Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Tục Biên – Quyển XXI

[1a]

Kỷ Hoàng Triều Nhà Lê

Thần Tông Uyên Hoàng Đế

Vua húy là Duy Kỳ, là con trưởng của Kính Tông. Mẹ là Đoan Từ hoàng thái hậu, con gái thứ của Thành Tổ. Vua ở ngôi 25 năm, nhường ngôi 6 năm, lại trở lại ngôi 13 năm, thọ 56 tuổi. Vua sống mũi cao, mặt rồng, vẻ người thanh tú, thông minh học rộng, rất chuộng văn thơ. Vua với nhà chúa vui vẻ hoà hợp một nhà, dồi dào phong thái thuần hậu hòa mục; ung dung rủ áo chắp tay mà hưởng lộc trời. Thế chẳng tốt đẹp sao! Bốn lần xa giá xuất chinh, hai lần bước lên ngôi báu, đó cũng là điều xưa nay hiếm có.

[1b] Thành Tổ Triết Vương

Văn Tổ Nghị Vương

Húy là Tráng, là con thứ của Thành Tổ. Lúc đầu phong là Bình quận công, đổi phong là Thanh quận công, tiến phong là Tiết chế thái úy Thanh quốc công. Tôn phong là Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô Vương, tiến tôn là đại nguyên soái thống quốc chính sư phụ Thanh Vương. Triều Minh sách phong là Phó quốc Vương. Gia tôn là Thượng chúa sư phụ công cao thông đoán Nhân Thánh Thanh Vương. Cầm quyền 35 năm, thọ 81 tuổi.

Chúa [Trịnh Tráng] tính trời hiếu thảo, thân ái mọi người, rộng lòng khoan thứ; khi mới cầm quyền, tuổi đã 47. Bình xong nội nạn, hòa hợp nhân dân, trong nước yên ổn, tín nhiệm nho thần, giảng cầu chính trị, chấn cử kỷ cương, mọi việc đều giao cho triều đường công luận, chúa cung kính khiêm nhường, cẩn thận giữ gìn pháp độ, ba lần đánh Thuận Hóa, chỉ dùng văn cáo để mở bảo, không muốn dụng binh đến cùng, lặn lội ở nơi xa. Tha Mạc Kính Khoan, cho đất Cao Bằng, khiến xưng thần, giữ chức cống. Cho nên cái phúc nuôi dưỡng yên ổn hòa bình thật là dày lắm. Võ liệt [2a] văn công đã làm sáng trưng đời trước, mở lối đời sau, xứng đáng được thiên triều sách phong làm Phó Quốc Vương. Chúa đông con cháu, tuổi đến thượng thọ. Sách nói rằng: “Người có đức lớn, ắt được ngôi vị, ắt được hưởng lộc, ắt được nổi danh, ắt được sống lâu”. Câu ấy đáng tin thay!

Canh Thân, [Vĩnh Tộ] năm đầu [1620], (Minh Vạn Lịch năm thứ 48. Từ tháng 8 là Minh Quang Tông, Thái Xương năm đầu)2857 .

Em của viên trấn phủ xứ Thuận Hoá Nguyễn Phúc Nguyên là Phúc Hiệp, Phúc Trạch giữ đất Quảng Nam, có thư bí mật xin hàng, xin ra quân để họ làm nội ứng. Sai Đăng quận công Nguyễn Khải

đem quân đi đón họ. Bọn Phúc Hiệp sau bị lộ mưu, bị Phúc Nguyên bắt giết. Khải đi tới cửa bể Nhật Lệ rồi về. Phúc Nguyên từ đó sinh thù oán2858 .

Mùa thu tháng 7, vua Minh mất, tên thuỵ là Thần Tông Hiển Hoàng Đế. Thái tử Thường Lạc lên ngôi, đổi niên hiệu là Thái Xương. Đến tháng 9, vua ấy lại mất, tên thuỵ là Quang Tông Trinh Hoàng Đế [2b], con trưởng là Do Hiệu lên ngôi, đổi gọi năm sau là Thiên Khải.

Cho Lê Bật Tứ làm Thượng thư bộ Binh2859 .

Tháng 12, sai sứ sang nhà Minh. Bọn Nguyễn Thế Tiêu, Nguyễn Cung, Bùi Văn Bưu, Ngô Nhân Triệt, Nguyễn Khuê, Nguyễn Tuấn là hai sứ bộ tuế cống.

Tha tội cho Trịnh Xuân, khôi phục quan tước2860 .

Tân Dậu, [Vĩnh Tộ] năm thứ ba [1621] , (Minh Hy Tông Thiên Khải năm đầu).

Mùa xuân tháng giêng, sai Thái bảo Dũng quận công Trịnh Giai trấn thủ Yên Thế, đóng đồn ở Nhã Nam. Sai Nguyễn Danh Thế làm Đốc thị2861 .

Mùa thu tháng 8, cầu vồng trắng hiện ở phương đông, dài tới nửa vòng trời.

Mùa đông tháng 10, ghi công những người xông pha đáng giặc ở trận Phấn Thượng. Phong bọn thự vệ Vân quận công Trịnh Văn Nghĩa làm Dương Vũ Uy Dũng công thần2862 .

Tháng 11, tiến đánh Cao Bằng, sai Tả quân doanh Thái phó Thanh quận công làm [3a] Thống lĩnh, Nguyễn Danh Thế là Đốc thị, theo đường Lạng Sơn tiến lên. Tháng 12, đánh phá giặc ở Đèo Đang, Đèo Sắc, chém nguỵ An Phong hầu, bèn kéo vào sào huyệt giặc ở Vu Tuyền. Mạc Kính Khoan trốn xa. Đại quân tiến vào Đèo Hiên. Luỹ giặc rất hiểm vững, Thanh quận công chia quân làm 5 đạo tiến đánh, lấy được. Tiến tới Đèo Khôn ở Thông Nông thì đóng doanh. Bắt được nguỵ Hoa quận. Thái uý Phụng quốc công Trịnh Đỗ và thống lĩnh Thái bảo Vạn quận công Trịnh Xuân do đường Thái Nguyên đi mặt sau tới đóng ở Cao Bằng, hơi có ý tranh công, rồi sinh ra hiềm khích. Thanh quận công bèn kéo quân về, đóng ở thành Phục Hoà, vượt qua cõi đất Long Châu của Bắc quốc, qua Bằng Tường, vào Trấn Nam quan, tới Lạng Sơn, rồi về kinh.

Thưởng cho hai đạo quân 1.000 lạng bạc trắng2863 .

Nhâm Tuất, [Vĩnh Tộ] năm thứ 4 [1622] , (Minh Thiên Khải năm thứ 2).

Mùa thu, tháng 8, mưa to, hoàng thành bị lở đổ hơn 30 trượng.

[3b] Quý Hợi, [Vĩnh Tộ] năm thứ 5 [1623] , (Minh Thiên Khải năm thứ 3).

Mùa xuân, thi hội các cử nhân, lấy đỗ bọn Phạm Phi Kiến 7 người.

Tháng 4, thi đình, có viên mới đỗ tiến sĩ là Nguyễn Trật (người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hoá) trong trường thi hội đã mượn người làm văn hộ mà đỗ, đến hôm này [thi đình] cáo ốm để giấy trắng. Vua không bằng lòng, sai y như bảng thi hội, không xướng danh và ban cho thứ bậc.

Tháng 5, giếng đá ở cổng chùa Báo Thiên bị lấp hỏng.

Tháng 6, chúa [Trịnh Tùng] bị bệnh lỵ rất nặng, mới cùng các quan văn võ mưu tính chọn thế tử. Ngày 17, triều thần đều tâu cho vương thế tử là Thanh quận công [Trịnh Tráng] nắm giữ binh quyền. Lại lấy con thứ là Vạn quận công Trịnh Xuân phó giữ binh quyền. Ngày 18, giờ Ngọ, Trịnh Xuân nổi loạn, bầy quân và voi ở Đình Ngang2864 rồi cùng bè đảng của y là Điện quận, Bàn quận đem quân vào phủ. Quân túc vệ kinh hãi chạy tan. Chúa thấy quân vào, thì trỗi dậy, dùng kim thương mà đâm bừa. Quân lính không dám đến gần.

Bèn vào kho vải, lấy vải [4a] vứt đầy trước mặt chúa2865 rồi đặt chúa lên võng đưa ra ngoài cửa phủ. Chúa trông thấy Xuân giận mắng rằng: “Mày sao nỡ làm thế, đạo làm con để đâu?”2866 . Xuân kinh sợ, rút quân ra ngoài thành, cướp lấy voi, ngựa, của báu, rồi nhân đó vung lửa đốt. Đô thành đại loạn. Bấy giờ hầu hạ và bảo vệ ở bên cạnh chỉ có Thái giám Nhạc quận công Bùi Sĩ Lâm, Văn Thuỵ hầu Phùng Văn Minh (người xã Ốc Trù huyện Yên Lạc) và Đường Thọ hầu, là ba người. Chúa bảo bọn Sĩ Lâm đưa mình ra khỏi kinh sư đóng ở xứ Quán Bạc xã Hồng Mai. Vương thế tử là Thanh quận công ở tả quân doanh nghe có loạn, không biết tin tức về chúa, bèn cùng với Đô ngự sử Nguyễn Danh Thế mưu tính. Ngày 19, ông sai em là Trịnh Giai rước nhà vua về tạm Ninh Giang, còn mình tự lưu lại ở Nhân Mục, hội họp các quan văn võ cùng bọn Nguyễn Văn Giai bàn bạc việc quân. Chúa ở Hồng Mai, sai Sĩ Lâm hộ vệ đưa vào dinh của em ruột là Trịnh Đỗ [4b]. Đỗ dâng cơm và thuốc, lại sai con là quận Thạc đi đón thế tử, nói là vâng mệnh truyền đến để dặn dò đa kế. Thế tử vừa mới ra, ngồi chung voi với quận Thạc mà đi, thì Lưu Đình Chất ngờ Đỗ có âm mưu gì, bèn chạy theo dâng lời nói rằng: “Bây giờ đang khi nguy hiểm, sao ngài lại ngồi chung voi với giặc”. Quận Thạc bèn xuống từ tạ về dinh.

Đỗ lại sai quận Thạc đi dụ Xuân, nói rằng vâng mệnh gọi về trao cho đại quyền. Xuân thích lắm, lập tức cùng bọn tuỳ tùng thân cận vài mươi người vào yết kiến; miệng ngậm cỏ phủ phục ở sân. Đỗ sai dũng sĩ bắt lấy. Chúa gượng bệnh ngồi dậy, kể tội y, nhưng chưa nỡ giết, sai giam cùm lại để đợi giao cho luận tội. Đỗ lập tức chặt chân cho chết đi2867 .Quân đi theo đều giải tán.

Chúa thấy Xuân chết, trong lòng xúc động. Ngày 20 Mậu Dần, buổi sớm, chúa bảo bọn Sĩ Lâm cáng võng đưa đi tìm thế tử. Quân đi theo Sĩ Lâm chỉ còn 60 người, cùng với Trịnh Đỗ bảo hộ [5a] chúa. Đi đến quán Thanh Xuân thì chúa mất, thọ 74 tuổi.

Chúa có 19 người con: Con trưởng là Tín Lễ công Trịnh Túc đã mất sớm. Thứ đến thế tử Thanh quận công, đó là Văn Tổ. Thứ nữa là nghịch Xuân. Thứ nữa là Mỹ Dự công Trịnh Lâm. Thứ nữa là Tung Nhạc công Trịnh Vân, Thuần Nghĩa công Trịnh Dương, Dũng Lễ công Trịnh Giai, Quỳnh Nham công Trịnh Đệ, Quảng quận công Trịnh Hàng, Tựu quận công Trịnh Triều, Lập quận công Trịnh Tuân, Hựu quận công Trịnh Điện, Thanh quận công Trịnh Bảng, Xuyên quận công Trịnh Quảng, Lập quận công Trịnh Trà, Diên quận công Trịnh Nha, Kiên quận công Trịnh Quân, Hào quận công Trịnh Quang, Nông quận công Trịnh Tương2868 .

Khi chúa đã mất, Sĩ Lâm thủ hộ quan tài, sai Văn Thuỵ hầu, Đường Thọ hầu đi báo tin cho thế tử. Thế tử đã đi về Ninh Giang ở phía tây, sai quân nghênh tiếp. Ngày 24, phát tang, sai Hiệp2869 quận công [5b] chuẩn bị 13 chiếc thuyền hộ vệ, theo đường thuỷ về táng ở Thanh Hoa.

Vì nghịch Xuân tuy đã chết, nhưng lòng người còn rối động, nhân đó rước nhà vua đem bách quan và các quan theo bờ Ninh Giang mà xuống. Đến xã Bất Đoạt thuộc Kim Bảng, thì ra đường chính mà trở về Yên Trường, để giữ vững gốc rễ.

Trịnh Đỗ cũng đem quân bản doanh đi theo. Thế tử biết rõ Đỗ không có ý khác, sai Nguyễn Danh Thế điều hoà chỗ đó, hiềm nghi bèn giải, lại trở nên hoà hiếu.

Bấy giờ kinh thành rỗng không. Mạc Kính Khoan đóng đồn từ Cao Bằng đem đồ đảng xuống Gia Lâm, đóng đồn ở Đông Dư, Thổ Khôi. Bọn xấu hùa theo đông hàng vạn. [Kính Khoan] sai nguỵ Xuân Quang hầu (người xã Cổ Hiền huyện Thượng Phúc) chiếm cứ Châu Cầu, nguỵ Triều Kỷ hầu chiếm cứ Đồng Mỗ.

Mùa thu, tháng 82870 , ngày mồng 3 tiến phong vương thế tử Thái phó Thanh quận công làm Hiệp mưu đồng đức công thần đô tướng tiến [6a] chế các xứ thuỷ bộ chư doanh, kiêm Tổng nội ngoại Bình chương quốc trọng sự, Thái uý Thanh quốc công, giao cho quyết định mọi việc.

Ngày 17, tiết chế phủ theo mệnh vua đem các quân tiến đi. Sai Thắng quận công Trịnh Tông, cùng bọn Nguyễn Thực, Nguyễn Danh Thế, chia nhau đốc lĩnh quân thuỷ và bộ. Ngày 21, đánh tan giặc ở Châu Cầu. Xuân Quang chạy trốn. Ngày 26 tiến đến Nhị Hà, đại phá Mạc Kính Khoan ở Mạch Đỗ2871 , chém giết rất nhiều. Kính Khoan chỉ thoát thân một mình, chạy về Cao Bằng. Tiết chế phủ sai Chưởng giám Nghiêm Lễ hầu Nguyễn Vĩnh Phó vào kinh đô, dẹp yên cung cấm. Sai Tham tụng thượng thư bộ Binh là Lê Bật Tứ và Thái bảo Bùi Sĩ Lâm đi Thanh Hoa rước xe vua.

Tháng 9, vua về kinh sư.

Sai Hiệp Nghĩa doanh Tung quận công Trịnh Vân làm thống lĩnh, Ngô [6b] Trí Hà làm đốc thị, lược định vùng Sơn Tây rồi về2872 .

Gia phong [Trịnh] Vân làm Thiếu phó, [Ngô] Trí Hoà làm Thiếu bảo, phong là công thần. Gia phong [Bùi] Sĩ Lâm làm Thiếu bảo, bồi thị vương phủ, tham bàn việc nước. Phong Nguyễn Vĩnh Phó tước Nghiêm quận công2873 .

Tháng 10 nhuận, Hữu đô đốc Diên quận công Đàm Cảnh Tường (người xã Vân Nhưng Thái, huyện Đông Sơn) vì phá giặc, bị trúng sang mà mất, được tặng Tả đô đốc2874 .

Lấy đô ngự sử Nguyễn Danh Thế làm Thượng thư bộ Công, gia hàm là Dực vận tán trị công thần, phong là Thuỵ Dương hầu. Cho Tả thị lang bộ Hộ Lưu Đình Chất làm Đô ngự sử, Hữu thị lang bộ Hộ là Nguyễn Duy Thì làm Tả thị lang bộ Hộ, đều tước hầu2875 .

Giáp Tý, [Vĩnh Tộ] năm thứ 6 [1624] , (Minh Thiên Khải năm thứ 4).

Mùa xuân, truy tôn thuỵ hiệu cho Tiên [chúa] là Bình An Vương. Lời văn trong [kim] sách nói: “Vương giả khôi phục cơ đồ, mở rộng nghiệp trước; triều đình truy phong lễ lớn nêu rõ công to [7a]. Chọn được ngày tháng tốt lành, khắc chữ sách vàng rực rỡ. Đô nguyên soái tổng quốc chính thượng phụ Bình An Vương, thông minh đĩnh đạt, trí dũng anh hào, đem nhân nghĩa cứu sinh linh, giữ yên xã tắc, xoay trời đất, giúp nhật nguyệt, công đức cao đầy. Yên con nối để lại mưu kế sâu xa; đáp công to ban phong danh hiệu tốt đẹp. Đặc sai quan mang kim sách tiến phong là Cung Hoà Khoan Chính Triết Vương. Mong rằng yên vui phu thoả, giúp đỡ phù trì, để con cháu được hưởng phúc, dòng dõi ức năm dài mãi. Khâm theo đấy”.

Tháng 10, tiến phong Tiết chế phủ [Trịnh Tráng] lên tước vương2876 . Lời sách phong rằng: “Trời mở vận trung hưng, tất sinh ra người hiền để giúp xã tắc. Làm vua giữ công quyền, tất ban cho tước hậu để giữ công lao. Chọn được ngày tháng tốt lành, khắc chữ sách vàng rực rỡ. Nay Hiệp mưu đông đức công thần đô tướng tiết chế các [7b] xứ thuỷ bộ chư doanh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc

trọng sự thái uý Thanh quốc công Trịnh Tráng đức nghiệp giống người trước, anh hùng hơn đời xưa. Khi cầm quân, trăm trận ra oai, dẹp yên bờ cõi. Lúc sách lập, mọi người đều phục, dựng lại nước nhà. Xiêm quẻ Khôn2877 thêm rạng vẻ người; mệnh quẻ Sư2878 ban cho tước sủng. Đặc sai Thượng thư bộ Lại chưởng lục bộ sự, kiểm Ngự sử đài đô ngự sử thiếu phó Lễ quận công Nguyễn Văn Giai mang kim sách tiến phong làm Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô Vương. Ban cho mũ miện y phục, lại ban ngọc khuê, ruộng đất. Mong rằng tuân theo pháp độ, giữ được công danh, cẩn thận chức vụ, kính theo lời huấn trước, dốc lòng trung, hưởng tước lộc, đáng bậc vương sách với nước nhà. Vương khâm theo đấy!

Tháng 11, ngày Bính Dần, đi đánh Cao Bằng. Sai con trưởng của chúa ở Tà Tiệp quân [8a] doanh là Sùng quận công Trịnh Kiều thống lĩnh các tướng theo đường Lạng Sơn tiến lên. Sùng quận công bấy giờ tuổi mới 24, anh dũng mưu trí, bắt được [vua] nguỵ Càn Thống là Mạc Kính Cung và nguỵ tướng là bọn Sùng Lễ, Tháo Thiết, đem về kinh sư giết chết. Nguỵ Long Thái là Mạc Kính Khoan trốn đi xa. Thống lĩnh doanh Thắng Nghĩa là Quỳnh quận công Trịnh Đệ, Đốc thị là Nguyễn Danh Thế theo đường Thái Nguyên tiến lên, qua các châu Bạch Thông, Cảm Hoá, vây bọc lấy phía sau Cao Bằng, đến đất Trung Quốc đuổi giặc. Viên thuộc tướng là Phụ quốc công Nguyễn Hắc2879 sợ núi hiểm lại cậy lạ người thân thích, đem quân về trước, Đệ bèn trở về2880 .

Ất Sửu, [Vĩnh Tộ] năm thứ 7 [1625] , (Minh Thiên Khải năm thứ 5).

Mùa xuân, Trịnh Đệ về đến Bắc Sơn, lại sai tới Lương Thượng, Lương Hạ thuộc Cảm Háo bắt nguỵ Vũ Ninh Vương. Dùng hoả công, phá được luỹ giặc. Tháng 2 thì kéo quân [8b] về2881 .

Mạc Kính Khoan sai Danh Thọ đến xin hàng, xin bỏ nguỵ hiệu, xưng là phiên thần, xuống chiếu xá tội cho, phong y làm Thái bảo Thông quốc công, lệnh cho y hàng năm dâng cống2882 .

Tháng 6, định quy mô cai trị thời bình, sai ban hành trong thiên hạ. Hàng năm ba lễ Thượng tiến, Thường tiên, Tiết liệu2883 , mỗi tổng nộp tiền 5 mạch, gạo 100 bát. Các lễ Cung tiến, lễ Kỵ thời, lễ Sinh nhật2884 , quan sở cai chiếu bổ các hạng mỗi xã 1 quan tiền. Các tiền thuế thân [tiền quý] do tứ trấn nộp; hạng lính không tòng chinh mỗi người nộp 3 quan mạch; hạng quân mỗi người nộp 1 quan 5 mạch; hạng dân mỗi người nộp 1 quan 2 mạch 30 đồng; sinh đồ, cựu tướng thần, xã trưởng, hạng lão, hạng dưới 18 tuổi, lệnh sử, điển lại, thông lại đang làm việc và nhà sư, đạo sĩ, giáo phường2885 mỗi người nộp 1 quan tiền, người tàn tật bất cụ nộp 8 mạch; tiền quý [thuế thân] của các hạng [9a] nói trên mỗi năm chỉ thu mỗi người 7 phần, miễn cho 3 phần. Các quan viên, giám sinh, lão nhiêu, đàn bà goá đều được miễn. Các ngạch thuế ruộng quan điền, ruộng cấp tứ, ruộng thế nghiệp, ruộng thông cáo, ruộng chiếm xạ, cùng là các thuế đất bãi dâu, đầm ao, đều giao cho bộ Hộ đòi hỏi quan huyện thu nộp, cũng chỉ thu 7 phần, tha cho 3 phần, để tỏ ý rộng rãi thương dân. Còn các thuế ở điện Huy Văn và tự Thái Bộc, giao cho quan coi ở đó trưng nạp. Cấm các quan phụ trách thu thuế ở trong ngoài không được lạm dụng tiền quí2886 , không được tự tiện bắt xã dân phục vụ việc nhà. Cấm các tướng không được bắt ép cháu chắt các công thần làm lính.

