minh quyết đoán, xử trí thật là thích đáng, đã không nhu nhược lại không thái quá, chúng sư đệ vô cùng kính phục.” “Tên đó tiết lộ chuyện cơ mật của bản môn khiến cho vật chí bảo của sư phụ dùng để luyện công bị nguy hiểm, đáng tội lăng trì, xẻo thịt từ từ bảy ngày bảy đêm rồi mới cho chết. Đại sư huynh niệm tình đồng môn chỉ xử nhẹ nhàng, gã thành ma quỷ cũng còn cảm kích ân đức đại sư huynh.” “Bọn tiểu đệ ai cũng có tội, xin đại sư huynh khoan dung tha thứ.”
Những lời tán tụng vô liêm sỉ hòa cùng tiếng kêu gào thảm thiết của Xuất Trần Tử vang vọng trong đêm. Tiêu Phong chán ghét cùng cực, quay mình, búng chân phải một cái, vọt ra xa hơn hai trượng không một tiếng động. Đến kẻ bản lĩnh cao cường như Trích Tinh Tử cũng không hay biết gì.
Chàng đang định chạy đi, bỗng nghe Trích Tinh Tử cất giọng ôn tồn hỏi: “Tiểu sư muội! Ngươi ăn trộm bảo đỉnh của sư môn đưa cho người ngoài, thì phải chịu tội gì?” Tiêu Phong run lên nghĩ thầm: “Hình phạt A Tử phải chịu chắc còn thảm khốc gấp mười Xuất Trần Tử, nếu ta buông tay bỏ mặc thì yên tâm thế nào được?”. Nghĩ thế, chàng lại lẻn về chỗ nấp khi nãy.
Bỗng nghe A Tử đáp: “Tiểu muội phạm vào qui củ của sư phụ, chuyện đó dĩ nhiên không cãi được. Nhưng chẳng hay đại sư huynh có muốn lấy lại bảo đỉnh hay chăng?” Trích Tinh Tử đáp: “Đó là một trong tam bảo của bản môn, đương nhiên là phải thu hồi, không thể để lọt vào tay người ngoài được.” A Tử nói: “Tính nết của tỉ phu tiểu muội hết sức quật cường. Bảo đỉnh là do tiểu muội giao cho tỉ phu, nếu muội muốn lấy lại, tỉ phu sẽ giao hoàn không sứt mẻ. Còn nếu người khác đến đòi thì đại sư huynh nghĩ xem tỉ phu tiểu muội có chịu giao trả không?”
Trích Tinh Tử đằng hắng một tiếng rồi đáp: “Việc này khó mà nói trước được. Nhưng nếu bảo đỉnh bị hư hại thì tội nghiệt nhà ngươi càng nặng thêm.” A Tử nói: “Giả tỉ các vị sư huynh đi đòi, nhất định tỉ phu không trả. Đại sư huynh võ công cao đến mức nào cũng giết được tỉ phu là cùng, còn muốn thu hồi bảo đỉnh thì khó hơn lên trời.” Trích Tinh Tử trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Theo ý sư muội thì phải làm sao?” A Tử đáp: “Sư huynh thả tiểu muội ra, để muội đi một mình ra Nhạn Môn Quan kêu tỉ phu trả lại chiếc bảo đỉnh. Cái đó gọi là lập công chuộc tội. Có điều đại sự huynh phải hứa là sau này không trách phạt gì tiểu muội về vụ này nữa.”
Trích Tinh Tử đáp: “Tiểu muội nói nghe cũng có lý. Nhưng nếu làm như thế thì ta còn chi thể diện, từ nay còn làm đại sư huynh của phái Tinh Tú nữa được chăng? Ta thả ngươi ra là lập tức ngươi cùng với tỉ phu xa chạy cao bay, ta biết lên trời hay xuống biển mà tìm đây? Còn về việc bảo đỉnh, ta nghĩ có chí thì nên, nếu không lộ chuyện ra thì gã họ Kiều kia chưa chắc đã hủy đi. Tiểu sư muội, ngươi xuất thủ đi thôi. Chỉ cần đánh thắng ta là ngươi biến thành đại sư tỉ của phái Tinh Tú, lúc đó muốn làm gì thì làm, dĩ nhiên ta phải nghe hiệu lệnh.”
Tiêu Phong nghe đến đây mới hiểu rõ: “Thì ra thứ bậc cao thấp của bọn chúng là tùy theo võ công mạnh hay yếu, chứ không tính theo nhập môn trước hay sau. Vì thế mà gã Trích Tinh Tử còn trẻ tuổi mà lại là đại sư huynh, mấy tên lớn tuổi hơn lại là sư đệ. Nhưng như thế thì nội bộ môn phái lúc nào cũng có chuyện tranh đoạt tàn sát, còn gì là tình nghĩa huynh đệ đồng môn nữa?”.
Chàng không biết rằng phái Tinh Tú đưa ra phương pháp này để đời sau phải giỏi hơn đời trước. Quyền lực của đại sư huynh rất lớn, sư đệ nào không phục có thể dùng vũ lực phản kháng, tỉ thí cao thấp một phen. Nếu đại sư huynh thắng, thì gã sư đệ kia bị đánh bị giết thế nào cũng đành chịu, không kêu ca gì được. Còn nếu sư đệ thắng thì lập tức nhảy lên làm đại sư huynh, có quyền xử tử gã đại sư huynh cũ. Sư phụ đứng ngoài chỉ thõng tay nhìn, quyết không can thiệp. Vì có lề luật như thế nên ai cũng phải ra sức rèn luyện để tự bảo vệ tính mạng của mình, nhưng bề ngoài thì không tỏ vẻ gì hết, có khi còn làm bộ kém cỏi để khỏi bị đại sư huynh nghi ngờ. Xuất Trần Tử có tý lực lợi hại, y đúc cây cương trượng vừa to vừa dài, trầm trọng nhất môn phái, tuy đứng tận hàng thứ tám nhưng Trích Tinh Tử cũng đã đem lòng đố kỵ, nhân dịp này trừ khử y. Nhân vật các phái khác thì thông thường chỉ luyện tới một mức nào đó là dừng lại không tiến thêm được nữa, còn đệ tử phái Tinh Tú không dám bê trễ đến nửa ngày, lúc nào cũng cố công luyện tập. Đại sư huynh phải lo sợ sư đệ đến khiêu chiến với mình, mà bọn sư đệ cũng sợ đại sư huynh kiếm chuyện đổ lên đầu để thí nghiệm võ công. Đại sư huynh không chắc ăn thì không bao giờ dám gây hấn.
A Tử hy vọng Trích Tinh Tử sợ mất bảo đỉnh mà không dám làm mạnh, nào ngờ y không mắc bẫy, lại đòi động thủ ngay. Cô nàng mặt mày tái mét, nghe Xuất Trần Tử vẫn còn rên la chưa chết được, thảm trạng đó chỉ chớp mắt sẽ đến với mình. A Tử đành bậm môi run run nói: “Chân tay tiểu muội đang bị khóa chặt, làm sao động thủ được? Nếu đại sư huynh muốn hại muội thì hãy dùng cách quang minh chính đại, đừng dùng thủ đoạn này.”
Trích Tinh Tử đáp: “Được lắm! Để ta mở khóa cho ngươi.” Y phất tay áo một cái, phóng một luồng kình phong vào đống lửa. Từ đống lửa một tia lửa xanh nhỏ bay vọt ra, y như một tia nước phun thẳng vào dây xích đang khóa hai tay A Tử.
Tiêu Phong nhìn rất rõ ràng, thấy tia lửa đó không hề chạm vào người A Tử. Nghe tiếng xì xì một lát, sợi xích nối hai tay A Tử đứt ngay giữa, nhưng vẫn lòng thòng nơi cổ tay. Tia lửa xanh rụt về, rồi lại phóng vào sợi xích dưới chân, chỉ một lát cắt đứt nốt. Lúc đầu Tiêu Phong thấy tia lửa xanh lè nung chảy được dây xích không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, tưởng nội lực Trích Tinh Tử cực kỳ ghê gớm. Lúc chàng nhìn tia lửa đốt dây xích dưới chân mới thấy rõ, tia lửa vừa tới xích sắt liền đổi màu, xem ra ngọn lửa này có điều cổ quái chứ không phải thuần túy dựa vào nội lực.
Bọn đồ đệ phái Tinh Tú không ngớt thi nhau tán tụng: “Nội lực đại sư huynh siêu phàm nhập hóa, quả thực kinh người, chúng ta chưa được thấy, cũng chưa từng nghe. Trên thiên hạ ngoài sư phụ ra, đại sư huynh nhất định là vô địch.” “Bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì đó không đáng xách giày cho đại sư huynh.” “Tiểu sư muội đã thấy lợi hại chưa? Nhưng bây giờ hối hận cũng đã muộn rồi.” Mỗi tên tranh nhau nói một câu. Trích Tinh Tử nghe nịnh hót mà mặt tươi như hoa, hớn hở liếc mắt nhìn A Tử, A Tử tuy tinh quái nhưng cũng chưa nghĩ ra cách thoát hiểm, chỉ mong bọn chúng ca tụng hoài để Trích Tinh Tử trì hoãn ra tay được lúc nào hay lúc nấy. Nhưng bọn chúng tán tới tán lui một hồi hết vốn, không nghĩ ra ý gì mới mẻ, rời rạc dần dần.
Trích Tinh Tử thủng thẳng nói: “Tiểu sư muội! Xuất thủ đi thôi.” A Tử run rẩy đáp: “Ta không xuất thủ đâu.” Trích Tinh Tử hỏi lại: “Sao thế? Ngươi cử động được rồi mà?” A Tử đáp: “Ta biết chắc đánh không lại ngươi, việc gì phải phí hơi sức? Người muốn giết ta thì cứ giết phứt cho rồi.”
Trích Tinh Tử thở dài đáp: “Thực lòng ta cũng chẳng muốn giết ngươi. Một tiểu cô nương xinh đẹp dễ thương như thế này, giết đi quả là đáng tiếc, nhưng thật không còn cách khác. Tiểu sư muội! Ngươi xuất thủ đi, hạ sát được ta thì sẽ trở thành đại sư tỉ. Khi đó trong phái Tinh Tú, ngoài sư phụ ra, ai cũng phải nghe lời ngươi hết.” A Tử đáp: “Ta chỉ là một tiểu cô nương, luyện cả đời cũng không hơn ngươi được. Ngươi e ngại điều gì mà lại muốn giết ta?” Trích Tinh Tử thở dài: “Giả tỉ ngươi không phạm phải đại tội như thế này, nhất quyết ta không làm khó ngươi. Thế nhưng… thế nhưng… ta không giúp gì được nữa. Tiểu sư muội, tiếp chiêu?” Y nói xong phất tay áo một cái, một luồng kình phong ập vào đống lửa, một dây lửa xanh phóng tới cô gái, nhưng dường như y chưa muốn giết A Tử ngay nên tia lửa bay thật chậm.
A Tử sợ quá kêu lên, nhảy qua trái hai bước. Tia lửa đuổi theo, A Tử lại lùi một bước nữa, khéo làm sao lại dựa lưng ngay vào tảng đá Tiêu Phong đang nấp đằng sau. Trích Tinh Tử thúc đẩy nội lực, ngọn lửa lại tiến tới, A Tử không còn đường lui, đang tính nhảy sang bên, nhưng tay áo Trích Tinh Tử lại phất lên, hai luồng kình phong chia ra tấn công tả hữu. Cô nàng không còn đường chạy nữa, tia lửa trước mặt vẫn tiến càng lúc càng gần.
Tiêu Phong thấy dây lửa xanh lè chỉ còn cách mặt A Tử hai thước, rồi gần thêm một tấc, một tấc nữa, bèn nói khẽ: “Cô đừng sợ! Có ta đến giúp đây!” Chàng vừa nói vừa thò tay từ sau tảng đá ra đặt vào lưng cô gái, nói: “Ngươi vận chưởng lực nhắm vào tia lửa mà đánh ra.”
A Tử đang hồn lạc phách xiêu, đột nhiên nghe thấy tiếng Tiêu Phong không khác gì chết đi sống lại. Nàng không suy nghĩ gì nữa vung chưởng đẩy ra. Khi đó Tiêu Phong đã truyền nội lực vào thân thể nàng, chưởng thế thật là hùng hậu, đánh dội ngọn lửa xanh lại hai thước.
Trích Tinh Tử giật mình, gã vốn yên trí A Tử như cá nằm trên thớt, đang định biểu diễn công phu cho tia lửa vờn qua vờn lại trước mặt cô, dọa cho nàng la hét một hồi để dương oai trước đám sư đệ rồi mới ra tay hạ sát. Ngờ đâu cô ta tuổi còn nhỏ mà nội lực đã ghê gớm đến thế, thực là ngoài dự liệu. Bạn đọc nên biết, khi đệ tử phái Tinh Tú được sư phụ truyền thụ rồi, mỗi người tự luyện lấy, cao thấp thế nào thì khi lâm địch hay khi đồng môn tỉ thí giết nhau mới hiểu, ngoài ra chẳng ai biết ai. Do đó khi A Tử đánh ra một chưởng đẩy được tia lửa co về, cả đám la lên kinh ngạc, nhưng không nghi ngờ có người ám trợ, chỉ nghĩ A Tử thiên tư thông tuệ, đã luyện công phu đến mức cao thâm.
Trích Tinh Tử vận nội lực đẩy ra, tia lửa xanh lại nhắm ngay mặt A Tử phóng tới. Lần này y sử kình rất mạnh, tia lửa xẹt nhanh như chớp. A Tử hốt hoảng không biết làm sao ngăn lại, vội né qua bên trái. May mà hai luồng kình lực Tích Tinh Tử chặn hai bên tả hữu đã hết, nàng vừa né qua, ngọn lửa xanh bắn trúng vào tảng đá nghe mấy tiếng xèo xèo. Tiêu Phong khẽ bảo: “Phóng tả chưởng ra cắt đứt tia lửa.” A Tử nghĩ thầm: “Tuyệt diệu!”, vung tay trái lên, phóng chưởng vào giữa cắt đứt sợi dây lửa. Phần ngọn không có kình lực nối tiếp, chỉ cháy trên tảng đá thêm một lúc rồi lụi dần.
Trích Tinh Tử nghĩ thầm: “Nếu ta mà để tắt sợi dây lửa này thì coi như thua một trận trước mặt đồng môn, uy phong mất sạch.” Y bèn vận chưởng lực, đẩy tia lửa bắn tới tảng đá, định nối vào đầu kia để thu về, giữ cho khỏi tắt.
Lúc này A Tử thấy nội lực cuồn cuộn trút vào sau lưng, nếu không phát tiết ra không chừng thân thể không đủ chỗ chứa sẽ nổ tung. Cô nàng lập tức vung tay phải đánh thẳng ra. Nội lực của Tiêu Phong thâm hậu vô cùng, tuy trút sang người A Tử đã giảm sức mạnh đi vài phần, song nếu nàng khéo vận dụng, xuất kỳ bất ý tấn công Trích Tinh Tử thì chỉ một đòn là xong. Nhưng nàng chưa hết hoảng hốt, phát chưởng đánh ra hời hợt, chưởng phong kêu vù vù mà chỉ đánh tắt được ngọn lửa xanh, không làm Trích Tinh Tử tổn hại chút nào.
Tuy thế bọn đồ đệ phái Tinh Tú cũng không khỏi khiếp vía. Chỉ sót lại tên thất sư đệ ngu ngốc chẳng biết chi hết, vẫn kiếm lời tán tụng: “Đại sư huynh công lực thật là ghê gớm, phát chưởng của tiểu sư muội chẳng qua đánh tắt thần hỏa là cùng, chẳng làm quái gì được đại sư huynh.” Bản tâm y thì nịnh bợ sư huynh nhưng Trích Tinh Tử lại tưởng bị xỏ xiên, đột nhiên phất tay áo một cái, một tia lửa xanh lè vọt ra như tên bắn vào mặt gã thất sư đệ. Tia lửa chỉ chạm vào rồi co về ngay, nhưng gã kia đã hai tay ôm lấy mặt, nhào xuống đất rống lên như heo bị chọc tiết.
Trích Tinh Tử xử lý nội bộ xong, đánh xéo tả chưởng ra, tia lửa xanh lại bắn về phía A Tử. Lần này thế lửa mạnh hơn nhiều, rít lên kêu vu vu, chiếu vào khuôn mặt cô gái xanh lè. A Tử đẩy song chưởng ra ngăn chặn, ngọn lửa dừng lại trên không, cứ dài ra được một hai tấc, lại co về một hai tấc. Trong đêm tối, tia lửa trông chẳng khác gì một con rắn dài xanh lét, uốn éo lơ lửng trên không, vừa rực rỡ vừa huyền ảo, khi mờ khi tỏ.
Trích Tinh Tử huy động chưởng lực ba lần đều bị A Tử liên tiếp đẩy lui, không khỏi vừa sốt ruột vừa tức tối. Y thúc thêm hai lần nữa vẫn không đẩy tia lửa tiến lên chút nào, xương sống đột nhiên lạnh toát: “Dư lực… dư lực… của con ranh này còn mãi không hết, dường như nó đang trêu chọc ta. Không lẽ sư phụ sủng ái, âm thầm truyền thụ công phu thượng thừa của bản môn cho nó? Ta… ta chống sao nổi, mắc bẫy rồi.” Y nghĩ thế, trong lòng hoang mang, chưởng lực bất giác yếu đi, con rắn xanh thụt lùi về đống lửa nhanh như chớp.
Trích Tinh Tử quát lên một tiếng, lại gia tăng chưởng lực, ngọn lửa biến thành một khối hỏa cầu to như cái đấu, bay vọt về phía A Tử. Nàng vội phóng hữu chưởng ra nhưng không chặn nổi, lập tức đẩy thêm tả chưởng, song chưởng hợp lực mới chống đỡ được khối cầu lửa.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ thấy một cục lửa tròn xoay chuyển trên không, vội vàng cất tiếng reo hò: “Đại sư huynh công lực thần kỳ, phen này con tiểu a đầu phải cháy ra tro bụi.” “Tiểu sư muội ơi, đừng hung hăng nữa. Mau ngoan ngoãn chịu thua, không chừng đại sư huynh mở cho một con đường sống.”
A Tử liên tiếp thúc đẩy chưởng lực. Dù nội lực của Tiêu Phong đưa vào cực kỳ hùng hậu, nhưng dẫu sao cũng là ngoại lai, nàng vận dụng không được thuần thục. Trích Tinh Tử cầm cự một hồi liền phát giác được chỗ yếu của sư muội, đột nhiên nhíu đôi mày, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn hai chỉ nghe soẹt soẹt. Từ đống lửa phóng ra hai đốm hoa lửa, vọt đi như sao băng tấn công vào hai bên A Tử, A Tử la lên: “Úi chà!” Hai tay nàng đang phải chặn hỏa cầu, làm sao chia ra chống đỡ được nữa? Nàng hết cách, đành né sang một bên, Trích Tinh Tử lập tức huy động hai bông hoa lửa đuổi theo.
Tiêu Phong biết A Tử không chống đỡ được nữa, khẽ đưa tay lên, hai luồng chưởng lực từ từ phóng ra. Chỉ thấy thân hình A Tử hơi lắc lư, hai đầu sợi dây thắt lưng phơ phất quạt ra, hai đốm hoa lửa bắn vụt trở lại Trích Tinh Tử.
Gã sợ đến trợn mắt há hốc mồm, chưa ngậm miệng lại thì hai đốm lửa đã bắn tới nơi, vội vàng nhảy vọt lên, một đóa hoa lửa xẹt qua dưới chân. Hai tên sư đệ liền lên tiếng reo hò: “Hảo công phu! Bản lãnh đại sư huynh thật là tuyệt diệu!” Tiếng reo chưa dứt, đóa hoa lửa thứ hai đã bắn vào bụng dưới. Trích Tinh Tử đang lơ lửng trên không, làm sao vọt lên được nữa? Nghe soẹt một tiếng nhỏ, đốm lửa đã trúng vào bụng y. Trích Tinh Tử rú lên một tiếng, rơi bịch xuống đất, quả cầu lửa cũng quay về đống lửa ngay.
Bon đệ tử phái Tinh Tú nhìn A Tử ra vẻ kinh hãi, nghĩ thầm: “Xem ra công lực tiểu sư muội không phải tệ. Đại sư huynh vị tất đã thắng, mình chưa nên reo hò vội.”
Trích Tinh Tử thần sắc ảm đạm, đưa tay tháo búi tóc cho xõa xuống che mặt, rồi cắn đầu lưỡi, phun một búng máu vào đống lửa. Ngọn lửa đang le lói bỗng bùng lên, sáng lóa cả mắt mọi người. Bọn sư đệ lại nức nở khen: “Công lực đại sư huynh ghê gớm, thật là mở rộng tầm mắt cho chúng sư đệ.” Thân hình Trích Tinh Tử đột nhiên quay tít đến hơn chục vòng như con vụ, giữ tay áo một cái, bốc cả đống lửa dưới đất lên trời, chẳng khác gì một bức tường lửa đổ xuống người A Tử.
Tiêu Phong biết Trích Tinh Tử đang dồn hết công lực bình sinh, sử dụng một tà thuật lợi hại vô cùng. Chàng nghĩ gã này tuy ác độc thật nhưng đối với mình không thù không oán, chẳng việc gì phải quyết tử. Tiêu Phong lập tức biến chưởng thành trảo, chộp vào lưng A Tử kéo nàng chạy đi. Đột nhiên A Tử kêu lên: “A Châu tỉ tỉ! Muội đang bị người ta ức hiếp, sao tỉ tỉ không giúp muội báo thù?” Tiêu Phong ngạc nhiên:“Sao cô này lại hô hoán A Châu, ta… ta… làm sao bỏ đi được?”.
Tiêu Phong mới chần chừ một chút, bức tường lửa xanh lè đã chồm đến nơi, song chưởng chàng vội luồn vào tay áo A Tử phóng ra. Hai cánh tay áo màu tím căng phồng lên, kình lực của Tiêu Phong đẩy phần phật vào bức tường lửa.
Đám lửa ở trên không ngừng lại một chút rồi từ từ lui về phía Trích Tinh Tử. Gã sợ quá, lại nghiến răng cắn đầu lưỡi, phun thêm một ngụm máu vào, lửa lại bừng bừng tiến lên, nhưng chỉ được hai thước thì lại bị nội lực của Tiêu Phong đẩy ngược trở về. Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy đôi tay áo A Tử căng lên như buồm no gió, đều tưởng nội lực cô tiểu sư muội mãnh liệt đến cùng cực, có ai ngờ sau lưng nàng có người ám trợ.
Lúc này mặt Trích Tinh Tử nhợt nhạt, phun từng ngụm từng ngụm máu vào đám lửa. Mỗi lần gã phun máu ra là nội công lại giảm đi một phần, nhưng trót vào thế cưỡi hổ không xuống được, chỉ mong đốt chết được A Tử rồi chuồn đi ngay, tìm nơi tu luyện phục hồi nguyên khí. Nếu không, bọn sư đệ mà nhìn ra chỗ yếu, chắc là thừa cơ hội tiến lên khiêu chiến ngay. Y không ngớt phun máu ra, song bị nội lực hùng hậu vô song của Tiêu Phong đẩy lại thì đám lửa làm sao mà tiến lên được?
Tiêu Phong nhận thấy chân khí của y càng lúc càng suy yếu, sắp tới mức dầu cạn đèn khô, liền khẽ bảo A Tử: “Cô bảo hắn chịu thua đi thôi, đừng đấu nữa.”
A Tử bèn cất tiếng gọi: “Đại sư huynh! Ngươi sắp thua rồi, mau mau quì xuống van xin, ta sẽ tha mạng cho. Ngươi chịu thua chưa?” Trích Tinh Tử hoảng hốt vô kể, biết mạng mình nguy đến nơi rồi, nghe A Tử chiêu hồi liền vội vàng gật đầu. A Tử hỏi lại: “Sao ngươi không trả lời? Ngươi không mở miệng nói, tức là không chịu thua, phải không?” Trích Tinh Tử lại gật đầu lia lịa nhưng không dám mở miệng nói. Y đang dùng toàn lực chống đỡ nội hình của Tiêu Phong, chỉ há miệng thoát hơi ra là ngọn lửa quay ngược về nướng chín y ngay.
Bọn sư đệ thấy thế lập tức đua nhau lên tiếng mắng nhiếc: “Trích Tinh Tử! Ngươi thua rồi sao chưa quì xuống dập đầu?” “Đồ bị thịt như ngươi mà ra ngoài xưng là đệ tử phái Tinh Tú thì bản môn mất hết cả thể diện.” “Tiểu sư muội đã khoan hồng đại lượng tha mạng cho ngươi, sao lại còn ngoan cố? Mau mau mở miệng van xin đi.” “Trích Tinh Tử! Mười năm trước ta đã biết ngươi là kẻ tệ hại nhất trong phái Tinh Tú. Hôm nay tiểu sư muội thanh lý môn hộ, lập được đại công, làm rạng danh bản phái.” “Ngươi đang sắp đặt kế hoạch ám toán sư phụ, gia nhập phái Thiếu Lâm, may mà tiểu sư muội phát hiện gian mưu. Ngươi đúng là đồ heo chó, vô liêm sỉ không nói hết.” “Tiểu sư muội thần công cái thế, trừ sư phụ ra thì sư muội là đệ nhất, ta đã biết từ lâu rồi.” “Trích Tinh Tử, chính ngươi đã lấy trộm Thần Mộc Vương Đỉnh, lại dám vụ cáo tiểu sư muội, chắc là chán sống rồi chăng?”
Tiêu Phong thấy bọn chúng trở mặt nhanh chóng, thấy Thích Tinh Tử vừa kém thế là lập tức giậu đổ bìm leo, vừa mới ca tụng đại sư huynh anh hùng cái thế, bây giờ thì chửi như heo như chó, thực sự tư cách chúng mới không bằng heo chó. Chàng nghĩ thầm: “Tinh Tú Lão Ma thu gom toàn bọn đệ tử không có nhân cách. A Tử từ thuở nhỏ đã cùng bọn với chúng, thảo nào tư cách cũng đê tiện như thế.” Tiêu Phong thấy tình cảnh Trích Tinh Tử thê thảm quá rồi, không nỡ hại thêm liền thu nội kình về, hai cánh tay áo A Tử liền rũ xuống.
Trích Tinh Tử thần sắc thiểu não, thân hình loạng choạng, đột nhiên hai gối nhũn ra ngồi phệch xuống đất. A Tử hỏi: “Đại sư huynh! Sao rồi? Đã phục ta chưa?” Trích Tinh Tử ấp úng nói nhỏ: “Ta chịu thua rồi, ngươi… ngươi đừng gọi ta là đại sư huynh nữa, bây giờ ngươi là đại sư tỉ.”
Bọn đệ tử liền reo hò vang dội: “Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Đại sư tỉ võ công cái thế, phái Tinh Tú có người thừa kế như vậy thể nào cũng dương danh thiên hạ.” “Đại sư tỉ! Mau mau đi giết sạch bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì đó để phái Tinh Tú chúng ta độc bá Trung Nguyên.” Một gã khác cãi lại: “Ngươi chỉ nói lăng nhăng, Bắc Kiều Phong là tỉ phu của sư tỉ, sao lại giết đi?” “Sao lại không giết? Trừ phi y lên tiếng chịu thua, gia nhập phái Tinh Tú thì không kể.”
A Tử lên giọng đại sư tỉ mắng: “Các ngươi làm gì mà ồn ào thế? Im lặng hết đi!” Cả bọn liền im bặt.
A Tử quay sang nhìn Trích Tinh Tử, cười hì hì nói: “Theo thể lệ của bản môn, sau khi đổi người thừa kế rồi thì người trước phải như thế nào?” Trích Tinh Tử toát mồ hôi trán ròng ròng, run lên đáp: “Đại sư… sư tỉ! Xin… xin đại sư tỉ…” A Tử cười khanh khách nói: “Ta thật lòng muốn tha cho ngươi, có điều thể lệ của bản môn không thể bị hủy hoại nơi tay ta được. Ngươi xuất chiêu đi, có bản lĩnh gì thì đem ra cho hết.”
Trích Tinh Tử biết vận mạng mình đã định rồi, năn nỉ thêm chẳng được gì. Y liền vận khí vào song chưởng, nhắm ngọn lửa đẩy tới. Ngờ đâu lực đã kiệt mất rồi, song chưởng phóng ra mà đống lửa xanh lè chỉ hơi nhúc nhích rồi đứng yên trở lại.
A Tử cười nói: “Hay quá! Thật là hay quá! Sao pháp thuật của đại sư huynh không linh nghiệm nữa?” Nàng tiến lên hai bước, vung chưởng đánh ra, một tia lửa xanh bắn vào Trích Tinh Tử, A Tử nội lực bình thường, tia lửa đi vừa chậm vừa tung tóe ra chung quanh nhưng Trích Tinh Tử không còn hơi sức chống trả, muốn đứng dậy bỏ chạy cũng không được. Tia lửa bắn vào người y, chỉ trong chớp mắt là đầu tóc cùng y phục gã cháy bùng. Gã rú lên những tiếng cực kỳ thê thảm, toàn thân biến thành một cây đuốc sống.
Bọn đệ tử lại reo hò vang dội, đua nhau tán dương đại sư tỉ võ công xuất thần nhập hóa, trừ được một tên bại hoại trong môn phái, theo đúng ý chỉ của sư phụ, tạo phúc cho đồng môn.
Tiêu Phong đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh hung tàn thảm khốc trên giang hồ, nhưng chưa từng thấy một cô gái xinh đẹp khả ái, bề ngoài trong trắng ngây thơ như A Tử mà hành sự hiểm độc dã man đến thế. Chàng cảm thấy chán nản, thở dài thườn thượt rồi cất bước bỏ đi.
A Tử bỗng cất tiếng gọi: “Tỉ phu! Tỉ phu khoan đi đã, đợi muội một chút.” Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy một người ở sau tảng đá đột nhiên bước ra thì không khỏi kinh ngạc. Mấy tên nhị đệ tử, tam đệ tử nhận ra Tiêu Phong, lại càng mất vía.
A Tử lại kêu: “Tỉ phu! Chờ muội với!” Nàng rào bước chạy đến chỗ Tiêu Phong. Lúc đó Trích Tinh Tử kêu la càng lớn, thêm tiếng vang dội từ trong hang núi lại càng ghê rợn. Tiêu Phong chau mày hỏi: “Cô theo ta làm chi nữa? Cô đã là người thừa kế phải Tinh Tú, làm đại sư tỉ của cả đám môn đồ, vẫn chưa thỏa mãn hay sao?” A Tử cười nói: “Không được!” Nàng hạ giọng xuống nói: “Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả mạo, có đáng gì đâu? Tỉ phu ơi, dắt muội theo ra ngoài Nhạn Môn Quan nhé?” Tiêu Phong càng nghe Trích Tinh Tử kêu gào lại càng không muốn chần chờ, rảo bước đi về hướng bắc.
A Tử sánh vai Tiêu Phong cùng đi, chợt nhớ ra điều gì, quay đầu lại nói: “Nhị sư đệ! Ta có việc phải lên phía bắc, bọn ngươi cứ ở quanh quẩn đây đợi ta, không được tự ý bỏ đi. Nghe rõ chưa?” Cả bọn nhất tề tiến lên hai bước, cung kính khom lưng nói: “Đại sư tỉ đã ban pháp chỉ, chúng sư đệ không dám trái lời.” Rồi bọn chúng lại nhao nhao tán tụng: “Cung chúc đại sư tỉ thượng lộ bình an.” “Cung chúc đại sư tỉ vạn sự như ý.” “Cung chúc đại sư tỉ kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.” “Đại sư tỉ một thân thần công tuyệt thế, việc gì mà chẳng dễ dàng? Bọn sư đệ chúc tụng chỉ bằng thừa.”
A Tử vẫy tay mấy cái ra chiều đắc ý. Dưới ánh tuyết chiếu lên, Tiêu Phong nhìn rõ vẻ mặt cô nàng vừa xinh đẹp vừa khả ái, lại đầy vẻ ngây thơ. Lúc này cô đang khoái chí trông chẳng khác gì đứa bé mới được món đồ chơi hay một viên kẹo. Nếu chàng không tận mắt trông thấy, thì thật không thể tin được nàng vừa hạ độc thủ sát hại đại sư huynh, lên ngôi thừa kế một tà phái đứng đầu thiên hạ. Tiêu Phong thở dài, lại càng thấy cuộc đời thật ngán ngẩm.
A Tử hỏi: “Tỉ phu! Sao tỉ phu lại thở dài? Phải chăng là vì tiểu muội tinh nghịch quá?” Tiêu Phong đáp: “Cô đâu có tinh nghịch, chỉ hung ác tàn nhẫn thôi. Nếu bọn nam nhi lớn tuổi chúng ta mà hung ác thì còn hiểu được. Còn cô chỉ là một bé gái nhỏ tuổi sao hạ thủ lại không dung tình, độc ác đến thế?” A Tử lấy làm lạ hỏi lại: “Tỉ phu không biết thật hay là giả và không biết?” Nói xong, nàng ngoẹo đầu nhìn Tiêu Phong đầy vẻ tò mò. Tiêu Phong hỏi: “Ta không biết cái gì?”
A Tử đáp: “Lạ thật! Tỉ phu không hiểu thật ư? Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả mạo, do tỉ phu tranh đoạt giúp cho, nhưng lúc nãy bọn chúng không nhìn ra đấy thôi. Giả tỉ tiểu muội không giết Trích Tinh Tử, thể nào cũng có lúc y khám phá ra. Lúc ấy chưa chắc đã có tỉ phu ở bên cạnh, muội mất mạng là cái chắc. Muội còn muốn sống thì chỉ còn cách là phải giết gã thôi.”
Tiêu Phong nói: “Thôi được. Thế bây giờ cô theo ta ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì?” A Tử đáp: “Tỉ phu! Bây giờ muội mới nói thật, tỉ phu có chịu nghe không?” Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ái chà! Bây giờ người mới nói thật, thế ra xưa nay chỉ toàn nói láo.” Chàng bèn đáp: “Dĩ nhiên là ta muốn nghe, chỉ sợ cô nói không thực thôi.” A Tử cười khúc khích, nắm cánh tay chàng mà hỏi: “Tỉ phu có sợ tiểu muội không?” Tiêu Phong thở dài đáp: “Ta sợ nhiều lắm, sợ cô gây họa, sợ cô vô cớ giết người, sợ cô giở trò quái quỉ…” A Tử nói: “Thế tỉ phu có sợ tiểu muội bị người ta hiếp đáp hay sát hại không?” Tiêu Phong đáp: “Ta đã nhận lời ủy thác của A Châu, dĩ nhiên phải quan tâm chiếu cố đến cô.” A Tử hỏi lại: “Nếu như tỉ tỉ không ủy thác thì sao? Nếu như muội không phải là muội tử của A Châu tỉ tỉ thì sao?” Tiêu Phong hắng giọng rồi đáp: “Nếu thế thì ta chẳng việc gì phải chiếu cố đến cô.”
A Tử hỏi: “A Châu tỉ tỉ có gì mà tốt đẹp thế? Sao tỉ phu lại chẳng coi muội ra gì?” Tiêu Phong đáp: “A Châu so với cô thì tốt đẹp gấp nghìn lần, gấp vạn lần. A Tử, người như cô vĩnh viễn chẳng bao giờ bằng tỉ nương cô được.” Chàng nói tới đây mắt lại đỏ hoe, thanh âm hơi nghèn nghẹn. A Tử bĩu môi nói: “Nếu A Châu tỉ tỉ tốt đẹp như thế, thì tỉ phu cứ gọi tỉ tỉ đi cùng, tiểu muội không thèm đi nữa.” Nàng nói xong quay người bỏ đi.
Tiêu Phong chẳng lý gì đến, cũng cất bước, trong lòng không khỏi đau thương, lẩm bẩm: “Giả tỉ A Châu cùng đi với ta trên mặt tuyết này, giả tỉ nàng hờn giận ta mà bỏ đi như thế, ta sẽ lập tức đuổi theo, tìm lời tử tế dỗ dành. Mà không, chẳng bao giờ ta để nàng phải bực mình, chuyện gì ta cũng chiều ý nàng cả. Ôi chao, A Châu đối với ta một lòng nhu thuận, có bao giờ lại hờn giận ta?”.
Đột nhiên nghe tiếng chân người, A Tử lại chạy tới nói: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu quả là lòng gang dạ sắt, nói không là không, chẳng có một chút nhân từ nào.” Tiêu Phong cười khẩy hỏi lại: “Người như cô mà cũng nói chuyện bụng dạ nhân từ ư? Này A Tử, cô nghe ai nhắc đến hai chữ nhân từ thế?” A Tử đáp: “Muội nghe má má nói. Bà ấy còn bảo đối với người khác không nên quá tàn nhẫn bá đạo, phải có chút ít nhân từ.” Tiêu Phong nói: “Mẫu thân cô nói thế là phải lắm. Chỉ tiếc rằng cô từ bé đã không được ở bên mẫu thân, lại phải đi theo sư phụ học được những chuyện tàn ác xấu xa.” A Tử cười nói: “Hay lắm! Thế thì từ nay muội đi theo tỉ phu để học làm người tốt.”
Tiêu Phong giật bắn người, xua tay lia lịa, vội đáp: “Không được, không được đâu! Cô đi theo một gã thô lỗ như ta thì chỉ có hại thêm. Này A Tử, cô đi đi! Có cô ở bên chỉ khiến ta thêm phiền não, muốn tĩnh trí một chút để suy nghĩ chuyện gì cũng không được.” A Tử đáp: “Nếu tỉ phu suy nghĩ chuyện gì, thì cứ nói cho muội hay, muội sẽ lo lắng giúp đỡ. Tỉ phu tốt bụng quá, dễ bị người ta lừa gạt.” Tiêu Phong vừa tức mình vừa tức cười, nói: “Trẻ nít như cô thì biết gì mà nói? Chẳng lẽ có chuyện ta suy tính không ra mà cô lại tính được ư?” A Tử đáp: “Cái đó đã hẳn. Có vô số việc tỉ phu không nghĩ ra được.”
Cô bốc một nắm tuyết dưới đất, vo thành một viên tròn rồi vung tay ném ra xa, hỏi: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì thế?” Tiêu Phong lắc đầu đáp: “Chẳng làm gì cả. Săn bắn chăn nuôi, sống cho qua ngày, chờ đến hết đời, có vậy thôi.” A Tử nói: “Thế ai nấu cho tỉ phu ăn? Ai may áo cho tỉ phu mặc?” Tiêu Phong ngẩn người ra. Trước nay chàng chưa hề nghĩ đến chuyện đó nên thuận miệng đáp: “Nấu cơm may áo thì có khó gì? Người Khất Đan chúng ta ăn thịt bò thịt cừu, mặc áo da bò da cừu, nghỉ đâu cũng là nhà, nằm đâu cũng là giường, chẳng phải lo lắng gì cả.” A Tử nói: “Thế lúc cô đơn tịch mịch thì tỉ phu nói chuyện với ai?” Tiêu Phong đáp: “Ta về đó gặp người cùng chủng tộc, sẽ kết giao bằng hữu.” A Tử vặn hỏi: “Nếu thế thì nói qua nói lại toàn là chuyện đi săn cưỡi ngựa, mổ bò giết cừu, một lát là nhàm chán, còn có chi là thú?” Tiêu Phong buông tiếng thở dài, biết nàng nói đúng, không trả lời được.
A Tử lại nói: “Tỉ phu không về Liêu quốc thì không được ư? Thôi đừng về nữa, ở lại đây uống rượu đánh nhau, chết cũng được sống càng tốt, oanh oanh liệt liệt, thống khoái hơn nhiều.”
Tiêu Phong nghe nàng nói “ở lại đây uống rượu đánh nhau, chết cũng được sống càng tốt” bỗng thấy nhiệt huyết dâng trào, hào khí nổi lên. Chàng ngẩng đầu hú lên một tiếng dài, nói: “Cô nói phải lắm!”
A Tử kéo tay chàng, nói: “Tỉ phu! Tỉ phu đừng đi nữa nhé, Tiểu muội cũng không về Tinh Tú Hải, đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau.” Tiêu Phong cười: “Cô là đại sư tỉ của phái Tinh Tú, cô bỏ đi thì họ mất cả người thừa kế, mất cả đại sư tỉ thì coi sao được?” A Tử nói: “Cái chức đại sư tỉ đó của muội là láo toét, đến khi bại lộ thì mất mạng lập tức, không phải chuyện chơi. Làm đại sư tỉ thì cũng thích, nhưng cứ phải nơm nớp đề phòng. Đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau còn thú vị hơn nhiều.” Tiêu Phong mỉm cười đáp: “Uống rượu thì cô có biết uống đâu, chưa đến một bát thì đã say mèm. Còn đánh nhau thì bản lĩnh cô cũng chưa tới đâu, gặp lúc nguy cấp ta lại phải lo lắng cho ngươi.”
A Tử mặt xịu xuống, lông mày chau lại. Cô nàng đi qua đi lại mấy bước, đột nhiên ngồi phịch xuống khóc òa lên. Tiêu Phong giật nảy mình, vội hỏi: “Cô… Cô làm sao vậy?” A Tử không trả lời trả vốn gì, lại càng khóc rống lên cực kỳ thảm thiết.
Tiêu Phong quen thấy cô bé này ngang tàng ương ngạnh, cả lúc bị phái Tinh Tú bắt trói cũng tỏ ra bướng binh bất khuất. Chàng không ngờ nàng có thể khóc lóc thảm thương đến vậy, đâm ra luống cuống, hỏi dồn: “A Tử! Này này, cô làm sao thế?” A Tử vẫn sụt sùi, vừa khóc vừa nói: “Tỉ phu cứ đi đi, để mặc muội ở đây khóc cho đến chết, có thế tỉ phu mới vừa lòng.” Tiêu Phong mỉm cười: “Cô đang khỏe khoắn thế này, khóc không chết được đâu.” A Tử vẫn nức nở: “Nếu như muội muốn khóc cho đến chết, thì sẽ chết cho tỉ phu coi.” Tiêu Phong cười nói: “Vậy thì cô cứ ngồi đây mà khóc, ta không ở đây với cô nữa.” Chàng nói xong quay đi ngay, chỉ được mấy bước đã nghe cô ta nín bặt. Tiêu Phong lấy làm lạ, ngoảnh mặt lại nhìn, thấy cô nàng đã nằm vùi trong tuyết, không nhúc nhích chút nào. Chàng cười thầm trong bụng: “Con bé này nũng nịu, mình mà quan tâm đến thì nó lại càng làm già.” Nghĩ thế, chàng vẫn tiếp tục đi thẳng.
Đi được mấy dặm Tiêu Phong mới quay đầu lại nhìn. Vùng này mặt đất bằng phẳng, lại không có cây cối gì ngăn trở, chàng thấy dường như A Tử vẫn còn nằm đó, không khỏi băn khoăn, nghĩ thầm: “Con bé này tính tình quái gở, chẳng lẽ nó cứ nằm luôn ở đó không dậy nữa”. Nghĩ như vậy, chàng lại đâm lo: “Ta đã lỡ tay đánh chết A Châu, dẫu cho nàng không căn dặn thì mình cũng phải biết nghĩ. Ta chẳng chiếu cố cho nó thì thôi, cũng không nên nói khích cho nó tức đến chết.” Tiêu Phong nhớ đến A Châu, bầu nhiệt huyết lại nổi lên, lập tức rảo bước quay lại.
Chàng chạy đến gần A Tử, thấy nàng vẫn nằm nguyên như cũ, bộ vị giống hệt lúc đầu không xê xích chút nào. Tiêu Phong đến gần chút nữa bỗng giật mình, thấy tuyết đã đóng trên người nàng đến mấy tấc. Không lẽ nàng chết thật rồi sao? Chàng vội đưa tay sờ vào mặt cô gái, thấy da thịt lạnh như băng, đưa đến mũi thì không thấy hơi thở. Tiêu Phong từng thấy nàng dùng Qui Tức Công của phái Tinh Tú để nín thở giả chết gạt song thân, nhưng cũng không khỏi sợ hãi, liền đưa tay điểm vào mạn sườn, truyền nội lực vào huyệt đạo của nàng.
A Tử hơi ú ớ rồi từ từ hé mắt ra. Bất thần nàng há miệng, phun một mũi kim xanh biếc vào giữa hai lông mày Tiêu Phong. Chàng không thể ngờ được cô ta đột nhiên hạ độc thủ. Khoảng cách chỉ chừng một thước, mũi độc châm lại bay rất nhanh, dù người võ công bằng thần thánh cũng không thể tránh né kịp. Chàng không kịp suy nghĩ, vung tay phải lên, đánh ra một chưởng cực kỳ hùng hậu.
Phát chưởng đó ngưng tụ công lực một đời của Tiêu Phong. Độc giả thử nghĩ xem, mũi độc châm kia chỉ cách một thước bắn tới, muốn dùng chưởng phong cách không đánh bạt ra thì kình lực phải khủng khiếp dường nào. Phát chưởng đẩy độc chấm bay lệch qua trái, đồng thời thân hình Tiêu Phong nghiêng qua phải, cây kim độc bay sượt qua bên má chỉ cách chừng một tấc. Mũi chàng còn thoáng ngửi thấy một mùi hôi tanh, quả thật nguy hiểm vô cùng.
Khi đó thân hình A Tử cũng bị chưởng lực đánh văng đi, nàng không kêu được tiếng nào, chỉ lặng lẽ bay xa hơn mười trượng mới rơi xuống tuyết đánh “bịch” một tiếng, còn trượt thêm một quãng dài nữa mới ngừng lại.
Tiêu Phong thoát hiểm chỉ trong đường tơ kẽ tóc, bất giác kêu thầm: “Thật là hú vía”. Thoạt đầu thì chàng nghĩ: “Con tiểu yêu nữ này tâm địa độc ác, dám hạ độc thủ ám toán ta.” Chàng biết ám khí phái Tinh Tú độc địa vô cùng, lợi hại cực điểm, nếu như trúng phải thì khó mà sống được nên không khỏi tim đập thình thình. Nhưng khi nghĩ đến A Tử bị đánh văng xa hơn chục trượng, lại giật bắn người: “Trời ơi! Làm sao cô ta chịu nổi phát chưởng đó, chắc bị mình đánh chết rồi”. Chàng nhảy vọt tới, thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, khóe miệng ứa máu tươi, mặt vàng khè, phen này thì ngưng thở thật rồi chứ không phải giả vờ nữa.
Tiêu Phong thẫn thờ nghĩ bụng: “Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại đánh chết luôn cả muội tử của nàng. Nàng… nàng lúc lâm tử đã dặn ta chiếu cố cho muội muội, ngờ đâu… ngờ đâu… ta lại đánh chết.” Ý nghĩ đó chỉ thoáng qua, nhưng chàng đang hoảng hốt nên cảm thấy rất nặng nề. Tiêu Phong lắc đầu, vội đè bàn tay vào sau lưng A Tử, hết sức dồn chân khí sang. Một lúc sau, A Tử hơi nhúc nhích, Tiêu Phong cả mừng gọi rối rít: “A Tử! A Tử! Muội đừng chết! Bằng giá nào ta cũng nhất định cứu muội.”
Thế nhưng A Tử chỉ khẽ cựa một cái rồi lại nằm ngay đơ. Tiêu Phong lại càng bồn chồn, liền ngồi xếp bằng xuống tuyết, khẽ đỡ A Tử dậy đặt ngồi trước mặt, áp cả song chưởng vào hậu tâm, từ từ truyền chân lực vào người cô gái. Chàng biết A Tử bị thương rất nặng, hiện giờ chỉ giữ nàng thoi thóp, tạm thời không chết là may, rồi tìm cách cứu chữa sau, thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức chậm rãi. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, trên đầu chàng bốc lên những làn bạch khí, chứng tỏ đã vận dụng toàn lực rồi.
Tiêu Phong liên tục vận công tới nửa giờ, A Tử mới hơi động đậy, phều phào gọi: “Tỉ phu!” Tiêu Phong cả mừng, tiếp tục truyền chân khí nhưng không dám nói chuyện với nàng. Một lúc nữa đã thấy thân thể cô nàng dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở thoang thoảng. Tiêu Phong vẫn sợ nàng bất ngờ tắt thở nên không dám ngừng vận công, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn, nhưng mặt vẫn trắng bệch không một chút huyết sắc.
Tiêu Phong liền bế nàng dậy, rảo bước chạy đi. Chàng càng chạy càng nhanh nhưng vẫn cố giữ cho êm ái, tay trái vẫn đặt sau lưng A Tử, không ngừng truyền khí vào. Hơn một giờ mới đến một tiểu thị trấn, nơi đó lại không có quán xá gì, chàng phải tiếp tục chạy về hướng bắc hơn hai chục dặm nữa mới gặp một khách điếm tồi tàn không có cả tiểu nhị, chính chủ nhân trực tiếp phục vụ khách hàng. Tiêu Phong gọi một bát cháo nóng, dùng thìa đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng mới nuốt được ba thìa lại nôn hết ra, trong nước cháo có lẫn máu bầm.
Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương nặng thế này khó lòng chữa được. Chẳng biết Diêm vương địch Tiết Thần Y đang ở nơi nào, mà dẫu có ở ngay đây cũng vì tất đã làm được gì. Hôm trước A Châu bị phương trượng chùa Thiếu Lâm đả thương gián tiếp, lại được bôi linh dược của Đàm Công ở Thái Hàng Sơn, tình trạng nhẹ hơn nhiều nên Tiết Thần Y mới chữa khỏi. Tuy chàng biết rõ không thể cứu sống được A Tử, nhưng cũng không chịu xuôi tay, chỉ nghĩ: “Ta phải hết lòng hết sức, dù cho chân khí bản thân kiệt quệ cũng phải còn nước còn tát. Không phải ta quyết cứu con bé này, mà là ta quyết không phụ lời trăn trối của A Châu.”
Kể ra thì A Tử ám toán chàng trước, khiến chàng vào tình trạng không phóng chưởng hất mũi độc châm đi thì mất mạng ngay. Người võ công cao cường như chàng, khi gặp nguy biến không kịp suy nghĩ, thì xuất thủ theo phản xạ là lẽ đương nhiên. Giả tỉ A Châu có mặt nơi đây thì chắc nàng cũng không trách cứ gì, vì chính A Tử tự rước vạ vào mình chứ không phải do Tiêu Phong có chủ ý. Nhưng A Châu không biết, nên chàng mới cảm thấy có lỗi với nàng.
Tiêu Phong thức trắng đêm, không ngừng truyền chân khí để giữ mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu bị thương, lúc nào nàng tuyệt khí Tiêu Phong mới phải ra tay, còn lần này bàn tay chàng không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, vì chỉ nhấc tay ra một cái là nàng tắt thở ngay lập tức.
Đêm hôm sau cũng y vậy. Tiêu Phong công lực thâm hậu thật, nhưng phải vận công hai ngày hai đêm liên tiếp cũng mệt mỏi vô cùng. Khách điếm nhỏ này chỉ có hai vò rượu đã bị chàng uống sạch không còn một giọt, muốn nhờ mua thêm những túi đã cạn tiền. Chàng không ăn cơm một ngày cũng chẳng thấy đói, nhưng một buổi không có rượu thì thật là khó chịu. Lúc này chàng đang bải hoải lại càng cần rượu cho tỉnh táo. Đang vô vọng thì một ý nghĩ chợt lóe lên: “Trên người A Tử chắc là có tiền”.
Chàng tháo cái bọc của A Tử ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ và mấy nén bạc lẻ. Chàng lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy ngoài túi có một sợi dây lụa màu tím, một đầu buộc vào ngang lưng. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Cô bé này cẩn thận quá, không biết buộc cái gì vào người chặt thế này, chắc là sợ rơi mất.” Đầu dây buộc vào lưng có thắt nút thật chặt, chàng hí hoáy hồi lâu mới gỡ ra được. Dây lụa vừa tuột ra, dường như đầu kia còn có vật gì giắt vào trong quần.
Tiêu Phong kéo sợi dây, vật đó rơi xuống sàn nghe cạch một tiếng, thì ra là một cái đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi xuống nhặt để lên bàn. Cái đỉnh đó làm bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, thớ gỗ thấp thoáng những vân màu đỏ, được điêu khắc hết sức tinh vi. Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, cảm thấy ghê tởm nên chỉ liếc qua rồi nghĩ thầm: “Con bé này giảo hoạt thật, một hai cứ bảo là giao Thần Mộc Vương Đỉnh cho ta rồi, không ngờ vẫn giắt trong quần. Chắc là bạn đồng môn của nó tưởng là ta đang giữ thật, lại không tiện tra xét nữ nhân nên không khám phá ra. Hỡi ơi! bây giờ tính mạng nàng còn chẳng giữ được, cái thứ thân ngoại chi vật này còn để làm gì?”.
Chàng gọi chủ quán vào, đưa bạc cho y đi mua rượu thịt, còn mình tiếp tục vận công duy trì tính mạng cho A Tử.
Đến ngày thứ tư thì chàng không chịu nổi nữa, đành phải ngả lưng xuống, hai tay nắm một bàn tay A Tử, đặt nàng dựa vào người mình, truyền nội lực theo lòng bàn tay. Tiêu Phong nằm được một lát, hai mắt nhắm ghiền, thiếp đi. Nhưng chàng vẫn khắc khoải về tính mạng A Tử, nên mới chợp mắt một chút đã giật mình tỉnh giấc. May mà trong lúc chàng ngủ, chân khí vẫn lưu chuyển, miễn sao lòng bàn tay còn áp vào A Tử là hơi thở của nàng chưa tuyệt.
Tình trạng này lại kéo dài hai ngày nữa. A Tử vẫn chưa chết nhưng không khả quan hơn chút nào, nếu chàng nằm trong tiểu điểm này đến hết đời thì e rằng vẫn thế. Thỉnh thoảng A Tử cũng mở mắt ra nhưng thần thái lờ đờ, rõ ràng không hay biết gì cả, mà cũng không nói được tiếng nào. Tiêu Phong nghĩ hoài chẳng ra cách gì, đành quyết định: “Ta đành bế nàng đi, may ra gặp được cơ hội gì. Nếu cứ ở trong khách điếm này thì thật sự vô phương.”
Chàng bàn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng nhét vào bọc, thấy cái đỉnh trên bàn liền nghĩ thầm: “Cái vật hại người này để làm gì, đập nát đi cho rồi.” Chàng giơ chưởng định đánh xuống, bỗng nghĩ lại: “A Tử khó khăn lắm mới lấy cắp được vật này. Xem ra thương thế nàng không chữa được nữa, không chừng đến lúc lâm chung, hồi quang phản chiếu mà tỉnh táo lại giây lát, hỏi đến cái mộc đỉnh. Ta phải giữ lại để đưa cho nàng xem, yên tâm mà chết.”
Tiêu Phong cầm cái đỉnh gỗ lên, cảm thấy bên trong có cái gì cựa quậy, kinh ngạc nhìn kỹ mới biết chung quanh đỉnh, có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn ở cổ đỉnh có đường nối, tựa hồ có thể tháo ra. Chàng dùng ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh, ngón cái và ngón trỏ xoay phần nắp qua bên trái, quả nhiên chuyển động được. Chàng xoay mấy vòng, mở nắp nhìn vào không khỏi vừa ngạc nhiên, vừa kinh tởm. Thì ra bên trong có một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau kịch liệt.
Mấy hôm trước, khi chàng đặt chiếc đỉnh lên bàn, rõ ràng trong đỉnh không có gì, thế thì hai con độc trùng này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong đoán chừng phái Tinh Tú dùng những trùng độc này luyện một môn tà pháp quái đản, nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất dẫm chết, rồi đậy nắp lại, cất vào túi vải. Tiêu Phong thanh toán tiền khách điếm rồi ôm A Tử lên, đội tuyết mà đi về hướng bắc.
Nhân vật võ lâm Trung Nguyên đều kết thâm thù với Tiêu Phong, mà đường đi càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng đầu. Chàng không muốn cải trang, lại không muốn giết người kết thêm thù oán, hơn nữa trên tay ôm A Tử, nếu phải động thủ thực là bất tiện, nên tránh đường lớn, chỉ tìm những đường mòn hẻo lánh mà đi. Suốt mấy trăm dặm vẫn bình an vô sự.
Một hôm đến một thị trấn lớn, chàng thấy một hiệu thuốc có treo bảng: “Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí”, nghĩ bụng: “Địa phương nhỏ chắc không có danh y, nhưng ta cứ vào xem thử cũng chẳng hề gì.” Ông liền ôm A Tử vào xin chữa trị.
Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử, đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại bắt mạch A Tử, lại nhìn Tiêu Phong bằng cặp mắt khác lạ, đột nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong tức mình nói: “Tiên sinh! Ta nhờ tiên sinh chữa bệnh cho muội tử chứ có nhờ chữa cho ta đâu?” Vương Thông Trị lắc đầu nói: “Ta xem lão huynh có bệnh, đầu óc điên khùng, tâm thần rối loạn cần phải chữa trị ngay.” Tiêu Phong đáp: “Ta làm gì mà đầu óc điên khùng?” Vương Thông Trị đáp: “Cô nương này mạch đã ngừng đập, chết lâu rồi, có điều người chưa cứng lại mà thôi. Lão huynh còn ôm cô ta đi chữa trị cái gì nữa? Thế chẳng phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể sống lại, cũng chẳng nên quá thương tâm, nên đem thi thể lệnh muội mà mai táng cho người chết được yên nghỉ.”
Tiêu Phong dở khóc dở mếu nhưng nghĩ lại thì y nói cũng có lý. Đúng là A Tử chết rồi, chỉ nhờ chân khí của mình mà thoi thóp, thầy lang tầm thường làm sao biết được? Nghĩ vậy chàng bèn đứng dậy trở gót đi ra.
Bỗng thấy một người ăn mặc ra lối quản gia chạy vào tiệm thuốc hốt hoảng la lên: “Mau lên! Lấy lão sơn nhân sâm loại tốt nhất. Lão thái gia nhà ta trúng phong sắp tắt thở, cần nhân sâm để giữ cho khỏi chết.” Gã chưởng quý trong tiệm thuốc vội đáp: “Có đây! Có lão sơn nhân sâm thượng hảo hạng đây!”
Tiêu Phong nghe nói “cần nhân sâm để giữ cho khỏi chết” liền nhớ ra từng nghe người sắp tắt thở mà cho uống mấy ngụm sâm thang thì có thể cầm hơi, sống thêm một lúc để trối vài lời. Gã chưởng quĩ lấy ra một cái hộp gỗ quý, trịnh trọng mở nắp ra, bên trong có ba củ sâm to bằng ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, da càng nhăn càng quí, nếu thành hình người đủ cả đầu mình chân tay là loại cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông chẳng có gì đặc biệt. Gã quản gia chọn một củ rồi lật đật đi ngay.
Tiêu Phong lấy một đĩnh vàng mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc, ông liền nhờ nấu sâm thang đút cho A Tử mấy thìa. Lần này nàng không nôn ra. Lại đút được mấy thìa nữa, Tiêu Phong thấy mạch nàng đã hơi chuyển động, hơi thở cũng khá hơn một chút, trong bụng không khỏi mừng thầm.
Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên vẫn lắc đầu quầy quậy nói: “Lão huynh ơi! Nhân sâm không phải dễ tìm, dùng phí phạm thì uổng lắm. Đó cũng chẳng phải linh chi tiên thảo gì, giả tỉ nhân sâm cứu người chết sống lại được, thì những người giàu chắc sống đời đời.”
Mấy bữa nay Tiêu Phong không dám rời A Tử một bước, trong lòng bực bội, nghe gã Vương Thông Trị cứ lải nhải bàn ra, bất giác điên tiết lên, vung tay toan đánh cho y một chưởng. Thế nhưng chàng vừa đưa tay lên chợt nghĩ: “Đả thương kẻ không biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?”, bèn rụt tay về, bế A Tử ra khỏi hiệu thuốc, nghe văng vẳng tiếng Vương Thông Trị nói theo: “Thằng cha này hồ đồ quá, ôm cái xác chết chạy tới chạy lui. Xem chừng cái mạng của gã cũng chẳng được lâu dài.” Y có biết đâu mình đã đến Quỉ Môn Quan rồi quay trở lại? Giả tỉ Tiêu Phong không nén giận được, phóng chưởng đánh ra thì dẫu có mười Vương Thông Trị cũng thành Vương …Bất Trị.
Tiêu Phong ra khỏi hiệu thuốc rồi nghĩ thầm: “Nghe nói lão sơn nhân sâm chỉ có ở vùng giá rét trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó cầu may. Cứu sống A Tử thì khó lắm, nhưng giữ cho nàng ở lại nhân gian được ít lâu, A Châu ở trên trời có linh thiêng cũng vui vẻ được chút ít.” Chàng nghĩ thế, bèn tìm đường đi về phía đông bắc, dọc đường mỗi khi gặp tiệm thuốc liền vào mua nhân sâm. Đến khi hết cả tiền bạc, chàng chẳng nể nang gì nữa, cứ thò tay ra lấy, mấy tên làm công làm sao ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng có thể mở mắt ra khẽ gọi: “Tỉ phu!”, đêm đến cũng tự mình thoi thóp ngủ được vài giờ không cần tiếp chân khí.
