Lão quay đầu lại nhìn chăm chăm Lệnh Hồ Xung từ đầu đến chân, một lúc sau mới hỏi:
– Xung nhi, lần này xuống núi, ngươi đã phạm bao nhiêu giới trong Hoa Sơn thất giới?
Lệnh Hồ Xung sợ hãi, biết lúc bình thường sư phụ đối với các đệ tử vô cùng thân mật và từ ái, nhưng nếu đã vi phạm môn quy thì lão nghiêm minh không hề tha thứ. Hắn lập tức quỳ xuống trước bàn hương án nói:
– Đệ tử biết tội rồi. Đệ tử không nghe lời của sư phụ sư nương răn dạy, đã phạm vào giới thứ sáu kiêu ngạo tự đại, đắc tội với đồng đạo, trên Hồi Nhạn lâu thành Hành Sơn đã giết La Nhân Kiệt của phái Thanh Thành.
Nhạc Bất Quần hừ lên một tiếng, sắc mặt cực kỳ nghiêm khắc.
Nhạc Linh San nói:
– Gia gia, đó là do La Nhân Kiệt đến uy hiếp đại sư ca. Lúc đó đại sư ca và Điền Bá Quang ác đấu với nhau, bản thân đã bị trọng thương. La Nhân Kiệt thừa lúc người ta nguy khốn mà đến uy hiếp thì đại sư ca làm sao có thể khoanh tay chờ chết được?
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi không được xen vào. Chuyện này là do Xung nhi đá hai tên đệ tử phái Thanh Thành mà ra. Nếu không có hiềm khích từ trước thì La Nhân Kiệt làm sao lại thừa lúc Xung nhi bị thương mà đến gây sự?
Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca đá hai tên đệ tử phái Thanh Thành đã bị gia gia phạt đánh ba mươi côn. Vụ đó xem như đã xong, không thể lại tính sổ tiếp. Bây giờ, đại sư ca đang bị trọng thương, không thể tiếp tục bị đòn được nữa.
Nhạc Bất Quần trợn mắt nhìn con gái rồi lớn tiếng nói:
– Lúc này là lúc luận xét về giới luật của bổn môn, ngươi là đệ tử phái Hoa Sơn, đừng có ấm ớ chõ miệng vào.
Nhạc Linh San hiếm khi thấy phụ thân hầm hầm giận dữ đối với mình như vậy. Cô cảm thấy rất tủi thân, cặp mắt đỏ hoe, muốn bật khóc. Nếu như bình thường thì Nhạc phu nhân đã dùng lời dịu dàng vỗ về cô. Nhưng lúc này Nhạc Bất Quần đang lấy địa vị chưởng môn nhân cứu xét giới luật của môn hộ; Nhạc phu nhân không thể để ý đến con gái, chỉ đưa mắt trộm nhìn con.
Nhạc Bất Quần quay sang Lệnh Hồ Xung nói:
– La Nhân Kiệt thừa lúc ngươi gặp nguy cấp mà gây chuyện cốt làm cho ngươi nhục nhã; ngươi thà chết chứ không chịu khuất phục, rõ là hành vi của một nam tử hán đại trượng phu nghĩa hiệp. Nhưng tại sao ngươi lại nói ra những lời vô lễ với phái Hằng Sơn, cái gì “Hễ thấy ni cô là xui xẻo, đánh bạc tất thua”? Ngươi lại nói ngay cả đến ta cũng sợ gặp các ni cô là sao?
Nhạc Linh San cười lên hinh hích, gọi:
– Gia gia!
Nhạc Bất Quần nhìn con gái nhưng không tỏ vẻ nghiêm khắc với cô nữa.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lúc đó đệ tử chỉ mong sư muội của phái Hằng Sơn sớm đi khỏi. Đệ tử tự biết mình không phải là đối thủ của Điền Bá Quang, không còn cách nào khác để cứu sư muội phái Hằng Sơn. Nhưng cô ta cố giữ nghĩa khí đồng đạo, không chịu bỏ đi; đệ tử đành phải ăn nói bậy bạ như vậy. Những lời này mà lọt vào tai các vị sư bá, sư thúc phái Hằng Sơn thì quả là rất vô lễ.
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi muốn Nghi Lâm sư điệt đi khỏi đó, tuy có dụng ý tốt, nhưng sao không lựa lời lại nói ra những điều xúc phạm như vậy? Ngươi đã bậy bạ quá mức rồi. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái, ai ai cũng biết chuyện này; sau lưng ta, họ sẽ bảo nhau rằng ngươi không phải là một chính nhân quân tử, lại trách ta không biết cách giáo dục ngươi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ, đệ tử đã biết tội.
Nhạc Bất Quần lại nói:
– Ngươi ở trong Quần Ngọc viện dưỡng thương, đó là chuyện bất đắc dĩ. Nhưng ngươi lại để Nghi Lâm sư điệt và tiểu ma nữ của Ma giáo chui vào trong chăn, còn nói với Dư quán chủ phái Thanh Thành đó là hai cô gái làng chơi của thành Hành Sơn; chuyện như vậy sẽ gây ra nhiều nguy hiểm, ngươi biết chưa? Nếu chuyện này bị bại lộ, thanh danh của phái Hoa Sơn ta bị mất hết còn là thứ yếu, lại làm liên lụy đến đến thanh danh của phái Hằng Sơn mấy trăm năm tàn tạ chỉ trong một ngày. Chúng ta phải ăn nói với người ta ra sao đây?
Lệnh Hồ Xung lạnh xương sống, run run nói:
– Sau này đệ tử mới nghĩ ra chuyện này, sợ đến toát mồ hôi hột. Thì ra sư phụ đã sớm biết rồi.
Nhạc Bất Quần nói:
– Khúc Dương của Ma giáo đem ngươi đến Quần Ngọc viện dưỡng thương sau đó ta mới biết, nhưng lúc ngươi bảo hai đứa tiểu nữ chui vào trong chăn, ta đang đứng ngoài cửa sổ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– May là sư phụ biết đệ tử không có hành động của kẻ lãng tử vô hạnh.
Nhạc Bất Quần nghiêm nghị nói:
– Nếu ngươi thực sự vào trong kỹ viện ngủ với kỹ nữ thì ta đã sớm lấy cái đầu trên cổ ngươi rồi, đâu có thể dung tha để ngươi sống đến hôm nay?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ!
Sắc mặt Nhạc Bất Quần càng lúc càng nghiêm khắc. Một lúc sau, lão mới hỏi:
– Ngươi biết rõ thiếu nữ họ Khúc kia là người trong Ma giáo, sao không cho nó một kiếm giết đi? Tuy tổ phụ[3] của nó có ơn cứu mạng ngươi nhưng rõ ràng người trong Ma giáo mua ơn bán nghĩa. Chúng làm nhiều thủ đoạn nhằm gây chia rẽ Ngũ Nhạc kiếm phái ta, ngươi không phải thằng ngốc, sao lại không hiểu? Chuyện chúng cứu mạng ngươi bên trong ẩn chứa một âm mưu rất lớn. Lưu Chính Phong là hạng người thông minh tài giỏi như vậy cũng không tránh khỏi cạm bẫy của chúng để đến nỗi thân bại danh liệt, người nhà bị giết hết. Thủ đoạn của bọn Ma giáo hiểm độc vô cùng, ngươi đã nhìn thấy tận mắt. Khi chúng ta đi từ Hồ Nam về đến Hoa Sơn, ta không hề nghe ngươi nói một câu lên án bọn Ma giáo. Xung nhi, ta thấy sau khi bọn chúng cứu mạng ngươi, ngươi không còn phân biệt được chính tà, ngay gian chút nào, đã vậy còn quá hồ đồ nữa. Chuyện như vậy có liên quan rất lớn đến việc an thân lập mệnh của ngươi về sau, ngươi không thể xem nhẹ được.
Lệnh Hồ Xung hồi tưởng lại ngày nào giữa đêm khuya ở chốn hoang sơn, lắng tai nghe Khúc Dương và Lưu Chính Phong hợp tấu đàn sáo. Nếu nói Khúc Dương có tâm địa hiểm độc, cố ý hãm hại Lưu Chính Phong thì vạn lần không thể tin được.
Nhạc Bất Quần thấy sắc mặt Lệnh Hồ Xung có vẻ do dự, hiển nhiên là hắn chưa tin vào lời mình nói. Lão hỏi tiếp:
– Xung nhi, chuyện này quan hệ đến sự hưng suy vinh nhục của phái Hoa Sơn ta và cũng quan hệ đến sự an nguy thành bại của ngươi nữa. Ta chỉ hỏi ngươi: sau này thấy người trong Ma giáo, ngươi có căm ghét như kẻ thù mà quyết giết chúng hay không?
Lệnh Hồ Xung trầm ngâm nhìn sư phụ, lòng vẫn bán tín bán nghi, tự hỏi: Sau này nếu ta thấy người trong Ma giáo có nên hỏi chuyện thị phi cho rõ ràng hay rút kiếm giết ngay?
Chàng không biết phải hành xử vấn đề này thế nào, nên khi sư phụ hỏi, chẳng biết phải trả lời sao.
Nhạc Bất Quần chăm chú nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc lâu, thấy hắn không đáp; lão thở dài, nói:
– Lúc này, ngươi trả lời một cách gượng gạo cũng vô nghĩa thôi. Lần này ngươi xuống núi đã làm tổn hại thanh danh của phái ta rất nhiều. Ta phạt ngươi quay mặt vào tường một năm để ngươi suy nghĩ cho thật chín chắn về những chuyện này.
Lệnh Hồ Xung cúi người đáp:
– Dạ, đệ tử xin kính cẩn nhận hình phạt.
Nhạc Linh San nói:
– Quay mặt vào tường một năm ư? Vậy thì trong vòng một năm, mỗi ngày phải quay mặt vào tường mấy giờ?
Nhạc Bất Quần nói:
– Sao lại mấy giờ? Mỗi ngày từ sáng đến tối, ngoài lúc ăn ngủ ra, phải quay mặt vào tường để suy nghĩ.
Nhạc Linh San vội nói:
– Vậy thì làm sao được? Quay mặt vào tường khiến người ta buồn đến chết ư? Chẳng lẽ ngay cả đi đại tiện, tiểu tiện cũng không được phép ư?
Nhạc phu nhân quát:
– Con gái gì mà nói năng khiếm nhã vậy?
Nhạc Bất Quần nói:
– Quay mặt vào tường một năm có gì là nặng? Năm xưa, tổ sư của ngươi phạm tội đã từng bị phạt quay mặt vào tường ba năm sáu tháng trên ngọn Ngọc Nữ không rời một bước.
Nhạc Linh San lè lưỡi nói:
– Vậy thì quay mặt vào tường một năm coi như là nhẹ ư? Kỳ thực đại sư ca nói “Hễ gặp ni cô đánh bạc tất thua” hoàn toàn là do lòng tốt muốn cứu người chứ có cố ý thóa mạ ai đâu.
Nhạc Bất Quần nói:
– Chính vì lòng tốt nên ta mới phạt hắn một năm quay mặt vào tường. Nếu hắn có ý đồ đen tối, ta đã tát cho hắn rớt răng, cắt cái lưỡi hắn đi rồi.
Nhạc phu nhân nói:
– Linh nhi, ngươi không được lý sự với gia gia nữa. Đại sư ca của ngươi ở trên ngọn Ngọc Nữ để ăn năn hối lỗi, ngươi đừng có lên đó tán gẫu với hắn, nếu không thì ý định tốt đẹp của gia gia ngươi đối với hắn sẽ bị ngươi làm hỏng đi.
Nhạc Linh San nói:
– Giam đại sư ca ở trên ngọn Ngọc Nữ còn cho là có ý định tốt sao? Không cho hài nhi được chuyện trò với đại sư ca thì lúc tịch mịch có ai để đại ca chuyện trò giải sầu? Trong một năm, ai sẽ cùng luyện kiếm với hài nhi?
Nhạc phu nhân nói:
– Ngươi đi tán gẫu với hắn, hắn còn quay mặt vào tường ăn năn sám hối sao được? Bao nhiêu sư huynh sư tỷ trên núi ai cũng có thể cùng ngươi luyện kiếm được cả.
Nhạc Linh San nghiêng đầu suy nghĩ một lúc lại hỏi:
– Vậy thì trên đó đại sư ca ăn cái gì? Một năm không xuống núi đại ca phải nhịn ăn chết đói sao?
Nhạc phu nhân nói:
– Ngươi không phải lo, sẽ có người đem cơm cho hắn.
Chạng vạng tối hôm đó, Lệnh Hồ Xung bái biệt sư phụ, sư nương và bọn sư đệ, sư muội, mang thanh trường kiếm tự đi lên ngọn Ngọc Nữ cao vút.
Đỉnh núi có một sơn động làm nơi giam cầm đệ tử các đời của phái Hoa Sơn vi phạm môn quy. Đỉnh núi này nhẵn nhụi, không một cành cây ngọn cỏ nào sống được; ngoài sơn động ra, không còn cái gì khác. Hoa Sơn vốn cây cỏ xanh um, cảnh sắc tuyệt đẹp nhưng trên đỉ nh núi lại khác hẳn. Từ ngàn xưa tương truyền rằng nơi đây là một hạt trân châu đính trên cây thoa của nàng Ngọc Nữ. Các tổ sư phái Hoa Sơn dùng đỉnh núi này làm nơi phạt bọn đệ tử, chủ yếu vì chỗ này không có cây cỏ, không có côn trùng chim muông. Bọn đệ tử bị phạt phải quay mặt vào tường ăn năn hối lỗi không bị ngoại cảnh chi phối, tâm hồn sẽ lắng đọng, an tĩnh.
Lệnh Hồ Xung đi vào sơn động nhìn thấy dưới đất có một tảng đá to bóng loáng, nghĩ bụng: Mấy trăm năm nay, không biết đã có bao nhiêu vị tiền bối phái Hoa Sơn đã từng ngồi lên khiến cho tảng đá này trơn bóng thế này. Lệnh Hồ Xung ngày nay là tên đệ tử đệ nhất ma mãnh, càn quấy của phái Hoa Sơn; tảng đá này mà ta không ngồi lên thì còn ai xứng đáng ngồi nữa? Mà đợi đến ngày hôm nay mới phái ta đến ngồi trên tảng đá này thì có thể coi như ta đã được khoan hồng lắm rồi.
Chàng giơ tay vỗ vỗ vào tảng đá, nói:
– Tảng đá ơi là tảng đá, ngươi đã chịu cô quạnh nhiều năm. Hôm nay đã có Lệnh Hồ Xung đến làm bạn với ngươi đây.
Lệnh Hồ Xung ngồi lên tảng đá, đối diện bức tường đá không quá một thước. Hắn thấy bên trái bức tường ai đó đã khắc ba chữ to “Phong Thanh Dương”, chắc là dùng kiếm để khắc. Nét khắc điêu luyện, sâu vào đến nửa tấc. Hắn nghĩ thầm: Phong Thanh Dương là ai? Có lẽ là một vị tiền bối của bổn phái, đã từng bị phạt quay mặt vào tường. A, đúng rồi, tổ sư gia của ta thuộc hàng chữ “Phong”, vị Phong tiền bối này là thái sư bá hoặc là thái sư thúc tổ của ta. Ba chữ này được khắc bằng kình lực phi phàm như vậy, thì võ công của người nhất định vô cùng thâm hậu. Tại sao sư phụ sư nương trước giờ không đề cập qua chuyện này? Chắc là vị tiền bối ấy không còn trên đời này nữa.
Chàng nhắm mắt ngồi luyện công khoảng nửa canh giờ, đứng dậy thư giãn một chút rồi đi vào thạch động, quay mặt vào tường trầm tư: Sau này ta gặp người trong Ma giáo thì có nên hỏi chuyện thị phi cho rõ ràng hay rút kiếm giết chúng ngay? Chẳng lẽ trong Ma giáo thực sự không có người tốt ư? Nhưng nếu đã là người tốt, tại sao lại gia nhập Ma giáo? Nếu coi như nhất thời lầm đường lạc lối thì cũng nên lập tức rút khỏi Ma giáo mới phải; đã không rút lui là cam tâm cùng với gian tà gây tai họa cho thế nhân.
Lúc này, đầu óc của Lệnh Hồ Xung lại hiện lên rất nhiều tình cảnh, đều là những chuyện ác mà bình thường sư phụ sư nương cùng với các vị tiền bối trên giang hồ kể lại những hành động người trong Ma giáo hại người. Cả nhà Vu lão quyền sư ở Giang Tây gồm hai mươi ba người bị Ma giáo bắt rồi đem đóng đinh lên cây cổ thụ, ngay cả đứa bé ba tuổi cũng không tha. Hai người con trai của Vu lão quyền sư đau đớn suốt ba ngày ba đêm mới chết. Chưởng môn nhân Long Phụng đao ở phủ Tế Nam là Triệu Đăng Khôi cưới con dâu, lúc tân khách đến đầy sảnh, người Ma giáo xông vào cắt thủ cấp của cặp vợ chồng tân nhân đặt ở giữa sảnh đường, nói là làm quà chúc lễ. Hắc lão anh hùng ở Hán Dương mừng đại thọ bảy mươi tuổi, các hảo hán khắp nơi đều đến chúc thọ, không ngờ bị bọn Ma giáo chôn thuốc nổ dưới đại sảnh, châm lửa đốt ngòi dẫn vào cho nổ; anh hùng hảo hán lớp chết lớp bị thương không biết bao nhiêu mà kể. Kỷ sư thúc phái Thái Sơn trong vụ này bị mất một cánh tay, chuyện này do chính miệng Kỷ sư thúc nói ra, tất nhiên tuyệt đối không thể là bịa đặt được. Chàng lại nghĩ đến hai năm trước, trên đại lộ ở Trịnh Châu gặp Tôn sư thúc phái Tung Sơn; hai tay hai chân của lão đều bị chặt đứt hết, hai mắt cũng bị khoét đi, không ngừng kêu la: “Ma giáo hại ta, nhất định phải báo thù! Ma giáo hại ta, nhất định phải báo thù!” Lúc đó phái Tung Sơn đã có người đến tiếp ứng, nhưng Tôn sư thúc bị thương nặng như vậy thì làm sao có thể chữa trị được? Lệnh Hồ Xung nghĩ đến hai mắt của lão bị khoét, bất giác thấy lạnh xương sống, nghĩ thầm: Người trong Ma giáo làm nhiều chuyện ác như vậy, ông cháu Khúc Dương ra tay cứu mình, nhất định không phải là do lòng tốt. Sư phụ hỏi ta sau này gặp người trong Ma giáo có nên hạ sát hay không mà ta còn do dự gì nữa? Đương nhiên là phải rút kiếm ra giết liền.
Lệnh Hồ Xung đả thông được vấn đề này, lòng thấy vô cùng thoải mái. Chàng huýt dài một tiếng, nhắm mắt nhảy lộn ra ngoài động, lúc đang lơ lửng trong không, chàng nhẹ nhàng xoay người hướng ra phía trước rồi hạ xuống, đứng vững lại, trố mắt nhìn thì thấy hai chân mình vừa đạp xuống mép sườn núi, cách bờ vực không đầy hai thước. Vừa rồi nếu chàng dùng lực nhảy mạnh hơn một chút, vượt quá hai thước thì sẽ bị rơi xuống vực sâu vạn trượng, xương thịt đã nát như tương. Lúc nhắm mắt quay người, chàng đã tính toán trước rồi. Ấy là do khi đã quyết định chủ ý gặp người trong Ma giáo thì ra tay giết ngay, lòng không còn vướng bận gì nữa, liền chơi một trò mạo hiểm.
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Lá gan ta chắc chưa lớn lắm, ít ra nên nhảy ra xa một thước nữa mới xứng danh nam tử.
Bỗng nghe sau lưng có người vỗ tay, cười nói:
– Đại sư ca nhảy tuyệt quá chừng!
Đó chính là giọng nói của Nhạc Linh San. Lệnh Hồ Xung vui mừng quay người lại, thấy Nhạc Linh San tay xách một thùng cơm, cười hì hì nói:
– Đại sư ca, tiểu muội đem cơm đến cho đại sư ca đây!
Cô để thùng cơm xuống, đi vào thạch động, xoay người ngồi xuống tảng đá to, rồi nói:
– Đại sư ca ở đây nhắm mắt xoay mình nhảy trông rất ngộ nghĩnh; tiểu muội cũng muốn làm thử xem.
Lệnh Hồ Xung nghĩ trò chơi này nguy hiểm vô cùng, hành động của mình vừa rồi cũng do một lúc liều mạng mà ra. Võ công của Nhạc Linh San còn thua xa mình, nếu tính trật một chút thì thật là tai hại. Nhưng chàng thấy cô đang cao hứng, cũng không dám ngăn cản, lập tức đứng bên sườn núi để đề phòng. Bản tánh Nhạc Linh San vốn hiếu thắng nên cô muốn hơn đại sư ca, ngấm ngầm tính luồng lực đạo cùng bộ vị, điểm hai chân xuống đất, phóng người lên khoảng không rồi nhẹ nhàng quay người phóng ra phía trước. Cô muốn mình nhảy xa ra gần bờ vực hơn Lệnh Hồ Xung. Lúc vọt người lên, cô vận nội lực mạnh hơn một chút, nên khi thân người rơi xuống, đột nhiên cô sợ hãi mở mắt nhìn, chỉ thấy trước mắt là vực thẳm không đáy. Cô sợ hãi thét to lên.
Lệnh Hồ Xung đưa tay ra nắm chặt cánh tay trái của cô lại. Nhạc Linh San rơi xuống đất, thấy hai chân cách bờ vực chỉ khoảng một thước, đúng là xa hơn Lệnh Hồ Xung. Cô định thần lại, cười nói:
– Đại sư ca, tiểu muội rơi xa hơn đại ca nhiều.
Lệnh Hồ Xung thấy cô ta sợ hãi đến nỗi mặt không còn chút máu, liền vỗ nhẹ lưng cô, cười nói:
– Lần sau chúng ta đừng chơi trò này nữa. Sư phụ sư nương mà biết được sẽ mắng ta một trận, phạt ta phải quay mặt vào tường thêm một năm nữa đó.
Nhạc Linh San đã định thần lại, lùi ra sau hai bước, cười nói:
– Vậy thì tiểu muội cũng bị phạt. Cả hai chúng ta ở đây cùng quay mặt vào tường há chẳng thú vị lắm sao? Ngày ngày, chúng ta có thể thi với nhau xem ai nhảy xa hơn.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chúng ta ngày ngày ở đây quay mặt vào tường ư?
Chàng nói xong, đưa mắt nhìn vào thạch động, bất giác trong đầu bâng khuâng, thầm nghĩ: Nếu ta được cùng tiểu sư muội ở đây ngày đêm không rời nhau trong một năm thì ngay cả thần tiên cũng không hạnh phúc bằng ta. Ôi, làm gì có chuyện đó được!
Hắn bèn nói:
– Chỉ sợ sư phụ bắt sư muội quay mặt vào tường trong Chính khí hiên, không cho rời một bước. Vậy thì chúng ta cả năm không thể gặp nhau được.
Nhạc Linh San nói:
– Như vậy không công bằng. Tại sao đại sư ca có thể ở đây chơi mà lại bắt tiểu muội giam mình ở Chính khí hiên?
Nhưng cô nghĩ phụ mẫu quyết không cho phép mình ngày đêm ở trên đỉnh núi bầu bạn với đại sư ca, liền nói lảng sang chuyện khác:
– Đại sư ca, má má đã phái Lục hầu nhi đưa cơm đến cho đại sư ca. Tiểu muội nói với hầu nhi: “Lục sư ca, mỗi ngày sư ca phải trèo lên xuống đỉnh núi cao vút này, dù sư ca có là hầu nhi thì cũng rất vất vả. Chi bằng để tiểu muội thay thế sư ca, nhưng sư ca trả công cho tiểu muội cái gì?” Lục hầu nhi nói: “Sư nương phái ta làm việc này, ta đâu dám trốn tránh trách nhiệm. Vả lại, đại sư ca rất yêu thương ta, ta đem cơm cho đại ca một năm, mỗi ngày được gặp đại ca một lần thì mới sảng khoái, có gì đâu mà gọi là vất vả?” Đại sư ca, đại sư ca thấy Lục hầu nhi nói vậy có tệ hại không?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Hắn nói như vậy là đúng đó.
Nhạc Linh San nói:
– Lục hầu nhi còn nói: “Bình thường, ta vẫn muốn nhờ đại sư ca dạy cho vài chiêu công phu, tiểu muội mà đến thì ta bị đuổi đi không được nói chuyện nhiều với đại sư ca nữa”. Sao lại có chuyện đó được, Lục hầu nhi ăn nói thật vớ vẩn. Y lại còn nói: “Trong vòng một năm bắt đầu từ hôm nay, chỉ còn một mình ta có thể lên núi gặp đại sư ca còn sư muội thì không được gặp đại sư ca nữa”. Tiểu muội tức muốn điên vì Lục sư ca không đếm xỉa gì đến tiểu muội. Sau đó… sau đó…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sau đó tiểu muội rút kiếm ra dọa hắn phải không?
Nhạc Linh San lắc đầu nói:
– Không phải, sau đó tiểu muội tức quá khóc òa lên. Lục hầu nhi mới năn nỉ tiểu muội, nhường cho tiểu muội được đem cơm lên cho đại sư ca.
Lệnh Hồ Xung nhìn gương mặt xinh xắn của cô, thấy đôi mắt còn hơi sưng, quả nhiên cô đã khóc thật. Bất giác lòng chàng thấy thương cảm vô cùng. L ệnh Hồ Xung nghĩ: Sư muội đối với ta nặng tình như vậy thì ta có vì cô ta mà chết đến trăm ngàn lần cũng cam lòng.
Nhạc Linh San mở thùng đựng cơm, lấy hai chiếc đĩa, hai cái bát, hai đôi đũa để trên tảng đá. Lệnh Hồ Xung nói:
– Có đến hai cái bát và hai đôi đũa ư?
Nhạc Linh San cười nói:
– Tiểu muội cũng ăn một chút với đại sư ca. Đại sư ca xem thử đây là cái gì?
Từ trong thùng, cô lấy ra một hồ rượu. Lệnh Hồ Xung quý rượu như tính mạng của mình, vừa thấy có rượu, hắn liền đứng dậy xá dài Nhạc Linh San rồi nói:
– Đa tạ sư muội. Ta đang buồn vì sợ suốt năm không có một hớp rượu để uống.
Nhạc Linh San mở nắp hồ rượu, đưa hồ cho Lệnh Hồ Xung rồi cười nói:
– Đại sư ca không được uống nhiều. Mỗi ngày tiểu muội chỉ có thể đánh cắp một hồ rượu cho đại sư ca; lấy nhiều sợ bị má má biết.
Lệnh Hồ Xung uống cạn hồ rượu rồi mới ăn cơm. Theo quy củ của phái Hoa Sơn, tên đệ tử nào lên đỉnh núi quay mặt vào tường sám hối thì phải cữ rượu thịt, chỉ được ăn chay. Vì vậy, nhà bếp chỉ nấu chay cho Lệnh Hồ Xung gồm một đĩa rau xanh, một bát đậu hũ. Nhạc Linh San nghĩ mình và đại sư ca đã qua cơn hoạn nạn, cô ăn uống rất ngon lành. Hai người ăn cơm xong, Nhạc Linh San ngồi lại trò chuyện gần tối mới thu dọn bát đĩa xuống núi.
Từ đó mỗi ngày vào lúc hoàng hôn, Nhạc Linh San đem cơm lên đỉnh núi và hai người cùng ăn cơm. Buổi trưa Lệnh Hồ Xung ăn cơm rau còn lại của ngày hôm trước.
Lệnh Hồ Xung tuy ở một mình trên đỉnh núi cao nhưng không cảm thấy buồn chán. Sáng sớm dậy, chàng ngồi luyện công, ôn lại kiếm pháp, khí công mà sư phụ đã truyền, còn ngấm ngầm suy nghĩ đao pháp của Điền Bá Quang và chiêu “Vô song vô đối, Ninh thị nhất kiếm” của sư nương chế ra. “Ninh thị nhất kiếm” tuy chỉ có một chiêu nhưng bao hàm cả tuyệt chỉ khí công và kiếm pháp của phái Hoa Sơn. Lệnh Hồ Xung tự biết nội công kiếm thuật của mình chưa đạt được cảnh giới đó, cứ miễn cưỡng tập luyện thì chỉ có hại nhiều hơn là có lợi, cho nên mỗi ngày, chàng tăng cường luyện nội công. Cứ như vậy, tuy gọi là bị phạt quay mặt vào tường ăn năn sám hối nhưng thật ra chẳng quay mặt vào tường, và cũng chẳng ăn năn sám hối gì cả. Ngoài lúc hoàng hôn cùng với Nhạc Linh San nói chuyện ra, thì mỗi ngày chàng không phải lo điều gì, chỉ chuyên chú luyện công thôi.
Trải qua hơn hai tháng, đỉnh Hoa Sơn càng ngày càng lạnh lẽo. Lại trải qua mấy ngày, Nhạc phu nhân đan cho Lệnh Hồ Xung chiếc áo ấm, rồi sai Lục Đại Hữu đem lên. Sáng sớm hôm ấy trời lại nổi cơn gió bấc, đến giữa trưa thì mưa tuyết rơi xuống.
Lệnh Hồ Xung thấy trời đầy mây xám đen, trận mưa tuyết chắc không nhỏ , liền nghĩ: Đường lên đỉnh núi hiểm trở, tuyết rơi đến chiều tối cũng không ngớt, đường trơn vô cùng. Tiểu sư muội không nên đem cơm lên cho ta nữa.
Nhưng chàng không có cách nào báo tin xuống núi được nên lòng rất lo lắng, chỉ mong sư phụ và sư nương biết chuyện này đưa lời ngăn cản. Chàng lại nghĩ: Ngày nào tiểu sư muội cũng thay Lục Đại Hữu đem cơm lên cho ta, lẽ nào sư phụ và sư nương chẳng biết? Chắc tại hai vị làm ngơ mà thôi. Nếu hôm nay tiểu sư muội lại lên núi nữa, lỡ trượt chân thì nguy tính mạng, mong rằng sư nương nhất định không cho sư muội lên núi.
Đến chiều, chốc chốc hắn lại nhìn xuống núi. Trời tối dần, quả nhiên Nhạc Linh San không lên núi. Lệnh Hồ Xung thấy lòng nhẹ nhõm, tự nhủ: Đến sáng mai, Lục sư đệ nhất định sẽ mang cơm lên cho mình; chỉ mong sao sư muội đừng mạo hiểm.
Chàng định vào động nằm ngủ, bỗng nghe trên đường lên núi có tiếng chân sột soạt rồi tiếng Nhạc Linh San gọi:
– Đại sư ca, đại sư ca!
Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa vui mừng, vội chạy ra bên sườn núi. Trong màn tuyết rơi giống như từng đám lông ngỗng bay phất phơ, Nhạc Linh San lần từng bước đi lên đỉnh núi trơn trượt.
Lệnh Hồ Xung vì sư mệnh ngăn cản, không dám bước xuống núi nửa bước, chỉ vươn tay ra đón cô. Khi tay trái của Nhạc Linh San đụng đến tay phải của chàng, Lệnh Hồ Xung nắm chặt tay cô, nhấc bổng lên đỉnh núi.
Trong ánh sáng mờ mờ, chàng thấy toàn thân cô phủ đầy tuyết, ngay cả đầu tóc cũng trắng xóa. Trên trán bên trái bị sưng lên một cục giống cái trứng gà nhỏ, máu vẫn còn đang rướm ra. Lệnh Hồ Xung lắp bắp:
– Sư muội… sư muội…
Miệng Nhạc Linh San méo xệch, cô nói như muốn khóc:
– Tiểu muội bị trượt chân té ngã, làm rớt thùng cơm của đại sư ca xuống vực thẳm rồi. Đại sư ca… đại sư ca tối nay phải nhịn đói.
Lệnh Hồ Xung vừa xúc động vừa thương cảm, giơ tay áo lên nhè nhẹ chấm vào vết thương của cô rồi dịu dàng nói:
– Tiểu sư muội, đường lên núi trơn như vậy, tiểu sư muội không nên lên đây nữa.
Nhạc Linh San nói:
– Tiểu muội chỉ lo đại ca không có cơm ăn, vả lại… vả lại tiểu muội muốn gặp đại sư ca.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nếu tiểu muội lỡ trượt chân rớt xuống vực thẳm thì làm sao ta dám nhìn mặt sư phụ và sư nương nữa.
Nhạc Linh San mỉm cười nói:
– Đại ca đừng lo lắng như vậy, chẳng phải tiểu muội đang đứng sờ sờ ra đây sao? Nhưng đáng tiếc là tiểu muội vô dụng, lúc vội leo lên núi lại làm rơi mất cơm rượu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Cầu mong cho sư muội được bình an thì ta có nhịn ăn mười ngày cũng chẳng sao.
Nhạc Linh San nói:
– Lúc lên được nửa núi thì đường đi trơn ướt quá chừng; tiểu muội dùng hết sức bước, lại vịn vào những gốc cây tùng mà lên núi. Lúc đó tiểu muội sợ té xuống vực thẳm vô cùng.
Lệnh Hồ Xung năn nỉ:
– Tiểu sư muội, sư muội nghe lời ta đi. Sau này sư muội đừng vì ta mà mạo hiểm nữa. Nếu tiểu sư muội lỡ trượt chân té xuống vực thẳm thì ta đây chắc phải nhảy theo tiểu muội.
Ánh mắt của Nhạc Linh San lộ vẻ vui mừng vô hạn, nói:
– Đại sư ca, thật ra đại sư ca không nên lo lắng như vậy. Tiểu muội đem cơm lên cho đại sư ca lỡ trượt chân té xuống là do tại mình không cẩn thận, đại sư ca hà tất phải lo lắng làm chi?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu chầm chậm nói:
– Không phải vì lòng ta lo lắng. Nếu người đem cơm là Lục hầu nhi thì dù sư đệ có trượt chân té xuống nguy hiểm đến tính mạng, ta cũng không nhảy theo đâu.
Lệnh Hồ Xung nói tiếp:
– Ta chỉ tận lực phụng dưỡng phụ mẫu của hắn, chiếu cố người nhà của hắn, chớ không vì chuyện này mà chết theo Lục sư đệ được.
Nhạc Linh San nói nhỏ:
– Nhưng nếu người bị chết là tiểu muội thì đại sư ca không muốn sống nữa ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đúng vậy, tiểu sư muội. Nhưng đó không phải là vì tiểu sư muội đem cơm cho ta. Nếu tiểu sư muội đem cơm cho người khác mà gặp chuyện nguy hiểm thì ta đây cũng quyết không sống nữa.
Nhạc Linh San nắm chặt lấy tay của Lệnh Hồ Xung, tình cảm nồng nàn. Cô gọi khẽ:
– Đại sư ca!
Lệnh Hồ Xung muốn dang tay ra ôm cô vào lòng nhưng không dám. Bốn mắt nhìn nhau bất động, tuyết vẫn rơi xuống mỗi lúc một nhiều, dần dần tựa hồ như cả hai đã biến thành hai người tuyết.
Một lúc sau, Lệnh Hồ Xung mới nói:
– Tối nay một mình tiểu sư muội không thể xuống núi được nữa. Sư phụ và sư nương có biết tiểu muội lên đây không? Nếu hai vị phái người lên đây đưa tiểu muội xuống núi thì hay quá.
Nhạc Linh San nói:
– Sáng nay, gia gia vừa nhận được thư của Tả minh chủ phái Tung Sơn nói là có chuyện cần thương nghị nên gia gia và má má xuống núi đi rồi.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Vậy có ai biết tiểu muội lên đây không?
Nhạc Linh San cười nói:
– Không. Không ai biết cả. Nhị sư ca, tam sư ca, tứ sư ca và Lục hầu nhi; cả bốn người theo gia gia má má đi Tung Sơn, không ai biết tiểu muội lên đây với đại sư ca cả. Nếu không thì Lục hầu nhi nhất định giành mang cơm với tiểu muội rồi, thật là phiền phức. A, đúng rồi, có tiểu tử Lâm Bình Chi thấy tiểu muội lên đây nhưng tiểu muội đã dọa hắn không được bép xép, nếu không thì ngày mai tiểu muội sẽ đánh cho hắn một trận nên thân.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ui chao, sư tỷ oai phong quá chừng!