Tháng 8, sai quan khảo hạch sĩ vọng trong nước, lấy bọn Nguyễn Nghi 27 người, bổ nhiệm các chức cao thấp khác nhau2887 .

Tháng 11, Thiếu bảo thượng thư bộ Hộ Phú Xuân hầu Ngô Trí Hào mất, tặng tước Xuân quận công.

Ghi công những người [9b] theo xe vua trong năm Quý Hợi [1623] và đánh dẹp mới rồi, phong Thiếu uý Nguyễn Văn Giai, Tả thị lang Nguyễn Duy Thì đều là Dực Vận Tán Trị công thần.

Quan Thiếu bảo trí sĩ, Thượng thư bộ Lễ, tước Tuyền quận công Nguyễn Lễ mất, thọ 83 tuổi, được tặng là Thiếu bảo.

Tháng 12, ghi công đánh Cao Bằng, gia phong Nguễn Danh Thế làm Thiếu bảo.

Viên trấn phủ kiêm hai xứ Thuận Quảng là Nguyễn Phúc Nguyên nghe mưu của Đào Duy Từ, từ năm này không nộp cống phú và đắp luỹ ở bờ nam cửa bể Nhật Lệ để tự thủ. Duy Từ (người xã Vân Trai huyện Ngọc Sơn) có văn học; quan hữu ty cho rằng y là con nhà ca xướng, không cho đi thi. Y phẫn chí, vào Quảng Nam xin ra mắt Phúc Nguyên. Nói ra là hợp ý, y làm kẻ tâm phúc của Phúc Nguyên, từ đó ly gián triều đình, ngày đêm thuyết phục Nguyên tuyển binh, tích của, đóng cửa, chống mệnh. Y tiến cử đồng đảng là Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến và Chiêu Vũ [10a] Nguyễn Hữu Dật làm vô tướng. Từ đó Thuận Hoá bắt đầu phản bội.

Bính Dần, [Vĩnh Tộ] năm thứ 8 [1626] , (Minh Thiên Khải năm thứ 6).

Mùa xuân, tháng giêng, thăng Nguyễn Danh Thế lên Thiếu phó, Thượng thư bộ Hình sai ông cùng Thái bảo Ly quận công khám xử các việc kiện cáo trong nước2888 .

Tháng 3, sách phong Phụng quốc công Trịnh Đỗ làm Dương Lễ công2889 .

Cho Nguyễn Duy Thì làm Thượng thư bộ Công2890 .

Tháng 5, sai sứ sang nhà Minh. Bọn Nguyễn Tiến Dụng, Trần Vĩ, Đỗ Khắc Kính, Nguyễn Tự Cường, Bùi Tất Thắng, Nguyễn Lại, đi cống hàng năm.

Tháng 7, ngày Tân Mão, bàn việc kinh lược Thuận Hoá. Sai Tiền Nhuệ doanh Thiếu uý Nguyễn Khải, Thiếu Phó Nguyễn Danh Thế, đem bọn Hoà Nghĩa doanh là Hoa quận công, trước đến đóng đồn ở tổng Hà Tây thuộc Kỳ Hoa để phù liệu công việc2891 .

Đinh Mão, [Vĩnh Tộ] năm thứ 9 [1627] , (Minh Thiên Khải năm thứ 7).

Mùa xuân, tháng giêng, gọi Nguyễn Phúc Nguyên vào chầu. Sắc dụ rằng [10b]: “Những người hào kiệt có thể cùng nhau hoàn thành sự nghiệp. Kẻ trượng phu lập chí cần biết rõ thời thế. Đậu Dung đem đất Hà Tây về hàng, nổi tiếng ở đời Hán. Điền Hưng lấy đất Nguỵ Bác quy quận, công lao ở đời Đường. Từ xưa, các hiền nhân quân tử, trí sáng, biết đúng, mới dựng nên công nghiệp ở đương thời, để tiếng thơm cho hậu thế nước nhà ta, ứng trời thuận người, thừa thời mở vận. Thái tổ Cao Hoàng Đế lấy võ công bình định thiên hạ, là nhờ các công thần giúp đỡ; liệt thánh hoàng đế lấy văn giáo làm nên thái bình, cũng nhờ bậc huân cựu khuông phò, cho nên mới giữ nước được lâu dài. Chỉ về nửa chừng vận bĩ, nguỵ Mạc tiếm ngôi. May được mệnh trời chưa thay, lòng người nhớ cũ, Trang tông Dụ Hoàng Đế nổi dậy ở miền đất tây, tổ của người là Chiêu Huân Tĩnh công cùng với Minh Khang Thái Vương xoay lại trời đất, để tiếng sử xanh; vận trở hanh thông, nước [11a] nhà dựng lại. Thế tông Nghị Hoàng Đế và ngự Trung Đô; cha của ngươi là Cẩn Nghĩa công giúp đỡ thượng phụ Bình An Vương ngày ngày dự bàn quốc chính, kế yên thiên hạ, công ghi sử xanh. Chỉ vì kẻ nghịch thần là bọn Ngạn, Khuê dám bất trung chống lại, đem quân làm phản, trong nước rối động.

Cha con ngươi có ý muốn bảo toàn, nhân thế bỏ về trấn cũ. Khi ấy nhờ được Đô nguyên soái tổng quốc chính thượng phụ Bình An Vương có lòng tinh trung vì nước, lấy điều nhân nghĩa ra quân, dẹp hết nghịch tặc, trong nước lại được bình yên, đến gần 30 năm. Không ngờ kẻ phản nghịch là Xuân, tính như sài lang, lòng như cưu cánh2892 khoét vách như răng chuột, hại quân như nọc trùng, làm cho lòng người dao động. Nhờ được Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô Vương, tư chất nhân hậu, chí khí anh hùng, và các đại thần thân huân văn võ, cùng lòng cùng đức, giải nạn của vua cha, cứu nguy [11b] cho xã tắc, quét sạch giặc Mạc, khôi phục đô thành, trong yên ổn ngoài vỗ về gần vui, xa đến. Hiện nay, thời có thể làm, người mong bình trị. Nếu ngươi nghĩ đến nghĩa vua tôi trên dưới, nhớ đến công cha ông cần lao, nhìn xa nét kỹ, qui phục triều đình, thì trẫm đối đãi bằng lễ đặc biệt, phong cho tước Thượng công. Ngươi cố giúp nhà ta, để mạnh vương thất, thì thân danh của ngươi cùng nước vinh hiển, con cháu của ngươi cùng nước dài lâu, đời đời hưởng tước lộc, đời đời là trung trinh, khoán thư chứa vào hòm vàng nhà đá, lưu truyền đến khi sông cạn đá mòn, mãi mãi vô cùng vậy. Ngày nào nhận được dụ này, ngươi nên sắp sửa tướng sĩ voi ngựa thuyền ghe, đến kinh sư bái yết để hợp với nghĩa làm tôi.

Nếu vẫn chấp mê, đem quân chống mệnh, thì oan trời đến đâu, chỉ trong chớp mắt, núi cao cũng thành ra đất bằng. Theo [12a] mệnh thì tốt, trái mệnh thì hung, là tuỳ ở ngươi, ngươi hãy nghĩ lấy”. Khi sứ đến, Phúc Nguyên không nghe mệnh.

Tháng 3, ngày Mậu Dần, xuống chiếu tuần thú Thuận Hoá, sai Nguyễn Khải đến trước châu Bố Chính. Ngày Ất Dậu, Khải đến cửa biển Nhật Lệ, Phúc Nguyên đã sai quân nghênh chiến, bắn đại bác, tiếng nổ vang trời. Quan quân lui tránh. Tiên phong là Lê Khuê cưỡi ngựa xông thẳng vào trận địch, các tướng cưỡi ngựa kế tiếp tiến vào, quân Thuận Hoá mới lui xuống thuyền. Khải nhân đó dựng doanh trại ở bờ phía bắc sông. Quan Phúc Nguyên đóng trại ở bờ nam. Đêm hôm đó, quân địch thừa cơ triều lên, dùng đại bác, đến gần bắn vào doanh trại. Quan quân chống giữ. Chúa đưa vua chỉ huy sáu quân, lấy danh nghĩa xem xét địa phương, quân thuỷ, quân bộ cùng tiến.

Ngày 12 tháng 4 ngày Mậu Tý, xa giá đến Nhật Lệ, hiệu lệnh các tướng đánh nhau với thuỷ quân của Phúc Nguyên ở cửa bể. [Hai bên] đều bắn đại bác, quân độ ở bờ bắc bắn [12b] vào cánh tả của thuỷ quân giặc. Quân giặc lui vào trong luỹ gỗ, chống giữ. Quan quân thừa thắng phá giặc. Quân bờ nam tranh nhau lấy của cải. Giặc cho quân voi xông ra đánh, tiền quân hơi phải lùi.

Đêm ấy, xa giá dừng lại ở cửa bể, dùng thuyền buồm lớn làm cầu phao, quân bộ đóng hai bờ, thuyền đỗ ở giữa sông để tính kế tiến đánh.

Ngày Canh Dần, chúa sai Nguyễn Danh Thế viết thư dụ Phúc Nguyên. Ngày Tân Mão sai quan vào dụ. Ngày Nhâm Thìn rút quân về2893 .

Thượng thư bộ Hộ, Thiếu phó Lộc quận công Lưu Đình Chất mất, tặng hàm Thiếu sư2894 .

Tháng 5, xa giá trở về kinh2895 .

Tiến phong Nguyễn Thực làm Thiếu phó2896 .

Mùa thu tháng 8, mới thi hương.

Sai bọn Nguyễn Thực đi hầu mệnh, đón sứ thần về nước2897 .

Vua Minh mất, tên thuỵ là Hy Tông Triết Hoàng Đế, em là Tín Vương Do Kiểm lên ngôi.

Mùa đông tháng 10, Thượng thư bộ Binh, Thiếu phó [13a] Diễn Gia hầu Lê Bật Tứ mất, tặng Thái bảo Diễn quận công.

Tháng 11, cho Nguyễn Danh Thế kiêm chức Đô ngự sử2898 .

Ghi công những người đi hầu mệnh, thăng Nguyễn Thực tước Lan quận công2899 .

Mậu Thìn, [Vĩnh Tộ] năm thứ 10 [1628] , (Minh Hoài Tông Sùng Trinh năm đầu).

Mùa xuân, tháng giêng, Thượng thư bộ Lại, chưởng lục bộ sự, Thái bảo Lễ quận công Nguyễn Văn Giai mất, tặng là Tư đồ, thuỵ là Cẩn Độ.

Tháng 2, thi hội các cử nhân. Lấy đỗ bọn Giang Văn Minh 18 người. Thi đình, cho Giang Văn Minh đỗ tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, bọn Dương Cảo 3 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Đặng Phi Hiển 4 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.

Thái uý Chưởng phủ sự Dương Lễ công Trịnh Đỗ mất, tặng là Thái tể, thuỵ là Ý Thuần2900 .

Tháng 9, sửa chùa Long Ân ở phường Quảng Bá. Chúa ghi công đức cho nhà ngoại là Chiêu Huân công2901 , Cẩn Nghĩa công2902 , sai Nguyễn [13b] Thực soạn văn bia2903 .

Kỷ Tỵ, [Đức Long] năm đầu [1629]2904 , (Minh Sùng Trinh năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu cho bách quan văn võ, những ai có đầy đủ hai công: theo xa giá đi trong năm Quý Hợi (1623) và tiến đánh giặc thì được gia thăng chức tước, và vinh phong là công thần có thứ bậc: quan võ từ quận công, quan văn từ khoa đạo trở lên, phong hai chữ Dực Vận và Tán Trị; quan võ từ tước hầu, quan văn từ bộ, tự, tham nghị, hiến phó trở xuống phong một chữ Tán Trị.

Mùa hạ tháng 4, tiến phong Nguyễn Danh Thế tước Đường quận công; Đặng Thế Tài tước Doanh quận công; Đặng Thế Khoa tước Liêm quận công; Thế Tài và Thế Khoa là con cháu của Nghĩa quốc công [Đặng Huấn]2905 .

Vì hạn hán, đói kém, đổi niên hiệu là Đức Long, đại xá cho thiên hạ. Tha thuế đinh thuế điền năm nay cho hai xứ Thanh Nghệ. Lòng dân vui thích.

Ghi công những người năm trước đi đánh Cao Bằng, gia thăng chức tước cho các tướng sĩ [14a].

Tiến phong Chỉ huy sứ Vân Dương hầu Đỗ Vị làm Điện quận công (Vị là người xã Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì). Ông là con của Thượng thư bộ Lại, Thái bảo Sầm quận công Đỗ Cảnh.

Quần thần tâu: chúa có đức lớn, công cao, xin tiến tôn tước vương một chữ. Vua bằng lòng. Chúa khiêm nhường, từ chối không nhận. Quần thần cố xin, chúa mới chịu nghe.

Mùa đông tháng 10, ngày Tân Dậu làm lễ sách phong. Lời sách nói: “Dựng ngôi chính trung ban phúc, tỏ ra đạo lý công bằng; định lễ trọng đại đền công, nêu ban ơn điển tôn quý. Ngày tháng tốt lành đã chọn, sách vàng rực rỡ ban ra. Nay Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô Vương Trịnh Tráng,

trung hậu nếp nhà, trí năng yên nước. Uy vũ vang lừng trăm trận, công lao tái tạo đã nên; văn giáo thấm khắp bốn phương, trị bình hùng cường đã đến.

Trong ngoài đều tin người đức vọng; chức vị đáng đứng đầu các quan. Đặc sai quan mang phù tiết [14b] sách vàng, ấn ngọc, tấn phong làm Hiệp mưu đồng đức công thần, Đại nguyên soái thống quốc chính sư phụ Thanh Vương. Đã ban cho của cải để làm ngọc khuê; lại cho ruộng đất để rộng khu vũ. Vương nên lấy nghĩa thân cận làm người trung thực giúp phò để kính nhận phúc lành thượng đế ban cho; trau dồi lấy đức, để bảo vệ dân, nối đời giữ lấy nghiệp vương dài mãi. Khâm theo đấy”.

Thăng Xá nhân trưởng vệ quan Ngọc Lâm hầu Lê Phúc Lai (người xã Sơn Trai, huyện Nông Cống) làm Thượng bảo tự khanh, tước Cống quận công, sai quản đốc Xá nhận 4 ty.

Canh Ngọ, [Đức Long] năm thứ 2 [1630] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 3).

Mùa hạ, tháng 5, lập con gái của chúa, họ Trịnh làm hoàng hậu2906 . Trước kia bà được gả cho bác họ của vua là Cường quận công Lê Trụ, sinh được 4 con trai là bọn Lê Hoàn. Trụ can tội bắc thang vào điện mưu việc phản nghịch2907 bị hạ ngục mà chết. Chúa đem bà ta gả cho vua. Nhà vua nhận. Bọn Nguyễn Thực, Nguyễn Danh Thế nhiều lần dâng sớ can ngăn. Nhưng vua không nghe và nói rằng: “Trót đã lấy rồi”. Từ hôm đó [15a] trời mưa dầm không ngớt.

Tháng 6, lũ lụt lớn. Sông Nhị nước dâng cao, tràn vào phố xá; ngoài cửa Nam, nước chảy như thác, ở trong phố phường mà phải đi thuyền, có nhiều người chết đuối. Đê Thanh Trì vỡ, lúa mất, dân đói.

Tháng 9, dựng ba toà nội điện, làm hành lang.

Mùa đông, tháng 10, qua bộ viện Lưỡng Quảng nhà Minh sai người giục cống nộp đến kinh sư. Ban cho ăn yến ở bến Đông Hà. Chúa ngự ở lầu Giảng Võ, bày đồ cống vật cho họ vào xem. Nhân đó duyệt quân thuỷ và bộ, bày thuyền ghe, voi ngựa để phô bày sự cường thịnh.

Ngày Nhâm Tuất, nguyệt thực.

Sai quan duyệt tuyển dân đinh các xứ. Bấy giờ các quan khâm sai là võ tướng phần nhiều cậy là huân cựu, riêng nhận hối lộ, tự ý thải người già, miễn đi lính, làm điên đảo bất công, nhiều lần bị quở trách; mà quan duyệt tuyển ở Thanh Hoa là Thái Bá Kỳ quá đáng nhất. Chỉ có các viên Cao Ty2908 , Trần Vĩ, Lã Thì Trung, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Tài [15b] Toàn, Nguyễn Khắc Văn, Nguyễn Trừng, là người cẩn thận giữ phép, được lòng quân dân, người ta khen là công bằng.

Giám sát ngự sử Hải Dương là Dương Thuần, vì việc tra hỏi kiện tụng bị vu cáo, bãi quan.

Sai bọn Tuyền quận công Nguyễn Duy Thì đến cửa Nam Quan hầu mệnh.

Tháng 11, sai sứ sang nhà Minh, bọn Trần Hữu Lễ, Dương Trí Trạch, Nguyễn Kinh Tế, Bùi Bỉnh Quân, Nguyễn Nghi, Hoàng Công Phụ đi cống hàng năm. Bỉnh Quân mất giữa đường.

Đem các bậc công thần hàng đầu là Tĩnh quận công Phạm Đốc, Hậu Trạch công Đặng Huấn, Mậu Nghĩa công Hoàng Đình Ái, Phu Nghĩa công Nguyễn Hữu Liêu phối thờ ở cung miếu bốn trấn là Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương.

Truy tặng em chúa là Trịnh Lâm làm Đại tư mã [hiệu] Tuân Chính Duyệt Lễ Anh Uy Mỹ Dự công2909 .

Tân Mùi, [Đức Long] năm thứ 3 [1631] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 4).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày Mậu Dần, thượng thần Lý Ông Trọng ở đền thờ tại Từ Liêm [16a] đổ mồ hôi.

Ngày Canh Thìn có gió to.

Hiến sát phó sứ Thuận Hoá là Vũ Chân (người xã Bình Lăng Thượng, huyện Thiên Lộc) từ năm Giáp Dần [1614] bị Nguyễn Phúc Nguyên ngăn trở, đã 18 năm. Đến nay ông cùng với Mậu Lương hầu Bùi Văn Tuấn (người xã Bái Nại, huyện Tống Sơn) đi theo đường tắt, trở về với triều đình. Chúa hỏi về việc ở biên phương, rồi thưởng rất hậu, cho Chân làm chức Phủ Doãn, thăng Văn Tuấn làm Mậu quận công.

Đá núi Hoàng Sơn ở Nông Cống lở.

Đá núi Lộng Điền ở Gia Viễn rơi xuống.

Tháng 3, thi hội các cử nhân, lấy đỗ bọn Nguyễn Minh Triết gồm 7 người. Có người tố cáo Nguyễn Văn Quang (người xã Đặng Xá, huyện Cẩm Giàng) thiếu điểm mà vẫn trúng tuyển, bèn bỏ tên đi. Thi đình, cho Nguyễn Minh Triết đỗ tiến sĩ cập đệ đệ tam danh; bọn Lê Biện 2 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn Danh Thọ 3 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.

Xứ Hải Dương mưa đá, hòn to như đầu ngựa.

Ngày Bính Thân, chính phi của chúa [Trịnh Tráng] là Nguyễn Thị Ngọc Tú [16b] mất, tên thuỵ là Từ Thuận. Bà là con gái của Nguyễn Hoàng, sinh ra Sùng quận công Trịnh Kiều và hoàng hậu Ngọc Trúc. Bà có cô cháu gái, đó là con gái của anh bà là Nguyễn Hán, cô này cũng được vào hầu ở Đông cung.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Ất Mão, sét đánh núi Mã Yên ở Tây Kinh, làm đất nứt 5 trượng. Ngày Kỷ Mùi, chó ngao đá ở xã Hoàng Mai huyện Thanh Trì phát ra tiếng kêu như tiếng trống.

Tháng 6, chúa ngự ở lầu phía đông, sai thuỷ quân tập bắn. Có lửa bốc lên ở đầu sông cháy lan ra phố phường ở hai bên trái cửa [vương] phủ và đến cửa Triều Nguyên của triều đình ở trong thành, rồi cháy vào nội điện. Nhà vua tránh lửa, chạy ra ở nhà Hoa Dương hầu, bốn ngày sau mới trở về cung.

Hạ lệnh chỉnh lý kỷ cương: các đại thần và bách quan, cứ ngày mồng một và rằm thì vào chầu nội điện. Đại thần văn võ các viên có văn phòng riêng (toạ đường chư viên) cứ mỗi tháng 10 phiên vào chầu [17a] ở phủ đường. Từ Đô đốc và Cai cơ, Cai đội trở xuống, hàng ngày vào phủ đường thị hầu2910 .

Các nha môn trong ngoài theo như chức chưởng. Ai thanh liêm, công bằng, mẫn cán, hoặc mãn khảo [đủ nhiệm kỳ], mà lòng dân ái mộ, hoặc bản quan có khải bảo cử, thì nên xét thực, gia thăng cho một “thứ” và lưu nhiệm. Nếu không biết thận trọng giữ gìn, làm nhiều việc nhũng tệ, người nào nhẹ thì biếm bãi chức, đuổi về, người nào nặng thì sung làm quân2911 .