Càng đi trời càng lạnh, sau cùng hai người cũng đến được núi Trường Bạch. Tuy nói là nơi này có nhiều nhân sâm, nhưng nếu không phải là người lâu năm quen thuộc địa thế, chuyên môn trong nghề, thì tìm một năm sáu tháng chưa chắc được một củ. Tiêu Phong tiếp tục theo hướng đông bắc mà tiến, quang cảnh càng lúc càng hoang vắng. Về sau chung quanh chỉ thấy bốn bề cỏ hoang mờ mịt, núi cao đồi tuyết, đi mấy ngày đường không gặp một người. Trong lòng chàng không khỏi kêu khổ: “Hỏng bét! Thật là hỏng bét! Chỗ nào cũng thấy toàn là tuyết, làm sao mà tìm được nhân sâm? Thôi đành trở về, tìm chỗ nào có phố chợ, còn tiền thì mua, hết tiền thì cướp.” Chàng nghĩ thế lại ôm A Tử quay về.
Khi đó vào đúng tiết đại hàn, khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng dày mấy thước thật là khó đi. Nếu chàng không phải là người võ công trác tuyệt thì dù không chết rét cũng bị sa lầy vào tuyết không thoát ra được.
Đến ngày thứ ba, trời ảm đạm như sắp có bão tuyết, chàng đưa mắt nhìn tứ phía thấy chỗ nào cũng trắng xóa, mặt đất không một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong hoang mang, thấy mình cô độc khác nào con thuyền đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến, chỉ nghe tiếng gió rít từng hồi bên tai.
Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy lần nhảy lên cây cao nhìn ra xung quanh chỉ thấy cây cối rậm rạp, tuyết phủ trắng xóa, chẳng còn phân biệt đâu là đông tây nam bắc nữa. Chàng sợ A Tử bị lạnh, bèn cởi trường bào ra quấn nàng lại. Tuy chàng là người chẳng biết sợ trời sợ đất, nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn một mình sống trên thế giới, không khỏi chột dạ. Giả tỉ chàng chỉ có một mình thì không sao, giữa biển tuyết bao la cũng không tuyệt vọng, nhưng khổ nỗi trong tay lại ôm cô bé A Tử đang mê man, sống dở chết dở.
Đã ba hôm nay Tiêu Phong không được ăn uống gì, muốn bắt một con gà rừng hay thỏ hoang mà cũng không thấy. Chàng nghĩ thầm: “Mình chạy lung tung cũng chẳng tới đâu, chi bằng nghỉ một đêm trong rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao mà nhận định phương hướng.” Tiêu Phong bèn tìm một chỗ khuất gió, gom ít củi khô đốt một đống lửa. Lát sau, thân thể đã ấm áp nhưng bụng đói như cào, chàng nhìn dưới gốc cây có nhiều nấm dại màu xám hình như không độc, liền nhổ lên nướng ăn.
Tiêu Phong ăn hơn hai chục tai nấm, tinh thần đã có vẻ phấn chấn, bèn đặt A Tử nằm tựa vào ngực mình ngồi sưởi, đang định chợp mắt ngủ bỗng nghe một tiếng gầm thật lớn, chính là tiếng hổ. Tiêu Phong cả mừng lẩm bẩm: “Dã thú đến đây, mình có thịt ăn rồi”. Chàng lắng tai nghe, rồi thấy hai con hổ đang chạy trên mặt tuyết, kế đó có tiếng lao xao, chừng như có người đang đuổi theo.
Nghe thấy tiếng người quát tháo, lòng chàng vô cùng mừng rỡ. Lại nghe tiếng hai con dã thú hình như đang chạy về hướng. tây, chàng liền đặt A Tử xuống cạnh đống lửa, thi triển khinh công chạy ra đón đường. Lúc này tuyết xuống càng nhiều, gió bấc rít lên từng cơn, trời đất mù mịt.
Tiêu Phong mới chạy chừng mười trượng đã thấy hai con hổ vằn thật lớn đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán khoác áo da thú, tay cầm đinh ba đang rượt theo. Được một quãng, một con gầm lên quay ngoắt lại, nhảy chồm vào người thợ săn. Y liền giơ đinh ba lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh hổ mà đâm. Con cọp hết sức nhanh nhẹn, nghiêng đầu qua tránh khỏi mũi đinh ba, cùng lúc đó con hổ kia cũng xông tới.
Người thợ săn lập tức trở cán đinh ba lại, quật ngang bụng con vật nghe bịch một tiếng. Nó bị đau, rống lên một tiếng, cụp đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng chạy trốn theo. Tiêu Phong thấy người thợ săn chân tay mau lẹ, sức mạnh vô cùng, nhưng dường như chẳng biết võ công. Y quen tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y đã dựng đinh ba đón trước, chính là cách tốt nhất. Nhưng gã muốn đâm chết hai con cọp thì không phải dễ.
Tiêu Phong lớn tiếng kêu lên: “Lão huynh, có ta đến giúp đây!” Chàng lạng người xông ra đón đầu hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu Phong đột ngột xông ra, kinh hãi la lối om sòm, nghe ra không phải tiếng Hán. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì nên không để ý nữa, giờ tay phải nhắm ngay đầu một con cọp phóng chưởng nghe đến “bình” một tiếng, con vật tung lên không, lăn đi mấy vòng, rống lên rồi lại phóng thẳng vào chàng.
Phát chưởng đó Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành công lực, nếu là người thì võ công cao cường đến đâu cũng vỡ đầu nát óc, nhưng mãnh hổ sọ cứng xương dày, chưởng lực vỡ đá tan bia cũng chỉ khiến nó ngã lăn đi, lại xông vào được, Tiêu Phong khen thầm: “Ngươi quả là ghê gớm!”, rồi nghiêng người né tránh, tay phải chém xéo xuống trúng ngay sườn con vật nghe “chát” một tiếng. Phát trảm này chàng lại tăng thêm công lực, con mãnh hổ loạng choạng rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp trúng đuôi con cọp, tay trái cũng nắm vào, quát lên một tiếng, thi triển thần lực kéo ghì lại. Con hổ đang phóng về phía trước bị Tiêu Phong giật ngược, hai luồng lực đạo hợp lại khiến nó bị hất tung lên không.
Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong giật con cọp tung lên thì kinh hãi vô cùng. Mãnh hổ đang lơ lửng trên không, lại nhe nanh múa vuốt vồ từ trên xuống. Tiêu Phong lại quát lên một tiếng, song chưởng cùng tung ra, trúng ngay bụng dưới con vật. Đó là chỗ thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng lại chính là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp tan nát hết, nó lăn lộn một hồi trên mặt tuyết rồi chết thẳng cẳng.
Người thợ săn thấy Tiêu Phong tay không đánh chết hổ trong lòng kính phục vô cùng, nghĩ thầm “Người ta tay không, mình dùng đinh ba giết một con cũng không xong, hóa ra để bị coi thường ư?” Y bèn đem hết sức bình sinh, đâm tả đâm hữu, nhát nào cũng trúng vào mình cọp. Con cọp bị đau nổi hung lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.
Gã thợ săn nghiêng qua né được, vung đinh ba đâm ngang, trúng vào cổ con thú nghe “phụp” một tiếng, hai tay lại nhấn mạnh vào, con vật rống lên thảm thiết té lăn ra đất. Gã vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp xuống mặt tuyết. Nghe tiếng roạt roạt, cái áo da thú trên người y rách toạc một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn cuộn trông thật hùng vĩ. Tiêu Phong nhìn thấy bất giác khen thầm: “Hảo hán tử!”. Con hổ chổng bốn chân lên trời, giãy giụa một lát rồi nằm yên không nhúc nhích nữa.
Người thợ săn nhổ cây đinh ba ra, đắc chí cười ha hả, quay người lại nhìn Tiêu Phong giơ hai ngón tay cái lên nói xì xồ mấy câu. Tiêu Phong không hiểu y nói gì nhưng trông vẻ mặt cũng biết đại khái gã tán dương mình là bậc anh hùng, bèn bắt chước giơ hai ngón tay cái lên nói: “Hảo hán! Hảo hán!”
Gã ra vẻ thích chí, chỉ vào đầu mũi mình nói: “Hoàn Nhan A Cốt Đả!” Tiêu Phong đoán chừng đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói: “Tiêu Phong!” Người kia hỏi lại: “Tiêu Phong? Khất Đan?” Tiêu Phong gật đầu hỏi lại:“Khất Đan! Huynh?” Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp: “Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!”
Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao Ly có bộ tộc Nữ Chân dũng mãnh thiện chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả thuộc giống người này. Tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng mà gặp được đồng loại cũng vui mừng khôn xiết, bèn hoa chân múa tay ra hiệu là còn một người nữa, rồi vác con hổ chết lên, đi lại phía A Tử đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y đi theo.
Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại, cắt cổ cho máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt nhưng vẫn nuốt, hơn mười ngụm mới thôi. Tiêu Phong cả mừng, xé lấy hai đùi cọp nướng vào lửa. A Cốt Đả thấy chàng dùng tay không xé con hổ như người ta xé thịt gà, kình lực như thế y chưa từng thấy cũng chưa từng nghe. Gã ngẩn ngơ nhìn hai cánh tay Tiêu Phong một hồi rồi khẽ sờ thử cổ tay chàng, nét mặt đầy vẻ kính trọng.
Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn một bữa no, A Cốt Đả ra hiệu hỏi chàng đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng dùng hai tay ra hiệu đào đất tìm nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc đường. A Cốt Đả cười ha hả, múa tay lung tung ý nói là nhân sâm rất dễ tìm, đi theo y bao nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả lại giơ ngón tay lên ra hiệu khâm phục thần lực của Tiêu Phong.
A Cốt Đả rất quen thuộc địa thế vùng này, trời bão tuyết mịt mùng mà không nhầm lẫn chút nào. Hai người đi đến tối thì ngủ lại trong rừng, sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa ngày thứ ba trên mặt tuyết đã thấy rất nhiều dấu chân, A Cốt Đả ra hiệu là đã đến gần bộ tộc rồi. Quả nhiên đi qua hai thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm chấm mấy trăm mái lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, lập tức có người chạy ra đón.
Tiêu Phong theo A Cốt Đả lại gần, thấy trước căn lều nào cũng có một đống lửa, vô số phụ nữ ngồi chung quanh, người thì khâu da thú, người thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ở chính giữa, vén màn đi vào, Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn đang uống rượu, vừa thấy A Cốt Đả đã lớn tiếng reo mừng. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói liến thoắng một hồi, nhìn bộ dạng tựa hồ đang kể lại chuyện ông tay không đánh chết hổ. Cả đám liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên, không ngớt trầm trồ khen ngợi.
Đang lúc xôn xao, một người Hán ăn mặc theo kiểu thương gia bước vào, hỏi Tiêu Phong: “Huynh đài có biết tiếng Hán không?” Tiêu Phong mừng rỡ đáp: “Biết chứ! Biết chứ!”
Chàng hỏi ra mới biết căn lều này là của tộc trưởng Nữ Chân, người râu đen ngồi giữa là tộc trưởng, tên gọi Hòa Lý Bố. Ông ta có mười một người con, toàn là anh hùng hảo hán, A Cốt Đả là con trai thứ. Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, mùa đông năm nào cũng tới đây mua nhân sâm, da thú, sang xuân mới quay về. Hứa Trác Thành hiểu tiếng Nữ Chân, bèn làm phiên dịch cho Tiêu Phong. Người Nữ Chân hay đánh nhau với người Khất Đan, nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả là người thông minh nhanh nhẹn, rất được phụ thân yêu mến, mọi người trong bộ lạc đều kính trọng. Y luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên mọi người đều coi chàng như khách quí, không còn dị ứng với cái gốc gác Khất Đan của chàng nữa.
A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở. Tiêu Phong từ chối mấy lần không được, thấy y thành thực bèn bế A Tử vào trong lều nghỉ ngơi.
Tối hôm đó người Nữ Chân mở đại, tiệc để đón tiếp Tiêu Phong, thịt hai con mãnh hổ được nấu thành món ăn trân quí. Đã nửa tháng nay Tiêu Phong không đụng tới một giọt rượu, bây giờ người Nữ Chân đem ra hết túi da này đến túi da khác, chàng uống một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị không ngon nhưng cực mạnh, người thường chỉ cần uống nửa túi đã say, nhưng Tiêu Phong uống luôn một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Xưa nay dân Nữ Chân vẫn xem ai có tửu lượng giỏi là bậc hảo hán. Chuyện chàng tay không đánh cọp thì họ mới nghe kể chưa thấy tận mắt, nhưng xem chàng uống rượu thì mười hảo hán Nữ Chân cộng lại cũng chưa bằng, tất cả đều phục sát đất.
Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân trọng vọng chàng nên cũng hết sức cung kính. Tiêu Phong lúc này nhàn rỗi không biết làm gì, ban ngày đi săn với A Cốt Đả, tối về lại nhờ Hứa Trác Thành dạy tiếng Nữ Chân. Chàng học được bốn năm phần, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không biết nói tiếng Khất Đan thì có điều bất tiện, nên lại nhờ y dạy. Hứa Trác Thành đi buôn nhiều nơi, bất luận tiếng Nữ Chân, tiếng Tây Hạ, tiếng Khất Đan gã cũng nói lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ thì không thông minh lắm, nhưng vì tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan giản dị hơn tiếng Hán nhiều nên chẳng bao lâu đã có được chút vốn liếng, đủ nói cho người ta hiểu, không cần phải phiên dịch nữa.
Ngày tháng thoi đưa, đông đi xuân tới. A Tử ngày ngày ăn nhân sâm, thương thế giảm dần. Người Nữ Chân ở nơi hoang sơn dã lĩnh, đào được lão sâm hạng nhất, quí hơn cả hoàng kim. Lần nào Tiêu Phong đi săn cũng giết được nhiều dã thú, đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng. Giả tỉ là nhà phú hộ mà có một tiểu thư dùng nhân sâm nhiều như thế, e rằng đến tán gia bại sản. Bây giờ mỗi ngày Tiêu Phong chỉ phải vận khí dồn lực vào cho A Tử hai lần là đủ, không như trước đây phải đặt tay lên lưng nàng suốt ngày đêm. A Tử đôi lúc cũng nói được vài câu, nhưng chân tay tê bại không cử động được, mọi chuyện ăn ngủ, đi đứng, nằm ngồi, đều do Tiêu Phong lo liệu cả. Chàng nhớ tới thâm tình của A Châu, dù mệt nhọc cũng vui lòng, nghĩ rằng chăm sóc A Tử một lần là báo đáp A Châu một chút nên cảm thấy an ủi trong lòng.
Một hôm A Cốt Đả dẫn mươi người trong bộ tộc lên miền tây bắc săn gấu, rủ Tiêu Phong đi cùng. Gã nói loài gấu da dày lông rậm, bàn tay gấu là món sơn hào, mật gấu lại trị thương rất linh nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử đã khá nhiều, cũng vui vẻ nhận lời đi theo. Đoàn người ra đi từ lúc trời chưa sáng, tiến thẳng về hướng bắc.
Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết tan thành bùn trơn trượt, trong rừng đầy cành lá mục cực kỳ khó đi, nhưng người Nữ Chân đi đứng vẫn nhẹ nhàng nhanh nhẹn như thường. Đến khoảng giờ ngọ, một lão thợ săn già kêu lên: “Gấu kìa! Gấu kìa!” Mọi người nhìn theo hướng tay lão chỉ, thấy ở xa xa trên đất lầy có những dấu chân gấu rất lớn. Mọi người đều phấn khởi, lập tức theo vết chân đuổi theo.
Vết chân gấu dẫm xuống bùn sâu đến mấy tấc, dù là trẻ con cũng lần theo được. Cả đoàn người vừa đuổi vừa reo, theo vết chân đi về hướng tây. Sau khi ra khỏi cánh rừng bùn lầy, đến thảo nguyên mọi người đuổi càng nhanh.
Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, xa xa phía trước bụi bay mù mịt, một đại đội nhân mã đang phóng tới. Một con gấu đen thật lớn đang chạy ngược về hướng Tiêu Phong, đằng sau là bảy tám kỵ sĩ hò hét đuổi theo, kẻ cầm trường mâu, kẻ cầm cung tên coi bộ rất hung hăng.
A Cốt Đả kêu lớn: “Bọn Khất Đan! Chúng đông người, ta chạy đi thôi.” Tiêu Phong nghe nói là người đồng tộc với mình, trong lòng cảm thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả đã quay đầu bỏ chạy nhưng chàng chưa chạy theo mà đứng lại xem cho rõ.
Bỗng bọn Khất Đan hô lớn: “Mọi Nữ Chân! Bắn tên! Bắn tên!” Nghe tiếng rít lên liên tiếp, những mũi tên đuôi có tra lông bắn tới như mưa. Tiêu Phong trong bụng bực tức, nghĩ thầm: “Sao chẳng có lý do gì, vừa thấy mặt đã bắn ngay?”. Mấy mũi tên bắn đến đều bị chàng đưa tay gạt ra hết. Bỗng nghe một tiếng rú thê thảm, một lão già Nữ Chân trúng tên vào lưng, gục xuống chết ngay.
A Cốt Đả dẫn cả bọn chạy qua một ngọn đồi, nằm mọp xuống, cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong đứng giữa, không biết giúp bên nào cho phải.
Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn tiếp tục bắn như mưa bấc, Tiêu Phong thuận tay bắt lấy một mũi vung lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra. Chàng lớn tiếng quát hỏi: “Các ngươi làm gì vậy? Sao chưa hỏi han gì đã ra tay giết người?” A Cốt Đả từ sau mô đất lớn tiếng gọi: “Tiêu Phong! Tiêu Phong! Chạy lại đây mau! Bọn chúng không biết huynh là người Khất Đan đâu!”
Lúc đó hai tên Khất Đan cầm trường mâu giục ngựa xông vào Tiêu Phong, chia ra đâm hai bên tả hữu. Tiêu Phong không muốn giết người đồng tộc, hai tay chộp hai cán giáo khẽ giật một cái, hai gã Nhất Đan ngã lăn xuống ngựa, Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai gã bay trở về, chúng kêu rú lên rồi rơi phịch xuống, một hồi lâu không bò dậy được. A Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền lớn tiếng hoan hô.
Trong bọn Khất Đan có một người trung niên mặc hồng bào ra vẻ oai vệ, y lớn tiếng ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đạn liền chia thành hai cánh, bao vây bọn A Cốt Đả lại để chặn đường rút lui, vẫn còn mấy chục tên đứng bảo vệ chung quanh người áo đỏ.
A Cốt Đả xem chừng bất ổn, lớn tiếng kêu gọi tộc nhân và Tiêu Phong bỏ chạy. Bọn Khất Đan bắn tên ra như mưa, lại giết thêm hai người Nữ Chân nữa. Người Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không trật mũi nào, chốc lát đã bắn hạ khoảng chục kỵ sĩ Khất Đan, có điều ít người hơn nhiều nên phải vừa bắn vừa chạy trốn.
Tiêu Phong thấy bọn Khất Đan ngang ngược không biết phải trái, tuy là người cùng bộ tộc cũng không thể nhường nhịn được nữa. Chàng cướp lấy một cây cung, bắn vùn vụt bốn mũi tên, phát nào cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn rơi xuống ngựa nhưng không ai chết. Người mặc đồng bào lại quát tháo, lập tức có mấy tên phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.
Tiêu Phong thấy phe ta chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên đang vừa bắn trả vừa chạy trốn, còn bao nhiêu đã trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không có chỗ nấp, xem chừng nếu kéo dài thì ngay A Cốt Đả cũng sẽ bị giết. Chàng nghĩ người Nữ Chân đối xử với mình như thượng khách, nếu không ra tay bảo vệ bằng hữu thì sao phải anh hùng hảo hán? Nhưng ra tay đại sát người Khất Đan cùng chủng tộc thì cũng không đành lòng. Chàng thấy chỉ còn cách bắt lấy tên thủ lĩnh áo đỏ kia, buộc y ra lệnh lui quân thì mới đình chiến được.
Nghĩ vậy, Tiêu Phong lớn tiếng quát: “Này! Này! Bọn ngươi mà không lui binh thì ta không nể nang nữa đâu.” Chàng chưa dứt lời, ba cây trường mâu đã phóng tới vù vù. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bọn bay không biết phải quấy chút nào.” Chàng hạ thấp người, xông thẳng về phía người mặc hồng bào.
A Cốt Đả thấy bằng hữu mạo hiểm liền kêu lên: “Tiêu Phong! Không được đâu, mau quay lại!” Tiêu Phong không đáp, cứ phóng tới thật nhanh. Bọn Khất Đan nhốn nháo cả lên, trường mâu vũ tiễn đều nhắm chàng bay đến tới tấp. Tiêu Phong chụp lấy một thanh trường mâu bẻ gãy đôi, cầm thanh mâu gãy vung lên như trường kiếm để gạt hết tên, vẫn chạy như bay, xông đến trước người áo đỏ.
Người đó râu ria tua tủa trông rất oai phong, thấy Tiêu Phong xông đến vẫn không hoang mang, giựt lấy ba cây lao của bọn hộ vệ chung quanh, phóng vùn vụt vào Tiêu Phong. Tiêu Phong vung tay bắt được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt nốt. Chàng lại vung tay một cái phóng hai mũi lao bay ra, trúng luôn hai gã hộ vệ lăn xuống ngựa. Người mặc hồng bào quát lớn: “Giỏi lắm!”, ném nốt mũi lao thứ ba. Tiêu Phong giơ tay trái lên dùng thủ pháp tá lực đả lực, đẩy mũi lao bay ngược lại cắm thẳng vào ức con ngựa y đang cưỡi.
Người áo đỏ la lên: “Úi chà!”, vội vàng nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, vươn tay trái ra nắm lấy vai bên phải của y. Bỗng nghe phía sau có tiếng gió thổi tới, lập tức chàng nhún chân nhảy vọt ra trước hơn một trượng, nghe phập phập, hai thanh trường mâu cắm sâu xuống đất. Tiêu Phong ôm người áo đỏ vọt sang bên tả, tới sau lưng một kỵ sĩ Khất Đan, phóng chưởng hất gã này xuống rồi nhảy phốc lên lưng ngựa.
Người áo đỏ vung quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, chàng kẹp mạnh tay trái lại khiến y không nhúc nhích được nữa. Tiêu Phong quát lên: “Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, không thì ta kẹp chết ngươi tức khắc.” Người mặc hồng bào bất đắc dĩ phải la lên: “Tất cả lui ngay, không được đánh nữa!”
Bọn Khất Đan tới tấp xông đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra tay cứu viện. Tiêu Phong dí mũi giáo gãy vào mặt người áo đỏ, quát lớn: “Các ngươi có muốn ta đâm chết y không?”
Một lão già Khất Đan quát lên: “Ngươi muốn tốt thì thả thủ lĩnh bọn ta ra ngay, nếu không sẽ bị ngũ mã phân thây lập tức.” Tiêu Phong cười ha hả, phóng chưởng cách không đánh vào lão. Chàng muốn thị uy, dọa cho chúng sợ để đỡ phải giết người. Nghe ầm một tiếng, lão già Khất Đan kia từ lưng ngựa văng ra mấy trượng, miệng hộc máu tươi chết ngay lập tức.
Xưa nay bọn Khất Đan chưa thấy ai lợi hại đến thế, cách không đánh chết người chẳng khác gì yêu pháp. Chúng hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ chưởng phong quét trúng mình. Tiêu Phong quát lớn: “Các ngươi không mau lui ra, ta phóng chưởng đánh y chết trước.” Chàng vừa nói vừa giơ tay lên dọa đánh xuống đầu người áo đỏ. Y liền la hoảng: “Các ngươi lui đi! Lui mau đi!” Cả bọn Khất Đan lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Khu này toàn là đồng cỏ mênh mông, nếu mình thả tên này về, chúng cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không chạy thoát được”. Chàng liền bảo người áo đỏ: “Bảo chúng đem tám con ngựa lại đây.” Y vâng lời ra lệnh, bọn Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn mã giao cho đám người Nữ Chân.
A Cốt Đả căm hận bọn này sát hại đồng bọn mình, phóng quyền ra đánh binh một tiếng, một tên dắt ngựa lăn đi mấy vòng. Bọn Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả.
Tiêu Phong lại tiếp: “Ngươi ra lệnh cho thuộc hạ giết hết ngựa đang cưỡi, không chừa con nào.” Người mặc hồng bào tính tình dứt khoát, không tranh luận gì, lớn tiếng truyền lệnh: “Các ngươi xuống ngựa, giết hết ngựa đi.” Bọn kỵ sĩ không do dự chút nào, lập tức nhảy xuống, người dùng đao, kẻ dùng mâu giết ngay con ngựa đang cưỡi.
Tiêu Phong không ngờ bọn chúng tuân lệnh mau lẹ đến thế, trong lòng cảm phục nghĩ thầm: “Gã mặc áo đỏ này xem ra địa vị tôn cao, chỉ nói một tiếng là bon kỵ sĩ không dám trái lệnh. Quân lệnh của người Khất Đan nghiêm minh như vậy, hèn gì đánh nhau với người Tống thắng nhiều thua ít.” Chàng bèn nói: “Ngươi bảo chúng quay về hết, không được đuổi theo. Một người đuổi theo thì ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì chặt hết tứ chi.”
Gã áo đỏ tức giận, râu ria dựng ngược lên, nhưng đang bị kẹp chặt không làm gì được, bất đắc dĩ phải ra lệnh: “Các ngươi quay về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt bọn Nữ Chân.” Bọn võ sĩ hô to: “Tuân lệnh!”, rồi khom lưng hành lễ.
Tiêu Phong dắt ngựa, đợi cho bọn A Cốt Đả sáu người lên yên hết, rồi cùng theo đường cũ trở về. Đi được mấy dặm, chàng thấy bọn Khất Đan không đuổi theo thật, bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ tự cưỡi một con.
Tám con ngựa chạy thẳng về đại trại không dừng bước, A Cốt Đả bẩm lại cho phụ thân là Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, Tiêu Phong bắt được thủ lĩnh Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố cả mừng nói: “Tuyệt diệu! Đem con chó Khất Đan vào đây ta xem!”.
Người áo đỏ bước vào trong trướng, thần thái vẫn uy nghi, đứng hiên ngang không chịu quì, Hòa Lý Bố biết y là người tôn quý bên Khất Đan, liền hỏi: “Ngươi tên gì? Làm chức gì bên Liêu quốc?” Gã kia ngang nhiên đáp: “Có phải người bắt ta đâu mà được phép hỏi ta?” Thì ra người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán như nhau, tù binh là nô lệ của người bắt được. Hòa Lý Bố cười ha hả nói: “Ngươi nói đúng lắm!”
Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, quì một chân xuống, tay phải đưa lên trán rồi nói: “Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại, đông người mà vẫn thua. Ta bị ông bắt cũng không oán hận gì. Nếu ông chịu thả ta về, ta sẽ trả cho năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấnmã.”
Thúc phụ của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói: “Ngươi là bậc đại quí của Khất Đan, tiền chuộc như thế ít quá. Tiêu huynh đệ! Ngươi bắt y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.” Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, hét giá lên gấp mười, để bên kia trả giá là vừa. Thật ra thì người Nữ Chân sống giản dị đã quen, cái giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã là to lắm rồi. Hai bên Nữ Chân và Khất Đan giao chiến mấy chục năm qua, chưa có món tiền chuộc nào lớn đến thế. Giả tỉ người áo đỏ không chịur cứ theo đúng con số y đưa ra lúc đầu đã là một tài sản ít thấy. Ai dè người áo đỏ không cần suy nghĩ, đáp ngay: “Thế cũng được!”
Những người Nữ Chân trong trường nghe vậy không khỏi giật mình, tưởng chừng tai nghe không rõ. Người Nữ Chân và Khất Đan cũng có khi lập kế đánh lừa nhau, nhưng khi đã giao ước thì một là một, hai là hai không bao giờ nuốt lời. Hơn nữa, hai bên đang thảo luận về tiền chuộc, giả tỉ bên Khất Đan không giao đủ thì người áo đỏ không trở về được, hứa bậy lại càng có hại. Phả Lạp Tô nghi ngờ y bị bắt rồi sợ hãi quá độ, thần trí mê man, liền nhắc lại: “Ngươi nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!”.
Người áo đỏ trả lời đầy vẻ ngạo mạn: “Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con có chi đáng kể? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có nhất thiên hạ, con số đó chẳng thấm vào đâu.” Y quay sang Tiêu Phong, đổi giọng cung kính nói: “Chủ nhân! Ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta không thèm trả lời nữa đâu.” Phả Lạp Tô nói: “Tiêu huynh đệ! Huynh đệ thử hỏi xem y ở nước Liêu làm tới chức gì?” Tiêu Phong chưa kịp hỏi, người kia đã nói: “Giả tỉ chủ nhân gạn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo, ông không thể biết là thật hay giả. Thế nhưng ông là anh hùng hảo hán, ta cũng là anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông, xin đừng hỏi làm gì.”
Tiêu Phong xoay tay trái rút phát thanh đao đeo nơi hông, tay phải vỗ vào sống đao nghe cách một tiếng, lưỡi đao cong oằn lại. Chàng lớn tiếng quát: “Ngươi dám to gan không nói chăng? Bàn tay ta mà vỗ xuống đầu ngươi thì sẽ ra sao?”
Người áo đỏ vẫn thản nhiên không sợ hãi gì, đưa ngón tay cái lên, khen: “Bản lĩnh tuyệt vời! Công lực ghê gớm! Hôm nay ta được gặp đệ nhất anh hùng trên thế gian, quả là không uổng. Tiêu anh hùng! Nếu ông cậy mạnh uy hiếp, bắt ta khuất phục thì không được đâu. Ông muốn giết thì cứ giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cốt cách cứng cỏi quyết không chịu kém.”
Tiêu Phong cười ha hả nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ta không giết ngươi tại đây. Giả tỉ ta chém ngươi một nhát, chắc ngươi không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, tỉ thí một trận.”
Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng can ngăn: “Tiêu huynh đệ! Giết tên này đi thì thực là đáng tiếc, để y sống lấy tiền chuộc tốt hơn. Nếu huynh đệ bực mình, chỉ cần xách côn gỗ roi da đánh cho quắn đít là được.”
Tiêu Phong đáp: “Không được! Y muốn làm anh hùng hảo hán, ta cho y toại nguyện.” Chàng quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung tên, nắm tay người áo đỏ kéo ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa rồi ra lệnh: “Lên ngựa mau!” Người mặc hồng bào biết chắc đấu với Tiêu Phong thì chỉ có chết, ông muốn tỉ thí chẳng qua là chơi trò mèo vờn chuột, đùa giỡn một hồi rồi mới giết mình. Nhưng y vẫn ngang nhiên chẳng sợ hãi gì, lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.
Tiêu Phong cưỡi ngựa theo sau. Hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói: “Bây giờ rẽ sang hướng tây!” Người áo đỏ đáp: “Chỗ này phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại đây.” Tiêu Phong nói: “Đón lấy!” Chàng ném trường mâu và cung tên qua, người kia đón bắt lấy rồi lớn tiếng nói: “Tiêu anh hùng! Ta không phải là đối thủ của ông, nhưng người Khất Đan thà chết không chịu nhục. Ta động thủ đây!” Tiêu Phong đáp: “Khoan đã!” Chàng ném trường mâu và cung tên xuống, chỉ còn hai tay không, miệng tủm tỉm cười. Người áo đỏ cực kỳ giận dữ, thét lên: “Hừ! Thế ra ngươi định tay không đấu với ta, khinh người đến thế ư?” Tiêu Phong lắc đầu: “Không phải! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng anh hùng, yêu thích hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta, nhưng cũng là một tay đại anh hùng, đại hảo hán, xứng đáng là bằng hữu. Tiêu mỗ để cho ngươi về nước.”
Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại: “Thế là thế nào?” Tiêu Phong mỉm cười lập lại: “Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho người bình an về nước”. Người mặc hồng bào khác nào đến Quỉ Môn Quan lại được quay về, mừng rỡ khôn xiết, hỏi lại: “Ngươi thả ta về thật chăng? Chẳng hay ngươi muốn gì? Ta sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.” Tiêu Phong hiên ngang đáp: “Ta coi ngươi là bằng hữu, sao ngươi lại không coi ta là bằng hữu? Tiêu Phong này đường đường một đấng anh hào, lẽ đâu còn đi tham tiền bạc là vật ngoại thân hay sao?”
Người áo đỏ đáp: “Đúng lắm!” Y vứt binh khí rồi nhảy xuống ngựa, quì xuống đất nói: “Đa tạ ân công tha mạng!” Tiêu Phong cũng quì xuống đáp lễ, nói: “Nếu là kẻ nô lệ lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mô cũng chẳng tha đâu. Nhưng Tiêu mỗ không giết bằng hữu, sao lại dám nhận lạy của bằng hữu?”. Người áo đỏ lại càng mừng rỡ, đứng lên nói: “Tiêu anh hùng! Ông cứ luôn miệng gọi ta là bằng hữu, vậy chúng ta kết làm huynh đệ có được không?”
Nhớ lại năm xưa Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Địa vị trong bang phân biệt rất nghiêm minh, trên có bang chủ, phó bang chủ, dưới có truyền công, chấp pháp và tứ đại trưởng lão. Sau nữa có đà chúa các đà, rồi đến đệ tử tám túi, bảy túi, cho đến kẻ mới nhập bang chưa có túi nào. Tại Cái Bang thì Tiêu Phong chuyên tâm lập những công trạng vẻ vang, chưa từng kết nghĩa anh em với ai. Sau này ở thành Vô Tích ông đấu tửu với Đoàn Dự, đem lòng cảm mến mới kết nghĩa kim lan lần đầu. Bây giờ nghe người áo đỏ đề cập đến việc này, chàng bỗng nhớ lại những năm ở Trung Nguyên giao thiệp với vô số anh hùng thiên hạ, hôm nay lưu lạc đến đất man di ăn nhờ ở đậu, quả thực nghĩ lại tủi thân. Chàng không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ anh hùng đáng là một trang hảo hán, liền đáp: “Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ là Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi. Chẳng hay huynh đài niên kỷ bao nhiêu?” Người kia cười đáp: “Tại hạ là Gia Luật Cơ, nhiều hơn ân công mười ba tuổi.” Tiêu Phong nói: “Sao huynh trưởng còn kêu tiểu đệ bằng ân công? Huynh trưởng là đại ca, xin nhận một lạy của đệ.” Chàng nói xong phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.
Hai người lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi tên làm nhang, hướng lên trời cùng lạy tám lạy, kết bái anh em.
Gia Luật Cơ cả mừng nói: “Hiền đệ họ Tiêu, chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.” Tiêu Phong đáp: “Chẳng giấu gì đại ca, tiểu đệ chính là người Khất Đan.” Nói xong chàng cởi áo ra, để lộ hình xăm chiếc đầu sói xanh trên ngực.
Gia Luật Cơ lại càng mừng rỡ, nói: “Đúng rồi! Hiền đệ thuộc dòng họ hoàng hậu Khất Đan, Hiền đệ ơi, đất Nữ Chân rét lắm, chi bằng theo ta về Thượng Kinh chung hưởng phú quí.” Tiêu Phong đáp: “Đa tạ hảo ý của ca ca. Có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, không hợp kiểu sống phú quí. Tiểu đệ ở lại Nữ Chân săn bắn uống rượu làm vui, thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Sau này nhớ tới ca ca, thể nào cũng qua nước Liêu thăm hỏi.” Tiêu Phong rời A Tử đã lâu, sực nhớ đến thương thế nàng bèn nói: “Ca ca nên sớm quay về, để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.” Rồi hai người hành lễ cáo biệt.
Tiêu Phong vừa quay đầu ngựa đã thấy A Cốt Đả dẫn hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy Tiêu Phong đi lâu không về, sợ chàng trúng phải ngụy kế của người áo đỏ, trong lòng hồi hộp liền đến tiếp ứng. Tiêu Phong kể cho gã nghe mình đã thả người áo đỏ về nước Liêu rồi. A Cốt Đả là người hiểu biết, thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng như thế lại càng kính phục.
Một hôm, Tiêu Phong cùng A Cốt Đả nhàn rỗi ngồi nói chuyện chơi, kể lại A Tử thụ thương là do chưởng lực của mình lỡ tay đánh phải, tuy dùng nhân sâm duy trì được tính mạng nhưng thương thế đã lâu vẫn không giảm, trong lòng phiền muộn. A Cốt Đả nói: “Tiêu đại ca! Thì ra lệnh muội bị ngoại thương, người Nữ Chân chúng tôi trị gãy xương sai khớp xưa nay vẫn dùng gân hổ, xương hổ và mật gấu làm thuốc rất hiệu nghiệm. Đại ca thử xem thế nào.” Tiêu Phong cả mừng nói: “Gân hổ, xương hổ thì ở đây không thiếu. Để ta ráng đi kiếm mấy con gấu lấy mật là xong.” Chàng hỏi kỹ cách dùng, rồi lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao cho A Tử uống.
Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang đầm lớn tìm gấu. Chàng đi một mình nên có thể thi triển khinh công, mau lẹ hơn đi cả đoàn nhiều. Ngày đầu không tìm thấy dấu vết gấu, đến ngày thứ hai săn được một con. Chàng mổ lấy mật, chạy về trại đút cho A Tử uống. Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm nơi rừng sâu núi thẳm đều là những dược phẩm trân quí để trị thương, nhất là mật gấu còn tươi lại càng khó kiếm. Tiết Thần Y tuy y đạo như thần, nhưng không có thuốc thì cũng bó tay, nếu phải dùng nhân sâm già cho bệnh nhân ăn thay cơm thì lão cũng không làm nổi. Đằng này Tiêu Phong cứ vài ngày lại đánh chết một con gấu lấy mật tươi cho A Tử uống, mười lão Tiết Thần Y cũng không bì kịp.
Một hôm Tiêu Phong đang ngồi nấu xương gân hổ làm cao, có một người Nữ Chân hấp tấp chạy đến gọi: “Tiêu đại ca! Có hơn chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại ca.” Tiêu Phong gật đầu, đoán là nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa từ từ tiến vào, trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật.
Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong, nên từ xa vừa trông thấy đã vội vàng nhảy xuống ngựa, chạy tới trước mặt ông, lạy phục xuống đất nói: “Từ khi chủ nhân từ biệt Tiêu đại gia đến nay, mong nhớ đêm ngày, nay sai tiểu nhân là Thất Lý đem chút lễ mọn sang mời Tiêu đại gia đến Thượng Kinh hàn huyên cho thỏa tình khát vọng.” Y nói xong dập đầu mấy cái, hai tay trình lễ đơn lên, cực kỳ cung kính.
Tiêu Phong đón lấy, cười nói: “Đại ca quả là có lòng. Thôi, ngươi đứng dậy đi.” Chàng mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan, liền nói: “Ta không biết chữ, xem chẳng hiểu gì.” Thất Lý nói: “Chút lễ mọn này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng bạch ngân, một nghìn súc gấm, một nghìn thạch lúa mạch thượng phẩm, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài ra còn một số quần áo đồ dùng.”
Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật còn nhiều gấp mười khoản tiền chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Lúc đầu chàng thấy hơn chục con ngựa chở phẩm vật đến đã cho là quá nhiều, té ra theo danh sách này thì không biết bao nhiêu ngựa xe mới chất hết.
Thất Lý khom lưng nói: “Chủ nhân còn sợ gia súc đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò ngựa đều đem dư một số để bù trừ hao hụt. May nhờ hồng phúc của chủ nhân và Tiêu đại gia, bọn tiểu nhân đi đường không bị gió bão hay dã thú chi hết, tổn thất rất ít.” Tiêu Phong thở dài nói: “Gia Luật ca ca thật là chu đáo. Nếu ta không nhận thì phụ hảo tâm của ca ca, còn nhận thì thật chẳng yên tâm chút nào.” Thất Lý nói: “Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu Tiêu đại gia khách sáo không nhận, tiểu nhân trở về sẽ bị trọng phạt.”
Bỗng nghe tiếng tù và nổi lên inh ỏi, người Nữ Chân trong các lều đều xách đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng hô lớn: “Quân địch đến tấn công, mọi người chuẩn bị nghênh chiến.” Tiêu Phong nhìn về phía có hiệu tù và thì thấy cát bụi mù trời, tựa hồ vô số binh mã đang kéo đến.
Thất Lý lớn tiếng gọi to: “Xin các vị chớ có hoang mang, đó là đoàn gia súc của Tiêu đại gia.” Y dùng tiếng Nữ Chân kêu gọi liên tiếp, nhưng chẳng ai chịu tin. Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy người trong bộ lạc dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.
Đây là lần đầu Tiêu Phong thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ thầm: “Bộ tộc Nữ Chân ít người, nhưng ai cũng nhanh nhẹn dữ dằn. Bọn kỵ sĩ Khất Đan của Gia Luật ca ca xem chừng không hung hãn bằng, còn quan binh nhà Đại Tống thì lại tệ hơn nữa”.
Thất Lý kêu lên: “Để tiểu nhân đi bảo thuộc hạ dừng lại, không tiến lên vội để khỏi hiểu lầm.” Y nhảy vọt lên ngựa, chạy về hướng tây. A Cốt Đả vẫy tay một cái, bốn người Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm kỵ sĩ tiến tới chỗ bụi mù, thấy trên đồng cỏ toàn là bò cừu ngựa, hơn một trăm dân Khất Đan cầm roi dài lùa gia súc, tuyệt không có tên quân nào.
Bốn người Nữ Chân bật cười, quay ngựa về báo với Hòa Lý Bố. Chẳng bao lâu, đoàn gia súc đã đến gần, bò kêu ngựa hí ầm ầm át cả tiếng người, không ai nói chuyện với ai được.
Tối hôm đó Tiêu Phong nhờ dân Nữ Chân giết bò mổ cừu để đãi khách phương xa. Hôm sau, chàng lấy một ít vàng bạc gấm vóc thưởng cho bọn người Khất Đan đưa lễ vật đến. Khi chúng từ biệt ra về rồi, chàng đem toàn bộ gia súc cùng vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả, bảo y chia cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân vốn dĩ tụ tập sống chung với nhau, không có của riêng, một người được thì cả bộ tộc hưởng chung, thấy Tiêu Phong hào hiệp như thế cũng coi là chuyện bình thường. Thế nhưng tự nhiên được vô số tài vật trên trời rơi xuống như thế, mọi người đều vui vẻ.
Toàn bộ tộc ăn uống vui chơi mấy ngày liền, ai nấy đều cảm kích lòng tốt của Tiêu Phong.
Hết hạ sang thu, bệnh tình A Tử cũng đỡ được vài phần. Nàng đã hơi tỉnh táo, suốt ngày phải nằm trong lều dưỡng thương sinh ra chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa ra ngoài cưỡi ngựa rong chơi cho khuây khỏa. Hai người cưỡi chung một con ngựa, A Tử ngồi trước dựa vào ngực Tiêu Phong, không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu Phong chiều chuộng nàng hết mực, suốt mấy tháng liền ngày nào cũng lên ngựa rong chơi, chỉ trừ những khi gió to tuyết lớn. Về sau, đi mãi những vùng lân cận cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng trại ngủ ở bên ngoài, có khi mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân đó mà đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc châm mà gấu cùng hổ ở dãy Trường Bạch hao hụt khá nhiều, không biết bao nhiêu con đã táng mạng dưới tay Tiêu Phong.
Tiêu Phong vì muốn kết hợp đào sâm nên lần đi chơi nào cũng theo hướng đông hoặc hướng bắc. Một hôm A Tử bảo rằng phong cảnh phía đông phía bắc coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây du ngoạn, Tiêu Phong nói: “Phía tây chỉ có một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông ngòi gì đáng xem hết.” A Tử đáp:”Cánh đồng cỏ bát ngát cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả. Tiểu muội chưa thấy biển thật bao giờ. Tinh Tú Hải tuy gọi là biển, nhưng vẫn còn thấy bờ thấy bến.”
Tiêu Phong nghe nàng nhắc đến Tinh Tú Hải cũng thấy chột dạ. Một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ lâm đã quên dần, A Tử không cử động được, muốn làm chuyện tàn nhẫn cũng chẳng có cách gì. Còn chàng thì ra sức trị thương cứu mạng, bây giờ mới sợ rằng một khi bệnh tình nàng thuyên giảm thì ác tính lại phát tác, lúc đó biết làm thế nào?
Chàng quay lại nhìn A Tử, thấy khuôn mặt trắng bệch không chút huyết sắc, má hóp lại, đôi mắt to đen sâu hoắm, dung nhan tiều tụy, người gầy tong teo như cái túi da. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong lòng, thầm nghĩ: “Nàng vốn dĩ là một cô bé lanh lợi khả ái, bị ta đánh chết đi sống lại đến nỗi thân tàn ma dại thế này. Sao ta lại nỡ nghĩ đến những điều xấu của nàng?” Chàng bèn mỉm cười nói: “Cô đã muốn đi về phía tây thì mình qua đó xem sao. A Tử! Khi nào cô khỏe hẳn, ta sẽ đưa cô đến biên giới nước Cao Ly để xem đại dương thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bờ, cảnh tượng đó mới thật là hùng vĩ.”
A Tử đột nhiên vỗ tay reo lên: “Hay quá! Hay quá! Chẳng cần phải đợi nữa, bây giờ mình đi cũng được.” Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa vui mừng vừa kinh ngạc hỏi: “A Tử: Thì ra hai tay của cô cử động được như thường rồi.” A Tử cười đáp: “Hai tay tiểu muội cử động được đã nửa tháng nay, bây giờ linh hoạt lắm rồi.” Tiêu Phong cả mừng nói: “Thế thì tuyệt diệu! Con bé cứng đầu này lại giấu giếm ta nữa.” Đôi mắt A Tử ánh lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp: “Muội chỉ mong vĩnh viễn không cử động được, thì tỉ phu mới ngày ngày ngồi cạnh muội. Giả tỉ thương thế muội khỏi rồi, tỉ phu lại đuổi đi mất.”
Tiêu Phong nghe thanh âm nàng đầy vẻ chân thành, không khỏi sinh lòng ái ngại, bèn nói: “Ta là người lỗ mãng, hôm đó sơ ý đánh cô tới nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta thì có gì vui thú đâu?” A Tử không trả lời, hồi lâu mới khẽ hỏi: “Tỉ phu ơi! Sao hôm đó tỉ phu phóng chưởng đánh muội mạnh đến thế?” Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp: “Chuyện qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử! Ta đánh cô trọng thương, trong lòng rất hối hận. Cô có giận ta không?” A Tử đáp: “Dĩ nhiên là tiểu muội không giận tỉ phu, có gì để giận đâu? Muội chỉ mong được kề cận bên mình tỉ phu, bây giờ thỏa nguyện rồi còn gì? Muội còn hết sức sung sướng là khác.”
Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy quan niệm của tiểu cô nương này thật là cổ quái, nhưng thấy nàng tử tế hơn, liền cho rằng vì mình quan tâm lo lắng nên ác tính của nàng đã giảm đi nhiều. Chàng quay về chuẩn bị ngựa xe, lều trại, lương khô các thứ.
Sáng hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được chục dặm, A Tử bỗng hỏi: “Tỉ phu đã đoán ra chưa?” Tiêu Phong hỏi lại: “Đoán cái gì?” A Tử nói: “Hôm đó muội đột nhiên phóng độc châm ám toán, tỉ phu có biết vì lý do gì không?” Tiêu Phong lắc đầu nói: “Ý nghĩ của cô trời không biết, quỉ không hay, làm sao ta đoán nổi?” A Tử thở dài nói: “Tỉ phu đã không đoán ra, thì đừng nghĩ tới nữa. Ô kìa! Tỉ phu xem đàn chim nhạn kia, chúng bay về hướng nam làm gì nhỉ?”
Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy hai đàn chim nhạn xếp thành hình chữ nhân trên trời, đang bay về phương nam, bèn nói: “Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam trốn tuyết.” A Tử hỏi: “Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về phương bắc? Mỗi năm bay đi bay về chẳng vất vả lắm sao? Nếu chúng sợ lạnh sao không ở luôn phương nam, quay lại làm gì?”
Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ suy nghĩ đến tập tính các loài cầm thú, nghe nàng hỏi không sao trả lời được, lắc đầu cười nói: “Ta cũng chẳng hiểu. Chúng không ngại gian khổ, có lẽ là do sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.”
A Tử gật đầu nói: “Nhất định là thế rồi. Tỉ phu xem kìa, con nhạn sau cùng còn nhỏ xíu mà cũng ráng bay về phương nam. Sau này gia gia, má má, tỉ nương cùng tỉ phu nó bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng theo về.”
Tiêu Phong nghe nàng nói đến tỉ nương cùng tỉ phu, chợt động lòng đưa mắt nhìn thấy cô bé đang mơ màng nhìn theo đàn chim phía chân trời, hiển nhiên câu đó là nàng không cố ý nói ra. Chàng liền nghĩ thầm: “Nàng ngẫu nhiên mà xếp ta cùng với song thân một chỗ, đủ biết trong lòng đã coi mình là người thân thiết, thế thì từ nay ta không nên bỏ rơi nàng nữa. Đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta sẽ đưa nàng về Đại Lý giao lại cho song thân, lúc đó mới trút được trách nhiệm.”
Hai người vừa đi đường vừa chuyện trò vui vẻ. Lúc nào A Tử mệt mỏi, Tiêu Phong liền bế nàng xuống ngựa, đặt vào thùng xe cho nàng ngủ. Đến tối, chàng lại tìm rừng cây để dựng lều. Đi như thế mấy ngày, đã đến thảo nguyên.
A Tử đưa mắt nhìn quanh thấy đồng cỏ mênh mông không bờ bến, cao hứng nói: “Giả tỉ mình cứ đi tiếp về hướng tây thì chẳng khác gì lạc vào giữa biển, nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ không bến.” Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa thảo nguyên, liền chiều ý giơ roi lên quất một cái, giục ngựa đi tiếp về hướng tây.
Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả nhiên nhìn khắp chung quanh đã không còn thấy ranh giới đồng cỏ đâu nữa. Khi đó trời vào thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng cỏ rì rào xào xạc thật là dễ chịu. Trong đồng có rất nhiều thú nhỏ, Tiêu Phong bắt lấy mà ăn, trong lòng lâng lâng chẳng lo nghĩ chi hết.
Lại đi thêm mấy ngày nữa, một buổi trưa chàng nhìn xa xa thấy vô số lều trại, cờ xí rất nhiều, không hiểu là chỗ đóng quân hay là một bộ lạc lớn. Tiêu Phong nói: “Trước mặt có đông người lắm, không biết họ là ai, mình quay về để khỏi bị rắc rối.” A Tử nói: “Đừng quay về vội, muội muốn đến đó xem. Hai chân muội vẫn cứng đơ, đâu có làm gì được mà tỉ phu sợ bị rắc rối?” Tiêu Phong cười nói: “Những chuyện rắc rối đâu phải chỉ do mình cô gây ra, có khi người khác gây sự, chúng ta muốn tránh cũng không được.” A Tử cười nói: “Thế thì mình cứ đến xem, chẳng sao đâu.”
Tiêu Phong biết nàng còn tính trẻ con, thích coi những nơi náo nhiệt, bèn giục ngựa tiến chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế bằng phẳng, những lều trại đó đã nhìn thấy rõ, nhưng không phải là gần. Đi được chừng bảy tám dặm, bỗng nghe tù và thổi u u, sau đó bụi bay mù mịt. Hai đại đội nhân mã xông ra, một đội lên phía bắc, một đội xuống phía nam.
Tiêu Phong hơi e ngại, nói: “Không xong rồi! Đây là kỵ binh Khất Đan.” A Tử nói: “Họ là đồng tộc của tỉ phu, thế thì hay quá, tỉ phu còn ngại cái gì?” Tiêu Phong đáp: “Nhưng ta chưa quen biết họ. Mình quay về thôi.” Chàng ghìm cương ngựa, quay về theo đường cũ. Mới được mấy bước, bỗng nghe tiếng trống thúc liên hồi, lại thêm mấy đội kỵ binh Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chung quanh chẳng thấy địch nhân đâu cả, chắc là họ đang tập trận.”
Bỗng nghe tiếng reo hò vang dội: “Có hươu kìa! Bắn đi!” Cả ba phía tây nam bắc, chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn hươu, Tiêu Phong nói: “Té ra họ bao vây để săn thú, thanh thế cuộc đi săn này không phải nhỏ.” Chàng bèn ôm A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông nhìn xem.
Kỵ binh Khất Đan trong mặc thiết giáp, ngoài khoác cẩm bào. Đội thì cẩm bào màu đỏ, đội màu xanh, đội màu vàng, đội màu tím, cờ hiệu cũng cùng màu với áo. Binh cường mà tráng, lui tới nhịp nhàng trông rất oai hùng, Tiêu Phong cùng A Tử trầm trồ khen ngợi. Quân kỵ Khất Đan tung hoành tiến thoái theo đúng quân lệnh, giơ trường mâu ra để xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử cũng chỉ liếc một cái chứ chẳng hỏi han gì. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn mặt, dồn mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con lọt qua chỗ trống chạy ra ngoài, thì lại có một toán quân nhỏ ra cản, vây đuổi trở lại vào trong.
Tiêu Phong đang đứng xem, bỗng nghe có tiếng gọi: “Có phải Tiêu đại gia đấy chăng?” Tiêu Phong tự hỏi: “Ai nhận ra ta nhỉ?”. Chàng quay lại nhìn, thấy trong đội áo xanh có một người phóng ngựa chạy ra, chính là gã đội trưởng Thất Lý, mấy tháng trước đã được Gia Luật Cơ sai đem lễ vật đến tặng mình.
Y phóng ngựa đến cách Tiêu Phong chục trường đã nhảy xuống chạy bộ, quì gối phải xuống nói: “Chủ nhân của tiểu nhân đang ở phía trước, cách đây không xa. Chủ nhân vẫn nhắc đến Tiêu đại gia luôn, dường như nhớ mong lắm. Hôm nay không biết ngọn gió nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp chủ nhân của tiểu nhân.” Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ ở gần đây thì vui mừng khôn xiết nói: “Ta đi chơi không có chủ định, không ngờ đến gần chỗ nghĩa huynh, thật là tuyệt diệu. Được rồi, nhờ ngươi dẫn ta đến gặp ca ca.”
Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy đến. Y dặn dò: “Các ngươi lập tức về bẩm báo là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch đến chơi.” Hai tên kỵ binh nghiêng mình nhận lệnh, rồi phóng ngựa đi ngay. Quân sĩ Khất Đan tiếp tục cuộc săn hươu, còn Thất Lý suất lãnh đội kỵ binh áo xanh, hộ vệ Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.
Lúc Tiêu Phong được Gia Luật Cơ gửi tặng vàng bạc bò cừu, chàng đã phỏng chừng y có lẽ là một bậc phú quí người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế như vậy, đoán chắc vị nghĩa huynh này phải là tướng quân hay đại thần chi đó.
Trên thảo nguyên đầy kỵ binh chạy lui chạy tới như mắc cửi, tên nào cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói: “Hôm nay Tiêu đại gia đến chơi thật là đúng lúc, sáng mai ở đây có lễ hội thật là tưng bừng náo nhiệt.” Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng tươi tỉnh hẳn lên, liền hỏi: “Cái gì mà tưng bừng náo nhiệt?” Thất Lý đáp: “Ngày mai có cuộc tỉ võ. Hai đội thị vệ Vĩnh Xương, Thái Hòa đang khiếm khuyết chức thống lĩnh. Người Khất Đan chúng tôi đều ra sức thi triển võ công để xem ai may mắn đoạt được chức vụ này.”
Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng, nổi hứng cười nói: “Thế thì tuyệt diệu! Ta lại được xem võ công người Khất Đan như thế nào.” A Tử cũng cười nói: “Đội trưởng ơi, chắc ông cũng ra biểu diễn thân thủ, ta chúc ông giành được một chức thống lĩnh.” Thất Lý lè lưỡi nói: “Tiểu nhân đâu có gan dạ như thế?” A Tử lại cười: “Tỉ võ giành chức thống lĩnh thì đã là gì? Ông chỉ xin tỉ phu ta dạy cho mấy đường quyền là đoạt được ngay.” Thất Lý mừng rỡ nói: “Giả tỉ tiểu nhân được Tiêu đại gia chỉ giáo là tốt phước lắm rồi. Còn chức thống lĩnh thì tiểu nhân chẳng dám mơ tới.”
Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, độ mười dặm đã thấy một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới đón. Thất Lý nói: “Đây là đội Phi Hùng trong Bì thất đại trướng.” Đám kỵ binh này mặc áo da gấu đen, đội mũ da gấu trắng, khí thế thật là uy võ. Chúng chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời xuống ngựa chia ra đứng hai bên hô to: “Cung nghinh Tiêu đại gia.” Tiêu Phong đáp: “Không dám! Không dám!” Chàng giơ tay đáp lễ, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng phóng ngựa theo sau.
Đi được hơn chục dặm, lại có một đội kỵ binh Phi Hổ mặc áo da hổ, đội mũ da hổ chạy đến nghênh tiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Không biết Gia Luật ca ca làm tới chức quan gì mà nghi vệ rầm rộ đến thế này.” Nhưng lần gặp trước Gia Luật Cơ nhất định không nói ra thân thế mình, Thất Lý cũng không nói, nên Tiêu Phong không hỏi nữa.
Đến chiều, tới một doanh trại thật lớn thì đội Phi Báo mặc áo đội mũ da báo chạy ra đón Tiêu Phong và A Tử vào căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong tưởng vào trong lều này là gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong trướng chỉ có đồ dùng sang trọng, trên bàn đặt sẵn vô số thức ăn, hoa quả, mà chủ nhân vẫn chẳng thấy đâu. Đội trưởng đội Phi Báo nói: “Chủ nhân mời Tiêu đại gia nghỉ lại đây một đêm, sáng mai sẽ tương kiến.” Tiêu Phong không hỏi thêm, ngồi xuống bên bàn bưng rượu lên uống. Bốn tên lính hầu đứng rót rượu, cắt thịt, hầu hạ rất chu đáo.
Sáng hôm sau thức dậy lại tiếp tục đi về hướng tây, đi suốt ngày phải đến hai trăm dặm, đến đêm lại ngủ ở một doanh trại lớn. Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý mới nói: “Đi hết sườn núi này là tới nơi.” Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn hình thế trái núi thật là hùng vĩ, một con sông uốn lượn dưới chân núi cuồn cuộn chảy về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua sườn núi, đột nhiên trước mắt cờ xí rợp trời, bốn mặt đầy doanh trướng. Phải có đến hàng vạn kỵ binh cùng bộ binh đứng vây quanh một khoảng đất trống. Các đội kỵ mã Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ vệ Tiêu Phong liền lấy tù và ra thổi lên inh ỏi.
Bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, thêm tiếng pháo hiệu nổ ầm ầm, quân lính trên bãi đất trống rẽ ra hai bên. Một con ngựa vàng cao lớn từ trong chạy ra, trên lưng có một đại hán râu ria xồm xoàm, chính là Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong, hô lớn: “Tiêu huynh đệ! Có nhớ ca ca chăng?” Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người gặp nhau cùng nhảy xuống, tay nắm tay mừng rỡ không sao kể xiết. Tướng sĩ bốn mặt chung quanh đều reo hò vang dội: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”.
Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Tại sao binh sĩ lại hô vạn tuế?”. Chàng đưa mắt nhìn quanh, thấy hết thảy mọi người đều khom lưng, chống đao xuống đất, chỉ có Gia Luật Cơ đứng chính giữa, nhìn ngang nhìn ngửa ra chiều đắc ý. Tiêu Phong tỉnh ngộ, ấp úng hỏi: “Ca ca? Phải chăng ca ca là… là…” Gia Luật Cơ cười ha hả nói: “Giả tỉ hiền đệ biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e rằng không chịu cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu hiền đệ, tên thực của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Đại ân cứu mạng của hiền đệ, ta vĩnh viễn không quên được.”
Tiêu Phong vốn là người hiên ngang khí phách, nhưng trong đời chưa được bái kiến hoàng đế bao giờ. Hôm nay chàng thấy nghi vệ long trọng đến thế, không khỏi luống cuống nói: “Tiểu nhân không biết bệ hạ nên mạo phạm đã nhiều, tội đáng muôn thác”, nói xong liền quì xuống. Tiêu Phong là thần dân Khất Đan, gặp hoàng đế nước mình phải quì xuống là chuyện đương nhiên.
Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ ông dậy, cười nói: “Không biết thì không có tội. Hiền đệ ơi, ngươi với ta đã kết nghĩa kim lan, hôm nay chỉ nói chuyện nghĩa khí, ngày mai dùng lễ chúa tôi cũng chưa muộn.” Ông vẫy tay trái một cái, lập tức chiêng trống nổi lên để hoan nghênh tân khách. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong đi vào đại trướng.
Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan lợp đến mấy lớp da bò, trang trí đủ loại màu sắc cực kỳ rực rỡ, gọi là Bì thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong ngồi bên cạnh, chẳng mấy chốc văn võ bá quan lục tục tiến vào tham kiến, nào là Bắc viện đại vương, Bắc viện khu mật sứ, Nam viện khu mật sứ, Bì thất đại tướng quân, Tiểu tướng quân, Mã quan chỉ huy sứ, Bộ quân chỉ huy sứ… Tiêu Phong được nghe giới thiệu, nhưng nhiều quá nhất thời không nhớ hết được.
Đêm hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng nữ giới nên A Tử cũng được mời vào dự yến tại Bì thất đại trướng. Quang cảnh đúng là rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử cực kỳ hứng thú, mặt tươi như hoa.
Giữa chừng tiệc rượu, hơn mười tên võ sĩ Khất Đan cởi trần ra trổ tài đấu vật trước mặt hoàng thượng để làm trò. Tiêu Phong thấy bọn chúng thân thể rắn chắc, bắp thịt cuồn cuộn, chân tay mau lẹ, mỗi động tác đều chứng tỏ tập luyện công phu. Võ sĩ Khất Đan nói về biến hóa xảo diệu thì không bằng võ sĩ Trung Nguyên, nhưng những đòn thế dứt khoát ngay thẳng xem chừng rất hiệu quả trên chiến trường loạn đấu.
Các quan văn võ nước Liêu đều đến mời Tiêu Phong uống rượu. Chàng không hề từ chối, có rượu đưa đến là cạn, phải đến ngoài ba trăm chén mà sắc mặt vân như thường, mọi người đều kinh hãi.
Xưa nay Gia Luật Hồng Cơ vẫn tự phụ là người dũng lực, mà lần này cả nước ai cũng biết y bị Tiêu Phong bắt. Y đã định hôm sau nơi đại hội tỉ võ sẽ gọi Tiêu Phong trổ tài võ nghệ siêu quần để giảm bớt cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ đâu Tiêu Phong chưa cần biểu diễn võ công, chỉ cần tửu lượng đã áp đảo quần hùng, ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cả mừng nói: “Tiêu hiền đệ! Ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.”
A Tử đột nhiên xen vào: “Không phải! Y là đệ nhị anh hùng!” Gia Luật Hồng Cơ tươi cười hỏi lại: “Tiểu cô nương! Y chỉ là đệ nhị thôi sao? Thế thì đệ nhất anh hùng là ai?” A Tử đáp: “Đệ nhất anh hùng hảo hán dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi. Tỉ phu của tiểu nữ tuy bản lãnh nghiêng trời nhưng vẫn phải tuân theo bệ hạ không dám trái lệnh. Vậy bệ hạ là đệ nhất anh hùng chứ còn ai nữa?” Nàng là môn đệ phái Tinh Tú, nghệ thuật nịnh bợ đã thuộc hàng siêu đẳng, bây giờ tâng bốc người Khất Đan thô lỗ chẳng cần phải dụng công.
Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói: “Cô nương nói hay lắm! Tiêu huynh đệ! Ta muốn phong cho ngươi một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem phong tước gì cho xứng.” Khi đó y đã uống gần say nên gõ gõ ngón tay lên trán ra chiều suy nghĩ. Tiêu Phong vội nói: “Không đâu! Tiểu nhân tính tình thô lỗ, khó lòng hưởng thụ phú quí. Xưa nay tiểu nhân quen lang thang bốn phương, tới lui vô định, thực tâm không thích làm quan.” Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Được rồi! Để ta phong cho hiền đệ một chức quan chỉ cần uống rượu mà không cần làm…” Ông chưa dứt lời, bỗng từ xa vọng lại một hồi tù và inh ỏi, nghe thật khẩn cấp.
Quần thần nước Liêu đang ngồi bệt dưới đất uống rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng tù và đều nhỏm dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới nghe còn cách hơn chục dặm, hồi thứ hai đã gần thêm vài dặm, hồi thứ ba chỉ còn cách mấy dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Trên đời này không có con ngựa nào chạy nhanh đến thế, dẫu nhân vật khinh công tuyệt đỉnh cũng không lẹ như vậy được. Chắc là có những trạm truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, trạm nào nghe tiếng tù và lập tức truyền ngay đến trạm kế tiếp.” Trong nháy mắt, tiếng tù và truyền đến ngoài Bì thất đại trướng rồi ngừng lại. Mấy trăm người ngồi trong trướng đang ăn uống reo hò, ồn ào như chợ vỡ, đột nhiên lặng phắt như tờ.
Gia Luật Hồng Cơ thần sắc vẫn trấn tĩnh, từ từ nâng chén vàng lên uống cạn rồi mới nói: “Thượng Kinh có kẻ phản loạn, chúng ta phải về thôi. Nhổ trại!”
Hành quân đại tướng quân lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng “Nhổ trại” truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn, thanh âm càng lúc càng vang động nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự, tuyệt không có vẻ nhốn nháo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nước Đại Liêu lập quốc đã hơn hai trăm năm, oai phong lẫy lừng thiên hạ. Lúc này có nội loạn mà không bối rối, đủ biết Liêu chúa thống suất quân đội rất có phương pháp.”
Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, đội quân xích hầu ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong, rồi tiền quân, tả quân, hữu quân từng đội lên đường hồi kinh về hướng nam.
Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói: “Chúng ta ra xem sao.” Hai người ra khỏi trướng, thấy mỗi lá quân kỳ đều có gắn một chiếc đèn lồng đủ sắc đỏ, vàng, xanh, trắng, lấp lánh trong đêm tối, hơn chục vạn quân xuôi nam mà chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, không một tiếng người. Tiêu Phong thán phục nghĩ thầm: “Trị quân nghiêm minh thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng thượng cậy tài đi săn một mình nên ta mới bắt được. Giả tỉ đại quân kéo đến thì người Nữ Chân tuy kiêu dũng nhưng cũng không chống nổi với số đông.”
Hai người vừa ra khỏi trường, bọn vệ sĩ lập tức nhổ trại, chỉ một chốc là gọn gàng sạch sẽ. Hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái ban lệnh, mọi người lập tức khởi hành. Bá quan Bắc viện đại vương, Vu việt, Thái sư, Thái phó vây quanh Gia Luật Hồng Cơ, ai nấy thần sắc nghiêm trọng nhưng cũng không nói gì. Tin tức về vụ nổi loạn trong kinh tuy đã đưa tới nhưng tình hình thế nào, diễn tiến ra sao hiện giờ vẫn chưa rõ rệt.
Đại đội nhân mã hành tiến về nam, tối ngày thứ ba vừa hạ trại thì một tên thám tử phóng ngựa đến bẩm với Gia Luật Hồng Cơ: “Nam viện đại vương nổi loạn, chiếm hoàng cung, bắt giữ hết hoàng thái hậu, hoàng hậu, vương tử, công chúa cùng gia quyến của bá quan.” Gia Luật Hồng Cơ nghe thế lập tức biến sắc.
Quân quốc trọng sự nước Liêu đều do hai viện Nam Bắc chia ra phụ trách. Lần này Bắc viện đại vương hộ giá đi săn để Nam viện đại vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện đại vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ được phong tước Sở vương, bản thân không đáng gì, nhưng phụ thân y là Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên, tước phong Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, mới thực là đáng ngại.
Tổ phụ của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là Thánh Tông. Trưởng nam của Thánh Tông là Tông Chân, thứ nam là Trọng Nguyên. Tông Chân tính tình hiền lành rộng rãi, còn Trọng Nguyên dũng mãnh lại có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà có di mệnh truyền ngôi cho trưởng nam Tông Chân. Thế nhưng hoàng hậu lại thiên vị thứ nam nên lập mưu đưa Trọng Nguyễn lên ngôi. Từ xưa tới nay ở nước Liêu, quyền thế hoàng thái hậu bao giờ cũng rất lớn, thành thử ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem dự định của mẫu hậu báo cho huynh trưởng, dĩ nhiên âm mưu không thành, vì chuyện đó mà Tông Chân cực kỳ cảm kích, lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền ngôi cho ông ta.
Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, khi ông ta qua đời không hiểu sao lại không truyền ngôi vua cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.
Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên phong cho Trọng Nguyên tước Hoàng thái thúc, để chứng tỏ rằng thúc phụ mình sẽ thừa kế ngôi Liêu chúa, lại phong thêm tước Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, lúc lâm triều miễn lạy miễn xưng tên, ban cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu. Ông ta là người được tôn kính nhất trong triều, con là Niết Lỗ Cổ được phong Sở vương, tước Nam viện đại vương chấp chưởng mọi việc ở Nam viện.
Năm xưa rõ ràng Gia Luật Trọng Nguyên có thể đoạt ngôi vua nhưng nhường cho huynh trưởng, đủ chứng tỏ ông ta là người trong nghĩa khí, lại biết khiêm cung. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu đại sự ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi ngại chút nào. Bây giờ Gia Luật Hồng Cơ nghe kẻ mưu phản là Nam viện đại vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, vừa lo lắng vừa kinh hoàng. Ông vốn biết Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự tàn nhẫn, mà nếu y mưu phản thì phụ thân y chắc không đứng ngoài mà nhìn.
Bắc viện đại vương tâu lên: “Bệ hạ đừng vội lo, Hoàng thái thúc ắt có lập trường minh bạch, không dung tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc này đã đem quân dẹp loạn rồi.” Gia Luật Hồng Cơ đáp: “Ta cũng chỉ mong được thế.”
Bữa cơm tối vừa xong, tên thám tử thứ hai lại về bẩm báo: “Nam viện đại vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra chiếu chỉ cáo tri thiên hạ.” Y không dám nói thêm, hai tay cầm chiếu chỉ của tân hoàng đế dâng lên. Hồng Cơ cầm lấy xem qua, đại khái tố cáo đích danh Gia Luật Hồng Cơ là soán đoạt ngôi vua, nói là tiên đế đã lập Gia Luật Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ hai mươi bốn năm trời ai ai cũng biết. Khi tiên đế băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, cướp ngôi vua, nhân dân đều phẫn nộ. Hiện Hoàng thái đệ đã lên ngôi chính thống, đốc suất binh mã thiên hạ đi dẹp tên soán đoạt…
Gia Luật Hồng Cơ phẫn nộ, vứt luôn chiếu thư vào đống lửa, nhưng trong bụng lo lắng nghĩ thầm: “Đạo ngụy chiếu này lời lẽ đanh thép rõ ràng, e rằng có thể làm lòng dạ quân dân Liêu quốc phải hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, trong tay cầm binh phù có thể điều động tám mươi vạn binh mã, chưa kể số quân dưới tay con của lão là Nam viện đại vương. Ở đây ta có chưa đầy mười vạn quân tùy giá, quả bất địch chúng, biết làm thế nào?” Ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ được.
Khi Tiêu Phong nghe Liêu đế định phong quan cho mình, đã toan nhân lúc đêm khuya dắt A Tử không từ biệt mà bỏ đi. Nhưng lúc này chàng thấy nghĩa huynh gặp bước nguy nan bèn không nỡ bỏ rơi, phải ra sức giúp y một phen cho khỏi phụ tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó chàng dạo chơi ngoài doanh trại, nghe binh tướng thì thầm to nhỏ, đều lo lắng cho cha mẹ vợ con đang ở Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt hết, e rằng tính mạng khó giữ. Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc lây lan rất nhanh, quan binh trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ sụt sùi. Các tướng thống lãnh hò hét ngăn trở, lại chém đầu mấy tên khóc to nhất để làm gương, nhưng cũng không sao dứt hết được.
Gia Luật Hồng Cơ nghe tiếng khóc vang trời, biết rằng lòng quân tan vỡ, lại càng lo lắng. Sáng hôm sau lại có thám tử đến báo Hoàng thái thúc và Sở vương dẫn năm mươi vạn quân tiến lên phía bắc mưu toan phạm giá. Hồng Cơ nghĩ bụng: “Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn đường lui, có bại thì cũng phải một phen tử chiến.” Ông lập tức triệu tập bá quan để thương nghị. Quần thần đều trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện chết vì chủ, nhưng chỉ lo lòng quân nghiêng ngả.
Hồng Cơ ban lệnh: “Quan binh phải ra sức bình định phản loạn, khi dẹp yên được rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.” Ông mặc giáp vàng, thân hành đốc suất ba quân nghênh chiến với quân của Hoàng thái thúc. Tướng sĩ thấy hoàng thượng tự mình cự địch lập tức dũng khí nổi lên, hô vạn tuế ba lần, quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn binh mã chia thành tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang tiến về phía nam, thêm những tiểu đội thám thính đi rảo hai bên.
Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ để hộ giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng bảo hộ cho A Tử ở hậu quân, Tiêu Phong thấy lông mày Gia Luật Hồng Cơ nhăn tít lại, biết ông chưa quyết định được kế hoạch gì trong trận chiến này.
Đến giữa trưa thì phía trước có tiếng tù và nổi lên. Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh: “Xuống ngựa!” Kỵ binh đều nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là ngồi trên yên.
Tiêu Phong không hiểu sao kỵ binh phải xuống ngựa, còn đang thắc mắc thì Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi: “Hiền đệ ở Trung Nguyên đã lâu, chưa hiểu phương pháp hành quân của người Khất Đan phải không?”
Tiêu Phong đáp: “Thần đang mong bệ hạ chỉ điểm” Hồng Cơ cười đáp: “Ha ha! Hai chữ bệ hạ không biết có còn được tới hoàng hôn hôm nay nữa không? Ta với ngươi dùng nghĩa huynh đệ mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?” Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông đượm vẻ chua cay, bèn nói: “Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải quá lo lắng.” Hồng Cơ nói: “Giao phong trên bình nguyên, quan trọng nhất là mã lực, sau đó mới đến nhân lực.” Tiêu Phong tỉnh ngộ bèn nói: “À, phải rồi! Kỵ binh phải xuống ngựa là để dưỡng sức cho ngựa đỡ mệt.” Hồng Cơ gật đầu nói: “Dưỡng sức cho ngựa để khi lâm trận không sức nào ngăn trở được. Người Khất Đan đánh đông dẹp bắc bách chiến bách thắng phần lớn là nhờ ở bí quyết này.”
Ông nói tới đây, phía trước đã thấy bụi bay mù mịt, bốc cao đến mười trượng, chẳng khác gì một đám mây cuồn cuộn kéo tới. Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói: “Hoàng thái thúc và Sở vương đều chinh chiến lâu năm, là những tướng tài của nước Liêu ta. Sao họ lại xua binh đến ầm ầm, không dưỡng sức cho ngựa nhỉ? Hừ, thì ra bọn chúng khinh mạn, cho rằng thể nào cũng thắng nên không e dè chi nữa.” Ông đang trù trừ đã nghe tả quân và hữu quân cùng nổi hiệu tù và. Tiêu Phong đưa mắt nhìn phía đông thấy hai cánh quân, phía tây cũng có hai cánh quân, địch chia năm ngả đánh vào.
Gia Luật Hồng Cơ biến sắc mặt, ra lệnh cho tướng chỉ huy trung quân: “Kết trận lập trại mau!” Y đáp lời: “Tuân lệnh!” rồi giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu quân cùng quay lại trung tâm, đồng thời một toán quân dùng búa đóng cột của Bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông, chỉ chốc.lát đã ghép thành một bức tường vĩ đại giữa thảo nguyên. Bốn mặt tiền hậu tả hữu đều có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn sau tường thành, dương cung sẵn sàng, chỉ đợi lệnh buông tên.
Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Trận đại chiến này dù cho ai thắng ai bại thì người cùng dòng giống Khất Đan cũng thây phơi đầy nội. Ca ca đắc thắng là tốt nhất, chẳng may thua trận thì ta cũng cố cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến nơi an toàn, giữ được ngôi hoàng đế hay không cũng chẳng sao.”.
Doanh trại của Liêu đế dựng lên chưa được bao lâu thì đội tiên phong của loạn quân đã tới, nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại ngoài một tầm tên. Nhưng tiếng trống tiếng kèn thì liên miên bất tuyệt, loạn quân tiến đến vây quanh, bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa mắt nhìn ra xa, thấy chỗ nào cũng có quân địch không biết đâu là cùng tận, nghĩ thầm: “Lực lượng nghĩa huynh kém xa, xem chừng chắc chắn thất bại. Bây giờ còn sáng không tiện phá vây đào tẩu, cố giữ cho đến tối, ta sẽ tìm cách cứu y”. Thế nhưng bóng của những cây gỗ đóng trại hãy còn ngắn ngủn, nắng chói chang, trời chỉ mới xế trưa một chút.
Đột nhiên trên trời có tiếng quang quạc, một đàn nhạn bay qua. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu lên ngơ ngẩn nhìn, gượng cười nói: “Giả tỉ ta chắp cánh biến thành con nhạn cũng chưa chắc bay ra khỏi nơi đây.”
Bắc viện đại vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau thất sắc, biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân mà khiếp sợ.
Quân địch nổi trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng chỉ huy trung quân hét lớn: “Đánh trống!” Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng khua lên ầm ầm. Bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang trời dậy đất, cầm trường mâu xông thẳng qua.
Khi quân tiền phong của địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng trống của ngự doanh im bặt, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra, quân tiền phong bên địch tới tấp ngã ngựa. Nhưng kẻ trước ngã, người sau lại xông lên, thi thể quân mã đi trước biến thành mộc chắn cho những đội sau. Quân cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân đã xông được tới nơi, bắn tên vào ngự doanh.
Lúc đầu Gia Luật Hồng Cơ quả có khiếp sợ, nhưng khi vào trận lập tức dũng khí nổi lên, đứng trên cao tay cầm trường đao, ra hiệu lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc chiến đều hô lớn: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!” Bên địch nghe tiếng hồ vạn tuế, ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng Cơ mặc áo vàng giáp vàng đứng trên đài cao trong ngự doanh, nhất thời sự uy phong của ông nên chùn lại không dám tiến. Hồng Cơ thấy có cơ hội liền quát lớn: “Kỵ binh tả quân xông ra!”
Tả quân do Bắc viện khu mật sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền xông ra bao vây quân địch. Loạn quân còn đang do dự, quân ngự doanh đã tới nơi, trận thế bên địch lập tức đại loạn. Trống của ngự doanh khua liên hồi như sấm, quân địch chỉ tiếp chiến được một lát phải rút về, quân ngự doanh liền xông lên truy sát, khí thế cực kỳ mãnh liệt.
Tiêu Phong cả mừng la lên: “Đại ca! Trận này phe ta đại thắng rồi.” Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân tiếp viện. Đột nhiên có tiếng tù và nổi lên, quân chủ lực của phản loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh. Trong chớp mắt vũ tiễn trường mâu phòng vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu trời, máu me vương vãi. Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: “Cảnh ác đấu như thế này bình sinh ta chưa được thấy. Một người có bản lĩnh thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng làm gì được, tự bảo vệ mình là may. Cuộc giao chiến của đại quân không thể so sánh với cuộc tỉ đấu trong võ lâm được.”
Bỗng nghe hiệu thanh la từ phía sau phản quân ra lệnh thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui, tên liền bắn ra như mưa để chặn đường. Trung quân tướng quân và Bắc viện khu mật sứ xung phong ba lần nhưng không đột phá được trận thế của địch, lại còn bị bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ ra lệnh: “Sĩ tốt tử thương nhiều quá, hãy tạm lui quân!” Lập tức ngự doanh cũng nổi hiệu thanh la thu binh.
Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông lên tập kích, nhưng ngự quân đã phòng bị trước, giả vờ thua chạy, rồi hai cánh quân đánh ập vào vây được ba nghìn phản quân vào giữa, có mấy trăm tên xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm hàng quân. Trận ác đấu chưa tới một giờ mà cảnh chém giết đã cực kỳ thảm khốc.
Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống ở giữa đầy rẫy xác người, những kẻ bị thương rên rỉ kêu la thật là thê thảm. Mỗi bên lại có một đội quân áo đen khoảng ba trăm người xông ra, quân ngự doanh đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng. Tiêu Phong tưởng bọn này ra tìm người bị thương để cứu chữa, không ngờ hai đội áo đen rút đao ra giết sạch thương binh của đối phương. Khi những người bị thương chết hết rồi, sáu trăm người đó hú lên một tiếng, quay sang đấu với nhau.
Sáu trăm quân áo đen đều có võ công không tệ. Hai bên ra sức ác đấu, đao quang lấp loáng, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém lăn ra. Bọn áo đen ngự doanh đội mũ vàng có võ công cao hơn, chỉ bị giết chừng vài chục người. Cục diện biến thành hai ba người đánh một, thắng bại đã rõ ràng, thêm một lúc nữa, đã trở thành ba bốn người đánh một. Thế nhưng binh tướng hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản loạn không hề cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân còn sống khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là người Liêu có thể lệ đánh nhau như thế.” Cuộc ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn nhưng cực kỳ kinh tâm động phách.
Hồng Cơ giơ cao trường đao, lớn tiếng nói: “Nghịch quân tuy nhiều nhưng tướng sĩ không có lòng chiến đấu. Ta đánh thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy thôi.” Ngự quân nhất tề hoan hô: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”
Bỗng bên phản quân có hiệu tù và, năm người cưỡi ngựa chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay cầm một tấm da cừu, dõng dạc đọc chiếu thư của Hoàng thái thúc: “Gia Luật Hồng Cơ soán vị, chỉ là ngụy quân. Hiện nay Hoàng thái thúc đã lên ngôi chính thống. Quan binh trung thành của nước Liêu thì nội hôm nay phải về qui thuận, mỗi người được thăng ba cấp.” Mười mấy tay cung nỏ bên ngự quân liền bắn tên ra veo véo nhằm vào gã đọc chiếu thư. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên che đỡ, gã kia vẫn tiếp tục đọc. Năm con ngựa cũng bị bắn ngã, nhưng năm gã vẫn nấp sau thuẫn bài đọc cho hết chiếu thư của Hoàng thái thúc, rồi mới quay về bản trận.
Bắc viện đại vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ động tâm, liền quát lớn: “Ra mắng lại đi!” . Ba chục tên lính liền bước ra khoảng chục trượng, hai chục tên cầm thuẫn bài che đỡ cho mười tên mạ thủ mồm to giọng lớn. Tên thứ nhất bắt đầu thóa mạ: “Những tên phản quốc gian tặc kia! Chúng bay chết không có đất mà chôn đến nơi rồi!” Tên thứ hai lại chửi tiếp, càng về sau càng thô tục. Tiêu Phong biết tiếng Khất Đan chẳng bao nhiêu, ngôn từ của mấy tay mạ thủ này có nhiều chỗ ông không hiểu, nhưng thấy Gia Luật Hồng Cơ gật đầu lia lịa ra chiều đắc ý thì chắc rằng chúng đã chửi bới một cách hay ho.
Tiêu Phong nhìn qua trận thế bên địch, thấy xa xa có chỗ lọng vàng cờ tiết rực rỡ, hai người cưỡi ngựa cầm roi chỉ trỏ. Một người thân khoác hoàng bào, đầu đội mũ bình thiên, chòm râu dài đã hoa râm. Người kia mặc giáp vàng lấp lánh, gương mặt gầy nhom nhưng dáng vẻ tinh anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Xem ra thì đây là cha con Hoàng thái thúc và Sở vương.”
Mười tên mạ thủ bỗng thì thầm thương nghị một hồi, rồi lại ngoạc mồm gân cổ bới móc những chuyện xấu xa của đối phương. Nhưng dường như Hoàng thái thúc là người chính trực không chửi mắng vào đâu được, nên cả mười tên chỉ xỉa xói toàn chuyện Sở vương, nào là gian dâm phi tử của phụ thân, nào là cậy thế cha làm điều càn rỡ. Hiển nhiên là những lời đó là để ly gián cha con. Cả mười tên đồng thanh chửi bới vừa to vừa nhịp nhàng, thanh âm vọng ra xa đến mấy dặm, mấy chục vạn quân địch có đến quá nửa nghe được rõ ràng.
Sở vương vẫy roi ngựa một cái, phản quân cũng là lối om sòm, lập tức át hết giọng mười tên mạ thủ kia. Hai bên chửi nhau loạn xạ một lúc nữa, trận thế địch quân bỗng rẽ ra, mấy chục chiếc xe được đẩy đến phía trước quân ngự doanh. Bọn lính đẩy xe lôi từ trong xe ra mấy chục phụ nữ, từ bà lão tóc bạc phơi đến thiếu nữ đang xuân, ai cũng ăn mặc cực kỳ sang trọng. Bọn phụ nữ vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức im bặt.
Gia Luật Hồng Cơ kêu thét lên: “Mẫu thân ơi! Mẫu thân! Hài nhi phải bắt bọn phản nghịch, phân thây muôn đoạn để mẫu thân vui lòng hả dạ.”
Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẫu thân của Gia Luật Hồng Cơ, ngoài ra còn Tiêu hoàng hậu và các phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở vương nhân dịp Hồng Cơ ra ngoài đi săn, nổi loạn vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu cùng hết thảy gia quyến nhà vua.
Hoàng thái hậu lớn tiếng nói: “Bệ hạ đừng nghĩ gì đến thân già này cùng thê tử, phải ra sức dẹp loạn giết giặc.” Mấy chục tên lính liền rút trường đao kề vào cổ đám hậu phi, mấy cô còn trẻ kinh hãi khóc òa lên.
Gia Luật Hồng Cơ cả giận quát to: “Bắn chết bọn đang khóc cho ta!” Hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra vèo vèo, mấy phi tần đang khóc bị trúng tên lăn ra chết hết.
Hoàng hậu reo lên: “Bệ hạ bắn là phải lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể để rơi vào tay bọn gian thần tặc tử!”.
Sở vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều quật cường như thế, chẳng những không uy hiếp được Hồng Cơ mà còn làm dao động quân tâm bên mình, bèn ra lệnh: “Bỏ bọn đàn bà lên xe, đẩy lui lại.” Bọn quân sĩ liền lùa bọn Hoàng thái hậu, Hoàng hậu lên xe đẩy ra sau trận tuyến. Sở vương lại hạ lệnh: “Đem gia quyến quân địch ra”.
Chợt nghe tiếng sáo trúc nổi lên thật thê lương, quân mã lại rẽ sang hai bên, rồi tiếng xích sắt khua loảng xoảng, một đoàn dài già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát, hai bên đều nổi lên tiếng khóc vang trời. Thì ra đây là gia quyến của quân ngự doanh. Tướng sĩ trong ngự doanh đều là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ đặc biệt ưu đãi nên cho gia quyến của họ được vào ở Thượng Kinh, một là để họ đem lòng cảm kích, khi có việc sẽ ra sức liều thân, hai là để đề phòng khiến đội quân tinh nhuệ này không dám hài lòng. Ngờ đâu lần đi săn này, mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia quyến của quân ngự doanh phải đến hơn hai chục vạn người, số bị giải đến trận tiền bất quá ba vạn, trong đó còn có vô khối người bị bắt nhầm nhưng chưa phân biệt được, thành thử tình hình lại càng rối loạn.
Sở Vương sai một tên tướng giục ngựa chạy ra, lớn tiếng nói: “Quan binh ngự doanh nghe đây! Gia quyến các ngươi đã bị bắt hết rồi, ai đầu hàng thì được sum họp gia đình, thăng quan ba cấp lại còn trọng thưởng. Còn tên nào không đầu hàng thì tân hoàng đế đã có lệnh đem gia quyến ra chém hết.” Người Khất Đan vốn tàn nhẫn hiếu sát, hai chữ “chém hết” không phải là hăm dọa suông. Trong đám quân ngự doanh có người nhận ra thân thuộc mình bèn cất tiếng kêu, thế là “Gia gia! Má má! Hài tử! Phu quân! Hiền thê!” hai bên gọi nhau ơi ới.
Trong trận của nghịch quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ bước ra, tay cầm đại đao sáng loáng. Tiếng trống vừa ngừng lại, hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia quyến của ngự quân doanh. Viên tướng vừa rồi lại quát lên: “Ai về đầu hàng tân hoàng đế sẽ có trọng thưởng. Ai không hàng thì gia quyến bị giết sạch.” Y giơ tay lên, tiếng trống lại bắt đầu nổi lên.
Tướng sĩ bên ngự doanh biết rằng một khi y phất tay, hồi trống sẽ dứt, hai nghìn thanh đại đao kia sẽ chém xuống. Đám thân binh này vẫn một lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở vương có đem thăng quan cùng trọng thưởng ra dụ dỗ cũng không ăn nhằm gì, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con vươn cổ chờ chém, sao lại không hoảng sợ?
Tiếng trống vẫn thúc liên hồi, quả tim trong lồng ngực đám quân ngự doanh cũng đập theo nghe thình thình. Đột nhiên trong ngự doanh có một người chạy ra kêu lớn: “Má má ơi! Má má! Đừng giết má má của ta!” Y quăng trường mâu xuống, hộc tốc chạy về phía một bà lão trong đám địch quân.
Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh bắn ra, trúng ngay giữa lưng người nọ. Hắn chưa chết ngay, vẫn tiếp tục lao về phía mẫu thân. Thế là tiếng gọi nhau ơi ới bắt đầu ồn ào vang dậy, mấy trăm người trong ngự doanh chạy ùa ra. Những tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém lia lịa mà cũng không ngăn nổi. Thoạt tiên có mấy trăm người chạy qua, chẳng mấy chốc đã là mấy nghìn người. Sau đó trận thế liền hỗn loạn, trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua đã có đến sáu bảy vạn chạy qua bên địch.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, biết rằng đại cuộc đã hỏng. Ông nhân cơ hội bọn thân quân đang tìm kiếm gia quyến, tình hình náo loạn làm đối phương không truy kích được, lập tức ra lệnh: “Nhổ trại, rút lui về dãy núi phía tây bắc.” Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra cho hơn tám vạn quân chưa đầu hàng. Hậu quân đổi thành tiền quân, cả đoàn rút lui về hướng tây bắc.
Sở vương lập tức sai kỵ binh đuổi theo, nhưng trên chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu làm nghẽn cả lối đi, ngựa chạy không nhanh được. Đến khi dẹp được đường thì Gia Luật Hồng Cơ cùng quân ngự doanh đã chạy xa rồi.
Tám vạn thân quân chạy đến chân núi thì trời đã hoàng hôn, quân sĩ vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, làm thế phòng ngự từ trên cao đánh xuống. Doanh trại vừa dựng xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến dưới chân núi, lập tức xung phong lên. Quân ngự doanh bắn tên lăn đá như mưa, đẩy lùi quân phản loạn. Sở vương thấy từ dưới tấn công lên không có lợi, đành tạm thu binh, dựng trại ở chân núi.
Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng trên sườn núi nhìn về phía nam thấy doanh trại nghịch quân đèn đuốc như sao sa, xa xa lại có ba con rồng lửa ngoằn ngoèo, chính là ba đạo nghịch quân kéo đến tiếp viện. Ông buồn bã trong lòng, đang định vào trướng thì Bắc viện khu mật sứ lại đến bẩm: “Một vạn năm nghìn quân mã dưới trướng hạ thần đã chạy xuống núi đầu hàng quân phản nghịch. Hạ thần trị quân không nghiêm, tội đáng muôn thác.” Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói: “Không phải lỗi của ngươi, thôi vào nghỉ đi.”
Ông quay đầu lại, thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa xa, liền bảo: “Đến sáng mai, phản quân sẽ đem toàn lực tấn công, chúng ta sẽ bị bắt hết. Ta là vua một nước, không thể chịu nhục với bọn phản đồ, đành tự vẫn báo đền xã tắc. Hiền đệ nên nhân lúc trời tối trốn đi. Ngươi võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.” Đến đây vẻ mặt nhà vua đầy vẻ thê lương, nói tiếp: “Ta đang định phong cho hiền đệ một chức quan to để chung hưởng phú quí, có ngờ đâu tính mạng người anh này cũng chẳng giữ được, lại làm lụy đến cả ngươi.”
Tiêu Phong đáp: “Đại ca! Đại trượng phu phải lúc co lúc duỗi. Hôm nay tình hình không lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca trốn khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi lại tính sau.” Hồng Cơ lắc đầu: “Ta không giữ nổi tính mạng cho lão mẫu cùng thê tử, sao còn được gọi là đại trượng phu? Đối với người Khất Đan, kẻ thắng là anh hùng, kẻ thua là phản nghịch. Ta thua một trận tan tành, còn mong gì trung hưng cơ nghiệp? Hiền đệ tự trốn đi thôi!”
Tiêu Phong biết ông nói thực tình, liền khẳng khái đáp: “Đã thế thì ngày mai tiểu đệ cùng với ca ca quyết một trận tử chiến với quân phản nghịch. Chúng ta đã kết nghĩa kim lan thì ca ca là hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, cũng là nghĩa huynh của Tiêu mỗ. Huynh trưởng gặp nạn thì kẻ làm em phải đồng sinh công tử, lẽ nào lại bỏ chạy một mình?”
Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay chàng, nói: “Hảo hiền đệ, ta xin đa tạ.” Tiêu Phong quay vào trong trướng thấy A Tử nằm co ở một góc, đôi mắt to mở tròn, thì ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi: “Tỉ phu có giận muội không?” Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Sao ta lại giận cô?” A Tử đáp: “Cũng tại muội chẳng ra gì. Giả tỉ muội không đòi ra đại thảo nguyên du ngoạn thì tỉ phu đâu có bị khốn ở đây. Tỉ phu! Chúng mình đành chịu chết tại chốn này rồi phải không?”
Ánh lửa từ bên ngoài hắt vào lều, chiếu lên khuôn mặt xanh xao trông có vẻ ngây thơ non nớt của nàng một chút ánh hồng. Tiêu Phong trong lòng cực kỳ thương xót, dịu dàng đáp: “Ta giận cô thế nào được? Nếu ta không đả thương cô thì chúng mình đã không đến chốn này.” A Tử mỉm cười nói: “Nhưng nếu muội không phóng độc châm thì việc gì tỉ phu lại đả thương muội?”
Tiêu Phong đưa bàn tay to bè vuốt tóc nàng. Từ lúc A Tử bị trọng thương, tóc rụng mất quá nửa, chỗ còn lại vừa vàng vừa thưa thớt, Tiêu Phong thở dài, nói: “Cô còn bé bỏng thế này mà đã chịu khổ sở vì ta.” A Tử nói: “Tỉ phu ơi! Trước kia muội không hiểu vì sao tỉ tỉ lại thích tỉ phu, bây giờ thì hiểu rồi.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Tỉ tỉ của ngươi đối với ta tình nghĩa thâm trọng, ngươi còn con nít đã biết gì. Thực ra, vì sao A Châu lại yêu một kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng chẳng hiểu thì ngươi làm sao mà hiểu được?” Chàng nghĩ tới đây, buồn bã lắc đầu.
A Tử nghiêng đầu nhìn chàng rồi hỏi: “Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó muội lại bắn độc châm chưa? Muội chẳng muốn bắn chết tỉ phu, mà chỉ muốn tỉ phu không cử động được, để muội được kề cận bên mình.” Tiêu Phong thấy kỳ lạ, hỏi lại: “Như thế để làm gì?”
A Tử mỉm cười đáp: “Tỉ phu không cử động được thì vĩnh viễn không thể xa muội. Nếu không thì tỉ phu có coi muội ra gì đâu, lúc nào cũng có thể bỏ đi, không thèm nhìn đến muội nữa.”
Tiêu Phong nghe nàng nói đầy vẻ trẻ con, nhưng hoàn toàn không phải hồ đồ. Chàng chột dạ nghĩ thầm: “Đằng nào sáng mai cũng phải chết, thôi thì an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao”, bèn nói: “Cô đúng là con nít. Nếu cô muốn đi theo ta thì sao không nói thẳng ra, xem ta có bằng lòng không?”
Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng ngời, lộ vẻ vui mừng nói: “Tỉ phu ơi! Sau khi khỏi bệnh rồi, muội muốn đi theo tỉ phu, vĩnh viễn không quay lại chỗ sư phụ ở phái Tinh Tú nữa. Tỉ phu đừng bỏ muội nhé!”
Tiêu Phong biết cô nàng đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, đúng là chẳng dám quay về. Chàng cười nói: “Cô là đại sư tỉ thừa kế môn phái, nếu không quay về thì họ như rắn mất đầu, làm sao cho tiện?” A Tử cười khanh khách đáp: “Muội cứ mặc kệ, để bọn chúng rối loạn bát nháo lên càng hay.”
Tiêu Phong kéo chăn đắp đến cổ cho nàng, rồi tới một góc lều trải chăn da thú nằm ngủ. Lửa bên ngoài chập chờn mờ tỏ, có tiếng khóc văng vẳng, ắt hẳn là quân ngự doanh nhớ đến người thân. Những người ở lại cũng biết sáng mai tính mạng khó toàn, có điều trung thành với hoàng thượng nên không phản bội.
Sáng sớm hôm sau Tiêu Phong tỉnh dậy, dặn Thất Lý chuẩn bị ngựa tốt, lo cho A Tử. Chàng vận y phục gọn ghẽ, ăn một cân thịt cừu, uống ba cân rượu, rồi đi ra sườn núi. Khi đó trời còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh nổi tù và ù ù, giáp trụ võ khí chạm nhau loảng xoảng không dứt. Từng đội binh mã kéo trong doanh trại ra, phòng thủ những nơi xung yếu. Tiêu Phong đứng trên cao nhìn xuống thấy ba phía đông, nam và đông nam, chỗ nào cũng đầu người lố nhố, toàn là phản quân. Xa xa còn sương mù bao phủ, thành thử trận thế loạn quân không biết tới đâu mới hết.
Vầng thái dương từ chân trời nhô lên, tỏa ra muôn ngàn tia nắng, màn sương tan dần, thì ra dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã phản nghịch. Tiếng trống vang dội khắp nơi. Hai đội quân địch cầm cờ vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc cùng Sở vương cưỡi ngựa đến dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên bàn tán.
Gia Luật Hồng Cơ đang cùng đám thị vệ đứng trên sườn núi, thấy vậy lửa giận bốc lên, cầm lấy cung tên trong tay một tên quân hầu, giường thẳng nhắm vào Sở vương bắn ra một mũi. Từ trên cao nhìn xuống tưởng chừng như khoảng cách không xa, thực ra phải đến mấy tầm tên, mũi tên bay chưa được nửa đường đã rơi xuống đất.
Sở vương cười ha hả lớn tiếng nói: “Hồng Cơ! Ngươi cướp ngôi vua của phụ thân ta, làm ngụy quân đã lâu rồi, bây giờ phải nhường lại thôi. Ngươi mau mau đầu hàng, phụ thân ta sẽ tha cho khỏi chết, lại còn khai ân phong cho ngươi làm Hoàng thái điệt! Ha ha!” Hiển nhiên là y mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa.
Hồng Cơ cả giận mắng lại: “Đồ phản tặc vô liêm sỉ! Ngươi còn mở miệng nói càn nữa ư?”
Bắc viện khu mật sứ kêu lên: “Chúa bị nhục thì bẩy tôi phải chết. Chúa thượng đối với hạ thần ơn nặng như non, hôm nay chính là lúc hạ thần đáp nghĩa.” Y liền dẫn ba nghìn thân binh, gầm thét vang trời từ trên cao xông xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ Khất Đan, phen này đã chấp nhận cái chết, thành thử có thể một đánh mười. Chỉ nghe tiếng thét vang động cả một góc trời, máu chảy thịt rơi, ba nghìn quân mỗi lúc một ít dần, sau cùng chết hết. Bắc viện khu mật sứ cố giết thêm mấy tên, rồi đâm cổ tự vẫn. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao nhìn xuống rất rõ nhưng không làm sao cứu được, nghĩ đến lòng trung nghĩa của Bắc viện khu mật sứ, ai nấy đều sa nước mắt.
Sở vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói: “Hồng Cơ! Ngươi đã chịu hàng chưa? Ngươi chỉ còn một nhóm quân mã thì làm gì được? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại Liêu, sao ngươi nỡ bắt họ chết uổng theo? Là nam nhi đại trượng phu thì phải quyết đoán mau lẹ, hàng thì hàng cho chóng, đánh thì đánh ngay. Còn nếu ngươi biết khí số đã hết thì nên tự sát để tạ tội với thiên hạ, khỏi làm uổng mạng sĩ tốt.”
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hai mắt đẫm lệ, rút đao ra nói: “Thôi thì ta nhường giang sơn gấm vóc này cho cha con nhà ngươi. Ngươi nói không sai, chúng ta là người một nhà, cốt nhục tương tàn, chẳng lý nào làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.” Nói xong, ông vung đao lên toàn đâm vào cổ mình.
Tiêu Phong vươn tay đoạt ngay thanh đao, nói: “Đại ca! Anh hùng hảo hán có chết cũng chết ở chiến trường, sao lại tự vẫn?” Hồng Cơ thở dài: “Hiền đệ ơi! Tướng sĩ ở đây đều theo ta đã lâu, ta đành chết còn hơn là để họ bỏ mạng vì ta.”
Sở vương lại lớn tiếng giục: “Hồng Cơ! Ngươi chờ đến bao giờ mới tự vẫn?” Tay gã cầm roi chỉ thẳng vào mặt nhà vua, ra chiều phách lối vô cùng. Tiêu Phong thấy y mỗi lúc một đến gần, trong lòng chợt động, khẽ nói: “Đại ca cứ nói chuyện kéo dài thời gian, để tiểu đệ lẻn tới gần bắn y một mũi.”
Hồng Cơ biết ông bản lãnh cao cường, mừng rỡ nói: “Thế thì tuyệt diệu! Nếu bắn chết được y thì ta có chết cũng nhắm mắt.” Ông liền cất cao giọng nói: “Sở vương! Ta đãi cha con nhà ngươi không bạc, giả tỉ phụ thân người muốn làm hoàng đế thì cứ nói ra, việc gì phải làm chết bao nhiêu tướng sĩ cùng bá tính, làm tổn thương nguyên khí nước Đại Liêu?”.
Tiêu Phong lấy một cây cung cứng, giắt mười mũi tên răng chó sói, dẫn một con tuấn mã lẻn qua một bên sườn núi, rùn người nấp dưới bụng ngựa, hai chân quặp ngược lên yên, lấy gót chân thúc một cái, con ngựa liền chạy thẳng xuống. Bọn phản quân dưới núi thấy một con ngựa không có người cưỡi, tưởng là sút dây cương chạy lạc, chuyện đó vẫn thường xảy ra nên chẳng ai để ý làm gì. Nhưng một lúc sau, quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có người, lập tức hô hoán ầm ĩ.
Tiêu Phong dùng chân thúc ngựa xông thẳng vào Sở vương. Lúc ông thấy chỉ còn cách hai trăm bước, vẫn nép dưới bụng ngựa giương cung lên, bắn y một mũi nghe vù một tiếng. Tên vệ sĩ đứng cạnh Sở vương liền đưa mộc lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong vẫn giục ngựa chạy tới, bắn phát thứ hai giết ngay tên vệ sĩ kia, phát tên thứ ba lại nhắm vào ngực Sở vương.
Sở vương mắt tinh tay lẹ, vung roi ngựa ra gạt trúng mũi tên. Thuật dùng roi gạt tên vốn là tuyệt kỹ của y, nhưng không ngờ người bắn tên sức mạnh phi thường, nội kình dồn vào mũi tên. Cây roi ngựa gạt trúng nhưng chỉ làm cho mũi tên bay lệch đi một chút, cắm vào vai y nghe sột một tiếng. Sở vương kêu lên “Chao ôi!”, đau quá gục xuống yên ngựa.
Mũi vũ tiễn thứ tư của Tiêu Phong lại đến, lần này khoảng cách gần quá, trúng vào hông xuyên thẳng qua ngực. Sở vương chỉ giãy được một cái, lăn từ lưng ngựa xuống đất. Tiêu Phong vừa ra tay đã đắc thủ, nghĩ thầm: “Ta phải thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc.”
Sở Vương trúng tên ngã ngựa, địch quân kêu la ầm ĩ, mấy trăm mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong bắn tới. Chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng đầy tên, biến thành một con nhím to.
Tiêu Phong lăn dưới đất mấy vòng, nấp dưới bụng một con ngựa địch quân, thi triển chút tiểu xảo công phu, cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác. Địch quân không sao bắn tên được, bèn dùng trường mâu mà đâm tới tấp. Tiêu Phong luồn trái lách phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân địch nhốn nháo cả lên, mấy nghìn quân xô đẩy chen chúc, tưởng chừng giẫm cả lên nhau, nhưng không sao đâm trúng chàng được.
Tiêu Phong đang sử dụng địa đường công phu thật tầm thường của võ lâm Trung Nguyên. Những thứ địa đường quyền, địa đường đao, địa đường kiếm, cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ bàn bên địch. Bây giờ chàng áp dụng trong chiến trận, mắt nhanh tay lẹ, chỉ cố tránh không bị ngựa xéo lên. Chàng lăn về hướng Hoàng thái thúc đang đứng, nhắm thẳng vào y bắn vun vút ba mũi tên.
Bọn vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã thấy Sở vương bị trúng tên, dĩ nhiên đề phòng cẩn mật. Hơn ba chục tên cùng giơ mộc che Hoàng thái thúc kín mít. Ba tiếng keng keng, ba mũi tên đều đụng phải thuẫn bài rơi xuống đất. Tiêu Phong mang theo mười mũi tên đã bắn hết bảy, chỉ còn lại ba. Chàng thấy ba chục tên quân dựng thuẫn che đỡ, muốn dùng ba mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ cũng đã khó, thật sự không thể bắn được Hoàng thái thúc. Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận địch, phía sau mấy nghìn quân kỵ cầm mâu đuổi tới, phía trước là thiên quân vạn mã, đúng là bị hãm vào nơi tuyệt địa. Hôm nọ chàng đơn thân chống lại quần hùng Trung Nguyên, đối phương chỉ vài trăm người cũng đã nguy hiểm lắm rồi, nhờ người đến cứu mới thoát chết. Hôm nay bị mấy vạn người vây khốn, làm sao mà thoát được?
Trong lúc cùng đường, chàng hú lên thật to, tung mình nhảy vọt lên, qua hết ba chục tên cầm thuẫn, đáp xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Lão hoảng hốt, vung roi ngựa lên đánh luôn vào mặt chàng.Tiêu Phong lạng người qua tránh, nhảy phốc lên yên ngựa Hoàng thái thúc, vung tay chộp trúng lưng lão. Chàng giơ cao người lão lên, quát hỏi: “Ngươi muốn sống hay muốn chết? Muốn sống thì mau mau bảo mọi người hạ binh khí xuống.” Hoàng thái thúc sợ đến hồn vía lên mây, chàng nói gì hình như lão cũng không nghe thấy.
Lúc đó loạn quân la hét inh ỏi nghe điếc cả tai, hàng ngàn hàng vạn người đều lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu Phong, nhưng Hoàng thái thúc bị chàng nắm giữ trong tay nên chẳng tên nào dám bắn.
Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn: “Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân bỏ binh khí xuống để nghe tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, đại xá tam quân, không truy cứu ai.” Mấy câu đó trung khí đầy dẫy, át hết tiếng người ồn ào, xa đến mấy dặm còn nghe thấy. Mấy chục vạn quân trước núi sau núi, đến quá nửa nghe được rõ ràng.
Tiêu Phong đã rút kinh nghiệm vụ nổi loạn của Cái Bang, hiểu rõ tâm tư loạn quân. Đang phản nghịch mà thất bại, người nào cũng chỉ cầu được miễn tội, nếu được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu tự nhiên mất hết. Hiện giờ phản quân thế mạnh, mà Gia Luật Hồng Cơ chỉ còn bảy tám vạn quân, nhân số quá chênh lệch không thể chống nổi. Trong lúc khẩn cấp, ông không kịp xin ý kiến Hồng Cơ, phải tuyên bố mấy câu cho quân phản loạn yên tâm.
Mấy câu nói dõng dạc của Tiêu Phong vừa truyền ra, tiếng huyên náo của quân phản loạn liền lắng xuống, chúng ngơ ngác nhìn nhau, trong lòng hoang mang không có chủ đích gì cả.
Tiêu Phong hiểu rằng tình thế lúc này cực kỳ nguy hiểm, chỉ cần một người trong quân địch hô hào bất phục, mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ gây đại biến. Chàng không dám chần chừ một giây phút nào nữa, lại lớn tiếng hô: “Hoàng thượng có chỉ dụ, tướng sĩ nghịch quân bất luận lớn nhỏ, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết không truy cứu. Quan quân đều được giữ nguyên chức tước, tất cả mau bỏ khí giới xuống!”
Không gian đang lặng như tờ, đột nhiên có tiếng loảng xoảng, mấy tên lính liệng bỏ trường mâu. Tiếng loảng xoảng này lây lan rất mau, chỉ trong giây lát có đến một nửa nghịch quân vứt binh khí, nửa còn lại trù trừ chưa quyết định.
Tiêu Phong dùng tay trái giơ Hoàng thái thúc lên cao, giục ngựa chạy lên núi, phản quân không dám ngăn trở, ngựa chàng đi đến đâu là phía trước lại tránh ra nhường lối.
Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng núi, hai toán quân ngự doanh liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi chiêng trống vang lừng.
Tiêu Phong nói: “Hoàng thái thúc! Mau mau ra lệnh cho thuộc hạ bỏ khí giới đầu hàng, sẽ được tha mạng.” Hoàng thái thúc run run hỏi lại: “Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?”
Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy còn nhiều phản quân vẫn nắm cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa qua. Chàng nghĩ thầm: “Bây giờ việc trấn tĩnh quân tâm là quan trọng nhất. Một mạng Hoàng thái thúc sống hay chết chẳng đáng gì, chỉ cần giám thị kỹ càng là y không thể làm bậy được nữa.” Chàng liền nói: “Đây là cơ hội để lập công chuộc tội. Bệ hạ đã biết việc này đều do Sở vương gây ra, nhất định sẽ tha chết cho Hoàng thái thúc.”
Hoàng thái thúc vốn không nghĩ đến việc tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con lão là Sở vương có dã tâm mà gây họa. Lúc này lão đã bị bắt, chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp: “Được! Ta theo lời ngươi.”
Tiêu Phong đặt ông ta ngồi trên yên ngựa rồi dõng dạc nói: “Tam quân nghe đây! Hoàng thái thúc có chỉ thị!”
Hoàng thái thúc lớn tiếng hô: “Người gây nên bạo loạn là Sở vương đã chết rồi. Hoàng thượng khoan hồng đại lượng tha tội cho mọi người. Các ngươi mau mau hạ khí giới rồi đến trước Hoàng thượng mà xin tha thứ.”
Hoàng thái thúc đã nói như thế, loạn quân biến thành rắn mất đầu. Tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không dám chống lại, lập tức nghe tiếng loảng xoảng liên hồi, toàn bộ loạn quân đều vứt binh khí xuống đất.
Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu đất trống trên núi. Gia Luật Hồng Cơ mừng không nói hết, chẳng khác gì đang nằm mơ, tiến đến bên Tiêu Phong nắm hai tay chàng mà nói: “Hiền đệ ơi! Hiền đệ ơi! Giang sơn này của ca ca, từ nay anh em ta chung hưởng.” Ông nói đến đây cảm động quá, bất giác nước mắt ròng ròng.
Hoàng thái thúc quì dưới đất nói: “Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin rủ lòng thương xót.” Gia Luật Hồng Cơ hoan hỉ vô cùng, quay sang hỏi Tiêu Phong: “Hiền đệ nghĩ sao?” Tiêu Phong đáp: “Phản quân người nhiều thế mạnh, bây giờ cần nhất là an định quân tâm. Xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để mọi người được yên lòng.”
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao, ta làm vậy.” Ông quay lại bảo Bắc viện đại vương: “Ngươi truyền thành chỉ, phong Tiêu Phong tước Sở vương, giữ chức Nam Viện đại vương, thống lĩnh nghịch quân trở về Thượng Kinh.”
Tiêu Phong nghe nói giật mình. Chàng giết Sở vương, bắt Hoàng thái thúc chỉ vì muốn cứu mạng nghĩa huynh, không hề có lòng ham muốn tước lộc. Bỗng nhiên được Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế, chân tay luống cuống, sững sờ không biết nói sao. Bắc viện đại vương quay sang Tiêu Phong, chắp tay nói: “Cung hỉ! Cung hỉ! Tước Sở vương xưa nay chưa phong cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng đi.” Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ: “Hôm nay chỉ nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân qui thuận về bệ hạ mà bình định được nội loạn. Tiểu đệ chỉ góp chút sức nhỏ mọn, có chi đáng gọi là công lao? Hơn nữa, tiểu đệ không biết làm quan, cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thánh mệnh.”
Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả, đưa tay nắm lấy vai Tiêu Phong mà nói: “Ở nước Liêu ta, tước Sở vương, hàm Nam viện đại vương là cao quý nhất rồi. Giả tỉ hiền đệ còn chê nhỏ không chịu nhận thì ca ca phải nhường cả ngôi vua cho hiền đệ, không còn cách nào khác.”
Tiêu Phong giật mình nghĩ thầm: “Ca ca vui sướng quá, nói năng chẳng giữ gìn nữa. Tình hình lúc này cần quyết đoán mau lẹ, nếu ta chần chờ có khi sinh họa”. Chàng đành quì xuống nói: “Thần là Tiêu Phong tiếp chỉ, đa tạ vạn tuế gia khai ân.” Gia Luật Hồng Cơ tươi cười đưa tay đỡ chàng dậy. Tiêu Phong lại nói: “Hạ thần không dám nghịch chỉ nên phải lãnh quan tước. Có điều thần là kẻ thảo dã thô hào, không hiểu pháp độ triều đình. Nếu sau này có phạm lỗi, mong được bệ hạ khoan hồng.”
Gia Luật Hồng Cơ vỗ vỗ lên vai chàng, cười nói: “Không sao cả đâu.” Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca: “Gia Luật Mạc Ca! Ta phong ngươi làm Nam viện khu mật sứ, phò tá Tiêu đại vương phụ trách quân quốc trọng sự.” Gia Luật Mạc Ca cả mừng, vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó khom lưng tham bái Tiêu Phong, nói: “Thuộc hạ tham kiến đại vương.” Hồng Cơ nói: “Mạc Ca! Ngươi xin lệnh Tiêu đại vương, thống lĩnh nghịch quân quay về Thượng Kinh. Chúng ta đến vấn an Hoàng thái hậu.”
Trên núi chiêng trống nổi tưng bừng, Gia Luật Hồng Cơ cùng bá quan đi xuống. Các loạn tướng đã đưa Hoàng thái hậu, Hoàng hậu các người ra khỏi tù xa, cung kính mời vào doanh trại. Gia Luật Hồng Cơ tiến vào trong trướng, mẹ con vợ chồng gặp nhau quả là cải tử hoàn sinh, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về. Ai nấy tấm tắc tán dương công lao vĩ đại của Tiêu Phong.
Gia Luật Mạc Ca lại dẫn Tiêu Phong đi gặp các bộ thuộc trong Nam viện. Lúc nãy Tiêu Phong xông pha trong chốn thiên quân vạn mã, thần dũng tuyệt luân, ai nấy đã thấy cả rồi. Quan quân Nam viện đều là thuộc hạ cũ của Sở vương nhưng một là Tiêu Phong thần oai lẫm liệt, mọi người đem lòng kính ngưỡng không dám không phục; hai là Sở vương tính tình nóng nảy chẳng được ai ưa; ba là bọn chúng vừa làm loạn phạm thượng, trong bụng nơm nớp lo âu; thành thử Tiêu Phong vừa đến là ai ai cũng nghe lệnh răm rắp.
Tiêu Phong nói: “Hoàng thượng đã miễn tội theo phản thần làm loạn cho các ngươi. Từ nay tất cả phải biết hối cải, đừng ăn ở hai lòng.” Một viên tưởng râu tóc bạc phơ tiến lên bẩm: “Bẩm đại vương! Hoàng thái thúc và Thế tử bắt giữ gia quyến chúng tôi, bức bách chúng tôi phải theo. Nếu như chống lại, Thế tử sẽ chém hết cả nhà, thành thử chúng tôi bất đắc dĩ mà phạm tội lỗi. Xin đại vương tâu cho thánh thượng rõ.”
Tiêu Phong gật đầu: “Nếu đã thế, từ nay những chuyện đã qua không nhắc đến nữa.” Chàng quay lại bảo Gia Luật Mạc Ca: “Cho tam quân nghỉ ngơi ăn uống xong, lập tức nhổ trại hồi kinh.”
Sau đó các quan chức lớn nhỏ trong Nam viện tiến lên tham kiến. Tiêu Phong chưa làm quan bao giờ nhưng đã là bang chủ Cái Bang nhiều năm, lãnh đạo quần hào một cách uy nghiêm. Việc chỉ huy quân Khất Đan với thống lĩnh hào kiệt Cái Bang không khác nhau nhiều, Tiêu Phong chỉ cần để ý một ít lề luật riêng của nước Liêu. Ngoài ra mọi sự đều do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào đấy.
Tiêu Phong thống lĩnh đại quân xuất phát chưa được bao lâu thì Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đã phái sứ giả tới trung quân ban tặng áo mũ vàng bạc. Tiêu Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử tới nơi. Cô nàng mặc áo gấm, cưỡi tuấn mã, nói là đều do Hoàng thái hậu ban cho, Tiêu Phong thấy thân hình loắt choắt của nàng lọt thỏm trong bộ cẩm bào rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon bị cổ áo che khuất đến một nửa thì không khỏi tức cười.
A Tử không được chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở vương, bắt sống Hoàng thái thúc, chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Khi người ta thuật lại chuyện gì, thể nào cũng thêm mắm thêm muối, nên công lao của Tiêu Phong lại càng thêm phần ly kỳ rùng rợn. A Tử vừa gặp chàng đã nói dỗi: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu lập đại công mà không chịu nói trước, để tiểu muội đứng trên sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải khoái không? Tỉ phu cứ làm tiểu muội lo sốt vó.” Tiêu Phong đáp: “Đó chẳng qua là hên vận lập được chút công, ta có tính trước được đâu? Cô nói chuyện thật là con nít.”. A Tử gọi: “Tỉ phu qua đây.” Tiêu Phong tiến đến bên nàng, thấy khuôn mặt xanh xao hơi ửng hồng và chiều phấn khởi, thân hình xúng xính trong bộ áo xiêm thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa buồn cười lại vừa khả ái. Chàng không nhịn được phá lên cười ha hả.
A Tử phụng phịu nói: “Muội nói chuyện đứng đắn mà sao tỉ phu lại cười, có gì khôi hài đâu?” Tiêu Phong đáp: “Ta thấy cô mặc bộ y phục này chẳng khác gì hình nộm, thật là thú vị.” A Tử hậm hực đáp: “Lúc nào tỉ phu cũng chỉ coi muội là một đứa trẻ con, cứ trêu chọc mãi.” Tiêu Phong vẫn cười: “Không phải thế đâu. A Tử ơi, lần này cứ tưởng hai huynh muội ta phải mất mạng, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy thôi. Còn những tước vị Nam viện đại vương, Sở vương gì gì đó ta thật không màng, được sống tốt là mừng lắm rồi”.
A Tử hỏi: “Tỉ phu cũng sợ chết sao?” Tiêu Phong ngẩn ngơ giây lát rồi gật đầu đáp: “Có chứ! Gặp lúc nguy hiểm ai mà chẳng sợ chết.” A Tử nói: “Muội lại tưởng tỉ phu là bậc anh hùng hảo hán không biết sợ chết. Nếu tỉ phu sợ chết, sao lại dám xông vào đám phản quân hàng nghìn hàng vạn?” Tiêu Phong đáp: “Cái đó gọi là xông vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không liều lĩnh xông vào thì chết chắc, không phải là dũng cảm hay không dùng cảm, mà là ở bước đường cùng phải thế. Tỉ như mình bao vây một con gấu hay một con cọp, nó không chạy được thì phải liều mạng quay lại cắn thôi.” A Tử mỉm cười nói: “Tỉ phu lại đem ví mình với giống súc sinh rồi.”
Lúc đó hai người đang cưỡi ngựa đi song song, đưa mắt nhìn ra thấy một vùng thảo nguyên cờ xí rợp trời, đội ngũ tề chỉnh dài dằng dặc không biết đến đâu là cùng, tứ phía đều là vệ sĩ cùng thuộc hạ.