Nhạc Linh San cười nói:
– Tất nhiên rồi. Dễ gì có người gọi tiểu muội bằng tỷ tỷ, không làm oai làm giá há không uổng lắm ư? Không giống như đại sư ca, ai cũng gọi là “đại sư ca” thì còn gì thú vị nữa.
Cả hai cùng cười. Lệnh Hồ Xung nói:
– Tối nay tiểu muội không thể về được rồi, đành phải tá túc lại trong thạch động này một đêm, sáng mai hãy xuống núi.
Nói xong Lệnh Hồ Xung liền nắm tay cô dẫn vào trong động.
Thạch động nhỏ hẹp, chỉ vừa đủ cho hai người dung thân, khó bề xoay xở. Cả hai ngồi đối mặt nhau nói chuyện trên trời dưới đất cho đến nửa đêm. Nhạc Linh San nói càng lúc càng nhỏ dần rồi thiếp đi.
Lệnh Hồ Xung sợ cô ta bị lạnh, bèn cởi áo ngoài của mình đắp lên người cô. Ngoài động ánh tuyết phản chiếu, thấy lờ mờ nét mặt xinh xắn của Linh San. Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Ân tình của sư muội đối với ta nặng như vậy thì ta có vì sư muội mà tan xương nát thịt cũng nguyện cam lòng.
Chàng lặng lẽ trầm tư. Từ nhỏ ta đã không có cha mẹ, hoàn toàn nhờ sư phụ sư nương nuôi dưỡng đến lớn, thương yêu như con ruột. Ta là đại đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn, không những nhập môn sớm nhất mà võ công cũng cao cường hơn bọn sư đệ, sau này chắc chắn là người kế thừa ngôi vị của sư phụ, lên nắm quyền phái Hoa Sơn. Mà tiểu sư muội lại đối với mình nặng ân tình như vậy thì ân đức sâu dày của sư môn thật khó báo đáp. Chỉ vì tính tình ta nóng nảy không biết tự kìm chế, lúc nào cũng làm cho sư phụ và sư mẫu tức giận, phụ lòng kỳ vọng của hai vị. Từ nay về sau, ta phải sửa đổi tính nết, nếu không thì không những có lỗi với sư phụ và sư mẫu mà còn có lỗi ngay cả tiểu sư muội nữa.
Lệnh Hồ Xung nhìn mái tóc của Nhạc Linh San bay phất phơ, đang lúc ngơ ngẩn xuất thần, bỗng nghe cô ta kêu khẽ:
– Tiểu Lâm tử, ngươi không nghe lời ta, lại đây ta đánh ngươi mới được.
Lệnh Hồ Xung sửng sốt, nhưng thấy mắt cô vẫn nhắm nghiền. Chàng bèn nghiêng người lắng nghe, hơi thở cô vẫn đều đều, biết là cô đang nằm mơ. Chàng cười thầm trong bụng, nghĩ: Sư muội được làm sư tỷ nên ra vẻ oai phong lắm. Chắc mấy ngày nay, Lâm sư đệ bị sư muội kêu đến rồi quát đi, phải chịu ấm ức nhiều phen. Trong giấc mơ, tiểu muội cũng không quên quát mắng hắn.
Lệnh Hồ Xung ngồi cạnh Nhạc Linh San cho đến sáng, không chợp mắt chút nào. Chiều hôm qua Nhạc Linh San vì quá mệt nên ngủ đến giờ Thìn mới tỉnh dậy. Thấy Lệnh Hồ Xung đang nhìn mình mỉm cười, cô vươn vai ngáp dài một cái rồi cười nói:
– Đại sư ca dậy sớm vậy?
Lệnh Hồ Xung không cho cô biết suốt đêm mình thức trắng, chỉ cười nói:
– Tiểu sư muội nằm mơ thấy gì vậy? Lâm sư đệ bị tiểu sư muội đánh đòn phải không?
Nhạc Linh San ngoẹo đầu suy nghĩ một lúc rồi cười nói:
– Đại sư ca nghe tiểu muội nói mớ phải không? Tiểu tử Lâm Bình Chi này bướng bỉnh lắm, hắn không nghe lời tiểu muội. Hi hi, tiểu muội ban ngày mắng hắn, khi ngủ cũng mắng hắn nữa.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Hắn đã đắc tội ra sao với tiểu muội?
Nhạc Linh San cười nói:
– Trong mơ tiểu muội bảo hắn đi luyện kiếm với tiểu muội bên thác nước; hắn từ chối ba lần bảy lượt không chịu đi. Tiểu muội lừa hắn đến bên thác nước rồi xô hắn xuống.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ui chao, sao tiểu muội làm vậy, lỡ xảy ra án mạng thì sao?
Nhạc Linh San cười nói:
– Là mơ chứ đâu có phải là thật, đại sư ca lo lắng làm gì? Hay là đại sư ca sợ tiểu muội giết tiểu tử này thật?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ngày nghĩ sao đêm chiêm bao làm vậy. Ban ngày tiểu muội muốn giết Lâm sư đệ lắm rồi nên nghĩ quanh nghĩ quẩn, tối ngủ mới nằm mơ như vậy.
Nhạc Linh San bĩu môi nói:
– Tiểu tử này thật vô dụng, chỉ một bộ kiếm pháp nhập môn đã luyện ba tháng rồi mà chẳng ra làm sao cả. Hắn dụng công dữ lắm, luyện ngày luyện đêm khiến cho ai thấy cũng phát bực. Tiểu muội muốn giết hắn thì cần gì phải suy nghĩ, chỉ giơ kiếm lên một cái là giết hắn ngay.
Tay cô giơ ngang quơ một cái làm thế đánh một chiêu Hoa Sơn kiếm pháp.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Bạch vân xuất tụ mà phát ra thì đầu của gã họ Lâm rơi xuống đất ngay.
Nhạc Linh San cười khanh khách nói:
– Nếu tiểu muội sử chiêu Bạch vân xuất tụ này thì nhất định cái đầu của hắn rơi xuống đất thật cũng không chừng.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu sư muội được làm sư tỷ, thấy kiếm pháp của sư đệ kém cỏi thì nên chỉ điểm cho hắn mới phải, sao động một tí là đòi vung kiếm giết? Sau này sư phụ nhận thêm đệ tử, đều là sư đệ của sư muội. Sư phụ nhận thêm một trăm đệ tử, chỉ trong vòng mấy ngày bị sư muội giết hết chín mươi chín người, vậy thì làm sao đây?
Nhạc Linh San vịn vào vách đá, cười ngặt nghẹo nói:
– Đại ca nói đúng lắm. Tiểu muội chỉ giết chín mươi chín người thôi, phải chừa lại một tên mới được. Nếu giết hết thì ai gọi tiểu muội bằng sư tỷ nữa?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Nếu sư muội giết hết chín mươi chín tên sư đệ thì tên thứ một trăm chắc cũng bỏ trốn đi luôn, tiểu muội đâu còn làm sư tỷ được nữa?
Nhạc Linh San cười nói:
– Lúc đó tiểu muội bắt đại sư ca gọi tiểu muội là sư tỷ.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ta gọi sư muội là sư tỷ cũng không sao, nhưng sư muội có giết ta không?
Nhạc Linh San cười nói:
– Nếu nghe lời thì không giết, còn không nghe lời thì sẽ giết.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu sư tỷ, cầu xin tiểu sư tỷ nương tình cho.
Lệnh Hồ Xung thấy tuyết đã ngừng rơi, sợ bọn sư đệ sư muội phát hiện không thấy Nhạc Linh San đâu, sẽ nói bóng nói gió thì sẽ vô cùng có lỗi với Nhạc Linh San. Chàng nói đùa một lúc nữa rồi hối thúc cô xuống núi. Nhạc Linh San quyến luyến chưa muốn đi, bèn nói:
– Tiểu muội muốn ở đây chơi thêm một chút nữa; gia gia má má đều không có ở nhà, buồn chết đi được.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sư muội ngoan, mấy ngày nay ta đã nghĩ ra mấy chiêu Hồ – Linh kiếm pháp, đợi sau khi ta xuống núi, sẽ cùng tiểu muội đến thác nước luyện kiếm.
Chàng dỗ dành một lúc lâu, cô mới chịu xuống núi. Chiều hôm đó, Cao Căn Minh đem cơm lên núi, nói rằng Nhạc Linh San bị cảm, sốt li bì, đang nằm trên giường, lúc nào cũng nghĩ đến đại sư ca, bảo gã lúc đem cơm lên phải nhớ mang thêm rượu. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, vô cùng lo lắng, biết chiều hôm qua cô ta bị trượt ngã, quá sợ hãi nên sinh bệnh, hận không được chạy xuống núi để thăm cô. Tuy đã nhịn đói hai ngày một đêm, nhưng bưng bát cơm lên, chàng cảm thấy nghèn nghẹn khó nuốt. Cao Căn Minh biết đại sư ca và tiểu sư muội yêu thương nhau thắm thiết, vừa nghe nói sư muội bị bệnh, đại sư ca đã lo âu vạn phần, gã khuyên:
– Đại sư ca không nên lo lắng quá. Hôm qua tuyết rơi nhiều, chắc tiểu sư muội ham chơi tuyết nên bị cảm lạnh. Chúng ta đều là người tu luyện nội công, một chút cảm mạo như vậy không có gì đáng ngại, chỉ uống một hai thang thuốc thì sẽ khỏi ngay.
Nào ngờ Nhạc Linh San bệnh đến mười mấy ngày, cho đến lúc hai vợ chồng Nhạc Bất Quần trở về, dùng nội lực để tống khí lạnh ra khỏi người cô, cô mới thuyên giảm. Đến lúc cô lên núi lại thì đã trải qua hai mươi mấy ngày.
Hai người xa nhau lâu giờ mới gặp lại nhau, vừa mừng vừa tủi. Nhạc Linh San nhìn sắc mặt Lệnh Hồ Xung, kinh hãi nói:
– Đại sư ca, đại sư ca cũng bị bệnh sao? Sao lại ốm nhom như vậy?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Ta đâu có bệnh. Ta… ta…
Nhạc Linh San chợt hiểu ra, bỗng òa lên khóc, nói:
– Đại sư ca, đại sư ca vì thương nhớ tiểu muội đến nỗi ốm nhom như vậy ư? Đại sư ca, tiểu muội đã khỏe rồi đây.
Lệnh Hồ Xung nắm lấy tay nàng khẽ nói:
– Mấy ngày nay, ta ngày đêm nhìn theo con đường xuống núi, mong sư muội từng giờ từng khắc. Tạ ơn trời đất, cuối cùng tiểu sư muội cũng đến đây.
Nhạc Linh San nói:
– Tiểu muội lúc nào cũng thấy hình ảnh đại sư ca.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:
– Tiểu muội lúc nào cũng thấy được ta ư?
Nhạc Linh San nói:
– Đúng vậy, lúc tiểu muội bệnh, hễ nhắm lại là thấy ngay đại sư ca. Ngày hôm đó, tiểu muội phát sốt dữ dội, má má nói tiểu muội nói nhảm, toàn là trò chuyện với đại ca. Đại sư ca, má má biết chuyện tối hôm đó tiểu muội lên đây ở lại với đại sư ca rồi.
Cô nói đến đây, hai má bỗng nhiên ửng hồng, không nói tiếp nữa. Lệnh Hồ Xung nói:
– Nhưng làm sao?
Nhạc Linh San nói:
– Tiểu muội không nói đâu.
Lệnh Hồ Xung thấy cô e thẹn, lòng hắn ngẩn ngơ, vội định thần lại, nói:
– Tiểu sư muội, tiểu sư muội bệnh nặng mới đỡ một chút, không nên lên đây sớm như vậy. Ta biết bệnh tiểu muội đã thuyên giảm, lúc ngũ sư đệ và lục sư đệ đem cơm lên cho ta ăn đều nói cho ta nghe hết rồi.
Nhạc Linh San hỏi:
– Vậy sao đại sư ca lại ốm đến như vậy?
Lệnh Hồ Xung cười cười nói:
– Tiểu muội mà hết bệnh thì ta lập tức mập ra ngay.
Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca nói thật với tiểu muội, trong mấy ngày nay, mỗi bữa đại sư ca ăn được mấy bát cơm? Lục hầu nhi nói đại sư ca chỉ uống rượu chứ không ăn cơm, có khuyên đại sư ca, đại sư ca cũng không nghe. Đại sư ca, đại sư ca… tại sao không bảo trọng thân mình?
Cô nói đến đây thì hai mắt đỏ lên.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hắn nói lung tung, tiểu muội đừng thèm nghe. Bất luận nói chuyện gì, Lục hầu nhi đều dặm mắm thêm muối, ta đâu chỉ có uống rượu mà không ăn cơm?
Chàng nói đến đây, một trận gió thổi đến, Nhạc Linh San bị lạnh run lên cầm cập. Trời đang vào lúc trọng đông, trên đỉnh núi gió lộng bốn bề, không một cành cây cản gió. Hoa Sơn vốn đã vô cùng rét lạnh, ở trên đỉnh núi càng rét lạnh hơn. Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Tiểu sư muội, tiểu sư muội chưa được khỏe hẳn, lúc này ngàn lần không thể để bị lạnh nữa. Mau mau xuống núi đi; đợi hôm nào có nắng, tiểu muội hoàn toàn bình phục hãy lên thăm ta.
Nhạc Linh San nói:
– Tiểu muội đâu có lạnh. Mấy ngày nay nếu trời không nổi gió thì tuyết vẫn rơi, nếu đợi lúc có nắng thì không biết đến bao giờ mới có.
Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Muội muội lại bị bệnh thì biết làm sao? Ta… ta…
Nhạc Linh San thấy dáng vẻ Lệnh Hồ Xung tiều tụy, nghĩ bụng: Nếu ta lại bệnh nữa thì chắc đại sư ca có thể bệnh theo. Trên đỉnh núi cao vút không có người chăm nom, như vậy không phải là ta làm nguy hiểm đến tính mạng của đại ca sao?
Cô liền nói:
– Được, tiểu muội đi đây. Đại ca phải bảo trọng, uống ít rượu một chút, mỗi bữa phải ăn ba bát cơm. Tiểu muội sẽ nói với gia gia là đại ca không được khỏe, nên cần tẩm bổ một chút mới được, không nên ăn chay mãi.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Ta không dám phạm giới ăn mặn. Ta thấy tiểu sư muội hết bệnh thì lòng vui mừng lắm, không đầy ba ngày, lập tức sẽ mập lên cho mà coi. Hảo muội tử, hảo muội tử xuống núi đi thôi.
Ánh mắt Nhạc Linh San chứa chan tình cảm, hai má ửng hồng, cô khẽ hỏi:
– Đại sư ca kêu tiểu muội bằng gì?
Lệnh Hồ Xung cảm thấy ngại ngùng nói:
– Ta chỉ buột miệng nói ra. Tiểu sư muội, tiểu sư muội đừng trách.
Nhạc Linh San nói:
– Tiểu muội làm sao mà trách được? Tiểu muội rất thích đại sư ca gọi tiểu muội như vậy.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy nóng ran, chỉ muốn dang hai tay ra ôm cô vào lòng, nhưng lập tức nghĩ lại: Tiểu sư muội đối đãi với ta nặng tình như vậy, đương nhiên ta phải kính trọng cô ta, tại sao ta có thể mạo phạm cô ta được? Chàng nghĩ vậy rồi quay người đi, dịu dàng hỏi:
– Lúc tiểu muội xuống núi nhớ đi chầm chậm từng bước một, nếu mệt thì nghỉ một chút, đừng giống như lúc bình thường cứ chạy một mạch.
Nhạc Linh San dạ rồi quay người đi, đến bên sườn núi.
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng bước chân của cô xa dần, mới quay người lại, thấy Nhạc Linh San đứng cách đỉnh núi mấy trượng, chàng đứng trân người nhìn cô. Hai người bốn mắt nhìn nhau rất lâu.
Lệnh Hồ Xung nói to:
– Tiểu muội đi chầm chậm thôi, nên về đi.
Nhạc Linh San đáp dạ rồi mới quay người đi thẳng xuống núi.
Ngày hôm đó, Lệnh Hồ Xung cảm thấy chưa bao giờ được hạnh phúc như vậy. Chàng ngồi trên tảng đá, nhịn không được bật cười lên. Đột nhiên chàng huýt dài một tiếng vang dội cả sơn cốc, tiếng huýt tựa hồ như muốn la to:
– Ta hạnh phúc quá, ta hạnh phúc quá!
Ngày hôm sau, tuyết lại rơi, quả nhiên Nhạc Linh San không đến. Nghe Lục Đại Hữu nói, Lệnh Hồ Xung biết cô bình phục rất nhanh, càng ngày càng khỏe ra, lòng vui mừng khôn tả.
Qua hơn hai mươi ngày sau, Nhạc Linh San xách một thùng bánh nếp lên đỉnh núi, nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc rồi mỉm cười nói:
– Quả nhiên đại sư ca không gạt tiểu muội, đã mập ra nhiều.
Lệnh Hồ Xung thấy mặt cô hồng hào, cũng cười nói:
– Tiểu muội cũng khỏe lắm rồi, ta thật vui mừng.
Nhạc Linh San nói:
– Ngày nào tiểu muội cũng đòi đem cơm lên cho đại sư ca, nhưng nói sao má má cũng không cho, lại nói nào là trời đang lạnh, rồi nào là khí hậu không tốt, làm như lên đến đỉnh núi sẽ chết ngay không bằng. Tiểu muội nói đại sư ca ngày đêm ở trên đỉnh núi nhưng đại sư ca có bệnh đâu. Má má nói nội công của đại sư ca cao cường, tiểu muội làm sao có thể bì được với đại sư ca. Sau lưng, má má khen đại sư ca, đại sư ca có khoái không?
Lệnh Hồ Xung cười rồi gật đầu nói:
– Ta lúc nào cũng nhớ đến sư phụ sư nương, chỉ mong sớm được gặp mặt hai vị.
Nhạc Linh San nói:
– Cả ngày hôm qua tiểu muội giúp má má làm bánh nếp. Tiểu muội muốn lấy mấy cái bánh nếp đem cho đại ca ăn, nào ngờ không đợi tiểu muội mở miệng, má má đã nói: “Hài nhi đem thùng bánh này lên cho Xung nhi ăn”. Tiểu muội quả thật không ngờ.
Cổ họng Lệnh Hồ Xung nghẹn ngào, nghĩ thầm: Sư nương đối với ta thật tốt.
Nhạc Linh San nói:
– Bánh nếp mới vừa nấu xong, vẫn còn nóng, tiểu muội lột hai cái cho đại sư ca ăn.
Nói rồi cô xách thùng bánh nếp đi vào thạch động, mở dây cột bánh, lột lá ra.
Lệnh Hồ Xung ngửi thấy mùi thơm, thấy Nhạc Linh San đã lột xong bánh rồi liền cầm lấy, cắn một miếng. Bánh này tuy là bánh chay nhưng có nấm rơm, nấm hương, đậu phộng, hạt sen, đậu nành, các thứ này trộn lẫn với nhau, thêm gia vị rất ngon. Nhạc Linh San nói:
– Nấm rơm này là do Tiểu Lâm tử và tiểu muội ngày hôm kia đi hái đấy…
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Tiểu Lâm tử là ai?
Nhạc Linh San cười cười nói:
– Chính là Lâm sư đệ đó. Gần đây tiểu muội cứ gọi hắn là Tiểu Lâm tử. Ngày hôm kia, hắn nói với tiểu muội dưới gốc tùng ở sườn núi phía Đông có nấm rơm. Hắn cùng tiểu muội đi hái cả nửa ngày nhưng chỉ được có nửa thùng. Tuy không hái được nhiều, nhưng gia vị nêm ngon, phải vậy không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bánh thật ngon, suýt chút nữa ta nuốt cả cái lưỡi vào bụng. Tiểu sư muội, tiểu sư muội đừng mắng mỏ Lâm sư đệ nữa.
Nhạc Linh San nói:
– Tại sao không mắng mỏ? Hắn không nghe lời thì bị mắng ngay. Gần đây, hắn ngoan được một chút, tiểu muội bớt mắng hắn vài câu. Lúc hắn dụng công luyện kiếm có tiến bộ thì tiểu muội cũng khen hắn: “Này, này, Tiểu Lâm tử, chiêu này sử rất đúng, giỏi hơn ngày hôm qua nhiều nhưng còn hơi chậm. Luyện lại, luyện lại”. Hi hi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu muội đang dạy hắn luyện kiếm ư?
Nhạc Linh San nói:
– Đúng, có điều hắn nói tiếng Phúc Kiến, bọn sư huynh sư tỷ nghe không hiểu gì cả. Tiểu muội đã đến Phúc Châu, nên hiểu được tiếng của hắn, gia gia bảo tiểu muội lúc rảnh thì chỉ bảo cho hắn. Đại sư ca, tiểu muội không thể lên đỉnh núi thăm đại sư ca nên buồn muốn chết, không có chuyện gì làm thì dạy hắn vài chiêu. Tiểu Lâm tử cũng không đến nỗi ngu, học cũng rất nhanh.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Thì ra tiểu muội làm sư tỷ rồi kiêm luôn sư phụ; tất nhiên hắn không dám không nghe lời sư muội.
Nhạc Linh San nói:
– Chưa chắc đúng như vậy đâu. Hôm qua tiểu muội bảo hắn đi săn gà rừng với tiểu muội, hắn không chịu, nói là hai chiêu Bạch hồng quán nhật và Thiên thân đảo huyền còn chưa học xong, muốn luyện thêm nữa.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ nói:
– Hắn lên Hoa Sơn mới có mấy tháng mà đã luyện đến Bạch hồng quán nhật và Thiên thân đảo huyền rồi ư? Tiểu sư muội, kiếm pháp của bổn phái nên luyện theo thứ tự, không thể nhảy vọt như vậy.
Nhạc Linh San nói:
– Đại ca đừng lo, tiểu muội không muốn dạy lung tung cho hắn như vậy đâu. Tiểu Lâm tử rất kiên cường hiếu thắng, hắn luyện cả ngày lẫn đêm. Lúc rảnh muốn nói chuyện với hắn một chút, hắn nói không được ba câu thì liền hỏi ngay đến kiếm pháp. Người ta luyện kiếm pháp trong ba tháng thì hắn chỉ học khoảng nửa tháng là xong. Tiểu muội bảo hắn đi chơi, hắn cũng chẳng bao giờ chiều ý tiểu muội.
Lệnh Hồ Xung trầm ngâm không nói, bỗng nhiên lòng dâng lên một nỗi buồn không thể tả được; cái bánh nếp chỉ ăn mới hai miếng còn cả nửa cái. Chàng cảm thấy trước mắt tối sầm lại.
Nhạc Linh San kéo tay áo của Lệnh Hồ Xung, cười nói:
– Đại sư ca, đại sư ca nuốt nhầm lưỡi vào bụng rồi ư? Sao đại sư ca không nói gì cả?
Lệnh Hồ Xung giật mình, đút luôn nửa cái bánh vào miệng. Cái bánh nếp vốn thơm ngon vô cùng cứ nằm dính trong họng, không cách nào nuốt trôi xuống được.
Nhạc Linh San chỉ tay, cười khanh khách rồi nói:
– Đại sư ca ăn mà cũng vội vàng, để bánh dính chặt vào răng rồi.
Lệnh Hồ Xung cười gượng, cố gắng nuốt miếng bánh xuống cổ họng, nghĩ bụng: Ta ngu thật! Tiểu sư muội thích chơi đùa, ta lại không thể xuống núi được, cô ta bèn kéo Lâm sư đệ để bầu bạn, đó cũng là chuyện bình thường thôi. Sao ta lại nhỏ nhen, để tâm như vậy?
Nghĩ đến đây,chàng cảm thấy bình thường trở lại, cười nói:
– Cái bánh này chắc có tiểu muội ở trong nên mới dính dữ quá, làm cả răng và lưỡi của ta đều dính lại rồi.
Nhạc Linh San cười ha hả, một lúc sau mới nói:
– Đại sư ca thật đáng thương, bị giam ở trên đỉnh núi trọc lóc này nên mới háu ăn như vậy.
Lần này cô xuống núi, mười mấy ngày sau mới lên lại, ngoài cơm rượu ra còn đem thêm một cái giỏ tre nho nhỏ đựng một ít trái tùng khô và hạt dẻ.
Lệnh Hồ Xung mong ngóng cô đến dài cả cổ. Trong mười mấy ngày này, khi Lục Đại Hữu đem cơm lên, hắn hỏi thăm tiểu sư muội thì thấy thần sắc của Lục Đại Hữu hơi kỳ lạ, hỏi mãi cũng không biết được chút gì. Hắn hỏi riết, Lục Đại Hữu bèn nói:
– Tiểu sư muội vẫn rất khỏe, mỗi ngày đều siêng năng dụng công luyện kiếm. Sư phụ không cho cô ta lên đỉnh núi nữa, sợ cô ta quấy rầy làm ảnh hưởng đến việc luyện tập của đại sư ca.
Lệnh Hồ Xung ngày đêm mong nhớ, đột nhiên thấy Nhạc Linh San, lòng không vui sao được? Hắn thấy cô tinh thần phấn chấn, kiều diễm thướt tha hơn trước lúc bị bệnh, không kìm được hoài nghi, tự hỏi: Cô ta đã sớm mạnh khỏe rồi, mà sao lâu ngày mới lên đỉnh núi thăm ta? Chẳng lẽ sư phụ sư nương cấm đoán thật ư?
Nhạc Linh San thấy thần sắc Lệnh Hồ Xung lộ vẻ lúng túng, mặt cô chợt hồng lên. Cô nói:
– Đại sư ca, đã lâu ngày không lên thăm đại sư ca, đại sư ca có trách tiểu muội không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta sao trách tiểu muội được? Chắc sư phụ, sư nương không cho tiểu muội lên đây nữa, có phải không?
Nhạc Linh San nói:
– Đúng vậy, má má dạy tiểu muội luyện một bộ kiếm pháp mới, nói rằng kiếm pháp này biến hóa rất phức tạp, nếu tiểu muội lên đỉnh núi chuyện trò với đại sư ca thì sẽ bị phân tâm ngay.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bộ kiếm pháp gì vậy?
Nhạc Linh San nói:
– Đại ca thử đoán xem.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dưỡng ngô kiếm phải không?
Nhạc Linh San nói:
– Không phải.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hy di kiếm phải không?
Nhạc Linh San lắc đầu nói:
– Đoán sai nữa rồi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chẳng lẽ là Thục nữ kiếm?
Nhạc Linh San lè lưỡi nói:
– Đây là bản lĩnh sở trường của má má, tiểu muội chưa có tư cách để luyện Thục nữ kiếm đâu. Nói cho đại sư ca nghe, đó là Ngọc nữ kiếm thập cửu thức đó.
Cô nói đang luyện chiêu kiếm này với vẻ rất đắc ý. Lệnh Hồ Xung hơi kinh ngạc, nói:
– Tiểu sư muội đã bắt đầu luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức rồi ư? Bộ kiếm pháp này vô cùng phức tạp.
Chàng nói xong, lòng lập tức trút bỏ hết mọi hiềm nghi. Bộ Ngọc nữ kiếm này tuy chỉ có mười chín chiêu thức, nhưng mỗi chiêu thức đều biến hóa phức tạp, nếu nhớ không rõ ràng thì ngay cả một chiêu thức cũng không sử được. Chàng từng nghe sư phụ nói: “Bộ Ngọc nữ kiếm thập cửu thức này ý nghĩa là ở chỗ biến ảo kỳ diệu, vẫn dựa vào nguyên tắc lấy khí sử kiếm của phái Hoa Sơn nhưng vẫn khác với kiếm pháp Hoa Sơn”. Sức lực của nữ đệ tử tương đối yếu, lúc gặp phải kình địch, có thể dùng kỹ xảo của kiếm pháp này để thắng sự vụng về, nhưng nam đệ tử thì không cần phải học.
Lệnh Hồ Xung không học qua bộ kiếm pháp này. Công lực của Nhạc Linh San dường như cũng chưa đủ để luyện. Nhưng ngày trước Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San cùng với các sư huynh sư muội cùng xem sư phụ và sư nương chiết giải bộ kiếm pháp này, sư phụ sử cả kiếm pháp tấn công của các môn phái khác nhau, sư nương trước sau vẫn sử Ngọc nữ kiếm thập cửu thức để chống đỡ. Mười chín chiêu Ngọc nữ kiếm vẫn đấu ngang cơ với mấy trăm chiêu kiếm cao minh của hơn mười môn kiếm pháp khác nhau. Lúc đó bọn đệ tử nhìn hoa cả mắt, vô cùng kinh ngạc và thán phục. Nhạc Linh San bèn năn nỉ mẫu thân dạy cho. Nhạc phu nhân nói: “Tuổi hài nhi còn nhỏ , thứ nhất là công lực chưa đủ, thứ hai là luyện bộ kiếm này sẽ làm tổn thương tinh thần, hãy đợi đến hai mươi tuổi mới học. Vả lại, bộ kiếm pháp này chuyên dùng để chế ngự chiêu kiếm của các phái khác, nếu để sư huynh sư muội của bổn môn chiết chiêu với hài nhi, luyện đi luyện lại sẽ biến thành một thứ kiếm pháp chuyên chế ngự kiếm pháp của phái Hoa Sơn. Xung nhi đã học rất nhiều, nhớ được nhiều kiếm pháp bên ngoài, đợi Xung nhi rảnh rỗi cùng với hài nhi chiết chiêu luyện tập”. Chuyện này đã qua gần hai năm, từ đó về sau không ai nhắc đến nữa, không ngờ sư nương lại dạy cho cô.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lúc này chắc sư phụ cao hứng lắm, mỗi ngày cùng với tiểu muội chiết chiêu.
Bộ kiếm pháp này quan trọng ở chỗ tùy cơ ứng biến, quyết không thể câu nệ ở chiêu thức, hễ ra tay luyện thì phải chiết chiêu. Trong phái Hoa Sơn, chỉ có Nhạc Bất Quần và Lệnh Hồ Xung am hiểu nhiều thứ kiếm pháp của các phái khác. Nhạc Linh San muốn luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức thì phải chính Nhạc Bất Quần đứng ra chỉ dạy; mỗi ngày cô cùng với lão chiết giải vài chiêu.
Mặt Nhạc Linh San lại ửng hồng, e thẹn nói:
– Gia gia có rảnh đâu. Chính Lâm Bình Chi mỗi ngày cùng với tiểu muội chiết chiêu đó.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:
– Lâm sư đệ ư? Hắn hiểu được nhiều kiếm pháp của các phái khác ư?
Nhạc Linh San cười nói:
– Hắn chỉ hiểu được có một thứ Tịch tà kiếm pháp gia truyền của nhà hắn mà thôi. Gia gia nói bộ Tịch tà kiếm pháp này uy lực tuy không mạnh nhưng biến chiêu rất thần kỳ, có thể mượn để áp dụng vào đó được. Tiểu muội luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức có thể bắt đầu đối kháng với Tịch tà kiếm pháp của hắn được rồi.
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Thì ra là như vậy.
Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca, hình như đại sư ca không vui?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đâu có! Ta làm sao mà không vui? Tiểu sư muội luyện được bộ kiếm pháp thượng thừa của bổn môn, ta vui mừng không hết, làm sao mà không vui được!
Nhạc Linh San nói:
– Nhưng tiểu muội thấy vẻ mặt của đại sư ca rõ ràng là không vui chút nào.
Lệnh Hồ Xung gượng cười, nói:
– Tiểu sư muội luyện đến chiêu thứ mấy rồi?
Nhạc Linh San không đáp, một lúc sau mới nói:
– Đúng rồi, thì ra má má nói để đại sư ca giúp tiểu muội chiết chiêu cho, vậy mà bây giờ tiểu muội lại nhờ Tiểu Lâm tử chiết chiêu, cho nên đại ca không bằng lòng, phải vậy không? Nhưng đại ca ơi, đại sư ca ở trên đỉnh núi này không thể xuống được; tiểu muội lại rất nóng lòng muốn sớm luyện kiếm pháp, vì vậy không thể đợi đại sư ca được.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:
– Tiểu muội lại nói chuyện như con nít rồi. Sư huynh sư muội đồng môn ai chiết chiêu giúp tiểu sư muội cũng vậy thôi.
Chàng ngừng một lúc, rồi cười nói tiếp:
– Ta biết tiểu sư muội muốn Lâm sư đệ chiết chiêu với tiểu muội, chứ không muốn chiết chiêu với ta.
Mặt Nhạc Linh San ửng hồng, nói:
– Đừng nói vớ vẩn! Bản lĩnh của Tiểu Lâm tử so với đại sư ca cách nhau một trời một vực, muốn cùng hắn chiết chiêu có gì hay ho đâu?
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Lâm sư đệ mới nhập môn có vài tháng, dù hắn có thực sự thông minh đến đâu cũng chẳng đáng là bao, bèn nói:
– Muốn hắn chiết chiêu tất nhiên vẫn có chỗ hay. Mỗi chiêu của tiểu muội đều có thể giết được hắn mà hắn không có cách nào trở tay, há không phải là điều thích thú sao?
Nhạc Linh San cười khanh khách rồi nói:
– Cái món Tịch tà kiếm pháp mèo què của hắn làm sao chống đỡ nổi?
Lệnh Hồ Xung biết rõ tính khí tiểu sư muội vô cùng hiếu thắng, đoán rằng cô ta cùng với Lâm Bình Chi chiết chiêu, bộ kiếm pháp mới luyện này tự nhiên dùng đến thì lòng ứng với tay, chiêu kiếm nào cũng chiếm được thượng phong. Võ công đối thủ lại thấp, quả thực là điều kiện để tập luyện tốt. Những buồn phiền lập tức tan biến, Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Vậy thì để ta giúp tiểu muội chiết giải mấy chiêu, xem Ngọc nữ kiếm thập cửu thức của tiểu sư muội đã luyện được tới đâu rồi.
Nhạc Linh San vui mừng, cười nói:
– Hay quá, hôm nay… hôm nay tiểu muội lên đỉnh núi là muốn…
Cô bẽn lẽn rút thanh trường kiếm ra. Lệnh Hồ Xung nói:
– Hôm nay tiểu sư muội lên đây là muốn thi triển kiếm pháp mới học cho ta xem chứ gì. Nào, xuất chiêu đi!
Nhạc Linh San cười nói:
– Đại sư ca, kiếm pháp của đại sư ca trước nay vẫn hơn tiểu muội, nhưng khi tiểu muội đã luyện xong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức thì không sợ đại sư ca ăn hiếp đâu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Có bao giờ ta ăn hiếp tiểu sư muội đâu? Thật là nói oan cho người tốt.
Nhạc Linh San dựng thanh trường kiếm lên nói:
– Sao đại sư ca còn chưa rút kiếm ra?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Làm sao mà tiểu sư muội vội vàng quá vậy?
Chàng nói rồi tay trái thủ thế theo kiếm quyết, đồng thời chưởng tay phải phóng ra, nói:
– Đây là Tùng Phong kiếm pháp của phái Thanh Thành. Chiêu này gọi là Tùng đào như lôi.
Lệnh Hồ Xung dùng chưởng làm kiếm đâm thẳng vào bả vai của Nhạc Linh San.
Nhạc Linh San nghiêng người lùi lại, vung kiếm đỡ chưởng của Lệnh Hồ Xung rồi la lên:
– Cẩn thận đó!
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Không cần khách khí, lúc đỡ không được thì ta sẽ rút kiếm ra.
Nhạc Linh San giận dỗi nói:
– Đại sư ca dám dùng tay không đấu với Ngọc nữ kiếm thập cửu thức của tiểu muội sao?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Bây giờ tiểu muội chưa luyện xong. Sau khi luyện xong, ta đây đâu dám đấu tay không.