Các quan sở cai cai quản dân, cốt phải vỗ về nuôi dưỡng dân. Nếu làm tệ nhiễu dân, để người ta kêu tố, tra xét đúng sự thực thì đình chỉ việc cai quản. Nếu thấy dân kêu cáo mà chặn đường ngăn trở và bắt giam, đánh đập nặng thì ghép vào phép nước, nhẹ hơn cũng bãi chức đình cai quản2912 .

Mùa thu, tháng 3, ngày Canh Ngọ, vực Rồng ở xã Lai Duệ huyện Thuỵ Nguyên có vật gì nổi lên mặt nước như đầu người, đầu trâu, đầu ngựa, đầu rắn, nhiều vô số.

Mùa đông, tháng 10, ngày Tân Sửu là ngày mồng một có nhật [17b] thực.

Thăng Nguyễn Thực làm Thiếu uý2913 .

Cho Hữu thị lang Nguyễn Tuấn, Bùi Bỉnh Di, Nguyễn Tự Cường là Tả thị lang, Thiêm đô ngự sử Trần Vĩ làm Phó đô ngự sử, Tự khanh Đỗ Khắc Kính, Nguyễn Lại làm Hữu thị lang.

Vì bọn Trần Nghi làm quan không thận trọng, cho ra làm Tham chính Sơn Tây, Phạm Phúc Khánh, Đặng Phi Hiển, Lê Phan Lâm làm Hiến sứ ở Lạng Sơn, Tuyên Quang, An Quảng.

Tháng 11, sai Bắc quân tả đô đốc phó tướng Tây quận công Trịnh Tạc thống lãnh tướng sĩ và doanh cơ thuộc sai của Đặng Thế Khoa, cùng với quan binh châu Bố Chính trấn giữ xứ Nghệ An. Đóng dinh ở Yên Trường huyện Chân Phúc, lấy Tự khanh Giang Văn Minh làm Đốc thị, Thái bảo Nhạc quận công Bùi Sĩ Lâm trấn giữ Thanh Hoa. Cho Tự khanh Nguyễn Khắc Văn làm Đốc đồng. Tây quận công ra lệnh răn cấm. Các [quan quân] dưới quyền đều nghiêm túc.

[18a]2914 Núi xã Đa Giá ở Gia Viễn sạt lở 17 trượng.

Nhâm Thân, [Đức Long] năm thứ 4 [1632] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 5).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày Kỷ Hợi, truy tôn hoàng khảo Giản Huy Đế làm Hiển Nhân Dụ Khánh Tuy Phúc Huệ Hoàng Đế, miếu hiệu là Kính Tông.

Tháng 2, gia tôn kim sách mỹ tự cho Thái Vương [Trịnh Kiểm] và Triết Vương [Trịnh Tùng]. Truy phong ngân sách mỹ tự cho Hậu Trạch công [Đặng Huấn].

Sai Nguyễn Thực mang phù tiết, sách vàng ấn bạc tiến phong vương tử là Thái phó Sùng quận công Trịnh Kiều làm Khâm sai tiết chế các xứ thuỷ bộ chư doanh, kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, phó chưởng quốc chính thái uý Sùng quốc công. Mở phủ ở bên trái cửa Nam môn, gọi là phủ Hùng Uy, đặt quan thuộc, chia sai quan cầm cờ tiết, sách bạc, ấn đồng phong em chúa là Hiệp Nghĩa dinh thái uý Tung quận công Vân làm Tung Nhạc công. Mở phủ Hiệp Nghĩa. [Phong] Phù Nghĩa doanh thái uý Dũng quận công Trịnh Gia làm Dũng Lễ công, mở phủ Phù Nghĩa. [Phong] Thắng Nghĩa doanh thái phó Quỳnh quận công làm Quỳnh Nham công, mở phủ Thắng Nghĩa.

Sai Nguyễn Danh Thế làm Tham tụng, dự tán quốc chính, gia hàm Thái bảo. Nguyễn Hắc, Nguyễn Khải đều làm Thái phó. Lúc đó Khải đã đổi sang chức Thượng thư bộ Binh.

Tháng 3, sai Nguyễn Thực và Nguyễn Khải đều lấy tư cách quốc lão tham dự triều chính.

Mùa hạ, tháng 4, Hữu thị lang bộ Lại là Nguyễn Tuấn, Nguyễn Lại bị bãi (Lại là người xã Bột Thượng, huyện Hoằng Hoá). Bọn Tuấn tuyển bổ các chức phần nhiều nhũng lạm. Nguyễn Lại thì nhận nhiều của đút. Có câu ca dao rằng: “Các chức bị viên, lưỡng Bột tận điền” (nghĩa là: các chức mà bổ cho đủ người thì hai làng Bột hết ruộng). Nguyễn Thực và Nguyễn Khải tham hặc hai người ấy, nên bãi chức.

Gia phong Nguyễn Thực làm Thái bảo, Nguyễn Duy Thì làm Thiếu phó. Cho em chúa là Việt quận công Trình, Luân quận công Thức, [19a] Quảng quận công Hàng, Lăng quận công Bảng, Diên quận công Nha, Vương tử là Hồng quận công Lựu, đều làm Thái bảo. Vương tử là Tây quận công Tạc, Phù quận công Lịch và Lan quận công Hoàng Nghĩa Phì đều làm Thiếu uý.

Ghi công những người đi theo đánh dẹp ở Quảng Hoá. Gia phong Thiếu bảo Định quận công Hoàng Nghĩa Phúc làm Thiếu phó.

Tháng 5, các quan triều đình bàn muốn cử Tả thị lang Mai Khê hầu Nguyễn Tiến Dũng chuyển sang [làm Tả thị lang] bộ Lại. Nguyễn Khải nói: “Trước đây ông ấy làm Đề điệu trường Thanh Hoa, đã theo tình riêng mà lấy người này bỏ người kia không xứng đáng làm chức ấy”. Bèn cho Phó đô ngự sử Trần Vĩ và Hữu thị lang bộ Lễ là Đỗ Khắc Kính làm Tả hữu thị lang bộ Lại2915 . Cất nhắc Đô cấp sự trung Lại khoa Nguyễn Duy Hiểu làm Thiêm đô ngự sử.

Sai Trần Vĩ, Nguyễn Quang Minh, Lê Kính, Thân Khuê chia nhau đi khám hỏi về các quan tổng cán đường đê và các quan lại Thừa ty các xứ, người nào chăm hay lười, làm [19b] hay tham ra sao. Tháng 6, ngày mồng một, mưa to liền 4, 5 ngày, nước sông Hồng đầy tràn. Chúa và Phủ tiết chế đem các quân, cưỡi thuyền đi xem đường đê ở các xã Thâm Dương, Yên Duyên, Khuyến Lương huyện Thanh Trì, chia nhau sai hộ trúc đường đê. Nước càng đầy tràn, phải trở về. Sai thu các tiền thu lạm của quan tổng cán đê sông các xứ nhập vào quỹ công.

Quý Dậu, [Đức Long] năm thứ 5 [1633] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 6).

Mùa xuân, tháng giêng, núi Long Tuyền bị đổ.

Sai Thái phó Hắc, Thái bảo Hàng, Bảng, Đương tham dự triều chính. Hàng cùng Ngô Nhân Triệt, Nguyễn Quang Minh chiếu bổ hạ hạng quân các phủ vệ.

Tháng 2, Nguyễn Phúc Nguyên sai quân đánh phá châu Nam Bố Chính, giết quan châu, lấy tiền của kho bắt hết dân đinh ở đó làm lính, đặt ra 24 đội thuyền.

Tháng 3, đá núi Đa Bút huyện Vĩnh Phúc bị sạt. Hai núi ở giếng Âm Dương huyện Phụng Hoá [20a] bị lở.

Sai bọn Trần Vĩ đi hầu mệnh, đón sứ thần về nước.

Ngày Quý Sửu, thần vị của vua Lý Thái Tông ở điện Cổ Pháp vô cớ dời đi chỗ khác. Sai nội thần là Phái quận công đến tế. Vài ngày sau [thần vị] lại trở về chỗ cũ.

Nước sông Cái (Đại Hà) ở xã Yên Duyên huyện Thanh Trì ban đêm khô cạn đi trong một khắc.

Ngày Giáp Dần, giờ Tỵ, có gió lớn từ phương bắc lại. Đầm Thịnh Liệt khô đi trong hơn một khắc. Sóng nước sông Nhị chồm lên, nhiều thuyền bị đắm. Triều thần hặc tội viên tham nghị xứ Hưng Hoá là Trương Vũ làm quan không cẩn thận, đến nỗi dân kêu tố và tri huyện Nguyễn Hàng chưa mãn đại tang mà ngầm đem vàng bạc tâu bậy xin làm chức Lăng phó ở điện [miếu] Tây Kinh. Vua giao xuống luận tội Trương Vũ và thu lại sắc mệnh của Hàng.

Mùa thu, tháng 8, Nguyễn Phúc Nguyên sai tướng lập dinh luỹ ở Thái Xá, Động Hải (Đồng Hới) để chống lại quan quân.

Bàn việc đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên. Nguyễn [20b] Danh Thế ba lần can gián, xin hưu binh cho dân. Không nghe. Tháng 10, sai Tiết chế phủ đem quân đến đóng ở Vân Sàng thuộc Gia Viễn, trấn phủ Thanh Hoa, Sơn Nam, Hải Dương, An Quảng, Tung Nhạc công và Dũng Lê công trấn thủ kinh thành và trấn phủ Sơn Tây, Kinh Bắc, Lạng Sơn, Thái Nguyên.

Tháng 11, ngày Giáp Dần, chúa đem vua thân đi đánh, thuỷ bộ cùng tiến. Tháng 12, ngày Tân Dậu, đóng ở cửa bể Nhật Lệ. Ngày Kỷ Mão, đối diện chống nhau với quân Thuận Hoá. Ngày Tân Tỵ, tiền quân nghi ngờ hoảng sợ tự vỡ. Bèn rút quân2916 .

Giáp Tuất, [Đức Long] năm thứ 6 [1634] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 7).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày Mậu Tý, là ngày mồng một xuống chiếu rút quân.

Tháng 2, ngày Tân Dậu, xa giá về tới kinh sư2917 .

Tháng 3, ngày Đinh Hợi, là ngày mồng một, nhật thực.

Thi hội các cử nhân, lấy đỗ bọn Nguyễn Nhân Trứ 5 người. Thi đình, cho Vũ Bạt Tuỵ đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Nhân Trứ [21a] 4 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân (Nhân Trứ người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hoá). Mùa hè, đại hạn.

Cho Tam Dương hầu Đinh Thế Diên làm Dương quận công, gia hàm Thiếu uý. Thế Diên là cháu 7 đời của công thần Lê Liệt2918 .

Mùa thu, tháng 8, thăng Nguyễn Danh Thế hàm Thái bảo2919 .

Gia thăng Nguyễn Thực hàm Thái phó chức Thượng thư bộ Hộ về trí sĩ. Bấy giờ ông đã 80 tuổi. Từ khi Trung Hưng đến nay, mang chức Thượng thư về trí sĩ bắt đầu từ Nguyễn Thực.

Ất Hợi, [Dương Hoà] năm đầu [1635], (Minh Sùng Trinh năm thứ 8)2920 .

Mùa hạ, tháng 6, ban lệnh chỉ cấm các quan lại hà khắc, và răn giới các quan cai khám để ứ đọng các án kiện, ban bố cho thi hành 12 điều. Mùa đông, tháng 10, đại xá, đổi niên hiệu là Dương Hoà.

Ngày Mậu Tý, Nguyễn Phúc Nguyên ở Thuận Hoá mất, thọ 73 tuổi. Con là Nhân quận công Phúc Lan nối chức, tự đặt tên thuỵ Thuỵ Dương Vương, gửi cáo phó [21b] về triều. Sai quan đi điếu phúng. Ban mệnh cho Phúc Lan làm trấn thủ Thuận Quảng. Năm ấy Thái bảo Nguyễn Hắc cũng mất, tặng Thái tể.

Bính Tý, [Dương Hoà] năm thứ 2 [1636] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 9).

Mùa xuân, sai làm thư đưa cho quan Tam ty ở Lưỡng Quảng, nhờ chuyển tờ tâu về xin phong cho vương một lần nữa. Người Minh không nghe2921 .

Đinh Sửu, [Dương Hoà] năm thứ 3 [1637] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 10).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày Tân Sửu là ngày mồng một, nhật thực.

Tháng 3, sai sứ sang nhà Minh. Bọn Nguyễn Duy Hiểu, Giang Văn Minh, Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê sang cống hàng năm và cầu phong.

Mùa hạ, xứ Thuận Hoá đói to2922 .

Mùa đông tháng 10, thi hội các cử nhân, lấy đỗ bọn Nguyễn Xuân Chính 20 người. Thi đình, cho Nguyễn Xuân Chính, Nguyễn Nghi, Nguyễn Thế Khanh đỗ tiến sĩ cập đệ. Bọn Nguyễn Hữu Thường 2 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn [22a] Cổn 15 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân (từ khi trung hưng tới khoa này mới lấy Tam khôi [Trạng nguyên, Bảng nhỡn, Thám hoa)2923 .

Tháng 11, Thái phó trí sĩ Nguyễn Thực mất, thọ 83 tuổi, tặng Thái tể, thuỵ là Trung Thuần. Tháng 12, ngày Giáp Tý cuối tháng, có nhật thực.

Mậu Dần, [Dương Hoà] năm thứ 4 [1638] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 11).

Mùa xuân, tháng giêng, Mạc Kính Khoan, tước Thông quận công ở Cao Bằng mất. Con là Kính Vũ lại làm phản, tiếm đặt niên hiệu là Thuận Đức2924 .

Tháng 3, sai Đặng Thế Tài lưu lại giữ kinh sư, Chúa thân đem quân đi đánh Cao Bằng. Quân tiến trước đánh bị thua, thuộc tướng là quận Hạ bị giặc bắt; quận Lâm ra trận sợ chạy bị tội giết. Bèn rút quân về. Cho Tả thị lang bộ Lễ là Trần Hữu Lễ làm Tả thị lang bộ Lại2925 .

Tháng 11, sai Đặng Thế Khoa đem quân đi trấn thủ ở Lục Ngạn, Phượng Nhãn2926 .

Tháng 12, ngày Canh Dần [22b] sai Tiết chế phủ đem quân đánh Cao Bằng, Nguyễn Danh Thế làm tham tán quân mưu, đánh bại đảng giặc ở Hạ Lan thuộc Cảm Hoá, phá 19 động Hoa Nê, An Lễ… Tướng tiên phong là Bật quận công đóng đồn ở Vân Tùng. Nguyễn Danh Thế xin chọn tướng khoẻ đem 3000 tinh binh đóng ở sau đội tiên phong; khi quân tiên phong đắc thắng thì quân sau liền tiến lên, đem

theo 3 ngày lương khô, ngày đêm đuổi giặc, đại binh tiếp theo tiến lên, thì có thể thu được toàn thắng, không nhọc sức cất quân lần nữa; không để cho giặc lủi trốn vào rừng núi. Quan tiết chế không nghe.

Ngày Tân Sửu, tiến vào Cao Bằng, chia quân lược địch các châu Quy Thuận, Thượng Lang, Hạ Lang. Giặc đều tan chạy vào rừng núi, không để lại dấu vết. Quan quân lưu lại 10 ngày rồi rút về2927 .

Qui định hành nghi phẩm phục của các quan để làm chính xác đẳng cấp.

Kỷ Mão, [Dương Hoà] năm thứ 5 [1639] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 12).

Mùa hạ, tháng 4, nhắc rõ lại lệ kiện về nhân mạng. Theo như chế độ năm Cảnh Thống [23a] thứ 6 (1503), chỉ tịch thu điền sản, vợ con, tài vật của bản thân người phạm tội, nếu không đủ thì cho phép cung khai điền sản của cha mẹ, anh em người ấy làm tiền bồi thường, không được bắt lây đến họ hàng làng xóm.

Tháng 6, nhắc bảo về kỳ hạn tiến quân. Đưa thư cho ty Hồ Nhuận doanh Quy Đạo thuộc Quảng Tây nước Minh, và quan các châu Yên Bình, Quy Thuận, Hạ Phiên, Hướng Vũ, hẹn hợp sức đánh Cao Bằng2928 . Mùa thu, sai Nguyễn Duy Thì lên cửa quan, đón sứ thần Nguyễn Duy Hiểu về nước. Duy Hiểu dâng sớ nói: “Đến Yên Kinh, dâng biểu cầu phong quốc vương, [vua Minh] giao cho bộ bàn, họ cho rằng không có văn bản cũ để lại có thể tra xét được, nên không cho. Chỉ ban sắc thư tưởng lệ thôi”2929 .

Tháng 10, ngày Quý Tỵ, chúa [Trịnh Tráng] thân đi đánh Cao Bằng. Đóng quân ở thành Lạng Sơn. Quan thổ châu ở Trung Quốc đều đáp thư hứa theo lời ước. Nhân đó Chúa tiến lên đóng đồn ở Bắc Nẫm, chia sai bọn Đặng Thế Tài đánh Mạc Kính Vũ. Đánh ở Đà Dương [23b] Hoa Biểu, Trục Khâm, Vân Đô, đều thắng2930 .

Tháng 12, rút quân về. Vì thuộc tướng Đỗ Hán Vân, ra trận xông lên trước, có công lớn, thăng là Hương quận công. Ngoài ra đều thăng thưởng có thứ bậc (Hán người xã Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, là con của Thượng thư Đỗ Cảnh)2931 .

Ra lệnh chỉ nhắc bảo bách ty phải giữ đúng chức trách, làm dân vui lòng gồm 12 điều.

Canh Thìn, [Dương Hoà] năm thứ 6 [1640] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 13).

Tháng giêng nhuận, thi hội các cử nhân, lấy đỗ bọn Phí Vân Thuật 22 người. Thi đình, cho bọn Văn Thuật 2 người đỗ tiến sĩ xuất thân. Bọn Hoàng Vinh 20 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Gia thăng cho Nguyễn Danh Thế giữ chức Đông các trì Kinh diên sự2932 .

Nguyễn Phúc Lan ở Thuận Hoá sai quân đánh phá châu Bắc Bố Chính, bắt vợ con Hiền Tuấn hầu Nguyễn Khắc Loát chạy về Nghệ An, trấn thủ là Tào [24a] quận công. Ngô Phúc Vạn bắt giải về kinh, giam vào ngục. Phúc Lan sai người đến kinh trình bày tội lỗi. Xuống lệnh chỉ an ủi bảo ban, kể lại mối tình thân giao mấy đời, lại nói: thái uý và lệnh đệ là tình nghĩa ruột thịt, chí khí như nhau, sao có thể so hơn kém, nên sớm xử trí… Lại đưa tin của Công Khuê, trả lại cương thổ Quy Vấn, Phúc Lan vâng mệnh2933 .

Nhâm Ngọ, [Dương Hoà] năm thứ 8 [1642], (Minh Sùng Trinh năm thứ 14)2934 .

Mùa thu, tháng 9, Tiết chế thái uý Sùng quốc công Trịnh Kiều mất, thọ 42 tuổi, tặng là Thượng tể thượng tướng Sùng Nghĩa công, ban thuỵ là Hùng Độ. Chúa đã cao tuổi, nghĩ kế lớn cho xã tắc. Vì cháu đích tôn là Tông quận công Trịnh Hoành còn nhỏ, cho nên chưa định ngôi thế tử2935 .

Tung Nhạc công Trịnh Vân mất, ban thụy là Trung Tín2936 .

Chúa dụ các quan liêu rằng chỉnh lý kỷ cương cốt ở chỗ khám hỏi kiện tụng và dẹp tắt trộm [24b] cướp. Nên sai quan chia nhau đi trị nhậm bốn trấn. Cho Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc trấn trị Sơn nam, Thái thường tự khanh Phạm Công Trứ làm Tán lý, Phù quận công Trịnh Lịch trấn thị Sơn Tây, Hữu thị lang bộ Binh Nguyễn Trừng làm Tán lý. Quỳnh Nhạm công Trịnh Đệ trấn trị Kinh Bắc, Hữu thị lang bộ Công là Nguyễn Bình làm Tán lý, Thiếu Bảo Hoa quận công Trịnh Sầm trấn trị Hải Dương, Đô cấp sự trung Hộ khoa Nguyễn Nhân Trứ làm Tán lý. Đều cùng với Thừa ty trừ bỏ tệ trước, vỗ yên dân địa phương (Công Trứ là người xã Liêu Xuyên, huyện Đường Hào).

Cho Nguyễn Duy Thì làm Thượng thư bộ Binh2937 .

Tháng 11, Hữu đô đốc Yên quận công Đào Quang Hoa mất, tặng Tả đô đốc (Quang Hoa người xã Tuyền Cam, huyện Thanh Oai)2938 .

Quý Mùi, [Dương Hoà] năm thứ 9 [1643] , (từ tháng 10 trở đi vua Chân Tông Phúc Thái năm đầu, Minh Sùng Trinh năm thứ 15)2939 .

Mùa xuân, xuống chiếu đi kinh lược Thuận Hoá, sai [25a] Tây quận công, Quỳnh Nham công thống lĩnh đại quân cùng bọn Tán lý Nguyễn Quang Minh, Phạm Công Trứ, Nguyễn Danh Thọ đi trước đến châu Bố Chính, đánh úp giết tướng giặc là Thắng Lương hầu ở xã Trung Hoà. Bắt viên thư ký là Văn Toàn tử, tiến đóng ở cửa bể Nhật Lệ. Nguyễn Phúc Lan chia quân chống giữ.

