Chương 06: Tử y nữ lang

Hồ Phỉ liền trở lại gốc cây tháo dây cương, lên ngựa đi về phía bắc. Dọc đường chàng lưu tâm tìm tung tích Phụng Thiên Nam và Ngũ Hổ môn, nhưng tuyệt không thấy manh mối chi hết.

Một hôm Hồ Phỉ vượt qua núi Ngũ Lĩnh tiến vào địa giới tỉnh Hồ Nam. Nơi đây dọc đường đều là đất đỏ, so với phong vật ở Lĩnh Nam thì khác rất nhiều. Chàng giục ngựa đi mau qua Mã Gia phố, khi sắp đên bến Thê Phụng bỗng nghe phía sau vọng tới tiếng vó ngựa. Chàng quay đầu lại thì thấy một con ngựa trắng tung vó phi nước đại nhanh như gió đang tiến đến. Chàng liền dừng ngựa tránh sang ven đường. Vừa đứng yên thì bên tai nghe đánh “vù” một tiếng. Con ngựa trắng đã lướt qua tưởng chừng như bốn vó không chạm đất. Người cưỡi trên lưng ngựa là một cô gái mình mặc áo tía. Vì ngựa chạy nhanh quá nên Hồ Phỉ không nhìn rõ diện mạo, chỉ thấy chiếc lưng thon mảnh dẻ mà tư thế cưỡi ngựa lại rất vững vàng. Hồ Phỉ giật mình kinh hãi tự hỏi:

– Con ngựa trắng này rất giống con ngựa Triệu tam ca đã cưỡi ngày trước. Sao nay nó lại đến Trung Nguyên?

Lòng chàng vẫn tưởng nhớ Triệu Bán Sơn, muốn rượt theo để hỏi cho rõ. Chàng vừa mở miệng hô “Này!” thì con ngựa trắng đã chạy xa rồi. Dưới bóng liễu buông, chàng phảng phất nhìn thấy thiếu nữ áo tía quay đầu nhìn lại. Con ngựa trắng vẫn không dừng vó. Chỉ trong khoảnh khắc cả người lẫn ngựa đều mất hút. Hồ Phỉ nổi tính hiếu kỳ, giục ngựa đuổi theo, nhưng con ngựa trắng cước trình mau lẹ như vậy thì dù chàng có giục ngựa mình đi nhanh gấp đôi hay chạy suốt ngày đêm không nghỉ cũng chẳng thể nào đuổi kịp. Chàng rượt theo là vì muốn làm hết sức mình mà thôi.

Ngày thứ ba Hồ Phỉ đến Hành Dương một thị trấn lớn ở Tương Nam, cách núi Nam Nhạc trong dãy Hành Sơn không xa mấy. Dọc đường toàn những cây cổ tùng, trên trời mây trắng bao quanh đỉnh núi khiến lòng người lâng lâng thư thái. Hồ Phỉ vừa vào cửa nam thành Hành Dương, đột nhiên nhìn thấy con ngựa trắng buộc dưới mái hiên một phạn điếm. Con ngựa mình dài chân cao, tướng mạo thần tuấn. Chính là con khoái mã mà chàng đã gặp ở giữa đường. Hồ Phỉ mấy năm trước kết giao với Triệu Bán Sơn, đã nhìn rất kỹ con ngựa này, bây giờ nhìn lại thấy đúng là con ngựa cũ thì vui mừng không xiết. Chàng vội vàng chạy vào phạm điếm để kiếm tử y nữ lang nhưng chẳng thấy bóng nàng đâu.

Hồ Phỉ toan hỏi thăm tiểu nhị, nhưng lại nghĩ mình công nhiên dò hỏi hành tung một thiếu nữ chưa quen biết là một điều đại bất tiện. Chàng liền ngồi xuống cửa quán gọi lấy cơm rượu ăn uống. Tiểu nhị đưa cơm rượu ra. Người Hồ Nam ăn cơm bằng đũa dài, bát lớn. Món ăn nào cũng cay sè, mùi vị đậm đà, thật có phong cách hào mại, hợp với tính Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thủng thẳng uống rượu, nghĩ cách trò chuyện với tử y nữ lang. Chàng tự nhủ:

– Cô này cưỡi con bạch mã của Triệu tam ca tất có mối quan hệ sâu xa với y. Sao ta không đem bông hoa hồng của Triệu tam ca tặng cho đặt lên bàn này? Cô ta mà trông thấy tự nhiên tìm đến ta để trò chuyện.

Tay mặt chàng cầm chung rượu, tay trái thò ra lấy bọc nhưng chụp vào chỗ không. Chàng quay đầu nhìn lại cái bọc đã biến mất. Rõ ràng chàng đặt cái bọc trên bàn ở phía sau, mới chớp mắt sao đã mất được? Hồ Phỉ đảo mắt nhìn mọi người trong phạn điếm thì chẳng thấy nhân vật nào có vẻ khả nghi. Trong lòng rất lấy làm lạ chàng tự nhủ:

– Nếu là kẻ ăn cắp tầm thường kiểu thuận tay dắt dê thì tất nhiên ta phải biết. Người này đã lấy cắp không một tiếng động, nếu đột nhiên họ ám toán phía sau tất ta không tránh khỏi độc thủ. Xem chừng bữa nay ta chạm trán với một cao nhân ở Hồ Nam rồi.

Chàng liền hỏi chủ quán:

– Cái bọc của tại hạ để ở bàn bên sao lại không thấy nữa? Tiểu huynh đệ có nhìn thấy ai lấy không?

Nhà quán nghe nói khách mất đồ lập tức nhốn nháo cả lên. Chủ quán lên tiếng:

– Quí khách có tiền bạc hay đồ vật xin tự trông coi lấy. Trừ phi đồ vật gửi trong quầy, còn không thì tiểu điếm không chịu trách nhiệm.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Có ai đòi bồi thường đâu? Ta chỉ hỏi ngươi có nhìn thấy ai lấy hay không mà thôi.

Chủ quán nói:

– Không có đâu! Không có đâu! Trong quán làm sao mà biết được kẻ cắp? Khách quan không nên ăn nói hồ đồ.

Hồ Phỉ biết lằng nhằng với họ cũng vô ích. Chàng tự nhủ:

– Đến mình còn chưa phát giác thì y biết làm sao được?

Đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi thì chủ quán lại nói:

– Chỗ cơm rượu khách quan dùng cộng một đồng năm phân bạc. Xin khách quan thanh toán cho.

Trong bọc để mấy trăm lạng bạc lấy ở sòng bạc của Phụng Thiên Nam. Còn bên mình chẳng có một xu. Chàng thấy chủ quán đòi tiền không khỏi ngẩn người ra. Chủ quán cười lạt nói tiếp:

– Nếu khách quan không đem theo tiền trong mình thì cũng không cần phải giả vờ mất bọc.

Hồ Phỉ không muốn phân bua với gã nữa. Chàng ra hiên giắt ngựa của mình thì không còn thấy con ngựa bạch đâu nữa. Chàng không khỏi sửng sốt nghĩ thầm:

– Con ngựa trắng này với kẻ lấy cắp cái bọc của ta tất có liên quan.

Chàng liền sinh thêm lòng cảnh giới đối với tử y nữ lang. Chàng đưa con ngựa cho chủ quán nói:

– Con vật này trị giá ít ra cũng được tám chín lạng bạc, tại hạ gửi lại làm tin, đợi tại hạ lấy được tiền sẽ đem đến trả đủ.

Nhà quán lập tức mặt mày rạng rỡ, cười cầu tài đáp:

– Cứ từ từ, có gì đâu mà vội. Chúc khách quan lên đường bình an.

Hồ Phỉ muốn chạy đi kiếm tông tích con ngựa trắng thì chủ quán ra tiễn, cười nói:

– Khách quan! Bữa nay khách quan đã hết tiền xài, vậy tại hạ chỉ cho khách quan một cách bảo đảm có chỗ ăn chỗ ngủ.

Hồ Phỉ không thích lắm chuyện muốn bỏ đi, nhưng chàng lại nghĩ:

– Cách nào? Phải chăng hắn chỉ cho mình cách tìm cái bọc?

Rồi chàng gật đầu. Chủ quán cười nói:

– Chuyện này trăm năm chưa chắc đã được gặp một lần. Khách quan gặp vận hên rồi. Nguyên Vạn lão quyền sư ở Phong Diệp trang mới tạ thế cách đây bảy ngày, bữa nay bắt đầu khai tang.

Hồ Phỉ hỏi:

– Cái đó có liên can gì đến tại hạ?

Chủ quán cười đáp:

– Liên can lắm chứ.

Hắn quay lại quầy lấy một đôi nến, một thẻ hương đưa cho Hồ Phỉ, nói:

– Ở đây đi thẳng về hướng bắc không đầy ba dặm thì đến một nơi có gần mấy trăm cây phong bao quanh một trang viện lớn. Chính là Phong Diệp trang. Khách quan cầm gói hương nến này điếu tang, vào vái trước linh đường Vạn lão quyền sư, dập đầu cho  kêu thì thế nào người trong trang cũng bố trí cho chỗ ăn chỗ ở. Sáng mai khách quan lại bảo thiếu tiền thì ít nhất người ta cũng đưa một, hai lạng bạc làm lộ phí.

Hồ Phỉ nghe nói người mới chết là Vạn lão quyền sư thì nghĩ ngay lão cùng là người võ lâm, nên cũng muốn tới viếng. Chàng liền hỏi:

– Sao ở Phong Diệp trang người ta hiếu khách như vậy?

Chủ quán đáp:

– Trong vòng mấy trăm dặm dải Tương Nam còn ai không biết Vạn lão quyền sư là người khẳng khái trượng nghĩa. Có điều hồi sinh tiền Vạn lão quyền sư thích kết giao anh hùng hảo hán. Khách quan lại dường như không biết võ nghệ, nhưng nay nhân lúc lão gia chết rồi đến kiếm chác cũng không sao.

Hồ Phỉ toan nổi nóng nhưng chàng lại cười, chắp tay nói:

– Đa tạ quán chủ có lòng chỉ bảo.

Rồi chàng hỏi:

– Thế thì những bậc anh hùng bạn hữu với Vạn lão quyền sư hồi sinh tiền, bữa nay có đến điếu tang không?

Chủ quán đáp:

– Sao lại không? Khách quan đến coi để mở cho rộng tầm mắt cũng hay lắm.

Hồ Phỉ nghe chủ quán nói hợp ý, liền lấy hương nến ra đi về phía bắc. Chàng đi chưa đầy ba dặm quả đúng như lời chủ quán, đã đến một tòa đại trang viện xung quanh có hằng trăm cây phong vây bọc. Ngoài cổng trang có treo đèn lồng giấy trắng viết chữ màu lam. Trên cổng lớn có treo tờ cáo phó. Hồ Phỉ tiến qua cổng, ban đánh trống liền trỗi khúc nhạc đón khách. Trong tòa linh đường rộng lớn, hai bên treo đầy đối trướng bằng vải trắng Hồ Phỉ tiến vào trước linh cữu quỳ xuống dập đầu, nghĩ bụng:

– Bất luận tiền bối là ai, nhưng đã là bậc tiền bối võ lâm thì cũng đáng nhận của vãn bối mấy lạy.

Lúc chàng quỳ lạy, ba người hiếu tử mặc áo trắng quỳ xuống đáp lễ. Hồ Phỉ đứng lên, ba người hiếu tử vái chàng. Chàng cũng vái lại thì thấy trong ba người hai người thân thể thô tráng, còn một người vừa thấp vừa nhỏ nhưng có vẻ tinh nhanh. Tướng mạo ba người không ai giống ai. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Ba cậu con này của Vạn lão quyền sư chắc không phải do một bà sinh ra, mà chắc mỗi người là con của một bà thê thiếp.

Chàng quay ra đã thấy trong đại sảnh chật ních khách đến viếng tang. Một nửa dường như là thân sĩ ở trong làng, một nửa là hào sĩ võ lâm. Chàng nhìn quanh một lượt thì thấy chẳng quen biết một người nào. Cha con Phụng Thiên Nam không có ở đây, mà tử y nữ lang cũng vắng bóng.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Nơi đây là chỗ quần hào tụ hội. Ta thử chú ý dò la không chừng có đươc tin tức về cha con Phụng Thiên Nam ở Ngũ Hổ môn cũng nên.

Trong khoảnh khắc, cơm chay được được dọn ra, trên nhà đại sảnh phía đông và phía tây, cả thảy đến bảy chục bàn. Hồ Phỉ ngồi ở một bàn nhỏ, chú ý dò la động tĩnh các khách viếng tang. Chàng thấy phần đông người già đều lộ vẻ buồn rầu thương xót. Còn bọn trẻ lại cao đàm hùng luận, cười nói như không, chắc là không có mối giao tình gì với Vạn lão quyền sư nên lão chết mà họ không lộ vẻ bi thương.

Bỗng thấy ba người hiếu tử kính cẩn đưa hai vị võ quan mời vào mâm thủ tịch, ngồi ở hai chỗ ở đầu bàn trông ra ngoài. Hai vị võ quan mặc sắc phục của bọn Ngự tiền thị vệ. Hồ Phi sửng sốt vì nhận ra hai người này chính là Hà Tư Hào và bạn đồng hành của hắn.

Ngoài ra mâm thủ tịch còn ba vị võ sư cao tuổi cũng ngồi hướng ra ngoài, có vẻ là những bậc tiền bối võ lâm. Ba người hiếu tử ngồi ở phía dưới bồi tiếp. Sau khi tân khách an tọa rồi, hiếu tử thấp lùn đứng dậy nâng chung tạ khách đến điếu tang. Sau y, tiếp đến người hiếu tử thứ hai rồi người thứ ba đều lần lượt tạ khách. Ngôn ngữ cùng cử động của cả ba hiếu tử giống hệt nhau. Tân khách phải ba bốn lượt đứng lên đáp lễ, không khỏi cảm thấy phiền phức. Hồ Phỉ đang lấy làm lạ thì nghe một gã nhỏ tuổi ngồi cũng bàn khẽ hỏi:

– Ba vị hiếu tử tạ khách cùng một lúc là đủ rồi. Giả tỷ Vạn lão quyền sư sinh hạ mười cậu con mà làm thế này thì phải cảm tạ đến mười lần hay sao?

Một võ sư trung niên cười nhạt đáp:

– Vạn Hạc Thành mà có được một con niên cũng đủ rồi còn nói chi đến mười?

Gã nhỏ tuổi lấy làm lạ hỏi:

– Chẳng lẽ ba vị hiếu tử kia không phải con Vạn lão gia?

Võ sư trung niên đáp:

– Té ra tiểu ca không phải là thân nhân bạn bè với Vạn lão quyền sư mà cũng đến điếu tang. Mối nhiệt tình này thật là hiếm có.

Gã nhỏ tuổi đỏ mặt lên, cúi đầu xuống không nói nữa. Hồ Phỉ cười thầm nghĩ bụng:

– Té ra gã này cũng như mình, đánh hơi đến kiếm ăn.

Võ sư trung niên lại nói tiếp:

– Tại hạ có nói cho tiểu ca nghe cũng không sao, phòng khi có người hỏi đến tiểu ca còn biết đường mà trả lời cho khỏi bẽ mặt. Vạn lão quyền sư công thành danh toại, đáng tiếc là không có con nối dõi. Lão nhân gia thu nhận ba tên đồ đệ này, người thấp lùn tên gọi Tôn Phục Hổ, là đại đệ tử của Vạn lão gia. Hán tử mặt trắng tên gọi Uất Trì Liên là nhị đệ tử. Đại hán mặt đỏ tên gọi Dương Tân, là tam đệ tử. Cả ba người đều được lão quyền sư truyền nghệ võ công khá lắm. Nhưng bọn họ là người thô lậu không hiểu lễ tiết, vì thế mà đại sư huynh tạ rồi, nhị sư huynh cũng ra theo, tam sư đệ sợ thất lễ lại tạ một lần nữa.

Gã nhỏ tuổi đỏ mặt gật đầu lãnh giáo. Thực ra ba vị sư huynh đệ đều cảm tạ khách mỗi người một lần, nguyên nhân chính không phải vì họ không hiểu lễ tiết mà vì một cớ khác.

Hồ Phỉ tuy không ngồi gần mâm thủ tịch nhưng chàng chú ý lắng tai nghe đến câu chuyện giữa hai vị Ngự tiền thị vệ, hy vọng trong câu chuyện nghe họ nhắc tới Ngũ Hổ môn ở Phật Sơn và tiết lộ hành tung của cha con Phụng Thiên Nam.

Bỗng nghe Hà Tư Hào dõng dạc lên tiếng:

– Tại hạ vâng lệnh Phúc đại soái đến mời Vạn lão quyền sư uy danh lừng lẫy cõi Tương Nam đến kinh sư tham dự cuộc đại hội các chưởng môn, để võ công của Vi Đà môn của phái Thiếu Lâm được phô diễn trước mặt các võ sư trong thiên hạ. Không ngờ Vạn lão sư lại mắc bệnh mà thác. Thật là vô cùng đáng tiếc!

Mọi người cùng thở dài phụ họa. Hà Tư Hào lại hỏi:

– Vạn lão quyền sư dù đã qua đời nhưng Vi Đà môn của Thiếu Lâm là một tông phái nổi danh trong võ lâm, nên chưởng môn chẳng thể không tới được. Không hiểu chưởng môn nhân của quý phái sẽ do vị nào kế nhiệm?

Bọn Tôn Phục Hổ ba người đưa mắt nhau không nói gì. Sau một lúc tam sư đệ là Dương Tân lên tiếng:

– Gia sư mắc chứng trúng phong. Bệnh phát tác rồi lão nhân gia không biết gì nữa, nên chưa kịp để lại di ngôn.

Tên thị vệ kia nói:

– À! À! Nếu thế thì các vị tiền bối tôn trưởng trong quý môn ắt đã có chủ ý rồi.

Nhị đệ tử là Uất Trì Liên nói:

– Mấy vị sư bá sư thúc ở bản môn tản mát khắp nơi, chưa có tin tức gì về.

Gã thị vệ kia nói:

– Như vậy thì việc lập chưởng môn ắt phải mất một phen bàn luận. Đại hội chưởng môn do Phúc đại soái chủ trì đã định vào ngày rằm tháng tám. Từ đây đến ngày đó còn hai tháng nữa, quý môn lo chuẩn bị đi là vừa.

Ba vị sư huynh đệ luôn miệng khen phải. Một vị lão quyền sư nói:

– Xưa nay không lập hiền ắt phải lập trưởng. Vạn lão quyền sư không để lại di ngôn, thì chức chưởng môn phái thuộc về đại đệ tử Tôn huynh đây.

Tôn Phục Hổ mở miệng cười, về mặt cực kỳ đắc ý. Một lão quyền sư khác lại nói:

– Lời nói bảo phải lập trưởng không phải là sai. Dù Tôn huynh nhập môn có sớm hơn, nhưng luận về niên kỷ thì Uất Trì huynh lại lớn hơn một tuổi. Uất Trì huynh lớn tuổi lại mẫn cán nếu Vi Đà môn được y chấp chưởng tên tuổi sẽ lừng lẫy vang dội, vong linh Vạn lão quyền sư ở chốn suối vàng ắt được an ủi rất nhiều.

Uất Trì Liên lấy tay áo chùi mắt, lộ vẻ nhớ tới sư phụ, trong lòng rầu rĩ. Một vị lão quyền sư thứ ba lại xua tay nguầy nguậy, nói:

– Không đúng, không đúng! Giá là ngày thường lão hủ không nói làm gì, nhưng tại đại hội ở Bắc Kinh phen này, các môn phái đều đến trổ tài. Nếu chưởng môn phái Vi Đà mà không có bản lĩnh áp đảo cả đương trường, há chẳng phải làm hỏng thanh danh cả mấy trăm năm của Vi Đà môn hay sao? Theo ý kiến của lão hủ thì chức vị chưởng môn nhân phải là tay hảo thủ võ công đệ nhất của bản phái mới đảm đương nổi.

Lão nói xong câu này thì mọi người không ngớt gật đầu, đồng thanh khen phải. Vị lão võ sư lại nói tiếp:

– Ba vị sư huynh đây đều là đệ tử đắc ý của Vạn lão quyền sư, mỗi vị đều giỏi một tuyệt nghệ riêng, người võ lâm ai cũng khâm phục. Nhưng nhân vật siêu quần xuất chúng lại là người đến sau cùng mà đứng trước nhất, tức tiểu sư đệ Dương Tân.

Võ sư thứ nhất đằng hắng một tiếng rồi đáp:

– Cái đó chưa chắc. Về võ học hễ luyện thêm một năm thì công phu cao thâm thêm một năm. Dương huynh tuy tư chất thông minh nhưng về công lực mà nói thì hãy còn kém Tôn huynh xa. Vẻ công phu đao thương quyền cước không thể miễn cưỡng được.

Võ sư thứ hai nói:

– Muốn thủ thắng lúc lâm địch, thì đấu trí là cao, thứ đến mới đấu lực. Tiểu đệ là người ngoài cuộc, nhưng cứ bình tâm mà luận thì Uất Trì Liên huynh túc trí đa mưu hơn hết.

Ba vị võ sư mỗi người nói một câu, ban đầu còn khách khí, về sau đi đến chỗ tranh luận đỏ mặt tía tai, mỗi lúc một to tiếng. Mấy chục bàn tân khách đều dừng lại không ăn uống, lắng nghe ba người tranh luận.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Té ra ba vị võ sư này đều chịu lời ủy thác của người ta đến làm thuyết khách và dĩ nhiên ai cũng đi khoe cái tốt của ba tên đệ tử.

Trong bọn điếu khách có đến hơn trăm người là đệ tử Vi Đà môn và phần lớn là đồ tôn của Vạn lão quyền sư. Người nào cũng ủng hộ sư phụ mình. Ban đầu họ còn nói khẽ châm chích cãi nhau, sau không nhịn được cũng lớn tiếng gây lộn. Những bạn bè cùng tân khách có người phân giải khuyên can, có người bảo thủ ý kiến của mình, có người ủng hộ bạn bè chỉ trích đối phương làm cho đại sảnh rối loạn cả lên. Lại còn một số người thô lỗ nóng nẩy đập bàn thóa mạ nhau, tưởng chừng như sắp múa đao sử quyền đánh nhau đến nơi.

Vạn lão quyền sư chết chưa lạnh xác mà bọn đệ tử đã tranh giành chức vị chưởng môn như muốn gây nên cảnh huynh đệ tương tàn. Tên thị vệ ngồi mâm thủ tịch nghe mọi người tranh chấp vẫn không nói gì. Hắn nhìn linh vị của Vạn lão quyền sư mỉm cười. Sau hắn thấy cuộc tranh chấp mỗi lúc một gay go liền đứng dậy lên tiếng:

– Xin các vị hãy ngừng cuộc tranh luận để nghe tiểu đệ nói một câu.

Mọi người tôn trọng hắn là một viên quan liền dừng ngay cuộc cãi vã lại.

Tên thị vệ đó hỏi:

– Vị lão sư vừa rồi nói rất đúng. Chưởng môn phái Vị Đà phải là nhân vật võ công cao nhất bản phái. Các vị có tán đồng điều đó không?

Quần hào đều đồng thanh khen phải.

Tên thị vệ lại nói:

– Võ công ai cao ai thấp không thể tranh hơi suông bằng miệng được. Chỉ cần tỷ đấu một trận đao thương quyền cước thì lập tức phân biệt cao thấp được ngay. Hay ở chỗ ba vị sư huynh đệ đồng môn đây bất luận thắng hay bại cũng không được để mất hòa khí, mà cũng không được làm tổn thương đến uy phong của Vi Đà môn. Chúng ta mời linh vị của Vạn lão quyền sư đứng ra chủ trì cuộc tỷ võ hôm nay, để anh linh của lão nhân gia trên trời chọn lấy một chưởng môn nhân, tưởng cũng là một giai thoại võ lâm.

Mọi người nghe nói đều hoan hô, mỗi người tranh nhau nói một câu:

– Vậy là công bình lắm rồi!

– Đây cũng là địp để quần hào biết được tuyệt nghệ của Vi Đà môn.

– Dùng võ công để phân thắng bại thì mới tránh khỏi tranh luận về sau.

– Thị Vệ lão gia từ Bắc Kinh tới nên kiến thức quả cao hơn người một bậc.

Tên thị vệ thấy quần hào đều phụ họa đề nghị của mình thì vô cùng đắc ý, lại nói tiếp:

– Huynh đệ đồng môn tỷ võ là chuyện rất thông thường. Tại hạ mong ba vị ưng thuận cho một điều.

Trong ba vị sư huynh sư đệ, Uất Trì Liên là người linh lợi hơn hết, lên tiếng đáp:

– Đại nhân chỉ bảo thế nào thì bọn huynh đệ tại hạ tuân theo như vậy.

Tên thị vệ lại nói:

– Đã lấy võ công để phân giải cao thấp thì bản lãnh vị nào cao thâm hơn hết sẽ làm chưởng môn. Sau này không ai được dị nghị hay tranh chấp nữa.

Ba người đồng thanh đáp:

– Dĩ nhiên là thế!

Cả ba người đều có môn sở trường về võ công. Người ta thường nó: “Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”. Chúng tự lượng dù không nắm vững phần thắng nhưng nếu ra sức chiến đấu thì cũng có thể áp đảo được hai huynh đệ đồng môn.

Tên thị vệ lại nói:

– Xin các vị cho dọn trống chỗ đi, để mọi người cùng được chiêm ngưỡng công phu tinh vi của Vi Đà môn.

Mọi người giúp mỗi người một tay dọn dẹp bàn ghế, tạo một khoảng trống rất rộng ngay trước linh vị. Không ai để ý đến chuyện ăn uống nữa. Chỉ số ít phàm ăn cúi đầu tiếp tục đánh chén.

Tên thị vệ kia hỏi:

– Hai vị nào đấu trước? Có phải Tôn huynh cùng Uất Trì huynh không?

Tôn Phục Hồ đáp:

– Được! Tiểu đệ xin phô cái dở ra.

Một tên đệ tử đưa đao cho hắn. Tôn Phục Hổ đón lấy đao tiến lại trước linh vị sư phụ dập đầu ba cái, rồi quay lại nói:

– Mời Uất Trì Liên sư đệ.

Uất Trì Liên thầm tính:

– Nếu động thủ với đại sư huynh thì thắng rồi còn phải đấu với tam sư đệ chi bằng để hai người đấu trước cho sức cùng lực kiệt trận rồi mình hãy đấu trận tiếp theo, hễ thắng là thành công ngay.

Gã liền chắp tay đáp:

– Võ nghệ của tại hạ đa không bằng sư huynh lại kém cả sư đệ. Vậy chức chưởng môn này không dám tranh giành. Có điều các vị lão sư đã ra lệnh, dĩ nhiên phải miễn cưỡng bồi tiếp các vị sư huynh sư đệ một vài chiêu. Xin để Dương sư đệ ra chiêu trước.

Dương Tân tính khí thô lỗ nóng nảy, lớn tiếng:

– Được! Để tiểu đệ ra đấu trước!

Hắn rút một thanh đơn đao trong tay tên đệ tử rồi xăng xái tiến ra quên cả việc dập đầu trước linh vị sư phụ. Hắn giữ kín môn hộ, tay phải cầm đao đặt ngang vai bên trái, tay trái thành móc câu, ngồi xuống cẳng chân phải, chân trái đưa hờ ra ngoài. Đây là chiêu “Hộ kiên đao” một chiêu khởi đầu trong “Lục hợp đao pháp”

Vi Đà môn của Thiếu Lâm có ba môn tam tuyệt về quyền, đao, thương. Lục hợp gồm tinh, khí, thần là là “nội tam hợp”, thủ, nhãn, thân là “ngoại tam hợp”, dùng nhãn hợp với tâm, tâm hợp với khí, khí hợp với thân, thân hợp với tay, tay hợp với chân, chân hợp với bụng. Toàn thân nội ngoại hồn nhiên nhất thể.

Trong bọn tân khách chẳng thiếu gì đại hành gia võ học. Họ thấy Dương Tân cầm ngang thanh đao đứng thủ thế, thân định khí ngưng đều nghĩ bụng:

– Võ công tên này cũng không phải kém.

Tôn Phục Hổ đao giấu cạnh sườn bên mặt, tay trái thành chưởng từ trong bụng xoay ra đánh thành chiêu “Cổn thủ thích trát”, miệng hô “Mời tiểu đệ!”.

Võ sư ngồi cùng bàn với Hồ Phỉ đã đứng tuổi có vẻ là một tay nội gia. Lão quay lại nhìn tên nhỏ tuổi đứng bên nói:

– Đơn đao thì coi tay, song đao coi bước đi. Sử đơn đao thì tay phải cầm đao, đao có đao pháp, tay trái không cầm vật gì mà giữ yên được là khó. Vì thế muốn xem công phu luyện đao của người nào, chỉ cần nhìn tay trái của họ xuất chưởng có lợi hại hay không là biết đủ trình độ cao thấp rồi. Vị Tôn huynh xoay tay trái, trong thủ có công, công lực hùng hậu biết chừng nào!

Hồ Phỉ nghe lão nói đúng, liền khe khẽ gật đầu. Trong khi hai người đang trò chuyện thì bên ngoài Tôn Phục Hổ và Dương Tân đã giao đấu. Hai cây đao chạm nhau thỉnh thoảng bật lên những tiếng loảng xoảng. Vị võ sư trung niên lại nói:

– Đao pháp của hai người đều theo bí quyết của sáu chữ “Triển, Mật, Câu, Cát, Phá, Phách” rất đúng pháp độ.

Gã nhỏ tuổi hỏi:

– Như thế nào gọi là “Toản mẫu câu đổ”?

Võ sư trung niên cười lạt đáp:

– Trong đao pháp làm gì còn có chuyện “Toản mẫu câu đổ”? Lưỡi đao hướng ra ngoài gọi là Triển, hướng vào trong là Mật, đao đi theo đường cong gọi là Câu, đưa lên đầu chém xuống gọi là Phá, cả hai tay vung đao bổ xuống là Phách, để ngang bàn tay mà chém gọi là Cát.

Gã nhỏ tuổi đỏ mặt lên không dám hỏi nữa. Đao pháp của Hồ Phỉ tuy đã tinh kỳ nhưng trong đao phổ tổ truyền của chàng không đề cập đến những chi tiết tỉ mỉ này, mà chỉ chú trọng đến những biến chiêu tinh diệu để bảo vệ thân mình và đả thương kẻ địch. Bây giờ nghe võ sư trung niên giảng rành mạch, chàng tự nhủ:

– Té ra trong đao pháp còn rất nhiều điều hay. Nhưng coi đao pháp của hai vị sư huynh sư đệ kia chẳng có chỗ nào là đặc biệt.

Hai người càng đấu càng hăng. Tôn Phục Hổ mau lẹ linh hoạt, Dương Tân hơn ở chỗ uyển lực trầm hùng nhất thời khó mà phân cao thấp được. Đang lúc giao đấu một người đột nhiên từ ngoài cửa lớn tiến vào cất giọng lanh lảnh:

– Đao pháp của Vi Đà môn sao lại có hạng bị thịt này? Đừng chường mặt ra với đời nữa.

Hai vị Tôn, Dương giật mình kinh hãi, đồng thời thu đao nhảy lùi lại. Hồ Phỉ đã nhìn thấy người mới đến là một cô gái nhỏ tuổi, mình mặc áo tía, thân hình mảnh dẻ. Chính là thiếu nữ cưỡi ngựa bạch đã gặp trên đường. Trên lưng nàng đeo cái bọc mà chàng bị mất cắp ở phạn điếm. Thiếu nữ khuôn mặt trái dưa, cặp lông mày dài, nước da hơi ngăm mà không mất đi vẻ tú lệ, gương mặt sáng rực.

Hồ Phỉ kinh hãi tự hỏi:

– Thiếu nữ này tuổi mới suýt soát bằng ta, chẳng lẽ võ công cao thâm đến thế? Sao nàng lấy cắp cái bọc mà ta lại không mảy may hay biết?

Tôn, Dương hai người nghe thiếu nữ buông lời cuồng ngạo, trong lòng tức giận, nhưng khi dừng đao lại thấy người mới đến là một nữ lang thướt tha yểu điệu thì rất đỗi ngạc nhiên, không nói nên lời.

Nữ lang nói:

– Trong “Lục hợp đao pháp” tinh diệu có bốn chữ  “Hư, Thực, Xảo, Đả”. Các vị đâm chém vụng về ngốc nghếch như vậy thì còn chi là đao pháp của Vi Đà môn, còn chi là Lục hợp đao? Không ngờ oai danh của Vạn lão quyền sư lừng lẫy xa gần mà lại sản sinh ra bọn đệ tử kém cỏi này.

Thanh âm nàng ngân vang lại trong trẻo, khiến mọi người đều chăm chú lắng nghe. Giả tỷ người nói câu đó là một hán tử thì hai gã Tôn, Dương đã phát tác rồi, nhưng đây lại là một nữ lang thân hình mảnh dẻ tựa hồ đi không lướt cỏ, chẳng giống người hiểu võ công chút nào. Chúng nghe nàng nói yếu quyết bốn chữ “Hư, Thực, Xảo, Đả” trong “Lục hợp đao pháp” không sai chút nào nên không biết đối đáp ra sao. Uất Trì Liên tiến lên chấp tay nói:

– Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh của cô nương:

Nữ lang đằng hắng một tiếng chứ không trả lời. Uất Trì Liên lại nói:

– Bữa nay tệ môn lựa chọn chưởng môn trước linh vị tiên sư. Mời cô nương ngồi chơi.

Gã vừa nói vừa xòe tay mời. Nữ lang khẽ nhướn cặp lông mày xinh đẹp lên hỏi:

– Vi Đà môn của Thiếu Lâm là môn phái có danh tiếng mà lại lựa chọn chưởng môn trong những người này, há chẳng phải làm tiêu tán uy danh từ Vô Tướng đại sư trở xuống đến các liệt tổ ư?

Nàng nói câu này khiến cho các bậc tiền bối trên chốn giang hồ hiện diện cũng không khỏi kinh hãi. Nguyên Vô Tướng đại sư là một cao tăng đắc đạo ở chùa Thiếu Lâm. Ngày trước Vô Tướng đại sư đã nghiên cứu hai môn “Vi Đà chữ” và “Lục hợp chưởng pháp”, trở thành tổ sư khai sơn của Vi Đà môn. Không ngờ một cô gái đầy vẻ vếu ớt thế kia lại biết rõ gốc ngọn của sự kiện võ lâm này.

Uất Trì Liên chắp tay hỏi:

– Cô nương đã vâng lệnh vị tiền bối nào tới đây? Đối với tệ môn có điều chi chỉ giáo?

Gã vẫn nói bằng một giọng khách khí, nhưng Tôn Phục Hổ và Dương Tân không nhẫn nại được nữa, chỉ vì chúng nghe thấy nữ lang đưa ra những lời nói kinh nhân nên tạm thời chưa phát tác.

Nữ lang đáp:

– Ta muốn đến là đến, hà tất phải vâng lệnh ai? Giữa ta và Vi Đà môn có mối quan hệ sâu xa, mà thấy các vị đấu với nhau chẳng ra trò trống gì nên phải đến nói mấy câu.

Bây giờ Dương Tân không nhẫn nại được nữa lớn tiếng hỏi:

– Cô có mối quan hệ gì với Vi Đà môn mà sao chẳng một ai nhận ra? Bọn ta đương có việc khẩn yếu. Cô nên tránh ra, đừng ở đó làm vướng chân tay bọn ta.

Hắn quay lại nhìn Tôn Phục Hổ nói:

– Đại sư huynh! Huynh đệ ta chưa phân thắng bại, bây giờ chúng ta tái đấu.

Gã bước chân trái ra, thanh đơn đao đặt ở bên hông toan phóng chiêu. Nữ lang nói:

– Chiêu này là “Hoành thân lạn yêu trảm”, hư bộ lại bước thành quá thực, ngưng bộ lại không được vững. Mục quang chẳng nhìn đối phương mà lại nhìn chếch về phía ta. Sai bét! Sai bét!

Tôn Phục Hổ, Uất Trì Liên, Dương Tân cả ba người đều sửng sốt nghĩ bụng:

– Mấy câu này thị nói rất đúng, chẳng khác lời dạy của sư phụ truyền đạt ngày trước. Chẳng lẽ thị hiểu “Lục hợp đao pháp” thật ư?

Hà Tư Hào từ lúc nghe nữ lang đối đáp với Uất Trì Liên vẫn ngồi yên lặng, bây giờ mới lên tiếng:

– Cô nương từ đâu tới? Tôn sư là ai?

Nữ lang chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn, mà còn hỏi ngược lại:

– Bữa nay Vi Đà môn của Thiếu Lâm chọn chưởng môn có phải không?

Hà Tư Hào đáp:

– Đúng thế!

Nữ lang lại hỏi:

– Chỉ cần là người bản môn, hễ ai võ công cao nhất là chấp chưởng môn phái người ngoài không được dị nghị. Có đúng thế không?

Hà Tư Hào đáp:

– Đúng thế!

Nữ lang nói:

– Hay lắm! Vậy bữa nay ta tranh đoạt chức chưởng môn phái Vi Đà.

Mọi người thấy nàng vẻ mặt trịnh trọng, lời nói nghiêm trang thì không khỏi kinh ngạc nhìn nhau. Hà Tư Hào thấy nữ lang xinh đẹp liền nổi lòng tiếc ngọc thương hương, cười đáp:

– Nếu cô nương đã luyện qua võ nghệ thì xin chờ lát nữa mời cô nương biểu diễn mấy đường quyền cước để quần hào mở rộng tầm mắt. Bây giờ hãy nhường cho ba vị sư huynh đệ phân cao thấp được chăng?

Nữ lang đằng hắng một tiếng rồi đáp:

– Bọn họ bất tất phải tái đấu. Cứ từng người một ra tỷ đấu với ta là xong.

Nàng trỏ vào một tên đệ tử Vi Đà môn nói:

– Cho ta mượn thanh đao.

Tuy nàng nhỏ tuổi, người lại mảnh dẻ, nhưng giọng nói uy nghiêm khiến người nghe khó bề kháng cự. Tên đệ tử kia ngần ngừ một chút rồi cầm đao đưa tới, nhưng hắn không xoay chuôi đao mà lại hướng mũi đao về phía nữ lang. Nữ lang đưa hai ngón tay nhẹ nhàng cặp lấy sống đao khẽ nhấc lên, ngón tay út hơi lộ ra ngoài, tựa hồ cô gái chốn phòng khuê đang thêu thùa.

Nàng dùng hai ngón tay kẹp thanh đao lơ lửng lạnh lùng hỏi:

– Hai vị cùng ra một lúc ư?

Dương Tân tuy lỗ mãng nhưng trước nay vẫn coi thường phái nữ, lại nghĩ bụng hảo hán không nên đấu với đàn bà con gái, gã tự nhủ:

– Ta đường đường là một nam tử hán, có lý đâu lại động thủ với nữ nhân? Huống chi thiếu nữ này điên điên khùng khùng, có vẻ tà môn. Ta không lý gì đến thị là hay hơn.

Hắn liền cầm đao lùi lại nói:

– Đại sư ca! Sư ca hãy phát lạc thị đi!

Tôn Phục Hổ ngần ngừ đáp:

– Không, không…

Gã chưa dứt lời thì nữ lang đã hô lớn:

– Yến tử lược thủy!

Hai ngón tay mặt nàng nới ra cho đơn đao rớt xuống, bàn tay trái nàng hạ thấp xuống chụp lấy chuôi đao. Tay trái nàng đỡ cổ tay phải, lưỡi đao từ dưới đưa lên trên, tay trái thành hình móc câu. Tư thế này chính là một chiêu trong “Lục hợp đao pháp” chính tông của Vi Đà môn. Tôn Phục Hổ không ngờ nàng ra chiêu mau lẹ như vậy, nhưng đường đao này hắn đã miệt mài rèn luyện hai chục năm tinh thục hơn ai hết, hắn liền trả lại bằng chiêu “Kim tỏa trụy địa”. Nữ lang hô:

– Quan Bình hiến ấn.

Nàng xoay mũi đao phóng ngược lên. Theo lý thì nàng đã sử chiêu “Yến tử lược thủy” đưa đơn đao từ dưới phóng lên, cho nên chiêu thứ hai kế tiếp không nên sử “Quan Bình hiến ấn” vẫn đưa đao từ dưới lên trên. Ngờ đâu nàng lật nghiêng lưỡi đao lên qua đỉnh đầu, rồi đột nhiên biến thành kỳ chiêu quét ngang một cái. Tôn Phục Hổ sợ giật bắn người, vội cúi đầu xuống tránh. Nữ lang lại hô:

– Phụng hoàng toàn oa!

Tay trái đột nhiên phóng ra nhắm đánh vào cổ tay Tôn Phục Hổ, đơn đao từ trên cao chém xuống. Bỗng nghe đánh “choang” một tiếng, đơn đao của Tôn Phục Hổ đã rớt xuống đất, thanh đơn đao của nữ lang liền kề vào cổ hắn. Mọi người đứng xem bật tiếng la hoảng:

– Úi chà!

Ai nhìn thấy nếu nhát đao của nữ lang mà chém gấp thì đầu của Tôn Phục Hổ đã rơi xuống đất liền. Không ngờ nhát đao đang chém xuống, rất nhanh, lực chém cực kỳ mãnh liệt đội nhiên dừng lại. Lưỡi đao chỉ vừa kề cổ đối phương chứ chưa sẩy da chút nào. Công phu này đủ khiến cho người ta phải kinh hoảng.

Hồ Phỉ trống ngực đập loạn cả lên. Chàng tự lượng trong ba chiêu mà đánh bại Tôn Phục Hổ không phải là việc khó, nhưng chiêu đao tối hậu vận kình chuẩn xác đến thế thì e rằng mình không bằng được. Trong sảnh đường chỉ có mình chàng là hiểu được võ công nữ lang đến trình độ nào, nhưng sau ba chiêu đó, hết thảy mọi người đều há hốc cả miệng ra.

Tôn Phục Hổ hạ thấp đầu để tránh đao, ngờ đâu nữ lang cũng thuận đà đưa đao xuống. Tôn Phục Hổ đã cong lưng cúi đầu, bây giờ trán hắn gần chạm đất coi chẳng khác người đang dập đầu trước nữ lang. Hắn mang một thân võ công thật uổng phí vì bị lợi đao kể cổ mà không động đậy được một ngón tay.

Nữ lang đảo mắt nhìn quanh mọi người một lượt rồi thu đao về hỏi:

– Các hạ đã luyện được tuyệt chiêu “Phụng hoàng toàn oa” chưa?

Tôn Phục Hổ đứng lên, cúi đầu xuống đáp:

– Luyện qua rồi!

Hắn nghĩ bụng:

– Chiêu này mình sử dụng cả ngàn vạn lần rồi, nhưng trước nay chưa từng dùng theo cách này.

Trong lòng rất đỗi kinh nghi, tâm thần rối loạn, hắn cầm đao lùi lại. Dương Tân thấy nữ lang mới ra ba chiêu đã chế phục được đại sư huynh thì không khỏi sinh lòng ngờ vực tự hỏi:

– Hay là đại sư huynh đã bày ra ngụy kế để đoạt chức chưởng môn cho nên cố ý để thị đến hý lộng quỷ thần?

Càng nghĩ càng thấy mình đoán đúng liền hỏi

– Đại sư ca! mới ba chiêu mà đại sư ca đã nhường người ta là có dụng ý gì? Đại sư ca không nghĩ đến oai danh của Vi Đà môn nữa ư?

Tôn Phục Hổ chưa hết kinh hãi, không hiểu tại sao mình bị người kiềm chế một cách hồ đồ. Trong lúc nhất thời gã không thể trả lời được miệng ấp a ấp úng:

– Ta… ta…

Dương Tân tức giận hỏi:

– Ta làm sao?

Gã cầm đao nhảy ra trỏ tay vào mặt Tôn Phục Hổ quát:

– Vụ này…

Gã vừa nói được hai chữ, đột nhiên trước mặt bạch quang lấp lánh. Đơn đao của nữ lang từ dưới đưa lên. Đao pháp của nàng nhanh quá, chưa ai nhìn rõ, phảng phất như chiêu “Yến tử lược thủy”. Dương Tân trong lúc hoang mang tiện tay đánh trả lại bằng chiêu “Kim tỏa trụy địa”. Đó là chiêu gã đã luyện rất thành thục. Nữ lang không chờ song đao đụng nhau đã biến thành chiêu “Quan Bình hiến ấn” nghiêng đao chênh chếch rồi quét ngang một cái. Dương Tân giật bắn người lên la hoảng:

– Phụng hoàng toàn oa!

Gã chưa dứt lời đã thấy cổ tay tê chồn, đơn đao rớt xuống đất, cương đao của đối phương liền kề vào cổ. Nữ lang lại sử ba chiêu giống như đao pháp đã dùng để đối phó với Tôn Phục Hổ. Có điều lần này ra tay mau lẹ hơn khiến đối phương thảng thốt không kịp đề phòng. Thanh đao bổ xuống còn cách mặt đất không đầy ba thước mà trán Dương Tân đã gần chạm đất rồi. Nữ lang lạnh lùng hỏi:

– Đã chịu phục chưa?

Dương Tân mặt giận phừng phừng, lớn tiếng quát:

– Không phục!

Nữ lang tăng gia kình lực gí mũi đao xuống thêm. Nhưng Dương Tân quật cường, tự nhủ:

– Ngươi có chặt đầu ta, ta cũng không chịu dập đầu xuống đất.

Gã lại ngửng đầu lên. Nữ lang không có ý sát hại đối phương nên nhấc khẽ đơn đao lên nói:

– Các hạ muốn sao mới chịu phục?

Dương Tân cho là đao pháp của nàng có tà môn, còn võ công chân thực quyết chẳng thể hơn mình được. Gã liền lớn tiếng đáp:

– Cô có giỏi thì đấu thương với ta.

Nữ lang nói:

– Được lắm!

Nàng thu đơn đao về quẳng trả lại cho tên đệ tử vừa cho mượn đao rồi nói:

-Ta thử xem các hạ luyện “Lục hợp thương pháp” đến đâu rồi.

Dương Tân nhớm người đứng dậy, mặt hắn vì quá giận mà đỏ phừng, bây giờ càng sưng lên đến tím bầm. Gã quát đệ tử:

– Lấy thương mau! Lấy thương mau!

Một tên đệ tử chạy vào luyện võ sảnh lấy một cây thương ra. Dương Tân giận điên người, xoay tay tát tên đệ tử kia một cái và quát mắng:

– Thị muốn tỷ thương pháp với ta, ngươi có nghe thấy không?

Tên đệ tử bị gã tát một cái nảy đom đóm, nhất thời không hiểu sư phụ muốn nói gì. Một tên đệ tử khác sợ gã đánh nữa vội nói:

– Để đệ tử đi lấy thêm cây nữa.

Rồi y chạy vào nội đường lấy thêm một cây thương ra. Nữ lang đón lấy trường thương hô:

– Tiếp chiêu đây!

Nàng ra chiêu “Tứ di tân phục” đâm tới phía trước. Đây là chiêu số tối tinh diệu trong hai mươi bốn thức, bên trong biến ảo vô cùng, đó là “Trung bình thương pháp”. Hồ Phỉ chuyên nghiên cứu đơn đao và quyền cước, còn về những khí giới khác thì chàng không rành lắm, liền nhìn lên võ sư trung niên tỏ vẻ thỉnh giáo. Võ sư này võ công cũng bình thường nhưng đi theo Vạn lão quyền sư lâu năm nên các môn khí giới và quyền cước của Lục hợp môn đã được nghe nhiều. Lão thuộc bài ca quyết liền đọc ra:

Trung bình thương

Thương trung vương…

Cao đê viễn cận độ bất phương…

Khứ như tiễn

Lai như tuyến …”

(“Trung bình thương

Vua trong các loại thương…

Gần xa cao thấp thật khôn lường…

Đi như tên bắn

Đến tựa sợi dây…”)

Lão chưa đọc hết đã thấy Dương Tân trả lại một chiêu. Nữ lang liền đè đầu thương xuống. Võ sư nói:

– Chiêu này là “Mỹ nhân nhận châm”, chiêu số tầm thường thôi. E rằng thương pháp của cô không bằng Dương sư huynh…

Đột nhiên hai tay nữ lang ấn mũi thương xuống đè lên đầu thương của Dương Tân Đây chính là chiêu “Linh miêu bộ thử” trong “Lục hợp thương pháp”. Chiêu này gọi là “Vô trung sinh hữu thương”, từ trong một hư thức rồi biến thành chiêu số cực kỳ lợi hại. Cũng trong ba chiêu, Dương Tân bị kiềm chế. Dương Tân vận nội lực vào hai cánh tay gầm lên như sấm, hất mạnh mũi thương lên. Nữ lang rung cây thương một cái. Rắc một tiếng! Mũi thương của Dương Tân bị chấn động gãy rời. Nữ lang xoay mũi thương lại chỉ vào bụng dưới Dương Tân, nhẹ nhàng hỏi:

– Thế nào?

Mọi người nhìn cả về phía Dương Tân, thấy mặt gã đang tím như gan heo đột nhiên không còn chút huyết sắc, trắng bệch như tờ giấy trắng. Người gã rung lên, “cạch” một tiếng, gã ném cây thương xuống đất, miệng la:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi!

Gã xoay mình chạy ra ngoài. Một tên đệ tử của gã gọi lớn:

– Sư phụ! Sư phụ!

Rồi co giò rượt theo. Dương Tân phóng chân đá một cước khiên tên đệ tử này lăn lông lốc. Hắn không quay đầu lại, tiếp tục chạy ra ngoài cửa lớn. Quần hào trong đại sảnh đều kinh hãi không bút nào tả xiết.

Đao pháp và thương pháp của nữ lang sử dụng đúng là võ công của Vi Đà môn. Tôn Phục Hổ và Dương Tân đều là hảo thủ nổi tiếng của Vi Đà môn, mà bất luận về đao hay về thương mới trong vòng ba chiêu đã bị nàng kiềm chế không ngóc đầu lên được. Uất Trì Liên đối với nữ lang không còn dám coi thường nữa. Hắn quyết định trong đầu, rồi chắp tay tiến lại nói:

– Võ công của cô nương tinh diệu tuyệt luân, dĩ nhiên tại hạ không thể đối phó được nhưng…

Nữ lang hơi nhíu cặp lông mày, ngắt lời:

– Các hạ dài dòng quá, ta nghe rối tai lắm. Nếu các hạ tâm phục khẩu phục thì ủng hộ ta làm chưởng môn, không thì động thủ lẹ đi là xong.

Uất Trì Liên hơi đỏ mặt, nghĩ bụng:

– Con nhỏ này bản lĩnh đã lợi hại, miệng lưỡi còn lợi hại hơn.

Hắn đáp:

– Sư huynh sư đệ của tại hạ đã chịu thua rồi. Tại hạ chẳng muốn phô cái dở ra làm gì nữa…

Nữ lang liền ngắt lời, hỏi:

– Được, các hạ thích tỷ đấu môn gì?

Uất Trì Liên đáp:

– Trước nay Vi Đà môn đã nổi tiếng quyền, đao, thương tam tuyệt…

Nữ lang liền liệng ngay cây thương đi, nói:

– Ồ! Các hạ muốn tỷ thí quyền cước. Nào, bắt đầu đi.

Uất Trì Liên đáp:

– Chúng ta bất tất phải dùng “Lục hợp quyền” chính tông để tỷ đến nữa vì tại hạ biết còn thua cô nương xa, xin thỉnh giáo môn “Xích khảo”…

Nữ lang hẳng do dự gì nói ngay:

– Hừm! Các hạ đã tinh nghiên “Xích khảo liên quyền”. Thế cũng được.

Nàng giơ tay mặt chém xương tỳ bà ở bả vai đối phương. Nguyên “Xích khảo liên quyền” cũng là một môn quyền pháp trong Vi Đà môn lấy “Lục hợp quyền” làm căn cơ, “Hầu quyền” làm hình thức. Nó còn là một thủ pháp tiểu cầm nã dùng để đánh giáp lá cà. Chiêu nào cũng vồ, chụp, móc, khóa hoặc đả huyệt, điểm huyệt. Uất Trị Liên thấy chiêu số về đao thương của nàng rất lợi hại mà môn “Xích Khảo liên quyền” của hắn đã rèn luyện cực kỳ tinh thục. Hắn nghĩ thầm dù võ công của vị tiểu cô nương này có cao cường đến đâu đi nữa thì tý lực cũng còn kém mình. Huống gì trong cuộc đánh giáp lá cà, đàn bà con gái có nhiều chỗ cố kỵ khiến gã dễ thừa cơ thủ thắng.

Nữ lang đã hiểu tâm lý của gã nên vừa ra tay đã phóng chưởng chém liền. Uất Trì Liên vung tay trái lên gạt tả chưởng của đối phương, thuận tay quay lại điểm luôn vào huyệt “Kiên tỉnh” của nàng. Nữ lang không để cổ tay đụng vào tay đối phương mà nghiêng tay đi, đầu ngón tay hơi nghiêng về phía trái, điểm tới huyệt đạo ở mé ngực trái của đối phương. Uất Trì Liên cả mừng, bàn tay phải thu về, tay trái liền vươn ra chụp vào eo của đối phương. Nữ lang đột nhiên vung chân trái từ phía sau đá tới. “Binh” một tiếng, người của Uất Trì Liên văng ra ngoài, ngã chúi trên sân đá. Mặt mũi gã máu me chảy ròng ròng. Chiêu thức nữ lang sử dụng đúng là “Xích khảo liên quyển”, có điều không để cho gã đến gần mình.

Trong ba vị sư huynh sư đệ, chỉ có Uất Trì Liên là bị thương chảy máu.

Hà Tư Hào thấy nữ lang võ công cao cường như vậy, trong lòng hớn hở. Hắn liền rót một ly rượu đầy, cung kính bưng tới mời, miệng nói:

– Tài nghệ cô nương đã áp đảo cả đương trường, dù Vạn lão quyền sư phục sinh cũng vị tất đã có được võ công như vậy. Hôm nay cô nương lên nắm chức chưởng môn làm cho Vi Đà môn thêm phần hưng thịnh, thật đáng mừng, đáng mừng!

Nữ lang đón lấy chén rượu đưa lên miệng toan uống, chợt ở góc sảnh có một giọng nói kỳ dị cất lên:

– Vị cô nương này mà là người của Vi Đà môn ư? Tại hạ thấy không phải đâu.

Nữ lang quay đầu về nơi phát ra câu nói, chỉ thấy ai nấy đều ngồi yên ở đằng xa nên không biết vừa rồi ai nói. Nàng bèn cười nhạt nói:

– Vị nào không phục, xin cho một lời.

Trong khoảnh khắc, cả tòa sảnh đều lặng ngắt như tờ. Hà Tư Hào nói:

– Chúng ta đã nói rõ từ trước chức vị chưởng môn nhân căn cứ vào võ công mà định đoạt. Vị cô nương này sử dụng công phu chính tông của Vi Đà môn, nào đao thương, quyền cước, các vị đều tận mắt chứng kiến, không có một điểm mập mờ. Trong các đệ tử bản môn, có vị nào tự tin thắng được vị cô nương đây, xin mời ra hết để tỷ thí. Tại hạ thừa lệnh Phúc đại soái đi mời anh hùng hào trong thiên hạ đến kinh sư. Các nhân vật tiến kinh võ nghệ càng cao, tại hạ càng được nở mày nở mặt. Trong vụ này, tại hạ không có ý bênh vực cho bên nào cả.

Dứt lời hắn bật tiếng cười khô khan. Không thấy ai đáp lại, hắn liền nhìn nữ lang nói tiếp:

– Nếu không còn ai dị nghị thì chức chưởng môn dĩ nhiên vào tay cô nương. Tại hạ đã gặp rất nhiều chưởng môn các phái nhưng chưa vị nào nhỏ tuổi thế này, xinh… xinh đẹp… hà hà, như thế này. Thế mới biết anh hùng xuất tự thiếu niên, chí lớn đâu cần tuổi cao. Chúng ta nói chuyện hàng nửa ngày mà chưa hiểu cao tính đại danh của cô nương.

Nữ lang ngần ngừ một chút, nàng muốn nói lại thôi. Hà Tư Hào nói tiếp:

– Các vị đệ tử ở Vi Đà môn bữa nay mười phần có đến tám, chín đang chờ bái kiến chưởng môn nên họ chẳng thể không biết đại danh của cô nương.

Nữ lang gật đầu đáp:

– Các hạ nói phải lắm. Tiểu nữ họ Viên… tên là… tên là Tử Y.

Tư Hào võ công tầm thường nhưng kiến thức quảng bác, nghe giọng nàng nói đã nghĩ ngay đến “Tử Y” chưa chắc đã phải tên thật. Hắn cho là nàng mặc áo tía nên thuận miệng nói ra hai chữ “Tử Y”. Nhưng hắn không tiện hỏi cho cặn kẽ, liền cười nói:

– Xin Viên cô nương ngồi lên mâm cao. Bàn thủ tịch này phải nhường lại cô nương mới đúng.

Theo lễ số thì Hà Tư Hào là một võ quan không nhỏ ở trong kinh, lại là tân khách của phái Vi Đà thì dù Viên Tử Y có tiếp nhiệm chức chưởng môn cũng nên ngồi dưới để bồi tiếp, nhưng nàng chẳng chút khiêm tốn, thấy Hà Tư Hào nhường chỗ liền bệ vệ ngồi vào bàn thủ tịch.

Bỗng nghe trong góc nhà có một giọng kỳ quái khóc òa lên. Người này khóc vừa nói:

– Ngày trước Vi Đà môn oai danh lừng lẫy một thời, bữa nay sao lại suy vi đến thế, để một con nhỏ miệng còn hơi sữa đến tận nơi khinh mạn. Hu hu! …Hu hu!

Tiếng khóc lộ vẻ đau đớn thật sự chứ không phải có ý châm chọc. Viên Tử Y lớn tiếng:

– Lão bảo ta miệng còn hơi sữa thì hãy ra đây để phân cao thấp.

Lần này nàng nhìn rõ người phát thoại là một lão già hơn sáu chục tuổi thân hình gầy ốm, để chòm râu chuột, đầu đội nón hình trái dưa, sau gáy có bím tóc lủng lẳng. Tóc lão đã bạc gần hết. Lão nằm phục xuống bàn gào khóc:

– Vạn Hạc Thành hỡi Vạn Hạc Thành! Người ta bảo dù lão có sống lại cũng không địch nổi vị cô nương nhỏ tuổi mà xinh đẹp như thế kia. Thế mới biết anh hùng xuất tự thiếu niên, nhan sắc đâu cần tuổi cao.

Lão nói mấy câu sau hiển nhiên có ý châm chọc Hà Tư Hào. Những người nhỏ tuổi không nhịn được đều bật lên cười. Lão già lại vừa khóc vừa nói:

– Các bậc anh hùng hảo hán trong các môn phái võ lâm, tiểu đệ quen biết không ít, nhưng chưa có ai mặt dày như vị quan lão gia đây.

Hai câu nói sau cùng khiến mọi người biến sắc, ai nấy đều hiểu lão nói câu đó là muốn khiêu chiến với Hà Tư Hào. Hà Tư Hào không nhịn được lớn tiếng quát:

– Có giỏi thì chường mặt ra đây, sao cứ lén lén lút lút rụt đầu như con rùa đen thế?

Lão gìa vẫn vừa khóc vừa nói:

– Tiểu đệ phụng mệnh Diêm Vương đi mời các quan lão gia xuống âm cung dự hội. Mời được vị quan lão gia chức vụ càng lớn thì tiểu đệ càng thêm mà mở mày nở mặt

Hà Tư Hào đứng phắt dậy chạy về phía góc nhà. Tay trái hắn vung hờ một cái, tay phải nhằm đúng mặt lão già chụp tới. Lão già vẫn không ngừng khóc. Mọi người đứng lên coi thì đột nhiên một bóng đen từ trong góc sảnh đường bay vọt ra. “Huỵch” một tiếng. Người té xuống đất chính là Hà Tư Hào. Quần hùng chưa ai nhìn rõ hắn bị té trong trường hợp nào.

Tên thị vệ kia thấy đồng bạn gặp điều bất lợi liền rút đao ở bên hông xông lại. Sảnh đường lập tức nhốn nháo cả lên. Một bóng đen vọt ra, tiếng gió rít lên vù vù. Tên thị vệ lại té huỵch xuống trước bàn tiệc.

Hồ Phỉ vẫn chú ý đến lão già, thấy lão hất hai tên thị vệ bằng thủ pháp lợi hại phi thường. Lão cũng dùng “Xích khảo liên quyền” như những chiêu thức của Uất Trì Liên và Viên Tử Y vừa thi triển. Xem chừng lão cũng là người ở Vi Đà môn, nhưng võ công cao thâm gấp mấy lần Uất Trì Liên. Nhất định lão là một tay danh thủ của Vi Đà môn. Hồ Phỉ vốn không có thiện cảm với bọn thị vệ ở Thanh triều, nên thấy hai tên thị vệ tình trạng rất thảm hại, sau một lúc mới lồm cồm bò dậy được, chàng ngấm ngầm cao hứng.

Viên Tử Y biết ngay là tay kình địch, liền rời khỏi chỗ ngồi, nói:

– Lão có điều chi dạy bảo sao không nói thẳng thừng ra? Ta không ưa những kẻ hý lộng quỷ thần.

Lão già từ trong góc sảnh đườn uể oải bước ra, trên mặt còn đầy nước mắt nước mũi. Viên Tử Y thấy lão gầy gò, da mặt vàng bủng, lưỡng quyền nhô cao, cặp mắt sâu hoắm như người bị bệnh kinh niên, nhưng ánh mắt thì thần quang lấp loáng. Nàng không dám coi thường, ngưng thần chờ đợi. Lão già không giở giọng châm chọc nữa, cất tiếng nghiêm nghị hỏi:

– Cô nương! Cô đã không phải là người bản môn. Mà Vi Đà môn với cô lại không thù chẳng oán thì tội gì dính líu vào chuyện ở đây?

Viên Tử Y hỏi lại:

– Chẳng lẽ lão là người Vi Đà môn? Tôn tính đại danh là gì?

Lão già đáp:

– Lão phu họ Lưu, Hạc Chân. Cô nương đã nghe đến tên “Vi Đà song hạc” bao giờ chưa? Nếu lão phu chẳng phải là đệ tử Vi Đà môn thì sao lại cùng Vạn Hạc Thành hợp xưng là “Vi Đà song hạc”?

Về bốn chữ “Vi Đà song hạc” thì những người lớn tuổi trong sảnh đường đều nghe qua, nhưng quá nửa chỉ biết được Vạn Hạc Thành và biết lão chuyên làm điều hiệp nghĩa, nổi tiếng tốt trên chốn giang hồ. Còn một “hạc” nữa thì ít ai biết đến. Bây giờ nghe lão già tự xưng mình là một nhân vật trong “Song hạc”, lại nhìn thấy lão cất tay một cái đã đánh té hai tên thị vệ không nhích được, mọi người nhất thời châu đầu thì thầm bàn tán. Nhưng không ai hiểu rõ gốc gác lão nên cũng chưa dám cho là đúng.

Viên Tử Y lắc đầu hỏi:

– “Vi Đà song hạc” gì gì đó ta chưa được nghe qua. Có phải lão muốn làm chưởng môn không?

Lưu Hạc Chân vội đáp:

– Không, không phải! Đừng đổ oan cho lão phu. Lão phu là sư huynh, Vạn Hạc Thành là sư đệ. Nếu lão phu ham làm chưởng môn thì năm xưa đã làm rồi, hà tất phải đợi đến ngày nay?

Viên Tử Y bĩu môi nói:

– Hừ! Lão nói nhăng nói cuội ai mà tin được? Vậy lão cần gì?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Thứ nhất là chưởng môn phái Vi Đà phải do đệ tử chân chính của bản môn tiếp nhiệm. Thứ hai bất luận ai làm chưởng môn cũng không nên xu phụ quyền thế, đến kinh sư để kết giao với bọn quyền quý. Hạng võ biền thô lỗ, người dân dã quê mùa như chúng ta thì kết giao bằng hữu với quan nha thế nào được?

Lão đảo cặp mắt tam giác nhìn mọi người một lượt rồi nói tiếp:

– Thứ ba là dùng võ công để ấn định chưởng môn có điều không ổn. Bất luận là học văn hay học võ thì nhân phẩm vẫn là đứng hàng đầu. Nếu một kẻ tiểu nhân thô bỉ mà võ công cao cường thì suy tôn lên địa vị chưởng môn được ư?

Lão vừa nói câu này, có nhiều người gật đầu tán đồng. Họ thấy rằng hành động của lão tuy cổ quái, hình dáng tuy kỳ dị nhưng lời nói rất hợp lý.

Viên Tử Y cười lạt hỏi lại:

– Nếu cả ba điều ta không theo điều nào thì sao?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Còn sao nữa? Lão phụ đành đưa mấy dẻ xương khô cho cô nương bẻ nát là xong.

Hồ Phỉ nghe hai người lý luận biết rằng khó lòng tránh khỏi cuộc động thủ. Từ ngày chàng trưởng thành hành hiệp trên chốn giang hồ, từng gặp quan lại nhà Thanh chèn ép bách tính, tham tàn bạo ngược, đã đem lòng oán hận, bây giờ thấy Lưu Hạc Chân dám ngang nhiên làm nhục bọn thị vệ Đại Thanh, giọng nói đầy vẻ chính khí nên ngấm ngầm mong lão đắc thắng. Nhưng Tử Y nữ lang ra tay mau lẹ, là tay cao thủ cực kỳ lợi hại, chàng đâm lo lắng Lưu Hạc Chân vị tất đã thắng được nàng.

Viên Tử Y thái độ ngạo mạn, coi Lưu Hạc Chân chẳng vào đâu. Nàng hững hờ nói:

– Lão định tỷ quyền cước hay đao thương?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Cô nương đã tự xưng là đệ tử của Vi Đà môn, vậy chúng ta dùng báu vật trấn môn của phái Vi Đà để tỷ thí.

Viên Tử Y hỏi:

– Báu vật trấn môn đó là gì? Lão nói huỵch toẹt ra đi! Ta rất ghét những người ăn nói lòng vòng.

Lưu Hạc Chân ngửa mặt lên trời cười ha hả đáp:

– Đến báu vật trấn môn của bản môn mà cô nương cũng không biết thì làm chưởng môn thế nào được?

Viên Tử Y hơi lộ vẻ bối rối, nhưng chỉ nháy mắt trấn tĩnh ngay, nàng hỏi:

– Võ công của bản môn vốn bác đại tinh thâm. Luyện đến cảnh giới cao thâm thì chỉ cần một chiêu một thức cũng tung hoành thiên hạ. “Lục hợp đao pháp” cũng tốt mà “Lục hợp thương pháp” cũng hay, chẳng lẽ những thứ đó không phải là báu vật trấn môn?

Lưu Hạc Chân không khỏi ngấm ngầm bội phục, lão biết rằng hiểu báu vật trấn môn là công phu gì, nhưng lời đáp của nàng thật đường hoàng khiến người ta khó mà bài bác được. Lão thấy bọn đệ tử bản môn nghe nàng nói vậy có vẻ tâm phục, bèn đưa tay lên vuốt mấy sợi râu chuột rồi nói:

– Được lắm! Lão phu dạy không cô nương cũng được. Báu vật trấn môn của bản môn là “Thiên cương mai hoa thung”. Cô nương đã luyện qua chưa?

Viên Tử Y cười lạt hỏi:

– Ha ha! Cái đó mà bảo là báu vật ư? Ta cũng dạy không cho lão một điều là trong võ công thì đường ngay và bằng phẳng là đáng quý trọng và hữu dụng. Còn những “Mai hoa thung”, “Tiêm đao trận” gì gì đó chỉ là những cái hoa hòe để hù dọa người, gạt trẻ nít mà thôi. Có điều ta không tỷ thí thì e rằng trong lòng lão không phục. Vậy “Mai hoa thung” của lão đâu, cứ bày ra đi.

Lưu Hạc Chân cầm một chén rượu trên bàn ngửa cổ uống một hơi cạn sạch rồi tiện tay ném xuống đất. Mọi người đều giật mình kinh hãi, chắc rằng chén rượu sẽ bể tan tành. Ngờ đâu khi ném lão đã vận kình lực vừa đúng độ, chén rượu rớt xuống đất khẽ trượt đi. Luồng lực đạo tiêu hết rồi, cái chén đứng vững lại trên viên gạch vuông dưới sảnh đường, không sứt mẻ tí nào. Lão ném chén thứ nhất xong lại nâng chén thứ hai ném tiếp theo. Hai tay lão hoạt động liên tiếp không ngừng. Gặp chén không là lão thuận tay ném liền, gặp chén có rượu thì bất luận đầy hay vơi, lão cũng uống một hơi cạn sạch. Chỉ trong khoảnh khắc, dưới đất đã bày đầy những chén rượu, cả thảy ba mươi sáu chiếc đều úp xuống.

Mọi người thấy thủ pháp ném chén rượu của lão cố nhiên đã kinh người, mà tửu lượng lão cũng không phải tầm thường. Cứ một lần ném là một lần uống thì chí ít lão cũng đã uống hăm hai, hăm ba chén rượu cay nồng. Lão càng uống, sắc mặt càng vàng khè. Lão lắc người một cái, nhẹ nhàng nhảy tới. Chân phải để trên không, chân trái đạp lên trên chén. Lão chắp hai tay lại nói:

– Xin lãnh giáo!

Viên Tử Y thực tình không hiểu cách luyện “Thiên cương mai hoa thung” này thế nào, nhưng nàng ỷ mình khinh công rất cao thâm nên trong lòng chẳng chút sợ hãi. Nàng điểm chân trái xuống cũng nhảy tới đứng lên một trôn chén. Viên Tử Y đứng ở phía trên hai tay giơ khẽ lên nhưng chưa phát chiêu. Nàng còn chờ xem đối phương ra tay cách nào rồi mới tùy cơ ứng biến. Có điều nàng thấy thủ kình của đối phương liệng chén rượu liền biết ngay lão chẳng phải là hạng Tôn Phục Hổ, Uất Trì Liên nên không dám khinh địch chút nào.

Lưu Hạc Chân tiến lên một bước, tay phải vung quyền đánh tới Viên Tử Y. Đây là đệ nhất thức trong chiêu “Tam hoàn sáo nguyệt” của “Lục hợp quyền pháp”. Viên Tử Y thấy thoi quyền của đối phương đánh tới, bốn ngón tay từ ngón trỏ đến ngón út so le không đều, tạo thành ba góc. Nàng biết “Tam giác quyền pháp” chuyên dùng cách đánh vào huyệt đạo kẻ địch, hiển nhiên lão là một tay cao thủ về môn điểm huyệt. Nàng liền đưa chân trái chênh chếch lùi lại một bước, ra chiêu “Tài trùy” trong “Lục hợp quyền pháp” để phản kích, tay phải cũng nắm lại thành “Tam giác quyền”.

Lưu Hạc Chân thấy thân pháp, bộ pháp, quyền pháp của Viên Tử Y bề ngoài đúng là công phu chính tông của bản môn. Nhưng vừa rồi nàng chế phục bọn Tôn Phục Hổ ba người lại sử tâm pháp biến hóa không phải do bản môn truyền thụ. Có điều chỗ khác biệt bên trong, nếu chẳng phải là tay cao thủ hạng nhất ở bản môn thì không nhận ra được. Trong lòng vừa kinh dị lại vừa phẫn nộ, lão bước qua mé trái đánh ra chiêu “Phản cung tự tỉnh”. Chiêu quyền này dùng mu bàn tay để đánh người, trong “Lục hợp quyền pháp” gọi là “Khổ não quyền”. Vì quyền pháp này rất khó, quá trình luyện tập thật khổ sở dị thường nên mang tên như vậy. “Khổ não quyền” mà được luyện đến nơi thì uy lực cực kỳ mãnh liệt, nhưng ít ra cũng phải luyện mười mấy năm mới thành.

Viên Tử Y chưa luyện đến trình độ đó. Nàng đành bỏ cái khó dùng cái dễ, ra chiêu “Suất thủ xuyên chưởng”. Tay phải dùng “Suất bi chưởng”, tay trái dùng “Liễu diệp chưởng” là công phu chính tông của “Lục hợp quyền pháp”.

Hai người xoay chuyển trên ba mươi sau cái trôn và thi triển toàn “Lục hợp quyền pháp”. Động thủ ra chiêu trên “Thiên cương mai hoa thung” cốt lõi ở chỗ cướp được cây cọc ở vị trí trung tâm để dồn đối phương hết đường lui là phải rớt xuống dưới. Lưu Hạc Chân từ thuở nhỏ đã luyện môn võ công này đến chỗ tâm đắc lão lại khổ luyện mấy chục năm nên qua trái qua phải bước lui bước tới bộ pháp lại không sai mảy may. Chỉ mới mấy chiêu là lão đã đoạt được vị trí trung tâm, lão liền tăng gia kình lực vào thoi quyền cho thêm trầm trọng. Lão biết thiếu nữ tuy nhỏ tuổi nhưng võ công được cao nhân truyền thụ nên không dám tiến đánh. Lão định bụng chỉ cần giữ vị trí trung tâm là nắm chắc phần thắng.

Viên Tử Y cùng bọn Tôn Phục Hổ, Uất Trì Liên động thủ, tuy nói là ba chiêu thủ thắng mà thực ra ngay chiêu đầu đã chiếm được tiên cơ, nhưng hiện giờ nàng tỷ quyền với Lưu Hạc Chân trên “Mai hoa thung”, một quyền một chưởng đánh ra đều gặp phải luồng lực đạo cực kỳ hùng hậu phản kích. Chân nàng đạp trên trôn chén mà bước mạnh một chút là làm bể ngay, như vậy cuộc tỷ võ này kể như thua rồi. Bởi vậy nàng chỉ vì đặt chân xuống một chút lại phải cất bước liền, không dám dùng toàn lực ra chiêu. Nàng thấy địch nhân giữ vị trí cực ổn, khó bề lay động, đành thi triển khinh công thượng thừa bước trên trôn chén để di động chung quanh đối thủ, chỉ mong tìm được sơ hở để phản kích.

Hai người chiết hơn ba mươi chiêu và đã sử dụng hết một lượt bài quyền trong “Lục hợp quyền pháp” mà Lưu Hạc Chân thân hình ốm teo vẫn đứng vững như núi. Quyền phong của lão dần dần rít lên, hiển nhiên lão đã gia tăng kình lực.

Trong các môn võ công có cách tỷ đấu trên đầu cọc, nhưng cọc lại biến đổi hàng trăm kiểu. Cọc hoặc bằng gỗ hoặc bằng trúc xanh hoặc chồng gạch đá, thậm chí dùng đao cắm xuống đất, nhưng đằng này lại úp chén thay cho cọc hình hoa mai, các võ sư trong sảnh đường chưa từng thấy qua.

Ba mươi sáu cái chén tựa hồ như được bài trí loạn xạ chứ không tề chỉnh theo hình hoa mai, nhưng bên trong vẫn có quy phạm. Lão đã tập luyện thuần thục thì dù có nhắm mắt tỷ đấu cũng không sai trật một bước, còn Viên Tử Y thì mỗi bước chân phải nhìn xuống phương vị trôn chén mới đặt chân vào. Việc đó làm mất thì giờ nên quyền cước dần dần lâm vào thế hạ phong. Lưu Hạc Chân mừng thầm trong bụng, từ từ quyền pháp biến đổi. Tay phải lão sử “Tam giác quyền” nhằm đánh vào đại huyệt trong người đối phương, tay trái thi triển “Khổ não quyền” phát huy kình lực trầm trọng để phóng trả đối phương và sử dụng toàn là “Tiệt thủ pháp”.

Viên Tử Y thấy mình không địch nổi, tay trái đột ngột biến chưởng thành chỉ đâm tới phía trước. Đây là chiêu “Tứ di tân phục” trong “Lục hợp thương pháp”. Lưu Hạc Chân cả kinh không kịp suy nghĩ vội nghiêng mình né tránh. Ngờ đâu Viên Tử Y lại vung tay phải sử “Câu quải tiến bộ liên hoàn đao” trong “Lục hợp đao pháp” chém ngang một cái. Lưu Hạc Chân không dè nàng lại biến quyền pháp thành đao pháp nên không khỏi hoang mang một chút, đầu vai lão bị chém trúng. Lão hạ thấp ngay vai xuống, chỉ trong nháy mắt đã làm giảm bớt tám thành lực đạo của đối phương, đồng thời lão lại phản kích một quyền. Viên Tử Y tay trái ra chiêu “Bạch viên hiến đào” từ dưới chém ngược lên. Thế là hai tay cùng sử đao, nên tác dụng không chỉ là đơn đao mà là song đao. Nàng dùng chưởng làm đao chém tới, Lưu Hạc Chân tránh không kịp. “Binh” một tiếng dưới nách lão trúng một chưởng, người lảo đảo phải bước ra ngoài trôn chén. Hồ Phỉ đứng bên nhìn rõ nghĩ bụng:

– Một tay cao thủ võ học như lão bị bại về quái chiêu của đối phương thật là đáng tiếc.

Chàng thuận tay chụp lấy hai chén rượu trên bàn cũng học theo thủ pháp của Lưu Hạc Chân ném chênh chếch xuống đất. Hai chén rượu nhẹ nhàng trượt đi rồi dừng lại đúng chỗ bàn chân Lưu Hạc Chân rớt xuống. Lưu Hạc Chân bước ra ngoài “Mai hoa thung”, biết rằng mình chắc chắn đã thua, đột nhiên thấy dưới hai chân mình có đặt hai chén rượu, lão sửng sốt một chút rồi biết có cao nhân đứng bên ám trợ. Mọi người đều để mắt chăm chú theo dõi cuộc tỷ đấu giữa hai người nên lại không phát giác ra Hồ Phỉ đã liệng hai chén rượu xuống.

Viên Tử Y dùng chỉ làm thương, dùng tay làm đao, tuy vẫn là công phu về “Lục hợp thương pháp” và “Lục hợp đao pháp” nhưng ở Vi Đà môn trước nay chưa từng có những chiêu số quái dị đó.

Lưu Hạc Chân rất đỗi kinh nghi, chấp tay hỏi:

– Võ công của cô nương thật là thần diệu, tại hạ chưa từng thấy qua. Xin hỏi cô nương đã được cao nhân phái nào truyền thụ?

Viên Tử Y hỏi lại:

– Hừ, rõ ràng lão không muốn nhìn nhận ta là đệ tử bản môn. Thôi được, nếu ta chỉ dùng “Lục hợp quyền pháp” để thắng lão thi lão tính sao?

Lưu Hạc Chân chỉ mong nàng nói câu đó liền kính cẩn đáp:

– Nếu cô nương dùng đúng võ công bản môn để chế phục tại hạ thì thật là một đại hỷ sự cho bản môn. Tiểu lão sẽ cam tâm tình nguyện đi theo cầm roi ngựa cho cô nương.

Vừa rồi lão đã lãnh giáo võ công của Viên Tử Y, bao nhiêu tính cuồng ngạo đều tiêu tan. Lão lại liếc mắt nhìn Hồ Phỉ rồi chắp tay nói:

– Tiểu lão xin phô cái dở ra.

Lão chắp tay là để tạ ơn Hồ Phỉ đã ném chén rượu giúp mình. Tuy lão không hiểu ai đã xuất thủ viện trợ, nhưng cũng biết hai chén rượu từ phía Hồ Phỉ ném ra. Lúc Lưu Hạc Chân vặn hỏi về môn phái, Viên Tử Y đã nghĩ ngay cách thắng lão. Nàng thấy lão hai tay ôm quyền, ngưng tụ tinh thần bước tới đoạt vị trí trung tâm, liền ra chiêu “Cổn thủ hổ tọa”, đúng là võ công chính tông của “Lục hợp quyền pháp”.

Sau mấy chiêu, Lưu Hạc Chân lại dần dần chiếm được thượng phong. Lần này lão nhấc tay, cất chân thận trọng hơn trước, chỉ sợ trong quyền chiêu của Viên Tử Y lại nảy sinh biến hóa. Lão chiết giải thêm mấy chiêu nữa, thấy quyền pháp đối phương không biến đổi đã hơi yên dạ.

Lão thấy Viên Tử Y sử chiêu “Đả hổ thức”, lão liền điểm hờ chân phải về phía tước đồng thời ra chiêu “Ô long thám hải”. Đột nhiên bàn chân phải cảm thấy có điều khác lạ, lão liền đưa mắt nhìn xuống, rồi không khỏi giật mình kinh hãi vì chén rượu nguyên trước mặt đặt úp xuống không biết đã lật ngửa lên tự lúc nào, may mà lão chỉ điểm hờ chân phải vào, nếu lão thực sự đặt chân xuống thì bàn chân ắt phải đạp vào giữa lòng chén làm chén rượu vỡ tan rồi, đồng thời người cũng ngã chúi về phía trước, làm sao không thua được?

Lưu Hạc Chân trong lúc hoang mang vội dời bước chân đang lơ lửng qua trôn chén khác, người lão lảo đảo, lưng toát mồ hôi lạnh. Lão liếc thấy Viên Tử Y lúc giơ chân trái lên, cả chén rượu cũng lên theo. Không hiểu bàn chân nàng vận kình cách nào mà lúc đặt xuống thì chén rượu đã bị lật ngửa lên. Chân trái Viên Tử Y thuận thế đặt xuống miệng chén, chân phải nàng nhấc lên lại lật ngửa chén rượu khác, lão thấy khinh công của nàng quả mình thông thể nào bì kịp.

Lưu Hạc Chân nghĩ bụng:

– Chỉ còn cách ra tay nhanh và mạnh khiến thị chưa kịp lật hết các chén rượu thì mới có thể đánh thị rớt xuống “Mai hoa thung” được.

Lão liền gia tăng chưởng lực tiến đánh rất rát. Ngờ đâu Viên Tử Y lại không chịu thẳng thắn trực tiếp đối quyền với lão mà chỉ di chuyển xung quanh, thân pháp mau lẹ dị thường. Chân nàng vừa đặt vào miệng chén là lập tức đổi bước, không dừng lại trong nháy mắt. Chỉ trong khoảnh khắc, ba mươi sáu chén rượu nàng đã lật được ba mươi tư cái, chỉ còn hai cái Lưu Hạc Chân đặt chân lên là chưa lật. Nếu vừa rồi mà Hồ Phỉ không ném chén rượu ra thì lão không có cả chỗ đặt chân. Trước tình thế này, Lưu Hạc Chân chỉ cần dời chân qua nơi khác là bể chén ngay. Lão chỉ còn cách đứng nguyên trên hai trôn chén không đám nhúc nhích, lão đứng ngẩn người một lúc, vẻ mặt thê thảm, nói:

– Cô nương thắng rồi!

Dứt lời lão bước xuống đất, mặt vàng như nghệ.

Viên Tử Y lấy làm đắc ý, hỏi:

– Vậy chức chưởng môn do ta đảm nhận chứ?

Lưu Hạc Chân buồn rầu đáp:

– Tiểu lão chịu phục rồi, còn người khác không hiểu có ý kiến gì không?

Viên Tử Y toan lên tiếng hỏi mọi người, chợt nghe có tiếng vó ngựa cực kỳ cấp bách lao về phương bắc. Nàng nghe rõ tiếng vó ngựa đập xuống đất, trong thiên hạ trừ con bạch mã của nàng ra thì tuyệt không có con ngựa nào có tiếng vó như vậy. Viên Tử Y biến sắc rảo bước qua cửa, thấy quả đúng con bạch mã của mình đang lướt qua khu rừng phong. Người cưỡi ngựa là anh chàng mặc áo xám tro tên gọi Hồ Phỉ, là người nàng đánh cắp cái bọc. Nàng la lớn:

– Tên trộm ngựa kia! Dừng lại mau

Hồ Phỉ quay đầu lại cười, đáp?

– Tên trộm bọc kia, chúng ta hòa nhé!

Chàng nói rồi nổi lên tràng cười ha hả, phóng ngựa chạy như bay. Viên Tử Y cả giận, đề khí chạy như điên để rượt theo. Khinh Công nàng tuy tinh thâm nhưng làm sao sánh kịp con khoái mã ngày đi ngàn dặm? Rượt theo một lúc chỉ thấy bóng người ngựa mỗi lúc một nhỏ dần rồi mất hút. Viên Tử Y bị vố này khiến niềm cao hứng đánh bại bốn cao thủ Vi Đà môn bỗng tiêu tan hết. Nàng vừa tức giận vừa lấy làm lạ, tự hỏi:

– Con bạch mã của ta rất khôn ngoan, sao nó lại để cho tên tiểu tặc kia cưỡi lên mà không phản kháng?

Viên Tử Y chạy mấy dặm nữa thì đến một tiểu trấn. Nàng biết đuổi không kịp nữa, toan tìm vào quán trà ngồi uống nước nghỉ ngơi thì chợt nghe tiếng ngựa hý rất quen thuộc. Đúng là tiếng hí của con bạch mã. Nàng liền rảo bước theo, vừa chuyển qua một khúc quanh đã thấy Hồ Phỉ đang cưỡi con bạch mã, quay lại mỉm cười vẫy tay với nàng. Viên Tử Y tức quá, lượm một viên đá ném tới sau lưng chàng. Hồ Phỉ lột mũ trên đầu ra, xoay tay lại chụp gọn viên đá vào trong cái mũ, cười hỏi:

– Cô có trả cái bọc cho ta hay không?

Viên Tử Y tung mình vọt tới toan đoạt lại con bạch mã thì đột nhiên nghe đánh “vù” một cái. Một món ám khí bay tới trước mặt rất nhanh và mạnh. Nàng chậm lại một chút, Hồ Phỉ thúc hai chân vào bụng ngựa cho nó vọt lên một cái chớp mắt đã ra ngoài mười trượng. Viên Tử Y tức giận đến cực điểm, mắng thầm:

– Gã tiểu tử này thật là khả ố!

Nàng không tự trách mình đã lấy cắp bọc của người ta trước, mà chỉ bực mình vì bị Hồ Phỉ hai lần trêu chọc. Chỉ hận một nỗi là cước trình của con bạch mã lẹ quá, nếu không nàng mà đuổi kịp, thì ngoài việc đoạt lại ngựa, nàng còn phải đánh Hồ Phỉ một trận nhừ đòn mới hả được nỗi căm tức trong lòng.

Bỗng thấy dưới mái hiên quán trà có buộc một con ngựa xanh, Viên Tử Y bất chấp là ngựa nào, chạy lại cởi dây cương, phi thân nhảy lên tức tốc rượt theo Hồ Phỉ. Khi chủ ngựa phát giác, chạy theo vừa la vừa chửi thì nàng đã chạy xa rồi.

Viên Tử Y tuy có ngựa cưỡi nhưng muốn rượt kịp Hồ Phỉ cũng là chuyện nằm mơ. Nàng vung roi vụt tới tấp lên lưng con ngựa xanh. Con vật xanh này đã chạy hết sức rồi mà nàng vẫn cảm thấy chậm quá. Mới rượt theo được mấy dặm, con ngựa xanh đã thở phi phò, dần dần không gượng nổi nữa. Khi gần đến một khu rừng cây, bỗng nàng thấy con ngựa trắng buộc dưới gốc tùng. Nàng giục ngựa chạy tới gần thì đúng là con bạch mã của mình.

Viên Tử Y cả mừng, nhưng vẫn sợ Hồ Phi bày ngụy kế dẫn mình vào bẫy. Nàng đảo mắt nhìn quanh không thấy bóng người mới phóng ngựa chạy đến gốc tùng. Khi còn cách con bạch mã chừng mấy trượng thì đột nhiên một bóng người từ trên cây tùng nhảy xuống ngồi lên lưng con bạch mã. Người này buông tiếng cười ha hả, nói:

– Viên cô nương! Chuyến này chúng ta lại đấu một phen nữa.

Lần này Viên Tử Y quyết không để chàng trốn thoát. Nàng liền dí mạnh hai chân vào bàn đạp, tung mình lên vọt tới Hồ Phỉ như con chim khổng lồ. Hồ Phỉ không ngờ nàng dám liều lĩnh như vậy. Người nàng đang lơ lửng trên không, nếu chàng phóng quyền đánh thì nàng tránh làm sao kịp? Chàng liền dừng ngựa cho đứng tránh sang một bên. Không ngờ con bạch mã nhận ra chủ, miệng nó hí lên mấy tiếng vui mừng. Chẳng những nó không tránh mà lại nhảy tới hai bước. Viên Tử Y người đang lơ lửng trên không dùng tay phải đánh xuống đầu Hồ Phỉ, tay trái chụp xuống vai chàng.

Hồ Phỉ từ thuở nhỏ chưa từng động thủ với thiếu nữ. Lần này chàng ăn cắp ngựa của nàng, một là vì nhận ra con ngựa cưỡi của Triệu Bán Sơn nên muốn hỏi nàng cho rõ, hai là trách nàng sao lại đùa giỡn lấy bọc của mình, hiển nhiên ra chiều khinh mạn. Chàng chỉ muốn trả đũa một chút chơi, nhưng đột nhiên thấy nàng động thủ thật sự bất giác đỏ bừng mặt lên, liền nghiêng mình nhảy ra khỏi lưng ngựa, lướt qua bên người nàng rồi cưỡi lên lưng con ngựa xanh. Lúc hai người ở trên không lướt qua bên nhau, Hồ Phỉ vươn tay phải ra ngầm vận chỉ lực móc cái bọc đeo trên lưng nàng lấy lại được ngay.

Viên Tử Y đoạt lại con bạch mã rồi vẫn chưa hết giận, lại thấy mất cái bọc, liền quát hỏi:

– Tiểu Hồ Phỉ! Sao ngươi dám vô lễ thế?

Hồ Phỉ kinh hãi hỏi lại:

– Sao cô nương biết tên tại hạ?

Viên Tử Y bĩu môi cười lạt, đáp:

– Triệu tam thúc khen ngươi anh hùng lắm nhưng ta coi rất tầm thường.

Hồ Phỉ nghe nói đến ba chữ “Triệu tam thúc” trong lòng hớn hở vội hỏi:

– Cô nương có biết Triệu Bán Sơn tam ca ư? Hiện giờ ông ấy ở đâu?

Viên Tử Y càng tức giận hơn, quát lớn:

– Tên tiểu tử họ Hồ kia! Ngươi dám chiếm phần tiện nghi của ta ư?

Hồ Phỉ ngạc nhiên hỏi:

– Tại hạ làm gì mà cô bảo là chiếm phần tiện nghi?

Viên Tử Y đáp:

– Tại sao ta gọi là “Triệu tam thúc” mà ngươi lại xưng “Triệu tam ca”? Chẳng phải ngươi muốn làm trưởng bối của ta sao?

Hồ Phỉ từ thuở nhỏ vốn tính hoạt kê liền thè lưỡi ra, cười hỏi:

– Không dám! Không dám! Cô nương kêu ông ấy bằng Triệu tam thúc thật ư?

Viên Tử Y đáp;

– Chẳng lẽ ta còn gạt ngươi?

Hồ Phỉ vênh mặt lên, nói;

– Hay lắm nếu vậy tại hạ còn ở vai trên. Cô nương kêu bằng Hồ thúc thúc mới phải. Này, Tử Y! Triệu tam ca hiện ở đâu?

Viên Tử Y xưa nay không biết Hồ Phỉ cùng Triệu Bán Sơn kết nghĩa anh em là chuyện thực trăm phần tram, nhưng thấy chàng tuổi nhỏ bằng mình mà dám mặt dày hô huynh gọi đệ với Triệu Bán Sơn ra điều hàng trưởng bối khiến nàng nổi đóa. “Soạt” một tiếng, Viên Tử Y đã rút cây nhuyễn tiên bên hông ra, miệng quát:

– Tên tiểu tử này nói nhăng nói càn. Ta phải dạy cho ngươi một bài học mới được.

Hồ Phỉ thấy cây nhuyễn tiên của Viên Tử Y là những sợi tơ bạc quấn lại. Đầu cây nhuyễn tiên có một quả cầu bé nhỏ bằng vàng, trông đất đẹp mắt. Nàng rung cây nhuyễn tiên trên không một vòng, ánh thái dương chiếu vào khiến kim ngân lấp loáng thành nhiều tia sáng biến ảo xinh đẹp lạ thường. Nàng muốn xuống ngựa cùng Hồ Phỉ động thủ những lại đổi ý, vì sợ chàng ngụy kế đa đoan tìm cách đoạt lại ngựa. Nàng liền thúc ngựa tiến tới vung roi đánh xuống đầu Hồ Phỉ.

Cây nhuyễn tiên này vung ra dài đến một trượng một thước, cuốn quanh sau lưng Hồ Phỉ. Đầu cây roi cong lại. Trái kim cầu đánh xuống huyệt “Đại truy” trên lưng chàng. Hồ Phỉ cong người nằm rạp xuống lưng ngựa. Chàng cho là cong mình theo thế đánh của cây roi thì nó sẽ lướt qua. Chợt nghe tiếng gió khác lạ, chàng biết là có điều không ổn. Tay trái rút đơn đao, chàng không kịp quay đầu nhìn lại cây nhuyễn tiên đánh tới như thế nào, vội xoay tay đưa đao theo hất ngược lên. “Choang” một tiếng. Đơn đao đụng vào kim cầu đẩy ngược cây nhuyễn tiên của Viên Từ Y trở lại.

Thì ra khi nàng vung cây nhuyễn tiên lướt trên lưng Hồ Phỉ, cổ tay liền hạ xuống, trái kim cầu đột nhiên chuyển đánh vào huyệt “Cự cốt” bên vai phải của chàng. Nàng thấy Hồ Phỉ nằm rạp trên lưng ngựa, chắc mẩm thế nào cũng đánh trúng huyệt đạo sẽ khiến chàng nửa người tê nhức. Ngờ đâu Hồ Phỉ lại nghe tiếng gió để xuất chiêu, tựa hồ sau lưng có mắt. Thanh đơn đao và nhuyễn tiên chạm nhau khiến nàng cảm thấy cánh tay ngấm ngầm tê chồn.

Hồ Phỉ ngửng đầu lên cười hì hì nhưng trong lòng không khỏi kinh dị về võ công cao cường của nữ lang. Nàng đã dùng cầu cây nguyễn tiên để điểm huyệt là một công phu khó khăn trong võ học. Huống chi mới đánh nửa chừng nàng lại biến chiêu, sử dụng thứ binh khí vừa dài vừa mềm oặt chẳng khác gì điều khiển một ngón tay để đánh vào huyệt đạo không sai chệch mảy may. May mà công phu điểm huyệt của chàng cũng rất cao thâm mới không đến nỗi bị thương, nhưng chàng cũng ngấm ngầm tự thẹn.

Nguyên Hồ Phỉ tuy đã chứng kiến Viên Tử Y đả bại liên tiếp bốn cao thủ ở Vi Đà môn, biết võ công nàng rất cao cường, nhưng chàng vẫn nghĩ tài nghệ nàng không thể bằng mình nên trong lòng không khỏi có ba phần khinh thị. Ngờ đâu cây nhuyễn tiên của nàng vung lướt qua trên lưng rồi quay ngược lại đánh vào vai là điều Hồ Phỉ không lường được. Chàng vừa vung đao phản kích, biết nàng sẽ đánh vào huyệt “Cự cốt”, nên mới gạt được đầu roi ra ngoài. Nếu bản lĩnh nàng mà khác đi một chút, nhát roi điểm huyệt không chuẩn xác, thì chiêu đao vừa rồi ắt hẳn không đỡ trúng đầu roi thì lưng chàng hứng trọn nhát roi trầm trọng đó rồi. Cho dù không trúng huyệt đạo thì cũng phải một phen đau đớn kịch liệt.

Viên Tử Y thấy Hồ Phỉ vẻ mặt tự nhiên thì không khỏi sinh lòng chán nản. Nàng đâu biết thực ra trong lòng chàng rất kinh hãi. Viên Tử Y lại vung nhuyễn tiên cho rít lên một tiếng, đầu roi nhằm đầu Hồ Phỉ đánh xuống.

Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Ta muốn dò hỏi tin tức Triệu tam ca nhưng y tính khí cao ngạo nếu không để y chiếm chút tiện nghi thì khi nào y chịu kể rõ với ta? Nói gì cũng chẳng được, thôi thì ta cứ nhường y một chiêu vậy.

Chàng thấy đầu roi sắp đánh xuống liền nghiêng qua mé tả một chút, phương vị rất vừa vặn, thời khắc chậm một nháy mắt. Bỗng nghe đánh “bộp” cái mũ trên đầu chàng đã bị ngọn roi cuốn lấy. Hồ Phỉ thúc vế vào bụng ngựa tránh ra xa hơn trượng, tra đao vào vỏ, rồi quay lại cười hỏi:

– Thần kỹ sử nhuyễn tiên của cô nương khiến Hồ Phỉ này khâm phục vô cùng! Triệu tam ca vẫn mạnh giỏi đấy chứ? Hiện giờ tam ca còn ở Hồi Cương hay đã đến Trung nguyên rồi?

Giả tỷ Hồ Phỉ nhường nhịn để Viên Tử Y thắng một chiêu thì nàng trong lòng cao hứng không chừng sẽ đem tin tức Triệu Bán Sơn nói cho chàng hay. Nhưng chàng đang tuổi trẻ, khí đang hăng, cho nên chiêu đó nhường thì có nhường, nhưng lại nhường một cách lộ liễu. Chàng chờ cho đầu roi đánh tới mới né tránh, khiến cho cái mũ bị cuốn đi, mặt chàng không lộ vẻ gì bẽn lẽn, lại còn cười mỉm để hỏi nàng, vẫn giữ thái độ người trên trêu cợt kẻ dưới.

Viên Tử Y thoáng nhìn đã thấy ngay, liền hỏi lại:

– Ngươi cố ý nhường nhịn tưởng ta không biết chăng? Ta trả mũ cho ngươi đây!

Nàng rung cây nhuyễn tiên một cái, cái mũ bay ra chụp vào đầu chàng. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Nếu để y dùng nhuyễn tiên đưa được cái mũ lên đầu ta thì công phu đó mới là kỳ diệu.

Chàng liền mỉm cười đứng yên, xem thử nàng có thể dùng cây nhuyễn tiên dài hơn một trượng bằng ngân ty đó đội được cái mũ lên đầu chàng không. Bỗng thấy đầu cây roi cuốn cái mũ chầm chậm từ dưới đưa lên, nhưng đến ngang mặt thì kình lực ở đầu roi đã suy giảm. Cây roi mềm oặt, cái mũ rớt xuống. Hồ Phỉ vội đưa tay ra đón. Đột nhiên thấy bạch quang lấp loáng. Chàng biết ngay có điều không ổn. Chỉ nghe đánh “chát” một tiếng, mắt nẩy đom đóm, nửa mặt đau thấu xương. Hồ Phỉ biết đã bị trúng ám toán, liền níu chặt chân phải, buông lỏng chân trái ra chúi xuống dưới bụng ngựa. Lại nghe đánh “chát” một tiếng, gỗ vụn bay tứ tung. Yên ngựa đã bị đầu roi đập tan. Con ngựa đau quá hí ầm lên.

Hồ Phỉ chui dưới bụng ngựa, tránh thế đánh liên hoàn, thuận thế rút đơn đao ra rồi xoay mình vọt lên lưng ngựa. Chàng chuyển đơn đạo từ tay trái sờ lên mặt thì thấy bàn tay dính máu tươi. Nhát roi vừa rồi quả thật không nhẹ. Viên Tử Y cười lạt hỏi:

– Ngươi còn dám xưng là trưởng bối nữa hay thôi? Nhát roi này bản cô nương đã nương tình, nếu không thì cả mười tám cái răng của ngươi mà không rụng cả mới là lạ.

Câu nói này của nàng quả không ngoa. Nàng đánh lén một đòn mà thành công, nếu như vận dụng toàn lực thì nhát roi đó tất đập gãy xương trán Hồ Phỉ và bao nhiêu răng ở bên trái đều bị rụng hết.  Từ ngày Hồ Phỉ học võ thành tài đến nay chưa bao giờ bị đại bại như lần này, bất giác lửa giận bốc lên, cặp mắt tròn xoe. Chàng vung đao chém xuống đầu vai Viên Tử Y. Viên Tử Y trong lòng cũng hơi khiếp sợ, nàng biết đối thủ không dễ đối phó. Lần này Hồ Phỉ bị thất bại tất vận toàn lực ra tay. Nàng liền vận kình ra tới đầu roi múa tít cây trường tiên đón đánh Hồ Phỉ từ ngoài hai trượng khiến chàng không thể vào gần được.

Giữa lúc ấy trên đường lớn bỗng vang lên tiếng nhạc ngựa. Ba người cưỡi ngựa từ từ đi tới. Họ thấy có người động thủ liền đứng cả lại để coi. Hồ Phỉ và Viên Tử Y đồng thời ngoảnh đầu nhìn ra thấy hai người mặc sắc phục thị vệ của Thanh triều. Đi giữa là một người mặc thường phục, thân thể cao lớn ước chừng chưa quá bốn chục tuổi.

Roi dài đao ngắn, về binh khí Hồ Phỉ đã kém thế, huống chi con ngựa của chàng là ngựa tầm thường lại bị thương rồi. Viên Tử Y cưỡi con tuấn mã tuyệt luân mà thuật cưỡi ngựa của nàng cũng rất tinh thâm, giống như người nhỏ bé nhờ ngồi trên lưng ngựa mà thành ra cao lớn. Do đó, hai bên mới trao đổi ngoài chục chiêu, mà Hồ Phỉ vẫn không sao tiến vào gần được. Chàng liền biến đổi đao pháp, toan phát huy toàn lực tấn công.

Bỗng nghe một gã thị vệ lên tiếng:

– Nha đầu kia người đã đẹp mà ra đòn ác liệt dữ a!

Gã thị vệ kia cười đáp:

– Nếu Tào đại ca thấy thích mắt thì nên ra tay, đừng để gã tiểu tử này hưởng của ngon trước.

Gã thị vệ họ Tào ngước mặt lên trời cười ha hả. Hồ Phỉ thấy hai tên thị vệ thốt lời khinh bạc, tức quá trợn mắt liếc chúng một cái. Viên Tử Y nhân cơ hội này vung roi đánh tới. Hồ Phỉ cúi đầu xuống, luồn người dưới cây nhuyễn tiên, rồi xông về trước mấy thước. Viên Tử Y vặn mình một cái. Con ngựa trắng vọt qua mé tả. Thế vọt lẹ quá, ánh ngân quang lấp loáng. Gã thị vệ họ Tào bị một roi rất nặng đánh trúng vào vai.

Viên Tử Y lại xoay đầu roi đánh xuống đầu Hồ Phỉ. Chàng đưa ngang thanh đao đón đỡ. Con bạch mã đã lướt qua bên mình gã thị vệ kia. Viên Tử Y đưa bàn tay trắng nõn chụp vào huyệt “Thiên trụ” ở sau gáy gã. Thế xông của con bạch mã lực đạo rất mãnh liệt. Viên Tử Y không cần dùng sức, nàng chỉ thuận tay đẩy là gã thị vệ kia ngã xuống ngựa. Viên Tử Y không xoay mình lại, nàng đưa trường tiên qua đầu vai quất ngược về phía sau vào đại hán thứ ba. Bốn roi đòn đó tung lên vụt xuống mau lẹ phi thường. Hồ Phỉ không khỏi khen thầm trong bụng, chàng nghĩ gã đại hán dù nãy giờ chưa lên tiếng, nhưng chắc cùng một loại với hai gã thị vệ thì thể nào cũng lãnh đủ nhát roi tai bay vạ gió kia.

Ngờ đâu đại hán dừng ngựa lại vươn tay không ra bắt lấy đầu cây ngân tiên. Viên Tử Y thấy hắn vươn bàn tay như móc câu biết là gặp phải kình địch, liền rung động cổ tay hất đầu roi lên, cười lạt hỏi:

– Phải chăng các hạ đến kinh sư để tham dự cuộc đại hội các chưởng môn?

Đại hán ngạc nhiên hỏi lại:

– Sao cô nương lại biết?

Viên Tử Y đáp:

– Coi bộ dạng các hạ có vẻ là một chưởng môn nhân. Danh tính các hạ là gì, chưởng môn phái nào?

Hai câu này quả cực kỳ vô lễ. Đại hán “hừ” một tiếng chứ không nói gì. Gã thị vệ họ Tào lồm cồm bò dậy lớn tiếng la:

– Lam sư phó! Sư phó cho con lỏi thối tha đó một bài học.

Viên Tử Y khẽ thúc vế đùi một chút. Con bạch mã đột nhiên xông về phía thị vệ họ Tào, khiến gã không kịp trở tay. Gã thị vệ họ Tào cực kỳ kinh hãi vội nghiêng mình qua mé trái né tránh. Cây ngân tiên của Viên Tử Y đánh tới sau lưng hắn. Đại hán kia thấy tình thế cấp bách rút đoản kiếm ra chiêu “Lạn yêu thu thủy tứ môn kiếm”, đưa chếch tới gạt đầu roi. Viên Tử Y nhấn chân xuống bàn đạp khẽ lùi lại về phía sau, con bạch mã đột nhiên lùi lại. Nó vọt tới hay lùi lại đều mau lẹ phi thường.

Đại hán lớn tiếng khen ngợi:

– Ngựa hay quá!

Viên Tử Y cười lạt đáp:

– Ta tưởng ai, té ra là Lam Tần chưởng môn Bát Tiên kiếm ở Ngô Châu, Quảng Tây.

Đại hàn này đúng là Lam Tần. Y thấy thiếu nữ chưa qua hai mươi, nhan sắc xinh đẹp như hoa, ra tay mau lẹ mà lại lịch duyệt giang hồ, mới ngó thấy một chiêu đã gọi ra tên họ và thân phận của y thì trong lòng không khỏi kinh ngạc, nhưng y cũng có phần đắc ý, tự nhủ:

– Lam mỗ ở nơi đất Nam Cương hẻo lánh mà cả đến thiếu nữ nhỏ tuổi này cũng biết đến uy danh

Y tủm tỉm cười hỏi:

– Sao cô nương lại biết tính danh tại hạ?

Viên Tử Y đáp:

– Ta đang muốn kiếm các hạ, lại gặp ở đây, thật là may quá!

Lam Tần lấy làm lạ, nghĩ mình xưa nay chưa từng quen biết bèn hỏi ngay:

– Cao tính đại danh cô nương là gì? Kiếm Lam mỗ có điều chi dạy bảo?

Viên Tử Y đáp:

– Ta bảo các hạ không nên thượng kinh, để ta thay các hạ đi tiện hơn.

Lam Tần ngơ ngẩn không hiểu ra, lại hỏi:

– Cô nương nói vậy là có ý gì?

Viên Tử Y đáp:

– Hừ! Có gì mà không hiểu. Ta bảo các hạ nhường chức vị chưởng môn Bát Tiên kiếm lại cho ta!

Lam Tần thấy nàng ăn nói vô lễ, bất giác nổi giận đùng đùng, nhưng y vừa thấy nàng tập kích cả bốn người, thủ pháp xảo diệu khôn lường, chính y cũng chưa nhìn rõ. Nếu không thì đời nào y lại để cho hai tên thị vệ đi bên cạnh thảm bại đến thế. Lam Tần vốn là người cẩn thận, y thấy Viên Tử Y nói khoác liền cho là nàng có chỗ ỷ mình, y vẫn không phát tác, chắp tay nói:

– Tôn tính đại danh cô nương là gì? Lệnh sư là ai?

Viên Tử Y đáp:

– Ta đã không có giao tình với các hạ thì còn hỏi tên họ làm chi? Danh hiệu sư phụ ta càng không thể nói ra cho các hạ biết được. Gia sư đã có duyên gặp mặt các hạ một lần. Nếu các hạ nhắc tới việc đã qua thì ta lại không tiện đòi các hạ nhường chức chưởng môn cho mình.

Lam Tần chau mày nghĩ mãi không ra những nhân vật nổi danh trong võ lầm mà y quen biết, vị nào là tay cao thủ sử nhuyễn tiên. Hai tên thị vệ một bị trúng roi, một tên bị hất té xuống ngựa đều phẫn nộ vô cùng. Bọn này quen thói ngang tàng, phen này bị hạ nhục làm sao chịu bỏ qua? Cả hai tên đồng thanh huýt sáo. Một tên trên ngựa, một tên dưới đất đồng thời nhảy xổ về phía Viên Tử Y. Hai tên này vốn tay không bây giờ một rút đao, một cầm trường kiếm.

Viên Tử Y rung động cây nhuyễn tiên đánh chát một tiếng, quất trúng vào cổ tay phải của tên thị vệ rút đao. Ngón tay hắn vừa sờ vào chuôi đao đã thấy cổ tay đau thấu xương, không còn sức để rút yêu đao ra nữa. Cây ngân ty nhuyễn tiên của Viên Tử Y vừa nhỏ vừa dài, không giống những cây nhuyễn tiên khác. Nàng ra chiêu đánh trúng cổ tay tên thị vệ. Ngọn roi vẫn không dừng lại, mà quấn lấy đốc kiếm của thị vệ họ Tào nhanh như điện chớp, tiện đà hất lên. Thủ pháp của nàng lẹ quá, bàn tay của thị vệ họ Tào chưa kịp sờ vào chuôi kiếm thì thanh kiếm đã rút khỏi vỏ. Hắn sợ quá vội đưa tay ra ngoài mà cũng bị lưỡi kiếm hớt đứt bàn tay, máu chảy đầm đìa. Viên Tử Y rung cây nhuyễn tiên một cái. Thanh trường kiếm bay vút lên không cao đến mấy chục trượng. Nàng lại thu cây nhuyễn tiên về quấn ngang eo, giống như sợi dây kim ngân quấn quanh bộ áo tía. Người ngoài nhìn thấy, nào ai biết đó là thứ binh khí cực kỳ lợi hại.

Viên Tử Y không ngửng đầu nhìn thanh kiếm, mà quay lại hỏi Lam Tần:

– Các hạ có nhường chức chưởng môn cho ta không?

Lam Tần ngửa mặt lên trời nhìn thanh trường kiếm đang rơi xuống, nghe nàng hỏi vậy, bèn buột miệng hỏi lại:

– Cái gì?

Viên Tử Y đáp:

– Ta yêu cầu các hạ nhường chức chưởng môn Bát Tiên kiếm cho ta.

Giữa lúc ấy thanh trường kiếm đã rớt xuống trước mặt nàng, nàng vừa nói vừa nghe tiếng gió liền đưa tay ra chụp lấy chuôi kiếm. Thanh trường kiếm từ trên cao mấy chục trượng rớt xuống, thế rơi vô cùng nguy hiểm, huống gì trừ chuôi kiếm ra thì phần còn lại là lưỡi kiếm sắc bén. Thế mà Viên Tử Y không thèm liếc mắt nhìn cũng chụp trúng chuôi kiếm. Công phu này khiến cho Lam Tần chấn động tâm thần. Hồ Phỉ đứng bên xem cũng ngấm ngầm bộ phục. Chàng tự hỏi:

– Vừa rồi nàng đã tranh đoạt chức chưởng môn phái Vi Đà sao còn muốn đoạt cả chức chưởng môn Bát Tiên kiếm?

Hồ Phỉ thấy nàng còn nhỏ tuổi mà võ công đã cao thâm như vậy bình sinh trong đời ngoài Triệu Bán Sơn, chàng chưa thấy một cao thủ nào võ học lại đạt đến trình độ đó, trong lòng thầm thán phục, vết thương trên mặt do roi đánh tựa hồ như không còn cảm giác nữa.

Lam Tần thấy nàng phô trương tuyệt kỹ này càng không dám hành động lỗ mãng. Y định dùng lời nói khéo để tìm ra gốc gác của đối phương, liền cất tiếng hỏi:

– Công phu thính phong biện khí của cô nương dường như là tuyệt nghệ của Đông gia ở Sơn Tây?

Viên Tử Y cười đáp:

– Nhãn quang của các hạ khá lắm. Vậy còn công phu ném kiếm lên trời này thì sao?

Nàng nói rồi vung tay mặt một cái, thanh trường kiếm liền bay vọt lên không. Lần này thì không phải mũi kiếm hướng thẳng lên trời mà quay tròn thành một vòng màu sáng bạc từ từ đưa lên. Tuy thế đi không gấp lắm nhưng hình dạng kỳ dị coi rất ngoạn mục. Lam Tần ngửng đầu nhìn thanh kiếm thì đột nhiên nghe thấy tiếng gió thoảng, trước người có điều khác lạ, liền nhảy lùi lại hơn trượng. Y thấy ánh sáng lấp loáng. Quả kim cầu ở đầu cây nhuyễn tiên lướt qua sau bên người. Nếu y không cơ trí mau lẹ thì thanh bội kiếm đã bị Viên Tử Y đoạt mất rồi.

Nguyên Viên Tử Y biết võ công Lam Tần cao thâm hơn hai tên thị vệ rất nhiều, nên nàng cố ý ném kiếm thành vòng tròn để đối phương chú ý rồi đột nhiên ra tay đoạt kiếm. Không ngờ bị Lam Tần phát hiện nhảy lùi tránh được, khiến nàng không ngớt tiếc thầm. Lam Tần lại ngẩn người hổ thẹn. Y hùng bá miền tây nam, môn đồ của y ở khắp vùng Lưỡng Quảng và Vân Quý. Đã hai chục năm chưa bao giờ y bị khuất phục, chẳng ngờ bữa nay gặp con nha đầu tóc vàng giở trò khinh mạn.

Lam Tần không nhẫn nại được nữa, rút trường kiếm đánh “soạt” một tiếng hô:

– Hay lắm! Tại hạ lãnh giáo mấy cao chiêu của cô nương.

Giữa lúc ấy thanh trường kiếm trên không đã hết đà, cắm thẳng xuống đất như ngọn bút. Viên Tử Y vung cây nhuyễn tiên quấn lấy đốc kiếm, đột nhiên đưa về phía trước đâm thẳng vào ngực Lam Tần. Hai bên đứng cách nhau đến hai trượng, nhưng chỉ trong chớp mắt mũi kiếm đã cách ngực y không đầy một trượng, có khác nào cánh tay dài chụp lấy chuôi kiếm rồi đột ngột đâm tới. Chiêu này lại vượt ra ngoài sự tiên liệu của Lam Tần. Y kinh hãi vội quét ngang thanh kiếm để đỡ gạt. Viên Tử Y hô:

– Tương tử xuy tiêu!

Lam Tần ra chiêu vừa rồi đúng là “Tương tử xuy tiêu” trong Bát Tiên kiếm. Môn Bát Tiên kiếm rất thịnh hành ở các tỉnh miền tây nam nên y cho rằng Viên Tử Y có biết cũng chẳng có chi là lạ, điều quan trọng là xem thử cô ta có chống đỡ nổi không? Y giương cặp lông mày lên lớn tiếng hỏi:

– “Tương tử xuy tiêu” thì sao?

Viên Tử Y lại hô:

– Âm dương bảo phiến!

Tiếng hô chưa dứt, cây nhuyễn tiên đã cuốn lấy thanh trường kiếm đâm vào hai bên ngực trái và ngực phải của Lam Tần. Đúng là chiêu “Âm dương bảo phiến” của Hán Chung Ly trong Bát Tiên kiếm.

Lam Tần lại một phen kinh hãi, nghĩ thầm nàng ta có sử dụng được Bát Tiên kiếm thì cũng chẳng có chi là lạ, mà lạ ở chỗ nàng dùng nhuyễn tiên để sử kiếm, vậy mà kình lực lại đưa ra tới đầu mũi kiếm, khiến nó bắn tới như mũi tên. Y đạp chân xuống tiến tới một bước định tấn công. Y cho là đối phương dùng nhuyễn tiên sử kiếm thì lực đạo sẽ hời hợt. Chỉ cần hai kiếm đụng nhau tất binh khí của đối phương bị đánh rớt. Không ngờ Lam Tần vừa giơ trường kiếm lên chưa kịp ra chiêu. Viên Tử Y đã lớn tiếng hô:

– Thái Hòa hiến hoa!

Đột nhiên nàng thu nhuyễn tiên về chuyển hướng. Lúc này cây nhuyễn tiên đã hết đà, thanh kiếm rớt xuống, Viên Tử Y đưa tay trái đón lấy trường kiếm, tay phải thu nhuyễn tiên về, miệng cười hì hì nhìn đối thủ. Lam Tần thấy nàng hô chiêu thức của mình, bất giác nghĩ thầm:

– Nhuyễn tiên dài mà kiếm ngắn. Thị ngồi trên ngựa mà mình đi dưới đất. Thế là mình kém cả hai đường. Huống chi thị còn trổ hàng trăm quái chiêu để đùa bỡn. Mình chỉ sơ ý một chút là mắc bẫy thị, há chẳng phải đem oai danh một đời buông theo dòng nước?

Y liền cầm kiếm để ngang trước ngực nghiêm nghị nói:

– Cứ đùa bỡn như thế thì kể làm gì? Nếu cô nương dùng đúng Bái Tiên kiếm để ra chiêu thì tại hạ đây xin bồi tiếp.

Viên Tử Y đáp:

– Hay lắm! Nếu không dùng Bát Tiên kiếm pháp chính tông để thắng các hạ thì chắc các hạ chẳng chịu cam tâm nhường ngôi chưởng môn cho ta.

Dứt lời nàng nhảy xuống ngựa, đồng thời quấn cây nhuyễn tiên vào lưng. Lam Tần đưa chếch mũi kiếm lên, tay trái bắt kiếm quyết. Y sử chiêu “Thiết Quải lý hồ lô hệ yêu” chỉ chờ đối phương phóng kiếm là lập tức tung ra nửa chiêu còn lại.

Viên Tử Y rung động thanh trường kiếm muốn ra chiêu, bất giác nàng quay lại ngó Hồ Phỉ một cái, rồi nhìn Lam Tần nói:

– Ta tỷ đấu với các hạ thì chẳng có gì đáng kể, nhưng đừng đem con ngựa quý này tặng cho bọn trộm ngựa.

Hồ Phỉ đáp:

– Lúc cô nương cùng động thủ với người ta, tại hạ không để tâm đến con ngựa của cô nương là xong.

Viên Tử Y nói:

– Hừ! Tên tiểu Hồ Phỉ này ngụy kế đa đoan ai mà tin được.

Tay trái nàng cầm cương ngựa, mũi kiếm xé gió theo chiêu “Trương Quả đảo kỵ lư” chênh chếch phóng ra. Lam Tần thấy nàng tay trái dắt ngựa, tay phải sử kiếm, bụng bảo dạ:

– Đây chính là ngươi tự tìm lấy cái chết, không còn trách ai được nữa.

Y liền phóng ra ba chiêu “Bạt vân kiếm nhật”, “Tiên nhân chỉ lộ”, “Khôi tinh điểm nguyên”. Thế là y hóa giải bằng một chiêu, còn hai chiêu để phản kích. Viên Tử Y thấy kiếm chiêu của đối phương rất lợi hại. Ngoài mặt tuy nàng vẫn mỉm cười mà trong lòng không dám khinh thị địch thủ nữa. Nàng nghĩ thầm:

– Sư phụ nói đúng lắm. “Bát Tiên kiếm pháp” quả là một môn nhất tuyệt trong kiếm thuật. Gã này sử kiếm nội lực còn thâm hậu hơn ta rất nhiều.

Nàng cũng dùng “Bát Tiên kiếm pháp” để chiết chiêu. Tay trái cầm cương ngựa nên không thể xoay mình tấn công cũng khó bề tung người nhảy nhót. Nhưng nàng giữ môn hộ cực kỳ nghiêm mật, Lam Tần không sao tìm ra được chỗ sơ hở. Thấy nàng sử dúng kiếm pháp chính tông của bản môn, y không khỏi lấy làm lạ, tự hỏi:

– Trong bản môn sao lại nảy sinh ra nhân vật này?

Chỗ đấu kiếm diễn ra trên đường lớn nối liền hai mặt nam bắc thành Hành Dương. Hai người mới trao đổi mười mấy chiêu, từ phía bắc có một đoàn đẩy cỗ xe muối đi tới. Tiếp theo trên đường lớn phía nam cũng có hai cỗ xe lừa đi lại. Những người buôn thấy trên đường có cuộc tỷ võ liền nhất tề đứng lại. Chẳng mấy chốc hai mặt nam bắc lại có bọn khách thương đi tới. Mọi người một là muốn coi cuộc đấu, hai là sợ hai tên võ quan của triều đình nên dừng lại trên đường lặng lẽ đứng xem.

Lại đấu một hồi nữa, Lam Tần nhận ra tuy đối phương có học qua “Bát Tiên kiếm pháp” nhưng chưa lĩnh hội đến chỗ tinh vi, ảo diệu. Có điều võ công nàng rất phức tạp. Mỗi lúc gặp nguy cấp, đột nhiên nàng sử một chiêu tựa hồ như “Bát Tiên kiếm pháp” mà thực ra không phải để hóa giải chiêu thức của y. Vì thế, trong lúc nhất thời y cũng khó bề thủ thắng. Lam Tần thấy đứng xem mỗi lúc một đông, trong khi đối thủ chẳng những là một cô gái, mà một tay cô còn dắt ngựa, tức là chỉ dùng một nửa sức lực để đối phó với y. Nếu như nàng vẫn đấu ngang ngửa thì y còn mặt mũi nào mà đi tham dự cuộc đại hội chưởng môn nhân ở Bắc Kinh nữa? Y liền huy động kiếm lực, phát huy tâm pháp mà y đã nghiên cứu mấy chục năm để xuất chiêu.

Mọi người đứng xem thấy y càng đánh càng hăng, kiếm quang lấp loáng xoay quanh Viên Tử Y tấn công ráo riết đều không khỏi lo thay cho nàng. Chỉ có hai tên thị vệ là mong Lam Tần đắc thắng để rửa nhục thay chúng. Viên Tử Y đánh lâu không hạ được, ngẫu nhiên xoay mình lại thấy nét mặt Hồ Phỉ như cười mà không phải là cười, lại tựa hồ có ý chế giễu, bèn lẩm bẩm:

– Thằng lỏi kia! Ngươi cứ cười ta đi! Bản cô nương cho ngươi biết thủ đoạn.

Khốn nỗi cuộc đấu này lại hạn chế ở trong Bát Tiên kiếm còn ngoài ra không được sử dụng bất kỳ môn võ nào khác. Tay trái viên Tử Y dắt con bạch mã, nếu đấu một lúc rồi lại buông cương ngựa, ỷ vào khinh công để thủ thắng tất khiến cho Hồ Phỉ coi thường. Viên Tử Y nặng lòng hiếu thắng lại thấy Lam Tần ra chiêu nào cũng giành thế thượng phong. Kiếm thế của nàng đã bị trường kiếm của y khống chế. Đột nhiên nàng khẽ đẩy tay trái về phía trước. Con bạch mã là giống vật có linh tính, hiểu ý của chủ nhân liền xông lại đứng thẳng mình lên tựa hồ muốn đạp vào đầu Lam Tần.

Lam Tần kinh hãi nghiêng mình né tránh, bỗng y cảm thấy cổ tay tê chồn. Thanh trường kiếm tuột khỏi tay bay vọt lên không. Y để hết tinh thần né tránh vó ngựa không đề phòng thanh kiếm trong tay mình bị đối phương đoạt mất. Võ công Lam Tần tuy chưa đáng kể vào hạng nhất lưu cao thủ, nhưng mấy chục năm trời y hành sự nghiêm cẩn nên mới bảo toàn được uy danh. Không ngờ cả đời thận trọng bữa nay chỉ sơ hở một chút mà bị thất bại về tay một thiếu nữ.

Lam Tần mất binh khí rồi liền tung người lại con ngựa của mình, rút thanh trường kiếm bên yên ngựa ra. Nguyên y là người phòng xa, cả trường kiếm cũng đem theo thêm một thanh phòng hờ. Bỗng thấy bạch quang lấp loáng. Viên Tử Y ném thanh trường kiếm trong tay ra. Hai thanh kiếm đụng nhau trên không đánh “choang” một tiếng. Thanh trường kiếm của Lam Tần ở trên không bị đứt làm hai đoạn.

Viên Tử Y dùng thủ pháp chặt kiếm đều vận dụng xảo kình, nếu không thì hai thanh kiếm ở trên không chẳng có điểm tựa lực làm sao chặt gãy thanh trường kiếm bằng thép nguyên chất được? Nàng dùng thủ pháp này cốt để hoa mắt mọi người cũng như đang diễn kịch bỗng nhiên trổ trò la, khiến khách đứng xem phải bật tiếng hoan hô. Tiếng hoan hô nổi dậy càng khiến Lam Tần thêm tức giận có đấu nữa cũng khó bề thủ thắng.

Quả nhiên mọi người đứng xem đồng thanh hoan hô, Lam Tần ngẩn người ra một chút rồi biến đổi sắc mặt. Viên Tử Y bắt lấy cây kiếm từ trên không rơi xuống, đâm tới trước trước ngực Lam Tần, miệng hô:

– Tào quốc cữu phách bản!

Lam Tần đưa kiếm lên gạt. “Choang” một tiếng, thanh trường kiếm này lại gãy làm hai đoạn. Đây vẫn là thủ pháp xảo diệu của Viên Tử Y, tuy nàng ra chiêu bằng “Bát Tiên kiếm pháp”, nhưng lúc song kiếm vừa chạm nhau là nàng liền hất nhẹ thân kiếm để biến chiêu.

Lam Tần phóng kiếm vào quãng không rồi bị đối phương từ trên cao đánh xuống, không còn chút sức lực nào để kháng cự. Đến khi vận kình xong thì thanh kiếm đã bị gãy rồi. Nói thẳng ra, chẳng qua là y cầm ngang lưỡi kiếm để mặc cho đối phương chém gãy mà thôi. Chỉ vì Viên Tử Y tâm niệm biến chuyển như điện chớp, ra chiêu như sấm sét, chưa xong kế này đã nảy kế khác khiến y không biết đường nào mà đề phòng. Khách đứng xem thấy thiếu nữ xinh đẹp chặt đứt liền hai thanh kiếm, lại hoan hô như sấm dậy.

Lam Tần tính thầm trong bụng:

– Con nhỏ này tuy chưa thể dùng Bát Tiên kiếm để thắng ta, nhưng võ công thị quảng bác lại quỷ dị khôn lường. Ta còn đấu nữa với thị cũng uổng công.

Y thấy Viên Tử Y vẻ mặt nhơn nhơn đắc ý liền nhảy xuống ngựa, chấp tay nói:

– Bội phục! Bội phục!

Y cúi xuống lượm ba khúc kiếm gãy lên hỏi:

–  Tại hạ ắt phải quay về làng, suốt đời không nhắc đến chữ “kiếm” nữa. Nhưng nếu người ta hỏi tại hạ bị thua về anh hùng hào kiệt nào thì tại hạ trả lời làm sao?

Viên Tử Y đáp:

– Tiểu nữ họ Viên tên gọi Tử Y. Còn danh hiệu gia sư…

Nàng dắt ngựa đến bên Lam Tần ghé tai nói nhỏ mấy câu. Lam Tần vừa nghe xong liền biến sắc, bao nhiêu nét buồn nản tức giận thành sợ hãi kính cẩn. Y nói:

– Nếu sớm biết thế này thì tiểu nhân đâu còn dám động thủ với cô nương? Khi cô nương trở về bái kiến tôn sư xin nói giùm Lam mỗ ở Ngô Châu thỉnh an lão nhân gia.

Dứt lời y dắt ngựa lùi lại ba bước đứng chờ bên đường. Viên Tử y vỗ nhẹ vào lưng con ngựa trắng một cái, cười nói:

– Xin đắc tội!

Nàng quay lại nhìn Hồ Phỉ chúm chím cười, rồi giật cương ngựa Con bạch mã chưa cất bước đột nhiên nhảy vọt lên không, vượt qua mười mấy xe muối lao về phía bắc, chớp mắt đã mất hút. Trên đường cái cả mấy chục cặp mắt đều dồn về phía sau lưng nàng. Người ngựa đã khuất dạng từ lâu mà ai nấy vẫn đứng ngây ra nhìn.

Trong một ngày, Viên Tử Y đánh bại những cao thủ hai môn phái lớn ở phương nam, nàng đắc ý không sao kể xiết. Nàng thấy cây hai bên đường không ngớt chạy lùi về phía sau bất giác cất tiếng hát nghêu ngao. Nàng vừa hát được hai câu đột nhiên cảm thấy sau lưng nóng bỏng lạ thường, vội xoay tay lại sờ. Bỗng nghe nổ “bùng” một tiếng, lửa lập tức bén lên người nàng. Viên Tử Y kinh hãi, liền sử chiêu “Nhũ yến đầu lâm” từ trên lưng ngựa nhảy xuống con sông ở ven đường. Ngọn lửa cháy ở trên lưng lập tức tắt ngấm. Nàng từ dưới sông bò lên, sờ sau lưng thấy vạt áo bị cháy một mảng lớn. tuy chưa sém đến da thịt nhưng đã bén vào áo trong. Nàng tức giận vô cùng khẽ cất tiếng thóa mạ:

– Tiểu tặc Hồ Phỉ! Nhất định là ngươi giở quỷ kế rồi!

Nàng lấy trong bọc ra một tấm áo ngoài toan thay, bỗng nhìn thấy trên vai con bạch mã đen lại và sưng tấy lên. Hai con rết lớn đang bám vào để hút máu. Viên Tử Y giật mình kinh hãi vội dùng roi ngựa khêu con rết xuống rồi dùng hòn đá đập nát bấy ra. Độc tính của hai con rết này cực kỳ lợi hại, vết thương trên vai ngựa lan rộng dần. Con bạch mã tuy là loại thần tuấn mà cũng không chịu nổi đau đớn. Nó hí lên nghe rất thê thảm, hai chân trước quỵ xuống rồi ngã lăn ra. Viên Tử Y bàng hoàng không biết làm thế nào, miệng thóa mạ liên hồi:

– Tiểu tặc Hồ Phỉ! Hồ Phỉ tiểu tặc!

Nàng không kịp thay áo ướt, đưa tay ra toan nặn chất độc cho con ngựa nhưng nó sợ đau liền né tránh. Đang lúc hoang mang bỗng nghe có tiếng vó ngựa xa ở phía nam. Ba người cưỡi ngựa chạy nhanh tới. Người đi đầu chính là Hồ Phỉ. Ngân quang lấp loáng. Viên Tử Y cầm nhuyễn tiên trong tay tung mình nhảy lại vung roi đánh xuống đầu Hồ Phỉ, đồng thời cất tiếng thóa mạ:

– Tiểu tặc! Dùng ám tiễn để hại người, sao gọi là trang hảo hán?

Hồ Phỉ giơ đơn đao lên gạt cây nhuyễn tiên đánh “choang” một tiếng, cười đáp lại:

– Ta mà dùng ám tiễn hại người ư?

Viên Tử Y cảm thấy cánh tay tê chốn, không khỏi nghĩ thầm:

– Võ công của tên tiểu tặc này quả nhiên không phải tầm thường, ta chớ nên khinh địch.

Nàng lại mắng:

– Ngươi dùng độc vật đả thương ngựa của ta. Đó chẳng phải là hành vi ti bỉ hay sao?

Hồ Phỉ cười nói:

– Cô nương thóa mạ như vậy là đúng, nhưng có trông thấy Hồ Phỉ ta ra tay hạ thủ không?

Viên Tử Y sững sờ. Nàng nhìn thấy trên hai con ngựa đằng sau chàng là hai tên thị vệ cùng đi với Lam Tần. Hai người này cúi đầu rầu rĩ, hai tay đều bị trói. Hồ Phỉ tay cầm hai sợi dây dài còn đầu dây kia buộc vào cương ngựa của hai người. Nguyên hai tên thị vệ này đã bị chàng bắt được, dẫn tới.

Viên Tử Y động tâm, nàng đã đoán ra mấy phần liền hỏi:

– Chẳng lẽ lại là hai gã này?

Hồ Phỉ cười nói:

– Tôn tính đại danh của hai vị cùng ngoại hiệu trên chốn giang hồ, cô nương bất tất phải nhọc lòng hỏi nữa.

Viên Tử Y nguýt chàng một cái, rồi đáp:

– Ngươi biết rồi thì nói ra cho ta nghe.

Hồ Phỉ nói:

– Được. Tại hạ xin giới thiệu cùng Viên cô nương hai nhân vật thành danh trong võ lâm. Vị này là Tiểu Chúc Dung Tào Mãnh, còn vị nữa là Thiết Yết Tử Thôi Bách Thăng. Ba vị làm quen với nhau đi.

Viên Tử Y vừa nghe ngoại hiệu của hai người lập tức tỉnh ngộ. “Tiểu Chúc Dung” dĩ nhiên là tay chuyên dùng hỏa khí. “Thiết Yết Tử” đương nhiên giỏi phóng độc vật. Nàng đoán ra hai người này bị sỉ nhục, trong lòng oán hận nhân lúc nàng tỷ đấu với Lam Tần chúng đã ra tay làm hại ngấm ngầm.

“Bốp bốp” sáu tiếng liên tục, nàng quất mỗi tên ba roi ngựa vào đầu. Hai tên thị vệ bị đánh, máu chảy đầm đìa cả mặt.

Viên Tử Y trỏ vào Thiết Yết Tử nói:

– Mau lấy thuốc giải điều trị cho con ngựa của ta, không thì lại ăn ba roi nữa. Lần này ta dùng cây roi này đây.

Nàng nói rồi vung cây nhuyễn tiên lên, nghe tiếng lắc rắc, một nhánh cây liễu bên vệ đường bị đánh gãy xuống. Thiết Yết Tử hồn vía lên mây đưa hai cánh tay bị trói lên, miệng lắp bắp:

– Tiểu nhân đâu thể…

Hồ Phỉ không chờ hắn dứt lời đã vung đơn đao đánh “soạt” một tiếng, cắt đứt dây trói. Nhát đao đó chém cực nhanh, nhưng hay ở chỗ chỉ có dây trói bị đứt mà da dẻ hắn chẳng bị chạm một tí nào. Viên Tử Y lườm chàng một cái, hừm tiếng nho nhỏ, thầm nghĩ:

– Ngươi muốn khoe khoang bản lãnh chắc? Cái đó chẳng có chi đáng kể.

Thiết Yết Tử lấy thuốc giải trong bọc ra lại rịt cho ngựa, miệng khẽ nói:

– Đã có thuốc giải độc môn của tiểu nhân thì không có gì đáng ngại nữa.

Hắn dừng lại một chút rồi tiếp;

– Nhưng trong vòng ba ngày không được cho con ngựa này chạy nhanh để khỏi tổn thương gân cốt.

Viên Tử Y nói:

– Ngươi hãy cởi trói cho Tiểu Chúc Dung.

Thiết Yết Tử khấp khởi mừng thầm nghĩ bụng:

– Tuy ta bị ba roi ngựa nhưng may là ngoài đại ca ra, không một người quen nào nhìn thấy. Chính y cũng bị ba roi dĩ nhiên không đi kể lại chuyện này.

Nên biết bọn này làm thị vệ, nỗi đau khổ về thân xác có chi đáng kể, mà chúng chỉ sợ tổn thương đến oai phong để đồng bọn khinh thường. Hắn lại cởi trói cho Tào Mãnh xong, toan đi ngay, nhưng Viên Tử Y hỏi:

– Toan bỏ đi ư? Trên thế gian này làm gì có chuyện dễ dàng thế được?

Hai tên bị Hồ Phỉ bắt tới đây. Chỉ một mình Hồ Phỉ mà chúng đã không địch nổi, huống gì bây giờ lại có thêm một nữ lang võ nghệ cao cường. Bọn chúng chỉ biết dừng cương bất động, chờ bị phát lạc.

Viên Tử Y nói:

– Tiểu Chúc Dung lấy hết hỏa khí trong mình bỏ ra, Thiết Yết Tử cũng lôi hết độc vật ra. Nếu còn lưu lại một vật gì là biết tay bản cô nương.

Nàng vung roi trên không cho bật lên những tiếng lách cách. Hai gã thị vệ vô phương đối phó, bụng bảo dạ:

– Ngươi muốn tước hết những ám khí đã thành danh của bọn ta để hả mối hận trong lòng. Thôi thì cũng tạm chấp nhận vì không còn cách nào khác.