Trong mấy ngày nay, Nhạc Linh San khổ luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức, tự cảm thấy kiếm thuật của mình tiến bộ rất nhanh, nếu so sánh với các tay cao thủ hạng nhất trên giang hồ, cũng không thua ai. Mười mấy ngày cô không lên đỉnh núi vì dụng ý không muốn tiết lộ cho đại sư ca biết, hy vọng chàng nghe đến là phải kinh sợ, khiến chàng phải khâm phục. Không ngờ đại sư ca lại vô cùng khinh thị, chỉ dùng song chưởng để đỡ Ngọc nữ kiếm thập cửu thức của mình. Cô nghiêm mặt nói:
– Nếu kiếm của tiểu muội làm đại sư ca bị thương thì đại sư ca đừng trách, và cũng đừng mách lẻo lại cho gia gia má má hay nghen.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Dĩ nhiên rồi, tiểu sư muội tận lực thi triển. Nếu ra tay mà nương tình thì không thể nào phát huy được bản lĩnh vốn có.
Lệnh Hồ Xung nói xong chưởng tay trái đột nhiên phát ra nghe vù một tiếng, la lên:
– Cẩn thận!
Nhạc Linh San giật mình sợ hãi, la lên:
– Sao… sao? Đại sư ca cũng dùng tay trái làm kiếm ư?
Chưởng vừa rồi của Lệnh Hồ Xung nếu đánh ra thực sự thì bả vai của Nhạc Linh San sẽ bị thương.
Chàng thu nội lực lại, không phát ra nữa rồi cười nói:
– Phái Thanh Thành có mấy người sử dụng song kiếm.
Nhạc Linh San nói:
– Đúng! Tiểu muội đã từng thấy mấy tên đệ tử phái Thanh Thành mang song kiếm, nhưng quên xem chúng ra chiêu thế nào.
Cô nói xong liền rút kiếm lại. L ệnh Hồ Xung thấy thế kiếm đánh tới giống như chiêu số thượng thừa trong Ngọc nữ kiếm, liền khen:
– Chiêu kiếm này rất tốt, nhưng xem ra vẫn chưa nhanh lắm.
Nhạc Linh San nói:
– Chưa nhanh lắm ư? Nếu nhanh nữa thì tiểu muội đã chặt đứt cánh tay của đại sư ca rồi.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tiểu sư muội chặt thử xem.
Nói rồi hắn vung tay phải thành kiếm, đâm thẳng vào vai trái cô.
Nhạc Linh San vẫn còn tức, liền vung kiếm như gió, đem từng thức vừa luyện được trong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức sử ra hết. Kiếm pháp thập cửu thức này, cô chỉ còn nhớ chín thức, mà trong chín thức này cô thực sự có thể dùng được không quá sáu thức, nhưng sáu thức của kiếm pháp này đã đầy đủ uy lực rồi. Mũi kiếm chĩa tới đâu, Lệnh Hồ Xung không thể đến gần được tới đó. Lệnh Hồ Xung quay quanh cô ta đấu giỡn chơi, mỗi lần chàng đâm ra phía trước đều bị chiêu kiếm lợi hại của cô ta bức văng ra, có lần chàng vội nhảy về phía sau, lưng bị đụng mạnh vào những mỏm đá lồi ra trên vách núi. Nhạc Linh San rất khoái chí, cười nói:
– Còn chưa rút kiếm ra ư?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đợi một chút.
Chàng dẫn dụ cô ta đem từng chiêu Ngọc nữ kiếm sử ra hết, lại đấu thêm một lúc nữa, thấy cô ta giở đi giở lại cũng chỉ có thể sử được sáu thức, hắn đã tỏ tường hết rồi liền phóng về trước, chưởng tay phải đánh ra, miệng la lên:
– Sát thủ Tùng Phong kiếm, cẩn thận!
Thế chưởng đánh ra rất mạnh. Nhạc Linh San thấy hắn vung chưởng đánh xuống đầu mình, vội giơ kiếm lên đỡ. Chiêu này đúng vào ý nghĩ của Lệnh Hồ Xung, tay trái hắn phóng về phía trước, ngón giữa búng ra, keng một tiếng, hắn búng đúng vào sống của thanh trường kiếm. Hổ khẩu của Nhạc Linh San đau buốt, cầm kiếm không vững, trường kiếm bay đi, rơi thẳng xuống vực thẳm.
Sắc mặt của Nhạc Linh San tái xanh, trừng mắt nhìn Lệnh Hồ Xung, mím môi cắn chặt răng, không nói nên lời nào.
Lệnh Hồ Xung kêu lên:
– Trời ơi!
Chàng vội xông đến bên sườn núi, thanh kiếm đã rơi xuống vực sâu ngàn trượng rồi, không còn thấy gì cả. Bỗng trong lúc đó, bên sườn núi thấp thoáng một bóng xanh, tựa hồ như hình ảnh một tà áo. Lệnh Hồ Xung định thần nhìn lại thì chẳng thấy gì nữa. Trống ngực chàng đập thình thịch, thầm nghĩ:
– Ta làm sao vậy? Ta làm sao vậy? Ta cùng với tiểu sư muội tỉ kiếm với nhau không biết đã mấy trăm lần, lúc nào cũng nhường nhịn cô ta, nhưng lần này lại ra tay không nương tình. Ta hành động càng lúc càng kỳ cục.
Nhạc Linh San quay người nhìn xuống vực thẳm rồi kêu lên:
– Thanh kiếm, trời ơi thanh kiếm!
Lệnh Hồ Xung càng lo lắng, biết trường kiếm của tiểu sư muội là thứ vũ khí sắc bén tan vàng nát ngọc, gọi là Bích thủy kiếm. Ba năm trước, sư phụ đến Long Tuyền tỉnh Triết Giang tìm được; tiểu sư muội vừa trông thấy thanh kiếm đã thích ngay không muốn rời tay. Cô xin sư phụ mấy lần, sư phụ vẫn không cho; đợi đến sinh nhật lần thứ mười tám của cô, sư phụ mới lấy ra tặng cô làm quà. Bây giờ thanh kiếm rơi xuống vực thẳm không thể lấy lại được nữa. Chàng quá sai lầm rồi.
Chân trái của Nhạc Linh San dẫm xuống đất, nước mắt lăn dài trên má, quay người toan xuống núi. Lệnh Hồ Xung gọi:
– Tiểu sư muội!
Nhạc Linh San không thèm nghe, chạy thẳng xuống núi.
Lệnh Hồ Xung đuổi theo đến bên sườn núi, định nắm tay cô. Ngón tay hắn mới chạm đến tay áo cô, lại rút về. Cô không hề quay lại mà đi thẳng xuống núi.
Lệnh Hồ Xung buồn bã, nghĩ bụng: Trước đây đối với sư muội, bất cứ chuyện gì ta cũng hết sức nhường nhịn, tại sao hôm nay lại lấy ngón tay bật văng thanh bảo kiếm của sư muội đi? Chẳng lẽ sư nương đã truyền cho sư muội Ngọc nữ kiếm thập cửu thức thì ta lại có ý đố kỵ với sư muội sao? Không, quyết không phải như vậy. Ngọc nữ kiếm thập cửu thức vốn là công phu của nữ đệ tử phái Hoa Sơn, huống hồ bản lĩnh của tiểu sư muội càng cao bao nhiêu thì ta càng vui sướng bấy nhiêu. Ôi, vì ta ở một mình trên đỉnh núi này quá lâu nên tính khí thất thường. Chỉ mong ngày mai tiểu sư muội lại lên đỉnh núi này, ta sẽ xin lỗi cô ta mới được.
Tối hôm đó chàng không sao ngủ được, ngồi xếp bằng trên tảng đá luyện khí công một lúc, cảm thấy tinh thần khó an định, nên không dám luyện công nữa. Ánh trăng soi vào động tỏa sáng trên vách đá. Lệnh Hồ Xung thấy ba chữ lớn “Phong Thanh Dương” trên vách, liền giơ ngón tay ra, lần theo vết khắc của chữ lồi lõm trên vách, viết lại từng nét.
Ngay lúc đó, trước mặt chợt tối đen; một cái bóng in lên vách đá. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, thuận tay chụp thanh trường kiếm bên mình, chưa kịp rút kiếm ra khỏi vỏ đã lập tức xoay tay đâm ngược về phía sau. Kiếm đâm đến giữa chừng, chàng mừng rỡ gọi:
– Tiểu sư muội!
Lệnh Hồ Xung dừng tay không phóng kiếm ra nữa, quay người lại, chỉ thấy một người đàn ông đang đứng cách cửa động hơn một trượng, thân hình ốm nhách, mình mặc thanh bào. Người này quay lưng về hướng ánh trăng, mặt quấn tấm vải xanh, chỉ để lộ ra hai mắt, hiển nhiên là chàng chưa bao giờ thấy qua. Lệnh Hồ Xung lớn tiếng hỏi:
– Các hạ là ai?
Rồi liền phóng khỏi thạch động, rút trường kiếm ra. Người đó không đáp, đưa tay phải ra đánh liền hai chưởng về phía phải. Đó lại là hai chiêu trong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức mà Nhạc Linh San đã sử. Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên, ý nghĩ thù địch biến mất, bèn hỏi:
– Các hạ là tiền bối của môn phái nào?
Đột nhiên, một luồng kình phong xông thẳng đến, tạt vào mặt Lệnh Hồ Xung. Không kịp nghĩ ngợi, chàng vung kiếm ra nhưng đã nghe đầu vai trái hơi đau. Chàng đã bị trúng một chưởng của người đó, nhưng dường như người đó chưa vận hết nội lực. Lệnh Hồ Xung vô cùng kinh sợ, vội lùi sang trái mấy bước. Người đó không truy kích, biến chưởng thành kiếm, trong khoảnh khắc đã sử đủ sáu chiêu trong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức đến mấy chục lần. Mấy chiêu này được nối liền như một chiêu duy nhất, thủ pháp cực kỳ mau lẹ, thật ngoài sức tưởng tượng. Mỗi chiêu đều lấy từ các chiêu mà ban ngày Nhạc Linh San cùng với Lệnh Hồ Xung đã chiết giải qua, bây giờ dưới ánh trăng Lệnh Hồ Xung mới nhìn thấy rõ. Nhưng làm sao có thể đem mấy chục chiêu kiếm pháp nối liền lại giống như chỉ sử một chiêu? Nhất thời chàng há hốc miệng, toàn thân cứng đờ ra.
Người đó phất tay áo rồi quay người đi thẳng xuống núi.
Lệnh Hồ Xung gọi lớn:
– Tiền bối, tiền bối!
Chàng nhìn xuống núi, nhưng chỉ thấy một làn ánh sáng xanh lè, rồi chẳng thấy gì nữa.
Lệnh Hồ Xung hít một luồng khí lạnh, nghĩ: Lão là ai? Sao lại sử đúng các chiêu trong Ngọc nữ kiếm thập cửu thức? Ta vạn lần cũng không thể bật trúng trường kiếm trong tay lão; ngược lại mỗi chiêu của lão đều có thể đâm trúng vào ta. Không hiểu sao muốn đâm lão lại không đâm, muốn chém ta lão lại không chém? Sáu chiêu thức của Ngọc nữ kiếm thập cửu thức này, Lệnh Hồ Xung chỉ có nghe luyện từng chiêu mà thôi. Thì ra bộ kiếm pháp này lại có đại uy lực như vậy. Chàng lại chuyển ý nghĩ: Hiển nhiên uy lực không phải ở chiêu kiếm mà do phương pháp sử kiếm của lão. Lão sử kiếm như vậy, bất luận chiêu thức dù bình thường nhất ta vẫn không đối phó được. Vậy lão là ai? Sao lại lên được trên đỉnh Hoa Sơn này?
Chàng suy nghĩ đến bể đầu cũng chẳng giải đáp được gì nhưng vẫn cho rằng sư phụ và sư nương chắc biết lai lịch của người này. Ngày mai tiểu sư muội lên đây, nhờ sư muội chuyển lời hỏi sư phụ và sư nương thì rõ.
Nhưng ngày sau đó Nhạc Linh San không lên đỉnh núi, ngày thứ ba, ngày thứ tư cũng không lên. Cho đến ngày thứ mười tám cô ta mới cùng với Lục Đại Hữu lên núi. Lệnh Hồ Xung mong chờ mười tám ngày đêm mới thấy cô đến, chàng có nhiều điều muốn thổ lộ với cô, nhưng có Lục Đại Hữu bên cạnh nên không tiện nói ra.
Sau khi ăn cơm xong, Lục Đại Hữu hiểu tâm ý của Lệnh Hồ Xung bèn nói:
– Đại sư ca, tiểu sư muội, hai người đã lâu không gặp nhau nên chuyện trò thêm một lúc. Tiểu đệ đem thùng cơm về trước đây.
Nhạc Linh San cười nói:
– Lục hầu nhi, sư huynh muốn trốn ư? Hai người đến sao lại về một người?
Cô nói xong liền đứng dậy.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu sư muội, ta có chuyện muốn nói với sư muội.
Nhạc Linh San nói:
– Được rồi, đại sư ca muốn nói gì thì Lục hầu nhi cũng đứng đây để nghe đại sư ca giáo huấn.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Không phải ta muốn giáo huấn. Thanh Bích thủy kiếm của tiểu muội…
Nhạc Linh San ngắt lời, nói:
– Tiểu muội nói với má má là lúc luyện Ngọc nữ kiếm thập cửu thức vì không cẩn thận nên tuột tay làm rơi xuống vực thẳm không tìm thấy được. Tiểu muội khóc một trận, má má không trách mắng tiểu muội mà còn an ủi mấy câu, lại nói lần sau sẽ tìm cho tiểu muội một thanh kiếm tốt hơn. Chuyện đã qua rồi, đại sư ca nhắc lại làm chi?
Nói xong cô giang hai tay ra cười.
Nhạc Linh San càng không muốn nhắc đến chuyện đó, Lệnh Hồ Xung càng cảm thấy áy náy. Chàng nói:
– Sau khi mãn hạn phạt xuống núi, nhất định ta sẽ đi khắp giang hồ tìm một thanh bảo kiếm đền cho tiểu sư muội.
Nhạc Linh San cười nói:
– Mình là sư huynh sư muội với nhau, còn nhắc đến thanh kiếm để làm gì? Huống hồ thanh kiếm đó đích xác là do tiểu muội vuột tay làm rơi xuống vực thẳm, chỉ giận tiểu muội học nghệ không thông, chứ trách ai được? Ai cũng “Làm hết sức mình, ra sao thì ra” mà thôi!
Cô nói xong cười lên khanh khách. Lệnh Hồ Xung không hiểu hỏi:
– Tiểu muội nói cái gì vậy?
Nhạc Linh San cười nói:
– A, đại sư ca không biết, đây là câu mà Tiểu Lâm tử thường nói, nó có nghĩa gần như “Làm hết sức lực của mình, còn bao nhiêu dựa vào mệnh trời”. Hắn nói huyên thuyên không ngừng, tiểu muội học lấy câu đó để làm trò cười hắn. Ha ha “Làm hết sức mình, ra sao thì ra”!
Lệnh Hồ Xung cười gượng, bỗng nghĩ ra: Hôm đó tiểu sư muội sử Ngọc nữ kiếm thập cửu thức, tại sao ta lại dùng Tùng Phong kiếm pháp của phái Thanh Thành để chiết giải với sư muội? Phải chăng là ta có chủ tâm đối phó với Tịch tà kiếm pháp của Lâm sư đệ? Họ Lâm ở Phước Oai tiêu cục đều bị nhà tan cửa nát dưới tay của phái Thanh Thành, mà ta lại cố ý châm biếm hắn, ta là hạng nhỏ nhen ích kỷ vậy sao?
Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ: Hôm ở trong Quần Ngọc viện thành Hành Sơn, ta xém chút nữa mất mạng dưới chưởng của Dư Thương Hải, may nhờ Lâm sư đệ không màng đến sự an nguy tính mệnh, la lên: “Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm” nên Dư Thương Hải mới không phóng chưởng ra. Tóm lại Lâm sư đệ có thể nói là có ân cứu mạng ta.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác cảm thấy hổ thẹn, thở phào một cái rồi nói:
– Lâm sư đệ tư chất thông minh, lại chịu khó rèn luyện, mấy tháng nay lại được tiểu sư muội chỉ điểm kiếm pháp, chắc võ công của y tiến bộ nhanh lắm. Nhưng đáng tiếc là trong một năm ta không xuống núi được, nếu không y đã có ân với ta thì ta cần giúp đỡ y luyện kiếm mới phải.
Nhạc Linh San nhướng mày hỏi:
– Tiểu Lâm tử sao lại có ân với đại sư ca? Tiểu muội chưa từng nghe hắn nhắc qua bao giờ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dĩ nhiên y không tự nói ra đâu.
Rồi Lệnh Hồ Xung đem tình cảnh ngày hôm đó kể tỉ mỉ lại. Nhạc Linh San nghe xong, nói:
– Thảo nào gia gia cứ khen hắn là người có hiệp khí, cho nên mới cứu hắn ra khỏi tay Tái Bắc minh đà. Tiểu muội thấy hắn ngu ngốc, nào ngờ hắn cũng đã từng cứu mạng đại sư ca.
Cô nói đến đây, không nhịn được nữa bèn cười lên rồi nói tiếp:
– Chỉ có một chút bản lĩnh nhỏ nhoi, hắn lại cứu được đại sư huynh phái Hoa Sơn và cũng từng vì đứa con gái của chưởng môn phái Hoa Sơn mà ra tay giết đứa con cưng của chưởng môn phái Thanh Thành. Hai việc này đã đủ để hắn nổi tiếng oanh liệt trong võ lâm một thời. Nhưng không ai ngờ anh chàng đại hiệp thích ôm chuyện bất bình quyết ra tay, hi hi, Lâm Bình Chi, Lâm đại hiệp mà võ công lại quá tầm thường như vậy.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Võ công có thể luyện thành nhưng nghĩa khí hào hiệp thì do trời sinh ra; nhân phẩm cao hay thấp là ở chỗ này.
Nhạc Linh San mỉm cười nói:
– Lúc tiểu muội nghe gia gia và má má đề cập đến Tiểu Lâm tử cũng nói như vậy. Đại sư ca, ngoài tính nghĩa hiệp ra, về mặt khí phách, đại sư ca và Tiểu Lâm tử cũng giống nhau đó.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Cái gì, còn khí phách nữa ư? Nóng tính phải không?
Nhạc Linh San cười nói:
– Đâu phải, đó là sự cao ngạo. Hai người cao ngạo quá mức.
Lục Đại Hữu bỗng nhiên nói xen vào:
– Đại sư ca là thủ lĩnh của bọn sư huynh sư muội, có một chút cao ngạo cũng phải, ở Hoa Sơn này, gã họ Lâm kia là cái thá gì mà cũng đòi vênh mặt cao ngạo?
Giọng nói của Lục Đại Hữu đầy vẻ căm ghét Lâm Bình Chi. Lệnh Hồ Xung ngây người ra, hỏi:
– Lục sư đệ, Lâm sư đệ có khi nào đắc tội với sư đệ không?
Lục Đại Hữu hậm hực nói:
– Hắn không đắc tội với tiểu đệ, nhưng các sư huynh sư đệ không ưa tính tình của hắn.
Nhạc Linh San nói:
– Lục sư ca làm sao vậy? Vì lẽ gì Lục sư ca lại hằn học với Tiểu Lâm tử dữ vậy? Người ta là sư đệ, Lục sư ca làm sư ca thì nên rộng lượng một chút mới phải chứ.
Lục Đại Hữu hừ lên một tiếng rồi nói:
– Nếu hắn biết an phận thủ thường thì thôi, còn không thì họ Lục này là người đầu tiên không dung tha hắn.
Nhạc Linh San nói:
– Sao hắn lại không an phận thủ thường?
Lục Đại Hữu nói:
– Hắn… hắn… hắn…
Hắn nói ba chữ “hắn” thì không nói nữa.
Nhạc Linh San nói:
– Rốt cuộc là chuyện gì mà sư ca ấp a ấp úng hoài vậy?
Lục Đại Hữu nói:
– Ta mong rằng Lục hầu nhi này bị đui mắt nên nhìn lầm mà thôi.
Đôi má Nhạc Linh San ửng hồng, không hỏi nữa. Lục Đại Hữu đòi về, Nhạc Linh San cùng theo hắn xuống núi.
Lệnh Hồ Xung đứng bên sườn núi trân trân nhìn theo sau lưng hai người cho đến lúc cả hai rẽ vào khúc quanh. Bỗng nhiên, từ sau khúc quanh vọng lại tiếng hát trong trẻo của Nhạc Linh San; khúc hát rất nhẹ nhàng, lưu loát. Lệnh Hồ Xung và cô ta sống chung nhà từ nhỏ đến lúc trưởng thành, đã nhiều lần chàng được nghe cô hát, nhưng chưa hề nghe qua khúc hát này. Trước đây, Nhạc Linh San thường hát những tiểu khúc Thiểm Tây, âm cuối cùng thường kéo thật dài, ở khe núi nghe càng lảnh lót. Khúc hát này lại giống như châu rơi nước chảy, từng chữ nhả ra tròn trĩnh.
Lệnh Hồ Xung nghiêng đầu lắng nghe lời ca, nghe được mang máng mấy chữ: “Chị em lên núi hái chè”. Nhưng giọng hát cô ta rất kỳ lạ, mười phần thì có đến tám chín chỉ nghe âm mà không hiểu nghĩa. Chàng nghĩ thầm: Tiểu sư muội học khúc tân ca này lúc nào mà hát nghe rất hay. Lần sau tiểu sư muội lên núi mình mời cô ta hát lại một lần nữa nghe xem sao.
Bỗng nhiên, ngực chàng đau nhói giống như bị ai đó đánh một chùy thật mạnh. Hắn bỗng hiểu ra: Đây là sơn ca ở Phúc Kiến do Lâm sư đệ dạy cho cô ta hát!
Đêm hôm đó, tâm tư Lệnh Hồ Xung dậy sóng, không cách nào ngủ được, bên tai như vẫn nghe tiếng hát nhẹ nhàng văng vẳng của Nhạc Linh San với âm sắc sơn ca Phúc Kiến khó hiểu. Mấy lần chàng tự oán trách mình: Lệnh Hồ Xung ơi Lệnh Hồ Xung! Trước kia ngươi tiêu dao tự tại biết chừng nào, hôm nay chỉ vì một khúc hát mà lòng ngươi lại day dứt mãi không thôi, thật uổng cho ngươi là một bậc nam tử hán đại trượng phu quá đỗi.
Dù rằng biết mình không nên nghĩ ngợi như vậy, nhưng âm điệu bài sơn ca Phúc Kiến mà Nhạc Linh San hát cứ văng vẳng bên tai không dứt. Lòng đau đớn vô cùng, chàng cầm trường kiếm lên, đâm chém loạn xạ vào vách đá. Lệnh Hồ Xung cảm thấy một luồng nội lực từ huyệt Đan điền xông lên, bèn vận hết nội lực vung kiếm đâm ra, dường như giống chiêu Vô song vô đối, Ninh thị nhất kiếm của Nhạc phu nhân. Soạt một tiếng, trường kiếm đâm vào vách đá ngập đến tận chuôi.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, không hiểu do đâu công lực trong mấy tháng vừa qua lại tiến nhanh đến nỗi kiếm đâm sâu vào vách đá ngập đến tận chuôi. Nội lực trên lưỡi kiếm phải cao thâm đến bậc nào mới có thể sử kiếm đâm vào đá như đâm vào cây mục chứ? Cả sư phụ sư nương cũng chưa chắc sử kiếm được như vậy. Chàng ngây người một lúc rồi rút lưỡi kiếm ra, có cảm giác như vách đá này rất mỏng, chỉ dày khoảng hai ba tấc là đến khoảng không, sau vách đá là một hang động.
Lệnh Hồ Xung nổi tính hiếu kỳ, liền vung kiếm đâm thêm một nhát nữa. Cách một tiếng, lưỡi kiếm gãy làm hai. Thì ra lần này hắn vận nội kình không đủ, ngay cả vách đá khoảng hai ba tấc cũng không cách nào đâm xuyên qua được. Hắn chửi tục một câu, ra ngoài động ôm lấy một tảng đá to vận lực ném vào vách đá. Tảng đá ném thật mạnh, sau vách đá nghe loáng thoáng có tiếng động truyền đến, hiển nhiên ở sau là một khoảng không khá rộng. Hắn vận nội lực ném tiếp, bỗng nghe đùng một tiếng, tảng đá bay xuyên qua vách đá rớt xuống nghe tiếng lạch cạch không dứt, hình như tảng đá không ngừng lăn đi.
Lệnh Hồ Xung phát hiện sau vách đá còn có một cái động khác, trong thoáng chốc nỗi phiền muộn chất chứa đầy lòng đều tan mất. Chàng lại đi bê đá ném vào mấy lần nữa, vách đá bị thủng một lỗ lớn, có thể chui đầu qua. Chàng lại bê đá ném thêm lên vách đá cho cái lỗ rộng ra rồi đốt lửa lên, chui sang. Hóa ra bên trong là một cái hang hẹp. Lúc chàng cúi đầu nhìn, đột nhiên toàn thân toát mồ hôi. Dưới chân có một bộ xương khô nằm đó.
Tình cảnh này vượt quá sức liệu đoán. Chàng định thần lại, nghĩ thầm: Lẽ nào đây là ngôi mộ cổ của tiền nhân? Nhưng sao bộ xương này không nằm ngay mà lại phủ phục xuống như thế này? Nhìn kiểu dáng bộ xương như vậy thì cái hang nhỏ hẹp này quyết không phải là lối vào nhà mồ.
Lệnh Hồ Xung cúi xuống nhìn bộ xương, thấy áo của người chết đã mục nát hết, bên bộ xương còn đặt hai cây búa to phản chiếu ánh sáng khi ánh lửa rọi vào.
Lệnh Hồ Xung nhặt cây búa lên, thấy nặng khoảng hơn bốn mươi cân. Chàng nhấc búa chém vào vách đá bên cạnh; cạch một tiếng, một tảng đá to rơi xuống. Chàng ngẩn người ra, nghĩ: Cây búa này bén như vậy, không phải là vật tầm thường, nhất định là khí giới của một vị tiền bối trong võ lâm.
Lệnh Hồ Xung lại thấy chỗ vết búa chém rất ngọt, ngoài ra, vách đá còn có nhiều vết đao, vết búa khác chém vào. Chàng tập trung suy nghĩ một lát, bất giác ngẩn người ra, rồi cầm đuốc theo con đường đi xuống. Trong hang đầy những vết búa chém, Lệnh Hồ Xung kinh hãi nghĩ: Thì ra hang này là do người dùng búa phá để mở đường ra. Đúng rồi, người này bị giam cầm trong lòng núi, nên dùng búa phá núi để thoát thân, nhưng không đủ sức, chỉ còn cách động vài tấc thì đã kiệt sức mà chết. Ôi, quả là số mệnh người này rất xui xẻo.
Chàng đi thêm mười trượng nữa, vẫn chưa tới đầu hang bên kia, lại nghĩ: Người này phá núi mở đường được thì chắc chắn nghị lực rất sắt đá, võ công rất cao cường, thật xưa nay hiếm có.
Bất giác chàng sinh lòng khâm phục. Chàng đi thêm vài bước nữa, thấy dưới đất có hai bộ xương khô, một bộ ngồi tựa vào vách, bộ kia nằm khoanh tròn lại. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra bị giam trong núi không phải chỉ có một người.
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Nơi này là đất cấm của phái Hoa Sơn ta, người ngoài không dễ đến được. Chẳng lẽ các bộ xương này đều là các vị tiền bối vi phạm môn quy của phái Hoa Sơn bị giam cho đến chết ở đây?
Lệnh Hồ Xung đi thêm vài trượng rồi thuận đường quay người sang hướng trái. Trước mắt chàng hiện ra một thạch động rất lớn có thể chứa đủ một ngàn người, trong động lại có bảy bộ xương ngồi nằm khác nhau, bên cạnh bộ xương nào cũng có khí giới. Khí giới gồm một cặp thiết bài, một cặp phán quan bút, một cây thiết côn, một cây thục đồng côn, một thứ giống như lưỡi tầm sét, một thứ là thanh đao hai lưỡi có ba răng nhọn hoắt như răng chó sói, một thứ có lưỡi không giống đao cũng chẳng giống kiếm, xưa nay chàng chưa bao giờ gặp qua. Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Những người sử dụng các thứ khí giới kỳ lạ và người sử dụng hai cây búa quyết không phải là đệ tử của bổn môn.
Cách đó không xa, dưới đất có khoảng mười thanh trường kiếm. Lệnh Hồ Xung nhặt lên một thanh, thấy cây kiếm ngắn hơn kiếm thường nhưng lưỡi lại lớn gấp đôi, cầm nghe rất nặng. Chàng nghĩ: Đây là kiếm của phái Thái Sơn.
Lệnh Hồ Xung xem một thanh khác thấy nhẹ và mềm, chính là khí giới của phái Hằng Sơn; có thanh hình bán nguyệt, là một trong ba loại trường kiếm mà phái Hành Sơn sử dụng; có thanh lưỡi không có sống, mũi kiếm rất nhọn và vô cùng sắc bén, là thứ khí giới mà vài vị tiền bối của phái Tung Sơn thích dùng. Còn ba thanh kiếm kia xem chiều dài, độ nặng chính là kiếm của bổn môn. Chàng càng lúc càng hoang mang: Tại sao ở đây có nhiều khí giới của Ngũ Nhạc kiếm phái?
Lệnh Hồ Xung cầm đuốc soi bốn vách động, chỉ thấy trên vách đá bên phải cách mặt đất mấy trượng có một tảng đá lớn giống như một cái bệ, trên vách có khắc mười sáu chữ lớn:
Ngũ Nhạc kiếm phái
Vô sỉ hạ lưu
Tỉ võ bất thắng
Ám toán hại nhân
Tạm dịch là:
Than ôi, Ngũ Nhạc kiếm phái
Toàn quân vô sỉ, hạ lưu
Đánh nhau đã không thủ thắng
Ngấm ngầm dùng mẹo hại người
Bốn chữ xếp thành một hàng, tất cả có bốn hàng, mỗi chữ dài hơn một thước được khắc sâu vào vách đá. Người xưa đã dùng thứ khí giới cực kỳ bén nhọn để khắc, vết khắc sâu đến mấy tấc. Mười sáu chữ này trông rất oai phong, tựa hồ như bạt kiếm giương cung. Lại thấy bên cạnh mười sáu chữ lớn khắc vô số chữ nhỏ, nào là: “Đê hèn vô lại; thật đáng sỉ nhục; khiếp nhược; hèn hạ…” toàn là những câu nguyền rủa hoặc thóa mạ. Lệnh Hồ Xung xem xong, tức cành hông, nghĩ bụng: Thì ra những người này bị Ngũ Nhạc kiếm phái ta giam cầm ở đây. Họ quá phẫn uất, không thể chửi cho ai nghe được bèn khắc lên vách đá những lời thóa mạ người khác. Hành động này mới đúng là quân đê hèn vô sỉ.
Chàng lại nghĩ tiếp: Không biết họ là người như thế nào? Đã là thù địch với Ngũ Nhạc kiếm phái tất chẳng phải người tốt lành gì.
Lúc Lệnh Hồ Xung cầm đuốc rọi lên vách đá còn thấy khắc một hàng chữ: “Phạm Tùng, Triệu Hạt phá kiếm pháp Hằng Sơn ở đây”. Bên hàng chữ này có vô số đồ hình: cứ hai người là một đồ hình, một người sử kiếm còn người kia sử búa. Chỉ đếm sơ qua, ít nhất cũng có năm sáu trăm đồ hình, hiển nhiên là người sử búa đang phá giải kiếm pháp của người sử kiếm.
Bên cạnh những đồ hình lại xuất hiện một hàng chữ: “Trương Thừa Vân, Trương Thừa Phong tận phá Hoa Sơn kiếm pháp”. Lệnh Hồ Xung đùng đùng nổi giận, chửi thầm: Quả là bọn chuột nhắt vô liêm sỉ, to gan ngông cuồng! Kiếm pháp Hoa Sơn ta tinh vi ảo diệu, trong thiên hạ mấy ai có thể chống đỡ được, một chữ “phá” cũng không dám nói, càng không có ai dám nói hai chữ “tận phá” bao giờ.
Chàng lượm thanh trường kiếm của phái Thái Sơn lên, vận nội lực để chém bạt hàng chữ xấc láo này. Choang một tiếng, tia lửa văng tung tóe, chữ “tận” bị chém mất một góc, nhưng từ nhát kiếm này, chàng nhận ra vách đá vô cùng cứng rắn, muốn xóa những đồ hình và chữ khắc trên vách đá dù có lợi khí cũng không dễ xóa được.
Lệnh Hồ Xung định thần lại, nhìn hàng chữ bên đồ hình. Hình người sử kiếm tuy chỉ được phác họa vài nét rất sơ sài, nhưng cũng có thể nhận ra chính là chiêu Hữu phụng lai nghi thuộc kiếm pháp căn bản của bổn môn; thế kiếm bay lượn phát ra nhẹ nhàng linh động. Chiêu này đang chiết giải với hình người trong tay cầm một thứ khí giới thẳng đuột, không biết nó là côn hay là trường mâu. Thứ khí giới thẳng đuột này chỉ vào mũi kiếm của đối phương với tư thế chậm chạp dị thường. Lệnh Hồ Xung lạnh lùng cười hề hề, thầm nghĩ: Chiêu Hữu phụng lai nghi này của bổn môn còn ẩn giấu năm tuyệt chiêu nữa, chiêu thức vụng về của ngươi làm sao có thể phá giải được?
Nhưng chàng xem lại hình người trong bức đồ hình cầm khí giới thẳng đuột giống như cây côn đang thuận thế phóng vào mũi kiếm của người ra chiêu Hữu phụng lai nghi. Chiêu Hữu phụng lai nghi cứ một chiêu thì có năm chiêu kế tiếp nhưng cây côn của người kia dường như tiềm ẩn đến sáu bảy chiêu kế tiếp, rất có khả năng đối phó với những chiêu tiếp theo của Hữu phụng lai nghi.
Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn những nét khắc sơ sài tạc hình người giao đấu, vừa sợ hãi vừa kỳ dị, nghĩ: Chiêu Hữu phụng lai nghi của bổn môn, chiêu số rất tầm thường nhưng uy lực rất lợi hại; địch thủ biết mà đỡ gạt né tránh thì không sao, nếu họ cố gắng chiết giải tất sẽ thất bại. Nhưng chiêu côn kia của đối phương thực sự có thể phá được chiêu Hữu phụng lai nghi của phái ta. Đây… đây… đây…
Lệnh Hồ Xung từ chỗ kinh hãi ngạc nhiên chuyển sang khâm phục, lòng không kìm được nỗi lo sợ. Chàng ngây người nhìn hai đồ hình này không biết bao lâu, bỗng nhiên cảm thấy tay phải đau rát. Thì ra bó đuốc đã cháy đến tận tay. Chàng vội liệng bó đuốc đi, nghĩ bụng: Bó đuốc đã cháy hết rồi, trong động tối đen như mực.
Lệnh Hồ Xung vội chạy đến trước động, lấy mười mấy nhánh tùng khô làm đuốc rồi chạy vào trong động, đốt lửa lên. Chàng vẫn nhìn hai hình người này rồi nghĩ thầm: Nếu công lực của người sử côn kia tương đương với người sử kiếm của bổn môn thì người sử kiếm của bổn môn không khéo sẽ bị thương mất. Nếu công lực của đối phương cao hơn thì lúc hai thứ khí giới giao nhau, người sử kiếm bổn môn lập tức mất mạng ngay. Chiêu Hữu phụng lai nghi của phái ta… đích thực đã bị người ta phá rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.
Lệnh Hồ Xung nghiêng đầu nhìn đồ hình thứ hai, thấy người sử kiếm của bổn môn sử chiêu Thương tùng nghênh khách. Tinh thần chàng chấn động. Năm xưa, Lệnh Hồ Xung luyện chiêu này mất một tháng mới xong, trở thành một tuyệt chiêu lúc lâm địch. Chàng có chút hoảng sợ, chỉ e chiêu này lại bị người phá giải được. Chàng nhìn hình người sử côn lại thấy trong tay y có đến năm cây côn phân ra đánh vào năm bộ vị dưới hạ bàn của hình người sử kiếm. Lệnh Hồ Xung ngây người ra hỏi: Sao lại có đến năm cây côn? Nhưng khi xem kỹ tư thế của hình người sử côn, hắn liền hiểu ra: Đây không phải là năm cây côn mà vì trong nháy mắt y liên tục phóng ra năm phát nhắm vào năm chỗ trong hạ bàn của đối phương. Nhưng y nhanh ta cũng nhanh, chưa chắc kịp phóng ra liên tiếp năm côn được đâu. Chiêu Thương tùng nghênh khách chắc y phá giải không nổi.
