Mang nhiều màu sắc riêng biệt so với các bộ tiểu thuyết kiếm hiệp khác của Kim Dung, Lộc Đỉnh Ký không phản ánh cuộc sống của các nhân vật võ lâm với các mâu thuẫn cá nhân hay phe phái giữa họ mà phản ánh đời sống xã hội Trung Hoa đầu đời Thanh với các mâu thuẫn chính trị – văn hóa có thật của lịch sử. Điều ngạc nhiên hơn cả, những mâu thuẫn đó không phải được giải quyết bởi sự tham gia của các hiệp khách võ công cao cường, nhân tâm hiệp cốt mà là một người không võ ít hiệp, gian trá giảo hoạt nhưng trọng nghĩa khí: Vi Tiểu Bảo. Trong Lộc Đỉnh Ký, Kim dung đã làm mờ ranh giới giữa chính – tà, thiện – ác truyền thống. Các yếu tố đó đan xen, phát triển và chuyển hóa trong nhau, làm nên bộ tiểu thuyết được coi là hay nhất của nhà tiểu thuyết võ hiệp bậc thầy Kim Dung.
Cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp này bắt đầu được đăng trên Minh Báo từ 24 tháng 11 năm 1969 và kéo dài trong 2 năm 11 tháng cho đến 23 tháng 9 năm 1972.
Bản dịch này của nhà nghiên cứu Hán-Nôm Cao Tự Thanh.
Tuyết Sơn Phi Hồ diễn ra vào thời đại nhà Thanh dưới triều vua Càn Long. Nhưng các tình tiết câu chuyện lại được kéo dài từ thời đại nhà Đại Thuận dưới triều Lý Tự Thành, và thời kì đầu của nhà Thanh dưới lời kể của một số nhân vật.
Nhân vật chính của tiểu thuyết là Hồ Phỉ với biệt danh là Tuyết Sơn Phi Hồ. Các tình tiết chủ yếu của câu chuyện liên quan đến ân oán từ thời tổ tiên của Hồ Phỉ, kéo dài đến bố mẹ chàng và được giải quyết tại thời điểm câu chuyện diễn ra.
“Tuyết Sơn phi hồ ” được Kim Dung cho đăng trên Minh báo vào năm 1959.
Cuối thời Minh, đại tướng Viên Sùng Hoán bị cáo buộc oan tội tư thông với ngoại biên và bị hoàng đế Sùng Trinh xử tử. Con trai Viên Sùng Hoán là Viên Thừa Chí được đồng đạo võ lâm bảo vệ, rồi được Mục Nhân Thanh – Chưởng môn phái Hoa Sơn truyền dạy võ nghệ.
Viên Thừa Chí khi lớn lên học được võ nghệ cao cường, trở thành minh chủ thất tỉnh, gia nhập lực lượng khởi nghĩa của Lý Tự Thành lật đổ triều đình nhà Minh và bảo vệ Trung Quốc trước sự xâm lược của quân Mãn Châu ở phía bắc.
Đó là nội dung tác phẩm “Bích huyết kiếm” – Một tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung, được đăng lần đầu tiên trên Hương Cảng thương báo từ ngày 1 tháng 1 năm 1956 đến ngày 31 tháng 12 năm 1956.
Hồng Hoa Hội – một bang hội có tổ chức vô cùng rộng lớn với tôn chỉ “phản Thanh phục Minh”. Sau khi lão hội chủ chẳng may qua đời, mọi người đều đồng lòng tôn Trần Gia Lạc- một bậc tài hoa vô song nhưng thân thế lại vô cùng bí ẩn – lên làm Tổng đà chủ.
Tứ đương gia của Hồng Hoa Hội là Bôn Lôi Thủ Văn Thái Lai vì mang trong mình một bí mật vô cùng trọng đại nên bị triều đình truy nã ráo riết…
Thân thế của Trần Gia Lạc như thế nào và Văn Thái Lai nắm giữ bí mật gì mà lại bị truy tầm gắt gao như vậy?
Đó là nội dung tác phẩm “Thư kiếm ân cừu lục” – tiểu thuyết võ hiệp đầu tay của nhà văn Kim Dung, được đăng trên Tân vãn báo của Hồng Kông từ ngày 8 tháng 2 năm 1955 đến ngày 5 tháng 9 năm 1956.
Trong lịch sử văn học Trung Quốc, là một trong “tứ đại danh tác”, sánh ngang với Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử và Tây Du ký, Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó 1, sáng tác về nó đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!”(Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. – Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”.
Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại.
Thời nhà Thanh, dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 – 1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp… cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu… buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Nền kinh tế tự phát tư bản chủ nghĩa đó trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng và đang trên đà tan rã, đã đẻ ra một tầng lớp người thành thị, những người này có những nhu cầu thẩm mỹ mới. Tây Sương Ký, Mẫu đơn đình, Cổ kim tiểu thuyết, Liêu Trai… là những tác phẩm tả tình yêu, những số phận, những buồn vui cá nhân…, chính là sự “thăng hoa” của cuộc sống đã bắt đầu khác trước về chất của người thành thị.
Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều truyền thống đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương, giải phóng cá tính, đòi tự do bình đẳng, khát khao một lý tưởng cho cuộc sống… Tất cả những cái đó có những mặt kế thừa tư tưởng dân chủ thời Minh và đầu Thanh, nhưng nó chính là sản phẩm của ý thức tư tưởng thị dân đương thời. Giữa những khát vọng sâu xa ấy của con người thời đại và sự biểu hiện nó ra một cách nghệ thuật, đã có một cuộc hẹn hò tuyệt diệu qua Hồng Lâu Mộng.
° ° °
Tác giá chính của Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần 1716(?) – 1763(?) giống như phần lớn các nhà văn lớn Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là để giải tỏa nỗi niềm “cô phẫn”, là để ký thác những suy tư về con người và thời đại.
Ông vốn sinh ra trong một gia đình đại quý tộc. Từ đời tằng tổ đến đời cha, thay nhau tập chức “Giang ninh chức tạo” là một chức quan to thu thuế. Năm lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào, đủ biết sự sủng ái của nhà vua với gia đình ông ra sao! Và cũng có thể đoán biết cuộc sống trong phú Giang hồi đó xa hoa, vương giá như thế nào! Trong Hồng Lâu Mộng, Nguyên phi về thăm nhà có một buổi mà nhái xây cất bao nhiêu đình tạ trong vườn Đại quan, nữa là hoàng đế tuần du ngự đến nhà.Nhà ông chăng những là hào môn vọng tộc hiển hách như thế, lại còn có truyền thống văn chương. Ông nội ông, Tào Dần, đứng in bộ “Toàn Đường Thi trứ danh, và là một nhà thơ, tác giả “Luyện đình thi sao”.
Nhưng cuộc sống vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua, đã tan vỡ. Lúc Tào Tuyết Cần lớn lên thì tất cả đã ở đằng sau rồi: cha bị khép tội, bị cách chức, bị tịch biên gia sán, nhà họ Tào suy sụp và ông phải về sống ờ vùng ngoại ô phía tây thành Bắc Kinh trong cảnh: “cả nhà rau cháo, rượu thường mua chịu”.
Hồng Lâu Mộng do đó có thể xem là phản quang những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ đó.
Một mặt, đó là sự nhớ tiếc khôn nguôi những huy hoàng của vàng son lộng lẫy, cảm thấy tất cả nhuốm màu thê lương, hư vô, tất cả đều xê dịch về phía bế tắc, hủy diệt, tất cả đều đáng ân hận, và chỉ có thể cứu chuộc bằng Hư Vô, bằng siêu hình, bằng tôn giáo! Nhưng mặt khác, từ trong cuộc sống nghèo khó hôm nay, quay đầu nhìn lại thì cái khoảng cách lớn lao đó làm cho ông thấy được rõ hơn, khách quan hơn, bình tĩnh hơn những gì ông đã thấy, đã nếm trái về cuộc sống thối nát của giai cấp quý tộc và sự miêu tả khách quan “những quan hệ hiện thực” này làm ông trở thành một nhà hiện thực. Chí ít thì về mặt đó, ông đã lay chuyến được “niềm lạc quan về cái trật tự hiện tồn”, và như thế, ông là sản phẩm của một thời đại, đồng thời đã nhìn xa hơn thời đại.
Tào Tuyết Cần đề 10 năng dế viết 80 hồi đầu, Hồng Lâu Mộng: “Xem ra chữ toàn bằng huyết, cay đắng mười năm khéo lạ lùng”; năm lần sửa chửa, trong cảnh cùng khốn, ốm đau không tiền chạy thuốc, trong cánh đứa con yếu của ông chết. Và ông đã lìa đời trong cảnh đau khố dồn dập đó. Bình sinh, ông vẽ giỏi, hay thơ, thích rượu, cuồng phong. Người ta chỉ biết được về ông có thế thôi!
Hai mươi tám năm sau khi ông mất, Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi, đến khoáng 1792 – 1793 thì Hồng Lâu Mộng được in và lưu truyền khắp trung Quốc.
Những hồi Cao Ngạc viết tiếp thì không thể hay bằng những hồi Tào Tuyết Cần viết, nhưng cũng phải nói là Cao Ngạc đã sống với tác phẩm và tri âm tác giả, nên đã hoàn thành dự định của Tào Tuyết Cần và nối tiếp bút lực của người đi trước, hoàn thành và bộc lộ trọn vẹn tư tưởng của tác phẩm, khiến cho tác phẩm vẫn giữ được vẻ hấp dẫn mãnh liệt.
Dịch giả: Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Thọ, Nguyễn Doãn Địch, Trần Quảng, Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Văn Huyến.