Hai gã đành lấy hết ám khí ra. Hỏa khí của Tiểu Chúc Dung là cái hộp có lẫy nỏ. Thiết Yến Tử tay cầm ống trúc. Dĩ nhiên ống này đựng rết. Cái ống trúc nhẵn bóng và nổi màu vàng, hiển nhiên hắn đã sử dụng lâu năm.

Viên Tử Y nhìn thấy liền nghĩ tới những độc vật lông lá ở trong ống, không khỏi sởn da gà. Nàng nói:

– Các ngươi đã ngấm ngầm hạ độc thủ bản cô nương, quả là lớn mật. Bữa nay nhất định các ngươi phải chết, nhưng may cho các ngươi là bản cô nương đã có lệ trong một ngày chỉ giết một người. Xét ra thì vận của các ngươi…

Hai tên Tào, Thôi đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:

– Không hiểu bữa nay thị đã giết ai chưa?

Lại nghe Viên Tử Y nói tiếp:

– …thì chỉ một tên chết là đủ. Tên nào chết tên nào sống, bản cô nương khó bề quyết định. Bây giờ thế này, các ngươi dùng ám khí bắn nhau. Ai trúng trước là kẻ đó đáng chết. Ai tránh khỏi là ta tha mạng. Ta đã nói một là một, hai là hai, các ngươi cầu xin cũng vô ích. Nào, một hai ba, động thủ đi!

Hai tên còn đang do dự, không biết nàng nói thật hay đùa nhưng lại nghĩ thầm:

– Nếu để tên kia động thủ trước, há mình chẳng mất mạng ư?

Cả hai tên đều là hạng người thủ đoạn tàn nhẫn, tâm địa độc ác. Chúng vừa nghĩ vậy lập tức ra tay. Bỗng thấy ánh hỏa quang lấp loáng. Cả hai tên cùng rú lên thê thảm. Tiểu Chúc Dung bị con rết lớn cắn vào cổ. Thiết Yết Tử bị trái cầu lửa nhảy múa trước ngực, làm cháy sém cả râu. Viên Tử Y cười khanh khách nói:

– Hay lắm! Bất phân thắng bại! Bản cô nương hả giận rồi, cho bọn ngươi chạy đi.

Hai tên Tào, Thôi tuy trong mình đau đớn nhưng vừa nghe rõ hai câu, chúng chẳng kể rết độc cắn cổ, hay râu bị cháy sém nhất tề lên ngựa chạy ngay. Chúng chạy một quãng xa mới giải cứu cho nhau, người giải độc kẻ dập lửa.

Viên Tử Y cười rộ không ngớt. Bỗng một cơn gió thổi tới sau lưng nàng thấy lạnh lạnh, chợt nhớ ra áo mình bị cháy một mảng, đảo mắt lại thấy Hồ Phỉ đang nhìn mình cười hì hì, bất giác thẹn đỏ mặt lên quát hỏi:

– Ngươi nhìn gì vậy?

Hồ Phỉ quay đầu sang chỗ khác, cười đáp:

– Tại hạ đang nghĩ may mà con rết đó chưa cắn cô nương.

Viên Tử Y bất giác rợn người, nghĩ thầm:

– Gã nói vậy quả không sai. Mình mà bị rết cắn thì thật là đáng sợ.

Rồi nàng đáp:

– Ta sắp thay áo, ngươi hãy tránh đi.

Hồ Phỉ nói:

– Cô nương định thay áo ngay trên đường lớn này ư?

Viên Tử Y vừa tức mình lại vừa buồn cười. Nàng nghĩ tới mình trong lúc nóng nảy ăn nói không cẩn thận, bối rối trừng mắt nhìn Hồ Phỉ một cái rồi đi vào. Áo lót còn ướt, nàng đành để vậy. Tấm áo bị đốt cháy nàng cuốn lại ném xuống sông.

Hồ Phỉ nhìn nàng trở ra, bèn hỏi:

– Bây giờ cao tính đại danh của cô nương là Viên Hoàng Sam phải không?

Viên Tử Y “hừ” một tiếng, biết rằng Hồ Phỉ đã đoán ra “Viên Tử Y” không phải là tên thật của mình. Đột nhiên nàng kêu thét lên:

– Trời ơi! Ta bị rết cắn!

Rồi đưa tay ra nắm lấy sau lưng. Hồ Phỉ kinh hãi vội hỏi:

– Thật không?

Chàng tung mình vọt lại để giúp nàng bắt con rết. Nào ngờ Viên Tử Y kêu thét lên là để đánh lừa. Hồ Phỉ người đang lơ lửng trên không, nàng đột nhiên phóng chưởng đánh ra. Chiêu này lặng lẽ vô tung vô ảnh khiến Hồ Phỉ không kịp đề phòng liền bị lộn đi mấy vòng té xuống đống bùn ở bờ sông. Khi chàng ở trên không đã xoay người đi, nhưng hai chân cắm xuống, bùn ngập lên tới ngực rất hôi hám.

Viên Tử Y vỗ tay cười hì hì, lớn tiếng hỏi:

– Cao tính đại danh của các hạ phải chăng là Tiêu nê thu Hồ Phỉ?

Lúc này Hồ Phỉ dở cười dở khóc. Chàng đã vì lòng hảo tâm, không ngờ nàng lại đột nhiên ra tay. Dưới chân chàng toàn bùn đất mềm nhão, không có chỗ tựa chân để lấy đà nhảy lên, đành đi từng bước một, kéo theo nào bùn nào nước. Hồ Phỉ đang cơn tức giận nhưng thấy Viên Tử Y miệng cười chúm chím như hoa, trong lòng lại cảm thấy ngọt ngào. Chàng giang hai tay đầy bùn lớn tiếng quát:

– Con tiểu nha đầu kia! Ta đổi tên ngươi là Viên Nê Sam.

Viên Tử Y giật nảy mình, co chân chạy trốn. Ngờ đâu khinh công Hồ Phỉ nào phải tầm thường. Viên Tử Y chạy quanh chạy quẩn thủy chung vẫn bị Hồ Phỉ giang hai tay cản đường. Nàng thấy chàng cứ giang hai tay nhảy xổ đến nhưng không dám động thủ ra chiêu, vì chàng mà phản kích một đòn tất bùn dây vào mình. Nàng lâm vào tình trạng trốn không được, đánh không xong.

Hồ Phỉ xông lại mà hết đường né tránh, tất bị chàng ôm lấy. Nàng đánh bạo dừng bước, vẻ mặt nghiêm nghị hỏi:

– Ngươi dám đụng vào ta ư?

Hồ Phỉ giang hai tay nhảy qua nhảy lại chỉ để hăm dọa Viên Tử Y. Bây giờ thấy nàng đứng yên, chàng bèn lập tức dừng bước, mũi ngửi mùi hương thơm tho thoang thoảng. Chàng lùi lại mấy bước hỏi:

– Ta vì hảo ý giúp cô nương, cô lại giở trò chó cắn Lữ Động Tân là nghĩa gì?

Viên Tử Y cười đáp:

– Đó cũng là một chiêu trong Bát Tiên kiếm, gọi là “Lữ Động Tân thôi cẩu”. Nếu ngươi không tin thì cứ đi hỏi họ Lam kia tất biết.

Hồ Phỉ nói:

– Lấy oán trả ơn là hạng vô lương tâm, vô lương tâm!

Viên Tử Y đáp:

– Chà! Ngươi còn kể ơn với ta. Cái đó gọi là mua ơn, chỉ có hạng người tồi bại mới thế. Ta hỏi ngươi, sao ngươi biết hai gã đó phóng hỏa, hạ độc mà bắt lại cho ta?

Nàng nói câu này khiến Hồ Phỉ tắc họng. Nguyên hai tên thị vệ ngấm ngầm bắn hỏa chủng vào lưng nàng và bỏ rết độc trên vai ngựa của nàng, Hồ Phỉ đứng bên quả đã trông rõ mà không chịu nói thẳng ra. Chàng chờ đến khi Viên Tử Y đi rồi mới bắt hai gã lại và đuổi chạy theo.

Viên Tử Y nói tiếp:

– Bởi thế ta không chịu cái ơn của ngươi, có đúng vậy không?

Nàng rút khăn bưng mũi, chau mày hỏi:

– Mình ngươi hôi hám quá, ngươi có biết không?

Hồ Phỉ đáp:

– Đây là quà tặng của Lữ Động Tân.

Viên Tử Ý mỉm cười hỏi:

– Hóa ra ngươi tự nhận mình là chó.

Nàng đảo mắt nhìn quanh bốn mặt rồi cười nói:

– Ngươi xuống sông tắm rửa sạch sẽ đi rồi ta sẽ nói chuyện Triệu tam…tiểu tử Triệu Bán Sơn cho ngươi nghe.

Nàng định nói là “Triệu tam thúc” nhưng e Hồ Phỉ tự coi mình vào hàng trưởng bối, đành liều lĩnh để đổi cách xưng hô là “tiểu tử Triệu Bán Sơn”. Hồ Phỉ mừng rơn, đáp:

– Hay lắm! Hay lắm! Xin cô nương qua bên kia nghỉ một lát, tại hạ tắm nhoáng một cái là xong.

Viên Tử Y nói:

– Tắm rửa vội vàng sao hết mùi hôi hám được?

Hồ Phỉ cười xòa, sử chiêu “Nhất hạc xung thiên” tung mình nhảy xuống sông.

Viên Tử Y coi lại vết thương con bạch mã, thấy thuốc giải của Thiết Yết Tử quả nhiên linh nghiệm. Mới trong khoảnh khắc chỗ sưng đã xẹp bớt. Con ngựa không kêu nữa, chắc đã đỡ đau. Nàng liếc mắt ra xa nhìn về phía Hồ Phỉ thì thấy chàng bỏ quần áo giày vớ ở bờ sông rồi đi xa mấy chục trượng để rửa sạch bùn bẩn trên người. Nàng chắc chàng sợ thân thể lõa lồ bị nàng nhìn thấy. Chợt nàng nảy ra một ý, liền cởi bọc lấy một tấm áo cũ, rón rén đi tới trùm lên đống quần áo giày vớ của Hồ Phỉ, cuốn lại ôm ở tay rồi cưỡi con ngựa xanh, một tay dắt con ngựa trắng từ từ đi về phía bắc. Nàng hô to:

– Ngươi chậm chạp quá, ta đang có việc gấp không chờ được nữa đâu!

Dứt lời nàng giục ngựa chạy nhanh, chỉ sợ Hồ Phỉ để trần truồng nhảy lên rượt theo nên thủy chung không dám ngoảnh cổ lại.

Bỗng nghe tiếng Hồ Phỉ la lớn đằng sau:

– Này này! Viên cô nương! Ta chịu thua cô, bỏ quần áo lại cho ta.

Tiếng la mỗi lúc một xa. Hiển nhiên chàng không dám lên bờ rượt theo. Viên Tử Y vừa đi vừa buồn cười. Mấy lần không nhịn được phải bật cười thành tiếng. Sau cùng nàng tự nghĩ:

– Ta trêu gã thế này quả là mạo hiểm! Nếu gã đâm liều chẳng úy kỵ gì nữa, cứ cắm cổ rượt theo thì chính ta mới là người bẽ mặt.

Ngày hôm ấy nàng đi được hơn mười dặm thì đến một tiểu khách điếm liền vào nghỉ chân. Nàng tự nhủ:

– Con bạch mã trúng độc, Thiết Yết Tử đã dặn đừng cho nó chạy để khỏi tổn thương tới gân cốt.

Nhưng trong thâm tâm, nàng lại rất mong Hồ Phỉ đuổi tới để cãi vã với nàng. Một đêm trôi qua bình yên, nàng chẳng thấy tông tích của Hồ Phỉ đâu. Sáng hôm sau, Viên Tử Y lại thong thả lên đường, cứ nghĩ tới việc không biết Hồ Phỉ làm cách nào để lên bờ, rồi lấy quần áo đâu mà mặc là nàng không nhịn được cười. Mỗi ngày Viên Tử Y chỉ đi năm mươi dặm, mà Hồ Phỉ thủy chung vẫn không thấy đuổi theo, nàng hơi yên tâm. Nhưng tận đáy lòng nàng vẫn nhớ khôn nguôi hình ảnh của gã Tiểu nê thu Hồ Phỉ trên mình dính đầy bùn hôi hám.

Chương 07: Mưa gió đêm khuya nơi cổ miếu

Một hôm Viên Tử Y đi tới eo nước Dịch Gia, phía bắc dải Tương Đàm, cách Trường Sa không xa mấy. Viên Tử Y muốn tìm vào phạm điếm ăn uống nghỉ ngơi, bỗng nghe ở bến đò có tiếng người ồn ào. Nàng thấy một con thuyền lớn đậu ở bến Tương Giang. Một lão già đứng trên đầu thuyền chắp tay cáo biệt những người tiễn hành.

Viên Tử Y liếc mắt nhìn thấy phần lớn những người đưa tiễn đều là nhân vật võ lâm. Người vào cũng vai vuông lưng thẳng tinh thần quắc thước. Nhưng phía sau lão già là hai tên võ quan của triều đình. Viên Tử Y thấy tình hình đó, chợt động tâm tự hỏi:

– Phải chăng đây là chưởng môn một phái đến Bắc Kinh tham dự hội nghị của Phúc đại soái?

Viên Tử Y chú ý nhìn lão già thấy hai hàng tóc mai lão vẫn còn đen, nhưng chòm râu rậm dưới cằm đã lốm đốm bạc, mặt mày hồng hào, ăn mặc rất chải chuốt. Ngón tay trái đeo một chiếc nhẫn bích ngọc, đứng xa mà nhìn, thấy ánh dương quang chiếu vào lóng lánh. Bỗng nghe lão lớn tiếng hô:

– Xin các vị hiền đệ quay về đi!

Lão chắp tay cáo từ, thân hình đứng nghiêm trông vững như núi Thái Sơn. Những người ở trên bờ sông đồng thanh đáp:

– Xin chúc lão sư thuận buồm xuôi gió. Chuyến đi này lão sư sẽ làm dương danh phái Cửu Long ta ở đất kinh sư.

Lão già mỉm cười nói:

– Dương danh ở đất kinh sư thì không dám, chỉ mong phái Cửu Long không bị tổn thương về tay lão phu là đủ rồi.

Viên Tử Y nghe tiếng nói vang dội, trung khí đầy rẫy. Câu nói tựa hồ như khiêm tốn, nhưng thực ra trong giọng có vẻ tự phụ. Bỗng nghe những tiếng “đùng đoàng” nổi lên điếc cả tai, những mẩu giấy đỏ nhảy múa trên bến Tương Giang. Thì ra trên thuyền đậu gần bờ người ta đã đồng loạt đốt pháo để lên đường. Viên Tử Y biết là khi tràng pháo nổ hết, thuyền lớn sẽ khởi hành. Nàng nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, lượm hai viên đá ném vào hai tráng pháo. Hai tràng pháo này đều dài hơn hai trượng bị đá ném đứt ngay khúc giữa, lập tức rơi xuống sông tắt ngấm.

Diễn biến này xảy ra khiến cho những người ở trên thuyền nhốn náo cả lên, phong pháo bị đứt là một điềm đại bất lợi. Mọi người đã trông rõ ràng cả hai tràng pháo đều bị cô gái áo vàng làm đứt. Lập tức sáu, bảy đại hán nhảy lại bao vây, lớn tiếng quát tháo ầm ĩ:

– Ngươi là ai?

– Ai phái ngươi đến đây phá đám?

– Ngươi bắn đứt hai tràng pháo là có ý gì?

– Người nuốt gan hùm, mật báo hay sao mà dám gây sự với Dịch lão sư ở phái Cửu Long?

Nếu nàng không phải là thiếu nữ xinh đẹp lại cô thân thì chúng đã xông vào thượng cẳng chân hạ cẳng tay rồi. Viên Tử Y hiểu rõ gốc gác võ công của Vi Đà môn và Bát Tiên kiếm nên lúc ra tay, bụng đã thuộc làu, chẳng úy kỵ gì. Còn phái Cửu Long này nàng không hiểu rõ lai lịch lại thấy mọi người hùng hổ làm dữ, nàng mỉm cười đáp:

– Tiểu nữ ném con chim sẻ, chẳng ngờ lỡ tay làm đứt hai tràng pháo, trong lòng rất áy náy.

Mọi người nghe thanh âm trong trẻo mà khẩu âm lại là người đàng ngoài liền mồm năm miệng mười, nhao nhao lên hỏi:

– Lỡ tay đánh đứt một tràng pháo còn được, chứ có lý nào đánh đứt cả hai tràng pháo?

– Tên họ ngươi là chi?

– Đến Dịch gia trang làm gì?

– Bữa nay là ngày hoàng đạo, mà bị ngươi quấy phá khiến Dịch lão sư rất bực mình.

Viên Tử Y cười đáp:

– Hai tràng pháo thì đáng gì mà kể? Bây giờ đi mua hai tràng khác về đốt cũng được chứ có gì đâu?

Nàng nói rồi móc trong bọc ra lấy một đĩnh hoàng kim nặng chừng hơn hai lượng để trong lòng bàn tay. Đĩnh vàng này có thể mua được cả ngàn tràng pháo. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau đều nhận thấy cô gái rất cổ quái, không ai thò tay ra đón lấy đĩnh vàng.

Viên Tử Y cười hỏi:

– Phải chăng các vị đều là đệ tử phái Cửu Long? Dịch lão sư có phải là chưởng môn quý phái hay không? Lão nhân gia đến Bắc Kinh tham dự đại hội chưởng môn của Phúc đại soái, có đúng thế không?

Nàng hỏi một câu, mọi người lại gật đầu một cái. Viên Tử Y lắc đầu hỏi:

– Pháo đang nổ mà tắt là điềm đại bất tường. Vậy Dịch lão sư đừng nên đi nữa, ở nhà an cư hưởng phúc hay hơn.

Trong đám đông, một hán tử lỗ mãng không nhịn được, hỏi:

– Tại sao vậy?

Viên Tử Y vẻ mặt trịnh trọng, đáp:

– Tiểu nữ thấy khí sắc Dịch lão sư không tốt. Ấn đường nổi lên một quầng hắc ám mà lông mi lại nổi sát khí. Nếu lão gia đến kinh sư thì chẳng những uy danh phái Cửu Long vùi xuống đất mà Dịch lão sư e còn bị họa sát thân.

Mọi người nghe nàng nói bất giác nhìn nhau biến sắc. Có người nhổ nước bọt xuống sông, có người lớn tiếng thóa mạ, một số thì thầm bàn tán chỉ e cô gái này biết coi tướng, lời cô đoán nghe ra cũng có mấy phần đạo lý. Những người trên bờ và những người trên thuyền đứng cách nhau không xa, giọng nói của nàng lại trong trẻo ngân vang, câu nào cũng lọt vào tai Dịch lão sư.

Dịch lão sư nhìn kỹ Viên Tử Y, thấy nàng thân hình mảnh dẻ dáng điệu thướt tha tựa hồ không hiểu võ công, nhưng vừa rồi nàng ném đá làm đứt dây pháo, ra tay cực kỳ xảo diệu, kình lực lại mạnh. Con bạch mã nàng cưỡi là giống thần tuấn chứ không phải ngựa thường. Lão chắc nàng đến đây có chuyện gì liền chắp tay nói:

– Xin cô nương cho biết quý tính. Mời cô nương xuống thuyền nói chuyện.

Viên Tử Y đáp:

– Tiểu nữ họ Viên, hay là Dịch lão sư lên bờ nói chuyện đi!

Theo phong tục người Tương Giang thời bấy giờ, ai ngồi thuyền đi xa, hễ đã xuống thuyền rồi mà lại bước lên bờ là một điều đại ky. Dịch lão sư nhíu cặp lông mày trầm ngâm không nói. Tuy lão võ công thâm hậu, làm đến chưởng môn một phái, mà bình sinh đối với những thuật chiêm tinh bói toán cùng coi phong thủy lão lại cực kỳ sùng tín. Lão thấy tràng pháo bị cô gái nhỏ tuổi này đánh tắt, lại nghe nàng nói những điểm bất tường như bị họa sát thân nên bụng nghĩ nếu nàng nói nữa chắc còn lắm điều khó nghe, chẳng thà lơ đi còn hơn, nên lão liền bảo nhà đò:

– Khai thuyền đi!

Rồi lão lẩm bẩm:

– Người âm có điều bất tường, đành chờ khi đến kinh, ta sẽ mua phẩm cầu thần giải trừ tai nạn là xong.

Nhà đò “dạ” lớn một tiếng. Người thì kéo neo, kẻ thì nhổ sào. Viên Tử Y thấy lão không lý gì đến mình, lại chuẩn bị khai thuyền, liền lớn tiếng hô:

– Hãy khoan! Nếu lão nhân gia không nghe lời khuyên của tiểu nữ thì đi không đầy trăm dặm, buồm gãy thuyền lật, bao nhiêu người trên thuyền đều phải chết bất đắc kỳ tử.

Dịch lão sư sa sầm nét mặt, lớn tiếng đáp:

– Lão phu thấy cô nhỏ tuổi không muốn chấp nhặt. Nếu cô cô còn nói nhăng nói càn thì đừng trách lão phu chẳng dung tình.

Viên Tử Y nhảy xuống thuyền mỉm cười nói:

– Tiểu nữ hoàn toàn vì hảo ý. Dịch lão sư bất tất phải nổi nóng. Xin lão sư cho biết đại danh để tiểu nữ chiết tự coi. Điều đó có lợi cho lão sư.

Dịch lão sư hừ một tiếng đáp:

– Không cần.

Viên Tử Y nói:

– Thôi được! Dịch lão sư không chịu nói tôn hiệu thì tiểu nữ chiết tự họ thôi cũng được. Chữ “Dịch” trên là chữ “Nhật” dưới là chữ “Vật”. “Vật nhật” cũng như “Bất nhật” ý nói sinh mạng không lâu nữa. Chuyến này Dịch lão sư ngồi thuyền đi đường thủy. Chữ “Dịch” mà thêm vào chữ “Nhất” và chữ “Thủy” thì thành chữ “Thang”. “Phó thang đạo hỏa” là dấn mình vào dầu sôi lửa bỏng, thật rất nguy hiểm. Thuyền có hình tượng của khí mãnh là đồ dùng. Chữ “Thang” dưới thêm chữ “Mãnh” thì thành chữ “Đăng”. “Đăng” nhiên vô tồn là mọi người trong thuyền đều chết sạch không còn một ai. Bên trên chữ “Thang” thêm chữ “Thảo” thì thành chữ “Đãng”. Thơ cổ có câu “Đãng tử hành bất quy”, có nghĩa là kẻ đãng tử đi không quay về. Dịch lão sư đi chuyến này e rằng phải bỏ mình nơi tha hương đất khách.

Dịch lão sư nghe tới dây không nhịn được nữa, giơ tay đập mạnh vào cột buồm đánh chát một tiếng khiến cây cột to lớn rung lên không ngớt. Lão quát hỏi:

– Cô nói đã hết chưa?

Viên Tử Y cười đáp:

– Dịch lão sư di chuyến này ắt trăm sự đều mong cát lợi, nhưng chữ “Hoàn” e rằng khó nói lắm. Lão sư đến Bắc Kinh để cùng người tranh hùng đồ bá, nếu chẳng động quyền cước thì cũng động đao thương. Chữ “Dịch” thêm chữ “Túc” là chân thì thành chữ “Thích” là đá, mà thêm chữ “Đao” thì thành chữ “Dịch” là xé nát. Vì thế chẳng những lão sư bị người đá chết mà phái Cửu Long còn bị diệt trừ.

Dịch lão sư càng nghe càng tức giận, khốn nỗi những gì nàng nói đều có lý, bất giác trong lòng kinh hãi, liền miễn cưỡng hỏi:

– Lão phu tên là Cát. Thế là “Cát tường, cát lợi”. Cô còn nói gì được nữa không?

Viên Tử Y lắc đầu đáp:

– Lại càng hung hiểm! Nguyên chữ “Cát” nghĩa rất tốt, nhưng đối với lão sư lại bất tường. “Dịch” là thay đổi, “Dịch Cát” là thay đổi cái Cát tường thì đó nghĩa là gì? Dĩ nhiên là “Bất cát”

Dịch Cát lẳng lặng không nói gì. Viên Tử Y lại nói:

– Chữ “Cát” chiết tự thành ba chữ “Thập nhất khẩu” là mười một cái miệng. Dịch lão sư ơi! Người ta chỉ có một miệng mà lão sư lại có đến mười một cái miệng, thì mười cái miệng thừa đó là miệng gì? Dĩ nhiên đây là thương khẩu, đao khẩu. Cứ đó mà xét thì chuyến này lão sư đến Bắc Kinh ắt bị trúng mười nhát đao thương, mà thi thể cũng không đưa về cố hương được.

Con người càng mê tín thì càng không dám nghe những điều bất tường. Dịch Cát trước nay thái độ khoan hòa, khuôn mặt có khí tượng của một phú ông mà bây giờ trên mi mắt bỗng nổi sát khí. Lão liếc mắt nhìn Viên Tử Y cười lạt hỏi:

– Hay lắm, xin đa tạ những lời kim ngọc của Viên cô nương. Xin hỏi cô nương là môn hạ của vị chưởng môn nào? Lệnh tôn là ai?

Viên Tử Y mỉm cười hỏi lại:

– Phải chăng lão nhân gia cũng muốn chiết tự để coi số mạng cho tiểu nữ? Nếu vậy hà tất phải hỏi đến lai lịch của sư thừa?

Dịch Cát cười lạt đáp:

– Lão phu thấy cô còn nhỏ tuổi mà chúng ta lại chưa biết nhau. Nhất định cô nương được ai sai khiến đến quấy Dịch mỗ. Họ Dịch này là người lớn không muốn đấu với trẻ nhỏ huống chi là đấu với nữ nhân. Vậy cô nương hãy gọi người đứng sau lưng cô ra đây để xem ai bị trúng mười đao, bỏ thây nơi đất khách quê người?

Viên Tử Y cười lạt hỏi lại:

– Người đứng sau lưng tiểu nữ ư?

Nàng giả vờ quay lại, bất giác cả kinh vì trên bờ có người đứng đó, mình mặc áo xanh bằng vải thô, hóa trang làm nông dân, chính là Hồ Phỉ. Nàng say sưa chiết tự với Dịch Cát nên chẳng biết chàng đến từ hồi nào. Viên Tử Y giữ vẻ thản nhiên quay lại cười đáp:

– Người đứng sau lưng tiểu nữ ư? Tiểu nữ coi gã chỉ là một tên tiểu tử hốt phân ở chốn hương thôn.

Dịch Cát tức giận:

– Cô đừng giả vờ hồ đồ nữa. Dịch mỗ nói người đứng sau là nhân vật ném đá giấu tay đẩy cô ra chịu đòn. Đã là nam tử hán đại trượng phu thì hà tất phải giấu đầu hở đuôi, làm trò lén lén lút lút đó?

Lão đoán kẻ ngấm ngầm sai khiến Viên Tử Y đến trước quấy phá cho cuộc xuất hành của mình gặp điều bất lợi. Người đó tất nhiên biết rõ tính lão hay úy kỵ, nếu không thì nàng nói toàn những điều xui xẻo làm chi?

Thực ra Viên Tử Y còn muốn quấy nhiễu nữa, nàng thấy lão càng sợ nghe điều bất lợi thì càng muốn chọn những chuyện hung hiểm tai ương để nói.

Nàng liền nghiêm nghị đáp:

– Dịch lão sư! Người ta thường nói những lời trung thực, nghe hay không nghe là tùy ở lão sư. Nếu như phái Cửu Long cần có người đến Bắc Kinh sư không tiện đi thì để tiểu nữ thay mặt lão sư đi là xong.

Viên Tử Y nhảy xuống thuyền không lâu thì Hồ Phỉ đã lần theo hành tung mà tới. Hôm ấy chàng nhảy xuống sông tắm gội mất cả quần áo, thân thể lõa lồ không tiện lên bờ. May mà lúc đó trời sắp tối. Chàng chờ đến đêm, mới lần vào nhà hương nông đánh cắp một bộ y phục. Chàng rất quan tâm đến pho “Quyền kinh đao phổ” gia truyền. Cuốn này chàng vẫn để trong túi áo lót của mình và đều bị Viên Tử Y cuốn mang đi sạch. Chàng nghĩ bụng cô gái kia lần đầu lấy cái bọc của mình, lần sau lại lấy áo quần, nhất định là vì cuốn đao phổ đó.

Trong lòng nóng nảy buồn phiền, Hồ Phỉ đuổi đến hôm sau mới kịp, nhưng thấy Viên Tử Y cho ngựa đi thong thả chứ không ra kiểu ăn cắp đao phổ rồi xa chạy cao bay. Chàng hoài nghi mà không sao đoán ra được ý nàng muốn gì. Hồ Phỉ đã định động thủ đoạt lại nhưng sợ chưa chắc đã thắng nổi, bèn ngấm ngầm theo dõi động tĩnh của nàng xem có người tiếp ứng chăng?

Sau mấy bữa chàng vẫn chẳng thấy gì khác lạ. Hôm nay đến eo nước Dịch gia ở bờ Tương Giang, chàng thấy Viên Tử Y gây hấn với Dịch Cát, điệu bộ muốn đoạt chức chưởng môn. Chàng ngấm ngầm lấy làm lạ nghĩ bụng:

– Cô này sao lại khoái làm chưởng môn thế không biết? Hễ gặp chưởng môn nhân nào là muốn giành chức vị. Phải chăng cô muốn dương oai trên chốn giang hồ hay còn có thâm ý nào khác? Xem chừng hai người này sắp đi tới chỗ động thủ. Ta cứ đợi bọn họ cò trai tranh nhau, mình làm ngư ông thủ lợi, tìm cách đoạt đao phổ đem về. Lúc này mà ta dẫn con bạch mã của cô ta đi thì dễ như trở bàn tay, nhưng bài ca hay không hát đến lần hai. Giờ mà diễn lại trò cũ, không khỏi khiến cô ta nghĩ rằng Tiểu nê thu Hồ Phỉ ta là kẻ bất tài.

Chàng liền từ từ đến gần đầu thuyền để chờ cơ hội đoạt cái bọc trên lưng nàng. Bỗng thấy Dịch Cát mặt đỏ bừng chuyển sang tím bằm. Lão cất giọng khàn khàn hỏi:

– Theo lời cô nương nói thì Dịch mỗ không đủ tài làm chưởng môn phái Cửu Long chăng?

Viên Tử Y tủm tỉm cười đáp:

– Không phải thế! Rõ ràng Dịch lão sư ra đi là bất lợi. Mạng người há phải trò đùa? Sao bằng nhường chức chưởng môn phái Cửu Long cho tiểu nữ. Đây là tấm lòng của tiểu nữ muốn vì lão sư…

Nàng chưa nói dứt lời đột nhiên hai hán tử trong khoang thuyền chui ra. Trong tay mỗi người đều cầm một cây Cửu tiết nhuyễn tiên. Một hán tử trung niên lên tiếng:

– Con nhỏ này điên điên khùng khùng. Sư phó bất tất hỏi đến thị làm chi? Xin chờ đệ tử đuổi thị lên bờ rồi khai thuyền để khỏi lỡ giờ tốt.

Hắn nói rồi vươn tay trái ra đẩy đầu vai Viên Tử Y. Viên Tử Y đưa tay khẽ búng vào đầu vai hắn bảo:

– Giờ tốt đã lỡ rồi!

Hán tử đó bỗng thấy vùng bả vai tê chồn, bàn tay chưa chạm được vào vai đối phương, cánh tay đã mềm rũ xuống. Một tên đại hán khác quát:

– Đại sư ca! Báo động đi!

Hai người cùng thổi lên một hồi còi lanh lảnh. Hai cây Cửu tiết tiên đồng thời quấn vào đầu gối Viên Tử Y. Bọn họ không muốn hạ sát nàng nên không đánh vào chỗ yếu hại. Viên Tử Y thấy hai người đều sử Cửu tiết tiên, nàng động tâm tự nhủ:

– Phải rồi, môn phái của chúng là Cửu Long phái, đại khái sở trường của họ là dùng Cửu tiết tiên.

Nàng đã nói chuyện đường dài với Dịch Cát, một là để lão tâm thần rối loạn, hai là để dò la gia số võ công của lão. Bây giờ nàng thấy hai cây nhuyễn tiên đánh tới, trong bụng mừng thầm tự nhủ:

– Hay lắm! Hôm nay các ngươi đụng đến bà tổ sử nhuyễn tiên rồi.

Nàng vung hai bàn tay nhỏ nhắn mau lẹ tuyệt luân chụp lấy hai đầu roi cột thành nút thắt rồi mỉm cười đứng yên chẳng hề di động. Hai hán tử vẫn chưa phát giác, chỉ thấy đầu roi chưa đánh tới người nàng đã dính vào nhau. Cả hai người dùng sức kéo mạnh lại, thế là trúng kế của Viên Tử Y. Nguyên đầu hai cây nhuyễn tiên vẫn mới cột lỏng, do cú kéo mạnh đó mà chúng lập tức thắt chặt vào nhau. Hai hán tử kinh ngạc đến ngẩn người lại kéo mạnh lần nữa. Tý lực hai vị sư huynh sư đệ này ngang nhau, không ai hơn ai mà hai đầu nhuyễn tiên càng thắt chặt hơn. Dịch Cát quát lên:

– Đồ lỗ mãng! Lùi lại mau!

Lão nắm vạt trường bào kéo mạnh một cái, những tiếng lách cách vang lên. Bảy khuy áo lập tức bật ra. Lão xoay tay trái kéo ngược về phía sau, lập tức cởi được trường bào, để lộ bộ kình trang bên trong, nai nịt gọn gàng, lão xuất thủ rất mau lẹ lại đầy vẻ oai phong. Những người trên bờ phần đông là đệ tử cùng bạn hữu của lão, còn một phần là người đứng xem. Họ thấy vậy lập tức hoan hô vang dội.

Viên Tử Y lắc đầu nói:

– Cái này không hay đâu. Đây là thủ pháp “Thoát bào nhượng vị”, thoát thì không sao, mà nhượng vị mới đáng lo. Đây là chủ ý nhường chức vị chưởng môn lại cho tiểu nữ.

Dịch Cát giật thót cả người, lão cảm thấy ra tay như vừa rồi quá là triệu chứng bất tường. Lão đưa tay phải xuống bên hông, vung nhẹ một cái. Tay lão đã cầm cây cửu tiết tiên sáng loáng. Lão vung tay không phát ra tiếng động vì chín đốt roi đồng không đụng vào nhau. Viên Tử Y la thầm:

– Trời ơi! Hỏng bét. Công phu này ta không hiểu được. E rằng bữa nay đến phải hỏng việc mất.

Nàng thấy mỗi đốt cây roi này đều lớn bằng quả trứng gà. Người lão rất cao lớn đứng ở đầu thuyền giống như một tòa tháp sắt, tay cầm cây roi to lớn lại càng thêm oai phong lẫm liệt.

Lúc này nhà đò đã kéo neo. Con thuyền ở dưới sông lắc lư không vững. Dịch Cát vung tay một cái, cây cửu tiết tiên quăng ra cuốn lấy mỏ neo sắt ở đầu thuyền. Lão lại vung tay một cái nữa, nghe “bùm” một tiếng, nước bắn tung tóe, mỏ neo đã rơi xuống sông, con thuyền lập tức đứng vững trở lại. Nếu cánh tay lão không mang nổi sức nặng bảy, tám trăm cân thì làm sao nhấc nổi mỏ neo sắt. Cây trường tiên chín đốt vừa là nhuyễn tiên vừa là cương tiên, nếu không phải là người nội ngoại kiêm tu thì khó lòng sử dụng được.

Viên Tử Y nghĩ bụng:

– Tý lực của lão này ghê quá! Lão vung tiên không thành tiếng động. Ta chỉ có thể dùng trí mới thắng lão được, chứ không thể dùng sức.

Nàng thấy lão thân hình to lớn, lại nhiều tuổi rồi thì công lực có thâm hậu nhưng thủ cước chưa chắc đã mau lẹ, bụng liền nảy ra một kế rồi nói:

– Dịch lão sư! Tiểu nữ là đàn bà con gái mà tỷ đấu với lão sư ngay ở đầu thuyền thì bất luận thắng hay bại đều bất lợi cho chuyến đi của lão sư. Chúng ta kiếm nơi nào khác để tỷ đấu hay hơn.

Dịch Cát thấy nàng nói có lý nhưng lại không muốn lên bờ. Viên Tử Y hỏi:

– Dịch lão sư! Chúng ta nên thỏa thuận trước. Nếu tiểu nữ thắng được lão sư thì ngôi chưởng môn phái Cửu Long dĩ nhiên được lão sư chắp tay nhường lại, nhưng không hiểu quần đệ tử dưới trướng có tâm phục chăng?

Dịch Cát tức quá mặt tái nhợt, bèn lớn tiếng:

– Không phục cũng phải phục. Nhưng cô thua thì sao?

Viên Tử Y ỏn ẻn, đáp:

– Thì tiểu nữ dập đầu xin bái lão sư làm nghĩa phụ và thỉnh cầu lão sư thương mến cô con gái nuôi đấy nhé!

Dứt lời đột nhiên nàng nhảy vọt lên, chân phải đạp vào dây leo thuyền, chân trái đạp vào cây giăng ở đáy lá buồm. Nàng rút cây nhuyễn tiên ở đai lưng vung lên trời quấn vào khoảng giữa cột buồm, rồi vận kình ra cánh tay níu lấy nhuyễn tiên để tung người lên cao hơn. Tay trái nàng vừa ôm lấy cột buồm thì tay phải lại vung nhuyễn tiên lên quấn lấy cột buồm thi triển thân pháp “Nhất hạc xung thiên” tung mình lên cao hơn cột buồm, rồi từ từ hạ xuống đứng trên đỉnh lá buồm. Thân pháp của Viên Tử Y cực kỳ khinh linh ngoạn mục khiến những người đứng xem trên bến đều hoan hô vang dậy. Trong bọn đệ tử phái Cửu Long có người la:

– Này! Ngươi chơi trò đó là có ý gì? Có giỏi thì hãy xuống lĩnh giáo công “Cửu Long tiên” oai danh lừng lẫy ở vùng Tam Tương của Dịch lão sư đi.

Viên Tử Y đáp:

– Tỷ đấu ở trên cao này thì mọi người mới trông rõ được.

Dịch Cát hừ một tiếng, rồi quấn cây Cửu Long tiên vào ngang thắt lưng. Tay trái lão nắm lấy cột buồm, người lão đã rời khỏi mặt thuyền hai thước. Tiếp theo lão lại dùng tay phải bám vào cột đẩy người lên cao thêm hai thước nữa. Cây cột buồm này lớn bằng miệng bát. Tay lão không nắm hết được nhưng chỉ kình của lão rất lợi hại, chưởng lực cũng cực kỳ hùng hậu. Hai tay lão luân phiên bám vào cột buồm, đưa người lên một cách vững chắc. Tuy thân pháp không mau lẹ và ngoạn mục bằng Viên Tử Y, nhưng các hành gia võ học đều biết là công phu của lão vừa trầm ổn vừa mãnh liệt, quả không phải tầm thường. Viên Tữ Y thấy lão chỉ còn cách cây cột buồm chừng hơn một trượng liền tự nhủ:

– Nếu để lão trèo được lên ngọn thì khó ăn lắm. Chỉ còn cách ở trên cao đánh xuống, hãy kiềm chế trước không để lão trèo lên được nữa.

Nàng liền vung cây ngân tiên một cái, hô lớn:

– Tiểu nữa có cây “Thập bát tiên” còn dài gấp đôi cây “Cửu Long tiên” của lão sư.

Đầu cây nhuyễn tiên vung lên không rồi chụp xuống đầu lão. Hai tay Dịch Cát đều không rảnh thì làm sao đỡ được? Nếu né tránh thì người lão sẽ tuột xuống cột buồm, như vậy chưa đánh đã thua. Bọn đệ tử trên bến lớn tiếng thóa mạ ầm ĩ:

– Đồ mặt dày!

– Vậy mà gọi là giao thủ công bằng ư?

– Con điếm kia! Có giỏi thì xuống đây động thủ!

Bỗng thấy Dịch Cát nghiêng đầu đi. Tay trái lão ôm cột buồm, tay mặt vung cây Cửu tiết tiên lên cao để nghinh địch. Viên Tử Y sợ hai cây đụng nhau sẽ bị quấn lấy, nàng ít sức giựt lại không nổi tất phải kém thế. Nàng liền rung tay cho cây ngân ty tiên dang ra, chờ cơ hội vung roi đánh tiếp. Không ngờ Dịch Cát sử chiêu “Tháp hoa cái đỉnh”, múa tít cây cương tiên bảo vệ đầu và mặt, tay trái lão buông lỏng ra, người lão tung lên cao. Sau bốn, năm lần tung lên hạ xuống, lão đã ngồi vững trên nóc cột buồm.

Dưới bến đò, tiếng vỗ tay hoan hô vang dội. Tuy lão chiếm được lợi thế mà Viên Tử Y lại cảm thấy yên tâm vì nàng thấy vừa rồi lão vung cây cương tiên, lực đạo tuy mãnh liệt nhưng chiêu số lại không có gì biến hóa khác thường, tức là tiên pháp của lão về mức độ tinh vi, xảo diệu hãy còn kém xa nàng.

Viên Tử Y quay sang mé tả, tay cầm cây ngân ty tiên từ mé hữu đánh vòng lại. Dịch Cát vẫn ngồi vững, xoay cây Cửu tiết tiên gạt cây nhuyễn tiên của đối phương.

Lúc này ánh dương quang chiếu xuống nước sông Tương hiện ra muôn đạo kim quang. Hai người ở trên cao bảy, tám trượng tỷ đấu. Hai cây nhuyễn tiên chẳng khác hai con linh xà uốn lượn trông rất ngoạn mục. Trên bờ sông người tới xem mỗi lúc một đông. Trên sông Tương, đa số thuyền bè xuôi ngược cũng đều ngừng lại, thủy thủ cùng khách đi thuyền đều ngửng đầu lên xem cuộc tỷ đấu.

Dịch Cát tự biết khinh công của mình không bằng đối phương, nên lão chỉ ngồi vững trên đầu cột, hai chân kẹp chặt lấy cột buồm để khỏi rơi vào thế hạ phong. Viên Tử Y nhảy qua nhảy lại trên rường buồm, thoắt tới thoắt lui, cây nhuyễn tiên của nàng dài gấp đôi cây Cửu Long tiên nên nàng liên tục tấn công Dịch Cát, còn lão chỉ giữ thế thủ chứ không phản kích được.

Sau khi trao đổi năm, sáu chục chiêu cây ngân ty tiên trong tay Viên Tử Y nhảy múa chẳng khác con rắn bạc, chiêu số của nàng mỗi lúc một thêm kỳ diệu. Dịch Cát quanh đi quẩn lại chỉ có bảy tám chiêu, một mặt để hộ vệ kín toàn thân, một mặt chờ thời cơ quấn lấy cây nhuyễn tiên của đối phương.

Cứ nhìn hiện tình thì tựa hồ như Viên Tử Y đã chiếm thế thượng phong nhưng phép đánh của nàng rất tốn sức. Nếu đấu lâu, tiên pháp thế nào cũng lộ sơ hở, hoặc vướng chân trượt bước là thua. Nguyên chỗ dụng tâm của Dịch Cát là theo binh pháp của Tôn Tử: “Ban đầu không thắng được ngay phải chờ địch mệt mới đánh thắng được”. Viên Tử Y cũng hiểu dụng ý của lão nhưng bất luận nàng biến chiêu công kích thế nào lão cũng chỉ đưa ra bảy, tám chiêu bảo vệ toàn thân nghiêm mật dị thường, không có chỗ hở nào để địch thủ đánh vào.

Giả tỷ như ở chỗ đất bằng thì nàng có thể tung người lên cao đánh xuống hoặc lăn người lại đánh. Đằng này chính nàng dụ lão lên trên cao tỷ đấu, không ngờ lại bị lão chiếm mất địa lợi. Hai bên lại tỷ đấu một lúc nữa mà tình thế chẳng có gì biến đối. Viên Tử Y cảm thấy mình hơi thở đã nặng nề, nhảy nhót không được linh hoạt như trước nữa.

Dịch Cát thấy thời cơ đã đến, lão chờ cây ngân ty tiên lướt tới trước mặt, đột nhiên vươn tay trái ra chụp lấy trái kim cầu. Viên Tử Y kinh hãi hạ thấp cây nhuyễn tiên. Không ngờ cây Cửu Long tiên của Dịch Cát lại vụt tới như điện. Nếu cây ngân ty tiên không tránh mau thì hai cây roi sẽ quấn vào nhau. Dịch Cát chiếm được ưu thế thì không nhường đối thủ nữa, lão nhìn chuẩn xác chỗ đầu roi của đối phương tung lên, liền quát to một tiếng, ra chiêu “Thanh đằng triền hồ lô”, vung cây cửu tiết tiên quấn lấy cây ngân ty tiên.

Viên Tử Y cảm thấy tay trái tê buốt. Cây trường tiên trong tay nàng bị một luồng cường lực kéo mạnh ra. Nàng biết nếu dùng sức để tranh đoạt với đối phương tất mình bị thua, trong lòng xoay chuyển y nghĩ rất mau. Gặp lúc nguy cấp nàng liền tung hiểm chiêu. Tay phải Viên Tử Y bất ngờ hất mạnh ra, cây ngân ty tiên vuột khỏi tay quấn vào cột buồm. Chỉ thấy ánh ngân quang lấp loáng rồi những tiếng lách cách vang lên, cả cây cửu tiết tiên lẫn cây ngân ty tiên đã quấn lấy hai chân và cánh tay phải của Dịch Cát như trói lão vào cột bồm.

Biến cố xảy ra đột ngột. Dịch Cát nào ngờ tới. Lão kinh hãi vươn tay cởi hai cây roi. Bỗng thấy Viên Tử Y vọt tới trước mặt, đưa tay trái móc mắt lão. Dịch Cát vội buông roi ra đưa tay trái để đón đỡ. Nào ngờ Viên Tử Y ra đòn chỉ là hư chiêu. Tay trái nàng ở trên không dừng lại một chút để kiềm chế tay trái lão, tay phải nàng phóng tới điểm vào huyệt “Uyên dịch” dưới nách lão nhanh như chớp.

Mọi người đứng xem thấy tựa hồ như lão tự đưa tay trái lên cho lộ nách ra để đối phương tự do điểm huyệt. Dịch Cát bị điểm trúng huyệt đạo, cánh tay trái rũ xuống, hai chân cùng cánh tay phải lại bị quấn vào cột buồm. Xem chừng lão phải thất bại nặng nề không còn cách nào xoay xở được nữa

Hồ Phỉ đứng dưới đất thấy Viên Tử Y sắp thua mà lại chuyển thành thắng thủ pháp xảo diệu vô tỷ. Chàng vừa reo lên một tiếng thì đột nhiên thấy ánh kim quang lấp loáng, chín mũi kim tiêu phóng lên cột buồm nhằm bắn vào các huyệt đạo sau lưng Viên Tử Y.

Viên Tử Y thấy Dịch Cát thảm bại đến nơi trong lòng đang đắc ý muốn lớn tiếng khoa trương mấy câu, bắt buộc lão phải nhận lời nhường chức chưởng môn mới buông tha, không ngờ phía dưới lại đột nhiên có người đánh lén. Chín mũi kim tiêu phóng tới rất nhanh mà bộ vị lại chia ra bốn mặt. Người Viên Tử Y đang đứng trên cây xà ngang nóc buồm thuyền, nàng chỉ bước qua phải hoặc trái nửa bước là lập tức rơi từ trên cao sáu, bảy trượng xuống, thì né tránh thế nào được? Con người ta lúc nguy cấp chợt nảy ra ý sáng, Viên Tử Y liền lộn nửa người về sau, chín mũi kim tiêu đều lướt qua nóc buồm. Những người dưới thuyền và trên bờ đang bật tiếng la hoảng thì thấy hai chân nàng đã móc vào cây xà ngang, treo ngược người lơ lửng trên không.

Kẻ kia thấy bắn lén lần đầu không trúng liền bắn tiếp ba mũi kim tiền tiêu nữa. Lần này một mũi nhắm bắn vào mình nàng còn hai mũi bắn vào cây xà ngang. Nếu nàng lộn người lên thì lập tức trúng phải kim tiêu. Hồ Phỉ biết lần này Viên Tử Y không thể tránh được ám khí, chàng lập tức dùng ba đồng tiền bắn ra. Chàng ra tay sau thủ kình lợi hại hơn, nên dù ba mũi kim tiêu trên đi rất mau, nhưng ba đồng tiền vẫn đuổi kịp, chạm nhau trên không. Tất cả đều bay chếch đi rồi rớt xuống sông.

Viên Tử Y cả kinh, khắp mình toát mồ hôi lạnh. Nàng toan lộn người lên bỗng nghe Hồ Phỉ lớn tiếng quát:

– Thế là nghĩa làm sao?

Chàng nhảy xuống đầu thuyền. Bỗng thấy những tiếng rắc rắc thật lớn vang lên. Cây xà buồm đã bị gãy làm đôi, những tiếng rắc rắc thật lớn vang lên. Còn cây cột buồm mà Dịch Cát ngồi cũng bị gãy luôn. Viên Tử Y vừa rồi đầu lộn ngược, chân móc lên xà buồm. Nàng đã nhìn rõ kẻ bắn ám khí và Hồ Phỉ ra tay giải cứu nàng bằng cách nào, nhưng cây xà buồm làm sao mà gãy thì nàng chưa thấy kịp.

Nguyên Dịch Cát bị điểm huyệt nơi cánh tay trái nửa người không nhúc nhích được nhưng tay phải vẫn còn có thể ra sức, bèn vội vàng rút tay ra khỏi dây trói. Lão thấy Viên Tử Y treo ngược người trên xà liền vận hết nội lực toàn thân vào bàn tay phải đánh xuống cây xà. Tý lực của lão cực kỳ mãnh liệt, lão đánh liền ba cái khiến cây xà bị gãy đôi và Viên Tử Y bị rơi xuống.

Giữa lúc ấy Hồ Phỉ đã nhảy xuống thuyền. Chàng nghĩ bụng nếu Viên Tử rớt xuống rồi mà lão họ Dịch vẫn ngồi ngay ngắn trên đầu cột buồm rồi tụt từ từ tức là lão thắng. Chàng liền vận kình lực dùng lưng đập mạnh vào cột buồm. Cột buồm này vừa lớn lại vừa cứng. Chàng đập lưng chỉ làm cho lắc lư một chút. Trong lòng nóng nảy, chàng liền rút đơn đao đánh “soạt” một cái chém cột buồm gãy đôi.

Cả Viên Tử Y lẫn Dịch Cát cùng rớt xuống, nhưng cây xà ngang của Viên Tử Y bị gãy trước, người nàng nằm ngay dưới cây buồm gãy. Nếu để cột buồm gãy đè trúng thì nguy hiểm đến tính mạng nàng.

Hồ Phỉ liền chụp lấy sợi dây thừng nhằm phía Viên Tử Y ném tới rồi quát lớn:

– Chụp lấy!

Dây thừng được tung ra tựa hồ như một cây nhuyễn tiên. Viên Tử Y người đang chơi vơi, lòng hoảng loạn, tuy nàng biết bơi lội nhưng thấy trước mắt đám đông mà ngã xuống nước, rồi ướt đẫm leo lên thuyền cũng thật khó coi. Đôt nhiên thấy quãng dây thừng bay tới, nàng vội vươn tay chụp lấy. Hồ Phỉ giật mạnh một cái. Viên Tử Y mượn thế tung mình nhẹ nhàng hạ xuống đầu thuyền. Nàng vừa đặt hai chân xuống ván đã nghe một tiếng “ùm” thật lớn, nước bắn tung tóe vào mặt nàng như hạt châu. Đó là khúc cột buồm lẫn Dịch Cát cùng rớt xuống sông. Những người trên bờ kêu la ầm ĩ rồi những tiếng lõm bõm vang lên không ngớt. Nguyên Dịch Cát không biết bơi lội. Mười bảy, mười tám tên đệ tử phải Cửu Long tới tấp nhảy xuống sông Tương để tranh nhau cứu sư phụ.

Viên Tử Y nhìn Hồ Phỉ ỏn ẻn cười, nói:

– Hồ đại ca! Cảm ơn đại ca nhé!

Hồ Phỉ mỉm cười đáp:

– Tại hạ họ “Hồ” theo cách chiết tự thành ba chữ “Nguyệt thập khẩu”, chắc là mỗi tháng phải trúng chín nhát đao.

Viên Tử Y bật cười khoan khoái, nghĩ bụng:

– Vừa rồi ta chiết tự với Dịch Cát bị y nghe trộm cả rồi.

Nàng liền cười nói:

– May ở chỗ tên của đại ca có chữ “Phỉ” là không. Mà “Phi dã phi dã” nghĩa là “không phải đâu, không phải đâu”. Bởi vậy cái nạn chín nhát đao gặp dữ hóa lành.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Đa tạ kim khẩu của cô nương

Viên Tử Y gặp lại Hồ Phỉ trong lòng vô cùng hào hứng, muốn nhân dịp chàng ra tay tương trợ kiếm cớ làm lành, bèn cười nói:

– Chữ “Phỉ” là văn vẻ, xinh đẹp thì bất tất phải nói nữa. Chữ “Phỉ” nếu phía dưới thêm chữ “Vũ” nghĩa là lông thì thành chữ “Phi” là phương phi tươi tốt, thêm chữ “Ty” là tơ vào bên cạnh thì thành chữ “Phi” là lụa đỏ, tức áo lông đại ngọc, chủ về việc làm quan to.

Hồ Phỉ thè lưỡi ra đáp:

– Thăng quan phát tài thì tại hạ không dám đâu!

Hai người ở đầu thuyền cười nói thản nhiên coi như bên cạnh chẳng có ai. Bỗng nghe trên bến đò nhốn nháo cả lên. Bọn đồ đệ phái Cửu Long đang ba chân bốn cẳng khiêng Dịch Cát cùng cây cột buồm gãy đưa lên bờ. Dịch Cát tuổi thì cao, người thì béo mập. Không biết bợi lội, uống phải nhiều nước lại tức giận quá đỗi nên đã ngất đi.

Viên Tử Y ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng:

– Không khéo xảy ra án mạng thì vụ này trở nên lớn chuyện.

Nàng khẽ nói:

– Hồ đại ca! Chúng ta chạy đi thôi

Dứt lời nàng nhảy lên bờ, thò tay rút lấy cây nhuyễn tiên quấn ở cột buồm bị gãy. Bọn đệ tử phái Cửu Long quát tháo ầm ĩ Sáu, bảy cây nhuyễn tiên vung lên đánh tới người nàng. Chỉ nghe một loạt những tiếng loảng xoảng vang lên, sáu, bảy cây nhuyễn tiên đụng vào nhau tựa hồ tấm lưới sắt chụp xuống đầu Viên Tử Y. Viên Tử Y tay cầm nhuyễn tiên dùng phép tá lực đả lực, vung cây nhuyễn tiên ngang trên đỉnh đầu, đồng thời nghiêng người chuồn ra ngoài. Nàng liếc mắt nhìn trộm Dịch Cát thấy thân hình béo mập của lão nằm ngang dưới đất không nhúc nhích, không hiểu còn sống hay đã chết. Hổ Phỉ tung mình lên ngựa, tay phải chàng dắt con bạch mã miệng la gọi:

– Cái chức chưởng môn phái Cửu Long có điểm bất lợi. Thôi không làm nữa là xong.

Viên Tử Y cười đáp:

– Tiểu muội xin tuân lời đại ca dạy bảo.

Nàng cũng tung người nhảy lên lưng ngựa. Bọn đệ tử phái Cửu Long kêu réo ơi ới, tới tấp kéo chạy ra chặn đường. Hai cây nhuyễn tiên quét ngang dưới chân đánh tới chân ngựa. Viên Tử Y quay lại vung tay quấn lấy hai cây tiên kia. Tay phải nàng giật cương, con bạch mã lao vọt về phía trước. Con ngựa thần tuấn phi thường, chạy nhanh vô kể mà sức mạnh cũng dị thường. Nó tung vọt đi lôi theo cả hai hán tử tay cầm nhuyễn tiên. Diễn biến bất giờ khiến hai hán tử cực kỳ kinh hãi. Người chúng đã bị con bạch mã lôi đi hơn sáu, bảy trượng. Hai gã muốn đứng lên nhưng ngựa chạy nhanh quá, vừa đứng dậy thì lập tức bị kéo té xuống. Trong lúc kinh hoàng, chúng quên cả buông nhuyễn tiên ra, tay vẫn khư khư giữ chặt. Viên Tử Y thấy thế cười rộ. Đột nhiên nàng dừng ngựa lại, hai hán tử đứng lên. Mặt mũi chúng tím bầm, chân tay mình mẩy cũng đầy thương tích. Nàng cất tiếng hỏi:

– Trong cây nhuyễn tiên của các ngươi có bảo vật hay sao mà không buông ra?

Nàng vừa nói dứt, không chờ chúng trả lời, đã thúc nhẹ gót chân vào bụng ngựa. Con bạch mã lao về phía trước lại kéo theo hai hán tử. Bây giờ hai gã mới tỉnh ngộ buông tay ra. Tai chúng còn nghe Viên Tử Y cười khanh khách. Nàng cùng Hồ Phỉ sóng vai cho ngựa chạy song song. Bọn đệ tử phái Cửu Long ở bến Dịch Gia rất đông, thanh thế rất lớn. Hôm nay chúng tiễn Dịch lão sư lên đường đều tụ tập ở bến sông, chúng thấy Dịch Cát bị làm nhục nên muốn xông lại bắt Viên Tử Y.

Viên Tử Y cùng Hồ Phỉ tuy võ công cao cường, những ít người khó địch nổi số đông. May mà Viên Tử Y lúc chạy đi đã thi triển một chiêu vung ngược roi kéo người rất kỳ ảo khiến chúng sững người ra há hốc miệng, trong lúc nhất thời không biết làm thế nào. Khi chúng tỉnh táo lại muốn xông đến vây đánh thì hai người đã ruổi ngựa đi xa rồi.

Lúc này Dịch Cát đang từ từ hồi tỉnh. Bọn đệ tử tới tấp thỉnh an và thóa mạ Viên Tử Y là hạng người gian manh. Chúng nhao nhao bản tán mà chẳng ai hiểu lai lịch nàng ra sao, cho rằng có đối thủ của phái Cửu Long đứng sau lưng nàng giật dây. Viên Tử Y đi xa rồi, quay đầu nhìn lại không còn thấy nhà cửa ở bến Dịch Gia nữa mới cầm cửu tiết tiên vừa đoạt được quẳng xuống đất.

Nàng quay lại nhìn Hồ Phỉ thấy chàng mặc y phục của người hương nông trông thật buồn cười. Nhưng nàng nghĩ tới nếu vừa rồi chàng không ra tay giải cứu thì không chừng nàng đã bỏ mạng ở bến Dịch Gia rồi. Bây giờ nhớ lại nàng hãy còn kinh hãi.

Hai người sóng cương đi một lúc nữa, Hồ Phỉ bỗng cất tiếng hỏi:

– Viên cô nương! Trong thiên hạ có tất cả bao nhiêu môn phái võ học

Viên Tử Y cười đáp:

– Tiểu muội không rõ. Đại ca nói thử xem có bao nhiêu môn phái nào?

Hồ Phỉ lắc đầu nói:

– Tại hạ không hiểu mới thỉnh giáo cô nương. Hiện giờ cô nương đã làm chưởng môn ba phái lớn là Vị Đà môn, Bát Tiên kiếm, Cửu Long phái, cô nương muốn làm chưởng môn mấy phái nữa mới vừa lòng?

Viên Tử Y cười đáp:

– Tuy tiểu muội đã thắng Dịch Cát nhưng bọn đệ tử lại không phục. Vậy chức chưởng môn phái Cửu Long có làm được đi nữa cũng mười phần miễn cưỡng. Còn những phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Thái Cực thì tiểu muội không dám tranh đoạt chức chưởng môn. Chỉ đi nhặt nhạnh mấy món “đồng nát” cũng đủ rồi.

Hồ Phỉ thè lưỡi nói:

– Võ lâm thập tam gia tổng chưởng môn! Cái danh hiệu này quả thật oai phong.

Viên Tử Y cười hỏi:

– Hồ đại ca! Võ công đại ca cao cường như vậy sao không cướp mấy ngôi chưởng môn làm chơi? Chúng ta cứ đi dọc đường thu nhặt. Đại ca thu một nhà, tiểu muội lại thu một nhà, cứ luân lưu như vậy cho đến Bắc Kinh thì tiểu muội thành Thập tam gia tổng chưởng môn, đại ca cũng thành Thập tam gia tổng chưởng môn. Huynh muội ta đến Bắc Kinh tham dự đại hội chưởng môn trong thiên hạ gì gì đó của Phúc đại soái, như vậy há chẳng thú lắm sao?

Hồ Phỉ lắc đầu quầy quậy, đáp:

– Tại hạ không có gan, mà võ nghệ cũng không giỏi bằng cô nương. Muốn cướp nửa chức chưởng môn cũng không xong, mới bị người ta ra chiêu “Lữ động tân thôi cẩu” hất xuống sông biến thành con chó, khắp mình bùn lầy hôi hám. Giả tỷ chỉ lên chưởng môn phái Nê Thu cũng đã là danh giá lắm rồi.

Viên Tử Y cười ngặt nghẽo, chắp tay nói:

– Hồ đại ca! Bây giờ tiểu muội xin lỗi đại ca.

Hồ Phỉ chắp tay đáp lễ nghiêm nghị nói:

– Thưa Tam gia đại chưởng môn lão gia! Tiểu tử không dám.

Viên Tử Y coi bộ điệu giả vờ chất phác của chàng cùng những lời nói móc máy rất dí dỏm, lòng nàng tăng thêm mấy phần hoan hỉ. Nàng cười đáp:

– Thảo nào lão tiểu tử Triệu tam ca cứ khoe đại ca hay lắm, quả không sai!

Hồ Phỉ trong lòng vẫn luôn nhớ Triệu Bán Sơn không lúc nào quên. Chàng vội hỏi:

– Triệu tam ca làm sao? Tam ca đã nói những gì với cô nương?

Viên Tử Y cười đáp:

– Đại ca đuổi kịp tiểu muội, tiểu muội sẽ nói cho nghe.

Nàng thúc chân vào bụng ngựa. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Cô mà cho con bạch mã phi nước đại thì còn ai đuổi kịp?

Chàng thấy chân sau con ngựa vừa chống lên toan cất vó, liền tung người nhảy lên, tay trái ấn xuống vai ngựa một cái, thân hình đã rơi xuống sau lưng Viên Tử Y. Con bạch mã lưng chở thêm một người vẫn không để ý phóng luôn bốn vó chạy nhanh như gió. Con thanh mã tuy không người cưỡi nhưng chạy trong khoảnh khắc đã tụt sau con bạch mã đến mười mấy trượng.

Viên Tử Y ngửi thấy hơi thở của Hồ Phỉ ở phía sau, mặt nóng bừng, muốn lên tiếng nhưng lại im miệng. Con ngựa chạy được một lúc bỗng nghe trên không có tiếng sét nổ, nàng ngửng đầu nhìn lên thấy mây đen đã che kín nửa bầu trời. Hiện nay đang giữa mùa hạ, trời mưa bất thình lình là thường. Nàng riết cương cho ngựa chạy nhanh hơn.

Sau khoảng thời gian chừng uống chưa cạn chén trà, gió tây bỗng thổi rất dữ, những giọt mưa lớn bằng hạt đậu bắt đầu rơi xuống, hai bên đường hoàn toàn không có nhà cửa Ở mé trái sườn núi bỗng lộ ra một bức tường vàng. Viên Tử Y phóng ngựa chạy đến gần thì ra là một tòa cổ miếu đã mục nát để bốn chữ đại tự “Tương Phi thần từ” nét vàng bong hết. Hiển nhiên lâu ngày không ai tu sửa. Hồ Phỉ xuống ngựa mở cửa miếu. Chàng không kịp nhìn kỹ, dắt con bạch mã đi vào. Lúc này trên không tiếng sấm nổ liên hồi, ánh chớp giật loang loáng. Viên Tử Y tuy võ nghẹ cao cường cũng không khỏi lộ vẻ sợ hãi. Hồ Phỉ vào hậu điện không thấy một bóng người. Chàng trở ra tiền điện nói:

– Hậu điện có vẻ còn sạch sẽ hơn.

Chàng kiếm nắm rơm quét nửa gian điện rồi nói:

– Trận mưa này chắc không lâu đâu. Cừ chờ trời tạnh hãy đi. Bữa nay có thể đến được Trường Sa.

Viên Tử Y “ừ” một tiếng rồi không nói nữa. Hai người lúc trước vẫn nói tự nhiên, nhưng từ lúc ngồi chung một ngựa, Viên Tử Y cảm thấy trong lòng có điều khác lạ. Nàng nhìn Hồ Phỉ không được tự nhiên, ra chiều thẹn thùng bẽn lẽn. Hai người sóng vai ngồi. Đột nhiên đồng thời quay đầu lại. Bốn mắt chạm nhau. Hai người cùng tủm tỉm cười rồi quay ra cho khác.

Sau một lúc Hồ Phỉ hỏi:

– Triệu tam ca có khỏe không?

Viên Tử Y đáp:

– Khỏe lắm. Y có gì mà không khỏe?

Hồ Phỉ hỏi:

– Y ở đâu? Tại hạ nhớ y lắm, chỉ muốn đến thăm.

Viên Tử Y đáp:

– Vậy đại ca đến Hồi Cương. Chỉ cần đại ca không chết, y cũng không chết là gặp lại nhau.

Hồ Phỉ cười hỏi:

– Cô nương vừa ở Hồi Cương đến đây phải không?

Viên Tử Y quay lại, ánh mắt như mỉm cười đáp:

– Phải rồi! Đại ca coi tiểu muội có giống thế không?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tại hạ không biết. Trước kia tại hạ cứ tưởng Hồi Cương là vùng sa mạc hoang vu, không ngờ lại có vị cô nương xinh đẹp thế này.

Viên Tử Y đỏ mặt lên, phì một tiếng rồi hỏi:

– Đại ca nhắm mắt nói liều phải không?

Hồ Phỉ biết mình lỡ lời trong bụng cũng hơi hối hận, thầm nghĩ cô nam quả nữ trong tòa cổ miếu này không nên thốt ra những lời khinh bạc. Chàng liền hỏi lảng qua chuyện khác:

– Phúc đại soái mở cuộc đại hội các chưởng môn thiên hạ, không hiểu vì mục đích gì. Cô nương có biết không?

Viên Tử Y thấy chàng đột nhiên xoay sang câu chuyện đứng đắn, bất giác liếc mắt nhìn chàng đáp:

– Hắn là bậc vương công quyền quý, ăn no rửng mỡ rồi chẳng có chuyện gì làm muốn kiếm một ít hảo thủ võ lâm để tiêu khiển, cũng như trò chọi gà chọi dế mà thôi. Đáng tiếc là rất nhiều cao thủ võ lâm bị hắn làm cho ngu muội mà không biết.

Hồ Phỉ vỗ đùi lớn tiếng:

– Cô nương nói quả không sai một tí nào. Cô cao kiến như vậy tại hạ vô cùng khâm phục. Té ra cô nương dọc đường có ý tranh đoạt chức chưởng môn là muốn quấy phá Phúc đại soái.

Viên Tử Y cười đáp:

– Chi bằng hai người chúng ta đồng tâm hiệp lực đoạt lấy phân nửa chức chưởng môn trong thiên hạ. Như vậy là cuộc đại hội của Phúc đại soái sẽ trở thành một phiên chợ ế. Chúng ta lại đến hội trường đại náo một phen khiến hắn không đám coi thường võ sĩ trong thiên hạ.

Hồ Phỉ vỗ tay reo lên:

– Hay lắm! Hay lắm! Vậy cứ thế mà làm. Cô nương lãnh đạo, tiêu nhân Hồ Phỉ xin đi theo để ra sức mọn.

Viên Tử Y nói:

– Võ công đại ca còn cao hơn tiểu muội sao lại còn khách khí?

Hai người nói đến lúc cao hứng mà trận mưa rào vẫn chưa ngớt, trái lại mỗi lúc mưa một to hơn. Sau miếu là một khe suối. Nước trên núi đổ xuống ầm ầm như sóng triều. Tòa cổ miếu đã đổ nát lâu ngày, chỗ nào cũng dột. Hồ Phỉ cùng Viên Tử Y ngồi thu mình co ro trong góc miếu, nhìn ra ngoài thấy trời đang tối dần. Mây thấp là đà tựa hồ đè xuống đầu, xem chừng không thể lên đường ngay. Hồ Phỉ kiếm ít cành khô đốt lên làm đuốc rồi cười nói:

– Trời mưa không ngớt. Chúng ta đành nhịn đói suốt đêm nay.

Ánh lửa chiếu vào mặt Viên Tử Y khiến hai má đỏ hồng càng tăng thêm phần kiều diễm. Nàng từ Hồi Cương muôn đặm đi về phía đông, ngủ đêm ở những nơi hoang sơn dã lĩnh là thường. Bữa nay một mình nàng cùng ở trong cổ miếu với một chàng trai trẻ là một điều chưa từng trải qua, nên trong lòng nẩy ra một ý vị khôn tả.

Hồ Phỉ kiếm ít rơm khô rải lên bệ thờ một mớ, lại rải dưới đất một mớ rồi cười nói:

– Lữ động tân ngủ trên trời, còn “Lạc thủy cẩu” ngủ dưới đất vậy.

Chàng nói rồi nằm xuống đống rơm dưới đất, quay mặt vào vách nhắm mắt lại. Viên Tử Y lẩm nhẩm gật đầu nghĩ bụng:

– Y quả là người quân tử biết thủ lễ.

Nàng liền cười đáp:

– Lạc thủy cẩu! Sáng mai lại gặp nhau.

Đoạn Viên Tử Y nhảy lên bệ thờ. Nàng nằm xuống rồi nhưng tâm thần bất định, tai nghe tiếng mưa rào đồ xuống mái ngói đồm độp. Sau nửa giờ nàng mới đi vào giấc ngủ chập chờn. Chừng nửa đêm, Viên Tử Y lắng nghe tiếng vó rầm rập chạy tới gần. Nàng trở mình ngồi dậy. Hồ Phỉ cũng phát giác, cất tiếng gọi:

– Lữ động tân! Có người tới đó.

Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, hòa lẫn với tiếng bánh xe lọc cọc. Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Trận mưa lớn này bắt đầu từ lúc trưa cho đến bây giờ không lúc nào tạnh. Sao lại có người đội mưa đi suốt đêm thế này?

Bỗng nghe cỗ xe ngựa tới ngoài cửa miếu thì dừng lại.

Viên Tử Y nói:

– Bọn họ sắp tiến vào miếu đấy.

Nàng từ trên bệ thờ nhảy xuống, lại ngồi bên Hồ Phỉ. Quả nhiên cửa miếu mở ra kêu kèn kẹt. Cả xe lẫn ngựa đến dãy hành lang ở tiền điện. Hai tên xa phu vào hậu viện nhìn thấy Hồ Phỉ cùng Viên Tử Y liền lên tiếng:

– Trong này có người. Chúng ta nghỉ ở tiền điện quách.

Chúng nói rồi quay gót trở ra. Tai nghe ngoài tiền điện tiếng người lao xao nổi lên ước chừng có đến hai chục người. Kẻ thì chặt củi đốt lửa, người thì vo gạo nấu cơm. Bọn này nói khẩu âm Quảng Đông. Sau một hồi nhốn nháo, tiền điện dần dần yên tĩnh lại.

Bỗng một người lên tiếng:

– Bất tất phải chuẩn bị giường nằm. Chúng ta ăn cơm xong, không kể mưa lớn hay mưa nhỏ, cứ nhân đêm tối mà tiếp tục lên đường.

Hồ Phỉ nghe giọng nói bất giác trong lòng run lên. Lúc này tai hậu điện que củi chưa tắt. Dưới ánh hỏa quang chàng nhìn thấy Viên Tử Y cũng hơi biến sắc.

Lại nghe tiếng một người khác ở ngoài tiền điện cất lên:

– Sao lão gia lại cấp bách quá vậy? Mưa lớn thế này…

Giữa lúc ấy tiếng mưa rào ầm ầm đổ xuống át hẳn tiếng người nói. Nhân vật nói trước trung khí đầy rẫy, giọng nói vang dội. Đang lúc mưa to, thanh âm cách một cái sân mà còn nghe rõ mồn một.

– Giữa lúc đêm khuya lại trời mưa lớn là cơ hội tốt để chúng ta lên đường. Đừng ham một giấc ngủ mà để toàn gia phải mất mạng. Nơi đây cách đại lộ không còn xa mấy, chỉ mong đừng có chuyện ma đưa lối quỷ dẫn đường chạm trán tên tiểu tặc kia.

Hồ Phỉ nghe nói tới đây không còn hoài nghi gì nữa. Lòng chàng hớn hở, miệng lẩm bẩm:

– Quả là ma đưa lối quỉ dẫn đường, hắn lại chạm trán ta.

Chàng khẽ nói:

– Lữ động tân! Bên ngoài có một vị chưởng môn vừa mới tới. Chuyến này xin nhường cho tại hạ.

Viên Tử Y chị ậm ừ chứ không nói gì. Hồ Phỉ thấy nàng không ra chiều hoan hỷ trong lòng hơi lấy làm lạ. Chàng thắt lại đai lưng, dắt đơn đao vào thắt lưng, rồi rảo bước tiến ra tiền điện. Chàng thấy ở phòng đằng đông có bảy, tám người đang ngồi xuống đất, trong đó có một người thân thể to lớn, cao hơn những người xung quanh đến nửa cái đầu. Hắn ngồi xoay người ra ngoài. Hồ Phỉ mới nhìn thấy nửa mặt đã nhận ra hắn chính là tên đại ác bá Phụng Thiên Nam ở trấn Phật Sơn. Cây hoàng kim côn của hắn dài tám thước để tựa bên cạnh. Hắn ngửng đầu nhìn trời, bộ dạng ngơ ngẩn xuất thần. Không hiểu hắn luyến tiếc cơ nghiệp đồ sộ ở Phật Sơn trấn hay là đang trù tính kế hoạch đối phó với địch nhân để chấn chỉnh lại oai phong ngày trước?

Hồ Phỉ từ phía sau khám thờ đi ra, lại gặp lúc trời tối mịt nên những người ở tiền điện chẳng một ai hay. Chàng thấy ở mé tây tiền điện có đốt một đống củi lớn dưới cái nồi sắt, chắc là đang nấu cơm. Hồ Phi nhảy tới tung cước đá “bộp” một tiếng, nồi cơm văng vào trong viện, cơm trắng tung tóe trên mặt đất. Mọi người cả kinh cùng quay đầu lại. Cha con Phụng Thiên Nam và Phụng Nhất Minh nhận ra Hồ Phỉ, cả hai đều biến sắc. Những người tay không đều chạy đi lấy binh khí. Hồ Phỉ thấy gương mặt phốp pháp trắng nõn của Phụng Thiên Nam lại nhớ đến cảnh tượng cả nhà Chung A Tứ bị chết thảm, trong lòng đã cực kỳ phẫn nộ, nhưng chàng lại nén xuống, cười nói:

– Phụng lão gia! Nơi đây là miếu Tương Phi, quả là phong nhã.

Phụng Thiên Nam sau khi sát hại ba người nhà Chung A Tứ, lập tức tiêu hủy sản nghiệp để bỏ trốn. Hắn cứ ngày nghỉ đêm đi, mà chọn toàn những đường hẻo lánh ít người qua lại. Hắn tính toán rất khôn khéo, Hồ Phỉ dù thông minh nhưng ít kinh nghiệm giang hồ ắt không thể điều tra ra tông tích của hắn. Ngày hôm nay nếu không gặp mưa lớn khiến ma đưa lối, quỷ dẫn đường thì quyết không thể chạm trán oan gia trong tòa cổ miếu. Phụng Thiên Nam thấy kẻ đối đầu xuất hiện, trong lòng run lên, thầm nghĩ:

– Xem ra Phụng mỗ phải bỏ mạng tại miếu Tương Phi này rồi!

Hắn liền trấn tĩnh trở lại, bước tới nắm lấy tay con trai, dặn dò mấy câu bảo chạy trốn trước đi. Hồ Phỉ hoành đao đứng chặn trước cửa miếu, cười nói:

– Phụng lão gia, lão có dặn dò gì cũng vô ích. Lão gia đã sát hại toàn gia Chung A Tứ thì tại hạ sẽ giết lại cả nhà Phụng lão gia. Tại hạ cứ mỗi nhát đao là một mạng người, quyết chẳng hồ đồ. Phụng lão gia không giống những người khác, tại hạ sẽ để lại sau cùng. Lão gia cứ yên tâm, cả nhà lão gia sẽ chẳng còn người nào sót lại trên đời đâu.

Phụng Thiên Nam nghe lạnh cả xương sống, không ngờ chàng thiếu niên trẻ tuổi lại có thể hành sự tàn độc như vậy. Hắn liền vung hoàng kim côn lên nói:

– Hảo hán mình làm mình chịu, lắm lời làm gì? Ngươi muốn lấy tính mạng của Phụng mỗ thì cứ việc đi.

Vừa dứt lời hắn quát lớn một tiếng, bước ra chiêu “Lũ đầu cái đỉnh” vung côn đánh vào dưới ngực Hồ Phỉ. Hắn phất tay trái ra hiệu cho vợ con mau chạy trốn. Phụng Nhất Minh biết phụ thân không phải là đối thủ của Hồ Phỉ, giữa lúc nguy cấp thế này làm sao có thể một mình chạy trốn? Gã bèn quát lớn:

– Tất cả cùng tiến lên!

Vừa dứt lời, gã cầm đơn đao nhảy xổ lại bên trái Hồ Phỉ, hy vọng ỷ vào số đông để thủ thắng. Những người thân đến những đệ tử bỏ trốn cùng Phụng Thiên Nam cả thảy hai mươi bảy người, quá nửa đều biết võ nghệ. Nghe Phụng Nhất Minh quát lên thế thì có tám chín tên cầm bình khí tiến lên bao vây.

Phụng Thiên Nam nhíu mày, bụng bảo dạ:

– Hừ! Bọn này quả chẳng biết gì. Nếu ỷ vào số đông mà thắng được thì người của ta ở trấn Phật Sơn không đông chắc? Hà tất phải rời bỏ quê quán mà cao chạy xa bay thế này?

Nhưng trong tình thế đại họa lâm đầu, không còn cách nào khác, chỉ còn nước quyết một trận tử chiến mà thôi. Trong lòng hắn nghĩ đến việc hai bên cùng chết nên ra tay rất lạnh lùng. Cây hoàng kim côn đánh ra không chờ trọn chiêu số đã đâm chếch lên rồi quét ngang một cái.

Hồ Phỉ nghĩ gã này cùng cực tàn ác, nếu dùng một đao kết liễu tính mạng hắn thì không đủ để bù những tội lỗi hắn đã gây ra. Chàng thấy cây côn quét tới liền ném thanh đơn đao đi, rồi vươn tay ra chụp mạnh lấy đuôi côn. Cách xuất thủ rõ ràng không coi đối thủ vào đâu.

Phụng Thiên Nam nghĩ mình một đời vẫy vùng trên chốn giang hồ lại bị đối phương khinh thị như vậy, bất giác lửa giận bốc lên, nhưng hắn đã giao thủ với Hồ Phỉ ở trấn Phật Sơn, biết võ công của đối phương mình không sao bì nổi nên chẳng dám lơ là, vội thu côn về lùi lại một bước.

Bỗng nghe trên đỉnh đầu vang một tiếng “phập”. Mọi người tuy đứng trước đại địch cũng không nhịn được phải ngửng đầu lên nhìn. Nguyên thanh đơn đao của Hồ Phỉ tung lên chém vào rường nhà rồi nằm yên trên đó không rớt xuống nữa. Hồ Phỉ bật tiếng cười rộ xuyên vào đám đông, hai tay thoăn thoắt giơ lên hạ xuống. Chàng đã điểm trúng huyệt đạo cả tám, chín tên đệ tử của Phụng Thiên Nam. Chàng hoặc vung chếch tay lên, hoặc giơ chân quét ngang hất tung bọn này ra hai bên. Trong nháy trên đại điện rộng rãi chỉ còn lại cha con Phụng Thiên Nam và Hồ Phỉ là ba người.

Phụng Thiên Nam nghiến răng khẽ quát:

– Minh nhi! Ngươi còn chưa chạy, chẳng lẽ muốn cho Phụng gia phải tuyệt tôn ư?

Phụng Nhất Minh tay cầm đơn đao ngần ngừ, không biết nên sấn tới giáp kích hay là nên cướp đường chạy trốn. Hồ Phỉ lạng người một cái đã ra phía sau Phụng Nhất Minh. Phụng Thiên Nam quát to một tiếng vung kim côn lên để chặn lại. Hồ Phỉ cúi đầu, chui qua nách Phụng Nhất Minh, khẽ đẩy vai một cái. Phụng Nhất Minh đứng không vững, người ngã ngửa về phía sau, đúng vào chỗ cây côn đập xuống. Phụng Thiên Nam cả kinh vội thu cây kim côn lại. Tính ra hắn đã khổ công rèn luyện côn pháp mấy chục năm nên gặp lúc nguy cấp như ngàn cân treo sợi tóc còn thu côn về kịp, không thì đã đập vỡ đầu con trai rồi.

Hồ Phỉ ra chiêu đắc thủ, nghĩ bụng dùng cách này để đấu với Phụng Thiên Nam là tuyệt diệu, nên không chờ cho Phụng Nhất Minh đứng vững, chàng liền dùng tay phải chụp vào sau gáy gã, tay trái giơ lên đập xuống đầu gã. Phụng Thiên Nam nhớ tới khi ở Bắc Đế miếu, chàng đã vung chưởng đánh gãy đầu con rùa đá, nếu để phát chưởng này đánh trúng đầu con mình thì còn gì là tính mạng? Hắn vội đưa côn ra điểm mạnh tới hông trái Hồ Phỉ để bức bách chàng xoay tay tự cứu.

Hồ Phỉ tay trái giơ lên không rồi dừng lại một chút, chờ cho cây kim côn sắp đến ngang hông mới vươn tay phải ra cực kỳ mau lẹ chụp lấy đầu Phụng Nhất Minh đưa vào đầu cây côn. Phụng Thiên Nam lập tức biến thành chiêu “Khiêu bào liệu y” xoay đầu cây côn đánh xuống hạ bàn chàng. Hồ Phỉ la lên:

– Hay lắm!

Chàng vung tả chưởng đẩy Phụng Nhất Minh một cái để người hắn đỡ lấy côn. Thế là chỉ qua mấy chiêu, Phụng Nhất Minh đã biến thành một thứ khí giới trong tay Hồ Phỉ. Phụng Thiên Nam động thủ chậm lại, muốn bãi đấu. Hồ Phỉ liền giơ chưởng lên, như muốn đánh vào chỗ yếu hại trên người Phụng Nhất Minh, khiến Phụng Thiên Nam không thể không ra tay cứu gấp. Nhưng dù hắn giải cứu mà chỗ nào cũng thấy nguy cơ, thành ra chiêu nào cũng đưa đến tình trạng như hắn tự tay đánh chết con mình.

Đấu thêm mấy chiêu nữa, Phụng Thiên Nam cảm thấy sức lực rã rời, tâm thần mỏi mệt. Đột nhiên hắn lùi lại ba bước ném cây kim côn xuống đất đánh “choang” một tiếng thật lớn. Mấy viên gạch xanh vỡ nát. Mặt hắn thê thảm không nói tiếng nào.

Hồ Phỉ quát hỏi:

– Phụng Thiên Nam! Lão thương con như vậy, còn con người khác thì sao?

Phụng Thiên Nam sững sờ một chút rồi lòng kiêu ngạo lại nổi lên, lớn tiếng đáp:

– Phụng mỗ tung hoành đất Lĩnh Nam, làm chưởng môn phái Ngũ Hổ, bình sinh giết người vô kể. Con ta cũng đã hạ sát đến ba, bốn chục nhân mạng. Bữa nay chúng ta có chết về tay ngươi cùng là đáng rồi. Sao ngươi không động thủ đi, còn nói gì lắm thế?

Hồ Phỉ lớn tiếng:

– Vậy lão tự xử đi, đừng để tiểu gia phải phí sức ra tay.

Phụng Thiên Nam lượm cây kim côn lên, nổi tràng cười hà hả rồi xoay đầu côn đập mạnh vào đầu mình. Đột nhiên ánh kim quang lấp loáng một cây nhuyễn tiên rất dài từ phía sau Hồ Phỉ bung ra cuốn lấy đầu cây kim côn kéo trệch ra ngoài. Tý lực của Phụng Thiên Nam rất mạnh, ngạnh công đã đến mức cao thâm, hắn vẫn giữ được cây côn trong tay nhưng không thể đập vào đầu mình được nữa.

Người vung tiên đoạt côn chính là Viên Tử Y. Nàng dồn sức ra tay kéo mạnh vào trong mà cây kim côn của Phụng Thiên Nam vẫn không nhúc nhích. Nàng liền mượn thế nhảy ra. Viên Tử y cười nói:

– Hồ đại ca! Chúng ta chỉ cần đoạt ngôi chưởng môn, không nên giết hại mạng người.

Hồ Phỉ nghiến răng đáp:

– Viên cô nương chưa biết đấy thôi. Gã này tội ác tầy trời, không phải như những chưởng môn khác.

Viên Tử Y lắc đầu nói:

– Tiểu muội đoạt chức chương môn, sư phụ có biết cũng chỉ cười xòa, nhưng nếu sát thương nhân mạng thì lão nhân gia trị tội rất nặng.

Hồ Phỉ hỏi:

– Người này do tại hạ giết thì có liên quan gì đến cô nương?

Viên Tử Y đáp:

– Không đúng! Không đúng! Việc cướp ngôi chưởng môn do tiểu muội đề ra. Lão đã là Chưởng môn phái Ngũ Hổ thì sao lại chẳng liên quan đến tiểu muội?

Hồ Phỉ vội nói:

– Tại hạ bôn ba từ Quảng Đông đến Hồ Nam là đề bắt tên ác tặc này. Hắn là chưởng môn cũng vậy, mà chẳng là chưởng mòn cùng thế. Bữa nay tại hạ nhất định phải giết hắn.

Viên Tử Y nghiêm nghị đáp:

– Hồ đại ca! Tiểu muội nói chuyện đứng đắn với đại ca. Đại ca nên nghe đã.

Hồ Phỉ gật đầu. Viên Tử Y nói tiếp:

– Đại ca không biết gia sư của tiểu muội là ai phải không?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ không rõ. Bản lãnh cô nương như vậy thì tôn sư nhất định là bậc đại hiệp danh chấn giang hồ. Xin cô nương cho hay cách xưng hô lão nhân gia ra sao?

Viên Tử Y nói:

– Danh tự của lão nhân gia mai đây đại ca sẽ biết. Bây giờ tiểu muội chỉ kể chuyện lúc rời khỏi Hồi Cương, gia sư căn dặn tiểu muội: “Ngươi đến Trung quấy phá thế nào cũng được, ta không quản, nhưng hễ giết một người là lập tức ta lấy cái mạng nhỏ bé của ngươi”. Trước nay gia sư nói một, hai là hai, quyết không thể hàm hồ.

Hồ Phỉ nói:

– Chẳng lẽ con người tệ hại phạm tội ngập đầu cũng không cho giết?

Viên Tử Y đáp:

– Đúng thế. Khi đó tiểu muội có hỏi sư phụ câu này thì lão nhân gia bảo “Người tệ hại đáng lý nên giết nhưng sự đời biến ảo. Con người rốt cuộc là người tốt hay người xấu, ngươi còn nhỏ tuổi làm sao mà phân biệt được? Trên đời có kẻ bề ngoài hung ác mà có lòng Bồ Tát, lắm người ngoài miệng nam mô mà trong bụng một bồ dao găm. Người chết rồi không thể sống lại. Giết lầm một người là phải ân hận suốt đời”.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Lão nhân gia dạy thế là đúng Nhưng gã này chính miệng tự nói ra đã giết người vô kể. Ở trấn Phật Sơn, hắn đã sát hại mạng người lương thiện, chính tại hạ nhìn thấy rõ ràng, không còn sai lầm được.

Viên Tử Y nói:

– Tiểu muội phải khép mình tuân theo sư mệnh. Hồ đại ca! Xin đại ca nể mặt tiểu muội mà giơ cao chém khẽ cho.

Hồ Phỉ nghe lời nàn nói khẩn thiết như người thật lòng năn nỉ. Từ ngày chàng biết nàng chưa bao giờ nghe nàng nói tha thiết đến thế. Chàng không khỏi động tâm, nhưng nhớ tới thảm trạng của cha con vợ chồng Chung A Tứ gối đầu lên nhau mà chết, lại nhớ đến vết máu của đứa bé bị mổ bụng trên tảng đá trước tượng thần ở miếu Bắc Đế, rồi cảnh tượng Chung A Nhị bị lũ chó dữ xâu xé trên vệ đường đến trấn Phật Sơn, bất giác bầu nhiệt huyết trào ngược lên ngực. Chàng lớn tiếng nói:

– Viên cô nương! Nếu vậy cô nương đừng nhìn thấy vụ này. Xin cô hãy lên đường trước rồi chúng ta sẽ gặp nhau ở Trường Sa.

Viên Tử Y sa sầm nét mặt, từ từ nói:

– Bình sinh tiểu muội chưa từng hạ mình xin ai điều gì, kể ra thì người này không có thâm cừu đại hận gì với đại ca, đại ca chẳng qua chỉ là kẻ qua đường thấy chuyện bất bình ra tay can thiệp mà thôi. Hắn đốt nhà chạy trốn ngày nghỉ đêm đi, cũng đủ biết hắn sợ hãi đại ca lắm rồi. Hồ đại ca ơi! Làm người không nên dồn kẻ khác vào bước đường cùng, mà hãy chừa cho họ một phần sinh lộ.

Hồ Phỉ dõng dạc đáp:

– Viên cô nương! Người này tại hạ chẳng thể bỏ qua không hạ sát được. Trước hết là tại hạ xin lỗi cô nương. Sau này tôn sư có trách phạt thì tại hạ xin chịu lĩnh hội một mình.

Dứt lời chàng xá dài đến tận đất. Bỗng nghe đánh “soạt” một cái Viên Tử Y đã vung cây ngân tiên lên cuốn lấy đơn đao của Hồ Phỉ còn cắm trên rường nhà kéo xuống nàng cuốn nhẹ đầu roi đưa cây đơn đao lại trước mặt chàng nói:

– Đại ca đón lấy!

Hồ Phỉ đưa tay chụp lấy đơn đao, lại nghe nàng nói:

– Hồ đại ca! Đại ca hãy đánh bại tiểu muội trước đi rồi hãy giết toàn gia hắn. Có thế thì sư phụ có muốn trách phạt tiểu muội cũng chẳng được.

Hồ Phỉ tức giận hỏi:

– Cô nương cố ngăn chặn tại hạ nhất định phải có biệt tình. Tôn sư đường đường là một bậc đại hiệp tiền bối cao nhân chẳng lẽ lại không chịu hiểu tình lý hay sao?

Viên Tử Y khẽ thở dài một tiếng, cất giọng ôn nhu hỏi:

– Hồ đại ca! Đại ca nhất định không chịu nể mặt tiểu muội một chút ư?

Ánh lửa chiếu vào gương mặt đẹp như hoa, miệng nàng nhỏ nhẹ khiến Hồ Phỉ không khỏi mềm lòng. Nhưng chàng thấy nàng khẩn cầu thì càng nghi ngờ trong vụ này có điều trá ngụy, liền tự nhủ:

– Hồ Phỉ ơi là Hồ Phỉ! Nếu ngươi để cho nữ sắc làm mê hoặc, không còn biết đến đại nghĩa thì có làm anh hùng hảo hán cũng uổng. Gia gia ngươi là Hồ Nhất Đao một thời oanh liệt sao lại có hạng con cháu bất hiếu như ngươi?

Chàng thấy không động võ thì khó trừ diệt kẻ gian ác, đành la lên:

– Nếu vậy tại hạ đành đắc tội.

Đơn đao vung lên, ra chiêu “Đại tam phách”, đao quang lấp loáng bao phủ thượng bàn Viên Tử Y. Chàng giơ tay trái lên, phóng ra một đĩnh bạc đánh tới tâm khẩu Phụng Thiên Nam. Viên Tử Y nhìn thấy chàng nhìn mình như ngây như dại, tựa hồ đã đáp ứng khẩn cầu của mình, lòng nàng đang khấp khởi mừng thầm, ngờ đâu chàng lại ra tay một cách đột ngột. Hai người đứng cách nhau không xa. Chiêu “Đại tam phách” của chàng đánh tới rất mãnh liệt. Cây ngân ty tiên của nàng vừa dài vừa mềm muốn đón đỡ thì không phải là chuyện dễ mà tay trái chàng lại phóng ám khí. Nàng nghe tiếng gió rít lên nhanh và gấp biết là thủ pháp trầm trọng. Viên Tử Y chợt nghĩ thầm:

– Y nhất định không muốn đả thương ta!

Nàng liền vung trường tiên rượt theo để ngăn cản đĩnh bạc. “Choang” một tiếng! Thỏi bạc bị đánh rớt xuống đất, còn chiêu đao của Hồ Phỉ đánh tới, nàng chẳng hề quan tâm.

Nguyên Hồ Phỉ biết võ công nàng chẳng kém gì mình, dù động thủ thực sự thì trong nhất thời cũng chưa thể phân thắng bại, cha con Phụng Thiên Nam sẽ nhân cơ hội mà trốn đi nên trong lòng lấy làm khó nghĩ, bên mình chỉ còn mấy đĩnh bạc, dẫu có bắn trúng cũng không chết người. Chàng liền phóng đĩnh bạc nặng năm lạng sử kình rất trầm trong mà thế đi của đĩnh bạc cũng rất kỳ quái để đánh Phụng Thiên Nam. Chàng chắc mẩm một chiêu nhất định thành công, ngờ đâu Viên Tử Y lại mạo hiểm không bảo vệ thân mình để đi cứu người khác. Chàng thấy mũi đao còn cách nàng mấy tấc, vội dừng lại quát lên:

– Cái gì thế này?

Viên Tử Y đáp:

– Tiểu muội bất đắc dĩ phải làm!

Đột nhiên nàng nhảy lùi lại hơn trượng vung cây nhuyễn tiên về phía sau, la lên:

– Coi chiêu đây!

Hồ Phỉ giơ đao lên gạt để chờ thời cơ lại tập kích Phụng Thiên Nam nhưng Viên Tử Y dùng cây nhuyễn tiên đánh ráo riết không để chàng rảnh tay phút nào, phải ngưng thần đối phó, chiết giải từng chiêu. Đơn đao cũng múa thành những vòng nhỏ sáng lấp lánh, hai vòng sáng cứ tới lui công kích lẫn nhau. Thỉnh thoảng đao tiên đụng nhau bật lên tiếng “choang choang”. Đang tỷ đấu nửa chừng, Viên Tử Y quét ngang cây tiên một cái đánh rớt cây đèn nến trên bệ thờ xuống đất. Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Nàng muốn lửa tắt để lão họ Phụng chạy trốn.

Chàng thấy khó lòng mà hiểu được dụng ý của nàng nên trong lúc nhất không biết phải đối phó thế nào, đành thi triển “Hồ gia đao pháp” gia truyền để tấn công. Viên Tử Y hô:

– Hảo đao pháp!

Nàng quét ngọn roi gạt chiêu đao của đối phương. Đầu roi cuốn lấy thanh củi cháy ở dưới đất mé tây ném tới Hồ Phỉ. Cái chảo sắt để nấu cơm tuy bị Hồ Phỉ hất đổ nhưng hai, ba chục cành củi khô chưa tắt, chụm lại cùng cháy tạo nên thế lửa rất mạnh. Hồ Phỉ không dám dùng đao đỡ gạt vì sợ tia lửa bắn tung tóe gây thương tổn cho đầu mặt, liền vội nhảy ra để né tránh. Nhưng đã né tránh rồi thì không thể tiến lên phản kích. Viên Tử Y từ từ động thủ, quấn lấy cành củi cháy ném hết cây này đến cây khác.

Trong bóng tối, đường lửa sáng nối đuôi nhau kéo dài trong một lúc. Hồ Phỉ thấy Viên Tử Y không ngớt ném những que lửa tới vừa nhiều vừa mãnh liệt, chàng đành thi triển khinh công chạy quanh đại điện để né tránh. Chàng thấy gia nhân, đệ tử, xa phu, tỳ bộc nhà Phụng Thiên Nam đều chạy trốn vào hậu điện, những kẻ bị điểm huyệt thì được kẻ khác ôm chạy theo. Cha con Phụng Thiên Nam mắt lộ hung quang đứng một bên. Hồ Phỉ sợ Phụng Thiên Nàm thừa cơ lúc nhốn nháo chạy trốn. Chàng cầm đơn đao hàn quang lấp lánh không rời khỏi cửa miếu.

Sau một lúc ánh lửa nhảy múa trên không nhỏ dần, rồi rớt xuống đất tắt hết. Viên Tử Y cười hỏi:

– Hồ đại ca! Cuộc đấu bữa nay thật hứng thú. Chúng ta đấu cho đến khi phân thắng bại nên chăng?

Nàng lại huy động cây nhuyễn tiên hết điểm trước ngực. rồi chuyển qua đánh vào vai phải Hồ Phỉ. Hồ Phỉ giơ đao lên gạt được chiêu trước thì chiêu thứ hai đã vung tới lại càng quái dị. Chàng vội lăn mình đưới đất mới tránh được. Viên Tử Y cười nói:

– Đại ca bất tất phải hoang mang, tiểu muội không đả thương đại ca đâu.

Hai câu này động đến ngạo khí của Hồ Phỉ. Chàng lẩm bẩm:

– Chẳng lẽ ta lại thua cô nương ư?

Chàng liền huy động đao pháp từng bước đánh rất rát. Lúc này trong đại điện chỉ còn một cành củi lại đột nhiên cháy bùng. Bỗng nghe Viên Tử Y nói:

– Đường tiên pháp này của tiểu muội chiêu số rất kì dị, đại ca hãy coi chừng.

Đột nhiên gió ầm ầm nổi lên. Không hiểu trong cây nhuyễn tiên của nàng làm thế nào để có thể phát ra được thanh âm quái dị như vậy. Hồ Phỉ la lên:

– Hay lắm!

Trước tiên, chàng giữ kín môn hộ để xem cho rõ yếu chỉ về tiên pháp của Viên Tử Y rồi mới tính chuyện tấn công, Đội nhiên nghe “bụp” một tiếng, cây củi đang cháy trong đại điện đột nhiên phát nổ, lửa bắn tung tóe rồi tắt phụt ngay. Đại điện tối đen như mực. Lúc này bên ngoài mưa càng lớn, nước trút xuống mái nhà ầm ầm lẫn với tiếng nhuyễn tiên ào ào của Viên Tử Y làm cho đinh tai nhức óc. Hồ Phỉ tuy lớn mật nhưng trước tình cảnh này không khỏi sợ run. Bỗng trong đầu chàng lóe lên một tia sáng, liền thầm nghĩ:

– Hôm ấy ở trong miếu Bắc Đế trấn Phật Sơn, Phụng Thiên Nam toan giơ đao tự sát, một người đàn bà dùng ngân thoa đánh rớt đơn đao của hắn. Xem ra thân hình cùng thủ pháp người đó giống hệt Viên cô nương.

Chàng nghĩ tới đây bất giác run lên:

– Nàng cùng ta kết bạn đồng hành té ra muốn làm điều bất lợi cho ta.

Nghĩ đến đây, trong lòng không còn thấy sợ nữa mà lại nảy ra cảm giác thất vọng thê lương. Vì mải suy nghĩ thành ra phân tâm, bất giác bàn tay nới lỏng. Thanh đao bị cây nhuyễn tiên cuốn lấy sưýt nữa tuột mất. Chàng vội vận nội lực giật mạnh lại một cái. Viên Tử Y là một cô gái chiêu số tuy tinh diệu nhưng tý lực còn kém Hồ Phỉ, nàng cảm thấy cánh tay tê chồn. Nàng liền rung cây nhuyễn tiên buông thanh đao ra, rồi thuận chiều, xoay qua điểm vào huyệt âm cốc trên đầu gối chàng. Hồ Phỉ vung người né tránh, rồi vung đao chém trả một nhát.

Lúc này tòa cổ miếu tối đen như mực. Hai người chỉ nghe tiếng gió của binh khí đối phương mà đỡ gạt. Hồ Phỉ để hết tinh thần đề phòng, chàng nghĩ bụng:

– Chỉ một vị Viên cô nương này ta đã khó lòng thắng nổi, huống chỉ còn thêm cha con Phụng Thiên Nam tương trợ.

Lúc này chàng cho rằng Viên Tử Y cùng Phụng Thiên Nam là một phe đảng và bữa nay hiển nhiên chàng đã lọt vào cạm bẫy của kẻ địch. Hai người trao đổi mấy chiêu nữa, mỗi khi xáp gần vào nhau đều gặp nguy hiểm. Hồ Phỉ lật cổ tay chém mạnh một đao. Viên Tử Y vội ưỡn người về phía sau, nàng cảm thấy đao phong lạnh toát qua mặt, cách da thịt không đầy mấy tấc thì thông khỏi giật mình kinh hãi vì phát giác chàng hạ thủ chẳng nể nang gì. Nàng bèn nói:

– Hồ đại ca! Đại ca nổi nóng rồi ư?

Nàng rung nhẹ cây nhuyễn tiên một cái rồi nhảy lùi lại phía sau. Hồ Phỉ không đáp, ngưng thần lắng tai nghe xem cha con Phụng Thiên Nam ẩn chỗ nào để đề phòng đánh lén. Viên Tử Y cười nói:

– Đại ca không lý gì đến tiểu muội, làm phách nhỉ?

Đột nhiên nàng tung cây roi móc lấy gót chân chàng. Nàng ra đòn không một tiếng động, khiến Hồ Phỉ không kịp đề phòng. Chàng muốn nhảy lên né tránh cũng không kịp nữa, đành quét vội cây đao xuống đất để gạt cây nhuyễn tiên. Không ngờ cây nhuyễn tiên sau khi cuốn lại liền tùy thế quấn sang một bên thật mau, làm các ngón tay Hồ Phỉ đang nắm chặt chuôi đao phải thả lỏng ra, rồi nhẹ nhàng đoạt lấy thanh đơn đao. Chiêu số đoạt đao này rất giảo hoạt, kình lực lại vô cùng xảo diệu. Hồ Phỉ la thầm:

– Không xong rồi! Ta bị đoạt mất binh khí, bữa nay không khéo phải bỏ mạng trong tòa cổ miếu này.

Trong lúc nguy cấp chàng không thủ thế mà phản công, liền tung mình nhảy xô về phía trước đưa tay ra chụp lấy yết hầu nàng.  Chiêu “Ưng trảo câu thủ” này cực kỳ tàn độc. Hồ Phi tuy theo quyền phổ rèn luyện rất tinh thục, nhưng bình sinh chưa dùng qua.

Viên Tử Y cảm thấy một luồng nhiệt khí xô đến, bàn tay địch nhân đưa vào cổ họng nàng mà lúc này nhuyễn tiên ở ngoài, làm sao có thể rút về đỡ đòn cho kịp? Nàng đành buông tay, ngửa người về phía sau. Mấy tiếng “choang choảng” vang lên, cả đơn đao lẫn nhuyễn tiên đều cùng rớt xuống đất. Hồ Phỉ ra một chiêu trảo đắc thủ liền thi triển chiêu thứ hai là “Tiến bộ liên hoàn” tấn công ráo riết. Viên Tử Y lật tay lại dùng ngón tay đâm trúng tay trái của Hồ Phỉ. Trong bóng tối nàng không trông rõ huyệt đạo đối phương, nên đâm vào chỗ da thịt dày và cứng làm ngón tay đau nhói phải buột miệng la lên “ối chao”.

Hồ Phỉ la thầm:

– Thật đáng hổ thẹn. May nhờ bóng tối cô nương không nhìn rõ thân hình ta nếu không thì phát chỉ này đã trúng yếu huyệt rồi.

Hai người tay không giao đấu trong bóng tối đều thủ nhiều mà công ít vừa đánh vừa chờ cơ hội để đoạt binh khí dưới đất. Viên Tử Y thấy đối phương càng đánh càng dữ tợn, không còn là cuộc tỷ võ để so tài tay cao thấp nữa. Nàng càng nghĩ càng kinh hãi, bụng bảo dạ:

– Tại y lại đột nhiên hung dữ như vậy chứ?

Từ ngày nàng rời khỏi Hồi Cương đã chạm trán không ít cao thủ, nhưng chưa từng gặp cuộc ác đấu nào như đêm nay. Đột nhiên nàng biến đổi thân pháp chạy quanh bốn phía không cho Phồ Phỉ đến gần. Hồ Phỉ thấy đối phương không bám sát nữa, chàng cũng chẳng truy kích mà chỉ giữ kín môn hộ, nghiêng tai lắng nghe để xem cha con Phụng Thiên Nam ẩn nấp ở nơi nào là lập tức phóng chưởng đánh chết chúng ngay. Nhưng Viên Tử Y chạy rất lẹ, tiếng áo quần phát ra phần phật, chưởng lực cũng nổi lên veo véo khiến chàng không tài nào nghe được tiếng hô hấp của cha con Phụng Thiên Nam. Hồ Phỉ bỗng nảy ra một kế, tự nhủ:

– Y chạy vòng bốn phía thì ta cũng bốn phía chạy vòng như vậy.

Chàng bèn chạy quanh trong đại điện từ đông qua tây, từ nam qua bắc theo phương vị đại tứ tượng, cứ nghiêng mình xông tới vung chưởng đánh bừa cốt để đụng vào cha con Phụng Thiên Nam, thì chúng chẳng chết cũng bị trọng thương. Cùng lắm nếu không đụng mà chỉ cần chúng né tránh thì lập tức chàng cũng phát hiện được chỗ chúng đang ẩn thân.

Hai người lúc trước đứng sát nhau để giao đấu, giờ đột nhiên đâm ra đánh bừa đánh ẩu tựa hồ chẳng còn ăn nhập gì nhau. Hễ ai nhảy tới gần chỗ binh khí rớt xuống là lập tức đối phương xông lại cản trở, hai bên trao đổi mấy chiêu rồi lại ra xa. Hồ Phỉ di chuyển trong đại điện hết một vòng mà chẳng phát giác ra hành tung của Phụng Thiên Nam đâu cả. Chàng thầm hỏi:

– Chẳng lẽ bọn chúng chuồn vào hậu điện? Không có lý nào! Hiện giờ họ mạnh mà ta yếu nếu họ xông cả lại là đưa ta vào đất chết được ngay. Nhất định họ ngấm ngầm bố trí cạm bẫy dụ ta vào tròng. Bậc đại trượng phu phải biết tùy cơ mà hành động. Bữa nay ta cần tìm đường thoát thân trước đã rồi sau sẽ tính.

Chàng liền từ từ tiến về phía cửa điện định chờ cơ hội nhảy ra. Bỗng tiếng phần phật vang lên rồi đột nhiên một cơn gió cực kỳ mãnh liệt quạt vào mặt. Trong bóng tối chàng nhìn thấp thoáng thấy bóng người cao lớn nhảy xô tới. Hồ Phỉ cả mừng, hô lớn:

– Tới đúng lúc lắm!

Chàng vung song chưởng đánh ra nghe “sầm” một tiếng trúng ngay trước ngực người kia. Phát chưởng đó chàng đã vận đến mười thành công lực để Phụng Thiên Nam phải xương gãy gân bong chết ngay tại chỗ, song bàn tay chàng vừa chạm phải người kia liên biết mình mắc bẫy, vì chỗ vừa chạm vào vừa lạnh, nhưng chưởng phóng ra rồi thu về không kịp. Bụi đất bay tứ tung rớt xuống rào rào. Té ra đó là một pho tượng thần trong miếu. Lại nghe mấy tiếng ầm ầm. Tượng thần đập vào tường vách, gãy thành nhiều mảnh.

Bỗng nghe tiếng Viên Tử Y cười, nói:

– Chưởng lực nặng quá!

Thanh âm này phát ra từ ngoài cửa sơn môn. Tiếp theo là những tiếng loảng xoảng, đơn đao và nhuyễn tiên đều bị nàng cướp vào tay rồi. Hồ Phỉ tự hỏi:

– Khí giới đã bị y cướp mất. Bây giờ nên tiếp tục đánh nữa hay là tìm kế thoát thân trước?

Chàng biết đối phương tuy là một thiếu nữ nhỏ tuổi, nhưng võ cao cường chẳng thể coi thường được. Hai người cùng cầm bình khí tỷ đấu nhất thời cũng khó phân thắng bại. Bây giờ nàng có nhuyễn tiên trong tay, mình thì tay không, làm sao địch nổi, huống gì cô ta lại còn có thêm kẻ tương trợ.

Chàng nghĩ tới đây bỗng nghe tiếng vó ngựa vang lên. Viên Tử Y gọi to:

– Này này! Nam Bá Thiên! Sao lại bỏ đi ngay! Như vậy há chẳng tổn thương đến tình bằng hữu sao?

Trong tiếng mưa rào nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Viên Tử Y đã lên ngựa đuổi theo. Hồ Phỉ la thầm:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi!

Thế là phen này chàng bị thua liểng xiểng. Tuy bọn gia nhân cùng tùy bộc của Phụng Thiên Nam còn ở cả đó, nhưng tên đầu sỏ đã bỏ đi rồi, nếu có nổi nóng chém giết một trận hả giận thì cũng chẳng phải là bản sắc anh hùng. Chàng móc đá lửa trong bọc đánh lên, châm vào đống củi vừa mới tắt. Chàng nhìn lại trong điện thì thấy thần tượng Tương Phi đầu gãy tay đứt thành mấy mảnh, cơm trắng và rơm củi văng tung tóe khắp mặt đất. Ngoài miếu trời vẫn mưa không ngớt. Hồ Phỉ nhìn dấu vết cuộc ác đấu lại nhớ tới những sự nguy hiểm vừa qua, trong lòng không khỏi kinh tâm động phách. Chàng ngồi trước bệ thờ nhìn đống lửa ngơ ngác xuất thần. Chàng tự nhủ:

– Giữa Viên Tử Y và Phụng Thiên Nam tất có quan hệ dây mơ rễ má. Ðó là một điều chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa. Nam Bá Thiên có cường viện hùng hậu như vậy, lại người nhiều thế lớn ở trấn Phật Sơn, thì hắn thừa sức kiềm chế ta, cớ sao hắn lại đốt nhà bỏ trốn? Bữa nay bọn họ bố trí mai phục ở trong cổ miếu dĩ nhiên ta bị trúng kế. Nếu họ nhất tề bao vây thì mạng ta nguy mất? Sao họ đã chiếm được thế thượng phong mà còn rút lui? Ta coi bộ dạng Phụng Thiên Nam hai lần toan tự sát tuyệt không có gì là giả trá. Thế thì việc Viên Tử Y ngấm ngầm tương trợ dường như hắn lại không biết.

Chàng lại nghĩ tới Viên Tử Y võ công uyên bác, mưu mẹo trăm đường. Mỗi phen cùng nàng tỷ thí đều bị nàng đoạt mất tiên cơ. Vừa rồi chiến đấu trong bóng tối, do sợ bị thua nên chàng đã coi nàng như đại địch. Bây giờ nhớ lại chàng bỗng nở nụ cười trên môi, trong lòng nảy ra mối nhu tình êm ái. Bất giác chàng tự hỏi:

– Vừa rồi kịch đấu, ta lại ra tay chẳng nể nang gì cả là nghĩa làm sao?

Chàng khó mà trả lời được câu hỏi này. Dường như chàng đã vận toàn lực để công kích nhưng lại dường như không thật tâm hạ sát thủ. Rồi chàng lẩm bẩm:

– Lúc nàng xông vào gần để phát chưởng, ta có giết nàng bằng chiêu “Xuyên tâm trùy” mà sao ta không dùng? Ta phóng chiêu “Thượng mã đao”, nàng cúi đầu né tránh, sao ta không sử tiếp chiêu “Bá vương tá giáp”? Hồ Phỉ hỡi Hồ Phỉ! Thật ra ngươi sợ đả thương nàng!

Đột nhiên chàng động tâm tự nghĩ:

– Nàng đã vung roi đánh xuống đầu vai ta, đột nhiên thu về phải chăng nàng có ý tương nhượng hay chỉ là chuyện ngẫu nhiên? Lại còn lúc nàng phóng cước đá trúng đùi ta sao lại lập tức thu kình lực về?

Hồ Phỉ ôn lại những chiêu số vừa rồi nghiên cứu tỉ mỉ, trong lòng bỗng cảm thấy nảy ra một tình cảm ôn nhu, liền nhủ thầm:

– Nhất định nàng không muốn giết ta! Nhất định nàng không muốn giết ta. Chẳng lẽ… chẳng lẽ…

Chàng nghĩ tới đây không đám nghĩ tiếp nữa, bỗng cảm thấy bụng đói liền bưng cái chảo sắt mà lúc nãy chàng đá tung đi, coi lại thấy trong chảo hãy còn ít cơm trắng. Chàng liền lượm thêm ít cơm rơi vãi trên mặt đất, dùn nước mưa rửa sạch rồi đốt lửa lên nấu lại. Chẳng bao lâu, mùi cơm thơm ngát trong chảo nhè nhẹ bốc ra. Hồ Phỉ thở phào một cái, nghĩ bụng:

– Nếu lúc này mà ta cùng nàng ngồi sóng vai nấu cơm ăn với nhau há chẳng là cảnh tượng sung sướng. Không dè tên ác tặc Phụng Thiên Nam lại lần tới miếu.

Nhưng chàng lại tự nhủ:

– Chạm trán Phụng Thiên Nam cũng là một điều hay. Ta mà còn suy nghĩ vẩn vơ là lạc vào đường rẽ mất.

Lòng chàng ngấm ngầm cảnh giác, nhưng cứ nghĩ gương mặt xinh tươi của Viên Tử Y là lại cảm thấy bâng khuâng trong dạ. Mùi cơm cháy khét dần dần bốc lên mà chàng cũng không hay biết. Giữa lúc ấy ngoài cửa miếu có tiếng chân bước rồi cửa miếu mở ra nghe kèn kẹt. Hồ Phỉ vừa sợ vừa mừng, nhảy bổ lên, lẩm nhẩm:

– Nàng đã quay lại rồi!

Dưới ánh lửa chàng nhìn thấy hai người tiến vào. Một người là lão già ước chừng năm mươi tuổi, nước da vàng ủng, người gầy ốm, chính là Lưu Hạc Chân mà chàng đã gặp ở Phong Diệp trang thành Hành Dương. Còn người kia là một thiếu phụ khoảng ngoài hai chục tuổi. Một cánh tay Lưu Hạc Chân được bó bằng vải xanh treo lên cổ. Hiển nhiên lão đã bị thương. Thiếu phụ cũng đi tập tễnh, chân mụ bị thương không nhẹ. Cả hai người đều ướt đẫm toàn thân, bộ dạng trông rất thảm hại.

Hồ Phỉ toan cất tiếng thì Lưu Hạc Chân đưa mắt lạnh lùng nhìn chàng, rồi quay sang bảo thiếu phụ:

– Qua bên kia coi thử!

Thiếu phụ dạ một tiếng, rút đơn đao ở thắt lưng ra rồi đi vào hậu điện. Lưu Hạc Chân đứng tựa vào bệ thờ thở hổn hển. Đột nhiên, lão ngồi phệt xuống, vẻ mặt dường như đang chăm chú lắng nghe tiếng động bên ngoài. Hồ Phỉ thấy lão chưa nhận ra mình, chàng nghĩ bụng:

– Hôm ấy xảy cuộc tỷ võ ở Phong Diệp trang, ai ai cũng đều nhận ra lão và Viên cô nương. Còn ta lẫn vào đám đông như một thằng nhỏ nhà quê, dĩ nhiên là lão không nhận ra.

Chàng mở vung ra, mũi ngửi thấy mùi khét lẹt. Nửa nồi cơm cháy cả rồi. Chàng tủm tỉm cười, bốc từng nắm cơm một đút vào miệng nhai, nghĩ bụng Lưu Hạc Chân thấy mình ăn uống thô lỗ như vậy sẽ không để ý đến nữa.

Một lúc sau, thiếu phụ từ hậu điện trở ra, tay cầm một thanh củi đang cháy, nhìn Lưu Hạc Chân nói:

– Không có gì cả!

Lưu Hạc Chân thở phào, lòng cảnh giác được cởi mở một chút. Lão nhắm mắt ngồi tựa bệ thờ điều tức. Nước mưa trên áo lão chảy xuống đất thành vũng, trong nước có lẫn máu tươi. Thiếu phụ cũng cực kỳ mỏi mệt, mụ ngồi bên lão không nhúc nhích. Coi điệu bộ hai người tựa hồ là đôi vợ chồng, có điều chồng già vợ trẻ chẳng xứng đôi chút nào.

Hồ Phỉ tự hỏi:

– Bản lãnh của Lưu Hạc Chân trong võ lâm ít có địch thủ mà sao lão bị thảm bại đến thế? Thế mới biết trên chốn giang hồ ngoài trời lại có trời, trên người này còn có người khác, mình không thể coi thường được.

Giữa lúc ấy văng vẳng có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại. Lưu Hạc Chân đứng bật dậy, rút binh khí ở sau lưng ra, binh khí là một cây đoản thương có quấn xích. Lão nói:

– Trọng Bình! Nàng chạy đi! Ta ở lại đây để liều mạng với hắn.

Lão nói rồi lấy trong bọc ra một vật bó dài chừng hơn thước, trao tay cho mụ và dặn:

– Nàng đưa cho y.

Thiếu phụ kia vành mắt đỏ hoe, đáp:

– Không! Nếu phải chết thì cùng chết một chỗ với nhau.

Lưu Hạc Chân tức mình gắt:

– Chúng ta chịu trăm đắng ngàn cay, mình mang thương tích mà phải chiến đấu là vì cái gì? Việc này mà chẳng làm xong thì ta chết cũng không nhắm mắt. Nàng mau ra cửa sau trốn đi để ta giữ chân kẻ địch.

Thiếu phụ kia vẫn quyến luyến không chịu bỏ đi, mụ khóc mà nói:

– Lão gia ơi! Chúng ta đã là vợ chồng, tiện thiếp mà không được hầu hạ lão gia thì… thì…:

Lưu Hạc Chân giậm chân ngắt lời:

– Nàng làm xong việc lớn này còn tốt hơn việc hầu hạ ta nhiều.

Lão đưa tay trái lên vẫy lẹ, miệng giục:

– Chạy lẹ đi! Chạy lẹ đi!

Hồ Phỉ thấy vợ chồng lão tình nghĩa thâm trọng không nỡ rời tay, trong lòng thấy bất nhẫn nghĩ thầm:

– Hạc Chân là người chính phái. Không hiểu ai làm khó dễ với lão? Ta đã gặp đây thì chẳng thể bỏ qua được.

Giữa lúc ấy tiếng vó ngựa dừng lại ngoài cửa miếu. Hồ Phỉ nghe thanh âm nhận ra ba người cưỡi ngựa thì hai người dừng lại ở cửa trước, còn một người quành lại cửa sau. Lưu Hạc Chân ra chiều tức giận nói:

– Họ chặn mất cửa sau, không đi được nữa rồi.

Thiếu phụ đảo mắt nhìn quanh, rồi xốc nách lão đỡ lên bệ thờ, ẩn vào trong khám thờ. Mụ lại nhìn Hồ Phỉ giơ tay ra hiệu, gương mặt tỏ vẻ khẩn cầu chàng chớ có tiết lộ. Bức màn vàng trước khám thờ buông xuống vừa xong thì hai người tiến vào trong cửa miếu. Hồ Phỉ vẫn ngồi dưới đất, bốc cơm nắm lại rồi bỏ vào miệng, thong thả nhai. Chàng liếc mất nhìn hai người, dù chàng đã gặp quái nhân rất nhiều trên chốn giang hồ mà lần này cũng không khỏi giật mình kinh hãi. Hai người này cặp lông mày chếch xuống, cặp mắt hình tam giác một lớn một nhỏ, mũi to và hếch lên, tướng mạo cực kỳ xấu xí. Hai người nhìn Hồ Phỉ một cái nhưng không đếm xỉa gì đến. Chúng chia ra hai bên mé trái và mé phải để đi vào hậu điện, chẳng mấy chốc lại trở ra. Ngoài sân có tiếng động khe khẽ, một người từ nóc nhà nhảy xuống. Nguyên lúc hai người sục tìm trước sau thì người đứng chặn cổng hậu nhảy lên nóc nhà để quan sát.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Khinh công người này thật phi thường!

Bỗng thấy bóng người thấp thoáng, người đó đã vọt vào trong điện. Tướng mạo hắn cũng chẳng khác hai người kia mấy, vừa trông đã biết là huynh đệ. Ba người bỏ áo mưa ra. Hồ Phỉ lại một phen kinh hãi vì ba người này đều mặc hiếu phục bằng vải xô, lưng thắt dây cỏ, khăn xô quấn trên đầu, tựa hồ cha mẹ mới mất. Trên đại điện chỉ nhờ một que củi soi sáng. Trời vẫn mưa rả rích, gió lạnh vi vút thối ngọn lửa tạt đi lúc mờ lúc tỏ khiến cho ba bóng người chập chờn trên tường chợt lớn chợt nhỏ, chẳng khác gì loài quỷ mỵ. Bỗng nghe người đến sau cùng hỏi:

– Đại ca! Đôi nam nữ đó đều bị thương rồi, lại không cưỡi ngựa, theo lý chúng chưa thể đi xa được, mà gần đây lại không có nhà cửa thì còn ẩn vào đâu?

Người lớn tuổi nhất đáp:

– Quá nửa là chúng ẩn vào trong sơn động hay bụi cỏ bờ cây nào đó. Chúng ta đừng ngại khó nhọc hãy ra ngoài sục tìm. Bọn chúng tuy bị thương ở chân tay nhưng không nặng lắm. Lão già đó lợi hại lắm, ta nên thận trọng.

Người kia xoay mình toan đi, đột nhiên dừng bước, hỏi Hồ Phỉ:

– Này tiếu tử! Ngươi có thấy một lão già và một người đàn bà trẻ tuổi không?

Hồ Phỉ miệng vẫn nhai cơm, ngơ ngác lắc đầu. Gã đại ca đảo mắt nhìn quanh thấy dưới đất đồ vật tung tóe, ngổn ngang, một pho thần tượng bể thành nhiều mảnh bỏ dưới chân tường liền sinh lòng nghi hoặc. Hắn nhìn kỹ thấy dưới đất có vết chân còn dính nước. Vợ chồng Lưu Hạc Chân đội mưa mà tiến vào miếu, dĩ nhiên bàn chân đem theo vừa bùn vừa nước. Hồ Phỉ liếc mắt nhìn trên bệ thờ cũng rõ vết chân, vội đáp:

– Lúc nãy mấy người đánh nhau ở đây, có trai có gái, có già có trẻ, đánh cả Tương Phi nương nương té xuống đất. Kẻ thì chạy trốn, kẻ thì đuổi theo, mà người nào cũng cưỡi ngựa.

Gã tam đệ chạy ra hành lang, quả thấy rất nhiều vết chân ngựa cùng dấu bánh xe còn chưa khô, nên tin lời Hồ Phỉ là đúng. Hắn liền hỏi Hồ Phỉ:

– Bọn họ đi về ngả nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Dường như họ chạy về mặt bắc. Tiểu nhân nấp dưới gầm bàn, không dám nhìn kỹ.

Gã tam đệ gật đầu nói:

– Phải rồi!

Gã lấy ra một đĩnh bạc chừng bốn lạng liệng xuống trước mặt Hồ Phỉ, nói:

– Cho ngươi đó.

Hồ Phỉ tạ ơn không ngớt. Chàng lượm đĩnh bạc lên lộ vẻ hoan hỷ khôn xiết nhưng trong bụng nghĩ thầm:

– Ba tên ác quỷ này có vẻ đều là những nhân vật võ công cao cường. Nếu chúng đuổi kịp bọn Phụng Thiên Nam đánh loạn xạ ngầu một trận cũng là một màn hay.

Tên nhị ca nói:

– Lão đại! Lão tam! Chúng ta đi thôi.

Ba người khoác áo mưa đi ra cửa miếu. Hồ Phỉ còn loáng thoáng nghe tiếng người nói:

– Ngụy kế đó không phải tầm thường. Bất luận trường hợp nào không thể để hắn chiếm đoạt tiên cơ.

Lại nghe kẻ khác đáp:

– Nếu không ngăn chặn được thì đi báo tin hay hơn.

Người trước lại nói:

– Hỡi ơi! Y đâu có chịu tin lời chúng ta. Huống chi…

Lúc này ba người đã cưỡi ngựa chạy dưới trời mưa lớn nên họ nói gì chàng không nghe rõ nữa. Hồ Phỉ rất lấy làm kỳ, tự hỏi:

– Không hiểu cái ngụy kế lợi hại mà chúng nói đó là gì? Rồi lại đi báo tin cho ai?

Bỗng nghe trong khám thờ khẽ vang lên mấy tiếng lách cách, thiếu phụ đỡ Lưu Hạc Chân leo xuống khỏi bệ thờ. Ngày trước Hồ Phỉ thấy lão cùng Viên Tử Y tỷ võ ở Phong Diệp trang, thân thủ mau lẹ phi thường mà bây giờ leo xuống cái bệ thờ thấp lè tè cũng run lẩy bẩy chỉ sợ té nhào, bất giác lẩm bẩm:

– Không lạ gì lão lại bị thương trầm trọng đến thế. Ba tên ác quỷ kia liên thủ tấn công thì lão khó lòng địch nổi.

Lưu Hạc Chân leo xuống khỏi bệ thờ rồi nhìn Hồ Phỉ thi lễ, nói:

– Đa tạ đại ân cứu mạng của tiểu ca.

Hồ Phỉ vội đáp lễ, nhưng chàng không muốn tiết lộ thân phận nên vẫn giả vờ làm kẻ hương nông ngớ ngẩn, bèn mỉm cười đáp:

– Ba người đó hoành hành bá đạo chẳng khác gì bọn hung thần ác sát, mở miệng ra là tiểu tử này, tiểu tử nọ… Tại hạ không muốn nói thật với chúng

Lưu Hạc Chân hỏi:

– Lão phu họ Lưu tên gọi Hạc Chân.

Lão chỉ thiếu phụ nói tiếp:

– Đây là bà vợ của lão phu. Còn quý tính của tiểu ca là gì?

Hồ Phỉ nghĩ bụng: “Lão đã xưng danh tính với mình, mình không tiện gạt lão, nhưng tên mình không ra vẻ một kẻ hương nông cần đổi đi mới được”. Chàng liền đáp:

– Tại hạ họ Hồ tên gọi A Đại.

Chàng nghĩ rằng song thân chàng chỉ sinh hạ một mình chàng thì có xưng A Đại cũng không phải là nói dối. Lưu Hạc Chân nói:

– Tiểu ca tốt bụng lắm, chắc ngày sau được hưởng phúc vô cùng…

Lão nói tới đây lại chau mày nghiến răng nhịn đau. Thiếu phụ kia vội hỏi:

– Lão gia làm sao vậy?

Lưu Hạc Chân lắc đầu, tựa vào bệ thờ mà thở dốc. Hồ Phỉ nghĩ chắc hai vợ chồng lão có chuyện riêng muốn nói với nhau, chàng ngồi ở bên là điều bất tiện, liền nói:

– Lưu lão gia! Tại hạ ra nhà sau ngủ vậy.

Dứt lời chàng đốt một cây củi làm đuốc rồi đi vào hậu điện. Hồ Phỉ nhìn đống rơm cỏ trên thần đàn không khỏi ngơ ngẩn xuất thần, vì vừa mới đây Viên Tử Y đã nằm ở đó. Không ngờ diễn biến xảy ra, người ngọc đi rồi chỉ còn lại hoang sơn tịch mịch, cổ miếu thê lương. Chẳng biết sau này còn có dịp gặp nàng nữa hay không? Sau một lúc lâu, ánh lửa thanh củi trong tay chợt lóe lên cắt đứt dòng suy nghĩ, đột nhiên chàng la thầm:

-Trời! Nguy rồi! Bản “Quyền kinh đao phổ” của ta bị nàng ý lấy cắp đem đi mất rồi. Bây giờ ta còn có thể ngang sức với nàng, chờ khí nàng xem hết “Quyền kinh đao phổ” thì mỗi chiêu mỗi thức của ta nàng đều thuộc lòng. Nếu xảy ra cuộc động thủ, há chẳng đưa ta vào đất chết?

Mối nhu tình đang tràn ngập trong hồn lập tức biến thành nỗi hoảng sợ. Chàng ném thanh củi đi rồi ngồi phệt xuống đống rơm. Lúc chàng nằm đè lên cái bọc của mình, bỗng cảm thấy cái bọc có điều khác lạ, dường như nó to hơn trước nhiều. Từ trước đến giờ chàng vẫn dùng bọc để gối đầu, sau nghe tiếng Phụng Thiên Nam chàng tìm ra kẻ thù thì chẳng có ai động đến cái bọc, vậy mà bây giờ nó lại dời xuống ngang thắt lưng. Hồ Phỉ lấy làm kỳ, nghĩ bụng:

– Vợ chồng Lưu Hạc Chân và ba anh em quái nhân đều vào hậu điện, chẳng lẽ bọn họ đã đụng vào cái bọc của ta?

Chàng liền đánh lửa đốt lại cành củi cho cháy lên rồi mở bọc ra coi, bất giác ngẩn người. Chàng thấy ngoài quần áo của mình ra, còn thêm một cái áo ngoài, một cái quần, một đôi giày, một đôi tất. Những quần áo, giày tất, là vật của chàng.

Hôm ấy chàng bị Viên Tử Y đẩy xuống ao bùn. Khi chàng xuống sông tắm rửa, mớ quần áo giày tất này bị nàng đoạt đem đi mất, không ngờ bây giờ lại được giặt giũ sạch sẽ. Hai vết thủng trên áo cũng được khâu lại chỉnh tề. Chàng mở áo ra coi thấy cuốn “Quyền kinh đao phổ” nằm trong đó. Bên đao phổ còn một con phụng hoàng bằng ngọc bích dài ba tấc. Con phụng hoàng này được chạm trổ tinh vi, toàn thân bóng loáng, chạm vào tay nghe mát lạnh. Hồ Phỉ ngẩn người ra một lúc rồi gói bọc lại. Chàng cầm con ngọc phụng hoàng trong tay, thổi tắt thanh củi. Chàng ngả người trên đống rơm, lòng ngổn ngang trăm mối:

– Nếu nàng tốt với ta thì tại sao khi ta muốn giết Phụng Thiên Nam nàng lại hết sức đối địch với ta? Nếu nàng không tốt với ta thì tặng ngọc phụng rồi giặt giũ và vá quần áo cho ta để làm gì?

Chàng cứ trằn trọc trong bóng tối, hai mắt mở thao láo, không sao ngủ được.

Chương 08: Phong ba hiểm ác chốn giang hồ

Đột nhiên ở cửa điện có ánh lửa lập lòe, Lưu Hạc Chân một tay cầm que củi, tựa vào vai vợ, từ từ đi vào hậu điện, nói:

– Hay là nằm ở chỗ này chợp mắt một lúc cũng được.

Lão nói rồi đi về phía bệ thờ, có vẻ muốn nằm lên đống rơm mà Viên Tử Y vừa nằm lúc nãy.

Hồ Phỉ hãy còn trẻ tính, vội nói:

– Lưu lão gia! Lão gia leo lên leo xuống bất tiện lắm, cứ nằm dưới đất ngủ ngon giấc hơn. Tại hạ xin nhường chỗ nằm cho lão gia đó.

Chàng nói rồi, tay cầm bọc, sải bước về phía bệ thờ leo lên, giành trước đống rơm đó, Lưu Hạc Chân cảm tạ, nói:

– Tiểu ca thật là tốt bụng!

Hồ Phỉ nằm trong đống rơm còn ngửi thấy mùi hương u nùng thoang thoảng. Không hiểu mùi hương đó là do chàng tưởng tượng hay là của Viên Tử Y còn lưu lại. Lòng chàng vừa mừng lại vừa giận, bất giác đưa tay vuốt ve con ngọc phụng.

Hồ Phỉ chợp mắt bỗng nghe Lưu Hạc Chân khẽ hỏi:

– Trọng Bình! Vị tiểu ca này là người thật tử tế. Vợ chồng mình nên báo đáp y cho phải đạo.

Thiếu phụ tên Trọng Bình đó đáp:

– Phải rồi! Nếu y không hết sức che giấu cho thì vợ chồng chúng ta đã thành hai cái thây ma trong tòa cổ miếu này rồi.

Lưu Hạc Chân thở dài nói:

– Vừa rồi quả thật cùng cực nguy hiểm. Ba anh em Chung thị nếu như muốn làm khó dễ vị tiểu ca này thì dù ta có phải liều cái mạng già này mà cứu được y, ta cũng chẳng quản.

Trọng Bình đáp:

– Dĩ nhiên là thế. Người ta đem tấm lòng nghĩa hiệp đối đãi mình, mình cũng phải đáp lại bằng tấm lòng nghĩa hiệp. Vị tiểu ca này tuy không hiểu võ nghệ, nhưng lòng dạ còn quảng đại hơn rất nhiều bọn hào kiệt giang hồ.

Lưu Hạc Chân bảo vợ:

– Nói khẽ chứ để cho y ngủ.

Tiếp theo lão gọi khẽ mấy tiếng:

– Tiểu ca! Tiểu ca!

Hồ Phỉ chưa ngủ, nhưng nghe hai vợ chồng lão tán dương mình hết lời thì đoán là lão muốn ngỏ lời tạ ơn, chàng liền giả vờ ngủ say không đáp.

Trọng Bình nói:

– Y ngủ say rồi!

Lưu Hạc Chân “ừ” một tiếng. Sau một lúc lão khẽ hỏi vợ:

– Trọng Bình! Lúc nãy ta bảo nàng trốn đi một mình, sao nàng không đi?

Giọng nói đầy vẻ trách móc. Trọng Bình buồn rầu đáp:

– Hỡi ơi! Lão gia bị thương trầm trọng thế này có lý nào thiếp bỏ mặc không chiếu cố?

Lưu Hạc Chân nói:

– Sau khi bà nhà ta mất rồi, ta cứ nghĩ mình sẽ lênh đênh cơ khổ trên cõi đời, đâu ngờ được sẽ có nàng chiếu cố đến ta bằng cả tấm lòng ân ái. Làm sao ta với nàng có thể chia tay nhau được? Nhưng nàng có biết phong thơ này quan trọng thế nào không? Nếu chẳng được đến tay Kim Diện Phật Miêu đại hiệp thì không biết còn có bao nhiêu anh hùng hào kiệt phải chết oan uổng.

Hồ Phỉ nghe đến sáu chữ “Kim Diện Phật Miêu đại hiệp” thì trong lòng run lên, suýt nữa bật tiếng la. Chàng biết Miêu Nhân Phụng có mối liên quan trọng đại với phụ thân chàng hồi sinh tiền. Theo lời đồn đại trên giang hồ thì phụ thân chàng chết về tay y, nhưng mỗi khi hỏi đến Bình Tứ thúc, là người nuôi chàng từ nhỏ cho đến khi khôn lớn, thì lão nói vụ này không có gì chính xác. Hiện giờ chàng còn nhỏ tuổi, sau này chàng nhất định điều tra cho rõ ngọn ngành.