Chàng đang ra chiều tự đắc, bỗng nhiên lại ngẩn người ra rồi tự hỏi: Nếu y không liên tục xuất ra năm côn mà chỉ đánh một côn vào một phương vị nào đó thì ta làm sao né tránh đây?
Lệnh Hồ Xung nhặt một thanh trường kiếm của bổn môn, sử chiêu Thương tùng nghênh khách, lại xem kỹ đồ hình trên vách đá, tưởng tượng bị côn của đối phương đánh đến. Nếu biết được đối phương đánh vào chỗ nào thì tự mình có cách để đối phó, nhưng cây côn của đối phương có thể đánh vào bất kỳ bộ vị nào cũng được, lúc đó trường kiếm của mình đã đâm ra ngoài thì chắc thu về không kịp. Trừ khi chiêu kiếm này phóng ra đâm chết đối phương trước, nếu không thì hạ bàn của mình tất bị đánh trúng. Nhưng đối phương đã là cao thủ, há có thể hy vọng một kiếm mà đâm chết được sao? Nhìn thấy thế địch nhân hạ thấp vai xuống, chân bước tới thì nhất định trong đường tơ kẽ tóc, sẽ né được chiêu kiếm của mình. Chiêu kiếm này mà bị đối phương né được rồi phản công lại thì không thể tránh vào đâu được. Như vậy tuyệt chiêu Thương tùng nghênh khách của phái Hoa Sơn há không phải đã bị người phá được rồi sao?
Lệnh Hồ Xung hồi tưởng lại ba lần ra chiêu Thương tùng nghênh khách đều thủ thắng. Nếu đối phương thấy đồ hình trên vách đá, biết dùng chiêu này mà phản kích, dù sử côn, sử thương, sử mâu, sử gậy thì mình cũng đã mất mạng rồi, còn đâu thằng Lệnh Hồ Xung tồn tại trên thế gian này nữa?
Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng kinh hãi, trán toát mồ hôi hột, lẩm bẩm: Không phải, không phải. Nếu chiêu Thương tùng nghênh khách thật sự có cách phá giải như thế này thì sao sư phụ không biết? Sao sư phụ không cho ta biết trước?
Đối với chiêu Thương tùng nghênh khách, chàng rất tinh thục yếu quyết song nhìn thấy hình người sử năm cây côn cực kỳ lợi hại, tuy trên vách chỉ vẽ hình năm cây côn rất ngắn nhưng mỗi cây lại dường như đánh mạnh vào đùi, vào chân.
Chàng lại xem phía dưới, thấy vách đá khắc toàn những tuyệt chiêu của bổn môn mà đối phương cũng sử toàn chiêu cực kỳ xảo diệu hiểm ác để phá. Lệnh Hồ Xung càng xem càng sợ hãi. Lúc xem đến chiêu Vô biên lạc mộc thấy cây côn của đối phương phản chiêu yếu ớt như không có chút sức lực nào, chỉ thủ chứ không công, bất giác chàng thở phào một cái rồi nghĩ: Chiêu này ngươi phá không được rồi.
Lệnh Hồ Xung nhớ lại tháng chạp năm ngoái, sư phụ thấy tuyết rơi phất phơ nhiều nên rất cao hứng, bèn tập hợp bọn đệ tử lại để giảng luận về kiếm pháp. Sau cùng, sư phụ thi triển chiêu Vô biên lạc mộc, chiêu kiếm của sư phụ rất thần tốc, đường kiếm lấp loáng trên không giống như những đóa hoa tuyết tung bay, ngay cả đến sư nương cũng vỗ tay khen ngợi. Bà nói: “Sư ca, tiểu muội chịu phục sư ca chiêu kiếm này rồi; phái Hoa Sơn phải có sư ca làm chưởng môn nhân là đúng rồi”. Sư phụ cười nói: “Người đứng đầu phái Hoa Sơn phải dựa vào đức chứ không dựa vào lực, chưa chắc sử được một chiêu kiếm thuần thục như vậy thì có thể làm được chưởng môn nhân”. Sư nương cười nói: “Xấu hổ quá! Đức hạnh của sư ca cao hơn tiểu muội sao?” Sư phụ cười cười không nói nữa. Sư nương hiếm khi chịu phục ai, thường thích cùng với sư phụ tranh thắng, thế mà bà phải phục chiêu Vô biên lạc mộc thì phải biết nó lợi hại biết chừng nào. Sau đó, sư phụ giảng giải chiêu thức này được đặt tên từ một câu trong Đường thi, gọi là Vô biên lạc mộc gì gì đó, sư phụ có đọc qua nhưng chàng không nhớ rõ. Lá trên trăm ngàn cây cổ thụ rơi xuống bay chầm chậm trong gió, chiêu kiếm pháp này hầu như chiếu cố đến cả bốn phương tám hướng.
Chàng lại nhìn tiếp hình người sử côn nhưng thấy y đứng ở tư thế co rúm trông rất khó coi, chiêu số cũng chẳng ra chương pháp nào cả. Lệnh Hồ Xung cảm thấy nực cười. Bỗng nhiên, nét mặt đang tươi cười của chàng sựng lại; hắn thấy lạnh đến tận xương tủy. Lệnh Hồ Xung nhìn chằm chằm vào cây côn trong tay người đó, càng nhìn càng cảm thấy đầu côn ra chiêu cực kỳ xảo diệu. Chiêu Vô biên lạc mộc phóng ra chín chiêu, mười chiêu, mười một, mười hai chiêu; mỗi thế kiếm đều nhằm đâm vào côn. Ngược lại, cây côn này lúc mới nhìn qua thấy ra chiêu rất vụng về, nhìn kỹ lại rất xảo diệu; hình người trông yếu ớt nhưng thực ra rất mạnh mẽ. Người sử côn dùng cách lấy tĩnh chế động, lấy cái vụng về chế cái tinh xảo.
Trong chốc lát, niềm tin của chàng đối với võ công bổn phái hoàn toàn mất hết. Lệnh Hồ Xung cảm thấy dù mình có luyện được kiếm thuật bổn môn tinh diệu bằng sư phụ mà gặp phải người sử côn này cũng chẳng khác gì bị người khác cột tay trói chân không còn cách gì để kháng cự, vậy thì kiếm thuật của bổn môn có học đến đâu cũng vô dụng thôi. Chẳng lẽ kiếm thuật của phái Hoa Sơn thực không thể chống nổi một đòn của đối phương sao? Trước mắt, những bộ xương ở trong động đã mục rã lâu rồi, ít nhất cũng ba bốn chục năm, vậy mà sao đến nay Ngũ Nhạc kiếm phái vẫn còn xưng hùng trên giang hồ, chưa từng nghe nói đến kiếm pháp của một phái nào bị người khác phá giải? Nhưng nếu nói những đồ hình trên vách đá chẳng qua chỉ là đấu nhau trên giấy thì cũng không phải. Để xem kiếm pháp của phái Tung Sơn có bị người khác phá hay không. Nhưng chàng biết rõ kiếm pháp phái Hoa Sơn nếu bất ngờ gặp phải những chiêu số cực kỳ cao minh của đối phương thì cũng chỉ còn con đường thất bại mà thôi.
Lệnh Hồ Xung như bị ai điểm trúng huyệt đạo. Chàng đứng trơ bất động, từng ý nghĩ xuất hiện rồi lại tan biến ngay. Không biết trải qua bao lâu, bỗng nghe tiếng người gọi:
– Đại sư ca, đại sư ca! Đại sư ca đang ở đâu vậy?
Lệnh Hồ Xung giật mình, từ trong thạch động vội chạy ra con đường hẹp rồi chui qua lỗ hổng, trở lại sơn động của mình. Nghe tiếng Lục Đại Hữu từ ngoài sườn núi vọng lại, Lệnh Hồ Xung từ trong động chạy ra, đi vòng về phía sau sườn núi đến tảng đá lớn, ngồi xếp bằng ngay ngắn rồi nói:
– Ta đang ngồi luyện công ở đây. Lục sư đệ, có chuyện gì vậy?
Lục Đại Hữu nghe tiếng liền chạy đến, vui mừng nói:
– Đại sư ca ở đây ư? Tiểu đệ đem cơm lên cho đại sư ca đây.
Lệnh Hồ Xung quan sát các chiêu số trên vách đá từ lúc bình minh. Chàng để hết tâm trí vào các bức đồ hình, không biết thời gian trôi qua nhanh, bây giờ đã sau giờ Ngọ rồi. Sơn động là nơi chàng đến để tĩnh tâm ăn năn sám hối tội lỗi của mình; Lục Đại Hữu không dám tự tiện đi vào. Sơn động này rất hẹp, vừa nhìn không thấy Lệnh Hồ Xung ở trong, gã liền đến bên sườn núi tìm kiếm.
Lệnh Hồ Xung thấy trên trán của Lục Đại Hữu có dán một miếng thuốc lớn, máu rỉ ra thấm qua miếng thuốc dán, rõ ràng là gã bị thương không nhẹ, vội hỏi:
– Ui chao! Mặt mũi sư đệ bị sao vậy?
Lục Đại Hữu nói:
– Sáng nay tiểu đệ luyện kiếm không cẩn thận, lúc rút kiếm lại lỡ rạch một đường, thật đáng xấu hổ.
Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt của gã vừa xấu hổ vừa tức giận, đoán rằng có lý do khác, bèn nói:
– Lục sư đệ, sư đệ bị thương ra sao? Chẳng lẽ ngay cả ta, sư đệ cũng muốn nói dối sao?
Lục Đại Hữu đùng đùng nổi giận nói:
– Đại sư ca, tiểu đệ đâu dám nói dối đại sư ca, chỉ vì sợ đại sư ca nổi nóng nên không dám nói thật mà thôi.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ. Sư huynh sư đệ trong bổn môn xưa nay đối với nhau rất hòa nhã, không bao giờ có chuyện đánh lộn hoặc tỉ đấu đến đổ máu. Lẽ nào có địch nhân bên ngoài lên núi?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ai đã làm cho sư đệ bị thương?
Lục Đại Hữu nói:
– Sáng nay, tiểu đệ và Lâm sư đệ luyện kiếm. Hắn mới vừa học xong chiêu Hữu phụng lai nghi, tiểu đệ sơ ý bị hắn vạch kiếm lên mặt làm bị thương.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bọn sư huynh sư đệ tập dượt kiếm pháp với nhau, gặp lúc lỡ tay làm bị thương là chuyện bình thường, không nên để bụng làm gì. Lâm sư đệ mới học kiếm pháp nên thu phát chiêu chưa theo ý muốn, trách hắn làm sao được, chắc tại Lục sư đệ vô ý mà thôi. Uy lực của chiêu Hữu phụng lai nghi không nhỏ, phải cẩn thận ứng phó mới được.
Lục Đại Hữu nói:
– Đúng vậy, nhưng tiểu đệ làm sao ngờ được… Gã họ Lâm nhập môn mới được vài tháng mà đã luyện được chiêu Hữu phụng lai nghi; còn tiểu đệ bái sư đã trên năm năm rồi, sư phụ mới bảo đại sư ca truyền cho tiểu đệ một chiêu.
Lệnh Hồ Xung hơi sững sờ, lòng nghĩ Lâm sư đệ mới nhập môn mấy tháng mà đã được học xong chiêu Hữu phụng lai nghi thì quả là hắn tiến bộ quá nhanh. Nếu không phải trời phú cho hắn thông minh tài trí hơn người, hắn chưa học xong căn bản đã cầu sự thành đạt nhanh như vậy thì ngày sau sẽ rất tai hại cho việc luyện công. Không biết tại sao sư phụ lại truyền cho hắn nhanh như vậy?
Lục Đại Hữu lại nói:
– Tiểu đệ thấy chiêu này thì giật mình kinh hãi liền bị hắn đả thương. Đã vậy tiểu sư muội còn đứng bên cạnh vỗ tay reo lên: “Lục hầu nhi, ngay cả đồ đệ của tiểu muội mà Lục sư ca cũng đánh không lại, sau này còn dám ra oai trước mặt tiểu muội nữa không?” Gã tiểu tử họ Lâm đó tự biết mình có lỗi nên chạy đến định buộc vết thương cho tiểu đệ liền bị tiểu đệ đá cho lộn nhào. Tiểu sư muội giận nói: “Lục hầu nhi, người ta có lòng tốt muốn băng bó vết thương cho Lục sư ca, sao Lục sư ca lại đánh người ta? Phải chăng Lục sư ca thẹn quá mà hóa giận?” Đại sư ca, thì ra tiểu sư muội lén lút truyền cho hắn chiêu Hữu phụng lai nghi này.
Lệnh Hồ Xung nghe đến đây, lòng đau như cắt. Chiêu Hữu phụng lai nghi này rất khó luyện vì nó biến hóa rất phức tạp, lại tiềm tàng nhiều bí quyết. Tiểu sư muội đã dạy Lâm sư đệ chiêu kiếm pháp này nhất định cô rất hao tâm tổn sức, mất nhiều công phu. Hóa ra những ngày cô ta không lên núi là những ngày ở gần Lâm sư đệ.
Bản tính Nhạc Linh San hiếu động, không bao giờ chịu nhẫn nại làm những chuyện tỉ mỉ. Cô ta lại cương cường hiếu thắng, tự luyện kiếm cho mình thì được còn muốn dạy cho ai thì người đó khó mà mong được cô ta hết lòng chỉ điểm. Vậy mà bây giờ, cô lại đem chiêu Hữu phụng lai nghi biến hóa phức tạp truyền cho Lâm Bình Chi đủ biết cô ta yêu mến gã sư đệ này biết chừng nào. Trải qua một lúc lâu, Lệnh Hồ Xung mới bình tĩnh lại, thản nhiên hỏi:
– Sư đệ sao lại đi luyện kiếm với Lâm sư đệ?
Lục Đại Hữu đáp:
– Ngày hôm qua, tiểu đệ và đại sư ca nói với nhau mấy câu đó, tiểu sư muội có vẻ không vui, dọc đường xuống núi cô ta cứ cằn nhằn tiểu đệ, sáng sớm hôm nay lại kéo tiểu đệ đi cùng với Lâm sư đệ chiết chiêu. Tiểu đệ không chút cảnh giác, cứ nghĩ chiết chiêu là chuyện bình thường. Nào ngờ tiểu sư muội ngấm ngầm dạy cho tên tiểu tử họ Lâm mấy tuyệt chiêu; tiểu đệ ra tay sơ ý bị trúng đòn hại ngầm của hắn.
Lệnh Hồ Xung càng nghe càng hiểu rõ mọi chuyện. Nhất định là trong những ngày này, Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi rất thân thiết với nhau mà Lục Đại Hữu lại rất yêu mến mình nên gã thấy chướng mắt; không kìm được giận đã thốt ra những lời châm chọc, thậm chí còn sinh sự nhục mạ Lâm Bình Chi. Chàng bèn hỏi:
– Sư đệ thóa mạ Lâm sư đệ mấy lần rồi phải không?
Lục Đại Hữu hằn học đáp:
– Tiểu đệ không chửi cái thứ mặt trắng đê tiện vô liêm sỉ đó thì còn chửi ai? Hắn thấy tiểu đệ thì sợ lắm; tiểu đệ chửi hắn, hắn không bao giờ dám mở miệng cãi lại, vừa thấy tiểu đệ liền lủi đi chỗ khác. Không ngờ tên tiểu tử này lại thâm hiểm như vậy. Hừ, hắn thì có được mấy hơi, nếu không có tiểu sư muội đứng sau lưng làm hậu thuẫn thì tên tiểu tử này làm sao đả thương tiểu đệ nổi?
Lệnh Hồ Xung lúc này đau khổ, tức giận đến cùng cực. Chàng nhớ lại chiêu côn chuyên đả phá tuyệt chiêu Hữu phụng lai nghi khắc trên vách đá trong hậu động, liền lượm một cành cây dưới đất, tiện tay đưa ra một tư thế ra hiệu, định truyền lại chiêu này cho Lục Đại Hữu. Nhưng chàng lại chuyển ý, nghĩ bụng: Lục sư đệ đang căm hận tên tiểu tử họ Lâm. Nếu lục sư đệ ra chiêu nhất định sẽ làm gã họ Lâm bị trọng thương; sư phụ và sư nương sẽ truy xét ra thì cả mình và Lục sư đệ nhất định sẽ bị trừng phạt nặng. Chuyện này vạn lần không thể làm được.
Lệnh Hồ Xung liền nói:
– Một lần thất bại, một lần khôn ra, về sau đừng mắc bẫy hắn nữa là yên thân. Mình là sư huynh sư đệ với nhau, lúc cùng nhau chiết chiêu, những chuyện thắng bại nho nhỏ đừng để bụng làm gì.
Lục Đại Hữu nói:
– Đúng. Nhưng đại sư ca ơi, tiểu đệ có thể không để bụng, còn đại sư ca… đại sư ca lại có thể làm ngơ được sao?
Lệnh Hồ Xung biết gã nói đến chuyện Nhạc Linh San, lại cảm thấy trong lòng quặn đau dữ dội, da mặt co rúm lại.
Lục Đại Hữu vừa nói ra liền biết câu nói của mình đã khiến cho đại sư ca đau lòng. Gã cuống quýt:
– Tiểu đệ… tiểu đệ đã nói sai rồi.
Lệnh Hồ Xung cầm tay gã ôn tồn nói:
– Lục sư đệ đâu có nói sai. Sao ta có thể làm ngơ được? Nhưng… nhưng…
Chàng ngừng một lát rồi nói tiếp:
– Lục sư đệ! Từ nay về sau, chúng ta đừng đề cập đến chuyện này nữa.
Lục Đại Hữu nói:
– Dạ! Đại sư ca, đại sư ca đã từng dạy cho tiểu đệ chiêu Hữu phụng lai nghi này rồi, nhưng lúc đó tiểu đệ không chú ý lắm nên mới bị mắc bẫy của tiểu tử họ Lâm. Tiểu đệ nhất định dụng hết tâm sức luyện cho thật giỏi, thật tinh thông để tiểu tử này biết đại sư ca dạy giỏi hay tiểu sư muội dạy giỏi.
Lệnh Hồ Xung cười đau đớn, nói:
– Ha ha, chiêu Hữu phụng lai nghi đó thực ra chẳng là cái cóc gì cả.
Lục Đại Hữu thấy tinh thần của Lệnh Hồ Xung suy sụp thì cho rằng tại tiểu sư muội lãnh đạm nên đại sư ca đâm ra buồn chán. Gã không dám nói thêm gì nữa, bày cơm rượu chờ Lệnh Hồ Xung ăn xong rồi thu dọn cáo từ xuống núi.
Lệnh Hồ Xung nhắm mắt dưỡng thần một lúc, rồi đốt một cành thông, đến hậu động xem tiếp những chiêu kiếm trên vách đá. Lúc đầu, chàng chỉ nghĩ đến chuyện Nhạc Linh San truyền thụ kiếm thuật cho Lâm Bình Chi nên không thể chú tâm đến các đồ hình trên vách đá được, những nét khắc sơ sài vạch thành hình người trên vách tựa hồ từng hình đều hóa thành Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi. Một người đang dạy, một người đang học, vẻ mặt họ rất tình tứ. Trước mắt Lệnh Hồ Xung cứ thấp thoáng tướng mạo tuấn tú của Lâm Bình Chi, bất giác chàng thở dài, nghĩ bụng: Tướng mạo Lâm sư đệ vốn tuấn tú hơn ta gấp mười lần, tuổi lại nhỏ hơn ta khá nhiều và chỉ lớn hơn tiểu sư muội một hai tuổi, hèn gì hai người dễ thân nhau đến như vậy.
Đột nhiên, Lệnh Hồ Xung bỗng chăm chú nhìn người sử kiếm trong đồ hình trên vách xuất ra một chiêu kiếm. Người sử kiếm từ tư thế vận kình lực, đường chiêu kiếm đi, lại giống hệt chiêu Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm của Nhạc phu nhân. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, nghĩ bụng: Chiêu kiếm này là do sư nương ta sáng chế, sao trên vách đá lại sớm có người khắc ra? Chuyện này quả thật cổ quái.
Lệnh Hồ Xung quan sát tỉ mỉ đồ hình, mới phát hiện những chiêu trên vách đá có chỗ khác biệt những chiêu kiếm của Nhạc phu nhân sáng chế ra. Chiêu kiếm trên vách đá nội lực hùng hậu mà giản dị, không khoe khoang, hiển nhiên là do đàn ông xuất chiêu, đúng là những chiêu kiếm không giống như chiêu thức của Nhạc phu nhân vì còn ngấm ngầm ẩn tàng vô số những biến hóa về sau. Bởi vì nó đơn giản nên càng lợi hại. Lệnh Hồ Xung gật đầu lẩm bẩm: Chiêu kiếm do sư nương ta sáng chế cũng trùng với kiếm ý của tiền nhân. Điều này cũng không có gì lạ vì cả hai cũng lấy kiếm pháp Hoa Sơn làm căn bản mà biến hóa ra, công lực và trí tuệ của hai người này chẳng kém nhau bao nhiêu, tất nhiên trong cách sáng chế chiêu thức phải khác nhau chút ít.
Chàng lại nghĩ tiếp: Nếu nói như vậy thì những chiêu kiếm trên vách đá có rất nhiều điểm mà ngay cả sư phụ và sư nương đều không biết. Chẳng lẽ sư phụ lại chưa học hết những kiếm pháp cao thâm của bổn môn?
Chàng thấy cây côn trong tay đối thủ điểm thẳng tới, đầu côn điểm chuẩn xác vào mũi kiếm, cả kiếm và côn hợp thành một đường thẳng.
Lệnh Hồ Xung vừa thấy đường thẳng này không kìm chế được, phải la hoảng lên:
– Không xong rồi!
Cây đuốc trong tay rơi xuống đất, trong động tối thui. Chàng hoảng sợ vô cùng, tự hỏi: Phải làm sao đây? Phải làm sao đây?
Lệnh Hồ Xung nhìn rất rõ từng côn từng kiếm chạm nhau; côn cứng mà kiếm thì mềm, đôi bên lại vận toàn lực thì trường kiếm chắc sẽ gãy đôi. Kình lực của đôi bên đều liên miên bất tuyệt; cây côn thừa thế đâm thẳng tới, còn hậu kình trên kiếm sẽ đánh phản lại chính mình mà không có cách nào phá giải được.
Trong đầu Lệnh Hồ Xung lại lóe lên một ý nghĩ: Có thật là không có cách nào phá giải được sao? Cũng chưa chắc đâu. Lưỡi kiếm bị gãy, còn cây côn của đối phương phóng nhanh đến thì chỉ còn cách liệng cây kiếm gãy đi mà quỳ phục xuống, nếu không thì nằm xoài về phía trước mới có thể tránh được thế đánh của côn. Nhưng sư phụ và sư nương đều là những kiếm thuật danh gia, có địa vị lẫy lừng liệu có thể chịu làm tư thế đó không? Tất nhiên họ thà chết chứ không chịu nhục, ôi, thất bại thê thảm! Thất bại thê thảm rồi!
Một lúc lâu sau, Lệnh Hồ Xung lấy đao và đá đánh lửa đốt đuốc lên, lại tiếp tục quan sát vách đá, chỉ thấy kiếm càng xuất càng kỳ diệu, càng lúc càng tinh thâm, mấy chục chiêu sau biến ảo khôn cùng, kỳ bí vô phương. Nhưng bất luận chiêu kiếm lợi hại ra sao, cây côn của đối phương vẫn có cách chế ngự. Đồ hình kiếm pháp của phái Hoa Sơn ở khắp nơi đều khắc hình người sử kiếm liệng trường kiếm đi mà quỳ gối phủ phục trước mặt người sử côn. Bao nhiêu căm phẫn trong lòng Lệnh Hồ Xung đều tan biến, chỉ còn lại một nỗi buồn man mác. Tuy hắn cảm thấy đồ hình người sử côn đầy sự kiêu ngạo khinh bạc, nhưng kiếm pháp của phái Hoa Sơn bị tận phá sạch sành sanh không còn cách gì để tranh hùng nữa là sự thực một trăm phần trăm không còn nghi ngờ nữa.
Tối hôm đó, Lệnh Hồ Xung đi quanh quẩn tới lui không biết bao nhiêu lần. Trong đời mình, chưa bao giờ chàng bị hụt hẫng trầm trọng như vậy. Chàng nghĩ thầm: Phái Hoa Sơn ta được liệt vào Ngũ Nhạc kiếm phái, là một danh môn chánh phái tiếng tăm lẫy lừng từ lâu trong võ lâm mà sao võ công lại tệ hại như vậy? Trên vách đá, ít nhất có đến hơn một trăm chiêu kiếm ngay cả sư phụ và sư nương cũng chưa biết đến, nhưng giả sử có luyện kiếm pháp của bổn môn cao thâm đến đâu thì bản thân sư phụ cũng thua kém xa, như vậy thì còn dùng làm được gì nữa? Chỉ cần đối phương biết cách phá giải thì ngay cả đệ nhất cao thủ của bổn môn cũng phải liệng kiếm đầu hàng; nếu không chịu thua thì chỉ còn tự sát mà thôi.
Lệnh Hồ Xung đi lại loanh quanh càng thấy lo lắng khổ não. Cây đuốc đã tắt rụi. Không biết trải qua bao lâu, chàng lại đốt cây đuốc khác, nhìn hình người quỳ gối đầu hàng, càng nghĩ càng tức giận, vung trường kiếm lên đâm thẳng vào vách đá, nhưng khi mũi kiếm vừa đụng đến vách đá, chàng bỗng nghĩ: Bậc đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc, thua thì chịu thua, thắng thì bảo thắng. Phái Hoa Sơn ta đã không bằng người thì còn gì để nói nữa? Chàng bèn liệng trường kiếm, thở dài.
Chàng lại đi xem những đồ hình khác trên vách đá, thấy kiếm pháp của bốn phái Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn cũng hoàn toàn bị đối thủ phá sạch, không thể cứu vãn nổi, sau cùng cũng quỳ xuống đầu hàng.
Lệnh Hồ Xung ở sư môn đã lâu ngày nên hiểu biết rất rộng, chiêu kiếm của các phái tuy chàng không hiểu rõ chỗ tinh thâm nhưng những điều cốt yếu đều đã được nghe qua. Vách tường bên phải khắc những chiêu kiếm của bổn phái không có chiêu nào là không cao minh lợi hại nhưng mỗi chiêu rốt cuộc cũng bị đối phương phá sạch.
Ngoài sự kinh hãi, lòng Lệnh Hồ Xung còn tràn ngập mối nghi ngờ: Lai lịch của Phạm Tùng, Triệu Hạt, Trương Thừa Phong, Trương Thừa Vân thế nào? Sao họ lại nghĩ ra được mà khắc lên vách đá những cách phá giải các loại kiếm pháp của Ngũ Nhạc kiếm phái, mà mình lại chưa từng nghe người trong võ lâm nói tới họ? Sao Ngũ Nhạc kiếm phái ta lại giữ được oai danh cho đến ngày nay?
Lệnh Hồ Xung nhận thấy Ngũ Nhạc kiếm phái ngày nay vẫn còn oai danh lừng lẫy, thực không có chút gì là giả dối để lừa thiên hạ. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái mấy nghìn người từ sư trưởng đến đệ tử sở dĩ có thể đứng vững được trong võ lâm hoàn toàn là nhờ các đồ hình trên vách đá chưa bị bại lộ ra ngoài. Chàng lại nghĩ: Sao ta không giơ búa lên chém vào các đồ hình trên vách đá để xóa hết đi, không để lại một vết tích gì trên thế gian này? Như vậy sẽ làm cho oai danh của Ngũ Nhạc kiếm phái được bảo toàn, cứ coi như trước nay ta chưa phát hiện ra hậu động này là được.
Lệnh Hồ Xung quay người nhặt cây búa to lên, xoay lại đứng trước vách đá. Nhưng khi xem đến những chiêu số kỳ diệu trên vách thì lại không nỡ phá đi. Chàng trầm ngâm một hồi rồi lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ Xung đâu phải là kẻ có thể làm những hành vi đê tiện vô liêm sỉ này.
Bỗng nhiên chàng lại nghĩ đến vị tiên sinh mặc áo bào xanh bịt mặt: Kiếm thuật của người đó cao thâm như vậy, chắc có liên quan đến các đồ hình trong động này. Người này là ai? Người này là ai?
Lệnh Hồ Xung trở về động suy nghĩ cả nửa ngày, lại đến hậu động quan sát các đồ hình trên vách đá; hết đi ra rồi lại đi vào không biết bao nhiêu lần. Trời đã xế chiều, bỗng nghe tiếng bước chân vọng lại, Nhạc Linh San xách thùng cơm đi lên. Lệnh Hồ Xung vui mừng, vội chạy đến sườn núi đón rồi gọi:
– Tiểu sư muội!
Giọng chàng run run vì quá xúc động.
Nhạc Linh San không đáp. Cô lên tới đỉnh núi, đặt mạnh thùng cơm lên tảng đá to, không thèm liếc nhìn Lệnh Hồ Xung một cái liền quay người bỏ xuống núi.
Lệnh Hồ Xung vội gọi:
– Tiểu sư muội, tiểu sư muội làm sao vậy?
Nhạc Linh San hừ một tiếng, chân phải bước nhanh xuống núi. Mặc cho Lệnh Hồ Xung gọi hoài, cô vẫn không đáp một tiếng, cũng không thèm quay đầu lại liếc nhìn. Lệnh Hồ Xung hoang mang không biết phải làm sao; mở thùng cơm ra thấy có đủ cơm trắng, hai đĩa rau và một hồ rượu nhỏ. Chàng ngơ ngẩn nhìn thùng cơm hồi lâu rồi bất giác đờ người ra.
Mấy lần Lệnh Hồ Xung muốn ăn cơm nhưng chỉ ăn được một miếng thì cảm thấy miệng khô lưỡi đắng, không sao nuốt nổi nên không ăn nữa. Chàng tự hỏi: Nếu tiểu sư muội giận ta, sao lại đích thân đem cơm lên cho ta? Còn nếu y không giận ta, sao một tiếng cũng không nói, mắt cũng không thèm liếc nhìn ta một chút? Chẳng lẽ Lục sư đệ bị bệnh nên y phải đem cơm lên? Nhưng nếu Lục sư đệ không đem cơm lên thì bọn ngũ sư đệ, thất sư đệ, bát sư đệ… đều có thể đem cơm lên được, tại sao tiểu sư muội lại muốn tự mình đem cơm?
Những suy nghĩ của Lệnh Hồ Xung như thủy triều lên xuống từng đợt nối tiếp. Mải suy đoán những tâm tình của Nhạc Linh San, chàng dẹp hết những suy nghĩ về võ công trên vách đá ở hậu động.
Chiều hôm sau, Nhạc Linh San lại đem cơm lên. Cô ta vẫn không thèm liếc chàng một cái, một câu cũng không nói, lúc xuống núi cô ta còn hát vang bài sơn ca Phúc Kiến. Lòng Lệnh Hồ Xung đau như dao cắt, thầm nghĩ: Thì ra cô ta cố ý chọc tức mình.
Chiều ngày thứ ba, Nhạc Linh San lại đem thùng cơm đặt mạnh lên trên tảng đá rồi quay người bỏ đi. Lệnh Hồ Xung không nhịn được nữa bèn gọi:
– Tiểu sư muội, xin dừng bước, ta có chuyện muốn nói với sư muội.
Nhạc Linh San quay người lại nói:
– Có chuyện gì, cứ nói ra đi!
Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt cô ta lạnh lùng như bao phủ một lớp sương dày đặc, không một chút tươi cười, chàng lẩm bẩm nói:
– Tiểu sư muội… sư muội… sư muội…
Nhạc Linh San nói:
– Tiểu sư muội làm sao?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta… ta…
Bình thường chàng rất tự nhiên, miệng lưỡi lanh lợi nhưng lúc này lại nói không nên lời.
Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca không nói được, tiểu muội đi đây.
Cô nói xong liền quay người bỏ đi.
Lệnh Hồ Xung sốt ruột, nghĩ rằng cô xuống núi thì đến chiều mai mới lên lại, hôm nay không hỏi cho rõ ràng thì đêm nay lại đau khổ dằn vặt, làm sao ta có thể chịu đựng nổi? Huống chi nhìn vẻ mặt cô như vậy, không chừng chiều mai cô ta sẽ không lên nữa, thậm chí có thể một tháng cũng không lên. Tình hình cấp bách, hắn bèn giơ tay kéo tay áo của cô lại. Nhạc Linh San giận nói:
– Buông tay ra!
Cô giật mạnh tay. Roạt một tiếng, tay áo bị rách trễ xuống, để lộ ra nửa cánh tay trắng nõn.
Nhạc Linh San vừa thẹn vừa giận, cảm thấy cánh tay lộ ra không biết giấu vào đâu. Cô tuy là người học võ, nhưng còn câu nệ tiểu tiết theo chuẩn mực của người con gái khuê các, bỗng nhiên bị để lộ ra hơn nửa cánh tay, cô lúng ta lúng túng nói:
– Đại sư ca… cả gan…
Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Tiểu sư muội xin… xin lỗi. Ta… ta không cố ý.
Nhạc Linh San lấy tay áo bên phải che cánh tay trái lại rồi lớn tiếng nói:
– Đại sư ca muốn nói cái gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta không hiểu, tại sao tiểu muội đối xử với ta như vậy? Nếu đúng thật ta đắc tội với tiểu sư muội, thì sư muội… sư muội… rút kiếm đâm lên người ta mười bảy mười tám nhát, ta… có chết cũng không oán hận.
Nhạc Linh San cười nhạt nói:
– Đại sư ca là đại sư huynh, chúng tôi làm sao dám đắc tội với đại sư ca, còn nói chi đến chuyện đâm mười bảy mười tám nhát? Chúng tôi là sư đệ sư muội của đại sư ca, đại sư ca không đánh mắng đã là cám ơn trời đất lắm rồi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta suy nghĩ nát nước mà không ra, không biết mình có chỗ nào đắc tội với sư muội?
Nhạc Linh San hậm hực nói:
– Đại sư ca không biết ư? Đại sư ca bảo Lục hầu nhi tâu rỗi trước mặt gia gia và má má, đại sư ca đã rõ lắm rồi mà.
Lệnh Hồ Xung rất lấy làm kỳ, hỏi:
– Ta bảo Lục sư đệ tâu rỗi với sư phụ và sư nương ư? Tâu rỗi… tiểu sư muội sao?
Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca biết rõ gia gia và má má rất yêu thương tiểu muội, có tâu tiểu muội cũng uổng công. Đại sư ca lại quỷ quái bảo y đi tâu… hừ hừ. Đại sư ca còn làm bộ giả vờ, chẳng lẽ đại sư ca thật sự không biết?
Lệnh Hồ Xung chấn động tâm thần, lòng càng cảm thấy đau xót, liền nói:
– Lục sư đệ và Lâm sư đệ tỉ kiếm bị thương, sư phụ và sư nương đều biết, vì vậy mà trách phạt Lâm sư đệ có phải không?
Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Chỉ vì sư phụ và sư nương trách phạt Lâm sư đệ, nên cô ta giận mình như vậy.
Nhạc Linh San nói:
– Sư huynh sư đệ tỉ kiếm với nhau, một người bị thua, một người lại không cố ý đả thương người. Vậy mà gia gia lại thiên vị Lục hầu nhi, trách mắng Tiểu Lâm tử một trận, gia gia còn nói Tiểu Lâm tử công lực chưa đủ, không nên học chiêu Hữu phụng lai nghi và cấm tiểu muội dạy gã luyện kiếm. Hay lắm, đại sư ca thắng rồi! Nhưng… nhưng… tiểu muội… tiểu muội cũng không để ý đến đại sư ca đâu, vĩnh viễn không nhìn mặt sư ca nữa.
Bảy chữ “vĩnh viễn không nhìn mặt sư ca” bình thường cô ta vẫn hay nói với Lệnh Hồ Xung lúc vui đùa nhõng nhẽo, nhưng trước đây cô nói thì cặp mắt đưa đẩy, miệng cười chúm chím, nào có ý “không nhìn đại sư ca” đâu? Nhưng lần này vẻ mặt cô nghiêm khắc, trong lời nói đầy quyết tâm đoạn tuyệt thật rồi.