A Tử vô cùng khoan khoái, nói: “Hôm trước tỉ phu giúp muội đoạt được chức đại sư tỉ phái Tinh Tú, muội nghĩ bụng trong phái Tinh Tú cả hai ba đời có đến mấy trăm đệ tử, ngoài sư phụ ra thì muội có quyền nhất, đã đắc ý lắm rồi. Nhưng bây giờ so với tỉ phu chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm vào đâu. Tỉ phu ơi, Cái Bang không cho tỉ phu làm bang chủ, ái chà, một cái bang hội nhỏ xíu đã lấy gì làm quí? Bây giờ tỉ phu đem binh mã tới giết sạch chúng cho được việc.”
Tiêu Phong lắc đầu lia lịa nói: “Cô lại nói chuyện trẻ con rồi. Ta là người Khất Đan, Cái Bang không cho ta làm bang chủ là phải. Trong Cái Bang toàn là thuộc hạ cùng bằng hữu cũ của ta, sao lại giết họ?” A Tử đáp: “Bọn chúng trục xuất tỉ phu ra khỏi bang, đối xử tệ bạc thì giết đi là phải. Không lẽ lúc này tỉ phu còn coi bọn họ là bằng hữu?”
Tiêu Phong không biết nói sao, chỉ lắc đầu, nhớ đến việc mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè ở Tụ Hiền Trang, không khỏi bùi ngùi.
A Tử lại hỏi: “Giả tỉ bọn chúng nghe tin tỉ phu làm Nam viện đại vương nước Liêu lại đâm ra hối hận, mời về làm bang chủ Cái Bang, thì tỉ phu về hay không về?” Tiêu Phong mỉm cười đáp: “Làm gì có chuyện đó? Anh hùng hảo hán ở Đại Tổng đều coi người Khất Đan là quân dã man hung ác, lại là cừu địch. Ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng căm hận.” A Tử nói: “Úi chà, thế thì đã sao? Bọn chúng căm hận mình thì mình cũng căm hận lại bọn chúng.”
Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam, thấy núi non trùng điệp ở chân trời, nghĩ bụng: “Qua dãy núi kia là đến Trung Nguyên”. Chàng là người Khất Đan nhưng ở phương nam từ thuở nhỏ, trong thâm tâm chàng yêu thích Đại Tống hơn Đại Liêu nhiều. Giả tỉ Cái Bang cho chàng làm một tên đệ tử hạng bét chưa được đeo túi, e rằng chàng còn khoái hơn chức Nam viện đại vương.
A Tử nói tiếp: “Tỉ phu ơi! Muội thấy hoàng thượng thật là anh minh nên mới phong tỉ phu làm Nam viện đại vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh với nước nào, tỉ phu đem quân xuất chinh thể nào cũng bách chiến bách thắng. Tỉ phu chỉ cần xông vào trận địch, đánh chết nguyên soái bên kia, tất nhiên chúng sẽ vứt đao thương quì xuống xin hàng, thế là mình toàn thắng.”
Tiêu Phong mỉm cười nói: “Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh nước Liêu, xưa nay vẫn nghe lệnh hoàng thượng. Do đó mà khi Sở vương bỏ mạng, Hoàng thái thúc bị bắt, họ mới đầu hàng. Trường hợp hai nước giao tranh thì lại khác hẳn, giết được nguyên soái thì còn phó soái, giết được đại tướng quân thì còn phó tướng. Họ chiến đấu đến cùng, ta đơn thương độc mã thì làm gì được?”
A Tử gật đầu nói: “Thì ra là thế! Tỉ phu ơi! Tỉ phu bảo là xông vào trận địch, bắn chết Sở vương, bắt Sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì trong đời tỉ phu còn có việc gì dũng cảm thực sự? Kể cho muội nghe có được không?”
Xưa nay Tiêu Phong không thích kể cho người ta nghe những sự tích anh hùng của mình. Khi chàng còn ở Cái Bang, mỗi khi ra tay trừ gian diệt ác, dù cho ác đấu kịch liệt đến thế nào, khi về tới bản bang cũng chỉ nói sơ qua là đã giết được người này người nọ. Còn những việc từng trải gian nan, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chàng cũng không chịu nói ra. Lúc này nghe A Tử hỏi vậy, chàng nghĩ lại đời mình đánh hàng trăm trận chưa hề chạy trốn, những chuyện dũng cảm quả là không nói làm gì. Chàng bèn đáp: “Ta đi đánh nhau, phần lớn là bị người ta ép không đánh không được, chẳng có gì gọi là dũng cảm.”
A Tử nói: “Muội biết rồi! Trong đời tỉ phu dũng cảm nhất là khi ác đấu tại Tụ Hiền Trang.” Tiểu Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Làm sao cô biết?” .
A Tử đáp: “Hôm trước ở Tiểu Kính Hồ, tỉ phu bỏ đi rồi, gia gia má má cùng các thủ hạ của phụ thân nói chuyện, ai cũng bội phục tỉ phu võ công đảm lược ghê gớm, đơn thân phó hội ở Tụ Hiền Trang độc đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Lúc đó song thân chưa biết A Châu tỉ tỉ chính là con ruột, nói tỉ phu đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu cùng ân sư cực kỳ tàn độc, nhưng với phụ nữ lại rất đa tình. Họ kết luận tỉ phu vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc, quả là tệ hại xấu xa, bất cận nhân tình.” Nói tới đây cô bé bật cười khanh khách.
Tiêu Phong lẩm bẩm: “Vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc! Hỡi ơi! Anh hùng hảo hán Trung Nguyên tặng Tiêu mỗ tám chữ đó sao?” A Tử an ủi: “Tỉ phu đừng tức giận làm chi. Má má muội hết lời ca tụng tỉ phu, nói nam nhân si tình là tốt rồi, ngoài ra không còn gì quan trọng. Má má phê bình gia gia đối với tình nhân thì phụ nghĩa hiểu sắc, đối với con cái thì tàn nhẫn vô tình, không sao bì kịp tỉ phu. Tiểu muội đứng một bên cũng vỗ tay tán thành.” Tiêu Phong gượng cười lắc đầu.
Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bá quan cùng trăm họ đã được tin, ra tận ngoài xa nghênh tiếp. Soái kỳ của Tiêu Phong đi đến đâu, bách tính cũng thắp hương phục lạy, hoan hô không dứt. Chàng ra tay dẹp loạn, bảo toàn tính mạng được cho vô số quân sĩ nước Liêu. Non nửa dân số Thượng Kinh là gia quyến của quân ngự doanh, đối với chàng lại càng cảm kích. Ngựa Tiêu Phong đến đâu trăm họ reo hò đến đấy: “Đội ơn Nam Viện đại vương cứu mạng!” “Cầu trời phù hộ cho Nam viện đại vương sống lâu trăm tuổi, đại phú đại quí!”
Tiêu Phong tai nghe những lời chúc tụng, mắt thấy dân chúng nước mắt chạy quanh, quả thực thành tâm thành ý. Chàng nghĩ thầm: “Người ở ngôi cao, nhất cử nhất động đều quan hệ đến họa phúc của muôn dân. Khi ta bắn chết Sở vương, chỉ là dũng khí nhất thời, trước cứu nghĩa huynh, sau tự cứu mình, không ngờ lại là thi ân cho bách tính. Than ôi! Lúc ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều tốt, vậy mà lại bị chê trách là kẻ đại gian đại ác đệ nhất giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô tình lại thành cứu tinh cho trăm họ. Chuyện thị phi thiện các thực khó mà phân biệt được.”
Chàng lại nghĩ: “Nơi đây là chỗ ở của song thân ta, năm xưa chắc là hai vị thường qua lại con đường này. Ôi, ta chẳng được biết tướng mạo song thân, hai vị cưỡi ngựa rong ruổi bên nhau thế nào lại càng khó hình dung.”
Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Thời bấy giờ Đại Liêu là cường quốc đệ nhất trong thiên hạ, cường thịnh hơn Đại Tống nhiều. Thế nhưng người Khất Đan sống du mục là chính, quen nay đây mai đó, quán xá cùng nhà cửa tại Thượng Kinh thật thô sơ hủ lậu, so với Trung Nguyên còn kém xa.
Quan chức thuộc Nam viện liền ra nghênh tiếp Tiêu Phong vào phủ Sở vương. Tòa vương phủ rất rộng lớn, bên trong trần thiết cực kỳ xa xỉ hoa lệ. Tiêu Phong một đời nghèo khổ, chưa từng vào nơi sang trọng như thế. Chàng đi coi một hồi thấy không quen mắt, liền sai thuộc hạ dựng hai cái lều trướng, ông và A Tử mỗi người ở một cái, sống đơn sơ giản dị như xưa.
Đến ngày thứ ba, xa giá Gia Luật Hồng Cơ cùng Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, các phi tần, công chúa… mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong suất lãnh bá quan tiếp giá. Trong triều tấp nập bận rộn luôn mấy ngày. Đầu tiên là tiệc mừng dẹp yên đại loạn, luận công ban thưởng, phủ tuất gia đình Bắc viện khu mật sứ cùng các quan binh tử trận. Hoàng thái thúc tự biết không còn mặt mũi về đến triều đình, nên đã tự tử chết ở dọc đường. Hồng Cơ là người thủ tín, không hề truy cứu quan binh phản nghịch, chỉ xử tử hai mươi tên thuộc hạ đầu sỏ của Sở vương mưu việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ, đại yến liên tiếp ba ngày. Dĩ nhiên Tiêu Phong là đệ nhất anh hùng nơi bàn tiệc. Các món ban thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng hậu, các phi tần, công chúa cùng với tặng phẩm của văn võ bá quan, đúng là chất cao như núi.
Khao thưởng xong xuôi, Tiêu Phong mới đến Nam viện xem xét công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp… rồi còn gì nữa chàng không nhớ hết. Sau đó là quan quân trong Bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân của hoàng hậu, rồi các cấp thị vệ trong Hoằng Ninh cung, Trường Ninh cung, Vĩnh Hưng cung, Tích Khánh cung, Diên Xương cung lần lượt đến chào. Nước Liêu tổng cộng có năm mươi chín thuộc quốc, nào là Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết, Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương, Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng… Những nước đó đều có sứ thần tại Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ binh quyền, mang đến tặng những món đồ trân bảo để cầu thân. Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp thuộc hạ, mắt thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe toàn những câu xưng tụng tán dương, không khỏi chán ngán.
Cứ thế đến hơn một tháng Gia Luật Hồng Cơ mới gọi ông vào điện, bảo: “Hiền đệ nhận chức Nam viện đại vương trấn thủ Nam Kinh, chờ cơ hội tiến đánh Trung Nguyên. Ca ca không muốn xa cách ngươi, nhưng muốn ngươi lập kỳ công lưu lại nghìn thu. Ngươi sớm chọn ngày thống lĩnh ba quân tiến xuống phía nam.”
Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong lòng kinh hãi, nói: “Tâu bệ hạ! Nam chinh là đại sự, cực kỳ quan trọng. Hạ thần chỉ là một kẻ dũng phu, quả không sở trường về quân lược.”
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Nước ta vừa trải qua một cơn biến loạn, phải để sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang, sửa sang việc triều chính không có chỗ nào sơ hở, lúc này chúng ta chưa tính chuyện nam chinh đâu. Tiêu hiền đệ! Ngươi đến trấn thủ Nam Kinh, phải luôn luôn để tâm đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta phải nắm bắt cơ hội, hễ Nam triều có nội biến là lập tức ra quân. Còn lúc này nội bộ họ đang vững vàng, Liêu quốc ta đem binh đến đánh ắt là dùng sức nhiều mà thành công ít.”
Tiêu Phong đáp: “Vâng! Quả là như thế!” Hồng Cơ nói: “Ngươi có biết sao ta lại hiểu Nam triều nội chính khéo léo, nhân tâm qui phục hay không?” Tiêu Phong đáp: “Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.” Hồng Cơ cười ha hả nói: “Đường lối xưa nay vẫn thế, cứ việc đem nhiều tiền bạc mua kẻ gian tế làm gián điệp. Ở phương Nam thiếu gì kẻ tham tiền hèn hạ vô liêm sỉ, ngươi hãy ra lệnh cho Nam viện khu mật sứ đừng tiếc tài vật, vung tiền ra mua được càng nhiều càng tốt.”
Tiêu Phong vâng lệnh lui ra, trong lòng buồn bã. Chàng trước nay chỉ kết giao với anh hùng hào kiệt, tuy chứng kiến đã nhiều chuyện hãm hại, mai phục, hạ độc, nhưng giết người đốt nhà thì có, chứ đem tiền bạc đi mua chuộc người thì chưa bao giờ. Hơn nữa, chàng là người Liêu nhưng được nuôi dưỡng ở Trung Nguyên từ ngày còn thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, bây giờ được hoàng đế giao cho việc tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống, trong lòng chán nản, nghĩ thầm: “Ca ca có lòng tốt phong ta làm Nam viện đại vương, nếu ta từ quan ngay thì không khỏi phụ tấm thịnh tình, sứt mẻ tình nghĩa huynh đệ. Ta cứ xuống Nam Kinh làm quan sáu tháng một năm rồi xin từ chức cũng chưa muộn. Khi đó giả tỉ nghĩa huynh không chịu, thì ta mới treo ấn bỏ đi, ca ca cũng đành chịu chứ chẳng làm gì được.” Chàng nghĩ thế bèn suất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử xuống Nam Kinh.
Nam Kinh của Đại Liêu chính là Bắc Kinh ngày nay, khi đó còn gọi là Yên Kinh hoặc U Đô, là kinh đô của U Châu. Khi xưa Thạch Kính Đường được nước Liêu hết sức giúp đỡ lập nên nhà Hậu Tấn, nên cắt mười sáu châu Yên Vân để đền ơn. Mười sáu châu Yên Vân bao gồm U, Kế, Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng, Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc. Sau khi mười sáu châu này được cắt cho nước Liêu rồi, ba triều Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại Tống đều đã nhiều phen chinh phạt, mà vẫn không lấy lại được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế rất thuận lợi cho nước Liêu đồn trú trọng binh, mỗi lần đem quân xuống đánh phương nam chỉ phải tràn qua một dải bình nguyên, bên Đại Tống không có địa thế gì để phòng thủ. Hơn trăm năm qua Tống Liêu giao binh, Đại Tống thắng ít thua nhiều, hiển nhiên chủ yếu là do lực lượng không bằng, nhưng người Liêu từ cao đánh xuống khống chế được chiến trường cũng có phần tiện nghi rất lớn.
Tiêu Phong vào thành rồi, thấy phố xá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ phồn hoa hơn Thượng Kinh nhiều. Người đi đường đều là dân chúng Nam triều, bên tai nghe toàn tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui thích, hôm sau liền ăn mặc giản dị, đi du ngoạn khắp nơi.
Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, có tới tám cửa. Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc gọi là Thông Thiên, Củng Thần có ngụ ý thần phục phương Bắc, tuân theo thánh chỉ của hoàng đế Bắc quốc. Vương phủ của Nam viện đại vương ở về phía tây nam. Tiêu Phong và A Tử đi chơi được nửa ngày, thấy chợ búa, phố xá, chùa chiền san sát khắp nơi, không phải đi xem một lúc mà hết được.
Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam viện đại vương, không chỉ cai quản mười sáu châu Yên Vân, mà cả phủ Đại Đồng thuộc đạo Tây Kinh, phủ Đại Định thuộc đạo Trung Kinh cũng phải tuân theo lệnh chàng. Vì oai quyền quá lớn, chàng không thể ở trong lều trướng lụp xụp được, đành dọn vào vương phủ. Ông trông coi công việc mấy ngày, thấy đầu vàng mắt hoa thật là khổ sở, thấy Nam viện khu mật sự là Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính vụ, liền giao hết cho y.
Tuy nhiên làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ không thiếu gì dược phẩm quý giá, A Tử tha hồ dùng làm thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng đã dạo chơi khắp trong thành Yên Kinh, về sau lại bảo Thất Lý đưa đi du ngoạn ngoài thành trong phạm vi mười dặm.
Một hôm trời vừa tạnh mưa tuyết, A Tử mặc áo cừu vào điện Tuyên giáo của Tiêu Phong, nói: “Tỉ phu ơi! Tiểu muội ở trong thành mãi chán quá. Tỉ phu dắt muội đi săn nhé!”
Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu cũng thấy ngán ngẩm, nghe nàng nói thế trong bụng cũng khoái, bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để ra ngoài săn bắn. Chàng chỉ đem vài tên tùy tùng để phục thị A Tử, lại ngại làm kinh động đến dân gian nên thay áo lông cừu quân sĩ thường mặc, rồi đeo cung, giắt tên, nhảy lên ngựa cùng A Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây thành.
Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, mới bắn được mấy con thỏ. Tiêu Phong nói: “Chúng ta thử qua phía nam xem thế nào.” Chàng quay đầu ngựa sang hướng nam, lại đi hơn hai chục dặm, thấy một con hươu nhỏ từ trong bụi chạy ra. A Tử lắp tên vào cung, ngờ đâu cánh tay còn yếu quá, không giường cánh cung lên được. Tiêu Phong đưa tay trái quàng sau lưng A Tử nắm lấy cây cung, tay phải kéo dây cung rồi buông tay nghe vút một tiếng, mũi vũ tiễn phóng ra, con hươu ngã ngay xuống. Bọn tùy tùng reo ầm cả lên.
Tiêu Phong buông tay ra, nhìn A Tử mỉm cười, bỗng thấy mắt nàng ươn ướt thì lấy làm kỳ, hỏi: “Sao thế? Cô không thích ta giúp bắn dã thú ư?” A Tử nước mắt chảy dài xuống má, thổn thức đáp: “Muội… muội thành phế nhân mất rồi, giương cái cung tầm thường cũng chẳng xong.” Tiểu Phong dỗ dành: “Cô đừng nóng nảy, khí lực sẽ dần dần hồi phục. Nếu sau này vẫn không khỏi, ta sẽ truyền cho cô phép tập luyện nội công, thể nào cũng tăng gia khí lực.” A Tử đang khóc, bật cười nói:“Tỉ phu đã nói thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy muội rèn luyện nội công đấy nhé.” Tiêu Phong đáp: “Cô cứ yên tâm! Ta nhất định dạy cho cô.”
Đang lúc nói chuyện, bỗng nghe hướng nam có tiếng vó ngựa dồn dập, một đại đội nhân mã chạy tới trên mặt tuyết. Tiêu Phong đưa mắt nhìn ra, thấy đội này toàn là quan binh người Liêu, nhưng không giương cờ hiệu. Chúng vừa đi vừa nói chuyện xôn xao, ca hát vang lừng, sau ngựa buộc theo khá nhiều tù binh, tưởng chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong tự hỏi: “Mình đâu có giao chiến với ai, bọn này đánh trận ở đâu trở về thế kia?”. Chàng thấy đám quan binh rẽ qua phía đông trở về thành, liền quay sang bảo một tên tùy tùng: “Ngươi lại hỏi bọn kia, xem chúng đi đâu về?” Gã tùy từng liền đáp: “Vâng” rồi nói: “Chắc là các anh em đi thu hoạch về.” Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia.
Y tới gần bèn nói mấy câu. Bọn quan binh nghe nói Nam Viện đại vương đang ở tại đây liền lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống đất, tay cầm dây cương dắt ngựa tới trước Tiêu Phong, khom lưng thi lễ rồi hô to: “Đại vương thiên tuế!”
Tiêu Phong giơ tay đáp lễ, bảo: “Được rồi!” Chàng thấy đoàn quân này phải hơn tám trăm người, trên lưng ngựa chất đầy quần áo đồ dùng. Số người bị bắt cũng đến bảy tám trăm, phần lớn là phụ nữ còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, đều mặc y phục người Tống, ai nấy khóc lóc kêu gào.
Gã đội trưởng nói: “Hôm nay đến phiên đội Hắc Lạp Đốc bọn thuộc hạ đi thu hoạch, nhờ hồng phúc đại vương nên kiếm được cũng kha khá.” Y quay lại ra lệnh: “Các ngươi đem những cô gái xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu quí giá nhất dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.” Bọn quan binh cùng hô to: “Tuân lệnh!” Chúng lựa ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại gói rất nhiều đồ kim ngân trang sức đầy một tấm chăn da. Bọn lính Khất Đan chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ tôn kính, hiển nhiên nếu được Nam Viện đại vương thu dụng đám mỹ nữ và vàng bạc này thì lấy làm vinh dự lắm.
Ngày trước Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy quan binh Khất Đan đi bắt người Đại Tống, những người bị bắt đều thê thảm khốn khổ chẳng khác gì nhau. Chàng ở nước Liêu ít lâu, hiểu biết đại khái quân tình Liêu quốc. Triều đình nước Liêu không phát lương thảo cho quân đội mà cũng không trả tiền. Quan binh cần gì đều phải cướp đoạt của bên địch, mỗi ngày đều sai lính qua đánh cướp các nước lân bang Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly. Công việc này họ gọi là “thu hoạch”, mà thực ra là hành động của quân cường đạo. Quan binh Tống triều cũng qua thu hoạch của người Liêu để trả thù. Vì thế mà dân chúng ở vùng biên giới cực kỳ khổ sở, ngày nào cũng nơm nớp, sáng lo chiều, chiều lo tối. Tiêu Phong thấy những hành động này cực kì tàn nhẫn vô đạo, có điều chàng không tính chuyện lâu dài, chỉ định bụng giữ chức một thời gian rồi xin cáo quan ở ẩn, thành thử không đưa ra chủ trương gì về các việc quân quốc đại sự. Nhưng bây giờ chính mắt chàng thấy thảm trạng những người bị bắt, không khỏi đem lòng thương hại, bèn hỏi gã đội trưởng: “Ngươi đi thu hoạch ở đâu về thế?”
Gã đội trưởng cung kính đáp: “Bẩm đại vương, bọn tiểu nhân đi thu hoạch bên ngoài địa hạt Trác Châu, bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không dám đi thu hoạch quanh bản châu nữa.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Thế thì trước đây bọn chúng vẫn cướp bóc người Tống ngay trong châu quận này.” Chàng dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ đang đứng trước đầu ngựa: “Cô là người ở đâu?” Thiếu nữ kia quì xuống, khóc lóc đáp: “Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, tha cho tiểu nữ trở về đoàn tụ với song thân.” Tiêu Phong quay đầu nhìn bọn kia, hết thảy mấy trăm người bị bắt đều quì xuống, chỉ có một thanh niên đứng sừng sững không chịu quì.
Tên này trạc mười sáu mười bảy tuổi, mặt dài mà gầy, cằm nhọn, đôi mắt láo liên không có vẻ khiếp sợ. Tiêu Phong liền hỏi: “Chú bé kia! Nhà ngươi ở đâu?” Gã đáp: “Tiểu nhân có một việc cơ mật, muốn bẩm lên đại vương.” Tiêu Phong đáp: “Được, ngươi lại đây!” Gã đưa hai tay đang bị dây thừng trói chặt lên, nói: “Xin đại vương dời ra xa bọn thuộc hạ, việc này không thể để người ngoài nghe thấy được.” Tiêu Phong động tính hiếu kỳ, tự hỏi: “Một thằng nhỏ thế này làm gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Gã từ biên giới phía nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?” Chàng đã có bụng khinh khi gã là người Tống mà đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại Hán gian vô liêm sỉ, nhưng nghe nói là có chuyện cơ mật trọng đại, có nghe cũng chẳng hề gì, bèn phóng ngựa ra khoảng chục trượng, vẫy tay bảo: “Lại đây!”
Gã thanh niên kia liền chạy tới, giơ hai tay lên nói: “Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong bọc muốn trình lên.” Tiêu Phong rút đơn đao cài sau lưng, vung lên chém xuống, thế đao tưởng chừng chẻ y làm đôi nhưng lại rất chuẩn xác, chỉ cắt đứt sợi dây thừng trói hai tay. Gã hoảng hốt, lùi lại hai bước, ngẩn ra nhìn Tiêu Phong. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ, hỏi: “Ngươi có cái gì?”
Gã thanh niên thò tay vào bọc, móc ra một vật cầm trong tay, nói: “Đại vương xem thì biết.” Gã nói xong liền đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, chàng đưa tay ra toan đón lấy. Đột nhiên, gã ném thẳng vật ở trong tay vào mặt Tiêu Phong, chàng vung roi ngựa lên đánh văng ra ngoài, thì ra là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, bột trắng tung tóe khắp nơi, chính là một túi vôi sống, nếu ném trúng vào mắt là mù ngay lập tức. Đây là một thủ đoạn thấp hèn mà bọn trộm gà bắt chó, đạo tặc hạng bét thường dùng.
Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này to gan thật, thì ra không phải Hán gian”. Chàng hỏi: “Ngươi tên là gì? Sao lại cố ý hại ta?” Gã mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu giọng nói: “Ngươi cứ nói đi, ta sẽ tha mạng cho.” Gã đáp: “Ta đến báo thù cho song thân không được, chẳng còn gì để nói nữa.” Tiêu Phong hỏi: “Song thân ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết chết sao?”
Gã thanh niên tiến lên hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, trỏ tay vào mặt Tiêu Phong lớn tiếng mắng: “Kiều Phong! Ngươi giết chết gia gia, má má, cả bá phụ ta, ta hận… hận không thể ăn tươi nuốt sống, rút gân lột da, xé xác ngươi thành muôn mảnh.”
Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ của mình, lại mắng mình giết song thân và bá phụ, chắc là một món nợ ngày trước ở Trung Nguyên. Chàng bèn hỏi: “Bá phụ cùng phụ thân ngươi là ai?” Gã đáp: “Ta không muốn sống nữa, cũng cần cho ngươi biết, nam nhi họ Du ở Tụ Hiền Trang không phải là phường tham sinh úy tử.”
Tiêu Phong “À” lên một tiếng rồi nói: “Thì ra ngươi là con cháu của Du Thị Song Hùng, như vậy lệnh tôn là Du Câu nhị gia.” Chàng ngừng lại một chút, nói tiếp: “Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt buộc phải ứng chiến, đó là việc bất đắc dĩ. Lệnh tôn và lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết đấy chứ!” Tới đây chàng lắc đầu nói tiếp: “Hỡi ôi! Tự vẫn hay bị giết thì cũng chẳng khác gì nhau. Hôm đó ta đoạt mất binh khí của bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?”
Gã thanh niên đứng ưỡn ngực ra lớn tiếng đáp: “Ta là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, quyết noi theo gương sáng của bá phụ và gia gia.” Nói xong, gã thò tay vào ống quần, rút ra một thanh đoản đao, giơ lên đâm vào ngực. Tiêu Phong lại vung roi ngựa ra quấn lấy thanh đao, đoạt mất. Du Thản Chi cả giận mắng: “Ta muốn tự vẫn, ngươi cũng không cho ư? Tên Liêu cẩu đáng chết kia, mi thật là lòng lang dạ thú!”
Lúc này A Tử đã giục ngựa đến bên Tiêu Phong, quát lên: “Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng mắng người? Ngươi muốn chết ư? Ha ha, chẳng phải dễ đâu.” Đột nhiên Du Thản Chi nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, gã đứng ngây người ra mà nhìn, không nói nên lời. A Tử lại nói: “Tiểu quỉ! Cái cảnh mù lòa thích thú lắm, ta sẽ cho ngươi được nếm mùi.” Nàng quay lại nói với Tiêu Phong: “Tỉ phu! Tên tiểu tử này thật là hiểm độc, dám dùng vôi sống để ám toán. Chúng ta lại dùng vôi đó hất vào mắt y cho biết.”
Tiêu Phong lắc đầu, quay sang bảo tên lãnh binh đội trưởng: “Hôm nay các ngươi đi thu hoạch, bắt được bao nhiêu người Tống đều giao lại cho ta, có được chăng?”. Gã đội trưởng mừng rỡ vô cùng, vội đáp: “Được đại vương để mắt tới thì còn gì bằng, bọn thuộc hạ xin đa tạ ân đức.” Tiêu Phong nói: “Quan binh nào bắt được từ binh, nhớ đến vương phủ lĩnh thưởng.” Hắn vui vẻ đáp: “Bọn tiểu nhân thành tâm dâng lên đại vương, không cần ban thưởng.” Tiêu Phong nói: “Các ngươi để những kẻ bị bắt lại đây, về thành trước đi, nhớ đến lãnh thưởng”. Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng nói: “Vùng này không có bao nhiêu dã thú, chắc đại vương muốn đem bọn Tống trư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở vương vẫn thích trò này lắm. Tiếc là hôm nay bọn thuộc hạ bắt được phần nhiều là đàn bà, chạy không nhanh. Lần sau sẽ cố bắt những con heo Tống khỏe mạnh”. Y nói xong thi lễ, kéo quân về.
Câu nói “muốn đem bọn Tống trư làm bia sống” vừa lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước mắt hiện ra cái cảnh tàn bạo của Sở vương năm xưa: mấy trăm người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong khi những bậc quí nhân Khất Đan cười ha hả, giương cung lắp tên bắn chết để giả trí. Còn người Tống nào chạy được xa, quân Khất Đan cưỡi ngựa reo hò đuổi theo, chẳng khác gì săn nai đuổi chồn, rốt cuộc cũng bắn chết hết. Bọn Khất Đan nhắc đến chuyện thảm khốc này không hề đổi giọng, hẳn là trước đây đã quen như thế. Chàng đưa mắt nhìn bọn người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run cầm cập trong gió rét buốt. Dân chúng vùng biên giới này phần lớn hiểu tiếng Khất Đan, nghe đến chuyện bắn bia sống, sợ đến mất cả hồn vía.
Tiêu Phong thở dài sườn sượt, nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam, nghĩ thầm: “Giả tỉ thân thế mình không bị tiết lộ thì đến bây giờ ta vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này cùng nói một thứ tiếng, cùng ăn một thứ cơm, có khác chỗ nào đâu? Vì sao đã là người, lại phải phân chia ra Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly gì gì để làm chi? Ngươi sang đất ta thu hoạch, ta sang đất ngươi đốt nhà. Ngươi chửi ta là Liêu cẩu, ta mắng ngươi là Tống trư.” Mất đến một lúc, lòng chàng cảm khái, tư tưởng cuồn cuộn như sóng biển.
Tiêu Phong nhìn lại, thấy đám quan binh Khất Đan đã đi khuất rồi, bèn quay sang bảo đám nạn dân: “Bữa nay ta tha các ngươi về, mau chạy ngay đi!” Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ bắn bia sống, nên vẫn chần chừ đứng đó. Tiêu Phong lại giục: “Các ngươi về rồi, tốt nhất là rời xa biên giới, để khỏi bị chúng đi thu hoạch mang về nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu được lần thứ hai đâu.”
Bấy giờ bọn nạn dân mới tin là thật, reo hò mừng rỡ quỳ mộp cả xuống, dập đầu nói: “Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà sẽ cầu trời khấn phật cho đại vương sống lâu, ở ngôi cao mãi mãi.” Bọn họ đã biết thân làm dân Tống bị quân Liêu bắt được rồi, trừ người giàu có đem tiền bạc gấm vóc ra chuộc mạng, còn không thì bỏ xác đất người, đến nắm xương cũng không được mang về xứ. Nhưng hai nước Tống Liêu giao tranh đã lâu năm, người giàu có đều di cư vào nội địa cả rồi, ở vùng biên giới chỉ còn lại dân nghèo khổ, làm gì có tiền chuộc mạng? Ai cũng biết thân phận mình không bằng súc vật, được vị đại vương nước Liêu tha cho về, nỗi vui mừng biết lấy chi cân?
Tiêu Phong thấy bọn nạn dân vui mừng dắt díu nhau đi về phía nam, nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại thả họ về, khiến bọn họ phải nhọc nhằn khiếp sợ, còn có gì gọi là ân đức?”.
Chàng thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, chỉ còn Du Thản Chi sừng sững đứng đó, bèn nói: “Sao ngươi không chạy đi? Ngươi đã có lộ phí trở về Trung Nguyên chưa? Chàng vừa nói vừa thò tay vào bọc, định cho y ít tiền, nhưng trong túi không có đồng nào, chỉ có một cái gói giấy dầu nhỏ. Tiêu Phong bỗng chua xót trong lòng, nhớ ra trong cái gói là bộ Dịch Cân Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa Thiếu Lâm, bắt chàng phải cầm lấy. Nay người mất mà kinh còn, trông thấy di vật làm sao chàng chẳng đau thương? Tiêu Phong thuận tay bỏ cái gói trở lại vào bọc, nói: “Hôm nay ta đi săn không mang theo tiền. Nếu ngươi không có tiền tiêu thì theo ta về thành mà lấy.” Du Thản Chi lớn tiếng nói: “Gã họ Kiều kia! Mi muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ, không được bày trò làm nhục ta. Du mỗ dù có chết đói cũng không thèm nhận một đồng một chữ của mi.”
Tiêu Phong nghĩ rằng gã nói không sai, mình là kẻ thù giết cha gã, mối thù không đội trời chung chẳng thể nào hóa giải, nói nhiều cũng vô ích. Chàng bèn bảo: “Ta không giết ngươi! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào cũng có thể đến kiếm ta.”
A Tử vội nói: “Tỉ phu ơi, không thả y được. Tên tiểu tử này nếu báo thù cũng không dùng võ công đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu. Chi bằng nhổ cỏ tận gốc để khỏi di họa về sau.”
Tiêu Phong lắc đầu: “Trên giang hồ bước nào cũng có chông gai, nơi nào cũng đầy hung hiểm, ta đi qua cả rồi. Gã thiếu niên này không làm gì nổi ta đâu. Ngày trước ta khiến cho bá phụ cùng phụ thân y phải tự vẫn, quả thực không cố ý, nhưng cũng là món nợ máu ta thiếu đã lâu. Có lý nào ta lại giết cả con cháu Du Thị Song Hùng nữa?” Chàng nói tới đây, thấy trong lòng chán nản bèn bảo: “A Tử! Chúng ta về thôi. Hôm nay chẳng còn gì mà săn bắn nữa.” A Tử bĩu môi nói: “Tiểu muội muốn bắt gã này về nghĩ cách hành hạ một phen cho bõ ghét! Tỉ phu thả y rồi, tiểu muội về thành còn có gì vui đâu?” Nhưng nàng không dám trái ý Tiêu Phong, đành quay đầu ngựa, cùng Tiêu Phong trở về. Đi được mấy trượng, nàng quay mặt lại nói: “Thằng lỏi kia! Ngươi về luyện võ công thêm một trăm năm nữa, rồi hãy đi kiếm tỉ phu ta báo thù.” Nói xong nàng mỉm cười, giơ roi quất ngựa chạy nhanh.
Du Thản Chi thấy Tiêu Phong dẫn người đi về phía tây trước sau vẫn không quay lại, mới tin là mình đã thoát chết. Gã lẩm bẩm một mình: “Sao tên gian tặc này lại không giết ta? Chắc y coi ta chẳng vào đâu, không thèm giết cho bẩn tay. Nay y đã làm tới chức đại vương gì gì đó ở nước Liêu, từ đây về sau việc báo thù của ta lại càng khó khăn gấp bội. Nhưng may mà ta đã biết y ở chỗ nào.”
Du Thản Chi cúi xuống nhặt gói vôi sống, sau đó cố tìm lưỡi trủy thủ đã bị Tiêu Phong vung roi ngựa cướp lấy. Bỗng gã thấy trong bụi cỏ ở bên trái có một cái gói giấy dầu, chính là cái gói khi nãy Tiêu Phong lấy trong bọc ra. Gã liền nhặt lên mở ra xem, thì ra là một cuốn sách, giở thử mấy trang thì toàn là văn tự ngoằn ngoèo kỳ quái, chẳng hiểu được gì. Thì ra Tiêu Phong nhìn thấy vật lại nhớ đến người mà lòng đã thẫn thờ, lúc cất Dịch Cân Kinh, không bỏ vào trong túi lại bỏ ra ngoài. Khi chàng cưỡi ngựa chạy đi, gói giấy dầu liền rớt xuống bụi cỏ mà không hay biết.
Gã nghĩ thầm: “Đây chắc là văn tự Khất Đan, cuốn sách này hẳn là vật hữu dụng của tên gian tặc nên y mới đem theo trong mình. Ta không thèm trả lại, để y cuống cuồng khổ sở cho bõ ghét!” Du Thản Chi nghĩ mình lấy được cuốn sách của Tiêu Phong tất làm khó cho y, liền cảm thấy khoan khoái trong lòng, cho là như vậy cũng báo thù cho phụ thân được chút ít. Gã gói cuốn sách lại vào tờ giấy dầu, cất kỹ trong túi rồi nhắm hướng nam mà đi.
Từ thuở nhỏ, Du Thản Chi đã theo phụ thân học võ, nhưng tư chất kém cỏi, thân thể ốm yếu nên không hợp với võ công cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng. Gã học võ ba năm chẳng ăn thua gì, thật không xứng đáng là danh gia tử đệ. Du Thản Chi học võ đến năm mười hai tuổi, phụ thân gã là Du Câu chán ngán, bàn cùng bá phụ gã là Du Ký: “Không ngờ nhà họ Du ta lại sinh ra con mèo què, để ra ngoài thì thiên hạ phải cười đến sái quai hàm. Hơn nữa khi người ngoài biết gã là con cháu Du Thị Song Hùng, thì họ phải dùng hết sức mà xuất thủ, chỉ một chiêu là gã phải uổng mạng. Chúng ta cho gã học văn để bảo toàn mạng sống còn tốt hơn”. Thế là từ năm mười hai tuổi, Du Thản Chi không học võ nữa, theo thầy đồ đọc sách.
Song gã đọc sách cũng hay chểnh mảng, tâm trí cứ nghĩ đâu đâu. Một hôm thầy đồ dạy cho Du Thản Chi câu nói của Khổng Tử: “Học nhi thời tập chi, bất diệc lạc hồ” (Việc học siêng năng và chuyên cần, ắt thấy hứng thú). Gã nói: “Sư phụ nói thế, đệ tử chưa hiểu là nói về việc gì. Gia gia dạy đệ tử tập quyền, đệ tử rất siêng năng và chuyên cần mà chẳng thấy hứng thú chi hết.” Sư phụ gã tức mình nói: “Đức Khổng Tử chỉ nói đến học thuyết của thánh hiền để dựng đại nghiệp kinh bang tế thế, chứ ngài nói đến cái việc đánh quyền múa gậy để làm gì?” Du Thản Chi liền nói: “Được lắm! Sư phụ bảo bá phụ cùng gia gia đệ tử đánh quyền múa gậy là chẳng ra gì. Đệ tử phải đem chuyện này tố cáo với gia gia.” Đại khái là gã chọc giận để thấy đồ tức mình phải bỏ đi, hết thầy này đến thầy khác. Du Câu đã đánh gã không biết bao nhiêu lần, song càng đánh gã càng quật cường bướng bỉnh. Du Câu thấy con cứng đầu khó dạy cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ thở dài rồi bỏ mặc gã muốn làm gì thì làm. Vì thế nên Du Thản Chi đã mười tám tuổi, lại con nhà danh giá mà vẫn văn dốt vũ dát. Từ khi bá phụ cùng phụ thân gã tự vẫn chết, thì mẫu thân cũng đập đầu vào cột tuẫn tiết theo, thì gã lênh đênh cô khổ, lưu lạc khắp nơi. Thâm tâm gã chỉ muốn đi tìm Tiêu Phong để báo thù.
Hôm đại chiến ở Tụ Hiền Trang, Du Thản Chi có nấp ở sau nhà để xem đánh nhau nên đã nhớ rõ mặt Tiêu Phong. Gã nghe nói chàng là người Khất Đan, thế là cứ đi bừa về hướng Bắc. Y thấy trên giang hồ có tên du đãng dùng vôi bột ném mù mắt địch nhân, cảm thấy cách này có thể dùng được. Một hôm gã đến vùng biên giới rồi bị bọn kỵ binh Khất Đan đi thu hoạch bắt, tự nhiên lại gặp Tiêu Phong. Đó quả là một chuyện ông trời sắp đặt, không hẹn mà nên. Gã được Tiêu Phong tha rồi, vừa đi vừa nghĩ bụng: “Bây giờ mình phải chạy càng xa càng tốt để khỏi bị quân Khất Đan bắt lại. Rồi mình sẽ đi bắt rắn độc, tìm cách vứt vào giường Tiêu Phong, y chui vào chăn là bị cắn chết ngay. Còn vị tiểu cô nương kia… Trời ơi! Sao nàng lại xinh đẹp thế?”
Gã nhớ đến dung mạo A Tử, bất giác nhiệt huyết nổi lên bừng bừng. Càng nhớ đến bộ mặt xanh mét nhưng thanh nhả mỹ miều của cô gái kia, trong lòng gã lại càng sung sướng vô cùng!
Du Thản Chi cắm đầu đi mau, chỉ một lát đã qua mặt bọn nạn dân. Có người gọi cùng đi cho có bạn, nhưng gã cũng mặc, chỉ lầm lũi một mình. Du Thản Chi đi được mấy dặm thì bụng đói như cào, nhìn tả nhìn hữu để xem có thứ gì ăn được không, nhưng ở thảo nguyên bát ngát ngoài cỏ khô cùng tuyết trắng, chẳng có thứ gì nữa. Gã lẩm bẩm: “Giả tỉ mình là con bò hay con cừu lại tốt hơn, chỉ gặm cỏ uống tuyết cũng khoan khoái rồi. Hừ! Nhưng nếu mình là con cừu, người ta giết gia gia, má má là hai con cừu già để ăn thịt thì mình có báo thù không? Thù giết song thân không đội trời chung, lẽ nào không báo? Nhưng báo thù bằng cách nào? Mình lấy sừng húc kẻ đã giết gia gia mình ư? Cũng vô lý, người ta nuôi bò nuôi cừu là để ăn thịt, sao lại nói đến chuyện báo thù với chẳng báo thù?”
Du Thản Chi đang nghĩ vẩn vơ, bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập. Ba tên kỵ binh Khất Đan đang ruổi ngựa trên mặt tuyết đến gần, vừa thấy gã thì reo hò mừng rỡ. Một tên quân Khất Đan tung thòng lọng ra trong vào cổ gã rồi giật mạnh một cái. Gã thấy nghẹt cổ khó thở, vội giơ tay toan gỡ ra, không ngờ tên Khất Đan huýt lên một tiếng còi rồi giật cương cho ngựa chạy nhanh. Du Thản Chi chân đứng không vững, té lăn xuống đất rồi bị tên Khất Đan lôi xệch đi. Gã kêu lên mấy tiếng thật to, nhưng cổ họng liền bị siết chặt lại, không kêu được nữa.
Tên lính Khất Đan sợ Du Thản Chi chết ngạt nên dừng ngựa lại. Gã lóp ngóp bò dậy, vừa nới dây thòng lọng ở cổ ra một chút thì tên Khất Đan lại giật mạnh một cái, gã lảo đảo suýt ngã phịch xuống. Ba tên lính Khất Đan thấy vậy lại cười ồ, rồi một tên lớn tiếng nối xí xố với Du Thản Chi mấy câu, nhưng gã không hiểu tiếng Khất Đan chỉ lắc đầu quầy quậy. Tên Nhất Đan lại quất ngựa chạy, lần này không nhanh như trước. Du Thản Chi sợ nghẹt cổ không thở được, phải hấp tấp chạy theo, cứ bước hai bước chạy ba bước mới kip.
Ba tên kỵ binh Khất Đan cứ phi về hướng bắc, Du Thản Chi không khỏi hoảng hồn mắng thầm: “Thằng cha Kiều Phong này giả nhân giả nghĩa, bảo tha mình rồi lại cho quân rượt theo bắt lại, Phen này bị y bắt được, chắc khó lòng thoát chết!” Từ ngày Du Thản Chi bỏ nhà đi về phương Bắc, lúc nào cũng nghĩ đến việc báo thù mà chẳng biết trời cao đất rộng là gì. Gã đột ngột gặp Tiêu Phong, cảnh tượng song thân bị thảm tử hiện ra trước mắt, nhiệt huyết sôi lên sùng sục. Gã cứ tưởng ném vôi bột ra là Tiêu Phong mù mắt ngay rồi rút dao đâm chết, nhưng ném không trúng, thế là chí khí lại tiêu tan. Gã đã tưởng may mắn thoát chết, ngờ đâu bị quân Khất Đan bắt lại.
Lần trước bọn Khất Đan đi thu hoạch bắt được gã, cho đi theo dám phụ nữ. Dĩ nhiên đám này không đi nhanh được, nên gã đi theo chẳng khó nhọc gì, cũng không bị hành hạ, chỉ trừ một sống đao đánh vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này khác hẳn, gã đã bị ngựa lôi xệch đi, cứ chạy được vài chục bước lại trượt chân té nhào xuống một lần, mỗi lần té là dây thòng lọng lại xiết chặt vào gáy đến trầy da chảy máu. Tên kỵ binh Khất Đan vẫn cho ngựa chạy đều đều không dừng lại lúc nào, cũng chẳng thèm để ý xem gã sống hay chết, cứ thế kéo gã vào thành Nam Kinh. Lúc vào thành, mình mẩy Du Thản Chi bê bết máu, trông không ra hình người nữa. Gã chỉ mong được chết mau lẹ cho khỏi đau đớn.
Vào thành rồi, ba tên kỵ binh Khất Đan còn cho ngựa kéo gã chạy mấy dặm nữa mới đến một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy đường lót đá xanh, cổng cao cột lớn, chẳng biết đó là nơi nào. Chừng uống cạn tuần trà, tên Khất Đan lại kéo Du Thản Chi đến một khoảng sân rộng rồi đột nhiên huýt lên một tiếng sáo, thúc gót chân vào sườn ngựa phóng nhanh. Du Thản Chi không ngờ hắn phóng ngựa một cách đột ngột, chỉ chạy theo được ba bước rồi té nhào xuống
Tên kỵ binh Khất Đan huýt sáo liên hồi, kéo Du Thản Chi chạy ba vòng sân, thúc ngựa chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Mười mấy tên quan binh đứng ngoài xem, đều reo hò trợ oai. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Ôi chao, thì ra bọn chúng muốn lôi ta đến chết.” Đầu mình chân tay gã đều va đập vào đá xanh lát dưới đất, khiến gã đau đớn khắp cả mình mẩy.
Giữa tiếng cười rộ của bọn quan binh Khất Đan bỗng nổi lên giọng cười trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi sắp hôn mê, mơ hồ nghe tiếng cô gái vừa cười vừa nói: “Ha ha! Cái diều người này khó mà thả lên được.” Du Thản Chi tự hỏi: “Diều người là cái gì vậy?”
Gã còn đang suy nghĩ, bỗng thấy sau gáy bị siết chặt lại, rồi thân thể tung lên không trung. Thì ra tên kỵ mã Khất Đan quất ngựa phóng thật nhanh, lôi gã tung bay lên như cái diều giấy để làm trò chơi.
Thân thể Du Thản Chi lơ lửng trên không, cổ gã bị siết chặt đau điếng, miệng mũi bị gió thốc vào dường như ngộp thở. Bỗng nghe cô gái vỗ tay reo lên: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Quả nhiên chẳng khác gì thả diều giấy.” Du Thản Chi ngoảnh mặt về phía có tiếng cười nói, thì thấy người đang vỗ tay hoan hô chính là thiếu nữ mặc áo tím nhan sắc mỹ miều. Du Thản Chi nhìn thấy nàng, không biết nên vui mừng hay nên tủi, người gã đang bay trên không trung, không thể suy nghĩ gì nhiều.
Thiếu nữ kiều diễm này chính là A Tử. Nguyên nàng thấy Tiêu Phong buông tha Du Thản Chi, trong lòng không vui, bèn cưỡi ngựa theo chàng đi một lúc rồi cố ý lùi lại sau, dặn bọn tùy tùng đi bắt gã về và không được cho Tiêu đại vương biết. Bọn tùy tùng biết Tiêu Phong nuông chiều cô bé này, dĩ nhiên không dám trái lệnh. Nhân lúc chàng không để ý, chúng dừng lại trên sườn núi chờ đoàn người đã khuất, rồi mới quay lại đuổi theo bắt Du Thản Chi. A Tử về thành, tránh xa Hựu Thánh cũng là chỗ Tiêu Phong ở, ngồi chờ bắt Du Thản Chi về. Nàng hỏi bọn Khất Đan có phương pháp hành hạ tội nhân đặc biệt tân kỳ nào không, thì có gã đưa ra ý kiến: “Thả diều người.” A Tử thích thú vô cùng, hạ lệnh lập tức thi hành. Thế là cái diều Du Thản Chi được thả lên trời.
A Tử xem đến lúc cao hứng, liền bảo: “Ngươi để ta thử một chút!” Rồi nàng tung mình nhảy lên yên ngựa tên Khất Đan đang cười, cầm lấy dây thòng lọng rồi giục tên quân: “Ngươi xuống đi!”
Tên quân Khất Đan nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. Nàng nắm đầu dây rồi phóng ngựa một vòng, hớn hở tươi cười, miệng liên tiếp hô: “Thú quá! Thú quá!” Nhưng thương thế nàng chưa bình phục hoàn toàn, bàn tay mềm nhũn ra tuột mất đầu dây. Du Thản Chi rớt xuống đất đánh hụych một tiếng, trán gả đụng vào cạnh sắc một phiến đá, bị thủng một lỗ, máu chảy ra như suối. A Tử cụt hứng la mắng: “Sao thằng khốn nạn này nặng đến thế?”
Du Thản Chi đã đau đến chết người, lại nghe nàng mắng cái tội thân thế mình quá nặng, những muốn quay lại tranh luận, nhưng đau quá không nói nên lời. Một tên lính Khất Đan chạy lại tháo dây thòng lọng tròng cổ gã ra, một tên khác xé vạt áo buộc vết thương, nhưng máu tươi vẫn tuôn ra không ngớt, chưa cầm được.
A Tử nói: “Các ngươi thả diều nữa cho ta coi, thả lên càng cao càng thích.” Du Thản Chi không hiểu tiếng Khất Đan, thấy nàng vừa nói vừa giơ tay chỉ trỏ lên nóc nhà, cũng đoán là chuyện không tốt lành gì.
Quả nhiên một tên lính Khất Đan nhặt đầu dây lên, luồn qua nách rồi buộc sau lưng để khỏi làm gã nghẹt thở, rồi quát to một tiếng: “Lên!” rồi phóng ngựa chạy nhanh. Thoạt tiên Du Thản Chi bị kéo lê dưới đất mấy vòng, sau đó mới tung lên cao dần dần. Tên quân Khất Đan thả dây mỗi lúc một dài ra.
Thân hình Du Thản Chi lên càng lúc càng cao, tên Khất Đan đột nhiên quát một tiếng rồi thả đầu dây ra. Du Thản Chi tựa hồ như mũi tên bật khỏi dây cung, bắn tung lên trời. A Tử cùng bọn quan binh reo ầm lên. Du Thản Chi không làm gì được, đành để cho người bay tít lên trời, nghĩ bụng: “Phen này chắc chết!”
Khi tung lên hết đà, gã rơi xuống, đầu dưới chân trên, tựa hồ như đầu gã sắp đâm xuống nền đá xanh. Bốn tên quân Khất Đan liền tung dây thòng lọng ra tròng lấy hông gã rồi giật mạnh ra bốn phía. Du Thản Chi ngất xỉu, bốn luồng lực đạo giữ gã lơ lửng trên không, đầu chúc xuống chỉ còn cách mặt đất chừng ba thước. Tình trạng này cực kỳ nguy hiểm, nếu một trong bốn tên quân Khất Đan ra tay chậm một chút, sức mạnh bốn phía không cân bằng được, thì Du Thản Chi phải đập đầu xuống đá, vỡ óc ra mà chết. Thường ngày bọn Khất Đan vẫn đem dân Tống ra làm trò chơi như vậy, mười người chết hết chín. Dù là ở cánh đồng cỏ mặt đất mềm hơn, không vỡ sọ, nhưng từ trên cao rớt xuống thì cũng gãy cổ, kết quả giống nhau.
Giữa tiếng hoan hô vang dội, bốn tên Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A Tử lấy tiền ra thưởng cho mỗi tên năm lượng. Cả bọn quan binh sung sướng tạ ơn rồi hỏi: “Cô nương còn muốn xem trò gì nữa không?”
A Tử thấy Du Thản Chi ngất xỉu không biết còn sống hay đã chết rồi. Hơn nữa, cô vừa dùng sức quả nhiều để thả diều người, ngực đau ê ẩm, không muốn xem nữa, liền đáp: “Ta xem chán rồi. Giả tỉ thằng lỏi này không chết thì sáng mai đem vào để ta nghĩ cách tiêu khiển khác. Gã đã toan ám sát Tiêu đại vương thì không thể để chết một cách dễ dàng được.” Đám quan binh dạ ran, lôi Du Thản Chi ra.
Lúc Du Thản Chi tỉnh lại thì mũi ngửi thấy mùi ẩm mốc nồng nặc. Gã mở mắt ra nhìn mà chẳng thấy gì, tự hỏi ngay: “Ta còn sống hay chết rồi?” nhưng lập tức thấy toàn thân đau nhức, khát nước cháy cả cổ, gã cất tiếng gọi: “Nước! Nước!” mà chẳng có ai ngó ngàng tới.
Gã gọi luôn mấy tiếng rồi ngất đi, mơ hồ thấy bá phụ cùng phụ thân giao chiến với Tiêu Phong, máu chảy lênh láng, lại thấy mẫu thân từ ái đặt gã ngồi vào lòng dỗ dành và bảo gã đừng sợ. Gã lại thấy A Tử hiện ra trước mắt thật là kiều mỵ, cặp mắt trong veo như nước hồ thu mà sắc sảo dị thường. Đột nhiên khuôn mặt nàng co rúm lại biến thành cái đầu rắn hình tam giác phùng hai má ra, xông lại cắn gã. Du Thản Chi sợ quá muốn chạy trốn, nhưng ngay cả ngón tay cũng không nhúc nhích được. Gã gắng gượng né tránh nhưng người vẫn cứng đờ. Rồi con rắn độc cắn giật ra từng miếng thịt ở trên tay, dưới đùi, sau lưng, trước cổ, khắp mọi chỗ trong người gã, nhất là ở trên trán bị cắn lại càng mạnh hơn. Gã thấy từng miếng thịt trên người rớt lả tả thì hết hồn, muốn la lên mà không kêu thành tiếng.
Du Thản Chi trằn trọc suốt đêm. Lúc tỉnh thì bị hành hạ, lúc nằm mơ cũng khổ sở chẳng kém gì. Hôm sau hai tên lính Khất Đan áp giải gã đến yết kiến A Tử. Người gã hãy còn nóng ran, mới bước một bước đã ngã lăn ra. Hai tên Khất Đan liền lôi gã dậy, rồi vừa chửi mắng vừa dìu đến một tòa nhà rất lớn. Du Thản Chi tự hỏi: “Bọn này lôi ta đi đâu? Có phải đem đi giết chăng?” Đầu óc gã vẫn mê mẩn, không nghĩ cho rõ ràng được, chỉ mơ hồ biết chúng kéo mình qua hai hành lang. Đến một sảnh đường, hai tên Khất Đan dừng lại trước cửa rồi bấm báo mấy câu. Phía trong có thanh âm thiếu nữ đáp lại, cửa sảnh đường mở ra. Hai tên Khất Đan liền đẩy gã vào.
Du Thản Chi ngẩng đầu nhìn thì thấy dưới nền trải một tấm thảm sặc sỡ. Tận phía trong có một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên tấm nệm, chính là A Tử. Nàng đặt đôi bàn chân trần trên tấm thảm, Du Thản Chi thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn trắng như tuyết, trong như ngọc, mịn màng như gấm, trái tim gã bỗng đập mạnh, trong lòng rạo rực. Hai mắt gã nhìn chằm chặp vào đôi chân xinh đẹp kia, da bàn chân nàng trong bóng tưởng chừng phát ra ánh sáng, lại có ẩn hiện mấy đường gân xanh, chỉ muốn vươn tay ra vuốt ve cho hả dạ. Hai tên Khất Đan buông tay ra để Du Thản Chi đứng một mình, gã loạng choạng suýt ngã, rồi cố gượng đứng vững được. Đôi mắt Du Thản Chi vẫn không rời bàn chân A Tử, thấy mười ngón chân nàng đều phơn phớt hồng tựa như những cánh hoa nhỏ bé.
A Tử đưa mắt nhìn Du Thản Chi thấy người gã bê bết máu me dơ bẩn, mặt mũi sưng vều, hàm dưới đưa ra, hai mắt đỏ ngầu như tóe ra những tia lửa thèm muốn. A Tử chợt nhớ lại một con sói bị thương, hôm ấy nàng cùng hai tên sư huynh đi săn ở Tinh Tú Hải, bắn một phát trúng con sói, nhưng nó chưa chết ngay. Con sói bị thương nặng cũng dương đôi mắt tóe lửa ra nhìn nàng, trông y hệt cặp mắt Du Thản Chi lúc này. Nàng đoán rằng con sói muốn chồm lại cắn mình, nhưng đang bị thương, miệng hộc máu ra không còn đủ sức. A Tử thích nhìn cặp mắt Du Thản Chi hầm hầm như dã thú, nàng còn muốn gã gầm lên những tiếng thê thảm. Nhưng gã suy nhược quá rồi, không còn chút sức nào để phản kháng, thực là chẳng thú vị gì. Hôm trước gã toan dùng vôi bột ném cho mù mắt Tiêu Phong, ăn nói quật cường không chịu quỳ lạy, lại không thèm lấy tiền của chàng. A Tử rất hứng thú, coi gã như một loài dã thú rất lợi hại, lại muốn hành hạ thêm cho gã bị thương khắp người, mỗi lần bị thương gã lại chồm lên cắn mình một miếng, dĩ nhiên không để gã cắn trúng. Thế mà khi bắt gã đem về chỉ đem thả diều người, cái loài dã thú không phản kháng này dùng làm trò chơi chẳng có gì thích thú. A Tử chau mày tự hỏi: “Không biết có phương pháp gì mới lạ hành hạ gã này cho vui?”.
Đột nhiên Du Thản Chi kêu lên mấy tiếng “Hà hà” rồi không biết khí lực ở đâu nổi lên, gã nhảy đến bên A Tử tựa hồ con báo vồ mồi. Gã ôm chặt lấy đôi chân bé nhỏ của nàng, cúi rạp đầu xuống mà hôn hít hai bàn chân. A Tử cả kinh kêu thét lên. Hai tên lính Khất Đan cùng bốn ả nữ tỳ hầu cận đều la ầm lên, chạy vào cố gỡ nàng ra.
Du Thản Chi bám dai như đỉa đói, dù chết cũng không buông. Tên quân Khất Đan lội mạnh quá, khiến A Tử đang ngồi trên chiếc nệm bỗng tuột xuống tấm thảm trải dưới đất. Hai tên Khất Đan vừa sợ vừa tức không dám lôi kéo nữa. Một tên đá mạnh vào lưng Du Thản Chi, còn một tên tát vào mặt gã. Những vết thương của Du Thản Chi vẫn còn sưng, cơn sốt chưa dứt, thần trí gã vẫn như người điên chưa tỉnh, bất luận tình cảnh gì trước mắt cũng chỉ thấy lờ mờ. Gã vẫn ôm chặt đôi chân A Tử, đặt môi lên hôn bàn chân nàng.
A Tử thấy môi gã vừa khô vừa nóng áp vào chân mình thì trong lòng sợ hãi, nhưng cũng có cảm giác kỳ dị tê tê buồn buồn. Đột nhiên nàng thét lên lanh lảnh: “Ối chao! Thằng lỏi này cắn ta!” Rồi nàng vội bảo: “Các ngươi mau lùi ra xa! Gã này phát điên rồi, đừng để gã cắn đứt ngón chân ta.” Lúc này Du Thản Chi cắn mơn man ngón chân A Tử, không làm nàng đau, nhưng nàng sợ tên quân Khất Đan đánh đập gã làm cho gã nổi cáu lên cắn mạnh, nên phải bảo chúng lui ra.
Hai tên lính Khất Đan không biết làm thế nào, đành buông tay ra. A Tử dỗ ngọt: “Mi đừng cắn ta nữa, buông ra đi, ta sẽ tha chết cho.” Lúc này tâm thần Du Thản Chi đã mê loạn, không hiểu nàng nói gì. Một tên Khất Đan rút đao ra khỏi vỏ toan chém đứt cổ gã cho rớt đầu ra, nhưng lại sợ chém không khéo làm bị thương đến A Tử, nên chần chừ chưa dám hạ thủ.
A Tử lại dỗ dành: “Chao ôi! Ngươi không phải dã thú, cắn người làm gì? Mau nhả ra đi, ta sẽ kêu người đến trị thương cho ngươi, rồi thả ngươi về Trung Nguyên.” Du Thản Chi vẫn mặc kệ. Răng lưỡi gã vẫn nhẹ nhàng mơn man trên bàn chân A Tử chứ không cắn cho nàng đau, hai bàn tay gã âu yếm vuốt ve lưng bàn chân nàng. Tâm hồn gã thấy phiêu diêu khoan khoái, tựa như lúc làm diều người bay bổng lên không.