Tháng 2, sai Kiên quận công Trịnh Quân cùng Nguyễn Danh Thế lưu lại giữ kinh sư và trấn phủ các xứ. Chúa đưa vua thân chinh Thuận Hoá2940 .

Tháng 3, xa giá đóng ở xã An Bài thuộc châu Bố Chính, chỉ bảo phương lược cho các tướng. Tháng 4, vì Chưởng giám Tiến Lộc hầu Lê Văn Hiểu (người xã Hải Châu, huyện Ngọc Sơn) xông lên trước, phá được luỹ Trung Hoà, được thăng tước quận công2941 .

Tháng 5, Chúa thấy trời nóng nực ra lệnh rút quân. Lưu Tá trấn doanh Tiến quận công Lê Văn Hiểu và Hữu trấn doanh Đông quận công Lê Hữu Đức chia nhau đóng đồn ở Hoà Trung [25b] thuộc Kỳ Hoa. Cho Mậu quận công Phạm Tất Toàn giữ châu Bắc Bố Chính2942 .

Mạc Kính Hoàn cướp vùng Tây Cạn xứ Thái Nguyên. Lưu thủ Trịnh Quân sai quân cùng biên tướng đánh đuổi được2943 .

Tả thị lang bộ Hộ kiêm Huy Văn viện thiêm sự Nhân quận công Doãn Hy về trí sĩ, thăng Thiếu bảo. Sau Hy mất, tặng là Thượng thư bộ Công (Hy người xã Cổ Định, huyện Nông Cống)2944 .

Tháng 6, xa giá trở về kinh2935 .

Mùa đông, tháng 10, ngày 13 là ngày Quý Dậu, [vua] sai Quỳnh công Trịnh Đệ mang tờ cáo nhường ngôi cho Hoàng thái tử Duy Hựu. Thái tử lên ngôi ở điện Cần Chính, lúc ấy mới 13 tuổi. Đại xá, đổi niên hiệu là Phúc Thái, tôn vua lên làm Thái thượng hoàng, tôn hoàng hậu Trịnh thị làm Hoàng thái hậu, ở cung Đức Thọ. Gia tôn Hoàng thái hậu họ Trịnh làm Thái hoàng thái hậu. Ngày Nhâm Ngọ, truy tôn miếu hiệu Thái Vương [Trịnh Kiểm] là Thế Tổ; miếu hiệu [26a] Triết vương [Trịnh Tùng] là Thành Tổ.

Ngày Ất Dậu, sai Đường quận công Nguyễn Danh Thế mang phù tiết bằng ngọc, và sách ấn vàng để gia tôn chúa [Trịnh Tráng] làm Đại nguyên soái thống quốc chính thái thượng sư phụ Thanh Vương.

Thi hội các cử nhân, lấy đỗ bọn Lê Trí Trạch 9 người.

Tháng 12, thi đình cho bọn Nguyễn Khắc Thiệu 2 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Lê Đình Dự 7 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.

Tả thị lang bộ Lại là Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ mất, tặng là Thượng thư bộ Công2946 . Lưu thủ Thanh Hoa là Nhạc quận công Bùi Sĩ Lâm mất, tặng Thái phó2947 .


2857 Bản Lê Hy chữa lại là “Canh Thân Vĩnh Tộ năm thứ hai”. Như thế đúng, vì bản Phạm Công Trứ cũng chép năm sau, Tân Dậu, là năm Vĩnh Tộ thứ ba.

2858 Bản Lê Hy đã không chép sự kiện có ý nghĩa này.

2859Bản Lê Hy không chép sự kiện này.

2860 Bản Lê Hy không chép sự kiện này.

2861 Bản Lê Hy không chép sự kiện này.

2862 Bản Lê Hy không chép sự kiện này.

2863 Bản Lê Hy không chép sự kiện này.

2864 Nguyên văn là “Hoành Đình Xứ”.

2865 Nguyên văn là “ngự tiền”.

2866 Những chi tiết này không có trong bản Lê Hy.

2867 Bản Lê Hy lại chép rằng chính chúa truyền Sĩ Lâm sai người chặt chân Xuân cho chết đi.

2868 Bản Lê Hy không chép tên 19 con của Trịnh Tùng ở đây.

2869 Bản Nội các quan bản cũng chép là Hiệp quận công như bản Phạm Công Trứ, trong khi các bản Quốc tử giám tàng bản đều chép là Trị quận công.

2870 Bản Lê Hy chép là tháng 7.

2871 Bản Lê Hy chép là Gia Lâm.

2872 Bản Lê Hy không chép những sự kiện này.

2873 Bản Lê Hy không chép những sự kiện này.

2874 Bản Lê Hy không chép những sự kiện này.

2875 Bản Lê Hy không chép những sự kiện này.

2876 Bản Lê Hy không chép việc này vào ngày 11 tháng 11 năm Vĩnh Tộ thứ 5 (1623) như vậy là phong cho con trước khi truy phong cho bố.

2877 Xiêm quẻ Khôn: ý nói vua đối đãi tốt với bầy tôi.

2878 Mệnh quẻ Sư: ban cho tước mệnh.

2879 Nguyễn Hắc là cháu nội Nguyễn Hoàng, được lưu lại ở Đàng Ngoài.

2880 Bản Lê Hy không chép các sự kiện này.

2881 Bản Lê Hy không chép các sự kiện này.

2882 Bản Lê Hy không chép các sự kiện này.

2883 Thượng Tiến: lễ dâng vua; Thưởng Tiên: lễ cơm mới; Tiết liệu: lễ sắm tết.

2884 Cung tiến: lễ dâng lên chúa; Kỵ thời: ngày mất của vua, chúa; Sinh nhật: ngày sinh của vua, chúa.

2885 Giáo phường: phường hát.

2886 Cả đoạn này không có trong bản Lê Hy. Lịch triều hiến chương loại chí (Quốc dụng chí) của Phan Huy Chú có chép.

2887 Trong năm Ất Sửu (Vĩnh Tộ thứ 7, 1627), bản Lê Hy chỉ chép sự kiện tháng 8 này, còn các sự kiện khác đều không chép.

2888 Bản Lê Hy không chép.

2889 Bản Lê Hy không chép.

2890 Bản Lê Hy không chép.

2891 Bản Lê Hy không chép.

2892 Cưu cánh: loài chim ác, ăn thịt mẹ cánh: loài thú ác, ăn thịt bố. Cưu cánh có nghĩa bóng là những người ác, quên ơn cha mẹ.

2893 Bản Lê Hy tóm tắt cuộc chiến tranh này trong vài dòng.

2894 Bản Lê Hy không chép.

2895 Bản Lê Hy không chép.

2896 Bản Lê Hy không chép.

2897 Bản Lê Hy không chép.

2898 Bản Lê Hy không chép.

2899 Bản Lê Hy không chép.

2900 Bản Lê Hy không chép.

2901 Chỉ Nguyễn Kim.

2902 Chỉ Nguyễn Hoàng.

2903 Bản Lê Hy không chép sự kiện này.

2904 Bản Lê Hy không chép là Vĩnh Tộ thứ 11, từ tháng 4 về sau là Đức Long năm đầu.

2905 Đặng Huấn sinh ra Đặng Thị Ngọc Dao là mẹ Trịnh Tráng (theo Đặng gia phả ký). Bản Lê Hy không chép việc này.

2906 Tên là Trịnh Thị Ngọc Trúc.

2907 Bản Lê Hy chép Lê Trụ là chú họ vua, bị giam vào ngục, nhưng không nói là vì tội gì.

2908 Bản Nội các quan bản cũng chép là Cao Ty như ở đây, trong khi các bản Quốc tử giám tàng bản đều chép là Cao Khả.

2909 Bản Lê Hy không chép việc này.

2910 Bản Lê Hy không chép.

2911 Bản Lê Hy không chép.

2912 Bản Lê Hy không chép.

2913 Bản Lê Hy không chép.

2914 Tờ 18a và 18b ở bản in của Phạm Công Trứ bị mất do đóng lầm tờ 18a và 18b của quyển XXII vào. Vì vậy ở đây chúng tôi tạm lấy đoạn văn tương ứng ở một bản chép tay (ký hiệu A4 ở Viện Hán Nôm) thay thế vào; đến tờ 19a lại tiếp tục dịch theo bản in của Phạm Công Trứ.

2915 Bản Lê Hy chép rõ: Trần Vĩ làm Tả thị lang. Đỗ Khắc Kính làm Hữu thị lang.

2916 Bản Lê Hy chép tóm tắt việc đánh quân Nguyễn trong một câu.

2917 Bản Lê Hy không chép các sự kiện này.

2918 Bản Lê Hy không chép.

2919 Bản Lê Hy không chép.

2920 Bản Lê Hy ghi năm này là Đức Long năm thứ 7 và chú thích là từ tháng 10 đổi niên hiệu là Dương Hoà.

2921 Bản Lê Hy không chép.

2922 Bản Lê Hy không chép.

2923 Bản Lê Hy chép sự kiện này nhưng không có đoạn chú thích.

2924 Bản Lê Hy không chép.

2925 Bản Lê Hy không chép.

2926 Bản Lê Hy không chép

2927 Bản Lê Hy không chép.

2928 Bản Lê Hy không chép.

2929 Bản Lê Hy không chép là sớ của Nguyễn Duy Hiểu.

2930 Bản Lê Hy không chép.

2931 Bản Lê Hy không chép.

2932 Bản Lê Hy không chép.

2933 Bản Lê Hy không chép.

2934 Bản Lê Hy chép đúng là Minh Sùng Trinh năm thứ 15.

2935 Bản Lê Hy không chép.

2936 Bản Lê Hy không chép.

2937 Bản Lê Hy không chép.

2938 Bản Lê Hy không chép.

2939 Bản Lê Hy chép đúng là Minh Sùng Trinh năm thứ 16.

2940 Bản Lê Hy không chép.

2941 Bản Lê Hy không chép.

2942 Bản Lê Hy không chép.

2943 Bản Lê Hy không chép.

2944 Bản Lê Hy không chép đoạn cuối.

2945 Bản Lê Hy không chép.

2946 Bản Lê Hy không chép.

2947 Bản Lê Hy không chép. Quyển XXI bản Phạm Công Trứ kết thúc ở đây.

Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Tục Biên – Quyển XXII [2948]

[Ất Dậu, Thịnh Đức năm thứ 3 [1655], (Minh Lịch năm thứ 9, Thanh Thuận Trị năm thứ 12)].

[18a] [Phạm Công] Trứ tiến cử Lê Thì Hiến có tài làm tướng, có thể đảm đương một phương diện, không nên vì thất bại trước mà bỏ ông ta2949 . Bèn dùng lại, sai theo đi đánh. Các tướng tiến đến Kỳ Hoa, quân giặc tự rút lui.

Tháng 11, [Trịnh] Toàn, [Đào] Quan Nhiêu, [Lê] Hữu Đức rút quân về Yên Trường. Tây Định Vương [Trịnh Tạc] rút quân về kinh sư; để [Vũ] Văn Thiêm ở lại làm trấn thủ, Dương Hồ làm Đốc thị, [Đào] Quang Nhiêu làm Đồn thủ, [Phan] Hưng Tạo làm Đốc thị, đều thống lĩnh quân sĩ sở thuộc đóng ở Yên Trường. Lại sai Nanh quận công Thân Văn Quanh, Lại quận công Mẫn Văn Liên, Cai đội Nguyễn Như Khuê, Lê Văn Tiến, Lê Văn Hy đóng đồn ở xã Tiếp Vũ huyện Thiên Lộc; Lăng quận công Nguyễn Thế Thì đóng đồn ở Minh Lương.

Tháng 12, gia phong Trịnh Toàn làm Thiếu Bảo, mở quân doanh Tả dực nội.

Bính Thân, [Thịnh Đức] năm thứ 4 [1656], (Minh Vĩnh Lịch năm thứ 10, Thanh Thuận Trị năm thứ 13).

Mùa xuân, tháng giêng, quân Thuận Hóa đánh úp đồn của Tiếp Vũ [18b]. Bọn Thân Văn Quanh thua chạy. Giặc kéo ra sông Tam Chế, sáp vào đánh quân thủy.

Vũ Công Quang ra sức chống đánh, Lê Sĩ Hậu tiếp cứu, đánh phá được. Vũ Văn Thiêm sai Phạm Công Thắng lên bờ xáp đánh, chém được ngà voi. Bàn công, thăng Sĩ Hậu làm Đề đốc; Công Quang làm Tham đốc, tước hầu.

Sai Trịnh Toàn thống lĩnh các tướng, trấn giữ Nghệ An. Bọn Văn Thiêm, Quang Nhiêu đều thuộc dưới quyền. Lấy Đô cấp sự Ngô Sĩ Vinh, Cấp sự Vũ Vinh Tiến làm Đốc thị. Tháng 2, Tham tụng thượng thư bộ Binh là Liêm quận công Đặng Thế Khoa mất. Thế Khoa có văn học, mưu trí, giữ mình thanh liêm kiệm ước, cửa nhà không mảy may… (mất một chữ). Thọ 64 tuổi tặng Thiếu bảo, gia phong là Phúc thần2950 . Mùa hạ tháng 5, thuyền giặc vào cửa biển Nam Giới đánh úp thủy quân. Bọn Lê Sĩ Hậu, Nguyễn Hữu Sắc, Bùi Sĩ Lương, Thái Bá …2951 .


[2948] Quyển XXII chỉ có tờ 18 bị đóng nhầm vào vị trí tờ 18 quyển XXI.

[2949] Bản Lê Hy không chép, nhưng ý này có trong Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí) của Phan Huy Chú, đoạn nói về Lê Thì Hiến.

[2950] Bản Lê Hy không chép sự kiện này.

[2951] Tờ 18b kết thúc giữa câu với từ Bá.

Giới thiệu tác phẩm “Thủy Hử”

Thủy hử hay Thủy hử truyện (水滸傳), nghĩa đen là “bến nước”, là một tác phẩm trong bốn tác phẩm lớn của văn học cổ điển Trung Hoa, thường gọi là nhóm Tứ đại danh tác (Ba bộ còn lại là Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tây Du Ký, Hồng Lâu Mộng). Tác giả Thủy hử thường ghi là Thi Nại Am. Truyện được viết dựa theo sách Đại Tống Tuyên Hòa di sự. Cốt truyện chính là sự hình thành và những thành tích của một nhóm người chống triều đình nhà Tống mà trở thành giặc cướp, thường gọi là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.

Là một trong tứ đại danh tác của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Thủy hử truyện của Thi Nại Am làm đắm say biết bao trái tim bạn đọc không chỉ bởi nghệ thuật kết cấu truyện đặc sắc mà hơn hết là ở hình tượng của những bậc anh hùng, hảo hán. Để rồi, qua những hình tượng đó, độc giả thấy được quan niệm về người anh hùng của tác giả Thi Nại Am, một quan niệm vừa mang nét chính thống Nho gia, vừa mang nét dân gian, giang hồ.

Thủy hử có nhiều phiên bản, bản 70 hồi, 100 hồi, 114 hồi, 115 hồi, 120 hồi, 140 hồi,… Theo Lỗ Tấn, có tổng cộng sáu bản Thủy hử, thuộc hai loại: 70 hồi và trên 70 hồi. Trong đó, bản 100 hồi được xem là gần với nguyên tác nhất, với tựa đề ban đầu là Trung nghĩa Thủy hử truyện, nội dung gồm việc các anh hùng Lương Sơn Bạc tụ nghĩa (thường nằm trong khoảng 70 hồi) và bình Liêu đánh Phương Lạp. Bản Thủy hử phổ biến nhất là bản 70 hồi, do Kim Thánh Thán – một nhà phê bình nổi tiếng đời Thanh soạn lại. Kim Thánh Thán đã cắt bỏ hầu hết các nội dung khác, bao gồm việc đánh Liêu và Phương Lạp, chỉnh sửa lại theo quan điểm cá nhân, gia tăng bình luận của bản thân, từ đó tạo thành bản 70 hồi thường thấy ngày nay, gọi là Bình bản Thánh Thán hay Quan bảnKim bản.

Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải

Mục lục

Hồi 1: Vương Giáo Đầu, phủ Duyên lánh gót – Cửu Văn Long, thôn sử ra tay
Hồi 2: Sử Đại Lang nửa đêm đốt trại – Lỗ Đề Hạt giữa chợ giết người
Hồi 3: Triệu Viên Ngoại sửa lại Văn Thù Viện – Lỗ Trí Thâm khua động Ngũ Đài Sơn
Hồi 4: Chàng bé gan kinh hồn nơi ngọc trướng – Chàng to bụng ra sức xóm đào hoa
Hồi 5: Rừng Xích Tòng, Cửu Văn Long ra oai – Chùa Ngõa Quan, Lỗ Trí Thâm phóng lửa
Hồi 6: Hoa Hòa Thượng nhổ bậc gốc thùy dương – Báo Tử Đầu toạ vào nhà Bạch Hổ
Hồi 7: Đất Thương Châu Lâm Giáo Đầu chịu nhục – Rừng Dã Trư Hoa Hòa Thượng xung gan
Hồi 8: Mở cánh cổng Sài Tiến đón tân khách – Thử ngón gậy Lâm Xung hạ Giáo Đầu
Hồi 9: Một mũi dao, moi gan quân tàn ác – Ba chén rượu, say tít cả giang sơn
Hồi 10: Giả dạng giao du; thoát người hảo hán – Đề thơ cảm khái; kết bạn Lương Sơn
Hồi 11: Múa đao thần, Lâm Xung gặp người ngang sức – Bán gươm báo, Dương Chí giết cọp không lông
Hồi 12: Nơi Đông Quách, Cấp Tiên Phong tranh công – Đất Bắc Kinh, Thanh Diện Thú đấu sức
Hồi 13: Xích Phát Quỷ say nằm Linh Quan Điện – Tiểu Thiên Vương nghĩa nhận Đông Khê Thôn
Hồi 14: Ngô Học Cứu thuyết ba chàng Nguyễn – Công Tôn Thắng ưng bảy vì sao
Hồi 15: Tải kim ngân, Dương Chí vâng mệnh – Cướp lễ vật, Ngô Dụng dùng mưu
Hồi 16: Đánh chén không tiền gặp tay đao quỷ – Trói sư lập mẹo cướp núi Nhị Long
Hồi 17: Mỹ Nhiêm Công dùng mẹo lừa Sáp Sí Hổ – Tống Công Minh vì tình thả Tiều Thiên Vương
Hồi 18: Lâm Xung đốt cháy nơi Thủy Bạc – Tiều Cái cướp lấy vũng Lương Sơn
Hồi 19: Vì nghĩa chung, Tiều Cái lên ngôi chủ trại – Đền ơn cả, Lưu Đường rảo bước đêm trăng
Hồi 20: Diêm Bà say đánh Đường Ngưu Nhị – Tống Giang giận chém Diêm Bà Tích
Hồi 21: Hùa đảng gian dâm, trước nơi cửa huyện – Tha người hiếu nghĩa, trong chốn nhà hầm
Hồi 22: Quận Hoành Hải, Sài Tiến tiếp tân – Núi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ
Hồi 23: Gặp anh em thỏa lòng hòa thuận – Lừa Trai gái ghét giống gian dâm
Hồi 24: Bày mưu gian, bợm già dỗ khách – Ham tình dục, gái đĩ giết chồng
Hồi 25: Cửu Thúc giấu xương chờ khách hiệp – Võ Tòng giết chị tế hồn anh
Hồi 26: Đường Mạnh Châu, Mẫu Dạ Thoa bán thịt người – Bờ Thập Tự, Võ Đô Đầu gặp hảo hán
Hồi 27: Cự mặt Quản Doanh, anh tù cứng cổ – Mộ danh hảo hán, cậu trẻ ra ân
Hồi 28: Trại Bình An, lạy cầu có nghĩa sĩ – Rừng Khoái Hoạt say đánh Tưởng Môn Thần
Hồi 29: Thi Ân ba phen vào lao ngục – Võ Tòng một phen náo phi vân
Hồi 30: Trăng sáng mài dao, báo oán giết nhà Đô Giám – Trời đêm lánh nạn, giả sư qua núi Ngô Công
Hồi 31: Võ Hành Giả say rượu bị bắt – Tống Công Minh gặp nạn được tha
Hồi 32: Xem Ngao Sơn Tống Giang bị bắt – Náo Phong Trại Hoa Vinh báo thù
Hồi 33: Đường Thanh Châu, Trấn Tam Sơn ra sức – Núi Thanh Phong, Tịch Lịch Hỏa mắc mưu
Hồi 34: Nơi lữ điếm, Thạch Dũng đưa thư – Vũng Lương Sơn, Hoa Vinh bắn nhạn
Hồi 35: Vũng Lương Sơn, Ngô Dụng cử Đới Tung – Núi Yết Dương, Tống Giang gặp Lý Tuấn
Hồi 36: Bến Tầm Dương canh khuya mắc nạn – Nơi Giang Phủ đất khách rời chân
Hồi 37: Tống Giang cười nói gợi tức Đới Tung – Lý Quỳ hung hăng đánh với Trương Thuận
Hồi 38: Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết – Chốn Lương Sơn nghe nỗi kinh hoàng
Hồi 39: Cướp nghĩa đảng – Anh hùng mến anh hùng
Hồi 40: Tống Giang mưu đánh Quân Vô Vị – Trương Thuận bắt sống Hoàng Văn Bính
Hồi 41: Hoàn đạo đồn, nhận ba quyền thiên thư – Tống Công Minh gặp Cửu Thiên Huyền Nữ
Hồi 42: Thương mẫu thân, Lý Quỳ giết bốn hổ – Cứu đồng đảng, Chu Quý dốc một lòng
Hồi 43: Cẩm Bảo Tử ngõ hẻm gặp Đới Tung – Bệnh Quan Sách, dương oai gặp Thạch Tú
Hồi 44: Phòng riêng ton tót, Dương Hùng gặp gái voi dày – Đêm vắng xông pha, Thạch Tú giết sư hổ lửa
Hồi 45: Núi Thúy Bình, Dương Hùng giết vợ – Điếm Chúc Gia, Thạch Tú đốt nhà
Hồi 46: Quỷ Kiểm Nhĩ nhờ thân giúp bạn – Tống Công Minh nổi giận dấy binh
Hồi 47: Bắt Nụy Hổ, nữ tướng ra côn – Đánh Chúc Gia, quân sư xuống cứu
Hồi 48: Mắc mẹo gian, Giải Bảo, Giải Trân phá ngục – Bầy mưu khéo, Tôn Lập, Tôn Lân cướp lao
Hồi 49: Bày kế liên hoàn, phá nhà Hổ, Chúc – Kéo cờ thắng trận, về trại Lương Sơn
Hồi 50: Sáp Sí Hổ vác gông đánh chết ả đào – Mỹ nhiêm Công mắc mưu mất toi cậu ấm
Hồi 51: Lý Quỳ đánh chết Ân Thiên Tích – Sài Tiến bị hãm Cao Đường Châu
Hồi 52: Đới Tung vâng mệnh, tìm Công Tôn Thắng – Lý Quỳ sốt ruột, chém La Chân Nhân
Hồi 53: Nhập Vân Long đấu phép phá Cao Liêm – Hắc Toàn Phong xuống giếng cứu Sài Tiến
Hồi 54: Cao Thái Úy huy động quân Ba Lộ – Hô Duyên Chước dàn trận ngựa Liên Hoàn
Hồi 55: Ngô Dụng sai Thời Thiên cắp bảo giáp – Thang Long lừa Từ Ninh tới Lương Sơn
Hồi 56: Từ Ninh dạy phép Cân Liêm Sang – Tống Giang phá trận Liên Hoàn Mã
Hồi 57: Họp Tam Sơn, đánh phủ Thanh Châu – Kết đồng tâm, về nơi Thủy Bạc
Hồi 58: Miếu Tây Nhạc, giả danh Thái Úy – Đất Hoa Sơn cứu bạn anh hùng
Hồi 59: Núi Mang Đãng, Công Tôn làm phép – Chợ Tăng Đầu, Tiều Cái trúng tên
Hồi 60: Lừa Ngọc Kỳ Lân Ngô Dụng lập mẹo – Quấy Kim Sa Đọ Trương Thuận trổ tài
Hồi 61: Bắn lãnh tiễn Yến Thanh cứu chúa – Cướp pháp trường Thạch Tú thi gan.
Hồi 62: Tống Giang đến đánh Đại Danh thành – Quan Thắng bàn phá Lương Sơn Bạc
Hồi 63: Đêm trăng Duyên Chước lừa Quan Thắng – Trời tuyết Công Minh bắt Sách Siêu
Hồi 64: Thác Tháp Thiên Vương, trong mơ hiển thánh – Lãng Lý Bạch Điều, dưới nước báo oán
Hồi 65: Đốt Thuý Vân Lâu, Thời Thiên vâng lệnh – Phá Đại Danh Phủ, Ngô Dụng lập công
Hồi 66: Về Sơn Bạc Tống Giang khao thưởng ba quân – Đến Lăng Châu Quan Thắng chiêu hàng hai tướng
Hồi 67: Tống Công Minh đánh phá Tăng Đầu Thị – Lư Tuấn Nghĩa bắt sống Sử Văn Cung
Hồi 68: Tới Đông Bình Phủ, Sử Văn Long mắc nạn – Bắt Song Thương Tướng, Tống Công Minh lập công
Hồi 69: Một Vũ Tiễn ném đá đánh anh hùng – Tống Công Minh bỏ lương bắt tráng sĩ
Hồi 70: Nhà Trung Nghĩa, bia đá nổi hàng văn – Vụng Lương Sơn, bạn vàng kinh giấc mộng