Lệnh Hồ Xung tiến đến một bước, nói:
– Tiểu sư muội, ta…
Lệnh Hồ Xung muốn nói: Ta thật không có bảo Lục sư đệ đi thưa gửi sư phụ và sư nương đâu. Nhưng chàng nghĩ lại: Ta không thẹn với lòng, chuyện này mình không làm thì việc cóc gì mà cầu xin lòng thương hại của sư muội.
Lệnh Hồ Xung nói một chữ “ta” thì không nói nữa.
– Đại sư ca làm sao?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Ta không sao! Ta chỉ nghĩ: Sư phụ và sư nương cấm tiểu sư muội dạy Lâm sư đệ luyện kiếm cũng không phải là chuyện gì lớn lao, mà sao tiểu sư muội giận ta đến như vậy?
Nhạc Linh San ửng hồng hai má, nói:
– Tiểu muội giận đại sư ca thì tiểu muội cứ giận đại sư ca! Chủ ý của đại sư ca là phá hoại chuyện này, cho rằng tiểu muội không dạy Lâm sư đệ luyện kiếm thì mỗi ngày có thể lên đây bầu bạn với đại sư ca chứ gì? Hừ, tiểu muội vĩnh viễn không nhìn mặt đại sư ca nữa.
Cô nói xong, chân phải dậm mạnh rồi đi thẳng xuống núi.
Lần này Lệnh Hồ Xung không dám đưa tay kéo cô lại nữa. Chàng đau khổ vô cùng, tai lại nghe dưới núi vang lên âm thanh véo von trong trẻo của cô hát khúc sơn ca Phúc Kiến. Lệnh Hồ Xung đi đến bên sườn núi và nhìn xuống thấy cái bóng thướt tha của cô đang chuyển qua thung lũng, thấp thoáng thấy cánh tay trái lồng vào ống tay phải, bất giác lo sợ: Ta đã kéo rách tay áo của sư muội, nếu sư muội nói với sư phụ và sư nương thì hai vị lão nhân gia sẽ bảo ta khinh bạc vô lễ với tiểu sư muội. Vậy… vậy… vậy thì làm sao mới được? Nếu chuyện này đồn đãi ra ngoài thì bọn sư đệ sư muội đều coi thường ta hết ráo.
Lệnh Hồ Xung nghĩ lại: Thật tình ta không hề khinh bạc tiểu sư muội. Người ta thích nghĩ thế nào thì mặc kệ họ, ta giữ làm sao được?
Nhưng Lệnh Hồ Xung nghĩ đến chuyện tiểu sư muội chỉ vì không được dạy kiếm cho Lâm Bình Chi mà lại tức giận như vậy thì không cầm được nỗi xót xa.
Lúc đầu, chàng còn yên tâm lý giải: Tiểu sư muội nhỏ tuổi hiếu động, mà ta phải ở trên này sám hối, không ai chuyện trò giải buồn với tiểu sư muội thì tiểu sư muội tìm Lâm sư đệ tuổi tác suýt soát để bầu bạn là đúng. Kỳ thực hắn có tình ý gì đâu?
Nhưng Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Ta và tiểu sư muội sống cùng một nhà với nhau từ thuở nhỏ, tình nghĩa sâu nặng biết dường nào? Lâm sư đệ đến Hoa Sơn chẳng qua chỉ mới vài tháng, mối thân sơ hậu bạc phải khác nhau chứ. Chàng nghĩ đến đây lòng lại đau đớn như bị dao cắt.
Tối hôm đó, Lệnh Hồ Xung từ trong động đi đến bên sườn núi, rồi từ bên sườn núi đi vào trong động, cứ đi ra đi vào, không biết đến bao nhiêu lần. Hôm sau cũng lại như vậy, lòng chàng chỉ nhớ đến Nhạc Linh San, còn đối với đồ hình trên vách đá ở hậu động và chuyện đêm hôm đó bỗng nhiên xuất hiện người mặc thanh bào đều dẹp qua một bên.
Đến chạng vạng tối Lục Đại Hữu đem cơm đến. Gã để cơm và thức ăn trên tảng đá, dọn ra rồi nói:
– Mời đại sư ca dùng cơm.
Lệnh Hồ Xung ừ một tiếng rồi cầm đũa bát và miếng cơm vào miệng mà không sao nuốt được.
Chàng nhìn xuống núi rồi từ từ để bát cơm xuống. Lục Đại Hữu nói:
– Đại sư ca, sắc mặt đại sư ca khó coi lắm, có phải trong người không được khỏe?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Không sao!
Lục Đại Hữu nói:
– Ngày hôm qua tiểu đệ đi hái mớ nấm này về nấu cho đại sư ca ăn. Đại sư ca nếm mùi vị thế nào?
Lệnh Hồ Xung không nói gì, sợ làm phật ý gã, liền gắp hai miếng nấm lên ăn rồi khen:
– Ngon lắm!
Nấm đông cô có mùi vị thơm ngon, nhưng bây giờ chàng nếm thử cảm thấy không có chút ngon lành gì cả.
Lục Đại Hữu cười hi hi nói:
– Đại sư ca, tiểu đệ báo cho đại sư ca một tin rất hay là bắt đầu từ ngày hôm qua trở đi, sư phụ và sư nương cấm không cho Tiểu Lâm tử theo tiểu sư muội học kiếm nữa.
Lệnh Hồ Xung lạnh lùng nói:
– Sư đệ đấu kiếm không lại Lâm sư đệ, thì khóc lóc nói cho sư phụ và sư nương biết phải không?
Lục Đại Hữu nhảy bổ lên nói:
– Ai nói tiểu đệ đấu không lại? Tiểu đệ… vì tiểu đệ…
Hắn nói đến đây thì im bặt không nói nữa.
Lệnh Hồ Xung đã biết rõ rồi, tuy Lâm Bình Chi nhờ chiêu Hữu phụng lai nghi mà xuất kỳ bất ý đả thương được Lục Đại Hữu, nhưng Lục Đại Hữu đã nhập môn lâu ngày, bất luận thế nào Lâm Bình Chi cũng không phải là đối thủ của hắn. Sở dĩ hắn mách với sư phụ và sư nương thực ra cũng chỉ vì mình. Lệnh Hồ Xung bỗng nghĩ: Thì ra các sư đệ và sư muội đều có lòng thương xót ta, đều biết tiểu sư muội từ nay không còn đến với ta nữa. Chỉ vì Lục sư đệ là sư đệ thâm giao với ta mới nghĩ cách giúp ta cứu vãn tình thế. Hừ hừ, bậc đại trượng phu há chịu ai thương xót?
Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung phát giận như điên, cầm bát cơm và đĩa rau liệng xuống vực thẳm rồi la lên:
– Ai cần ngươi nhiều chuyện? Ai cần ngươi nhiều chuyện?
Lục Đại Hữu giật mình sợ hãi. Hắn đối với đại sư ca trước giờ một lòng kính trọng khâm phục, không ngờ lại khích động cho đại sư ca phẫn nộ như vậy. Hắn hoảng loạn, càng hoảng loạn thì càng thụt lùi, miệng chỉ nói được:
– Đại sư ca, đại… sư ca.
Lệnh Hồ Xung ném hết cơm rau xuống vực thẳm mà nỗi tức giận vẫn chưa nguôi. Tiện tay hắn ném tiếp từng cục đá to xuống vực. Lục Đại Hữu nói:
– Đại sư ca, tiểu đệ làm chuyện không đúng. Đại sư ca… đánh đòn đi.
Trong tay Lệnh Hồ Xung đang cầm cục đá to, nghe hắn nói vậy, quay người lại lớn tiếng nói:
– Tiểu đệ có điều gì không đúng?
Lục Đại Hữu sợ quá thụt lùi một bước, ấp úng nói:
– Tiểu đệ… tiểu đệ… tiểu đệ không biết.
Lệnh Hồ Xung thở dài, ném cục đá ra xa, nắm hai tay Lục Đại Hữu rồi dịu dàng nói:
– Lục sư đệ, ta xin lỗi. Ta đang phiền muộn trong lòng chứ không có liên can gì đến sư đệ đâu.
Lục Đại Hữu thở phào rồi nói:
– Tiểu đệ xuống bới cơm khác cho đại sư ca ăn.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Không. Không cần, ta không muốn ăn.
Lục Đại Hữu thấy trên tảng đá thức ăn trong thùng đem lên ngày hôm qua còn y nguyên. Hắn không khỏi lo âu, bèn nói:
– Đại sư ca, ngày hôm qua đại sư ca cũng không ăn cơm ư?
Lệnh Hồ Xung cười gượng đáp:
– Sư đệ bất tất phải bận lòng. Mấy ngày nay ta đắng miệng, không muốn ăn cơm mà thôi.
Lục Đại Hữu không dám nói nhiều. Hôm sau, chưa đến giờ thì Lục Đại Hữu đã mang cơm lên núi, thầm nghĩ: Hôm nay ta đem lên một hũ rượu ngon, lại nấu hai món thức ăn nóng sốt, bất luận thế nào cũng phải khuyên đại sư ca ăn được vài bát.
Hắn lên đến đỉnh núi, thấy Lệnh Hồ Xung đang nằm trên tảng đá trong động, vẻ mặt rất tiều tụy.
Hắn hơi kinh hãi, bèn gọi:
– Đại sư ca, đại sư ca coi thử đây là cái gì?
Hắn lắc hồ rượu rồi mở nắp hồ rượu ra, khắp hang động đều thơm lừng mùi rượu.
Hắn nói xong, bới một bát cơm đầy đưa cho Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung thấy hắn lo cho mình như vậy, đành nói:
– Được rồi, để ta uống hết rượu rồi hãy ăn cơm.
Nhưng Lệnh Hồ Xung lại không ăn bát cơm này. Ngày hôm sau lúc Lục Đại Hữu đem cơm đến, thấy bát cơm vẫn nguyên vẹn trên tảng đá, Lệnh Hồ Xung lại nằm dưới đất ngủ. Lục Đại Hữu thấy hai má Lệnh Hồ Xung đỏ bừng, bèn đưa tay lên trán hắn, thấy trán nóng hổi, rõ ràng là hắn đang sốt cao. Gã không khỏi lo sợ, hỏi khẽ:
– Đại sư ca, đại sư ca bị bệnh phải không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Rượu, rượu, đưa rượu cho ta!
Tuy Lục Đại Hữu có mang rượu đến nhưng gã không dám đưa cho đại sư ca; gã chỉ rót một bát nước lạnh đưa tới bên miệng. Lệnh Hồ Xung ngồi dậy, bưng bát nước uống cạn rồi nói:
– Rượu ngon, rượu ngon quá!
Chàng ngã người ngẩng mặt lên trời miệng vẫn lẩm bẩm:
– Rượu ngon, rượu ngon quá!
Lục Đại Hữu biết bệnh tình của Lệnh Hồ Xung khá nặng, rất lo âu. Gã ch ợt nhớ sư phụ và sư nương sáng sớm hôm sau có việc phải xuống núi, liền chạy xuống núi đi báo cho Lao Đức Nặc và các sư huynh sư đệ biết. Tuy Nhạc Bất Quần có nghiêm huấn ngoài mỗi ngày một lần đem cơm ra không ai được phép lên núi gặp Lệnh Hồ Xung, nên khi biết Lệnh Hồ Xung bị bệnh, bọn họ muốn lên thăm hắn lại sợ phạm môn quy. Vì vậy cả bọn vẫn không dám cùng nhau lên núi mà bàn bạc chia nhau mỗi ngày lên núi thăm bệnh. Trước tiên là Lao Đức Nặc và Lương Phát.
Lục Đại Hữu lại đi báo cho Nhạc Linh San biết Lệnh Hồ Xung bệnh nặng. Cô ta vẫn chưa nguôi giận, lạnh lùng nói:
– Nội công của đại sư ca thâm hậu, sao lại bị bệnh được? Tiểu muội không lên đó nữa đâu.
Bệnh tình của Lệnh Hồ Xung rất trầm trọng, liên tiếp bốn ngày bốn đêm hắn hôn mê bất tỉnh. Lục Đại Hữu nài nỉ cầu xin Nhạc Linh San lên núi thăm Lệnh Hồ Xung, suýt chút nữa thì hắn đã quỳ trước mặt cô ta, Nhạc Linh San mới tin Lệnh Hồ Xung bệnh thật, cũng sốt ruột vội cùng với Lục Đại Hữu lên núi. Chỉ thấy hai má của Lệnh Hồ Xung hóp lại, râu mọc xồm xoàm đầy cả mặt, điệu bộ ung dung lúc bình thường dường như không còn nữa. Nhạc Linh San vô cùng áy náy, cô đến bên Lệnh Hồ Xung nhỏ nhẹ nói:
– Đại sư ca, tiểu muội đến thăm đại sư ca đây, đại sư ca đừng giận tiểu muội nữa được không?
Vẻ mặt Lệnh Hồ Xung ngẩn ngơ, mở to mắt nhìn cô ta không chớp, ánh mắt lộ vẻ mơ màng tựa hồ như không hề quen biết cô. Nhạc Linh San nói:
– Đại sư ca, tiểu muội đây mà, sao đại sư ca không nhìn ra tiểu muội?
Ánh mắt Lệnh Hồ Xung vẫn đờ đẫn, một lúc sau hắn mới nhắm mắt lại ngủ vùi, cho đến lúc Lục Đại Hữu và Nhạc Linh San xuống núi hắn vẫn chưa tỉnh lại.
Lệnh Hồ Xung bệnh hơn một tháng mới thuyên giảm dần. Trong hơn một tháng này, Nhạc Linh San đến thăm ba lần. Lần thứ hai thần trí Lệnh Hồ Xung đã bình phục, thấy cô chàng rất vui mừng. Lần thứ ba lúc cô ta đến thăm, Lệnh Hồ Xung đã ngồi dậy được, ăn chút thức ăn mà cô đem đến.
Nhưng từ lần đó trở đi, cô ta không hề lên núi nữa. Sau khi Lệnh Hồ Xung tự mình có thể đứng dậy, ngày nào chàng cũng đứng hơn cả buổi bên sườn núi trông ngóng hình bóng của tiểu sư muội, nhưng mỗi lần chỉ thấy nếu không phải là vực thẳm tịch mịch thì là hình dáng Lục Đại Hữu đang leo lên núi.
Một hôm vào lúc chiều tối, Lệnh Hồ Xung vẫn cứ nhìn đăm đăm xuống núi, thấy có hai dáng người đang đi lên với khinh công thần tốc dị thường. Người đi trước áo quần tha thướt, đúng là một phụ nữ. Lệnh Hồ Xung thấy khinh công của hai người này thật cao siêu, họ đi trên vách núi dốc hiểm trở mà chẳng khác gì đi dưới đất bằng, nhìn kỹ lại thì ra là sư phụ và sư nương. Chàng vui mừng khôn xiết, lớn tiếng gọi:
– Sư phụ, sư nương!
Trong khoảnh khắc Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân đi song song lên đỉnh núi, trong tay Nhạc phu nhân xách một thùng cơm. Theo luật lệ của phái Hoa Sơn mấy đời truyền lại, khi đệ tử bị phạt lên đỉnh núi quay mặt vào tường sám hối, ngoài việc đem cơm lên thì sư huynh sư đệ đồng môn không được lên núi trò chuyện; ngay cả đệ tử của người bị phạt cũng không được lên yết kiến sư phụ. Nào ngờ Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân lại thân hành lên thăm hắn, Lệnh Hồ Xung khôn xiết vui mừng, chạy đến bái phục xuống rồi ôm hai chân Nhạc Bất Quần kêu lên:
– Sư phụ sư nương, đệ tử nhớ vô cùng.
Nhạc Bất Quần hơi chau mày. Lão biết tên đệ tử này rất giàu tình cảm, khó tự kìm chế được mình mà đây là điều đại kỵ trong việc tu luyện khí công thượng thừa của phái Hoa Sơn. Trước khi lên núi, hai vợ chồng Nhạc Bất Quần đã hỏi nguyên nhân bệnh tình của Lệnh Hồ Xung, bọn đệ tử tuy chưa nói rõ nhưng qua cách ấp a ấp úng của chúng, họ đoán ra được hắn bệnh là do Nhạc Linh San mà ra. Khi họ kêu con gái đến để hỏi cho rõ đầu đuôi ngọn ngành, thấy cô cũng ấp a ấp úng thì càng biết rõ hơn. Bây giờ thấy Lệnh Hồ Xung biểu lộ chân tình, lão biết ngay hắn ở trên này ăn năn sám hối đã nửa năm trời mà không tiến bộ được chút nào cả. Lão không được vui, hừ một tiếng.
Nhạc phu nhân đưa tay đỡ Lệnh Hồ Xung dậy, thấy vẻ mặt của hắn tiều tụy, nét vui tươi nhanh nhẹn ngày trước không còn nữa; bà không kìm được lòng thương xót, dịu dàng nói:
– Xung nhi, sư phụ ngươi và ta mới từ Quan Ngoại về, nghe tin ngươi bị bệnh nặng. Bây giờ đã đỡ nhiều chưa?
Mặt Lệnh Hồ Xung nóng lên, nước mắt muốn chực trào ra. Chàng nói:
– Đệ tử đã khỏe rồi. Sư phụ sư nương, hai vị lão nhân gia đi đường vất vả, hôm nay mới vừa về thì đã đến… đến thăm đệ tử.
Lệnh Hồ Xung nói đến đây thì xúc động nghẹn ngào, liền quay đầu đi, lau nước mắt.
Nhạc phu nhân lấy trong thùng cơm ra một bát sâm thang rồi nói:
– Đây là sâm thang nấu từ loại dã sơn nhân sâm ở Quan Ngoại, rất bổ cho sức khỏe. Ngươi mau uống đi.
Lệnh Hồ Xung nghĩ sư phụ sư nương vừa vượt vạn dặm từ Quan Ngoại về, trước tiên đã đem nhân sâm đến cho mình nên lòng cảm kích vô cùng. Tay run run, chàng bưng lấy bát sâm khiến bát sâm bị đổ ra chút ít. Nhạc phu nhân đưa tay đỡ bát sâm cho chàng uống. Lệnh Hồ Xung vội há to miệng uống hết bát sâm, rồi nói:
– Đa tạ sư phụ sư nương!
Nhạc Bất Quần đưa ngón tay ra chẩn mạch cho Lệnh Hồ Xung, thấy mạch đập quá nhanh. Lão suy đoán biết so với trước đây, nội công của hắn đã sa sút nhiều, lại càng không vui, lạnh nhạt nói:
– Bệnh thì khỏi rồi!
Một lúc sau lão lại nói tiếp:
– Xung nhi, mấy tháng nay ngươi ở đây sám hối, đã làm được những gì? Tại sao nội công ngươi không tiến bộ mà còn sa sút?
Lệnh Hồ Xung cúi đầu nói:
– Dạ, xin sư phụ sư nương tha tội.
Nhạc phu nhân mỉm cười nói:
– Xung nhi bị bệnh nặng, bây giờ chưa khỏi hẳn, nội công tất nhiên là không bằng ngày trước. Chẳng lẽ sư huynh muốn hắn càng bệnh thì nội công càng cao cường thêm ư?
Nhạc Bất Quần lắc đầu nói:
– Ta nắm tay hắn không phải để biết thân thể mạnh hay yếu mà để kiểm tra sự tu luyện nội công của hắn; mà nội công thì không liên quan đến chuyện bệnh hay không bệnh. Nội công của bổn môn không giống với phái khác, hễ chuyên cần luyện tập thì ngay cả lúc bị bệnh cũng có thể không ngừng tăng tiến. Huống hồ Xung nhi luyện khí công của bổn môn đã hơn chục năm rồi, nếu không bị thương thì không thể sinh bệnh. Tóm lại… tóm lại là vì hắn không kìm được thất tình lục dục mà thôi.
Nhạc phu nhân biết chồng nói đúng, nhìn Lệnh Hồ Xung nói:
– Xung nhi, sư phụ ngươi trước nay vẫn thường răn dạy, muốn ngươi dụng công luyện khí luyện kiếm, phạt ngươi phải ở một mình trên đây sám hối, thực ra cũng không phải là trách phạt thật mà chỉ mong ngươi không bị những chuyện bên ngoài làm phiền nhiễu. Trong một năm nay đáng lẽ khí công và kiếm thuật của ngươi phải tiến bộ vượt bực mới phải. Không ngờ… không ngờ… ôi…
Lệnh Hồ Xung vô cùng hoảng sợ, đáp nhỏ:
– Đệ tử biết tội rồi, từ hôm nay trở đi sẽ cố gắng dụng công thật tốt.
Nhạc Bất Quần nói:
– Trong võ lâm xảy ra nhiều chuyện. Ta và sư nương của ngươi những năm tháng gần đây bôn ba khắp nơi, trước mắt đã thấy những mầm mống hiểm họa khó giải trừ được, rồi đây tất có đại nạn nên trong lòng thực sự bất an.
Lão ngừng một lúc rồi nói tiếp:
– Ngươi là đại đệ tử của bổn môn; ta và sư nương ngươi đặt kỳ vọng vào ngươi, mong ngày sau ngươi có thể vì chúng ta mà chia sẻ trách nhiệm nặng nề để làm rạng rỡ danh tiếng phái Hoa Sơn. Nhưng ngươi đã vướng bận vào chuyện tư tình nhi nữ, không cầu tiến, hoang phế võ công, khiến cho hai chúng ta thất vọng vô cùng.
Lệnh Hồ Xung thấy nét mặt sư phụ đầy vẻ bực bội, vừa hổ thẹn vừa lo sợ liền bái phục xuống đất, nói:
– Đệ tử, đệ tử đáng chết, đã phụ lòng kỳ vọng của sư phụ sư nương.
Nhạc Bất Quần đưa tay đỡ hắn dậy, mỉm cười nói:
– Ngươi đã biết lỗi thì được rồi. Nửa tháng sau, ta sẽ đến khảo nghiệm kiếm pháp của ngươi.
Lão nói xong liền quay người xuống núi.
Lệnh Hồ Xung gọi:
– Sư phụ, có một chuyện…
Chàng muốn bẩm báo với sư phụ chuyện các đồ hình trên vách đá trong hậu động và người mặc áo bào xanh nhưng Nhạc Bất Quần đã khoát tay rồi đi thẳng xuống núi luôn.
Nhạc phu nhân nói nhỏ:
– Trong nửa tháng này, ngươi nên dụng công luyện kiếm pháp cho thuần thục. Chuyện này có liên quan lớn đến tương lai của ngươi, ngàn vạn lần không được xao lãng.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dạ! Sư nương…
Chàng lại muốn nói chuyện các chiêu kiếm trên vách đá và người áo xanh; Nhạc phu nhân cười chỉ vào cái bóng sau lưng Nhạc Bất Quần, khoát tay rồi quay người đi xuống núi, nhanh bước chạy theo chồng.
Lệnh Hồ Xung tự nhủ: Tại sao sư nương nói chuyện luyện kiếm có liên quan đến tương lai của ta, không thể xao lãng được? Tại sao sư nương phải đợi sư phụ đi trước rồi mới nói nhỏ dặn dò ta? Phải chăng… phải chăng…
Nghĩ đến chuyện này, trống ngực hắn đập thình thịch, hai má nóng bừng, không dám suy nghĩ tiếp nữa. Tận trong thâm tâm, hắn nảy sinh một kỳ vọng: Chẳng lẽ sư phụ và sư nương biết ta vì tiểu sư muội mà sinh bệnh, nên sẽ đem tiểu sư muội gả cho ta sao? Sư nương dặn ta phải dụng công luyện cho thật giỏi, bất luận khí công hay kiếm thuật đều phải xứng đáng thừa hưởng chân truyền của sư phụ. Sư phụ không tiện nói rõ, sư nương lại coi ta như con ruột nên mới nói nhỏ dặn dò ta, nếu không thì còn có chuyện gì khác có thể liên quan đến tương lai của ta?
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, tinh thần phấn chấn, cầm kiếm lên, luyện lại một lượt những bộ kiếm pháp cao thâm mà sư phụ đã truyền thụ. Nhưng các đồ hình trên vách đá trong hậu động đã ăn sâu vào trí não, bất luận sử đến chiêu kiếm nào, chàng liền nhớ ngay đến những cách phá giải. Chàng sử mới nửa chừng thì dừng lại, nghĩ thầm: Những đồ hình trên vách đá trong hậu động lần này chưa kịp bẩm báo với sư phụ sư nương, nửa tháng sau khi hai vị lên đây, sau khi xem xét tỉ mỉ tất hai vị có thể giải đáp những thắc mắc của ta.
Những lời nói của Nhạc phu nhân khiến cho tinh thần Lệnh Hồ Xung phấn chấn nhưng trong nửa tháng, việc tu luyện khí công và kiếm thuật lại không tiến bộ nhiều, suốt ngày chỉ lo nghĩ vẩn vơ: Sư phụ và sư nương đem tiểu sư muội gả cho ta, không biết cô ta có ưng thuận hay không? Nếu ta thật sự có thể kết thành vợ chồng với sư muội, không biết sư muội có quên đi được mối tình với Lâm sư đệ hay không? Thực ra, Lâm sư đệ mới nhập sư môn, nhờ cô dạy kiếm pháp, lúc bình thường chỉ nói chuyện bầu bạn giải khuây với cô ta mà thôi, hai người chưa chắc đã có tình ý gì, sao bằng ta và tiểu sư muội cùng lớn lên với nhau, hơn mười năm tình nghĩa sớm tối có nhau? Ngày hôm đó suýt chút nữa ta bị Dư Thương Hải đánh cho một chưởng toi mạng, may nhờ Lâm sư đệ đưa ra lời giải cứu. Chuyện này suốt đời ta không thể quên, sau này ta sẽ có dịp báo ân cho Lâm sư đệ. Nếu Lâm sư đệ gặp nguy hiểm, ta sẽ không màng đến tính mệnh mà xả thân cứu hắn.
Thấm thoát nửa tháng trôi qua, một hôm sau giờ Ngọ, vợ chồng Nhạc Bất Quần lại cùng nhau lên núi. Cùng đi theo còn có Thi Đới Tử, Lục Đại Hữu và Nhạc Linh San. Lệnh Hồ Xung thấy tiểu sư muội cũng đến, lúc ra bái chào sư phụ sư nương, giọng chàng run run.
Nhạc phu nhân thấy tinh thần Lệnh Hồ Xung phấn chấn, sắc mặt khác xa với nửa tháng trước, bà thoáng vui mừng gật đầu nói:
– Linh nhi, ngươi dọn cơm cho đại sư ca ăn đi để hắn còn luyện kiếm nữa.
Nhạc Linh San dạ một tiếng rồi đem thùng cơm đi vào thạch động để trên tảng đá to. Cô lấy bát đũa ra, bới đầy một bát cơm trắng rồi cười nói:
– Đại sư ca, xin mời dùng cơm!
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đa… đa tạ.
Nhạc Linh San cười nói:
– Sao? Đại sư ca còn phát nóng lạnh ư? Sao giọng nói lại run run như vậy?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không… không có gì cả.
Chàng nghĩ thầm: Nếu sau này, sớm tối lúc mình ăn cơm đều có tiểu sư muội bên cạnh thì suốt đời Lệnh Hồ Xung này không mong muốn gì hơn nữa.
Chàng chẳng còn để tâm đến chuyện ăn uống, chỉ và hai ba đũa đã hết bát cơm. Nhạc Linh San nói:
– Để tiểu muội bới cơm thêm cho đại sư ca.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đa tạ, ta không ăn nữa đâu. Sư phụ và sư nương đang đợi bên ngoài.
Lệnh Hồ Xung ra ngoài động, thấy hai vợ chồng Nhạc Bất Quần đang sánh vai ngồi trên tảng đá.
Lệnh Hồ Xung đi đến trước, cúi người hành lễ, muốn nói nhiều điều tự dưng lại cảm thấy không ổn. Lục Đại Hữu nháy mắt với chàng, nét mặt hớn hở. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Chắc Lục sư đệ đã biết được tin gì nên gã mừng cho mình.
Nhạc Bất Quần đưa mắt nhìn Lệnh Hồ Xung mấy lần, một lúc sau mới nói:
– Hôm qua, Căn Minh từ Trường An về nói là ở Trường An, Điền Bá Quang vừa gây ra mấy vụ đại án.
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra nói:
– Điền Bá Quang đến Trường An rồi ư? Hắn lại làm nhiều chuyện tác tệ rồi.
Nhạc Bất Quần nói:
– Còn phải nói nữa, hắn ở thành Trường An trong một đêm đã gây ra chín vụ đại án. Chưa hết, hắn còn viết lên tường của mỗi nhà chín chữ to: “Vạn lý độc hành Điền Bá Quang mượn tạm”.
Lệnh Hồ Xung hừ lên một tiếng, cả giận nói:
– Thành Trường An gần núi Hoa Sơn ta, hắn để lại chín chữ to này rõ ràng là có ý giỡn mặt phái Hoa Sơn chúng ta. Sư phụ, chúng ta…
Nhạc Bất Quần nói:
– Chúng ta làm sao?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nhưng sư phụ và sư nương có thân phận tôn quý, không nên để tên ác tặc này làm dơ bảo kiếm. Còn công phu của đệ tử lại không đủ nên không phải là đối thủ của tên ác tặc này. Huống hồ đệ tử thân đang mắc tội, không thể xuống núi truy tìm tên ác tặc, nhưng cứ để hắn hoành hành tự do dưới chân núi Hoa Sơn như vậy thì thật là đáng giận.
Nhạc Bất Quần nói:
– Nếu ngươi thực sự muốn giết tên ác tặc này, ta sẽ cho phép ngươi xuống núi để lấy công chuộc tội. Vậy ngươi diễn lại cho ta xem chiêu Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm mà sư nương của ngươi đã truyền. Trong nửa năm nay, xem ra ngươi cũng đã lĩnh hội được bảy tám phần, cứ xin sư nương chỉ điểm thêm cho, chẳng lẽ đấu không lại tên ác tặc họ Điền sao?
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, nghĩ bụng: Sư nương chưa truyền chiêu kiếm này cho ta.
Nhưng chàng lại chuyển ý nghĩ, đã hiểu ra: Ngày hôm đó sư nương đã diễn chiêu kiếm này, tuy chưa chính thức truyền cho ta nhưng đối với công phu của bổn môn ta đã học khá tinh thông, tự ta có thể biết được yếu chỉ trong chiêu kiếm. Vì vậy, sư phụ mới đánh giá ta trong nửa năm ở đây đã kiên trì luyện tập nên học được khá nhiều rồi.
Lòng dạ Lệnh Hồ Xung rối beng, chàng lẩm bẩm: Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm, Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm!
Trán chàng toát mồ hôi hột. Lúc mới lên núi, chàng nghĩ chiêu kiếm này vô cùng tinh diệu, đã từng đem ra diễn thử. Nhưng từ lúc được xem các đồ hình trên vách đá trong hậu động, chàng phát hiện bất cứ chiêu kiếm nào của phái Hoa Sơn cũng bị người ta phá giải; chiêu Ninh thị nhất kiếm này lại càng bị thất bại te tua không thể tả nổi. Tự chàng đã mất niềm tin vào chiêu kiếm này, đó là điều chàng đã mấy lần muốn thốt ra: Chiêu kiếm này đã vô dụng rồi; nó bị người ta phá giải rồi. Nhưng trước mặt Thi Đới Tử và Lục Đại Hữu, chàng không tiện chỉ trích chiêu kiếm mà sư nương từng rất tự hào.
Nhạc Bất Quần thấy vẻ mặt Lệnh Hồ Xung khác lạ bèn nói:
– Chiêu này ngươi chưa luyện xong phải không? Vậy cũng không sao. Chiêu kiếm này là cực chỉ võ công của phái Hoa Sơn ta, hỏa hầu của ngươi chưa đủ, chưa thể luyện đến nơi đến chốn được, sau này tự ngươi dần dần bổ túc thêm.
Nhạc phu nhân cười nói:
– Xung nhi, còn chưa khấu tạ sư phụ ngươi ư? Sư phụ ngươi đã đồng ý truyền cho ngươi tâm pháp của Tử hà công rồi đó.
Lệnh Hồ Xung run run đáp:
– Dạ, đa tạ sư phụ.
Hắn toan quỳ mọp xuống đất bái lạy.
Nhạc Bất Quần đưa tay ngăn lại, cười nói:
– Tử hà công là khí công tâm pháp cao nhất của bổn môn, sở dĩ ta không dễ dàng đem truyền cho ngươi không phải là ta có ý tiếc rẻ. Chỉ vì sau khi luyện công phu này, tâm phải vô tạp niệm, ý phải dũng mãnh tinh tấn, không được rà rê chút nào, nếu không sẽ rất tai hại cho người luyện, dần dần có thể sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Xung nhi, trước tiên ta muốn xem nửa năm gần đây trình độ công phu của ngươi ra sao, rồi mới quyết định có nên hay không nên truyền cho ngươi khẩu quyết Tử hà công này.
Thi Đới Tử, Lục Đại Hữu, Nhạc Linh San nghe đại sư ca được truyền thụ Tử hà công, khuôn mặt đều lộ vẻ vô cùng hâm mộ. Cả ba đều biết rằng uy lực của Tử hà công rất lớn, trước nay từng nghe nói trong Hoa Sơn cửu công thì đệ nhất là Tử hà công. Tuy họ biết trong bổn môn võ công không ai mạnh bằng Lệnh Hồ Xung, sau này tất nhiên sẽ là người kế tục ngôi vị chưởng môn, nắm quyền coi sóc môn hộ phái Hoa Sơn nhưng không ngờ sư phụ lại đem đệ nhất thần công của bổn môn ra truyền cho đại sư ca nhanh như vậy. Lục Đại Hữu nói:
– Đại sư ca dụng công rất chăm chỉ, ngày nào đệ tử đem cơm lên đều thấy đại sư ca không luyện công thì cũng chăm chỉ luyện kiếm.
Nhạc Linh San liếc xéo gã một cái, nghĩ bụng: Cái tên Lục hầu nhi này thật là xạo, chỉ muốn bợ đít đại sư ca.
Nhạc phu nhân cười nói:
– Xung nhi, xuất kiếm đi! Ba sư đồ chúng ta cùng đi đấu với tên Điền Bá Quang. Đừng để đến lúc nguy cấp mới ôm chân đức Phật, khi lâm trận mới mài thương; nếu khỏi mài thương thì tốt hơn.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:
– Sư nương, sư nương nói cả ba chúng ta cùng đi đấu với Điền Bá Quang ư?
Nhạc phu nhân cười nói:
– Ngươi ra mặt khiêu chiến với hắn, ta và sư phụ ngươi sẽ đứng trong bóng tối giúp ngươi; bất luận ai giết được hắn cũng đều nói là ngươi giết để tránh khỏi đồng đạo võ lâm sẽ nói ta và sư phụ ngươi thiếu tự trọng.
Nhạc Linh San vỗ tay cười nói:
– Vậy thì hay quá. Đã có gia gia má má hậu thuẫn, ngay cả hài nhi cũng dám khiêu chiến với hắn; sau khi hắn chết cứ nói là hài nhi giết, không phải là tuyệt diệu sao?
Nhạc phu nhân cười nói:
– Con nhỏ này nói càn, ngươi tưởng dễ giết hắn lắm sao? Đại sư ca ngươi thừa chết thiếu sống, đã từng đấu mấy trăm chiêu với Điền Bá Quang, biết rõ thực hư của đối phương, chứ chút công phu nhỏ xíu của ngươi thì đã ăn nhằm gì. Vả lại, ngươi là con gái nhà tử tế, ngay cả cái tên của tên ác tặc này cũng không được nhắc đến, lại càng không được nói chuyện giáp mặt động thủ với hắn.
Đột nhiên nghe soạt một tiếng, thanh kiếm đã phóng đến ngực Lệnh Hồ Xung.
Bà đang cười nói với con gái, không ngờ trong nháy mắt đã rút trường kiếm sau lưng ra đâm thẳng đến chỗ yếu hiểm của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung ứng biến cũng rất mau lẹ, liền rút trường kiếm ra đỡ, choang một tiếng, song kiếm giao nhau, chân trái Lệnh Hồ Xung lùi một bước. Nhạc phu nhân phóng liên tiếp sáu chiêu nghe veo véo, sáu tiếng choảng choảng liên hồi, Lệnh Hồ Xung đã đỡ gạt trường kiếm của bà. Nhạc phu nhân quát:
– Trả chiêu đi!