Một tên lính Khất Đan phúc chí tâm linh, đột nhiên thò tay ra bóp cổ Du Thản Chi. Gã bị nghẹt thở phải há miệng ra, A Tử vội co đùi lên, rút ngón chân trong miệng gã ra. Nàng sợ gã phát điên lại cắn nữa, liền rút hẳn hai chân giấu sau tấm nệm. Hai tên quân Khất Đan túm chặt lấy Du Thản Chi rồi giơ quyền đấm vào miệng gã hơn mười cái. Gã hộc lên mấy tiếng, rồi thổ máu tươi ra làm dơ bẩn cả tấm thảm trải dưới đất.
A Tử quát: “Các ngươi dừng tay!” Qua cơn nguy hiểm vừa rồi, nàng thấy gã còn dùng làm trò chơi được, chưa đến nỗi vô vị, nên không muốn đánh gã chết ngay. Hai tên quân Khất Đan liền ngừng lại không đánh nữa. A Tử ngồi xếp bằng trên nệm, để hai bàn chân trần xuống dưới mông, rồi tính toán: “Bây giờ hành hạ gã kiểu nào đây?”
Nàng ngẩng đầu lên thấy cặp mắt Du Thản Chi vẫn nhìn mình trừng trừng, liền hỏi: “Sao ngươi lại nhìn ta?” Du Thản Chi chẳng kể sống chết, không nghĩ ngợi gì đáp ngay: “Cô nương đẹp quá, nên tiểu nhân cứ muốn nhìn hoài.” A Tử đỏ mặt lên, nghĩ bụng: “Thằng lỏi này thật là lớn mật, dám buông lời xúc phạm ta.”
Nhưng trước nay nàng chưa từng được nghe một chàng trai nào mở miệng khen mình đẹp. Lúc còn học võ ở phái Tinh Tú, bọn sư huynh đều coi nàng là một đứa trẻ tinh ranh. Từ khi nàng theo Tiêu Phong, lúc chàng không sợ nàng gây chuyện thì lại lo nàng chết, chưa từng để ý đến nàng đẹp hay xấu. Bây giờ A Tử thấy Du Thản Chi khen mình thì trong bụng không khỏi khoan khoái, rồi quyết định: “Ta giữ gã bên mình để lúc nào buồn lại lôi ra tiêu khiển, như vậy cũng hay! Có điều tỉ phu ta đã tha gã, nếu biết ta bắt gã về dĩ nhiên nổi giận. Ta có giấu được hôm nay thì ngày mai cũng bị lộ, muốn tỉ phu ta trước sau vẫn không hay biết thì phải dùng cách gì đây? Ta có thể cấm mọi người xung quanh không được tố cáo với tỉ phu, nhưng lỡ tỉ phu bất ngờ đến đây trông thấy gã thì sao?”
Nàng trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi lẩm bẩm: “A Châu tỉ tỉ rất giỏi cải trang, giả làm gia gia mà tỉ phu cũng không nhận ra. Ta đem gã này thay hình đổi dạng chắc tỉ phu không thể biết được. Nhưng lại sợ gã không tự nguyện, cải trang một lúc rồi gã rửa đi, khôi phục lại chân tướng thì chỉ mất công vô ích.”
Đôi mày cong cong của A Tử nhíu lại, đột nhiên nghĩ ra được một kế, vỗ tay cười ha hả reo lên: “Tuyệt diệu! Ta cứ làm thế là được.” Nàng quay sang dùng tiếng Khất Đan chỉ bảo hai tên quân một hồi, chỗ nào chúng chưa hiểu hỏi lại thì nàng lại giải thích rõ ràng, rồi sai nữ tì đưa cho chúng năm chục lạng bạc. Hai tên Khất Đan nhận tiền rồi cúi mình thi lễ, kéo Du Thản Chi ra ngoài phòng. Du Thản Chi la lên: “Ta muốn ở đây nhìn nàng! Ta muốn nhìn cô bé xinh đẹp mà độc ác kia.” Mấy tên quân Khất Đan cùng bọn nữ tì không biết tiếng Hán, chẳng hiểu gã kêu la chuyện gì. A Tử nhìn theo gã cười hì hì, thưởng thức sáng kiến thông minh của mình, càng nghĩ càng đắc ý.
Du Thản Chi bị kéo về phòng giam, quẳng xuống đống cỏ khô. Đến chiều có người mang lại cho gã một đĩa thịt cừu và mấy cái bánh bao. Người gã vẫn còn nóng ran, miệng nói lảm nhảm, người đưa bánh đến sợ quá, vội đặt thức ăn xuống rồi chạy đi ngay. Du Thản Chi suy nhược đến nỗi không biết đói nữa, thức ăn để đó mà vẫn không đụng đến.
Chiều hôm ấy có ba người Khất Đan đến. Du Thản Chi tuy thần trí mê man, nhưng gã cũng lờ mờ hiểu là lại có những chuyện không hay xảy đến cho mình. Gã gượng đứng lên toan chạy trốn, hai tên Khất Đan lập tức nắm lại, ấn gã ngồi xuống, xoay mặt ngửa lên. Du Thản Chi lên tiếng mắng nhiếc: “Mấy con chó Liêu này muốn chết ư? Đại gia sẽ băm bọn mi ra thành muôn đoạn!” Tên Khất Đan thứ ba bưng một vật gì trắng toát giống như bông gòn hay tuyết, áp chặt vào mặt gã. Du Thản Chi thấy mặt mình vừa ướt vừa mát lạnh, đầu óc liền tỉnh táo nhưng hơi thở không thông. Gã nghĩ thầm: “Chắc bọn này bịt hết miệng mũi cho ta chết ngạt đây!” Nhưng gã biết ngay là mình đoán sai, chỗ miệng mũi có người chọc ra mấy lỗ, gã lại hít thở được như thường, chỉ còn cặp mắt là không mở ra được. Gã cảm giác mặt mình ướt đẫm, bị người xoa nắn tựa hồ như trát bột hay trát bùn vào.
Du Thản Chi mơ hồ tự hỏi: “Không biết bọn ác tặc này đang dùng phương pháp cổ quái gì để giết ta đây?” Sau một lúc, gã thấy chất bột trên mặt mình được khẽ tháo ra, bèn mở mắt nhìn thì thấy một chiếc mặt nạ bằng bột mì. Tên quân Khất Đan hai tay bưng cái mặt nạ bằng bột ướt này rất cẩn thận, chỉ sợ làm hỏng. Du Thản Chi lớn tiếng mắng: “Quân Liêu cẩu hèn mạt! Ta sẽ cho bọn mi chết không có đất mà chôn.” Ba tên quân Khất Đan mặc kệ Du Thản Chi chửi bới kêu gào, chúng mang cái mặt nạ đắp bằng bột đi.
Du Thản Chi sực nghĩ ra, lẩm bẩm: “Phải rồi! Chắc là chúng bôi thuốc độc vào mặt mình, chẳng bao lâu sẽ rữa nát da thịt, biến thành quỷ sứ…” Gã càng nghĩ càng sợ hãi rồi quyết định: “Nếu để chúng hành hạ rồi cũng chết, thà rằng tự tử trước đi còn hơn.” Gã có chủ ý rồi, liền đập đầu vào tường binh binh luôn mấy cái. Bọn ngục tốt nghe tiếng liền chạy vào trói chặt tay, chân gã lại. Du Thản Chi đã đập đầu đến choáng óc sắp ngất đi, để mặc bọn ngục tốt muốn làm gì thì làm.
Qua mấy ngày, gã thấy mặt mình chẳng đau đớn gì mà cũng không nát rữa, nhưng hạ quyết tâm chết cho xong. Gã đói bụng, mà ngục tốt đưa cơm vào không ăn nữa.
Đến ngày thứ tư, ba tên quân Khất Đan lại chạy đến chỗ Du Thản Chi lôi gã đi. Trong lúc đau khổ, gã bỗng nghĩ là A Tử gọi đến để hành hạ, thế thì dù đau đớn nhưng còn được thấy dung nhan người đẹp, cũng được an ủi phần nào. Gã ôm môi hy vọng đó, trên gương mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.
Ba tên quân Khất Đan đưa gã qua mấy đường hẻm nhỏ rồi vào một căn nhà tối om, đến một chỗ than hồng bốc cháy ngùn ngụt chiếu sáng nửa căn phòng vách đá. Một tên thợ rèn vai u thịt bắp mình trần trùng trục đứng bên lò lửa, chăm chú nhìn một vật đen sì đang cầm trên tay. Ba tên quân Khất Đan đẩy Du Thản Chi đến trước mặt gã thợ rèn, hai tên chia nhau giữ chặt hai tay gã, còn một tên nắm lấy sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu nhìn y, rồi lại ngắm nghía cái vật cầm trong tay, dường như đang so sánh.
Du Thản Chi đưa mắt nhìn vật trong tay người thợ rèn, thì ra một cái mặt nạ bằng sắt, có bốn lỗ thủng ở miệng, mũi và hai mắt. Gã đang tự hỏi: “Không hiểu cái mặt nạ sắt này dùng để làm gì?”, bỗng người thợ rèn úp chiếc mặt nạ vào mặt gã. Du Thản Chi bất giác ngửa đầu ra sau để tránh, nhưng sau ót đã bị giữ chặt, người thợ vẫn lồng vào được. Sắt thép chạm vào da thịt làm mặt gã thấy mát lạnh, mà kỳ lạ nhất là chiếc mặt nạ này lồng vào mặt gã hết sức vừa vặn, mồm miệng mặt mũi chỗ nào cũng ăn khớp, dường như chế tạo để gã đeo.
Du Thản Chi ngẫm nghĩ một lúc rồi hiểu ngay vụ này. Gã ớn lạnh cả xương sống, than thầm: “Trời ơi! Đúng là chúng làm cái mặt này để cho mình đeo rồi. Bữa trước bọn chúng lấy bột ướt đắp vào mặt mình, thì ra là làm khuôn mặt. Không biết chúng làm vậy là có dụng ý gì? Hay là…”. Du Thản Chi sắp đoán ra mục đích độc ác của bọn Khất Đan đúc mặt nạ, nhưng gã không dám nghĩ thêm nữa, chỉ cố cựa quậy lùi lại.
Người thợ rèn tháo chiếc mặt nạ ra, gật đầu lia lịa ra vẻ hài lòng. Y lấy một cái kìm sắt to tướng, cặp lấy mặt nạ đặt vào lò lửa nung cho đỏ lên. Tay phải y cầm một cái búa sắt gõ beng beng vào mặt nạ một hồi, rồi lại đưa tay sờ đầu sờ gáy Du Thản Chi để sửa lại những chỗ không vừa khít. Du Thản Chi quát mắng: “Bọn Liêu cẩu trời đánh! Chúng mày định làm việc thương thiên nghịch lý gì đây? Chúng mày là những con quỷ hung tàn, trời sẽ giáng họa, không cho chết yên lành đâu! Ông trời sẽ ra tay sát hại cả đến gia súc cùng con cái của chúng mày.” Gã lớn tiếng chửi mắng ầm ầm, nhưng bọn Khất Đan chẳng hiểu chi hết. Tên thợ rèn đột nhiên quay đầu lại nhìn gã bằng cặp mắt hung dữ, giơ cái kìm sắt nung đỏ lên chỉ vào mặt gã. Du Thản Chi khiếp quá, mắt trợn lên miệng há hốc ra.
Tên thợ rèn chỉ dọa thế thôi, cười ha hả rút kìm về. Đoạn y lại lấy ra một cái khuôn sắt hình nửa quả dưa, ướm vào sau gáy Du Thản Chi để sửa lại cho vừa khít. Người thợ rèn đặt cả mặt nạ cùng khuôn gáy vào lò lửa, nung cho đỏ lên, đoạn y lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên quân Khất Đan đè ngửa Du Thản Chi trên mặt bàn, đầu thò ra ngoài. Lại thêm hai tên Khất Đan nữa đến tiếp tay giữ đầu gã không cho nhúc nhích. Cả thảy năm người giữ lấy chân tay đầu mình Du Thản Chi khiến gã không động cựa gì được nữa.
Tên thợ rèn lấy kìm gắp cái mặt nạ nóng đỏ trong lò ra, dừng lại cho nguội bớt một chút. Đoạn y quát lên một tiếng thật to, áp chiếc mặt nạ vào mặt Du Thản Chi. Khói trắng bốc lên, mùi thịt khét lẹt bay ra, Du Thản Chi rú lên một tiếng ngất đi. Năm tên Khất Đan lật sấp người gã lại để tên thợ rèn lắp nốt miếng kia vào sau gáy gã, hai nửa úp vào nhau thành một cái lồng chụp quanh đầu Du Thản Chi. Cái lồng sắt hãy còn nóng bỏng, chạm vào da cháy xèo xèo, thịt cũng chín nhũn ra. Tên này là thợ rèn khéo nhất thành Yên Kinh, y chế tạo hai cái nửa đầu ráp vào nhau khít rịt, không hở sợi tóc.
Du Thản Chi phải vào hỏa ngục, trải qua lửa nóng. Gã mê man không biết bao lâu mới hồi tỉnh, nhưng trước mặt sau gáy đau đớn không chịu được, lại tiếp tục ngất đi. Du Thản Chi ba lần ngất đi, ba lần hồi tỉnh. Gã lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những tiếng ú ớ không phải tiếng người.
Gã nằm thẳng đơ không nghĩ ngợi gì, nghiến răng để cố chịu cái đau đớn khủng khiếp từ trước mặt đến sau gáy. Gã giữ nguyên như vậy đến hai giờ rồi gắng gượng giơ tay lên sờ mặt, thấy vừa lạnh vừa cứng ngắt, biết rằng mình đoán không lầm, cái mặt nạ đã chụp vào đầu rồi. Du Thản Chi căm phẫn vô cùng, cố gắng giằng ra, nhưng cái lồng sắt đã gắn chặt rồi, kéo thế nào cũng không nhúc nhích được. Gã tuyệt vọng không nhịn được nữa, khóc òa lên.
Gã đang độ thiếu niên nên dù đau đớn đến đâu vẫn chịu đựng được, không đến nỗi chết. Mấy hôm sau vết thương dần dần bớt đau, gã cảm thấy đói bụng, ngửi mùi bánh mùi thịt thèm quá không nhịn được, liền bốc ăn. Lúc này Du Thản Chi đã đưa tay lên sờ khắp trên đầu trên mặt, biết rằng cái lồng sắt đã úp chụp kín cả đầu mình không còn cách nào tháo ra được. Mấy hôm đó gã tức giận điên cuồng, nhưng ba ngày sau dần dần bình tĩnh trở lại, tự hỏi: “Tên Liêu cẩu Kiều Phong dùng lồng sắt chụp lấy đầu mình là có dụng ý gì?”
Gã vẫn cho rằng đây là mệnh lệnh của Tiêu Phong, còn dụng ý gì thì đoán mãi không ra. Thật ra, A Tử sai chế lồng sắt chụp vào đầu gã là để che mắt Tiêu Phong, việc này đều do gã đội trưởng Thất Lý theo ý A Tử mà thi hành.
Hằng ngày A Tử vẫn hỏi Thất Lý về tình hình Du Thản Chi sau khi chụp lồng sắt vào đầu. Ban đầu nàng vẫn lo rằng Du Thản Chi đau đến chết mất, nhưng về sau nghe nói gã đã dần dần khỏe lại thì rất hứng thú. Một hôm A Tử được tin Tiêu Phong ra Nam Giao duyệt binh, liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi vào. Nàng ngồi trong Đoan Phúc cung, đợi ba tên lính Khất Đàn bộ hạ của Thất Lý dẫn Du Thản Chi vào. Gia Luật Hồng Cơ muốn chiều lòng Tiêu Phong, đã giáng chỉ phong A Tử làm Đoan Phúc quận chúa, cấp riêng cho nàng Đoan Phúc cung này để ở.
A Tử vừa trông thấy Du Thản Chi, trong lòng xiết nỗi vui mừng. Nàng nghĩ bụng: “Thật là tuyệt diệu! Bây giờ thằng lỏi đã đeo bộ mặt này vào, dù đứng đối diện thì tỉ phu ta cũng không thể nhận ra được.” Du Thản Chi tiến lên mấy bước, A Tử vỗ tay khen ngợi rồi bảo Thất Lý: “Ngươi lấy năm chục lạng bạc thưởng thêm cho tên thợ rèn đã làm việc chu đáo!” Thất Lý nói: “Vâng. Đa tạ Quận chúa.”
Du Thản Chi nhìn qua lỗ mắt trên mặt nạ thấy A Tử tươi cười lại càng xinh đẹp, trong lòng không khỏi rung động. A Tử nhận ra gã Du Thản Chi đeo mặt nạ kỳ dị vẫn nhìn mình không chớp mắt, liền hỏi: “Thằng lỏi ngu xuẩn kia! Mi nhìn ta làm chi vậy?” Du Thản Chi ấp úng: “Tiểu nhân… tiểu nhân không biết!” A Tử hỏi lại: “Mi đeo mặt nạ có dễ chịu không?” Du Thản Chi hỏi lại: “Cô nương thử đoán xem có dễ chịu không?” A Tử cười khanh khách đáp: “Ta đoán không ra.” Nàng thấy lỗ miệng Du Thản Chi rất hẹp, chỉ đủ để ăn cơm húp canh, còn muốn ăn thịt cũng phải xé nát ra mới đưa vào được, liền cười nói: “Ta bắt mi phải đeo mặt nạ là để vĩnh viễn mi không cắn ta được.”
Du Thản Chi mừng thầm, hỏi: “Phải chăng cô nương muốn… muốn tiểu nhân ở bên cạnh để hầu hạ?” A Tử đáp: “Ái chà! Mi thật là khốn kiếp, muốn ở bên cạnh để nghĩ cách hại ta phải không?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân chỉ thù một mình Kiều Phong, quyết không có ý hại cô nương.” A Tử hỏi lại: “Mi muốn hại tỉ phu ta thì có khác gì hại ta?” Du Thản Chi nghe vậy trong lòng chua xót, không biết trả lời thế nào.
A Tử cười nói: “Mi muốn hại tỉ phu ta, thì lên trời cũng không khó bằng. Thằng lỏi ngu ngốc kia! Mi có muốn chết không?” Du Thản Chi đáp “Dĩ nhiên là tiểu nhân không muốn chết. Nhưng hiện giờ trên đầu tiểu nhân chụp một cái lồng sắt, người chả ra người, quỷ chả ra quỷ, thì dù chết hay sống cũng chẳng khác gì.” A Tử nói: “Nếu quả mi muốn chết thì ta cũng cho toại nguyện, nhưng không chết ngay được đâu.” Nàng quay sang bên cạnh bảo: “Thất Lý! Ngươi lôi nó ra chặt cánh tay trái!” Thất Lý dạ một tiếng rồi túm lấy tay Du Thản Chi.
Du Thản Chi cả kinh la lên: “Không! Không! Tiểu nhân không muốn chết! Cô nương đừng… đừng chặt tay tiểu nhân.” A Tử cười lạt nói: “Ta đã nói sao là làm vậy, trừ phi mi dập đầu năn nỉ!”
Du Thản Chi còn đang ngần ngừ, Thất Lý đã lôi gã đi. Gã không dám chần chừ nữa, quỳ mọp ngay xuống dập đầu lạy, cái đầu chụp lồng sắt chạm xuống đá xanh kêu boong boong như chuông. A Tử cười khanh khách, nói: “Từ nhỏ tới lớn ta chưa thấy ai dập đầu mà âm thanh dễ nghe như vậy. Mi cứ lạy thật lâu để ta nghe.”
Du Thản Chi là tiểu trang chúa ở Tụ Hiền Trang, mặc dù mọi người trong trang đều biết gã là một tên đốn mạt văn dốt võ dát, nhưng con Du Ký chết non, Du Câu chỉ có mình gã, quý như hòn ngọc. Tiểu trang chúa mà gọi một tiếng thì gia nhân dạ răm rắp. Từ thuở nhỏ gã đã được nuông chiều, ăn sung mặc sướng, có bao giờ chịu khổ nhục như ngày nay? Lúc Du Thản Chi mới gặp Tiêu Phong, gã còn có khí phách quật cường, thà chết chứ không chịu quỳ lạy. Nhưng mấy bữa nay từ tâm hồn cho đến thể xác đã chịu không biết bao nhiêu đau đớn cực nhục, gã mất hết chí khí, bắt quỳ gã cũng quỳ, bắt lạy gã cũng lạy. A Tử khen gã dập đầu nghe êm tai, gã cũng dập đầu lia lịa vang lên những tiếng boong boong, lại còn hoan hỉ vì được người đẹp như tiên khen.
A Tử mỉm cười nói: “Hay lắm! Từ đây trở đi, ta sai bảo điều gì, mi răm rắp thực hiện thì thôi, còn nếu trái lệnh thì lập tức ta sai chặt tay. Mi đã nhớ chưa?” Du Thản Chi nói: “Vâng, vâng.” A Tử nói: “Ta cứu mạng mi mà mi không biết cám ơn ta. Tiêu đại vương muốn bằm mi nát ra như cám, mi có biết không?” Du Thản Chi đáp: “Y là kẻ thù giết thân phụ tiểu nhân, cố nhiên không chịu buông tha.” A Tử nói: “Đại vương giả vờ tha mi, rồi lại sai bắt ngươi về để băm vằm mi ra. Ta thấy mi không đến nỗi hèn hạ lắm, nghĩ cũng tội nghiệp, nên sai người tìm cách giấu mi. Giả tỉ Tiêu đại vương lại gặp mi thì ắt mi phải chết, lại phiền hà đến ta nữa.”
Du Thản Chi tỉnh ngộ nói: “À! Thế ra cô nương đúc cái lồng sắt này bịt đầu tiểu nhân là để cứu mạng. Tiểu nhân cảm kích vô cùng!”
A Tử lừa được gã đem lòng cảm kích thì đắc ý vô cùng, mỉm cười nói: “Sau này mi có gặp Tiêu đại vương thì đừng nói năng chi hết, để y không nghe được thanh âm. Nếu mi lên tiếng, y nhận ra mi, tức khắc đem chặt cánh tay trái, rồi chờ mi tỉnh dậy lại chặt nốt cánh tay phải. Thất Lý! Ngươi kiếm y phục Khất Đan cho gã mặc, nhớ tắm rửa sạch những chỗ máu mủ trong người gã cho đỡ tanh hôi!” Thất Lý vâng lệnh, lôi Du Thản Chi ra ngoài.
Chẳng mấy chốc tên đội trưởng lại đưa gã vào, đã mặc quần áo Khất Đan, Thất Lý muốn lấy lòng A Tử, cho gã mặc quần áo sặc sỡ giống như một tên tiểu sửu đóng vai hề trong tuồng kịch.
A Tử cười to, nói: “Ta đặt tên cho mi là Thiết Sửu. Từ bây giờ nếu ta kêu Thiết Sửu thì mi phải vâng dạ ngay.” Rồi nàng cất tiếng gọi to: “Thiết Sửu!” Du Thản Chi vội đáp: “Dạ, dạ!”
A Tử thích chí vô cùng. Đột nhiên nàng nhớ ra một điều, liền hỏi: “Thất Lý! Có phải nước Đại Tự bên Tây Vực mới đem biếu một con sư tử không? Ngươi kêu quản sư đem nó vào đây, gọi thêm mấy tên vệ sĩ đến nữa.”
Thất Lý vâng lệnh chạy đi. Mười sáu tên vệ sĩ cầm trường mâu chạy vào trong điện, khom lưng thi lễ rồi đứng thẳng lên, chĩa mười sáu mũi trường mâu ra phía ngoài để bảo vệ cho A Tử. Lát sau ngoài điện có tiếng sư tử gầm thét, tám đại hán khiêng một chiếc cũi sắt vào. Trong cũi có một con sư tử đực lông vàng, bờm dài, nanh vuốt sắc nhọn, đang chạy quanh trông rất hung dữ. Gã quản sư tay cầm roi da đi trước.
A Tử thấy con mãnh sư hung hăng đến phát khiếp, thì hớn hở nói: “Thiết Sửu! Ta bảo người làm một việc, ngươi có chịu nghe lời ta không?” Du Thản Chi đáp: “Vâng!” Gã trông thấy con sư tử thì trong lòng hồi hộp tự hỏi: “Không biết A Tử muốn ta làm gì đây?”, trống ngực đánh hơn trống làng. A Tử nói: “Ta không hiểu cái lồng sắt bịt đầu ngươi có kiên cố không. Ngươi thử thò đầu vào cho con sư tử cắn mấy miếng xem có vỡ được không?”
Du Thản Chi nghe lệnh mà hồn vía lên mây, ấp úng: “Việc này… việc này… không nên thử. Giả tỉ nó cắn vỡ thì đầu tiểu nhân…” A Tử gắt gỏng: “Mi thật là vô dụng, việc nhỏ xíu thế mà cũng sợ. Đại trượng phu thì coi cái chết nhẹ như lông hồng mới phải. Mà ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.” Du Thản Chi năn nỉ: “Cô nương! Chuyện này không đùa được. Nếu nó cắn không vỡ, thì cái lồng sắt cũng bị móp méo, rồi đầu tiểu nhân…” A Tử cười khanh khách nói: “Đầu ngươi có méo mó một chút cũng chẳng sao. Thằng lỏi này thật là lắm chuyện! Cái đầu mi vốn chẳng đẹp đẽ gì, mà dù méo mó thì cũng ở bên trong cái lồng chẳng ai trông thấy. Hà tất ngươi phải quan tâm nó đẹp hay xấu?” Du Thản Chi vội cãi: “Đâu có phải tiểu nhân nghĩ đến chuyện đẹp hay xấu..” A Tử sa sầm nét mặt gạt phắt đi: “Mi dám không nghe lời ta ư? Được lắm, ta quẳng ngươi vào trong cũi cho sư tử ăn thịt!” Đoạn nàng quay ra dùng tiếng Khất Đan nói mấy câu, Thất Lý dạ một tiếng rồi chạy lại, nắm lấy Du Thản Chi.
Du Thản Chi nghĩ thầm: “Nếu người mình bị quẳng vào cũi cho sư tử cắn thì chắc chết. Thôi ta đành thò cái đầu sắt vào cũi còn đỡ hơn, việc sống hay chết phó mặc cho vận số.” Nghĩ vậy, gã la lên: “Đừng! Đừng! Tiểu nhân xin vâng lời cô nương!”.
A Tử cười nói: “Thế mới phải! Ta bảo ngươi cái gì thì lập tức ngươi phải thi hành! Nếu bướng bỉnh để bản cô nương nổi nóng thì không hay đâu. Thất Lý! Ngươi đè gã ra đánh ba chục roi.” Thất Lý vâng lệnh, rút lấy cây roi da trong tay gã quản sư quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá không chịu được, rú lên một tiếng: “Úi chao!”
A Tử nói: “Tên Thiết Sửu kia! Ta cho mi hay, ta sai người đánh mi là tử tế với mi lắm rồi. Thế mà mi lại la làng, phải chăng không muốn ta đánh?” Du Thản Chi vội nói: “Không! Không! Tiểu nhân vui lòng lắm. Đa tạ ân đức cô nương.” A Tử bảo: “Thế thì tốt. Đánh đi!” Thất Lý quất veo véo một lúc mười roi. Du Thản Chi nghiến răng chịu đựng không dám hé miệng. May mà gã đã đội lồng sắt, roi da chừa đầu ra chỉ vụt vào lưng, nên gã có thể chịu đựng được.
A Tử thấy gã không rên rỉ gì, hết cả hứng thú bèn hỏi: “Thiết Sửu! Ta hỏi đây, có phải ngươi thích việc ta đã sai người đánh mi không?” Du Thản Chi đáp ngay: “Vâng” A Tử lại hỏi: “Ngươi nói thực hay nói dối? Ta cho rằng ngươi lừa bịp ta.” Du Thản Chi nói: “Thực tình là như vậy, tiểu nhân không dám lừa bịp cô nương.” A Tử nói: “Mi đã thích thế, sao lại không cười mà reo lên?” Du Thản Chi bị nàng hành hạ nát ruột tan hồn, mất cả ý niệm thù hận, miễn cưỡng lên tiếng: “Cô nương thật là tử tế, tiểu nhân được ăn đòn khoan khoái vô cùng!”
A Tử nói: “Thế mới phải chứ! Thử xem.” Nàng nói xong, đập bàn một cái, Thất Lý vung roi lên vụt một phát. Du Thản Chi cười ha hả, reo lên: “Đa tạ cô nương! Roi đòn này thật là sung sướng.” Chỉ chốc lát gã đã bị đánh đến hai chục roi, kể cả đợt trước tổng cộng hơn ba chục. A Tử vẫy tay nói: “Hôm nay thế là đủ rồi. Bây giờ mi thò đầu vào cũi đi.”
Du Thản Chi đau ê ẩm cả người, loạng choạng bước đến bên cũi sắt. Gã nghiến răng thò đầu vào trong cũi. Con sư tử thấy có người thách thức, giật mình lùi lại, hai mắt nhìn chằm chặp vào cái đầu sắt một hồi rồi lùi thêm một bước nữa, miệng gầm gừ ra oai.
A Tử bảo tên quản sư: “Ngươi giục sư tử đi. Sao mãi nó không chịu cắn?” Tên quản sư liền quát lên mấy tiếng, con sư tử nghe lệnh chồm lại há miệng thật to ngoạm lấy đầu Du Thản Chi, nghe tiếng sào sạo, hàm răng sư tử nghiến vào chiếc lồng sắt. Du Thản Chi sợ quá nhắm mắt lại, cảm thấy một luồng hơi nóng xông vào qua những lỗ hổng thì biết rằng cả cái đầu mình đã lọt vào hàm sư tử, rồi thấy trước trán và sau gáy đau đớn kịch liệt. Đó là do lúc người thợ rèn chụp cái lồng sắt nóng bỏng vào đầu gã, đầu và mặt bị cháy cả da thịt. Những vết thương mới liền da, bây giờ sư tử cắn vào lại loét ra.
Sư tử cố sức cắn mấy cái mà không thủng, lại thấy ê răng. Nó nổi hung giơ vuốt lên cào vai Du Thản Chi. Gã đau điếng, hét lên một tiếng “Úi chao!”. Con sư tử thấy tự nhiên có tiếng thét trong miệng mình thì không khỏi giật mình, há miệng ra lùi lại một góc cũi sắt.
Tên quản sư lại lớn tiếng quát tháo giục sư tử vồ Du Thản Chi cắn nữa. Du Thản Chi nổi giận, đột nhiên vươn tay nắm được gáy tên quản sư ra sức kéo mạnh, đút được đầu gã vào cũi sắt, gã quản sư rú lên. A Tử khoái chí vỗ tay cười ha hả: “Tuyệt diệu! Đừng ai can thiệp, để ta coi ai sống ai chết!”
Mấy tên lính Khất Đan toan chạy lại gỡ gã quản sư ra khỏi tay Du Thản Chi, nhưng nghe A Tử nói vậy lại thôi.
Gã quản sư ra sức cựa quậy, nhưng lúc này Du Thản Chi đã nổi hung tính, giữ lấy chằng chằng, nhất quyết không chịu buông tha. Gã quản sư chỉ còn mong con sư tử lại cứu mình, bèn thét lên: “Cắn! Cắn chết đi!” Con sư tử nghe gã giục rối rít, gầm lên một tiếng đinh tai nhức óc, nhảy chồm lại. Nó nghe chủ nhân giục cắn mà không biết cắn ai, bèn nhe hàm răng sắc nhọn trắng nhởn ngoạm rau ráu, cắn đứt nửa đầu gã quản sư, óc và máu tươi vọt ra tung tóe trên mặt đất!
A Tử hớn hở reo ầm lên: “Ha ha! Thiết Sửu đại thắng! Thiết Sửu đại thắng!” Nàng vẫy tay ra lệnh cho bọn lính Khất Đan khiêng cũi sư tử và xác gã quản sư ra ngoài, rồi bảo Du Thản Chi: “Được rồi! Mi làm vừa lòng ta, ta muốn thưởng mi mà chưa biết thưởng gì.” Nàng chống tay lên má, ra chiều suy nghĩ.
Du Thản Chị nói: “Cô nương! Tiểu nhân không dám mong cô nương ban thưởng, chỉ xin cô nương một việc.” A Tử hỏi: “Mi xin điều gì?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân xin được ở luôn bên mình cô nương để hầu hạ.” A Tử hỏi lại: “Mi muốn hầu hạ ta ư? Để làm chi vậy? À phải rồi, mi muốn ở đây để chờ Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù cho song thân phải không?” Du Thản Chi vội đáp: “Không! Không phải thế.” A Tử hỏi lại: “Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân đến đây đúng là có ý báo thù, nhưng một là không đủ sức, hai là không muốn dính líu đến cô nương.
A Tử nói: “Sao mi thích làm nô lệ cho ta?” Du Thản Chi đáp: “Cô nương là tiên hạ phàm, là người đẹp nhất trần gian. Tiểu nhân… chỉ mong ngày ngày được trông thấy cô nương.”
Câu nói này thật là hỗn xược, nhưng A Tử nghe lại thấy thích thú. Nàng còn nhỏ tuổi, tuy nhan sắc mỹ miều song chưa trưởng thành hẳn, lại nàng bị trọng thương chưa khỏi, vẫn còn gầy nhom xanh mét. Du Thản Chi thấy nàng đẹp nhất trần gian thì thật là khó hiểu, nhưng nàng thấy ở đời có kẻ say mê nhan sắc của mình thì cũng khoan khoái trong lòng.
A Tử đã toan ưng thuận lời khẩn cầu của Du Thản Chi, bỗng có thị vệ vào báo: “Đại vương đến thăm!” A Tử đưa mắt nhìn Du Thản Chi khẽ hỏi: “Ngươi có sợ không?” Du Thản Chi run run đáp: “Không sợ.” Cửa lớn mở ra, Tiêu Phong mình mặc áo khinh cừu, lưng thắt đai lụa đi vào. Chàng vừa bước qua cửa đã thấy một vũng máu tươi, lại thấy một người đầu chụp lồng sắt, điệu bộ kỳ dị, bèn nhìn A Tử cười hỏi: “Hôm nay cô ra vẻ khoan khoái, chắc lại có trò gì mới lạ phải không? Người này đeo cái gì trên đầu lạ thế?” A Tử cười đáp: “Nước Cao Xương bên Tây Vực mới đem cống gã Thiết Sửu này, sư tử cắn đầu gã cũng không vỡ được. Tỉ phu coi đầu gã còn vết sư tử cắn đây này!” Tiêu Phong nhìn kỹ cái lồng sắt, quả nhiên vết răng sư tử in rõ mồn một. A Tử lại nói tiếp: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu có cách nào tháo cái lồng sắt ra không?”
Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy, hồn vía lên mây. Gã đã chứng kiến Tiêu Phong đại hiển thần oai đánh nhau với quần hùng Trung Nguyên, từng vung quyền đánh văng mất lá mộc bằng sắt trên tay bá phụ cùng phụ thân gã, bây giờ muốn tháo cái lồng sắt trên đầu gã phỏng có khó gì? Lúc thợ rèn lắp cái lồng sắt vào đầu thì gã muốn ngất đi, thế mà bây giờ gã chỉ mong cái lồng này vĩnh viễn che lấy đầu mình, để Tiêu Phong khỏi nhìn ra bản tướng.
Tiêu Phong đưa ngón tay ra gõ nhẹ vào cái lồng sắt nghe kêu “coong coong”, Chàng bật cười nói: “Cái lồng này rất kiên cố. Người ta chế tạo nó thật là tinh vi, phá hủy đi không đáng tiếc sao?”.
A Tử nói: “Sứ giả nước Cao Xương kể rằng, gã này mặt xanh nanh vàng, ba phần giống người bảy phần giống quỷ, ai trông thấy cũng phải té xỉu. Vì thế mà song thân gã kêu thợ rèn đúc cái lồng sắt này chụp vào đầu để người ngoài trông thấy khỏi phải khiếp sợ! Tỉ phu ơi! Tiểu muội muốn coi chân tướng gã thế nào mà thiên hạ nhìn thấy phải phát khiếp.”
Du Thản Chi lại càng run sợ, hai hàm răng khua lên cầm cập. Tiêu Phong thấy gã kinh hãi quá, liền nói: “Gã này sợ quá rồi, coi mặt gã làm quái gì? Gã đã chụp lồng sắt từ thuở nhỏ, mình mà cố gắng tháo ra, e rằng gã không sống được.”
A Tử vỗ tay cười nói: “Nếu vậy càng hay! Mỗi khi tiểu muội bắt được con rùa đều lột bỏ cái mai đi, thử coi nó có sống được không.” Tiêu Phong bất giác chau mày, cho là tâm địa nàng cực kỳ tàn nhẫn. Chàng nói: “A Tử! Sao muội lại thích chơi những trò độc ác bắt người ta phải sống dở chết dở như vậy?”
A Tử tru tréo lên: “Trời ơi! Thì ra tỉ phu không thương tiểu muội gì hết. Tiểu muội đâu có bằng được A Châu tỉ tỉ? Nếu tỉ phu coi tiểu muội cũng như A Châu tỉ tỉ thì sao mấy ngày không tới thăm tiểu muội lấy một lần? Tiêu Phong nói: “Ta làm cái chức Nam Viện đại vương gì gì đó thật là ngán quá! Ngày nào cũng như ngày nấy, công việc bận tíu tít chẳng có lúc nào mở mắt ra được. Nhưng mỗi ngày ta chẳng đến thăm cô một lần là gì?”. A Tử ngắt lời, dằn dỗi: “Mỗi ngày một lần! Tiểu muội không muốn tỉ phu diễn cái trò mỗi ngày đến thăm một lần lấy lệ như vậy. Nếu là A Châu tỉ tỉ thì nhất định tỉ phu ở luôn bên cạnh không rời nửa bước!”
Tiêu Phong nghe A Tử nói đúng không biết trả lời ra sao, đành cười khà khà nói: “Ta là người lớn, không biết chơi những trò trẻ con. Sao cô không kiếm mấy cô bé cùng lứa tuổi mà trò chuyện cho vui có phải hơn không?” A Tử lại hỏi: “Trẻ con với chẳng trẻ con! Tiểu muội có còn trẻ con nữa đâu? Tỉ phu đã không muốn chơi với tiểu muội thì đến đây làm gì nữa?” Tiêu Phong nói: “Ta đến đây xem cô có mạnh khỏe hơn chút nào không. Bữa nay cô đã uống mật gấu chưa?”
A Tử hùng hổ nhấc chiếc nệm lên liệng xuống đất, lại giơ chân đá một cái rồi nói: “Tiểu muội đã phiền muộn trong lòng thì mỗi ngày có uống đến hàng trăm cái mật gấu cũng chẳng ăn thua gì.”
Tiêu Phong thấy A Tử làm mình làm mẩy, giả tỉ là A Châu thì chàng sẽ nghĩ cách dỗ dành, nhưng với con người điêu ngoa độc ác như A Tử thì chán ghét không chịu nổi, chỉ buông thõng một câu: “Cô nằm nghỉ một lát cho đỡ mệt.”, rồi đứng dậy đi ra.
A Tử ngơ ngẩn nhìn theo Tiêu Phong, muốn khóc òa lên, Nàng chợt thấy Du Thản Chi đứng đó, bao nhiêu lửa giận liền trút lên đầu gã, bèn quát lên: “Thất Lý! Quất cho gã ba mươi roi.” Thất Lý “dạ” một tiếng, lại rút lấy roi da.
Du Thản Chi vội kêu lên: “Cô nương! Tiểu nhân có làm gì lầm lỗi đâu?” A Tử chẳng lý gì đến gã, lại quát Thất Lý: “Đánh đòn mau!” Thất Lý tuân lệnh cầm roi quất veo véo vào lưng Du Thản Chi. Gã không ngớt kêu la van vỉ: “Cô nương! Xin cho biết tiểu nhân đã phạm tội gì để sau này khỏi tái phạm.” Thất Lý lại quất mạnh luôn mấy roi. A Tử nói: “Ta muốn đánh là đánh! Mi không có quyền chất vấn ta, chẳng lẽ mi vô tội mà ta lại đánh oan mi hay sao? Mi muốn biết đã phạm tội gì ư? Ta cho mi hay, vì mi dám chất vấn ta nên phải đánh đòn!”.
Du Thản Chi cãi lại: “Cô nương đánh trước nên tiểu nhân mới hỏi. Lúc tiểu nhân chưa hỏi, cô nương đã sai đánh rồi kia mà?” Ngọn roi lại quất đen đét luôn ba phát. A Tử cười nói: “Ta đoán là mi sẽ hỏi nên sai gã đánh mi, quả nhiên mi chất vấn ta thật! Thế có phải là ta liệu việc như thần không? Nếu mi đúng là kẻ tận trung thì khi bị ta đánh phải cố sức chịu đựng, lại còn vui vẻ chịu đòn mới phải. Mi lên tiếng kêu la là trong lòng không phục rồi. Thôi! Mi đã không muốn thì ta chẳng thèm sai người đánh nữa đâu, không sao.”
Du Thản Chi nghe vậy lại càng sợ hãi, người gã nổi da gà run lên bần bật. Gã biết rằng nếu A Tử không đánh nữa, nhất định sẽ nghĩ ra hình phạt thảm khốc gấp mười, thà chịu mấy chục roi đòn còn hơn. Nghĩ vậy gã vội kêu van: “Tiểu nhân thực là có lỗi! Xin cô nương cứ đánh nữa cho, tiểu nhân cảm tạ ơn đức! Cô nương đánh nhiều chừng nào, bổ ích cho tiểu nhân chừng ấy.”
A Tử mỉm cười hỏi: “Mi thông minh đấy, nhưng ta không mắc mưu đâu. Phải chăng mi giả vờ xin ta đánh, là để ta hả dạ rồi tha cho mi?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân không dám lừa bịp cô nương.” A Tử lại hỏi: “Mi thật sự muốn ta đánh thật nhiều ư?” Du Thản Chi đáp: “Tâm nguyện của tiểu nhân đúng là như vậy.” A Tử nói: “Tốt lắm! Ta sẽ cho mi toại nguyện. Thất Lý! Gã này muốn ăn nhiều đòn, ngươi đánh gã đủ một trăm roi.”
Du Thản Chi giật mình nghĩ thầm: “Đánh một trăm roi thì còn chi là tính mạng? Nhưng việc đã đến thế này, có kiên quyết không chịu thì cũng cứ bị đòn. Vậy mình có chống cự cũng chẳng ăn thua gì.” Gã nghĩ vậy, bèn không nói gì nữa.
A Tử hỏi: “Sao mi lại lầm lì không nói? Phải chăng trong lòng mi còn ấm ức? Ta kêu người đánh mi, chắc mi cho rằng ta bất công phải không?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân chân tâm kính phục cô nương, biết rõ cô nương sai đánh tiểu nhân là có hảo tâm muốn thành toàn cho tiểu nhân.” A Tử hỏi: “Thế sao mi chẳng nói năng gì?” Du Thản Chi không biết trả lời ra sao, gã ấp úng: “Cái đó… cái đó… tiểu nhân đang nghĩ đến ơn đức cô nương thâm trọng như non, vô cùng cảm kích, không nghĩ ra lời nào trình bày cho hết được! Tiểu nhân không biết sau này lấy chi đền đáp cô nương cho phải.”
A Tử nói: “Ái chà! Mi không biết đền đáp ta cách nào ư? Ta sai người đánh mi một roi là mi lại ghi vào lòng mà căm thù ta chứ gì?” Du Thản Chi xua tay lia lịa đáp: “Không phải! Không phải! Tiểu nhân nói đền đáp là đền đáp thật tình, Tiểu nhân đã quyết tâm, có phải nhảy vào đống lửa hay phải tan xương nát thịt vì cô nương cũng cam lòng.”
A Tử nói: “Vậy thì hay lắm! Đánh gã đi!” Thất Lý “dạ” một tiếng rồi rút roi da ra bắt đầu quất Du Thản Chi.
Lúc đánh được năm chục roi. Du Thản Chi đã tê dại cả người, hai gối gã nhũn ra từ từ rũ xuống. A Tử thấy vậy cười hì hì, đã định bụng hễ gã lên tiếng van xin thì lại tăng thêm năm mươi roi nữa. Ngờ đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa mê nửa tỉnh, thỉnh thoảng chỉ rên ư ử trong miệng chứ không van vỉ chi hết. Chịu hơn bảy mươi roi thì gã ngất lịm đi, Thất Lý vẫn chẳng dung tình, đánh đủ trăm rồi mới thôi.
A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp thở, tình trạng cửu tử nhất sinh. Nàng đâm ra cụt hứng liền nói: “Các ngươi đem gã ra ngoài! Thằng lỏi này chẳng có gì đáng coi nữa. Thất Lý! Ngươi còn trò gì mới mẻ nữa không?”
Du Thản Chi bị trận đòn này phải dưỡng thương đến hơn một tháng mới khỏi. Bọn lính Khất Đan thấy đã lâu A Tử không kêu đem gã lại để hành hạ nữa, dường như quên hẳn rồi. Chúng liền ghi tên gã vào danh sách những người Tống bị bắt, cho đi theo bọn này làm những việc đại khái như hốt phân rửa chuồng, nhặt phân bò, lột da cừu, gặp việc gì làm việc ấy.
Trên đầu Du Thản Chi đã chụp chiếc lồng sắt, mọi người đều chế nhạo, khinh mạn gã. Cả đến người Hán đồng tộc cũng coi gã như quái vật. Du Thản Chi ráng sức chịu đựng, tựa hồ đã biến thành câm điếc. Ai đánh mắng gã, gã cũng không hề chống cự. Chỉ khi có người cưỡi ngựa đi ngang qua là gã mới ngẩng đầu lên nhìn một cái. Du Thản Chi chỉ còn một điều tâm nguyện là mong có ngày được A Tử gọi đến để đánh cho một chập. Hiện giờ, gã coi việc không được gặp A Tử là cực hình còn đau khổ hơn bị đánh đòn.
Thời gian cứ trôi, hai tháng sau tiết trời đã đỡ lạnh. Một hôm Du Thản Chi đang theo mọi người ra ngoài thành Nam Kinh vác đất, khuân gạch để đắp tường thành, bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp. Có mấy người cưỡi ngựa từ cửa nam ra, một âm thanh trong trẻo cười nói: “A ha! Gã Thiết Sửu chưa chết ư? Ta cứ tưởng gã bỏ mạng từ lâu rồi. Thiết Sửu! Mi lại dây!” Người vừa nói đó chính là A Tử.
Du Thản Chi ngày đêm mơ tưởng, chỉ mong được nghe thanh âm của nàng. Gã vừa nghe gọi đã cuống cả lên, hai chân tựa hồ dính chặt xuống đất không sao nhấc lên được. Trái tim gã rạo rực như muốn nhảy ra ngoài lồng ngực, lòng bàn tay tuôn mồ hôi ra ướt đẫm.
A Tử gắt lên: “Thiết Sửu! Thằng chết toi kia! Ta gọi mà mi không nghe thấy hay sao?” Du Thản Chi vội đáp: “Dạ! Cô nương!…” Gã quay đầu lại, chạy tới trước ngựa A Tử. A Tử hớn hở, cười hỏi: “Thiết Sửu! Sao mi lại chưa chết?” Du Thản Chi đáp: “Tiểu nhân chưa tìm được cách báo đáp ơn đức cô nương, sao đã chết được?” A Tử lại càng khoan khoái, cười khanh khách nói: “Ta đang tìm một tên nô bộc trung thành để làm một việc trọng đại, e rằng người Khất Đan tay chân cục mịch làm hỏng việc. Mi chưa chết thì hay lắm, theo ta đi!” Du Thản Chi đáp: “Xin vâng.”, rồi đi theo ngựa nàng.
A Tử vẫy tay ra hiệu cho Thất Lý cùng ba tên vệ sĩ Khất Đan quay về. Thất Lý biết A Tử đã nói là làm, không ai khuyên can được. Vả lại thằng lỏi mặt sắt này hèn hạ nhu nhược đến cực điểm, dù có theo nàng cũng không xảy ra chuyện được. Y chỉ dặn một câu: “Xin cô nương sớm về phủ”, rồi cả bốn tên nhảy xuống ngựa đứng đợi ngoài cổng thành.
A Tử buông lỏng cương cho ngựa đi thong thả, chừng bảy tám dặm thì chung quanh bắt đầu hoang vu tịch mịch, rồi đến một khe núi âm u, gió lạnh rít lên theo khe núi thổi vào, khiến da thịt phải tê dại.
Nàng nói: “Hay lắm! Chỗ này được rồi”, bèn buộc ngựa vào gốc cây rồi dặn Du Thản Chi: “Mi phải nhớ vào đầu, những việc trông thấy hôm nay không được tiết lộ với ai, ngay với chính ta cũng không được đề cập đến nữa. Nghe rõ chưa?”
Du Thản Chi đáp: “Vâng, vâng!” Lúc này gã mừng như điên. Được A Tử gọi ra nơi hẻo lánh này, dù là để đánh gã một trận nhừ xương thì gã cũng vui vẻ cam tâm.
A Tử thò tay vào bọc lấy chiếc đỉnh gỗ sắc vàng đặt xuống đất nói: “Lát nữa thấy những loài sâu bọ cổ quái xuất hiện, ta cấm mi không được sợ sệt, nhất là không được lên tiếng”. Du Thản Chi lại đáp: “Vâng.”
A Tử lại lấy trong bọc một cái túi vải nhỏ xíu, mở ra thì bên trong có mấy viên đủ màu sắc vàng, đen, tím, đỏ. Nàng véo lấy mỗi thứ một chút, bỏ vào trong đỉnh châm lửa đốt lên, rồi đậy nắp đỉnh lại nói: “Chúng ta ngồi ở gốc cây này để coi chừng.”
A Tử ngồi xuống gốc cây. Du Thản Chi không dám ngồi cạnh nàng, chạy lại ngồi trên một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh căm căm vẫn thổi, quyện mùi thơm ngát từ y phục A Tử, Du Thản Chi ngây ngất đê mê, nghĩ rằng có được giây phút như lúc này, thì những đau đớn ê chề bấy lâu đã được trả quá hậu rồi. Gã chỉ mong A Tử vĩnh viễn ngồi dưới gốc cây, để mình được đứng xa xa hầu tiếp là mãn nguyện.
Tâm hồn Du Thản Chi đang bay bổng lên chín tầng mây, bỗng nghe có tiếng sột soạt, trong đám cỏ rậm rạp có con vật gì đỏ chót đang động đậy, nhìn kỹ thì là một con rết rất lớn toàn thân lấp lánh. Đầu nó có một cái bướu lồi ra, thật là đặc biệt. Con rết này ngửi thấy mùi hương từ trong mộc đỉnh bay ra liền chuyển mình bò tới, theo lỗ trên đỉnh chui vào rồi không ra nữa.
A Tử lấy trong bọc một mảnh đoạn, tiến lại gần cái đỉnh, phủ tấm đoạn lên rồi gói chặt mộc đỉnh lại, dường như sợ con rết ở trong bò ra mất. Nàng bỏ vào cái túi da treo ở cổ ngựa, cười nói: “Đi thôi”, rồi lên ngựa quay về.
Du Thản Chi theo sau A Tử, nghĩ thầm: “Cái đỉnh này thật là cổ quái, chỉ đốt hương liệu là dẫn dụ được con rết to tìm đến. Không hiểu chơi với rết có gì là thú mà cô nương phải đến tận nơi hoang sơn dã lĩnh bắt về?”
A Tử về đến Đoan Phúc cung bèn kêu bọn thị vệ bố trí một cái phòng nhỏ cho Du Thản Chi ở. Gã cả mừng, biết rằng từ nay có thể thấy mặt A Tử thường xuyên. Sáng hôm sau A Tử cho gọi Du Thản Chi đến một gian phụ, tự tay đóng cửa lại, trong phòng chỉ có hai người. A Tử chạy lại góc phòng phía Tây, mở một cái hũ sành ra, cười nói: “Người xem có hay không?” Du Thản Chi nhìn vào, thấy con rết bắt được hôm qua đang chạy qua chạy lại rất nhanh trong hũ.
A Tử bắt một con gà trống lớn đã chuẩn bị sẵn rút đoản đao chặt hết mỏ và móng nhọn của nó, rồi vứt vào hũ sành. Con rết lập tức nhảy chồm lên đầu gà, cắn để hút máu, chỉ chốc lát là con gà trống thấm chất độc lăn ra chết. Thân mình con rết dần dần phồng lên, cái đầu đỏ căng cứng tựa hồ sắp bật máu A Tử cả mừng, khẽ nói: “Thành công rồi! Môn tuyệt kỹ này ta có thể luyện thành tựu được.”
Du Thản Chi nghĩ thầm: “Té ra cô này đi bắt rết để luyện một môn tuyệt nghệ gì đây, không hiểu có phải gọi là Ngô Công Pháp hay không.”
Bảy ngày kế tiếp cứ như thế, mỗi ngày con rết được hút máu một con gà trống. Đến ngày thứ tám, A Tử gọi Du Thản Chi vào điện, cười hỏi: “Thiết Sửu! Ta đối với mi thế nào?” Du Thản Chi đáp: “Cô nương đối với tiểu nhân ơn nặng như núi.” A Tử hỏi: “Mi có nói nếu phải vì ta mà tan xương nát thịt hoặc nhảy vào đống lửa cũng cam tâm. Đó là người nói thực hay nói dối?” Du Thản Chi đáp: “Tiểu nhân không dám lừa dối cô nương. Cô nương có việc gì xin cứ sai bảo, tiểu nhận quyết không từ chối.” A Tử nói: “Nếu vậy thì hay lắm! Ta cho mi biết, ta muốn luyện một môn tuyệt kỹ, cần có người trợ giúp. Mi có chịu giúp ta không? Giả tỉ luyện được thành công, nhất định ta sẽ trọng thưởng.” Du Thản Chi nói: “Đương nhiên là tiểu nhân phải nghe lời cô nương sai bảo, cô nương bất tất phải quan tâm đến chuyện ban thưởng.” A Tử nói: “Thế thì lại càng hay! Chúng ta bắt đầu luyện thôi.”
Nói xong nàng ngồi xếp bằng, hai tay áp vào nhau, nhắm mắt vận khí một hồi rồi nói: “Mi thò tay vào hũ đi, thế nào con rết cũng cắn mi, nhưng mi đừng nhúc nhích, để yên cho nó hút máu, càng nhiều càng tốt.”
Trong bảy ngày qua, Du Thản Chi đã thấy con rết này hút máu gà, chỉ chút xíu là con gà trống oai phong đã chết ngay, có thể thấy nó độc đến cực điểm. Nghe A Tử nói vậy, gã do dự không trả lời. A Tử sa sầm nét mặt hỏi: “Sao? Mi không chịu ư?” Du Thản Chi ấp úng: “Không phải là tiểu nhân không chịu. Có điều… có điều…” A Tử nói: “Có điều con rết này độc quá, mi sợ chết chứ gì? Mi là người hay là gà trống?” Du Thản Chi đáp: “Dĩ nhiên tiểu nhân không phải là gà trống.” A Tử nói: “Đúng rồi. Gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là gà thì sao lại chết được? Ngươi nói là cam tâm vì ta mà tan xương nát thịt, nhảy vào đống lửa gì gì đó, bây giờ cho rết hút một chút máu thì đã thấm vào đâu?” Du Thản Chi cứng họng không biết nói sao, ngẩng đầu lên nhìn A Tử, thấy môi nàng bĩu ra có vẻ khinh miệt vô cùng. Gã tựa như người bị thôi miên, nói: “Hay lắm! Tiểu nhân vâng mệnh cô nương.” Đoạn gã nghiến răng nhắm mắt lại, tay phải thò vào trong hũ.
Vừa thò vào, đầu ngón tay giữa đau nhói như bị kim đâm, gã bất giác rụt tay lại. A Tử quát: “Không được động đậy!”. Du Thản Chi cố nhịn đau, mở mắt ra, nhìn thấy con rết đang cắn ngón tay giữa mình hút máu. Gã sởn gai ốc khắp người, chỉ muốn vẫy tay cho con rết rơi ra rồi đạp mạnh cho chết, nhưng không quay đầu lại cũng cảm thấy đôi mắt sắc như dao của A Tử đang nhìn chằm chằm vào lưng mình như hai lưỡi kiếm, nên lại không dám nhúc nhích nữa.
Thực ra thì lúc con rết hút máu, gã cũng không thấy đau lắm. Con rết từ từ phồng lên, ngón tay gã có một quầng thâm, thoạt tiên màu tím nhạt sau đó dần dần thẫm lại. Sau một lúc vết thâm từ ngón tay loang ra bàn tay, rồi từ bàn tay lên cánh tay. Đến lúc này thì Du Thản Chi không nghĩ gì đến tính mạng mình nữa, gã trở lại bình tĩnh, miệng lộ vẻ tươi cười, nhưng vì mặt gã ẩn trong lồng sắt nên A Tử không nhìn rõ.
Hai mắt nàng chú ý nhìn con rết, để hết cả tâm thần vào đó. Đột nhiên, con rết buông ngón tay Du Thản Chi, nằm rũ ra trong cái hũ sành. A Tử nói: “Ngươi nhẹ tay bắt con rết để vào mộc đỉnh, cẩn thận chớ để nó bị thương.” Du Thản Chi vâng lời nhặt lấy con rết, bỏ vào cái đỉnh đang để trước cẩm đôn. A Tử đậy nắp lại, một lát sau, trong các lỗ đỉnh có màu đen rươm rướm chảy ra.
A Tử lộ vẻ vui mừng đưa tay đón lấy, nàng ngồi xếp bằng vận nội công cho huyết dịch thấm vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Thế là huyết dịch ta thấm vào trong người nàng. Xem chừng cô nương đang luyện môn Ngô Công Độc Chưởng.”
Một lúc sau không còn thấy máu đen từ mộc đỉnh chảy ra nữa. A Tử mở nắp đỉnh nhìn xem thì thấy con rết đã chết cứng. Nàng xoa hai tay mạnh vào nhau, rồi nhìn vào lòng bàn tay thì thấy da vẫn trong như ngọc, không có vết tích gì, cũng không có dấu máu dơ bẩn chi hết. Nàng thấy những gì mình nghe trộm sư phụ về phép luyện công thật là chính xác, bất giác cả mừng cầm mộc đỉnh lên, đổ xác con rết xuống đất rồi chạy thẳng ra ngoài điện không thèm để mắt đến Du Thản Chi nữa, tựa hồ gã cũng như các con rết vậy, đã thành vật vô dụng.
Du Thản Chi nhìn theo A Tử đến khi nàng đi khỏi. Gã cởi áo ra, thấy quầng đen đã lan tới nách, đồng thời cánh tay ngứa ngáy khó chịu. Cơn ngứa lan ra mau chóng, chỉ chốc lát là gã thấy như có hàng ngàn hàng vạn con kiến đang cắn rứt mình.
Du Thản Chi nhảy lên chồm chồm, đưa tay lên gãi. Không gãi thì còn khá, càng gãi bao nhiêu thì càng ngứa thêm bấy nhiêu, dường như trong xương tủy ruột gan đều có sâu bọ bò lúc nhúc. Người bị đau còn chịu được chứ bị ngứa ngáy thì không sao chịu được, Du Thản Chi nhảy lên nhảy xuống, la hét om sòm rồi đập cái đầu sắt vào tường kêu boong boong. Gã chỉ mong sao mình ngất đi không biết gì nữa, để khỏi phải chịu đựng những cơn ngứa ngáy khủng khiếp.
Du Thản Chi đập đầu một lúc bỗng nghe cạch một tiếng, một vật trong bọc rơi xuống. Đó là gói giấy dầu, tuột ra để lộ một cuốn sách giấy vàng, chính là cuốn kinh chữ Phạn mà gã lượm được hôm nọ. Du Thản Chi đang ngứa ngáy kịch liệt, chẳng thèm nhặt lên nữa, cứ để mặc cuốn sách mở tung ra dưới đất. Gã toàn thân khó chịu, giãy giụa chẳng khác gì con cá mắc lưới. Một lúc sau gã kiệt lực nằm thở hồng hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi hòa lẫn nhau, chảy qua các lỗ trên mặt nạ sắt xuống ướt cả quyển kinh chữ Phạn.
Không hiểu tại sao trên những hàng chữ ngoằn ngoèo bỗng hiện ra hình một nhà sư gầy như que củi, tư thế thật là cổ quái, đầu luồn xuống giữa hai chân quặp lại, hai bàn tay nắm lấy hai cổ chân. Y chẳng lòng dạ nào để ý đến hình vẽ kỳ dị này, ngứa ngáy chồm lên nhảy xuống một hồi nữa thì bắt đầu khó thở, lăn lộn xuống đất xé quần áo rách tươm, cho da thịt sát xuống mặt đất, gãi một hồi kịch liệt đến trầy da chảy máu.