Năm trước, Hồ Phỉ đã có cơ duyên gặp Miêu Nhân Phụng một lần ở Thương gia bảo nhưng vẫn nhớ y thần oai lẫm liệt. Khi đó chàng còn là đứa trẻ nít mà đối với y đã đem lòng khâm phục. Cho tới bây giờ, ngoại trừ Miêu Nhân Phụng và Triệu Bán Sơn, những nhân vật chàng gặp đều làm chàng chán nản. Triệu Bán Sơn cùng chàng kết nghĩa đệ huynh, còn Miêu Nhân Phụng chưa từng nói với chàng một câu, thậm chí chưa từng nhìn chàng một lần, nhưng mỗi khi nghĩ đến người này, chàng cho rằng làm người phải nên như vậy mới xứng đáng là anh hùng hào kiệt. Lại nghe Trọng Bình lên tiếng:

– Thôi, im đi! Vụ này muôn phần cơ mật. Ở chỗ vắng người, ta cũng không nên nói ra.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Phải rồi! Chúng ta bôn tẩu phen này là vì vô số anh hùng nghĩa sĩ, tuyệt không có một chút tư tâm. Hoàng thiên mà linh thiêng nhất định phù hộ cho chúng ta thành công.

Mấy câu nói này nghĩa khí lẫm liệt khiến Hồ Phỉ ngấm ngầm nảy lòng khâm phục. Chàng nghĩ bụng:

– Đây là một việc nghĩa hiệp. Không cần biết Miêu Nhân Phụng là ân nhân hay thù nghịch với ta, ta nhất định giúp cho Lưu Hạc Chân đưa thơ này đến nơi.

Hai vợ chồng nói tới đấy rồi im tiếng. Sau một lúc lâu, Hồ Phỉ đã mơ màng ngủ, chàng vừa chợp mắt lại bỗng nghe mặt bắc có tiếng vó ngựa vang lên. Ba anh em Chung thị đi rồi quay trở lại. Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ bụng:

– Ba người này trở lại miếu lần thứ hai thì phen này e rằng Lưu Hạc Chân khó lòng trốn tránh. Chi bằng ta cứ ra ngoài miếu đánh bọn chúng trước. Dù ta không địch nổi họ thì vợ chồng họ Lưu cũng có thể thừa cơ chạy trốn để đem thơ đi.

Chàng liền đeo gói bạc lên vai, rón rén leo khỏi bệ thờ tiến ra cửa miếu, đi về phía ba anh em họ Chung đang cưỡi ngựa để chặn lại. Lúc này mưa đã tạnh, mặt đường ngập nước cao cả thước. Hồ Phỉ lội nước mà đi, chỉ trong khoảnh khắc chàng đã lờ mờ thấy ba con ngựa nối đuôi nhau chạy tới. Hồ Phỉ đứng lại giữa đường lớn tiếng quát:

– Đường núi này do ta mở ra, những cây này do ta trồng nên. Muốn đi qua đường này, hãy nộp tiền mãi lộ.

Chung lão tam đi đầu, sửng sốt quát lớn:

– Tên tiểu tặc kia ở đâu chui ra vậy?

Gã cầm roi ngựa xông về phía Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đột nhiên vươn tay trái ra chụp lấy cương ngựa kéo mạnh một cái. Con ngựa đang lao rất nhanh thế nặng không dưới đến tám, chín trăm cân, vậy mà Hồ Phỉ kéo giật dây cương một cái nó lập tức lùi lại mấy bước. Chàng đã sử tuyệt kỹ tá lực, nương theo đà lui của con ngựa đẩy mạnh một cái rồi nhấc lên, con ngựa cao lớn té huỵch xuống đất. May mà Chung lão tam nhanh trí vội nhảy xuống trước ở bên đường.

Diễn biến này khiến cho ba anh em họ Chung đều cực kỳ kinh hãi. Chung lão đại và Chung lão nhị đồng thời xuống ngựa. Cả ba người trong tay đều cầm một món binh khí hình dạng rất kỳ dị.

Lúc này, trời đã bình minh. Trước khi trời sáng tỏ phải một lúc u ám. Tuy trận mưa lớn đã tạnh nhưng mây đen đầy trời chưa tan hết. Dù Hồ Phỉ giương mắt lên nhìn nhưng chưa rõ khí giới trong tay ba người là thứ gì. Bỗng nghe một tiếng người cất lên ồm ồm:

– Chung thị huynh đệ ở Ngạc Bắc đi qua quý địa, chưa kịp đến cửa bái phỏng, quả là thất lễ. Xin các hạ cho biết tôn tính đại danh.

Ba người nghe khẩu âm Hồ Phỉ còn non nớt biết chàng chưa lớn tuổi nên chẳng coi ra gì, nhưng khi thấy chàng kéo dây cương đẩy ra một cái khiến con ngựa khỏe phải ngã lăn xuống đất mới biết công lực chàng không phải tầm thường, chúng liền thay đổi sắc mặt. Lão đại là Chung Triệu Anh hỏi họ tên, lời lẽ đầy vẻ lễ kính. Hồ Phỉ tuy tính hay đùa giỡn và đa trí nhưng vốn không phải là kẻ khinh bạc, nên thấy đối phương ăn nói khách khí, liền đáp:

– Tại hạ họ Hồ, quên chưa thỉnh giáo đại hiệu của ba vị.

Chung Triệu Anh nghĩ bụng:

– Chung thị tam hùng nổi danh khắp thiên hạ, người võ lâm còn ai không biết. Gã đã nghe mấy chữ “Chung thị huynh đệ ở Ngạc Bắc” mà còn hỏi danh hiệu đủ tỏ kiến thức gã nông cạn lắm.

Hắn đáp:

– Tại hạ Chung Triệu Anh, nhị đệ là Triệu Văn, tam đệ là Triệu Năng. Anh em tại hạ có việc gấp xin Hồ đại ca nhường lối. Hồ đại ca đã khai sơn lập trại ở đây, thì lúc anh em tại hạ trở về nhất định sẽ đến nơi chân thành bái tạ.

Hắn nói rồi chắp tay thi lễ. Chúng Triệu Anh là nhân vật nổi tiếng giang hồ mà đối với hậu bối lại ăn nói tỏ vẻ khiêm cung như vậy, quả thực cực kỳ hiếm có. Chỉ vì hắn thấy Hồ Phỉ hiển lộ công phu rất đỗi thâm hậu, biết là khó lòng đánh bại huống chi chưa chắc chàng chỉ có một người, nếu còn thầy còn bạn ở bên cạnh lại càng thêm rắc rối. Hồ Phỉ cũng chắp tay đáp lễ hỏi:

– Chung lão sư thật quá đa lễ. Phải chăng ba vị đi kiếm vợ chồng Lưu Hạc Chân?

Lúc này trời đã dần sáng. Ba người nhận ra người đứng trước mặt chính là gã thiếu niên quê mùa vừa gặp ở trong miếu Tương Phi. Ba anh em họ Chung nhìn nhau nghĩ bụng:

– Lúc nãy mình nhận lầm người rồi. Té ra tên tiểu tử này cùng một phe với Lưu Hạc Chân.

Trong ánh bình minh, Hồ Phỉ cũng nhìn rõ những binh khí hình thủ kỳ quái trong tay ba anh em họ Chung. Chung Triệu Anh cầm thiết bài dài chừng hơn một thước, trên mặt thấp thoáng thấy có khắc chữ. Chung Triệu Văn cầm cây Khốc tang bổng. Binh khí của Chung Triệu Năng càng lạ nữa, nó là một cành Chiêu hồn phướn cắm trên linh tòa của người chết. Cây phướn phất phơ bay trong gió sớm, trông càng kỳ bí khôn lường. Tướng mạo ba người đã cực kỳ xấu xa, phục sức cũng quái dị mà khí giới đều hung hiểm, chưa cần động thủ đã khiến người ta mất cả hồn vía. Hồ Phỉ chỉ sợ bọn chúng đột nhiên sinh sự, chàng lại không hiểu ba món binh khí này lợi hại ra sao nên để hết tinh thần phòng bị không dám lơ đãng. Chung Triệu Anh hỏi:

– Giữa các hạ và Lưu Hạc Chân lão sư xưng hô thế nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Bữa nay tại hạ mới gặp Lưu lão sư là lần thứ hai chứ chẳng có liên quan chi hết. Nhưng thấy ba vị bức bách họ thái quá nên phải thay mặt lão mà năn nỉ giùm. Người ta thường nói: “Nếu ngừng tay được nên ngừng gấp, có thể tha người nên tha ngay”. Vợ chồng Lưu lão đã bị thương, ba vị khoan dung cho mấy phần có được chăng?

Chung Triệu Anh trong lòng nóng nảy nghĩ thầm:

– Mình đã mất bao nhiêu thì giờ ở đây mà còn chần chờ nữa thì vợ chồng Lưu Hạc Chân tất thừa cơ tẩu thoát.

Hắn liền đưa mắt ra hiệu cho đại ca, đồng thời từ từ cất bước toan đi vòng qua Hồ Phỉ. Hồ Phỉ giơ hai tay ra nói:

– Giữa ba vị và Lưu lão sư có điều chi xích mích, tại hạ tuyệt không hay biết. Nhưng Lưu lão sư cũng đang có công việc gấp rút, xin ba vị tạm thời đợi sau khi Lưu lão sư xong việc rồi sẽ tìm lão trả oán nên chăng? Đến lúc đó thì tại hạ không dám can thiệp, dĩ nhiên là không dám mạo muội cản đường.

Chung Triệu Văn tức giận đáp:

– Bọn ta không để lão làm việc đó, rốt cuộc các hạ có nhường lối hay không?

Hồ Phỉ nhớ tới lời đối đáp giữa vợ chồng Lưu Hạc Chân thì bức thư kia liên quan đến tính mạng của vô số nhân nghĩa sĩ, lại thấy Chung thị huynh đệ tướng mạo hung dữ, hiển nhiên bình sinh làm ác đã nhiều. Nếu bữa nay không động thủ thì vụ này khó lòng kết liễu. Chàng liền cười ha hả đáp:

– Muốn nhường lối cũng không sao, chỉ cần ba vị đưa ba trăm lạng bạc tiền mãi lộ.

Chung Triệu Văn cả giận vung cây Khốc tang bổng tiến lên toan động thủ. Không ngờ Chung Triệu Anh đưa tay trái lên cản lại, nói:

– Nhị đệ hãy khoan!

Hắn thò tay vào bọc lấy bốn đĩnh bạc nói:

– Chỗ này có ba trăm lạng bạc dư. Xin các hạ thu lấy.

Chung Triệu Văn lại la lên:

– Đại ca! Đại ca làm cái gì thế?

Hắn nghĩ đến Chung thị tam hùng tung hoành đất Kinh Sở mà đối với một gã hậu bối sao lại tỏ ra khiếp nhược đến thế? Nhưng Chung Triệu Anh biết không nhanh tay ngăn chặn Lưu Hạc Chân thì không được, vì hành sự thì có lúc nhẹ nhàng, có lúc trầm trọng, có khi thư thả, có khi gấp gáp. Hơn nữa Hỏ Phi chỉ là một thiếu niên vô danh, ba anh em có hợp sức đánh thắng cũng chẳng hay ho gì, nếu còn giằng co thì hỏng việc lớn. Do đó, khi hắn nghe chàng đòi tiền mãi lộ liền cầm hơn ba trăm lạng bạc đưa ngay. Việc này nằm ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ. Chàng cười hì hì lắc đầu, không đưa tay lấy bạc mà nói:

– Đa tạ! Đa tạ! Chúng lão sư nói bốn đĩnh bạc này có dư ba trăm lạng, nhưng vãn bối chỉ định giá mỗi vị một trăm lạng, ba vị là ba trăm lạng. Nếu lấy nhiều là quá bất công. Bây giờ đành thế này vậy. Chúng ta đến thị trấn trước mặt, tìm cửa hàng đổi tiền, nhờ chưởng quỹ cân lại. Vãn bối chỉ lấy đúng ba trăm lạng, không dám lấy thêm một phân một hào…

Chung thị tam hùng nghe tới đây, lông mày đều dựng đứng cả lên. Chung Triệu Anh bỏ bạc vào bọc rồi nói:

– Nhị đệ! Tam đệ! Hai vị hãy đi trước.

Rồi quay lại phía Hồ Phỉ, quát lớn:

– Lấy khi giới ra. Tại hạ xin lĩnh giáo mấy cao chiêu của lão đệ.

Hồ Phỉ thấy hắn thần định khí nhàn, đúng là một tay kình địch mà đơn đao của chàng bị Viên Tử Y đoạt mất. Bây giờ tay không tấc sắt đấu với ba người e rằng khó bề thủ thắng. Chàng nghĩ tới Viên Tử Y lại thấy mát ruột, nhưng rồi lại tức tối, nghĩ thầm:

– Nếu nàng không lấy binh khí của ta thì bây giờ ta đâu đến nỗi lâm vào cảnh hiểm nghèo.

Chàng thấy Chung Triệu Văn và Chung Triệu Anh đi vòng qua hai bên mà không biết làm sao để ngăn trở. Chàng chợt nảy ra một ý, đột nhiên lạng người đi hai bước, hữu quyền vung lên, đấm “binh” một cái vào mũi con ngựa của Chung Triệu Anh. Thoi quyền này rất trầm trọng và chính là một sát chiêu cực kỳ lợi hại trong “Hồ gia quyền”. Con hoàng mã lập tức bị vỡ óc, ngã lăn xuống đất, không nhúc nhích nữa. Nó đã chết rồi. Thủ pháp ra tay trước để chiếm lấy tiên cơ này khiến cho Chung thị tam hùng đều thộn mặt ra. Hồ Phỉ tiện tay chụp lấy cái yên ngựa khẽ giật một cái, bao nhiêu dây buộc đều đứt hết. Chàng buộc yên ngựa vào trước ngực, mỗi tay đều cầm mỗi cái bàn đạp nói:

– Xin đắc tội! Chỉ vì tại hạ không đem theo bính khí nên phải mượn tạm cái yên ngựa và bàn đạp này.

Dứt lời tay trái chàng cầm bàn đạp vung lên nhằm đánh vào mặt Chung Triệu Văn, tay phải cầm bàn đạp đánh tới hông Chung Triệu Năng. Hai bàn đạp đồng thời đưa ra ngăn cản lối đi của hai người. Chung thị tam hùng vừa sợ vừa giận. Nguyên trước đây ba anh em nhà này vẫn sử phán quan bút, nhưng tám năm trước chúng bị bại về tay Miêu Nhân Phụng gây nên mối đại nhục. Từ đó chúng bỏ không dùng phán quan bút mà mỗi người luyện lấy một thứ binh khí quái dị. Tám năm ròng khổ luyện, võ công chúng tiến bộ rất nhiều. Chúng muốn đi kiếm Miêu Nhân Phụng để quyết một trận thư hùng, không ngờ ở nơi quê mùa hẻo lánh này chúng lại bị một gã thiếu niên vô danh làm nhục.

Chung Triệu Anh hú lên một tiếng. Chung Triệu Văn và Chung Triệu Năng cũng hú theo. Tiếng hú nghe như tiếng gió rú thê lương, thổi hơi lạnh ào ạt. Hồ Phỉ cũng ngấm ngầm kinh hãi. Cả ba người vung Thiết lịnh bài, Khốc tang bổng và Chiêu hồn phướn chia ra ba mặt tấn công. Hồ Phỉ dùng yên làm tấm thuẫn để che ngực, hai tay múa hai cái bàn đạp sắt tựa hồ cặp lưu tinh chùy, vậy là vừa công vừa thủ.

Hồ Phỉ tuy tinh thông về đao pháp và quyền cước, song còn kém Viên Tử Y ở chỗ chưa tinh thông võ công các phái, lại chưa luyện qua công phu sử dụng Lưu tinh chùy. Chàng chỉ ỷ vào tâm cơ minh mẫn, thủ pháp mau lẹ, căn cơ võ học hơn người một bậc để đối phó. Tuy người ta nói rằng: “Nhất pháp thông, vạn pháp thông”, hễ thông suốt được một pháp là thông suốt cả vạn pháp, một cành trúc hoặc một cây gỗ trong tay cao thủ võ học đều có thể biến thành binh khí để chế địch hộ thân, nhưng Chung thị tam hùng đều là hảo thủ hạng nhất, về công lực bản thân mà nói người nào cũng cao hơn Hồ Phỉ. May mà chàng không hiểu chiêu thuật của Lưu tinh chùy mới cùng ba người trao đổi hai, ba chục chiêu vẫn chưa thất bại.

Nguyên Chung thị tam hùng là những người kiến văn quảng bác, chúng thấy Hồ Phỉ lấy hai cái bàn đạp để làm Lưu tỉinh chùy liền để ý tìm ra gia số võ công của đối phương. Chúng lại thấy Hồ Phỉ tay mặt cầm bàn đạp quét ngang, liền nghĩ ngay đây là chùy chiêu “Bạch hồng quán nhật” trong Lưu tinh chùy pháp của Trương gia ở Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông. Chúng yên trí cái bàn đạp nơi tay trái chàng cứ thuận đà quét ngang. Ngờ đâu Hồ Phỉ thấy cây Khốc tang bổng của Chung Triệu Văn từ dưới vung lên, đỉnh đầu hắn sơ hở liền vung bàn đạp đánh xuống đầu đối phương. Chung thị tam hùng trong lòng lấy làm lạ tự hỏi:

– Đây là gia số gì vậy?

Hồ Phỉ thấy Chung Triệu Văn giơ bổng lên gạt, cái bàn đạp bên tay mặt chàng liền quét tới Chung Triệu Năng. Chung thị tam hùng lẩm nhẩm gật đầu, nghĩ bụng:

– Phải rồi! Té ra gã là môn hạ Chữ Thập chùy ở Diên Châu, tỉnh Giáp Tây. Nửa dưới chiêu của “Dương mi thổ khí”, tất dùng cả hai bàn đạp đánh tới trước ngực.

Ba người đã thấy chàng kéo ngựa rồi đánh ngựa, tý lực cực kỳ mạnh mẽ. Nếu để song chùy đánh trúng ngực thì nguy đến tính mạng. Ba người liền đưa binh khí lên che ngực, vận kình lực ra cánh tay để đón đỡ chiêu này. Dè đâu Hồ Phỉ chẳng hề biết “Dương mi thổ khí” là chiêu số gì cả, chàng thấy ba người đưa binh khí lên che ngực, liền quét ngang cặp bàn đạp đánh xuống hạ bàn ba người. Chung thị huynh đệ giật nảy mình lên tự hỏi:

– Sao gã lại biết sử dụng chiêu “Phiên thiên phúc địa”?

Chung Triệu Năng vừa ra chiêu đỡ vừa lớn tiếng hỏi:

– Này! Lưu tinh hãn nguyệt Đồng lão sư ở phủ Thái Nguyên là thế nào với ngươi?

Nguyên Đồng lão sư ở phủ Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây giới sử dụng song chùy, ngoại hiệu là “Lưu tinh hãn nguyệt”, có mối thâm giao với Chung thị tam hùng. Chiêu “Thiên phiên địa phúc” là một tuyệt kỹ đơn truyền đối với bọn họ, các nhà khác sử dụng Lưu tinh chùy đều không biết chiêu này. Hồ Phỉ đánh bừa không ngờ lại phảng phất giống như chiêu “Thiên phiên địa phúc”. Chàng nghe Chung Triệu Năng hỏi vậy liền cười đáp:

– Đồng lão sư là sư đệ của tại hạ.

Đoạn chàng vung hai cái bàn đánh thẳng tới. Chúng Triệu Năng phì một tiếng, rồi thóa mạ:

– Thằng lỏi này nói nhăng nói càn!

Ba người thấy Hồ Phỉ dùng đôi bàn đạp phóng ra những chiêu xuất quỷ nhập thần, không có cách nào đoán được gia số võ công cùng sư thừa của chàng, đều lấy làm lạ quái, nghĩ thầm trong bụng:

– Mấy chục năm nay, anh em mình rong ruổi khăp thiên ha, có nhà nào, phái nào sử dụng Lưu tinh chùy mà chưa từng thấy qua. Chắc thằng lỏi thuộc về tà môn.

Xưa nay khi động thủ tỷ võ, nếu dò ra được gia số võ công của đối phương là có thể tranh được tiên cơ, dễ dàng chiếm thế thượng phong. Nhưng Chung thị tam hùng phỏng đoán mấy lần đều sai trật không khỏi rối loạn tâm thần, và những chiêu số đang sử dụng bỗng nhiên mất cả tác dụng. Nguyên nhân là bởi Hồ Phỉ dùng thần quyền đánh chết ngựa khiến ba người đem lòng úy kỵ, nếu không thì bọn chúng bất tất phải nhận định gia số cùng môn phái của chàng, cứ việc xông vào thi triển tuyệt chiêu thì Hồ Phỉ đã thua lâu rồi.

Sau khi trao đổi hai chục chiêu. Chung thị tam hùng nhận ra chiêu số của Hồ Phỉ tuy kỳ dị, nhưng uy lực chẳng có chi đáng kể, chúng liền thi triển tuyệt kỹ đã khổ luyện tám năm để dùng ba món binh khí quái dị là Thiết linh bài, Khốc Tang bổng, Chiêu hồn phướn tấn công tới tấp. Tấm linh bài của Chung Triệu Anh bằng thép đúc đi toàn những đường cương ngạnh, mãnh liệt. Bây giờ Hồ Phỉ mới nhìn rõ bốn chữ “Nhất kiến sinh tài” trên tấm linh bài. Chung Triệu Năng sử Chiêu hồn phướn phát huy toàn nhu công. Cây phướn giống như vải mà không phải là vải, giống như da mà chẳng phải là da. Bàn đạp đánh vào chẳng ăn thua gì nhưng nếu bị cây phướn phất trúng thì chắc là khó chịu lắm. Chung Triệu Văn sử cây Khốc tang bổng tựa hồ ở vào khoảng giữa cương và nhu, chiêu số lại càng phức tạp, pha tạp giữa tiên pháp và giản pháp.

Binh khí của Chung thị tam hùng khác nhau, ba cán bình khí lại được sử dụng như ba cây phán quan bút cương nhu hỗ trợ cho nhau. Hồ Phỉ thầm kêu khổ trong bụng, chàng biết nếu còn tiếp tục chiến đấu thì chỉ trong khoảnh khắc là phải thất bại. Đột nhiên chàng thu hai tay về đặt ở phía sau yên ngựa rồi đẩy mạnh ra. Phát đẩy này luồng lực đạo rất mạnh. Nghe “vù” một tiếng, yên ngựa bắn vọt ra khiến Chung thị tam hùng phải nhảy lên né tránh. Chúng không hiểu chàng lại sắp sử dụng quái chiêu gì.

Hồ Phỉ lớn tiếng hô:

– Tại hạ vốn chỉ vì hảo tâm mà khuyên can các vị, chứ tuyệt không có ý động thủ nên chẳng đem binh khí chi hết. Cái tấm yên ngựa này thì làm sao chống nổi ba vị anh hùng đương thế? Bữa nay kể như Hồ Phỉ nhận thua là xong.

Dứt lời chàng tránh sang bên đường để nhường lối. Chung thị tam hùng biết rõ chàng nói khích, nhưng trong lòng có việc gấp không muốn giằng co nữa. Chung Triệu Năng lên tiếng đáp:

– Hay lắm! Lần sau đại hiệp lấy binh khí quen dùng, bọn tại hạ sẽ lãnh giáo mấy cao chiêu.

Dứt lời hắn cất bước toan đi. Hồ Phỉ vừa cười vừa nói:

– Lần sau, lần sau, cái hẹn lần sau quả là hay! Té ra Chung thị tam hùng chỉ là những nhân vật đến thế mà thôi.

Chung Triệu Văn tức giận hỏi:

– Đến thế là làm sao? Ngươi không đem binh khí lại còn trách ai nữa?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ có một giải pháp tuyệt diệu, chỉ sợ các vị không đám tỷ thí với tại hạ.

Chung thị tam hùng thấy chàng nói khích lần nữa không thể nhịn được, liền đồng thanh giục:

– Các hạ cứ việc vạch đường ra đi!

Chung Triệu Anh nói tiếp:

– Hai vị huynh đệ của tại hạ ở lại lãnh giáo. Tại hạ xin cáo từ.

Hắn nói rồi tung mình vọt đi. Hồ Phỉ cũng tung người, hai tay ở trên không giang ra cản đường. Chung Triệu Anh không ngờ thân pháp chàng mau lẹ đến thế, liền vung cây thiết bài đánh vào trước mặt chàng. Công phu quyền cước của Hồ Phỉ còn cao hơn hắn nhiều. Chàng không né tránh mà khi chân chạm đất đã xoay tay phải chụp vào cổ tay hắn vặn một cái. Suýt nữa tấm thiết bài của hắn đã bị chàng đoạt mất.

Triệu Văn, Triệu Năng đều giật mình kinh hãi chia hai bên tả hữu đánh tới để giải nguy cho huynh trưởng. Hồ Phỉ nổi tràng cười rộ, nhảy lùi lại hơn một trượng. Tiện tay chàng bẻ một cành thông bên đường, miệng hô:

– Ba vị có dám tỷ thí đao pháp với tại hạ không?

Vừa rồi Chung Triệu Anh tuy chưa bị chàng đoạt mất thiết bài nhưng cổ tay bị chụp hãy còn ngấm ngầm đau, trong lòng lại tăng thêm mấy phần nghi ngờ úy kỵ. Hắn nghĩ:

– Gã thiếu niên này không phải là hạng người tầm thường. Nếu mình đuổi theo Lưu Hạc Chân để nhị đệ và tam đệ ở lại đây cũng không yên tâm. Thôi thì ba anh em ta cứ hợp lực thu thập xong gã này đã. Dù có bị lỡ việc cũng đành vậy.

Chung Tiệu Văn thấy Hồ Phỉ tay cầm một cành thông dài bốn thước, không hiểu chàng giở trò gì, bèn đưa mắt nhìn đại ca để hỏi ý. Chung Triệu Anh nén giận đáp:

– Các hạ muốn tỷ đao pháp, đáng tiếc là bọn tại hạ cũng không mang đơn đao theo. Nếu có cũng xin bồi tiếp.

Hồ Phỉ nói:

– Chúng ta vốn không quen biết, lại chẳng có thâm cừu đại hận gì, nên khi tỷ thí chỉ cần điểm tới là ngưng, ba vị thấy có được không?

Chung Triệu Anh đáp:

– Đúng vậy!

Hồ Phỉ lấy tay hái bỏ những cành lá trên cành thông, chỉ còn lại một khúc lớn trơ trụi, rồi nói:

– Cành thông này cũng coi như thanh đao. Mời ba vị cùng tiến lên. Chúng ta nên giao hẹn với nhau trước. Cành thông này đâm trúng chỗ nào cũng coi như đã bị cương đao chém trúng. Lời nói của ba vị Chung thị tam hùng không biết có đáng tin không?

Chung Triệu Văn thấy chàng khoác lác lại càng tức mình, lớn tiếng:

– Chung thị tam hùng ở Ngạc Bắc nổi danh là những nhân vật chính nghĩa khắp chốn giang hồ, khi tiểu huynh đệ còn chưa ra đời kia!

Hồ Phỉ nói:

– Thế thì hay lắm! Coi đao đây!

Chàng vung cành thông quét ngang đánh “véo” một tiếng. Chung Triệu Văn ở phía sau tiến lên vung cây bổng phản kích. Hồ Phỉ nhảy nghiêng người né tránh, cành thông đã chém vào cổ Chung Triệu Năng. Chung Triệu Năng xoay ngược cây phướn đập vào cành thông. Đồng thời Chung Triệu Anh cũng vung thiết bài đánh tới. Hồ gia đao pháp quả thật tinh diệu tuyệt luân. Chung thị tam hùng tuy võ công cao cường nhưng Hồ Phỉ dùng cành thông làm thanh đao tấn công, tung hoành giữa ba người. Chàng cầm cành thông nhỏ chém ngang bổ dọc, đâm trên quét dưới hiển lộ uy lực vô cùng.

Chung thị tam hùng càng đấu càng đưa ra những chiêu kỳ diệu. Nhưng Hồ Phỉ quyết không để cành thông nhỏ bé đụng vào ba thứ binh khí quái dị kia nên chiêu nào cũng lợi dụng sơ hở của đối phương để đánh vào nơi yếu hại. Chung thị tam hùng dù bị cành thông đánh trúng cũng chẳng sao, nhưng đã có lời giao ước nên quyết không để nó chạm vào người. Chung Triệu Văn nổi nóng quét ngang cây bổng đập mạnh vào xương đùi Hồ Phỉ. Ba anh em họ Chung chiêu nào cũng tiếp ứng với nhau, chỉ chờ Hồ Phỉ nhảy lên né tránh là Chung Triệu Năng vung Chiêu hồn phướn đánh vào đầu còn Chung Triệu Anh đưa thiết bài đánh bên hông trái. Ngờ đâu Hồ Phỉ không nhảy lên mà tiến lên một bước rồi đập cành thông trúng vào vai trái của Chung Triệu Văn.

Chiêu này cực kỳ lợi hại. Nếu đó là thanh cương đao thì lập tức Chung Triệu Văn phải đã đứt một cánh tay trái, còn cành thông đánh trúng dĩ nhiên không có gì đáng kể. Nhưng Chung Triệu Văn cũng tái mặt la lên:

– Hỏng rỏi! Hỏng rồi!

Hắn liệng cây Khốc tang bổng xuống đất, buông tay lùi lại. Chung Triệu Anh và Chung Triệu Năng trong lòng run sợ, cây Thiết bài, Chiêu hồn phướn thi triển những sát chiêu đánh rát hơn. Họ chỉ mong đập trúng Hồ Phỉ một phát là ngừng tay, xem như hòa. Nhưng sau mấy chiêu Chung Triệu Anh bị cành thông quét trúng cổ, Chung Triệu Năng bị vạch một đường vào chân phải. Hai người nhìn nhau, nét mặt thê thảm, rồi cùng quăng bình khí đi. Đột nhiên Chung Triệu Anh ọe một tiếng, miệng hộc ra một đống máu tươi.

Hồ Phỉ thấy bọn chúng tuân giữ lời ước, chàng nghĩ thầm:

– Ba anh em họ Chung tuy là người hung ác nhưng biết thủ tín, đã nói là giữ lời.

Chàng không đả thương Chung Triệu Anh mà hắn bị lửa giận công tâm đến thổ máu tươi nên trong lòng cảm thấy ấy náy, bèn chắp tay toan nói vài lời xin lỗi.

Chung Triệu Anh hừ một tiếng đáp:

– Võ công các hạ quả thật kinh nhân. Bội phục! Bội phục! Có điều đáng tiếc là các hạ còn nhỏ tuổi, bản lãnh như vậy mà không đi vào chính đạo thật phí cho một thân mang tuyệt kỹ.

Hồ Phỉ ngạc nhiên hỏi:

– Tại hạ có gì mà không đi theo chính đạo cơ chứ?

Chung Triệu Văn tức giận đáp:

– Tam đệ! Còn nói với y làm chi?

Rồi chúng đỡ Chung Triệu Anh lên ngựa dắt đi ngay. Ba món bình khí cổ quái bỏ cả lại trong vũng nước, chẳng thấy ai quay lại lấy. Hồ Phỉ thấy ba người cắm đầu đi thẳng một hơi không hề ngoảnh lại, trên mặt đất chỉ còn lại một xác ngựa và ba món binh khí, chàng không khỏi xúc cảm, nhìn theo một lát rồi quay lại cổ miếu. Chàng tiến vào trong miếu, kiếm cả điện trước lẫn điện sau không thấy bóng vợ chồng Lưu Hạc Chân đâu cả thì biết là hai người đã thừa cơ bỏ trốn xa rồi. Chàng cảm thấy mình vừa làm nên hảo sự trong lòng lấy làm đắc ý, Hồ Phỉ tự nhủ:

– Không hiểu Miêu Nhân Phụng ở đâu? Tuy người này mang ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” nhưng võ công không hiểu đến trình độ nào?

Chàng nghĩ tới giữa nhân vật này và tiên phụ có mối liên quan trọng đại. Ngày trước, tại Thương gia bảo chàng đã gặp một lần, hai trang đầu trong cuốn “Quyền kinh đao phổ” của chàng cũng nhờ vào uy phong của y mới lấy lại được từ tay Diêm Cơ. Lúc này thời gian cấp bách, chàng không biết có nên theo dõi vợ chồng Lưu Hạc Chân hay không? Còn Phụng Thiên Nam tuy đã trốn chạy nhưng chắc chưa đi xa, thù này mà không báo thì sao đáng mặt trượng phu? Trong lúc nhất thời, chàng không biết phải làm việc gì cho đúng. Chàng cúi đầu ngẫm nghĩ rồi quay lại đường cũ. Chàng đến chỗ vừa động thủ với ba anh em họ Chung thì không thấy ba món bình khí cổ quái đâu nữa, chỉ còn xác ngựa nằm dài trên mặt đất.

Chàng rất lấy làm lạ tự hỏi:

– Ta vừa đi vừa về chỉ trong khoảnh khắc mà bây giờ trời hãy còn sớm, không hiểu có người qua đường nào đã thuận tay nhặt lấy, hay là chưa có người qua lại. Chẳng lẽ ba anh em họ Chung đi rồi còn quay trở lui?

Chàng đi quanh bốn phía dò xét không thấy có gì khác lạ. Chàng quan sát lần nữa bỗng nhận ra trên cành cây lớn cách chỗ tỷ đấu chừng ba chục trượng có vết chân dính bùn. Vết chân cao cách mặt đất chừng một trượng ba thước, in vào chỗ cành cây không hướng ra đường, nếu không quan sát cẩn thận thì không thể nào phát hiện được. Vết chân dính bùn hãy còn ướt, chứng tỏ lưu lại chưa lâu. Vết chân đi giày nhỏ bé, hiển nhiên là giày đàn bà.

Hồ Phỉ động tâm tự hỏi:

– Chẳng lẽ lại là nàng? Lúc ta tỷ đấu với Chung thị tam hùng, nàng ẩn mình trên ngọn cây để theo dõi chăng?

Nghĩ tới đây chàng thấy trống ngục đập bình bình, liền tung mình lên vịn một cành cây, lộn mình trèo lên. Quả nhiên trên một cành đâm ngang, chàng lại nhìn thấy hai dấu chân phụ nữ hãy còn ướt. Bên cạnh cành cây nằm ngang này còn có hai cành như bị đạp gãy, vết gãy hãy còn rất mới.

Hồ Phỉ cảm thấy nghi hoặc, nghĩ thầm :

– Nếu là Viên cô nương thì khinh công rất cao, quyết không thể đạp gãy hai cành này.

Chàng trèo cao hơn lại thấy trên một cành nằm ngang khác có hai vết chân đàn ông. Mối nghi ngờ trong lòng liền được sáng tỏ, nhưng không khỏi cảm thấy thất vọng. Chàng lẩm bẩm:

– Té ra hai vợ chồng Lưu Hạc Chân đã nấp ở đây.

Lòng chàng lại nẩy ra nhiều điều nghi vấn:

– Hai người này đều bị trọng thương thì làm sao lên ẩn trên cây cao được mà không hề bị ta phát giác? Chung thị tam hùng đi rồi sao vợ chồng lão không gọi ta?

Trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, chàng bụng bảo dạ:

– À, phải rồi! Vợ chồng lão tưởng ta không hiểu võ nghệ rồi đột nhiên thấy ta đả bại Chung thị tam hùng nên sinh lòng ngờ vực, sợ ta gây điều bất lợi cho họ nên không dám lộ diện. Trên chốn giang hồ đầy sóng gió hiểm ác, các bậc tiền bối thường để tâm đề phòng mọi chỗ. Huống chi họ đang có việc gấp, khi nào dám lơ đãng?

Nghĩ đến đó, chàng thấy lòng nhẹ nhõm. Chàng thấy dấu chân bùn trong đám cỏ đi về phía đông bắc, liền động tính hiếu kỳ lần theo dấu chân đuổi theo. Trời mưa lớn suốt đêm, đường đất chỗ nào cũng bùn lầy, dấu bàn chân một nam một nữ hiện lên rất rõ, việc theo dõi chẳng tốn công sức gì. Hồ Phỉ thấy thủy chung vết chân đều tránh đường lớn, cứ lần theo những bụi nhỏ quanh co mà đi. Chàng đi chừng hơn một giờ thì đến một thị trấn nhỏ. Bên ngoài thị trấn, dấu chân loạn xạ không nhận được rõ. Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Hai người nhịn đói một đêm, bây giờ rất cần ăn uống. E rằng họ chỉ mua bánh bao ăn lót dạ rồi xuyên qua thị trấn mà đi. Như vậy không dễ gì mà truy tìm được.

Hồ Phỉ vào thị trấn mua một một cái áo tơi và một cái nón lá. Chàng khoác áo đội nón che sụp nửa mặt và dò chừng mấy phạn điếm cùng những hàng lừa ngựa. Chàng quan sát mấy nhà mà chẳng thấy dấu vết vợ chồng Lưu Hạc Chân đâu. Thị trấn này nhỏ bé, chớp mắt đã đi tới cuối phố. Chàng toan quay lại mua cơm ăn thì đột nhiên nghe tiếng một phụ nữ cất lên:

– Đại tẩu có kim chỉ xin cho tiểu muội mượn một chút.

Thanh âm chính thị của vợ Lưu Hạc Chân. Hồ Phỉ cúi đầu rồi liếc mắt nhìn qua dưới vành nón, thấy câu nói từ một căn nhà dân thường vọng ra, liền nghĩ bụng:

– Vợ chồng lão sợ địch nhân lần theo hành tung nên không dám vào khách điếm nghỉ chân. Họ đề phòng nghiêm mật như vậy, e rằng ngoài ba anh em họ Chung còn có những kẻ đối đầu khác lợi hại hơn đang gây khó dễ. Phóng lao thì phải theo lao, ta cứ ngấm ngầm bảo vệ họ cho bức thư kia được đến tay Miêu đại hiệp.

Chàng quay lại không tới bảy, tám căn nhà đã thấy có một tiểu khách điếm liền vào đó thuê phòng nghỉ chân, nhưng thủy chung mắt vẫn không rời khỏi căn nhà có vợ chồng Lưu Hạc Chân. Mãi cho đến chiều tối, vợ chồng Lưu Hạc Chân vẫn không lộ diện lần nào.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Các bậc tiền bối làm việc rất thận trọng. Nhất định họ chờ đến trời tối mịt mới khởi hành.

Quả nhiên vào khoảng canh hai, chàng thấy vợ chồng Lưu Hạc Chân rời căn nhà người dân đó và rảo bước ra khỏi thị trấn. Cước bộ họ rất mau lẹ chẳng giống người bị thương chút nào.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Té ra lúc trước vợ chồng lão bị thương là hoàn toàn giả trá, chẳng những lừa được ba anh em họ Chung, mà còn lừa cả ta nữa.

Chàng không dám chần chờ, nhảy qua cửa sổ bám theo sau. Chàng thấy dưới nách Lưu Hạc Chân cắp một cái bọc khá dài, không hiểu trong bọc đựng gì. Khinh công của Hồ Phỉ cao thâm hơn Lưu Hạc Chân rất nhiều. Chàng rón rén theo sau mà hai người tuyệt nhiên không hề phát giác.

Hai người đi chừng năm, sáu dặm thì đến trước một căn nhà nhỏ. Lưu Hạc Chân đánh tay ra hiệu cho vợ nấp vào trong bụi cỏ. Lão tiến lại mấy bước dõng dạc nói:

– Kim Diện Phật Miêu đại hiệp có nhà không? Có bằng hữu từ phương xa đến bái phỏng.

Trong nhà có người hỏi vọng ra:

– Vị bằng hữu nào đó? Xin miễn trách cho Miêu Nhân Phụng mắt kém chưa nhận ra được.

Tiếng nói vang dội, nhưng Hồ Phỉ nghe ra bỗng có cảm giác vừa thê lương vừa đôn hậu. Lưu Hạc Chân đáp:

– Tiểu nhân họ Chung, vâng lệnh của ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu tại Ngạc Bắc có phong thư khẩn yếu đem đến cho Miêu đại hiệp.

Hồ Phỉ lấy làm lạ, tự hỏi:

– Tại sao lá thư này lại là của anh em họ Chung. Vậy thì việc gì họ lại ngăn cản?

Miêu Nhân Phụng nói:

– Xin mời vào!

Trong nhà có ánh đèn thắp lên. Nghe “kẹt” một tiếng, cánh cửa đã mở ra. Hồ Phỉ ẩn ở phía sau gốc cây dẻ, nhìn thấy bóng người cao lêu khêu đứng ở bục cửa, đầu y gần chạm vào đà cửa, tay phải cầm cây đèn. Lưu Hạc Chân chắp tay thi lễ rồi tiến vào trong nhà.

Hồ Phỉ chờ hai người vào nhà rồi mới nhẹ nhàng đi vòng tới bên cửa sổ mé trái dòm vào.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Còn hai vị nữa sao không vào?

Lưu Hạc Chân nghĩ thầm:

– Làm gì còn những hai người?

Miệng lão chỉ ậm ừ cho xuôi chuyện. Hồ Phỉ nghe Miêu Nhân Phụng nói còn hai vị, trong lòng không khỏi kinh hãi nghĩ thầm:

– Miêu Nhân Phụng quả cực kỳ lợi hại. Ta bước chân rất nhẹ mà lão đã sớm biết có cả thảy ba người cùng đến.

Chàng nghĩ đứng đây nhìn trộm thế nào cũng bị phát giác. Còn đang suy nghĩ, bỗng nghe Lưu Hạc Chân hỏi:

– Tám năm trước đây, ba anh em họ Chung đã lãnh giáo những cao chiêu của Miêu đại hiệp, trong lòng vô cùng khâm phục. Hiện giờ họ đã luyện được ba món khí giới đặc biệt nên sai tiểu nhân đem đến cho Miêu đại hiệp coi trước, để khi động thủ Miêu đại hiệp khỏi cho là họ dùng binh khí quái dị để chiếm phần tiện nghi.

Lão nói rồi mở bao, lấy ba món binh khí để trên bàn kêu loảng xoảng. Hồ Phỉ nhận thấy hành động của Lưu Hạc Chân mỗi lúc một khó hiểu. Chàng cúi đầu nhìn qua khe cửa vào bên trong, thì thấy ba món binh khí để trên bàn là tấm Thiết lịnh bài, cây Khốc tang bổng và cành Chiêu hồn phướn. Trên các món binh khí đó hãy còn dính bùn đất loang lổ, chưa kịp lau chùi sạch sẽ. Miêu Nhân Phụng đằng hắng một tiếng, liếc mắt nhìn ba món binh khí không nói gì. Lưu Hạc Chân thò vào bọc, lấy một phong thư, hai tay đưa lên rồi nói:

– Xin Miêu đại hiệp mở ra xem. Tiểu nhân đã đưa thơ tới nơi, giờ xin cáo từ.

Dứt lời lão chắp tay thi lễ lui ra. Miêu Nhân Phụng cầm lá thư, nói:

– Hãy khoan! Sau khi ta coi xong thư còn phiền ông bạn chuyển lời nhắn lại.

Y tưởng đây là một chiến thư liền mở bóc ra coi. Hồ Phỉ nhân lúc Miêu Nhân Phụng coi thư, nhìn kỹ lại dung mạo thì thấy y so với mấy năm trước chàng gặp ở Thương gia bảo dường như già đi rất nhiều, vẻ mặt lại càng tiều tụy. Miêu Nhân Phụng coi thư, cặp mắt dần trợn ngược lên, phát ra những tia sáng cực kỳ phẫn nộ. Hồ Phỉ kinh hãi toan lùi ra thì đột nhiên thấy Miêu Nhân Phụng hai tay cầm lá thơ xé roạt thành hai mảnh. Thơ vừa bị xé rách bỗng thấy trước mặt y xuất hiện một làn khói vàng nhạt.

Miêu Nhân Phụng kêu lên:

– Thôi chết rồi!

Hai tay y dụi mắt, gương mặt lộ vẻ đau đớn. Lưu Hạc Chân nhảy lùi ra sau xa hơn một trượng. Biến cố xảy ra trong khoảnh khắc nhưng Hồ Phỉ đã hiểu rõ:

– Té ra Lưu Hạc Chân giấu thuốc độc trong thơ để làm mù cặp mắt của Miêu đại hiệp.

Chàng quát lên:

– Cẩu tặc đứng lại!

Chàng phi thân nhảy về phía Lưu Hạc Chân. Lão giang chân, cườm tay hạ xuống, rút cây liên tử thương xoay lại đâm một nhát, Hồ Phỉ trong lòng vừa thẹn vừa giận, nghiêng mình né tránh rồi vươn tay ra đoạt lấy cây liên tử thương. Bỗng chàng nghe thấy phía sau có tiếng gió mạnh xô tới rất gấp, một luồng chưởng lực mãnh liệt tuyệt luân đánh vào sau lưng. Hồ Phỉ đánh vung song chưởng phản kích, đón lấy chưởng lực của đối phương. Chàng biết Miêu Nhân Phụng trong lúc nóng giận, chưởng lực phóng ra không phải tầm thường, nên không dám trực tiếp đối chưởng mà sử dụng diệu thuật “Âm dương quyết” trong Thái Cực quyền do Triệu Bán Sơn truyền thụ để mong chế ngự được chưởng lực của đối phương.

Ngờ đâu hai tay chàng vừa đụng phải chưởng lực của Miêu Nhân Phụng liền cảm thấy mắt tối sầm lại, trước ngực cơ hồ nghẹt thở, chàng loạng choạng lùi lại ba bước liền. Chưởng lực của Miêu Nhân Phụng chỉ bị chế ngự một nửa, còn một nửa chàng phải hứng chịu. Chàng vội la lên:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ đến giúp đại hiệp bắt giặc đây mà.

Lưu Hạc Chân thừa cơ hai người đấu chưởng lén chạy trốn. Miêu Nhân Phụng cảm thấy hai mắt đau đớn kịch liệt, chẳng khác gì mấy chục mũi kim đâm vào. Y cùng Hồ Phỉ trao đổi một chiêu cảm thấy võ công chàng rất cao cường, đúng là một tay kình địch thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, nên câu Hồ Phỉ nói “Tại hạ giúp đại hiệp bắt giặc” y không nghe thấy.

Hồ Phỉ nhìn thấy vợ chồng Lưu Hạc Chân chạy về phía tây toan rượt theo bỗng phía trước có ba người chạy nhanh tới. Ba người này đều mặc áo xô quấn khăn tang, không cần nhìn rõ mặt cũng nhận ra Chung thị tam hùng. Hồ Phỉ quay đầu lại thấy Miêu Nhân Phụng hai tay bưng mắt, vẻ mặt cực kỳ đau khổ, muốn đến giúp nhưng lại sợ đột nhiên y phóng chưởng đánh ra.

Chàng vội hô lớn:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ tuy chẳng phải là bằng hữu của đại hiệp nhưng quyết không có ý gia hại. Đại hiệp tin được chăng?

Mấy câu này chàng nói bằng một giọng cực kỳ thành khẩn. Miêu Nhân Phụng tuy chưa nhìn thấy mặt chàng, lại mới bị gian nhân ám toán, cặp mắt đau như dao cắt, nhưng vừa nghe câu nói đó tự nhiên cảm thấy thiếu niên này không phải hạng tồi bại. Thật là anh hùng lại biết anh hùng, mới nửa câu đã ý hiệp tâm đầu. Y nói ngay:

– Tiểu huynh đệ ngăn chặn gian nhân ở ngoài cửa cho ta.

Y không trả lời câu hỏi “Tin được chăng?” của Hồ Phỉ, mà bảo chàng ngăn chặn ngoại địch thì dĩ nhiên coi chàng như bạn thân. Hồ Phỉ trước ngực nóng bừng, cảm thấy câu nói này hào khí ngất trời. Nếu chẳng phải bậc đại anh hùng đại hào kiệt lòng dạ khoát đạt thì quyết không thể thốt ra được. Quả thật là chưa gặp nhau vẫn nghĩ đến nhau, mới gặp lần đầu mà đã như có tình cố cựu. Miêu Nhân Phụng nói một câu đủ khiến cho Hồ Phỉ cam tâm vì y nhảy vào dầu sôi lửa bỏng. Chàng thấy ba anh em họ Chung còn cách cửa nhà chừng hai chục trượng liền cầm cây đèn chạy vào bếp, dùng bầu múc nước trong lu đưa cho Miêu Nhân Phụng nói:

– Đại hiệp rửa mắt lẹ đi!

Miêu Nhân Phụng tuy mắt đau kịch liệt nhưng tâm trí hãy còn rất minh mẫn. Y nghe rõ trên đường lớn trước mặt có ba người chạy tới, mặt sau lại có bốn người đã nhảy lên mái nhà.Y đón lấy bầu nước tiến vào nội phòng, bế đứa con gái nhỏ đang nằm trên giường lên rồi mới cúi đầu xuống rửa mắt. Thứ độc dược này thật là khủng khiếp, dùng nước rửa lại càng đau thấu tâm can.

Đứa con gái y đang ngủ mơ mơ màng màng, cất tiếng hỏi:

– Gia gia! Gia gia chơi với Lan nhi phải không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Ừ! Lan nhi ngoan lắm! Gia gia đang bế Lan nhi đây, Lan nhi đừng mở mắt ra cứ nhắm mắt lại mà ngủ đi nhé.

Con bé hỏi:

– Con sói già không ăn thịt cừu non chứ?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Dĩ nhiên là không ăn. Người đi sắn tới nơi, con sói già liền cúp đuôi chạy mất!

Con bé yên tâm thở phảo một cái, dúi gương mặt bầu bĩnh vào ngực phụ thân mà ngủ. Hồ Phỉ nghe hai cha con đối đáp ban đầu sửng sốt một chút rồi chàng hiểu ngay. Trước khi con bé đi ngủ đã nghe phụ thân kể chuyện cổ tích con sói già muốn ăn thịt con cứu non. Nó đang mơ ngủ chợt sực nhớ lại nên mới hỏi. Lúc này Chung thị tam hùng chỉ còn cách cửa lớn chừng mười trượng, bỗng nghe “vút” hai tiếng, hai người từ trên nóc nhà nhảy xuống sân. Hồ Phỉ đóng cửa lớn lại, kéo cái bàn chặn phía trong để cho ba anh em họ Chung không thể vào nhà ngay được, nhằm khỏi bị tiền hậu giáp công. Tiếp theo chàng phất tay áo quạt tắt ngọn nến. Hai người nhảy xuống sân rồi thấy trong nhà không có lửa sáng chưa dám sấn vào ngay.

Miêu Nhân Phụng khẽ nói:

– Hãy để bọn bốn người tiến cả vào.

Hồ Phỉ đáp:

– Dạ!

Chàng lấy hỏa tập quẹt lửa, châm vào cây đèn cho sáng lên rồi đặt xuống bàn. Bỗng nghe ngoài cửa lớn Chung Triệu Anh cất tiếng hô:

– Ba anh em Chung Triệu Anh, Chung Triệu Văn, và Chung Triệu Năng ở Ngạc Bắc xin bái kiến Miêu đại hiệp để báo việc khẩn cấp.

Miêu Nhân Phụng “hừ” một tiếng chứ chẳng thèm để ý. Hai người trong sân một cầm đao, còn một cầm cây tam tiết côn. Chúng thấy Miêu Nhân Phụng cặp mắt nhắm nghiền không mở ra được, nhưng bị khiếp bởi oai danh “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” nên chưa dám tiến vào nhà. Gã cầm đao nhìn lên nóc nhà vẫy tay một cái, hô:

– Hắn mù mắt rồi:

Hai người trên nóc nhà cả mừng nhảy xuống. Hồ Phỉ nhìn thấy thân thủ hai người rất này rất mau lẹ. So với hai người kia, bản lãnh của chúng còn cao cường hơn nhiều. Chàng liền lạng người đến sau lưng hai gã đó đẩy song chưởng về phía trước, quát lớn:

– Vào đi!

Luồng chưởng lực này cực kỳ cương mãnh, hai người không dám đỡ phải xông tới phía trước mấy bước, xoạc chân bước qua bục cửa, tiến vào nhà khách. Hồ Phỉ đứng ngoài cửa hông khẽ hít một hơi chân khí rồi thở mạnh ra, cây đuốc cao hơn một trượng đột nhiên tắt phụt. Trong nhà khách tối đen như mực.

Bốn người đến tập kích giật nảy mình, chúng sửng sốt một lúc rồi cầm binh khí xông vào đánh Miêu Nhân Phụng. Con bé ngủ trong lòng Miêu Nhân Phụng trở mình hỏi:

– Gia gia! Tiếng gì thế? Con sói già trở lại ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Không phải con sói già, chỉ có bốn con chuột cống.

Bỗng nghe tiếng binh khí rít lên nhằm đầu mình đánh xuống, lại có tiếng loảng xoảng của khóa sắt, y biết đây là những loại võ khí như tam tiết côn, liên tử thương, liền vươn tay chụp lấy đầu cây tam tiết côn rung mạnh một cái. Gã kia “ối” lên một tiếng, cánh tay tê chồn để cây tam tiết côn tuột mất. Miêu Nhân Phụng thuận tay vung ra đánh “chát” một tiếng trúng vào sau lưng hắn. Hắn lập tức ngưng thở ngất đi. Còn hai người sử đao, một người sử thiết tiên lặng lẽ từ ba mặt đánh tới. Con bé hỏi:

– Gia gia! Con chuột có cắn người không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Chuột mò đến toan cắn trộm người, nhưng thấy con mèo già, lũ chuột liền chạy trốn.

Con bé lại hỏi:

– Tiếng gì vang lên thế? Có phải gió bão không? Gia gia! Trời sắp mưa rồi ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Phải rồi! Lát nữa còn có sấm nổ nữa đó!

Con bé hỏi:

– Lôi công Bồ Tát chỉ đánh người tàn ác chứ không đánh người tử tế phải không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Phải rồi! Lôi công Bồ Tát thích những đứa bé gái ngoan ngoãn lắm.

Miêu Nhân Phụng một tay chiết giải ba món binh khí, miệng lại đối đáp với con gái, tựa hồ chẳng coi ba địch nhân vào đâu. Ba người kia ra chiêu tàn độc đều bị Miêu Nhân Phụng đưa tay mặt ra phản kích, hóa giải hết. Hán tử sử đao thứ nhất kinh hãi la lên:

– Gió dữ! Tản ra!

Hắn trở gót toan chạy ra ngoài, vừa tới bên cửa lớn liền bị hồ Phỉ vung chân trái ra quét té nhào xuống đất, tiện tay chàng đoạt lấy đơn đao. Miêu Nhân Phụng nói:

– Con cưng ngoan! Nghe sấm nổ đây này!

Y vung quyền đánh trúng vào hàm dưới hán tử sử thiết tiên đánh “binh” một tiếng, khiến hắn văng qua đầu Hồ Phỉ rớt xuống sân. Còn hán tử sử đao nữa, võ công cao hơn cả bọn, thủ cước rất linh hoạt, Miêu Nhân Phụng đánh liền hai quyền, hắn đều tránh thoát. Miêu Nhân Phụng sợ con gái khiếp sợ liền ngồi xuống ghế không rượt theo.

Bây giờ người kia biết rõ Miêu Nhân Phụng tuy mù mắt nhưng hắn không thể địch nổi. Hắn còn biết người giữ cửa cũng là tay cực kỳ lợi hai. Hắn bị khốn trong căn nhà nhỏ chẳng khác gì ba ba trong rọ, chẳng lẽ bó tay chịu chết? Đột nhiên hắn vung đao chém xuống đầu Miêu Nhân Phụng. Hắn nhân lúc Miêu Nhân Phụng né tránh lạng người tiến vào phòng ngoài bật lửa lên đốt rèm, rồi theo cửa sổ chuồn ra, nhảy lên nóc nhà. Tấm rèm cửa sa cháy rất lẹ, chỉ trong chớp mắt đã um khói cả nhà. Chung Triệu Anh ở ngoài cửa hô lớn:

– Miêu đại hiệp! Ba anh em tại hạ đến đây để tỷ võ nhưng hiện giờ quyết chẳng nhân lúc đại hiệp nguy cấp mà động thủ. Đại hiệp cứ yên lòng.

Chung Triệu Văn thấy ngọn lửa ló ra ngoài cửa sổ liền la hoảng:

– Cháy! Cháy!

Chung Triệu Năng cũng lên tiếng:

– Bọn tặc tử đê hèn như vậy. Đại ca, chúng ta phải mau cứu hỏa đã.

Ba người nhảy lên nóc nhà muốn tìm nước chữa lửa. Hồ Phỉ biết ba anh em họ Chung võ công rất cao thâm, bọn bốn người vừa rồi không thể bì kịp. Miêu Nhân Phụng dù bản lãnh cao cường, nhưng hai mắt không nhìn thấy gì, lại bế đứa nhỏ trong lòng thì khó bề chống đối. Chàng thấy mình nên ra tay tương trợ, liền lớn tiếng quát:

– Bọn gian đồ vô sỉ không được tiến vào!

Con bé la lên:

– Gia gia ơi, nóng quá!

Miêu Nhân Phụng đẩy cái bàn sang bên, vung chân đá ra, hai cánh cửa văng bay đi đến bốn, năm trượng. Y bế đứa nhỏ ra khỏi cửa lớn, rồi quay lên nóc nhà vẫy tay nói với ba anh em họ Chung:

– Xuống đây động thủ được rồi.

Y sợ con gái kinh hãi nên gọi địch nhân cũng cất giọng khe khẽ. Y nghĩ tới tám năm trước cùng Chung thị tam hùng đối địch, trong căn nhà bốc lửa và y cũng bị trọng thương, chỉ khác ở chỗ người bầu bạn với y không phải là con bé mà là một vị cô nương sau làm vợ y. Không phải, vị cô nương kia không bầu bạn với y, mà gặp lúc nguy cấp liền bỏ chạy ra ngoài trước….

Hồ Phỉ thấy thế lửa dữ quá, chỉ trong chớp mắt là thành trận cháy lớn. Chàng tính Miêu Nhân Phụng còn có thể chống cự được một lúc, mà lúc này việc cứu hỏa là khẩn cấp liền ném thanh đơn đao đi và chạy vào bếp thấy ba cái lu đá, lu nào cũng đầy nước. Chàng liền ôm một lu, quát to một tiếng:

– Lên!

Rồi nhấc bổng cái lu nặng bốn, năm trăm cân lên. Tuy chàng lực đã vào hạng nhất lưu cao thủ mà chân bước vẫn lảo đảo. Chàng phải nín hơi vận lực bê lu nước đến phòng ngoài, ném cả lu lẫn nước vào. Ngọn lửa bị lu nước đội lên liền nhỏ đi nhưng chưa tắt. Chàng lại bê lu thứ hai đến trước cửa phòng ngoài, toan vận hết lực ném vào thì đột nhiên nghe sau lưng đánh “véo” một tiếng, liền biết có người tập kích. Nguyên hán tử mới đây bị chàng đá té đã lượm đơn đao nhằm chém xuống sau lưng chàng.

Hồ Phỉ hai tay bê lu nước không cách nào kháng cự, vội xoay chân đá móc về phía sau. Cú đá này rất quái dị. Năm trước Diêm Cơ học được chiêu này mà đã khiến Mã Hành Không, một võ sư nổi danh, cũng khó bề chiết giải. Bây giờ Hồ Phỉ vung chân đá ngược trúng vào bụng dưới hán tử đánh “binh” một tiếng. Cả người lẫn đao hán tử bắn qua đầu Hồ Phỉ rớt xuống lu nước mà chàng đang ôm trong tay. Cái lu đá này chàng ôm vốn đã khó khăn lắm rồi, giờ đây lại tăng thêm năm, sáu chục cân nữa thì sao chịu nổi? Chàng thuận tay đẩy một cái cả lu nước lẫn người bay vào trong đống lửa. Cái lu nước vỡ tan làm cho hán tử khắp mình bị thương. May mà ngọn lửa tắt rồi nên hắn chưa bị nguy đến tính mạng.

Hồ Phỉ thấy lửa tắt, toan lại trợ lực Miêu Nhân Phụng, bỗng nghe sau nhà có tiếng quát tháo, chửi mắng xen lẫn tiếng quyền cước. Có hai kẻ đang đánh nhau kịch liệt. Tiếng quát mắng chính là thanh âm của Lưu Hạc Chân. Lão quát lớn:

– Hảo gian tặc! Ngươi mắc bẫy ta rồi!

Hồ Phi tự hỏi:

– Lão động thủ với ai vậy? Lão chính là kẻ đầu sỏ trong vụ này, phải bắt lão mới được.

Chàng từ cửa sau chạy ra thì thấy hai thanh đao bay lên không. Lưu Hạc Chân cùng một người nữa đang tay không đánh giáp lá cà. Chàng nhìn kỹ lại thì thấy chính là gã vừa phóng hỏa. Hồ Phỉ rất lấy làm quái lạ, nghĩ bụng:

– Những chuyện bữa nay thật khó hiểu. Hai người này rõ ràng là cùng một phe sao lại đánh nhau? Nhưng chúng đều chẳng phải là người tốt.

Chàng liền vọt lên trước thi triển đại cằm nã thủ chụp vào lưng hai người. Vì hai người đang đánh nhau kịch liệt, nên không kịp kháng cự, bằng không với bản lĩnh của họ dễ gì Hồ Phỉ chỉ chộp một cái là đã thành công.

Hồ Phỉ lắng tai nhưng không nghe thấy thanh âm cuộc đấu ngoài cửa lớn nữa. Chàng sợ Miêu Nhân Phụng chẳng nhìn thấy gì tất sẽ bị ba anh em họ Chung hạ độc thủ. Chàng nhìn thấy bên cạnh có cái giếng liền mỗi tay tóm một người, ném cả Lưu Hạc Chân cùng gã hán tử kia xuống đó. Chàng lại chạy vào bếp ôm cái lu thứ ba đè lên miệng giếng, rồi mới chạy quanh căn nhà ra phía cửa trước.

Chàng thấy ba anh em họ Chung đã nhảy xuống đất đứng cách Miêu Nhân Phụng bảy, tám trượng, tay chúng đều cầm một cặp phán quan bút mà không thể vào gần để động thủ. Chàng nói:

– Miêu đại hiệp! Đại hiệp để tại hạ bế em nhỏ cho.

Miêu Nhân Phụng ngẫm nghĩ:

– Ta mù mất rồi, dù có đánh lui được ba anh em họ Chung, nhưng bình sinh do cái ngoại hiệu “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” quá quái ác, khiến ta kết oán với vô số kẻ thù. Tin ta bị mù mắt đồn đại ra ngoài giang hồ, cường địch tới tấp kéo đến thì làm sao chống cự nổi? Xem ra ta khó lòng bảo toàn được tính mạng, chỉ còn lo cho đứa con gái nhỏ mà thôi.

Y lấy tai thay mắt, lắng nghe Hồ Phỉ vừa đánh lui địch vừa dập tắt lửa một cách gọn ghẽ, quả là người trí dũng kiêm toàn. Tuy y chưa từng quen biết nhưng thấy chàng giàu lòng nghĩa khí như vậy, có thể giao con gái được, liền cất tiếng hỏi:

– Tiểu huynh đệ! Tôn tính đại danh là chi? Có liên quan gì với ta chăng?

Hồ Phỉ nghĩ tới tiên phụ không hiểu rốt cuộc có phải chết về tay Miêu Nhân Phụng hay không, nhưng lúc này chưa tiện nhắc tới, liền đáp:

– Bậc đại trượng phụ kết giao, ý khí tương đồng thì chỉ cần lấy tấm lòng đối đãi nhau, hà tất phải nêu tên đọc họ? Miêu đại hiệp mà tin được, thì tại hạ có tan xương nát thịt cũng quyết bảo vệ cho lệnh ái được chu toàn.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Hay lắm! Miêu Nhân Phụng ta độc lai độc vãng, bình sinh chỉ có hai người bạn tri giao. Một là Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao và hai là vị tiểu huynh đệ mà ta chưa biết họ tên cũng không thấy được mặt mũi này đây

Dứt lời y bế đứa nhỏ đưa cho Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đối với Miêu Nhân Phụng một lòng khâm phục, nhưng vẫn e y là kẻ thù giết cha, ân oán hai bên khó bề xử sự. Chàng nghe phụ thân mình là bạn tri giao thuở bình sinh với Miêu Nhân Phụng thì trong dạ mừng thầm, đưa hai tay đón lấy đứa nhỏ. Chàng thấy nó mới bảy, tám tuổi mà rất xinh xắn. Chàng bế con bé trong tay, thấy vừa nhẹ nhàng vừa mềm mại. Dưới ánh sáng lờ mờ, chàng thấy nó đang nhắm mắt ngủ, hơi thở nhè nhẹ, khóe miệng khe khẽ mỉm cười.

Chung thị tam hùng thấy Hồ Phỉ cũng ở đây, lại nghe hai người đối đáp trong lòng đều lấy làm lạ. Miêu Nhân Phụng xé mảnh áo buộc lấy mắt, hai tay chắp để sau lưng, cất giọng trầm khàn nói:

– Loài gian tặc vô sỉ kia! Xông vào cả đi! Con gái ta đang ngủ, các ngươi đừng lớn tiếng làm nó phải thức giấc.

Chung Triệu Anh tiến lên một bước, giận dữ nói:

– Miêu đại hiệp! Ngày trước đồ nhi của bọn ta chết về tay đại hiệp. Anh em ta tìm đến để thanh toán món nợ đó. Vẻ sau mới biết ra gã đồ nhi dòm ngó đồ quý của người khác, hành sự không đoan chính, chết là đáng kiếp. Vụ này bọn ta đa tạ đại hiệp đã giúp bọn ta.

Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng, đáp:

– Ngươi nói nhỏ ta cũng nghe được.

Chung Triệu Anh tức giận lại nói:

– Có điều khi ấy đại hiệp bị thương ở chân, ba anh em ta vẫn không địch nổi, trong lòng bất phục nên tám năm qua đã khổ luyện võ công. Bữa nay lại đến để thỉnh giáo. Dọc đường được biết có gian nhân mưu đồ ám toán đại hiệp, anh em ta bôn ba tới đây để báo cho đại hiệp biết mà đề phòng. Bây giờ gian nhân chạy đi rồi, tứ giáo hay không là tùy ở nơi đại hiệp. Sao đại hiệp buông lời khinh bạc, lại còn buộc hai mắt lại? Phải chăng Chung thị tam hùng là hạng bất tiếu không đáng để đại hiệp mở mắt ra xem? Hay là đại hiệp tự cho mình võ công tinh tuyệt, bịt mắt lại cũng thừa sức đả bại anh em ta?

Miêu Nhân Phụng nghe hắn nói thì dường như vụ mình bị trúng độc mù cả hai mắt, hắn chẳng hay biết, bèn hạ thấp giọng xuống đáp:

– Mắt ta mù rồi!

Chung Triệu Anh cả kinh, cất tiếng run run nói:

– Trời ơi! Nếu vậy thì bọn tại hạ trách lầm Miêu đại hiệp. Anh em tại hạ khổ công rèn luyện bảy, tám năm trời, võ công chẳng lấy gì làm tiến bộ. Việc lãnh giáo thôi hãy bỏ đi không nhắc tới nữa. Đại hiệp có biết một nhân vật ở Vi Đà môn tên là Lưu Hạc Chân không? Vừa rồi trong bọn người bị đại hiệp đánh đuổi không thấy có hắn. Chỉ một hai ngày nữa, hắn sẽ tới đây bái phỏng, mà đại hiệp lại bị mù mắt nên khi hắn đến cần phải đề phòng.

Hồ Phỉ hỏi xen vào:

– Chung đại gia! Vụ Lưu Hạc Chân hạ độc, đại gia không biết thật ư?

Chung Triệu Anh hỏi lại:

– Rốt cuộc ngươi là bạn hay là thù của Miêu đại hiệp? Chúng ta muốn ngăn chặn Lưu Hạc Chân sao ngươi lại cực lực giúp hắn?

Hồ Phỉ đáp:

– Vụ này nói ra càng thêm xấu hổ. Những điều ngoắt ngoéo bên trong tại ha không hề biết rõ. May thay gã Lưu Hạc Chân đã bị tại hạ bắt và đẩy xuống giếng sau nhà. Chúng ta hỏi hắn thì sẽ biết đầu đuôi.

Chàng quay lại hỏi Miêu Nhân Phụng:

– Rốt cuộc ba anh em họ Chung là người tốt hay là kẻ bại hoại?

Chung Triệu Văn lạnh lùng đáp:

– Chúng ta không hành hiệp trượng nghĩa, lại chẳng tế bần trợ cô thì còn là hảo nhân gì nữa?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Chung thị tam hùng tuyệt nhiên không phải là hạng tiểu nhân đê hèn.

Ba anh em họ Chung nghe Miêu Nhân Phụng bình phẩm câu này trong lòng hớn hở. Đúng là một lời khen của kẻ có tài còn hơn là vinh hoa phú quý. Ba gương mặt xấu xí đều lộ vẻ hoan hỷ lẫn cảm kích. Chung Triệu Văn cùng Chung Triệu Năng quành ra sau nhà, khiêng lu nước trên miệng giếng đặt sang một bên, quát lớn:

– Nhảy lên đây!

Bỗng nghe trong giếng có tiếng thở hồng hộc mà là thanh âm hai người. “Binh” một tiếng vang lên, lại “chát” một tiếng xen lẫn tiếng nước động bì bõm. Dường như hai người đang đánh nhau chí mạng. Cái giếng này một người xoay sở còn khó khăn, mà hai người lại đánh đấm nhau thì cảnh tượng thảm hại không cần hình dung cũng đủ biết

Chung Triệu Anh thòng cái thùng xuống, lớn tiếng hô:

– Bám vào miệng thùng để ta lôi các ngươi lên.

Y cảm thấy dây nặng trĩu biết là có người phía dưới nắm lấy, liền vận kình lực thu dây lại. Quả nhiên y kéo lên hai người mình mẩy ướt như chuột lột. Lưu Hạc Chân chân chưa chấm đất đã phóng chưởng đánh người kia. Người kia võ công kém hơn lão, ở trong giếng đã bị ăn đòn lại bị uống nước no, cứ ngầy ngầy ngật ngật Chung Triệu Năng thấy phát chưởng đó có thể đánh chết gã kia liền vươn tay ngăn lại, cầm cặp quán quan bút gí vào sau lưng hai người quát:

– Muốn sống thì đừng động thủ nữa.

Ba anh em họ Chung nắm hai người lôi vào trong nhà. Lúc này Hồ Phỉ đã giao đứa nhỏ lại cho Miêu Nhân Phụng. Chàng thắp đèn lên, rồi cùng Chung Triệu Anh đứng hai bên.

Phòng ngủ bị trận hỏa tai, nước đồ đầy nhà không còn chỗ đứng, Miêu Nhân Phụng đặt con gái xuống giường của mình ở trong sương phòng, lúc quay ra thì ba anh em họ Chung đã bắt Lưu Hạc Chân và người kia đưa tới.

Miêu Nhân Phụng thở dài nói:

– Thanh danh của Vi Đà Song Hạc hai mươi năm trước ta đã nghe nói đến. Hai vị Lưu sư huynh cùng Vạn sư huynh không phải là hạng tồi bại giang hồ.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ mắc lừa kẻ gian, hối hận thì đã không kịp nữa. Mắt đại hiệp bị thương nặng lắm không?

Ba anh em họ Chung cùng “ủa” lên một tiếng. Họ không biết Miêu Nhân Phụng bị thương ở mắt là việc vừa mới xảy ra. Miêu Nhân Phụng không đáp, mà xoay về phía hán tử sử đao nói:

– Phải chăng ngươi là đệ tử của Điền Quy Nông? Võ công của Thiên Long môn ngươi đã học đến bảy thành hỏa hầu rồi.

Gã kia hồn vía lên mây, bèn quỳ mọp xuống dập đầu lia lịa đáp:

– Miêu đại hiệp! Tiểu nhân vâng lệnh người sai khiến chứ không phải tự mình hành động. Xin lão nhân gia rộng lượng dung tha.

Hắn “ọe” hai tiếng, miệng thổ ra đầy nước, Lưu Hạc Chân thóa mạ:

– Gian tặc! Ngươi lừa gạt khiến ta thật đau khổ!

Lão nhảy tới toan động thủ. Chung Triệu Anh giơ tay cản lại hỏi:

– Có điều gì cứ nói tử tế. Đầu đuôi vụ này ra làm sao?

Lưu Hạc Chân cũng là nhân vật nổi danh trong võ lâm, chỉ vì mắc lừa kế kẻ khác, mà khi nổi nóng lên không kiềm chế được. Lão bị Chung Triệu Anh cản liền nghĩ tới mình hành động sai lầm, lại bị người ném xuống giếng, tình trạng vô cùng thảm hại, quả thực bình sinh lão chưa gặp chuyện đại nhục thế này bao giờ. Lão tối sầm mắt lại, ngồi thừ người ra đáp:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi! Miêu đại hiệp! Tại hạ đối với đại hiệp thực sự quá sai…

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Trong một đời người có ai lại không bị kẻ tiểu nhân lừa. Cái đó có chi đáng kể? Chắc Lưu huynh bị kẻ khác lừa gạt đưa thơ cho tại hạ?

Hai mắt trúng độc, hiển nhiên đã mù rồi mà vẫn nói năng ôn hòa, khiến Hồ Phỉ cùng ba anh em họ Chung đều sinh lòng bội phục. Chỉ định lực đó thôi, người khác cũng không thể bì kịp.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Gã này tại hạ mới gặp tại Phong Diệp trang ở Hành Dương. Gã tự xưng danh là Trương Phi Hùng, bảo rằng ngày trước đã chịu ơn của Vạn sư ca nên được tin Vạn sư tạ thế liền đến điếu tang:

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Vạn Hạc Thành lão sư chết rồi ư?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Đúng thế! Tại hạ thấy gã họ Trương này nói năng thành khẩn mà gã lại có ý muốn kết thân với tại hạ nên không nghi ngờ gì cả. Bọn tại hạ kết bạn đi ngược về mạn bắc. Dọc đường gã thấy Chung thị tam hùng liền tỏ vẻ khiếp sợ. Tối hôm ấy, tại hạ cùng gã ngủ chung một phòng trong khách điếm nghe gã nằm mơ nói những gì là nếu phong thư này mà không đưa được tới nơi thì bao nhiêu nhân sĩ hào kiệt sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Tại hạ tưởng việc này mình không thể tự thủ bàng quan liền hỏi dò thì gã nói: “Lưu lão sư! Tại hạ thấy lão sư làm khó dễ bọn thị vệ ở Thanh cung, đúng là bậc anh hùng hào kiệt, nên vụ này không cẩn phải giấu giếm lão sư”. Rồi gã lấy một phong thử ra nói là cần đưa đến tay Kim Diện Phật Miêu đại hiệp để xin đại hiệp ra tay cứu giúp, không thì mấy chục nghĩa sĩ sẽ bị Thanh đình giết chết.

Miêu Nhân Phụng vẫn ngồi im, không nói gì. Lão ngừng lại một chút rồi kể tiếp:

– Gã gian tặc họ Trương còn nói Chung thị tam hùng có mối thù với Miêu đại hiệp, nhất định sẽ tìm cách cản trở, mà gã không phải là đối thủ của Chung thị tam hùng nên xin tại hạ giúp cho một tay. Tại hạ nhận thấy có nghĩa vụ phải giúp đỡ gã liền nhận lời ngay. Nhưng dọc đường cùng Chung thị tam hùng giao thủ, lão già ta không địch nổi. Sau đó nội nhân Vương Trọng Bình đến tương trợ, nhưng vẫn không địch lại. Sự việc quả khéo xếp đặt, tại hạ đến Tương Phi miếu lại gặp tiểu huynh đệ đây. Ngày ở Phong Diệp trang tại hạ đã được y giúp đỡ. Sau lại thấy y hiển lộ thân thủ, võ công quả thật cao thâm. Thế rồi vợ chồng tại hạ giả vờ bị thương, sắp đặt mưu kế nhờ chàng cản trở Chung thị tam hùng. Quả nhiên vị tiểu huynh đệ đây mắc lừa tại hạ, còn tại hạ lại mắc lừa gian tặc.

Lão nói rồi hai mắt trợn ngược, chòm râu rung động, tỏ ra cực kỳ phẫn nộ.

Hồ Phỉ nghĩ lại những điều đã qua, thầm nhủ:

– Những lời lão này nói không có vẻ dối trá. Té ra những chuyện rắc rối giữa ta và Viên Tử Y phần lớn đã bị lão nhìn thấy.

Chàng nghĩ tới đây, thấy trước ngực nóng lên, chợt liếc thấy ba món binh khí để trên bàn, chàng hỏi:

– Lưu lão sư lượm binh khí của Chung thị tam hùng đến đây làm chi?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Chung thị tam hùng đến đây tầm cừu, vị tất Miêu đại hiệp đã biết. Tại hạ muốn báo trước tin cho đại hiệp biết để mà đề phòng. Đưa binh khí tới trước là để thủ tín. Còn như tại hạ nói là thư này của anh em họ Chung đưa tới là cốt để cho huynh đệ nghe tiếng. Tại hạ biết tiểu huynh đệ vẫn bám sát theo sau, sợ tiểu huynh đệ có hành động bất lợi cho tại hạ. Tại hạ nói vậy khiến trong lòng tiểu huynh đệ đâm ra nghi hoặc, không biết đâu mà lần, do đó sẽ không động thủ với tạ hạ nữa. Còn Miêu đại hiệp coi thư sẽ hiểu đầu đuôi, ngờ đâu…ngờ đâu…

Lão nói tới đây khí tức xông lên cổ khiến lão nghẹn cả lời. Chung Triệu Anh nói:

– Anh em tại hạ vô tình nghe được gian mưu của họ Trương, lại thấy Lưu lão sư cứ cùng gã giấu giấu giếm giếm, liền đoán là hai người đến ám toán Miêu đại hiệp, nên bọn tại hạ hết sức ngăn cản. Không ngờ, trung gian còn nhiều điều ngoắt ngoéo. Miêu đại hiệp! Mắt đại hiệp bị thương ra làm sao?

Miêu Nhân Phụng không trả lời, giơ bàn tay to tướng như cái quạt lá bồ vẫy mấy cái, rồi nói:

– Việc đã qua rồi, không nên nhắc lại.

Hồ Phỉ đảo mắt nhìn quanh, muốn kiếm lá thư mà Miêu Nhân Phụng đã xé ra thì thấy hai mảnh giấy còn rớt trong góc nhà, một mảnh đã bị thấm nước. Chàng sợ trên hai mảnh giấy có chất kịch độc nên không dám lại gần, mà chỉ phóng tầm mắt nhìn lại, thấy trên giấy chỉ lèo tèo có ba hàng chữ, chữ nào cũng lớn bằng hạt đào. Chàng đọc thấy trong lá thư ghi như sau.

“Nhân Phụng lão huynh! Lệnh ái tư chất cao quý mà lão huynh là kẻ võ phu, ở với nhau thật không hợp. Việc dạy dỗ lệnh ái ắt sẽ có chỗ sai sót. Nay sai người đến đón về để tiểu đệ nuôi dạy mới phải. Đệ là Điền Quy Nông đốn thủ”

Chàng đoán là Miêu Nhân Phụng quý con gái hơn cả tính mạng. Điền Quy Nông đã dụ dỗ vợ y tư bôn, bây giờ lại muốn mang con gái y đi nữa, làm sao y không tức giận được? Y thuận tay xé phong thư cũng là lẽ tự nhiên. Chất độc được giấu sẵn trong kẽ giáp giấy hoa tiên, khi phong thư bị xé lập tức bay ra, thân thủ có mau lẹ cách mấy cũng không thể tránh kịp. Mưu Kế của Điền Quy Nông có thể nói là cực kỳ thâm độc. Hồ Phỉ nhớ lại tình cảnh của Miêu Nhân Phụng, Miêu phu nhân, Miêu Nhược Lan và Điền Quy Nông bốn người ở Thương gia bảo. Chàng hận là không gặp Điền Quy Nông để cho hắn một đao kết liễu cuộc đời.

Lưu Hạc Chân càng nghĩ càng căm tức, lớn tiếng quát:

– Họ Trương kia! Ngươi vâng lệnh sư mệnh ám toán Miêu đại hiệp, thì sao không tự mình đưa thư lấy, lại còn lừa cả lão Lưu này?

Trương Phi Hùng ấp úng đáp:

– Tiểu nhân sợ… sợ Miêu đại hiệp nhận ra tiểu nhân là đệ tử ở Thiên Long môn, tất nhiên đề phòng… lại khiếp… thần oai của Miêu đại hiệp nữa…

Lưu Hạc Chân hằn học nói:

– Ngươi sợ nếu như mưu gian bại lộ, trốn chạy cũng không kịp. Hảo tiểu tử! Hảo tiểu tử!

Lão quay lại nhìn Miêu Nhân Phụng:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ xin đại hiệp giao thằng lỏi này cho tại hạ!

Miêu Nhân Phụng chậm rãi đáp:

– Lưu lão sư! Hạng tiểu nhân này ta không nên chấp chúng làm chi. Trương Phi Hùng! Ngoài sân còn hai tên đồng bọn của ngươi bị thương khá nặng. Ngươi dẫn chúng đi đi. Hãy về bảo sư phụ với sư mẫu ngươi rằng …

Y suy nghĩ không biết nên nói tiếp câu gì. Sau một lúc, y vẫy tay bảo gã:

– Ta cũng chẳng có gì để nói. Thôi ngươi đi đi!

Trương Phi Hùng đã tưởng mình làm mù mắt Miêu Nhân Phụng thì nhất định tính mệnh khó được bảo toàn, không ngờ y khoan hồng đại lượng không thèm truy cứu, thật là một điều vượt ra ngoài sự tiên liệu của gã. Trong lòng cảm kích, gã liền quỳ xuống, dập đầu binh binh lạy tạ.

Bọn chúng bốn người, định bụng thừa cơ Miêu Nhân Phụng mù mắt xông vào giết y, cướp lấy đứa bé mà chạy. Chẳng ngờ lại gặp Hồ Phỉ, một tay hảo thủ phi thường, can dự vào vụ này khiến độc kế của chúng chỉ mới thành công được bước đầu. Tên bị chàng gạt chân ngã nhào mình đầy thương tích nhân lúc nhốn nháo chạy trốn rồi. Còn hai tên bị Miêu Nhân Phụng dùng cây tam tiết côn và quyền đả thương rất nặng. Một tên đến giờ vẫn chưa hồi tình, một tên rên rỉ luôn mồm, toàn thân không còn chút sức lực nào.

Lưu Hạc Chân nghĩ thầm:

– Chắc là Miêu Nhân Phụng giả vờ tha cho ba người bọn chúng, nhưng không hiểu y dùng độc kế gì để hành hạ bọn này?

Lão từng trải giang hồ thường gặp nhiều người sau khi bắt được địch nhân rồi không giết ngay, mà làm cho chúng đau khổ sống dở chết dở rồi mới từ từ giết. Bỗng thấy Trương Phi Hùng đỡ hai gã sư đệ bị thương dậy, lê bước ra ngoài cổng rồi đi xa dần. Miêu Nhân Phụng thủy chung vẫn không ra tay. Lưu Hạc Chân thấy ba gã kia khuất dần trong bóng tối, lão không nhịn được nữa, bèn lên tiếng:

– Miêu đại hiệp! Gã họ Trương thủ cước rất linh hoạt, để gã đi xa e rằng gã chạy mất!

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Tại hạ đã tha chúng rồi, còn bắt lại làm chi?

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

– Bọn chúng vốn không quen biết tại hạ. Vụ này chỉ do người khác sai khiến chúng mà thôi.

Lưu Hạc Chân vừa kinh ngạc vừa bẽn lẽn, liền đứng thẳng người lên nói:

– Miêu đại hiệp! Lưu Hạc Chân này chưa từng phụ ai, mà bữa nay vì đui mù ngu xuẩn làm hại đại hiệp.

Lão nói xong liền đưa ngón tay trỏ bên trái lên đâm vào mắt mình. Hồ Phỉ vội vươn tay cản lại, nhưng vẫn chậm một bước. Mọi người thấy lão đứng sững giữa phòng, trên mặt có hai dòng máu tươi chảy xuống, dĩ nhiên đôi mắt đã hỏng rồi. Ba anh em họ Chung cả kinh nhất tề đứng dậy.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Lưu lão sư sao lại tự làm khổ mình như vậy? Tại hạ chẳng có ý oán trách gì lão sư cả đâu.

Lưu Hạc Chân cười khanh khách, lão hoa tay một cái rảo bước ra ngoài cửa phòng. Thuận tay lão bẻ một cành cây làm gậy dò đường rồi cất bước đi thẳng. Chỉ một lúc sau, bỗng nghe tiếng phụ nữ thét lên kinh hãi, đó chính là Vương Trọng Bình, vợ lão. Năm người trong nhà đều cảm thấy thê lương, không ngờ Lưu Hạc Chân lại cương liệt đến thế.

Miêu Nhân Phụng chỉ sợ Hồ Phỉ cũng bị ray rứt liền nói:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã nhận lời chiếu cố cho con gái ta, vậy chớ có quên nhé.

Hồ Phỉ hiểu tâm ý, hiên ngang đáp:

– Đã lầm lỗi thì phải tận lực tìm cách cứu vãn bù đắp. Lưu Hạc Chân tự hủy hoại mình, trong lòng cảm thấy yên ổn nhưng hành động đó chẳng có ích gì.

Chung Triệu Anh thở dài nói:

– Đúng thế! Nhưng Lưu lão sư cũng xứng đáng là một hảo hán lừng lẫy.

Năm người ngồi đối diện nhau hồi lâu không nói gì. Sau một lúc, Hồ Phỉ lên tiếng hỏi:

– Miêu đại hiệp! Tròng mắt đại hiệp thế nào rồi? Có nên lấy nước rửa không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Không cần nữa. Chỉ có điều là nó đau đớn vô cùng.

Y đứng lên, quay về phía ba anh em họ Chung nói:

– Ba vị lặn lội đường xa đến đây, mà chẳng có gì đãi khách, thật là khiếm khuyết quá đỗi. Tại hạ cần đi nằm một lúc, xin ba vị miễn trách cho.

Chung Triệu Anh đáp:

– Miêu đại hiệp cứ tùy tiện, bất tất phải khách sáo.

Ba người đánh tay ra hiệu, chia nhau đi canh giữ cửa trước cửa sau vì sợ Điền Quy Nông chưa chịu bỏ qua, hoặc lại phái người khác đến tập kích. Hồ Phỉ tay cầm đèn nến đi theo Miêu Nhân Phụng vào sương phòng. Y nằm xuống giường rồi, chàng lấy chăn đắp cho y. Con bé vẫn ngủ say. Đêm nay trong nhà xảy ra trận huyên náo đến long trời lở đất nó cũng không hề hay biết.

Hồ Phỉ toan quay lui, chợt nghe tiếng bước chân vang lên. Có người đang chạy tới rất gấp. Chung Triệu Anh quát:

– Tên tiểu tử kia! Ngươi còn trở lại nữa ư?

Nghe “choang” một tiếng! Có tiếng binh khí đụng nhau. Giọng nói của Trương Phi Hùng la lên:

– Tiểu nhân có đôi lời muốn nói với Miêu đại hiệp, thực tình chẳng có ý gì đen tối.

Chung Triệu Anh khẽ nói:

– Miêu đại hiệp ngủ rồi. Có chuyện gì hãy để đến sáng mai mà nói.

Trương Phi Hùng nói:

– Hay lắm! Vậy tiểu nhân nói với các hạ cũng được. Miêu đại hiệp đại nhân đại nghĩa tha mạng cho tiểu nhân, câu này chẳng thể không nói ra. Mắt của Miêu đại hiệp trúng phải phấn độc “Đoạn trường thảo” mà gia sư lấy nơi Độc Thủ Dược Vương. Tiểu nhân nghĩ rằng nếu cầu Độc Thủ Dược Vương điều trị may ra khỏi được. Tiểu nhân muốn tự ý đi thỉnh cầu, nhưng nghĩ mình vô danh tiểu tốt không thể làm nổi việc này.

Chung Triệu Năng “ủa” lên một tiếng. Tiếng bước chân lại vang lên, Trương Phi Hùng trở gót đi ngay. Hồ Phỉ nghe nói cả mừng, từ trong phòng chạy ra lớn tiếng hỏi:

– Vị Độc Thủ Dược Vương đó ở đâu?

Chung Triệu Anh đáp:

– Lão ẩn cư ở bờ hồ Động Đình, nhưng… nhưng…

Hồ Phỉ hỏi:

– Nhưng làm sao?

Chung Triệu Anh khẽ đáp:

– Cầu lão quái nhân đó trị bệnh e không phải là chuyện dễ.

Hồ Phỉ nói:

– Hay dở gì chúng ta cũng phải mời cho được lão đến đây. Lão đòi cài gì mình cứ đưa cái đó.

Chung Triệu Anh lắc đầu đáp:

– Khó ở chỗ lão chẳng đòi gì hết.

Hồ Phỉ nói:

– Dùng cách mềm dẻo mà không được thì đành phải cứng rắn vậy.

Chung Triệu Anh trầm ngâm không đáp. Hồ Phỉ nói:

– Việc này không thể chậm trễ được. Tiểu đệ lên đường ngay. Ba vị ở lại đây để bảo vệ cho Miêu đại hiệp, phòng ngừa địch nhân lại đến.

Chàng chạy vào sương phòng, nhìn Miêu Nhân Phụng, nói:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ đi thỉnh y sinh về để chữa mắt cho đại hiệp.

Miêu Nhân Phụng lắc đầu đáp:

– Mời Độc Thủ Dược Vương ư? Đừng đi cho vất vả lại về tay không.

Hồ Phỉ nói:

– Không thể thế được, thế gian chẳng có việc gì khó cả!

Dứt lời chàng xoay mình ra khỏi phòng hỏi:

– Chung đại gia! Vị Độc Thủ Dược Vương đó tên là gì? Có cách nào tìm ra chỗ ở của lão không?

Chung Triệu Văn đáp:

– Hay lắm! Tại hạ cùng đi với huynh đệ! Câu chuyện của lão, trên đường đi Chung mỗ sẽ từ từ nói cho huynh đệ nghe.

Gã quay lại nói với Chung Triệu Anh và Chung Triệu Năng:

– Đại ca, tam đệ ở lại đây canh chừng nhé!

Triệu Anh và Triệu Năng mặt hơi biến sắc, vì cùng có ý lo sợ. Họ đồng thanh nói:

– Đi đường cẩn thận!

Vì việc khẩn cấp, hai người Hồ, Chung liền thi triển khinh công chạy về hướng bắc. Đến khi trời sáng, hai người vào thị trấn mua được hai con ngựa, liền lên ngựa đi ngay.

Chương 09: Độc Thủ Dược Vương

Hai người đều biết mắt Miêu Nhân Phụng đã bị thương tổn trầm trọng. Chỉ nghe ba chữ “Đoạn trường thảo” thôi cũng đủ biết nó là độc dược lợi hại đến độ nào. Đôi mắt lại là nơi phản ánh mọi tình cảm vui buồn, sầu hận của con người. Giá như có mời được danh y mà bị chậm trễ thì cũng vô phương cứu chữa, do đó sớm được khắc nào hay khắc ấy.

Trừ những lúc cho ngựa nghỉ ngơi ăn uống, hai người cứ rong ruổi liên tục, không chút chần chừ. Dọc đường họ cứ ghé mua đồ lót dạ rồi cưỡi ngựa đi ngay, chỉ ngồi trên lưng ngựa ăn qua loa cho đỡ đói. Cứ rong ruổi như thế hai ngày đêm không ngủ. Hai người Hồ, Chung võ công đều cao cường nên vẫn chống chọi được. Giữa đường họ đổi hai con ngựa khác. Nhưng vì đường đi quá dài, hai con ngựa mới thay này cũng không chịu nổi, cước bộ loạng choạng như muốn ngã lăn ra.

Chung Triệu Văn nói:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta hãy để mấy con vật này nghỉ ngơi ăn uống một lúc đi.

Hồ Phỉ đáp:

– Vâng!

Trong lòng chàng lại nghĩ thầm:

– Nếu con ngựa ta cưỡi là con bạch mã của Viên cô nương thì bây giờ đã đến Động Đình hồ rồi.

Nghĩ tới Viên Tử Y, bất giác chàng đưa tay sờ vào bọc, mân mê con ngọc phượng, da tay thì mát lạnh, mà trong lòng lại lâng lâng ấm áp. Hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở gốc cây ven đường để ngựa nghỉ ngơi ăn cỏ. Chung Triệu Văn cứ lặng thinh không nói, người ngơ ngẩn xuất thần, lông mày nhíu lại.

Hồ Phỉ biết chuyến đi này cũng không hy vọng thành công, liền hỏi:

– Chung nhị gia, Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào?

Chung Triệu Văn không đáp, tựa hồ y chưa nghe thấy câu hỏi. Một lúc sau, y chợt giật mình, hỏi lại:

– Tiểu huynh đệ vừa nói gì?

Hồ Phỉ thấy y trong lòng không ổn, biết rằng y đang suy nghĩ về bệnh trạng của Miêu Nhân Phụng, liền nghĩ bụng:

– Người này tuy hình dung cổ quái nhưng lòng đầy nghĩa khí. Trước đã đây y có hiềm khích với Miêu Nhân Phụng, mà bây giờ lại vì Miêu Nhân Phụng chịu khó lặn lội chẳng từ nan.

Nghĩ tới đây, chàng buột miệng nói:

– Chung nhị gia! Hôm trước vãn bối đắc tội, quả thực lấy làm xấu hổ. Nếu mà vãn bối sớm biết ba vị là những nhân vật trượng nghĩa thế này thì dù gan có to bằng trời cũng chẳng dám mạo phạm.

Chung Triệu Văn ngoác miệng ra cười ha hả, nói:

– Cái đó có gì đáng kể đâu? Miêu đại hiệp là bậc hảo hán lẫy lừng, nếu ba anh em ta thấy nguy không cứu thì còn là người nữa sao? Tiểu huynh đệ chẳng lẽ không như vậy hay sao? Anh em ta cùng Miêu đại hiệp tuy không có giao tình, nhưng cũng có một chút nhân duyên. Tại tiểu huynh đệ chưa gặp y đấy thôi.

Kỳ thực cách đây mấy năm, Hồ Phỉ gặp Miêu Nhân Phụng một lần ở Thương gia bảo, có điều lúc ấy chàng chỉ thấy một hán tử mặt vàng cao lêu khêu, nhìn không rõ mặt. Cách đây mười tám năm vào ngày Hồ Phỉ sinh ra đời, Miêu Nhân Phụng, tại một tiểu khách điểm ở Thương Châu tỉnh Hà Bắc, đã từng thấy mặt chàng. Việc ấy Miêu Nhân Phụng biết, còn Hồ Phỉ có thể không biết. Nhưng làm sao Miêu Nhân Phụng biết được rằng đứa bé sơ sinh mười tám năm trước chính là trang thiếu niên anh hùng hôm nay?

Chung Triệu Văn lại hỏi:

– Tiểu huynh đệ vừa hỏi gì ta vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối hỏi Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào?

Chung Triệu Văn lắc đầu nói:

– Ta cũng chẳng biết.

Hồ Phỉ lấy làm lạ hỏi lại:

– Chung nhị gia cũng không biết ư?

Chung Triệu Văn đáp:

– Bạn hữu ta trên chốn giang hồ không ít mà chẳng có ai biết được rốt cuộc Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào.

Hồ Phỉ nghe vậy lòng rầu rĩ, tự nhủ:

– Tên Trương Phi Hùng kia vị tất lại không biết. Mà cũng không đúng, nhất định là gã cũng không biết.

Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng rồi không nói gì nữa. Chung Triệu Văn nói:

– Người ta chỉ biết Độc Thủ Dược Vương ở tại Bạch Mã Tự, bên bờ hồ Động Đình.

Hồ Phỉ hỏi:

– Chùa Bạch Mã ư? Sao y lại ở chùa?

Chung Triệu Văn đáp:

– Không phải, Bạch Mã Tự là tên một thị trấn.

Hồ Phỉ nói:

– Tưởng lão ở ẩn không gặp người ngoài nên mới không có ai biết mặt lão. Chẳng ngờ…

Chung Triệu Văn lắc đầu ngắt lời:

– Không phải! Nhiều người gặp lão rồi. Chính vì nhiều người gặp cho nên không có ai biết lão là nhân vật thế nào. Lão mập hay lão gầy, lão đẹp hay lão xấu, lão họ Trương hay họ Lý cũng chẳng ai hay.

Hồ Phỉ càng nghe càng thấy mơ hồ, bụng bảo dạ:

– Đã có nhiều người gặp sao lại không biết tên họ của lão, cả đến tướng mạo mập ốm hay đẹp xấu cũng không biết nốt?

Chung Triệu Văn nói tiếp:

– Có người bảo Độc Thủ Dược Vương là một thư sinh tướng mạo thanh nhã, thân hình cao mà gầy giống như một vị tú tài. Lại có người nói Độc Thủ Dược Vương mập mà lùn, mặt ngang bè bè coi chẳng khác gì tên đồ tể mổ heo. Lại có người bảo Độc Thủ Dược Vương là một lão hòa thượng gần đến trăm tuổi.

Hắn dừng lại một chút rồi nói tiếp:

– Còn có người nói Dược Vương là một mụ đàn bà chân què, lưng gù.

Hồ Phỉ ngơ ngẩn, muốn cười mà không cười ra tiếng. Chung Triệu Văn lại nói:

– Ngoại hiệu người này đã là Dược Vương thì sao lại là đàn bà được? Nhưng vì người kể lại là một nhân vật nổi danh trên chốn giang hồ, đức cao vọng trọng, xưa nay chưa từng nói dối bao giờ, nên ai nghe cũng đều tin như vậy. Còn những người bảo lão là thư sinh, là đồ tể, là nhà sư đều là những người thật thà thận trọng, cân nhắc từng lời ăn tiếng nói, tiểu huynh đệ nói xem thử có kỳ quái không?

Hồ Phỉ khi rời khỏi Miêu gia trong lòng đầy tin tưởng, rằng chỉ cần kiếm thấy lão, rồi bất cứ bằng cách nào cũng mời cho bằng được lão về trị thương hay ít ra cũng xin được thuốc giải. Bây giờ chàng nghe Chung Triệu Văn nói vậy, bất giác lòng như chìm xuống. Con người đã chẳng ai biết rõ thì kiếm làm sao được? Chàng chợt nghĩ ra một điều, bèn nói:

– Phải rồi! Nhất định lão này rất giỏi về thuật dị dung, khi giả trai gái, lúc xấu lúc đẹp, khiến không ai nhận được bộ mặt thật của lão.

Chung Triệu Văn nói:

– Bạn hữu trên khắp giang hồ cũng đều nói vậy. Chắc vì lão là tay dùng độc thiên hạ vô song, hại người đã lắm, gây oán lại nhiều, nên lão phải giấu mặt để người ta không có cách nào tìm ra được lão mà báo thù. Nhưng lạ một điều là lão ở trấn Bạch Mã Tự bên bờ hồ Động Đình không phải là nơi xa xôi hẻo lánh, thì không hiểu sao việc tìm nhà lão lại khó khăn đến vậy?

Hồ Phỉ hỏi:

– Lão đã dùng độc làm hại chết không ít người rồi phải không?

Chung Triệu Văn nét mặt ngơ ngẩn xuất thần, đáp:

– Cái đó không biết đâu mà tính được. Có điều những người chết về tay lão phần lớn là đáng lắm, nếu chẳng phải hạng phi tặc đại đạo tàn ác thì cũng là loại thổ hào ác bá cậy thế hoành hành. Chưa từng nghe có người hiệp nghĩa nào lại chết về tay lão cả. Có điều tên tuổi lão quá lừng lẫy nên có những người trúng độc mà chết lại mong độc tính phát tác mãnh liệt để chết cho lẹ. Những vụ đó đều đổ lên đầu lão, chứ thực ra quá nửa chưa hẳn đã chết về tay lão. Có lúc hai người một ở nam, một ở bắc cách nhau cả ngàn đặm đều đồng thời trúng độc mà chết. Người ở Vân Nam thì bảo rằng Độc Thủ Dược Vương đã đến Vân Nam, còn kẻ ở Liêu Đông lại bảo Độc Thủ Dược Vương xuất hiện tại Liêu Đông. Cái kiểu tán dương như vậy khiến lão đã kỳ dị lại càng thêm dị kỳ. Gần đây không ai nói đến bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” nữa, dè đâu vụ Miêu đại hiệp trúng độc lại có liên quan đến lão. Hừ nếu đúng người này đã ra tay thì e rằng… e rằng.

Chung Triệu Văn nói tới đây bỗng dừng lại, lắc đầu không ngớt. Hồ Phỉ cảm thấy vụ này quả thật cực kỳ nan giải, không biết làm thế nào cho phải.

Chung Triệu Văn đứng lên nói:

– Chúng ta đi thôi! Tiểu huynh đệ! Huynh đệ nên nhớ một điều là khi đến Bạch Mã Tự, trong phạm vi cách Dược Vương trang chừng ba chục dặm chớ có uống một hớp nước hay ăn một thứ gì. Dù đói dù khát đến đâu cũng không thể cho một vật gì vào miệng.

Hồ Phỉ nghe hắn nói bằng một giọng trịnh trọng dĩ nhiên phải vâng lời. Chàng nhớ lại lúc y theo chàng rời khỏi Miêu gia, Chung Triệu Anh và Chung Triệu Văn lộ vẻ lo âu sợ hãi thì nghĩ tới tài dùng độc của Độc Thủ Dược Vương quả lợi lại, khiến cho những nhân vật như Chung thị tam hùng đã dám đến khiêu chiến với Đả biến thiên hạ vô địch thủ Miêu Nhân Phụng, mà khi nghe tới tên Độc Thủ Dược Vương cũng phải biến sắc kinh hãi. Vậy mà chàng chưa biết nếp tẻ gì đã coi việc trong thiên hạ quá dễ dàng. Chàng vừa đi dắt ngựa vừa hỏi:

– Chúng ta chẳng qua chỉ đến yêu cầu lão trị bệnh hoặc xin thuốc giải chứ hoàn toàn chẳng có ác ý gì. Lão không chịu đi là cùng, hà tất phải hại mạng chúng ta?

Chung Triệu Văn đáp:

– Tiểu huynh đệ hãy còn ít tuổi chưa hiểu lòng người hiểm trá trên chốn giang hồ. Tuy tiểu huynh đệ không có ác ý với lão, nhưng hai người chưa từng quen biết thì lão tin tiểu huynh đệ thế nào được? Việc trước mắt cũng là bằng chứng. Lưu Hạc Chân đối với Miêu đại hiệp tuyệt không có ác ý mà sao lại làm cho y phải mù mắt?

Hồ Phỉ lặng thinh. Chung Triệu Văn lại nói tiếp:

– Huống chỉ cừu gia của Độc Thủ Dược Vương ở khắp thiên hạ. Thậm chí nhiều vụ chết vì độc dược chẳng liên quan gì đến lão, mà người ta cũng đòi nợ máu. Làm sao lão biết được tiểu huynh đệ chẳng phải là con em hay đệ tử của kẻ thù? Lão bản tính đa nghi ra tay tàn ác, không thì sao trên hai chữ “Dược Vương” còn thêm vào hai chữ “Độc Thủ” làm chi? Ngoại hiệu kinh tâm động phách này chẳng lẽ tự nhiên mà có?

Hồ Phỉ gật đầu đáp:

– Chung nhị gia nói phải lắm.

Chung Triệu Văn nói:

– Nếu tiểu huynh đệ không chê ta bản lãnh kém cỏi thì cứ gọi nhau là huynh đệ, đừng có xưng hô gia này gia nọ nữa, nghe khách sáo quá.

Hồ Phỉ nói:

– Nhị gia là bậc anh hùng tiền bối, còn vãn bối…

Chung Triệu Văn ngắt lời, lớn tiếng:

– Thôi! Thôi! Tiểu huynh đệ! Chẳng giấu gì tiểu huynh đệ, sau khi ba anh em ta động thủ với tiểu huynh đệ đều rất bội phục. Còn nếu như tiểu huynh đệ không muốn làm bạn thì xem như xong.

Hồ Phỉ thấy hắn là người mau lẹ, thẳng thắn liền vừa cười vừa hô:

– Chung nhị ca!

Chung Triệu Văn rất cao hứng, xoay mình nhảy lên lưng ngựa nói:

– Chỉ cần hai con ngựa này đừng chạy vào đường rẽ là chúng ta sẽ tới địa giới Bạch Mã Tự trước khi trời tối. Tiểu huynh đệ ghi nhớ lời ta, chẳng những không được ăn uống mà còn không được sờ vào đầu đũa nữa, đề phòng trên đũa có bôi chất kịch độc, sẽ truyền vào tay mình. Tiểu huynh đệ này, tiểu huynh đệ còn nhỏ tuổi, bản lãnh như vậy mà toàn thân cháy đen biến thành một xác chết cứng đờ, ta thấy có điều đáng tiếc!

Hồ Phỉ biết hắn nói câu này chẳng phải muốn làm ra vẻ quan trọng. Cứ coi việc Miêu Nhân Phụng chỉ xé một lá thư mà hai mắt đã mù, mà bây giờ lại đi vào khu vực của Độc Thủ Dược Vương thì chỗ nào lại chẳng có chất kịch độc? Chàng nghĩ tới Chung Triệu Văn cũng là một nhân vật thành danh trong võ lâm quyết chẳng phải hạng người khiếp nhược. Hắn đã nói thế thì hiển nhiên chuyến đi này vạn phần hung hiểm là đúng sự thật. Hắn đã biết nguy hiểm mà phải vì điều nghĩa đưa chàng đến Bạch Mã Tự, so với chàng chẳng hiểu trời cao đất dày cứ xông bừa xông ẩu lại càng hiếm có.

Đôi ngựa nghỉ một lúc lâu, sức lực phục hồi lại, vào quãng giờ Thân thì chạy tới cửa Lâm Tự. Hai người cho ngựa đi thong thả một đoạn rồi cho chạy nhanh một đoạn đường, chẳng mấy chốc đã đến thị trấn Bạch Mã Tự. Đường phố trong thị trấn này rất chật hẹp, hai người sợ đụng vào khách bộ hành xảy chuyện lôi thôi liền xuống ngựa dắt bộ. Chung Triệu Văn vẻ mặt nghiêm trọng, mắt chẳng trông ngang liếc dọc, còn Hồ Phỉ cứ phóng tầm mắt nhìn các cửa hàng cửa tiệm hai bên phố.

Khi tới cuối đường, Hồ Phỉ nhìn thấy chỗ đầu khúc quanh lộ ra một tiệm bán thuốc bảng đề năm chữ “Tế thế đường lão điếm”. Chàng chợt động tâm, nảy ra một ý, bèn cởi đơn đao ở sau lưng ra để cả vỏ cầm tay, nói:

– Chung nhị ca! Nhị ca cũng đưa phán quan bút cho tiểu đệ.

Chung Triệu Văn không khỏi sửng sốt nghĩ thầm:

– Mình đã bảo vào Bạch Mã Tự nên để ý thận trọng khắp mọi chỗ mới phải, sao gã lại động tới binh khí?

Nhưng hắn nghĩ trong trấn này ắt có nhiều tai mắt của Dược Vương, nên không tiện vặn hỏi, liền rút Phán quan bút ở sau lưng ra đưa cho chàng và khẽ dặn:

– Thận trọng nghe! Chớ có gây sự!

Hồ Phỉ gật đầu, đi tới quầy thuốc, nói:

– Cảm phiền! Bọn tại hạ đến Dược Vương trang bái phỏng trang chủ, không tiện đem theo binh khí, muốn gửi lại quý tiệm, khi trở ra sẽ lấy.

Lão già ngồi phía sau quầy nghe chàng nói, nét mặt lộ vẻ kinh dị, hỏi:

– Hai vị đến Dược Vương trang ư?

Hồ Phỉ không chờ lão ưng chịu hay không, cầm hai món binh khí đặt xuống mặt quầy, chắp tay thi lễ rồi rảo bước ra khỏi thị trấn. Đến chỗ vắng người bên ngoài thị trấn, Chung Triệu Văn chĩa ngón tay cái lên, nói:

– Tiểu huynh đệ! Thủ đoạn này thật khiến cho Chung lão nhị rất khâm phục. Chỉ có tiểu huynh đệ mới nghĩ ra.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Đã quyết tỏ mặt hảo hán thì cũng phải làm chứ biết sao?

Nguyên chàng nghĩ bụng những tiệm thuốc ở thị trấn này tất có liên quan với Dược Vương, chàng đem binh khí gửi vào tiệm thuốc, nhất định người tiệm thuốc báo tin cho Dược Vương, điều đó chứng tỏ mình đến đây tuyệt chẳng có ý gì thù nghịch. Tuy dấn thân vào nơi nguy hiểm với tay không là đã hung hiểm lại càng hung hiểm, nhưng chàng đã cân nhắc nặng nhẹ, một liều ba bảy cũng liều một phen.

Hai người nương theo đường lớn đi về phía bắc, toan kiếm người để hỏi đường tới Dược Vương trang, bỗng thấy ở phía tây có một hòn núi nhỏ, một lão già tay cầm cuốc tựa hồ đang hái thuốc.

Hồ Phỉ thấy lão này tướng mạo tuấn nhã, thân hình cao lại gầy, ra vẻ một thư sinh trung niên, liền động tâm tự hỏi:

– Chẳng lẻ lão này là Độc Thủ Dược Vương?

Chàng liền tiến lên xá dài kính cẩn lớn tiếng hỏi:

– Xin hỏi tướng công lên Dược Vương trang đi đường nào? Hai người bọn tại hạ cần bái kiến trang chủ để thỉnh cầu một việc.

Người kia không để mắt đến Hồ Phỉ và Chung Triệu Văn, cứ chăm chú cuốc cỏ trên núi. Hồ Phỉ hỏi luôn mấy câu, thủy chung lão vẫn không đáp lại tựa hồ người điếc. Hồ Phỉ không dám hỏi nữa. Chung Triệu Văn đưa mắt ra hiệu cho chàng rồi hai người tiếp tục tiến về hướng bắc.

Đi chừng được hơn dặm, Hồ Phỉ khẽ hỏi Chung Triệu Văn:

– Chung nhị ca! Không chừng người đó là Dược Vương. Nhị ca thấy thế nào?

Chung Triệu Văn đáp:

– Ta cũng mấy phần hoài nghi, nhưng còn nhiều điểm không sao khám phá được. Nếu lão không thừa nhận mà bọn ta lại lại nhận ra lão, như vậy là phạm vào điều đại kỵ của lão. Trước mắt chỉ có cách hãy đến Dược Vương trang trước. Chúng ta chỉ nhận đất chứ không nhận người là không có gì đáng ngại.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, chuyển qua mấy khúc quanh bỗng nhìn thấy một vườn hoa lớn cách đại lộ chừng vài chục trượng. Một cô gái quê mùa mặc áo xanh đang khom lưng tưới hoa. Hồ Phỉ thấy sau vườn hoa có ba gian nhà tranh, lại phóng tầm mắt nhìn ra xa thì bốn mặt chẳng có khói lửa chi hết. Chàng liền tiến lên mấy bước nhìn cô gái, chắp tay hỏi:

– Xin hỏi cô nương, muốn lên Dược Vương trang phải đi đường nào?

Cô gái ngẩng đầu lên nhìn Hồ Phỉ. Đôi mắt cô đen láy và sáng ngời, tinh quang chiếu ra bốn phía. Hồ Phỉ sửng sốt tự hỏi:

– Sao đôi mắt cô gái quê mùa này lại sáng ngời một cách lạ thường đến thế?

Chàng thấy trừ đôi mắt ra, tướng mạo cô không lấy gì làm xinh đẹp, nước da đã khô lại vàng ủng sắc mặt xanh xao, tựa hồ quanh năm chẳng được ăn bữa nào no. Mái tóc cô vàng khè mà lơ thơ, hai vai gầy guộc, thân hình bé nhỏ ốm nhom, rõ là một cô thôn nữ bần hàn, từ thuở nhỏ đã thiếu ăn. Coi tướng mạo cô tựa hồ đã đến mười sáu, mười bảy tuổi, mà thân hình chỉ bằng đứa nhỏ mười bốn, mười lăm.

Hồ Phỉ lại hỏi:

– Lên Dược Vương trang không hiểu theo hướng đông bắc hay là đi về ngả tây bắc?

Cô thôn nữ đột nhiên cúi đầu xuống, lạnh lùng đáp:

– Không biết.

Giọng nói nghe rất trong trẻo. Chung Triệu Văn thấy cô vô lễ như vậy, nét mặt sa sầm toan nổi nóng, nhưng lại nghĩ nơi đây cách Dược Vương trang không xa chẳng nên gây sự với bất cứ ai, liền đằng hắng một tiếng, rồi bảo Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta đi thôi. Dược Vương trang là nơi nổi danh ở Bạch Mã Tự lo gì chẳng tìm đến nơi được?

Hồ Phỉ thấy trời chẳng còn sớm sủa gì nữa, nếu lạc đường mà trong đêm tối cứ đi liều lại càng nguy hiểm. Gần đó lại chẳng có nhà nào để hỏi đường, chàng liền hỏi lại cô thôn nữ kia:

– Cô nương ơi! Gia gia má má cô có ở nhà không? Chắc các vị biết đường lên Dược Vương trang?

Cô thôn nữ không lý gì tới chàng, cứ cắm cúi nhặt cỏ. Chung Triệu Văn thúc gót, phóng ngựa chạy về phía trước. Đường đi rất chật hẹp, hai chân bên phải của con ngựa đạp trên đường lộ, còn hai chân bên trái lại đạp vào luống hoa của cô thôn nữ. Chung Triệu Văn tuy chẳng có ác ý, nhưng bản tính thô hào, lại giận cô thôn nữ vô lễ muốn bỏ đi ngay không thèm ngó ngàng tới. Hồ Phỉ thấy luống hoa bên đường bị vó ngựa đạp nát, vội vọt lên trước kéo dây cương ngựa qua mé phải, rồi nói:

– Coi chừng làm nát hoa của người ta.

Con ngựa do chàng dẫn dắt chân bên phải đạp xuống mé phải đường, chân bên trái đạp lên mặt đường. Chung Triệu Văn giục:

– Đi lẹ lên, đừng dềnh dàng ở đây nữa!

Dứt lời hắn giật cương phóng ngựa về phía trước.

Hồ Phỉ côi cút từ thuở nhỏ, thấy cô thôn nữ nghèo khổ, yếu ớt, dù cô chẳng chỉ đường cũng không tức giận, còn có ý lân mẫn. Chàng nghĩ tới cô trồng hoa bán làm kế sinh nhai, sợ để ngựa mình đạp nát hoa, liền đi bộ dắt ngựa qua khu vườn hoa rồi mới lên yên.

Cô thôn nữ nhìn chàng một cái, đột nhiên cất tiếng hỏi:

– Các hạ đến Dược Vương trang làm chi?

Hồ Phỉ dừng ngựa đáp:

– Ông bạn của tại hạ mắt bị trúng độc, bọn tại hạ đến cầu Dược Vương ban cho thuốc giải.

Thôn nữ hỏi:

– Các hạ có quen biết Dược Vương không?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tại hạ chỉ nghe tiếng chứ chưa từng gặp dược lão nhân gia bao giờ.

Có thôn nữ từ từ đứng lên, ngắm nhìn Hồ Phỉ mấy lần rồi hỏi:

– Sao các hạ biết lão chịu cho thuốc giải?

Hồ Phỉ ra chiều khó nghĩ, đáp:

– Vụ này khó nói lắm.

Chàng chợt động tâm nghĩ thầm:

– Cô này ở đây, hoặc giả có thể biết tính tình cùng hành động của Dược Vương.

Chàng liên xuống ngựa xá dài, nói:

– Xin cô nương vui lòng chỉ đường dẫn lối cho.

Bốn chữ “chỉ đường dẫn lối” gồm hai ý nghĩa, có thể hiểu là chỉ đường đến Dược Vương trang, mà cũng có thể hiểu là xin cô dạy phương pháp để cầu thuốc giải. Thôn nữ nhìn Hồ Phỉ từ đầu xuống gót chân, tịnh không đáp lại câu hỏi của chàng, lại chỉ vào đôi thùng gánh phân nói:

– Các hạ lại hố phân múc chừng non nửa thùng, sau đó ra khe suối lấy thêm nước trong gánh cho đầy rồi về đây tưới hoa giùm ta.

Cô nói mấy câu này nằm ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ. Chàng tự hỏi:

– Ta chỉ hỏi đường thì sao thị lại bảo ta đi gánh phân tưới hoa? Đã thế thị còn lên giọng sai khiến coi ta như tôi tớ trong nhà là nghĩa gì?

Chàng tuy bần khổ từ thuở nhỏ, nhưng chưa làm những nghề bẩn thỉu như gánh phân bao giờ. Thôn nữ nói mấy câu rồi lại cúi xuống nhặt cỏ, chẳng thèm đưa mắt nhìn gì đến chàng nữa. Chàng ngơ ngác nhìn căn nhà tranh chẳng thấy ai, liền tự nhủ:

– Cô nương này ốm yếu mà phải gánh hai thùng phân to tướng thì thật là cực nhọc. Ta là nam tử hán, khí lực dồi dào, có gánh phân giúp cô một chuyến thì có gì mà ngại?

Chàng liền buộc ngựa vào gốc liễu, quẩy đôi thùng đến hố phân. Chung Triệu Anh đi một quãng không thấy Hồ Phỉ theo sau quay đầu nhìn lại. Hắn đứng đằng xa thấy chàng vai quẩy đôi thùng phân đến bên khe nước, trong lòng rất lấy làm lạ liền gọi lớn:

– Này, huynh đệ làm gì vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu đệ giúp cô nương đây một chút. Chung nhị ca cứ đi trước, tiểu đệ sẽ lên ngựa theo ngay.

Chung Triệu Văn lắc đầu, nghĩ thầm trong bụng:

– Con người tuổi trẻ thật không hiểu điều khinh trọng. Đã đến đây rồi mà còn la cà vào chuyện không đâu.

Đoạn hắn cho ngựa từ từ cất bước. Hồ Phỉ quảy gánh nước phân về đến vườn hoa, cầm gáo gỗ toan múc phân tưới hoa, bỗng nghe thôn nữ nói:

– Không được! Nước phân này đặc quá, tưới vào chỉ làm cho hoa phải chết khô.

Hồ Phi ngơ ngẩn không biết làm sao. Cô thôn nữ kia nói tiếp:

– Ngươi quay lại hố phân đổ xuống một nửa, rồi lấy thêm vào nửa thùng nước trong mới được.

Hồ Phỉ tuy đã nóng ruột, nhưng nghĩ người tốt đã làm việc gì phải đến nơi đến chốn. Chàng liền hành động theo lời cô thôn nữ đổ bớt phân thêm nước vào, rồi quay lại tưới hoa. Cô thôn nữ dặn:

– Coi chừng đó! Đừng để nước phân dính vào lá và cánh hoa.

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi!

Chàng thấy những bông hoa này màu lam thẫm, hình dạng rất kỳ dị, mỗi bông hoa giống như một chiếc hài, mùi u hương thoang thoảng, chẳng hiểu là hoa gì. Chàng bèn thận trọng múc nước phân tưới vào gốc cây cho kỳ hết cả hai thùng mới thôi. Cô thôn nữ lại nói:

– Này! Quảy thêm một gánh nữa đi.

Hồ Phỉ đứng thẳng người lên, cất giọng ôn tồn nói:

– Ông bạn tại hạ đang nóng lòng chờ đợi. Đợi khi tại hạ tìm đến Dược Vương trang trở về, lại giúp cô nương tưới hoa được chăng?

Thôn nữ đáp:

– Ngươi cứ ở đây tưới hoa hay hơn. Ta thấy ngươi làm được mới bảo ngươi gánh phân.

Hồ Phỉ nghe cô ăn nói kỳ quái, bụng nghĩ cứ còn chần chừ khắc nào là mất thời gian khắc ấy, bèn hối hả đi gánh nước phân tưới hết vườn hoa. Lúc này bóng tịch dương đã chìm sau núi, ánh kim quang phản chiếu lên một đóa hoa màu lam thật lớn trông rất rực rỡ, đẹp mắt. Hồ Phỉ không kiềm được liền buộc miệng xuýt xoa:

– Vườn hoa thật là đẹp?

Sau khi gánh phân tưới nước, chàng bỗng nảy sinh tình cảm với mấy luống hoa, nên tán dương băng giọng rất chân thành. Thôn nữ toan lên tiếng thì Chung Triệu Văn cưỡi ngựa quay về, gọi lớn:

– Huynh đệ! Đến bây giờ mà huynh đệ còn chưa chịu đi ư?

Hồ Phỉ đáp:

– Vâng, tiểu đệ đi ngay đây, đi ngay đây.

Chàng liếc mắt nhìn thôn nữ, mục quan lộ vẻ khẩn cầu. Thôn nữ sa sầm nét mặt, hỏi:

– Té ra ngươi tưới hoa giúp ta là cốt để ta chỉ đường cho có phải không?

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Quả tình mình muốn xin cô ta chỉ đường, nhưng việc giúp cô tưới hoa chỉ thuần là vì thương cô gầy yếu. Bây giờ mình mở miệng yêu cầu chẳng hóa ra có ý thi ân để mua chuộc.

Chàng sực nhớ lại ngày bắt hai gã Thiết Yết Tử và Tiểu Chúc Dung đến giao cho Viên Tử Y, nàng từng bảo:

– Cái đó gọi là thi ân cầu báo, chỉ có loại người cực kỳ bại hoại mới làm vậy.

Nghĩ đến đó, chàng bỗng cảm thấy trong lòng lâng lâng êm dịu, liền mỉm cười nói:

– Những bông hoa này đẹp thật!

Rồi chàng đến bên gốc liễu, cởi dây cương, tung mình lên ngựa. Cô thôn nữ nói:

– Hãy khoan!

Hồ Phỉ quay lại, sợ cô còn lằng nhằng, trong dạ rất bồn chồn. Cô thôn nữ kia ngắt hai đóa hoa lam ném cho chàng, nói:

– Ngươi khen hoa đẹp thì ta tặng ngươi hai đóa.

Hồ Phỉ giơ tay đón lấy, miệng đáp:

– Đa tạ cô nương!

Rồi thuận tay bỏ vào bọc. Cô thôn nữ hỏi:

– Hắn họ Chung, ngươi họ gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ họ Hồ.

Cô thôn nữ gật đầu nói:

– Các ngươi muốn đến Dược Vương trang thì nên đi theo ngả đông bắc là hơn.

Chung Triệu Văn đã đi theo ngả tây bắc, chờ lâu không thấy trong lòng nóng nảy mới quay trở lại kiếm chàng. Bây giờ hắn nghe nói vậy, bao nhiêu nỗi nóng nảy tiêu tan hết, mỉm cười khẽ nói:

– Tiểu huynh đệ, ngươi hay thật! Miễn cho tiểu huynh phí công đi một đoạn đường.

Hồ Phỉ vẫn đầy lòng ngờ vực, nghĩ thầm:

– Nếu Dược Vương trang ở về phía đông bắc thì lẽ ra y chỉ nói thẳng ra là xong, cớ sao lại bảo nên đi theo ngả đông bắc là hơn?

Nhưng chàng cũng không hỏi nữa mà cho ngựa đi theo hướng đông bắc. Hai người ruổi ngựa chạy thật nhanh một lúc chừng tám, chín dặm thì phía trước xuât hiện một hố nước không có đường qua. Chỉ có một lối đi nhỏ thông sang phía tây.

Chung Triệu Văn tức mình thóa mạ:

– Con nha đầu đó thật là khả ố. Thị không chịu chỉ đường thì thôi, sao lại bảo mình đi trật nẻo. Lúc trở vẻ phải cho thị một bài học mới được.

Hồ Phỉ cũng lấy làm lạ, chàng tự nghĩ mình tuyệt không có điều chi đắc tội với cô thôn nữ mà sao lại bị cô chơi khăm? Chàng liền nói:

– Chung nhị ca! Cô bé nhà quê kia nhất định có mối liên quan nào đó với Dược Vương trang.

Chung Triệu Văn hỏi lại:

– Ờ! Huynh đệ có tìm thấy manh mối gì không?

Hồ Phỉ đáp:

– Cặp mắt thị lấp loáng ánh thần quang, còn thái độ cùng cách ăn nói dường như không phải là một cô gái quê mùa chưa biết qua việc đời.

Chung Triệu Văn kinh hãi nói:

– Đúng rồi! Hai đóa hoa thị tặng cho đệ hãy mau vứt đi cho rồi.

Hồ Phỉ đưa tay vào áo, rút đóa hoa lam ra, thấy vẻ hoa kiều diễm không nỡ vứt bỏ, liền đáp:

– Hai đóa hoa nhỏ bé này tưởng cũng chẳng có gì đáng ngại!

Rồi chàng lại bỏ hoa vào bọc, phóng ngựa đi về mé tây. Chung Triệu Văn đi sau la lên:

– Này! Nên cẩn thận một chút!

Hồ Phỉ ậm ừ cho qua chuyện, vung roi quất vào vai ngựa cho nó phi nước đại về phía tây. Trong bóng chiều bảng lảng, từng đàn quạ lướt trên đỉnh đầu bay về tổ. Đột nhiên Hồ Phỉ và Chung Triệu Văn thấy có hai người phủ phục bên bờ hồ, tựa như đang uống nước. Hồ Phỉ liền dừng ngựa để hỏi đường nhưng thấy hai người kia thủy chung vẫn không nhúc nhích, trong lòng biết có điều khác lạ, liền nhảy xuống ngựa, nói lớn:

– Xin cảm phiền!

Hai người kia vẫn bất động. Chung Triệu Văn đưa tay đẩy vào, thì hai người này té ngửa ra, hai mắt trắng đã trợn trừng, rõ ràng đã chết từ lâu. Trên mặt xác chết thấy đầy các vết đen, cơ mắt méo mó trông rất dễ sợ. Đến xem người kia thấy cũng vậy.

Chung Triệu Văn nói:

– Họ bị trúng độc rồi.

Hồ Phỉ gật đầu, thấy trên người hai tử thi đều có vết binh khí, liền hỏi:

– Có lẽ là kẻ đối đầu với Độc Thủ Dược Vương chăng?

Chung Triệu Văn gật đầu.

Hai người lên ngựa đi tiếp. Lúc này trời đã tối hẳn. Hai người cảm thấy con đường trước mặt đầy hung hiểm. Hai người lại đi một quãng nữa bỗng tiếp bên đường cây cỏ thưa thớt. Càng tiến về phía trước, thảo mộc càng lác đác. Vẻ sau toàn là đất trơ trọi không có một bụi cỏ hay một gốc cây lớn, cây nhỏ gì hết. Hồ Phỉ sinh dạ hoài nghi, dừng ngựa lại hỏi:

– Chung nhị ca! Nhị ca nhìn xem, nơi đây rất là cổ quái.

Chung Triệu Văn đã thấy phong cảnh khác lạ, liền đáp:

– Nếu là nơi dọn cỏ đốn cây, tất còn lưu lại dấu vết của gốc rễ. Ta coi chừng…

Hắn trầm ngâm một chút rồi khẽ nói tiếp:

– Dược Vương trang nhất định gần đây rồi. Chắc lão đã rải chất kịch độc nên đến cả gốc cây cũng chẳng còn.

Hồ Phỉ gật đầu, trong lòng càng thêm khiếp sợ. Chàng xé mấy mảnh vải trong bọc bịt miệng ngựa Chung Triệu Văn, rồi bịt cả miệng ngựa của mình. Chung Triệu Văn biết chàng sợ tiến về phía trước lại gặp cây cỏ có chất độc, hai con vật gặm cỏ tất không khỏi ngộ độc. Hắn khẽ gật đầu và khen thầm chàng trẻ tuổi mà tâm tư tế mật. Đi chẳng bao lâu nữa đã trông thấy một tòa nhà ở phía xa xa. Khi đến gần mới thấy tòa nhà này hình thù cực kỳ cổ quái, giống như một ngôi mả lớn, đã không có cửa lớn cũng chẳng có cửa sổ, trông tối tăm âm u thật khủng khiếp.

Cả hai đều nghĩ: “Cứ xem hình thù tòa nhà này thì chắc đây là Dược Vương trang rồi”.

Cách tòa nhà chừng mấy trượng, có một hàng cây thấp nhỏ mọc xung quanh nhà. Lá cây giống như lá dẻ, màu lá đỏ ửng như màu máu, tựa hồ lá phong vào mùa thu. Lúc này trời nhá nhem tối, người nhìn thấy không rét mà run.

Chung Triệu Văn cả đời bôn tẩu giang hồ có chuyện hung hiểm nào lại chưa thấy qua? Ba anh em hắn đã ăn mặc như kiểu tang gia khiến người nhìn thấy phải sợ hãi, vậy mà gặp tình trạng này, trống ngực hắn không khỏi đập loạn lên. Hắn khẽ hỏi Hồ Phỉ:

– Làm thế nào bây giờ?

Hồ Phỉ đáp:

– Chúng ta theo lễ mà cầu kiến rồi tùy cơ ứng biến.

Hai người liền tung ngựa vọt tới, còn cách dãy cây thấp chừng vài trượng, liền xuống ngựa dõng dạc hô lớn:

– Chung Triệu Văn ở Ngạc Bắc và vãn bối là Hồ Phỉ ở Liêu Đông xin có lời thỉnh an Dược Vương tiền bối.

Mấy câu này từng chữ đều từ huyệt “Đan điền” đưa ra, thanh âm không vang đội mấy, nhưng ngân xa hàng mấy dặm. Người ở trong nhà dĩ nhiên phải nghe rõ từng lời. Sau một lúc trong nhà vẫn không thấy động tĩnh gì, Hồ Phỉ lại hô lần nữa. Trong tòa nhà tròn vẫn không có ai trả lời, tựa hồ không có người ở. Hồ Phỉ lại lớn tiếng nói:

– Kim Diện Phật Miêu đại hiệp trúng độc bị thương. Độc dược đó bị bọn gian nhân lấy cắp nơi tiền bối. Xin tiền bối mở dạ từ bi ban cho thuốc giải.

Bất luận chàng nói gì trong tòa nhà tròn kia thủy chung vẫn yên lặng như tờ. Sau một lúc khá lâu trời tối mịt. Hồ Phỉ khẽ hỏi:

– Chung Nhị ca! Nhị ca tính sao bây giờ?

Chung Triệu Văn đáp:

– Cặp mắt của Miêu đại hiệp đã mù, chúng ta đã đến đây chẳng lẽ lại trở về tay không?

Hồ Phỉ nói:

– Đúng thế! Dù là đầm rồng hang cọp cũng phải xông vào.

Cả hai người đều nổi lòng động võ, muốn dùng biện pháp cứng rắn. Họ đều nghĩ:

– Độc Thủ Dược Vương tuy chuyên nghề dùng độc, nhưng võ công vị tất đã cao thâm. Chúng ta dùng cả hai cách cương nhu vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn để xin thuốc giải cho bằng được.

Hai người liền xuống ngựa, tiến lại gần dãy cây thấp. Họ thấy những cây này cành lá rậm rạp sum suê, không thể xuyên qua được. Chung Triệu Văn tung mình nhảy lên cao, vượt qua bụi cây thấp để vào trong. Người hắn đang lơ lửng trên không, bỗng ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt, mắt tối sầm lại, lập tức ngã vào trong bụi cây ngất đi.

Hồ Phỉ thấy vậy cả kinh, liền nhảy vào theo. Lúc chàng đang vượt qua dãy cây thấp, mũi ngửi thấy mùi hương khác lạ xộc vào mũi, người chỉ muốn nôn ọe. Chàng vừa hạ mình xuống đất vội đưa tay đỡ Chung Triệu Văn sờ mũi thấy vẫn còn hơi thở nhưng hai mắt nhắm nghiền, ngón tay và da mặt lạnh toát như băng.

Hồ Phỉ lòng thầm kêu khổ:

– Chưa cầu được thuốc giải cho Miêu đại hiệp thì Chung nhị ca lại trúng độc. Xem ra cả ta cũng thấm hơi độc rồi, có điều chất độc chưa phát tác mà thôi.

Chàng nhún thấp người xuống nhảy vọt đến trước căn nhà tròn, miệng hô lớn:

– Dược Vương tiền bối! Vãn bối tay không đến bái trang, thực chẳng có ý xấu. Nếu không cho bái kiến, vãn bối buộc phải hành động vô lễ.

Chàng nói câu này rồi nhìn kỹ bức tường xung quanh nhà tròn, chỉ thấy từ trên nóc nhà xuống đến chân tường toàn một màu đen sì, hiển nhiên không phải kiến tạo bằng thổ mộc. Chàng không dám đưa tay ra đẩy. Nhưng bốn phía đều được quét dọn sạch sẽ ngay cả một mảnh gạch hay một viên đá nhỏ cũng chẳng sao biết được. Chàng liền móc đĩnh bạc trong bọc ra khẽ gõ vào tường ba cái, quả nhiên nghe tiếng “choang choang của kim loại bị va đập.

Hồ Phỉ bỏ đĩnh bạc vào bọc, vừa cúi đầu xuống bỗng ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng thoang thoảng, tinh thần liền phấn khởi. Đầu óc đang ngầy ngật vừa ngửi thấy mùi hương lập tức tỉnh táo lại. Chàng cong lưng hơn chút nữa thấy mùi hương ngào ngạt hơn, té ra là mùi thơm đó tỏa ra từ đóa hoa màu lam mà cô thôn nữ đã tặng cho.

Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Xem chừng mùi hoa thơm có công hiệu giải độc. Quả nhiên cô có lòng tốt.

Chàng gia tăng cước lực đi quanh căn nhà tròn, chẳng những không thấy cửa ngõ mà ngay cả lỗ hổng cũng không có. Chàng tự hỏi:

– Chẳng lẽ trong nhà không có người ở ư? Nếu có sao tránh khỏi chết ngạt vì thiếu lỗ thông hơi?

Trong tay chàng lại không binh khí, nên đối với căn nhà toàn bằng sắt này thật vô kế khả thi. Chàng ngưng thần ngẫm nghĩ một lúc, rồi lấy hoa lam trong bọc ra để vào mũi Chung Triệu Văn. Một lúc sau, quả nhiên y hắt hơi một cái, rồi từ từ tỉnh lại. Hồ Phỉ cả mừng nghĩ bụng:

– Cô thôn nữa kia đã có phép giải độc. Chi bằng ta trở về cầu cô chỉ điểm.

Thế rồi chàng cài một đóa hoa lam vào vạt áo Chung Triệu Văn, tay chàng cầm một đóa. Chàng đỡ Chung Triệu Văn nhảy ra khỏi dãy cây thấp đó, hai chân vừa đặt xuống đất bỗng nghe trong nhà có người bật tiếng la hoảng:

– Ủa!

Hồ Phỉ quay lại hỏi:

– Dược Vương tiền bối! Tiền bối có chịu cho vãn bối gặp mặt chăng?

Trong ngôi nhà tròn lại yên tĩnh chẳng có thanh âm chi hết. Chàng hỏi hai câu, đối phương vẫn không trả lời. Đột nhiên hai tiếng “huỵch huỵch” vang lên như có vật nặng rớt xuống đất Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy đôi ngựa đã nằm lăn ra đó. Chàng tung người vọt lại coi thì thấy hai con vật mắt nhắm nghiền, miệng sủi bọt đen. Chúng hiển nhiên đã bị trúng độc tắt hơi, trên mình chẳng có thương tích chi hết.

Đã đến nước đó, hai người không còn dám chần chờ ở nơi nguy hiểm này nữa, cùng nhau khẽ thương lượng mấy câu rồi quyết ý ra cầu cứu cô thôn nữ. Hai người theo đường cũ mà về. Chung Triệu Văn sau khi trúng độc, chân tay bải hoải, cứ đi một quãng lại phải nghỉ một lúc. Sang canh hai, hai người mới trở về căn nhà tranh của cô thôn nữ. Trong đêm tối mùi hoa lam trong vườn càng tỏa thơm ngào ngạt. Chung, Hồ vừa ngửi được mùi hương đó đã cảm thấy hết nhọc mệt, trong lòng thư thái.