Bà đột ngột thay đổi kiếm pháp, vung kiếm đâm dọc chém ngang cực nhanh, không phải là kiếm pháp của phái Hoa Sơn. Lệnh Hồ Xung biết ngay sư nương đang thi triển phép khoái đao của Điền Bá Quang để tự mình lãnh ngộ mà tìm cách phá giải, sau này mới hy vọng diệt được cường địch.
Lệnh Hồ Xung thấy Nhạc phu nhân xuất chiêu càng lúc càng nhanh, chiêu trước và chiêu sau liên tiếp không còn nhận ra nữa. Nhạc Linh San nói với phụ thân:
– Gia gia, chiêu số này của má má cực kỳ nhanh, nhưng cũng chỉ là kiếm pháp chứ không phải đao pháp. Hài nhi e rằng khoái đao của Điền Bá Quang không đúng như vậy.
Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:
– Võ công của Điền Bá Quang vô cùng lợi hại, muốn dùng đao pháp của hắn mà xuất chiêu thì không dễ đâu. Má má của ngươi cũng không mô phỏng đúng đao pháp của hắn, chỉ muốn phát huy chữ “khoái” cho hết cái lâm ly tận chí của chiêu kiếm. Muốn trừ khử Điền Bá Quang, điều cần nhất không phải tìm điểm yếu trong đao pháp mà là tìm cách chế ngự đao pháp thần tốc của hắn để phá giải. Ngươi nhìn kìa, hay quá, Hữu phụng lai nghi.
Lão thấy vai trái của Lệnh Hồ Xung hơi thấp xuống, kiếm quyết tay trái chếch qua rồi khuỷu tay phải co lại, toan ra chiêu Hữu phụng lai nghi. Chiêu này mà dùng vào lúc này thì rất hợp cách, lão vui mừng liền lớn tiếng reo lên.
Không ngờ lão vừa nói chữ “nghi” ra khỏi miệng thì chiêu kiếm của Lệnh Hồ Xung phóng ra lại bất lực, không thể xuyên qua được làn kiếm quang dày đặc của Nhạc phu nhân. Nhạc Bất Quần nhẹ buông tiếng thở dài, nghĩ thầm:
– Chiêu này hắn sử tệ quá.
Nhạc phu nhân ra tay không nương tình. Ba kiếm choảng choảng choảng bức bách Lệnh Hồ Xung đến nỗi tay chân luống cuống.
Nhạc Bất Quần thấy Lệnh Hồ Xung ra chiêu rất hoang mang chẳng thành chương pháp nào hết, chỉ tiện tay chống đỡ, trong mười chiêu có đến hai ba chiêu không phải là kiếm thuật của bổn môn, bất giác nét mặt lão càng lúc càng khó coi. Nhưng kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung tuy lộn xôn mà vẫn đỡ được những thế tấn công lợi hại của Nhạc phu nhân. Chàng lùi dần đến bên vách núi, khi không thể lùi thêm được nữa thì mới triển khai phản kích. Đột nhiên được cơ hội, chàng liền sử chiêu Thương tùng nghênh khách, những điểm kiếm hoa hướng vào giữa khoảng lông mi và mé tóc mái của Nhạc phu nhân mà đâm tới.
Choảng! Nhạc phu nhân vung kiếm gạt ra, xoay kiếm về để hộ thân. Bà biết chiêu Thương tùng nghênh khách này còn có những chiêu biến hóa tiếp theo sau rất lợi hại.
Đối với chiêu này, Lệnh Hồ Xung luyện rất thuần thục, tuy chàng không muốn đả thương bà nhưng bà đỡ cũng không dễ dàng nên chuyển thế công thành thế thủ, ngưng thần chờ đợi. Không ngờ Lệnh Hồ Xung phóng kiếm ra, thế kiếm đã chậm rì mà kình lực lại yếu ớt, tuyệt không có một chút uy lực nào. Nhạc phu nhân quát lên:
– Dụng tâm xuất chiêu đi, ngươi đừng có nghĩ vẩn vơ nữa!
Bà liên tiếp đánh ba kiếm, Lệnh Hồ Xung nhảy lên né tránh. Bà la lên:
– Chiêu Thương tùng nghênh khách sao lại như vậy? Sau một trận bệnh, bao nhiêu kiếm pháp của ngươi đem trả hết cho sư phụ rồi ư?
Lệnh Hồ Xung đáp dạ, cảm thấy xấu hổ, trả lại được hai chiêu.
Thi Đới Tử và Lục Đại Hữu thấy nét mặt của sư phụ càng lúc càng bực dọc; cả bọn đều cảm thấy lo sợ. Bỗng nghe kình phong vù vù, Nhạc phu nhân chạy quanh, tà áo xanh biến thành một bóng xanh, kiếm quang sáng loáng, không phân biệt được kiếm xuất ra thế nào nữa. Đầu óc Lệnh Hồ Xung rối loạn cả lên, những ý niệm về các chiêu số trên vách đá dần hiện ra: Nếu ta sử chiêu Dã mã bôn trì, đối phương cứ lấy chiêu pháp tinh diệu của cây côn ra thì có thể phá được, cho nên ta sử chiêu này thì không thể tránh khỏi bị trọng thương.
Mỗi khi chàng nghĩ đến từng chiêu kiếm pháp của bổn môn liền nhớ ngay đến cách phá giải các chiêu thức này. Trước đó, chàng sử hai chiêu Hữu phụng lai nghi và Thương tùng nghênh khách nhưng chỉ sử được nửa chừng thì bỏ vì nghĩ đến đồ hình phá giải hai chiêu kiếm này chợt sợ hãi liền rút kiếm về.
Nhạc phu nhân sử kiếm càng nhanh hơn, thì ra bà muốn dẫn dụ đối phương dùng chiêu Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm để phá giải sức mạnh của địch thủ. Lệnh Hồ Xung thuận tay chiết giải, nhưng tinh thần không tập trung, bộ dạng thật bối rối như không còn hồn vía. Nhạc phu nhân biết đồ nhi gan dạ và dũng khí mãnh liệt, từ thuở nhỏ đã không sợ trời không sợ đất, bây giờ hắn phóng ra những chiêu chiết giải kỳ cục như vậy, bất giác bà tức giận quát:
– Còn chưa sử kiếm sao?
Lệnh Hồ Xung đáp dạ rồi phóng kiếm đâm ra, vận kình lực xuất chiêu Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm của Nhạc phu nhân sáng chế. Nhạc phu nhân nói:
– Hay lắm!
Bà biết chiêu này vô cùng lợi hại nên không dám chạm tới mũi kiếm của hắn, nghiêng người né tránh, hồi kiếm phóng nhanh ra. Lệnh Hồ Xung vẫn nghĩ: Chiêu này không thành rồi. Vô dụng, thất bại thảm hại rồi!
Bỗng nhiên cổ tay chấn động, trường kiếm tuột khỏi tay bay đi. Lệnh Hồ Xung giật mình sợ hãi, kêu lên một tiếng.
Nhạc phu nhân liền vung kiếm đánh thẳng ra, thế kiếm như cầu vồng. Song kiếm giao nhau choang choang, chính là chiêu Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm của bà. Chiêu này phát ra uy lực mạnh hơn rất nhiều so với lúc mới sáng chế. Sau khi sáng chế thành công chiêu này, bà rất đắc ý, hàng ngày suy nghĩ tìm tòi làm sao chế cách ra chiêu càng nhanh, làm sao nội kình càng mạnh, yêu cầu phải đánh một đòn là trúng để địch nhân khó chống đỡ được. Bà thấy Lệnh Hồ Xung sử chiêu đắc ý của mình, lúc đầu đánh ra điệu bộ rất giống, nhưng đường kiếm thực chất lại khác hẳn, quả nhiên là “Họa hổ bất thành phản loại khuyển” (Vẽ hổ không thành mà ra chó). Hắn đem tuyệt chiêu uy lực mãnh liệt lạ thường này sử ra thật lôi thôi, không dứt khoát, bộ dạng thật lúng túng. Nhạc phu nhân cả giận, liền sử ra chiêu này. Tuy bà tuyệt không có ý làm tổn thương đồ nhi, nhưng chiêu kiếm này thật quá cương mãnh, lưỡi kiếm chưa đến, thì kiếm lực đã bao phủ lên cả người Lệnh Hồ Xung.
Nhạc Bất Quần thấy Lệnh Hồ Xung không còn cách gì để né tránh, không có cách gì gạt đỡ, càng khó mà phản công. Lúc thanh trường kiếm của Nhạc phu nhân vừa mới đâm đến người Lệnh Hồ Xung, bà liền dùng nội lực chấn đoạn thanh kiếm lại, bây giờ kình lực đã tập trung vào mũi kiếm, quả thật tay thu kiếm về không kịp nữa. Lão la thầm “Không xong rồi!”, vội rút thanh trường kiếm bên người của con gái, vọt lên trước một bước; thanh trường kiếm của Nhạc phu nhân chỉ cần phóng tới trước nửa thước nữa là lão phải phóng kiếm ra để gạt đỡ. Nhưng công phu của hai vợ chồng lão không thua kém nhau bao nhiêu, tuy Nhạc Bất Quần mạnh hơn vợ một chút nhưng Nhạc phu nhân đã chiếm được tiên cơ, nên không thể gạt đỡ được, cũng không hy vọng gì cứu vãn nổi, chỉ mong cho Lệnh Hồ Xung bị thương nhẹ thôi.
Trong nháy mắt, Lệnh Hồ Xung thuận tay rút vỏ kiếm sau lưng ra, thấp người xuống, ngồi nghiêng người, lấy vỏ kiếm đối chuẩn với mũi kiếm của Nhạc phu nhân phóng đến. Chiêu thức này lấy từ những chiêu thức trong đồ hình trên vách đá ở hậu động. Người sử côn lấy côn đối chuẩn với mũi kiếm của đối phương, côn kiếm nối nhau thành một đường thẳng, nội công của hai bên đối lập nhau, trường kiếm ắt phải gãy. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung đã bị chấn động tuột khỏi tay, tiếp theo thấy thế tấn công của sư nương như sấm sét, Lệnh Hồ Xung vốn đã bấn loạn vô cùng, trong đầu toàn chập chờn những chiêu số trên vách đá. Chiêu kiếm của Nhạc phu nhân khiến chàng không thể chống cự được, nên để bảo toàn tính mạng, phải sử chiêu thức trên vách đá ra. Kiếm đâm tới đã nhanh mà vỏ kiếm chiết giải cũng thần tốc bởi trong lúc này không thể chần chừ, lại không có thời gian để tìm côn. Chàng thuận tay rút vỏ kiếm sau lưng ra, lấy vỏ kiếm đối chuẩn với trường kiếm của Nhạc phu nhân thành một đường thẳng. Đừng nói là vỏ kiếm, nếu chỉ là một cục bùn hay một cọng rơm chàng cũng sẽ sử ra chiêu thức này, đem nó đối chuẩn với trường kiếm để nối lại thành một đường.
Lệnh Hồ Xung xuất chiêu này ra, nội kình cánh tay tự nhiên phát huy. Chỉ nghe đánh soạt một tiếng, trường kiếm của Nhạc phu nhân đã cắm vào vỏ kiếm. Thì ra lúc Lệnh Hồ Xung kinh hoàng, không kịp xoay vỏ kiếm, cứ nắm đàng chuôi để đối phó với thanh kiếm đang phóng tới, không ngờ lưỡi kiếm phóng tới lại trúng vào miệng vỏ kiếm nên trường kiếm của Nhạc phu nhân không bị chấn động mà chui thẳng vào vỏ kiếm của Lệnh Hồ Xung.
Nhạc phu nhân giật mình sợ hãi, hổ khẩu đau buốt, trường kiếm vuột khỏi tay, đã bị Lệnh Hồ Xung dùng vỏ kiếm đoạt lấy rồi. Chiêu thức này của Lệnh Hồ Xung hàm chứa những chiêu kế tiếp.
Chàng không còn tự chủ được nữa, vung vỏ kiếm điểm thẳng vào yết hầu của Nhạc phu nhân một cách nguy hiểm mà nguy hiểm nhất lại chính là chuôi kiếm của thanh trường kiếm mà bà đã sử.
Nhạc Bất Quần vừa sợ hãi vừa tức giận liền vung trường kiếm đập xuống vỏ kiếm của Lệnh Hồ Xung. Trong chớp mắt, lão đã sử Tử hà công. Lệnh Hồ Xung cảm thấy toàn thân nóng sôi, loạng choạng lùi lại ba bước, rồi ngồi phịch xuống đất. Vỏ kiếm và trường kiếm trong vỏ đều bị gãy thành ba bốn khúc rớt xuống đất. Một làn ánh sáng loáng qua, thanh trường kiếm của Nhạc Bất Quần rớt xuống cắm sâu vào lòng đất đến tận chuôi.
Thi Đới Tử, Lục Đại Hữu và Nhạc Linh San, cả ba đều hoa cả mắt, đứng ngẩn người ra. Nhạc Bất Quần phóng đến trước mặt Lệnh Hồ Xung, đưa tay phải tát bốp bốp hai cái. Lão tát Lệnh Hồ Xung nẩy lửa, rồi cả giận quát:
– Tiểu súc sinh, ngươi làm cái gì vậy?
Đầu óc Lệnh Hồ Xung choáng váng, người lảo đảo. Chàng quỳ phục xuống đất nói:
– Sư phụ sư nương, đệ tử thật đáng chết.
Nhạc Bất Quần căm giận đến cực điểm, quát:
– Trong nửa năm này, ngươi ở trên đây ăn năn sám hối như thế nào? Luyện công phu gì?
Lệnh Hồ Xung ấp úng:
– Đệ… đệ tử không… không luyện công phu gì cả.
Nhạc Bất Quần lại lớn tiếng hỏi:
– Ngươi đối phó với sư nương chiêu này là do loạn tâm vọng tưởng mà ra phải không?
Lệnh Hồ Xung ấp úng:
– Đệ tử… đệ tử đâu có kịp suy nghĩ gì, thấy nguy cấp nên thuận tay sử ra ngay mà thôi.
Nhạc Bất Quần thở dài nói:
– Ta cũng đoán ngươi không suy nghĩ gì, chỉ thuận tay sử chiêu, chính vì vậy ta mới tức giận. Ngươi có biết mình đã đi vào đường tà, trước mắt sẽ khó tự quay lại chính đạo không?
Lệnh Hồ Xung cúi đầu đáp:
– Dạ, xin sư phụ chỉ giáo cho.
Nhạc phu nhân một lúc mới định thần lại được, thấy Lệnh Hồ Xung bị chồng đánh hai má sưng múp, tím bầm thật là đáng thương. Lòng bà xót xa, cất tiếng dịu dàng nói:
– Ngươi đứng dậy đi! Trong chuyện này có liên quan đến nhiều điều rắc rối mà ngươi không hiểu.
Bà quay sang nhìn chồng nói:
– Sư ca, tư chất Xung nhi quá thông minh, trong nửa năm nay không gặp vợ chồng ta nên y tự động luyện công, đi nhầm vào con đường rẽ. May mà hắn mới lầm đường lạc lối chưa xa, ta kéo hắn trở lại cũng chưa muộn.
Nhạc Bất Quần gật đầu rồi nhìn Lệnh Hồ Xung nói:
– Đứng lên đi!
Lệnh Hồ Xung đứng dậy, nhìn trường kiếm và vỏ kiếm gãy thành ba khúc nằm dưới đất, lòng hoang mang vô cùng, không biết tại sao sư phụ và sư nương đều cho rằng mình luyện công đi vào đường rẽ.
Thi Đới Tử, Lục Đại Hữu, Nhạc Linh San cùng dạ rồi đi đến trước mặt lão.
Nhạc Bất Quần ngồi xuống tảng đá, nói:
– Hai mươi lăm năm về trước, công phu của bổn môn phân ra thành hai đường chính tà.
Bọn Lệnh Hồ Xung đều ngạc nhiên, nghĩ thầm:
– Võ công của phái Hoa Sơn thì cũng là võ công của phái Hoa Sơn, sao lại phân ra chính – tà? Chuyện này vì sao trước đây chưa từng nghe sư phụ và sư nương nói qua?
Nhạc Linh San nói:
– Gia gia, công phu của chúng ta đương nhiên là công phu chính tông rồi.
Nhạc Bất Quần nói:
– Tất nhiên rồi, chẳng lẽ chúng ta biết công phu bàng môn tả đạo mà vẫn còn luyện sao? Có điều là nhóm tả đạo lại tự nhận là chính tông, bảo chúng ta là tả đạo. Nhưng lâu ngày thì chính tà rạch ròi, nhóm bàng môn tả đạo cuối cùng cũng tan theo mây khói, hai mươi lăm năm nay không còn tồn tại trên thế gian này nữa.
Nhạc Linh San nói:
– Hèn chi hài nhi chưa bao giờ nghe nói qua. Gia gia, nhóm bàng môn tả đạo đó chắc chắn đã bị tiêu diệt hết rồi?
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi biết cái gì mà nói? Cái gọi là bàng môn tả đạo cũng không phải là tà ma ngoại đạo. Đó cũng là công phu của bổn môn nhưng trọng điểm luyện công không giống nhau. Ta truyền thụ võ công cho các ngươi, trước tiên là dạy cái gì?
Lão vừa nói vừa đưa mắt nhìn Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Trước tiên, sư phụ truyền thụ khẩu quyết vận khí rồi bắt đầu luyện khí công.
Nhạc Bất Quần nói:
– Đúng vậy, công phu của phái Hoa Sơn cốt yếu là ở chữ “khí”. Khi khí công đã luyện thành thì bất luận sử quyền cước cũng được, động đao kiếm cũng được, hoàn toàn thuận lợi; đây là con đường chính tông luyện công của bổn môn. Nhưng trong các vị tiền bối của bổn môn có một số nhân vật khác lại cho rằng điều cốt yếu võ công của bổn môn là ở chữ “kiếm”, khi kiếm thuật luyện thành thì nội công bình thường cũng có thể khắc chế địch thủ để thắng. Sự phân biệt giữa chính – tà chủ yếu là như vậy.
Nhạc Linh San nói:
– Gia gia, hài nhi nói câu này, xin gia gia đừng giận.
Nhạc Bất Quần nói:
– Ngươi muốn nói gì?
Nhạc Linh San nói:
– Hài nhi nghĩ võ công của bổn môn, khí công tất nhiên là rất quan trọng nhưng kiếm thuật cũng không thể xem thường. Nếu chỉ có khí công thâm hậu mà kiếm thuật tầm thường thì hiển nhiên công phu của bổn môn không thể có oai danh được.
Nhạc Bất Quần hừ một tiếng rồi nói:
– Ai bảo kiếm thuật không quan trọng? Quan trọng là ở chỗ lấy cái nào làm chủ yếu, nhưng nói cho cùng thì khí công mới là điểm chủ yếu.
Nhạc Linh San nói:
– Hay nhất là cả khí công và kiếm thuật đều làm chủ.
Nhạc Bất Quần tức giận nói:
– Một câu này cũng đủ chứng tỏ ngươi đã bước đến gần ma đạo rồi. Nếu ngươi nói cả hai đều làm chủ thì khác nào cả hai đều không phải là chủ. Năm xưa, cuộc tranh biện giữa hai phe chính tà đã long trời lở đất. Câu này nếu ba mươi năm trước ngươi nói ra e rằng không được nửa ngày thì đầu đã bên Đông mà xác thì ở bên Tây rồi.
Nhạc Linh San lè lưỡi nói:
– Một câu nói sai mà phải bị đứt đầu thì thật là cường hung bá đạo.
Nhạc Bất Quần đáp:
– Lúc ta còn nhỏ, hai phe Kiếm tông và Khí tông của bổn môn đang tranh thắng bại. Nếu câu nói của ngươi ngang nhiên nói ra thì phe Khí tông tất nhiên đã muốn giết ngươi và phe Kiếm tông cũng muốn giết ngươi. Ngươi nói khí công và kiếm thuật đều ngang nhau, không phân cao thấp; phe Khí tông tất sẽ cho rằng ngươi đề cao địa vị Kiếm tông còn phe Kiếm tông thì nói ngươi hỗn xược. Đối với cả hai phe, ngươi chẳng khác nào kẻ đại nghịch bất đạo.
Nhạc Linh San nói:
– Ai đúng ai sai có gì hay đâu mà phải tranh luận? Cứ tỉ thí với nhau thì sẽ phân ra phải trái ngay thôi.
Nhạc Bất Quần thở dài chậm rãi nói:
– Ba mươi năm trước, phe Khí tông chúng ta là phe thiểu số, các vị sư bá trong Kiếm tông lại chiếm phần đa số. Hơn nữa công phu Kiếm tông mau thành tựu mà hiệu quả lại ứng nghiệm nhanh chóng, sau mười năm luyện tập nhất định Kiếm tông chiếm thượng phong; còn luyện đến hai mươi năm thì cả hai phái khó phân cao thấp; đến sau hai mươi năm, Khí tông mới dần dần càng lúc càng mạnh hơn; đến ba mươi năm thì Kiếm tông không đuổi kịp Khí tông. Mãi đến hơn hai mươi năm sau mới thực sự phân ra cao thấp, trong hơn hai mươi năm này hai bên tranh đấu quyết liệt như thế nào không cần nói ra cũng biết.
Nhạc Linh San hỏi:
– Sau đó thì sao? Phe Kiếm tông chịu thua phải không?
Nhạc Bất Quần lắc đầu không đáp, một lúc lâu sau mới nói:
– Họ thà chết chứ không chịu thua, trên ngọn Ngọc Nữ xảy ra một trận tỷ kiếm, họ bị thất bại thảm hại, phần lớn… phần lớn đều vung kiếm tự tử. Còn người nào không chết thì quy ẩn biệt tăm và cũng không lộ diện trong võ lâm nữa.
Bọn Lệnh Hồ Xung, Nhạc Linh San đều ồ lên một tiếng kinh hãi. Nhạc Linh San nói:
– Mọi người là đồng môn sư huynh sư đệ với nhau, đấu kiếm tranh thắng bại để làm gì? Hà tất phải xử sự với nhau như vậy?
Nhạc Bất Quần nói:
– Học võ căn bản là ở yếu chỉ, đó không phải là cái cớ mà sư huynh sư đệ tỉ kiếm với nhau. Năm xưa Ngũ Nhạc kiếm phái tranh đoạt địa vị minh chủ, nói đến nhân tài và võ công cao cường thì bổn phái đứng đầu, nhưng vì trong nội bộ bổn phái xảy ra cuộc đấu tranh kịch liệt trên ngọn Ngọc Nữ, chết hơn hai mươi vị tiền bối cao thủ. Kiếm tông cố nhiên bị đại bại, nhưng cao thủ Khí tông cũng bị tổn hại không ít, vì vậy ngôi vị minh chủ mới bị phái Tung Sơn cướp đoạt. Truy tìm nguyên nhân mối họa này, chính là do sự tranh chấp Khí tông – Kiếm tông mà ra.
Bọn Lệnh Hồ Xung gật đầu.
Nhạc Bất Quần nói tiếp:
– Bổn phái không làm được minh chủ Ngũ Nhạc kiếm phái đã đành, oai danh của phái Hoa Sơn không bằng phái khác cũng không sao, điều đau xót nhất là sư huynh sư đệ trong bổn phái náo loạn cả lên, kết cục là người giết ta thì ta giết người, tàn sát lẫn nhau thật thảm khốc. Bây giờ nhớ lại tình cảnh người người sắp chết trên Hoa Sơn năm xưa, lòng ta dường như chưa hết kinh hãi.
Lão nói vậy rồi đưa mắt nhìn Nhạc phu nhân. Mặt Nhạc phu nhân nhíu lại, nghĩ về chuyện những vị cao thủ bổn phái tàn sát lẫn nhau mà không cầm được sợ hãi. Nhạc Bất Quần từ từ mở dải áo, để ngực ra. Nhạc Linh San la lên:
– Chao ôi! Gia gia, gia gia… gia gia…
Mọi người thấy trên ngực lão có một đường sẹo nằm ngang dài khoảng hai thước, từ vai trái xiên thẳng qua sườn bên phải, vết sẹo tuy đã lành lâu rồi nhưng vẫn còn màu hồng lợt, chắc chắn năm xưa lão bị thương rất nặng, chỉ sợ suýt chút nữa đã mất mạng. Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San từ thuở nhỏ tới lớn quanh quẩn bên Nhạc Bất Quần nhưng đến hôm nay mới biết trên người lão có vết sẹo dài như vậy. Nhạc Bất Quần cột dải áo lại rồi nói:
– Trong cuộc tỉ kiếm một mất một còn trên ngọn Ngọc Nữ hôm đó, ta bị một vị sư thúc bổn môn chém một kiếm, nằm hôn mê dưới đất. Y tưởng ta đã chết nên không thèm để ý tới nữa; nếu y tiện tay bổ xuống thêm một kiếm nữa thì…
Nhạc Linh San cười nói:
– Gia gia tất nhiên không chết rồi, nếu không thì Nhạc Linh San này không biết ở đâu nữa.
Nhạc Bất Quần cười, rồi nét mặt lại nghiêm lại. Lão trịnh trọng nói:
– Đây là điều đại cơ mật của bổn môn, không ai được tiết lộ ra ngoài. Nhân sĩ các phái khác tuy đều biết trong một ngày phái Hoa Sơn uổng mạng hơn hai mươi vị cao thủ nhưng không ai biết nguyên nhân sâu xa của nó. Chúng ta chỉ nói là do bệnh dịch đột ngột xảy ra, chứ quyết không thể đem chuyện xấu hổ của môn hộ để người ngoài biết. Tiền nhân hậu quả của chuyện này hôm nay không thể không nói cho các ngươi biết, vì chuyện này có liên quan rất lớn đến chúng ta. Xung nhi, nếu ngươi cứ đi theo con đường như trước đây thì không đầy ba năm nữa sẽ rơi vào cục diện “trọng kiếm hơn khí”, thật là vô cùng nguy hiểm, không những làm hủy hoại bản thân mà còn uổng công ta rèn luyện và các vị tiền bối năm xưa đã đem tính mạng để giữ lấy nền võ học chính tông cho bổn môn. Ngay cả phái Hoa Sơn cũng bị ngươi hủy hoại đó.
Toàn thân Lệnh Hồ Xung toát mồ hôi hột. Chàng cúi đầu nói:
– Không có gì, ngươi vốn không có ý làm vậy, đã không biết thì không có tội. Nhưng ta nghĩ đến các vị sư bá sư thúc Kiếm tông năm xưa cũng đều có hảo tâm, muốn lấy tuyệt đỉnh võ học để làm rạng rỡ bổn môn nhưng lỡ lạc vào đường rẽ, đã lún sâu nên về sau khó tự quay lại được. Hôm nay nếu ta không đánh đòn cảnh tỉnh ngươi thì với tư chất, tính tình ấy, ngươi dễ đi vào đường rẽ của phe Kiếm tông vì cầu mau thành danh.
Lệnh Hồ Xung đáp dạ.
Nhạc phu nhân nói:
– Xung nhi, vừa rồi ngươi dùng vỏ kiếm để đoạt trường kiếm của ta. Ngươi nghĩ sao mà xuất ra chiêu này như vậy?
Lệnh Hồ Xung xấu hổ nói:
– Đệ tử chỉ mong đỡ được đòn cực kỳ lợi hại của sư nương nhưng không ngờ… không ngờ…
Nhạc phu nhân nói:
– Thì ra là vậy. Khí tông và Kiếm tông cao thấp ra sao, bây giờ ngươi tất đã rõ. Chiêu này của ngươi tất nhiên là xảo diệu nhưng không bằng khí công thượng thừa của sư phụ ngươi. Chiêu số có xảo diệu cỡ nào mà thiếu nội công thì cũng vô dụng. Trong cuộc tỉ kiếm năm xưa trên ngọn Ngọc Nữ, các vị cao thủ Kiếm tông kiếm khí thiên ảo, chiêu kiếm biến hóa vô cùng, nhưng sư tổ ngươi luyện được Tử hà công, lấy cái vụng về thắng cái tinh xảo, lấy cái tĩnh chế ngự cái động, hơn mười vị cao thủ Kiếm tông đều thất bại thảm hại. Sư tổ ngươi định ra môn võ học chính tông cho bổn môn, đặt trên nền tảng vững chắc ngàn năm không thay đổi. Hôm nay sư phụ giáo huấn, các ngươi nên suy nghĩ thật kỹ. Công phu bổn môn lấy khí làm thể, lấy kiếm làm dụng. Khí là chủ mà kiếm là tùy tùng. Nếu luyện khí không thành thì kiếm thuật có cao cường đến đâu cũng vô dụng mà thôi.
Lệnh Hồ Xung, Thi Đới Tử, Lục Đại Hữu, Nhạc Linh San đều cúi đầu thụ giáo.
Nhạc Bất Quần nói:
– Xung nhi, hôm nay ta định truyền khẩu quyết nhập môn Tử hà công cho ngươi để mai sau ngươi xuống núi đi giết tên ác tặc Điền Bá Quang. Chuyện này hãy tạm gác lại. Trong hai tháng tới, ngươi nên luyện lại khí công mà ta đã truyền cho ngươi trước đây, quên hết sạch thứ kiếm pháp bàng môn tả đạo quỷ quái kia đi, đợi ta khảo nghiệm lại xem ngươi có thật sự tiến bộ không rồi hãy tính.
Lão nói đến đây bỗng nhiên đổi giọng nghiêm nghị nói:
– Nếu ngươi còn mê muội chưa tỉnh ngộ, tiếp tục đi vào con đường tà của Kiếm tông, nặng thì ta sẽ lấy mạng của ngươi, nhẹ thì ta phế truất võ công, đuổi khỏi môn tường, lúc đó ngươi có năn nỉ van xin cũng đã muộn rồi. Đừng trách ta không nói trước cho ngươi biết chuyện này.
Lệnh Hồ Xung toát mồ hôi trán, nói:
– Dạ, đệ tử quyết không dám.
Nhạc Bất Quần quay qua con gái nói:
– San nhi, tính cách của ngươi và Đại Hữu đều bộp chộp, những lời ta giáo huấn đại sư ca ngươi, hai ngươi cũng nên thuộc lòng.
Lục Đại Hữu dạ.
Nhạc Linh San nói:
– Hài nhi và Lục sư ca tuy tính tình hơi bộp chộp nhưng không thông minh bằng đại sư ca nên tự mình không thể sáng chế ra được chiêu kiếm. Gia gia yên tâm.
Nhạc Bất Quần hừ một tiếng rồi nói:
– Tự mình không sáng chế ra được chiêu kiếm ư? Ngươi và Xung nhi không phải đã sáng chế ra bộ Hồ – Linh kiếm pháp là gì?
Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San thẹn đỏ mặt lên. Lệnh Hồ Xung nói:
– Bọn đệ tử chỉ đùa vui thôi.
Nhạc Linh San cười nói:
– Đây là chuyện xưa rích rồi. Lúc đó hài nhi còn nhỏ, cái gì cũng không hiểu, nên cùng với đại sư ca đùa giỡn như vậy. Tại sao gia gia biết?
Nhạc Bất Quần nói:
– Đệ tử của mình tự sáng chế kiếm pháp, tự lập môn hộ, làm chưởng môn nhân mà không biết được há không hồ đồ sao?
Nhạc Linh San kéo tay áo phụ thân cười nói:
– Gia gia, gia gia cứ nói mỉa người ta hoài.
Lệnh Hồ Xung thấy trong lời nói sư phụ tuyệt không có chút gì đùa giỡn, bất giác hắn cảm thấy ớn da gà.
Nhạc Bất Quần đứng dậy nói:
– Nếu luyện đến chỗ tinh thâm công phu của bổn môn, dù chỉ ném một đóa hoa, liệng một chiếc lá cũng có thể đả thương người. Người ngoài chỉ biết phái Hoa Sơn chỉ sở trường về kiếm thuật nên không khỏi khi dể chúng ta.
Lão nói xong, vung tay áo một cái, nhả kình lực ra khiến thanh trường kiếm ở sau lưng Lục Đại Hữu vọt ra khỏi vỏ. Nhạc Bất Quần phẩy tay áo phải một cái, quét vào thân trường kiếm. Rắc rắc, thanh trường kiếm đã gãy làm đôi. Bọn Lệnh Hồ Xung vô cùng kinh hãi; Nhạc phu nhân nhìn chồng bằng ánh mắt ngưỡng mộ và kính phục.
Nhạc Bất Quần nói:
– Đi thôi!
Lão cùng với phu nhân xuống núi trước; Nhạc Linh San, Thi Đới Tử nối gót theo sau.
Lệnh Hồ Xung nhìn hai đoạn kiếm nằm dưới đất vừa kinh sợ vừa vui mừng, nghĩ bụng: Võ học bổn môn lợi hại như vậy thì bất cứ chiêu kiếm nào mà sư phụ thi triển có ai có thể phá giải được? Chàng lại nghĩ: Những đồ hình khắc trên vách đá trong hậu động có thể phá giải hết các tuyệt chiêu của Ngũ Nhạc kiếm phái, nhưng Ngũ Nhạc kiếm phái vẫn được giữ oai danh cho đến ngày nay, xứng đáng đứng ở ngôi vị cao trong võ lâm. Thì ra các kiếm phái đều lấy khí công thượng thừa làm căn bản, trong chiêu kiếm nếu phát huy được nội lực thâm hậu thì khó có thể phá giải được. Đạo lý này cũng bình thường thôi vậy mà ta lại suy nghĩ vớ vẩn đâu đâu. Kỳ thực cùng một chiêu Hữu phụng lai nghi nhưng Lâm sư đệ sử ra thì làm sao có thể so sánh với sư phụ được? Người sử côn trên vách đá không thể phá giải được chiêu Hữu phụng lai nghi của sư phụ ta.
Lệnh Hồ Xung nghĩ thông được vấn đề này thì những phiền muộn trong mấy tháng qua đều tan biến hết. Tuy hôm nay sư phụ chưa truyền thụ Tử hà công, càng không nói tới chuyện đem Nhạc Linh San gả cho mình nhưng tinh thần Lệnh Hồ Xung không còn suy sụp, ủ ê nữa. Đối với võ công bổn môn chàng đã hồi phục niềm tin, cảm thấy lòng yên ổn. Nhưng nghĩ đến nửa tháng qua cứ loạn tâm vọng tưởng rằng sư phụ và sư nương muốn đem con gái gả cho mình, bất giác mặt chàng đỏ lên tới tận mang tai, ngấm ngầm xấu hổ.
– Đại sư ca, sáng sớm hôm nay sư phụ và sư nương đã đi Thiểm Bắc rồi.
Lệnh Hồ Xung sửng sốt hỏi:
– Đi Thiểm Bắc ư? Sao không đi Trường An?
Lục Đại Hữu đáp:
– Điền Bá Quang lại gây ra mấy vụ án ở Diên An; tên ác tặc đó không còn ở Trường An nữa.
Lệnh Hồ Xung ồ lên một tiếng, nghĩ sư phụ sư nương xuất mã thì Điền Bá Quang nhất định sẽ bị giết. Tận đáy lòng chàng cảm thấy thương tiếc, dù Điền Bá Quang hiếu dâm tham sắc gây họa cho thế gian có chết cũng đáng nhưng võ công hắn cao cường, đã hai lần giao đấu với ta, khí phách hào hùng, không làm mất đi cốt cách của một nam tử hán. Thật đáng tiếc là hắn đã làm những chuyện bại hoại để trở thành công địch của võ lâm.
Trong hai ngày sau, Lệnh Hồ Xung chuyên cần luyện khí công, không thèm đi xem các đồ hình trên vách đá, ngay cả một ý nghĩ trong đầu cũng lập tức xua đuổi đi. Chàng thấy võ công mình không tiến nhanh, thường nghĩ: May thay sư phụ kịp thời ngăn cản, ta mới không mê muội đi vào đường rẽ, trở thành một tội nhân của bổn môn. Thật là nguy hiểm!
Chạng vạng tối, sau khi ăn cơm xong, chàng tĩnh tọa hơn một canh giờ, bỗng nghe xa xa có tiếng người chạy lên núi, cước bộ rất nhanh. Người này võ công chắc cao cường, lòng chàng hơi sờ sợ, nghĩ: Người này không thuộc bổn môn, hắn lên đây để làm gì? Phải chăng là người mặc áo bào xanh bịt mặt hôm đó?