Trong lúc Du Thản Chi vừa lăn lộn vừa gãi, tự nhiên đầu gã luồn vào giữa hai đùi. Vì đầu gã có chụp lồng sắt thành ra lớn quá, không kéo ra ngay được. Gã đưa hai tay toan đẩy đầu ra, song lúc này kiệt sức quá rồi, không nhúc nhích được nữa, dùng tay thở hồng hộc. Ngẫu nhiên y nhìn tới cuốn sách, thấy hình vẽ nhà sư gầy, tư thế hơi giống như kiểu gã đang ngồi. Trong lòng gã vừa buồn cười lại vừa kinh ngạc ở chỗ tuy vẫn bị ngứa như cũ, nhưng thở được nhẹ nhàng hơn. Vì vậy nên gã không rút đầu ra khỏi chân nữa, cứ để nguyên vậy gục xuống đất, tay trái cũng đưa ra nắm lấy cổ chân phải, cằm chống xuống đất y như tư thế trong đồ hình. Lúc này gã thở đã dễ dàng hơn nhiều.
Gã gục đầu như vậy thì hai mắt càng gần sách hơn. Gã nhìn lại hình nhà sư, thấy bên cạnh có hai chữ màu vàng rất lớn, trong nét bút có vô số những mũi tên đỏ nhỏ xíu hướng ra. Gã giật mình vội buông tay đứng lên, nhưng lập tức lại vừa ngứa ngáy vừa ngạt thở, bèn vội vàng cúi xuống chui đầu qua háng, hai tay bắt chéo nắm hai cổ chân, cằm tựa dưới đất. Y vừa theo lại tư thế cổ quái này thì dễ chịu hơn nhiều, không dám động đậy nữa. Một lúc sau không biết làm gì bèn đưa mắt nhìn hình nhà sư cùng hai chữ lớn. Y nhìn những mũi tên nhỏ xíu, đưa mắt theo hướng mũi tên quan sát nét bút, tự nhiên cảm thấy cảm giác ngứa ở cánh tay phải biến thành một luồng hơi ấm áp đi lên đến cổ họng, xuống ngực bụng, chạy quanh hai vai vài vòng rồi lên đến đỉnh đầu, dần dần biến mất.
Gã nhìn theo những mũi tên trong nét bút mấy lần, lần nào cũng thấy một luồng nhiệt khí thông lên óc, rồi cánh tay đang ngứa cũng bớt dần đi. Du Thản Chi cảm thấy kỳ lạ, nhưng gã chẳng hơi sức nào suy xét nguyên do, cứ cho ý nghĩ chuyển vận như vậy đến ba mươi mấy lượt. Cánh tay chỉ còn hơi ngứa, gã làm thêm mười lần nữa thì từ cánh tay đến bàn tay không còn ngứa ngáy gì nữa. Bấy giờ ga mới rút đầu ra khỏi đôi chân, giơ bàn tay lên xem thì những quầng đen trên tay cũng đã biến mất.
Du Thản Chi mừng rỡ vô cùng, bỗng nhiên la lên: “Chao ôi, hỏng bét! Nọc rết kịch độc đã chuyển hết lên óc ta rồi.” Nhưng dù sao gã cũng đã dứt được cơn ngứa kỳ dị, còn những mối lo gì hãy bỏ đó. Gã lẩm bẩm: “Cuốn sách này rõ ràng là không có hình vẽ, chẳng hiểu sao lại xuất hiện một hòa thượng cổ quái, mà mình lại ngẫu nhiên ngồi theo kiểu giống như hình vẽ. Phải chăng hòa thượng này là bồ tát đến cứu mạng ta?” Y bèn quì xuống cung kính khấu đầu trước nhà sư trong sách, cái lồng sắt gõ xuống nền đá nghe boong boong.
Thực ra đồ hình trong sách vẽ bằng mực đặc biệt, chỉ khi ướt mới hiện ra, nên A Châu và Tiêu Phong chưa nhìn thấy. Những mũi tên để luyện công đều có chú thích bằng chữ Phạn, những cao tăng Thiếu Lâm thời trước tuy không biết bí mật của quyển kinh nhưng cũng đọc chữ mà luyện thành Dịch Cân Kinh. Nhờ vào nước mắt cùng mũi dãi của Du Thản Chi mà hình vẽ lộ ra, gã vô tình học được một bí thuật luyện công để trấn áp ngoại ma xâm nhập của phái Du Già ở Thiên Trúc.
Du Thản Chi đang ngứa ngáy khổ sở đến cực độ thì nhảy chồm chồm, lăn lộn rồi gục đầu xuống đất cũng chỉ là chuyện tự nhiên chẳng có gì lạ. Có điều mũi dãi rớt xuống lại mở ra đúng vào quyển sách thì quả là ý trời. Du Thản Chi ngẩn ngơ một lúc rồi mệt quá lăn ra ngủ.
Sáng sớm hôm sau, gã còn chưa dậy đã thấy A Tử lật đật đi vào. Nàng thấy Du Thản Chi quần áo rách nát, da thịt hở hang thì kinh ngạc la lên rồi hỏi: “Mi vẫn chưa chết ư?” Du Thản Chi giật mình vội kéo chăn lên che mình rồi ấp úng đáp: “Tiểu nhân chưa chết.” Rồi gã lẩm bẩm: “Té ra nàng tưởng mình chết rồi!”
A Tử nói: “Mi chưa chết thì hay lắm! Mau kiếm quần áo mặc vào rồi theo ta đi bắt trùng độc.” Du Thản Chi dạ một tiếng, A Tử ra ngoài rồi, gã kiếm mấy tên lính Khất Đan hỏi xin quần áo. Bọn này thấy quận chúa có vẻ tử tế với y, liền kiếm một bộ y phục lành lặn sạch sẽ cho gã mặc.
Du Thản Chi lại theo A Tử ra khỏi cung như mấy hôm trước. Nàng lại đem mộc đỉnh ra đốt hương dẫn dụ trùng độc về, dùng máu gà để nuôi, sau cùng cho hút máu Du Thản Chi rồi đem ra luyện công. Lần thứ hai là một con nhện xanh hút máu gã, lần thứ ba tới phiên một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lại chiếu theo đồ hình trong sách để hóa giải chất độc. Khi trước A Tử xem trộm sư phụ luyện công, thấy lần nào cũng có người chết, đều là dân chúng quanh vùng bị đệ tử Tinh Tú đi bắt về. Lần nào A Tử cũng chắc là Du Thản Chi phải chết, thế mà gã vẫn không sao, nàng không khỏi kinh ngạc.
A Tử tiếp tục bắt trùng độc trong ba tháng nữa, ngoài thành Nam Kinh trong phạm vi mười dặm rắn rết độc mỗi ngày một ít đi, rồi chỉ còn những con tầm thường, không hợp ý A Tử. Càng về sau hai người càng phải đi xa thêm.
Một hôm hai người đi về phía tây hơn ba mươi dặm. A Tử đốt hương lên, chờ hơn một giờ mới nghe trong đám cỏ rậm có tiếng sột soạt. A Tử kêu: “Cúi thấp xuống!” Du Thản Chi vội phục xuống, thoáng nghe mấy tiếng phì phì, lại có mùi tanh hôi khiến người phải buồn nôn.
Du Thản Chi nín thở, không nhúc nhích, bỗng thấy đám cỏ dại rẽ ra hai bên, một con trăn lớn, mình trắng chấm đen từ phía tây bò tới. Đầu con trăn này bạnh ra thành hình tam giác, trên đầu có một cái mào xù xì. Ở phương bắc vốn ít rắn rết, Du Thản Chi chưa thấy con trăn nào kỳ lạ như thế. Con trăn bò đến cạnh mộc đỉnh ngọc, rồi bò vòng quanh. Nhưng thân nó to bằng cánh tay, lại dài đến hai trượng, làm thế nào chui vào trong đỉnh được? Nó ngửi thấy mùi quyến rũ, cứ đập đầu vào đỉnh kêu cốp cốp.
A Tử không ngờ lại dẫn dụ được một con vật lớn đến thế. Nàng kinh hoàng, không biết làm sao, bò đến bên Du Thản Chi hỏi nhỏ vào tai gã: “Làm sao bây giờ? Nếu để con trăn đập vỡ mộc đỉnh thì hỏng bét!”
Du Thản Chi được nghe thanh âm thỏ thẻ, hơi thở ấm áp kề bên tai, thật là nằm mơ cũng không thấy. Gã vinh hạnh vô cùng, liền đáp: “Không sao, để tiểu nhân ra đuổi nó đi!” Nói xong gã đứng dậy hùng dũng rảo bước đến gần con trăn. Con trăn nghe thấy tiếng động lập tức cuộn lại, ngẩng đầu lên, thè cái lưỡi đỏ hỏn ra phun phì phì, tựa hồ sắp chồm tới mổ. Du Thản Chi sợ hãi chưa dám tiến lên.
Bỗng có một luồng khí lạnh tạt vào mặt, ở phía tây bắc có một dây lửa cháy thẳng tới, chỉ trong khoảnh khắc đã đến trước mặt. Lúc đến gần, gã mới nhìn rõ không phải là dây lửa mà là con vật gì bò trong bụi cỏ. Đám cỏ xanh gặp phải vật đó lập tức héo úa, khô vàng đi, nhìn xa giống như lửa cháy. Hàn khí ở dưới chân mỗi lúc một giá buốt thêm, gã lùi lại mấy bước thì thấy vết cỏ héo vàng tiến dần dần về phía mộc đỉnh. Con vật đó là một con tằm.
Con tằm này trắng trong như ngọc có ẩn hiện sắc xanh, lớn gấp đôi con tằm thường, dài bằng con giun. Con trăn hung hãn thế mà vừa thấy con tằm này thì khiếp đảm vô cùng, bèn rút đầu lại giấu dưới mình. Con tằm trong suốt bò qua mình con trăn chẳng khác nào một đường lửa nóng, bò đến đâu xương sống con trăn biến thành tro đến đó, bò lên đến đầu thì con trăn đã bị rạch đôi. Con tằm chui vào túi nọc độc ở mang tai con trăn, hút một lát là hết cả nọc. Mình con tằm căng phồng lên, nhìn xa xa tựa hồ một bình thủy tinh chứa nước màu xanh.
A Tử vừa mừng vừa sợ, khẽ nói: “Con tằm này thật là ghê gớm, quả là vạn độc chi vương.” Du Thản Chi hồi hộp nghĩ thầm: “Giả tỉ nàng cho con tằm này hút máu mình thì mất mạng là cái chắc.”
Con tằm đi tới đâu thành vết tới đấy, nhưng nó chỉ bò tới bò lui quanh cái đỉnh, tựa hồ như có linh tính, biết rằng chui vào trong đỉnh là phải chết nên chỉ bò quanh vòng ngoài mà thôi, một lúc thì bỏ đi về hướng tây bắc.
A Tử vừa hoan hỉ vừa nóng ruột la lên: “Mau đuổi theo nó!”. Nàng lấy tấm khăn đoạn ra bọc cái đỉnh lại rồi lên ngựa đuổi theo con tằm, Du Thản Chi lếch thếch chạy theo. Con tằm tuy bé nhỏ mà bò nhanh như gió, cũng may là nó để lại vết đen nên mới không bị mất dấu.
Hai người đuổi một mạch chừng ba bốn dặm bỗng nghe phía trước có tiếng nước chảy róc rách, thì ra một con suối. Vệt đen đến bờ suối thì không thấy dấu vết đâu nữa, nhìn sang bờ suối bên kia cũng không thấy vết con tằm bò lên, dĩ nhiên là nó trôi dọc theo suối rồi, A Tử bực mình, giậm chân mắng Du Thản Chi: “Tại mi chạy chậm đuổi không kịp nó, bây giờ biết tìm đâu cho thấy? Ta mặc kệ mi làm gì thì làm, bắt nó đem về cho ta.” Du Thản Chi lo lắng ngó quanh, nhưng chẳng thấy gì.
Hai người tìm kiếm đến khi trời sắp tối, A Tử không nhẫn nại được nữa, tức giận nói: “Mi phải tìm bắt nó về cho được, không thì đừng vác mặt tới gặp ta nữa.” Nói xong, nàng xoay mình nhảy lên ngựa, phóng về thành.
Du Thản Chi rất đỗi hoang mang, đành tìm theo dọc bờ suối về phía hạ lưu. Gã đi bảy tám dặm đường, đến lúc hoàng hôn bỗng thấy trong đám cỏ rậm bờ bên kia có một vệt đen thì mừng rỡ vô cùng, gọi ầm lên: “Cô nương! Tiểu nhân kiếm thấy nó rồi!” Nhưng A Tử đi xa từ lâu rồi.
Du Thản Chi lội qua suối, cứ theo vệt đen mà đi theo sườn núi, đến một thung lũng phía trước. Y phấn khởi trong lòng nên chạy rất nhanh. Gã ngẩng mặt nhìn lên đỉnh núi có một ngôi chùa, kiến trúc cực kì hùng vĩ, trước cổng chùa có tấm biển đề năm chữ lớn “Sắc Kiến Mẫn Trung Tự”. Gã chẳng còn lòng dạ nào mà ngắm phong cảnh chùa chiền, chỉ lần theo vệt đen bên hông chùa mà đi quanh co ra phía sau. Trong chùa đang có khóa lễ, có tiếng chuông khánh vang lên lẫn với tiếng tụng kinh của khá đông người. Du Thản Chi từ khi bị chụp lồng sắt đã tự thẹn về hình thù kì dị của mình, không muốn xuất hiện trước mặt chư tăng, cứ men theo chân tường lầm lũi mà đi. Gã thấy vệt đen đi qua một khu bùn lầy rồi ra đến vườn rau.
Du Thản Chi mừng thầm, hy vọng trong vườn không có người, chỉ cần con tằm đang ăn rau ở đó thì bắt được ngay. Gã rảo bước đi về phía vườn rau, đến hàng rào lập tức dừng bước, vì nghe trong vườn có tiếng người đang mắng nhiếc, nghe khá rõ: “Mi bất tuân kỷ luật, bỏ đi chơi một mình khiến lão sợ hãi nửa ngày trời, chỉ lo mi đi mất không về nữa. Lão đem mi từ đỉnh núi Côn Luân tới đây, đường xa muôn dặm, mà mi chẳng biết phải quấy chi hết. Mi ngang bướng như vậy là tự làm hại mình, chẳng ra trò trống gì, ai mà thương mi nữa.” Thanh âm người này ra chiều giận dữ, nhưng vẫn đầy vẻ thương yêu kỳ vọng, tựa như cha mẹ dạy con.
Du Thản Chi nghĩ thầm: “Lão nói đem ai đó từ đỉnh núi Côn Luân tới đây, xem chừng là sư phụ hay tiền bối gì đó, chứ không phải là phụ thân.” Gã nép vào bên hàng giậu để nhìn trộm, thấy lão đó là một vị hòa thượng thấp lủn thủn mà béo trùng trục, người tròn như quả bóng. Lão đang trỏ tay xuống đất, vẻ mặt căm tức, mắng nhiếc không ngớt miệng. Du Thản Chi nhìn theo tay nhà sư chỉ, bỗng vừa kinh dị vừa mừng thầm, té ra nhà sư kia đang thống mạ con tằm kỳ dị.
Tướng nhà sư vừa lùn vừa mập đã cổ quái, lão cất tiếng mắng nhiếc con tằm thì lại càng không tưởng tượng nổi. Con tằm đang chạy tới chạy lui dưới đất như muốn tìm đường trốn, nhưng tựa hồ như nó bị nhốt trong một bức tường vô hình, mỗi khi đụng đầu vào lập tức rụt lại chuyển hướng. Du Thản Chi chú ý nhìn thấy dưới đất có vẽ một vòng tròn màu vàng, con tằm tả xung hữu đột mà không sao vượt ra được. Gã tỉnh ngộ, nghĩ thầm: “Phải rồi! Nhà sư vẽ vòng tròn kia bằng một thứ thuốc kị với con tằm đó.”
Nhà sư lùn mắng nhiếc một hồi nữa, rồi lấy một vật trong bọc ra cắn nhai ngấu nghiến, nhìn kĩ thì ra một cái đầu dê đã luộc chín. Lão ăn ngon lành, lại lấy trên cột nhà một cái bầu cũ kĩ mở nút ra, ngửa cổ dốc vào miệng nuốt ừng ực một hồi.
Du Thản Chi ngửi thấy mùi thơm, biết cái bầu này đựng rượu ngon. Gã lẩm bẩm: “Té ra là một nhà sư rượu thịt. Xem chừng con tằm này của lão nuôi, quý trọng vô cùng! Ta biết làm sao lấy cắp được đây?”
Gã còn đang ngẫm nghĩ, chợt góc vườn bên kia có tiếng người gọi: “Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!” Nhà sư mập giật mình, vội giấu cái đầu dê cùng bầu rượu vào đống rơm. Tiếng người bên ngoài lại gọi dồn: “Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Ngươi trốn đâu mà kỹ thế, sao không lên đọc kinh chiều?” Nhà sư lùn vớ lấy cái cuốc, lật đật chạy ra luống rau vừa cuốc vừa đáp: “Đệ tử đang cuốc rau mà!” Người đi đến là một nhà sư đứng tuổi, lạnh lùng nói: “Mỗi ngày có hai khóa kinh sáng chiều, ai cũng phải đến đủ. Ngươi lên đọc kinh chiều xong hãy xuống xới rau. Ở chùa Mẫn Trung thì phải chấp hành qui củ cho nghiêm ngặt, không lẽ chùa Thiếu Lâm các ngươi không có lề luật gì sao?” Nhà sư thấp lùn pháp danh là Tuệ Tịnh nói: “Vâng”, rồi bỏ cuốc đi theo nhà sư đứng tuổi ngay. Lão không dám ngoái lại nhìn con tằm, tựa hồ sợ bị phát giác.
Du Thản Chi chờ hai người kia đi ra, lắng tai nghe bốn bề vắng lặng như tờ. Gã liền chui từ chân giậu ra, thấy con tằm vẫn chạy lăng xăng không ngớt, tự hỏi: “Làm sao bắt được nó bây giờ?” Gã ngẫm nghĩ một lúc, chạy lại đống rơm móc cái bầu ra, giơ lên lắc lắc thấy còn đến nửa bầu rượu. Gã uống luôn mấy ngụm, chỗ còn thừa đổ xuống vườn rau, rồi để xuống, miệng bầu quay vào trong vòng tròn vẽ dưới đất. Con tằm bò đến miệng bầu, quả nhiên chui tọt vào trong. Du Thản Chi cả mừng, đậy nút hồ lô lại, bưng lên hai tay rồi chui qua giậu, ba chân bốn cẳng chạy về đường cũ.
Du Thản Chi mới ra khỏi chùa Mẫn Trung vài chục trượng thì cái bầu tiết ra khí lạnh ghê người, hơn cả một tảng băng. Gã hết đổi bầu từ tay phải sang tay trái, lại từ tay trái sang tay phải, nhưng lạnh thấu xương không thể cầm được. Du Thản Chi thử để lên đầu đội thì càng không ổn, khí lạnh truyền qua cái lồng sắt thấu vào óc buốt không chịu nổi, các mạch máu tựa hồ đông cứng lại không lưu thông được. Du Thản Chi gặp tình trạng cấp bách liền nghĩ ra một kế, cởi dây lưng ra buộc vào chỗ thắt trên bầu rượu rồi xách đi. Dây lưng không dẫn hơi lạnh, gã có thể xách lâu được, nhưng hơi lạnh trong bầu vẫn tiết ra, chỉ chốc lát phía ngoài bầu hơi nước đã đóng thành một lớp băng mỏng.
Du Thản Chi chạy nhanh về tới ngoài thành Nam Kinh thì trời đã khuya, cổng thành đã đóng, gã phải ngủ ở ngoài một đêm. Sáng sớm hôm sau gã mới vào cung Đoan Phúc, trình A Tử là đã bắt được con tằm mang về.
A Tử cả mừng, bỏ con tằm vào hũ sành để nuôi. Lúc đó là tháng năm, vào đầu mùa hạ khí trời ấm áp, trong điện chỉ nuôi một con tằm mà khí lạnh mỗi lúc một thêm, chẳng mấy chốc mà bình nước trà cũng đóng thành băng. Đêm ấy Du Thản Chi rét run bần bật, suốt đêm không sao ngủ được. Gã nghĩ vẩn vơ: “Con tằm này thật là cổ quái nhất thiên hạ. Giả tỉ cô nương cho nó hút máu thì cho dù mình không bị trúng độc chết, cũng rét cóng mà bỏ mạng.”
A Tử vẫn tiếp tục đi bắt những rắn độc, trùng độc đem về cho đấu với con tằm. Con tằm chỉ bò quanh một vòng là đủ làm đối thủ lạnh cóng, rồi hút lấy huyết dịch trong mình con vật bị chết, Luôn mười mấy ngày như vậy, không có giống trùng nào chống cự nổi với con tằm. Một hôm A Tử bảo Du Thản Chi: “Thiết Sửu! Hôm nay ta giết con tằm trong suốt kia. Mi thò tay vào trong hũ cho nó hút máu!”
Mấy bữa nay Du Thản Chi ngày thì lo sốt vó, đêm thì mơ thấy toàn ác mộng. Bây giờ gã thấy nàng chẳng chút dung tình, thí mạng mình cho con tằm cắn, lòng gã xiết nỗi thê lương, mắt đăm đăm nhìn A Tử. Nhưng gã không nói gì, cũng không nhúc nhích.
A Tử ngồi xếp bằng tĩnh tâm vận công, trong lòng hoan hỉ nghĩ thầm: “Ta ngẫu nhiên tìm vật dị bảo này, không chừng luyện thành công phu lợi hại hơn cả sư phụ.” Nàng giục Du Thản Chi: “Mi thò tay vào trong lọ đi!” Du Thản Chi nước mắt tuôn rơi, quỳ xuống lạy A Tử rồi nói: “Cô nương ơi! Khi cô nương luyện xong thần công độc chưởng rồi, đừng quên kẻ này đã chết vì cô nương, Tiểu nhân họ Du tên Thản Chi, không phải là Thiết Sửu gì gì đó!” A Tử tủm tỉm cười nói: “Được rồi, ngươi tên Du Thản Chi, ta nhớ kĩ lắm! Mi đối với ta hết dạ trung thành, ta coi ngươi là một tên nô bộc trung nghĩa.”
Du Thản Chi nghe A Tử tán dương, cảm thấy được an ủi rất nhiều. Gã dập đầu lạy hai lạy rồi nói: “Đa tạ cô nương!” Nhưng ai mà chẳng muốn sống, Du Thản Chi nghĩ đến hôm trước bị rết cắn, nhờ phép vận công của nhà sư trong đồ hình mà thoát chết. Hôm nay gã không muốn bó tay chịu chết, lại đem cách đó ra thử. Gã cúi xuống, chui đầu vào giữa hai chân rồi thò tay phải vào trong lọ, tập trung ý nghĩ theo những mũi tên trong đồ hình. Ngón trỏ gã bắt đầu thấy ngứa ngáy, một luồng khí lạnh tiến vào thân thể. Gã đã chuẩn bị, cứ tâm tâm niệm niệm, quả nhiên thấy luồng khí lạnh đi đúng như ý nghĩ, từ ngón tay chuyển lên cánh tay, sau cùng lên tới đỉnh đầu… Tia hàn khí này nhỏ xíu mà lạnh vô cùng, Du Thản Chi phải cố lắm mới chịu nổi.
A Tử thấy tư thế của Du Thản Chi thì vừa kinh ngạc vừa buồn cười. Nàng nổi tính hiếu kỳ lại gần coi, thấy con tằm kia đang cắn chặt đầu ngón tay trỏ Du Thản Chi. Mình con tằm trong suốt như thủy tinh, nàng nhìn rõ một dây máu từ miệng tằm hút vào, vòng từ trái sang phải, trở ra miệng rồi quay lại người Du Thản Chi. Từ cái đầu sắt cho đến y phục cùng chân tay gã đều bao phủ một lớp băng trắng toát.
A Tử lẩm bẩm: “Gã này chết rồi! Người sống phải có hơi nóng, khi nào hơi nước lại đóng thành băng được.” Tia máu trong mình con tằm vẫn chuyển động, rõ ràng nó chưa hút hết sức. Nàng định chờ cho nó no hẳn rồi mới đập chết, lấy huyết dịch luyện công, bèn để hết tâm trí theo dõi diễn biến. Đột nhiên trên mình con tằm có một luồng nhiệt khí toát ra.
A Tử đang ngạc nhiên, bỗng nghe “tách” một tiếng, con tằm từ ngón tay Du Thản Chi rớt xuống. Nàng đã cầm sẵn một cây côn gỗ, liền đập xuống. Con tằm này rất linh mẫn, lẽ ra khó lòng đánh trúng, không ngờ nó rơi xuống đáy hũ rồi ngửa bụng lên, cựa quậy một lúc vẫn không sao lật lại được, cây côn của A Tử vừa đánh xuống, con vật đã nát nhừ.
A Tử cả mừng, vội thò tay vào lọ lấy huyết dịch trong mình con tằm xoa vào hai bàn tay, rồi nhắm mắt vận công cho thấm vào người. Nàng biết rằng con tằm này là vật chí bảo khó tìm, bèn lấy nước đó chà xát hết lần này đến lần khác để luyện công, đến lúc khô kiệt hẳn mới thôi.
A Tử luyện công vất vả hết nửa ngày mới duỗi chân đứng dậy, vẫn thấy Du Thản Chi đứng như cũ, khắp người phủ một lớp băng trắng xóa. Nàng lấy làm kinh dị, đưa tay sờ vào người gã thì thấy giá buốt vô cùng, phải rụt lại ngay. Ngay cả y phục gã cũng đóng băng cứng ngắt. A Tử chẳng hiểu ra sao, ngơ ngác đứng nhìn một hồi mới bỏ đi. Hôm sau A Tử lại đến xem, thấy Du Thản Chi vẫn đứng nguyên như cũ, băng giá trên người gã lại dày thêm một lớp nữa. Nàng vừa kinh hãi vừa buồn cười, gọi Thất Lý đến, sai y đem xác Du Thản Chi đi chôn.
Thất Lý dẫn mấy tên lính Khất Đan khiêng xác Du Thản Chi bỏ lên xe ngựa chở đi, nhưng gã chẳng buồn đào huyệt, ném xác Du Thản Chi xuống khe nước rồi trở về thành.
Không ngờ cái tính lười biếng của Thất Lý lại cứu được mạng sống cho Du Thản Chi. Ngón tay gã bị con tằm cắn, đáng lẽ phải dùng phép vận công trong Dịch Cân Kinh để giải độc. Nếu gã đã luyện hết yếu quyết trong Dịch Cân Kinh thì có thể đẩy chất độc ra ngoài, nhưng gã chỉ bắt chước tranh vẽ mà hành công, con tằm hút máu, máu lại quay về ngón tay vào huyết quản, đem những tinh hoa của con băng tằm độc nhất thiên hạ kia đưa vào thân thể gã. Chất kịch độc này thuộc loại âm hàn, chồng chất lên những chất độc của rết, nhện, rắn… đã chứa sẵn trong người, làm gã đóng băng chết cứng.
Giả tỉ Thất Lý đem xác gã chôn cất đàng hoàng thì không chừng mấy trăm năm nữa vẫn còn cứng đơ, chưa chắc đã phân hủy được. Nhưng xác gã bị vứt xuống suối, từ từ chảy xuôi dòng chừng hai mươi dặm thì đến chỗ quanh co chật hẹp, vướng vào đám lau sậy. Lát sau nước quanh chỗ gã đóng lại thành băng, tựa hồ như một cái quan tài bằng thủy tinh. Suối vẫn tiếp tục chảy qua không ngừng, khí lạnh trong người Du Thản Chi giảm xuống dần dần, sau cùng khối băng quanh người gã rã ra.
Đầu gã chụp lồng sắt, kim loại mau nóng mà cũng mau lạnh nên băng giá bọc ngoài cái đầu sắt tan trước. Du Thản Chi bị nước tràn vào miệng mũi, họ sặc sụa, đầu óc tỉnh táo lại. Gã bò dưới suối lên, những mảnh băng còn lại trên người vỡ ra nghe lách cách, mơ màng như vừa tỉnh giấc mơ.
Du Thản Chi ngồi trên bờ suối nhớ lại, mình đối với A Tử hết dạ trung thành, nguyện đem thân nuôi trùng độc cho nàng luyện công, thế mà khi mình chết, A Tử không thở dài lấy một tiếng. Lúc người bắt đầu lạnh cứng, gã chưa mất tri giác, nhưng không nhúc nhích được, lớp băng đóng quanh người gã trong suốt, trông ra rất rõ. Gã thấy A Tử ngoẹo cổ nhìn cái xác mình rồi hớn hở tươi cười lấy huyết dịch con tằm ra xát vào tay luyện công, dường như cái chết của mình chỉ khiến nàng thú vị, tuyệt không thương tiếc.
Gã tự nhủ: “Con tằm kia độc vô cùng, đánh thắng vô số loại trùng độc khác. Cô nương lấy huyết dịch nó thấm vào bàn tay, chắc là luyện xong độc chưởng rồi. Giả tỉ mình về gặp nàng…” Đột nhiên người gã run bắn lên, lẩm bẩm: “Cô nương mà thấy mặt mình, chắc đem ra thử độc chưởng. Nếu luyện thành rồi thì chỉ một chưởng là mình toi mạng. Nếu chưa thành thì nàng lại bắt mình đi tìm trùng độc cho đến khi luyện xong độc chưởng mới thôi, bấy giờ lại thử chưởng thì mình cũng hết sống. Đằng nào cũng chết, mình trở về làm gì nữa?”
Gã đứng dậy, nhảy lên mấy cái cho những miếng băng còn đọng trên người, rơi xuống hết, rồi tự hỏi: “Ta biết đi đâu bây giờ?” Tìm Tiêu Phong để báo phụ thù ư, chuyện đó không thể nghĩ tới được nữa. Gã nhất thời không xác định được chủ ý, chỉ lang thang nơi hoang sơn dã lĩnh, lượm quả dại, bắt các loài thú điểu nhỏ để ăn. Đến xế chiều hôm sau, gã không biết làm gì bèn lôi cuốn Dịch Cân Kinh tiếng Phạn ra, theo những đồ hình vị sư lõa thể mà hành công.
Lúc gã nằm dưới suối, quyển sách bị ướt vẫn chưa khô. Du Thản Chi lật sách rất cẩn thận chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng hiện lên đồ hình một vị quái tăng, tư thế đều khác nhau. Gã nghĩ ngợi rất lâu mới tỉnh ngộ, hình vẽ trong sách gặp ẩm ướt thì hiện lên, chứ chẳng có bồ tát nào đến cứu mạng mình. Gã liên bắt chước theo tư thế đồ hình ở trang đầu, rồi tâm niệm theo những mũi tên màu đỏ trên văn tự kỳ lạ. Dường như có một luồng khí lạnh di chuyển khắp nơi trong thân thể và tứ chi gã, tựa hồ như con băng tằm sống dậy bò trong nội thể. Gã kinh hãi đứng dậy, cảm giác băng tằm bò trong cơ thể cũng biến mất.
Trong khoảng hai canh giờ, gã bị ám ảnh bởi con băng tằm vô ảnh vô tung trong cơ thể, không sờ được cũng không bắt được, chẳng hiểu đang ẩn nấp nơi nào. Cuối cùng gã không nhẫn nại được, tiếp tục tập theo những tư thế kỳ quái đó, tâm niệm theo những mũi tên trên văn tự ngoằn ngoèo, chẳng mấy chốc lại thấy băng tằm bò trong nội thể mình. Du Thản Chi hốt hoảng la thầm: “Ta tiếp tục quán tưởng thì băng tằm tiếp tục bò, không quán tưởng thì không hiểu nó trốn chỗ nào trong người, thật là hỏng bét.”
Tuy nhiên bằng tăm bò được một lúc thì cơ thể gã thấy sảng khoái vô cùng. Trong sách có rất nhiều đồ hình hòa thượng lõa thể, các mũi tên cũng quanh co biến hóa phức tạp vô cùng. Gã cứ y theo đó mà tập luyện, tựa hồ tâm ý tương thông với băng tằm trong người, trong thân thể lúc nóng lúc lạnh, mỗi lúc đều có cảm giác thư thái khác nhau.
Cứ thế vài tháng, gã thấy việc đuổi bắt cầm thú đã dễ dàng hơn nhiều, nhảy được xa, chạy được nhanh, trước kia không hề có khả năng đó.
Một đêm có một con sói đói đi kiếm ăn, nhảy đến vồ gã. Du Thản Chi kinh sợ, toan cất bước chạy trốn thì móng vuốt sắc bén đã đến vai, mấy cái răng nhọn hoắt kề sát vào yết hầu. Gã kinh hoàng, phóng ra một chưởng đánh vào đầu con sói, nó lăn ra ngoài, giãy giụa rồi gục xuống bất động. Du Thản Chi còn chưa hết sợ, chạy ra xa mấy trượng nhưng thấy con sói vẫn nằm yên, nhặt một hòn đá ném thử, trúng vào con sói mà nó vẫn bất động. Gã cả mừng, bước lại gần nhìn kỹ, thì ra con sói đã chết rồi, thật không thể tưởng tượng được, chỉ thuận tay đánh ra một chưởng đã lợi hại như thế. Rồi gã chăm chú nhìn bàn tay của mình không thấy có gì kỳ lạ cả, không nén nổi sung sướng, la lên: “Quỷ hồn của băng tằm thật là linh ứng!”
Gã chỉ cho rằng đó là năng lực của quỷ hồn con băng tằm nấp trong thân thể, không hiểu đó là công hiệu của Dịch Cân Kinh, thêm vào chất kịch độc của con băng tằm thế gian hãn hữu. Chất kịch độc âm hàn này đã bị gã hút vào nội thể, rồi được phép luyện công thượng thừa của Dịch Cân Kinh dung hợp thành âm kình cực kỳ lợi hại.
Pho Dịch Cân Kinh đúng là một bảo điển tối cao vô thượng trong võ học, nhưng tu tập không dễ dàng chút nào, phải phế bỏ được ý niệm về nhân tướng, ngã tướng mới mong thành tựu được. Những vị tăng lữ tu học môn võ công thượng thừa này đều phải dũng mãnh tinh tiến về Phật học mới có kết quả. Nhưng có ai học võ mà không muốn nhanh chóng thành tựu, muốn tâm vô sở trụ thật là thiên nan vạn nan. Bởi vậy mấy trăm năm nay trong chùa Thiếu Lâm không thiếu gì cao tăng muốn luyện môn này mà dụng công nhiều năm cũng chẳng được gì. Tăng chúng đều tưởng kinh này không hiệu nghiệm, nên khi bị A Châu lấy trộm, các cao tăng trong chùa tuy phẫn nộ nhưng cũng không coi là việc lớn. Một trăm năm trước đây, có một vị hòa thượng tính khí điên khùng xuất gia từ nhỏ, sư phụ của y khổ luyện Dịch Cân Kinh không thành tựu, tức giận mà viên tịch. Nhà sư điên nhặt được cuốn kinh ở bên di thể của sư phụ, cười ha hả rồi bắt đầu luyện, quả nhiên trở thành cao thủ phi thường. Nhưng cũng chỉ được một đời, nhà sư điên đến lúc viên tịch cũng không nói ra được vì sao võ công mình cao cường đến thế, mọi người đều không hiểu đó là công hiệu của Dịch Cân Kinh. Đến bây giờ, Du Thản Chi luyện môn võ công này một cách vô tâm, chỉ vì muốn gọi quỷ hồn của băng tằm ra để chơi đùa, không nghĩ gì đến việc tiến triển công lực, chính là đi đúng con đường của nhà sư điên năm xưa,
Từ đó về sau, gã liên tiếp đánh chết nhiều loại dã thú, biết rằng chưởng lực của mình rất mạnh. Bởi vậy mà dũng khí cũng từ từ nổi dậy, dần dần đi về hướng nam. Nhưng gã sợ có ngày quỷ hồn của băng tằm bỏ mình mà đi, không gọi lên được, bởi thế ngày nào cũng chiêu hồn, không dám bỏ ngày nào. May mà quỷ hồn này thật là linh ứng, hễ gã gọi là đến ngay.
Du Thản Chi cứ nhắm hướng nam mà tiến, một hôm đã đến địa giới Hà Nam ở Trung Châu. Gã tự biết cái đầu sắt làm người ta kinh sợ, nên ban ngày chỉ ở nơi hoang dã nghỉ chân, đêm mới dám ra ngoài trộm cắp vật thực mà ăn. Lúc này thân thủ của hắn đã linh mẫn lắm rồi, không ai phát giác được.
Một hôm gã đang ngủ trong một cái miếu hoang bên vệ đường, bỗng nghe tiếng bước chân, có ba người đi vào miếu.
Gã nhanh chân núp vào phía sau bệ thờ, không dám chạm mặt những người mới đến. Ba người đó vào miếu, ngồi xuống ăn uống nhồm nhoàm, nói đủ thứ chuyện, rồi kể đến những cố sự trên giang hồ. Bỗng một người hỏi: “Theo ngươi thì gã Kiều Phong trốn đâu mà kín thế, cả năm nay không có tí tin tức gì của hắn.”
Hai tiếng Kiều Phong vừa lọt vào tai Du Thản Chi, gã trong lòng chợt động, bèn để ý nghe xem họ nói gì. Một người khác nói: “Gã tác ác quá nhiều, bây giờ làm con rùa rút đầu rút cổ, e rằng chúng ta không thể tìm được nữa.” Người nói trước lại nói: “Cũng chưa chắc, không chừng gã đang chờ cơ hội, ai mà xui xẻo gặp phải là gã lại tái xuất giang hồ. Ngươi tính mà xem, sau trận chiến ở Tụ Hiền Trang, gã đã giết thêm bao nhiêu người. Nào là Từ trưởng lão, phu phụ Đàm Công Đàm Bà, Triệu Tiền Tôn, cả nhà Thiết diện phán quan Đơn lão anh hùng ở Thái Sơn, Trí Quang hòa thượng trên Thiên Đài Sơn, Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, đúng là không đếm xuể được.”
Du Thản Chi nghe thấy năm chữ “đại chiến Tụ Hiền Trang”, bất giác tim nhói lên một cái, những lời nói tiếp theo không lọt vào tai nữa. Một hồi lâu, có một âm thanh già nua nói: “Kiều bang chủ trước nay nhân nghĩa với người, sao lại… sao lại… ta nghĩ không ra, chẳng lẽ đó là kiếp số? Thôi, chúng ta đi.” Rồi lão đứng dậy toan bước đi.
Một người khác nói: “Lão Uông! Theo lão thì chúng ta phải cử ai làm bang chủ?” Thanh âm già nua đáp lại: “Ta cũng không biết, tuyển tới tuyển lui cả năm nay cũng chưa có ai được tất cả anh hùng hảo hán trên dưới đều kính phục. Ái chà, cứ chờ đấy mà xem.” Một người khác nói: “Ta biết tâm ý của lão rồi, chỉ mong gã Kiều Phong quay lại làm bang chủ chúng ta. Tốt nhất là lão đừng nằm mơ giữa ban ngày nữa, chuyện này mà lọt vào tai Toàn đà chủ, e rằng mạng lão khó toàn.” Lão Uông lo lắng nói: “Tiểu Tất! Chuyện này là mi nói, chứ ta chẳng bao giờ mong Kiều bang chủ quay lại làm bang chủ bản bang đâu.” Gã Tiểu Tất cười khẩy, nói: “Lão mở miệng ra là Kiều bang chủ nọ, Kiều bang chủ kia, không phải nhất tâm mong muốn Kiều Phong làm bang chủ Cái Bang sao?” Lão Uông cả giận nói: “Ngươi mà mở miệng nói bậy bạ nữa, là ta đập chết cái mạng chó ngay.” Người thứ ba khuyên can: “Thôi, chúng ta là huynh đệ, đừng vì việc này mà thành chuyện. Chúng ta đi thôi, đừng chậm trễ nữa. Còn Kiều Phong sao lại làm bang chủ được, hắn là giống chó Khất Đan, bọn ta mà gặp hắn là muốn liều mạng ngay. Mà nói cho cùng thì giả tỉ chúng ta muốn hắn làm bang chủ, liệu hắn có chịu không?” Lão Uông thở dài nói: “Ngươi nói phải lắm.” Nói xong, ba người rời khỏi miếu.
Du Thản Chi nghĩ thầm: “Té ra Cái Bang đang truy tìm Kiều Phong, mà tìm cùng hết cũng không thấy. Làm sao họ đoán nổi gã đang làm Nam viện đại vương ở nước Liêu? Giả tỉ ta đem chuyện này nói cho họ biết, thì Cái Bang người đồng thế mạnh, lại liên hệ với anh hùng hảo hán Trung Nguyên, không chừng đến giết được tên ác tặc này. Ta cũng theo họ mà đi giết Kiều Phong.” Gã nghĩ đến chỗ khi quay lại Nam Kinh có thể gặp A Tử, trong đầu lại nóng bừng lên.
Khi đó gã bèn nhẹ nhàng đi từ trong miếu ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang đi theo đường núi về hướng tây, bèn đi theo sau xa xa. Vùng núi này rất hoang vắng, không một bóng người. Gã đi vài dặm nữa đến một hẻm núi, xa xa đã nhìn thấy trong đó có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Cái đầu sắt của ta trông rất kỳ dị, e rằng người ta nhìn thấy phải kinh ngạc. Ta kiếm chỗ nấp để nghe ngóng rồi hãy tính.” Gã bèn chui vào bụi cỏ, từ từ bò đến phía đống lửa, cứ vài trượng lại ngừng. Đến gần hơn một chút đã nghe thanh âm ồn ào, số người quanh đống lửa không phải là ít. Thời gian vừa qua Du Thản Chi chịu khổ đã nhiều, nên không dám sơ ý, càng gần đống lửa gã bò càng chậm, sau cùng nấp vào sau một tảng đá chỉ cách vài trượng rồi ngừng lại không dám đến gần hơn, cúi mình lắng tai nghe.
Bên đống lửa có người đang đứng phát biểu, Du Thản Chi nghe một hồi, thì hiểu đây là cuộc họp của Đại Trí phân đà, thương nghị về việc ở đại hội Cái Bang hôm sau sẽ đề cử người nào làm bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người muốn ủng hộ Hề trưởng lão, lại có người nói: “Nếu nói đến trí dũng song toàn, thì phải đề cử Toàn đà chủ của bản đà. Chỉ tiếc rằng ngày trước Toàn đà chủ đã bị Kiều Phóng dùng việc công trả tư thù mà trục xuất, đến nay cũng chưa chính thức trở lại bản bang.” Lại có một người nói: “Toàn đà chủ của chúng ta là người đầu tiên đưa âm mưu của Kiều Phong ra ánh sáng, thật là đã lập đại công, việc trở về bản bang là rất dễ dàng. Trong cuộc đại hội, chúng ta hãy đưa việc khôi phục bang tịch cho Toàn đà chủ trước, rồi nhắc đến đại công của ông ta, sau cùng mới đề cử làm bang chủ.”
Một giọng khác nói: “Việc ta quay lại bản bang thì hết sức hợp lý, không nói làm gì, nhưng nếu các vị huynh đệ muốn đề cử ta làm bang chủ thì không được đâu. Mọi người sẽ nghĩ huynh đệ chúng ta vạch trần âm mưu của Kiều Phong là vì lợi riêng.” Một người lớn tiếng nói: “Toàn đà chủ, người xưa có nói: Đương nhân bất nhượng (không thể nhường nhau làm việc nhân). Thuộc hạ thấy mấy vị trưởng lão của bản bang tuy võ công rất giỏi, nhưng mưu trí thì không ai hơn huynh được. Đối với gã Kiều Phong, chúng ta phải đấu trí chứ không đấu lực, Toàn đà chủ…” Gã Toàn đà chủ bèn cắt lời: “Thi huynh đệ! Khi ta chưa chính thức trở về bản bang thì ba chữ Toàn đà chủ không thể gọi bừa bãi được.”
Quanh đống lửa có hơn hai trăm bang chúng Cái Bang, đều nói: “Tống trưởng lão đã chỉ thị huynh vẫn tạm thời giữ chức đà chủ bản đà, ba chữ Toàn đà chủ có gì mà không gọi được?” “Sau này huynh làm đến bang chủ, khi đó mới không gọi là đà chủ nữa.” “Toàn đà chủ có thể tạm thời chưa làm bang chủ, nhưng giá chót cũng phải đưa lên làm trưởng lão, chỉ mong đến lúc đó có thể kiêm nhiệm đà chủ bản đà.” Một người khác lại nói: “Đúng thế! Khi Toàn đà chủ đã làm tới bang chủ rồi, cũng mong người kiêm nhiệm chức vị đà chủ của Đại Trí phân đà của chúng ta.”
Mọi người đang bàn luận náo nhiệt, bỗng có một tên Cái Bang bước vào hẻm núi dõng dạc nói: “Khải bẩm đà chủ, có Đoàn vương tử nước Đại Lý đến thăm.” Toàn đà chủ, chính là Toàn Quan Thanh, đứng dậy nói: “Đoàn vương tử ư? Nước Đại Lý cùng bản bang trước nay có liên hệ gì đâu?” Rồi y lớn tiếng nói với mọi người: “Các vị huynh đệ! Nhà họ Đoàn ở Đại Lý là võ lâm thế gia, lần này Đoàn vương tử đích thân đến thăm, tất cả chúng ta đều phải tiếp đãi chu đáo.” Y liền dẫn mọi người ra ngoài hẻm núi để nghênh tiếp.
Bên ngoài có một vị công tử đang đứng cười hì hì, xung quanh có đến bảy tám tùy tùng, chính là Đoàn Dự. Hai bên gặp nhau liền chắp tay thi lễ, kể ra đã có quen biết, từng gặp nhau ở khu rừng hạnh thành Vô Tích, nhưng khi đó Toàn Quan Thanh không hiểu thân phận và lai lịch của Đoàn Dự. Y nghĩ lại ngày đó mình bị Kiều Phong đuổi đi một cách nhục nhã đã bị Đoàn Dự nhìn thấy, không khỏi ngượng ngùng, nhưng bình tâm lại ngay, ôm quyền nói: “Không biết Đoàn vương tử ghé thăm để ra xa nghênh tiếp, thật là thất lễ.”
Đoàn Dự cười nói: “Không dám không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có việc cần phải báo với quý bang, nên phải đến quấy nhiễu.”
Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu mấy người cùng đi là bọn Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần với bên Cái Bang. Toàn Quan Thanh mời Đoàn Dự ngồi lên một tảng đá ở phía trước đống lửa, rồi bọn Cái Bang đưa rượu lên mời.
Đoàn Dự nâng ly rượu lên uống rồi nói: “Mấy tháng trước, gia phụ ở Trung Châu có ghé qua nhà Mã phó bang chủ của quí bang ở Tín Dương thành, đã chính mắt nhìn thấy Bạch Thế Kính trưởng lão qua đời, bên trong có điều kỳ quái. Việc này có liên quan rất nhiều với quí bang cùng mấy vị anh hùng trong võ lâm. Gia phụ đã muốn nói với nhân vật đầu não của quí bang từ trước, nhưng vì mang thương tích phải điều dưỡng đến nay mới khỏi, hơn nữa các vị trưởng lão của quí bang hành tung vô định, khó mà hội diện. Gia phụ có viết một bức thư mà đến nay vẫn chưa trao được, mấy ngày trước đây biết quí đà sắp tụ hội ở đây, bèn sai vãn sinh đến trao lên.” Chàng nói xong liền đứng dậy, lấy trong túi một bức thư trao qua.
Toàn Quan Thanh đứng dậy, đón phong thư bằng cả hai tay rồi nói: “Đoàn vương gia thật là tình nghĩa thâm trọng, phiền đến Đoàn vương tử đích thân trao thư, tệ bang trên dưới cảm kích vô cùng.” Phong thư có niêm phong cẩn thận, trên bì thư viết: “Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải”, tức là trưởng lão Cái Bang mới được đọc. Toàn Quan Thanh thấy tám chữ này, nghĩ mình không tiện mở ra coi, bèn nói: “Tệ bang sắp có kỳ đại hội, các trưởng lão đều đến. Tại hạ sẽ đích thân đem phong thư của Đoàn vương gia trình lên.” Đoàn Dự nói: “Nếu vậy thì tốt quá, vãn sinh xin cáo từ.”
Toàn Quan Thanh cảm tạ, tiễn khách ra về rồi nói: “Bạch trưởng lão cùng Mã phu nhân của tệ bang không may chết dưới độc thủ của Kiều Phong, ngày đó Đoàn vương gia đã chứng kiến thảm kịch đó ư?”
Đoàn Dự lắc đầu nói: “Bạch trưởng lão cùng Mã phu nhân không phải bị Kiều đại ca giết chết. Hung thủ sát hại Mã phó bang chủ là một người khác, gia phụ đã viết minh bạch trong thư. Sau này Toàn đà chủ xem thư tự nhiên sẽ hiểu.” Trong lòng chàng nghĩ: “Việc này nói cũng dông dài, mi lại không phải là người tốt, không cần phải nói nhiều. Chắc mi cũng không dám giấu giếm phong thư của gia gia ta đâu.” Toàn Quan Thanh chắp tay nói: “Sau này còn gặp lại, xin không tiễn xa nữa.”
Đoàn Dự quay người đi ra ngoài khe núi, thấy hai đệ tử Cái Bang cùng hai hán tử khác đang đến. Hai hán tử nhìn nhau, tiến lên vài bước, hướng về Đoàn Dự thi lễ rồi trình lên một tấm thiệp đỏ. Đoàn Dự nhận lấy, nhìn qua thấy mấy hàng chữ: “Tô Tinh Hà kính mời kỳ thủ trong thiên hạ, đến mùng tám tháng hai tụ hội tại tỉnh Hà Nam, núi Lôi Cổ, đất Thiên Lung.”
Trước nay Đoàn Dự vẫn thích chơi cờ, thấy mấy chữ này liền phấn chấn tinh thần, cười nói: “Thật là tuyệt diệu. Nếu vãn sinh không bận chuyện gì khác, nhất định sẽ đến. Không hiểu sao hai vị lại biết vãn sinh thích đánh cờ?”. Hai hán tử có vẻ vui mừng, trong miệng ú ớ chỉ xua tay loạn lên ra hiệu, thì ra đều là người câm. Đoàn Dự thấy thế đành cười, hỏi Chu Đan Thần: “Núi Lôi Cổ cách đây có xa không?”, rồi đưa tấm thiệp cho y xem.
Chu Đan Thần xem qua, ôm quyền quay sang nói với hai hán tử: “Thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý là Đoàn công tử xin đa tạ Thông Biện tiên sinh trước. Đến lúc đó nhất định sẽ đích thân đến viếng.” Sau đó liền chỉ Đoàn Dự, ra hiệu rằng sẽ đến dự hội.
Hai hán tử nghiêng mình thi lễ với Đoàn Dự, rồi lấy ra một tấm thiếp trình lên Toàn Quan Thanh. Y xem qua rồi cung kính trao trả, chắp tay nói: “Toàn Quan Thanh là người tạm nắm quyền đà chủ Đại Trí phân đà ở Cái Bang, xin cung kính trình bày với Thông Biện tiên sinh ở núi Lôi Cổ rằng Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chỉ tổ thiên hạ chê cười, không dám đến dự. Xin tiên sinh thứ lỗi.” Hai hán tử thi lễ, rồi lại thi lễ lần nữa với Đoàn Dự, quay người đi.
Lúc này Chu Đan Thần mới nói với Đoàn Dự: “Núi Lôi Cổ ở phía nam Cảo Huyện, phía đông bắc Cang Khuất Nguyên, cách đây không xa lắm.”
Đoàn Dự cùng Toàn Quan Thanh từ biệt, ra khỏi hẻm núi rồi mới hỏi Chu Đan Thần: “Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người như thế nào? Là một kỳ thủ nổi tiếng ở Trung Nguyên chăng?” Chu Đan Thần nói “Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh.”
Đoàn Dự “A” lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh khi ở Đại Lý chàng đã nghe bá phụ cùng phụ thân nhắc đến, biết đó là một cao thủ tiền bối của võ lâm Trung Nguyên, vừa câm vừa điếc nhưng võ công rất cao. Bá phụ chàng khi nhắc đến ông ta đều có vẻ rất kính trọng. Chu Đan Thần lại nói: “Lung Á tiên sinh có cố tật, nhưng lại tự xưng là Thông Biện tiên sinh, không chừng ông ta nghe bằng tâm, nói bằng bút còn hơn người thường nghe bằng tai, nói bằng lưỡi.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Cũng có lý.” Chàng đi vài bước, đột nhiên thở dài sườn sượt.
Thì ra chàng nghe Chu Đan Thần nói về Tâm Thông Bút Biện của Lung Á tiên sinh thắng được Nhĩ Thông Thiệt Biện của người thường, không khỏi nghĩ đến võ công bằng miệng lưỡi của Vương Ngữ Yên, phàm nhân dùng binh đao quyền cước không sao hơn được.
Sau khi chàng cùng A Châu cứu bọn Cái Bang ở Vô Tích, không bao lâu hai gã Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cũng đến gặp Vương Ngữ Yên, rồi cả năm người đi về hướng bắc tìm Mộ Dung công tử. Đoàn Dự tự nhiên cũng đi theo. Phong Ba Ác thì nghĩ đến cái ơn chàng hút máu độc trị vết thương bò cạp cắn, nên rất hoan nghênh. Còn Bao Bất Đồng nói chuyện không lịch sự chút nào, trách mắng Đoàn Dự không biết trời cao đất dày, dám đóng giả làm Mộ Dung công tử, Về sau gã lại còn nói: “Mi không cút đi cho lẹ thì ta đánh cho bây giờ.” Vương Ngữ Yên thì chỉ huyên thuyên với Phong Ba Ác về việc nên đi đâu để tìm biểu huynh, tình cảnh quẫn bách của Đoàn Dự nàng coi như không thấy.
Đoàn Dự không biết làm sao, đành phải chia tay với Vương Ngữ Yên đi về hướng bắc, nhưng rồi lại nghĩ: “Các ngươi đi Hà Nam tìm Mộ Dung Phục, ta cũng muốn đi Hà Nam, Hà Nam ở Trung Châu không phải là nhà của bọn Mộ Dung các ngươi. Mộ Dung Phục và Bao Bất Đồng đi được, chẳng lẽ Đoàn mỗ không đi được? Nếu trên đường có tình cờ gặp mặt với các ngươi thì chẳng qua là ý trời, Bao Tam tiên sinh ngươi không thể trách ta được.”
Nhưng ông trời hiển nhiên không có ý định cho chàng gặp Vương Ngữ Yên. Mấy tháng qua, Đoàn Dự du ngoạn Hà Nam, danh nghĩa là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực chất là nhìn đông ngó tây chỉ mong thấy được một sợi tóc hay một chéo áo của Vương Ngữ Yên, chứ non xanh nước biếc không lọt vào đến nửa con mắt.
Một hôm, Đoàn Dự vào Bạch Mã Tự ở Lạc Dương, đang đàm luận về kinh A Hàm với phương trượng, thảo luận về Thất Bảo của Chuyển Luân Thánh Vương trong Phật học. Đoàn Dự đặc biệt hứng thú về Ngọc Nữ Bảo “không dài không ngắn, không trắng không đen, đông ấm hè mát”. Nhưng phương trượng lắc đầu quầy quậy, nói rằng: “Đoàn cư sĩ, đây chỉ là ví dụ, huống hồ Phật tổ đã nói rõ rằng thất bảo chỉ là vô thường…” Nói đến đây thì có ba người tiến vào trong chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ Đốc Thành và Chu Đan Thần.
Sau khi Đoàn Chính Thuần rời khỏi Mã gia ở Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, rồi tìm một nơi để dưỡng thương. Ông nghĩ đến Tiêu Phong đã bị Cái Bang vu cho cái tội hạ sát Mã Đại Nguyên, nhất định phải vì ông ta mà biện bạch, nên đã viết một lá thư, sai bọn ba người Phó Tư Qui đi trao cho Cái Bang.
Bọn Phó Tư Qui đi đến Lạc Dương, mà trong tổng đà của Cái Bang không có nhân vật đầu não nào. Họ lại nghe nói Đại Trí phân đà đang tụ hội ở gần đó, bèn tìm đến để đưa thư. Trên đường, ghé vào một tửu lâu nghe người ta kể chuyện tiếu lâm về một vị công tử si ngốc, hình mạo cử chỉ rất giống Đoàn Dự, họ bèn hỏi rõ phương hướng rồi tìm đến được Bạch Mã Tự.
Bốn người gặp nhau hết sức vui mừng. Đoàn Dự nói: “Ta cùng đi đưa thư với các ngươi, rồi các ngươi dẫn ta đến bái kiến phụ vương.” Chàng đã biết phụ thân đang ở Hà Nam, cũng rất muốn gặp. Bấy lâu chàng không nghe thấy chút tin tức nào của Vương Ngữ Yên, ngày đêm lo lắng. Đoàn Dự chỉ mong tại Đại Trí phân đà của Cái Bang là chỗ nhân vật giang hồ tụ hội, may ra có ai từng trông thấy dung nhan tuyệt thế của nàng chăng, nhưng cuối cùng cũng không được gì.
Chu Đan Thần thấy chàng thở ngắn thở dài, cứ tưởng đang nhớ đến Mộc Uyển Thanh, việc này làm sao khuyên giải được? Gã nghĩ rằng tốt nhất là dẫn dụ cho chàng nghĩ sang chuyện khác, bèn nói:“Thông Biện tiên sinh phát thiếp mời thiên hạ tới đánh cờ, chắc hẳn kỳ lực của ông ta cao lắm. Sau khi công tử gặp Trấn Nam Vương cũng nên đến chỗ Thông Biện tiên sinh mà chơi mấy ván.”
Đoàn Dự gật đầu nói: “Không sai, có thể mượn những quân đen trắng giải phá thành sầu. Tuy nàng thấu hiểu võ công khắp thiên hạ, thuộc lòng vô số kinh điển võ học, nhưng vị tất đã biết chơi cờ. Cuộc kỳ hội này của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không tới đâu.”
Chu Đan Thần không hiểu Đoàn Dự nói đến ai, dọc đường chỉ thấy chàng tựa hồ đầu óc không để trong người. Gã nghe chàng nói chuyện câu trước chẳng ăn nhập gì đến câu sau, nhưng đã quen nên cũng coi là chuyện thường, không hỏi thêm nữa.
Đoàn người cứ đi về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa, lúc chau mày, lúc phì cười, rồi nói: “Trong kinh có nói: nên nghĩ rằng trong thân mỹ nữ chỉ toàn máu mủ, trăm năm sau biến thành xương trắng (đương tự mỹ nữ, thân tàn nồng huyết, bách niên chi hậu, hóa bi bạch cốt). Nói thì nói vậy, nhưng ta e rằng mỹ nhân sau một trăm năm hóa thành xương trắng thì đống bạch cốt đó cũng cực kỳ mỹ lệ.” Chàng đang tưởng tượng xương cốt Vương Ngữ Yên sau này trông thế nào, chợt nghe tiếng vó ngựa từ xa chạy tới. Có một người nằm phục trên lưng ngựa, trong đêm tối không thể nhận định là người như thế nào.
Con ngựa đó không có ai điều khiển, xông thẳng vào bọn bốn người Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành đưa tay nắm dây cương kéo lại, thấy người trên lưng không động đậy gì. Phó Tư Qui đưa mắt nhìn kỹ, thì ra là một sứ giả của Lung Á tiên sinh, trên mặt nhoẻn nụ cười mà lại tựa như không phải cười, đã chết lâu rồi. Lúc nãy y vừa đưa thiệp cho Đoàn Dự, không hiểu sao bây giờ lại chết rồi. Một con ngựa khác cũng chạy tới, trên lưng là xác tên sứ giả kia, trên mặt lộ vẻ cười quái dị. Phó Tư Qui biết ngay hai tên này trúng kịch độc mà chết, liền giật ngựa lui lại hai bước, không dám chạm vào hai cái thi thể đó.
Đoàn Dự cả giận nói: “Tên đà chủ họ Toàn của Cái Bang thật là ác độc, sao lại hạ độc thủ giết những người này? Ta phải đến lý luận với hắn.” Chàng nói xong liền quay đầu ngựa lại, muốn đến chất vấn Toàn Quan Thanh.
Trong bóng tối phía trước bỗng có người nói: “Thằng lỏi này không biết trời cao đất rộng chi hết. Ngoài môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên, trong thiên hạ còn ai có pháp thuật giết người vô hình vô ảnh như thế? Lão già Lung Á đó cứ làm con rùa rút đầu rút cổ thì chẳng nói làm gì, nhưng hiện nay lão mon men xuất hiện trên giang hồ, Tinh Tú Lão Tiên làm sao tha cho lão được? Ê, tên tiểu tử kia! Chuyện này không liên quan đến ngươi, mau mau cút đi cho ta nhờ.”