Bỗng thấy ánh đèn từ trong nhà lọt qua cửa sổ ra ngoài. Nghe “kẹt” một tiếng, cánh cửa ra vào đã mở, cô thôn nữ bước ra, lên tiếng:

– Mời hai vị vào đây nhưng chỗ quê mùa chẳng có gì khoản đãi. Chỉ có trà thô cơm nhạt, thật là không phải với quý khách.

Hồ Phỉ nghe cô nói không có vẻ phàm tục, vội chắp tay thi lễ đáp:

– Đêm khuya đến quấy nhiễu, tại hạ thật áy náy.

Cô thôn nữ mỉm cười đứng tránh sang một bên, nhường lối cho hai người vào nhà. Hồ Phỉ bước vào thấy trong nhà kê bàn ghế gỗ, cách bài trí cũng như mọi nông gia thông thường, không có gì khác biệt, nhưng sạch sẽ không một hạt bụi. Cả khe tường, vách ván cũng không chút bụi bặm. Nơi đây sạch sẽ tương tự khu vực xung quanh tòa nhà tròn, khiến hai người lo ngầm trong bụng.

Cô thôn nữ nói:

– Chung gia, Hồ gia, xin mời ngồi!

Cô nói rồi xuống bếp lấy hai bộ bát đũa cùng ba món ăn, hai bát cơm trắng lớn bốc hơi nghi ngút. Ba món ăn là đậu hũ luộc, măng tươi và nấm xào rau. Tuy là cơm chay nhưng mùi vị ngon lành. Hai người đã đi hằng nửa ngày trời, bụng đều đói meo.

Hồ Phỉ cười nói:

– Đa tạ cô nương.

Tay trái chàng bưng bát cơm, tay phải cầm đũa ăn ngay. Chung Triệu Văn trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm:

– Cơm canh này thị đã dự bị từ trước, hiển nhiên thị tiên liệu chúng ta đi rồi quay trở ra. Chẳng thà chịu chết đói chứ cơm canh này ngàn vạn lần cũng không thể ăn.

Hắn thấy cô thôn nữ trở gót xuống nhà bếp, liền đưa mắt nhìn Hồ Phỉ khẽ hỏi:

– Huynh đệ! Ta đã đặn huynh đệ trong phạm vi ba chục dặm quanh Dược Vương trang không thể ăn uống gì được. Huynh đệ quên rồi ư?

Nhưng Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Nếu cô này có ý làm hại ta thì quyết đã chẳng tặng hoa cho ta. Tuy vẫn phải đề phòng lòng người bất trắc, nhưng không ăn bữa cơm này thì nhất định đắc tội với cô.

Chàng toan trả lời thì cô thôn nữ từ trong bếp bưng ra một cái khay gỗ. Trên khay đặt một cái thùng nhỏ đựng đầy cơm trắng.

Hồ Phỉ đứng dậy, nói:

– Đa tạ cô nương có lòng hậu từ. Bọn tại bạ xin được bái kiến lệnh tôn cùng lệnh đường.

Thiếu nữ đáp:

– Gia gia má má tiểu nữ qua đời cả rồi. Tiểu nữ ở đây chỉ có một mình.

Hồ Phỉ “à” một tiếng rồi ngồi xuống cầm đũa tiếp tục ăn nữa. Ba món ăn trông rất ngon lành sạch sẽ, Hồ Phỉ vừa ăn vừa khen không ngớt miệng để lấy lòng cô.

Chung Triệu Văn bụng bảo dạ:

– Ngươi đã không nghe lời khuyên, ta cũng đành chịu. Chẳng lẽ cả hai cùng mắc bẫy người ta sao?

Hắn nhìn cô thôn nữ nói:

– Tại hạ vừa ngất xỉu một lúc lâu, trong bụng thấy nôn nao, không muốn ăn cơm.

Cô thôn nữ rót một chung trà, nói:

– Vậy xin mời Chung gia uống một chung trà xanh.

Chung Triệu Văn thấy nước trà xanh biếc lại trong trẻo ngon lành. Tuy hắn miệng khát muốn uống, nhưng chỉ ngỏ lời cảm tạ rồi đón lấy chung trà đặt xuống bàn chứ không uống. Cô gái cũng không để ý. Cô thấy Hồ Phỉ ăn như rồng cuốn, hết bát này tới bát khác, bất giác khóe mắt lộ vẻ vui mừng.

Hồ Phỉ trông thấy ánh mắt cô, thầm nghĩ:

– Ta đã lỡ ăn rồi, có ăn ít cũng trúng độc mà ăn nhiều cũng trúng độc vậy thôi!.

Chàng đánh bạo tiếp tục ăn thật no. Chàng ăn hết bốn bát cơm lớn, ba món ăn cũng hết sạch, để lộ cả đáy bát ra.

Cô thôn nữ lại cất dọn. Hồ Phỉ vội đặt bát đũa xuống rồi bưng mâm vào nhà bếp. Tiện tay chàng múc nước trong lu rửa sạch bát chén, lau khô rồi xếp vào chạn. Thôn nữ rửa nồi niêu, quét nhà. Hai người cùng nhau dọn dẹp. Hồ Phỉ cũng không nhắc tới chuyện vừa qua. Chàng thấy lu nước chỉ còn lại một nửa liền quẩy thùng ra khe suối ở ngoài cửa gánh nước đổ đầy lu. Gánh xong, chàng lên phòng trên thấy Chung Triệu Văn gục xuống bàn mà ngủ.

Cô thôn nữ nói:

– Nhà cửa chốn hương thôn không có chỗ tiếp khách, đành ủy khuất Hồ gia ngủ tạm trên ghế dài một đêm vậy!

Hồ Phỉ đáp:

– Cô nương không cần phải khách sáo!

Thôn nữ tiến vào phòng trong khẽ khép cửa lại, nhưng không nghe tiếng cài then. Chàng tự hỏi:

– Cô này trơ trọi ở đây một mình, sao dám để hai người đàn ông lưu trú, xem ra cô lớn mật quá.

Chàng liền đưa tay lay vai Chung Triệu Văn khẽ nói:

– Chung nhị ca, ra cái ghế dài mà nằm nghỉ!

Ngờ đâu, chàng vừa đụng vào đầu vai, Chung Triệu Văn đã té nhào xuống đất đánh “huỵch” một cái. Hồ Phỉ cả kinh, vội ôm hắn vực dậy, thấy người sốt cao như lửa. Hồ Phỉ rối rít hỏi:

– Chung nhị ca, nhị ca làm sao vậy?

Chàng bèn cầm đèn đưa lại gần xem cho rõ, thì thấy mặt hắn đỏ rực như người say rượu nồng nặc, Hồ Phỉ lấy làm quái lạ, tự nhủ:

– Y không uống lấy một ngụm trà cớ sao chỉ trong chớp mắt lại say bí tỉ thế này?

Bỗng nghe y nói mơ:

– Ta không say, không có say mà! Lại đây, ta cùng uống với ngươi thêm ba bát lớn nữa!

Hồ Phỉ trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, biết Chung Triệu Văn đã mắc phải thủ đoạn của cô thôn nữ. Vì hắn không chịu ăn cơm uống trà, nên không biết cô ta dùng cách thức kỳ lạ nào để khiến hắn rơi vào tình trạng say mềm như bún. Hồ Phỉ hoang mang vừa kinh sợ, vừa thấy kỳ quái, không biết nên cầu cứu với cô thôn nữ hay cứ để tự nhiên cho hắn từ từ tỉnh lại.

Chàng lại nghĩ:

– Y bị trúng độc chứ không phải say rượu, vị tất có thể tự hồi tỉnh được?

Đúng lúc đó, bỗng có tiếng tru gào thê thảm của dã thú từ xa vọng lại. Giữa đêm hôm khuya khoắt nghe thấy âm thanh ấy không khỏi khiến ta rợn người sởn gáy. Tiếng tru gào nghe như tiếng chó sói. Ven Động Đình hồ phần lớn là vùng đồng bằng. Nếu có chó sói đi nữa thì chỉ một vài con chứ làm sao có từng đàn đông đảo như vậy. Tiếng tru gào mỗi lúc một gần. Hồ Phỉ đứng bật dậy, nghiêng tai lắng nghe. Trong tiếng chó sói gào có xen lẫn tiếng dê kêu be be. Hiển nhiên là bầy sói đang săn đuổi dê để ăn thịt. Hồ Phỉ cũng không để ý toan lại coi tình hình Chung Triệu Văn thì nghe cánh cửa kẹt mở. Cô thôn nữ tay cầm đèn bước ra, vẻ mặt kinh hoàng nói:

– Đó là tiếng chó sói tru gào.

Hồ Phỉ gật đầu đáp:

– Cô nương…

Chàng trỏ vào Chung Triệu Văn. Lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập hòa lẫn với tiếng dê kêu, tiếng chó sủa náo loạn cả lên. Những thanh âm này đang tiến thẳng về phía căn nhà tranh.

Hồ Phỉ cả kinh thất sắc bụng bảo dạ:

– Nếu là bọn địch nhân kéo đông người đến tập kích thì căn nhà tranh này không chịu nổi một cái lay, huống chi Chung nhị ca bị trúng độc mê man bất tỉnh. Cô thôn nữ ở cạnh nách là bạn hay là thù cũng khó mà đoàn được. Biết làm thế nào bây giờ?

Chàng còn đang suy nghĩ bỗng thấy một con khoái mã lao tới. Hồ Phỉ trong tay không một tấc sắt, cúi xuống ôm Chúng Triệu Văn chạy vào nhà bếp để kiếm con dao thái rau, nhưng trong bóng tối chàng mò mẫm mãi mà chẳng tìm thấy gì.

Bỗng nghe thôn nữ lớn tiếng quát hỏi:

– Người nhà họ Mạnh đấy ư? Đêm hôm khuya khoắt đến đây làm gì?

Hồ Phỉ nghe giọng nói nghiêm khắc không có vẻ trá ngụy, xem ra người đến tập kích không phải cùng phe với cô, chàng mới hơi yên dạ. Chàng chạy ra sân sau chụp lấy một viên gạch, tung mình nhảy lên cây liễu, đặt Chung Triệu Văn vào chỗ chạc cây lớn.

Định thần nhìn kỹ, dưới ánh sao chàng thấy một hán tử áo xám tro cưỡi ngựa xông tới trước căn nhà tranh. Phía sau con ngựa bụi đất tung bay, tiếng tru gào náo loạn cả lên, tiếp theo đến mười mấy con chó sói đói đang đuổi tới. Cứ xem tình hình này thì dường như người kia dọc đường gặp bầy sói đói xông tới tấn công, nên phải vọt ngựa chạy trốn. Nhưng chàng nhìn lại thấy phía sau có một vật trắng toát. Té ra là một con dê còn sống. Hồ Phỉ cho đó là người đi săn dùng con dê làm mồi dụ bầy chó sói vào bẫy để bắt.

Người kia tung ngựa xông vào vườn hoa, chạy thẳng đến đầu phía đông rồi quay đầu ngựa trở qua hướng tây. Bảy sói đói rượt theo sau, tru inh ỏi. Người kia cứ chạy tới chạy lui khiến vườn hoa bị dẫm nát không còn hình dạng gì nữa. Con ngựa hán tử đang cưỡi quả là loại tuấn mã, thuật cưỡi ngựa của gã rất tinh thâm. Gã chạy lui chạy tới mà bầy sói đói kia thủy chung vẫn không cắn được con dê.

Hồ Phỉ xoay chuyển ý nghĩ, hốt nhiên tỉnh ngộ:

– A! Thằng cha này đến để giẫm nát hoa lam! Có lý nào ta lại tụ thủ bàng quan?

Chàng liền điểm hai chân vọt qua nóc nhà tranh. Bỗng nghe người kia la lên một tiếng: “Úi chao!” rồi tung ngựa chạy nước đại về hướng bắc. Con dê vẫn để lại trong vườn hoa. Bầy sói nhảy xô lại xâu xé, khiến cho vườn hoa đã tan nát càng thêm tơi tả.

Hồ Phỉ mắng thầm:

– Dụng tâm của thằng cha này thật thâm độc!

Chàng liền ném hai mảnh gạch bay ra. Nghe “bốp, bốp” hai tiếng, hai con sói đứng đầu trúng phải mảnh gạch, óc vỡ ngã lăn ra đất chết liền. Hồ Phỉ lại ném hai mảnh gạch nữa, lần này viên gạch nhỏ hơn liền trệch đi một chút, một viên đánh trúng bụng một con sói, một viên bắn vào vào vai một con. Tuy cú va chạm không mạnh nhưng hai con sói dữ cũng đau đớn tru ầm lên. Bầy sói liên tiếp bị đánh, biết có người ở trên nóc nhà. Chúng ngửng đầu lên nhìn Hồ Phỉ, nhe răng múa vuốt tru gào ầm ĩ. Hồ Phỉ thấy bầy lang lộ vẻ hung dữ, cả người sởn gai ốc, vì chàng tay không, thực khó mà chống chọi được mấy chục con sói dữ. Chàng liền cầm viên gạch, nhằm đúng đầu con sói đực lớn nhất ném chênh chếch xuống trúng cổ họng nó. Con sói lăn lộn mấy vòng rồi không chịu đau nổi liền cúp đuôi chạy trốn. Một con sói lớn khác đang cắn con dê trắng cũng chạy theo. Chỉ trong khoảnh khắc tiếng sói tru mỗi lúc một xa. Vườn hoa lam đã bị giày phá tan nát.

Hồ Phỉ từ trên nóc nhà nhảy xuống, chặc lưỡi luôn miệng:

– Đáng tiếc! Đáng tiếc!

Chàng nghĩ tới cô thôn nữ phải cực nhọc trồng hoa, dày công làm cỏ bón tưới mới nên được một vườn hoa lam xinh đẹp, vậy mà trong khoảnh khắc đã bị phá hoại sạch sành sanh, chắc là cô đau khổ lắm. Không ngờ cô chẳng nhắc gì đến vườn hoa lam bị tàn phá, còn cười rúc rích, nói:

– Đa tạ Hồ gia đã ra tay tương trợ.

Hồ Phỉ đáp:

– Nói ra thêm hổ thẹn. Đáng trách là tại ha không thấy được cơ sự sớm hơn, ra tay chậm quá. Nếu tại hạ đánh tên ác tặc kia ngã ngựa sớm ở ngoài xa, thì vườn hoa này có thể bảo toàn được.

Cô thôn nữ mỉm cười nói:

– Vườn hoa lam này dù chẳng bị bầy sói dữ phá hoại thì qua mấy ngày nữa nó cũng tàn tạ. Chẳng qua là chậm hay sớm vài ngày, cũng chẳng có chi đáng kể.

Hồ Phỉ sửng sốt nghĩ thầm:

– Cô này ăn nói lạ thường, lời lẽ dường như còn hàm ẩn huyền cơ.

Chàng nói:

– Tại hạ tới nhà quấy nhiễu, mà chưa kịp thỉnh giáo tôn tính của cô nương.

Cô thôn nữ trầm ngâm một chút rồi đáp:

– Tiểu muội họ Trình, nhưng trước mặt người khác xin đại ca đừng nhắc tới họ của tiểu muội.

Cô nói mấy câu này đầy vẻ thân thiết, tựa hồ coi Hồ Phỉ như là người của mình rồi. Hồ Phỉ ra chiều cao hứng hỏi:

– Vậy tại hạ gọi cô nương bằng gì nào?

Cô thôn nữ đáp:

– Đại ca là người rất tốt. Tiểu muội nói cả tên cho đại ca hay. Tiểu muội là Trình Linh Tố. Chữ “Linh” của “Linh khu”, còn “Tố” trong “Tố vấn”.

Hồ Phỉ không hiểu “Linh khu” và “Tố vấn” là hai cuốn y kinh ở Trung Quốc, nhưng cảm thấy hai chữ này rất thanh nhã, chẳng giống tên của một cô gái quê mùa. Lúc này chàng mới biết cô nhất định không phải là cô gái bình thường chốn hương thôn. Chàng cũng không lấy làm lạ nữa, bèn nói:

– Vậy tại hạ kêu bằng “Linh cô nương”, người ngoài có nghe thấy họ cũng cho là “Lâm cô nương”.

Trình Linh Tố nhoẻn một nụ cười rất xinh, đáp:

– Đại ca thật khéo làm cho tiểu muội hoan hỷ.

Hồ Phỉ cũng hơi động tâm. Chàng thấy tướng mạo cô tuy không xinh đẹp lắm, nhưng từng câu cười tiếng nói đều có phong thái kiều mỵ đáng yêu. Chàng toan hỏi về vụ Chung Triệu Văn say rượu thì Trình Linh Tố đã nói:

– Vị Chung nhị ca kia uống rượu say chẳng có gì đáng ngại. Chỉ đến sáng mai là tỉnh lại. Bây giờ tiểu muội đi thăm mấy người, đại ca có đi theo không?

Hồ Phỉ thấy cô bé này hành động rất cổ quái, cô đi thăm người vào lúc đêm hôm khuya khoắt tất là có thâm ý. Chàng liền đáp:

– Dĩ nhiên tại hạ muốn đi theo cô.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca cùng đi thì chúng ta phải có ba điều quy ước. Một là đêm nay đại ca không được nói gì với ai…

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi! Tại hạ cứ làm người câm là xong.

Trình Linh Tố cười nói:

– Không cần phải thế. Đại ca nói với tiểu muội thì được. Hai là đại ca tuyệt đối không được động võ, phóng ám khí hay điểm huyệt. Ba là không được rời xa tiểu muội ba bước.

Hồ Phỉ gật đầu ưng thuận, nghĩ thầm:

– Té ra cô đưa mình đi đến gặp Độc Thủ Dược Vương. Cô bảo mình không được rời cô xa ba bước là sợ mình bị trúng độc nguy hiểm.

Chàng phấn khởi tinh thần hỏi:

– Bây giờ chúng ta đi ngay chứ?

Trinh Linh Tố đáp:

– Cần đem theo một vài thứ.

Cô vào phòng mình trong khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà rồi gánh đôi giỏ tre trở ra. Mặt giỏ có đậy nắp không hiểu trong đựng những gì, nhưng nhìn bộ dạng cũng biết cô phải gắng hết sức mới gánh nổi. Hồ Phỉ nói:

– Cô nương để tại hạ gánh cho.

Rồi chàng đón lấy gánh đặt lên vai, thấy nặng trên một trăm cân. Đôi giỏ nặng nhẹ không đều. Một bên nặng trĩu còn một bên nhẹ hều, thành ra khó gánh. Chàng thấy Chung Triệu Văn phục xuống bàn ngủ ngáy pho pho. Chàng đi qua bên mình hắn vẫn cảm thấy hơi rượu nồng nặc.

Hai người ra khỏi căn nhà tranh. Trình Linh Tổ khép cửa lại rồi đi trước dẫn đường. Hồ Phỉ hỏi:

– Linh cô nương! Tại hạ muốn hỏi một điều được chăng?

Trình Linh Tố đáp:

– Được chứ, nhưng chỉ sợ tiểu muội không biết đường mà trả lời.

Hồ Phỉ nói:

– Cô nương không trả lời được thì trong thiên hạ chẳng còn người thứ hai nào trả lời được. Chung nhị ca của tại hạ không uống một giọt nước nào mà sao lại say mê man như vậy?

Trình Linh Tố tủm tỉm cười đáp:

– Chính vì y không uống một giọt nước nào mà hóa ra như vậy đấy.

Hồ Phỉ nói:

– Vụ này tại hạ không sao hiểu được. Chung nhị ca là tay giang hồ lão luyện. Chung thị tam hùng ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạc Bắc đều là những nhân vật nổi danh trong võ lâm, còn tại hạ là kẻ kiến thức thiển lậu. Ngờ đâu vì y thận trọng quá mức mà…

Chàng nói tới đây bỗng ngưng lại không nói nữa. Trình Linh Tố đáp:

– Đại ca nói phải lắm! Y thận trọng trong mọi trường hợp mà lại mắc lừa tiểu muội phải không? Đề phòng cần thận có ích gì đâu? Cứ vô tư như đại ca lại được bình yên vô sự.

Hồ Phỉ hỏi:

– Tại hạ làm sao?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Bảo đại ca đi gánh phân là gánh liền, bảo ăn cơm là ăn ngay. Biết ngoan ngoãn nghe lời thì còn ai nhẫn tâm làm hại đại ca?

Hồ Phỉ cười nói:

– Té ra làm người là cần phải biết nghe lời. Nhưng cách thức cô ngương dùng để sửa lưng người khác lại quá đỗi xảo diệu, đến giờ này tại hạ cũng không sao hiểu được.

Trình Linh Tố đáp:

– Được rồi! Tiểu muội nói sơ qua cho đại ca hiểu. Trong phòng lớn có chậu hoa trắng nhỏ, đại ca đã nhìn thấy chưa?

Lúc trước Hồ Phỉ không lưu ý bây giờ chàng nhớ lại quả nhiên ở trên bàn bên cửa sổ có một chậu hoa trắng nhỏ. Trình Linh Tố nói tiếp:

– Chậu hoa đó gọi là “Đề hồ hương”. Mùi thơm làm người ngây ngất, cực kỳ lợi hại. Ai ngửi một lúc là chẳng khác gì uống phải rượu nồng. Trong cơm canh và nước trà, tiểu muội đã hòa thuốc giải vào. Ai bảo y không chịu ăn uống làm chi?

Hồ Phỉ chợt tỉnh ngộ, đối với cô gái càng đem lòng kính sợ. Chàng lẩm bẩm:

– Ta chỉ nghe nói người ta hạ độc vào đồ ăn thức uống, ngờ đâu phương pháp hạ độc của cô lại cao minh hơn nhiều, đối phương dù không ăn uống gì cũng bị trúng độc.

Trình Linh Tố lại nói:

– Để lát nữa trở về tiểu muội cho uống thuốc giải là xong. Đại ca bất tất phải băn khoăn.

Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Cô nương này giỏi nghề dùng thuốc, không chừng có thể chữa được đôi mắt cho Miêu đại hiệp. Vậy thì chẳng cần phải đi cầu cạnh Độc Thủ Dược Vương nữa.

Chàng liền hỏi:

– Linh cô nương! Cô nương có biết cách giải trừ chất độc “Đoạn trường thảo” không?

Trình Linh Tố đáp:

– Cái đó khó nói lắm.

Hồ Phỉ thấy cô ngập ngừng, không tiện xin cô điều trị. Chàng nhìn cước bộ của cô nhẹ nhàng, yểu điệu. Cô đi trước không nhanh mà cũng không chậm, tuy không thi triển khinh công mà đi chưa bao lâu cũng đã được sáu, bảy dặm đường. Cô đi thẳng về phía chính đông, vậy không phải đến Dược Vương trang. Chàng chợt nhớ ra điều gì liền nói:

– Tại hạ còn muốn hỏi cô nương một chuyện. Vừa rồi tại hạ cùng Chung nhị ca đi Dược Vương trang, cô nương bảo tại hạ đi về phía đông bắc, cố ý bắt anh em tại hạ phải đi đường vòng xa thêm gần hai chục dặm nữa. Dụng ý của cô nương trong chuyện này, tại hạ quả tình không sao hiểu được.

Trình Linh Tố đáp:

– Việc chính đại ca muốn hỏi tiểu muội không phải việc này. Tiểu muội đoán chừng đại ca định hỏi Dược Vương trang rõ ràng ở hướng tây bác mà sao chúng ta lại đi về hướng đông, có phải không?

Hồ Phỉ cười, đáp:

– Cô nương đoán đúng. Tại hạ muốn hỏi điều đó.

Trình Linh Tố nói:

– Bây giờ chúng ta không đi về phía Dược Vương trang chỉ vì không phải chúng ta đi đến đó.

Điều này vượt ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ, khiến chàng “ủa” lên một tiếng. Trình Linh Tố lại nói:

– Ban chiều tiểu muội yêu cầu đại ca tưới hoa một là để thử lòng đại ca, hai là để đại ca phải chậm trễ thêm một khoảng thời gian nữa. Sau tiểu muội lại bảo đại ca đi đường vòng xa thêm hai mươi dặm tốn thêm thời gian để đến khi trời tối đại ca mới tới được Dược Vương trang. Vì bên ngoài trang trồng những cây Huyết nụy lật, là giống dẻ lùn, lá đỏ như máu. Thứ cây này về đêm độc tính giảm đi. Tiểu muội tặng cho đại ca hai bông hoa lam là để khắc chế chất độc kia.

Hồ Phỉ nghe cô nói trong lòng khâm phục vô cùng. Chàng không ngờ cách dùng độc và thuốc giải cũng cần nhiều học vấn đến thế, mà vị tiểu cô nương dung mạo tầm thường này lại dụng tâm rất sâu xa, người thường không sao bì kịp. Chàng kể lại chuyện gặp hai xác chết bên bờ Động Đình hồ. Trình Linh Tố nghe đến chi tiết trên mặt xác chết có những đốm đen, cơ mặt bị méo mó, liền “hừ” một tiếng, rồi nói:

– Chất độc “Quỷ biển bức” đó không có thuốc giải nào trị được, bọn họ sao lại không biết.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– “Quỷ biển bức” là chất độc gì? Cô có nói ra mình cũng chẳng hiểu. Cô dặn gì thì mình cứ việc làm y như vậy. Càng hỏi nhiều chỉ tổ lòi cái dốt của mình ra.

Chàng đành im tiếng, cứ lầm lũi đi theo sau cô về phía đông. Hai người lại đi chừng năm, sáu dặm rồi tiến vào một khu rừng cây tối om om. Trình Linh Tố khẽ nói:

– Đến nơi rồi. Bọn họ chưa lại. Chúng ta chờ ở rừng cây này. Đại ca đem một cái giỏ tre đặt dưới gốc cây kia.

Cô vừa nói vừa trỏ một cây lớn. Hồ Phỉ theo lời y đem giỏ tre nặng trĩu đặt ở đó. Trình Linh Tố đi tới bên cạnh một bụi cỏ rậm cách gốc cây chừng tám, chín trượng. Cô nói:

– Còn cái giỏ nữa đem đến đặt tại đây cho tiểu muội.

Đoạn cô vạch bụi cỏ ra chui vào trong đó. Hồ Phỉ cũng không hỏi ai chưa lại và chờ họ để làm gì? Chàng nhớ lời dặn không rời ra cô quá ba bước liền đem cái giỏ kia đặt tại đó rồi cũng chui vào bụi cỏ, ngồi bên cạnh cô. Chàng ngửng đầu nhìn trời, thấy vành trăng đã xế về tây, đêm đã về khuya rồi. Trong rừng cây, tiếng côn trùng rả rich, thỉnh thoảng lại có vài tiếng kêu chát chúa.

Trình Linh Tố đưa cho Hồ Phỉ một viên thuốc, khẽ dặn chàng:

– Bỏ vào miệng ngậm, đừng có nuốt đấy!

Hồ Phỉ chẳng nhìn viên thuốc cứ lẳng lặng bỏ vào miệng. Viên thuốc này mùi vị đắng ngắt. Hai người ngồi đợi chừng nửa giờ. Hồ Phỉ nghĩ quanh nghĩ quẩn, chàng nhận thấy trong một ngày một đêm vừa rồi đã trải qua những biến cố kỳ dị, quái đản, có thể nói là chưa bao giờ gặp trong đời.

Đột nhiên chàng nhớ tới Viên Tử Y, tự hỏi:

– Không hiểu hiện giờ nàng ở đâu? Nếu như ở bên ta không phải cô bé gầy nhom này mà là Viên cô nương thì nàng sẽ nói gì với ta?

Nghĩ tới đây bất giác chàng thò tay vào bọc sờ con ngọc phụng. Đột nhiên Trình Linh Tố đưa tay kéo vạt áo Hồ Phỉ trỏ về phía trước.

Hồ Phỉ nhìn theo tay nàng, thấy ở phía xa một ngọn đèn lồng đang từ từ tiến gần lại. Thông thường ánh sáng đèn lồng có màu hồng, nhưng ngọn đèn lồng này lại chiếu ra màu xanh lục. Ngọn đèn lồng tiến đến rất lẹ, chẳng mấy chốc chỉ còn cách trước mặt ngoài mười trượng. Ánh lửa soi rõ người cầm đèn là một nữ nhân lưng còng, bước cao bước thấp, tựa hồ què chân phải. Đi sát sau mụ là một hán tử thân hình cao lớn, bên hông đeo một thanh tiêm đao sáng loáng.

Hồ Phỉ nhớ tới lời nói của Chung Triệu Văn bất giác người hơi chấn động nhủ thầm:

– Chung nhị ca bảo Độc Thủ Dược Vương có khi là đại hán như đồ tể, có khi là phụ nữ lưng còng. Vậy trong hai người này tất có một người là Dược Vương.

Chàng liếc mắt nhìn Trình Linh Tố, nhưng trong đêm tối không thấy rõ nét mặt cô, chỉ có cặp mắt lớn long lanh đang nhìn hai người kia không chớp. Cô lộ vẻ rất khẩn trương.

Hồ Phỉ nổi lòng nghĩa hiệp, bụng bảo dạ:

– Nếu Độc Thủ Dược Vương mà hành động bất lợi cho cô thì ta nhất định liều mạng để bảo vệ cô an toàn.

Một nam một nữ kia tiến tới mỗi lúc một gần. Người đàn bà dung mạo nho nhã xinh đẹp, tuy người mụ có tật, nhưng có thể nói đó là một mỹ nữ. Còn đại hán mặt đầy gân guốc, tướng mạo rất hung dữ. Cả hai người đều khoảng bốn chục tuổi. Hồ Phỉ dù mình mang tuyệt nghệ, có gặp bọn cường khấu đạo tặc cực kỳ lợi hại trên chốn giang hồ cũng không hề khiếp sợ, nhưng lúc này chàng không tự chủ được, trống ngực đánh thình thịch. Chàng nhận thấy lắm khi có võ công cũng bế tắc, muốn đối phó với hạng người này thì võ công chưa chắc đã có ích.

Hai người kia còn cách Hồ Phỉ chừng bảy, tám trượng đột nhiên quay sang mé tả đi thêm mười mấy trượng rồi dừng bước. Đại hán lớn tiếng hô:

– Mộ Dung sư huynh! Vợ chồng tiểu đệ theo lời hẹn tới đây. Xin sư huynh lộ diện để tương kiến.

Chỗ hắn đứng không xa Hồ Phỉ mấy, hắn đột nhiên mở miệng nói mà thanh âm lại rất lớn khiến Hồ Phỉ giật nẩy cả mình. Đại hán hô hai lần không người đáp lại.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Nơi đây trừ bốn người chúng ta ra chẳng còn ai khác. Làm gì có vị Mộ Dung sư huynh nào? Té ra hai người này là cặp vợ chồng.

Người đàn bà gù cất tiếng nhỏ nhẹ nói:

– Mộ Dung sư huynh đã không chịu hiện thân. Vậy vợ chồng tiểu muội đành phải vô lễ vậy.

Hồ Phỉ cười thầm nghĩ bụng:

– Cái này gọi là gậy ông đập lưng ông, vay gì trả nấy. Vừa rồi ta đến Dược vương trang bái phỏng, nói sao họ cũng không lý gì tới. Bây giờ lão muốn gặp người khác cũng mắc phải đòn này.

Bỗng thấy nữ nhân lấy trong bọc ra một bó cỏ châm vào đèn lồng cho cháy lên. Lập tức khói bốc mù mịt, chẳng bao lâu cả khu rừng như chìm trong làn sương trắng. Trong làn khói thoang thoảng có mùi gỗ đàn hương chẳng có gì khó ngửi.

Hồ Phỉ nghe mụ nói bốn chữ “đành phải vô lễ” thì biết là thứ khói này rất lợi hại, nhưng chính mình chẳng thấy gì khó chịu. Chàng chắc là do công hiệu của viên thuốc ngậm trong miệng, bèn quay nhìn Trình Linh Tố. Lúc này cô cũng đưa mắt nhìn chàng, mục quang đầy vẻ quan tâm. Hồ Phỉ trong lòng cảm kích, khẽ gật đầu. Làn khói mỗi lúc một dày đặc, đột nhiên trong cái giỏ tre đặt ở dưới gốc cây có tiếng người hắt hơi rất lớn.

Hồ Phỉ giật mình kinh hãi tự hỏi:

– Trong giỏ có người ư? Sao ta gánh đi cả nửa buổi mà chẳng biết gì? Vậy câu chuyện giữa ta và Trình cô nương y nghe thấy hết rồi ư? Dù không hiểu gì về y dược cùng độc vật, nhưng ta đã luyện võ công bao nhiêu năm thì chẳng thể gánh một người đi bao nhiêu dặm đường mà lại mơ hồ không biết, trừ phi đó là người chết thì không kể.

Trong lòng chàng rất đỗi kinh dị, lại nghe người trong giỏ hắt hơi liền mấy tiếng rồi tung nắp giỏ nhảy vọt ra. Chàng thấy người này mặc áo trường bào, đội mũ nhà nho. Chính là lão già mà chàng đã gặp ở trên đỉnh núi đang nhặt cỏ hái thuốc lúc ban chiều.

Lúc này quần áo lão rất lôi thôi, khăn đội lệch lạc, thần thái vô cùng thảm hại, không có gì giống với vẻ nho nhã lúc ban ngày. Lão thấy hai người nam nữ kia liền nổi giận, quát hỏi:

– Hay lắm! Khương sư đệ! Tiết sư muội! Các vị hạ thủ càng ngày càng âm độc.

Vợ chồng nhà kia thấy hình dung lão như vậy, dường như vượt qua ngoài sự tiên liệu của họ. Đại hán cười lạt hỏi:

– Sư huynh còn bảo bọn tiểu đệ hạ thủ âm độc ư? Sư huynh ngồi ẩn trong giỏ tre, ai mà ngờ được? Mộ Dung sư huynh…

Hắn chưa dứt lời, lão già lại hắt hơi, sắc mặt biến đổi hẳn. Lão vội thò tay vào bọc lấy một viên thuốc bỏ vào miệng. Mụ đàn bà lưng gù lấy chân giẫm đám thảo dược đang tỏa khói cho tắt đi, rồi lại bỏ vào bọc nói:

– Mộ Dung sư huynh! Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi!

Lão già kia mặt xám như tro tàn, ngồi bệt dưới đất hồi lâu mới nói:

– Thôi được, kể như ta thua.

Đại hán lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ màu xanh, cầm trong tay nói:

– Thuốc giải ở trong này. Lệnh sư điệt trúng phải độc thủ của đại sư ca, vậy đại sư ca lấy thuốc giải ra trao đổi là xong.

Lão già hỏi:

– Nói bậy! Có phải các vị nói Tiểu Thiết không? Mấy năm nay ta không thấy mặt gã thì hạ độc thủ cái gì mới được chứ?

Mụ đàn bà lưng gù hỏi lại:

– Đại ca hẹn bọn tiểu muội đến đây để nói câu này thôi ư?

Mụ quay đầu lại bảo đại hán:

– Thiết Sơn! Chúng ta đi thôi.

Mụ nói xong, quay lưng toan đi ngay. Đại hán lộ vẻ do dự, nói:

– Tiểu Thiết…

Mụ kia ngắt lời:

– Y giận chúng ta thấu xương, chẳng thà y chịu mất mạng chứ quyết chẳng dung tha Tiểu Thiết. Mấy năm nay chẳng lẽ sư ca còn không nghĩ ra?

Đại hán muốn đi mà không đi ngay, lại hỏi:

– Mộ Dung huynh! Mối cừu hận bao nhiêu năm trời giữa chúng ta đến nay còn để bụng làm chi? Tiểu đệ khuyên đại sư huynh một câu: Chúng ta nên trao đổi thuốc giải cho nhau để cởi bỏ mối hiềm thù ngày trước.

Hắn nói mấy câu này bằng một giọng rất thành khẩn.

Lão già hỏi lại:

– Tiết sư muội! Tiểu Thiết trúng phải chất độc gì?

Mụ già cười lạt một tiếng chứ không trả lời.

Đại hán nói:

– Mộ Dung sư huynh! Đã đến nước này tưởng không nên giả ngây giả ngô nữa. Tiểu đệ kính mừng sư huynh đã trồng được thứ “Thất tâm hải đường”.

Lão già lớn tiếng hỏi:

– Ai trồng được “Thất tâm hải đường”? Chẳng lẽ Tiểu Thiết trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”? Ta không có đâu. Ta không có đâu.

Lão nói mấy câu này ra chiều hốt hoảng, mối lo sợ lộ ra ngoài mặt. Hai vợ chồng kia đưa mắt nhìn nhau tự hỏi:

– Chẳng lẽ lão đóng kịch giống đến thế ư?

Mụ đàn bà hỏi:

– Thôi được! Mộ Dung sư huynh, đừng nói chuyện vô ích nữa. Sư huynh ước hẹn bọn tiểu muội đến đây tương hội có điều chi dạy bảo?

Lão già gãi đầu đáp:

– Ta có ước hẹn đâu? Các vị đem ta đến đây sao lại bảo ta ước hẹn?

Lão nói tới đây trong lòng vừa giận vừa thẹn, đột nhiên vung cước đá cái giỏ tre ra xa bảy, tám trượng.

Mụ đàn bà lạnh lùng hỏi:

– Chẳng lẽ phong thư này không phải của sư huynh viết? Nét chữ của sư huynh, bình sinh tiểu muội được coi có phải ít đâu.

Mụ vừa nói vừa lấy trong bọc ra một tờ giấy hoa tiên. Mụ giơ tay trái lên, tờ giấy bay về phía lão già. Lão già giơ tay toan đón lấy, đột nhiên lão rụt tay về vung chưởng đánh ra. Chưởng phong cản tờ giấy lơ lửng ở trên không. Ngón tay trái lão lại búng một cái bắn ra mũi ám khí. Mũi ám khí của lão già là một cây “Thấu cốt đinh” dài độ ba tấc bắn trúng tờ giấy hoa tiên. Nghe “bộp” một tiếng, mũi “Thấu cốt đinh” đã ghim tờ giấy hoa tiên vào thân cây.

Hồ Phỉ nghe lạnh cả người, thầm nghĩ:

– Những người này đối với nhau, hễ đối phương nói một câu, thở một hơi đều đề phòng bị hạ độc thủ. Lão già không dám đưa tay đón tờ giấy hoa tiên vì sợ trên giấy có chất độc.

Mụ già lưng gù giơ cao đèn lồng lên. Ánh sáng chiếu vào tờ giấy hoa tiên, trên nền giấy trắng có hai hàng chữ lớn. Hồ Phỉ ngồi ở đằng xa cũng nhìn rõ. Những chữ đó như sau: “Khương, Thiết hai vị. Sau canh ba mời hai vị đến Hắc Hổ lâm, có việc cần thương lượng”. Phía dưới ký tên bằng bốn chữ “Tri danh bất cụ”. Hai hàng chữ này nét bút khô gầy, lại hơi thẳng đứng. Chữ giống như người, phảng phất như thân hình lão già.

Lão già bật tiếng la “ô hay”. Dường như lão rất lấy làm quái dị.

Đại hán hỏi:

– Đại sư huynh! Có điều chi không ổn?

Lão già lạnh lùng đáp:

– Lá thư này không phải do ta viết.

Lão vừa nói câu này, vợ chồng đại hán lại đưa mắt nhìn nhau. Mụ lưng gù buông tiếng cười lạt, hiển nhiên không tin lời lão. Lão già nói:

– Bút tích trong thơ lại rất giống thư pháp của ta mới thật là kỳ.

Lão đưa tay trái lên sờ hàm râu dưới cằm, rồi nổi giận đùng đùng hỏi:

– Các ngươi bỏ ta vào giỏ tre khiêng đến đây làm chí?

Mụ lưng gù không trả lời, hỏi lại:

– Tiểu Thiết trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”, rốt cuộc sư huynh có chịu cứu trị hay không? `

Lão già hỏi:

– Đã chắc chưa? Có đúng là “Thất tâm… Thất tâm hải đường” không?

Lão nói đến bốn chữ “Thất tâm hải đường” thanh âm run rẩy, lộ vẻ sợ hãi tột độ.

Hồ Phỉ nghe tới đây mới hiểu dần ra. Chàng đoán có một tay cao thủ nào đó ra tay hý lộng, bố trí cuộc gặp gỡ này, khiến cho ba người nói lui nói tới mà vẫn chẳng ăn nhập gì với nhau. Tay cao thủ đó là ai? Bất giác chàng quay lại nhìn Trình Linh Tố thấy cặp mắt lớn và sáng ngời như ánh sao của cô lấp loáng trong bóng tối.

Chàng tự hỏi:

– Không lẽ cô bé mặt vàng ốm nhách này mà lại ghê gớm đến vậy ư? Điều này khó mà khiến cho người ta tin nổi.

Chàng còn đang ngẫm nghĩ bỗng nghe đại hán hú lên những tiếng “ô ô” rất quái dị, vội quay đầu nhìn ra thì thấy lão già và vợ chồng đại hán cùng cúi mình xuống hai tay đẩy về phía trước, sáu bàn tay dính vào nhau, miệng hú những tiếng “ô ô”. Tiếng lão già nghe gay gắt, tiếng đại hán thì thô mãnh, tiếng mụ già lưng còng lại the thé. Ba người hú lên từng tràng dài liên tục không ngớt.

Đột nhiên tiếng hú dừng lại, bỗng thấy lão già tung người nhảy lùi lại phía sau rồi ánh hàn quang lấp loáng, lão già đã phóng một mũi “Thấu cốt đinh” đánh tắt đèn lồng. Tiếp theo đại hán rú lên:

– Úi chao!

Hiển nhiên hắn bị lão già ám toán thụ thương. Lúc này trong rừng tối đen như mực, bốn mặt đều cảm thấy có nguy cơ rình rập. Hồ Phỉ tiện tay kéo Trình Linh Tố lùi lại phía sau, chàng đứng trước mặt cô để ngăn chặn. Hành động này của chàng chưa suy nghĩ vì thấy mối nguy hiểm cận kề, không thể không gắng hết sức để bảo vệ cho cô gái yếu đuối này, còn liệu sức mình có bảo vệ nổi hay không thì chàng tuyệt không màng tới.

Đại hán rú lên một tiếng rồi im bặt. Trong khu rừng tuy có cả thảy năm người mà không mảy may một tiếng động. Hồi lâu, Hồ Phỉ mới nghe tiếng côn trùng rả rích trong bụi cỏ. Xa xa có tiếng cú mèo rúc lên the thé.

Đột nhiên một bàn nhỏ nhắn mềm mại đưa ra nắm lấy bàn tay thô lớn của chàng. Hồ Phỉ rùng mình một cái, rồi chàng biết ngay là bàn tay của Trình Linh Tố. Chàng cảm thấy nó nhỏ bé mềm mại chỉ bằng bàn tay đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi.

Trong khu rừng tĩnh mịch, đột nhiên trước mắt hiện ra hai luồng khói bay lên cuồn cuộn. Một luồng khói trắng và một luống khói ấm tựa hồ hai con quái xà từ hai bên trườn mình vọt vào giữa để đánh nhau. Đồng thời có những tiếng veo véo rít lên không ngớt. Hồ Phỉ ngồi trong bóng tối giương lớn cặp mắt lên nhìn thấp thoáng thấy hai bên tả hữu đều có những đốm lửa. Đằng sau một đốm lửa là lão già, đằng sau đốm lửa kia là mụ lưng gù. Hai người đều cúi xuống, vận nội lực thổi khói về phía đối phương. Họ đã đốt dược thảo để phát khói độc tấn công nhau. Hai người thổi một hồi, trong rừng khói mù mỗi lúc một dày đặc.

Đột nhiên lão già “ủa” một tiếng. Lão đưa mắt nhìn tờ giấy hoa tiên bị “Thấu cốt đinh” găm trên cây đại thụ trước mặt. Hồ Phỉ nhìn thấy tờ giấy khẽ lay động, trên mặt lấp loáng hào quang do mấy hàng chữ phát sáng tạo ra. Vợ chồng mụ lưng gù cũng lấy làm quái dị, cùng quay đầu nhìn.

Hồ Phỉ cảm thấy bàn tay nhỏ bé của Trình Linh Tố run lên. Tiếp theo dưới gốc cây về phía đối diện bỗng nghe đánh “chát” một tiếng.

Trên tờ giấy viết mấy hàng chữ:

Nay dặn dò cho Mộ Dung Cảnh Nhạc, Khương Thiết Sơn, Tiết Thước ba đồ đệ cùng biết: Các ngươi tàn hại lẫn nhau, chẳng nghĩ gì đến tình nghĩa sư môn khiến ta tô cùng chán nản. Các ngươi nên xóa bỏ hiềm khích trước kia nối tiếp di chí của ta. Đó là lời ta thiết tha căn dặn. Sự việc lúc ta lâm chung, đồ đệ Trình Linh Tố sẽ kể lại tường tận cho các ngươi hay. Tăng Vô Sân tuyệt bút.

Lão già và mụ lưng gù đều la hoảng:

– Sư phụ chết rồi ư? Trình sư muội! Sư muội ở chỗ nào?

Trình Linh Tố nhẹ nhàng rụt tay khỏi bàn tay Hồ Phỉ. Cô lấy trong bọc ra một cây nến, bật lửa châm vào, rồi thong thả bước ra. Lão già là Mộ Dung Cảnh Nhạc, mụ lưng gù là Tiết Thước đều biến sắc, lớn tiếng hỏi:

– Cuốn “Dược Vương thần biên” của sư phụ đâu? Có phải ngươi giữ không?

Trình Linh Tố cười lạt:

– Mộ Dung sư huynh! Thiết Sơn sư huynh! Tiết Thước sư tỷ! Suốt đời sư phụ dạy dỗ ơn đức tày non, vậy mà các vị chẳng quan hoài chi đến việc sinh tử của lão nhân gia, chỉ hỏi tới di vật của người, thật quá đỗi bất nghĩa vô tình! Khương sư huynh! Sư huynh có gì nói không?

Đại hán tức Khương Thiết Sơn bị thương nằm dưới đất, nghe Trình Linh Tố hỏi tới mới ngóc đầu lên tức giận đáp:

– Tiểu Thiết bị thương, nhất định đều đo tay con nha đầu này hý lộng quỷ thần. Mau đưa cuốn “Dược vương thần biên” ra đi!

Trình Linh Tố nhìn họ chằm chặp chứ không nói gì.

Mộ Dụng Cảnh Nhạc quát lớn:

– Sư phụ có lòng thiên ái, nhất định giao cái đó cho ngươi!

Tiết Thước nói:

– Tiểu sự muội! Sư muội hãy đem cuốn “Thần biên” ra để mọi người cùng coi.

Giọng nói của mụ rõ ràng ra chiều gạ gẫm. Trình Linh Tố đáp:

– Đúng thế. Sư phụ quả đã truyền lại cuốn “Dược Vương thần biên” cho tiểu muội.

Cô dừng lại một chút, lấy trong bọc ra một tờ giấy hoa tiên nói tiếp:

– Đây là huấn dụ của sư phụ viết cho tiểu muội. Ba vị hãy coi đi.

Cô cầm giấy đưa cho Tiết Thước. Tiết Thước đưa tay ra toan đón lấy thì Khương Thiết Sơn vội quát:

– Sư muội! Coi chừng!

Tiết Thước chợt tỉnh ngọộ, vội lùi lại một bước, trỏ vào cây lớn trước mặt. Trình Linh Tố buông tiếng thở dài, rút cây ngân trâm cài đầu cắm tờ hoa tiên vào. Cô giơ tay lên một cái, phóng cây trâm ghim trên thân cây.

Hồ Phỉ thấy cô xuất thủ, công phu không phải tầm thường, bụng bảo dạ:

– Không ngờ cô gái bé nhỏ gầy nhom này cùng ba người kia lại là huynh muội đồng môn.

Nhờ ánh sáng ngọn nến trong tay Trình Linh Tố, chàng nhìn rõ trên tờ giấy viết:

“Huấn dụ cho Trình Linh Tố được Sau khi ta chết rồi, ngươi lập tức báo cáo cho sư huynh sư tỷ. Trong ba người đó, nếu ai còn nghĩ đến lão tăng thì người cho coi cuốn Dược vương thần biên, còn ai không tỏ chút đau buồn tưởng nhớ là đã hết tình nghĩa, không phải đồ đệ của ta. Nhất thiết ngươi phải nghe theo lời di chúc này. Tăng Vô Sân tuyệt bút”.

Mộ Dung Cảnh Nhạc, Khương Thiết Sơn, Tiết Thước cả ba người xem những lời huấn dụ rồi ngơ ngác nhìn nhau. Ai cũng nghĩ thầm:

– Ta chỉ nghĩ đến di vật của sư phụ. Còn sư phụ cớ sao mà qua đời thì chẳng thèm hỏi đến một câu, lại không tỏ chút tình bi thương đau xót nào cả.

Cả ba người chỉ ngây người ra trong một thoáng, rồi đột nhiên quát to một tiếng, cùng nhảy xổ vào Trình Linh Tố.

Hồ Phỉ la hoảng:

– Linh cô nương, coi chừng!

Chàng phi thân vọt ra, thấy song chưởng của Tiết Thước đánh tới trước mặt Trình Linh Tố, vội vận chưởng lực phản kích. Đơn chưởng đối với song chưởng đụng nhau đánh ầm một tiếng, Tiết Thước bị hất ra xa ngoài hai trượng. Tay mặt chàng lập tức xoay lại như móc câu nắm lấy cổ tay Khương Thiết Sơn, vận dụng “Loạn hoàn quyết” trong Thái Cực quyền rồi mượn đà ném một cái. Thân hình to lớn và mập ú của Khương Thiết Sơn bay đi còn xa hơn cả Tiết Thước, rồi té huỵch xuống đất.

Nguyên hai người này tuy giỏi về nghề hạ độc nhưng võ công chưa phải là hạng nhất lưu cao thủ. Chàng quay lại toan đối phó với Mộ Dung Cảnh Nhạc thì thấy người lão lảo đảo hai cái rồi đột nhiên té xuống, không dậy được nữa.

Tiết Thước hỏi:

– Tiểu sư muội! Sư muội mai phục sẵn một tay trợ thủ rất lợi hại. Tên tiểu tử này là ai vậy?

Hồ Phỉ đáp ngay:

– Tại hạ họ Hồ tên Phỉ. Hiền phu phụ có điều chi cứ kiếm tại hạ mà hỏi…

Trình Linh Tố giậm chân hỏi:

– Ngươi nói cái gì vậy?

Hồ Phỉ sửng sốt. Lại thấy Khương Thiết Sơn lồm cồm đứng dậy. Hai vợ chồng nhìn Hồ Phỉ một cái rồi lập tức dắt tay nhau chạy ra khỏi rừng cây.

Chương 10: Thất tâm hải đường

Trình Linh Tố tắt cây nến, lẳng lặng bỏ vào bọc, không nói một lời.

Hồ Phỉ hỏi:

– Linh cô nương! Còn vị lệnh huynh là Mộ Dung Cảnh Nhạc thì tính sao đây?

Trinh Linh Tố chỉ “hứ” một tiếng chứ không trả lời. Sau một lúc, Hồ Phỉ lại hỏi nhưng Trình Linh Tố lại “hứ” chứ chẳng nói gì.

Hồ Phỉ khẽ hỏi:

– Sao? Trong lòng cô nương khó chịu lắm ư?

Trình Linh Tố buồn rầu đáp:

– Tiểu muội đã dặn dò mà đại ca chẳng để tâm một câu nào.

Hồ Phỉ sửng sốt, chợt nhớ lại nàng đã có ba điều giao ước mà mình không tuân thủ. Chàng tự nhủ:

– Cô dặn ta không được nói với ai mà ta chẳng những đã nói với họ lại còn khai cả họ tên ra. Cô dặn ta không được động võ thì ta đã đánh hai người. Cô bảo ta không được dời xa cô ba bước, mà ta, chậc, lại xa cô đến mười bước…

Hồ Phỉ càng nghĩ càng hối hận, chàng nói:

– Tại hạ thực có điều lầm lỗi. Vì thấy ba người kia hung dữ quá chỉ sợ họ làm tổn thương đến cô nương, trong lúc vội vã, tại hạ quên sạch những lời dặn dò.

Trình Linh Tố cười hích hích, thanh âm trở lại ôn hòa, cô nói:

– Thế ra đại ca hoàn toàn vì tiểu muội! Bản thân mình quên sạch sành sanh, lại đi đổ lỗi cho người khác thực khôn ngoan quá! Hồ đại ca, sao đại ca lại báo họ tên với người ta? Đôi vợ chồng nhà này thù dai lắm. Họ sẽ theo dõi đại ca như âm hồn bất tán, bám riết không tha. Ngoài sáng họ không đánh lại đại ca thì sẽ ngấm ngầm hạ độc. Họ có trăm phương nghìn kế xuất quỷ nhập thần, đại ca khó mà đề phòng cho xiết được.

Hồ Phỉ nghe cô nói không khỏi sởn da gà, biết rằng lời nói cô không phải là khoa trương cường điệu, nhưng chuyện đã lỡ rồi, có sợ hãi cũng vô ích.

Trình Linh Tố lại hỏi:

– Sao đại ca nói họ tên cho vợ chồng y biết?

Hồ Phỉ chỉ cười mát chứ không trả lời. Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca đánh hai người rồi sợ họ kiếm tiểu muội trả thù phải không? Đại ca muốn tự mình gánh hết trách nhiệm. Hồ đại ca, sao đại ca lại tốt với tiểu muội như vậy?

Hồ Phỉ đáp bằng giọng rất thành khẩn:

– Cô nương đã tử tế với tại hạ, giúp tại hạ tránh được nguy nan. Lấy tấm lòng đối đãi nhau dĩ nhiên tại hạ phải coi cô là hảo bằng hữu.

Trình Linh Tố rất cao hứng cười hỏi:

– Đại ca coi tiểu muội là hảo bằng hữu thực ư? Vậy tiểu muội hãy cứu mạng đại ca rồi hẵng nói.

Hồ Phỉ kinh hãi hỏi:

– Sao?

Trình Linh Tố đáp:

– Bật lửa lên. Cái đèn lồng đâu rồi?

Cô cúi xuống tìm cái đèn lồng mà Tiết Thước còn bỏ lại, nhưng trời tối quá không tìm thấy. Chẳng hiểu mụ bỏ nó trong bụi cỏ nào.

Hồ Phỉ hỏi:

– Trong bọc cô hãy còn nửa khúc nến đó thôi?

Trình Linh Tố vừa cười vừa hỏi lại:

– Hồ đại ca có muốn bảo toàn tính mạng hay không? Cây nến đó là dùng chất “Thất tâm hải đường” chế ra đấy… à, à nó đây rồi!

Cô mò được cái đèn lồng trong bụi cỏ, quẹt lửa châm vào. Trong rừng tối một vầng ánh sáng vàng nhạt lập tức tỏa ra, bao phủ lấy hai người. Hồ Phỉ đã nghe vợ chồng Khương Thiết Sơn và Mộ Dung Cảnh Nhạc nhắc tới mấy lần bốn chữ “Thất tâm hải đường”, dường như đó là một độc vật cực kỳ lợi hại.

Dưới ánh đèn lồng, Mộ Dung Cảnh Nhạc vẫn nằm phủ phục dưới đất không nhúc nhích, tựa hồ một xác chết. Hồ Phỉ chợt tỉnh ngộ “à” lên một tiếng rồi nói:

– Nếu tại hạ không ra tay lỗ mãng thì vợ chồng Khương Thiết Sơn cũng bị cô nương chế phục rồi.

Trình Linh Tố mỉm cười đáp:

– Đại ca có một phần hảo tâm vì tiểu muội. Hồ đại ca, tiểu muội phải ghi nhớ món ân tình đó.

Hồ Phỉ nhìn cô vóc người nhỏ nhắn, gió thổi muốn bay thì trong lòng hổ thẹn, nghĩ thầm:

– Cô này còn nhỏ hơn ta mấy tuổi mà mưu kế sâu xa. Ta tự phụ thông minh thật là uổng, so với cô chưa được nửa phần.

Bây giờ chàng mới hiểu rõ đạo lý bên trong của vụ này. Cây nến của Trình Linh Tố làm bằng chất kịch độc, thắp lên rồi vẫn chẳng có mùi vị, lại không phun khói đặc, vì thế bọn Mộ Dung Cảnh Nhạc ba người đều là những đại hành gia về sử độc cũng bị rơi vào bẫy mà không phát giác được. Nếu chàng không ra tay thì vợ chồng Khương Thiết Sơn còn phải ngửi phải độc khí ở cây nến thêm một ít nữa rồi cũng ngất đi. Nhưng lúc ấy hai người cùng giáp công Trình Linh Tố, ra tay tàn độc, e rằng chúng chưa ngất đi cô đã bị bại rồi.

Trình Linh Tố dường như đã đoán ra ý nghĩ của chàng, liền nói:

– Đại ca thử đụng đầu ngón tay vào vai áo tiểu muội coi.

Hồ Phỉ không hiểu cô có dụng ý gì, nhưng cũng khẽ đặt ngón tay trỏ lên vai cô. Đột nhiên chàng cảm thấy ngón tay như bị bỏng lửa, bất giác toàn thân giật bắn lên.

Trình Linh Tố thấy tình trạng chàng rất tội nghiệp, liền cười ngặt nghẽo một trận rồi nói:

– Vợ chồng y mà nắm lấy áo tiểu muội thì cũng được nếm mùi vị này.

Hồ Phỉ giơ ngón tay trỏ lên không, vẫy mấy lần đảo mấy vòng vẫn chưa hết đau, liền hỏi:

– Cái cô này! Trên áo cô bỏ thứ thuốc gì mà độc ghê gớm vậy?

Trình Linh Tố đáp:

– Đó là “Xích yết phấn”, song cũng chưa đáng kể vào đâu.

Hồ Phỉ giơ ngón tay trỏ soi gần vào đèn lồng thấy nổi lên những bọt nhỏ, bèn nghĩ thầm:

– Trong bóng tối may mà ta chưa chạm vào áo cô, không thì nguy to.

Trình Linh Tố nói:

– Hồ Đại ca! Đại ca đừng trách tiểu muội lừa đại ca vào bẫy. Tiểu muội muốn cho đại ca hay để lần sau có chạm trán mấy vị sư huynh sư tỷ này thì phải cẩn thận để phòng. Võ công của đại ca dĩ nhiên cao hơn bọn họ nhiều, nhưng đại ca thử nhìn lại bàn tay coi.

Hồ Phỉ xòe bàn tay xem, không thấy có gì khác lạ. Trình Linh Tố nói:

– Đại ca cứ đến gần lồng đèn mà xem cho kỹ.

Hồ Phỉ xòe bàn tay ra trước đèn lồng thấy có một lớp hắc khí ẩn, trong lòng kinh hãi, hỏi:

– Bọn… bọn họ đã luyện qua “Độc sa chưởng” rồi ư?

Trình Linh Tố bình thản đáp:

– Đã là đệ tử của Độc Thủ Dược Vương, thì lẽ nào lại không luyện “Độc sa chưởng”?

Hồ Phỉ “à” lên một tiếng rồi hỏi:

– Té ra tôn sư Vô Sân đại sư mới chính là Độc Thủ Dược Vương. Lão nhân gia qua đời rồi ư? Sao mấy vị sư huynh sư tỷ của cô nương lại vô tình bất nghĩa đến thế?

Trình Linh Tố khẽ buông tiếng thở dài. Cô bước tới cây đại thụ nhổ cành ngân châm cùng mũi Thấu cốt đinh và hai tờ huấn dụ của sư phụ cất vào áo. Bây giờ trên tờ dụ thứ nhất có ánh sáng, nét đã nhạt đi, không còn thấy gì, chỉ còn lộ hai hàng chữ đen “Trì danh bất cụ”.

Hồ Phỉ hỏi:

– Tờ giấy này có phải do cô nương viết ra hay không?

Trình Linh Tố đáp:

– Phải! Đại sư huynh có nhiều thủ bút sao lục dược kinh ở nơi sư phụ, nên tiểu muội quen nét chữ của y lắm. Có điều mấy hàng chữ này tiểu muội chưa học đến nơi, nó chỉ giống về hình thức chứ chưa đạt về tinh thần. Thư pháp của y nổi tiếng là cứng cáp tuấn dật.

Hồ Phỉ tuy võ công cao cường, nhưng từ thuở nhỏ không ai dạy đọc sách, đối với những thứ thư pháp gì đó chàng chẳng hiểu chút gì, cho nên nghe cô nói vậy, chẳng tiếp thu được câu nào.

Trình Linh Tố lại nói:

– Trước nay sư phụ vẫn dùng loại nước phèn sa đã qua ba lần luyện để viết thủ dụ (lời huấn dụ viết trên giấy). Khi có ánh đèn soi vào mới nổi chữ lên. Tiểu muội dùng tủy xương hổ bôi đi một lượt, trong đêm tối nó mới phát ra ánh sáng lấp loáng. Đại ca hãy coi đây.

Cô tắt đèn đi, quả nhiên trên mặt giấy lấp loáng hiện ra bút tích của phụ trong tờ thủ dụ. Khi thắp đèn lồng lên, nét chữ sáng lại mất hết, chỉ còn lại hàng chữ ngắn ngủi của Trình Linh Tố. Hàng chữ này viết xen kẽ vào giữa hai hàng của tờ thủ dụ, vì thế mà trên cùng một tờ giấy, khi có ánh sáng thì ra những chữ của Trình Linh Tố, mà trong bóng tối lại hiện ra những lời thủ dụ.

Dù chẳng có gì ly kỳ bí kiểm, nhưng bọn Mộ Dung Cảnh Nhạc đang để hết tinh thần vào việc kịch đấu, đột nhiên nhìn thấy thủ dụ của sư phụ xuất hiện ở trên cây, làm sao không khỏi giật mình kinh hãi? Trình Linh Tố cầm cây nến đi ra, trong lúc nhất thời, bọn họ chỉ nghĩ tới pho “Dược Vương thần biên” của sư phụ để lại. Dù có thận trọng đến đâu, họ cũng không đề phòng cây nến ở trên tay cô tỏa ra hơi độc.

Những chuyện kỳ bí được phanh phui từng điều một khiến Hồ Phỉ tỉnh ngộ, trên mặt lộ vẻ vui mừng.

Trình Linh Tố cười hỏi:

– Đại ca đã trúng “Độc sa chưởng”, mà sao còn cao hứng như vậy?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Cô nương đã hứa lời cứu mạng cho tại hạ. Có cao đồ của Dược Vương ở đây thì tại hạ còn lo gì nữa.

Trình Linh Tố nhoẻn miệng cười, đột nhiên cô thổi mạnh một hơi tắt đèn lồng, rồi đi tới bên cái giỏ. Chỉ nghe mấy tiếng lách cách khẽ vang lên, không hiểu cô bắt vật gì ở trong giỏ. Sau một lúc cô trở lại thắp đèn lồng lên. Trước mắt Hồ Phỉ sáng lòa. Chàng thấy cô đã đổi một bộ quần lam áo trắng.

Trình Linh Tố cười nói:

– Quần áo này không có độc phấn, đại ca khỏi hồi hộp. Chỉ sợ đại ca không cẩn thận chạm phải quần áo của tiểu muội.

Hồ Phỉ thở phào một cái nói:

– Việc gì cô nương cũng lo nghĩ rất chu đáo. Cái tuổi của tại hạ đúng là sống trên lưng chó, chỉ cần có được một phần trí thông minh của cô nương tưởng cũng đã hay lắm rồi.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội học cách dùng độc, suốt ngày phải suy nghĩ tính toán hạ độc cách nào cho người ta không phát giác, lại còn đề phòng người ta hạ độc ngược lại mình. Tiểu muội phải vắt nát óc để suy nghĩ những chuyện này, chậc, bì thế nào được với đại ca tâm trí thảnh thơi, thênh thang như trời cao biển rộng?

Cô nói rồi khẽ buông tiếng thở dài. Cô kéo tay mặt Hồ Phỉ, dùng cây ngân châm đâm một lỗ nhỏ trên từng ngón tay của chàng. Cô lại dùng hai ngón tay cái vuốt từ lòng bàn tay đến ngón tay chàng cho huyết dịch theo các lỗ nhỏ chảy ra, quả nhiên máu đã tím đen, cô châm kim rất vừa vặn bộ vị nên chàng chẳng thấy đau đớn chi hết. Ngón tay cô nặn máu rất nhẹ nhàng khéo léo. Chẳng bao lâu máu đổi thành màu hồng tươi.

Đúng lúc ấy, Mộ Dung Cảnh Nhạc đột nhiên cử động. Hồ Phỉ nói:

– Lão đã tỉnh lại rồi kìa!

Trình Linh Tố đáp:

– Chưa tỉnh nổi đâu, ít ra phải ba giờ nữa.

Hồ Phỉ nói:

– Vừa rồi tại hạ gánh lão đi thì lão như người chết nên tại hạ chẳng biết chi hết. Lão đã cứng đờ đúng như xác chết cứng đờ, còn tại hạ ngu ngốc đúng là thực sự ngu ngốc.

Trình Linh Tố mỉm cười đáp:

– Đại ca cứ mồm năm miệng mười bảo mình ngu ngốc, thì đúng là chẳng ngu ngốc tí nào.

Sau một lúc, Hồ Phỉ lại hỏi:

– Các vị đó nhắc lại cuốn “Dược Vương thần biên” gì đó, phải chăng là một pho sách thuốc?

Trình Linh Tố đáp:

– Phải rồi! Gia sư đã hao phí tâm huyết một đời người mới làm ra được bộ sách này. Tiểu muội lấy cho đại ca coi!

Cô liền thò tay vào trong áo trước ngực lấy cái bọc nhỏ, mở tấm vải dầu bọc ngoài. Bên trong còn lần giấy dầu nữa rồi mới đến một cuốn sách giấy vàng dài sáu tấc, rộng bốn tấc. Trình Linh Tố dùng cây ngân châm để tật trang sách. Bên trong đầy những chữ viết theo lối tiểu khải to bằng đầu ruồi. Không cần nói cũng biết những trang sách này đều có chất kịch độc. Người nào không biết cứ sờ tay vào lật là lập tức trúng độc, hôn mê ngay.

Hồ Phỉ thấy cô đối với mình hết mực chân thành, cả những điều bí mật trọng đại cũng không giấu giếm, nên trong lòng rất hoan hỷ. Có điều nhìn thấy bộ độc kinh chàng không khỏi sởn da gà, dường như chàng hiểu rằng xem nhiều đôi mắt có thể bị trúng độc, bất giác đem lòng úy kỵ.

Trình Linh Tố lại gấp sách bọc cẩn thận cất vào áo rồi lấy ra một cái bình màu vàng, đổ một chút phấn xoa vào những lỗ kim châm trên ngón tay Hồ Phỉ. Cô nắm bóp đốt xương tay mấy cái, bột phấn liền theo lỗ kim châm thấm vào.

Hồ Phỉ cả mừng nói:

– Đại quốc thủ! Thần kỹ này suốt đời tại hạ chưa từng thấy qua.

Trình Linh Tố cười nói:

– Cái đó ăn thua gì? Nếu đại ca thấy gia sư mổ bụng người, tiếp cốt nối gân mới đáng gọi là thần kỹ.

Hồ Phỉ bỗng la lên:

– Phải rồi! Tôn sư tuy giỏi dùng độc nhưng chắc cũng giỏi trị bệnh cứu người, không thì tại sao người ta lại tôn là “Dược Vương”?

Trình Linh Tố lộ vẻ hân hoan đáp:

– Nếu sư phụ được nghe đại ca nói mấy câu này chắc lão nhân gia hoan hỷ lắm và sẽ bảo đại ca là thiếu niên tri kỷ. Hỡi ôi! Đáng tiếc lão nhân gia đã qua đời.

Cô nói tới đây bất giác vành mắt đỏ hoe.

Hồ Phỉ nói:

– Lệnh sư tỷ lưng còng bảo sư phụ có lòng thiên ái, chỉ thương yêu tiểu đồ đệ. Y nói thế không phải là quá đáng. Tại hạ nhận ra chỉ có một mình cô nương là thương nhớ đến sư phụ.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiên sư bình sinh thu nhận bốn đồ đệ, mà tối nay đại ca đã gặp hết. Mộ Dung Cảnh Nhạc là đại sư huynh. Khương Thiết Sơn là nhị sư huynh. Tiết Thước là tam sư tỷ. Sư phụ định không thu nhận thêm đồ đệ nữa, nhưng thấy ba vị sư huynh sư tỷ làm nhiều chuyện sai quấy, lão nhân gia sợ sau khi người trăm tuổi, không ai kiềm chế được ba người này để họ mặc sức làm càn, gây chuyện hại người không ít, nên lúc lão nhân gia tuổi già lại thu tiểu muội làm ấu đồ.

Cô dừng lại một chút rồi tiếp:

– Bản tính của ba vị sư huynh sư tỷ nguyên trước không đến nỗi tệ hại. Chỉ vì tam sư tỷ thành hôn với nhị sư huynh rồi, mà đại sư ca kết mối thâm thù. Ba người chẳng ai chịu nhường ai, về sau càng đi đến chỗ không sao vãn hồi được nữa.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Có phải đại sư huynh của cô nương cũng muốn lấy tam sư tỷ không?

Trình Linh Tố đáp:

– Những việc xảy ra lâu rồi, tiểu muội không nhớ rõ. Chỉ biết đại sư ca đã có sư tẩu, tam sư tỷ lại yêu mến đại sư ca nên liền đánh thuốc độc cho sư tẩu chết đi.

Hồ Phỉ “ủa” một tiếng, cảm thấy học công phu dùng độc lợi ít mà hại nhiều, tự nhiên người tử tế biến thành người tàn nhẫn.

Lại nghe Trình Linh Tố nói tiếp:

– Đại sư ca tức quá, cho tam sư tỷ uống thứ độc dược thành lưng gù, chân què. Nhị sư ca ngấm ngầm thương yêu tam sư tỷ, tuy mụ đã thành tàn phế, y cũng không đem lòng rẻ rúng mà kết hôn với mụ. Không hiểu tại sao sau khi hai người thành hôn, đại sư ca lại nhớ đến những điểm tốt của tam sư tỷ nên đâm ra quấn quít với mụ. Gia sư bị ba người làm cho phiền não, nhưng có giáo huấn cách nào đi nữa, ba người vẫn lằng nhằng mắc mứu mãi không sao gỡ ra được. Nhị sư ca là người tương đối chính phái, đối với vợ con chung thủy một lòng. Hai người đến bên hồ Động Đình dùng sắt đúc một tòa Dược Vương trang. Ngoài trang còn trồng thứ “Huyết nụy lật” để đề phòng đại sư ca gây rắc rối. Về sau vợ chồng y gây nhiều thù oán trên chốn giang hồ, tòa Dược Vương trang lại biến thành nơi ẩn lánh của họ.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Té ra là thế. Thảo nào trên chốn giang hồ người ta đồn đại về Độc Thủ Dược Vương mỗi người một khác. Người thì bảo Dược Vương là lão nho sinh, kẻ lại nói Dược Vương là đại hán thô hào, có người bảo là một mụ đàn bà lưng gù, lại còn có người nói là một lão hòa thượng.

Trình Linh Tố đáp:

– Độc Thủ Dược Vương chân chính thực ra không phải là ai trong số những người đó cả. Gia sư vốn không thích cách xưng hô này. Lão nhân gia bảo “Ta sử dụng độc vật là để trị bệnh cứu người. Ai gọi ta là “Dược Vương”, ta lấy làm hổ thẹn không dám nhận. Bên trên thêm hai chữ “Độc Thủ” thì hóa ra lão hòa thượng Vô Sân này có thể tùy tiện giết người hay sao?”. Vì gia sư nổi danh sử  dụng độc vật, mà ba vị sư huynh sư tỷ lại lạm dụng quá mức, có khi hại lắm người tử tế nên bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” đồn đại vang dội trên chốn giang hồ. Gia sư không cho ba vị sư huynh sư tỷ tiết lộ họ tên cùng lai lịch của người. Do đó, ở đâu có xảy ra vụ án mạng hạ độc ly kỳ, người ta cũng đổ lên đầu bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương”. Đại ca bảo có oan uổng hay không?

Hồ Phỉ hỏi:

– Lẽ ra tôn sư nên ra mặt biện minh cho thiên hạ biết!

Trình Linh Tố thở dài đáp:

– Vụ này biện minh hay không cũng…

Cô nói tới đây thì đã nắn bóp và buộc thuốc xong cho năm ngón tay Hồ Phỉ. Cô đứng dậy nói tiếp:

– Đêm nay chúng ta còn lại hai việc khẩn yếu phải làm. Nếu không…

Đột nhiên cô ngưng nói miệng tủm tỉm cười.

Hồ Phỉ nói theo:

– Nếu tại hạ không làm trái lời cô nương thì hai việc này dễ dàng quá rồi, nhưng hiện giờ không khỏi tốn công rất nhiều.

Trình Linh Tố cười đáp:

– Đại ca biết vậy là hay. Chúng ta đi thôi.

Hồ Phỉ trỏ vào Mộ Dung Cảnh Nhạc nằm dưới đất hỏi:

– Lại mời ông bạn này vào giỏ hay sao?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Xin phiền đại ca.

Hồ Phỉ liền xách Mộ Dung Cảnh Nhạc bỏ vào trong giỏ, quảy trên vai gánh đi. Trình Linh Tố đi trước dẫn đường tiến về phía tây nam. Đi chừng ba dặm thì đến trước căn nhà nhỏ. Cô cất tiếng gọi:

– Vương đại thúc! Đi thôi!

Một hán tử toàn thân đen sì quảy gánh, mở cửa bước ra. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Lại thêm một chuyện kỳ quái nữa đây.

Nhưng chàng đã kịp rút kinh nghiệm không dám hỏi nhiều, cứ cắm cúi theo sau Trình Linh Tố không dời xa cô ba bước. Trình Linh Tố quay lại mỉm cười tỏ ý khen ngợi. Hán tử kia theo sau hai người không nói nửa lời. Trình Linh Tố quay về phía bắc. Hết canh tư thì ba người tới ngoài Dược Vương trang.

Cô lấy trong giỏ ra ba bó hoa lam lớn, chia cho Hồ Phỉ và hán tử mỗi người một bó. Ba người vượt qua hàng cây Huyết nụy lật, đến gần tòa nhà tròn bằng sắt đúc. Trình Linh Tố cất tiếng hỏi:

– Nhị sư ca! Tam sư tỷ! Có mở cửa cho không?

Cô hỏi ba câu vẫn không thấy trong tòa nhà có phản ứng gì, liền nhìn hán tử gật đầu. Hán tử đặt gánh xuống. Một đầu đòn gánh là cái bễ thợ rèn. Hán tử thổi bễ đốt than đỏ, để làm cho thép chảy ra. Đúng là một gã thợ rèn. Hồ Phỉ trông thấy lấy làm kỳ quái.

Chỉ trong khoảnh khắc, hán tử đã nung sắt chảy ra nước rồi sờ kẽ nứt trên nóc nhà sắt mà rưới vào. Té ra đây là cửa sổ thông gió, bây giờ đã bị gắn kín lại. Khương Thiết Sơn, Tiết Thước tuy ở trong nhà nhưng úy kỵ Trình Linh Tố nên không dám ra ngăn cản.

Trình Linh Tố thấy những kẽ hở trong tòa nhà sắt mười phần đã bịt kín đến tám, chín. Người trong nhà chẳng còn cách nào đột phá vòng vây để ra được nữa. Cô liền nhìn Hồ Phỉ vẫy tay. Hai người vượt qua đầu cây Huyết nụy lật, rồi tiến về phía tây bắc mấy chục trượng, chỉ thấy toàn những tảng đá lớn nằm ngổn ngang trên mặt đất.

Trình Linh Tố vừa cất bước vừa đếm. Cô đi về phía bắc mấy bước lại qua hướng tây mấy bước rồi nói khẽ:

– Đây rồi!

Cô thắp đèn lồng lên soi thì thấy giữa hai tảng đá có một cái huyệt động lớn bằng miệng bát. Trên động lại có một tảng đá gác lên. Trình Linh Tố khẽ nói:

– Đây là lỗ thông hơi của họ.

Cô thắp nửa cây nến còn lại, đặt ở cửa động rồi cùng Hồ Phỉ lùi ra xa đứng trông. Cây nến được thắp lên rồi, những tỉa khói nhẹ mầu nhạt theo làn gió hiu hiu lan tỏa vào trong động. Hồ Phỉ nhìn tình trạng này đem lòng kính sợ thủ đoạn của Trình Linh Tố. Chàng nghĩ bụng không hiểu những người trong nhà sắt hít phải khói độc này liệu còn sống được chăng, bất giác không khỏi nảy lòng lân mẫn.

Chàng tự nhủ:

– Làn khói nhẹ này khó mà phát giác được, dù cho kịp thời phát giác thì lỗ thông hơi đã bị bít rồi, sẽ bị nghẹt thở mà chết, chỉ khác nhau ở chỗ chết mau hay chết chậm mà thôi. Chẳng lẽ ta nhìn thấy hành động tàn độc tuyệt diệt toàn gia mà không ra tay ngăn cản?

Lại thấy Trình Linh Tố cầm cái quạt nhỏ khẽ quạt cho làn khói nhẹ theo khe hở bay cả vào trong huyệt động. Hồ Phỉ không nhịn được nữa đứng phắt dậy hỏi:

– Linh cô nương! Giữa sư huynh sư tỷ và cô có mối thù không cởi được hay sao?

Trình Linh Tố đáp:

– Không có đâu.

Hồ Phỉ lại hỏi:

– Phải chăng lệnh sư để di mệnh sai cô nương thanh lý môn hộ?

Trình Linh Tố đáp:

– Hiện giờ chưa tới mức này.

Hồ Phỉ ngập ngừng:

– Thế thì… thế thì…

Trong lòng quá xúc động, chàng không biết hỏi sao nên nhất thời không thốt ra được lời nào.

Trình Linh Tố quay đầu lại hờ hững hỏi:

– Chuyện gì vậy? Sao đại ca có vẻ cấp bách như thế?

Hồ Phỉ định thần lại đáp:

– Nếu lệnh sư ca, sư tỷ… chưa đến mức phạm tội đại ác không giết không được, thiết tưởng cô nương cũng nên mở cho họ một con đường để họ cải ác tòng thiện.

Trình Linh Tố nói:

– Phải rồi! Gia sư cũng bảo vậy.

Cô dừng lại một chút rồi tiếp:

– Đáng tiếc đại ca chưa gặp được gia sư, không thì một già một trẻ nhất định ý hợp tâm đầu.

Miệng cô nói mà tay vẫn không ngớt quạt khói.

Hồ Phỉ gãi đầu, trỏ vào cây nến, ngập ngừng hỏi:

– Khói độc này… khói độc này có làm chết người không?

Trình Linh Tố đáp:

– Ủa! Té ra Hồ đại ca của chúng ta phát tâm đại từ bi. Tiểu muội đang muốn cứu mạng người chứ không phải làm việc thương thiên hại lý.

Cô nói rồi quay lại nhoẻn miệng cười, vẻ mặt rất yêu kiều khả ái. Hồ Phỉ đỏ mặt lên, tự thẹn vì mình lại làm thêm một trò ngu ngốc. Tuy chàng không hiểu tại sao quạt khói độc vào lại là cứu người, nhưng trong lòng chàng cũng cảm thấy cực kỳ khoan khoái.

Trình Linh Tố đưa ngón út ra, dùng móng tay khắc vào cây nến một vết, rồi bảo Hồ Phỉ:

– Đại ca coi chừng giùm đừng để gió thối tắt cây nến. Khi nào cháy tới đường vạch là thổi tắt nến đi.

Cô đưa cây quạt cho Hồ Phỉ, đứng lên quan sát bốn mặt lắng nghe động tĩnh. Hồ Phỉ bắt chước theo cô, khẽ quạt khói vào huyệt động, Trình Linh Tố đi quanh một vòng ở ngoài xa hơn mười trượng không thấy có gì khác lạ. Cô ngồi xuống một tảng đá tròn, nói:

– Người dẫn chó sói đến xéo nát vườn hoa của tiểu muội đêm ấy là con trai của nhị sư ca tên là Tiểu Thiết.

Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng hỏi:

– Gã cũng ở dưới này ư?

Chàng vừa nói vừa trỏ vào lỗ thông hơi trong kẽ đá.

Trình Linh Tố cười đáp:

– Phải rồi! Chúng ta phải phí công phu mới cứu gã được. Trước hết làm cho sư ca sư tỷ ngất đi thì hành động mới không vướng bận chân tay.

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng bụng bảo dạ:

– Té ra là thế.

Trình Linh Tố nói tiếp:

– Nhị sư ca và tam sư tỷ có một kẻ đối đầu họ Mạnh. Hắn đến Động Đình hồ đã nửa năm, kiệt tận tâm cơ mà không sao giải được chất độc ở cây Huyết nụy lật, nên không đánh vào được Dược Vương trang. Hai kẻ chết bên bờ Động Đình hồ, mười phần hết chín là người của Mạnh gia. Giống hoa lam do tiểu muội trồng là một thứ khắc tinh của Huyết nụy lật. Vợ chồng nhị sư ca vẫn không hay biết gì hết. Mãi đến lúc đại ca cùng Chung nhị gia cài hoa lam tiến vào mà không sợ chất độc, y mới kinh hãi mà phát giác ra.

Hồ Phỉ chợt nhớ điều gì nói:

– Phải rồi! Tại hạ cùng Chung nhị ca lúc tới nơi đây, văng vẳng nghe trong nhà sắt có tiếng người la hoảng chắc là vì thế.

Trình Linh Tố gật đầu đáp:

– Độc tính của giống Huyết nụy lật không có thuốc nào giải được, chỉ người nào thường ăn những hạt dẻ mới không bị chất độc ở cây dẻ xâm hại. May mà giống Huyết nụy lật tuy độc nhưng khó lòng hại được người và súc vật, vì lẽ nơi nào chỉ cần có một cây đã mọc lớn là trong vòng mười bộ cây cỏ không mọc được, sâu kiến cũng tuyệt tích, hễ nhìn là biết ngay.

Hồ Phỉ nói:

– Thảo nào xung quanh Dược Vương trang này không có lấy một tấc cỏ. Tại hạ đã bịt mõm hai con ngựa rồi mà cũng không tránh được chất độc. Nếu tại hạ không được cô nương tặng hoa lam…

Chàng nói tới đây lại nhớ đến những chuyện xảy ra không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ:

– Chả trách trên chốn giang hồ mỗi khi nhắc tới Độc Thủ Dược Vương ai cũng biến sắc. Chung nhị ca hết sức đề phòng chẳng phải là không có nguyên nhân.

Trình Linh Tố nói tiếp:

– Hoa lam của tiểu muội là một thứ giải dược được trồng thử, may mà đại ca không rẻ rúng, giữa đường không vứt đi.

Hồ Phỉ mỉm cười đáp:

– Thứ hoa này rất đẹp, trông rất thích mắt.

Trình Linh Tố nói:

– May mà hoa đẹp, nếu nó không đẹp chắc đại ca đã vất đi rồi, phải không?

Hồ Phỉ nhất thời không biết đáp thế nào, cứ ấp úng:

– Cái đó… cái đó…

Chàng nghĩ thầm:

– Giả tỷ đóa hoa lam đó mà xấu xí thì chưa chắc mình đã cất vào trong bọc? Phải chăng vì nhờ bông hoa xinh đẹp mới cứu được tính mạng mình và Chung nhị ca?

Ngay lúc đó, một trận gió thổi tới, Hồ Phỉ mải suy nghĩ, không đưa quạt ra che gió, ngọn nến chập chờn rồi tắt ngay. Chàng hốt hoảng khẽ la “Úi dà!” rồi vội móc hỏa tập toan quẹt lên thắp nến, bỗng nghe Trình Linh Tố ở trong bóng tối lên tiếng:

– Thôi được! Ngần đó cũng tạm đủ rồi.

Hồ Phỉ nghe giọng nói của cô có ý không vừa lòng, chàng tự trách: Cô bảo ta làm việc gì ta cũng không làm cho ra hồn, tựa hồ nước đổ đầu vịt.

Chàng cảm thấy áy náy bèn nói:

-Tại hạ thành thực xin lỗi. Chẳng hiểu tại sao đêm nay tại hạ cứ như người mất hồn.

Trình Linh Tố lẳng lặng không nói gì. Hồ Phỉ lại nói:

– Tại hạ đang nghĩ tới câu nói của cô, không ngờ lại có cơn gió đột ngột thổi đến. Linh cô nương, lúc cô cho hai bông hoa lam, tại hạ hoàn toàn không biết đó là vật cứu mạng, nhưng đã là vật mà người ta có lòng tốt tặng cho, dĩ nhiên mình phải trân trọng giữ gìn.

Trình Linh Tố nghe Hồ Phỉ nói giọng rất thành khẩn, bèn “à” một tiếng rồi không nói gì.

Trong bóng tối hai người ngồi đối diện một lúc. Hồ Phỉ lại lên tiếng:

– Tại hạ mồ côi cha mẹ ngay từ thuở nhỏ, hiếm khi được ai cho cái gì.

Trình Linh Tố đáp:

– Phải rồi! Tiểu muội cũng không có gia gia má má từ thuở nhỏ, chẳng phải vẫn sống được đến ngày nay đấy ư?

Nói xong, cô lại thắp đèn lồng lên rồi nói:

– Đi thôi!

Hồ Phỉ liếc mắt nhìn trộm thấy dường như cô không có ý tức giận, chàng không dám hỏi nữa, cứ việc lẽo đẽo theo sau. Hai người quay về đến trước nhà sắt, thấy gã thợ rèn ngồi dưới đất đang hút thuốc lá. Trình Linh Tố nói:

– Vương đại thúc! Phiền đại thúc đục những kẽ hở ra.

Những chỗ nàng chỉ đều là những chỗ lúc nãy nàng bảo gã thợ rèn bịt lại. Gã thợ rèn không hỏi gì cả, lấy búa và đục sắt đập choang choảng. Trong khoảng thời gian chừng ăn chưa xong một bữa cơm, hắn đã đục xong kẻ hở. Trình Linh Tố bảo hắn:

– Mở ra đi!

Người thợ rèn dùng búa sắt đục bên này mấy cái, bên kia mấy cái rồi lật ngược cái búa lại, dùng cán búa nạy lên. “Choang” một tiếng. Một tấm cửa sắt lớn rớt xuống để lộ cái cửa cao sáu thước rộng ba thước. Gã vươn tay đến mép cửa kéo ra một cái thang sắt nhỏ từ trên cửa thông vào bên trong. Trình Linh Tố nói:

– Chúng ta bỏ hoa lam ở bên ngoài.

Ba người cùng cầm các bó hoa lam bỏ xuống đất. Trình Linh Tố khoa chân toan theo thang sắt đi xuống, bỗng cô hít nhẹ một hơi rồi hỏi:

– Hồ đại ca! Sao trong mình đại ca còn hoa lam? Đừng đem vào trong nữa.

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng rồi móc trong bọc ra cái túi vải. Chàng vừa mở túi vừa nói:

– Mũi cô nương thính quá. Tại hạ để hoa trong bọc mà cô còn ngửi thấy.

Trong bọc vải đựng cả “Quyền kinh đao phổ” cùng những đồ vặt vãnh. Đóa hoa lam Trình Linh Tố cho chàng bỏ vào đây hằng nửa ngày, bây giờ đã héo khô. Hồ Phỉ lấy ra đặt cả xuống tấm cửa sắt.

Trình Linh Tố thấy chàng cất bông hoa trịnh trọng, biết những lời chàng vừa nói không phải là giả trá, trong lòng rất đỗi hoan hỷ, nhìn chàng nhoẻn miệng cười đáp:

– Đại ca quả không lừa gạt ai!

Hồ Phỉ ngơ ngác nghĩ bụng:

– Ta lừa gạt cô mà làm gì?

Trình Linh Tố trỏ vào tấm cửa của ngôi nhà sắt, nói:

– Người trong tòa nhà này ngày thường ăn Huyết nụy lật quen rồi. Hoa lam là khắc tinh khiến họ chịu không nổi.

Cô cầm đèn lồng tiến vào trong nhà. Hồ Phỉ cùng Vương Thiết Tượng cũng đi theo. Đi hết cây thang sắt thì đến một thông đạo hẹp, lại chuyển qua hai khúc quanh nữa thì tới một tòa tiểu sảnh đường. Trên tường treo những bức thư họa cùng câu đối. Bàn ghế trong nhà bằng trúc Tương Phi. Cách bài trí rất trang nhã.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Khương Thiết Sơn tướng mạo thô lỗ mà ở căn nhà như của một vị tú tài.

Trình Linh Tố chân không dừng bước đi thẳng vào phía sau. Hồ Phỉ theo cô vào đến căn phòng giống như nhà bếp. Cảnh tượng trước mắt khiến chàng giật mình kinh hãi: Khương Thiết Sơn và Tiết Thước nằm lăn dưới đất, không hiểu còn sống hay đã chết rồi. Lúc quạt khói ngọn nến chế bằng “Thất tâm hải đường” để khói bay vào chàng đã tiên liệu nhất định xảy ra tình trạng này nên chẳng lấy chi làm lạ. Lạ ở chỗ có một thanh niên ngồi ở trong chảo đầy nước nóng. Gã này thân thể lõa lồ, mà hơi nước trong chảo lại bốc lên nghi ngút, dù nước chưa sôi nhưng cũng nóng lắm, không chừng gã đã chết rồi.

Hồ Phỉ cất bước lại gần toan kéo thanh niên ra khỏi chảo nước thì Trình Linh Tố la lên:

– Đừng động vào gã! Đại ca xem thử… xem thử người gã còn có áo quần không đã?

Hồ Phỉ thò đầu nhìn vào trong chảo đáp:

– Y chỉ mặc một cái quần đùi.

Trình Linh Tố hơi đỏ mặt lên, cô gật đầu tiến lại gần sờ mũi gã, rồi nói:

– Đại ca cho thêm củi vào bếp!

Hồ Phỉ giật bắn người lên, nhìn lại thanh niên kia, nhận ra gã chính là kẻ đã dẫn bầy sói đến xéo nát vườn hoa lam. Đôi mắt gã nhắm nghiền, miệng há hốc ra, bộ ngực tráng kiện hãy còn thoi thóp. Quả nhiên gã chưa chết nhưng đã ngất đi không biết gì nữa. Chàng hỏi:

– Phải chăng y là Tiểu Thiết, con của hai người này?

Trình Linh Tố đáp:

– Phải, tệ sư ca và sư tỷ muốn trục độc khí ra khỏi người gã nhưng không có phấn hoa “Thất tâm hải đường” thì không trị được.

Bây giờ Hồ Phỉ mới yên lòng. Chàng thấy lửa trong bếp cháy yếu, liền chất thêm củi, nhưng vẫn sợ nước nóng quá, Tiểu Thiết không chịu nổi nên không dám cho nhiều. Trình Linh Tố cười nói:

– Cho thêm ít củi nữa, đun không kỹ, hầm thịt không chín được.

Hồ Phỉ theo lời lại bỏ mấy thanh củi nữa vào bếp. Trình Linh Tố thò tay vào trong chảo để coi nước nóng lạnh thế nào. Cô lấy trong bọc ra một bình thuốc nhỏ đổ chút phấn vàng ra bôi vào mũi Khương Thiết Sơn và Tiết Thước. Sau một lúc, hai người hắt hơi mấy cái rồi mở bừng mắt ra thấy Trình Linh Tố tay cầm gáo, múc nước nóng trong chảo đổ ra ngoài, rồi lại múc nước lạnh trong lu đổ vào chảo.

Hai vợ chồng Khương Thiết Sơn đưa mắt nhìn nhau. Ban đầu khi vừa tỉnh lại, hai người vừa kinh hãi vừa tức giận, nhưng sau lộ vẻ vui mừng biết rằng Trình Linh Tố đã ra tay giải cứu thì đứa con độc nhất của họ có thể thoát chết.

Hai người lẳng lặng đứng lên, không nói gì mà trong lòng nổi lên nhiều ý nghĩ khôn tả:

– Đứa con yêu của mình rõ ràng đã trúng phải độc thủ của y, bây giờ y lại đến giải cứu. Tạ ơn y là không đáng, nhưng nếu y không giải cứu thì con mình không sống được. Hơn nữa y chẳng qua chỉ là tiểu sư muội, còn nhỏ tuổi hơn cả thằng con mình. Ai ngờ sư phụ lòng dạ riêng tây, truyền thụ cho y một bản lĩnh cao thâm hơn vợ chồng mình. Cả một đêm bị y kiềm chế như người bị cột trói chân tay, không còn đất để trả đũa.

Trình Linh Tố thấy nước bốc hơi nhiều, lại lấy gáo múc nước nóng ra cho nước lạnh vào, để trục hết khí độc trong người Tiểu Thiết ra.

Trình Linh Tố đột nhiên nhìn lão thợ rèn họ Vương, nói:

– Nếu không động thủ thì không trả được thù.

Vương thợ rèn “vâng” một tiếng lượm một thanh củi nhằm đầu Khương Thiết Sơn bửa xuống.

Khương Thiết Sơn cả giận quát:

– Ngươi làm gì thế?

Hắn nắm lấy thanh củi toan đánh trả. Tiết Thước vội la lên:

– Thiết Sơn! Bữa nay chúng ta phải cầu cạnh sư muội mà không chịu nổi mấy đòn ư?

Khương Thiết Sơn thộn mặt ra, tức giận quát:

– Được!

Hắn buông tay ra. Vương thợ rèn cầm thanh củi đánh xuống. Khương Thiết sơn không né tránh cũng không đỡ gạt, lại nghênh đâu lên cho hắn đánh mạnh hơn.

Vương thợ rèn thóa mạ:

– Ngươi chiếm đoạt ruộng đất của lão gia, ép buộc lão gia phải đúc tòa nhà sắt này, lại còn đánh lão gia gãy ba rẽ xương sườn, phải nằm liệt giường hàng nửa năm. Quân chó đẻ kia, không ngờ lại có ngày nay!

Hắn thóa mạ một câu lại cầm thanh củi quật mạnh một cái. Hắn làm thợ rèn nện sắt đã gần mười năm. Tuy không hiểu võ công nhưng cánh tay hắn sức lực cực kỳ mãnh liệt, nên vừa quật một cái thanh củi cứng đã gãy đôi. Khương Thiết Sơn thủy chung không trả đòn, nghiến răng chịu đựng.

Hồ Phỉ nghe tên thợ rèn họ Vương thóa mạ biết là hắn đã bị vợ chồng Khương Thiết Sơn áp bức khổ sở. Bữa nay Trình Linh Tố xử đạo công bằng cho hắn trút hận. Đây là một hành động khiến lòng người khoan khoái.

Vương thợ rèn đánh gãy ba thanh củi, thấy Khương Thiết Sơn máu me đầy mặt, vẫn nghiến răng chịu đựng không rên một tiếng. Gã vốn là người lương thiện, nay thấy vậy đã hả được cơn giận. Tuy ngày trước bị cha con họ Khương đánh đập thê thảm hơn thế này nhiều, nhưng gã thấy trả đòn như vậy là đủ. Gã ném thanh củi đi, quay sang nhìn Trình Linh Tố chắp tay nói:

– Trình cô nương! Bữa nay cô nương giúp tại hạ trút được nỗi hận, ơn đức này tiểu nhân khó lòng báo đáp.

Trình Linh Tố đáp:

– Đại thúc bất tất phải đa lễ.

Cô quay lại hỏi Tiết Thước:

– Tam sư tỷ! Các vị trả lại ruộng đất cho Vương đại thúc, xin nể mặt tiểu muội mà đừng kiếm y để báo thù có được không?

Tiết Thước cất giọng trầm trầm đáp:

– Bọn ta vĩnh viễn không đặt chân vào tỉnh Hồ Nam nữa. Vả lại, hạng người này không đáng cho bọn ta phải để bụng làm gì.

Trình Linh Tố nói:

– Hay lắm! Vậy xin cứ thế. Vương đại thúc! Cứ về trước đi, ở đây không còn việc gì cho đại thúc nữa đâu.

Vương thợ rèn vẻ mặt hả hê, gã lượm nửa thanh củi gãy ở dưới đất lên, nghĩ bụng:

– Tên ác bá này ngày trước hành hạ lão gia rất thảm khốc. Nay lão gia giữ lại nửa thanh củi gãy này để làm vật kỷ niệm.

Gã nhìn Hồ Phỉ thi lễ rồi quay gót. Hồ Phỉ thấy gã vẻ mặt thuần hậu giống như một đứa trẻ con, chợt động tâm nhớ tới tấn thảm kịch ở miếu Bắc Đế trấn Phật Sơn. Ngày đó tên ác bá Phụng Thiên Nam bị chàng kiềm chế nên để mặc cho Chung A Tứ chửi mắng chứ không dám mở miệng nói một lời, thế mà chàng chỉ rời trong khoảng thời gian ngắn, cả nhà Chung A Tứ đã phải phơi thây giữa điện thờ. Nay vợ chồng Khương Thiết Sơn hung ác không kém gì Phụng Thiên Nam, bọn chúng vị tất đã giữ lời, chỉ e rằng khi Trình Linh Tố vừa đi khỏi là chúng lập tức hạ độc thủ với gã thợ rèn họ Vương.

Hồ Phỉ nghĩ đến đó, liền chạy ra cửa, gọi lớn:

– Vương đại thúc! Tại hạ có lời muốn nói.

Vương thợ rèn dừng bước quay lại nhìn chàng. Hồ Phỉ nói:

– Vương đại thúc! Vợ chồng họ Khương không phải là hạng người tử tế. Đại thúc nên bán gấp cửa nhà, ruộng đất mà đi cho xa, đừng chần chờ ở đây nữa. Thủ đoạn của bọn chúng rất tàn độc.

Vương thợ rèn ngẩn người ra, vì gã thấy quyến luyến chốn làng mạc mà gã đã ở gần chục năm. Gã hỏi:

– Bọn họ đã hứa lời vĩnh viễn không bước chân đến địa giới tỉnh Hồ Nam nữa kia mà?

Hồ Phỉ hỏi lại:

– Lời hứa của hạng người này mà tin được ư?

Vương thợ rèn tỉnh ngộ, đáp luôn miệng:

– Phải! Phải! Sáng mai tại hạ đi ngay!

Gã bước chân ra cửa còn quay lại hỏi:

– Thiếu hiệp quý tính là gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ họ Hồ.

Vương thợ rèn nói:

– Hay lắm! Hồ gia! Chúng ta có ngày tái ngộ. Hồ gia nên đối xử hết dạ với Trình cô nương.

Bây giờ đến lượt Hồ Phỉ sửng sốt. Chàng hỏi:

– Đại thúc bảo sao?

Vương thợ rèn cười ha hả đáp:

– Hồ gia, Vương thợ rèn này có ngu ngốc đâu, chẳng lẽ không thấy gì ư? Trình cô nương người đã thông minh, lòng dạ lại tử tế. Cái đó khỏi cần phải nói. Người ta đối với Hồ gia bằng cả tấm chân tình, vậy Hồ gia cũng nên nghe lời cô.

Dứt lời y lại nổi lên tràng cười ha hả. Hồ Phỉ nghe Vương thợ rèn nói biết là chắc có nguyên nhân nhưng không tiện hỏi nhiều nên chỉ ậm ừ cho qua chuyện rồi đáp:

– Hẹn ngày tái ngộ.

Vương thợ rèn nói:

– Hồ gia, hẹn ngày tái ngộ, hẹn ngày tái ngộ!

Rồi y quảy gánh lên đi luôn. Vương thợ rèn đi được mấy bước, đột nhiên cất giọng ồm ồm hát bản tình ca bên hồ Động Đình:

Tiểu muội tử đãi tình lang

Ân tình thâm

Nễ mạc phụ liễu muội tử

Nhất ban tình

Nễ kiến liễu tha điện thời

Yếu đãi tha hảo

Nễ bất kiến tha diện thời

Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải

tại tâm!

(Tiểu muội tử chờ tình lang

Tấm lòng chờ đợi chứa chan ân tình

Chàng ơi, chớ phụ cô mình

Gặp nhau hãy giữ ân tình cho nhau

Rủi mai nước chảy xuôi cầu

Tấc lòng canh cánh, nỗi sầu khôn khuây)

Giọng gã nghe ồ ồ như vịt đực, nhưng giữa đêm khuya thanh vắng, bài hát đó vẫn khiến người nghe bồi hồi tấc dạ. Hồ Phỉ đứng ngay cửa lắng nghe tiếng hát xa dần đến khi mất hẳn mới quay lại trong nhà bếp.

Khương Tiểu Thiết đã hồi tỉnh, đứng dưới đất. Toàn thân gã ướt đẫm nhưng đã khoác áo dài. Nhà họ Khương ba người đối với Trình Linh Tố vừa úy kỵ, lại vừa tức giận, nhưng đối với thần kỹ dùng thuốc của cô thì trong lòng hết sức khen ngợi. Cả ba đứng đó, vẻ mặt lạnh lùng, không nói lời cảm ơn mà cũng chẳng biểu lộ ý gì.

Trình Linh Tố lấy trong bọc ra ba nắm dược thảo khô màu trắng đặt trên bàn, nói:

– Khi các vị ra khỏi nhà, thế nào bọn người nhà họ Mạnh cũng theo dõi chặn đường. Đây là ba bó “Đề hồ hương” chế luyện bằng “Thất tâm hải đường” có thể đẩy lui địch, mà không phải giết người làm tăng thêm cừu hận.

Khương Thiết Sơn nghe nói thế, nỗi vui mừng lộ ra ngoài mặt. Hắn nói:

– Trình sư muội! Đa tạ sư muội đã giúp cho ta thật chu đáo.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Cô ta cứu mạng cho con hắn, hắn không có được một lời cảm ơn. Bây giờ có giúp hắn đẩy lui địch thủ hắn mới cảm ơn, đủ thấy kẻ địch rất là lợi hại. Nếu không thì tại sao cả nhà họ Khương đều là những tay anh hùng hảo hán, lại không đám dùng thủ đoạn hạ độc mà đành phải ru rú ẩn náu trong căn nhà sắt này?

Trình Linh Tố hỏi:

– Tiểu Thiết, hai người trúng chất kịch độc “Quỷ biển bức” có phải là người nhà họ Mạnh không? Ngươi hạ thủ tàn độc quá lắm!

Lúc cô nói, mắt không nhìn Tiểu Thiết. Khương Tiểu Thiết giật nảy người lên tự hỏi: “Sao y lại biết”. Gã ấp úng:

– Tiểu điệt… tiểu điệt…

Khương Thiết Sơn đỡ lời:

– Tiểu sư muội! Tiểu Thiết có lỗi lắm trong vụ này. Ngu huynh đã trách phạt gã rồi.

Hắn nói rồi lại vén áo Tiểu Thiết lên, xoay người gã lại, chỉ cho thấy trên lưng gã đầy vết roi lằn dọc lằn ngang, huyết sắc tím bầm, đều là những vết roi mới cả. Trình Linh Tố khi chữa độc cho gã đã thấy những lằn roi này, nhưng cô nghĩ đến việc hạ độc người khác bằng chất kịch độc không có thuốc giải là điều đại kỵ của bản môn, nên buộc phải nhắc lại. Sở dĩ cô biết hai người kia bị Tiểu Thiết hạ độc là vì cô thấy những lằn roi mà suy ra vụ này.

Cô nhớ lại lời tiên sư là Vô Sân đại sư căn dặn môn đồ:

– Bản môn chuyên về dùng độc, người khác không hiểu cho là tuyệt ác, kỳ thực việc hạ độc cũng giống như việc sử dụng binh khí hay quyền cước, mà lại còn từ bi hơn một bậc. Sau khi hạ độc rồi mà thấy đối phương tỉnh ngộ xin tha, lập thệ ăn năn hối cải hoặc thấy hạ độc nhầm người thì đều có thể giải cứu. Đối phương dù là hạng đại gian đại ác đi nữa, ta cũng nên chừa một con đường để họ hồi đầu hối cải.

Cô lại nghĩ:

– Đại giới luật này của bản môn nhị sư ca và tam sư tỷ nhất định đã nói cho Tiểu Thiết hay, sao gã còn dám lớn mật phạm quy?

Có điều cô thấy trên lưng gã chằng chịt vết roi, chắc là gã đã bị cha mẹ đánh đập, lại bị ngâm nước nóng cực kỳ khổ sở, đó cũng là sự trừng phạt nặng nề rồi nên cô bèn khom lưng thi lễ, nói:

– Sư ca sư tỷ, tiểu muội có nhiều điều đắc tội. Chúng ta rồi sẽ có ngày tái ngộ.

Khương Thiết Sơn chắp tay đáp lễ. Tiết Thước chỉ đằng hắng một tiếng chứ không đoái hoài gì đến. Trình Linh Tố cũng không để bụng, đưa mắt ra hiệu cho Hồ Phỉ rồi cùng nhau ra cửa.

Hai người vừa nhớm bước ra khỏi cửa lớn, Khương Thiết Sơn rượt theo gọi lớn:

– Tiểu sư muội!

Trình Linh Tố quay lại thấy hắn lộ vẻ ấp úng, muốn nói lại thôi, biết ý hắn ngay, liền cười hỏi:

– Nhị sư ca có điều chi dạy bảo?

Khương Thiết Sơn đáp:

– Ba bó “Đề hồ hương” này cần được ba người công lực ngang nhau vận khí thi hành thì mới có thể cự địch, mà Tiểu Thiết công lực non nớt. Tiểu huynh muốn nhờ sư muội…

Hắn nói đến đây, dù trong lòng rất mong Trình Linh Tố lưu lại để tương trợ, nhưng thấy không thể nói ra được, nên mới nói đến mấy chữ “muốn nhờ sư muội” là phải bỏ dở không sao nói tiếp nổi.

Trình Linh Tố trỏ cái giỏ tre để ngoài cửa, nói:

– Đại sư ca ở trong giỏ, tiểu muội để lại phấn hoa hải đường đủ để giúp đại sư ca giải độc. Nhị sư ca sao không nhân cơ hội này khéo nói với y để có được một tay trợ lực giỏi?

Khương Thiết Sơn cả mừng. Lâu nay hắn bị đại sư ca gây lắm chuyện phiền não, không ngờ cô tiểu sư muội này sắp đặt diệu kế thành ra nhất cử lưỡng tiện, vừa có thể lui được cường địch lại giải được mối hiềm khích bấy lâu giữa sư huynh sư đệ. Hắn vội tạ ơn không ngớt, rồi đem cái giỏ vào nhà.

Hồ Phỉ lượm bông hoa lam đã khô ở trên cánh cửa bỏ vào bọc. Trình Linh Tố liếc mắt nhìn chàng rồi vẫy tay từ biệt Khương Thiết Sơn. Cô nói:

– Nhị sư ca! Đầu mặt sư ca chảy máu nhiều, độc khí trong người cũng tan theo, đừng trách tiểu muội vô lễ.

Khương Thiết Sơn ngẩn người ra rồi hắn đột nhiên tỉnh ngộ, nhủ thầm:

– Y bảo Vương thợ rèn đánh ta cố nhiên là để trừng phạt thói hung tàn của ta ngày trước nhưng không phải là không có thiện ý. Độc khí trong người Thước muội còn chưa tiêu tan, cũng cần phải làm cho chảy máu ra mới được.

Hắn nghĩ tới mọi việc đều nằm trong vòng tính toán của vị tiểu sư muội, hắn không thể nào là đối thủ. Hắn liền dứt khoát bỏ ý niệm tranh đoạt pho “Dược Vương thần biên” của sư phụ để lại.

Trình Linh Tố cùng Hồ Phỉ trở về căn nhà tranh. Chung Triệu Văn hãy còn say ly bì chưa tỉnh. Suốt một đêm bôn ba cực nhọc, bây giờ trời đã sáng rõ, Trình Linh Tố lấy thuốc giải ra bảo Hồ Phỉ cho Chung Triệu Văn uống. Đoạn hai người cầm cuốc ra vườn đào sạch những cây hoa lam mà đêm qua chó sói chưa xéo tới, đem vùi cả xuống đất. Trình Linh Tố nói:

– Ban đầu tiểu muội thấy bầy chó sói đến tập kích lại tưởng là người Mạnh gia kéo đến phá hoa lam. Sau thấy ở cổ Tiểu Thiết có đeo một bó dược thảo mới biết dụng ý của gã.

Hồ Phỉ hỏi:

– Gã làm sao lại trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”? Trong bóng tối tại hạ không nhìn thấy rõ.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội dùng cây Thấu cốt đinh có bôi chất độc “Thất tâm hải đường” đâm gã một cái. Cây đinh này lại cắm lá thơ giả của đại sư ca, hẹn vợ chồng nhị sư ca gặp nhau tại rừng cây. Thấu cốt đinh là ám khí độc môn do đại sư ca tự đúc ra, nhị sư ca và tam sư tỷ thoạt nhìn là nhận ra ngay nên không còn nghi ngờ gì nữa.

Hồ Phỉ hỏi:

– Ám khí của đại sư ca, cô nương lấy ở đâu ra?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Đại ca thử đoán coi.

Hồ Phỉ ngẫm nghĩ một chút rồi nói:

– A, phải rồi! Khi ấy đại sư ca đã bị cô nương bắt giữ, ngồi hôn mê trong giỏ tre. Ám khí đó từ trong người y mà ra.

Trình Linh Tố cười đáp:

– Phải rồi! Đại sư ca nhìn thấy hoa lam của tiểu muội liền sinh nghi. Đại ca và Chung nhị gia lại hỏi đường nơi y. Y liền theo đõi hành tung đến đây, thế là tự chui đầu vào giỏ tre.

Hai người nói chuyện cao hứng, cùng chống cuốc mà cười rộ lên. Bỗng phía sau có thanh âm cất lên hỏi:

– Làm gì mà cười lắm thế?

Hai người quay đầu nhìn lại thấy Chung Triệu Văn mặt mũi bần thần đã ở dưới thềm, mặt còn đỏ bừng chưa hết say rượu. Hồ Phỉ run lên đáp:

– Linh cô nương! Miêu đại hiệp bị thương trầm trọng, bọn tại hạ cần về gấp. Cách dùng thuốc giải thế nào xin cô nương chỉ bày cho.

Trình Linh Tố hỏi:

– Miêu đại hiệp bị thương ở mắt, đó là chỗ mềm nhất trong cơ thể. Cách dùng thuốc nặng hay nhẹ cần phải châm chước. Tiểu muội chưa hiểu thương thế y ra sao?

Hồ Phỉ có ý muốn mời cô đi giải cứu, nhưng nghĩ mình với cô xưa nay không có liên quan gì, người ta lại là một thiếu nữ nhỏ tuổi, khiến Hồ Phỉ cũng giống Khương Thiết Sơn ban nãy, muốn thỉnh cầu mà khó mở miệng nói ra.

Trình Linh Tố mỉm cười nói:

– Nếu đại ca mở miệng yêu cầu tiểu muội, tiếu muội cũng bằng lòng đi, nhưng đại ca phải ưng chịu một điều kiện.

Hồ Phỉ cả mừng vội hỏi:

– Chịu ngay, chịu ngay! Điều kiện gì vậy?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Bây giờ thì chưa biết, sau này tiểu muội sẽ nói cho đại ca hay. Chỉ sợ khi đó đại ca lại chối cãi.

Hồ Phỉ nói ngay:

– Tại hạ mà chối cãi thì thành cái giống rùa đen.

Trình Linh Tố tươi cười nói:

– Tiểu muội thu xếp và thay áo xong là chúng ta đi ngay.

Hồ Phỉ thấy người cô bé nhỏ gầy nhom, khẽ nói:

– Một đêm không ngủ, e rằng cô đã mệt quá rồi.

Trình Linh Tố lắc đầu, nhẹ nhàng đi vào phòng.

Chung Triệu Văn có biết đâu nửa đêm qua mình ngủ say mà đã xảy ra biết bao biến cố. Trong lúc nhất thời Hồ Phỉ cùng chưa kịp thuật chuyện cho hắn biết cặn kẽ. Chàng chỉ nói thuốc giải tìm được rồi. Trình Linh Tố là một hảo thủ về trị độc, cô đã nhận lời cùng đi chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng.

Chung Triệu Văn muốn hỏi nữa thì Trình Linh Tố ở trong phòng ra. Lưng cô đeo một cái bọc nhỏ, tay bưng một chậu hoa nhỏ. Lá giống như lá cây hải đường bình thường, không có gì đặc biệt. Cánh hoa bám sát vào cành, hoa lại cứng như thép. Trên mỗi cánh hoa đều có bảy điểm chấm nho nhỏ màu đỏ.

Hồ Phỉ hỏi:

– Phải chắng đây là thứ “Thất tâm hải đường” lừng lẫy tiếng tăm?

Trình Linh Tố đưa chậu hơa đến trước mặt Hồ Phỉ. Chàng giật bắn cả người, bất giác lùi lại một bước.

Trình Linh Tố cười hích hích, nói:

– Thứ hoa này cả rễ, thân, nhánh, lá đều có chất kỳ độc tuyệt luân, nhưng chưa chế luyện thì không làm hại người ta được. Chỉ cần đại ca đừng ăn vào là không phải chết.

Hồ Phỉ cười hỏi:

– Cô cho tại hạ là trâu dê hay sao mà bảo ăn cỏ sống, hoa sống?

Chàng đưa tay đón lấy chậu hoa. Trình Linh Tố đóng cửa lại. Ba người cùng đi lên thị trấn Bạch Mã Tự, Hồ Phỉ vào tiệm thuốc lấy lại mấy món binh khí gửi trước. Chung Triệu Văn bỏ tiền ra mua ba con ngựa, không dám chần chờ, lập tức theo đường cũ trở về. Bạch Mã Tự là một trấn nhỏ, mua được ba con ngựa không phải chuyện dễ, mà chẳng phải là giống lương câu tuấn mã gì hết, mãi tận tối mới đi được hai trăm dặm. Ba người tranh thủ thời gian, mải mê rong ruổi quên cả ngủ, nhưng thấy ba con ngựa đã kiệt lực không đi được nữa đành dừng lại ngủ giữa trời trong khu rừng cây nhỏ.

Trình Linh Tố cũng mệt quá không chống chọi nổi, cô ngã ngay xuống đống cỏ khô mà Hồ Phỉ lót cho cô nằm, chỉ một lúc là ngủ ngay. Chung Triệu Văn giục Hồ Phỉ đi ngủ cho lại sức, bảo rằng đêm qua hắn đã ngủ rồi, đêm nay có thể thức để canh chừng.

Hồ Phỉ ngủ tới nửa đêm bỗng nghe mé đông văng vẳng tiếng hổ gầm chàng giật mình tỉnh giấc. Tiếng hổ gầm chẳng bao lâu lại xa dần. Hồ Phỉ thấy khó lòng ngủ trở lại liền nói:

– Chung Nhị ca! Nhị ca ngủ đi. Tiểu đệ không ngủ được nữa. Xin ngồi canh chừng.

Chàng ngồi một lúc nghe Trình Linh Tố cùng Chung Triệu Văn hơi thở đều đặn, biết cả hai đã ngủ say. Chàng tự nghĩ:

– Lần này lo chuyện bao đồng làm chậm trễ mất mấy ngày, việc Phụng Thiên Nam càng không dễ chút nào. Chẳng hiểu hắn có đến tham dự đại hội các chưởng môn không?

Chàng nghĩ hết việc nọ đến việc kia không sao tĩnh tâm được. Hồ Phỉ thò tay vào người, lấy bọc vải ra, rồi cất bông hoa lam vào bọc lại. Chợt nhớ tới khúc tình ca của Vương thợ rèn, chàng động tâm tự hỏi: “Chẳng lẽ y đối với ta quá tốt mà ta không nhận ra?”. Chàng đang ngơ ngẩn xuất thần bỗng nghe tiếng Trình Linh Tố cười hỏi:

– Trong cái bọc này đại ca giấu giếm bảo bối gì? Cho tiểu muội coi được chăng?

Hồ Phỉ quay lại, dưới ánh trăng lờ mờ thấy cô ngồi trên đống cỏ. Không hiểu cô tỉnh giấc từ lúc nào. Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ cho là bảo bối, nhưng cô nương coi thì có lẽ không bõ một tiếng cười.

Chàng cầm bọc mở ra, đưa đến trước mặt Trình Linh Tố, nói tiếp:

– Đây là thanh tiểu trúc đao của Bình tứ thúc cho tại hạ ngày còn nhỏ. Còn đây là đóa hoa hồng của vị huynh trưởng là Triệu tam ca tặng tại hạ. Đây là cuốn “Quyền kinh đao phổ” tổ truyền của tại hạ.

Khi trỏ vào con ngọc phụng của Viên Tử Y tặng cho, Hồ Phỉ ngập ngừng một chút rồi nói:

– Cái này là đồ chơi của một vị bạn hữu tặng.

Con ngọc phụng dưới bóng trăng phát ra ánh sáng lấp lánh dịu dàng, Trình Linh Tố nghe giọng nói chàng có điều khác lạ, liền ngửng đầu lên hỏi:

– Người bạn này phải chăng là một vị cô nương?

Hồ Phỉ đỏ mặt lên đáp:

– Phải.

Trình Linh Tố cười nói:

– Vật này há chẳng phải là bảo bối đáng giá liên thành ư?

Nói xong cô tủm tỉm cười trả lại cái bọc vải cho Hồ Phỉ, lại nằm xuống ngủ. Hồ Phỉ ngẩn người ra hồi lâu, chẳng biết nên vui hay nên buồn. Bản tình ca của gã thợ rèn họ Vương cứ văng vẳng bên tai.

Nễ bất kiến tha diện thời

Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải tại tâm!

Chương 11: Mênh mông những mối oan cừu

Sáng sớm hôm sau, ba người lại cưỡi ngựa lên đường. Khi đi, ngựa chạy nhanh nên chỉ mất một ngày là đã tới nơi. Nhưng lần trở về, phải đến tận khuya mới tới ngoài căn nhà nhỏ của Miêu Nhân Phụng.

Chung Triệu Văn thấy dưới gốc cây buộc bảy con ngựa cao lớn. Hắn động tâm khẽ nói:

– Hai vị hãy chờ đây một chút. Tại hạ vào trước xem sao.

Hắn quành ra sau nhà chợt nghe mấy người đang lớn tiếng nói chuyện. Hắn rón rén đến dưới cửa sổ dòm vào, thấy Miêu Nhân Phụng bịt mắt bằng tấm băng vải, đứng rất ngang nhiên. Ngoài cửa sảnh đường mấy hán tử tay cầm binh khí, dáng điệu rất hung dữ. Chung Triệu Văn nhìn quanh trong nhà chẳng thấy huynh trưởng Triệu Anh và tam đệ Triệu Năng đâu, tự hỏi: “Hai người lãnh trách nhiệm bảo vệ Miêu đại hiệp mà sao lại bỏ đi đâu?”. Trong lòng hắn không khỏi sinh nghi lo lắng.

Bỗng nghe một người trong năm hán tử lên tiếng:

– Miêu Nhân Phụng! Ngươi mù mắt rồi, có sống thêm ở thế gian cũng chỉ thêm tội tình. Hãy nghe ta nói đây, chi bằng ngươi tự kết liễu đời mình để các đại gia đây khỏi phải ra tay mất công.

Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng chứ không nói gì. Một hán tử khác nói:

– Ngoại hiệu của ngươi là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”, trên chốn giang hồ đã cuồng ngạo mấy chục nằm trời. Bữa này ngươi ngoan ngoãn bò dưới đất dập đầu mấy cái trước các vị đại gia, không chừng các vị để ngươi sống thêm mấy năm nữa.

Miêu Nhân Phụng cất giọng trầm trầm hỏi:

– Điền Quy Nông đâu? Sao hắn không dám nói thẳng với ta?

Tên cầm đầu bọn hán tử cười đáp:

– Để phát lạc một kẻ đui mù như ngươi hà tất Điền đại gia phải ra tay?

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Điền Quy Nông không đến ư?

Giữa lúc ấy, Chung Triệu Văn cảm thấy có người khẽ vỗ vai, hắn giật mình kinh hãi tung người nhảy về phía trước ra xa nửa trượng. Hắn quay đầu nhìn lại thấy Hồ Phỉ và Trình Linh Tố mới yên tâm.

Hồ Phỉ đi tới bên hắn, trỏ về phía tây, khẽ nói:

– Chung đại ca và Chung tam ca đã bị bọn tặc tử vậy hãm bên kia. Nhị ca mau qua đó tiếp viện. Tiểu đệ ở đây chiếu cố Miêu đại hiệp.

Chung Triệu Văn biết chàng bản lãnh cao thâm, trong lòng lại đang lo cho huynh đệ, liền rút phán quan bút bên hông ra chạy lẹ qua mé tây. Hắn tung mình vọt đi. Trong nhà đã phát giác. Một người lớn tiếng quát:

– Ai ở bên ngoài đó?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Một vị y sinh và một tên đồ tể.

Người kia tức giận quát:

– Y sinh, đồ tể nào?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Y sinh chữa mắt cho Miêu đại hiệp, còn đồ tể thì giết heo mổ chó.

Người kia phẫn nộ chửi tục một câu toan nhảy ra. Một tên hán tử khác cầm đầu liền nắm cánh tay hắn giữ lại, khẽ nói:

– Đừng mắc kế “Điệu hổ ly sơn” của chúng. Điền đại gia dặn chúng ta chỉ giết lão họ Miêu này, còn việc khác đừng có quan tâm.

Người kia cổ họng òng ọc mấy tiếng rồi dừng chân lại. Nguyên Hồ Phỉ sợ Miêu Nhân Phụng mắt không thấy gì nên dễ bị kém thế, muốn dẫn dụ địch nhân ra ngoài hạ từng tên một, nào ngờ chúng không mắc bẫy.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã về đấy ư?

Hồ Phỉ dõng dạc đáp:

– Tại hạ đã mời Độc Thủ Dược Vương lão nhân gia tới đây, đôi mắt của đại hiệp chắc chắn sẽ được chữa lành.

Chàng nói “Độc Thủ Dược Vương” đến để hư trương thanh thế nhằm hăm dọa địch nhân. Quả nhiên cả năm hán tử trong nhà đều biến sắc, chúng nhất tề quay đầu nhìn ra thì thấy hai người đứng ngoài cửa chỉ là một thiếu niên thô tráng và một cô bé gầy nhom, chứ làm gì có Độc Thủ Dược Vương?

Miêu Nhân Phụng nói:

– Năm con chó nhỏ này đâu đáng để tiểu huynh đệ phải quan tâm. Tiểu huynh đệ hãy mau mau đi tương trợ cho Chung thị tam hùng. Bọn giặc này không ít người đâu, chúng ỷ vào số đông để thủ thắng.

Hồ Phỉ chưa kịp đáp đã nghe sau lưng có tiếng bước chân vang lên. Một thanh âm dõng dạc nói lớn:

– Miêu huynh liệu sự như thần! Bọn ta quả nhiên đã ỷ đông người để thủ thắng.

Hồ Phỉ quay đầu lại liền giật mình kinh hãi khi thấy mười mấy hán tử kẻ cao người thấp, trong tay lăm lăm binh khí, từ từ đi tới. Ngoài ra còn mười mấy tên nô bộc cầm đuốc giơ cao. Chung thị tam hùng đều bị bắt trói thúc ké hai tay ra sau.

Một đại hán trung niên, đeo trường kiếm ngang hông, đi trước mọi người.

Hồ Phỉ thấy nhân vật này mi thanh mục tú, khí vũ hiên ngang. Chính là Điền Quy Nông mà chàng đã gặp mấy năm trước ở Thương gia bảo. Ngày ấy chàng còn là đứa con nít vàng võ gầy còm, mà hiện nay tướng mạo cùng thân hình chàng biến đổi rất nhiều nên hắn dĩ nhiên không nhận ra được.

Miêu Nhân Phụng ngửa mặt lên cười ha hả nói:

– Điền Quy Nông! Nếu người chưa giết được ta thì vẫn ăn không ngon ngủ không yên. Bữa nay ngươi đem người đến đông lắm nhỉ?

Điền Quy Nông đáp:

– Bọn tại hạ là lương dân, chỉ lo an phận thủ thường, khi nào dám hại mạng người. Bọn tại hạ đến đây chẳng qua là để cung thỉnh Miêu đại hiệp về tệ xá để hàn huyên mấy bữa, cho thỏa tình cố cựu giữa chúng ta mà thôi.

Hắn nói mấy câu một cách hời hợt, nhưng trong giọng nói nghe đầy vẻ dương dương tự đắc. Hôm nay Chung thị tam hùng khét tiếng vùng Tương Ngạc cũng bị bắt rồi, Miêu Nhân Phụng thì lại mù mắt, ngoài ra không còn tay cao thủ nào tương trợ nữa thì còn tìm đâu được cơ hội thoát thân? Còn Hồ Phỉ, Trình Linh Tố đứng ngoài cửa thì hắn chẳng coi vào đâu, tựa hồ không có hai người này vậy.

Hồ Phỉ thấy địch đông mà mình ít. Chung thị tam hùng đều bị bắt sống, xem ra đối phương rất nhiều cao thủ, việc đẩy lùi địch cứu người không phải là chuyện dễ. Chàng đảo mắt quan sát tình thế bên địch, thấy đằng sau Điền Quy Nông có hai phụ nữ. Ngoài ra còn một lão già gầy nhom khô đét, tay cầm cây điểm huyệt quyết và một hán tử trung niên tay cầm thiết bài, cặp mắt lấp loáng tinh quang. Xem ra đây là hai tay kình địch. Ngoài ra còn bảy, tám hán tử kéo hai sợi xích sắt rất dài và nhỏ không hiểu dùng làm gì.

Chàng trầm ngâm một chút đột nhiên tỉnh ngộ lẩm bẩm:

– Phải rồi. Bọn chúng sợ Miêu đại hiệp tuy mù mắt mà vẫn lợi hại vô cùng. Hai sợi đây xích sắt kia cốt để ngáng chân y. Chúng lừa y mắt không nhìn thấy, bảy tám tên cầm xích sắt đứng xa từ từ bao quanh kéo lại. Võ công Miêu đại hiệp quá cao cường nên chúng phải tìm cách giật cho y ngã xuống mới yên tâm.

Chàng nhìn Điền Quy Nông, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, mắng thầm:

– Mi đã quyến rũ vợ người ta. Miêu đại hiệp đã độ lượng tha cho, vậy mà còn bày ra hết độc kế này đến độc kế khác, chỉ muốn ép người ta vào chỗ chết mới cam lòng. Độc ác như mi thực chẳng khác chi loài cầm thú.

Kỳ thực, tuy Điền Quy Nông vốn là con người thâm độc nhưng hắn cũng có chỗ bất đắc dĩ không nói ra được. Từ ngày vợ Miêu Nhân Phụng là Nam Lan tư bôn theo hắn, hắn luôn nghĩ nàng là vợ của một tay cao thủ đệ nhất thiên hạ nên ngày nào hắn cũng ăn không ngon ngủ không yên. Mỗi khi gió thổi cỏ lay là lại nghĩ Miêu Nhân Phụng đến tầm cừu.

Ban đầu Nam Lan say mê hắn đến cực điểm, nhưng sau thấy hắn cứ ngày đêm nơm nớp lo sợ chồng cũ của mình thì không khỏi sinh lòng khinh bỉ, vì nàng coi Miêu Nhân Phụng chẳng có chi đáng sợ cả. Trong thâm tâm, nàng thấy chỉ cần hai người yêu nhau chân tình là đủ, dù có chết dưới kiếm của Miêu Nhân Phụng cũng chẳng có gì ghê gớm. Nàng nhận ra Điền Quy Nông quý tính mạng hắn hơn hẳn tình yêu đối với nàng. Nàng đã bỏ chồng con, bỏ cả danh tiết đi theo hắn, mà hắn lại không coi đó là những thứ trân quý nhất trên đời.

Điền Quy Nông vì quá lo sợ Miêu Nhân Phụng nên bao vẻ phong lưu tiêu sái biến đâu mất. Hắn không còn thấy hứng thú với cầm kỳ thi họa cũng ít khi nhìn nàng ngồi trang điểm trước bàn phấn nữa. Hắn để dành phần lớn thời gian cho việc rèn luyện võ công.

Cô tiểu thư nhà quan này vốn rất ghét những người tập đao múa kiếm, vì nàng nghĩ võ công dẫu có đạt đến trình độ cao thâm như Miêu Nhân Phụng đi nữa thì được cái gì. Huống chi nàng dù không biết võ công, nhưng cũng hiểu được rằng Điền Quy Nông vĩnh viễn không thể luyện được bản lĩnh như Miêu Nhân Phụng.

Điền Quy Nông biết rằng Miêu Nhân Phụng không chết thì mọi cuộc mưu đồ của hắn đều biến thành một trường mộng ảo. Bao nhiêu ước mơ có tài sản châu báu giàu nhất thiên hạ, quyền thế trùm hết cõi giang hồ, những thứ đó sẽ chỉ còn là chuyện mò trăng đáy nước mà thôi. Bởi thế dù hắn có lỗi với Miêu Nhân Phụng, nhưng buộc lòng phải giết cho bằng được họ Miêu.

Hiện giờ Miêu Nhân Phụng đã mù mắt, ba tay cao thủ trợ lực cho y đều bị bắt rồi. Trong nhà đã có năm tên cao thủ của Điền Quy Nông đang chờ hiệu lệnh để ra tay. Bên ngoài cũng hơn chục cao thủ chuẩn bị ngăn chặn. Huống chi còn hai sợi xích sắt dài lê thê mà Miêu Nhân Phụng không thể thấy được.

Từ nãy tới giờ, Trình Linh Tố đứng lẳng lặng bên Hồ Phỉ không lên tiếng nhưng có đã nhận rõ toàn bộ tình thế. Cô từ từ thò tay vào bọc lấy khúc nến cháy dở. Cô lại lấy hỏa tập ra, chỉ cần thắp nến lên là trong khoảnh khắc, bao nhiêu người xung quanh đều trúng độc ngã ra hết. Cô xoay lưng lại che cho mọi người khỏi trông thấy rồi châm lửa vào ngọn nến. Cô lại khều bấc lên cho dễ cháy hơn. Ban đêm thắp nến là chuyện thường nên chẳng ai để ý. Không ngờ sau lưng đột nhiên nghe đánh “vù” một tiếng. Mũi ám khí bắn tới. Mũi ám khí này phát ra từ chỗ gần đó lại rất chuẩn xác. Trình Linh Tố thảng thốt không kịp đề phòng, để khúc nến bị ám khí bắn đứt làm hai đoạn rớt xuống đất. Cô giật mình kinh hãi quay đầu, nhìn lại thấy một cô bé chừng mười lăm, mười sáu tuổi quát lớn:

– Ngươi đứng cho nghiêm chỉnh lại, đừng có giở trò quỷ ra nữa.

Mọi người đều đổ dồn ánh mắt nhìn Trình Linh Tố lộ vẻ kinh dị. Trình Linh Tố thấy ám khí là một cây thiết chùy, liền hững hờ hỏi:

– Làm trò quỷ gì nào?

Trong lòng cô không khỏi bồn chồn tự hỏi:

– Sao con bé kia lại khám phá ra âm mưu của ta? Vụ này khó xoay xở rồi đây.

Điền Quy Nông chỉ liếc mắt trông qua chứ không để ý. Hắn hỏi:

– Miêu huynh, hãy theo bọn tiểu đệ đi thôi!

Một hán tử thủ hạ của hắn đẩy mạnh vào vai Hồ Phỉ, quát hỏi:

– Ngươi là ai? Tránh ra! Ở đây chẳng có gì vui mà coi.

Gã thấy Hồ Phỉ và Trình Linh Tố tướng mạo tầm thường, liền cho là người ở gần đến coi chứ không dính líu gì tới Miêu Nhân Phụng. Hồ Phỉ cũng không trả đòn, giả vờ ngơ ngác tránh ra một bước.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đi lẹ lên, đừng lo gì đến ta nữa! Chỉ cần nghĩ cách nào cứu thoát Chung thị tam hùng là Miêu mỗ này vinh viễn không quên ơn đức.

Hồ Phỉ và Chung thị tam hùng trong lòng vô cùng cảm động nghĩ thầm:

– Miêu đại hiệp nhân nghĩa hơn người. Tuy y lâm vào tuyệt địa mà chỉ lo cho người ngoài, chứ chẳng kể gì đến mình.

Điền Quy Nông động tâm liếc mắt nhìn Hồ Phỉ tự hỏi:

– Chẳng lẽ gã tiểu tử này lại có bí quyết gì chăng?

Hắn hô lớn:

– Mời Miêu đại hiệp lên đường!

Câu này vừa hô khỏi cửa miệng, năm hán tử trong nhà đồng loạt giờ đao thương lên đâm vào năm chỗ hiểm yếu trên mình Miêu Nhân Phụng. Trong sảnh đường chật hẹp, trước mặt lại bị sáu người án ngữ, xem chừng Miêu Nhân Phụng không còn đường né tránh. Không ngờ y vung song chưởng lên xuyên giữa hai người tiến ra. Cả năm cây binh khí đều đâm vào chỗ không.

Mấy tiếng “rắc rắc” vang lên. Một cái ghế bị hai thanh đơn đao chém thành mấy mảnh. Miêu Nhân Phụng xoay mình lại, thần oai lẫm liệt đứng ngay ở cửa, chỉ có tay không, mắt lại băng bó, mà đứng án ngữ ngay trước cửa không cho năm địch nhân trốn đi. Hồ Phỉ toan xông vào giúp, nhưng thấy Miêu Nhân Phụng xoay mình đứng đó biết là y chẳng sợ hãi gì dù không thắng thì nhất thời cũng chưa đến nỗi thua ngay.

Năm hán tử đều nghĩ thầm:

– Bọn mình năm người liên thủ mà bữa nay không hạ nổi một gã mù thì còn mặt mũi nào bôn tẩu trên chốn giang hồ?

Miêu Nhân Phụng lại giục:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ chưa đi thì còn đợi đến bao giờ?

Hồ Phỉ đáp:

– Miêu đại hiệp cứ yên tâm. Lũ chó nhỏ này không ngăn cản được tại hạ đâu!

Miêu Nhân Phụng nói:

– Hay lắm, thiếu niên anh hùng. Hậu sinh khả úy!

Y nói mấy câu này rồi đột nhiên xông vào bọn người kia, múa tít hai bàn tay sắt, chân vung ra đá, uy phong mãnh liệt, không ai dám chống cự. Năm hán tử trong nhà đều không phải là hạng tầm thường, vậy mà khi thấy chưởng lực của Miêu Nhân Phụng cực kỳ hùng hậu đều phải lùi lại đứng tựa vào vách để chờ cơ hội tấn công. Trong lúc hỗn loạn, bàn phế nghiêng đổ, trong nhà đèn nén tắt hết. Bên ngoài hai người giơ cao ngọn đuốc tiến lại trước cửa. Miêu Nhân Phụng hai mắt đã mù, có lửa hay không cũng vậy, nhưng năm hán tử chiếm phần tiện nghi.

Đột nhiên một người gầm lên vung thương đâm tới bụng dưới Miêu Nhân Phụng. Thế thương vô cùng tàn độc. Miêu Nhân Phụng khoa chân phải bước tạt ngang vươn tay ra toan bắt lấy đầu thương. Không ngờ ở góc tây nam có người lặng lẽ mai phục, hắn huơ đao lên chém, nghe “phập” một tiếng, lưỡi đao đã chém trúng đùi Miêu Nhân Phụng.

Nguyên tên này cũng trí kế đa đoan. Hắn biết Miêu Nhân Phụng mù mắt không nhìn thấy gì, chỉ toàn nghe tiếng gió để đối phó với địch nhân. Hắn nín thở cúi xuống mà đi. Miêu Nhân Phụng đang hăng say chiến đấu, không hiểu hắn ngồi chỗ nào. Hắn chờ Miêu Nhân Phụng đưa chân phải tới trước mặt mới vung đao chém xuống. Cả người bên trong lẫn bên ngoài thấy Miêu Nhân Phụng bị thương đều đồng thanh hoan hô dữ dội.

Chung Triệu Anh quát lên:

– Tiểu huynh đệ. Vào giải cứu Miêu đại hiệp mau lên. Chỉ lát nữa là không kịp đâu.