Lệnh Hồ Xung vội chạy vào hậu động, cầm thanh trường kiếm đeo vào sau lưng, rồi quay ra.
Trong phút chốc, người mới đến đã lên đỉnh núi, lớn tiếng gọi:
– Lệnh Hồ huynh, có cố nhân đến thăm đây.
Lệnh Hồ Xung nghe giọng nói rất quen thuộc. Đó là Vạn lý độc hành Điền Bá Quang. Chàng giật mình nghĩ thầm: Sư phụ và sư nương ta đang xuống núi truy sát hắn, vậy mà hắn lại to gan dám vác mặt lên núi Hoa Sơn để làm gì?
Lệnh Hồ Xung liền đi ra cửa động cười nói:
– Điền huynh chẳng quản đường sá xa xôi đến thăm, thật là bất ngờ.
Điền Bá Quang đang quảy gánh trên vai, liền đặt gánh xuống, rồi lấy từ trong hai giỏ trúc ra hai vò rượu lớn, cười nói:
– Nghe Lệnh Hồ huynh bị giam trên đỉnh Hoa Sơn, chắc chắn miệng rất nhớ rượu. Tiểu đệ vào trong hầm của Trích Tiên tửu lâu ở Trường An lấy được hai vò rượu cất một trăm ba mươi năm đem đến đây cùng Lệnh Hồ huynh uống cho thỏa thích.
Lệnh Hồ Xung bước đến, dưới ánh trăng trông thấy trên hai vò rượu to có dán miếng giấy đỏ chữ vàng “Trích Tiên tửu lâu”. Miếng giấy trên vò rượu đã cũ lắm rồi, đúng là rượu cất đã lâu. Hắn không kìm nổi vui mừng, cười nói:
– Gánh một trăm cân rượu này lên đỉnh cao núi Hoa Sơn mới biết Điền huynh thâm tình đến cỡ nào! Nào nào nào, chúng ta uống rượu đi!
Hắn vào động lấy ra hai chiếc bát to. Điền Bá Quang mở nắp vò rượu, một mùi thơm xông ra ngào ngạt. Rượu chưa nhấp môi, Lệnh Hồ Xung đã muốn ngây ngất.
Điền Bá Quang bưng vò rượu lên rót một bát rồi nói:
– Lệnh Hồ huynh nếm thử xem thế nào?
Lệnh Hồ Xung bưng bát rượu lên uống một hớp to, lớn tiếng khen:
– Tiểu đệ từng nghe người ta nói trong thiên hạ danh tửu, phương Bắc có Phần Dương tửu, phương Nam có Thiệu Hưng tửu. Quý nhất là Phần Dương tửu không phải ở Sơn Tây mà ở Trường An vì ở Trường An rượu rất thanh khiết. Năm xưa Lý Thái Bạch lúc nào cũng say khướt vì loại đệ nhất tửu này của Trích Tiên lâu. Hiện nay trên thế gian này ngoài hai vò rượu này ra, không còn vò rượu thứ ba nào nữa.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:
– Chẳng lẽ trong hầm Trích Tiên lâu chỉ còn sót lại hai vò rượu này sao?
Điền Bá Quang cười nói:
– Sau khi tiểu đệ chôm hai vò rượu này, thấy trong hầm còn hơn hai trăm vò, nghĩ trong thành Trường An từ bọn quan to cho đến lũ quyền quý hay lũ phàm phu tục tử chỉ cần có tiền giắt lưng thì có thể đến Trích Tiên lâu uống thứ rượu ngon này, còn Lệnh Hồ đại hiệp ở phái Hoa Sơn đường đường là bậc anh hùng xuất chúng mà lại không được như vậy. Vì vậy, tiểu đệ mạn phép đá cho bể ráo hết các vò rượu trong hầm, mùi rượu bay nồng nặc, rượu chảy ra ngập đến tận lưng.
Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa buồn cười, nói:
– Điền huynh đá bể hết hơn hai trăm vò rượu ngon ư?
Điền Bá Quang cười ha hả nói:
– Trong thiên hạ chỉ còn hai vò này, cho nên lễ vật mới quý hiếm. Ha ha, ha ha!
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đa tạ, đa tạ!
Chàng lại uống một bát rượu rồi nói:
– Điền huynh đem hai vò rượu to từ thành Trường An lên núi Hoa Sơn vất vả biết chừng nào. Đừng nói là thiên hạ danh tửu mà là hai vò nước lạnh thì Lệnh Hồ Xung này cũng cảm mối thâm tình của huynh.
Điền Bá Quang giơ ngón tay cái lên, lớn tiếng nói:
– Đại trượng phu, hảo hán tử!
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Vì sao Điền huynh khen tiểu đệ dữ vậy?
Điền Bá Quang nói:
– Điền mỗ là tên dâm tặc không có chuyện ác nào mà không dám làm, đã từng chém Lệnh Hồ huynh đến trọng thương, ở dưới chân núi Hoa Sơn gây nhiều trọng án, nên phái Hoa Sơn từ trên xuống dưới không ai không muốn giết Điền mỗ cho nhanh để trừ hậu hoạn. Hôm nay, Điền mỗ cả gan đem rượu đến đây, Lệnh Hồ huynh lại thản nhiên uống, không sợ trong rượu có pha chất độc; chỉ có tính cách bậc đại trượng phu như vậy mới đáng uống thứ thiên hạ đệ nhất danh tửu này.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Điền huynh khéo nói đùa quá. Tiểu đệ và Điền huynh giao thủ với nhau đã hai lần, thầm biết phẩm hạnh của Điền huynh không được đứng đắn, nhưng chuyện ngấm ngầm hại người thì không thèm làm. Vả lại, võ công của Điền huynh cao hơn tiểu đệ rất nhiều, muốn lấy cái mạng tiểu đệ thì chỉ rút đao chém một cái, có gì khó đâu?
Điền Bá Quang cười ha hả, nói:
– Lệnh Hồ huynh nói rất phải nhưng đâu có biết hai vò rượu này không phải được Điền mỗ gánh từ Trường An đến thẳng núi Hoa Sơn đâu. Tiểu đệ đã gánh trăm cân rượu ngon này đến Thiểm Bắc gây ra hai vụ án, rồi sang Thiểm Đông gây thêm hai vụ nữa mới lên thẳng Hoa Sơn.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi, nghĩ thầm: Sao hắn lại làm vậy?
Lệnh Hồ Xung ngẫm nghĩ một lúc mới hiểu ra, nói:
– Thì ra Điền huynh không ngừng gây án là cố ý đánh lạc hướng sư phụ và sư nương của tiểu đệ, làm kế điệu hổ ly sơn để tiện lên thăm tiểu đệ. Điền huynh không quản khó nhọc như vậy không biết có điều gì chỉ giáo?
Điền Bá Quang cười nói:
– Lệnh Hồ huynh hãy thử đoán xem.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Không đoán nổi đâu.
Lệnh Hồ Xung rót một bát rượu rồi nói tiếp:
– Điền huynh, Điền huynh đến đây là khách của Hoa Sơn, ở nơi hoang sơn này không có vật gì phụng kính nên đành mượn hoa dâng Phật. Xin Điền huynh hãy uống một bát thiên hạ đệ nhất mỹ tửu này.
Điền Bá Quang nói:
– Xin đa tạ.
Nói xong hắn bưng bát rượu uống cạn. Lệnh Hồ Xung cũng uống cạn một bát. Cả hai cùng giơ bát không lên, cười ha hả rồi cùng để bát xuống. Đột nhiên, Lệnh Hồ Xung phóng chân phải ra, binh binh hai tiếng, hắn đá hai vò rượu to xuống vực thẳm. Một lúc sau, dưới đáy vực thẳm mới vọng lên hai tiếng choang choảng.
Điền Bá Quang kinh ngạc nói:
– Lệnh Hồ huynh đá hai vò rượu đi là vì sao vậy?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Điền huynh, đã không đồng đạo thì không thể mưu sự với nhau được. Điền huynh đã làm nhiều chuyện ác, giết hại người vô tội, trong võ lâm ai ai cũng nghiến răng căm giận. Lệnh Hồ Xung kính trọng Điền huynh là người tính tình phóng khoáng, không phải là kẻ đê tiện xấu xa nên mới cùng Điền huynh đối ẩm ba bát rượu lớn. Tình nghĩa chúng ta đến đây chấm dứt. Đừng nói hai vò rượu ngon này mà dù trân châu bảo ngọc khắp thiên hạ chất đống trước mặt tiểu đệ thì cũng khó có thể mua được Lệnh Hồ Xung này làm bằng hữu với Điền huynh.
Soạt một tiếng, Lệnh Hồ Xung rút trường kiếm ra rồi nói lớn:
– Điền Bá Quang, hôm nay tiểu đệ lại lãnh giáo cao chiêu khoái đao của Điền huynh đây.
Điền Bá Quang không rút đao mà lắc đầu cười nói:
– Lệnh Hồ huynh, kiếm thuật của quý phái cao cường rồi; chỉ vì Lệnh Hồ huynh tuổi còn nhỏ, hỏa hầu chưa đủ, huynh muốn động đao kiếm thì không phải là đối thủ của Điền mỗ đâu.
Lệnh Hồ Xung trầm ngâm, gật đầu nói:
– Điền huynh nói đúng lắm, có luyện thêm mười năm nữa thì Lệnh Hồ Xung này cũng không có cách gì giết được Điền huynh.
Nói rồi Lệnh Hồ Xung tra trường kiếm vào vỏ.
Điền Bá Quang cười ha hả nói:
– Người biết thời thế mới là người tuấn kiệt.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lệnh Hồ Xung này chẳng qua là một tên vô danh tiểu tốt trên giang hồ mà Điền huynh lại không ngại vất vả đến Hoa Sơn, xem ra chắc không phải vì muốn lấy đầu của tiểu đệ. Điền huynh và tiểu đệ là thù địch chứ không phải là bằng hữu; Điền huynh có ra lệnh điều gì, tiểu đệ cũng không nghe theo đâu.
Điền Bá Quang cười nói:
– Lệnh Hồ huynh còn chưa nghe lời tiểu đệ nói mà đã đánh phủ đầu trước rồi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy, bất luận Điền huynh bảo tiểu đệ làm chuyện gì, tiểu đệ cũng quyết không làm theo. Nhưng tiểu đệ đánh không lại thì dưới chân đã bôi dầu để có thể chạy trốn cho lẹ.
Lệnh Hồ Xung nói xong, thoáng một cái đã chuyển đến sau ngọn núi. Hắn biết Điền Bá Quang có ngoại hiệu là Vạn lý độc hành, di chuyển cực kỳ mau lẹ, đao pháp của hắn rất lợi hại, trong võ lâm thắng nổi hắn không được mấy người. Mười mấy năm nay hắn đã làm nhiều chuyện ác, những người trong bạch đạo đã mấy lần tụ tập để vây bắt hắn nhưng vẫn không đụng đến được một cọng lông của hắn bởi vì hắn rất mau lẹ, khinh công tuyệt đỉnh. Sở dĩ Lệnh Hồ Xung làm vậy là định dùng toàn lực mà chạy.
Không ngờ dù Lệnh Hồ Xung chuyển người rất nhanh, Điền Bá Quang lại còn nhanh hơn chàng nữa. Lệnh Hồ Xung mới chạy được mấy trượng thì đã thấy Điền Bá Quang đứng chặn trước mặt. Lệnh Hồ Xung lập tức quay người định chạy ra sườn núi phía trước rồi nhảy xuống nhưng chỉ chạy được hơn mười bước thì Điền Bá Quang đã đuổi kịp, dang tay cản trước mặt Lệnh Hồ Xung rồi cười ha hả. Lệnh Hồ Xung thối lui ba bước rồi quát lên:
– Trốn không được thì phải đánh thôi. Tiểu đệ gọi người đến giúp sức, Điền huynh đừng trách.
Điền Bá Quang cười nói:
– Nếu tôn sư Nhạc tiên sinh đến đây cũng phải thua đôi chân đã bôi dầu của Điền mỗ. Nhưng Nhạc tiên sinh và Nhạc phu nhân hiện giờ đang ở Thiểm Đông, cách đây hơn năm trăm dặm, không kịp chạy về cứu đâu. Sư đệ, sư muội của Lệnh Hồ huynh tuy nhiều, có kêu lên hết trên núi cũng không phải là địch thủ của Điền mỗ. Đàn ông thì uổng phí tính mạng còn phụ nữ thì… hi hi, hi hi.
Mấy tiếng cười hi hi của hắn dĩ nhiên là không hay ho gì.
Lệnh Hồ Xung sợ hãi thầm nghĩ: Đỉnh núi này cách tổng đường Hoa Sơn rất xa, ta có gọi to đến mấy bọn sư đệ sư muội cũng không cách nào nghe được. Tên này nổi danh là tên thái hoa dâm tặc, nếu tiểu sư muội bị hắn nhìn thấy được… chao ôi, nguy hiểm quá! Vừa rồi may mà ta không chạy thoát được, nếu không thì Điền Bá Quang tất sẽ đến tổng đường Hoa Sơn tìm kiếm ta; tiểu sư muội nhất định sẽ bị hắn bắt gặp. Dung mạo của tiểu sư muội vốn đã xinh đẹp lại lọt vào mắt của tên vạn ác tặc này, ta có chết vạn lần cũng không chuộc được lỗi lầm.
Lệnh Hồ Xung đảo mắt, đã quyết định chủ ý: Bây giờ chỉ còn giằng co với hắn để kéo dài thời gian, đấu lực không lại thì đấu trí. Phải kéo dài thời gian để chờ sư phụ và sư nương về mới mong bình yên vô sự. Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền nói:
– Thôi được, Lệnh Hồ Xung này đánh thì không lại Điền huynh, mà chạy trốn thì cũng không thoát, kêu người đến viện sức…
Lệnh Hồ Xung khoanh tay lại, làm ra vẻ không chống cự, ý nói ngươi muốn làm gì thì làm, ta chỉ còn trông ở mệnh trời.
Điền Bá Quang cười nói:
– Lệnh Hồ huynh, Lệnh Hồ huynh nghĩ lầm khi cho rằng Điền mỗ đến đây để làm khó dễ Lệnh Hồ huynh. Kỳ thực chuyện này rất có lợi cho Lệnh Hồ huynh, sau này Lệnh Hồ huynh nhất định sẽ cảm ơn tiểu đệ rất nhiều.
Lệnh Hồ Xung xua tay nói:
– Điền huynh đã làm nhiều chuyện ác, thanh danh tàn tạ, cho dù chuyện này tốt cho tiểu đệ đến đâu, Lệnh Hồ Xung vốn trong sạch, yêu sự liêm khiết, quyết không cùng hòa theo dòng dơ dáy của Điền huynh.
Điền Bá Quang cười nói:
– Điền mỗ là tên thái hoa dâm tặc, thanh danh tàn tạ; Lệnh Hồ huynh lại là đệ nhất chính nhân quân tử trong võ lâm và là đệ tử đắc ý của Nhạc tiên sinh, dĩ nhiên không thể cùng hòa theo dòng dơ dáy của tiểu đệ. Nhưng nếu có ngày hôm nay, hà tất nhắc chuyện trước đây làm gì?
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Cái gì gọi là có ngày hôm nay, hà tất nhắc chuyện trước đây?
Điền Bá Quang cười nói:
– Hôm ở trên Hồi Nhạn lâu thành Hành Dương, Lệnh Hồ huynh và Điền mỗ đã từng có cái nghĩa đồng tác cộng ẩm.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Xưa nay Lệnh Hồ Xung quý rượu như quý tính mạng, cùng uống với nhau vài bát rượu, sao có thể gọi là tình nghĩa được?
Điền Bá Quang nói:
– Trong Quần Ngọc viện ở thành Hành Sơn, Lệnh Hồ huynh và Điền mỗ đã từng cùng hưởng lạc thú với gái tơ.
Lệnh Hồ Xung nhổ phẹt một cái, nói:
– Lúc đó Lệnh Hồ Xung này đang bị trọng thương, được người ta cứu, phải tạm trốn trong Quần Ngọc viện để dưỡng thương, sao lại có thể nói chữ “hưởng lạc” được.
Điền Bá Quang cười nói:
– Nhưng ở trong Quần Ngọc viện, Lệnh Hồ huynh đã cùng hai thiếu nữ đẹp như hoa như ngọc vui thú chăn gối mây mưa rồi.
Lệnh Hồ Xung cả giận, lớn tiếng nói:
– Điền Bá Quang, ngươi ăn nói cho đàng hoàng một chút! Lệnh Hồ Xung ta hoàn toàn trong sạch, hai vị cô nương đó càng băng thanh ngọc khiết; Điền huynh cứ nói ra những lời bẩn thỉu như vậy thì tiểu đệ không khách sáo nữa đâu.
Điền Bá Quang cười nói:
– Hôm nay Lệnh Hồ huynh không khách sáo với tiểu đệ thì có sao đâu? Lệnh Hồ huynh muốn bảo vệ thanh danh trong sạch của phái Hoa Sơn thì lúc đó đối với hai tiểu cô nương nên khách khí tôn trọng một chút. Vậy tại sao trước mặt các anh hùng phái Thanh Thành, phái Hành Sơn, phái Hoa Sơn lại cùng chung chăn chung giường với hai tiểu cô nương đó, chân tay quờ quạng sờ mó, không có gì mà không làm? Ha ha, ha ha!
Lệnh Hồ Xung tức giận, vù một tiếng, đánh hắn một chưởng.
Điền Bá Quang cười, né tránh rồi nói:
– Lệnh Hồ huynh có muốn chối cãi chuyện này cũng không được đâu. Nếu lúc đó Lệnh Hồ huynh không phải đang ở trên giường, đối với hai tiểu cô nương này vẫn còn giữ nề nếp, không làm trò khinh bạc thì tại sao bây giờ các cô phải buồn rầu tương tư Lệnh Hồ huynh?
Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Tên này là hạng người vô lại, lời bậy bạ cỡ nào hắn cũng nói ra được, dây dưa mãi thì chẳng có cái gì hay ho, không biết hắn còn thốt ra bao nhiêu lời khó nghe nữa.
Hôm ở trên Hồi Nhạn lâu thành Hành Dương, hắn trúng ngụy kế của mình, đây là chuyện đại nhục nhã trong đời hắn và chỉ có chuyện nhục nhã này mới bịt miệng hắn được.
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy không giận nữa, cười nói:
– Tiểu đệ biết Điền huynh vượt ngàn dặm xa xôi đến Hoa Sơn để làm gì rồi. Thì ra Điền huynh phụng mệnh tiểu ni cô Nghi Lâm sư phụ đem hai vò rượu ngon này biếu cho tiểu đệ để báo đáp ơn tiểu đệ đã thay cô ta thu nhận một đồ đệ ngoan ngoãn. Ha ha, ha ha!
Điền Bá Quang thẹn đỏ mặt, định thần lại nghiêm nghị nói:
– Hai vò rượu này là cả tấm lòng của Điền mỗ, nhưng Điền mỗ đến Hoa Sơn quả thật có liên quan đến Nghi Lâm tiểu sư phụ.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Sư phụ là sư phụ, sao còn phân ra đại sư phụ và tiểu sư phụ làm gì? Bậc đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy, lẽ nào Điền huynh không nhận sao? Nghi Lâm sư muội là cao đồ danh môn phái Hằng Sơn, Điền huynh bái được vị sư phụ như vậy thật là phước lớn của Điền huynh đó. Ha ha!
Điền Bá Quang cả giận, định rút đao ra, nhưng hắn nhịn được, lạnh lùng nói:
– Lệnh Hồ huynh, công phu quyền cước của huynh thì không vào đâu, nhưng công phu khẩu thiệt thật là lợi hại.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đao kiếm, quyền cước đã không phải là đối thủ của Điền huynh thì đành phải đánh võ mồm thôi.
Điền Bá Quang nói:
– Điền Bá Quang này đành chịu thua cái miệng dẻo đeo của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ huynh, đi theo tiểu đệ thôi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không đi, có giết tiểu đệ cũng không đi.
Điền Bá Quang nói:
– Lệnh Hồ huynh có biết tiểu đệ muốn mời Lệnh Hồ huynh đi đâu không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không biết, lên trời cũng được, xuống địa ngục cũng được, Điền Bá Quang đi đến đâu thì Lệnh Hồ Xung quyết không đi theo tới đó đâu.
Điền Bá Quang từ từ lắc đầu nói:
– Tiểu đệ đến đây mời Lệnh Hồ huynh đi gặp Nghi Lâm tiểu sư phụ.
Lệnh Hồ Xung giật mình sợ hãi nói:
– Nghi Lâm sư muội lại rơi vào tay ác tặc Điền huynh rồi sao? Điền huynh là kẻ ngỗ nghịch phạm thượng, to gan dám vô lễ với sư phụ của mình.
Điền Bá Quang giận nói:
– Tôn sư của Điền mỗ là một người khác đã quy thiên nhiều năm rồi, từ nay về sau đừng đem Nghi Lâm tiểu sư phụ nhập nhằng vào chuyện này nữa.
Vẻ mặt hắn dần dần ôn hòa lại, nói tiếp:
– Nghi Lâm tiểu sư phụ ngày đêm thương nhớ Lệnh Hồ huynh. Điền mỗ và Lệnh Hồ huynh là bằng hữu, từ đây không dám có một chút thất kính với cô ta nữa. Lệnh Hồ huynh cứ an tâm về khoản này. Chúng ta đi thôi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không đi, ngàn lần không đi, vạn lần không đi.
Điền Bá Quang mỉm cười không nói gì. Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Điền huynh cười gì vậy? Võ công Điền huynh hơn hẳn tiểu đệ, tự cho mình bản lãnh cao cường, muốn bắt tiểu đệ xuống núi sao?
Điền Bá Quang nói:
– Điền mỗ đối với Lệnh Hồ huynh không có ý thù địch, không bao giờ nghĩ đến chuyện đắc tội với Lệnh Hồ huynh. Nhưng Điền mỗ đã hí hửng đến đây thì không muốn ỉu xìu mà bỏ về.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Điền Bá Quang, đao pháp của Điền huynh cao thâm muốn giết muốn đả thương tiểu đệ quả không khó. Nhưng Lệnh Hồ Xung này thà chết chứ không chịu nhục, bất quá là mất mạng dưới tay Điền huynh. Điền huynh muốn bắt tiểu đệ xuống núi thì vạn vạn lần không thể được.
Điền Bá Quang ngoẹo đầu nhìn hắn rồi nói:
– Điền mỗ đã nhận lời ủy thác của người ta, đến mời Lệnh Hồ huynh đi gặp Nghi Lâm tiểu sư phụ, tình thực không có ý gì khác. Lệnh Hồ huynh hà tất phải nói chuyện uổng mạng?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Chuyện gì tiểu đệ không muốn làm, đừng nói là Điền huynh mà ngay cả sư phụ, sư nương, Ngũ Nhạc minh chủ, hoàng đế, lão tử; không ai có cách gì ép buộc tiểu đệ được. Tóm lại là không đi, vạn lần không đi mà mười vạn lần cũng không đi.
Điền Bá Quang nói:
– Lệnh Hồ huynh đã cố chấp như vậy thì Điền mỗ đành phải đắc tội rồi.
Soạt một tiếng, hắn rút đao ra.
Lệnh Hồ Xung cả giận nói:
– Điền huynh có ý muốn bắt tiểu đệ là đã sớm đắc tội rồi. Hôm nay, ngọn núi sám hối này sẽ là nơi chôn xác Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung vừa nói xong, huýt lên một tiếng rồi rút kiếm ra.
Điền Bá Quang lùi lại một bước, chau mày nói:
– Lệnh Hồ huynh, huynh và tiểu đệ không thù không oán hà tất phải liều mạng đánh nhau làm gì? Chúng ta phải đánh cuộc thêm một lần nữa nhé.
Lệnh Hồ Xung mừng thầm: Muốn đánh cuộc, thì không có gì hay bằng, nếu ta thua, còn có thể dùng lời để cãi chày cãi cối với hắn được. Chàng bèn nói:
– Đánh cuộc cái gì? Ta thắng thì dĩ nhiên không phải đi, mà thua cũng không đi.
Điền Bá Quang mỉm cười nói:
– Đại đệ tử chưởng môn phái Hoa Sơn sợ muốn chết món khoái đao của Điền Bá Quang, ngay cả ba mươi chiêu cũng không dám tiếp.
Lệnh Hồ Xung tức giận, nói:
– Tiểu đệ sợ Điền huynh cái gì? Nhiều lắm bị Điền huynh chém một đao toi mạng là cùng.
Điền Bá Quang nói:
– Lệnh Hồ huynh, không phải Điền mỗ coi thường Lệnh Hồ huynh, chỉ e khoái đao của Điền mỗ đánh ra ba mươi chiêu Lệnh Hồ huynh tiếp cũng không nổi. Nếu Lệnh Hồ huynh đỡ nổi ba mươi chiêu khoái đao của Điền mỗ, Điền mỗ sẽ vỗ đít đi ngay, không dám ở đây ăn nói lôi thôi với Lệnh Hồ huynh nữa. Nhưng nếu Điền mỗ may mắn trong vòng ba mươi chiêu thắng được Lệnh Hồ huynh, Lệnh Hồ huynh phải theo Điền mỗ xuống núi, đi gặp Nghi Lâm tiểu sư phụ một chút.
Lệnh Hồ Xung xoay chuyển ý nghĩ rất nhanh, nhớ lại các chiêu đao pháp của Điền Bá Quang, bụng bảo dạ: Sau hai lần đấu nhau với hắn, ta đã đem thứ đao pháp chết tiệt của hắn ngẫm nghĩ nhiều lần, thỉnh giáo sư phụ và sư nương. Ta chỉ cần tự vệ, chẳng lẽ trong ba mươi chiêu mà không chống đỡ được sao?
Lệnh Hồ Xung quát:
– Được, ta chịu tiếp ba mươi chiêu của Điền huynh!
Soạt một tiếng, Lệnh Hồ Xung đã tấn công Điền Bá Quang. Chàng sử chiêu Hữu phụng lai nghi của bổn môn, lưỡi kiếm phát ra tiếng gió nghe vù vù, trước mặt Điền Bá Quang vô số làn kiếm quang chụp xuống.
Điền Bá Quang khen:
– Hảo kiếm pháp!
Nói xong, hắn vung đao gạt đỡ, thối lui một bước. Lệnh Hồ Xung hô lớn:
– Một chiêu!
Tiếp theo, Lệnh Hồ xuất chiêu Thương tùng nghênh khách tấn công tới. Điền Bá Quang lại khen:
– Hảo kiếm pháp!
Điền Bá Quang biết trong chiêu này ẩn chứa nhiều chiêu tiếp theo, không dám vung đao gạt đỡ, chỉ lạng người tránh né. Cách tránh né này thật ra không thể tính là một chiêu, nhưng Lệnh Hồ Xung cũng la lên:
– Hai chiêu!
Tay chàng không chút ngừng nghỉ, lại tấn công tiếp một chiêu nữa.
Lệnh Hồ Xung liên tục phát ra năm chiêu, Điền Bá Quang chỉ gạt đỡ hoặc né tránh, trước sau không phản kích. Lệnh Hồ Xung đã đếm đến tiếng năm. Đợi Lệnh Hồ Xung ra chiêu thứ sáu, trường kiếm từ dưới hất lên trên, Điền Bá Quang thét lên một tiếng rồi vung đao chém xuống. Đao kiếm chạm nhau, trường kiếm trong tay Lệnh Hồ Xung phải hạ thấp xuống. Điền Bá Quang la lên:
– Chiêu thứ sáu, chiêu thứ bảy, chiêu thứ tám, chiêu thứ chín, chiêu thứ mười!
Miệng hắn đếm một chiêu thì tay hắn chém một đao, liên tục đếm năm chiêu thì vung đao chém xuống năm nhát; chiêu số không thay đổi, mỗi chiêu đều nhắm thẳng đầu Lệnh Hồ Xung chém xuống.
Mấy đao này, đao nào cũng nặng như nhau, lúc đến đao thứ năm, Lệnh Hồ Xung cảm thấy toàn thân đều bị kình lực đối phương uy hiếp tưởng chừng nghẹt thở, cố sức giơ kiếm lên gạt đỡ. Một tiếng choang chát chúa, đao kiếm giao nhau, cánh tay chàng tê nhức, trường kiếm rơi xuống đất. Điền Bá Quang lại chém xuống một đao, Lệnh Hồ Xung nhắm hai mắt lại giả bộ không còn biết gì nữa.
Điền Bá Quang cười ha hả nói:
– Chiêu thứ mấy rồi ta?
Lệnh Hồ Xung mở mắt to, nói:
– Đao pháp của Điền huynh quả thật cao hơn tiểu đệ, uy lực nội kình ở cánh tay cũng mạnh hơn hẳn tiểu đệ. Lệnh Hồ Xung không phải là đối thủ của Điền huynh.
Điền Bá Quang cười nói:
– Vậy thì đi thôi!
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Không đi!
Sắc mặt Điền Bá Quang trầm xuống, nói:
– Lệnh Hồ huynh, Điền mỗ kính trọng Lệnh Hồ huynh là một bậc nam tử hán đại trượng phu, lời nói nặng như non, trong vòng ba mươi chiêu Lệnh Hồ huynh đã thua rồi, sao lại đổi ý?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu đệ vốn không tin Điền huynh có thể thắng được tiểu đệ, bây giờ tiểu đệ thua rồi nhưng tiểu đệ không hề nói sau khi thua thì cùng đi với Điền huynh. Tiểu đệ đâu có nói vậy?
Điền Bá Quang ngẫm nghĩ câu này là do mình tự nói ra, Lệnh Hồ Xung quả nhiên không nói. Hắn liền khua đao cười nhạt nói:
– Trong tên họ của Lệnh Hồ huynh có chữ “Hồ”, quả nhiên là đúng như vậy. Lệnh Hồ huynh chưa nói thì sao nào?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vừa rồi tiểu đệ thua là vì sức không bằng Điền huynh, trong lòng không phục. Tiểu đệ hãy nghỉ một lúc đã, chúng ta lại tỉ đấu tiếp.
Điền Bá Quang nói:
– Được rồi, Điền mỗ chỉ mong Lệnh Hồ huynh phải thua trong tâm phục khẩu phục.
Nói xong hắn ngồi trên tảng đá, bắt chéo hai tay, cười hi hi nhìn Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ:
– Tên ác tặc này nhất định muốn ta theo hắn xuống núi, không biết có gian kế gì. Hắn nói cái gì là đi thăm Nghi Lâm sư muội nhưng nhất định không phải như vậy. Hắn lại không phải là đồ đệ thật của Nghi Lâm sư muội, huống hồ Nghi Lâm sư muội vừa thấy hắn thì sợ đến nỗi muốn bất tỉnh nhân sự, đâu có thể giao việc đi mời cho hắn? Nhưng bây giờ ta bị hắn ràng buộc như vậy, làm sao thoát thân được đây?
Nghĩ đến chuyện vừa rồi, hắn liên tiếp chém sáu đao, đao pháp cũng bình thường nhưng uy lực mạnh mẽ không sao sánh được, thực sự chàng không biết nên chiết giải thế nào.
Bỗng nhiên, Lệnh Hồ Xung nảy ra một ý nghĩ: Đêm đó ở chốn hoang sơn, Mạc Đại tiên sinh dùng kiếm pháp Hành Sơn giết Đại tung dương thủ Phí Bân. Kiếm pháp Hành Sơn linh động khôn lường, lấy kiếm pháp đó đối địch với Điền Bá Quang, nhất định không thể thua hắn. Trên vách đá hậu động đã khắc vô số tuyệt chiêu của Hành Sơn kiếm pháp, ta hãy học ba bốn chục chiêu mới có thể địch lại Điền Bá Quang.
Chàng lại nghĩ: Hành Sơn kiếm pháp tinh diệu vô cùng, trong khoảnh khắc làm sao có thể học kịp, ta nghĩ vớ vẩn quá rồi.
Điền Bá Quang thấy sắc mặt Lệnh Hồ Xung trong phút chốc chợt vui chợt buồn, bèn cười nói:
– Lệnh Hồ huynh đã nghĩ ra quỷ kế phá giải đao pháp của Điền mỗ chưa?
Lệnh Hồ Xung nghe hắn nhấn mạnh hai chữ “quỷ kế” một cách rõ ràng, bất giác nổi giận, lớn tiếng nói:
– Muốn phá đao pháp của Điền huynh cần gì phải sử dụng quỷ kế? Điền huynh ngồi đây nói tầm bậy tầm bạ làm rộn cả lên khiến tiểu đệ bị rối trí, khó mà định thần được. Tiểu đệ muốn vào sơn động suy nghĩ một chút, xin Điền huynh đừng làm rộn nữa.
Điền Bá Quang cười nói:
– Lệnh Hồ huynh cứ đi mà suy nghĩ cho bể óc, Điền mỗ không thèm làm rộn nữa đâu.
Lệnh Hồ Xung nghe hắn nhấn mạnh hai chữ “bể óc” một cách đặc biệt, chửi thầm một tiếng rồi đi ngay vào sơn động.
Lệnh Hồ Xung đốt đuốc chui vào hậu động, đến trước vách đá quan sát các đồ hình khắc kiếm pháp của phái Hành Sơn, chỉ thấy từng đường kiếm pháp biến ảo khôn lường, nếu không tận mắt nhìn thấy thật không thể tin trên thế gian này lại có thứ kiếm pháp kỳ diệu như vậy. Chàng nghĩ thầm:
– Trong khoảnh khắc muốn học thứ kiếm pháp gì cũng khó thành, mình chỉ nên chọn vài chiêu biến hóa cổ quái nhất, ghi nhớ trong đầu, rồi đi ra đấu búa xua với hắn, không chừng có thể tấn công làm hắn trở tay không kịp.
Lệnh Hồ Xung vừa xem vừa cố nhớ, tuy thấy mỗi chiêu kiếm pháp của phái Hành Sơn đều bị đối phương phá giải, nhưng nghĩ Điền Bá Quang chắc không biết những cách phá giải này, nên không phải đắn đo nữa.
Lệnh Hồ Xung vừa nhìn vừa lấy tay vạch ra, học được hai mươi chiêu biến hóa đã mất hơn nửa canh giờ, chợt nghe tiếng Điền Bá Quang ngoài động vọng vào:
– Lệnh Hồ huynh, Lệnh Hồ huynh không chịu ra, Điền mỗ sẽ xông vào đấy.
Lệnh Hồ Xung cầm kiếm nhảy ra, nói to:
– Được, tiểu đệ tiếp Điền huynh ba chục chiêu nữa.
Điền Bá Quang cười nói:
– Lần này nếu Lệnh Hồ Xung thua nữa thì sao?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu đệ không phải chỉ thua một lần mà đã thua nhiều lần rồi. Lần này thì hãy xem đây.
Lúc Lệnh Hồ Xung nói câu này, trường kiếm trong tay đã như gió to bão lớn liên tiếp tấn công bảy chiêu. Cả bảy chiêu này chàng đều mới học được trên vách đá trong hậu động, quả thực là những chiêu biến ảo khôn lường.
Điền Bá Quang không ngờ kiếm pháp phái Hoa Sơn lại biến hóa đến như vậy; đến chiêu thứ mười thì lòng hắn ngấm ngầm kinh hãi. Hắn huýt lên một tiếng, vận đao trả đòn. Thế đao của hắn vô cùng mạnh mẽ, khiến cho kiếm pháp biến hóa của Lệnh Hồ Xung khó bề thi triển. Đến chiêu thứ mười chín, đao kiếm của hai bên giao nhau, trường kiếm của Lệnh Hồ Xung lại bị đánh văng đi.
Lệnh Hồ Xung nhảy ra hai bước, la lên:
– Điền huynh chỉ được cái mạnh chứ đao pháp không thắng được tiểu đệ đâu. Lần này, tiểu đệ bị thua nhưng lòng không phục, đợi tiểu đệ vào trong suy nghĩ ra ba mươi chiêu kiếm pháp rồi cùng với Điền huynh so tài cao thấp.