Giới thiệu tác phẩm “Tây Du ký”

Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là tác phẩm đúc kết lên một triết lí nhân sinh, rằng con người có thể chinh phục mọi thứ nếu có sự đoàn kết, ý chí và sức mạnh.

Về tác giả Ngô Thừa Ân

Ngô Thừa Ân (1500 hoặc 1506 – 1581), tự Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương Sơn Nhân, là một tác giả văn học Trung Quốc, sống vào đời Minh.Ông sinh tại Hoài An, tỉnh Giang Tô. Gia đình ông làm nghề buôn bán nhỏ, chuyên bán chỉ và đồ thêu, nhưng lại có thú tàng trữ sách. Cả ông nội và cha Ngô Thừa Ân đều xuất thân là quan lại qua con đường khoa cử.

Ông học tại Nam Kinh Thái học (Đại học Nam Kinh cổ) trong hơn 10 năm. Theo tương truyền, Ngô Thừa Ân từ nhỏ đã say mê những truyện thần tiên yêu quái. Khi bị cha cấm, ông từng trốn cha mang những cuốn sách thể loại đó ra chợ ngồi đọc.Lớn lên, ông tỏ ra là người có tính tình khảng khái, những câu nói của ông lúc bấy giờ thể hiện tính cách của ông: “không để người đời thương hại”, “trong lòng mài mãi dao trừ tà, muốn dẹp sạch đi, buồn không đủ sức”. Ngô Thừa Ân nổi tiếng văn hay chữ tốt và rất thích hài kịch. Ông từng viết nhiều tạp kĩ, lừng danh một thời.

Tuy là người đa tài nhưng Ngô Thừa Ân lại lận đận trên đường thi cử. Ngô Thừa Ân thi nhiều lần, nhưng không đỗ. Mãi tới năm khoảng 43 tuổi, ông mới đỗ Tuế cống sinh. Sau đó, ông còn đi thi hai lần nữa nhưng đều hỏng. Năm 51 tuổi, vì cảnh nhà quẫn bách, ông đến Nam Kinh tìm việc nhưng cô thế không có nơi nương tựa nên việc cũng chẳng thành. Mãi đến năm 67 tuổi, ông đến Bắc Kinh để được tuyển dụng làm quan, ông nhận một chức quan nhỏ (huyện thừa) tại huyện Trường Hưng. Chẳng bao lâu sau, vì không chịu được cảnh luồn cúi, ông từ chức ra về.

Ngô Thừa Ân còn được tiến cử vào giữ chức kỉ thiện trong Kinh Vương phủ, chuyên coi việc lễ nhạc và văn thơ, nhưng được 3 năm thì bất đắc chí từ quan về nhà. Lúc đó Ngô Thừa Ân đã 70 tuổi. Từ đây, Ngô Thừa Ân sống bằng nghề viết văn, thơ, được hơn 10 năm thì mất.

Sáng tác của ông khá phong phú, nhưng đã bị mất mát gần hết, do chỉ có một con gái và gia cảnh bần hàn, nên hiện chỉ còn lại một số thơ văn được tập hợp lại thành bộ Xạ Dương tiên sinh tồn cảo gồm 4 quyển.

Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tây du ký viết lúc đã ngoài 70 tuổi. Cuốn tiểu thuyết này được nhiều thế hệ người Trung Quốc yêu thích và là một trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển phổ biến nhất ở Trung Quốc và nhiều quốc gia khác.Đương thời, khi ông còn sống, Tây du ký chưa được người đời biết đến, mãi tới sau khi ông mất nhiều năm, một người cháu ngoại họ Dương mới mang ra công bố tiểu thuyết này.

Về tác phẩm Tây du ký

Tây du ký là một trong những tác phẩm kinh điển trong văn học Trung Hoa. Được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm 1590 và không có bằng chứng trực tiếp còn tồn tại để biết tác giả của nó, nhưng tác phẩm này thường được cho là của học giả Ngô Thừa Ân.

Tác phẩm tổng cộng có một trăm hồi, ra đời vào năm Vạn Lịch thứ 29 (1601), triều Minh. Sau khi Tây du ký xuất hiện, trong giai đoạn này, nhiều tác phẩm tiếp tục đề tài của Tây du ký, nhưng cốt truyện và nhân vật có thay đổi như Hậu tây du kýTục tây du ký và Tây du bổ. Trong đó, đáng chú ý và có giá trị nhất là Hậu tây du ký, không rõ tác giả.

Ngày nay, Tây du ký được xem là tác phẩm văn học đạt đến độ mẫu mực, đứng trong 4 tác phẩm văn học cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa, gọi là Tứ đại danh tác (cùng với Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Nại Am và Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần) .

Trong đó, tiểu thuyết kể về hành trình của Trần Huyền Trang đến Tây Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh. Theo ông là ba đệ tử: Tôn Ngộ Không một tên khỉ do đá sinh ra; Trư Ngộ Năng – một yêu quái nửa người nửa lợn; Sa Ngộ Tĩnh –một thủy quái. Họ đều đồng ý giúp ông thỉnh kinh để chuộc tội. Bên cạnh đó, con ngựa mà Trần Huyền Trang cưỡi cũng là một nhận vật do hoàng tử của Long Vương (Bạch Long Mã) hóa thành. Cụ thể, câu chuyện diễn ra như sau:

Những chương đầu thuật lại những kì công của Tôn Ngộ Không, từ khi ra đời từ một hòn đá ở biển Hoa Đông , xưng vương ởHoa Quả Sơn, tầm sư học đạo, đại náo thiên cung, sau đó bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt trong núi Ngũ Hành 500 năm. Truyện kể lại Huyền Trang trở thành một nhà sư ra sao và được hoàng đế nhà Đường gửi đi thỉnh kinh sau khi hoàng đế thoát chết.

Phần tiếp của câu chuyện kể về các hiểm nguy mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu, trong đó nhiều yêu quái là đồ đệ của các vị Tiên, Phật. Một số yêu tinh muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ họ bằng cách biến thành đàn bà đẹp. Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên, Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa…

Cuối cùng khi đã đến cửa Phật, thầy trò họ lại phải đổi Bát vàng của Hoàng đế Đường Thái Tông tặng để nhận được kinh thật.Đây cũng được tính là một khổ nạn cho bốn thầy trò. Khi qua sông Thông Thiên, Tam Tạng gặp lại Lão Rùa năm xưa chở ông qua ông. Khi đang chở Tam Tạng qua giữa sông, Lão Rùa hỏi Tam Tạng rằng ông có hỏi Phật Tổ giúp lão rằng bao giờ lão tu đắc chính quả không, vì Tam Tạng quên hỏi, nên bị Lão Rùa hất cả bốn thầy trò lẫn kinh văn xuống sông. Kinh văn bị ướt, sau khi phơi khô một số bị rách. Vì vậy, kinh đến Trung thổ không được toàn vẹn. (Nguồn: ĐHKHXH&NV)

Dịch giả: Thụy Đình, Chu Thiên

Mục lục

Chương 1: Khí thiêng kết tụ sanh khỉ đá – Tâm thành tu niệm đạo nhân gian
Chương 2: Phép nhiệm nhờ thầy truyền bí thuật – Tài cao về xứ giết yêu ma
Chương 3: Thiên động ngàn non đều sợ phép – Diêm quang mười cửa thảy kiêng oai
Chương 4: Chức phong Bậc Mã lòng chưa muốn – Hiệu gọi Tề Thiên dạ mới đành
Chương 5: Phá vườn đào, Ðại Thánh trộm linh đơn – Loạn cung trời, chư thần bị bại trận
Chương 6: Quan Âm phó hội hỏi căn do – Tiểu Thánh ra oai trừ Ðại Thánh
Chương 7: Ðại Thánh trốn khỏi lò Bát quái – Thích ca nhốt yêu núi Ngũ hành
Chương 8: Như Lai tạo kinh truyền Cực Lạc – Quan Âm vâng chỉ xuống Tràng An
Chương 9: Dinh Giang Châu, mẹ con gặp gỡ – Sông Hồng Giang, chồng vợ đoàn viên
Chương 10: Long Vương phạm tội Thiên Tào – Ngụy Trưng gởi thơ Âm phủ
Chương 11: Xuống Âm Ti, Thái Tôn huởn sanh – Ði dâng dưa, Lưu Toàn gặp vợ
Chương 12: Trần Huyền Trang làm chay thỉnh Phật – Quan Thế Âm dạy sãi cầu kinh
Chương 13: Nơi Hổ huyệt, Kim Tinh cứu nạn – Lưu Gia Trang, Tam Tạng tụng kinh
Chương 14: Núi Lưỡng giới, thần hầu thoát nạn – Ðường Tây Phương, thầy tớ băng ngàn
Chương 15: Núi Xà Bàn, các thần giúp sức – Suối Ưng Sầu, con ngựa gò cương
Chương 16: Chùa Quan Âm, thầy tu tham báu vật – Núi Hắc Phong, yêu quái trộm Cà sa
Chương 17: Hành Giả đánh yêu ăn trộm – Quan Âm bắt gấu thành tinh
Chương 18: Quan Âm điện, Ðường Tăng khỏi nạn – Cao lão trang, Hành Giả bắt yêu
Chương 19: Vân San động, Ngộ Không thâu Bát Giới – Phù đồ Sơn, Tam Tạng gặp Thiền sư
Chương 20: Tới Huỳnh Phong, Ðường Tăng mắc nạn – Gặp tiên phuông, Bát Giới trổ tài
Chương 21: Hộ Pháp hóa nhà cứu Ðại Thánh – Linh Kiết cho phép bắt Huỳnh Phong
Chương 22: Bát Giới cự chiến sông Lưu Sa – Mộc Tra vâng phép thâu Ngộ Tịnh
Chương 23: Tam Tạng chẳng quên đạo – Tứ Thánh thử lòng thiền
Chương 24: Vạn Thọ sơn, Trấn Ngươn cầm cố hữu – Ngũ Trang am, Hành Giả trộm nhơn sâm
Chương 25: Trấn Nguơn tiên bắt thầy Tam Tạng – Tôn Hành Giả phá viện Ngũ trang
Chương 26: Tôn Ngộ Không non cao tìm thuốc – Quan Thế Âm nước phép cứu cây
Chương 27: Thây ma ba thứ trêu Hòa Thượng – Tam Tạng nhiều phen đuổi Ngộ Không
Chương 28: Núi Hoa quả, quần hầu gặp chúa – Rừng Hắc tòng, Tam Tạng bị yêu
Chương 29: Tam Tạng khỏi tai qua Bửu Tượng – Ngộ Năng vâng chỉ đến rừng sâu
Chương 30: Huỳnh Bào bắt Sa Tăng – Bạch Mã trông Hành Giả
Chương 31: Trư Bát Giới nói khích Hầu vương – Tôn Hành Giả mưu trừ yêu quái
Chương 32: Núi Bình Ðảnh, Công Tào báo tin – Ðộng Liên Hoa, Bát Giới mang họa
Chương 33: Ngân Giác di sơn đè Ðại Thánh – Ngộ Không dụng kế đổi hồ Lô
Chương 34: Chúa yêu giỏi dắn giựt Kim Thằng – Ðại Thánh phỉnh phờ thâu bửu bối
Chương 35: Chúa động bị thâu về với chủ – Ngộ Không đặng báu trả cho Tiên
Chương 36: Vào chùa báu, Ngộ Không dọa sãi – Ngụ am thanh, Tam Tạng xem trăng
Chương 37: Quỷ vương cầu cứu với Ðường Tăng – Hành Giả mách tin cho Thái Tử
Chương 38: Ðông Cung hỏi mẹ, hay tà chánh – Bát Giới cõng thây, biết giả chơn
Chương 39: Một hột thuốc linh trời đã nấy – Ba năm chúa cũ mạng còn dài
Chương 40: Hồng Hài lập kế bắt Ðường tăng – Hành Giả dùng mưu trừ yêu quái
Chương 41: Ngộ Không mắc lửa thiêu – Bát Giới bị yêu bắt
Chương 42: Ðại Thánh ân cần cầu Phật mẫu – Quan Âm nhơn đức trói Hồng Hài
Chương 43: Yêu quái Hắc Hà mưu bắt sải – Ðộng cung Tây Hải tới thâu cù
Chương 44: Ðường Tăng nghe tiếng kinh hồn – Hành Giả đập xe cứu sãi
Chương 45: Miễu Tam Thanh, Ðại Thánh để danh – Nước Xa Tri, Ngộ Không đấu phép
Chương 46: Ðạo sĩ cậy tài khi đạo Phật – Ngộ Không đấp phép hại loài tà
Chương 47: Sông Thông Thiên, thầy trò bị cản – Miễu Linh Cảm, yêu quái tróc vi
Chương 48: Yêu quái hóa tuyết bủa khắp sông – Ðường Tăng cưỡi ngựa đi trên gia
Chương 49: Tam Tạng bị giam trong thủy thạch – Quan Âm thương đến bắt Kim ngư
Chương 50: Nghe tiếng phỉnh phờ, sanh cực khổ – Cãi lời ngay thẳng, bị yêu ma
Chương 51: Thánh Thần có phép còn chưa giỏi – Nước lửa Không Linh rước uổng công
Chương 52: Hành Giả cầu Phật Tổ – Lão quân bắt chúa yêu
Chương 53: Sải uống nước sông mà có chữa – Thần cho dòng suối giải không thai
Chương 54: Rửa sạch ruột gan mình cũng sạch – Giống hung thì có thứ trừ hung
Chương 55: Gái yêu ép uổng điều trăng gió – Sải thánh dốc gìn nết đá vàng
Chương 56: Hành Giả trừ chánh đảng – Tam Tạng đuổi Ngộ Không
Chương 57: Qua Nam Hải, Tề Thiên trình Bồ Tát – Tại Thủy Liêm, bầy khỉ giả Ngộ Không
Chương 58: Hai hình Hành Giả mờ trời đất – Một tiếng Như Lai rõ chánh tà
Chương 59: Thương thầy Tam Tạng, gặp Hỏa Diệm sơn – Lầm quạt Ba tiêu, cười Tôn Hành Giả
Chương 60: Ngưu Ma Vương vào non Loạn Thạch – Tôn Ngộ Không lấy quạt Ba Tiêu
Chương 61: Ngưu Ma vương giả hình Bát Giới – Tôn Ngộ Không mất quạt Ba Tiêu
Chương 62: Tam Tạng có lòng quét tháp – Ngộ Không gặp dịp bắt yêu
Chương 63: Hai thầy đánh quái vỡ long cung – Các thành trừ yêu thâu bửu bối
Chương 64: Núi Kinh Cát , Ngộ Không ra sức – Am Mộ Tiên , Tam Tạng ngâm thơ
Chương 65: Loài yêu riêng giả Lôi Âm nhỏ – Các sải đồng vương ách nạn lo
Chương 66: Chư thần lâm hoạn nạn – Di Lặc trói yêu tinh
Chương 67: Trổ tài, Ngộ Không trừ rắn độc – Ra công, Bát Giới ủi đồ Dơ
Chương 68: Châu Tử vương treo bảng cầu thầy Tôn Hành Giả trỗ tài làm thuốc
Chương 69: Tôn Hành Giã ban đêm hiệp thuốc Châu Tử vương trong tiệc luận yêu
Chương 70: Yêu ma hóa phép gió cát vang – Ngộ Không ăn cắp lục lạc lửa
Chương 71: Hành Giả mượn danh trừ yêu quái – Quan Âm xuống động bắt yêu vương
Chương 72: Ðộng Bảng Tư, Thất Tinh bắt sãi – Suối Trạt Cấu, Bát Giới khuấy yêu
Chương 73: Bảy yêu quái báo cừu độc hiểm – Ba thầy trò bị thuốc mê mang
Chương 74: Trường Canh giả dạng đem tin quỷ – Hành Giả trổ tài hóa phép linh
Chương 75: Ngộ Không khoan bửu bình – Chúa động nhốt Ðại Thánh
Chương 76: Tề Thiên khuấy ruột gan – Bát Giới bị yêu quái
Chương 77: Chúa yêu bắt Tam Tạng – Hành Giả viện Như Lai
Chương 78: Sai Ðồng làm tổ cứu đồng nhi – Giảng đạo cứu vua thành Tiểu tử
Chương 79: Phá động đánh yêu cho Lão Thọ – Ðến trào giúp chúa cứu con thơ
Chương 80: Gái ma giả dạng cầu đôi lứa – Sải thánh cao tài biết phải chăng
Chương 81: Chùa Trấn Hải, Ngộ Không đánh quỷ – Rừng Hắc Tòng, TamTạng bị tinh
Chương 82: Thử Tinh ép Ðường Tăng – Hành Giả cứu Sư Phụ
Chương 83: Tề Thiên kiện Lý Tịnh – Na Tra bắt nữ yêu
Chương 84: Quan Âm mách miệng cứu Ðường Tăng – Hành Giả cạo đầu vua Diệt Pháp
Chương 85: Ngộ Không gạt Bát Giới – Lão quái bắt Ðường Tăng
Chương 86: Bát Giới trợ oai trừ lũ quái – Ngộ Không hóa phép trị loài yêu
Chương 87: Quân Phụng Tiên, khinh trời bị hạn – Sải Ngộ Không, cứu thế cầu mưa
Chương 88: Ngọc Hoa cầu sải thánh – Hòa Thượng dạy học trò
Chương 89: Huỳnh Sư tinh tập Ðinh Ba hội – Tôn Ngộ Không đánh Báo Ðầu sơn
Chương 90: Sư tử với thiên sư về một động – Ðạo đồ Cùng vương đạo rẽ hai phe
Chương 91: Bốn thầy ngoài tiệc, ăn uống vui say – Một ả trong phòng, điểm trang chải chuốt
Chương 92: Ba sải cả đánh Thanh Long sơn – Bốn sao giúp bắt Tê Ngưu quái
Chương 93: Ghé Cô viên, hỏi dọ nhằm thầy – Ðến Thiên Trúc, đi chầu gặp nộm
Chương 94: Phủ Kim Bình, Ngươn Dạ xem đèn – Cầu Kim Ðăng, Ðường Tăng bị bắt
Chương 95: Hành Giả biết yêu, trừ Ngọc Thố – Thiên Bồng nhớ tật, níu Hằng Nga
Chương 96: Khấu Viên ngoại ưa đãi thầy tu Ðường Trưởng lão chẳng màn của cúng
Chương 97: Tam Tạng bị vụ ăn cướp – Ngộ Không cãi tử hồi sinh
Chương 98: Ðộc Mộc kiều, Tiếp Dẫn đưa đò Lăng Văn Ðộ, Ðường Tăng bỏ xác
Chương 99: Mười mấy năm trời qua Cực lạc Tám ngày phép Phật tới Trường An
Chương 100: Tam Tạng thỉnh kinh về Ðông Ðộ Năm thánh hưởng phước tại Tây Phương

Giới thiệu tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa”

Tam quốc diễn nghĩa (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: sān guó yǎn yì), nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một tiểu thuyết về lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14 (đời Minh), kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (190–280) với 120 chương hồi, kết hợp giữa sự thật lịch sử và các truyện kể dân gian theo phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu).