Giữa lúc ấy vai bên trái Miêu Nhân Phụng lại trúng một roi. Y nghĩ thầm trong bụng:

– Tình thế bữa nay rất nghiêm trọng. Nếu tay không binh khí thì khó lòng phá nổi vòng vây.

Hồ Phỉ cũng đã nhìn rõ cục diện. Chàng tính thầm nếu như ném đơn đao vào cho Miêu Nhân Phụng thì y may ra mới có cơ thủ thắng. Nhưng kình địch bên ngoài cửa cũng không phải là ít, nếu mình không binh khí thì cũng khó bề chống cự. Trong lúc nhất thời, chàng loay hoay không tính được kế trọn vẹn cả hai bề. Đến lúc thấy tình thế cấp bách, chàng không kịp suy nghĩ gì nữa liền hô lên:

– Miêu đại hiệp đón lấy đao!

Chàng vận nội lực ném đơn đao vào đánh “véo” một tiếng. Luồng lực đạo rất mãnh liệt. Năm gã trong nhà mà vươn tay ra đón lấy tất bị chặt đứt tay. Chàng tiên liệu chỉ một mình Miêu Nhân Phụng mới có thể chụp được. Ngờ đâu lúc này Miêu Nhân Phụng giơ bả vai trái về phía tây nam để dụ địch, chờ khi gã kia vung đao chém tới, y liền xoay tay lại cướp được đơn đao. Y lắng nghe Hồ Phỉ ném đơn đao vào, liền giơ đao lên đón. Hai sống đao đã đụng nhau đánh “choang” một tiếng tia lửa bắn tung tóe. Thanh đao ném vào lại văng ra.

Miêu Nhân Phụng hô:

– Tiểu huynh đệ, hãy đứng đó coi ta mắt mù giết giặc.

Trong người y bị thương hai chỗ, nhưng tay đã có binh khí, tình thế lập tức thay đổi, không giống như trước nữa. Y chém veo véo hai đao bức bách địch nhân phải lùi lại tựa vào tường. Năm hán tử trong nhà đã biết uy danh Miêu gia kiếm, nhưng chúng nghĩ người tinh thông kiếm thuật thường sử đơn đao rất kém, nên cho rằng dù Miêu Nhân Phụng có đoạt được đơn đao đi nữa cũng chưa chắc đã hơn gì tay không. Cả bọn cùng quát to một tiếng rồi cầm binh khí xông vào.

Bỗng thấy ngoài cửa có ánh sáng lấp loáng, lại một thanh đao nữa được ném vào. Nhưng lần này là ném cho gã hán tử đã bị Miêu Nhân Phụng đoạt mất đơn đao. Hán tử vươn tay đón lấy, hắn vừa bị mất đao lấy làm vô cùng hổ thẹn, nếu không lập công thì khó mà vãn hồi thể diện. Hắn múa đao tấn công, chém vào mặt Miêu Nhân Phụng.

Miêu Nhân Phụng đứng yên không nhúc nhích, y nghe rõ trước mặt có đao chém tới, bên trái có cương tiên quật vào vẫn không né tránh hay đón đỡ. Y chờ khi đao, tiên còn cách mình không đầy nửa thước, mới xoay người vung đao chém một nhát trúng vào cánh tay phải hán tử sử tiên làm gã rống lên một tiếng rất thê thảm. Cây cương tiên rớt xuống đất. Người cầm đao sợ giật nảy mình, nằm phục xuống lăn người ra xa để tránh.

Hồ Phỉ động tâm tự hỏi:

– Chiêu “Kê tử phiên thân đao” rõ ràng là của “Hồ gia đao pháp”, sao Miêu đại hiệp cũng sử được, mà lại có phần tinh diệu hơn ta?

Lại thấy Miêu Nhân Phụng thi triển đơn đao, ánh hàn quang lấp loáng nhanh như gió. Bốn hán tử trong nhà sững sờ cả người, một tên la lên:

– Tên họ Miêu mù cũng biết sử đao.

Điền Quy Nông chợt nhớ ngày trước Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng truyền dạy kiếm pháp và đao pháp cho nhau, lại còn trao đổi binh khí để tỷ võ, trong lòng cả kinh, vội hô lớn:

– Y sử “Hồ gia đao pháp” đó, khác hẳn “Miêu gia kiếm pháp” anh em phải cẩn thận.

Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng đáp:

– Không sai! Bữa nay lũ chuột nhắt các ngươi sẽ biết “Hồ gia đao pháp” lợi hại thế nào!

Y tiến lên hai bước ra chiêu “Hoài trung bảo nguyệt” xoay đao lướt một cái. Đó chỉ là hư chiêu. Tiếp theo y sử chiêu “Bế môn thiết phiến”. Thanh đơn đao đẩy ra rồi quét ngang. Lại một tên trúng đao vào hông ngã lăn xuống đất.

Hồ Phỉ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, miệng lẩm bẩm:

– Quả nhiên y sử “Hồ gia đao pháp” của nhà mình. Té ra hai chiêu này hư hư thực thực lại biến hóa đến thế!

Nên biết Miêu Nhân Phụng đã được chính miệng Hồ Nhất Đao chỉ điểm cho những yếu chỉ tinh diệu trong đao pháp. Căn bản võ công của y lại cao minh, nên so với Hồ Phỉ chỉ căn cứ vào đao phổ để tự mò mẫm luyện tập thì dĩ nhiên sở đắc của y phải tinh thâm hơn nhiều. Y vừa quát vừa ra chiêu “Sa Tăng bái Phật”, một người bị chặt gãy cây hoa thương và bả vai cũng bị chém lìa. Tiếp theo là chiêu “Thương bộ trích tinh đao”, lại một người nữa gãy chân té nhào.

Điền Quy Nông la lên:

– Tiền tứ đệ, ra đây! ra đây!

Hắn thấy Miêu Nhân Phụng đại triển thần uy, mà lúc này trong nhà chỉ còn một người sử đao là Tiền tứ đệ, dù có người xông vào tương trợ đi nữa cũng tất đã thắng địch, liền quyết ý dụ Miêu Nhân Phụng ra ngoài rồi dùng xích sắt bắt lấy.

Nhưng Miêu Nhân Phụng đứng chắn ngay cửa thì gã họ Tiền làm sao ra được? Miêu Nhân Phụng biết gã này đã dùng thủ pháp thâm độc để chém chân mình, nên quyết chẳng để gã trốn thoát một cách dễ dàng. Y vung đao lên, ánh cương đao lắp loáng buộc gã phải lùi vào góc nhà, rồi đột nhiên ra chiêu “Xuyên thủ tàng đao” chém xuống.

“Choang” một tiếng vang lên. Gã kia tuột mất đơn đao, nhưng gã cực kỳ xảo quyệt, thừa thế lăn dưới đất chui vào gầm bàn. Gã cho là Miêu Nhân Phụng mắt mù không nhìn được, dễ bề tìm đường trốn ra khỏi nhà. Miêu Nhân Phụng tiện tay chụp một cái ghế dài ném thật mạnh ra. Gã kia đang lúc ra khỏi gầm bàn, bỗng nghe đánh “rầm” một tiếng, cái ghế gỗ đã ném trúng ngực gã. Luồng lực đạo này cực kỳ mãnh liệt, lập tức cả ghế lẫn xương sườn của gã đều gãy hết, rồi gã chết giấc tại chỗ.

Chỉ trong khoảnh khắc, Miêu Nhân Phụng hạ năm tên liền. Y biết những người này hoàn toàn nghe lệnh Điền Quy Nông chứ chẳng có thù oán gì với mình nên y không hạ sát thủ, mà chỉ đánh họ trọng thương mà thôi. Những người bên ngoài không khỏi khiếp vía, ai cũng nghĩ thầm:

– Thằng cha này ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” quả nhiên ghê gớm. Nếu hắn không mù mắt thì e rằng bữa nay mình chết chẳng có đất chôn.

Điền Quy Nông cười sang sảng nói:

– Miêu huynh! Võ công của đại ca càng ngày càng cao thâm. Tiểu đệ vô cùng khâm phục. Nào, hãy ra đây! Tiểu đệ dùng “Thiên long kiếm pháp” để lãnh giáo “Hồ gia đao pháp” của Miêu huynh!

Hắn lại đưa mắt ra hiệu cho bọn hán tử cầm xích sắt tiến lên mấy bước, còn những người khác lùi lại.

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Được lắm!

Y cũng tiên liệu Điền Quy Nông tất có mưu kế thâm hiểm nhưng trong tình thế này, không ra ngoài động thủ không xong.

Hồ Phỉ đột nhiên lên tiếng:

– Hãy khoan! Họ Điền kia, các hạ muốn lãnh giáo “Hồ gia đao pháp” thì hà tất phải Miêu đại hiệp thân hành động thủ. Để tại hạ chỉ điểm mấy đường cũng đủ rồi!

Điền Quy Nông thấy thủ pháp và kình lực của Hồ Phỉ khi ném đao thì biết không phải là hạng tầm thường, những hắn cũng chẳng quan tâm. Hắn liếc mắt nhìn chàng cười lạt hỏi:

– Ngươi là ai mà đám ăn nói ngông cuồng trước mặt Điền đại gia?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ là bằng hữu của Miệu đại hiệp. Vừa rồi Miêu đại hiệp thi triển “Hồ gia đao pháp” khiến tại hạ rất khâm phục, liền nhớ lại mấy chiêu muốn diễn thử chơi một phen. Các hạ trong tay đã có kiếm, xin cảm phiền đại giá, hãy để tại hạ tặng cho vài chiêu!

Điền Quy Nông giận tím cả mặt, chưa nói gì, Hồ Phỉ đã hô:

– Xem đao đây!

Chàng ra chiêu “Xuyên thủ tàng đao” chém mạnh vào ngực Điền Quy Nông. Chính là chiêu số Miêu Nhân Phụng vừa mới sử dụng để đánh rớt binh khí trong tay gã họ Tiền. Điền Quy Nông giơ kiếm lên gạt đánh “choang” một tiếng. Đao kiếm đụng nhau. Người Điền Quy Nông lảo đảo. Hồ Phỉ cũng phải lùi lại một bước.

Điền Quy Nông là chưởng môn Thiên Long môn phe Bắc tông. Hắn đã luyện “Thiên Long kiếm pháp” từ thuở nhỏ, đến nay đã bốn mươi năm, công lực cao thâm hơn Hồ Phỉ nhiều. Hai người dùng nội lực tỷ thí thì dĩ nhiên Hồ Phỉ phải thua một bậc. Nhưng Điền Quy Nông không ngờ chàng còn nhỏ tuổi mà tý lực lại hùng hậu đến thế. Hắn đinh ninh rằng nhát kiếm vừa rồi sẽ hất tung thanh đơn đao đi và khiến đối phương phải chấn động nội tạng mà thổ huyết. Ngờ đâu Hồ Phỉ chỉ lùi lại một bước, sắc mặt bình thản như không, khiến hắn không khỏi ngấm ngầm kinh dị.

Miêu Nhân Phụng đứng ngay ở sau cũng nghe rõ Hồ Phỉ tiến lên, tiếng đao phong chém tới, hai bên đao kiếm chạm nhau rồi Hồ Phỉ lùi lại. Y liền nói:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ sử chiêu “Xuyên thủ tàng đao” không sai trật một ly. Nhưng yếu chỉ “Hồ gia đao pháp” là ở chiêu số tinh kỳ chứ không phải ở chỗ lấy sức chọi sức. Xin tiểu huynh đệ hãy tránh ra để ta thu thập hắn!

Hồ Phỉ nghe hai câu “Yếu chỉ của Hồ gia đao pháp là ở chiêu số tinh kỳ chứ không phải ở chỗ lấy sức chọi sức” thì động tâm nghĩ thầm:

– Hai câu này của Miêu đại hiệp đã khai thông được chỗ tối tăm cho ta. Dùng sức để chống cự là sở đoản của mình, mà lại là sở trường của địch.

Chàng lại nhớ tới hồi ở Thương gia bảo, những lời chỉ điểm của Triệu Bán Sơn về chỗ tinh yếu của võ học cũng phù hợp với cách thức của Miêu Nhân Phụng, bất giác trong lòng hớn hở, liền la lớn:

– Hãy khoan! Vừa rồi Miêu đại hiệp sử dụng đao pháp, tại hạ mới thử một chiêu còn mấy chục chiêu nữa muốn thử nốt.

Chàng quay đầu lại nhìn Điền Quy Nông, hỏi:

– Chiêu “Xuyên thủ tàng đao” đó, các hạ đã nếm mùi lợi hại chưa?

Điền Quy Nông quát lên:

– Thằng lỏi con kia! Đừng để ta phải đuổi đi.

Hồ Phỉ đáp:

– Được lắm! Các hạ không phục thì tại hạ sẽ đem “Hồ gia đao pháp” thi triển từng chiêu. Nếu tại hạ sử không đúng, đánh không lại các hạ, tại hạ sẽ dập đầu nhận thua. Nhưng nếu như các hạ thua thì sao?

Điền Quy Nông giận tím cả ruột, quát lớn:

– Thì ta cũng dập đầu lạy ngươi!

Hồ Phỉ cười nói:

– Đâu cần phải thế. Nếu các hạ không địch lại “Hồ gia đao pháp” thì chỉ cần buông tha Chung thị tam hùng. Ba vị này võ nghệ cao minh hơn tại hạ nhiều lắm. Nếu đơn đả độc đấu, nhất định các hạ không phải là địch thủ của ba vị đâu. Các hạ ỷ vào số đông thủ thắng thì còn chi là anh hùng?

Chàng nói mấy câu này một là để chọc giận đối phương, hai là rửa hận cho Chung thị tam hùng. Ba anh em họ Chung hai tay bị cột nghe chàng nói vậy trong lòng lấy làm cảm kích.

Điền Quy Nông trước nay hành động rất ung dung; bị Hồ Phỉ châm chọc, hắn không dằn lòng được, nghĩ thầm:

– Mi tưởng thua rồi chỉ dập đầu lạy ta là xong ư? Làm gì có chuyện dễ dàng như thế! Bữa nay mi đừng hòng trốn khỏi lưỡi kiếm của ta.

Hắn phất tay áo một cái, tay phải nắm kiếm quyết bước chênh chếch ba bước. Trong lòng hắn tuy nóng giận, nhưng không tấn công lỗ mãng, mà sử đúng “Nhất tự kiếm pháp” của Thiên Long môn chính tông.

Mọi người thấy thủ lãnh ra tay liền lùi cả lại, cầm đuốc giơ cao lên thành một vòng tròn sáng rực. Hồ Phỉ hô:

– “Hoài trung bảo nguyệt” nguyên là hư chiêu. Tiếp theo đến chiêu “Bế môn thiết phiến”.

Chàng miệng hô tay phóng đơn đao rồi quét ngang một cái, giống hệt như Miêu Nhân Phụng vừa rồi. Điền Quy Nông nghiêng người né tránh, quét kiếm đâm tới. Hồ Phỉ lại lớn tiếng hỏi:

– Miêu đại hiệp! Chiêu dưới làm sao? Tại hạ đối phó không xong rồi!

Miêu Nhân Phụng nghe chàng hô tên hai chiêu “Hoài trung bảo nguyệt và “Bế môn thiết phiến” thì biết cũng chẳng có chi quái dị, vì “Hồ gia đao pháp” xem bề ngoài về chiêu số cũng chẳng khác gì mấy các đường đao pháp trong võ lâm, nó chỉ hay ở chỗ biến hóa kỳ diệu. Khi công thì thế đao cực kỳ lợi hại, khi thủ thì môn hộ vô cùng kín đáo, trong công có thủ, trong thủ có công thâm sâu khôn lường khiến đối thủ không biết đường đâu mà lần. Bây giờ y nghe Hồ Phỉ hỏi gấp, bèn chau mày hô:

– Sa Tăng bái Phật!

Hồ Phỉ theo lời vung đao chém tới. Điền Quy Nông huơ xéo trường kiếm đâm vào cổ tay Hồ Phỉ. Miêu Nhân Phụng lại hô:

– Diêu thủ phiên thân!

Y chưa dứt lời, Hồ Phỉ đã sử chiêu “Diêu thủ phiên thân” chém tới. Điền Quy Nông giật mình kinh hãi vội lùi một bước. “Soạt” một tiếng, trường bào của hắn đã bị mũi đao cắt đứt một góc. Mặt hắn hơi đỏ lên, hắn phóng liền ba kiếm cực kỳ thần tốc và tự nhủ:

– Chẳng lẽ Miêu Nhân Phụng còn chỉ điểm kịp cho mi ư?

Miêu Nhân Phụng cả kinh, thầm kêu khổ trong bụng. Bỗng nghe Hồ Phỉ cười hỏi:

– Miêu đại hiệp, tại hạ đã tránh khỏi ba kiếm, bây giờ phản kích bằng cách nào?

Miêu Nhân Phụng thuận miệng hô lớn:

– Quan Bình hiến ấn!

Hồ Phỉ đáp:

– Hay lắm!

Quả nhiên chàng ra chiêu “Quan Bình hiến ấn”. Thanh đao chém tới, kình phong rít lên, uy lực vô cùng lợi hại. Nhưng Miêu Nhân Phụng đã hô lên trước, mà Điền Quy Nông lại là chưởng môn nhân của một phái lớn trong võ lâm, sở học đã tinh thâm, thân thủ lại linh hoạt thì dĩ nhiên biết đường né tránh. Tiếp theo Hồ Phỉ ra chiêu “Dạ Xoa thám hải”, thế đao đã sử nửa vời, Miêu Nhân Phụng mới hô:

– Dạ Xoa thám hải!

Qua lại mười mấy chiêu, Điền Quy Nông đã bị bức bách tay chân luống cuống lâm vào thế hạ phong. Hắn liếc mắt nhìn người đứng xem, thấy ai nấy đều lộ vẻ kinh dị, liền biến đổi kiếm pháp đánh ráo riết. Hồ Phỉ cũng thi triển sở học bình sinh, dùng khoái đao chống lại khoái kiếm. Miêu Nhân Phụng hô liên tiếp:

– Thượng bộ sang đao! Lượng đao thế, Quan Âm tọa liên, Lãng tử hồi đầu…

Mọi người thấy Hồ Phỉ phóng đao rất phù hợp với lời hô của Miêu Nhân Phụng thì chẳng ai là không sinh lòng khiếp sợ.

Thực ra cũng chẳng có chi kỳ lạ. Cuối đời nhà Minh sang đầu nhà Thanh, Trung Quốc có bốn nhà đều nổi tiếng về võ công đó là Hồ, Miêu, Phạm, Điền.

Miêu Nhân Phụng là đại hiệp một thời, tinh thông kiếm thuật, thuộc lòng cả “Thiên Long kiếm pháp” nữa. Bây giờ Điền Quy Nông và Hồ Phỉ tỷ đấu với nhau, tuy mắt y không nhìn được. Nhưng nghe tiếng gió cũng biết được hai bên sử dụng chiêu số gì.

Hồ Phỉ cứ theo sở học bình sinh của mình mà dốc toàn lực để thi triển đao pháp, nếu phải nghe Miêu Nhân Phụng chỉ điểm rồi mới phát chiêu thì trong cuộc đấu sinh tử, sống chết nằm trong đường tơ kẽ tóc như thế này làm sao ra chiêu cho kịp? Có điều “Hồ gia đao pháp” của chàng với đao pháp của Miêu Nhân Phụng cùng xuất phát từ một nguồn, chẳng có gì khác nhau. Lời hô của Miêu Nhân Phụng và chiêu thức của Hồ Phỉ ăn khớp với nhau một cách hoàn hảo như áo trời không thấy đường may, giống như hai người đã tập luyện với nhau rất thành thục, rồi bây giờ đem ra biểu diễn cho mọi người xem.

Điền Quy Nông nghĩ thầm:

– Phải chẳng gã này là đệ tử của Miêu Nhân Phụng? Hay Miêu Nhân Phụng chưa mù mắt, chỉ giả vớ lấy vải buộc lại nhưng thực ra hắn vẫn trông thấy rõ ràng?

Hắn nghĩ tới đây bất giác sinh lòng khiếp sợ. Hồ Phỉ múa đơn đao càng lúc càng mau lẹ.

Đến lúc này. Miêu Nhân Phụng không có cách nào nghe rõ chiêu số của hai người được nữa, liền dừng lại không hô tiếp. Y tính thầm:

– Chàng thiếu niên này đao pháp tinh kỳ, không hiểu y là đệ tử của cao nhân nào?

Nếu như y sáng mắt, thấy Hồ Phỉ sử dụng “Hồ gia đao pháp” rất tinh thuần thì đã đoán ra chàng là truyền nhân của Hồ Nhất Đao rồi!

Vòng vây mỗi lúc một rộng thêm ra, ai cũng sợ mũi đao lưỡi kiếm đụng vào. Hồ Phỉ xoay mình thấy Trình Linh Tố đứng trong vòng vây, vẻ mặt lộ vẻ rất quan tâm lo lắng, không hiểu sao giữa lúc kịch đấu thế này, trong đầu óc chàng lại chợt nhớ đến khúc tình ca Vương thợ rèn hát cho chàng nghe lúc ra đi, bất giác trên môi khẽ nở một nụ cười.

Đột nhiên chàng quay đầu lại, hô lớn:

– “Hoài trung báo nguyệt” vốn là hư chiêu!

Tiếng hô chưa dứt bỗng nghe đánh “choang” một tiếng. Thanh trường kiếm của Điền Quy Nông đã rớt xuống đất, cánh tay hắn máu chảy đầm đìa. Hắn loạng choạng lùi lại, người lảo đảo hai cái, miệng hộc máu tươi.

Nguyên “Hoài trung bảo nguyệt” vốn chỉ là hư chiêu, rồi mới đến chiêu “Bế môn thiết phiến”. Hai chiêu này một hư một thực. Miêu Nhân Phụng và Hồ Phỉ đã sử dụng qua một lần rồi. Điền Quy Nông tận mắt thấy rõ. Đang lúc kịch đấu, hắn vừa nghe hô “Hoài trung bảo nguyệt” vốn là hư chiều. Theo phản xạ tự nhiên liền đề phòng chiêu tiếp theo “Bế môn thiết phiến”.

Không ngờ “Hồ gia đao pháp” tuyệt diệu ở chỗ hư mà biến thành thực, hốt thực hốt hư. Chiêu “Hoài trung bảo nguyệt” đột nhiên biến thành thực chiêu, Hồ Phỉ xoay đao chém vào cổ tay Điền Quy Nông đồng thời chàng vung chưởng kèm theo đao, đánh trúng ngực hắn một chưởng thật trầm trọng. Hồ Phỉ cười hỏi:

– Sao các hạ nóng tính thế, không chịu nghe hết lời của tại hạ? Tại hạ hô “Hoài trung bảo nguyệt” nguyên là hư chiêu, biến thành thực chiêu làm sao mà đỡ? Các hạ mới nghe một nửa phần trên, không nghe phần dưới.

Điền Quy Nông nghe ngực nhộn nhạo, tựa hồ muốn hộc máu ra nữa. Hắn biết bữa nay bị thua liểng xiểng, mà còn sợ Miêu Nhân Phụng chưa chắc đã mù mắt thực sự. Hắn miễn cưỡng vận khí chịu đau, trỏ vào Chung thị tam hùng ra hiệu cho bọn thuộc hạ cởi trói, rồi vẫy tay một cái, xoay mình đi luôn. Hắn không nhịn được nữa, lại thổ thêm một búng máu tươi.

Vị cô nương phóng chùy là Điền Thanh Vân, con gái người vợ trước của Điền Quy Nông, thấy phụ thân bị thương trầm trọng, vội lại đỡ hắn, khẽ hỏi:

– Gia gia, chúng ta về thôi chứ?

Điền Quy Nông gật đầu. Bọn thuộc hạ của hắn như rắn mất đầu, nên dù đông người nhưng chẳng ai còn ý chí chiến đấu nữa. Miêu Nhân Phụng chụp năm người bị thương ở trong nhà ném ra từng tên một. Bọn thủ hạ Điền Quy Nông đón lấy rồi trở gót đi ngay.

Trình Linh Tố gọi lớn:

– Tiểu cô nương! Đem cây thiết chùy này về nhà đi:

Cô giơ tay lên một cái. Cây thiết chùy bay về phía Điền Thanh Văn. Điền Thanh Văn không quay đầu, xoay tay trái ra phía sau bắt lấy. Thủ pháp thị cực kỳ lanh lẹ. Đâu dè thị vừa cầm lấy thiết chùy, toàn thân giật bắn người lên, lập tức ném ngay cây thiết chùy xuống đất, tay trái vung vẩy liên hồi, tựa hồ bị cây thiết chùy làm cho bỏng tay.

Hồ Phỉ cười khanh khách la lên:

– Xích yết phấn!

Trình Linh Tố đáp lại bằng một nụ cười. Quả nhiên cô đã rắc “Xích yết phấn” vào cây thiết chùy. Trong khoảnh khắc bọn Điền Quy Nông bỏ đi hết sạch. Trước căn nhà nhỏ lại tối đen như mực.

Chúng Triệu Anh dõng dạc lên tiếng:

– Miêu đại hiệp! Bữa nay bọn tặc tử thua chạy rồi, chắc không dám trở lại nữa. Anh em tại hạ bảo vệ bất lực, thực lấy làm xấu hổ. Mong rằng cặp mắt của đại hiệp chóng bình phục

Hắn quay lại nói với Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ. Bọn Chung mỗ may mắn được kết bạn với tiểu huynh đệ. Sau này có việc gì sai khiến, bọn Chung mỗ xin nguyện hết sức!

Đoạn ba người chắp tay từ biệt rảo bước lên đường. Hồ Phỉ biết bọn họ lỡ tay bị bắt trong lòng hổ thẹn, chàng cũng không tiện nói gì nữa. Miêu Nhân Phụng trong lòng ân oán phân minh, ông không thích nói nhiều, chỉ vòng tay đáp lễ. Y lắng nghe bọn Điền Quy Nông đi về phía bắc, Chung thị tam hùng đi về phía nam.

Trình Linh Tố nói:

– Hai vị võ công kinh nhân, quả thực tiểu muội bữa nay được mở rộng tầm mắt. Miêu đại hiệp! Xin đại hiệp vào nhà để tiểu nữ xem thử cặp mắt.

Ba người liền tiến vào trong nhà. Hồ Phỉ sắp xếp lại những bàn ghế đã bị ngã đổ ngổn ngang, rồi thắp đèn lên. Trình Linh Tố khẽ cởi tấm vải buộc mắt Miêu Nhân Phụng, tay cầm ngọn nến chăm chú quan sát vết thương.

Hồ Phỉ không nhìn vào mắt Miêu Nhân Phụng mà chỉ nhìn vẻ mặt Trình Linh Tố. Chàng biết chỉ cần nhìn thái độ của cô là có thể đoán xem thương thế của Miêu Nhân Phụng còn có thể chữa được không. Nhưng Trình Linh Tố cặp mắt long lanh sâu thẳm như một làn nước trong vắt, ngưng thần quan sát, trên mặt không lộ vẻ lo ngại cũng chẳng có biểu hiện vui mừng, khiến người ta không sao đoán được. Miêu Nhân Phụng và Hồ Phỉ đều là những người cực kỳ gan dạ, mà lúc này trong lòng lại hồi hộp bất an, hơn cả khi thân bị hãm vào trùng vây của kẻ địch. Qua một hồi lâu, Trình Linh Tố vẫn ngưng thần quan sát, không nói một tiếng nào.

Miêu Nhân Phụng mỉm cười lên tiếng:

– Loại độc dược này lợi hại quá, mà lại đã qua nhiều ngày. Nếu không chữa được, cô nương cũng cứ nói rõ, đừng ngại chi hết.

Trình Linh Tố đáp:

– Nếu chữa cho người thường thì chẳng khó gì, nhưng Miêu đại hiệp không phải người thường.

Hồ Phỉ lấy làm kỳ hỏi:

– Thế là nghĩa làm sao?

Trình Linh Tố đáp:

– Miêu đại hiệp được người ta tôn vinh là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”. Võ công đã tinh thâm như vậy thì mục lực cũng không phải tầm thường. Hơn nữa nội lực đã thâm hậu thì mục quang tất lấp loáng có thần, phát ra uy phong lẫm liệt. Nếu tiểu muội trị theo cách phổ thông làm tổn thương đến thần quang, há chẳng đáng tiếc lắm ư?

Miêu Nhân Phụng cười ha hả, nói:

– Cô nương ăn nói bất phàm, dĩ nhiên thủ đoạn cực cao. Nhưng tại hạ chưa hiểu cô xưng hô Nhất Sân đại sư bằng gì?

Trình Linh Tố hỏi lại:

– Té ra đại hiệp là cố nhân của tiên sư…

Miêu Nhân Phụng sửng sốt, hỏi:

– Nhất Sân đại sư qua đời rồi ư?

Trình Linh Tố đáp:

– Phải.

Miêu Nhân Phụng đứng bật dậy hỏi:

– Tại hạ có lời cần nói cho cô nương hay.

Hồ Phỉ thấy thái độ y có điều khác lạ, trong lòng lấy làm kỳ, nghĩ thầm:

– Sư phụ của Trình cô nương là Độc Thủ Dược Vương có pháp danh Vô Sân đại sư, sao Miêu đại hiệp lại hô là Nhất Sân?

Lại nghe Miêu Nhân Phụng nói tiếp:

– Ngày trước tôn sư cùng tại hạ có chuyện xích mích nho nhỏ, tại hạ vô lễ đã làm tổn thương đến tôn sư.

Trình Linh Tố la lên:

– Ủa! Tay trái của tiên sư mất hai ngón, là do Miêu đại hiệp đã dùng kiếm chặt đứt ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Đúng thế! Tuy nhiên, chuyện xích mích đó tôn sư đã trả đũa ngay. Thế là hòa cả làng, chẳng bên nào chịu thiệt. Đêm trước tiểu huynh đệ đây lúc ra đi cầu cứu tôn sư, tại hạ tưởng không ăn thua, chỉ một phen uổng phí tâm cơ. Bữa nay cô nương lại đến, tại hạ đã tưởng cô vâng lệnh tôn sư để dĩ đức báo oán, trong lòng cảm kích vô cùng. Nhưng tôn sư đã qua đời, chắc cô nương chưa hiểu rõ chuyện cũ.

Trình Linh Tố lắc đầu đáp:

– Tiểu nữ không biết.

Miêu Nhân Phụng vào nội thất, bưng cái hộp đưa cho Trình Linh Tố, nói:

– Đây là di vật của tôn sư. Cô nương cứ xem rồi sẽ rõ.

Cái hộp sắt này vuông vắn chừng tám tấc, sắt đã han rỉ mọi chỗ vì để lâu năm quá rồi. Trình Linh Tố mở hộp ra xem, chỉ thấy bên trong có xác một con rắn nhỏ đã khô và một cái bình nhỏ có khắc hai chữ “Xà dược”. Cô nhận ra bình thuốc này là vật thường dùng của sư phụ, nhưng không hiểu cái xác rắn kia có dụng ý gì. Miêu Nhân Phụng thản nhiên cười nói:

– Lệnh tôn sư cùng tại hạ nói năng có điều không hợp rồi hai bên xảy cuộc động thủ. Hôm sau, lệnh tôn sư sai người đưa cái hộp sắt này cho tại hạ và dặn “Nếu có gan hãy mở hộp ra xem, bằng không cứ vất xuống sông là xong”. Tại hạ khi nào lại chịu được lời nói khích đó, liền mở nắp hộp ra xem. Con rắn nhỏ này nhảy ra cắn vào mu bàn tay. Nọc nó độc vô cùng, nửa cánh tay tại hạ lập tức đen lại. Nhưng trong hộp sắt tôn sư còn để bình thuốc rắn, tại hạ uống thuốc rồi, không có điều gì đáng ngại đến tính mạng, nhưng phải một phen đau khổ cơ hồ chịu không nổi.

Y nói rồi nổi lên tràng cười ha hả, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cũng nhìn nhau cười, cùng nghĩ đến hành động đùa cợt của Độc Thủ Dược Vương.

Miêu Nhân Phụng lại nói:

– Tại hạ đã nói rõ cả, họ Miêu này quyết chẳng ngấm ngầm chiếm phần tiện nghi của ai. Cô nương vì hảo tâm chữa cho tại hạ chứ không phải bản ý của Nhất Sân đại sư. Tại hạ đã làm phiền cô nương phải một phen lặn lội, xin thành thực đa tạ.

Y nói rồi, đứng bên cửa chắp tay xá dài ra chiều tiễn khách. Hồ Phỉ rất khâm phục con người hành động theo di phong của cổ nhân, quả không thẹn với hai chữ “Đại hiệp”.

Trình Linh Tố vẫn ngồi yên nói:

– Miêu đại hiệp! Tiên sư sau này không còn là Nhất Sân nữa.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Cớ sao vậy?

Trình Linh Tố đáp:

– Trước khi tiên sư đi tu, tính nết rất mực nóng nảy. Khi xuất gia, lão nhân gia lấy pháp danh là Đại Sân. Về sau lão nhân gia tu tâm dưỡng tính có nhiều tiến bộ, đổi pháp hiệu là Nhất Sân. Khi Miêu đai hiệp động thủ với tiên sư, nếu lão nhân gia chưa đổi pháp danh là Nhất Sân, hãy còn là Đại Sân thì trong cái hộp này chỉ có rắn độc chứ làm gì có thuốc giải.

Miêu Nhân Phụng “ủa” lên một tiếng rồi khẽ gật đầu.

Trình Linh Tố nói tiếp:

– Hồi lão nhân gia thu tiểu nữ làm đồ đệ, pháp danh đã đổi thành “Vi Sân”. Ba năm trước đây, lão nhân gia đổi thành “Vô sân”. Miêu đại hiệp! Đại hiệp đã coi thường tiên sư quá rồi.

Miêu Nhân Phụng lại “ủa” lên một tiếng.

Trình Linh Tố nói:

– Khi lão nhân gia buông tay về cõi Tây Thiên đã đại triệt đại ngộ, thành Vô  Sân Vô Hỷ, đâu còn để tâm đến những mối ân oán nhỏ ngày xưa?

Miêu Nhân Phụng cả mừng, vỗ đùi đánh đét một cái, nói:

– Rõ rồi! Tại hạ quả đã đánh giá sai cố nhân. Cách biệt nhau hơn mười năm, người ta đâu có như Miêu Nhân Phụng chẳng tiến bộ được một mảy may. Quí tính cô nương là gì?

Trình Linh Tố bưng miệng cười, đáp:

– Tiện nữ họ Trình.

Rồi cô mở bọc ra lấy một cái hộp gỗ. Cô mở hộp gỗ, lấy ra một con dao nhỏ và một mũi kim, rồi nói:

– Miêu đại hiệp, xin đại hiệp buông lỏng hết huyệt đạo toàn thân đi.

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Được rồi!

Hồ Phỉ thấy Trình Linh Tố cầm dao kim đến trước mặt Miêu Nhân Phụng, chàng chợt nghĩ:

– Giữa Miêu Nhân Phụng và Độc Thủ Dược Vương đã có thù oán. Lòng người trên cõi giang hồ lại thâm hiểm khôn lường. Nếu họ an bài độc kế sai Trình cô nương mượn tiếng trị thương để hạ độc thủ thì há chẳng phải Hồ Phỉ này đưa cho người khác mượn đao để giết người lần thứ hai? Lúc Miêu đại hiệp đã buông lỏng huyệt đạo toàn thân, chỉ khẽ đâm một mũi kim trúng huyệt đạo cũng đủ chết rồi.

Chàng còn đang ngần ngừ thì Trình Linh Tố đã quay đầu lại, cầm con dao nhỏ đưa cho chàng, nói:

– Đại ca cầm dùm cái này cho tiểu muội.

Cô chợt trông thấy sắc diện chàng có điều khác lạ, liền hiểu ý ngay, cười hỏi:

– Miêu đại hiệp đã yên lòng, chẳng lẽ đại ca dạ vẫn còn lo?

Hồ Phỉ đáp:

– Giả tỷ cô nương trị thương cho tại hạ thì tại hạ rất đỗi yên lòng.

Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca cho tiểu muội là người tử tế hay là người tồi bại?

Hồ Phỉ không nghĩ ngợi gì đáp ngay:

– Dĩ nhiên cô nương là người tử tế.

Trình Linh Tố hoan hỉ nhìn chàng mỉm cười. Cô gầy ốm vàng vọt, không lấy gì làm đẹp, nhưng khi cười, mặt mũi tươi như đóa hoa xuân chớm nở. Hồ Phỉ không nghi ngờ gì nữa, đáp lại bằng nụ cười.

Trình Linh Tố hỏi:

– Hồ đại ca đã thực lòng tin được tiểu muội rồi chứ?

Mặt cô hơi đỏ lên, cô quay đi chỗ khác, không dám chạm vào mục quang của chàng nữa. Hồ Phỉ co ngón tay lên gõ vào trán mấy cái rồi cười nói:

– Phải đánh đòn gã tiểu tử hồ đồ này!

Chàng chợt động tâm tự hỏi:

– Sao khi cô hỏi “Đại ca đã thực lòng tin được tiểu muội rồi chứ?” thì mặt cô lại đỏ lên?

Mấy câu hát của Vương thợ rèn bỗng nhiên lại vang lên trong chàng:

Tiểu muội tử đãi tình lang

Ân tình thâm

Nễ mạc phụ liễu muội tử

Nhất ban tình

Nễ kiến liễu tha diện thời

Yếu đãi tha hảo

Nỗ bất kiến tha diện thời

Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải tại tâm!

Trình Linh Tố cầm kim khẽ đâm vào ba huyệt đạo Miêu Nhân Phụng là huyệt “Dương bạch” ở trên mắt, huyệt “Tinh minh” ở bên mặt, huyệt “Thừa khấp” ở dưới mắt và dùng dao cắt đi một chút da ở dưới huyệt “Thừa khấp”. Cô lại đổi kim đâm vào huyệt đó. Cô vừa dùng ngón tay cái đè vào đuôi kim thì thấy có máu đen chảy ra. Nguyên mũi kim này rỗng ở giữa. Máu đen chảy ra không ngớt, dần dần biến thành máu tía, rồi chuyển thành máu đỏ.

Hồ Phỉ tuy không hiểu gì nhưng cũng biết chất độc ra hết rồi, liền cất tiếng hoan hô:

– Hay lắm!

Trình Linh Tố hái bốn lá “Thất tâm hải đường”, bóp nát ra rịt vào mắt Miêu Nhân Phụng. Miêu Nhân Phụng da mặt hơi cử động, rồi cái ghế y đang ngồi bỗng vang “rắc” một tiếng.

Trình Linh Tố nói:

– Miêu đại hiệp! Tiểu nữ nghe Hồ đại ca nói đại hiệp có vị thiên kim tiểu thư rất khả ái. Hiện giờ cô ấy ở đâu?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Nơi đây không bình yên, tại hạ đưa sang gửi nhà hàng xóm rồi.

Trình Linh Tố lại dùng tấm khăn vải buộc mắt cho Miêu Nhân Phụng nói:

– Được rồi! Ba ngày sau hết đau thì lại ngứa ngáy khó chịu, khi ấy mở băng vải ra là không việc gì nữa. Bây giờ xin mời đại hiệp hãy vào nằm nghỉ. Hồ đại ca, chúng ta đi làm cơm.

Miêu Nhân Phụng đứng dậy hỏi Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Ta hỏi huynh đệ một câu. Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao là bá phụ hay là thúc phụ của huynh đệ?

Nên biết Hồ Phỉ dùng “Hồ gia đao pháp” đánh bại Điền Quy Nông, Miêu Nhân Phụng tuy không nhìn rõ nhưng nghe cũng biết đao pháp chàng đã đến trình độ không phải tầm thường. Nếu không được đích thân Hồ Nhất Đao truyền thụ thì quyết chẳng thể luyện đến trình độ này. Miêu Nhân Phụng còn biết Hồ Nhất Đao sinh được một đứa con, mà đứa nhỏ đó cũng bị người ta giết chết vất xác dưới sông, vì thế y đoán Hồ Phỉ là cháu Hồ Nhất Đao.

Hồ Phỉ bật tiếng cười khô khan, đáp:

– Vị Liêu Đông đại hiệp chẳng phải là bá phụ mà cũng không phải là thúc phụ của tại hạ.

Miêu Nhân Phụng rất lấy làm lạ, nghĩ bụng:

– “Hồ gia đao pháp” không truyền cho người ngoài, huống chi chàng thiếu niên này cùng họ Hồ.

Y lại hỏi:

– Hồ đại hiệp có họ hàng thân thích gì với tiểu huynh đệ?

Hồ Phỉ trong lòng rất khó xử, vì chàng không hiểu Miêu Nhân Phụng rốt cuộc có mối quan hệ thế nào với phụ thân. Chàng hỏi lại:

– Hồ đại hiệp ư? Lão qua đời đã lâu năm. Tại hạ làm gì có được phúc phận họ hàng với lão?

Miêu Nhân Phụng trong lòng buồn bã, ngơ ngẩn hỏi lâu, khẽ lắc đầu rồi vào phòng trong nằm nghỉ.

Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ mặt mày ủ rũ, muốn làm cho chàng vui vẻ liền nói:

– Hồ đại ca! Đại ca vất vả hàng nửa ngày trời rồi, hãy ngồi nghỉ một lát.

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tại hạ không nhọc mệt gì cả.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca ngồi xuống đây. Tiểu muội có điều muốn nói.

Hồ Phỉ theo lời ngồi xuống, bỗng thấy mông đặt vào chỗ không, lại nghe “rắc” một tiếng, cái ghế gãy làm bốn, năm mảnh.

Trình Linh Tố vỗ tay cười, nói:

– Con bò mộng năm trăm cân cũng không nặng bằng đại ca.

Công phu hạ bàn của Hồ Phỉ rất vững. Tuy chàng ngồi vào chỗ trống không, song hai chân đứng vững lại ngay, không đến nỗi té nhào, trong lòng rất lấy làm lạ.

Trình Linh Tố lại nói:

– Lá “Thất tâm hải đường” rịt vào da thịt còn đau hơn gấp mười lần dao cắt. Nếu là đại ca, chỉ e đại ca réo đến cả tên má má của tiểu muội ra nữa là đằng khác.

Hồ Phỉ phì cười. Bây giờ chàng mới biết lúc nãy Miêu Nhân Phụng nhịn đau, tuy nét mặt thản nhiên, nhưng đã vận nội kình chịu đựng làm cho cái ghế dập nát. Hai người thổi nồi cơm, xào nấu ba món xong, mời Miêu Nhân Phụng ra cùng ăn.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Tại hạ có ăn được không?

Trình Linh Tố đáp:

– Được tất, không phải cữ chi cả.

Miêu Nhân Phụng lấy ra ba bình rượu trắng, để trước mặt mỗi người một bình, nói:

– Chúng ta tự rót lấy mà uống, bất tất phải khách sáo.

Y nói rồi rót ra lưng chung ngửa cổ uống cạn. Hồ Phỉ cùng uống rượu được, bồi tiếp nửa chung. Trình Linh Tố không biết uống rượu, cô đổ chén rượu trắng vào chậu “Thất tâm hải đường”. Cô nói:

– Thứ hoa này phải tưới bằng rượu, nếu tưới nước là chết. Khi tiểu muội trồng “Đề hồ hương” mới ngộ ra cái đạo lý này. Mấy vị sư huynh, sư tỷ của tiểu muội không hiểu nên vất vả mười mấy năm mà trồng không được.

Nửa chung rượu còn lại, cô đổ vào chung của hai người, rồi tự mình xới cơm ăn cùng. Miêu Nhân Phụng lại uống nửa chung nữa, đã thấy trong lòng rất hào hứng, lên tiếng hỏi:

– Hồ huynh đệ! Ai đã dạy đao pháp cho huynh đệ?

Hồ Phỉ nói:

– Không có ai dạy cả. Tại hạ theo đồ hình và lời hướng dẫn trong một cuốn đao phổ mà tự luyện lấy.

Miêu Nhân Phụng “ồ” một tiếng.

Hồ Phỉ nói tiếp:

– Về sau tại hạ gặp Triệu tam đương gia ở Hồng Hoa hội, truyền cho mấy yếu quyết về Thái Cực quyền.

Miêu Nhân Phụng vỗ đùi một cái, lớn tiếng hỏi:

– Có phải Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn Triệu tam gia không?

Hồ Phỉ đáp:

– Chính thị!

Miêu Nhân Phụng nói:

– Thảo nào, thảo nào…

Hồ Phỉ đáp:

– Thảo nào là sao?

Miêu Nhân Phụng lại nói:

– Tại hạ ngưỡng mộ Trần tổng đà chủ ở Hồng Hoa hội là người hào hiệp trượng nghĩa, các vị đương gia đều là anh hùng nổi tiếng. Đáng tiếc những nhân vật này ẩn náu tại Hồi Cương nên Miêu mỗ không có cơ duyên gặp gỡ. Thật là điều ân hận cả đời!

Hồ Phỉ thấy y cực kỳ trọng vọng Triệu Bán Sơn cũng hoan hỷ trong lòng.

Miêu Nhân Phụng rót hết bình rượu ra chén uống cạn rồi đứng dậy sờ lấy thanh đơn dao đặt trên kỷ trà, nói:

– Hồ huynh đệ! Ngày trước tại hạ được gặp Hồ Nhất Đao đại hiệp. Y truyền cho tại hạ mấy đường “Hồ gia đao pháp”. Bữa nay tại hạ dùng nó đánh lui được cường địch. Hồ huynh đệ cũng dùng nó để đả bại Điền Quy Nông. Đao pháp đó, hà hà, quả đúng là hảo đao pháp!

Đột nhiên y ngửa mặt hú lên một tiếng thật dài, nhảy ra ngoài cửa tay cử đao đứng sững để thi triển “Hồ gia đao pháp”. Hồ Phỉ thấy bộ pháp vững vàng, đao phong lượn múa, có lúc khoan thai nhàn nhã, có khi cương mãnh thần tốc. Mỗi chiêu mỗi thức kình phong đều rít lên vù vù. Hồ Phỉ ngưng thần theo đõi, chàng nhận ra những chiêu số này đúng như chiêu số ghi trong đao phổ, có điều thế đao so với chàng thong thả hơn nhiều. Hồ Phỉ cho là y cố ý thi triển chậm chạp để chàng nhìn cho rõ.

Miêu Nhân Phụng đi hết đường đao pháp, cầm ngang thanh đao dừng lại, nói:

– Tiểu huynh đệ, trình độ đao pháp của huynh đệ thắng được Điền Quy Nông thì có dư, nhưng đợi khi ta lành mắt, muốn đấu ngang ngửa với ta thì vẫn còn chưa đủ.

Hồ Phỉ đáp:

– Dĩ nhiên là thế, vãn bối đâu phải là địch thủ của Miêu đại hiệp?

Miêu Nhân Phụng lắc đầu đáp:

– Nói thế là lầm. Ngày trước Hồ đại hiệp đã dùng đao pháp này cùng ta tỷ đấu năm ngày ròng rã, thủy chung vẫn không phân thắng bại. Y sử đao còn thong thả hơn ta nhiều.

Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:

– Té ra là thế ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Phải rồi. Để cho khách lừa chủ đâu bằng dùng chủ để phạm khách, non trẻ hơn già nua, chậm chạp hơn gấp gáp. Các bí quyết “triền, hoạt, giảo, sát, trừu, triệt” mạnh hơn “triền, mạt, câu, thích, phách”.

Nguyên “chủ lừa khách, khách phạm chủ” đều là những thế đao. Dùng mũi đao đẩy khí giới bên địch gọi là “nộn”’, đến gần dùng mũi đao để đẩy khí giới bên địch gọi là “lão”. Xuất chiêu thong thả gọi là “trì”, dùng đao trước thế công của địch gọi là “cấp”. Còn các yếu quyết “triền, hoạt, giảo, sát”… đều là cách thức sử đao.

Miêu Nhân Phụng thu đao về, cầm đũa và hai miếng cơm, rồi nói:

– Huynh đệ từ từ giác ngộ diệu lý này thì ngày sau ắt có thể xưng hùng trong võ lâm, vùng vẫy khắp giang hồ.

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng, cầm đũa toan gắp mà không gắp, chàng mải suy nghĩ về mấy câu đao quyết nên dừng đũa ở lưng chừng.

Trình Linh Tố dùng đũa khẽ gõ vào đũa của chàng, cười hỏi:

– Không ăn cơm đi à?

Hồ Phỉ đang nghiền ngẫm đao quyết, bất giác kình lực toàn thân phát ra cánh tay phải. Đôi đũa của Trình Linh Tố vừa gõ vào, đôi đũa của chàng tự nhiên phát sinh ra một luồng kình lực phản chấn, hất ra đánh “chát” một tiếng, làm đôi đũa của Trình Linh Tố bị chấn động, gãy thành bốn đoạn!

Trình Linh Tố khẽ “a” lên một tiếng, rồi cười hỏi:

– Đại ca muốn khoa trương bản lãnh ư?

Hồ Phỉ vội cười giả lả, đáp:

– Xin lỗi cô nương. Tại hạ mải ngẫm nghĩ mấy câu nói của Miêu đại hiệp thành ra ngớ ngẩn.

Đoạn chàng đưa đôi đũa trong tay mình cho cô. Trình Linh Tố đón lấy tiếp tục ăn cơm.

Hồ Phỉ miệng lẩm bẩm:

– Non trẻ thắng già nua, chậm chạp thắng gấp gáp, để cho khách lừa chủ đâu bằng…

Chàng ngửng đầu thấy Trình Linh Tố dùng đôi đũa của mình để ăn cơm rất tự nhiên, chẳng ngại ngùng gì cả, bất giác đỏ mặt lên. Chàng muốn lấy lại để lau cho sạch thì đã không kịp nữa. Chàng định nói mấy câu xin lỗi, nhưng thấy như thế lại quá khách sáo, liền xuống bếp lấy đôi đũa khác.

Hồ Phỉ và mấy miếng cơm ăn rồi thò đũa vào để gắp rau thì đũa của Miêu Nhân Phụng cũng thò ra khẽ đụng nhau một cái đẩy đũa của chàng đi. Y nói:

– Đây là khẩu quyết về chữ “Triệt”.

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế!

Chàng lại cầm đũa đưa lên, nhưng đôi đũa của Miêu Nhân Phụng lại phòng giữ nghiêm mật dị thường. Bất luận chàng giơ lên cao hay hạ xuống thấp, thủy chung cũng không thò đũa vào trong đĩa được.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Khi động đao tỷ đấu, tuy mắt y chẳng nhìn thấy vật nhưng có thể thính phong biện khí, nghe tiếng gió của binh khí để xác định chiêu số của kẻ địch. Bây giờ đôi đũa nhỏ bé này của ta đưa ra chẳng có tiếng gió mà không hiểu sao y cũng phát giác được?

Hai người tiến thoái công thủ mấy chiêu. Hồ Phỉ đột nhiên tỉnh ngộ. Thì ra những chiêu số của Miêu Nhân Phụng toàn sử dụng yếu quyết “Hậu phát chế nhân”, tuy ra tay sau mà kiềm chế được người. Y chờ cho đũa của đối phương chạm vào rồi mới tùy cơ ứng biến. Đó là đạo lý “dĩ khách phạm chủ”, “trì thống ư cấp”. Khi hiểu ra đạo lý này rồi, Hồ Phỉ không đưa đũa vào đoạt rau nữa mà giơ đũa lên không, hai mắt chăm chú nhìn đũa của Miêu Nhân Phụng, đồng thời từ từ hạ đũa của mình xuống đĩa rau.

Đến lúc này, thủ pháp chàng biến đổi mau lẹ tuyệt luân. Chàng gắp một đũa rau đưa vào miệng ăn. Miêu Nhân Phụng không nhìn thấy đũa chàng đưa lên hay đưa xuống dĩ nhiên không cản trở được. Y đặt đũa xuống bàn cười ha hả.

Từ lúc Hồ Phỉ gắp được miếng rau ăn mới thực sự bước vào cảnh giới của hạng nhất lưu cao thủ. Chàng nhớ lại vừa rồi mình phải mất nhiều khí lực mới thắng nổi Điền Quy Nông, trong khoảnh khắc này, vừa thấy hoan hỷ, lại vừa thẹn thùng. Trình Linh Tố thấy chàng đoạt được rau ăn, cười hích hích nhìn chàng. Trong lòng cô cũng vô cùng cao hứng.

Miêu Nhân Phụng lên tiếng:

– Thế là từ nay “Hồ gia đao pháp” lại có truyền nhân rồi. Hồ đại ca hỡi Hồ đại ca!

Y nói tới đây, âm thanh đầy vẻ thê lương.

Trình Linh Tố nhận ra giữa Hồ Phỉ và Miêu Nhân Phụng dường như có mối oán kết khó lòng cởi mở. Cô không muốn Hồ Phỉ nhắc tới chuyện này nữa liền hỏi:

– Miêu đại hiệp! Giữa đại hiệp và tiên sư tại sao lại xảy chuyện kết thù? Đại hiệp kể cho bọn tiểu nữ nghe được chăng?

Miêu Nhân Phụng thở dài đáp:

– Vụ đó đến nay tại hạ cũng chưa rõ ràng. Mười tám năm về trước, tại hạ ngộ sát một vị hảo bằng hữu, chỉ vì trên lưỡi binh khí có bôi chất kịch độc gặp máu là làm tắc mạch ngay, không sao cứu chữa được. Tại hạ nghĩ rằng loại chất độc ghê gớm như thế, ắt quá nửa phải có liên quan đến tôn sư. Vì thế tại hạ liền tìm tới tôn sư để chất vấn. Tôn sư phủ nhận tất cả, bảo rằng không hiểu gì hết. Một là tại hạ ăn nói vụng về, hai là trong lòng quá đau xót không khỏi có điều đắc tội với tôn sư, rốt cuộc hai bên xảy ra cuộc động thủ.

Hồ Phỉ lẳng lặng ngồi nghe, một lúc sau mới hỏi:

– Theo lời đại hiệp thì chính tay đại hiệp đã làm chết vị hảo bằng hữu kia ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Đúng thế!

Hồ Phỉ hỏi:

– Còn phu nhân của vị kia thì sao? Đại hiệp nhổ cỏ tận gốc cũng giết luôn cả chứ gì?

Trình Linh Tố thấy chàng tay cầm chuôi đao, sắc mặt xám xanh. Cô nhận ra tiệc rượu đang vui vẻ chỉ trong chớp mắt có thể biến thành cục diện gió tanh mưa máu. Cô hoàn toàn chẳng hiểu ai phải ai quấy, nhưng trong lòng không còn ngần ngừ gì nữa:

– Nếu hai người sát phạt nhau thì ta lập tức phải giúp y vậy?

Chữ “y” ở đây dĩ nhiên là trỏ Hồ Phỉ. Lúc này trong lòng cô đã quyết định dứt khoát rồi.

Miêu Nhân Phụng cất giọng cay đắng, từ từ đáp:

– Vị phu nhân đó tự vẫn theo chồng ngay tại đương trường.

Hồ Phỉ hỏi:

– Thế là cái mạng đó cũng do đại hiệp hại chết phải không?

Miêu Nhân Phụng buồn rầu đáp:

– Đúng thế!

Hồ Phỉ đứng dậy sa sầm nét mặt, hỏi:

– Vị hảo bằng hữu của đại hiệp tên họ là gì vậy?

Miêu Nhân Phụng hỏi lại:

– Tiểu huynh đệ thực tình muốn biết hay sao?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối cần biết lắm.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Được rồi! Tiểu huynh đệ hãy đi theo ta

Y rảo bước tiến vào hậu đường. Hồ Phỉ đi theo y, Trình Linh Tố cũng vội bám theo sát gót.

Bỗng thấy Miêu Nhân Phụng mở cửa sương phòng. Trong phòng có kê một cái bàn gỗ bạch mộc. Trên bàn đặt hai tấm linh vị. Một tấm đề “Nghĩa huynh Liêu Đông đại hiệp Hồ công Nhất Đao chi linh vị”. Còn một tấm đề “Nghĩa tẩu Hồ phu nhân chi linh vị”.

Hồ Phỉ nhìn linh bài hai vị, chân tay giá lạnh, toàn thân phát run.  Từ lâu chàng vẫn nghi ngờ cái chết của song thân mình tất có liên quan trọng đại với Miêu Nhân Phụng, nhưng thấy y là người khẳng khái hào hiệp, nên chỉ mong mối nghi ngờ của mình sai trật. Nhưng bây giờ y thẳng thắn công nhận chẳng uý kỵ gì. Có điều khi y nói câu “Tại hạ lỡ tay ngộ sát một vị bằng hữu” thì sắc diện cùng giọng nói đều lộ vẻ khổ đau vô hạn. Chàng không biết phải làm thế nào cho phải.

Miêu Nhân Phụng quay lại, hai tay chắp để sau lưng nói:

– Tiểu huynh đệ đã không chịu nói mối liên quan với Hồ đại hiệp thì ta cũng không truy vấn nữa. Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã nhận lời chiếu cố cho con gái ta thì nên nhớ kỹ. Thế là đủ rồi. Tiểu huynh đệ muốn trả thủ cho Hồ đại hiệp thì cứ việc động thủ đi.

Hồ Phỉ giơ đao lên dừng lại trên không nghĩ bụng:

– Ta chỉ cần dùng yếu quyết “Dĩ khách phạm chủ” mà y vừa dạy từ từ hạ đao xuống là y quyết không tránh khỏi, thế là ta trả xong mối đại cừu cho song thân.

Nhưng chàng thấy nét mặt y bình thản, đã không lộ vẻ thương tâm lại không ra chiều sợ sệt thì hạ đao thế nào được?

Đột nhiên chàng kêu to một tiếng rồi xoay mình chạy đi. Trình Linh Tố tay bưng chậu “Thất tâm hải đường”, vai khoác hai túi vải tùy thân chay theo. Hồ Phỉ chạy như điên như cuồng một mạch hơn mười dặm, rồi đột nhiên ngã lăn ra gào khóc. Trình Linh Tố bị tụt lại rất xa ở đằng sau. Mãi một lúc lâu cô mới chạy đến nơi. Cô thấy tình cảnh bi thương của Hồ Phỉ biết lúc này khuyên giải không được, đành lặng lẽ ngồi một bên để chàng tha hồ mà khóc đặng phát tiết hết nỗi bi thương trong lòng. Hồ Phỉ khóc hết nước mắt mới dừng lại nói:

– Linh cô nương! Y giết gia gia và má má của tại hạ. Thù này chẳng đội trời chung.

Trình Linh Tố ngẩn người ra hồi lâu mới hỏi:

– Vậy chúng ta chữa mắt cho y đã là một việc sai lầm.

Hồ Phỉ đáp:

– Việc chữa mắt cho y không có gì sai lầm cả. Chờ y sáng mắt trở lại tại hạ mới kiếm y để trả thù.

Chàng dừng lại một chút rồi tiếp:

– Nhưng võ công y cao hơn tại hạ quá nhiều, tại hạ cần phải luyện võ nghệ trước mới được.

Trình Linh Tố đáp:

– Y đã dùng binh khí bôi chất độc sát hại lệnh tôn, thì chúng ta cũng dùng cách này để đáp trả.

Hồ Phỉ thấy cô hết lòng hết dạ ủng hộ mình, bất giác sinh lòng cảm kích. Nhưng chàng nghĩ tới việc cô dùng chất kịch độc để đối phó với Miêu Nhân Phụng thì tự nhiên trong lòng lại sợ run lên, điều đó quả thật là kỳ. Chàng nghĩ thầm trong bụng: “Vị cô nương này tài trí thông minh gấp mười ta, võ công cô cũng không phải hạng tầm thường, nhưng suốt ngày cô cứ kề cận với độc vật, vậy thì…”. Chính bản thân chàng cũng chưa hiểu “Vậy thì…” cái gì nhưng chỉ cảm thấy có điều bất ổn.

Chương 12: Bọn cướp cổ quái

Sau khi khóc lóc một hồi, mối uất ức phiền muộn trong lòng đã vơi đi nhiều. Chàng thấy trời tờ mờ sáng, có thể lên đường được rồi. Nhưng vừa đứng dậy, Hồ Phỉ bỗng la lên một tiếng:

– Hỏng rồi!

Nguyên tâm thần chàng bị kích động, từ nhà Miêu Nhân Phụng chạy đi ngay, bỏ lại cái bọc đeo bên mình. Chàng không biết làm sao quay lại lấy vì không muốn chạm mặt Miêu Nhân Phụng nữa.

Trình Linh Tố cất giọng buồn buồn nói:

– Cái gì mất cũng được nhưng chẳng thể để mất tấm ngọc phụng hoàng kia.

Hồ Phỉ bị cô nói trúng tâm sự, bất giác đỏ mặt lên nói:

– Cô hãy chờ ở đây một chút. Tại hạ quay lại lấy cái bọc không thì ngay bữa cơm tối nay cũng chẳng có tiền trả.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội có bạc rồi, cả vàng cũng có nữa.

Cô lấy trong bọc ra hai đỉnh vàng nhỏ.

Hồ Phỉ lại nói:

– Điều trọng yếu nhất là cuốn “Quyền kinh đao phổ” gia truyền quyết không thể mất được.

Trình Linh Tố lại thò tay vào bọc đưa cuốn “Quyền kinh đao phổ” ra, hờ hững hỏi:

– Có phải cuốn này không?

Hồ Phỉ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, đáp:

– Cô nương thật là tinh tế, việc gì cũng trông nom giúp tại hạ.

Trình Linh Tố nói:

– Chỉ đáng tiếc là tấm ngọc phụng hoàng bị tiểu muội đánh rơi dọc đường, thật là áy náy.

Hồ Phỉ thấy cô vẻ mặt trịnh trọng, tựa hồ không phải đùa giỡn mình thì trong lòng nóng nảy, vội đáp:

– Để tại hạ quay lại tìm, có khi thấy được cũng nên.

Dứt lời, chàng quay người toan đi thì Trình Linh Tố vội la lên:

– Ô hay! Cái gì lấp loáng thế kia?

Cô thò tay vào trong đám cỏ xanh lượm lên một vật trang sức sáng lấp loáng. Chính là con ngọc phụng.

Hồ Phỉ cả mừng, cười nói:

– Cô nương quả là Nữ Gia Cát, Tiểu Trương Lương, tiểu nhân đành cam bái hạ phong.

Trình Linh Tố đáp:

– Đại ca thấy con ngọc phụng mà hí hửng quá chừng. Tiểu muội trả cho đây.

Cô liền đưa cuốn “Quyền kinh đao phổ” và con ngọc phụng cho chàng rồi nói:

– Hồ đại ca! Chúng ta hẹn ngày tái ngộ!

Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:

– Cô nương giận rồi ư?

Trình Linh Tố hỏi lại:

– Tiểu muội tức giận ai được cơ chứ?

Cô nói vậy nhưng mắt đỏ hoe, hai dòng nước mắt muốn trào ra, phải quay đầu đi.

Hồ Phỉ ấp úng:

– Cô… cô nương đi đâu bây giờ?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội cũng không biết.

Hồ Phỉ hỏi:

– Sao lại không biết?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội đã không cha không mẹ, sư phụ lại chết rồi, cũng chẳng ai cho ngọc phụng hoàng hay ngọc kỳ lân gì gì cả, thì tiểu… tiểu muội còn biết đi đâu bây giờ?

Cô nói đến đây, đôi dòng lệ chảy ròng ròng trên má. Hồ Phỉ từ ngày gặp cô, thấy tâm tư cô rất thân mật, chỗ nào cô cũng chiếm thượng phong hơn người, gặp việc khó khăn gì cô cũng giải quyết được. Thế mà bây giờ thấy cô đứng lặng yên trong làn gió sớm, dưới ánh trăng tàn chênh chếch chiếu, chiếc lưng hơi rung động, chàng không khỏi sinh lòng thương xót, liền nói:

– Linh cô nương. Tại hạ đưa cô một đoạn đường.

Trình Linh Tố vẫn đứng xoay lưng lại, kéo áo lên lau nước mắt, đáp:

– Tiểu muội đã không biết đi về đâu thì đại ca tiễn cái gì? Đại ca bảo tiểu muội đi chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng, tiểu muội đã làm xong rồi.

Hồ Phỉ muốn làm cho cô vui lên, liền nói:

– Nhưng còn một việc cô nương chưa làm.

Trình Linh Tố quay lại hỏi:

– Việc gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Lúc tại hạ cầu cô nương chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng, cô bảo cũng yêu cầu tại hạ một việc. Việc đó là việc gì, cô nương vẫn chưa nói.

Trình Linh Tố dù sao cũng là cô gái nhỏ tuổi, mặt cô đang đầm đìa nước mắt, đột nhiên lại phá lên cười, hỏi:

– Đại ca không nhắc thì tiểu muội quên mất. Cái đó gọi là tự mình làm nên tội nghiệt tất không sống nổi. Được rồi, tiểu muội yêu cầu việc gì đại ca cũng làm theo phải không?

Hồ Phỉ quả thực tâm tình nguyện làm cho cô bất cứ việc gì, liền ngang nhiên đáp:

– Chỉ cần sức tại hạ làm được thì bất luận việc gì cũng xin tuân lệnh.

Trình Linh Tố xòe tay ra nói:

– Hay lắm! Đại ca cho tiểu muội con ngọc phụng đó.

Hồ Phỉ ngẩn người, trong lòng lấy làm khó nghĩ, nhưng chàng là người biết giữ lời hứa liền đưa ngọc phụng ra.

Trình Linh Tố không đón lấy lại nói:

– Tiểu muội lấy cái này làm gì? Chỉ yêu cầu đại ca đập nát nó ra.

Việc này cả ngàn vạn lần Hồ Phỉ không sao làm được. Chàng đứng thộn mặt ra tại chỗ, hết đăm đăm nhìn Trình Linh Tố rồi lại nhìn con ngọc phụng hoàng trong tay, không biết phải làm thế nào. Hình ảnh kiều diễm của Viên Tử Y chính trong sát na đó đột nhiên hiện ra vương vấn trong lòng Hồ Phỉ.

Trình Linh Tố từ từ bước lại gần, cầm lấy con ngọc phụng nhét vào bọc cho chàng, rồi mỉm cười nói:

– Từ nay về sau đại ca đừng hứa với người khác một cách khinh suất. Trên đời rất nhiều việc miệng đã hứa hẹn mà vô phương thực hiện. Thôi, được rồi, bây giờ chúng ta lên đường!

Trong lòng Hồ Phỉ thấy ngậm ngùi bâng khuâng khôn tả. Chàng bưng chậu “Thất tâm hải đường” đi theo Trình Linh Tố.

Đến trưa thì hai người tới một thị trấn lớn. Hồ Phỉ hỏi:

– Chúng ta hãy tìm phạn điếm ăn cơm rồi hãy đi mua đôi ngựa.

Chàng chưa dứt lời đột nhiên một hán tử trung niên mặc áo trường bào bằng gấm đoạn ra vẻ là một thương gia, tiến lại chắp tay hỏi:

– Phải chăng đây là Hồ gia?

Hồ Phỉ chưa từng gặp người này, chàng thi lễ đáp:

– Không dám! Chính là tại hạ. Xin hỏi quý tính đại danh của huynh đài? Sao huynh đài lại biết tại hạ?

Người kia mỉm cười đáp:

– Tiểu nhân vâng lệnh gia chủ chờ Hồ gia ở đây đã lâu. Mời Hồ gia qua bàn này dùng sơ qua bữa điểm tâm.

Hán tử nói rồi cung kính dẫn hai người vào một tòa tửu lâu. Trong tửu lâu, bọn tiểu nhị không chờ người kia sai bảo đã bày ngay rượu thịt ra, tuy người nói bữa điểm tâm sơ sài nhưng thực là là một bữa tiệc thịnh soạn. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều cảm thấy kỳ quái nhưng gã thương gia kia ngồi xuống tiếp khách mà không nhắc gì tới ai là người đón mời. Hai người cũng không hỏi lại, cứ ung dung ngồi ăn uống.

Cơm rượu xong, thương gia kia nói:

– Mời hai vị qua bên này nghỉ ngơi.

Mấy người xuống lầu đã thấy gia nhân dắt tới ba con ngựa cao lớn. Cả ba người lên ngựa, gã thương gia đi trước dẫn đường, ruổi ngựa ra ngoài thị trấn. Đi chừng năm, sáu dặm thì đến trước một đại trang viện. Quanh trang viện trông toàn thùy dương, tường quét trắng, cửa sơn đen, khí thế không phải nhỏ.

Trước cửa trang viện có sáu, bảy tên gia đinh đứng đó. Chúng vừa thấy gã thương gia tới liền thõng tay đứng nghiêm. Gã thương gia mời Hồ Phỉ và Trình Linh Tố vào đại sảnh dùng trà. Trên bàn bày đầy trái cây rất đẹp mắt.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Nếu ta có hỏi y sao lại tiếp đãi thế này, thì chưa chắc y đã chịu nói. Vậy cứ để y giở đủ hết mọi trò ra rồi ta sẽ tùy cơ ứng biến là xong.

Chàng liền cùng Linh Tố nói chuyện phong cảnh dọc đường, không đoái hoài gì đến người kia. Gã thương gia chỉ kính cẩn mời mọc chứ không xen vào câu chuyện giữa hai người.

Dùng điểm tâm xong, gã thương gia lại nói:

– Hồ gia và cô nương đi đường mệt nhọc, xin vào nhà trong tắm rửa thay áo.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Nghe giọng lưỡi y dường như y chưa hiểu lai lịch Linh cô nương. Như vậy càng hay. Nếu y quả dám hạ độc đệ tử của Độc Thủ Dược Vương thì chính là tự rước khổ vào mình.

Chàng liền theo gia đinh vào nội đường Trình Linh Tố đã có bọn bộc phụ đưa vào lầu sau tắm gội. Hai người tắm rửa nghỉ ngơi xong, lại quay ra nhà đại sảnh. Người nọ nhìn người kia đều thay đổi y phục mới tinh. Trình Linh Tố mỉm cười khẽ nói:

– Hồ đại ca, sang năm mới rồi chăng? Ăn mặc thế này quả thật chỉnh tề!

Hồ Phỉ thấy mặt cô thoa một lớp phấn mỏng, con người đã thanh tú lại thêm phần kiều diễm, chàng cười nói:

– Cô nương có vẻ một vị tân nương tử.

Trình Linh Tố đỏ mặt lên quay đầu ra chỗ khác, chẳng lý gì tới. Hồ Phỉ ngấm ngầm hối hận vì đã lỡ lời. Nhưng chàng liếc trộm thấy cô không có vẻ gì là giận dữ, trong khóe mắt lại lộ vẻ tinh quái, lại ra chiều e thẹn.

Lúc này trên nhà khách lại bày tiệc rượu. Gã thương gia mời Hồ Phỉ ba chung rồi quay vào nhà trong bưng ra một cái khay. Trên khay đặt một gói vải đỏ. Y mở gói ra thấy một cuốn số viền chỉ vàng, ngoài bìa đề hàng chữ “Kính trình Hồ đại gia thu nạp”.

Gã thương gia hai tay nâng quyển sổ đưa tới trước mặt Hồ Phỉ, nói:

– Tiểu nhân phụng mệnh chủ nhân dâng Hồ đại gia chút lễ mọn này,

Hồ Phỉ không đón lấy cuốn sổ, hỏi lại:

– Quý chủ nhân là ai? Cớ sao lại tặng lễ vật cho tại hạ?

Gã thương gia đáp:

– Chủ nhân căn dặn không được nhắc đến danh tự người. Sau này, tự nhiên Hồ gia sẽ hiểu.

Hồ Phỉ rất lấy làm lạ, đón lấy quyển sổ bọc gấm, mở ra coi thì thấy trên trang đầu viết “Thượng đẳng điền bốn trăm mười lăm mẫu bảy phân”. Phía dưới ghi chú vị trí ruộng tiếp giáp thế nào, tọa lạc ở đâu, tá điền là ai, mỗi năm đóng thóc tô bao nhiêu…

Hồ Phỉ càng ngạc nhiên tự hỏi:

– Ta lấy bốn trăm mẫu ruộng này làm gì?

Chàng lật qua trang thứ hai thấy viết “Một tòa trang viện gồm năm lớp trên lầu có mười hai phòng, dưới đất bảy mươi ba phòng”. Phía dưới chú thích bằng chữ nhỏ đông tây tứ cận cùng tên các căn phòng, nào là vườn hoa, sảnh đường, sương phòng; cả đến nhà bếp, phòng chứa củi, tàu ngựa… cũng đều ghi rất rõ ràng. Chàng lại lật xuống thấy ghi tên các tỳ bộc trong trang viện, cùng những thứ nhật dụng, kim ngân, lương thực, súc vật, xe kiệu, đồ dùng, quần áo, chẳng thiếu thứ gì.

Hồ Phỉ coi qua một lượt rất đỗi hoang mang, cầm cuốn sổ đưa lại cho Trình Linh Tố, bảo:

– Cô nương coi đi.

Trình Linh Tố coi qua một lượt cũng không đoán ra được họ có dụng ý gì. Cô cười, nói:

– Cung hỷ phát tài! Cung hỷ phát tài!

Gã thương gia kia nói:

– Trong lúc thảng thốt, chủ nhân chuẩn bị không được chu đáo, thật chưa đủ lòng thành kính.

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

– Lát nữa tiểu nhân đưa Hồ đại gia đi coi các phòng xá.

Hồ Phỉ hỏi:

– Quý tính huynh đài là gì?

Gã thương gia kia đáp:

– Tiểu nhân họ Trương. Những ruộng đất cùng nhà cửa này tạm thời tiểu nhân cai quản thay cho Hồ đại gia. Hồ đại gia thấy có điều chi không ổn, xin cứ dạy bảo. Bao nhiêu văn tự khế ước của ruộng nương cùng phòng ốc hậu cứ đều ở trong này. Xin Hồ đại gia thu nhận cho.

Y nói rồi lại trình lên rất nhiều giấy tờ khế ước. Hồ Phỉ đáp:

– Ông bạn hãy thu cất. Người ta thường nói: “Vô công bất thụ lộc”, chưa có công lao thì không được hưởng lộc. Món hậu lễ này tại hạ không thể tiếp nhận được.

Gã thương gia kia nói:

– Hồ đại gia khiêm nhượng quá. Tệ chủ nhân đã nói món lễ mọn này không đáng gì nên trong lòng lấy làm áy náy.

Hồ Phỉ từ nhỏ đã phiêu bạt giang hồ, những chuyện kỳ lạ, quái dị đã từng nghe thấy không phải là ít, nhưng đột nhiên được nhận hậu lễ thế này, người tặng lại tránh không chịu ra mặt thì việc này quả chưa từng gặp qua. Cử chỉ của quản gia họ Trương nhất định là không hiểu võ công, mà lời ăn tiếng nói cũng chẳng giống nhân vật võ lâm chút nào. Xem ra hắn chỉ làm theo lệnh của người khác chứ không hiểu rõ nội tình.

Cơm nước xong, Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố vào thư phòng nghỉ ngơi. Trên bốn bức vách thư phòng, treo toàn tranh vẽ. Trên giá bày dao cầm, bàn cờ, trông rất thanh nhã. Một tên thư đồng đưa trà vào rồi lui ra ngay. Trong thư phòng chỉ có Hồ Phỉ và Trình Linh Tố.

Trình Linh Tố cười hỏi:

– Hồ viên ngoại! Không ngờ đại ca trở nên lão gia rồi.

Hồ Phỉ nghe nói không khỏi bật cười. Nhưng rồi chàng lại chau mày hỏi:

– Tại hạ xem ra người tặng lễ nhất định có chuyện mưu đồ mà nghĩ mãi không ra người này là ai? Hành động của họ không hiểu có dụng ý gì?

Trình Linh Tố hỏi lại:

– Phải chăng là Miêu Nhân Phụng?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tuy tại hạ và y có mối thù bất cộng đái thiên, nhưng tại hạ nhận thấy y là một hán tử chân chính, hành động quang minh lỗi lạc, quyết chẳng chịu làm chuyện úp mở giấu giếm thế này.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca giúp y đánh lui kẻ dịch. Y tặng phần hậu lễ này, một cách để tạ ơn, hai là mong hóa giải mối cừu hận, thì e rằng đây cũng là một mỹ ý.

Hồ Phỉ đáp:

– Hồ mỗ há phải kẻ coi trọng tiền bạc ruộng đất mà quên mối thù của song thân? Không! Không phải đâu! Miêu Nhân Phụng chẳng khi nào coi thường tại hạ đến thế.

Trình Linh Tố thè lưỡi ra, nói:

– Thế ra tiểu muội coi thường đại ca rồi.

Hai người bàn tán hàng nửa ngày mà vẫn chẳng tìm ra chút manh mối nào, quyết ý ngủ ở đây một đêm để thám thính xem có tìm ra được điều gì không? Đến tối Hồ Phỉ nghỉ trong phòng lớn tại hậu đường. Phòng của Trình Linh Tố bố trí ở trên lầu cạnh vườn hoa. Hồ Phỉ suốt đời chưa từng được trong căn nhà to lớn tráng lệ như thế này, mà lại là nhà của mình, quả là điều ngoài sức tưởng tượng.

Chàng ngủ tới canh hai rồi khẽ mở cửa sổ chuồn ra nhảy lên mái nhà, cúi mình nhìn thấy ở hậu viện phía tây còn ánh đèn sáng. Chàng liền thi triển khinh công chạy về phía đó. Chàng móc chân vào mái hiên thi triển thân pháp “Đảo quyền châu liêm”, nhìn qua khe cửa sổ vào trong nhà thấy gã Trương đang gảy bàn toán lách cách để tính số. Bên cạnh y là một lão bộc già. Họ Trương viết mấy chữ và nói với lão kia mấy câu toàn là chuyện bếp núc trong nhà.

Hồ Phỉ nghe hồi lâu mà chẳng ra manh mối gì toan trở gót về phòng, bỗng thấy trên nóc nhà phía đông có tiếng động nhẹ. Chàng uốn lộn người đứng thẳng, tay nắm đốc đao, nhưng người tiến lại là Trình Linh Tố. Cô giơ tay ra hiệu, Hồ Phỉ tung mình vọt lại.

Trình Linh Tố khẽ hỏi:

– Tiểu muội đã xem kỹ trước sau mà không thấy có điều chi khác lạ. Đại ca có phát hiện ra điều gì không?

Hồ Phỉ lắc đầu. Hai người chia tay về phòng. Suốt đêm cả hai cùng đề phòng nên cứ trằn trọc lo nghĩ, không sao ngủ yên được. Sáng sớm hôm sau, đứa đồng bộc bưng thang yến sào vào, tiếp theo đưa bánh điểm tâm tới, phần Hồ Phỉ còn có thêm một hồ rượu Trạng nguyên hồng.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Có Linh cô nương bầu bạn trò chuyện cũng đỡ tịch mịch. Ở đây lại không phải lo nghĩ gì, yên hưởng tiêu dao khoái lạc.

Nhưng chàng chợt nghĩ:

– Tên ác bá họ Phụng đã thảm sát cả nhà Chung A Tứ, ta không rửa được mối oan này cho họ thì còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất nữa?

Chàng nghĩ tới đây, bầu máu nóng trào lên, liền nhìn Trình Linh Tố hỏi:

– Chúng ta đi thôi chứ?

Trình Linh Tố không hỏi đi đâu, nhưng cũng đáp:

– Phải rồi! Lên đường là vừa.

Hai người vào phòng thay đổi y phục, mặc quần áo cũ vào. Hồ Phỉ bảo gã quản gia họ Trương:

– Chúng ta đi đây!

Dứt lời chàng rảo bước đi luôn.

Gã quản gia họ Trương vô cùng kinh ngạc, lắp bắp nói:

– Sao… sao Hồ đại gia lại lên đường vội thế? Hồ đại… Hồ đại gia để tiểu nhân chuẩn bị hành trình cùng tiền lộ phí.

Chờ đến khi gã bưng ra một mâm bạc lớn thì Hồ, Trình hai người đã đi xa rồi. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố rảo bước tiến về phía bắc. Khoảng giờ ngọ thì đến một thị trấn, hỏi thăm mới biết đêm qua ngủ ở Nghĩa Đường trấn. Hồ Phỉ liền lấy tiền mua đôi ngựa. Hai người ngồi trên lưng ngựa bàn tán không ngớt những chuyện kỳ dị đêm qua.

Trình Linh Tố nói:

– Chúng ta đã ăn không uống không, cả ngủ trọ cũng chẳng mất nửa xu, mà xem ra chủ nhân dường như cũng chẳng có lòng dạ gì đen tối.

Hồ Phỉ đáp:

– Nhưng tại hạ cảm thấy vụ này có điều chi quái dị, có vẻ như tà môn.

Trình Linh Tố cười đáp:

– Tiểu muội lại thích gặp tà môn kiểu này, dọc đường chỗ nào cũng gặp chuyện quái dị như thế thì hay quá! Này, Hồ đại gia! Đại gia định đâu đấy

Hồ Phỉ hỏi lại:

– Tại hạ muốn lên Bắc Kinh. Cô nương cùng đi để thưởng ngoạn phong cảnh, có được không?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Được thì được rồi, nhưng e có điều bất tiện.

Hồ Phỉ hỏi:

– Có gì mà bất tiện?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Hồ đại gia đi thăm vị cô nương tặng ngọc phụng còn muốn đem con nha đầu này đi theo bên mình làm chi?

Hồ Phỉ nghiêm nghị nói:

– Không phải. Tại hạ đang truy sát một kẻ thù. Người này tuy võ công không cao thâm lắm nhưng rất nhiều tai mắt, lại giảo quyệt đa đoan. Mong cô nương giúp tại hạ một tay.

Chàng liền đem việc Phụng Thiên Nam thảm sát toàn gia Chung A Tứ ở trấn Phật Sơn ra sao, rồi khi vào tòa cổ miếu để nấp mưa gặp lại hắn, rồi hắn trốn thoát ra sao, nhất nhất kể lại cho cô nghe.

Trình Linh Tố nghe nói đến cuộc gặp gỡ trong tòa cổ miếu, lúc Phụng Thiên Nam nhân đêm tối tẩu thoát có vẻ chưa hết sự thực, liền hỏi:

– Vị cô nương tặng đại ca ngọc phụng cũng ở trong tòa cổ miếu phải không?

Hồ Phỉ sửng sốt, thấy cô thông minh tuyệt đỉnh, nhưng nghĩ lại trong lòng chẳng có gì mờ ám nên không cần giấu giếm cô nữa. Chàng bèn đem chuyện gặp Viên Tử Y trong trường hợp nào, nàng đoạt chức chưởng môn của ba phái ra sao, rồi lại tương trợ Phụng Thiên Nam như thế nào để thuật lại từ đầu đến cuối.

Trình Linh Tố lại hỏi:

– Viên cô nương đẹp lắm phải không?

Hồ Phỉ hơi ngẩn người, mặt đỏ lên, đáp:

– Kể cũng khá đẹp.

Trình Linh Tố hỏi:

– So với con xú nha đầu là tiểu muội thì Viên cô nương đẹp hơn nhiều, có phải không?

Hồ Phỉ không ngờ cô hỏi thẳng thừng câu này, bất giác cảm thấy bẽn lẽn, bèn đáp:

– Ai bảo cô là xú nha đầu? Viên cô nương hơn cô mấy tuổi, dĩ nhiên là y cao lớn hơn.

Trình Linh Tố cười nói:

– Năm tiểu muội tám tuổi, lấy gương của má má soi. Tỷ tỷ của tiểu muội liền bảo: “Xú bát quái! Đừng soi nữa. Soi lui soi tới vẫn là xú nha đầu”. Hừ! Tiểu muội chẳng thèm để ý gì đến y. Về sau ra làm sao đại ca thử đoán được không?

Hồ Phỉ sợ run lên nghĩ thầm:

– Chỉ mong cô đừng hạ độc tỷ tỷ là may lắm rồi.

Rồi chàng đáp:

– Tại hạ không biết.

Trình Linh Tố nghe giọng Hồ Phỉ hơi run, dường như đoán được ý nghĩ của chàng. Cô hỏi:

– Đại ca sợ tiểu muội hạ độc tỷ tỷ phải không? Hồi ấy tiểu muội mới có tám tuổi mà. Hừ! Hôm sau trong nhà không còn thấy một cái gương nào nữa.

Hồ Phỉ hỏi:

– Cái đó mới là kỳ!

Trình Linh Tố cười đáp:

– Chẳng có chi mà kỳ. Tiểu muội ném xuống giếng cả rồi.

Cô ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Nhưng tiểu muội bỏ hết gương đi rồi lại hiểu ngày mình sinh ra vốn đã là xú nha đầu thì dù không còn gương soi nữa cũng vẫn xấu. Mặt nước dưới giếng tròn phẳng như một tấm gương, tiểu muội soi xuống thấy chân tướng mình rõ ràng. Lúc đó tiểu muội muốn đâm đầu xuống giếng mà chết đi cho rồi.

Cô nói tới đây đột nhiên quất roi tới tấp vào mông ngựa cho nó lao nhanh về phía trước. Hồ Phỉ phóng ngựa rượt theo. Hai người chạy liền một hơi hơn mười dặm đường, Trình Linh Tố mới chịu dừng cương ngựa.

Hồ Phỉ thấy có vành mắt đỏ hoe, hiển nhiên cô vừa mới khóc. Chàng không dám nhìn cô nhiều, bụng bảo dạ:

– Linh cô nương tuy không đẹp bằng Viên Tử Y, nhưng quyết chẳng phải xú nha đầu. Huống chi con người ta nhân phẩm là thứ nhất, tài trí là thứ nhị còn tướng mạo đẹp hay xấu là do trời sinh, hà tất phải thương tâm? Việc gì cô cũng tỏ ra thông minh rất mực, mà sao không hiểu ra được điểm này?

Chàng trông con người cô mảnh dẻ ốm yếu, trong lòng thấy thương cảm, cất tiếng hỏi:

– Tại hạ có điều yêu cầu, chẳng hiểu cô nương có ưng thuận chăng, cũng không hiểu tại hạ có với cao quá chăng?

Trình Linh Tố toàn thân chấn động, cất giọng run run hỏi:

– Đại ca… đại ca bảo sao?

Hồ Phỉ từ đằng sau nhìn tới thấy cô mặt đỏ đến mang tai. Chàng hỏi:

– Cô nương cũng như tại hạ đều không cha mẹ thân thích. Tại hạ muốn cùng cô kết bái huynh muội, cô bảo có nên chăng?

Trình Linh Tố trong chớp mắt nét mặt biến thành xanh mướt, lớn tiếng cười, đáp:

– Hay lắm! Sao lại không được? Tiểu muội có vị huynh trưởng như đại ca cầu còn không được nữa là.

Hồ Phỉ nghe giọng nói cô có vẻ trào phúng thì không khỏi bối rối, liền nói:

– Đó là tấm chân tình của tại hạ.

Trình Linh Tố hỏi:

– Chẳng lẽ tiểu muội lại giả ý ư?

Dứt lời, cô liền xuống ngựa, dùng đất bên đường nắn thành hương, chân quỳ xuống. Hồ Phỉ thấy cô mau lẹ cũng quỳ xuống theo, ngửng đầu lên trời lạy mấy lạy rồi cả hai cùng dập đầu hành lễ. Trình Linh Tố nói:

– Người ta đều nói kết nghĩa chi lan là bát bái chi giao. Vậy chúng ta cũng phải dập đầu cho đủ tám cái. Nào, một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám… Ồ! Tiểu muội là em phải lạy thêm hai lạy.

Quả nhiên cô dập đầu thêm hai cái nữa rồi đứng lên. Hồ Phỉ thấy hành động và lời nói của cô đột nhiên đâm ra phóng túng nên chàng cũng không giữ được, liền nói:

– Từ giờ trở đi tại hạ gọi cô nương là nhị muội.

Trình Linh Tố đáp:

– Phải, tiểu muội kêu lại bằng đại ca. Sao chúng ta lại không uống máu ăn thề, rồi nói có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia gì gì đó…

Hồ Phỉ đáp:

– Kết nghĩa cốt quý ở lời thề trong lòng, có nói hay không cũng vậy thôi.

Trình Linh Tố nói:

– À, té ra là vậy.

Nói rồi cô nhảy lên ngựa. Từ lúc đó cho đến chiều tối, thủy chung cô không nói với Hồ Phỉ một câu nào.

Chiều hôm ấy, hai người đến An Lục. Vừa cưỡi ngựa vào thị trấn, một tên điếm tiểu nhị đã ra đón đầu ngựa nói:

– Vị này là Hồ đại gia phải không? Xin mời đại gia vào tiểu điếm nghỉ ngơi.

Hồ Phỉ lấy làm lạ hỏi:

– Sao ngươi lại biết ta?

 Điếm tiểu nhị cười đáp:

– Tiểu nhân chờ ở đây đã nửa ngày rồi.

Đoạn gã đi trước dẫn đường, mời hai người vào một khách điếm, loại phòng tốt đã dành sẵn một phòng, bây giờ lại lấy thêm một phòng nữa. Trà nước, cơm rượu không cần gọi mà cứ tự nhiên đưa ra tới tấp.

Hồ Phỉ hỏi điếm tiểu nhị:

– Ai bảo ngươi đón chờ ta?

Điếm tiểu nhị cười đáp:

– Hồ đại gia ở Nghĩa Đường trấn, ai lại không biết?

Sáng sớm hôm sau, Hồ Phỉ tính tiền phòng, chưởng quỹ chỉ khom lưng kính cẩn nói là đã tính toán xong xuôi đâu vào đấy cả rồi. Hắn chỉ nhận mấy đồng tiền thưởng cho tiểu nhị mà thôi. Mấy ngày liền đều như vậy, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố tuy là những người cực kỳ thông minh cơ trí nhưng chưa đủ lịch duyệt, nên vẫn chưa nhìn ra những âm mưu trong chốn giang hồ. Đến ngày thứ tư lên đường rồi, Trình Linh Tố nói:

– Đại ca! Mấy bữa nay tiểu muội rất lưu tâm chú ý nhưng vẫn không thấy có ai đi sau theo dõi chúng ta. Tất có người chạy trước nói tướng mạo của đại ca để người ta chờ đón. Vậy chúng ta hãy thay hình đổi dạng để dò xét, không chừng tìm ra được chân tướng vụ này.

Hồ Phỉ cả mừng khen:

– Quả là diệu kế!

Hai người liền vào thị trấn mua mấy bộ quần áo, giày mũ rồi tìm một khu rừng vắng để cải trang. Trình Linh Tố cắt tóc làm râu giả gắn trên cằm Hồ Phỉ để chàng hóa trang thành hán tử trung niên lối bốn mươi tuổi. Phần cô cũng mặc áo trường bào, đầu đội mão nhỏ biến thành một gã thiếu niên gầy ốm. Hai người trông nhau cả cười. Vừa đến trước thị trấn, hai người lại đổi ngựa cưỡi lừa. Hồ Phỉ giấu đơn đao vào bọc, lại mua một cái dọc tẩu hút thuốc. Chàng hút thuốc nhả khói tự nhiên, dù là người tinh mắt cũng không nhận ra được.

Chiều tối hôm ấy, hai người đến Quảng Thủy thấy hai tên điếm tiểu nhị đang giương cổ dòm đông ngó tây. Hồ Phỉ biết bọn chúng đang chờ mình, không khỏi cười thầm, bèn đi thẳng vào trong điếm. Chưởng qũy thấy hai người ăn mặc nghèo nàn, chẳng thèm chào hỏi, rồi cho hai cái phòng bên. Hai tên điếm tiểu nhị chờ cho đến lúc trời tối mịt mới trở về. Hồ Phỉ gọi một tên vào muốn dò la tin tức. Chàng vừa nói mấy câu vớ vẩn bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, mà không phải chỉ có một người.

Điếm tiểu nhị lộ vẻ vui mừng nói:

– Hồ đại gia đến rồi.

Dứt lời y chạy lẹ ra ngoài cửa điếm. Hồ Phỉ thầm nhủ:

– Hồ đại gia đã đến từ sớm và nói chuyện với ngươi mà ngươi vẫn chưa hay.

Chàng liền ra ngoài phòng lớn để coi nhiệt náo thì thấy tiếng người huyên náo. Gã điếm tiểu nhị nọ lớn tiếng bảo:

– Không phải Hồ đại gia. Đây là Đạt quan gia ở tiêu cục.

Tiếp theo một tên chạy cờ cầm tiêu kỳ cắm ở trước khách điếm. Hồ Phỉ nhìn tiêu kỳ không khỏi ngạc nhiên, vì lá cờ nền vàng viền đen có thêu một con tuấn mã cánh mọc trên lưng. Ngày trước ở Thương gia bảo chàng đã nhìn thấy tiêu kỳ này một lần, là cờ hiệu của Phi Mã tiêu cục. Chàng nhớ lại chủ nhân tiêu cục này là Bách thắng thần quyền Mã Hành Không đã chết cháy tại Thương gia bảo, không hiểu bây giờ do ai làm tổng tiêu đầu. Chàng coi lại thấy lá cờ đã rách mướp, hiển nhiên lâu ngày chưa thay đổi. Người chạy cờ là một lão già ốm yếu, chẳng có vẻ tinh lanh chút nào, tựa hồ như gần đây Phi Mã tiêu cục không còn hưng thịnh nữa.

Tiếp theo tiêu đầu tiến vào. Đó là một hán tử khí phách hiên ngang, nhưng trên mặt chằng chịt những vết sẹo. Hồ Phỉ nhận ra hắn là Từ Tranh, đồ đệ Mã Hành Không. Đi sau hắn là một thiếu phụ mặc võ phục, hai tay dắt hai đứa con trai nhỏ tuổi. Thiếu phụ này chính là Mã Xuân Hoa, con gái Mã Hành Không. Hồ Phỉ cùng nàng lâu năm không gặp, hiện nay tuy rằng nàng còn xinh đẹp, nhưng trên khuôn mặt không che giấu nổi vẻ phong sương tiều tụy. Hai đứa con nhỏ ước chừng bốn tuổi, nước da trắng trẻo coi rất khả ái, tướng mạo lại giống hệt nhau. Hiển nhiên là hai anh em sinh đôi.

Bỗng nghe một đứa nhỏ nói:

– Má má, hài nhi đói rồi, cho hài nhi ăn mì đi nhé!

Mã Xuân Hoa cúi xuống bảo nó:

– Được rồi! Chờ gia gia rửa mặt xong rồi cả nhà ta cùng ăn một thể.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Té ra sư huynh sư muội bọn họ đã thành thân và sinh hạ được hai đứa nhỏ này.

Ngày trước chàng ở Thương gia bảo bị Thương lão thái bắt và Thương Bảo Chấn đánh nhừ đòn. Mã Xuân Hoa từng ra sức năn nỉ gã tha cho chàng. Việc này chàng luôn ghi nhớ trong lòng. Bữa nay gặp nhau ở chốn tha hương nếu chàng không muốn để cho người ta nhận ra chân tướng thì đã lại chào hỏi rồi.

Những khách điếm xưa nay không dám đắc tội với tiêu cục, tuy họ thấy Phi Mã tiêu cục chỉ có một xe tiêu và mọi người ăn mặc quần áo cũ mèm, chắc chẳng xơ múi được gì mấy, nhưng chưởng quỹ cũng ra tiếp đãi ân cần. Từ Tranh nghe nói phòng tốt đã hết rồi không khỏi chau mày, muốn nói mấy câu thì người chạy cờ ở phía trong đi ra hỏi:

– Hai gian phòng tốt ở phía nam rõ ràng chẳng phải còn trống đó ư? Sao lại bảo hết rồi?

Chưởng quỹ cười cầu tài, đáp:

– Đạt quan gia lượng thứ cho. Hai gian phòng này người ta đã đưa tiền đặt từ hôm trước, nói là đêm nay sẽ dùng tới.

Mấy năm nay Từ Tranh thời vận xui xẻo, nghề bảo tiêu thường thua lỗ, vì thế mà gã đành chịu ủy khuất. Gã nghe chướng quỹ nói vậy, bèn vỗ tay xuống quầy đánh “chát” một tiếng, toan phát tác. Mã Xuân Hoa vội kéo tay áo gã, nói:

– Thôi mà! Ngủ tạm cho qua một đêm, thế nào cũng được.

Từ Tranh nghe lời vợ, nhưng còn hằm hằm nhìn chưởng quỹ một lần nữa rồi mới bỏ đi vào căn phòng nhỏ ở hướng tây.

Mã Xuân Hoa dắt hai thằng nhỏ đi theo, khẽ nói:

– Món tiêu này thù lao kém quá, nếu không khéo tính thì lại lỗ vốn. Không ở phòng tốt thì bớt được chút tiền càng hay.

Từ Tranh đáp:

– Nàng nói thế cũng phải, nhưng ta thấy bọn chó má khinh người không khỏi tức mình.

Nguyên sau khi Mã Hành Không chết rồi, chẳng bao lâu Từ Tranh cùng Mã Xuân Hoa thành hôn. Hai người kế nghiệp làm chưởng quản Phi Mã tiêu cục, nhưng võ công cùng uy danh của Từ Tranh dĩ nhiên không bằng sư phụ, tính tình lại nóng nảy thẳng thắn, ít kết giao được với bằng hữu trên giang hồ. Ba bốn năm liền gặp phải mấy phen xiểng liểng, mỗi lần như vậy may mà có Mã Xuân Hoa khéo léo mới đắp điếm được phần nào. Có điều từ đấy công việc kinh doanh của Phi Mã tiêu cục như rớt xuống hố sâu muôn trượng, không sao vực lên được nữa.

Chuyến này một thương gia buôn muối yêu cầu đưa món hàng lên bắc tới phủ Bao Định, tỉnh Trực Lệ. Tổng số chỉ có chín ngàn lạng. Các tiêu cục lớn chê thù lao ít quá mới nhường cho Phi Mã tiêu cục. Vợ chồng Từ Tranh trước nay vẫn đi bảo tiêu. Mã Xuân Hoa ở nhà chẳng có thân nhân nhờ cậy được, nàng không yên tâm gởi hai đứa nhỏ nên phải đưa đi theo. Ai nấy đều nghĩ rằng món tiêu ngân chỉ vọn vẹn có chín ngàn lạng bạc thì trên đường cũng chẳng gặp nguy hiểm gì.

Hồ Phỉ liếc mắt nhìn xe tiêu rồi chạy vào phòng Trình Linh Tố nói:

– Nhị muội! Vợ chồng tiêu đầu này là chỗ quen biết cũ của tiểu huynh.

Hồ Phỉ liền thuật sơ lại việc chàng đã gặp bọn họ ở Thương gia bảo cho Trình Linh Tố nghe.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca có chịu nhìn nhận bọn họ không?

Hồ Phỉ đáp:

– Để sáng mai lên đường gặp chỗ vắng vẻ không người sẽ nhìn nhận nhau.

Trình Linh Tố cười nói:

– Chỗ vắng vẻ không người ư? Cái đó không được rồi. Bọn họ thấy bộ râu của đại ca tất cho là cường đạo đến cướp tiêu.

Hồ Phỉ cũng cười đáp:

– Món hàng này không đáng để Hồ đại trại chủ ra tay. Trình nhị trại chủ! Nhị trại chủ thấy thế nào?

Trình Linh Tố cười nói:

– Xem ra bọn tiêu khách trong mình không có tiền, rất đỗi nghèo nàn. Anh em ta làm cường đạo cũng phải có đạo lý. Đâu phải cứ cưỡi ngựa tới tặng vàng là xong đâu.

Hồ Phỉ cười hà hà. Quả thực chàng có ý tặng vợ chồng họ một ít vàng bạc nhưng chưa biết tính cách nào cho ổn thỏa, làm sao lúc tặng vàng khỏi mất đi sự tương kính.

Hai người ăn cơm tối xong, Hồ Phỉ vào phòng mình nằm ngủ. Đến nửa đêm bỗng nghe trên nóc nhà có tiếng động rất khẽ. Tuy chàng đang lúc mơ ngủ nhưng vẫn giật mình tỉnh giấc. Chàng xoay mình ngồi dậy bước xuống nghe thấy trên nóc nhà có hai người. Hai người kia khẽ vỗ tay một tiếng rồi nhảy xuống.

Hồ Phỉ đứng trước cửa sổ, tự hỏi:

– Hai người này là hạng người nào mà dám lớn mật, không xem ai ra gì như vậy?

Chàng dùng ngón tay chọc thủng giấy dán cửa sổ, nhìn ra ngoài thấy chúng đều mặc trường bào, tay không cầm binh khí, đẩy cửa gian phòng hướng nam tiến vào.

Tiếp theo ánh lửa thấp thoáng, họ đã châm đèn lên. Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Té ra hai người này quen với chủ quán chứ không phải hạng trộm cướp.

Chàng vừa trở về giường nằm lại nghe tiếng giày lạo xạo. Gã điếm tiểu nhị tới cửa phòng lớn tiếng quát hỏi:

– Ai đó? Sao canh khuya không đi cửa lớn mà lại mò vào đây?

Gã vừa hô hoán vừa chạy đến cửa phòng. Chân gã vừa bước lên đã la một tiếng “úi chao”. Tiếp theo nghe “huỵch” một tiếng, rồi có tiếng la:

– Con mẹ nó, nó đánh chết người ta rồi!

Thì ra gã bị người ta hất văng ra, té nhào xuống sân một cái rõ đau. Trận huyên náo này khiến cho bao nhiêu người trong điếm đều tỉnh giấc.

Một trong hai người khách mặc trường bào đứng cửa phòng lớn tiếng hô:

– Chúng ta vâng mệnh Vương đại trại chủ ở núi Kế Công đêm nay đến cướp tiêu, chỉ tìm kiếm Từ tiêu đầu ở Phi Mã tiêu cục. Còn người ngoài không có liên can, hãy mau trở về phòng ngủ đi, để khỏi uổng mạng.

Từ Tranh và Mã Xuân Hoa đã tỉnh giấc rồi, nghe hắn hô vậy bất giác vừa sợ vừa giận, nghĩ thầm:

– Dù quân cường đạo có lợi hại đến đâu đi nữa cũng không thể ngang nhiên sấn vào khách điếm, Quang Thủy này chẳng phải là địa phương nhỏ bé, mà sao lại có hạng vô pháp vô thiên đến thế? Thật là điều chưa từng thấy.

Từ Tranh lớn tiếng đáp:

– Từ mỗ ở đây. Xin hai vị để tính danh lại.

Người kia cười hô hố đáp:

– Ngươi đem chín ngàn lạng bạc, một cây tiêu kỳ, hai tay dâng cho đại gia là xong, còn hỏi tên họ của đại gia làm gì? Bọn ta đang chờ ngươi phía trước đó.

Dứt lời hắn vỗ tay bốp bốp hai tiếng. Hai người liền phi thân vọt lên nóc nhà. Từ Tranh vung tay phải ném hai mũi cương tiêu lên. Người kia xoay tay lại bắt lấy rồi ném xuống, nghe “bộp” một tiếng, cách mình Từ Tranh chừng một thước, hỏa quang bắn tứ tung. Hai mũi cương tiêu đều cắm vào phiến đá xanh trong sân, kình lực đã mãnh liệt, thủ pháp lại chuẩn đích, Từ Tranh không thể bì kịp. Hai người trên nóc nhà cười hô hố, tiếp theo tiếng vó ngựa vang lên chạy về hướng bắc.

Chủ quán và khách trọ trong điếm chờ cho hai người kia đi rồi mới bàn tán nhao nhao cả lên. Người thì bảo đi báo quan, người thì khuyên Từ Tranh nên đi đường vòng là hơn. Từ Tranh lẳng lặng không nói gì, nhổ hai mũi cương tiêu trở về phòng. Vợ chồng khẽ thương nghị với nhau, đều nhìn nhận hai người kia võ công quả thật bất phàm, nhất định là nhân vật nổi danh trong võ lâm, mà sao lại dòm ngó món tiêu ngân nhỏ này? Tuy hai người biết con đường trước mặt chẳng được yên lành, nhưng theo quy củ thì một khi xe tiêu ra khỏi cửa chỉ tiến chứ chẳng thể quay về, bằng không thì coi như là tự mình hạ chiêu bài dẹp tiệm.

Từ Tranh phẫn hận nói:

– Bọn hắc đạo càng ngày càng khinh người quá lắm. Từ nay chén cơm của chúng ta có còn giữ nổi không? Ta có liều cái mạng này cũng chẳng cần gì nhưng còn hai đứa con…

Mã Xuân Hoa ngắt lời:

– Bọn mình vốn không có thù oán với phe hắc đạo, quá lắm thì chỉ mất bạc là cùng, chứ chưa can hệ gì đến tính mạng, có đưa cả hai đứa nhỏ đi cũng không sao.

Tuy miệng nàng nói vậy mà lòng rất hối hận, vì hiểu rằng không nên cho con nhỏ theo cha mẹ dấn thân vào trường phong ba nguy hiểm trên chốn giang hồ.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đứng cạnh cửa sổ đã nhìn rõ hết, trong lòng rất lấy làm lạ và nhận thấy có nhiều điều mình chưa hiểu được. Hai ngươi đã tưởng sau khi hóa trang là tránh khỏi cuộc truy tung, ngờ đâu ngay ngày đầu tiên đã gặp vụ kỳ quái này của Phi Mã tiêu cục.

Sáng sớm hôm sau, xe tiêu của Phi Mã tiêu cục lên đường. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố lập tức đi theo sau. Từ Tranh thấy hai người thủy chung cứ bám mãi theo xe tiêu liền cho rằng càng đi tới là càng có nhiều điều bất lợi. Gã tưởng hai người này cùng phe với bọn cướp, nên thỉnh thoảng cứ quay lại giương cặp mắt tức giận lên nhìn hai người. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố vẫn lờ đi như chẳng thấy.

Đến trưa hai người ăn cơm cùng một quán với bọn Phi Mã tiêu cục. Đi đến lúc xế chiều, còn cách ải Võ Thắng chừng bốn chục dặm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, có hai người cưỡi ngựa từ phía trước mặt lao tới. Khách kỵ mã mặc trường bào màu xám lướt qua cạnh xe tiêu, đi thẳng đến bên Hồ Phỉ và Trình Linh Tố, sóng vai đi song song với nhau rồi cùng nổi lên tràng cười ha hả, đúng là thanh âm của hai tên bạo khách đêm qua.

Hồ Phỉ nói:

– Cứ chờ cho chúng quay lại rượt theo được vài dặm rồi hãy động thủ.

Chàng chưa dứt lời, lại nghe tiếng vó ngựa phía trước vang lên. Lại hai người cưỡi ngựa lướt qua. Những người trên ngựa đều vũ dũng hiên ngang rõ ràng là các nhân vật võ lâm.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Kỳ quái thật!

Đi chưa được vài dặm, bỗng thấy có hai người cưỡi ngựa chạy ngược chiều đi lướt qua, rồi tiếp theo lại có hai người nữa.

Từ Tranh thấy khí thế cường địch rất mạnh, gã đâm liều, không giận mà lại cười khanh khách nói:

– Sư muội! Ta nghe sư phụ thường nói những đại trại chủ hạng nhất trong lục lâm một khi đã lao sư động chúng là cướp hàng hạng nhất, mà cũng chỉ phái sáu tay hảo thủ đi do thám. Bữa nay cả trước sau có đến tám vị cao nhân, bên cạnh còn có hai âm hồn bất tán bám theo nữa, thì e rằng chuyến bảo tiêu của chúng ta không phải chín ngàn lạng mà là chín trăm vạn hay chín ngàn vạn lạng.

Mã Xuân Hóa không sao đoán được vì lẽ gì địch nhân lại mở cờ giong trống để đối phó với chuyến hàng nhỏ mọn chẳng có chi đáng kể này. Vì càng không hiểu nên lại càng lo lắng, nàng nhìn Từ Tranh và lão chạy cờ nói:

– Lát nữa mà liệu tình thế không ổn thì chúng ta bồng hai đứa nhỏ chạy trốn là việc khẩn yếu. Chín ngàn lạng tiêu ngân cũng chẳng lấy chi làm lớn, mình cứ dành dụm rồi bồi thường sau cũng được.

Từ Tranh ngang nhiên đáp:

– Sư phụ một đời nổi tiếng anh hùng mà để thanh danh tiêu tan trong tay đứa đệ tử bất tài này được ư?

Mã Xuân Hoa buôn rầu đáp:

– Mình cần giữ lấy hai thằng nhỏ đã rồi từ nay quay về làm ruộng, ăn miếng cơm cực nhọc cũng được, chứ không phải động đến đao kiếm và liều mạng thế này.

Nàng nói tới đây bỗng nghe phía sau có tiếng vó ngựa dồn dập, liền quay đầu nhìn thì thấy tám tên kỵ mã từ phía sau lao ngựa tới. Nghe “vù” một tiếng, một mũi tên bay qua đỉnh đầu. Tiếp theo phía trước mặt cũng có tám con ngựa nữa chạy tới.

Hồ Phỉ nói:

– Coi tình thế này thì dường như bọn chúng vì chúng ta mà kéo tới.

Trình Linh Tố gật đầu đáp:

– Bọn Điền Quy Nông!

Hồ Phỉ nói:

– Chúng ta cải trang cũng không xong nên bị nhận ra rồi.

Lúc này phía trước có tám người cưỡi ngựa, phía sau cũng có tám người đồng thời dừng cương đứng lại, bao vây cả tiêu xa lẫn Hồ, Trình vào giữa.

Từ Tranh tung người nhảy xuống ngựa, rút đơn đao ra, chắp tay nói:

– Tại hạ là Từ…

Gã mới nói được mấy tiếng thì một lão già trong tám người kỵ mã phía trước đột nhiên nhảy xuống ngựa, lao thẳng tới, trong tay cầm một thứ binh khí hình thù quái dị, chẳng nói chẳng rằng đánh ngay vào mặt Từ Tranh. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố dừng ngựa đứng bên thấy trong tay lão cầm một thứ binh khí rất cổ quái. Phía trước là một cái đòn ngang uốn cong như con rắn, sau đòn ngang là cán tay cầm hình chữ đinh, hai đầu đòn ngang đều nhọn hoắt giống như cái cày hình mỏ hạc biến dạng ra.

Hồ Phỉ không biết là thứ gì, bèn hỏi Trình Linh Tố:

– Cái đó là cái gì?

Trình Linh Tố chưa kịp đáp thì một tên đại đạo ở phía sau cười rộ, đáp:

– Lão tiểu tử, để ta dạy khôn cho, cái đó gọi là “Lôi chấn đáng”.

Trình Linh Tố nói ngay:

– Lôi chấn đáng mà không dùng chung với thiểm điện chùy thì võ công cũng chỉ bình thường.

Tên đại đạo kia ngẩn người ra không nói năng gì, liếc mắt nhìn Trình Linh Tố bụng bảo dạ:

– Thằng nhỏ ốm tong này mà cũng biết đến thiểm điện chùy ư?

Nguyên lão già sử dụng lôi chấn đáng là sư huynh của tên đại đạo này, còn gã sử dụng thiểm điện chùy. Sư phụ của hai người này tay phải sử thiểm điện chùy, tay trái sử lôi chấn đáng, một tay công một tay thủ, biến hóa vô cùng kỳ điệu. Hai cây binh khí này một ngắn một dài, lúc sử dụng hai tay cùng hỗ trợ, uy lực cực kỳ mãnh liệt, nhưng sử như vậy rất khó khăn nên sư huynh sư đệ gã được sư phụ chia ra truyền thụ cho mỗi người một ngón, thủy chung họ không sử dụng được cả hai cây cùng lúc.

Hai người này ở ngoài quan ải từ thuở nhỏ, vào đến Trung nguyên chưa được bao lâu. Cây thiểm điện chùy gã lại giấu trong tay áo chưa lấy ra, không ngờ Trình Linh Tố nói rõ lai lịch khiến gã không giấu được vẻ kinh ngạc. Gã có ngờ đâu Vô Sân đại sư, sư phụ của Trình Linh Tố kiến văn rất quảng bác. Ngày thường ông hay giảng cho cô tiểu đồ đệ yêu về võ công các gia phái, nên cô dù chưa thấy cây lôi chấn đáng nhưng vừa nghe tên đã biết ngay phải có cây thiểm điện chùy đi theo.

Lão già kia vung binh khí cho bật lên những tiếng ầm ầm như sấm nổ, quả nhiên uy thế kinh người. Đao pháp của Từ Tranh tuy không đến nỗi yếu kém, nhưng gã bị cây lôi chấn đáng khống chế, dần dần không còn có thể triển khai bản lĩnh được nữa.

Bỗng nghe mười lăm tên đại đạo cả mặt trước mặt sau, mỗi người nói một câu, cùng lên tiếng chế nhạo:

– Cái gì mà Phi Mã tiêu cục? Ngày trước Mã lão tiêu đầu đi bảo tiêu mới dùng đến hai chữ “Phi Mã”, chứ đến tay gã họ Từ kia thì nên đổi thành “Cẩu Ba tiêu cục” là hơn!

– Thằng lỏi này học được mấy miếng võ mèo quào sao không ở nhà ẵm con, còn đi giương mặt ra với đời làm gì?

– Này, gã họ Từ kia! Mau chạy lại dập đầu ba cái thì bọn đại ca chúng ta sẽ tha cho cái mạng chó của ngươi.

– Bảo tiêu gì mà ngu xuẩn thế, có chín ngàn bạc cũng lãnh. Sao bằng đi bán đậu hũ còn hay hơn!

– Thần quyền vô địch Mã lão tiêu đầu ngày trước oai danh lừng lẫy trong võ lâm chẳng ai là không kính phục, không ngờ thằng lỏi bị thịt này không bì nổi sư phụ.

– Ta coi vợ gã còn giỏi hơn gã gấp mười lần. Thật là bông hoa lài cắm bãi phân trâu, khiến người ta nhìn vào phải nổi nóng!

Hồ Phỉ nghe bọn chúng mồm năm miệng mười, nhao nhao thóa mạ cảm thấy bọn cường đạo này biết rất rõ gốc gác của Từ Tranh. Chẳng những chúng hiểu rõ cả lai lịch sư thừa mà còn biết gã lãnh món hàng bao nhiêu bạc nữa. Chúng nhục mạ Từ Tranh bằng những lời lẽ cực kỳ khắc bạc, nhưng lại không hề mảy may xúc phạm tới Mã Xuân Hoa cùng phụ thân quá cố của nàng, thậm chí chúng còn tỏ ra rất tôn kính nữa.

Hồ Phỉ dù chưa hề biết tới lôi chấn đáng, nhưng thấy lão già kia công lực rất thâm hậu mà ra tay vừa tàn độc lại vừa chuẩn xác, bất giác tự nhủ:

– Lão này tuy chưa thể là hạng nhất lưu cao thủ trên chốn giang hồ, nhưng võ công của lão như vậy thì nhất định là một nhân vật thành danh. Xem hành động của bọn này thì chắc chắn không phải vì món tiêu ngân chín ngàn lượng nhỏ xíu này. Nhưng nếu bọn chúng do Điền Quy Nông phái tới để làm khó dễ cho ta, thì việc gì phải hao phí sức lực để đối phó với Từ Tranh?

Mã Xuân Hoa đứng bên, trong lòng rất đỗi bồn chồn. Nàng đã sớm biết chồng mình không phải là đối thủ của bọn kia, nhưng nàng có xông vào trợ lực thì giỏi lắm cũng chỉ đẩy lui được một tên địch, chẳng những không ích gì cho cuộc đấu, mà để hai đứa con không người chiếu cố tất lọt vào tay bọn cướp. Nàng đành giương mắt nhìn thấy chồng mỗi lúc một đi dần vào chỗ nguy khốn.

Đột nhiên lão già kia phóng nhanh binh khí hình con rắn về phía trước rồi xoay một vòng khiến thanh đơn đao của Từ Tranh tuột khỏi tay bay lên, Mã Xuân Hoa liền la hoảng lên một tiếng. Lão già đưa chân quét ngang một cái, Từ Tranh vội nhảy lên né tránh. Giữa lúc ấy thanh đơn đao từ trên không rớt xuống. Một tên trong bọn cướp cưỡi ngựa vung thanh trường kiếm chém một cái. Thanh cương đao lập tức đứt làm hai đoạn. Thân thủ hắn rất mau lẹ, lại khoa kiếm quét hai nhát, hai đoạn đao gãy chưa kịp rơi xuống đất đã bị chặt gãy thành bốn đoạn. Chẳng những thanh bảo kiếm trong tay hắn cực kỳ sắc bén mà hắn ra tay vô cùng thần tốc khiến người nhìn thấy phải lóa mắt. Bọn cường đạo hoan hô ầm ĩ cả lên.

Xem tình thế lúc này thì việc đối phó với Từ Tranh để chặn đường cướp tiêu chỉ là một trò đùa. Chỉ một tên đại đạo tay cầm trường kiếm cũng thừa sức đánh bại hai vợ chồng Từ Tranh, huống chi cả bọn mười sáu người có vẻ đều là cao thủ? Bọn chúng tên nào cũng cười nói ung dung, chẳng khác gì mười sáu con mèo lớn nhằm bắt bốn con chuột nhắt, chúng muốn giỡn chơi rồi mới chia nhau ăn thịt.

Từ Tranh cặp mắt đỏ ngầu, hai tay vung lên, thi triển toàn những chiêu quyền thí mạng, nhưng thanh lôi chấn đáng của lão già kia dài hơn bốn thước thì gã làm sao sấn vào gần được? Sau mấy chiêu bỗng nghe đánh “toạc” một tiếng. Mũi lôi chấn đáng đã xả rách ống quần của Từ Tranh. Máu tươi ở đùi chảy ra lênh láng, Tiếp theo lại nghe đánh “binh” một tiếng, vai trái của Từ Tranh lại bị trúng cây lôi chấn đáng. Lão già liền phóng cước đá Từ Tranh ngã lăn xuống đất.

Lão giẫm chân lên người Từ Tranh cười nhạt nói:

– Ta không cần giết ngươi mà chỉ cần phế bỏ mấy chiêu thức vừa rồi của ngươi, để phạt ngươi cái tội có mắt không tròng, hồ đồ quá đáng.

Từ Tranh vừa khiếp sợ lại vừa phẫn nộ, uất khí xông lên nghẹn cổ không nói ra lời.

Mã Xuân Hoa la lên:

– Các bạn hữu muốn lấy tiêu thì lấy đi là xong. Giữa chúng ta cùng các vị ngày trước chẳng có oán, gần đây cũng không có thù, hà tất phải đuổi cùng giết tận?

Tên đại đạo sử dụng trường kiếm đáp:

– Mã cô nương, cô nương là người tốt, bất tất can thiệp vào việc không đâu này.

Mã Xuân Hoa hỏi:

– Sao lại bảo can thiệp vào việc không đâu? Y là chồng của tiện thiếp mà.

Lão già sử lôi chấn đáng đáp:

– Bọn lão phu nhận thấy gã không xứng đáng chút nào. Một người tài mạo song toàn như Mã cô nương mà phải chịu ủy khuất, khiến bọn tại hạ phải bôn ba từ xa xôi vạn dặm tới đây. Cái đó gọi là ôm mối bất bình mà không giải tỏa là không được!

Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố càng nghe càng lấy làm lạ, nghĩ thầm:

– Quân đại đạo này xen vào việc vợ chồng nhà người ta mà lại bảo can thiệp vào chuyện bất bình, quả thật buồn cười.

Hai người đưa mắt nhìn nhau, khoé mắt đều có ý cười thầm. Giữa lúc ấy lão già vung cây lôi chấn đáng lên đâm vào mặt Từ Tranh. Mã Xuân Hoa la lên một tiếng, chạy lại trợ lực. Bỗng nghe “vèo” một tiếng, một tên đại đạo phóng cây hoa thương từ trên cao đâm xuống để ngăn nàng lại.

Hai đứa nhỏ la hoảng:

– Gia gia!

Rồi chúng chạy đến bên Từ Tranh.

Đột nhiên bóng xám thấp thoáng, lão già kia thấy cổ tay tê chồn, vội xoay cây lôi chấn đáng nghinh địch, nhưng bỗng thấy cánh tay nhẹ hẫng, té ra binh khí trong tay không hiểu đã biến đi đằng nào. Lão vừa giận vừa sợ ngửng đầu lên nhìn thì bóng xám đã nhảy lên mình ngựa. Binh khí độc môn của lão là cây lôi chấn đáng người kia đã đoạt mất và đang múa thành những vòng bạch quang lấp loáng. Người xông tới chớp nhoáng, và chỉ trong nháy mắt đã lên ngựa xuống ngựa, lại tay không đoạt lấy cây lôi chấn đáng của lão chính là Hồ Phỉ.

Quần đạo nhìn nhau kinh hãi. Chỉ trong khoảnh khác, tất cả đều yên lặng như tờ, chẳng ai nói một câu. Diễn biến trước mắt khiến mọi người ngẩn cả người ra. Sau một lúc mới nghe tiếng quần đạo hô hoán vung đao chống trượng chạy về chỗ Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ quát lớn:

– Trên tờ giấy là chữ “cáp” phải không? Gió gấp lên, hãy xé toang ra, cửa hoa mau vào lọ cổ, con thỏ ba đao hãy đến đây, râu tóc hãy xổ tung ra. Tài thần Bồ Tát thượng sơn!

Bọn đạo tặc lại thêm một phen sửng sốt, nghe chàng đọc thần chú không ra thần chú, không hiểu bảo xé toang cái gì. Lão già bị đoạt lôi chấn đáng cả giận hỏi:

– Bằng hữu! Bằng hữu ở phe phái nào? Dấn thân vào chỗ nước đục này làm chi?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ chuyên làm nghề buôn bán không vốn, thấy chín ngàn lạng tiêu ngân của Phi Mã tiêu cục dễ ăn nên đi theo. Ai ngờ dọc đường lại chạm trán mười sáu vị Trình Giảo Kim. Các vị đòi chia phần, hỏi ai mà chẳng đau lòng?

Lão già cười lạt nói:

– Hừ! Bằng hữu đừng giả vờ nữa. Muốn tử tế thì hãy lưu danh tính lại.

Từ Tranh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, vội lại dắt hai đứa nhỏ. Mã Xuân Hoa đứng bên gã, dương cặp mắt nhìn sững Hồ Phỉ. Trong lúc nhất thời nàng chưa nhìn rõ trước mắt đã xảy ra chuyện gì. Nàng cứ ngỡ Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cũng là phường trộm cướp, ngờ đâu chàng lại sinh sự với lão già kia.

Bỗng thấy Hồ Phỉ đưa tay lên vuốt chòm râu trên mép, ngậm cây dọc tẩu, nói:

– Thần quyền vô địch Mã Hành Không là sư đệ ta. Đây là việc của sư điệt, lão nhân gia đây chẳng thể không can thiệp.

Hồ Phỉ vừa nói câu này, Mã Xuân Hoa giật mình kinh hãi tự hỏi:

– Vị sư bá này ở đâu ra? Ta chưa từng nghe gia gia nói đến bao giờ, vả lại người này nhỏ tuổi hơn gia gia nhiều, sao lại làm sư bá ta được?

Trình Linh Tố đứng một bên coi chàng làm bộ làm tịch không nhịn được phải bật cười. Có điều cô thấy chàng đứng trước mặt đại địch, thân bị hãm vào trùng vây mà vẫn cười nói tự nhiên thì không khỏi khâm phục chàng là một tay gan dạ.

Lão già kia bán tín bán nghi hừ một tiếng, rồi hỏi:

– Tôn giá là sư huynh của Mã lão tiêu đầu ư? Về tuổi tác thì dường như chẳng phải mà bọn tại hạ chưa từng nghe nói Mã lão tiêu đầu có vị sư huynh nào cả.

Hồ Phỉ đáp:

– Sư môn ta không kể tuổi nhiều tuổi ít, chỉ xét ai nhập môn trước mà thôi. Mã Hành Không là nhân vật cỡ nào mà ta phải mạo xưng làm sư huynh của y?

Trong võ lâm, nhiều môn phái có quy củ hễ ai nhập môn trước là sư huynh. Lão già kia liền đưa mắt nhìn Mã Xuân Hoa để dò xét thái độ của nàng, rồi quay lại hỏi Hồ Phỉ:

– Lão phu vẫn chưa thỉnh giáo tôn tính đại danh của tôn giá?

Hồ Phỉ ngửa mặt lên trời đáp:

– Sư đệ ta là Thần quyền vô địch Mã Hành Không, tại hạ là Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền.

Câu này hiển nhiên là lời bịa đặt để nhạo người. Lão già thấy chàng tay không đoạt khí giới của mình nên mới đối đáp với chàng mấy câu, nếu không thì đã động thủ rồi. Bản tính lão cực kỳ nóng nảy, lại nghe bà chữ “Ngưu Canh Điền” thì không nhịn được nữa, liền gầm lên một tiếng, rồi xông tới Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ giật cương ngựa né tránh, cây lôi chấn đáng rung động, lão già trong tay đột nhiên có một vật, liền giơ lên nhìn, thì ra là cây lôi chấn đáng của mình. Vật về chủ cũ, đáng lẽ lão hân hoan mới đúng, nhưng đằng này không phải lão tự đoạt mà lại do đối phương nhét vào tay, khiến lão chưa nhìn rõ, binh khí đã trở về tay một cách lạ lùng.

Quần đạo đồng thanh hoan hô:

– Chử đại ca bản lãnh tuyệt diệu!

Chúng đều tưởng lão dùng công phu “Không thủ nhập bạch nhẫn” để đoạt lại binh khí. Lão họ Chử tự biết rõ sự việc khác nào nuốt phải bồ hòn miệng ngậm đắng mà không nói ra dược.

Lão sửng sốt hỏi:

– Tôn giá can thiệp vào vụ này rốt cuộc để làm gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Lão huynh đây đã nói rồi. Vợ chồng tệ sư điệt đang sống êm ấm, việc gì các vị lại phải can thiệp vào chuyện bất bình?

Lão già họ Chử nói:

– Can thiệp vào chuyện không đâu chẳng lợi ích gì cho tôn giá. Tại hạ có lời khuyên tôn giá nên đường ai nấy đi là hơn!

Quần đạo rất đỗi ngạc nhiên tự hỏi:

– Chử đại ca bình nhật nóng như lửa mà sao bữa nay lại đằm tính thế?

Hồ Phỉ cười khanh khách đáp:

– Các hạ nói đúng lắm. Dính dáng vào việc người là điều vô ích. Chúng ta cứ ai đi đường nấy. Xin mời!

Lão già họ Chử lùi lại ba bước quát:

– Tôn giá đã không chịu nghe lời nói phải, có phải muốn bắt buộc tại hạ phải lãnh giáo mấy cao chiêu?

Lão nói rồi đưa cây lôi chấn đáng che trước ngực.

Hồ Phỉ nói:

– Đơn đả độc đấu thì có gì là thú vị? Nhưng nhiều người quá cũng rối beng bất tiện. Bây giờ thế này, một mình Ngưu Canh Điền đấu với ba vị.

Dứt lời chàng cầm cái dọc tẩu trỏ vào hán tử cầm trường kiếm, lại trỏ vào tên sư đệ của lão già.

Hán tử sử kiếm tướng mạo hiên ngang, thái độ ngạo mạn, ngửa mặt lên trời, cười nói:

– Lão tiểu tử kia thật là cuồng vọng.

Nhưng lão họ Chử đã biết Hồ Phỉ không phải hạng dễ ăn. Nếu đơn đả độc đấu với chàng thì không nắm chắc được phần thắng. Nay chàng đã tự nguyện khiêu chiến với cả ba người là một điều mong còn không được, lão liền hô:

– Nhiếp hiền đệ! Thượng Quan sư đệ! Y đã tự chuốc lấy cái chết thì không oán ai được nữa. Vậy ba chúng ta cùng bỡn với y một phen.

Hán tử họ Nhiếp không thích, đáp:

– Xem chừng lão tiểu tử kia đâu phải là đối thủ của Chử đại ca? Đâu cần phải đến hai huynh đệ của đại ca cùng ra tay, hãy để anh em chiêm ngưỡng tuyệt kỹ “Lôi điện giao tác” ngoài quan ải.

Quần đạo hoan hô như sấm dậy.

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Hạng người ít tuổi thành ra nhỏ mật. Đáng tiếc ơi là đáng tiếc!

Hán tử họ Nhiếp giương cặp mày dài, nhảy xuống ngựa, khẽ nói:

– Xin Chử đại ca hãy lùi lại, để một mình tiểu đệ cho tên cuồng đồ này một bài học.

Hồ Phỉ hỏi:

– Tiểu huynh đệ! Ngươi muốn cho Oa quyền vô địch Ngưu Canh Điền ta một bài học cũng được, nhưng ta cần nói trước: Nếu ta thua ngươi, thì ngươi muốn giết muốn mổ thế nào tùy ý, nhưng nếu tiểu huynh đệ lỡ tay thất bại thì làm thế nào?

Hán tử họ Nhiếp cười lạt đáp:

– Đó là ngươi cuồng tâm vọng tưởng, mơ mộng hão huyền.

Hồ Phỉ mỉm cười nói:

– Biết đâu nhờ trời giúp đỡ, tiểu huynh đệ nhà ngươi có mệnh hệ gì thì làm thế nào?

Hán tử họ Nhiếp quát lên:

– Ai thèm nói nhăng nói cuội với ngươi? Nếu ta thua thì để tùy lão tiểu tử ngươi xử trí.

Hồ Phỉ nói:

– Tùy ý xử trí thì không dám, tại hạ chỉ xin các vị khoan hồng đại lượng đừng xen vào việc nhà của vợ chồng tệ sư điệt, còn mối bất bình đó, bọn ta đừng để tâm tới nữa là xong!

Gã họ Nhiếp không nhẫn nại được nữa, hắn vung trường kiếm lên, hàn quang lấp lánh, quát lớn:

– Cứ thế là được!

Hồ Phỉ đảo mắt nhìn bọn cường đạo hỏi:

– Lời của Nhiếp gia tiểu huynh đệ đây có thể tin được chăng? Nếu y thua thì các vị có can thiệp vào chuyện bất bình này hay không?

Trình Linh Tố nghe tới đây không nhịn được nữa phải phì cười. Cô nghĩ đến Hồ Phỉ còn nhỏ tuổi mà cứ mở miệng ra là gọi người ta một điều tiểu huynh đệ, hai điều tiểu huynh đệ, không cho bọn kia vì cái vụ “Bông hoa lài cắm bãi phân trâu” mà huy động đông người đến can thiệp, thì chuyện này thật tức cười, nhưng chàng lại nhúng tay vào vụ này một cách ngang ngược thì quả là điều ngoài sức tưởng tượng.

Quần đạo vốn biết hán tử họ Nhiếp kiếm thuật tinh kỳ, trong tay lại có bảo kiếm chặt sắt như cắt bùn. Nếu hắn ra tay đấu với lão già nhà quê lún phún râu trê kia thì nhất định sẽ thắng. Bọn chúng đi chuyến này chẳng qua là một cuộc mua vui, giữa đường lại gặp được trận đấu cực kỳ thú vị thế này thì đúng là cầu còn chẳng được, bèn nhao nhao lên đáp:

– Lão lún phún râu trê kia mà thắng y một chiêu nửa thức là bọn ta phủi đít đi ngay, cái chuyện bất bình này nhất định không can thiệp nữa!

Hồ Phỉ nói:

– Lời các vị toàn nói tiếng người thì nhớ giữ lấy lời. Còn việc có can thiệp vào chuyện bất bình được không thì hãy xem chút bản lĩnh của lão gia ta đây.

Đột nhiên chàng cầm dọc tẩu cài vào cổ áo, tung mình xuống ngựa lóng cóng suýt té. Quần đạo nghe chàng hô “Coi chiêu đây!”, lại thấy chàng vung dọc tẩu lên đều tưởng chàng dùng nó làm binh khí, không ngờ chàng lại cắm vào cổ áo, rồi thấy chàng nhảy xuống ngựa, thân pháp rất vụng về khiến mười lăm tên đại đạo đứng coi thì mười ba tên phải cười ồ lên.

Hán tử họ Nhiếp quát hỏi:

– Lão tiểu tử kia dùng binh khí gì sao không lấy ra?

Hồ Phỉ đáp:

– Trâu cày ruộng chỉ quen dùng lưỡi cày! Chử đại trại chủ! Vật đại trại chủ cầm trong tay cũng có cái đó giống cái lưỡi cày, hãy cho tại hạ mượn đỡ.

Chàng vừa nói vừa xòe tay về phía lão già họ Chử để mượn cây lôi chấn đáng. Lão già vẫn có lòng úy kỵ Hồ Phỉ, vội lùi lại hai bước, tức giận đáp:

– Không được! Xem chừng tôn giá không biết sử dụng:

Hồ Phỉ vẫn xòe bàn tay phải giữ nguyên tư thế xin đồ vật, hỏi tiếp:

– Cho mượn một chút thì đã hề gì?

Đột nhiên chàng vươn tay trái ra, lão già kia vung cây đáng lên đỡ, không hiểu tại sao chỉ còn tay không. Cây lôi chấn đáng đã lọt vào tay Hồ Phỉ rồi.

Lão già cả kinh nhảy lùi lại hơn trượng, da mặt co rúm như người thấy quỷ mị. Nên biết công phu “Không thủ đoạt bạch nhận” của Hồ Phỉ là một tuyệt kỹ mà viễn tổ chàng là Phi Thiên Hồ Ly đã dày công nghiên cứu. Ngày trước Phi Thiên Hồ Ly phò tá Sấm vương Lý Tự Thành dấy binh đánh thiên hạ, nhờ bản lãnh này mà đã đoạt được không biết bao nhiêu binh khí trong tay các anh hùng hảo hán. Thật là một tuyệt kỹ biến ảo vô cùng, thần xuất quỷ nhập kỳ dị tuyệt luân. Bốn chữ “Phi Thiên Hồ Ly” quá nửa là từ đó mà ra.

Hán tử họ Nhiếp thấy Hồ Phỉ đã có binh khí trong tay, liền cầm kiếm đâm vào sau lưng chàng. Hồ Phỉ nghiêng mình tránh, cầm đáng xoay lại phản kích, từ mé tả đánh hất lên, cây lôi chấn đáng xoay một vòng rồi đâm ngang. Lão họ Chử nhìn thấy miệng há hốc ra không ngậm lại được.

Nguyên những chiêu số Hồ Phỉ sử dụng đúng là những chiêu thuộc về sáu mươi tư đường “Oanh thiên lôi chấn đáng pháp” mà lão đã được sư phụ đích thân truyền thụ, chẳng sai một chút nào. Sư đệ lão họ Thượng Quan lại càng kinh ngạc vì hắn nghe rõ Hồ Phỉ không hiểu cả cái tên lôi chấn đáng là gì, mà lúc sử đáng lại giống hệt sư ca.

Hai người đâu ngờ rằng Hồ Phỉ đã có một căn bản rất sâu xa về võ công, lại thông minh tuyệt đỉnh. Chàng vừa coi lão già đấu với Từ Tranh đã thuộc lòng mọi chiêu số. Huống chi những chiêu số chàng sử dụng tuy giống về hình thức, nhưng cách vận dụng kình lực và biến hóa bên trong lại hoàn toàn chẳng có liên can.

Hán tử họ Nhiếp không dám khinh thường nữa, đường kiếm nhẹ nhàng linh hoạt và thân thủ cũng di chuyển mau lẹ. Hồ Phỉ dùng binh khí đã không thuận tay, lại muốn làm lóa mắt mọi người, từng chiêu số sử dụng đúng như võ công của lão già họ Chử nên càng bị câu thúc. Chàng thấy thanh trường kiếm của đối phương phóng ra hàn quang lấp loáng, kiếm pháp cũng không phải tầm thường.

Hồ Phỉ vừa đánh vừa nghĩ:

– Xem chừng mười sáu địch nhân đều là tay chẳng vừa, nếu họ xông cả vào thì dù ta cùng nhị muội có thể thoát thân được, nhưng cả nhà Từ Tranh bốn người tất bị tai họa. Mình cần thắng gã này để bọn họ không động thủ được mới là thượng sách.