Điền Bá Quang cười nói:
– Bây giờ lệnh sư đang ở ngoài năm trăm dặm đi khắp nơi truy tìm dấu tích của Điền mỗ, trong vòng mười ngày hay nửa tháng nữa chưa chắc có thể trở về Hoa Sơn. Lệnh Hồ huynh cố tìm kế hoãn binh, tiểu đệ chỉ e rằng vô ích thôi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nếu mong vào sư phụ tiểu đệ để bắt Điền huynh thì còn gì gọi là anh hùng hảo hán? Tiểu đệ bệnh nặng mới khỏi, khí lực chưa hồi phục nên bị Điền huynh chiếm tiện nghi. Chỉ đấu bằng chiêu số chẳng lẽ ngay cả ba mươi chiêu của Điền huynh cũng không đỡ được sao?
Điền Bá Quang cười nói:
– Điền mỗ không chơi gác Lệnh Hồ huynh đâu. Thắng Lệnh Hồ huynh bằng đao pháp cũng được, thắng Lệnh Hồ huynh bằng sức lực cũng được, thua là thua mà thắng là thắng, đừng có khua môi múa mép tranh thắng nữa, chỉ vô ích thôi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Được, Điền huynh hãy đợi tiểu đệ, là nam tử hán đại trượng phu xin đừng nghĩ ngợi mà thêm sợ hãi. Bây giờ Điền huynh có bỏ chạy xuống núi, Lệnh Hồ Xung sẽ không truy đuổi Điền huynh đâu.
Điền Bá Quang cười ha hả, lùi hai bước, ngồi lên tảng đá.
Lệnh Hồ Xung trở vào hậu động, thầm nghĩ: Điền Bá Quang từng đả thương Thiên Tùng đạo nhân phái Thái Sơn, từng đấu với Nghi Lâm sư muội phái Hằng Sơn, vừa rồi mình lại lấy kiếm pháp phái Hành Sơn đấu với hắn. Vậy thì võ công phái Tung Sơn chắc hắn chưa biết.
Lệnh Hồ Xung tìm đến những đồ hình kiếm pháp phái Tung Sơn, học hơn mười chiêu rồi thầm nghĩ: Tuyệt chiêu của phái Hành Sơn vừa rồi còn hơn mười chiêu chưa sử ra, rồi lại sử vài chiêu kiếm pháp bổn môn, nói không chừng có thể làm hắn hoa mắt chóng mặt mới thú.
Không đợi Điền Bá Quang hô hoán, chàng liền ra khỏi động đòi tỉ đấu.
Những tuyệt chiêu của Lệnh Hồ Xung sử ra lúc thì kiếm pháp Tung Sơn, chợt đổi sang kiếm pháp Hành Sơn, trong phút chốc lại chuyển sang kiếm pháp Hoa Sơn. Điền Bá Quang không ngừng la lên:
– Kỳ quá, kỳ quá!
Nhưng lúc chiết đến hai mươi hai chiêu, bỗng nhiên Điền Bá Quang chỉ mũi đao vào cổ Lệnh Hồ Xung, ép hắn buông kiếm chịu thua.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lần thứ nhất tiểu đệ chỉ có thể tiếp năm chiêu của Điền huynh, động não được một lúc thì tiếp được mười tám chiêu của Điền huynh, lại nghĩ thêm một lúc nữa thì đã tiếp được hai mươi mốt chiêu của Điền huynh. Điền huynh, Điền huynh sợ chưa?
Điền Bá Quang cười nói:
– Điền mỗ sợ cái cóc gì?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu đệ chỉ cần tìm tòi suy nghĩ thêm vài lần nữa thì có thể tiếp được ba mươi chiêu của Điền huynh. Nếu suy nghĩ thêm vài lần nữa thì có thể lật ngược thế cờ chuyển bại thành thắng, lúc đó coi như dù tiểu đệ không giết Điền huynh, thì Điền huynh đã hỏng bét hết mọi mưu đồ rồi sao?
Điền Bá Quang nói:
– Điền mỗ đã phiêu bạt khắp giang hồ, bình sinh đã gặp nhiều đối thủ, nhưng chỉ có Lệnh Hồ huynh là người thông minh đa trí nhất, đáng tiếc võ công còn kém xa Điền mỗ. Lệnh Hồ huynh tiến bộ thần tốc nhưng nếu muốn trong vài canh giờ mà có thể thắng được Điền mỗ, thì trong thiên hạ quyết không có chuyện lạ đời như vậy.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lệnh Hồ Xung này cũng phiêu bạt khắp giang hồ, bình sinh trong đời cũng gặp nhiều đối thủ nhưng chỉ có Điền huynh là kẻ to gan ngông cuồng nhất, bây giờ thấy Lệnh Hồ Xung càng đấu càng mạnh mà lại không chịu bỏ trốn thì trong thiên hạ thật khó có người như vậy. Điền huynh, chịu khó đợi một chút, tiểu đệ lại đi vào trong suy nghĩ một lát rồi ra ngay.
Điền Bá Quang cười nói:
– Xin cứ tự nhiên.
Lệnh Hồ Xung từ từ đi vào trong động, miệng cứ nói ba hoa chích chòe với Điền Bá Quang tựa hồ như không lo lắng gì nhưng thực ra trong lòng càng lúc càng buồn rầu: Tên ác tặc này đến Hoa Sơn quyết không có ý đồ xấu xa. Hắn biết rõ sư phụ và sư nương đang truy sát hắn, sao lại hưỡn mà đến đây chiết chiêu tỉ võ với ta? Sau khi chế ngự được ta, dù hắn không muốn giết ta thì cũng phải điểm huyệt đạo ta khiến cho ta không nhúc nhích được mới phải, vì sao lần nào hắn cũng buông tha ta? Không hiểu hắn có dụng ý gì?
Chàng lại đoán Điền Bá Quang đến Hoa Sơn chắc có một âm mưu rất kinh khủng, nhưng rốt cuộc là âm mưu gì thì hắn nghĩ bể óc vẫn không tìm ra được nguyên nhân. Nếu muốn buộc chân ta để cho người khác giải quyết bọn sư đệ sư muội của ta, sao hắn không thẳng tay giết ta cho xong? Giết ta thì dễ dàng cho hắn biết mấy.
Lệnh Hồ Xung suy nghĩ mọi điều, nhảy dựng lên một cái rồi nghĩ: Xem ra phái Hoa Sơn ta đã gặp phải nguy hiểm to rồi. Sư phụ và sư nương không ở trên núi, Lệnh Hồ Xung là đại đệ tử của bổn môn, một mình ta gánh vác trách nhiệm nặng nề. Cho dù Điền Bá Quang có thế nào, ta phải tận lực tận trí cùng hắn giao đấu đến cùng, chỉ cần có cơ hội thì liền chơi cho hắn một kiếm.
Ý đã quyết, chàng lại quan sát đồ hình trên vách đá, lần này hắn dụng tâm ghi nhớ những chiêu tàn độc nhất.
Lúc Lệnh Hồ Xung bước ra khỏi động thì trời đã sáng. Lệnh Hồ Xung đã có ý giết người nhưng nét mặt lại giả bộ cười tỉnh bơ, nói:
– Điền huynh, Điền huynh giá lâm Hoa Sơn, tiểu đệ không tỏ hết tình của chủ nhà, thật là ái ngại vô cùng. Sau cuộc tỉ võ này, bất luận ai thua ai thắng, tiểu đệ sẽ mời Điền huynh nếm thử chút thổ sản của bổn sơn.
Điền Bá Quang cười nói:
– Đa tạ Lệnh Hồ huynh.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sau này khi tiểu đệ xuống núi gặp lại Điền huynh, tiểu đệ và Điền huynh phải quyết đấu sanh tử với nhau, không thể như ngày hôm nay đem chiêu số ra mà đánh cuộc rồi giả bộ lịch sự với nhau.
Điền Bá Quang nói:
– Có một bằng hữu như Lệnh Hồ huynh mà giết đi thì thật đáng tiếc. Nhưng nếu Điền mỗ không giết Lệnh Hồ huynh, võ công của Lệnh Hồ huynh tiến triển thần tốc thì sẽ có một ngày kiếm pháp của Lệnh Hồ huynh cao cường hơn Điền mỗ, Lệnh Hồ huynh lại không chịu tha cho tên thái hoa đại tặc này.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đúng vậy, hôm nay là dịp được mài giũa võ công, thực là cơ hội hiếm có. Điền huynh, tiểu đệ xuất chiêu đây, xin Điền huynh chỉ giáo thêm.
Lệnh Hồ Xung nói chưa dứt lời đã phóng kiếm đâm, mũi kiếm đâm tới cách Điền Bá Quang khoảng ba thước, bỗng nhiên phóng mạnh xiên qua mé trái. Điền Bá Quang vung đao gạt đỡ.
Lệnh Hồ Xung không đợi cho mũi kiếm đụng đến lưỡi đao, đột nhiên từ hạ bộ của hắn đâm lên. Chiêu này hiểm độc lợi hại vô cùng. Điền Bá Quang giật mình sợ hãi, tung mình nhảy vọt lên.
Lệnh Hồ Xung thừa thế đánh tới, ba kiếm véo véo, mỗi kiếm đều dùng hết sức lực của mình, tấn công vào những chỗ chết người của Điền Bá Quang. Điền Bá Quang đã mất tiên cơ, lâm vào thế yếu, vung đao đỡ Đông gạt Tây, bỗng nghe soạt một tiếng, trường kiếm của Lệnh Hồ Xung đã đâm vào đùi phải của Điền Bá Quang, xuyên thủng ống quần của hắn, thế kiếm cực kỳ nhanh, cách da Điền Bá Quang không đầy một tấc.
Tay phải Điền Bá Quang vung quyền lên, binh một tiếng, đã đánh Lệnh Hồ Xung ngã nhào. Hắn cả giận nói:
– Lệnh Hồ huynh, chiêu nào cũng muốn cướp lấy tính mạng của tiểu đệ, đây gọi là phép rèn luyện võ công sao?
Lệnh Hồ Xung ngồi dậy cười nói:
– Bất luận tiểu đệ tận lực thi triển kiếm pháp thế nào vẫn không động đến được một sợi lông của Điền huynh. Lực đạo quyền tay trái của Điền huynh thật là tuyệt diệu!
Điền Bá Quang cười nói:
– Xin lỗi Lệnh Hồ huynh!
Lệnh Hồ Xung cười ha ha rồi đi lên phía trước nói:
– Dường như Điền huynh đã đánh gãy hai xương sườn của tiểu đệ.
Hắn càng đi đến gần, bỗng nhiên chuyển kiếm qua tay trái rồi phóng tay đâm ra.
Chiêu kiếm này thật ngoài sức tưởng tượng, là tuyệt chiêu giết người của phái Hằng Sơn. Điền Bá Quang giật mình sợ hãi, mũi kiếm chỉ cách bụng dưới của hắn không được vài tấc. Trong lúc cấp bách, hắn vội lăn người né tránh. Lệnh Hồ Xung từ trên đánh xuống, liên tiếp đâm ra bốn kiếm tấn công khiến Điền Bá Quang luống cuống cả lên, trước mắt chỉ cần tấn công thêm vài chiêu nữa thì có thể cho hắn một kiếm chắc như đinh đóng cột. Không ngờ Điền Bá Quang đột nhiên phóng chân trái ra, đá vào cổ tay của Lệnh Hồ Xung, tiếp theo chân phải của hắn đá ra chiêu Uyên ương liên hoàn cước trúng bụng dưới của Lệnh Hồ Xung. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung tuột khỏi tay, chàng ngã bật ngửa về phía sau.
Điền Bá Quang nhảy lên, chỉ lưỡi đao vào yết hầu của Lệnh Hồ Xung, cười nhạt nói:
– Kiếm pháp thật tàn độc, Điền mỗ suýt chút nữa mất mạng dưới tay Lệnh Hồ huynh. Lần này chịu phục chưa?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đương nhiên là không phục. Chúng ta chỉ nói tỉ kiếm mà Điền huynh lại sử cả quyền cước. Khi xuất quyền, khi xuất cước, cách tính chiêu số này ra sao đây?
Điền Bá Quang buông đao, cười nhạt nói:
– Dù tính cả những chiêu quyền cước cũng chưa đủ con số ba mươi.
Lệnh Hồ Xung đứng phắt dậy, giận hỏi:
– Điền huynh, trong vòng ba mươi chiêu đánh bại tiểu đệ rồi, coi như võ công của Điền huynh đã cao cường rồi thì sao nào? Điền huynh muốn giết thì giết, sao lại chế giễu tiểu đệ? Điền huynh muốn cười thì cười, sao lại phải cười nhạt?
Điền Bá Quang lùi lại một bước, nói:
– Lệnh Hồ huynh chỉ trích đúng lắm, Điền mỗ đã sai rồi.
Rồi hắn chắp tay nói:
– Điền mỗ xin thành thật tạ lỗi, mong Lệnh Hồ huynh bỏ qua cho.
Lệnh Hồ Xung sửng sốt. Chàng không ngờ Điền Bá Quang thừa sức thắng mình mà lại chịu xin lỗi, liền chắp tay đáp lễ nói:
– Tiểu đệ không dám!
Chàng thầm nghĩ: Lễ hạ ư nhân, tất hắn có ý đồ gì đây. Hắn đối với mình kính trọng như vậy, không biết có dụng ý gì?
Lệnh Hồ Xung nghĩ hoài không ra, liền đánh bạo hỏi:
– Điền huynh, Lệnh Hồ Xung này có điều không rõ, không biết Điền huynh có chịu nói thẳng ra không?
Điền Bá Quang nói:
– Điền Bá Quang này không có chuyện gì mà không dám nói với người. Chuyện gian dâm đại đạo giết người phóng hỏa, người khác đều muốn che giấu chối cãi nhưng Điền Bá Quang này nói thì nói, không hề chối cãi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Điền huynh quả là một hảo hán tử quang minh lỗi lạc.
Điền Bá Quang nói:
– Ba chữ “hảo hán tử” Điền mỗ không dám nhận, rốt cuộc hành động và lời nói của Điền mỗ vẫn là một kẻ tiểu nhân.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Trên giang hồ, thật khó tìm được nhân vật như Điền huynh. Xin hỏi Điền huynh, Điền huynh dự mưu sâu xa, đánh lạc hướng sư phụ của tiểu đệ xuống núi, sau đó lên Hoa Sơn muốn tiểu đệ cùng đi theo Điền huynh. Điền huynh muốn tiểu đệ đi đến đâu? Có âm mưu gì?
Điền Bá Quang nói:
– Điền mỗ đã nói cho Lệnh Hồ huynh nghe rồi; mời Lệnh Hồ huynh đi gặp Nghi Lâm tiểu sư phụ để an ủi nỗi đau buồn tương tư, thỏa lòng mong nhớ của Nghi Lâm tiểu sư phụ.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Chuyện này thật ly kỳ khó tưởng tượng nổi. Lệnh Hồ Xung này không phải là đứa bé ba tuổi làm sao có thể tin được?
Điền Bá Quang giận nói:
– Điền mỗ kính trọng Lệnh Hồ huynh là một anh hùng hảo hán, Lệnh Hồ huynh lại coi Điền mỗ là thứ đê hèn vô liêm sỉ. Lời Điền mỗ nói sao Lệnh Hồ huynh lại không tin? Chẳng lẽ lời Điền mỗ nói ra không phải là người nói mà là rắm chó sao? Nếu Điền mỗ nói dối thì không bằng giống heo chó.
Lệnh Hồ Xung nghe hắn nói vô cùng thành thật, không có lý do gì để không tin, nhưng không kìm được tò mò, bèn hỏi:
– Chuyện Điền huynh bái tiểu sư phụ làm thầy chẳng qua chỉ là một câu nói giỡn, đâu phải là sự thật. Sao Điền huynh lại vì cô ta mà vượt ngàn dặm đến đây mời tiểu đệ xuống núi?
Vẻ mặt Điền Bá Quang tràn đầy xấu hổ, nói:
– Trong chuyện này còn có sự tình khác. Bản lĩnh cô ta nhỏ nhoi như vậy làm sao có thể làm sư phụ của Điền mỗ được?
Lệnh Hồ Xung chấn động tinh thần, ngẫm nghĩ: Chẳng lẽ Điền Bá Quang đối với Nghi Lâm sư muội có chút chân tình, quá ham muốn cô ta, lại hóa thành tình yêu sao?
Chàng nói:
– Điền huynh vừa thấy Nghi Lâm tiểu sư thái đã xiêu lòng rồi nên cam tâm tình nguyện nghe cô ta sai bảo chứ gì?
Điền Bá Quang lắc đầu:
– Lệnh Hồ huynh đừng đoán vớ vẩn, làm gì có chuyện đó.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Rốt cuộc trong chuyện này còn có nguyên do gì khác, mong Điền huynh nói ra đi.
Điền Bá Quang nói:
– Đây là chuyện xui xẻo của Điền Bá Quang, Lệnh Hồ huynh hà tất phải nhọc lòng truy cứu? Tóm lại, Điền Bá Quang không mời được Lệnh Hồ huynh xuống núi thì một tháng sau, sẽ bị chết thê thảm không thể tả được.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi, nhưng nét mặt hắn vẫn bình thản nói:
– Trong thiên hạ làm gì có chuyện cổ quái như vậy?
Điền Bá Quang liền cởi áo ra, để hở ngực, chỉ vào hai điểm đỏ dưới vú rồi nói:
– Điền mỗ bị người ta hạ độc thủ, mà lại là chất kịch độc, buộc phải lên đây mời Lệnh Hồ huynh đi gặp Nghi Lâm tiểu sư phụ. Nếu mời không được Lệnh Hồ huynh đến thì hai điểm đỏ dưới vú này một tháng sau sẽ mưng mủ rồi thối rữa ra, từ từ lan rộng thì không còn thuốc thang gì chữa trị được. Cuối cùng toàn thân sẽ thối rã dần, đến sau ba năm sáu tháng mới tan ra rồi chết.
Hắn nghiêm mặt, nói tiếp:
– Lệnh Hồ huynh, Điền mỗ nói thật cho Lệnh Hồ huynh nghe không phải để Lệnh Hồ huynh tỏ lòng thương hại mà muốn Lệnh Hồ huynh biết rõ. Cho dù Lệnh Hồ huynh kiên quyết không đi thì Điền mỗ cũng phải “mời” Lệnh Hồ huynh đi cho bằng được. Lệnh Hồ huynh vẫn một mực không chịu đi, thì Điền Bá Quang này chuyện gì cũng làm được hết. Điền mỗ không có chuyện ác gì mà không dám làm, cho nên việc liên quan đến sự sống chết của mình thì càng không thể kiêng kỵ bất cứ điều gì.
Lệnh Hồ Xung nghĩ: Xem ra chuyện này không phải là giả. Mình phải tìm mọi cách không đi theo hắn xuống núi, một tháng sau chất độc trên người hắn phát tác, thì sẽ trừ khử được tên ác tặc chuyên gây họa cho thế gian, mà không cần phải ra tay giết hắn.
Lệnh Hồ Xung liền cười ha hả nói:
– Không biết có vị cao thủ nào lại hành hạ độc ác khiến cho Điền huynh phải khổ sở như vậy? Người Điền huynh bị trúng độc mà không biết đó là chất độc gì, nhưng dù chất độc đó lợi hại đến đâu cũng có cách cứu giải chứ.
Điền Bá Quang đùng đùng nổi giận nói:
– Người điểm huyệt hạ độc không cần đề cập đến. Muốn giải tử huyệt kỳ độc này, trừ người hạ thủ ra, chỉ e trong thiên hạ duy nhất chỉ có Sát nhân danh y nhưng lão làm sao chịu giải cứu cho Điền mỗ được?
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Điền huynh chọn lời khéo cầu xin hoặc là dùng đao pháp bức bách thì chưa chắc lão không chịu giải cứu.
Điền Bá Quang nói:
– Lệnh Hồ huynh đừng nói quàng nói xiên nữa. Tóm lại, nếu Điền mỗ mời không được Lệnh Hồ huynh đi thì Điền mỗ phải chết mà Lệnh Hồ huynh cũng không được bình an đại cát đâu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dĩ nhiên rồi, nhưng Điền huynh phải đánh cho tiểu đệ tâm phục khẩu phục mới được. Theo tiểu đệ nghĩ, có được một người võ công đầy mình như Điền huynh đến đây thật không dễ, không chừng tiểu đệ sẽ đi theo Điền huynh xuống núi một chuyến. Điền huynh hãy đợi ở đây, để tiểu đệ lại vào trong động suy nghĩ một lúc.
Lệnh Hồ Xung đi vào sơn động, thầm nghĩ: Ngày hôm đó, ta đã từng giao thủ chiêu số với hắn, mỗi lần chiết giải ngoài ba mươi chiêu, sao lần này lại tệ hại quá cỡ vậy? Vì sao ta làm gì cũng không thể tiếp được ba mươi chiêu của hắn?
Lệnh Hồ Xung trầm ngâm một lúc mới hiểu ra: Đúng rồi, hôm đó mình vì cứu Nghi Lâm sư muội nên liều mạng đánh với hắn, không lo nghĩ chiết được ba mươi hay bốn mươi chiêu. Bây giờ, mình lại luôn miệng lo đếm một chiêu, hai chiêu, ba chiêu; trong đầu chỉ nghĩ làm sao tiếp đủ ba mươi chiêu của hắn nên bị phân tâm, kiếm pháp chiết giải phải giảm sút. Lệnh Hồ Xung ơi hỡi Lệnh Hồ Xung, sao mi ngu dốt vậy?
Lệnh Hồ Xung hiểu rõ được điểm này, tinh thần phấn chấn lên, lại chui vào hậu động nghiên cứu võ công trên vách đá.
Lần này chàng xem đến kiếm pháp của phái Thái Sơn. Chiêu kiếm Thái Sơn lấy cái sâu dày trầm trọng làm sở trường, trong một giờ hay vài khắc, bất luận thế nào cũng không thể học đến chỗ tinh túy được, vả lại những đường kiếm quy củ nghiêm cẩn vốn không phải là sở thích của chàng. Quan sát một hồi, Lệnh Hồ Xung định bỏ đi, bỗng liếc thấy đồ hình đoản thương phá giải các chiêu số của Thái Sơn kiếm pháp lại vô cùng nhanh nhẹn linh động. Chàng càng xem càng mê mẩn, bất giác chìm đắm, quên cả thời khắc đã qua bao lâu, cho đến lúc Điền Bá Quang không nhẫn nại được nữa, hô hoán bảo ra đấu thì cả hai mới lại động thủ đấu tiếp.
Lần này Lệnh Hồ Xung đã khôn ra, không thèm đếm chiêu số nữa, cứ vung kiếm vù vù nhằm vào Điền Bá Quang mà tấn công liên tiếp. Điền Bá Quang thấy từng chiêu kiếm của đối phương xuất ra liên tục, mỗi lần vào động suy nghĩ một lát trở ra thì lại có thêm những chiêu số mới lạ nên không dám ỷ y. Hai người ra chiêu rất nhanh, trong một thoáng đã chiết giải được không biết bao nhiêu chiêu. Đột nhiên, Điền Bá Quang nhảy lên một bước, giơ tay ra nhanh như chớp, chụp ngay cổ tay của Lệnh Hồ Xung. Hắn vặn tay của chàng rồi xoay lại chỉ ngay mũi kiếm vào yết hầu, chỉ cần nhấn thêm một chút nữa thì trường kiếm sẽ đâm xuyên qua cổ. Điền Bá Quang la to:
– Lệnh Hồ huynh thua rồi!
Cổ tay Lệnh Hồ Xung đau buốt nhưng miệng vẫn cố nói:
– Điền huynh thua rồi!
Điền Bá Quang nói:
– Làm sao mà Điền mỗ thua?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đây là chiêu thứ ba mươi hai rồi.
Điền Bá Quang hỏi:
– Chiêu thứ ba mươi hai ư?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng là chiêu thứ ba mươi hai!
Điền Bá Quang nói:
– Lệnh Hồ huynh đâu có đếm.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Miệng tiểu đệ không đếm ra nhưng bụng đã tính nhẩm, rõ ràng đây là chiêu thứ ba mươi hai.
Thực ra chàng có đếm điếc gì đâu? Ba mươi hai chiêu chỉ là thuận miệng nói càn mà thôi.
Điền Bá Quang buông cổ tay đối phương ra, nói:
– Không đúng! Chiêu thứ nhất Lệnh Hồ huynh tấn công như thế này, Điền mỗ phản kích lại như vầy; Lệnh Hồ huynh đỡ chiêu như vậy, Điền mỗ lại chém ra như vầy. Đó là chiêu thứ hai…
Điền Bá Quang diễn lại từng chiêu thức, đem những chiêu thức đấu vừa rồi diễn lại từ đầu đến cuối, đến lúc hắn giơ tay chụp được cổ tay Lệnh Hồ Xung thì chỉ mới chiêu thứ hai mươi tám. Lệnh Hồ Xung thấy hắn nhớ kỹ trong khi hai người chiết chiêu nhanh như chớp, rồi còn diễn lại được từng chiêu từng thức một cách rõ ràng, đúng thứ tự không lộn xộn chút nào, thật là một bậc kỳ tài hiếm thấy trong võ lâm. Bất giác Lệnh Hồ Xung sinh lòng khâm phục, giơ ngón tay cái lên, nói:
– Trí nhớ của Điền huynh thật dễ sợ, thì ra là tiểu đệ đếm sai. Tiểu đệ hãy đi suy nghĩ thêm một chút.
Điền Bá Quang nói:
– Khoan đã! Trong sơn động này chắc có điều gì cổ quái, Điền mỗ muốn vào xem thử. Chắc là có tàng trữ bí cấp võ học gì đó phải không? Tại sao mỗi lần Lệnh Hồ huynh vào động, sau khi đi ra lại có thêm nhiều chiêu thức cổ quái vậy?
Điền Bá Quang vừa nói vừa đi vào sơn động.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, nghĩ bụng: Nếu để hắn nhìn thấy các đồ hình trên vách đá thì không xong rồi.
Nét mặt Lệnh Hồ Xung lộ vẻ vui mừng, nhưng lập tức cố giấu sự vui mừng này đi, giả vờ vô cùng lo lắng, hai tay dang chặn lại, nói:
– Ở trong động cất giấu bí kíp võ học của tệ phái, Điền huynh không phải là đệ tử của phái Hoa Sơn thì không được vào trong quan sát.
Điền Bá Quang thấy sắc mặt của Lệnh Hồ Xung đang hớn hở liền nghiêm lại, sau đó thì lộ vẻ lo âu, rõ ràng là hắn đang giả vờ, thầm nghĩ: Hắn nghe mình nói muốn vào sơn động, tại sao hắn lại tỏ ra hớn hở rồi sau đó lại giả bộ buồn rầu; rõ ràng là hắn muốn che giấu sự thật bên trong. Hắn chỉ muốn mình xông vào động. Có lẽ hắn bố trí sẵn cơ quan cạm bẫy gì đó hoặc là hắn nuôi rắn độc, thú dữ. Mình không thể mắc bẫy của hắn được.
Điền Bá Quang bèn nói:
– Thì ra trong động có bí cấp võ học của quý phái, Điền mỗ không vào đấy quan sát đâu.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu, hiện rõ vẻ thất vọng.
Từ đó về sau Lệnh Hồ Xung vào động mấy lần, lại học được rất nhiều chiêu thức kỳ dị, không những chỉ có tuyệt chiêu của Ngũ Nhạc kiếm phái mà học luôn không ít các cách phá giải các chiêu thức của Ngũ Nhạc kiếm phái. Vì chàng học quá vội vàng, chưa sử thuần thục, mới học đó đã muốn quên rồi, độ cao minh của kiếm pháp chỉ có hạn nên cuối cùng cũng không tiếp nổi ba mươi chiêu khoái đao của Điền Bá Quang. Điền Bá Quang thấy Lệnh Hồ Xung cứ vào động suy nghĩ, sau khi ra càng có thêm những quái chiêu tuy lộn xộn nhưng vô cùng tinh diệu, tuy không đắc dụng, không khắc chế được mình, nhưng chiêu thức rất tinh diệu mà bình sinh hắn chưa hề thấy qua, thực khiến cho người ta khâm phục. Lòng hắn càng nghĩ càng khó hiểu, lại mong muốn Lệnh Hồ Xung đấu với mình càng lâu càng tốt khiến hắn được mở rộng kiến thức về kiếm pháp ngoài sức tưởng tượng này. Khi đã qua giờ Ngọ, Điền Bá Quang lại chế ngự được Lệnh Hồ Xung thêm một lần nữa, hắn nghĩ bụng: Dường như lần này hắn sử kiếm phần lớn là kiếm pháp của phái Tung Sơn, phải chăng trong sơn động có cao thủ của Ngũ Nhạc kiếm phái tụ tập? Mỗi lần hắn vào động thì có cao thủ truyền một số chiêu thức để hắn ra đấu với ta. Chao ôi, may mà ta không tùy tiện vác mặt vào động, nếu không thì làm sao đối phó với các cao thủ của Ngũ Nhạc kiếm phái?
Hắn nghĩ vậy rồi liền hỏi:
– Sao họ không ra đây?
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Ai không ra?
Điền Bá Quang nói:
– Các vị cao thủ tiền bối ở trong động dạy kiếm pháp cho Lệnh Hồ huynh đó.
Lệnh Hồ Xung sửng sốt, nhưng chàng chợt hiểu được ý của Điền Bá Quang bèn cười ha hả, nói:
– Những vị tiền bối này không… không muốn động thủ với Điền huynh đâu.
Điền Bá Quang tức giận lớn tiếng:
– Hừ, những người này hám danh, tự phụ mình thanh cao, không thèm quá chiêu với dâm tặc Điền Bá Quang này. Lệnh Hồ huynh mời họ ra đây; chỉ cần một đấu một, dù họ có khí phách oai danh đến đâu cũng chưa chắc đã là đối thủ của Điền Bá Quang.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu cười nói:
– Nếu Điền huynh có hứng thú thì đừng ngại vào động lĩnh giáo mười một vị tiền bối trong đó. Các vị rất nể trọng đao pháp của Điền huynh lắm đó.
Lệnh Hồ Xung biết Điền Bá Quang làm nhiều chuyện ác đức trên giang hồ nên có rất nhiều thù địch, bình thường hắn hành sự rất cẩn thận. Hắn đoán rằng trong động có cao thủ của các phái, thì nói gì đi nữa hắn cũng không dám mò vào động. Lệnh Hồ Xung không nói mười vị cao thủ, mà nói gạt mười một vị, để hắn tin là chuyện có thật.
Quả nhiên Điền Bá Quang hừ lên một tiếng nói:
– Cao thủ tiền bối cái cóc gì? Chỉ e rằng đó là hư danh mà thôi, nếu không thì tại sao hết lần này đến lần khác, họ truyền vô số chiêu thức cho Lệnh Hồ huynh mà cuối cùng Lệnh Hồ huynh cũng không đỡ nổi chiêu của Điền mỗ.
Điền Bá Quang tự cho mình khinh công tuyệt đỉnh, hắn thầm nghĩ nếu như mười một vị cao thủ cùng xông ra, hắn dù đấu không lại nhưng đào tẩu thì ngon lành. Huống chi, họ đã là cao thủ tiền bối của Ngũ Nhạc kiếm phái thì phải biết tự trọng thân phận, quyết sẽ không liên thủ để đối phó với hắn.
Lệnh Hồ Xung nghiêm mặt nói:
– Đó là do Lệnh Hồ Xung này tư chất ngu muội, nội lực nông cạn, không học được những điều tinh xảo quan trọng trong võ công của các vị tiền bối. Điền huynh phải ăn nói cẩn thận một chút, đừng chọc giận họ. Bất kỳ một vị tiền bối nào ra tay thì Điền huynh không cần đợi một tháng chất độc phát tác, mà chỉ trong nháy mắt Điền huynh đã đầu một nơi mình một nẻo ngay trên ngọn núi này.
Điền Bá Quang nói:
– Lệnh Hồ huynh nói thử xem, trong động gồm có những vị tiền bối nào?
Lệnh Hồ Xung làm ra vẻ bí mật, nói:
– Những vị tiền bối này quy ẩn đã lâu, không muốn can dự vào chuyện ngoài đời. Việc họ tụ tập ở đây không liên can gì đến chuyện đối phó với Điền huynh hết. Danh hiệu của các vị lão nhân gia không thể tiết lộ ra ngoài mà nếu như có nói ra thì Điền huynh cũng không biết. Thôi thì không nói vậy.
Điền Bá Quang thấy sắc mặt Lệnh Hồ Xung ra chiều cổ quái, rõ ràng là hắn cố gắng che giấu, bèn nói:
– Trong bốn phái Tung Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn, Hằng Sơn, có lẽ còn có các vị cao nhân tiền bối võ công không tầm thường nhưng trong quý phái thì chẳng còn một vị nào nữa. Đó là sự thật mà mọi người trong võ lâm đều biết. Lệnh Hồ huynh nói năng huênh hoang khó làm ai tin được.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy, trong phái Hoa Sơn đúng là không còn bậc cao nhân tiền bối nào tồn tại và sống đến ngày nay. Năm xưa, tệ phái không may bị ôn dịch hoành hành, những vị cao thủ đời trước đều bị chết hết, nguyên khí phái Hoa Sơn bị tổn thương nặng nề. Nếu không thì quyết không thể có chuyện để Điền huynh đơn thương độc mã xông lên núi đánh phái Hoa Sơn của tiểu đệ thua te tua, không còn sức để chống đỡ. Điền huynh nói rất đúng, trong sơn động đúng là không có cao thủ nào của tệ phái cả.
Điền Bá Quang nhận định L ệnh Hồ Xung đang lừa bịp mình; y giương Đông kích Tây, giả bộ nói phái Hoa Sơn không còn vị cao thủ tiền bối nào tồn tại thì nhất định phải có. Hắn ngẫm nghĩ một lúc, chợt nhớ ra một người liền vỗ đùi nói lớn:
– À, Điền mỗ nhớ ra rồi! Thì ra là Phong Thanh Dương lão tiền bối.
Lệnh Hồ Xung nhớ lại ba chữ lớn “Phong Thanh Dương” khắc trên vách đá, kìm không được tâm trạng thầm kinh hãi, lần này không phải là giả dối, vì chàng cho rằng chẳng lẽ vị Phong tiền bối này bây giờ hãy còn sống ư? Chàng liền lờ đi, vội xua tay nói:
– Điền huynh đừng nói bừa bãi. Phong… Phong…
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ trong tên của Phong Thanh Dương có chữ “Thanh”, thì nhân vật này cao hơn sư phụ hắn một bậc vì tên của sư phụ hắn có chữ “Bất”, liền nói tiếp:
– Phong thái sư thúc tổ đã quy ẩn lâu rồi, không biết đã đi đâu và cũng không biết lão nhân gia có còn trên thế gian này không, sao Điền huynh biết người đến Hoa Sơn này? Điền huynh không tin, có ngon thì tự mình đi vào trong động xem chơi, sẽ biết rõ trắng đen ngay thôi.
Điền Bá Quang càng nghe Lệnh Hồ Xung dụ mình vào động thì hắn càng sợ bị mắc bẫy, nghĩ thầm: Y hoảng hốt như vậy, quả nhiên ta đoán không sai. Nghe nói tiền bối phái Hoa Sơn năm xưa trong một đêm đã chết hết, chỉ còn có một mình Phong Thanh Dương không có mặt trên núi, mới thoát khỏi cơn đại nạn. Nếu lão còn sống ở trên đời thì cũng đã khoảng bảy tám chục tuổi rồi, dù võ công có cao hơn thì kình lực cũng bị suy giảm. Một lão già khú đế thì ta còn sợ cái con khỉ gì?
Hắn nói:
– Lệnh Hồ huynh, chúng ta đã đấu với nhau một ngày một đêm rồi, nếu tiếp tục, Lệnh Hồ huynh cuối cùng cũng không đấu lại ta đâu, dù có Phong thái sư thúc tổ của Lệnh Hồ huynh liên tục chỉ điểm, chung quy cũng vô dụng. Tốt hơn hết là Lệnh Hồ huynh hãy ngoan ngoãn theo Điền mỗ xuống núi.
Lệnh Hồ Xung định trả lời, bỗng nghe có tiếng người lạnh lùng nói:
– Nếu ta thực sự chỉ điểm cho hắn vài chiêu, chẳng lẽ không thu phục được thằng nhóc con họ Điền được sao?