Chu Đan Thần hạ giọng nói: “Công tử, đây là nhân vật phái Tinh Tú, không liên quan gì đến chúng ta. Mình đi thôi!”
Đoàn Dự tìm không thấy Vương Ngữ Yên cũng đã thấy chán nản. Giả tỉ hai tên sứ giả của Lung Á Lão Nhân mà chưa uổng mạng thì chàng cũng đến cứu, nhưng chúng đã chết rồi thì thật chẳng muốn sinh sự nữa làm gì. Chàng thở dài rồi nói: “Câm điếc vẫn chưa đủ, bao giờ mắt không nhìn thấy gì, mũi không ngửi thấy gì, trong lòng không có ý niệm gì nữa thì mới là giải thoát hết phiền não.”
Chàng nói thì nói vậy, nhưng đã lỡ gặp Vương Ngữ Yên, dáng dấp giọng cười của nàng đã in sâu vào tâm khảm, giả tỉ bây giờ hỏng cả tai mắt mũi miệng thì cũng đã muộn, phiền não e rằng không thể giải thoát được. Bỗng nhiên phía trước có người buông tiếng cười rộ rồi vỗ tay nói lớn: “Đúng, đúng lắm! Ngươi nói rất có lý. Móc mắt, cắt mũi vẫn chưa đủ, phải lôi ra đánh đập đến một ý niệm cũng không còn thì mới gọi là xong.”
Đoàn Dự than rằng: “Thân thể bên ngoài tàn phế chưa chắc đã hiệu quả. Phải tự mình tu tâm, không nghĩ đến sắc tướng trên thế gian, thì mới tới mức tâm vô sở trụ. Nếu thế thì trở thành đại bồ tát rồi, ta chỉ là phàm phu tục tử, làm sao tu tập tới trình độ đó được? Than ôi! Oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc (gặp người mình ghét, xa người mình thương, muốn mà không được) đều là cái khổ của nhân sinh.”
***
Du Thản Chi nấp sau tảng đá trong bụi cỏ, thấy bọn Đoàn Dự đến rồi đi, sau đó lại nghe thấy tiếng hô hoán ở phía trước. Lúc đó hai tên đệ tử Cái Bang chạy lẹ đến nói nhỏ với Toàn Quan Thanh: “Toàn đà chủ, hai gã ban nãy không hiểu sao đã bị người ta đánh chết rồi. Hung thủ tự xưng là người của phái Tinh Tú, môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên”.
Toàn Quan Thanh giật mình, biến sắc mặt. Y đã nghe nói đến Tinh Tú Lão Quái ở phái Tinh Tú, đã giỏi dụng độc mà võ công cũng rất kỳ ảo, nghĩ rằng môn nhân của lão ta giết sứ giả của Lung á Lão Nhân thì không liên quan đến mình, đừng giây vào là hơn. Y liền nói: “Biết rồi! Chẳng qua là ma quỉ giết nhau, mặc kệ chúng đi.”
Bỗng phía trước có tiếng người nói: “Thằng cha này ăn nói láo toét, đã biết bọn ta là môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên mà còn dám mắng ta là quỉ, chắc chán sống rồi chăng?” Toàn Quan Thanh cả kinh, bất giác lùi lại một bước, dưới ánh lửa thấy ngay trước mặt có một tên bang chúng thủ hạ của mình. Y định thần nhìn kỹ, thấy mặt tên này tựa như cười mà không phải cười, trông rất kỳ lạ, phía sau hình như lại còn một người nữa, bèn hỏi: “Các hạ là thần hay là quỉ, sao lại đến đây?”
Người đứng phía sau tên đệ tử Cái Bang đáp lại, giọng nói âm hiểm lạ thường: “Ngươi to gan thật, lại nói một chữ quỷ nữa. Lão gia đây là môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên. Lão Tiên đã giá đáo Trung Nguyên, trước mắt cần dùng hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Cái Bang chúng bay xưa nay vẫn có nhiều độc vật, mau mau đem dâng lên. Tinh Tú Lão Tiên thấy chúng bay ngoan ngoãn, không chừng sẽ tha mạng cho bọn ăn mày mạt hạng này. Nếu không chịu, hà hà, cứ nhìn tên này mà làm gương.”
Nghe “binh” một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đứng trước bỗng vọt lên không, rồi rớt xuống bên đống lửa không cục cựa, thì ra đã chết rồi. Xác gã vừa bay lên, liền lộ ra một hán tử thân thể lùn mập, mặc áo ngắn, không hiểu đã lẻn đến giết gã từ bao giờ.
Toàn Quan Thanh vừa kinh sợ vừa giận dữ, trong lòng suy nghĩ rất lung:“Tinh Tú Lão Quái muốn cưỡi lên đầu Cái Bang ta, nếu không khuất phục thì phải đối đầu. Việc này tuy hung hiểm, nhưng nếu ta mới nghe dọa một tiếng đã ngoan ngoãn đem rắn độc trùng độc dâng lên, thì huynh đệ trong bang hẳn là nhìn ta bằng nửa con mắt, chuyện ta làm bang chủ coi như vô vọng, mà muốn đứng vững trong bang cũng khó. May mà Tinh Tú Lão Quái chưa thân hành đến đây, gã này chỉ có một mình, không đến nỗi đáng sợ.” Y nghĩ đến đó, bèn cười khẩy hỏi lại: “Té ra huynh đài là môn hạ phái Tinh Tú. Xin cho biết tôn tính đại danh?”
Tên lùn kia đáp: “Đạo hiệu ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau chuẩn bị sẵn rắn độc trùng độc đi.” Toàn Quan Thanh cười nói: “Rắn độc trùng độc chỉ là chuyện nhỏ, không cần lưu tâm lắm.” Y thuận tay nhặt dưới đất lên một cái túi vải, nói: “Trong này có mấy con rắn độc, huynh đài xem thử coi Tinh Tú Lão Tiên có dùng được hay không?”
Tên lùn Thiên Lang Tử nghe Toàn Quan Thanh gọi “Tinh Tú Lão Tiên”, trong lòng hoan hỉ, lại thấy thái độ y cung kính bèn nghĩ: “Cái Bang gì gì đó là một đại bang ở Trung Nguyên, mà vừa nghe danh hiệu của sự phụ ta đã sợ đến té đái vãi phân. Ta lấy mấy con rắn độc này về ắt là sư phụ hoan hỉ, khen ta làm việc đắc lực. Nói đi nói lại, thì cũng dựa vào uy danh của sư phụ lão nhân gia thôi.” Y bèn cúi đầu nhìn vào trong cái túi đó.
Đột nhiên trước mắt y tối sầm lại, cái túi vải đã chụp lên đầu. Thiên Lang Tử kinh hãi, đánh ra một chưởng nhưng chẳng trúng ai. Lúc đó trên đầu, trên mặt, sau gáy đồng thời đau nhói lên, chắc đã bị độc vật trong túi cắn trúng. Gã không kịp giật cái bao xuống, phóng ra hai chưởng rồi vọt người đi. Đầu gã bị cái túi vải chụp kín, mắt không thấy gì, song chưởng vung lên loạn xạ, lại cảm thấy bị rắn rết cắn khắp chỗ trên đầu trên mặt, trong lúc hoảng hốt chỉ biết chạy mà thôi. Bỗng dưng hắn bước vào chỗ không, thân thể rơi từ trên cao xuống. Gã chỉ kêu được một tiếng đã rơi tòm xuống con sông chảy quanh chân núi, rồi bị cuốn trôi theo dòng nước.
Bản ý của Toàn Quan Thanh là giết người diệt khẩu, nào ngờ để người chạy mất. Tuy tên lùn kia bị độc vật cắn vào mặt, lại rớt xuống sông, dĩ nhiên phần chết nhiều hơn phần sống, nhưng Toàn Quan Thanh nghĩ đến phái Tinh Tú dụng độc như thần, không chừng có thuốc giải độc hiệu nghiệm, lại ở Tinh Tú Hải lâu năm chắc không tới nỗi chết đuối. Giả tỉ tên này không chết, phái Tinh Tú biết tin nhất định sẽ cho nhiều người đến phục thù. Gã trầm ngâm một lúc rồi nói: “Chúng ta hãy bày trận mãng xà, đánh nhau với Tinh Tú Lão Quái một phen. Chẳng lẽ vì Kiều Phong bỏ đi mà Cái Bang chúng ta không đứng vững hay sao? Chẳng lẽ từ đây phải chịu người ngoài áp bức hay sao? Phái Tinh Tú chuyên nghề dùng độc, chúng ta không thể đánh nhau bằng binh đao quyền cước, nhưng có thể dĩ độc công độc.”
Bọn Cái Bang reo lên khen phải, lập tức tản ra bốn hướng, lập thành thế trận ở cách đống lửa vài trượng rồi xếp bằng ngồi xuống.
Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng mưu chụp túi vải vào đầu tên Thiên Lang Tử kia, nghĩ thầm: “Té ra trong túi vải đó có độc vật. Họ có nhiều túi vải thế kia, chẳng lẽ túi nào cũng có trùng độc rắn độc hay sao? Bọn Cái Bang này bắt trùng bắt rắn rất giỏi, nếu vậy thì cũng không phải là lạ lắm. Nếu ta trộm được hết đống bao vải này về tặng cho A Tử, nhất định cô nương sẽ rất mừng.”
Chỉ thấy bọn Cái Bang ngồi bất động không nói năng gì, cạnh mỗi người đều có một cái túi vải. Có những cái túi rất lớn, bên trong tựa hồ như có vật gì lớn lắm đang nhúc nhích, Du Thản Chi nhìn mà kinh sợ đến nổi gai ốc. Bốn phía đều không một tiếng động, nếu gã bò đến chắc chắn sẽ bị bọn Cái Bang phát giác, Du Thản Chi nghĩ thầm: “Giả tỉ họ dùng cái túi này chụp lên đầu ta, thì ta có cái đầu sắt che đỡ cũng không đáng sợ lắm. Nhưng nếu nhét cả người ta vào một cái túi to cùng với các loại rắn rết sâu bọ thì chắc là khốn khổ không chịu nổi.”
Trong mấy giờ, không hề có động tĩnh gì. Một lúc nữa, chân trời hơi rạng, rồi mặt trời ló ra chiếu sáng cả một vùng hoang sơn rộng lớn, chim chóc cũng bắt đầu hót vang. Đột nhiên Toàn Quan Thanh nói nhỏ: “Đến rồi! Mọi người phải cẩn thận.” Y ngồi xếp bằng cạnh một tảng đá, bên người không có túi vải, nhưng trong tay cầm một ống sáo bằng sắt.
Ở hướng tây bắc vang lên một tiếng sáo trúc nhẹ nhàng, thấy một đoàn người từ từ tiến đến, trong tiếng sáo trúc lại hòa lẫn tiếng trống, tiếng chiêng nghe cũng réo rắt du dương. Du Thản Chi nghĩ: “Chẳng lẽ là đám rước dâu hay sao?”
Tiếng nhạc từ từ đến gần, còn cách khoảng mười trượng thì dừng lại. Có vài người đồng thanh hô lên:“Pháp giá Tinh Tú Lão Tiên giá lâm Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau ra quì xuống nghênh tiếp.” Tiếng hô vừa dứt, bốn tiếng trống tung tung nổi lên, sau ba hồi trống lại có một tiếng thanh la. Sau khi chiêng trống ngừng lại, có đến mấy chục người đồng thanh hô vang: “Cung thỉnh Tinh Tú Lão Tiên thi triển đại pháp, hàng phục bọn yêu ma tiểu quỷ Cái Bang.”
Du Thản Chi nghĩ thầm: “Kiểu này giống như bọn đạo sĩ lập đàn trừ tà vậy.” Rồi gã từ sau tảng đá, cẩn thận thò nửa cái đầu ra nhìn thấy ở phía tây bắc có hơn hai mươi người xếp hàng chữ nhất, có người thì cầm trống chiêng các loại nhạc khí, có người thì cầm cờ phướn, màu xanh đỏ đập vào mắt. Từ xa cũng nhìn thấy trên cờ phướn có những chữ rất to: “Tinh Tú Lão Tiên thần thông quảng đại, pháp lực vô biên, uy trấn thiên hạ”. Trong tiếng sáo trúc, trống chiêng, một ông lão từ từ bước ra, sau lão mấy trượng lại có mấy chục người xếp thành hai hàng đi theo.
Ông lão đang cầm một cái quạt bằng lông ngỗng, sắc mặt hồng hào dưới ánh mặt trời, đầu tóc bạc phơ, dưới cằm có chòm râu dài ba thước, quả là đồng nhan hạc phát, giống như thần tiên trong tranh vậy. Lão đi về phía bọn Cái Bang, cách chừng ba trượng thì dừng lại không tiến nữa, đột nhiên chúm môi phát ra một tiếng sáo lanh lảnh, cái quạt trong tay phẩy lên tựa hồ đưa tiếng huýt gió tới bọn Cái Bang. Lập tức có bốn người đang ngồi dưới đất phải ngã ngửa ra.
Du Thản Chi kinh ngạc la thầm: “Tinh Tú Lão Tiên pháp lực quả nhiên lợi hại.” Lão già lộ vẻ tươi cười, cứ huýt một tiếng lại quạt mấy cái, là thêm một tên ăn xin lăn ra. Tiếng huýt gió của lão tựa như một thứ ám khí lợi hại hữu chất vô hình, trong nháy mắt đã đánh ngã sáu bảy đệ tử Cái Bang.
Bọn người đi theo sau lão đều thi nhau tán tụng: “Công lực của sư phụ cổ kim hiếm có. Bọn Cái Bang này muốn chống đối phái ta thì chẳng khác gì đom đóm so với ánh sáng mặt trời mặt trăng thôi.” “Châu chấu không biết tự lượng sức lại đòi đá xe, thật là buồn cười đến nẻ ruột.” Có tên lại nói “Sư phụ lão nhân gia chỉ cười nói như không, đã làm bọn tiểu yêu này chết tươi tại chỗ, thế thì chẳng phí nửa giọt mồ hôi là hoàn toàn thắng lợi. Từ xưa tới nay đồ đệ chưa được thấy cũng chưa được nghe những việc như thế bao giờ”. Cũng có tên nói: “Đây là kỳ tích vô tiền khoáng hậu, nếu sư phụ không hiển lộ cho xem thì bọn võ lâm Trung Nguyên quyết không tưởng tượng nổi trên thế gian lại có công phu đến như thế.” Phụ họa vào tiếng hoan hô ca tụng công đức của lão tiên, lại có tiếng sáo trúc, trồng chiêng ầm ĩ thật là náo nhiệt.
Đột nhiên Toàn Quan Thanh thổi thiết địch trên tay nghe suỵt một tiếng, Du Thản Chi kinh ngạc tự hỏi: “Không hiểu y thổi làm chi, không lẽ xoay sang tán tụng Tinh Tú Lão Tiên ư?” Ở dưới đất bỗng có tiếng động, trong những bao vải lớn có mấy con rắn to màu sắc sặc sỡ bò ra, trườn dưới đất hướng đến ông lão. Bọn đệ tử kinh hãi la lên: “Có rắn, có rắn độc!” “Ôi chao, không xong rồi! Ở đây nhiều rắn độc quá.” “Sư phụ ơi, dường như lũ rắn độc này đang xông đến chúng ta.” Trong túi vải của bọn Cái Bang bò ra mỗi lúc một nhiều rắn độc, lớn có nhỏ có, nhiều con cất đầu lên phun phè phè, cùng xông vào chỗ lão già kia đang đứng với bọn đệ tử. Bọn chúng la rầm lên, thật là hoảng loạn.
Mấy tên đệ tử phái Tinh Tú cầm cương trượng nhắm vào rắn dưới đất mà đập túi bụi, nhưng ông lão sắc mặt vẫn thản nhiên, tiếp tục chúm môi huýt sáo cùng phất quạt để tấn công địch. Bên kia thì tiếng thiết tiêu của Toàn Quan Thanh cất lên không ngớt, bọn Cái Bang cũng hò hét trợ oai.
Rắn bò ra mỗi lúc một nhiều, chỉ chốc lát quanh gánh hát của Tinh Tú Lão Tiên đã tụ lại cả trăm con: Trong đó có năm sáu con trăn lớn, khi bò đến gần liền ngoắt đuôi lại quấn người. Trong đám đệ tử của phái Tinh Tú đã có bốn tên bị trăn quấn, số còn lại đều hoảng hồn muốn co giò chạy trốn cho xa đám rắn này, nhưng lại không dám. Trong lúc sư phụ đang nghênh địch thì đệ tử làm sao dám bỏ chạy được, chúng chỉ đứng đó mà khua binh khí đập loạn xạ. Chúng đánh chết ít nhất cũng đã tám chín chục con rắn, nhưng bảy tám người đã bị rắn độc cắn trúng. Những con trăn lớn da dày xương cứng lại càng lợi hại, cương trượng đập vào chúng chỉ như phủi bụi, mà chúng đã quấn được thân thể tên nào thì không thả ra nữa, càng lúc càng siết chặt. Tiếng thiết tiêu vẫn nổi lên tựa như kèn thúc quân, trăn rắn bò ra lại càng nhiều, dưới đất đã có tới hai mươi bảy, hai mươi tám con trăn lớn.
Ông lão thấy tình hình không êm, muốn rời chỗ để công kích Toàn Quan Thanh, nhưng đột nhiên có hai con rắn nhỏ vọt đến nhắm vào mặt lão mà mổ. Lão cả giận quát: “To gan thật!” rồi phẩy quạt, một trận kình phong cuốn hai con rắn đó rơi xuống. Đột nhiên lão thấy một vật mềm mại cuốn vào chân, biết là nguy rồi, vội vã phi thân lên. Thiết tiêu lại suýt một tiếng nữa, bốn con trăn đồng thời quơ cái đuôi dài lên, hướng vào lão ta mà quấn. Lão đang lơ lửng trên không, kích ra hai chưởng, đánh vào hai con trăn phía trước và bên trái binh binh hai tiếng, chúng lảo đảo rồi bắn ra ngoài hai trượng. Lúc đó đuôi của hai con trăn còn lại đã vươn tới. Trong lúc nguy cấp lão lại vận kình phóng ra một chưởng cực kỳ mãnh liệt, chưởng phong vừa đến thì đầu của một con trăn to nát bét ngay.
Đàn rắn ào ào kéo tới như sóng biển. Tuy lão già đã đánh chết được ba con trăn lớn, nhưng trên lưng và chân phải lại bị hai con khác quấn chặt. Lão quát lên một tiếng, vận hết công lực bình sinh dùng trảo bấu vào bụng con trăn trên lưng, lập tức máu tươi nó tuôn ra đỏ lòm khắp người lão. Nhưng giống trăn thật là dai sức, nó bị thủng bụng mà chưa chết ngay, vẫn cố siết mạnh vào, xương sống lão tựa hồ sắp gãy. Lão đang ra sức kháng cự thì lại có hai con trăn nữa vươn tới, dùng đuôi quấn quanh lưng lão mấy vòng, siết cứng cả hai tay lão vào người. Thế là lão già không còn cách nào chống cự nữa. Du Thản Chi trong bụi có thấy tình hình kinh tâm động phách này, sợ đến không dám thở mạnh.
Toàn Quan Thanh cả mừng, thấy mọi người bên địch đã bị trăn lớn quấn chặt hết, chỉ còn biết rên rỉ, thóa mạ chứ không còn phản kháng gì được nữa. Y bèn ngưng thổi thiết tiêu, tiến lại mấy bước cười nói: “Tinh Tú Lão Quái! Phái Tinh Tú của ngươi cùng Cái Bang chúng ta trước nay vẫn không can thiệp đến công việc của nhau, nước sông không phạm vào nước giếng, sao bỗng dưng đến đây kiếm chuyện? Bây giờ ngươi nói sao đây?”
***
Vị tiên ông đồng nhan hạc phát này chính là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu mà nhân sĩ võ lâm đều ghét cay ghét đắng. Và một trong Tinh Tú tam bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử là A Tử lấy trộm đem đi mất, lão bèn phái nhiều nhóm đệ tử đi truy lùng, thậm chí đại đồ đệ là Trích Tinh Tử cũng phải đi. Chim bồ câu đưa thư về toàn là tin bất lợi, cuối cùng lão được tin A Tử ỷ vào Kiều Phong là bang chủ Cái Bang, đánh Trích Tinh Tử trọng thương tới cửu tử nhất sinh. Đinh Xuân Thu vừa kinh hãi vừa căm hận, nghĩ rằng Cái Bang là một đại bang của võ lâm Trung Nguyên, không dễ gì đối phó. Vả lại Lung Á Lão Nhân mấy năm nay lại lộ diện trên giang hồ, đó cũng là một mối lo trong lòng, lão mà chưa trừ được thì không thể yên tâm. Lão định bụng sau khi lấy lại vương đỉnh sẽ nhân dịp làm cho xong việc đã ấp ủ nhiều năm, bèn thống lĩnh đệ tử bản phái đông chinh một chuyến.
Việc luyện Hóa Công Đại Pháp là thường xuyên phải bôi chất độc của rắn rết vào lòng bàn tay, cho thấm vào nội thể. Trong vòng bảy ngày mà không bôi chất độc mới vào, thì chẳng những công lực bị giảm sút mà độc chất tích trữ mấy chục năm trời, không được chất độc mới thấm vào nuôi dưỡng, sẽ bắt đầu phát tác, dần dần gây ra tai họa ghê gớm không biết đâu mà lường. Thần Mộc Vương Đỉnh có tiết ra một chất khí đặc biệt, mỗi khi đốt hương liệu lên thì trong khoảnh khắc dẫn dụ được rắn rết độc bò tới. Không có loại trùng độc nào trong phạm vi mười dặm đã ngửi thấy mùi hương mà chống lại nổi, không tìm đến. Đinh Xuân Thu có chiếc bảo đỉnh này trong tay nên việc bắt trùng độc không tốn một chút hơi sức nào mà phép Hóa Công Đại Pháp càng luyện càng thâm hậu. Trước kia lão có một tên đệ tử đắc ý, gã này luyện Hóa Công Đại Pháp cũng có chút thành tựu. Nào ngờ sau này gã ỷ tài, không chịu nịnh bợ sư phụ nữa, Đinh Xuân Thu bèn bắt lấy, rồi không cần trừng phạt bằng roi đòn hay đao kiếm chi hết, chỉ đem giam vào một căn nhà đá, khiến gã không có cách nào bắt được độc vật. Gã này bị độc chất trong mình phát tác cực kỳ khổ sở, tự cào xé da thịt toàn thân nát bét, rên rỉ kêu gào hơn bốn mươi ngày mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý, nhưng cũng không khỏi sợ sệt trong lòng, bèn không dám truyền thụ Hóa Công Đại Pháp cho ai nữa, do đó bọn Trích Tinh Tử cũng không biết. A Tử muốn học môn thần công này, bèn lén nhìn phương pháp lão tập luyện.
A Tử mưu mô xảo quyệt, chờ sư phụ vừa bắt trùng độc xong liền ăn cắp cái Thần Mộc Vương Đỉnh, rồi xin phép đàng hoàng đi về hướng đông. Đến lúc Tinh Tú Lão Quái phát giác ra mộc đỉnh đã biến mất, thì đã qua bảy ngày, A Tử đã trốn xa rồi, nàng cứ chọn những con đường vắng vẻ mà đi. Bọn sư huynh đi truy nã tuy võ công cao hơn nàng, nhưng mưu kế lại kém xa. Nàng dùng cách dương đông kích tây, liên tiếp bày ra vô số ngụy kế để trốn tránh.
Nơi ở của Tinh Tú Lão Quái là một khe núi ẩm thấp có rất nhiều rắn độc trùng độc. Tuy lão mất mộc đỉnh ngọc, nhưng việc bắt độc vật cũng không phải là chuyện khó. Tuy nhiên những con rắn độc trùng độc dễ bắt thì lại tầm thường, những loại ghê gớm hiếm có không thể bắt được nữa. Lão còn lo lắng một điều là lỡ mà bọn cao thủ Trung Nguyên khám phá ra lai lịch chiếc đỉnh, thì bất luận là ai cũng đập tan tức khắc. Vì thế ngày nào chưa tìm được là lão chưa yên tâm ngày ấy.
Đinh Xuân Thu đi đến Thiểm Tây thì gặp bọn đồ đệ. Đại đệ tử là Trích Tinh Tử may mà không chết, nhưng mất hết võ công, bị bọn sư đệ nhục mạ rồi đánh đập nhừ tử đến không ra hình người nữa. Nhị đệ tử là gã mũi sư tử đạo hiệu là Sư Hống Tử tạm giữ chức vị đại sư huynh. Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ thân hành xuất mã thì vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, nghĩ tới chuyện mình không hoàn thành được mệnh lệnh được giao, e rằng sẽ bị trách phạt cực kỳ thảm khốc. May mà Tinh Tú Lão Quái đang lúc cần người, tạm gác chuyện trách phạt lại, cho chúng lập công chuộc tội.
Dọc đường cả bọn đều ra sức thám thính tin tức của Cái Bang, nhưng chúng tướng mạo đã kỳ dị, hành động ngôn ngữ lại làm người ta chán ghét, nên chẳng ai muốn giúp đỡ chỉ bảo cho. Hơn nữa Tiêu Phong đã đến nước Liêu làm tới chức Nam viện đại vương, trong võ lâm không mấy ai biết, nên chúng không dò la được chút xíu tin tức nào, ngay cả tổng đà Cái Bang đang ở đâu cũng không hiểu.
Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe tin Đại Trí phân đà hội họp, muốn lập công bèn một mình xông vào, không tính toán gì. Gã trúng kế của Toàn Quan Thanh, may mà trong nội thể có nhiều độc chất nên bò cạp cắn lên mặt cũng không chết, thoát nạn chạy về bẩm báo với sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức tìm đến, không ngờ cuối cùng bị mãng xà siết chặt đến nỗi bất động, một thân võ công thâm hậu lại đầy dẫy chất kịch độc cũng tựa hồ vô kế khả thi.
***
Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, lạnh lùng hỏi lại: “Trong Cái Bang có ai tên là Kiều Phong không? Hắn đang ở đâu, mau kêu ra đây gặp ta.” Toàn Quan Thanh bất giác rùng mình một cái, hỏi: “Ngươi có chuyện gì mà muốn kiếm Kiều Phong?” Đinh Xuân Thu ngạo mạn nói: “Tinh Tú Lão Tiên hỏi mi sao mi dám không trả lời, lại còn hỏi tới hỏi lui? Kiều Phong đâu?”
Toàn Quan Thanh thấy lão đang bị trăn quấn chặt, mất cả khả năng phản kháng mà nói chuyện vẫn ngạo mạn như thường, đủ hiểu con người này ác độc cỡ nào, thật là hiếm có trên đời. Y liền kiếm lời châm chọc: “Tinh Tú Lão Tiên lừng danh thiên hạ, thế mà mấy con rắn cỏn con này cũng đối phó không xong, rõ ràng chỉ có hư danh. Xin lỗi nhé, hôm nay chúng ta phải vì thiên hạ mà trừ đại họa.”
Đinh Xuân Thu cười nói: “Lão phu bất cẩn để thua loại súc sinh máu lạnh này, hôm nay về Tây phương cực lạc cũng chẳng qua là số mệnh mà thôi.”
Lão vừa dứt lời, đột nhiên một tên đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn kêu lên: “Cái Bang đại anh hùng ơi! Xin tha mạng cho tiểu nhân, sẽ có rất nhiều lợi ích. Sư phụ của tiểu nhân rất nhiều ngụy kế, ai đề phòng đến đâu cũng không tránh hết được. Đại anh hùng chỉ sơ ý một chút là mắc bẫy ngay lập tức.” Toàn Quan Thanh lạnh lùng hỏi: “Tha cho ngươi thì được lợi gì?” Gã kia đáp: “Phái Tinh Tú có ba món bảo vật gọi là Tinh Tú tam bảo, chỉ có Tinh Tú Lão Quái và tiểu nhân là biết nơi cất giấu. Đại anh hùng cứ tha tiểu nhân ra đi, khi giết xong lão quái, tiểu nhân sẽ đi lấy dâng lên. Nếu đem tiểu nhân giết đi, thì vĩnh viễn không lấy được Tinh Tú tam bảo.”
Lại một tên đệ tử khác la lên: “Đại anh hùng! Đại anh hùng chớ có bị đánh lừa! Trong tam bảo thì một vật đã bị người lấy cắp đi mất rồi. Đại anh hùng tha tiểu nhân ra hay hơn, chỉ có tiểu nhân là hết lòng trung thành, quyết không lừa dối.”
Trong chốc lát bọn đệ tử phải Tinh Tú nhốn nháo cả lên. Nào là: “Cái Bang đại anh hùng! Tha mạng cho tiểu nhân là hay nhất, bọn kia không hết lòng trung thành với đại anh hùng đâu. Chỉ một mình tiểu nhân là đến chết cũng không đổi dạ, quyết ra sức phục vụ cho ngài.” “Tiểu nhân biết rất nhiều tuyệt kỹ bí truyền của phái Tinh Tú, nhất định sẽ nói cho đại anh hùng biết hết, không giấu giếm chút nào.” “Bản phái đến Trung Nguyên là có mưu đồ đại sự, chủ yếu là để đối phó với Cái Bang các ngài. Các vị đại anh hùng có muốn biết cụ thể không?” “Trên bờ Tinh Tú Hải có vô số kim ngân châu báu, tiểu nhân biết hết mọi chỗ, xin dẫn các vị đi khai quật, từ nay anh hùng hảo hán Cái Bang không cần phải đi xin ăn nữa.” Bọn này ăn nói bát nháo, tên thì hứa hẹn trung thành, tên thì hiến kế, tên thì đem lợi ra nhử, tên thì khêu gợi tính hiếu kỳ, lại có tên lại bịa đặt ra những chuyện hoang đường. Thôi thì kiểu gì cũng có. Có mấy tên bị rắn cắn hoặc trăn quấn chặt đã sắp đứt hơi, chỉ sợ mình chết mà không kịp van xin tha mạng, lại càng nghẹn ngào năn nỉ.
Bang chúng Cái Bang không ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại vô sỉ đến thế, liền đem lòng khinh bỉ. Có tên nổi tính hiếu kỳ, lại gần để nghe cho đã tai. Toàn Quan Thanh lạnh lùng nói: “Bọn mi đối với sư phụ còn chẳng trung thành, nói chi đến chuyện trung thành với người chưa quen biết? Thật là đáng buồn cười.”
Bọn đệ tử phái Tinh Tú lại tranh nhau nói: “Không phải! Không phải! Tinh Tú Lão Quái bản lĩnh kém cỏi, tiểu nhân theo lão chẳng ăn thua gì, trung thành với lão cũng vô ích. Còn đại anh hùng Cái Bang uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ, lại có bí quyết sai khiến rắn độc cực kỳ lợi hại. Tinh Tú Lão Quái bì với đại anh hùng thế nào được?” “Phải rồi! Cái Bang mà thu dụng đệ tử phái Tinh Tú là khiến cho quần hùng Tây Vực cũng như ở Trung Nguyên đều chấn động. Họ sẽ khâm phục các vị anh hùng Cái Bang không biết đến đâu mà nói.” “Chỉ gọi là anh hùng thôi ư? Hai chữ “Anh Hùng” không đủ để ca tụng các vị, mà phải kêu bằng “Đại Hiệp”, “Thánh Nhân” mới đúng! Tiểu nhân là người biết ăn nói, từ đây sẽ chu du bốn phương trời để ra sức quảng cáo. Oai đức của các vị đại hiệp Cái Bang chẳng mấy chốc khắp thiên hạ không còn ai không biết.” “Hứ! Tiếng tăm các vị đại hiệp Cái Bang trước nay đã lẫy lừng như sấm động, hà tất phải đợi ngươi đi khua chuông gõ trống?” “Thánh nhân! Tiểu nhân là kẻ sáng suốt tuyên bố quay về chính nghĩa trước tiên, bọn kia chỉ biết bắt chước chứ có công lao gì?
Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang chau mày nói: “Bọn mì toàn là đồ tiểu nhân để tiện, ton hót chỉ tổ người ta bẩn cả tai. Tinh Tú Lão Quái! Sao ngươi lại đào tạo ra bọn đê hèn vô liêm sỉ đến thế? Thôi, ta hóa kiếp cho ngươi trước rồi từ từ cho bọn chúng đi theo hết. Bữa nay lão gia phải đại khai sát giới.” Nói xong, y phóng chưởng đánh Đinh Xuân Thu nghe “vù” một tiếng. Phát chưởng này kình lực cực kỳ lợi hại, đánh trúng ngay giữa ngực, nào ngờ lão vô sự mà tên Cái Bang lại nhũn hai chân ra, khuỵu xuống đất cuộn người thành một khối, giãy giụa hai cái rồi bất động. Bọn Cái Bang cả kinh la lên: “Sao thế?”, rồi hai tên đứng cạnh đưa tay toan đỡ dậy, nhưng vừa chạm vào gã thì lắc lư muốn ngã. Kế bên có ba tên theo phản xạ ra tay đỡ lấy, nhưng vừa động đến cũng ngã ra. Toàn thể quần cái đều chưng hửng đứng nhìn, không dám chạm vào đồng bọn nữa.
Toàn Quan Thanh la lên: “Lão này toàn thân đầy chất độc, không được động đến. Phóng ám khí!”
Tám chín tên đệ tử Cái Bang vào hàng bốn năm túi đồng thời phát xạ ám khí, nào là cương tiêu, phi đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch, đều nhắm hướng Đinh Xuân Thu bay đến vèo vèo. Lão quát lên một tiếng, hất đầu xổ mái tóc bạc ra như một cây nhuyễn tiên, gạt hết mười mấy thứ ám khí bay ngược lại. Những tiếng “Ái chà!” “Ôi chao!” liên tiếp vang lên, sáu bảy tên bang chúng Cái Bang bị trúng ám khí. Tên thì trúng vào chỗ hiểm yếu, có tên chỉ bị sướt qua trầy da, nhưng tất cả đều nhũn ra chết cùng một lúc.
Toàn Quan Thanh quát lớn: “Lui ra! Lui ra!”. Bỗng nhiên từ mái tóc bạc phơ của Đinh Xuân Thu có một cây cương tiêu bay vèo đến, nhắm vào gã. Toàn Quan Thanh cả kinh, vung thiết tiêu gạt bắn mũi cương tiêu bay ra xa. Gã nghĩ rằng Tinh Tú Lão Quái quái dị khôn lường, dùng trăn quấn chết là an toàn nhất, liền đưa ống thiết tiêu lên miệng toan thổi. Bỗng dưng môi miệng gã tê dại đi, đầu óc choáng váng. Gã biết mình vừa ngu vừa ẩu, vứt ngay thiết tiêu xuống thì đã không kịp nữa, chỉ kêu được một tiếng rồi lăn ra nằm ngửa mặt nhìn trời.
Bang chúng Cái Bang đều cả kinh, có hai tên chạy đến tranh nhau đỡ lấy gã. Toàn Quan Thanh trong lúc nửa mê nửa tỉnh cũng cố nói: “Ta… ta… trúng độc rồi! Mau… mau… rút đi”. Bọn ăn xin sợ đến hồn vía bay hết lên mây, ôm lấy gã dông thẳng một mạch. Chẳng tên nào buồn thu dọn những tử thi đồng bọn và đủ các thứ linh tinh đang nằm vương vãi đầy mặt đất.
***
Du Thản Chi nấp trong bụi rậm, cũng hoảng sợ không dám động đậy. Tứ bề đều vắng lặng, mười mấy người Cái Bang nằm dưới đất đều co rút lại như con nhím, hiển nhiên mất mạng cả rồi. Những con trăn lớn không nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh đều không cử động gì nữa, chỉ quấn chặt sư đồ của Đinh Xuân Thu như cũ. Mọi người phái Tinh Tú đều không dám cử động, chỉ sợ chúng nổi hung lên mà há miệng đớp cho.
Yên lặng một lúc, một tên cất tiếng nói trước: “Sư phụ! Thần công sư phụ đã đến mức thiên hạ vô địch, đang cười cười nói nói chỉ hất đầu một cái mà bọn độc ác man rợ đều bị giết sạch…” Tên này chưa dứt lời, tên khác đã nói ngay: “Sư phụ! Sư phụ đừng nghe giọng lưỡi thối tha của hắn. Chính hắn vừa ca tụng bọn ăn xin nào là đại hiệp, nào là thánh nhân.” Lại một tên khác nói: “Bọn đệ tử theo hầu sư phụ đã bấy nhiêu năm, còn lạ gì bản lĩnh nghiêng trời lệch đất của sư phụ? Vừa rồi bọn Cái Bang nói nhăng nói cuội, toàn những lời bịp bợm.”
Bỗng có tiếng khóc rống lên: “Sư phụ! Sư phụ ơi, đệ tử thật là ngu xuẩn, tham sống sợ chết mà đầu hàng kẻ địch, bây giờ hối hận không kịp. Đệ tử thà để rắn độc cắn chết, không còn mặt mũi nào xin sư phụ tha mạng!” Gã nói mấy câu, bọn kia lập tức tỉnh ngộ. Kẻ nào léo mép che lấp tội lỗi lại càng bị Tinh Tú Lão Quái ghét bỏ, còn tự trách mình lầm lỡ đáng chết, nhận hết tội lỗi thì không chừng còn được khoan hồng. Nghĩ vậy, chúng lại tranh nhau tự kể tội mình, những là phân thây muôn đoạn cũng chưa đáng tội. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ cũng phải nhức cả đầu, chối cả tai.
Đinh Xuân Thu ngầm vận kình lực, định bứt đứt ba con trăn quấn vào mình. Nhưng thân thể chúng vừa dai vừa cứng, có thể co giãn được, lão đã dồn hết nội lực mà chúng chỉ hơi duỗi mình đi một chút, không thể bứt đứt nổi. Thân thể Đinh Xuân Thu tích chứa chất độc nhiều vô kể, ngay cả trên y phục cùng đầu tóc cũng chẳng thiếu gì, vừa rồi bọn Cái Bang phóng chưởng hoặc phóng ám khí tấn công lão đều nhiễm độc mà uổng mạng. Còn da trăn đã dày lại trơn tuột, chất độc không thể thấm vào cơ thể chúng được, lão đành chịu thua. Lão nghe bọn đệ tử lải nhải bên tai, bực mình nói móc: “Chúng ta bị khốn đốn vì rắn độc, đứa nào nghĩ ra cách giải quyết, ta sẽ tha mạng cho. Các ngươi biết tính ta rồi, ai được việc cho ta, ta mới không giết. Nếu cứ bẻm mép tìm lời xảo trá chẳng ích gì đâu!”
Lão vừa dứt lời, bọn đệ tử lập tức câm mồm. Hồi lâu mới có một tên lên tiếng: “Chỉ còn cách dùng lửa đốt những con trăn lớn này, lập tức chúng phải bỏ chạy.” Đinh Xuân Thu mắng: “Thúi lắm! Chỗ này hoang dã tịch mịch không có thôn trang nhà ở, làm gì có ai đi lại? Dù có người đi qua thì thấy nhiều rắn độc tất nhiên hốt hoảng chạy trốn, lấy đâu ra lửa để đốt rắn?” Sau đó bọn kia lại thi đua phát huy sáng kiến, song đều không thể thực hiện được. Chúng nhao nhao lên, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, ra vẻ nhiều mưu kế, được việc cho thầy.
Sau một giờ nữa, một tên đệ tử bị xiết chặt quá nghẹt thở. Gã thần trí hồ đồ, mở miệng cắn con trăn một miếng. Con vật bị đau, quay lại cắn vào cổ gã, gã chỉ kêu được một tiếng rồi chết ngay tức khắc.
Đinh Xuân Thu nóng nảy vô cùng. Giả tỉ đang bị địch nhân vây khốn thì chỉ một lát là lão nghĩ ra mưu kế xảo quyệt để lừa đối phương mà thoát thân, nhưng đối với đàn rắn vô tri này thì mưu kế tuyệt diệu đến đâu cũng chẳng ăn thua. Lão chỉ sợ đến lúc đám trăn bị đói sẽ đớp người mà nuốt.
Điều lão lo âu đã thành hiện thực. Một con trăn lớn đã lâu không nghe thấy hiệu lệnh, đang lúc đói bụng liền há cái miệng to tướng đớp vào người tên đệ tử đang bị quấn chặt. Gã này la hoảng: “Sư phụ cứu mạng! Sư phụ cứu mạng!”, la chưa dứt tiếng thì cặp giò đã chui vào miệng con trăn, rồi thân hình gã không gượng được nữa, từng khúc một bị nuốt vào, dần dần đến bụng, đến ngực, miệng vẫn gào thét đến phút cuối cùng. Lúc lâm tử, tiếng rú lại càng thảm thiết, vang động cả một vùng rộng lớn. Bạn đọc nên biết loài rắn hay trăn đều có răng hình móc câu, bất luận con vật nào bị đớp đều dần dần bị đẩy vào bụng, không thể thoát ra được.
Mọi người đều hiểu chỉ trong khoảnh khắc là chung số phận với tên này, sợ đến mất mật, hồn vía lên mây. Một tên đệ tử thấy Tinh Tú Lão Quái cũng chịu bó tay, bất giác lửa giận bốc lên ngùn ngụt, liền mở miệng thóa mạ sư phụ, đổ cho lão làm liên lụy mình. Trước kia hắn chăn cừu ở bờ biển Tinh Tú kiếm sống, bị lão dùng lời đường mật, dụ vào làm môn hạ. Hôm nay hắn sắp chết thảm trong miệng rắn, bèn quyết định chết xuống âm ty sẽ làm cáo trạng kiện với Diêm Vương.
Một tên đã bắt đầu, bọn kia không chịu kém, lập tức nhao nhao chửi bới sư phụ. Bọn này ngày thường bị Tinh Tú Lão Quái ngược đãi cực kỳ tàn nhẫn, đều căm hận trong lòng mà không dám nói ra. Bữa nay thầy trò đều chết đến nơi, chúng đều thóa mạ cho sướng miệng để hả lòng căm tức bấy lâu. Hai tên đệ tử chửi bới đến lúc cao hứng, cử động mạnh khiến cho con trăn đang quấn chúng nổi hung đớp cho một miếng vào vai. Hắn lớn tiếng kêu la: “Úi chao! Cứu tôi với! Cứu tôi với!”.
Du Thản Chi nghe tiếng hô hoán không nhẫn nại được nữa, đang nằm trong bụi cỏ bèn đứng phắt dậy nói: “Ta phóng hỏa đốt rắn để cứu các ngươi!”, rồi ôm cỏ khô chất thành một đống. Bọn phái Tinh Tú bất thình lình thấy xuất hiện một gã bịt mặt hình dung cổ quái, đều kinh hãi giật mình, nhưng nghe hắn nói đốt rắn cứu mình, thì khác nào đã xuống đến Quỷ Môn Quan còn được quay lại, liền nhao nhao lên ngỏ lời cảm tạ.
Bọn này có bản lĩnh thóa mạ rất cao siêu, công phu nịnh hót cũng phi thường. Suốt đời Du Thản Chi chưa được ai ca tụng đến thế, nào là “Đại anh hùng đại hào kiệt”, nào là “Nhân nghĩa đại hiệp”, nào là “Hảo hán nhất đời”, chẳng còn danh từ hoa mỹ nào không được tận dụng. Đã là con người được nghe tán tụng đều nức lòng hả dạ, Du Thản Chi thấy bọn này ca mình lên tới mây xanh thì trong lòng cũng thấy khoan khoái, liền không nề nguy hiểm mà quyết cứu mạng cho chúng.
Gã lấy đồ đánh lửa bên mình ra, toan đốt đống cỏ khô. Nhưng lúc nhìn thấy vô số rắn trăn dữ tợn, gã lại đâm ra sợ hãi, nhớ tới câu “Chọc ong thì ong đốt”, trêu vào đám rắn này chắc sẽ liên lụy ngay tức khắc.
Gã suy nghĩ một lát rồi lượm cành cây khô đốt một đống lửa thật to để phòng thủ trước, rồi mới nhặt một cành cây đang cháy liệng vào con trăn gần nhất, chạy về phía đống lửa ẩn nấp để chờ xem, định bụng thấy nó bò lại phía mình là xa chạy cao bay, chẳng thèm làm đại anh hùng, đại hiệp sĩ gì gì nữa.
Nhưng con trăn này quả nhiên rất sợ lửa, vừa nóng đến bên mình là nó buông ngay tên đệ tử phái Tinh Tú ra rồi chui vào đống cỏ rậm. Du Thản Chi thấy phép hỏa công của mình hiệu nghiệm. Giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt của bọn đệ tử phái Tinh Tú, gã liệng từng cành cây đang cháy vào đám rắn. Đàn rắn tới tấp bỏ chạy, ngay cả những con trăn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng, bò đi rào rào. Chỉ trong khoảnh khắc, mấy trăm con trăn lớn cùng rắn độc biến mất.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú lại đổi sang giọng nịnh thầy. Tên thì nói: “Sư phụ mắt nhìn muôn dặm, thần cơ diệu toán, quả nhiên phép hỏa công của sư phụ vô cùng linh nghiệm.” Có kẻ nói: “Sư phụ hồng phúc tày trời, gặp dữ hóa lành, hoàn toàn trông cậy vào sư phụ chỉ huy, sai người phóng hỏa cứu mạng kiến ruồi cho bọn đệ tử.” Những lời tán tụng đều hướng về Tinh Tú Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi thì chẳng tên nào nhắc đến nữa.
Du Thản Chi nghe mà kinh ngạc, mắng thầm: “Bọn mi vừa thóa mạ sư phụ đã hết lời tán tụng là sao?” Gã không hiểu bọn này thoát được nạn rắn, thì tính mạng lại ở trong tay Tinh Tú Lão Quái, nếu không nịnh hót thì lão chỉ giơ tay lên một cái là toi mạng. Còn công cứu mạng Du Thản Chi đến đây là sổ toẹt, chúng coi gã như người đi đường mà thôi.
Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi Du Thản Chi, bảo: “Thiết đầu tiểu tử, ngươi lại đây! Tên ngươi là gì?” Du Thản Chi bị khinh rẻ đã quen, dù thấy đối phương vô lễ cũng không giận. Gã đáp: “Tại hạ là Du Thản Chi.”, rồi tiến lại mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi: “Đám Cái Bang này chết cả chưa? Ngươi lại sờ mũi chúng xem còn thở không?” Du Thản Chi dạ một tiếng rồi cúi xuống sờ vào mũi một tên khất cái thì chỉ thấy lạnh ngắt, đã chết tự bao giờ, lại xem một tên khác cũng thấy tắt hơi rồi. Gã nói: “Họ chết hết rồi, không còn ai thở nữa.”, vừa nói vừa đứng thẳng lên, bỗng thấy vẻ mặt mọi người ra chiều giễu cợt mình. Gã chẳng hiểu gì, nhắc lại: “Họ chết cả rồi, không còn ai thở nữa.” Bộ mặt vừa khinh khỉnh vừa giễu cợt của bọn đồ đệ phái Tinh Tú dần dần biến thành kinh dị.
Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi coi bọn ăn mày lần nữa, xem còn có thể cứu vãn không?” Du Thản Chi đáp: “Vâng.”, rồi đi xem xét cẩn thận mười mấy tên Cái Bang một lần nữa. Đoạn gã lắc đầu nói: “Bọn họ chết hết rồi, không cứu vãn được nữa. Công lực của lão tiên sinh thật là ghê gớm!” Đinh Xuân Thu cười nhạt, nói: “Công phu kháng độc của ngươi mới là lợi hại.” Du Thản Chi kinh ngạc hỏi: “Tại hạ… tại hạ có công phu kháng độc gì đâu?”
Thật sự Du Thản Chi không hiểu lão nói vậy là có ý gì, không biết rằng mỗi lần gã sờ vào mũi những xác chết kia là một lần gõ cửa Quỷ Môn Quan, xem hết mười mấy tên Cái Bang là trải qua mười mấy lần suýt mất mạng. Nguyên Tinh Tú Lão Quái ở địa vị tôn sư một phái, bị trăn quấn vô kế khả thi, lại phải nhờ một đứa trẻ nít nhỏ tuổi cứu mạng. Chuyện này mà đồn đại ra giang hồ thì thật là mất thể diện, vì thế mà sau khi đàn trăn bỏ đi rồi, lão nghĩ ngay đến việc giết Du Thản Chi để bịt miệng. Thi thể bọn Cái Bang đều có chất kịch độc, lão sai Du Thản Chi sờ mũi họ là có dụng ý cho gã nhiễm độc mà chết. Dè đâu Du Thản Chi bản chất âm dương sai lệch, đã nhờ mấy tháng luyện Dịch Cân Kinh thành ra nội công ghê gớm, lại hút cả huyết dịch con băng tằm là một loại trùng độc nhất thiên hạ. Chất độc con băng tằm rất dung hợp với thể chất Du Thản Chi, trong mình gã đã chứa chất độc này thì vạn độc bất xâm. Dĩ nhiên là chất độc trong mình Đinh Xuân Thu phát ra chẳng thấm vào đâu.
Đinh Xuân Thu lẩm bẩm: “Không hiểu bản lãnh chân chính của thằng lỏi này ra sao. Chắc là trong mình hắn có vật kỵ độc như Hùng Hoàng Châu, Tịch Tà Bích chi đó, hay đã uống thuốc giải độc từ trước nên mới chịu nổi chất kỳ độc của ta nhiễm vào mình.” Nghĩ vậy lão bảo: “Du huynh đệ, ngươi lại đây! Ta có chuyện muốn nói.”
Du Thản Chi tuy thấy lão nói có vẻ chân thành, nhưng chính mắt gã vừa thấy lão giết một lúc mười mấy tên Cái Bang một cách tàn nhẫn, lại thấy bọn đồ đệ lúc thì thóa mạ lúc thì xiểm nịnh, biết rằng hạng người này khó mà đối phó, kính nhi viễn chi là hơn. Nghĩ vậy gã đáp: “Tiểu nhân có việc gấp không chần chờ được. Xin cáo từ lão tiên, tiểu nhân phải đi ngay.” Gã nói xong, chắp tay vái chào rồi chuyển thân đi ngay.
Gã mới đi được mấy bước, đột nhiên thấy bên mình có luồng gió mát lướt qua, gã chưa kịp phản kháng gì, hai cổ tay đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn lại thì thấy một tên đệ tử phái Tinh Tú cao lớn mập mạp. Gã không hiểu hắn có dụng ý gì, nhưng nhìn gương mặt đang cười một cách hung dữ, rõ ràng không phải chuyện tử tế. Gã không khỏi giật mình la lên: “Buông ta ra!” rồi cựa mạnh một cái.
Bỗng nghe trên đầu có tiếng gió vù vù, một bóng người to lớn từ sau lưng bay vút qua đầu gã rồi đập vào vách núi trước mặt đánh huỵch một tiếng, mạnh đến nỗi xương thịt tan nát, đầu nhão ra như đất bùn.
Du Thản Chi thấy đại hán này va vào vách núi mãnh liệt quá chừng, cứ tưởng mình lóa mắt. Gã định thần nhìn lại thì ra chính là tên đệ tử phái Tinh Tú vừa nắm chặt tay mình, lại càng kinh ngạc hơn nữa, tự hỏi: “Rõ ràng thằng cha này vừa nắm tay mình, sao lại bất thình lình đâm đầu vào núi mà tự tử?” Thực ra đại hán này không phải tự tử, mà vì Du Thản Chi giãy mạnh một cái, kình lực tung hắn bay qua đầu rồi hất mạnh vào núi đến nỗi toi mạng.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy Du Thản Chi chỉ nhấc tay một cái đã giết chết đồng môn, đều cả kinh thất sắc la lên một tiếng: “Ôi chao!” Tinh Tú Lão Quái giàu kinh nghiệm giang hồ, nhìn thủ pháp của gã hất chết đệ tử mình không phải là võ công thượng thặng mà chỉ có sức mạnh phi thường ở cánh tay, bèn cho đó là người có thần lực tự nhiên còn võ công thì vào hạng tầm thường. Lão băng mình đi một cái, chộp lấy cái đầu sắt của Du Thản Chi. Du Thản Chi bị chụp một cách đột ngột không kịp đề phòng, kình lực của lão nặng đến ngàn cân, đè gã ngã quỵ xuống đất. Gã toan đứng dậy, nhưng trên đỉnh đầu dường như có cả một trái núi nhỏ. Gã hết đường cựa quậy, liền mở miệng van lơn: “Xin lão tiên sinh tha mạng!”
Đinh Xuân Thu thấy gã năn nỉ tha mạng mới yên lòng hỏi lại: “Sư phụ mi là ai? Mi to gan thật! Sao dám đánh chết đồ đệ ta?” Du Thản Chi ấp úng: “Tiểu nhân không có sư phụ, Tiểu nhân cũng… chẳng giết đồ đệ của lão tiên sinh.”
Đinh Xuân Thu nghĩ bụng: “Mình đã kiềm chế được gã, đánh chết để bịt miệng là xong.” Nghĩ vậy, lão buông tay ra cho Du Thản Chi đứng dậy, rồi phóng chưởng từ từ đánh vào ngực gã. Du Thản Chi thấy vậy cả kinh, bất giác đưa tay lên gạt, hai bàn tay chạm nhau. Chính Đinh Xuân Thu cố ý ra tay rất chậm, lão dùng nội lực hùng mạnh đầy chất độc đã chứa sẵn trong bàn tay ra, đó chính là Hóa Công Đại Pháp nổi danh mấy chục năm trời, đã tàn hại không biết bao nhiêu là cao thủ võ lâm. Thật ra đối với một đứa hậu sinh nhỏ tuổi như Du Thản Chi, lão không muốn thi triển Hóa Công Đại Pháp vì mỗi lần dùng đến nó là tổn hao nguyên khí và giảm bớt chất kịch độc trong mình, nhưng lão thấy Du Thản Chi đã sờ vào mười mấy tên Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên bất đắc dĩ phải dùng đến tuyệt kĩ này.
Hai chưởng gặp nhau, Du Thản Chi lảo đảo lùi lại mấy bước. Gã toan đứng dậy nhưng lại trượt đi ngồi phệt xuống, bèn chống hai tay ra sau để ngồi cho vững nhưng dư lực đòn chưởng vẫn còn mãnh liệt, mông của Du Thản Chi chạm tới đất rồi mà còn lộn ba vòng mới dừng lại được.
Về phần Đinh Xuân Thu, sau khi đối chưởng bỗng thấy trước ngực mát lạnh, rồi nội lực tiết từ lòng bàn tay ra ngoài một cách mau lẹ dị thường. Lão cố kìm lại nhưng không tự chủ được, nội lực vẫn thoát ra ngoài, vội đảo ngược đầu xuống giơ chân lên trời, xoay người mấy vòng. Nhờ phép Cố Cơ Vận Kình của phái Tinh Tú, lão mới ngăn nội lực lại được, nhảy lộn người đứng dậy, râu tóc dựng ngược lên, sắc mặt nhợt nhạt, trông rất đáng sợ. Lão lại xòe hai bàn tay to tướng như cái quạt toan đánh xuống Du Thản Chi lần nữa. Du Thản Chi đập đầu lia lịa kêu van: “Xin lão tiên sinh tha mạng, xin lão tiên sinh tha mạng!”
Đinh Xuân Thu đối một chưởng, phát giác ra nội lực gã này thâm hậu, âm hàn đến cực điểm, lại chứa chất kịch độc. Tuy gã bị mình hất đi lăn lộn mấy vòng, mà so ra nội lực và độc kình cũng chưa kém thế chút nào, sao lại van xin tha mạng? Lão nghi ngờ tên này cố ý chế giễu, bèn tiến tới mấy bước, hỏi: “Ngươi muốn ta tha mạng là chân tâm hay giả trá?” Du Thản Chi chỉ biết dập đầu năn nỉ: “Tiểu nhân một dạ chân thành, chỉ mong lão tiên sinh từ bi tha cho cái mạng kiến ruồi.”
Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Không hiểu tên này dùng phương pháp gì, hay gặp cơ duyên nào mà độc chất trong người lại còn nhiều hơn ta, quả là một bảo bối hãn hữu. Tốt nhất là ta thu nhận gã để điều tra cho ra pháp môn luyện công, rồi hấp thu độc chất của hắn, sau cùng mới đem ra xử tử. Bây giờ giết gã thì dễ thôi, nhưng thật là đáng tiếc.” Lão bèn đưa tay ấn vào cái đầu sắt, vận nội lực rồi nói: “Ngươi mà bái ta làm sư phụ thì ta mới tha mạng ngươi được.”
Du Thản Chi thấy cái đầu sắt nóng như có lửa đốt, tựa hồ bỏng cả mặt mũi, trong lòng sợ sệt vô kể. Từ khi gã bị A Tử hành hạ dã man thì đã chấp nhận người ta muốn sao mình chịu vậy, cũng không phân biệt thị phi thiện ác gì gì nữa, những gì là hào khí trượng phu nam tử hán cũng đã quên sạch cả rồi. Lúc này gã chỉ mong toàn mạng, bèn vội vã nói: “Sư phụ! Đệ tử là Du Thản Chi xin bái kiến sư phụ làm lễ nhập môn, xin lão nhân gia thu nạp.”
Đinh Xuân Thu cả mừng, nghiêm nghị nói: “Ngươi đã nguyện ý bái ta làm sư phụ thì được rồi. Nhưng qui củ của bản môn rất nghiêm, ngươi có giữ đúng được không? Sư phụ đã sai bảo việc gì, ngươi phải hết lòng hết sức tuân theo, không được phản kháng, đã nghe rõ chưa?” Du Thản Chi nói: “Đệ tử xin tuân theo qui củ, phục tùng sư mệnh.” Đinh Xuân Thu hỏi: “Nếu sư phụ bảo ngươi chết, ngươi có cam tâm chịu chết không?” Du Thản Chi ấp úng: “Cái đó… Cái đó…” Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi suy nghĩ rồi trả lời cho rõ ràng. Cam tâm thì bảo là cam tâm, mà không cam tâm thì bảo là không cam tâm.”
Du Thản Chi lẩm bẩm: “Giả tỉ lão muốn giết mình, dĩ nhiên mình không cam tâm. Nhưng nếu thật vậy, lúc đó mình trốn được thì trốn, mà không trốn được thì chịu chết, cam tâm hay không cũng chẳng làm gì.” Gã nghĩ vậy liền đáp: “Sư phụ đối với đệ tử ơn sâu nghĩa trọng, bắt phải chết thì đệ tử cũng cam tâm.” Đinh Xuân Thu cười ha hả đáp: “Hay lắm! Ngươi thề độc đi, nếu sau này không tuân lời ta thì chịu thế nào?” Du Thản Chi suy nghĩ rồi đáp: “Đệ tử là Du Thản Chi, nếu sau này không tuân lời, xin để sư phụ phân thây muôn đoạn, chẳng được chết toàn thây.” Đinh Xuân Thu ngẩn người ra, rồi cười nói: “Tên đầu sắt này xảo quyệt gớm! Ngươi không tuân theo mệnh lệnh sư phụ, dĩ nhiên là ta sẽ xử tử, vậy lời thề độc của ngươi chỉ bằng thừa. Nhưng thôi được, ngươi đã thề rồi thì cố mà nhớ lấy.” Rồi lão gọi: “Ngươi lại đây, thuật kỹ lai lịch cho ta nghe!”
Du Thản Chi không làm gì được, đành đem bao nhiêu hoạn nạn cơ cực thuật sơ qua một lượt. Nhưng gã không muốn làm nhơ nhuốc thanh danh họ Du ở Tụ Hiền Trang, chỉ nói mình là con một nông dân, bị quân Liêu đi thu hoạch bắt về, gặp A Tử rồi cùng nàng đi bắt trùng độc. Lúc Du Thản Chi kể đến chuyện bắt con băng tằm, Đinh Xuân Thu lại càng chăm chú nghe, rồi hỏi kỹ hình thù con băng tằm, nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, tuyệt không lộ vẻ gì khác lạ. Du Thản Chi đột nhiên nghĩ thầm: “Vị sư phụ này không phải người tốt, nếu mình kể về cuốn kinh chữ Phạn tất lão đoạt mất.” Gã liền không nhắc gì tới phép luyện công cổ quái này.
Đinh Xuân Thu không biết về Dịch Cân Kinh, tưởng đó chỉ là công hiệu của con tằm kỳ diệu. Lão rủa thầm trong bụng: “Thần vật quí báu như vậy mà lọt vào tay thằng quỉ con mắt sắt này, để gã hút lấy chất độc vào trong người thật là đáng tiếc!” Lão nghĩ một lúc rồi hỏi: “Lúc nãy ngươi nói tên sư mập bắt được băng tằm tên là Tuệ Tịnh, đệ tử Thiếu Lâm ư? Hiện nay y đang ở chùa Mẫn Trung ở Nam Kinh phải không?” Du Thản Chi đáp: “Đúng thế.”