Đột nhiên trường kiếm của địch nhân bổ xuống, chàng biết là không ổn, đang nghĩ cách biến chiêu thì đã nghe “choang” một tiếng. Một đầu cây lôi chấn đáng bị lưỡi kiếm chặt đứt. Quần đạo thấy cử chỉ của Hồ Phỉ có vẻ tà môn, trong lòng không khỏi hồi hộp, đột nhiên thấy hán tử họ Nhiếp thắng lợi liền đồng thanh hoan hô. Hán tử họ Nhiếp phấn khởi tinh thần, tiến dần lên từng bước đánh rất rát.

Hồ Phỉ học được mấy chiêu vẻ đáng pháp cúa lão họ Chử đã sử hết rồi, liền thầm nghĩ nếu còn đánh thế này mãi tất bị lộ tẩy. Chàng thấy lôi chấn đáng bị hớt một đầu, trong lòng chợt nảy ra một ý, liền xoay đáng lại, đâm chênh chếch tới. Địch nhân chuyển trường kiếm một vòng. Lại một tiếng “choang” nữa vang lên. Đầu kia cây đáng bị hớt nốt.

Hồ Phỉ la lên:

– Hay lắm! Ngươi đã không nể mặt Chử đại gia, phá hủy cây binh khí đã thành đanh của y thì thật chẳng còn tình bằng hữu chi nữa!

Hán tử họ Nhiếp ngớ người vì hắn nghĩ lời nói của đối phương rất có lý.

Đột nhiên lại thêm một tiếng “choang” vang lên. Hồ Phỉ cầm nửa cây đáng gãy đập vào lưỡi kiếm. Trong tay chàng chỉ còn một khúc ngắn dài chừng hơn thước. Chàng lại hô lớn:

– Biết sử lôi chấn đáng mà không sử được thiểm điện chùy thì võ công cũng tầm thường thôi.

Chàng nói rồi cầm khúc đuôi cây đáng đâm ra như đang sử cây “phá giáp chùy”. Tên đại đạo họ Thượng Quan nghe chàng nói tới thiểm điện chùy thì không khỏi kinh hãi, nhưng thấy chàng đi mấy đường chùy quét ngang đâm thẳng hoàn toàn không đúng cách mới hơi yên dạ.

Gã cười ha hả, hỏi:

– Thiểm điện chùy đó thuộc môn phái nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Chùy pháp của các hạ không đúng, của tại hạ mới đúng.

Chàng nói rồi lại phóng cây đáng đâm liền mấy nhát. Kỳ thực ngoài thanh đơn đao ra chàng chẳng biết sử dụng một món binh khí nào khác. Chùy pháp chàng sử dụng chỉ là đồ giả, điểm lợi hại toàn nằm ở tay trái, khi đánh gần thì tay trái vung ra như lưỡi câu để khống chế đối phương. Cái đó đúng là “gần một tấc thì nguy hiểm một tấc”.

Gã họ Nhiếp tuy có lợi kiếm trong tay nhưng không cản trở được cây đáng, gã bị Hồ Phỉ tấn công phải lùi lại liên tục. Chợt gã rú lên một tiếng, cả hai người đồng thời nhảy lùi lại. Bỗng thấy trước mặt Hồ Phỉ ánh tinh quang lấp loáng, thanh bảo kiếm đã lọt vào tay chàng. Hồ Phỉ quỳ chân trái xuống lượm một tảng đá bên đường nặng chừng hai chục cân. Tay phải chàng cầm kiếm, mũi kiếm chấm đất, thân kiếm nằm chếch ngang, tay trái cầm tảng đá gơ cao lên cười nói:

– Lưỡi bảo kiếm này cực kỳ sắc bén, tại hạ thử đập mấy cái xem có gãy không?

Chàng nói rồi làm bộ như dùng tảng đá lớn đập vào thân kiếm. Kiếm trong thiên hạ dù có sắc bén đến đâu đi nữa, nhưng hễ dùng đá đập ngang vào thân thì tất nhiên phải gãy.

Hán tử họ Nhiếp quý thanh bảo kiếm này hơn cả tính mạng, nhìn thì tình trạng này cả kinh thất sắc, la lên:

– Tại hạ xin chịu thua là xong.

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ thấy thanh kiếm này rất tốt, đập một cái vị tất đã gãy?

Chàng nói xong, lại giơ cao tảng đá lên. Hán tử họ Nhiếp lớn tiếng la:

– Tôn giá có thích thì cứ lấy đi, đừng làm hư hại báu vật.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Gã này quả là người có tình. Chẳng thà để kiếm lọt vào tay địch chứ không muốn để kiếm gãy.

Rồi chàng cười hì hì, hai tay cầm bảo kiếm nâng lên đưa tới trước mặt nói:

– Tiểu đệ vô lễ, thật là đắc tội.

Hán tử họ Nhiếp hoàn toàn không ngờ tới điều này. Gã yên trí dù Hồ Phỉ không hủy thanh kiếm thì cũng lấy đi. Nên biết thanh lợi kiếm thế này là vật hiếm có trong đời, có được thanh kiếm này khác nào công phu được tăng thêm gấp bội, người trong võ lâm ai lại chẳng thích điều này? Gã liền đưa tay ra đón lấy nói:

– Đa tạ! Đa tạ!

Trong lúc thảng thốt, vẻ mặt gã không giấu được nỗi hớn hở vui mừng. Hồ Phỉ biết đêm dài lắm mộng, không nên chần chờ, liền xoay người nhảy lên mình ngựa, nhìn quần đạo, chắp tay nói:

– Đa tạ các vị huynh đài đã nương tay. Tiểu đệ xin có lời cảm tạ.

Chàng nói mấy câu đó cực kỳ thành khẩn, rồi quay sang Từ Tranh và Mã Xuân Hoa giục:

– Đi thôi!

Vợ chồng Từ Tranh chưa hết kinh hãi, vội chạy lại tiêu xa, tung mình lên ngựa đi ngay. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đi sau áp tải, không quay mặt nhìn vì sợ lại sinh chuyện, tai còn nghe quần đạo nói nhỏ thương nghị với nhau, nhưng chúng không phóng ngựa đuổi theo. Bốn người đi một mạch hơn mười dặm, thủy chung vẫn không thấy bọn cường đạo truy kích. Từ Tranh dừng ngựa lai nói:

– Tôn giá ra tay giải cứu, tại hạ vô cùng cảm kích, nhưng sao lại mạo nhận là sư bá của tại hạ?

Hồ Phỉ nghe giọng nói của gã có ý trách móc, liền mỉm cười đáp:

– Thuận miệng mà nói vậy thôi. Xin huynh đệ miễn trách.

Từ Tranh nói:

– Tôn giá dán hai chòm râu vào, rồi gặp ai cũng kêu huynh đệ, như vậy không khỏi mang tiếng là khinh thường thiên hạ.

Hồ Phỉ ngạc nhiên không ngờ con người lỗ măng như gã mà cũng nhận ra.

 Trình Linh Tố khẽ nói:

– Chắc vợ gã nhận ra chỗ sơ hở.

Hồ Phỉ gật đầu, chú ý nhìn Mã Xuân Hoa, thầm nghĩ:

– Nàng đã nhìn ra chòm râu giả, nhưng không hiểu đã nhận ra ta là ai chưa?

Từ Tranh thấy thái độ chàng như vậy liền cho là chàng thấy vợ gã xinh đệp nên cứ bám theo hoài, hẳn là có ý đồ bất chính. Gã bị quần đạo vũ nhục đủ điều, tâm trí thất thường, chỉ muốn chết cho xong, thấy ai cũng là thù nghịch bèn lớn tiếng quát:

– Các hạ võ nghệ cao thâm, có muốn giết ta thì hạ thủ đi!

Dứt lời gã cúi xuống, rút lấy thanh đơn đao đeo bên hông lão chạy cờ, dừng ngựa cầm ngang đao, ngạo nghễ nhìn Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không hiểu tâm tình toan giải thích, bỗng nghe sau lưng có tiếng vó ngựa dồn dập phi tới.

Một người cưỡi con khoái mã đang lao vun vút tới. Con ngựa này tuy không phải là loại thần tuấn như bạch mã của Viên Tử Y, nhưng cũng là một loại danh câu. Chỉ trong khoảnh khắc nó đã chạy lướt ngang bên đội xe tiêu. Hồ Phỉ nhanh mắt nhận ra người ngồi trên ngựa là một trong mười sáu tên đại đạo.

Trình Linh Tố nói:

– Chúng ta đi thôi, chẳng hơi đâu mà can thiệp vào chuyện bất bình.

Không ngờ câu này làm xúc động lòng đố kỵ của Từ Tranh, mắt gã long lên sòng sọc, phóng ngựa tới toan liều mạng. Mã Xuân Hoa vội la lên:

– Sư ca! Sư ca hồ đồ nữa rồi!

Từ Tranh ngẩn người ra. Trình Linh Tố cầm roi quất vào mông ngựa của Hồ Phỉ, cả hai con vọt về hướng bắc.

Hồ Phỉ quay lại la lớn:

– Mã cô nương! Còn nhớ chuyện Thương gia bảo không?

Mã Xuân Hoa bỗng đỏ mặt lên, miệng lẩm bẩm:

– Thương gia bảo! Thương gia bảo! Sao ta lại không nhớ?

Nàng rúng động tâm thần, mơ màng nghĩ lại chuyện cũ. Nhưng trong đầu óc chẳng có chút gì hình ảnh Hồ Phỉ, mà chỉ tơ tưởng tới một người sang trọng thanh nhã khác là vị công tử gia…

Hồ, Trình hai người đi được ba, bốn dặm, Trình Linh Tố nói:

– Đại ca, bọn can thiệp chuyện bất bình lại rượt theo rồi.

Hồ Phỉ đã sớm nghe thấy tiếng ngựa dồn dập trên đường, cả thảy có đến mười mấy con. Chàng đáp:

– Nếu phải động thủ thật sự thì chúng ta ít người không địch nổi số đông, lại không hiểu bọn này lai lịch thế nào?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội coi bọn chúng chưa hẳn đã là cường đạo.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Vụ này có nhiều điểm rất cổ quái mà trong lúc nhất thời mình không nghĩ ra được.

Giữa lúc ấy một trận gió tây cuốn tới trên đường, trong tiếng gió nghe cả tiếng binh khí chạm nhau. Hồ Phỉ kinh hãi nói:

– Chúng đuổi tới nơi rồi.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội coi tâm ý bọn chúng thì Mã cô nương chắc không có điều gì đáng ngại. Bọn họ cũng không hại mạng Từ Tranh đâu, bất quá cũng chỉ để cho gã nếm mùi đau khổ.

Hồ Phỉ suy nghĩ nát óc, chau mày nói:

– Tiểu huynh thật không sao hiểu được.

Giữa lúc ấy nghe tiếng vó ngựa vang lên chạy chếch về hướng tây bắc chứ không phải trên đường lớn. Đồng thời văng vẳng có tiếng phụ nữ kêu gào vọng lại. Hồ Phỉ cho ngựa chạy lên cái gò nhỏ bên đường, đưa mắt nhìn ra xa thì thấy hai tên đại đạo cưỡi khoái mã, mỗi tên ôm một đứa nhỏ.

Mã Xuân Hoa chạy bộ rượt theo, đầu tóc rũ rượi, có vẻ như đang gào lên:

– Trả con cho ta! Trả con cho ta!

Vì cách xa quá nên nghe không rõ. Hai tên đại đạo giơ binh khí lên, đột nhiên chia ra chạy theo hai ngả. Mã Xuân Hoa đứng thộn mặt ra, cả hai đứa nhỏ đều là cốt nhục, nên nhất thời nàng không biết phải chạy theo hướng nào.

Hồ Phỉ thấy thế cả giận nghĩ thầm:

– Bọn cường đạo này ác độc quá chừng.

Chàng gọi lớn:

– Nhị muội! Chạy nhanh lên!

Chàng biết mình ít người không địch nổi số đông, nếu nhúng tay vào thì vụ này rất nguy hiểm. Nhưng đã thấy chuyện bất bình rồi thì chẳng thể không can thiệp. Chàng liền phóng ngựa rượt theo, có điều quãng cách quá xa mà ngựa chàng lại không chạy nhanh bằng hai con khoái mã của bọn đại đạo, nên khi chàng tới cạnh Mã Xuân Hoa thì hai tên đại đạo bồng hai đứa nhỏ chạy mất hút không biết về hướng nào.

Mã Xuân Hoa đứng ngây người, không khóc nổi nữa.

Hồ Phỉ la lên:

– Mã cô nương đừng nóng nảy. Tại hạ nhất định giúp cô nương đoạt hai đứa về cho.

Đúng ra phải gọi là “Từ phu nhân”, nhưng trong lòng Hồ Phỉ chỉ có ấn tượng về “Mã cô nương” nên cứ thuận miệng mà gọi như thế chứ không đổi được.

Mã Xuân Hoa nghe nói, tinh thần phấn khởi, muốn quỳ ngay xuống. Hồ Phỉ vội nói:

– Không cần phải đa tạ. Từ huynh đâu rồi?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Tiện thiếp rượt theo hài tử, y bị người ta bao vây.

Trình Linh Tố phóng ngựa chạy đến bên Hồ Phỉ, nói:

– Mặt bắc lại có địch nhân.

Hồ Phỉ hỏi:

– Có phải địch nhân không?

Chàng nhìn qua hướng bắc quả thấy cát bụi tung bay, lại tám, chín, ngựa chạy tới. Hồ Phỉ nói:

– Địch nhân cưỡi toàn ngựa tốt, chúng ta không tránh được, hãy tìm một chỗ ẩn thân trước đã.

Chàng đảo mắt nhìn ra bốn phía toàn đồng không mông quạnh, chẳng có chỗ nào ẩn nấp được, chỉ ở mé tây bắc có một rừng cây nhỏ.

Trình Linh Tố cầm roi ngựa trỏ về phía đó, nói:

– Qua bên kia!

Rồi cô hướng về Mã Xuân Hoa nói:

– Lên ngựa đi!

Mã Xuân Hoa nhìn cô đáp:

– Đa tạ cô nương.

Rồi nhảy lên lưng ngựa ngồi phía sau Trình Linh Tố. Trình Linh Tố cười nói:

– Nhãn quang của phu nhân hay quá. Trong lúc nguy cấp mà còn nhận ra được tiểu muội là gái giả trai.

Ba người cưỡi hai ngưa chạy về phía khu rừng. Mới chạy được một quãng thì quần đạo đã phát giác. Bỗng nghe những hồi còi nổi lên, mé nam hơn chục kỵ mã, mé bắc cũng tám, chín người, hai mặt đổ dồn lại. Hồ Phỉ phóng ngựa chạy trước, xông vào rừng cây, thấy phía sau rừng có bảy, tám gian nhà nhỏ. Chàng nghĩ rằng nếu mình còn tiếp tục chạy nữa tất bị đuổi kịp. Chỉ còn cách tạm lánh mình trong mấy gian nhà này. Chàng liền giục ngựa chạy tới, thấy ở khoảng giữa có một tòa thạch thất khá lớn, hai bên đều là nhà tranh.

Hồ Phỉ đưa tay đẩy cửa tòa thạch thất, thấy bên trong có một lão phu nhân bệnh nằm trên giường. Mụ nhìn thấy Hồ Phỉ khiếp sợ quá không nói nên lời, chỉ khẽ ú ớ mấy tiếng.

Trình Linh Tố thấy những gian nhà tranh đều là cửa phên đóng kín, bốn bức vách lại không cửa sổ, dường như không phải nhà ở. Cô đạp cửa mở ra, thấy bên trong chất đống củi khô cùng rơm cỏ, một gian khác chứa toàn đá, Trình Linh Tố lấy hỏa tập bật lửa lên, châm vào hai gian nhà tranh, đoạn kéo Mã Xuân Hoa vào thạch thất, rồi cài chặt cửa lại. Những gian nhà tranh cách thạch thất chừng ba, bốn trượng. Rơm củi cháy lên rồi, người trong thạch thất tuy bị nóng bức khó chịu nhưng cũng ngăn cản địch nhân được một lúc. Vả lại những gian nhà tranh bên cạnh thạch thất cháy hết rồi, địch nhân không còn chỗ ẩn nấp, muốn tấn công vào cũng không dễ. Mã Xuân Hoa thấy cô nhỏ tuổi mà xử trí tình hình mau lẹ, liền khen ngợi:

– Cô nương thật là thông minh!

Những gian nhà tranh vừa bốc lửa thì quần đạo đã tới tấp chạy vào rừng cây. Lũ ngựa nhìn thấy lửa không dám tới gần, chỉ đứng vây quanh. Mã Xuân Hoa vào thạch thất rồi vẫn còn kinh hãi, lại nghĩ tới con mình lọt vào tay cường đạo không hiểu sống chết thế nào. Dù có là con gái của một võ sư tiếng tăm lừng lẫy, từ thuở nhỏ đã theo phụ thân rong ruổi giang hồ, đã gặp không ít cảnh phong ba hung hiểm, nhưng lòng mẹ thương con vốn vô bờ bến, bất giác lệ chảy đoanh tròng.

Nàng lấy tay áo lau nước mắt, nhìn Trình Linh Tố nói:

– Muội tử! Ta cùng muội tử vốn chưa từng quen biết, sao lại mạo hiểm cứu nhau?

Nàng hỏi câu này quả là tình thật. Nên biết bọn đại đạo cướp tiêu đều là những tay võ nghệ cao cường, nhân số rất đông. Dù là phụ thân nàng Thần quyền vô địch Mã Hành Không gặp trường hợp này ắt cũng hiểu ngay không sao chống cự nổi. Hai người này không thân thích lại không quen biết mà tự chuốc lấy trách nhiệm vào mình thì có khác chi đi nạp mang? Còn Hồ Phỉ tự xưng là Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền dĩ nhiên nàng biết là tên giả để trêu chọc quần đạo. Võ công của phụ thân nàng do tổ phụ truyền cho, lão chẳng có sư huynh sư đệ đồng môn nào hết.

Trình Linh Tố mỉm cười trỏ vào sau lưng Hồ Phỉ hỏi:

– Phu nhân có nhận ra được y không? Y đã nhận ra phu nhân rồi đó.

Hồ Phỉ đang ở trong thạch thất nhìn qua cửa sổ ra ngoài, nghe Trình Linh Tố nói vậy quay lại mỉm cười rồi xoay người, chìa tay qua cửa sổ đón lấy một mũi cương tiêu, một mũi suất thủ tiễn ném xuống đất, nói:

– Bọn ta không đem theo ám khí, đành mượn của địch nhân vậy. Một hai, ba, bốn… năm, sáu… mé nam có cả thảy sáu tên.

Chàng lại chuyển qua cửa sổ khác nhìn ra, nói:

– Một, hai, ba… phía bắc có bảy tên. Đáng tiếc hai phía đông tây không nhìn thấy được.

Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy trong góc thạch thất có một cái bếp đá. Chàng chợt nảy ra một ý, bèn cầm lấy cái chảo trên bếp, tay phải cầm lấy quai chảo, tay trái cầm nắp chảo rồi đột nhiên nhoài người thò đầu ra ngoài cửa để nhìn hết bên đông lại ngó bên tây, vì thế mà nửa người lộ ra để địch nhân  phóng ám khí tập kích. Cái chảo và cái nắp biến thành hai lá mộc che chắn hai bên. Một loạt âm thanh “bộp bộp, leng keng, cách cách” vang lên. Hồ Phỉ co người lại cười khanh khách. Chỉ thấy trên nắp chảo cắm năm mũi ám khí, trong lòng chảo cũng đựng năm mũi, nào là thiết liên tử, nào là tụ tiễn, nào là phi chùy, nào là táng môn đinh. Cái chảo đã mẻ một miếng lớn vì bị phi hoàng thạch ném trúng.

Hồ Phỉ nói:

– Cả trước sau và hai bên, tổng cộng có hai mươi mốt tên. Tại hạ không nhìn thấy Từ huynh và hai đứa nhỏ đâu, nghĩ lại mới nhớ ra còn hai người của chúng đối phó với Từ huynh và hai tên bồng hai đứa nhỏ đem đi. Như vậy đối phương cả thảy là hai mươi lăm tên.

Trình Linh Tố nói:

– Nếu hai mươi lăm tên đều là hạng tầm thường cả thì chẳng có chi đáng ngại, nhưng bọn này…

Hồ Phỉ ngắt lời, hỏi:

– Nhị muội! Nhị muội có biết lai lịch của tên sử dụng cây lôi chấn đáng không?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội có nghe sư phụ nhắc tới thứ binh khí ngoại môn này. Lão nhân gia còn bảo những người chuyên sử dụng lôi chấn đáng đều thuộc phái Bạch gia bảo ở Tái Bắc. Nhưng người sử kiếm thì hiển nhiên là kiếm thuật của Kỳ gia ở Triết Đông. Một tên ở Tái Bắc, một kẻ ở Triết Đông. Ồ! Đại ca! Đại ca có nghe rõ khẩu âm của chúng không?

Mã Xuân Hoa tiếp lời:

– Phải rồi! Có người nói tiếng Quảng Đông, có người nói tiếng Hồ Nam, Hồ Bắc lại có cả khẩu âm miền Sơn Đông, Sơn Tây nữa.

Trình Linh Tố nói:

– Trong thiên hạ quyết không có bọn cường đạo nào lại hội họp được nhiều hảo thủ từ bốn mặt tám phương để cướp tiêu ngân chỉ vỏn vẹn có chín ngàn lạng bạc.

Mã Xuân Hoa nghe nói tới “chỉ vỏn vẹn có chín ngàn lạng bạc” thì bất giác hơi đỏ mặt lên. Phi Mã tiêu cục từ ngày sáng lập đến nay, quả chưa bao giờ lãnh món hàng nhỏ như vậy.

Hồ Phỉ nói:

– Trước hết chúng ta cần điều tra cho rõ ý định của địch nhân, để xem chúng tới đây vì anh em tại hạ hay nhắm vào Mã cô nương.

Ban đầu chàng thấy thanh thế bên địch như vậy liền cho là phe Điền Quy Nông, nhưng hành vi của bọn cường đạo chỗ nào cũng nhằm vào vợ chồng Từ Tranh và Mã Xuân Hoa, hiển nhiên không liên quan gì đến Miêu Nhân Phụng và Điền Quy Nông.

Mã Xuân Hoa đáp:

– Dĩ nhiên bọn chúng có ý đối phó với Phi Mã tiêu cục. Cho hỏi quý tính đại ca đây là gì? Xin lượng thứ tiện thiếp mắt kém không nhận ra.

Hồ Phỉ đưa tay lên gỡ tấm râu giả ra cười hỏi:

– Mã cô nương không nhận ra tại hạ ư?

Mã Xuân Hoa thấy trong vẻ tráng kiện của chàng gương mặt hãy còn non choẹt, nhưng không nhớ ra đã gặp chàng ở đâu. Hồ Phỉ cười nói:

– Thương thiếu gia! Xin thiếu gia tha mạng cho A Phỉ đừng làm khó dễ gì gã.

Mã Xuân Hoa sửng sốt, mấp máy môi nhưng không nói. Hồ Phỉ lại nói tiếp:

– A Phỉ bị thiếu gia treo lên thật là đáng thương. Thiếu gia hãy tha cho gã trước rồi tiểu muội sẽ để thiếu gia nắm tay được không?

Ngày trước Hồ Phỉ bị Thương Bảo Chấn cột lại treo lên xà nhà đánh đập cực kỳ thảm khốc. Mã Xuân Hoa thấy vậy sinh lòng thương xót, khẩn cầu Thương Bảo Chấn tha cho chàng. Thương Bảo Chấn có cảm tình với nàng, nên tuy gã căm hận Hồ Phỉ mà vẫn ưng thuận, đáp lại hắn sẽ được nàng cho cầm tay. Mã Xuân Hoa cũng đồng ý. Tuy lúc ấy Hồ Phỉ đã tự mình thoát khỏi dây trói, nhưng khi nấp trên cây chàng đã nghe rõ từng lời Mã Xuân Hoa năn nỉ cho mình, nên vô cùng cảm kích. Mãi cho đến giờ phút này, Hồ Phỉ vẫn không lúc nào quên.

Nay để đền đáp mối ân tình ngày trước, dẫu có bỏ mạng, Hồ Phỉ chẳng từ nan. Hiện giờ chàng đang ở nơi hiểm địa mà trong lòng lại rất cao hứng, thuở nhỏ đã từng có một cô nương nài nỉ giùm mình trong cơn khốn khó mà giờ đây chàng lại được tận tâm báo đáp nàng trong lúc nguy nan.

Mã Xuân Hoa nghe tới mấy câu đó liền đỏ mặt lên, miệng hô:

– Ủa! A Phỉ đấy ư? A Phỉ ở Thương gia bảo ngày trước?

Nàng dừng lại một chút rồi nói:

– Huynh đệ là con đại hiệp Hồ Nhất Đao, Hồ Phỉ huynh đệ!

Hồ Phỉ mỉm cười gật đầu, những nghe nàng nhắc tới tên của phụ thân, lòng chàng se lại. Mã Xuân Hoa nói:

– Hồ huynh đệ! Huynh đệ… huynh đệ… cố cứu lấy hai đứa con nhỏ của tiện thiếp.

Hồ Phỉ đáp:

– Dĩ nhiên tiểu đệ phải tận lực.

Rồi chàng xoay người qua giới thiệu:

– Đây là Trình Linh Tố cô nương, cô em mới kết nghĩa của tiểu đệ.

Mã Xuân Hoa vừa cất tiếng gọi “Trình cô nương” thì đột nhiên nghe đánh “sầm” một tiếng. Cánh cửa nhà thạch thất bị một vật rất lớn ném trúng, bụi cát từ trên nóc nhà rớt xuống rào rào. May mà cánh cửa rất dày, then cửa cũng kiên cố nên chưa bị gãy toang ra. Hồ Phỉ nhoài người qua, nhìn thấy bốn tên đại đạo cưỡi trên lưng ngựa, dùng dây lôi một đoạn cây lớn từ phía xa chạy tới. Khi còn cách cánh cửa chừng hơn một trượng, bốn tên đồng thời vung tay phóng mạnh khúc cây vào cửa đánh sầm lên một tiếng.

Hồ Phỉ nghĩ thầm: “Nếu cửa lớn bị phá vỡ, bọn đại đạo kéo ùa cả vào thì mình không chống nổi”.

Tay chàng cầm một mũi táng môn đinh, một mũi suất thủ tiễn, chờ cho bốn tên đại đạo tung ngựa đi xa rồi quay đầu lại, mới lớn tiếng quát:

– Lão tiểu tử còn lưu tình, chỉ bắn chết ngựa chứ không bắn chết người.

Chàng thấy bốn con ngựa đã chạy ra ngoài đến ba, bốn trượng liền giơ tay phải lên, hai mũi ám khí veo véo bay ra nhanh như điện chớp, bắn trúng đầu hai con ngựa đứng trước khiến chúng hí lên một tiếng rồi ngã quay ra chết liền. Hai tên đại đạo ngồi trên lưng ngựa xoay mình nhảy xuống. Hai con ngựa đi sau vướng phải cành cây cũng té nhào. Hai tên cưỡi ngựa vội tung mình vọt lên nên không bị đè.

Bọn cường đạo bên ngoài đều bật tiếng la hoảng. Chúng chạy lại coi thì thấy hai mũi ám khí cắm sâu vào óc ngựa. Chỗ ám khí bắn vào chỉ còn một cái lỗ, cả chuôi tên cũng không lộ ra. Thủ kình kinh hồn này quả thật ít khi nhìn thấy. Quần đạo đều là những tay hảo thủ làm gì chẳng biết lão già râu kia ra tay còn lưu tình, nếu bắn trúng bất cứ chỗ nào trên đầu thì làm gì còn tính mạng? Bọn cường đạo còn đang sửng sốt, bỗng nghe hồi còi rít lên, liền lui ra xa hơn mười trượng. Chúng thấy ở chỗ này ám khi của đối phương không thể bắn tới, mới tụ tập lại thì thầm thương nghị.

Vừa rồi Hồ Phỉ trong lúc xuất kỳ bất ý, phóng ám khí ra, nếu nhắm vào thân thể của quần đạo thì ít ra cũng có ba bốn kẻ tử thương, cục diện có thể hòa hoãn được ngay, nhưng chàng không hiểu lai lịch đối phương không muốn giết người một cách khinh suất để kết mối thâm thù. Huống chi hai đứa con của Mã Xuân Hoa đã rơi vào tay địch, còn Từ Tranh chưa biết sống chết ra sao, nếu hai bên đi được đến chỗ điều đình ổn thỏa mới là thượng sách.

Quần đạo rút lui rồi, Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy cánh cửa đã bị nứt một kẽ lớn, thầm nghĩ nếu bọn cường đạo phá vỡ hai chỗ rồi xông vào tấn công thì không cách gì ngăn cản được.

Mã Xuân Hoa nói:

– Hồ huynh đệ, Trình gia muội tử, hai vị tính sao đây?

Hồ Phỉ nhíu mày đáp:

– Cô nương có nhận ra ai trong bọn này không?

Mã Xuân Hoa lắc đầu đáp:

– Không biết.

Hồ Phỉ nói:

– Nếu bảo đây là cừu nhân của lệnh tôn thuở sinh tiền thì sao trong cách ăn nói, bọn chúng lại tỏ ra kính trọng lệnh tôn đến vậy? Còn nếu chúng muốn gây khó dễ cho cô nương nên bắt hai đứa nhỏ đi cũng không đúng, một là có nương chẳng biết một ai trong bọn chúng cả, hai là bọn chúng đối với cô nương chưa hề có nửa lời bất kính. Chỉ có đối với Từ đại ca là chúng tỏ ra mười phần vô lễ, nhưng nếu muốn đối phó với Từ đại ca thì việc gì bọn chúng phải huy động nhiều người đến thế?

Mã Xuân Hoa nói:

– Đúng vậy. Bọn chúng chẳng có một kẻ nào quen mặt, mà võ công người nào cũng cao hơn sư ca của tiện thiếp, chỉ cần một người ra tay cũng đủ rồi.

Hồ Phỉ nói:

 – Vụ này thật cổ quái, nhưng Mã cô nương đừng có quá lo lắng. Tại hạ xem hành vi của bọn này hoàn toàn chẳng có ý muốn gây thương tổn đến mạng người, mà tựa hồ chỉ muốn bỡn cợt Từ đại ca thôi.

Mã Xuân Hoa chợt nhớ đến câu “Bông hoa lài cắm bãi phân trâu” bất giác đỏ mắt lên. Trong lúc hai người đang bàn bạc thì Trình Linh Tố đến an ủi vỗ về bà già nằm bệnh trong thạch thất, rồi cô nhóm lửa nấu cơm. Ba người ăn uống xong, lại theo khe cửa nhìn ra ngoài, chỉ thấy người qua lại lăng xăng, nhưng vì bị cây che khuất nên không hiểu bọn họ đang làm gì.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố khẽ thì thầm bàn bạc một hồi mà vẫn chưa tìm ra cách gì. Trình Linh Tố nói:

– Vụ này liệu có liên can gì đến tài chủ họ Hồ ở Nghĩa Đường trấn không?

Hồ Phỉ đáp:

– Quả tình tiểu huynh không hiểu một chút gì.

Chàng dừng lại một chút rồi tiếp:

– Ta cứ ngồi trong xó tối này mà lo lắng thì chi bằng cứ để lộ chân tướng cho họ biết. Nếu hai việc có liên quan với nhau tất chúng ta sẽ có cách ứng phó, để cho gia đình Mã cô nương khỏi phải vô can mà chuốc lấy tại họa.

Trình Linh Tố gật đầu. Hai người liền mở rộng cửa. Bọn cường đạo thấy có người ra, sợ vòng vây bị phá, mười mấy người cưỡi ngựa ở bốn phía lập tức cùng tiến gần tới trước căn thạch thất.

Hồ Phỉ lớn tiếng hô:

– Nếu các vị vì Hồ mỗ mà tới đây thì Hồ mỗ cùng nghĩa muội Trình Linh Tố ở cả trong này, các vị không nên làm liên lụy đến người ngoài!

Đoạn chàng bẻ dọc tẩu đánh “rắc” một tiếng gãy làm hai đoạn, lại bỏ hết bộ râu giả cùng đồ hóa trang trên mặt đi. Trình Linh Tố cũng lôi mũ ra để rủ mái tóc đen nhánh cho lộ hết bộ mặt con gái. Bọn cường đạo ai nấy đều lộ vẻ kinh dị. Chúng không thể tưởng nổi con người võ công phi thường như thế lại là chàng thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi. Bọn cường đạo ngơ ngác nhìn nhau, trong lúc nhất thời chưa tìm ra chủ ý.

Đột nhiên một người tiến ra, dáng người cao mặt trắng, chính là gã đại đạo họ Nhiếp sử trường kiếm. Gã nhìn Hồ Phỉ chắp tay nói:

– Tôn giá có ơn trả kiếm, tại hạ vĩnh viễn không quên. Công việc của bọn tại hạ tuyệt không liên quan gì đến hai vị. Xin hai vị tùy tiện, tại hạ kính cẩn đưa chân.

Dứt lời gã nhảy xuống ngựa, khẽ vỗ vào mông nó một cái. Con ngựa chạy đến trước mặt Hồ Phỉ rồi dừng lại. Xem ra tên đại đạo cũng nhường cả ngựa cưỡi cho chàng. Hồ Phỉ chắp tay đáp lễ hỏi:

– Còn Mã có nương thì sao? Các vị đã ưng thuận không can thiệp vào chuyện bất bình nữa kia mà?

Gã họ Nhiếp đáp:

– Can thiệp chuyện bất bình thì không dám. Anh em tại hạ chỉ mời Mã cô nương lên phương bắc một chuyến, quyết chẳng dám đụng đến một chân lông sợi tóc.

Hồ Phỉ cười nói:

– Nếu đã có hảo ý mời khách thì hà tất phải làm náo loạn như vậy?

Chàng quay lại nói lớn:

– Mã cô nương! Người ta mời cô làm tân khách, cô nương có đi không?

Mã Xuân Hoa bước tới cửa, nói:

– Tiện thiếp cùng các vị vốn chưa từng quen biết thì các vị mời đi làm chi?

Trong quần đạo có tên cười đáp:

– Dĩ nhiên anh em bọn tại hạ không biết Mã cô nương, nhưng có người quen biết.

Mã Xuân Hoa lớn tiếng:

– Còn những đứa con của tiện thiếp? Mau trả chúng lại cho!

Gã họ Nhiếp đáp:

– Hai vị lệnh lang bình yên vô sự. Xin Mã cô nương cứ yên dạ. Bọn tại hạ dốc toàn lực bảo vệ mà còn e có phần sơ suất, khi nào dám để hai vị thiên kim công tử phải sợ hãi?

Trình Linh Tố liếc mắt nhìn Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Tên cường đạo này ăn nói mỗi lúc một khách khí. Từ Tranh bất quá chỉ là một gã tiêu đầu, thì con y làm gì mà xem là tiểu công tử đáng giá ngàn vàng?

Mã Xuân Hoa bỗng đỏ mặt lên, nói:

– Tiện thiếp không đi! Mau trả lại con cho tiện thiếp!

Nàng không chờ quần đạo trả lời đã trở gót đi vào thạch thất. Hồ Phỉ thấy hành động kỳ lạ của Mã Xuân Hoa càng sinh lòng ngờ vực, nói:

– Giữa Mã cô nương và tại hạ có mối giao tình sâu nặng, bất luận là việc gì, tại hạ quyết chẳng thể tụ thủ bàng quan.

Gã họ Nhiếp nói:

– Võ công của tôn giá tuy cao cường, nhưng song quyền nan địch bốn tay. Bọn tại hạ cả thảy hai mươi lăm người, đến chiều còn có thêm cường viện tới nữa.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Số lượng người gã này nói ra đúng với điều ta phỏng đoán, quả gã không lừa gạt ta. Không cần biết bọn cường viện là ai, ta há có thể bỏ Mã cô nương mà đi được? Nhưng không thể để nhị muội vô duyên vô cớ vì nàng mà uổng mạng.

Nghĩ vậy, chàng liền khẽ nói:

– Nhị muội! Nhị muội hãy cưỡi con ngựa đó mà phá vòng vây đi trước, một mình tiểu huynh chiếu cố cho Mã có nương ắt dễ hơn nhiều.

Trình Linh Tố biết chàng lo cho mình, liền hỏi lại:

– Lúc chúng ta kết bái thì thề với nhau là “có hoạn nạn cùng gánh vác” hay là “gặp hoạn nạn thì trốn đi trước”?

Hồ Phỉ đáp:

– Nhị muội với Mã cô nương chưa từng quen biết thì cần chi phải vì nàng mà mạo hiểm? Còn tiểu huynh thì không thể thế được.

Ánh mắt Trình Linh Tố thủy chung vẫn không nhìn chàng, mà hỏi lại:

– Đúng thế! Tiểu muội việc gì phải mạo hiểm vì Mã cô nương, những giữa tiểu muội và đại ca chẳng lẽ cũng chưa từng quen biết?

Hồ Phỉ trong lòng cảm kích. Suốt đời chàng, những người cam tâm cùng chết với mình thì có Bình tứ thúc và Triệu Bán Sơn, đến nay có thêm một cô nương trẻ tuổi đang bình thản đứng bên cạnh mình nữa. Chàng không ngần ngừ gì nữa, nói ngay:

– Vậy thì chúng ta sống cùng sống, chết cùng chết!

Gã họ Nhiếp chờ một lúc, liền nói tiếp:

– Bọn tại hạ quyết không dám làm tổn thương đến Mã cô nương một mảy may, hai vị chẳng còn phải lo gì nữa. Vậy thì hà tất hai vị phải vô cớ dấn thân vào nơi nguy hiểm? Tôn giá hành động rất quang minh lỗi lạc, bọn tại hạ khâm phục vô cùng. Ngày sau còn nhiều dịp gặp nhau, bữa nay nên tạm biệt ở đây chăng?

Hồ Phỉ hỏi lại:

– Các hạ buông tha Mã cô nương hay không?

Gã họ Nhiếp lắc đầu toan khuyên giải nữa, nhưng trong bọn cường đạo có mấy tên đã lớn tiếng quát tháo:

– Gã tiểu tử này không biết điều, Nhiếp đại ca việc gì phải phí lời với gã?

– Cái này gọi là “thiên đường có nẻo không chịu tới, địa ngục không đường lại sấn vào”.

– Ngốc tiểu tử! Ngươi có bản lãnh nghiêng trời hay sao mà một mình lại dám chống cự?

Đột nhiên ánh bạch quang lấp loáng. Một mũi ám khí bắn vút tới Hồ Phỉ. Tên đại đạo họ Nhiếp tung người lên nắm lấy, thì ra là một lưỡi phi đao.

Hồ Phỉ nói:

– Hảo ý của tôn giá, tại hạ xin tâm lãnh. Kể từ lúc này chúng ta không còn nợ nhau nữa.

Dứt lời, chàng nắm tay Trình Linh Tố xoay mình tiến vào thạch thất. Bỗng nghe sau lưng tiếng gió rít lên, mấy món ám khí bắn tới. Hồ Phỉ liền đóng cửa lớn lại. Mấy tiếng “bộp bộp” vang lên, những mũi ám khí đã cắm cả vào cánh cửa. Quần đạo lớn tiếng hô hoán, xông đến trước cửa.

Hồ Phỉ vội chạy đến bên cửa sổ, cầm mấy mũi cương tiêu để trên bàn nhắm tên đại đạo gần nhất phóng ra. Chàng không muốn hạ sát thủ nên chỉ nhắm bả vai của hắn phóng tới. Tên đại đạo kia “ối” lên một tiếng, vai bị trúng tiêu nhưng hắn vẫn cực kỳ hung hãn, không lùi lại, hô lớn:

– Các vị huynh đệ! Bữa nay không thu thập nổi một thằng lỏi thì chúng ta còn mặt mũi nào mà quay về?

Bọn cường đạo quát thét ầm ĩ, bốn mặt xông cả vào. Bỗng nghe tường đá mặt đông và mặt tây phát ra những tiếng đập phá ầm ầm. Do hai mặt này không có cửa sổ, quần đạo không sợ Hồ Phỉ bắn ám khí, nên dùng những vật nặng đập phá tường để xông vào. Hồ Phỉ liên tiếp phóng ám khí ra. Quần đạo ở hai mặt nam, bắc phải lùi lại, nhưng tiếng đập phá tường ở hai mặt đông tây vang lên không ngớt.

Trình Linh Tố lấy cây nến chế bằng “Thất tâm hải đường”. Cô lại đưa thuốc giải cho Hồ Phỉ và Mã Xuân Hoa cùng bà lão nằm trên giường bệnh, bảo mọi người ngậm vào miệng. Cô chờ địch nhân xông vào là đốt nến lên để đánh ngã cả bọn. Chất độc của cô đối phó với thiểu số địch nhân dĩ nhiên ứng nghiệm như thần, nhưng nếu địch nhân xông vào quá đông thì không khỏi nguy khốn. Cô chuẩn bị đốt nến cũng chỉ là làm cho hết sức mình, bớt được một tên là lực lượng địch nhân giảm đi một phần, còn chuyện có ra khỏi được trùng vậy hay không, cô chẳng nắm chắc chút nào.

Giữa lúc ấy, một tiếng “uỳnh” vang lên. Vách đá mặt tây bị phá một lỗ hổng, song quần đạo vẫn sợ Hồ Phỉ lợi hại, không ai dám tiến vào một mình. Nếu lỗ hổng bị phá lớn thêm thì chúng có thể kéo ùa cả vào. Hồ Phỉ thấy tình thế cấp bách, ám khí lại chẳng còn, liền đảo mắt nhìn quanh thạch thất xem còn vật gì có thể đả thương kẻ địch hay không.

Trình Linh Tố bỗng la lên:

– Đại ca! Cái này hay lắm đây.

Cô cúi xuống gầm giường của bà lão nằm bệnh, thò tay bốc ra hai nắm vôi trắng. Nguyên người dân quê ở đây làm vôi nên trong thạch thất có rất nhiều.

Hồ Phỉ cũng reo lên:

– Tuyệt lắm!

Chàng xé áo trường bào đánh “roạt” một tiếng, lấy một mảnh gói vôi lại, rồi co người theo lỗ hổng trên tường xông ra ngoài. Chàng nhắm mắt vung tay phải lên ném gói vôi bột về phía địch nhân, rồi chuồn vào ngay. Bọn cường đạo đang bàn định kế hoạch đánh vào nhà cách nào, làm sao để chui qua lỗ hổng mà không bị Hồ Phỉ đả thương. Chúng đâu ngờ nổi Hồ Phỉ lại lật ngược thế cờ, phản khách vi chủ, từ lỗ hổng chui ra tấn công đột ngột.

Gói vôi lớn tung ra bốn phía, bột trắng bay mù mịt. Ba tên đại đạo đứng gần nhất bị vôi ném trúng mắt, nước mắt lập tức chảy ra, đau rát không chịu nổi đều gào lên thất thanh.

Hồ Phỉ tập kích thành công, vừa xoay mình thì Trình Linh Tố đưa cho chàng hai gói vôi nữa. Chàng reo lên:

– Hay lắm!

Chàng bước lên phiến đá lớn trên bếp, giơ cao tay trái tung mình nhảy lên. Nghe “bình” một tiếng, nóc nhà bị thủng một lỗ lớn. Lần này Hồ Phỉ chuồn qua lỗ hổng nóc nhà, ném hai gói vôi bột ra. Bọn cường đạo bật tiếng la hoảng. Trình Linh Tố tiếp tục gói vôi bột, bỏ vào chảo sắt, đưa lên nóc nhà. Hồ Phỉ ném ra bốn mặt đông tây nam bắc. Bọn cường đạo lại kêu la chửi bới, rồi rút chạy cả vào trong rừng. Sáu, bảy tên cường đạo bị trọng thương.

Hai bên cứ giằng co như thế một hồi lâu. Bọn cường đạo không dám xông vào, mà bọn Hồ Phỉ cũng không dám xông ra, chỉ sợ mất căn thạch thất làm điểm tựa thì chẳng tài nào kháng cự được.

Hồ Phỉ và Trình Lình Tố còn có lúc nói cười. Hai người cùng nhau trải qua những cơn hoạn nạn nên ngày càng thêm thân mật. Mã Xuân Hoa thì cứ ngơ ngẩn xuất thần, cúi đầu lặng yên, suy nghĩ. Nàng không nhìn ra bọn địch nhân, mà đối với câu chuyện giữa Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nàng cũng tựa hồ chẳng nghe thấy gì.

Hồ Phỉ nói:

– Chúng ta cố giữ đến đêm, hoặc giả có thể nhờ bóng tối để trốn thoát được. Nhược bằng đêm nay mà không trốn thoát là làm lụy đến tính mạng của nhị muội rồi, còn cái mạng già của Oa quyền hữu địch Ngưu Canh Điền tiểu lão tử này thì… hà hà!

Chàng nói tới đây đưa tay lên trỏ vào mép, vừa cười vừa nói tiếp:

– Nếu biết sớm vụ này không liên quan gì đến gã họ Ngưu này thì đã chẳng bỏ chòm râu đi.

Trình Linh Tố mỉm cười khẽ hỏi:

– Đại ca! Nếu lát nữa chạy không thoát thì đại ca cứu tiểu muội hay cứu Mã cô nương?

Hồ Phỉ đáp:

– Cứu cả hai người.

Trình Linh Tố hỏi:

– Tiểu muội hỏi trường hợp chỉ có thể cứu được một người, còn một người phải chết, thì đại ca cứu ai?

Hồ Phỉ trầm ngâm một lát rồi đáp:

– Tiểu huynh cứu Mã cô nương rồi cùng chết với nhị muội!

Trình Linh Tố quay lại khẽ hô:

– Đại ca!

Cô nắm lấy tay chàng, Hồ Phỉ trong lòng chấn động, nghe bên ngoài có tiếng chạy rầm rập liền dòm qua khe cửa, đột nhiên chàng la lên:

– Trời ơi! Không xong rồi!

Chàng thấy quần đạo từ trong rừng tới tấp nhảy ra, tên nào trên tay cũng kéo cành cây hoặc cỏ khô, không ngớt đem đến ném chung quanh thạch thất. Coi tình thế này hiển nhiên chúng định đánh hỏa công. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố tay cầm tay, đưa mắt nhìn nhau và cả hai cùng thầm hiểu tình thế đã đến lúc vô vọng.

Đột nhiên Mã Xuân Hoa đến bên cửa sổ, cất tiếng hỏi:

– Này! Thủ lãnh các ngươi là ai? Ta muốn nói mấy câu với y.

Một lão già nhỏ bé gầy nhom trong bọn cường đạo đáp:

– Mã cô nương có điều chi cần nói xin cứ dặn dò tiểu nhân là được!

Mã Xuân Hoa nói:

– Ta ra đó nói với lão, nhưng lão không được giữ ta lại!

Lão già đáp:

– Ai dám lớn mật ngăn giữ cô nương?

Mã Xuân Hoa nét mặt ửng hồng, khẽ nói:

– Hồ huynh đệ! Trình muội tử! Tiện thiếp ra nói với họ mấy câu rồi trở lại ngay.

Hồ Phỉ vội hỏi:

– Ồ, không được đâu! Bọn đạo tặc làm gì có tín nghĩa? Mã cô nương hành động như vậy có khác gì tự đưa mình vào miệng cọp.

Mã Xuân Hóa đáp:

– Cứ hãm mình ở đây mãi cũng không giải quyết được việc gì. Cao nghĩa của hai vị, tiện thiếp suốt đời không quên.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Mã cô nương muốn tự mình gánh lấy trách nhiệm để khỏi liên lụy ta và nhị muội, nhưng cô nương đi một mình dĩ nhiên lành ít dữ nhiều. Cứu người không cứu đến nơi đến chốn đâu phải là hành vi của bậc đại trượng phu?

Chàng thấy Mã Xuân Hoa lộ vẻ kiên quyết liền rút then cửa ra, nói:

– Để tại hạ đi theo cô nương.

Mã Xuân Hoa lại đỏ mặt lên, đáp:

– Không cần đâu.

Trình Linh Tố không sao đoán được vì lẽ gì Mã Xuân Hoa phải mấy phen đỏ mặt không lẽ nàng lại có tình ý với Hồ đại ca? Cô nghĩ đến đây bất giác cũng đỏ mặt lên, Hồ Phỉ nói:

– Được rồi! Đã thế thì tại hạ đi bắt một tên vô đây làm con tin.

Mã Xuân Hoa đáp:

– Hồ huynh đệ, bất tất…

Nàng chưa dứt lời, Hồ Phỉ tay phải cầm đơn đao, tay trái đẩy cửa xông ra. Quần đạo đồng thanh la lên. Hồ Phỉ thi triển khinh công chạy thật nhanh. Quần đạo cùng hét ầm lên:

– Gã tiểu tử định chạy trốn kìa!

– Trong thạch thất còn có người, vây kín bốn mặt đi.

– Coi chừng! Phải đề phòng thằng lỏi con dùng ngụy kế.

Giữa những tiếng quát tháo ầm ĩ, thân hình Hồ Phỉ lướt nhẹ như sợi khói, xông vào giữa đám cường đạo. Hai tên đại đạo cầm đao xông lại cản đường. Hồ Phỉ cúi đầu xuống luồn qua giữa hai thanh đao, tay trái chàng móc lại toan nắm lấy cổ tay gã đứng bên phải. Không ngờ gã này thủ cước rất mau lẹ, gã vung đơn đao quét ngang một cái buộc Hồ Phỉ phải đưa đao lên gạt, thành thử không nắm được. Vừa chậm lại một chút, ba tên đại đạo nữa xông tới. Hai tên cầm cương tiên, một tên cầm liên tử thương vây Hồ Phỉ vào giữa.

Hồ Phỉ quát lên một tiếng, vung đao chém mạnh một nhát. Ba tiếng “choang choang” vang lên, hai cây cương tiên rớt xuống, còn cây liên tử thương bị đứt làm hai đoạn. Ba nhát đao này, Hồ Phỉ đã vận kình lực cực kỳ cương mãnh nên tuy đánh rớt binh khí bên địch, nhưng lưỡi đơn đao của chàng cũng bị quăn lại, không dùng được nữa.

Quần đạo thấy chàng thần dũng phi thường, không tự chủ được phải dạt ra hai bên. Lão già lớn tiếng quát:

– Để ta tiếp vị anh hùng hảo hán!

Vừa dứt lời, lão đã cong người lạng tới, hai tay không cầm binh khí.

Hồ Phí kinh hãi nghĩ thầm:

– Thân thủ lão này trầm ổn, đúng là một tay kình địch.

Chàng giơ tay trái lên miệng hô:

– Xem tiêu đây!

Lão già dừng chân, ngưng thần chờ kim tiêu ném tới. Ngờ đâu Hồ Phỉ chỉ ra hư chiêu, chân trái chàng điểm xuống, bất ngờ tung người lên vượt qua đầu hai tên đại đạo, tay phải vươn ra lôi một tên xuống ngựa. Chàng chụp vào huyệt “Mạch môn” của gã rồi tung mình lên ngựa, từ giữa đám đông cưỡi ngựa xông ra. Con ngựa bị Hồ Phỉ đá vào bụng, đau không chịu nổi bèn lao tới trước.

Quần đạo la ó quát mắng om sòm. Kẻ cưỡi ngựa, người đi bộ rượt theo. Con ngựa chạy được vài trượng, Hồ Phỉ nghe phía sau có tiếng gió vội cúi đầu xuống. Hai cây thiết chùy bay qua đỉnh đầu, thế đi rất mạnh. Người phóng thiết chùy đúng là một tay cao thủ.

Hồ Phỉ ngồi trên lưng ngựa xoay mình lại, chàng đặt tên đại đạo trước ngực làm lá chắn, miệng hô:

– Phóng ám khí đi, càng nhiều càng tốt!

Tên đại đạo bị giữ huyệt “Mạch môn”, toàn thân nhũn ra không nhúc nhích được. Hồ Phỉ cười ha hả, thúc ngược chân vào bụng ngựa. Mới thúc chân một cái, con ngựa đã ngã quay ra. Nguyên trước khi chàng xoay mình, mông ngựa đã trúng một mũi thiết chùy xuyên vào bụng. Hồ Phỉ tung mình nhảy xuống xách ngang người tên đại đạo, đi giật lùi từng bước trở về thạch thất.

Quần đạo sợ chàng gia hại đồng bạn không dám sấn tới. Hơn hai chục tay hảo thủ mà chịu để một mình Hồ Phỉ xông xáo dọc ngang, đã không đả thương chàng được một mảy chân lông mà còn bị bắt mất người. Chúng nhìn nhau vẻ mặt buồn rầu, trong lòng cố nhiên phẫn nộ nhưng vẫn ngấm ngầm bội phục chàng.

Mã Xuân Hoa reo lên:

– Hảo thân thủ! Hảo bản sự!

Nàng từ từ đi vào đám quần đạo, tay không binh khí. Quần đạo thấy nàng tiến lại gần liền tới tấp xuống ngựa nhường lối. Mã Xuân Hoa tiếp tục tiến về phía trước. Khi đến ven rừng cách xa thạch thất chừng hai chục trượng, nàng mới dừng lại. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố nhìn qua cửa sổ, thấy Mã Xuân Hoa xoay lưng về phía thạch thất nói chuyện với lão già. Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca! Đại ca thử nói tại sao Mã cô nương lại đi xa thế? Nếu xảy ra chuyện bất trắc thì làm sao cứu viện?

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng. Chàng biết Trình Linh Tố hỏi vậy mà thực ra trong thâm tâm cô đã tìm ra đáp án.

Quả nhiên cô nói tiếp:

– Chắc y muốn nói gì với tay thủ lĩnh đó mà không muốn để chúng ta nghe thấy.

Hồ Phỉ lại “ồ” một tiếng. Chàng biết Trình Linh Tố đã đoán đúng nhưng không hiểu rồi còn làm gì nữa? Hồ Phỉ và Trình Linh Tố không nghe Mã Xuân Hoa cùng tên thủ lĩnh nói gì, chỉ nhìn qua khe cửa sổ mà thấy loáng thoáng thái độ của hai người.

Trình Linh Tố lại nói:

– Đại ca! Tên thủ lĩnh nói năng với Mã cô nương thái độ rất kính cẩn tuyệt không dám lên mặt chút nào.

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế! Lão thủ lĩnh này dày công phu hàm dưỡng, quả là tay kình địch.

Trình Linh Tố nói:

– Tiểu muội coi chừng không phải vì lão dày công phu hàm dưỡng, mà thái độ tựa hồ kẻ tôi đòi bẩm báo việc gì với chủ nhân.

Hồ Phỉ đã nhận thấy điều này, trong lòng chàng cảm thấy có điều uẩn khúc, nhưng nghĩ vụ này thật bẽ bàng nên không muốn tự miệng mình, nói ra.

Trình Linh Tố nhìn một lúc lại nói:

– Mã cô nương lắc đầu không chịu đi theo tên thủ lĩnh, nhưng sao cô lại…

Đột nhiên cô quay lại nhìn mặt Hồ Phỉ, dường như trong lòng cảm nhận điều gì, cô lại quay ra ngoài cửa sổ.

Hồ Phỉ hỏi:

– Nhị muội muốn hỏi gì, sao chưa nói hết câu đã dừng lại?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội không hiểu có nên hỏi đại ca hay thôi. Chỉ sợ câu hỏi này làm đại ca phải nổi nóng.

Hồ Phỉ nói:

– Nhị muội! Ta cùng nhị muội tại nơi đây đồng sinh cộng tử thì giữa chúng ta có gì mà không nói được? Bất cứ điều gì ta cũng không giấu nhị muội.

Trình Linh Tố hỏi:

– Hay lắm! Tại sao lúc Mã cô nương nói với tên thủ lĩnh không có vẻ tức giận, mà lại đỏ mặt lên? Cái đó cũng chưa lạ, lạ ở chỗ tại sao đại ca cũng đỏ mặt nữa?

Hồ Phỉ đáp:

– Trong lòng tiểu huynh nghi ngờ một điều nhưng không có chứng cớ, hiện giờ chưa tiện nói rõ. Nhị muội, đại ca của nhị muội là người quang minh lỗi lạc, quyết chẳng có điều gì lại không dám đối diện cùng người. Nhị muội có tin được tiểu huynh không?

Trình Linh Tố thấy vẻ mặt chàng rất thành khẩn thì trong lòng vô cùng cao hứng. Cô mỉm cười nói:

– Vậy đại ca thẹn thay cho Mã cô nương. Chuyện của người ta, tiểu muội không tiện dính vào. Chỉ cần đại ca tử tế là hay lắm rồi.

Hồ Phỉ nói:

 – Lúc ta mới biết Mã cô nương chỉ là thằng nhỏ mười ba, mười bốn tuổi vắt mũi còn chưa sạch. Nàng thấy tình trạng ta đáng thương nên mới năn nỉ giùm…

Chàng nói tới đây ngửng đầu trông ra ngơ ngẩn xuất thần, thấy bên trời ráng chiều đỏ ối, khẽ nói:

– Có phải thế hay không thì đại ca không rõ, nhưng ta vẫn tin cô là người tốt. Lương tâm cô rất tốt.

Giữa lúc ấy, đột nhiên tên đại đạo khẽ rên lên một tiếng. Hiển nhiên những huyệt đạo bị điểm lên cơn đau đớn không chịu nổi. Hồ Phỉ quay lại khai huyệt “Chương môn” và huyệt “Thiên trì” cho gã rồi nói:

– Vì sự bất đắc dĩ mà phải đắc tội, xin miễn trách. Cao tính đại danh tôn giả là gì?

Tên đại đạo mày rậm mắt to, thân hình cao lớn. Gã trừng mắt nhìn Hồ Phỉ lớn tiếng:

– Ta học nghệ chưa tinh bị ngươi bắt được. Ngươi muốn giết muốn mổ thế nào thì cứ việc động thủ đi, lắm lời làm gì?

Hồ Phỉ thấy gã cứng cỏi lại khâm phục là một trang hán tử, liền cười đáp:

– Giữa tại hạ và tôn giá đã không quen biết, lại không oán không thù, thì há có ý hại nhau? Có điều câu chuyện bữa nay lắm chỗ kỳ quái tại hạ không sao hiểu được, lão huynh có thể cho biết rõ hơn được chăng?

Tên đại đạo lại quát:

– Ngươi tưởng Uông Thiết Ngạc này là kẻ tiểu nhân đê hèn chăng? Dù ngươi có hoa ngôn xảo ngữ thế nào cũng đừng hòng hỏi ta được nửa câu.

Trình Linh Tố thè lưỡi ra cười nói:

– Ngươi không chịu xưng danh sao lại còn nói ra? Té ra là Uông Thiết Ngạc lão gia, vãn bối ngưỡng mộ từ lâu.

Uông Thiết Ngạc “hừ” một tiếng, rồi thóa mạ:

– Con tiểu nha đầu tóc vàng kia! Ngươi thì biết cái gì?

Trình Linh Tố không để ý đến hắn, nhìn Hồ Phỉ nói:

– Đại ca! Người này ngây ngô không hiểu, nhưng các vị tiền bối của Ưng trảo nhạn hành môn đối với tiểu muội lại có chút giao tình. Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu đối với tiểu muội rất cung kính. Đại ca đừng làm khó dễ cho y.

Cô nói rồi nheo mắt nhìn Hồ Phỉ.

Uông Thiết Ngạc rất lấy làm lạ, hỏi:

– Cô biết đại sư huynh cùng nhị sư huynh của tại hạ ư?

Giọng gã lập tức biến đổi.

Trình Linh Tố đáp:

– Sao lại không biết? Vãn bối thấy hai môn Ưng trảo công và Nhạn hành công của lão gia học chưa đến nơi đến chốn.

Uông Thiết Ngạc đáp:

– Phải!

Hắn cúi đầu xuống ra chiều xấu hổ.

Nguyên Ưng trảo nhạn hành môn là đại môn phái trong võ học ở phương bắc. Đại đệ tử Chu Thiết Tiêu, nhị đệ tử Tăng Thiết Âu nổi tiếng giang hồ đã lâu. Trình Linh Tố từng được nghe sư phụ nói tới, biết bọn đệ tử đời thứ nhất ở môn phái này phần nhiều đều lấy tên có chữ “Điểu” một bên. Khi Uông Thiết Ngạc báo danh, cô lại thấy hắn sử thanh Nhạn linh đao nên đoán đúng ngay. Còn võ công của Uông Thiết Ngạc học chưa đến nơi khỏi phải nói nhiều, vì nếu bản lãnh hắn cao thâm thì sao lại để Hồ Phỉ bắt được?

Uông Thiết Ngạc tính vốn ngây ngô, nghe Trình Linh Tố nói câu này, lập tức tin ngay. Trình Linh Tố hỏi:

– Hai vị sư ca của lão gia sao không cùng đi? Vãn bối chưa thấy các vị đó đâu?

Thực ra cô chưa từng biết mặt Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu, nhưng cô đoán uy danh hai người này khá lớn, nếu họ ở trong đám này tất phải là nhân vật đầu não, mà lão già kia cùng mấy tên trưởng toán khác đều không sử đao, nên cô đoán chắc hai lão Chu, Tăng đều không có ở đó.

Uông Thiết Ngạc đáp:

– Chu sư ca cùng Tăng sư ca đều ở lại Bắc Kinh. Chút việc nhỏ mọn này làm gì phải phiền đến đại giá hai vị đó?

Gã nói câu này ra chiều đắc ý.

Trình Linh Tố nghĩ thầm:

– Hai người kia ở lại Bắc Kinh, không lẽ bọn cường đạo này đều từ Bắc Kinh tới đây cả hay sao? Ta phải loè hắn một phen nữa mới được.

Cô liền nói một câu thật hờ hững:

– Cuộc đại hội các chưởng môn trong thiên hạ chẳng bao lâu nữa sẽ khai diễn, Ưng trảo nhạn hành môn nhất định phải có mặt. Chắc lão gia cũng sẽ về Bắc Kinh để xem náo nhiệt chứ?

Uông Thiết Ngạc đáp:

– Cái đó còn phải nói! Xong vụ công cán này, bọn ta sẽ trở về Bắc Kinh hết.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều sửng sốt, tự hỏi:

– Công cán mà hắn nói là công cán gì?

Trình Linh Tố nói:

– Các vị đương gia tại quý trại chịu chiêu an về quy thuận triều đình vì Hoàng thượng ra sức, đó là việc làm hiển hách cho tổ tiên.

Không ngờ điểm này Trình Linh Tố đã đoán sai, cô cứ ngỡ bọn chúng là đạo tặc, nếu đi làm công vụ thì tất đã chịu chiêu an quy thuận triều đình.

Ngờ đâu Uông Thiết Ngạc đảo cặp mắt lên, hỏi:

– Chiêu an cái gì? Cô nương tưởng bọn ta là đạo tặc chắc?

Trình Linh Tố la thầm trong bụng:

– Hỏng bét!

Cô lại tủm tỉm cười, đáp:

– Các vị giả làm bằng hữu phe hắc đạo, trong lòng người nào cũng đều hiểu rõ, hà tất phải nói trắng ra?

Tuy cô rào trước đón sau, tựa hồ như không để lộ một mảy may sơ suất song Uông Thiết Ngạc sinh lòng ngờ vực, cô nói gì hắn cũng chỉ trợn mắt lên nhìn chứ không thốt nửa lời.

Hồ Phỉ bỗng lên tiếng:

– Nhị muội! Nhị muội đã quen biết các vị sư ca của Uông huynh, vậy chúng ta đừng làm khó dễ. Mời Uông huynh trở về cho!

Uông Thiết Ngạc ngạc nhiên cứ đứng sững ra đó. Hồ Phỉ mở cửa thạch thất nói tiếp:

– Xin đừng trách tội, hẹn ngày tái ngộ.

Uông Thiết Ngạc không hiểu chàng giở ngụy kế gì, vẫn không dám nhấc chân.

Trình Linh Tố kéo áo Hồ Phỉ đưa mắt ra hiệu. Hồ Phỉ cười nói:

– Tiểu đệ là Hồ Phỉ, nghĩa muội là Trình Linh Tố gửi lời vấn an hai võ sư Chu, Tăng.

Dứt lời chàng khẽ đẩy sau lưng Uông Thiết Ngạc một cái cho hắn ra ngoài cửa. Uông Thiết Ngạc vẫn ngơ ngác không hiểu, ngần ngại chưa chịu cất bước. Gã quay đầu nhìn lại thấy cửa đã đóng, mới đi được vài bước đã xoay người đi ngược vì sợ Hồ Phỉ phóng ám khí sau lưng. Gã đi được chừng năm, sáu trượng vẫn không thấy trong thạch thất có động tĩnh gì mới xoay người lại, chạy vào trong rừng.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca! Tiểu muội buột miệng nói bừa chứ có biết Chu Thiết Kê hay Tăng Thiết Áp gì đâu. Sao đại ca lại tin thực mà tha hắn?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu huynh xem chừng bọn này quyết chẳng dám gia hại Mã cô nương. Hơn nữa Uông Thiết Ngạc là con người ngốc nghếch, bọn cường đạo chưa chắc đã coi trọng gã. Nếu thực tình muốn gây khó dễ cho Mã cô nương, thì bọn chúng chắc cũng chẳng thương tiếc gì gã phải đình thủ.

Trình Linh Tố khen:

– Đại ca nghĩ rất đúng…

Cô chưa dứt lời đã nhìn thấy Mã Xuân Hoa từ từ cất bước trở về. Quần đạo cung kính đưa đến ven rừng rồi dừng lại, để nàng đi một mình về thạch thất. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nàng, có ý muốn hỏi nhưng không lên tiếng.

Mã Xuân Hoa nói ngay:

– Bọn chúng đều khen võ công của Hồ huynh đệ rất cao thâm mà lòng đầy nhân nghĩa, thực là một vị thiếu niên anh hùng…

Hồ Phỉ nói mấy câu khiêm tốn. Chàng thấy Mã Xuân Hoa ngơ ngẩn xuất thần không nói thêm câu nào cũng không hỏi nữa.

Lát sau Mã Xuân Hoa mới nói:

– Hồ huynh đệ! Trình muội tử! Hai vị đi đi thôi. Câu chuyện của tiện thiếp… hai vị không giúp được đâu.

Hồ Phỉ hỏi:

– Cô nương chưa thoát khỏi nơi hiểm địa thì tại hạ bỏ đi làm sao được?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Tiện thiếp ở đây không có gì nguy hiểm cả, bọn chúng không dám làm gì tiện thiếp đâu.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Cô nói hai câu này có lẽ đều đúng sự thực, nhưng để cô một mình ở đây thì ta yên tâm thế nào được?

Chàng thấy mặt Mã Xuân Hoa lúc đỏ bừng, lúc tái nhợt, có lúc lại ngần ngật nước mắt, có lúc bên môi lại hé nụ cười. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố nhìn nhau ngơ ngác. Cả trong lẫn ngoài nhà thạch thất đều im lặng như tờ.

Hồ Phỉ kéo áo Trình Linh Tố đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Chàng khẽ hỏi:

– Nhị muội, chúng ta làm gì bây giờ?

Trình Linh Tố khẽ đáp:

– Bậc thiếu niên anh hùng đại nhân đại nghĩa làm sao, thì con tiểu nha đầu tóc vàng này cũng làm thế.

Hồ Phỉ hạ thấp giọng xuống, nói:

– Tiểu huynh nghi ngờ một điều, bất luận thế nào cũng cần phải đích thân hỏi Mã cô nương, chứ cứ giằng co mãi thế này cũng không xong được.

Trình Linh Tố hỏi:

– Tiểu muội thử đoán coi. Đại ca đã bảo năm xưa có gã họ Thương có ý với Mã cô nương phải không?

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế! Nhị muội thật thông minh. Tiểu huynh nghi ngờ bọn cường đạo này đã chịu lời ủy thác của Thương Bảo Chấn mà đến, nên chúng đối với Mã cô nương rất khách khí, mà đối với trượng phu của cô lại làm nhục đủ điều.

Trình Linh Tố nói:

– Xem ra Mã cô nương vẫn còn tình ý với gã họ Thương.

Hồ Phỉ nói:

– Vì thế nên tiểu huynh không biết mình làm thế nào cho phải.

Lúc hai người nói chuyện không nhìn nhau, chỉ thấy đôi môi mấp máy nên Mã Xuân Hoa ngồi trong góc nhà chẳng nghe được câu nào.

Ráng chiều đã nhạt dần, trời sắp tối rồi. Đột nhiên mé tây có tiếng còi rúc lên dồn dập. Lại có thêm mấy người nữa cưỡi ngựa tới. Trình Linh Tố nói:

– Viện thủ của địch nhân lại đến nữa rồi.

Hồ Phỉ lắng tai nghe rồi hỏi:

– Sao lại có một người đi bộ?

Quả nhiên lát sau có một người chạy thục mạng tới gần. Phía sau bốn người cưỡi ngựa đi thành hình cánh quạt rượt theo. Bốn người trên ngựa dường như có ý bỡn cợt nên không giục ngựa tới ngay, miệng chúng quát tháo, thổi còi, thủy chung vẫn cách xa người chạy bộ hai, ba trượng. Người chạy bộ đầu bù tóc rối chân bước loạng choạng, hiển nhiên đã kiệt sức.

Hồ Phỉ nhìn rõ mặt mũi người đó, la lên:

– Từ đại ca! Lại đây!

Dứt lời chàng mở cửa toan chạy ra tiếp ứng thì đã không kịp nữa rồi. Bốn con ngựa chạy vòng theo mé bên tiến lên trước cản đường Từ Tranh. Quần đạo ở trong rừng cùng đổ ra. Nếu Hồ Phỉ xông tới cứu viện thừa cơ sấn vào thạch thất, Trình Linh Tố và Mã Xuân Hoa sẽ bị nguy ngay. Chàng đành giương mắt lên nhìn quần đạo bao vây Từ Tranh.

Hồ Phỉ cất tiếng sang sảng, quát lớn:

– Ỷ đông thủ thắng đâu phải anh hùng hảo hán?

Hán tử cưỡi ngựa đuổi theo, một tên đáp:

– Không sai! Ta đang muốn đơn đả độc đấu với cao đồ của Thần quyền vô địch là Từ đại tiêu đầu ở Phi Mã tiêu cục.

Hồ Phỉ nghe thanh âm quen thuộc, chú ý nhìn lại bỗng la thất thanh:

– Gã là Thương Bảo Chấn!

Trình Linh Tố nói:

– Gã họ Thương quả nhiên đã đến rồi.

Cô thấy gã vẻ người đĩnh đạc, mặt mũi trắng trẻo, so với Từ Tranh mặt đầy sứt sẹo thì tỏ ra tuấn nhã gấp mười lần. Cô lại thấy gã xoay mình nhảy xuống ngựa, thân pháp rất ung dung tiêu sái, nghĩ thầm:

– Gã này quả xứng đôi với Mã cô nương, không trách gã nổi dạ bất bình nói những chuyện “bông hoa lài cắm bãi phân trâu” gì gì đó.

Dù sao cô cũng là một thiếu nữ nhỏ tuổi nên không nhịn được, liền la lên:

– Mã gia tỷ tỷ! Gã họ Thương đã tới rồi đó.

Mã Xuân Hoa chỉ ậm ừ tựa hồ không hiểu Trình Linh Tố nói gì. Lúc này quần đạo đã bao quanh Từ Tranh thành một vòng vây lớn, che mất nhãn quang của những người đứng từ trong cửa sổ nhìn ra.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca! Ở đây nhìn không thấy. Chúng ta lên nóc nhà coi.

Hồ Phỉ đáp:

– Phải rồi!

Hai người nhảy lên nóc nhà, nhìn thấy Từ Tranh cùng Thương Bảo Chấn quắc mắt nhìn nhau. Thương Bảo Chấn tay cầm đơn đao sống dày lưỡi mỏng còn Từ Tranh thì tay không.

Trình Linh Tố nói:

– Vụ này bất công rồi.

Hồ Phỉ chưa kịp đáp đã nghe Thương Bảo Chấn lớn tiếng nói:

– Từ gia! Thương mỗ động thủ với Từ gia đã không ỷ đông thủ thắng, mà cũng chẳng để Từ gia phải tay không. Bây giờ, Từ gia dùng đao còn tại hạ tay không, vậy là Từ gia không thua thiệt gì nữa.

Dứt lời gã cầm thanh đơn đao xoay chuôi lại nhắm Từ Tranh ném tới. Từ Tranh vươn tay ra đón lấy, miệng thở hồng hộc, nói:

– Khi còn ở Thương gia bảo, ngươi đối với sư muội ta như vậy, tưởng ta không có mắt ư? Bữa nay bọn ngươi vô cớ kéo cả bè lũ đến đây để làm gì, Từ mỗ bất tất phải nói nhiều. Thương Bảo Chấn! Ngươi lấy đao ra đi.

Thương bảo Chấn lớn tiếng đáp:

– Tại hạ dùng hai bàn tay không tỷ đấu với thanh đơn đao của Từ gia. Các vị đại ca! Nếu tiểu đệ có chết về lưỡi đao của gã cũng chỉ trách mình cuồng vọng tự đại, xin đừng ai vào trợ lực.

Trình Linh Tố hỏi:

– Sao gã lại to tiếng thế? Hiển nhiên gã có ý nói cho Mã cô nương nghe thấy. Gã tay không đấu đơn đao chẳng những muốn phô tương tài nghệ trước ý trung nhân, mà còn muốn làm cho nàng động tâm.

Hồ Phỉ buông tiếng thở dài.

Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca! Đại ca nói thử Mã cô nương muốn ai thắng?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tiểu huynh không biết.

Trình Linh Tố nói:

– Một bên là chồng, một bên là người ngoài, xem ra cả hai đều vì Mã cô nương mà liều mạng. Cô nấp trong xó nhà chẳng lý gì tới. Tiểu muội chỉ e rằng trong thâm tâm Mã cô nương lại mong cho Thương thiếu gia thắng đó.

Hồ Phỉ trong lòng cũng nghĩ như vậy nhưng chỉ lắc đầu, nói:

– Tiểu huynh không biết.

Từ Tranh thấy Thương Bảo Chấn nhất định không dùng binh khí, hắn liền cầm ngang thanh đơn đao, nói:

– Bữa nay Từ mỗ đã bị vây hãm trong trùng vi cũng không muốn sống để trở về nữa.

Hắn vung đao nhằm đỉnh đầu Thương Bảo Chấn chém xuống.

Võ công Thương Bảo Chấn cao hơn Từ Tranh nhiều. Năm xưa ở Thương gia bảo, gã yêu cầu Từ Tranh dạy quyền cước chỉ là giả vờ. Mấy năm nay gã theo hai vị sư bá, sư thúc là Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn khổ công rèn luyện “Bát Quái đao” và “Bát Quái chưởng”, công phu tiến bộ rất nhiều. Từ Tranh thua chạy hàng nửa ngày, sức cùng lực kiệt. Trong tay tuy có đơn đao, nhưng đấu với “Bát Quái chưởng” của Thương Bảo Chấn mới được mấy chiêu đã lâm vào thế hạ phong.

Hồ Phỉ chau mày nói:

– Gã họ Thương rất xảo quyệt.

Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca có muốn ra tay không?

Hồ Phỉ đáp:

– Ta vì muốn giúp Mã cô nương mà tới đây nhưng… nhưng… ta thật không hiểu ý cô ấy ra sao?

Trình Linh Tố ra chiều rất bất mãn với Mã Xuân Hoa, liền nói:

– Mã cô nương quyết không có sự gì nguy hiểm. Đại ca có lòng hảo tâm muốn giúp đỡ, chưa chắc cô đã chịu nghe. Chúng ta đi quách là hơn!

Hồ Phỉ thấy thanh đơn đao của Từ Tranh bị chưởng đạo của Thương Bảo Chấn kiềm chế phóng ra những chiêu lệch lạc, chẳng vào chưởng pháp nào hết, nhìn thấy cảnh tượng rất thê thảm. Chàng nói:

– Nhị muội! Nhị muội nói phải lắm. Vụ này chúng ta không nên can thiệp làm gì.

Chàng ở trên nóc nhà nhảy xuống, đi vào thạch thất nói:

– Mã cô nương! Từ đại ca không chống chọi được nữa rồi. E rằng gã họ Thương sắp hạ độc thủ.

Mã Xuân Hoa ngơ ngẩn xuất thần, ậm ừ một tiếng chứ không nói gì. Hồ Phỉ lửa giận bốc lên không thèm nói nữa, quay lại bảo Trình Linh Tố:

– Nhị muội! Chúng ta đi thôi.

Mã Xuân Hoa tựa hồ người trong mộng choàng tỉnh giấc, cất tiếng hỏi:

– Các vị đi ư? Đi đâu bây giờ?

Hồ Phỉ ngang nhiên đáp:

– Mã cô nương! Ngày trước cô nương đã năn nỉ giùm tại hạ, tại hạ rất cảm kích. Nhưng cô nương đối với Từ đại ca như vậy…

Chàng chưa dứt lời bỗng nghe ngoài cửa xa vang lên một tiếng rú thê thảm, chính là thanh âm của Từ Tranh. Tiếp theo là tiếng cười ha hả của Thương Bảo Chấn, trong tiếng cười lộ vẻ cực kỳ đắc ý. Quần đạo cũng hoan hô vang dội:

– Hảo Bát Quái chưởng! Hảo Bát Quái chưởng!

Mã Xuân Hoa cả kinh, la lên:

– Sư ca!

Rồi nàng lao ra ngoài.

Hồ Phỉ hậm hực nói:

– Tình nhân đánh chết trượng phu là hợp ý lắm rồi còn gì.

Trình Linh Tố thấy chàng phẫn nộ quá chừng, liền cất giọng ôn nhu an ủi:

– Vụ này dù đại ca có bản lãnh nghiêng trời cũng chẳng có cách gì can thiệp được.

Hồ Phỉ nói:

– Nếu y không yêu sư ca, hà tất phải thành thân với gã?

Trình Linh Tố đáp:

– Chắc cô bị bắt buộc phải vâng lời phụ thân.

Hồ Phỉ lắc đầu nói:

– Không phải. Phụ thân cô bị chết cháy ở Thương gia bảo từ trước rồi. Dù đã có hôn ước cũng nên hủy bỏ, còn hơn là đi đến nông nỗi này.

Bồng nghe có tiếng rên rỉ của Từ Tranh từ trong đám đông vọng ra.

Hồ Phỉ cả mừng nói:

– Từ đại ca chưa chết. Ta thử ra coi.

Chàng liền cầm tay Trình Linh Tố, rảo bước chen vào giữa đám quần đạo. Thật là lạ, trước đây chưa lâu, quần đạo cùng Hồ Phỉ bên công bên thủ, bày trận đánh nhau, nhưng hiện giờ chúng chỉ chú ý đến Mã Xuân Hoa, Thương Bảo Chấn và Từ Tranh, tuyệt không để ý gì đến Hồ Phỉ và Trình Linh Tố.

Hồ Phỉ cúi xuống nhìn Từ Tranh thấy trước ngực hắn có vũng máu lớn, hơi thở đã yếu lắm. Hiển nhiên hắn bị chưởng lực của Thương Bảo Chấn làm chấn động nội tạng, chỉ trong khoảnh khắc là tắt thở. Mã Xuân Hoa đứng ngẩn người ra trước mặt Từ Tranh, không nói câu gì. Hồ Phỉ cúi xuống khẽ nói vào tai Từ Tranh:

– Từ đại ca! Đại ca còn việc gì chưa giải quyết, tiểu đệ sẽ giúp cho.

Từ Tranh hết nhìn vợ lại nhìn Thương Bảo Chấn, hắn cười rất đau khổ, khẽ đáp:

– Không có.

Hồ Phỉ nói:

– Tiểu đệ đi kiếm hai đứa con nhỏ để nuôi chúng thành người.

Giữa chàng và Từ Tranh chưa có mối giao tình gì, nhưng chàng thấy hắn đến nông nỗi này nên nổi lòng nghĩa phẫn, không nhịn được mà đứng ra gánh vác. Từ Tranh lại cười rất đau khổ, thều thào nói một câu nhưng tiếng nhỏ quá, Hồ Phỉ không nghe rõ. Chàng áp tai vào bên miệng hắn mới nghe được mấy tiếng nhát gừng:

– Con… con… trước khi… kết hôn… đã có con rồi… không phải là của tại hạ…

Hắn thở hắt ra rồi tuyệt khí chết liền.

Hồ Phỉ đột nhiên tỉnh ngộ: “Hèn gì Mã cô nương lại thành thân với gã. Té ra sau khi Thương gia bảo bị thiêu rụi, gã họ Thương không biết đi đâu, mà cô lại mang thai, cô không lấy Từ Tranh cũng không được. Thảo nào hai thằng nhỏ trắng trẻo khả ái, chẳng giống tướng mạo Từ đại ca chút nào”.

Chàng vươn người đứng lên, không biết phải nói gì, bỗng tai lắng nghe tiếng vó ngựa vang lên. Lại có hai hán tử nữa phi ngựa tới. Mỗi hán tử đều ẵm một đứa con của Mã Xuân Hoa trong tay.

Mã Xuân Hoa hết nhìn Từ Tranh lại nhìn Thương Bảo Chấn, hỏi:

– Thương thiếu gia! Thiếu gia ra tay đánh chết trượng phu của tiểu muội rồi ư?

Thương Bảo Chấn đáp:

– Đơn đao còn ở trong tay y, tại hạ không chiếm chút tiện nghi nào cả.

Mã Xuân Hoa khẽ gật đầu, rút thanh đơn đao ở trong tay Từ Tranh ra, nói:

– Đây là thanh Bát Quái đao gia truyền của thiếu gia. Khi tiểu muội ở Thương gia bảo đã từng thấy qua.

Thương Bảo Chấn mỉm cười nói:

– Cô nương còn nhớ là hay lắm. Tại hạ chỉ mong cô nương nhớ tới.

Mã Xuân Hoa đáp:

– Tiểu muội sao lại không nhớ được? Chuyện cũ ở Thương gia bảo tựa hồ như còn hiện ra trước mắt.

Trình Linh Tố liếc mắt nhìn Hồ Phỉ thấy mặt chàng đỏ bừng, ngực nhô lên hụp xuống không ngớt, đang dằn lửa giận để khỏi phát tác.

Mã Xuân Hoa cầm thanh Bát Quái đao giơ lên khen:

– Thanh đao tốt quá!

Nàng từ từ bước lại trước mặt Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn hé miệng mỉm cười, ánh mắt đầy tình tứ, đưa tay đón lấy. Mã Xuân Hoa xoay ngược mũi đao, có vẻ như muốn đưa chuôi đao lại cho gã. Đột nhiên ánh bạch quang lấp loáng, mũi đao xoay lại đâm vào hông của Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn rú lên một tiếng. Gã phóng chưởng đánh ra đẩy Mã Xuân Hoa lùi lại mấy bước, miệng lắp bắp:

– Ngươi… ngươi… ngươi… làm sao…

Gã chưa dứt lời đã té nhào xuống, chết ngay tức khắc. Diễn biến đột ngột này không một ai ngờ đến. Nguyên Thương Bảo Chấn đánh chết Từ Tranh, Mã Xuân Hoa phải trả thù chồng, đó là điều ai cũng nghĩ tới, nhưng đối với cái chết của Từ Tranh nàng chẳng lộ vẻ thương tâm chút nào, lại cùng đối đáp với Thương Bảo Chấn tựa hồ hân hoan muốn chắp lại tình xưa, vậy mà đao quang chợt nhoáng lên, mũi đao đã đâm gục kẻ địch.

Quần đạo còn đang ngơ ngác chưa kịp bật tiếng la thì Hồ Phỉ đã khẽ đẩy sau lưng Trình Linh Tố, tay dắt Mã Xuân Hoa hấp tấp lui vào thạch thất. Quần đạo hét ầm lên, toan ngăn cản thì đã chậm mất một bước. Sự việc xảy ra quá đột ngột, quần đạo hiển nhiên còn phải bàn bạc nên không tấn công vào thạch thất ngay mà lại lui ra mở rộng vòng vây.

Hồ Phỉ nhìn Mã Xuân Hoa, vui vẻ nói:

– Lúc trước tiểu đệ đã trách lầm cô nương, nhưng cô nương không phải là hạng người như vậy.

Mã Xuân Hoa không đáp, một mình ngồi ngây người ra ở góc nhà. Trình Linh Tố bây giờ đối với nàng bằng thái độ khác hẳn. Cô ôn tồn an ủi nàng mấy câu, nhưng Mã Xuân Hoa chỉ nhìn thẳng về phía trước không nói nửa lời. Hồ Phỉ nhìn Trình Linh Tố đưa mắt ra hiệu. Hai người sóng vai đứng trước cửa sổ.

Hồ Phỉ nói:

– Mã cô nương trả thù cho chồng, hạ sát địch nhân một cách bất ngờ khiến gã trở tay không kịp. Về điểm này ta càng không hiểu.

Trình Linh Tố cũng cảm thấy khó hiểu, từ lúc Thương Bảo Chấn xuất hiện thì tất cả sự việc đều hiện rõ chân tướng, nhưng tình hình lúc này lại diễn biến mười phần cổ quái. Mã Xuân Hoa tự tay hạ sát Thương Bảo Chấn, phải chăng vì nàng thấy trượng phu bị chết thảm mà đột nhiên thiện lương xuất hiện? Nếu quả bọn cường đạo đều do Thương Bảo Chấn mời đến, thì sau khi gã chết rồi bọn chúng tất nhiên phẫn nộ, la hét tấn công, nhưng sao chúng chỉ lộ vẻ kinh dị chứ không có hành động gì khác?

Hồ Phỉ ngưng thần ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Nhị muội! Trong vụ này còn nhiều chỗ khó hiểu. Hai chúng ta nếu cứ liều lĩnh can thiệp không chừng lại làm hại người tốt. Mã cô nương nhất định không chịu nói rồi. Ta đi hỏi tên thủ lãnh bọn cường đạo xem sao.

Trình Linh Tố nói:

– Chắc gì hắn đã chịu nói?

Hồ Phỉ đáp:

– Thì cứ để tiểu huynh thử xem sao!

Trình Linh Tố dặn:

– Đại ca phải thận trọng lắm mới được.

Hồ Phỉ nói:

– Tiểu huynh hiểu rồi.

Chàng mở cửa ra, từ từ đi về phía quần đạo. Quần đạo thấy chàng đi một mình, tay không cầm binh khí, đều lộ vẻ kinh dị. Hồ Phỉ còn cách quần đạo chừng sáu, bảy trượng dừng lại nói:

– Tại hạ có điều cơ mật muốn bàn với quý thủ lãnh.

Chàng nói rồi vỗ vào người mấy cái để chứng tỏ không mang binh khí. Một hán tử to lớn trong quần đạo lớn tiếng đáp:

– Bọn ta đây toàn là hảo huynh đệ, các hạ có điều chi cứ nói đừng ngại, hà tất phải lén lén lút lút.

Hồ Phỉ cười nói:

– Các vị đều là anh hùng hảo hán thì vị đầu lãnh dĩ nhiên là một nhân vật không phải tầm thường, chẳng lẽ lại không dám nói với tại hạ một câu?

Lão già gầy nhom xua tay đáp:

– Nhân vật phi thường thì không dám. Lão phu coi tiểu huynh đệ là một thiếu niên anh hùng, hậu sinh khả úy, hậu sinh khả úy!

Lão đưa mấy lời khen ngợi Hồ Phỉ, nhưng vẻ mặt lại rất ngạo nghễ. Hồ Phỉ chắp tay hỏi:

– Lão gia tử! Xin lão gia ra ngoài một bước cho tiểu đệ thưa chuyện.

Chàng nói rồi đi về phía khu rừng trống. Lão già liếc mắt lên nhìn. Vụ Mã Xuân Hoa đâm chết Thương Bảo Chấn vừa rồi còn khiến mọi người ai cũng kinh ngạc, lão vẫn chưa yên tâm vì sợ Hồ Phỉ ngấm ngầm thi hành độc kế nên không dám đi ngay, nhưng không đi lại không khỏi tỏ ra khiếp nhược. Lão tập trung hết tinh thần để đề phòng rồi từng bước tiến gần đến Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ chắp tay nói:

– Vãn bối là Hồ Phỉ. Tôn tính lão gia là gì?

Lão già không trả lời mà hỏi lại:

– Tôn giá có điều chi muốn nói?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Cũng chẳng có chuyện gì. Vãn bối muốn thỉnh giáo mấy đường quyền cước.

Lão già không ngờ Hồ Phỉ kêu mình ra ngoài để nói câu này, đột nhiên biến sắc, xẵng giọng:

– Tiểu tử giỏi lắm! Ngươi gạt ta ra đây chỉ để nói câu này thôi ư?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Xin lão gia đừng giận. Vãn bối muốn đánh cuộc với lão gia một phen.

Lão già hừ một tiếng rồi xoay mình bước đi. Hồ Phỉ nói:

– Vãn bối đã tiên liệu lão gia không dám! Vãn bối có đứng bất động một chỗ, lão gia cũng không đánh nổi.

Lão già tức giận hỏi:

– Ngươi bảo sao?

Hồ Phỉ đáp:

– Hai chân vãn bối ghim chặt xuống đất không di động nửa tấc, còn lão gia tha hồ chạy nhảy. Chúng ta tỷ đấu quyền cước như vậy, lão gia bảo ai được ai thua?

Lão già thấy chàng phô trương thân thủ đoạt lôi chấn đáng, bắt Uông Thiết Ngạc, đoạt kiếm trả kiếm, bắn liên tục ám khí, môn nào cũng làm người ta hoa cả mắt. Nếu đơn đả độc đấu thì quả lão có điều khiếp sợ, nhưng nghe chàng khoác lác là sẽ ghim chặt hai chân đứng yên bất động để đấu với mình, thì chuyện này chưa từng nghe trên chốn giang hồ. Lão là chưởng môn phái “Bát Cực quyền” ở phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam, tính người thận trọng, võ công lại cao cường, vì thế hơn ba chục người tới đây để lão làm thủ lĩnh. Lão nghĩ đối phương không di động hai chân thì mình ở vào thế không thể thua được, rồi dần dần sẽ chiếm thế thượng phong.

Lão nghĩ vậy nên không tức giận mà lại cảm thấy cao hứng, bèn cười nói:

– Tiểu huynh đệ đưa ra cách mới để khảo nghiệm lão phu. Hay lắm! Mấy rẻ xương già này có gãy về tay tiểu huynh đệ cũng được. Chúng ta có được dùng ám khí không?

Hồ Phỉ mỉm cười đáp:

– Đã tỷ võ giao hữu thì còn dùng ám khí làm gì?

Lão già nghĩ bụng:

– Ta nếu đánh không lại gã chỉ cần lùi lại ba bước, mà gã đã ghim chân xuống đất thì tay gã làm gì với tới được? Vậy có kém lắm cũng giữ được thế ngang ngửa.

Lão liền nói:

– Hay lắm!

Hồ Phỉ nói:

– Giữa vãn bối và lão gia vốn không quen biết. Lần này can thiệp vào chuyện không đâu thật là nhộn quá. Chỉ cần thua một chiêu nửa thức là vãn bối cùng nghĩa muội lập tức đi ngay.

Lão già bụng bảo dạ:

– Nếu gã cố tình bênh vực Mã cô nương thì vụ này cũng khó kết thúc. Còn mình ỷ số đông để tấn công tất làm hại nhiều mạng người, nếu như làm thương tổn Mã có nương lại càng không ổn, vậy dàn xếp cho êm thấm là hay hơn cả.

Lão liền đáp:

– Phải rồi! Vụ này tuyệt không liên can gì đến người ngoài. Từ nay Mã cô nương phú quý vinh hoa, địa vị cao ngất mây xanh, tiểu huynh đệ có mối giao tình với cô cũng nên mừng cho cô.

Hồ Phỉ lắc đầu nói:

– Vãn bối có điều không hiểu. Nếu lão gia có ý nhường nhịn một chiêu, thì vãn bối xin lão gia cho biết rõ nguyên ủy bên trong.

Lão già trầm ngâm một chút rồi nói:

– Được rồi. Cứ như thế đi.

Lão thấy Hồ Phỉ hai chân đứng cách nhau một thước tám tấc, vững vàng như núi, trầm ổn tuyệt luân thì không khỏi động tâm, nghĩ thầm:

– Không chừng mình thua gã thực chứ chẳng chơi.

Lão nói tiếp:

– Chúng ta cần nói rõ trước. Lão phu mà thua sẽ nói rõ sự việc cho tiểu huynh đệ hay, nhưng tiểu huynh đệ nhất định không được nói với người thứ hai nào.

Hồ Phỉ nói:

– Vãn bối có thể nói với nghĩa muội được không?

Lão già thầm nghĩ:

– Người ta thường nói “Can sài liệt hỏa hảo chử phạn, Can huynh can muội hảo tố thân”. Hai người họ là anh em kết nghĩa thì thân mật biết là chừng nào? Bây giờ miệng gã ưng thuận không nói cho ai nhưng có lý nào gã lại không kể cho nghĩa muội gã hay?”

Lão nghĩ vậy bèn nói:

– Không được nói với bất kỳ người thứ ba nào.

Hồ Phỉ nói:

– Được! Cứ như vậy đi. Nhưng chắc đâu vãn bối thắng được lão nhân gia?

Lão già nhớm người lên, mỉm cười nói:

– Xin thất lễ!

Tay trái lão phóng chưởng đánh ra, tay mặt biến thành móc câu. Đó là “Thôi sơn thức” trong “Bát cực quyền”. Hồ Phỉ thuận tay đưa lên gạt, chàng cảm thấy chưởng lực của lão rất hùng hậu liền nói:

– Chưởng lực lão gia tuyệt lắm!

Quần đạo thấy hai người kéo nhau vào rừng động thủ liền tới tấp bu lại nhưng thấy hai người đều có vẻ tươi cười, nên chúng liền đứng ngoài để quan sát. Bát cực trong “Bát cực quyền” gồm có “Phiên Thủ”, “Điệp Uyển”, “Thốn Khẩn”, “Đẩu Triển” chia làm tám thức “Lâu, Đả, Đằng, Phong, Thích, Đẳng, Tảo, Quái”, đều chú trọng ở điểm thần tốc, linh hoạt. Lão già thi triển “Phiên Thủ” rất linh hoạt, “Điệp Uyển” rất xảo diệu, “Thốn Khẩn” rất tinh thuần, “Đẩu Triển” rất thần tốc, quả đúng là phong phạm của một danh gia cao thủ.

Quần đạo đứng xem đều ngấm ngầm bội phục, ai cũng nghĩ thầm.

– Y đem “Bát cực quyền” để dương uy ở hai vùng nam bắc sông Đại Hà nổi danh đã hơn ba mươi năm nay, quả có chân tài thực học chứ hoàn toàn không chỉ là hư danh.

Lão già tiến một bước thành ba vòng, ba bước thành chín lần chuyển mười hai bước thành thế liên hoàn, đại thức biến thành tiểu thức, tiểu thức biến thành trung bàn. Lão triển khai nào “Kỵ mã thức”, “Ngư lân thức”, “Cung bộ thức”, “Ma tất thức”, nhảy nhót tung hoành bên mình Hồ Phỉ, quyền cước mỗi lúc một mau lẹ.

Hồ Phỉ vẫn một mực giữ vững, thấy thức nào hóa giải thức ấy. Quả nhiên hai chân chàng không mảy may di động. Đấu nửa chừng, lão già cảm thấy quyền chưởng của mình dần dần trì trệ, tựa hồ như có một niêm lực cứ dính vào giữa quyền chưởng của mình. Lão la thầm:

– Hỏng rồi!

Lão toan nhẩy lùi lại, đối phương không thể nhảy theo truy kích thì không phân thắng bại. Ngờ đâu tay trái lão vừa thu về thì tay phải Hồ Phỉ chụp được nắm tay phải lão, đồng thời tay trái chàng nắm lại thành quyền khẽ đánh vào khuỷu tay phải lão một cái. Lão già cả kinh, vội vận kình lực giật tay ra nhưng không thoát được, lại e mình phải gãy mất cánh tay phải. Chính lúc lão đang hoang mang thì đột nhiên Hồ Phỉ buông tay, chân bước loạng choạng, nói:

– Chưởng lực của lão gia rất hùng hậu. Bội phục! Bội phục!

Lão già hiểu rõ trong lòng, cảm kích vô cùng, vì đối phương không những tha không đánh gãy tay lão lại cố ý chân bước loạng choạng giả vờ tạo thế quân bình, để lão khỏi mất thể diện trước mặt quần đạo, bảo toàn được uy danh một đời. Ơn đức này quả thực không nhỏ. Lão liền bước tới dắt tay Hồ Phỉ, cười nói:

– Tiểu huynh đệ thật là anh hùng lỗi lạc. Chúng ta qua bên này nói chuyện.

Chương 13: Đám võ quan chốn Bắc Kinh

Hai người đi sâu vào trong rừng, Hồ Phỉ thấy bốn mặt vắng người đã tưởng lão sắp nói rồi. Không ngờ lão nhảy lên cây, nhìn chàng vẫy tay. Hồ Phỉ liền nhảy lên ngồi trên cành cây. Lão già nói:

– Chúng ta ở trên này nói chuyện tĩnh mịch hơn.

Hồ Phỉ nói:

– Phải rồi.

Lão già mỉm cười nói tiếp:

– Trước đây tại hạ nghe các hạ báo tôn tính đại danh họ Hồ tên Phỉ. Không hiểu cái tên này là chữ “Phỉ” trong “Phỉ nhiên thành chương” hay chữ “Phỉ” trong “Nhất phi xung thiên” hay là chữ “Phi” trong “Thị phi phân minh” ?

Hồ Phỉ nghe lão nói văn chương liền đáp:

– Phỉ đây là chữ “Phỉ” trong “Thảo tự chi phỉ”, gồm có chữ “Văn” ở trên chữ “Phi”.

Lão già cười ha hả nói:

– Tại hạ là Tần Nại Chi, một đời bôn tẩu giang hồ, đã gặp không ít các bậc đại anh hùng, đại hào kiệt nhưng nhỏ tuổi như các hạ mà võ công đã đạt cảnh giới như thế này, quả thực tại hạ chưa hề gặp.

Lão dừng lại một chút rồi nói tiếp:

– Các hạ lòng dạ trung hậu, kiến thức bất phàm, trong võ lâm thật cực kỳ hiếm có. Tiểu huynh đệ, lão hán khâm phục lắm!

Hồ Phỉ nói:

– Tần gia! Vãn bối có điều muốn thỉnh giáo.

Tần Nại Chi đáp:

– Tiểu huynh đệ bất tất phải khiêm nhượng thái quá. Tần mỗ lớn hơn một chút, gọi các hạ là tiểu huynh đệ, thì tiểu huynh đệ gọi tại hạ bằng Tần đại ca là được rồi. Tiểu huynh đệ đã dung tình giữ trọn vẹn thể diện cho ta, thì tiểu huynh đệ hỏi gì ta cũng nói.

Hồ Phỉ vội nói:

– Không dám! Không dám! Tiểu đệ thấy Tần đại ca có một chiêu hơi ưỡn người về phía sau, cố cho thấy thượng bàn không ổn, tay trái đặt lên tay phải rồi hai bàn tay cứ giao thoa luân đổi, chuyển thành dương quyền, sau đó hai tay lại biến thành âm quyền đánh ra. Chiêu này biến hóa cực kỳ tinh diệu. Suýt nữa tiểu đệ đỡ không nổi, thật lòng ngưỡng mộ.

Tần Nại Chi trong lòng rất hoan hỷ, về quyền cước lão đã thua rồi nên y lời hứa tưởng phải kể rõ ngọn nguồn sự việc cho Hồ Phỉ nghe, ngờ đâu chàng lại thỉnh giáo môn võ công đắc ý của phái lão. Chỗ Hồ Phỉ hỏi chính là một đại tuyệt chiêu nổi danh trong “Bát Cực quyền” giúp lão thành danh. Lão liền mỉm cười đáp:

– Đó là chiêu rất đắc dụng của tệ phái, gọi là “Song đả kỳ môn”.

Rồi lão giải thích những chỗ vi ảo, tinh diệu trong chiêu thức này. Hồ Phỉ bản tính hiếu võ nghe lão giảng rất thú vị, bèn hỏi thêm những chỗ chưa hiểu rõ. Trong võ lâm, bất luận môn phái nào cũng đều phải có những thành tựu độc đáo thì mới thành một nhà riêng. “Bát Cực quyền” có từ khoảng giữa các triều đại Ung Chính và Càn Long đời nhà Thanh, uy danh vang dội trong võ lâm chẳng kém gì “Thái Cực môn” hay “Bát Quái môn”.

Lúc Hồ Phỉ chiết chiêu cùng Tần Nại Chi, chàng lưu tâm đến quyền chiêu chưởng pháp của lão. Bây giờ chàng hỏi toàn những chỗ cao diệu trong “Bát Cực quyền”. Tần Nại Chi ban đầu còn e ngại việc tiết lộ chỗ bí diệu của bản môn, mười phần chỉ giảng có bảy, nhưng những câu hỏi của đối phương toàn gãi đúng chỗ ngứa mà thái độ lại vô cùng cung kính khiến lão không nhịn được, cứ nói hết ra không giấu giếm điều gì.

Lão nghĩ thầm:

– Võ công của vị tiểu huynh đệ này thực sự cao hơn ta, dẫu y có học được quyền pháp này thì bất quá cũng hơn được thêm ta một chút nữa, vậy thì có gì mà phải ngại?

Về phần Hồ Phỉ, đối với những chỗ uyên áo của “Bát Cực quyền” thì sở đắc lại càng thâm diệu như trên gấm thêm hoa.

Hai người đàm luận võ công đến quá nửa canh giờ. Quần đạo đứng xa trông thấy Tần Nại Chi hai tay chỉ trỏ sử dụng những quyền chiêu đắc ý của lão. Hồ Phỉ cũng có lúc ra tay tiến chiêu. Hai người cười nói cực kỳ thân mật, hiển nhiên là đang nghiên cứu quyền thuật võ công. Mọi người chờ hằng nửa ngày trời mà chẳng nghe thấy hai người đang nói gì, dù lấy làm lạ nhưng rồi cũng không xem nữa.

Tần Nại Chi bảo:

– Hồ huynh đệ! Quyền chiêu về “Bát Cực quyền” có nhiều chỗ tuyệt diệu, đáng tiếc là Tần mỗ không học được đến nơi đến chốn nên bị thua dưới tay tiểu huynh đệ.

Hồ Phỉ nói:

– Sao Tần đại ca lại nói vậy? Chúng ta nếu đấu lại thì cũng chưa biết ai thắng ai bại. Tiểu đệ rất khâm phục võ công của quý phái. Bữa nay, trời tối, trong lúc nhất thời tiểu đệ chưa thỉnh giáo được nhiều. Ngày sau đến Bắc Kinh, tiểu đệ nhất định sẽ thật lòng bái phỏng, cùng nhau đàm đạo mấy ngày. Bây giờ xin cáo biệt.

Dứt lời chàng chấp tay thi lễ rồi toan nhảy xuống.

Tần Nại Chi sửng sốt nghĩ bụng:

– Ta đã có ước hẹn trước, lẽ ra ta phải kể rõ đầu đuôi về vụ này, nhưng y chỉ đàm luận võ công với ta rồi cáo từ liền. Trong thiên hạ làm gì có cái lý đó? Phải rồi! Chàng thiếu niên này đã giữ thể diện cho ta, lại có mối giao tình thì ta há có thể không nói được ư?

Lão liền gọi giật lại:

– Tiểu huynh đệ, hãy khoan! Anh em mình không đánh nhau thì không thành quen biết. Bây giờ tại hạ nói rõ đầu đuôi vụ đó cho xong mới được.

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng rồi! Tiểu đệ có quen biết Thương Bảo Chấn, không ngờ Mã cô nương lại đột nhiên ra tay báo thù cho chồng.

Chàng liền đem những chuyện quen biết Thương Bảo Chấn và Mã Xuân Hoa tại Thương gia bảo thuật sơ lại một lượt.

Tần Nại Chi bụng bảo dạ:

 – Hay lắm, ta chưa kịp nói y đã thuật chuyện rồi. Chàng thiếu niên này hành động chỗ nào cũng khiến cho người ta phải khâm phục.

Lão liền nói:

– Cố nhân mang ơn một bữa cơm mà đem ngàn vàng báo đáp. Mã cô nương đã có ơn năn nỉ cho Hồ huynh đệ. Huynh đệ không quên ơn cũ chính là bản sắc của bậc đại trượng phu. Huynh đệ không hiểu vì sao Mã cô nương đâm chết Thương Bảo Chấn chẳng chút lưu tình, lại tưởng hai đứa con nhỏ kia là con của Thương Bảo Chấn sinh ra phải không?

Hồ Phỉ gãi đầu, đáp:

– Lúc Từ Tranh lâm tử, tiểu đệ còn nghe y nói hai thằng nhỏ đó không phải con y.

Tần Nại Chi vỗ đùi, nói:

– Té ra hắn không phải là thằng ngốc.

Hồ Phỉ như người lạc vào trong mây mù.

Tần Nại Chi nói:

– Tiểu huynh đệ, lúc ở Thương gia bảo, tiểu huynh đệ có từng thấy một vị công tử quyền quý hay không?

Hồ Phỉ vừa nghe, chợt như người đang ngủ sực tỉnh chiêm bao. Ngày đó, chàng tận mắt trông thấy Thương Bảo Chấn và Mã Xuân Hoa nắm tay nhau dưới gốc cây, liền cho là hai người có tình ý với nhau. Còn vụ Mã Xuân Hoa và vị công tử quyền quý kia vừa gặp đã say đắm nhau, và trong cơn si luyến đã gây nên một trường tình duyên oan nghiệt thì chàng hoàn toàn không hay biết.

Ngày đó, sau khi Thương gia bảo bị hỏa thiêu, chàng đã thấy Mã Xuân Hoa cùng vị công tử quyền quý âu yếm chuyện trò ở ngoài đồng vắng, ánh mắt nhìn nhau chan chứa tình thâm, chàng lúc đó còn nhỏ nên dù thấy cũng không hiểu được ẩn ý bên trong, vì thế thủy chung vẫn không nghĩ tới vị công tử quyền quý nọ. Bây giờ nghe Tần Nại Chi nhắc nhở, chàng mới tỉnh ngộ nói:

– Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn…

Tần Nại Chi ngắt lời:

– Phải rồi! Khi đó Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn tháp tùng Phúc công tử đến Thương gia bảo.

Hình ảnh Phúc công tử ra sao, Hồ Phỉ chỉ nhớ lờ mờ, nhưng “Bát Quái đao” và “Bát Quái chưởng” của Vương thị huynh đệ thì chàng còn nhớ rõ như in. Chàng nói:

– Phúc công tử! Phúc công tử! À phải rồi! Vị Phúc công tử này tướng mạo thanh nhã, hao hao giống hai thằng nhỏ.

Tần Nại Chi thở dài đáp:

– Phúc công tử hưởng thụ vinh hoa phú quý. Về quyền thế, sau Hoàng thượng là đến y. Về của cải, y muốn lấy cái gì Hoàng thượng cho cái đó. Chỉ có một điều y đã đến tuổi trung niên vẫn còn một điều bất túc, đó là chưa có con để vui vầy dưới gối.

Hồ Phỉ nghe nói uy thế Phúc công tử như vậy không khỏi chấn động tầm thần, liền hỏi:

– Phúc công tử phải chăng là Phúc Khang An?

Tần Nại Chi đáp:

– Không phải y thì còn ai nữa? Đó chính là Bình Kim Xuyên đại soái. Y đã làm Chính Bạch Kỳ Mãn Châu đô thống, Thịnh Kinh tướng quân, Vân Quý tổng đốc, Tứ Xuyên tổng đốc, bây giờ làm đến Thái Tử Thái Bảo, Binh Bộ Thượng Thư, cai quản hết các bậc đại thần trong Nội vụ phủ!

Hồ Phỉ hỏi:

– Ủa, hai thằng nhỏ đó đã là cốt nhục của Phúc công tử, nên y sai người đón về phải không?

Tần Nại Chi đáp:

– Hiện giờ Phúc đại soái chưa biết mình có hai đứa con này. Vừa rồi bọn ta nghe Mã cô nương nói mới hay ra.

Hồ Phỉ gật đầu nghĩ bụng:

– Té ra lúc Mã cô nương nói chuyện với Tần Nại Chi mặt đỏ lên là vì chuyện này. Sở dĩ nàng phải thổ lộ chân tình là để bọn họ không làm tổn thương đến hai đứa nhỏ. Nàng thương con mình, nên tuy vụ này chẳng hay ho gì cũng phải nói ra.

Tần Nại Chi lại nói tiếp:

– Phúc đại soái chỉ sai bọn Tần mỗ đi coi tình hình của Mã cô nương nhưng bọn ta đoán rằng ý đại soái muốn đón tiếp cô về kinh. Bây giờ trượng phu của Mã cô nương đã qua đời, cô chẳng còn nơi nương tựa, sao không chịu đến Bắc Kinh để cùng Phúc đại soái tương tụ? Hai đứa nhỏ đó được dịp phụ tử trùng phùng, từ đây rộng mở đường mây, đại phú đại quý, chẳng hơn là lăn lóc ở trong cái tiêu cục hèn mọn kia ư? Hồ huynh đệ! Huynh đệ thử khuyên Mã cô nương coi?

Hồ Phỉ trong lòng rối bời, nghe lão bảo vậy cũng có lý, nhưng cảm thấy bên trong có điều rất bất ổn, còn bất ổn chỗ nào thì nhất thời chàng không sao nói ra được. Chàng trầm ngâm một lúc rồi nói:

– Còn Thương Bảo Chấn thì sao? Y cũng theo các vị đến đây ư?

Tần Nại Chi đáp:

– Thương Bảo Chấn được anh em họ Vương tiến cử, cũng làm đương sai trong phủ Phúc đại soái. Vì gã biết Mã cô nương nên cũng đi theo.

Hồ Phỉ sa sầm nét mặt, hỏi:

– Nói như vậy thì y đánh chết Từ Tranh đại ca là do Phúc công tử bảo hay sao?

Tần Nại Chi đáp:

– Không phải thế đâu. Phúc đại soái là người cao quý lại bận rộn công việc, làm gì biết Mã cô nương đã thành hôn với gã họ Từ? Đại soái chỉ nao lòng nhớ lại mối tình xưa mà phái mấy tên đương sai xuống phương Nam dò la tin tức. Lúc này đã có hai vị huynh đệ phi ngựa về kinh báo tin mừng. Phúc đại soái biết mình có hai vị công tử thì không nói cũng đủ biết y cao hứng đến cỡ nào?

Thế là bao nhiêu mối nghi ngờ trong đầu óc Hồ Phỉ đều được giải đáp. Chàng nhận thấy vụ này không thể oán trách Mã Xuân Hoa, mà cũng không thể oán trách Phúc Khang An. Thương Bảo Chấn giết Từ Tranh cố nhiên là không đúng, nhưng lúc này gã đã đền mạng thì chẳng còn điều gì để nói nữa.

Chàng nghĩ tới Từ Tranh là người trung hậu thật thà, biết rõ hai đứa con không phải cốt huyết của mình, mà thủy chung vẫn cứ ẩn nhẫn không nói ra rốt cuộc lại đi đến kết quả thảm khốc, thì quá đỗi đau lòng, không khỏi buông tiếng thở dài. Chàng nói:

– Tần đại ca! Vụ này đã phân tích rõ ràng, tiểu đệ can thiệp vào quả là đa sự.

Rồi chàng nhẹ nhàng nhảy xuống.

Lúc Hồ Phỉ nhảy xuống đất, Tần Nại Chi không hề có cảm giác cành cây lay động chút nào, hoàn toàn không tựa vào sức của cây, nếu không để ý thật kỹ thì không nhận ra. Lão nghĩ thầm:

– Khinh công của y quả thật cao thâm khôn lường, ta dẫu có luyện thêm chục năm nữa cũng không thể đạt đến cảnh giới đó. Không hiểu y còn nhỏ tuổi mà bản lĩnh sao lại luyện đến trình độ kinh người như vậy?

Tần Nại Chi vừa kinh dị, vừa chán nản. Lúc lão hạ mình xuống đất thì Hồ Phỉ đã vào thạch thất từ lâu rồi.

Trình Linh Tố đứng trước cửa sổ chờ lâu không thấy Hồ Phỉ trở về, trong lòng nóng nảy vô cùng. Khó khăn lắm mới thấy chàng về mà mặt buồn rượi, dường như có điều gì khó xử, nên cô cũng không hỏi, chỉ nói vài lời chuyện phiếm. Sau một lúc, Uông Thiết Ngạc đem đến một nồi cơm lớn và một chảo thịt quay, lại có thêm ba bình rượu đã hâm nóng. Hồ Phỉ rót rượu ra bát uống cạn.

Trình Linh Tố cầm cây ngâm châm toan thử rượu thịt xem có độc không thì chàng bảo:

– Đã có Mã cô nương ở đây, bọn chúng sao dám hạ độc?

Mã Xuân Hoa đỏ mặt lên, không lại ăn cơm. Hồ Phỉ cũng không mời, chàng uống hết sạch ba bình rượu để giải muộn và ăn hết một bát thịt lớn. Chàng chưa kịp ăn cơm thì đã say túy lúy, tựa vào bàn mà ngủ.

Sáng sớm hôm sau, Hồ Phỉ tỉnh dậy thấy trên lưng mình có khoác một tấm trường bào, chàng biết là Trình Linh Tố đêm qua đã đắp lên cho mình. Cô đứng bên cửa sổ, ngọn gió ban mai thổi làn tóc mây bay phơ phất. Hồ Phỉ nhìn bóng sau lưng mảnh dẻ của cô, trong lòng vừa bối rối vừa cảm kích, lại vừa thương mến. Chàng cất tiếng hỏi:

– Nhị muội!

Trình Linh Tố “ồ” một tiếng rồi quay lại. Hồ Phỉ thấy mắt cô có vẻ ngái ngủ ra chiều nhọc mệt, liền hỏi:

– Đêm qua Nhị muội không ngủ được hay sao? À, tiểu huynh quên không nói cho Nhị muội hay là có Mã cô nương ở đây, bọn họ không dám làm gì chúng ta đâu.

Trình Linh Tố đáp:

– Mã cô nương nửa đêm lén ra đi, đến giờ cũng chưa về. Cô rón rén cất bước chỉ sợ làm kinh động đại ca tỉnh giấc. Tiểu muội cũng giả vờ ngủ.

Hồ Phỉ giật mình quay đầu nhìn lại thấy chỗ Mã Xuân Hoa chỉ còn là cái ghế trống không. Hai người mở cửa đi ra. Trong rừng cây lặng lẽ không một bóng người. Cả mấy chục người ngựa đã đi hết chẳng còn một ai. Gốc cây chỉ còn buộc hai con ngựa, dường như dành cho Hồ Phỉ và Trình Linh Tố. Hai người đi thêm mấy trượng, thấy trong rừng có đắp hai nấm mộ, dù không còn tấm bia nhưng cũng biết một ngôi mộ của Từ Tranh, còn cái kia là của Thương Bảo Chấn.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Tuy một người là chồng, một người là kẻ giết chồng nhưng e rằng Mã cô nương coi hai người này không khác nhau mấy, cả hai đâu phải là người cô yêu, mà chỉ là những kẻ bất hạnh vì cô mà mất mạng.

Chàng nghĩ tới đây bất giác buông tiếng thở dài, rồi đem câu chuyện nghe được ở Tần Nại Chi thuật lại cho Trình Linh Tố hay. Trình Linh Tố nghe xong, thở dài buồn bã.

Một lúc sau cô nói:

– Té ra lão già gầy ốm đó là Tần Nại Chi, chưởng môn phái “Bát Cực quyền”. Lão mang ngoại hiệu là “Bát tý Na Tra”. Lão làm chó săn dưới trướng kẻ quyền quý, phẩm cách đê hèn, từ nay chúng ta đừng lý gì đến lão nữa.

Hồ Phỉ đáp:

– Phải rồi.

Trình Linh Tố nói:

– Mã cô nương trong lòng chỉ yêu Phúc công tử. Từ Tranh còn sống thì chỉ càng tăng thêm phần đau khổ. Hắn là một tiêu sư tầm thường thì bì thế nào được với Binh bộ thượng thư, Thống binh đại nguyên soái?

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế. Y chết còn yên thân hơn.

Nói xong, chàng đến trước hai ngôi mộ lạy mấy lạy, khấn vái:

– Từ đại ca! Thương công tử! Lúc sinh tiền bất luận hai vị có ơn oán gì với tiểu đệ, thì sau khi chết rồi cũng là xóa hết. Mã cô nương từ đây phú quý vô tận, hai vị dù đã chết không biết gì cũng đừng nhớ đến cô nữa.

Hai người dắt ngựa đi bộ, từ từ ra khỏi khu rừng. Trình Linh Tố hỏi:

– Chúng ta đi đâu bây giờ?

Hồ Phỉ đáp:

– Trước hết hãy tìm vào khách điếm để nhị muội ngủ nửa ngày cho lại sức rồi hẵng tính đến chuyện khác, đừng để muội tử của tiểu huynh phải vất vả.

Trình Linh Tố thấy chàng gọi mình là “muội tử của tiểu huynh” thì trong lòng vô cùng hoan hỷ, cô quay lại nhìn chàng mỉm cười rất đỗi ngọt ngào.

Trình Linh Tố ngủ trong khách điếm đến quá trưa mới tỉnh giấc. Cô một mình ra khỏi điếm, nói là đi mua mấy vật cần dùng. Lúc trở về, tay cầm hai bao giấy lớn, giơ ra cười hỏi:

– Đại ca! Đại ca thử đoán coi tiểu muội mua những gì nào?

Hồ Phỉ thấy trên giấy in nhãn hiệu “Lão cửu phúc y trang” liền hỏi lại:

– Chúng ta lại dùng râu giả để hóa trang chăng?

Trình Linh Tố mở bao giấy trắng ra, trong mỗi bao đựng một bộ quần áo mới một nam, một nữ. Bộ nam trang màu xanh nhạt, bộ nữ trang màu vàng nhạt, đều rất thanh nhã.

Ăn cơm tối xong, Trình Linh Tố bảo Hồ Phỉ mặc thử, thấy tay áo dài hơn hai tấc, chỗ nách cũng lùng thùng. Cô liền lấy kéo và kim chỉ ra, ngồi dưới đèn sửa lại.

Hồ Phỉ nói:

– Nhị muội! Chúng ta đến Bắc Kinh xem một chuyến.

Trình Linh Tố bĩu môi cười, đáp:

– Tiểu muội biết đại ca thế nào cũng muốn đi Bắc Kinh mà, nên mua hai bộ quần áo mới, không thì cô gái quê lên chốn kinh đô không khỏi bị người ta cười cho.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Nhị muội thật chu đáo. Hai kẻ nhà quê chúng ta lên kinh thành đẻ gặp gỡ những nhân vật dưới chân thiên tử, và để coi trong đại hội các chưởng môn nhân của Phúc đại soái rốt cuộc có vị anh hùng hào kiệt nào không?

Chàng nói hai câu với vẻ hờ hững nhưng trong giọng nói lại tràn đầy hào khí. Trình Linh Tố vừa khâu áo vừa hỏi:

– Đại ca có biết Phúc đại soái mở cuộc đại hội chưởng môn trong thiên hạ vì mục đích gì không?

Hồ Phỉ đáp:

– Hắn muốn thu tóm nhân tài, khiến bao nhiêu anh hùng thiên hạ đều chui hết vào trong lưới của hắn. Nhưng bậc anh hùng đại hào kiệt chưa chắc tới dự.

Trình Linh Tố mỉm cười nói:

– Những thiếu niên anh hùng như đại ca chắc cũng không tham dự.

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu huynh đã có gì để đáng là anh hùng? Ta muốn nói những nhân vật thành danh như Miêu Nhân Phụng chẳng hạn.

Chàng thở dài nói tiếp:

– Nếu như gia gia của đại ca còn sống thì chắc sẽ đến phá cuộc đại hội chưởng môn này cho đến trời long đất lở mới khiến cho mọi người thống khoái.

Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca đi quấy phá Phúc đại soái cũng chẳng hay sao? Tiểu muội đoán chừng còn một người nữa nhất định cũng đi.

Hồ Phỉ hỏi:

– Ai vậy?

Trình Linh Tố tủm tỉm cười, đáp:

– Đã biết mà còn giả vờ hỏi. Đại ca cứ ung dung nói thẳng ra là xong.

Hồ Phỉ đã sớm biết tâm ý cô, thấy không cần vờ vịt nữa, liền nói:

– Chưa chắc y đã tới.

Chàng dừng một chút, rồi tiếp:

– Viên cô nương đó là bạn hay là thù, tiểu huynh vẫn chưa rõ.

Trình Linh Tố đáp:

– Nếu mỗi kẻ thù đều tặng tiểu muội một con ngọc phụng, thì tiểu muội mong rằng khắp thiên hạ đều là kẻ thù hết.

Giữa lúc ấy, bỗng nghe ngoài cửa số có thanh âm một cô gái cất lên:

– Hay lắm! Ta cũng tặng cô một con.

Tiếng nói vừa dứt đã nghe đánh “vèo” một cái, một vật xuyên thủng qua lần giấy cửa sổ bay về phía Trình Linh Tố. Hồ Phỉ cầm cây thước gỗ đo quần áo trên bàn đập vào vật kia cho rớt xuống mặt bàn, thuận tay chàng quạt một cái để tắt đèn đi. Tiếp theo lại nghe tiếng người ngoài cửa sổ nói:

– Khêu đèn đàm đạo ban đêm, thật là tuyệt hảo!

Hồ Phỉ nghe giọng nói phảng phất giống thanh âm của Viên Tử Y, ngực chàng nóng lên, liền xông ra cửa, hỏi:

– Có phải Viên cô nương đó không?

Lại nghe tiếng bước chân lạo xạo, trong khoảnh khắc đã mất hút, Hồ Phỉ thắp đèn lên, thấy Trình Linh Tố mặt mày tái nhợt, ngồi lặng thinh không lên tiếng.

Hồ Phỉ nói:

– Chúng ta ra xem là ai.

Trình Linh Tố đáp:

– Đại ca cứ ra xem đi.

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng nhưng không đi. Chàng cầm lấy vật rớt xuống bàn coi lại thì ra viên đá nhỏ. Chàng nghĩ thầm:

– Người này hành động xuất quỷ nhập thần. Không hiểu y đến bên cửa từ lúc nào mà mình chẳng biết gì cả.

Chàng hiểu rõ Trình Linh Tố trong lòng không vui, nhưng chàng không chịu được, bèn đẩy cửa sổ, nhảy ra ngoài coi, chỉ thấy bốn bề tịch mịch không một bóng người.

Hồ Phỉ trở về phòng ngượng ngùng không biết nói gì, thì Trình Linh Tố lên tiếng:

– Đêm đã khuya rồi, đại ca về phòng ngủ đi!

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu huynh chưa mệt.

Trình Linh Tố nói:

– Nhưng tiểu muội mệt rồi, cần ngủ lấy sức để sáng mai lên đường sớm.

Hồ Phỉ đáp:

– Phải rồi!

Rồi chàng về phòng. Đêm hôm ấy Hồ Phỉ trắn trọc không ngủ được. Lúc thì nghĩ tới Viên Tử Y lúc thì nghĩ tới Trình Linh Tố, có lúc Mã Xuân Hoa, Từ Tranh và Thương Bảo Chấn, đến mãi canh tư mới mơ màng ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau chàng chưa dậy, Trình Linh Tố đã gõ cửa phòng đi vào, tay cô cầm bộ quần áo mới, cười hì hì nói:

– Đại ca dậy lẹ đi. Bên ngoài có cái gì đang chờ đại ca đó.

Cô đặt tấm áo xuống bàn rồi trở gót quay ra. Hồ Phỉ trở mình ngồi dậy, mặc áo vào để thử thấy rất vừa vặn thì nghĩ thầm:

– Đêm qua lúc ta về phòng, còn một ống tay áo chưa khâu xong. Chắc lúc ta đi rồi, nàng còn ngồi lại khâu lâu lắm mới xong.

Chàng mặc áo mới ra khỏi phòng, nhìn Trình Linh Tố chắp tay, nói:

– Đa tạ nhị muội!

Trình Linh Tố hỏi:

– Đa tạ cái gì? Người ta còn đem tuấn mã đến tặng đại ca kìa.

Hồ Phỉ kinh ngạc hỏi:

– Tuấn mã nào?

Chàng ra sân, thấy một con ngựa toàn thân trắng như tuyết buộc ở đó. Chính là con ngựa Triệu Bán Sơn đã cưỡi đến Thương gia bảo ngày trước, về sau Viên Tử Y lại cưỡi con bạch mã này.

Trình Linh Tố nói:

– Sáng sớm hôm nay, tiểu muội vừa dậy đã nghe điếm tiểu nhị hô hoán om sòm, nói là có kẻ trộm mở cửa vào nhà, không hiểu đã lấy cắp vật gì. Nhưng điều tra khắp thì chẳng ai mất mát chi hết, ngoài sân lại có thêm một con ngựa. Đây là đồ vật buộc ở trên yên.

Cô vừa nói vừa đưa cái bọc lụa nhỏ, trên để hàng chữ “Hồ tướng công và Trình cô nương cùng mở coi”. Nét bút vô cùng xinh đẹp. Hồ Phỉ mở bọc lụa ra không khỏi ngẩn người. Trong bọc lại có con ngọc phụng, giống hệt con ngọc phụng của Viên Tử Y đã tặng chàng lúc trước.

Chàng tự hỏi:

– Chẳng lẽ con ngọc phụng kia của ta đã bị thất lạc hay là đã bị nàng lấy trộm rồi?

Chàng đưa tày sờ vào bọc thì thấy bàn tay mát lạnh, con ngọc phụng hãy còn nằm nguyên trên đó. Chàng lấy ra xem, hai con quả nhiên được chạm trổ giống hệt nhau. Chỉ khác một con quay đầu về bên trái, một con quay đầu về bên phải.

Trong bọc còn mảnh giấy trắng nhỏ. Trên giấy viết “Ngựa về nguyên chủ, phụng tặng hiệp nữ”. Hồ Phỉ lại ngẩn người ra, tự hỏi:

– Con ngựa này có phải của ta đâu, sao lại bảo là “ngựa về nguyên chủ’’? Chẳng lẽ nàng yêu cầu ta đem trả cho Triệu tam ca?

Chàng cầm tấm thiếp và con ngọc phụng đưa cho Trình Linh Tố, nói:

– Viên cô nương cũng tặng cho nhị muội một con ngọc phụng.

Trình Linh Tố coi hàng chữ trong thiếp rồi đáp:

– Tiểu muội có phải hiệp nữ đâu? Cái này không phải y tặng cho tiểu muội rồi.

Hồ Phỉ nói:

– Trên bọc đã chẳng viết rõ “Trình cô nương” là gì? Tối hôm qua, y cũng nói “Được rồi! Ta sẽ tặng cô một con” mà.

Trình Linh Tố thản nhiên đáp:

– Đã vậy thì tiểu muội cứ giữ lấy. Viên cô nương có lòng hậu ái như vậy, tiểu muội không có gì để đền đáp.

Hai người lên đường tiếp tục tiến về phía bắc. Dọc đường không gặp việc gì khác lạ. Viên Tử Y cũng không xuất hiện nhưng Hồ Phỉ và Trình Linh Tố trong lòng lúc nào cũng nghĩ đến cô. Hai người nói chuyện dưới cửa sổ cũng tưởng tượng đến Viên Tử Y bên ngoài nghe lỏm. Qua đường núi gập ghềnh, hai người cũng tưởng chừng như có nàng đang ẩn nấp bên kia sườn núi. Hai người tuyệt không nhắc đến tên nàng, nhưng cái miệng càng tránh né, thì trong lòng lại càng nghĩ đến. Hai người đều nghĩ: “Đến Bắc Kinh rồi thế nào cũng gặp cô ta”. Có lúc hai người nóng lòng mong sớm gặp được Viên Tử Y, có khi lại hy vọng gặp nàng càng muộn càng tốt.

Đường đến Bắc Kinh còn xa lắc, hai người cứ thủng thẳng mà đi. Đường xa diệu vợi lại trải gió dầm sương khiến cho Trình Linh Tố dung nhan tiều tụy. Nhưng rồi cũng đến Bắc Kinh. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cưỡi ngựa vào cửa thành.

Lúc qua cửa thành, Hồ Phỉ liếc mắt nhìn Trình Linh Tố thấy cặp mắt cô dường như long lanh ngấn lệ, nhưng cô quay đầu đi, nên chàng không nhìn rõ được khuôn mặt. Hồ Phỉ đột nhiên giật mình, tự hỏi:

– Đến Bắc Kinh lần này, là đúng hay sai đây?

Lúc này đang ở vào giai đoạn giữa đời Càn Long, bốn bề thanh bình. Đất kinh đô trù phú, bao nhiêu vinh hoa trong thiên hạ tựa hồ quy tụ cả về đó. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố theo cửa Chính Dương mà vào thành, mướn hai phòng trọ trong một khách điếm tại phía nam. Đến trưa hai người ăn mì xong, liền dắt nhau đi dạo chơi trên các đường phố. Cảnh phồn hoa rực rỡ không bút nào tả xiết. Hai người không biết đường, cứ thuận chân mà đi, không cần định hướng. Lúc dạo chơi, Hồ Phỉ mua mấy xâu kẹo cầm tay để hai người vừa đi vừa ăn.

Bỗng nghe bên đường có tiếng thanh la “beng beng” nổi lên. Lại có một người lớn tiếng quát tháo. Nguyên tại một bãi đất trống có một đám người đang diễn võ kiếm tiền. Hồ Phỉ mừng rỡ nói:

– Nhị muội! Mình lại coi chơi.

Hai người chen vào đám đông thấy một hán tử thô tráng cầm đơn đao, chắp tay nói:

– Tiểu đệ xin biểu diễn một đường “Tứ Môn đao pháp”, mong các vị đại gia chỉ giáo. Trong đao quyết có câu:

“Ngư vũ thôi phong quyết thắng cường

Thiển khai thâm nhập địch nhân thương 

Đảm dục đại hề tâm dục tế

Cân tu thư hế tý tu trường

Công phu vi luyện phương vân thục

Thục năng sinh xảo đại danh dương”.

(Quyết đánh thắng mọi thói cương cường bức hiếp

Triển khai thì cạn nhưng vào sâu để đả thương kẻ địch

Lòng can đảm cần lớn còn tâm cần tinh tế

Gân cần thư giãn, tay thì cần phải dài

Công phu rèn luyện lâu ngày mới được gọi là thuần thục

Có thuần thục rồi thì mới dương được đại danh)

Hồ Phỉ nghe nói, nghĩ bụng:

– Mấy câu đao quyết này quả là đúng lắm. Xem chừng võ công người này vị tất đã vào hạng cao cường như vậy.

Hán tử kia đứng che môn hộ, vung đơn đao lên múa những kiểu đâm, chém, đánh, móc, lướt, hớt, từ chiêu “Đại bàng triển xí”, “Kim kê độc lập” đến những chiêu “Độc phách Hoa Sơn”, “Phân hoa phất liễu”, chiêu thức nào cũng đúng chương pháp, có điều cước bộ hời hợt, thế đao lệch lạc, công phu thực không bõ một trận cười.

Hồ Phỉ cười thầm nghĩ bụng:

– Ta thường nghe nói người đất kinh sư phần nhiều ăn nói khoa trương khoác lác. Hán tử này mồm mép trơn tru mà sử chiêu như vậy đó.

Chàng toan cùng Trình Linh Tố bỏ đi, thì trong đám đông đột nhiên có người ha hả, lớn tiếng hỏi:

– Gã hán tử cao kều kia! Ngươi sử đao pháp gì mà như chó đánh rắm vậy?

Hán tử tức giận thu đao về, nhìn người kia, đáp:

– Đường đao của ta là “Tứ môn đao” chánh tông, chẳng lẽ không đúng ư? Vậy ta muốn thỉnh giáo.

Một đại hán ở trong đám đông bước ra cười nói:

– Được lắm! Ta dạy cho ngươi.

Người này mặc sắc phục võ quan, thân thể cao lớn, tư thế hiên ngang, trông rất uy vũ. Y bước lại đón lấy thanh đơn đao trong tay hán tử mãi võ. Đột nhiên y nhìn thấy Hồ Phỉ, ngơ ngác một chút rồi lộ vẻ vui mừng hô:

– Hồ đại ca! Đại ca cũng đến Bắc Kinh ư? Ha ha! Đại ca là một tay hảo thủ về đao pháp hiện nay. Xin đại ca trổ một vài đường để gã tiểu tử này mở rộng tầm mắt và cho gã biết đao pháp là thế nào?

Lúc y ở trong vòng người bước ra, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đã nhận ra y chính là Uông Thiết Ngạc ở Ưng trảo nhạn hành môn. Ngày y vây hãm Mã Xuân Hoa giả làm cường đạo, mà thực ra là một tên võ quan có chức danh.

Hồ Phỉ biết y lòng dạ thẳng ngay, miệng lưỡi nhanh nhảu, chẳng phải hạng giảo quyệt. Chàng liền mỉm cười đáp:

– Tài mọn của tiểu đệ đã ăn thua gì? Uông đại ca! Đại ca phô trương thân thủ hay hơn.

Uông Thiết Ngạc biết mình bản lãnh còn kém Hồ Phỉ xa. Chàng đã ở đây thì làm sao y còn dám múa may? Y ném đơn đao xuống đất, cười nói:

– Lại đây! Hồ đại ca! Còn vị cô nương này họ… họ Trình. Phải rồi! Trình cô nương! Chúng ta cùng thống ẩm một trận đã. Hai vị đến kinh thành. Tại hạ phải làm chủ nhân một phen mới được.

Dứt lời y nắm tay Hồ Phỉ kéo ra khỏi đám đông. Hán tử mãi võ không dám gây gổ với võ quan, lẳng lặng lượm thanh đơn đao lên, tiếp tục biểu diễn.

Uông Thiết Ngạc vừa đi vừa nói lớn:

– Hồ đại ca! Chúng ta đúng là không đánh nhau không thành bạn hữu. Bản lãnh của đại ca, tại hạ thực tình khâm phục lắm. Ngày mai tại hạ dẫn đại ca đến giới thiệu với Phúc đại soái. Lão nhân gia mà gặp được một nhân tài như đại ca tất phải vui mừng trọng dụng. Đến khi đó, tiểu đệ còn mong được đại ca chiếu cố nữa là khác…

Nói đến đó, đột nhiên y hạ thấp giọng xuống nói:

– Còn vị Mã cô nương đó, bọn tiểu đệ đón ba mẹ con cô về kinh rồi. Hiện giờ ở trong phủ Phúc đại soái, tha hồ mà hưởng vinh hoa phú quý. Phúc đại soái cái gì cũng có hết, chỉ hiếm đường con cái. Mã cô nương biết đâu chỉ mai mốt là trở thành đại soái phu nhân. Ha ha! Lão ca mà biết nhau trước thì hôm ấy chúng ta còn đánh đấm làm gì!

Y càng lúc càng nói lớn, lại nổi lên cười ha hả, tựa hồ như trên đường phố không còn ai. Hồ Phỉ nghe y nói, trong lòng cảm thấy không vui thích gì.

Chàng nhận thấy trước khi Mã Xuân Hoa thành hôn với Từ Tranh đã có tư tình với Phúc Khang An. Hai thằng nhỏ đó là cốt nhục của Phúc Công tử mà trước mắt thì trượng phu của nàng đã chết rồi, nàng về ở với Phúc Khang An cũng chẳng có điều gì sai trái, nhưng nghĩ tới cái chết thê thảm của Từ Tranh trong rừng cây, chàng không khỏi buồn rầu.

Chuyện trò một lúc, ba người đã đến trước một tòa đại tửu lâu. Trên cửa đề ba chữ vàng “Tụ Anh lâu” dạng đại tự. Tửu bảo vừa nhìn thấy Uông Thiết Ngạc đã niềm nở chạy ra đón tiếp, mời mọc:

– Uông đại nhân! Bữa nay đại nhân đến sớm. Mời đại nhân ngồi uống mấy chung, được chăng?

Uông Thiết Ngạc đáp:

– Được! Bữa nay ta mời hai vị bằng hữu danh giá đến đây. Rượu nhắm phải đặc biệt thịnh soạn nghe chưa?