Tiểu thuyết này được xem là một trong Tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc (3 bộ còn lại là: Thủy Hử, Tây Du Ký, Hồng Lâu Mộng).

Dịch giả: Phan Kế Bính

Mục lục

HỒI 1: Tiệc vườn đào, anh hùng kết nghĩa – Chém Khăn Vàng, hào kiệt lập công
HỒI 2: Trương Dực Đức giận đánh đốc bưu – Hà Quốc Cữu mưu giết quan hoạn
HỒI 3: Tiệc Ôn Minh, Đổng Trác mắng Đinh Nguyên – Dùng vàng bạc, Lý Túc dụ Lã Bố
HỒI 4: Phế Hán Đế, Trần Lưu lên ngôi – Lừa Đổng tặc, Mạnh Đức dâng kiếm
HỒI 5: Phát hiệu triệu, các trấn hưởng ứng Tào Công – Phá cửa quan, ba anh hùng đánh Lã Bố
HỒI 6: Đốt Kim Quyết, Đổng Trác làm càn – Giấu ngọc tỉ, Tôn Kiên trái ước
HỒI 7: Viên Thiệu qua cầu đánh Công Tôn – Tôn Kiên sang sông đá Lưu Biểu
HỒI 8: Vương tư đồ khéo dụng liên hoàn kế – Đổng thừa tướng náo động Phụng Nghi Đình
HỒI 9: Trừ hung bạo, Lã Bố giúp Tư đồ – Chiếm Trường An, Lý Thôi nghe Giả Hủ
HỒI 10: Giúp nhà vua, Mã Đằng khởi nghĩa – Báo thù Bố, Tào Tháo cất quân
HỒI 11: Lưu hoàng thúc cứu Khổng Dung ở Bắc Hải – Lã Ôn Hầu phá Tào Tháo thành Bộc Dương
HỒI 12: Đào Cung Tổ ba lần nhượng Từ Châu – Tào Mạnh Đức một phen đánh Lã Bố
HỒI 13: Lý Thôi, Quách Dĩ một trận giao tranh – Dương Phụng, Đổng Thừa hai lần cứu giá
HỒI 14: Tào Mạnh Đức rời giá đến Hứa Đô – Lã Phụng Tiên đang đêm cướp Từ Quận
HỒI 15: Thái Sử Từ ham đả Tiểu Bá Vương – Tôn Bá Phù hăng đánh Nghiêm Bạch Hổ
HỒI 16: Cửa nha môn, Phụng Tiên bắn kích – Sông Vị Thủy, Mạnh Đức thua quân
HỒI 17: Viên Công Lộ cất bảy cánh quân – Tào Mạnh Đức gặp ba ông tướng
HỒI 18: Giả Văn Hòa liệu kế đánh thắng giặc – Hạ Hầu Đôn rút tên nuốt con ngươi
HỒI 19: Thành Hạ Phí, Tào Tháo dùng binh – Lầu Bạch Môn, Lã Bố tuyệt mệnh
HỒI 20: Tào A Man ra săn ruộng Hứa Điền – Đổng quốc cữu vâng chiếu trong nội các
HỒI 21: Tào Tháo uống rượu luận anh hùng – Quan Công lừa mưu giết Xa Trụ
HỒI 22: Viên, Tào đều cất ba quân mã bộ – Quan, Trương cùng bắt hai tướng Vương, Lưu
HỒI 23: Nễ Chính Bình khỏa thân mắng giặc – Cát Thái Y đầu độc bị hình
HỒI 24: Quốc tặc hành hung giết quý phi – Hoàng thúc thua chạy sang Viên Thiệu
HỒI 25: Đóng Thổ Sơn, Quan Công giao ước ba việc – Cứu Bạch Mã, Tào Tháo thoát khỏi vòng vây
HỒI 26: Viên Bản Sơ hao binh tổn tướng – Quan Vân Trường treo ấn gói vàng
HỒI 27: Mỹ Nhiệm Công cưỡi một ngựa bay nghìn dặm – Hán Thọ Hầu chém sáu tướng phá năm quan
HỒI 28: Chém Sái Dương, anh em hòa giải – Hội Cổ Thành, vua tôi tụ nghĩa
HỒI 29: Tiểu Bá Vương giận chém Vu Cát – Ngô Tôn Quyền ngồi lĩnh Giang Đông
HỒI 30: Đánh Quan Độ, Bản Sơ bại trận – Cướp Ô Sào, Mạnh Đức đốt lương
HỒI 31: Tào Tháo ở Thương Đình, phá vỡ Bản Sơ – Huyền Đức sang Kinh Châu, nương nhờ Lưu Biểu
HỒI 32: Cướp Ký Châu, Viên Thượng tranh hùng – Khơi sông Chương, Hứa Du hiến kế
HỒI 33: Tào Phi nhân loạn lấy Châu Thị – Quách Gia dặn kế định Liêu Đông
HỒI 34: Sái phu nhân nấp nghe chuyện kín – Lưu hoàng thúc nhảy ngựa Đàn Khê
HỒI 35: Huyền Đức qua Nam Chương, gặp người ẩn dật – Đan Phúc đến Tân Dã, tiếp chúa anh minh
HỒI 36: Huyền Đức dùng mẹo đánh úp Phàn Thành – Nguyên Trực tế ngựa tiến cử Gia Cát
HỒI 37: Tư Mã Huy hai lần tiến cử danh sĩ – Lưu Huyền Đức ba lượt đến tận lều tranh
HỒI 38: Long Trung quyết kế thiên hạ chia ba – Tôn thị báo thù, Trường Giang đại chiến
HỒI 39: Thành Kinh Châu, công tử ba lần cầu kế – Gò Bác Vọng, quân sư bắt đầu dùng binh
HỒI 40: Sái phu nhân bàn hiến Ký Châu – Gia Cát Lượng hỏa thiêu Tân Dã
HỒI 41: Lưu Huyền Đức đưa dân qua sông – Triệu Tử Long một ngựa cứu chúa
HỒI 42: Trương Dực Đức đại náo cầu Trường Bản – Lưu Dự Châu thua chạy cửa Hán Tân
HỒI 43: Gia Cát Lượng khua lưỡi bẻ bọn nho – Lỗ Tử Kính dùng sức bác lời chúng
HỒI 44: Khổng Minh dùng kế khích Chu Du – Tôn Quyền quyết mưu đánh Tào Tháo
HỒI 45: Cửa Tam Giang, Tào Tháo hao binh – Hội quần anh, Tưởng Cán mắc mẹo
HỒI 46: Dùng chước lạ, Khổng Minh mượn tên – Dâng kế mật, Hoàng Cái chịu nhục
HỒI 47: Hám Trạch mật dâng thư giả hàng – Bàng Thống khéo dùng liên hoàn kế
HỒI 48: Mở tiệc yến, Tào Tháo ngâm thơ – Khóa chiến thuyền, bắc quân dùng võ
HỒI 49: Đàn thất tinh, Gia Cát cầu phong – Cửa Tam Giang, Chu Du phóng hỏa
HỒI 50: Gia Cát Lượng khéo tình đường Hoa Dung – Quan Vân Trường vì nghĩa tha Tào Tháo
HỒI 51: Tào Nhân đại chiến quân Đông Ngô – Khổng Minh chọc tức Chu Công Cẩn
HỒI 52: Gia Cát Lượng chối từ Lỗ Túc – Triệu Tử Long lừa mẹo lấy Quế Dương
HỒI 53: Quan Vân Trường tha Hoàng Trung không giết – Tôn Trọng Mưu đánh Trương Liêu bị thua
Hồi 54: Ngô Quốc Thái đến chùa xem rể hiền – Lưu hoàng thúc động phòng cưới vợ mới
HỒI 55: Huyền Đức khéo léo, nói khích Tôn phu nhân – Khổng Minh hai phen trêu tức Chu Công Cẩn
HỒI 56: Tào Tháo mở tiệc mừng đài Đổng Tước – Khổng Minh Ba lần trêu tức Chu Du
HỒI 57: Cửa Sài Tang, Ngọa Long đến viếng tang – Huyện Lỗi Dương, Phượng Sồ quản công việc
HỒI 58: Mã Mạnh Khởi cất quân báo thù – Tào A Man cắt râu, vứt áo
HỒI 59: Hứa Chử cởi trần đánh Mã Siêu – Tào Tháo xóa thư lừa Hàn Toại
HỒI 60: Trương Vĩnh Niên hỏi vặn Dương Thu – Bàng Sĩ Nguyên bàn lấy Tây Thục
HỒI 61: Triệu Vân chặn sông giằng A Đẩu – Tôn Quyền đưa thư đánh lui Tào Man
HỒI 62: Giữ Bổi Quan, Dương, Cao nộp mạng – Đánh Lạc Thành, Hoàng, Ngụy tranh công
HỒI 63: Gia Cát Lượng đau lòng khóc Bàng Thống – Trương Dực Đức vì nghĩa tha Nghiêm Nhan
HỒI 64: Khổng Minh dùng mẹo bắt Trương Nhiệm – Dương Phụ mượn quân phá Mã Siêu
HỒI 65: Mã Siêu đại chiến cửa Hà Manh – Huyền Đức nhận chức được đất Tây Thục
HỒI 66: Quan Vân Trường một đao tới hội – Phục hoàng hậu vì nước bỏ mình
HỒI 67: Bình Hán Trung, Tào Tháo thành công – Bến Tiêu Diêu, Trương Liêu khét tiếng
HỒI 68: Cam Ninh trăm kị cướp Ngụy doanh – Tả Từ quăng chén đùa Tào Tháo
HỒI 69: Bói Chu Dịch, Quản Lộ biết cơ – Đánh Tào Man, năm người tử tiết
HỒI 70: TrươngPhi khỏe, dùng mưu lấy Ngõa Khẩu Ải – Hoàng Trung già, bày kế đoạt Thiên Đăng Sơn
HỒI 71: Chiếm Đối Sơn, Hoàng Trung sức nhàn thắng sức mỏi – Giữ Hán Thủy, Triệu Vân quân ít phá quân nhiều
HỒI 72: Gia Cát Lượng dùng mẹo lấy Hán Trung – Tào A Man thu quân về Tà Cốc
HỒI 73: Huyền Đức lên ngôi Hán Trung Vương – Vân Trường đánh chiếm Tương Dương quận
HỒI 74: Bàng Đức mang áo quan, quyết trận tử chiến – Quan Công khơi dòng nước, tràn ngập bảy đạo quân
HỒI 75: Quan Vân Trường cạo xương chữa thuốc – Lã Tử Minh áo trắng sang đò
HỒI 76: Từ Công Minh đánh đến Miện Thủy – Quan Vân Trường thua chạy ra Mạch Thành
HỒI 77: Núi Ngọc Toàn, Quan Công hiển thánh – Thành Lạc Dương, Tào Tháo cảm thần
HỒI 78: Chữa bệnh nhức đầu, hại thân thầy thuốc – Trối trăn truyền lại, hết số gian hùng
HỒI 79: Anh chẹt em, Tào Thực ngâm thơ – Cháu hại chú, Lưu Phong chịu tội
HỒI 80: Tào phi bỏ Hiến Đế, cướp vận Viêm Lưu – Hán Vương lên ngôi rồng, nối dòng đại thống
HỒI 81: Vội báo thù, Trương Phi bị hại – Mong rửa hận, tiên chủ cất quân
HỒI 82: Tôn Quyền hàng Ngụy, chịu cửu tích – Tiên chủ đánh Ngô, thưởng sáu quân
HỒI 83: Đánh Hào Đình, tiên chủ bắt được thù nhân – Giữ Giang Khẩu, thư sinh cất làm đại tướng
HỒI 84: Lục Tốn đốt sạch trại liên doanh – Khổng Minh khéo bày đồ bát trận
HỒI 85: Lưu tiên chủ viết chiếu gửi con côi – Gia Cát Lượng ngồi yên bình năm đạo
HỒI 86: Tần Bật biện bác, hỏi vặn Trương Ôn – Từ Thịnh hóa công, phá quân Ngụy chủ
HỒI 87: Đánh nam khấu, thừa tướng cất quân – Chống thiên binh, Man vương bị bắ
HỒI 88: Qua Lư Thủy, Phiên vương hai lượt vào tròng – Biết trá hàng, Mạnh Hoạch ba phen bị bắt
HỒI 89: Võ Vương hầu bốn phen dùng mẹo – Nam Man vương năm lượt vào tròng
HỒI 90: Đuổi thú mạnh, sáu chuyến phá quân Man – Đốt giáp mây, bảy lần bắt Mạnh Hoạch
HỒI 91: Tế sông Lư, thừa tướng rút quân – Đánh giặc Ngụy, Võ Hầu dâng biểu
HỒI 92: Triệu Tử Long ra sức giết năm tướng – Gia Cát Lượng dùng mẹo đoạt ba thành
HỒI 93: Khương Bá Ước về hàng Khổng Minh – Võ Vương Hầu mắng chết Vương Lãng
HỒI 94: Gia Cát Lượng nhân tuyết phá quân Khương – Tư Mã Ý nhanh tay bắt Mạnh Đạt
HỒI 95: Mã Tốc trái lệnh mất Nhai Đình – Võ Hầu gảy đàn đuổi Trọng Đạt
HỒI 96: Khổng Minh gạt lệ chém Mã Tốc – Chu Phường cắt tóc lừa Tào Hưu
HỒI 97: Đánh nước Ngụy, Võ Hầu hai lần dâng biểu – Phá quân Tào, Khương Duy dùng mẹo hiến thư
HỒI 98: Đuổi quân Hán, Vương Song mắc mưu – Úp Trần Thương, Võ Hầu thắng trận
HỒI 99: Gia Cát Lượng cả phá quân Ngụy – Tư Mã Ý vào cướp Tây Xuyên
HỒI 100: Quân Hán cướp trại, phá Tào Quân – Võ Hầu đấu trận, nhục Trọng Đạt
HỒI 101: Ra Lũng Thượng, Gia Cát giả làm thần – Vào Kiếm Các, Trương Cáp bị mắc mẹo
HỒI 102: Tư Mã Ý chiếm giữ Bắc Nguyên, Vị Kiều – Gia Cát Lượng chế ra trâu gỗ, ngựa máy
HỒI 103: Hang Thượng Phương, Tư Mã mắc nạn – Gò Ngũ Trượng, Gia Cát dâng sao
HỒI 104: Rơi sao lớn, thừa tướng qua đời – Trông tượng gỗ, đô đốc mất vía
HỒI 105: Võ Hầu dự sẵn mẹo cẩm nang – Ngụy chủ dỡ lấy mâm thừ lộ
HỒI 106: Công Tôn Uyên thua trận, chết ở Tương Bình – Tư Mã Ý giả ốm, lừa được Tào Sảng
HỒI 107: Ngụy chủ trao quyền họ Tư Mã – Khương Duy bại trận núi Ngưu Đầu
HỒI 108: Trong mưa tuyết, Đinh Phụng đánh đoản binh – Trên tiệc rượu, Tôn Tuấn dùng mật kế
HỒI 109: Vây Tư Mã, mưu lạ Khương Duy – Bỏ Tào Phương, quả báo nhà Ngụy
HỒI 110: Văn Ương một ngự thoái quân hùng – Bá Ước men sông phá giặc lớn
HỒI 111: Đặng Sĩ Tái mẹo phá Khương Bá Ước – Gia Cát Đản khởi nghĩa đánh Tư Mã Chiêu
HỒI 112: Cứu Thọ Xuân, Vu Thuyên tử tiết – Lấy Trường Thành, Bá Ước dùng binh
HỒI 113: Đinh Phụng Lập mẹo đánh Tôn Lâm – Khương Duy đấu trận phá Đặng Ngải
HỒI 114: Tào Mao ruổi xe chết cửa nam – Khương Duy bỏ lương phá quân Ngụy
HỒI 115: Xuống chiếu thu quân, Hậu chủ tin gièm – Mượn nghề làm ruộng, Khương Duy lánh vạ
HỒI 116: Đường Hán Trung, Chung Hội chia quân – Núi Định Quân, Võ Hầu hiển thánh
HỒI 117: Đặng Sĩ Tái lẻn qua núi Âm Bình – Gia Cát Chiêm chết tại thành Miên Trúc.
HỒI 118: Khóc miếu tổ, Lưu Thầm tự tử – Vào Tây Xuyên, Chung, Đặng tranh công
HỒI 119: Giả đầu hàng, kế hay thành chuyện hão – Nhường ngôi báu, người sau học lối xưa.
HỒI 120: Tiến Đỗ Dự, lão tướng dâng mẹo hay – Bắt Tôn Hạo, tam phân lại hợp nhất.

Giới thiệu tác phẩm “Phong Thần diễn nghĩa”

Phong thần diễn nghĩa (nguyên bản) (giản thể: 封神演义; phồn thể: 封神演義; cũng gọi là Bảng phong thần, Vũ Vương phạt Trụ ngoại sử phong thần diễn nghĩa, Phong thần truyện, Thương Chu liệt quốc toàn truyện (tái bản), là một bộ tiểu thuyết được viết lại trên cơ sở cuốn Vũ Vương phạt Trụ bình thoại in đời Nguyên, trong đó bao gồm các tư liệu lịch sử cùng với các thần thoại, truyền thuyết.

Phong thần diễn nghĩa xoay quanh việc suy vong của nhà Thương và sự nổi lên của nhà Chu, cùng với đó là rất nhiều thần thoại, truyền thuyết Trung Hoa, bao gồm các thần, tiên, yêu quái v.v. Trong chừng mực nào đó, Phong thần diễn nghĩa mô tả cuộc sống của người Trung Hoa đương thời, nơi tôn giáo có một vai trò lớn trong cuộc sống hàng ngày.