Đinh Xuân Thu nói: “Hòa thượng Tuệ Tịnh này đã kể là bắt được băng tằm trên núi Côn Luân thì tốt. Trên đó đã có một con, thì chắc phải còn hai ba con nữa. Có điều núi Côn Luân bao la ngàn dặm, nếu không có ai biết chỗ dẫn đường thì đi bắt băng tầm chẳng phải dễ gì.” Lão đã đích thân nếm mùi công hiệu của băng tằm, thấy nó còn quí hơn Thần Mộc Vương Đỉnh nhiều, bèn quyết định việc đầu tiên là phải tìm cho ra Tuệ Tịnh, bắt hắn dẫn lên núi Côn Luân kiếm băng tằm. Kể ra tên này vốn là hòa thượng Thiếu Lâm thì khó mà bắt được, cũng may gã đang ở Nam Kinh nên công việc dễ dàng hơn nhiều. Lão bèn lập tức bảo Du Thản Chi làm lễ bái sư nhập môn.
Bọn môn hạ phái Tinh Tú thấy sư phụ đối đãi với hắn đặc biệt, những lời nịnh bợ tán dương tức thời phun ra như suối. Đinh Xuân Thu đang lúc cần dùng người, bèn vờ như không nghe thấy chúng thóa mạ sư phụ, đầu hàng kẻ địch vừa rồi. Trong phái Tinh Tú thì những chuyện thế này tất phải xảy ra thường xuyên, lão cũng chẳng nổi giận làm chi.
Đoàn người đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi theo sau Đinh Xuân Thu, thấy lão tay áo bào phấp phới, chân bước ung dung nhẹ nhàng chẳng khác thần tiên, bất giác trong lòng sinh ra kính ngưỡng, nghĩ thầm: “Ta có phúc bái được một vị sư phụ thế này, chắc là đã tu mấy kiếp.”
Phái Tinh Tú đi đã ba ngày, đến một buổi trưa nóng bức bèn ghé vào.quán lương đình bên đường lớn để nghỉ chân uống nước. Bỗng nghe có tiếng vó ngựa lộp cộp, bốn kỵ sĩ từ phía trước chạy đến.
Bốn con ngựa tới gần, người đi đầu gọi lớn: “Đại ca! Nhị ca! Ta vào lương đình này uống mấy chén nước, nghỉ ngơi một tí nên chăng?” Nói xong y bèn nhảy xuống ngựa chạy vào, ba người đi sau cũng lục tục xuống ngựa. Bốn người này thấy bọn Đinh Xuân Thu liền khẽ gật đầu thi lễ, rồi đến bên lu nước lấy chén múc ra uống.
Hán tử đầu tiên mặc áo đen, thân hình bé nhỏ gầy nhom, có hai chòm râu chuột, thần sắc điêu ngoa. Người thứ hai mặc áo bào màu vàng, cũng gây ốm lộ xương nhưng thân thể cao hơn, lông mày chênh chếch rủ xuống, sắc mặt giống như đang bệnh. Người thứ ba mặc áo bào màu đỏ táo, thân hình khôi vĩ, mặt vuông tai lớn, dưới cằm để một chòm râu trắng, trông giống như một vị thương gia giàu có. Người cuối cùng lại là một nho sinh mặc áo xanh trạc ngũ tuần, đôi mắt lờ đờ tựa như đọc sách quá nhiều nên thị lực kém đi. Gã này không uống nước mà lấy cái hồ lô ra, uống rượu một mình.
Lúc đó lại có một nhà sư đi đến, chắp tay cung kính nói: “Các vị thí chủ! Tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào nghỉ ngơi uống nước một chút.” Gã áo đen cười nói: “Sư phụ đa lễ rồi. Ai cũng là người đi đường, mà lương đình này cũng không phải do chúng ta xây. Vào đây uống nước đi.” Nhà sư nói: “A Di Đà Phật, tiểu tăng xin đa tạ!”, rồi đi vào trong lương đình.
Nhà sư này khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, mày rậm mắt to, cái mũi lớn vừa tẹt vừa hếch lên trời, dung mạo xấu xí, mặc tăng bào có nhiều chỗ vá nhưng rất sạch sẽ. Gã đợi ba người uống xong rồi mới đến cái lu nước trong, dùng gáo sành múc lên một chén nước, bưng cả hai tay, hai mắt nhìn xuống, cung kính đọc kệ: “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, Nhược bất trì tỷ chú, Như thực chúng sinh nhục” (Phật nhìn vào một bát nước thấy tám vạn bốn nghìn con trùng, nếu không đọc chú này thì khác nào ăn thịt sống). Gã đọc kệ xong lại còn niệm một câu chú nữa rồi mới bưng chén nước lên uống.
Hán tử áo đen lấy làm lạ, bèn hỏi: “Tiểu sư phụ lẩm bẩm niệm chú gì vậy?” Nhà sư trả lời: “Tiểu tăng niệm Ẩm Thủy Chú. Phật dạy là trong một bát nước có tám vạn bốn nghìn con trùng, người xuất gia phải niệm chú này rồi mới được uống.” Người áo đen cười ha hả nói: “Nước này trong vắt thế kia, một con sâu cũng không có. Tiểu sư phụ nói giỡn rồi.” Nhà sư nói: “Thí chủ không biết đâu. Mắt phàm của chúng ta nhìn thì trong nước không có sâu bọ gì, nhưng thiên nhãn của Phật nhìn vào thì lại thấy trong nước có cả ngàn cả vạn con trùng.” Người áo đen cười, lại hỏi: “Sau khi niệm chú xong thì lại nuốt hết tám vạn bốn ngàn con trùng vào trong bụng, không hiểu chúng có chết không?” Nhà sư do dự rồi đáp: “Cái này… cái này sư phụ chưa dạy bảo tiểu tăng, chắc là phần lớn bọn tiểu trùng đó không chết đâu.”
Người áo vàng xen vào nói: “Sai bét, sai bét! Bọn tiểu trùng đó nhất định là phải chết. Có điều sau khi tiểu sư phụ niệm chú, tám vạn bốn ngàn con trùng đều được về thế giới tây phương cực lạc. Tiểu sư phụ chỉ uống một bát nước mà siêu độ xong tám vạn bốn ngàn chúng sinh, quả là công đức vô lượng.”
Nhà sư không biết gã nói thật hay nói chơi, ngẩn người ra, hai tay vẫn bưng bát nước mà lẩm bẩm nói: “Chỉ chốc lát mà siêu độ được tám vạn bốn ngàn sinh linh ư? Trước nay tiểu tăng chưa dám nghĩ đến pháp lực như thế.”
Người áo vàng tiến lại, đỡ lấy cái bát sành trong tay nhà sư, nhìn vào rồi đếm: “Một, hai, ba, bốn, năm, sáu,… một ngàn, hai ngàn, một vạn, hai vạn… Sai bét, sai bét! Trong cái chén này tổng cộng có tám vạn ba ngàn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng thôi. Tiểu sư phụ đếm thừa mất một con.”
Nhà sư nói: “Nam mô a di đà phật. Thí chủ nói giỡn rồi. Thí chủ cũng là người phàm, làm sao có thiên nhãn được?” Người áo vàng nói: “Không lẽ tiểu sư phụ không có thần thông thiên nhãn hay sao?” Nhà sư nói: “Dĩ nhiên là tiểu tăng không có.” Người áo vàng nói: “Sai bét, sai bét! Ta nghĩ là tiểu sư phụ có thiên nhãn thông, nếu không thì sao chỉ vừa gặp đã biết ngay ta là phàm phu tục tử, không phải là bồ tát hạ phàm?” Nhà sư nhìn qua nhìn lại, sắc mặt đầy vẻ hoài nghi.
Đại hán mặc áo đỏ sậm đi tới cầm bát nước trao lại vào tay nhà sư, rồi cười nói: “Tiểu sư phụ uống nước đi! Vị huynh đệ của tại hạ tính hay nói giỡn, xin đừng tin là thật.” Nhà sư đón lấy bát nước, cung kính nói: “Đa tạ! Đa tạ!”, trong lòng hãy còn kinh nghi, chưa uống ngay. Đại hán lại nói: “Tại hạ thấy tiểu sư phụ bộ pháp vững chãi, hẳn là người có võ công. Xin thỉnh giáo tiểu sư phụ pháp danh là gì, và xuất gia ở tự viện nào.”
Nhà sư để lại chén nước lên nắp lu, rồi hơi nghiêng người nói: “Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.”
Hán tử áo đen reo lên: “Tuyệt diệu! Thì ra tiểu sư phụ là cao thủ phái Thiếu Lâm. Lại đây, lại đây! Chúng ta tỉ thí một phen.” Hư Trúc xua tay lia lịa đáp: “Tiểu tăng võ công thấp kém, không dám động thủ với thí chủ đâu.” Gã áo đen cười nói: “Đã mấy ngày nay ta không được động thủ động cước nên ngứa ngáy chân tay. Chúng ta thử vài chiêu, không phải đánh nhau thật đâu, đừng sợ!” Hư Trúc lùi lại hai bước nói: “Tiểu tăng tuy đã luyện mấy năm công phu, nhưng chỉ là để thân thể khỏe mạnh, chứ không phải để đánh nhau.” Gã áo đen nói: “Hòa thượng Thiếu Lâm người nào võ công cũng cao cường. Nhà sư nào mới học võ công đều không được rời khỏi sơn môn một bước. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn, dĩ nhiên phải là hảo thủ. Đến đây, đến đây! Chúng ta đấu chơi trăm chiêu, ai thắng ai thua cũng chẳng có chi là quan hệ.”
Hư Trúc lại lùi hai bước nữa, nói: “Thí chủ không biết đâu. Lần này tiểu tăng tuy bản lĩnh tệ hại mà cũng được xuống núi cho đủ số. Bản tự sai hết đệ tử đi phát thiếp mà vẫn không đủ, mới phải gọi tới tiểu tăng. Tiểu tăng mang đi mười tấm anh hùng thiếp, sư phụ dặn đưa hết thì về chùa, tuyệt đối không được động thủ với ai, Tiểu tăng đưa được bốn tấm rồi, còn lại sáu tấm. Thí chủ võ công cao cường, xin hãy nhận lấy tấm thiệp này.” Nhà sư nói xong bèn lôi trong bọc một gói vải dầu, lấy ra một tấm thiệp đỏ chói, cung kính nói: “Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh của thí chủ, để tiểu tăng về chùa bẩm lại với sư phụ.”
Hán tử áo đen không đón tấm thiếp, chỉ nói: “Tiểu sư phụ chưa động thủ với ta, làm sao biết ta là anh hùng hay cẩu hùng? Chi bằng hãy thử vài chiêu, nếu ta thắng thì mới đủ tư cách để nhận anh hùng thiếp.” Gã nói xong tiến lên hai bước, tay trái đang từ từ nắm lại thì hữu quyền đã phóng tới Hư Trúc. Nhưng quyền vừa tới mặt đối phương liền rụt ngay về, la lên: “Tiếp chiêu đi chứ!”
Đại hán khôi vĩ khi nghe Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp đã để ý, bèn can thiệp: “Tứ đệ, khoan hãy động thủ, để ta xem anh hùng thiếp viết những gì đã.” Y đón lấy tấm thiệp trên tay Hư Trúc, nhìn thấy mấy hàng chữ:
“Trụ trì chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ, cung kính bái thỉnh anh hùng thiên hạ vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín giá lâm chùa Thiếu Lâm ở Cảo Sơn để đàm luận về tuyệt kỹ Gậy Ông Đập Lưng Ông, mong được hội kiến Mộ Dung thế gia ở Cô Tô.”
Đại hán “A” lên một tiếng, đưa tấm thiệp cho người nho sinh đứng bên, rồi nói với Hư Trúc: “Thì ra phen này phái Thiếu Lâm triệu tập đại hội anh hùng là để đối phó với nhà Cô Tô Mộ Dung.” Hán tử áo đen bèn nói: “Hay lắm! Ta là Nhất trận phong Phong Ba Ác, chính là thủ hạ của Cô Tô Mộ Dung đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó dễ Cô Tô Mộ Dung cũng chẳng cần phải mở đại hội anh hùng làm gì. Bây giờ ta phải lãnh giáo thân thủ của cao đồ phái Thiếu Lâm trước đã.”
Hư Trúc lại lùi hai bước nữa, chân trái đã bước ra khỏi lương đình, vội đáp: “Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ của tiểu tăng có nói, không phải bản tự cả gan mời nhà Cô Tô Mộ Dung đến để đắc tội, chỉ vì mấy năm gần đây trên giang hồ đồn đại rằng không ít anh hùng hảo hán mất mạng dưới tuyệt kỹ Gậy Ông Đập Lưng Ông. Sư bá của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư cũng viên tịch ở chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên hệ gì tới Cô Tô Mộ Dung hay không. Từ phương trượng đại sư trở xuống, trong bản phái ai cũng nửa tin nửa ngờ, cho nên mới…”
Hán tử áo đen cướp lời: “Ái chà, việc này không dính dáng gì đến nhà Mộ Dung chúng ta đâu. Nhưng ta nói thì nói, làm sao người ta tin ngay được, rốt cuộc cũng phải tỉ võ mà thôi. Bữa nay hai chúng ta thử trước một trận, coi như khua chiêng gióng trống mở màn cho đại chiến sau này. Trận này điểm tới là ngưng, đừng đánh tới mức trọng thương táng mạng mà mất cả vui đi. Đợi đến mùng chín tháng chín, Phong mỗ sẽ đến Thiếu Lâm Tự từ dưới đánh lên, tỉ thí với từng người một mới thật là sảng khoái. Chỉ e rằng Phong mỗ bất quá đánh xong mười bảy mười tám người thì đã thương tích đầy mình, chắc chắn không có cơ hội giao thủ với lão phương trượng Huyền Từ. Thật là đáng tiếc.” Gã nói xong, liền vung tay bước lên toan động thủ.
Đại hán khôi vĩ la lên: “Tứ đệ dừng tay! Đợi nói chuyện cho rõ ràng rồi hãy đánh cũng chưa muộn.” Người mặc áo vàng xen vào: “Sai bét, sai bét. Sau khi nói cho rõ ràng thì lại không cần đánh nhau nữa. Tứ đệ đừng bỏ qua cơ hội, không nói rõ ràng thì mới đánh nhau được.”
Đại hán cao to không lý gì đến y, quay sang Hà Trúc nói: “Tại hạ là Đặng Bách Xuyên, vị này là nhị đệ Công Dã Càn.” Y giới thiệu người nho sinh xong, lại quay sang chỉ gã mặc áo vàng nói: “Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, bọn tại hạ đều là thủ hạ dưới trướng Mộ Dung công tử ở Cô Tô.”
Hư Trúc thi lễ với cả bốn người xong, bèn nói: “Đặng thí chủ, Công thí chủ…” Bao Bất Đồng đột ngột cắt lời: “Sai bét, sai bét! Nhị ca của ta mang họ kép là Công Dã, ngươi gọi là Công thí chủ là sai bét, chỉ tổ người ta cười cho.” Hư Trúc đỏ mặt lên nói: “Thật là đắc tội! Tiểu tăng học vấn thô thiển, xin Công Dã thí chủ đừng trách. Bao thí chủ…” Bao Bất Đồng lại xen vào: “Ngươi lại nói sai bét. Ta đúng là ở họ Bao, nhưng trước nay không hề bố thí cho bọn hòa thượng ni cô, không thể gọi là Bao thí chủ được.” Hư Trúc đáp: “Vâng! Vâng! Bao tam gia, Phong tứ gia…” Bao Bất Đồng lại bắt lỗi: “Ngươi nói sai bét nữa rồi. Lát nữa Phong tứ đệ đánh nhau với ngươi, mặc dù chưa biết ai thắng ai thua nhưng ngươi cũng có thêm chút ít kinh nghiệm giang hồ. Ngươi không thể nói tứ đệ ta không bố thí gì cho ngươi được.” Hư Trúc vội đáp: “Vâng! Vâng! Phong thí chủ, tiểu tăng không đánh nhau đâu. Người xuất gia lấy tu hành làm gốc, võ công làm ngọn, bản lĩnh cao hay thấp cũng chẳng can hệ gì.”
Phong Ba Ác than thở: “Ngươi khinh thường chuyện học võ quá, thì chắc võ công cũng bình thường thôi, ta không thích đánh nhau với ngươi nữa.” Gã cụt hứng lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc tựa hồ trút bỏ được gánh nặng, hoan hỉ đáp liền: “Vâng! Vâng!”
Đặng Bách Xuyên nói: “Hư Trúc sư phụ, cái thiệp anh hùng này chúng tôi sẽ thay mặt Mộ Dung công tử mà nhận lấy. Nhưng mấy tháng trước công tử gia đã khởi hành đến bái phỏng Thiếu Lâm Tự, chẳng lẽ chưa đến nơi ư?”
Hư Trúc đáp: “Chưa đến đâu. Phương trượng đại sư chỉ mong Mộ Dung công tử đến nhưng chờ hoài không thấy, đã hai lần phái người đến quí phủ để vấn an, chỉ nghe nói Mộ Dung lão thí chủ đã qui tiên, tiểu thí chủ lại vắng nhà. Lần này phương trượng đại sư chỉ định thủ tòa Đạt Ma Viện thân hành đến Mộ Dung gia để đưa tin, chỉ sợ vẫn không gặp được. Vì vậy mới phát thiệp anh hùng rộng rãi trên giang hồ, nếu có gì thất lễ xin bốn vị thay mặt tệ tự mà nói rõ với Mộ Dung Công tử. Sau này Mộ Dung thí chủ giá lâm bản tự, phương trượng đại sư nhất định sẽ thân hành tạ tội.”
Đặng Bách Xuyên nói: “Tiểu sư phụ bất tất phải khách khí. Từ nay đến kỳ hội còn hơn nửa năm, chắc chắn công tử gia sẽ đến Thiếu Lâm Tự bái kiến phương trượng đại sư” Hư Trúc chắp tay cung kính đáp lại: “Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm tệ tự, chắc chắn phương trượng sẽ hoan hỉ vô cùng. Hai chữ Bái Kiến thật tình không dám nhận.”
Phong Ba Ác nghe nhà sư này nói năng bảo thủ, tuy là hòa thượng Thiếu Lâm mà không có chút nào khí độ khoái hoạt của nhân vật giang hồ. Gã thấy khó chịu, bèn mặc kệ không lý gì đến nữa, quay lại nhìn đám người bên Đinh Xuân Thu. Gã thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú đều cầm binh khí, hiển nhiên là nhân vật võ lâm, liền muốn tìm đối thủ để đánh mấy trận cho đỡ ngứa ngáy tay chân.
Từ lúc Du Thản Chi thấy bốn người bọn Phong Ba Ác vào quán lương đình, gã cứ rúc vào sau lưng sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao lớn che khuất cả y nên bọn Đặng Bách Xuyên chưa thấy cái đầu sắt kỳ lạ của gã. Phong Ba Ác chỉ chú ý đến một ông lão đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong lòng sinh ra kính ngưỡng. Y không tiện vô duyên vô cớ khiêu chiến ngay, bèn hỏi: “Xin thỉnh vấn tôn tính đại danh của lão tiền bối.” Đinh Xuân Thu khẽ cười, đáp: “Ta ở họ Đinh.”
Ngay lúc đó bỗng nhiên Hư Trúc “A” một tiếng rồi hô lên: “Sư thúc tổ! Lão nhân gia cũng đến đây ư?” Phong Ba Ác quay mặt lại nhìn, thấy ngoài đường có bảy tám hòa thượng đang đến, dẫn đầu là hai vị lão tăng, phía sau lại có hai nhà sư đang khiêng một cái cáng, trên đó có người nằm. Hư Trúc nhanh chân chạy ra khấu kiến hai vị lão tăng, rồi bẩm báo lai lịch của bọn Đặng Bách Xuyên.
Vị lão tăng bên phải gật gật đầu, đi vào lương đình thi lễ với bốn người Đặng Bách Xuyên rồi nói: “Lão nạp là Huyền Nạn”, sau đó chỉ sang vị lão tăng kia giới thiệu: “Còn đây là sư đệ Huyền Thống. Hôm nay thật là hân hạnh được gặp bốn vị đại hiền ở nhà Mộ Dung Cô Tô.”.
Bọn Đặng Bách Xuyên đã nghe tên Huyền Nạn từ lâu, thấy vị sư già này mặt đầy nếp nhăn, hai mắt lộ thần quang, liền đáp lễ. Phong Ba Ác nói: “Tại hạ kính ngưỡng thần công của đại sư phụ thủ tòa Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm đã lâu. Hôm nay thể nào cũng xin được lãnh giáo một phen.”
Huyền Nạn khẽ cười, đáp: “Lão nạp cùng Huyền Thống sư đệ đang vâng lệnh phương trượng đến Yến Tử Ổ ở Giang Nam để trình tấm thiệp này. Đây là lần thứ ba bản tự phái người đến quí phủ, lần này may mắn gặp được bốn vị ở đây, cơ duyên không phải tầm thường.” Lão tăng nói xong bèn lấy trong bọc ra một tấm thiệp đỏ.
Đặng Bách Xuyên đưa hai tay tiếp lấy, thấy trên phong bì có ghi “Kính gửi Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ”. Y nghĩ rằng nội dung bên trong chắc cũng đại khái như tấm thiệp của Hư Trúc, bèn nói: “Hai vị đại sư là cao tăng Thiếu Lâm, bằng hữu võ lâm đều kính trọng, lại phải thân hành đến bản trang, quả là thể diện nhà Mộ Dung được rạng rỡ thêm nhiều. Vừa rồi tiểu sư phụ Hư Trúc đã gửi anh hùng thiếp, bọn tại hạ sẽ nhanh chân bẩm báo lên trên. Vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín, Mộ Dung công.tử nhất định sẽ đến quí tự bái Phật, đích thân đa tạ chư vị cao tăng, đồng thời trước mặt anh hùng thiên hạ sẽ đối chất cho rõ những chỗ hiểu lầm.”
Huyền Nạn nghĩ thầm: “Ngươi nói là hiểu lầm, chẳng lẽ Huyền Bi sư huynh không phải bị bọn Mộ Dung các ngươi gia hại ư?”, Đột nhiên phía sau có tiếng la lên: “Chao ôi! Sư phụ ơi, chính hắn đây rồi.” Huyền Nạn quay đầu nhìn lại, thấy một quái nhân đầu sắt đang chỉ vào trong cáng, nói nhỏ gì đó với ông lão tóc bạc.
Du Thản Chi thầm thì vào tai Đinh Xuân Thu: “Nhà sư mập trong cái cáng đó chính là người bắt con băng tằm, không hiểu sao phái Thiếu Lâm lại khiêng y đến.”
Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư mập này là chủ nhân con băng tằm, không khỏi mừng thầm, hạ giọng hỏi lại: “Không nhầm đấy chứ?” Du Thản Chi đáp: “Đệ tử không nhầm đâu, chính là Tuệ Tịnh. Sư phụ nhìn xem, cái bụng y tròn vo lù lù một đống thế kia.” Đinh Xuân Thu nhìn kỹ người nằm trên cáng, thấy cái bụng y quả thật còn to hơn bụng đàn bà chửa mười tháng, bèn nghĩ: “Bất luận là ai đã nhìn thấy tên trọc bụng to này một lần đều không thể nhầm lẫn được nữa.” Lão bèn hỏi Huyền Nạn: “Đại sư! Hòa thượng Tuệ Tịnh này là bạn của tại hạ, không hiểu đã mắc bệnh gì, có nguy hiểm không?”
Huyền Nạn chắp tay đáp: “Không hiểu thí chủ tôn tính đại danh là gì, sao lại quen biết với sư điệt của lão nạp?” Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Tên Tuệ Tịnh này lại đi cùng với bọn hòa thượng Thiếu Lâm, thêm phiền phức nữa rồi. May mà ta gặp ở đây, chặn đường bắt đi cũng còn dễ hơn xông lên chùa Thiếu Lâm cướp người.” Lão nghĩ đến thần hiệu vô song của con băng tằm, hùng khí lại nổi lên, bèn tự xưng: “Tại hạ là Đinh Xuân Thu.”
Ba tiếng “Đinh Xuân Thu” vừa thốt ra, cả sáu người Huyền Nạn, Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác không hẹn mà cùng la lên một tiếng, mặt biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu đã đồn khắp thiên hạ, không ai tin nổi lão lại có phong thái ung dung tự tại như thế, lại càng không hiểu sao lại gặp nhau ở đây. Cả sáu người đều thấy kinh nghi.
Huyền Nạn trấn tĩnh trước tiên, nói: “Thì ra là Đinh lão tiên sinh ở Tinh Tú Hải, lão nạp từ lâu đã ngưỡng mộ đại danh, thật như sấm động bên tai.”
Nhà sư già không nói đến những câu khách sáo thông thường như “hân hạnh gặp mặt, may mắn tương phùng” gì gì, trong lòng nghĩ: “Ai mà phải gặp ngươi là coi như kiếp trước tu không khéo rồi.”
Đinh Xuân Thu đáp: “Không dám! Môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tòa Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm mới thật là vang danh thiên hạ, lão phu ngưỡng mộ từ lâu. Tại hạ đi khắp nơi tìm vị Tuệ Tịnh này, tình cờ gặp ở đây thật là hay quá.”
Huyền Nạn hơi chau mày, đáp: “Nói ra xấu hổ. Bản tự giáo dục không đến nơi nên tên sư điệt Tuệ Tịnh đây phạm nhiều giới luật, năm trước tự ý trốn khỏi chùa làm nhiều chuyện ác. Phương trượng sư huynh đã cho người đi tìm kiếm khắp nơi, khó khăn lắm mới bắt được để đưa về bản tự. Đinh lão tiên sinh đã gặp hắn ư?” Đinh Xuân Thu nói: “Thì ra y không bị bệnh mà bị người ta đánh ư? Thương tích có trầm trọng không?” Huyền Nạn trầm ngâm một lát mới nói: “Hắn không tuân pháp dự của phương trượng mà quay về, lại dám xuất thủ đả thương người khác.” Trong lòng nhà sư nghĩ: “Hắn giao kết với bọn tà ma ngoại đạo như ngươi, lại phạm thêm một giới luật nữa.”
Đinh Xuân Thu nói: “Tại hạ lên núi Côn Luân, tốn rất nhiều công sức mới bắt được một con băng tằm. Đó là một món rất hữu dụng, nhưng lại bị tên Tuệ Tịnh sư điệt của đại sư cướp mất. Lần này tại hạ ngàn dặm xa xôi từ Tinh Tú Hải vào Trung Nguyên chỉ vì muốn lấy lại con băng tằm…”
Lão chưa dứt lời, đột nhiên Tuệ Tịnh la lên: “Băng tằm của ta đâu? Này này, ngươi có thấy con băng tằm của ta ở đâu không? Con băng tầm này là ta đã vất vả tìm được trên núi Côn Luân. Chính ngươi… ngươi ăn cắp của ta phải không?”
Từ lúc Du Thản Chi lộ mặt ra hô hoán, cặp mắt láo liên của Phong Ba Ác cứ ngó chầm chập vào cái đầu sắt của gã không ngớt. Y càng nhìn càng thấy hay hay, lại đi vòng quanh Du Thản Chi ngắm nghía cái đầu kỳ lạ, thấy cái đầu này đúc rất tinh xảo, hàn gắn rất kỹ càng, cứ muốn đưa tay gõ thử mấy cái. Phong Ba Ác nhìn một hồi rồi gọi chuyện: “Huynh đài mạnh giỏi chứ?” Du Thản Chi đáp: “Tại hạ… tại hạ vẫn thường. Còn huynh đài thế nào?” Gã thấy Phong Ba Ác hình như đang ngứa chân ngứa tay, bèn ngấm ngầm sợ hãi. Phong Ba Ác hỏi: “Cái lồng sắt của huynh đài ai làm mà khéo thế? Phong mỗ đi khắp thiên hạ mà chưa thấy ai có cái mặt nạ giống như vậy.” Du Thản Chi ngượng ngùng cúi đầu, khẽ nói: “Tại hạ… tại hạ không tự chủ lấy thân được, không có cách nào…”
Phong Ba Ác nghe vậy, hỏi lại: “Kẻ nào mà ác độc đến thế? Phong mỗ muốn gặp thử coi.” Gã vừa nói vừa nheo mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cứ tưởng lão này đã ức hiếp mà chụp lồng sắt vào đầu Du Thản Chi. Du Thản Chi vội nói: “Không… không phải sư phụ tại hạ đâu.” Phong Ba Ác nói: “Vậy thì ai? Chụp lồng sắt vào đầu huynh đài để làm gì? Tại hạ phải tháo bỏ nó đi.” Y nói xong, thò tay vào bọc móc lưỡi trủy thủ sáng loáng ra, chỉ nhìn cũng biết là cực kỳ sắc bén.
Phong Ba Ác định dùng lưỡi dao này để tháo cái lồng sắt cho Du Thản Chi.
Du Thản Chi biết cái lồng sắt này đã dính liền vào mặt mũi cùng đầu óc mình, nếu tháo nó ra thì đứt cả da thịt, có thể nguy đến tính mạng. Gã vội ngăn lại: “Không… không tháo ra được đâu!” Phong Ba Ác nói: “Huynh đài đừng sợ chi hết, cứ để ta tháo ra cho, quyết không tổn thương gì đến da thịt đâu.” Du Thản Chi vẫn nằng nặc không chịu, nói: “Không được, không được mà!” Phong Ba Ác hỏi: “Phải chăng huynh đài sợ hãi tên ác nhân đã chụp đầu sắt vào, nên không dám tháo ra? Giả tỉ lần sau hắn có hành hạ huynh đài về tội mất cái mặt sắt, cứ bảo hắn rằng Nhất Trận Phong đè ra mà tháo, không tự chủ được, bảo hắn đến tìm ta mà trả đũa.” Phong Ba Ác nói xong, nắm chặt cổ tay trái Du Thản Chi.
Du Thản Chi nhìn thấy lưỡi trủy thủ sáng loáng thì kinh hãi vô cùng, vội la lên: “Sư phụ! Sư phụ!”, vừa gọi vừa quay lại Đinh Xuân Thu cầu cứu, nhưng lão đang đứng bên cái cáng thương, chắp tay sau lưng hứng thú nhìn nhà sư Tuệ Tịnh, cũng không hiểu có nghe Du Thản Chi kêu réo hay không. Phong Ba Ác đưa truy thủ lên toan đâm vào cái lồng sắt. Du Thản Chi trong lúc hoang mang, vươn tay phải đập vào vai Phong Ba Ác nghe bộp một tiếng, chỉ toan đẩy gã ra.
Phong Ba Ác đang để hết tinh thần vào việc tháo lồng sắt cho Du Thản Chi, sợ chỉ trệch mũi dao một chút là sứt mặt thủng đầu. Gã không hề đề phòng Du Thản Chi tập kích bất thình lình, mà phát chưởng này kình lực không phải tầm thường, lại trúng vào chỗ hiểm yếu. Phong Ba Ác chỉ kịp rú lên một tiếng rồi ngã chúi ra trước. May mà gã nhanh chân lẹ tay, tay trái vừa chống xuống đất, liền nhảy vọt một cái đứng thẳng người lên. Bỗng nghe “ụa” một cái, miệng Phong Ba Ác hộc máu tươi ra.
Ba người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng thấy Du Thản Chi bất thình lình hạ độc thủ, khiến huynh đệ bị một đòn nặng thì đều giật mình kinh hãi, lại thấy Phong Ba Ác mặt mày nhợt nhạt thì lo lắng vô cùng. Công Dã Càn bắt mạch Phong Ba Ác, thấy mạch cấp bách hỗn loạn dường như bị trúng độc, bèn trỏ vào mặt Du Thản Chi quát mắng: “Thằng lôi con kia! Té ra mi là môn hạ Tinh Tú Lão Quái, hễ ra tay là dùng thủ đoạn thâm độc hại người”. Gã móc trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp lấy một viên thuốc giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác.
Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng lạng người đứng chặn trước mặt Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi. Bao Bất Đồng vận kình lực vào tay trái, vươn năm ngón tay ra như móng vuốt, toan chụp xuống ngực Du Thản Chi. Đặng Bách Xuyên la lên: “Tam đệ dừng tay!” Bao Bất Đồng bèn thủ thế lùi lại, đưa mắt nhìn đại ca. Đặng Bách Xuyên mở lời chất vấn: “Nhà Mộ Dung chúng ta cùng phái Tinh Tú vốn không thù không oán, tứ đệ lại có lòng tốt muốn tháo bỏ mặt nạ giúp cho, sao môn hạ phái Tinh Tú lại xuất thủ đánh người? Mong lão tiên sinh giải thích chuyện này.”
Đinh Xuân Thu thấy gã môn đệ mới nhận chỉ hời hợt đẩy ra đã đánh bại một tên hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, oai phong của phái Tinh Tú hiển nhiên rạng rỡ thêm nhiều. Lão ngấm ngầm đắc ý, nghĩ đến thần hiệu của băng tằm lại càng thèm nhỏ dãi, bèn khẽ cười nói: “Vị Phong tứ gia này tính tình nóng nảy hiếu chiến, hành động lại càng lỗ mãng. Môn nhân phái Tinh Tú thích đội nón đồng hay nón sắt thì không hiểu có phiền hà gì đến nhà họ Mộ Dung không?”
Lúc đó Công Dã Càn đã đỡ Phong Ba Ác ngồi dậy, thấy gã toàn thân run bần bật, hai hàm răng khua lên lách cách, tựa hồ như ngã vào biển băng. Lát sau, sắc mặt Phong Ba Ác dần dần xám xanh lại. Viên thuốc giải độc của Công Dã Càn vốn rất linh nghiệm, nhưng lần này chẳng ăn thua gì.
Công Dã Càn sợ quá, đặt tay lên mũi để nghe hơi thở thì cảm thấy một luồng gió lạnh buốt thấu xương thổi vào lòng bàn tay. Y vội rụt tay lại, la lên: “Nguy rồi! Sao hơi thở lại lạnh đến thế?”, nghĩ rằng Phong Ba Ác thở hơi ra lạnh đến thế thì chắc đã trúng phải hàn độc cực kỳ ghê gớm. Tình hình cấp bách, Công Dã Càn không kịp suy nghĩ nhiều, bèn quay lại hỏi Định Xuân Thu; “Phải chăng các hạ là sư phụ gã đầu sắt kia? Huynh đệ của tại hạ trúng phải độc thủ của gã, xin các hạ giải độc giúp cho.”
Phong Ba Ác trúng phải chất hàn độc ghê gớm của băng tằm, do thần công Dịch Cân Kinh của Du Thản Chi tống vào. Đinh Xuân Thu không có thuốc giải, mà dù có thì lão cũng chẳng chịu cho. Lão ngửng đầu lên trời cười to, hô một tràng chú ngữ chẳng ai hiểu được, phất tay áo cuộn lên một trận gió. Bọn đệ tử phái Tinh Tú đều co giò chạy lẹ ra khỏi quán lương đình.
Huynh đệ Đặng Bách Xuyên cùng quần tăng Thiếu Lâm đều cảm thấy luồng gió dữ dội này như rắc ớt vào mắt, làm nhức nhối khó chịu, nước mắt trào ra, mắt không mở được. Ai nấy đều la thầm: “Nguy rồi!”, biết rằng lão phất tay áo là để phát tán độc phấn giấu bên trong. Ba người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng xông ra trước Phong Ba Ác, chỉ sợ đối phương hạ độc thủ hại gã. Đặng Bách Xuyên nhắm mắt phóng ra một chưởng, một tiếng “Ầm” vang lên, ngói và cát bụi trên mái rơi xuống lả tả. Phát chưởng của Đặng Bách Xuyên đánh trúng cột quán lương đình, cái cột to đến bảy tấc bị gãy đôi, nửa quán đổ sập xuống. Khi mọi người mở được mắt ra nhìn thì Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi đã chạy mất rồi, không thấy tông tích đâu nữa.
Một hòa thượng Thiếu Lâm la lên: “Tuệ Tịnh đâu rồi?” Té ra trong lúc hỗn loạn thì Đinh Xuân Thu đã cướp Tuệ Tịnh đi mất, cái cáng thương đang chụp lên đầu một nhà sư khác. Huyền Thống nổi giận la lên: “Đuổi!”, rồi phi thân ra khỏi lương đình. Đặng Bách Xuyên cùng Bao Bất Đồng cũng nhảy ra đuổi theo. Huyền Nạn phất tay trái một cái, cũng dẫn bọn sư điệt rượt theo tiếp ứng.
Công Dã Càn ở lại trong lương đình để lo liệu cho Phong Ba Ác. Gã thấy trong mắt cay xè, nước mắt chảy không ngừng, lại thấy mồ hôi trán Phong Ba Ác dần dần đóng thành bằng, trong lòng cực kỳ hoang mang. Bỗng nghe tiếng bước chân, Công Dã Càn ngẩng lên nhìn thấy Đặng Bách Xuyên đang ôm Bao Bất Đồng chạy trở lại, bèn cả kinh la lên: “Đại ca! Tam đệ lại bị thương ư?” Đặng Bách Xuyên đáp: “Lại là độc thủ của gã đầu sắt.” Rồi Huyền Nạn cùng quần tăng Thiếu Lâm cũng trở lại lương đình, Huyền Thống đang nằm trên lưng Hư Trúc, rét đến răng khua lách cách. Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn nhìn nhau ngơ ngác.
Đặng Bách Xuyên nói: “Gã đầu sắt chỉ đối một chưởng với tam đệ, rồi lại cùng Huyền Thống đại sư đối một chưởng nữa. Không ngờ hàn độc chưởng của phái Tinh Tú lợi hại đến thế.”
Huyền Nạn lấy trong bọc ra một cái hộp gỗ nhỏ, nói rằng: “Tệ phái có Lục Dương Chính Khí Đan có công hiệu chữa trị hàn độc.” Nhà sư mở nắp hộp, lấy ra ba viên đan dược màu đỏ như máu, trao Đặng Bách Xuyên hai viên, còn một viên cho Huyền Thống uống.
Thời gian chừng ăn xong bữa cơm, hàn độc trong thân thể bọn Huyền Thống ba người đã dịu lại, Bao Bất Đồng mở miệng la lên: “Gã đầu sắt này, con… con mẹ nó, không hiểu là chưởng lực gì vậy?” Đặng Bách Xuyên nói: “Tam đệ, từ từ rồi hãy mắng cũng chưa muộn, hành công trước đã.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Bây giờ mà không mắng, lát nữa mạng của tiểu đệ ô hô ai tai rồi, lúc đó muốn mắng thì đã muộn.” Đặng Bách Xuyên cười nói:“Đừng lo quá, không chết được đâu.” Y nói xong liền đưa bàn tay áp vào huyệt Chí Dương ở hậu tâm, dùng nội lực yểm trợ gã khu trừ hàn độc. Công Dã Càn lại giúp Phong Ba Ác, còn Huyền Nạn cũng dùng nội lực yểm trợ cho Huyền Thống trục độc.
Trong số họ thì dĩ nhiên hai vị Huyền Nạn, Huyền Thống nội lực thâm hậu nhất. Một lát sau Huyền Thống thở phào rồi nói: “Tốt rồi! Thật là lợi hại.” Huyền Nạn có ý đi giúp Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác trục hàn độc, nhưng ngặt ở chỗ đối phương chưa mở lời mà mình tự ý sang giúp thì không khỏi có ý coi thường nội lực của họ, đó là một điều cấm kỵ của võ lâm.
Đột nhiên Huyền Thống lắc lư hai cái, hai hàm răng lại khua lên lách cách, kêu cứu: “Sư… sư huynh! Hàn… hàn độc này thật là cổ quái…” Huyền Nạn phải tiếp tục vận công tương trợ. Hàn độc trong mình ba người cứ dịu đi chốc lát rồi lại lên cơn, cứ như thế đến chiều tối thì mỗi người đã uống đến ba viên Lục Dương Chính Khí Đan mà hàn khí vẫn không giảm chút nào. Huyền Nạn mang theo mười viên đan dược, lúc này chỉ còn một viên, liền bỏ ra chia cho ba người uống. Bao Bất Đồng không chịu uống nữa, phều phào nói: “E rằng uống thêm một trăm viên nữa cũng… cũng… chưa chắc…”
Huyền Nạn đành bó tay, nói: “Bao thí chủ nói không sai. Lục Dương Chính Khí Đan quả là thuốc không đúng bệnh, mà nội công của chúng ta cũng không thể khu trừ hàn độc này được. Lão nạp nghĩ rằng, chỉ còn cách đến xin Tiết Thần Y chữa trị thôi. Bốn vị thí chủ nghĩ sao?” Đặng Bách Xuyên cả mừng nói: “Tại hạ cũng có nghe Tiết Thần Y ngoại hiệu là Diêm Vương Địch diệu thủ hồi xuân, chứng bệnh nào cũng có thể chữa khỏi. Đại sư có biết thần y ở chỗ nào không?” Huyền Nạn đáp: “Gia đình Tiết Thần Y ở trấn Liễu Tông phía tây Lạc Dương, cách đây cũng không xa lắm. Thần Y cùng lão nạp đã có duyên gặp gỡ mấy lần, nếu qua đó xin chữa trị thì chắc ông ta không từ chối đâu.” Nhà sư ngừng một chút lại nói: “Tiết Thần Y trước đây đã từng ngưỡng mộ Cô Tô Mộ Dung lừng danh thiên hạ. Nếu y có dịp kết giao bằng hữu với bốn vị anh hùng, chắc cũng rất vui mừng.”
Bao Bất Đồng xen vào nói: “Sai bét, sai bét! Tiết Thần Y mà thấy chúng ta đến trước cửa chưa chắc đã vui mừng. Có điều hết thảy nhân vật võ lâm đều chán ghét môn Gậy Ông Đập Lưng Ông của công tử nhà ta, chỉ có Tiết Thần Y là không sợ mà còn tán dương là khác. Sau này giả tỉ y gặp phải chuyện… chuyện lôi thôi, chỉ cần đến nhờ công tử gia thi triển môn Gậy Ông Đập Lưng Ông là cái mạng già của y được cứu ngay.”
Mọi người phá lên cười, cùng nhau rời khỏi quán lương đình, đến thị trấn phía trước thuê ba cỗ xe lớn để ba người bị thương nằm dưỡng sức. Đặng Bách Xuyên lại xuất ngân lượng mua thêm mấy con ngựa cho quần tăng Thiếu Lâm cưỡi.
Đoàn người cứ đi hai ba giờ lại phải dừng để giúp bọn ba người Huyền Thống hành công trấn áp hàn độc. Về sau Huyền Nạn không tị hiềm nữa, cũng dùng nội công phái Thiếu Lâm để tương trợ cho Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác. Từ nơi này đến trấn Liễu Tông chỉ cách vài trăm dặm, tuy đường núi gập ghềnh mà đến trưa ngày thứ ba đã đến nơi. Nhà Diêm vương địch Tiết Thần Y ở chốn thâm sơn, cách trấn Liễu Tông hơn ba mươi dặm về phía Bắc. May mà khi ở Tụ Hiền Trang lão đã nói rõ đường lối với Huyền Nạn đại sư, nên đoàn người không phải hỏi gì, đi một mạch đến cửa Tiết gia.
Huyền Nạn cưỡi ngựa đi trước, thấy bên suối có mấy gian nhà tường trắng ngói đen, trước nhà có vườn thuốc. Nhà sư biết là chỗ ở của Tiết Thần Y, liền giục ngựa đến nơi, thấy trước cửa có treo hai chiếc đèn lồng to phất giấy trắng. Huyền Nạn giật mình tự hỏi: “Chẳng lẽ trong nhà Tiết Thần Y có người bệnh chữa không khỏi?” Nhà sư đến gần mấy trượng nữa, thấy rõ trước cửa có treo mấy tấm xô gai, bên cạnh cắm một lá cờ chiêu hồn, quả là có đám tang không còn nghi ngờ gì nữa. Trên đèn lồng có viết hai hàng chữ: “Tiết Công Mộ Hoa chi tang; Hưởng niên ngũ thập ngũ tế” (Đám tang ông Tiết Mộ Hoa, hưởng thọ năm mươi lăm tuổi). Huyền Nạn lẩm bẩm: “Không hiểu Tiết Mộ Hoa có phải là Tiết Thần Y không, theo độ tuổi thì đúng rồi. Nếu Tiết Thần Y không tự chữa được cho mình mà chết đi, thì thật là tuyệt lộ.”
Nhà sư đang dừng ngựa trầm ngâm, Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn cũng thúc ngựa đến nơi. Ba người ngơ ngác nhìn nhau đều lộ vẻ hoài nghi không nhất quyết.
Trong nhà bỗng có tiếng khóc vang lên, thanh âm của phụ nữ: “Lão gia ơi! Lão gia y thuật như thần, ngờ đâu lại bị cấp chứng bỏ bọn tiểu nhân mà đi. Lão gia ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, rốt cuộc cũng bị lôi xuống Diêm cung, chắc bị Diêm Vương hành hạ khổ sở!”
Ba cỗ xe lớn và sáu nhà sư chùa Thiếu Lâm cũng vừa đến nơi. Đặng Bách Xuyên, nhảy xuống ngựa, cất tiếng nói to: “Huyền Nạn đại sư chùa Thiếu Lâm dẫn mấy bằng hữu đến, có việc khẩn cầu Tiết Thần Y.” Thanh âm y bình thường đã oang oang như tiếng chuông đồng, lúc này vận khí lại càng lớn, vọng đi rất xa. Tiếng khóc trong nhà bỗng im bặt.
Lát sau, một người nô bộc già cùng một nam một nữ từ trong nhà chạy ra, nước mắt nước mũi giàn giụa trông rất thương tâm. Lão bộc đấm ngực nghẹn ngào nói: “Lão gia của bọn tiểu nhân mất từ chiều hôm qua. Các vị… các vị không gặp được nữa rồi.”
Huyền Nạn chắp tay để trước ngực, hỏi: “Tiên sinh mắc bệnh gì mà tạ thế?” Lão bộc đáp: “Đột nhiên lão gia nấc lên mấy cái rồi nghẹt thở, không hiểu là bệnh gì. Lão gia của bọn tiểu nhân vốn thân thể tráng kiện, tuổi cũng chưa cao, thật là không ngờ! Thật là không ngờ!” Huyền Nạn lại hỏi: “Trong nhà Tiết Thần Y còn ai không?” Lão bộc đáp: “Không có ai, không có một người nào hết.” Công Dã Càn cùng Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, nhận ra lão bộc nói mấy câu này không tự nhiên, có vẻ thiếu thành thật. Huyền Nạn thở dài nói: “Quả là sinh tử hữu mạng chẳng sai. Xin để bọn lão nạp vào lạy một lạy trước linh vị bằng hữu.” Lão bộc ấp úng: “Cái đó… Cái đó… Vâng, vâng”, rồi dẫn mọi người tiến qua cổng lớn vào nhà.
Công Dã Càn lùi lại một bước, khẽ bảo Đặng Bách Xuyên: “Đại ca! Tiểu đệ thấy dường như có gì uẩn khúc. Lão này có vẻ lúng túng, nói chuyện mập mờ.” Đặng Bách Xuyên gật đầu, theo lão bộc vào.
Linh đường bài trí rất đơn giản thô sơ, thiếu thốn đủ thứ, rõ ràng sắp đặt một cách vội vàng. Trên bài vị có dòng chữ: “Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị”, nét bút sắc sảo gân guốc đúng là của một người đọc sách nhiều, lão bộc kia không thể viết được thế này. Công Dã Càn để ý thấy, nhưng không nói gì, theo mọi người tuần tự vào trước linh vị làm lễ điếu tang. Y nhìn ra sân thấy hai cây sào tre, có phơi đến mười mấy bộ quần áo đủ cả nam phụ lão ấu, nghĩ thầm: “Rõ ràng trong nhà Tiết Thần Y có đông đủ gia quyến, thế mà lão bộc nói không có ai.”
Huyền Nạn nói: “Bọn lão nạp từ chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn tới đây cầu Tiết tiên sinh trị bệnh, không ngờ đến nơi thì Tiết tiên sinh lại quy tiên rồi. Bây giờ đã xế chiều, xin được ngủ lại quý phủ một đêm.” Lão bộc ấp úng đáp: “Cái đó… Cái đó… được… được. Xin chư vị đợi trong khách sành một chút, tiểu nhân đi làm cơm.” Huyền Nạn nói: “Quản gia bất tất phải bận lòng, cơm hẩm dưa muối cũng được rồi.” Lão bộc nói: “Dạ dạ! Xin các vị ngồi chơi một chút.” Nói xong, lão dẫn mọi người ra lại sảnh đường rồi xoay mình đi vào trong nhà.
Qua một lúc lâu, chẳng thấy ai mang trà nước ra mời khách chi hết. Huyền Nạn lẩm bẩm: “Lão bộc này gặp lúc chủ nhân qua đời đột ngột, không khỏi thần hồn điên đảo. Hỡi ơi! Huyền Thống sư đệ bị trúng hàn độc, biết làm thế nào bây giờ?” Mọi người chờ đến nửa giờ nữa, vẫn chẳng thấy lão bộc ra. Bao Bất Đồng nóng ruột nói: “Để tại hạ đi tìm nước uống, khát quá rồi!” Hư Trúc nói: “Bao tiên sinh cứ ngồi nghỉ, để tiểu tăng đi giúp ông lão đó nấu nước.” Nhà sư nói xong liền đứng dậy đi vào nhà trong. Công Dã Càn muốn xem động tĩnh Tiết gia ra sao, bèn nói: “Để tại hạ đi cùng tiểu sư phụ.”
Hai người đi thẳng ra sau, xuống tận nhà bếp. Tiết gia rất nhiều phòng ốc, trước sau có đến năm dãy, mà tuyệt không thấy bóng người, cả đôi nam nữ vừa rồi cũng chẳng thấy đâu nữa.
Công Dã Càn biết là có chuyện khác thường, hấp tấp trở ra sảnh đường, nói: “Tình hình trong nhà này rất khác thường, Tiết Thần Y giả chết cũng nên.” Huyền Nạn kinh ngạc đứng bật dậy hỏi: “Sao thế?” Công Dã Càn đáp: “Tại hạ vào xem quan tài thử.” Y vào trước linh vị, đưa tay ra toan nhấc nắp quan tài, đột nhiên nghĩ sao lại rút tay về, chạy ra sân lấy một cái áo phơi trên sào quấn vào tay.
Phong Ba Ác hỏi: “Phải chăng nhị ca sợ trên quan tài có chất độc?” Công Dã Càn đáp: “Lòng người nham hiểm khôn lường, không thể không đề phòng.” Y vận kình lực nhấc quan tài thử, thì thấy rất nặng, chắc là bên trong không có xác chết, liền nói: “Quả nhiên Tiết Thần Y trá tử!”
Phong Ba Ác rút đơn đao ra đánh soạt một tiếng, nói: “Chúng ta mở nắp quan tài ra xem sẽ rõ.” Công Dã Càn nói:”Lão này xưng là Thần Y, tất nhiên dụng độc cao cường, tứ đệ phải cẩn thận!” Phong Ba Ác nói: “Tiểu đệ biết rồi.”, đưa mũi đao vào kẽ hở nạy lên, nghe lách cách mấy tiếng, nắp quan tài hé mở. Gã sợ phấn độc trong quan tài bay ra, bèn phong bế hết đường hô hấp.
Bao Bất Đồng lạng người một cái nhảy ra sân, vươn tay ra chụp lấy hai con gà mái đang tìm sâu bọ bên cây quế, ném lướt qua mặt quan tài. Hai con gà kêu quang quác mấy tiếng, rớt xuống rồi chạy vội chạy vàng, nhưng chỉ được mấy bước là ngã lăn ra giẫy đành đạch mấy cái rồi nằm chết cứng. Lúc này dưới hành lang có một cơn gió lạnh thổi qua, lông gà bay tứ tung theo chiều gió. Gà mới chết mà đã rụng hết lông, đủ biết chất độc mãnh liệt chừng nào. Mọi người thấy tình trạng này không khỏi khiếp sợ, không ai dám đến bên quan tài.
Huyền Nạn hỏi Đặng Bách Xuyên: “Đặng thí chủ! Vụ này là thế nào? Chẳng lẽ Tiết Thần Y trá tử thật sao?” Đại sư vừa nói vừa tung mình nhảy lên, tay trái bám lấy xà nhà, nhìn vào quan tài thì thấy bên trong đựng đầy đá tảng, ở giữa có một cái bát lớn chứa đầy nước trong, dĩ nhiên là thuốc độc, Huyền Nạn nhảy xuống, lắc đầu nói: “Giả tỉ Tiết thí chủ chẳng chịu chữa trị cho chúng ta thì thôi, việc gì phải bố trí cơ quan điểm độc hại người? Chùa Thiếu Lâm với y không thù không oán, việc này thật là vô lý. Hay là… hay là…” Nhà sư dừng lại không nói nữa, nhưng ai cũng biết lão định nói: “Hay là có thâm thù với nhà Cô Tô Mộ Dung?”
Bao Bất Đồng nói: “Đại sư bất tất phải đoán lung tung. Mộ Dung Công Tử cùng Tiết Thần Y chưa hề quen biết, lại không thù oán. Nếu có thì dù bọn tại hạ có đau khổ đến đâu cũng ráng chịu, chẳng thèm quị lụy kẻ thù để xin chữa trị. Đại sư đừng tưởng Bao Bất Đồng này là hàng giá áo túi cơm.” Huyền Nạn nói: “Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng đoán sai rồi.” Huyền Nạn là một vị cao tăng đắc đạo, cũng đã nghĩ như vậy nên mới dừng lại, không nói nhiều, chỉ nhận lỗi về mình.
Đặng Bách Xuyên nói: “Nơi đây độc khí rất mạnh không nên ở lâu, chúng ta quay ra ngoài thôi.” Mọi người trở lại sảnh đường, chẳng ai đoán được vì sao Tiết Thần Y đã trá tử lại còn bố trí cơ quan hại người. Bao Bất Đồng nói: “Lão Tiết Quỉ Y này thật là khả ố, chúng ta nổi lửa đốt quách cái tổ quỉ này đi!” Đặng Bách Xuyên nói: “Không được! Dù sao thì Tiết tiên sinh cũng là hảo hữu của chùa Thiếu Lâm, chúng ta phải nể mặt Huyền Nạn đại sư, không nên hành động lỗ mãng.”
Lúc này trời đã tối mịt, trong nhà chẳng có đèn lửa chi hết, mọi người đều bụng đói miệng khát mà không ai dám uống nước ở đây. Huyền Nạn nói: “Chúng ta ra ngoài tìm nhà hàng xóm để kiếm cơm nước, nên chăng?” Đặng Bách Xuyên nói: “Chúng ta đi mười dặm đường rồi hãy tìm thức ăn thức uống. Tiết tiên sinh hẳn là người rất tâm cơ, không phải chỉ bố trí một cái quan tài mà thôi đâu. Nếu xảy ra chuyện gì liên lụy đến các vị đại sư, thì bọn tại hà áy náy vô cùng!” Y cùng Công Dã Càn chưa hiểu nguyên nhân, nhưng cũng đoán rằng đường lối “Gậy ông đập lưng ông” của nhà Mộ Dung đã đồn đại khắp nơi, bị khách giang hồ kết oán vu vơ đã nhiều. Y cho rằng Tiết Thần Y có thân hữu gì bị hại, đem đổ lên đầu Cô Tô Mộ Dung mà đòi nợ máu.
Mọi người đứng dậy đi ra cửa chính, bỗng thấy trên trời sáng rực lên ở phía tây nam, tiếp theo là một vùng những tia lửa bắn lên không trung, từ sắc đỏ chuyển thành xanh biếc, chẳng khác nào một đám mưa hoa, màu sắc biến ảo huy hoàng trông rất đẹp mắt. Phong Ba Ác nói: “Đẹp quá! Không hiểu ai đốt pháo hoa mà đẹp thế?” Lúc này mới đầu mùa thu, chẳng phải là tiết Nguyên Tiêu hay tiết Trung Thu, sao lại có người đốt pháo hoa? Chẳng bao lâu lại có một đóa hoa vàng chói bay vút lên không gian rồi nở ra, y như trăm ngàn sao băng va chạm vào nhau.
Công Dã Càn nói: “Đây không phải là pháo hoa, mà là tín hiệu của bọn đại địch kéo đến bao vây.” Phong Ba Ác la lớn: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Mình lại được một phen đánh đấm sướng tay!”, rồi quay vào đại sảnh. Đặng Bách Xuyên hạ lệnh: “Tam đệ cùng tứ đệ vào trong đại sảnh để ngăn chặn phía trước, nhị đệ chống đỡ phía sau.” Đoạn y quay lại nói với Huyền Nạn đại sư: “Vụ này không liên quan đến chùa Thiếu Lâm, xin các vị cứ bàng quan đừng bênh vực bên nào, nhà Mộ Dung xin đa tạ đại đức!”
Huyền Nạn nói: “Sao Đặng thí chủ lại nói thế? Giả tỉ địch nhân có tư thù với chư vị mà kéo đến vây đánh, bên trong có điều gì khuất khúc, bọn bần tăng cũng phải xét đoán theo lẽ công bằng, không thể để họ nhân lúc người ta nguy cấp, cậy đông mà thủ thắng được. Giả tỉ họ là đồng đảng của Tiết Thần Y, bố trí cơ quan độc địa hại người một cách vô lý, thì bọn bần tăng cũng coi họ là kẻ thù chung, lẽ nào lại thõng tay đứng nhìn?” Đoạn Huyền Nạn quay lại hô: “Chuẩn bị đối địch!” Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc đồng thanh vâng lời. Huyền Thống nói: “Đặng thí chủ! Bần tăng cùng hai vị huynh đệ của thí chủ đã đồng bệnh tương liên, dĩ nhiên phải liên thủ chống địch.”
Đang lúc nói chuyện lại có hai bông hoa vọt lên trời, lần này lại gần hơn. Rồi cách một lúc lại có hai bông hoa xuất hiện, trước sau có đến sáu lần. Hình dáng cùng màu sắc các bông hoa đều khác nhau, có bông tựa như một nhát búa quét ngang bầu trời, có bông lại giống như hoa mẫu đơn. Sau khi sáu bông hoa phóng lên rồi, bầu trời đen kịt không còn tín hiệu gì nữa.
Huyền Nạn hạ lệnh cho bọn đệ tử Thiếu Lâm canh giữ chung quanh đại sảnh, chờ địch nhân đến đánh, nhưng hồi lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Bỗng nghe phía Đông có một giọng nữ ngâm thơ: “Mày liễu bìa ai biếng điểm trang, Khăn hồng ố lệ những mơ màng, Phòng the khắc khoải hồn cô tịch, Châu ngọc khôn khuây nỗi đoạn trường.” Giọng hát đầy vẻ thê lương não nuột.
Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc. Thanh âm xướng xong giọng đào liền đổi sang vai kép: “Cha chả! Lâu ngày không thấy mặt, lòng trẫm những thương tình. Hộp trân châu ban tặng cho khanh, chẳng biết có vui lòng bạn ngọc?” Lại chuyển sang vai đào: “Chao ôi! Bệ hạ có Dương Phi kề cận, mãi say mê trong cuộc truy hoan. Đem Mai Phi phế bỏ cho xong, đâu có lý thương người mệnh bạc.” Nói xong, lại lên tiếng khóc thút thít.
Các hòa thượng Thiếu Lâm hàng chữ Tuệ cùng Hư Trúc ít hiểu biết việc ngoài đời, nghe người kia nói lúc giọng nam lúc giọng nữ, chẳng biết là trò quỉ quái gì, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thê lương. Còn bọn Đặng Bách Xuyên biết người này đang diễn một lớp tuồng cổ, đóng cả vai Mai Phi lẫn vai Đường Minh Hoàng, giọng hát vừa đúng điệu vừa diễn cảm. Nhưng mọi người đang lúc khẩn trương chỉ thấy trong lòng nao núng, không hiểu người hát có dụng ý gì.
Người đó lại lên tiếng:“Thôi, khanh đừng khóc nữa làm gì. Mau bày tiệc yến, rồi thổi sáo cho trẫm hát một khúc mà giải muộn ái phi.” Lại chuyển giọng đào nói: “Tiện thiếp lấy lệ mà rửa mặt, những mong được thấy quân vương. Hôm nay đã giáp mặt long nhan, tiện thiếp cam lòng nhắm mắt.” Nói xong lại khóc ấm ức.
Bao Bất Đồng bỗng cao giọng xướng lên:“Cô gia An Lộc Sơn chính thị. Bớ Đường dương Lý thị hồ đồ, Dương Ngọc Hoàn trao lại cho cô, Thời tránh khỏi sinh linh đồ thán.”
Đặng Bách Xuyên muốn ngăn trở cũng không kịp nữa. Tiếng người vợ khóc bên ngoài im bặt, tựa như giật mình hoảng sợ.