Tửu bảo cười nói:

– Cái đó cần gì đại nhân phải dặn bảo?

Gã dẫn ba người vào chỗ rất lịch sự, rồi bưng trà rượu mời mọc ân cần. Hiển nhiên Uông Thiết Ngạc là khách thường xuyên ở tửu lâu này. Hồ Phỉ thấy khách trong tửu lâu mười phần có đến sáu, bảy mặc sắc phục võ quan. Nếu không mặc sắc phục võ quan thì bọn họ phần lớn cũng đều là những hào khách anh hùng trong giới võ lâm. Xem ra tòa tửu lâu này do một võ nhân dựng nên.

Món ăn ở kinh sư quả nhiên hơn hẳn những nơi khác. Hiện thời đang mùa nóng, tửu bảo đưa lên những món ăn tinh khiết ngon lành nhưng không béo. Hồ Phỉ khen không ngớt miệng. Uông Thiết Ngạc muốn giữ thể diện nên kêu thức ăn đầy bàn. Hai người đối ẩm mười mấy chung, bỗng nghe phòng bên có toán người kéo vào. Lát sau tiếng người huyên náo ầm ĩ để mở sòng bài.

Một người lớn tiếng hô:

– Cửu điểm thiên cống! Ăn hết!

Hồ Phỉ nghe giọng rất quen, chàng hơi sửng sốt một chút. Uông Thiết Ngạc cười nói:

– Cũng là bằng hữu thân thuộc đây mà.

Rồi y lớn tiếng hỏi:

– Tần đại ca! Đại ca thử đoán coi có ai đến đây?

Hồ Phỉ lập tức nhận ra là Tần Nại Chi, chưởng môn “Bát Cực quyền”. Lại nghe y ở phòng bên kia lớn tiếng đáp:

– Ai mà biết được ngươi đem loại bạn bè chó lợn nào đến? Sang cả đây đánh mấy tay được không?

Uông Thiết Ngạc cười nói:

– Đại ca thóa mạ tiểu đệ thì không sao, nhưng đắc tội với vị hảo bằng hữu đây thì không xong đâu.

Y đứng dậy kéo tay Hồ Phỉ nói:

– Hồ đại ca! Chúng ta qua bên đó xem đi.

Hai người chạy sang, vừa hé rèm lên đã nghe Tần Nại Chi hô lớn:

– Tam điểm, mai hoa một đôi, ăn cửa thiên, chung cho nhà trên!

Lão ngửng đầu lên thấy Hồ Phỉ, ngẩn người một chút, rồi reo lên:

– Ủa! Huynh đệ đấy ư? Thật không ngờ! Thật không ngờ!

Lão đẩy các quân bài, đứng dậy, đập tay vào trán bốp bốp mấy cái cười nói:

– Đáng chết! Đáng chết! Tại hạ nói nhăng rồi. Ai mà biết đại ca giá đáo. Lại đây! Lại đây làm nhà cái đi.

Hồ Phỉ đảo mắt nhìn quanh một lượt thấy mười mấy võ quan tụ tập trong phòng, vây quanh một cái bàn bài cẩu. Tần Nại Chi làm nhà cái. Trong mười mấy người này thì quá nửa là những người giả làm đại đạo ngăn chặn Phi Mã tiêu cục và cùng chàng giao thủ hôm trước. Gã họ Chử sử lôi chấn đáng, hán tử họ Thượng Quan sử thiểm điện chùy, hán tử họ Nhiếp sử kiếm đều ở cả đây. Mọi người thấy Hồ Phỉ đột nhiên xuất hiện thì nhốn nháo một lúc, rồi yên tĩnh trở lại.

Hồ Phỉ chắp tay vái bốn mặt, cười nói:

– Đa tạ các vị đã tặng cho ngựa cưỡi.

Những người kia cũng nói khiêm tốn vài câu. Hán tử họ Nhiếp hô:

– Hồ đại ca! Đại ca làm cái đi. Có đem theo tiền bạc không? Bữa nay tiểu đệ vận hên lắm. Đại ca dùng trước đi.

Gã nói rồi đẩy ba gói bạc đến trước mặt Hồ Phỉ. Hồ Phỉ bản tính thích kết bạn, tuy chàng không có hảo cảm với bọn quan lại, nhưng những người này đối với chàng đều cực kỳ tôn trọng mà chàng lại khoái đánh bạc, liền cười đáp:

– Xin Tần đại ca tiếp tục làm cái. Tiểu đệ còn thử vận khí xem sao đã. Nhiếp đại ca! Đại ca hãy thu bạc về. Tiểu đệ thua sẽ hỏi tới đại ca.

Chàng quay lại hỏi Trình Linh Tố:

– Nhị muội! Nhị muội có đánh không?

Trình Linh Tố bĩu môi, cười đáp:

– Tiểu muội không đánh bạc, mà chỉ giúp đại ca khuân bạc về nhà.

Tần Nại Chi lại ngồi xuống chỗ nhà cái, xóc bài và gieo xúc xắc. Hồ Phỉ và Uông Thiết Ngạc đặt cửa. Bọn võ quan mới gặp Hồ Phỉ lần đầu không khỏi bỡ ngỡ, nhưng bài cẩu đã xóc rồi, thấy chàng nói cười vui vẻ, không nhắc gì đến chuyện cũ, ai nấy lại chú ý đánh bạc nên không cần giữ ý tứ gì nữa.

Hồ Phỉ bàn được bàn thua, chẳng có gì đáng kể. Chàng nghĩ thầm trong bụng:

– Nay là mồng chín tháng tám rồi, còn sáu ngày nữa là đến tiết Trung Thu. Cuộc đại hội chưởng môn này là do Phúc đại soái triệu tập, đã định ngày trung thu là mở đại yến. Tên gian tặc Phụng Thiên Nam làm chưởng môn phái Ngũ hổ dù không tới đây, ta cũng có thể dò hỏi được tin tức. Bọn này đều là thủ hạ đắc lực dưới trướng Phúc đại soái, ta có kết giao với họ cũng chẳng ngại gì. Ta chẳng làm chưởng môn gì ráo, nhưng chỉ cần họ dẫn dắt mình vào hội, bồi tiếp mình một chung rượu là được rồi.

Chàng nghĩ vậy, cứ tùy ý mà đặt tiền chẳng màng chuyện ăn thua. Nhưng Hồ Phỉ gặp vận hên, nên chẳng mấy chốc đã ăn được ba, bốn trăm lượng bạc. Đánh một hồi lâu, trời đã về chiều, tiền đặt mỗi cửa dần dần lớn lên. Đột nhiên nghe tiếng giày lạo xạo, có ba người vén cửa rèm bước vào. Uông Thiết Ngạc vừa thấy đã vội đứng lên cung kính chào hỏi:

– Đại sư ca, nhị sư ca, hai vị cũng tới đây rồi!

Đám người đang bu quanh sòng bài nhao nhao chào hỏi, người thì chào “Chu đại gia, Tăng đại gia”, kẻ thì chào “Chu đại nhân, Tăng đại nhân”, nét mặt ai cũng lộ vẻ cung kính.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nghe bọn họ chào hỏi, liền nghĩ thầm:

– Thì ra đây là Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu của Ưng trảo nhạn hành môn. Uy phong của hai người này quả không phải nhỏ.

Chu Thiết Tiêu vóc người nhỏ thó, cao không quá năm thước, ước chừng mới năm mươi tuổi nhưng tóc đã bạc trắng. Tâng Thiết Âu khoảng gần năm mươi tuổi, thân hình cao gầy, tay cầm một lọ thuốc, trên áo có đeo một sợi xích bằng vàng, ra vẻ khí phái của một viên quan quý tộc. Hồ Phỉ vừa nhìn thấy người thứ ba thì không khỏi ngẩn người một chút, thì ra người đó chính là Ân Trọng Tường của Thiên Long môn, mà năm xưa chàng đã từng gặp ở Thương gia bảo. Có điều bây giờ gã tóc đã hoa râm, có vẻ già đi không ít.

Ân Trọng Tường nhìn lướt qua mặt Hồ Phỉ, cho đó là một kẻ nhà quê nên không để ý. Nên biết lúc hai người gặp gỡ năm xưa, Hồ Phỉ chỉ là đứa nhỏ mới mười ba, mười bốn tuổi. Chàng đã cao lớn, gương mặt khác xưa nhiều thì làm sao gã nhận ra?

Tần Nại Chi đứng lên giới thiệu:

– Chu đại ca, Tăng nhị ca, tiểu đệ xin giới thiệu với hai vị một bằng hữu mới. Đây là Hồ đại ca bản lĩnh phi thường, thật là một người bạn rất tốt. Hôm nay Hồ đại ca mới đến Bắc Kinh lần đầu. Xin ba vị làm quen với nhau đi.

Chu Thiết Ngạc nhìn Hồ Phỉ khẽ gật đầu. Còn Tăng Thiết Âu thì cười nói:

– Ngưỡng mộ đã lâu!

Hai người này võ công trác tuyệt, tiếng tăm lừng lẫy ở kinh đô nên không thèm coi một gã thiếu niên nhà quê vào đâu.

Uông Thiết Ngạc nhìn Trình Linh Tố trong lòng lấy làm ngạc nhiên, tự hỏi:

– Cô này bảo quen biết đại sư ca và nhị sư ca của ta, mà sao chẳng chào hỏi gì nhau?

Y cứ ngỡ hôm ấy Trình Linh Tố nói thật. Trình Linh Tố đã đoán được ý nghĩ của hắn, tủm tỉm cười gật đầu, rồi chớp mắt mấy cái, Uông Thiết Ngạc cho là trong vụ này tất có duyên cớ nên hắn không dám hỏi nhiều.

Tần Nại Chi làm cái hai bàn nữa rồi nhường cho Chu Thiết Tiêu. Lúc này bọn Tăng Thiết Âu, Ân Trọng Tường càng đặt tiền tăng dần lên. Hồ Phỉ số rất đỏ, ăn luôn mấy bàn. Mới không đầy nửa giờ chàng đã ăn được gần một ngàn lạng bạc. Chu Thiết Tiêu làm cái xấu quá, tiền bạc đem đi mười phần thua hết bảy, tám. Hắn đánh một bàn nữa, lại chung tiền cho cả sòng, liền đẩy bài ra nói:

– Ta làm cái không được. Nhị đệ làm nhà cái đi.

Tăng Thiết Âu làm cái bàn thua bàn được, vận không đỏ cũng chẳng xấu. Hồ Phỉ vẫn vận đỏ được thêm bảy, tám trăm lạng nữa. Trước mặt chàng để đống bạc sù sụ.

Tăng Thiết Âu cười nói:

– Lão đệ nhà quê này, Đồ thần Bồ Tát đón gió cho lão đệ rồi. Lão đệ làm cái đi.

Hồ Phỉ đáp:

– Được!

Chàng xóc bài, gieo xúc xắc rồi lật bài lên. Người đầu được tám điểm, người thứ hai ít điểm hơn. Chàng ăn được hai nhà.

Chu Thiết Tiêu thua bạc mặt vẫn thản nhiên. Tăng Thiết Âu càng ung dung hơn, thỉnh thoảng lại pha trò mấy câu. Nhưng Ân Trọng Tường cáu tiết, không ngớt lảm nhảm chửi bới. Sau hắn thua hết chỉ còn hai trăm lạng, liền dốc hết đánh một canh bạc nữa. Gã đặt ở cửa Hạ môn, khi mở bài thì ba điểm ăn ba điểm, chín điểm ăn chín điểm, gã lại thua nữa. Ân Trọng Tường vẻ mặt xám xanh, đập bàn đánh binh một tiếng, bao nhiêu quân bài, tiền bạc cùng  xúc xắc trên bàn đều nảy tung lên. Hắn lớn tiếng thóa mạ:

– Trong quân xúc xắc của tên tiểu tử nhà quê này có ma. Có khi nào lại kỳ dị thế, ba điểm ăn ba điểm, chín điểm ăn chín điểm. Dù bài có tốt đến đâu thì cũng chẳng thể tốt như thế được.

Tần Nại Chi vội can:

– Ân đại ca! Đại ca không nên nói bừa. Hồ đại ca đây là một hảo bằng hữu!

Mọi người hết nhìn Ân Trọng Tường lại nhìn Hồ Phỉ. Những người đã được biết thân thủ của Hồ Phỉ không khỏi nghĩ thầm:

– Ân Trọng Tường bảo y đánh bạc gian trá, y quyết chẳng chịu bỏ qua Nếu xảy ra ẩu đả thì Ân Trọng Tường lãnh đủ.

Không ngờ Hồ Phỉ tươi cười, đáp:

– Đã đánh bạc thì phải có hơn thua Ân đại ca làm cái vậy.

Ân Trọng Tường đứng phắt đậy, cởi thanh bội kiếm ở bên hông ra. Mọi người tưởng hắn sắp động thủ, nhưng cũng không khuyên can. Nên biết võ quan đánh bạc rồi dánh nhau là chuyện bình thường. Không ngờ hắn đặt thanh bội kiếm xuống bàn, nói:

– Thanh kiếm này của ta ít ra cũng đáng giá bảy, tám trăm lạng bạc. Vậy ta đặt nó cũng như đặt năm trăm bạc để đánh với ngươi.

Thanh kiếm này vỏ bọc ngoài giát vàng khảm ngọc cực kỳ hoa lệ. Nguyên một cái vỏ không thôi giá trị cũng đã không nhỏ.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Hay lắm! Phải đặt thành tám trăm lạng mới công bình!

Ân Trọng Tường cầm bộ xúc xắc lên, nói:

– Ta đánh tay đôi với gã tiểu tử nhà quê này, ta không chịu người ngoài đặt cửa, chén bạc này nhất định ăn thua!

Hồ Phỉ đếm tám trăm lạng bạc, đẩy ra, nói:

– Các hạ gieo xúc xắc đi!

Ân Trọng Tường cầm hai con xúc xắc trong tay lắc mấy cái, hà hơi thối rồi gieo xuống. Một con năm điểm, một con bốn điểm, cộng thành chín điểm. Hắn lại bắt lấy bốn con bài, coi rồi lộ vẻ vui mừng, nói:

– Tên tiểu tử nhà quê kia, lần này ngươi đừng hòng giở trò ma được nữa!

Tay trái hắn lật bài lên được chín điểm, tay phải hắn lật bài lên được một đôi “Thiên bài”. Hồ Phỉ không lật bài, dùng ngón tay sờ phía dưới rồi để trên bàn.

Ân Trọng Tường hô:

– Tiểu tử nhà quê, lật bài lên đi!

Hắn chắc mẩm ăn bàn này, vươn tay ra gom hết tám trăm lạng bạc dồn về trước mặt, Uông Thiết Ngạc la lên:

– Đừng nóng nảy, coi xong bài rồi sẽ tính!

Hồ Phỉ đưa ba ngón tay khẽ đập lên hai quân bài ở trước, đoạn lại đập lên hai quân bài ở sau, rồi chàng xóa tung các quân bài lên, cười đáp:

– Các hạ thắng rồi!

Ân Trọng Tường rất đắc ý, toan mở miệng huênh hoang thì đột nhiên bật tiếng la hoảng:

– Ô hay!

Hắn nhìn xuống bàn, mặt thộn ra. Mọi người nhìn theo mục quang của Ân Trọng Tường thì rõ ràng trên mặt bàn sơn son in rõ rệt dấu bốn quân bài, hai quân bài trước là đôi “Trường tam”, còn hai quân bài sau, một con ba điểm, một con sáu điểm, hợp lại thành “Chí Tôn Bảo”.

Hồ Phỉ chỉ dùng ba ngón tay đập lên các quân bài mà các nút điểm in hằn xuống bàn, nổi bật hẳn lên, thì hiển nhiên chàng đã vận nội lực vào các ngón tay. Bọn người đánh bạc thấy nội lực Hồ Phỉ lợi hại như vậy, không hẹn mà cùng reo hò hoan hô vang dội.

Ân Trọng Tường mặt đỏ bừng, gã đẩy cả thanh bội kiếm lẫn đống tiền đến trước mặt Hồ Phỉ rồi đứng lên trở gót toan đi.

Hồ Phỉ cầm thanh bội kiếm đưa lên, nói:

– Ân đại ca! Tiểu đệ không biết sử kiếm thì lấy kiếm của đại ca làm chi?

Chàng cầm kiếm hai tay đưa lên trả. Ân Trọng Tường không đón lấy kiếm mà hỏi lại:

– Xin hỏi quý tính đại danh của tôn giá là chi?

Hồ Phỉ chưa kịp đáp, Uông Thiết Ngạc đã cướp lời:

– Vị bằng hữu này họ Hồ tên Phỉ.

Ân Trọng Tường lẩm nhẩm nhắc lại:

– Hồ Phỉ, Hồ Phỉ?

Đột nhiên hắn giật mình, hỏi:

– À, ở Thương gia bảo tại Sơn Đông…

Hồ Phỉ cười, đáp:

– Phải rồi! Tại hạ đã có duyên cùng Ân gia gặp gỡ một lần mà Ân gia không nhớ.

Ân Trọng Tường mặt xám như tro tàn, cầm thanh bội kiếm ném xuống, nói:

– Thảo nào! Thảo nào!

Rồi vén rèm lên, rảo bước chạy ra ngoài.

Các võ quan trong phòng râm ran bàn luận. Kẻ thì khen ngợi nội lực của Hồ Phỉ, người thì chê Ân Trọng Tường thua bạc mà tỏ ra thô lỗ làm mất cả phong độ.

Chu Thiết Tiêu từ từ đứng dậy, trỏ đống bạc trước mặt Hồ Phỉ nói:

– Hồ huynh đệ, đống bạc này khoảng bao nhiêu lạng?

Hồ Phỉ đáp:

– Ước chừng bốn, năm ngàn lạng.

Chu Thiết Tiêu xoa bài trên mặt bàn, từ từ xếp lại thành bốn cọc rồi móc trong bọc ra cái túi vải lớn để xuống trước mặt, nói:

– Nào! Ta đánh với huynh đệ một ván nữa. Nếu ta thắng thì lấy bốn, năm ngàn lạng bạc này và thanh bội kiếm, nếu huynh đệ thắng thì lấy cái túi này.

Mọi người nhìn cái túi không thấy đề một chữ nào, chẳng hiểu trong đó có cái gì thì nghĩ thầm:

– Y đánh được bấy nhiêu bạc há chẳng phải chuyện dễ, khi nào lại chịu đánh một ván để thua hết sạch? Lại chẳng biết túi đựng gì, hay chỉ có mảnh giấy trắng thì hóa chẳng oan uổng lắm ư?

Ngờ đâu Hồ Phỉ chẳng nghĩ ngợi gì, đẩy cái đống tiền trước mặt ra, cũng chẳng hỏi trong túi vải đựng gì, nói ngay:

– Đặt đi!

Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu đưa mắt nhìn nhau, trên mặt lộ vẻ tán thưởng, tựa hồ như muốn nói:

– Chàng thiếu niên này tiêu sái hào sảng, khí độ không phải tầm thường.

Chu Thiết Tiêu cầm bộ xúc xắc lên gieo xuống được bảy điểm, nhường cho Hồ Phỉ rút bài trước mặt, còn lão rút tay bài thứ ba. Lão nhìn lướt qua rồi lật những quân bài bằng xương lên, vỗ xuống bàn thành hai tiếng lách cách liên tiếp. Mọi người đứng ngây cả mặt ra rồi bật tiếng hoan hô. Thì ra bốn quân bài sắp thành hai hàng rất ngay ngắn, ngập sâu xuống bàn. Mặt bài và mặt bàn bằng nhau. Dù thợ khảm có khoét lỗ đặt quân bài vào cũng không được phẳng lỳ như vậy. Tay bài của lão cùng bình thường, tiền ngũ hậu lục

Hồ Phỉ đứng lên, cười nói:

– Chu đại gia! Xin lỗi nhé, tại hạ thắng rồi!

Chàng vung tay mặt lên đánh “chát” một tiếng, cả bốn quân bài từ trên không gieo xuống cũng chia thành hai hàng tiền hậu, ngập sâu vào mặt bàn rất ngay ngắn và phẳng lỳ với mặt gỗ. Cú đập đó, Chu Thiết Tiêu đã dùng thủ kình thi triển tuyệt kỹ Ưng trảo lực của bản môn. Đó là môn ngoại môn ngạnh công mà lão đã khổ luyện mấy chục năm, tưởng là vô cùng lợi hại không ngờ Hồ Phỉ chỉ ném quân bài từ trên xuống mà cũng khảm được vào mặt bàn, thì công phu này còn cao minh hơn nhiều. Huống chi Chu Thiết Tiêu phải đập hai lần, còn Hồ Phỉ chỉ tung lên một lần. Mọi người kinh hãi đến thộn mặt ra, quên cả hoan hô.

Chu Thiết Tiêu vẻ mặt tự nhiên đẩy túi vải đến trước mặt Hồ Phỉ, nói:

– Bữa nay Hồ huynh đệ đỏ quá.

Mọi người bây giờ mới trông rõ tay bài của Hồ Phỉ là “Bát bát quan”. Tiền đạo tám điểm, hậu đạo cũng tám điểm.

Hồ Phỉ cười nói:

– Đùa giỡn chơi một chút, đâu phải là chuyện thật.

Rồi chàng kéo những gói bạc của mình về.

Chu Thiết Tiêu chau mày, nói:

– Hồ huynh đệ! Huynh đệ mà không lấy thì xem Chu mỗ đánh bạc không ra gì. Ván bài này nếu Chu Mỗ thắng thì sao phải khách khí với huynh đệ? Đây là căn nhà mà Chu mỗ mới mua hôm nay ở cửa Tuyên Võ, cũng không rộng lắm, chỉ khoảng chừng bốn mẫu.

Lão vừa nói vừa lấy trong túi ra mảnh giấy vàng khè. Đó là khế ước mua nhà. Mọi người đứng xem đều giật mình, nghĩ bụng thấy canh bạc này lớn quá, một tòa nhà trong cửa Tuyên Võ ít ra giá cũng sáu, bảy vạn lạng.

Chu Thiết Tiêu đẩy văn khế mua nhà đến trước mặt Hồ Phỉ nói:

– Bữa nay Tài thần Bồ Tát chiếu cố cho Hồ huynh đệ, chẳng còn gì để nói nữa. Sòng bạc giải tán là xong. Huynh đệ mà không lấy tòa nhà tức là coi thường Chu mỗ!

Hồ Phỉ cười, đáp:

– Đã vậy rồi mà tiểu đệ còn từ chối là bất cung. Đợi khi nào thu xếp mọi việc ổn thỏa, tiểu đệ sẽ mời các vị đại ca đến đánh một canh bạc lớn.

Quần hùng vui vẻ hoan hô rồi tán đồng. Chu Thiết Tiêu chắp tay chào rồi cùng Tăng Thiết Âu ra về. Uông Thiết Ngạc thấy chỉ trong khoảnh khắc đại sư ca đã thua mất cả tòa nhà lớn mà nét mặt vẫn không thay đổi, còn hắn thì trái tim lại đập thình thịch.

Hồ Phỉ từ biệt bọn Tần Nại Chi, Uông Thiết Ngạc, đoạn cùng Trình Linh Tố trở về khách điếm.

Trình Linh Tố cười nói:

– Trong số mạng đã ghi rõ đại ca trở nên đại tài chủ, muốn đẩy ra cũng không xong. Tại Nghĩa Đường trấn đại ca có đã có biết bao nhiêu là ruộng tốt, ai ngờ vừa tới Bắc Kinh lại được một tòa nhà lớn.

Hồ Phỉ đáp:

– Họ Chu quả là người hào khí. Coi lão hình thù bé nhỏ mà Ưng trảo lực không phải tầm thường. Ai ngờ trong đám quan trường cũng có những nhân vật như vậy.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca định dùng tòa nhà đó làm gì? Chúng ta đến ở hay đem bán đi?

Hồ Phỉ đáp:

– Không chừng trong canh bạc lớn ngày mai lại thua nhẵn. Chẳng lẽ thần Bồ Tát cứ đi kè kè với mình hoài?

Sáng sớm hôm sau hai người dậy, vừa dùng điểm tâm xong, điếm chủ đưa một hán tử trung niên vào, nói:

– Hồ đại gia, vị này có việc cần đại gia đó.

Hồ Phỉ thấy người đó đeo kính đen, mặc áo trường bào, y phục rất hoa lệ, móng tay để dài, chàng chưa từng gặp bao giờ. Người kia nhìn Hồ Phỉ gập gối phải xuống thỉnh an, rồi nói:

– Hồ đại gia! Chu đại nhân sai tại hạ đến hỏi lúc nào Hồ đại gia được rảnh xin mời tới cửa Tuyên Võ để coi nhà. Tiểu nhân họ Toàn, làm quản gia nhà đó.

Hồ Phỉ động tính hiếu kỳ, nhìn Trình Linh Tố nói:

– Nhị muội, chúng ta thử đi coi!

Quản gia họ Toàn cung kính dẫn đường cho hai người đến bên trong cửa Tuyên Võ. Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố thấy ngôi nhà đó cánh cổng lớn sơn đỏ đóng đinh bằng đồng, bốn mặt tường vây, thêm lát đá xanh, trông rất bề thế. Từ cổng lớn vào tiền sảnh, hậu sảnh cho đến phòng bên, sương phòng, vườn hoa nhất nhất đều bài trí rất sang trọng, đầy đủ mọi thứ.

Quản gia họ Toàn nói:

– Nếu Hồ đại gia hợp ý thì xin dọn đến ở. Tăng đại nhân đã sai đặt tiệc đêm nay để mừng đại giá của Hồ đại gia về nhà mới. Chu đại nhân, Uông đại nhân cũng đến uống rượu.

Hồ Phỉ cười ha hả, đáp:

– Các vị chu đáo quá! Tại hạ xin mời hết!

Toàn quản gia nói:

– Tiểu nhân xin vâng lệnh.

Hắn khom lưng lui ra. Trình Linh Tố chờ Vương quản gia đi xa rồi nói:

– Đại ca! Tòa nhà này e rằng hai vạn lạng cũng chưa mua được. Vụ này không phải tầm thường đâu.

Hồ Phỉ gật đầu, đáp:

– Phải rồi, nhị muội xem bên trong có điều chi ngoắt ngoéo?

Trình Linh Tố mỉm cười nói:

– Tiểu muội nghĩ rằng có một nhân vật ngấm ngầm yêu mến đại ca, nên cố ý năm lần bảy lượt đưa đại lễ tới.

Hồ Phỉ biết cô cố ý nói đến Viên Tử Y, mặt hơi đỏ lên và khẽ lắc đầu. Trình Linh Tố cười, nói tiếp:

– Tiểu muội muốn đùa đại ca thôi. Đại ca của tiểu muội là người khẳng khái hào hiệp, chẳng thèm để ý đến ruộng nương nhà cửa. Nhân vật tặng lễ vật quyết chẳng phải là tri kỷ của đại ca. Nếu không thì thà tặng một con ngọc phụng còn hay hơn. Nhân vật đưa lễ vật này nếu không sợ đại ca thì không chừng có ý muốn lung lạc đại ca. Chà! Ai mà tặng nhiều thứ thế này?

Hồ Phỉ run lên hỏi:

– Hay là Phúc đại soái?

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội thấy có lẽ đúng. Thủ hạ của y rất nhiều, nhưng có một nhân vật nào bì kịp đại ca đâu? Hơn nữa, Mã cô nương được đại soái sủng ái chắc cũng đưa một phần hậu lễ. Họ đã biết đại ca tính tình thẳng thắn, không chịu nhận tài vật của nhà giàu một cách khinh suất, nên phái người lập ra cuộc đánh bạc để tặng đại ca.

Hồ Phỉ nói:

– Chà, tin tức của bọn này mau lẹ thật. Chúng ta vừa đến Bắc Kinh có một ngày mà chúng đã lập tức để ta thắng một canh bạc lớn.

Trình Linh Tố giải thích:

– Bọn ta lại không cải trang, như vậy quá nửa là mọi việc đã được sắp đặt sẵn, chỉ chờ chúng ta tới mà thôi. Việc chúng ta gặp Uông Thiết Ngạc là tình cờ, nhưng tại sòng bạc, tin tức lọt ra ngoài nên Chu Thiết Tiêu mới đem giấy tờ nhà tới.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Nhị muội phỏng đoán rất hợp lý. Đêm qua tiểu huynh cùng Chu Thiết Tiêu đánh bạc, lão cố ý để thua. Nếu mình có thua chắc lão cũng lại đánh nữa, cho đến lúc nào để thua tòa nhà về tay tiểu huynh mới thôi.

Trình Linh Tố hỏi:

– Vậy đại ca định xử trí thế nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Đêm nay ta lại cùng bọn họ mở canh bạc khác, tìm cách làm cho thua mất tòa nhà này, để họ biết Hồ Phỉ này có thủ đoạn hay không?

Trình Linh Tố cười nói:

– Hai nhà đánh bạc cùng cố ý thua, thì cuộc giao thủ này sẽ cực kỳ cam go.

Vào khoảng đầu giờ thân, Tăng Thiết Âu sai người đến bày tiệc “Ngưu thúy yến oa” cực kỳ thịnh soạn. Quản gia họ Toàn chỉ huy gia nhân bố trí đèn lửa rất huy hoàng, không khí vui vẻ ngập tràn. Uông Thiết Ngạc đến trước tiên. Hắn đi khắp mọi chỗ trong nhà, miệng không ngớt ca ngợi tòa nhà là nguy nga tráng lệ, lại trầm trồ tán tụng Hồ Phỉ hôm qua thời vận hanh thông lạ lùng.

Hồ Phỉ thầm nghĩ:

– Uông Thiết Ngạc tính tình thẳng thắn, xem ra y không hiểu những chỗ ngoắt ngoéo bên trong. Để lát nữa ta đem tòa nhà này thua vào tay y coi hai vị sư huynh của y xử trí cách nào? Thật là một màn kịch tuyệt hay.

Chẳng mấy chốc bọn Chư Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu và họ Chử, họ Thượng Quan, họ Nhiếp đến. Lúc sau, Tần Nại Chi cũng tới. Lão cười ha hả, nói:

– Hồ huynh đệ! Tại hạ đưa hai vị lão hữu đến gặp huynh đệ. Huynh đệ thử đoán xem ai?

Phía sau lão có ba người đi vào. Người đi sau cùng là Ân Trọng Tường. Sau sự việc xảy ra hôm qua mà nay hắn lại tìm đến là điều Hồ Phỉ không ngờ tới. Ngoài ra hai người nữa tướng mạo giống nhau và đều là những lão già tinh thần quắc thước, gương mặt trông rất quen thuộc. Chàng còn đang ngơ ngác, đến khi nghe cước bộ hai người đúng là công phu cực kỳ thâm hậu của Bát Quái môn thì chàng tỉnh ngộ, vội tiến lại thi lễ, nói:

– Vương đại gia, Vương nhị gia, hai vị tiền bối giá lâm, thật là chuyện không ngờ. Sau khi chia tay ở Thương gia bảo, nay thấy hai vị tinh thần càng tráng kiện hơn xưa.

Nguyên hai lão này chính là Vương Kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt ở Bát Quái môn. Mười hai người ăn uống rất vui vẻ. Dự tiệc toàn là những anh hùng hào kiệt trên chốn giang hồ. Ân Trọng Tường nhắc lại chuyện năm xưa ở Thương gia bảo, mọi người bị vây khốn trong tòa thiết sảnh bị lửa đốt ra sao, nhờ Hồ Phỉ trí dũng song toàn giải cứu thế nào. Bọn Chu Thiết Tiêu nghe xong, nức nở khen không ngớt lời.

Trình Linh Tố đưa cặp mắt long lanh như hồ nước liếc nhìn Hồ Phỉ, nghĩ bụng:

– Những sự tích anh hùng như vậy mà y chưa chịu kể cho mình nghe.

Sau khi tan tiệc, vừng trăng đã lên đến đỉnh trời. Hôm ấy là đêm mồng mười tháng tám, tuy đã lập thu mà khí trời vẫn còn nóng bức. Toàn quản gia bày trà nước, bánh trái trong lương đình giữa vườn hoa rồi mời quần hùng ra uống nước hóng mát.

Hồ Phỉ nói:

– Mời các vị uống một chén thanh trà rồi chúng ta lại mở cuộc đánh bạc.

Mọi người đồng thanh hoan hô khen phải, kéo ra ngồi trong lương đình.

Mới nói được vài câu, bỗng nghe trên hành lang có tiếng người huyên náo, lại nghe có người lớn tiếng cãi cọ với Toàn quản gia. Tiếp đến hắn la lên “Úi chao!”  rồi nghe “Binh” một tiếng, dường như bị người ta đá ngã lăn ra đất.

Bỗng thấy một đại hán cao lớn như tòa thiết tháp sấn sổ tiến vào lương đình, vỗ bàn đánh “rầm” một tiếng, ấm chén rớt loảng xoảng xuống đất.

Đại hán nọ trỏ vào mặt Chu Thiết Tiêu, cất giọng ồm ồm nói:

– Chu đại ca, đại ca chơi không phải chút nào. Tòa nhà này tiểu đệ bán cho đại ca với giá một vạn hai ngàn, là vừa bán vừa tặng, trước là nể mặt Chu đại ca, sau là chỗ anh em còn tính toán với nhau làm gì. Ai hay trong nháy mắt đại ca lại chuyển tặng cho người khác. Tiểu đệ thật không chịu nổi. Các vị thử nghĩ coi có oan uổng cho Đức mỗ không?

Chu Thiết Tiêu lạnh lùng đáp:

– Ngươi không đủ tiền xài cứ nói tử tế là được. Ở trong nhà của một vị hảo bằng hữu sao ngươi lại làm ầm ỹ thế?

Đại hán đen thui kia đỏ mặt lên, gã lại đưa tay đập xuống bàn một cái nữa. Chu Thiết Tiêu cong tay trái lại như móc câu, chụp lấy hai cổ tay hắn. Không ngờ Chu Thiết Tiêu vóc người lùn thấp, đứng chưa tới vai đại hán, vậy mà hắn để Chu Thiết Tiêu chụp được hai tay như đóng đai sắt khiến hắn không cựa nổi.

Chu Thiết Tiêu kéo đại hán ra ngoài lương đình, khẽ nói mấy câu. Đại hán dường như không chịu nghe theo, cứ lải nhải nói mãi. Chu Thiết Tiêu nổi nóng đẩy mạnh hắn một cái. Đại hán đứng không vững, bị hất lùi mấy bước đụng vào gốc mai. Nghe “lắc rắc” mấy tiếng, hai cành mai bị gãy. Chu Thiết Tiêu quát lớn:

– Tên mãng phu họ Đức kia! Biết điều thì ra ngoài ngay, còn không sợ chết thì cứ vào đây mà sinh sự!

Đại hán xoa chỗ lưng bị đau, cắm đầu lủi thủi đi ra.

Tăng Thiết Âu cười khanh khách nói:

– Tên mãng phu này quen thói làm cho người ta mất hứng. Đại sư ca cho hắn một trận là phải.

Chu Thiết Tiêu mỉm cười đáp:

– Tiểu huynh thấy hắn lòng dạ cũng tử tế nên không muốn chấp trách. Hồ đại ca! Vụ này thật khiến đại ca phải tức cười.

Hồ Phỉ đáp:

– Phải rồi, phải rồi! Tòa nhà này y đã bán rẻ, tiểu đệ trả thêm tiền cho y là xong.

Chu Thiết Tiêu vội nói:

– Hồ đại ca sao lại nói thế? Vụ này để mặc tại hạ thu xếp, đại ca bất tất phải quan tâm. Thằng cha lỗ mãng đó vô ý đắc tội với đại ca, chỉ vì hắn chưa biết Hồ đại ca là bậc anh hùng thế nào. Sau vụ này chắc hắn hối hận không kịp. Để tại hạ kêu hắn tới đây rót rượu kính mời Hồ đại ca để tạ tội. Mong đại ca nể mặt tại hạ cùng các vị đây, không chấp trách mà cho hắn vào gặp được chăng?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Hai chữ “tạ tội” xin đừng nhắc tới nữa. Y đã là bạn với Chu đại ca thì xin cho vào đây cùng uống một chung.

Chu Thiết Tiêu đứng lên, nói:

– Hồ đại ca là bậc thiếu niên anh hùng, bọn tại hạ thành tâm muốn kết làm bằng hữu. Tên mãng phu kia sinh sự, bọn tại hạ ai nấy đều sai trái, chỉ có Hồ đại ca là bậc đại nhân đại nghĩa chẳng để vào lòng.

Hồ Phỉ nói:

– Việc nhỏ mọn như vậy có đáng vào đâu? Chu đại ca lại quá khách khí rồi.

Chu Thiết Tiêu khom lưng sát đất, nói:

– Tại hạ xin có lời cảm ơn trước.

Tăng Thiết Âu và Tần Nại Chi cũng đứng dậy, chắp tay, nói:

– Bọn tại hạ đa tạ Hồ đại ca.

Hồ Phỉ vội đứng lên đáp lễ.

Chu Thiết Tiêu nói:

– Tiểu đệ đi kêu tên mãng phu kia vào đây tạ tội với đại ca.

Hắn nói rồi trở gót ra ngoài.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đưa mắt nhìn nhau, nghĩ bụng:

– Tên mãng phu kia tuy hành vi thô lỗ một cục, nhưng Chu Thiết Tiêu đưa lời tạ lỗi quá ư trịnh trọng. Không hiểu đại hán mặt đen kia ở môn phái nào?

Sau một lúc, tiếng bước chân vang lên. Hai người đi vào vườn. Chu Thiết Tiêu dắt tay đại hán cười ha hả nói:

– Mãng phu hỡi mãng phu! Mau kính mời Hồ đại ca ba chung rượu đi! Bọn chúng ta không đánh nhau thì không thành quen biết. Hồ đại ca đã chịu lượng thứ cho ngươi rồi. Đúng thật là bậc đại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy. Hôm nay quả là may mắn cho tên mãng phu nhà ngươi đó.

Hồ Phỉ bỗng đứng phắt dậy, phi thân ra khỏi lương đình, chân trái vừa điểm xuống, người đã lạng tới chặn đường rút lui của người kia. Nét mặt xám xanh, chàng lớn tiếng quát:

– Họ Chu kia! Ngươi bày trò quỷ gì đây? Nếu không đâm chết được tên này thì Hồ Phỉ ta cũng uổng là nam tử hán đỉnh thiên lập địa!

Người tiến vào chính là Phụng Thiên Nam, chưởng môn phái Ngũ Hổ ở Trấn Phật Sơn tỉnh Quảng Đông, kẻ đã sát hại cả nhà Chung A Tứ. Bây giờ Hồ Phi mới hiểu rõ. Nguyên Chu Thiết Tiêu bày ra cạm bẫy này, hắn sai một tên mãng phu gây rối lừa gạt cho Hồ Phỉ nhận lời tha thứ cho mãng phu. Hồ Phỉ nghĩ tới tình trạng toàn gia Chung A Tứ bị thảm tử, mắt đỏ sọc cơ hồ tóe lửa.

Chu Thiết Tiêu nói:

– Hồ đại ca! Tiểu đệ xin nói thẳng với đại ca. Bao nhiêu ruộng nương nhà cửa ở Nghĩa Đường trấn đều là của tên mãng phu này tặng cho. Cả tòa nhà này cùng bao nhiêu đồ đạc cũng do hắn mua đó. Y đã thành khẩn muốn bồi tội cùng đại ca. Bậc đại trượng phu hễ tha được thì tha đi. Hà tất để tâm đến những chuyện oán thù vặt vãnh? Phụng lão đại, hãy mau bồi tội với Hồ đại ca đi!

Hồ Phỉ thấy Phụng Thiên Nam chắp tay toan hành lễ, liền giang hai tay ra, nói:

– Hãy khoan!

Chàng quay lại bảo Trình Linh Tố:

– Nhị muội, nhị muội lại đây!

Trình Linh Tố rảo bước đến đứng bên chàng.

Hồ Phỉ dõng dạc nói:

– Hồ mỗ kết bạn với ai là vì ý khí tương đồng, thị phi phân minh. Chúng ta cùng nhau uống rượu đánh bạc, cái đó phỏng có chi đáng kể. Bọn tiểu nhân kẻ chợ lại chẳng tụ tập cùng uống rượu đánh bạc đó ư? Nhưng bậc đại trượng phu phải lấy nghĩa khí làm đầu. Dùng kim ngân lung lạc Hồ mỗ là coi Hồ mỗ không đáng một đồng.

Tăng Thiết Âu cười nói:

– Hồ đại ca hiểu lầm mất rồi. Phụng lão đại có đưa tặng chút lễ mọn cũng chỉ vì muốn bày tỏ kính ý, chớ khi nào dám xem thường lão huynh?

Hồ Phỉ xua tay đáp:

– Lão họ Phụng này tác oai tác quái ở Quảng Đông, vì mưu tranh đoạt một mảnh đất của nhà hàng xóm mà đưa toàn gia người ta vào chỗ chết một cách thảm thương. Tại hạ với nhà họ Chung chẳng hề có thân tình hay quen biết, nhưng đã nhúng tay vào việc này thì thề cùng tên ác ôn họ Phụng chẳng đội trời chung. Nếu Hồ mỗ có đắc tội với bạn hữu cũng vì thế bất đắc dĩ. Xin các vị miễn thứ cho. Chu đại ca! Xin đại ca thu lại tòa nhà này.

Chàng nói rồi móc văn khế trong bọc áo ra, khẽ vung tay một cái, tờ văn khế nhẹ nhàng bay tới trước mặt Chu Thiết Tiêu. Chu Thiết Tiêu đành đón lấy toan đưa lại cho chàng, nhưng nghĩ bản lĩnh công phu của mình chưa đủ sức để ném tờ khế ước nhẹ nhàng bay trở lại trước mặt Hồ Phỉ.

Bỗng nghe Hồ Phỉ dõng dạc nói:

– Nơi đây là đất kinh sư, dưới chân thiên tử, gã họ Phụng kia lại có không biết bao nhiêu là bạn hữu, nhưng Hồ Phỉ này đêm nay gạt tính mạng sang một bên, quyết phải giết hắn. Ai là bạn hữu của Hồ mỗ thì xin đừng cản trở, còn ai là bạn của họ Phụng thì cứ việc xông cả vào!

Chàng nói rồi chống nạnh hai tay đứng đó. Hồ Phỉ biết rõ trong thành Bắc Kinh có rất nhiều cao thủ. Phụng Thiên Nam dám ló mặt ra là hắn đã có chuẩn bị rồi. Không cần những tay trợ thủ nào khác, nguyên Vương thị huynh đệ, hai lão Chu, Tăng cũng đủ mệt rồi, nhưng vì trong lòng phẫn khái đã đến cực điểm, nên chàng gác sự sống chết ra ngoài.

Chu Thiết Tiêu cười ha hả, nói:

– Hồ đại ca đã không nể mặt thì việc hòa giải giữa chúng ta không thành rồi. Phụng lão đại, mời lão về đi thôi, chúng ta còn uống rượu đánh bạc nữa.

Hồ Phỉ phải khó khăn lắm mới tìm thấy Phụng Thiên Nam, thì dễ gì để hắn thoát thân? Chàng vươn hai tay lên, lạng người về phía hắn.

Chu Thiết Tiêu cau mày nói:

– Thế này thì quá lắm!

Tay trái hắn đưa ngang ra cản trở, tay mặt xoay thành âm chưởng ngấm ngầm phục sẵn chiêu “Đảo duệ cửu ngưu vỹ” toan chụp lấy cổ tay Hồ Phỉ để kéo chàng lại. Hồ Phỉ đã động thủ tức là tính cả bọn trợ quyền của đối phương vào trong rồi, nhưng chàng nghĩ bụng:

– Bọn họ đã giữ lễ với mình rất chu đáo, mình quyết không thể động thủ trước được.

Chàng thấy Chu Thiết Tiêu vươn tay chụp cũng không trả đòn, để lão chụp trúng cổ tay, nắm lấy huyệt “Mạch môn”. Chu Thiết Tiêu khấp khởi mừng thầm, tự nhủ:

– Tần Nại Chi và Phụng lão đại khoa trương bản lãnh thằng lỏi này ghê gớm lắm, nếu sớm biết trình độ gã chỉ có thế, thì hà tất ta phải nhường nhịn gã.

Bụng nghĩ thế, nhưng miệng hắn vẫn nói:

– Không nên động thủ.

Hắn vận kình kéo một cái, bỗng cảm thấy xương tay Hồ Phỉ cứng như sắt, kình lực đẩy ngược lại rất đột ngột và mãnh liệt. Chu Thiết Tiêu chân đứng không vững, lập tức buông tay ra, loạng choạng cúi về phía trước ba bước. Môn cầm nã thủ này là một công phu đắc ý nhất trong Ưng trảo nhạn hành môn. Hồ Phỉ đã dùng chính công phu này để đả bại vị đại sư huynh chưởng môn. Hai người mới trao đổi có một chiêu, chỉ trong nháy mắt Phụng Thiên Nam đã thừa cơ xoay mình chạy ra ngoài. Hồ Phỉ lạng người tới, vung chưởng đánh ra. Phụng Thiên Nam xoay ngược tay lại đón đỡ.

Tăng Thiết Âu la lên:

– Chúng ta đang uống rượu đánh bạc vui vẻ, sao lại làm tổn thương hòa khí?

Hắn đưa năm ngón tay cứng như sắt của bàn tay phải thành thế Ưng trảo chụp vào sau lưng Hồ Phỉ. Tựa hồ như hắn có ý khuyên giải mà thật tình lại hạ sát thủ. Nhưng Hồ Phỉ chỉ quyết tâm tiến đánh Phụng Thiên Nam, còn đối với địch nhân tập kích ở phía sau tựa như không hay biết.

Gã họ Nhiếp không nhịn được la lên:

– Hồ đại ca! Coi chừng!

Nghe “bộp” một tiếng, năm ngón tay của Tăng Thiết Âu đã chụp xuống sau lưng Hồ Phỉ, nhưng chỗ ngón tay chạm vào khác nào đụng phải khối da trâu vừa cứng vừa dày. Da thịt trên lưng chàng rung lên khiến cho năm ngón tay của hắn tuột đi.

Ân Trọng Tường thấy hai lão Chu, Tăng không cản trở được liền vung quyền đánh thẳng vào mặt Hồ Phỉ. Hồ Phỉ cúi đầu xuống, tay trái đập vào sau lưng hắn. Nghe “ối” một tiếng, người Ân Trọng Tường văng đi, xô vào sau lưng Phụng Thiên Nam. Chàng không ngờ Phụng Thiên Nam chỉ gập người xuống là đã tránh khỏi, đầu Ân Trọng Tường liền đập vào tòa giả sơn. Tình thế này không thể không vươn tay ra cứu, nhưng làm thế thì sẽ chậm lại một chút, khó lòng tẩu thoát, Phụng Thiên Nam là một tay giảo quyệt thâm độc, thấy Ân Trọng Tường vì ra tay cứu mình mà mất mạng đến nơi, hắn cũng bỏ mặc, không xem họ Ân sống chết thế nào, lại còn đạp vào vai bạn để mượn đà nhảy vọt lên tường vây.

Bỗng nghe đánh “huỵch” một tiếng, Ân Trọng Tường đụng phải hòn giả sơn, chảy máu đầm đìa, bất tỉnh nhân sự. Mọi người đứng xem đều là những tay hảo thủ làm gì chẳng nhìn ra cử động đê hèn của Phụng Thiên Nam? Vương thị huynh đệ đã định ra tay viện trợ, nhưng vẫn úy kỵ bản lãnh của Hồ Phỉ, chưa biết phải làm sao. Chính lúc đang ngần ngừ, bỗng thấy Phụng Thiên Nam chỉ mong trốn thoát một mình, chẳng lý gì đến tình bằng hữu, họ đưa mắt nhìn nhau, mặt lộ vẻ khinh bỉ, không muốn ra tay nữa.

Hồ Phỉ tính thầm nếu để tên gian tặc trốn ra ngoài tường vây thì chàng càng thêm mất công. Huống chi hắn nhất định còn có viện binh ở bên ngoài. Chàng thấy hai chân hắn sắp đặt xuống đầu tường, liền lập tức tung người nhảy lên cản lại.

Phụng Thiên Nam vừa đứng xuống đầu tường, đột nhiên thấy trước mặt hiện ra một người. Dưới bóng trăng, hắn nhìn rõ đó là Hồ Phỉ, bất giác giật mình kinh hãi không bút nào tả xiết. Hắn xoay tay mặt đưa lưỡi chủy thủ sáng loáng từ dưới lên nhằm đâm vào bụng chàng. Hồ Phỉ vội tung chân trái đá trúng cổ tay Phụng Thiên Nam. Lưỡi chủy thủ tuột tay bay đi, rớt xuống ngoài tường. Phụng Thiên Nam ra tay cũng tàn độc dị thường. Hắn đứng trên đầu tường chỉ cách Hồ Phỉ chừng hơn thước, lưỡi chủy thủ đâm sểnh, hắn liền vung tả quyền đánh tới. Hồ Phỉ không rụt tay về, phưỡn ngực ra, vận nội kình hứng lấy thoi quyền. Binh một tiếng! Phụng Thiên Nam bị quyền của mình chấn động phải lùi lại, chân đứng không vững, ngã khỏi tường vây.

Hồ Phỉ nhảy xuống, vung chân ra đạp, nhưng Phụng Thiên Nam lăn mình tránh khỏi. Phụng Thiên Nam lại vận kình lực vào hai chân nhảy vọt lên đầu tường. Lần này Hồ Phỉ không để hắn kịp đứng xuống, hai tay ra chiêu “Nhất hạc xung thiên” vọt lên, cao hơn Phụng Thiên Nam mấy thước. Lúc hạ xuống, chàng cưỡi trúng vào đầu vai đối phương, hai chân liền cặp chặt lấy cổ hắn.

Phụng Thiên Nam bị nghẹn thở, tự biết không còn cách nào thoát được đành nhắm mắt chờ chết.

Hồ Phỉ quát:

– Gian tặc! Bữa nay ngươi phải đền tội

Chàng giơ tay lên đập xuống thiên linh cái đối phương.

Chương 14: Tay áo tía rung, đèn lồng lay động

Đột nhiên Hồ Phỉ cảm thấy sau lưng có làn đao phong mát rượi, rồi thanh âm trong trẻo quát lên:

– Thủ hạ lưu nhân!

Tiếng quát chưa dứt, mũi đao đã đâm vào gáy chàng. Lúc ấy, Hồ Phỉ không thể vung chưởng đánh xuống mà phải nghiêng đầu để tránh mũi đao từ sau đâm tới. Chàng xoay tay lại như móc câu, chụp cổ tay địch nhân. Người kia thân thủ cũng mau lẹ phi thường, đâm một nhát không trúng lập tức biến chiêu, đâm tiếp hai nhát vào hai cạnh sườn của Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không thể xoay người lại được, chỉ còn cách tung người ra khỏi vai Phụng Thiên Nam rồi lạng người tới trước. Người kia như bóng theo hình, tiến đánh ráo riết. Chàng quay đầu nhìn lại thấy người kia tay cầm chủy thủ mình mặc áo tía da trắng như tuyết, đầu bịt khăn xanh, chính là Viên Tử Y.

Hồ Phỉ tức giận hỏi:

– Viên cô nương! Tại sao cô nương chuyên làm khó dễ tại hạ?

Dưới bóng trăng, chàng thấy nàng như nửa giận nửa cười. Viên Tử Y cất tiếng:

– Tiểu muội muốn lãnh giáo công phu “Không thủ nhập bạch nhận” của Hồ đại ca.

Hồ Phỉ hỏi:

– Ngày tháng còn dài, hà tất cô nương phải vội vàng trong lúc này.

Lúc chàng lạng người về phía Phụng Thiên Nam. Viên Tử Y cũng uốn mình nhảy lên, mũi chủy thủ chĩa vào cổ họng chàng. Hồ Phỉ chẳng thể không tự cứu, đành hạ thấp khuỷu tay đánh chênh chếch vào vai nàng. Trong khoảnh khắc, hai người đã qua lại mười mấy chiêu nhanh như chớp. Đao quang lấp loáng, bóng chưởng bay múa, chiêu nào cũng khiến người ta phải kinh tâm động phách.

Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu và Vương thị huynh đệ chưa biết Viên Tử Y, đột nhiên thấy nàng xuất hiện giải cứu Phụng Thiên Nam trong lúc nguy cấp, mà võ công lại rất cao cường, không ai là không kinh ngạc.

Hai người này ra tay cực kỳ mau lẹ, quần hào trông hoa cả mắt. Bỗng nghe Hồ Phỉ quát lên một tiếng, hai người cùng nhảy lên đầu tường rồi vọt ra ngoài. Viên Tử Y múa tít lưỡi chủy thủ phóng những chiêu tàn độc nhằm vào yếu huyệt trên người Hồ Phỉ, tưởng chừng như cuộc đấu liều mạng. Hồ Phỉ không dám lơ là phải ngưng thần tiếp chiêu, tai nghe Phụng Thiên Nam vừa cười vừa la lớn:

– Hồ gia tiểu huynh đệ! Lão ca ca xin thất lễ. Hẹn ngày tái ngộ.

Hồ Phỉ tức giận đến cực điểm, muốn tung mình rượt theo, nhưng bị Viên Tử Y bám riết không sao thoát được. Trong lòng oán hận, chàng quát hỏi:

– Viên cô nương. Giữa tại hạ và cô nương không thù không oán…

Chàng nói chưa dứt lời bỗng thấy bạch quang lấp loáng, lưỡi chủy đâm tới bên mình. Những cao thủ tỷ đấu, sống chết chỉ trong chớp mắt nên vạn lần không thể nóng nảy được. Võ công của Hồ Phỉ chỉ hơn Viên Tử Y một chút, nhưng một người tay không và một người cầm đao thì rơi vào thế ngang ngửa nhau.

Hồ Phỉ giương mắt lên nhìn cừu nhân chạy đi, không khỏi một chút phân tâm liền bị đao đâm trúng vai. Nghe “roạc” một tiếng, vai áo đã bị mũi chủy thủ vạch một đường. Lúc này Viên Tử Y thuận thế cho tay phải thấp xuống thì chàng lập tức bị tổn thương đến gân cốt. Ngờ đâu cổ tay nàng lại lật chếch lên.

Hồ Phỉ thấy trên vai mát lạnh mà không bị thương chút nào, không khỏi sửng sốt, tự hỏi:

– Sao cô ta hạ thủ còn lưu tình?

Viên Tử Y cười khanh khách rất tươi rồi xoay ngược chuôi chủy thủ ném về phía Hồ Phỉ. Đồng thời nàng rút cây nhuyễn tiên cuốn bên hông, cười nói;

– Hồ đại ca! Chúng ta tỷ đấu bằng khí giới một phen.

Hồ Phỉ toan vươn tay đón lấy chủy thủ, bỗng nghe Trình Linh Tố đứng trên đầu tường hô lớn:

– Dùng đơn đao đi!

Rồi cô ném đao xuống về phía Hồ Phỉ. Nguyên Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ đấu bằng tay sợ chàng thất lợi, nên chạy vào phòng lấy khí giới ra cho chàng.

Viên Tử Y hô lớn:

– Hảo muội tử!

Đột nhiên nàng vung nhuyễn tiên quét lên tường. Trình Linh Tố vội tung người nhảy vào trong. Viên Tử Y áp đầu roi vào tường, lấy đà nhảy vọt lên như con chim khổng lồ tiến vào. Dưới ánh trăng, tà áo nàng phất phới như tiên tử bay giữa không trung. Người nàng chưa hạ xuống đất đã vung tiên nhằm quất xuống Trình Linh Tố, đánh vút một tiếng, miệng hô:

– Trình gia muội tử! Hãy tiếp nhận ba chiêu.

Trình Linh Tố cúi đầu né tránh. Nhưng tiên pháp của Viên Tử Y biến chiêu cực kỳ mau lẹ, lướt từ mé trái cuốn qua mé phải, lập tức bóng roi trùm cả lên người cô. Hồ Phỉ biết Trình Linh Tố không phải là địch thủ của Viên Tử Y. Lúc này nếu chàng rượt theo Phụng Thiên Nam lại sợ Viên Tử Y hạ sát thủ nên dù phải bỏ mất cơ hội cũng đành chịu.

Chàng nhảy vào trong vườn, vung đao lên hô:

– Cô nương muốn tỷ thí thì tỷ thí!

Viên Tử Y la lên:

– Hảo đại ca ngoan quá!

Nàng cuốn roi toan quấn lấy mũi đao của Hồ Phỉ. Bây giờ hai người trong tay đều có binh khí, cuộc chiến đấu khác hẳn lúc trước. Hồ Phỉ thi triển đao pháp gia truyền trong cương có nhu, trong nhu có cương, lúc mau lẹ như sấm dậy điện chớp, lúc trầm ổn như núi cao sừng sững. Tiên pháp của Viên Tử Y cũng tung hoành linh động, đúng phong phạm của một cao thủ. Chỉ trong khoảnh khắc hai người đã chiết giải ngoài ba chục chiêu. Roi vung như linh xà lượn múa, đao chém như mãnh hổ vồ mồi.

Bọn Tần Nại Chi, Chu Thiết Tiêu, Vương thị huynh đệ đứng xem đều kinh hãi, nghĩ bụng:

– Hai nhân vật này còn nhỏ tuổi mà không hiểu võ công sao lại cao thâm đến thế!

Thực ra hai người lúc tỷ đấu bằng khí giới, chỉ mới phát huy sáu, bảy phần công phu. Hồ Phỉ thấy Viên Tử Y gặp những cơ hội khẩn yếu vẫn không cố ý hạ sát thủ nên chàng cũng nhường nhịn mấy phần. Chàng vừa chiến đấu vừa nghĩ thầm:

– Nàng đối với ta như vậy, rốt cuộc không hiểu có dụng ý gì?

Vừa rồi Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu, Tần Nại Chi ba người đã ra tay đối phó với Hồ Phỉ đều kém thế, họ biết nếu đơn đả độc đấu thì không phải là đối thủ của chàng. Chúng thấy Viên Tử Y bám riết Hồ Phỉ chính là cơ hội tốt để hạ thủ, liền đưa mắt ra hiệu, giả vờ ngưng thần quan chiến, đồng thời tản ra xung quanh rồi từ từ tiến lại gần để hợp kích Hồ Phỉ.

Đã là những tay cao thủ võ học thì lúc động thủ đều mắt nhìn bốn mặt, tai nghe tám phương. Thái độ của bọn Chu Thiết Tiêu không lọt ra ngoài tầm mắt của Hồ Phỉ. Chàng nghĩ thầm:

– Bọn này mà xông cả vào thì ta muốn thoát thân cũng chẳng khó gì, nhưng không thể chìa tay để chiếu cố cho nhị muội được.

Chàng liếc mắt thấy Trình Linh Tố đứng một bên, vẻ mặt thản nhiên, liền bụng bảo dạ:

– Bây giờ chỉ có cách đánh lui Viên cô nương rồi sẽ đối phó với bọn kia.

Nghĩ tới đây, chàng vung đao đánh veo véo liền ba chiêu, đều là những gia số lợi hại trong Hồ gia đao pháp. Viên Tử Y vừa né tránh vừa đỡ gạt, miệng khen ngợi:

– Hảo đao pháp!

Đột nhiên nàng thu cây trường tiên về, không đỡ gạt mũi đao của Hồ Phỉ đang đâm tới bên hông, mà lại ra chiêu “Phụng hoàng tam điểm đầu” đánh tới trước mặt ba người Tăng Thiết Âu, Chu Thiết Tiêu và Tần Nại Chi. Chiêu này đánh quá sức đột ngột, ba người vội nhảy lùi lại phía sau. Tăng Thiết Âu chậm một chút bị ngọn roi quét trúng cổ, lằn lên một vết máu tím bầm.

Lúc này mũi đao của Hồ Phỉ chỉ còn cách hông Viên Tử Y không đầy một thước. Chàng thấy nàng đột nhiên xoay roi đánh lui địch nhân giúp mình liền dừng tay lại ngay tức khắc. Thanh đơn đao không phóng tới cũng không lùi lại, mà đứng nguyên bất động mới thật là tuyệt diệu. Thế đao đang đi gấp mà dừng được ngay lại, như đóng đinh giữa khoảng không, còn khó hơn phóng tới đâm địch nhân gấp mười lần.

Viên Tử Y giương cặp mắt xinh đẹp lên nhìn Hồ Phỉ, nói:

– Sao đại ca không đâm tới?

Bỗng nghe Tăng Thiết Âu la lên:

– Cả ca ca lẫn muội muội đều ngoan quá!

Viên Tử Y sa sầm nét mặt, thu roi về quấn vào lưng rồi nhìn Hồ Phỉ hỏi:

– Hồ đại ca, đại ca hãy giới thiệu cho tiểu muội biết những vị anh hùng hảo hán này.

Hồ Phỉ đáp:

– Được! Vị này là Tần Nại Chi đại gia, chưởng môn “Bát Cực quyền”, vị kia là Chu Thiết Tiêu đại gia, chưởng môn Ưng trảo nhạn hành môn.

Tiếp theo chàng giới thiệu bọn Vương Kiếm Anh, Vương Kiếm Kiệt và bọn Tăng Thiết Âu, Uông Thiết Ngạc. Lúc này Ân Trọng Tường được Vương Kiếm Anh cứu tỉnh. Hắn không ngớt thóa mạ Phụng Thiên Nam nào là “loại người đê hèn vô sỉ như vậy thì anh em ta không thể giao du được”. Cuối cùng, Hồ Phỉ nói:

– Vị này là Viên cô nương.

Chàng động tâm sực nhớ điều gì, liền nói tiếp:

– Viên cô nương là tổng chưởng môn của Vi Đà môn thuộc phái Thiếu Lâm, Bát Tiên kiếm ở Quảng Tây, Cửu Long tiên ở Dịch Gia loan tỉnh Hồ Nam.

Mọi người nghe nói không khỏi động tâm, tuy họ biết Hồ Phỉ không nói dối, nhưng vẫn lộ vẻ không tin.

Viên Tử Y mỉm cười, đáp:

– Hồ đại ca chưa nói hết. Côn Luân đao ở phủ Hàm Đan, Thiên Cương kiếm ở phủ Chương Đức, Na Tra quyền ở phủ Bảo Định, cả ba phái này cũng mời tại hạ làm chưởng môn nhân.

Hồ Phi nói:

– Chà, té ra cô nương dọc đường lại được vinh dự nhận chưởng môn ba nhà. Cung hỷ! Cung hỷ!

Viên Tử Y cười đáp:

– Đa tạ! Chuyến này tiểu muội đến Bắc Kinh có ý định làm tổng chưởng môn mười nhà, nhưng không đánh nổi Vô Thanh lão đạo trưởng trên núi Võ Đang tỉnh Hồ Bắc, lại không dám khiêu chiến với Đại Trí thiền sư ở chùa Thiếu Lâm tỉnh Hà Nam. Thật may lại gặp ba vị chưởng môn ở đây. Này! Chử lão sư, chưởng môn của Tái Bắc Lôi điện môn là Ma lão phu tử có đến Bắc Kinh không?

Người sử lôi chấn đáng là võ sư Chử Oanh, nghe nàng hỏi tới sư phụ, liền đáp:

– Trước nay gia sư chưa từng vào vùng Trung nguyên. Nếu có việc gì đều giao cho bọn đệ tử xử lý.

Viên Tử Y nói:

– Hay lắm! Chử đại gia là đại sư huynh cũng kể như là nửa vị chưởng môn. Vậy đêm nay tại hạ muốn đoạt ba chức chưởng môn rưỡi của các vị. Làm tổng chưởng môn của mười nhà không được thì chín nhà rưỡi cũng được vậy.

Nàng vừa nói câu này, bọn Chu Thiết Tiêu đều biến sắc. Tần Nại Chi ôm quyền, cười khanh khách hỏi:

– Chưởng môn Vi Đà Môn phái Thiếu Lâm là Vạn Hạc Thành đại ca có mối giao tình mấy chục năm với tại hạ, không hiểu tại sao y lại truyền ngôi chưởng môn cho cô nương?

Viên Tử Y đáp:

– Vạn đại gia chết rồi. Sư đệ y là Lưu Hạc Chân đánh không nổi tại hạ. Ba tên đồ đệ lại càng vô dụng. Sau khi phân cao thấp bằng đao thương quyền cước, dù họ chẳng muốn nhường chưởng môn thì cũng phải nhường. Tần lão sư, bây giờ tại hạ xin lĩnh giáo công phu “Bát Cực quyền” của lão sư trước rồi sẽ chiết chiêu cùng ba vị Chu lão sư, Vương lão sư, Chử lão sư. Tại hạ có làm được tổng chưởng môn mười nhà thì đến dự cuộc đại hội các chưởng môn nhân trong thiên hạ mới thật vẻ vang.

Nàng nói mấy câu này là coi bọn Chu, Tần, Vương, Chử không vào đâu. Nghe nàng khiêu chiến kiểu đó, bọn Chu Thiết Tiêu, Vương Kiếm Anh đều là những cao thủ võ học nổi danh khắp thiên hạ thì dù có bỏ mạng tại đương trường cũng không thể lùi bước.

Chu Thiết Tiêu lên tiếng:

– Trong Ưng trảo nhạn hành môn tiên sư đã tạ thế, còn bọn đồ đệ thì không ra gì, chưa học nổi một phần mười công phu của tiên sư. Nếu cô nương chịu tứ giáo thì tệ phái từ trên xuống dưới đều lấy làm vinh hạnh. Có điều bọn sư huynh đệ của tại hạ đều là những kẻ xuẩn tài, chỉ luyện công phu của tiên sư nên không luyện võ công của phái khác.

Viên Tử Y cười đáp:

– Cái đó đã hẳn. Nếu tại hạ không hiểu võ công của Ưng trảo nhạn hành môn thì đòi làm chưởng môn phái này thế nào được? Xin Chu lão sư cứ yên tâm.

Chu Thiết Tiêu và Tăng Thiết Âu giận xám mặt, lại đưa mắt nhìn nhau nghĩ bụng:

– Dù là những tay cao thủ cũng chưa một ai coi thường Ưng trảo nhạn hành môn. Con nha đầu này ỷ vào ai mà dám đến kinh thành ngang ngược như vậy?

Bọn họ đã nhận trọng lễ của Phụng Thiên Nam để đứng ra dàn xếp vụ này. Nếu không thành chẳng qua cũng chỉ một phen cụt hứng, rốt cuộc cũng chẳng có chi đáng bận tâm. Chỉ vì vị cô nương này dám ngang ngược đến đòi giành chức chưởng môn, thì sao không đối phó cho được?

Tần Nại Chi biết rằng đêm nay không động thủ không xong. Lão vừa được coi võ công của Viên Tử Y cũng tương đương với Hồ Phỉ, mà lão lại bại dưới tay Hồ Phỉ nên thấy cần tìm cách nhường nàng đấu trước với bọn Chu, Vương cho hao tổn khí lực, rồi lão mới xuất thủ để chiếm phần tiện nghi. Lão tính xong bèn lên tiếng:

– Chu lão sư, Vương lão sư, bản lãnh của hai vị cao thâm hơn tiểu đệ nhiều. Tiểu đệ xin ẩn ở phía sau!

Viên Tử Y cười nói:

– Tần đại gia không nói tại hạ cũng biết là võ công của đại gia không bằng hai vị kia, vì thế mà tại hạ cũng cần lựa người yếu đánh trước để dành sức đối phó với kẻ mạnh. Bên ngoài đất cỏ trơn trợt lắm, chúng ta vào trong lương đình tỷ đấu. Nào! Mời đại gia!

Thân hình thấp thoáng, nàng đã vọt vào trong đình, hai chân đứng vững rồi hạ thấp vai xuống, năm ngón tay chĩa ra, chưởng tâm hướng ra ngoài như đỡ hờ phía trước bụng dưới. Đó là khởi thủ thức để bắt đầu khai diễn “Bát Cực quyền” tên gọi là “Hoài trung bảo nguyệt”.

Tần Nại Chi giật mình, thầm tự hỏi:

– Võ công của bản phái xưa nay không lưu truyền rộng rãi ra ngoài, nhưng chiêu “Hoài trung bão nguyệt” này, vai trái hạ thấp, vai phải nhô cao, tả quyền chênh chếch, hữu quyền ngay ngắn, đúng là công phu chân truyền của bản phái, không hiểu thị học ở đâu ra?

Lão liếc nhìn Hồ Phỉ một cái rồi nghĩ tiếp:

– Hôm trước ta cùng gã này động thủ, rõ ràng là không dùng khởi thủ thức, rồi sau đó cùng gã này đàm luận về quyền pháp cùng không hề nhắc đến chiêu này. Như vậy là gã không truyền cho cô nương này được rồi.

Trong lòng lão rất đỗi kinh nghi, nhưng ngoài mặt vẫn điềm nhiên, lão nói:

– Đã thế thì đợi tiểu lão khuân dọn bàn ghế để cho khỏi vướng chân tay.

Viên Tử Y đáp:

– Tần lão sư nói thế là sai. Quyền pháp của bản môn gồm có bát cực là “Phiên Thủ”, “Điệp Uyển”, “Thốn Khẩn””, “Đẩu Chuyển” và tám thức là “Lâu, Đả, Đằng, Phong, Thích, Đàm, Tảo, Quái” biến hóa thành “Thiểm, Trường, Dược, Đóa, Ảo, Thiết, Bế, Bát” gọi là Bát pháp. Bốn mươi chín đường “Bát Cực quyền” diệu ở chỗ lấn lướt. Nếu còn ngại bàn ghế làm vướng chân tay thì gặp lúc chiến đấu sinh tử với địch nhân, chẳng lẽ cũng xin họ khuân dọn bàn ghế trước hay sao?

Nàng thuyết một phen giống như giọng lưỡi của chưởng môn giáo huấn đồ đệ, mà các pháp quyết trong “Bát cực quyền” lại không sai một chữ nào. Tần Nại Chi đỏ mặt lên, lẳng lặng khom lưng nhảy vào lương đình, ra chiêu “Thôi sơn thức”, vung tả quyền đánh tới.

Viên Tử Y lắc đầu, nói:

– Chiêu này không đúng!

Nàng không đỡ gạt, chỉ bước qua bên trái một bước. Trước mặt Tần Nại Chi là một cái bàn cản trở, phát chưởng của lão không đánh được tới người nàng. Nhưng lão biến chiêu rất thần tốc, phóng ra liền ba tuyệt chiêu là “Trừu bộ phiên diện chùy”, “Diêu tử phiên thân”, “Phách quái chưởng”. Viên Tử Y khẽ nhớm chân phải lên, tay trái đặt chéo trên tay phải đánh xoáy tới thành dương quyền, rồi trong chớp mắt lại biến thành âm quyền đánh ra. Đó chính là thức thứ bốn mươi tư trong “Bát cực quyền” có tên là “Song đả kỳ môn”. Nguyên đây là chiêu số rất đắc ý của Tần Nại Chi, có điều Viên Tử Y xuất chiêu thần tốc, khiến Tần Nại Chi không kịp đề phòng, phải lập tức nghiêng mình để tránh.

“Binh” một tiếng, người lão đụng vào bàn, khiến cho các chung trà trên bàn đảo qua đảo lại mấy lần.

Viên Tử Y cười nói:

– Coi chừng!

Nàng liền tấn công ráo riết cả hai bên tả hữu, song quyền vung ra không ngớt như mưa, một bước thành ba vòng, ba bước thành chín lần biền đổi đều là những chiêu số của “Bát cực quyền”. Tần Nại Chi gắng sức chống đỡ. Lão thấy chiêu số của nàng đúng là quyền pháp của bản môn, có điều nàng sử dụng chậm, lúc nghiêng trái lúc nghiêng phải, không giống công phu bản môn.

Viên Tử Y hỏi:

– Sao lão sư chỉ đón đỡ chứ không trả đòn? Lão sư đang sử dụng “Bát cực quyền chứ đâu phải là “Ai thấu quyền”!

Tần Nại Chi giận quá, bèn thóa mạ:

– Con tiểu tiện nhân!

Lão ra chiêu “Thanh long xuất thủy”, tay trái làm thành hình móc câu, tay phải nắm thành quyền đánh ra. Viên Tử Y đối phó bằng chiêu “Tỏa thủ toản quyền”. Đột nhiên khuỷu tay phải lắc một cái rồi xoay tay nắm lấy cổ tay phải của Tần Nại Chi, bẻ quặt ra sau lưng đồng thời tay trái móc lên, bốn ngón đưa ra trước, ngón cái để sau chụp trúng vào huyệt “Kiên trinh” của lão, thuận đà đẩy mạnh tới phía trước, đè lão xuống mặt bàn, đặt miệng lão vào chung trà. Nàng quát:

– Uống trà đi!

Nàng sử dụng “Phân cân thác cốt thủ” một cách bình thường chẳng có chi kỳ lạ, tưởng chừng như mọi người trong bất cứ môn phái nào cũng luyện được. Có điều nàng ra tay cực kỳ thần tốc, tay nàng vừa đụng vào cổ tay Tần Nại Chi đã làm cho toàn thân lão bị kiềm chế. Lão vừa kinh hãi vừa tức giận, không tự chủ được, lại cất tiếng thóa mạ:

– Con tiểu tiện nhân!

Hai tay Viên Tử Y tăng gia kình lực. Bỗng nghe một tiếng lách cách. Xương bả vai Tần Nại Chi liền bị trật khớp. Nàng buông cổ tay lão ra, ngồi xuống ghế tròn tủm tỉm cười lạt, hỏi:

– Lão có nhường ngôi chưởng môn hay không?

Tần Nại Chi đau điếng người, trán toát mồ hôi lạnh, không nói nửa lời, rảo bước ra khỏi đình. Vương Kiếm Anh bước tới, một tay đỡ cánh tay phải cho lão còn một tay đỡ cổ. Hắn kéo ra rồi đưa vào để nắn lại khớp xương.

Vương Kiếm Anh quay lại nói:

– Công phu “Bát Cực quyền” của Viên cô nương quả nhiên thần diệu. Bây giờ tại hạ xin lãnh giáo môn “Bát Quái chưởng” của cô.

Dứt lời hắn tiến vào trong đình.

Viên Tử Y thấy bộ pháp của hắn ngưng trọng vững vàng, thì biết ngay là kình địch. Phàm những người luyện “Du thân bát quái chưởng” tất nhiên bộ pháp nhẹ nhàng phiêu dật, bước đi tựa hồ không chấm đất, nhưng cước bộ của Vương Kiếm Anh lại cực kỳ trầm trọng làm cho cát bụi tung bay, đó chính là căn cơ lợi hại vô tỷ, gọi là “Tự trọng chính tự khinh, chí khinh phản trọng”, luyện tập bộ pháp từ lúc còn nặng nề cho đến khi chân bước nhẹ nhàng, rồi sau đó lại khổ luyện cho bộ pháp lại nặng nề như lúc ban đầu. Viên Tử Y biết lão đã luyện mấy chục năm công lực, nàng chẳng thể bì kịp.

Hồ Phỉ tiến vào trong đình bưng lấy chung trà nhấp một hớp, khẽ nói:

– Tay này lợi hại lắm, cô nương chớ khinh địch.

Viên Tử Y cúi mặt nhìn xuống, khẽ đáp:

– Tiểu muội đã nhiều phen làm hỏng đại sự của đại ca, mà đại ca không giận tiểu muội ư?

Nàng hỏi câu này, Hồ Phỉ khó trả lời. Nếu bảo rằng không giận là không đúng, vì nàng đã liên tiếp ba lần cứu thoát Phụng Thiên Nam khỏi bàn tay chàng. Còn bảo rằng giận thì nhìn đôi mắt lóng lánh như sóng hồ thu dường như vô tình mà lại tựa hữu tình của nàng, thì ai mà oán trách được?

Viên Tử Y thấy Hồ Phỉ tiến vào đình dặn mình đề phòng, khiến nàng được an ủi rất nhiều. Nàng đang lo ngại không thắng nổi vị cao thủ Bát Quái môn, đến lúc này bỗng thấy tinh thần phấn khởi, dũng khí tăng lên, liền khẽ đáp:

– Đại ca yên tâm!

Viên Tử Y dí đầu ngón chân xuống nhảy lên mặt cái ghế tròn, nói:

– Vương lão sư! Võ công của Bát Quái môn chủ yếu chân đạp phương vị Bát quái: Càn, Khôn, Tốn, Khám, Chấn, Đoài, Ly, Cấn. Chúng ta chiết chiêu ở ngay trên những cái ghế này.

Vương Kiếm Anh đáp:

– Hay lắm!

Lão từ từ bước lên ghế tròn, hai tay vòng lại, một chưởng cong về phía trước, một chưởng vòng lại sau lưng. Hồ Phỉ đưa mắt ra hiệu cho Viên Tử Y rồi lui ra khỏi lương đình.

Viên Tử Y hỏi:

– Thường nghe Vương thị huynh đệ ở Bát Quái môn nổi danh anh kiệt ngang nhau. Lát nữa Vương lão sư mà thất bại rồi, lệnh đệ còn đánh nữa hay thôi?

Vương Kiếm Anh bản tính trầm tĩnh nhưng nghe mấy câu này cũng không nhịn được. Theo lời nàng thì dù chưa động thủ, nhất định hắn sẽ thất bại. Hắn đã không khéo nói, lại đang cơn thịnh nộ, miệng cứ lắp bắp không nên lời.

Vương Kiếm Kiệt tức giận quát:

– Con tiểu nha đầu đừng nói nhăng nói càn, chỉ cần ngươi đỡ nổi một trăm chiêu của đại ca ta là anh em ta từ nay không sử “Bát Quái chưởng” nữa.

Nên biết Vương thị huynh đệ là hạng danh cao vọng trọng trong võ lâm, hạng võ sư tầm thường không đỡ nổi mười chiêu của họ. Vương Kiếm Kiệt đã nói tới một trăm chiêu là không dám coi thường Viên Tử Y.

Viên Tử Y đưa mắt nhìn xéo, lạnh lùng hỏi:

– Sau khi ta đánh bại lệnh huynh thì có được coi là chưởng môn của Bát Quái môn không? Ngươi còn đấu nữa hay thôi?

Vương Kiếm Kiệt đáp:

– Ngươi khoác lác gì thế? Hãy thắng được ca ca ta đã rồi hãy nói cũng chưa muộn.

Viên Tử Y nói:

– Ta muốn hỏi cho rõ ràng đã.

Vương Kiếm Kiệt chưa kịp trả lời, Vương Kiếm Anh hỏi:

– Tôn sư là ai?

Viên Tử Y hỏi lại:

– Ngươi hỏi sư phụ ta làm chi?

Nàng đảo cặp mất đen láy ra chiều hiểu ý, rồi nói tiếp:

– Chà! Vương lão sư đã động nộ muốn hạ sát thủ nên mới hỏi sư phụ ta trước. Oai danh sư phụ ta rất lớn, nói ra chỉ làm cho lão phải bở vía. Ta không nêu tên sư phụ ra đâu, lão cứ việc giở hết những tuyệt kỹ của Bát Quái môn ra đi. Người ta thường nói đã không biết là không có tội. Dù lão đánh chết ta, gia sư cũng không trách lão đâu.

Nàng nói mấy câu này trúng tâm sự Vương Kiếm Anh. Lão thấy nàng đã tỷ đấu với Hồ Phỉ, lại kiềm chế Tần Nại Chi, xuất thủ không phải tầm thường thì nhất định có một lai lịch rất lớn. Nếu lão nặng tay đả thương nàng thì sau này sư phụ nàng tính đến tất khó bề đối phó. Lão nghe nàng nói vậy liền bảo:

– Xin các vị nơi đây làm chứng cho!

Lão vung chưởng đánh vút ra, chưởng lực chưa đến mà thân hình đi theo chưởng tiến tới, hai chân di động phương vị, bước từ cung Khôn sang cung Ly. Thân hình lão to lớn mà khi thi triển khinh công của Bát Quái môn thì cước bộ nhẹ nhàng như chim én lướt sóng. Viên Tử Y phóng chưởng đánh chênh chếch ngăn lại, đi từ cung Cấn đuổi qua cung Chấn. Tay nàng sử dụng Bát Quái chưởng, còn chân bước theo phương vị Bát quái. Vương Kiếm Anh đánh liền mấy chưởng đều bị nàng hất đi. Hai người đi quanh cái bàn tròn, di chuyển trên mười hai cái ghế đá chẳng khác gì bọn trẻ con chơi trò trốn tìm nhưng cước lực mỗi lúc một nhanh, khiến quần áo phát ra tiếng gió phần phật.

Vương Kiếm Anh nghĩ thầm:

– Con tiểu nha đầu này tâm tư rất linh xảo, đã dụ được ta đấu chưởng trên ghế đá cách một cái bàn. Chưởng lực của thị vốn không bì kịp ta, nhưng cái bàn tròn cản trở ở giữa thì thị không còn sợ chưởng lực trầm trọng của ta nữa.

Lão lại tự nhủ:

– Võ công con nha đầu này thật là phức tạp. Thị sử được môn Bát Quái chưởng của nhà ta rất chính xác, hà tất ta phải dùng chưởng pháp thông thường để dây dưa với thị?

Đột nhiên lão hú lên một tiếng, chân bước loạn xạ, thủ chưởng xiêu vẹo. Lão thi triển môn tuyệt kỹ gia truyền “Bát trận Bát Quái chưởng” oai chấn của phụ thân Hà Sóc Vương Duy Dương. Chưởng pháp này Vương Duy Dương chỉ dạy cho hai con, còn đệ tử khác họ như Thương Kiếm Minh đều không được truyền thụ. Đó là môn Bát Quái chưởng kèm theo Bát trận đồ. Thiên trận lấy cung Càn làm Thiên môn. Địa trận lấy cung Khôn làm Địa môn, Phong trận lấy cung Tốn làm Phong môn, Vân trận lấy cung Chấn làm Vân môn, Phi long lấy cung Khảm làm Phi Long môn, Võ Dực lấy cung Đoài làm Võ Dực môn, Điểu Tường lấy cùng Ly làm Điểu Tường môn, Uyên Bàn lấy cung Cấn làm Uyên Bàn môn. Thiên Địa Phong Vân là bốn chính môn, Long Hổ Điểu Uyên là bốn kỳ môn, Càn Khôn Cấn Tốn là hạp môn, Khám Ly Chấn Đoài là khai môn. Bốn chính môn cùng bốn kỳ môn và bốn hợp môn cùng bốn khai môn, khi áp dụng vào võ học chỉ trong khoảnh khắc đã biến hóa kỳ ảo vô cùng. Tuy ở trong lương đình nhỏ xíu cũng đủ để bài bố trận chiến đấu.

Môn “Bát trận Bát Quái chưởng” này chẳng những Viên Tử Y chưa học mà còn chưa được nghe qua. Chỉ vì đây là môn tuyệt kỹ mật truyền của Vương Duy Dương, nên dù sư phụ nàng là người uyên bác vô song về võ học cũng có chỗ chưa biết đến. Nàng mới tiếp được mấy chưởng đã hoa mắt lên, bất giác ngấm ngầm kêu khổ.

Hồ Phỉ đứng ngoài lược trận biết là tình thế không ổn, nhưng Viên Tử Y lúc trước đã khoác lác đòi đoạt chức chưởng môn, nên chàng không thể ra tay tương trợ. Chàng thấy Vương Kiếm Anh mỗi lúc một chiếm thượng phong mà không biết làm sao được.

Bỗng thấy Viên Tử Y dí chân trái xuống, nhảy lên mặt bàn, nói:

– Đứng trên ghế thi triển bản lĩnh không hay. Chúng ta lên bàn tỷ đấu. Vương lão sư không được đạp bể các chén trà cùng các đĩa trái cây đâu nhé!

Vương Kiếm Anh chẳng nói chẳng rằng, cũng nhẩy lên bàn. Lúc này hai người cách rất gần nhau, Viên Tử Y không thể dùng sự khéo léo được nữa. Quyền chưởng của đối phương phóng ra nàng phải trực tiếp đón đỡ, nhưng dưới chân lại chiếm phần tiện nghi. Nguyên trên bàn có mười hai chén trà, cùng bốn đĩa trái cây để rải rác lộn xộn chẳng khác gì “Mai hoa thung” hay  “Thanh trúc trận“ nên bước chân đặt xuống phải theo quy luật.

“Bát trận Bát Quái chưởng” của Vương Kiếm Anh mà thi triển dưới đất thì uy lực mãnh liệt phi thường, nhưng ở trên “Mai hoa thung” thì sự biến hóa liền bị hạn chế, khiến uy lực phải sút giảm theo. Lúc này ở trên bàn lão chỉ sợ lỡ đạp bể chén trà hay đĩa trái cây làm cho con nha đầu điêu ngoa kia chê cười. Lão cố giữ vị thế để khỏi phải di chuyển bước chân lúc huy động chưởng lực. Lão tự lượng không thể ỷ vào cước bộ hay chưởng pháp linh diệu, mà chỉ trông vào nội công thâm hậu để dùng đôi nhục chưởng đánh hạ nàng

Chưởng phong rít lên vù vù. Những bông hoa ở bên lương đình bị chưởng phong chấn động làm cho cánh hoa tung bay lả tả. Lúc Viên Tử Y nhảy lên mặt bàn nàng đã tính những điều lợi hại. Nàng thấy đối phương phóng những phát chưởng như cuồng phong sậu vũ, đành di chuyển thân hình không ngớt, lúc tránh tới trước khi lùi lại sau, chứ tuyệt nhiên không dám đối chưởng với Vương Kiếm Anh. Nàng biết chưởng lực của đối phương rất hùng hậu, chỉ cần song chưởng hai bên chạm nhau là nàng khó bề thoát thân.

Bỗng thấy Vương Kiếm Anh vung hờ hữu chưởng, tả chưởng đưa xéo lên, lúc này hữu chưởng mới đánh ra, Viên Tử Y khẽ khều chân hất một chén trà bắn vào mặt lão. Vương Kiếm Anh giật mình kinh hãi lạng mình né tránh nhưng Viên Tử Y đã lượng trước phương vị này, hai chân nàng liên tiếp móc hất các chung trà liên tiếp bắn tới. Vương Kiếm Anh tránh được ba cái, nhưng cái thứ tư, thứ năm đánh trúng đầu và vai lão kêu bốp bốp. Lão vung chưởng gạt chén trà thứ bảy thứ tám làm nước và xác trà trong chén văng tung tóe vào mặt, còn chén thứ chín thứ mười thì bắn trúng vào ngực lão, bật lên những tiếng chát chát. Nước trà bắn tung tóe đầy mặt mũi đầu tóc lão.

Vương Kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt tức giận gầm lên như sấm. Bọn người đứng xem là Uông Thiết Ngạc, Ân Trọng Tường, Chử Oanh không nhịn được cũng bật tiếng la hoảng.

Lại thấy hai cái chung trà sau cùng bắn thẳng vào hai mắt Vương Kiếm Anh. Lão phẫn nộ đến cực điểm đánh ra một chưởng thật mạnh. Viên Tử Y đá chung trà lên cốt để làm cho địch rối loạn và chờ lão phóng chưởng ra. Nàng đã gập cơ hội không thể bỏ lỡ, liền lạng mình lại vươn trảo ra chụp lấy cổ tay Vương Kiếm Anh, tay trái nắm huyệt “Khúc trì” của lão, vặn một vòng rồi đẩy mạnh ra nghe “rắc” một tiếng.

Vương Kiếm Kiệt la hoảng:

– Nguy rồi!

Xương tay Vương Kiếm Anh đã bị trật khớp. Đây vẫn là công phu “Phân cân thác cốt” tầm thường, về điểm kỳ diệu của gia số thì chẳng có chi đáng kể, nhưng Viên Tử Y ra tay nhanh như điện chớp, Vương Kiếm Anh không né tránh kịp mà phải lãnh cái nhục chung thân.

Vương Kiếm Kiệt vỗ hai tay một cái, đồng thời nhảy tới phía sau Viên Tử Y. Hồ Phỉ đánh ra một chưởng khiến gã bị chấn động phải lùi lại ba bước.

Chàng nói:

– Vương huynh hãy thong thả! Vừa nói là lấy một chọi một kia mà?

Vương Kiếm Anh sắc mặt trắng nhợt, nằm sõng soài trên bàn như xác chết. Viên Tử Y bụng bảo dạ:

– Nếu ta tha hắn một cách khinh suất, để cả hai anh em hắn quay lại khiêu chiến thì ta sao địch nổi?

Nàng liền hạ thủ chẳng nể nang gì. Nhân lúc Vương Kiếm Anh không còn sức kháng cự, nàng lại vặn trật khớp xương cánh tay trái hắn nghe lách cách, đoạn đưa ngón tay điểm vào huyệt “Thái dương”, quát hỏi:

– Ngôi chưởng môn Bát Quái môn lão có chịu nhường hay không?

Vương Kiếm Anh nhắm mắt chờ chết, không nói gì nữa Vương Kiếm Kiệt gào lên:

– Tha ngay huynh trưởng ta rồi ngươi muốn làm chưởng môn thì làm.

Viên Tử Y hỏi:

– Lão nói có chắc không?

Vương Kiếm Kiệt đáp:

– Chắc lắm! Chắc lắm!

Viên Tử Y mỉm cười nhảy xuống bàn. Vương Kiếm Kiệt đỡ người huynh trưởng ráo bước đi ngay, không ngoảnh cổ lại nữa.

Chu Thiết Tiêu nói:

– Cô nương liền một lúc đoạt ngôi chưởng môn của hai nhà, quả là bậc thông mình lanh lợi. Không hiểu cô còn lưu diệu kế gì để đối phó với Chu mỗ?

Hắn nói câu này hiển nhiên ám chỉ Viên Tử Y đã dùng ngụy kế để thắng chứ không có bản lĩnh chân thực.

Viên Tử Y đáp:

– Đối phó với Ưng trảo nhạn hành môn thì cần chi dùng đến trí kế? Bên lão ba vị sư huynh sư đệ xông vào cả một lúc, hay chỉ một mình Chu lão sư đấu với ta?

Chu Thiết Tiêu cười thản nhiên, hỏi lại:

– Viên cô nương nói vậy là nhìn người qua khe cửa, coi tất cả võ sư ở thành Bắc Kinh chẳng ra gì. Từ ngày Chu mỗ mới mười ba tuổi đến giờ vẫn đơn đả độc đấu.

Viên Tử Y nói:

– Ô! Vậy trước khi Chu lão sư được mười ba tuổi chắc không phải là anh hùng hảo hán, chuyên chơi trò hai người đánh một?

Chu Thiết Tiêu đáp:

– Hà hà, đến năm mười ba tuổi, Chu mỗ mới bắt đầu học nghệ.

Viên Tử Y nói:

– Những trang anh hùng hảo hán khi sinh ra đã là anh hùng hảo hán. Lắm tay võ nghệ cao cường mà thủy chung chỉ vẫn là đồ vất đi. Chu lão sư! Ta nói vậy không phải ám chỉ lão sư đâu nhé.

Chẳng hiểu tại sao đối với Vương Kiếm Anh, Vương Kiếm Kiệt nàng ba phần bội phục, mà đối với Chu Thiết Tiêu đầy vẻ cao ngạo nàng lại buông những lời khinh miệt. Chu Thiết Tiêu chưa từng bị nhục đến thế, trong lòng tức giận như muốn phát điên, mà ngoài miệng chỉ “hừ” một tiếng.

Uông Thiết Ngạc quát lên:

– Con tiểu nha đầu kia, nói năng với đại sư ca ta phải lịch sự một chút.

Viên Tử Y thấy lão này là người khù khờ, nàng không lý gì đến hắn, mà nhìn Chu Thiết Tiêu giục:

– Lấy ra đi! Đặt lên bàn.

Chu Thiết Tiêu ngạc nhiên hỏi:

– Cái gì?

Viên Tử Y đáp:

– Đồng ưng thiết nhạn bài!

Chu Thiết Tiêu nghe đến năm chữ “Đồng ưng thiết nhạn bài” thì dù công phu hàm dưỡng cao thâm đến đâu cũng chẳng thể giữ vẻ điềm nhiên được nữa, hắn lớn tiếng:

– Chà chà! Những chuyện của bản môn ta, ngươi hiểu biết khá nhiều đấy.

Hắn cởi cái túi gấm ở đai lưng đặt lên bàn, rồi quát lớn:

– “Đồng ưng thiết nhạn bài” ở trong này. Bữa nay ngươi cứ giết Chu mỗ đi rồi hãy lấy tấm bài này.

Viên Tử Y đáp:

– Lão sư hãy lấy ra cho ta coi đã, ai mà biết được tấm đồng bài là chân hay giả?

Chu Thiết Tiêu hai tay run lên mở túi gấm, lấy ra một tấm kim bài dài bốn tấc, rộng hai tấc. Trên mặt bài có khảm một con chim ưng bằng đồng đang vươn móng và một con nhạn bằng sắt đang bay. Đây là tấm tín bài của chưởng môn truyền đời ở Ưng trảo nhạn hành môn. Bọn đệ tử bản môn nhìn thấy tấm kim bài này cũng như nhìn thấy chính chưởng môn vậy.

Nguyên Ưng trảo nhạn hành môn là một môn phái lớn trong võ lâm về cuối đời nhà Minh, khoảng giữa hai triều đại Thiên Khải và Sùng Trinh. Chưởng môn mấy đời ở phái này đều là những tay võ công trác tuyệt, môn quy cũng rất nghiêm ngặt. Nhưng truyền đến đời Chu Thiết Tiêu, Tăng Thiết Âu thì quần đệ tử đều để bọn quyền quý nhà Mãn Thanh thu dụng. Chúng nhiễm phải tính xa hoa ở kinh thành, võ công kém hẳn tiền nhân. Về sau, đến đời Gia Khánh, Ưng trảo nhạn hành món mới nảy ra được mấy nhân vật sắc sảo và bắt đầu công cuộc trùng hưng môn phái.

Viên Tứ Y nói:

– Nhìn thì rất giống của thật nhưng cũng chưa chắc.

Nguyên nàng vừa một phen kịch chiến với Vương Kiếm Anh, tuy may mà chuyển bại thành thắng, nhưng nội lực đã hao tổn rất nhiều. Bây giờ cố ý kéo dài câu chuyện, một là để chọc giận Chu Thiết Tiêu, hai là để dưỡng chân khí.

Chu Thiết Tiêu là người biết nhiều hiểu rộng làm gì chẳng rõ tâm ý của nàng? Hắn không cần nói nhiều, chỉ vung hai tay, đột nhiên nhảy vọt lên mái lương đình, nói:

– Chúng ta càng đánh càng lên cao. Chu mỗ lên nóc quán để lãnh giáo cao chiêu.

Nên biết môn phái hắn mang danh Ưng trảo nhạn hành vì một là chuyên về môn Ưng trảo cầm nã, hai là chuyên về môn Nhạn hành khinh công. Chu Thiết Tiêu nhảy lên nóc quán là cố ý giữ hiểm địa để thuận tiện thi triển khinh công, quyết cùng đối thủ một phen chiến đấu sinh tử, đồng thời khiến Viên Tử Y không còn cách nào thi triển ngụy kế, mà lúc nàng gặp nguy cấp, Hồ Phỉ cũng khó bề ra tay tương trợ. Trong lòng hắn cho rằng Viên Tử Y bản lãnh có cao thâm cũng chỉ là hạng nữ lưu, còn Hồ Phỉ mới thực sự là kình địch. Chu Thiết Tiêu có ngờ đâu cầm nã và khinh công lại chính là hai môn tuyệt kỹ sở trường của Viên Tử Y. Giả tỷ hắn được chứng kiến nàng đã thi triển môn khinh công kinh thế hãi tục để tỷ đấu bằng trường tiên với Dịch Cát trên ngọn cột buồm cao ngất, tất hắn không dám nhảy lên nóc lương đình thách đấu.

Hồ Phỉ thấy hắn tung người nhảy lên, thân pháp tuy mau lẹ nhưng chưa thể bì kịp với Viên Tử Y, nên chàng thấy yên tâm. Chàng quay lại nhìn Viên Tử Y, hai người mỉm cười với nhau. Viên Tử Y giả vờ miễn cưỡng nhảy lên nóc quán, hô lớn:

– Coi chiêu đây!

Mười ngón tay theo tư thế Ưng trảo đánh xéo tới. Nguyên trảo pháp trong quyền thuật, về cơ bản trong lộ số chia làm ba loại là Long trảo, Hổ trảo và Ưng trảo. Long trảo thì bốn ngón khép lại, ngón cái choãi ra, những đầu ngón tay quay vào lòng bàn tay. Hồ trảo thì năm ngón tay xa nhau, ngón thứ nhì và ngón thứ ba uốn cong lại hướng vào lòng bàn tay. Ưng trảo thì bốn ngón co lại, ngón cái mở rộng ra, các ngón hai và ba cũng gấp lại hướng vào lòng bàn tay. Ba loại trảo pháp này đều có chỗ sở trường, nhưng Long trảo công thì thâm ảo nhưng khó luyện hơn hết.

Chu Thiết Tiêu thấy Viên Tử Y quả nhiên dùng gia số của bản môn liền tự nhủ:

– Nếu ả dùng võ công cổ quái nào thì ta còn có phân uý kỵ, đằng này ả lại sử dụng Ưng trảo nhạn hành công là tự tìm đường chết rồi.

Hắn vươn tay thành thế Ưng trảo, lật tay như hình móc câu đánh ra. Quần hào ngửng đầu lên nhìn thấy hai người nhảy nhót nhẹ nhàng, sáp vào nhau thi triển mấy chiêu cầm nã rồi lui ra ngay. Trong bốn trận kịch đấu đêm nay thì trận này ngoạn mục hơn hết nhưng cũng là một trường hung hiểm nhất. Dưới ánh trăng, hai người chẳng khác đôi chim khổng lồ bay qua bay lại đánh nhau trên lương đình.

Đột nhiên hai người giáp lại gần nhau, rồi nghe mấy tiếng lắc rắc. Viên Tử Y quát lớn một tiếng, Chu Thiết Tiêu rú lên một tiếng thật dài, ngã xuống khỏi lương đình. Vì thủ cước hai người lẹ quá, quần hào đứng xem chỉ có Hồ Phỉ và Tăng Thiết Âu là nhìn rõ Chu Thiết Tiêu đã ngã xuống ra sao.

Trong lúc kịch đấu, Chu Thiết Tiêu dùng tuyệt chiêu “Tứ nhạn nam phi”, tung chân đá đối phương bốn ngọn cước theo thế liên hoàn. Đến ngọn cước thứ hai thì hắn bị Viên Tử Y dùng phép “Phân cân thác cốt thủ” bẻ trật khớp xương chân trái. Theo thế liên hoàn cước của hắn khi chân này vung ra đá thì chân kia hạ xuống, nhưng đến nửa đường không có cách gì thu lại được, nên chân trái đã bị thương nhưng chân phải vẫn phải đá ra, Viên Tử Y tính toán thật chính xác bèn tung chân đá vào đầu gối hắn, làm chân phải hắn bị thương trầm trọng hơn cả chân trái nữa.

Mọi người đứng xem chỉ thấy Chu Thiết Tiêu lúc té xuống, vai và lưng chạm đất rồi không dậy được nữa. Quán lương đình này không cao mấy. Căn cứ vào bản lĩnh khinh công của Chu Thiết Tiêu, đã vào hàng trác tuyệt thì dù địch không nổi Viên Tử Y, khi nhảy xuống cũng quyết không thể không dậy được. Chẳng lẽ hắn lại bị trọng thương trí mạng?

Uông Thiết Ngạc xưa nay vốn một lòng kính ái đại sư huynh, hốt hoảng la lớn:

– Sư ca!

Hắn chạy xông tới, thanh âm trong tiếng la nghe như người sắp khóc. Hắn cúi xuống đỡ Chu Thiết Tiêu đứng lên, nhưng hai đầu gối họ Chu đã trật khớp còn đứng làm sao được? Uông Thiết Ngạc vừa buông tay, Chu Thiết Tiêu rên lên một tiếng rồi lại ngã lăn ra.

Tăng Thiết Âu khẽ mắng:

– Đồ ngu!

Rồi chạy lại đỡ lên. Tăng Thiết Âu cũng là một tay hảo thủ hạng nhất trong Ưng trảo nhạn hành môn nhưng không hiểu thuật tiếp cốt, liền ôm Chu Thiết Tiêu cứ thế chạy đi. Chu Thiết Tiêu quát:

– Thu lấy Ưng nhạn bài!

Tăng Thiết Âu chợt nhớ ra, chạy vào lương đình. Lúc hắn vươn tay định lấy tấm kim bài trên cái bàn tròn thì đột nhiên có tiếng gió vút vào đầu. Tăng Thiết Âu tay mặt ôm sư huynh, tay trái chưa kịp lấy kim bài đành xoay chưởng lên nghinh đón, nào ngờ đánh vào quãng không. Bỗng trước mặt thấy bóng đen thấp thoáng, một người từ trên nóc quán nhảy xuống chộp lấy tấm kim bài trên bàn, quát lớn:

– Đánh thua rồi muốn trở mặt chăng?

Đó chính là Viên Tử Y.

Tăng Thiết Âu vừa sợ vừa tức, cứ ôm Chu Thiết Tiêu đứng ngẩn người trong quán. Hắn không biết nên liều mạng với Viên Tử Y hay là mời người cứu trị đại sư huynh.

Hồ Phỉ tiến lên một bước nói:

– Hai chân Chu huynh bị trật khớp, nếu không nắn lại ngay e rằng sẽ tổn thương đến gân cốt.

Chàng không chờ hai lão Chu, Tăng trả lời đã đưa tay ra nắm lấy chân trái Chu Thiết Tiêu kéo ra một cái rồi đẩy vào lại đánh “cộp” một tiếng là tiếp cốt xong. Chàng lại tiếp cốt chân phải và giải khai huyệt đạo cho Chu Thiết Tiêu. Hắn thấy cơn đau lập tức giảm đi rất nhiều.

Hồ Phỉ nhìn Viên Tử Y, chìa tay ra, cười nói:

– Tấm “Đồng ưng thiết nhạn bài” đó cũng chẳng có chi đẹp đẽ, cô nương nên trả lại cho Chu đại ca đi!

Viên Tử Y nghe chàng nói đến câu “cũng chẳng có chi đẹp đẽ”, nhoẻn miệng cười, cầm tấm kim bài đặt vào trong lòng bàn tay Hồ Phỉ. Hồ Phỉ hai tay nâng kim bài kính cẩn đưa tới trước mặt Chu Thiết Tiêu. Chu Thiết Tiêu vươn tay ra chụp lấy, nói:

– Lòng tốt của hai vị, Chu mỗ còn một hơi thở cũng có ngày báo đáp.

Hắn nói rồi đưa mắt nhìn Viên Tử Y và Hồ Phỉ, đoạn bám vai Tăng Thiết Âu trở gót đi ngay. Hắn nhìn Viên Tử Y bằng cặp mắt đầy vẻ oán độc, mà khi nhìn Hồ Phỉ thì ánh mắt lại biểu hiện lòng cảm kích. Viên Tử Y chẳng để ý gì.

Nàng giương cặp lông mày xinh đẹp lên nhìn người sử lôi chấn đáng là Chử Oanh hỏi:

– Chử đại gia! Nửa chức chưởng môn của đại gia có cần tỷ đấu nữa hay thôi?

Đến nước này thì Chử Oanh dù có đần độn đến đâu cũng hiểu rằng mấy môn công phu tầm thường của mình chẳng thể nào địch nổi Viên Tử Y. Hắn liền chấp tay đáp:

– Tệ phái là Lôi điện môn do gia sư chấp chưởng, tại hạ làm gì dám đại diện chưởng môn? Nếu cô nương muốn tứ giáo thì xin mời đến Tái Bắc, nhất định gia sư rất hoan nghênh.

Hắn nói câu này không kiêu ngạo cũng chẳng hèn nhát, đổ hết trách nhiệm lên đầu sư phụ.

Viên Tử Y cười hà hà vẫy tay mấy cái hỏi:

– Còn vị nào muốn tứ giáo nữa chăng?

Bọn Ân Trọng Tường chắp tay nói:

– Hồ đại gia! Hẹn ngày tái ngộ.

Đoạn trở gót ra ngoài. Ai nấy đều lòng đầy ngờ vực, không hiểu cô gái võ công cao cường đó lai lịch ra sao. Hồ Phỉ đưa chân họ đến tận cửa ngoài rồi mới quay về vườn hoa.

Bỗng nghe trên không sấm nổ, chàng ngửng đầu trông thấy mây đen kéo mù mịt đây trời che khuất cả vầng trăng.

Viên Tử Y nói:

– Đúng là trời làm phong vân bất ngờ, người có họa phúc khôn lường. Ai mà biết được Hồ đại ca hành hiệp phong trần, chỉ một chuyến đến kinh sư bỗng trở nên đại phú ông.

Nàng nhắc tới vụ này bất giác khiến cho Hồ Phỉ tức lộn ruột. Chàng đáp:

– Viên cô nương! Tòa trạch đệ này là sản nghiệp của tên gian nhân họ Phụng, tại hạ ở trong nhà thêm một khắc nào là điếm nhục thêm khắc ấy. Xin cáo từ.

Chàng quay lại bảo Trình Linh Tố:

– Nhị muội! Chúng ta đi thôi!

Viên Tử Y hỏi:

– Đang lúc nửa đêm các vị còn đi đâu? Đại ca không thấy trời sắp chuyển mưa lớn rồi ư?

Nàng vừa dứt lời thì những hạt mưa lớn bằng hạt đậu trút xuống ào ào. Hồ Phỉ tức giận đáp:

– Dù có phải ngủ nơi đầu đường xó chợ cũng còn hơn trú mưa dưới thềm nhà của tên gian tặc.

Chàng nói rồi không ngoảnh đầu lại, rảo bước ra cửa. Trình Linh Tố bước theo sau.

Bỗng nghe Viên Tử Y ở phía sau hằn học nói:

– Phụng Thiên Nam là tên gian tặc có chết đi cũng chưa đáng tội. Tiểu muội hận chẳng được chính tay mình đâm hắn mấy đao!

Hồ Phỉ nghe nói bỗng dừng bước, quay lại tức giận hỏi:

– Lúc này sao cô nương lại nói được mấy điều mát mẻ thế?

Viên Tử Y đáp:

– Trong lòng tiểu muội còn oán hận Phụng Thiên Nam gấp trăm lần đại ca.

Nàng dừng lại một chút, nghiến răng nói tiếp:

– Đại ca bất quá mới căm hờn hắn trong mấy tháng, còn tiểu muội oán hận hắn suốt đời!

Mấy tiếng sau cùng giọng nói bỗng nghẹn ngào. Hồ Phỉ nghe nàng ra giọng bi thiết chứ không có ý trá ngụy, rất lấy làm lạ, hỏi:

– Đã vậy tại hạ ba lần bốn lượt giết hắn, mà sao lần nào cô nương cũng giải cứu?

Viên Tử Y đáp:

– Chỉ có ba lần thôi. Quyết không có lần thứ tư nữa đâu!

Hồ Phỉ nói:

– Phải, chỉ có ba lần. Mà sao lại như thế?

Lúc hai người nói chuyện, trời mưa như trút nước, khiến cả ba người áo quần ướt đẫm.

Viên Tử Y hỏi:

– Chẳng lẽ đại ca bắt tiểu muội đứng giữa trời mưa để giải thích tỉ mỉ chăng? Đại ca không sợ mưa đã đành, nhưng lệnh muội tử yếu ớt thế kia chẳng lẽ cũng không sợ?

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi, chúng ta vào nhà nói chuyện.

Ba người liền vào thư phòng. Tên thư đồng thắp nến lên, dâng trà thơm lại rồi lui ra.

Trong căn phòng này cách trần thiết rất tinh tế và thanh nhã. Vách bên đông đóng hai giá sách, chứa đầy sách vở. Mé tây là cánh cửa sổ lớn, lấp lánh bóng trúc xanh, lại nghe thoang thoảng mùi hoa quế. Trên tường mé nam có treo một bức họa của Đổng Kỳ Xương, một bức đối viết theo lối hành thư của Chúc Chi Sơn, ghi hai câu thơ của Bạch Lạc Thiên:

Hồng lạp chúc di, đào diệp khởi

Tử la sam động, giá chi lai

(Lá đào trổ tựa đèn hồng lạp

Cành giá lay như áo tử la)

Hồ Phỉ trong lòng mãi ngẫm nghĩ về mấy câu nói kỳ quái của Viên Tử Y nên chẳng để tâm gì đến thư họa. Huống chi chàng lại là người ít đọc sách nên nếu có nhìn cũng chẳng hiểu gì.

Trình Linh Tố lẩm nhẩm đọc hai câu đối, mắt nhìn cây đèn hồng lạp trên bàn, rồi lại nhìn tấm áo tử la trên mình Viên Tử Y, thầm nhủ:

– Hai câu đối này tựa hồ viết ra là để tả cảnh đang bày trước mắt. Ta lẫn lộn vào đây thật chẳng ra làm sao cả.

Cả ba người đều lẳng lặng không nói, mỗi người đều có tâm sự riêng. Ngoài cửa sổ, những hạt mưa vẫn đập xuống lá trúc lộp độp, sáp nến từ từ chảy xuống. Trình Linh Tố cầm chiếc đũa bạc nhỏ bên cây đèn để khêu ngọn nến. Trong nhà yên lặng như tờ.

Hồ Phỉ phiêu bạt giang hồ từ thuở nhỏ, nay chàng ngồi yên lặng để bầu bạn với hai thiếu nữ diễm lệ chốn thư trai là lần thứ nhất trong đời. Sau một lúc lâu, Viên Tử Y nhìn những hạt mưa rơi ngoài cửa sổ, chậm rãi kể:

– Mười chín năm trước, cũng dưới trận mưa lúc đêm khuya, tại Phật Sơn trấn tỉnh Quảng Đông, một người thiếu phụ ôm một đứa con gái nhỏ đội mưa chạy trên đường. Thiếu phụ kia không biết phải đi về phương nào, vì bị người ta truy đuổi tới đường cùng. Bao nhiêu thân nhân của thiếu phụ đều bị giết chết cả rồi. Thiếu phụ đã bị người ta làm nhục không chịu nổi. Nếu trong lòng không ôm một đứa con nhỏ thì cô đã nhảy xuống sông tự tử rồi. Thiếu phụ họ Viên tên là Ngân Cô. Cái tên nghe có vẻ quê mùa, vì cô vốn là một cô gái chốn hương thôn khá đẹp, tuy nước da ngăm ngăm đen nhưng mặt mày thanh tú. Những thanh niên ở trấn Phật Sơn đặt cho cô ngoại hiệu là “Hắc mẫu đơn”. Cô sinh trưởng ở một gia đình chài lưới. Mỗi buổi sáng sớm, cô gánh cá vào bán cho các hàng cá ở trấn Phật Sơn.

Một hôm, nhà đại tài chủ Phụng Thiên Nam bày tiệc làm rượu mời khách. Thế là trời nổi phong vân bất trắc, người gặp họa phúc khôn lường. Vị cô nương đẹp như bông hoa tươi bị Phụng Thiên Nam nhìn thấy. Tên họ Phụng trong nhà đây thê thiếp nhưng lão vẫn chưa thỏa mãn, còn cưỡng bách làm nhục cô. Ngân Cô tâm thần hoảng loạn, quên cả lấy tiền cá, bỏ chạy ra khỏi Phụng phủ. Ngờ đâu cuộc nghiệt duyên này làm cho cô mang thai. Phụ thân cô hỏi rõ đầu đuôi, rồi đến phân trần tại Phụng phủ. Phụng lão gia nổi trận lôi đình sai người đánh phụ thân cô một trận, bảo rằng ông ăn nói nhăng cuội, bịa chuyện hồ đồ. Phụ thân của Ngân Cô ôm mối căm hờn về nhà, bị bệnh liệt giuờng mấy tháng rồi qua đời. Các bậc chú bác của Ngân Cô lại bảo cô đã làm chết phụ thân, không cho cô mặc hiếu phục, cũng không cho phục lạy trước quan tài. Họ còn bảo cần phải bỏ cô vào lồng heo quẳng xuống sông cho chết đi. Ngân Cô chạy suốt đêm trốn khỏi trấn Phật Sơn.

Mấy tháng sau, cô sinh được một đứa con. Hai mẹ con không có kế gì để sinh sống. Phải quay về thị trấn xin ăn. Những người ở thị trấn thương xót cô nên đều chu cấp tử tế. Ai cũng xì xầm bàn tán Phụng lão gia là kẻ ác nghiệt hại người, chỉ vì sợ thế lực quá lớn nên không ai dám nói thẳng vụ này. Trong bọn hàng cá ở thị trấn có một người thường nói chuyện với Ngân Cô, lòng y ngấm ngầm thương yêu cô. Y liền nhờ người mối lái lấy cô làm vợ, đồng thời tình nguyện nhận cả đứa con cô làm con mình. Ngân Cô rất đỗi vui mừng, hai người bèn làm lễ bái đường thành thân. Ngờ đâu một tên thủ hạ của Phụng lão gia biết việc này liền bẩm báo cho lão.

Phụng lão gia nổi giận đùng đùng, quát hỏi:

– Tên hàng cá nào lớn mật đám lấy cả người đàn bà đã qua tay ta?

Lão liền phái mười mấy tên đồ đệ đến nhà hàng cá kia, đuổi sạch những người khách tới uống rượu mừng, rồi đập phá đồ đạc tan tành. Chúng còn đuổi người hàng cá ra khỏi trấn Phật Sơn không cho trở về nữa.

Hồ Phỉ nghe tới đây đập tay xuống bàn đánh “binh” một tiếng, khiến ngọn nến trên bàn bị chấn động suýt tắt. Chàng quát lớn:

– Tên gian tặc này độc ác đến thế là cùng!

Viên Tử Y không đưa mắt nhìn chàng, mặt đầy ngấn lệ nhìn ra ngoài cửa sổ, như đắm chìm theo câu chuyện. Nàng nhẹ buông tiếng thở dài, rồi kể tiếp;

– Ngân Cô liền ôm con gái đuổi theo, ra ngoài trấn Phật Sơn. Đêm hôm ấy trời mưa tầm tã, hai mẹ con toàn thân ướt đẫm. Ngân Cô chạy dưới trời mưa, vừa chạy vừa trượt chân té ngã suốt mười mấy dặm thì thấy trên đường lớn có người nằm dưới đất. Cô tưởng là kẻ say rượu, vì lòng hảo tâm muốn đỡ y dậy. Ngờ đâu cô cúi xuống nhìn thấy người này mặt đầy máu, chết từ lâu rồi và chính là anh hàng cá đã cùng nàng bái đường thành thân.

Nguyên Phụng lão gia sai người chờ ở ngoài thị trấn để hạ thủ giết anh ta. Ngân Cô lòng đau như cắt, không muốn sống nữa. Cô lấy tay móc đất thành cái huyệt chôn vùi trượng phu rồi toan nhảy xuống sông tự tử. Nhưng đứa con nhỏ trong lòng bỗng bật tiếng khóc rất đáng thương, cô làm sao nhẫn tâm làm chết đứa con do mình rút ruột sinh ra? Nếu bỏ nó bên đường thì giữa cơn mưa này, đứa bé làm sao sống nổi? Ngân Cô suy đi nghĩ lại đành nghiến răng bồng đứa nhỏ chạy về phía trước, định bụng hãy nuôi cho khôn lớn rồi sẽ liệu.

Trình Linh Tố nghe tới đây không khỏi ngậm ngùi sa lệ. Cô thấy Viên Tử Y dừng lại không nói nữa liền hỏi:

– Viên tỷ tỷ! Về sau thế nào?

Viên Tử Y lấy khăn lau nước mắt, mỉm cười đáp:

– Cô đã kêu ta bằng tỷ tỷ thì lấy thuốc giải cho ta uống được không?

Trình Linh Tố sắc mặt đang tái nhợt bỗng đỏ lên, khẽ nói:

– Té ra tỷ tỷ đã biết rồi.

Cô rót một chung trà, rồi dùng móng tay búng ra một chút thuốc màu vàng lợt bỏ vào trong chung trà.

Viên Tử Y nói:

– Muội tử lòng dạ rất tốt, đã chuẩn bị sẵn thuốc giải trong móng tay, thật là thần không biết, quỷ không hay.

Nàng nói rồi bưng chung trà lên uống một hơi cạn sạch.

Trình Linh Tố nói:

– Tỷ tỷ không trúng phải loại thuốc độc trí mạng, mà nó chỉ khiến cho tỷ tỷ mắc bệnh mấy tháng, để khi Hồ đại ca giết Phụng Thiên Nam, tỷ tỷ không thể ra tay cứu hắn được.

Viên Tử Y cười mát, hỏi:

– Ta đã biết là trúng phải độc thủ của muội rồi, có điều muội hạ độc bằng cách nào thì thủy chung ta vẫn không nghĩ ra được. Sau khi vào nhà, ta không uống một hớp nước hay ăn một chút gì.

Hồ Phỉ trong lòng kinh hãi, nghĩ thầm:

– Té ra Viên cô nương đã hết sức đề phòng, rốt cuộc cũng không thoát khỏi tay nhị muội.

Lại nghe Trình Linh Tố hỏi:

– Lúc tỷ tỷ cùng Hồ đại ca giao đấu ở ngoài tường, tiểu muội đã ném thanh đơn đao cho đại ca. Trên lưỡi đao này có rắc một lớp độc phấn rất mỏng. Cây nhuyễn tiên của tỷ tỷ bị dính độc phấn rồi dây vào tay tỷ tỷ. Chờ lát nữa phải đem đơn đao và nhuyễn tiên rửa vào chậu nước trong.

Viên Tử Y và Hồ Phỉ đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:

– Cách hạ độc như vậy, thật khiến người ta chẳng biết đằng nào mà đề phòng.

Trình Linh Tố đứng lên khép nép thi lễ, nói:

– Viên tỷ tỷ! Tiểu muội xin lỗi tỷ tỷ. Thực tình tiểu muội không biết bên trong còn những điều ngoắt ngoéo như vậy.

Viên Tử Y cũng đứng lên đáp lễ, nói:

– Muội muội bất tất phải khách khí. Ta cảm ơn muội muội hạ thủ còn lưu tình, chưa dùng đến độc dược chết người.

Hai người nhìn nhau cười, rồi lại nhìn xuống. Hồ Phỉ ngập ngừng hỏi:

– Nếu vậy thì ra Phụng Thiên Nam là… là…

Viên Tử Y đáp:

– Phải, Ngân Cô là má má của tiểu muội còn Phụng Thiên Nam là gia phụ. Tuy lão đưa mẹ con tiểu muội vào tình trạng thê thảm như vậy, nhưng sư phụ dạy rằng “Con người không cha mẹ, làm sao có được thân này?” Lúc tiểu muội bái biệt sư phụ để xuôi về đông xuống Trung nguyên, gia sư có dặn:

– Phụ thân ngươi làm ác đã nhiều, kiếp này y tất bị thảm tử. Ngươi cứu mạng y ba lần cho hết mối tình phụ tử. Sau đó y đi đằng y, ngươi đi đằng ngươi, không liên can gì đến nhau nữa.

Hồ đại ca! Ở miếu Bắc Đế trấn Phật Sơn, tiểu muội đã cứu lão một lần. Đêm tại miếu Tương Phi, lại cứu lão lần thứ hai. Đêm nay giải cứu lão lần nữa. Về sau nếu còn gặp lại lão, tiểu muội cũng hạ sát lão để báo cừu thù tuyết hận cho người mẹ đau khổ đã quá cố.

Nàng nói dứt lời nét mặt nghiêm trọng, khóe mắt đầy vẻ phẫn hận.

Trình Linh Tố hỏi:

– Lệnh đường đã qua đời rồi ư?

Viên Tử Y đáp:

– Má má của tỷ tỷ trốn ra khỏi trấn Phật Sơn, đi ngược về phía bắc ăn xin. Má má cho là rời khỏi trấn Phật Sơn càng xa càng tốt, vĩnh viễn khỏi nhìn thấy lại mặt Phụng lão gia, vĩnh viễn không phải nghe đến tên lão nữa. Má má lưu lạc trên đường suốt mấy tháng ròng, sau tới được phủ Nam Xương tỉnh Giang Tây, vào nhà họ Thang làm tôi tớ…

Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng, ngắt lời:

– Thang gia ở phủ Nam Xương tỉnh Giang Tây có mối liên can gì với Thang đại hiệp ở Cam Lâm Huệ thất tỉnh không?

Viên Tử Y nghe nói đến Thang đại hiệp ở Cam Lâm Huệ thất tỉnh, nàng máy môi đáp:

– Má má chết ở phủ Thang… Thang đại hiệp. Sau khi má má qua đời được ba ngày, gia sư liền đón tiểu muội đưa về Hồi Cương, tới nay đã mười tám năm rồi mới về lại Trung nguyên.

Hồ Phỉ hỏi:

– Không hiểu tôn sư danh hiệu là gì? Viên cô nương hiểu biết được hết võ công của các nhà các phái một cách tinh thâm, thì tôn sư tất là một bậc kỳ nhân hiếm có trên đời. Cả đến Miêu đại hiệp mang ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” cũng không được bản lĩnh như thế.

Viên Tử Y đáp:

– Danh húy của gia sư tạm thời chưa thể nói cho Hồ đại ca hay, vì chưa được lão nhân gia ưng thuận. Xin đại ca lượng thứ cho. Hơn nữa tên của tiểu muội cũng không phải là tên thật. Chẳng bao lâu nữa Hồ đại ca và tiểu muội tử sẽ rõ. Còn như vị Miêu đại hiệp nào đó thì khi tiểu muội ở Hồi Cương cũng đã nghe danh. Lúc bấy giờ, Vô Trần đạo trưởng trong Hồng Hoa hội không chịu phục, định tới Trung nguyên để tỷ thí với lão, nhưng Triệu Bán Sơn Triệu tam thúc…

Nàng nói tới ba chữ “Triệu tam thúc”, liền nhìn Hồ Phỉ nhoẻn miệng cười, như muốn bảo chàng:

– Đã cho đại ca chiếm phần tiện nghi rồi đó!

Nàng nói tiếp:

– Triệu Bán Sơn biết rõ nội tình bên trong, bảo rằng Miêu đại hiệp dùng ngoại hiệu này chẳng phải là cuồng ngạo tự đại mà vì một nỗi khổ tâm khác. Nghe nói lão vì lão muốn trả thù cha mà cố ý khiêu khích một tay cao thủ ở Liêu Đông phải nhập quan đến kiếm lão. Về sau trên chốn giang hồ người ta đồn đại râm ran rằng lão trả được thù cha rồi, đã mấy lần tuyên bố không dám dùng ngoại hiệu kia nữa. Lão nói:

– Cái gì mà “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”, danh hiệu đó nghe thối lắm, chẳng lọt tai chút nào. Võ công của đại hiệp Hồ Nhất Đao so với ta còn cao hơn nhiều!

Hồ Phỉ nghe lòng run lên, hỏi:

– Miêu Nhân Phụng quả đã nói câu đó ư?

Viên Tử Y đáp:

– Dĩ nhiên không phải chính tiểu muội được nghe lão nói mà là Triệu…Triệu Bán Sơn kể lại. Vô Trần đạo trưởng nghe nói vậy liền phấn khởi hùng tâm, lại muốn tìm đến tỷ thí với vị Hồ Nhất Đao nào đó, nhưng sau không biết được Hồ đại hiệp ở nơi nào nên mới chịu bỏ qua. Năm trước Triệu Bán Sơn xuống Trung nguyên gặp Hồ đại ca. Y trở về Hồi Cương ca ngợi đại ca anh hùng không tiếc lời. Nhưng khi ấy tiểu muội còn nhỏ tuổi, bọn họ nói gì cũng không hiểu. Lần này tiểu muội xuôi về đông, Văn tứ thẩm bảo tiểu muội cưỡi con ngựa trắng của bà mà đi. Bà cũng dặn: “Nếu gặp chàng thiếu niên hào kiệt họ Hồ thì tặng con ngựa này cho y”.

Hồ Phỉ hỏi:

– Vị Văn tứ thẩm đó là ai? Bà ta chưa từng quen biết tại hạ sao lại trịnh trọng tặng ngựa? .

Viên Tử Y đáp:

– Văn tứ thẩm ngày trước là một nhân vật danh vọng rất lớn trên chốn giang hồ. Bà là vợ của Bôn lôi thủ Văn Thái Lai Văn tứ thúc, tên là Lạc Băng, người ta cũng gọi là “Uyên ương đao”. Văn tứ thẩm nghe Triệu Bán Sơn thuật chuyện đại ca phá tòa thiết sảnh ở Thương gia bảo, lại nghe nói đại ca thích con ngựa trắng này, tứ thẩm liền oán trách y mà nói:

– Tam ca! Đã có nhân vật như vậy sao tam ca không tặng ngựa cho y? Chẳng lẽ tam ca kết bạn với người thiếu niên anh hùng như vậy, mà Lạc Băng này lại không kết giao được ư?

Hồ Phỉ nghe xong mới biết rõ ngày ấy Viên Tử Y để thiếp lại trong khách điếm nói “Ngựa về chủ cũ” là vì thế. Chàng sinh lòng cảm kích Lạc Băng tự nhủ:

– Con bảo mã này ngàn vàng khó kiếm. Văn tứ nương cùng ta cách xa hàng muôn dặm, chỉ nghe người ca ngợi, đã đem vật yêu quý tặng cho ta thật là tình cao nghĩa trọng. Hồ Phỉ ta thật khó mà báo đáp được.

Chàng nói:

– Chắc Triệu tam ca vẫn bình yên. Sau khi xong mọi việc ở đây, tại hạ muốn đến Hồi Cương một chuyến, một là để bái phỏng Triệu tam ca, hai là bái kiến các vị anh hùng tiên bối.

Viên Tử Y đáp:

– Cái đó không cần. Họ sắp đến đây cả rồi.

Hồ Phỉ nghe nói vui mừng khôn xiết, bất giác vỗ bàn một cái rồi đứng phắt dậy, trong lòng bồn chồn thấp thỏm. Trình Linh Tố hiểu ý chàng liền nói:

– Tiểu muội đi lấy rượu cho đại ca.

Cô ra khỏi phòng dặn thư đồng đưa vào bảy, tám bình rượu. Hồ Phỉ uống hết hai bình, nghĩ chẳng bao lâu nữa sẽ được cùng các vị anh hùng xa tương kiến, cảm thấy hào khí nổi lên, bèn hỏi ngay:

– Bao giờ bọn Triệu tam ca sẽ tới đây?

Viên Tử Y vẻ mặt trịnh trọng, đáp:

– Hồ đại ca! Còn bốn ngày nữa là tiết trung thu và cũng là ngày đại hội chưởng môn nhân trong thiên hạ. Phúc Khang An đứng ra triệu tập cuộc đại hội này. Y làm đến chức Binh bộ thượng thư, cai quản tất cả đại thần ở nội vụ phủ, chấp chưởng đại quyền coi giữ binh mã cả nước. Những vị hoàng thân quốc thích cũng thuộc quyền cai quản của y. Không hiểu sao y lại muốn kết giao với hào khách giang hồ?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ cũng đang suy nghĩ về vụ này. Chắc là hắn định quăng mẻ lưới quét hết anh hùng hảo hán trong thiên hạ cho Thanh đình sai sử, cùng như Hoàng đế dùng các khoa thi trạng nguyên tiến sĩ để lung lạc bọn đọc sách vậy thôi.

Viên Tử Y nói:

– Không sai! Ngày trước Đường Thái Tông thấy sĩ tử kéo nhau đến trường đã vui mừng nói: “Bao nhiêu anh hùng thiên hạ đều chui vào trong “rọ” của ta rồi”.

Nàng lại hỏi:

– Phúc Khang An mở cuộc đại hội này dĩ nhiên cũng dùng công danh lợi lộc đế nhử anh hùng thiên hạ. Nhưng hắn còn cái đau khác mà người ngoài không thể biết được. Phúc Khang An từng bị nhóm Triệu Bán Sơn, Văn tứ thúc, Vô Trần đạo trưởng đày đọa một phen. Đại ca có biết vụ này không?

Hồ Phỉ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, ngửa cổ lên uống cạn một bát rượu lớn rồi đáp:

– Thú quá! Thú quá! Tại hạ chưa từng được nghe qua. Vô Trần đạo trưởng, Văn tứ gia anh hùng như vậy thật khiến cho người ta phải nghiêng người bái phục.

Viên Tử Y nhoẻn miệng cười nói:

– Cổ nhân dùng Hán thư để nhắm rượu, còn đại ca lại lấy việc khoan khoái của anh hùng hào kiệt mà nhắm rượu. Nếu nói đến những việc làm của nhóm Văn tứ thúc thì đại ca có uống cả ngàn chung cũng không say, nhưng chắc khiến đại ca phải nằm li bì ba ngày.

Hồ Phỉ rót rượu ra bát, nói:

– Xin cô nương nói đi.

Viên Tử Y đáp:

– Vụ này nói ra thì dài dòng, không thể một lúc mà kể hết được. Đại khái nhóm Văn tứ thúc biết rằng Phúc Khang An được đương kim hoàng đế là Càn Long sủng ái nên mới bắt hắn để bức bách hoàng đế trùng tu chùa Thiếu Lâm ở Phúc Kiến, và hứa lời không được gia hại anh em trong Hồng Hoa hội ở rải rác các tỉnh mới buông tha hắn.

Hồ Phỉ vỗ đùi, nói:

– Phúc Khang An tất nhiên xem đó là điều đại sỉ đại nhục nên mới chiêu tập các chưởng môn các nhà các phái võ lâm trong thiên hạ, chắc là để quyết một trận thư hùng với nhóm Văn tứ gia phải không?

Viên Tử Y đáp:

– Đúng thế! Vụ này đại ca đoán đúng quá nửa. Cuối mùa thu năm nay, Phúc Khang An tiên liệu nhóm Văn tứ thúc về đến Bắc Kinh, nên hắn triệu tập những cao thủ võ lâm các tỉnh về trước. Mười năm qua, sau khi bị một vố đau khổ nhục nhã, hắn mới biết rằng binh mã thủ hạ của mình tuy nhiều nhưng không đủ để đối địch với hào kiệt võ lâm.

Hồ Phỉ vỗ tay cười, nói:

– Cô nương đoạt chức chưởng môn của chín nhà rưỡi té ra là để dằn mặt, làm hắn mất cả oai phong.

Viên Tử Y lại nói:

– Sư phụ của tiểu muội có mối giao tình rất sâu xa với nhóm Văn tứ thúc. Còn tiểu muội chuyến này trở về Trung nguyên là vì việc riêng của mình. Tiểu muội đến trấn Phật Sơn ở Quảng Đông trước tiên để xem Phụng lão gia là nhân vật thế nào? Không ngờ cơ duyên xảo hợp, không những cứu được cái mạng lão mà còn dò hỏi được tin tức về cuộc đại hội chưởng môn nhân trong thiên hạ. Tiểu muội còn có việc chưa xong nên chẳng thể trở về Hồi Cương báo tin. Thế rồi chẳng sợ Hồ đại ca chê cười, suốt đường từ nam lên bắc tiểu muội đã gây náo loạn cho tới Bắc Kinh, để Phúc Khang An hiểu rằng cuộc đại hội chưởng môn của hắn vị tất đã nên trò trống gì.

Hồ Phỉ chợt động tâm nghĩ thầm:

– Chắc là Triệu tam ca đã khoa trương ta thái quá trước mặt mọi người khiến cô này không phục, rồi dọc đường luôn tìm cách sinh sự với ta.

Chàng trợn mắt lên nhìn Viên Tử Y nói:

– Còn nữa, cô muốn cho Triệu Bán Sơn biết rằng gã thiếu niên họ Hồ vị tất đã có bản lãnh gì.

Viên Tử Y cười khanh khách hỏi:

– Chúng ta đã tỷ đấu từ Quảng Đông cho tới Bắc Kinh, tiểu muội không thể nào chiếm được thượng phong. Hồ đại ca! Mai đây tiểu muội gặp Triệu Bán Sơn, đại ca thử đoán coi tiểu muội sẽ nói gì với y?

Hồ Phỉ lắc đầu, đáp:

– Tại hạ không biết.

Viên Tử Y vẻ mặt nghiêm chỉnh, nói:

– Tiểu muội sẽ bảo: “Triệu tam thúc, nghĩa đệ thiếu niên của tam thúc quả nhiên danh bất hư truyền, quả là một trang anh hùng hảo hán”.

Điều này hoàn toàn nằm ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ, chàng không ngờ vị cô nương luôn gây khó dễ cho mình đột nhiên lại tán dương ngay trước mặt mình, bất giác chàng thẹn đỏ mặt lên ra vẻ lúng túng, nhưng trong lòng khoan khoái vô cùng. Từ Quảng Đông đến Bắc Kinh, rong ruổi phong trần, dù đường xa ngàn dặm chẳng lúc nào đầu óc chàng rời xa được hình ảnh của Viên Tử Y. Có điều mỗi khi nhớ tới con người vừa mỹ lệ lại vừa rất điêu ngoa cổ quái này, lòng chàng bảy phần hoan hỷ, nhưng vẫn còn hai phần ngờ vực và một phần tức giận. Cuộc đàm thoại đêm nay khiến chàng trút bỏ hết được mọi nỗi hiềm khích. Chàng đã biết rõ những uẩn khúc bên trong thì trong lòng sao lại chẳng say vì rượu lại ngây vì tình?

Lúc này ngoài cửa sổ, tiếng mưa đã nhỏ dần, ngọn nến sắp tàn. Hồ Phỉ lại uống một bát rượu lớn, rồi hỏi:

– Viên cô nương, cô bảo trong mình còn có việc chưa xong, chẳng hiểu cô có chỗ nào dùng được tại hạ không?

Viên Tử Y lắc đầu đáp:

– Đại ca! Tiểu muội không muốn đại ca phải bận lòng.

Nàng thấy Hồ Phỉ lộ vẻ thất vọng, liền nói:

– Nếu tiểu muội không lo xong, dĩ nhiên phải cầu cứu đại ca cùng Trình gia muội tử. Hồ đại ca! Còn bốn ngày nữa là tới ngày đại hội chưởng môn nhân. Ba người chúng ta đến quấy phá cho tơi bời hoa lá, diễn thành vở tuồng “Tam anh đại náo Bắc Kinh thành”, đại ca bảo có thích không?

Hồ Phỉ hào khí bồng bột, reo lên:

– Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Nếu không phá rối được cuộc đại hội chưởng môn nhân này thì Triệu tam ca, Văn tứ gia, Văn tứ nương kết giao với gã tiểu tử Hồ Phỉ phỏng được ích gì?

Trình Linh Tố đứng một bên, lặng nghe không nói gì, bây giờ mới xen vào:

– “Song anh náo Bắc Kinh” cũng đủ, còn kéo cả hạng người vô dụng như tiểu muội vào làm chi?

Viên Tử Y đặt tay lên bờ vai gầy guộc của cô, đáp:

– Trình gia muội tử, đừng nói thế. Bản lãnh của tiểu muội hơn ta gấp mười. Ta phải cầu cạnh tiểu muội chứ khi nào dám đắc tội.

Trình Linh Tố lấy trong túi ra đôi ngọc phụng, nói:

– Viên tỷ tỷ, giữa tỷ tỷ và đại ca có chỗ hiểu lầm, nay nói rõ ra rồi. Con ngọc phụng này trao lại cho tỷ tỷ. Không thế thì cả đôi phụng hoàng đều đưa hết cho đại ca của tiểu muội.

Viên Tử Y sửng sốt một chút, cúi đầu nhắc lại:

– Nếu không thế thì cả đôi phụng hoàng đều đưa hết cho đại ca của tiểu muội!

Trình Linh Tố nói câu này nguyên chẳng có ý gì khác. Cô thấy Viên Tử Y võ công cũng như dung mạo đều hơn người. Vả lại dọc đường, qua lời nói, cô nhận thấy tình cảm của Hồ Phỉ đã nghiêng hẳn về nàng, chỉ vì nàng mấy lần giải cứu Phụng Thiên Nam, chàng mới sinh dạ e dè. Nay chẳng những nỗi hiềm khích đã được cởi bỏ, mà hai người lại có một quan hệ sâu xa, thì còn gì trở ngại nữa? Nhưng cô nghe Viên Tử Y nhắc lại câu nói của mình tựa hồ muốn ngụ ý hai gái thờ chung một chồng, bất giác cô đỏ mặt lên, vội đáp:

– Không không! Tiểu muội không có ý ấy.