Tác giả của Phong thần diễn nghĩa (bảng phong thần) có thuyết nói là Hứa Trọng Lâm (giản thể: 许仲琳; phồn thể: 許仲琳), hiệu là Chung Sơn Dật Tẩu, người Phủ Ứng Thiên huyện Trực Lệ biên soạn. Thuyết khác lại cho rằng tác giả rất có thể là Lục Tây Tĩnh (giản thể: 陆西星; phồn thể: 陸西星), hiệu Trường Canh, người huyện Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô. (nguồn: wiki)

Mục lục

Hồi 1: Trụ Vương tế miễu bà Nữ Oa
Hồi 2: Phản nước Thương, Tô Hộ đề thơ
Hồi 3: Xem thơ Tây Bá hầu, Tô Hộ dâng Đát Kỷ
Hồi 4: Giết giai nhân, hồ ly mượn lệnh
Hồi 5: Vân Trung Tử dâng kiếm trừ yêu
Hồi 6: Làm Bào lạc Trụ Vương hại tôi trung
Hồi 7: Bí Trọng bày mưu phế Khương hậu
Hồi 8: Họ Phương cõng chúa phản Triều Ca
Hồi 9: Thương Thừa tướng liều mình gián chúa
Hồi 10: Tiếng sấm sinh dị nhân
Hồi 11: Tây Bá bị giam thành Dũ Lý
Hồi 12: Na Tra xuất hiện ải Trần Đường
Hồi 13: Thạch Cơ bị lửa thiêu hiện hình cục đá
Hồi 14: Na Tra nhờ thầy cứu nhập xác bông sen
Hồi 15: Khương Thượng về trần cưới vợ
Hồi 16: Tử Nha đốt quỷ hóa tỳ bà
Hồi 17: Đát Kỷ lập Sái Bồn giết hại cung nga
Hồi 18: Khương Tử Nha lội sông trốn chúa
Hồi 19: Bá Ấp Khảo dâng báu vật chuộc cha
Hồi 20: Táng Nghi Sanh mua lòng bọn nịnh
Hồi 21: Văn Vương khoe quan qua 5 ải
Hồi 22: Văn Vương thương con mửa thịt hóa thỏ
Hồi 23: Thấy Phi Hùng điềm lành ứng mộng
Hồi 24: Văn Vương rước Khương Thượng nơi sông Vị
Hồi 25: Hồ Ly dọn tiệc mời yêu quái
Hồi 26: Đát Kỷ bày mưu hại Tỉ Can
Hồi 27: Văn Trọng ban sư về nước dâng 10 khoản can vua
Hồi 28: Văn Vương phạt Trụ cứu dân
Hồi 29: Văn Vương chém Sùng Hầu Hổ
Hồi 30: Võ Thành Vương phản Trụ đầu Châu
Hồi 31: Văn Thái Sư đuổi theo Phi Hổ
Hồi 32: Hoàng Thiên Hóa gặp cha tại Đồng Quan
Hồi 33: Hoàng Phi Hổ đánh ải Tụy Thủy
Bài 34: Võ Thành Vương ra mắt Tử Nha
Hồi 35: Triều Điền đem binh thám thính
Hồi 36: Quế Phương vâng chiếu chinh Tây
Hồi 37: Tử Nha về núi cầu Nguyên Thỉ
Hồi 38: Tứ Thánh phò Trụ đánh Tây Kỳ
Hồi 39: Hai nịnh bị giá lạnh nằm co
Hồi 40: 4 tướng cậy phép đoạt thành
Hồi 41: Văn Trọng đi ngang Huỳnh Hoa trại
Hồi 42: Văn Thái Sư thâu được 4 tướng thần
Hồi 43: Văn Thái Sư thất trận cầu tiên giúp
Hồi 44: Khương Tử Nha bị trù, hồn bay về trời
Hồi 45: Nhiên Đăng phá trận thập tuyệt
Hồi 46: Quảng Thành Tử phá trận Kim Quang
Hồi 47: Triệu Công Minh ra sức phò Văn Trọng
Hồi 48: Lục Yểm lập kế bắt Triệu Công Minh
Hồi 49: Trận Hồng Hà, Võ Vương đành lâm nạn
Hồi 50: Trận Huỳnh Hà 3 cô bắt các tiên
Hồi 51: Tử Nha cướp trại đuổi binh Thương
Hồi 52: Núi Tuyệt Long, Văn Trọng chầu trời
Hồi 53: Đặng Cửu Công dâng sắc chinh Tây
Hồi 54: Thổ Hành Tôn khoe tài bắt tướng
Hồi 55: Thổ Hành Tôn thất thế đầu Tây Kỳ
Hồi 56: Tử Nha lập mưu bắt Thiền Ngọc
Hồi 57: Trụ Vương sai Tô Hộ phạt Tây Kỳ
Hồi 58: Trời khiến Tử Nha gặp Lữ Nhạc
Hồi 59: Ân Hồng giữa đường thâu Chánh Đáng
Hồi 60: Mã Nguyên xuống núi giúp con vua
Hồi 61: Ân Hồng nát thây trên thái cực đồ
Hồi 62: Trương Sơn kế tiếp việc chinh Tây
Hồi 63: Thân Công Báo khuyên nhất điện hạ đánh Tử Nha
Hồi 64: La Tuyên nổi lửa đốt Tây Kỳ
Hồi 65: Ân Giao mắc lời thề bỏ mạng
Hồi 66: Hồng Cẩm đẹp số se duyên
Hồi 67: Đàn Kim Đài, Tử Nha bái tướng
Hồi 68: Núi Thú Dương nghĩa sĩ cầm cương
Hồi 69: Khổng Tuyên ra tài bắt tướng
Hồi 70: Chuẩn Đề hóa phép cưỡi công
Hồi 71: Tử Nha kéo binh qua 2 ải
Hồi 72: Quảng Thành Tử 3 lần lạy giáo chủ
Hồi 73: Già trẻ, đôi hùm tranh cao thấp
Hồi 74: Khói trắng, hơi vàng, hai phép đồng nhau
Hồi 75: Thổ Hành Tôn trộm thú Dư Nguyên
Hồi 76: Trịnh Luân bắt tướng thâu Tị Thủy
Hồi 77: Lão Tử hóa Tam Thanh đánh giáo chủ
Hồi 78: Tây Phương hai vị phá Tru Tiên
Hồi 79: Ải Xuyên Vân, 4 tướng Châu bị bắt
Hồi 80: Trận Ôn Hoàng bị quạt mầu phá tiêu
Hồi 81: Ải Đồng Quan, họ Dư rải độc
Hồi 82: Trận Vạn Tiên Triệt Giáo sa cơ
Hồi 83: Phá trận dữ, tiên thú hiện hình
Hồi 84: Kéo binh lang đánh ải Lâm Đồng
Hồi 85: Hai vị chư hầu đầu thánh chúa
Hồi 86: Ngũ Nhạc trở về thiên tào
Hồi 87: Vợ chồng Thổ Hành Tôn tử trận
Hồi 88: Tử Nha độ binh vượt Huỳnh Hà
Hồi 89: Vua Trụ chặt chân lương dân để xem tủy
Hồi 90: Liễu Quỷ Đào Tinh bị đả thần
Hồi 91: Tử Nha lập kế thiêu Văn Hóa
Hồi 92: Dương Tiễn ra tài bắt Tử Chân
Hồi 93: Kim Tra lập kế đoạt ải Du Hồn
Hồi 94: Văn Hoán nổi xung chém Phá Bại
Hồi 95: Tử Nha hài tội ác Trụ Vương
Hồi 96: Nữ Oa đón thâu Đát Kỷ
Hồi 97: Lầu Trích Tinh, vua Trụ thiêu mình
Hồi 98: Phá đài báu, nhà Châu thí của
Hồi 99: Tử Nha vâng sắc phong thần
Hồi 100: Châu Võ Vương luận công chia nước

Giới thiệu tác phẩm “Đông Chu liệt quốc”

Đông Chu liệt quốc chí (chữ Hán: 東周列國志) là tiểu thuyết lịch sử gồm 108 hồi được Sái Nguyên Phóng thời Thanh cải biên từ Tân liệt quốc chí khoảng trên 700.000 chữ của Phùng Mộng Long thời Minh.

Đông Chu liệt quốc đề cập đến thời kỳ lịch sử rất dài khoảng hơn 500 năm (770 TCN – 221 TCN) của Trung Quốc, bắt đầu từ đời Tuyên vương nhà Chu cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa. Sử sách cũng gọi thời kỳ ấy là đời Đông Chu, được chia làm hai giai đoạn là Xuân Thu và Chiến Quốc. Trong lịch sử Trung Hoa đây là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến đến tập quyền. Đông Chu liệt quốc không những đề cập đến các mốc lịch sử rất dài đồng thời cũng đề cập, mô tả rất nhiều nhân vật nổi tiếng của lịch sử Trung Hoa, từ các bậc anh hùng như Tín Lăng quân, Lạn Tương Như, Ngô Khởi, Ngũ Tử Tư đến các nhà quân sự lỗi lạc như Tôn Tử, Phạm Lãi, Tôn Tẫn và các nhà chính trị-tư tưởng lớn như Khổng Tử, Quản Trọng (nguồn: wiki).

Mục lục

Chương 1: Nghe lời hát Tuyên Vương khinh sát – Giải tình oan , Ðỗ Bá hiển linh
Chương 2: Bao Quýnh chuộc tội dâng mỹ nữ – U Vương đốt lửa lừa chư hầu
Chương 3: Quân Khuyển Nhung làm loạn Kiểu kinh – Vua Bình Vương thiên đô Lạc Ấp
Chương 4: Tần Vương nằm mộng thấy con trời – Trịnh Trang tìm mẹ đào hầm đất
Chương 5: Châu, Trịnh hai nước gởi con tin Lỗ, Tống một lòng đi chinh phạt
Chương 6: Vì nghĩa, Thạch Thác giết con – Mượn lịnh, Trang công đánh Tống
Chương 7: Ganh tài, Công tử Át giết Khảo thúc – Tham chức, Công tử Vận hại vua hiền
Chương 8: Mưu sâu, Hoa Đốc phế vua Tống – Làm cao, Trịnh Hốt chê vợ Tề
Chương 9: Văn khương, gái Tề về nước Lỗ – Chúc Đạm, tướng Trịnh bắn vua Châu
Chương 10: Ngôi nhà Châu , Hùng Thông tiếm vị – Nơi nước Trịnh, Tề Túc thay vua
Chương 11: Ỷ công lao , Tống Trang Công đòi của – Giết rể Ung, Trịnh Tế Túc đuổi vua
Chương 12: Tuyên Công dâm loạn lập Tân đài – Cừ Di âm mưu tôn vua khác
Chương 13: Lỗ Hầu cùng vợ sang Tề – Trịnh Vĩ , chúa tôi bị giết
Chương 14: Trái lệnh, Châu Thiên Tử nổi xung – Gặp ma, Tề Tương Công hoảng hốt
Chương 15: Ung Lẫm lập mưu giết tân chúa – Lỗ công bại trận nơi Kiều thời
Chương 16: Giữ lời hứa , Thúc Nha tiến Quản Trọng – Lập mưu cao, Tào Quới thắng binh Tề
Chương 17: Nước Tống ăn lễ giết Trường Vạn – Vua Sở tham sắc bắt Tức Hầu
Chương 18: Tào muội vung gươm dọa Tề hầu – Hoàn công thắp đuốc phong Ninh Thích
Chương 19: Trịnh Lệ công lập mưu về nước – Châu Huệ vương tìm kế phục thù
Chương 20: Tấn Hiến công mê sắc lập Ly cơ – Sở Thành Vương chuộng tài phong Đấu Cấu
Chương 21: Quản Trọng đoán thần Du nhi – Tề hầu đánh nước Cô Trúc
Chương 22: Quí Hữu đảm đương nước Lỗ – Tề hầu trông thấy yêu ma
Chương 23: Ham chim hạc, Vệ hầu mất nước – Giận sở vương, Tề chúa hưng binh
Chương 24: Tề hoàn công lấy lòng đãi sứ Sở – Hội chư hầu nhất dạ phục vua Châu
Chương 25: Đánh nước Quắc, Tuân tức mượn đường – Nuôi trâu giỏi , Lý Hề làm tướng
Chương 26: Bách Lý Hề nhận được vợ cũ – Tần Mục công mộng thấy điềm lành
Chương 27: Ly Cơ lập kế giết Thân Sinh – Hiến công gần chết dặn Tuân Tức
Chương 28: Lý Khắc một tay giết hai vua – Di Ngô nhờ Tần về nước Tấn
Chương 29: Tấn Huệ công bắt giết người trung – Quản Di Ngô trối trăng việc nước
Chương 30: Tấn Huệ công bội ước cử binh – Tần Mục Cơ giận thân tự tử
Chương 31: Tấn Huệ công nổi giận giết tướng – Giới Tử Thôi cắt thịt nuôi vua
Chương 32: Án Nga Nhi thủ tiết chết theo Tề – Công Tử tranh ngôi nổi loạn
Chương 33: Thế tử Chiêu trở về nước Tề – Tống Tương công mắc lừa nước Sở
Chương 34: Tống Tương công lá cờ nhân nghĩa – Tề Khương thị chén rượu biệt ly
Chương 35: Tấn Trùng Nhĩ trở về nước nhà Tấn Hoài Doanh vui vầy duyên mới
Chương 36: Tấn Hoài công trốn sang Cao Lương – Tần Mục công phù lập Trùng Nhĩ
Chương 37: Giới Tử Thôi cõng mẹ đi ẩn – Công tử Đái tham sắc làm càn
Chương 38: Chu Tương Vương tránh sang nước khác – Tấn Văn công thu phục lòng dân
Chương 39: Triển Hỉ hỏi kế Liễu Hạ Huệ – Ngụy Thù đốt nhà Hỉ Phụ Cơ
Chương 40: Tiên Chẩn lập kế lừa Đắc Thần – Tấn Sở giao binh tại Thành Bộc
Chương 41: Thành Đắc Thần rút gươm tự tử – Tấn Văn công phụng mệnh đăng đàn
Chương 42: Tương vương thiết triều ở Hà Dương – Nguyên Huyền khiếu oan cho Thúc Vũ
Chương 43: Ninh Du lập kế cứu vua Vệ – Chúc Vũ thương thuyết lui quân Tần
Chương 44: Thúc Thiêm lâm hình cãi vua Tấn – Huyền Cao giả mệnh khao quân Tần
Chương 45: Mạnh Minh cậy tài bị Tấn vây – Tiến Chẫn cởi giáp cho địch bắn
Chương 46: Thượng Thần giết cha ở trong cung – Quân Tần chết trận được cúng tế
Chương 47: Lộng Ngọc cưỡi phượng theo Tiêu Sử – Triệu Thuẫn bội Tần lập Di Cao
Chương 48: Năm tướng bàn nhau làm loạn Tấn – Thọ Dư lập kế đánh lừa Tần
Chương 49: Công tử Bão phóng tiền mua nước – Tề Ý Công tham sắc hại thân
Chương 50: Trọng Toại tôn lập Oa công tử – Triệu Thuấn khuyên can Tấn Linh Công
Chương 51: Ðồng hồ chép thẳng án Đào Viên – Vua Sở mừng công mở đại hội
Chương 52: Công tử Tống nghĩ ghen miếng ăn – Trần Linh Công qúa mê sắc đẹp
Chương 53: Sở Trang Vương trả lại đất Trần – Tấn Cảnh Công đem quân đánh Trịnh
Chương 54: Sở Vương đuổi quân Lâm Phủ – Ưu Mạnh đóng vai Tôn Thúc Giao
Chương 55: Giắt dao lẻn vào dinh quân Sở – Kết cỏ bắt được tướng nước Tần
Chương 56: Tề Khoảnh Công bày cuộc mua cười – Phùng Sửu Phủ thay hình cứu chủ
Chương 57: Vu Thần kết duyên với Hạ Cơ – Trình Anh đền ơn cho Triệu Thuẫn
Chương 58: Ngụy Tướng sang Tần đón thầy thuốc – Dưỡng Thúc vì vua bắn kẻ thù
Chương 59: Tư Đồng cậy thế tấn Lệ Công – Triệu Vũ báo thù Đồ Ngạn Giả
Chương 60: Tuân dinh hiến kế chia quân ngạch chư hầu đem binh vây bức dương
Chương 61: Tấn Điệu Công cử binh đánh Sở – Tôn Lâm Phủ nổi loạn đuổi vua
Chương 62: Chư hầu đem quân vây Tề quốc – Vua Tấn lập kế đuổi Loan Doanh
Chương 63: Kỳ Hề ra sức cứu Dương Thiệt – Phạm Ưởng lập kế hiếp Ngụy Thư
Chương 64: Loan Doanh diệt tộc thành Khúc Ốc – Kỷ Lương tử chiến cửa Thả Vu
Chương 65: Giết Tề Quang, Thôi, Khánh cướp quyền – Rước Vệ Khản, Ninh Hỉ chuyên chính
Chương 66: Miễn Dư giết hại nhà Ninh Hi – Thôi Trữ mắc lừa mưu Khánh Phóng
Chương 67: Lư Bồ Quí đuổi được Khánh Phong – Sở Linh Vương tranh làm bá chủ
Chương 68: Tấn Bình Công thích nghe âm nhạc – Trần Vô Vũ chịu phóng gia tài
Chương 69: Sở Linh Vương cậy thế hùng cường – Án Bình trọn thi tài ăn nói
Chương 70: Giết ba anh, Sở Bình Vương lên ngôi – Hội Chiêu hầu, Tấn Chiêu Công làm chủ
Chương 71: Vì quả đào, cùng nhau sống chết – Tham gái đẹp, quên tình cha con
Chương 72: Dụ hai con, Sở Bình lập kế – Nghĩ một đêm, Ngũ Viên bạc đầu
Chương 73: Ngũ Viên giả dại hát giữa chợ – Chuyên Chư dâng cá giết Vương Liêu
Chương 74: Giết Vô Cực tỏ lòng Nang Ngoã – Đâm Khánh Kỵ nổi tiếng Yêu Ly
Chương 75: Tôn Vũ dạy cung nữ tập trận – Nang Ngoã bắt chư hầu lễ tiến
Chương 76: Hạp Lư tiến vào thành Sinh Đô – Ngũ Viên khai quật mộ vua Sở
Chương 77: Giọt lệ Bao Tư tràn sân Tần – chiếc thuyền Chiêu Vương về nước Sở
Chương 78: Lê Di hiến kế dùng lai binh – Khổng Tử kể tội giết Thiếu Chính
Chương 79: Lê Di lập kế hại Khổng Tử – Văn Chủng bày mưu thông Bá Hi
Chương 80: Phù Sai mắc mưu tha vua Việt – Câu Tiễn hết sức thờ nước Ngô
Chương 81: Tây Thi làm mê hoặc vua Ngô – Tử Cống đi du thuyết các nước
Chương 82: Ngũ Viên liều chết can vua Ngô – Khoái Qúi lập mưu về nước Vệ
Chương 83: Diệp Công khởi binh đánh Vu Thắng – Câu Tiễn báo thù giết Phù Sai
Chương 84: Trí Bá tháo nước vào Tấn Dương – Dự Nhượng đánh áo Triệu Tương Tử
Chương 85: Vì việc nước, Nhạc Dương bỏ con – Hại tiền dân, Hà Bá lấy vợ
Chương 86: Ngô Khởi giết vợ cầu quan – Trâu Kỵ gẩy đàn làm tướng
Chương 87: Vệ Ưởng hết lòng giúp Hiếu Công – Quỉ Cốc truyền phép cho Tôn Tẫn
Chương 88: Tôn Tẫn giả điên thóat nạn – Bàng Quyên bại trận Quế Lăng
Chương 89: Vạn cây nỏ bắn chết Bàng Quyên – Năm con trâu phân thây Thương Ưởng
Chương 90: Tô Tần làm tướng sáu nước – Trương Nghi tức giận sang Tần
Chương 91: Nhường ngôi báu, Yên Khoái hại mình – Dâng đất dối, Trương Nghi lừa Sở
Chương 92: Cậy sức khỏe, vua Tần gãy chân – Mưu mưu lừa, vua Sở chạy trốn
Chương 93: Triệu Chủ Phụ chết đói cung Sa Khâu – Mạnh Thường Quân ra thóat cửa Hàm Cốc
Chương 94: Thử Mạnh Thường, Phùng Hoan gõ gươm hát đánh kiệt Tống, vua Tề hợp đại binh
Chương 95: Nhạc Nghị diệt Tề thống đại quân – Điền Đan phá Yên thả trâu lửa
Chương 96: Lạn Tương Như hai lần khuất vua Tần – Mã Phục Quân một mình giải vây Triệu
Chương 97: Phạm Chuy giả chết trốn sang Tần – Tu Giả thoát tội bỏ về Nguỵ
Chương 98: Vua Tần đòi thủ cấp Nguỵ Tề – Bạch Khởi chôn mấy vạn quân triệu
Chương 99: Võ An Quân có công bị chết oan – Lã Bất Vi lập kế buôn ngôi báu
Chương 100: Lỗ Trọng Liên quyết không chịu tôn Tần – Tín Lăng Quân trộm binh phù cứu Triệu
Chương 101: Tần Vương diệt Chu dời chín đỉnh – Liêm Pha chém tướng bại quân Yên
Chương 102: Đạo Hoa âm, Mông Ngao Bị Thua Sông Hồ Lư, Kịch Tân Tự Tử
Chương 103: Lý Quốc cữu tranh quyền giết Hoàng Yết – Phàn Ô Kỳ truyền lệnh đánh vua Tần
Chương 104: Cam La còn bé làm quan lớn – Lao Ái gian dâm loạn cung tần
Chương 105: Mao Tiên cởi áo can vua Tần – Lý Mục dùng kế lui Hoàn Xỉ
Chương 106: Vương Ngao phản gián giết Lý Mục – Điền Quang đâm cổ tiến Kinh Kha
Chương 107: Dâng địa đồ Kinh Kha náo Tần đình – Bàn binh pháp Vương Tiễn thay Lý Tín
Chương 108: Kiêm sáu nước thống nhất thiên hạ – Lên ngôi báu tự xưng Thủy Hoàng

Giới thiệu tác phẩm “Lộc đỉnh ký”

Mang nhiều màu sắc riêng biệt so với các bộ tiểu thuyết kiếm hiệp khác của Kim Dung, Lộc Đỉnh Ký không phản ánh cuộc sống của các nhân vật võ lâm với các mâu thuẫn cá nhân hay phe phái giữa họ mà phản ánh đời sống xã hội Trung Hoa đầu đời Thanh với các mâu thuẫn chính trị – văn hóa có thật của lịch sử. Điều ngạc nhiên hơn cả, những mâu thuẫn đó không phải được giải quyết bởi sự tham gia của các hiệp khách võ công cao cường, nhân tâm hiệp cốt mà là một người không võ ít hiệp, gian trá giảo hoạt nhưng trọng nghĩa khí: Vi Tiểu Bảo. Trong Lộc Đỉnh Ký, Kim dung đã làm mờ ranh giới giữa chính – tà, thiện – ác truyền thống. Các yếu tố đó đan xen, phát triển và chuyển hóa trong nhau, làm nên bộ tiểu thuyết được coi là hay nhất của nhà tiểu thuyết võ hiệp bậc thầy Kim Dung.

Cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp này bắt đầu được đăng trên Minh Báo từ 24 tháng 11 năm 1969 và kéo dài trong 2 năm 11 tháng cho đến 23 tháng 9 năm 1972.

Bản dịch này của nhà nghiên cứu Hán-Nôm Cao Tự Thanh.

Mục lục

Hồi 01: Dọc ngang danh sĩ đều liên lụy – Cao thượng hiền nhân thảy ngợi khen
Hồi 02: Kinh thư tuyệt thế nghe đồn mãi – Bằng hữu tri âm được gặp đây
Hồi 03: Ấn tới trong tay vây mới giải – Dùi ra khỏi túi việc liền xong
Hồi 04: Không dấu cứ tìm linh quái giác – Vong cơ hãy ngó hạc sơ linh
Hồi 05: Hộp ngọc kinh lưu trong tưởng tượng – Giáo vàng vận mở hội trừ gian
Hồi 06: Nếu biết hôm nay lòng mến giỏi – Chính là lúc trước ý trồng cây
Hồi 07: Xưa nay thành bại nguyên do số – Thiên hạ anh hùng rất dễ hay
Hồi 08: Khách quý tương phùng như có hẹn – Danh cao thường sợ chuyện không đâu
Hồi 09: Đẽo mài chỉ muốn thành toàn bích – Khích liệt đâu cần phải nát đàn
Hồi 10: Lời cuồng cứ dốc dung vài vị – Hội lớn là chen giữa các ông
Hồi 11: Viện con xuân ấm ngời ngời bóng – Áo nhẹ đêm sâu ngát ngát hương
Hồi 12: Luôn mồm chọc ghẹo ta là giỡn – Thoáng nghe là hiểu bác như thần
Hồi 13: Lật đổ hai nhà trời giúp sức – Hưng suy một cuộc sử qua trang
Hồi 14: Chức mất mới thôi hờn mất nước – Năm tàn lại động ý tù Nam
Hồi 15: Quan tâm mưa gió từng liền chiếu – Rẻ mạng non sông thỏa tráng du
Hồi 16: Son phấn hương thừa vang tiếng én – Nhẫn vòng ma mới khóc lời oanh
Hồi 17: Pháp môn gõ mạnh không phương tiện – Nghi trận bày ra có thí như
Hồi 18: Chày quý kim cương hộ đế thích – Chữ triện bia đá lừa đầu đà
Hồi 19: Chín châu gom sắt đúc một chữ – Trăm vàng dựng gỗ mời quần ma
Hồi 20: Bia tan ngày tháng xem còn đó – Lớp trước phong lưu tới vịn theo
Hồi 21: Kéo vàng không tiếng mây rơi đất – Thoa hán còn mơ én tựa người
Hồi 22: Trong non lão nạp còn thô lậu – Ngoài cõi giai nhân lại cải trang
Hồi 23: Trời sinh tài sĩ quyết nhiều tật – Ông với môn đồ thảy cứ truyền
Hồi 24: Sông yêu dẫu sống còn muôn nạn – Bể khổ khôn đong bởi một lời
Hồi 25: Chim bay bạc đầu thương đệ tử – Ngựa kẹp hồng phấn hồng phấn khóc cung nga
Hồi 26: Liền trời cây cỏ xương người trắng – Đầy mắt non sông ánh ráng hồng
Hồi 27: Lấp biển có người mà quỷ khóc – Cửa gai ngoài ấy trẻ con đùa
Hồi 28: Khó tránh tình nhiều tơ vấn vít – Vì ai lòng khổ mắt long lanh
Hồi 29: Mưa lạnh vắng trăng soi trước trướng – Hương qua làn gió thoáng bên màn
Hồi 30: Trấn tướng Nam triều riêng hống hách – Bộ binh Tây Sở rất ung dung
Hồi 31: La điện toàn quân cao vách lũy – Ruộng vườn muôn khoảnh nổi ba đào
Hồi 32: Giọng ca muốn đứt theo đàn nối – Áo mùa còn dài được khách khen
Hồi 33: Ai không thói tật khôn cười nhạo – Đều có phong lưu thảy chẳng hay
Hồi 34: Một giấy hưng vong xem lộc đổ – Ngàn năm kiếp nạn gửi hồng kêu
Hồi 35: Đông Tây Nam Bắc theo cùng lối – Mưa tuyết băng sương tự kết duyên
Hồi 36: Chim núi hoa lèn trời vạn dặm – Mây cao tuyết thẳm lối ngàn trùng
Hồi 37: Bình Man trướng hổ ai dâng kế – Dụ Thục sân triều hãy đọc văn
Hồi 38: Dọc ngang ngựa nội bầy cò lướt – Kiêu hãnh hơi mây một mảnh trời
Hồi 39: Tiền bối tâm tình như lược chải – Tiểu sinh tung tích tựa bèo trôi
Hồi 40: Đợi thỏ vẫn ngờ cây dễ đợi – Giăng câu mới hối ngọn khôn giăng
Hồi 41: Ngư Dương trống động ngàn phương rộn – Đốc Kháng mưu cùng hối đã chầy
Hồi 42: Một khí gió mây trong hít thở – Chín trùng thành khuyết giữa vi mang
Hồi 43: Lòng như cỏ biếc theo cơn gió – Thân giống mây hồng cạnh mặt trời
Hồi 44: Người tới liều mình nơi đất lạ – Việc ra sự thật chi đau lòng
Hồi 45: Vẫn có chằm sâu giăng mảnh lưới – Còn thừa trúc gãy thả cần câu
Hồi 46: Ngàn dặm cột buồm ra ngoại vực – Chín trời mưa gió tới đầu thành
Hồi 47: Mây điểm tinh kì thu tới ải – Gió truyền còi trống tối qua quan
Hồi 48: Ngọc Môn không đặt quan Đô hộ – Đồng trụ còn nêu cột tướng quân
Hồi 49: Khí sắc quan to xe ngựa đẹp – Tâm tư khách lẻ cố nhân ngờ
Hồi 50: Ngạc ở đầu mây nguyên chẳng thật – Hồng bay ngoài cõi lại càng xa
Lời cuối sách

Giới thiệu tác phẩm “Tiếu ngạo giang hồ”

“Tịch tà kiếm phổ” – pho bí kíp võ công gây bao sóng gió chốn võ lâm, khơi dậy tham vọng vô tận vô cùng ở con người…

Trước sức mạnh của ảo vọng quyền lực, vô số kẻ tự xưng danh môn chính phái phải bộc lộ bản chất “ngụy quân tử” đê hèn bất trung, bất tín, bất nhân, bất nghĩa… Ngược lại có nhiều quân tử thực sự lại bị gắn mác “ma giáo” hay “tà phái”. Âm mưu chồng chéo âm mưu, dối trá và phản bội là ngọn nguồn gây nên tội ác và bất hạnh…

Tiếu ngạo giang hồ – khúc bi tráng tấu lên lòng hiệp nghĩa đích thực, của khát khao tự do vượt ngoài giới hạn phe phái, của phong cách võ công “dĩ vô chiêu mà thắng hữu chiêu”, là sự hòa điệu của những tâm hồn cao thượng vượt trên mọi ham muốn quyền lực.

Tiếu ngạo giang hồ – một kiệt tác hàm chứa vô vàn tiếng cười thống khoái cùng không ít nước mắt của đủ hạng người trong võ lâm – mà Bậc thầy võ hiệp Kim Dung khiến cho bao thế hệ độc giả cùng cười, cùng khóc, cùng giận với số phận từng nhân vật một cách tài tình, tinh tế. Mỗi lần đọc Tiếu ngạo giang hồ là một lần nữa ta lại khám phá ra muôn điều thú vị, hấp dẫn…

Tiếu ngạo giang hồ lần đầu tiên được phát hành trên Minh báo từ ngày 20 tháng 4 năm 1967 đến 12 tháng 10 năm 1969. Tiêu đề “Tiếu ngạo giang hồ” được đặt theo một bản nhạc cầm tiêu hợp tấu đóng vai trò trung tâm của tác phẩm.

Dịch giả: Hàn Giang Nhạn

Mục lục

Hồi 1: Thành Phúc Châu sinh trọng án
Hồi 2: Tổng Tiêu đầu mở cuộc điều tra
Hồi 3: Tồi Tâm Chưởng giết người không vết
Hồi 4: Bọn Thanh Thành bức hại Lâm gia
Hồi 5: Cô bán rượu cứu thiếu tiêu đầu
Hồi 6: Phái Thanh Thành mưu đồ thâm độc
Hồi 7: Một chiêu kiếm tiện bảy chung trà
Hồi 8: Dùng khí công uống hầu nhi tửu
Hồi 9: Phái Thanh Thành cũng luyện Tịch Tà
Hồi 10: Phái Hoa Sơn theo dõi bọn Thanh Thành
Hồi 11: Lão ni cô truy tầm tên bại hoại
Hồi 12: Lệnh Hồ Xung cấu kết tà ma
Hồi 13: Quyết ra tay giải cứu Nghi Lâm
Hồi 14: Gặp ni cô đánh bạc tất thua
Hồi 15: Thua cuộc là do phép đánh ngồi
Hồi 16: Thí cổ hướng hậu Bình sa lạc nhạn
Hồi 17: Diễn biến bất ngờ trong đại sảnh
Hồi 18: Tiểu cô nương nhục mã đạo sĩ lùn
Hồi 19: Vào kĩ viện cứu người hào kiệt
Hồi 20: Có muốn nhìn kĩ nữ khỏa thân
Hồi 21: Tử Hà Công cứu mạng thiếu tiêu đầu
Hồi 22: Dạ ngọc không dưng nổi sóng lòng
Hồi 23: Ngàn công chúa không ai bằng tiểu muội
Hồi 24: Bọn Tung Sơn uy hiếp Lưu gia
Hồi 25: Vì tình bạn, toàn gia bị giết
Hồi 26: Bách biến thiên ảo Hành sơn vân vụ thập tam thức
Hồi 27: Trao hào kiệt Tiếu Ngạo giang hồ
Hồi 28: Hẻm Hướng Dương phố Phúc Châu
Hồi 29: Lâm Bình Chi lên núi Hoa Sơn
Hồi 30: Phạm giới luật, Hồ Xung sám hối
Hồi 31: Trong hậu động tình đầu nồng thắm
Hồi 32: Bảo kiếm rơi tỏm đáy vực sâu
Hồi 33: Sơn ca Phúc Kiến nát dạ tan hồn
Hồi 34: Xem đồ hình chợt mất niềm tin
Hồi 35: Bị phụ rẫy Hồ Xung lâm trọng bệnh
Hồi 36: Phải chăng người đi lạc đường tà ?
Hồi 37: Cuộc quyết chiến giữa 2 phe kiếm, khí
Hồi 38: Điền Bá Quang sao lại tới Hoa Sơn !
Hồi 39: Học đến đâu, ra chiến đến đó
Hồi 40: Mây trôi nước chảy theo ý mình
Hồi 41: Điền Bá Quang thua tài xuống núi
Hồi 42: Bọn khí đồ quấy nhiễu Hoa Sơn
Hồi 43: Chúng ta là Đào Cốc Lục Tiên
Hồi 44: Lục Tiên trừng trị Thành Bất Ưu
Hồi 45: Sáu anh trị bệnh kiểu “sờ voi”
Hồi 46: Phái Hoa Sơn bỏ núi chạy lấy người
Hồi 47: Quyết tâm không học Tử Hà công
Hồi 48: Tưởng sắp chết nắm tay kết bạn
Hồi 49: Bất Giới trị bệnh cho rể quý
Hồi 50: Nhạc Bất Quần nghi ngờ đệ tử
Hồi 51: Trong Miếu hoang, phái Hoa Sơn bị nhục
Hồi 52: Lệnh Hồ Xung đại triển Độc Cô kiếm pháp
Hồi 53: Lao Đức Nặc âm thầm theo dõi
Hồi 54: Vương gia vũ nhục Lệnh Hồ Xung
Hồi 55: Ngõ Lục Trúc, cầm tiêu vọng tiếng
Hồi 56: Học cung đàn, nhớ mối tình xưa
Hồi 57: Lục Trúc Ông hiển lộng thần oai
Hồi 58: Bọn Lục Tiên cũng đến Phủ Khai Phong
Hồi 59: Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ
Hồi 60: Tổ Thiên Thu tửu luận gạt Hồ Xung
Hồi 61: Hoàng Hà lão tổ là ai?
Hồi 62: Lấy máu mình cứu tiểu cô nương
Hồi 63: Bọn Lục tiên đổi thù thành bạn
Hồi 64: Phép tiếp máu của Ngũ tiên giáo
Hồi 65: Ai đang giữ Tịch tà kiếm phổ?
Hồi 66: Ngũ Bá Cương hội ngộ quần hùng
Hồi 67: Sợ thánh oai, quần hùng trốn sạch
Hồi 68: Sử độc cô bảo vệ bà bà
Hồi 69: Nguyện đi theo đến chân trời góc biển
Hồi 70: Phái Thiếu Lâm đại chiến Hắc Mộc Nhai
Hồi 71: Lão bà bà hóa thành giai nhân
Hồi 72: Nuôi hào kiệt, thánh cô bắt ếch
Hồi 73: Ngươi suốt đời phải ở bên ta
Hồi 74: Không quy đầu làm mô hạ phái Thiếu Lâm
Hồi 75: Lão cao gầy mặc áo trắng là ai?
Hồi 76: Lúc nguy hiểm liên thủ chiến đấu
Hồi 77: Hướng Vân Thiên trí dũng hơn người
Hồi 78: Thay tên đổi họ tìm đến Mai Trang
Hồi 79: Hướng Vân Thiên đưa đồ đánh cược
Hồi 80: Lệnh Hồ Xung đả bại Đan Thanh
Hồi 81: Bút Ông, Bạch Tử cũng thua luôn
Hồi 82: Hoàng Chung Công thảm bại mà mừng
Hồi 83: Mai Trang vẫn còn người muốn đấu
Hồi 84: Gặp tù nhân dưới đáy hồ
Hồi 85: Nhậm tiên sinh đại đấu Lệnh Hồ Xung
Hồi 86: Lệnh Hồ Xung bị nhốt hắc lao
Hồi 87: Hắc Bạch tử cầu thầy học đại pháp
Hồi 88: Giả mưu cao lừa địch thoát lao tung
Hồi 89: Nhật Nguyệt giáo hỏi tội Mai Trang
Hồi 90: Nhậm Ngã Hành trừng trị phản đồ
Hồi 91: Từ chối không nhập bọn với Ngã Hành
Hồi 92: Vị tham tướng của phủ Tham Châu
Hồi 93: Giả say cản lối phái Hằng Sơn
Hồi 94: Cứu quần ni, hào kiệt ra tay
Hồi 95: Trấp Bát Phố, phái Hằng Sơn lâm nạn
Hồi 96: Bọn Tung Sơn thừa nước đục thả câu
Hồi 97: Ngô tướng quân kịp thời cứu viện
Hồi 98: Bị trọng thương, Định Tĩnh qua đời
Hồi 99: Về Phúc Châu, thám thính Phước Oai
Hồi 100: Áo cà sa chép Tịch tà kiếm phổ
Hồi 101: Nhạc Bất Quần thống mạ Lệnh Hồ Xung
Hồi 102: Lệnh Hồ Xung trừng trị bọn Tung Sơn
Hồi 103: Đưa quần ni đến Long Tuyền
Hồi 104: Ai là gái tứ chiếng giang hồ?
Hồi 105: Phái Tung Sơn bại lộ âm mưu
Hồi 106: Thục nữ lâm nguy, hào kiệt đau lòng
Hồi 107: Mạc Đại tiên sinh cảm người nghĩa hiệp
Hồi 108: Đón thánh cô, quần hùng lên thiếu thất
Hồi 109: Đấu Võ Đang, độc cô thủ thắng
Hồi 110: Lệnh Hồ Xung tiếp nhiệm chưởng môn Hằng Sơn
Hồi 111: Núi Thiếu Thất quần hùng bị vây
Hồi 112: Nhờ địa đạo, quần hùng thoát hiểm
Hồi 113: Nhậm Ngã Hành cũng đến Thiếu Lâm
Hồi 114: Ai đáng phục, ai không đáng phục?
Hồi 115: Đấu Phương Chứng, Ngã Hành thủ thắng
Hồi 116: Hàn ngọc chân khí đả bại Ngã Hành
Hồi 117: Cứu tình nhân, hào kiệt đấu tôn sư
Hồi 118: Nhậm Thánh cô kể lể nỗi lòng
Hồi 119: Bọn ác ôn vũ nhục Nhạc Linh San
Hồi 120: Tìm chưởng môn, ra giá ngàn lượng bạc
Hồi 121: Điền Bá Quang trở thành hòa thượng
Hồi 122: Thánh cô trừng trị bọn Tung Sơn
Hồi 123: Cuộc mật nghị trong chùa Huyền Không
Hồi 124: Âm mưu của Nhạc Bất Quần
Hồi 125: Trên cầu treo, giải cứu tình quân
Hồi 126: Hắc Mộc Nhai lắm chuyện lạ lùng
Hồi 127: Luyện bảo điển, Bất Bại thành… phụ nữ!
Hồi 128: Đấu bốn người, Bất Bại mệnh vong
Hồi 129: Lệnh Hồ Xung không vào Ma giáo
Hồi 130: Lên Tung Sơn, quần hào phó hội
Hồi 131: Tả Lãnh Thiền ly gián phái Thái Sơn
Hồi 132: Lục tiên nhục mạ Tả Lãnh Thiền
Hồi 133: Quyết ra tay phá đám bọn Tung Sơn
Hồi 134: Ngũ Nhạc phái tỷ kiếm đoạt soái
Hồi 135: Nhạc Linh San đả bại Thái Sơn, Hành Sơn
Hồi 136: Chịu bị thương cho sư muội vui lòng
Hồi 137: Tả Lãnh Thiền mắc hợm Nhạc Linh San
Hồi 138: Nhạc Bất Quần bại lộ thâm mưu
Hồi 139: Lâm Bình Chi vũ nhục Dư Thương Hải
Hồi 140: Quyết trả thù, coi vợ cũng như không
Hồi 141: Trả đại thù, Bình Chi đui mắt
Hồi 142: Giả nông gia, theo dấu Nhạc Lâm
Hồi 143: Lâm Bình Chi thống mạ Nhạc Bất Quần
Hồi 144: Học Tịch tà thì phải tự cung
Hồi 145: Lúc lâm tử, hát sơn ca Phúc Kiến
Hồi 146: Hắc Mộc Nhai giăng bẫy Nhạc Bất Quần
Hồi 147: Đấu Tịch tà, Độc Cô thủ thắng
Hồi 148: Hình phạt ngộ nghĩnh trên hang Thông Nguyên
Hồi 149: Tiểu ni cô thổ lộ chân tình
Hồi 150: Linh Quy các hào kiệt thụ hình
Hồi 151: Đọc kiếm pháp, trừ bọn gian tà
Hồi 152: Lam Phượng Hoàng tìm đến đưa tin
Hồi 153: Trong hậu động, lạc mất người tình
Hồi 154: Mật hiệu “Cút con bà mày đi!”
Hồi 155: Điền Bá Quang đánh hơi phụ nữ
Hồi 156: Nhật Nguyệt giáo thừa nước đục thả câu
Hồi 157: Lại cương quyết không vào Thần giáo
Hồi 158: Lên Hằng Sơn, quần hùng kháng địch
Hồi 159: Người trong kiệu sao không xuất hiện?
Hồi 160: Nhật Nguyệt giáo chủ bây giờ là ai?
Hồi 161: Khúc Tiếu ngạo từ đây vang mãi

Giới thiệu tác phẩm “Hiệp khách hành”

Hiệp khách hành xoay quanh cuộc phiêu lưu của Thạch Phá Thiên và bài thơ “Hiệp khách hành” của thi tiên Lý Bạch.

Hiệp khách hành là câu chuyện hoàn toàn không có sự liên hệ với lịch sử, với những tình tiết mang tính chất mờ ảo, thần thoại. Chỉ có thể đoán rằng nó xảy ra trong thời kỳ nhà Minh, khi mà đã xuất hiện phái Võ Đang với huyền thoại Trương Tam Phong. Người đang chấp chưởng trưởng môn phái Võ Đang lúc ấy là Ngu Trà đạo trưởng.

Mạch chuyện xoay quanh huyền thoại về đảo Hiệp Khách ở ngoài Đông Hải, trên đó có một lực lượng võ công cao cường. Cứ mười năm một lần, đảo chủ sẽ cử vào Trung Nguyên hai người gọi là hai sứ giả Thưởng thiện Phạt ác tìm đến các bang hội lớn trên giang hồ đưa hai tấm thẻ đồng (một tấm gọi là Thưởng thiện, một tấm gọi là Phạt ác) mời đích danh người đứng đầu đến dự tiệc cháo Lạp Bát trên đảo Hiệp khách.

Bang hội nào không tuân theo đều bị tiêu diệt, hai sứ giả này võ công cực kỳ cao cường, không có bang hội nào đánh lại. Đã ba lần đảo Hiệp khách đến mời người, và những người đi đều không trở về. Đảo Hiệp khách được bao trùm bởi một màn sương mù bí ẩn, chết chóc, là nỗi khiếp sợ của võ lâm Trung Nguyên, và kiếp nạn này lại sắp xảy ra…

Tác phẩm được phát hành lần đầu tiên trên Minh báo vào năm 1965.

Dịch giả: Đông Hải

Mục lục

Hồi 01: Huyền Thiết Lệnh
Hồi 02: Thiếu niên gây đại họa
Hồi 03: Ma Thiên Nhai
Hồi 04: Bang chúa Trường Lạc Bang
Hồi 05: Đinh Đinh Đang Đang
Hồi 06: Vết thương
Hồi 07: Tuyết Sơn kiếm pháp
Hồi 08: Thằng ngốc
Hồi 09: Đòn Bánh Tét
Hồi 10: Kim Ô đao pháp
Hồi 11: Rượu thuốc
Hồi 12: Hai tấm bài đồng
Hồi 13: Tình cốt nhục
Hồi 14: Tứ đại môn phái ở Quan Đông
Hồi 15: Chân tướng
Hồi 16: Thành Lăng Tiêu
Hồi 17: Tự đại thành cuồng
Hồi 18: Điều phải cầu xin
Hồi 19: Cháo Lạp Bát
Hồi 20: Hiệp Khách Hành
Hồi 21: Ta là ai?
Hậu ký