Viên Tử Y hỏi:

– Tiểu muội không có ý gì?

Trình Linh Tố làm sao giải thích được. Cô bối rối cơ hồ sa lệ.

Viên Tử Y hỏi:

– Trình gia muội tử! Tại sao trên thanh đơn đao kia tiểu muội lại không bôi chất kịch độc trí mạng?

Trình Linh Tố nước mắt chảy quanh, hằn học nói:

– Tiểu muội tuy là đệ tử của Độc Thủ Dược Vương nhưng bình sinh chưa giết một người nào, chẳng lẽ tự nhiên lại gia hại tỷ tỷ? Huống chi… huống chi tỷ tỷ là ý trung nhân của đại ca. Suốt ngày đêm ngoài lúc ăn ngủ, bao giờ y cũng nhớ đến tỷ tỷ thì tiểu muội gia hại tỷ tỷ thế nào được?

Cô nói tới đây không nhịn được nữa, hai hàng nước mắt trào ra. Viên Tử Y ngạc nhiên đứng dậy, liếc mắt thật nhanh nhìn Hồ Phỉ, thấy mặt chàng ra chiều bẽn lẽn. Hồ Phi thấy Trình Linh Tố nói một hồi, đột nhiên thổ lộ tâm sự của mình là một điều chàng không ngờ tới nên không khỏi bối rối, nhưng trong ánh mắt lại chan chứa nhu tình.

Viên Tử Y mím môi, nhìn Trình Linh Tố, dịu dàng nói:

– Tiểu muội cứ yên tâm! Không thể đưa cả hai con phụng hoàng cho y được

Đột nhiên nàng đưa tay quạt tắt nến, rồi xuyên qua cửa sổ ra ngoài, tung mình vọt lên nóc nhà đi mất. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cả kinh, chạy đến bên cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy trời đã tạnh mưa, ánh ngân quang lấp loáng trên mặt đất, nhưng chẳng thấy Viên Tử Y đâu. Trong đầu óc hai người đều bị ám ảnh bởi câu nói của Viên Tử Y lúc bỏ đi:

– Tiểu muội cứ yên tâm! Không thể đưa cả hai con phụng hoàng cho y được!

Chương 15: Bốn mươi tám lộ hoa quyền

Hai người sóng vai đứng trong bóng tối lặng lẽ hồi lâu. Bỗng nghe trên mái ngói có tiếng động lách cách. Hồ Phỉ cả mừng, cho là Viên Tử Y đi rồi trở lại. Trong lúc nhất thời chàng không tự chủ được, buột miệng la lên:

– Cô… cô nương quay trở lại đó ư?

Bỗng nghe thanh âm nam tử ở trên nóc nhà nói vọng xuống:

– Hồ đại gia, xin quá bộ ra ngoài nói chuyện.

Hồ Phỉ nghe giọng nói đúng là giọng võ quan họ Nhiếp, kẻ quý kiếm như tính mạng.

Chàng đáp:

– Nơi đây trừ tại hạ cùng nghĩa muội ra, chẳng có người ngoài nào hết. Mời Nhiếp huynh vào đây uống chung rượu đã.

Tên võ quan họ Nhiếp này tên gọi Nhiếp Việt. Bữa trước Hồ Phỉ không hủy thanh kiếm của hắn, hắn vẫn đem lòng cảm kích. Lúc Viên Tử Y tỷ đấu cùng Tần Nại Chi, Vương Kiếm Anh, Chu Thiết Tiêu, hắn thấy Hồ Phỉ ngấm ngầm có ý bênh vực nàng nên thủy chung hắn không lên tiếng. Bây giờ nghe Hồ Phỉ nói vậy liền từ trên nóc nhà nhảy xuống nói:

– Hồ đại ca, một người bạn cũ của đại ca sai tiểu đệ đến mời đại ca qua đó nói chuyện.

Hồ Phỉ lấy làm lạ, hỏi:

– Bạn cũ của tại hạ ư? Ai vậy?

Nhiếp Việt đáp:

– Tiểu đệ đã vâng lệnh không được tiết lộ. Xin đại ca lượng thứ cho. Đại ca thấy mặt y sẽ biết ngay.

Hồ Phỉ liếc mắt nhìn Trình Linh Tố, nói:

– Nhị muội, muội ở đây chờ. Tiểu huynh thế nào cũng trở về trước khi trời sáng.

Trình Linh Tố xoay mình lấy thanh đơn đao xuống, hỏi:

– Đại ca có đem theo binh khí không?

Hồ Phỉ thấy Nhiếp Việt không đeo bảo kiếm, liền khẽ đáp:

– Đã là bạn cũ mời gặp, cũng chẳng cần phải mang binh khí.

Hai người theo cửa lớn mà đi. Ngoài cửa đã có cỗ xe song mã chờ sẵn. Cỗ xe mạ vàng, buông rèm sa, trông rất sang trọng.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Chẳng lẽ đây lại là quỷ kế của Phụng Thiên Nam? Chuyến này mà chạm trán thì dù tay không cũng phóng chưởng đánh chết hắn.

Hai người lên xe, xa phu vung roi một cái, hai con tuấn mã cất vó chạy đi. Tiếng vó ngựa nện xuống đường phố lớn lát đá xanh vang lên lộp cộp, giữa đêm khuya yên tĩnh nghe càng rõ rệt. Nguyên trong thành Bắc Kinh ban đêm có lệ cấm không cho xe ngựa chạy, thế mà bọn binh đinh đi tuần vừa nhìn thấy ngọn đèn lồng màu hồng không để chữ treo trước cỗ xe ngựa đã vội nghiêng mình tránh sang bên đường, để cho xe vượt qua. Đi chừng nửa giờ, cỗ xe dừng lại trước một bức tường trắng rất lớn. Nhiếp Việt nhảy xuống trước, dẫn Hồ Phỉ tiến vào theo con đường nhỏ lát đá trứng ngỗng, đi tới một vườn hoa. Khu vườn này quy mô rộng lớn, cây cỏ rậm rạp, hoa lá xinh tươi, nào đình các, hành lang, nào giả sơn, ao hồ, xem không chán mắt. Giữa các tòa lâu các còn có treo đèn lồng phủ sa.

Hồ Phỉ ngấm ngầm lấy làm lạ, nghĩ bụng:

– Thằng cha Phụng Thiên Nam quả là thần thông quảng đại. Khu vườn này ít ra là phải vài trăm vạn lạng mới mua nổi. Hắn đã bóp nặn bóc lột ở trấn Phật Sơn được không ít tiền.

Rồi chàng lại chuyển ý, tự hỏi:

– Chỉ e đây vị tất đã là tên gian tặc họ Phụng. Hắn bất quá chỉ là một tên thổ hào ác bá ở Quảng Đông, thì làm sao lại sai khiến được một vị võ quan địa vị như Nhiếp Việt?

Chàng còn đang ngẫm nghĩ, Nhiếp Việt đã dẫn chàng qua tòa giả sơn lên cây cầu gỗ, tiến vào một tòa thủy các. Trong các có thắp hai ngọn đèn hồng trên bàn bày sẵn trà nước và bánh kẹo.

Nhiếp Việt hô:

– Quý hữu đã tới. Tiểu nhân xin chờ ở cửa ngoài.

Hắn nói rồi trở gót ra khỏi cửa. Hồ Phỉ thấy cách trần thiết trong tòa thủy các rất tinh vi thanh nhã, đầy vẻ phú quý. Tòa viện ở ngoài cửa Tuyên Võ đã hoa lệ rồi, nhưng so với căn tiểu các này thì hãy còn kém xa một trời.

Trên tường mé tây treo một bức “Thuyết Kiếm” của Trang Tử viết lối chữ khải, thự danh là Thanh Thân Vương, con trai Càn Long hoàng đế. Thiên văn tự này là ngụy tác của đời sau, không phải do Trang Tử viết. Hồ Phỉ không biết nhiều, bèn ngồi chờ. Được một lúc, buồn ngủ quá không biết làm gì, chàng bèn lầm nhẩm đọc. Nhờ văn tự đơn giản nên ý nghĩa cũng rõ ràng dễ đọc:

“Ngày trước Triệu Văn Vương thích kiếm, trong nhà thường có trên ba ngàn kiếm sĩ, tỷ đấu suốt ngày đêm, mấy trăm người bị thương…”

Chàng đọc tới đoạn:

“- Kiếm của thần đây: mười bước giết một người, ngàn dặm không dừng bước.

Nhà vua hài lòng, phán:

– Thiên hạ vô địch rồi vậy.

Trang Tử nói:

– Phàm kẻ học kiếm thì lấy chỗ trống để phô bày, dùng lợi để mở ra, phát ra sau mà đến trước…”

Hồ  Phỉ thẩm nhủ:

– Trang Tử tự xưng “mười bước giết một người, ngàn dặm không dừng bước” mà đã cho là thiên hạ vô địch thì e rằng hơi khoác lác. Nhưng các câu “lấy chỗ trống để phơi bày, dùng lợi đế mở ra, phát ra sau trà đến trước” thì đúng là tinh nghĩa của võ học. Không chỉ có kiếm thuật mới thế mà cả đao pháp, quyền pháp cũng có khác gì?

Bỗng nghe sau lưng có tiếng bước chân nhè nhẹ, mùi hương thoang thoảng đưa vào mũi. Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thấy một thiếu phụ dung nhan xinh đẹp, mình mặc áo sa màu lục nhạt, mỉm cười đang đi tới. Chính là Mã Xuân Hoa.

Hồ Phỉ chợt tỉnh ngộ:

– Té ra đây là phủ đệ của Phúc Khang An. Sao ta lại không nghĩ ra?

Mã Xuân Hoa tiến lại chúc câu “Vạn phúc”, cười nói:

– Hồ huynh đệ! Không ngờ chúng ta lại gặp nhau ở chốn kinh sư. Mời huynh đệ an tọa.

Nàng nói rồi tự tay rót nước, lại mở hộp mấy thứ bánh kẹo đặt ở trước mặt chàng, nói tiếp:

– Ta được tin Hồ huynh đệ cũng tới Bắc Kinh, lại càng mong nhớ muốn được gặp ngay để đa tạ ơn đức huynh đệ đã bảo vệ ta.

Hồ Phỉ thấy nàng cài trên mái tóc một bông nhung trắng chắc là để tang Từ Tranh, nhưng y phục lộng lẫy, vẻ mặt vui tươi, chẳng có vẻ gì là một quả phụ vừa mới mất chồng. Chàng hững hờ đáp:

– Thực ra là tiểu đệ đa sự. Nếu sớm biết Phúc đại soái phái người đến đón Từ đại tẩu thì không cần một phen kinh hãi ở trong thạch thất.

Mã Xuân Hoa nghe chàng gọi mình là “Từ đại tẩu”, thì hơi đỏ mặt lên, hỏi:

– Dù sao nghĩa khí thâm trọng của Hồ huynh đệ cũng khiến cho ta muôn vàn cảm kích.

Rồi nàng cất tiếng gọi:

– Vú nuôi ơi, vú đưa công tử gia ra đây.

Trong cửa phía đông, hai mụ bộc phụ vâng dạ rồi dắt hai đứa nhỏ ra. Hai đứa nhỏ nhìn Mã Xuân Hoa gọi:

– Má má!

Chúng chạy tới đứng tựa bên nàng. Hai đứa nhỏ này mặt mũi giống nhau, nước da trắng trẻo, trông rất khả ái. Chúng lại mặc áo gấm, đeo xâu chuỗi ngọc, càng làm tăng thêm vẻ xinh đẹp quý phái. Mã Xuân Hoa mỉm cười bảo chúng:

– Các ngươi còn nhận được Hồ thúc thúc không? Hồ thúc thúc đã giúp đỡ chúng ta trong khi đi đường, mau dập đầu trước Hồ thúc thúc.

Hai đứa nhỏ lạy phục xuống trước chàng, miệng hô:

– Hồ thúc thúc!

Hồ Phỉ đỡ chúng đứng dậy bụng bảo dạ:

– Bây giờ các ngươi hô ta một tiếng bằng “thúc thúc”, nhưng chẳng bao lâu nữa các ngươi sẽ trở nên những vị hoàng thân quốc thích oai phong hiển hách, làm sao còn nhớ một kẻ thảo mãng như ta?

Lại nghe Mã Xuân Hoa nói:

– Hồ huynh đệ, ta có một việc thỉnh cầu, chẳng hay huynh đệ có ưng thuận chăng?

Hồ Phỉ đáp:

– Đại tẩu! Ngày ấy ở Thương gia bảo, tiểu đệ bị Thương Bảo Chấn đánh đập, đại tẩu đã hết lòng cầu xin, ơn đó tiểu đệ vẫn luôn canh cánh bên lòng, chẳng bao giờ quên. Bữa trước ở trong thạch thất tuy tiểu đệ đã vì đại tẩu ra sức chống chọi quần đạo, nhưng cái đó chẳng qua là hành động của kẻ bộp chộp hồ đồ, không bõ làm trò cười cho người khác. Dù sao trong lòng tiểu đệ cũng coi đó là một phen báo đáp ơn đức. Nếu bữa nay tiểu đệ biết trước là đại tẩu mời gặp thì tiểu đệ đã không đến. Từ đây trở đi, chúng ta sang hèn khác biệt, chẳng còn liên can gì với nhau nữa.

Mấy lời rắn rỏi tỏ ra rất bất mãn với Mã Xuân Hoa.

Nàng thở dài nói:

– Hồ huynh đệ! Mã Xuân Hoa này tuy chẳng tử tế gì, nhưng cũng không phải là hạng người xu viêm phụ nhiệt. Câu “nhất kiến chung tình” quả là duyên nghiệt kiếp trước…

Nàng nói mỗi lúc một nhỏ đi, đầu từ từ cúi xuống. Hồ Phỉ nghe tới bốn chữ “nhất kiến chung tình” chợt nghe khơi dậy nỗi lòng, những mối bất mãn trong lòng giảm đi rất nhiều. Chàng hỏi:

– Đại tẩu muốn yêu cầu tiểu đệ làm việc gì? Thật ra, Phúc đại soái còn có việc gì không làm nổi mà đại tẩu phải cần đến tiểu đệ?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Chỉ vì hai đứa nhỏ này mà ta cầu xin huynh đệ, mong huynh đệ nhận chúng làm đồ nhi để truyền thụ cho chúng một chút võ nghệ.

Hồ Phỉ cười ha hả, hỏi:

– Hai vị công tử gia đã vinh hoa phú quý thì còn học võ nghệ làm chi?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Luyện cho thân thể tráng kiện cũng là một điều hay.

Nàng nói tới đây bỗng nghe ngoài các có thanh âm một người đàn ông cất lên hỏi:

– Xuân muội! Bây giờ mà còn chưa ngủ ư?

Mã Xuân Hoa mặt hơi biến sắc, trỏ vào tấm bình phong bên cạnh phòng, Hồ Phỉ liền ẩn mình vào sau đó. Chàng nghe tiếng giày lẹp xẹp, rồi một người tiến vào.

Mã Xuân Hoa hỏi:

– Sao Phúc đại soái cũng chưa ngủ? Không đi bầu bạn với phu nhân còn tới đây làm chi?

Người kia cầm lấy tay nàng, cười đáp:

– Hoàng thượng mời ta vào thương nghị quân vụ, cho đến bây giờ mới xong. Nàng trách ta đêm nay đến chậm quá phải không?

Hồ Phỉ nghe nói biết là Phúc Khang An, liền tự nhủ:

– Ta ẩn ở đây thật là dơ dáng. Hai người họ nói chuyện tình tứ với nhau cứ lọt vào tai mình, không muốn nghe cũng không được. Huống chi tình hình trước mắt giống như mình lén lút tới gặp Mã Xuân Hoa tại phòng riêng, nếu bị phát giác thì cả ta lẫn Mã Xuân Hoa còn chi là mặt mũi?

Chàng liền quan sát tình thế xung quanh để tính kế thoát thân.

Bỗng nghe Mã Xuân Hoa nói:

– Khang ca! Tiện thiếp giới thiệu một người với Khang ca. Người này Khang ca đã từng gặp rồi nhưng e rằng Khang ca đã quên mất.

Đoạn nàng cất tiếng gọi:

– Hồ huynh đệ! Huynh đệ ra tham kiếm Phúc đại soái đi!

Hồ Phỉ đành xoay mình bước ra, nhìn Phúc Khang An vái chào. Phúc Khang An không ngờ phía sau bình phong lại có nam nhân ẩn nấp. Hắn giật mình kinh hãi, ấp úng hỏi:

– Đây… đây… là…

Mã Xuân Hoa cười, đáp:

– Vị huynh đệ đây là Hồ Phỉ. Tuy y nhỏ tuổi nhưng võ công trác tuyệt. Các võ sĩ thủ hạ của Khang ca không có ai bằng y đâu. Chuyến này Khang ca phái người đón tiện thiếp về kinh, Hồ huynh đệ đã giúp đỡ thiếp rất nhiều. Vì thế tiện thiếp mời y tới. Khang ca tiếp đãi y bằng cách nào?

Phúc Khang An sắc mặt biến đổi, nghe Mã Xuân Hoa nói xong mới định thần lại, đáp:

– Ồ! Nên tạ ơn lắm! Nên tạ ơn lắm!

Rồi nhìn Hồ Phỉ vẫy tay nói:

– Người cứ về đi, vài hôm nữa ta sẽ triệu kiến.

Giọng nói có vẻ không bằng lòng. Giả tỷ không ở trước mặt Mã Xuân Hoa thì hắn đã trách mắng chàng về tội vô lễ dám tự tiện vào phủ đệ mà không quỳ xuống bái kiến.

Mã Xuân Hoa nói:

– Hồ huynh đệ…

Hồ Phỉ tức đầy ruột, trở gót ra ngay, miệng lẩm bẩm:

– Tự dưng vô cớ nữa đêm tới đây để phải một phen nhục nhã.

Nhiếp Việt đứng ngoài cửa chờ đợi, thè lưỡi ra khẽ hỏi:

– Phúc đại soái vừa vào, đại ca đã thấy chưa?

Hồ Phỉ đáp:

– Mã cô nương giới thiệu tại hạ và yêu cầu Phúc đại soái tạ ơn gì đó.

Nhiếp Việt vui mừng nói:

– Chỉ cần Mã cô nương nói cho một lời tất Phúc đại soái phải nhìn Hồ huynh bằng con mắt khác. Ngày sau tiểu đệ được theo chân Hồ đại ca thực hay biết chừng nào!

Hắn rất khâm phục võ công và nhân cách của Hồ Phỉ. Mấy câu này hắn nói thật lòng. Hai người theo đường cũ đi ra. Vừa tới bên ao sen cách đại môn chưa xa, bỗng nghe tiếng bước chân vang lên, mấy người chạy nhanh đuổi theo, miệng hô:

– Xin Hồ đại gia hãy dừng bước!

Hồ Phỉ ngạc nhiên đứng lại, nhìn thấy bốn tên võ quan. Người đi trước tay cầm một cái hộp gấm dâng lên, nói:

– Mã cô nương đưa lễ vật này đến tặng Hồ đại gia. Xin đại gia thu nhận cho.

Hồ Phỉ trong lòng đang bực bội liền đáp:

– Tại hạ vô công không dám thụ lộc, không dám nhận lãnh.

Người kia nói:

– Mã cô nương đã có thịnh ý, Hồ đại gia bất tất phải khách khí làm chi.

Hồ Phỉ đáp:

– Nhờ ông bạn về trình lại Mã cô nương món hậu ý của cô, Hồ  mỗ xin tâm lãnh.

Dứt lời chân trở gót đi ngay. Tên võ quan kia chạy theo, lộ vẻ bồn chồn, nói:

– Hồ đại gia! Đại gia mà không chịu thu nhận, nhất định Mã cô nương trách tội tiểu nhân. Nhiếp đại ca! Xin đại ca khuyên Hồ đại ca dùm cho. Tiểu đệ vâng lệnh của Mã cô nương…

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Coi gã này chân bước mau lẹ, bộ pháp ổn định hiển nhiên là một tay cao thủ. Tội gì vì mấy chữ công danh lợi lộc mà lại cam tâm làm nô tài cho kẻ khác?

Nhiếp Việt đón lấy cái hộp gấm ở trong tay tên võ quan. Hắn nhấc thấy cái hộp rất nặng thì chắc là bên trong dựng những món quý báu, liền tươi cười nói:

– Hồ đại ca! Những lời người anh em đây nói đều là tình thực. Nếu y bị Mã cô nương quở trách về vụ này thì rất nguy hại đến tiền đồ. Đại ca làm phước thu nhận để y về phúc trình.

Hồ Phỉ tự nhủ:

– Nể mặt ngươi, ta thu nhận món này để chu cấp cho kẻ nghèo cũng tốt.

Chàng liền mở hộp xem, thấy trong tấm đoạn hồng vuông vắn gói một vật gì đó, bốn góc có hai sợi dây buộc.

Chàng cau mày hỏi:

– Cái gì thế này?

Tên võ quan đáp:

– Tiểu nhân không rõ.

Hồ Phỉ tự hỏi:

– Phải chăng món lễ này là nguyên một khối?

Chàng liền thò tay cởi giây buộc. Đột nhiên nghe đánh “cách” một tiếng, nắp hộp đậy mạnh lại, kẹp chặt lấy hai tay Hồ Phỉ. Chỉ trong chớp mắt, Hồ Phỉ đã thấy đau thấu ông bà ông vải, xương cổ tay cơ hồ sắp gãy rời ra. Nguyên hộp này đúc bằng thép ròng, bên trong giấu một cái lưỡi gà cực mạnh và rất tinh xảo. Ngoài hộp bọc gấm nên không thể nhận ra được.

Nắp hộp xiết mỗi lúc một chặt thêm. Hồ Phỉ vội vận khí ra cổ tay để chống chọi. Nếu nội lực chàng kém một chút thì e rằng cả hai cổ tay đều bị gãy cả rồi. Hồ Phỉ chỉ còn cách nín hơi vận khí không dám lơ là.

Bốn tên võ quan thấy Hồ Phỉ trúng kế lập tức rút chủy thủ ra. Hai mũi dí vào trước ngực, hai mũi dí vào sau lưng.

Nhiếp Việt kinh hãi đến ngẩn người, vội hỏi:

– Làm… làm gì thế này?

Tên võ quan đứng đấy đáp:

– Phúc đại soái có lệnh tróc nã tên gian đồ Hồ Phỉ.

Nhiếp Việt hỏi:

– Hồ đại ca là khách quý do Mã cô nương mời đến, sao lại đối đãi bằng cách này?

Tên võ quan kia cười lạt, nói:

– Nhiếp đại ca, ngươi đi mà hỏi Phúc đại soái. Bọn ta là kẻ đương sai làm sao biết được nhiều chuyện?

Nhiếp Việt sửng sốt nói:

– Hồ đại ca cứ yên tâm, vụ này bên trong tất có sự hiểu lầm. Tại hạ chạy đi báo cho Mã cô nương hay, nhất định cô sẽ tìm cách cứu đại ca.

Tên võ quan kia vội quát:

– Dừng lại! Đây là mật lệnh của Phúc đại soái, không được tiết lộ phong thanh cho Mã cô nương hay biết. Ngươi có được mấy cái đầu?

Nhiếp Việt trán toát những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu. Hắn nghĩ bụng:

– Cái hộp gấm này do ta tự tay đưa tới Hồ đại ca, hóa ra ta thành kẻ tiểu nhân gian trá? Nhưng đây là mật lệnh của Phúc đại soái thì làm sao kháng lệnh được?

Tên võ quan khẽ đưa lưỡi chủy thủ vào một chút, mũi đao đâm rách áo Hồ Phỉ vào đến da thịt. Hắn quát lớn:

– Hãy đi theo bọn ta!

Cái hộp sắt kia là do một tên thợ Tây dương khéo tay chế ra, bên trong đặt lò xo cực kỳ tinh xảo. Lớp gấm hai bên hộp vừa bóc ra liền chia lưỡi đao rất sắc. Nguyên hai bên nắp hộp là hai thanh lợi đao.

Nhiếp Việt thấy Hồ Phi tay chảy máu tươi sắp tổn thương đến gân cốt, liền nghĩ bụng:

– Dù Hồ đại ca phạm tội tày đình cũng thể dùng thủ đoạn đê hèn này để đối phó được.

Hắn đối với Hồ Phỉ vẫn một lòng kính ngưỡng, mà bây giờ trông thấy thảm trạng do chính mình gây ra thì rất xấu hổ. Đột nhiên, hắn lách ngón tay vào khe hộp, dùng lực cạy mạnh một cái, nắp hộp mở ra, hai tay Hồ phỉ được tự do.

Tên võ quan cầm đầu thấy thế liền đâm mũi chủy thủ tới. Võ công Nhiếp Việt còn cao thâm hơn tên võ quan, nhưng vì hai tay hắn còn kẹt trong hộp sắt nên không có cách nào tránh được. Lưỡi đao đâm sâu vào ngực, Nhiếp Việt rú lên một tiếng thê thảm rồi lập tức ngã lăn ra chết.

Trong khoảng thời gian chớp nhoáng này, Hồ Phỉ hít một hơi chân khí hóp bụng co lưng vào mấy tấc rỏi nhảy vọt lên. Ba thanh chủy thủ đâm thẳng xuống. Hai lưỡi đưa vào quãng không. Còn một lưỡi đâm trúng đùi bên phải chàng thành một lằn máu. Giữa lúc tính mạng lâm nguy trong tích tắc, Hồ Phỉ còn khoan dung thế nào được? Chân phải chàng đá về phía trước, chân trái móc đằng sau. Người chàng còn lơ lửng trên không đã đá chết hai tên võ quan.

Tên võ quan đâm chết Nhiếp Việt không chờ Hồ Phỉ hạ mình xuống đất đã ra chiêu “Kinh Kha hiến đồ” đâm vào bụng Hồ Phỉ nhanh như chớp. Chiêu thức cực kỳ lợi hại. Hồ Phỉ vung chân trái ra, đằng sau đá ngược lên trúng vào ngực đối phương. Tên võ quan rớt bõm xuống ao sen, gân cốt đều gãy nát chắc không thể sống nổi.

Còn tên võ quan nữa thấy tình thế không ổn liền la hoảng “Ối cha!” rồi xoay người toan bỏ chạy. Hồ Phỉ tung mình rượt theo, nắm lấy cổ hắn nhấc bổng lên. Chàng vung chưởng toan đập xuống đỉnh đầu hắn, nhưng dưới ánh trăng chàng thấy khóe mắt hắn lộ vẻ van xin thì không khỏi mềm lòng nghĩ bụng:

– Hắn với ta không thù không oán, chẳng qua hắn vâng lệnh Phúc Khang An mà thôi. Ta hà tất phải giết hắn làm chi?

Chàng nắm cổ hắn lôi đến phía sau hòn giả sơn, khẽ quá:

– Tại sao Phúc Khang An lại muốn bắt ta?

Tên võ quan sắc mặt lợt lạt, ấp úng đáp:

– Thực… thực tình tiểu nhân không rõ.

Hồ Phỉ lại hỏi:

– Bây giờ hắn ở đâu?

Võ quan đáp:

– Phúc đại soái… ở trong thủy các của Mã cô nương đi ra… đại soái truyền lệnh cho bọn tiểu nhân rồi lại… lại quay vào.

Hồ Phỉ điểm vào á huyệt hắn, rồi bảo:

– Ta tha mạng cho ngươi. Sáng mai có người hỏi tới, ngươi hãy nói là gã họ Nhiếp do ta hạ sát. Nếu ngươi tiết lộ vụ này để liên lụy đến gia đình y, ta sẽ giết sạch toàn gia nhà ngươi không chừa một mống.

Tên võ quan không nói được, chỉ gật đầu lia lịa.

Hồ Phỉ ôm thi thể Nhiếp Việt giấu vào trong một hốc đá của hòn giả sơn. Chàng quỳ lạy bốn lạy, rồi đá hai xác chết kia vào trong bụi cỏ rậm. Chàng lại xé vạt áo buộc vết thương hai cổ tay và trên bắp chân. Vết thương trên đùi tuy không nặng lắm nhưng rất dài khiến Hồ Phỉ không nén được giận, liền lượm một thanh chủy thủ đi tới thủy các.

Hồ Phỉ biết trong phủ Phúc Khang An rất đông thị vệ, không dám coi thường. Chàng để ý nhìn sau gốc cây lớn, trong hòn giả sơn và những bụi hoa không thấy bóng người nào mới lướt nhanh tới đầu cầu. Chàng bỗng thấy hai ngọn đèn lồng đi trước dẫn đường. Tám tên vệ sĩ theo Phúc Khang An đi tới. May mà trong vườn hoa rất nhiều hang hốc có thể ẩn mình được. Hồ Phỉ co mình lại ẩn vào phía sau mõm đá.

Bỗng nghe Phúc Khang An nói:

– Ngươi đi thẩm vấn tên gian đồ họ Hồ xem gã quen biết Mã cô nương trong trường hợp nào? Mối giao tình làm sao? Vì lẽ gì nửa đêm lẻn vào phủ của ta? Vụ này ngươi không được tiết lộ ra ngoài, tra hỏi rõ ràng lập tức trở về báo cáo. Còn tên gian đồ đó thì đêm nay giết chết ngay đi. Việc này về sau không được nhắc tới nữa.

Một người đi đằng sau hắn đáp:

– Tiểu nhân hiểu rồi.

Phúc Khang An lại dặn:

– Nếu Mã cô nương có hỏi tới thì cứ nói là ta đã cho ba ngàn lạng bạc và bảo gã về nhà rồi.

Người kia lại vâng dạ.

Hồ Phỉ càng nghe càng tức giận, nghĩ thầm:

– Té ra thằng cha này chẳng qua chỉ nghi ngờ ta có tư tình với Mã cô nương mà hạ độc thủ, làm liên lụy Nhiếp Việt phải uổng mạng.

Giả sử lúc này Hồ Phỉ muốn nhảy ra đâm chết Phúc Khang An là giết hắn được ngay, nhưng dù trong lòng phẫn nộ vẫn không dám hành động lỗ mãng, vì chàng mới tới kinh sư, chưa hiểu rõ mọi việc, mà Phúc Khang An lại nắm giữ binh quyền cả nước, uy thế lừng lẫy, nên chàng không dám mạo muội ra tay hành thích. Chàng đành ẩn phía sau mỏm đá, chờ cho bọn Phúc Khang An đi xa.

Tên thủ hạ vâng lệnh đi khảo vấn Hồ Phỉ, miệng khẽ hát một bài hát ngắn chân lăng xăng đi tới. Hồ Phỉ vươn tay điểm vào hông gã một cách đột ngột. Gã chưa kịp nhìn rõ địch nhân là ai thì người đã nhũn ra, té huỵch xuống đất. Hồ Phỉ lại điểm huyệt hai chỗ khuỷu chân gã rồi bước mau rượt theo Phúc Khang An. Từ phía xa xa, chàng nghe hắn hỏi:

– Đêm khuya thế này, lão thái thái còn kêu ta đến có việc gì? Những ai ngồi với lão nhân gia?

Một tên thị vệ đáp:

– Bữa nay công chúa tiến cung, khi về phủ rồi vẫn ngồi bên lão thái thái.

Phúc Khang An “à” một tiếng, rồi không nói gì nữa. Hồ Phỉ thấy hắn xuyên qua dãy hành lang tiến vào một căn nhà xung quanh có thông xanh vây bọc. Bọn thị vệ tùy tùng canh giữ bên ngoài. Hồ Phỉ đi vòng ra sau nhà, chui qua bụi cây thấy cửa sổ mặt Bắc có ánh đèn hắt ra. Chàng len lén lần tới dưới cửa sổ, thấy cửa sổ bị che bởi một lớp sa mỏng phết hồ màu xanh lục. Hồ Phỉ chợt nghĩ ra điều gì, liền khẽ bẻ mấy cành thông nhỏ che trước mặt để nhìn vào trong, xuyên qua các kẽ lá.

Trong nhà, ngồi chính giữa là hai người quý phụ lối ngoài ba chục tuổi. Phía dưới là một lão phụ trên sáu chục tuổi. Bên trái lão phụ còn có hai phụ nhân nữa. Cả năm người đàn bà khắp mình đeo ngọc ngà châu báu, mặc toàn the lụa lượt là. Phúc Khang An quỳ gối xuống, hướng về phía hai quý phụ ngồi giữa nói lời thỉnh an, rồi quay về phía lão phụ, cất tiếng hô:

– Mẫu thân!

Còn hai phu nhân nữa thấy hắn tiến vào liền đứng dậy.

Nguyên phụ thân của Phúc Khang An là Phó Hằng, em ruột của Hiếu Hiền hoàng hậu, vợ của đương kim hoàng đế Càn Long. Vợ Phó Hằng là người đẹp nổi tiếng ở Mãn Châu. Mụ vào cung triều kiến Càn Long hoàng đế, cả hai liền nảy sinh tư tình và sinh ra Phúc Khang An. Phó Hằng vì ba tầng quan hệ về chị gái, vợ, con trai mà được nhà vua sủng ái, ra ngoài làm tướng võ, vào triều làm tướng văn. Lão giữ ngôi tể tướng yên ổn suốt hai mươi ba năm. Bây giờ lão đã tạ thế.

Phó Hằng sinh hạ bốn người con trai. Trưởng tử là Phúc Linh An được phong là Đa La ngạch phụ, từng theo Triệu Huệ đi đánh đất Hồi Cương lập nên công trạng và được thăng chức Phó đô thống đạo Bạch Kỳ ở Mãn Châu. Người này cũng đã qua đời. Con thứ hai là Phúc Long An lấy Hòa Gia công chúa, con gái vua Càn Long, được phong Hòa Thạc ngạch phụ, làm đến Binh bộ thượng thư, Công bộ thượng thư và được phong tước Công. Con thứ ba là Phúc Khang An. Hai anh hắn đều làm phò mã, hắn lại được vua Càn Long yêu quý hơn hết dù hắn không lấy công chúa. Những người không hiểu nội tình đều lấy làm lạ. Thực ra hắn là cốt nhục của Càn Long, thì còn làm nữ tế của hoàng đế thế nào được? Hiện giờ hắn giữ chức Binh bộ thượng thư, tổng quản các quan thần trong nội vụ phủ, gia hàm Thái tử thái bảo. Con thứ tư là Phúc Trường An làm Hộ bộ thượng thư, về sau được phong đến tước Hầu. Thế là toàn gia họ Phó phú quý đến cực phẩm, cả triều đình không ai bì kịp.

Những quý phụ ngồi trong nhà này là các công chúa, chị dâu của Phúc Khang An. Nhị tẩu của hắn là Hòa Gia công chúa, con gái thứ tư của vua Càn Long, đã khéo nói lại biết chiều ý người nên được vua Càn Long sủng ái từ thuở nhỏ. Cứ cách mấy ngày là nhà vua lại triệu nàng vào cung nói chuyện giải muộn. Giữa nàng và Phúc Khang An tuy là huynh muội nhưng nghĩa lại là thần quân nên Phúc Khang An thấy nàng liền thỉnh an hành lễ. Còn hai người đàn bà nữa thì một là Hải Lan thị, vợ của Phúc Khang An và một người là vợ của Phúc Trường An.

Phúc Khang An ngồi xuống cái phế phía tây rồi hỏi:

– Hai vị công chúa cùng mẫu thân sao đêm đã khuya rồi mà các vị còn chưa đi nghỉ?

Lão phu nhân đáp:

– Hai vị công chúa nghe nói ngươi đã có con trai nên mừng rỡ khôn xiết, nóng lòng muốn xem mặt hai đứa nhỏ.

Phúc Khang An liếc mắt nhìn Hải Lan thị, mỉm cười đáp:

– Nữ nhân đó là người Hán chưa học lễ nghi, vì thế không dám để nàng đến khấu bái công chúa và mẫu thân.

Hòa Gia công chúa cười nói:

– Khang lão tam xem đã vừa mắt thì còn sai trật thế nào được? Chúng ta không cần gặp người đàn bà đó, ngươi mau sai người đem hai đứa nhỏ đến đây coi. Phụ hoàng bảo mấy bữa nữa sẽ gọi ta đưa chúng vào cung bệ kiến đấy.

Phúc Khang An ngấm ngầm đắc ý, nghĩ bụng:

– Hai đứa nhỏ đẹp như ngọc. Hoàng thượng mà nhìn thấy tất nhiên hoan hỷ cưng chiều.

Hắn liền sai tên nha hoàn ra bảo người tùy tùng bồng hai vị tiểu tử đến ngay lập tức.

Hòa Gia công chúa lại nói:

– Bữa nay ta tiến cung, mẫu hậu bảo Khang lão tam hành động lén lút bên ngoài, sinh con mấy năm không đưa về, cố ý giấu giếm tất cả mọi người. Coi chừng phụ hoàng sẽ lột da lão tam đó.

Phúc Khang An cười đáp:

– Vụ hai đứa nhỏ này hạ thần cũng mới biết hơn một tháng nay.

Hắn nói tới đây thì hai người vú bồng hai đứa nhỏ sinh đôi tiến vào. Phúc Khang An bảo hai đứa nhỏ lại dập đầu lạy công chúa, lão thái thái, cùng các quý phụ. Hai đứa nhỏ nghe nói xong, dầu mắt còn đang ngái ngủ, chúng cũng y theo lời khấu đầu hành lễ. Mọi người thấy hai đứa nhỏ giống hệt nhau, khuôn mật tròn trĩnh, mi thanh mục tú.

Hòa Gia công chúa vỗ tay, cười nói:

– Khang lão tam, hai đứa nhỏ này giống ngươi như đúc. Dù ngươi có muốn chối cãi cũng không được đâu!

Hải Lan thị đối với vụ này chẳng thích thú gì, nhưng thấy hai đứa nhỏ song sinh này rất khả ái liền bồng chúng vào lòng, ra chiều rất thân thiết. Lão phu nhân cùng mấy vị công chúa đều cho lễ vật. Hai mẹ vú không ngớt dập đầu tạ ơn ban thưởng.

Hai vị công chúa cùng bọn Hải Lan thị trò chuyện một hồi rồi xin cáo từ.

Lão phu nhân cùng Phúc Khang An bồng hai đứa nhỏ tiễn ra tận cửa rồi mới quay vào.

Lão phu nhân gọi đứa a hoàn đứng hầu sau lưng, bảo:

– Mi đến báo cho Mã cô nương hay là lão thái thái rất thích hai đứa nhỏ nên lưu chúng ở lại ngủ chung, bảo y đừng chờ hai anh em chúng nữa.

Đứa a hoàn vâng dạ.

Mụ đưa tay kéo hộc bàn, lôi một cái bình bằng vàng nạm đầy bảo thạch. Mụ đặt cái bình trên bàn, rồi nói:

– Mang món sâm thang trong bình đến thưởng cho Mã cô nương, nói rằng lão thái thái nhất định sẽ chiếu cố cho hai đứa nhỏ, bảo y cứ yên tâm!

Phúc Khang An đang cầm chén trà, nghe lời nói đó thì sắc mặt đại biến, hai tay run bần bật, khiến nước trà văng ra thấm ướt cả áo. Y kinh hãi, một hồi lâu không nói tiếng nào.

Đứa a hoàn cầm bình vàng bỏ vào trong một cái hộp vàng rồi bưng đi.

Lúc này hai đứa nhỏ đã buồn ngủ, miệng không ngớt gọi:

– Má má! Má má! Má má đâu?

Lão phu nhân dỗ:

– Cháu ngoan đừng khóc nữa. Ở đây với bà rồi bà cho kẹo nhé!

Hai đứa nhỏ khóc ầm lên:

– Không cần kẹo! Không cần bà! Chỉ cần má má thôi!

Lão phụ nhân sa sầm nét mặt, vẫy tay ra lệnh mụ vú bế hai đứa nhỏ đi, rồi đưa mắt ra hiệu cho đám a hoàn lui cả ra ngoài. Trong phòng chỉ có hai mẹ con Phúc Khang An. Cả hai cùng ngồi yên chẳng nói gì. Lão phu nhân đưa mắt nhìn con chăm chú, còn Phúc Khang An thì nhìn đi chỗ khác, không dám nhìn thẳng vào mắt của mẹ.

Qua một hồi lâu, Phúc Khang An mới thở dài, nói:

– Mẫu thân, vì sao người không tha cho cô ta?

Lão phu nhân đáp:

– Ngươi còn hỏi vậy ư? Cô gái đó là người Hán ắt sẽ sinh lòng phản trắc. Huống chi thị lại xuất thân từ chốn tiêu cục, sử đao múa kiếm, võ nghệ đầy mình. Trong phủ ta có hai vị công chúa, sao có thể để hạng người đó ở chung được? Mười năm trước đây, hoàng thượng gặp cơn đại hiểm cũng chỉ vì một mỹ nữ dị tộc, chẳng lẽ ngươi quên rồi sao? Để loại đàn bà độc như rắn rết đó sống cận kề bên người, chúng ta không cách gì ăn ngon ngủ yên được.

Phúc Khang An thưa:

– Lời của mẫu thân dĩ nhiên là không sai. Thoạt đầu hài nhi không nghĩ đến việc cho cô ta vào phủ mà chỉ sai người đi tìm để tặng cô ta ít tiền. Ngờ đâu cô ta lại sinh hạ hai đứa nhỏ. Đó là cốt nhục của mình sao lại bỏ đi được?

Lão phu nhân gật đầu, đáp:

– Ngươi năm nay đã gần tứ tuần, lại không có con, nay có được hai đứa nhỏ đó dĩ nhiên là quá tốt. Ta nuôi dưỡng cho chúng lớn khôn, sau này được phong hầu tập tước, hưởng vinh hoa phú quý thì mẫu thân chúng cũng yên lòng.

Phúc Khang An trầm ngâm một lúc rồi khẽ nói:

– Theo ý của hài nhi thì nên đưa cô ta một vùng châu quận xa xôi ngoài biên tái, vĩnh viễn không gặp lại nữa. Cái đó cũng tốt, chẳng hay mẫu thân…

Lão phu nhân sa sầm nét mặt, ngắt lời:

– Ngươi ngồi ở chức vị cao thật là uổng, Những chỗ nguy hiểm bên trong đã nghĩ tới chưa? Hai đứa con của ngươi còn ở trong phủ, há thị lại không sinh sự ư? Bọn gái giang hồ tứ chiếng đó có điều gì mà không dám làm.

Phúc Khang An khẽ gật đầu. Lão phu nhân lại nói tiếp:

– Ngươi cứ sai người hậu táng cho, là xem như đã hết lòng rồi…

Phúc Khang An lại gật đầu vâng dạ.

Hồ Phỉ đứng ngoài càng nghe càng kinh hãi. Ban đầu chàng còn chưa hiểu rõ ý tứ cầu chuyện của hai mẹ con, sau nghe đến chữ “hậu táng”, chàng giật nảy mình biết không phải là chuyện nhỏ, bèn nghĩ bụng:

– Té ra hai người bày âm mưu độc kế đoạt con, tất nhiên phải giết Mã cô nương. Vụ này rất khẩn cấp, không thể chần chừ được nữa. Chi bằng nhân lúc hai mẹ con chưa kịp thi hành độc kế, ta chạy đi báo cho Mã cô nương biết và cứu cô ra khỏi phủ ngay đêm nay.

Chàng liền len lén theo đường cũ chạy về thủy các. May mà đêm khuya yên tĩnh, trong vườn không người qua lại. Cả những tên thị vệ bị hạ sát cũng chưa ai phát giác. Hồ Phỉ trong lòng nóng nảy nên chạy thật nhanh, nhưng rồi lại trù trừ, thầm nghĩ:

– Mã cô nương một dạ chung tình với Phúc Khang An. Hai người ly biệt lâu ngày nay mới được trùng phùng, tình ái đắm say, làm sao có thể chịu nghe lời ta trốn đi khỏi phủ? Ta biết nói cách gì để cô tin lời đây?

Chàng còn đang ngẫm nghĩ bất giác đã đến trước thủy các. Hồ Phỉ thấy bên ngoài có bốn tên thị vệ đứng gác, liền nhủ thầm:

– Hừ, bọn chúng đã đặt người canh giữ để đề phòng cô đào tẩu!

Chàng không dám kinh động, liền đi vòng ra phía sau, vọt qua ao nước ở ngoài thủy các. Trong nhà ánh đèn chưa tắt, chàng ghé mắt nhìn qua khe cửa bất giác ngẩn người. Mã Xuân Hoa nằm lăn dưới đất, ôm bụng rên la, đầu tóc rối bù, sắc mặt không còn chút máu. Những a hoàn bộc phụ hầu hạ cô đi đâu hết cả, chẳng còn một ai ở bên cạnh.

Hồ Phỉ vừa nhìn thấy tình trạng này, lập tức tỉnh ngộ:

– Trời ơi! Hỏng rồi! Cuối cùng ta đã chậm một bước.

Chàng vội xuyên qua cửa sổ vào trong. Lúc cúi xuống nhìn Mã Xuân Hoa chàng thấy cô thở hổn hến, da mặt xám ngắt, cặp mắt đỏ mọng cơ hồ chảy máu.

Mã Xuân Hoa vừa thấy Hồ Phỉ, nàng lắp bắp nói nhát gừng:

– Ta… ta… đau bụng lắm… Hồ huynh đệ… ngươi…

Nói đến đó thì cô kiệt lực không nói được nữa. Hồ Phỉ ghé tai cô khẽ hỏi:

– Vừa rồi cô nương ăn uống gì?

Mã Xuân Hoa đưa mắt nhìn cái bình vàng nạm đầy bảo thạch để trên kỷ trà, mà không nói được. Hồ Phỉ nhận ra cái bình kia chính là vật đựng sâm thang mà mẹ Phúc Khang An đã sai a hoàn đem đến cho Mã Xuân Hoa uống

Chàng thầm nghĩ:

– Mụ già đó tâm kế rất độc. Mụ định giết Mã cô nương, chỉ giữ lại hai đứa nhỏ, nên sai người đem chúng đi trước rồi mới đưa thang sâm tới. Nếu không thì Mã cô nương cầm lấy chén sâm thang tất nghĩ đây là thuốc cực bổ, nhất định sẽ cho chúng uống mấy hớp.

Chàng lại nghĩ:

– Ồ! Phúc Khang An vừa thấy người bưng chén sâm thang đi liền biến sắc đánh vãi cả nước trà ra áo. Lúc đó, hiển nhiên y đã biết trong sâm thang có chất độc, vậy mà không tìm cách cản trở, cũng không đến cứu. Vậy thì hắn tuy không tự tay hạ độc cũng chẳng khác gì chính hắn ra tay.

Bất giác chàng lẩm bẩm:

– Lòng dạ thật tàn độc!

Mã Xuân Hoa miệng lẩm bẩm:

– Hồ huynh đệ… mau đi báo cho… Phúc đại soái hay để y mời đại phu…đến khám…

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Nếu bảo Phúc đại soái sai người mời đại phu thì chẳng khác gì cho cô nương uống thêm thuốc độc. Hiện giờ chỉ còn cách nhờ nhị muội tìm phương cứu chữa.

Chàng liền lấy tấm đệm ghế bọc cái bình vàng, chén đựng sâm thang đút vào bọc. Chàng nghe ngoài thủy các không có động tĩnh gì liền bồng Mã Xuân Hoa dậy, mở cửa sổ chuồn ra ngoài. Mã Xuân Hoa cả kinh, kêu lên:

– Hồ…

Hồ Phỉ vội đưa tay bịt miệng nàng, khẽ nói:

– Chớ có lên tiếng. Tại hạ đưa cô nương đi mời y sinh cứu chữa.

Mã Xuân Hoa hỏi:

– Còn con ta…

Hồ Phỉ không kịp giải thích, ôm nàng nhảy qua ao toan tìm đường trốn chạy, bỗng nghe phía sau có tiếng vạt áo phất gió. Rồi hai người chạy tới quát hỏi:

– Ai?

Hồ Phỉ tiếp tục chạy nhanh về phía trước. Hai người kia đề khí rượt theo.

Hồ Phỉ đang chạy nhanh đột nhiên dừng bước. Hai người kia không ngờ chàng dừng lại một cách đột ngột nên cứ theo đà tiếp tục lao tới vọt qua mặt chàng. Hồ Phỉ vọt lên không, vung hai chân đá trúng vào huyệt “Thần đường” sau lưng chúng. Hai gã chưa kịp rú lên một tiếng đã té nhào. Nhìn y phục cũng biết chúng là vệ sĩ trong phủ đến gác ngoài thủy các.

Hồ Phỉ thấy hành tung đã bị bại lộ, chẳng thể giấu giếm được nữa, liền chạy thẳng về phía ngoài cổng phủ. Bỗng nghe những tiếng hô hoán của bọn thị vệ vang lên:

– Có thích khách! Có thích khách!

Lúc tiến vào, Hồ Phỉ đã lưu tâm nhận rõ đường nên lúc này chàng vẫn theo lối đá lát đá trứng ngỗng, dẫn ra phía cửa nhỏ, rồi nhảy qua bức tường tây. Cỗ xe ngựa vẫn còn chờ ở ngoài cổng. Hồ Phỉ đặt Mã Xuân Hoa vào trong xe, miệng quát:

– Quay về!

Tên xa phu đã nghe tiếng người la ó trong phủ, lại thấy Hồ Phỉ thần sắc có điều khác lạ toan hỏi cho biết rõ. Hồ Phỉ liền phóng chưởng đánh gã té nhào nghe “binh” một cái.

Giữa lúc ấy trong phủ đã có bốn tên vệ sĩ đuổi tới. Hồ Phỉ ngồi cầm dây cương quất roi cho ngựa chạy. Bọn vệ sĩ trượt theo mấy chục trượng không kịp liền hô ầm ĩ:

– Lấy ngựa, lấy ngựa!

Hồ Phỉ giục ngựa chạy nhanh, nhưng mới hơn một dặm đã nghe tiếng ngựa dồn dập phía sau, hơn hai chục tên phóng ngựa đuổi theo. Ngựa của bọn truy binh toàn là tuấn mã nên chạy rất nhanh.

Hồ Phỉ bồn chồn trong dạ, nghĩ thầm:

– Đây là đất kinh thành, dưới chân thiên tử chứ đâu phải chỗ tầm thường, vụ náo loạn này khiến binh mã tuần thành đuổi theo vây bắt, thì dù ta có thể thoát thân cũng không có cách nào cứu được Mã cô nương.

Trong bóng tối, những người rượt theo đều cầm đuốc trong tay. Mã Xuân Hoa nằm trong xe lúc đầu còn rên rỉ, hiện giờ không thấy động cựa gì nữa.

Hồ Phỉ lo ngại, cất tiếng hỏi:

– Mã cô nương! Cô còn đau bụng không?

Chàng hỏi liền mấy câu không thấy Mã Xuân Hoa lên tiếng liền quay đầu nhìn lại, phía sau đuốc sáng rực. Truy binh đã tiến tới gần thêm. Đột nhiên nghe gió vút một tiếng, có người ném trái phi hoàng thạch tới, nhằm đánh vào sau lưng Hồ Phỉ. Hồ Phỉ vươn tay trái đón lấy rồi xoay tay ném trở lại. Bỗng nghe tiếng rú “úi chao” rồi tiếng người ngã ngựa.

Diễn biến này khiến Hồ Phỉ chợt hiểu rằng hay hơn hết là cứ ném ám để đẩy lui truy binh. Nhưng trong mình chàng lại không mang theo ám khí. Bọn vệ sĩ đuổi theo cũng khôn ra không ném ám khí nữa.

Hồ Phỉ nóng nảy nghĩ thầm:

– Đường về đến ngoài cửa Tuyên Võ hãy còn xa, đang lúc canh khuya mà bọn truy binh cứ tiếp tục kêu réo ầm ĩ thì làm sao khỏi động đến quan binh?

Đột nhiên chàng nhớ tới cái bình vàng trong bọc liền lôi ra vận kình lực móc các viên bảo thạch khảm trên đó, làm rớt xuống tám, chín mảnh. Dưới ánh đuốc sáng rực, tay phải chàng cầm mấy viên bảo thạch ném ra từng viên một. Tám mảnh bảo thạch đánh trúng năm tên vệ sĩ. Mấy mảnh bảo thạch tuy nhỏ, nhưng thủ kình Hồ Phỉ rất mạnh nên khi ném trúng đầu cũng gây đau đón phi thường. Bọn võ sĩ không dám đuổi theo nữa.

Hồ Phỉ thở dài một tiếng, đưa tay vào trong xe xem chừng hơi thở của Mã Xuân Hoa. May sao hơi thở cô vẫn còn, nhưng da mặt đã lạnh toát. Hồ Phỉ không dám chần chờ, vung roi quất ngựa phi nước đại. Xe ngựa chạy mãi đến một ngã ba. Khách điếm Hồ Phỉ ở nằm về hướng đông, nhưng chàng lại rẽ ngựa về hướng tây. Đến một khúc quanh, Hồ Phỉ liền bế Mã Xuân Hoa lên, tay vung roi ngựa quất liền mấy cái rồi tung người nhảy lên nóc nhà. Chiếc xe ngựa tiếp tục lao về phía tây, bọn vệ sĩ đuổi theo dồn dập.

Hồ Phỉ chờ cho bọn chúng đi xa rồi, mới nhảy xuống vào nhà. Vừa bước vào đến tường vây đã nghe Trình Linh Tố lên tiếng:

– Đại ca đã về đấy ư? Có người đuổi theo đại ca không?

Hồ Phỉ đáp:

– Mã cô nương trúng chất kịch độc, nhị muội xem thử.

Chàng bế Mã Xuân Hoa đi vào trong phòng.

Trình Linh Tố thắp đèn lên, nhìn thấy mặt Mã Xuân Hoa trắng nhợt, không còn huyết sắc. Cô bóp thử mấy ngón tay cũng không còn phản xạ đàn hồi, liền lắc đầu hỏi:

– Cô ta trúng phải chất độc gì?

Hồ Phỉ móc chiếc bình vàng trong người ra, nói:

– Trúng chất độc của sâm thang trong chiếc bình này.

Trình Linh Tố mở nắp bình ra ngửi, rồi nói:

– Chất độc lợi hại quá. Chính là “Hạc đỉnh hồng”.

Hồ Phỉ vội hỏi:

– Liệu có thể cứu được không?

Trình Linh Tố không đáp, chỉ đưa tay nghe nhịp tim của Mã Xuân Hoa rồi nói:

– Nếu không phải là nhà đại phú quý thỉ chẳng thể nào có được cái bình vàng trân quý này.

Hồ Phỉ hằn học đáp:

– Đúng vậy! Người hạ độc là phu nhân của tể tướng, lại là mẫu thân của quan binh bộ thượng thư.

Trình Linh Tố hỏi:

– Ủa! Trong chúng ta sao lại hiện ra nhân vật phú quý như vậy.

Hồ Phỉ thấy cô bất động thanh sắc, tựa hồ Mã Xuân Hoa tuy trúng chất độc rất nặng, nhưng còn có cơ cứu vãn, nên chàng mới vững dạ đôi chút. Trình Linh Tố vạch mí mắt Mã Xuân Hoa lên xem, bỗng cô “ồ” lên một tiếng.

Hồ Phỉ vội hỏi:

– Gì vậy?

Trình Linh Tố đáp:

– Trong sâm thang ngoài “Hạc đỉnh hồng” còn có chất “Phiên mộc miết”.

Hồ Phỉ không dám hỏi “Còn cứu được không?” mà lại hỏi:

– Cứu y bảng cách nào?

Trình Linh Tố chau mày, đáp:

– Hai thứ độc dược này phối hợp khiến mình mất thời gian đây.

Cô trở gót vào nhà, mở rương lấy hai viên thuốc màu trắng cho Mã Xuân Hoa uống, rồi nói:

– Cần tìm một nơi mật thất thanh tĩnh, dùng kim châm vào mười ba huyệt đạo để mở đường cho thuốc giải chạy vào nội tạng. Nếu dùng phép châm cứu ngay thì có thể chữa được. Có điều trong khoảng thời gian mười hai giờ không được di động người cô.

Hồ Phỉ nói:

– Bọn vệ sĩ của Phúc Khang An chỉ trong chớp mắt sẽ tìm đến, không thể châm cứu ở đây được. Chúng ta tìm vào nơi hoang vắng trong thôn xóm.

Trình Linh Tố đáp:

– Vậy phải lên đường ngay. Hai viên thuốc vừa rồi chỉ kéo dài mạng sống của cô thêm được một giờ

 Cô thở dài nói tiếp:

– Vị tể tướng phu nhân tuy lòng dạ thâm hiểm nhưng thủ đoạn hạ độc còn kém. Hai chất độc trộn với nhau, lại hòa tan trong nước sâm thang thành ra độc tính phát tác chậm lại. Nếu chỉ dùng một loại thì Mã cô nương còn chi tính mạng?

Hồ Phỉ vội vàng thu thập mấy thứ cần dùng rồi nói:

– Trên cõi đời này còn ai qua được thần kỹ của Độc Thủ Dược Vương nữa?

Trình Linh Tố từm tỉm cười toan trả lời, bồng nghe tiếng vó ngựa từ xa chạy đến gần nhà.

Hồ Phỉ rút đơn đao ra, nói:

– Cùng lắm đành phải chém giết một trận.

Nhưng trong dạ chàng bồn chồn, tự nhủ:

– Địch nhân nhất định mỗi lúc một nhiều. Đến lúc nguy cấp ta đành chiếu cố cho nhị muội, chứ không phải cứu Mã cô nương.

Trình Linh Tố nói:

– Ở đất kinh sư e rằng không được hành động lỗ mãng. Đại ca! Đại ca hãy khuân bàn ghế chất thành một cái đài cao.

Hồ Phỉ dù không hiểu ý, nhưng biết cô lắm mưu nhiều kế, mà tình thế lại cấp bách nên chàng không hỏi nữa, cứ theo lời chất đống bàn ghế lên.

Trình Linh Tố trỏ thân cây lớn ngoài cửa sổ, nói:

– Đại ca đem Mã cô nương lên cây đi.

Hồ Phi tra đao vào vỏ, ôm Mã Xuân Hoa đến gốc cây bên cửa sổ rồi tung người giấu Mã Xuân Hoa vào chỗ cành lá rậm rạp.

Lại nghe tiếng bước chân vang lên. Mấy tên vệ sĩ vượt tường vào trong, từ từ tiến gần lại. Quản gia họ Toàn chạy ra hỏi, liền bị bọn vệ sĩ lớn tiếng quát mắng.

Trình Linh Tố thổi tắt ngọn đèn, rồi lấy một cây nến ra thắp lên, cắm vào đế đèn. Cô đóng kín cửa lại rồi mới ra ngoài, nhặt lấy một cục đá, nhảy lên cây ngồi bên cạnh Hồ Phỉ.

Hồ Phi khẽ nói:

– Tất cả có mười bảy tên!

Trình Linh Tố đáp:

– Sức thuốc đủ dùng rồi!

Bỗng nghe bọn vệ sĩ lùng sục bốn phía, trong đó có cả khẩu âm của Ân Trọng Tường. Bọn vệ sĩ úy kỵ Hồ Phỉ võ công lợi hại, lại tưởng có cả Viện Tử Y nên chẳng dám lùng sục loạn xạ, mà cũng chẳng dám đi một mình. Chúng hợp thành từng tốp ba, bốn người để đi lục soát.

Trình Linh Tố đưa cho Hồ Phỉ hòn đá, khẽ bảo:

– Ném xuống đống bàn ghế!

Hồ Phỉ cười đáp:

– Tuyệt diệu!

Hòn đá bay ra chạm mạnh vào một cái bàn, chồng bàn ghế cao ngất lập tức đồ sập xuống ầm ầm.

Bọn vệ sĩ hô hoán:

– Ở đây rồi! Ở đây rồi!

Bọn chúng ỷ đông người, tranh nhau xông vào đại sảnh thì chỉ thấy bàn ghế ngả đổ ngổn ngang, tựa hồ vừa trải qua một trường ác đấu mà chẳng thấy bóng người nào. Bọn vệ sĩ còn đang ngơ ngác đột nhiên đầu óc choáng váng, chân đứng không vững, ngã lăn cả ra.

Hồ Phỉ nói:

– “Thất tâm hải đường” lại lập được kỳ công!

Trình Linh Tố rón rén tiến vào sảnh đường, cô thổi tắt ngọn nến cất vào trong bọc, rồi nhìn Hồ Phỉ vẫy tay, nói:

– Mau chạy đi thôi!

Hồ Phỉ cõng Mã Xuân Hoa vượt tường ra ngoài. Chàng chuyển qua một ngõ hẻm bất giác kêu khổ, vì thấy trước mặt ngoài đầu đường đèn lồng cùng đuốc sang rực như ban ngày. Một đội quan binh đang đi tuần tra. Chàng vội rẽ về phía nam, đi chưa đầy nửa dặm lại gặp quan binh tuần tiễu đi tới. Chàng tự nhủ:

– Vụ thích khách đột nhập vào trong phủ Phúc đại soái chắc đã truyền đi khắp kinh thành, nên bây giờ chỗ nào cũng tuần tra nghiêm mật. Mình có muốn nhân cơn hỗn loạn để chuồn ra nơi vắng vẻ ở ngoại thành xem ra cũng chẳng dễ dàng gì.

Lại nghe tiếng người huyên náo ở phía sau. Một đội quan binh nữa kéo tới. Hồ Phỉ thấy hai mặt đều có địch, không còn đường thoái lui liền đưa tay ra hiệu cho Trình Linh Tố rồi tung mình vượt tường, nhảy vào trong một căn nhà lớn bên cạnh. Trình Linh Tố cũng nhảy theo vào.

Chỗ hạ chân xuống rất mềm mại, thì ra là một lùm cỏ rậm. Trước mắt đèn đuốc sáng rực, bóng người lố nhố. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều giật mình kinh hãi vì không ngờ trong này cũng có quan binh. Lại nghe tiếng bước chân ngoài tường vang lên. Hai đội quan binh tụ hợp vào một chỗ. Chàng biết tình thế không thể vượt tường mà ra được nữa. Bỗng Hồ Phỉ thấy một hòn giả sơn ở mé trái, phía trước hòn giả sơn là bụi hoa che kín. Hồ Phỉ liền cõng Mã Xuân Hoa ẩn vào phía sau hòn núi này.

Đột nhiên sau hòn núi có người nhoài mình đứng lên. Bạch quang lấp loáng, một cây thương phóng tới đâm vào ngực Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không ngờ cả tòa giả sơn này cũng có địch nhân mai phục, tập kích đột ngột không một tiếng động. Chàng đành đặt Mã Xuân Hoa xuống, tay trái đỡ khuỷu tay địch nhân, tay phải vung quyền đánh tới. Người kia thủ cước cũng mau lẹ phi thường. Hắn xoay nghiêng khuỷu tay để tránh rồi tạt ngang thanh chủy thủ, tay phải thi triển thành hình móc câu chộp lấy cổ tay Hồ Phỉ, hóa giải thoi quyền của chàng. Điêu vô cùng kỳ lạ là ở chỗ địch nhân che mắt bằng tấm vải vàng, và thủy chung không nói nửa lời.

Hồ Phỉ nhủ thầm trong bụng:

– Ngươi không lên tiếng thì còn gì hay bằng!

Bọn quan binh hiện đang ở ngoài tường, hắn mà hô lên một tiếng thì tình thế sẽ vô cùng bất ổn. Hai người đánh giáp lá cà đều phát huy những chiêu sát thủ. Hồ Phỉ nhận ra võ công đối phương chuyên về trường quyền. Hắn ra chiêu vừa hiểm ác vừa dữ dội, bản lãnh chẳng kém gì bọn Tần Nại Chi, Chu Thiết Tiêu. Huống chi trong tay hắn còn có binh khí, nên chiếm thêm phần tiện nghi.

Sau khi chiết giải đến chiêu thứ chín, Hồ Phỉ tiến sát vào, vung tay điểm trúng huyệt “Cưu vĩ” ở trước ngực đối phương. Người kia cực kỳ kiêu dũng, dù bị điểm huyệt rồi mà vẫn còn phóng chân phải đá tới. Hồ Phỉ lại điểm vào huyệt “Trung đô” trên đùi hắn, hắn mới té xuống không nhúc nhích được nữa.

Trình Linh Tố hích vào vai Hồ Phi, trỏ về phía đèn sáng, khẽ nói:

– Dường như họ đang diễn tuồng.

Hồ Phỉ ngửng đầu nhìn thấy một hý đài rất lớn dựng trên khu đất trống. Dưới đài lố nhố người ngồi, đèn đuốc sáng rực. Trên đài, các diễn viên vẫn chưa ra sân khấu.

Hiện nay đang thời Càn Long thịnh trị, trong thành Bắc Kinh, những nhà quan có bất kỳ cuộc liên hoan yến ẩm nào cũng đều bày trò hát xướng thâu đêm suốt sáng liền mấy ngày là chuyện bình thường, chẳng có chi là lạ.

Hồ Phỉ thở phào một cái, kéo tấm khăn vàng che mặt hán tử, thoáng thấy tướng mạo thô hào, ước chừng bốn mươi tuổi. Chàng khẽ nói:

– Hán tử này nhân lúc người ta có việc vui mừng định mò vào cắp gà trộm chó nên không dám lên tiếng.

Trình Linh Tố gật đầu, khẽ đáp:

– E rằng gã không phải là loại trộm vặt.

Hồ Phỉ mỉm cười, nói:

– Bọn trộm vặt ở kinh sư bản lãnh cũng không phải tầm thường.

Nhưng chàng lại lẩm bẩm trong bụng:

– Coi thân thủ người này quyết chẳng phải phường bắt gà trộm chó bình thường. Nếu không phải hắn có ý gây ra án mạng thì cũng đến tầm cừu giết người. Gã gặp vận xúi quẩy nên vô tình bị ta tóm được.

Trình Linh Tố khẽ nói:

– Chi bằng chúng ta tìm vào phòng chứa củi vắng vẻ trong nhà này, hoặc một lầu các nào để giấu gã mười hai giờ.

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu huynh thấy chỉ còn cách này. Bên ngoài bọn chúng tuần tra gắt quá làm sao mà ra được?

Giữa lúc ấy sân khấu mở màn, có một người tiến ra. Người này vẫn mặc quần áo vải thông thường, mặt không hóa trang. Y đứng trước sân khấu chắp tay thi lễ, dõng dạc lên tiếng:

– Kính chào các vị sư bá sư thúc, cùng các vị sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội.

Hồ Phỉ nghe thanh âm của y vang dội, mà vẻ mặt tựa hồ không phải là diễn tuồng.

Hán tử nói tiếp:

– Lúc này trời đã sắp sáng rồi, chớp mắt lại hết một ngày. Chỉ còn ba ngày nữa là đến kỳ đại hội các chưởng môn nhân khắp thiên hạ. Thế mà phái Tây Nhạc Hoa Quyền chúng ta cho đến bây giờ vẫn chưa suy cử xong một vị chưởng môn. Vụ này không nên kéo dài nữa. Cần phải làm thế nào xin những vị tiền bối trong các chi phái chỉ thị cho.

Trong đám đông dưới khán đài, một lão già khoác áo choàng màu đen đứng lên ho hắng mấy tiếng, rồi nói:

– “Hoa Quyền Tứ Thập Bát, Nghệ Thành Hành Thiên Hạ Nhai”. Phái Tây Nhạc Hoa Quyền chúng ta trải qua ba trăm năm chia làm năm chi phái: phái chữ Nghệ, phái chữ Thành, phái chữ Hành, phái chữ Thiên, phái chữ Nhai. Đã ba trăm năm nay, vẫn không có một vị tổng chưởng môn. Tuy rằng năm phái đều hưng vượng cả, nhưng các vị sư huynh, sư đệ hãy còn có thành kiến về môn hộ. Người thì bảo: “Ta ở chi phái chữ Nghệ”, kẻ lại nói: “Ta thuộc chi phái chữ Thành”, chứ chưa thấy ai nói mình ở Tây nhạc Hoa quyền môn cả. Không ai nghĩ tới bọn võ sư phái khác chẳng lý gì đến chữ Nghệ, chữ Thành mà chỉ gọi chung chúng ta là môn hạ Tây Nhạc Hoa Quyền môn. Môn phái ta số người đông đảo, kể từ khi lão tổ truyền thụ cho đến nay, võ công đâu phải tầm thường, cớ sao phải chịu thua xa những phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Thái Cực, Bát Quái, không vang danh như họ? Há chẳng phải vì chúng ta phân chia thành năm chi, lực lượng phân chia thành ra yếu kém, còn nói sao được nữa?

Lão già nói đặc giọng miền Giáp Bắc, lão nói tới đây lại ho mấy tiếng, rồi thở dài nói tiếp:

– Nếu không phải Phúc đại soái mở cuộc đại hội chưởng môn khăp thiên hạ thì không biết đến ngày nào Tây Nhạc Hoa Quyền môn chúng ta mới có chưởng môn nhân. May gặp thịnh hội này, cần phải gấp rút suy cử tổng chưởng môn. Bữa nay lão hủ chỉ muốn nói một câu: chứng ta suy cử vị tổng chưởng môn không những chỉ để tranh hùng trong cuộc đại hội sắp tới mà còn mong chỉnh đốn lại môn phái. Từ đây năm chi hợp nhất để cùng nhau đồng tâm hiệp lực chỉnh đốn uy phong cho Hoa Quyền môn trong võ lâm, làm tăng thêm hào khí.

Mọi người dưới đài đều nổi tiếng hoan hô, lại có nhiều người vỗ tay cổ võ.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Té ra nơi đây là chốn tụ hội của Tây Nhạc Hoa Quyền môn.

Chàng căng mắt nhìn quanh để tìm một nơi khuất vắng, nhưng chỗ nào cũng đèn lửa sáng trưng. Trong vườn tụ hội đến hơn hai trăm người, nếu bước ra ắt sẽ bị phát hiện ngay. Chàng khẽ nói:

– Chỉ mong cuộc đề cử chưởng môn của bọn họ kết thúc mau lẹ. Tây Nhạc Hoa quyền cũng hay mà Đông Nhạc Thái quyền cũng được, miễn sao giải tán càng sớm càng tốt.

Lại nghe trên đài người kia lên tiếng:

– Những lời của Thái sư bá toàn là kim thạch lương ngôn. Vãn bối ở về chi chữ Nghệ xin mạo muội thay mặt toàn thể anh em bản chi nói một câu là khi đề cử xong chưởng môn nhân, toàn thể chi phái thuộc chi chữ Nghệ sẽ toàn tâm toàn ý nghe lời vị chưởng môn nhân. Lão nhân gia nói sao nghe vậy, chi phái chữ Nghệ quyết không một lời dị nghị.

Mọi người dưới đài đều hô lớn:

– Hay lắm!

Tiếng hô kéo dài, giống như người hát trên sân khấu, khán giả ở dưới khen hay, bên trong rõ ràng có pha lẫn ý chế giễu, châm chọc.

Người đứng trên đài mỉm cười hỏi:

– Còn các chi phái khác có ý kiến gì không?

Những người dưới đài nhao nhao đứng dậy, mỗi người nói một câu:

– Chi phái chữ Thành quyết không vị bội lời nói của chưởng môn nhân.

– Lão nhân gia bảo sao, chi phái chữ Hành nhất định làm đúng như vậy.

– Chi phái chữ Thiên cũng xin tuân theo hiệu lệnh, không dám trái lời.

– Bọn đàn em chữ Nhai xin tuân theo các vị đại ca.

Người trên đài lại nói:

– Hay lắm! Các chi phái đều đồng tâm nhất trí, vậy là quá tốt, không còn điều chi bàn cãi nữa. Hiện giờ các vị chi trưởng, các bậc tiền bối sư bá, sư thúc đều hiện diện đông đủ, chỉ còn thiếu Cơ sư bá ở chi phái chữ Thiên không tới. Lão nhân gia đưa tin đã phái lệnh lang là Cơ sư huynh phó hội, nhưng chờ tới giờ này Cơ sư huynh vẫn chưa thấy đâu. Không chừng y đã đến từ sớm, nhưng không hiểu còn ẩn chỗ nào…

Gã nói tới đây thì cả trên lẫn dưới khán đài đều cười rần cả lên.

Hồ Phỉ cúi xuống ghé tai, hỏi hán tử:

– Phải chăng ông bạn họ Cơ?

Hán tử gật đầu. Mắt lộ vẻ ngơ ngác vì không hiểu Hồ Phỉ và Trình Linh Tố thuộc phe phái nào.

Người trên đài lại nói tiếp:

– Chỉ một mình Cơ sư huynh chưa tới, chúng ta đợi y suốt đêm là hết lòng rồi. Sau này Cơ sư bá cũng chẳng thể phiền trách chúng ta được. Xin các vị tiền bối sư bá sư thúc chỉ cho biết lựa chọn chưởng môn theo cách nào?

Mọi người chờ đợi suốt đêm chính là để coi màn kịch suy cử chưởng môn nhân, nên khi nghe tới đây tất cả đều cao hứng nhao nhao lên đáp:

– Cứ dựa vào võ công mà quyết định.

– Chẳng vị nào phục vị nào, nếu không dựa vào quyền cước hoặc khí giới thì còn biết căn cứ vào cái gì?

– Ai dùng thực lực bằng đao thương hay quyền cước khiến mọi người phải tâm phục thì dĩ nhiên người đó sẽ được làm chưởng môn.

Lão họ Thái lại đứng lên ho mấy tiếng, rồi nói:

– Xưa nay chức chưởng môn nhân cần dựa vào đức chứ không dựa vào lực. Bọn hậu sinh tiểu tử dẫu võ nghệ có cao minh đến đâu cũng không thể vượt qua những bậc tiền bối đức cao vọng trọng.

Lão dừng lại một chút, đảo mắt nhìn khắp mọi người một lượt, rồi nói tiếp:

– Nhưng lần này tình thế khác hẳn. Cuộc đại hội chưởng môn nhân trong thiên hạ là chỗ anh hùng tụ hội, dĩ nhiên mọi người phải phô trương tài nghệ. Giả tỷ Tây Nhạc Hoa Quyền môn chúng ta mà cử một lão già kém võ công đi phó hội thì thử hỏi có ai khen một câu “Lão đầu Hoa Quyền môn đức cao vọng trọng, già mà không chết” không?

Mọi người nghe nói đến đó đều cười rần cả lên.

Trình Linh Tố bất giác bĩu môi, cười thầm:

– Lão già này đến đây để nói chuyện tiếu lâm.

Lão họ Thái cất cao giọng nói tiếp:

– “Hoa Quyền Tứ Thập Bát, Nghệ Thành Hành Thiên Nhai”. Mấy trăm năm nay, bốn mươi tám đường quyền cước và khí giới của Hoa Quyền môn chẳng một ai dám nói là mình tinh thông hết được. Còn việc bữa nay, chỉ cần vị nào có tài cao nhất là lên chấp chưởng bản môn.

Mọi người vừa nghe tới đây bỗng từ cửa sau có tiếng trống nổi lên ầm ầm như sấm đậy.

Đang lúc sửng sốt, có người nói:

– Cơ sư huynh tới rồi đây!

Một người đi tới mở cửa. Một đội quan binh cầm đèn lồng sáng rực đi vào.

Hồ Phỉ tay phải nắm chặt chuôi đao, tay trái cầm tay Trình Linh Tố. Hai người nhìn nhau mỉm cười. Dù trong lúc nguy cấp trước mắt mà cả hai vẫn tâm ý tương thông.

Nhưng mới nhìn nhau, Trình Linh Tố bỗng cúi đầu xuống, thì ra cô chợt nhớ tới Viên Tử Y: “Ta và đại ca cùng chết nơi đây. Chẳng hay Viên cô nương có biết gì không?” Trong lòng cô cho rằng Hồ Phỉ cũng đang nghĩ tới Viên Tử Y và đang nhủ thầm: “Ta cùng nhị muội cùng chết ở đây. Chẳng hay Viên cô nương có biết gì không?”

Viên võ quan chỉ huy bước tới đám đông hỏi vài câu. Khi nghe nói phái Tây Nhạc Hoa Quyền môn đang chọn chức chưởng môn ở đây thì thái độ của y trở nên mười phần khách khí. Nhưng y vẫn giơ lồng đèn lên nhìn mặt từng người, rồi đi quanh vòng người tuần tra.

Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nấp trong hòn giả sơn, nhìn thấy ánh đèn lồng đi xa dần thì liền thầm nhủ:

– Không hiểu tên võ quan đó hên hay xui? Giả như cầm đèn soi vào hòn giả sơn này thì có lẽ cái đầu của y đã ăn một lưỡi đao rồi!

Bỗng nghe người trên đài hô:

– Vị nào vô công cao nhất sẽ nắm quyền chưởng môn. Câu này các vị đều nghe rõ cả. Vậy xin các vị sư bá sư thúc, sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội lần lượt lên đài phô trương tuyệt nghệ.

Tiếng hô vừa dứt, trước mắt mọi người bỗng sáng lên. Một thiếu phụ mặc áo màu hồng nhạt nhảy lên đài, nói:

– Đệ tử là Cao Vân ở phái chữ Hành, xin lĩnh giáo các vị tiền bối, sư bá, sư huynh.

Mọi người thấy thiếu phụ thi triển khinh công tư thế rất ngoạn mục, tà áo phất phới, tướng mạo lại xinh đẹp, bất giác nổi tiếng reo hò ầm ỹ.

Dưới đài liền có một thiếu niên nhảy lên, nói:

– Đệ tử là Trương Phục Long ở phái chữ Nghệ, xin Cao sư tỷ chỉ giáo.

Cao Vân đáp:

– Trương sư huynh bất tất phải khách khí.

Mụ soạc chân phải ra, duỗi chân trái về phía trước, tay phải để ngang thành chưởng, tay trái thành móc câu. Chính là chiêu thứ nhất trong Hoa quyền, gọi là “Xuất thế khóa hổ Tây nhạc truyền”. Trương Phục Long đưa gối lên, đáp lại bằng chiêu “Thương dương đăng thị cước độc huyền”. Hai nguời đều thi triển quyền chiêu của bản môn để khai diễn cuộc đấu.

Sau hơn hai chục chiêu, Cao Vân sử chiêu “Hồi đầu vọng nguyệt phượng triển xí” lạng người tới, phóng chưởng đánh Trương Phục Long rớt xuống đài.

Tên võ quan miệng không ngớt lớn tiếng khen ngợi:

– Tuyệt quá! Tuyệt quá!

Dưới đài lại một đại hán nhảy lên nói mấy câu khách khí rồi cùng Cao Vân động thủ. Lần này Cao Vân sẩy chân bị hán tử đẩy ngã lăn đi.

Tên võ quan lại tặc lưỡi:

– Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc!

Gã mất hứng không muốn đứng xem nữa, bèn dẫn đám quan binh đi tuần tra tiếp.

Trình Linh Tố thấy đám quan binh đi rồi mới thở phào nhẹ nhõm. Trên hý đài kẻ lên người xuống tiếp tục tỷ đấu hoài, không hiểu còn mất bao lâu nữa mới lựa chọn được chưởng môn. Trình Linh Tố nhìn lại Hồ Phỉ, thấy chàng vẫn ngưng thần theo dõi hai người tỷ đấu trên đài. Cô nghĩ bụng:

– Quyền cước hai người này tuy hiểm độc nhưng chưa phải là hạng cao minh, mà sao đại ca cứ nhìn đăm đăm xuất thần đến thế?

Cô khẽ nói:

– Đại ca! Đã mất nửa giờ rồi, cần mau nghĩ đến biện pháp nào mới được. Nếu không nhanh chóng châm cứu thì không kịp đâu.

Hồ Phi ừ hử một tiếng, mắt vẫn chăm chú nhìn lên đài không chớp.

Chẳng mấy chốc một người thua nhảy xuống, người khác lại vọt lên tỷ thí với kẻ thắng. Tuy đây là cuộc so tài giữa đồng môn, nhưng hai người tỷ thí dĩ nhiên là môn đồ hai chi phái khác nhau, nên dù không đến nỗi kẻ sống người chết, nhưng cuộc thắng bại lại quan hệ đến sự vinh nhục cho chi phái, nên người nào cũng dốc toàn lực tỷ đấu. Đến lúc này, những tay cao thủ chân chính vẫn chưa chịu lên đài. Những người trước mắt chưa chắc đã tranh nổi chức chưởng môn.

Nguyên năm chi phái Hoa Quyền môn lâu nay vẫn đấu tranh với nhau, khi công khai, khi lén lút, bây giờ gặp cơ hội, họ giải quyết những chuyện xích mích cũ ở ngay trên đài, nên cuộc tỷ đấu thực sự náo nhiệt.

Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ đứng coi tựa hồ đến mức ngây cả người ra, bèn tự nhủ:

– Đại ca bản tính hiếu võ. Y mãi coi cuộc tỷ thí thành ra quên hết mọi chuyện.

Cô khẽ đẩy vai chàng, nói nhỏ:

– Tình thế trước mắt rất cấp bách. Chúng ta hãy mau rời khỏi nơi đây rồi sẽ tính. Những người này toàn là hảo hán võ lâm, mang nghĩa khí giang hồ, chắc họ không thèm đi báo quan phủ làm chi.

Hồ Phỉ lắc đầu, khẽ đáp:

– Chuyện khác thì còn bỏ qua được, nhưng đây là việc Phúc đại soái thì khi nào họ chịu bỏ qua? Đây chính là cơ hội tốt để họ lập công.

Trình Linh Tố nói:

– Nếu chúng ta mạo hiểm để Mã cô nương ở đây mà cho uống thuốc, thì đến lúc trời sáng tất cũng bị người ta phát giác.

Thanh âm cô tỏ ra rất đỗi bồn chồn. Cô vốn là người bình tĩnh, nếu chẳng phải là việc cấp bách tất đã không thúc giục luôn miệng như thế. Hồ Phỉ lại ừ một tiếng mà mắt vẫn theo dõi cuộc tỷ võ trên đài không chớp.

Trình Linh Tố buông tiếng thở dài, khẽ nói:

– Đợi đến khi không cứu được Mã cô nương, đại ca đừng trách tiểu muội.

Hồ Phỉ vội đáp:

– Được rồi, nếu không coi hết thì mình phải mạo hiểm tỷ thí một phen.

Trình Linh Tố ngơ ngác hỏi:

– Đại ca bảo sao?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu huynh lên đoạt chức chưởng môn Tây Nhạc Hoa Quyền môn. Nếu lòng trời phù hộ cho mình thành công, thì bọn họ nhất định phải nghe theo hiệu lệnh của tiểu huynh.

Trình Linh Tố cả mừng, lắc tay chàng mấy cái, nói:

– Đại ca, những người này đâu thể là đối thủ của đại ca. Nhất định thành công rồi! Nhất định thành công rồi!

Hồ Phỉ đáp:

– Khó là ở chỗ ta phải dùng quyền pháp của họ. Trong lúc nhất thời đâu nhớ được bao nhiêu? Đối phó hạng tầm thường thì chẳng khó gì, nhưng lát nữa những tay cao thủ lên đài, sử mấy món quyền pháp tầm thường kia nhất định không được và mình tất phải lộ mặt. Nếu bọn họ biết mình không phải đệ tử bản môn, thì dù có thắng, họ cũng không chịu suy tôn làm chưởng môn.

Chàng nói tới đây bỗng nhớ đến Viên Tử Y. Dường như võ công các phái, các nhà nàng đều tinh thông. Nếu nàng có mặt ở đây ra tay thì bên mình nắm vững phần thắng hơn nhiều. Thực ra, trong lòng chàng nghĩ nếu có Viên Tử Y ở đây thì chàng cũng chẳng cần đoạt chức chưởng môn của Hoa Quyền môn làm gì?

Bỗng nghe một tiếng “úi chao”, một người bị hất xuống đài.

Tiếp theo có người dưới đài cất tiếng thóa mạ:

– Con mẹ nó! Sao lại nặng tay thế?

Người khác cãi lại:

– Đã động thủ thì còn kể gì nặng với nhẹ? Ngươi có giỏi thì lên tỷ đấu!

Người kia xẵng giọng:

– Được rồi! Bọn ta sẽ lên tỷ thí.

Người khác lảm nhảm:

– Ta không phải là đối thủ của chưởng môn nhân mười tám đời nhà mi, chẳng dám qua chiêu với “lão nhân gia”.

Hồ Phỉ đứng lên, nói:

– Lát nữa nếu tiểu huynh không tranh được chức chưởng môn thì thị muội cứ cho thuốc và châm cứu cho Mã cô nương. Chúng ta làm được tới đâu hay đó.

Nói rồi, chàng lột cái khăn Vàng của gã hán tử bịt lên mặt mình.

Trình Linh Tố “ồ” một tiếng, mỉm cười nói:

– Người ta làm tổng chưởng môn của chín nhà rưỡi, chẳng lẽ đại ca không làm nổi chưởng môn một nhà?

Cô nói câu này rồi lại đâm ra hối hận:

– Sao ta cứ nghĩ đến Viên cô nương hoài, lại còn nhắc nhở Hồ đại ca khiến y cũng sao quên được cô ta.

Bỗng thấy Hồ Phỉ ngang nhiên bước ra khỏi hòn giả sơn, cô nhìn bóng lưng chàng, tự nhủ:

– Dù ta không nhắc nhở, chẳng lẽ đại ca lại có lúc quên được y ư?

Cô nhìn Hồ Phỉ sải bước tiến về võ đài, bất giác trong lòng cảm thấy vừa ngọt ngào, lại vừa cay đắng.

Hồ Phỉ vừa bước đến trước võ đài, bỗng thấy một người tranh vọt lên trước. Chính là đại hán vừa cãi nhau với người khác.

Chàng lẩm bẩm:

– Chờ hai người này phân thắng bại thì cũng phải mất thời gian. Mình chần chờ khắc nào là Mã cô nương càng thêm nguy hiểm khắc đấy.

Chàng vội vọt theo, người đang lơ lửng trên không đã nắm lấy lưng đại hán, nói:

– Sư huynh hãy khoan! Xin nhường cho tiểu đệ đánh trước!

Hồ Phỉ thi triển công phu “Đại cầm nã thủ” gia truyền của chàng. Ngón tay cái bấm vào huyệt “Cân xúc” là đốt thứ chín ở xương sống đại hán, ngón tay út thọc vào đốt thứ năm là huyệt “Thần đao”. Đại hán tuy vóc người to lớn nhưng lúc này còn cử động làm sao được? Hồ Phỉ thuận đà nhảy lên đứng trên võ đài, tiện tay ném đại hán xuống, để hắn rơi nhẹ nhàng vào cái ghế trống.

Hồ Phỉ phô trương võ công thượng thừa một cách đột ngột khiến tất cả mọi người dưới đài đều kinh dị, đến nửa số người đứng lên để nhìn. Họ thấy Hồ Phỉ che mặt bằng khăn vải vàng, nên không ai hiểu là người đã đã già hay còn trẻ. Có điều sau lưng chàng buông rủ bím tóc đen láy thì hiển nhiên chưa nhiều tuổi. Tuổi nhỏ mà võ công thần diệu như vậy, khiến những tay cao thủ càng biết nhiều hiểu rộng lại càng kinh dị.

Hồ Phỉ nhìn người trên đài, chắp tay nói:

– Tại hạ là Trình Linh Hồ, đệ tử chi phái chữ Thiên, xin sư huynh chỉ giáo.

Trình Linh Tố ngồi ở sát sau hòn giả sơn, nghe rõ chàng tự xưng là Trình Linh Hồ thì không khỏi mỉm cười, nhưng lập tức cô lại thấy chua chát trong lòng:

– Giả tỷ y là anh ruột ta thì đỡ được biết bao nhiêu phiền não.

Hán tử trên đài thấy thanh thế Hồ Phỉ đã bở vía rồi. Gã kính cẩn đáp lễ nói:

– Tiểu đệ học nghệ chưa tinh, xin Trình sư huynh nhẹ đòn cho.

Hồ Phỉ đáp:

– Không dám! Không dám!

Chàng không khách sáo nữa, chân phải co lại một nửa, chân trái duỗi ra, tay phải để ngang thành chưởng, tay trái thành móc câu, chính là chiêu “Xuất thế khóa hổ Tây nhạc truyền”. Người kia xoay mình, co gối duỗi tay, đáp lại bằng chiêu “Bạch viên thâu đao bái thiên đình”. Chiêu này thủ nhiều, mà công ít, tỏ vẻ toàn lo tự vệ.

Hồ Phỉ bước tới, phóng chiêu “Ngô vương thí kiếm phách ngọc chuyên” đánh ra. Người kia vẫn không dám tiếp chiêu, liền ra chiêu “Triệt thân đao bộ nhất lưu yên”. Hồ Phỉ không muốn mất nhiều thì giờ, liền sử chiêu “Tà thân lạn môn sáp thiết soan”. Chiêu này đứng theo thế “cung tiễn bộ”, tả chưởng biến thành quyền vươn thẳng ra rồi đánh mạnh xuống, hữu quyền đánh tiếp ra. Người kia thấy quyền thế của đối thủ trầm trọng vội đưa tay chống đỡ. Hồ Phỉ vận nội lực vào tay phóng ra rồi lại thu về, nhẹ nhàng đẩy gã xuống đài.

Bỗng nghe dưới đài có người gầm lên một tiếng. Chính là đại hán vừa bị Hồ Phỉ ném xuống. Gã dợm nhảy lên đài, quát lớn:

– Tổ bà nó! Ngươi là cái thá gì…

Hồ Phỉ bước tới, sử chiêu “Kim bằng triển xí đình trung thiếp”, hai cánh tay giơ ngang ra, khiến đại hán không nhảy lên dài được. Gã bị tý lực của Hồ Phỉ đẩy xuống. Lần này Hồ Phỉ giận gã ăn nói vô lễ, vận động ba phần kình lực. Bỗng nghe “rắc” một tiếng, gã đại hán kia ngã đè lên hai cái ghế trước đài làm cho gãy tan.

Chàng đả bại luôn hai người khiến quần hùng phía dưới đài tới tấp chụm đầu ghé vai, xì xầm hỏi bọn đệ từ phái chữ Thiên xem người này là môn hạ của ai, nhưng đệ tử chi phái này cũng không biết gì.

Một vị tiền bối phái chữ Nghệ lên tiếng:

– Người này chưa thuần thục võ công bản môn. Hiển nhiên y đã học nghệ từ trước rồi mới đầu sư. Mười phần hết chín, chắc là đồ đệ mới thu nạp của Cơ lão tam.

Một lão già phe chữ Thành đáp:

– Thế thì Cơ lão tam có chỗ không phải rồi. Lão phái môn đồ đã học nghệ từ trước đến tranh đoạt chức chưởng món há chẳng là phản lại võ công bản môn?

Nguyên Cơ lão tam là người đứng đầu phái chữ Thiên, võ công thuộc hạng đệ nhất ở Tây Nhạc Hoa Quyền môn, nhưng hai chân lão bị tê bại từ mười năm trước. Hiện nay, dù lão đi đứng không dễ dàng, mà uy danh vẫn rất lớn. Sư huynh đệ đồng môn nhắc tới ba chữ “Cơ lão tam” đều có lòng úy kỵ. Mọi người thấy vị “Trình Linh Hồ phe chữ Thiên” võ công cao thâm, mà người con trai được Cơ lão tam phái đến là Cơ Hiểu Phong thủy chung vẫn chưa thấy lộ diện, nên ai nấy đều tưởng chàng là môn đồ của Cơ lão tam. Họ có biết đâu Cơ Hiểu Phong đã bị Hồ Phỉ điểm huyệt đang nằm sau hòn giả sơn. Bản lãnh Cơ lão tam rất cao cường, tính tình kiêu ngạo, chẳng coi bạn đồng môn vào đâu. Sau khi hai chân tê bại, lão đóng cửa tạ khách, đem hết võ công truyền thụ cho con.

Chuyến này các cao thủ năm chi phái quần tụ ở Bắc Kinh, căn cứ vào võ công để quyết định chức chưởng môn. Cơ Hiểu Phong lập chí giành cho bằng được chức chưởng môn này. Võ công gã đã học được đến chín thành của phụ thân, nhưng về tư cách lại kém bề quang minh lỗi lạc. Gã lén lút nấp sau hòn giả sơn để nhìn rõ hư thực của mọi đối thủ, sau đó chỉ cần đánh một đòn là trúng ngay. Không ngờ ma đưa lối quỷ dẫn đường gã lại bị Hồ Phỉ kiếm chế. Cơ Hiểu Phong cho rằng đây là âm mưu của chi phái khác, ngấm ngầm mai phục cao thủ để đối phó mình. Vừa rồi gã đã cùng Hồ Phỉ chiết giải mấy chiêu, liền bị chàng điểm trúng huyệt đạo khiến cho gã một thân võ công mà không còn cơ hội để thi triển, kế hoạch của phụ thân gã chỉ trong chớp mắt đã trôi theo dòng nước. Trong lòng tức giận đến cực điểm, Cơ Hiểu Phong chỉ muốn nhảy lên đài quyết một trận sống mái với Hồ Phỉ.

Bây giờ gã thấy chàng lên đài rồi, đả bại hết mọi cao thủ các chi phái, tưởng chừng như không còn ai kiềm chế được chàng, nên gã hết sức vận khí xung phá huyệt đạo, mong chân tay mau trở lại tự do. Những Hồ Phỉ điểm huyệt gã bằng tuyệt kỹ tổ truyền khác hẳn những điều sở học của Cơ Hiểu Phong. Gã bình tâm tĩnh trí ngầm vận nội lực cũng chẳng thể tự giải khai được, huống chi lúc này gã lại đang cơn cuồng nộ? Sau khi miễn cưỡng vận nội lực, đột nhiên chân khí đi vào đường rẽ, gã lập tức ngất xỉu. Nên biết Cơ lão tam luyện công, cũng vì nóng lòng cầu tiến vượt mức mà bị tẩu hỏa nhập ma, nên dẫn đến hai chân tê bại. Bây giờ Cơ Hiểu Phong lại bước theo vết xe đổ của phụ thân, cơn nguy hiểm còn hơn thế nữa.

Trình Linh Tố để hết tinh thần theo dõi cuộc tỷ đấu trên đài giữa Hồ Phỉ cùng người khác. Cô thấy mỗi chiêu mỗi thức của chàng quả nhiên toàn là Tây Nhạc Hoa quyền vừa mới học được, liền nhủ thầm:

– Đại ca đối với võ học dường như sinh ra đã biết. Những chiêu thức Tây Nhạc Hoa quyền phức tạp là thế mà y chỉ cần xem người ta chiết chiêu là đã học được rồi.

Giữa lúc ấy bỗng nghe đại hán bên cạnh khẽ rú lên một tiếng, thanh âm ra chiều khác lạ. Cô quay đầu lại thấy gã hai mắt nhắm nghiền, lưỡi thè ra ngoài miệng bị răng cắn đến chảy máu tươi, toàn thân run bần bật như người lên cơn sốt rét. Trình Linh Tố biết gã vì gượng vận nội lực xung phá huyệt đạo đến nỗi chân khí đi vào đường rẽ. Nếu không cứu trị ngay thì nặng là tâm thần hoảng loạn, phát điên phát khùng, nhẹ cũng thành tàn phế, mất hết võ công. Cô tự nhủ:

– Giữa bọn mình với gã vốn không thù oán thì hà tất vì cứu một người mà lại hại một người.

Cô liền lấy kim ra châm vào bốn đại huyệt “Liêm tuyền” “Thiên đột”, “Kỳ môn”, “Đại hoành” trong mạch “Âm duy” của gã. Sau một lúc, Cơ Hiểu Phong dần dần hồi tỉnh, thấy Trình Linh Tố đang châm kim cứu trị cho mình, liền nói khẽ:

– Đa tạ cô nương!

Trình Linh Tố đưa tay ra hiệu cho gã đừng lên tiếng.

Bỗng nghe Hồ Phỉ ở trên đài dõng dạc hô:

– Ngôi chưởng môn cần quyết định mau chóng, nếu cứ đấu kiểu này thì biết bao giờ cho kết thúc? Các vị sư bá sư thúc, sư huynh sư đệ muốn chỉ giáo thì mời cả ba, bốn vị thượng đài cùng một lúc. Đệ tử có thất bại cũng quyết không có lời oán trách

Mọi người nghe nói đều cho là gã tiểu tử này ngông cuồng. Nếu lấy một chọi một thì không ai dám nhảy lên, bây giờ họ đều nhao nhao muốn liên thủ hợp lực tỷ đấu. Thực ra chiêu số mới học của Hồ Phỉ rất hạn chế, nếu còn đấu nữa thì tất bị lòi đuôi. Bằng nhiều người hợp thủ quần công đánh loạn xà ngầu thì có dùng tiểu xảo người ngoài cũng khó lòng nhận ra. Hơn nữa cuộc xa luân chiến tiếp diễn, nội lực chàng dầu có sung mãn bao nhiêu đi nữa cũng sẽ hao dần cho đến lúc kiệt sức. Mặt khác, việc cứu Mã Xuân Hoa lại khẩn cấp, nên chàng phải nghĩ tới cách tốc chiến tốc thắng.

Hồ Phỉ huy động chưởng lực, trong chớp mắt đã đánh ngã mấy người rớt xuống đài.

Trong năm phái ở Tây Nhạc Hoa Quyền môn, chỉ có đệ tử phái chữ Thiên đều cho là chàng vâng lệnh Cơ chi trưởng tới đây nên không ai lên đài giao thủ. Còn bốn chi phái kia, những tay hảo thủ trẻ tuổi đã bị loại hết. Chỉ một số ít cao thủ lớn tuổi tự lượng không nắm được phần thắng, lại muốn bảo toàn thanh danh mấy chục năm nên không chịu lên đài khiêu chiến.

Về sau, các tay cao thủ tráng niên trong các phái chữ Nghệ, chữ Thành, chữ Hành liên thủ thượng đài, nhưng chỉ trong vòng mười hiệp là đã thua liểng xiểng phải lui xuống. Đến lúc này, các vị danh túc tiền bối cũng như thanh niên đệ tử trong bổn phái đều ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám thượng đài nữa.

Bỗng thấy lão họ Thái khoác áo choàng màu đen đứng lên nói:

– Trình sư huynh, bản lãnh của sư huynh rất cao cường khiến cho ai nấy đều bội phục. Nhưng lão hủ xem ra thì quyền chiêu của sư huynh tựa hồ có điểm giống với võ công sở truyền của bản môn mà thực ra không phải.Chà chà! Có thể nói là “hình tự nhi thần phi”, tuy về hình thức thì có giống, nhưng về tinh thần thì tựa hồ không phải. Vụ này… vụ này quả có chỗ không ổn rồi đây.

Hồ Phỉ trong lòng run lên, nghĩ thầm:

– Nhãn quang của lão này quả nhiên lợi hại. Tuy ta sử quyền Tây Nhạc Hoa quyền, nhưng khi hất người té xuống thì vẫn dùng nội kình khác hẳn với Hoa quyền của bọn họ.

Nên biết Tây Nhạc Hoa Quyền môn nổi danh thiên hạ về võ công ngoại môn, thì chỗ tinh vi ảo diệu bên trong Hồ Phỉ đâu có thể chỉ coi mấy người chiết chiêu một lúc mà hiểu được? Huống chi chàng chưa được nhìn những tay cao thủ phái này ra chiêu, dĩ nhiên chỉ học được cái vỏ bên ngoài.

Giữa lúc căng thẳng, chàng đành liều miễn cưỡng đáp:

– “Hoa Quyền Tứ Thập Bát, Nghề Thành Hạnh Thiên Nhai”. Nếu không phải sở ngộ của mỗi người khác nhau thì sao bản môn lại chia thành năm chi phái? Đạo võ học nguyên không có phép tắc nhất định. Chi phái chữ Thiên của đệ tử hiểu về quyền lý có chỗ khác người, cũng là lẽ ấy.

Chàng chắc được bọn đệ tử ở phái chữ Thiên ủng hộ mình không đến nỗi bị cô lập. Quả nhiên bọn đệ tử phe chữ Thiên nghe chàng đề cao bản phái trong lòng rất khoan khoái. Có kẻ đứng dưới lớn tiếng phụ họa.

Lão họ Thái lắc đầu hỏi Hồ Phỉ:

– Trình sư huynh! Sư huynh có phải là môn hạ của Cơ lão tam không, hay sau khi đã mang tuyệt nghệ mới vào đầu sư? Lão hủ chưa đến nỗi mắt kém, coi công phu của sư huynh mười phần có đến chín không phái là công phu bản môn.

Hồ Phỉ đáp:

– Thái sư bá nói vậy, đệ tử không đám tán đồng bừa. Trong cuộc đại hội chưởng môn, nếu bản môn muốn tranh hùng với những phái lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Thái Cực, Bát Quái để nêu cao uy phong của Tây Nhạc Hoa Quyền môn thì cần phải dung hội quán thông, canh tân đổi mới. Sở học của đệ tử về nội kình đều là công phu của sư phụ gần mười năm bế môn suy ngẫm mới sáng tạo ra, dĩ nhiên phải có chỗ độc đáo. Nếu Thái sư bá cho rằng đệ tử không đúng thì xin mời thượng đài chỉ điểm cho một chiêu

Lão già họ Thái ngần ngừ đáp:

– Bản môn có nhân tài kiệt xuất như lão đệ đây để làm rãng rỡ tông môn, lão hủ vui mừng còn không hết, lẽ nào lại có chuyện dị nghị? Nhưng trong lòng có chỗ hoài nghi chẳng thể không nói ra. Bây giờ làm thế này quách. Xin Trình lão đệ biểu diễn một bài Hoa quyền. Đó có phải là công phu của bản môn hay không thì mười mấy vị lão huynh đệ mắt sáng như đuốc ở đây xem sẽ rõ. Nếu lão đệ tinh thông võ bản môn thì lão hủ là người thứ nhất hoan hô ủng hộ lão đệ làm chưởng môn.

Quả nhiên gừng càng già càng cay. Hồ Phỉ cùng người động thủ quá chiêu còn có thể mập mờ thi triển võ công của mình bằng những chiêu tương tự như Hoa Quyền môn, nhưng bảo chàng biểu diễn một bài quyền, trong lúc tay đấm chân đá thì giả thực đều hiện ra rõ ràng, làm sao có thể lập lờ được?

Huống chỉ những quyền chiêu chàng học lỏm được đều là cái vỏ hời hợt bên ngoài, không thành một bài quyền được, thì làm sao có thể biểu diễn quyền pháp trọn vẹn từ đầu chí cuối? Hồ Phỉ tuy là người lắm mưu nhiều kế, mà nghe lão ta nói vậy cũng không biết phải trả lời sao.

Chàng đang tìm cách thoái thác, bỗng nghe phía sau hòn giả sơn có người lên tiếng:

– Thái sư bá, sao sư bá lại gây khó dễ cho phái chữ Thiên của bọn tiểu điệt đến vậy? Trình sư huynh đây là đệ tử đắc ý nhất của gia phụ. Y nhập môn đã mười hai năm, chẳng lẽ lại không luyện hết được đường Hoa quyền?

Rồi thấy một người rảo bước đi tới trước đài. Chính là Cơ Hiểu Phong, một tay đệ tử nổi tiếng nhất ở chi phái chữ Thiên. Phàm những việc lớn nhỏ trong chi phái này thường do gã đại diện phụ thân để giải quyết và được coi như người chi trưởng, nên ai ai cũng nhận ra gã.

Cơ Hiểu Phong nhảy lên đài, chắp tay nói:

– Gia phụ đóng cửa ẩn cư, đem võ công bản thân truyền thụ hết cho Trình sư ca trong mười hai năm là để có ngày nay. Trình sư ca đây bản lãnh hơn đệ tử gấp mười lần. Các vị bá thúc đều thấy rõ, sao lại có lời dị nghị?

Mọi người nghe gã nói vậy thì không hoài nghi gì nữa. Ai cũng cho là Cơ lão tam bản tính quái dị, hiếu thắng. Lão lén lút rèn luyện một tên đồ đệ. Hành động này hợp với tính khí của lão. Hơn nữa, Cơ Hiểu Phong vốn là tay kiêu hùng mà cũng tâm phục Hồ Phỉ thì làm sao có thể giả trá được?

Lão họ Thái toan hỏi nữa thì Cơ Hiểu Phong đã dõng dạc nói ngay:

– Nếu Thái sư bá muốn khảo nghiệm vô công của phải chữ Thiên thì đệ tử xin thay mặt Trình sư ca đi một bài quyền để sư bá chỉ điểm cho.

Gã không đợi cho lão Thái trả lời đã đứng chụm chân lại, biểu diễn những chiêu “Hiểu tinh đương đầu tức tẩu quyền”, tiếp theo đến những chiêu “Xuất thế khóa hổ Tây nhạc truyền”, “Kim bằng triển xí đình trung thiên”, “Vi Đà hiến bảo tại hung tiền”, “Bả tý môn hoàng thiết soan”, “Khôn quỷ ngưỡng đẩu liên lục lan”. Hai tay gã làm thành chưởng, quyền, câu, trảo biến hóa theo mười hai thủ pháp: “Xung, Thôi, Tiệt, Thiết, Phách, Khiêu, Đinh, Giá, Sanh, Liêu, Xuyên, Dao”. Chân y bước thành “Cung tiễn bộ”, “Mã bộ”, “Phốc bộ”, “Đinh bộ” rồi biến thành “Hành bộ”, “Đảo bộ”, “Mại bộ”, “Thâu bộ”, “Đạp bộ”, “Kích bộ”, “Dược bộ”. Bộ pháp chỗ vững vàng trầm ổn thì như voi đứng hổ ngồi, lúc mau lẹ thì như chim ưng vồ thỏ.

Mọi người đứng dưới đài đều là bản môn đệ tử, chẳng ai là không thuộc lòng đường quyền pháp này, nhưng thấy bản lĩnh của Cơ Hiểu Phong thâm hậu như vậy, ai nấy đều thán phục. Cả những bậc tiền bối nổi danh các chi khác cũng không khỏi gật đầu.

Cơ Hiểu Phong biểu diễn đến những chiêu “Phụng Hoàng toàn oa hồi thân chuyển”, “Thoái đặng cửu thiên xung thiết quyền”, “Anh hùng đả hổ thu chiêu thế”, rồi đến chiêu cuối cùng là “Quyền bãi đình tiền ngũ canh thiên”, pháp độ mỗi chiêu lại càng nghiêm mật. Đúng là quyền thuật cao siêu!

Y biểu diễn xong thu tay về, dưới đài nổi lên tiếng hoan hô như sấm dậy.

Từ lúc Cơ Hiểu Phong lên đài, trong lòng Hồ Phỉ rất lấy làm lạ. Chàng không hiểu Trình Linh Tố đã dùng biện pháp gì ép được gã lên đài giải vây cho mình. Chàng coi gã luyện xong đường quyền, khen thầm trong bụng:

– Tây Nhạc Hoa Quyền quả nhiên không phải tầm thường, nếu người này bổ sung thêm phần nội lực là trở thành danh gia võ học.

Cơ Hiểu Phong đi xong nột bài quyền, lập tức hơi thở dồn dập, toàn thân run run như người bị bệnh nặng chưa khỏi, hay người bị trọng thương. Người dưới đài không ai phát giác nhưng Hồ Phỉ đứng ngay đằng sau gã nên thấy rõ mồn một. Chàng còn thấy vạt áo sau lưng gã ướt đẫm mồ hôi, điều không thể xảy ra với những tay võ công cao cường, trong lòng càng lấy làm quái lạ.

Cơ Hiểu Phong định thần lại, nói:

– Còn vị sư thúc sư bá, sư huynh sư đệ nào muốn tỷ thí với Trình sư ca xin mời thượng đài.

Y hỏi luôn ba tiếng không ai trả lời. Quần đệ từ ở chi phái chữ Thiên đều lớn tiếng hoan hô:

– Cung hỷ Trình sư ca vinh nhiệm chưởng môn phái Tây Nhạc Hoa Quyền!

Quần hào cũng hoan hô theo. Thế là vụ Hồ Phỉ lên chấp chưởng Hoa quyền môn đã định xong.

Cơ Hiểu Phong quay lại nhìn Hồ Phỉ, chắp tay nói:

– Cung hỷ! Cung hỷ!

Hồ Phỉ chắp tay đáp lễ, thấy nhãn quang y đầy vẻ oán độc, nhưng chàng đang lo về bệnh tình Mã Xuân Hoa, nên vội nói:

– Cơ sư đệ! Phiền sư đệ kiếm một gian tĩnh thất cho hai vị sư muội của chúng ta nghỉ ngơi.

Cơ Hiểu Phong gật đầu rồi nhảy xuống đài, hai chân y loạng choạng suýt té.

Hồ Phỉ đứng trước đài nói:

– Các vị đã tân khổ suốt đêm xin mời về nghỉ. Tối mai chúng ta lại thương nghị đại kế làm cho Hoa quyền môn chúng ta nổi danh thiên hạ trong cuộc đại hội chưởng môn sắp tới.

Chàng nói những lời này không phải là hoa ngôn, vì đối với Hoa quyền môn chàng thực sự có đôi phần cảm kích. Giữa lúc quan binh tróc nã, nếu không gặp được cơ duyên vượt tường nhảy vào đúng lúc họ đang suy cử chưởng môn thì chắc Mã Xuân Hoa bị chất độc phát tác làm cho chết, thây bỏ ven đường rồi. Nếu như có cơ hội tranh giành chút vinh hoa cho Hoa Quyền môn thì chàng tình nguyện hết lòng ra sức.

Quần đệ tử nghe nói tới tấp đứng dậy. Người nào cũng nghị luận võ công của Hồ Phỉ. Có kẻ ca tụng Cơ lão tam thâm mưu viễn lự, đánh một đòn làm mọi người đều kinh hãi. Có người khen đường quyền của Cơ Hiểu Phong rất cao minh. Nhất là bọn đệ tử chi phái chữ Thiên lại càng cao hứng phi thường. Mấy vị tiền bối muốn lại chuyện trò với Hồ Phỉ, nhưng chàng chắp tay thi lễ rồi theo Cơ Hiểu Phong vào nội thất. Trình Linh Tố bồng Mã Xuân Hoa trà trộn trong đám đông, bám gót theo sau.

Tòa đại trạch này là của một vị cao quan ở Hoa quyền môn đã về hưu. Nay Hồ Phỉ đã làm chưởng môn, dĩ nhiên chủ nhân đối đãi với chàng rất ân cần.

Hồ Phỉ thủy chung không cởi tấm khăn vàng che mặt. Chàng cùng Trình Linh Tố, Cơ Hiểu Phong đem Mã Xuân Hoa vào nội thất, bỏ tấm khăn che mặt ra, rồi nói:

– Cơ đại ca! Đa tạ đại ca! Ngôi chưởng môn này tiểu đệ nhường lại cho đại ca.

Cơ Hiểu Phong chỉ hắng giọng một tiếng chứ không nói gì.

Hồ Phỉ nhìn Mã Xuân Hoa thấy sắc mặt tím đen, đã hôn mê từ lâu, hơi thở đưa ra thì nhiều mà hít vô thì yếu, tính mệnh mong manh như sợi tợ. Trình Linh Tố bồng Mã Xuân Hoa đặt lên giường, lấy kim châm vào mười ba huyệt đạo qua lần áo mà vẫn chuẩn xác. Đuôi mỗi mũi kim đều quấn bông. Thủ pháp cô cực kỳ mau lẹ mà không hoang mang, vội vàng. Hồ Phỉ thấy thần sắc cô vẫn bình thường mới yên tâm đôi chút.

Sau khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà, đuôi kim từ từ cháy máu đen thấm vào miếng bông. Nguyên những mũi kim này rỗng ruột, dùng để hút chất độc ra.

Trình Linh Tố thở phào một cái, mỉm cười, cô lại lấy một viên thuốc xanh lục từ trong bình thuốc đưa cho Cơ Hiểu Phong, nói:

– Cơ đại ca, đại ca hãy về phòng nghỉ ngơi. Đại ca cứ uống mười viên thuốc này là chất độc trong người sẽ tiêu hết.

Cơ Hiểu Phong đón lấy bình thuốc, lẳng lặng ra khỏi phòng.

Bây giờ Hồ Phỉ mới hiểu Trình Linh Tố đã dùng bản lãnh chuyên môn của cô để bức bách Cơ Hiểu Phong phải nghe theo lệnh. Chàng cười, nói:

– Dược vương cô nương đi tới đâu được việc tới đó. Bản lãnh dùng độc của nhị muội chưa chắc tôn sư ngày trước đã bì kịp.

Trình Linh Tố mỉm cười không đáp. Thực ra lần này không phải cô dùng độc để bức bách Cơ Hiểu Phong, mà cô đả thông huyệt giải mạch cứu y khỏi bị tẩu hỏa nhập ma, và đưa thêm dược vật vào người gã. Dược vật này chỉ gây ngứa ngáy khó chịu, chứ chẳng tổn thương gì đến thân thể. Còn cô bảo gã uống mười viên thuốc giải, thì đó là thứ thuốc trị ngoại thương thông thường.

Cơ Hiểu Phong không bị ngoại thương thì có uống vào cũng như không uống. Nhưng gã làm sao hiểu được điều này? Gã nghe cô nói chất độc lợi hại vô tỷ nên phải cúi đầu tuân theo. Dù có nghi ngờ đi nữa thì gã cũng chẳng thể đem tính mạng mình mà thử coi chân hay giả.

Trình Linh Tố thường tự nhủ:

– Ta phát thệ trước mặt sư phụ suốt đời quyết không dùng độc dược hại người vô tội để cho thiên hạ biết Độc Thủ Dược Vương tuy thủ đoạn lợi hại, nhưng không làm việc tồi bại.

Cô lấy cái nhíp để gắp những mớ bông thấm máu độc bỏ đi, rồi khẽ nói:

– Đại ca! Đại ca cực nhọc cả đêm rồi, hãy lên giường nghỉ ngơi dưỡng thần một lúc. Đã có tiểu muội chiếu cố cho Mã cô nương, đại ca cứ yên lòng.

Hồ Phỉ quả đã mệt nhoài, chàng nằm ngay xuống giường.

Trình Linh Tố lại nói:

– Có một điều này xin chưởng môn lão sư phó phải lưu ý. Trong vòng mười hai giờ, đừng để người tiến vào quấy nhiễu Mã cô nương, cũng không cho cô mở miệng nói năng. Không thế thì nội khí chia rẽ, độc chất không hút hết ra được. Chỉ còn sót lại một tý thì bao nhiêu công lao từ trước đều thành công dã tràng cả đấy.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Tây Nhạc Hoa Quyền chưởng môn nhân là Trình Linh Hồ kính cẩn vâng lệnh Thái thượng chưởng môn Trình Linh Tố, nhất nhất tuân theo, không dám trái lệnh.

Trình Linh Tố cười hỏi:

– Tiểu muội mà làm thái thượng chưởng môn của đại ca được ư? Cái đó…

Cô nói tới đây đột nhiên dừng lại, cúi xuống coi thương thế của Mã Xuân Hoa. Một lát sau cô quay đầu nhìn lại thấy Hồ Phỉ vẫn mở mắt không ngủ. Chàng ngơ ngẩn xuất thần nhìn ra ngoài cửa sổ. Cô liền hỏi:

– Đại ca nghĩ gì vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu huynh đang lo về chuyện ngày mai họ thấy chân tướng mình niên kỷ không đúng thì biết ăn nói làm sao đây? Còn may là mình chỉ ở lại mười hai giờ rồi phủi tay mà đi. Làm như vậy là có điều không phải với họ, lòng rất đỗi áy náy, nhưng sự thể đã đến nước này thì cũng đành phải…

Trình Linh Tố cười, đỡ lời:

– Đành phải làm chó nhảy qua tường mà chạy.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Phải rồi! Có điều không ngờ nhảy tường vào, lại gặp chuyện kỳ quái.

Trình Linh Tố đăm đăm nhìn Hồ Phỉ một hồi, rồi lẩm bẩm:

– Hay lắm! Cứ làm như vậy đi.

Hồ Phỉ lấy làm lạ hỏi:

– Cứ làm như vậy là thế nào?

Trình Linh Tố đáp:

– Dọc đường chúng ta đã hóa trang làm tiểu hồ tử thì chuyến này giả làm một đại hồ tử (người đứng tuổi có râu). Tiểu muội gắn râu vào cho đại ca, nhuộm da mặt một chút cho già thêm hai chục tuổi nữa. Đại ca làm sư huynh của Cơ Hiểu Phong thì tuổi phải gần bốn chục mới được.

Hồ Phỉ vỗ tay cả mừng nói:

– Hay lắm! Tiểu huynh đang buồn phải chạm mặt Phúc Khang An, tưởng chừng không thể đến coi cuộc đại hội chưởng môn nhân. Nếu nhị muội hóa trang cho tiểu huynh giống hệt một gã đại hồ tử, thì Trình Linh Hồ ta sẽ đường đường chính chính dùng thân phận chưởng môn Tây Nhạc Hoa Quyền môn vào giữa cuộc đại hội mà quan sát.

Trình Linh Tố thở dài nói:

– Bất tất phải đi dự đại hội chưởng môn làm chi nữa. Chờ đến ngày mai Mã cô nương bình yên vô sự là xong việc. Còn việc dự hội đầy dẫy nguy cơ, đại ca chẳng nên mạo hiểm làm chi.

Hồ Phỉ hào khí bồng bột, hỏi:

– Nhị muội! Tiểu huynh chỉ hỏi một câu: Tiểu huynh giả làm người có râu được không?

Trình Linh Tố mỉm cười, đáp:

– Hóa trang thành người già, làm bộ râu giả thì có khó gì? Cái khó là ở chỗ cất tay nhấc chân, thái độ ăn nói phải đúng người già. Dù có là lão anh hùng tinh thần quắc thước, võ công cái thế đi nữa nhưng vẫn khác với người tuổi trẻ.

Hồ Phỉ nói:

– Tiểu huynh sẽ cố gắng hết sức, chỉ cần lừa được họ trong một lúc là xong.

Trình Linh Tố đáp:

– Hay lắm! Chúng ta cứ thử một phen. Lần này tiểu muội sẽ giả làm bà già đi theo đại ca dự đại hội chưởng môn nhân, để xem cuộc náo nhiệt.

Hồ Phỉ hứng chí cười ha hả, nói:

– Nhị muội! Hai lão huynh muội chúng ta sống đến bằng này tuổi đầu, đã sắp vào hòm rồi thì cuộc náo nhiệt đó vì lý do gì lại không tham dự?

Trình Linh Tố khẽ hạ giọng bảo nhỏ:

– Nói khẽ chứ!

Mã Xuân Hoa nằm trên giường đã cử động, may nàng chưa tỉnh giấc.

Hồ Phỉ thè lưỡi ra, co ngón tay khẽ gõ vào trán nói:

– Đáng chết lắm!

Trình Linh Tố lấy bao kim chỉ ra. Cô cầm con dao nhỏ cắt một mớ tóc đen nhánh.

Cô lại lấy một chút thuốc trong hộp hòa vào bát nước trong. Cô đặt mớ tóc vào bát nước nói:

– Đại ca nghỉ một chút đi, chờ cho những sợi tóc mềm này biến thành sợi râu cứng ngắc.

Hồ Phỉ liền nhắm mắt lại, trong lòng rất hoan hỷ về sự thông minh cơ trí của cô nghĩa muội.

Trong lúc mơ màng, chàng thấy Mã Xuân Hoa bị chất độc phát tác làm cho chết người, tình trạng coi rất khủng khiếp. Có lúc lại thấy túm được Phúc Khang An thống trách hắn lòng dạ tàn độc. Lại có lúc thấy mình bị bọn vệ sĩ bắt gặp, hết sức dãy giụa mà không sao thoát thân được.

Bỗng nghe một giọng nói ôn nhu vẳng bên tai:

– Đại ca! Đại ca đang nằm mơ gì vậy?

Hồ Phỉ đứng phắt dậy, dụi mắt ngưng thần hỏi:

– Để tiểu huynh chiếu cố Mã cô nương cho, nhị muội hay đi nghỉ một lát.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội phải làm bộ râu giả cho đại ca xong mới yên tâm được.

Cô lấy những sợi tóc cứng ở trong bát nước ra làm, dùng nước kèn dán vào cằm Hồ Phỉ. Công việc này không mất nhiều thời gian, chỉ kéo dài gần một giờ. Khi những tia nắng hồng chiếu qua cửa sổ thì công việc đã xong.

Hồ Phỉ lấy giương soi thì không khỏi sửng sốt vì thấy bộ râu quai nón cứng đơ đâm tua tủa, chẳng những mặt mũi khác hẳn, mà còn tăng thêm phần uy võ. Trong lòng rất cao hứng, chàng cười nói:

– Nhi muội! Tướng mạo tiểu huynh bây giờ càng đẹp. Ngày sau tiểu huynh cứ để nguyên bộ râu này.

Trình Linh Tố muốn nói:

– Chỉ e ý trung nhân của đại ca không vừa lòng.

Nhưng lời nói ra tới cửa miệng cồ liền dừng lại.

Trình Linh Tố cực nhọc suốt đêm, lại thấy Mã Nuân Hoa đã yên ổn, cô không chống nổi nữa, phục xuống bàn ngủ thiếp đi.

Mười năm sau, Hồ Phỉ nhớ lại tình cảnh hôm nay, đã giữ bộ râu để làm kỷ niệm. Điều đó Trình Linh Tố không hề hay biết.

Hồ Phỉ lấy tấm chăn đơn đắp lên người cô, nhẹ nhàng bồng cô đặt nằm ngang trên giường. Chàng đắp chăn cho cô, lại lấy tấm khăn vàng bịt mặt mình, rồi tới ngoài phòng Cơ Hiểu Phong cất tiếng hỏi:

– Cơ huynh! Cơ huynh có ở trong nhà không?

Cơ Hiểu Phong đằng hắng một tiếng, hỏi lại:

– Ai đó? Có việc gì?

Hồ Phỉ đẩy cửa bước vào phòng.

Cơ Hiểu Phong đang ngồi trên ghế, vừa ngó thấy chàng liền “ủa” lên một tiếng rồi đứng dậy.

Hồ Phỉ nói:

– Cơ huynh! Tiêu đệ đến xin lỗi Cơ huynh.

Cơ Hiểu Phong vẫn đứng trơ không trả lời, khóe mắt lộ vẻ thù địch.

Hồ Phỉ lại nói:

– Có một điều tiểu đệ cần nói rõ cho Cơ huynh hay là tiểu đệ quyết không có ý đoạt chức chưởng môn quý phái. Chỉ vì cơ duyên ngẫu hợp, tiểu để lâm vào tình trạng bất đắc dĩ mà làm hư đại sự của Cơ huynh.

Đoạn chàng đem việc Mã Xuân Hoa trúng độc rồi bị quan binh vây bắt ra sao, chàng vượt tường trốn lánh thế nào, vì cứu người mà phải thượng đài tiến công, đều nhất nhất thuật lại. Chỉ có điểm Mã Xuân Hoa bị ai ám hại và người đuổi bắt chàng là bộ hạ của Phúc Khang An thì chàng chỉ đề cập lướt qua.

Cơ Hiểu Phong lẳng lặng nghe hết câu chuyện, vẻ mặt hắn hòa hoãn lại đôi chút nhưng gã chỉ “ồ” một tiếng chứ không tiếp lời.

Hồ Phỉ lại nói:

– Lời nói của bậc đại trượng phu coi nặng bằng non. Nếu trong vòng mười ngày mà tại hạ không nhường lại ngôi chưởng môn cho Cơ huynh sẽ chết dưới đao kiếm, ngàn thu để hảo hán giang hồ thóa mạ.

Người võ lâm chết dưới đao kiếm là chuyện thường tình nhưng để anh hùng thiên hạ phỉ nhổ là điều sỉ nhục vô cùng.

Cơ Hiểu Phong thấy chàng phát lời trọng thệ, liền đáp:

– Chức chưởng môn này các hạ bất tất phải nhường lại. Võ công các hạ hơn tại hạ gấp mười lần, điều đó tai hạ biết rõ. Có điều các hạ không phải người bản môn mà chấp chưởng môn hộ thì khiến lòng người bất phục.

Hồ Phỉ nói:

– Đúng thế! Chờ sau khi cuộc đại hội chưởng môn kết thúc, tiểu đệ sẽ đem sự thực trịnh trọng tuyên bố để tạ tội trước mặt các vị tiền bối của quý môn. Sau đó các đệ tử quý môn sẽ căn cứ vào võ công mà định ngôi chưởng môn. Như vậy có được không?

Cơ Hiểu Phong nghĩ thầm:

– Trong bản môn chẳng ai thắng được mình. Tranh chức chưởng môn so với việc để y nhường lại còn vinh quang hơn nhiều.

Trong lòng đã tính toán, hắn liền gật đầu đáp:

– Như vậy thì được, nhưng mà Trình đại ca…

Hồ Phỉ mỉm cười, ngắt lời:

– Tiểu đệ họ Hồ, tệ nghĩa muội mới là họ Trình.

Chàng nói rồi bỏ tấm khăn vàng che mặt ra.

Cơ Hiểu Phong thấy chàng râu quai nón đâm tua tủa, tướng mạo uy võ thì không khỏi khen thầm.

Gã nói:

– Hồ đại ca! Mấy vị tiền bối ở bản môn khó thuyết phục lắm. Ngày sau đại ca nói sự thực ra, chắc thế nào cũng xảy ra một trường sóng gió. Tuy cõ công đại ca rất cao minh chẳng sợ gì ai, nhưng dù là hảo hán cũng không địch nổi nhiều người. Tây Nhạc Hoa Quyền môn của tại hạ gặp phải đại sự trong môn hộ là chẳng khác gì âm hồn bất tán, cứ theo sát không thôi.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Điều này tiểu đệ cũng đã nghĩ tới rồi. Trong cuộc đại hội chưởng môn sắp tới đây, tiểu đệ sẽ hết sức làm vẻ vang cho Tây Nhạc Hoa Quyền môn để đem công chuộc tội. Như vậy, tất cả các vị tiền bối chắc cũng lượng thứ cho.

Cơ Hiểu Phong khẽ gật đầu, thở dài nói:

– Đáng tiếc là trong mình tại hạ trúng phải chất kịch độc, chẳng dám làm hao tổn khí lực. Nếu không thì tiểu đệ đem quyền pháp của bản môn biểu diễn vài đường cho Hồ huynh coi. Hồ huynh nhớ kỹ vào lòng thì lúc lâm sự khỏi bị bại lộ hành tung.

Hồ Phỉ cười ha hả, xá dài Cơ Hiểu Phong một cái rồi nói:

– Cơ Huynh! Tiểu đệ xin thay mặt nghĩa muội bồi tội với Cơ huynh.

Cơ Hiểu Phong đáp lễ, trong lòng cực kỳ bất mãn, tự hỏi:

– Ta bị thị hạ độc, gã còn cười cái gì?

Trong lòng nghĩ như vậy, vẻ bất mãn lộ hẳn ra ngoài mặt.

Hồ Phỉ hỏi:

– Cơ huynh! Tệ nghĩa muội hạ độc vào mình Cơ huynh, vết thương ở chỗ nào?

Cơ Hiểu Phong vén ống tay áo bên trái lên. Cánh tay gã sưng lên một chỗ lớn bằng quả trứng gà, da thịt đen xạm lại. Miệng vết thương lớn bằng đầu ngón tay, máu đen cứ ri rỉ chảy, giống như bị trúng chất kịch độc.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Cách dùng thuốc của nhị muội quả thật thần kỳ. Không hiểu y dùng dược vật gì làm cho cánh tay gã biến thành thế này? Giả như ta mà bị một vết thương như vậy, ắt cũng không ăn ngon ngủ yên được.

Chàng liền hỏi:

– Cơ huynh thấy thế nào?

Cơ Hiểu Phong đáp:

– Chỗ thịt này tê dại không cảm giác gì nữa.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Té ra y đã dùng thuốc tê cực mạnh.

Chàng liền đưa tay nắm lấy tay hắn, đưa miệng vào vết thương mà hút mạnh.

Cơ Hiểu Phong cả kinh, la lên:

– Không được đâu! Không được đâu! Hồ huynh không muốn sống nữa chăng?

Nhưng hai tay gã bị chàng nắm chặt không nhúc nhích được, trong lòng kinh nghi tự hỏi:

– Chất kịch độc này ở cánh tay còn ghê gớm như vậy mà gã hút vào miệng há chẳng chết ngay ư? Giữa ta và gã vốn chẳng thân thích lại không quen biết, sao gã lại liều mạng để cứu ta?

Hồ Phỉ hút mấy hơi, nhổ xuống đất rồi cười khanh khách, nói:

– Cơ huynh bất tất phải kinh nghi. Độc dược này là thuốc giả đó.

Cơ Hiểu Phong không hiểu nói:

– Huynh đệ bảo sao?

Hồ Phỉ đáp:

– Tệ nghĩa muội với Cơ huynh vốn chưa từng quen biết thì khi nào y lại tùy tiện hạ độc thủ để gia hại Cơ huynh? Y muốn trêu chọc Cơ huynh, nên cho thứ thuốc tê vô hại mà thôi. Cơ huynh cứ coi tiểu đệ hút vào miệng được là cứ yên tâm.

Cơ Hiểu Phong tuy đã uống thuốc giải của Trình Linh Tố đưa cho, nhưng trong lòng vẫn lo âu, chẳng hiểu thuốc giải có công hiệu gì không? Dù chất độc giải trừ được nhưng liệu có để lại để lại hậu họa, làm tổn thương đến gân cốt hay không? Bây giờ gã thấy Hồ Phỉ nói vậy bất giác vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, hỏi:

– Hồ huynh! Hồ huynh nói rõ cho tiểu đệ nghe… chẳng lẽ không sợ tại hạ không nghe theo lời nữa ư?

Hồ Phỉ đáp:

– Bậc đại tượng phu kết giao cốt ở sự thành tín. Tiểu đệ thấy Cơ huynh là người nghĩa khí, sao lại để Cơ huynh phải lo lắng thêm mấy ngày nữa?

Cơ Hiểu Phong cả mừng, vỗ bàn nói:

– Hay lắm! Tiểu đệ giao kết bằng hữu với Hồ huynh. Dù Hồ huynh có đắc tội với đương kim Thiên tử hay phạm tội tày trời, tiểu đệ cũng quyết vì Hồ huynh xuất lực, quyết chẳng chau mày.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Đa tạ hậu ý của Cơ huynh. Tại hạ đắc tội với một người kia dù chẳng phải là đương kim Thiên tử nhưng quyền thế cũng chẳng kém gì. Cơ huynh! Đêm qua tiểu đệ thấy Cơ huynh đi một đường Hoa Quyền trong đó có chiêu xoay người lại, đưa gối lên đánh xuyên chưởng ra, bộ pháp sau khi tiến đánh thì mới nhảy lên; cớ sao bộ pháp Cơ huynh vừa mới nhảy lên lưng chừng lại biến đổi phương hướng?

Đây là Hồ Phỉ nói về chiêu “Dã mã hồi hương toản đề hành”. Động tác trong chiêu này rất phức tạp.

Cơ tiểu Phong nghe chàng hỏi vậy, nghĩ thầm:

– Nhãn quang của gã này quả nhiên lợi hại! Đêm qua ta tập trung tinh thần biểu diễn đường Hoa Quyền từ đầu đến cuối. Có một chiêu “Dã mã hồi hương toản đề hành”, ta vừa nhảy lên, rồi chợt nhớ tới cánh tay trúng phải kịch độc, không khỏi tâm thần tán loạn. Nếu ta mà cùng gã động thủ thì gã nắm được chỗ sơ hở này ngay.

Hắn đáp:

– Nhãn quang của Hồ huynh rất đỗi cao minh. Tiểu đệ vô cùng bội phục! Thực tình chiêu đó tiểu đệ biểu diễn không được thỏa đáng.

Thế rồi hắn sử lại một lần nữa.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Như vậy mới đúng. Nếu không thế, Cơ huynh sử chiêu như đêm hôm qua thì e rằng sẽ bị địch nhân thừa cơ đánh vào.

Bây giờ Cơ Hiểu Phong đã biết mình chưa bị trúng độc, gã phấn khởi tinh thần liền đem mười hai bộ Tây Nhạc Hoa quyền biểu diễn lại hết.

Hồ Phỉ học đúng chiêu thức, tuy trong lúc nhất thời chẳng thể nào nhớ hết, nhưng cũng lĩnh hội được tinh nghĩa của mỗi lộ quyền.

Chàng nói:

– Quyền pháp của quý phái quả bác đại tinh thâm. Nếu dày công khổ luyện thì uy lực vô cùng. Tiểu đệ nhận thấy chỉ cần tinh thông được một trong mười hai lộ Hoa quyền này cùng đủ dương danh thiên hạ rồi.

Cơ Hiểu Phong nghe chàng tán tụng võ công bản phái, trong lòng rất cao hứng, đáp:

– Đúng thế! Trong bản môn có hai câu khẩu quyết là: “Hoa Quyền Tứ Thập Bát, Nghệ Thành Hành Thiên Nhai”. Công phu bốn mươi tám đường quyền chia ra làm mười tám đường quyền đăng đường, mười hai đường quyền nhật thất. Ngoài ra còn có mười tám đường công phu về lộ đao, thương, kiếm, kích, côn, bổng. Đệ tử của bản môn đừng nói đến hai chữ “Nghệ thành”. Trong bốn mươi tám đường công phu, học được hết quả không có mấy.

Hai người đàm luận võ công rất ý hợp tâm đầu, đã qua giờ ngọ từ lúc nào không hay.

Bọn người hầu của chủ nhân phái đến Hồ Phỉ mấy lần định mời chàng ra ăn cơm, nhưng thấy hai người đang say sưa luyện võ, nên chỉ đứng một bên, không dám lên tiếng.

Đến lúc Cơ Hiểu Phong sử chiêu “Hoàn phong cước” tung người nhảy lên không trung rồi đá tạt ngang, ngoài cửa sổ đột nhiên có tiếng người hoan hô:

– Chiêu “Phong quyền tích lịch thượng cửu thiên” thất là tuyệt diệu.

Hồ Phỉ nhìn ra thì chính là lão già họ Thái. Chàng vội niềm nở khoanh tay tiến lại chào hỏi.

—–

Ghi chú của Kim Dung:

Thứ nhất: đời Thanh, chuyện tướng quốc phu nhân hạ độc là có thật. Trong “Tùy viên thi thoại” của Viên Mai, quyển một có nói: “Người cô lớn của tôi làm dâu nhà họ Diêu. Mẹ của Diêu có tài làm thơ, ra ngoài đi dạy học. Vào đời Khang Hy, quang tướng quốc đem nghìn vàng làm lễ vật đến mời dạy cho An công tử. Đến phủ, vào vườn hoa thấy lầu son gác tía lộng lẫy phi thường. Có hai cô gái ra lạy chào, dung nhan tuyệt tục. Nói chuyện mới biết cả hai đều là người xứ Ngô, tuổi chừng mười sau, mười bảy học đàn, học thơ đều rất thông minh. Ban đêm cùng ngủ với thầy dạy, mới hay bao nhiêu năm làm thị nữ nhưng chưa phục vụ chăn gối cho tướng công.

Một đêm kia, cả hai đều ở nội phủ ra, mắt đỏ hồng. Hỏi thì đáp: “Phu nhân cho gọi đến ban thưởng rượu”, rồi thay áo mà đi ngủ. Chưa đến canh hai, cả hai đều chui ra khỏi màn, nằm lăn dưới đất kêu la, miệng ú ớ nói không rõ lời. Được một lúc, thất khiếu đều ra máu mà chết. Khi phu nhân ban rượu, đã bỏ thuốc độc vào đấy.

Mẹ họ Diêu liền lo thu thập hành lý, nửa đêm bỏ trốn về nhà.

Thứ hai: Phúc Khang An là người rất dâm ác. Trong “Tùy viên thi thoại” có nói: “Phúc Khang An cùng dâm cực ác, gây nghiệt chướng nặng nề, lưu độc cho con cháu, có thể lấy đó làm gương để răn đe”.

Nhưng lời phê chú trên đây được viết khoảng đời Gia Khánh.